Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!

Dịch trang

Di tích lịch sử Bến Nhà Rồng

Thông Tin Du Lịch Phổ biến

Chuyên đề: 70 năm ca khúc Việt Nam


Nền âm nhạc Việt Nam xuất hiện từ rất sớm trải qua những thăng trầm của lịch sử có những lúc nền âm nhạc phát triển đến cao trào, có những lúc bị mờ nhạt tưởng chừng như mất hẳn song cho đến nay nền âm nhạc của nước ta đã có những chuyển biến mới và “70 năm ca khúc Việt Nam” là dấu ấn để ghi nhận lại sự chuyển biến đó.
Sự ra đời của nhạc Mới hay Tân nhạc còn gọi là “nhạc cải cách” là một trong những sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặc, bước phát triển mới trong lịch sử của nền âm nhạc nước nhà. Đây cũng là biểu hiện của lòng yêu nước và tinh thần tự cường dân tộc- nguồn sức mạnh đã tiếp sức cho các nhạc sĩ Việt Nam vượt lên mọi trở ngại để kiên trì theo đuổi ý nguyện xây dựng nền nhạc mới mang linh hồn của dân tộc.
Trong những bước đi ban đầu, nền nhạc mới đã gặp nhiều vấp váp và cả những thất bại khó tránh trên con đường học tập, tiếp thu những cái mới - nhất là trong một cuộc học đầy gian lao không thầy dạy, không người hướng dẫn chỉ đường, vì vậy trong nền âm nhạc của giai đoạn này người ta thấy không ít những bài lai căn, chấp vá, “đầu Ngô mình Sở ”. Song các nhạc sĩ Việt Nam đã nảy sinh một khuynh hướng đối lập về quan điểm sáng tác và mở cuộc vận động tích cực cho sự tìm tòi nhằm xây dựng và phát triển một thể loại âm nhạc mới mang tính dân tộc.
Và “ 70 năm ca khúc Việt Nam” có thể chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: từ năm 1936 đến trước cách mạng Tháng Tám 1945.
- Giai đoạn II: từ cách mạng Tháng tám 1945 đến 1975.
- Giai đoạn III: từ năm 1975 đến nay.

I. GIAI ĐOẠN I: TỪ NĂM 1936 ĐẾN TRƯỚC CMT8 NĂM 1945
Sau khi đưa phong trào sáng tác mới ra công khai, các nhạc sĩ trẻ càng thêm tự tin, không còn lo sợ, lạc lõng. Phong trào sáng tác, trình diễn ca khúc, nhạc phẩm mới của các nhạc sĩ trẻ Việt Nam ngày càng dâng lên sôi nổi.
Phong trào chuyển theo hướng làm thay đổi sở thích của giới trẻ. Trước mối nguy vọng Pháp và trong tinh thần bảo vệ nghệ thuật của dân tộc, một số nhạc sĩ Việt Nam ra tay sáng tác những bản tân nhạc đầu tiên là vào năm 1938. Ở miền Bắc lúc ấy có Thẩm Oánh (định cư tại Hoa kỳ và từ trần năm 1996) , Dương Thiệu Tước (từ trần năm 1998 tại Việt Nam) , Trần Quang Ngọc, Lê Thương (từ trần tại Việt Nam). Trong Nam thì có Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Đăng Hinh. Tháng 3/1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên được chinh phủ bảo hộ Pháp gởi ra Hà Nội để thuyết trình về âm nhạc cải cách nhằm tạo một phong trào mới. Vào tháng 9/1938, báo Ngày Nay đã góp công vào phong trào phổ biến nhạc Mới bằng cách đăng những bài tân nhạc đầu tiên. Từ năm 1938 tới 1942 báo Ngày Nay đã đăng "Bông Cúc Vàng", "Kiếp Hoa" của Nguyễn Văn Tuyên, "Bình Minh", "Đàn Xuân "của Nguyễn Xuân Khoát, "Khúc Yêu Đương" của Thẩm Oánh, "Bản Đàn Xuân" của Lê Thương, "Đám Mây Rừng " của Phạm Đăng Hinh, "Đường Trường" của Trần Quang Ngọc.Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy có đăng bản "Con Thuyền Không Bến " của Đặng Thế Phong. Các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Trần Dư, Vũ Khánh, Phạm Văn Nhượng cùng nhau thành lập nhóm MYOSOTIS. Trong nhóm này có hai xu hướng:

- Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.
- Sáng tác hoàn toàn theo nhạc người Tây phương do Dương Thiệu Tước cầm đầu. Ít lâu sau, một nhóm khác gồm vài nhạc sĩ trẻ đầy nhiệt quyết thành lập nhóm TRICEA gồm Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn. Nhóm này chịu ảnh hưởng nhạc Trung Quốc lúc đầu, về sau phảng phất âm hưởng Âu châu và phải rả sớm. Nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng có các nhạc sĩ Hoàng Quý, Văn Cao, Canh Thân. Nhóm Đồng Vọng do Hoàng Quý điều khiển ra đời chuyên về nhạc hướng đạo lúc đầu và sau đó tích cực đóng góp trong việc phổ biến nhạc Mới. Lê Thương lúc đó giảng dạy tại trường trung học Lê Lợi. Một số tráng sinh hướng đạo có những tên đi vào lịch sử âm nhạc Việt Nam như Canh Thân, Phạm Nguyên, Hoàng Quý đã sáng tác những bài nhạc đáng kể như "Nhớ Quê Hương" (Phạm Ngữ và "Chùa Hương" (Hoàng Quý). Tỉnh Nam Định chứng kiến sự chào đời của hai bài "Đêm Thu" và "Con Thuyền Không Bến" của nhạc sĩ đoản mệnh Đặng Thế Phong. Hai bài nhạc Nhựt "Hà Nhựt Quân Tái Lai " (Bao giờ anh trở lại ) và "Shina No Yoru " (Đêm Trung Hoa) trích trong phim "Đêm Trung Hoa" (Nuit de Chine) đã gợi hứng cho nhạc sĩ Việt Nam thời bấy giờ sáng tác nhạc Việt, tạo thành phong trào "Người Việt hát nhạc Việt ". 1939: thế chiến thứ hai bùng nổ tại Âu Châu. Những bài "Việt Nam Bất Diệt" của Hoàng Gia Linh, "Trên Sông Bạch Đằng" của Hoàng Quý, "Tiếng Gọi Sinh Viên" của Lưu Hữu Phước đã làm sống dậy tinh thần yêu nước của tuổi trẻ.
Tân nhạc trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ đã đóng một vai trò đáng kể và từ đó phát triển rất mạnh. Phong trào tân nhạc đã được đưa lên cao tột đỉnh với Tổng Hội Sinh Viên trong giai đoạn lịch sử 1943-1945. Nhạc sĩ đi liền với Tổng Hội Sinh Viên không ai khác hơn là Lưu Hữu Phước. Những bài hát làm ra đúng thời, đúng lúc và vẫn còn sống mãi trong tim đa số người Việt ngày hôm nay (nhất là những người vào tuổi ngũ tuần trở đi). Những ai đã sống trong thời kháng chiến chống Pháp vẫn còn nhớ những bài gợi lên những giai đoạn lịch sử Việt Nam như "Ải Chi Lăng", "Bạch Đằng Giang", "Hội Nghị Diên Hồng", hay những bài khích động thanh niên như "Tiếng Gọi Sinh Viên" (đổi thành Tiếng Gọi Thanh Niên, và cũng là bài quốc ca của thời Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu). "Lên Đàng" hay với thiếu niên như "Thiếu niên Việt Nam", hay những bài gắn liền với lịch sử như "Kinh Cầu Nguyện", "Hồn Tử Sĩ" (bài mà trong bất cứ chương trình đấu tranh của người Việt di tản vẫn còn dùng để tưởng nhớ các chiến sĩ tử trận) . Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là người đầu tiên sáng tác nhạc ca kịch trong kịch thơ "Tục Lụy" của Khái Hưng và Thế Lữ và tiểu ca kịch "Con Thỏ Ngọc". Nguyễn Đình Thi sáng tác bài "Diệt Phát Xít" thúc đẩy dân chúng nổi lên chống Nhựt Bổn.
Lúc bấy giờ ở tại Sài Gòn, chỉ lẻ tẻ vài hội hoạt động về nhạc cải cách. Hội Nam Kỳ Đức Trí Thể dục mời bà nhạc sĩ dương cầm Louise Nguyễn Văn Tỵ (tên thật là Thái Thị Lang) trình diễn piano với những bài do bà sáng tác. Nhạc sĩ quá cố Võ Đức Thu trình bày nhạc phẩm "Việt Nam Tân Điệu". Từ Bắc tới Nam, nhạc sĩ tân nhạc bắt đầu mọc lên như nấm. Trong giai đoạn 1944 -1945, nhiều bài nhạc tôn giáo như "A Di Đà Phật" của Thẩm Oánh được hát nhân ngày khánh thành trùng tu chùa quán sứ Hà Nội vào cuối năm 1942 hay bài "Sám Hối" và nhiều ca khúc khác của Nguyễn Hữu Ba và Văn Giảng sáng tác tại Huế. Nhạc đoàn Lê Bão Tịnh gồm các nhạc sĩ Hùng Lân, Hải Linh, Tâm Bảo, Thiên Phụng đã sáng tác tập Cung Thánh gồm hàng trăm bài Thánh ca Thiên chúa giáo (1944-1945).
Giai đoạn 1945-1946 đánh dấu cuộc chiến tranh bùng nổ tại Việt Nam vừa sau trận thế chiến thứ hai. Các nhạc sĩ lo sáng tác nhạc chiến đấu như Văn Cao với "Tiến Quân Ca" (trở thành Quốc Ca của chế độ cộng sản miền Bắc từ năm 1945, và được dùng làm Quốc Ca của Việt Nam Xã hội chủ nghĩa từ năm 1976 sau khi thống nhất đất nước), "Chiến Sĩ Việt Nam ", như Đỗ Nhuận với "Nhớ Chiến Khu ", như Phạm Duy với "Chiến Sĩ Vô Danh ", "Xuất Quân", như Lưu Hữu Phước với "Đoàn Quân Ma ", như Phan Huỳnh Điểu với "Giải Phóng Quân ", như Thẩm Oánh với "Việt Nam Phục Quốc ".
Song song vơí những sáng tác chiến đấu, tình cảm vẫn còn rung động trong nguồn hứng qua các bài "Thiên Thai " (Văn Cao), Đêm Đông " (Nguyễn Văn Thương), "Xuân và Tuổi Trẻ " (La Hối), "Mùa Đông Binh Sĩ "
(Phan Huỳnh Điểu), "Dạ Khúc " (Nguyễn Mỹ Ca), Đêm Tàn Bến Ngự " (Dương Thiệu Tước), " Cây Đàn Bỏ Quên " (Phạm Duy), "Mơ Hoa " (Hoàng Giác), "Cô Lái Đò" (Thẩm Oánh), "Suối Mơ " (Văn Cao), "Hẹn Một Ngày
Về " (Lê Hữu Mục), "Đi Chơi Chùa Hương " (Trần Văn Khê/Nguyễn Nhược Pháp).
Sáng tác của các nhạc sĩ mới trong giai đoạn đầu của âm nhạc cải cách cho tới trước khi cách mạng Tháng Tám thành công không thuần nhất. Theo đà chuyển biến về chính trị và xã hội nước ta, nó có nhiều biến chuyển cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
Căn cứ vào nội dung, các tác phẩm sáng tác trong giai đoạn này có thể chia làm ba khuynh hướng chính: khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hùng ca yêu nước và khuynh hướng cách mạng.

