Lời Nói Đầu
Tài liệu tuyến điểm Bình Thuận – Ninh
Thuận được hoàn thành vào ngày 01/08/2008 chỉ là tài liệu sử dụng để tham khảo,
vẫn còn nhiều sai sót. Tài liệu có công sức đóng góp củac ACE Hướng Dẫn Viên
trong CLB Đồng Hành Việt, các thành viên trong Câu Lạc Bộ và tổng hợp tư liệu
từ nhiều tác giả khác nhau. Thay mặt BCN CLB Hướng Dẫn Đồng Hành Việt cám ơn
những ACE đã góp nhiều công sức đóng góp để Đạt hoàn thành tài liệu này.
Đây là tài liệu sử dụng trong nội bộ của
Câu Lạc Bộ Hỗ Trợ – Cung Cấp Hướng Dẫn Đồng Hành Việt và là một cẫm nang
dành cho các bạn sinh viên du lịch. Đề nghị các thành viên không phổ biến tài
liệu này ở bên ngoài.Nếu BCN CLB phát hiện sẽ có hình thức kỷ luật rất nặng.
Thay mặt Ban Chủ Nhiệm CLB, Đạt xin cám
ơn công sức đóng góp của các ACE Hướng Dẫn Viên và các thành viên trong CLB đã
giúp đỡ để Đạt hoàn thành tài liệu quý giá này.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 08 năm 2008
Chủ
Nhiệm CLB
Dzoãn Tiến Đạt
TÀI LIỆU
THUYẾT MINH BÌNH THUẬN – NINH THUẬN
Chuyên đề: 70 năm ca khúc Việt Nam
Nền âm nhạc Việt Nam xuất hiện từ rất sớm trải qua những thăng trầm của
lịch sử có những lúc nền âm nhạc phát triển đến cao trào, có những lúc bị mờ
nhạt tưởng chừng như mất hẳn song cho đến nay nền âm nhạc của nước ta đã có
những chuyển biến mới và “70 năm ca khúc Việt Nam” là dấu ấn để ghi nhận lại sự
chuyển biến đó.
Sự ra đời của nhạc Mới hay Tân nhạc còn gọi là “nhạc cải cách” là một trong
những sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặc, bước phát triển mới trong lịch sử
của nền âm nhạc nước nhà. Đây cũng là biểu hiện của lòng yêu nước và tinh thần
tự cường dân tộc- nguồn sức mạnh đã tiếp sức cho các nhạc sĩ Việt Nam vượt lên
mọi trở ngại để kiên trì theo đuổi ý nguyện xây dựng nền nhạc mới mang linh hồn
của dân tộc.
Trong những bước đi ban đầu, nền nhạc mới đã gặp nhiều vấp váp và cả những
thất bại khó tránh trên con đường học tập, tiếp thu những cái mới - nhất là
trong một cuộc học đầy gian lao không thầy dạy, không người hướng dẫn chỉ
đường, vì vậy trong nền âm nhạc của giai đoạn này người ta thấy không ít những
bài lai căn, chấp vá, “đầu Ngô mình Sở ”. Song các nhạc sĩ Việt Nam đã nảy sinh
một khuynh hướng đối lập về quan điểm sáng tác và mở cuộc vận động tích cực cho
sự tìm tòi nhằm xây dựng và phát triển một thể loại âm nhạc mới mang tính dân
tộc.
Và “ 70 năm ca khúc Việt Nam” có thể chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: từ năm 1936 đến trước
cách mạng Tháng Tám 1945.
- Giai đoạn II: từ cách mạng Tháng tám 1945 đến 1975.
- Giai đoạn III: từ năm 1975 đến nay.
I. GIAI ĐOẠN I: TỪ NĂM 1936 ĐẾN TRƯỚC CMT8
NĂM 1945
Sau khi đưa phong trào sáng tác mới ra công khai, các nhạc sĩ trẻ càng thêm
tự tin, không còn lo sợ, lạc lõng. Phong trào sáng tác, trình diễn ca khúc,
nhạc phẩm mới của các nhạc sĩ trẻ Việt Nam ngày càng dâng lên sôi nổi.
Phong trào chuyển theo hướng làm thay đổi sở thích của giới trẻ. Trước mối nguy vọng Pháp và trong tinh thần bảo vệ nghệ thuật của dân tộc, một số nhạc sĩ Việt Nam ra tay sáng tác những bản tân nhạc đầu tiên là vào năm 1938. Ở miền Bắc lúc ấy có Thẩm Oánh (định cư tại Hoa kỳ và từ trần năm 1996) , Dương Thiệu Tước (từ trần năm 1998 tại Việt Nam) , Trần Quang Ngọc, Lê Thương (từ trần tại Việt Nam). Trong Nam thì có Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Đăng Hinh. Tháng 3/1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên được chinh phủ bảo hộ Pháp gởi ra Hà Nội để thuyết trình về âm nhạc cải cách nhằm tạo một phong trào mới. Vào tháng 9/1938, báo Ngày Nay đã góp công vào phong trào phổ biến nhạc Mới bằng cách đăng những bài tân nhạc đầu tiên. Từ năm 1938 tới 1942 báo Ngày Nay đã đăng "Bông Cúc Vàng", "Kiếp Hoa" của Nguyễn Văn Tuyên, "Bình Minh", "Đàn Xuân "của Nguyễn Xuân Khoát, "Khúc Yêu Đương" của Thẩm Oánh, "Bản Đàn Xuân" của Lê Thương, "Đám Mây Rừng " của Phạm Đăng Hinh, "Đường Trường" của Trần Quang Ngọc.Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy có đăng bản "Con Thuyền Không Bến " của Đặng Thế Phong. Các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Trần Dư, Vũ Khánh, Phạm Văn Nhượng cùng nhau thành lập nhóm MYOSOTIS. Trong nhóm này có hai xu hướng:
Phong trào chuyển theo hướng làm thay đổi sở thích của giới trẻ. Trước mối nguy vọng Pháp và trong tinh thần bảo vệ nghệ thuật của dân tộc, một số nhạc sĩ Việt Nam ra tay sáng tác những bản tân nhạc đầu tiên là vào năm 1938. Ở miền Bắc lúc ấy có Thẩm Oánh (định cư tại Hoa kỳ và từ trần năm 1996) , Dương Thiệu Tước (từ trần năm 1998 tại Việt Nam) , Trần Quang Ngọc, Lê Thương (từ trần tại Việt Nam). Trong Nam thì có Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Đăng Hinh. Tháng 3/1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên được chinh phủ bảo hộ Pháp gởi ra Hà Nội để thuyết trình về âm nhạc cải cách nhằm tạo một phong trào mới. Vào tháng 9/1938, báo Ngày Nay đã góp công vào phong trào phổ biến nhạc Mới bằng cách đăng những bài tân nhạc đầu tiên. Từ năm 1938 tới 1942 báo Ngày Nay đã đăng "Bông Cúc Vàng", "Kiếp Hoa" của Nguyễn Văn Tuyên, "Bình Minh", "Đàn Xuân "của Nguyễn Xuân Khoát, "Khúc Yêu Đương" của Thẩm Oánh, "Bản Đàn Xuân" của Lê Thương, "Đám Mây Rừng " của Phạm Đăng Hinh, "Đường Trường" của Trần Quang Ngọc.Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy có đăng bản "Con Thuyền Không Bến " của Đặng Thế Phong. Các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Trần Dư, Vũ Khánh, Phạm Văn Nhượng cùng nhau thành lập nhóm MYOSOTIS. Trong nhóm này có hai xu hướng:
- Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.
- Sáng tác hoàn toàn theo nhạc người Tây
phương do Dương Thiệu Tước cầm đầu. Ít lâu sau, một nhóm khác gồm vài nhạc sĩ
trẻ đầy nhiệt quyết thành lập nhóm TRICEA gồm Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn.
Nhóm này chịu ảnh hưởng nhạc Trung Quốc lúc đầu, về sau phảng phất âm hưởng Âu
châu và phải rả sớm. Nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng có các nhạc sĩ Hoàng Quý, Văn
Cao, Canh Thân. Nhóm Đồng Vọng do Hoàng Quý điều khiển ra đời chuyên về nhạc
hướng đạo lúc đầu và sau đó tích cực đóng góp trong việc phổ biến nhạc Mới. Lê
Thương lúc đó giảng dạy tại trường trung học Lê Lợi. Một số tráng sinh hướng
đạo có những tên đi vào lịch sử âm nhạc Việt Nam như Canh Thân, Phạm Nguyên, Hoàng
Quý đã sáng tác những bài nhạc đáng kể như "Nhớ Quê Hương" (Phạm Ngữ
và "Chùa Hương" (Hoàng Quý). Tỉnh Nam Định chứng kiến sự chào đời của
hai bài "Đêm Thu" và "Con Thuyền Không Bến" của nhạc sĩ
đoản mệnh Đặng Thế Phong. Hai bài nhạc Nhựt "Hà Nhựt Quân Tái Lai "
(Bao giờ anh trở lại ) và "Shina No Yoru " (Đêm Trung Hoa) trích
trong phim "Đêm Trung Hoa" (Nuit de Chine) đã gợi hứng cho nhạc sĩ
Việt Nam thời bấy giờ sáng tác nhạc Việt, tạo thành phong trào "Người Việt
hát nhạc Việt ". 1939: thế chiến thứ hai bùng nổ tại Âu Châu. Những bài
"Việt Nam Bất Diệt" của Hoàng Gia Linh, "Trên Sông Bạch
Đằng" của Hoàng Quý, "Tiếng Gọi Sinh Viên" của Lưu Hữu Phước đã
làm sống dậy tinh thần yêu nước của tuổi trẻ.
Tân nhạc trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ đã đóng một vai trò đáng kể và từ đó phát triển rất mạnh. Phong trào tân nhạc đã được đưa lên cao tột đỉnh với Tổng Hội Sinh Viên trong giai đoạn lịch sử 1943-1945. Nhạc sĩ đi liền với Tổng Hội Sinh Viên không ai khác hơn là Lưu Hữu Phước. Những bài hát làm ra đúng thời, đúng lúc và vẫn còn sống mãi trong tim đa số người Việt ngày hôm nay (nhất là những người vào tuổi ngũ tuần trở đi). Những ai đã sống trong thời kháng chiến chống Pháp vẫn còn nhớ những bài gợi lên những giai đoạn lịch sử Việt Nam như "Ải Chi Lăng", "Bạch Đằng Giang", "Hội Nghị Diên Hồng", hay những bài khích động thanh niên như "Tiếng Gọi Sinh Viên" (đổi thành Tiếng Gọi Thanh Niên, và cũng là bài quốc ca của thời Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu). "Lên Đàng" hay với thiếu niên như "Thiếu niên Việt Nam", hay những bài gắn liền với lịch sử như "Kinh Cầu Nguyện", "Hồn Tử Sĩ" (bài mà trong bất cứ chương trình đấu tranh của người Việt di tản vẫn còn dùng để tưởng nhớ các chiến sĩ tử trận) . Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là người đầu tiên sáng tác nhạc ca kịch trong kịch thơ "Tục Lụy" của Khái Hưng và Thế Lữ và tiểu ca kịch "Con Thỏ Ngọc". Nguyễn Đình Thi sáng tác bài "Diệt Phát Xít" thúc đẩy dân chúng nổi lên chống Nhựt Bổn.
Tân nhạc trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ đã đóng một vai trò đáng kể và từ đó phát triển rất mạnh. Phong trào tân nhạc đã được đưa lên cao tột đỉnh với Tổng Hội Sinh Viên trong giai đoạn lịch sử 1943-1945. Nhạc sĩ đi liền với Tổng Hội Sinh Viên không ai khác hơn là Lưu Hữu Phước. Những bài hát làm ra đúng thời, đúng lúc và vẫn còn sống mãi trong tim đa số người Việt ngày hôm nay (nhất là những người vào tuổi ngũ tuần trở đi). Những ai đã sống trong thời kháng chiến chống Pháp vẫn còn nhớ những bài gợi lên những giai đoạn lịch sử Việt Nam như "Ải Chi Lăng", "Bạch Đằng Giang", "Hội Nghị Diên Hồng", hay những bài khích động thanh niên như "Tiếng Gọi Sinh Viên" (đổi thành Tiếng Gọi Thanh Niên, và cũng là bài quốc ca của thời Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu). "Lên Đàng" hay với thiếu niên như "Thiếu niên Việt Nam", hay những bài gắn liền với lịch sử như "Kinh Cầu Nguyện", "Hồn Tử Sĩ" (bài mà trong bất cứ chương trình đấu tranh của người Việt di tản vẫn còn dùng để tưởng nhớ các chiến sĩ tử trận) . Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là người đầu tiên sáng tác nhạc ca kịch trong kịch thơ "Tục Lụy" của Khái Hưng và Thế Lữ và tiểu ca kịch "Con Thỏ Ngọc". Nguyễn Đình Thi sáng tác bài "Diệt Phát Xít" thúc đẩy dân chúng nổi lên chống Nhựt Bổn.
Lúc bấy giờ ở tại Sài Gòn, chỉ lẻ tẻ vài hội hoạt động về nhạc cải cách.
Hội Nam Kỳ Đức Trí Thể dục mời bà nhạc sĩ dương cầm Louise Nguyễn Văn Tỵ (tên
thật là Thái Thị Lang) trình diễn piano với những bài do bà sáng tác. Nhạc sĩ
quá cố Võ Đức Thu trình bày nhạc phẩm "Việt Nam Tân Điệu". Từ Bắc tới
Nam, nhạc sĩ tân nhạc bắt đầu mọc lên như nấm. Trong giai đoạn 1944 -1945,
nhiều bài nhạc tôn giáo như "A Di Đà Phật" của Thẩm Oánh được hát
nhân ngày khánh thành trùng tu chùa quán sứ Hà Nội vào cuối năm 1942 hay bài
"Sám Hối" và nhiều ca khúc khác của Nguyễn Hữu Ba và Văn Giảng sáng
tác tại Huế. Nhạc đoàn Lê Bão Tịnh gồm các nhạc sĩ Hùng Lân, Hải Linh, Tâm Bảo,
Thiên Phụng đã sáng tác tập Cung Thánh gồm hàng trăm bài Thánh ca Thiên chúa
giáo (1944-1945).
Giai đoạn 1945-1946 đánh dấu cuộc chiến tranh bùng nổ tại Việt Nam vừa sau
trận thế chiến thứ hai. Các nhạc sĩ lo sáng tác nhạc chiến đấu như Văn Cao với
"Tiến Quân Ca" (trở thành Quốc Ca của chế độ cộng sản miền Bắc từ năm
1945, và được dùng làm Quốc Ca của Việt Nam Xã hội chủ nghĩa từ năm 1976 sau
khi thống nhất đất nước), "Chiến Sĩ Việt Nam ", như Đỗ Nhuận với
"Nhớ Chiến Khu ", như Phạm Duy với "Chiến Sĩ Vô Danh ",
"Xuất Quân", như Lưu Hữu Phước với "Đoàn Quân Ma ", như
Phan Huỳnh Điểu với "Giải Phóng Quân ", như Thẩm Oánh với "Việt
Nam Phục Quốc ".
Song song vơí những sáng tác chiến đấu, tình cảm vẫn còn rung động trong
nguồn hứng qua các bài "Thiên Thai " (Văn Cao), Đêm Đông "
(Nguyễn Văn Thương), "Xuân và Tuổi Trẻ " (La Hối), "Mùa Đông
Binh Sĩ "
(Phan Huỳnh Điểu), "Dạ Khúc " (Nguyễn Mỹ Ca), Đêm Tàn Bến Ngự
" (Dương Thiệu Tước), " Cây Đàn Bỏ Quên " (Phạm Duy), "Mơ
Hoa " (Hoàng Giác), "Cô Lái Đò" (Thẩm Oánh), "Suối Mơ
" (Văn Cao), "Hẹn Một Ngày
Về " (Lê Hữu Mục), "Đi Chơi Chùa Hương " (Trần Văn
Khê/Nguyễn Nhược Pháp).
Sáng tác của các nhạc sĩ mới trong giai đoạn đầu của âm nhạc cải cách
cho tới trước khi cách mạng Tháng Tám thành công không thuần nhất. Theo đà
chuyển biến về chính trị và xã hội nước ta, nó có nhiều biến chuyển cả về nội
dung lẫn nghệ thuật.
Căn cứ vào nội dung, các tác phẩm sáng tác trong giai đoạn này có thể chia
làm ba khuynh hướng chính: khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hùng ca yêu nước
và khuynh hướng cách mạng.
Khuynh hướng lãng mạn:
1936 – 1939 là thời kì Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tuy chỉ là tạm thời,
song do tình hình kinh tế khá hơn trước, nên bọn thực dân ở thuộc địa có phần
nới tay hơn trước. Nhiều bộ phận thuộc giai cấp Tư sản và tiểu tư sản lớp trên
chưa đi theo cách mạng tưởng có thể phát triển được trong khuôn khổ thự dân. Do
đó, trong văn học, các loại văn học không cách mạng, không hiện thực, cụ thể là
khuynh hướng văn học lãng mạn có cơ sở tồn tại và phát triển. đi đôi với tình
hình văn học nói trên, trong âm nhạc cải cách giai đoan này các ca khúc lãng
mạn cũng chiếm địa bộ phận. Tất nhiên cũng như trong văn học, ca khúc lãng mạn
trong giai đọan này bao gồm nhiều thể loại và tính chất khác nhau: có ca khúc
lãng mạn viễn vong theo kiểu “mơ theo trăng và vơ vẫn cùng mây”, trốn tránh
thực tại.
- Có loại ca khúc nhạc nhẹ, có tính chất giải trí – kể cả giải trí rẻ tiền.
- Cũng có loại ca khúc lãng mạn mang nội dung sâu sắc hơn, qua đó tác giả
gởi gấm tình yêu quê hương đất nước.
- Lại có những ca khúc lãng mạn mang tính chất lãng mạng đồi trụy, kêu gọi
thanh niên đắm chìn trong lốisống gấp. Đối với loại này, tuy chưa thấy bài nào
mang tính chất khuy dâm như một số tiểu thuyết cùng loại bắt đầu phát triển từ
1935 và đặt biệt phổ biến ở thời kì 40 – 41 sau này, song nó cũng góp phần làm
cho thanh niên xa rời thực tế xã hội để đắm chìm trong tình yêu lãng mạn, ủy
mị, chí khí rã rời.
Đa số bài khác bộc lộ tâm trạng chán chường bế tắc của thanh niên chưa tìm
ra được lối thoát trong xã hội ngột ngạt thời đó. Chiếm đa số trong thời kì đầu
của “âm nhạc cải cách”, ca khúc lãng mạng sẽ vẫn tiếp tục phát triển ở các giai
đoạn sau khi nó không còn là thể loại “bao san” như ở buổi ban đầu.
Để đánh giá khuynh hướng lãng mạng nói chung, có thể dẫn lời đồng chí
Trường Chinh: “những văn nghệ sĩ sống dưới chế độ thực dân phong kiến là những
người trí thức bị áp bức, tự mình kiếm sống khá vất vả. Vì vậy trừ một số ít tự
nguyện làm “vú em” cho phong kiến và thực dân,còn đại bộ phận nghệ sỹ sớm hiểu
sự đau khổ, nhục nhã của nguời dân mất nuớc. Một mặt họ bị hạn chế về quan điểm
,về cách nhận thức sự vật, về tính bấp bênh trong đáu tranh chính trị ,hạn chế
về quan điểm, về cách nhận thức sự vật, về tính bấp bênh trong đấu ranh chính
trị, nhưng về mặt khác họ giàu lòng yêu nuớc. Ngay trong những quan điểm sai
lầm về nghệ thuật một số cũng mốn tìm sự phản kháng, một chỗ đuợc tự do thể
hiện lòng ao uớc, niềm hi vọng của mình. Các tầng lớp tu sản và tiểu tư sản trí
thức Việt Nam tìm thấy trong chủ nghĩa lãng mạn một tiếng thở dài chống chế độ
thuộc địa.
Khuynh hướng hùng ca yêu nước:
Bên cạnh những bài hát thuộc khuynh hướng lãng mạn ngay từ giai đọan đầu
của nhạc mới cũng đã xuất hiện những ca khúc mang nội dung khỏe khoắn, trong
sáng. Đó chủ yếu là những bài hát viết cho phong trào hướng đạo của phạm văn
xung, hoàng quý. Đặc biệt, ngay trong sáng tác công khai, lẻ tẻ đã có một vài
nhạc sĩ viết được đôi bài hát hướng về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc rõ
nét. Bài hát câu lạc bộ học sinh của lưu hữu phước (1939) là một trong những
bài thuộc lọai đó. Tuy vậy những ca khúc này chưa chiếm ưu thế trên diễn đàn
của các báo cáo các nhà xuất bản cũng như trong đa số các tầng lớp thị dân như
những ca khúc thuộc khuynh hướng lãng mạn nói trên nó mới chỉ được phổ biến chủ
yếu trong phong trào hướng đạo sinh hoặc trong một số bạn bè quen thuộc của các
tác giả.
Cho tới năm 1940 tình trạng nói trên vẫn còn tiếp diễn xong bên cạnh đó bắt
đầu xuất hiện thêm những ca khúc của một số nhạc sĩ đã được tiếp xúc với cách
mạng và tham gia họat động trong các tổ chức do đảng lảnh đạo. Những bài này có
nội dung yêu nước, cách mạng rõ rệt hơn. Tuy nhiên chúng chưa được phổ biến
rộng rãi. Một số bài chủ yếu mới phổ biến trong vòng bí mật, như một số bài của
đỗ nhuận (lới cha già, chim than), hoàng quý(khoan hò khoan).
Khuynh hướng này cùng với sự phát triển của tình hình chính trị xã hội
trong nước và thế giới càng về sau cho tới cách mạng tháng tám càng phát triển
mạng.
Từ 1941, sau khi đại chiến thứ 2 bùng nổ nước pháp bị lôi kéo vào cuộc
chiến và chịu nhiều tổn thất nặng nề.chính phủ pê – tanh chủ trương một công
cuộc cải cách va phục hưng nước pháp, trong đó lưu ý nhiều hơn tới tổ chức
thanh niên. Việc đó có ảnh hưởng tới các nước thuộc địa.
Các hoạt động hướng đạo ở nước ta được đẩy mạnh hơn. Với các hoạt đông này,
chính quyền thực dân mong muố cứu gỡ lại tình hình thanh niên ở các thành thị
“đang say đắm vào cái đời sinh hoạt ích kỉ, lãng mạn, cái đơi trụy lạc cả về
vật chất và tinh thần”, thậm chí “dở sống dở chết” vì chìm đắm trong hố trụy
lạc do các nạn tiểu thuyết khiêu dâm gây đã lên đếnđỉnh điểm gây ra. Chính phủ
pháp hy vọng “với những công cuộc tổ chức đó, thanh niên ta tập theo kỷ luật,
tinh thần đoàn thể và rèn dũa những đức tính tốt như làm, sự điềm đạm, sự táo
bạo, sự can đảm, kiên nhẫn….” Họ hi vọng nhờ vậy sẽ có thêm nhiều người lính
tốt cung cấp cho cuộc chiến tranh của chúng ở Châu Âu.
Năm 1940 sau khi Pháp thất trận và đầu hàng đức, nhật ồ ạt kéo vào đông
dương. Chúng ra sức tuyên truyền cho chủ nghĩa đại đông á, khu vực thịnh vượng
chung để lôi kéo những người ghét Pháp nhưng chưa giác ngộ cách mạng, bóc lột
nhân dân ta, phát xít Nhật cũng đã khơi lên phong trào khỏe vì nước. Tất cả
những sự kiện đó điều tác động mạnh tới tình hình âm nhạc công khai.
Mặc khác ở thời kì này mặc dù đã rút vào bí mật, nhưng Đảng vẫn bám sát
nhân dân lãnh đạo cách mạng. Phong trào cách mạng do đó ngày càng dân cao. Tin
tức về các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra và sự khủng bố cực kì mang rợ, tàn
bạo cuả thực dâ Pháp đối với những phong rào đó thu lượm được qua báo chí hoặc
những thư từ vượt lưới kiểm soát của địch đã kích thích mạnh mẽ lòng yêu nước,
câm thù giặc của các thanh niên, học sinh, sinh viên các đô thị.
Đó là những yếu tố làm sôi thêm bầu máu nóng của những nhạc sĩ trẻ dù chưa
tiếp xúc trực tiếp với cách mạng tìm đến ngày càng nhiều hơn với những đề tài
lịch sử để qua đó gửi gấm lòng yêu nước chí thù giặc. Khuynh hướng nhạc yêu
nước, trước kia còn mơ hồ bé nhỏ, nay có thêm động lực và thời cơ để phát triển
trong vòng kiểm soát của địch đồng thời ngày càng ngã dần sang những nội dung
yêu nước tích cực và cách mạng. Những ca khúc với đề tài tình yêu lãng mạng và
những âm điệu ủy mị, ướt át trước đây- lúc này tuy vẫn còn rãi rác nhưng đã
phải nhường bước trước những xu hướng mới: xu hướng vui sống, lịch sử về xu
hướng yêu nước tích cực, cách mạng đang trên đà phát triển.
Nhìn vào số lượng, từ năm 1941 những bài thuộc khuynh hướng này đã nhiều
lên rõ rẹt và có chiều vượt qua những bài theo khuynh hướng lãng mạn cũ. Âm
nhạc cải cách chuyển sang thời kỳ của những bản hùn ca còn gọi là thời thanh
niên và lịch sử. Nó thổi một luồng gió mới vào mọi tâm hồn mệt mõi vì quá lãng
mạn và nặng trĩu ưu phiền.
Một trong những dịp náo nhiệt khơi mào cho sự chuyển hướng mạnh mẽ trong
sáng tác âm nhạc là kỳ trẩy hội đền Hùng vào 10/03/1941 do tờ Việt báo tổ chức.
Đó là một dịp để người dân Việt Nam tỏa lòng ngưỡng mộ đối với tổ tiên, vua
Hùng- những người đã có công mở nước. Bản nhạc Đi hội đền Hùng lời ca của Ngyễn
Phước Bộ, âm nhạc của Lưu Hữu Phước được in ra 1000 bản để phát không cho những
người đi hội đền Hùng năm đó. Và bài Thanh niên ơi của Thẩm Oánh được hàng ngàn
lòng ngực ca vang trong cảnh đời hùng vĩ.
Thấy công cụ mà mình sử dụng để mê hoặc thanh niên Việt Nam, đẩy họ vào con đường ăn chơi hưởng lạc, xa rời đấu tranh đang dần bị các nhạc sĩ trẻ Việt Nam giàu lòng yêu nước chuyển thành công cụ tuyên truyền vận động và thúc đẩy thanh niên lên đường đấu trang giải phóng dân tộc, thực dân Pháp đã bắt đầu xiết chặt lưới kiểm duyệt. Năm 1941, lời bài ca Người xưa đâu tá của Lưu Hữu Phước bị cấm, điệp khúc chính của bài Bạch Đằng Giang ( lời của Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước) vượt lưới kiểm duyệt của thực dân. Song Bạch Đằng Giang, ải chi lăng và kinh cầu nguyện (tức người xưa đâu tá) vượt lưới kiểm duyệt của thực dân vẫn lưu hành trong giới thanh niên, sinh viên và gây nên một phong trào sôi nổi.
Thấy công cụ mà mình sử dụng để mê hoặc thanh niên Việt Nam, đẩy họ vào con đường ăn chơi hưởng lạc, xa rời đấu tranh đang dần bị các nhạc sĩ trẻ Việt Nam giàu lòng yêu nước chuyển thành công cụ tuyên truyền vận động và thúc đẩy thanh niên lên đường đấu trang giải phóng dân tộc, thực dân Pháp đã bắt đầu xiết chặt lưới kiểm duyệt. Năm 1941, lời bài ca Người xưa đâu tá của Lưu Hữu Phước bị cấm, điệp khúc chính của bài Bạch Đằng Giang ( lời của Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước) vượt lưới kiểm duyệt của thực dân. Song Bạch Đằng Giang, ải chi lăng và kinh cầu nguyện (tức người xưa đâu tá) vượt lưới kiểm duyệt của thực dân vẫn lưu hành trong giới thanh niên, sinh viên và gây nên một phong trào sôi nổi.
Cuối năm 1941 đầu 1942, tiếng gọi sinh viên của Lưu Hữu Phước bắt đầu lan
rộng nhanh chống trong sinh viên và học sinh, rồi được quần chúng tự động gọi
tên là tiếng gọi thanh niên. Bài hát đã kích thích mạnh mẽ lòng yêu nước, chí
quật khởi của từng lớp thanh niên, học sinh thời bấy giờ. Tổ hội sinh viên- với
một lập trường quốc gia cấp tiến và những đoàn viên trẻ tuổi hăng say- là tổ
chức đã có nhiều hoạt động có tác động gây tinh thần yêu nước mãnh liệt tron
nhân dân, nhất là trong đám học sinh, sinh viên. Đặc biệt chú trọng đến việc
dùng tân nhạc tron cuộc đấu tranh chính trị chống Pháp- Nhật, tổng hội sinh
viên quảng cáo rầm rộ cho những bản hùng ca của thời kỳ này, trong đó nổi bậc
lên những sáng tác của Lưu Hữu Phước.
Nắm lấy phong trào của thanh niên bên ngoài đang sôi nổi, ban thường vụ
trung ương Đảng họp vào thàng 2/1943 ra quyết nghị: phái người vào các đoàn
hướng đạo, hội thể dục để hoạt động.
Chính qua đó, nhiều nhạc sĩ trẻ tham gia trong các tổ chức hướng đạo và các
hoạt động của thanh niên, sinh viên đã chịu ảnh hưởng của cách mạng và sau này
họ dễ dàng tự nguyện tham gia hàng ngũ những người chiến sĩ cách mạng đấu tranh
giải phóng đất nước khỏi xiềng xích nô lệ. Trong lớp nhạc sĩ đầu tiên ấy có thể
kể đến Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao…
Cũng chính vì vậy, từ năm 1943 khuynh hướng nhạc yêu nước ngày càng nở rộ
gần như lấn áp hẳn khuynh hướng lãng mạn kể cả những đô thị. Đây là một lực
lượng hùng hậu để bổ sung cho dòng âm nhạc cách mạng đã hình thành và hoạt động
chủ yếu trong vòng bí mật. Cho tới sau ngày đảo chính nhật 9 tháng 3 năm 1945,
đặc biệt là sau cách mạng thánh 8 thành công, dòng âm nhạc này lớn mạnh vượt
bật và đè bẹp hoàn toàn dòng nhạc lãng mạn.
Khuynh hướng cách mạng:
Khuynh hướng âm nhạc cách mạng của nước ta ra đời cùng với cuộc hoạt động
cách mạng dưới sự lãnh đạo của chính Đảng của giai cấp công nhân ở nước ta – khi
đó là Đảng cộng sản Đông Dương.
Bằng sự nhạy cảm của mình những người cộng sản Việt Nam từ rất sớm đã biết
vận dụng cả 2 phương thức sáng tác – đặt lời cho những bài có sẵn và sáng tác
những bài ca mới theo phương pháp Âu tây. Các chiến sĩ Cộng Sản Việt Nam đặt
lời mới cho những ca khúc cách mạng nước ngoài như: quốc tế ca, thanh niên xích
vệ, nhà máy đứng lên mau… của Pháp, Đức. Nhưng khác hẳn việc đặt lời cho ca
khúc ngoại quốc trong phong trào hát bài hát ta theo Tây đã nói ở trên, các
chiến sĩ Cộng Sản đã làm công việc này với mục đích cổ vũ tinh thần đấu tranh
của các chiến sĩ trên mặt trận cũng như nơi lao tù và vận động tham gia hoạt
động cách mạng, giành độc lập tự do cho tổ quốc.
Sớm nắm được quy luật phát triển của nghệ thuật âm nhạc nước nhà họ đã
nhanh chóng lợi dụng nó làm vũ khí tuyên truyền cho cuộc đấu tranh chống thực
dân xâm lược. Từ cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930 một bài hát mới sáng tác
theo phương pháp cấu tứ âu tây xuất hiện: cùng nhau đi hồng binh của Đinh Nhu.
Bài hát nhanh chóng được phổ biến rộng rãi và có sức lôi cuốn quần chúng xiết
chặt hàng ngũ trong các cuộc biểu tình đình công hoặc võ trang cướp chính quyền
ngày đó.
Cho tới nay, bài hát nói trên vẫn được xem là sáng tác mới đầu tiên của
khuynh hướng âm nhạc cách mạng. Nó mở màn cho những sáng tác cùng loại trong
thời kì 1930 – 1931, 1936 – 1937 và những năm 1940 trở về sau của trần Văn Út
(Tam Bình) Vương Gia Khương (cờ việt minh), Đỗ Nhuận (viếng mồ liệt sĩ, chiều
tù, Quảng Châu công xã) và nhiều nhạc sĩ khác…
Sự lãnh đạo ngầm của Đảng trong các tổ chức hướng đạo và các hoạt động của
thanh niên – sinh viên từ năm 1943 trở đi được đẩy mạnh nó góp phần quan trọng
trong việc thúc đẩy những mầm móng sáng tác theo khuynh hướng yêu nước tiến bộ
trong nền nhạc mới mau chóng lớn mạnh.
Nhờ đó nhiều nhạc sĩ từng hăng hái sáng tác theo khuynh hướng này về sau đã
trở thành những nồng cốt gia nhập đội ngũ nhạc sĩ cách mạng: Lưu Hữu Phước, Văn
Cao… đặc biệt cũng trong 1943 đề cương văn hoá của Đảng ra đời lần đầu tiên
đường lối và nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện tại và tương lai
được vạch ra một cách đầy đủ, rỏ ràng và chính xác. Không chỉ còn là những hành
động tự phát của những cá nhân lẻ tẻ như trong những năm trước.
Đề cương văn hoá của Đảng đã chính thức mở màn cho một cuộc phản công có tổ
chức của văn hoá Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương chống
lại cuộc xâm lược bằng văn hoá của thực dân Pháp.
Ánh sáng đường lối của đề cương văn hoá sau này sẽ toả rộng tác dụng trong
các tầng lớp văn nghệ sĩ theo cách mạng, giúp họ trở thành lực lượng nòng cốt
trong cuộc xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật và âm nhạc cách mạng vừa mang
tính dân tộc vừa mang tính hiện đại, phục vụ đông đảo quần chúng theo phương
châm dân tộc, khoa học đại chúng.
Từ 1944, khí thế cách mạng ngày càng dâng cao. Một số nghệ sĩ trẻ ở ngoại
thành đã bắt liên lạc được với cơ sở cách mạng, trở thành một lực lượng đóng
góp tích cực cho cuộc đấu trang sống mái sắp tới bằng thứ vũ khí văn nghệ sắt
bén này.
Những bài Tiếng gọi thanh niên của Lưu Hữu Phước cùng với những bài ca cách
mạng khác như: Du kích ca của Đỗ Nhuận, Tiến quân ca của Văn Cao, Diệt phát
xích của Nguyễn Đình Thi đã trở thành tiếng kèn thôi thúc thanh niên, sinh viên
và các tầng lớp nhân dân hăng hái lao vào cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
tháng Tám 1945 bên cạnh hàng trăm bài hát sôi sục khí thế cách mạng của các tác
giả khác…
Những khuynh hướng khác trong đà tiến triển chung của âm nhạc cải cách các
nhạc sĩ ở khắp nơi xuất hiện ngày càng nhiều. Họ sáng tác theo cảm hứng của
mình và đồng thời chịu ảng hưởng của thời cuộc và các trào lưu chính từ bên
ngoài dội tới. Đề tài nói chung vì vậy ở mỗi người cũng rất đa dạng. Khi thì
những đề tài tình yêu mang tính chất lãng mạn. Khi là những bài hát về đề tài
thanh niên, lịch sử hoặc chiến đấu.
Khoảng năm 1944- 1945, những đề tài viết về tôn giáo bắt đầu xuất hiện và
ngày càng phổ biến nhiều: A di Đà Phật của Thẩm Oánh (1942), Sám hối của Nguyễn
Hữu Ba và một số bài Phật nhạc của Nguyễn Hữu Ba và Văn Giảng, một loạt ca khúc
giáo đường Thiên Chúa nở rộ với nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh gồm Hùng Lâm, Tâm Bảo,
Thiên Phụng, Hải Linh. Nhóm này sáng tác được hàng trăm bài in trong tập Cung
thánh những năm 1944- 1945.
Bám sát hơi dân ca, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát cũng cho ra đời một số bài có
tính chất đồng dao: con cò, con voi…song nhìn chung, càng ngày gần tới ngày
tổng khởi nghĩa 1945 những sáng tác mang nội dung yêu nước kích thích tinh thần
dân tộc kêu gọi câm thù, thúc đẩy đấu tranh ngày càng nhiều.
II. GIAI ĐOẠN II: TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
ĐẾN 1975
1. Giai đoạn từ 1945 – 1954: Âm nhạc Việt Nam
thời kì chống Pháp
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời đem
lại niềm phấn khởi cho mọi tầng lớp nhân dân, trong âm nhạc, các nhạc sĩ trẻ
cũng lao vào công cuộc sáng tác những bản nhạc hào hùng phấn chấn.
Dòng âm nhạc Cách Mạng nảy sinh từ những năm 30 và họat động trong vòng bí
mật nay chính thức ra công khai. Từ đây lịch sử ghi dấu sự lớn mạnh không ngừng
của dòng nhạc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây cũng
là lần đầu tiên, sau hơn nửa thế kỉ đụng độ với âm nhạc phương tây, các nghệ sĩ
và nhạc sĩ từ nhiều khuynh hướng khác nhau đã qui từ về một mối. Nhưng từ tháng
12- 1946, Pháp quay lại xâm lược nước ta, âm nhạc Việt Nam lại bước vào giai
đoạn phân hóa mới.
Tại các vùng bị tạm chiếm, âm nhạc bị kéo về tình trạng những ngày đầu
trước cách mạng, những đề tài lãng mạn, đồi trụy – phản động được sống lại.
Ở các vùng kháng chiến, nội dung đề cương văn hóa 1943 của Đảng ngày càng
được phổ biến sâu trong giới văn nghệ sĩ. Những cuộc đấu tranh nội bộ gay gắt
chống tư tưởng tự ti, miệt thị và những cách nhìn lệch lạc với nghệ thuật cổ
truyền góp phần tẩy rửa nọc độc còn rớt lại của văn hóa thực dân.
Từ khoảng năm 1950 – 1951 trở đi, âm nhạc Việt Nam bước vào giai đoạn
chuyển mình. Thời kì hồi sinh của âm nhạc cổ truyền và thời kì lột xác của bộ
phận “âm nhạc cải cách” theo Cách Mạng chính thức được mở ra.
Chính trong cuộc kháng chiến này, nhờ bám sát cuộc sống chiến đấu và tắm mình trong nguồn nhạc dân gian tươi mát mà xưa kia bứt xa, phương hướng và phương pháp sáng tác của các nhạc sĩ kháng chiến thay đổi hẳn. Từ 1950, đặc biệt là càng về cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, âm nhạc Cách Mạng càng đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Chính trong cuộc kháng chiến này, nhờ bám sát cuộc sống chiến đấu và tắm mình trong nguồn nhạc dân gian tươi mát mà xưa kia bứt xa, phương hướng và phương pháp sáng tác của các nhạc sĩ kháng chiến thay đổi hẳn. Từ 1950, đặc biệt là càng về cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, âm nhạc Cách Mạng càng đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Trong lĩnh vực ca khúc, không chỉ ở nội dung mà trong ngôn ngữ nghệ thuật.
Những âm điệu lai căn một cách cố ý không có chỗ đứng trong âm nhạc kháng
chiến. Số bài còn chịu âm hưởng phương tây rút đi trông thấy nhường chổ cho
những ca khúc giàu sắc thái dân tộc. Âm hưởng của âm nhạc dân tộc trong ca khúc
kháng chiến đậm đà rõ nét.
Ngoài những thành công của Văn Cao (sông Lô), Lê Yên (bộ đội về làng),… là
những điển hình đầu tiên về sự đổi mới khả năng biểu hiện của âm điệu dân tộc
với chất hành khúc chiến đấu. Đó cũng là những điển hình đầu tiên về sự Việt
hóa thể hành khúc phương Tây và sự kết hợp khá thành công hình thức ca khúc mới
với âm điệu dân tộc để tạo ra ngôn ngữ và nhịp sống thời đại trong âm nhạc Việt
Nam.
Chín năm kháng chiến thắng lợi đồng thời cũng đánh dấu sự thắng lợi của Mặt
trận văn hóa và âm nhạc Việt Nam chống sự tấn công văn hóa của thực dân Pháp và
ảnh hưởng di hại của nó.
1954 chấm dứt giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Hòa bình được lập lại nhưng
đất nước còn tạm chia cắt hai miền. Những cặn bã của văn hóa thực dân ở các
vùng pháp chiếm cũ bị dồn xuống phía Nam. Quá trình phân hóa (bắt đầu từ 1946)
để hình thành hai dòng nhạc Cách Mạng và phản cách mạng lúc này chuyển vào cao
điểm, của sự đối kháng.
Cùng với sự đối lập về chế độ xã hội, sự phát triển của hai dòng nhạc chính
thống ở mỗi miền càng đi sâu vào sự đối lập về nội dung tư tưởng cũng như về
hình thức và thể loại.
Ở miền Bắc, âm nhạc không ngừng bước tiến lên quy mô hiện đại và phát triển
một cách nhịp nhàng, cân đối, toàn diện hơn bất kì thời kì nào trong lịch sử âm
nhạc nước nhà cho tới lúc đó Âm nhạc miền Bắc ngày càng đi vào chuyên nghiệp và
chuyên môn hóa. Các khâu đào tạo, sưu tầm, nghiên cứu được chú trọng, đi vào tổ
chức chính qui chặt chẽ, hổ trợ cho sáng tác, biểu hiện vươn lên những thành
tựu rữc rỡ. Hàng ngàn bài ca nhạc cổ của các sắc tộc trên đất nước ta được ghi
vào các băng từ tính. Hàng trăm bài được xuất bản dưới nhiều hình thức khác
nhau. Nhiều công trình chuyên khảo về âm nhạc dân gian và sân khấu cổ truyền ra
đời.
Việc phổ cập âm nhạc truyền thống trong nhân dân, đặc biệt trong các thế hệ trẻ, nhờ đó được đẩy mạnh, nâng cao thêm lòng yêu mến, quý trọng vốn cổ và việc kế thừa trong các sáng tác mới. Các lớp huấn luyện ngắn hạn trong thời kì kháng chiến được thay thế bằng các trường nghệ thuật với chương trình giảng dạy dài hạn toàn diện có hệ thống.
Việc phổ cập âm nhạc truyền thống trong nhân dân, đặc biệt trong các thế hệ trẻ, nhờ đó được đẩy mạnh, nâng cao thêm lòng yêu mến, quý trọng vốn cổ và việc kế thừa trong các sáng tác mới. Các lớp huấn luyện ngắn hạn trong thời kì kháng chiến được thay thế bằng các trường nghệ thuật với chương trình giảng dạy dài hạn toàn diện có hệ thống.
Trường âm nhạc Việt Nam (nay là nhạc viện Hà Nội) thành lập 1956, trường
nghệ thuật sân khấu (1959) thường xuyên đào tạo diễn viên đủ ngành nghề, đặc
biệt là đội ngũ sáng tác âm nhạc căn bản, vững tay nghề, có khả năng viết ca
khúc và tác phẩm thanh khí nhạc đủ loại. Truyền thống tiếp thu tinh hoa âm nhạc
nước ngoài được phát huy.
Trong thế kỷ này, nhân dân Việt Nam chủ động vươn tới những chân trời xa
xôi ngoài biên giới, đón nhận tinh hoa âm nhạc bốn phương. Những học sinh, sinh
viên âm nhạc gửi sang các nước bạn kế tục nhau ra đi và trở về với những kiến
thức mới, kinh nghiệm hay, góp phần cùng lực lượng đang được đào tạo trong nước
hoàn thiện dần nền âm nhạc mới của nước nhà. Ca khúc tiếp tục được mùa, ngày
càng nhuần nhị hơn với các chất liệu âm nhạc dân tộc, già dận hơn trong việc
khai thác các đề tài của cuộc sống mới. Nhiều nhạc sĩ dần hình thành phong cách
riêng.
2. Giai đoạn 1954 – 1975: Âm nhạc Việt Nam thời kì chống Mỹ cứu nước
Hai mươi mốt năm từ 1954 – 1975 đánh dấu sự phát triển với một tốc độ chưa
từng thấy của âm nhạc cách mạng Việt Nam trong lịch sử âm nhạc nước nhà cho tới
bây giờ.
Trong lúc đó, âm nhạc miền Nam chậm chạp bước theo một hướng khác. Tình
hình âm nhạc ở đây hoàn toàn không thuần nhất.
Tân nhạc đi vào con đường nhạc nhẹ hóa với những tác phẩm lai căn.Theo sự
phát triển của phong trào và phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên miền
Nam, âm nhạc Cách Mạng và yêu nước cũng dần lớn lên.
Năm 1975, chiến dịch hồ chí minh thắng lợi, nhanh như trận gió cuốn. Cách mạng Việt Nam toàn thắng. Các thế lực phản động bị đập tan. Dòng nhạc phản Cách Mạng cùng chung một số phận. Trên đất nước hòa bình thống nhất lại xuất hiện điển quy tụ mới trong nền âm nhạc Việt Nam. Tất cả những truyền thống âm nhạc tốt đẹp của dân tộc lại được khơi dậy mạnh mẽ trên toàn đất nước.
Năm 1975, chiến dịch hồ chí minh thắng lợi, nhanh như trận gió cuốn. Cách mạng Việt Nam toàn thắng. Các thế lực phản động bị đập tan. Dòng nhạc phản Cách Mạng cùng chung một số phận. Trên đất nước hòa bình thống nhất lại xuất hiện điển quy tụ mới trong nền âm nhạc Việt Nam. Tất cả những truyền thống âm nhạc tốt đẹp của dân tộc lại được khơi dậy mạnh mẽ trên toàn đất nước.
Tiếng trống đồng hùng vĩ cùng tiếng đàn đá cổ xưa lại ngân vang trang trọng
trên sân khấu thủ đô và một số địa phương mừng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam tròn 35 tuổi. Sự nghiệp xây dựng và phát triển âm nhạc dân tộc, bao
gồm hai bộ phận cân đối: nhạc cổ truyền và nhạc Mới, tiếp tục vươn tới đạt
những thành tựu mới.
Những tinh hoa âm nhạc cổ truyền dân tộc đựơc giới thiệu với đồng bào trong
nước và nhân dân thế giới. Các công tác đào tạo, nghiên cứu lý luận và sáng tác
âm nhạc đều có những bước phát triển mới đáng mừng. Nhiều nghệ sĩ ưu tú tham dự
các cuộc thi âm nhạc quốc tế đã đem vinh quang về cho đất nước. Một trong những
thành công rực rỡ nhất là thành tích vang dội của nghệ sĩ nhân dân Đặng Thái
Sơn trong cuộc thi Piano quốc tế tại Ba Lan, làm chấn động dư luận âm nhạc thế
giới.
III. GIAI ĐOẠN III: 1975 ĐẾN NAY
Dù khó khăn, dù gian nan, dù sao đi nữa, người dân Việt Nam nên chấp nhận
Việt Nam là quê hương ngàn đời. Niềm hy vọng nhỏ nhoi chỉ lóe lên và chưa được
bừng sáng thì 30 tháng 4, 1975 đã đưa hàng trăm nghìn người ra đi trên đường di
tản. Nhạc trẻ là một hiện tượng âm nhạc xuất hiện tiên khởi vào đầu thập niên
60. Nhạc kích động Âu Mỹ bắt đầu xâm nhập thị trường miền Nam vào cuối năm
1959. Giới trẻ, con của các thương gia và giới trưởng giả theo học chương trình
Pháp thường nghe các loại nhạc kích động của Mỹ và Pháp.
Phải đợi tới khoảng 1963 - 1965, phong trào nghe nhạc kích động Tây phương bành trướng mạnh qua các buổi tổ chức khiêu vũ tại gia. Các danh ca của Mỹ như Paul Anka, Elvis Presley, The Platters, của Anh quốc như Cliff Richard, The Shadows, The Beatles, The Rolling Stones, của Pháp như Johnny Halliday, Sylvie Vartan, Françoise Hardy, Christophe, Dalida, vv…. là thần tượng của giới thanh niên nam nữ dưới 18 tuổi. Những ban nhạc trẻ kích động mạnh nhưng trên như C.B.C., The Dreamers, The Uptight, The Blue Jets, The Spotlights (sau đổi thành Strawberry Four với Tùng Giang, Đức Huy, Tuấn Ngọc và Billy Shane - cả 4 người này hiện nay ở Mỹ và Billy Shane đã qua đời năm 1998).
Phải đợi tới khoảng 1963 - 1965, phong trào nghe nhạc kích động Tây phương bành trướng mạnh qua các buổi tổ chức khiêu vũ tại gia. Các danh ca của Mỹ như Paul Anka, Elvis Presley, The Platters, của Anh quốc như Cliff Richard, The Shadows, The Beatles, The Rolling Stones, của Pháp như Johnny Halliday, Sylvie Vartan, Françoise Hardy, Christophe, Dalida, vv…. là thần tượng của giới thanh niên nam nữ dưới 18 tuổi. Những ban nhạc trẻ kích động mạnh nhưng trên như C.B.C., The Dreamers, The Uptight, The Blue Jets, The Spotlights (sau đổi thành Strawberry Four với Tùng Giang, Đức Huy, Tuấn Ngọc và Billy Shane - cả 4 người này hiện nay ở Mỹ và Billy Shane đã qua đời năm 1998).
Một số ca sĩ Việt thích kèm theo tên ngoại quốc bên cạnh tên Việt như Elvis
Phương (hiện ở Hoa Kỳ), Pauline Ngọc (không còn hát n"a và hiện sống bên
Đức), Prosper Thắng (sống ở Pháp và từ trần năm 1998), Julie Quang (hiện sống ở
Mỹ), Carol Kim ( sống ở Mỹ),vv.. Họ nổi danh với các bản nhạc ngoại quốc hát
bằng lời Pháp và Anh. Những hộp đêm Mỹ ngày càng nhiều từ 1968 trở đi càng
khuyến khích số người hát nhạc Mỹ nhiều hơn nữa. Trước sự bành trướng mạnh mẽ
của nhạc ngoại quốc nổi tiếng, Phạm Duy, Quốc Dũng, Nam Lộc, Tùng Giang, Trường
Hải, vv… chuyển sang đặt lời Việt cho nhạc ngoại quốc.
Phải đợi tới năm 1971 mới thấy xuất hiện đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ
chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ (hiện ở Montreal, Canada), Tùng Giang (ở
California, Hoa Kỳ), và Nam Lộc ( làm việc cho một cơ quan thiện nguyện USCC ở
Los Angeles, Cali) đảm trách. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở
Saigon đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ qua những năm kế tiếp (1971 tại trường
trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, và 1974 , năm chót trước khi mất
Saigon tại vườn sở thú với trên 20.000 khán giả). Những bản nhạc ngoại quốc như
"The House of the Rising Sun", "Reviens la Nuit",
"Tous les Garçons et les Filles", "Capri, c'est fini",
"Bang Bang" , "Besame Mucho", "Only You",
"My Prayer", "Be Bop Be Lu La", "Love Story",
"Yesterday", "Michelle", etc… là những bài vẫn còn được
"ăn khách" trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại hiện nay.
Loại nhạc trẻ không đóng góp gì vào gia tài của nền Tân nhạc Việt Nam hay
chỉ là loại nhạc bắt chước theo người Tây phương, không có gì là sáng tạo cả.
Đó là loại nhạc cuồng loạn, ru hồn thế hệ trẻ trong khung cảnh chiến tranh để
cho họ tạm quên cảnh tương tàn của đất nước qua những bước nhảy tango, twist,
be-bop, valse, pasodoble, rumba, cha cha cha, vv.. Một giai đoạn bị Mỹ hóa,
giữa thời kỳ náo loạn.
Giai đoạn thứ ba của lịch sử Tân nhạc Việt Nam kể từ khi hàng triệu người
Việt bỏ xứ ra đi trên đường tạm dừng sau ngày 30 tháng 4/1975 cho tới trước
ngưỡng cửa của năm 2000.
Nhạc di tản từ 30 tháng 4/1975. 25 năm lặng lẽ trôi qua. 25 năm đầy biến
chuyển trong lịch sử thế giới nói chung và trong lịch sử Việt Nam nói riêng.
Chỉ riêng về ngành âm nhạc Việt Nam, nhất là ở hải ngoại, số lượng bài bản tân
nhạc, những ca khúc đã thay đổi nhiều đề tài, đã tăng số lượng theo một mức độ
ngoài sức tưởng tượng của loài người.
Những năm đầu của thời di tản cho thấy những băng nhựa đủ loại, từ các cuốn
băng sao lại băng cũ thời trước 1975, đến các băng được sản xuất tại Âu Mỹ do
hàng chục trung tâm băng nhạc.Đến năm 1988 mở màn cho giai đoạn dĩa laser loại
compact disc.
Chỉ trong vòng 5 năm (1988-1993) hàng nghìn dĩa laser tràn lan khắp nơi.
