CÂU LẠC BỘ HƯỚNG DẪN VIÊN
ĐỒNG HÀNH VIỆT
Bài thuyết minh tour Tiền Giang
Tỉnh
Tiền Giang
ĐỊA LÝ TIỀN GIANG
Diện tích: 2.484,2 km2.
Dân số (2006):1.717.400 người.
Tỉnh lỵ: thành phố Mỹ Tho.
Thị xã: thị xã Gò Công.
Các huyện: huyện Cái Bè, huyện Cai Lậy, huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo, huyện
Gò Công Tây, huyện Gò Công Đông và huyện Tân Phước.
Dân tộc: Việt (Kinh), Hoa, Khmer, Tày...
Tiền Giang là phần đất của hai tỉnh: tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công cũ, phía Bắc
giáp tỉnh Long An, phía Tây giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Đông giáp với cửa Soài
Rạp và biển Đông, phía
Khí hậu Tiền Giang chia thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa và mùa khô, nhiệt độ
trung bình hàng năm là 27oC, lượng mưa trung bình 2.300 mm/năm. Các sông chính:
sông Tiền, sông Gò Công, sông Bảo Định và một mạng lưới kênh đào thuận lợi cho
giao thông đường thủy.
Từ Tiền Giang có thể đi thành phố Hồ Chí Minh hoặc sang Phnôm Pênh bằng đường
sông. Đường bộ chính của Tiền Giang là Quốc lộ 1A, chạy xuyên qua các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long.
Là tỉnh đồng bằng, địa hình Tiền Giang chia thành ba vùng rõ rệt: vùng cây trái
ven sông Tiền, vùng Đồng Tháp Mười và vùng ven biển Gò Công. Tiền Giang có 31
km bờ biển, hàng năm đánh bắt rất nhiều cá và hải sản; đất đai phì nhiêu, là
một trong những vựa lúa lớn của đồng bằng sông Cửu Long. Tiền Giang là nơi hội
tụ đủ loại sản vật và hoa trái nổi tiếng như mận hồng đào Trung Lương, vú sữa
Vinh Kim, xoài cát, cam sành, ổi xá lỵ Cái Bè...
Tiền Giang có hệ thống khách sạn, nhà hàng đầy đủ tiện nghi, nhiều món ăn đặc
sản nổi tiếng của miệt vườn vùng sông nước Cửu Long.
Trước giải phóng vốn là 2 tỉnh: Định Tường và Gò Công, sau giải phóng ta sát
nhập 2 tỉnh lại và đặt tên là Tiền Giang; Tân Hiệp là trung tâm của Tiền Giang
ngày xưa thời chúa Nguyễn.
Trên mảnh đất này cũng có 2 vị đệ nhất phu nhân đó là vợ Ông Nguyễn Văn Thiệu
và vợ Bác Tôn Đức Thắng; ngoài ra còn có bà Từ Dũ. Trên mảnh đất này cũng nổi
tiếng về đờn ca tài tử để rồi từ đó chuyển qua cải lương và gánh hát ông Nguyễn
Tấn Triệu đã được mời sang Pháp biểu diễn năm 1920. Đến năm 1920 cũnh tại Mỹ
Tho - Tiền Giang đã nảy sinh ra loại hình ca kịch cải lương đầu tiên, đó là
gánh thầy Năm Tứ. Ngoài ra ở đây cũng có những truyền thống đấu tranh chống
giặc ngoại xâm rất nổi tiếng như: huyện Châu Thành có chiến thắng Rạch Rầm -
Xoài Mút; trận đánh của Quang Trung đại phá quân Xiêm…
Huyện Châu
Thành:
Châu tức châu thổ, là vùng đất. Thành là thành thị. Những vùng đất ở gần thành
thị được gọi là Châu Thành. Nơi này được xem là cái nôi của vùng đất Vĩnh Kim,
nơi ở của nhân vật rất giỏi hiện đang công tác giảng dạy tại Việt
Thị Trấn Tân
Hiệp:
Khu vực này có tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho đi ngang qua (tuyến đường sắt
Sài Gòn – Mỹ Tho bắt đầu hoạt động từ năm 1858, đến năm 1950 tuyến đường sắt
này ngưng hoạt động do điều kiện kinh tế đất nước và chiến tranh nên người ta
không sử dụng con đường này nữa, vả lại khi đó tuyến giao thông đường bộ khá
phát triển).
Ngã Ba Trung
Lương:
Sỡ dĩ có tên gọi như vậy bởi vì trước đây nơi này là Trung tâm di chuyển lương
thực của đồng bằng sông cửu long lên Tp.Hồ Chí Minh và một số nơi khác.
Tại ngã ba Trung Lương: nếu đi thẳng là vào Thành Phố Mỹ Tho và rẽ phải đi theo
quốc lộ 1A về hướng các tỉnh miền Tây.
Nhà hàng Trung
Lương
Địa chỉ: ngã ba Trung Lương-Thành Phố Mỹ Tho-Tiền Giang.
ĐT: 073.855441-855754 Fax:856323.
Đây là nhà hàng thuộc công ty du lịch Tiền Giang có diện tích khoảng 1.200ha
xây dựng năm 1987 trên khu vườn xoài bên bờ Bảo Định Giang, ngay ngã ba Trung
Lương và trong một khuôn viên rộng lớn, ngoài 6-7 gian để phục vụ khách, mỗi
gian có khoảng 100 khách (10 người/1bàn), còn có khung cảnh thiên nhiên thoáng
mát với những hàng hoa kiểng đẹp mắt.
Bên cạnh, còn có một ao nuôi cá và vài con
thú nhỏ rất ấn tượng làm ta cảm thấy gần thiên nhiên hơn nữa. Tại đây khách đến
quanh năm như là: Nhật, Đài Loan, Hồng Kông…và khách vãng lai như Pháp, Mỹ,
Đông Âu… nhà hàng còn có hệ thống thực đơn đa dạng khoảng 20 món, các món ăn là
đặc sản Miền Tây như: cá tai tượng chiên xù, gà xôi chiên phồng, rắn, rùa… hợp
khẩu vị với nhiều thực khách, thêm vào đó là cách trình bày đẹp mắt gây ấn
tượng tốt với khách. Các món ăn tại nhà hang
Điểm tâm sáng: hủ tiếu + nước: 18.000đ/phần
Cơm phần: 6 món ( gà, xôi, cá, tôm, lẩu, một món mặn, tráng miệng):
70.000đ/phần
Tôm giá 200.000->350.000đ/kg với các món nướng hấp gỏi tôm
Cá tai tượng giá 80.000đ với các món chiên, xào,hấp, chưng
Lươn giá 150.000đ/kg với các món nướng, hầm xã, nấu cháo.[/size]
Tại sao vùng này có tên là đồng bằng sông Cửu Long?
Theo giả thuyết: sông này có tên là sông Cửu Long vì : Sông này bắt nguồn từ
Tây Tạng (cao hơn 5000m so với mực nước biển); trải qua Trung Quốc, Lào,
Campuchia và đổ vào Nam Bộ. Sông có tên khác là MêKông (dài 4220km) phiên âm từ
tiếng Lào là Mè Khoỏng, nghĩa là “sông Mẹ”. Khi chảy qua lãnh thổ Việt Nam theo
9 cửa (9 đầu rồng): trong đó chảy vào sông Tiền là 6 cửa (cửa Tiểu; Cửa Đại;
Cửa Ba Lai; Cửa Hàm Luông, Cửa Cổ Chiên; Cửa Cung Hầu); sông Hậu 3 cửa (Cửa
Định An, Tranh Đề Và Bát Xác). Nên gọi là Cửu Long
Đây là vùng đất hình thành do sự bồi đắp của Sông Mê Kông đây cũng là vùng châu
thổ lớn nhất nước.
Đồng Bằng sông Cửu Long ngày nay thuộc vương quốc Phù
Phù Nam là vương quốc rất hùng mạnh và thời kỳ cường thịnh nhất của vương quốc
này khỏang từ thế kỷ thứ III -> thế kỷ V bắt đầu triều đại Phạm Sự Nan
khoảng từ năm 205 đến 255.
Vương quốc Phù
Phù
Trong thời kỳ hưng thịnh họ khống chế nền thương nghiệp hàng hóa cả miền Đông
Giai đọan cuối của lịch sử Phù
Từ thế kỷ 7 đến TK10 vùng đất này bị nhấn chìm trong lũ lụt, chỉ còn vài gò đất
nổi lên. Từ khoảng TK 10-17 người Việt, Khmer đến định cư vì thế nơi đây hình
thành nên nhóm dân tộc chính là người Kinh, Khmer, Chăm, Hoa với nền văn hóa đa
dạng. Đồng thời trong thời gian này các tôn giáo được truyền bá và phát triển
như đạo phật, đạo Hồi, đạo Thiên Chúa …
Năm 1808 vùng đồng bằng sông Cửu Long, được người Pháp chia như sau :
-Trấn Định Tường: gồm Phủ Kiến An, 3 huyện Kiến Đăng, Kiến Hưng và Kiến Hòa .
-Trấn Hà Tiên: gồm các địa danh còn lại trong vùng .
-Năm 1832, Pháp phân Nam Kỳ ra làm lục tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường,
Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Đến thời điểm này vùng ĐBSCL có 4 tỉnh là: Định
Tường (Tiền giang) An Giang , Vĩnh Long và Hà Tiên (Cần Thơ , Hà Tiên , Cà Mau)
.
-Năm 1862, Pháp chiếm 3 tỉnh Đông Nam Bộ ( Biên Hòa, Gia Định, Vĩnh Tường )
-Năm 1867, Nam Kỳ Lục Tỉnh được chia làm 20 tỉnh. Trong đó ĐBSCL có 14 tỉnh:
Bạc Liêu, Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Trà Vinh, Bến Tre, Gò Công, Mỹ Tho, Sóc
Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá, Tân An .
-Từ 1955 –>1975 ĐB sông MêKông chia làm 17 tỉnh: Kiên Giang, Sa Đéc, Ba
Xuyên (Bạc Liêu ), Vĩnh Bình, Kiến Tường, Chương Thiện, Phong Dinh, Vĩnh Long,
Kiến Hòa, Châu Đốc, Định Tường, Bạc Liêu, Gò Công, An Giang, Long An, Long
Xuyên, Kiến Phong .
-Năm 1975 đến 1990 ĐBSCL có 9 tỉnh, Hậu Giang, Tiền Giang, An Giang, Long An,
Bến Tre, Kiên Giang, Cửu Long, Đồng Tháp, Minh Hải.
-Năm 1991 tỉnh Cửu Long tách thành Trà vinh và Vĩnh Long.
-Năm 1992 Hậu Giang tách thành Cần Thơ và SócTrăng.
-Nắm 1997 Minh Hải tách thành Cà Mau và Bạc Liêu.
-Hiện nay vùng ĐBSCL có 13 tỉnh thành: Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp,
Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Tp Cần thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà
Mau, Hậu Giang.
-Diện tích ĐBSCL: 40.000km2 chiếm khoảng 1/8 cảnước
-Dân số 19.5 triệu dân (2003) chiếm khoảng 1/4 dân số cả nước
2-Vị trí địa
lí-khí hậu-đất đai sông ngòi:
2.1-Vị trí địa lí:
• Đông nam giáp biển Đông.
• Đông bắc giáp đông nam bộ.
• Tây bắc giáp campuchia.
• Phía tây giáp Vịnh Thái Lan.
• Độcao trung bình thấp: từ 0 – 2m.
2.2-Khí hậu đất
đai biển:
Khí hậu phù hợp cho sự phát triển của thực vật. Nhiệt độ trung bình hàng năm
khoảng 260C . Có ngày cao khoảng 330C.
Đất phù sa, diện tích khoảng 1.800.000ha, đất phù sa là do sông Hậu và sông
Tiền bồi đắp.
Ngoài ra còn có đất ven sông pha màu hơi đỏ, đất mặn đất phèn, đất than bùn.
Rừng nước mặn ven biển chiếm diện tích 30.000ha. Đứng thứ 3 trên thế giới với
những cây nổi tiếng như : cây mằm đen, cây đước, cây vẹt, cây đà, sú, bàn…
2.3-Sông ngòi:
Đây là vùng có hệ thống sông ngòi khá chằng chịt. Đồng thời nó cũng là yếu tố
giúp cho vùng phát triển kinh tế nông nghiệp. Hệ thống sông ngòi chính của
ĐBSCL là sông Hậu và sông Tiền là hai nhánh của sông Mê Kông bắt nguồn từ cao
nguyên Tây Tạng (Trung Quốc).
Lịch Sử Hình Thành Nền Văn Minh Miệt Vườn ở Tiền Giang
Tiền Giang có những tiếp cận với nền văn hóa Ấn Độ, Khơ Me, Trung Quốc qua
người Hoa, Hồi giáo qua người Chăm. Tất cả đều được liên kết một cách phong phú
trong nền văn hóa Việt Nam.
Ngay từ thế kỉ 18, phố chợ Mỹ Tho đã là nơi buôn bán nổi tiếng, ghe thuyền ở
các ngả sông, biển đến đậu đông đúc làm thành một đô hội rất phồn hoa huyên
náo.
Mỹ Tho là tỉnh lỵ của tỉnh Tiền Giang hình thành vào năm 1679. Ngày nay còn dấu
vết một khu thương mại cổ nằm trên đường Nguyễn Huỳnh Đức, thuộc phường 2 và
phường 8. Hồi ấy gọi là Mỹ Tho đại phố. Năm 1791, đại phố này được xây dựng
lại.
Đây là khu phố do chính người Việt người Hoa Minh Hương, cánh Dương Ngạn Địch
lập nên. Mỹ Tho Đại phố là một trong ba trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ
vào giữa thế kỷ 17 và Mỹ Tho Đại Phố, Nông Nại Đại Phố (Cù Lao Phố ngày nay ở
Biên Hòa) và Hà Tiên.
Vào 3 thế kỷ trước, Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh dẫn quân từ Nam Vinh
(Phnôm Pênh ngày nay) ghé qua cù lao Cây Sao và sau đó, trên đường về đất Đồng
Nai, khi qua Rạch Gầm (sách cũ gọi là Sầm Khê) thuộc huyện Kiến Đăng, đất Mỹ
Tho xưa thì bị bạo bệnh, trút hơi thở cuối cùng. Tên Rạch Gầm là do xưa kia cọp
rất nhiều cọp thường hay kêu gầm nên một thời được gọi là Rạch Cọp Gầm, về sau
người ta bỏ tiếng cọp, còn gọi là Rạch Gầm. Đây là nơi nổi tiếng với những trận
đánh ác liệt trong kháng chiến chống Pháp thời nhà Nguyễn và chiến thắng của
Tây Sơn đập tan đoàn quân xâm lược Xiêm thời chúa Nguyễn.
Ba sông chính chảy qua Tiền Giang: sông Tiền, Gò Công, Bảo Định đã bồi đắp phù
sa, biến đất đai vùng này trở nên phì nhiêu. Giữa sông Tiền lộng gió, nổi lên
một hòn đảo nhỏ, có tên Cù Lao Thới Sơn, cây ăn trái xum xuê. Là miệt vườn nổi
tiếng của xứ sở cây trái Nam Bộ và sản vật trà mật ong thanh nhiệt thật thơm
ngon.
Nằm ở đoạn sông Tiền, giáp ranh giữa ba tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre,
chợ nổi Cái Bè sầm uất từ lâu là điểm mưu sinh quen thuộc của người dân vùng
sông nước Cửu Long. Hàng ngày có khoảng 400 thuyền lớn chở đầy hàng hoá neo hai
bên bờ chờ thương lái. Trên sông, hàng trăm thuyền nhỏ xuôi ngược như mắc cửi,
buôn bán rộn ràng.
Vùng sông nước này củng là điểm du lịch hấp dẩn Du lịch Tiền Giang tham gia du
lịch Du lịch miệt vườn, hay Du lịch vào mùa nước nổi. Tiền Giang còn có nhiều
địa điểm lý thú như: Chùa Vĩnh Tràng, Trại rắn Đồng Tâm, và cả Khu du lịch sinh
thái Thới Sơn.
Vùng đất của hai nhánh sông và gần biển này có nhiều món ngon mà hiếm nơi nào
có được như: Sam biển Gò Công, Cá bống dừa, Bánh giá chợ Giồng, Hủ tiếu Mỹ Tho,
Bún gỏi già Mỹ Tho, Chuối quét dừa , ...