Khuynh hướng lãng mạn:
1936 – 1939 là thời kì Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tuy chỉ là tạm thời, song do tình hình kinh tế khá hơn trước, nên bọn thực dân ở thuộc địa có phần nới tay hơn trước. Nhiều bộ phận thuộc giai cấp Tư sản và tiểu tư sản lớp trên chưa đi theo cách mạng tưởng có thể phát triển được trong khuôn khổ thự dân. Do đó, trong văn học, các loại văn học không cách mạng, không hiện thực, cụ thể là khuynh hướng văn học lãng mạn có cơ sở tồn tại và phát triển. đi đôi với tình hình văn học nói trên, trong âm nhạc cải cách giai đoan này các ca khúc lãng mạn cũng chiếm địa bộ phận. Tất nhiên cũng như trong văn học, ca khúc lãng mạn trong giai đọan này bao gồm nhiều thể loại và tính chất khác nhau: có ca khúc lãng mạn viễn vong theo kiểu “mơ theo trăng và vơ vẫn cùng mây”, trốn tránh thực tại.
- Có loại ca khúc nhạc nhẹ, có tính chất giải trí – kể cả giải trí rẻ tiền.
- Cũng có loại ca khúc lãng mạn mang nội dung sâu sắc hơn, qua đó tác giả gởi gấm tình yêu quê hương đất nước.
- Lại có những ca khúc lãng mạn mang tính chất lãng mạng đồi trụy, kêu gọi thanh niên đắm chìn trong lốisống gấp. Đối với loại này, tuy chưa thấy bài nào mang tính chất khuy dâm như một số tiểu thuyết cùng loại bắt đầu phát triển từ 1935 và đặt biệt phổ biến ở thời kì 40 – 41 sau này, song nó cũng góp phần làm cho thanh niên xa rời thực tế xã hội để đắm chìm trong tình yêu lãng mạn, ủy mị, chí khí rã rời.
Đa số bài khác bộc lộ tâm trạng chán chường bế tắc của thanh niên chưa tìm ra được lối thoát trong xã hội ngột ngạt thời đó. Chiếm đa số trong thời kì đầu của “âm nhạc cải cách”, ca khúc lãng mạng sẽ vẫn tiếp tục phát triển ở các giai đoạn sau khi nó không còn là thể loại “bao san” như ở buổi ban đầu.

Để đánh giá khuynh hướng lãng mạng nói chung, có thể dẫn lời đồng chí Trường Chinh: “những văn nghệ sĩ sống dưới chế độ thực dân phong kiến là những người trí thức bị áp bức, tự mình kiếm sống khá vất vả. Vì vậy trừ một số ít tự nguyện làm “vú em” cho phong kiến và thực dân,còn đại bộ phận nghệ sỹ sớm hiểu sự đau khổ, nhục nhã của nguời dân mất nuớc. Một mặt họ bị hạn chế về quan điểm ,về cách nhận thức sự vật, về tính bấp bênh trong đáu tranh chính trị ,hạn chế về quan điểm, về cách nhận thức sự vật, về tính bấp bênh trong đấu ranh chính trị, nhưng về mặt khác họ giàu lòng yêu nuớc. Ngay trong những quan điểm sai lầm về nghệ thuật một số cũng mốn tìm sự phản kháng, một chỗ đuợc tự do thể hiện lòng ao uớc, niềm hi vọng của mình. Các tầng lớp tu sản và tiểu tư sản trí thức Việt Nam tìm thấy trong chủ nghĩa lãng mạn một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa.