Loại dĩa laser video phát triển từ 1992 lúc phong trào hát Karaoke khởi xướng
mạnh tại Hoa Kỳ và Canada. Nhiều quán cà phê và quán phở, tiệm ăn ở Bắc Mỹ phải
trang bị máy karaoke và luôn cả tư nhân cũng thích hát Karaoke vào cuối tuần
trong những cuộc họp bạn tại gia. Gần đây hơn, các loại dĩa CDV, và DVD thay
thế loại laserdisc làm bành trướng mạnh phong trào Karaoke tại tư gia.
Video về tân nhạc cũng rất thịnh hành, hàng mấy chục trung tâm băng nhạc
xuất hiện tại Âu Mỹ và các ca sĩ tự lập các trung tâm sản xuất riêng. Trong
phạm vi nhạc di tản, tôi chỉ đề cập tới tân nhạc Việt Nam ở hải ngoại. Tân nhạc
Việt Nam ở hải ngoại (1975-2000) Giai đoạn di tản qua 25 năm cho thấy sức mạnh
vô cùng mãnh liệt của người Việt trong lĩnh vực sáng tác.
Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người làm văn nghệ lúc nào cũng hăng say
tìm nguồn cảm hứng qua những sáng tác âm nhạc. Một số nhạc sĩ ra đi trong đợt
di tản đầu tiên gồm có Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Nam Lộc, Song Ngọc,
Tô Huyền Vân, Huỳnh Anh. Năm giai đoạn thể hiện lịch sử tiến triển của tân nhạc
hải ngoại:
Nhớ Quê Hương, nhớ Saigon đất nước vừa bị mất, quê hương phải lìa xa.
Saigon vừa bị đổi tên. Niềm thất vọng tràn trề dâng cao trong lòng tất cả người
dân Việt phải bỏ xứ ra đi trong uất hận, căm tức, tủi nhục. Toán người di tản
ra đi đầu tiên đã đến Mỹ vào giữa mùa xuân năm 1975.
Phải đợi tới cuối thu 1975, một số nhạc sĩ có tên tuổi ở Saigon đã ra đi
trong đợt đầu và trong số đó có Nam Lộc. Nam Lộc là người đã viết một bản nhạc
vào cuối năm 1975 và là bài thành công nhất trong giai đoạn đầu của di tản
(1975-1980). Đó là bài "Saigon Ơi ! Vĩnh Biệt ". Saigon , thành phố
của bao kỷ niệm, của nhớ nhung, của hàng triệu con tim bị rung động mỗi khi hai
chữ Saigon được nhắc đến, là đề tài cho một số nhạc phẩm như "Saigon Ơi!
Vĩnh Biệt !" (Nam Lộc , 1975), "Saigon Ơi ! Thôi Đã Hết" (Nam
Lộc , 1976), "Saigon Năm Xưa” (Trần Quang Hải, 1985).
Ngày 9 tháng 5, 1976 tại Los Angeles, California, lễ kỷ niệm một năm xa xứ
đã được một số nghệ sĩ Việt tổ chức một chương trình đại nhạc hội đầu tiên
giống như ở Saigon cùng lúc với sự chào đời cuốn băng thực hiện lần đầu tại hải
ngoại do nữ ca sĩ Thanh Thúy hát với tựa cuốn băng Thanh Thúy 1: Saigon ơi!
Vĩnh biệt đánh dấu một biến chuyển mấu chốt trong lĩnh vực tân nhạc di tản và
sản xuất băng nhạc tại hải ngoại.
Ở Âu châu tại Paris, phải đợi tới tháng 9,1976 mới thấy sự bùng nổ của
chương trình nhạc hội qua sự cố gắng của Lê Lai (đài VOA) từ Hoa Thịnh trốn
sang Paris để tổ chức 4 buổi trình diễn tân nhạc, dân ca và ngâm thơ với Khánh
Ly, Hoàng Oanh và sự cộng tác của nhạc sĩ Trần Quang Hải .Sự thành công của
chương trình thi ca nhạc di tản đầu tiên đã khơi mào cho chương trình thi ca vũ
nhạc kịch của đoàn Hoàng Thi Thơ từ Mỹ sang Pháp và Thụy Sĩ trình diễn vào cuối
tháng 10,1976.
Các trung tâm băng nhạc lần lần xuất hiện ở Mỹ và Pháp. Từ 1988 bắt đầu
chuyển mình sang phong trào làm dĩa laser. Cả chục nghìn dĩa CD đã được tung ra
trên thị trường băng nhạc Việt Nam từ 1987. Nhạc sĩ Phạm Duy là người đầu tiên
đưa nhạc Việt vào dĩa CD do Phạm Duy Cường soạn hòa âm và sản xuất với tựa đề
"Nhạc Tình Phạm Duy" vào cuối năm 1987. Vào đầu tháng 2, 1988, tại
Paris, nhà sản xuất dĩa hát Pháp Playasound đã tung ra thị trường quốc tế dĩa
laser đầu tiên về nhạc cổ truyền Việt Nam với Trần Quang Hải và Bạch Yến qua
dĩa "Rêves et Réalités/Trần Quang Hải et Bạch Yến" (Giấc Mơ và Sự
Thật).
Băng video trở thành một món ăn tinh thần cần thiết cho cộng đồng người
Việt hải ngoại. Trung tâm Thúy Nga trở nên một nơi phát hành các chương trình
ca nhạc hay nhất từ 1989 trở đi với sự tuyển chọn ca sĩ, phối hợp với kỹ thuật
thu hình do một cơ quan chuyên nghiệp Pháp đảm nhận. Phong trào Karaoke lan
tràn vào giới nhạc Việt từ 1990.
Nhạc tranh đấu và kháng chiến
Sau ba năm im hơi 1975-1978, sống ẩn dật tại Miami (Florida) bên Mỹ trong
khi chờ đợi các con (ban nhạc The Dreamers) còn kẹt lại ở Saigon (sau đó toàn
ban nhạc The Dreamers đã được sang Mỹ và hiện định cư tại Midway City,
California), trong khi ca sĩ Duy Quang đã nhờ Julie Quang (bây giờ chỉ mang tên
Julie thôi sau khi chia tay với Duy Quang) để sang Pháp vào cuối năm 1978, Phạm
Duy, người sáng tác nhạc nhiều nhất ở Việt Nam, lại xuất hiện lộ diện qua quyển
nhạc "Hát Trên Đường Tạm Dung" (1978). Bản " Đường Tạm
Dung" và bản "Nguyên Vẹn Hình Hài" của Phạm Duy đã là ngọn đuốc
đốt cháy tạo nguồn hứng sáng tác cho một số nhạc sĩ trẻ để tung ra những nhạc
phẩm tả nỗi uất ức oán hờn căm thù đi liền với phong trào phục quốc kháng chiến
cùng lúc với sự xuất hiện của Võ Đại Tôn và Hoàng Cơ Minh.
Nguyệt Ánh , một hiện tượng mới trong làng tân nhạc từ 1980 bắt đầu sáng
tác nhiều nhạc phẩm phục quốc qua những cuốn băng như "Em nhớ màu
cờ", "Dưới Cờ Phục Quốc", … Tên Nguyệt Ánh đi liền với giai đoạn
phục quốc, kháng chiến. Việt Dzũng, một nhạc sĩ trẻ, hăng say kháng chiến, nói
lên tiếng nói căm hờn qua các bản nhạc đầy ý chí trong hai cuốn băng "Lưu
Vong Khúc" và "Kinh Tỵ Nạn" (1981). Trần Quang Hải và Bạch Yến
đã sáng tác một số nhạc phẩm đấu tranh , điển hình nhất là "Thương Nhớ Quê
Hương" (1978), "Cầu Mong Cho Mau Hòa Bình" (1978), và "Em
Về Gi" “ Lửa" ( phổ thơ của Minh Đức Hoài Trinh, 1978) Chí nguyện
đoàn hải ngoại phục quốc Việt Nam, với mục đích yểm trợ "chiến dịch người
về" đã xuất bản hai cuốn băng "Hát Cho Những Người Về " (1981),
và "Rực Lửa Trời Đông" (1983) gồm những ca khúc nung nấu tinh thần
kháng chiến ở hải ngoại và quốc nội. Nhiều chủ đề được tung ra qua một số băng
nhạc sản xuất từ 1976 - 1980 như "Tháng Tư Buồn", "Sài Gòn Vĩnh
Biệt Tình Ta", "Ngày Quốc Hận 30 tháng 4/1975", "Người Di
Tản Buồn", "Hát Cho Người Tìm Tự Do", "Quê Hương Bỏ
Lại", vv…
Nhạc tả lại cảnh lao tù Việt Nam Năm 1981, Phạm Duy sáng tác 20 bài lấy tựa
là "Ngục Ca" qua lời thơ của ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện trong tập thơ
"Tiếng Vọng Từ Đáy Vực" . Hà Thúc Sinh sáng tác trong thời gian học
tập cải tạo ở Việt Nam . Sau khi vượt biển , được định cư tại Mỹ, đã xuất bản
tập nhạc "Tiếng Hát Tủi Nhục" (1982). Châu Đình An, một nhạc sĩ trẻ ,
đã đóng góp qua tập nhạc "Những Lời Ca Thép " (1982). Phạm Duy, Lê
Uyên Phương, Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, Nguyễn Đức Quang ở Mỹ, Nguyễn Hữu Nghĩa,
Phan Ni Tấn, Vy Hùng ở Canada, Trần Quang Hải, Duyên Anh, Ngô Càn Chiếu ở Pháp,
Nguyễn Quyết Thắng ở Hòa Lan, Nguyễn Đình Ngoạn ở Đức, Phạm Quang Ngọc, Cung
đàn Nguyễn Sỹ Nam, Hoàng Ngọc Tuấn ở Úc châu đã viết nhiều bài ca tranh đấu
cũng như những ca khúc phù hợp với phong trào phục quốc.
Sự phục sinh của nhạc tiền chiến từ năm 1982 trở đi, hiện tượng phục sinh nhạc tiền chiến được phát triển rộng rãi. Những ca sĩ đua nhau sản xuất băng nhạc hát lại những bài hát tiền chiến hay những bài trước 1975. Bạch Yến, Khánh Ly, Lệ Thu, Thanh Thúy, Kim Anh, Minh Hiếu, Thanh Tuyền, Hương Lan, Julie, Huyền Châu, Bích Thuận, Phương Dung, Kim Loan, Duy Quang, Elvis Phương, Thanh Mai, vv….
Sự phục sinh của nhạc tiền chiến từ năm 1982 trở đi, hiện tượng phục sinh nhạc tiền chiến được phát triển rộng rãi. Những ca sĩ đua nhau sản xuất băng nhạc hát lại những bài hát tiền chiến hay những bài trước 1975. Bạch Yến, Khánh Ly, Lệ Thu, Thanh Thúy, Kim Anh, Minh Hiếu, Thanh Tuyền, Hương Lan, Julie, Huyền Châu, Bích Thuận, Phương Dung, Kim Loan, Duy Quang, Elvis Phương, Thanh Mai, vv….
Trong những năm 1983 - 1985 đã phát hành trên 100 cuốn băng nhạc làm sống
lại những bài ca tiền chiến như để gợi lại biết bao kỷ niệm của thời quá khứ.
Chủ đề phục quốc, kháng chiến nhường bước cho chủ đề tình yêu và kỷ niệm quê
hương sau 10 năm lưu vong.
Một số nhạc sĩ như Lam Phương, Đức Huy, Phan Kiên, Duy Quang, Ngô Minh
Khánh, Trần Quang Hải, Duyên Anh trong khoảng thời gian 1982-85 đã sáng tác rất
nhiều nhạc phẩm ca ngợi tình yêu đôi lứa. "Yêu Em Dài Lâu" (Đức Huy),
"Ru Đời Phù Ảo" (Duyên Anh, 1984), "Anh Cần Em" (Trần Quang
Hải - Lương Ngọc Châu, 1982).
Giai đoạn này đánh dấu một chiều hướng mới trong làng nhạc Việt với sự viết lời ngoại quốc (Pháp và Anh) trên nhạc Việt do nhạc sĩ Trần Quang Hải đề xướng và mang nhạc Việt do nhạc sĩ Việt sáng tác vào thị trường quốc tế.
Hưng ca, nhạc trẻ song ngữ ,phong trào phổ thơ được bành trướng, cũng như sự tái sinh phong trào du ca với Nguyễn & ETH; Ức Quang, Nguyễn Hữu Nghĩa và Phan Ni Tấn. Phong trào Hưng Ca được thành hình vào năm 1985 với tôn chỉ là dùng văn nghệ sân khấu và thanh niên để giữ vững những niềm tin cách mạng dân tộc chống chủ nghĩa và bạo quyền cộng sản. Hai tập nhạc được phát hành: "Hưng Ca 1: Lên Đường "(1985), và "Hưng Ca 2: Hẹn Em Sài Gòn" (1986).
Giai đoạn này đánh dấu một chiều hướng mới trong làng nhạc Việt với sự viết lời ngoại quốc (Pháp và Anh) trên nhạc Việt do nhạc sĩ Trần Quang Hải đề xướng và mang nhạc Việt do nhạc sĩ Việt sáng tác vào thị trường quốc tế.
Hưng ca, nhạc trẻ song ngữ ,phong trào phổ thơ được bành trướng, cũng như sự tái sinh phong trào du ca với Nguyễn & ETH; Ức Quang, Nguyễn Hữu Nghĩa và Phan Ni Tấn. Phong trào Hưng Ca được thành hình vào năm 1985 với tôn chỉ là dùng văn nghệ sân khấu và thanh niên để giữ vững những niềm tin cách mạng dân tộc chống chủ nghĩa và bạo quyền cộng sản. Hai tập nhạc được phát hành: "Hưng Ca 1: Lên Đường "(1985), và "Hưng Ca 2: Hẹn Em Sài Gòn" (1986).
Vấn đề thích nhạc ngoại quốc đã có từ thập niên 60 tại Việt Nam. Mười mấy
năm trôi qua ở hải ngoại, giờ đây phong trào thích nhạc ngoại quốc (giống loại
nhạc trẻ thời thập niên 70 ở Saigon) lại bành trướng mạnh và được giới trẻ lớn
lên ở hải ngoại hưởng ứng nồng nhiệt.
Từ chỗ ưa thích nhạc ngoại quốc đã tạo ra phong trào xuất bản nhạc khiêu vũ
và sự phát hiện nhiều vũ trường ở các nơi có đông người Việt sinh sống. Một số
mầm non ca sĩ trẻ như Linda Trang Đài, Cinda Thúy, Sơn Tuyền, Thúy Vi, Thái
Hiền, Phương Thúy, Lucia Kim Chi, Tryzzie Phương Trinh, Tuệ Châu, Tuấn Anh ở
Mỹ, Ngọc Huệ (sang định cư ở Mỹ từ năm 1991), Bảo Khánh, Quỳnh Lân ở Úc châu
cùng với Công Thành và Lynn (sang định cư ở Hoa kỳ từ năm 1987).
Về sau có Đơn Hồ (nổi tiếng nhất trong năm 1992), Dalena (nữ ca sĩ Mỹ
chuyên hát tiếng Việt, nổi tiếng nhất trong hai năm 1991 và 1992),Trịnh Nam
Sơn, Thái Tài, Ý Nhi, Ý Lan, Sher'e Thu Thủy, Phi Khanh, Như Mai, Kenny, Mỹ
Huyền, Ngọc Bích, Thanh Hà, Quỳnh Như, Mạnh & ETH, Phi Nhung, Thanh Trúc,
vv… mang lại cho nền nhạc trẻ một luồng gió mới và tạo nhiều sống động. Từ chỗ
ưa thích nhạc ngoại quốc đi tới nhạc song ngữ rất gần.
Một số nhạc sĩ Việt như Phạm Duy, gần đây hơn có Khúc Lan, Ngọc Huệ, tất cả đều ở Mỹ và dịch lời ca Mỹ và Pháp ra bằng tiếng Việt và các ca sĩ trẻ hát nửa Việt nửa Anh hay Pháp và tạo thành một phong trào nhạc song ngữ từ năm 1987 trở đi.
Một số nhạc sĩ Việt như Phạm Duy, gần đây hơn có Khúc Lan, Ngọc Huệ, tất cả đều ở Mỹ và dịch lời ca Mỹ và Pháp ra bằng tiếng Việt và các ca sĩ trẻ hát nửa Việt nửa Anh hay Pháp và tạo thành một phong trào nhạc song ngữ từ năm 1987 trở đi.
Trong thời gian 10 năm chót của thế kỷ XX, Phạm Duy đã phổ nhạc thơ Hoàng
Cầm, phát hành quyển "Ngàn Lời Ca" (1987). Năm 1991, Phạm Duy thực
hiện một loạt ca khúc "Bầy Chim Lìa Xứ", và phần giao hưởng cho
"Con & ETH”.
Sau cùng ông soạn nhạc phổ thơ "Truyện Kiều" và sẽ hoàn thành
trong một thời gian gần đây. Trong vài năm chót đây (từ 1988), một số ca sĩ tân
nhạc sống dưới chế độ Cộng Sản đã thoát ra hải ngoại và xin tỵ nạn như Họa Mi (
Pháp, 1988), Ái Vân (Đức, 1990, và sau đó định cư tại Hoa Kỳ), Anh Khoa (Hưng
Gia Lợi, 1988), Thái Châu (Gia Nã Đại, 1990), Bích Liên (Đức, 1992), Duy Khánh
(Hoa Kỳ, 1991), Duy Trác (Hoa Kỳ, 1992), Nhật Trường (Hoa Kỳ, 1993) đã mang lại
cho nhạc Việt ở hải ngoại một luồng gió mới , nhất là trong ngành phát hành
băng nhạc và băng video. Một số nữ nhạc sĩ nổi danh ở hải ngoại qua nhiều sáng
tác như Nguyệt Ánh, Khúc Lan, Linh Phương, Lê Tín Hương…
Nhạc sĩ Vô Thường tạo một chỗ đứng riêng biệt với tiếng đàn Tây ban cầm tay
trái qua hàng trăm CD tự xuất bản tại Hoa Kỳ . Các nhạc sĩ nghiệp dư như bác sĩ
Phạm Anh Dũng (Hoa Kỳ), bác sĩ Nguyên Bích (Hoa Kỳ) có viết nhạc , cũng như
nhạc sĩ Võ Tá Hân đã phổ nhạc cho gần 200 bài thơ và thực hiện 18 CD với toàn
nhạc của anh.
Nhạc thiền đạo được phát triển từ năm 1996 với hai hiện tượng đáng kể:
thiền sư Lương Sĩ Hằng và Vô Thượng Sư Thanh Hải và một số nhạc phổ thơ của hai
vị này.
Nhạc tại Việt Nam sau 1975 Trong xứ Việt Nam có hai chiều hướng về nhạc:
nhạc nhẹ chú trọng về giải trí, hay nói một cách khác là tân nhạc, và nhạc nặng
tức là loại nhạc giao hưởng, nhạc trình diễn trong khung cảnh của viện quốc gia
âm nhạc. Loại nhạc nhẹ dính liền với nhạc thời trang, nhạc trẻ khơi nguồn từ
các nguồn nhạc dân gian, nhạc ngoại quốc kích động. Nó được phát hiện theo hai
khuynh hướng:
Khuynh hướng dùng ngôn ngữ âm nhạc cổ điển Âu châu do nhạc sĩ Thanh Tùng đề
xướng qua đề tài tình yêu. Có rất nhiều nhạc sĩ trẻ đi theo khuynh hướng này
với những tìm tòi và sáng tạo khác nhau như Nguyễn Đình Bảng, Từ Huy, Phú
Quang, Duy Thái, Nguyễn Ngọc Thiện, Dương Thụ.
Khuynh hướng thứ nhì chuyên về âm nhạc dân tộc cổ truyền . Ban nhạc nhẹ của
nhà hát Tuổi Trẻ do Đỗ Hồng Quân phụ trách đã đưa các nhạc khí dân tộc, cũng
như cách phối âm phối khí, trình diễn, sáng tác theo chiều hướng nhạc dân gian.
Các nhạc sĩ Nguyễn Cường, Trần Tiến, Phó Đức Phương, Trương Ngọc Ninh sáng tác
theo chiều hướng này.
Nhóm "Những Người Bạn " gồm 8 nhạc sĩ: Trịnh Công Sơn, Trần Long
Ẩn, Tôn Thất Lập, Từ Huy,
Nguyễn Ngọc Thiện, Thanh Tùng, Nguyễn Văn Hiên và Vũ Hoàng được chào đời
tại Sài Gòn vào ngày 8 tháng 3, 1992 sau khi Trịnh Công Sơn sang Pháp gặp nhóm
nghệ sĩ phố (artists on the road/ artistes de rue).
Tên "Những người bạn " do Trịnh Công Sơn đề nghị với mục đích là
sáng tác và trình bày sáng tác mới cho bạn và công chúng nghe. Mỗi tháng, nhóm
đều có họp và mỗi người phải giới thiệu ít nhất là một sáng tác mới của mình và
nghe lời phê bình của anh em. Nhóm "Những người bạn " sẵn sàng đi
giới thiệu những tác phẩm mới và làm thành băng nhạc, video với sự phụ giúp
những ca sĩ nổi tiếng như Lệ Thu (sang định cư tại Pháp), Lê Tuấn, Ngọc Sơn,
Thế Sơn, Thu Hà, Yến Linh.
Trong buổi đầu tiên của nhóm này. Trịnh Công Sơn đã trình bày nhạc phẩm mới
nhất tên là "Con Mắt Còn Lại" (ý thơ Bùi Gián - Thanh Tùng viết một
ca khúc "Lối Cũ Ta Về " trong hoài niệm về người vợ đã mất. Trần Long
Ẩn viết tặng mẹ. Hiện tượng này xảy ra vì các ca khúc mới sau 1975 không còn
người nghe. Dân chúng ưa nhạc "sến", nhạc "vàng" hay nhạc
trước 1975.
Các ca khúc trữ tình trước 1975 xua đuổi các loại nhạc đấu tranh ca tụng
Bác và Đảng, và luôn cả nhạc mới sau 1975. Từ năm 1990 trở đi, phong trào tổ
chức hát vinh danh các nhạc sĩ lão thành như Nguyễn Văn Thương, Lê Thương,
Hoàng Giác, Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, Đoàn Chuẩn, Trần Hoàn, Tô
Vũ, Nguyễn Văn Tý hay các nhạc sĩ trẻ hơn như Trịnh Công Sơn được tổ chức tại
Hà Nội và Saigon và những ca khúc tiền chiến được hát trở lại. Nhạc sĩ Phạm
Tuyên đã chuyển hướng sáng tác qua nhạc trẻ em (nhạc đồng dao) được nhiều thành
C & OCIR.
Hiện nay xe chúng ta đang thuộc địa phận Tp Hồ Chí Minh là một trong những
thành phố lớn và đông dân nhất cả nước với diện tích hôm nay rộng hơn 2093,7 km2
, dân số 5.037.155 người (01/04/1999). Tp Hồ Chí Minh có năng lực về sản xuất
kinh doanh và đang phát triển khá sầm uất nhất khu vực Đông Nam Á.
Ngược dòng lịch sử vào 1698 Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa
Nguyễn vào Nam Kinh lược đã lập dinh Phiên Trấn đặt cơ sở hành chính đầu tiên
của Sài Gòn nay là Tp Hồ Chí Minh. Nếu không nhìn lại lịch sử , chúng ta thật
khó hình dung nổi vùng đất này hơn 300 năm trước chỉ là bãi sình lầy, hoang vu.
Nơi đây đất lành chim đậu đã có sức cuốn hút khác thường: người từ nhiều miền
đất xa xôi nào đó đã đặt chân đến đây là trụ lại rồi sinh sôi nảy nở. Bằng bàn
tay và khối óc, bằng mồ hôi nước mắt và cả xương máu nữa, họ đã biến vùng đất
hoang sơ thành đồng ruộng phì nhiêu, phố phường đông đúc để rồi trở thành trung
tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ lớn của cả nước như ngày hôm nay và
mãi mãi trong tương lai.
Thưa qúy du khách! Tp Hồ Chí Minh đã phải chịu nhiều tác động của
bao cuộc chiến tranh để đến ngày nay là một trong những thành phố đa văn hóa,
đa dân tộc. Hiện nay Tp Hồ Chí Minh là trung tâm du lịch lớn nhất cả
nước thu hút hằng năm 70% lượng khách quốc tế đến Việt Nam.Thì hôm nay qúy
khách hãy rũ bỏ hết những vất vả lo toan của công việc hằng ngày, tạm biệt Tp
Hồ Chí Minh thân yêu để đến với một thành phố êm đềm hơn tận hưởng những
ngày nghỉ tuyệt vời.
NGÃ TƯ HÀNG XANH.
Thưa qúy du khách! phía trước chúng ta là ngã tư Hàng Xanh. Sở dĩ có
tên gọi là Hàng Xanh theo Sài Gòn xưa của Vương Hồng Sển: trước đây vùng này có
trồng nhiều loại cây Sanh (là loại cây cổ, cùng loại với cây si) được đọc trại
nên có tên gọi là Hành Xanh. Nút giao thông này được xây dựng 17/09/1994,
hoàn thành vào 30/4/1995 (nhân kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng Thành phố Sài
Gòn) do công ty Huy Hoàng thi công với tổng kinh phí xây dựng 15,6 tỷ đồng, nếu
tính luôn tiền đền bù giải tỏa kinh phí lên đến 63 tỷ đồng. Mục đích xây dựng
nút giao thông Hàng Xanh nhàm giải quyết tình trạng kẹt xe thường xuyên trong
thời gian trước. Nút giao thông Hàng Xanh là cửa ngõ quan trọng phía Bắc thành
phố, hiện tại ở nút giao thông Hàng Xanh đến cầu Văn Thánh được mở rộng 2 bên
có 4 làn xe chính và 2 làn xe phụ(tổng cộng 12 làn xe). Từ cầu Điện Biên Phủ
đến chân cầu Sài Gòn sẽ được xây dựng mới với bề mặt cắt ngang là 100m và mở
rộng đường Đinh Tiên Hoàng gấp đôi, với vốn đầu tư là 370 tỷ đồng.
Khu vực Văn Thánh có nhiều tên gọi: cầu Văn Thánh, bến
xe Văn Thánh, khu du lịch Văn Thánh. Tên Văn Thánh có từ 1824
(Minh Mạng 5) ở khu vực này có xây dựng ngôi Văn Miếu thờ đức Khổng Tử nên
người dân gọi là Khu Văn Thánh, trong thời Pháp miếu này bị phá bỏ và hiện nay
không còn nữa. Xe chúng ta đang đi qua cầu Văn Thánh, cầu được bắc qua rạch Văn
Thánh đổ ra rạch Thị Nghè và sau đó đổ ra sông Sài Gòn.
Phía bên tay trái của qúy khách là bến xe Văn Thánh và chợ Văn
Thánh. Bến xe Văn Thánh là một bến xe lớn có từ lâu đời ở khu vực
này, từ đây có thể đi Biên Hòa, Vũng Tàu và một số tỉnh miền Trung. Khoảng cuối
năm 1996 bến xe được dời sang bến xe miền Đông với lý do ở đây xây dựng đường
lớn và đường cao tốc, nếu để bến xe ở khu vực này sẽ gây ách tắc giao thông.
Chợ Văn Thánh được xây dựng khoảng 1993-1995 dự kiến đây là chợ đầu mối(giống
như chợ An Lạc và bến xe miền Tây) cho các loại hàng hóa từ miền Trung và khu Tân Cảng, nhưng chợ khánh thành và
buôn bán không lâu thì bến xe Văn Thánh dời đi làm cho chợ mất khách và mất đi
vị trí chiến lược như dự kiến. Hiện nay chợ rất ế ẩm và nhà nước đang có kế
hoạch bán khu chợ cho doanh nghiệp Đài Loan sự dụng vào việc khác.
Khu du lịch Văn Thánh nằm trên một cù lao 7 ha nên còn gọi là cù
lao 7 mẫu, hiện nay do Công Ty Du Lịch Sài Gòn quản lý. Đây là khu du lịch nhỏ nhưng được nhiều người
biết đến vì 1993-1994 ở đây tổ chức thi tuyển diễn viên điện ảnh. Vào mùng 5
tháng Giêng âm lịch hằng năm ở đây thường tổ chức lễ hội mừng chiến thắng Đống
Đa (05/01/1789 Kỷ Dậu âm lịch).
Khu du lịch Tân Cảng (Quân Cảng) trước đây khu vực này là cảng quân sự quan
trọng của Mỹ-Ngụy. Sau giải phóng đây là khu vực của Hải Quân Việt Nam. 1990
khu vực Tân Cảng được chia thành 2 khu: quân sự và kinh tế cho tàu xuất nhập
hàng hóa và kho để các container. Từ cầu Sài Gòn nhìn xuống chúng ta có thể
thấy rất nhiều container xếp chồng lên nhau trong một khu vực rộng lớn.
CẦU SÀI GÒN.
Và bây giờ xe chúng ta đang đi qua cầu Sài Gòn đây là cửa ngõ quan
trọng nối Tp Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Cầu được xây
dựng 1959-1961 do công ty C.E.C (Capital Engineering Coporation) thiết kế và
thi công. Nếu dựng cầu này lên thì qúy khách sẽ thấy cây cầu này cao bằng chiều
cao của ngọn núi Bà Đen với chiều dài 987,413 m, rộng 24 m, 32 nhịp, Trước
5/2000 thì cầu Sài Gòn là cây cầu dài nhất Nam Bộ nhưng hiện nay nó đã nhường
vị trí hàng đầu đó cho cầu Mỹ Thuận, là một công trình được xây dựng để chào
thiên niên kỷ mới.
Thưa qúy du
khách! Cầu Sài Gòn được bắc qua sông Sài Gòn, sông dài trên 230 km bắt
nguồn từ cao nguyên Hớn Quảng (Lộc Ninh – Bình Phước). Một đoạn sông này là
ranh giới tự nhiên giữa Tây Ninh và Bình Phước, một phần nước
sông này chảy vào khu vực lòng hồ Dầu Tiếng – Tây Ninh. Sau đó chảy qua
khu vực Bến Cát đến Thủ Dầu Một vào Tp Hồ Chí Minh và hợp
với sông Đồng Nai đổ ra cửa Cần Giờ vịnh Gành Rái, đây là con sông có giá trị
kinh tế lớn về giao thông, đặc biệt có nhiều hệ thống cảng quan trọng: cảng Sài
Gòn, cảng Cát Lái – Tân Cảng
QUẬN 2 :
Qua khỏi cầu
Sài Gòn là địa phận của Quận 2 – Tp.HCM với diện tích 5020 ha gồm
An Phú , An Khánh , Thủ Thiêm , Thạnh Mỹ Lợi , Bình Trưng . Trước 01/04/1997
khu vực này thuộc Quận Thủ Đức. Quận 2 gồm khu công nghiệp Cát
Lái và khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ là trung tâm mới của thành phố trong tương
lai gần . Với quy hoạch của thành phố thì Quận sẽ là trung tâm thương mại tài
chánh của thành phố . Dân số hiện tại khoảng 86.027 người , dự kiến năm 2010
tăng 450.000-500.000 người .
Hiện có một số công trình trọng điểm đã và đang
khởi công xây dựng tại khu vực Quận 2 :
+ Khu nhà ở
và du lịch An Khánh
+ Khu đô thị
mới Bình Trưng , Thạnh Mỹ Lợi
+ Khu liên
hợp TDTT Rạch Chiếc
+ Khu công
nghiệp Cát Lái .
+ Tháp truyền
hình TPHCM cao 450m với vốn đầu tư 150 triệu USD
+ Hầm vượt
sông Sài Gòn tại Thủ Thiêm
+ Đường song
hành với quốc lộ 52 ( Kinh phí dự tính là 310 tỷ )
+ Đường cao
tốc Bà Rịa – Vũng Tàu .
QUẬN THỦ ĐỨC
:
Quận Thủ Đức
có diện tích 47,26Km2 , dân số 163.387 người gồm 12 phường . Thị
trấn Thủ Đức , Linh Đông , Linh Xuân , Linh Trung , Hiệp Bình Chánh , Hiệp Bình
Phước , Tam Phú , và một phần xã Tân Phú , Hiệp Phú , Phước Long . Gồm 8 khu
quy hoạch trọng điểm :
+ KCN Bắc Thủ
Đức ( KCX Linh Trung ) 400 ha .
+ KCN Hiệp
Bình Phước : 70 ha .
+ KCN Tam
Bình : 50 ha
+ KCN Bình
Chiểu : 28 ha
+ Khu du lịch
ven sông Sài Gòn : 200 ha .
+ Khu dân cư
Hiệp Bình Chánh – Linh Đông : 50 – 70 ha
+ Khu dân cư
mới : 16 ha
+ Trường Đại
học Quốc Gia : 800 ha ( 200 ha ở Thủ Đức )
QUẬN 9 :
Quận 9 có
diện tích 113,75km2 , dân số 123.059 người , gồm các xã : Long Bình
, Long Thạnh Mỹ , Tăng Nhơn Phú , Long Phước , Long Trường , Phú Hữu , Phước
Bình và một phần diện tích của các xã Tân Phú , Phước Long , Hiệp Phú , Bình
Trưng
XA LỘ BIÊN
HÒA ( XA LỘ HÀ NỘI )
Con
đường chúng ta đang đi vào những năm trước 1975 mang tên xa lộ Biên Hoà được
xây dựng 1959-1961 do công ty CEC thiết kế và thi công đoạn đường này bắt đầu
từ chân cầu Sài Gòn kéo dài đến ngã tư Tam Hiệp với chiều dài 31km , rộng 21m .
Những năm này Mỹ và chính quyền Sai Gòn sử dụng con đường này như một đường
băng quân sự dã chiến phòng khi sân bay Tân Sơn Nhất bị sự cố , đến 1971 Mỹ cho
rằng xa lộ thuận lợi cho quân cách mạng đỗ bộ tấn công Sài Gòn nên đã cho xây
dựng con lương giữa tim đường . Sau năm 1975 con đường này mang tên quốc lộ 52
nhưng chỉ còn lại 10km bắt đầu từ chân cầu Sài Gòn đến ngã ba Đại Hàn ( hay còn
gọi là ngã ba trạm 2 ) đoạn còn lại là Quốc lộ 1 . 1984 nhân kỷ niệm 30 năm
giải phóng Hà Nội đã đổi tên thành xa lộ Hà Nội , bắt đầu từ chân cầu Sài Gòn
đến ngã tư Thủ Đức , đoạn còn lại là quốc lộ 1 . Ngày nay , hai bên xa lộ đã
mọc nhiều khu vực dân cư sầm uất , khu vui chơi giải trí thể thao , làng đại
học và đặc biệt là các khu công nghiệp hiện đại . Đây là con đường được duy tu
, bảo dưỡng tốt nhất suốt chiều dài quốc lộ .
CẦU
RẠCH CHIẾC
Xe chúng ta
sắp đi qua cầu Rạch Chiếc , cây cầu này được xây dựng cùng thời với cầu Sài Gòn
và xa lộ Biên Hoà ( 1959-1961 ) . Đây là cây cầu nhỏ với chiều dài 148m , rộng
8,5m nhưng là nhân chứng cho một sự kiện lịch sử quan trọng góp phần là rạng rỡ
cho chiến dịch HCM vào 27/04/1975 tại chân cầu này đã xảy ra liên tục năm trận
đánh giữa quân giải phóng và quân lính Sài Gòn bảo vệ cầu ( vì đây là điểm yếu
nhất trên xa lộ ) . Cuối cùng quân giải phóng đã chiếm được cầu Rạch Chiếc dành
lại đường giao thông quan trọng cho quân giải phóng tiến vào Sài Gòn , bên cạnh
chiến công đó thì 59 chiến sĩ Cách mạng của ta đã hy sinh tại đây . Hiện nay ,
nhà nước đang có kế hoạch xây dựng đài tưởng niệm 59 chiến sĩ đã hy sinh
27/04/1975 .
NHÀ
MÁY XI MĂNG HÀ TIÊN
Qua khỏi cầu Rạch
Chiếc , phía tay phải của quý khách là quận 9 , phía tay trái là quận Thủ
Đức . Nhìn về phía tay trái quý khách thấy một nhà máy đó là nhà máy xi măng Hà
Tiên thuộc địa phận quận Thủ Đức được xây dựng 1959-1963 với công suất ban đầu
là 79.000 tấn / năm , hiện nay nhờ trang thiết bị hiện đại công suất đã lên đến
1,2 triệu tấn / năm . Sau 1975 nhà nước quản lý , hiện nay nhà máy cung cấp một lượng lớn xi
măng cho khu vực miền Nam và là một trong những cánh chim đầu đàn của ngành xi
măng Việt Nam . Nguyên liệu chính lấy từ nhà máy xi măng Kiên Lương , sau đó
chuyên chở bằng sà lan tới thành phố sản xuất ra xi măng thành phố cung cấp cho
thị trường thành phố và Đông Nam Á .
NHÀ
MÁY NHIỆT ĐIỆN THỦ ĐỨC
Nhà máy nhiệt
điện Thủ Đức được xây dựng vào năm 1964 với công suất hiện nay là 242MW ( do nhận thêm 2 turbin khí từ Hải Phòng với
công suất 77 MW )
NGÃ
TƯ THỦ ĐỨC
Chúng ta đang
đến một ngã tư đó là Ngã tư Thủ Đức , nếu rẽ trái là đi vào chợ Thủ Đức , Sài Gòn WaterPark ….., còn rẽ tay phải là
đi vào bệnh viện quân đội 7A , trường Công An Phước Sơn ,Học việc chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh – Phân viện TPHCM , Đại học Giao thông vận tải .
NHÀ
MÁY NƯỚC THỦ ĐỨC
Nhìn bên tay
trái quý khách có thể nhìn hai cột cao đó là nhà máy nước Thủ Đức được xây dựng
1959 với công suất hiện nay là 670.000m3 / ngày . Nhà máy có 8 bể
lọc lấy nước từ sông Đồng Nai tại khu vực Hoá An cung cấp nước cho toàn thành
phố . Và hai cột này là hai cột thuỷ áp nhằm điều hoà áp lực trong các đường
ống nước như vào ban đêm tất cả các ống nước được khoá thì áp lực thì áp lực
trong các đường ống rất lớn . Hai cột này có nhiệm vụ làm giảm áp suất , tránh
tình trạng bị vỡ ống nước . Hiện nay chúng ta đang vay vốn tại ngân hàng phát
triển Châu Á (ADB) khoảng 65 triệu USD để thay đổi toàn bộ các ống dẫn nước
chính từ 1,8m lên 2,4m và mở rộng nhà máy nước đưa công suất cung cấp nước của
nhà máy lên 1 triệu m3 /ngày .
CÔNG
TY NƯỚC GIẢI KHÁT COCA-COLA
Kế bên nhà
máy nước Thủ Đức là công ty nước giải khát Coca-Cola với khả năng sản xuất
3.500két / ngày và công suất tối đa 40 triệu lít / năm . Hiện nay công ty này
là doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài , chiếm lĩnh thị trường nước ngọt ở
TPHCM và cả nước . Nhà máy trước đây là công ty liên doanh giữa Công ty nước
giải khát Chương Dương và Công ty Indochina chi nhánh PBC ( Pacific Beverages Company ) đặt tại Singapore , chính thức ký
hợp đồng vào tháng 07/1993 với tổng đầu tư là 4 triệu USD . Nhà máy PBC nằm
trên một lô đất khoảng hai ha tại Thủ Đức và có ba dây chuyền sản xuất : 1 vô
chai thuỷ tinh , 1 vô lon , 1 vô chai nhựa PET . Ngoài ra , công ty là một
trong những đơn vị tài trợ cho nhiều loại hình hoạt động ở TPHCM và cả nước
nhất là về TDTT .
NGÃ BA TRẠM
HAI ( XA LỘ ĐẠI HÀN )
Trước mặt quý
du khách là ngã ba trạm 2 , con đường rẽ trái là xa lộ Đại Hàn ( hay còn gọi là
xa lộ vành đai ) đây là con đường được xây dựng 1963 do chính quyền Sai Gòn làm
để giảm bớt lưu lượng xe chở hàng từ các tỉnh miền Trung về miền Tây và ngược
lại , không phải đi xuyên qua TPHCM . Con đường này với tổng chiều dài 40km từ
ngã ba trạm 2 đến An Lạc – Bình Chánh , được Mỹ thiết kế và công binh Đại Hàn
thi công nên mới gọi là xa lộ Đại Hàn . Sau 1968 Mỹ sợ hãi và lập tức cho xây
dựng con đường này như một vành đai bảo vệ ngăn cách giữa Sài Gòn , Tân Sơn
Nhất với cái nôi Cách mạng Củ Chi nên hiện nay trên bản đồ con đường mang tên
là đường Trường Sơn . Trong tương lai , dự án xây dựng con đường xuyên Á
Bangkok – PhnômPênh – Mộc Bài – Quốc lộ 22 – Xa lộ Đại Hàn – Quốc lộ 51 - Vũng
Tàu sẽ được thực hiện
KHU
DU LỊCH SUỐI TIÊN
Đã từ lâu rồi
trên đất nước tươi đẹp của chúng ta từ Bắc vào Nam những địa danh có phong cảnh
hữu tình thơ mộng đều được dân gian lưu truyền với những cái tên mang dáng dấp
huyền thoại . Đà Lạt có suối Tiên , Phú Yên có suối Tiên , Khánh Hoà có suối
Tiên , Bãi Tiên … Nhưng chưa có con suối nào chảy cùng dòng thời gian với những
truyền thuyết huyền thoại thật ly kỳ , hấp dẫn lại được chăm chút , kiến tạo
với quy mô lớn như Suối Tiên TPHCM đang
nằm phía tay phải của quý khách cách TPHCM 19km . Nằm ở cửa ngõ Đông Bắc Sài
Gòn , khu du lịch Suối Tiên nằm trên vùng đất đồi hình chữ S rộng 200.000m2
, chính giữa có dòng suối ngọt
lành với nhiều mạch nước ngầm uốn lượn chảy xuyên qua suốt chiều dài 200m .
Cảnh sắc hoang dã của Suối Tiên xưa dưới bàn tay lao động cần cù , khéo léo với
nghệ thuật sắc sảo , tinh vi của các nghệ nhân , công nhân đã thực sự làm hồi
sinh một vùng đất đã trãi rộng nơi đây một màu xanh mượt mà , tràn đầy sức sống
… Bước vào khu du lịch Suối Tiên quý khách sẽ như lạc vào một chốn :
“Bồng lai tiên cảnh” và đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác .
NGHĨA
TRANG LIỆT SĨ THÀNH PHỐ
Nằm bên tay
phải chúng ta là nghĩa trang liệt sĩ thành phố , đây là nơi yên nghĩ của các
chiến sĩ hy sinh trong hai cuộc trường chinh chống Pháp , chống Mỹ và trên
chiến trường Campuchia . Nằm trên ngọn đồi không tên với diện tích 3ha được xây
dựng từ 1984 đến 04/1987 thì hoàn thành do kiến trúc sư Vũ Đại Hải thiết kế .
Với hình ảnh
người mẹ Việt Nam cao sừng sững ôm trọn 10.000 đứa con thân yêu đã ngã xuống
cho Tổ Quốc . Điêu khắc gia Nguyễn Hải đã gửi tặng cho người dân TPHCM .
CÔNG VIÊN
LỊCH SỬ VĂN HÓA DÂN TỘC
Qua
nhiều ngàn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam có rất nhiều di tích lịch sử và
công trình văn hóa quý báu tiêu biểu cho truyền thống đấu tranh kiên cường của
các thế hệ người VIệt Nam để bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc.
Thế nhưng các di tích lịch sử và công trình văn hóa của đất nước nằm
trải dài từ Bắc đến Nam không phải ai cũng có điều kiện đến được; cho nên việc
xây dựng và thể hiện những cột mốc lịch sử và văn hóa dân tộc ở một địa điểm
tương đối tập trung là rất cần thiết cho việc giáo dục, phát huy truyền thống
dân tộc và tạo điều kiện giao lưu văn hóa trong nước, giới thiệu văn hóa Việt
Nam với nước ngoài.
Dự
án Công viên Lịch sử - Văn hóa Dân tộc tại thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu trên
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quỵết định số 298/TTg ngày 08-5-1997.
Đây là một công viên văn hóa có chọn lọc và sinh động những truyền thuyết ,
những sự kiện lịch sử và công trình văn hóa tiêu biểu của dân tộc; có làng văn
hóa các dân tộc giới thiệu những kiến trúc, lễ hội truyền thống, trò chơi,
phong tục tập quán của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; có khu vui chơi giải
trí, khu bảo tồn thiên nhiên, khu du lịch sinh thái, làng hoa kiểng ... phù hợp
với sự phát triển phong phú , đa dạng về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật
của thành phố Hồ Chí Minh.
Mục đích xây
dựng
Căn cứ Quyết
định số 298/TTg ngày 08/05/1997 của Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu xây dựng Công
viên lịch sử văn hoá dân tộc được xác định :
+ Làm điểm
tựa giáo dục lịch sử truyền thống dân tộc cho nhân dân nhất là cho thế hệ trẻ
( ở trong nước và đồng bào ở nước ngoài về thăm quê hương), góp
phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Tạo điều
kiện giao lưu văn hóa trong nước và giới thiệu văn hoá Việt Nam với nước ngoài,
tăng cường tính phong phú, đa dạng trong đời sống tinh thần của
nhân dân Thành phố.
+ Tạo một cảnh quan thiên nhiên thoáng rộng; góp phần cân bằng sinh thái cho
môi trường của Thành phố; giới thiệu có chọn lọc những sự kiện lịch
và công trình văn hoá tiêu biểu của dân tộc; có làng văn hoá các dân tộc giới
thiệu những kiến trúc, lễ hội truyền thống, phong tục tập quán, trò chới dân
gian trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; có khu vui chơi giải trí, khu bảo
tồn thiên nhiên, khu du lịch sinh thái, làng hoa kiểng ... phù hợp với sự phát
triển phong phú và da dạng của thành phố Hồ Chí Minh.
Địa điểm
Cách trung
tâm Thành phố 27km về hướng Đông Bắc, gần các khu công nghiệp,thương mại, dịch
vụ của vùng tam giác thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai.
Diện tích
Diện tích đất
sử dụng 408 ha , trong đó 381 ha thuộc quận 9, Tp. HCM và 27 ha thuộc huyện Dĩ
An, tỉnh Bình Dương.; được quy hoạch thành 4 khu chức năng.
Khu Cổ Đại
Sơ đồ tổ chức
không gian quy hoạch kiến trúc và cảnh quan Khu Cổ Đại
Diện tích
84,15 ha
Khu Cổ Đại có
diện tích (84,15ha) tái hiện thời cổ đại Thượng cổ - Văn minh sông Hồng, thời
Hùng Vương cho đến Ngô Quyền (938 sau công nguyên) với các nội dung xây dựng
chính:
* Khu tưởng niệm các vua Hùng
* Khu tưởng niệm các vua Hùng
* Khu tái
hiện thời đại Văn hóa Sơn Vi; Hòa Bình; truyền thuyết về người
giao chỉ.
* Khu tái
hiện sinh hoạt Văn hóa Bắc Sơn, Phùng Nguyên.
* Khu tái
hiện văn minh sông Hồng, nước Văn Lang.
* Khu thể
hiện các truyền thuyết: Lạc Long Quân - Âu Cơ, Sơn Tinh Thủy
Tinh, sự tích Trầu Cau,Bánh Dày Bánh Chưng, Thánh Gióng ...
* Khu
tái hiện tình cảnh nhân dân và các cuộc khởi nghĩa từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu,
Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Khúc Hạo đến Ngô Quyền.
Quan trọng
nhất trong khu vực này là Khu tưởng niệm các Vua Hùng với công trình trung tâm
là Đền tưởng niệm các Vua Hùng. Đây là một trong 12 công trình và
chương trình trọng điểm của Tthành phố Hồ Chí Minh đã được triển khai xây dựng
với mục đích là:
* Nơi
tôn nghiêm để tổ chức Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm tại Thành phố Hồ Chí Minh.
* Nơi
thiêng liêng để nhân dân đến tưởng niệm, vọng bái tổ tiên, hướng về cội nguồn.
* Nơi
tổ chức các lễ hội, sinh hoạt văn hóa , khơi dậy tình cảm về nguồn, lòng tự hào
dân tộc.
Khu Trung Đại
Diện tích
29,19 ha
Khu Trung Đại
có diện tích (29,19ha) tái hiện các chiến công và những sự kiện lịch
sử thời Đinh, Lê, Lý, Trần đến thời Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn (Thế kỷ 10 -
thế kỷ 18) với các nội dung xây dựng chính:
- Khu vực tái hiện thời Đinh - Lê -Lý
- Khu vực tái hiện thời Nhà Trần
- Khu vực tái hiện triều đại Hồ Quý Ly
- Khu vực tái hiện thời Lê Lợi -
Nguyễn Trãi
- Khu vực tái hiện thời Mạc - Trịnh -
Nguyễn
Khu vực tái
hiện thời Tây Sơn
Khu Cận -
Hiện Đại
Khu Cận -
Hiện Đại có diện tích 35,92ha tái hiện từ thời nhà Nguyễn đến thời đại Hồ Chí
Minh, với các nội dung xây dựng chính:
- Khu vực tái hiện thời nhà Nguyễn từ năm
1802 - 1858
- Khu vực tái hiện thời Pháp thuộc từ 1858
- 1930
- Khu vực tái hiện thời kỳ đấu tranh giành
độc lập từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
- Khu vực tái hiện cuộc đời và sự nghịêp
của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Khu quảng
trường Độc lập và tượng đài Thống nhất

Sơ đồ tổ chức
không gian quy hoạch kiến trúc và cảnh quan Khu Cận - Hiện Đại
Khu Sinh Hoạt Văn Hóa
Khu sinh hoạt
văn hóa có diện tích (245,74 ha) bao gồm Cù lao Bà Sang với các khu sinh
hoạt
văn hóa, vui
chơi giải trí theo chuyên đề.
1. Bảo tàng
lịch sử tự nhiên thành phố Hồ Chí Minh.
Là một bảo tàng trong hệ thống Bảo
tàng thiên nhiên Việt Nam được Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể tại Quyết
định số 86/2006/QĐ-TTg ngày 20/4/2006 và được triển khai đầu tư xây
dựng tại thành phố Hồ Chí Minh.
2. Làng Văn
hóa các dân tộc Việt Nam và Khu rừng Trường Sơn.
Giới
thiệu các nét văn hóa đặc trưng của 54 dân tộc trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam.
Tổ chức giao lưu văn hóa và sinh hoạt lễ hội của các dân tộc.
Tái hiện rừng Trường Sơn tổ chức các loại sinh hoạt vui chơi giải trí cho thanh thiếu niên nhằm giáo dục lòng yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tổ chức giao lưu văn hóa và sinh hoạt lễ hội của các dân tộc.
Tái hiện rừng Trường Sơn tổ chức các loại sinh hoạt vui chơi giải trí cho thanh thiếu niên nhằm giáo dục lòng yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
3. Công viên
Điện ảnh.
Giới thiệu nền điện ảnh Việt Nam từ ngày mới
thành lập đến nay. Tổ chức trường quay và các dịch vụ về điện ảnh phục vụ các
đoàn làm phim trong và ngoài nước.
4. Khu Làng
hoa - du lịch tắm bùn khoáng.
Giới thiệu chuyên ngành hoa kiểng của
thành phố, trưng bày, giao dịch, mua bán các giống hoa kiểng và hoa quả nhiệt
đới Việt Nam. Tổ chức khu nghĩ dưỡng với loại hình tắm bùn
khoáng nóng
5. Khu Công
viên mạo hiểm và quảng trường Hòa Bình.
6. Khu
du lịch sinh thái Cù lao Bà Sang.
Xây dựng trên Cù lao Bà Sang với các loại hình du lịch sinh thái, du lịch nhà
vườn và các loại hình vui chơi giải trí đặc thù vùng sông nước Nam bộ.
7. Khu vui
chơi giải trí dọc Sông Đồng Nai.
Tổ chức các loại hình vui chơi giải
trí, nghỉ dưỡng, dịch vụ... phục vụ khách tham quan, du lịch.
8. Khu bảo
tồn chùa Hội Sơn thuộc hệ phái Phật giáo Bắc Tông.
9. Khu bảo
tồn chùa Bửu Long thuộc hệ phái Phật
giáo Nam Tông

Sơ đồ tổ chức
không gian quy hoạch kiến trúc và cảnh quan Khu Sinh Hoạt Văn Hóa
Khu Cận -
Hiện Đại
Diện tích
35,92 ha
Khu Cận -
Hiện Đại có diện tích 35,92ha tái hiện từ thời nhà Nguyễn đến thời đại Hồ Chí
Minh, với các nội dung xây dựng chính:
- Khu vực tái hiện thời nhà Nguyễn từ năm
1802 - 1858
- Khu vực tái hiện thời Pháp thuộc từ 1858
- 1930
- Khu vực tái hiện thời kỳ đấu tranh giành
độc lập từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
- Khu vực tái hiện cuộc đời và sự nghịêp
của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Khu quảng
trường Độc lập và tượng đài Thống nhất
Khu Sinh Hoạt
Văn Hóa
245,74
Khu sinh hoạt văn hóa có diện tích (245,74 ha) bao gồm Cù lao Bà Sang với các khu sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải trí theo chuyên đề.
Khu sinh hoạt văn hóa có diện tích (245,74 ha) bao gồm Cù lao Bà Sang với các khu sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải trí theo chuyên đề.
