Dù cố gắng, nhưng bản dịch này chắc cũng còn khuyết điểm, dịch giả ngưỡng mong chư vị thông hiểu đạo Phật bổ túc cho. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ!
Nguyện chia đều phần phước phiên dịch này đến tất cả chúng sanh và những Thiện nam tín nữ hữu duyên đã trực tiếp hay gián tiếp ủng hộ dịch giả trong công tác sưu tầm tài liệu và hùn phước ấn tống!
Dịch giả cũng không quên hồi hướng một
phần phước báu đến song đấng sinh thành, và các ân nhân, Thầy Tổ của dịch
giả.
Nguyện cầu cho dân tộc Việt Nam sớm thoát khỏi cảnh khổ, và chúng
sanh nhân loại đừng oan trái lẫn nhau!
TU ÐÀ CẤP CÔ ÐỘC GẶP PHẬT VÀ TRỞ THÀNH MÔN ÐỒ
Vào mùa hạ thứ nhất, sau khi Thái tử Sĩ Ðạt Ta Cồ Ðàm (Siddhatta Gotama) chứng
quả Phật Toàn Giác, và thu nhận đệ tử tại Vương Xá thành (Ràjagaha), thủ đô xứ
Ma Kiệt Ðà (Magadha), thì Tăng đoàn lúc ấy chỉ gồm một ít người. Họ sau khi
được nghe Phật giảng pháp Tứ Diệu Ðế (Catu Àriyasaccàni), đều đắc quả A La Hán
(Arahatta) giải thoát.
Chư Thánh Tăng A La Hán đầu tiên ấy đã dứt tận phiền não, nên sống một cuộc đời
thanh tịnh, thoát ly gia đình, rày đây mai đó, lấy quãng trống hay rừng xanh
làm nhà, lấy đồi núi hay đồng nội làm nơi hành đạo...
Khi ấy có một đại phú thương, vốn là anh rể của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, đã quy y đức
Phật, và chứng kiến đời sống giải thoát, cao thượng của chư vị Thánh Tăng, bèn
đề nghị họ yêu cầu đức Phật cho phép ông xây cúng những tịnh xá cố định.
Khi đức Phật chuẩn lời, ông phú thương liền xây cất hơn sáu chục tịnh cốc, để
dâng đến đức Phật và chư Thánh Tăng. Ðược hỏi tại sao ông tạo số tịnh cốc quá
nhiều, so với số Thánh Tăng có thể cư ngụ thì ông phú thương vui vẻ trả lời
rằng:
- Tôi làm như vậy vì muốn được nhiều phước báu!
Và với những tịnh cốc nguyên khởi ấy, một tu viện Phật giáo đầu tiên đã được
thành hình, để khai sáng giai đoạn truyền bá chánh pháp, đón tiếp những ai hữu
duyên, muốn xuất gia tu học, và rèn luyện phẩm hạnh giải thoát. (Theo Cullavagga
VI. 1: Tiểu phẩm số VI. 1).
Một hôm Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, người phú thương bá hộ Mạnh Thường Quân của thành Xá
Vệ (Sàvatthì), trên chuyến thương hành xuyên qua nước lân cận Ma Kiệt Ðà
(Magadha), đến thủ đô Vương Xá thành (Ràjagaha). Như thường lệ, ông trước tiên
ghé thăm người anh rể vừa cũng là một bạn thân của mình.
Khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đi vào nhà người anh rể, thì ông lấy làm ngạc nhiên, vì
không ai chú ý đến ông cả. Thói quen mỗi lần ông đến là người anh rể cùng toàn
thể gia nhân đã vui mừng ra đón tiếp ông một cách thân mật tận ngoài cửa. Nhưng
hôm nay khác hẳn, tất cả đều tỏ ra quá bận rộn đến nỗi hời hợt trước sự có mặt
của ông, dường như họ đang để hết tâm ý sửa soạn nghinh đón một nhân vật vô
cùng quan trọng!
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền hỏi người anh rể:
- Phải chăng trong nhà đang có đám cưới, hoặc gia đình đang chuẩn bị một cuộc
đại tế lễ, hay tin quốc vương ngoạn cảnh sắp viếng thăm?
Thì câu trả lời vỏn vẹn chỉ có:
- Ngày mai đức Phật và chư Thánh Tăng đến thọ trai và ban phước lành.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc chợt chú ý hỏi tiếp:
- Hiền huynh nói có một vị Phật sẽ đến?
- Ðúng vậy thưa thân đệ! Ngày mai, đức Phật, đấng Toàn Giác sẽ đến.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc lộ hẳn sự kích thích. Ông nhắc lại câu hỏi ấy đến lần thứ hai,
rồi lần thứ ba:
- Hiền huynh xác nhận là có một vị Phật sống trong vùng và ngày mai Ngài sẽ đến
đây?
- Vâng! Thưa thân đệ! Ðấng Toàn Giác ấy sẽ đến ban phước lành trong ngôi nhà
này! Hiện giờ Ngài đang an trú tại vườn Sìtavana, cạnh Trúc Lâm tịnh xá, phía
Tây Vương Xá thành.
Trước câu trả lời đầy đức tin đó, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc vừa kinh cảm vừa ngạc nhiên.
Ông rùng mình hít một hơi dài rồi thở ra từ từ, đồng thời lẩm bẩm:
"Ðức Phật là một danh từ mình đã hiếm được nghe trên đời rồi. Bây giờ lại
có thể nhìn thấy một vị Phật bằng xương bằng thịt".
Người anh rể của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nghe thế liền xen vào:
- Bữa nay vì trời tối, nên thân đệ không thể gặp đức Phật được, nhưng ngày mai
chuyện ấy sẽ chắc chắn.
Ðêm đó, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc ở lại tại nhà người anh rể, nhưng sự kinh cảm và lòng
nôn nóng muốn gặp Phật đã làm cho ông không sao ngủ ngon được. Ông đã thức giấc
đến ba lần, nghĩ rằng: "Chắc trời sáng rồi" và nhìn ra ngoài thấy
màng đêm vẫn dày đặc. Lần thức giấc sau cùng nghe tiếng gà gáy đầu, nhằm lúc trời
gần rạng đông, nên ông mạnh dạn rời nhà người anh rể, định ra khỏi Vương Xá
thành, rồi hướng về Trúc Lâm tịnh xá.
Tuy nhiên, trong bóng đêm tàn tịch mịch, sự sợ sệt và lòng nghi ngại lại phát
sinh trong ông. Vì Tu Ðà Cấp Cô Ðộc là một đại phú thương nổi tiếng, của cải
rất nhiều, nếu ông phiêu lưu như thế, nhỡ gặp phải phường bất lương sẽ vô cùng
nguy hiểm! Do đó, bản năng tự vệ lại khiến ông chùn chân quay lại.
Chợt Tu Ðà Cấp Cô Ðộc bình tĩnh, ông nghe tận trong tâm tư dường như có một âm
thanh kỳ diệu thúc giục: "Hãy tiến bước! Ðến gặp một vị Phật Tổ không bao
giờ nguy hiểm!". Thế là ông dũng mãnh tiến tới.
Ði một lúc khá lâu, ông đến bìa cụm rừng Sitavana, gần Trúc Lâm tịnh xá. Và
trong màng sương rạng đông đùng đục mờ mờ, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc chợt thấy một bóng
người thấp thoáng, trầm mặc bước đi.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền dừng chân quan sát, thì bóng người thanh tịnh ấy lại quay
về phía ông, và một giọng nói thanh tao, hiền hòa, khó diễn tả, phát ra:
- Hãy đến đây! Này thiện bá hộ của dòng họ Tu Ðà!
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc giật mình đánh thót, kinh ngạc vô cùng khi nghe mấy lời
"đón tiếp" nghiêm trang ấy. Vì trong vùng Vương Xá thành, ngoại trừ
gia đình người anh rể, không một ai biết được tên họ của ông. Người ta chỉ biết
ông qua cái danh hiệu Mạnh Thường Quân "Cấp Cô Ðộc", nhưng cũng ít
người biết được mặt thật của ông, bởi trong việc cứu giúp hàng ngàn, hàng vạn
dân nghèo, gia nhân ông đã thay thế ông làm hầu hết. Càng ngạc nhiên hơn nữa,
là ông chưa bao giờ làm quen với "bóng người" đứng trước mặt kia.
Nhất là ông đã đến bất thình lình không báo trước!
Một phút ngạc nhiên và yên lặng trôi qua... Lời "đón tiếp" của
"bóng người" dường như có một linh lực khiến cho hai chân ông tự động
bước tới. Khi đến gần thì ông nhận ra một đạo nhân phi phàm thoát tục. Tu Ðà
Cấp Cô Ðộc tự nhiên không nghi ngờ gì nữa. Ông tin chắc đây là đức Phật, liền
sụp lạy và vì cảm động, nói đứt quãng, không thông lời, rằng:
- Lạy Phật! Ngài có được bình an không?
- Như Lai luôn luôn bình an! Chúc lành ông vừa đến thăm.
Nghe câu trả lời thanh tịnh và từ ái ấy Tu Ðà Cấp Cô Ðộc cảm thấy vô cùng thỏa
thích, và đến gần Phật hơn nữa để nghe những lời cao thượng tiếp theo:
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Một bậc đã chứng quả Toàn Giác, Giải Thoát thì không
còn đau khổ, dù cho ấy là những đau khổ vi tế.
Ðoạn đức Phật dẫn Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nối theo bước chân kinh hành buổi sáng của
Ngài. Vừa đi Ngài vừa giảng giải những Pháp bảo căn bản nhiệm mầu, nhất là các
pháp có liên quan đến sự bố thí, trì giới, sinh diệt, vô thường, biến hoại,
xuất gia, rồi bảo rằng ấy là "Nghiệp thiện và ý thức tiến hóa" có thể
đưa con người tới các cõi cao hơn, được giải thoát khỏi những khổ đau phiền não
do say đắm trong các nhục dục ở đời.
Khi đức Toàn Giác nhận thấy Tu Ðà Cấp Cô Ðộc thiện căn đã bộc lộ, tâm tánh đã
khai mở, kiến chấp đã vỡ tan, ý thức đã an tịnh, sẵn sàng để hấp thụ chánh
pháp, Ngài liền giảng giải cho ông bốn chân lý vô song của Phật giáo là Tứ Diệu
Ðế (Catu Ariyasaccàni) gồm:
1- Khổ Ðế: Khổ đau là một thật tế.
2- Tập Ðế: Ái dục, nguyên nhân của khổ đau là một thật tế.
3- Diệt Ðế: Niết bàn, trạng thái dập tắt mọi ái dục, hết khổ đau là một thật
tế.
4- Ðạo Ðế: Bát Chánh Ðạo, con đường có tám chi dẫn đến chỗ dập tắt mọi ái dục
là một thật pháp.
Thấu đáo được bốn chân lý vô song đó, Tuệ nhãn (hay Pháp nhãn: Dhammacakkhu)
nhìn thấy mọi sự vật liền phát sinh trong tâm Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, khiến cho ông
mặc nhiên nhất niệm rằng: "Cái gì hễ có sinh thì phải có diệt". Tu Ðà
Cấp Cô Ðộc bây giờ là một người hiểu đúng sự thật, dẹp bỏ được hoài nghi, tự
tin chắc chắn vào đạo giải thoát, không còn trông đợi vào một tha ân nào khác.
Và khi Phật giảng giải chánh pháp xong, ông đã đắc quả đầu Nhập Lưu Tu Ðà Hườn
(Sotàpatti), một phẩm Thánh chỉ có tiến lên đích giải thoát chứ không bao giờ
còn sa đọa vào ác đạo nữa.
Sau đó Tu Ðà Cấp Cô Ðộc thành tâm thỉnh mời đức Thế Tôn đến dự trai Tăng tại
nhà người anh rể ngày mai và được đức Thế Tôn nhận lời. Sau buổi trai Tăng, Tu
Ðà Cấp Cô Ðộc liền xin phép đấng Toàn Giác chấp thuận cho ông xây cất một ngôi
chùa dâng đến chư Tăng để cư ngụ trong thành phố Xá Vệ của mình.
Ðức Phật thay vì chấp thuận một cách xác định, Ngài lại bổ túc sự đồng ý của
Ngài bằng cách lưu ý người yêu cầu rằng:
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Các bậc Giác Ngộ chỉ thích những nơi thanh tịnh.
- Bạch đức Thế Tôn! Con đã hiểu! Con rất hiểu tôn ý của đức Phật! Con sẽ chọn
một nơi gần thành Xá Vệ nhưng không ồn ào.
Vừa nói Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tỏ vẻ vô cùng hoan hỷ, vì ông biết rằng đức Thế Tôn đã
gián tiếp chấp thuận lời yêu cầu của ông (Theo Samyutta Nikàya 10, 8: Tạp A Hàm
10, 8 và CV VI. 4: Tiểu phẩm VI. 4).
Trên đường trở về thành Xá Vệ (Sàvatthi) đi đến đâu Tu Ðà Cấp Cô Ðộc cũng loan
tin cho dân chúng biết ý định lập chùa của ông, và ông còn khuyến khích họ
chuẩn bị thật chu đáo, để nghinh đón đức Phật một cách long trọng suốt quãng
đường dài từ Vương Xá thành (Ràjagaha) đến thủ đô Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu).
Khi về đến đất nhà, ông lập tức đi tìm địa điểm để xây chùa. Nhất là chỗ nào
không xa mà cũng không gần thành phố lắm. Ðịa thế phải đúng tiêu chuẩn ban ngày
dẫu người đến đông cũng không trở thành hỗn độn và ban đêm tuyệt đối không có
tiếng động. Ngôi chùa trong tương lai ấy cũng phải là nơi Phật tử bốn phương có
thể lui tới dễ dàng, đồng thời nó phải thích hợp cho những Cao Tăng quen sống
trong cảnh ẩn dật, thanh tịnh.
Sau cùng, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã tìm ra trong dải đồi bao quanh thành phố Xá Vệ
một quãng đất rừng thưa rất thích hợp cho mục đích lập chùa. Khoảng đất rừng
này hiện thuộc về Thái tử Kỳ Ðà (Jeta), con vua Ba Tư Nặc (Pasenadi).
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc lập tức đến gặp vị Hoàng tử ấy, để yêu cầu Hoàng tử nhường lại
khoảng đất tốt kia. Nhưng Hoàng tử Kỳ Ðà trả lời rằng:
- Dải đất bằng rừng thưa này, bản Vương tử không có ý định bán cho ai cả.
Rồi Hoàng tử thấy nét mặt Tu Ðà Cấp Cô Ðộc có vẻ khẩn khoản, liền nói tiếp, nửa
đùa nửa thật, nêu một cái giá cao gấp trăm lần thực tế:
- Cho dù có ai chịu trả đến mười tám triệu đồng tiền vàng, bản Vương tử cũng
chưa chắc đã thuận.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nghe thế liền chụp lấy cơ hội:
- Nếu Hoàng tử chịu nhượng đất cho hạ thần thì giá nào hạ thần cũng mua cả có
thể trả bằng vàng lập tức, không để trễ nải.
Hoàng tử Kỳ Ðà tưởng mình nói dọa bằng một giá cực đắc như thế để Tu Ðà Cấp Cô
Ðộc tự ý rút lui, nào ngờ ông tuyên bố chấp thuận mua vô điều kiện, khiến Hoàng
tử đâm ra lúng túng
Sự lúng túng đó đã làm cho Hoàng tử Kỳ Ðà không biết giải quyết ra sao. Một mặt
Hoàng tử không muốn bán đất, mặc khác Hoàng tử cũng không muốn mất thể diện đã
nêu giá cao mà lại nuốt lời.
Sau cùng cả Hoàng tử Kỳ Ðà lẫn bá hộ Cấp Cô Ðộc phải đến nhờ một người làm
trọng tài. Người trọng tài này, tuy sợ oai quyền của Hoàng tử Kỳ Ðà, nhưng
trong tâm vốn kính nể Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không kém, nên nghĩ ra một cách, đề nghị
rằng:
- Ðất của Hoàng tử là đất rất quí. Ai muốn mua đất ấy thì phải đem tiền vàng
lót kín diện tích khoảng đất mà mình muốn mua để định giá trả cho Hoàng tử.
Do đó một giao kèo bán đất đã được thiết lập và cuộc thương thuyết kết thúc.
Sau đó, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc ra lệnh cho gia nhân dùng mấy chục cỗ xe chở đầy tiền
vàng đến lót kín khoảng đất mà ông đã chọn. Tuy nhiên tổng số vàng của mấy chục
cỗ xe chỉ đủ cho diện tích đất chùa mà thôi, còn các lối vào chưa lót, nên ông
phải phái tùy tùng trở về, mở kho lấy vàng thêm.
Trong khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc chưa kịp làm vậy, thì Thái tử Kỳ Ðà, vì cảm kích
hạnh bố thí của bá hộ Cấp Cô Ðộc nên phát tâm hiến dâng phần đất làm lối đi
xung quanh chùa, nơi ấy Hoàng tử sẽ ra lệnh xây cất những ngọ môn, ngoại viên
và vòng thành rất trang nghiêm hùng vĩ. Vòng thành và các ngọ môn đó sẽ bảo vệ
ngôi chùa, ngăn cản tiếng động từ các trục giao thông có xe cộ di chuyển, đồng
thời cũng ấn định ranh giới giữa thánh địa tôn nghiêm và làng xóm bên ngoài.
Còn ngoại viên là một lối rộng làm vòng đai xung quanh chùa, cũng được Hoàng tử
cho trồng nhiều thứ hoa trang trí, đủ màu sắc, và lót gạch men rất đẹp! Thế là
việc Tu Ðà Cấp Cô Ðộc dùng vàng mua đất xây chùa đã kết thúc mỹ mãn.
Tiếp theo, người đại Thiện nam phi thường ấy còn dùng đến mười tám triệu đồng
tiền vàng để xây cất chính điện, tịnh thất và tất cả các cơ sở cần thiết khác
trong chùa. Chẳng hạn như Tăng phòng, giảng đường, phạn đường, hương đăng khố,
hành lang, lối kinh hành, giếng nước, nhà vệ sinh, ao sen, chỗ tắm v.v...! Vì
vậy chẳng bao lâu sau, khoảng đất rừng thưa đã trở thành một đại tu viện nguy
nga đồ sộ, nổi bật như một trung ương tôn nghiêm, linh địa số một của Phật
giáo, thời đức Toàn Giác còn tại thế (Theo CV. VI. 4: Tiểu phẩm số VI. 4).
Khi mọi kiến trúc hoàn tất, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc vội đích thân đi cung thỉnh đức
Phật và chư Thánh Tăng đến chứng minh lễ khánh thành. Cuộc khánh thành đã được
tổ chức vô cùng trọng thể dưới hình thức nhiều ngày trai Tăng, làm phước, cúng
dường thực phẩm và tứ vật dụng đến Thánh nhân.
Phần cúng dường thực phẩm ngày đầu vừa kết thúc thì Tu Ðà Cấp Cô Ðộc yêu cầu
đức Phật chỉ dạy cách nào đúng chánh pháp nhất, để ông dâng ngôi chùa vừa kiến
tạo đến đấng trọn lành, đức Phật liền bảo:
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Ông hãy hiến dâng ngôi đại tự này cho tứ phương Tăng
chúng cả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
Thế là Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã thành khẩn làm theo lời Phật dạy. Và ngôi chùa cũng
kể từ đó, được đặt tên là Kỳ Viên Tự (Tức là một tu viện được xây lên ở trung
tâm công viên của Thái tử Kỳ Ðà).
Nhân để khen ngợi thiện tâm có một không hai của hiền nhân Cấp Cô Ðộc, đức Phật
còn ban kệ ngôn rằng:
"Tạo nơi che chở nhiệt, hàn, thú dữ,
Ngăn khỏi phi trùng, rắn, rít, gió mưa.
Tránh loạn cuồng phong, nóng bức hạn mùa,
Ðể Thánh chúng được yên lành tu tập.
Ðây bảo tự, duyên Tu Ðà nguyện lập,
Thiện hạnh nào hơn nghĩa cử đang làm!
Tịnh xá xây là trú sở cho tâm,
Hiến dâng vật dụng càng đầy ân đức.
Hành pháp Phật, ấy phước điền chân thật,
Gieo giống lành, quả giải thoát về sau.
Hoa nở là khi tâm hết ra vào,
Trong tam giới đầy khổ đau sinh diệt".
(N. Ð. Thoát dịch thành văn vần)
Sau lễ dâng chùa, cuộc làm phước còn kéo dài nhiều ngày, lôi cuốn toàn thể dân
chúng quanh vùng tất cả giai cấp đều có mặt: Từ thượng tầng xã hội đến cùng
đinh hạ tiện. Mỗi người đến lễ bái đều được Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tặng cho một món
quà làm kỷ niệm, khiến chi phí cuộc lễ một lần nữa lên đến mười tám triệu đồng
tiền vàng.
Như vậy tổng kết cuộc bố thí của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc trong ba đợt: mua đất, xây
chùa và làm lễ đã trở thành một con số khổng lồ là năm mươi bốn triệu đồng tiền
vàng. Ông quả thật là một tín thí vô địch của Phật giáo vậy! (Theo Anguttara
Nikàya I. 19: Tăng Chi A Hàm số I. 19).
[II] TU ÐÀ CẤP CÔ ÐỘC - MỘT ÐẠI HỘ PHÁP
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tình nguyện tiếp tục nhận lãnh trách nhiệm nuôi nấng Tăng Già
và bảo trì ngôi chùa Kỳ Viên cho đến trọn đời. Ông cung cấp hằng ngày tứ sự
cúng dường đến chư Tăng. Mỗi buổi sáng, ông dâng cơm nước. Còn buổi chiều thì
ông hộ độ thuốc men, nhang khói các lễ đài, và đôn đốc gia nhân rửa sạch bát
dĩa, giặt giũ y phục, mền chiếu, cũng như quét dọn, lau chùi toàn diện ngôi chùa
một cách thận trọng. Nói tóm lại là những công tác gì chư Tăng không thể làm
được thì ông cắt đặt nhân viên thực hiện chu toàn. Nhất là việc chăm sóc vườn
hoa và những cây cối rợp bóng mát, cùng ao sen, giếng nước và hồ tắm, để cho
khuôn viên xung quanh ngôi chùa được luôn luôn tươi nhuận, hợp vệ sinh.
Về sau này, khi số Tăng chúng tụ tập tại chùa và những thiền viện phụ cận, lên
đến hàng ngàn vị, thì hằng ngày, ngoài việc hộ trì toàn thể chùa Kỳ Viên, Tu Ðà
Cấp Cô Ðộc còn thỉnh thêm bảy trăm đại Tỳ khưu về nhà trai Tăng nữa. Nhà ông là
một tòa lâu đài cao bảy từng, mỗi từng chứa một trăm Sa môn, nên đến giờ ngọ
thực, lâu đài ấy trông giống như một cõi Phạm hạnh, vì từ trên xuống dưới thấp
thoáng đầy bóng y vàng và lời ăn tiếng nói thấm nhuần thiện pháp.