Tiền Giang cũng có những lễ hội đặc trưng như: Hội Vàm Láng, Hội tứ kiệt.
Đôi nét về tỉnh tiền giang
Diện tích : 2367 Km2
Dân số : 1.649.300 người (2002)
Mật độ : 727 người/Km2
Tỉnh lỵ : Thành phố Mỹ Tho cách TP.Hồ Chí Minh 71 km theo quốc lộ 1A
Có một thị xã và 7 huyện
+Một thị xã : GÒ CÔNG
+Bảy huyện : Cái Bè , Cai Lậy , Châu Thành , Chợ Gạo , Gò Công Đông , Gò Công
Tây , Tân Phước
Dân tộc : Kinh , Hoa….
_ Là phần đất của hai tỉnh Mỹ Tho và Gò Công cũ
_ Phía bắc giáp Long An
_ Phía tây giáp Đồng Tháp
_ Phía đông giáp với cửa Soài Rạp và biển Đông
_ Phía nam giáp Bến Tre
Khí hậu Tiền Giang có hai mùa rõ rệt , đó là mùa mưa và mùa khô . Nhiệt độ
trung bình là 27 độ C , lượng mưa trung bình là 2300 mm/ năm
Các sông chính là sông Tiền , sông Gò Công , sông Bảo Định và một mang lưới
kênh đào thuận lợi cho giao thông đường thủy . Từ Tiền Giang có thể đi TP. Hồ
Chí Minh hoặc Phnôm Pênh bằng đường sông .Đường bộ chính là quốc lộ 1A chạy
xuyên qua cac tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long
Là tỉnh đồng bằng , địa hình Tiền Giang chia thành ba vung rõ rệt là vùng cây
trái ven sông Tiền ,vùng Đồng Tháp Mười và vùng ven biển Gò Công . Tiền Giang
có 32 km bờ biển , hàng năm đánh bắt rất nhiều cá và hải sản , đất đai phì
nhiêu , là một trong những vựa lúa lớn của Đồng Bằng Sông Cửu Long . Là nơi hội
tụ đủ loại sản vật và hoa trái nổi tiếng như : mận hồng đào Trung Lương , vú
sữa Vĩnh Kim , xoài cát , cam sành , ổi xá lị Cái Bè…Có hệ thống khách sạn ,
nhà hàng đầy đủ tiện nghi và nhiều món ăn dặc sản của miệt vườn sông nước Cửu
Long
Truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc Nam Bộ , là một trong những cái nôi của
ca nhạc cải lương nổi tiếng , nơi diễn ra các sự kiện lịch sử Rạch Gầm – Xoài
Mút , Ap Bắc… quê hương của các anh hùng Trương Định , Thủ Khoa Huân . Có nhiều
tôn giáo như Nho giáo , Phật giáo , Công giáo …
Bên cạnh những di tích tôn giáo như đền chùa , đình miếu , nhà thờ , còn giữ
được nhiều di tích lịch sử , đó là các di chỉ Oc Eo , chiến lũy ,pháo đài …Có
nhiều danh lam thắng cảnh như Cù lao Thới Sơn , trại rắn Đồng Tâm tạo nên bức
tranh toàn cảnh về thiên nhiên , đời sống vật chất và văn hóa đặc trưng của Nam
Bộ
Rạch Rầm – Xòai Mút
Khu di tích được khánh thành năm 2005 để
kỉ niệm 220 năm chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút 20.1.1785 – 20.1.2005
Khu di tích thuộc địa phận ấp Đông , xã Kim Sơn, huyện Châu Thành, Tiền Giang
,rộng gần 2 ha, hơn một nửa diện tích để xây dựng các nhà trưng bày
Trận thủy chiến diễn ra trên sông Tiền ( sông Mỹ Tho ) nay thuộc địa phận bốn
xã là Kim Sơn , Thới Sơn , Song Thuận , Bình Đức của huyện Châu Thành cách
Thành phố Mỹ Tho 7km
Tại đây Nguyễn Huệ đã chỉ huy đội quân từ Quy Nhơn vào Mỹ Tho. Đêm 19 rạng
20.1.1785 đã nhấn chìm hàng trăm chiến thuyền của giặc , tiêu diệt hàng van
quân Xiêm và hàng ngàn tàn quân của Nguyễn Anh.
Để kỉ niệm chiến thắng vang dội đó , tại khu di tích Rạch Gầm – Xoài Mút đã xay
dựng tượng đài chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút . Tượng đài cao 8 m , nặng 20
tấn bằng đồng màu với ba nhân vật : ở giữa là vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ
tay đang vuốt gươm , bên trái là hình ảnh người nông dân Định Tường chèo thuyền
hỗ trợ chiến đấu còn bên phải là hình ảnh võ công Tây Sơn giương cung bắn vào kẻ
thù
Dưới chân nhóm tượng đái này là một loại hình kiến trúc dạng đền . Bên ngoài
đền co dải phù điêu bằng đồng màu nặng 6 tấn phác họa lên từ hình ảnh con người
và chim lạc được cách điệu từ mặt trống đồng
Cổng và tường rào của khu di tích có hình ảnh những chiến thuyền gợi cho ta có
cảm giác mình đang chứng kiến cảnh thủy chiến diễn ra nơi đây
Tiếp theo du khach sẽ được tham quan nhà trưng bày số 1. Ở đây trưng bày rất
nhiều hiện vật như súng thần công là hiện vật phục chế còn các hiện vật khác là
nguyên bản . Trong nhà trưng bày có dải tranh ghép gốm màu với 1440 viên gạch
ghép lại với nhau được nung ở nhiệt độ 1100 độ C . Dải tranh ghép cao 1.8m ,
với diện tích 57 m2 .Nội dung gồm 4 chương nói về quá trình khẩn hoang , lập ấp
, trận thủy chiến , khúc khải hoàn. Ngoài ra còn có mang phù điêu với diện tích
13 m2 phác hoa lên từ hình ảnh chim muông và cây trái của vùng quê sông nước
Tiền Giang
Ngoài ra ở đây còn có ngôi nhà cỏ Nam Bộ cất theo kiểu ba gian và hai chái .
Ngôi nhà có diện tích 225 m2 , có 48 cây cột trong đó có 24 cây cột tròn và 24
cây cột vuông biểu tượng cho mẹ tròn con vuông . Ở giữa nhà có bàn thờ tổ tiên
, phía trước có bộ ghế trường kỉ làm cho ta liên tưởng đến phong tục ăn coi nồi
ngồi coi hướng . Ngày xưa những người lớn tuổi có thể ngồi ở đây uống trà và
trò chuyện ; đặc biệt con dâu và con gái không được lên nhà trên
Trại Rắn Đồng Tâm
Sau khi dùng điểm tâm sáng, anh Nguyễn
Đình Lam ,hướng dẫn viên địa phương dã dẫn đoàn đến tham quan trại rắn Đồng Tâm
. Nơi đây cách Thành phố Mỹ Tho 12 km . Trại rắn thuộc địa phận xã Bình Đức
huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang khoảng 3 ha.
Đây là trung tâm nuôi rắn lớn lấy nọc xuất khẩu , kết hợp trồng nhiều loại cây
dược liệu và nghiên cứu chữa bệnh rắn cắn cho nhân dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu
Long . Bên cạnh đó , nơi đây còn là một khu vườn thật đẹp – tổ ấm cho đủ các
loại chim và động vật quý hiếm tại Nam Bộ ,
Trước kia đây là căn cứ quân sự của Mĩ có tên là Đồng Tâm; ngày xưa người dân
thường gọi nay là vành đay trắng. Nơi nay có địa thế hiểm trở thường diễn ra
những trận đánh cá liệt giữa lực lượng cách mạng và Mỹ-Ngụy. Khu căn cứ rộng 15
hecta. sau năm 1975, được bàn giao về quân khu 9, một người có tên là Huỳnh Văn
Diệp tức trung tá Huỳnh Văn Diệp đã thành lập ra nơi nuôi rắn lớn nhất mi ền
Trước đây khi “ ông Tư Được “ còn quản lý thì ông đã sưu tầm được rất nhiều
loại rắn và trăn. Sau khi ông mất thì người khác lên thay ông số rắn đã giảm
dần. Hiện nay ở đây có khoảng 6 loài rắn như : hổ mang , hổ chúa , mái rầm ,
lục đầu dồ , rắn nước , rắn bông súng.
Khi ta đi thấy rất nhiều loại rắn được nuôi ở nhiều môi trường khác nhau; chẳng
hạn như tại một hốc cây người ta làm một long sắt để thả một con rắn vào doing
trong môi trường thiên nhiên này để rắn đẻ và ấp trứng thành con; hoặc có những
khu vực được tạo ra những giống sống hoang dã và trồng rất nhiều cây cối để mà
thả rắn vào sống trong môi trường thiên nhiên.
Tới nay quý khách sẽ thấy được loài rắn độc nhất là rắn hổ chúa. Trước nay, rắn
hổ chúa ở nay không nhiều nhưng bay giờ thì rắn hổ chúa đã được nhân giống ra
rất nhiều. Nọc độc của rắn hổ chú khi chạm vào cơ thể chúng ta thì khoảng 2
phút sau cơ thể ta hoàn toàn bị tê liệt, rắn hổ chúa có rất nhiều biệt tài là
bò dưới nước hoặc leo lên cây.
Ngoài rắn hổ chúa, còn có rắn hổ mang, hổ ngựa, hổ mèo, hổ đất. Để phân biệt
rắn hổ chúa và hổ mang; hổ mang có thân hình nhỏ và ngắn hơn hổ chúa và khi ngóc
đầu lean nó có hình trăng tròn; còn hổ mèo thì cũng ngóc đầu và phùng mang
nhưng không có hình trăng tròn mà có 2 vòng tròn nên người ta thường gọi rắn
mắt kính. Nọc độc rắn hổ mang thì không bằng rắn hổ chúa. Vì vậy khi nộc độc
rắn hổ mang chạm vào cơ thể thì 10-15 phút thì nọc độc mới lam truyền làm tê
liệt cơ thể. Ngoài ra khi bắt mồi không can tiếo xúc trực tiếp mà có thể phun
nọc độc xa 2 m.
Ta thấy rắn đầu có hình tam giác và có khoan trắng và đen là bò cạp nia
Còn loại có khoan vàng và đen gọi là bò cạp nông.
Còn loại có màu xanh lục như lá cây đó là rắn lục. Có 2 Lọai chính là: rắn lục
day khuôn và rắn lục vời.
Giá thịt rắn dao động từ 35 - 40 USD/ kg , thi trường tiêu thụ ở Châu Á chủ yếu
là Đài Loan , Trung Quốc , Hàn Quốc Trại rắn Đồng Tâm chủ yếu nuôi rắn lấy nọc
không phải để tham quan.
Với giá vé 10. 000 đối với khách Việt
Khu nuôi rắn và trăn ở trong nhà gồm nhiều loài trăn và rắn khác nhau . Ở đây
du khách co thể quấn trăn lên mình va chụp ảnh lưu niệm
Khu ngoài sân là khu nuôi rắn ở trong khoang bể nuôi bằng bê tông với rất nhiều
loài rắn
Khu phía sau la khu nuôi thú gồm nhiều loài như : công , khỉ , cá sấu , đà điểu
. Đi vao đây du khách có cảm giác như đi trong sở thú . Và đặc biệt hơn nữa tại
đây còn co chu ba ba vang rất quý hiếm nặng khoảng 30 kg chỉ còn hai con ở Việt
Nam
Khu nhà bảo tòan rắn là nơi trưng bày hầu như đầy đu các chủng loại rắn và được
ngâm trong chất phoocmon nên nhìn chúng sống động như vẫn còn sống
Tại đây du khách nên mua sắm vài sản phẩm từ rắn để làm quà cho người thân bởi
hàng tốt và giá cả hợp lý:
Rượu rắn : 40.000đ/chai
Cao trăn : 600.000đ/kg
Cao rắn : 500.000đ/kg
Cao khỉ : 300.000đ/kg
Cobratax : 20.000đ/kg
Rượu rắn lục : 100.000đ/chai
Mật ong : 50.000đ/chai
Mỡ trăn : 12.000đ/lọ
Viên điều trị rắn cắn : 20.000đ/tube
Bột rắn lục : 8000đ/lọ
Bột rắn hổ : 70.000đ/lọ
Bột cù lần : 80000đ/lo
Cù Lao Thới Sơn - Cồn Thới Sơn
Nằm ở hạ lưu sông Tiền, Thới Sơn có diện
tích khoảng 1.200 ha. Toàn xã Thới Sơn là một vùng chuyên canh cây ăn trái,
quanh năm được phù sa bồi đắp. Theo anh Huỳnh Văn Phương, Giám đốc Sở Thương
mại - Du lịch Tiền Giang, từ những năm 90 của thế kỷ trước, Tiền Giang đã chủ
trương phát triển du lịch theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng
làm" để khai thác hiệu quả tiềm năng sẵn có tại địa phư ơng. Công ty Du
lịch Tiền Giang đầu tư năm tỷ đồng xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng ở các
điểm du lịch chính. Các hộ dân trong khu vực đã đóng góp mặt bằng, nhà cửa và
hơn 100 chiếc đò với tổng trị giá hơn 20 tỷ đồng. Cách tổ chức du lịch theo mô
hình này đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách, đồng thời huy động được vốn và các
tiềm lực khác trong dân. Phát triển du lịch ở cù lao Thới Sơn góp phần tạo thêm
việc làm, tăng thu nhập và nâng cao mức sống. Hiện nay, số hộ giàu, khá ở Thới
Sơn chiếm tỷ lệ 78%, chỉ còn 2,7% số hộ nghèo.
Sự hấp dẫn, quyến rũ của Thới Sơn ở chỗ, đến mảnh đất này, người ta sẽ quên sự
ồn ào, bí bức của phố phường. Khách đến Thới Sơn, xuống đò chèo xuôi theo những
con rạch ngoằn ngoèo giữa hai hàng dừa nước rậm rạp, giữa hàng thủy liễu ven
sông luôn nghiêng mình ngả bóng đón chào. Nếu muốn tản bộ, sẽ theo những con
đường đá uốn lượn, băng qua những vườn cây trái xum xuê. Khách có thể ngồi
trong những nhà vườn nhấm nháp tách trà mật ong thơm ngọt và lắng nghe đàn ca
tài tử. Đêm Thới Sơn thật huyền diệu với đầy trăng, gió, sóng nước mênh mang.
Khách có thể đi thuyền trên sông, ngắm trăng lên, hoặc cùng bạn ngồi đối ẩm
trong tiếng ca mượt mà, sâu lắng của thôn nữ.
Những ngôi nhà của 6.000 người dân Thới Sơn vẫn giữ được nét cổ kính, nguyên
sơ. Ðiểm du lịch của nhà ông Tám Cho là một tiêu biểu về kiểu nhà xưa. Ngôi nhà
của ông được xây dựng với hàng cột gỗ căm xe; mỗi mái nhà có chín cây đòn tay
bố trí theo thuật phong thủy: Kiên - Trừ - Mãn - Bình - Định - Chấp - Phá -
Nguy - Thành. Trong nhà, cách bài trí cũng theo phong cách cổ với chiếc tủ thờ
cẩn xà cừ lóng lánh, tràng kỷ chạm trổ tinh vi, cùng với đôi liễn chạm câu đối
sơn son thếp vàng... Chung quanh nhà là vườn hoa cảnh với nhiều cây bon-sai
được trồng tỉa công phuD9ến Thới Sơn, khách được tham quan cách làm kẹo dừa
bằng phương pháp thủ công, mua những đồ mỹ nghệ, đồ dùng sinh hoạt gia đình làm
từ cây dừa. Bên cạnh chương trình du lịch sinh thái, người dân Thới Sơn còn
giới thiệu với khách về văn hóa ẩm thực với các món ăn: cá nướng, lẩu cá kèo,
cá lóc hấp bầu, cá tai tượng chiên xù...
Năm 1995, Thới Sơn đón hơn 40.000 lượt khách, năm 1996 đón khoảng 80.000 lượt
khách, năm 1997 đón 120.000 lượt và năm 2001 đón khoảng 200.000 lượt khách
trong đó 65% là khách nước ngoài. Cô Lê Trang, một người kinh doanh du lịch ở
Thới Sơn cho biết, Thới Sơn thu hút được khách là nhờ chương trình, sản phẩm du
lịch sinh thái ngày càng đa dạng, hoàn chỉnh và cách phục vụ chu đáo. Thới Sơn
đang trở thành điểm thu hút khách đến Tiền Giang.