Đẩy nhanh
tiến độ xây dựng khu tưởng niệm các vua Hùng -
14/05/2008

Sáng 10-5,
Chủ tịch UBND TPHCM Lê Hoàng Quân và Phó Chủ tịch Thường trực UBND TPHCM Nguyễn
Thành Tài đã đi tìm hiểu và chỉ đạo việc thực
hiện dự án Khu tưởng niệm các vua
Hùng và công tác bồi thường giải phóng mặt bằng trong Khu công viên Lịch sử –
Văn hóa dân tộc tại phường Long Bình, quận 9.

Sau khi nghe
báo cáo tình hình, Chủ tịch Lê Hoàng Quân ghi nhận những nỗ lực của Ban quản lý
công viên và chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện dự án.
Theo đó, UBND TPHCM cho phép chỉ định thầu những công việc đòi hỏi chuyên ngành
nghệ thuật cao để đẩy nhanh tiến độ thi công. Phải hoàn thành công việc xây
lắp, lắp đặt trang thiết bị, trang trí nội ngoại thất của đền chính vào tháng
12-2008. Đầu tháng 2-2009 hoàn thành phần văn bia, câu đối liễn (GS Vũ Khiêu đã
nhận lời góp ý về nội dung); liên hệ với Đền Hùng Phú Thọ về việc nhận trống
đồng (phiên bản), đất Tổ, bát nhang, cây cọ; chuẩn bị bài văn tế và mời chủ tế
cho buổi lễ Giỗ Tổ Hùng Vương vào năm 2009. Sở VH-TT thực hiện tập sách và bộ
phim giới thiệu về công trình này.
Chủ tịch Lê
Hoàng Quân yêu cầu giải quyết dứt điểm việc giải phóng mặt bằng đúng luật định,
chú ý tái định cư và nhận con cháu của người dân ở địa phương vào làm việc tại
công viên. Hướng tới, công viên cần khai thác, tổ chức các loại dịch vụ, cung
ứng cây xanh, hoa kiểng, huy hiệu Đền Hùng, các sản phẩm lưu niệm... để lấy thu
bù chi. Từ năm 2010, công viên phải thu hút khoảng 10 triệu khách/năm.
NGÃ
BA TÂN VẠN
Trước mặt
chúng ta là ngã ba Tân Vạn , nếu rẽ trái vào 500m là khu du lịch Bình An nơi
nghỉ ngơi cuối tuần cho dân thành phố . Với khung cảnh thoáng mát hữu tình , có
hồ nước , nhiều khu vui chơi giải trí , còn nếu rẽ phải là vào núi Châu Thới ,
khu du lịch suối Lồ Ồ.
CẦU
ĐỒNG NAI
Không biết vô
tình hay hữu ý mà cây cầu Đồng Nai này trở thành ranh giới tự nhiên giữa TPHCM
và tỉnh Đồng Nai. Cầu dài 453,9m , rộng 16m , được xây dựng cùng thời với cầu
Sài Gòn và xa lộ Biên Hoa. Cầu Đồng Nai được bắc qua sông Đồng Nai dài 586km
được bắt nguồn từ Cao nguyên Lâm Viên chảy qua địa phận tỉnh Đồng nai , sau đó
hợp với sông Sài Gòn và đổ ra vịnh Gành Rái . Sông Đồng Nai có giá trị về đời
sống và kinh tế lớn như : nước sinh hoạt , giao thông , nông nghiệp và đặc biệt
là thuỷ điện .
Thưa quý du
khách ! Từ đây nhìn về phía tay trái xa xa ở ngã ba sông về phía thượng lưu là
Cù Lao Phố có diện tích 60 ha . Ngược dòng lịch sử 1679 khi triều Minh ở Trung
Hoa bị nhà Thanh lật đổ có khoảng 3.000 binh sĩ và gia đình trong nhóm “Bài
Thanh phục Minh” đã và xin chúa Nguyễn cho làm dân Việt. Trong đó có một nhóm
do Trần Thượng Xuyên làm thủ lĩnh đã đến cư trú tại đây và lập nên một cảng có
hoạt động thương mại sầm uất gọi là Nông Nại Đại Phố . 1698 , thừa lệnh chúa
Nhuyễn Phúc Chu, chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đã vào Nam kinh lý, ông thấy vùng
đất này trù phú và yên bình nên đã dừng chân tại đây. Ông đã chia các đơn vị
hành chánh và thành lập chính quyền tại Nam Bộ , hai huyện đầu tiên là Phước
Long ( Thuộc dinh Trấn Biên – Biên Hoà ) và Tân Bình ( Thuộc dinh Phiên Trấn –
Sài Gòn ). 1998 TPHCM và TP Biên Hoà đã kỷ niệm 300 ngày được nền hành chánh
đầu tiên tại Nam Bộ .
TỈNH ĐỒNG NAI
Hiện chúng ta
đang chạy trên quốc lộ 1 thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai , đây là tỉnh miền Đông
Nam Bộ có diện tích 5864 km2 , dân số 1989.541 người (01/04/1999 ) ,
thủ phủ là thành phố Biên Hoà nằm bên dòng sông Đồng Nai , đất đai thuộc loại
phù sa cổ do sông Đồng Nai bù đắp . Nhiệt độ trung bình hàng năm là 27oC
với các huyện : Thống Nhất , Định Quán , Tân Phú , Vĩnh Cữu , Long Khánh , Xuân
Lộc , Long Thành , Nhơn Trạch . Đây là tỉnh giao thoa của nhiều nền văn hoá cổ
như Oc Eo – Hoa – Chăm – Việt và nhiều
dân tộc thiểu số khác . Tên gọi Đồng Nai xuất phát do độc trại từ tên “Nông Nại
Đại Phố” có ý kiến khác cho rằng xưa kia nơi đây có nhiều đồng cỏ , Nai kéo về
đây sinh sống rất nhiều nên gọi là cánh đồng nai – Sau này gọi là Đồng Nai cho
đến bây giờ . Vì đất đai màu mỡ nên Đồng Nai rất thích hợp với nhiều loại cây
lương thực , cây hoa màu , cây công nghiệp ngắn ngày như mía , đậu nành , thuốc
lá ,… cây công nghiệp dài ngày như cà phê , cao su ,….. Ngoài ra , Đồng Nai còn
là một trong những tỉnh có ngành công nghiệp phát triển nhất và có vốn dự án
đầu tư nhiều nhất cả nước . Và ngành
công nghiệp đã đạt 5 điểm nhất so với cả nước :
1/ Địa phương
có nhiều khu công nghiệp nhất so với cả nước .
2/ Có diện
tích đất công nghiệp lớn nhất 20.000 ha .
3/ Nhiều dự
án đầu tư về công nghiệp ( trên 160 dự án )
4/ Vốn đầu tư
nước ngoài nhiều nhất .
5/ Mức tăng
trưởng giá trị sản phẩm công nghiệp cao nhất 59% .
NGÃ
BA VŨNG TÀU
Qua khỏi cầu
Đồng Nai trước mắt chúng ta là ngã ba Vũng Tàu , nếu rẽ phải theo quốc lộ 51
khoảng 100km là chúng ta đến một trung tâm dầu khí , một thành phố biển nổi
tiếng tại miền Nam đó là TP Vũng Tàu . Nhưng chúng ta đến Nha Trang nên theo
quốc lộ 1 là đi thẳng , quốc lộ 1 là con đường duy nhất đi các tỉnh miền Trung
và miền Bắc .
ĐẠI
SIÊU THỊ CORA – Siêu Thị BigC
Siêu thị Cora
được khánh thành ngày 18/08/1998 do tập đoàn Bourbon của Pháp đầu tư là 54
triệu USD , diện tích 20.000m2 , có trên 2.000 mặt hàng , trong đó
có 90% là hàng hoá sản xuất tại Việt Nam . Tập đoàn Bourbon là một trong những
tập đoàn lớn nhất của Pháp về mặt lương thực thực phẩm . Các dự án của Bourbon
đã đầu tư tại Việt Nam như nhà máy đường Bourbon – Tây Ninh , nhà máy thức ăn
gia súc Buorbon … trong quy hoạch phát triển tại Việt Nam . Bourbon đã vạch rõ
sẽ thô tính toàn bộ hệ thống siêu thị Việt Nam với khách hàng chủ yếu là tầng
lớp trung lưu . Do vậy hiện nay Bourbon đã xây dựng thêm 3 đại siêu thị Cora
Việt Nam : Siêu thị Cora An Lạc – Bình Chánh , siêu thị Cora Hà Nội , siêu thị
Cora Miền Đông – Đường Tô Hiến Thành quận 10 .
Hiện nay do tình hình chuyển biến kinh tế thị trường nên tập đoàn
thương mại quốc tế Bourbon đã bán hết cổ phần và nhường quyền khai thác thị
trường lại cho tập đoàn khối liên hợp Châu Au quản lý và đổi lải tên gọi mới là
BigC. Đây là một trong những tập đoàn, có hệ thống siêu thị hiện đại trên thế
giới được mọi người tín nhiệm nhất.Chính vì thế hiện nay những hệ thống chân
rết của siêu thị CoRa đã chuyển đổi tên gọi mới là BigC với tên gọi này thì
hiện nay những mặt hàng có trong siêu thị được phong phú hơn và hấp dẫn khách
hàng hơn khi đến với siêu thị.
KHU
CÔNG NGHIỆP BIÊN HÒA II
Còn bên tay
phải chíng ta trước đây là tổng kho Long Bình cũ là trung tâm cung cấp vũ khí ,
đạn dược cho quân đội Mỹ và chư hầu trong chiến tranh tại Việt Nam . Kho Long
Bình được xây dựng từ năm 1964 với diện tích ban đầu chỉ 6km2 vào
năm 1966 đã được xây dựng lại và mở rộng ra thêm lên 24km2 . Toàn bộ
tổng kho Long Bình có 6 hầm chứa trên 150.000 tấn vũ khí , đạn dược , khu vực
này được bảo vệ cẩn mật với 6 hàng rào dây thép gai kiên cố , 72 tháp canh và 3
tiểu đoàn túc trực bảo vệ .
Nhưng hiện
nay một phần diện tích của tổng kho Long Bình cũ là khu công nghiệp Biên Hoà II
với diện tích khoảng 375 ha được hình thành sau giải phóng ngày 15/12/1990 .
Khu công nghiệp này có các nhà máy tiêu biểu như nhà máy thuốc lá Đồng Nai ,
tập đoàn Huyndai , điện tử Daewoo , .. Kế khu công nghiệp Biên Hoà II là khu
công nghiệp Amata do Thái Lan hợp tác đầu tư trên diện tích khoảng 700 ha .
Đây được xem
là khu công nghiệp sạch . Cả hai khu công nghiệp này đều được xây dựng trên nền
tảng của khu căn cứ quân sự Long Bình . Đây là nơi Mỹ tập trung khí tài quân sự
lớn nhất khu vực Đông Nam Á với diện tích 24km2 phía quốc lộ 1 dài
6km , bên quốc lộ 51 dài 4km .
NGÃ
TƯ TAM HIỆP
Trước đây ngã
tư Tam Hiệp chỉ là ngã ba thôi nhưng sau này có 4 ngã rẽ cho nên người ta gọi
ngã tư Tam Hiệp cho đến bây giờ . Tại đây nếu rẽ trái đi khoảng 6km là vào TP
Biên Hoà , quý khách nhìn ngay tại bùng binh này có một tượng đài làm bằng gốm
sứ đầu tiên tại Việt Nam , kỷ niệm trận đánh vào khu căn cứ Long Bình ( năm
1964 ).
CHỢ
SẶT
Ngôi chợ Sặt
nằm bên trái của quý khách được hình thành sau năm 1954 do những nhóm dân cư
làng Sặt ở miền Bắc di dân vào theo lệnh của tổng thống Ngô Đình Diệm . Chợ
thuộc Phường Tân Biên – TP Biên Hòa .
KHU
HỐ NAI 1,2,3,4 – KHU THIÊN CHÚA GIÁO HỐ NAI
Nằm cặp hai
bên quốc lộ 1 cách TP Biên Hòa 10km trải dài trên 12km được chia làm các khu
vực : Khu Hố Nai 1,2,3,4 . Vào năm 1954 Hố Nai có khoảng 40.000 người thuộc 25
xứ đạo lớn của 3 nhóm chính Bùi Chu , Phát Diệm và Kẽ Sặt từ các tỉnh phía Bắc
di cư vào theo sự cho phép của Ngô Đình Diệm thành lập các xã Hố Nai như một
vành đai bảo vệ Sài Gòn . Và ở đây người ta thường gọi là khu thiên chúa giáo
Hố Nai . Dân ở đây có nghề truyền thống là khai thác lâm sản và mộc . Hiện nay
khu vực này có khoảng 16 xã , 29 nhà thờ , 28 trường học , 1 bệnh viện , 19
trạm y tế , 12 nhà bảo sanh và dân số trên 700.000 người .
Thưa quý du
khách ! Vì sao gọi nơi đây là khu Hố Nai thì trước đây nơi này là một vùng rừng
núi và đồng cỏ hoang cho nên muôn thú thường tìm đến các nguồn nước và thức ăn
của mình để sinh sống . Tại đây xuât hiện nhiều đàn nai và người dân nơi đây
muốn bắt nai bằng cách đào những cái hố để bắt chúng . Có lẽ vì vậy mà tên gọi
Hố Nai xuất phát từ các cái hố bắt nai của người dân vùng này .
THUỶ
ĐIỆN TRỊ AN
Vào năm 1983
với sự giúp đỡ của Liên Xô ( cũ ) đã
khởi công xây dựng công trình thuỷ điện Trị An với tổng kinh phí là 150 triệu
Rúp và 51 tỷ đồng Việt Nam . Đa số thiết bị nhập từ Liên Xô ( cũ ) . Hồ Trị An
rộng 232 km2 với sức chứa 2,7 tỷ m3 nước , công suất nhà
máy là 400MW , sản lượng điện 1,7 tỷ Kwh/năm . Đến tháng 09/1988 đã đưa vào vận
hành .
Đây là công
trình thủy điện lớn nhất miền Nam , giải quyết cấp bách cho các ngành công
nghiệp và sinh hoạt . Từ lòng hồ Trị An hàng năm người dân ở đây thu về trên 10
ngàn tấn cá , làm thay đổi cảnh quang và môi trường , phục vụ cho du lịch .
CHIẾN
KHU D
Tiếp nối Trị
An là chiến khu D , nơi đây trước kia là khu căn cứ chiến đấu của nhân dân ta
trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp , Mỹ . Chiến khu được thành lập tháng
02/1946 khởi đầu từ 5 xã : Tân Hòa , Mỹ Lộc , Tân Tịch , Thường Lang , Lạc An
thuộc các huyện Tân Uyên – Bình Dương . Do trung tướng Nguyễn Bình làm khu
trưởng ẩn chứa : Đất Cuốc Lạc An , chiến khu Đỏ , chiến khu Đảng , chiến khu
miền Đông , chiến khu Đầu Tiên .
TRẢNG
BOM
Trước mắt
chúng ta là các cánh rừng cao su chạy dài hai bên lộ với diện tích hơn 40.000
ha cây cao su tỉnh Đồng Nai là tỉnh có kim ngạch xuất khẩu cao su đứng thứ hai
cả nước sau tỉnh Bình Dương . Và nơi đây là các cánh rừng cao su con ( trồng
sau này ) , khu này người ta gọi là khu vực Trảng Bom thuộc huyện Thống Nhất
tỉnh Đồng Nai .
Cái tên gọi
Trảng Bom xuất phát từ những cánh đồng trồng khoai tây trước đây của thực dân
Pháp . Trảng là rộng lớn , trải dài ; Bom là từ những củ khoai tây có hình cầu
giống củ khoai tây hiện nay của chúng ta .
CÂY
CAO SU
Hai bên rừng
hiện nay là rừng cao su bạt ngàn , cây cao su được khám phá phát hiện tại rừng
rậm Amazon bởi người Bồ Đào Nha . Trước đệ nhị thế chiến cây cao su được trồng
chủ yếu tại Châu Mỹ , sau 1945 thì được trồng đại trà tại khu vực Đông Nam Á .
Đồng Nai là tỉnh có diện tích trồng cao su lớn thứ hai sau tỉnh Gia Lai . Năm
1897 , dược sĩ Raoul – người Pháp đã mang giống cây cao su từ Java và Malaixia
trồng tại vườn ông Yêm ở Thủ Dầu Một và Phú Nhuận .
Cùng thời
gian này bác sĩ Yersin cũng trồng thử nghiệm tại suối Dầu – Nha Trang . Đến
1904 thì cao su được trồng đại trà tại Việt Nam khoảng 3.400 ha tại Dầu Giây .
Tại Việt Nam cây cao su chỉ trồng được từ Quãng Trị trở vào Đông Nam Bộ .
Cách trồng
cây cao su không phải như gieo hạt rồi cây nảy mầm mà cây cao su được ươm trong
vườn cây giống . Cây cao khoảng 0,8m –1m người ta bắt đầu đem ra trồng theo
hàng , mỗi cây cách nhau khoảng 3-5m . Cây cao su sau khi trồng khoảng 5 năm
thì cho khai thác mủ và phải khai thác mủ từ lúc sáng sớm . Vì lúc này cây chưa
xảy ra quá trình quang hợp nên cây cho mủ chất lượng cao hơn .
Người ta dùng
dao có móc cong trên đầu cạo lớp vỏ lụa bên ngoài , tránh cạo sâu vào bên trong
vì như vậy làm cho cây cao su bị tổn thương và ảnh hưởng đến năng suất của cây
. Hàng năm trung bình người ta khai thác cây cao su khoảng 300 ngày , hai tháng
mùa khô không khai thác . Trong thời gian nghỉ vào mùa khô thì người ta chăm
sóc và bón phân cho cây ( trung bình 1 ha cây cao su cho khoảng 60 lít mủ trọng
lượng khoảng 20 kg ). Mủ tươi sau khi sấy khô còn lại 1/3 trọng lượng , giá bán
1 tấn mủ khô là 1.600 USD . Hiện nay cả nước có hơn 200.000 ha cao su .
Khi cây cao
su già người ta chuyển qua khai thác gỗ vì lúc này cây không còn cho mủ nữa ,
mỗi ha cao su cho 150m3 gỗ . Gỗ cao su được xử lý đưa vào sản xuất
các mặt hàng gỗ trang trí trong nhà cho xuất khẩu ( chủ yếu xuất khẩu sang Đài Loan , Nhật Bản , Nam
Triều Tiên ,…)
Và một khi
nhắc đến cây cao su thì ai cũng biết đến câu :
“ Cao su đi
dễ khó về
Khi đi trai
tráng khi về bủng beo”
Ngày xưa
những người phu làm đồn điền cho Pháp rất cực khổ , sống trong điều kiện thiếu
thốn , phải ở trong rừng thiên nước độc . Bên cạnh đó khí hậu xung quanh rất
độc vì cao su không thả khí O2 mà thả khí CO2 , làm cho
công nhân ở đây thường sau khi không làm việc nữa thì bệnh rất nhiều . :
“ Bán thân
đổi mấy đồng xu
Thịt xương
vùi gốc cao su mấy tầng” .
Dự kiến đến
năm 2005 diện tích cây cao su là 780.000 ha đứng thứ 4 sau Inđonexia , Malaixia
, Thái Lan .
NGÃ 3 DẦU
GIÂY:
Kính thưa Quý
Khách! Ngã Ba Dầu Giây cách TP.Hồ
Chí Minh khoảng 70km, nếu rẽ trái chúng ta sẽ theo Quốc Lộ 20 đến TP.
Đà Lạt cách 234km. Nếu đi thẳng theo QL1A sẽ ra các tỉnh Miền Trung
và Miền Bắc, thành phố Phan Thiết cách NBDG 128km, sở dĩ nơi đây
có tên gọi Dầu Giây vì xưa kia tại khu vực này có nhiều cây dầu và dây
leo chằng chịt cũng nó người nói rằng do những người từ Miền Bắc vào đây định
cư họ cho trồng rất nhiều cây Trầu (1 dạng cây leo ăn chung với vôi) vì thế mới
có tên gọi là Trầu Giây, đọc trại là Dầu Giây. Cũng có người nói vui
NBDG là nơi mà Mẹ Au Cơ chia tay với Cha
là Lạc Long Quân, mỗi người dẫn theo 50 con lên rừng và 50 con xuống biển (theo
truyền thuyết “con rồng cháu tiên”).
Từ NBDG đi
dọc theo QL1A chúng ta sẽ thấy những cánh rừng cao su bạt ngàn, Đồng Nai là 1
trong những tỉnh có diện tích trồng cao su lớn nhất cả nước. Cuối TK IXX đầu TK XX bác sĩ Alexangder Yersin nang giống cao su sang VN cho trồng thí
nghiệm tại Suối Dầu – Nha Trang và nhận thấy giống cây này thích hợp với điều
kiện đất đai và khí hậu VN.
Vào TK XVIII
tại Bazil lưu vực sông Amazôn người ta đã tìm thấy cây cao su, lâu lắm rồi bộ
tôc Mai – Nác đã biết dùng mủ cây cao su để chống ẩm, làm bóng để chơi vào các
mùa hè nên họ đặt tên cho cây này là Caoochoc có nghĩa là “Nước Mắt của cây”.
Đến TK XIX khắp thế giới đã trồng cây
cao su nhưng tập trung nhiều ở vùng nhiệt đới của xứ châu Phi , Châu Mỹ và vài
nước Câhu Á. Khi mang giống cây này sang Việt Nam, người Pháp đã phiên âm chữ
Caaochoc và gọi là cây cao su, họ đã cho trồng thử nghiệm ở 1 số nơi nhưng
không thành công.
Đến năm 1863
người Pháp đưa hạt giống từ Java,Malaysia để gieo trồng tại vườn Ong Thêm –
Thủ Dầu Một, ngoài ra còn trồng thí điềm
tại Phú Nhuận với diện tích 45 ha, cùng thời điềm mà BS Yersin cho trồng thử
nghiệm tại Suối Dầu – Nha Trang. Sau đó họ nhập giống từ Colombia & Bazil,
đế năm 1904 thành lập đồn điền cao su Suzana (tên của vợ toàn quyền Đông Dương)
với diện tích 3.400 ha đầu tiên ở ngã 3 Dầu Giây. Ngày nay hầu hết các nông
trường cao su do Nhà Nước quản lý, tuy nhiên cũng có 1 số người dân trồng và
phát triển ngành cao su.
Cây cao su
được trồng bằng cách ươm cây giống trong vườn ươm, khi cây cao khoảng 0,8m –
10m người ta mang cây cao su con ra trồng tại vườn theo từng hàng thẳng, mỗi
cây cách nhau 4 – 5m thuận tiện cho việc
chăm sóc và lấy mủ cao su và để cho ánh nắng chiếu vào cây. Khoảng 7 năm sau
khi trồng cao su bắt đầu cho mủ, đường kính của cây lúc dó phải đạt khoảng
20cm.
Người thợ cao
su phải lấy mủ vào lúc sáng sớm vi khi ấy quá trình quang hợp chưa xảy ra mạnh
nên mủ cao su có chất lượng hơn. Ban đầu người thợ dùng 1 con dao có móc cong
cạo lớp vỏ lụa bên ngoài cây cao su tránh cạo sâu vào bên trong vì như vậy cây
cao su sẽ bị tổn thương và làm ảnh hưởng đến năng suất của cây. Trung bình 1
cây cao su cạo được khoảng 60l mủ = 20kg. Mủ tươi sau khi sấy khô sẽ còn 1/3
trọng lượng, giá trung bình 1 tấn mủ cao su là 1.600USD. Hiện nay diện tích
trồng cây cao su trên cả nước VN gần 700.000 ha.
Ban đêm cây
cao su thải ra khí độc (cacbonic) rất có hại cho sức khỏe của người thợ nếu họ
ở trong nông trường. Vào thời Pháp thuộc, những người phu làm đồn điền cao su
cho Pháp bị bóc lột rất tàn nhẫn và bị đàn áp rất dã man. Chính vì vậy mà người
ta đã truyền khảu một số câu ca dao như sau:
“Bán
thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng” hay
“Cao su
đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủng beo”
CON ĐƯỜNG
THIÊN LÝ BẮC NAM
Kính thưa quý du khách! Con đường QL1A
là con đường giao thông chính của nước ta xuyên suốt từ Bắc đến Nam, điểm khởi đầu
là Đồng Văn – Lạng Sơn và kết thúc tại Năm Căn – Mũi Cà Mau. Đường QL1A này
dưới thời triều Nguyễn là con đường duy nhất để lên lạc giữa 3 xứ Nam – Trung –
Bắc, chính vì vậy mới có tên là con đường Thiên Lý. Vào thời nhà Nguyễn con
đường thiên Lý chỉ rộng khoảng 1,3m và được chia là nhiều trạm (là nơi để tập
hợp quân lính phu trạm & ngựa để vận chuyển công văn, hoàng hoá cống phẩm
của triều đình). Mỗi trạm có nhiều nhà trạm, có phu trạm lo việc chuyển công văn, khiên cán kệ, đồn đạc của
các quan. Thời Gia Long mỗi trạm đặt 1 cai đội và phó cai đội. Từ Quảng Nam đến
thành Gia Định mỗi trạm có 50 phu trạm, từ Huế đến Quảng Bình mỗi trạm có 80
phu trạm và từ Quảng Bình – Hà Nội mỗi trạm có 100 phu trạm để phục vụ cho việc
chuyển công văn, tin tức một cách nhanh chóng, việc này đã được sắp xếp 1 cách
hợp lý như sau. Tùy theo mức độ khẩn của công văn vận chuyển đi mà người ta
chia ra làm các cấp độ, vào thời đó các cấp độ được phân loại như sau:
1. Phi đệ: bình
thường
2. Tối khẩn:
quan trọng
3. Thứ khẩn:
trên mức trung bình
4. Trường Thanh:
Để chuyển công văn từ thành GĐ đến kinh đô
Huế mất 13 ngày, Từ Miền Bắc vào
Kinh mất 5
ngày. Nếu công văn đc chuyển đến đúng hạn các phu đội sẽ đc thưởng từ 3 – 5
quan tiền, còn chậm 1 ngày thì không đc thưởng. Nếu trể từ 3 – 4 ngày sẽ bị
phạt đánh đòn từ 30 – 50 roi, vua Tự Đức quy định dùng ống tre khô, chắc. Một
cái lớn và 1 cái nhỏ, công văn đc cuốn lại bỏ vào ống tre nhỏ dán miệng ống lại
rồi cắt giấy (có đóng mộc của quan Phủ) để làm tem niêm phong ống từ 2 đến 3
lần, có dấu đóng vảo chỗ miệng ống giáp nhau sau đó buộc dây dán lại và đóng
dâu thêm 1 lần nữa trước khi buộc chặt để chuyển đi không bị hư hỏng hay rớt
mất.
Những chiếu chỉ và sắc dụ của Vua đc
đưa đến trạm nào thì trạm đó phải đưa đi ngay bất kể ngày đêm, mưa nắng. Những
công văn ghi chữ “Phi Đệ” các trạm phải
dùng ngựa chuyển đi, nhờ thế mà công văn Phi đệ. Có thể từ Huế chuyển vào Gia
Định. 06 ngày hay từ Huế chuyển ra Hà
Nôi 0 3 ngày. Nhờ đường giao thông thông suốt , tổ chức trạm chặt chẻ sự lãnh đạo
của Triều Đình Nhà Nguyễn đến mọi miền đất nước đc kịp thời, đó là 1 yếu tố
quan trọng giúp cho nhà Nguyễn tồn tại gần 1 thế kỷ rưỡi.
-
Ngã 3 Tân Phong: Từ ngã 3 Tân Phong đi thêm khoảng 10km chúng ta
sẽ thấy núi Chứa Chan bên trái.
TRUYỀN THUYẾT
VỀ NÚI CHỨA CHAN
Nhìn sang bên
trái đường chúng ta thấy 1 ngọn núi gọi là Núi Chứa Chan, núi cao 834m, trên
núi có 1 ngôi chùa Gia Lào nổi tiếng linh thiêng vào những ngày rằm người dân
khắp mọi nơi đổ về đây hành hương rất đông. Tên núi gắn liền với một truỵền
thuyết như sau: “Vào TK XVIII có 1 ông quan t6n Việt là Việt Hùng trong lúc
giao chiến với quân Khmer ông đã bị bắt cùng với người vợ đag có thai. Sau đó
ông bị giam lỏng trên ngọn núi này,vì vợ
ông có nhan sắc nên bị vua Khmer ép làm vợ lẽ trong lúc bà vẫn đang mang thai,
sau đó bà sinh ra 1 người con gái. Đến khi cô con gái lớn bà đã kể lại câu
chuyện và sự thật về cha mình. Cô gái đã cùng người hầu đi giải thoát cho cha
nhưng bị vua Khme phát hiện và cho quân truy đuổi. Trong lúc hoảng loạn cả 3
người dã nhảy xuống núi tự vẫn. Biết được câu chuyện thương tâm đó người ta đặt
tên cho ngọn núi là núi Chứa Chan để nói lên tình cảm chan chứa của 2 cha con,
hiện nay trong chùa Gia Lào có 3 pho tượng gọi là Ong vàng, cô Bạc và cậu Chì.
Từ khu vực núi Chứa Chan đi tiếp chúng
ta sẽ đến ngã 3 Ong Đồn, nế quẹo trái chúng ta sẽ đến Võ Đất, Vỏ Su huyện Tánh
Linh – tỉnh Bình Thuận, đó cũng là con đường đi vào núi Chứ Chan. Ranh giới
giữa tỉnh Đồng Nai và Bình Thuận cách
ngã 3 Ong Đồn 10km (tại khu vực Tân Minh B có 1 bảng hướng dẫn), nơi đó có khu
vự làm nón và quạt lá Buông (qua làng Khme). Bên phải quý khách là núi Le, cây
Le là 1 loại cây cùng họ với cây tre. Từ đây chúng ta đi thêm 98 km sẽ đến TP.
Phan Thiết.
Lịch sử tỉnh
BÌNH THUẬN
Đất Bình
Thuận thời sơ khai
Ðất Bình
Thuận nguyên thuộc nước Nhật Nam ngày xưa, sau là đất của Chiêm Thành. Vì
chiến tranh liên miên nên Chiêm Thành mất dần đất đai. Năm 1653, chúa Nguyễn
Phúc Tần đánh lấy đất Phan Lang (sau gọi là Phan Rang), chỉ còn để lại mảnh đất
phía Tây cho Chiêm Thành. Năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu lấy luôn mảnh đất còn
lại và đặt là Thuận Thành trấn, rồi lập Bình Thuận Phủ vào năm 1697, lấy đất
phía Tây Phan Lang lập hai huyện An Phước và Hòa Ða. Sau đổi làm Bình Thuận Dinh
và lập các đạo Phan Lang, Phan Thiết, Ma Ly và Phố Hài...
Ðời Gia Long
vẫn giữ Bình Thuận dinh, đến Minh Mạng đổi lại Bình Thuận phủ. Năm 1827, Minh
Mạng đặt ra hai phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận và hai huyện Tuy Phong và Tuy Ðịnh.
Bình Thuận được đặt thành tỉnh và giao cho quan Tuần phủ Thuận Khánh kiêm nhiệm
luôn tỉnh Khánh Hòa. Năm 1888, Ðồng Khánh chuyển phủ Ninh Thuận và Khánh Hòa.
Năm 1900, vua Thành Thái đặt huyện Tuy Lý và lấy huyện Tánh Linh trước thuộc
Ðồng Nai Thượng sát nhập vào Bình Thuận. Năm 1905, phủ Di Linh cũng được trích
thuộc về Bình Thuận.
Thời Pháp
thuộc, năm 1904, khi
cuốn Lưu Cầu
Huyết Lệ Tân Thư của anh hùng Phan Bội Châu chấn động cả nước, nêu cao tinh
thần duy tân tự cường để cứu nước, thì tại các tỉnh miền Trung phần, những
người có lòng với quê hương tìm cách phát động phong trào mở mang dân trí, phục
hồi dân khí. Hai anh hùng Phan Chu Trinh và Trần Quý Cáp vào Phan Thiết, mở thư
xã, diễn thuyết nhiều lần kêu gọi đồng bào ý thức tự cường, truyền bá tinh thần
canh tân, phát triển công thương nghiệp. Phong trào Duy Tân khởi sự tại Bình
Thuận sớm hơn mọi nơi. Trước năm 1975, tỉnh Bình Thuận có các quận Hàm Thuận,
Phú Quý, Thiện Giao, Hải Long, Hải Ninh, Hòa Ða, Tuy Phong và Phan Lý Chàm.


* Hội Ðền Dinh Thầy: Diễn ra trong hai ngày 15 và 16 tháng 9 âm lịch tại đền Dinh Thầy, Hàm Tân, Bình Thuận là ngày giỗ Thầy và Thím. Theo truyền thuyết có 2 vợ chồng: Thầy và Thím quê Quảng Nam sống ở thế kỷ 19, học đạo, đồng thời chữa bệnh cho nhân dân trong vùng theo pháp thuật. Trong phiên tòa xử án, Thầy và Thím đã cuốn lụa biến thành rồng đỏ bay vào Hàm Tân (Bình Thuận) sống tại đây và làm thuốc trị bệnh cứu giúp dân lành cho đến khi qua đời. Dân trong vùng thương tiếc lập đền thờ Thày và Thím. Hội Dinh Thày còn mang nhiều tín ngưỡng mê tín, dân đến cúng giỗ rất đông, cầu cúng xin xăm, xin lá số. Nhân dân trong vùng mang theo nhiều lễ vật để dự lễ cúng chay vào tối 15, cúng cỗ chay và cỗ mặn vào ngày 16 thng 9.
* Lễ Hội Mbăng
Katê: Lễ hội được tổ chức vào tháng 8, 9 âm lịch (đầu tháng 7 Chăm
lịch), tại các lăng, tháp sau đó chuyển về gia đình đồng bào Chăm ở Ninh Thuận
và Bình Thuận. Lễ hội Katê là lễ hội quan trọng và có qui mô lớn nhất, kéo dài
5 ngày của người Chăm theo đạo Bà La Môn. Ðây là lễ Tết để tưởng nhớ các anh
hùng, thần linh, tổ tiên, các vị vua có công với nước, với dân đã được thần
thánh hóa như Po Klong Grai Pôrômê. Lễ hội đồng thời với việc hành hương, là
việc thăm viếng, kết nghĩa bạn bè... Buổi tối trước ngày chính hội có nghi lễ
trình y phục với các nghi thức trang trọng trong tiếng nhạc dân tộc và các điệu
vũ cổ truyền. Trưa ngày chính hội là lễ dâng cúng và lễ rước thần , tắm tượng ,
mặc áo , đội mũ cho tượng... Khi trời sắp tối là kết thúc các nghi lễ, mọi
người hưởng lộc và tham gia các trò vui như ngâm thơ, chơi nhạc,...
Trong lễ này,
nhân dân thuộc dân tộc Raglai trên núi cũng xuống dự hội, chia xẻ niềm vui với
ngườiChăm.
* Lễ Cầu Yên: Là một trong những lễ hội truyền thống của người Chăm, được tổ chức hàng năm tại các làng, xóm vùng dân tộc Chăm Bà Ni. Lễ hội diễn ra vào đầu tháng giêng Chăm lịch kéo dài khoảng 3 ngày đêm. Dân làng làm lễ cầu yên để tống tiễn những điều xấu, không may của năm cũ. Nghi lễ được tiến hành lúc chạng vạng tối. Sau phần nghi lễ là đến các tiết mục múa, hát của dân tộc Chăm và trị chơi thả thuyền. Ngoài ra đồng bào dân tộc Chăm ở Bình Thuận thường xuyên tổ chức các lễ hội khác như: lễ Cầu Ðảo, lễ Rija Nưa, lễ Ðắp Ðập, lễ Cấm Phòng...
Giới thiệu
chung về Bình Thuận
Bình
Thuận là miền đất cuối cùng của miền Trung, phía Nam giáp miền Đông, phía
Tây là rừng núi giáp Lâm Đồng. Bình Thuận có bờ biển dài, có cả
hải đảo và vùng đồng bằng, miền núi. Chính những đặc điểm về tự nhiên đó là
điều kiện thuận lợi, để từ lâu đời trên vùng đất này đã có con người sinh sống
từ thời Tiền sử và Sơ sử mà những di tích khảo cổ học được phát hiện, khai quật
đã chứng minh sinh động về những nền văn hóa khảo cổ đã qua.
Vào đầu công nguyên cũng đã có nhiều dân tộc,
nhiều vương quốc với những nền văn hóa phát triển đã để lại đến ngày nay. Trong
số đó có vương quốc Chămpa là một trong những vương quốc hùng mạnh ở nhiều thế
kỷ ở thời cổ đại và trung đại, có một nền văn hóa phát triển rực rỡ ngang hàng
với các nước trong khu vực. Họ để lại một khối lượng di sản lớn với nhiều giá
trị về kiến trúc, nghệ thuật, văn hóa dân gian, một hệ thống lễ hội phong phú,
đa dạng. Ðặc biệt về kiến trúc với nhiều nhóm đền tháp, đền thờ. Trong quá
trình mở nước về phía Nam và từ khi thành lập tỉnh Bình Thuận (1697), người
Việt đã kế thừa những thnh tựu về văn hóa của người Chăm và một phần của các dân
tộc ít người khác, để xây dựng một nền văn hóa truyền thống phát triển qua từng
thời kỳ lịch sử trên cơ sở những phong tục, tập quán văn hóa của Tổ tiên tạo nên
một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Trải qua hơn 300 năm lịch sử các thế
hệ Tiền nhân xưa đã để lại trên đất Bình Thuận hàng trăm di tích cò giá trị, đó
là những công trình kiến trúc: tháp, đình, cha, đền. miếu ….. Từ xưa là những
yếu tố cấu thành đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của cộng đồng dân tộc. Khi
nói đến Phan Thiết - Bình Thuận, người ta nghĩ ngay đến miền duyên hải
với những bãi tắm sạch, đẹp nổi tiếng, đã từ lâu là điểm đến đầy quyến rũ. Thế
nhưng, Phan Thiết còn là điểm hẹn của những "tour" du lịch văn
hóa hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế. Cùng với chủ đề: "Bình Thuận - biển ấm tình người",
"Du lịch văn hóa" là một nét mới cho du lịch Bình Thuận nhằm
hưởng ứng chương trình "Việt Nam điểm đến của thiên niên kỷ mới".Bắt
đầu từ thành phố Phan Thiết - thành phố nhỏ nhắn nhưng xinh đẹp nằm dọc
hai bên bờ sông Cà Ty - con sông được ví như dòng sữa mẹ ngọt ngào nuôi
lớn muôn người con của đất Bình Thuận. Tuy là thành phố trẻ (được vua
Thành Thái ban chỉ dụ thành lập năm 1898), nhưng theo các nhà nghiên cứu thì
phố cổ Phan Thiết hình thành trước Nha Trang và Phan Rang.
Thành phố hiện còn những ngôi nhà xưa với lối kiến trúc mang phong cách nghệ
thuật Pháp, nằm ẩn hiện trong những vườn cây, tạo nên vẻ đẹp yên ả, "rất
duyên" cho phố biển này. Chợ Phan Thiết sầm uất, nằm ngay trung tâm
thành phố với những đặc sản của đất Bình Thuận mà du khách khi đến với Phan
Thiết thường ghé lại mua về làm quà cho gia đình, người thân, bạn bè... Cách đó
không xa là khu lưu niệm trường Dục Thanh - nơi này vào năm 1910, người
thanh niên Nguyễn Tất Thành đã có một thời gian sống và dạy học ở đây, trước
khi vào Sài Gòn tìm đường cứu nước. Hiện trong khuôn viên vườn trường có cây
khế do chính tay Người chăm sóc vẫn còn đó như một kỷ niệm: "Ngôi trường
nhỏ một hôm Người đến. Cây khế sau vườn mừng trổ đỏ chùm bông". Ðối diện
với trường Dục Thanh l Phân viện Bảo tng Hồ Chí Minh - nơi trưng
bày những hình ảnh, hiện vật về Bàc Hồ với các hình ảnh về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của tỉnh Bình Thuận. Gần trung tâm thnh phố Phan
Thiết về hướng biển còn có đình Vạn Thuỷ Tú - nơi thờ cá Voi (thần
Nam Hải). Tại đây có trên 100 bộ xương cá voi, trong đó có bộ xương cách đây
gần 200 năm. Ðiều đặc biệt ở đây được các nhà khoa học nước ngoài đánh giá là
nơi lưu giữ bộ sưu tập xương cá voi "lớn nhất thế giới". Ðến đây, du
khách sẽ hiểu thêm về tín ngưỡng tục thờ cá Voi mang đậm nét "văn hoá
biển" của ngư dân duyên hải miền Trung.Từ thành phố Phan Thiết ra Mũi
Né, ở km số 6 một cụm tháp Chàm Pôshanư (còn gọi là tháp Phú Hải) -
một trong những cụm tháp cổ còn lại đứng trầm mặc theo thời gian, minh chứng
cho nền văn hóa, văn minh Chămpa một thời rực rỡ. Tuy không còn nguyên
vẹn, nhưng tháp Pôshanư vẫn là một di tích lịch sử với kiến trúc nghệ thuật
tiêu biểu của người Chăm. Gần đó là di tích lầu ông Hoàng (xưa kia nơi này là
lâu đài "Tổ Chim Ưng" do ông hoàng người Pháp Montpensier
xây dựng để sống chung với người đẹp Phan Thiết), nằm trên một ngọn đồi
sát biển. Ðây cũng từng là nơi hò hẹn của đôi tình nhân: thi sĩ Hàn Mặc Tử -
Mộng Cầm. Chính chuyện tình của hai người mà di tích lầu ông Hoàng đã đi
vào thi ca và càng làm cho Phan Thiết được nhiều người biết đến.Bình
Thuận còn là "vùng đất Phật" với những ngôi chùa nổi tiếng
như: Cổ Thạch (hay còn gọi là Chùa Hang) ở Tuy Phong; Linh
Sơn Trường Thọ trên đỉnh núi Tà Kou ở Hàm Thuận Nam - nơi có
tượng Phật nhập Niết Bàn dài 49m, lớn nhất Việt Nam; Dinh Thầy Thím
ở Hàm Tân - tất cả đều là những danh lam thắng cảnh đẹp, đạt tiêu chuẩn
là những điểm du lịch văn hóa, du lịch hành hương hấp dẫn du khách khắp nơi tìm
về.
Những thiết
chế tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa đó là những di sản được kết tinh lại qua
bàn tay, khối óc của ông cha chúng ta, qua nhiều thế hệ, được bồi đắp và giữ
gìn đến ngày nay đã cấu thành các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng
cảnh.
Sau khi thành
Đồ Bàn thất thủ, vương quốc Chăm pa bước vào giai đoạn cuối cùng của nó, lãnh
thổ phía Bắc đến đèo Cù Mông, lúc đầu đóng đô ở Kaothara (Khánh Hoà). Đến giữa
TK XVII chuyển về vùng Phan Rang . cho đến năm 1693 nhà Nguyễn chiếm được Phan
Thiết thì vương triều Chămpa mất hản độc lập, chỉ tồn tại như 1 thế lực bán tự
chủ. Trong thời Minh Mạng, người Chămpa trở thành 1 thành phần của dân tộc Việt
Nam. Hiện nay tại xã Phan Thanh huyện Bắc Bình tỉnh Bình Thuận có bà Thêm thuộc dòng dõi hoàng tộc Chăm còn lưu giữ 1
số hiện vật và chau báu của vua Chăm như Vương Miện bằng vàng y nặng 1,5kg.
Vào giữa TK XVIII tỉnh Bình Thuận còn
là vùng đất hoang sơ nhưng qua những lần theo đàn cá vụ Nam, ngư dân miền Bắc
mới phát hiện đây là vùng biển giàu hải sản, mưa thuận gió hoà. Đến cuối TK
XVIII được sự khuyến khích của chú Nguyễn cư dân người Việt di cư đến đây ngày
càng đông, họ khai phá biến đất hoang sình lầy thành xóm làng vạn chài.
Năm 1962 chúa Nguyễn đã đặt tên cho
vùng đất mới khai phá này là Thuận Phủ, năm 1964 đổi thành Thuận Thành Trấn và
đến năm 1697 phủ Bình Thuận ra đời với địa giới từ phía Nam sông Phan Rang trở
vào giáp vùng đất Biên Hoà ngày nay được chia làm 4 đạo: Phan Rang – Phan Thiết
– Maly – Phố Hài. Vào năm Minh Mạng thứ 13 (1832) thành lập tỉnh Bình Thuận.
Ngày 20/10/1998 vua Thành Thái xuống dụ công bố PT thành thị xã cùng lúc với
thanh Hoá, Vinh, Huế, Hội An… Năm 1976 là tỉnh thuận Hải, năm 1993 hai tỉnh
Ninh Thuận và Bình Thuận được tách ra từ tỉnh Thuận Hải. Tỉnh Bình Thuận có
diện tích 7.992 km, toàn tỉnh có 192 km đường bờ biển, khí hậu nhiệt đới gió
mùa, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 800mm/năm, mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 10, dân số khoảng 1.047.040 người, thành phần dân tộc gồm Việt – Chăm –
Hoa, trong đó người Kinh chiếm khoảng 93% dân số toàn tỉnh. Bình Thuận có TP.
Phan Thiết và 8 huyện: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm
Tân, Đức Linh, Tánh Linh và huyện đảo Phú Quý. Nghề đánh bắt hải sản ở PT phát
triển mạnh mỗi năm đánh bắt được từ 110 – 120.000 tấn/ năm, về nông nghiệp là
tỉnh có diện tích trồng cây Thanh Long lớn nhất cả nước. Đặc biệt là ngành du
lịch với các điểm tham quan khá hấp dẫn như: núi Takou, Dinh Thầy Thím, Tháp cổ
Poshanư, Hồ Biển Lạc, Bàu Sen, Bàu Trắng, Hải Đăng Khe Gà và Đồi cát di động.
Mũi né với lợi thế bãi biển đẹp và an toàn cùng với hệ thống nhà hàng, khách
sạn, resort từ 1 – 4 so được xây dựng 1 cách nhanh chóng đã đáp ứng được lượng
khách du lịch khá lớn đem lạingân sách lớn cho tỉnh.
Theo nghiên cứu tham khảo của Nữ sĩ
Như Nguyên Nguyễn Ngọc Hiền (là hậu duệ xa đời của Hào Lương Hầu Nguyễn Hữu Hào
là anh ruột của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh thì chủ ý dùng chữ Bình trong địa
danh Bình Thuận của LTH Nguyễn Hữu Cảnh là để ông kỷ niệm và nhớ đến nguyên quán
Quảng Bình, theo nghiên cứu về LTH Nguyễn Hữ Cảnh, nữ sĩ Như Hiên viết:”Trước
tiên là Trấn Biên (nơi đầu Biên Giới), Bình Khương sau đến Bình Thuận” Để dẫn
chứng nữ sĩ Như Hiên liệt kệ một số địa danh có chữ Bình và chữ Tân ở xứ Gia
Định.
-
Ngã 3 Tân Minh (bên phải – Km 1750): Rẻ phải sẽ đi vào huyện Hàm
Tân, đi thêm
khoảng 22km
nữa sẽ đến Thị trấn La Gi hay còn gọi là ngã ba 46 (vì La Gi cách Phan Thiết
46km). từ ngã 3 Hàm Tân đi đến Dinh Thầy Thím 18km, đây là 1 di tích tôn giáo
đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá.
DINH THẦY
THÍM
Kính thưa quý
du khách! Hệ thống tín ngưỡng & thờ phụng trong dân gian nước ta đã được
xếp đặt một cách có thứ tự và rất nghiêm chỉnh.
. Chùa là nơi thờ phật
. Am là một chổ nhỏ để 1 hoặc 1 số ít người tu hành (am được cất sơ sài, am
ở trong hang gọi là am cốc).ở Nam Bộ trong vùng núi Bà Đen và Núi Sam, Thất Sơn
(Châu Đốc – Tịnh Biên) có nhiều người cô độc tu trong hang, lập thành khá nhiều
am, dân gian gọi là Cốc, cũng có nghĩa là Am Cốc, Amcó thờ Phật gọi là Am Tự
(như Phù Dung Am Tự ở Hà Tiên).
. Đền có kiến trúc lớn, nghiêm trang để thờ Vua hay Tướng Quốc có công lớn
với đất nước, dân tộc, như: đền Hùng, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ trần Hưng
Đạo, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Trung Trực…
. Đình là 1 ngôi nhà thờ những người có công với làng xã, địa phương, tỉnh,
phủ
. Phủ là nơi thờ những người sau khi chết hiển linh qua nhiều thời kỳ, được
nhân dân, triều đại sùng bái như: Phủ Thiên Hương ở Nam Định (còn gọi là Phủ
Giầy) thờ Bà Liễu Hạnh được suy tôn là Mẫu Nghi Thiên Hạ, được sắc phong là
Thượng Đẳng Thần.
Dinh là nơi thờ những người trong dân gian chết về sau hiểnlinh được nhân
dân đa phần là ngư phủ ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ sùng bái xây dựng rất trang
trọng để thờ phụng và cúng tế hàng năm như: Dinh Cô ở Long Hải, Dinh Cậu ở Phú
Quốc, Dinh Bà (thờ Thủy Long Thánh Mẫu)
ởPhú Quốc – Kiên Giang.
Vạn là nơi thờ Cá Ong (Cá Voi) được ngư phủ tôn làm “Thần Nam Hải” (thần
biển). Vạn ở vùng chài lưới gọi tát là Vạn Chài cũng tương đương như các đình
làng ở các vùng làm nông nghiệp.
Miếu là nơi thờ những người được kính trọng có nhiều công đức đối quần
chúng, nhân dân địa phương.
Miễu nhỏ hơn Miếu, có khi là cái chói bằng cây hoặc cái nhà nhỏ không
cửa năm ở bên vệ đường chổ thường xuyên
xảy ra tai nạn giao thông để thờ những
người vô danh hay bất ngờ bị chết (bất đắc kỳ tử).
Nhân dân Bình Thận và nhiểu địa phương ở Nam Bộ đã tuân theo trật tự tính
ngưỡng thờ phụng này 1 cách nghiêm chỉnh phù hợp với phong tục tập quán truyền
thống và văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Dinh Thầy Thím (DTT) là 1 cơ sở tín
ngưỡng dân gian khá nổi tiếng , được du
khách hành hương đến lễ bái tham quan rất đông.
DTT tọa lạc ở giữa khu rừng dầu Bàu Cái thuộc xã Tân Hải huyện Hàm Tân,
cách TP. Phan Thiết 70Km về hướng Đông Nam.
Thầy Thím là 1 cách gọi dân dã vừa nghiêm túc vừa thân thương của người Nam Trung Bộ & Nam Bộ dành cho
1 dôi vợ chồng đc sùng kính tương truyền như sau:
Vào giữa TK XIX dười triều Vua Tự Đức nhau Nguyễn có đôi vợ chồng đạo sỹ
quê ở làng Qua La, Phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, Thầy sinh năm 1803 (năm Gia
Long thứ 2) nhà nghèo lận đận trong thi cử nên Thầy đi tầm sư học đạo & trở
thành 1 người có phép thuật cao cường. Theo truyền thuyết làng thầy rất nghèo,
dân làng luôn mơ ước có 1 ngôi Đình làng Bát Nhị, vào 1 đêm mưa to gió lớn sáng
ra dân làng đã thấy có 1 cái Đình Bát Nhị ngay giữa làng, hay tin quan trên đã
cho quân lính tới bắt Thầy và kết án tử hình. Người ta kể rằng trước khi chết
Thầy xin 1 tấm vải lụa vẽ hình rồng lên trên tấm vải làm phép rồi bảo Thím cùng
ngồi lên, khi Thầy chấm đôi mắt cho rồng tự nhiên rồng từ tấm vải bay lên chở Thầy
Thím về Phương Nam trước sự kinh hoàng của quan phủ.
Hai vợ chồng đã dừng chân tại làng Tam Tần ngày ngày bốc thuốc chữa bệnh
cho dân và vào rừng đốn củi kiếm sống qua ngày, tài đức của đạo sĩ nồi tiếng
khắp vùng nên dân làng đã kính cẩn gọi 2 vợ chồng đạo sĩ là “Thầy Thím”, khi 2
vợ chồng Thầy Thím qua đời, dân làng cho mai táng chu đáo và cho xây Dinh để
thờ phụng, theo truyền thuyết Dinh Thầy Thím được xây dựng về hướng Đông nhưng
qua 1 đêm thì mọi người thấy Dinh quay về hướng Tây và dân làng cho đó là ý
nguyện của Thầy.
Dinh Thầy Thím (DTT) có kiến trúc theo kiểu Đình Làng, bao gồm các công
trình : chính điện , nhà thờ Tiền Hiền, Võ Ca…trong khám thờ chính điện còn 2
bài vị thờ Thầy Thím & nhiều bức hoành phi ca ngợi công đức của 2 người.
Dinh được xây dựng quy mô vào năm Kỷ Mảo (1879). Ngày nay chúng ta nhìn thấy
trên thanh xà gồ của Dinh khắc dòng chữ Hán “Kỷ Mảo niên thập nhị nguyệt nhị
thập ngũ nhật kiến tạo”
Cách DTT chừng 5km là khu vực mộ của Thầy Thím ,tại đây có 4 ngôi mộ được
đắp bằng cát trắng khá lớn theo dân gian đây là 2 ngôi mộ của Thầy Thím, 2 ngôi
mộ còn lại là mộ củq đệ tử của Thầy.