Khi tiếng khen về tấm lòng hộ pháp, rộng rãi phi thường của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc
lan rộng khắp nơi, thấu tai quốc vương Ba Tư Nặc (Pasenadi). Nhà vua muốn ganh
đua danh tiếng với ông, đã bảo cận thần mời năm trăm vị Tỳ khưu vào cung cúng
dường mỗi ngày. Một hôm nhà vua có ý định gặp chư Sa môn để xem phản ứng của họ
về sự hộ độ rộng rãi của mình ra sao thì được vệ quan cho biết rằng:
- Các thức ăn thức uống của triều đình dành cho chư Tăng, tuy đã dọn sẵn và mời
họ tự tiện dùng nhưng các Sa môn lại đem trao cho những Phật tử nhiệt thành
khác, rồi bảo họ dâng cúng trở lại, cho hợp lẽ đạo.
Nhà vua cảm thấy khó chịu, thắc mắc rằng:
- Thực phẩm của hoàng gia là những thức ăn thượng hạng, không phải tầm thường,
thế mà chư Sa môn đã chẳng tranh nhau thọ dụng, để khen ngợi mà còn có những cử
chỉ kỳ lạ?
Sau đó, quốc vương Ba Tư Nặc đến gặp Phật để hỏi duyên cớ thì được Phật trả
lời:
- Này bệ hạ! Sự cúng dường đến chư Tăng mời vô hoàng cung của bệ hạ chỉ có hình
thức vật chất, nhưng không có giá trị tinh thần. Các quan quân được bệ hạ giao
làm việc ấy chỉ biết hành động vì tuân lệnh. Họ tuân lệnh bố thí đến các hàng
Sa môn như tuân lệnh dọn quét, rửa ráy một chỗ dơ bẩn, hay tuân lệnh lùng bắt
một tên trộm nộp trước triều đình, chứ trong thâm tâm họ không có tối thiểu hiểu
biết gì về thiện nghiệp của mình cả. Cũng như họ không có một niềm kính ngưỡng
xứng đáng nào đến chư Tỳ khưu Tăng. Trong đầu họ còn nghĩ rằng: "Những Sa
môn cao tuổi này chắc không biết làm gì để sống nên phải ăn bám nhờ dân
chúng!"
- Này bệ hạ! Khi hiến tặng một vật mà người làm tỏ ra thái độ ấy thì người nhận
không dám thọ dụng một cách yên tâm, cho dù vật hiến tặng có đắt giá đến đâu đi
nữa! Ngược lại, khi những thí chủ gương mẫu như Tu Ðà Cấp Cô Ðộc hay Nguyệt
Trang tín nữ dâng cúng bất cứ vật gì, họ cũng hành động với tất cả lòng thành.
Chư Tỳ khưu Tăng lúc nhận, cũng thọ dụng một cách thanh tịnh và quán tưởng
rằng: "Bậc xuất gia hằng ngày được thiện nam tín nữ hộ độ thì phải chăm lo
tu hành để hồi hướng phúc đức cho toàn thể nhân loại chúng sanh". Rồi họ
từ bi đón nhận vật thí.
- Một bữa cơm đạm bạc, hiến dâng bởi một tấm lòng thành vẫn quý hơn cao lương
mỹ vị mà đem cho với sự lạnh lùng hay bằng một thái độ khinh bỉ.
- Này bệ hạ! Chắc bệ hạ còn nhớ câu ngạn ngữ: "Cơm chua mà thành tâm chia
sớt cho nhau thì cũng trở thành ngon ngọt!?" (Theo Jàtaka 465: Túc Sinh
truyện số 465).
Rồi để nhà vua dễ nhớ, đức Phật còn ngâm câu kệ rằng:
"Nắm cơm tuy có tầm thường,
Nhưng tâm thành kính khi nhường cho nhau.
Thì cơm ngon biết dường nào,
Ăn cơm ngon ấy tâm vào an vui".
(N. Ð. Phỏng dịch thành văn vần theo Jàtaka 346: Túc Sinh truyện số 346)
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc và Nguyệt Trang tín nữ không phải chỉ là hai thí chủ lớn nhất
của Tăng Già tại thành Xá Vệ, mà họ còn là hai cư sĩ hộ pháp đặc biệt được đức
Thế Tôn ban cho diễm phúc thay mặt Phật để tổ chức hàng ngũ Phật tử lúc bấy
giờ. (Theo các Jàtaka 337, 346, 465: Túc Sinh truyện số 337, 346, 465).
Tuy nhiên Tu Ðà Cấp Cô Ðộc dù có tiền rừng, bạc biển đến đâu, ông cũng không
tránh khỏi cái luật thịnh suy, vô thường và bất trắc. Trong một trận đại bão
lụt nọ, ông đã bị nước cuốn trôi đi toàn thể tiền dự trữ gồm mười tám triệu
đồng tiền vàng. Rồi những người vay tiền ông tổng cộng đến mười tám triệu đồng
tiền vàng khác, cũng quịt luôn không trả!
Gia tài khổng lồ chín chục triệu đồng tiền vàng của ông vốn đã xuất ra ba phần
năm để mua đất, cất chùa và làm lễ hết năm mươi bốn triệu đồng tiền vàng rồi
(18x3=54). Bây giờ ông gặp nạn bị thiên tai và những kẻ thiếu nợ cướp mất ba
mươi sáu triệu đồng tiền vàng còn lại nữa, thành thử bỗng chốc ông trở thành
tay không. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc mới ngày nào là một đại triệu phú thì hiện tại là
một người nghèo.
Nhưng điều đáng quí là đối diện với nghịch cảnh, ông vẫn tiếp tục làm bổn phận
của một người hộ pháp, nuôi dưỡng Tăng Già. Khác chăng là ngày trước ông đủ
điều kiện để dâng cúng những bữa ăn đầy đủ, thì ngày nay ông có món gì, thành
kính đem dâng chư Sa môn món ấy, để cùng nhau thanh tịnh tu tập, sống qua ngày.
Nhắc lại lúc đó có một vị Thọ thần ngụ trong đỉnh tháp trên tầng lầu thứ bảy
tòa nhà Tu Ðà Cấp Cô Ðộc. Cứ mỗi lần đức Phật và chư Thánh Tăng đến, y vì kinh
sợ oai đức của Thánh nhân, không dám ở yên trong trú sở trên cao của mình phải
bước xuống đất. Ðiều này làm cho y bực bội. Do đó, đã từ lâu, vị Thọ thần hằng
tìm cách để làm cho Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không mời Phật và chư Thánh Tăng tới nhà
nữa, nhưng y vốn chưa tìm ra dịp tốt.
Nhân cơ hội Tu Ðà Cấp Cô Ðộc trở thành nghèo, Thọ thần liền hiện đến trước mặt
viên quản gia của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nói rằng:
- Này bạn! Nhà bá hộ bây giờ đã nghèo rồi, bạn nên khuyên ông chủ đừng cúng
dường các Sa môn nữa.
Nhưng người quản gia lại làm ngơ, không nghe theo lời xúi giục ấy. Thọ thần bực
tức quay sang dụ dỗ cậu con trai của viên quản gia với mục đích tương tự là
chống lại đức Phật và chư Tăng. Rồi y cũng thất bại luôn.
Sau cùng Thọ thần vận dụng hết phép lực của mình, hiện nguyên hình có hào quang
bao phủ, trước mặt chủ nhà Tu Ðà Cấp Cô Ðộc để khuyên ông không nên tiếp tục bố
thí nữa. Thọ thần viện dẫn rằng: "Vàng bạc là của quí trên đời, không có
nó đời sống sẽ vô cùng cơ cực. Vậy nếu còn chút ít, ông không nên đánh mất
v.v...".
Nhưng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền điềm tỉnh trả lời:
- Này Thọ thần! Ðối với tôi, trên đời chỉ có ba thứ quí nhất: Ðó là Phật, đấng
thân, khẩu, ý trọn lành, hoàn toàn giải thoát. Pháp những lời dạy chân chánh
cứu khổ của Ngài, và Tăng, những Sa môn sống đúng phạm hạnh, diệt tận tham,
sân, si phiền não, làm phước điền cho chúng sanh nhân loại.
- Này Thọ thần! Tu Ðà Cấp Cô Ðộc này từ ngày giác ngộ được chân lý, chỉ biết
tìm kiếm và bảo vệ ba thứ ấy, ngoài ra không ưa thích bất cứ vật gì khác! Bây
giờ yêu cầu Thọ thần hãy đi chỗ khác, vì trong nhà này không có chỗ để cho một
Thọ thần chống lại Phật, Pháp, Tăng.
Thế là vị Thọ thần, theo luật của cõi Ðịa tiên dục giới phải rời chỗ ở nhà Tu
Ðà, mong mỏi đến gặp vị Ðịa tiên đang là thần hoàng của thành Xá Vệ (Sàvatthì)
để yêu cầu xin lên bậc trên cho mình có một trú sở mới. Nhưng khi ước muốn của
Thọ thần được trình với Tứ Ðại Thiên Vương, thì bốn vị vua trời này cũng không
đủ khả năng thẩm xét một vị Thọ thần chống lại Tam bảo, nên cuối cùng số phận
của Thọ thần phải đặt vào trong tay của vua trời Ðế Thích (Sakka).
Sống trong cảnh không có trú sở nhất định, rày đây mai đó vị Thọ thần bắt đầu
xét lại việc mình đã làm, và ý thức được ấy là nghiệp xấu nên âm thầm hối hận.
Vua trời Ðế Thích biết được chuyện ấy bèn để cho Thọ thần lang thang một thời
gian, chừng nào can đảm quay về sám hối thì ông mới giải quyết.
Khi Thọ thần đến trước Ðế Thích cầu sám hối và xin một thiện nghiệp gì làm, để
chuộc tội thì Ðế Thích phán rằng:
- Này Thọ thần! Ngươi ở trong nhà Tu Ðà Cấp Cô Ðộc biết trước mọi tai nạn suy
sụp của chủ nhà mà không báo trước để gia chủ tránh là một lầm lỗi quan trọng!
Bây giờ muốn chuộc tội, người phải làm cách nào để hoàn lại gia sản cho Tu Ðà
Cấp Cô Ðộc.
Cách chuộc tội đã được đưa ra, vị Thọ thần vô cùng mừng rỡ nhận thi hành lập
tức những phán quyết của Ðế Thích để phục thiện. Trước tiên, Thọ thần dùng thần
thông gom lại tất cả số đồng tiền vàng của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã bị nước cuốn
trôi ra biển. Kế tiếp, Thọ thần tìm kiếm những kho tàng chôn dấu vô chủ nằm
trong lòng đất hay dưới nước, hoặc những kho tàng đã có chủ, nhưng cả dòng họ
con cháu hiện chết hết không còn ai thừa hưởng. Tìm xong Thọ thần đem tặng tất
cả cho Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Sau cùng, Thọ thần quay sang đòi nợ cho ông bá hộ bằng
cách hiện vào trong giấc mơ của những người thiếu nợ, dùng thần lực biểu diễn,
bảo phải trả nợ cho ông Tu Ðà Cấp Cô Ðộc v.v...
Nhờ vậy, chẳng bao lâu sau, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc bỗng tự nhiên giàu có như cũ.
Ngoài việc thu hồi số của cải xưa, ông còn được hoạch tài thêm năm mươi bốn
triệu đồng tiền vàng nữa. Số của này tương đương với tổng cộng chi phí ba lần
mua đất, cất chùa và làm lễ, chứng tỏ rằng sự cúng dường Tam bảo của Tu Ðà Cấp
Cô Ðộc đã không làm gia tài ông giảm xuống!
Sau đó, Thọ thần hiện ra trước mặt đức Phật để sám hối, xin Ngài tha thứ cho
những nghiệp ác mà y đã tối tăm phạm phải. Ðức Thế Tôn với lòng từ bi vô lượng
đã giải tội cho Thọ thần. Ngài còn ban pháp lành cho Thọ thần giác ngộ, rồi y
xin qui y trở thành đệ tử Phật nữa.
Ðức Phật giảng thêm cho Thọ thần hiểu rằng:
- Một bậc đại hạnh khi đã dùng pháp bố thí để trở thành hoàn toàn giải thoát,
thì không có sức mạnh nào trên thế gian này có thể ngăn cản họ được, dù cho sức
mạnh ngăn cản đó phát xuất từ vua chúa, phát xuất từ hiền thần hay hung thần,
phát xuất từ ác tiên hay thiện tiên, và ngay cả phát xuất từ thần chết. (Theo
Jàtaka 140 và 340: Túc Sinh truyện số 140 và 340).
Sau khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã tái trở thành triệu phú, còn giàu có hơn trước, một
người Bà la môn trong vùng vì ganh ghét, muốn tước đoạt cái "phép lạ"
(hay bí quyết) đã cứu giúp và phục hồi gia tài Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nhanh chóng như
thế. Y bèn nghĩ ngay đến thần tài Siri. (Theo văn minh Bà la môn giáo thì thần
tài Siri xuất hiện dưới hình thức "điềm lành" trong nhà người nào thì
người đó sẽ trở nên giàu có).
Vậy việc phải làm của người Bà la môn ác tâm kia, là tìm cách chiếm đoạt cái
"thần tài" hay điềm lành ấy đem về nhà y, thì tự nhiên y sẽ trở nên
giàu có. Ðiều này cũng phản ảnh niềm tin của tín đồ Bà la môn giáo rằng: Ai
giàu có trên đời là nhờ tìm được "tín hiệu", tức thần tài hay phú
lệnh (còn gọi là điềm lành) do Thượng đế ban xuống trần gian. Chứ không phải sự
giàu có hiện tại là do gặt hái quả lành từ thiện nghiệp của mình đã tạo trong
kiếp trước như đức Phật đã dạy! Nói một cách khác "thần tài" là một
loại "âm binh" của Thượng đế rải xuống trần gian. Ai tìm cách chiếm
đoạt hay dụ dỗ, cầm giữ được những hình tướng của các "âm binh" này
trong nhà mình, thì mình sẽ trở nên giàu có
Nghĩ đoạn, người Bà la môn tìm đến nhà Tu Ðà Cấp Cô Ðộc. Y xin phép được vào
tận bên trong để quan sát tìm kiếm tín hiệu của thần tài. Nhờ biết nham độn và
có khả năng bói toán nên y liền thấy thần tài "nằm" trong con gà
trống lông trắng được bá hộ Tu Ðà Cấp Cô Ðộc rất cưng, nhốt trong một lồng bằng
vàng.
Người Bà La môn lập tức hỏi xin con gà cồ lông trắng, y viện lý do rằng y sẽ
dùng tiếng gà gáy buổi sáng của nó để đánh thức đám học trò dậy. Với hạnh
nguyện bố thí, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không chần chừ liền cho con gà. Nhưng ngay lúc
ấy "tín hiệu thần tài" lại rời con gà, nhập vào một viên ngọc trên áo
của chủ nhà. Người Bà la môn biết được sự việc quay qua xin viên ngọc thì y
thấy "thần tài" bỏ viên ngọc, nhập vào trong cây gậy của Tu Ðà Cấp Cô
Ðộc. Y lại xin cây gậy thì "thần tài" di chuyển đến mái tóc của người
đệ nhất phu nhân Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, tên là Punnalakkhana, một người đàn bà rất
nhiều phúc đức và luôn luôn được các hàng chư Thiên vô hình bảo vệ.
Khi người Bà la môn nhìn thấy đệ nhất phu nhân Punnalakkhana thì y giật mình
hoảng sợ, tự nhủ rằng: "Chết chửa! Bây giờ thần tài nằm trên mái tóc của
đệ nhất phu nhân Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, lại có Thiên chúng hộ vệ thì ta hết đường
chiếm đoạt".
Cuối cùng, người Bà la môn vì hổ thẹn đã thú thật dã tâm của mình với chủ nhà,
rồi trả lại con gà, viên ngọc và cây gậy, đoạn bỏ đi.
Khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đến thăm Phật, thuật hết mọi chuyện liên quan đến người Bà
la môn biết một thứ nham độn mà ông không hiểu gì cả, thì được nghe đức Phật
giảng giải rằng:
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Sự định tâm của con người có thể giúp họ biểu diễn được
một số khả năng đặc biệt.
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Nếu khả năng vật chất của loài người có thể tiện lợi,
nhanh chóng, chính xác và tối tân hơn, nhờ vào những dụng cụ hay máy móc tinh
vi, thì khả năng tâm linh của họ cũng có thể nhiệm mầu tuyệt diệu hơn, nhờ
những ưu tính tu luyện thuần thục, thanh tịnh và thánh thiện.
- Xa hơn nữa, này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Niết bàn là một phẩm cách siêu việt đối với
phàm nhân và những ai chưa dứt sạch phiền não. Nhưng Niết bàn là một pháp rất
hiển nhiên và thực tế đối với các bậc đã hoàn toàn giải thoát. (Theo Jàtaka
284: Túc Sinh truyện số 284).
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc vốn có một lòng sùng kính đức Phật vô cùng chu đáo. Ông nghĩ
đến mọi hình thức tạo phúc hướng về đức Phật. Khi đấng Toàn Giác có mặt gần ông
tại đất nhà, thành phố Xá Vệ, thì ông hẳn đến Kỳ Viên Tự lễ bái hằng ngày.
Nhưng những lúc đức Bổn Sư phải đi xa, lê gót chân ban bố chánh pháp các nơi
khác, thì ông phải làm sao? Thế là một ý nghĩ tạo phương tiện để gián tiếp lễ
bái đức Phật tại Xá Vệ lại nảy ra trong đầu óc ông.
Một hôm Tu Ðà Cấp Cô Ðộc ngỏ ý với Tôn giả A Nan Ðà rằng: "Ông muốn xây
một kiến trúc dành riêng cho đức Phật gần Kỳ Viên Tự". Rồi qua trung gian
của Tôn giả A Nan Ðà, ông được nghe đức Phật dạy:
- Có ba hình thức kiến trúc để tưởng nhớ lâu dài đến tròn giáo pháp một vị
Phật. Ðó là Bảo tháp (hay đền thờ), đài Kỷ niệm, và Thánh địa:
1/ Bảo tháp (hay đền thờ) dành để an trí các di thể, từ nhục thân của Phật để
lại. Chẳng hạn như Xá lợi hay tro quí sau khi viên tịch hỏa táng v.v...
2/ Ðài Kỷ niệm dùng để lưu giữ những vật dụng của đức Phật đã từng ít nhất là
dùng một lần lúc sinh tiền. Chẳng hạn như bình bát, cội Bồ đề.
3/ Thánh địa dùng để gợi hình ảnh tượng trưng cho sự xuất hiện và những sinh hoạt
của đức Phật khi còn tại thế.
Trong ba hình thức ấy để gián tiếp lễ bái này, cái thứ nhất không có được, vì
đức Thế Tôn còn sống. Cái thứ ba cũng không thích hợp, vì Thánh địa gợi hình
ảnh tượng trưng cho sự xuất hiện và sinh hoạt của đức Phật, chỉ có giá trị sau
khi đức Phật đã khuất bóng! Còn lại hình thức lễ bái gián tiếp thứ hai là
"Phật dụng" (hay đồ dùng của đức Phật) thì khả dĩ tạo được.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền nghĩ ngay đến cây Bồ đề ở xứ Uruvela, gần sông Ni Liên
(Anoma) mà đức Phật đã dùng che nắng che mưa, để tìm ra con đường giải thoát,
cứu khổ cho mình và toàn thể chúng sanh. Chính dưới cội Bồ đề này, Ngài đã tìm
ra và mở được cánh cửa bất tử.
Suy nghĩ về những giá trị vật dụng như thế, sau cùng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc quyết
định mang một nhánh Bồ đề, từ chỗ đức Phật đã đắc đạo kia, về trồng trong thành
Xá Vệ.
Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên biết được thiện ý của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, liền tình
nguyện dùng thần thông chiết một nhánh con Bồ đề từ Bồ đề đạo tràng, mé rừng
Uruvela (Khổ Hạnh lâm) thuộc nước Ma Kiệt Ðà (Magadha) mang về thành Xá Vệ.
(Lời thêm của dịch giả: Khoảng cách từ thành Xá Vệ đến Bồ đề đạo tràng rất xa,
ngày nay nếu đi xe hơi cũng phải chạy một ngày ròng rã mới tới. Vả lại, thuở ấy
kỹ thuật canh nông trồng trọt không tối tân như bây giờ. Một nhánh Bồ đề con mà
chuyên chở bằng kỵ mã hay mã xa, dưới ánh nắng như thiêu như đốt của miền Trung
Ấn thì không cách gì còn sống đến chỗ trồng. Ðây chính là lý do mà Tôn giả Ðại
Mục Kiền Liên đã phải dùng thần thông, một khả năng mà Thánh Tăng chỉ dùng trong
những trường hợp bị bắt buộc.
Nhắc lại việc trồng cây Bồ đề tại đại ngọ môn chùa Kỳ Viên thành Xá Vệ. Khi ấy,
ngoài sự chứng minh của đức Phật và Thánh chúng, còn có sự hiện diện của quốc
vương Ba Tư Nặc. Tôn giả A Nan Ðà nhìn Ðại thánh Mục Kiền Liên thì thấy tự
nhiên ông biến mất. Rồi chỉ một nháy mắt sau, ông đã hiện nguyên hình trở lại,
trên tay cầm một nhánh Bồ đề con tươi rói, như mới được chiết từ thân cây mẹ
cách đó vài giây. Tôn giả A Nan Ðà nhân muốn đề cao thẩm quyền cai trị của một
vị quốc vương trong lãnh thổ của họ, nên đã đón lấy cây Bồ đề con trên tay Ðại
thánh Mục Kiền Liên và trao lại cho vua Ba Tư Nặc.
Nhưng vua Ba Tư Nặc vội khiêm nhường nói rằng:
- Bạch đức Thế Tôn và chư Thánh Tăng! Trẫm chỉ là người đứng đầu trong vương
quốc về mặt đời. Còn về mặt đạo, chính Tu Ðà Cấp Cô Ðộc mới là bậc cư sĩ duy
nhất xứng đáng gieo trồng giống Bồ đề thánh thiện này trên lãnh thổ của chúng
ta. Vậy trẫm đề nghị nhường danh dự ấy cho Tu Ðà Cấp Cô Ðộc".
Thế là cây Bồ đề được trồng tại trung tâm công trường, cổng chính dẫn vào Kỳ
Viên Tự.
Và thời gian lặng lẽ trôi qua cây Bồ đề trước, chùa Kỳ Viên mỗi ngày một cao
lớn, cành lá sum suê, cho bóng mát và nhắc nhở những kẻ thiện tâm tưởng nhớ đến
khung cảnh nơi đức Phật đã thành đạo. Ðể tăng cường ý nghĩa sự hiện diện của
cây Bồ đề chùa Kỳ Viên, Tôn giả A Nan Ðà còn cung thỉnh đức Phật ngồi tham
thiền bên gốc cây Bồ đề này để ban phúc đến Thọ thần và làm cho địa điểm càng
lúc càng tăng sự thánh thiện, thanh tịnh.
Riêng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, kể từ ngày cây Bồ đề hiện diện trước Kỳ Viên Tự ông đã
xem đó như một hình ảnh thứ hai của đức Phật, nhất là những khi đấng Toàn Giác
đi hóa đạo phương xa. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc hằng ngày lại dùng cây Bồ đề làm đề mục
tu thiền và ông đã ổn định được tâm hồn mình xuyên qua một hình ảnh gần nhất
với sự đắc đạo của đức Phật (Theo Jàtaka 479: Túc Sanh truyện số 479).