Theo kế hoạch, từ năm 2002 đến năm 2005, Công ty Du lịch Tiền Giang tiếp tục
đầu tư năm tỷ đồng để xây dựng cù lao Thới Sơn thành làng du lịch. Khách sẽ có
dịp tham quan những làng nghề truyền thống với các công cụ lao động, thô sơ,
được phục chế. Bên cạnh, Thới Sơn mở rộng hơn nữa các điểm du lịch vệ tinh ở
các hộ dân; trồng cây ăn trái nhiều chủng loại, đủ cung cấp quanh năm cho du khách.
Ðồng thời, vận động nhân dân giữ lại các dụng cụ sinh hoạt bình dị, truyền
thống như: bát sành, chén đá, đũa tre, đũa dừa, bình tích đựng nước trong vỏ
dừa... Thới Sơn là làng du lịch xanh đặc trưng của vùng sông nước Cửu Long với
vườn cây, trời nước và tấm lòng hồn hậu, hiếu khách của người dân Nam Bộ.
Từ bến phà 30-4, chúng tôi lại xuống thuyền đi thăm cồn Lân và ăn trái cây.
Thuyền cập vào một bến nhỏ, anh hướng dẫn viên đưa chúng tôi len lỏi qua những
khu vườn mướt xanh với đủ loại cây: sapoche, nhãn, chuối, sầu riêng... quả treo
lủng lẳng.
Khác với những ngôi nhà vườn nổi tiếng ở Huế, thường là nhà vườn văn hóa, vườn
ở đây là vườn kinh tế. Người dân Nam Bộ gắn bó cả đời mình với sông nước, vườn
cây cũng vậy, nước sông theo các con rạch nhỏ chảy vào từng khu vườn, từng gốc
cây. Người ta trồng cây theo hàng như những ô trên bàn cờ, dưới các hàng cây là
hệ thống mương rạch rộng độ 5m, lan tỏa khắp vườn. Lúc triều lên nước sông chảy
vào vườn khiến du khách có cảm giác cá nhảy lên cả vườn cây. Lúc triều xuống,
nước lại đổ ra sông, lòng mương chỉ còn xâm xấp nước và một màu phù sa đỏ
quánh. Cũng nhờ lớp phù sa này mà cây trái nơi đây quanh năm cho trái ngọt.
Chúng tôi được mời đến một khu vườn do công ty du lịch Tiền Giang bỏ vốn đầu tư
nâng cấp. Nhiều khách nước ngoài đang ngồi ăn trái cây ở đó. Mùa nào thức nấy
nhưng thông thường chủ vườn sẽ mời khách ăn 6 loại trái cây: thơm, chuối, thanh
long, sapôchê, chôm chôm, nhãn. Khách ăn không hết, chủ vườn bỏ vào trong túi,
trao lại cho khách với lời cám ơn và câu chào: "see you again" rất
ngọt ngào.
Chúng tôi được mời ăn trưa trên một cù lao khác cách cồn Lân khoảng 20 phút đi
thuyền, cồn Thới Sơn. Nơi đây có một garden restaurant rất đẹp. Song cái hấp
dẫn tôi nhất lại không ở kết cấu của cái nhà hàng "thập nhị giác" này
mà ở món cá tai tượng chiên xù và những bộ đồ bà ba trắng, đen của các cô phục
vụ. Tiếp viên của nhà hàng mặc đồng phục bà ba trắng, quần lụa đen nhẹ nhàng đi
giữa các hàng ghế, lúc thêm chút mắm, khi gắp ngọn rau nhút đặc sản vào bát du
khách, lúc lại lúng liếng cười duyên khiến thực khách chưa ăn đã thấy ngon.
CỒN PHỤNG – ĐẠO DỪA
Chúng tôi vào cù lao Phụng để thăm "
Đạo Dừa chủ trương chuyên ăn cùi dừa và uống nước dừa để tồn tại và hành đạo.
Đó là một sự kết hợp của Phật giáo, Thiên Chúa giáo, rồi Cao Đài... Lúc đông
nhất có đến 3.600 tín đồ. Nguyễn Thành
Nguyễn Thành
Ông ta còn cho làm mô hình phi thuyền APOLLO bằng... tôn, trèo vào trong đó,
biểu đệ tử kéo lên... vũ trụ để thỉnh thị thánh chỉ của Ngọc Hoàng. Lúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ ở vào thời kỳ ác liệt, Nguyễn Thành
Phía trong sân rồng có công trình cửu đỉnh, nếu nhìn từ trên xuống ta sẽ thấy
cửu đỉnh được xây theo lối ngủ hành âm dương. Nếu nhìn kỷ sẽ thấy một con rồng
đứng ở giữa có đuôi hình vuông ; hình vuông tượng trưng cho tứ tượng, những con
rồng còn lại đứng trên bệ có hình tam giác. Hai cây cột phía sau tượng trưng
cho lưỡng nghi đó là âm dương hợp lại. Điểm khác của con rồng trung tâm là đuôi
có được thiết kế phía sau, còn những con xung quanh thiết kế phía trước. Đây là
biểu tượng của rồng đực ; hiện thân của ông Đạo Dừa và những con rồng cái là
những cô gái xung quanh ông đạo Dừa.
Xung quanh Cửu Đỉnh còn có một số hình ảnh như ; Long, Lân, Quy, Phụng, Mai,
Lan, Cúa, Trúc và một số cảnh về Tiên Ong, Bát Tiên. Ngoài ra còn có hai cái
quai nâng hai con rồnglên tượng trưng cho vua chúa. Cửu Đỉnh được đặt trên thần
Kim Quy đang ngậm thanh kiếm thần hướng về Bến Tre. Ngụ ý là ông Đạo Dừa vừ kết
nối với lịch sử với thời vua lê để thần Kim Quy mang thanh gương về Bến Tre để
ông trị vì thiên hạ.
Vậy là chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình. Con người với những triệu chứng
tâm thần đó đã được chế độ cũ bật đèn xanh để mị dân chúng. Lúc ông còn sống
ông đạo dừ muốn khi qua đời thì hài cốt của ông sẽ được rãi trong Cửu Đỉnh
nhưng khi ông qua đời thì những tín đồ đã mang hài cốt của ông ang táng tại
phần mộ của gia đình. Đặc trưng của ngươì theo Đạo Dừa là mặc áo nâu sẫm và để
một búi tóc cao quấn quanh đầu.
Đạo Dừa không cò kinh riêng. Mà là tất cả các kinh của đạo phật, thiên chúa
giáo và cao đài. Một năm đạo có 3 ngày lễ vào 3 ngày rằm lớn, chứ không có ngày
lễ nào đặc trưng của đạo giáo
Hiện nay có một số người tu đạo này nhưng tu lại gia chứ không lập chùa chiền
để tu.
Ngoài ra tại đây còn được trưng bày nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm từ trái
dừa . Du khách đến đây tham quan khu sản xuất bánh kẹo dừa và thưởng thức kẹo
dừa .
Chúng ta có thể
quan sát được quy trình làm keọ dừa như sau :
_ Thành phần lam kẹo dừa gồm : 50% dừa
25% đường
25% mạch nha
_ Và các thành phần phụ như ca cao , đậu phụng , lá dứa , sầu
Chùa Vĩnh Tràng
Du khách đến Mỹ Tho mà không thăm chùa
Vĩnh Tràng là một điều thiếu sót. Đây là ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công
trình kiến trc tiu biểu ở Nam Bộ. Cha tọa lạc trn mảnh vườn cây ăn trái rộng
gần 2 hecta, thuộc làng Mỹ Hóa, nay là x Mỹ Phong, bn con rạch Bảo Định hiền
hịa nước ngọt quanh năm.
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, chùa vốn là một thảo am do ông Tri Huyện Bùi Công Đạt
phát nguyện xây cất để di dưỡng tinh thần sau khi về hưu. Ông thỉnh Hịa thượng
Từ Lâm ở cha Bửu Lm về trụ trì. Sau khi ơng Bi Cơng Đạt qua đời, Hịa thượng Huệ
Đăng d vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự với tên Vĩnh Tràng, hoàn
thành vào mùa hè năm Canh Tuất (1850).
Lúc đầu mang tên LÀ Vĩnh Trường (sư muốn ngôi chùa mãi mãi trường tồn và vĩnh
cửu theo thời gian) nhưng do nhiều ngươì miền
Chùa trải qua bốn lần trùng tu: lần trùng
tu thou 1 vào năm 1907, hòa thượng Chánh Hậu đã trùng tu và tôn tạo lại mặt
chùa. Mặt tiền chánh hậu được xây doing theo lối kiến trúc á, âu; lần trùng tu
thứ 2 vào năm 1930; lần trùng tu thứ 3 là 1990; lần trùng tu thứ tư là 2004.
hiện nay đang được trùng tu lần nữa.
Trước cửa chùa có cổng tam quan rất tráng lệ do tốp người Huế thực hiện năm
1933 với sự tài trợ về kinh phí của 2 ông Hùynh Trí Phú và Lý Văn Quang. Cổng
giữa làm bằng sắt theo kiểu Pháp; 2 cổng bên làm bằng xi măng vươn cao như 2
tòa lâu đài cổ, được ghép tòa những mảnh sành sứ tạo nên những bức tranh với
màu sắc hài hòa, minh họa sự tích nhà phật, truyện tích nhân gian và các đề tài
Tứ Quý, Tứ Linh, hoa lá…tầng lầu thượng của cổng Tam Quan có vòm cửa rộng, bên
phải đặc tượng hòa thượng chánh hậu, bên trái đặt tượng hòa thượng Minh Đàng.
Cả 2 tượng này đều đắp bằng xi măng giống như tượng thật, do điêu khắc gia
Nguyễn Phi Hoanh thực hiện.
Mặt tiền chùa vĩnh tràng trang trí theo kiểu kết hợp đặc điểm kiến trúc cả Á,
lẫn Âu. Ơ nay có những hoa văn theo thời phục hưng, vòm cửa theo kiểu La Mã,
bông sắt Ấn Độ, gạch men nhật bản…những câu ngữ Hán viết theo lối thể chữ
truyện cổ kính xen với chữ quốc ngữ viết theo lối chữ Gô-Tích. Từ xa trông vào
du khách có thể hình dung ngôi chùa như đền Ăngkor có năm tháp. Theo truyền
tụng của nhân dân địa phương thì hòa thượng Minh đàn và ông quỳnh trí phú từng
du học sang xứ chùa tháp nên tiếp thu được cái trong kiến thức ngôi chùa tên
đó, kết hợp với kiến trúc phương tây.
Tượng có nhiều tay nhiều mắt gọi là chuan đề bồ taut, vị này là hiện thân của
quan thế âm bồ taut có nhiều tay, nhiều mắt để cứu độ chúng sinh: nhiều mắt để
thấy được nổi khổ của chúng sinh
Trong chùa có chuông đồng một tấn do vua Tự Đức cho kinh phí đúc, chuông được
làm sau năm giáp dần
Ngày Giỗ Đình
Vĩnh Tràng:
18-1 Hòa Thượng Huệ Đăng
17-3 Hòa Thượng Pháp Tràng
1-5 Hòa Thượng Tú Long
21-6 Hòa Thượng Minh Đàn
30-7 Hòa Thượng Trà
Chánh Hậu.
Ngòai ra, các ngày giỗ ra còn các ngày: thượng quân (15-1), trung quân(15-7),
hạ quân(15->10). Đặc biệt ngày 15-4 Am Lịch còn có ngày lễ áng sanh của Phật
Thích Ca.
Ở chánh điện có các bao lam được chạm trổ công phu, trong đó có bộ phù điêu Bát
Tiên cỡi thú do các nghệ nhân tại địa phương thực hiện vào khoảng năm 1907 -
1908. Trên bàn thờ có nhiều pho tượng Phật như A-di-đà, Thích-ca, La-hán và
tượng các vị Bồ-tát. Hai bên bàn thờ là tượng chân dung Hịa thượng Chánh Hậu và
người kế pháp là Hịa thượng Minh Đàn. Các Hịa thượng Huệ Đăng, Chánh Hậu, Minh
Đàn đều thuộc Thiền phái Lâm Tế.
Bộ tượng cổ nhất ở chùa Vĩnh Tràng là bộ Tam Tôn (Di-đà, Quan Âm, Thế Chí) bằng
đồng. Tiếc rằng tượng Quan Âm đ bị thất lạc từ lu. Sau ny Hịa thượng Chánh Hậu
phải thuê thợ làm tượng khác bằng gỗ thế vào cho đủ bộ. Tượng Ngọc Hoàng cũng
bằng đồng, to gần bằng người thật, cùng phong cách với tượng Già Lam, Đạt-ma ở
chùa Bửu Lâm. Khác với thông lệ xưa nay, Ngọc Hoàng ở đây không có Nam Tào, Bắc
Đẩu cầm sổ sinh tử đứng hầu hai bên. Thay vào chỗ đó là Ông Thiện và Ông Ác.
Hai bên tường chánh điện là bàn thờ Thập điện Minh Vương. Đặc biệt ở đây có bộ
Thập bát La-hán là những tác phẩm chạm khắc gỗ độc đáo mà một số nghệ nhân ở
Nam Bộ đ tạc vào năm 1907 theo sự chỉ đạo của Hịa thượng Chánh Hậu. Bộ tượng
này bằng danh mộc, mỗi tượng cao khoảng 0,80m, bề ngang 0,58m, được đặt hai bên
điện Phật gọi là sáu căn : mắt, tai, lưỡi, mũi, thân và ý; ở ba thời: qu khứ,
hiện tại v vị lai. Cc tượng La-hán này được tạo hình cn đối, sinh động, cỡi
trên các con thú như trâu, bị, ngựa, lạc đà, hà mã , tê giác v.v.
Trong khuôn viên chùa Vĩnh Tràng có nhiều chậu cây cảnh, hòn non bộ được chăm
sóc thường xuyên. Dưới bóng cây, tháp Hòa thượng Chánh Hậu và gia đình được xây
dựng bề thế có tường rào bao bọc.
Nhìn chung, vẻ đẹp của chùa Vĩnh Tràng tập trung ở nghệ thuật tạo hình. Có ý
kiến cho rằng có thể xem chùa Vĩnh Tràng là một bản tổng kết lịch sử mỹ thuật
của đất Tiền Giang.
Hiện chùa Vĩnh Tràng l2 nơi đặt văn phòng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật gio và
trường Cơ bản Phật học tỉnh Tiền Giang. Chùa được trở thành điểm du lịch và
hành hương của tỉnh, thu hút du khách và Phật tử hàng ngày. Tết Tân Dậu (1982)
nhà thơ Xuân Thủy đ đến viếng chùa và viết tặng một bài thơ :
Đức Phật giàu tình thương
Nên chùa tên Vĩnh Tràng
Nhà sư vốn yên nước
Lòng như sông Tiền Giang
Đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho xưa
“Ngày xưa, người Pháp mở tuyến đường xe
lửa Sài Gòn-Mỹ Tho với mục tiêu là nối liền tuyến xuyên Việt và ý định kéo dài
sang tận PhnomPenh, Campuchia.” Bác Tân Văn Công, 80 tuổi, làm nghề dạy học tại
Mỹ Tho từ năm 1943, nhớ lại. Lý do mở tuyến xe lửa nầy, theo bác, vì thời đó Mỹ
Tho là đầu mối trung chuyển hàng hóa cho Sài Gòn và Nam Kỳ lục tỉnh, do các
tỉnh miệt dưới như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng... đường bộ gặp trở ngại vì phải
qua 2 con sông Hậu và sông Tiền. Có lẽ cũng vì trở ngại đó mà đường xe lửa chỉ
tới Mỹ Tho và nhà ga chót dừng lại ở đầu đường Trưng Trắc, bên bờ sông Tiền,
gần vườn hoa Lạc Hồng hiện giờ. Hồi đó, ga xe lửa nằm trong dãy nhà ngói xưa,
cất theo kiểu Pháp (chỗ sau nầy là nhà sách) cùng với hệ thống phòng trọ và
dịch vụ kéo dài đến chỗ Bưu điện Mỹ Tho ngày nay.