DTT từ 1TK qua là một nơi khá nổi tiếng được nhân dân khắp nơi đến chiêm
bái không dứt, ngày nay Dinh đã trở thành 1 thắng cảnh du lịch nhờ có ưu điểm
về thiên nhiên bao quanh như: bãi biển, đồi dương và núi rừng. Hằng năm nhân
dân khắp nơi đến viếng mộ và thăm Dinh, đông nhất là vào dịp giỗ Thầy ngày 5
tháng giêng âm lịch và tiết thu của Dinh từ ngày 14 – 16 tháng 9 âm lịch.
DTT được UBND tỉnh Bình Thuận công
nhận và ra quyết định bảo vệ khu thắng cảnh này. Quyết định số: 1377-QĐ-UBBT
ngày 06 tháng 12 năm 1993 và bộ văn hoá thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc
nghệ thuật năm 1997.
Những câu
chuyện về SỰ TÍCH THẦY THÍM
Dinh Thầy
Thím - làng Tam
Tân (nay thuộc xã Tân Tiến, Thị xã LaGi) không những thu hút riêng với những
người có tín ngưỡng mà còn nhiều thành phần khác trong xã hội vì tính kỳ tích
và khung cảnh thiên nhiên ở đó. Những ngày giáp lễ tế thu của Thầy: Tức rằm
tháng Chín âm lịch, có hàng vạn lượt người từ các tỉnh phía Nam, miền Trung và
thành phố Hồ Chí Minh dồn về đây vô cùng náo nhiệt.
Những ngày đó
dù phải trải qua chặng đường cát, sỏi đang bị xuống cấp nặng nề cách xa huyện
lỵ Hàm Tân gần 12 km nhưng có hàng trăm chiếc xe ô tô đưa đón khách thập phương
đi cúng bái và viếng cảnh.
Tổ chức Hội
dinh Thầy Thím vốn được hình thành và kế tục hoạt động từ trước tới nay gồm
những người dân chất phác, thuần hậu ở địa phương trực tiếp điều hành cùng với
sự tự nguyện của khách thập phương đã góp phần tôn tạo dinh nên cơ ngơi này
ngày càng bề thế hơn. Không những thế, có người cảm nhận được tinh hoa của vùng
đất mang đậm truyền thống lịch sử đã hiến tiền xây trường học, thuốc chữa bệnh,
sửa chữa đường xá… bằng tấm lòng từ tâm, thiện ý.
Trong không khí sinh hoạt rất đặc thù như thế, chính quyền địa phương với chủ trương cởi mở, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho nhân dân bày tỏ sự tưởng vọng của mình. Dinh Thầy Thím ngày nay trở thành một di tích mang tính văn hóa đồng thời có thể coi đây là một địa điểm du lịch hấp dẫn trong quần thể thắng tích của Hàm Tân.
Trong không khí sinh hoạt rất đặc thù như thế, chính quyền địa phương với chủ trương cởi mở, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho nhân dân bày tỏ sự tưởng vọng của mình. Dinh Thầy Thím ngày nay trở thành một di tích mang tính văn hóa đồng thời có thể coi đây là một địa điểm du lịch hấp dẫn trong quần thể thắng tích của Hàm Tân.
Ngày xưa ở
làng La Qua, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam có một đạo sĩ giàu lòng nhân ái, phép
thuật cao siêu được mọi người ngưỡng mộ bởi những nghĩa cử hết sức phi thường.
Do bị Triều đình xử tội oan nên đạo sĩ cùng vợ hóa phép đào thoát rất ly kỳ.
Vùng đất Tam Tân trở thành nơi tập hợp biết bao câu chuyện linh hiến được
truyền tụng liên quan đến vợ chồng đạo sĩ vô danh đó nhưng bằng tấm lòng sùng
bái người dân địa phương gọi là Thầy Thím.
Thầy sinh
dưới thời Gia Long thứ 2. Thuở thiếu thời Thầy cũng đeo đuổi con đường học hành
để có công danh nhưng mấy lần thi cử không thành nên tìm thầy học đạo, nuôi chí
giúp đời. Sau khi đắc đạo thì Thầy gặp đại tang, cha mẹ đột ngột qua đời. Thầy
ẩn nhẫn sống đời kham khổ, biết trọng nghĩa, thương người nên bà con xóm làng
quí mến.
Thầy cưới vợ
người làng Yến Nê, cùng tỉnh. Quê làng của Thầy Thím quanh năm bị mất mùa, hạn
hán. Đời sống của người dân cơ cực, cơm không đủ no, khi ốm đau kể như tuyệt
vọng. Có lần, trước cơn nắng hạn, đồng lúa có nguy cơ bị cháy nặng thì Thầy
đứng ra khẩn nguyện, lập tức trời chuyển mây đen và mưa tầm tả. Ruộng lúa hồi
sinh như một phép lạ. Lòng nhân ái của Thầy trước những cảnh huống tai ương đã
làm cho mọi người thán phục và danh tiếng Thầy lan rộng khắp nơi.
Nhân một dịp lễ cúng đình hằng năm, Thầy cảm thấu niềm hoài bão của dân làng về một ngôi đình tương đối để làm nơi thờ phụng tiền hiền, tổ tiên. Thầy nghĩ đến những người nghèo khó mà có lòng như thế thật đáng quí biết bao. Trong khi đó ở làng Bát Nghị kề bên có đình thờ xây cất nguy nga mà không người lai vãng. Rồi một đêm cuối đông, cuồn phong dữ dội, sấm sét đầy trời như báo điềm lạ. Quả thật, khi mọi người tỉnh giấc thấy một ngôi đình mới, mái ngói đỏ au thay thế mái đình lợp tranh, vách đất hư nát trước đây. Nỗi kinh ngạc lẫn niềm vui của người dân trong làng đang còn náo nức thì làng Bát Nhị trống giục liên hồi báo tin làng mất và hương chức ở đó cấp báo về triều tố cáo Thầy đã dùng phép ma tà thuật đánh cắp đình làng. Vua không tin nhưng vẫn xa giá đến tận nơi để biết rõ thực hư. Thầy đến trước mặt vua bày tỏ nỗi lòng vì thương dân mà mắc tội. Vua thầm phục tài Thầy có phép thuật cao siêu nhưng phải gìn giữ luật nước mà nghiêm minh xử trị. Thế là vua ban xử Thầy chịu án “Tam ban Triều diễn” (tức tội hình chết chém hoặc uống độc dược hoặc tự thắt cổ).
Nhân một dịp lễ cúng đình hằng năm, Thầy cảm thấu niềm hoài bão của dân làng về một ngôi đình tương đối để làm nơi thờ phụng tiền hiền, tổ tiên. Thầy nghĩ đến những người nghèo khó mà có lòng như thế thật đáng quí biết bao. Trong khi đó ở làng Bát Nghị kề bên có đình thờ xây cất nguy nga mà không người lai vãng. Rồi một đêm cuối đông, cuồn phong dữ dội, sấm sét đầy trời như báo điềm lạ. Quả thật, khi mọi người tỉnh giấc thấy một ngôi đình mới, mái ngói đỏ au thay thế mái đình lợp tranh, vách đất hư nát trước đây. Nỗi kinh ngạc lẫn niềm vui của người dân trong làng đang còn náo nức thì làng Bát Nhị trống giục liên hồi báo tin làng mất và hương chức ở đó cấp báo về triều tố cáo Thầy đã dùng phép ma tà thuật đánh cắp đình làng. Vua không tin nhưng vẫn xa giá đến tận nơi để biết rõ thực hư. Thầy đến trước mặt vua bày tỏ nỗi lòng vì thương dân mà mắc tội. Vua thầm phục tài Thầy có phép thuật cao siêu nhưng phải gìn giữ luật nước mà nghiêm minh xử trị. Thế là vua ban xử Thầy chịu án “Tam ban Triều diễn” (tức tội hình chết chém hoặc uống độc dược hoặc tự thắt cổ).
Trước giờ thi
hành án, Thầy xin vua một ân huệ cuối là cấp cho một tấm lụa đào để vợ chồng
Thầy múa một bài tạ tội cùng vua. Tấm lụa đỏ thắm quấn lấy Thầy Thím và linh
diệu thay biến thành con rồng từ từ bay lược trên không trung và xuôi về hướng
Nam trước sự kinh ngạc của vua quan và dân làng.
Khi bay qua làng Yến Nê, quê của Thím, rơi xuống một chiếc hài như để báo tin từ biệt rồi rồng lụa đưa Thầy Thím đến làng Tam Tân, thì đáp xuống. Từ đó, Thầy Thím dưới lớp áo người dân đi xa lập nghiệp bằng nghề đẵn gỗ, đóng ghe. Có một điều lạ là bên Thầy lúc nào cũng có một chiếc bầu khô không biết chứa đựng thứ gì trong đó. Nhân một hôm Thầy đi làm mà quên mang theo nên người chủ nhà Thầy trọ (tên là Cụ Hộ Hai) tò mò giở ra xem thì lửa từ bầu bốc ra làm cháy rụi cả căn nhà. Chuyện vỡ lỡ, Thầy làm lại căn nhà và vào lánh hẳn trong cánh rừng sâu, gần Bàu Cái. Thầy Thím cần cù khẩn ruộng, làm vườn sống cuộc đời ẩn dật.
Thầy nhận đóng ghe thuyền và giao rất đúng hẹn. Chưa ai một lần thấy được những thợ phụ giúp Thầy mà chỉ nghe tiếng búa rìu đẵn gỗ, tiếng đục đẽo vang cả góc rừng nhưng đến nơi thì vắng lặng chỉ có mỗi mình Thầy bên bầu rượu tiêu dao. Người ta tin rằng Thầy có phép “sái đầu thành binh” (tức gieo đậu mà hiện ra binh lính). Từ nơi đóng thuềyn ra cửa sông Tam Tân gần hai cây số, thế mà bằng sức mạnh vô hình nào đó Thầy đã đưa những chiếc thuyền đóng mới giao cho khách hàng. Một bầu nước có tên là Đường Ván được dân gian cho là dấu vết của những chiếc thuyền đẩy xuống bến sông.
Khi bay qua làng Yến Nê, quê của Thím, rơi xuống một chiếc hài như để báo tin từ biệt rồi rồng lụa đưa Thầy Thím đến làng Tam Tân, thì đáp xuống. Từ đó, Thầy Thím dưới lớp áo người dân đi xa lập nghiệp bằng nghề đẵn gỗ, đóng ghe. Có một điều lạ là bên Thầy lúc nào cũng có một chiếc bầu khô không biết chứa đựng thứ gì trong đó. Nhân một hôm Thầy đi làm mà quên mang theo nên người chủ nhà Thầy trọ (tên là Cụ Hộ Hai) tò mò giở ra xem thì lửa từ bầu bốc ra làm cháy rụi cả căn nhà. Chuyện vỡ lỡ, Thầy làm lại căn nhà và vào lánh hẳn trong cánh rừng sâu, gần Bàu Cái. Thầy Thím cần cù khẩn ruộng, làm vườn sống cuộc đời ẩn dật.
Thầy nhận đóng ghe thuyền và giao rất đúng hẹn. Chưa ai một lần thấy được những thợ phụ giúp Thầy mà chỉ nghe tiếng búa rìu đẵn gỗ, tiếng đục đẽo vang cả góc rừng nhưng đến nơi thì vắng lặng chỉ có mỗi mình Thầy bên bầu rượu tiêu dao. Người ta tin rằng Thầy có phép “sái đầu thành binh” (tức gieo đậu mà hiện ra binh lính). Từ nơi đóng thuềyn ra cửa sông Tam Tân gần hai cây số, thế mà bằng sức mạnh vô hình nào đó Thầy đã đưa những chiếc thuyền đóng mới giao cho khách hàng. Một bầu nước có tên là Đường Ván được dân gian cho là dấu vết của những chiếc thuyền đẩy xuống bến sông.
Dân làng Tam
Tân sống bằng nghề biển nên gạo thóc phải mua của thương buôn đường biển. Nhưng
lại gặp phải lão buôn gạo quái ác đã thao túng giá cả và còn gian dối trong cân
đong làm cho ai cũng oán thán. Thầy hóa phép tạo trận cuồn phong, mưa tuôn xối
xả làm chiếc ghe gạo biệt tăm. Sáng ra thấy chiếc ghe gạo nhẹ tênh không còn
một hạt. Lão thương buôn biết rõ ngọn nguồn và tỏ ra ăn năn xin Thầy độ lượng.
Sau những lời khuyên dạy với kẻ biết hồi tâm, Thầy bèn cho phép lạ. Không rõ từ
đâu, với chiếc bầu nhỏ của Thầy, gạo trút lên khoang thuyền và trong chốc lát
gạo đã đầy như củ.
Còn rất nhiều
chuyện kể về sự hiển linh của Thầy Thím như cứu người lâm nạn, giúp tiền cho
người làm ăn, tài chữa bệnh… Biểu lộ tấm lòng nhân hậu và lý tưởng giúp đời của
Thầy Thím vô cùng diệu kỳ, phong phú.
Cạnh Bàu Thông có một cây cổ thụ, hình dáng dị thường. Lưng chừng ở nhánh có một đoạn cây khô như ghim chặt vào lớp vỏ thân cây. Truyền thuyết cho rằng một hôm bầy quạ đến quấy rầy. Thầy đã dùng miếng gỗ đẽo thuyền quăng dọa bầy quạ và dính vào thân cây đó còn đến ngày nay.
Vào một hôm dân làng Tam Tân được tin Thầy Thím đã thác. Đến nơi thất sẵn hai chiếc quan tài, lòng ai cũng ngậm ngùi thương xót và đem chôn ở Bàu Thông gần đó. Những năm sau ngày Thầy Thím mất, cứ đến ngày mùng Năm tháng Giêng âm lịch có đôi bạch hổ từ đâu đó về tảo mộ rồi buồn bã ra đi. Để tỏ lòng biết ơn Thầy Thím lúc sinh thời, dân làng lập dinh thờ ngay địa điểm của Dinh hiện giờ. Dinh lúc đầu xoay về hướng Đông nhưng qua một đêm lại thấy xoay về hướng Nam. Người ta cho đó là ý của Thầy.
Nghe tiếng
đồn về công đức của Thầy Thím với những nghĩa cử cứu nhân độ thế hết sức cao
đẹp nên vua Thành Thái năm thứ 18 (năm 1906) đã xét lại án xử trước đây và sắc
phong: “Chí đức tiên sinh, Chí đức nương nương, tôn thần”.
Phan Chính (Theo BTC lễ hội
Dinh Thầy 2007)
HÒN BÀ
Hòn Bà là một hòn đảo nhô cao lên giữa biển, cách bờ biển Lagi huyện Hàm
Tân gần 2 cây só về hướng Ðông. Cách Phan Thiết khoảng 70 km về phía Ðông Nam.
Hòn Bà là
ngọn núi trẻ, trên núi có nhiều cây cổ thụ lớn. Nửa đầu thế kỷ XVII người Chăm
đã dựng lên một ngôi đền để thờ nữ Thần Thiên Y Ana, vị Thần thiêng liêng của
vương quốc Chămpa cổ. Cũng từ đây hòn đảo có tên là Hòn Bà. Ngôi đền thờ có kết
cấu kiến trúc và trang trí nghệ thuật giống như ngôi miếu của người Việt cùng
thời. Trong ngôi đền thờ, tượng nữ Thần Thiên Y Ana bằng đá, được các nghệ nhân
Chăm tạc từ một khối đá nguyên tại chỗ. Việc thờ tượng Bà ở trên đỉnh Hòn Bà
thể hiện sự tôn vinh của người Chăm với nữ Thần. Mặt khác ở những thế kỷ trước
đây, nghề biển là nghề chính thu hút đông đảo ngư dân Chăm ven bờ mà dấu vết
của những làng ngư cổ vẫn còn. Do vậy, việc thờ tượng Nữ thần ở đây cũng là sự
cầu mong cho Nữ thần phù hộ, cứu nạn cho họ trên biển. Hàng năm người Chăm ở
các nơi thường đến đây làm lễ cầu mưa và các nghi lễ tôn giáo khác.
Trong kháng
chiến chống Pháp do chiến tranh ngày càng các liệt, quân Pháp ngăn cấm không
cho dân làng đến đảo thờ cúng và việc đi lại khó khăn hơn cũng làm cho người
Chăm dần dần lãng quên đi ngôi đền. Chính sự lãng quên này đã tạo điều kiện cho
kẻ gian đánh cắp pho tượng Thần và những vật thờ linh thiêng trong ngôi đền cổ
cùng sự xuống cấp đổ nát của nó.
Mãi đến năm
1969 ngư dân ở Hàm Tân đã đóng góp tiền của xây dựng lại ngôi đền mới trên nền
ngôi đền cổ. Người Việt xây đền thờ Nữ Thần Thiên Y Ana của người Chăm nhưng
thực hiện các nghi lễ trong đền lại theo phương thức riêng và phong tục truyền
thống của người Việt. Ở đây luôn có một số người bảo vệ và chăm sóc ngôi đền.
Lễ hội ở đây là ngày giỗ Nữ Thần Thiên Y Ana mà dân địa phương gọi là ngày
Vía Bà. Nghi lễ được tổ chức vào ngày 23 tháng 3 âm lịch hàng năm. Vào ngày này
nhân dân ở khắp nơi ra đảo rất đông bằng phương tiện ghe thuyền, trong số đó có
rất đông người Chăm ở Hàm Tân và các nơi khác đến viếng Bà.
Hòn Bà người ta biết đến và ngưỡng mộ không phải chỉ bằng ngôi đền
cổ mà còn vì ở đây là hòn đảo cheo leo giữa biển nên hấp dẫn mọi người bằng
chính cảnh đẹp thiên nhiên với đồi đồi duơng thơ mộng cộng với sự hùng vĩ mênh
mông của biển cả.
HÒN BÀ – DẤU
CHẤM THAN CỦA MỘT CHUYỆN TÌNH
Các địa danh
xứ biển rất dễ nhận ra bởi một kỳ quan thiên nhiên hay một bờ đá hoang sơ nào
đó. Nhưng với La Gi độc đáo bởi một hòn đảo nhỏ đơn côi giữa màu xanh mênh
mông, có thể tưởng tượng đó là một nốt nhạc được nâng lên từ những làn sóng
biển hiền hòa. Chỉ vài nét vẽ bờ biển hàng dương và Hòn Bà trên mảng trời xanh
biển cả đủ dựng thành biểu tượng xứ biển La Gi tràn nắng và thơ mộng.
Cách bờ biển
Đồi Dương Tân Lý, thị xã La Gi (tỉnh Bình Thuận) khoảng hơn 2km có một hòn đảo
nhỏ như đột ngột nhô lên được gọi là Hòn Bà. Trên mặt biển mênh mông, đảo mang
dáng vóc con rùa khổng lồ đang vươn mình trên sóng bạc bơi về hướng Nam.
Sách
Đại Nam Nhất Thống Chí (tập 12) có ghi rằng: “Đảo
Thiên Y ở ngoài cửa tấn La Gi, phía nam huyện, tục gọi là Hòn Bà. Đảo ấy chu vi
hơn 200 trượng, từ mặt nước đến trên đỉnh 30 trượng, cây cổ thụ sum suê. Trên
đỉnh núi có ngôi đền cổ thờ tượng đá A-diễn-bà...”
Đó
là theo mô tả của người xưa. Nhưng trên thực tế, Hòn Bà chỉ rộng khoảng 2,8 ha,
đường vòng chân đảo 700m. Xung quanh đảo là đường bờ đá và san hô ngầm nên hiếm
hoi chỉ có một bãi cát nhỏ hướng về phía đất liền.
Trời
tháng ba êm ả, thuyền máy đi từ cửa biển la Gi mất 40 phút và thuyền không thể
cặp sát bờ để tránh va vào gành đá. Lần theo một trăm hai mươi bậc thềm đá để
lên đỉnh đảo, ai cũng có cảm giác chập chờn giữa bóng mây trôi và màu sông
nước. Đỉnh đảo cao hơn mặt nước 40m này chỉ có một mặt bằng tương đối dành cho
ngôi miếu “Thiên-y-tự” làm nơi thờ Bà Chúa xứ. Nguyên mẫu tượng bà đang ngự
trên ngai, mặt quay về hướng đông là một tảng đá do thiên nhiên tạo dựng. Những
năm về sau, ngư dân địa phương với lòng sùng bái đã tôn tạo thêm và xây mới
tượng Phật Quan Âm đứng cao giữa đỉnh đảo.
Huyền
thoại về Hòn Bà qua truyền khẩu nhiều đời, dẫu có những chi tiết khác nhau
nhưng vẫn là câu chuyện tình đầy tính sử thi. Người ta kể rằng, xưa có đôi vợ
chồng trẻ sống thật hạnh phúc bên nhau trên mảnh đất La Gi khi chưa có
dấu chân người, tưởng chừng không có gì thay đổi được. Một hôm, người chồng
thẫn thờ nghe tiếng con chim lạ hót đã gieo vào lòng chàng bao điều nghĩ ngợi,
bàng hoàng. Thế rồi chàng xách ná, tên đi theo tiếng chim mãi về hướng núi xa,
với hy vọng sẽ gặp điều may mắn. Đến một vùng đất lạ, thú rừng không gặp nhưng
hoa ở quanh chàng hiện ra khung cảnh của ngàn hoa và những hình bóng mỹ nữ diễm
kiều. Chàng quên cả lối về với người vợ chân quê.
Ở
nhà, nàng nóng lòng bên chảo nước réo sôi, lửa lại sắp tàn, mòn mỏi ngóng chờ
chàng mang về những con thịt rừng và tấm da thú màu lông sặc sỡ. Ngày tiếp
ngày, nàng vẫn kiên trì nhóm hồng bếp lửa để giữ cho chảo nước luôn sôi. Nhưng
trong một đêm được báo mộng, người vợ hiểu ra chàng đã phụ bạc, quay lưng với
tình yêu nồng ấm ngày nào nên nàng nổi cơn ghen, hất đổ chảo nước đang sôi như
một lời thề đoạn tuyệt. Nàng dậm chân ba dậm, Động Bà Sang bỗng tách một phần
đất để trở thành hòn đảo cô đơn chia lìa với bao kỷ niệm. Đó là Hòn Bà!
Trên
phần đất tiếp giáp giữa huyện Hàm Tân và Xuyên Mộc (Bà Rịa – Vũng Tàu) có suối
nước nóng Bình Châu. Người ta nói là dấu tích chảo nước sôi bị bà đạp đổ. Còn
nói về người chồng, có lẽ gặp điều trắc ẩn mà không có cơ hội giãi bày nên ngàn
năm đứng mãi ở ngọn núi cao, trông ngóng về hướng biển đông thương nhớ người vợ
thủy chung. Địa danh Núi Ông ở huyện Tánh Linh (Bình Thuận) lại gắn với sự tích
ở miền biển này.
Ở
ngay lối lên đỉnh Hòn Bà có một am thờ ông Cai, cạnh ngay gốc cây trôm già. Có
một câu chuyện nhỏ: Người ta nói có một thương buôn khi cặp thuyền ghé đảo núp
gió, rung động trước nhan sắc của người chủ đảo, không cầm lòng được nên đã lỡ
lời thô lỗ, suýt vong mạng. Nhưng Bà đã tha thứ và người thương buôn này xin
tình nguyện làm kẻ hầu hạ bà suốt đời.
Huyền
thoại về Bà Chúa Ngọc đậm nét phong tục, tập quán dân tộc Chăm trong thần thoại
Po-I-Nư_Ga nhưng được pha trộn những đặc trưng về chuyện bà Chúa Ba Nam Hải và
gần gũi với tình cảm của người dân lao động biển ngày xưa. Sự tích bà Thiên Y A
na được thờ ở điện Hòn Chén (Ngọc Trản) làng Hải Cát (Thừa Thiên) và tại Tháp
Bà (Nha Trang) với bài bia của Phan Thanh Giản lập từ năm 1856, nói về cô con
gái của một gia đình nghèo nhưng nết na, duyên dáng do bị rầy la nên hóa thân
vào khúc gỗ kỳ nam trôi dạt trên biển. Nhưng duyên trời đã định, thái tử Trung
Quốc vớt đem về và từ thân cây kỳ nam hiện ra một mỹ nhân, thái tử xin vua cha
cho kết hôn với nàng. Nhưng vẫn một lòng thương nhớ quê nghèo, nàng mang hai
con biến vào cây gỗ trầm hương xuôi về nam để trở về thờ phụng cha mẹ và dạy
dân nhiều cách mưu sinh. Sau này người dân Chăm nhớ ơn, tạc tượng trên núi để
thờ và với người vùng biển coi như nữ thần cứu nhân độ thế.
Những
tàn cây xanh cổ thụ với vô số khối đá muôn vẻ muôn hình, quanh năm xanh biếc
như được đánh thức để định hướng cho những con thuyền khẳm đầy cá mực từ khơi
xa về lại bến bờ. Hòn Bà, chiếc phao tin cậy cho những con thuyền mải mê trên
ngư trường rộng lớn, hấp dẫn của nghề cá La Gi.
Dùng
chiếc dao sắt hoặc viên đá để tự khai thác những con hào có bộ vỏ sần sùi bám
trên gành đá ẩm mặn nhiều vô kể. Một chút muối tiêu, chanh đã đủ nghe hương vị
của biển trời. Độc đáo là những con “vú nàng”, khi được luộc chín thì không còn
thứ mỹ vị nào sánh được và phải nhớ mãi như kẻ tương tư...
Ngồi
trên gành đá chân đảo nhìn qua làn nước biếc xanh như ngọc, thấy những chòm san
hô lấp lành và từng đàn cá tôm hồn nhiên bơi lội dễ quên ta đang ở giữa biển
mênh mông. Khung cảnh hữu tình như thế nên có lời ví von: “Hòn Bà là động tiên
sa”. Điều đó thật thấm thía khi từ nơi đây nhìn vào đất liền bắt gặp mái phố La
Gi và Đồi Dương xa tắp, mới cảm nhận hết điều kỳ diệu của thiên nhiên.
Ngày
23 tháng 3 năm âm lịch hằng năm là ngày vía Bà, cũng là ngày lễ hội cầu ngư của
người dân xứ biển địa phương.
(Trích từ
Huyền thoại xứ biển - Phan Chính )
MŨI KHE GÀ – NGỌN HẢI ĐĂNG CỔ NHẤT MIỀN NAM
Có người gọi là Mũi Kê Gà nhưng xin thưa Quý khách tên Mũi Khe Gà là tên
gọi đúng nhất bởi vì người ta đã căn cứ vào hình dáng đảo mà đặt tên. Thông
thường những địa danh ven bờ do người đi biển đặt ra khi nhìn thấy hình dáng và
cảnh vậttừ ngoài khơi. MKG cũng vậy có từ hơn 300 năn trước và được ghi trong
“vè thủy trình” vốn là những câu hát của ngư phủ khi lái ghe di chuyển dọc theo
bờ biển để nhắc nhở nhau đã đi qua và sắp tới địa danh nào (thời kỳ đó chưa có
Hải Đồ). Vè Thủy Trình có 02 bài, có 180 câu, gồm 1 bài “hát vô” dành cho lái
ghe từ Thừa Thiên – Huế – Quảng Nam đi vào hướng Đồng Nai và 1 bài “Hát ra” khi
lái ghe trở về.
Trong bài “Hát vô” có những câu (từ câu
1953 – 1958)
“Ghe thuyền tụ tập từ xa
Phú Hài. Phan thiết ấy là trạm chung
Hỡi ơi đốn củi Gành Thông
Sơn Lâm một gánh chất chồng 2 vai
Khe Gà nay đã đến nơi
Anh em làm lễ một hồi cho qua”
Chắc quý khách còn đang thắc mắc tại sao “làm lễ một hồi cho
qua” tại vì MKG này ghe thuyền nào cũng
sợ vì đây là khu vực hiểm yếu thuyền buồm qua lại thường bị đắm do không xác
định được vị trí dẽ bị sóng tạt ghe thuyền va vào đá ngầm. Bởi thế các thế hệ
ngư phủ đi biển xưakhi đi ngang qua dây đều phải lo làm lễ với Hà Bá, thần biển
cầu xin cho ghe thuyền qua lại được dể dàng.
Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí của Trịnh Hoài Đức ghi như sau:
ở phía Tây huyện Tuy Lý cách 52 dăm sát biển có những hòn đá lớn ngang ta biển.
Ơ ngoài có hòn đảo tên gọi Kê Dữ (đảo Gà) đảo Khe Gà cách bờ biển 500m vào
những ngày nước ròng người dân ở đây có thể lội qua đảo, lúc cường triều sóng to
gió lớn việc đi lại rất khó khăn.
Trên đảo có ngọn Hải Đăng (NHĐ) tương đối đồ sộ, đây là NHĐ cao
và xưa nhất nước, NHĐ này trước đây do 1
người Pháp Chnavat thiết kế, xây dựng để hướng dẫn tàu thuyền qua lại. Khởi
công xây dựng từ tháng 02 năm 1897 khánh thành vào năm 1898, nay vẫn còn 1 tấm
đá hoa cương lớn ở ngay trước cửa vào Hải Đăng khắc số 1899 và ngọn Hải Đăng
này chính là thức họat động năm 1900.
trong thời gian xây NHĐ đã xảy ra đại nạn làm nhiều người chết, nay vẫn còn
nhiều mồ chôn người bỏ mạng vì công
trình này .
NHĐ được xây dựng bằng đá
hoa cương có hình trụ cột, tám cạnh, không rõ người Pháp xưa kia đã đem đá hoa
cương từ đâu tới vì vùng này không có đá hoa cương. Đây không phải là những
viên đá 4 góc bình thường mà tất cả những khối đá hoa cương dùng để xây dựng
đều được chạm khắc thành từng ô có hình cạnh khớp với nhau giống như là những
khối đá đã được dùng xây tháp rồi được tháo rời ra và lắp đạt để xây NHĐ Khe Gà mà khi ráp, xây chỉ cần đặt lại theo
đúng thứ tự từng góc cạnh từ dưới chân lên trên và người thợ chỉ cần đưa vữa
trát vào là các khối đá dính chặt vào nhau mà không cn phải tô láng sửa chữa gì
hết.
Tháp Đèn cũng được xây
bằng đá cao 35m độ cao của toàn bộ từ
dưới mặt đất lên tới đỉnh có chóp đèn là 41,5m, độ cao từ tầm ngọn đèn đến mặt
biển là 65m, kích thước của mỗi cạnh ở chân tháp là 2m60, chiều dày của tường
tháp từ chân tháp đến độ cao 6m là 1m60, càng lên cao độ dày của tường lại càng
giảm là 1m50 và độ mỏng nhất của tường tháp khi lên tới đỉnh là 1m. Trên ngọn
tháp có bóng đèn lớn 2000w làm tín hiệu hướng dẫn các tàu bè qua lại.
Khi xưa NHĐ Khe Gà có 9
người điều hành gồm trạm trưởng người Pháp và 8 người Việt, ngoài NHĐ ở đây còn
có 1 ngôi nhà lớn hình vuông mỗi cạnh 40m, dưới nhà là hầm chứa sâu 3m, trước
nhà có 1 cái giếng gọi là Giếng Tiên. Từ mí nước biển lên đến NHĐ có hàng chục bậc cấp và 2 hàng cây hoa sứ
được người Pháp trồng xưa kia dọc theo lối đi và xung quanh chân NHĐ (từ cuối
TK XIX) nay vẫn còn nguyên vẹn và tỏa bóng mát quanh năm.
Để đi lên tới đỉnh
NHĐ chúng ta sẽ phải leo lên 184 bậc
thang xoắn ốc bằng thép và hàng chục bậc cấp dẫn lên tới đỉnh đèn, tất cả đều
được vận chuyển từ Pháp qua kể cà ngọn đèn trên đỉnh và máy phát điện.
Hiện nay trên đảo Khe Gà
và NHĐ trở thành 1 điểm tham quan thu hút du khách. Nó vừa là di tích kiến trúc
vừa là thắng cảnh biển nên thơ và trữ tình.
NÚI TÀKOU – CHÙA LINH SƠN TRƯỜNG THỌ
Núi TaKou (còn gọi là Núi Tà Cú) nằm ven Quốc Lộ 1ª thuộc xã Tân Lập
huyện Hàm Thuận Nam, cách TP. Phan Thiết khỏang 28km. Đây là một ngôi cổ tự nổi
tiếng và là 1 điểm leo núi hấp dẫn, 1 thắng cảnh khung cảnh kỳ thú nhất của
vùng đất Bình Thuận.
Núi cao 475m từ dưới chân
núi du khách sẽ phải leo lên hàng trăm bậc cấp theo con đường ngoằn ngèo giữa
khu rừng cây hoang sơ mới lên được tới đỉnh. Nơi đây có 2 sơn tự cổ kính nổi
tiếng, đường lên đỉnh núi có quang cảnh hấp dẫn, thích thú đối với các bạn trẻ.
Từ ngày 12/9/2003 Công Ty Du Lịch Bình Thuận đã chính thức đưa hệ thống cáp
treo lên núi Tà Cú, hệ thống cáp treo dài 1.640m có 25 cabin (6 người/cabin) do
hãng Deppelmar (Ao) chế tạo và lắp đặt, giá vé 100.000đ/khách (khứ hồi) nhờ hệ
thống cáp treo này mà du khách đỡ vất vả mệt nhọc khi lên viếng cổ tự.
Ngôi chùa Linh Sơn Trường
Thọ do tổ sư Trần Hữu Đức (1812 – 1887) khai sơn lập thành, quanh năm ở đây có
cây xanh, suối chảy , chim vượn tạo nên 1 khung cảnh thiên nhiên kỳ thú. Thiền
sư Trần Hữu Đức quê quán tại Phú Yên vào TK XIX năm ông được 17 tuổi ông đã
cùng gia đình trôi dạt đến Phan Thiết, tại đây ông đã xuất gia, sau 15 năm tu
đạo Thiền Sư Hữu Đức đã một mình đi đến xứ Bàu Tràm lập ra một ngôi chùa để tu
luyện và suy ngẫm về giáo lý nhà Phật. Sau 30 năm ông trở thành một vị cao tăng
đác đạo và có rất nhiều đệ tử, ông còn bốc thuốc chữa bệnh cho nhân trong vùng
nên tiếng lành đồn xa.
Vào năm 1872 nhà sư Trần
Hữu Đức pháp danh Thông Am, pháp hiệu Hữu Đức đã từ bỏ tất cả đi đến sứ Bàu
Siêu lên núi Takou lập chùa . ban đầu chùa Tà Cú là một ngôi chùa lợp mái tranh
vách đất, trong thời gian này (năm Tự Đức 33) Canh Thìn (1880) ông đã được vời
ra kinh thành để chữa bệnh cho bà Từ Dũ (Mẹ của vua Tự Đức) thóat khỏi căn bệnh
hiểm nghèo. Vua Tự Đức ban sắc phong và đặt tên chùa là Linh sơn Trường Thọ, sư
Hữu Đức được ban danh xưng là “Đại Lão
Hòa Thượng”
Ngôi chùa dười Linh Sơn Long Đoàn đc xây dựng cũng vào cuối TK XIX theo ý nguyện của nhà sư trước khi viên tịch.
Qua nhiều thế hệ và thời
gian chùa được bàn tay kiến tạo của con người bồi đắp dần dần để có thể có
được một công trình đồ sộ nổi tiếng như
hiện nay không chỉ cho riêng tỉnh Bình Thuận mà cho cả vùng Nam Trung Bộ, tiêu
biểu nhất là pho tượng nằm (Phật Nhập
Niết Bàn) nằm ở vị trí cao cách chùa 100m . Tác phẩm độc đáo này do kỹ sư
Trương Đình Ý thực hiện vào năm 1962, cách đó chừng 50m là 3 nhóm tượng phật
gồm A Di Đà, Quan Thế Am Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. Cả 3 pho tượng có độ cao
khỏang 7m nét mặt hiền hòa như đang nhìn bao quát cả thế gian sãn sàng cứu nhân
độ thế, cụm tượng này còn được gọi là “Tịnh Độ Nhân Gian” Chùa Linh sơn Trường
Thọ được xây dựng nhằm phản đối việc đàn áp Phật Giáo của chính quyền Ngô Đình
Diệm lúc bây giờ. Chùa Linh Sơn Trường thọ cùng núi Takou và khu rừng trong khu
bảo tồn thiên nhiên đã được tỉnh Bình Thuận xếp hạng thắng cảnh quốc gia vào
năm 1993.
CÂY THANH LONG
Bình Thuận là nơi nổi
tiếng về cây Thanh Long, cây có nguồn gốc ở các vùng sa mạc Mexico và
Colombia, được trồng nhiều ở Nicaragua (Nam Mỹ). Vì thuộc họ xương rồng nên
Thanh Long (TL) thích hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu hạn tốt, chịu
được cường độ ánh sáng cao, thích hợp đất bạc màu, đất phèn..... Việt Nam là
nước duy nhất ở Đông Nam Á trồng và xuất khẩu TL, Việt Nam có tổng diện tích TL
khỏang 200ha vậy phân nửa diện tích còn lại nằm ở Long An, Tiền Giang và các
nơi khác.
Cây TL có mặt ở Bình
Thuận từ rất lâu đời ban đầu được trồng làm hàng rào. Đầu năm 1980 cây TL bắt
đầu được chú ý nhưng đến năm 1990 cây TL mới bắt đầu được trồng ở xã Hàm Hiệp
(Hàm Thuận Bắc), Phong Mẫn (TP.Phan Thiết), Hàm Mỹ, Hàm Thạnh (Hàm Thuận Nam)
rồi đến xã Bắc Bình, Tuy Phong. Và đến nay cây TL là cây có giá trịkinh tế ở
Bình Thuận. Cây có 2 lọai rễ: địa sinh hút chất dinh dưỡng dưới đất, khí sinh
bám vào thân cây để leo. Cây có 3 đến 4 đợt cành, đợt cành thứ nhất là mẹ của
đợt cành thứ 2. thời gian ra 2 đợt cành từ 40 – 50 ngày, cây một tuổi trung bình
30 cành, hoa thuộc lọai lưỡng tính, hoa của cây TL xuất hiện sớm nhất vào trung
tuần tháng 3 dương lịch kéo dài tới tháng 10. thời gian xuất hiện nụ cho đến
khi hoa tàn là 10 ngày sau đó sẽ phát triển thành trái, mất thêm 15 đến 25 ngày
để thu họach.
Cây TL được trồng bằng trụ gỗ, trên đầu gỗ người ta đóng 1 cây để cho TL
bám vào sau đó đễ phát triển thành trái,
mất thêm 15 đến 25 ngày để thu họach. Cây TL được trồng bằng trụ gỗ, trên đầu
gỗ người ta đóng 1 cây để cho TL bám vào sau đó người ta chặt thành hom ngắn
cắm xuống đất khỏang 3 – 4 ha rồi lấy dây buộc lên.
·
Thanh Long trái vụ: Có 1 người nuôi vịt
tình cờ quây màn xung quanh các trụ TL, ban đêm mắc bóng đèn lên trên những cây
TL để đề phòng kẻ gian, ko ngờ ít lâu sau những cây TL được mắc bóng đèn lại ra
trái sớm hơn những cây TL không mắc bóng đèn. Từ sự kiện này năm 1995 những người trồng TL đã áp dụng cho
mắc bóng đèn trong những vườn TL và đạt được kết quả rất khả quan đó là họ thu
họach được TL trái vụ. Đến tháng 12 năm 1997 hình thức này đã được áp dụng rộng
rái trong tòan tỉnh, nhiều nhà vườn đã giàu lên đột ngột do thu họach được TL
trái mùa. TL trái vụ có vỏ láng, trái lớn và có giá trị xuất khẩu cao.
Cây Thanh Long ở Bình Thuận: Giá trị thị
trường vẫn thấp
(TTTM) - Hiện 40% sản lượng thanh long của Bình Thuận được tiêu thụ ở
thị trường nội địa. Số còn lại dành cho xuất khẩu. Nơng dn trồng thanh long không
hưởng lợi nhiều trong chuỗi giá trị trái thanh long ở cả thị trường trong nước
lẫn xuất khẩu.
Mỗi năm nông dân Bình Thuận thu hoạch hai vụ thanh long: chính vụ
và trái vụ. Theo anh Việt - nông dân trồng thanh long ở xã Hàm Minh, huyện Hàm
Thuận Nam - vào mùa chính vụ, năng suất đạt 30 tấn/ha. Giá trung bình thanh
long chính vụ 3.000 đồng/kg. Mùa trái vụ, giá thanh long trung bình ở mức 6.000
đồng/kg, với năng suất mùa này 20 tấn/ha. Như vậy, người trồng thanh long thu
tiền bán trái là 210 triệu đồng/ha/năm.
Nông dân được bao nhiêu?
Trừ đi các khoản chi phí như phí lao động khoảng 35 triệu đồng, điện 30
triệu, phân bón 40 triệu, thuốc 2 triệu, chi phí cho việc phục hồi đất là 8
triệu đồng, thuế và các chi phí khác 2 triệu đồng. Tổng chi phí trồng thanh
long ở mức 117 triệu đồng/năm. Vị chi, sau khi trừ chi phí, nông dân trồng
thanh long vẫn dư được 93 triệu đồng/ha/năm. “Những năm trước, vật giá chưa leo
thang, làm một hecta thanh long có thể đủ trang trải cho gia đình. Nhưng với
giá cả hiện tại thì chúng tôi cũng chịu…”
Theo hiệp hội thanh long Bình Thuận, hiện trên địa bàn tỉnh có
khoảng gần 40 cơ sở thu mua thanh long. Đối với tiêu thụ nội địa, những cơ sở
thu mua lớn liên lạc với thương lái để báo giá theo thời điểm. Thương lái mua
và bán lại cho các cơ sở thu mua thanh long với giá cao hơn từ 10 – 15% so với
giá mua gốc từ nông dân. Cũng với quy trình như vậy, thanh long xuất khẩu được
các cơ sở thu mua với giá cao hơn giá nội địa từ 20 – 30%, nhưng tiêu chuẩn sản
phẩm khắt khe hơn.
Trần Văn Tám, một thương lái, chuyên thu mua thanh long ở huyện Hàm
Thuận Nam cho hay, ở thị trường nội địa, Hà Nội và TP.HCM là hai nơi tiêu thụ
chính. Giá loại thanh long tốt nhất mà các thương lái mua tại vườn để bán ra Hà
Nội khoảng 4.000 – 5.000 đồng/kg. Mỗi trái thanh long phải đạt tiêu chuẩn
500g/trái, quả tươi đỏ cịn đủ gai. Giá thanh long vào Sài Gịn loại tốt cũng ở
mức 3.000 – 4.000 đồng/kg, với trọng lượng nhỏ hơn, khoảng 300g. Nếu mua cả
vườn thanh long, đàm phán được với chủ vườn bán với giá 2.500 đồng/kg thanh
long, trừ chi phí, Tám lời khoảng 400 đồng/kg thanh long.
Giá trị xuất khẩu thấp do bán qua trung gian
Hiện 40% sản lượng thanh long của Bình Thuận được tiêu thụ ở thị trường
nội địa, 60% cịn lại xuất khẩu. Theo ơng Nguyễn Ngọc Hai, giám đốc sở Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Bình Thuận, hiện hơn 90% sản lượng thanh long
Bình Thuận xuất qua các quốc gia Châu Á còn lại là các thị trường khác như EU,
Nhật và một số quốc gia khác với thị phần rất thấp.
Thanh long Bình Thuận phần lớn xuất theo đường tiểu ngạch sang Trung
Quốc nên giá trị xuất khẩu không cao.
Theo quan sát của chúng tôi, suốt một chặng quốc lộ 1, dài khoảng gần
10km, ở huyện Hàm Thuận Nam, hai bên đường là những dãy dài xe container lạnh
đang chờ “ăn” thanh long. Gần như 100% điểm đến của những chuyến xe này là cửa
khẩu Tân Thanh. Từ bao nylon bọc trái thanh long, đến những thùng giấy xếp trái
đều được in bằng tiếng Trung Quốc. Dấu hiệu duy nhất còn lại để biết trái cây
có xuất xứ Việt Nam là dòng chữ “Phan Thiet Dragon Fruit”. B Thu, quản lý thu
mua của công ty Liên Phát cho biết, các đối tác Trung Quốc đưa qua những bao bì
này và buộc cơ sở phải đóng gói, họ mới chịu mua. Hiện công ty mua thanh long
với giá 4.000 đồng/kg, do đang vào cuối vụ.
Năm tháng đầu năm, Bình Thuận đã xuất 10.243 tấn thanh long vào Đài
Loan, Hong Kong, Trung Quốc, Thái Lan. Kim ngạch xuất khẩu đạt gần 7 triệu USD.
Giá xuất thanh long vào Đài Loan là 676 USD/tấn; Trung Quốc 413 USD/tấn. Đây là
những thị trường xuất khẩu chính của trái thanh long. Đa số các cơ sở xuất khẩu
thanh long ở Bình Thuận đều xuất qua trung gian, nên giá không cao. Vì vậy, họ
cũng khơng thể mua thanh long từ nơng dn với gi cao hơn. Ông Nguyễn Ngọc Hai
thừa nhận, hiện tỉnh Bình Thuận cĩ khoảng 30 doanh nghiệp xuất thanh long nhưng
chỉ vài doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu trực tiếp.
Đối với thị trường Châu Âu, trong sáu tháng đầu năm 2008, hợp tác xã Hàm
Minh chỉ xuất trực tiếp được 10 tấn thanh long theo tiêu chuẩn Eurepgap sang
thị trường Đức với giá gần 2 USD/kg thanh long. Số thanh long còn lại của 11 xã
viên l.250 tấn, hợp tác xã buộc phải xuất qua trung gian l những công ty xuất khẩu
rau quả của Việt Nam với giá chỉ ở mức 0,5 USD/kg, thấp hơn 1,5 USD so với xuất
trực tiếp. Hợp tác xã cũng không mua hết lượng thanh long “sạch” mà các xã viên
trồng theo tiêu chuẩn xuất khẩu sang châu âu, mặc dù, những nhà nông phải đầu
tư thêm 30 triệu đồng/ha cho thanh long “sạch”. Như chúng tôi đã đưa tin, đã có
tín hiệu cho thấy khả năng xuất khẩu thanh long qua Mỹ với giá cao. Nhưng nếu
không mở nhanh thị trường, thì đa số nông dân vẫn chấp nhận kiểu canh tác cũ,
để bán cho những thị trường dễ tính với giá rẻ.
Ông Nguyễn Thuận, Phó Chủ tịch hiệp hội thanh long Bình Thuận: Sản xuất
an tòan và đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu
để nâng giá trị thanh long
Cộng đồng người Việt và người Hoa, chưa kể những cộng đồng gốc Á khác ở
Mỹ, nếu họ chấp nhận thanh long Bình Thuận thì sẽ l một cơ hội lớn cho Việt
Nam. Xa hơn nữa, nếu hệ thống Wal - Mart phân phối thanh long Bình Thuận, loại
trái cây này có thể đi khắp thế giới. Mỗi năm Bình Thuận chỉ xuất khẩu được hơn
20 triệu USD thanh long, trong khi kim ngạch nhập khẩu trái cây của Mỹ trung
bình mỗi năm hơn 6 tỉ USD, nên Mỹ là thị trường đầy tiềm năng.
Cơ quan kiểm dịch thực vật Mỹ đã chính thức thông báo hai đơn vị có
chứng chỉ Eurepgap sẽ được xem xét cho phép xuất khẩu trực tiếp thanh long vào
thị trường Mỹ. Ngoài hợp tác xã Hàm Minh, công ty TNHH thanh long Hồng Hậu cũng
là đơn vị được chọn trong đợt này. Chứng chỉ Eurepgap là một lợi thế để nâng
cao giá trị xuất khẩu của trái thanh long. Vì vậy, tỉnh Bình Thuận đã có chủ
trương, trong thời gian tới yêu cầu và hỗ trợ cho nông dân trồng thanh long
trên toàn tỉnh Bình Thuận thực hành tiêu chuẩn Vietgap - quy trình thực hnh sản
xuất nông nghiệp tốt cho rau, quả tươi (Vietnamese Good Agricultural
Practices). Quy trình này áp dụng để sản xuất rau, quả tươi an toàn nhằm ngăn
ngừa và hạn chế rủi ro từ các mối nguy cơ ô nhiễm làm ảnh hưởng đến chất lượng
của sản phẩm. Dựa trên việc thực hành tốt những tiêu chuẩn này, chúng tôi sẽ
hướng nông dân trồng thanh long theo tiêu chuẩn Eurepgap.
Chúng tôi sẽ tăng cường liên lạc và vận động bà con Việt kiều xúc tiến
xuất khẩu thanh long. Đã có những Việt Kiều ở Canada về mua thanh long của Bình
Thuận và xuất sang Mỹ.
Vừa qua tỉnh Bình Thuận đã có những chuyến đi xúc tiến thương mại ở
Trung Quốc. Thông qua bộ Ngoại giao, tỉnh Bình Thuận sẽ tiếp tục có những
chuyến xúc tiến cho trái thanh long ở thị trường Đức, Pháp, Hà Lan, đặc biệt là
thị trường Mỹ vào năm tới.
Thanh long Bình Thuận: Cánh cửa xuất khẩu sang Mỹ đã mở
NDĐT - Những năm gần đây, cây thanh long ở Bình Thuận đã giúp cho hàng
nghìn người dân trên địa bàn có việc làm ổn định. Từ cây “xóa đói giảm nghèo”,
thanh long sớm trở thành loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế và thu nhập
cao. Giờ đây, sau hơn ba năm được tổ chức bán lẻ châu Âu cấp “hộ chiếu” gia
nhập với tiêu chuẩn Eurep GAP, thanh long Bình Thuận có thêm cơ hội vào một thị
trường lớn, uy tín của thế giới. Đó chính là thị trường nước Mỹ.
Trở về sau chuyến khảo sát, tìm hiểu thị trường Mỹ, ông Trần Văn Nhựt,
Giám đốc Sở Công Thương Bình Thuận vui mừng thông báo: Chuyến đi thực sự đã thu được thành công. Ngoài việc xúc tiến thương mại cho
các sản phẩm của địa phương, mục đích chính là nghiên cứu, tìm hiểu, xem cch
thức nhập khẩu thanh long như thế nào để tới đây đưa sản phẩm quả thanh long
Bình Thuận sang thị trường nước này. Trước đó ngày 30-7-2008, Hoa Kỳ đã đồng ý
cấp giấy phép nhập khẩu quả thanh long Việt Nam, và mới đây đại diện Cục kiểm
dịch thực vật của Bộ Nông nghiệp Mỹ đã chính thức trao chứng chỉ đạt chuẩn Nhà
đóng gói trái cây vào thị trường Hoa Kỳ cho Công ty TNHH Hoàng Hậu và Hợp tác x
Thanh Long Hm Minh để chuẩn bị cho đợt xuất khẩu.
Vậy là quả thanh long Bình Thuận đã được Chính phủ Mỹ cấp “visa” và dự kiến
vào tháng 10, chuyến hàng thanh long đầu tiên sẽ xuất sang thị trường Hoa Kỳ.
Đây không chỉ là tin vui của những hộ trồng thanh long mà cịn l tín hiệu mới
cho mặt hàng rau quả Việt Nam. Ông Trần Văn Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội thanh long
Bình Thuận kiêm Giám đốc Công ty TNHH Thanh Long Hoàng Hậu, doanh nghiệp được
chọn xuất chuyến hàng thanh long đầu tiên sang Mỹ vào tháng 10, cho biết: Từ
trước đến nay chúng tôi đã xuất sang các thị trường châu Á, Châu Âu... nhưng
thị trường Mỹ là nơi mà nhiều doanh nghiệp thanh long ở Việt Nam muốn được góp
mặt, bởi đây là thị trường tiêu thụ rất lớn và giá cả ổn định. Tới đây chúng
tôi sẽ xuất chuyến hàng đầu tiên sang Mỹ để “thăm dò” thị trường và có kế hoạch
cho thời gian tới.
Chợ thanh long xuất khẩu.
Chúng tôi đã tìm đến “thủ phủ” của cây thanh long ở Hàm Thuận Nam vào
những ngày đầu tháng 9. Mặc dù mưa dầm mấy ngày liền nhưng dọc hai bên đường 1A
dẫn xuống địa phận Hàm Thuận Nam, những đoàn xe đang tấp nập chở thanh long đến
nhập cho hàng chục điểm thu gom và các doanh nghiệp, kịp đóng gói vận chuyển đi
trong và nước ngoài. Cục kiểm dịch thực vật cấp giấy phép cho xuất khẩu thanh
long là điều khiến không chỉ các nhà thu mua vui mừng mà hơn 20 nghìn nhà vườn
thanh long trên địa bàn, trong đó các hộ ở huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam
mà chúng tôi gặp đều rất phấn khởi và hy vọng vào tương lai của cây thanh long.
Bà con nông dân Bình Thuận không chỉ vui vì giá bán thanh long tăng gấp nhiều
lần so với bán trong nước, mà hy vọng sẽ có cơ hội xuất hàng sang các thị
trường mới, nhiều tiềm năng về sau này. Niềm vui này không còn là chuyện riêng
của người trồng hay các doanh nghiệp kinh doanh thanh long mà là của cả ngành
nông nghiệp cũng như của tỉnh Bình Thuận.