Chương 3
GIA
QUYẾN TU ÐÀ CẤP CÔ ÐỘC
Tu
Ðà Cấp Cô Ðộc cũng có gia đình, vợ con một cách êm ấm như tất cả mọi người. Vợ hiền ông tên là
Punnalakkhana, nghĩa là "Nữ nhân phúc tướng", và bà đã có một đời sống trưởng
giả đúng như ý nghĩa cái tên của bà. Trong
gia đình, phu nhân Punnalakkhana luôn được sự yêu kính của tất cả mọi người. Bà như một nữ thần hằng bảo vệ toàn gia
tộc, hiền lành với kẻ ăn người ở và thường xuyên hộ độ chư vị Thánh Tăng. Ngoài
xã hội, bà là một tín nữ rất thầm nhuần Phật giáo, vì bà
đã theo chân người anh rể góp mặt trong số những tín đồ đầu tiên của đức Phật.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc có bốn người con: ba gái một trai. Trong ba tiểu thư ấy, có hai nàng tên là Tiểu Minh (Little
Subhaddà) và Ðại Minh (Big Subhaddà) rất thấm nhuần chánh pháp
và đã đắc quả Nhập Lưu Tu Ðà Huờn (Sotàpatti) như thân phụ của hai cô. Ba nghiệp thân, khẩu, ý hằng ngày của hai cô này vốn noi gương cha nên danh thơm đạo đức
và sinh hoạt kinh doanh luôn luôn thịnh vượng. Hai cô đã lấy chồng xứng đáng và
trở nên giàu có. Riêng cô gái thứ ba mà cũng là cô con gái út của Tu Ðà Cấp Cô
Ðộc, tên là Sumanà (tạm dịch là Mỹ Hoa) thiện căn vượt hẳn mọi người trong gia
đình. Cô này có trí tuệ phi thường. Lần đầu tiên Mỹ Hoa nghe Phật thuyết pháp,
cô liền đắc quả Tư Ðà Hàm, tức quả
Nhất Lai (chỉ còn bị luân hồi một lần nữa).
Thánh quả Tư Ðà Hàm là bậc thứ hai sau thánh quả bậc thứ nhất là Tu Ðà Huờn (còn
bị luân hồi bảy lần nữa ). Kể từ đó, tâm hồn c?a Mỹ Hoa (Sumanà) thường xuyên thanh tịnh. Cô không
chịu lấy chồng vì cô không bao giờ để tâm mình bị ô nhiễm
trong tình yêu nhục dục. Mỗi lần cô nhìn thấy cái hạnh phúc lứa đôi mà cô biết
là không tránh khỏi luật vô thường, của hai người chị, cô đâm ra buồn bã và lo
ngại cho họ. Sau cùng vì
không còn một chút gì mắc dính với cuộc sống thế gian,
cô đã tinh tấn tu thiền, không màng đến ăn uống, nên cô đã viên tịch trước sự
tiếc thương của toàn thể gia đình.
Sau khi chết, Mỹ Hoa (Sumanà) được
sinh lên cõi trời Tusita, thiên cảnh cao nhất của cõi Dục giới. Và ở đó cô đã
tinh tấn tu tập, diệt trừ những phiền não vi tế còn lại, rồi đắc quả hoàn toàn
giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. (Theo chú giải Kinh Pháp Cú).
Người con trai duy nhất của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tên là Kàla, có nước da ngâm đen. Cậu ta là
đứa con nối dòng của gia tộc họ Tu Ðà. Kàla
không muốn biết bất cứ một giáo
thuyết nào cả, hằng ngày cậu chỉ miệt mài trong nghề buôn bán làm giàu. Một hôm
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã khuyến khích con mình giữ Bát quan trai giới bằng cách
thưởng cho một ngàn đồng tiền vàng. Cậu ta liền bằng lòng, và sau đó cảm thấy
ngày thọ giới Bát quan
trai đã làm cho tâm hồn cậu ta dễ chịu. Thế là từ ấy về
sau, mỗi tuần Kàla nghỉ buôn bán một ngày, để cùng với gia đình thọ Bát quan
trai giới. Nhờ vậy mà cái không khí giữ Bát quan trai
của gia đình Tu Ðà Cấp Cô
Ðộc đã trở nên đồng thuận, thoải mái, chứ không phải là một hình thức làm cho
Kàla bực bội, khó chịu như thuở trước.
Tiếp theo Tu Ðà Cấp Cô Ðộc lại
khuyến khích con trai mình đến chùa vào những ngày lễ để nghe đức Phật thuyết
pháp, cũng bằng cách thưởng cho một ngàn
đồng tiền vàng khác.
Kàla lại một lần
nữa vui mừng chấp thuận. Nhưng lần này chính là khúc quanh của đời sống tâm linh
cậu ta. Vì sau khi nghe pháp, cậu liền đắc quả Tu Ðà Huờn.
Kể từ đó, sinh
hoạt hằng ngày của Kàla cũng giống như phụ thân chàng là chỉ biết tu hành làm phước. Cậu đã trở thành một trong những thí chủ quan trọng nhất của Phật giáo.
Người ta đã gọi Kàla là "Thiếu Mạnh Thường" Cấp Cô Ðộc để phân biệt với danh
hiệu của phụ thân chàng là "Thái Mạnh Thường" Cấp Cô Ðộc (Theo chú giải Pháp Cú
Kinh: Dhammapada).
Kàla lập gia đình với nàng Sujàtà, em gái của một nữ
thí chủ nổi tiếng là bà Visàkhà (Nguyệt Trang).
Visàkhà là dâu của một ông bá hộ
khác trong vùng tên là Migàra. Nhưng người đương thời thường gọi Visàkhà (Nguyệt Trang) là "Pháp mẫu" của
bá hộ Migàra. Lý do chỉ vì Visàkhà rất thấm nhuần Phật
giáo và đã đem chánh pháp
truyền lại cho cha chồng. Người cha chồng này lúc
trước vốn quẩn trí, đau khổ vì một số phiền não, suýt từ trần nên sau khi nhờ dâu hiền dùng Phật giáo cứu khổ liền không ngần ngại gọi nàng là "Pháp mẫu", tức
là kẻ đã dùng Pháp bảo làm cho ông được "tái sinh" lại vậy.
Visàkhà (Nguyệt Trang) là một người đàn bà hiền hậu, gương mẫu bao nhiêu, thì cô em gái Sujàtà, vợ của Kàla, lại là một nữ nhân xấu tính, tự đắc bấy nhiêu. Cô ỷ vào sự
giàu có của cả bên mình lẫn bên chồng nên tỏ ra gay gắt, bắt bẻ, chấp nhất mọi
người từng chút. Trong
đầu óc Sujàtà, không bao giờ có một tư tưởng cao thượng
hay thiện cảm được gợi lên, mà chỉ toàn là bất mãn, thiếu thốn, buồn bực sẵn
sàng tuôn ra để làm phiền lụy cho bất cứ ai nằm trong tầm nóng giận của
cô.
Sujàtà có thể đánh đập kẻ ăn người ở bất cứ lúc nào. Và cô có mặt ở đâu là ở đó có sự sợ hãi, khủng bố. Cô cũng chẳng bao giờ tôn trọng gia giáo,
trật tự trong gia đình cha mẹ chồng, và ngay cả của chính chồng nàng nữa. Ðây
vốn là lý do mà Sujàtà đã không được người ngoài hay thân nhân trong gia đình thương mến, kính trọng.
Một hôm, sau bữa thọ trai, như thường lệ, đức
Phật bắt đầu thuyết pháp thì nhiều tiếng la hét, gắt gỏng, quở mắng gia nhân
của Sujàtà làm kinh động cả nhà. Ðức Thế Tôn bèn ngưng thuyết pháp hỏi Tu Ðà Cấp Cô
Ðộc xem tiếng ồn ào xẳng xói ấy từ đâu tới, thì Phật được biết giọng gắt gỏng
kia không phải của ai khác, mà
là của cô dâu trong nhà, một người đàn bà đanh đá
vô lễ đối với chồng con, cha mẹ. Cô ta chẳng bao giờ biết bố thí, chẳng bao giờ
có tín đức và thường xuyên gây gổ cãi cọ với mọi người xung quanh.
Ðức Phật liền cho mời cô dâu của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc ra nghe thuyết pháp. Khi thiếu phụ ấy xuất hiện trước mặt, thì đấng Toàn
Giác bèn hiền từ hỏi:
- Này nữ thiếu chủ! Cô là vợ của một thanh niên bá hộ. Vậy cô có thể vui lòng cho Như Lai biết cô tự xếp hạng nào trong bảy loại vợ trên thế gian này?
- Thưa Sa môn Cồ Ðàm! Ngài muốn hỏi gì tôi không hiểu. Xin Ngài hãy giải ra cho.
- Này nữ thiếu chủ! Ðược lắm! Như Lai sẵn sàng giải đây, vậy cô cần lắng
nghe!
Rồi đức Phật thuyết một bài kệ dài gồm chín đoạn:
1."Nữ nhân mê của, niềm tin chẳng có
Chê chồng mình, đàn ông khác lại trông
Ðể được giàu sang, bụng sẵn giết chồng
Vợ như thế, vợ sát nhân ác
loại".
2."Của chồng kiếm bằng bán buôn lặn lội
Bằng cấy cày, bằng đồng
áng quanh năm
Mà nữ nhân mưu sự giữ riêng mình
Vợ như thế, khác nào phường
trộm cắp".
3-"Thích ngủ, ham ăn, biếng lười, dụng lập
Lời lẽ cộc cằn,
tư cách chanh chua
Chồng càng nhịn, thương, càng hiếp đáp bừa
Vợ như thế,
vợ bạo tàn cay độc".
4."Nữ nhân nào xem mình như nô bộc
Chăm sóc chồng như hiền mẫu chăm con
Giữ của cho chồng không để hao mòn
Vợ như thế sánh
mẹ hiền chẳng khác".
5."Nữ nhân nào kính thương chồng trong mắt
Như em gái dành cho một người anh
Phục vụ chồng luôn theo ý phu quân
Vợ như thế,
tỷ muội nào dám
sánh?".
6."Nữ nhân nào chồng thấy là hân hạnh
Như bạn xa nhau gặp lại hằng năm
Dung mạo dịu dàng, nhân đức thấm nhuần
Vợ như thế, thiện hữu nhân chánh
trực".
7."Nữ nhân nào, không giận hờn thành
thực
Mềm mỏng với chồng, kiên nhẫn khoan tâm
Giận chẳng giữ lâu, vâng ý
chồng làm
Vợ như thế, chính là viên phụ tá".
8-"Các vợ sát nhân, độc tài, lang chạ
Cướp của, bất lành, chẳng kính nể ai
Mạng thọ hết
rồi, sẽ khổ chẳng sai
Cửa địa ngục hẳn là nơi họ đến".
9-"Nhưng nếu vợ như mẹ
hiền, em mến
Như bạn thân hay phụ tá nhân từ
Ðầy đủ đức lành, thanh nhã tâm tư
Sau khi
chết sẽ tái sinh hạnh phúc!".
(N. Ð. Thoát dịch ra văn vần).
- Này nữ thiếu chủ Sujàtà!
Ðây là bảy hạng người vợ mà một người
đàn ông có thể gặp! Vậy Như Lai xin hỏi Sujàtà: Trong bảy hạng vợ ấy Sujàtà tự
mình xếp vào hạng nào?
Bài kệ đã làm cho
Sujàtà thức tỉnh và động lòng.
Cô liền hứa với đức Phật từ rày về sau cô sẽ cố gắng hành động như một viên phụ
tá đối với chồng. Lời dạy của đức Thế Tôn quả đã có hiệu lực làm cho Sujàtà trở thành một người vợ tốt. Từ đó, nàng hết lòng tin tưởng vào đức Phật và không
quên nhớ ơn Ngài đã dùng chánh pháp cứu độ tâm hồn mình.
Tin đồn nàng Sujàtà, con dâu của ông Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã phục thiện loan ra rất nhanh. Một
buổi tối, đức Thế Tôn đi vào trong giảng đường chùa Kỳ Viên, bỗng thấy nhiều Tỳ
khưu đang bàn tán.
Phật hỏi lý do thì mới biết họ ca ngợi kết quả kỳ lạ của Pháp
bảo. Sau đó họ còn tán thán oai lực của đấng Toàn Giác đã kỳ diệu, có thể chuyển
hóa được một người đàn bà ác độc như rồng, như rắn, trở thành một nữ chủ nhân
hiền lành, kiều diễm. Nhân đó, đức Phật đã thuật lại cho chư Tỳ khưu đệ tử nghe
một câu chuyện trong quá khứ giữa tiền thân Phật
và tiền thân nàng Sujàtà. Kiếp
ấy nàng sinh làm mẹ vị Bồ Tát, và người con Bồ Tát đã sáng suốt khuyên nhủ bà mẹ
nhiều tật xấu của mình, chừa bỏ chửi mắng và hống hách, bằng cách so sánh phong cách của loài chim sơn ca có cử chỉ thanh nhã và tiếng hót thanh tao với giống
quạ có cử chỉ xấc xược và tiếng kêu chói tai, ai nghe cũng cảm thấy khó chịu.
(Theo Jàtaka 269 và Anguttara Nikàya VII 59: Túc Sinh truyện 269 và Tăng Chi A
Hàm VII 59). (Lời thêm của dịch giả: Nàng Sujàtà, con dâu của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc
là một người khác. Xin
quí Phật tử chớ lầm lẫn nàng với nữ thí chủ Sujàtà đã
dâng cơm sữa lần đầu tiên đến đức Phật, sau khi Ngài từ bỏ cách tu khổ hạnh thái
quá để trở về con đường giữa: Trung đạo).
Sau cùng là nói đến người cháu trai của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc. Cậu này được thừa hưởng một gia tài lên đến bốn chục
triệu đồng vàng. Nhưng cậu ta chỉ thích sống hoang đàng ăn chơi, phung phí, tối ngày chỉ biết rượu chè, cờ bạc. Cậu đã dùng hàng trăm ngàn đồng tiền vàng trong
việc chơi bời trác táng với những cô gái lầu
xanh và bạn bè hư hỏng. Một con
người ngu muội như cậu thì tiền bạc dù chất cao bằng núi cũng có lúc hết
sạch.
Ngày kia, khi gia tài mạc tận, cậu bèn tìm đến người chú để xin
giúp đỡ. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền tặng cho cậu ta một ngàn đồng tiền vàng và khuyên
cháu mình nên dùng số ấy để làm vốn, gầy dựng lại sản nghiệp.
Nhưng cậu ta vẫn chứng nào tật nấy, nên chẳng bao lâu số tiền ấy cũng xài hết. Lần thứ hai
cậu đến xin, rồi lần thứ ba, lần thứ tư v.v... Cứ mỗi lần người cháu phá sản yêu
cầu, thì Tu Ðà Cấp Cô Ðộc lại cho tăng sự giúp đỡ thêm một ngàn đồng tiền vàng
nữa, hy vọng rằng cháu mình sẽ đủ số làm vốn hầu xây lại cuộc đời.
Nhưng khi người cháu đến xin lần thứ năm thì Tu Ðà Cấp Cô Ðộc vừa cho năm ngàn đồng
tiền vàng vừa cảnh cáo: "Nếu cậu không lo tự sinh kế, tình chú cháu sẽ chấm dứt". Mặc dù lời hăm dọa đoạn giao của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, người cháu vẫn đem
nướng số tiền ấy vào những nơi chơi bời trác táng.
Về sau, mỗi lần người
cháu hư hỏng này đến xin, thì toàn thể gia đình Tu Ðà Cấp Cô Ðộc xem cậu như một
người ăn mày chứ không coi cậu là con cháu trong nhà nữa. Từ đó họ chỉ cho quần
áo và thức ăn, chứ không tặng tiền bạc.
Nhưng con người trụỵ lạc đó đã
không còn biết hổ thẹn, tự trọng và danh dự. Cậu cứ nài nỉ thân nhân hãy cho tiền để cậu xài, chứ cậu không muốn nhận áo quần hay thực phẩm. Bởi tính lười
biếng và ương ngạnh, nên thậm chí việc đi hành khất để kiếm ăn, cậu cũng không
làm. Kết quả cậu đã chết đói trong một góc đường tăm tối.
Khi thi hài cậu được tìm thấy cạnh một chân tường, người ta
đã nhặt nó vất vào trong hầm xác,
chôn những tử thi vô chủ. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc được gia nhân thuật lại chuyện này,
ông liền tự hỏi rằng: "Phải chăng ông đã gián tiếp để cho cháu ông chết khổ như thế?".
Sau đó Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đến gặp Phật, thuật lại mọi chuyện, và hỏi
đức Thế Tôn xem ở cương vị một người chú như ông, ông có thể hành động cách nào khác, đối với đứa cháu hư hỏng như thế?
Ðức Phật liền dùng khả năng Chánh
Biến Tri của một bậc Toàn Giác để "nhìn vào" trong quá khứ, thấy rõ những nhân
duyên ác nghiệp của người cháu Tu Ðà Cấp Cô Ðộc chồng chất như thế nào, rồi biện
giải được sự lo âu, sợ cộng nghiệp trong tâm hồn Tu Ðà Cấp Cô Ðộc. Phật
nói:
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Lòng tham
tiền bạc tích tụ của loài người
tuy vô đáy, nhưng còn có cách
điều chỉnh,
trước khi sự chết xuất hiện. Chỉ có
lòng tham hưởng thụ khoái lạc nhục dục thì không thể nào cứu vãn sớm hơn lưỡi
hái của tử thần".
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Vì tính say
mê sắc dục và hưởng
thụ vật chất (sinh ra lười biếng ) mà đứa cháu trụy lạc của ông đã
chịu chết đói
hẩm hiu như thế trong quá khứ (tiền kiếp) nhiều lần rồi, chứ đây không phải là
lần thứ nhất!"
Chương 4
TU ÐÀ CẤP CÔ ÐỘC TIẾP ÐỘ GIA NHÂN, THÂN HỮU
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, một khi đã đắc quả Nhập Lưu, ông tinh tấn giữ đúng giới luật,
thanh tịnh tâm hồn và nhiệt thành hướng dẫn thân thuộc xung quanh ông hướng về
thiện nghiệp. Vì vậy ông đã sống trong một gia đình mà mọi người đều biết tu
hành. Ðức hạnh của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không phải chỉ thấm nhuần đến vợ con, kẻ ăn
người ở, mà còn thuyết phục được họ hàng của những cộng sự viên này nữa, khiến
họ cũng thích bố thí, thích giữ giới và lo trai tịnh trong các ngày lễ (Theo
Jàtaka 382).
Tư gia của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tự nhiên đã biến thành một trung tâm từ thiện và
phạm hạnh. Rồi tiếng lành lan rộng khắp vùng, thấu tai bạn bè và những bá hộ
trong giới trưởng giả thành Xá Vệ.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không ép buộc bất kỳ ai tin theo Phật giáo. Ông cũng chẳng né
tránh các khó khăn trong công cuộc làm ăn hằng ngày. Nhiều giai thoại về sự
dũng cảm tranh đấu để tiến bước kinh doanh thuở ấy của ông, cũng đã được ghi
lại trong nhiều kinh điển.
Một lần nọ, một nhóm người nghiện nhậu trong thành Xá Vệ hết tiền mua rượu. Họ
bèn nghĩ ngay đến cách làm thế nào để phục rượu Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, ông bá hộ rất
bình dân, hằng sống gần gũi với những dân nghèo. Trong đầu óc bọn người nghiện
rượu này nghĩ rằng: "Hễ phục rượu được cho ông bá hộ thật say thì họ sẽ dễ
dàng móc túi lấy tiền!". Sau thời gian theo dõi, họ biết Tu Ðà Cấp Cô Ðộc
thường dùng một con đường đặc biệt để tới lui thăm viếng nhà vua, họ bèn dựng
lên một quán nhậu trên con đường ấy. Khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đi ngang thấy họ,
dừng chân lịch sự chào hỏi, thì họ lập tức mời ông uống rượu. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc
liền nhã nhặn từ chối và nói rằng:
- Một Phật tử thuần thành không bao giờ say sưa. Rồi ông bỏ đi.
Nhưng nhóm người nghiện rượu vẫn không chịu bỏ qua. Họ chờ ông bá hộ thăm vua
xong, trên đường trở về, sẽ mời uống rượu một lần nữa. Lần này, Tu Ðà Cấp Cô
Ðộc nhìn thẳng vào mặt nhóm người dã tâm nghiêm nghị nói rằng:
- Phải chăng các anh muốn phục rượu tôi để móc túi? - Nếu thật sự mấy anh thích
nhậu thì tại sao tất cả các bình rượu ở đây vẫn còn nguyên? Ác tâm của các anh
không thể qua mắt tôi được đâu".
Nhóm dân nhậu nghe thế, hoảng sợ, vội biện hộ cầm chừng rồi rút lui mất dạng.
(Theo Jàtaka 53).
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc còn có một đức tính đáng khen khác là "hỷ xả" trước
những kẻ sống nhờ một số nghề đồng lõa với sự phạm giới. Chẳng hạn như câu
chuyện sau đây:
Một trong những người bạn của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc làm nghề bán rượu. Ông biết vậy
nhưng vẫn đối xử bình thường như một người bạn. Ngày kia, người bạn "bán
rượu" này, vì sự bất cẩn của một tên giúp việc, đã mất hết sản nghiệp. Tu
Ðà Cấp Cô Ðộc hay tin ấy, liền đến chia buồn và tùy khả năng giúp bạn, chứ
không phân biệt nghề nghiệp của bạn mình có hợp với Phật giáo hay không. Nói
một cách khác: Tu Ðà Cấp Cô Ðộc là một thiện tín giữ giới luật rất trong sạch,
gương mẫu, nhưng ông không bao giờ ép buộc người thân phải làm như ông, hay tỏ
ra mình đủ giới hạnh rồi xem thường kẻ khác! (Theo Jàtaka số 47).
Một lần khác, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc điều động chuyên chở một số hàng hóa ngang qua
một vùng có nhiều trộm cướp. Ông đã khôn khéo chọn sự vất vả tìm đường đi,
tránh nơi bọn cướp phục kích, dù phải hành trình suốt đêm. Kết quả đoàn vận tải
của ông đã được bình yên. Và lời Phật dạy ông đem áp dụng thực sự mang lại kết
quả tốt.
Phật dạy: "Người có trí là người biết tạo sự an toàn bằng cách tránh xa
những địa điểm nguy hiểm, hơn là biểu dương anh hùng tính của mình, để chạm
trán với kẻ dữ".
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc cũng có tài tuyển chọn người hợp tác rất chính xác. Ông có một
người bạn từng chơi với nhau từ lúc tuổi còn thơ. Người bạn này mang một cái
tên nghe không mấy gì đẹp tai là "Bất Hạnh Ðiểu" (tức con chim xui
xẻo). Nhưng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không úy kỵ cái tên "xấu" ấy, ông luôn
luôn đối xử thân mật với Bất Hạnh Ðiểu, và khi người bạn nghèo túng, ông còn
sẵn sàng giúp đỡ tiền bạc, rồi đua bạn mình vào làm việc trong tư gia!
Thân nhân và người lối xóm ai cũng chỉ trích Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã mang điềm xấu
(Bất Hạnh Ðiểu) vô nhà. Nhất là họ viện dẫn rằng: "Bất Hạnh Ðiểu thuộc về
giai cấp thấp hèn hơn Tu Ðà Cấp Cô Ðộc". Nhưng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã thẳng
thắn phản đối. Ông nói:
- Cái tên chỉ là cái tên! Trong biệt danh không có sự lành sự dữ! Người trí
không bao giờ bận tâm với chuyện dị đoan vô ích.