Nằm cạnh ga xe lửa còn có bến tàu với “3 cầu tàu lục tỉnh”. Toàn bộ hành khách
và hàng hóa từ Sài Gòn đi xe lửa tới Mỹ Tho sẽ xuống tàu đi lục tỉnh và ngược
lại, hành khách và sản vật, cây trái từ lục tỉnh đi bằng tàu tới Mỹ Tho cũng
lên xe lửa rồi đi tiếp về Sài Gòn. Cũng vì vậy mà Mỹ Tho xưa được xem là “đầu
mối trung chuyển.” Vào thời đó ga xe lửa Sài Gòn nằm ở đầu đường Lê Lai bây
giờ, gần khách sạn Saigon New World. Từ Sài Gòn đi Mỹ Tho, ga thứ nhất gọi là
Chợ Lớn Mới, nằm bên hông chợ An Đông. Kế đến là ga Chợ Lớn trên đường Hùng
Vương, gần mấy bồn nước sơn màu đen hiện giờ vẫn còn. Các ga tiếp theo là Phú
Lâm, Cây Mai, Bình Chánh, Gò Đen, Tân An, Tân Hương, Ông Táo, Tân Hiệp, Trung
Lương và Mỹ Tho.
Cũng theo bác Tân Văn Công thì đầu tiên xe lửa chạy bằng hơi nước. Từ Sài Gòn
về Mỹ Tho đường rầy xe lửa chủ yếu nằm phía trái, thỉnh thoảng có đoạn nằm bên
phải của quốc lộ 1 bây giờ, xưa gọi là đường Cái Quan, lộ Đông Dương, sau đổi
lại là quốc lộ 4. Hồi đó ở đoạn Bình Chánh có xảy ra vụ tai nạn lớn nhất thời
bấy giờ, làm thiệt mạng gần 20 người, do chiếc xe đò Hữu Lợi chạy vào đường rầy
khi xe lửa đang băng qua, dù ở 2 đầu đã có rào cản, khiến báo chí nói cả tháng
trời. Đến khoảng thập niên 1930 thì xe lửa chuyển sang chạy bằng dầu diesel,
còn gọi là Autorail. Sự khác biệt của Autorail là thiết kế đẹp hơn, tốc độ
nhanh hơn, tiếng ồn nhiều hơn, toa khách có cửa sổ nhìn ra bên ngoài, tiếng còi
kêu “hoét, hoét”, trong khi xe lửa chạy bằng hơi nước thì tiếng còi kêu “pin,
pin”. Đầu tiên xe lửa chỉ có ghế ngồi bằng băng gỗ, xếp dọc theo 2 bên thành
xe. Tuyến đường xa thì có hạng nhất, hạng nhì, có phòng riêng, bên trong có 2
tầng và giá vé cũng mắc tiền hơn. Riêng tuyến Sài Gòn-Mỹ Tho thì chỉ có một hạng
thường, do đoạn đường ngắn.
Dù đường Sài Gòn-Mỹ Tho dài chỉ 70 cây số nhưng ngày xưa đi bằng xe lửa cũng
mất chừng 2 tiếng rưỡi. Vì chỉ có một đường rầy duy nhất nên tới ga chót Mỹ
Tho, muốn trở đầu để chạy trở lại Sài Gòn thì xe lửa phải... thụt lùi chừng 2
cây số từ vườn hoa Lạc Hồng theo đường Lý Thường Kiệt bây giờ, ra ngoài đồng
thì có đường vòng cung. Tại đây đầu xe lửa tách ra khỏi toa rồi chạy vào một
đoạn đường rầy khác để nối vào đuôi toa xe lửa và lại chạy thụt lùi trở về nhà
ga Mỹ Tho để đầu xe lửa quay về hướng Sài Gòn.
Bác Tân Văn Công kể :“Hồi nhỏ, vào những buổi chiều tôi hay nhảy theo xe lửa
chạy ra ngoại ô để trở đầu. Giếng nước Mỹ Tho hiện giờ chia làm 2 cũng vì hồi đó
có đường xe lửa chạy ở giữa.”
Chính xác đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho ngừng hoạt động vào năm nào thì bác Tân
Văn Công nói mình không nhớ rõ lắm. Bác chỉ nhớ “vào thời ông Diệm, khoảng năm
1959 tôi vẫn còn đi xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho.” Bác Công kể tiếp :“Nhớ hồi học xong
tiểu học và thi vào lớp đệ thất trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, thầy cho
bài luận văn bằng tiếng Pháp và yêu cầu “Trò hãy tả người nhổ răng dạo trên toa
xe lửa” mới thấy ảnh hưởng của xe lửa thời bấy giờ. Hồi đó Trường Nguyễn Đình
Chiểu mỗi năm chỉ tuyển 200 học sinh cho cả vùng lục tỉnh, còn khó hơn thi đại
học bây giờ. Lần đó tôi bị rớt nên phải lên Sài Gòn học ở trường tư thục Đồng
Nai, đường Bùi Thị Xuân và ở nội trú trong trường. Lúc đó phát xít Nhật đã qua,
ban đêm sợ đồng minh ném bom nên hầu hết trường học trong nội thành đều phải
tản cư ra vùng Chợ Lớn. Thường buổi chiều không biết làm gì, bọn học trò nội
trú lấy đá xanh để vào đường rầy cho xe lửa chạy ngang cán xẹt lửa coi chơi.”
Vì sao ga xe lửa Mỹ Tho xưa lại nổi tiếng trong thời Pháp thuộc? Theo bác Tân
Văn Công, vì đây là ga chót nối với các tuyến thủy bộ xuống Nam Kỳ lục tỉnh và
hồi đó, sau Sài Gòn thì Mỹ Tho là một trong 3 tỉnh lớn nhất vùng. Có 2 quyển
sách viết bằng tiếng Pháp nói về ga xe lửa Mỹ Tho mà bác Công được đọc. Quyển
thứ nhất là của một nhà văn Pháp, từng là lính hải quân, có qua Đông Dương và
đi xe lửa tới Mỹ Tho để đi tàu xuống lục tỉnh, đã mô tả ga xe lửa Mỹ Tho mang
dáng dấp giống như những ga xe lửa bên Pháp. Một quyển sách khác của tổng bí
thư đảng cộng sản Pháp thời đó mà bác Tân Văn Công không nhớ rõ tên. Vị nầy sau
khi sang VN về đã viết quyển Indochinois, chỉ trích chính sách kỳ thị dân tộc
của thực dân Pháp thời bấy giờ. Theo mô tả thì tác giả đã đi cùng với nhà cách
mạng Nguyễn An Ninh xuống ga Mỹ Tho, cùng Nguyễn An Ninh vào một bungalow (một
dạng nhà trọ xưa) để ở nhưng bị từ chối vì nơi đó chỉ dành cho người Pháp và Âu
châu. Chỉ một dân tộc Á châu được vào ở là Nhựt Bổn.
Nhà ga Mỹ Tho xưa kiến trúc theo kiểu
Pháp, mái ngói, vách tường, cửa vòng nguyệt, có chỗ bán vé, chỗ khách ngồi chờ,
có cân dùng để cân hành lý và ai chở nặng thì phải trả nhiều tiền. Ticket xe
lửa hồi đó được làm bằng loại giấy rất dầy và cứng. Sau khi thu tiền, người bán
vé đưa ticket vào máy đục lỗ và phát ra một tiếng kêu rất vui tai. Khi hành
khách lên xe, người soát vé còn bấm ticket một lần nữa. Đường Sài Gòn-Mỹ Tho
xưa mỗi ngày có 4-5 chuyến.
Chuyến đầu tiên đi Sài Gòn khởi hành khoảng 4 giờ sáng, phục vụ công chức nhà ở
Mỹ Tho nhưng làm việc ở Sài Gòn. Bác Tân Văn Công kể có một người quen làm việc
tại Mỹ Tho nhưng chiều nào cũng đi chuyến xe lửa chót lên ga Sài Gòn ở đường Lê
Lai. Tại đây có một quán rượu và một người đẹp mà vị khách nầy thích nên cứ tới
ngồi nhâm nhi cho tới sáng rồi đi chuyến xe lửa sớm nhất trở về Mỹ Tho. Mới
hay, dù khoảng cách xa xôi, nhưng giao thông thuận tiện thì ngày xưa cũng không
hề bị cách trở.
ANH HÙNG DÂN TỘC TRƯƠNG ĐỊNH
Trương Định nhân dân còn gọi là Trương
Công Định để tỏ lòng tôn kính. Ông sinh năm 1820 tại xã Tư Cung, huyện Tịnh
Sơn, tỉnh Quãng Ngãi là con quan Trương Cầm-Lãnh binh tỉnh Gia Định
Trương Định thuở nhỏ tướng mạo khôi ngô, thông hiểu binh thư, võ nghệ. Đặc biệt
là bắn rất tài. Thời Triệu Trị 1844, ông theo cha vào
Năm 1854, Trương Định xuất tiền của chiêu mộ dân nghèo, lập đồn điền Gia Thuận.
Ông được phong chức Quản Cơ.
Khi giặc Pháp đánh thành Gia Định 2/1859, Trương Định đưa cơ binh gia nhập đội
quân của triều đình chống giặc, ông thường đi tiên phong lập được nhiều chiến
công. Một trong những chiến công nổi tiếng là phục kích giết chết tên Đại úy
Barbe, trừng trị nhiều tên tay sai của giặc Pháp, trong đó có Bá hộ Huy ở Đồng
Sơn, tiến công các đồn giặc ở Gia Thạch, Rạch Gầm và nhiều lần đánh đồn Kỳ Hoà.
Tháng 3/1862 quân Pháp rút chạy khỏi Gò Công.
Ngày 5/6/1862, triều đình nhà Nguyễn ký hoà ước Nhâm Tuất giao 3 tỉnh miền Đông
cho Pháp, hạ lệnh cho Trương Định bãi binh và đi nhận chức Lãnh Binh ở An
Giang. Nhưng theo yêu cầu của nhân dân và các nghĩa sĩ Trương Định đã khước từ
lệnh của triều đình và nhận danh hiệu " Bình Tây Đại Nguyên Soái " do
dân phong, tiếp tục lãnh đạo các cuộc chiến đấu chống giặc Pháp.
Ngày 20/08/1864 do sự phản bội chủ Huỳnh Văn Tấn căn cứ Trương Định bị bao vây
chặt. Trong cuộc chiến đấu không cân sức, Trương Định bị trọng thương. Không để
rơi vào tay giặc, ông đã dùng gươm tự sát để bảo toàn thanh danh, khí tiết của
người anh hùng - khi ấy ông 44 tuổi.
Trương Định là hình ảnh tiêu biểu của nhân dân Gò Công, của nhân dân Nam Bộ bất
khuất kiên quyết chống giặc Pháp xâm lược nửa sau thế kỷ thứ 19.
Khu di tích gồm lăng mộ và tượng đài Anh hùng dân tộc Trương Định toạ lạc trong
nội ô thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
Ẩm Thực Tiền Giang
Nấu mẳnĐây là một trong những món ăn đặc trưng của văn hóa ẩm thực vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nó thể hiện rất rõ nét tính hoang dã và hào phóng của vùng đất mới. Không là kho, không là canh, nó nằm giữa hai món đó.
Hủ tiếu Mỹ
Tho - Tỉnh Tiền Giang
Hủ tiếu Mỹ Tho khác hủ tiếu Tàu, hủ tiếu Nam Vang, phở Bắc, bún bò Huế... ở chỗ
không ăn với xà lách, giấm, rau ghém, mà dùng giá sống, chanh, ớt, nước tương.
Ðiều làm nên hương vị riêng khiến cho hủ tiếu Mỹ Tho trở nên nổi tiếng và nhiều
người "bén mùi" kể từ thập niên sáu mươi nhờ sự hoàn thiện từ khâu
chọn hột gạo làm ra cọng bánh tới nồi nước lèo cùng tuyệt kỹ pha chế của các
đầu bếp trứ danh đất Mỹ Tho như: Phánh Ký, Nam Sơn, Tuyền Ký... cùng các lớp
thợ nấu sau này
Bún gỏi già Mỹ
Tho - Tiền Giang
Không biết món ăn này xuất xứ từ đâu. Nhưng tôi chưa thấy trên thành phố này có
một nơi nào bán món này cả, cả tên gọi cũng rất khác biệt. Bún gỏi già... Tôi
không thể giải thích được vì sao nó lại có tên như thế. Mỗi lần về Mỹ Tho là
tôi lại chạy ra quán ăn quen thuộc, gọi một món quen thuộc:” Bún gỏi già”. Chắc
các bạn sẽ thắc mắc lắm vì không biết tại sao cái món bún có cái tên lạ tai lại
làm tôi thích thú... Tôi ăn nhiều rồi, nhưng chưa lần nào thử nấu cả, không
phải lười biếng đâu, vì không có bí quyết, tôi sợ mình sẽ làm hư món khoái khẩu
của mình.
Cá bống dừa -
Tiền Giang
Cũng như tôm tép có nhiều loại, cá bống cũng thế. Nào là: bống mú, bống vượng,
bống cát, bống trứng, bống nhật, bống sao, bống bọt, bống xèo, bống nhảy...
Trong các loại bống đó, tôi đặc biệt nhớ loài cá bống dừa. Có lẽ vì vùng quê
tôi (thuộc huyện Gò Công Tây - Tiền Giang) chúng sinh sản nhiều, sống thích hợp
với địa thế dừa nước (lá dùng lợp nhà) mọc đầy ven sông rạch. Bống dừa vảy
nhuyễn, miệng rộng, lưng đen, lườn trắng; con to cỡ nửa cổ tay, hiếm khi lớn
hơn.
Mắm còng xứ rẫy
Gò Công
Ở Gò Công Tiền Giang, rẫy là tên gọi chung của những miền đất thấp, ven các
kênh rạch, hằng năm thường bị nhiễm mặn trong một thời gian khá dài. Ðiển hình
như các xã cặp theo sông Trà là Ðồng Thạnh, Ðồng Sơn, Bình Phú, Thành Công của
huyện Gò Công Tây hay Bình Ðông, Bình Xuân cặp theo sông Soài Rạp, Phú Ðông,
Phú Tân kẹp giữa hai vàm Cửa Tiểu và Cửa Ðại của huyện Gò Công Ðông. Miệt này,
mỗi năm bà con chỉ có thể canh tác được có 1 vụ lúa mùa.
Sam biển Gò Công
- Tiền Giang
Ngoài các loại cá tôm thiên nhiên ưu đãi, ở vùng biển xã Vàm Láng, Tân Thành,
huyện Gò Công Ðông (Tiền Giang) có đặc sản khá hiếm: sam biển. Với hình thù lạ
mắt: vỏ cứng như mai cua, mình tròn dẹt, đường kính độ gang tay, tám chân càng
nhỏ dưới bụng, phần đầu là mũi nhọn ba cạnh rất linh hoạt dài cỡ 20 cm. Khoảng
từ tháng 10 cho tới tháng 2 âm lịch, sam bắt cặp phối giống và sau đó sam cái
mang bụng đầy trứng nhỏ như hạt tiêu đợi ngày sinh nở. Gió chướng thổi về,
người dân ven biển chúng tôi sáng sớm đi dọc bờ thỉnh thoảng vẫn bắt được những
cặp sam tấp mé.
Chuối quết dừa - Tiền Giang
Kể từ khi xuất hiện trên AT tháng 5.1992 với món ăn bình dân mà vô cùng hấp dẫn
cho cả "mày râu" lẫn "kẹp tóc" là xòai tượng mắm đường đến
nay, tôi cứ mãi bận rộn với những lo toan đời thường mà quên khuấy đi cái
nghiêp... ăn uống vốn dĩ là một trong những "tứ khóai" của thiên hạ,
thật là sai sót biết chừng nào! Hôm qua, nhân dịp về một làng nhỏ hiền hòa nằm
bên bờ sông Tiền lộng gió, chúng tôi có dịp thưởng thức một món ăn hòan tòan
"cây nhà lá vườn" và đậm đà hương vị đồng quê đến nỗi khi lên xe trở
về, ai nấy cũng chắc lưỡi hít hà khen ngon quá xá. Đó là món ăn mà ngọai tôi
gọi đơn giản là chuối quết dừa.
Những Thông Tin Cần Thiết Cho Quý Khách Khi Đi Du lịch Tiền Giang
_ TP. HCM đi Mỹ Tho theo quốc lộ 1A , dài
71 km có thể đi về trong ngày bằng xe gắn máy dễ dàng
_ Khi tới ngã ba Trung Lương du khách nên ghé vào nhà hàng Trung Lương vì các
quán khác tại khu vực này thường đắt hơn và không ngon bằng
_ Mã điện thoại vùng là 073
_ Đường Trưng Trắc là con đường đầy màu sắc nhất của Thành phố
_ Bến đò du lịch ở đọan đường 30-4 do công ty độc quyền tổ chức các
chuyến tham quan không có thuyền tư nhân . Vé tàu đi lẻ là 40000 đồng
_ Phà Rạch Miễu để qua sông Tiền vào tỉnh Bến Tre . Ngay bến phà tỉnh Bến tre
cũng có trạm bán vé đi tham quan Cồn Phụng.