Chị Minh Tâm, chủ doanh nghiệp thu mua thanh long ở Hàm Thuận Nam cho hay:
Thị trường cũng như người Mỹ rất khó tính và yêu cầu rất cao về an toàn thực
phẩm, nhưng quả thanh long Bình Thuận đã và đang được bảo đảm an toàn hơn từ
khâu trồng cho đến các khâu đóng gói, bảo quản nên khi thanh long vào Mỹ sẽ trở
thành mặt hàng được nhiều người ưa thích.
Anh Nguyễn Thuận, chủ trang trại thanh long đạt tiêu chuẩn Eurep GAP, cũng
là Chủ nhiệm HTX Thanh Long Hàm Minh có thâm niên chuyên về xuất khẩu thanh
long, chia sẻ: Nhiều năm nay, dù chưa xác định thanh long của Bình Thuận sẽ có
ngày lên đường sang Mỹ, nhưng chúng tôi vẫn thực hiện các biện pháp sản xuất an
toàn và khuyến khích bà con bảo đảm quy trình đúng tiêu chuẩn Eurep GAP. Nay
được cho phép vào Mỹ, nhiều nhà vườn nơi đây tiếp tục đầu tư cơ sơ hạ tầng, mở
rộng diện tích để đáp ứng nhu cầu thị trường và ai cũng phấn khởi, tin tưởng
vào chất lượng, uy tín của thương hiệu thanh long Bình Thuận.
Trong chiến lược phát triển cho trái thanh long, ngoài các thị trường quen
thuộc như Trung Quốc, Malaysia, Thailand, các nước châu Âu, Canada, Trung
Đông..., Bình Thuận sẽ hướng đến hai thị trường lớn là Mỹ và Nhật Bản. Theo ông
Ngô Minh Hùng, Phó giám đốc Sở Công thương Bình Thuận thì gần đây các doanh
nghiệp Nhật Bản cũng rất quan tâm đến mặt hàng này. Mới nhất là chuyến thăm và
làm việc tại Công ty TNHH thanh long Hoàng Hậu, các doanh nghiệp thành phố
Osaka đ đặt vấn đề hợp tác đầu tư hệ thống xử lý hiện tượng ruồi đục quả bằng
phương pháp nhiệt. Nếu được trang bị hệ thống xử lý hiện đại này, cùng với các
chứng nhận vệ sinh theo tiêu chuẩn châu Âu của một số trang trại và các cam kết
trồng thanh long an toàn từ các nhà vườn thì thanh long Bình Thuận sẽ sẵn sàng
đi ra nhiều nước trên thế giới. Mới đây, Bộ Nông nghiệp Mỹ cũng đã cấp “một
số-mã vùng” cho các vườn thanh long ở 11 xã của Bình Thuận chuyên canh cây
thanh long.
Trong chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Bình
Thuận vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh: “Trái thanh long Việt
Nam giờ đã có thêm thị trường mới là Hoa Kỳ. Do vậy Bình Thuận phải nắm lấy cơ
hội này để xây dựng thương hiệu thanh long an toàn, chất lượng cao, xuất khẩu
sang Hoa Kỳ và Tây Âu, nâng cao thu nhập cho nông dân và góp phần làm giàu cho
đất nước”.
Chăm sóc thanh long xuất khẩu tại trang trại.
Vào được thị trường Mỹ, trong tương lai thanh long Bình Thuận sẽ có “tấm hộ
chiếu” để được đến với các khách hàng khó tính khác trên toàn thế giới. Tuy
nhiên, cái khó khi xuất thanh long vào thị trường Mỹ là công tác vận chuyển.
Nếu vận chuyển bằng đường hàng không thì gi cước quá cao, riêng đi Canada là
sáu USD/kg, cịn đi Mỹ phải mất từ 7-10 USD/kg. Nếu vận chuyển bằng đường biển
thì thời gian qu di, ít nhất 28 -40 ngy mới tới nơi, trong khi trái thanh long
chỉ bảo đảm trong phòng lạnh có 21 ngày, qua 28 ngày sẽ bị hư hỏng 30%...
Ngoài ra, tới đây các cơ quan chức năng tiếp tục tập huấn, hướng dẫn sử
dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, kích thích tăng trưởng cho phép cũng như
liều lượng sử dụng trong từng thời kỳ để phổ biến cho nông dân triển khai,
hướng dẫn theo tiêu chuẩn Asean GAP, Viet GAP, nhất là chất lượng sản phẩm phải
bảo đảm quy trình sản xuất thanh long an tồn, nghim ngặt trong quy trình khp
kín.
Cửa đã mở. Vài điều còn lại phụ thuộc vào tư duy, bản lĩnh hội nhập, sức
mạnh cạnh tranh và chữ tín của chính chúng ta.
* Theo báo
cáo của Sở Công thương tỉnh Bình Thuận, đến nay diện tích thanh long
toàn tỉnh đạt xấp xỉ 10 nghìn ha, trong đó diện tích thu hoạch 8.993 ha, diện
tích trồng mới 977 ha.
* Tổng sản
lượng năm 2008 dự kiến đạt 180 nghìn tấn, trong đó chủ yếu ở Hàm Thuận Nam
với năng suất khoảng 150.000 tấn/năm.
|
Hiện nay 98% nông dân tòan tỉnh đã ký cam kết sản xuất thanh long sạch,
123ha thanh long của tỉnh đã bảo đảm tiêu chuẩn toàn cầu, nhiều vùng trồng
thanh long đang áp dụng sản xuất theo tiêu chuẩn Việt
Lận đận thanh long sạch ở Bình Thuận
Hầu hết người
trồng không "mặn" với quy trình trồng thanh long sạch mà họ cho là
nhiêu khê. Nên cả tỉnh Bình Thuận với khoảng 10.000 ha thanh long (của
20.000 hộ), chỉ có hơn 200 ha (của 3 cơ sở SX trái cây này) được cấp chứng chỉ
vào thị trường châu Âu.
Nở rộ trồng
thanh long kiểu "gia truyền"
Do thanh long
chịu được hạn, sống dẻo dai trên đất khô cằn như ở Bình Thuận, lại nhanh
cho trái (nhất là quả trái vụ) chi phí tăng gấp đôi so với 3 năm
trước, hàng trăm hộ nông dân vẫn cứ lao vào trồng thanhlong.
Mỗi hộ nông dân có một kiểu trồng và chăm sóc thanh long khác nhau. Đặc biệt, 100% hộ trồng đều sử dụng thuốc kích thích chất tăng trưởng lúc cây ở giai đoạn ra búp là “ga 3” và phân bón lá Thiên Nông. Trong đó “ga 3” thực chất là thuốc kích thích gồm hai loại, một là Gibber 10SP (hàng nội), loại kia có tên Pro gibb (SX từ nguyên liệu của Mỹ).
Mỗi hộ nông dân có một kiểu trồng và chăm sóc thanh long khác nhau. Đặc biệt, 100% hộ trồng đều sử dụng thuốc kích thích chất tăng trưởng lúc cây ở giai đoạn ra búp là “ga 3” và phân bón lá Thiên Nông. Trong đó “ga 3” thực chất là thuốc kích thích gồm hai loại, một là Gibber 10SP (hàng nội), loại kia có tên Pro gibb (SX từ nguyên liệu của Mỹ).
Theo ông Đặng Văn Tiến - Chủ tịch
UBND xã Hàm Mỹ, mặc dù cơ quan chức năng ban hành hẳn một qui trình hướng dẫn
kỹ thuật, nhưng nhìn chung l mạnh ai nấy làm, ai cũng có bí quyết riêng
trong việc sử dụng chất kích thích, phân bón, trong khi thị trường lại có hàng
chục hàng trăm chất kích thích tăng trưởng khác nhau; khó mà kiểm soát họ sử
dụng thuốc nào, có đúng liều lượng, qui trình hay không.
Bởi vậy, cũng nói như ông Tiến, trái thanh long VN được nhập khẩu vào thị trường Mỹ là một tin vui cho bà con nông dân nhưng lãnh đạo chính quyền thì vừa mừng vừa lo. “Mừng là trái thanh long đã có thương hiệu, mỗi năm tại đây xuất bán trong và ngoài nước khoảng 10 ngàn tấn tươi, nhưng lo là nông dân địa phương vẫn còn lạm dụng chất kích thích tăng trưởng để tăng sản lượng nhưng chất lượng trái giảm, nhập khẩu vào các nước “khó tính” như Mỹ và EU mà vẫn còn kiểu làm ăn cẩu thả thì chỉ có... chết!”.
Theo ông Tư
Rô (QL.1, Phú Hưng), chủ một trong 30 công ty, DN, “nậu vựa” đóng chân trên địa
bàn có nhiều năm trong nghề thu mua trái thanh long xuất khẩu, nếu người dân sử
dụng thuốc kích thích đúng liều lượng, đúng qui trình thì không sao (vỏ trái
vẫn dày đỏ, ruột trắng, tai cứng, tươi lâu, một trái cân nặng từ 3,5 lạng trở
lên).
Tuy nhiên,
nếu quá lạm dụng sẽ sinh ra “dư lượng” trong trái với đặc điểm như trái chín
không đều, màu xanh nhiều hơn màu đỏ, tai cong ra phía sau, trọng lượng thì
“tăng vọt” hơn bình thường, cá biệt có trái to cỡ bình bt nặng tới 1 kg. Trong
khi trái thanh long không sử dụng chất kích thích thì vỏ mỏng, tai yếu, ruột
mềm và đặc biệt là màu sắc không đẹp, nặng chừng 3 lạng trở lại và thường bị
xếp vào loại “hàng dạt”.
Thanh long
sạch: 2%
Hàm Thuận Nam
là một huyện có diện tích trồng thanh long lớn nhất tỉnh, năm 2007 có 4.880ha,
năm nay đ ln tới 5.500ha (tăng gần 800ha với hàng chục trang trại, cơ sở thu
mua tiêu thụ nội địa và xuất khẩu ra nước ngoài). Để giữ vững thương hiệu cũng
như ổn định phát triển sản xuất, theo ông Châu Đình Quang - PCT UBND huyện, địa
phương đ tổ chức hng chục lớp tập huấn kỹ thuật trồng và chăm sóc thanh long,
không sử dụng quá liều thuốc bảo vệ thực vật và lạm dụng chất kích thích để
tăng trưởng quả.
Theo đó, từ tháng 4 đến nay đã có trên 80% số hộ trồng thanh long đăng ký cam kết sản xuất theo hướng an toàn. Hiện nay, tại một số khu vực trồng thanh long trên địa bàn huyện đ hình thnh được các nhóm từ 5 đến 7 nông hộ liên kết, hợp tác hỗ trợ với nhau về các biện pháp kỹ thuật trồng, chăm sóc, thông tin thị trường để cùng nhau SX và tiêu thụ thanh long sạch.
Trong đó, HTX
Thanh long Hàm Minh với 123ha được Tổ chức EurepGap (Thụy Sĩ) trao chứng chỉ
danh giá “Thực hành nông nghiệp tốt và trái cây ngon” cách đây 2 năm.
Ông phó chủ nhiệm HTX Hồ Trọng Huấn cho biết, phải chật vật lắm vì có đến 200 tiêu chuẩn mà tổ chức quốc tế đưa ra để bà con nông dân thử nghiệm, trong đó có 100 tiêu chuẩn phải thực hiện nghiêm ngặt. Nhờ vào quy trình SX nghiêm ngặt hiện nay mà Hàm Minh cùng 2 cơ sở khác là Công ty Thanh long Hoàng Hậu (80ha) và Trang trại Duy Lan (10,7ha) được EU cấp chứng chỉ chất lượng.
Tuy nhiên, nếu cộng lại diện tích trồng thanh long của 3 đơn vị này theo qui trình GAP (an tồn) thì mới chỉ cĩ hơn 200ha, trong khi cả tỉnh Bình Thuận cĩ đến 10.000ha cây thanh long. Mặc dù chính quyền địa phương thỉnh thoảng họp hành, vận động đưa các nông hộ vào các nhóm liên kết nhỏ như nói ở trên để SX theo qui trình “thanh long an tòan” nhưng hầu hết người trồng vẫn chấp nhận cách làm truyền thống, nhỏ lẻ và trông mong vào sự may rủi của thị trường trong nước; ít ai muốn tiến tới cách làm ăn hợp tác bền vững và vươn xa.
"Nhạt"
với thanh long sạch
Như ông
Nguyễn Thu (thôn Phú Sơn, Hàm Mỹ) trồng 2ha thanh long, mỗi năm thu hoạch từ
40-50 tấn trái tươi, hiện vẫn thích “đứng ngoài” hơn là vào trong các mô hình SX
theo kiểu liên kết.
Theo ông Thu, với “mô hình” cũng có cái hay nhưng cách làm việc kiểu khoa học hết sức “nhiêu khê” như phải theo dõi, ghi chép đồng ruộng hàng ngày, sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu theo đúng qui trình, liều lượng bắt buộc thì không chỉ ông mà còn nhiều nông dân khác “không mặn”, không thích hợp.
Còn gia nhập vào các nhóm liên kết từ 5-7 nơng hộ để truyền bảo cho nhau qui trình kỹ thuật SX thanh long sạch thì hơi khó, vì ai cũng muốn giữ riêng cho mình bí quyết trồng và chăm sóc thanh long sao cho đạt sản lượng cao nhất.
Trong khi đó, để trái thanh long sạch vào được
thị trường nước bạn, cũng không dễ dàng gì. Ông Mai Văn Bình, GĐ Công ty TNHH
TM-XNK Thanh long Kiều Nga (Bình Thuận) phn nn: "Mỗi năm phía Đài Loan có
4-5 lần trừ tiền do trái thanh long bị “ruồi đục trái”, nên mỗi container mất
đi 500 USD. Nếu xuất thanh long VN vào thị trường Mỹ, bằng đường hàng không thì
gi cước quá cao; vận chuyển bằng đường biển thì mất ít nhất 28 ngày, khi mà thanh
long hư 30%”.
Còn theo bà Đào Thị Kim Dung, GĐ Trung tâm nghiên cứu thanh long Bình Thuận, bạn hàng nước ngoài chưa hẳn hài lòng với trái thanh long sạch của Việt Nam. Bà cho biết: "Sau khi đi thị sát một trong 3 cơ sở SX trái thanh long sạch đạt tiêu chuẩn châu Âu ở Bình Thuận vào hai ngày 10/6 và 24/6 vừa qua, đại diện của Cơ quan kiểm dịch thực vật (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ) yêu cầu chúng ta điều chỉnh một số qui trình, nhưng chưa chỉ cụ thể là qui trình nào”.
NƯỚC MẮM PHAN
THIẾT – SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Lịch sử
Nước mắm Phan Thiết thuộc loại
"lão làng" và đã có mặt ở hầu hết tại các thị trường trong nước. Nước mắm Phan Thiết đã có từ thời Phan Thiết còn tên
là Tổng Đức Thắng (1809). Những nhà làm nước mắm khi đó đã làm
được nhiều nước mắm và bán ở Đàng Ngoài.
Thùng lều -
loại thùng dùng để làm nước mắm Phan Thiết
Nước mắm Phan Thiết chủ yếu được làm từ cá cơm
và muối hạt.
Có nhiều loại cá cơm như cá cơm sọc tiêu, cơm than, cơm đỏ, sọc phấn, phấn
chì, cơm lép... nhưng ngon nhất là cá cơm than và sọc tiêu. Cá cơm, xuất hiện
từ tháng tư cho đến tháng tám âm lịch, là loại cá nhỏ, con to chỉ bằng ngón tay
út hay bằng chiếc đũa,
nhưng phân rã thành mắm nhanh, nên thời gian thành nước mắm cũng ngắn. Tuy
nhiên, nhiều nhà làm nước mắm lâu năm cho biết chất lượng còn phụ thuộc vào
thời gian đánh bắt cá, nhất là cá tháng tám, con nào cũng đều béo mập thì nước
mắm mới ngon và đạt độ đạm
cao nhất.
Ta chia làm 2 cách để phân biệt
- Nước mắm làm bằng
thùng ( cách làm của nước mắm Phú Quốc và các vùng khác )
Cá cơm đánh bắt về được chọn lựa kỹ, bỏ những con to hay nhỏ quá hoặc không
tươi. Khi muối, không rửa lại vì
trước khi đem lên bờ, cá đã được rửa bằng nước biển. Người ta dùng loại
thùng gỗ hình trụ gọi l thùng
lều, cao 2 - 2,5 m, đường kính
1,5 - 2 m, dung tích từ 3-10 tấn để muối cá. Sở dĩ người ta phải dùng loại gỗ
mềm như bằng lăng,
mít, bờ lời để làm thùng là vì khi "niềng"
lại bằng dây song, chạy quanh mặt ngòai thân thng, các mảnh gỗ được siết chặt
vào nhau, không còn khe hở.
Ở khâu muối cá, tỷ lệ được áp dụng là 10 cá 4 muối, hay 3 cá 1 muối. Hai
thành phần đó được trộn chung cho thật đều tay nhưng không được làm nát cá. Sau
đó cho cá vào thùng lều. Có khi người ta lại xếp một lớp cá, một lớp muối hạt.
Khi nào đầy thùng thì phủ lên trên một lớp cá khô đã được kết lại như tấm
chiếu, rồi dùng nhiều thanh củi cài chặt lại. Thợ muối cá còn đặt lên
trên mấy hòn đá
to, tròn trịa và nhẵn thín để nén lớp cá bên dưới xuống.
Theo thời gian, chất nước từ cá ứ ra được dẫn ra ngoài qua một lỗ đục ở đáy
thùng. Nước mắm không lấy một lần là dùng được mà phải lọc đi lọc lại. Cho nước
đầu tiên thấm qua lớp cá rồi đi ra thùng hứng, làm như thế mỗi ngày một lần.
Chừng năm hôm sau là nước "chín", tức đã thành nước mắm.
- Nước mắm làm bằng lu
( người dân Phan Thiết vẫn áp dụng cách làm nước mắm bằng lu )
Cách này chỉ khác nhau cơ bản với nước mắm
bằng thùng ở chỗ , nước mắm làm bằng lu vẫn theo cách làm giống hệt nước mắm
bằng thùng .Tuy nhiên , khác nhau ở cái thùng được thay bằng lu , thay vì để
thùng trong nhà chờ thủy phân thì cách làm bằng lu là đem trực tiếp các lu ra
ngoài nắng phơi trực tiếp.
Nước
mắm có thể phân loại thành: "nước bổi", "nước đục" và
"nước nhỉ". Nước bổi là nước muối, rửa cá lúc cá còn tươi. Nước đục
là nước bổi đã đi qua lớp cá đã muối, màu nước đục nhưng vị đậm ngon. Nước ép,
hay nước nhỉ, là nước đục đưa vào thùng mắm cái, đóng lù lại vài ba hôm rồi cho
mắm rỉ ra từng giọt, phải mất mươi hôm mới lấy hết nước. Đây là tinh hoa của
nghề làm nước mắm. Nước trong veo màu hổ phách
toả ra mùi thơm phức, có độ đạm 30 độ. Người ta đánh giá chất lượng nước mắm
bằng cách ngửi, nếm hay ăn thử.
Nước mắm Phú
Quốc
Lịch sử
Trước năm 1945 nhà thùng tập trung ở hai nơi là Dương Đông và Cửa Cạn. Năm
1945 ở Dương Đông có 75, Cửa Cạn có 19 và An Thới có 2 nhà Thùng. Từ năm 1946
một số nhà thùng bị chiến tranh tàn phá, hiện nay nhà thùng tập trung ở hai nơi
là Dương Đông và An Thới.
Nước mắm được sản xuất trong những thùng gỗ lớn, nó đóng vai trò như là một
tác nhân lên men trong ngành sản xuất rượu bia nhưng thời gian lên men dài hơn,
có khi đến 1 năm. Trước kia thùng đựng nước mắm thường làm bằng cây bời lời vì cây này mềm non
khi niềng không có chỗ hở, hiện nay loại cây này khó kiếm nên người ta dùng vên vên và chai. Thùng được niền bằng song mây có
nhiều ở núi Ông Tám và Bắc Đảo.
Nguyên liệu
Bất cứ loại cá nào cũng có thể sử dụng để làm
nước mắm, nhưng người sản xuất nước mắm Ph Quốc chỉ sử dụng duy nhất loại cá cơm
làm nguyên liệu. Cá cơm có nhiều loại: Sọc Tiêu, Phấn Chì, Cơm Đỏ, Cơm Lép, Sọc
Phấn, Cơm Than. Loại cá cơm cho nước mắm ngon nhất là Sọc Tiêu và Cơm Than.
Người ta trộn 2 hay 3 phần cá với 1 phần muối rồi để đến 1 năm, càng để lâu hàm
lượng đạm càng cao nhưng nước mắm ít thơm và màu bị sậm hơn. Người ta còn chôn
nước mắm vài ba năm, lúc đó màu nước mắm thành đen gọi là nước mắm lú, dùng để
chữa bịnh. Nếu dùng cá ươn thời gian sẽ mau hơn nhưng nước mắm không thơm và
màu không đẹp.
- Nhà Thùng: nơi sản
xuất nước mắm
- Thùng Gổ: Thùng để
chứa cá dùng trong sản xuất nước mắm
- Nước mắm lú: nước
mắm được chôn lâu năm dưới đất
- Độ đạm: hàm lượng
nitơ tổng có trong một lít nước mắm
- Nước bổi: chất lỏng
được tạo thành do sự phân hủy của cá
DÂN TỘC CHĂM Ở VIỆT NAM
Về mặt chủng tộc người Chăm (cùng với một số dân tộc Tây Nguyên) thuộc nhóm
ngữ hệ Nam Đảo là 1 bộ phận của nhóm lọai người Indorésien xưa kia cư trú rải
rác từ Nam đèo Ngang đến Bình Thuận. Theo các sử liệu Trung Quốc, sau cuộc khởi
nghĩa có quy mô lớn nhưng bị đàn áp đẫm máu của Hai Bà Trưng vào năm 192 TCN, lợi dụng lúc nhà hậu Hán suy
yếu, 1 viên chức quận Tượng Lâm (phía Nam Thừa Thiên ngày nay) là Khu Liên đã
lãnh đạo người Chăm nổi lên khởi nghĩa thắng lơi lập nên vương quốc Lâm Ap (xứ
rừng) quốc hiệu Chămpa xuấthiện từ lúc nào không rõ chỉ biết rằng bia ký cổ
nhất có nhắc đến tên này được khắc vào cuối TK VI, lâu nay nhiều người tưởng
lầm cho rằng quốc hiệu này xuất hiện vào đầu TK IX sau một cuộc dời đô của
người Chăm, Chămpa là tên 1 lòai hoa, miện Bắc gọi hoa Đại, miền Nam gọi hoa
Sứ, dạng rút gọn nó là Chăm, biến âm là chàm, âm Hán Việt là Chiêm thành, rút
gọn là Chiêm. Trong người Việt còn có tên gọi là Hời, giữ 2 thời kỳ Lâm Ấp và
Chămpa còn có tên gọi là Hoàn Vương.
Vương
quốc Chămpa tồn tại từ TK II đến đầu TK XVII lãnh thổ kéo dài từ Quảng Bình đến
Bình Thuận, hiện nay trên nước Việt Nam người Chăm cư trú ở 8 tỉnh thành trong
đó trên 89% ở 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, số còn lại cư trú ở An Giang,
Phú Yên, TP.HCM, Bình Định, Tây Ninh, Đồng Nai. Theo kết quả điều tra dân số
thì tính đến ngày 1/4/1989 dân tộc Chăm có 98.970 người đứng thứ 14 trong số 54
dân tộc Việt Nam. Người Chăm ở Bình Thuận theo 2 tôn giáo: Bà la môn (Bà Chăm)
và Hồi Giáo (Bà Ni). Tại 4 làng Xuân Quang, Xuân Hội, Tuần Giáo, Tuân Mục ở
huyện Bắc Bình có 1 nhóm người “kinh cựu” ảnh hưởng phong tục Việt, người Chăm
ở An Giang theo Hồi Giáo mới khỏang 15.000 người, ở Châu Đốc còn có một nhóm
người được gọi là “Chà Và Kur” ở huyện Phú Châu. Họ là những người mang 2 dòng
máu lai giữa người Mã Lai và ngườii Kmer, do sống gần người Chăm và có cùng tôn
giáo nên họ hòa nhập vào cộng đồng tốt,. Vào TK XV sau những lần giao tranh Đại
Việt thất bại một bộ phận chạy sang Campuchia. Đến cuối TK XVII họ đã xuôi theo
dòng Mê Kông trở về. Vào năm 1940 do chiến tranh, một số chuyển lên sống định
cư tại TP.Hồ Chí Minh, khu rạp Nacy (đường Trần Hưng Đạo), khu Nguyễn Văn Trỗi
khoảng 5000 người.
Như Hướng dẫn đã nói ở trên, người Chăm thuộc ngôn ngữ hệ Mã Lai đảo, họ có
2 bộ lạc Cau và Dừa, giữa 2 bộ lạc này thường xảy ra tranh chấp cho đến TK thứ
II (sau công nguyên) một thủ lĩnh Chăm tên Khu Liên đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
chống lại ách đô hộ của nhà Hán và lên làm vua, bộ lạc Dừa mà sử ghi lại là
nước Lâm Ap, sau đó người cháu là Phạm Phật đã thống nhất được 2 bộ lạc thành
nước Chămpa, kinh đô lúc đó là Trà Kiệu cách Đà Nẵng 70km về phía Tây Nam, sử
gọi là Sinhapura (thành Sư Tử) nằm bên bờ sông Thu Bồn nay thuộc xã Duy Sơn
huyện Duy Xuyên – Quảng Nam. Vào giữa TK VIII phía Bắc Chămpa có nhiều biến
động nên kinh đo chuyển vào Khánh Hòa
ngày nay, trung tâm là vùng Tháp Chăm Ponagar xây dựng vương triều
Panduranga kéo dài 1 thế kỹ. Từ giữa TK IX kinh đô lại chuyển ra phía Bắc tại
làng Đồng Dương nằm bên kia bờ sông Ly Ly là 1 nhánh của sông Thu Bồn cách cố
đô Trà Kiệu 25 km về phía Nam có tên là Indrapura – Thành Phố Anh Sáng. Vương
triều này còn gọi là vương triều Phật Giáo vì Phật Giáo trong giai đoạn này
phát triển thành quốc giáo, lấn át An Giáo. Đồng Dương là nơi tập hợp cung điện
và đền chùa chứ không tách ra như những vương triều trước, trong thời kỳ này sử
Trung Quốc gọi là Chiêm Thành phiên âm từ chữ Phạn Champapuru.
Vào cuối TK X kinh đô Đồng Dương bị tấn công nhiều lần nên vào những năm
1000 thì dời về Đồ Bàn với trung tâm được đánh dấu là Tháp Cánh Tiên. Thành Đồ
Bàn được xây dựng trên một gò đá ong thuộc huyện An Nhơn – Bình Định, nằm giữa
cánh đồng mà 3 mặt Bắc Tây, Nam đều có núi án ngữ, phía Đông thông cửa biển thị
Nại (Đầm Thị Nại). Vương triều kéo dài 5 thế kỷ với nhiều biến động và lãnh thổ
bắt đầu bị thu hẹp dần. Trong thời kỳ này có 1 sự kiện nổi bật là vua Trần Nhân
Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân (1306). Vua Chế Mân đã đem 02 châu Ô,
Lý (3/5) lãnh thổ dâng cho Đại Việt làm quà sính lễ. Hai châu này được đổi Thành
Thuận, Thành Châu và Hóa Châu mà người dân gọi chung là Thuận Hóa. Sau khi
Thành Đồ Bàn thất thủ vương quốc Chămpa bước vào giai đọan cuối cùng. Biên giới
phía Bắc lùi vào tận đèo Cù Mông, kinh đô dời vào Khánh Hòa, đến TK XVII chuyển
về vùng Phan Rang và đến khi nhà Nguyễn chiếm được Phan thiết thì Chămpa mất
hẳn độc lập.
Từ TK XIX nhất là vào thời Minh Mạng, người Chăm trở thành 1 thành phần dân
tộc trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.
Làng của người Chăm gọi là Plây, xung quanh không có cây cối hoặc chỉ có
vài cây me vì họ cho rằng ma quỷ trú ngụ trên những cây đó. Nhà được quay về
phía Nam (hướng của của người sống). Một gia đình thọat đầu cho xây dựng 1 căn
nhà lớn cho cả nhà gọi là Thang yơ. Đến khi con gái lớn lấy chồng mọi người
nhường căn nhà đó cho cô và cất 1 căn nhà khác cạnh bên gọi là Thang mưyân. Đến
khi cô con gái thứ 2 lấy chồng, cô thứ nhất phải ra ở cạnh bên để nhường căn
nhà cho cô em. Cô con gái út được hưởng căn nhà đó, cô con gái út phải có nhiệm
vụ giữ Chick Atâu để cúng giỗ cho gia đình. Chichk Atâu là 1 cái giỏ tre trong
đó đựng vật quý của gia đình.
An uống: Người Chăm ở Ninh Thuận – Bình Thuận ăn bằng đũa. Người Chăm theo
đạo Bàlamôn không ăn thịt bò vì bò l2 vật thiêng (bò thần Nađin). Người Chăm
Hồi Giáo không ăn thịt heo vì đối với họ heo là vật dơ bẩn. Họ có món canh
yabai nấu bằng lá rau rừng trộn thịt, bột gạo rồi khuấy đều, món cháo chua,
bánh tót nhân chuối, bột nếp trộn nắn hình củ gừng chiên. Thức uống là rượu đế,
người Chăm ở Châu Đốc có món càri nước dừa.
Từ Ấn Độ, người Chăm tiếp thu nhiều tôn giáo: Phật giáo, Bàlamôn giáo và
Hồi giáo. Nhưng ở chính quốc thì TKV, Phật giáo bị Bàlamôn lấn át dần dần đi
đến tàn lụi, còn Hồi Giáo thì tuy đã có những dấu vết từ TK X nhưng phải đến
cuối TK XV mới có nhiều người Chăm theo. Chính vì vậy mà nói đến ảnh hưởng Ấn
Độ trong việc hình thành văn hóa Chăm thì Bàlamôn giáo là yếu tố đóng vai trò
quan trọng nhất, Bàlamôn giáo (Brahmanism) là tôn giáo hình thành trên cơ sở
kinh Veda do người Aryen từ phía Tây Bắc đưa vào. Đạo Bàlamôn tôn thờ Brahama
(nghĩa là Đại Hồn) một ý niệm trù tượng của kinh Vêđa, Brahma là chúa tể các
thần, nguồn gốc của vũ trụ , có quyền năng vô biên. Ngài hiện ở ba ngôi như thể
thống nhất của một bộ ba vị thần tượng trưng cho 3 giai đọan của sự sống:
Brahma (Thần sáng tạo), Visnu (Thần Bảo Tồn) và Siva (Thần Hủy Diệt). Sau khi
đạo Phật lụi tàn trên đất An độ Bàlamôn giáo cải biên thành An Độ Giáo
(Hinduism). Nguồn ảnh hưởng An Độ tuy đóng vai trò quan trọng trong sự hình
thành văn hóa Chăm nhưng nó không phải là tất cả. Kế thừa di sản phong phú của
văn hóa Sa Huỳnh, Văn hóa Chăm tất yếu còn là sản phầm tổng hợp của cả nguồn
ảnh hưởng khu vực và nguồn bản địa. Người Chăm sống trên dãi đất Miền Trung,
giữa một bên là dãy Trường Sơn cao vút và bên kia là biển Đông sâu thẳm. Sự đối
chọi đó của thiên nhiên đã tạo ra những sản vật đặc biệt như: Trầm Hương,
Vàng... nhưng đồng thời sự thiếu hài hòa đó của thiên nhiên cũng tạo nên một
miền khí hậu khắc nghiệt, bao nhiêu nước mưa rơi xuống núi đều trôi tuột ra
biển cả khiến cho đất đai miền Trung trở nên hết sức khô cằn. Sống trong khung
cảnh đó con người một mặt phải vật lộn với thiên nhiên và mặt khác giành giật
với các láng giềng xung quanh, suốt dải đất Miền Trung còn để lại nhiều dấu tích
của các công trình trị thủy mang lại màu xanh cho cây cối như các hệ thống dẫn
nước, các đập nước, hồ chứa nước... người Chăm đã thuần dưỡng được giống lúa
không cần nhiều nước gọi là “Lúa Chiêm” người Chăm vươn ra chiếm lĩnh biển khơi
với nghề đánh cá. Trong quá trình tồn tại của vương quốc người Chăm cũng từng
nhiều lần cướp bóc các buôn, sóc Khmer ở phía Nam, đánh lên vùng Tây Nguyên của
người Thượng và vùng vẫy tiến ra Bắc, lấn chiếm vùng đất phía Nam Đèo Ngang của
Giao Châu (sau này là Đại Việt). Chính cuộc sốngnhư vậy đã rèn luyện cho người
Chăm trong lịch sử có 1 tính cách cứng rắn và cương nghị, thượng võ và cá phần
hiếu chiến.
Nói đến văn hóa Chăm không thể không nói đến các tháp Chăm, từ TK V thứ VI
sử sách Trung Hoa đã phải công nhận người Chăm là bậc thầy trong nghệ thuật
kiến trúc và điêu khắc gạch. Việc các Tháp Chăm được làm từ những viên gạch đỏ
chồng khít lên nhau không thấy mạch hồ khiến
hình thành nên huyền thọai người Chăm xây tháp bằng gạch mộc, đẽo gọt
lên đó rồi nung cả khối tháp trên ngọn lửa khổng lồ. Các chuyên gia Ba Lan
khẳng định người Chăm đã dùng gạch nung sẵn gắn với nhau bằng vữa đất sét rồi
sau đó toàn bộ tháp được nung lại. Một số nhà nghiên cứu thì nêu raq giả thuyết
người Chăm dùng keo chiết từ thực vật (nhựa xương rồng + mật mía hoặc nhựa cây
dầu rái để dán viên gạch lại với nhau. Những nghiên cứu gần đây cho thấy người
Chăm đã đã sử dụng kết hợp một số biện pháp kỷ thuật khác nhau để xây tháp.
Dùng những viên gạch có độ lõm ở mặt tiếp xúc nên khi xây nhìn từ phía ngoài vào
trong đều không thấy vữa giữa các viên gạch còn ở giữa thì có lớp vữa dày, mài
các viên gạch trong nước cho thật khít
vào nhau rồi xếp lại để cho bột gạch ở giữa tự kết dính dưới sức nặng của trọng
lực của phần trên tháp, dùng các viên gạch có góc khuyết, góc lồi theo kiểu âm
dương để khi xếp vào tự thân chúng tạo thành sự liên kết với nhau. Sự tinh tế
của các tháp Chăm còn thể hiện ở vô số hình chạm khắc tỉ mỉ, chau chuốtdo nghệ
nhân đục đẻo trực tiếp lên tường tháp. Việc đục đẻo phải được thực hiện sao cho
tới đâu chính xác tới đó, tường gạch đã xây sẵn không thể vì một sai sót mà phá
đi xây lại. Hòan toàn có lý khi H.Parmertier nhận xét rằng người Chăm chạm gạch
như chạm gỗ, đẽo đá như đẽo đồ gỗ.
Trong âm nhạc người Chăm còn có những bài hát
giao duyên với những giai điệu mềm mại thướt tha giống như “Lý Con Sáo” của
người Nam Bộ. Những bài ca u hoài sâu lắng của họ có thể bắt gặp trong hơi hướm
những giai điệu vọng cổ Nam Bộ hoặc hò mái Nhì, mái Đẩy miền Trung. Nghệ thuật
Chăm còn rất nổi tiếng thông qua những hoa văn, họa tiết trên nền vải thổ cẩm
và nghề làm gốm thủ công. Về văn học dân gian, dân tộc Chăm còn được biết đến
với những trường ca làm say mê lòng người. Múa Chăm cũng rất đặc biệt với các
kiểu múa đội nước, múa quạt, múa trống, múa đạp lửa. Họ có nhiều nhạc cụ như
đàn Kanhi, trống danai, kèn Saranai (lọai kèn có loa to, bằng gỗ, dài). Trai,
gái tỏ tình với nhau thường dùng kèn Saranai. Đối với nhiều người Chăm âm nhạc
và múa là linh hồn sống .
Lễ cưới người Chăm chủ động là con gái, thường họ tổ chức những buổi lễ hát
ban đêm. Nếu người con gái chọn người con trai cô sẽ mời anh ở lại hoặc là ngày
hôm sau quay lại. Sau khi đồng ý, họ nhờ mai mối để tính tới chuyện thành hôn.
Trong đòan mai mối phải có ông cậu và ông mai bà mối đến nhà đàng trai để hỏi
cưới xin (lễ trầu cau). Sau đó họ chọn ngày làm lễ hỏi. Ngày đó thường là ngày
tốt đầu tháng, sau đó nhà gái đem quà sính lễ (quần áo, bánh, trà, xôi rượu,
thịt) và đặc biệt nhất là phải có một cái bánh bông lan do chính tay cô dâu làm
đến nhà trai. Đêm đó 2 người ngồi bên nhau giữa ngọn đèn dầu, hôm sau họ mới
được ra khỏi phòng để dự tiệc tiếp đãi bạn bè. Lễ kéo dài 03 ngày, đến ngày thứ
3 hai vợ chồng mới được ăn ở với nhau. Đối với người Chăm việc li dị cũng không
khó khăn lắm và nhà gái có quyển đòi lại những gì họ đi cưới.
Lễ tang người Chăm: người Chăm khi chết được đem thiêu, người ta để người
chết dưới đất trong 1 cái chòi cách biệt và quàng người chết tại đó. Người thân
cùng cúng kiếng với những ông Thầy Cả. Người ta đem quần áo đã chuẩn bị sẵn để
mặc cho người chết, cho người chết ăn cơm rồi chọn ngày thiêu. Khi thiêu xác
người chết được bỏ vào hòm, lễ thiêu được bắt đầu vào lúc sáng sớm, người thân
chứng kiến lễ thiêu cũng là người châm lửa . sau khi đã thiêu xong, ông Thầy sẽ
đập cái sọ người chết và lấy đủ 7 miếng xương trán, rửa bằng nước dừa rồi cho
vào 1 cái hộp gọi là Klong. Kut là nghĩa địa chôn xương trán của người chết, là
một khuôn viên rộng khoảng 4m2. Con cái thuộc họ mẹ sẽ được chôn trong cùng một
Kút, để đưa xương vào Kut cách nhau 1 khỏang thời gian nhất định. Những người
chết trước đó sẽ được người thân cất xương trán đâu đó để chò ngày nhập Kút.
Trong làng có bao nhiêu dòng họ thì có bấy nhiêu Kút vì đó là những làng nô lệ
không được tu sĩ làm phép nhập Kút. Đối với những người chết ngoài đường, chết
không toàn thây hoặc trẻ em dưới 1 tuổi cũng không được nhập Kút. Những người
trong dòng họ tổ chức 1 lễ tang chung cho tất cả người chết trong họ vào 1 ngay
trong năm.
Người Chăm Bàni khi chết được trong nghĩa địa gọi là Ghur khá xa làng và
ở trên một đồi cát. Vì họ quan niệm rằng
xác người chết càng phân hủy nhanh càng tốt do đó người chết không có quan tài,
chỉ đặt xác lên 1 tấm ván rồi bỏ xuống huyệt. Xác người chết được đặt san sát
nhau trong Ghur, sau khi lấp cát lên, người tạ đặt 1 viên đá ở đầu và chân
người chết. Có thể chôn xác con chồng lên xác mẹ, nhưng tại vị trí đó phải đăt
thên 2 hòn đá mới cho người vừa chôn.
NGƯỜI CHĂM Ở BÌNH THUẬN
Bình Thuận là tỉnh có nhiểu dân tộc cư trú và thể hiện
được sự yên bình, hòa thuận cũng như tên gôi và giúp cho Thành Phố Phan Thiết
thêm khởi sắc trong sinh họat quần chúng, điển hình là trong việc bán buôn,
giao lưu phục vụ du khách. Với hơn 30 dân tộc cư trú đông đảo nhất là 6 dân tộc
: Việt, Chăm, Raglai, Tày và người Hoa. Bình Thuận luôn có nét đặc biệt, người
Chăm ở đây đóng 1 vai trò quan trọng gây sự chú ý và hấp dẫn với khá nhiều
khách du lịch trong những lần đầu đến tham quan TP. Phan Thiết.
- Về kiến trúc: Kiến trúc của người Chăm xưa được xem là 1 tác phẩm nghệ
thuật đặc trưng, nổi bất với những tháp xây bằng gạch đỏ rất bền vững, thanh
thoát và thiên ngang trên ngọn đồi ca. Với kỹ thuật chạm khắc điêu luyện họ đã
tạo nên những đường nét mạh khỏe, rõ ràng, giàu trí tưởng tượng và cũng rất trữ
tình lãng mạng, người Chămpa xưa đã thể hiện các tượng thần , tượng vua, nữ
thần, vũ nữ và các hoa văn đã gây ra sự chú ý và thán phục của du khách trong
và ngoài nước đặc biệt là đối với những nhà nghiên cứu và khảo cổ học. Các tác
phẩm này thể hiện sự nhận thức và thẩm mỹ của người Chămpa cổ rất đa dạng và
phong phú.
Các nhạc cụ, điệu múa, lời ca và kể cả trang phục...đều là những di sản đặc
biệt của người Chămpa cổ, điển hình như tại nhà bà Nguyễn Thị Thềm là hậu duệ
của dòng vua Chăm cuối cùng ở Thôn Tịnh Mỹ xã Phan Thanh, Huyện Bắc Bình cách
TP.Phan Thiết 62km về phía Bắc. Bộ sưu tập di sản văn hóa hoàng tộc Chăm bao
gồm những báu vật của vua Pô Klong Mơh Nai và 1 số ít của các vị vua Chăm vào
những TK trước. Sưu tập có hơn 100 di vật nguyên gốc quý hiếm đủ loại hình và
chất liệu khác nhau, đáng chú ý là những di vật bằng vàng như: vương miện, bông
tai, vòng xuyến, bằng vải: áo bào, đôi hia của vua Pô Klong Mơ Nai và hoàng hậu
Pô Bia Sơn khác với vương miện của vua Trung Quốc và Vua Việt có biểu tượng con
rồng, vương miện của vua Chăm cóa biểu tượng là 2 con Ma Ka Ra quấn quýt, thể
hiện uy quyền của nhà vua . vương miện của Hoàng Hậu cũng bằng vàng với hình
dạng nhỏ hẹp, hoa văn trang trí nghiêm chỉnh và duyên dáng.
Người giữ lại bộ sưu tập này là 1 người có uy tín trong cộng đồng người
Chăm được tin yêu và được người Chăm gọi là “công chúa”, bà Nguyễn Thị Thềm qua
đời vào năm 1995, một người cháu gái của Bà tên Nguyễn Thị Đào đã thừa kế di
sản và bộ sưu tập.
CÁC NGHĨA ĐỊA CHĂM
Theo chiết lý Bà La Môn Giáo, người Chăm Bà La Môn (CBLM) hoả thiêu xác
người chết, đem tro họ dổ xuống biển, sông, suối, ao, hồ. Theo các truyền
thuyết, chỉ đến sau đới vua Pô Aloah (Khoảng TK XI) tro cốt của vua chúa mới
được đem chôn trong tháp, của quý tộc chôn trong các lăng tẩm, còn các thứ dân
vẫn rắc bỏ dưới nước. Dần dần, do nhu cầu tình cảm muốn giữ 1 phần di cốt của
người chết sau hoả thiêu, kút đã xuất hiện.
Kut: Đây chính là nghĩa địa – nơi chôn giữ chín mảnh xương trán củaq người
chết xếp theo dòng tộc mẹ của người CBLM. Theo suy đoán có lẽ Kút xuất hiện từ
thời vua Pô Kong Garai (1163 – 1217). Ơ Lăng Chăm Hữu Đức (Phước Hữu, Ninh
Phước, Ninh Thuận), nơi có phế tích Pô Klong Halâu còn lại là đá kút, người
Chăm gọi là Kút Klong Halâu. Kế đến là 1 Kút cổ nằm kề phía tây tháp Pôrêmê.
Người bảo vệ tháp này cho biết dù đã khoá (không nhập cốt vào) từ xa xưa, những
Kút này vẫn được người của 1 dòng tộc ở xã Phước Thái chăm sóc hàng năm. Được
tạo dựng lâu đời, phần bị thất tự, phần thì các Kút cổ đều bị phân tán. Để giữ
lại đá kút của những Kút cổ, mớ đây trung tâm nghiên cứu văn hoá Chăm Ninh
Thuận đã đưa về cất giữ năm đá Kút cổ vô chủ.
Kút thường được chọn đặt nơi vuông đất xa làng từ 1 – 2 km, nhưng khi làng
mở rộng có Kút đã nằm lọt giữa làng. Kút Mu Kú Than của dòng họ Lưu Thị Pa Gaỉ¬
làng Hậu Sanh (Phước Hữu, Ninh Thuận) rộng không quá 250 m2 nằm ngay đầu làng.
Ong Trương Thiệt 68 tuổi, con rể dòng tộc PaGa kể “Kút Mu KúThan” có từ lâu
đời, khi mình đến đây ở rể đã thấy có rồi, hồi ấy nó chỉ tôn nền bằng 1 lớp đá.
Cuộc sống khá dần lên, năm 1995 người trong tộc đã đậu tiền lại để xây tường
thành, cổng ngỏ, tôn nền cao làm bậc đá đặt kút . riêng ông là phận con rể
nhưng một khi qua đời, ông dẽ được gia đình hoả thiêu và chín mảng xương trán
của ông sẽ được đưa về chôn dưới đá Kút ở Kút Nức Tân của dòng tộc Lưu Thị Cú
Ai của Mẹ ông ở làng Vụ Bổn, xã Phước Nam “Đó là nơi mình trở về với Mẹ, cùng
các anh em ruột của mình. Cũng như sau này các em mình”
Kút của dòng tộc Kà Đạ ở làng Chăm Mỹ Nghiệp nằm cuối làng, kề khu dâncư và
trường học , đây là một Kút khá khang
trang hiện đại, vị sư cà 78 tuổi của thá Pôrêmê nói “thời trước phần vì cuộc
sống khó khăn ...’
Người Chăm Bà La Môn không chôn di cốt của mỗi người thành một phần mộ
trong Kút. Trên nẻn Kút vốn không rộng đó tối đa 500m2 – chổ đặt di cốt là bệ rộng không quá 20m được định vị
bởi những viên đá Kút, mặt trên để trống
or được tráng ximăng, lát gạch.dưới mỗi viên đá Kút là 1 hố nhỏ để đưa cốt chín
mảnh xương trán nhập vào.
Người ta không đưa cốt lẻ (một vài bộ) nhập Kút mà chờ cho đến khi trong
dòng tộc có nhiều cốt mới rước sư cả làm lễ nhập Kút một lần. Trong suốt thời
gian chờ nhập Kút có khi kéo dài gần 10 năm, cốt được đặt ở 1 nơi kín đáo và dể
nhớ. Việc tìm kiếm đá Kút định vị chúng trên nền Kút cũng theo 1 triết lý. Viên
đá giữa tượng trưng cho nữ thần của Kút (Pô Inư Nưgar Kút) được chọn lấy từ
biển. Viên đặt ở hướng Tây dành cho nữ phái, bên dưới là hố đặt di cốt của phái
nữ. Cầu cho sự sinh sản viên đá phải có phần dưới (mông) to tròn, mập mạp phải
được tìm lấy từ sông Cái trong vùng. Còn viên đặt ở hướng Đông dành cho Nam
phái, bên dưới là hố đặt di cốt của phái nam được tìm lấy từ ngọn núi cao nhất
trong vùng. Cầu cho sự trường tồn tráng kiện, viên đá phải có phần giữa (ngực)
nở nang. Không có ngày tảo mộ hàng năm, khi thấy Kút bị cỏ dại, cành cây che
lấp (trong Kút thường được trồng cây để toả bóng mát) người trong tộc sẽ làm lễ
xin phép thổ thấn rồi cùng nhau vào phát dọn. Lễ Katê là dịp mỗi nhà đơm quảy
người quá cố. Việc xem xét để lập hay dời Kút là điều hệ trọng.
KHÙN – RÁT:
Người Chăm Bà Ni (Hồi Giáo bản địa) không hoả thiêu mà lại chôn cả thi thể
người chết. Nghĩa địa của họ chung cho cả làng, trong đó phần của mỗi dòng tộc
được xếp theo từng cụm. Khùn – rát (gherrăk) được nối bởi 2 từ ghur-đum (động
cát) và răk (nấm mồ) nghĩa là những nấm mồ trên động (đụn) cát bởi người Chăm
Bà Ni thường lập cư ở vùng ven biển.
Khùn-rát của làng Phước Nhơn (Ninh Hải – Ninh Thuận) là vùng đất đầy rẫy
nằm ở hướng Tây Bắc ở làng. Khi chúng tôi đến Khù-rát này sáng sớm thầy Mươm
(imưm) Đạo Văn Trí đang ngồi bệt trên chiếu trải giữa Khùn-rát, may đồ đưa cốt
cải táng 1 hài nhi 6 tháng tuổi. Người Chăm Bà Ni không phân biệt tuổi tác (như
người Chăm Bà La Môn phải 15 tuổi trở lên mới được hoả thiêu, lấy xương trán
nhập Kút, dưới 15 tuổi phải đem chôn rồi sau đó bỏ luôn mộ). Từ trẻ con đến
người thượng thọ chết đều được chôn trực tiếp ở nghĩa địa dòng tộc .
Làng Phước Nhơn được thành lập từ năm 1896, hiện có 6000 khẩu 16
dòng tộc vậy mà phần đất thật sự dành cho chôn cất chỉ chừng 3.500m2. người
chết sau, con cháu có thể nằm chồng lên Ông Bà.
Mộ không có nấm mồ. Dấu hiệu để nhận biết là 2 viên đá táng đầu – chân đặt
cách nhau dưới 1m , đầu luôn nằm ở hướng Bắc. Khoảng cách giữa 2 dãy mộ thường
đủ để trải cái chiếu nhỏ ngồi cầu nguyện trong ngày tảo mộ. Việc chọn đá táng
dựa vào những quy định: nếu người chết thuộc dòng tộc biển, đá phải được tìm
lấy ở biển, nếu thuộc dòng tộc núi thì thì đá được tìm lấy ở núi hoặc những
dòng sông nơi chân núi. Đá đẹp phải là những viên đá mịn, chẳn, tròn. Nếu người
Chăm Bà La Môn đã cách tân, Kút bằng xây dựng tường thành, cổng ngỏ, nền bệ thì
người Chăm Bà Ni cũng có những thay đổi. Viên đá táng có thể là những viên đá tròn tự tìm với
đủ kích cở màu sắc (đen, xám, nâu, trắng...), giờ đây lại có thể tạc đẻo để có
những viên đá hoa cương tròn, hay “hiện đại” hơn là bằng xi măng đúc, tô rửa,
sơn màu. Có người còn khắc vào đá táng tên tuổi ngày mất của người chết. Đi xa
hơn nhiều người còn thay bằng những viên đá vuông (đúc bằng xi măng và ốp gạch
men). Trên nền đỏ xanh, hàng ngàn viên đá với đủ màu sắc, kích cở vuông tròn
nằm san sát nhau từng hàng, từng cụm. Khùn-rát thờ nay giống nghư bãi nấm kỳ
ảo, sinh động, thanh thoát chứ không nhuốm vẻ âm u cô tịch.
Người Chăm Bà Ni có ngày tảo mộ hàng
năm. Vào ngày đó dân làng vào Khùn-rát làng. Lễ tảo mộ diễn ra vào cuối
tháng tám Hồi lịch (khoảng tháng 11 dương lịch). Xong tảo mộ cũng là lúc vào
đại lễ Ramưwan, mọi người, mọi nhà lại thêm 1 lần nữa cầu nguyện cho những
người đã khuất.
TỤC THỜ KUT CỦA NGƯỜI CHĂM BÀLAMÔN
Người Chăm ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận theo hai đạo: Hồi giáo Bàni
gọi là Cam Awal, khi chết xác được địa táng. Khu nghĩa địa cũng gọi là Ghur.
Người Chăm theo đạo Bàlamôn gọi là Cam Ahier, khi người chết, xác được hỏa
táng, khu nghĩa địa gọi là Kut. Ở người Chăm Bàlamôn, mỗi tộc họ phải xây dựng
một nhà Kut chung để thờ các bậc tổ tiên quá cố của họ tộc mình. Nhà Kut còn
được gọi là sang muk kei (có nghĩa là nhà tổ). Theo quan niệm của người Chăm
Bàlamôn, họ tộc nào không có nhà Kut sẽ bị dân làng mỉa mai, chê cười cho là
không có tổ tông.
Việc xây dựng Kut do Po adhia thực hiện với nhiều nghi lễ phức tạp và tốn
kém. Bài viết dưới đây xin trình bày đôi nét về tục thờ Kut của họ.
1. Tục chọn đất dựng Kut
Người Chăm quan niệm, khu
đất dựng Kut có ảnh hưởng rất lớn đến sự hưng thịnh và phát triển
của họ tộc; do vậy, trước khi dựng, người ta
phải nhờ thầy Cả sư (Po adhia) chọn mảnh đất có phong thủy tốt. Theo cổ thư thì
đất có phong thủy tốt gọi là tanưh mưbhak phải đảm bảo các yếu tố sau:
- Cao về phía Tây, thấp về phía Đông (glaung
pai, bien pur).