Khuynh hướng hùng ca yêu nước:
Bên cạnh những bài hát thuộc khuynh hướng lãng mạn ngay từ giai đọan đầu của nhạc mới cũng đã xuất hiện những ca khúc mang nội dung khỏe khoắn, trong sáng. Đó chủ yếu là những bài hát viết cho phong trào hướng đạo của phạm văn xung, hoàng quý. Đặc biệt, ngay trong sáng tác công khai, lẻ tẻ đã có một vài nhạc sĩ viết được đôi bài hát hướng về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc rõ nét. Bài hát câu lạc bộ học sinh của lưu hữu phước (1939) là một trong những bài thuộc lọai đó. Tuy vậy những ca khúc này chưa chiếm ưu thế trên diễn đàn của các báo cáo các nhà xuất bản cũng như trong đa số các tầng lớp thị dân như những ca khúc thuộc khuynh hướng lãng mạn nói trên nó mới chỉ được phổ biến chủ yếu trong phong trào hướng đạo sinh hoặc trong một số bạn bè quen thuộc của các tác giả.
Cho tới năm 1940 tình trạng nói trên vẫn còn tiếp diễn xong bên cạnh đó bắt đầu xuất hiện thêm những ca khúc của một số nhạc sĩ đã được tiếp xúc với cách mạng và tham gia họat động trong các tổ chức do đảng lảnh đạo. Những bài này có nội dung yêu nước, cách mạng rõ rệt hơn. Tuy nhiên chúng chưa được phổ biến rộng rãi. Một số bài chủ yếu mới phổ biến trong vòng bí mật, như một số bài của đỗ nhuận (lới cha già, chim than), hoàng quý(khoan hò khoan).
Khuynh hướng này cùng với sự phát triển của tình hình chính trị xã hội trong nước và thế giới càng về sau cho tới cách mạng tháng tám càng phát triển mạng.
Từ 1941, sau khi đại chiến thứ 2 bùng nổ nước pháp bị lôi kéo vào cuộc chiến và chịu nhiều tổn thất nặng nề.chính phủ pê – tanh chủ trương một công cuộc cải cách va phục hưng nước pháp, trong đó lưu ý nhiều hơn tới tổ chức thanh niên. Việc đó có ảnh hưởng tới các nước thuộc địa.
Các hoạt động hướng đạo ở nước ta được đẩy mạnh hơn. Với các hoạt đông này, chính quyền thực dân mong muố cứu gỡ lại tình hình thanh niên ở các thành thị “đang say đắm vào cái đời sinh hoạt ích kỉ, lãng mạn, cái đơi trụy lạc cả về vật chất và tinh thần”, thậm chí “dở sống dở chết” vì chìm đắm trong hố trụy lạc do các nạn tiểu thuyết khiêu dâm gây đã lên đếnđỉnh điểm gây ra. Chính phủ pháp hy vọng “với những công cuộc tổ chức đó, thanh niên ta tập theo kỷ luật, tinh thần đoàn thể và rèn dũa những đức tính tốt như làm, sự điềm đạm, sự táo bạo, sự can đảm, kiên nhẫn….” Họ hi vọng nhờ vậy sẽ có thêm nhiều người lính tốt cung cấp cho cuộc chiến tranh của chúng ở Châu Âu.

Năm 1940 sau khi Pháp thất trận và đầu hàng đức, nhật ồ ạt kéo vào đông dương. Chúng ra sức tuyên truyền cho chủ nghĩa đại đông á, khu vực thịnh vượng chung để lôi kéo những người ghét Pháp nhưng chưa giác ngộ cách mạng, bóc lột nhân dân ta, phát xít Nhật cũng đã khơi lên phong trào khỏe vì nước. Tất cả những sự kiện đó điều tác động mạnh tới tình hình âm nhạc công khai.
Mặc khác ở thời kì này mặc dù đã rút vào bí mật, nhưng Đảng vẫn bám sát nhân dân lãnh đạo cách mạng. Phong trào cách mạng do đó ngày càng dân cao. Tin tức về các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra và sự khủng bố cực kì mang rợ, tàn bạo cuả thực dâ Pháp đối với những phong rào đó thu lượm được qua báo chí hoặc những thư từ vượt lưới kiểm soát của địch đã kích thích mạnh mẽ lòng yêu nước, câm thù giặc của các thanh niên, học sinh, sinh viên các đô thị.

Đó là những yếu tố làm sôi thêm bầu máu nóng của những nhạc sĩ trẻ dù chưa tiếp xúc trực tiếp với cách mạng tìm đến ngày càng nhiều hơn với những đề tài lịch sử để qua đó gửi gấm lòng yêu nước chí thù giặc. Khuynh hướng nhạc yêu nước, trước kia còn mơ hồ bé nhỏ, nay có thêm động lực và thời cơ để phát triển trong vòng kiểm soát của địch đồng thời ngày càng ngã dần sang những nội dung yêu nước tích cực và cách mạng. Những ca khúc với đề tài tình yêu lãng mạng và những âm điệu ủy mị, ướt át trước đây- lúc này tuy vẫn còn rãi rác nhưng đã phải nhường bước trước những xu hướng mới: xu hướng vui sống, lịch sử về xu hướng yêu nước tích cực, cách mạng đang trên đà phát triển.
Nhìn vào số lượng, từ năm 1941 những bài thuộc khuynh hướng này đã nhiều lên rõ rẹt và có chiều vượt qua những bài theo khuynh hướng lãng mạn cũ. Âm nhạc cải cách chuyển sang thời kỳ của những bản hùn ca còn gọi là thời thanh niên và lịch sử. Nó thổi một luồng gió mới vào mọi tâm hồn mệt mõi vì quá lãng mạn và nặng trĩu ưu phiền.
Một trong những dịp náo nhiệt khơi mào cho sự chuyển hướng mạnh mẽ trong sáng tác âm nhạc là kỳ trẩy hội đền Hùng vào 10/03/1941 do tờ Việt báo tổ chức. Đó là một dịp để người dân Việt Nam tỏa lòng ngưỡng mộ đối với tổ tiên, vua Hùng- những người đã có công mở nước. Bản nhạc Đi hội đền Hùng lời ca của Ngyễn Phước Bộ, âm nhạc của Lưu Hữu Phước được in ra 1000 bản để phát không cho những người đi hội đền Hùng năm đó. Và bài Thanh niên ơi của Thẩm Oánh được hàng ngàn lòng ngực ca vang trong cảnh đời hùng vĩ.
Thấy công cụ mà mình sử dụng để mê hoặc thanh niên Việt Nam, đẩy họ vào con đường ăn chơi hưởng lạc, xa rời đấu tranh đang dần bị các nhạc sĩ trẻ Việt Nam giàu lòng yêu nước chuyển thành công cụ tuyên truyền vận động và thúc đẩy thanh niên lên đường đấu trang giải phóng dân tộc, thực dân Pháp đã bắt đầu xiết chặt lưới kiểm duyệt. Năm 1941, lời bài ca Người xưa đâu tá của Lưu Hữu Phước bị cấm, điệp khúc chính của bài Bạch Đằng Giang ( lời của Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước) vượt lưới kiểm duyệt của thực dân. Song Bạch Đằng Giang, ải chi lăng và kinh cầu nguyện (tức người xưa đâu tá) vượt lưới kiểm duyệt của thực dân vẫn lưu hành trong giới thanh niên, sinh viên và gây nên một phong trào sôi nổi.

Cuối năm 1941 đầu 1942, tiếng gọi sinh viên của Lưu Hữu Phước bắt đầu lan rộng nhanh chống trong sinh viên và học sinh, rồi được quần chúng tự động gọi tên là tiếng gọi thanh niên. Bài hát đã kích thích mạnh mẽ lòng yêu nước, chí quật khởi của từng lớp thanh niên, học sinh thời bấy giờ. Tổ hội sinh viên- với một lập trường quốc gia cấp tiến và những đoàn viên trẻ tuổi hăng say- là tổ chức đã có nhiều hoạt động có tác động gây tinh thần yêu nước mãnh liệt tron nhân dân, nhất là trong đám học sinh, sinh viên. Đặc biệt chú trọng đến việc dùng tân nhạc tron cuộc đấu tranh chính trị chống Pháp- Nhật, tổng hội sinh viên quảng cáo rầm rộ cho những bản hùng ca của thời kỳ này, trong đó nổi bậc lên những sáng tác của Lưu Hữu Phước.
Nắm lấy phong trào của thanh niên bên ngoài đang sôi nổi, ban thường vụ trung ương Đảng họp vào thàng 2/1943 ra quyết nghị: phái người vào các đoàn hướng đạo, hội thể dục để hoạt động.
Chính qua đó, nhiều nhạc sĩ trẻ tham gia trong các tổ chức hướng đạo và các hoạt động của thanh niên, sinh viên đã chịu ảnh hưởng của cách mạng và sau này họ dễ dàng tự nguyện tham gia hàng ngũ những người chiến sĩ cách mạng đấu tranh giải phóng đất nước khỏi xiềng xích nô lệ. Trong lớp nhạc sĩ đầu tiên ấy có thể kể đến Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao…
Cũng chính vì vậy, từ năm 1943 khuynh hướng nhạc yêu nước ngày càng nở rộ gần như lấn áp hẳn khuynh hướng lãng mạn kể cả những đô thị. Đây là một lực lượng hùng hậu để bổ sung cho dòng âm nhạc cách mạng đã hình thành và hoạt động chủ yếu trong vòng bí mật. Cho tới sau ngày đảo chính nhật 9 tháng 3 năm 1945, đặc biệt là sau cách mạng thánh 8 thành công, dòng âm nhạc này lớn mạnh vượt bật và đè bẹp hoàn toàn dòng nhạc lãng mạn.

