CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể
nhân loại vào ngày 15 tháng 11 năm 2005.
Cồng chiêng xuất hiện từ bao giờ chưa thấy
có nghiên cứu sâu nào nói về vấn đề này. Theo cách hiểu truyền thống thì cồng
chiêng Tây Nguyên có xuất xứ từ vùng người Việt, người Lào. Mới đây căn cứ vào
việc phát hiện các di chỉ khảo cổ ở Lung Leng (Kon Tum), nhất là về mặt kỹ thuật
của các khuôn, có nhà khảo cổ học cho rằng rất có thể cư dân Tây Nguyên bản địa
đã làm được cồng chiêng từ rất lâu. Dù cồng chiêng Tây Nguyên do các tộc
người cư trú lâu đời tự đúc hay nhập từ vùng người Việt, người Lào hay thế nào
đi chăng nữa, nhưng có một số điều ai cũng phải thừa nhận là người Tây Nguyên bản
địa diễn tấu cồng chiêng rất tài tình, điệu nghệ. Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên, về không gian địa lý, cần hiểu theo ý nghĩa hẹp và ý nghĩa rộng.
Về nghĩa hẹp: cồng chiêng Ê đê chỉ diễn tấu
trong ngôi nhà dài, khu mộ địa, trên rẫy; cồng chiêng Mơ Nông diễn tấu trong
ngôi nhà trệt, ngoài sân, trên đường lên rẫy,người Gia rai đánh chiêng trước
ngôi nhà rông theo điệu xoang (múa) và khu mộ địa.
Về nghĩa rộng: cách đây không lâu, vào những
năm 80, 90 của TK XX (tất nhiên càng về trước lại càng như vậy), khi đặt chân đến
vùng đồng bào cư trú lâu đời ở Tây Nguyên vào mùa thu hoạch mùa màng, đối với
người Ê đê cả mùa ăn năm uống tháng (hua mnăm thun), đứng từ xa thì nghe tiếng
chiêng, đến gần thì nghe tiếng hát. Đêm đêm thỉnh thoảng tiếng chiêng lại vang
lên dồn dập, hấp dẫn, thôi thúc, cuốn hút người nghe. Đó là không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên.
Dĩ nhiên, không gian văn hóa cồng chiêng gắn
liền với các chỉnh thể văn hóa khác như nghi lễ, lễ hội, tín ngưỡng, phong tục
tập quán...
Theo dòng lịch sử văn hóa nhân loại thì cồng chiêng trong khu vực Đông Nam Á xuất hiện khá sớm và trở thành một nét văn
hóa riêng , văn hóa truyền thống của các dân tộc. Bắt nguồn từ đời sống cộng đồng
các dân tộc mà điểm xuất phát là từ lao
động sản xuất, tập quán cư trú sinh sống của bà con các dân tộc thiểu số nên cồng
chiêng tây nguyên mang giá trị nổi bật của tài năng sáng tạo, bắt rễ từ văn hóa
và lịch sử của các cộng đồng dân tộc trở
thành biểu tượng khẳng định bản sắc văn
hóa cộng đồng. Nhìn trên toàn diện thì đây là “tiếng nói của Việt Nam” nhưng thật
sự thì đây là 1 dòng chảy văn hóa mang sắc thái riêng biệt. Vì vậy mà Không
Gian Văn Hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên đã được tổ chức UNESCO công nhận là “di sản
văn hóa phi vật thể của nhân loại”.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và
chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên:
Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho, Rơmăm, Êđê, Giarai... Cồng chiêng gắn bó mật thiết
với cuộc sống của người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con
người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt
hàng ngày của họ.
Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa
và lịch sử rất lâu đời. Về cội nguồn, có nhà nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng
là "hậu duệ" của đàn đá. trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm
đến loại khí cụ đá: cồng đá, chiêng đá... tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có
chiêng đồng... Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới,
xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với siêu
nhiên... âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với
tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng người, sống mãi cùng với đất trời và
con người Tây Nguyên. Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ
sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm
trâu.. . hay trong một buổi nghe khan... đều phải có tiếng cồng. Tiếng chiêng
dài hơn đời người, tiếng chiêng nối liền, kết dính những thế hệ.
* Bản chất nghệ thuật
Cồng chiêng không do cư dân Tây Nguyên
tự đúc ra mà xuất phát từ một sản phẩm hàng hoá (mua từ các nơi khác về) được
nghệ nhân chỉnh sửa thành một nhạc cụ. Phương pháp chỉnh sửa chiêng cộng với
tai âm nhạc nhạy cảm của nghệ nhân sửa chiêng đã thể hiện trình độ thẩm âm tinh
tế và hiểu biết cặn kẽ về chế độ rung và lan truyền âm thanh trên mặt chiêng và
trong không gian. Có hai phương pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên
sử dụng: Gõ, gò theo hình vảy tê tê và theo hình lượn sóng. Do vậy, kỹ thuật
gõ, gò theo đường tròn trên những điểm khác nhau quanh tâm điểm của từng chiếc
chiêng là một phát hiện vật lý đúng đắn, khoa học (mặc dù trình độ phát triển
xã hội của người Tây Nguyên thuở xưa chưa biết đến vật lý học). Đây là sáng tạo
lớn của cư dân các dân tộc ít người Tây Nguyên.
Để đáp ứng các yêu cầu thể hiện bằng âm
nhạc khác nhau, các tộc người Tây Nguyên đã lựa chọn nhiều biên chế dàn cồng
chiêng khác nhau:
Dàn chiêng có 2 hay 3 chiếc: Biên chế
này tuy nhỏ nhưng theo quan niệm của nhiều tộc người Tây Nguyên, đây là biên
chế cổ xưa nhất. Dàn 2 chiêng bằng gọi là chiêng Tha, của người Brâu; dàn 3
cồng núm của người Churu, Bana, Giarai, Gié-Triêng... cũng thuộc loại này.
Dàn chiêng có 6 chiêng phổ biến ở nhiều
tộc người: Dàn 6 chiêng bằng của người Mạ; dàn Stang của người Xơđăng; dàn
chiêng của các nhóm Gar, Noong, Prơng thuộc dân tộc Mnông; dàn chiêng Diek của
nhóm Kpạ người Êđê. Cũng có dàn gồm 6 cồng núm như nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê.
Dàn chiêng 6 chiếc có thể đảm trách nhịp điệu như dàn cồng núm của nhóm Bih
thuộc dân tộc Êđê, dàn Diek của nhóm Kpạ dân tộc Êđê, dàn chiêng của nhóm Noong
dân tộc Mnông.
Dàn chiêng 11 hoặc 12 chiếc gồm 3 cồng
núm và 8-9 chiếc chiêng bằng của các tộc người Giarai (ngành Aráp), Bana (ngành
TồLồ, Kon K’Đeh), người Xơđăng (ngành Steng).
Các dàn chiêng có biên chế 3 chiêng trở
lên thường có chiếc trống lớn và cặp chũm choẹ. Riêng dàn 3 cồng núm của người
Churu thì phải có chiếc khèn 6 âm phối hợp.
Ở nhiều tộc người như Churu, Xơđăng,
Mnông và đặc biệt tộc người Giarai, Bana, phụ nữ (nhất là các cô gái trẻ) làm
thành một dàn múa đồng hành với bản nhạc chiêng. Điều đáng nói là các điệu múa
này được coi là thành tố không thể thiếu của việc diễn tấu các bài cồng chiêng
(không được dùng bên ngoài diễn tấu cồng chiêng hoặc trình diễn giải trí).