- Có núi phía Nam, có sông phía Bắc (cơk
mưnraung, kraung barak).
- Đất có cỏ cây xanh quanh năm (tanưh mưda
el).
Đất có phong thủy tốt chỉ là điều kiện cần.
Điều kiện đủ để dựng Kut còn tùy thuộc vào chất đất tốt hay xấu. Để biết được
đất tốt hay xấu Po adhia phải làm lễ khấn thần đất rồi mang 5 hũ cơm rượu mới
rắc men bỏ vào 5 hũ nhỏ (hũ chao) đem chôn ở 5 điểm tại khu đất dự kiến chọn,
theo thứ tự:
- Đông Bắc (Esan), Tây Nam (Nailiti)
- Đông Nam (Agrih), Tây Bắc (Bayap)
- Và điểm trung tâm (Bathak Canar), có nghĩa
là điểm giao nhau của hai đường chéo các điểm trên.
Sau 3 ngày đêm, bốc lên, nếu hũ cơm rượu có màu đen, mùi hôi thối có nghĩa là đất xấu (tanưh tabung), coi như thần đất không đồng ý cho làm Kut. Trái lại, nếu cơm rượu có màu trắng, mùi thơm ngon, thì có nghĩa là đất tốt, coi như thần đất đồng ý và cho phép dựng Kut. Po adhia làm lễ cúng tạ ơn thần đất và tiến hành đổ nền (tuh ram). Nền Kut của người Chăm có hình chữ nhật, mặt Kut theo hướng Bắc.
Sau 3 ngày đêm, bốc lên, nếu hũ cơm rượu có màu đen, mùi hôi thối có nghĩa là đất xấu (tanưh tabung), coi như thần đất không đồng ý cho làm Kut. Trái lại, nếu cơm rượu có màu trắng, mùi thơm ngon, thì có nghĩa là đất tốt, coi như thần đất đồng ý và cho phép dựng Kut. Po adhia làm lễ cúng tạ ơn thần đất và tiến hành đổ nền (tuh ram). Nền Kut của người Chăm có hình chữ nhật, mặt Kut theo hướng Bắc.
Tiếp theo Po adhia mang lễ vật đi thỉnh đất gò mối. Theo cổ thư, thì
phải tìm cho được 5 gò mối có địa thế giống như 5 điểm đặt hũ cơm rượu. Trong
thực tế, rất khó tìm được địa điểm như thế, nên Po adhia áp dụng phương châm
pháp thuật cao không bằng mưu chước giỏi (Sunuw jai pak, glaung anngak bbwak di
sunuw), chỉ lấy 5 điểm khác nhau trong một gò mối, mỗi điểm 3 cục, gói vào 5
miếng vải trắng đánh dấu điểm lấy rồi mang về chôn tại 4 điểm gốc của khu đất
dựng Kut. Còn điểm trung tâm dành để chôn với biểu tượng người trụ trì (Po di)
thể hiện sự sinh sôi nảy nở như con mối, con kiến. Sau đó Po adhia làm lễ tẩy
uế khu vực đất để dựng Kut (Balih tanưh Kut).
2. Tục dựng Kut
Sau khi đã chọn đất dựng Kut xong, Po adhia tiến hành chọn hòn đá làm
biểu tượng Kut. Theo cổ thư, Kut của người Chăm Bàlamôn có 3 biểu tượng chính
và chọn đá theo tiêu chuẩn sau:
- Patuw po di – biểu tượng chủ trì, dân gian
còn gọi là biểu tượng bà Chúa Xứ (Patuw Po Inư Nưgar): Hòn đá này phải chọn ở
biển, để thể hiện sự bao dung như biển cả.
- Patuw likei có nhĩa là biểu tượng đàn ông,
phải chọn đá trên núi, thể hiện “công cha như núi Thái Sơn”.
- Patuw kamei có nghĩa là biểu tượng đàn bà, phải chọn đá ở sông để thể hiện “sữa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
- Patuw kamei có nghĩa là biểu tượng đàn bà, phải chọn đá ở sông để thể hiện “sữa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Các hòn đá ấy có hình bầu dục, không tì vết.
Hòn đá Po di to và cao hơn 2 hòn đá kia. Nếu là họ thuộc dòng quý tộc, có chức
tước trong xã hội, thì các biểu tượng đá được ghè đẽo và tạc hoa văn công phu
và tinh tế.
Từ ngày khởi công xây dựng cho đến ngày hoàn thành phải mất 1 tháng, vì họ còn phải chọn những ngày tốt để thực hiện các nghi lễ liên quan. Người Chăm Bàlamôn thường làm lễ dựng Kut vào các tháng: 3,6,8,10, 11 lịch Chăm, nhưng tốt nhất là tháng 11 (bilan Pwix) – tháng mà cộng đồng người Chăm quan niệm là tháng dùng để làm lễ tấn phong cho đẳng cấp tu sĩ Bàlamôn (Pok paxeh).
Từ ngày khởi công xây dựng cho đến ngày hoàn thành phải mất 1 tháng, vì họ còn phải chọn những ngày tốt để thực hiện các nghi lễ liên quan. Người Chăm Bàlamôn thường làm lễ dựng Kut vào các tháng: 3,6,8,10, 11 lịch Chăm, nhưng tốt nhất là tháng 11 (bilan Pwix) – tháng mà cộng đồng người Chăm quan niệm là tháng dùng để làm lễ tấn phong cho đẳng cấp tu sĩ Bàlamôn (Pok paxeh).
Được ngày giờ tốt, Po adhia làm lễ thỉnh biểu tượng về nơi chuẩn bị dựng. Họ dùng 3 cái chăn trắng làm võng khiêng 3 biểu tượng về, tiếp theo Po adhia làm lễ tẩy uế các biểu tượng.
Đợi đến lúc đêm khuya thanh vắng, khoảng 1
giờ đến 4 giờ sáng, tiếng Chăm gọi là atuk krưh pak mưlam giờ mà cộng đồng
người Chăm quan niệm là thiêng liêng nhất, để hạ giới làm việc với thượng giới;
các loại thảo mộc ra hoa kết trái; các nhà Thiền sư (Po adhia) thiền định dùng
lửa tâm đốt mọi điều ác, để thanh khiết hóa cái Tâm thì Po adhia bắt đầu làm lễ
dựng các biểu tượng theo hướng Đông - Tây, trước hết là biểu tượng Po di ở giữa
kèm theo 3 cục đất gò mối. Tiếp theo là biểu tượng đàn ông ở phía Đông và biểu
tượng đàn bà ở phía Tây ở bên cạnh. Sau đó, các biểu tượng được thắp sáng bằng
nến sáp ong. Po adhia làm lễ nhập hồn cho các biểu tượng (craih mưta yang) tức
khai mắt thần, rồi dùng nước cát lồi (ia mu) tắm rửa cho biểu tượng, sau đó lau
khô, phủ trang phục lễ. Tiếp theo, Po adhia cùng với Kadhar, Pajuw làm lễ tế
biểu tượng, rồi họ múa mừng suốt đêm, xem như các biểu tượng đã được thần linh
hóa và họ làm xong ngôi nhà tổ tiên.
Dần dần, theo sự phát triển của con người và
xã hội Chăm, kéo theo sự biến đổi mô hình Kut từ 3 biểu tượng đến 5,7…biểu
tượng. Các biểu tượng này không chọn theo tiêu chuẩn biểu tượng chính. Họ chỉ
chọn chung những hòn đá thiên nhiên, có hình bầu dục không có tì vết.
Ngày nay, đã số Kut của mỗi tộc họ người Chăm
Bàlamôn là 3, 5 hoặc 7 biểu tượng, gồm:
- Mô hình Kut 3 biểu tượng dành cho tộc họ
chỉ có một nam và một nữ, không có người chết xấu.
- Mô hình Kut 5 biểu tượng dành cho các tộc họ có chức sắc Bàlamôn và người có chức tước trong xã hội. Biểu tượng này được đặt chung với biểu tượng chính về phía Đông.
- Mô hình Kut 5 biểu tượng dành cho các tộc họ có chức sắc Bàlamôn và người có chức tước trong xã hội. Biểu tượng này được đặt chung với biểu tượng chính về phía Đông.
- Mô hình Kut 7 biểu tượng có hai biểu tượng
đặt ngoài, do đó người Chăm Bàlamôn gọi là Kut lingiw hay còn gọi là Patuw
lihin. Ngày nay, có tộc họ đặt 2 biểu tượng này chung với biểu tượng chính,
nhưng phải có hòn đá chắn ngang để phân ranh giới. Tiếng Chăm gọi là Patuw cơng
thành một dãy gồm 7 biểu tượng.
3. Tục nhập hài cốt vào Kut (Ba talang tamư Kut)
3. Tục nhập hài cốt vào Kut (Ba talang tamư Kut)
Người Chăm Bàlamôn sau khi qua đời phải làm đám hỏa táng nên gọi là Chăm
cuh, nếu không họ quan niệm hồn người quá cố sẽ trở thành ma đói, rách rưới
lang thang, sẽ bị quỷ dữ xúi giục về ám hại các thành viên trong dòng tộc. Sau
lễ hỏa táng, Người Chăm Bàlamôn lấy 9 miếng xương trán (kể cả đàn ông và đàn
bà) gọt tròn và mài nhẵn như đồng xu làm thủ tục rồi đưa vào Klaung để thờ tự
qua các lễ: 30 ngày (patrip bak balan), mãn năm (patrip klauh thun) và lễ tiễn
đưa (patrip palau). Qua 3 lễ trên mới đem hài cốt nhập Kut được. Tuy nhiên,
việc đem hài cốt nhập Kut được tuyển chọn khá phức tạp theo các tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn hài cốt được nhập Kut chính:
- Người đó không tật nguyền từ lúc sinh thời cho đến
khi tắt thở.
- Không mắc các chứng bệnh: ho lao, hen suyễn, kinh
phong…
- Lúc thở có người đỡ.
- Các trường hợp chết ngoài đường, ngoài sá, chết bất
đắc kỳ tử, tự sát… hài cốt không được nhập Kut chính mà chỉ nhập vào Kut
phụ (patuw lihin).
- Trong tộc họ khi có
số lượng hài cốt từ 15 đến 20 thì họ tổ chức lễ nhập Kut. Lễ nhập Kut do
Po adhia chủ trì cùng các chức sắc kadhar, pajuw. Sau lễ nhập Kut, cả tộc
họ kiêng cúng tế trong một năm. Đến khi làm lễ mở cửa Kut (pơh bbơng kut)
mới được làm lễ cúng tế theo tín ngưỡng dân gian.
Lễ nhập Kut là lễ nghi cuối cùng của các nghi lễ vòng đời. Sau lễ này cộng đồng người Chăm tin là linh hồn người quá cố đã về đến xứ sở tổ tiên (nau tơl nưgar muk kei). Từ đó, mỗi năm cả tộc họ chỉ cần cúng 5 mâm cơm, cặp gà, hoa quả. - Đàn bà là người giữ vai trò lo việc cúng tế tổ tiên,
đàn ông trong tộc họ đến với tư cách tham dự vì họ đã theo vợ. Đó cũng
chính là do chế độ mẫu hệ của người Chăm Bàlamôn cho đến nay còn khá đậm
nét.
Ngoài việc thờ cúng, Kut còn là nét đặc trưng để minh định ranh giới giữa các dòng tộc, tiện việc cưới theo luật tục - hôn nhân. Đó chính là nét đặc thù của chế độ mẫu hệ của tộc người Chăm Bàlamôn còn đậm nét đến ngày nay.
BÀLAMÔN GIÁO VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
1. Bàlamôn giáo từ Ấn Độ và ba nguồn gốc của
văn hoá Chăm
Những người Ấn Độ đầu tiên đã theo đường biển
mà đến Việt Nam ngay từ đầu công nguyên. Dấu vết của họ thấy cả ở vùng Óc Eo
(An Giang), cả ở ven biển miền Trung và cả ở Luy Lâu (Hà Bắc). Họ mang theo cả
Bàlamôn giáo lẫn Phật giáo. Nhưng tình hình đã thay đổi một cách cơ bản kể từ
khi người Chăm lập quốc.
Về mặt chủng tộc, người Chăm (cùng với một số dân tộc Tây Nguyên) thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo, là một bộ phận của nhóm loại hình lndonésien, xưa kia cư trú rải rác từ nam Đèo Ngang đến Bình Thuận. Theo các sử liệu Trung Quốc, sau cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhưng bị đàn áp đẫm máu của Hai Bà Trưng, vào năm 192, lợi dụng lúc nhà Hậu Hán suy yếu, một viên chức quận Tượng Lâm (phía nam Thừa Thiên ngày nay) là Khu Liên đã lãnh đạo người Chăm nổi lên khởi nghĩa thắng lợi lập nên vương quốc Lâm ấp (= xứ Rừng). Quốc hiệu Chămpa xuất hiện vào lúc nào không rõ, chỉ biết rằng bia kí sớm nhất có nhắc đến tên này được khắc vào cuối tk.Vl
Về mặt chủng tộc, người Chăm (cùng với một số dân tộc Tây Nguyên) thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo, là một bộ phận của nhóm loại hình lndonésien, xưa kia cư trú rải rác từ nam Đèo Ngang đến Bình Thuận. Theo các sử liệu Trung Quốc, sau cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhưng bị đàn áp đẫm máu của Hai Bà Trưng, vào năm 192, lợi dụng lúc nhà Hậu Hán suy yếu, một viên chức quận Tượng Lâm (phía nam Thừa Thiên ngày nay) là Khu Liên đã lãnh đạo người Chăm nổi lên khởi nghĩa thắng lợi lập nên vương quốc Lâm ấp (= xứ Rừng). Quốc hiệu Chămpa xuất hiện vào lúc nào không rõ, chỉ biết rằng bia kí sớm nhất có nhắc đến tên này được khắc vào cuối tk.Vl
Sau khi lập quốc, người Chăm thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa, liên hệ với Trung Hoa cũng hầu như không còn. Thay vào đó, người Ấn Độ đến ngày một nhiều hơn và, khác với Trung Hoa, họ không mang theo chiến tranh, vì vậy, nền văn hóa Ấn Độ được người Chăm vui vẻ tiếp nhận.
Ảnh hưởng của Ấn Độ đối với văn hóa Chăm phát huy mạnh mẽ trong khoảng từ tk.VII đến hết tk. XV, khi Chămpa chấm dứt sự tồn tại với tư cách quốc gia của mình. Trong từng ấy thế kỷ, ảnh hưởng này để lại lớn đến mức nhiều người chỉ nhìn thấy những yếu tố Ấn Độ trong văn hóa Chăm. Do vậy, nói đến ảnh hưởng của Ấn Độ ở Việt Nam thì trước hết phải nói đến văn hóa Chăm và khu vực phía Nam vì chỉ có ở đây, ảnh hưởng đó mới bộc lộ mạnh mẽ và trực tiếp hơn cả.
Từ Ấn Độ, người Chăm đã tiếp thu nhiều tôn giáo : Phật giáo, Bàlamôn giáo và Hồi giáo. Nhưng ở chính quốc thì từ tk.V, Phật giáo bị Bàlamôn giáo tấn công và dần dần đi đến tàn lụi, còn Hồi giáo thì tuy đã có những dấu vết từ tk.X, nhưng phải đến cuối tk.XV mới có nhiều người Chăm theo. Chính vì vậy mà nói đến ảnh hưởng của ấn Độ trong việc hình thành văn hóa Chăm thì Bàlamôn giáo là yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất. Bàlamôn giáo (Brahmanism) là tôn giáo hình thành trên cơ sở kinh Veda do người Aryen từ phía Tây Bắc đưa vào. Đạo Bàlamôn tôn thờ BRAHMA (nghĩa là "Đại Hồn"), một ý niệm trừu tượng của kinh Veda. Brahma là chúa tể các thần, nguồn gốc của vũ trụ, có quyền năng vô biên. Ngài hiện ở ba ngôi như thể thống nhất của một bộ ba vị thần tượng trưng cho ba giai đoạn của sự sống : Brahma (thần sáng tạo), Visnu (thần bảo tồn) và Siva (thần phá hủy).
Ngôi Brahma sáng tạo ra thế giới, tượng hình 4 mặt mà chỉ có ba thành hình, 4 tay cầm 4 phần kinh Veda, đầu có vòng hoa và râu rậm; khi thì cưỡi con thiên nga Hamsa, khi thì ngồi trên một bông sen mọc từ rốn của Visnu đang nằm trên mình con rắn Naga nổi bồng bềnh trên đại dương nguyên thủy (nghĩa là Brahma sinh ra từ chính mình).
Ngôi Vinu bảo tồn vũ trụ, 4 tay cầm 4 lệnh bài là cái tù và, cái vòng, cái búa và cánh hoa sen tượng trưng cho bốn chất tạo nên vũ trụ; ngài khi thì cưỡi con chim thần Garuđa, khi thì có dạng nửa người nửa chim, khi thì nằm trên mình con rắn Naga.
Ngôi Siva phá hủy thế gian, mang trong mình chức năng của thần chết, quyền hạn của thần thời gian, có vô vàn tên dữ tợn như Ugra (người tàn nhẫn), Rudra, Aghora (người khủng khiếp)..., ngài thường cưỡi con bò thần Nandin.
Sau khi đạo Phật lụi tàn trên đất Ấn Độ, Bàlamôn giáo được cải biên thành Ấn Độ giáo (Hinduism). Nguồn ảnh hưởng Ấn Độ, tuy đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành văn hóa Chăm, nhưng nó không phải là tất cả. Kế thừa di sản phong phú của văn hóa Sa Huỳnh. Văn hóa Chăm tất yếu còn là sản phẩm tổng hòa của cả nguồn ảnh hưởng khu vực và nguồn bản địa.
Đặc trưng điển hình của nguồn bản địa là chất dương tính trong tính cách Chăm. Người Chăm sống trên giải đất hẹp miền Trung, giữa một bên là dãy Trường Sơn cao vút và bên kia là biển Đông sâu thẳm. Một bên cực dương và một bên cực âm. Sự đối chọi đó của thiên nhiên đã tạo ra những sản vật đặc biệt (như trầm hương, vàng,...); nhưng đồng thời sự thiếu hài hòa đó của tự nhiên cũng tạo nên một miền khí hậu khắc nghiệt, bao nhiêu nước mưa rơi xuống núi đều trôi tuột ra biển cả, khiến cho đất đai miền Trung trở nên hết sức khô cằn. Sống trong khung cảnh đó, con người phải, một mặt, vật lộn với thiên nhiên và mặt khác, giành giật với các láng giềng xung quanh. Suốt dải đất miền Trung còn để lại nhiều dấu tích của những công trình trị thủy mang lại màu xanh cho cây cối như các hệ thống dẫn nước hình kỉ hà, các đập nước, hồ chứa nước....; người Chăm đã thuần dưỡng được giống lúa không cần nhiều nước được gọi là "lúa Chiêm" (Chiêm Thành); người Chăm vươn ra chiếm lĩnh biển khơi với nghề đánh cá. Trong quá trình tồn tại của vương quốc mình, người Chăm cũng từng nhiều lần cướp bóc các buôn, sóc Khmer ở phía Nam, đánh lên vùng Tây Nguyên của người Thượng, và vùng vẫy tiến ra Bắc, lấn chiếm vùng đất phía nam Đèo Ngang của Giao Châu (sau này là Đại Việt). Chính cuộc sống như vậy đã rèn luyện cho người Chăm trong lịch sử một tính cách cứng rắn và cương nghị, thượng võ và có phần hiếu chiến (dương tính).
Tuy mang bản chất dương tính, nhưng lại sống trong một vùng Đông Nam Á nông nghiệp, cho nên người Chăm không thể không hấp thụ những ảnh hưởng của văn hóa khu vực mà đặc trưng điển hình là thiên về âm tính trong cố gắng đạt đến sự hài hòa âm dương, với triết lí âm dương trong nhận thức và tục sùng bái sinh thực khí trong tín ngưỡng.
Văn hóa Chăm bao gồm nhiều lĩnh vực, nhưng trong đó nổi bật nhất là kiến trúc và điêu khắc. Thành tựu nổi bật của điêu khắc và kiến trúc Chăm là kiến trúc đền tháp và điêu khắc trên đền tháp. Đền tháp ấy là đền tháp tôn giáo. Tôn giáo đóng vai trò cực kì quan trọng trong đời sống người Chăm, nó được vật chất hóa qua điêu khắc và kiến trúc. Qua kiến trúc và điêu khắc, ta sẽ tìm hiểu quan niệm tôn giáo của người Chăm.
2. Những đặc điểm của kiến trúc Chăm
Nói đến văn hóa Chăm không thể không nói tới
các tháp Chăm. Tháp Chăm đứng sừng sững uy nghi trước sóng gió, chúng có mặt
rải rác từ ven biển lên đến Tây Nguyên, suốt dọc miền Trung từ Bắc vào Nam -
khắp những nơi nào có người Chăm cư trú.
Thống kê cho biết hiện còn 19 khu tháp với 40 kiến trúc lớn nhỏ. Số lượng các khu phế tháp và các phế tháp Chăm do bom đạn tàn phá và hủy diệt là chưa thể xác định được. Theo khảo sát và thống kê của H. Parmentier vào năm 1904-1909, riêng lòng chảo Mĩ Sơn (Quảng Nam - Đà Nẵng) đã có tới trên 70 kiến trúc.
Tháp Chăm được thừa nhận về độ tinh tế. B.Groslier trong cuốn Indochine, Carefour des arts (Paris. 1961) nhận xét : "Về cấu trúc, tháp Chăm đẹp hơn các đền tháp Khmer"; sở dĩ như vậy là vì "Chắc chắn là do họ (= người Chăm) giữ được ý thức về chất liệu (= gạch ) và biết tôn trọng bản chất của nó; trong khi đó, người Khmer có xu hướng dựng lên một khối bằng bất cứ vật liệu nào rồi chạm khắc lên đó. Nghệ thuật kiến trúc Chăm cân bằng, có nhịp điệu và sáng sủa hơn, nó tạo cho tháp Chăm một vẻ đẹp không thể bỏ qua". Từ những tk.V-VI, sử sách Trung Hoa đã phải công nhận người Chăm là bậc thầy trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc gạch.
Việc các tháp Chăm được làm từ những viên gạch đỏ chồng khít lên nhau không thấy mạch hồ khiến hình thành nên huyền thoại cho rằng người Chăm xây tháp bằng gạch mộc, đẽo gọt lên đó, rồi nung cả khối tháp trong một ngọn lửa khổng lồ. Các chuyên gia Ba-lan khẳng định rằng người Chăm đã dùng gạch nung sẵn gắn với nhau bằng vữa đất sét rồi sau đó toàn bộ tháp được nung lại. Một số nhà nghiên cứu thì nêu ra giả thuyết cho rằng người Chăm đã dùng keo chiết từ thực vật (nhựa xương rồng + mật mía, hoặc nhựa cây dầu rái) để dán các viên gạch lại với nhau. Những nghiên cứu gần đây cho thấy người Chăm đã sử dụng kết hợp một số biện pháp kĩ thuật khác nhau để xây tháp : Dùng những viên gạch có độ lõm ở mặt tiếp xúc, nên khi xây, nhìn từ phía ngoài và trong đều không thấy vữa giữa các viên gạch, còn ở giữa (nơi không nhìn thấy) thì có lớp vữa dày; mài các viên gạch trong nước cho thật khít vào nhau rồi xếp lại để cho bột gạch ở giữa tự kết dính dưới sức nặng trọng lực của phần trên tháp; dùng các viên gạch có hình dáng góc khuyết góc lồi theo kiểu âm dương để khi xếp vào tự thân chúng đã tạo nên sự liên kết với nhau.
Sự tinh tế của các tháp Chăm còn thể hiện ở vô số những hình chạm khắc tỉ mỉ, trau chuốt do nghệ nhân đục đẽo trực tiếp lên tường tháp. Việc đục đẽo phải được thực hiện sao cho làm đến đâu chính xác tới đó; tường gạch đã xây sẵn không thể vì một sai sót mà phá đi xây lại. Hoàn toàn có lí khi H. Parmentier nhận xét rằng người Chăm chạm gạch như chạm gỗ, đẽo đá như đẽo gỗ.
Về cấu trúc quần thể, các tháp Chăm tập hợp theo hai loại : Loại thứ nhất là các quần thể kiến trúc bộ ba gồm ba tháp song song thờ ba vị thần Brahma, Visnu, Siva. Loại thứ hai là các quần thể kiến trúc có một tháp trung tâm thờ Siva và các tháp phụ vây quanh. Loại này thường xuất hiện muộn hơn (khoảng tk. IX trở về sau); có những nơi trước đây là quần thể kiến trúc bộ ba về sau khi tu chỉnh được chuyển thành loại quần thể có một tháp trung tâm.
Như vậy, qua sự phát triển của cấu trúc quần thể tháp, ta thấy quá trình du nhập Bàlamôn giáo từ ấn Độ vào Chămpa đã đi qua ba bước : a) ở Ấn Độ, Brahma được coi là chúa tể (vì vậy mà gọi là "Bàlamôn"!); vào Chămpa (giai đoạn I), cả ba vị thần đều được coi trọng như nhau (tháp bộ ba); c) sang giai đoạn II, người Chăm suy tôn Siva thành chúa tể (ngay cả những cụm tháp bộ ba còn giữ được thì tháp lớn và cao nhất cũng dành thờ Siva). Nguyên nhân của sự chuyển hướng này chính là do chất dương tính trong tính cách bản địa của văn hóa Chăm. Như vậy, thực chất, người Chăm đã biến Bàlamôn giáo thành Siva giáo.
Vai trò của yếu tố bản địa còn thấy rõ qua hình dáng tháp. Về hình dáng, do bắt nguồn từ một loại kiến trúc Bàlamôn giáo Ấn Độ biểu tượng cho núi Mêru (một dãy núi thần thoại nơi trung tâm của vũ trụ, gồm nhiều đỉnh cao thấp khác nhau, các vị thần tuỳ theo đẳng cấp mà ngự trị ở các đỉnh khác nhau) gọi là sikhara, phần lớn tháp Chăm đều có dạng hình ngọn núi (sikhara có nghĩa là "đỉnh núi nhọn"); trên các tầng tháp có thể có các tháp con ở góc ứng với các ngọn núi nhỏ. Tuy kiến trúc hình núi có nguồn gốc từ truyền thuyết ấn Độ, nhưng với người dân Chăm, chúng lại là biểu tượng cho thiên nhiên miền Trung trùng điệp núi non và, do vậy, phản ánh đúng chất dương tính trong tính cách bản địa của văn hóa Chăm (núi = dương). Chất dương tính này còn bộc lộ đặc biệt rõ ở những tháp mô phỏng hình sinh thực khí nam (biến thể của tháp hình núi) mà ta có thể thấy qua lát cắt bổ đôi. Bên cạnh tháp chính hình ngọn núi, còn có thể gặp những kiến trúc phụ có mái cong hình thuyền - dấu hiệu đặc thù trong kiến trúc nhà cửa của cư dân Đông Nam Á. Đến đây, kiến trúc đền tháp Chăm mang đậm thêm ảnh hưởng của văn hóa khu vực.
Như vậy, từ chỗ khởi đầu vay mượn dạng sikhara Ấn Độ, tháp Chăm đã đi đến chỗ hòa quyện và phối kết trong mình khá nhiều sáng tạo mang dấu ấn ảnh hưởng của tính cách bản địa Chăm và văn hóa nông nghiệp khu vực. Ta theo hình thức mà gọi các kiến trúc này là "tháp", nhưng người Chăm thì gọi chúng là kalăn, có nghĩa là "lăng": Hầu hết chúng đều mang tính chất lăng mộ thờ vua. Ngoài chức năng này, tháp Chăm còn là đền thờ thần bảo trợ của nhà vua. Chính vì mang chức năng lăng mộ và đền thờ nên nội thất tháp Chăm rất chật hẹp, nó chỉ có chỗ cho các pháp sư hành lễ chứ không phải là nơi cho các tín đồ hội tụ và cầu nguyện.
3. Những đặc điểm của điêu khắc Chăm
Trong các đền tháp Chăm, vị thần được thờ phổ
biến nhất là SIVA và vật thờ phổ biến nhất là LINGA. "Linga" có nghĩa
là sinh thực khí nam. Bởi lẽ cùng mang bản chất DƯƠNG TÍNH, sinh thực khí nam
và thần Siva được đồng nhất với nhau. Do vậy, thờ linga cũng tức là thờ thần
Siva. Điều này phù hợp với kết luận đã rút ra ở trên về khuynh hướng suy tôn
Siva làm vị thần chúa tể trong quá trình phát triển của tháp Chăm.
Thờ sinh thực khí, như đã nói, là tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp; càng nông nghiệp điển hình bao nhiêu thì tín ngưỡng này càng mạnh bấy nhiêu. Người du mục không có truyền thống thờ sinh thực khí; kinh Veda nói rằng những kẻ lấy linga làm thượng đế là kẻ thù của đạo giáo Aryen. ở ấn Độ, việc thờ linga vốn là tín ngưỡng của thổ dân Dravidien; sự xâm nhập của nó vào Bàlamôn giáo và việc đồng nhất linga với Siva chắc hẳn đã xảy ra vào thời kì hậu Veda.
Người Chàm thuộc khu vực nông nghiệp, nghĩa là, từ trước khi Bàlamôn giáo xâm nhập, đã phải có tục thờ sinh thực khí rồi. Và miền Trung là vùng mang tính cách thiên về dương tính, cho nên dễ hiểu là tục thờ sinh thực khí nam (linga) sẽ phổ biến hơn. Về hình dáng, linga Chàm có ba loại :
1) Một loại linga chỉ có một phần hình trụ tròn. Linga vào loại cổ nhất tìm được ở Óc Eo (An Giang) thuộc loại này. Linga loại này có khi gặp cả hàng chục cái được dựng thành hàng. Loại này ở Ấn Độ không thấy có. Nó mang dấu ấn đậm nét của tính cách bản địa Chàm.
2) Loại linga thứ hai có cấu tạo hai phần. Phần trên vẫn là hình trụ tròn; phần dưới là một vật thể to hình tròn - ta gọi là biến thể 2A hoặc vuông - ta gọi là biến thể 2B. Trong biến thể 2A (kiểu này cũng không có ở ấn Độ), phần to tròn ở dưới mô phỏng cái cối giã gạo; toàn bộ linga là mô phỏng bộ chày cối - biểu tượng tín ngưỡng phồn thực điển hình của cư dân Đông Sơn. ở biến thể 2B, cái cối được thay thế bằng hình vuông phẳng dẹt mang ý nghĩa của triết lí âm dương vuông tròn. Như vậy, ở loại linga với hai phần này không chỉ có chất dương tính của tính cách bản địa Chàm mà còn có cả chất âm; nó là một tổng thể âm dương hài hòa - dấu ấn rất rõ ràng của truyền thống văn hóa nông nghiệp khu vực.
3) Loại linga thứ ba có cấu tạo ba phần. Ngoài phần hình trụ tròn ở trên và phần hình vuông ở dưới (có thể mang dạng to dẹt hoặc nhỏ cao với cạnh bằng đường kính của hình trụ tròn ), loại linga này còn có một đoạn hình bát giác nằm giữa. Cấu trúc ba phần này phản ánh ảnh hưởng triết lí Bàlamôn giáo Ấn Độ :
Phần hình vuông (âm tính) ở dưới ứng với thần Brahma sáng tạo, khúc hình bát giác ở giữa mang tính chuyển tiếp, ứng với thần Vishnu bảo tồn, còn phần hình trụ tròn (dương tính) ở trên ứng với thần Siva phá hủy.
Trong loại hai và ba, phần hình vuông âm tính ở dưới được gọi là Yoni (sinh thực khí âm). Đáng chú ý là trong trường hợp này, linga (cả bộ hai phần âm-dương hoặc ba phần Brahma - Vishnu - Siva) đã không còn là linga theo nghĩa là "sinh thực khí nam" nữa; song nó vẫn cứ được gọi là "linga" (linga theo nghĩa rộng). Như vậy thấy rằng chất dương tính - tính cách bản địa Chăm - đã lấn át như thế nào .
Khắp nơi, trong khu vực cư trú của người Chămpa dương tính, ta đều có thể gặp linga: ở trên bệ thờ trong tháp, ở vị trí có tính cách trang trí, ở cả trên đỉnh tháp (tháp Bà Nha Trang). Ngoài các linga thông thường, trong các đền tháp Chăm, ta còn gặp loại linga hình mặt người (gọi là mukhalinga). Đó là một khối tượng hình linga mà nửa phần trước tạc tượng phù điêu hình ông vua Chăm với những dấu hiệu rõ rệt của Siva như hình bò thần Nandin. Sự đồng nhất "Siva (thần ấn Độ) = Linga (tín ngưỡng phồn thực khu vực) = Vua (lãnh tụ dân tộc Chăm)" trong mukhalinga khiến cho sự hòa quyện ba yếu tố bản địa - khu vực - ấn Độ trên cơ sở tính cách bản địa dương tính đã đạt đến mức nhuần nhuyễn.
Dòng dương tính và chất bản địa này không chỉ thể hiện bằng vô số tượng linga, mà còn thể hiện qua các tượng Siva. Trong số tượng hình người thể hiện ba vị thần thì các tượng Siva cũng chiếm đa số.Ẩơ nhiều pho tượng Siva, chất ngoại lai chỉ còn nơi tên gọi, người được thể hiện hoàn toàn là một người Chăm, với những đặc điểm nhân chủng Chàm điển hình (mặt vuông, mắt xếch, môi dày). Để nhấn mạnh tính cách dương tính, có pho tượng tạc hình đàn ông chưa đủ, đặt tên là Siva cũng chưa đủ, tác giả còn cho nhân vật Siva này cầm trong tay một linga. Rồi không chỉ thần dưới dạng người, mà cả thần dưới dạng động vật, thần voi Ganesa, cũng cầm linga trong tay luôn.
Chất dương tính thậm chí còn thể hiện cả ở tượng phụ nữ. Ta có thể thấy rõ điều này qua tượng vũ nữ tạc ở bệ tượng Trà Kiệu (Quảng Nam - Đà Nẵng) - một pho tượng vào loại đẹp nhất của điêu khắc cổ Chămpa. Tượng tạc một cô gái với đầy đủ những đặc trưng nhân chủng Chàm (mặt vuông, mắt xếch, môi dày). Nhờ lối trang phục nhẹ nhàng, gần như khỏa thân, tượng thể hiện cái đẹp phụ nữ một cách dương tính, trực diện : bầu vú căng tròn, cặp đùi thon, hông rộng, những cổ tay tròn lẳn,...Động tác múa tạo nên một khối rất cân đối và chặt chẽ: Nửa thân dưới và hai chân khụy xuống khuỳnh rộng đưa sang trái; nửa thân trên và tay trái chìa xuống dưới đưa sang phải; đầu và tay phải co lại giơ lên cao đưa sang trái để trả lại thế quân bình. Động tác đổi hướng ấy không chỉ uyển chuyển mà còn đầy sức mạnh. Sở dĩ như vậy là vì cái đẹp của hình khối đó chính là cái đẹp của một thế võ: chân khuỳnh là thế đứng tấn, một tay che bên dưới là để tự vệ, tay kia co lại đưa lên cao là để chuẩn bị tấn công.
Chất dương tính còn thể hiện cả ở chất liệu điêu khắc: tuyệt đại bộ phận các tác phẩm điêu khắc Chăm (linga, tượng Siva, tượng vũ nữ....) đều bằng đá. Trong khi người nông nghiệp khu vực thờ đất thì cho đến nay, dọc theo dải đất miền Trung núi nhiều đá lắm, từ Trị Thiên vào đến tận vùng Khmer Nam Bộ, người dân vẫn có tục thờ những hòn đá thiêng, đá có hình dạng đặc biệt (người Việt gọi những hòn đá ấy là Ông Đá, Ông Dàng, Bà Dàng; người Khmer gọi là Niết Tà).
Bên cạnh dòng dương tính sục sôi với những Siva, những linga, những thế võ và chất liệu đá thì trong văn hóa Chăm lại còn có một dòng ÂM tính mạnh mẽ không kém với những bầu vú căng đầy, những tượng và hình tượng mẫu thần của quê hương xứ sở.
Những bầu vú căng đầy không chỉ đập vào mắt từ ngực các vũ nữ Chàm, chúng còn được tạc thành từng dãy vú trang trí bao quanh các bệ tượng. Đó chính là biểu tượng của nữ thần Uroja (nghĩa là "vú phụ nữ" ) hay PôYan lna Nưgar - Bà chính là Mẹ Quê Hương Xứ Sở, là Quốc Mẫu của người Chăm ( Pô = ngài, Yan = thần, Ina = mẹ, Nưgar = xứ sở ). Người Chăm thờ Quốc Mẫu ( Pô Yan lna Nưgar) của mình ở tháp Bà (Nha Trang) dưới dạng hình ảnh phồn thực của một bà mẹ bản địa với bụng thon, vú căng tròn.
Ban đầu tháp này vốn thờ một linga bằng vàng, linga đã bị những người từ biển vào tấn công và cướp đi, chỉ còn lại chiếc yoni; đến năm 965 người ta đã tạc pho tượng nữ thần Pô Nưgar ngồi trên toà sen bằng đá đen đặt lên yoni đó. Tượng là sự kết hợp của Mẹ Xứ Sở - Patao Kumay (Vua của Đàn bà). Stri Ratjnhi (Chúa của Phụ nữ), Muk Juk (Bà Đen) - với nữ thần Bhagavati hay Uma, vợ thần Siva.
Cho dù xã hội Ấn Độ vốn theo phụ hệ thì xã hội Chăm từ xưa đến nay vẫn là mẫu hệ. Những ảnh hưởng của Bàlamôn giáo ấn Độ không thể thay thế được nếp tôn vinh người phụ nữ - Người Mẹ - trong truyền thống văn hóa ngàn đời của người Chăm và cư dân nông nghiệp Đông Nam Á. Ngày nay, ta vẫn gặp khắp nơi những Pô Ina Nưgar Humu Aram (Mẹ Xứ Rừng) ở Phan Rang, Pô lna Nưgar Humu Cavat (Mẹ Xứ Chim) ở Bình Thuận, Pô Ina Nưgar Humu Chanok (Mẹ Xứ Chài) ở Bà Rịa, Pô lna Nưgar Yathan (Mẹ Xứ Lau) ở Nha Trang, Thiên Yana Thánh Mẫu (Mẹ Trời) hay là Bà Chúa Ngọc ở điện Hòn Chén (Huế), Bà chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc, An Giang), v.v. và v.v.
Sự tồn tại song song của hai dòng âm và dương tính này chính là sản phẩm trực tiếp của sự song hành giữa một bên là dãy Trường Sơn cao vút với bên kia là biển Đông sâu thẳm trong thiên nhiên miền Trung.
4. Sức mạnh bản địa hóa ảnh hưởng Bàlamôn giáo và Hồi giáo
Như vậy, trong ba nguồn gốc của văn hóa Chăm,
nguồn ảnh hưởng Ấn Độ có vẻ nổi bật nhất, nhưng thực chất thì nguồn bản địa và
khu vực mới giữ vai trò quan trọng. Thực tế, có lẽ phần lớn người Chăm bình dân
không hề biết đến các triết lí Bàlamôn giáo cùng các vị thần. Các truyền thuyết
Ấn Độ xa lạ. Đó là việc của các tu sĩ Bàlamôn. Tu sĩ Bàlamôn thì chỉ đạo xây
đền, tạc tượng theo những khuôn mẫu ấn Độ, còn người nghệ sĩ dân gian thì xây
và tạc theo cảm hứng và những khuôn mẫu truyền thống của nhân dân mình.
Từ chỗ cả ba vị thần Bàlamôn đều được dựng tháp thờ khi đạo này mới du nhập, dần dần chỉ có một mình Siva được đề cao bởi lẽ tính cách Siva phù hợp hơn cả với tính cách bản địa của người Chăm. Và trong Siva muôn mặt với hàng trăm tên, chỉ có Siva dưới dạng Linga hoặc với Linga được phổ biến bởi lẽ tục thờ cột đá như một dạng của tín ngưỡng phồn thực vốn là truyền thống lâu đời của người nông nghiệp. Cuối cùng, Siva thì được hình dung thành người Chăm (ngay cả con bò thần Nandin của Siva cũng được thể hiện dưới dạng con trâu quen thuộc; còn Linga thì ở chỗ này được thay bằng ông vua - anh hùng dân tộc Chăm, ở chỗ khác thì được thay bằng nữ thần Mẹ quê hương xứ sở. Thành ra trên thực tế, thần Siva cùng bạn bè, bộ hạ của ông với những lí lịch ấn Độ xa lạ chỉ còn tồn tại trong ý nghĩ của tầng lớp trí thức và tu sĩ Bàlamôn; đối với số đông người dân Chăm, thần Siva, tượng Linga,v.v.. chỉ là hình thức, còn ước vọng phồn thực và lòng sùng kính các nữ thần địa phương, các anh hùng dân tộc mới là nội dung. Đạo Bàlamôn xa lạ đã được người Chăm biến cải thành đạo bà chăm gần gũi; đạo Bà Chăm không còn là Bàlamôn giáo ấn Độ nữa mà chỉ có thể xem như một biến thể của nó.
Ngoài đạo Bà Chăm - biến thể đạo Bàlamôn, ở Chămpa còn có cả đạo hồi (Islam). Du nhập vào Chămpa muộn hơn, với những giáo luật khắt khe vào bậc nhất, đạo Hồi do vậy cũng bị người Chăm cải biến nhiều hơn. ở những vùng đạo Hồi du nhập trước, nó trở thành một thứ tôn giáo khác hẳn, một biến dạng của đạo Hồi với tên gọi riêng của mình là đạo Bà Ni.
Giáo luật đạo Hồi gồm 5 điều cơ bản : 1 - Biểu lộ đức tin vào : a) một thượng đế duy nhất là đức Allah, sứ mạng của giáo chủ Mahomet (571-632), c) việc phán xét cuối cùng; 2 - Cầu nguyện mỗi ngày 3 lần; 3 - ăn chay (nhịn ăn ban ngày trong tháng 9 (tháng Ramưwan); 4 - Bố thí 1/10 lợi tức hăng năm; 5 - Hành hương tới Thánh địa La Mecque.
Khác với giáo luật, người Chăm Bà Ni tin vào Allah như một đấng tối cao nhưng không phải là duy nhất; họ vẫn thờ các vị thần trong tín ngưỡng truyền thống của mình và khu vực như Thần Mưa, Thần Núi, Thần biển... Họ vẫn thực hiện các nghi lễ nông nghiệp theo tín ngưỡng dân gian như lễ cầu xin thần Mẹ Xứ Sở (Rifa Nưgar), lễ cầu mưa (Yor Yang), lễ cầu thần Sóng Biển (Plao Pasah), lễ chặn dầu nguồn (Kap Hlâu Krong)...
Người Chăm Bà Ni không cầu nguyện cả 3 lần mỗi ngày; không nhịn ăn ban ngày vào tháng Ramưwan như luật định mà chỉ có giáo sĩ nhịn ăn ba ngày đầu tháng thôi. Họ cũng không hành hương tới thánh địa La Mecque (người Chăm Hồi giáo ở Châu Đốc sau này cử đại diện đi hành hương).
Lễ cắt da quy đầu (Khotan) cho con trai theo phong tục Hồi giáo nghiệt ngã được biến cải thành lễ Katat cho thiếu niên nam 15 tuổi và chỉ thực hiện một cách tượng trưng. Theo truyền thống âm dương hài hòa của văn hóa nông nghiệp khu vực, người Chăm lại đặt thêm ra lễ Karoh cho thiếu nữ đến tuổi dậy thì. Khác với xã hội Hồi giáo theo phụ hệ, người Chăm Bà Ni theo truyền thống mẫu hệ trong tổ chức gia đình, trong việc cưới xin. Cũng bởi vậy mà lễ Karoh (cho con gái) được coi trọng hơn lễ Katat (cho con trai).
Lễ tang của người Chăm Bà Ni tổ chức theo tập tục Hồi giáo nhưng được bổ sung thêm bằng một loạt phong tục cổ truyền của cư dân Đông Nam Á như tục mở đường xuống âm phủ, tục ngăn ngừa sự quấy phá của vong hồn người chết, tục gửi lễ vật nhờ người chết mang xuống âm phủ cho người thân.
TÌM HIỂU SỰ GIAO LƯU VĂN HÓA GIỮA DÂN TỘC CHĂM VÀ VIỆT
Qua quá trình biến chuyển của lịch sử, dân tộc Chiêm (tức Chăm) và Việt
(hay Kinh) đã dần dần trở thành những cư dân sống rất gần gũi nhau, cộng canh
cộng cư với nhau. Ở nhiều vùng nông thôn, người Chăm và người Việt sống dựa
lưng vào nhau trong mọi sinh hoạt để hỗ trợ cho nhau một cách thiết thực và
thân tình.
Nếu người Chăm chuyên sống về nghề ruộng rẫy, nghĩa là chỉ làm thuần nông
thì người Kinh lại thạo những nghề trồng rau và buôn bán. Trong các vùng Chăm,
chính người Kinh làm nhiệm vụ cung cấp rau sống và các hàng hóa, nhu yếu phẩm
cho người Chăm, vì trước đây 50 năm người Chăm không bao giờ buôn bán và cũng
không trồng rau. Hôm nay có sự đổi thay, người Chăm đã biết buôn bán (tuy chưa
nhiều), hoặc vài gia đình biết trồng rau muống để kiếm sống. Ngay trong việc
làm ruộng, có những việc trước đây người Chăm không bao giờ làm như gặt hái
chẳng hạn, chỉ do người Kinh đảm đương. Chính sự phân công tự nhiên như vậy
trong sinh hoạt hàng ngày đã khiến cho cư dân Chăm-Kinh xích lại gần nhau hơn,
như một bổ sung tự nhiên trong cuộc sống.
Một cuộc sống có sự tương hỗ hài hòa như thế sẽ tạo nên những luồng giao
lưu và tiếp biến văn hóa về mọi mặt giữa hai dân tộc, từ văn hóa ăn uống, may
mặc, kinh tế, âm nhạc, phong tục-tín ngưỡng đến giao lưu nhân chủng, tên họ,
địa danh, và đặc biệt nhất là giao lưu ngôn ngữ. Một số yếu tố văn hóa ấy đã
từng tiếp biến một cách nhuần nhuyễn, trở thành yếu tố văn hóa truyền thống,
đến nỗi ta cứ tưởng vài nếp phong tục như là của chính ông cha ta để lại. Chỉ
có nhà nghiên cứu mới tách bóc từng lớp văn hóa trong văn hóa của một dân
tộc.(1)
Trong khuôn khổ của một bài báo, tôi chỉ xin đơn cử một vài ví dụ để minh
chứng cho các vấn đề giao lưu nói trên.
1. Giao lưu ăn uống
Trước đây người Chăm có nhiều món ăn rất lạ và sang trọng theo thực đơn của
vua chúa, nhưng nay đã thất truyền. Không nên chê trách hiện tượng đó, vì trong
cuộc sống kham khổ, không ai còn đủ thời gian và hứng thú để tìm hiểu và nấu
nướng theo các thực đơn quí phái ấy. Nhưng thật đáng tiếc, nếu như người Chăm
không bảo tồn được các món ăn rất đơn giản nhưng lại đậm đà bản sắc văn hóa dân
tộc. Tôi muốn nói đến các món canh rất đặc trưng của người Chăm như: canh măng
non nấu với thịt gà, canh rau môn nấu với thịt trâu tơ, canh rau rừng nấu với
loại ốc leo (abaw lingik), canh rau đắng nấu với thịt thỏ rừng, canh bầu cá
trê… Những món ăn ngon lành đặc sắc như thế mà xem ra hôm nay ít gia đình còn
lưu giữ được, như vậy con cháu chúng ta làm sao biết mà thưởng thức các món ăn
truyền thống này?
Ngày nay người Chăm có khuynh hướng nấu ăn theo kiểu người Kinh: thường nấu
ngọt (trước đây chỉ biết và thích nấu chua), dùng món xào, chiên, và nước mắm
(trước đây chỉ biết mắm nêm). Tuy nhiên, người Chăm vẫn còn lưu giữ được cái
“gu” riêng: thịt nướng, thịt rừng, các món canh rau rừng nấu đặc sệt với chất
bột gạo, và đặc biệt là cách nấu canh chua với gạo rang, loại ia mưnut…
Trong giao lưu ẩm thực, chúng ta nhận thấy người Kinh, đặc biệt ở vùng biển
và vùng nông thôn, thích ăn mắm nêm với cà dòn hay cà sống (thay vì mắm nước
với cà muối chua), các món canh rau rừng nấu đặc theo kiểu Chăm (nhất là ở vùng
Huế và Quảng Bình, Quảng Trị), ưa món cá nước ngọt kho tộ (đây là món ăn đặc
trưng Chăm dùng cho các bà đẻ), các món lẩu cũng là loại món nấu canh chua đặc
trưng của người Chăm). Người Kinh cũng thích dùng bánh tráng với cà sống mắm
nêm (theo các vị Chăm hiểu biết, bánh tráng có xuất xứ từ địa phương Chăm (đặc
biệt là Ninh Thuận). Hôm nay các nhà hàng hay chiều khách món thịt nướng là món
ăn theo Đặng Nghiêm Vạn không thuộc truyền thống Việt, vì trên mâm cỗ ngày giỗ
“vắng bóng thịt sống, nướng, tái”
2. Giao lưu may mặc
Trước đây phụ nữ Chăm ăn mặc theo truyền thống: áo dài may thẳng (không eo)
như kiểu áo phụ nữ Mã Lai, mang váy (khăn) trắng, đội khăn “hluh” (hoặc khăn
truyền thống). Thông thường áo dài chỉ vừa dưới đầu gối, bộ áo lao động thì có
áo ngắn (kiểu áo dài Chăm cắt ngắn như áo bà ba), bịt khăn với đội nón (nón là
yếu tố văn hoá chung), mang chăn (váy) đen. Nay, người phụ nữ Chăm đã cải biến
cách ăn mặc của mình theo khuynh hướng của người Kinh:
- Áo dài nắn eo rất sát theo đúng áo dài người Kinh (có người lưu ý rằng sự kiện này chỉ mới xảy ra vào thời Ngô Đình Diệm, khoảng năm 1957-58, khi chế độ độc tài này quyết đồng hóa dân tộc Chăm, nên cố ép phụ nữ phải bỏ y phục cổ truyền để mang y phục phụ nữ Kinh lúc dự lễ và một phụ nữ Chăm may áo dài giống kiểu người Kinh để đối phó). Cổ áo thì may kiểu “cổ thuyền” hay “cổ trái tim” chứ không theo truyền thống Chăm, độ dài thì chấm gót.
- Lắm lúc áo dài lại mặc “com lê” (nguyên bộ), áo dài và chăn cùng màu chứ không mang chăn trắng.
- Phụ nữ trẻ thì thích đội mũ, thay vì đội
nón.
- Hiện nay thiếu nữ Chăm có khuynh hướng mặc
quần Tây “đóng thùng” (bỏ áo vào quần), và bình thường thì mang áo bộ (áo và
quần cùng màu) chứ không mang áo màu hay áo trắng mặc váy đen như lúc sinh hoạt
ở gia đình như xưa kia.
Trong giao lưu ăn mặc, chúng ta nhận thấy áo dài phụ nữ Chăm và Kinh có
nhiều nét tương đồng, chỉ khác nhau ở chỗ là áo dài Kinh có xẻ tà với nút bấm
để mặc hay cởi được dễ dàng chứ không phải chui đầu như áo dài Chăm. Chính ở
đặc điểm này mà người Chăm cho rằng áo dài Kinh, tuy giống áo dài Chăm nhưng
lại có điều chỉnh nâng cao về mỹ thuật và tiện lợi (có eo, xẻ tà trông mỹ thuật
và thi vị hơn, lúc mặc vào cởi ra lại thuận tiện hơn). Như vậy áo dài phụ nữ
Kinh chắc có xuất xứ từ áo dài phụ nữ Chăm, sau đó được nâng cao về mặt thẩm mỹ
và tính thực dụng.
Tôi thấy sự nhận xét này không những có lý mà còn phù hợp với nhận xét của
Đặng Nghiêm Vạn: “… lạ nhất, bộ y phục phụ nữ Kinh gồm có chiếc áo dài xẻ nách,
chiếc quần trắng, dép đều là những yếu tố văn hóa ngoại nhập. Xưa các bà, các
cô mặc áo dài tứ thân, yếm đào, váy đen. Duy chỉ chiếc nón là yếu tố văn hóa
chung. Ấy vậy mà nay bộ y phục trên lại tượng trưng cho bản sắc Việt Nam”.(1)
3. Giao lưu phong tục - tín ngưỡng
Phong tục-tín ngưỡng là yếu tố văn hóa ăn sâu vào lòng dân tộc, thế mà với
thời gian yếu tố ấy cũng có thể phai mờ và chịu ảnh hưởng của yếu tố văn hóa
ngoại nhập.