Ngày kia, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đi buôn bán xa. Ông giao phó nhà cửa cho Bất Hạnh
Ðiểu trông coi. Bọn ăn trộm nghe tin ông bá hộ vắng mặt liền lập mưu cướp của.
Nhưng khi chúng núp xung quanh ngôi nhà, chờ dịp xâm nhập, thì Bất Hạnh Ðiểu
nhờ tính cảnh giác và thông minh canh chừng, đã dùng chuông trống đánh ầm lên,
như trong nhà đang thiết lễ lớn, khiến cho bọn gian nhân đang rình ăn trộm bên
ngoài hoảng sợ, tưởng rằng ông bá hộ và đoàn vệ sĩ hiện có mặt trong nhà chứ
không đi đâu cả. Thế là chúng im lặng rút lui.
Khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc và đoàn tùy tùng trở về, thấy nhà cửa an toàn, đồng thời
nghe câu chuyện bọn cướp bị thất bại ấy, ông bèn tuyên bố với những người
"dị đoan" đã chỉ trích ông rằng:
- Ðấy! Quí vị thấy chưa? Bất Hạnh Ðiểu đã làm việc rất hữu hiệu, đẩy lui được
trộm cướp. Nếu tôi nghe theo lời khuyên dị đoan của các người, đuổi Bất Hạnh
Ðiểu đi, thì bây giờ tôi đã mất của rồi" (Theo Jàtaka 83. 121).
Hầu hết những thân hữu của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc là những người không Phật giáo, và
giữ tín ngưỡng riêng. Thậm chí một số lớn còn là đệ tử của những đạo sĩ du
phương cầm đầu, đại diện cho nhiều môn phái đang phát triển mạnh ở Trung Ấn Ðộ
thuở bấy giờ. Thế mà một hôm Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tỏ nhã ý mời hết những thân hữu
ấy kéo nhau đến nghe đức Phật thuyết pháp, thì họ đồng loạt vui vẻ đi liền. Và
chỉ sau khi nghe thuyết pháp, lần đầu tâm hồn họ đã đổi khác. Một sự kinh cảm
thấy được chân lý đã thúc đẩy họ lần lượt xin làm đệ tử Phật.
Và kể từ đó họ thường xuyên lui tới Kỳ Viên Tự, mang bốn món vật dụng đến dâng
cúng cho chư Tăng và tinh tấn giữ tám giới trong những ngày thánh lễ. Nhưng
tiếc thay, thiện hạnh ấy họ không thực hiện được lâu, vì sau đó, khi đức Phật
đi hóa đạo phương xa, vắng mặt trong thành Xá Vệ, thì họ lại chểnh mảng ít đi
chùa, rồi dần dần quay trở lại với những giáo chủ cũ.
Mấy tháng sau, khi đức Thế Tôn trở về thành Xá Vệ, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc lại dẫn
những người bạn ấy đến thăm đức Phật. Lần này, đấng Toàn Giác không những giải
rõ cho họ thấy các khía cạnh thực tế hữu ích của Phật giáo, mà Ngài còn cảnh
cáo rằng:
- Chẳng có một Thần linh hay Thượng đế nào có thể che chở cho con người tránh
khỏi khổ đau phiền não hơn là tự mình tự tu, tự độ, trong sự thường xuyên thân
cận với Phật, Pháp, Tăng, lấy ba ngôi ấy làm chỗ nương nhờ tuyệt đối và làm
đuốc soi đường.
Ai sinh ra vào thời có đức Phật độ sinh là một dịp may hiếm có. Nếu vì tăm tối
lại để mất cơ hội học hỏi, tu hành theo Phật giáo là một điều vô cùng đáng
tiếc! Ngược lại, ai sáng suốt khi tìm thấy chân lý Phật giáo rồi, liền nhất tâm
qui y Tam bảo, trau giồi giới hạnh, tăng cường thiện nghiệp, thì người ấy nếu
không được giải thoát trong kiếp này thì kiếp sau chắc chắn sẽ hạnh phúc tái
sinh làm người hay làm trời.
Ðoạn đức Thế Tôn tán dương đức lành của Tam bảo (Ba ngôi Phật, Pháp, Tăng) bằng
những kệ ngôn sau đây:
"Ai nương tựa vào ân Phật bảo (I)
Thì cõi đời khổ não được xa
Thân người khi tận tuổi già
Hạnh sinh thiên giới một nhà an vui.
Ai nương tựa vào ân Pháp bảo
Thì cõi đời khổ não được xa
Thân người khi tận tuổi già
Hạnh sinh thiên giới một nhà an vui.
Ai nương tựa vào ân Tăng bảo
Thì cõi đời khổ não được xa
Thân người khi tận tuổi già
Hạnh sinh thiên giới một nhà an vui.
Tìm giải khổ vào nơi rừng núi
Hay đền thờ, cây cối vườn hoang
Nơi nào vốn cũng lầm than
Tử sinh đeo đuổi không đường thoát thân.
Nhưng nếu đặt niềm tin Tam bảo
Phật, Pháp, Tăng thánh báu rõ ràng
Tâm nhuần Tứ Ðế, hành trang
Sống theo Bát Chánh, con đường cứu thân.
Ðến cõi giác bụi trần phủi sạch (II)
Nẻo luân hồi cũng tách lìa xa
Không sinh, không bệnh, không già
Không trong tam giới, không là triệt tiêu!
Phẩm giải thoát không nhiều, không ít
Không thấp, cao, xương thịt, buộc ràng
Không vui, không khổ Niết bàn
Tự do tuyệt đối, tịnh tràng vô biên!"
(I, II theo Dìgha Nikàya, 20 và Dhammapada các câu 188 -192 -N. Ð. thoát dịch
ra văn vần).
Xuyên qua những câu kệ ngắn, gọn và thâm thúy như thế, đức Toàn Giác đã kích
thích được chánh tâm của những người bạn Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, khiến họ hiểu thấu
chân lý giải thoát trong Phật giáo, nhất là các pháp Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh
Ðạo. Rồi sau câu kệ cuối cùng tất cả đã đắc quả Nhập Lưu Tu Ðà Hườn, trước sự
hiện diện của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc. (Theo Jàtaka 1). Do đó, chúng ta có thể nói
chính Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã tiếp độ được bạn bè mình vậy!
Chương 5
NHỮNG BÀI PHÁP PHẬT THUYẾT CHO TU ÐÀ CẤP CÔ ÐỘC
Trong bốn mươi lăm năm trường hoằng dương chánh pháp, đức Phật đã nhập hạ mười
chín lần ở thành Xá Vệ, tại chùa Kỳ Viên, do Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tạo lập, thuộc tư
thổ của Thái tử Kỳ Ðà (Jeta). Mỗi khi Phật nhập hạ (tức ở yên một chỗ tinh tấn
hành thiền suốt ba tháng mùa mưa) như thế, thì Tu Ðà Cấp Cô Ðộc hằng ngày đến
thăm Phật hai lần. Mục đích chính của ông là chỉ để thấy mặt đức Bổn Sư, nhưng
nếu thuận duyên, cũng được nghe pháp. Vì vậy, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc thường do dự lúc
định hỏi đức Phật một vài vấn đề liên quan đến Pháp học. Bởi ông nghĩ rằng:
"Ta là đại thí chủ của Giáo hội, ta không nên gây cảm tưởng nơi Tăng chúng
hiểu lầm việc bố thí cúng dường của ta, là để đổi lấy những bài Pháp quí báu
của đức Phật!".
Ðối với Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, sự cúng dường bắt nguồn từ thiện tâm, từ sự thỏa
thích trong hành động làm phước, chứ không phải làm phước để được đền bù. Vả
chính trong sự thanh tịnh làm phước ấy, niềm hoan hỷ cao thượng hẳn là một đền
bù xứng đáng rồi! Ông luôn luôn cố tránh không gây cho Tăng chúng hay đức Phật
cảm giác rằng: "Mỗi lần Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đến, Phật phải thuyết pháp cho
ông nghe" - mà trái lại nếu đức Thế Tôn hay một Ðại Sa môn nào đó nói pháp
đến ông, là do lòng từ bi
Chương 6
ÐOẠN CHÓT CUỘC ÐỜI...
Ðại cư sĩ Tu Ðà
Cấp Cô Ðộc nhuốm bệnh lần thứ ba vô cùng trầm trọng. Sự đau đớn và tiều tụy thân
xác đã là một trở ngại lớn cho việc tập trung tinh thần. Một lần nữa, Tu Ðà Cấp
Cô Ðộc lại mời hai Ðại tông đồ của đức Phật là A Nan Ðà và Xá Lợi Phất đến bên
giường bệnh để tiếp độ.
Khi Trưởng lão Xá Lợi Phất nhìn thấy sắc diện
xanh xao của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc thì biết rằng ông sắp từ trần. Trưởng lão liền
nhắn nhủ:
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Ðạo hữu hãy thực hành pháp giải thoát
bằng cách dứt khoát buông
bỏ sự mắc dính với lục căn:
nhãn căn, nhĩ căn, tỵ căn,
thiệt căn, thân căn và ý căn! Ông nên dửng dưng, khách quan mà nhìn sáu căn ấy,
xem nó như sáu nguyên nhân đã từ lâu làm cho mình đau khổ. Thứ nữa, đạo hữu cần
tự giải thoát mình bằng cách tách rời tâm thức ra khỏi lúc trần là
sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp thế gian. Ðừng để cho lục thức của đạo hữu (tức nhãn
thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức) duyên theo chúng nữa! Như vậy, sáu "yếu tố gây khổ", hay còn gọi một cách khác là
"ngũ uẩn" (gồm sắc
uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, và thức uẩn) tạo thành một con người, sẽ
không hợp tác với "Tứ đại" (đất, nước, gió, lửa: thổ đại, thủy đại, phong đại,
và hỏa đại) để làm khổ đạo hữu xuyên qua những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng,
và suy nghĩ nữa!"...
Lúc ấy Tôn giả A Nan Ðà cũng có mặt bên giường bệnh.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc chăm chú lắng nghe Trưởng lão Xá Lợi Phất thuyết pháp. Ông cố
gắng để tâm hành đúng theo lời nhắc nhở của vị giảng sư...
Chợt mấy giọt
lệ rịn ra nơi khoé mắt bệnh nhân Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, Tôn giả A Nan Ðà quay lại thấy vậy, bèn động lòng từ bi nói:
- Này đạo hữu Cấp Cô Ðộc! Ðạo hữu nên
giữ tâm bình thản, thanh tịnh!"
Nhưng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền yếu ớt đáp
rằng: "Ôi! Tôn giả A Nan Ðà! Tôi không thể giữ tâm an tịnh được! Tôi quá sung sướng và cảm động, vì từ trước đến nay, tuy hằng sống với Giáo hội và đức Bổn
Sư, tôi chưa bao giờ được nghe một bài pháp sâu xa, thần diệu như
thế!
Lập tức Trưởng lão Xá Lợi Phất phân giải:
- Này đạo hữu Cấp
Cô Ðộc! Bài pháp thâm mật ấy, Phật chỉ thuyết cho các hàng
Sa môn an tịnh xuất gia. Vì đối với các hàng cư sĩ, nó quá trừu tượng, khó hiểu. Nhưng lần này, đức
Thế Tôn đã chỉ thị bần đạo đến lập lại cho đạo hữu nghe, bởi hiện tại tâm hồn
của đạo hữu chẳng khác gì tâm hồn của một Ðại Sa môn vậy.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền vui mừng tiếp:
- Bạch Trưởng lão Xá Lợi Phất! Kể từ nay, Tu Ðà
Cấp Cô Ðộc này yêu cầu chư Thánh Tăng và đức Phật hãy ban bố cho các hàng cư sĩ túc duyên những bài
pháp nhiệm mầu như thế! Bởi vì, tuy sống đời cư sĩ, nhưng
cũng có nhiều bậc đủ phạm hạnh,
pháp nhãn đã bừng sáng, chỉ còn dính chút bụi trần. Nếu họ may mắn được nghe những bài pháp thâm diệu như thế, chắc chắn họ sẽ
được giải thoát, kẻo không họ phải tiếp tục chờ đợi duyên lành xuất gia, chừng đó họ mới có thể hưởng pháp tiếp độ thì thật là
tội nghiệp.
Sự khác biệt giữa bài pháp mà Trưởng lão Xá Lợi Phất vừa thuyết đến Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, với
những gì Phật đã giảng giải trước đây cho ông, là tác dụng đánh thẳng vào tâm
linh, khi con người thực sự phân biệt được ngũ trần và các pháp thế gian, vốn chỉ là ngoại tại, và hằng xâm nhập vào các căn thức, phối hợp với nội ma là
tham, sân, si, làm khổ tâm linh như thế nào.
Ở đây, bài pháp đang trực
tiếp đi vào những vấn đề thực tế, và cứu cánh tối hậu giải thoát, chứ không phải
là một lý thuyết giúp người nghe hiểu biết một khía cạnh Phật giáo. Nói cách khác, Trưởng lão Xá Lợi Phất vừa chỉ cho Tu Ðà Cấp Cô Ðộc những phương pháp thực
hành, vì ông đã đắc đạo Nhập Lưu Tu Ðà Hườn. Ông ví như người làm vườn đã có sẵn
tấm kiếng thần trong tay. Ông chỉ cần biết cách nhìn vào tấm kiếng thần ấy, để
tự mình nhận ra những loại cỏ độc mà nhổ bỏ đi, rồi vun xới những hoa lành, để
được bình an. Và ngôi vườn chính là tâm hồn con người vậy.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc là một Thánh nhân bậc thấp, giác tánh đã biểu lộ. Trưởng lão
Xá Lợi Phất chỉ cần chỉ cho ông thấy rõ bản chất rỗng tuếch và tạm thời của ngũ uẩn đang vừa bám
víu vừa phá hoại lẫn nhau, để ông tự mình nhận ra các lẽ vô thường, khổ não và
vô ngã trong ông.
Vả lại, dù cho ấy là phương pháp thực tiễn, người nghe
vẫn có thể chia làm hai
loại: Loại thứ nhất nghe để mà suy gẫm. Loại này nhận
được lợi ích chỉ có năm phần mười. Loại thứ hai đã thấm nhuần Phật giáo, nghe
xong lập tức thực hành, thì sự giải thoát là một điều chắc chắn! Thông thường
các hàng Phật tử cư sĩ thuộc
loại thứ nhất. Còn các hàng Sa môn thanh tịnh xuất
gia thuộc loại thứ hai. Nhưng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc trong trường hợp này, nằm trong
loại thứ hai đó!
Ðối với các hàng Phật tử tại gia sơ đẳng, biết được sự
thay đổi không ngừng của mọi vật chỉ là một kiến thức. Nhưng đối với những bậc
xuất gia thanh tịnh, thì sự biết ấy chính là một phương pháp để tiêu trừ phiền
não phát sinh do tham sống, sợ chết!
Nếu chúng ta quan sát, theo dõi cách trình bày Pháp bảo của Trưởng lão Xá Lợi Phất dẫn dắt từng bước một, đưa tâm
linh của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc hướng đến giải thoát Niết bàn, thì chúng ta sẽ thấy
rằng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, trước đó chưa bao giờ được nghe một bài pháp cốt lõi, mô
tả dưới dạng thức cứu cánh như thế!
Trong giờ phút sắp lâm chung,
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nhờ pháp tiếp độ ấy, đã tự tách rời được tâm linh, khỏi những tham
luyến thế gian, nhất là tham luyến thân xác (ám chỉ sự sống), rồi an định thần
trí trong chánh niệm, thì ông quả thật là một cư sĩ phúc duyên vẹn toàn. Nhiều
Sa môn đệ tử Phật cũng chưa chắc sánh bằng!
Có thể nói đây là một trường
hợp hy hữu của một cư sĩ phạm hạnh hy hữu được nghe một giảng sư vô song trình
bày một pháp giải thoát thần hiệu nhất!
Khi Trưởng lão Xá Lợi Phất và Tôn
giả A Nan Ðà chấm dứt lời nhắc nhở cuối cùng, thì Tu Ðà Cấp Cô Ðộc hoàn toàn an trụ trong chánh định. Rồi ông từ trần, tái sinh lên cõi trời Tusita Ðâu
Suất, ở
đó giác linh Tu Ðà Cấp Cô Ðộc được gặp lại "cô con gái út" hiện là một tiên
nữ.
Nhưng điều đáng tưởng niệm và ngưỡng mộ vị cố đại ân nhân Phật giáo ở
đây là sau khi gia nhập Thiên
chúng, "ông" đã là vị thiên thần hộ trì Tam bảo
nhiệt thành nhất. Theo kinh
sách kể lại thì chùa Kỳ Viên, sau lễ hỏa táng Tu Ðà
Cấp Cô Ðộc, có nhiều đêm được Thiên chúng viếng thăm, lễ bái. Hào quang sáng rực. Vị dẫn đầu chư Thiên thần ấy dĩ
nhiên là giác linh cố cư sĩ Tu Ðà Cấp Cô
Ðộc.
Một hôm đại Thiên thần Hộ pháp này đến đảnh lễ đức Phật, còn cúng
dường bằng những câu kệ rằng:
"Kỳ Viên Thánh địa Phật Ðà,
Ngôi chùa, Tăng chúng một nhà sắc không.
Pháp vương an độ cõi trần,
Ðây nguồn hạnh phúc trong ngần bất lai.
Kiếp xưa duy có hình
hài?
Mà thân, khẩu, ý miệt mài tịnh tu.
Hộ trì Tam bảo công phu,
Giúp đời, danh lợi không mù mắt
linh.
Làm sao cho được biết mình,
Thông trong chánh pháp, vô tình cõi mơ.
Tập rèn theo đức hạnh sơ,
Tu Ðà Hườn quả, nay nhờ cõi Thiên.
Noi gương "Xá Lợi" Thánh
hiền (*)
Tịnh tâm, tịnh ý, ưu phiền lọc trong.
Sa môn ấy bậc vô song,
Siêu sinh nhân Phật gieo trồng hôm
nay".
(*) "Xá Lợi" ám chỉ Trưởng lão Xá Lợi Phất, người đã tiếp độ Tu Ðà
Cấp Cô Ðộc trước giờ phút lâm chung.
Và với bài kệ cúng dường này, chúng
tôi xin kết thúc câu chuyện Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, một vị Hộ pháp vô song, khi đức Phật còn tại thế!
35. Nơi Nghiệp Phát Xuất?
Phật Giáo Thực Sự
Là Gì?
Theo Đức Phật dạy thì không một vị Thần Linh nào có thể ban thưởng hay trừng
phạt bất cứ một người nào khi họ làm việc xấu hoặc tốt dù có theo đạo hay không
theo, bởi vì chính chúng ta là người phải gánh chịu nghiệp do chính tạo nên.
Sống dưới danh nghĩa Phật Giáo là một Phật Tử thì chúng ta phải thực hành những
giáo lý của Đức Phật truyền lại chứ không phải là mượn việc tôn thờ hay sùng
bái để cầu nguyện được những ước vọng, tức là chúng ta phải sống một cuộc đời trong sạch và
cao thượng ở nơi cuộc sống nếu người đó muốn được hưởng niềm hạnh phúc an lạc.
Việc Thờ cúng và cầu nguyện thực chất chỉ là việc làm kính trọng hết lòng đối
với phẩm hạnh cao thượng của Đức Phật và các Chư Phật, vì chúng ta biết ơn đến
Đức Phật đã tìm ra chân lý để giúp ta thoát khỏi đau khổ của cuộc sống. “Trên
thế giới, dân chúng chen chúc tại các chùa, nhà thờ, giáo đường và các nơi sùng
bái để cầu nguyện, hy sinh các sinh vật, thực thi khổ hạnh. Nhưng khi họ ra
khỏi các nơi trên, họ vẫn sân si, tham dục, ganh tị, thù hận và ác cảm như
trước”. Đó thực sự là những con người không có đạo lý!. Nếu là như vậy thì họ
không khác gì những con người “mượn hoa cúng Phật”, họ đến chùa chỉ để cầu khẩn
được thỏa mãn những điều dục vọng và thoát khỏi khổ đau, bởi họ chỉ mong muốn
những Chư Phật làm thỏa mãn những tâm tư trong lòng. Ngày nay có rất nhiều
người theo Phật Giáo nhưng thực sự thì có bao nhiêu người là Phật Tử chân
chính, là 1 con người có lối sống cao thượng không vị kỷ. Bạn suy nghĩ xem Bạn?
Tôi? Hay những người bạn gặp? Nếu chúng ta mang đầy những ý nghĩ cùng việc làm
xấu xa ác cảm thì chúng ta có cầu khuẩn đến đâu đi nữa thì vẫn phải chịu những
khó khăn do những tư tưởng việc làm xấu ấy tạo nên. Nếu chúng ta phạm lỗi lầm
rồi đến chùa cầu khuẩn Chư Phật để được tha lỗi và tránh được hậu quả xấu thì
như thế quá bất công rồi, vì bạn làm mà bạn không phải chịu, vậy là bạn đang cố
gắng chống đối lại với luật Nhân Quả. Bạn nên nhớ bạn tạo nên nghiệp xấu thì
bạn phải gánh chịu và không có cách nào thoát khỏi bởi luật nhân quả là công
bằng tuyệt đối. “Đức Phật không muốn
các tín đồ của Ngài tin tưởng trong mù quáng. Với Ngài, tôn giáo không phải là
sự mặc cả, mà là con đường sống cao thượng để đạt được giác ngộ và giải thoát”.
Niềm tin không thôi đối với Đức Phật thì không thể cứu rỗi chúng ta được, khi
ta vẫn tiếp tục phạm phải sai lầm mà không chịu thực hành theo giáo lý của Ngài
dạy. Đạo
Phật chính là lối sống cao thượng của một con người. Nó không phải là
nơi để cho chúng ta chọn lựa giữ niềm hạnh phúc hay đau khổ bằng cách nguyện
cầu những điều mong ước hay xin tha thứ những tội lỗi. Phật Giáo là một triết
lý sống chân chánh nhằm mang lại một cuộc sống hòa bình an lạc, hạnh phúc cho
mỗi chúng sanh hiện hữu trên cuộc đời này. Phật giáo là phương pháp đoạn trừ
những khổ đau trong cuộc sống để tìm ra con đường giải thoát, giác ngộ bằng
cách tu tập. Phật Giáo là nơi cho chúng ta tìm thấy con đường thoát khỏi đau
khổ và tránh được những phiền phức nhưng phải do chính sự cố gắng của chính
chúng ta bằng phương pháp thanh tịnh trong tinh thần. Chúng ta thường nghĩ rằng
những việc xấu đến với chúng ta là do sự trừng phạt của các vị Thần Linh, nó
hoàn toàn là một lối nghĩ sai lầm. Nếu bạn cho rằng Thượng Đế hay Thần linh
quyết định số phận và tự phán quyết số mệnh của con người thì tại sao rất khó
cho họ để thay đổi những bản tính xấu xa của chính mình và tại sao Thượng Đế
không tạo cho tất cả mọi người được hưởng cảnh hạnh phúc nơi cuộc đời này để họ
không phải làm những điều xấu xa hay đem mọi người lên Thiên Đàng sau khi chết
mà phải xem xét việc xấu tốt của họ, bởi Thượng Đế hay Chư Phật là người có
lòng từ bi thương chúng sanh vô lượng?. Khi chúng ta phạm phải một nghiệp xấu
thì chúng ta phải sẳn sàng tâm lý gánh chịu những nghiệp ấy, chúng ta không thể
cầu xin bất cứ nơi đâu để tránh được hậu quả ấy.