Khuynh hướng cách mạng:
Khuynh hướng âm nhạc cách mạng của nước ta ra đời cùng với cuộc hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của chính Đảng của giai cấp công nhân ở nước ta – khi đó là Đảng cộng sản Đông Dương.
Bằng sự nhạy cảm của mình những người cộng sản Việt Nam từ rất sớm đã biết vận dụng cả 2 phương thức sáng tác – đặt lời cho những bài có sẵn và sáng tác những bài ca mới theo phương pháp Âu tây. Các chiến sĩ Cộng Sản Việt Nam đặt lời mới cho những ca khúc cách mạng nước ngoài như: quốc tế ca, thanh niên xích vệ, nhà máy đứng lên mau… của Pháp, Đức. Nhưng khác hẳn việc đặt lời cho ca khúc ngoại quốc trong phong trào hát bài hát ta theo Tây đã nói ở trên, các chiến sĩ Cộng Sản đã làm công việc này với mục đích cổ vũ tinh thần đấu tranh của các chiến sĩ trên mặt trận cũng như nơi lao tù và vận động tham gia hoạt động cách mạng, giành độc lập tự do cho tổ quốc.
Sớm nắm được quy luật phát triển của nghệ thuật âm nhạc nước nhà họ đã nhanh chóng lợi dụng nó làm vũ khí tuyên truyền cho cuộc đấu tranh chống thực dân xâm lược. Từ cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930 một bài hát mới sáng tác theo phương pháp cấu tứ âu tây xuất hiện: cùng nhau đi hồng binh của Đinh Nhu. Bài hát nhanh chóng được phổ biến rộng rãi và có sức lôi cuốn quần chúng xiết chặt hàng ngũ trong các cuộc biểu tình đình công hoặc võ trang cướp chính quyền ngày đó.
Cho tới nay, bài hát nói trên vẫn được xem là sáng tác mới đầu tiên của khuynh hướng âm nhạc cách mạng. Nó mở màn cho những sáng tác cùng loại trong thời kì 1930 – 1931, 1936 – 1937 và những năm 1940 trở về sau của trần Văn Út (Tam Bình) Vương Gia Khương (cờ việt minh), Đỗ Nhuận (viếng mồ liệt sĩ, chiều tù, Quảng Châu công xã) và nhiều nhạc sĩ khác…
Sự lãnh đạo ngầm của Đảng trong các tổ chức hướng đạo và các hoạt động của thanh niên – sinh viên từ năm 1943 trở đi được đẩy mạnh nó góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy những mầm móng sáng tác theo khuynh hướng yêu nước tiến bộ trong nền nhạc mới mau chóng lớn mạnh.
Nhờ đó nhiều nhạc sĩ từng hăng hái sáng tác theo khuynh hướng này về sau đã trở thành những nồng cốt gia nhập đội ngũ nhạc sĩ cách mạng: Lưu Hữu Phước, Văn Cao… đặc biệt cũng trong 1943 đề cương văn hoá của Đảng ra đời lần đầu tiên đường lối và nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện tại và tương lai được vạch ra một cách đầy đủ, rỏ ràng và chính xác. Không chỉ còn là những hành động tự phát của những cá nhân lẻ tẻ như trong những năm trước.
Đề cương văn hoá của Đảng đã chính thức mở màn cho một cuộc phản công có tổ chức của văn hoá Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương chống lại cuộc xâm lược bằng văn hoá của thực dân Pháp.

Ánh sáng đường lối của đề cương văn hoá sau này sẽ toả rộng tác dụng trong các tầng lớp văn nghệ sĩ theo cách mạng, giúp họ trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật và âm nhạc cách mạng vừa mang tính dân tộc vừa mang tính hiện đại, phục vụ đông đảo quần chúng theo phương châm dân tộc, khoa học đại chúng.
Từ 1944, khí thế cách mạng ngày càng dâng cao. Một số nghệ sĩ trẻ ở ngoại thành đã bắt liên lạc được với cơ sở cách mạng, trở thành một lực lượng đóng góp tích cực cho cuộc đấu trang sống mái sắp tới bằng thứ vũ khí văn nghệ sắt bén này.
Những bài Tiếng gọi thanh niên của Lưu Hữu Phước cùng với những bài ca cách mạng khác như: Du kích ca của Đỗ Nhuận, Tiến quân ca của Văn Cao, Diệt phát xích của Nguyễn Đình Thi đã trở thành tiếng kèn thôi thúc thanh niên, sinh viên và các tầng lớp nhân dân hăng hái lao vào cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám 1945 bên cạnh hàng trăm bài hát sôi sục khí thế cách mạng của các tác giả khác…

Những khuynh hướng khác trong đà tiến triển chung của âm nhạc cải cách các nhạc sĩ ở khắp nơi xuất hiện ngày càng nhiều. Họ sáng tác theo cảm hứng của mình và đồng thời chịu ảng hưởng của thời cuộc và các trào lưu chính từ bên ngoài dội tới. Đề tài nói chung vì vậy ở mỗi người cũng rất đa dạng. Khi thì những đề tài tình yêu mang tính chất lãng mạn. Khi là những bài hát về đề tài thanh niên, lịch sử hoặc chiến đấu.
Khoảng năm 1944- 1945, những đề tài viết về tôn giáo bắt đầu xuất hiện và ngày càng phổ biến nhiều: A di Đà Phật của Thẩm Oánh (1942), Sám hối của Nguyễn Hữu Ba và một số bài Phật nhạc của Nguyễn Hữu Ba và Văn Giảng, một loạt ca khúc giáo đường Thiên Chúa nở rộ với nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh gồm Hùng Lâm, Tâm Bảo, Thiên Phụng, Hải Linh. Nhóm này sáng tác được hàng trăm bài in trong tập Cung thánh những năm 1944- 1945.
Bám sát hơi dân ca, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát cũng cho ra đời một số bài có tính chất đồng dao: con cò, con voi…song nhìn chung, càng ngày gần tới ngày tổng khởi nghĩa 1945 những sáng tác mang nội dung yêu nước kích thích tinh thần dân tộc kêu gọi câm thù, thúc đẩy đấu tranh ngày càng nhiều.

II. GIAI ĐOẠN II: TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN 1975
1. Giai đoạn từ 1945 – 1954: Âm nhạc Việt Nam thời kì chống Pháp
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời đem lại niềm phấn khởi cho mọi tầng lớp nhân dân, trong âm nhạc, các nhạc sĩ trẻ cũng lao vào công cuộc sáng tác những bản nhạc hào hùng phấn chấn.
Dòng âm nhạc Cách Mạng nảy sinh từ những năm 30 và họat động trong vòng bí mật nay chính thức ra công khai. Từ đây lịch sử ghi dấu sự lớn mạnh không ngừng của dòng nhạc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên, sau hơn nửa thế kỉ đụng độ với âm nhạc phương tây, các nghệ sĩ và nhạc sĩ từ nhiều khuynh hướng khác nhau đã qui từ về một mối. Nhưng từ tháng 12- 1946, Pháp quay lại xâm lược nước ta, âm nhạc Việt Nam lại bước vào giai đoạn phân hóa mới.

Tại các vùng bị tạm chiếm, âm nhạc bị kéo về tình trạng những ngày đầu trước cách mạng, những đề tài lãng mạn, đồi trụy – phản động được sống lại.
Ở các vùng kháng chiến, nội dung đề cương văn hóa 1943 của Đảng ngày càng được phổ biến sâu trong giới văn nghệ sĩ. Những cuộc đấu tranh nội bộ gay gắt chống tư tưởng tự ti, miệt thị và những cách nhìn lệch lạc với nghệ thuật cổ truyền góp phần tẩy rửa nọc độc còn rớt lại của văn hóa thực dân.