Về phía dân tộc Chăm, người ta nhận thấy ảnh hưởng này ghi đậm dấu ấn vào phong tục tập quán của người Chăm:
- Trong đám cưới, mặc dầu theo phong tục Chăm (nhất là người Chăm theo tôn giáo Bàni) rất khắc khe, một khi cô dâu đã chịu các lễ nghi tôn giáo rồi thì không được khoác áo khác ngay sau đó, nhưng trong thực tế, đa số cô dâu Chăm vẫn thích mua sắm (hoặc thuê) các áo cưới tạm thời để ra mắt bạn bè và tiếp khách trong tiệc mặn!
- Sau ngày cưới, hiện nay có nhiều cặp vợ chồng trẻ muốn tách ra ăn ở
riêng, cũng là hình thức để thoát khỏi ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ Chăm và mong
muốn giảm quyền hạn phụ nữ trong gia đình.
- Về nhà ở, trước đây người Chăm chỉ biết xây cất nhà theo kiểu truyền
thống, cửa ra vào luôn hướng về phía Tây (hay Nam: Sang halam), không bao giờ
được quay mặt về hướng Đông (trừ Sang tong là nhà khách của gia đình quyền
quí). Nhưng hầu hết các nhà Chăm hiện nay đều xây theo phong cách hiện đại,
quay mặt về hướng Đông cả! Đúng là tiện nghi lấn át tập quán cổ truyền!
- Sự biến đổi cả những yếu tố ăn mặc của phụ nữ Chăm như đã nói trên đây
cũng là một minh chứng cho sự giao lưu phong tục tập quán.
Về phía người Kinh,
những yếu tố văn hóa sau đây đã được biến đổi:
- Hiện nay, các cặp vợ chồng trẻ Chăm-Kinh (vợ Chăm chồng Kinh hay ngược
lại) ngày càng đông trong việc chấp nhận làm đám cưới theo lễ nghi tôn giáo
Chăm (nhất là Chăm Bàni).
- Người Kinh theo chế độ phụ hệ và chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Trung
Quốc (trọng nam khinh nữ), nhưng người Kinh ở miền Trung lại có xu hướng trọng
nữ. Câu tục ngữ “Nam đầu nữ Út” thể hiện rõ ràng yếu tố văn hóa Chăm là khi cha
mẹ về già phải ở với con gái út để được chăm sóc chu đáo hơn và tận tình hơn,
vì thế mà nhiều gia đình miền Trung có chế độ gởi rể.
- Về tín ngưỡng, chúng ta nhận thấy là việc đồng bóng cũng như việc thờ
cúng đa thần của một số gia đình người Kinh cũng do ảnh hưởng từ văn hóa Chăm.
4. Giao lưu về nhân chủng
Qua quá trình di dân của người Chăm trước
đây, cũng như người Kinh xuôi về phương Nam sinh sống, chắc chắn là có một số
làng mạc Chăm không di cư vì nhiều lý do (trong đó phải kể đến lý do sinh kế)
nên cứ sống đến đâu hay đến đấy. Như thế, trong quá trình sinh hoạt, hai cư dân
Chăm-Việt chắc chắn có hiện tượng giao lưu nhân chủng qua việc cưới hỏi giữa
hai dân tộc và một số người Kinh ở miền Trung chắc chắn có dòng máu của dân tộc
Chăm. Trần Văn Tích nhận định rằng:
“ Cuối đời Trần, ở cổ thành phủ Triệu Phong có thành Thuận Châu, tương đương với đất châu Ô của Chiêm Thành nhường cho nhà Trần. Như thế đồng hương Quảng Trị đã ra đời và lớn lên trên đất cũ người Chàm; chắc chắn không nhiều thì ít đều có mang những gien của Chế Mân, Chế Củ, Chế Bồng Nga….” (2)
5. Giao lưu âm nhạc
Giao lưu âm nhạc là một trong những giao lưu văn hóa được nhiều người chú ý
đến. Trong quá trình lịch sử, chúng ta được biết là có nhiều nghệ nhân, vũ nữ
và nhạc sĩ Chăm được người Đại Việt đưa đến Thăng Long, chẳng hạn vào năm 1044,
với vua Lý Thái Tông, và năm 1202 với vua Lý Cao Tông. Theo Dương Quảng Hàm thì
“vua Lý Cao Tông có sai người soạn ra nhạc khúc mới gọi là Chiêm Thành âm,
tiếng sầu oán, thương xót nghe đến phải khóc”. Học giả này cũng đưa ra giả
thuyết là “nhiều người cho rằng các lối ca Huế là do ta phỏng theo các ca khúc
của người Chiêm Thành mà đặt ra” (3). Đào Duy Anh thì ghi “Ở miền Nam, kể từ
khi chúa Nguyễn khai thác bờ cõi vào đất của Chiêm Thành, âm nhạc ở Bắc truyền
vào đã chịu ngay ảnh hưởng của Chiêm Thành mà thành những khúc nhạc cung Nam mà
người hay đem đối lại với các ca khúc cung Bắc. Những cung Nam như Nam ai, Nam
bình, Nam xuân có vẻ trầm bi, oán vọng, hợp với tâm thuật của một dân tộc điêu
tàn là dân tộc Chiêm Thành, cùng với cảnh non nước dịu dàng ở xung quanh kinh
đô”.(4)
6. Giao lưu văn học-nghệ thuật
Trong quá trình sống cộng canh cộng cư với nhau, chắc chắn phải diễn ra
nhiều giao lưu văn học-nghệ thuật giữa hai dân tộc. Tiếc rằng đề tài này ít nhà
nghiên cứu để ý đến. Sau đây tôi xin đơn cử một vài ví dụ làm bằng cứ:
- Về chuyện kể dân gian, chuyện kể “Ai mua hành tôi” (giống chuyện Vua Bếp của dân tộc Chăm), chuyện “Sự tích đá Vọng phu” (không khác mấy so với chuyện Nai Carau Caw Bhauw/đọc là Nai Charao Cao Phò của Chăm), “ Sự tích thành Lồi, Sự tích tháp Nhạn”…. có nguồn gốc từ những chuyện kể Chăm(5). Chuyện kể “Tấm Cám” cũng rất giống chuyện “Kam Mưlơk” của dân tộc Chăm. Ngược lại một số chuyện kể Chăm cũng bắt nguồn từ chuyện kể của người Kinh.
- Về sử thi Chăm Pram Dit Pram Lak là một sử
thi có xuất xứ từ sử thi Ramayana của Ấn Độ. Có một điều lạ là dị bản Pram Dit
Pram Lak lại được tìm thấy trong sách Hán Nôm “Lĩnh Nam chích quái” (Lượm lặt
chuyện lạ nước Nam) với tên gọi là Dạ Thoa vương về chuyện Chiêm Thành.(4)
- Về nghệ thuật múa, từ xa xưa vũ nữ Chăm vẫn
được ca tụng như những nghệ nhân múa điêu luyện. Cứ nhìn các hình tượng của các
vũ nữ được khắc chạm trên các đền tháp còn lưu lại đến ngày hôm nay, chúng ta
cũng có thể đánh giá nghệ thuật này đã phát triển đến mức nào! Triều đại nhà
Lý, có hàng trăm vũ nữ và nghệ nhân Chăm được đưa về Thăng Long và được sử dụng
trong cung đình nhà vua lúc bấy giờ. Ngày nay, các điệu múa quạt được vài đạo
diễn triển khai trên sân khấu hiện đại đều bắt nguồn từ điệu múa Chăm, nếu ta
đánh giá trên phong cách của nghệ thuật này.
- Về nghệ thuật xây dựng, sử sách có đề cập
đến bàn tay nghệ thuật của các kĩ sư Chăm trong việc xây dựng và tô điểm các
chùa chiền cổ ở Thăng Long.
7. Giao lưu về kinh tế
Trong việc làm ăn hàng ngày, dĩ nhiên phải có những ảnh hưởng qua lại
giữa hai dân tộc Chăm-Kinh. Tôi xin đơn cử :
7.1. Về phía người Chăm
- Đã nhận ảnh hưởng từ người Kinh trong việc
buôn bán.
- Bây giờ đã có một số gia đình Chăm tập
trồng rau muống và một số rau của bản xứ (cà, dưa leo, quế…) cũng do ảnh hưởng
phần nào của nông dân Kinh. Riêng các loại rau leo như: mồng tơi, bầu bí, mướp…
người Chăm từ lâu rất thích trồng theo mùa mưa tại ruộng rẫy hay trong khuôn
viên nhà ở.
- Trước kia, người Chăm chỉ biết dùng “xe
trâu” làm phương tiện chuyên chở, chỉ từ thập niên 50 trở đi, người Chăm mới
chuyển sang dùng “xe bò” do sự tiện lợi của nó.
7.2. Về phía người Kinh
- Bằng dụng cụ tinh xảo của mình, kĩ thuật
làm đất (ruộng hay rẫy) của người Chăm đã đạt mức độ rất cao. Một số cụ nông
dân Chăm cho rằng lưỡi cày và bắp cày của người Kinh là tiếp nhận của Chăm.
- Kĩ thuật xây đập và dẫn thủy nhập điền của người Kinh phần nào chịu ảnh hưởng của Chăm (đặc biệt là ở xứ Ninh Thuận, Bình Thuận).
- Kĩ thuật xây đập và dẫn thủy nhập điền của người Kinh phần nào chịu ảnh hưởng của Chăm (đặc biệt là ở xứ Ninh Thuận, Bình Thuận).
- Có nhiều cụ già cho rằng có lẽ xe bò đang
được người Chăm và Kinh sử dụng hiện nay bắt nguồn từ chiếc xe trâu của người
Chăm.
- Theo nhiều nhà nghiên cứu, từ rất sớm – thế
kỉ thứ IX – người Chăm đã biết lai giống lúa (loại lúa ngắn ngày – 3 tháng – và
chịu hạn tốt như: Bà rên, Cây ối, lúa Chiêm, Ba trăng). Vì vậy Lúa Chiêm và lúa
Ba Trăng (nghĩa là lúa ba tháng) mà miền Bắc đang làm là có xuất xứ từ dân tộc
Chăm. Còn lúa Bà Rên, Cây Ối là loại lúa chịu hạn tốt cũng đang được một số
người miền núi sử dụng.
8. Giao lưu về họ tên
Nếu chúng ta nhìn nhận có giao lưu về họ, tên thì đây là sự giao lưu một
chiều: Người Chăm chịu ảnh hưởng rất nặng về họ và tên của người Kinh.
- Về HỌ, như tác giả đã có dịp trình bày ở Tagalau4 là trước đây những người Chăm bình thường không có họ, chỉ có Hoàng tộc mới mang các họ chính thống: Ôn, Trà, Ma, Chế. Các họ mà người Chăm mang hôm nay như: Thành, Tài, Báo, Bá, Phú, Lộ, Thuận, Thông, Quách… và kể cả họ “Nguyễn” đều là những họ do vua Minh Mạng ban phát.
- Về TÊN, trước đây người Chăm chỉ lấy những tên đặc trưng Chăm như: Mưng Thang
Ôn, Mưng Thang Wa, Mưng Thang Muk (cho nữ), va Ja Thar Chay, Ja Thar Muk, Ja
Plôi… (cho nam). Nay người Chăm thường lấy tên giống người Việt, có lẽ để con
em mình được thuận lợi hơn khi đến trường (?), hay không phải bị mặc cảm tự ti
dân tộc (?) hoặc còn có nhiều lý do khác nữa…
9. Giao lưu về địa danh
Tác giả đã có dịp lược qua một số địa danh ở các tỉnh miền Trung, đặc biệt
là địa danh ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận để nhấn mạnh sự giao lưu văn
hóa về nơi cư trú. (Xin xem thêm tuyển tập Tagalau các số 4, 5, 6)
10. Giao lưu về ngôn ngữ
Nói đến văn hóa của một dân tộc, trước hết phải nói đến ngôn ngữ-chữ viết
của dân tộc đó, vì lời nói và chữ viết là linh hồn của một dân tộc. Một dân tộc
có thể không có nhạc cụ riêng, không có phong cách nhà đặc trưng, không có
trang phục đặc biệt, điều đó không quan trọng lắm; nhưng người ta không thể
tượng tượng nổi một dân tộc không có ngôn ngữ đặc trưng của mình!
Xét về giao lưu ngôn ngữ giữa hai dân tộc Chăm-Kinh, chúng ta nhận thấy
trước đây – lúc tiếp xúc ban đầu với dân tộc Chăm – người Kinh có chịu ảnh
hưởng một số ngôn từ, có thể là do giao lưu nhân chủng hay một vài lý do khác.
Nhưng, ở thời cận đại và hiện đại, người Chăm chịu ảnh hưởng tiếng Việt là
chính, ngày càng sâu đậm. Chúng ta thử xem xét mấy giao lưu sau đây thì rõ:
10.1. Các từ Việt có nguồn gốc Chăm
Ở vùng Thừa Thiên-Huế và Quảng Bình, Quảng Trị, đa số người địa phương sử
dụng các từ: ni, mô, tê, ôn, mụ là những từ có xuất xứ từ ngôn ngữ Chăm. Ngày
nay người Chăm vẫn dùng từ “ni” để nói là “đây”, “tê” để chỉ cái “kia”, “moh”
để diễn giải ở “đâu” và “ôn mụ” để nói là “ông bà”.
Còn ở những vùng cộng canh cộng cư với dân tộc Chăm, người Kinh mượn hẳn từ
ngữ Chăm để diễn giải các dụng cụ đặc trưng Chăm mà người Kinh không có hoặc có
nhưng không cùng đặc điểm đó. Ví dụ: từ cà rá (gốc Chăm: karah) để chỉ chiếc
“nhẫn” có tra hột đen đặc biệt của người Chăm, từ cà tăng (gốc Chăm: ratơng) để
chỉ một loại tấm đan tre để chắn lúa. Từ chà bang (gốc Chăm: cabbang) để chỉ
vật bị tẻ ra làm đôi; từ chống tó’ (Gốc Chăm: patauk) để nói là “cây chống”; từ
chà tay (gốc Chăm: catei) để chỉ dụng cụ thợ mộc dùng để “gò” cho miếng gỗ được
đều đặn, vân vân…
10.2. Các từ ngữ Chăm vay mượn tiếng Việt
Những từ vay mượn đã được đồng hóa hẳn:
- Ruw ri/đọc là rău ri: gốc Việt là rầu rĩ.
- Bat nhơn bat ngai: gốc Việt là bất nhơn bất
nghĩa
Những từ vì lười sử dụng mà về sau mất gốc
hẳn:
- Lồng đèn (Chăm: gok mưnhưk).
- Chùm ruột (Chăm: caramai).
- Măng cụt (Chăm: mưkhut).
- Khế (Chăm: hamia) vân vân và v.v…
Những từ ngữ đang có nghĩa nhưng lại dùng tiếng Việt thay thế:
- Cụm từ “ đi họp’’ (Chăm: nau nhaum) người Chăm vẫn hay dùng cụm từ “nao
họp”.
- Cụm từ “mười giờ” (Chăm: sa pluh tuk).
- Cụm từ “cỏ voi” (Chăm: harơk limưn).
- Từ “mực” (Chăm là: ia gawic).
- Các danh từ rất thông dụng như: thứ hai, thứ ba, thứ tư… Một sinh viên
nước ngoài đến nghiên cứu khảo sát tại Ninh Thuận kết luận rằng hầu hết người
Chăm dưới 50 tuổi chỉ quen sử dụng từ Việt chứ không hiểu nghĩa Chăm: Som,
Angar, But, Jip…
Một số từ tương đồng:
Ví dụ: trái mít (Chăm: bauh mit), trái ổi (bauh wix), trái lựu (bauh
dalim), áo (aw), ruồi (rwai)…
Hai câu hỏi được đặt ra ở đây là:
- Một: các từ giống nhau như vậy có cùng nguồn gốc không?
- Hai: nếu cùng nguồn gốc thì dân tộc nào chịu ảnh hưởng của dân tộc nào?
=> Có bộ phận không nhỏ người Chăm có thói quen không tốt là lười động
não trong việc sử dụng tiếng mẹ đẻ, ta thích nương theo xu hướng tự nhiên là
hay dùng rất nhiều từ phổ thông trong các cuộc nói chuyện hoặc họp hè, đặc biệt
là khi nói ở loa phát thanh. Tôi đã không ít ngạc nhiên khi một người quen ở
Hựu An (Phan Rí) nói với tôi câu này: “Mời thầy mư nhà nhum ia dừa giải khát”!
Nói về giao lưu ngôn ngữ, tôi có một thắc mắc mong muốn trao đổi với những
người đồng tộc:
- Đảng và Nhà nước có ra Nghị quyết 5, với nội dung là “bảo tồn bản sắc văn
hóa dân tộc”, liệu người Chăm có thực hiện Nghị quyết quan trọng này không?
- Người Chăm có suy nghĩ gì trong khi vừa không thực hiện được Nghị quyết
quan trọng của Đảng, vừa không làm tròn trách nhiệm của mình đối với ngôn ngữ
dân tộc?
Kết luận:
Hai dân tộc sống gần gũi nhau, việc giao lưu và tìm hiểu bản sắc văn hóa là
việc đương nhiên. Có giao lưu văn hóa mới có sự học hỏi kinh nghiệm quá khứ của
nhau hầu phát triển và tiến bộ. Nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là chúng ta phải
thấy trong sự giao lưu này dòng chảy của chánh lưu lúc nào cũng mạnh mẽ hơn
dòng chảy của phụ lưu, nghĩa là trên thực tế hơn một thế kỉ qua, sự giao lưu có
xu hướng diễn ra một chiều: văn hóa của dân tộc mạnh hơn sẽ cuốn hút văn hóa
của dân tộc yếu hơn. Như vậy, muốn phát triển và tiến bộ, dân tộc nhỏ cần phải
sáng suốt trong sự lựa chọn cái nào cần phải tiếp nhận như là sự bổ sung cho
văn hóa dân tộc mình một cách hài hòa. Thông thường cái xấu dễ tiếp nhận hơn
cái tốt, bởi vẻ ngoài của chúng có sức hấp dẫn hơn, lứa trẻ “dễ” học hơn.
Hôm nay dường như rất ít thanh thiếu niên Chăm học được cái tốt của thanh thiếu niên Kinh, có lẽ vì khó học sao ấy (như học thật giỏi, lấy nhiều bằng cấp, có đạo đức tốt), nhưng khá dễ lây nhiễm thói hư tật xấu (như bê tha, chây lười, bỏ học, phá phách, rượu chè…). Đó là hai mặt tích cực và tiêu cực của vấn đề giao lưu văn hóa mà trong thực tế hôm nay, vấn đề này đã, đang và sẽ xảy ra. Vậy trách nhiệm của chúng ta trong việc bảo tồn văn hóa phải như thế nào mới là đúng mức?
CÁC LỄ HỘI NGƯỜI CHĂM Ở BÌNH THUẬN
1.
Lễ Hội Mbăng Katê: là 1 lễ hội quan trọng đối
với người chăm, lễ hội được kéo dài 5 ngày liền của người Chăm theo đạo
Bàlamôn. Có thể nói đây la tết còn để tưởng niệm các vị vua chúa, các bậc anh
hùng có công, các bậc tổ tiên và thần linh, những người đã được thần thánh hoá
như vua Klong – Garai, vua Pôrêmê. Lễ hội được tổ chức vào tháng 8 tháng 9 âm
lịch (tức là đầu tháng 7 theo Chăm lịch) tại các đền tháp và tiếp theo đó
chuyển về gia đình đồng bào Chăm tại tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận.
Vào buổi tối trước ngày chính hội có nghi lễ
với các nghi thức trang trọng trong nghạc lễ dân tộc và các vũ điệu cổ truyền.
Lễ
cúng được thực hiện vào trưa ngày chính hội, tiếp theo là lễ rước thần, tắm
tượng, mặc áo, đội mũ cho tượng. Vào chập tối các nghi lễ kết thúc mọi người
hưởng lộc và cùng nhau tham dự các tiết mục văn nghệ như trình diễn nhạc, ngâm
thơ ca.
Điều
đặc biệt đáng lưu ý là trong lễ hội cũng có người dân tộc Raglai ở trên núi
xuống dự hội, chia sẽ niềm vui với người chăm.
2. Lễ hội Rija Nưgar: Là lễ hội Bà Po Nagar
vào ngày 5 – 6 tuần đầu tháng giêng (lịch Chăm) khoảng tháng 10 dương lịch,
người Việt gọi là lễ Cầu Yên. Lễ kéo dài khoảng 3 ngày đêm, dân làng làm Lễ Cầu
Yên để tống tiển những điều xấu, không may
của năm cũ. Nghi lễ được tiến hành kúc chạng vạng tối, sau phần gnhi lễ
là đến các tiết mục múa hát của dân tộc Chăm và trò chơi thả thuyền.
Ngoài ra các người Chăm ở Bình Thuận thường
xuyên tổ chức các lễ hội khác như: Lễ Cầu Đảo, lễ Đắp Đập, lễ Cấm Phòng...
3. Lễ Chaben (Lễ tưởng niệm Đấng Mẹ): Diễn ra
tại tháp Pô-Klong-Garai hoặc đền thờ Ponagar vào tháng 10 Chăm lịch.
4. Lễ Jòn Jang (Lễ Cầu Đảo, cầu Thần Nông):
diễn ra tại tháp Pô-Klong-Garai, Tháp Pôrêmê vào tháng 4 Chăm Lịch
5. Lễ Đền Ơn Đáp Nghĩa Cha Mẹ: dân tộc
Ragdai.
Sông Cà Ty
Mỗi con sông như mỗi con người đều có ngọn nguồn cội rễ. Rừng là
nơi phát tích, phát nguyên, là nơi quyết định của những con sông. Có nước mới
có khe, có khe mới có suối nhiều con suối hợp lại thành sông và mọi con sông
đều đổ về biển. Cấu trúc hình thể tộc của con sông ngược lại với cấu trúc hình
thể tộc của cây cỏ, của con người. Ngọn nguồn, cội rễ của cây cỏ và con người
nằm trong lòng đất, còn nguồn gốc cội rễ của con sông nằm tận trên cao.
Như con người mỗi con sông đều có riêng những nét đặc thù về dáng
dấp, phong cách, tánh nết… bên cạnh những nét chung khi đục khi trong, bên bồi
bên khuyết, khi hiền lành khi thơ mộng, khi phẫn nộ điên cuồng. Con người gọi
nó là Con vì nó đã được nhân cách hóa, phải chăng về hình thể, nó lượn quanh
uốn khúc như một con sinh vật và nó cũng tồn tại theo quy luật sanh, lão, bệnh,
tử như con người.
Như con người mỗi con sông đều có họ tên, cũng có bí danh, cũng
thường thay đổi tên họ, chỉ điều khác nhau là con người tự đặt tên cho mình và
đặt tên cho những con sông.
Sông Phan Thiết xuất hiện từ năm 1697 – năm Đinh Sửu, thứ 6 đời
Hiển Tông, Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chu (1691-1725).
Lúc bấy giờ do xếp đặt lại việc cai trị một vùng đất mới, triều
Nguyễn đặt phủ Bình Thuận (cơ quan hành chánh), trực tiếp quản lý 4 đạo (tương
ứng cấp tỉnh): Phan Rang, Phố Hài, Phan Thiết, Ma Ly. Mỗi đạo đều có quan văn,
quan võ. Trên bản đồ nó được ghi là sông Cà Ty. Trên con sông có bến Cà Ty là
nơi qua lại, nơi lấy nước, nơi tắm giặt của bà con Phú Hội và Phú Mỹ. Lên miệt
trên, nó được ghi là sông Mường Mán. Đến thượng nguồn nó là con Sông Cái – con
sông mẹ, vì nó là nơi hội tụ, hợp lưu các con Sông Mán, Sông Rao Ết, Sông Linh…
và các con Suối Vàng, Suối Lin, Suối Thi, Suối Ngư, Suối Y-A-U, Suối Lô Tô,
Suối Cẩm Hang…, nằm trong địa phận các thôn 1, 2, 3 của xã Hàm Cần, thuộc vùng
đồng bào dân tộc Rai và một số ít đồng bào Cà Ho mà xưa kia gọi là xã Đăng Gia
thuộc Tổng Cà Dòn.
Không ít người dân bản địa phân vân về cái tên của con sông quê
hương: Mương Mán hay Mường Mán? Phan Thiết hay Mang Thít? Mà Mang Thít và Cà Ty
có phải là tiếng nói của người Chàm không? Ông Thiên Sanh Cảnh, nhà nguyên cứu
dân tộc học người Chàm (ở Hữu Đức, Ninh Phước, Ninh Thuận). Ông cho biết xưa
kia, ngoài này gọi trong đó là MULA THÍCH, tức Ruộng Thích. Ông còn cho biết
thêm, theo tiếng Chàm, PRONG là lớn, Nhe là nhỏ, Mũi Né có thể là Mũi Nhỏ.
Trên tạp san văn hóa tháng 4, 5/1969 xuất bản tại Sài Gòn, tác giả
bài viết tách con sông ra làm đôi: Sông Cái (sông Phan Thiết) dài 76 km, sông Cà
Ty dài 5km. Ai cũng hiểu sông Mương Mán, sông Cà Ty, sông Phan Thiết cũng chỉ
la một con sông. Con sông đi qua địa phương nào, đem lại hạnh phúc ấm no cho bà
con, nên bà con lấy tên quê hương mình đặt tên cho nó để nói lên sự gắn bó tình
cảm giữa con người với dòng sông.
Đọc Đại Nam Nhất Thống Chí, phần tỉnh Bình Thuận có đoạn ghi rất
rõ: “Sông Phan Thiết ở phía tây huyện Tuy Lý (tên Tuy Lý có từ năm 1854, Tự Đức
năm thứ 7, đông giáp Hòa Đa, tây giáp Biên Hòa), nguồn ra từ Động Man (tức nơi
ở của đồng bào dân tộc miền núi), chảy về phía đông qua xã Phú Hội, tục gọi là
sông Bao Lân, chảy về phái nam 9 dặm đến thôn Phú Tài, có một nhánh từ bến Bình
Tân đến cầu Minh Lâm chừng 6 dặm mà hợp vào (tức cầu 40, cầu Ông Rao, cầu Ông
Nhiều, nhánh này từ Bưng Cò Ke, Bưng Kỳ Hào, Bưng Bà Tùng, Suối Sung… chảy ra).
Lại chảy về phía nam chừng 3 dặm đến thôn Đức Thắng, rồi 2 dặm đổ ra cửa Phan
Thiết (mỗi dặm là: 444,44m)”.
Con sông Bao Lân đã đi vào quên lãng. Bây giờ, có lẽ ta thống nhất
gọi tên con sông quê hương là Sông Cà Ty như trên bản đồ và dù sao nó cũng cần
có một tên riêng. Sông Cà Ty không dài, không rộng, nhưng hiền lành, chân chất,
ấm áp nghĩa tình, đã đem dòng sữa của mình nuôi sống cả một vùng châu thổ, từ
thượng nguồn xuống đến hạ lưu. Những vườn cây sai trái, những cánh đồng nặng
hạt, những cô gái trắng da dài tóc… đều hưởng ân huệ của con sông quê hương.
Càng về với biển, sông càng mở rộng, thủy triều lên xuống, tàu
thuyền tấp nập đông vui. Hạnh phúc làm sao khi ta được sống ở một quê hương có
con sông uốn khúc lượn qua với ba cây cầu đầy vẻ thơ mộng, với bóng thầy giáo
Nguyễn Tất Thành hiện lên trên khúc sông lúc ngã về chiều, với dáng Lầu nước –
biểu tượng cho phố biển rực rỡ ánh đèn màu lúc về đêm.
Con sông không biết tự mình trang điểm. Trên gương mặt dịu hiền
đôi khi vẫn hiện lên những nét cau có vì những nỗi bất bình ôm ấp trong lòng
sông.
Lầu nước Phan
Thiết
BT- Đài
Truyền hình Bình Thuận phát nhiều lần tư liệu về lầu nước Phan Thiết, trong
chuyên mục Nét đẹp quê hương, gợi cho người dân nơi đây thêm yêu vẻ đẹp của quê
hương mình. Nếu người Phan Thiết sống nơi đất khách quê người được xem, thì sẽ
gợi nhớ niềm thương xứ sở một vùng đất giàu về hải sản, đẹp về cảnh quan, tình
người chân chất mến khách thập phương.
Lầu nước là
nỗi nhớ về của bao thế hệ con em Phan Thiết - Bình Thuận, nó trở thành biểu
tượng trong lòng người nơi đây từ khi nào xa xa lắm.
Tùy lứa tuổi,
tùy năng khiếu mà con em Phan Thiết thể hiện tình cảm của mình về lầu nước qua
tác phẩm nghệ thuật, người thì vẽ, người thì viết văn, làm thơ, chụp hình, điêu
khắc, sáng tác âm nhạc.
Lầu nước là
tên gọi chân chất vì nó là một vật thể dùng để chứa nước ngọt cung cấp cho
người dân nơi đây một thời, cách đây gần 80 năm. Nó vẫn đứng đó trải qua nắng
mưa giông bão, bom đạn chiến tranh, vững vàng gần một thế kỷ, phải nói chất
lượng xây dựng công trình này thật đáng nể.
Về hình dáng
lầu nước có hai phần: phần thân và phần bầu. Nó là một hình bông sen cách điệu.
Thân tượng trưng cho cọng sen và bầu là búp sen, mái vòm cong lên là cánh hoa
sen chớm nở.
Một đóa sen
mang khí khái người quân tử: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Bầu có 8 cạnh
là nơi chứa nước có dung tích khoảng 400m3. Mỗi cạnh có khắc chữ nổi
chạm mảnh sứ vỡ màu xanh UEPT là chữ viết tắt của các từ tiếng Pháp USINE DES
EAUX DE PHANTHIET (Nhà máy nước Phan Thiết).
Thân tháp có
8 cạnh, mỗi cạnh từ bầu nước xuống đến chân tháp có đúc các chữ HỈ PHÚC THỌ
KIẾT LỘC kiểu chữ triện cách điệu, vừa là cách trang trí, vừa là các ô cửa
thông gió, mang lời chúc phúc cho những ai có dịp đến chiêm ngưỡng công trình
kiến trúc văn hóa này.
Ngay từ khi
xây dựng người ta chú trọng lấy nơi này làm trung tâm định hướng Đông Tây Nam
Bắc cho Phan Thiết. Từ chân lầu nước tỏa ra bốn hướng là bốn con đường
lát gạch. Cột mốc cây số 0 nằm về hướng Bắc ngay ngã tư Lê Hồng Phong - Hải
Thượng Lãn Ông (cạnh Ngân hàng Nhà nước Bình Thuận ngày nay).
Xung quanh
vườn bông xây vòng thành bằng đá thấp, không có cổng, không có tường rào, mỗi
hướng lát gạch là một lối vào.
Bên trong
nhiều cây vông nem được trồng lên. Mỗi dịp tết đến xuân về, bông vông nở đỏ rực
cả vòm trời, từng đàn cà cưỡng, sáo sậu có đến hàng trăm con kéo về ríu rít đua
nhau hút mật bông, bứt xả cánh hoa hồng thắm rơi vãi đầy mặt đất như xác pháo
đêm giao thừa cùng với người dân nơi đây rộn ràng đón tết.
Một cảnh
tượng gợi cảm đối với người Phan Thiết ngày xưa dù sống nơi đâu khó mà quên
được. Bây giờ đối với họ chỉ còn là hoài niệm. Một tấm ảnh đẹp, một bức tranh
vẽ, một sản phẩm điêu khắc có hình dáng của lầu nước Phan Thiết đã thành một
yêu cầu không thể thiếu mỗi lần có dịp về thăm quê đối với người con Phan
Thiết, mua cho mình, mua tặng bạn bè nơi xứ người. Một nỗi nhớ về làm nặng lòng
người xa xứ.
Lầu nước Phan
Thiết từ ngày được nhận là biểu tượng của tỉnh Bình Thuận, đã trở thành điểm đến
của các chương trình tham quan nghỉ dưỡng đối với bạn bè trong nước và quốc tế,
đặc biệt đối với các đoàn đến từ đất nước Lào anh em. Mấy năm gần đây các đoàn
Thủ tướng Lào, Chủ tịch Quốc hội Lào, đoàn đại biểu Quốc hội Lào, đoàn hữu nghị
Lào – Việt, đoàn Hoàng gia Lào, các đoàn thể quần chúng Lào lần lượt về thăm
lầu nước Phan Thiết với tấm lòng trân trọng. Đáng nhớ nhất là đoàn Hoàng gia
Lào gồm các con cháu của Cố Chủ tịch Nhà nước Lào, Hoàng thân Suphanouvong nhân
kỷ niệm lần thứ 100 năm ngày sinh của Chủ tịch. Người chính là tác giả công
trình kiến trúc lầu nước Phan Thiết nổi tiếng này, từ năm 1928 khi còn là kỹ sư
trưởng Khu Công chánh Nha Trang.
Từ nay lầu
nước Phan Thiết trở thành biểu tượng của tình hữu nghị Lào – Việt, sâu nặng như
nước Hồng Hà - Cửu Long, mà người dân Phan Thiết được vinh dự bảo tồn.
Hơn mười năm
trở lại đây mỗi dịp xuân về tết đến, Ban Giám đốc Nhà thiếu nhi tỉnh có sáng
kiến trình bày câu đối tết trên thân lầu nước bên cạnh cây nêu truyền thống dân
tộc, đã tăng thêm hương vị mùa xuân, vui mắt khách vãng lai, ấm lòng người dân
xứ biển.
Một ngày nào
đó khi các cháu thiếu niên nhi đồng có một sân chơi to hơn, đẹp hơn, đầy
đủ hơn thì công viên lầu nước sẽ được chỉnh trang tôn tạo xứng tầm của nó. Mong
rằng không gian nơi đây sẽ phủ đầy tán cây vông nem như ngày nào, để cứ
mỗi lần tết đến xuân về, người dân Phan Thiết được ngắm vòm hồng bông vông,
nghe tiếng chim hót rộn ràng mà thả hồn mình trong hoài niệm.
Bông vông đỏ
mảng trời quê Phan Thiết. Tiếng
cưỡng về đua hót vọng tầng cao. Tình không biết tự bao giờ thắm thiết. Dậy
trong lòng tha thiết nôn nao…
ĐẢO PHÚ QUÝ
Vị Trí: Đảo
Phú Quý còn gọi là “Cù Lao Thu”, là một đảo nhỏ nằm giữa Nam biển Đông, cách Thành Phố Phan Thiết 56,7 hải lý (111 km) về phía Đông Nam và cách quần đảoTrường Sa 196 hải lý (385 km) về
phía Tây. Nằm giữa trung tâm khai thác hải sản lớn nhấtNam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ.
Đặc điểm: Là một huyện đảo có khí hậu trong
lành, biển ở xung quanh, nước trong xanh thấy rõ địa hình, địa vât dưới độ
sâu 5 – 7m bằng mắt thường. Đặc biệt quanh đảo có một thảm thực vật rạn
san hô rất đa dạng phong phú, nhiều chủng lọai.
Phú
Quý có nhiều bãi tắm, như vịnh Triều Dương, bãi Doi Dừa, bãi Nhỏ Gành
Hang, bãi dọc cái doi Mộ
Thầy, nhất là bãi Vịnh
Triều Dương rộng và thoải mái, toàn là cát trắng mịn không có đá lộ
đầu, trên bờ có rặng dừa và rừng dương rợp bóng, lại có nhiều nước ngọt.
Trên đảo có nhiều danh lam thắng cảnh, các cơ sở tín ngưỡng như: “Chùa Linh Quang”, “Vạn Anh
Thành” (được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận là di tích lịch sử văn
hóa cấp quốc gia) có mộ Thầy Nại,
miếu Bà Chúa Chăm,
núi Cao Cát với cảnh
quan hùng vĩ được tạo hóa bởi các tầng núi đá dựng đứng. Xung quanh Phú
Quý trong lòng đất có nhiều di tích đã được khảo
cổ và là những ngôi mộ cổ kỳ lạ.
Với đặc điểm nêu trên Phú Quý là điểm đến tham
quan du lịch nghĩ dưỡng, du lịch sinh thái biển, du lịch thể thao, câu cá trên
biển và du lịch văn hóa lịch sử. Chương trình hoạt động du
lịch Phú Quý gắn với chương trình du lịch biển Trường Sa. Đồng thời gắn liền với các
tour du lịch của toàn tỉnh Bình
Thuận và xem việc tham quan du lịch của các đoàn khách trong
và ngoài nước.
Đảo Phú Qúy rộng
16,4 km2, gồm 10 hòn đảo lớn nhỏ, nằm cách TP Phan Thiết 56 hải lý về phía Đông. Nhìn từ phía Bắc, đảo
có hình thù như một con cá thu nổi lên giữa biển nên từ xa xưa có tên là Cù Lao Thu.
Huyện đảo có ba xã Ngũ Phụng, Tam Thanh và Đông Hải bao quanh còn có nhiều hòn
nổi lớn, nhiều bãi biển, gành đá, vịnh hoang sơ rất đẹp. Phú
Quý là đảo tiền tiêu trên biển Đông của Bình Thuận và là trạm trung gian
cận Quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa của
Tổ quốc thân yêu.
Tương truyền ngày xưa có một chiếc ghe ngư dân
từ đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đánh cá trên biển,
không may gặp luồng cá chuồn bơi ngược. Thế là hàng vạn, hàng triệu con cá lao
lên sàn làm chìm ghe. Những ngư dân trôi dạt vào bờ rồi từ đó định cư các
vùng Đông Hải, Tam Thanh.
Riêng xã Ngũ Phụng có truyền thuyết liên quan đến công chúa Chế Bàn Tranh của Chiêm Thành bị đày ra đây, ngày
nay còn nhiều di tích tại Ngũ
Phụng.
Thú vị tục nói ngược
Những năm trước đây, khi ghe thuyền ra đảo mỗi
tuần một chuyến, đảo gần như biệt lập với đất liền. Dân trong Phan Thiết, Phan Rí gọi người
ngoài đảo là dân Hòn. Tiếng
nói, âm điệu rất khó nghe. Chưa nói đến vốn từ vựng sử dụng rất nhiều phương
ngữ và từ cổ.
Ví dụ như: ông Trời thì đọc là “ông
Blời”, ông Trăng đọc
là “ông Klăng”. Các âm “a”
biến thành “e” như người dân miệt Bình
Định, Quảng Ngãi, Phú Yên. Nhiều từ địa phương nghe lần đầu không những
không hiểu gì mà con giật thót người như: Mời thầy cô giáo đến nhà ăn giỗ. Học
sinh trên đảo sẽ nói : Nhà em có kỵ, ba mẹ em mời cô (thầy) đến “ăn chực”. Hoặc
như: cô giáo có khuôn mặt rất hiền lành, phúc hậu…Học sinh trên đảo sẽ mô tả
như sau: “Em rất thương cô giáo vì cô có khuôn mặt rất…dữ” (dữ = hiền
lành).
Có thể do cuộc sống biệt lập, thường xuyên đối
mặt với thiên tai, khắc nghiệt và cực khổ mưu sinh trên biển nên các tập tục
truyền thống không được chú trọng và không lưu truyền. Các thế hệ cư dân từ thế
kỷ 19 đến nay, đã làm đơn giản hóa các nghi lễ truyền thống và làm mai một dần
một số tín ngưỡng, tập tục của người Việt.
Đám cưới có cũng như không
Tục cưới hỏi trên đảo Phú Quý rất
đơn giản gần như không ai để ý đến. Trước đây trên đảo không có đường nhựa,
không có xe ô tô, gắn máy nên khái niệm “lên xe hoa” càng không thể có. Ngư dân
chỉ biết thuyền ghe, thúng và bạn ghe - những người làm thuê.
Buổi chiều, tất cả đàn ông, trẻ con trên 10
tuổi đều ra biển đánh bắt cá, câu mực. Trên bờ chỉ còn lại đàn bà, người già và
trẻ nhỏ. Khái niệm về ngày tốt, ngày xấu cũng không có. Biển không bị động,
đánh bắt nhiều cá mực, an toàn thì đó là ngày tốt.
Những chàng trai ngư dân khỏe mạnh khi đến tuổi trưởng thành, sẽ được các cô gái quan tâm đến với những thành tích như: lặn sâu, lâu nhất, đánh cá giỏi, câu mực nhiều, hoặc giả bị bão tố vẫn sống trên biển nhiều ngày…thành tích nổi trội này là tâm điểm để các cô gái biển quan tâm hơn là con ông chủ ghe, hay một gia đình giàu có sẵn.
Vì một lẽ, nghề biển là nghề bạc, của cải
trời đất và biển cả hào phóng ban tặng rất nhiều, vô số kể. Nhưng chỉ một cơn
thịnh nộ, giận dữ cuồng phong, biển sẽ lấy lại của con người tất cả, kể cả sinh
mạng. Câu nói “ dân ba đời
ghe” hàm ý về sự khắc nghiệt, luật nhân quả của biển khơi, của trời
đất là vậy.
Nếu để ý, nhớ nhung một cô gái, không cần
mai mối dạm ngõ như các nơi, chàng trai trình bày với cha mẹ, người thân hoặc
với chủ ghe nếu không còn người thân. Nhân dịp nhà bên cô gái có tiệc tùng, đám
giỗ nhà trai sang “đánh tiếng” . Tục lệ ở trên đảo gọi là “nói chừng”.
Nghĩa là đề cập việc con cái muốn thành vợ
chồng. Việc này không cần bất cứ lễ vật hay nghi lễ gì cả. Cộng đồng cư dân
trên đảo không đông, không bị chi phối bởi tác động từ bên ngoài nên các gia
đình đều rất biết nhau, quen nhau như trong đại gia đình. Con ai, nhà ai, ghe
ai tất cả đều rành rẽ.
Nếu nhà cô gái đồng ý, thì chính thức ngay sau
đó, chàng trai đã có thể đến nhà gái để ngủ. Không cần nghi lễ động phòng hay
tuần trăng mật, những cặp uyên ương trên xây tổ rất tự nhiên, rất đơn giản như
biển và thuyền ghe không thể thiếu nhau. Cô gái cũng chính thức trở thành vợ
anh chàng kia mà không cần tốn kém, thách cưới gì cả. Rất ít có đám từ chối lời“nói chừng” của nhà trai. Vì các
điều kiện cần và đủ đã hội tụ, nên việc “nói chừng” là cái cớ để xác lập hôn
nhân.
Thông thường nhà có con gái bao giờ cũng dành
buồng riêng. Nếu gia đình khá giả có thể cho luôn căn nhà riêng cho hai bạn trẻ
xây tổ ấm. Chàng rể ban ngày làm việc bên gia đình mình, tối về ngủ với cô dâu.
Nếu hai bên gia đình có công việc, hoặc giỗ kỵ, dựng nhà mới…thì sang “mượn” cô
dâu, hoặc chú rễ về nhà giúp vài hôm tùy theo công việc.
Thời gian “ngủ bên nhà vợ” nếu xảy ra những mâu
thuẫn, hay phát hiện sự rạn nứt, bất ổn nào đó trong hạnh phúc, tình yêu chàng
trai có thể “chia tay” mà không cần phải hòa giải hoặc ly hôn. Cũng không hiếm
những trường hợp sau thời gian chung sống rất ngắn ngủi, các cô vợ “sa thải”
chồng vì những lý do không thể chung sống lâu dài. Bao giờ thì cô dâu về sống
bên nhà chồng?
Câu trả lời: bao giờ cũng được nhưng có điều
kiện. Nhà chồng cảm thấy cần có con dâu chung sống, phải được con dâu đồng
thuận thì chọn dịp nhà bên gái có giỗ kỵ, tiệc vui sang trình bày và xin đưa
con dâu về sống.
Bãi biển hoang sơ
Đa phần người dân trên đảo không chọn cách này
vì sống bên chồng hay bên nhà gái thì vẫn “ngày việc ai người ấy làm” chỉ có
tối về ngủ chung. Nếu ra riêng thì miễn bàn.
Ngày trước, chỉ khi nào cô dâu sinh ra con
trai, gia đình bên chồng mới tổ chức bữa tiệc ăn mừng, sang nhà gái xin đón con
dâu về sống bên nhà chồng. Nếu cô dâu chỉ sinh con gái thì bên nhà trai ít khi
đón về. Quan niệm của dân biển: sinh càng nhiều con trai càng tốt. Con trai
chính là lao động trên biển và cũng là người mang lại của cải, tài sản bảo đảm
cuộc sống.
Ảnh hưởng của quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (nam
trọng, nữ khinh) đã bám sâu gốc rễ vào các thế hệ tuy không bộc lộ rõ nét,
nhưng ngấm ngầm tư tưởng phong kiến trong việc chọn dâu và cháu nội nối dõi
tông đường. Chính sự hà khắc của quan niệm này mà nhiều lứa đôi dang dở, để lại
cho hậu thế những ngùi ngẫm khôn cùng như chuyện tình yêu của cố nhạc sĩ Cao
Văn Lầu với sự ra đời bản Dạ cổ hoài lang.
Ông Dương Minh, 70 tuổi, ở xã Ngũ Phụng,
có 10 người con (7 trai, 3 gái) tỏ ra lạ lẫm: “Dòng họ tôi ở đây mấy đời rồi,
nhưng tôi chưa dự qua đám cưới nào cả. 10 đứa con có vợ, có chồng hết rồi,
nhưng chẳng có đứa nào tổ chức đám cưới”.
Người dân trên đảo lạ lẫm và không hiểu nổi:
Đám tiệc cưới tại sao có khách dự. Họ quan niệm đó là chuyện của hai bên gia
đình thôi. Vì vậy mà nhiều đời nay dân trên đảo không quan tâm đến hộ khẩu,
chứng minh nhân dân, giấy đăng ký kết hôn.
Anh Nguyễn Văn Nhị - Một anh bạn cán bộ Công an
Bình Thuận cho biết: năm 2010, đơn vị anh tập trung nhiều tháng trời ở đảo Phú
Qúy để làm giấy CMND, hộ khẩu cho dân, hướng dẫn pháp luật… nhiều câu chuyện
cười ra nước mắt mà chúng tôi sẽ kể vào dịp khác. Lấy chồng sớm, đẻ nhiều, thất
học mù chữ, ít hiểu biết pháp luật là vấn nạn ngày nay vẫn còn khá phổ biến
trên đảo.
Từ năm 2000 trở lại đây, do việc tăng cường cán
bộ, giáo viên từ đất liền ra đảo nên trên đảo xuất hiện vài tiệm thuê đồ cưới
và chụp ảnh. Nhưng đám cưới của “công dân nhập cư” cũng chỉ là hình thức để
chụp ảnh, quay phim…lưu niệm. Tiệc cưới cũng chỉ là bánh kẹo, nước trà, nước
ngọt như thời bao cấp. Vì nếu tổ chức rình rang, có mời dân trên đảo cũng không
ai dự vì xa lạ. Nhờ vậy mà phong trào “tiết kiệm” tiệc tùng cưới hỏi trên
đảo Phú Qúy không
cần phát động cũng trở thành điển hình, gương mẫu.
Trên đất Việt, vẫn còn hòn đảo ngọc Phú
Quý là nơi không tổ chức đám cưới bao giờ, nhưng các cặp
vợ chồng trẻ ở đây đều sống rất hạnh phúc, cho đến khi răng long, đầu bạc.
Kỳ thú đảo Phú Quý
Chỉ nghe tên đảo thôi đã thấy tò mò về địa danh
đảo Phú Quý,
cách thành phố Phan Thiếthơn
100 km về hướng đông nam. Là một hòn đảo giữa biển khơi đẹp thơ mộng, đậm nét
hoang sơ , thậm chí nhiều nơi còn chưa từng vương dấu chân người…
Điểm du lịch sinh thái
hấp dẫn
Đảo Phú Quý rộng
32 km2, gồm 10 hòn đảo lớn nhỏ. Nhìn từ phía Bắc, đảo có hình thù như một con
cá thu nổi lên giữa biển. Nơi đây có khí hậu trong lành, có nhiều bãi tắm,
như vịnh Triều Dương, bãi Doi Dừa,
bãi nhỏ Gành Hang,... với những dải cát trắng mịn, nước trong màu ngọc
bích.
Bao quanh đảo là 9 hòn đảo nhỏ như Hòn Tranh, Hòn Đen, Hòn Trứng... là
những điểm du lịch sinh thái biển đầy hấp dẫn. Đặc biệt quanh đảo có một thảm
thực vật rạn san hô rất đa dạng phong phú nhiều chủng loại, ấn tượng với Phú Quý là vẻ đẹp của những bãi
biển, nước trong xanh vắng không bóng người.
Đến Phú
Quý , lên đỉnh
núi Cao Cát tận hưởng
làn gió mát rượi từ biển, nhìn tứ phía chỉ có biển khơi, Ngày rằm, đứng trên
đỉnh Cao Cát, hướng ra biển
phía hòn Đen, bên tay trái núiCấm sẽ
thấy hoàng hôn đang xuống dần, bên tay phải phía lạch Dù sẽ thấy trăng tròn
đang từ từ lên cao, cứ như được hòa mình với đất trời.. Xa xa là Hòn Tranh, Hòn Trứng, Hòn Trào, Hòn Đen…
bao quanh đảo như một quần thể kiến trúc của thiên nhiên để đảm bảo cho Phú
Quý ngăn được bão biển.
Thả sức thưởng thức hải sản tươi rói
Ngoài cảnh đẹp thiên nhiên và con người, Phú
Quý cũng nổi danh với những loại hải sản tươi
rói từ biển. Một trong những đặc sản phổ biến là mực cơm, mực ống, mực thẻ, mực
nang... đâu đâu cũng thấy trên đảo. Những hải sản khác từ tôm, cua, cá, hải
sâm... đều phong phú.
Món ăn mà chỉ có ở đảo Phú
Quý đó chính là cua huỳnh đế. Loại cua này có
thịt rất chắc và độ đạm cực cao, có thể chế biến nhiều món ăn. Nhưng sản phẩm
đặc biệt nhất của loại hải sản này là lấy thịt nấu cháo. Người ta gỡ cua ra lấy
gạch ở mai và thịt bỏ vào nồi cháo khi đã nhuyễn. Nồi cháo cua huỳnh đế sẽ ngọt
và thơm tuyệt. Tuy nhiên, với những ai mắc chứng bệnh “gút” thì lại không nên
ăn vì nó có thể làm bệnh tái phát.
Cùng với đó, món cá Mú đỏ hấp hành gừng cũng hấp
dẫn không kém với thịt cá thơm, đậm đà khó quên.
Tuy nhiên, đảo Phú
Quý vẫn là một điểm du lịch còn ở dạng tiềm năng do chưa có sự
đầu tư đúng mức. Với lợi thế hiện có, Phú Quý sẽ là điểm đến tham quan du lịch
nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái biển, du lịch thể thao, câu cá trên biển và du
lịch văn hóa lịch sử... rất hấp dẫn cần được quan tâm hơn để khai thác và phát
triển.
Hòn Tranh
Đảo Phú Quý được bao bọc xung quanh bởi những hòn đảo nhỏ, nhân dân địa
phương gọi chung là những hòn lẻ. Trong đó hòn Tranh là đặc biệt hơn cả.
Cách đảo lớn Phú Quý khoảng 800m về phía
đông nam với 15 phút đi xuồng máy, Hòn
Tranh nổi bật như một niềm kiêu hãnh giữa đại dương bao la. Sau Phú
Quý, Hòn Tranh là đảo có diện tích lớn thứ 2 trong hệ thống 10 hòn đảo của vùng
biển có hệ sinh thái độc đáo này.
Hòn Tranh có dạng hình S như dạng của nước Việt Nam , nơi rộng nhất 400m và nơi dài nhất 1000m. Trước kia hòn này là một đảo hoang, không người ở, nhân dân địa phương thường đến đây để cắt cỏ tranh lộp nhà cửa. Hiện nay, hòn Tranh là một khu an ninh quốc phòng của Phú Quý.
Đảo Phú
Quý được bao bọc xung quanh bởi những hòn đảo nhỏ,
nhân dân địa phương gọi chung là những hòn lẻ. Trong đó hòn Tranh là đặc biệt
hơn cả. Cách đảo lớn Phú
Quý khoảng 800m về phía đông nam với 15 phút đi xuồng
máy, Hòn Tranh nổi bật
như một niềm kiêu hãnh giữa đại dương bao la. Sau Phú Quý, Hòn Tranh là đảo có diện
tích lớn thứ 2 trong hệ thống 10 hòn đảo của vùng biển có hệ sinh thái độc đáo
này.
Trên đỉnh cao nhất của đảo Hòn Tranh là trạm ra đa có tầm
quan sát 500 hải lý đến tậnThái Bình
Dương. Nằm giữa biển khơi, nhưng Hòn Tranh quanh năm có sóng yên biển lặng, do được núi bao
bọc thành một thế chắn sóng vững chãi. Bởi vậy, bãi biển Hòn Tranh luôn trắng phau cát, nước
trong vắt soi rõ từng rạn san hô và phản chiếu lấp lánh màu sắc của các loại
tảo biển.
Hòn Tranh có một hệ thống hang động kỳ bí, với nhiều dáng đá lạ màu chàm,
vết tích của núi lửa phun trào, gắn với nhiều huyền thoại và đức tin của ngư
dân vùng biển.