Cồng chiêng là một nhạc cụ nghi lễ, các
bài nhạc cồng chiêng trước hết là sự đáp ứng cho yêu cầu của mỗi lễ thức và
được coi như một thành tố hữu cơ của lễ thức đó. Như thế, mỗi nghi lễ có ít
nhất một bài nhạc chiêng riêng. Trong mỗi nghi lễ, lại có thể có nhiều công
đoạn có nhạc chiêng riêng: Người Aráp dân tộc Giarai ở vùng Ea H’Leo tỉnh Đắc
Lắc có các bài nhạc chiêng cho các lễ đâm trâu, khóc người chết trong tang lễ,
mừng nhà rông mới, mừng chiến thắng, lễ xuống giống, lễ cầu an cho lúa, mùa
gặt... Ngoài ra, còn có những bài chiêng dùng cho các sinh hoạt cộng đồng như:
Lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, mừng nhà mới, chúc sức khoẻ...
Các bài chiêng cũng đạt đến một trình độ
biểu cảm âm nhạc phù hợp với trạng thái tình cảm của con người trong mỗi nghi
lễ: Chiêng tang lễ hay bỏ mả thì chậm rãi, man mác buồn; chiêng mùa gặt thì
thánh thót, vui tươi; chiêng đâm trâu thì nhịp điệu giục giã...
Cồng chiêng được giới nghiên cứu xem là một
nhạc khí dân gian bởi độ vang, cao thấp, khả năng diễn tấu của nghệ nhân, nghệ
thuật tạo âm sắc của nó. Cấu tạo thang âm, điệu thức một bộ chiêng có nhiều điểm
khác nhau. Có bộ chỉ gồm 2 chiếc cho đến bộ đầy đủ lên tới 15 hoặc 18 chiếc.
Ở những bộ chiêng như thế có cồng là loại có núm thường giữ chức năng đệm và
chiêng là loại không có núm, còn gọi là chiêng bằng thể hiện bài bản,
giai điệu. Cồng chiêng gắn liền với lễ hội mà lễ hội dân gian của các dân
tộc bản địa ở Kon Tum khá dày, diễn ra quanh năm với chu kỳ sinh trưởng của
cây lúa rẫy, chu kỳ một đời người và những sự việc liên quan tới cộng đồng
(plei).
Cồng chiêng có khả năng trình diễn độc
lập, nhưng cũng có thể kết hợp với nhiều loại nhạc khí khác, kể cả giọng hát của
con người. Nếu lễ hội dân gian quy tụ được rất nhiều loại hình nghệ thuật trình
diễn, trong đó có cồng chiêng thì khi cồng chiêng lên tiếng sẽ thu hút sinh hoạt
của nhiều người nhất, nghệ thuật diễn tấu của cồng chiêng cũng chiếm thời
lượng nhiều nhất trong lễ hội. Hầu như tất cả các lễ hội dân gian đều có mặt cồng
chiêng dù ở quy mô nhỏ như gia đình hoặc lớn hơn là của cả cộng đồng.
Ngoài ra, đối với đồng bào các dân tộc thiểu
số, cồng chiêng còn được xem là vật thiêng gắn với đời sống tâm linh của họ. Với
tín ngưỡng dân gian đa thần, vạn vật hữu linh nên những bộ chiêng thiêng đều
có Yàng (trời) trú ngụ (được gọi là chiêng lễ), chỉ được đưa ra
sử dụng trong phần lễ của những lễ hội lớn, long trọng. Ở phần hội hoặc sinh hoạt
thường ngày, họ sử dụng các loại chiêng thường (còn gọi là chiêng hội). Những
loại chiêng thiêng ở Kon Tum có thể kể tới Lào viêng (nhóm Hà
Lăng), Xteng (Xơ đăng gốc), Kh’leng và Xum (nhóm Giẻ), Pom,
pát(Giarai Aráp), Buar( Xơ Đăng Sơ
đrá), Tha (B'Râu)...Cồng chiêng đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của đồng bào các dân tộc
thiểu số Kon Tum. Với con người, từ lễ thổi tai của trẻ sơ sinh đến
lễ bỏ mả; với cây lúa, từ lễ bói điềm, chọn đất đến thu hoạch,
đóng cửa kho; với cộng đồng, từ lễ tu sửa máng nước đến mừng Nhà
Rông mới... bất cứ lễ hội nào cũng không thể vắng bóng cồng chiêng,
ứng với mỗi hoàn cảnh ấy là một bài chiêng khác nhau, và ngay trong
lễ hội, các bài chiêng cũng đánh theo tiết tấu, nhịp điệu khác nhau,
tuỳ theo không khí chung của lễ hội.
Về số lượng của từng bộ chiêng, theo kết quả
nghiên cứu khá kỹ của các chuyên viên nghiên cứu ngành văn hóa tỉnh cho thấy ở
Kon Tum có những điểm khá đặc biệt và rất lạ so với các tỉnh khác trong khu vực,
có đủ thứ tự từ ít đến nhiều như là có sự sắp đặt, đó là có loại chiêng chỉ có
1 chiếc như chiêng Buar của nhóm Xơ đăng Sơđrá. Có 2 chiếc như
chiêng Tha của dân tộc B'Râu. Có 3 chiếc như chiêng Lào, Pom,
Pát của nhóm Xơ đăng Hà Lăng. Có 3 chiếc rưỡi (thêm một ống nứa) như
chiêng Nỉ của nhóm Triêng, chiêng Kh’leng của nhóm Giẻ. Có
4 chiếc như chiêng Mẻ, Vạch của nhóm Xơ đăng Mơ nâm, chiêng Guông của
nhóm Xơ đăng Sơđrá. Có 5, 6 chiếc như chiêng Xum của nhóm Giẻ.
Có từ 7-9 chiếc như chiêng X'teng (Pơm Poa) của người Xơ đăng gốc.
Có từ 12-18 chiếc rất hoành tráng như chiêng Ania, Pơsơi của
người Gia Rai Aráp...có thể nói rất đa dạng, phong phú và độc đáo, đồng thời
cũng là niềm tự hào về bản sắc văn hóa dân gian truyền thống của các dân tộc
thiểu số Kon Tum.
Văn hóa cồng chiêng Kon Tum - sự độc đáo và
đa dạng về các giá trị phi vật thể
Đã
được 5 năm, kể từ khi được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản
văn hóa phi vật thể của nhân loại - Ngày 25/11/2005 - Không gian Văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên nói chung và văn hóa cồng chiêng Kon Tum nói riêng đang được
bảo tồn và phát huy theo các góc độ khác nhau ở từng địa phương. Mặc dù kết quả
như thế nào, nhưng văn hóa cồng chiêng vẫn có một sức hút rất đặc biệt, như ý
kiến đánh giá của các nhà khoa học tại Hội nghị khoa học về giá trị của các nhạc
cụ gõ bằng đồng ở Việt Nam và các nước trong khu vực, tổ chức tháng 10 năm 2004
ở Thủ đô Hà Nội, đã khẳng định : giá trị của nghệ thuật cồng chiêng Tây Nguyên,
đặc biệt là phương pháp thể hiện, diễn tấu thật sự độc đáo trong lĩnh vực âm nhạc,
là di sản văn hóa phi vật thể vô cùng quý hiếm của nhân loại.