Từ khoảng năm 1950 – 1951 trở đi, âm nhạc Việt Nam bước vào giai đoạn chuyển mình. Thời kì hồi sinh của âm nhạc cổ truyền và thời kì lột xác của bộ phận “âm nhạc cải cách” theo Cách Mạng chính thức được mở ra.
Chính trong cuộc kháng chiến này, nhờ bám sát cuộc sống chiến đấu và tắm mình trong nguồn nhạc dân gian tươi mát mà xưa kia bứt xa, phương hướng và phương pháp sáng tác của các nhạc sĩ kháng chiến thay đổi hẳn. Từ 1950, đặc biệt là càng về cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, âm nhạc Cách Mạng càng đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Trong lĩnh vực ca khúc, không chỉ ở nội dung mà trong ngôn ngữ nghệ thuật. Những âm điệu lai căn một cách cố ý không có chỗ đứng trong âm nhạc kháng chiến. Số bài còn chịu âm hưởng phương tây rút đi trông thấy nhường chổ cho những ca khúc giàu sắc thái dân tộc. Âm hưởng của âm nhạc dân tộc trong ca khúc kháng chiến đậm đà rõ nét.
Ngoài những thành công của Văn Cao (sông Lô), Lê Yên (bộ đội về làng),… là những điển hình đầu tiên về sự đổi mới khả năng biểu hiện của âm điệu dân tộc với chất hành khúc chiến đấu. Đó cũng là những điển hình đầu tiên về sự Việt hóa thể hành khúc phương Tây và sự kết hợp khá thành công hình thức ca khúc mới với âm điệu dân tộc để tạo ra ngôn ngữ và nhịp sống thời đại trong âm nhạc Việt Nam.
Chín năm kháng chiến thắng lợi đồng thời cũng đánh dấu sự thắng lợi của Mặt trận văn hóa và âm nhạc Việt Nam chống sự tấn công văn hóa của thực dân Pháp và ảnh hưởng di hại của nó.
1954 chấm dứt giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Hòa bình được lập lại nhưng đất nước còn tạm chia cắt hai miền. Những cặn bã của văn hóa thực dân ở các vùng pháp chiếm cũ bị dồn xuống phía Nam. Quá trình phân hóa (bắt đầu từ 1946) để hình thành hai dòng nhạc Cách Mạng và phản cách mạng lúc này chuyển vào cao điểm, của sự đối kháng.

Cùng với sự đối lập về chế độ xã hội, sự phát triển của hai dòng nhạc chính thống ở mỗi miền càng đi sâu vào sự đối lập về nội dung tư tưởng cũng như về hình thức và thể loại.
Ở miền Bắc, âm nhạc không ngừng bước tiến lên quy mô hiện đại và phát triển một cách nhịp nhàng, cân đối, toàn diện hơn bất kì thời kì nào trong lịch sử âm nhạc nước nhà cho tới lúc đó Âm nhạc miền Bắc ngày càng đi vào chuyên nghiệp và chuyên môn hóa. Các khâu đào tạo, sưu tầm, nghiên cứu được chú trọng, đi vào tổ chức chính qui chặt chẽ, hổ trợ cho sáng tác, biểu hiện vươn lên những thành tựu rữc rỡ. Hàng ngàn bài ca nhạc cổ của các sắc tộc trên đất nước ta được ghi vào các băng từ tính. Hàng trăm bài được xuất bản dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhiều công trình chuyên khảo về âm nhạc dân gian và sân khấu cổ truyền ra đời.
Việc phổ cập âm nhạc truyền thống trong nhân dân, đặc biệt trong các thế hệ trẻ, nhờ đó được đẩy mạnh, nâng cao thêm lòng yêu mến, quý trọng vốn cổ và việc kế thừa trong các sáng tác mới. Các lớp huấn luyện ngắn hạn trong thời kì kháng chiến được thay thế bằng các trường nghệ thuật với chương trình giảng dạy dài hạn toàn diện có hệ thống.

Trường âm nhạc Việt Nam (nay là nhạc viện Hà Nội) thành lập 1956, trường nghệ thuật sân khấu (1959) thường xuyên đào tạo diễn viên đủ ngành nghề, đặc biệt là đội ngũ sáng tác âm nhạc căn bản, vững tay nghề, có khả năng viết ca khúc và tác phẩm thanh khí nhạc đủ loại. Truyền thống tiếp thu tinh hoa âm nhạc nước ngoài được phát huy.
Trong thế kỷ này, nhân dân Việt Nam chủ động vươn tới những chân trời xa xôi ngoài biên giới, đón nhận tinh hoa âm nhạc bốn phương. Những học sinh, sinh viên âm nhạc gửi sang các nước bạn kế tục nhau ra đi và trở về với những kiến thức mới, kinh nghiệm hay, góp phần cùng lực lượng đang được đào tạo trong nước hoàn thiện dần nền âm nhạc mới của nước nhà. Ca khúc tiếp tục được mùa, ngày càng nhuần nhị hơn với các chất liệu âm nhạc dân tộc, già dận hơn trong việc khai thác các đề tài của cuộc sống mới. Nhiều nhạc sĩ dần hình thành phong cách riêng.

2. Giai đoạn 1954 – 1975: Âm nhạc Việt Nam thời kì chống Mỹ cứu nước
Hai mươi mốt năm từ 1954 – 1975 đánh dấu sự phát triển với một tốc độ chưa từng thấy của âm nhạc cách mạng Việt Nam trong lịch sử âm nhạc nước nhà cho tới bây giờ.
Trong lúc đó, âm nhạc miền Nam chậm chạp bước theo một hướng khác. Tình hình âm nhạc ở đây hoàn toàn không thuần nhất.
Tân nhạc đi vào con đường nhạc nhẹ hóa với những tác phẩm lai căn.Theo sự phát triển của phong trào và phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên miền Nam, âm nhạc Cách Mạng và yêu nước cũng dần lớn lên.
Năm 1975, chiến dịch hồ chí minh thắng lợi, nhanh như trận gió cuốn. Cách mạng Việt Nam toàn thắng. Các thế lực phản động bị đập tan. Dòng nhạc phản Cách Mạng cùng chung một số phận. Trên đất nước hòa bình thống nhất lại xuất hiện điển quy tụ mới trong nền âm nhạc Việt Nam. Tất cả những truyền thống âm nhạc tốt đẹp của dân tộc lại được khơi dậy mạnh mẽ trên toàn đất nước.
Tiếng trống đồng hùng vĩ cùng tiếng đàn đá cổ xưa lại ngân vang trang trọng trên sân khấu thủ đô và một số địa phương mừng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tròn 35 tuổi. Sự nghiệp xây dựng và phát triển âm nhạc dân tộc, bao gồm hai bộ phận cân đối: nhạc cổ truyền và nhạc Mới, tiếp tục vươn tới đạt những thành tựu mới.
Những tinh hoa âm nhạc cổ truyền dân tộc đựơc giới thiệu với đồng bào trong nước và nhân dân thế giới. Các công tác đào tạo, nghiên cứu lý luận và sáng tác âm nhạc đều có những bước phát triển mới đáng mừng. Nhiều nghệ sĩ ưu tú tham dự các cuộc thi âm nhạc quốc tế đã đem vinh quang về cho đất nước. Một trong những thành công rực rỡ nhất là thành tích vang dội của nghệ sĩ nhân dân Đặng Thái Sơn trong cuộc thi Piano quốc tế tại Ba Lan, làm chấn động dư luận âm nhạc thế giới.