Sám Hối có nghĩa là gì? Sám là ngưng ngay những việc làm xấu xa, Hối là chúng
ta cảm thấy hối hận vì hành vi không tốt rồi quyết tâm không còn phạm phải nữa.
Chúng ta có thể ngăn những việc xấu đến với chúng ta bằng sự nổ lực của bản
thân. Nơi Phật Giáo biểu hiện tình thương, lòng tôn trọng con người, lòng khoan
dung và không có mặt của ích kỷ, không có thù hận, ác cảm, ganh ghét… Đó chính
là Đạo Phật thực sự! “Bất cứ ai cũng có thể đứng trước Đức Phật trong tư thế một người có
phẩm cách chứ không phải trong tư thế một người nô lệ”. Nếu chúng ta
sống như một con người tốt đẹp thì chúng ta mới thực sự là người Phật Tử, như
thế chúng ta mới xứng đáng là người theo Đạo Phật, như thế chúng ta mới cảm
thấy rất gần với Đức Phật.
Đạo Phật chính là lối sống cao thượng của chính chúng ta, bạn có thực sự là một
người có phẩm hạnh trong sạch cao thượng hay lối sống tốt đẹp?
Tự do tư tưởng trong ta! Đức Phật khuyên chúng ta không nên tin ngay những gì
được ghi sẳn trong sách, những truyền thống, tập tục được truyền lại hay những
lời của một trưởng lão đạo sư nào đó một cách mù quáng. Đối với những con người
không hiểu biết liền cho rằng những lời đó là đúng thì chúng ta sẽ mắc phải
những sai lầm nghiêm trọng, có thể làm chúng ta trở nên yếu đuối, sợ sệt và trở
thành những con gối thiếu tự tin. Lời khuyên của Đức Phật là chúng ta phải tự
do suy nghĩ những điều chúng ta nghe hoặc thấy; điều đó là đúng hay sai, phải
hay trái, nên hay không nên, chấp nhận hay bác bỏ. Chúng ta phải thực sự là những
người làm chủ suy nghĩ của chúng ta, không nên theo quán tính và lòng tin của
mình đã có từ trước, rồi chấp nhận hay bác bỏ điều mà chúng ta nghe hay thấy
ngay lập tức. Chúng ta không phải là những đứa trẻ nít vô tư không biết gì,
liền nghe theo khi một người lớn nào đó nói, mà phải cho thời gian chúng ta xem
xét bàn cãi. Nếu chúng ta cứ trông chờ vào bên ngoài để được cứu rỗi thì nó sẽ
là một việc tai hại cho chúng ta. Đức Phật nói: “Ta không bao giờ có một vị
thầy nào hay một Thần Linh nào dạy ta hay bảo ta làm cách nào để đạt được giác
ngộ. Cái mà ta thành công là do sự cố gắng, năng lực, kiến thức, thanh tịnh của
chính ta để đạt được trí tuệ tối thượng”
Trước khi Ngài qua đời, Ngài dặn dò những lời cuối cùng. “Hãy tìm nơi nương
tựa ngay nơi các con”. Tại sao sau 45 năm hoằng Pháp, Ngài lại thốt ra
những lời như vậy? Tại sao Ngài không khuyên răn mọi người tìm sự cứu rỗi nơi
Ngài. Cái Ngài muốn nói là chúng ta không nên tìm sự cứu rỗi ỷ lại vào người
khác. “Với niềm hy vọng và tự tin, một người có thể quyết định vận mạng của
chính mình”. Điều đó nhắc nhở ta phải cố gắng bằng chính bản thân mình vượt qua
những thói quen xấu dường như đã trở thành bản tính của chúng ta và phải là một
con người có hiểu biết thật sự, sự hiểu biết sẽ giúp chúng ta thoát khỏi đau
khổ của cuộc sống mang đến. Bằng phương cách thông qua sự giảng dạy của những
bậc trưởng giáo chân chánh hoặc tìm kiếm để học hỏi, nếu không chúng ta sẽ chịu
mãi đau khổ cho đến khi hiểu được những nguyên nhân của phiền não, bạn đã phải
trả giá cho những hành động xấu của mình trong nhiều lần ở thời quá khứ mà có
lẽ bây giờ bạn đã quên đi và bạn đã chưa bao giờ nghĩ đến nguyên nhân của những
đau khổ ấy xuất phát từ đâu. Một số người nói rằng Đức Phật chỉ là một người
bình thường không phải là một Thượng Đế, tại sao dân chúng lại theo Ngài? Những người này
không hiểu rằng người Phật Tử không trông chờ sự cứu rỗi từ nơi Đức Phật mà là
thực hành phương pháp cao thượng do Ngài dạy.
Niềm tin, sự tôn thờ và cầu nguyện các Chư Phật của chúng ta không phải là
không có nghĩa lý gì? Điều đó cũng thực sự cần thiết vì sự an lạc trong tâm
hồn. Cầu
khẩn nơi Chư Phật chỉ được linh ứng khi chúng ta là những con người có lối sống
tốt đẹp. Cầu khẩn Phật Bà Quan Thế Âm là một ví dụ qua một câu chuyện có
thật như sau:
Vào khoảng những năm đầu khi đất nước hòa bình, một người đàn ông chưa bao giờ
tin những gì về tôn giáo, ông thường cảm thấy phiền khi đến chùa để thờ cúng.
Nhưng vào năm khi ông ta vượt biên qua nước ngoài, ông bị đắm thuyền trôi dạt
trên biển mênh mông, dường như cái chết đang chờ. Được mọi người khuyên bảo
niệm tưởng Phật Bà Quan Âm, thì trong tuyệt vọng ông ta nhìn thấy trên bầu trời
đêm xuất hiện một người phụ nữ mặc áo trắng bay phất phới. Một lát sau bổng
nhiên có thuyền đến rướt ông ta và những người trôi dạt trên biển. Từ khi an
toàn vào đất liền thì ông ta đã thay đổi hoàn toàn, ông ta phát nguyện ăn chay
trường và thường xuyên đến chùa lễ cúng. Đây là câu chuyện được ông viết thư kể
lại cho người vợ sau khi ông ta đến được đất Mĩ.
Nhưng ta nên biết việc cầu nguyện không khác gì những viên thuốc chữa bệnh nhức
đầu. Khi ta nhức đầu ta dùng những viên thuốc để chữa lành, cơn đau sẽ chấm dứt
nhưng sau vài ba tiếng thì nó lại tái phát, vì nhức đầu không phải là căn bệnh
mà chỉ là chịu chứng mà thôi. Vì thế nên chúng ta phải nhớ một điều rằng bạn phải tự mình
chữa dứt căn bệnh bằng cách dứt bỏ hết những thói xấu trong tư tưởng, việc làm
và lời nói, tập phát triển lòng yêu thương, khoang dung như thế bạn sẽ không
bao giờ gặp phải những điều phiền phức, khó khăn, niềm an vui và hạnh phúc sẽ
luôn đến với bạn.
Pháp Và Quy Luật của vũ trụ
Pháp (dharma hay Dhamma) ta có thể hiểu đó chính là những giáo lý của Ngài
truyền lại, nếu chúng ta theo những phương pháp do Ngài đề ra, chúng ta sẽ
không bao giờ sa vào những trường hợp bất hạnh như bị mù ngay từ lúc mới sanh,
tàn tật, điếc, câm hay điên dại. Pháp là con đường mà tất cả mọi người đều phải
đi theo và thực hành theo nó, nếu chúng ta đi ngược lại những giáo lý do Đức
Phật dạy thì chúng ta sẽ phải chịu đau khổ trong kiếp sống này. Bởi những giáo
lý ấy phù hợp hoàn toàn với những định luật của vũ trụ, và do chính Ngài trãi
nghiệm trong nhiều kiếp sống của chính mình, những giáo lý ấy sẽ giúp chúng ta
đạt được những an lạc và con đường giải thoát cuối cùng nếu chúng ta thực hành
theo đúng vậy.
Chúng ta có thể chia ra làm ba loại người trong cuộc đời:
1. Thứ nhất: Đó là người có hiểu biết thì cuộc sống sẽ an lạc và vui sướng mãi
trong cuộc đời do không có nhiều vướng bận chăm lo đến cái ‘tôi giả’ mà chỉ vì
lợi ích của nhân sinh và hướng đến việc thanh tịnh trong tinh thần và con đường
giải thoát cuối cùng.
2. Thứ hai: Đó là loại người không có hiểu biết nhưng không làm xấu cũng không
làm tốt hay loại người không có hiểu biết cũng làm việc thiện và cũng tránh
điều bất thiện thì cuộc sống sẽ ở trung đạo, những dạng người này cũng sẽ đau
khổ ở dạng tiềm ẩn chờ biểu hiện do không có hiểu biết.
3. Thứ ba: Đó chính là người không hiểu biết mà mãi tạo nhiều nghiệp ác chỉ lo
cho cái tôi của mình, cuộc sống mãi kiếm tìm lợi lạc không bền vững rồi mãi đau
khổ ở đời sống hôm nay và cả đời sống mới bởi do tham dục của bản thân mình tạo
ra.
Cuộc đời thực sự nếu ta suy nghĩ kỹ thì nó là một trường thử thách vô cùng khắc
nghiệt đối với con người ngày nay bao gồm người sung sướng hay khổ cực. Khi
những việc thuộc về lợi ích của chúng sinh đến với chúng ta thì ta bảo vệ cái
tài sản của chính mình mà không muốn phải tổn hao đó chính là sự ích kỷ của con
người, với người khổ cực thì họ cảm thấy khó khăn khi làm ra được của cải nên
khư khư giữ lấy cho mình thì đó là một việc làm vô cùng vị kỷ, họ không hiểu
rằng sự chia sẽ quan trọng đến thế nào và việc giúp đỡ ấy không khiến chúng ta
phải chịu khó khăn nếu chúng ta bỏ ra một ít, khi họ quá ích kỷ thì hạnh phúc
và an lạc sẽ không bao giờ đến với họ, rồi họ càng tranh đấu tìm kiếm càng dẫn
đến đau khổ do lòng ích kỷ của chính mình, bạn thử nghĩ xem nếu bạn có tư tưởng
và việc làm ích kỷ thì nhân quả sẽ trả cho bạn một quả lợi lạc không? bởi vì
nguyên nhân thành hậu quả thì hậu quả lại trở thành nguyên nhân, như khi con
người gặp khó khăn thì họ bất chấp thủ đoạn để kiếm được lợi lạc, do tính bất
chấp thủ đoạn là đã tạo ra nghiệp xấu do bản tính cố ý, nó sẽ sinh ra những khó
khăn tiếp tục và khó khăn thì họ càng không đạt được lợi lạc, cứ thế mà xoay
vòng mãi cho đến khi vào đường cùng của cuộc sống, nó sẽ dẫn đến những tội lỗi
thâm trọng. Đối với người được hạnh phúc trong vật chất thì họ càng xa lìa và
cảm thấy khó chịu hay không thích những người nghèo khổ đến gần họ, bởi sự so
sánh tầng lớp quá nặng trong tâm trí của mình, đó chính là bản chất khinh miệt
rồi tạo thành ích kỷ do họ chỉ mãi vui hưởng cho riêng mình, Ích kỷ thì tất yếu
chỉ có khổ đau mà thôi. Đức Phật dạy: Những định lệ, những phân biệt được đặt ra là
do lòng Ngạo mạn của chính con người. Con người sinh ra không phải vì cao quý,
con người sinh ra không phải vì đê hèn mà là hành vi của họ mới quyết định sự
cao quý hay đê hèn của một con người.
Ta cũng sẽ hiểu bất cứ việc gì trong đời chúng ta làm điều là những thử thách,
khi ta vượt qua thì việc khác lại đến, bạn có lúc nào mà không phải lo lắng làm
việc này hay việc khác không? Nó đến giống như đồng hồ quay vòng ấy. Ta có thể
ví những con số chính là những khó khăn, đau khổ hay thử thách ta phải vượt
qua, còn vòng quay tượng trưng cho sức lực và cố gắng của ta, bạn sẽ không bao
giờ ngừng tranh đấu cho đến lúc đồng hồ ngừng quay thì chúng ta phải khép mắt
xuôi tay, để lại tất cả những lợi lạc đã tranh đấu bao nhiêu tháng ngày. Ngoài
nghiệp thiện và nghiệp xấu thì bạn chỉ có nấm mồ sâu ba tất đất và bộ xương
khô. Những thử thách sẽ đến với ta bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, nó sẽ đến
mỗi lúc dưới dạng cuộc sống mưu sinh hay việc hành thiện nghiệp. Vì đó là bản
chất cuộc sống là phải đấu tranh nếu không vượt qua được ý niệm yếu lòng bạn sẽ
mắc phải những lỗi lầm, rồi điều xấu sẽ đến với chúng ta và ta phải hối tiếc vì
hành động ngu si của chính mình. Nghiệp xấu được tạo nên từ việc làm, ý niệm,
lời nói xuất phát từ tham, sân, si của chính mình nếu trong đó là sự cố ý. Khi
chúng ta làm một việc gì đó ta phải xét xem điều đó là đúng hay sai? Nó có tạo
ra nghiệp xấu cho chúng ta hay không?
Mọi nguyện ước để đi đến thành công đó chính là nổ lực và thiện nghiệp của
chính chúng ta. Khi ta nổ lực thì chúng ta sẽ nhận được một số kết quả xứng
đáng với những cố gắng ấy, bởi nhân quả không bao giờ có sự bất công. Còn
Nghiệp Thiện sẽ tạo cho chúng ta những hòan cảnh thuận lợi để mau đạt thành
điều ước nguyện. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta chỉ mãi nổ lực chống đối với
khó khăn để tìm kiếm thành công, nếu ta sống một cuộc đời không tốt thì khó
khăn sẽ gấp nhiều lần đối với người có một tấm lòng trong sạch thanh cao để đi
đến thành công, có khi bạn còn phải gánh chịu những thất vọng trong việc tìm
kiếm ấy. Chúng ta sống trên cuộc đời cần phải có một tấm lòng chân thành, nếu
bạn có tấm lòng thì Trời Đất đều quý mến bạn. Với người có những phẩm hạnh đẹp
thực sự thì chúng ta cảm thấy rất tôn trọng và quý mến họ đó chính là sự giàu
có thật sự, còn những người có vật chất sống với tư tưởng cao ngạo thì chúng ta
không thể nào tôn trọng được. Khi mà bạn cảm thấy giàu có về vật chất là nhiều
thì đó chính là cái nhìn thiển kiến không hiểu biết, bởi ngay trong lòng bạn
đang có những ham muốn đấy!. Bạn phải sớm hiểu và cố gắng thực hiện những công
việc giúp ích cho con người nhiều hơn nữa nhưng đó không phải là sự mong muốn
được những quả hạnh tốt. Nếu mang trong tâm những ý nghĩ làm thiện để hưởng quả
lành thì bạn cũng sẽ được nhận lại cái quả như bạn đã gieo nhưng nó hoàn toàn
không đầy đủ giống như gieo hạt xoài vậy, bạn sẽ chỉ nhận được quả do chúng
sinh ra mà thôi, nhưng nó còn cho ta được bóng mát, gỗ, hạt …, chúng ta sẽ
không thể nhận được. Bởi luật nhân quả chỉ nhìn nơi tấm lòng của bạn mà thôi, nó
không bao giờ nhìn nơi tiền bạc hay việc làm khi bạn hành thiện nghiệp, nếu bạn
không có tâm thành thật thì nó sẽ trở nên vô nghĩa và việc làm ấy cũng như phí
bỏ.
Chúng ta suy nghĩ kỹ thì Tâm chúng ta là người quyết định tất cả cho số phận của chính mình.
Tâm ở đây có thể hiểu chính là những dòng suy nghĩ tốt hay xấu. Mọi việc làm
xấu chỉ được thực hiện khi ý nghĩ của chúng ta đã xuất phát trong đầu. Những
khổ đau và hạnh phúc nảy sinh do chính tâm của mình tạo ra. Thế nào gọi là
Nghiệp xấu phát xuất? Nghiệp xấu chỉ xuất hiện khi chúng ta có ý nghĩ xấu phát
khởi, như khi bạn đang đi vô tình đạp chết một chú kiến, đó chính là sát nghiệp
nhưng không tạo ra nghiệp xấu do ta không có ý niệm muốn giết chỉ do ta vô tình
mà sát sanh, nhưng nghiệp xấu sẽ được tạo ra như khi chúng ta có một ý niệm cố
ý, như khi bạn nhìn thấy một món đồ rất quý của một người nào đó, tuy chưa lấy
được nhưng trong lòng bạn có ý niệm chiếm đoạt thì nghiệp xấu đã được tạo ra.
Nghiệp xấu chính là những khó khăn hay những điều phiền phức mà ta gặp trong
cuộc sống hằng ngày, nó làm cho ta cảm thấy khó chịu và bực dọc, đối với những
con người lương thiện với tấm lòng trong sạch thanh cao thì họ không bao giờ
gặp những phiền phức và họ không tin vào sự may mắn hay xui rủi, bởi họ không
bao giờ gặp những việc không toại nguyện. Hằng ngày chúng ta dù cố gắng đến đâu
thì tư tưởng vẫn có những ý nghĩ xấu, bởi vậy tại sao lâu lâu chúng ta cứ gặp
nhiều phiền phức hoài. Đó là điều không thể tránh khỏi do chúng ta chỉ là những
phàm nhân không đủ nghị lực để ngăn những dòng suy nghĩ của chính mình, rồi bạn
sẽ có những cảm giác sợ sệt, lo âu khi tư tưởng xấu xuất hiện. Nghiệp xấu xuất
hiện có những mức độ nặng nhẹ khác nhau tùy theo suy nghĩ, việc làm, lời nói
của chúng ta mà chúng ta phải xem xét coi nó như thế nào!. Lòng ích kỷ, hận
thù là nơi sinh ra đau khổ nhiều nhất.
1. Nghiệp xấu nhẹ có thể thuộc về tư tưởng của chúng ta, nó chỉ tạo ra cho ta
cảm giác đau khổ
về tinh thần như phiền toái, bực bội, khó chịu nhưng không tổn hại đến bên
ngoài của chúng ta, nhưng nó sẽ được biểu hiện ra bên ngoài khi những tư tưởng xấu
tích lũy đầy đủ, thì nó sẽ bộc phát.
2. Nghiệp xấu nặng thuộc về thân của chúng ta đó chính là việc làm và lời nói,
những hành vi
này làm ảnh hưởng đến người khác, cũng tùy theo mức độ mà ta phải chịu lại, với
hành vi của thân này cũng dẫn đến đau khổ về tinh thần của chúng ta.
Bởi vậy bạn mới hiểu chúng ta đang sống trong một trường thử thách vô cùng khắc
nghiệt, để giảm tối thiểu những nghiệp xấu mang đến theo như Đức Phật dạy đó
chính là sống theo con đường Bát Chánh Đạo và đưa tâm vào sự thanh tịnh cao
nhất. Nếu ngay bây giờ bạn có những biểu hiện bên ngoài của đức tính ích kỷ,
hận thù, ác cảm, xấu xa thì chắc chắn rằng bạn còn chịu nhiều khó khăn của cuộc
sống. Điều mà chúng ta nên làm ngay bây giờ chính là phát triển lòng thương yêu
của mình đối với bất cứ con người, loài vật nào trên thế gian này, mà còn phát
triển lòng khoang dung, không thù hận, không ích kỷ và ác cảm. Tâm từ chính là
gốc căn bản nhất của Phật Giáo. Điều đầu tien bạn nên làm chính là giảm thiểu những
tư tưởng xấu xa trong bạn
Nếu ngay bây giờ bạn có hiểu biết thì một bạn đã có một viễn cảnh vô cùng tươi
đẹp ở ngày tháng tương lai nếu như bạn thực hành theo những chân lý ấy. Bạn
nhìn thử ngoài cuộc sống có người đi sớm về khuya, đi trong mưa gió của cuộc
đời dù đau khổ hay vui sướng suốt bao năm tháng dài dẳng, họ đã phí thời gian
quá nhiều để tranh đấu và chịu đau khổ mà không có hiểu biết, bạn mới cảm thấy
những người đó mới thực sự đáng thương vì những tham vọng, ganh ghét, vị kỷ
đang chiếm giữ tâm hồn của họ và rằng đau khổ đang ở phía trước chờ đợi họ đến
để nhận lấy hay chống trả. Khi nhìn lại thì mình đã thực sự quá nhiều may mắn,
bởi những người ấy không biết đến bao giờ mới có được những hiểu biết và có khi
họ không bao giờ chịu nghe vì bản tính cố chấp mà họ có. Ngày nay khi con người
nghe nói đến tôn giáo thì họ có nụ cười ngạo nghể, vì họ nghĩ những thầy tu là
khác người vì cuộc sống ẩn dật ở nơi hẻo lánh do trong tư tưởng họ không có
hiểu biết, lòng ham muốn hưởng lạc thú ngắn ngủi đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm can
của họ, họ có cảm giác sợ sệt rằng mình phải từ bỏ tất cả những lạc thú ở ngoài
cuộc sống dù rằng họ đã đạt được hay chưa đạt được và không nhìn thấy được
những khổ đau tiềm ẩn xung quanh mình. Họ chỉ nhìn thấy những vui sướng giả tạm
trước mắt làm mờ đi tâm trí, rồi nó sẽ đem đến đau khổ khi mọi việc kết thúc,
vì không điều gì trên thế gian mà không thay đổi.
Tất cả là hư
ảo và Con đường duy nhất
Khi chúng ta theo con đường thiện nghiệp đã gieo; chúng ta sẽ đạt được hạnh
phúc và niềm vui về tinh thần và vật chất, đó chính là Thiên đường nơi trần
thế. Nếu chúng ta hiểu thế mà gieo thiện nghiệp để mong được hưởng những lạc
thú thì chúng ta vẫn là những con người chưa thực sự hiểu biết. Bởi khi chúng
ta còn mãi đi trong vòng sinh tử thì chúng ta sẽ còn đau khổ mãi. Có khi con
người hưởng lạc thú hoài mà không biết đau khổ thì họ sẽ không hiểu được sự giả
tạm của đời sống và còn chịu đau khổ do những việc làm ở đời sống tương lai
không nhìn thấy trước được. Vì có những người ngày nay sung sướng lúc ban đầu
nhưng về già họ phải trở lại đau khổ vì lối sống không hiểu biết. Bởi đời sống
này bạn hiểu biết thì đời sống mới chưa chắc bạn sẽ hiểu được vậy. Theo Đức
Phật dạy con người không ai biết trước ngày mai, tháng sau hay năm tới của
chúng ta. Chúng ta sẽ như khúc gỗ trôi trên sông có thể gặp đầy những bất trắc
và nguy hiểm.