Đi dọc theo mép biển phía nam hòn Tranh, ta sẽ đến vũng Gần,
vũng Bàn, Mũi Xương Cá, vũng Phật… Nơi đây có đá bột, có thể dùng để khắc tượng
rất tốt. Tượng Thích Ca Mâu Ni ở Linh Sơn Trà Bang Thạch Tự (tức
Linh Quang Tự) ở xã Tam Thanh được ông Huỳnh Khâm tạc bằng loại đá này. Ở hòn Tranh còn có hang Cò Nước và hang Cò Khô. Hang Cò Nước là nơi nghỉ
đêm của họ nhà cò. Trong hang Cò
Khô có một bãi đá trái, nơi đây năm 1945, dân ở đảo Phú Quý tập trung vũ khí để chuẩn bị
khởi nghĩa giành chính quyền. Ở hang Cò Khô có nhiều hốc đá, vào mùa bấc, cò đẻ trứng. Về mùa nam,
song lớn dội có khi đến miệng hang.
Phú Quý Vũng Phật, một vùng đá trũng màu nâu
đỏ, mà người dân
cho rằng, khi chùa Linh Quang bị cháy, tượng phật bị
thiêu rụi; vùng đá này có một hòn linh thạch dáng phật nổi lên. Ngư dân đã
thỉnh đá về tạc tượng phật, đặt tại chùa Linh Quang.Vũng Phật đến
giờ vẫn là chỗ dựa tinh thần của ngư dân khi ra khơi đánh bắt.
Tiếp tục đi dọc bờ cát, say sưa với những huyền
thoại, du khách sẽ lạc chân đến miếu Trấn Bắc. Đó là miếu thờ quận công Bùi Huy
Ích, một vị tướng tài của Nguyễn Ánh, đã chết khi bảo vệ nhà vua trốn sự truy
sát của nghĩa quân Tây Sơn. Bên cạnh miếu Trấn Bắc là vạn thờ 77 thần Nam Hải,
đã trôi dạt cùng ngày vào đảo, được ngư dân lập vạn thờ. Hàng năm, cứ vào tháng
3 và tháng 8 âm lịch, dân đảo lớn Phú Quý lại đi xuồng máy qua Hòn Tranhđể tổ chức giỗ quận công Bùi
Huy Ích và lễ cúng thần Nam Hải, cầu cho một mùa biển no ấm.
Hòn Tranh xinh đẹp bây giờ chính là nơi lánh nạn của vua Gia Long lúc xưa.
Dấu vết còn lại, ngoài miếu Trấn Bắc còn có một giếng nước ngọt, dân đảo gọi là
giếng Nguyễn Ánh. Điều đặc biệt của giếng nước này là mùa mưa hay mùa hạn,
giếng vẫn đầy ắp nước cho bộ đội sử dụng quanh năm.
Du khách đến Phú Quý có thể dùng thuyền ra
Hòn Tranh để tham quan thắng cảnh, để cảm nhận và thấy được cảm giác đang giữa
biển cả menh mông. Phú Quý được
thiên nhiên ưu đãi không chỉ về tài nguyên mà cả về thắng cảnh. Với những bãi
biển thơ mộng, những dãy san hô, những cụm đá đen lộ đầu ngoạn mục giữa muôn
ngàn cơn sóng, khí hậu trong lành mát mẻ quanh năm là những yếu tố rất hấp dẫn
đối với khách du lịch trong nước cũng như quốc tế. Nhiều nơi trên đảo, khách có
thể dễ dàng thoả mãn thú tiêu khiển câu cá, tắm biển và tận hưởng những phút
giây sảng khoái tinh thần trước bờ biển thuỷ tinh xanh.
Ngôi chùa cổ nhất giữa biển khơi
Là một ngôi chùa lớn nhất trên đảo Phú Quý, Linh Quang tự không chỉ
được công nhận là di tích văn hoá quốc gia, mà còn là nơi linh thiêng chứa
nhiều câu chuyện huyền bí về tín ngưỡng nằm giữa biển khơi!
Vào giữa thế kỉ XVIII, một trận hoả hoạn đã
thiêu rụi chùa, làm cháy hết các tượng phật cổ bằng gỗ. Lần khuất theo năm
tháng chiến tranh, nay chùa chỉ còn 7 tượng Quan âm bằng đồng. Dấu tích của
những tượng phật bị cháy vẫn còn giữ nguyên vẹn cho đến hôm nay.
Sự tích khai lập chùa
Theo ông Đỗ Kim Long, 67 tuổi, trưởng ban Quản
lí Khu di tích Quốc gia chùa Linh Quang, có nhiều giả thuyết cho rằng chùa Linh
Quang được thành lập từ cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII do Thiền sư Nguyễn
Văn Cánh khai sáng. Đây là ngôi chùa cổ nhất tỉnh Bình Thuận và cũng là ngôi
chùa cổ có tuổi cao trên tất cả các hòn đảo của Việt Nam .
Thuở sơ khai, chùa Linh Quang chỉ là một tiểu am nằm trầm mặc trên đồi hoang
vắng. Chùa có 3 bộ kinh kệ với 13 tượng phật Quan âm bằng đồng; một tượng phật
Thích Ca bằng gỗ; 10 cỗ bồng bằng sứ; 10 cỗ bồng bằng sành; 19 đĩa sứ, 19
chén sứ.
Sau khi ngôi chùa bị cháy, nhân dân trên
đảo Phú
Quý tỏ lòng thành kính và đã bỏ công sức, của cải xây
dựng lại chùa.
Đang trong quá trình xây dựng, bất ngờ
tại hòn Tranh, một hòn đảo
nhỏ cách đảo Phú Quý chừng 2 hải lí về phía đông nam, bỗng xuất hiện một Linh
thạch (tảng đá thần) cứ vào ngày lành tháng tốt lại nổi lên, sau đó lại biến mất.
Ngư dân trên đảo phát hiện và cho rằng đó là "tảng đá thần".Sau khi
Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn, Nguyễn Huệ truy đuổi và thất trận đã bôn ba đến
đảo Phú
Quý và chọn ngôi chùa Linh Quang làm nơi thiền ngụ. Tại đây,
Nguyễn Ánh (xưng Vương là Gia Long) đã xây dựng lại chùa khang trang và xoay
hướng ngôi chùa này theo hướng "tọa chấn hướng đoài" như trong bát
quái.
Huyền thoại linh
thiêng
Các ngư dân đã bơi thuyền sang hòn Tranh lấy đá thần về xây
chùa, tạc tượng để tôn thờ. Từ đó sự tích phật "Thiên Sanh" hình thành tại chùa, được tồn tại và
lưu truyền trên đảo cho đến hôm nay.
Trong chùa Linh Quang hiện còn lưu giữ một chiếc "đại đồng
chung" (chuông). Chuông quý này được hoà thượng Huệ Đạo đúc tại chùa Trà
Cang (Ninh Thuận) vào năm 1795. Các họa tiết hoa văn và những dòng chữ ghi lại
ấn tích trên quả chuông cho thấy nó được đúc rất công phu.
Trong chùa còn có một chiếc trống da, có tên là
trống Bát Nhã. Thân trống
là một khúc gỗ sao tròn liền thân, đường kính rộng gần 1m mà không ghép.
Những báu vật còn lưu giữ
Trong khi lúc đó công nghệ đúc đồng chưa hề phổ
biến ở miền Trung thì việc hoà thượng Huệ Đạo đem ra đảo tặng quả chuông này
cho chùa Linh Quang là
một sự ngưỡng mộ rất lớn đối với ngôi chùa này. Dù nhỏ nhưng theo vị trụ trì,
nó có tiếng kêu vang đến mức cả làng ven biển đều nghe rõ khi đêm tĩnh lặng.
Điều đó cho thấy sự kì công của hoà thượng
Quảng Thành, người làm ra nó từ đầu thế kỉ XVIII, công phu để lại một tác phẩm
nghệ thuật có giá trị cho Linh Quang tự, sau đó ông vào trụ trì ngôi chùa ở núi
Tà Cú trong đất liền.
VẠN AN THẠNH - Đảo Phú
Quý – Bình Thuận
ngày càng đông, cộng với một số ngư dân đi biển
bị bão tố trôi dạt vào và ở lại định cư làm ăn. Khi cuộc sống ổn định ngư dân
các làng trên Đảo bắt đầu xây dựng dinh, vạn để thờ Thần Nam Hải ( cá voi) vị
thần phù hộ về mặt tinh thần cho những người đi biển. Đó cũng là phong tục
truyền thống tín ngưỡng của người Việt đối xử với cá voi vị thần biển cả, ân
nhân cứu mạng che chở cho họ khi đi biển và làm ăn trên biển.
Từ thế kỷ XVI-XVII người Việt đã di cư đến
đảo
Vạn An Thạnh xây dựng theo lối kiến trúc dân gian của
người Việt như dạng đình làng trong đất liền các kiến trúc chính gồm chính điện,
nhà Tiền hiền, Võ ca. Bên trong vạn còn có chỗ chứa xương cốt cá voi gọi là
Tẩm.
Vạn An Thạnh được kiến tạo hoàn chỉnh năm Tân Sửu 1781
tại bờ biển làng Triều Dương, xã Tam Thanh huyện đảo Phú Quý, cách thành phố Phan Thiết 120
hải lý về hướng Đông.
Vạn An Thạnh đã được Bộ Van Hoá Thông tin công nhận
xếp hạng di tích lịch sử văn hoá tại quyết định số 51-QĐ/BT ngày 12 tháng 1 nắm
1996.
Theo tài liệu lưu trữ tại vạn năm Tân Sửu 1841
một con cá voi khổng lồ dạt vào biển trước vạn An Thạnh. Ngư dân trên Đảo đã tổ
chức mai táng “ông” với nghi thức long trọng và tôn nghiêm. Đây là “ông” lớn
nhất và cũng là vị đầu tiên được mai táng ở vạn nên được ngư dân gọi là “vị cố”
và lấy ngày 15 tháng 10 âm lịch hàng năm (ngày ông lụy) làm ngày giỗ chính thức
của vạn An thạnh và cũng là ngày Tế Thu. Năm 1960 có một “cá ông” lớn trôi vào,
chiều dài trên 25m, mai táng xong 3 năm sau đó ngư dân được mùa liên tiếp.
Gắn với việc mai táng thờ cúng cá Voi là một lễ
hội của ngư dân. Trong nếp sống, phong tục và sinh hoạt của ngư dân ở đây, lễ
cúng cá voi rất được chú trọng và là lễ to nhất so với các lễ khác như ngày hội
làng thời trước. Mở đầu lễ hội, nhân dân chuẩn bị ghe thuyền, cờ, quạt, trống
chiêng ra khơi nghinh đón cá ông. Đội chèo Bả Trạo trong trang phục chỉnh tề
biểu diễn những tiết mục dân gian chào mừng.
Vạn An Thạnh đến nay còn lưu giữ gần 70 bộ xương cốt
các loài cá voi. Có thể coi đây là một bảo tàng Hải dương học với những bộ sưu
tập phong phú về cá Voi. Nhờ có vạn An Thạnh, nơi thờ cúng thần Nam Hải nên ngư dân rất an tâm khi ra
khơi đánh bắt hải sản vì đã có “Ông Nam Hải” phù trợ tránh mọi nguy hiểm trên
biển.
Đối với triều Nguyễn tất cả những lăng vạn thờ cá ông đều được tôn
trọng, vì theo sự tin sùng của nhân dân, cá ông đã nhiều lần giúp Nguyễn Ánh
thoát nạn trên biển. Vạn An Thạnh được
các vua Triều Nguyễn ban tặng 10 sắc phong. Nội dung các sắc thần chủ yếu ban
tặng “Nam Hải cự tộc Ngọc Lân”
và những “tướng lĩnh” giúp Nguyễn Ánh thoát nạn trên đảo khi bị quân Tây Sơn
đánh đuổi. Vạn An Thạnh tồn
tại trên 200 năm từ ngày thành lập, gắn liền với lịch sử hình thành Đảo Phú Quý như một chứng nhân bao đời
của lịch sử vùng đảo, ở đó chứa đựng nhiều giá trị vật chất, tinh thần và cả về
tín ngưỡng nghề nghiệp của ngư dân đảo Phú Quý.
Với bãi cát rộng và trải dài nhất so với các bãi tắm khác trên Đảo, những dải cát trắng mịn và là một bờ Vịnh theo đúng nghĩa, lại có hướng nhìn đẹp ra Hòn Tranh, nên nơi đây luôn là sự lựa chọn cho những dịp tụ tập vui chơi, không hẳn là đi tắm. Nhất là khi chiều về, vào những dịp lễ tết hay những ngày rằm trăng sáng luôn thu hút đông mọi người..., không chỉ có thế mà nơi đây trở bãi tắm lý tưởng của Phú Quý.
Với bãi cát rộng và trải dài nhất so với các bãi tắm khác trên Đảo, những dải cát trắng mịn và là một bờ Vịnh theo đúng nghĩa, lại có hướng nhìn đẹp ra Hòn Tranh, nên nơi đây luôn là sự lựa chọn cho những dịp tụ tập vui chơi, không hẳn là đi tắm. Nhất là khi chiều về, vào những dịp lễ tết hay những ngày rằm trăng sáng luôn thu hút đông mọi người..., không chỉ có thế mà nơi đây trở bãi tắm lý tưởng của Phú Quý.
Vịnh Triều Dương thuộc thôn Triều Dương (hay còn gọi là làng Triều), xã Tam
Thanh. Cách Cảng Phú Quý khoảng
300m về phía Tây, cùng tuyến liên thông qua Bãi Nhỏ - Gành Hang, là nơi có khoảng cách gần nhất với Hòn Tranh.
Nỗi nhớ người lính Đảo xa nhà
Em đến thăm anh nơi Hải Đảo xa xôi
Em đến anh nơi biển trời mênh mông
Nghe sóng hát , biển xanh thôi thét gào
Nghe sóng hát bãi san hô rì rào
Nghe sóng hát lòng anh vơi đi nỗi nhớ,
Màu hoa tím thay lời anh muốn nói..."
Lời em hát mang tình yêu thiết tha
Anh tặng em hoa Muốn Biển giữa trùng khơi
Có hai truyền thuyết về thầy Nại được
người dân Phú
Quý lưu truyền. Truyền thuyết thứ nhất kể lại rằng: Thầy
Nại vốn là nhà địa lý thiên văn tài ba người Hoa, thầy thường theo các thuyền
buôn của người Tàu vượt đại dương đến nhiều nước trên thế giới để hành nghề.
Qua nhiều chuyến hải trình, có lần thầy và các thủy thủ ghé vào đảo Phú Quý để
nghỉ ngơi, từ đó ông mới phát hiện địa hình, địa thế đảo Phú Quý là một vùng địa linh so với
các hòn đảo khác. Sau khi rời đảo, ông đã thổ lộ với các thủy thủ đoàn và gia
đình ước nguyện của mình là sau khi qua đời hãy đưa tro cốt của ông đến
đảo Phú
Quý an táng.
Đền thờ thầy Nại
Một thời gian sau khi thầy quy thiên, người dân trên đảo đã đồng tâm
góp công sức, tiền của để xây đền thờ thầy trên một khu đồi cao ở làng Phú An,
xã Ngũ Phụng. Trải qua nhiều thế kỷ tồn tại, đền thờ thầy Nại được các thế hệ
người dân trên đảo bảo quản, tôn tạo ngày càng tôn nghiêm và bề thế. Lần trùng
tu gần đây vào năm 2002 đã mở rộng và nâng thêm vẻ trang trọng và tôn nghiêm
của đền. Quần thể kiến trúc đền thầy Nại hiện nay khá quy mô, bao gồm nhiều
hạng mục chính như: cổng Tam quan, cột cờ, bình phong, võ ca và điện thờ chính.
Tất cả được bố trí, lắp ghép một cách hài hòa và uyển chuyển phù hợp với kiến
trúc tôn giáo và chức năng của đền.
Ngày mùng 4 tháng Tư năm Nhâm Thìn (?) ông qua
đời, theo ý nguyện của thầy một đoàn thuyền buồm của người Hoa đã xuất phát từ
biển Bắc, mất 6 ngày 6 đêm để mang tro cốt ông đến đảo Phú Quý an táng. Đoàn thuyền mang
tro cốt thầy ghé vào đảo đúng vào thời điểm ban đêm nên dân chúng trên đảo
không ai hay biết. Việc cúng tế và an táng thầy diễn ra trong đêm hôm đó. Sáng
hôm sau, người dân trên đảo đi làm mới ngạc nhiên khi phát hiện có rất nhiều
hương đèn, hoa quả và các loại lễ vật như: gà, heo, trà rượu…tại khu vực mộ
thầy hiện nay mà không hề thấy bóng dáng người. Tin đồn lan nhanh khiến người
dân trên đảo tò mò kéo nhau đến xem rất đông và người ta phát hiện có một chiếc
thạp sành đựng tro cốt được chôn tại đây.
Truyền thuyết thứ hai: Thầy Nại là một thương
gia người Hoa ở thế kỷ XVI, ông thường theo các thương thuyền vượt đại dương
đến nhiều nước để buôn bán, ngoài buôn bán ông còn là một thầy thuốc giỏi.
Trong một chuyến buôn bán, thuyền của ông bị bão tố đẩy dạt vào đảoPhú Quý. Lúc này trên đảo đã có vị công chúa Bàn Tranh con của
vua Chăm sinh sống. Thầy đã kết nghĩa chị em với công chúa và ở lại sinh sống
và bốc thuốc chữa bệnh, cứu giúp dân đảo. Sau khi qua đời, xác ông đã được an
táng lại trên đảo. Mộ thầy được an táng lại làng Thoại Hải (xã Long Hải) xây
bằng đá gành theo kiểu dáng hình tròn có đường kính 3,2m, thành mộ dày 60cm –
cao 1m.
Sau khi thầy qua đời, hàng năm cứ đến ngày mùng
4 tháng tư âm lịch, dân chúng khắp các làng trên đảo tề tựu về mộ cúng tế và
cầu nguyện thầy phù hộ, độ trì. Cũng theo người dân trên đảo, sau khi quy
thiên, thầy hóa thành một vị thần rất hiển linh và thường xuyên phù hộ, cứu
giúp dân lành. Hiện thân của thầy là 3 tiếng sấm nổ vang và một ánh hào quang
hình tròn sáng rực như mặt trời. Từ trước đến nay, các thế hệ người dân trên
đảo luôn tin tưởng vào sự linh ứng, trợ giúp của thầy. Rất nhiều người đã được
thầy cứu giúp để vượt qua những cơn nguy biến, nhất là các ghe thuyền gặp nạn
ngoài khơi hay trong lúc chiến tranh hoạn lạc… mỗi khi gặp nạn, người ta cầu
khấn nhờ thầy cứu giúp là tức khắc ngay sau đó thầy xuất hiện với 3 tiếng sấm
nổ vang và một quầng hào quang sáng rực để giải thoát cho người bị nạn.
Sự linh ứng trong việc trợ giúp dân làng của
thầy đã được các vua triều Nguyễn công nhận, vì thế các vua Minh Mạng, Đồng
Khánh, Duy Tân, và Khải Định đã ban tặng cho thầy 8 sắc phong và truyền chỉ cho
dân chúng các làng trên đảo phải phụng thờ thầy.
Cũng như đền thờ công chúa Bàn Tranh, việc phụng thờ, cúng tế thầy Nại do bổn điền
9 làng của 3 xã trên đảo luân phiên nhau thực hiện. Mỗi làng được giữ sắc phong
và thờ phụng, cúng tế thầy trong một năm, qua năm sau luân chuyển qua làng
khác.
Lễ hội tại Đền Thờ Thầy Nại mỗi năm diễn ra 2 đợt: lễ rước sắc thầy vào
mùng 3 tháng Giêng âm lịch và kỵ thầy giao phiên vào mùng 4 tháng tư âm lịch.
Trong lễ rước sắc thầy mùng 3 tháng Giêng âm lịch, làng đang phụng thờ thầy
chuẩn bị đoàn lễ (kiệu, cờ đại, cờ trung, cờ tiểu, tàng, lọng, chiêng, trống,
bát bửu…) rước sắc phong của thầy từ làng đến đền thơ thầy Nại, các lễ vật dâng
lễ thầy trong nghi lễ này gồm có bò, heo, gà, hoa quả, trầu cau, trà rượu…
Có thể nói Phú
Quý là điểm du lịch lý tưởng cho những ai thích khám phá
và trải nghiệm thiên nhiên, sống trên một hoang đảo luôn có cảm giác thú
vị và thích thú vì được hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ.Lễ hội tại
đền thờ thầy Nại là ngày hội văn hóa dân gian độc đáo của người dân trên đảo.
Đó cũng là một nét đẹp riêng trong đời sống tâm linh tín ngưỡng của người
dân Phú
Quý.
TRƯỜNG DỤC THANH
Kính thưa Quý Khách!
Trường Dục Thanh nằm tại thị xã Phan Thiết
thuộc tỉnh Bình Thuận. Đây là một ngôi trường không những chỉ nổi tiếng ở vùng
Bình Thuận mà còn ở khắp cả nước với tính lịch sử mang tầm quan trọng của nó –
là nơi đã dừng chân lâu nhất và là nơi gắn bó nhiều kỷ niệm với vị cha già kính
yêu –Lãnh Tụ Hồ Chí Minh. Vào năm 1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành trên đường đi tìm con đường cứu nước đã dừng chân nơi đây. Lúc này người
tròn 20 tuổi vì một phần là con của cụ phó bảng nên Người được nhiều thầy giáo
quý trọng. Người được nhận vào dạy học, mặc dù điều này nằm ngoài dự định của
Người. Nhưng trên chặng đường dài dừng chân dạy học ở đây Người đã biết kết hợp
với việc dạy chữ và việc học làm người thông qua các hình thức như dạy thể dục,
đưa học sinh đi tham quan thắng cảnh. Để từ đó đưa thanh thiếu niên thâm nhập
cuộc sống của nhân dân hiểu được địa thế cũng như hoàn cảnh đất nước. Lúc bấy
giờ trường có khoảng 4 lớp với 100 học sinh đa số nam đông hơn
Vào những năm 1862 trở đi, sau khi 3 tỉnh Nam
Kỳ bị đánh chiếm, một số nhà yêu nước đã bỏ ra lập nghiệp tại vùng Trung Bộ
này, trong số đó có nhà thơ Nguyễn Thông. Trên đường đi tìm nơi thành lập căn
cứ kháng Pháp, tình cờ ông đã dừng chân tại Phan Thiết làm việc sau đó ông lâm
bệnh và mất tại đây vào năm 1884 (16/6 năm Đinh Hợi) với ý nguyện chưa thành.
Vào năm 1908, nối chí ông là hai học trò của ông đã lập ra một ngôi trường lấy
tên trường là Dục Thanh dưới sự bảo trợ của Hội Liên Thành. Trường nằm ẩn mình
với những tán xoài cổ thụ với kiến trúc khá đơn sơ có diện tích 120m2 nối liền
thảo bạc nhà thờ cụ Nguyễn Thông. Mái lợp ngói âm dương không có tường xây chỉ
có những song gỗ xếp chéo hình thoi. Sân trường rộng rãi có bể non bộ, có bức
bình phong, cổng trường nhìn ra con sông Cà Ty. Trước sân trường có một cây cổ
thụ to, gần nó có một hồ sen nhỏ. Trường được nhân dân ủng hộ góp quỹ hiến
ruộng cho trường.
Lúc bấy giờ trường có khoảng 4 lớp với 100
học sinh đa số nam đông hơn nữ. Trường có xây một ngôi nhà nhỏ còn gọi là nhà
Ngư để các thầy cùng học sinh có thể nghỉ ngơi ăn uống. Nếu như ghé tham quan
trường Dục Thanh thì không thể bỏ Ngọa Du Sào bởi nó cũng gắn bó với trường Dục
Thanh rất mật thiết.
Ngọa Du Sào là nới ở làm việc của Bác. Mà
trước đây vào năm 1878, cụ Nguyễn Thông đã cáo quan về đây và lập ra nhà học
Ngọa Du Sào. Ngọa Du Sào không rộng lớn lắm chỉ khoảng 6,5m, rộng 4m và cao hơn
2m. Bên trong trên bàn làm việc của Bác có một chiếc hộp trên trong hộp có đựng
một chiếc khay khảm xà cừ và ba chén nhỏ đó là bộ chén trà “Lục ẩm” mà Bác
thường dùng với các thầy hay gặp gỡ bình văn thơ và bàn chuyện quốc sự cùng các
chiến sĩ yêu nước, Ở đây còn có một góc gác xếp – trước đây là kho sách của cụ
Nguyễn Thông và còn có một cái yên thư trên gác là loại giá sách của các cụ nhà
Nho ngày trước và một chiếc đi-văng bằng gỗ. Bác đã dành nhiều thời gian ở đây
để đọc sách. Ngoài ra ở phía sau Ngọa Du Sào có một cây khế do cụ Nguyễn Thông
trồng mà từ khi đến đây bác ngày ngày vẫn chăm sóc cho cây tươi tốt, luôn đơm hoa
kết quả và hiện nay đã được 130 tuổi.
Kế đến du khách sẽ nhìn thấy một giếng nước
mà Bác thường dùng để sinh hoạt và tưới hoa. Có thể nói rằng chỉ trong vòng một
thời gian ngắn 9 tháng ở đây nhưng bác đã dành hết tình thương yêu, đoàn kết
gắn bó, đùm bọc những học trò của mình như những người thân thương. Bác như một
vì sao sáng soi đường dìu dắt dân tộc Việt Nam đến với niềm hạnh phúc vinh
quang.
Có thể nói đây là nơi mà Bác dùng để liên hệ
giao dịch với các thương quán Liên Thành, với các chuyến tàu biển. Bác thường
chú ý nghe ngóng để tìm cơ hội đi ra nước ngoài tìm chân lý dẫn giải phóng dân
tộc mình thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Và ở đây bác cũng tìm thấy
một niềm vui là được đón tến Trung Thu và tết Nguyên Đán cùng gia đình cụ
Nguyễn Thông.
Lúc bấy giờ trường được xem là ngôi trường
tiến bộ khắp nơi vang danh. Trường dạy chữ quốc ngữ là chính, được nhiều nhà
nho yêu nước quan tâm.
Từ những năm đầu TKXX, Phan Thiết (PT) đã có hiện tượng tiên phong về doanh
thương quy mô với ngành sản xuất nước mắm và họat động mở mang văn hóa quần
chúng.
Phong trào Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh đề xướng có mặt rất nổi là thưng
hội. Công ty sản xuất nước mắm Liên Thành đã hình thành 1906 do ông Nguyễn
Trọng Lội sáng lập đến nay vẫn còn tồn tại. Đây là cơ sở kinh doanh đầu tiên
của người Việt Nam có xu hướng dân tộc đã tồn tại được gần 100 năm. Khởi đầu
Công Ty này có 1 mục đích ẩn dấu gây quỹ lợi nhuận nhằm bảo trợ Cách Mạng và
giúp đỡ các nhà chí sỹ yêu nước họat động. Vào năm 1906 người Trung Hoa đã thao
túng thị trường, nhất là thị trường lúa gạo, còn nhưng tài nguyên khoáng sản
thì do thực dân Pháp quản lý.
Như tôi đã nói ở trên vào thời lúc bấy giờ để lập được 1 Công Ty để sản
xuất buôn bán là 1 việc vô cùng khó khăn của người Việt Nam phải tính tóan và
có chiến lược kinh doanh lập 1 công Ty sảng xuất nước mắm thực tế là không đụng
chạm tới quyền lợi của của người Pháp, người Hoa, bởi vì họ không ăn nước mắm.
Nguyên liệu chính để sản xuất ra nước mắm lại phụ thuộc vào biển khơi,
không nằm trong đất liền, cá và muối không thuộc lãnh vực của người Pháp và
người Hoa khống chế. Nhờ đó việc khuyếch trương công ty được dễ dàng thuận lợi,
có thể nói đây là hình thức kinh doanh đặc sắc nhất vào thời bấy giờ của người
dân Phan Thiết nói chung và công ty nước mắm Liên Thành nói riêng.
Điều đó chứng tỏ giới sỹ phu yêu nước đã nhận thức đúng ngay cả Hồ Tá Bang
đang làm quan mà cũng bỏ chức tham gia vào hình thức kinh doanh này. Công ty
Liên Thành phát triển mau lẹ, chẳng những có tầm hoạt động ra khắp các tỉnh Miền
Trung và các tỉnh Nam Bộ. Quỹ của Công ty đã giúp đỡ rất nhiều người có chí lớn
xả thân phục vụ Cách Mạng đất nước. Theo ông Phạm Phú Hữu (giáo sư) cho biết
Công Ty Liên Thành đã giúp cho ông Nguyễn Ái Quốc bảy đồng bạc để xuất ngoại.
Lúc bấy giờ 1906 nhiệu nơi ở Trung Bộ do ảnh hưởng của phong trào Duy Tân
mở ra rất nhiều trường khuyến học và dạy tân thơ. Ông Nguyễn Văn Xuân trong
phong trào Duy Tân đã viết: “Vì Phan Thiết không có đủ người văn học nhưng thừa
nhà kinh tế và vì địa phương có khả năng về kinh tế nên Công Ty Liên Thành bao
trùm hết học vấn, thể dục...và Trường Dục Thanh đã ra đời.
Trường được xây dựng vào năm 1907 cùng năm xây dựng Trường Đông Kinh Nghĩa
Thục ở tại làng Thanh Đức nay là số nhà 39 đường Trưng Nhị, phường Đức Nghĩa,
TP. Phan Thiết, sự hình thành của ngôi trường là để hưởng ứng phong trào Duy
Tân do các Cụ Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng, do
các ông Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh (2 người con của nhà thơ yêu nước
Nguyễn Thông) thành lập. Mục tiêu của phong trào Duy Tân cũng là của nhà trường
là: mở mang dân trí, gây thức phát triển dân tộc, đất nước. Đây là 1 trường tư
có nội dung giảng dạy tiến bộ nhất lúc bấy giờ ở Phan Thiết – Bình Thuận.
Vào năm 1910 trên đường đi tìm phương cách cứu nước, nhà giáo Nguyễn Tất
Thành sau này là chủ tịch Hồ Chí Minh được cụ nghè Trương Gia Mô giới thiệu đã
đến Phan Thiết và dừng chân dạy học tại Trường Dục Thanh. Lúc đó nhà trường có
khoảng 60 học sinh và 7 thầy giáo giảng dạy các bộ môn: Hán văn, Pháp văn, thể
dục thể thao, thầy giáo Thành dạy lớp nhì về Quốc Văn và Hán Văn. Ngoài những
bài giảng dạy, thầy giáo Thành còn truyền bá lòng yêu quê hương đất nước cùng
nòi giống tổ tiên cho học sinh, vào những lúc rảnh rỗi thầy Thành đã dẫn học
sinh đi dã ngoại, ngoạn cảnh đẹp trong vùng như bãi biển Thương Chánh, động
làng Thiềng, đình làng Đức Nghĩa.
Vào khoảng tháng 2 năm 1911 thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã giã từ Trường dục
Thanh rời Phan Thiết vào Sài Gòn vượt đại dương di tìm con đường giải phóng dân
tộc.
Năm sau đó ông Nguyễn Trọng Lội qua đời, ông Nguyễn Quý Anh chuyễn vào Sài
gòn, không còn người phụ trách, trường Dục Thanh đóng cửa vào năm 1912. ngôi
trường Dục Thanh bị hư hỏng và dỡ bỏ từ lâu, nhưng trong số học sinh thầy Thành
dạy năm xưa vẫn còn 4 người còn sống đó là 4 cụ: bác sỹ Nguyễn Quý Phầu, bác sỹ
Nguyễn Kim Chi, cụ Từ Trường Phùng, cụ Nguyễn Đăng Lâu. Sau này khi đất nước
hoàn toàn thống nhất hoà bình lập lại và nhân dân quanh vùng có nguyện vọng
phục chế lại ngôi trường Dục Thanh xưa để tỏ lòng biết ơn Bác Hồ kính yêu và để
giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ hôm nay và mai sau. Nhờ những kỷ niệm
hện rỏ trong ký ức các cụ vị trí ngôi trường
và những thành phần kiến trúc bên trong , bên ngoài được hình thành qua
các bản vẽ, trường được dựng lại vào năm 1978 – 1980, nhà Ngư được xây dựng vào
năm 1906 và từ năm 1908 trở đi dùng làm nơi nộ trú cho học sinh cũng được khôi
phục lại. Ngoạ Du Sào là ngôi nhà được xây dựng năm 1880 của cụ Nguyễn Thông
vào những năm cuối đời cụ Nguyễn thông ở tại ngôi nhà này để ngâm thơ bình văn,
luận bàn công việc với các sĩ phu yêu nước. Lúc ở trường Dục Thanh, thầy giáo
Thành đọc sách và soạn vài ở Ngoạ Du Sào, ngôi nhà này nay đã được tu bổ lại.
Cây khế và giếng nước nằm trong khuôn viên trường là những vất đã gắn bó với cuộc
đời làm thầy của Bác Hồ ở Trường Dục Thanh bởi vì ngoài giờ học thầy Thành
thường tưới nước và chăm sóc cây. Trường kỷ, bộ ván, án thư, 1 tủ đứng tráp văn
thư, nghiên mài mực, ba ly nhỏ và 1 chiếc khay...tất cả những kỷ vật của trường
từ xưa được cất giữ và bảo quản tốt. Bên cạnh khu di tích là Nhà Trưng Bày về
cuộc đời hoạt động Cách Mạng của Bác Hồ cũng được xây dựng và khánh thành năm
1986 di tích Trường Dục thanh được Bộ văn Hoá Thông Tin xếp hạng là di tích
lịch sử quốc gia, quyết định số: 235/QĐ-BT ngày 12 – 12 – 1986.
DINH VẠN THỦY TÚ
(Bộ
cốt ông Nam Hải- bộ xương cá voi lớn nhất Việt Nam và cả Đông Nam Á)
ĐC: góc đường Phan Chu Trinh – Ngư Ông
ĐT: 062820362 DĐ: 0918490612
Cuối thế kỷ XVII những ngư dân lao động của
các tỉnh miền Trung lần lượt đổ bộ về khai phá vùng đất mới còn lắm hoang vu
Phan Thiết – Bình thuận. Họ mong tránh cảnh loạn lạc, khốn cùng ở quê cũ, tìm
được một chốn an cư lạc nghiệp lâu dài. Sử sách và dân gian thường gọi là “Ngũ
Quảng lưu dân” ( Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Thuận, Quảng Nam, Quảng Nghĩa).
Theo truyền thống ở miền quê cũ họ lập ra ven biển các Vạn nghề đánh cá (Vạn
Chài) theo từng nhóm dân cư tập trung trước khi có chính quyền làng xã. Một
trong những Vạn Chài ấy có tên là Thuỷ Tú bởi nằm bên cửa biển Phan Thiết trù phú,
đẹp giàu (Thuỷ là nước, Tú là màu mỡ nhiều sản vật, Thuỷ Tú nói lên vùng biển
giàu đẹp).
Cùng với việc lập Vạn ổn định dân cư ăn ở,
Vạn nào cũng xây Dinh để thờ thần Nam Hải. Từ xưa theo tín ngưỡng của cư dân cá
Voi được tôn làm ông Nam Hải hay Nam Hải đại tướng quận, về sau vua Gia Long
sắc phong là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần. Bởi khi trời giông bão sóng to
gió lớn, ông đã tựa vào thuyền, che chắn cho thuyền không bị sóng gió nhấn
chìm. Khi ông luỵ (chết) Làng Vạn làm tang lễ, thờ tự ở Dinh. Như câu hát bả
trạo truyền từ đời này sang đời khác:
Xưa biển Thánh, Ngài quảng sai tiết độ
Nay siêu Thần, Ngài về chốn miếu môn
Hoặc: Khôn phò nghĩa khí ai bì
Sống chơi biển Thánh, chết quy non Thần
Về khoa học, ông tên là cá voi lưng xám,
không có răng. Hằng ngày ông phải lọc nước biển để lấy thức ăn, mỗi ngày khoảng
1-1,5 tấn cá, những loài cá thơm như: cơm, mòi, nục, sinh vật nổi như: tôm,
cua. Mỗi lần ông chỉ sinh một con, con mới sinh có chiều dài bằng 1/3 con mẹ,
nặng 2-3 tấn, tuổi thọ trung bình 80 năm.
Dinh Vạn Thuỷ Tú toạ lạc trên đường Ngư Ông,
thuộc phường Đức Thắng thành phố Phan Thiết. Con đường ngày nay và biển cả
trước đây mang tên ngư ông thể hiện ý nghĩa lịch sử gắn bó giữa ông Nam Hải với
ngư nghiệp địa phương. Niềm tôn kính của ngư ông cũng như niềm tin vào sự phò
trợ của ông Nam Hải, lịch sử hình thành Vạn Thuỷ Tú gắn liền với lịch sử hình
thành thành phố Phan Thiết và tỉnh Bình Thuận của lớp ngư dân đầu tiên vào khai
phá xây dựng nên vùng biển” trên bến, dưới thuyền” với nghề đánh bắt thuỷ sản
và chế biến nước mắm truyền thống nổi tiếng xưa nay.
Dinh Vạn Thuỷ Tú là một trong những dinh Vạn
lớn và cổ xưa nhất của nghề biển ở Bình thuận. Dinh được thiết lập từ năm Nhâm
Ngọ 1762 với chính điện, nhà Tiền Vãng và phía trước là Võ Ca. Trung tâm chính
điện khám thờ thần Nam Hải. Bên tả là khám thờ ông thuỷ (ông tổ nghề biển), bên
hữu thờ bà thuỷ. Phía sau chính điện là nhà Tiền Vãng thờ các bậc tiền hiền hậu
hiền – những người có công khai phá dựng làng, lập Vạn. Phía trước là nhà Võ Ca
là nơi để hát bội và diễn chèo Bả Trạo trong những kỳ tết lễ. Trong năm Vạn có
05 kỳ cúng: Lệ Tế Xuân (20-2 Âl), Lệ hạ nghệ (xuống nghề, cầu ngư đầu mùa 20-4
Âl) Lệ cầ ngư (cấu ngư chính mùa 20-6 Âl), Lệ tế Thu (còn gọi là lệ cúng của
các chèo dọc 20-7 Âl) và Lệ mãn mùa (25-8 Âl). Ở mỗi kỳ lệ cúng, bà con tổ chức
lễ với nghi thức cúng Tế trang trọng và Hội với hát bội, diễn chèo Bả Trạo,
giao lưu trao đổi công việc làm ăn; ngoài ra còn tổ chức đua ghe giữa các Vạn,
như câu ca xưa còn truyền lại:
Dưới sông lắp đặt ghe đua
Trên bờ sửa soạn Miếu Chùa Trạo ca
(hát chèo Bả Trạo)
Việc thờ tự cúng tế, lễ hội ở Vạn hướng con
người về cội nguồn, với tổ nghề và thắt chặt tình ái hữu tương tế.
Về giá trị kiến trúc, Dinh Vạn Thuỷ Tú sử
dụng lối kiến trúc “tứ trụ”, toàn bộ các vì kèo, rường cột, các gian đều xuất
phát từ các đỉnh của tứ trụ; các chi tiết được lắp ghép trau chuốt, chạm khắc
tỉ mỉ. Đến nay so với hàng chục Vạn thờ Hải thần dọc theo biển Bình Thuận thì
Dinh Vạn Thuỷ Tú có kiến trúc còn giữ nguyên trạng.
Trong Dinh Vạn Thuỷ Tú còn lưu giữ 24 sắc
phong của các đời vua triều nguyễn, lưu giữ nhiều di sản văn hoá Hán – Nôm liên
quan đến nghề biển, thể hiện trong nội dung thờ phụng ở các khám thờ, tượng
thờ, hoành phi, liện đối, trên văn chuông của Đại Hồng Chung…
Với những giá trị lịch sử văn hoá, Dinh Vạn
Thuỷ Tú đã được bộ văn hoá thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia
1996.
Đến tham quan Dinh Vạn Thuỷ Tú, qua cổng tham
quan về phía tả là Ngọc Lân Thánh Địa, về phía hữu là nhà trưng bày hài cốt ông
Nam Hải, trước khi vào viếng dinh chính.
Theo phong tục tập quán khi phát hiện Ông luỵ
làng Vạn phải tổ chức đưa ông lên bờ và tiến hành nghi thức tang lễ long trọng.
Người đầu tiên phát hiện ông luỵ được hưởng nghi thức tang chế như con trưởng
của ông. Mặc đồ trắng, bịt khăn trắng và để tang ông trong 3 năm, không được
hớt tóc cạo râu phải an chay nằm đất. Làng Vạn làm lễ thỉnh linh hồn ông nhập
Vạn, chọn ngày giờ tốt để mai táng. Trước Dinh Vạn Thuỷ Tú có một khu đất rộng
để mai táng ông, gọi là Ngọc Lân Thánh Địa.
Sau ba năm mai táng thỉnh cốt ông nhập thờ
trong Dinh Vạn. Khi hốt cốt thì dùng nước lã rửa sạch, sau đó dùng rượu mạnh
rửa, phơi thật khô, sau khi phơi xong thì mang về thờ ở Dinh Vạn. Qua 200 năm
Dinh Vạn Thuỷ Tú đã có 3 tẩm với trên 100 bộ cốt ông được lưu thờ trong đó có
hàng chục bộ cốt lớn, đặt biệt có một bộ rất lớn.
Truyền thuyết dân gian kể lại rằng: sau khi
xây xong Dinh Vạn Thuỷ Tú có một ông rất lớn trôi dạt vào bờ phía trước Dinh
lúc này biển chỉ cách dinh không đầy 50 m). Ngư dân trong bổn Vạn và huy động
các Vạn khác cùng nhau đưa ông vào táng trong khuôn viên của Dinh Vạn Thuỷ Tú.
Vì ông lớn quá (dài 22 m, nặng 65 tấn) nên mãi 2 ngày sau mới đưa vào an táng
được.
Năm 2003 theo nguyện vọng của bà con ngư dân
và nhu cầu của khách tham quan, cũng như phục vụ cho công tác nghiên cứu văn
hoá – khoa học, UBND thành phố Phan Thiết đã đầu tư xây dựng nhà trưng bày và
phục chế lắp ráp bộ cốt ông lớn nhằm giữ gìn và bảo quản tốt hơn, tạo điều kiện
cho bà con ngư dân đến viếng và khách đến tham quan, các nhà khoa học đến
nghiên cứu.
Được sự trợ giúp của phòng bảo tồn Viện Hải
Dương Học Nha Trang công trình đã được khánh thành vào đúng dịp lễ hội cầu ngư
đầu mùa ngày 20 tháng 4 năm Quý Mùi 2003. Qua lưu thờ bảo quản của nhân dân, bộ
cốt ông hầu như nguyên vẹn và được xác định là bộ cốt ông lớn nhất Việt Nam và
cả vùng Đông Nam Á. (tại Thái Lan dài 16m, Viện Hải Dương Học Nha Trang là 15m,
Kiên Giang 7m).
Trong DVTT còn lưu giữ nhiều di sản văn hoá Hán Nôm liên quan đến nghề biển
thể hiện trên nội dung thờ phụng, khám thờ, hoành phi, câu đối và trên bài văn
khắc trên đại hồng chung. Đặc biệt ở DVTT là 1 trong những nơi còn lưu giữ sắc
phong của các vị vua triều Nguyễn, dù trãi qua mấy trăm năm nhưng các sắc phong
này được gìn giữ cẩn thận và còn nguyên vẹn như mới. Có tất cả 24 sắc phong của
vua Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh,Duy Tân và Khải Định, riêng vua Thiệu Trị
(1841 – 1847) trong thời gian 7 năm trị vì đã ban tặng cho DVTT 10 sắc phong,
đây quả là 1 sự kiện hiếm thấy. DVTT đã được nhà nước xếp hạng là di tích lịch
sử quốc gia năm 1996.
CÁ VOI Ở VIỆT NAM
Theo tài
liệu Mammals of the world của Michel Boorer: Cá Voi (lớp Cetaeea) chính là thú,
hô hấp bằng phổi đã thích ứng để sống trong môi trường nước.
Lớp
chia ra 2 bộ:
Bộ
1: Gồm cá Voi không có răng, miệng có một hệ thống sợi dài mắc vào hàm trên,
các sợi khi miệng cá mở ra thì tạo ra thì tạo ra 1 hệ hống màn lọc mồi. Sở dĩ
cần màn lọc này là vì cá Voi chỉ chuyên ăn có một thứ mồi duy nhất, đó là tôm
Euphausia supberba sống phiêu sinh trong biển vùng cực Bắc & cực Nam. Khi
ăn, cá Voi nổi lên mặt nước, miệng há thật to hớp nước cùng với tôm phiêu sinh,
sau đó nó phun nước ra, tôm sẽ được các sợi của màn lọc giữ lại. Cứ 1 lần hớp
nước và phu ra, nó lấy được 500kg tôm. Giống tôm này chỉ sống ở miền Cực, nên khi
cá Voi theo tàu biển chuyển xuống miền nhiệt đới thì không còn thức ăn. Phiêu
sinh vật biển nhiệt đới rất nghèo so với vùng Cực & không hề có tôm
Euphausia suberba, cá Voi sẽ chết đói. Đó là trường hợp con cá Voi mà bộ xương
còn lưu lại trong Đình Thần Thắng Tam (VŨNG TÀU).
Bộ
2: Gồm cá Voi có răng, nhưng răng chỉ hiện diện ở hàm dưới. Đây là trường hợp
con cá Voi Physéter australis trưng bày trong Thảo Cầm Viên (SG). Nhóm này cũng
chỉ sống ở biển lạnh như biển Cực & biển Ôn Đới, vì mồi của nó là con mực
khổng lồ Megateuthis australis chỉ sống ở vùng đáy sâu biển lạnh. Như thế những
con cá Voi trôi dạt vào bở biển ở Việt Nam đều không sống thường xuyên tại đây,
chúng chỉ là những con lìa đàn, theo tàu biển tới vùng nhiệt đới & sau một
thời gian đói ăn trôi dạt vào bờ.
CHÙA PHẬT QUANG
Ngôi chùa có nhiều kỷ lục
Tọa lạc tại
đường Trần Quang Khải (phường Hưng Long, TP.Phan Thiết), chùa Phật Quang được
xây dựng vào khoảng những năm đầu của thế kỷ 18. Theo lịch sử, đây là thời điểm
những người Việt đầu tiên đến vùng đất Phan Thiết-Bình Thuận nên chùa Phật
Quang đc xem là ngôi chùa lâu đời nhất của thành phố biển Phan Thiết.
Với địa thế
nằm giữa những đồi cát đặc trưng miền biển cực Nam Trung bộ, chùa Phật Quang còn
gần gũi với người dân địa phương bằng tên gọi: Chùa Cát! Không chỉ là “cái nôi”
Phật giáo của Bình Thuận, lịch sử hình thành của chùa Phật Quang còn gắn liền
với những di sản văn hóa vô giá. Vừa có công xây dựng chùa, 3 vị Thiền sư người
Trung Quốc là Ninh Dung, Thiết Huệ và Thiết Sắc còn để lại chùa chiếc Đại Hồng
Chung lớn đúc từ năm 1750 và bộ kinh Pháp Hoa khắc gỗ đồ sộ và độc đáo. Mất 28
năm (từ 1706-1734) 3 vị Thiền sư mới khắc xong bộ kinh Pháp Hoa gồm 118 bản gỗ
thị huyết với 600.000 con chữ và rất nhiều hình ảnh đức Phật thuyết pháp. Và bộ
kinh vô giá này được xác lập kỷ lục “xưa nhất Việt Nam” vào ngày 2/1/2006.
Tiếp đó, vào
ngày 7/11/2006, chùa Phật Quang còn nhận thêm một kỷ lục l ngôi chùa có “mõ Gia
Trì lớn nhất Việt Nam”. Bản khắc cuối cùng của bộ kinh cũng ghi công của 6
người đứng ra quyên góp cúng tiền, người đứng ra in, nhiều người cúng cơm gạo
và ghi cả công của 2 vị thiền sư cùng 12 phật tử khắc trong thời gian 28 năm
mới hoàn thành.
Đã 2 thế kỷ
trôi qua bản khắc này vẫn còn nguyên vẹn và theo lời nhận xét của một số nhà
nghiên cứu bản khắc khá tinh xảo, đẹp. Tất cả bản khắc này được cất giữ trong 1
hầm nhỏ nằm trong đại điện, do sự tình cờ các vị sư của của chùa đã phát hiện
ra.
Trải qua rất
nhiều lần trùng tu và sửa chữa, ngôi chùa cộng với nhiều nét kiến trúc đậm dấu
ấn Phật giáo Trung Hoa với cổng tam quan, chùa tổ, chính điện, tháp chuông…chùa
Phật Quang hôm nay vừa giữ lại những nét kiến trúc truyền thống, vừa mang những
giá trị văn hóa Phật giáo lẫn miền biển đấy nắng gió. Lẫn giữa những nét đẹp
của nghệ thuật chạm khắc độc đáo trong kiến trúc và trang trí, chùa Phật Quang
còn hấp dẫn bởi những…cái nhất: chùa trang trí nhiều rồng nhất (166 con), trang
trí nhiều hoa văn và phù điêu nhất, trong đó có những phù điêu trang trí khắc
họa những thắng cảnh nổi tiếng của Phan Thiết và Việt Nam. Và mới đây nhất, vào
ngày 24/10/2007, Công ty Kỷ lục Vietkings đã trao kỷ lục chùa có “mõ Gia
Trì lớn nhất Việt Nam”.
Đại đức Thích
Quảng Cao còn cho biết, hiện chùa đang giữ một rìu đá 3.500 năm tuổi (Bảo tàng
Đồng Nai giám định) do một nông dân ở Đồng Nai tìm thấy và tặng lại cho chùa.
Ngòai ra, ở chùa Phật Quang còn có khá nhiều pho tượng người bằng đất nung
(chưa xác định được niên đại), mỗi tượng người một tư thế hết sức sống động y
như đang biểu diễn các thế võ Thiếu Lâm.
Từ năm 2000
đến năm 2005, thầy trụ trì Thích Huệ Tĩnh, đời thứ 44 phái thiền Lâm Tế đã tổ
chức đại trùng tu chùa, đặt 15 vườn tượng Phật tích và nhiều cây kiểng ở sân
chùa.
Ngôi chính
điện hai tầng và hai lầu chuông, trống nổi bật với các mảng ghép sành sứ về
nhiều đề tài trên các phù điêu, hoa văn, hàng cột ..., đặc biệt là linh vật
Rồng 5 móng được thể hiện trên các công trình ghép sành sứ từ nóc mái đến bao
lam, cửa sổ, hàng cột ... với 22 loại.
Thầy trụ trì
cho biết hơn 48 tấn mảnh sành được chở từ miền Bắc vào, miền Nam ra, đã được
nhóm thợ người Huế chủ lực lựa chọn sử dụng khoảng 2 tấn. Chính mảng ghép sành
sứ mang tính mỹ thuật và kỹ thuật cao đã tôn ngôi chùa vẻ đẹp vừa hiện đại vừa
cổ kính theo phong cách kiến trúc Á Đông.
Chùa có hai
điện Phật được bài trí trang nghiêm. Tầng trên là điện Phật thờ đức Phật Thích
Ca, hai bên vách tường có bộ tượng phù điêu Thập Bát La Hán. Điện Phật tầng
dưới thờ bộ tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, hai vị Bồ tát Quán Thế Âm và
Đại Thế Chí) và tượng Bồ tát Địa Tạng.
.
Quả chuông
gia trì có đường kính 1,2m, cao 1m, nặng khoảng 400kg. Chuông do nhóm thợ người
Quảng Nam thực hiện. Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam được xác lập kỷ lục vào
ngày 07-11-2006, trao giấy chứng nhận và cúp lưu niệm cho chùa Phật Quang - ngôi
chùa có Quả chuông gia trì lớn nhất Việt Nam trong Hội ngộ kỷ lục gia
Việt Nam lần 6 chủ đề : Kỷ lục Phật giáo Việt Nam do Trung tâm phối hợp với Báo
Giác Ngộ tổ chức.
Cặp mõ gia
trì ở điện Phật, mỗi chiếc cao 0,8m, ngang 0,92m, lm bằng gỗ mít lấy từ huyện
Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, do 3 người thợ ở Quảng Nam thực hiện trong 7 năm
(1997-2004).
Đại hồng
chung chùa Phật Quang
Chùa Phật
Quang ngày nay là một ngôi phạm vũ tráng lệ, đã được khánh thành vào
ngày 05-3-2006 (nhằm ngày 06 tháng 2 năm Bính Tuất). Chùa được giới thiệu rộng
rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và các công ty du lịch trong nước
và nước ngoài nên số du khách và Phật tử đến viếng chùa thật đông đảo mỗi ngày.
Giữa không
khí sôi động của một thành phố du lịch hôm nay, chùa Phật Quang vẫn trầm mặc và
yên bình như hàng trăm năm qua nên thu hút rất đông tín đồ Phật tử và du khách
khắp nơi tìm đến. Không chỉ thanh thản với những giây phút nghiêng mình bên đức
Phật tại ngôi chùa xưa nhất, mà mọi người còn có dịp khám phá và chiêm ngưỡng
những điều kỳ thú từ các di sản văn hóa vô giá cho đến lối kiến trúc của những
tượng Phật và Bồ Tát xung quanh. Và sắp tới đây, khi chùa Phật Quang hoàn thành
tòa Bảo Tháp Pháp Hoa cao 32m để thờ bộ kinh Pháp Hoa và “bộ sưu tập” 50.000
tượng Phật Di Lặc… không chỉ trở thành ngôi chùa với nhiều kỷ lục, mà chùa Phật
Quang còn trở thành một điểm du lịch nổi tiếng mà mọi du khách không thể bỏ qua
khi đến với thành phố biển xinh đẹp Phan
Thiết!