III. GIAI ĐOẠN III: 1975 ĐẾN NAY
Dù khó khăn, dù gian nan, dù sao đi nữa, người dân Việt Nam nên chấp nhận Việt Nam là quê hương ngàn đời. Niềm hy vọng nhỏ nhoi chỉ lóe lên và chưa được bừng sáng thì 30 tháng 4, 1975 đã đưa hàng trăm nghìn người ra đi trên đường di tản. Nhạc trẻ là một hiện tượng âm nhạc xuất hiện tiên khởi vào đầu thập niên 60. Nhạc kích động Âu Mỹ bắt đầu xâm nhập thị trường miền Nam vào cuối năm 1959. Giới trẻ, con của các thương gia và giới trưởng giả theo học chương trình Pháp thường nghe các loại nhạc kích động của Mỹ và Pháp.
Phải đợi tới khoảng 1963 - 1965, phong trào nghe nhạc kích động Tây phương bành trướng mạnh qua các buổi tổ chức khiêu vũ tại gia. Các danh ca của Mỹ như Paul Anka, Elvis Presley, The Platters, của Anh quốc như Cliff Richard, The Shadows, The Beatles, The Rolling Stones, của Pháp như Johnny Halliday, Sylvie Vartan, Françoise Hardy, Christophe, Dalida, vv…. là thần tượng của giới thanh niên nam nữ dưới 18 tuổi. Những ban nhạc trẻ kích động mạnh nhưng trên như C.B.C., The Dreamers, The Uptight, The Blue Jets, The Spotlights (sau đổi thành Strawberry Four với Tùng Giang, Đức Huy, Tuấn Ngọc và Billy Shane - cả 4 người này hiện nay ở Mỹ và Billy Shane đã qua đời năm 1998).
Một số ca sĩ Việt thích kèm theo tên ngoại quốc bên cạnh tên Việt như Elvis Phương (hiện ở Hoa Kỳ), Pauline Ngọc (không còn hát n"a và hiện sống bên Đức), Prosper Thắng (sống ở Pháp và từ trần năm 1998), Julie Quang (hiện sống ở Mỹ), Carol Kim ( sống ở Mỹ),vv.. Họ nổi danh với các bản nhạc ngoại quốc hát bằng lời Pháp và Anh. Những hộp đêm Mỹ ngày càng nhiều từ 1968 trở đi càng khuyến khích số người hát nhạc Mỹ nhiều hơn nữa. Trước sự bành trướng mạnh mẽ của nhạc ngoại quốc nổi tiếng, Phạm Duy, Quốc Dũng, Nam Lộc, Tùng Giang, Trường Hải, vv… chuyển sang đặt lời Việt cho nhạc ngoại quốc.

Phải đợi tới năm 1971 mới thấy xuất hiện đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ (hiện ở Montreal, Canada), Tùng Giang (ở California, Hoa Kỳ), và Nam Lộc ( làm việc cho một cơ quan thiện nguyện USCC ở Los Angeles, Cali) đảm trách. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở Saigon đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ qua những năm kế tiếp (1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, và 1974 , năm chót trước khi mất Saigon tại vườn sở thú với trên 20.000 khán giả). Những bản nhạc ngoại quốc như "The House of the Rising Sun", "Reviens la Nuit", "Tous les Garçons et les Filles", "Capri, c'est fini", "Bang Bang" , "Besame Mucho", "Only You", "My Prayer", "Be Bop Be Lu La", "Love Story", "Yesterday", "Michelle", etc… là những bài vẫn còn được "ăn khách" trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại hiện nay.

Loại nhạc trẻ không đóng góp gì vào gia tài của nền Tân nhạc Việt Nam hay chỉ là loại nhạc bắt chước theo người Tây phương, không có gì là sáng tạo cả. Đó là loại nhạc cuồng loạn, ru hồn thế hệ trẻ trong khung cảnh chiến tranh để cho họ tạm quên cảnh tương tàn của đất nước qua những bước nhảy tango, twist, be-bop, valse, pasodoble, rumba, cha cha cha, vv.. Một giai đoạn bị Mỹ hóa, giữa thời kỳ náo loạn.

Giai đoạn thứ ba của lịch sử Tân nhạc Việt Nam kể từ khi hàng triệu người Việt bỏ xứ ra đi trên đường tạm dừng sau ngày 30 tháng 4/1975 cho tới trước ngưỡng cửa của năm 2000.
Nhạc di tản từ 30 tháng 4/1975. 25 năm lặng lẽ trôi qua. 25 năm đầy biến chuyển trong lịch sử thế giới nói chung và trong lịch sử Việt Nam nói riêng. Chỉ riêng về ngành âm nhạc Việt Nam, nhất là ở hải ngoại, số lượng bài bản tân nhạc, những ca khúc đã thay đổi nhiều đề tài, đã tăng số lượng theo một mức độ ngoài sức tưởng tượng của loài người.
Những năm đầu của thời di tản cho thấy những băng nhựa đủ loại, từ các cuốn băng sao lại băng cũ thời trước 1975, đến các băng được sản xuất tại Âu Mỹ do hàng chục trung tâm băng nhạc.Đến năm 1988 mở màn cho giai đoạn dĩa laser loại compact disc.
Chỉ trong vòng 5 năm (1988-1993) hàng nghìn dĩa laser tràn lan khắp nơi. Loại dĩa laser video phát triển từ 1992 lúc phong trào hát Karaoke khởi xướng mạnh tại Hoa Kỳ và Canada. Nhiều quán cà phê và quán phở, tiệm ăn ở Bắc Mỹ phải trang bị máy karaoke và luôn cả tư nhân cũng thích hát Karaoke vào cuối tuần trong những cuộc họp bạn tại gia. Gần đây hơn, các loại dĩa CDV, và DVD thay thế loại laserdisc làm bành trướng mạnh phong trào Karaoke tại tư gia.
Video về tân nhạc cũng rất thịnh hành, hàng mấy chục trung tâm băng nhạc xuất hiện tại Âu Mỹ và các ca sĩ tự lập các trung tâm sản xuất riêng. Trong phạm vi nhạc di tản, tôi chỉ đề cập tới tân nhạc Việt Nam ở hải ngoại. Tân nhạc Việt Nam ở hải ngoại (1975-2000) Giai đoạn di tản qua 25 năm cho thấy sức mạnh vô cùng mãnh liệt của người Việt trong lĩnh vực sáng tác.
Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người làm văn nghệ lúc nào cũng hăng say tìm nguồn cảm hứng qua những sáng tác âm nhạc. Một số nhạc sĩ ra đi trong đợt di tản đầu tiên gồm có Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Nam Lộc, Song Ngọc, Tô Huyền Vân, Huỳnh Anh. Năm giai đoạn thể hiện lịch sử tiến triển của tân nhạc hải ngoại:

Nhớ Quê Hương, nhớ Saigon đất nước vừa bị mất, quê hương phải lìa xa. Saigon vừa bị đổi tên. Niềm thất vọng tràn trề dâng cao trong lòng tất cả người dân Việt phải bỏ xứ ra đi trong uất hận, căm tức, tủi nhục. Toán người di tản ra đi đầu tiên đã đến Mỹ vào giữa mùa xuân năm 1975.
Phải đợi tới cuối thu 1975, một số nhạc sĩ có tên tuổi ở Saigon đã ra đi trong đợt đầu và trong số đó có Nam Lộc. Nam Lộc là người đã viết một bản nhạc vào cuối năm 1975 và là bài thành công nhất trong giai đoạn đầu của di tản (1975-1980). Đó là bài "Saigon Ơi ! Vĩnh Biệt ". Saigon , thành phố của bao kỷ niệm, của nhớ nhung, của hàng triệu con tim bị rung động mỗi khi hai chữ Saigon được nhắc đến, là đề tài cho một số nhạc phẩm như "Saigon Ơi! Vĩnh Biệt !" (Nam Lộc , 1975), "Saigon Ơi ! Thôi Đã Hết" (Nam Lộc , 1976), "Saigon Năm Xưa” (Trần Quang Hải, 1985).

Ngày 9 tháng 5, 1976 tại Los Angeles, California, lễ kỷ niệm một năm xa xứ đã được một số nghệ sĩ Việt tổ chức một chương trình đại nhạc hội đầu tiên giống như ở Saigon cùng lúc với sự chào đời cuốn băng thực hiện lần đầu tại hải ngoại do nữ ca sĩ Thanh Thúy hát với tựa cuốn băng Thanh Thúy 1: Saigon ơi! Vĩnh biệt đánh dấu một biến chuyển mấu chốt trong lĩnh vực tân nhạc di tản và sản xuất băng nhạc tại hải ngoại.
Ở Âu châu tại Paris, phải đợi tới tháng 9,1976 mới thấy sự bùng nổ của chương trình nhạc hội qua sự cố gắng của Lê Lai (đài VOA) từ Hoa Thịnh trốn sang Paris để tổ chức 4 buổi trình diễn tân nhạc, dân ca và ngâm thơ với Khánh Ly, Hoàng Oanh và sự cộng tác của nhạc sĩ Trần Quang Hải .Sự thành công của chương trình thi ca nhạc di tản đầu tiên đã khơi mào cho chương trình thi ca vũ nhạc kịch của đoàn Hoàng Thi Thơ từ Mỹ sang Pháp và Thụy Sĩ trình diễn vào cuối tháng 10,1976.