Một câu truyện về Đức Phật. Một hôm Đức Phật nhìn thấy một chú heo nái, Ngài đã
nhìn thấy những tiền kiếp của chú heo này và đã thuyết giảng cho đệ tử. “Nguyên
chú heo này những kiếp trước là chú gà mái, vì tìm thức ăn xung quanh chùa nên
mỗi ngày đều nghe một vị sư tu thiền đọc kinh Thiền Minh Sát. Vì tích được
thiện phước nên kiếp sống sau đã đầu thai vào làm công chúa tên Ubbari. Trong
kiếp đó công chúa Ubbari đã vô tình nhìn thấy một đống vòi. Công chúa đã chú
tâm niệm vào đống vòi và chứng đắt được Sơ Thiền. Trong phần còn lại của kiếp
ấy bà sống trong Sơ Thiền, và do đó, sau khi qua đời, tái sanh vào cảnh trời.
Lúc tuổi thọ ở cảnh trời chấm dứt vì nghiệp lực tốt được tích trữ đã hết,
nghiệp bất thiện đã gieo trong những tiền kiếp xa xưa giờ đây trổ sanh, bà tái
sanh trở lại làm con heo nái."
Trích trong Tứ Diệu Đế - Phạm Kim Khánh
Chúng ta hiểu rõ những nghiệp thiện và xấu khi chúng ta tạo ra nó không mất đi
mà sẽ lưu giữ lại đó, đợi cho đến thời cơ thích hợp thì sẽ biểu hiện ra bên
ngoài, nó có thể là ngay hiện tiền, đời sống sau hay đời sống sau sau đó nữa
tùy thuộc vào lúc thích hợp mà nó tạo thành quả. Do chúng ta tích lũy thiện
nghiệp với tư tưởng và hành động tốt nên những nghiệp xấu không có điều kiện
thuận lợi để nảy xin, cùng khi hưởng lạc thú cho đến cuối đời với hiểu biết nên
nghiệp xấu không thể phát sinh được, nhưng qua đời sống mới chúng ta bị hoàn
cảnh tác động mà tâm tính bị thay đổi và nghiệp thiện đã dần hết chúng ta phải
trả giá cho những nghiệp xấu đã gieo trước đây, rồi chúng ta sẽ phải chịu đau
khổ. Nên bây giờ bạn có thể hiểu tại sao nghiệp xấu đến với chúng ta khi mà ta
vẫn là một con người tốt hay tại sao những người xấu xa không gặp những quả báo
ở hiện tiền, chúng ta không phải hỏi những câu hỏi dư thừa ấy nữa. Nhưng những
niềm vui về vật chất, tinh thần chỉ là lạc thú tạm thời rồi nó cũng sẽ kết thúc
mà thôi.
Trên thế giới hiện nay những nhà nghiên cứu thần học không bác bỏ chuyện có
phép lạ trong đời sống thường nhật. Phép lạ hay thần thông đó chính là những
điều tiềm ẩn trong ta chỉ đợi chờ chúng ta đánh thức nó dậy. Thiền định được
xem là con đường duy nhất, sự tuyệt diệu của nó rất là lớn. Khi chúng ta dứt bỏ
tất cả ngũ dục của cuộc sống và thực hành kiên định về thiền thì chúng ta sẽ
đạt được bật A La Hán (Bậc đã dứt bỏ hết mọi đau khổ, luyến ái và không còn bị
vướn níu bởi dục vọng) khi đó chúng ta sẽ phát tuệ (sự hiểu biết vô tận) cùng
đạt được những phép thần thông. Đức Phật sau 6 năm thiền định bước đầu đạt được
tuệ giác. Ngài đã hiểu rõ về Tứ Diệu Đế ( Đế thứ nhất: Đó là đau khổ, Đế thứ
hai: Đó là nguyên nhân của đau khổ, Đế thứ ba: Đó là con đường diệt khổ, Đế thứ
tư: Giác ngộ và diệt khổ), cùng con đường Bát Chánh Đạo cao thượng. Ngài có
những hiểu biết tại sao con người lại sinh vào những nơi đau khổ hay vui sướng.
Ngài cũng nhìn thấy được những tiền kiếp của chính mình và của bất kỳ một chúng
sanh nào. Ngài hiểu được mọi vạn vật và có thể nhìn thấy được tâm suy nghĩ của
con người, không có gì là Ngài không biết cả. Ngài còn đạt được những phép thần
thông vô hạn. Thực ra chúng ta cũng có thể làm được điều đó nếu chúng ta muốn,
bằng cách tu tập để phát triển những năng lực có sẵn trong ta do chính những
dục vọng và tư tưởng xấu đã che mờ nó đi mà không thể phát triển được. Khi
chúng ta thiền định và rèn luyện tâm dứt bỏ mọi luyến ái của đời sống thì chúng
ta sẽ đạt được bậc cao nhất là A La Hán. Sống với một cuộc đời trong sạch và
thanh tịnh đó chính là đời sống của một vị Phật.
Như phần trên đã nói về sự phát sinh Nghiệp Lực mà ta biết. Nên ta hiểu tại sao
Thiền Định được xem là con đường duy nhất, nó ngăn những suy nghĩ chúng ta hoặt
động bừa bãi mà không có sự kiểm soát, do Thiền Định đưa tâm con người trở về
trạng thái thanh lặng, không có sự xáo trộn của ngoại cảnh tác động, đó chính
là phương cách chấm dứt đau khổ. Khi chúng ta sống đúng theo con đường Trung
Đạo thì chúng ta vẫn phải chịu đau khổ, do chúng ta còn bám víu vào những vật
chất cuộc sống, tư tưởng con dao động hoài thì sẽ nảy sinh ra đau khổ. Cuộc đời
cho chúng ta lựa chọn con đường để chúng ta đi thì hà tất chi cứ mãi chịu đau
khổ nơi cuộc sống này trong tâm trạng sợ sệt, phiền não và đau khổ. Ngay bây
giờ bạn đang được vui sướng hưởng những lạc thú của trần thế mà không có lo âu
phải không? Chúng ta nên mau cố gắng tu tập nơi cuộc sống này.
Để đạt được con đường giải thoát cuối cùng thì chúng ta phải đoạn tuyệt với
những luyến ái ngoài cuộc sống cùng ngũ dục của đời thường. Trong Túc sanh
truyện có thuật: Trong một tiền kiếp của Đức Phật khi Ngài đã đạt được phép
thần thông do tu tập, do được vua thường thỉnh vào trong cung để dâng cúng vật
thực. Nhưng bất hạnh thay, một hôm tình cờ chợt thấy hoàng hậu từ phòng tắm
bước ra chỉ khoác một chiếc áo choàng mỏng. Trong một khoảnh khắc lơ đểnh, tâm
bị xúc động. Bồ Tát đã mất hết các phép thần thông.
Chúng ta không thể phát huệ được nếu chúng ta còn nhiều những luyến ái của cuộc
sống. Thiền Định là con đường đưa chúng ta đi đến thanh tịnh nơi tinh thần và
giúp chúng ta phát được tuệ giác. Ngày nay con người quá bận rộn dù để đọc một
quyển sách cũng không có, ta nên hành trì câu Lục Tự Di Đà, nó là phương cách
không làm ta mất nhiều thời gian. Đức Phật đã thuyết giảng về nơi Niết Bàn (nơi
được Phật Di Đà sáng lập nên) và Kinh Vô Lượng Thọ. Bởi thế chúng ta hiểu việc
niệm Phật nó quan trọng đến thế nào. Khi hành trì thì chúng ta sẽ cảm thấy an
lạc trong tâm hồn và những nghiệp lực sẽ được nhẹ hơn. Chúng ta nên cố gắng để
hiểu được sự huyền diệu của nó.
36. Lược sử cuộc đời
đức phật thích ca mâu ni
(623 trước TL - 543 trước TL)
Cách đây hơn 2500 năm, ở vùng Hy mã lạp sơn, phía Bắc Ấn độ, có một bộ tộc nhỏ
tên Thích-ca, sống yên bình dưới sự trị vì của vua Tịnh-phạn minh quân và hoàng
hậu Ma-da nhân từ. Một hôm, hoàng hậu nằm mộng thấy một con voi sáu ngà từ trên
hư không lẩn vào bên hông phải của bà, ít lâu sau bà thọ thai.
Trên đường về quê sanh nở, ngang qua vườn Lâm-tỳ-ni, vào ngày rằm tháng 4 năm
623 trước Tây lịch, gần thành Ca-tì-la-vệ, hoàng hậu đã hạ sanh thái tử
Tất-đạt-đa. Thái tử bước 7 bước trên hoa sen, tay chỉ trời, tay chỉ đất nói:
Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn.
Ngày Thái Tử đản sanh là ngày hội lớn của toàn vương quốc. Mọi người kéo về
kinh thành chúc tụng. Trong đó, có một vị đạo sư già tên là A-tư-đà cũng đến
thăm và xem tướng Thái tử. Ngay khi nhìn thấy Thái tử, ông liền kính cẩn sụp
lạy, tiên đoán tương lai Thái tử sẽ xuất gia tu hành, thành bậc Chánh đẳng
giác, độ thoát chúng sanh.
Sau khi hạ sanh thái tử được 7 ngày, hoàng hậu qua đời nên bà dì
Ma-ha-ba-xà-ba-đề trực tiếp nuôi dưỡng thái tử. Ngài được dạy dỗ giáo dục toàn
vẹn cả về văn lẫn võ. Thái tử tư chất thông minh, tinh thông tất cả các môn
học, thậm chí thắng lướt cả thầy dạy.
Trong một lần cùng vua cha dự lễ hạ điền, tận mắt nhìn thấy cảnh người nông dân
làm lụng vất vả và các loài côn trùng, chim chóc, thú dữ tranh giành giết chóc
lẫn nhau vì miếng ăn, thái tử cảm thấy xót thương cho kiếp phận muôn loài khổ
đau. Trong khi mọi người vui chơi, thái tử đã thiền tọa tịch tĩnh dưới một gốc
cây.
Năm 16 tuổi, Thái tử thành thân với công chúa Da-du-đà-la. Hai vợ chồng sống
đời sống giàu sang suốt 13 năm liền trong ba lâu đài xây riêng cho họ, và sanh
được hoàng nam La-hầu-la.
Một hôm, thái tử và người hầu Xa-nặc dạo chơi ở 4 cửa thành. Tận mắt chứng kiến
cảnh người già, bịnh và chết, Thái tử vô cùng xót thương. Hình ảnh thoát tục
của người xuất gia đã khiến thái tử quyết chí xuất gia, tìm đường học đạo, độ
thoát chúng sanh.
Nửa đêm hôm ấy, sau khi đến nhìn vợ con lần cuối, thái tử lên ngựa Kiền-trắc
cùng Xa-nặc vượt thành vào lúc. Sau khi vượt qua sông A-no-ma, thái tử xuống
ngựa, cạo bỏ râu tóc, giao lại trang phục và đồ trang sức cho Xa-nặc bảo Xa-nặc
hãy trở về. Kể từ đó, thái tử bắt đầu cuộc sống của kẻ xuất gia không nhà. Năm
ấy thái tử tròn 29 tuổi.
Trên bước đường tìm đạo, Ngài theo học với 2 bậc đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ
là A-la-lã và Uất-đầu-lam-phất. Ngài nhận ra rằng những cấp thiền mà Ngài đạt
được không đưa đến giác ngộ và giải thoát. Thế là, Ngài quyết định vào rừng sâu
tu hành khổ hạnh cùng với 5 anh em Kiều-trần-như. Ngài tu hành ép xác như thế
ròng rã 6 năm, thân thể tiều tụy, chỉ còn da bọc xương mà vẫn không tìm ra được
con đường giải thoát sanh tử. Nhân khi nghe trời Đế-thích nói về cách lên dây
đàn, Ngài chợt tỉnh ngộ, từ bỏ khổ hạnh và thực hành trung đạo. Thấy vậy, 5 anh
em Kiều-trần-như thất vọng, rời bỏ Ngài.
Còn lại một mình, sau khi thọ nhận bát sữa cúng dường của một mục nữ, Ngài
xuống sông Ni-liên-thuyền tắm rửa và đến dưới gốc cây bồ-đề ngồi thiền. Ngài
thề sẽ không đứng dậy nếu không đạt được giác ngộ giải thoát. Và Ngài đã ngồi
im bất động như vậy suốt 49 ngày đêm. Ma vương sợ thái tử đắc đạo nên đã dắt
binh tướng đến bao vây và tấn công Ngài. Nhưng bọn chúng đành thảm bại trước
định lực kiên cố như kim cương của Ngài. Và cuối cùng, vào ngày rằm tháng 4 Âm
lịch năm 588 trước tây lịch, vào lúc bình minh khi sao Mai vừa mọc, Ngài phá
tan được màn vô minh, giác ngộ Tứ đế, chứng đạt Tam minh, chứng quả Vô thượng
chánh đẳng chánh giác và thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Thế tôn.
Sau khi giác ngộ, đức Phật ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây Bồ đề. Ngài ngần ngại
chưa muốn truyền pháp vì nghĩ giáo pháp của Ngài rất cao siêu, chúng sanh si mê
không thể lãnh hội được, cho đến khi Phạm thiên Sahampati hiện thân khuyến
thỉnh đôi lần, Phật mới nhận lời mở cánh cửa bất tử cho tất cả chúng sanh. Ngài
đến Lộc Uyển chuyển pháp luân đầu tiên, độ 5 anh em Kiều-trần-như. Cũng kể từ
đó, công cuộc hoằng pháp độ sanh của Ngài bắt đầu.
Sau khi thuyết pháp độ đời 45 năm, ngày rằm tháng 4, năm 543 trước Tây lịch,
đức Phật thị hiện nhập Niết-bàn ở rừng cây sa-la gần thành Câu-thi-na, hưởng
thọ 80 tuổi. Chúng đệ tử làm lễ trà tỳ cho kim thân Ngài, thâu được nhiều
xá-lợi ngũ sắc rất đẹp
37. Ý Nghĩa Lễ Phật Đản (14_15/4 )
Năm nay, dương lịch 2007, Phật lịch 2551,
nhân lễ kỷ niệm lần thứ 2631 Ðức Phật Thích Ca đản sanh, vào ngày rằm tháng tư
(15 - 4) âm lịch, nhằm ngày 31-5-2007, chúng ta cùng nhau ôn lại lịch sử và tìm
hiểu ý nghĩa thâm trầm của ngày lễ trọng đại này.
Ðức Phật Thích Ca đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni thuộc xứ Ca Tỳ La Vệ, được gọi là
Thái tử Tất Ðạt Ða (hay Sĩ Ðạt Tha), con của đức vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma
Gia. Ngài lớn lên trong hoàng cung, vâng lệnh song thân lập gia đình với Công
chúa Gia Du Ðà La, và hạ sanh Thái tử La Hầu La. Trong các chuyến xuất cung du
ngoạn ngoại thành, Ngài chứng kiến các cảnh: sanh, lão, bệnh, tử trong nhân
gian. Từ đó, Ngài luôn luôn trầm tư mặc tưởng, muốn tìm phương tự độ và cứu
giúp chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân sanh tử, cho nên Ngài lìa bỏ hoàng
cung, lên đường tìm đạo giải thoát. Sau 6 năm tu khổ hạnh ở chốn rừng già, và
49 ngày đêm ngồi thiền định dưới cội cây bồ đề, tâm trí thanh tịnh, Ngài hoát
nhiên giác ngộ, thành Phật, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vào năm
Ngài được 35 tuổi. Sau đó, Ngài đi khắp nơi thuyết pháp, đem chân lý giác ngộ
giải thoát giảng dạy cho mọi người trong 45 năm ròng rã, và Ngài thị tịch, nhập
niết bàn, năm 80 tuổi tại khu rừng ta la song thọ.
Toàn bộ lịch sử của Ðức Phật Thích Ca từ ngày đản sanh, đến thành đạo và nhập
niết bàn, cũng như toàn bộ giáo lý của Phật giáo, không phân biệt tông phái,
nêu lên những điểm quan trọng như sau:
1) Mọi người trên thế gian đều có thể trở thành một vị Phật, một bậc sáng suốt
giác ngộ, không phân biệt dân tộc, nam nữ, xuất xứ, đẳng cấp, trẻ già, thời
đại, đã có gia đình hay chưa, nếu người đó biết phát tâm tìm hiểu và tu tập
theo đúng Chánh pháp, theo đúng bản đồ tu học. Do đó, có hằng hà sa số các vị
Phật, từ quá khứ, đến hiện tại và vị lai, chứ không phải chỉ có một vị Phật duy
nhất làm giáo chủ là Ðức Phật Thích Ca, còn tất cả các loài chúng sanh khác đều
phải thờ lạy theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực. Đây chính là
ưu điểm nổi bậc của giáo lý đạo Phật vậy.
2) Ðức Phật không phải là vị thần linh hay thượng đế tưởng tượng chuyên ban
phước ra ơn hay giáng họa trừng phạt. Cho nên những ai cúng kiến, tin tưởng,
thờ lạy Ðức Phật theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực, dù ở chùa
hay ở nhà, đều không đạt được những ước muốn như ý. Bởi vậy, cúng kiến nhiều
thì buồn phiền nhiều, tin tưởng nhiều thì thất vọng nhiều, xin xỏ nhiều đau khổ
nhiều. Trái lại, những người sống đúng theo tinh thần những lời dạy của Ðức
Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù có thờ lạy Ðức Phật hay không, cũng đều được
an lạc và hạnh phúc hiện thời, giác ngộ và giải thoát mai sau. Đây chính là
điểm chí công vô tư của giáo lý đạo Phật vậy.
3) Từ trước thời Ðức Phật xuất hiện trên thế gian này, cuộc đời vẫn thường đầy
dẫy những sự đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa đảo, chứ không phải chỉ có thời
hiện tại mà thôi. Do đó, giáo lý của đạo Phật thường được ví như chiếc thuyền,
gọi là thuyền bát nhã, tức là thuyền từ bi trí tuệ, giúp đỡ con người vượt qua
bể khổ, sông mê, lướt qua bát phong của cuộc đời, đến bến bờ giác ngộ và giải
thoát. Ðức Phật vẫn sống ngay trên thế gian này, vẫn gặp bao nhiêu khổ nạn của
cuộc đời, nhưng tâm trí của Ngài vẫn an nhiên tự tại, không cần phải đợi đến
lúc về tây phương cực lạc hay thăng lên thiên đàng! Ðây chính là cốt tủy của
đạo Phật vậy.
4) Ðạo Phật là một tôn giáo, cho nên cũng có những hình thức cúng kiến, lễ lạy,
cầu nguyện, cốt để giúp đỡ những người đang đau khổ trên thế gian này tìm đến
với đạo, trong những bước ban đầu. Nếu như con người, dù tại gia hay xuất gia,
đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện
mà thôi, cứ đứng ở đó bao nhiêu năm trời, cho rằng như vậy là đủ rồi, không
chịu bước thêm bước nữa, thì đau khổ vẫn hoàn khổ đau, có khác chi bao nhiêu
người khác đâu? Bước đó chính là: phát tâm học hỏi, tìm hiểu Chánh pháp, xem
Ðức Phật dạy những gì, để có thể áp dụng trong cuộc sống thực tế hằng ngày, đạt
an lạc và hạnh phúc, thêm nữa đạt được: giác ngộ và giải thoát. Ðây chính là
chánh kiến và chánh tín của đạo Phật vậy.
5) Các buổi lễ của Phật giáo, quan trọng nhứt là Lễ Phật Ðản, đều nhằm mục đích
dẫn dắt con người đến với đạo, xoa dịu bớt những nỗi khổ đau của cuộc đời. Và
mục đích quan trọng hơn hết là: "hãy bước vào cửa đạo", chứ không
phải chỉ bước vào cửa chùa rồi thôi, hay vẫn cứ đi lang thang, lòng vòng bên
ngoài, bằng lòng với các hình thức cúng kiến, lễ lạy, các buổi văn nghệ xổ số,
các cuộc hành hương thương mại, các cuộc vận động in sách cầu vãng sanh lưu xá
lợi, kêu gọi đóng góp tạo chùa to tượng lớn, mà không quan tâm việc tu học,
không lo việc tu tâm dưỡng tánh, không biết đến Chánh pháp là gì? Bước vào cửa
đạo nghĩa là: phải biết tu học theo lời Ðức Phật dạy trong các kinh sách, để
đạt giác ngộ và giải thoát, chứ không phải là: không chịu học, chỉ tu mù, ai
bảo sao làm vậy, ai nói sao nghe vậy, người trước làm người sau sao y bản
chính, chẳng hiểu ý nghĩa, có nhiều điều hết sức mê tín dị đoan! Ðây chính là
mục đích cứu cánh của đạo Phật vậy.
* * *
Theo truyền thuyết, ngay khi Thái tử Tất Ðạt Ða đản sanh, có hai vị Long vương
đến phun hai dòng nước tắm cho Thái tử. Một vị phun dòng nước lạnh và một vị
phun dòng nước nóng. Hai dòng nước lạnh và nóng tượng trưng cho hai cảnh giới
thuận nghịch của cuộc đời, hai cảnh giới vui buồn, sướng khổ của cuộc sống hằng
ngày, mà tất cả mọi người sanh ra trên thế gian này phải chịu đựng. Thái tử Tất
Ðạt Ða đã chịu đựng được hai dòng nước lạnh nóng, cho nên sau này Ngài trở
thành Ðức Phật Thích Ca. Trong kinh sách, Ðức Phật dạy rằng: người nào chịu
đựng được những sự thuận nghịch của cuộc đời, mà tâm vẫn bình thường, bình tĩnh
thản nhiên, an nhiên tự tại, thì người đó sẽ là một vị Phật trong tương lai.
Ðây chính là ý nghĩa hết sức thâm sâu vi diệu của đạo Phật vậy.
Trong kinh sách, những cảnh thuận nghịch của cuộc đời được gọi là: bát phong.
Bát là tám, phong là ngọn gió. Bát phong chia làm bốn cặp, mỗi cặp gồm hai cảnh
giới đối nghịch, đó là: lợi và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc. Lợi là
những điều thuận lợi, đem lợi lộc, tài lợi đến cho con người. Suy là suy tàn,
suy sụp, đem đến sự thua lỗ, mất mát cho con người. Cả hai điều này đều làm cho
tâm của con người xao động, bất an. Hủy là hủy báng, chê bai làm cho tâm con
người bị động. Dự là danh dự, khen tặng cũng làm cho tâm con người bị động. Kế
đến là xưng và cơ, nghĩa là xưng tán, tán tụng, nói tốt, và cơ bài, bài bác,
chỉ trích, nói xấu. Hai ngọn gió này của cuộc đời cũng làm cho tâm của con
người bị xao động. Cuối cùng của bát phong là khổ nạn và lạc thú trên trần
gian. Trên đời này, cảnh khổ quá nhiều, sanh lão bệnh tử là khổ, cầu mong không
được cũng khổ, thương yêu phải chịu chia ly là khổ, thù ghét gặp nhau cũng khổ,
thân thể ốm đau là khổ, tâm loạn động nhiều, bất an cũng khổ. Còn lạc thú trên
đời cũng không ít việc đưa đến phiền não khổ đau. Chẳng hạn trò chơi bài bạc đỏ
đen, tưởng là vui thú, nhưng thường dẫn tới hoàn cảnh bần cùng túng thiếu, tiền
mất tật mang, lang thang lếch thếch, vợ bỏ con chê, mê chi cờ bạc, xạt nghiệp
trắng tay, cửa nhà tan nát!