Ở
Kon Tum, cùng với đàn T'rưng, Klông Pút, Đinh Túk, cồng chiêng là nhạc
cụ đặc trưng nhất của đồng bào các dân tộc thiểu số bản địa. Ngoài vai
trò là phương tiện diễn tấu dân gian, cồng chiêng còn thể hiện quyền
uy, sự giàu sang của gia đình, dòng tộc, bản làng, là vật thiêng
trong tín ngưỡng tâm linh của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Cồng
chiêng và nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng của đồng bào các dân tộc
thiểu số Kon Tum khá đa dạng, phong phú. Đặc điểm chung, nổi bật của
dàn cồng chiêng là sự kết hợp linh hoạt những âm thanh cao, thấp, tạo
nên sự phối bè khác nhau. Kết hợp với cồng chiêng còn có cả trống,
lục lạc... tạo nên sự hoà âm phong phú. Quyện hoà trong tiết tấu,
giai điệu của cồng chiêng là những âm thanh nghe như giai điệu của rừng
đại ngàn, của suối reo, thác chảy; lấp lánh sắc màu của nắng, của
gió, của đất; là tâm hồn mộc mạc, chân thành, khoáng đạt của đồng
bào các dân tộc thiểu số. Có bộ thì âm điệu trầm hùng, đĩnh đạc như là một
sự giới thiệu về đại ngàn Kon Tum hùng vĩ, có bộ thì âm điệu lại réo rắt, nỉ
non với những giai điệu, tiết tấu hòa quyện như những lời tự sự kể về những
truyền thuyết, những câu chuyện về những dòng sông, con suối, cánh rừng, mùa màng,
về đất và người Kon Tum…hết sức trữ tình bằng ngôn ngữ âm thanh vô cùng độc
đáo, chỉ riêng có ở nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng.
Đối
với đồng bào các dân tộc thiểu số Kon Tum, từ xưa cồng chiêng đã được coi là của
cải, bởi bao giờ cồng chiêng cũng thể hiện giá trị ở một số thứ tài sản quý, một
loại của cải vật chất mà từ nó có thể phân biệt được sự giàu nghèo, trước đây
gia đình nào cũng mơ ước có được một bộ cồng chiêng. Tuy nhiên, điều quan trọng
ở chỗ đấy là bộ chiêng gì. Bởi vì có loại chiêng chỉ ngang giá một vài con trâu
(thời giá hiện nay khoảng vài ba triệu đồng) nhưng cũng có loại chiêng giá trị
tới 30-40 con trâu một bộ. Có nhiều chiêng quý là giàu có, là sức mạnh, được
người khác kính trọng. Dòng họ nào, làng nào có nhiều cồng chiêng sẽ được các
dòng họ khác, làng khác nể nang, tôn trọng.
1/ Âm nhạc dân gian của các dân tộc Tây
Nguyên
-
Nhạc Cụ: Tây Nguyên có nhiều loại cụ khác nhau và được sử dụng rộng rãi trong
các hoạt động nghỉ lễ, hội hè…Công Cụ nổi bật nhất của chúng là tạo nền cho các
nghi thức tế lễ, phối tấu cùng với ca hát và “mở đầu” các động tác nhảy múa.
-
Cồng Chiêng: Tây Nguyên là cội
nguồn của văn hóa cồng chiêng. Cồng
chiêng không chỉ là tài sản quý báu của mỗi gia đình, dòng họ trong nghi lễ và
sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nó còn là khí cụ linh thiêng, ngôn ngữ kỳ diệu để
con người giao tiếp với các vị thần linh
trong trời đất.
Hầu hết các dân tộc Tây Nguyên đều sử dụng cồng
chiêng, cái có núm gọi là cồng (kuồng), loại không có núm thì gọi là chiêng
(chim hay cing). Cồng chiêng có hình tròn , đường kính cái lớn nhất khoảng 65cm
, cái nhỏ không đến 20cm.
-
Kết cấu bộ chiêng của người Bana
thường từ 6 – 7 – 9 – 11 cái và được chia làm nhiều thứ loại , căn cứ vào kích
thước , sắc diện, âm thanh…và mỗi chiếc
có chức năng riêng, có những chiếc chính có những chiếc đánh theo. Thông thường, cồng đảm nhiệm phần
đệm và giữ nhịp, còn chiêng đảm nhận phần giai điệu. Cùng kết hợp với cồng
chiêng có cả trống, lục lạc, chuông đồng…để tạo sự hòa âm phong phú hơn. Đặc điểm
chung nổi bật của dàn cồng chiêng là sự kết hợp linh hoạt, những âm thanh cao
thấp khác nhau tạo nên bè khác nhau, các loại âm, tiết tấu vừa khác nhau vừa
hòa hợp với nhau khi diễn tấu một bài cồng chiêng.
-
Người Giẻ Triêng thường dùng bộ
chiêng 6 cái , một cái giữ phần đệm và 5 cái giữ phần giai điệu , có khi kết hợp
cả trống và các nhạc cụ tre nứa khác.
Chiêng của người Brâu có 3 loại: Chiêng
goong 1 bộ có 11 cái, chiêng Mam 1 bộ có 11 cái , nhưng chiêng Tha chỉ có 2 cái
, 1 chiêng vợ và 1 chiêng chồng, loại chiêng Tha chỉ dùng trong nghi lễ quan trọng
của cộng đồng.
-
Người Ê đê gọi chiêng
là ching. Mỗi một bộ chiêng Ê đê gồm 9 chiếc, trong đó 7 chiếc không có
núm là knah, hliăng, khơk, hluê khơk, hluê hliăng, hluê khơk
diêt và char (to nhất); hai chiếc có núm
là mduh và mong. Một là dàn hợp xướng của dàn nhạc Ê đê là
bao gồm 9 chiếc chiêng này và trống (hgơr). Người Ê đê dùng dùi làm bằng
gỗ cây smuk (gỗ cây này mềm, dai) để đánh chiêng, trống...
Cồng chiêng Ê đê được diễn tấu trong các lễ
cúng như cúng chúc thọ, cúng bến nước, cúng thu hoạch mùa màng, trong các lễ hội
như lễ rước kpan, lễ bỏ mả, ăn trâu,... Khi diễn tấu là theo các quy định
của tục lệ, chứ không tùy tiện. Người Ê đê chỉ được diễn tấu suốt ngày đêm
(không phải liên tục mà từng đợt) khi trong buôn làng có đám tang. Còn trong lễ
cúng chúc thọ chỉ được đánh chiêng đến nửa đêm là nghỉ. Khi trong buôn làng
bình thường mà diễn tấu chiêng quá nửa đêm là cấm kỵ, bởi việc này diễn ra cộng
đồng tưởng lầm nhà đó có người bị chết đột ngột.
Cồng
chiêng Ê đê được sử dụng vào các dịp sau:
Đối với gia đình, cồng chiêng được diễn tấu
trong các lễ cúng gieo trỉa, lúa mới, mừng lúa mới về nhà; cưới hỏi, rước rể về
nhà vợ, thổi tai, đặt tên, mừng thọ, đám tang, lễ bỏ mả; cúng dựng nhà mới, lên
ở nhà mới và cúng sửa nhà.
Đối với cộng đồng buôn làng, cồng chiêng được
diễn tấu tại nhà chủ bến nước trong các dịp lễ cúng như cúng bến nước, cúng khi
buôn làng bị dịch bệnh, cúng mừng mưa đầu mùa (một năm một lần), cúng lễ kam
djir (bảy năm một lần).
Cách thức biểu diễn cồng chiêng của người Ê
đê rất bài bản: khi bắt đầu biểu diễn, người sử dụng chiêng cả (knah
phun) bao giờ cũng gõ trước (10), tiếp đến làmduh, hliăng, khơk, hluê khơk,
hluê hliăng, hluê khơk diêt, mduh, char(đệm), mong, hgơr (lúc đánh
lúc không). Sự kết hợp ở đây đều tự nhiên, hài hòa đến mức hoàn hảo.
Người Ê đê rất giỏi cảm nhận âm thanh và tài
nghệ khi biểu diễn cồng chiêng. Họ có thể hiểu ý nhau qua âm thanh để biểu diễn
liền một mạch ba, bốn bài nhạc chiêng khác nhau, tức là nghệ nhân chủ sự dùng
tiếng chiêng để báo cho những người trong nhóm sẽ chơi một bài chiêng nào đó.