Các trung tâm băng nhạc lần lần xuất hiện ở Mỹ và Pháp. Từ 1988 bắt đầu chuyển mình sang phong trào làm dĩa laser. Cả chục nghìn dĩa CD đã được tung ra trên thị trường băng nhạc Việt Nam từ 1987. Nhạc sĩ Phạm Duy là người đầu tiên đưa nhạc Việt vào dĩa CD do Phạm Duy Cường soạn hòa âm và sản xuất với tựa đề "Nhạc Tình Phạm Duy" vào cuối năm 1987. Vào đầu tháng 2, 1988, tại Paris, nhà sản xuất dĩa hát Pháp Playasound đã tung ra thị trường quốc tế dĩa laser đầu tiên về nhạc cổ truyền Việt Nam với Trần Quang Hải và Bạch Yến qua dĩa "Rêves et Réalités/Trần Quang Hải et Bạch Yến" (Giấc Mơ và Sự Thật).
Băng video trở thành một món ăn tinh thần cần thiết cho cộng đồng người Việt hải ngoại. Trung tâm Thúy Nga trở nên một nơi phát hành các chương trình ca nhạc hay nhất từ 1989 trở đi với sự tuyển chọn ca sĩ, phối hợp với kỹ thuật thu hình do một cơ quan chuyên nghiệp Pháp đảm nhận. Phong trào Karaoke lan tràn vào giới nhạc Việt từ 1990.

Nhạc tranh đấu và kháng chiến
Sau ba năm im hơi 1975-1978, sống ẩn dật tại Miami (Florida) bên Mỹ trong khi chờ đợi các con (ban nhạc The Dreamers) còn kẹt lại ở Saigon (sau đó toàn ban nhạc The Dreamers đã được sang Mỹ và hiện định cư tại Midway City, California), trong khi ca sĩ Duy Quang đã nhờ Julie Quang (bây giờ chỉ mang tên Julie thôi sau khi chia tay với Duy Quang) để sang Pháp vào cuối năm 1978, Phạm Duy, người sáng tác nhạc nhiều nhất ở Việt Nam, lại xuất hiện lộ diện qua quyển nhạc "Hát Trên Đường Tạm Dung" (1978). Bản " Đường Tạm Dung" và bản "Nguyên Vẹn Hình Hài" của Phạm Duy đã là ngọn đuốc đốt cháy tạo nguồn hứng sáng tác cho một số nhạc sĩ trẻ để tung ra những nhạc phẩm tả nỗi uất ức oán hờn căm thù đi liền với phong trào phục quốc kháng chiến cùng lúc với sự xuất hiện của Võ Đại Tôn và Hoàng Cơ Minh.
Nguyệt Ánh , một hiện tượng mới trong làng tân nhạc từ 1980 bắt đầu sáng tác nhiều nhạc phẩm phục quốc qua những cuốn băng như "Em nhớ màu cờ", "Dưới Cờ Phục Quốc", … Tên Nguyệt Ánh đi liền với giai đoạn phục quốc, kháng chiến. Việt Dzũng, một nhạc sĩ trẻ, hăng say kháng chiến, nói lên tiếng nói căm hờn qua các bản nhạc đầy ý chí trong hai cuốn băng "Lưu Vong Khúc" và "Kinh Tỵ Nạn" (1981). Trần Quang Hải và Bạch Yến đã sáng tác một số nhạc phẩm đấu tranh , điển hình nhất là "Thương Nhớ Quê Hương" (1978), "Cầu Mong Cho Mau Hòa Bình" (1978), và "Em Về Gi" “ Lửa" ( phổ thơ của Minh Đức Hoài Trinh, 1978) Chí nguyện đoàn hải ngoại phục quốc Việt Nam, với mục đích yểm trợ "chiến dịch người về" đã xuất bản hai cuốn băng "Hát Cho Những Người Về " (1981), và "Rực Lửa Trời Đông" (1983) gồm những ca khúc nung nấu tinh thần kháng chiến ở hải ngoại và quốc nội. Nhiều chủ đề được tung ra qua một số băng nhạc sản xuất từ 1976 - 1980 như "Tháng Tư Buồn", "Sài Gòn Vĩnh Biệt Tình Ta", "Ngày Quốc Hận 30 tháng 4/1975", "Người Di Tản Buồn", "Hát Cho Người Tìm Tự Do", "Quê Hương Bỏ Lại", vv…

Nhạc tả lại cảnh lao tù Việt Nam Năm 1981, Phạm Duy sáng tác 20 bài lấy tựa là "Ngục Ca" qua lời thơ của ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện trong tập thơ "Tiếng Vọng Từ Đáy Vực" . Hà Thúc Sinh sáng tác trong thời gian học tập cải tạo ở Việt Nam . Sau khi vượt biển , được định cư tại Mỹ, đã xuất bản tập nhạc "Tiếng Hát Tủi Nhục" (1982). Châu Đình An, một nhạc sĩ trẻ , đã đóng góp qua tập nhạc "Những Lời Ca Thép " (1982). Phạm Duy, Lê Uyên Phương, Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, Nguyễn Đức Quang ở Mỹ, Nguyễn Hữu Nghĩa, Phan Ni Tấn, Vy Hùng ở Canada, Trần Quang Hải, Duyên Anh, Ngô Càn Chiếu ở Pháp, Nguyễn Quyết Thắng ở Hòa Lan, Nguyễn Đình Ngoạn ở Đức, Phạm Quang Ngọc, Cung đàn Nguyễn Sỹ Nam, Hoàng Ngọc Tuấn ở Úc châu đã viết nhiều bài ca tranh đấu cũng như những ca khúc phù hợp với phong trào phục quốc.
Sự phục sinh của nhạc tiền chiến từ năm 1982 trở đi, hiện tượng phục sinh nhạc tiền chiến được phát triển rộng rãi. Những ca sĩ đua nhau sản xuất băng nhạc hát lại những bài hát tiền chiến hay những bài trước 1975. Bạch Yến, Khánh Ly, Lệ Thu, Thanh Thúy, Kim Anh, Minh Hiếu, Thanh Tuyền, Hương Lan, Julie, Huyền Châu, Bích Thuận, Phương Dung, Kim Loan, Duy Quang, Elvis Phương, Thanh Mai, vv….

Trong những năm 1983 - 1985 đã phát hành trên 100 cuốn băng nhạc làm sống lại những bài ca tiền chiến như để gợi lại biết bao kỷ niệm của thời quá khứ. Chủ đề phục quốc, kháng chiến nhường bước cho chủ đề tình yêu và kỷ niệm quê hương sau 10 năm lưu vong.
Một số nhạc sĩ như Lam Phương, Đức Huy, Phan Kiên, Duy Quang, Ngô Minh Khánh, Trần Quang Hải, Duyên Anh trong khoảng thời gian 1982-85 đã sáng tác rất nhiều nhạc phẩm ca ngợi tình yêu đôi lứa. "Yêu Em Dài Lâu" (Đức Huy), "Ru Đời Phù Ảo" (Duyên Anh, 1984), "Anh Cần Em" (Trần Quang Hải - Lương Ngọc Châu, 1982).
Giai đoạn này đánh dấu một chiều hướng mới trong làng nhạc Việt với sự viết lời ngoại quốc (Pháp và Anh) trên nhạc Việt do nhạc sĩ Trần Quang Hải đề xướng và mang nhạc Việt do nhạc sĩ Việt sáng tác vào thị trường quốc tế.
Hưng ca, nhạc trẻ song ngữ ,phong trào phổ thơ được bành trướng, cũng như sự tái sinh phong trào du ca với Nguyễn & ETH; Ức Quang, Nguyễn Hữu Nghĩa và Phan Ni Tấn. Phong trào Hưng Ca được thành hình vào năm 1985 với tôn chỉ là dùng văn nghệ sân khấu và thanh niên để giữ vững những niềm tin cách mạng dân tộc chống chủ nghĩa và bạo quyền cộng sản. Hai tập nhạc được phát hành: "Hưng Ca 1: Lên Đường "(1985), và "Hưng Ca 2: Hẹn Em Sài Gòn" (1986).
Vấn đề thích nhạc ngoại quốc đã có từ thập niên 60 tại Việt Nam. Mười mấy năm trôi qua ở hải ngoại, giờ đây phong trào thích nhạc ngoại quốc (giống loại nhạc trẻ thời thập niên 70 ở Saigon) lại bành trướng mạnh và được giới trẻ lớn lên ở hải ngoại hưởng ứng nồng nhiệt.
Từ chỗ ưa thích nhạc ngoại quốc đã tạo ra phong trào xuất bản nhạc khiêu vũ và sự phát hiện nhiều vũ trường ở các nơi có đông người Việt sinh sống. Một số mầm non ca sĩ trẻ như Linda Trang Đài, Cinda Thúy, Sơn Tuyền, Thúy Vi, Thái Hiền, Phương Thúy, Lucia Kim Chi, Tryzzie Phương Trinh, Tuệ Châu, Tuấn Anh ở Mỹ, Ngọc Huệ (sang định cư ở Mỹ từ năm 1991), Bảo Khánh, Quỳnh Lân ở Úc châu cùng với Công Thành và Lynn (sang định cư ở Hoa kỳ từ năm 1987).