Trong Phật giáo, thường có nhiều hình thức nghi lễ, nhằm mục đích truyền bá giáo
lý sâu rộng trong nhân gian, giúp đỡ mọi người xây dựng cuộc sống hiện đời được
an lạc và hạnh phúc hơn. Nhân ngày rằm tháng tư âm lịch hằng năm, khắp nơi tưng
bừng tổ chức lễ kỷ niệm ngày Ðức Phật đản sanh, để ghi nhớ công đức của bậc
toàn giác tìm ra con đường cứu độ chúng sanh được giác ngộ và giải thoát khỏi
phiền não khổ đau và sanh tử luân hồi. Trong phần nghi lễ kỷ niệm ngày Ðức Phật
đản sanh, luôn luôn có tiết mục tắm Phật. Nghi lễ tắm Phật dựa vào truyền
thuyết có hai vị Long vương phun hai dòng nước, một dòng nước lạnh và một dòng
nước nóng, tắm cho Thái tử Tất Ðạt Ða trong ngày đản sanh. Mọi người đều hoan
hỷ sắp hàng, tâm niệm Phật, miệng niệm Phật, chờ đến phiên mình tiến lên lễ đài
để múc nước tắm cho tôn tượng Ðức Phật đản sanh. Khi múc gáo nước đầu tiên tắm
cho vai phải tôn tượng Ðức Phật đản sanh nhỏ nhắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù
trên đời có gặp thuận cảnh, phải lòng, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản
nhiên. Khi múc gáo nước thứ hai tắm cho vai trái tôn tượng Ðức Phật đản sanh nhỏ
nhắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp nghịch cảnh, trái lòng, tâm
của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên. Việc làm này mang nhiều ý nghĩa vi diệu,
có ích lợi lớn cho việc tu học, có thể chuyển hóa tâm trạng của con người từ
phiền não khổ đau thành an lạc và hạnh phúc. Ðây chính là ý nghĩa sâu xa của
nghi lễ tắm Phật vậy.
* * *
Trong các buổi lễ kỷ niệm ngày đức Phật đản sanh, chúng ta thường thấy hoạt
cảnh, hoặc bức tranh vẽ Ðức Phật đản sanh đứng trên đóa hoa sen thứ 7, phía sau
có 6 đóa hoa sen khác, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Bức tranh đó được vẽ
theo truyền thuyết: Ngay khi đản sanh, Ðức Phật bước trên 7 đóa hoa sen, một
tay chỉ trời, một tay chỉ đất, và tuyên bố: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã
độc tôn".
7 đóa hoa sen tượng trưng cho thất chúng trong đạo Phật, đó là: Tỳ khưu, Tỳ
khưu ni, Thức xoa ma na ni, Sa di, Sa di ni, nam Phật Tử và nữ Phật Tử. Nói
chung là toàn thể con người, dù tại gia hay xuất gia đều có thể áp dụng giáo lý
của đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày để được an lạc hạnh phúc và giác ngộ
giải thoát. Muốn được như vậy, con người phải chứng được bản tâm thanh tịnh,
được ví như đóa hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, cho nên vẫn sống
trong trần đời đầy dẫy các điều hệ lụy, bất an, bất trắc, bất như ý, mà chẳng
cảm thấy phiền não khổ đau!
Khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, Ðức Phật ngồi trên thảm cỏ, nhưng trong hình
vẽ hay tôn tượng, Ðức Phật đều ngồi trên tòa sen, tượng trưng cho bản tâm thanh
tịnh. Ngài đã giác ngộ được rằng: tất cả mọi chúng sanh đều có bản tâm thanh
tịnh đó, cho nên đều có thể trở thành một vị Phật, nếu biết thực hành pháp môn
tu tâm dưỡng tánh.
Bản tâm thanh tịnh trong kinh sách Phật giáo được gọi với nhiều danh từ khác
nhau, chẳng hạn như là: chân ngã, chân tâm, chân tánh, Phật tâm, Phật Tánh, bản
lai diện mục, v.v. Do đó, câu nói: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc
tôn", có nghĩa là trong 6 cõi luân hồi: trời, người, atula, địa ngục, ngạ
quỉ, súc sinh, hay nói gọn hơn: trên trời dưới đất, chỉ có chân ngã, tức là bản
tâm thanh tịnh, là đáng tôn kính. Người giác ngộ được điều này, sẽ giải thoát
được phiền não khổ đau và sanh tử trong 6 cõi luân hồi, đứng trên tòa sen thứ
7, tức là an trú nơi cảnh giới niết bàn: thường, lạc, ngã, tịnh.
* * *
Một điều căn bản khác, chúng ta cần biết là: Phật lịch luôn luôn được tính thêm
544 năm vào dương lịch, kể từ năm Ðức Phật nhập diệt, trước công nguyên. Cho
nên năm nay dương lịch 2007, Phật lịch chính là năm 2551 (= 2007 + 544). Tuổi
thọ của Ðức Phật là 80 tuổi, cho nên năm đức Phật đản sanh được cộng thêm 80
năm vào Phật lịch. Tóm lại, năm nay dương lịch là 2007, Phật lịch là 2551, Lễ
Phật đản 2631 (= 2551 + 80).
38. Lễ Vua Lan Bồn (
14_15/7 )
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Nước biển mênh mông không đong dầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo sớm hôm Mẹ nuôi Con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy Cha che chở đời Con
Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ Khóc
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghe không?
=================================
Dù con đếm đựoc cát sông
Nhưng không đếm đựoc tấm lòng Mẹ yêu
Dù con đo dựoc sớm chiều
Nhưng không đo được tình yêu Mẹ hiền
Dù con đi hết trănm miền
Nhưng tình của mẹ vẫn liền núi non
Dù con cản đựoc sống cồn
Nhưng không ngăn đựoc tình thương mẹ dành
Dù con đến đựoc trời xanh
Nhưng không đến được tâm hành mẹ đi
Dù con bất hiếu một khi
Tình thương mẹ vẫn thầm thì bên con
Dù cho con đãn lớn khôn
Nhưng tình mẹ vẫn vuông tròn trứoc sau
Ôi tình mẹ tựu trăng sao
Như hoa hồng thắm một màu thủy chung
Tình của mẹ lớn khôn cùng
Bao dung vạn loại dung thông đất trời
Ôi tình mẹ đẹp tuyệt vời
Làm con hiếu thảo trọn đời khắc ghi.
Đã lâu rồi, mỗi năm một lần, dân Việt ta có tục cúng Rằm tháng Bảy. Một câu tục
ngữ đã nói :
Rằm tháng giêng ai siêng thì quảy;
Rằm tháng Bảy người quảy khắp nơi...
"Quảy" là một tiếng Việt cổ, một động từ để chỉ việc cúng vái mà bây
giờ ta ít nghe nói. Trong ngôn ngữ Việt lại có động từ "cúng quảy",
"đơm quảy"... "Quảy" thì không phải chỉ cúng với hoa quả,
trầm trà, hương đèn, mà "quảy" còn bao hàm ý nghĩa là có sắm sửa đồ
ăn quý hơn đồ ăn nhật dụng để cúng ông bà tổ tiên nữa. Vì sao người Việt ta lại
soạn đồ ăn để dâng cúng ông bà tổ tiên vào dịp Rằm tháng Bảy hằng năm ? Trong
một bài ca dao cổ nói về công việc trong mười hai tháng của một năm, ta lại đọc
được một câu :
"... Tháng Sáu buôn nhãn bán trăm
Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân..."
Ngày "xá tội vong nhân" phải là một hội lễ lớn và quan trọng, người
dân mới ghi vào lịch sử sinh hoạt 12 tháng của mình như thế. Có lẽ ta cũng nên
lưu ý là mỗi tháng người dân chỉ ghi vào lịch sử sinh hoạt một việc chính nhất,
và như thế ngày Rằm mới có hội "xá tội vong nhân", nhưng suốt tháng
Bảy nhất là nửa tháng đầu, người ta phải chuẩn bị tâm tưởng, chuẩn bị vật chất,
nói chung là tất cả hoạt động trong tháng đó, để hướng về ngày Rằm có trăng
tròn, có hội lễ "xá tội vong nhân". Nhớ, luôn luôn nhớ để cúng ông
bà, tổ tiên và gần là cha mẹ.
Nhớ mà cúng, trong quan niệm của nhân gian những người bỏ "cúng quảy"
là những kẻ "bất hiếu chi cực" tức là không có gì bất hiếu với cha
mẹ, ông bà, tổ tiên hơn nữa.
Ngày Rằm tháng Bảy "xá tội vong nhân" là ngày quan trọng. Quan niệm
"xá tội vong nhân" trong tư duy người dân rất đơn giản. Người dân
thường giải thích với nhau : "Nghe mấy cụ đời xưa kể lại thì vào ngày Rằm
tháng Bảy, dưới âm phủ người ta mở hết các cửa địa ngục để thả tù ra một ngày.
Mình làm đồ ăn cúng để ông bà mình cả năm bị giam đói, có được thì ăn với con
cháu một bữa cho no kẻo tội nghiệp". Tuy cách suy nghĩ đơn giản nhưng
trong cách suy nghĩ đó có mang nội dung "hiếu đạo" luôn luôn nhớ đến
người quá vãng, sợ họ bị đói khổ.
Tưởng chúng ta cũng nên nhìn sang một nước Á Đông có quan niệm gần giống dân ta
về ngày Rằm tháng Bảy âm lịch như thế. Đó là dân tộc Nhật Bản.
Người Nhật cũng có một lễ hội vào dịp tháng Bảy. Họ cũng nghĩ là từ vong linh
dưới các cửa địa ngục được thả ra một ngày vào Rằm tháng Bảy, trong đó có cha
mẹ, ông bà, tổ tiên của họ. Cho nên mỗi nhà đều sắm sửa của cúng và làm rất
nhiều đèn lồng đẹp treo trước nhà. Họ nghĩ là cửa ngục mở ra, vong linh tổ tiên
họ đi về nhà với con cháu, sau một cuộc hành trình xa thì chắc đói bụng nên bày
sẵn thức ăn để cúng tổ tiên hưởng dụng. Treo đèn để giúp tổ tiên tìm ra đường
đi. Rất sớm vào sáng 16 tháng Bảy, đồ ăn ấy sẽ được đưa tống xuống sông hoặc
xuống biển và đèn cũng được đem thả xuống nước để dẫn đường đưa ông bà tổ tiên
trở về thế giới bên kia. Hội thả đèn này gây được niềm xúc động trong lòng
người, vì từng đám đông, những người sau khi thả những cây đèn của mình, cứ
đứng nhìn những cây đèn trôi xa đi mãi như theo dõi, lưu luyến tiễn đưa tổ
tiên, cho đến khi không nhìn thấy đèn nữa mới thôi. Trong quan niệm người Nhật
Bản cũng có bao hàm một nội dung "hiếu đạo" như dân tộc Việt ta.
Nhưng, nguồn gốc lễ này ở đâu ? Ai cũng biết Việt Nam hay Nhật Bản - cũng có
thể kể luôn cả Trung Hoa, Tây Tạng, Cao Ly,... là những nước ở cõi Á Đông theo
Phật giáo đã từ lâu đời. Trong Phật giáo có một đại lễ cử hành vào ngày trăng
tròn tháng Bảy âm lịch hằng năm. Đó là lễ Vu Lan Bồn (Sanskrit : Ullambana). Sở
dĩ có lễ này là vì trong thời Phật còn tại thế, có Tôn giả Mục Kiền Liên
(Sanskrit : Maudgalyàyana; Pali : Moggallàna) muốn cứu mẹ ra khỏi ngục lửa,
nhưng một mình Ngài không đủ lực. Tôn giả bèn kêu cầu Đức Phật cứu độ mẹ mình
ra khỏi ác đọa. Chính Đức Phật cũng không độ bà Thanh Đề này được, vì nghiệp ác
của bà quá dữ. Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên phải soạn lễ trai Tăng cúng dường
"Đức Phật và chúng Thánh Tăng cả mười phương" sau lễ Tự Tứ ra hạ vào
ngày 14 tháng Bảy, để Đức Phật và Thánh Tăng mười phương cùng hợp lực chú
nguyện thì mới cứu mẹ của Tôn giả ra khỏi ngục lửa được. Là một Đại đệ tử của
Đức Phật, đã đắc ngộ quả vị A La Hán, Ngài Mục Kiền Liên còn là một người con
rất có hiếu với mẹ và rất trọng ân thâm của thầy tức là Đưc Thích Ca Mâu Ni
Phật. Ngài đã vâng lời thầy sắm đèn hương hoa trầm và thức ăn để làm lễ trai
Tăng. Sau đó, Đức Phật và chư Thánh Tăng mười phương và chính cả Ngài Đại hiếu
Mục Kiền Liên Bồ Tát với hạnh bố thí bao la của mình đã hợp lực chú nguyện, bà
Thanh Đề đã nương theo đó mà thoát khỏi ngục lửa để lên cõi siêu thăng. Sau lễ
này, Đức Phật đã dạy Ngài Mục Kiền Liên mỗi năm làm lễ Vu Lan Bồn vào ngày Rằm
tháng Bảy như Ngài đã làm để báo ân cha mẹ. Lời Phật thuyết trong dịp này được
gọi là Vu Lan Bồn kinh; người ta thường gọi nôm na là kinh Báo Hiếu. Từ đó, lễ
Vu Lan Bồn đã đi vào dân gian các nước phương Đông theo Phật giáo, và trở thành
ngày gọi là "ngày Rằm xá tội vong nhân". Riêng dân Việt Nam ta có
câu: "Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt" thì cũng đủ để minh họa ảnh
hưởng Phật giáo trong dân gian như thế nào. Dân Nhật Bản thì ông Renodeau trong
bài "Phật giáo Nhật Bản" đã đưa nhận xét : "Không những lễ Vu
Lan Bồn là một biến cố hệ trọng trong năm theo Phật giáo, mà đại lễ này còn
chiếm một tầm quan trọng đáng kể trong toàn dân Nhật; do đó mà dân Nhậ? đã tổ
chức và sửa soạn lễ này trong ba ngày từ chiều 13 đến sáng 16 tháng Bảy mỗi
năm; người Việt ta thì chỉ hai ngày 14 đến ngày 15 tháng Bảy hằng năm.. Nhưng
trong quan niệm về hiếu đạo thì dân ta sâu sắc hơn, vì dân Việt ta nghĩ đến
"tổ tiên bị giam đói trong ngục", nhờ ngày lễ xá tội vong nhân mới về
được, nên con cháu phải dâng cúng để tổ tiên hưởng một bữa đặc biệt. Rõ ràng
quan niệm "bị giam đói trong ngục" là gần với câu chuyện của Phật
giáo hơn là quan niệm "tổ tiên đi đường xa đói bụng" của dân Nhật
Bản".
Ta cũng cần phân biệt ý nghĩa "cúng quảy" trong ngày "xá tội
vong nhân" tức là ngày lễ Vu Lan Bồn của Phật giáo với lễ Trung Nguyên của
Nho giáo Trung Hoa mà người Việt ta cũng có bị ảnh hưởng. Trong ý thức hệ Nho
giáo thì có đến ba lễ trong năm có chữ "Nguyên"; đó là lễ Thượng
Nguyên vào ngày Rằm tháng Giêng; lễ Trung Nguyên vào ngày Rằm tháng Bảy và lễ
Hạ Nguyên vào ngày Rằm tháng Mười và dân gian thường gọi là "các ngày Rằm
lớn" vì đều có cùng quảy. Để hiểu cho tận căn nguyên các lễ này thì không
phải là chuyện bàn ở đây. Cho nên chúng tôi chỉ xin phác sơ để phân biệt lễ
Trung Nguyên với lễ Vu Lan Bồn là hai ngày lễ của hai tín ngưỡng khác nhau, có
ý nghĩa khác nhau, nhưng đều được cử hành vào ngày Rằm tháng Bảy thôi. Sách Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, trong tập Bản Kỷ, Kỷ nhà Lý, có ghi rất rõ
như sau :
1. "Mùa Thu tháng Bảy, tiết Trung Nguyên bãi cỗ bàn, vì là ngày lễ Vu Lan
Bồn của Linh Nhân Hoàng Thái Hậu". (Sđd, tr. 249)
2. "Mùa Thu tháng Bảy, tiết Trung Nguyên, vua Thần Tông (1128-1138) ngự
điện
Thiên An, các quan dân biểu mừng" . Vì là ngày lễ Vu Lan Bồn củaNhân Tông
(1027-1127), nên không đặt lễ yến (Sđd, tr. 263)
Linh Nhân Hoàng Thái Hậu tức là Phù Thánh Cảm Linh Nhân Hoàng Thái Hậu, mẹ Vua
Lý Nhân Tông (1072-1172), bà chính là Ỷ Lan Thái Phi, là một Phật tử thuần
thành, bà đã cho trùng tu và xây dựng hơn trăm ngôi chùa. Bà mất vào ngày 25
tháng Bảy năm Hội Tường Đại Khánh thứ 8 (1117), và được hỏa táng vào tháng 8
năm ấy. Tháng Bảy năm sau, Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118) Vua Lý Nhân Tông
bãi cổ bàn yến tiệc của Lễ Trung Nguyên để làm lễ Vu Lan Bồn cho mẹ. Mười năm
sau, vào niên hiệu Thiên Thuận năm đầu, Mậu Thân (1928) Vua Lý Thần Tông bãi cỗ
bàn yến tiệc của Lễ Trung Nguyên để làm lễ Vu Lan Bồn cho cha.
Như thế, không cần đi sâu hơn, ta cũng thấy được qua những dữ kiện mà chính sử
có ghi, ý nghĩa lễ Trung Nguyên với lễ Vu Lan Bồn báo hiếu khác nhau rất xa.
Trong lễ Trung Nguyên có cỗ bàn yến tiệc vui chơi ca hát và chúc tụng, trong lễ
Vu Lan Bồn có cỗ bàn, hương hoa trầm trà để cầu quy lực của Phật cứu khổ cha mẹ
ở địa ngục.
Tiếp nối truyền thống của triều Lý, năm Thiệu Bình nguyên niên (1434) triều Lê,
Vua Lê Thái Tông đã thiết lễ Vu Lan Bồn của Vua Lê Thái Tổ rất lớn. Đến triều
Nguyễn (1802-1945) thì các Vua Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự
Đức (1848-1883) đều có thiết lễ Vu Lan Bồn rất trọng thể ở chùa Thiên Mụ - Huế.
Năm Ming Mệnh thứ 16, Ất T?(1835), thiết đại trai đàn vào dịp lễ Vu Lan ở chùa
Thiên Mụ. Vua giao cho Hà Tôn Quyền, Hoàng Quýnh chịu trách nhiệm tổ chức, Bùi
Công Huyên là "Đổng Lý trai đàn", vua có ngự lên Thiên Mụ để dự lễ và
làm nhiều thơ sai đem dán ở điện Phật và các nơi đàn thủy lục.
Hai năm sau, vào năm Minh Mệnh thứ 18, Đinh Mùi (1837) thiết trai đàn 21 ngày
đêm và tiết Trung Nguyên tức Rằm tháng Bảy để làm lễ Vu Lan. Năm này trong đại
lễ Vu Lan có đốt pháo và có đến 146 biền binh phục vụ vẫn không đủ.
Đến thời Thiệu Trị, tháng Bảy năm thứ 5, Ất T? (1845) vào ngày Rằm Vu Lan vua
lập đàn chay 21 ngày đêm liên tục ở chùa Thiên Mụ. Đàn được lập cả trên sân
chùa lẫn dưới bờ sông. Trong bia Thiên Mụ Tự Phước Duyên Bảo Tháp Bi, chính
l?#7901;i nhà vua đã nói : "Tế thử Vu Lan chi hội, Khai tam thất thủy lục
đạo tràng, liệu tha đảm bặc chi hương, phổ đại thiên u minh thuyết pháp".
Trên bia "Ngự thế chi" ở chùa Diệu Đế khắc vào tháng Bảy năm Thiệu
Trị thứ 6 (1846) vua có làm bài thơ thứ hai nói về lễ Vu Lan trong đó có câu :
"Nguyệt minh như họa chính kim tiêu
Hà xứ Vu Lan thiết tiệc yêu..."
Toàn bài thơ vua Thiệu Trị không nói đến Vu Lan, song câu thứ hai trên đây, cho
biết rằng trong dân gian người ta có làm lễ Vu Lan Bồn vào tiết Trung Nguyên.
Đến đời Vua Tự Đức, năm thứ 31 (1878) vào Rằm tháng Bảy có thiết lễ Vu Lan Bồn
rất lớn ở chùa Thiên Mụ : Vào năm đó Mậu Dần, bộ Lễ Nghi tâu vua theo lệ đã đến
kỳ mở đại trai đàn để chúc hỗ nhàvua. Vua Tự Đức bảo : "Chúc một người sống
lâu không bằng cứu vớt muôn người chết oan... ". Sau đó vua ra lệnh triệu
tập chư Tăng từ trong Nam ra tới Quảng Bình về kinh, lên chùa Thiên Mụ mở hội
Vu Lan bạt độ và vua ra lệnh cho các chùa Quan ở Thừa Thiên - có 7 chùa là :
Thiên Mụ, Long Quang, Từ Ân, Diệu Đế, Ngọc Sơn, Linh Quang và Thánh Duyên - lấy
ngày Trung Nguyên, tức ngày Rằm tháng Bảy năm đó, khai kinh phổ tế các tướng sĩ
trận vong khắp cả Nam-Trung-Bắc kể từ năm Tự Đức nguyên niên đến lúc đó
(1848-1878).
Một lần nữa, ngay trong câu nói của vua Tự Đức người ta lại thấy ý nghĩa của lễ
Trung Nguyên khác với ý nghĩa lễ Vu Lan Bồn rất nhiều. Nhưng có điều đặc biệt
là vào buổi đầu, các vua triều Lý đã tổ chức lễ Vu Lan Bồn với ý nghĩa báo hiếu
cha mẹ rất rõ. Nhưng càng về sau, nhất là trong triều Nguyễn ý nghĩa này đã mở
rộng trong quan niệm dân gian không những cứu độ cha mẹ, tổ tiên màcòn lan ra
tất cả mọi người. Như trong lễ Vu Lan Bồn năm Ất T?(1835) triều Minh Mệnh, tất
cả tướng sĩ trận vong ở Phiên An thành đều được bạt độ khi tin thắng trận báo
về kinh gặp lúc vua đang hành lễ Vu Lan Bồn ở chùa Thiên Mụ; và như lễ Vu Lan
vào năm Tự Đức thứ 31 (1878) vừa nói ở trên, trong kỳ này lễ Vu Lan đã trở
thành một đại lễ cầu siêu rộng lớn có cả chư Tăng đông đảo, có cả triều đình và
cả vua Tự Đức đều hợp lực chú nguyện.