Chủ sự dùng ký hiệu âm thanh của chiêng đực (knah khơk) để làm
ký hiệu chuyển bài. Chiêng này nhắc bằng âm thanh cho
chiêng cái (knah hliăng) chuyển bài. Khi chiêng cái đã chuyển bài thì
ngay lập tức các nghệ nhân sử dụng các chiêng khác bắt nhịp theo.
Đặc điểm chung của âm thanh tiếng chiêng Ê
đê khi diễn tấu là dồn dập, sôi nổi, thôi thúc, hấp dẫn, lôi cuốn người nghe.
Tiếng chiêng Ê đê âm vang mà đanh, sắc, gọn.
Cồng chiêng Ê đê nói riêng và cồng chiêng
Tây Nguyên có hai chức năng: chức năng văn nghệ và chức năng tín ngưỡng. Về
trình tự thể hiện của chức năng văn nghệ và tín ngưỡng ở cồng chiêng Ê đê có sự
đảo ngược so với diễn xướng khan sử thi. Chỉ sau phần thực hiện nghi lễ xong,
các nghệ nhân sử thi mới diễn xướng khan. Còn cồng chiêng Ê đê việc diễn xướng
được tiến hành như sau: bài chiêng đầu tiên mang nội dung mời mọi người trong
buôn làng về đây sum họp vui vẻ, cùng uống rượu chia vui niềm vui được mùa, mọi
người khỏe mạnh, hạnh phúc ấm êm. Đúng như lời của một bài duê (văn vần)
đã nói: các loài chim hót vang, tiếng chiêng vang vọng đất trời. Họ chúc nhau
no ấm, vui vẻ như đàn trâu bò luôn luôn có bãi cỏ xanh để ăn. Cái không gian ở
trên trời là tiếng sáo diều, ở trong nhà là tiếng chiêng và những cánh rừng
xanh đồng vọng tiếng chiêng là không gian văn hóa Ê đê thi vị, huyền ảo.
Sau phần nhạc chiêng vui tươi, giải trí,
kích thích, phấn chấn người nghe, là nhạc chiêng phục vụ cho nghi lễ, tín ngưỡng.
Người Ê đê coi cồng chiêng, phèng la(char) và trống da là các vật thiêng
trong nhà, nên họ rất quý trọng chúng. Và bản thân các nhạc cụ này cũng đáp ứng
nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của họ. Đồng bào cho rằng tiếng chiêng giúp cho
con người giao tiếp với thần linh, tiếng chiêng làm cho các vị thần vui vẻ, và
cũng từ đó thần linh sẽ mang lại may mắn, hạnh phúc cho con người. Cho nên
trong các nghi lễ, chiêng luôn luôn được tấu lên. Thày cúng (pô riu yang) đọc lời
cầu khấn thần linh trên nền của tiếng chiêng.
- Dân
tộc M’Nông có các bộ cồng chiêng goong pêh (3 cái) chiêng bor (6 cái). Người
M’Nông đánh chiêng bằng cách đứng một hàng dài (theo thứ tự chêng nhỏ trước,
chiêng lớn sau), mỗi người cầm chiêng bằng tay trái và dùng tay phải của mình đánh vào mặt trước
của chiêng theo bài bản đã quy định cho từng nghi lễ.
Người Mơ nông gọi chiêng là ching.
Chiêng là đồ vật quý giá của đồng bào. Theo cố dịch giả Điểu Kâu, người Mơ nông
mua chiêng từ vùng người Việt, người Chăm.
Khi mua được bộ chiêng về nhà, chủ chiêng mời
tất cả dân làng đến dự lễ cúng mừng và đặt tên cho bộ chiêng. Bộ chiêng được đặt
tên là gì là do chủ chiêng quyết định. Một bộ chiêng Mơ nông gồm sáu chiếc. Có
một điều thống nhất là: chiếc chiêng to nhất gọi là chiêng me (mẹ),
thứ hai gọi là chiêng rlâm (chiêng cha), thứ ba gọi là
chiêng njơn, thứ tư gọi là chiêng tru, thứ năm gọi là
chiêng thơ, thứ sáu gọi là chiêng kan.
Khi đánh chiêng, người Mơ nông xếp thành
hàng. Nếu xếp hàng ngang và đứng tại chỗ để diễn tấu chiêng thì người sử dụng
chiêng mẹ bao giờ cũng đứng ở vị trí cuối cùng phía bên phải. Nếu xếp
hàng dọc và vừa đánh vừa đi, người sử dụng chiêng mẹ đi trước. Người
sử dụng chiêng mẹ đảm nhiệm việc đánh nhịp cho cả dàn chiêng. Nếu người
đánh chiêng mẹ sai nhịp thì cả năm người đánh các chiêng còn lại đều
mất phương hướng. Nghệ nhân dùng nắm tay phải dập vào chiêng, lòng bàn tay và
các ngón tay (chủ yếu là ba ngón giữa) để điều chỉnh âm thanh. Khi diễn tấu
chiêng, đồng bào đeo chiêng ở nách bên trái và khom lưng để chiếc chiêng xoay
chuyển linh hoạt, nhờ vậy mà tiếng chiêng phát ra không bị chi phối bởi tác động
ngoài mong muốn của con người (11).
Tiếng chiêng Mơ nông có âm điệu trầm trầm,
âm thanh không ngân vang. Đến bon làng Mơ nông, thấy con người, ngôi nhà ở có
cái gì đó bí ẩn, âm u, còn con người thì trầm lặng, lạnh lùng. Dấu hiệu này nằm
trong cái chung của tư duy nghệ thuật, nhận thức thẩm mỹ của cư dân này. Nếu
nhìn ra cả tộc người Ê đê, thì văn hóa cồng chiêng, sử thi, nhà ở của hai tộc
người này phản ánh rõ nét tính cách tộc người họ. Khi đưa sử thi, cồng chiêng trở
lại đời sống buôn làng, tạo dựng kiểu dáng nhà cần đặc biệt chú ý đến các đặc
điểm này.
Cồng chiêng Tây Nguyên được sử dụng trong
các cuộc vui, trong các nghi lễ, lễ hội. Tiếng chiêng là phương tiện để con người
giao tiếp với thần linh. Các nghệ nhân diễn tấu chiêng có thể diễn tả các trạng
thái tình cảm của con người, mô phỏng âm thanh của tiếng suối, tiếng gió, tiếng
chim hót, tiếng thú kêu,... Nghe tiếng chiêng, người Tây Nguyên cảm nhận được nội
dung mà người diễn tấu muốn truyền đạt. Cồng chiêng cuốn hút, lôi cuốn, hấp dẫn
đồng bào như có sức thôi miên. Người Ê đê cho rằng uống rượu cần mà không có cồng
chiêng thì coi như bữa cơm không có muối ớt. Còn người Mơ nông ai ai cũng
thích nghe chiêng. Khi đang ngủ mơ màng nghe tiếng chiêng là họ bừng tỉnh và thức
để nghe. Ai không biết đánh chiêng bị mọi người chê, thậm chí có khi trai khó lấy
vợ, gái khó kiếm chồng.
-
Dân tộc Ga Rai có dàn chiêng
Aráp (mỗi bộ có từ 12 đến 18 cái chiêng
númg, kết hợp với 1 cái trống nhỏ). Người Gia Rai đánh chiêng bằng cách đứng 1
hàng dài (theo thứ tự chiêng nhỏ trước,chiêng
lớn sau), tay trái cầm chiêng, tay phải cầm dùi
gỗ có bọc vải nhựa đánh vào mặt có núng của chiêng theo bài bải từng
nghi lễ đã quy định (hoặc người ta treo chiêng vào một chiếc sào có hai người
khiêng và một đến ba người đánh).