Về sau có Đơn Hồ (nổi tiếng nhất trong năm 1992), Dalena (nữ ca sĩ Mỹ chuyên hát tiếng Việt, nổi tiếng nhất trong hai năm 1991 và 1992),Trịnh Nam Sơn, Thái Tài, Ý Nhi, Ý Lan, Sher'e Thu Thủy, Phi Khanh, Như Mai, Kenny, Mỹ Huyền, Ngọc Bích, Thanh Hà, Quỳnh Như, Mạnh & ETH, Phi Nhung, Thanh Trúc, vv… mang lại cho nền nhạc trẻ một luồng gió mới và tạo nhiều sống động. Từ chỗ ưa thích nhạc ngoại quốc đi tới nhạc song ngữ rất gần.
Một số nhạc sĩ Việt như Phạm Duy, gần đây hơn có Khúc Lan, Ngọc Huệ, tất cả đều ở Mỹ và dịch lời ca Mỹ và Pháp ra bằng tiếng Việt và các ca sĩ trẻ hát nửa Việt nửa Anh hay Pháp và tạo thành một phong trào nhạc song ngữ từ năm 1987 trở đi.
Trong thời gian 10 năm chót của thế kỷ XX, Phạm Duy đã phổ nhạc thơ Hoàng Cầm, phát hành quyển "Ngàn Lời Ca" (1987). Năm 1991, Phạm Duy thực hiện một loạt ca khúc "Bầy Chim Lìa Xứ", và phần giao hưởng cho "Con & ETH”.
Sau cùng ông soạn nhạc phổ thơ "Truyện Kiều" và sẽ hoàn thành trong một thời gian gần đây. Trong vài năm chót đây (từ 1988), một số ca sĩ tân nhạc sống dưới chế độ Cộng Sản đã thoát ra hải ngoại và xin tỵ nạn như Họa Mi ( Pháp, 1988), Ái Vân (Đức, 1990, và sau đó định cư tại Hoa Kỳ), Anh Khoa (Hưng Gia Lợi, 1988), Thái Châu (Gia Nã Đại, 1990), Bích Liên (Đức, 1992), Duy Khánh (Hoa Kỳ, 1991), Duy Trác (Hoa Kỳ, 1992), Nhật Trường (Hoa Kỳ, 1993) đã mang lại cho nhạc Việt ở hải ngoại một luồng gió mới , nhất là trong ngành phát hành băng nhạc và băng video. Một số nữ nhạc sĩ nổi danh ở hải ngoại qua nhiều sáng tác như Nguyệt Ánh, Khúc Lan, Linh Phương, Lê Tín Hương…

Nhạc sĩ Vô Thường tạo một chỗ đứng riêng biệt với tiếng đàn Tây ban cầm tay trái qua hàng trăm CD tự xuất bản tại Hoa Kỳ . Các nhạc sĩ nghiệp dư như bác sĩ Phạm Anh Dũng (Hoa Kỳ), bác sĩ Nguyên Bích (Hoa Kỳ) có viết nhạc , cũng như nhạc sĩ Võ Tá Hân đã phổ nhạc cho gần 200 bài thơ và thực hiện 18 CD với toàn nhạc của anh.
Nhạc thiền đạo được phát triển từ năm 1996 với hai hiện tượng đáng kể: thiền sư Lương Sĩ Hằng và Vô Thượng Sư Thanh Hải và một số nhạc phổ thơ của hai vị này.
Nhạc tại Việt Nam sau 1975 Trong xứ Việt Nam có hai chiều hướng về nhạc: nhạc nhẹ chú trọng về giải trí, hay nói một cách khác là tân nhạc, và nhạc nặng tức là loại nhạc giao hưởng, nhạc trình diễn trong khung cảnh của viện quốc gia âm nhạc. Loại nhạc nhẹ dính liền với nhạc thời trang, nhạc trẻ khơi nguồn từ các nguồn nhạc dân gian, nhạc ngoại quốc kích động. Nó được phát hiện theo hai khuynh hướng:
Khuynh hướng dùng ngôn ngữ âm nhạc cổ điển Âu châu do nhạc sĩ Thanh Tùng đề xướng qua đề tài tình yêu. Có rất nhiều nhạc sĩ trẻ đi theo khuynh hướng này với những tìm tòi và sáng tạo khác nhau như Nguyễn Đình Bảng, Từ Huy, Phú Quang, Duy Thái, Nguyễn Ngọc Thiện, Dương Thụ.

Khuynh hướng thứ nhì chuyên về âm nhạc dân tộc cổ truyền . Ban nhạc nhẹ của nhà hát Tuổi Trẻ do Đỗ Hồng Quân phụ trách đã đưa các nhạc khí dân tộc, cũng như cách phối âm phối khí, trình diễn, sáng tác theo chiều hướng nhạc dân gian. Các nhạc sĩ Nguyễn Cường, Trần Tiến, Phó Đức Phương, Trương Ngọc Ninh sáng tác theo chiều hướng này.
Nhóm "Những Người Bạn " gồm 8 nhạc sĩ: Trịnh Công Sơn, Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập, Từ Huy,
Nguyễn Ngọc Thiện, Thanh Tùng, Nguyễn Văn Hiên và Vũ Hoàng được chào đời tại Sài Gòn vào ngày 8 tháng 3, 1992 sau khi Trịnh Công Sơn sang Pháp gặp nhóm nghệ sĩ phố (artists on the road/ artistes de rue).

Tên "Những người bạn " do Trịnh Công Sơn đề nghị với mục đích là sáng tác và trình bày sáng tác mới cho bạn và công chúng nghe. Mỗi tháng, nhóm đều có họp và mỗi người phải giới thiệu ít nhất là một sáng tác mới của mình và nghe lời phê bình của anh em. Nhóm "Những người bạn " sẵn sàng đi giới thiệu những tác phẩm mới và làm thành băng nhạc, video với sự phụ giúp những ca sĩ nổi tiếng như Lệ Thu (sang định cư tại Pháp), Lê Tuấn, Ngọc Sơn, Thế Sơn, Thu Hà, Yến Linh.

Trong buổi đầu tiên của nhóm này. Trịnh Công Sơn đã trình bày nhạc phẩm mới nhất tên là "Con Mắt Còn Lại" (ý thơ Bùi Gián - Thanh Tùng viết một ca khúc "Lối Cũ Ta Về " trong hoài niệm về người vợ đã mất. Trần Long Ẩn viết tặng mẹ. Hiện tượng này xảy ra vì các ca khúc mới sau 1975 không còn người nghe. Dân chúng ưa nhạc "sến", nhạc "vàng" hay nhạc trước 1975.
Các ca khúc trữ tình trước 1975 xua đuổi các loại nhạc đấu tranh ca tụng Bác và Đảng, và luôn cả nhạc mới sau 1975. Từ năm 1990 trở đi, phong trào tổ chức hát vinh danh các nhạc sĩ lão thành như Nguyễn Văn Thương, Lê Thương, Hoàng Giác, Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, Đoàn Chuẩn, Trần Hoàn, Tô Vũ, Nguyễn Văn Tý hay các nhạc sĩ trẻ hơn như Trịnh Công Sơn được tổ chức tại Hà Nội và Saigon và những ca khúc tiền chiến được hát trở lại. Nhạc sĩ Phạm Tuyên đã chuyển hướng sáng tác qua nhạc trẻ em (nhạc đồng dao) được nhiều thành C & OCIR.