Những điều cần biết khi du lịch Miền Tây
Khi đến với du khách cần phải nắm bắt kỷ
những thông tin và giá cả nơi đây nếu như khách đi riêng mà không đi theo Tour
của công ty du lịch.
Khi tham gia vào Tour Tiền Giang này ngoài việc tham quan sông nước miệt vườn,
tham quan vườn cây ăn trái, tham quan thắng cảnh đẹp…quý khách còn có thể mua
sắm bất cứ thứ gì khách muốn; vì nơi đây đồ ăn, hàng hóa rất rẻ nhưng nếu như
khách muốn mua “đúng cách” (không bị lầm giá) thì hãy tham khảo ý kiến các
hướng dẫn viên.
Trên chuyến đi với một chiếc máy ảnh du khách có thể chụp laị những khung cảnh
đẹp ở nơi đây, mua những đặc sản nơi đây về cho gia đình, bạn bè… đó cũng là những
món quà đáng quý biết bao.
Chẳng những thế trước khi đến với miền tây du khách phải tìm hiểu trước các Nhà
Hàng-Khách Sạn để du khách có thể nghĩ nghơi ở những nơi an toàn sạch sẽ không
hại đến chính bản thân chúng ta.
Không nên đi dạo một mình vào buổi tối, tránh nơi đông ngươì để đảm bảo sự an
toàn của bạn.
Đứng trên cầu Rạch Miễu, nghĩ về “Tứ linh”
Rất khó có cây cầu nào như cầu Rạch Miễu.
Đứng trên cầu mà hướng về biển Đông sẽ bắt gặp bốn cù lao “chụm đầu” lại, hợp
thành “Tứ linh” giữa sông nước mênh mông. Khen ai khéo đặt tên cồn để có được
một bộ “Tứ linh”: Long, Lân, Quy, Phụng. Mỗi cù lao đều có nét đặc thù, mang
sắc thái riêng tạo nên một quần thể sinh động.
Vừa hết đoạn dây văng, cầu Rạch Miễu đổ xuống cồn Lân, còn gọi là cù lao Thới
Sơn. Nhìn lên bản đồ, cù lao Thới Sơn như thể “long chầu” trong cung đình Huế.
Thới Sơn đang sở hữu bốn cái “nhất”: tuổi đời cao nhất, diện tích lớn nhất,
cũng được coi là đẹp và hài hòa nhất trong “Tứ linh”. Lịch sử mở đất của Thới
Sơn thật hào hùng. Có thể nói mỗi mảnh vườn, con rạch Thới Sơn đều ghi dấu
chiến công của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm. Sang
thế kỷ XX, nơi đây lại ghi đậm chiến công của các “dũng sĩ diệt Mỹ” trên vành
đai Bình Đức nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Cồn
Lân
Đất Thới Sơn màu mỡ, con người Thới Sơn hiền hòa, cần cù, chân chất cùng với
bàn tay khéo léo luôn tạo nên một diện mạo mới. Đến Thới Sơn không chỉ ngắm
nhìn cảnh sắc miệt vườn, thưởng thức hương vị ngọt ngào của cây trái xứ cồn, mà
còn chiêm ngưỡng những công trình mà người dân nơi đây gìn giữ từ thuở khai
hoang, lập ấp. Dẫu trải qua bao tháng năm mưa bom, bão đạn, nhưng ngôi nhà chữ
đinh theo phong cách cổ xưa, cùng với vật dụng trong nhà được khảm xà cừ tinh
xảo, sắc màu lấp lánh, đôi liễn sơn son, thiếp vàng của Nguyễn Văn Vinh vẫn còn
đó, thách thức thời gian.
Đến Thới Sơn còn là để được thưởng thức rượu mật ong, cùng tấm lòng đôn hậu của
người phụ nữ với chiếc áo bà ba, khăn rằn quấn cổ, chèo xuồng trên sông rạch,
đưa khách đến những làng nghề truyền thống như đan len, thêu thùa, cùng nhịp
nhàng tát mương bắt cá với khách… một hoạt động thường nhật của người dân Nam
bộ, luôn chân thành, quyến rũ. Đến đây còn có nhiều loại hình giải trí đậm nét
chân quê, dân dã như nhảy dây, nhảy kẹng, đu quay,… rõ nét văn minh miệt vườn.
Quả là thú vị.
Nằm kế cạnh cồn Lân là cồn Phụng, còn gọi là cù lao Tân Vinh, nơi có di tích
đạo Dừa do Nguyễn Thành
Trong “Tứ linh”, chỉ có cồn Thới Sơn và cồn Phụng là có đờn ca tài tử. Nếu như
ở Thới Sơn du khách có thể tận hưởng những thanh âm mượt mà, sâu lắng từ tiếng
đàn, lời ca qua dòng nhạc tài tử của gia đình ông Nguyễn Văn Du có đến 5 thế hệ
nối tiếp nhau cứ “ngọt lịm” như hương vị cây trái của xứ cù lao, thì ở cồn
Phụng, những câu hò, điệu lý như âm vang, mặn mà thêm từ ngón tay, giọng hát
điêu luyện của các tài tử mang về từ nhiều miền quê khác nhau của Bến Tre, có
cùng đam mê một loại hình nghệ thuật của cha ông và cách duy trì một nền âm
nhạc cổ truyền của dân tộc, được phát ra từ một hang đá nhân tạo mát lạnh bởi
làn gió trong lành miền sông nước.
Ở cồn Phụng cũng có nhà hàng, nhà nghỉ. Khu giải trí với phong cảnh hài hòa,
độc đáo. Cồn Phụng còn có bánh tráng Mỹ Lồng, đặc sản của Bến Tre. Khách sẽ
trực tiếp chứng kiến, thậm chí tham gia từ khâu chọn gạo, nạo dừa, cùng với bàn
tay khéo léo, không ít điệu nghệ của người xứ dừa tráng bánh, phơi bánh vừa
mỏng vừa tròn, đẹp lại vừa ngon, ngọt.
Nếu như người Bến Tre tự hào về dừa, thì dân cồn Phụng chính là người đi tiên
phong làm cho cây dừa tăng thêm giá trị. Xót xa thấy thân dừa ngã xuống vì bom
đạn, họ đã “tận dụng” nó để làm đũa ăn, đũa bếp phục vụ con người. Từ khung
cảnh thơ mộng trên cồn Phụng đã hình thành một “làng” nghề thủ công mỹ nghệ từ
nguyên liệu dừa, nhanh chóng lan rộng khắp Bến Tre và không ngừng lớn mạnh.
Cùng với bàn tay của hàng ngàn nghệ nhân xuất thân từ nông dân giàu sáng tạo,
những sản phẩm xinh xắn có thể sử dụng trong nhà bếp cho đến trang trí phòng
ngủ, phòng khách, từ nhà ở bình dân đến khách sạn sang trọng, từ trong nước ra
nước ngoài. Đi đâu cũng thấy cây dừa phục vụ cho đời, với nét tinh xảo kết tinh
từ tình người, tình đất Bến Tre, không ngừng tô đẹp thêm cho sắc diện quê
hương.
Thiên nhiên lại khéo sắp đặt khi hai đầu cồn Thới Sơn và cồn Phụng hướng về cồn
Rồng, phía xa bên kia của sông Tiền, người đời gọi là cù lao Tân Long. Cù lao
Tân Long hình thành đã lâu, nhưng chỉ được khai thác chừng trăm năm nay. Để
tránh bom đạn trong chiến tranh, người Bến Tre đã đến đây sinh sống, và ngày
nay Tân Long trở thành đơn vị hành chánh của thành phố Mỹ Tho thuộc tỉnh Tiền
Giang. Ngoài vườn cây trái, Tân Long cũng nuôi cá bè như những cồn khác trong
“Tứ linh”. Khác hẳn là ở bờ Bắc, có cảnh quan nhộn nhịp bởi đội tàu đánh cá
trên vùng biển phía
Image
Cồn Phụng
Tân Long còn có lợi thế về nghề nuôi thủy sản. Cù lao hiện có trên 500 bè cá,
đủ các loại có giá trị như cá chép, điêu hồng, cá tra, rô phi. Chỉ cần 50 - 60
m2 bè, mỗi năm sẽ thu về gần 10 tấn cá. Một nguồn lợi lớn.
Người em út trong “Tứ linh” là cồn Quy, mới được khai phá từ những năm 60 của
thế kỷ XX, vẫn còn dấu vết hoang sơ, nhưng không kém phần hấp dẫn đối với du
khách. Đâu có mảnh đất nào mà không có nghĩa tình của những bàn tay lao động.
Những cảnh sắc quyến rũ của quá trình mở mang khai phá mảnh đất này vẫn còn lưu
giữ, cùng với con người cần cù, phóng khoáng và đất đai màu mỡ, đã làm từng mầm
cây trở thành những khu vườn quả ngọt, trái say.
Cồn Quy nổi danh vì cây trái có hương thơm đặc biệt. Nhãn hồng, nhãn tiêu cơm
dày ngọt lịm. Khi đến mùa nhãn trổ hoa, người cồn Quy thanh thản vui với đàn
ong kêu chăm chỉ. Dù chỉ nuôi nghiệp dư, ong cồn Quy vẫn cần mẫn chắt lọc hương
vị đậm đà của hoa, những gì tinh túy của nắng, của gió và phù sa tặng lại cho
con người, một thùng cũng được vài lít mật mỗi mùa. Người cồn Quy gắn với vườn
cây và con rạch. Họ sẵn lòng giới thiệu khách phương xa những món ăn đậm đà
hương vị đồng quê. Ngoài uống nước dừa tại gốc, còn có nhãn, có mận, có cam,
quít, bưởi quanh năm, là món tôm càng xanh nướng, luộc, làm gỏi tự thích cùng
với tấm lòng đôn hậu của người dân nơi đây, sẽ níu khách lại bởi một tình cảm
ấm cúng trong gia đình.
Đi sâu vào ba dãy cù lao, Bến Tre còn có những vườn cây trái ở Cái Mơn, Sơn
Định, Vĩnh Bình (Chợ Lách) hay Tiên Long, Tiên Thủy, Tân Phú (Châu Thành) cứ
như quấn lấy chân người. Vườn chim Vàm Hồ, khu rừng Liệt Địa ở Ba Tri, du khách
thỏa thích tận hưởng những gì còn hoang dã. Và chỉ cần qua Cống đập Ba Lai,
xuôi về Thừa Đức, tha hồ ngâm mình trong nước biển Đông. Bến Tre còn có các
danh nhân như nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu; tiến sĩ đầu tiên Nam kỳ lục tỉnh Phan
Thanh Giản; nhà giáo Võ Trường Toản; chí sĩ Phan Văn Trị; nhà bác học Trương
Vĩnh Ký; nữ tướng Nguyễn Thị Định, … Còn có khu lưu niệm Đồng Khởi và đầu cầu
của chuyến tàu không số chở vũ khí từ Bắc vào Nam. Về những nơi này sẽ biết
thêm tình người, tình đất Bến Tre thủy chung, sâu lắng và nồng thắm.
Ngày 19-1-2009, cầu Rạch Miễu sẽ chính thức được đưa vào sử dụng, sẽ xóa đi
cảnh ngăn sông cách trở của Bến Tre, là điều kiện để cho tỉnh phát triển thuận
lợi hơn. Nhưng khi đường cao tốc từ thành phố Hồ Chí Minh về miền Tây đưa vào
vận hành và cùng vài thứ khác nữa, lúc ấy Bến Tre mới thật sự trở thành “lá
phổi” lý tưởng cho thành phố và các khu công nghiệp trong những ngày nghỉ cuối
tuần, ngày lễ, ngày tết.
Cháo khuya đồng bằng (Mỹ Tho. Tiền Giang)
Về miền Tây, nghỉ qua đêm trong trung tâm
phố thị, nửa khuya bụng cồn cào, tỷ như ở Rạch Giá thì ngay bùng binh sắp tới
tượng đài Nguyễn Trung Trực. Ở Long Xuyên thì sau đình Thành Hoàng. Cà Mau thì
ngay góc chợ ở cầu Mới xuống quẹo trái...có món giữa khuya.
Hồi xưa, có khi chỉ có gánh cháo, xe cháo trắng ăn với phá lấu, hột vịt muối
của mấy chú Tàu. Và để đa dạng hóa, các chú Tàu chế thêm món dưa mắm, người
Việt thì làm cá cơm kho quắc, tép rang, khứa cá lóc, cá trê kho khô. Cháo trắng
mà nấu với lá dứa thơm hay cháo đậu đen chan nước cốt dừa, nghe có vẻ tầm
thường nhưng lại là các món "độc" giữa lúc đang đói lòng.
Ở Mỹ Tho cháo trắng ngon nhưng không bằng cháo "phá lấu". Xe cháo nằm
trong căn nhà nhỏ, tủ treo lòng heo, phá lấu, bên trong nồi cháo trắng nghi
ngút khói. Bước vào chủ quán biết khách cần gì, tay liên tục nhịp dao trên
thớt. Một đĩa lòng, phá lấu đủ thứ cùng với cháo trắng nóng bưng ra. Dân sành
ăn bao giờ cũng xem có đĩa dưa cải phá lấu, vùa mằn mặn, vừa chua ngọt rồi bắt
đầu mới gắp từng thứ bỏ vào tô cháo nóng hổi, hết tô cháo mồ hôi vã ra, vị chua
mặn, miếng phá lấu giòn giòn cứ như đọng lại trong miệng.
ở đồng bằng thả bộ xuống phố, xem dân địa phương sinh hoạt về đêm và thưởng
thức món cháo phá lấu Mỹ Tho, một phần ăn chỉ khoảng năm ngàn đồng bạn sẽ cảm
nhận sự thú vị của bữa cháo giữa khuya.
Lê Duy
Địa chỉ: Quán Cháo Phá Lấu, 3 Đinh Bộ Lĩnh,P3, Tp.Mỹ Tho, Tiền Giang
Xứ biển Gò Công
Nếu có dịp tới Tiền Giang, mời du khách
ghé thăm 2 điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh, đó là: Lăng Hoàng Gia và Di tích
khảo cổ Gò Thành.Lăng
Hoàng Gia
Lăng Hoàng Gia là một di tích lịch sử thuộc triều Nguyễn, tọa lạc tại Giồng Sơn
Quy (Gò Rùa), ngày nay thuộc ấp Hoàng Gia, xã Long Hư*ng, thị xã Gò Công, tỉnh
Tiền Giang.
Ông Võ Thành Sơn, ngư*ời quản lý Khu Di tích lăng Hoàng Gia cho biết: Dòng họ
Phạm đã sống lâu đời ở đất Gò Công. Ông Phạm Đăng Khoa là ngư*ời khai hoang lập
nghiệp ở xứ này. Phạm Đăng Hưng là hậu duệ đời thứ tư*, ông làm quan dư*ới
triều Minh Mạng. Nhân dân thường gọi là ông “Ba Bị" vì lúc làm Điền Tuấn
Quan, đi đâu ông cũng mang theo ba bị hạt ngũ cốc để phân phát cho nông dân
nghèo những khi thiên tai, hạn hán, bão lụt. Phạm Đăng Hưng sinh năm 1764 tại
Giồng Sơn Quy.
Năm 1825, Phạm Đăng H*ưng bị bệnh mất tại Huế, đ*ược Vua Minh Mạng thăng hàm
Vinh lộc đai phu, Trụ quốc hiệp biên, Đại học sĩ, Thụy Trung Nhã và đưa về an
táng tại Sơn Quy. Lăng mộ Phạm Đăng Hư*ng tọa lạc trên một gò cao có dáng mu
rùa, mộ xây theo tam cấp, tứ trụ, diện tích hơn 800m². T*ương truyền thi thể
Phạm Đăng H*ưng được chôn ngồi. Trước mộ có tấm bia đá Cự Thạch.