-
Cồng chiêng Ê Đê nhịp điệu dồn dập,
phức hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn. Cả ban nhạc như những chùm âm thanh giàu
màu sắc nối tiếp, đan xen, nghe rộn ràng hoành tráng như mua dông, như thác đổ,
như sấm rền của rừng đại ngàn.
Cồng chiêng M’nông cường độ trầm ấm, tốc độ
chậm. tạo một bản nhạc khoan thai giưa những cuộc đối thoại sinh động của từng
cặp chiêng với nhau. Có thể cảm nhận rằng đó là âm thanh của tiếng suối chảy,
tiếng chim hót gọi nhau trong buổi hoàng h6n. cồng chiêng Gia Rai, Ba Na thiên
về tính giai điệu của âm nhạc. một bè trầm của cồng chiêng có núm vang lên với
âm sắc đầy đặn, ngân nga, hùng tráng. Bên trên là bè giai điệu thánh thót vang
xa giữa đất trời Tây Nguyên của dàn cồng chiêng không núm làm rung động lòng người.
Cồng chiêng Tây Nguyên là
nơi tiết tấu và giai điệu gặp nhau, mỗi nhạc cồng chơi một nót và một mô hình
tiết tấu, kết hợp lại thành bè, thành giai điệu . mỗi người dân Tây Nguyên là một
nghệ sĩ, nhạc sĩ thực thụ có thể vừa hát vừa múa, sử dụng từng nhạc cụ hay tham
gia vào giàn nhạc cồng chiêng một cách thành thạo. Khả năng âm nhạc của người
Tây Nguyên được phát triển tự nhiên và phổ biến trong cộng đồng. ngay khi đứa
trẻ vừa ra đời, người ta đã đem cồng đến đánh bên tai nó, gọi là lễ thổi tai. Cồng
chiêng luôn có mặt trong các lễ cúng khi con người còn là thai nhi trong bụng mẹ
cho đến khi về với cội nguồn. trong các lệ hội thì cồng chiêng là phương tiện
duy nhất để con người thông linh (với thần) giao hòa với trời đất và giao tiếp
trong cộng đồng.
Cồng chiêng Tây Nguyên đã
đi và dân ca, truyền thuyết, sử thi của người Tây Nguyên. Nó trở thành bài ca
hoành tráng của người Tây Nguyên và được truyền tụng từ đời này qua đời khác: “Hãy đánh những cái chiêng kêu nhanh nhât.
Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng vượt qua mái nhà vọng
lên trời. đánh cho khỉ trên cây quên báo chặt cành đến phải ngã xuống đất, Đánh
cho ma quỷ mê mãi nghe đến quên cả làm hại người, Đánh cho chột, sóc quên đào
hang, cho rắn năm ngay đơ, cho thỏ phải giật mình, cho hươu, nai đứng nghe quên
ăn cỏ, cho tất cả chỉ còn nghe tiếng chiêng của Đam San” (Sử thi Bài ca
chàng Đam San).
Đến với Tây Nguyên (Gia
Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng) vui bước chân vào dòng lễ hội cồng
chiêng truyền thống của người Gia Lai, Ba Na, Ê Đê…chúng ta không khỏi ngỡ
ngàng đắm say bởi âm thanh của những bài chiêng, bộ chiêng, loại chiêng và tài
năng của người sử dụng với những bước chân nhịp nhàng của vòng xoan kéo tròn
không bao giờ cạn của các cô gái, chàng trai mến khách, dễ thương. Và điều đặc
biệt hơn là du khách đã đến thì dù biết hay không cũng không thể không một lần
bắt tay hòa nhịp hết mình vào giai điệu cồng chiêng Tây Nguyên giờ đây không những
rung rung ngân trong các buôn làng nhỏ hẹp mà đã vang xa, bay xa khắp nơi trên
thế giới, là niềm vinh dự và tự hào của dân tộc Việt Nam.
Cồng Chiêng
cũng như các nhạc cụ khác của Tây Nguyên thường không có lời ca kèm theo
khi diễn tấu mà chỉ dùng âm thanh, tiết
tấu và giai điệu của chính loại nhạc cụ ấy nói chung và cồng chiêng nói riêng để
biểu đạt tình cảm, tư tưởng miêu tả cảnh vật thiên nhiên. Trong các lễ hội, tùy
thuộc vào vị trí của từng lễ hội mà các nghệ nhân dùng từng bài khác nhau cho
phù hợp. không được dùng bài bản của lễ hội này vào lễ hội khác, ví dụ như bài
“Đón Khách” thì không được dùng trong lễ đâm trâu khi trâu đã xẻ thịt; trong tiệc
vui mừng nhà rông, mừng lúa mới, mừng đám cưới thì không được dùng bài “Trao
vòng” hay “Bỏ mả”.
Theo quan niệm của các Già Làng: Cồng chiêng
là loại nhạc cụ linh thiêng, nơi cư ngụ của các vị thần , cồng chiêng không được
sử dụng một cách bừa bãi mà chỉ được sử dụng trong các lễ hội lớn của buôn
làng. Cồng chiêng Tây Nguyên gắn bó mật thiết với mỗi đời sống người, mỗi gia
đình, dòng họ và nghi lễ cổ truyền của cộng đồng. nó được sử dụng trong hai hệ
thống lễ nghi: Nghi lễ vòng đời và nghi lễ nông nghiệp.
Trong nghi lễ vòng đời: Cồng chiêng đi suốt
vòng đời của một con người, từ lúc còn nằm trong bụng mẹ, sinh ra, trưởng
thành, xây dựng gia đình và trở về với
thế giới tổ tiên ông bà. Bao gồm các nghi lễ:lễ cúng khi người mẹ mang thai, lễ
cúng trước khi sinh, lễ cúng đặt tên – thổi tai, lễ cúng đầy tháng, lễ cúng đầy
năm, lễ cúng đầy 3 mùa rẫy, lễ cúng trưởng thành (tròn 17 mùa rẫy), lễ cưới chồng,
lễ cúng sức khỏe cho đôi vợ chồng, lễ cúng sức khỏe hàng năm cho các thành viên
trong gia đình, lễ cúng vào nhà mới, lễ rước Kpan, lễ kết nghĩa anh em, lễ tiếp
khách, lễ thang, lễ bỏ mả…
Trong nghi lễ nông nghiệp: Cồng chiêng gắn
bó mật thiết vói nghi lễ vòng cây lúa ( hay còn gọi là nghi lễ nông nghiệp),
bao gồm: lễ tìm đất, lễ phát rẫy, lễ đốt rẫy, lễ gieo hạt, lễ vun gôc, lễ cầu
no đủ, lệ cúng cầu mùa, lễ cúng thần gió, lễ cúng cầu lúa trổ bông, lễ cúng cầu
lúa nhiều hạt, lễ cúng bến nước, lễ cúng hồn lúa, lễ cúng kho lúa, lễ cúng bầu
cơm và bầu đựng gạo, lễ tắm lúa…
Mỗi nghi lễ trên đều gắn với âm nhạc cồng
chiêng do những nghệ nhân trong cộng đồng bôn làng thể hiện. cồng chiêng của
buôn làng Tây Nguyên được cấu trúc thành từng bộ độc lập.
* Bảo tồn
Theo thống kê của Sở Văn hoá Thông tin Gia Lai, trước năm 1980
trong các bản làng của người Giarai, Bana trong tỉnh có hàng chục ngàn bộ
cồng chiêng. Có gia đình sở hữu 2-3 bộ, mỗi bản làng có hàng chục bộ. Đến năm
1999, cả tỉnh có 900 p’lei và chỉ còn 5.117 bộ, năm 2002 còn lại chưa đến
3.000 bộ.
|
Tỉnh Lâm Đồng chỉ còn lại 3.113 bộ. Từ
năm 1982 đến 1992, tỉnh Đắc Lắc đã mất 5.325 bộ chiêng, từ năm 1993 đến 2003
lại mất tiếp 850 bộ, hiện tại cả tỉnh chỉ còn 3.825 bộ cồng chiêng.
Trước hết là sự suy giảm nhanh chóng về
số lượng các dàn cồng chiêng... Nhưng nguy cơ mai một cồng chiêng còn thể hiện
ở các bài bản nhạc chiêng dần dần bị lãng quên. Các nghệ nhân trải qua thời
gian, do nhiều tác động khác nhau đã quên nhiều bản nhạc chiêng. Người Mnông
trước đây có 40 bản nhạc chiêng, nay các nghệ nhân chỉ còn nhớ, lưu truyền và
trình diễn được 10 bản nhạc chiêng. Mặt khác, những nghệ nhân có đôi tai thẩm
âm, có năng khiếu trong việc chỉnh chiêng cũng thưa vắng dần trong các cộng
đồng cư dân.
Đáng tiếc nhất là khi những người già,
những nghệ nhân Tây Nguyên chết đi đã mang theo cả kho tàng di sản văn hoá cồng
chiêng mà không dễ dàng tạo dựng và khôi phục được. Sự đứt gãy dòng chảy của
văn hoá truyền thống dẫn đến sự thờ ơ, hờ hững của lớp trẻ với văn hoá của các
thế hệ tiền nhân, trong đó có văn hoá âm nhạc cồng chiêng.
Khác với Nhã nhạc cung đình Huế, là một
hiện tượng văn hóa, để bảo tồn chúng ta chỉ cần đầu tư cho công tác nghiên cứu
và phát triển nghệ nhân biểu diễn, cồng chiêng không chỉ là nghệ thuật biểu
diễn đơn thuần, mà gắn bó chặt chẽ với nghi lễ, với đời sống hằng ngày, với
chính không gian của vùng đất ấy. Vì vậy, cần có một chương trình tổng thể, quy
mô cho công việc này.
Trước mắt, cần đẩy mạnh công tác sưu
tầm, ghi chép và nghiên cứu một cách bài bản, hệ thống về cồng chiêng và văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên. Tiến hành phục hồi và giữ gìn các sinh hoạt văn hóa để
tạo môi trường diễn xướng của sinh hoạt văn hóa cồng chiêng trên quan điểm kế
thừa có chọn lọc. Từng bước xây dựng phòng lưu trữ di sản văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên tại Trung tâm Dữ liệu Di sản văn hóa (Viện Văn hóa-Thông tin) và tại
các bảo tàng tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Ðác Lắc, Ðắc Nông và Lâm Ðồng.
Ðồng thời có kế hoạch đào tạo dài hạn,
cơ bản đội ngũ cán bộ khoa học am hiểu về âm nhạc truyền thống, văn hóa, lịch
sử Tây Nguyên, chú trọng đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số. Mở lớp
truyền dạy kinh nghiệm đánh chiêng, chỉnh chiêng tại cộng đồng.
Theo số liệu thống kê cấp tỉnh năm 2007 thì
Kon Tum hiện còn khoảng 1.776 bộ cồng chiêng của các dân tộc thiểu số bản địa.
Theo tập quán của các dân tộc thiểu số ở Kon Tum thì đa phần chỉ có đàn ông mới
được đánh cồng chiêng, còn phụ nữ thì tham gia thể hiện nghệ thuật múa Xoang
(dân vũ), song có những nhánh của dân tộc Xơ Đăng như Xơ Đăng Mơ Nâm ở huyện
KonPLông thì phụ nữ cũng được đánh chiêng. Hiện nay Kon Tum có khoảng 300 đội cồng
chiêng ở các bản làng đồng bào dân tộc thiểu số. Có đội chỉ sử dụng một bộ
chiêng trong làng (như đội chiêng Tha của dân tộc B'Râu), có đội sử dụng
2-3 bộ chiêng khác nhau trong một làng ( như các đội sử dụng các bộ chiêng có
tên : Xteng, Hleng của người Xơ Đăng X'teng; Ania, PơSơi,
Goong của người Gia Rai; Nỉ, Kh’leng, Xum của người Giẻ
Triêng…); có đội chiêng chỉ có 2 người như đội chiêng Tha (dân tộc B'Râu),
có đội đông tới 21 người như đội chiêng Ania với 18 lá cồng, chiêng
kèm theo lục lạc, trống (người Gia Rai A Rap)...Điều đáng mừng là trong số nghệ
nhân diễn tấu cồng chiêng hiện nay, có đến 1/3 đang ở độ tuổi thanh niên và có
không ít những thiếu niên tuổi 13, 14. Đấy chính là sức sống và sự trường tồn của
văn hóa cồng chiêng, một khi được tạo lập đầy đủ môi trường, điều kiện phát
huy. Thực tiễn sôi động trong sinh hoạt văn hóa cồng chiêng những năm vừa qua
cho thấy đã có sự chuyển biến trong nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số
và sức hút rất đặc biệt của văn hóa cồng chiêng trong đời sống văn hóa tinh thần
và tâm linh của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung và Kon Tum nói riêng.
Hiện đang xuất hiện khá nhiều “lớp” truyền dạy đánh cồng chiêng bằng nhiều hình
thức từ những người lớn tuổi cho lứa thanh thiếu nhi trong các làng, bản.
Tuy nhiên, cũng đã nảy sinh những vấn đề cần
phải quan tâm từ thực tiễn về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng.
Đó là sự phát triển chưa có tính bền vững, còn mang tính hình thức và chạy theo
phong trào. Cồng chiêng chưa thật sự được trả về với cái nôi đích thực của nó
trong sinh hoạt văn hóa dân gian, gắn với ba điều kiện cơ bản bao gồm
: Tính cộng đồng, cộng cảm; sự gắn kết với thiên nhiên, với kết cấu vật chất
văn hóa cư trú làng-nhà Rông-nhà sàn; Lễ thức, nghi lễ truyền thống. Tách rời
ba điều kiện ấy, văn hóa cồng chiêng chưa phải là chính nó !. Bởi thế, UNESCO mới
công nhận là Di sản thế giới bao hàm cả Không gian văn hóa dân gian. Tình
trạng văn hóa cồng chiêng được sân khấu hóa, môi trường diễn xướng nặng về
trình diễn, quảng bá đang xuất hiện ngày một nhiều. Ở một góc độ nào đấy có
thiên hướng lệch về mục đích, trở thành một nghệ thuật biểu diễn sân khấu, có đạo
diễn, dàn dựng một cách áp đặt...bởi vậy hầu hết những bài chiêng được thể hiện
ở những góc độ này chỉ là những bài chiêng bình thường, đơn giản mà đồng bào
thường gọi là những bài chiêng “hội” ( phục vụ sinh hoạt văn hóa đơn
thuần mang tính vui chơi ). Còn những bài chiêng nghi lễ với những bài bản
nghiêm ngặt, được coi là quan trọng nhất gắn với yếu tố “thiêng” trong tâm linh
của đồng bào, là những bài bản chiêng cổ truyền, thể hiện bản sắc truyền thống
của từng dân tộc, được quan niệm là phần “hồn” của cồng chiêng, thường được diễn
tấu trong các nghi lễ, lễ thức dân gian, lễ hội cổ truyền mà đồng bào gọi là
chiêng “lễ” thì hầu như ít được đồng bào sử dụng trong những sân khấu
biểu diễn như vừa qua. Yếu tố “thiêng” của cồng chiêng với vai trò là phương tiện
để giao tiếp với thần linh theo tín ngưỡng đa thần trong đời sống tâm linh của
đồng bào đang dần dần bị bình thường hóa đi phần nào. Thực tiễn cho thấy đang
có nguy cơ mất dần các bài chiêng cổ cực kỳ giá trị - như đánh giá của nhiều
nhà khoa học - mất dần nghệ thuật diễn tấu, hòa âm đúng bài bản, bởi lớp người
lớn tuổi đang dần dần qua đời mà không trao truyền lại được ! Nếu chỉ còn những
bài bản chiêng “hội” mà không còn những bài bản chiêng“lễ”, những bài
bản chiêng cổ truyền thì văn hóa cồng chiêng sẽ trở nên thiếu vắng linh hồn, thực
sự báo động về việc những giá trị phi vật thể của cồng chiêng sẽ có nguy cơ mai
một, trong khi đó nội dung chính được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của
nhân loại lại chính là phần phi vật thể, là những bài bản chiêng cổ truyền, là
tiết tấu, giai điệu, thang âm, điệu thức, nghệ thuật diễn tấu, phương pháp truyền
khẩu...đấy chính là phần hồn của văn hóa cồng chiêng.