Năm 1849, Phạm Đăng Hưng được Vua Tự Đức gia phong, truy tặng Đặc tiến Kim Tử -
Vinh Lộc Đại phu Thái bảo Cần Chánh Điện, Đại học sĩ, t*ước Đức quốc Công. Ông
là ông ngoại vua Tự Đức, cha của Hoàng thái Hậu Từ Dũ, tước Đức quốc công, nên
nhà thờ ông đ*ược sửa sang theo kiến trúc và nghi thức cung đình, có đặt nhiều
biển đại tự để thờ: Gian chính giữa thờ Đức quốc Công Phạm Đăng Hưng. Gian tả
thờ ông Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hư*ng. Gian tả ngoài cùng thờ ông
Phạm Đăng Tiên (cố). Gian hữu thờ ông Phạm Đăng Dinh (nội). Gian cuối bên hữu
thờ ông Phạm Đăng Khoa (sơ).
Nhà thờ và mộ Phạm Đăng H*ưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật thời
Nguyễn, mang đậm phong cách truyền thống dân tộc qua các mảng chạm khắc trên mộ
và trang trí bên trong nhà thờ bằng những điển tích rút ra từ "tứ linh tứ
quý" theo quan niệm phong thuỷ của ng*ười Á Đông. Toàn bộ nhà thờ nằm trọn
trong khuôn viên mát mẻ, có khá nhiều cây sứ cổ thụ, hoa lá cảnh vật bao bọc
theo kiểu không gian nhà vư*ờn xứ Huế.
Di tích khảo cổ
Gò Thành
Cổng Khu Di tích Gò Thành có kiến trúc theo phong cách Hindu khá ấn t*ượng. Năm
1941, L. Malleret, nhà Khảo cổ học ngư*ời Pháp đã phát hiện ra di chỉ Gò Thành
và sau đó ông đã thu thập đ*ược một số hiện vật. Do nhiều nguyên nhân, mãi cho
đến năm 1988 Khu Di tích này mới đ*ược khai quật.
Trong các năm 1988 đến 1990, Bảo tàng Tiền Giang kết hợp với Trung tâm Khảo cổ
học (thuộc Viện KHXH Quốc gia tiến hành liên lục 3 lần khai quật, khảo sát di
tích này. Sau các lần khai quật, các nhà khảo cổ đã gặp nhiều mảnh gốm cổ bị
vỡ, nhiều vòi bình, nhiều di cốt trâu bò, heo và x*ương cá; nhiều dấu vết tro,
than, vỏ trái cây, lá dừa n*ước, cùng với vài cọc gỗ có dấu vết đục đẽo. D*ưới
độ sâu từ 1,5 đến 3 mét, ở khu vực gò cao, là dấu tích khá rõ ràng của những
đền tháp bằng gạch đ*ược xây dựng cạnh nhau, hiện chỉ còn phần nền. Nền tháp
đ*ược xây dựng kiên cố với những lớp gạch nung. Có những hố giếng hình vuông, ở
giữa có ốc đảo với nhiều kích thư*ớc. Phía đáy hố, ngư*ời ta đôi lúc gặp các mảnh
vàng hình vuông hoặc hình tròn cắt hình cánh sen, có khắc thú vật, thư*ờng là
hình đầu mặt voi, một ít tro. Ng*ười ta cho đây có thể là những bệ thờ hoặc mộ
táng của ngư*ời Phù
Lũy pháo đài Trương Định
Thành đồn pháo đài là một kiến trúc kiên
cổ, chân móng làm bằng đá ong, đá xanh cao 8 mét. Bốn phía có cổng, vọng gác,
rào chắn. Phần giữa đồn là kho vũ khí, giếng nước và vọng lầu chỉ huy. Thành
được đắp theo hình lục lăng. Đá hàn sông do các ghe, thuyền chở từ Biên Hòa về
rồi đục thủng cho chìm xuống để không bị dòng nước cuốn đi và tồn tại đến ngày
nay.
Di tích lịch sử lũy pháo đài thuộc xã Phú Đông, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền
Giang. Thành lũy này do chính anh hùng Trương Định chỉ huy nhân dân xây dựng để
tổ chức đánh Pháp, góp phần vào chiến thắng trong các trận cửa Khâu - Trại Cá
vào những năm 1862 - 1863. Đồn lũy được xây dựng trên một địa hình đặc biệt:
mặt Đông là biển cả, có bãi cát bồi lớn nên tàu lớn không tiến sát được, lại có
rặng cây che khuất. Mặt Bắc là dòng sông Cửu Tiểu, có đập đá làm phòng ngự,
trên bờ gắn liền với thành ngoài, là nơi đặt súng thần công. Mặt Tây có rạch
đồn và sình lầy, rừng rậm. Mặt
Riêng thành đồn pháo đài được kiến trúc rất kiên cố, chân móng là đá ong, đá
xanh cao khoảng 8 mét, rộng từ 3,5 mét đến 4,5 mét. Mặt thành rộng từ 1,8 mét
đến 2,5 mét. Bốn phía có các cổng, vọng gác, rào chắn. Phần giữa đồn có kho vũ
khí, giếng nước và vọng lầu chỉ huy. Thành đắp theo hình lục lăng. Đá hàn sông
do các ghe, thuyền chở từ Biên Hòa về rồi đục thủng cho chìm xuống, do vậy mới
không bị dòng nước cuốn đi và tồn tại đến ngày nay. Lũy Pháo đài thể hiện sinh
động khí phách kiên cường giữ nước, bảo vệ quê hương của nhân dân Nam Bộ trong
những năm kháng chiến chống Pháp.
Đặc biệt ở mặt Bắc là sông Cửa Tiểu có đập đá phòng ngự - nơi đặt súng Thần
công để trấn giữ một cửa biển quan trọng
Lăng Trương Định
Lăng Trương Định tọa lạc ở phường 1, thị
xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Khu di tích gồm lăng, đền thờ và tượng đài anh
hùng dân tộc Trương Định. Mộ ông được xây bằng đá ong là dạng kiến trúc mộ táng
tiêu biểu của người Việt ở Nam Bộ.
Trương Định sinh năm 1820 tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi. Cha ông là
Trương Tầm, giữ chức lãnh binh Gia Định. Từ nhỏ, Trương Định đã có tướng mạo
khôi ngô, thông hiểu binh thư, võ nghệ. Thời Thiệu Trị, ông theo cha vào
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Trương Định lãnh đạo nhân dân đứng lên
chống giặc, làm cho thực dân Pháp bao phen thất điên bát đảo. Ngày 26 tháng 2
năm 1863, Pháp huy động một lực lượng lớn mở cuộc tấn công vào căn cứ nghĩa
quân. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Đến rạng sáng ngày 19 tháng 8 năm
1863 ông rơi vào vòng vây địch. Do có sự phản bội, Trương Định đã tử tiết ngày
20 tháng 8 năm 1864, nêu cao khí phách của một vị tướng anh hùng. Nhân dân đã
chôn cất ông tại thị xã Gò Công.
Mộ Thủ Khoa Huân
Mộ Thủ Khoa Huân tọa lạc tại ấp Hoà Quới,
xã Hoà Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Thủ Khoa Huân tên thật là Nguyễn
Hữu Huân, sinh năm 1830 tại xã Mỹ Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, thuở bé
rất thông minh và học giỏi. Ông đậu thủ khoa trong cuộc thi Hương năm 1852 dưới
triều Tự Đức.
Khi thực dân Pháp lộ rõ âm mưu xâm lược nước ta, ông từ quan, liên kết các sĩ
phu yêu nước, chiêu mộ nghĩa binh đứng lên chống giặc. Trong 15 năm hoạt động,
ba lần bị giặc bắt, ông đã nêu tấm gương sáng về lòng yêu nước và khí phách anh
hùng, chúng đày ông đến đảo Réunion - một hòn đảo Đông
Cuối cùng, chúng xử trảm ông tại quê nhà. Trước lúc chết, ông vẫn ung dung đọc
thơ, tỏ khí phách của một bậc hiền tài yêu nước. Mộ và đền thờ Thủ Khoa Huân
đặt tại xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Tượng đài ông được dựng
tại trung tâm yhành phố Mỹ Tho.
Lăng Hoàng Gia
Lăng Hoàng Gia tên gọi bao gồm mộ chí và
nhà thờ dòng họ Phạm, là “Thích Lý” (họ ngoại của Tự Đức). Khu di tích này nằm
tại Giồng Sơn Quy thuộc thị xã Gò Công. Nhân dân địa phương gọi di tích này là
Lăng Hoàng Gia. Ấp có di tích này mang tên ấp Hoàng Gia, xã Sơn Quy, thị xã Gò
Công, tỉnh Tiền Giang. Từ 1987, Lăng Hoàng Gia nằm trong ấp Hoàng Gia thuộc xã
Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
Nằm trọn trong xóm dân cư, Lăng Hoàng Gia ở địa thế thuận lợi cho đường ô tô
đến di tích nên dễ quy hoạch thành nơi tham quan du lịch.
Dòng họ Phạm là dòng họ sống lâu đời ở Gò Công. Phạm Đăng Khoa là người khai cơ
lập nghiệp của dòng họ ở đây. Mộ chí của ông còn tại Giồng Sơn Quy. Đến đời thứ
tư của họ Phạm có Phạm Đăng Hưng, người làm quan dưới hai triều: triều Gia Long
và triều Minh Mạng. Ông là người có lòng giúp đỡ dân nghèo trong lúc thất bát
vì thiên tai địch họa. Nhân dân thường gọi ông là “Ba Bị” vì lúc làm Điền Tuấn
Quan, đi đâu ông cũng mang ba bị hạt ngũ cốc để phân phát cho dân nghèo.
Phạm Đăng Hưng sinh năm 1764 tại Giồng Sơn Quy, ông có tư chất thông minh,
tướng mạo tuấn tú lớn lên ông cùng Ngô Tùng Châu theo học chữ Nho thầy Võ
Trường Toản.
Năm 1784, Phạm Đăng Hưng đỗ Tam trường, đang chuẩn bị thi tứ trường thì bị bệnh
nên ông về quê làm ruộng. Nhưng do văn tài lỗi lạc và nổi tiếng là người hiền
đức nên được bổ làm quan Lễ Sinh Nội Phủ của triều Nguyễn.
Qua nhiều lần thăng giáng chức vì bị gièm pha ông suýt mang trọng tội. Nhờ tận
tụy, nhã nhặn, Phạm Đăng Hưng đã được bổ vào các chức:
- Chưởng Tưởng Dã Sự (trông coi đê điều).
- Quan Thâm Thiên Giám (trông coi thiên văn).
- Quốc Sử Quán Tổng Tài (đứng đầu cơ quan viết lịch sử).
Năm 1824, Phạn Đăng Hưng bị bệnh mất tại Huế, được vua Minh Mạng thăng hàm
“Vinh Lộc Đại Phu, Trụ Quốc Hiệp Biên, Đại Học Sĩ, Thụy Trung Nhã” và đưa về an
táng tại Sơn Quy. Năm 1849, Tự Đức gia tặng “Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu
hái Bảo Cần Chánh Điện, Đại Học Sĩ, tước Đức Quốc Công”. Ông là cha của Hoàng
Thái Hậu Từ Dũ, ông ngoại vua Tự Đức, nên triều đình còn cấp cho dòng họ Phạm
nhiều ruộng đất bổng lộc. Toàn bộ di tích lăng Hoàng Gia nằm trên đất Giồng Sơn
Quy (là nơi có gò đất cao như mu rùa nên dân gọi là gò Rùa). Tự Đức là Sơn Quy,
lay ý nghĩa trong khoa địa lý “cao nhất xích vi sơn”, mang kỳ vọng cho họ ngoại
của vua được lâu bền.
Khu di tích bao gồm nhà thờ họ Phạm với diện tích 199 m2, ngoài mộ Phạm Đăng
Hưng và sáu ngôi mộ tổ họ Phạm còn có tám ngôi mộ quan trọng khác chôn tại Sơn
quy.
Mộ dòng họ Phạm và Phạm Đăng Hưng chôn theo một trục dài đối xứng nhau, toàn bộ
đều làm bằng hồ ô đước không chạm khắc. được bao bọc xung quanh lớp tường dày
80 cm, cao 90 cm. Nhìn tổng thể khu mộ ta thấy mộ Phạm Đăng Hưng đứng đầu, trên
một gò cao có dáng mu rùa, mộ xây theo tam cấp, tứ trụ, gồm hai vòng biểu hiện
cho tam tài, diện tích hơn 800 m2. Mộ không xây theo kiểu “Ngưu phanh, mã phục”
(trâu nằm, ngựa quỳ) như mộ dành cho quan võ. Mộ xây theo dáng “Đỉnh trụ” (chóp
đỉnh) như chiếc nón lá buông lỏng nhờ tám cánh tượng trưng như búp sen. Nhìn
chung như cái đỉnh, dạng này ít thấy ở mộ cổ. Tương truyền thi thể Phạm Đăng
Hưng được chôn ngồi. Mộ chôn theo nội quan ngoại quách bao bọc. Trước mộ có tấm
bia đá “Cưm Thạch” hai bên có gắn các mảnh sứ cổ Trung Quốc (nay đã vỡ nát).
Nội dung khắc trong bia nói về chức tước được phong của Phạm Đăng Hưng, (ghi
bằng chữ Hán đọc được nhưng chưa dịch).
Nhà thờ Phạm Đăng Hưng được xây năm 1826, trên khu vườn đất rộng 2.987 m2, bao
gồm nhà thờ chính, nhà khách, nhà kho, cổng tam quan và các công trình phụ tự
khác bao bọc chung quanh.
Năm 1849 Tự Đức gia phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc, đồng thời truy tặng
ngữ đại họ mẹ Tự Đức. Do đó, nhà thờ được sửa sang theo quy mô nghi thức cung
đình, được đặt nhiều biển đại tự để thờ:
- Gian chính giữa thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.
- Gian tả thờ Phước An Hầu Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng.
- Gian tả ngoài cùng thờ Mư Khả Tự Phạm Đăng Tiên.
- Gian hữu thờ Bình Thạnh Bà Phạm Đăng Danh.
- Gian cuối bên hữu thờ Thiền sư Phạm Đăng Khoa.
Nhờ tiền của bà từ Dũ Thái Hậu trợ cấp để xây thêm nhà khách, nhà trà, tàu ngựa
để tổ chức đại lễ đón sắc phong của vua từ Huế vào.
Năm 1889, sau khi Thành Thái lên ngôi, đang chuẩn bị vào thăm nên có tu sửa
thêm nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng, lam năm tấm biển của Ngũ Tước, tường hồ và
cổng bằng gạch theo phong cách phương Tây.
Nhìn chung nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật
thời Nguyễn, có lẫn lộn kiến trúc Pháp, nhưng vẫn mang đậm nét kiến trúc truyền
thống dân tộc qua các mảng trạm khắc trên Mộ và trang trí bên trong nhà thờ
bằng những điển tích rút ra từ “Tứ linh”, “Tứ quý” trong bát bửu cổ đồ mà chỉ
có người Á Đông chúng ta quan niệm. Toàn bộ nhà thờ nằm trọn trong khuôn viên
cây trái, hoa lá cảnh bao bọc theo kiểu kiến trúc cổ ở Huế, rõ nét Huế mà ta
đang thấy ở nội thành Huế.
Hiện vật di tích Lăng Hoàng gia ngày nay không còn nhiều, đa phần là mất hết
các di vật cổ có giá trị về mặt cổ vật và nghệ thuật. Chỉ còn lại những hiện
vật mà kẻ gian không thể lấy được:
- Bia đá trong phần mộ Phạm Đăng Hưng có kích thước 160 cm x 120 cm x 15 cm bằng
đá hoa cương.
- Bảy biển đại tự sơn son thiếp vàng, trên khung có chạm tứ quý được làm vào
thời Thành Thái.
- Một khám thờ Phạm Đăng Hưng sơn son thiếp vàng chung quanh chạm “Tứ linh”,
“Tứ quý”.
- Một long án chạm tứ linh trước bàn thờ Phạm Đăng Hưng, dài 1,2 mét rộng 1,2
mét chạm khắc rất tinh xảo nhưng đã bị dột nát hư hỏng phần dưới, còn lại bốn
bàn thờ bằng cây mới được tạo lập sau này rất đơn giản.
Lăng Hoàng Gia là một di tích lịch sử văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với sự
hình thành và phát triển của Nam Bộ nói chung và Gò Công nói riêng. Vì Phạm
Đăng Hưng và dòng họ của ông là những người vào đây lập nghiệp từ đầu thế kỷ
XVII, nên hiện nay còn một trong bốn đời của ông tại Sơn Quy.
Nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là công trình kiến trúc nghệ thuật hài hòa giữa Á
và Âu, nhưng mang đậm nét truyền thống dân tộc, được thể hiện qua các mảng chạm
khắc trong nhà thờ và trên mộ.
Khu Lăng Hoàng Gia đã được tô màu đỏ trên bản đồ địa chính, được ghi là “toàn
bộ khu di tích nằm trên thửa đất số 822 và số 821” (trích theo biên bản quy
định khu vực bảo ve di tích ngày 18 tháng 9 năm 1992 tại văn phòng ủy ban nhân
dân thị xã Gò Công).
Khu di tích lịch sử Ấp Bắc
Khu Di tích Lịch sử Quốc gia Ấp Bắc thuộc
xã Tân Phú, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang cách trung tâm huyện lỵ 10 km về
hướng Đông. Tại đây, bia kỷ niệm có ghi:
“Chiến thắng Ấp Bắc ngày 2 tháng 1 năm 1963 đã đánh bại các chiến thuật: bủa
lưới, phóng lao, trực thăng vận và thiết xa vận mà đế quốc Mĩ cho là tân kỳ.
Chiến thắng Ấp Bắc nói lên đầy đủ ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam; sức
mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân; là tiếng chuông báo hiệu sụp đổ của chế
độ Ngô Đình Diệm cùng chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ.”.
Từ trụ sở Ủy ban Nhân dân xã Tân Phú đến khu di tích chừng 500 mét. Chính tại
nơi đây hơn 40 năm về trước, đã diễn ra trận đánh ác liệt, dồn dập, đi vào lịch
sử như một Bạch Đằng, Đống Đa hay Chi Lăng. Khu di tích là một quần thể kiến
trúc nằm trong khuôn viên chừng 2 hecta bao gồm: tượng đồng 3 chiến sĩ gang
thép, xe bọc thép, máy bay lên thẳng những chiến lợi phẩm sau trận đánh, pháo
105 ly, mộ 3 chiến sĩ gang thép, nhà quản trang, xen kẻ trong khu vườn hoa lúc
nào cũng khoe sắc và toả hương thơm ngát. Cạnh vườn hoa là những ao nhỏ, bên
dưới trồng hoa súng đỏ. Từng đàn cá rô phi, điêu hồng vô tư lội tung tăng dưới
làn nước trong vắt. Du khách có thể ngồi trên những chiếc băng đá phóng tầm mắt
ngắm nhìn cảnh vật nơi đây.
Có lẽ ấn tượng nhất trong khuôn viên này là tượng đồng 3 chiến sĩ gang thép cao
sừng sửng, nặng 18 tấn: người cầm súng, người cầm thủ pháo hiên ngang đứng trên
xe tăng địch, làm cho ta phảng phất hình ảnh của những chiến sĩ cầm cờ Tổ quốc
trên nóc hầm tướng De Castrie ở trận Điện Biên Phủ năm nào. Tác giả là nhà điêu
khắc Nguyễn Hải, do cơ sở đúc đồng Phương Nam, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí
Minh thực hiện, khánh thành nhân kỷ niệm 35 năm chiến thắng Ấp Bắc. Hình ảnh uy
nghi của các anh như đưa chúng tôi trở về cảnh súng nổ, bom rền hơn 40 năm về
trước.
Từ khi khu di tích được khánh thành đến nay đã đón hàng ngàn lượt du khách
trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu. Đây cũng là nơi giáo dục cho học
sinh trong tỉnh về truyền thống đấu tranh bất khuất của tổ tiên trong sự nghiệp
giữ nước. Rời khu di tích, nhìn hai bên đường, chúng tôi không khỏi vui mừng
trước những cánh đồng lúa trĩu hạt, những rẫy dưa chi chít quả căng tròn. Lác
đác trên cánh đồng, nhiều mô hình bằng xi -măng xác máy bay, xe M113 bốc cháy.
Tất cả như minh chứng cho một sức sống mới trên mảnh đất anh hùng.
Đình Long Hưng
Đình Long Hưng, còn có tên là Miễu Chánh,
nằm bên bờ kênh Nguyễn Tấn Thành, thuộc ấp Long Thạnh, xã Long Hưng, huyện Châu
Thành, tỉnh Tiền Giang, cách thành phố Mỹ Tho 12 km về phía Tây, cách Quốc lộ
1A 2,5km về phía Nam.
Đình được xây dựng từ hơn 150 năm trước, là nơi thờ chính của làng nên nhân dân
gọi là miếu Chánh.
Đình được xây dựng theo kiểu chữ “Công”, quay về hướng Đông. Trước đình là một
bình phong cao 1,5 mét, hai bên có hai miếu thờ. Đình gồm đình chính và nhà cầu
trên diện tích 9.200 m2.
Đình được làm bằng cột gỗ có đường kính 0,3 mét, đặt trên tảng kê hình cổ bồng
cao 0,5 mét, mái lợp ngói âm dương, hai đầu bờ nóc gắn hai con rồng bằng sứ
chầu mặt trời, các đầu đao đều được gắn cá hóa rồng. Nền đình cao 0,5 mét, lát
gạch hoa, chung quanh không có vách, chỉ ở đình chánh có vách bằng gỗ.
Năm 1961, đình bị sập hoàn toàn. Năm 1987, đình được xây dưng lại trên diện
tích 129,6 m2 theo dạng tứ trụ, mái lợp ngói âm dương, chung quanh có tường
gạch bao bọc, gồm một nơi thờ cúng và một nhà võ ca. Song song với việc thờ
cúng các vị thành hoàng, đình còn thờ tả quân Lê Văn Duyệt, một công thần triều
Nguyễn, quê ở Long Hưng.
Đình Long Hưng còn là một di tích cách mạng, nơi chỉ huy sở của tỉnh ủy Vĩnh
Long trong khởi nghĩa Nam Kỳ.
Chùa Thanh Trước
Chùa tọa lạc tại ấp Gò Tre, xã Long Thuận,
thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Chùa được dựng vào năm 1826 có tên là chua
Phật Linh. Đến năm 1851, hòa thượng Chơn Hội đứng ra tổ chức xây chùa, đổi tên
là chùa Thanh Trước. Chùa trải qua bảy đời trụ trì. Năm 1896, hòa thượng Hải
Tràng cho trùng tu lần thứ nhất. Từ năm 1941, hòa thượng Hoằng Thông đã cho
trùng tu vào các năm: năm 1946, năm 1958 và năm 1989.
Chùa Linh Thứu
Chùa thường được gọi là chùa Sắc tứ, tọa
lạc gần chợ Xoài Hột, xã Thạnh Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Chùa
được dựng vào khoang thế kỷ XVIII. Năm 1811, vua Gia Long đổi tên chùa la Long
Tuyền. Đến năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên thành Linh Thứu. Chùa được trung tu
nhiều lần dưới thời thiền sư Nguyệt Hiện (giữa thế kỷ XVIII), hòa thượng Chánh
Hậu (cuối thế kỷ XIX) và các sư bà: sư bà Như Nghĩa, sư bà Thông Huệ và sư bà
Như Chơn (từ năm 1945 đến nay). Chính điện chùa được bài trí trang nghiêm, chùa
còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ, đại hồng chung (năm 1745), các bao lam chạm trổ
công phu và nhiều câu đối có ý nghĩa Phật pháp.
Chùa Hội Thọ
Chùa nằm ở ấp Mỹ Hưng, xã Thiện Chí, huyện
Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Nguyên trước đó là chùa Kim Chương ở tỉnh Nam Định.
Khi quân Pháp chiếm thành Gia Định, Hòa thượng Minh Giác cùng đệ tử đã về Cái
Bè lập chùa rồi đổi tên là chùa Hội Thọ. Trong chiến tranh chùa bị hư hỏng hoàn
toàn. Ngôi chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1982 và tu bổ thêm sau đó.
Trong chùa còn lưu giữ một số tượng thờ, bài vị, tự khí, pháp khí của chùa cổ
Kim Chương như: tượng Tiêu Điên bằng gỗ cao 1,34 mét, tượng Thập Điện Minh
Vương bằng gỗ cao 0,7 mét, tượng Phật A Di Đà bằng đất nung cao 0,55 mét. Trong
khuôn viên chùa có tháp thờ hòa thượng Thiệu Long và hai ngôi tháp của hai vị
hòa thượng khác.
Chùa Vĩnh Tràng
Năm 1849, hòa
thượng Huệ Đăng đã vận động tín đồ góp công, góp của xây dựng chùa theo lối
kiến trúc của chùa Giác Lâm ở Gia Định, nhưng to lớn hơn với 178 cây cột, hai
sân thiên tỉnh, năm lớp nhà (chùa Giác Lâm có 98 cột, một sân thiên tỉnh, ba
lớp nhà). Năm 1907, hòa thượng Trà Chánh Hậu cho sửa chữa phần chánh điện. Năm
1930, hòa thượng Minh Đằng cho trùng tu toàn diện để chùa có diện mạo như ngày
hôm nay. Lúc đầu, chùa có tên là Vĩnh Trường, xuất phát từ hai câu đối do chính
hòa thượng sáng tác:
"Vĩnh cửu đối sơn hà,
Trường tồn tề thiên địa."
Nhưng về sau, chùa được gọi là Vĩnh Tràng.
Khác vối những ngôi chùa truyền thống, chùa Vĩnh Tràng không có cổng tam quan
mà thay vào đó là hai cổng ra vào được xây dựng theo lối cổ lầu và được ốp bằng
nhiều mảnh sành, sứ với những màu sắc khác nhau theo chủ đề long, lân, quy,
phụng, ngư, tiền, canh, mục, hoa, điểu và các điển tích Phật giáo. Chùa được
xây dựng theo dạng chữ "Quốc" của Hán tự, gồm có bốn gian là tiền
đường, chánh điện, nhà tổ, nhà hậu, nối tiếp nhau. Riêng mặt trước của tiền đường
thì được xây dựng theo lối kiến trúc dung hòa Âu - Á với những hàng cột thanh
mảnh, vòm còng và hoa văn nhiều màu sắc. Trên nóc chùa có năm mái nhô cao,
tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) theo quan niệm của phương
Đông.
Tại gian chánh điện, chùa có 60 tượng quý, được tạo tác bằng đồng, gỗ, đất nung
và tất cả đều được thếp vàng rực rỡ. Trong đó có giá trị nghệ thuật nhất là bộ
tượng mười tám vị la hán được tạc từ gỗ mít vào năm 1909. Ngoài ra, chùa còn có
bảy bộ bao lam tuyệt đẹp và chiếc đại hồng chung được đúc vào năm 1854. Xung
quanh chùa là những vườn cây cảnh trồng nhiều loại hoa thơm cỏ lạ, những hồ
nước thơm ngát hương sen và những cây cổ thụ che trùm bóng mát, tạo nên sự hài
hòa tuyệt vời giữa khung cảnh thiên nhiên với không gian kiến trúc, khiến chùa
thêm cổ kính, thâm nghiêm.
Không chỉ có ý nghĩa tôn giáo và giá trị kiến trúc - nghệ thuật, chùa còn là
nơi che giấu nhiều nhà yêu nước và cung cấp hậu cần cho phong trào cách mạng.
Vì thế, chùa được Nhà nước công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia,
chùa Vĩnh Tràng tọa lạc tại xã Mỹ Phong , cách trung tâm thành phố Mỹ Tho
khoảng 3 km.
Khu di tích Rạch Gầm - Xoài Mút
Tháng 1 năm 1785, Nguyễn Huệ tiến quân vào
Gia Định, vị tướng trẻ 32 tuổi này chọn khúc sông Tiền từ Rạch Gầm đến Xoài Mút
(nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), cách cửa Tiểu khoảng 70 km làm
trận địa quyết chiến. Rạch Gầm - Xoài Mút nằm giữa căn cứ Trà Tân của địch và
căn cứ Mỹ Tho của quân ta. Tại đây, Nguyễn Huệ bố trí phục binh với hỏa lực rất
mạnh trên bãi đất và giồng đất xã An Đức và trên cù lao Thới Sơn. Trong khi đó,
ở căn cứ Mỹ Tho, Nguyễn Huệ bố trí bản doanh với quân lực mỏng và làm cho địch
tin là ta rút chạy về Quy Nhơn.
Vì thế, đêm ngày mồng chín tháng chạp năm Giáp Thìn tức ngày 19 tháng một năm
1785, đại quân địch gồm 2 vạn quân Xiêm và hơn 1 vạn quân của Nguyễn Ánh ào ạt
tiến thẳng Mỹ Tho hòng bắt sống Nguyễn Huệ đưa về Vọng Cát. Nguyễn Huệ cho quân
cầm cự đánh trả dữ dội và rút lui từ từ nhử địch vào trận địa mai phục khiến
chúng vừa ham đánh vừa chủ quan. Khi toàn bộ đại quân địch lọt vào khúc sông đã
bố trí sẵn, vị tướng trẻ tài ba mới phát hiệu lệnh nổi phục binh đánh dữ dội. 300
thuyền chiến lớn và hàng ngàn thuyền câu nhỏ của địch như con rắn khổng lồ đã
bị đứt ra từng khúc mà tiêu diệt.
Quân thủy của Nguyễn Huệ phục sẵn từ Rạch Gầm và Xoài Mút lao ra khoá đầu và
khóa cuối không cho địch rút chạy. Pháo và hoả hổ từ trận địa phục kích trên
bãi bần An Đức và bãi dừa Thới Sơn đốt cháy rừng rực cả đoàn thuyền chiến của
hải quân Xiêm... Trận chiến trên sông xảy ra vào đêm ngày 19 tháng 1 năm 1785
rạng ngày 20 tháng 1 năm 1785.
Công trình xây dựng khu di tích Rạch Gầm - Xoài Mút có tổng vốn đầu tư hơn 11
tỉ đồng, được khánh thành đúng dịp kỷ niệm 220 năm chiến thắng Rạch Gầm - Xoài
Mút (1785 - 2005).
Công trình gồm tượng đài biểu trưng chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, hai khu
nhà trưng bày và khu nhà cổ Nam Bộ. Tượng đài anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đứng
tuốt gươm, cùng một hậu vệ trong tư thế ngồi bắn cung và hỏa lực súng thần công
và một người nông dân trên chiếc thuyền chiến, đại diện cho nhân dân địa phương
tham gia trận đánh. Tượng đài làm bằng đồng đỏ, nặng 20 tấn, cao hơn 8 mét.
Khu nhà trưng bày nằm dưới chân tượng đài, có hệ thống phù điêu bằng đồng bao
bọc, phía trong có bức tranh phù điêu hoành tráng giới thiệu về thời kỳ khẩn
hoang, lập ấp tại Rạch Gầm - Xoài Mút và về chiến công của quân Tây Sơn trong
trận thủy chiến chống quân xâm lược Xiêm. Nhà trưng bày nằm bên bờ Sông Tiền và
khu nhà cổ Nam Bộ, giới thiệu khoảng 564 hiện vật liên quan tới chiến thắng
Rạch Gầm - Xoài Mút, gồm phương tiện sử dụng và vũ khí gươm giáo của quân Tây
Sơn và quân Xiêm.
Di tích khảo cổ Gò Thành
Di tích Gò Thành thuộc ấp Tân Thành, xã
Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, nằm trong khu dân cư, cách chợ
Ông Văn, xã Đăng Hưng Phước 200 mét và cách Ủy ban Nhân dân huyện Chợ Gạo 6 km
về phía Bắc.
Tên gọi Gò Thành xuất hiện khi những người Việt đầu tiên đến khai phá vùng đất
này; thấy trên gò có nhiều gạch, cho đó là vết tích của một thành xưa nên đặt
tên là Gò Thành, với mục đích đánh dấu một vị trí trong khu vực quần cư. Đây
không phải là một thành của người Miên hay nhà Nguyễn như người dân địa phương
thường gọi.
Năm 1987, Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh đã đến tham gia Hội
nghị Thông báo Khảo cổ học tại tỉnh Tiền Giang và khẳng định Gò Thành là di
tích thuộc nền văn hoá Óc Eo. Di tích đã được khai quật nhiều lần, phát hiện 12
hố thờ và mộ có dạng hình giếng nằm rải rác trên mặt gò và nhiều hiện vật bằng
vàng, đồng, đá, đất nung đang được trưng bày tại nhà trưng bày trong khuôn viên
di tích.