Bởi vậy, nên phải có cái nhìn sâu sắc hơn nữa
về Không gian văn hóa Cồng chiêng từ phía các nhà quản lý văn hóa các
cấp, để có những định hướng đúng đắn, những cách làm, bước đi phù hợp và thiết
thực cho mục tiêu bảo tồn, kế thừa và phát huy giá trị của văn hóa cồng chiêng.
Vấn đề mấu chốt là phải làm cho văn hóa cồng chiêng thực sự mang tính cộng
đồng, gắn kết với tự nhiên, với kết cấu văn hóa làng và các lễ thức, nghi
lễ truyền thống trong không gian văn hóa dân gian của đời sống cộng đồng
các dân tộc thiểu số. Không chỉ chú trọng quá nhiều vào phần vật chất của cồng
chiêng, mà cần phải đặc biệt coi trọng phần phi vật thể (phần hồn) của văn hóa
cồng chiêng. Nếu đánh mất đi nội dung quan trọng này thì phần vật chất của cồng
chiêng cũng chẳng còn ý nghĩa gì. Cần phải lắng nghe ý kiến của đồng bào
xem họ nói như thế nào về cách thức bảo tồn và phát huy. Bởi đồng bào mới
là chủ nhân Không gian văn hóa Cồng chiêng, chỉ có chính họ mới bảo tồn sống
được văn hóa cồng chiêng để phát huy giá trị trong đời sống và trường tồn với
thời gian.
CÁC
LOẠI NHẠC CỤ KHÁC CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC TÂY NGUYÊN
Là nhạc cụ làm bằng các ống nứa dành cho nam
giới thường đánh trên chòi rẫy hay trong nhà rông. Đàn Tơrưng có 2 loại: Loại 5
ống và loại 10 ống, được kết thành 2 sợi dây mây ở 2 đầu ống nứa. khi chơi, người
ta buộc đầu dây phía các ống gắn vào một gốc cây, cột chì, đầu kia buộc quanh bụng
người đánh đàn.
Để dánh đàn Tơrưng người ta có 2 chiếc dùi,
làm bằng tre hoặc gỗ, có bịt vải ở đầu, hiệu quả âm thanh là tiếng vang của ống
nứa được nghệ nhân cắt gọt tương ứng với âm: La – Đô – Rê – Fa – Sol.
Hiện nay, đàn Tơrưng được các nghệ nhân, nghệ
sĩ cải tiến thành nhiều ống và hiệu quả âm thanh khác nhau để tăng khả năng biểu
diễn trên sân khấu chuyên nghiệp.
Đàn Klông – pút:
Hiệu quả âm thanh: Klông-pút là sự chuyển động
cột khí trong ống. khi chơi Klông-pút người ta đặt các ống nứa trên dàn theo thứ
tự và người chơi đứng khom người dùng 2 tay để vỗ hơi vào miệng ống tạo nên một
chấn động đó là phương pháp tác động sinh âm
vì thế Klông-pút là loại nhạc cụ hơi lùa.
Loại nhạc cụ này chỉ dành cho nữ giới và thường
chơi tại rẫy trong những lúc nghỉ giải lao . để chơi đượcKlông-pút ít nhất phải
có từ 2 người đến 4 – 5 người.
Dân tôc Brâu chơi Klông-pút kiểu hơi
khác,Klông-pút chỉ có 2 ống nứa. một người đứng giữa giữ 2 ống nứa theo kiểu bắt chéo, 3 đến 5 người khác vỗ hơi
lùa vào 4 miệng của 2 ống , lúc thì vỗ, lúc thì bịt, tạo hiệu quả âm thanh rất
độc đáo.
Đinh Túk gồm 6 ống nứa (lồ ô), đáy kín, ở miệng ống có khoét một lõm hình vòng cung . khi chơi người ta đặt môi dưới vào vòng cung đó. Môi trên chúm vào, tạo một khe hẹp để vuốt hơi và luồng hơi chéo sang thành ống phía đối diện làm chuyển động cột không khí chứa trong ống, tạo nên âm thanh.
Đinh Túk của dân tộc Giẻ Triêng do phụ nữ thổi
(nếu nam giới thổi thì mặc trang phục phụ nữ). Đnh Túk thường được sử dụng
trong các lễ hội, trên nhà rông và trên nương rẫy. đinh Túk là loại nhạc cụ dễ
chế tác và sử dụng, tuy nhưng hiệu quả âm thanh rất độc đáo, tiếng Đinh Túk như
lời thì thầm nhắn nhủ, như lời tỏ tình đằm thắm. Đinh Túk của làng Dục Nhầy xã
Dục Nông huyện Ngọc Hồi, chơi những bản nhạc thường mô phỏng hơi thở của thiên
nhiên như: tiếng dế mèn, tiếng chim Hoong gọi bạn tình, rất nhẹ nhàng, êm đềm
da diết.
Đinh Dựt: Được cấu tạo bởi ống lồ ồ (hoặc nứa)
với 6 lỗ thoát âm và 6 sợi dây bằng cật tre nứa hoặc bằng kim loại. khả năng diễn
tấu của đàn Đinh Dựt cũng rất phong phú. Vì vậy giống như mbuốt, nhạc cụ này có
nhiều sinh hoạt khác nhau và nó có khả năng “nói hộ tiếng lòng” cho người sử dụng
và thưởng thức, thuộc mọi tâm trạng của con người.
Các dân tộc Thái, Tày di cư vào Nam Trường Sơn mang theo mình chiếc đàn Tính Tẩu rất độc đáo của người thiểu số phía Bắc. Tính Tẩu có nghĩa là đàn bầu vì bầu cộng hưởng được làm từ trái bầu khô. Tính tẩu tuy nghe không vang nhưng âm sắc khá độc đáo dùng để đệm cho hát – múa và có khi độc tấu. Tính Tẩu được các dân tộc Tày, Thái ở Lâm Hà, Đức Trọng, Di Linh sử dụng nhiều.
Kho tàng âm nhạc dân gian của dân tộc Thái
vùng Tây Bắc rất phong phú và đa dạng. Bất cứ nơi đâu trong bản làng của người
Thái đều có thể thấy có các làn điệu dân ca thể hiện rõ phong cách riêng của mỗi
vùng mà nguyên nhân do sự truyền lại cho các thế hệ theo cách cảm thụ và rung động
riêng của mỗi nghệ nhân. Trong đó không thể thiếu tiếng cây đàn tính tẩu.