Hiện nay, Khu di tích Gò Thành đã được trùng tu, tôn tạo, có tường rào bao
quanh, cổng chính được thiết kế theo những hoạ tiết, hoa văn thuộc nền văn hóa
Óc Eo rất độc đáo, có một nhà bao che một số đền tháp quan trọng, một nhà trưng
bày hiện vật của di tích và một đình thần trong khuôn viên rộng lớn, khang
trang.
Đến tham quan Di tích Gò Thành, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những hố thờ từng
bị chôn vùi dưới lòng đất hàng ngàn năm, gợi nhớ cho chúng ta nhận thức mới về
xã hội người Phù Nam, về các quy luật phát triển lịch sử, xã hội trên vùng đất
Nam Bộ, trên đất nước Việt Nam và cả Đông Nam Á.
Hàng năm, Di tích Gò Thành thường xuyên đón nhiều đoàn khách trong nước và nước
ngoài đến tham quan, đặc biệt là các em sinh viên, học sinh đến tham khảo để
phục vụ cho công việc học tập.
Di tích Gò Thành được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích Cấp quốc gia
năm 1994.
Chợ nổi Cái Bè
Chợ nổi Cái Bè xuất hiện trong sự hình
thành một thị trấn nhỏ bên dòng sông Tiền lộng gió. Đến vàm Cái Bè, trên một
khúc sông rộng, du khách sẽ được tận mắt nhìn thấy cảnh buôn bán tấp nập. Hàng
ngày, có khoảng 400 thuyền đến 500 thuyền đầy ắp các loại trái cây neo dọc hai
bên sông chờ thương lái đến cất hàng. Ghe xuồng như mắc cửi, tiếng nói cười rộn
rã, huyên náo - cái huyên náo không dễ lẫn mà chỉ riêng miền sông nước Cửu Long
mới có, mang một nét quyến rũ đặc biệt.
Nằm về phía hữu ngạn chợ nổi Cái Bè là cù lao Tân Phong, xưa là Cồn Cù, thuộc
châu Định Viễn, dinh Long Hồ, được hợp thành bởi sáu hòn đảo xinh xắn có tổng
diện tích 2.430 hecta. Tân Phong như hòn ngọc xanh giữa dòng sông Tiền trĩu
nặng phù sa, nổi tiếng với những vườn chôm chôm quả to và ngọt. Đây còn là hình
ảnh thu nhỏ của miền Tây Nam Bộ hấp dẫn du khách đến với văn minh miệt vườn.
Cồn Lân (Cồn Thới Sơn)
Cồn Thới Sơn có chiều dài khoảng 11 km và
chiều rộng khoảng 1 km. Đây là vùng trồng cây ăn quả nổi tiếng, dân số khoảng
6.000 người nằm giữa sông Tiền thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
Cồn được phù sa sông Tiền bồi đắp, trông từ xa cồn như một pháo đài được khai
phá cách đây 300 năm. Đây là điểm du lịch của Công ty Du lịch Tiền Giang nằm
đối diện với thành phố Mỹ Tho, một hòn đảo giữa sông luôn cuốn hút du khách
thập phương.
Từ bến thuyền sau 30 phút ngắm cảnh sông nước miền Tây mênh mông lộng gió, du
khách sẽ cập bến Thới Sơn. Dân cư ở đây sống chủ yếu bằng nghề trồng cây ăn quả
và đánh bắt thủy sản. Cồn Thới Sơn chằng chịt kênh rạch và các cây ăn trái đặc
sản, đặc biệt là cây nhãn.
Năm 1990 toàn bộ cồn Thới Sơn như “bừng tỉnh” sau một giấc ngủ dài khi có điện
thắp sáng. Hiện nay, toàn bộ cây được trông tên cồn chủ yếu là nhãn và Sapôchê.
Tại đây du khách sẽ thoải mái vào ngắm các vườn cây, nằm trên võng hay ghế xích
đu tận hưởng gió mát và thưởng thức các loại trái cây ngon ngọt. Cồn Lân lúc
nào cũng đầy cây trái, mùa nào trái nấy. Hết nhãn tới chôm chôm rồi vú sữa, sầu
riêng. Hơn thế, du khách còn có thể thưởng thức các món ăn cá, tôm tươi sống,
đắc biệt là món Cá Tai Tượng chiên xù. Du khách sẽ có dịp làm quen với những
chủ vườn vui vẻ, chân thật, mến khách.
Cồn Rồng (Cồn Tân Long)
Cù lao Rồng được bồi đắp từ khoảng năm
1872, sau đó thuộc quyền sở hữu của Đốc phủ Mầu, một địa chủ khét tiếng ở Mỹ
Tho trước đây. Dưới chế độ cũ, người ta đã lập một “trại cùi” trên cù lao Rồng
để cách ly bệnh nhân mắc bệnh phong.
Năm 1971, “trại cùi” được dời ra Quy Hòa (Quy Nhơn), cù lao Rồng bắt đầu đón
những cư dân lành lặn đầu tiên đến sinh sống và đây trở thành một vùng đất trù
phú, đầy hoa thơm trái ngọt, thuyền bè vào ra tấp nập. Đa số các gia đình sống
trên cù lao này đều làm nghề đánh cá ngoài biển khơi.
Nơi đây cũng có nhiều cây ăn trái đặc biệt là cây nhãn, nhãn ở đây ngon không
thua gì nhãn ở Cai Lậy.
Đường sá đi lại trên cù lao đều được tráng xi măng. Cù lao nằm giữa sông Tiền,
ngay kế bên công viên Lạc Hồng của thành phố Mỹ Tho. Điện sáng suốt đêm, thuyền
máy, ghe tam bản ngày đêm qua lại nối liền với thành phố Mỹ Tho. Giữa một vùng
sông nước mênh mang, cù lao Rồng là một trong những hòn ngọc xanh nằm ngay hành
lang thủy lộ của những chiếc phà nối liền hai tỉnh Tiền Giang - Bến Tre, đêm
ngày xuôi ngược.
Trại rắn Đồng Tâm
Cách thành phố Mỹ Tho khoảng 9 km, Trung
tâm Nuôi trồng Nghiên cứu Chế biến Dược liệu Quân khu 9, hay gọi là Trại rắn
Đồng Tâm (huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) từ lâu đã hấp dẫn du khách trong
nước và quốc tế. Đặc biệt, đây còn là nơi chữa trị rắn cắn cho bà con khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long.
Tiền thân là Xí nghiệp 408 (trại rắn Đồng Tâm), đến năm 1988 được nâng cấp lên
thành Trung tâm nuôi trồng, nghiên cứu, chế biến dược liệu Quân khu 9, có nhiệm
vụ bảo tồn các nguồn dược liệu quý, sản xuất thuốc y học dân tộc, cấp cứu và
điều trị rắn độc cắn cho quân và dân các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Gần 30
năm qua, hoạt động của Trung tâm đạt nhiều thành quả trong việc phục vụ cho
nhân dân và quốc phòng.
Năm 2005, Trung tâm nuôi trồng, chế biến dược liệu Quân khu 9 được nhà nước và
các bộ, ngành đầu tư hơn 10 tỷ đồng xây dựng khoa cấp cứu rắn độc, nhà xưởng và
các trang thiết bị máy móc để phục vụ tốt hơn nhu cầu điều trị bệnh cho nhân
dân. Từ tháng 3 năm 2006, các bệnh nhân đến đây được khám và nằm viện miễn phí
với mỗi ca giảm khoảng 200.000 đồng.
Hiện nay, Trung tâm có thể cứu sống những người bị rắn độc cắn chỉ còn thoi
thóp, nếu đem đến Trung tâm kịp thời. Nhiều trường hợp bệnh nhân bị rắn cắn đi
nhờ các thầy lang điều trị, vừa không khỏi bệnh vừa tốn kém, đến khi đem đến
Trung tâm thì những chỗ bị rắn cắn đã hoại tử, phải mất nhiều thời gian mới
chữa khỏi. Từ thực trạng đó, Trung tâm đã kết hợp với các trạm y tế địa phương
tổ chức nhiều đợt tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân kiến thức về cách phòng
ngừa rắn độc, cũng như sơ cấp cứu ban đầu trước khi đem đến bệnh viện gần nhất.
Không những là nơi điều trị bệnh nhân bị rắn độc cắn mà trại rắn Đồng Tâm còn
là điểm tham quan độc đáo, nằm trong tour du lịch Mỹ Tho - cù lao Thới Sơn -
trại rắn Đồng Tâm. Tại đây, du khách tận mắt chiêm ngưỡng hàng trăm loại rắn
khác nhau, từ những loài rắn hiền lành (rắn nước, rắn gáo...), đến các loài rắn
độc (hổ ngựa, rắn hổ cạp nong, hổ mai gầm...), những loài động vật quí hiếm như
trăn, cá sấu, ba ba, cáo, gấu...
Hiện mỗi năm có khoảng từ 30.000 du khách đến 40.000 du khách đến tham quan nơi
đây. Để ngày càng thu hút khách du lịch, Sở Thương mại - Du lịch tỉnh Tiền
Giang đang phối hợp cùng Trại rắn Đồng Tâm đầu tư nâng cấp toàn khu trại rắn,
trồng cây xanh, bổ sung nhiều con thú quí hiếm khác... Dự kiến, khi hoàn thành
mỗi năm trại rắn sẽ đón khoảng 10.000 lượt du khách đến 15.000 lượt du khách
đến tham quan.
Đi Tiền Giang cẩn thận...
Tiền Giang là một trong những điểm du lịch
ngắn ngày về vùng đồng bằng sông Cửu Long thu hút được rất nhiều sự quan tâm
của du khách. Nhưng có một điều rất đáng lưu ý cho du khách khi đi du lịch Tiền
Giang là nạn "cò du lịch".
Những "cò du lịch" này thường chào mời khách mua dịch vụ tham quan
các khu du lịch như Cồn Phụng, cù lao Thới Sơn, hay các lò kẹo ở Bến Tre... với
giá rẻ hơn giá niêm yết của những công ty du lịch địa phương. Nhưng chất
lượng dịch vụ thì thua kém rất nhiều...
Đầu tiên là những con đò đưa khách qua bên Cồn chỉ là những con đò nhỏ với
những chiếc ghế nhựa chênh vênh và không có phao cứu sinh, bất kể khi ra giữa
dòng sông lúc nào cũng có gió to - sóng lớn, thuyền chòng chành chao nghiêng,
rất nguy hiểm.
Qua được sông, đến những điểm tham quan đã được mua trước trong gói dịch vụ thì
mới biết "thời gian" lúc này là cả một vấn đề. Đưa khách đến tham
quan các điểm du lịch nhưng thời gian cho khách tham quan thì vô cùng eo hẹp.
Để khách xuống điểm tham quan một lúc, các "cò" sẽ hối khách quay về,
nếu khách không xuống đò qua lại bên kia sông thì khách sẽ phải tự đón đò về
sau, có khi đi được vài điểm nhưng chưa hết lộ trình định sẵn nếu thích các
"cò" sẽ tự ý ngang nhiên kết thúc chuyến tham quan.
Chuyện ăn uống với khách du lịch không may rơi vào tay "cò" cũng là
một chuyện đáng nói. Không cần biết khách du lịch có đồng ý hay không, các
"cò" cũng vẫn ung dung tấp đò vào các quán ăn đã được móc nối sẵn.
Giá cả ở đây thì, khách du lịch dù chỉ ăn những món thật bình dân thì cũng phải
mất từ vài trăm nghìn cho đến bạc triệu.
Thành phố Mỹ Tho là một trong những điểm du lịch của Tiền Giang hiện nay có
nhiều "cò du lịch" hoạt động nhất. Từ những điểm du lịch như Ngã ba
Trung Lương, chùa Vĩnh Tràng cho đến đoạn đường 30 tháng 4, Vườn Hoa Lạc Hồng,
nơi nào cũng tấp nập các cò du lịch, vẫy tay mời gọi.
Đi du lịch là tìm lấy niềm vui và thư giãn sau những ngày làm việc mệt nhọc,
nên đi như thế nào để chuyến đi của mình thật sự là một chuyến đi vui vẻ và đầy
thú vị là một chuyện rất cần thiết, Khách du lịch khi du lịch qua những điểm
tham quan trên cần lưu ý không nên nghe những lời mời gọi lôi kéo ngọt ngào với
những dich vụ tham quan giá rẻ, hãy từ chối đúng lúc để chuyến du lịch không
phải là một cực hình và cũng không phải vác vào người những bực bội vì bị lừa.
am thuc tien giang
Hủ Tiếu Mỹ Tho
Hủ
tiếu Mỹ Tho khác hủ tiếu Tàu, hủ tiếu Nam Vang, Phở Bắc, bún bò Huế…ở chỗ không
ăn với xà lách, rau ghém mà dùng giá sống, chanh ớt, nước tư ơng.
Điều làm nên hương vị riêng khiến cho hủ tiếu Mỹ Tho trở nên nổi tiếng và nhiều
người "bén mùi" kể từ thập niên sáu mư ơi nhờ sự hoàn thiện từ khâu
hạt gạo làm ra cọng bánh tới nồi nước lèo cùng tuyệt kỹ pha chế của các đầu bếp
trừ danh đất Mỹ Tho như : Phánh Ký, Nam Sơn, Tuyền Ký, cùng các lớp thợ nấu sau
này.
Nhiều người cho biết, hủ tiếu ngon nhất phải làm bằng loại gạo Gò Cát (đặc sản
như Đào). Đây là vùng trồng lúa thơm địa phương của xã Mỹ Phong, ngoại thành Mỹ
Tho. Cũng cần nói thêm, gạo Gò Cát làm bún, bánh tráng, bánh nghệ nức tiếng Mỹ
Tho hơn 40 năm nay. Như ng hủ tiếu ngon phải là bánh khô, khi nấu trụng sơ nước
sôi, lư ợm mỡ hành phi, cọng trong bóng, bắt mắt
Sam biển Gò Công
Ngoài các loại cá tôm thiên nhiên ưu đãi,
ở vùng biển xã Vàm Láng, Tân Thành, huyện Gò Công Ðông (Tiền Giang) có đặc sản
khá hiếm: sam biển. Với hình thù lạ mắt: vỏ cứng như mai cua, mình tròn dẹt,
đường kính độ gang tay, tám chân càng nhỏ dưới bụng, phần đầu là mũi nhọn ba
cạnh rất linh hoạt dài cỡ 20 cm.
Khoảng từ tháng 10 cho tới tháng 2 âm lịch, sam bắt cặp phối giống và sau đó
sam cái mang bụng đầy trứng nhỏ như hạt tiêu đợi ngày sinh nở. Gió chướng thổi
về, người dân ven biển chúng tôi sáng sớm đi dọc bờ thỉnh thoảng vẫn bắt được
những cặp sam tấp mé.
Ăn sam trứng phổ biến nhất là món nướng. Ðốt bếp than gáo dừa, đặt ngửa sam rồi
trở đều tới khi chín vàng, mùi thơm đặc biệt lan xa. Chuẩn bị sẵn bưởi chua
tách múi, củ cải thái nhỏ ngâm giấm, rau thơm gồm húng cây, răm, đậu phộng rang
đập giập, hành phi, nước mắm chanh, tỏi, ớt. Lật ngửa con sam nóng hổi, tách
yếm bỏ ruột, dùng dao bén rạch bụng sẽ thấy trứng đầy ắp, vàng ươm bắt mắt.
Phần thịt sống lưng và sát đuôi dai, ngọt. Người ta bảo thịt sam có tác dụng
chữa hen suyễn. Dùng muỗng nhỏ múc trứng vào chén riêng, thêm gia vị tùy thích.
Trứng sam béo, thơm, nhiều đạm, ngon miệng và rất bổ dưỡng. Nếu chưa muốn ăn
ngay thì phơi sam vài buổi nắng cho khô nước rồi treo giàn bếp để dành, lúc cần
nướng lên ăn vẫn thơm ngon. Người ta còn đốt cháy vỏ sam, giã nhuyễn trộn với
dầu dừa, dùng thoa ngoài da trị dị ứng (ngứa, nổi mày đay...). Có người luộc
chín sam, gỡ trứng phi mỡ hành trộn gỏi, giữ nguyên vỏ sam và sơn dầu bóng dùng
trang trí nhà chơi. Sam chặt miếng to nấu canh chua với bạc hà, rau nhút hoặc
đậu rồng, rau om lai rai lít rượu nếp là đúng điệu.
Có dịp về Gò Công để thưởng thức món sam trứng, bạn sẽ có một ấn tượng
khó quên!