"Tính" tiếng Thái nghĩa là đàn,
còn "Tẩu" nghĩa là quả bàu, Tính tẩu nghĩa la đàn bàu.
Trong cộng đồng người Thái có lưu truyền một huyền thoại về cây tính tảu: Chắc
nhiều người biết về sự tích quả bàu trong huyền thoại về sự sinh ra các dân tộc
trên trần gian.
Sau một trận hồng thủy trần gian chẳng còn
ai nên Nhà Trời đưa xuống một quả bàu có giống người và dùi một lỗ thủng bằng
chiếc dùi nung đỏ cho giống người chui ra. Lỗ thủng ấy có vết đen người Xá chui
ra trước nên đen nhẻm cho đến bây giờ, người Kinh chui ra sau nên đỡ đen hơn...
và mọi giống người đều từ quả bàu (có hình cái nậm rượu) mà ra cả. Sau khi từng
giống người chui ra khỏi quả bàu và trở thành các dân tộc, còn lại vỏ quả bàu ấy
nằm một mình trên tận nơi thượng nguồn chẳng còn ai nhớ gì đến nữa. Nơi thượng
nguồn có nguồn nước trong và mát nên các tiên nữ thường xuống lấy nước về trời.
Trong bản Thái nọ có một chàng trai ngày
ngày đi câu cá ngược theo suối nhưng mãi chẳng được con cá nào. Đến nơi cảnh đẹp
thượng nguồn, chàng trai nghe tiếng các thiếu nữ đang cười đùa vui vẻ. Chàng
bèn tìm chỗ ẩn nấp theo dõi. Nhờ vậy mà chàng phát hiện thấy các tiên nữ đi lấy
nước đang nô đùa xung quanh vỏ quả bầu. Thấy các tiên nữ làm sợi dây mảnh nối từ
quả bàu ngang qua miễng lỗ dùi khi có gió thổi làm cho sợi dây rung lên những
âm thanh êm ái mà chàng trai không thể bỏ đi được. Nghe nhiều ngày chàng trai
càng mê không dứt ra được. Trời tối các tiên nữ rủ nhau bay về trời để lại
chàng trai một mình nơi tiên cảnh. Chàng trai không chịu ngồi yên, chàng muốn
nghe âm thanh từ quả bàu kia. Và thế là, chàng bắt chước chặt cành cây cắm xuống
đất, lấy sợi dây rừng xe thành sợi mảnh cũng nối từ cành cây cắm cọc xuống đất
kéo qua miệng lỗ dùi ở quả bàu và nằm chờ gió thổi. Nhưng chờ mãi chẳng được,
chàng trai dùng tay bật thử sợi dây và thấy phát ra âm thanh. Âm thanh làm
chàng trai say mê nghe hết ngày này sang ngày khác quên cả mọi việc đến nỗi
chàng không nhận ra rằng cành cây chàng cắm xuống đất đã mọc rễ và trở thành một
cây thực thụ. Lúc này chàng trai muốn về bản báo tin vui cho dân làng. Chàng cầm
quả bàu đi theo nhưng thấy vướng quá chàng đã dùng dao cắt bỏ phần ngọn của quả
bàu quăng xuống suối. Còn lại phần phình to chàng giữ lại và chặt theo cành cây
mang về làm cần đàn, lấy vỏ cây làm sợi dây buộc qua miệng quả bàu vừa bị chặt
phần ngọn vừa đi vừa gảy vừa hát. Tuy nhiên âm thanh ấy không còn hay như trước
nữa. Vì chàng không biết rằng phầnlinh thiêng của quả bàu đã bị chàng vứt
xuống suối trôi về xuôi người Kinh vớt được và làm ra cây đàn bầu của người
Kinh. Vì thế mà cây đàn bàu của người Kinh ngày nay hay hơn cây đàn bàu của người
Thái.
Đấy là chuyện cổ tích. Tuy âm thanh của cây
tính tẩu không bằng cây đàn bầu của người Kinh như ngày nay chúng ta thấy.
Nhưng sự tồn tại của cây tính tẩu trong đời sống tunh thần của người Thái có ý
nghĩa quan trọng mọi lúc mọi nơi.
Đàn
đá:
gồm có nhiều phiến đá mỏng phát ra âm thanh có âm điệu rõ rệt. Đối với các dân tộc Tây Nguyên , những phiến đá này được xem như là báu vật và chỉ dụng trong các dịp tổ chức lễ tết. Sau buổi lễ, những phiến đá được xoa máu trâu và được đem về cất vào vị trí trang trọng trong nhà.
gồm có nhiều phiến đá mỏng phát ra âm thanh có âm điệu rõ rệt. Đối với các dân tộc Tây Nguyên , những phiến đá này được xem như là báu vật và chỉ dụng trong các dịp tổ chức lễ tết. Sau buổi lễ, những phiến đá được xoa máu trâu và được đem về cất vào vị trí trang trọng trong nhà.
Trống: Là loại nhạc cụ có mặt hầu hết các
dân tộc, Trống có mặt bịt bằng da súc vật, Tang trống thường làm bằng gỗ và
phình ra hoặc thẳn. Người ta đánh trống bằng nhiều cách khác nhau như dùng nhiều
dùi gỗ, dùng gỗ, dùng tay, ngón tay và cả cùi tay. Nghệ thuật đánh trống của
các dân tộc Tây Nguyên rất phong phú. Đặc biệt là các nghệ nhân người Chu Ru
thì tiếng trống trở nên có linh hồn và rất thân thiết.
Kèn, sáo, khèn: Là nhạc cụ gồm các loại
khoét lỗ vòm (sáo ngang, tiêu…), kèn dăm (kèn bó hay kèn đám ma), loại có lưỡi
gà rung tự do ( kèn bà, kèn bầu, sáo Mèo…) , Ở người Việt, kèn bóp là tiêu biểu.
Âm sắc của loại nhạc cụ này nghe rộng ràng, vang xa. Nhạc cụ sáng giá nhất của
người thiểu số bản địa là kèn bầu (còn gọi là Mbuốt, hay mboắt). Phổ biến nhất
là loại kèn bầu 6 ống, gồm một quả bầu và 6 ống trúc thoát hơi. Nếu đàn đá và
chiêng chỉ sử dụng trong các lễ hội thì kèn không bị ràng buộc, vì vậy mà hầu
như có mặt mọi lúc, mọi nơi. Khả năng diễn tấu của nó cũng phong phú vì nó thể
hiện nhiều cung bậc tình cảm của con người. Tương tự, người Thái ở Lâm Đồng có
loại khèn bè gồm nhiều ống nứa ghép lại và đều có lưỡi gà để phát âm. Khèn có
thể độc tấu nhưng cũng có thể hòa tấu hoặc đệm cho múa và hát.
Còn rất nhiều các loại nhạc cụ khác như: Đàn
Goong, Đàn Kơ ny, đàn B’rõ…Các loại trống, Sơ Gơ , Pa năng…được các dân tộc chế
tác và sử dụng như những nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hằng ngày và trong những
nghi lễ quan trọng có thể nói âm nhạc Tây Nguyên là cả một thế giới phong phú
và huyền diệu, người Tây Nguyên yêu thích và gắn bó suốt đời với âm nhạc cổ
truyền của mình. Nó chính là máu thịt của đồng bào. Âm nhạc thực sự giữ vai trò
quan trọng trong đời sống, là tiếng nói tâm hồn thỏa mãn nhu cầu tình cảm thẩm
mỹ.
Tài
liệu tham khảo:
Nguồn: Tây nguyên vùng đất con người (nhà xuất
bản quân đội)
Nguồn: Tạp Chí Văn Hóa Nghệ Thuật
Bài: Trần Vinh (Nguồn: kontum.gov.vn)
Nguyễn Lân
(báo thể thao văn hóa)