Trong truyền thống dân gian cũng vậy, lễ Vu Lan đã trở thành lễ bạt độ cầu siêu
cho cả "thập loại cô hồn chúng sinh". Cho nên vào ngày Rằm tháng Bảy,
ngoài việc mỗi nhà đều thiết bày hương, đèn, hoa, quả, trầm trà và đồ ăn chay
đơn giản - thường là "xôi" một thức ăn quý mà dân ta thường dùng
trong các dịp tế lễ, và "chè" nấu bằng nếp hoặc các thứ đậu vơí đường
- để cúng tổ tiên; thì ở các chợ người ta cũng mua sắm cỗ bàn hoa quả và thỉnh
các Thầy tụng kinh cúng đàn chẩn tế. Ông Đào Duy Anh trong Việt Nam Văn Hóa Sử
Cương đã ghi : "Theo Phật giáo thì những cô hồn ấy phải giam ở địa ngục,
cứ mỗi năm đến ngày Rằm tháng Bảy vong nhân xá tội thì các cô hồn được thoát
ngục. Ngày ấy tại các chùa, các chợ người ta làm chay để cung cấp đồ ăn và quần
áo cho cô hồn". (Sđd, tr 204)
Bài văn tế cô hồn thập loại chúng sinh của Nguyễn Du đã mở đầu bằng câu :
"Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt
Gió heo may lạnh buốt xương khô... "
là đã gợi nên cái cảnh đói, lạnh, khổ của cô hồn ở địa ngục và gợi mở lòng từ
bi ở mọi người còn sống. Trong nhân gian từ đầu triều Nguyễn về sau thường dùng
bài này đọc trong lúc làm lễ chẩn tế vào dịp đại lễ Vu Lan Bồn hằng năm.
Tại các chùa thì sau ngày Tự Tứ của chư Tăng để ra hạ , chùa nào cũng có cúng
lễ Vu Lan. Lễ này là của chính các Tăng sĩ trong chùa đó làm lễ báo hiếu cho
cha mẹ mình, đúng ý nghĩa với lời kinh Phật dạy; nhưng đồng thời cũng cúng chư
linh được thờ trong chùa và rộng hơn nữa là thập loại cô hồn chúng sinh, đến
chùa để "văn kinh thính pháp" và nương theo ánh sáng Phật pháp để
giải thoát.
Cũng trong buổi sáng ngày Rằm tháng Bảy đó, những gia đình Phật tử quy y ở chùa
nào thì vân tập về chúa ấy để cúng tổ tiên mình. Có tiếng chuông trống Bát Nhã,
có tiếng mõ gia trì và chư Tăng tụng kinh; để tử quỳ lạy để cầu chư Phật phóng
quang tiếp độ và hợp lực chú nguyện cầu vong linh của gia đình họ nương theo
lời kinh tiếng kệ, âm thanh chuông trống của nhà chùa, nói chung là nương theo
âm thanh và ánh sáng Phật pháp để giải bớt nghiệp chướng.
Nói chung, ngày đại lễ Vu Lan Bồn đã trở thành một ngày lễ truyền thống của dân
tộc Việt Nam, theo đạo Phật hay không theo đạo Phật để báo hiếu cha mẹ, ông bà,
tổ tiên của mỗi người sống đã đành; mà còn mang một ý nghĩa đại thừa, là nhân
ngày Vu Lan Bồn mà có việc "xá tội vong nhân", thì mọi người đều nghĩ
đến và cầu cho tất cả mọi chúng sinh ở bên kia thế giới được thấy ánh sáng của
chư Phật và được nghe mọi âm thanh của Phật pháp, cố gắng chuyển nghiệp để
thoát khỏi cảnh đọa đày của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh mà sanh cõi Thiên, Nhân
là hạng có thiện duyên dễ cận kề với Phật pháp hơn.
39. Thập
bát la hán là gì?
Sự tích 16 vị La-hán được chép trong sách
Pháp Trụ Ký. Sách này do vị Đại A-la-hán Nan Đề Mật Đa La (Nandimitra) trước
thuật và Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (600-664) dịch ra chữ Hán.
Ngài Nan Đề Mật Đa La (còn có tên là Khánh Hữu) người Tích Lan, ra đời khoảng
năm 800 năm sau Phật Niết bàn. Theo Pháp Trụ Ký (Fachu-chi), thì Ngài chỉ lược
thuật lại kinh Pháp Trụ Ký do Phật thuyết giảng mà thôi. Sách này trình bày
danh tánh, trú xứ và sứ mệnh của 16 vị La-hán. Các Ngài đã đạt được Tam minh,
Lục thông và Bát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ
tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp và làm lợi lạc quần sanh. Mỗi
khi các tự viện tổ chức lễ hội khánh thành, làm phúc, cúng dường trai Tăng, các
Ngài cùng với quyến thuộc thường vận dụng thần thông đến để chứng minh, tham
dự, nhưng chúng ta không thể nào thấy được. Hiện nay, tuổi thọ trung bình của
loài người là 80 tuổi. Tuổi thọ này - theo Pháp Trụ Ký - sẽ giảm dần còn 10
tuổi là giai đoạn cuối cùng của kiếp giảm. Sau đó, sang giai đoạn kiếp tăng,
tuổi thọ con người từ 10 tuổi tăng dần đến 70000 tuổi. Bấy giờ các Ngài sẽ chấm
dứt nhiệm vụ và nhập Niết bàn. (Bởi vì khi tuổi thọ loài người đến 80000 tuổi thì
đức Phật Di Lạc sẽ ra đời).
Danh tánh và trú xứ của các Ngài như
sau:
1. Tân Đâu Lô Bạt La Đọa Xà (S: Pindolabharadvàja), vị tôn giả này cùng 1000 vị
A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tây Ngưu Hóa châu.
2. Ca Nặc Ca Phạt Sa (S: Kanakavatsa), vị tôn giả này cùng với 500 vị A-la-hán,
phần lớn cư trú tại phương Bắc nước Ca Thấp Di La.
3. Ca Nặc Ca Bạt Ly Đọa Xà (S: Kanakabharadvàja), vị tôn giả này cùng 600 vị
A-la-hán, phần lớn cư trú tại Đông Thắng Thân châu.
4. Tô Tân Đà (S: Subinda), vị tôn giả này cùng với 700 vị A-la-hán, phần lớn cư
trú tại Bắc Cu Lô châu.
5. Nặc Cự La (S: Nakula), vị tôn giả này cùng 800 vị A-la-hán phần lớn cư trú
tại Nam Thiệm Bộ châu.
6. Bạt Đa La (S: Bhadra), vị tôn giả này cùng 800 vi A-la-hán, phần lớn cư trú
tại Đam Một La châu.
7. Ca Lý Ca (S: Kàlika), vị tôn giả này cùng với 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư
trú tại Tăng Già Trà châu.
8. Phạt Xà La Phất Đa La (S: Vajraputra), vị tôn giả này cùng với 1100 vị
A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bát Thứ Noa châu.
9. Thú Bát Ca (S: Jìvaka), vị tôn giả này cùng với 900 vị A-la-hán, phần lớn cư
trú tại trong núi Hương Túy.
10. Bán Thác Ca (S: Panthaka), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A-la-hán cư trú
tại cõi trời 33.
11. La Hỗ La (S: Ràhula), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư
trú tại Tất Lợi Dương Cù châu.
12. Ma Già Tê Na (S: Nàgasena), vị tôn giả này cùng với 1200 vị A-la-hán, phần
lớn cư trú tại núi Bán Độ Ba.
13. Nhân Yết Đà (S: Angala), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A Lan Hán, phần
lớn cư trú tại trong núi Quảng Hiếp.
14. Phạt Na Bà Tư (S: Vanavàsin), vị tôn giả này cùng 400 vị A-la-hán, phần lớn
cư trú tại trong núi Khả Trụ.
15. A Thị Đa (S: Ajita), vị tôn giả này cùng với 1500 vị A-la-hán, phần lớn cư
trú tại trong núi Thứu Phong.
16. Chú Trà Bán Thác Ca (S: Cùdapanthaka), vị tôn giả này cùng với 600 vị
A-la-hán, phần lớn cư trú trong núi Trì Trục.
Sau khi Pháp Trụ ký được dịch sang chữ Hán, Thiền sư Quán Hưu (832-912), vốn là
một họa sĩ tài ba đã vẽ ra hình ảnh 16 vị A-la-hán. Tương truyền, nhân Thiền sư
nằm mơ cảm ứng thấy được hình ảnh của các Ngài rồi vẽ lại. Những hình ảnh này
ngày nay người ta còn tìm thấy tàng trữ nơi vách tường Thiên Phật động tại Đôn
Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Sau Thiền sư Quán Hưu còn có hoạ sĩ Pháp
Nguyện, Pháp Cảnh và Tăng Diệu cũng chuyên vẽ về các vị La-hán.
Vì sao 16 vị La-hán trở thành 18 vị?
Từ khi có hình ảnh 16 vị La-hán, các chùa thường tôn trí hình ảnh của các Ngài,
và từ con số 16 người ta thêm tôn giả Khánh Hữu thành 17 và tôn giả Tân Đầu Lô
thành 18 (nhưng không biết ai là tác giả đầu tiên của con số 18 này).
Thật ra tôn giả Khánh Hữu (tên dịch nghĩa ra chữ Hán) vốn là Nan Đề Mật Đa La
(tên phiên âm từ chữ Phạn), người đã thuyết minh sách Pháp Trụ Ký; còn Tân Đầu
Lô chính là Tân Đầu Lô Bạt La Đọa Xa2, vị La-hán thứ nhất trong 16 vị. Do khômg
am tường kinh điển và không hiểu tiếng Phạn mà thành lầm lẫn như thế!
Về sau, Sa môn Giáp Phạm và Đại thi hào Tô Đông Pha (1036-1101) dựa vào con số
18 này mà làm ra 18 bài văn ca tụng. Mỗi bài đều có đề tên một vị La-hán. Rồi
họa sĩ Trương Huyền lại dựa vào 18 bài văn ca tụng của Tô Thức mà tạc tượng 18
vị La-hán, nhưng lại thay hai vị 17 và 18 bằng tôn giả Ca Diếp và Quân Đề Bát
Thán. Do thế mà từ con số 16 lần hồi trở thành con số 18. Từ đời Nguyên trở đi,
tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, con số 18 này được mọi người mặc nhiên chính
thức công nhận, con số 16 chỉ còn lưu giữ trong sổ sách mà thôi. Nhưng, tại Tây
Tạng, ngoài 16 vị trên, người ta thêm Đạt Ma Đa La và Bố Đại Hòa Thượng; hoặc
thêm hai tôn giả Hoàng Long và Phục Hổ, hoặc thêm Ma Da Phu nhân và Di Lặc để
thành ra 18 vị.
Ngoài ra, còn có hai sự tích khác về
18 vị La-hán
1. Sự tích thứ nhất được kể trong tập sách viết bằng chữ Hán của thầy Giáo thọ
Hoằng Khai, trụ trì chùa Càn An, tỉnh Bình Định, vào năm Tự Đức thứ tư (1851).
Theo sách này thì nước Triệu có nàng công chúa tên là Hy Đạt, vốn rất chí thành
mộ đạo, nàng chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà. Năm 15 tuổi, nàng ăn một
đóa hoa sen vàng rồi hoài thai đến 6 năm mới sinh ra 18 đồng tử. Các đồng tử ấy
về sau được đức Quan Âm hóa độ và thọ ký để họ trở thành 18 vị La-hán.
Nội dung sự tích này khá lý thú, tương đối có giá trị về mặt văn chương, nhưng
cốt truyện lại pha trộn tinh thần Phật, Khổng, Lão nên ít có giá trị về mặt
lịch sử.
2. Sự tích thứ hai: tương truyền ngày xưa tại Trung Quốc có 18 tên tướng cướp
rất hung hãn. Về sau họ hồi tâm cải tà quy chánh, nương theo Phật pháp tu hành
và đắc quả A-la-hán. Sự tích này tương đối có ý nghĩa, nhưng lại có tính cách
huyền thoại, do đó ít được người ta chấp nhận. (theo tài liệu của Thầy Thích
Phước Sơn)
Theo nhà nghiên cứu Bezacier, hệ thống biểu tượng thờ Phật (tính từ trọng tâm
ra) gồm có:
Thượng điện và Thiêu hương
1- Tượng Tam Thế: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (đức Phật A Di Đà, đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni, đức Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật).
2- Di Đà Tam Tôn: Phật A Di Đà (Amitabha) ở giữa; đức Đại Thế Chí Bồ Tát (Maha
Sthanaprata) ở bên trái; đức Quan Thế Âm Bồ Tát(Avalokitesvara) ở bên phải.
3- Tượng Thế Tôn: Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni (Cakyamonni) ở giữa; đức Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát (Manjucri) ở bên trái; đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
(Samantaghadha) ở bên phải. Một số chùa, bên cạnh đức Thế Tôn là đức A Nan Đà
(Ananda) và Ma Ha Ca Diếp (Mahakacyapa) .
4- Tượng Di Lặc Tam Tôn: Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật (Maitreya) ở giữa,
đức Pháp Hoa Lâm ở bên trái; Đại Diện Tướng ở bên phải.
5- Tượng Phật nhập Niết Bàn
6- Tượng đức Thích Ca đản sanh
7- Tượng Đế Thích (Indra) ở bên trái và đức Ngọc Hoàng (Brahma) ở bên phải.
8- Tượng Tứ Thiên Vương (Đông, Tây, Nam Bắc) hay Tứ Bồ Tát (Ái Bồ Tát, Sách Bồ
Tát, Ngữ Bồ Tát và Quyền Bồ Tát).
9- Tượng Địa tạng Vương Bồ Tát (Ksutigabha) tay cầm bảo châu, tay kia cầm tích
trượng. Hai tượng hầu hai bên là Chưởng Thiện (bên trái) và Chưởng Ác (bên
phải).
10- Các tượng về đức Quan Thế Âm Bồ Tát như: Quan Âm Chuẩn Đề (3 mặt, 18 tay)
Quan Âm Thiên Thủ, Thiên Nhãn (nghìn tay, nghìn mắt) Quan Âm Nam Hải (đi bè
vượt biển cả), Quan Âm Thị Kính...
Tiền đường
1- Bát Bộ Kim Cương (Vajrapani) gồm có: Thanh Trừ Tai, Tích Độc Nhãn, Hoàng Tùy
Cầu, Bạch Tĩnh Thủy, Xích Thanh Hoá, Định Trừ Tai, Tử Hiền và Đại Thần Học.
2- Hộ Pháp (Paladharma): ông Thiện và ông Ác 3- Thổ Thần, Long Thần, Đức Ông,
Thánh Tăng (Ananda) Giám Trai. 4- Thập điện Diêm Vương: Tân Quảng Vương, Sở
Giang Vương, Diêm La Vương, Ngũ Quan Vương, Biến Thành Vương, Thái Sơn Vương,
Bình Đẳng Vương, Đô Thị Vương, Chuyển Luân Vương.
Hành lang:
Thờ những vị Tổ: Ma Ha Ca Diếp, A Nan Đà, Giá Na Hoà Tu,Ưu Ba Cầu Đa, Đề Ca Đa,
Ba Tu Mật, Phật Đà Nan Đề, Phụng Đà Mật Đa, Hiếp Tôn Giả, Mã Minh, Ca Tỳ Ma La,
Long Thụ Tôn Giả, La Hầu Ha, Tăng GiàNan Đề, Gia gia Đa Xá, Cưu Ma La Đa, Đồ Dạ
Đa. Một trong những yếu tố tạo nên khung cảnh trang nghiêm của một ngôi chùa là
quang cảnh bên trong. Không gian của chùa vốn dĩ thường đóng kín, ánh sáng
chiếu vào rất hạn chế. Khi ánh sáng toả vào chùa theo con đường khúc xạ và phản
quang, cho nên cường độ cũng rất yếu, khác hẳn không gian nội thất của đình
làng. Đã thế, việc trang trí điện thờ ở chùa lại khá phức tạp, nhiều tầng lớp,
đủ thể loại, đã gia tăng thêm cảnh u tịch, huyền bí, oai nghiêm. Bên trong, với
không gian chùa như thế, những khối tròn, nhẳn bóng thường đọng ánh sáng và nổi
lên rất rõ nét. Do đó, khi tạo hình, những pho tượng thường có bề mặt rất nhẵn,
những khối rất căng tròn.
Những dãy tượng trong chùa thường xếp thành hàng như Di Đà Tam Tôn, Quần tượng
Tam Thế, những tượng Quan Thế Âm Chuẩn Đề, Tống tử, Niệm hương, Tượng Ngọc
Hoàng, Đế Thích, Thập Bát La Hán... cân xứng, đăng đối.
40. Các loại tượng Phật ở chùa
Về hình tướng Phật tượng nói chung, dựa theo
những nguyên tắc trong nghệ thuật tạo hình, thường phân chia ra các loại: Phật
hình, Bồ tát hình, La hán hình, Thần vương hình, Thiên vương hình, Quỷ hình,
Súc hình. Mỗi thể loại còn được chế tác theo nguyên tắc cách điệu, biểu trưng,
tả chân, ấn tượng. Điều cơ bản để tạo nên sự khu biệt ấy một phần quan trọng là
do các tư thế toạ lập, các thức thủ ấn, trang phục.
Ở Ấn Độ cổ đại, việc điêu khắc, đắp vẽ tượng Phật bị xem là việc xúc phạm thần
thánh, nên chỉ vẽ các hình ảnh tượng trưng như pháp luân, cội Bồ-đề, dấu chân
Phật. Về sau, Đại thừa giáo phát triển, kinh điển mới nói nhiều đến nhân duyên
công đức của việc tạo tượng.
Việc đắp tạo và điêu khắc tượng Phật đến thế kỷ I mới bắt đầu thịnh hành. Đại
tháp Amaravati được xây dựng vào thế kỷ IV - V, trên lan can có Phật truyện đồ
với những dụng cụ bằng vàng. Di phẩm nổi tiếng nhất về nghệ thuật điêu khắc là
tượng khắc trong động đá Ajantà ở Panjab, được khen là "Cung nghệ thuật
phương Đông". Bên trong có nhiều bích họa, còn bên ngoài có nhiều điêu
khắc, các nhân vật đều rất trang nghiêm sinh động, đậm hơi thở tôn giáo. Phía
Bắc Ấn Độ thì có phong cách nghệ thuật Kiền-đà-la. Di tích Bamian ở Afghanistan
có tượng Đại Phật trên vách núi nổi tiếng thế giới cao đến 52m. Ngoài ra còn có
động Angkor ở Campuchia, Bà-la-phù-đồ (Boro-budur) ở Java … đều là nghệ thuật
điêu khắc đá tinh vi. Ở Trung Quốc thời kỳ đầu, nghệ thuật điêu khắc chịu ảnh
hưởng Kiền-đà-la và Ấn Độ, đến đời Đường, Tống thì có phong cách riêng. Nổi
tiếng có cách đắp tượng truyền thần của Dương Huệ đời Đường, các ông Đái Quỳ,
Lý Nhã, Trương Tụ đời Tống.
Nói chung, Phật tượng có nhiều loại, được đúc tạo bằng nhiều chất liệu như
vàng, bạc, gỗ, đá, xi măng, thạch cao … Kiểu dáng cũng rất đa dạng, nổi tiếng ở
Ấn Độ là các vùng Kiền-đà-la, Mạt-thố-la. Khi Phật giáo truyền đến các nước
Trung Quốc, Nhật Bản, nghệ thuật điêu khắc tượng Phật phát triển cực thịnh.
Phật tượng phần nhiều được đúc bằng kim loại để thờ trong chùa viện, có khi
điêu khắc trong các hang động, tạo tượng to lớn giữa cảnh quan thiên nhiên để
mọi người chiêm bái, hoặc khắc chạm cả sườn núi, vách núi làm Đại Phật.
Về hình thức, tùy theo quan niệm thẩm mỹ và tâm hồn của dân tộc qua các triều
đại mà tượng Phật có khác nhau. Lịch sử tạo tượng ở Trung Quốc biểu hiện rõ đặc
điểm này, như tượng thời 16 nước Ngũ Hồ (khoảng thế kỷ III-IV) thì kích thước
nhỏ, phong cách thuần phác, cổ điển và hào phóng, giống với nghệ thuật tạo
tượng Kiền-đà-la và Mạt-thố-la, biểu hiện nhận thức thẩm mỹ của dân du mục
phương Bắc. Tượng Phật thời kỳ khắc tạc ở động đá Vân Cương (460 - 493) thì
đường nét đơn giản, hai má đầy, mắt dài và sắc, sống mũi ngay thẳng, môi dày,
tai lớn, vai rộng, cổ thô, biểu hiện tình cảm và tướng mạo của bậc đại trượng
phu trong quan niệm của người Trung Quốc. Đến thời kỳ tạo tượng ở Long Môn (494
- 550 ) thì tượng Phật lại nhỏ nhắn, khuôn mặt dài, thân hình yểu điệu, cao và
ốm … Nói chung, càng về sau tượng Phật càng được nhân cách hóa, là do ảnh hưởng
cung đình Trung Quốc mà các thời đại Tùy, Đường, Tống, tượng Phật được khắc tạo
rất đẹp, đầy đặn và sinh động, y quan lộng lẫy, nét mặt hiền từ.
Ở Việt Nam, nghệ thuật tạo tượng cũng phát triển rất sớm. Từ khi hình thành
trung tâm Phật giáo Luy Lâu, các tượng Phật đã được tôn tạo một cách tỉ mỉ, nổi
tiếng nhất ở Việt Nam là tượng gỗ, chạm trổ công phu, như tượng Man Nương, Kim
Đồng Ngọc Nữ ở chùa Dâu (chùa Pháp Vân), chùa Keo (chùa Pháp Vũ) ở Hà Bắc, các
tượng La-hán, tượng Tuyết Sơn ở chùa Mía (chùa Sùng Nghiêm), chùa Tây Phương ở
Hà Tây. Các tượng Phật ở các chùa Dư Hàng, chùa Phổ Chiếu ở Hải Phòng sau này
cũng ảnh hưởng rất lớn hình thái tượng ở Hà Tây, vừa sinh động mà lại vừa hiền
từ, biểu hiện rõ nét suy tư và tình cảm của tâm hồn người Việt. Các ngôi chùa
cổ ở miền Nam Việt Nam cũng còn bảo lưu rất nhiều tượng Phật bằng gỗ quý, nhưng
tượng Phật ở vùng này lại ảnh hưởng Phật giáo hệ Nam truyền từ Cao Miên truyền
sang, tượng Phật đen đúa, khắc khổ hơn.
Ngày nay, nghệ thuật điêu khắc, đắp vẽ tượng Phật đã phát triển đến mức hoàn
mỹ. Nghệ thuật truyền thống kết hợp với kỹ thuật và thẩm mỹ Tây phương, như kỷ
hà học, lập thể … làm cho nghệ thuật điêu khắc, phù điêu, đắp tạo tượng Phật
ngày càng tinh xảo và hiện đại. Nhưng giá trị cổ điển vẫn là giá trị văn hóa,
giúp chúng ta hiểu rõ được nhận thức và tâm hồn của mỗi dân tộc qua nhiều thời
đại khác nhau.
Tượng Phật
Có 5 cách thể hiện Phật Thích ca diễn tả những giai đoạn quan trọng trong cuộc
đời của đức Thế Tôn: (a) Tượng Cửu Long (chín con rồng chầu) thể hiện lúc đức
Thích Ca đản sanh. (b) Tượng Tuyết Sơn: thể hiện giai đoạn tìm đạo, tu khổ
hạnh. (c) Tượng Niệm Hoa: thể hiện giai đoạn đức Bổn sư cầm hoa sen thuyết
pháp. (d) Tĩnh toạ: đức Phật thành chánh quả. (e) Nhập diệt: đức Phật nhập Niết
bàn, trong tư thế nằm.
Tượng Phật đản sinh
Tượng nầy được chế tác nhiều loại khác nhau. Đặc trưng của pho tượng nầy là
tượng Ngài đứng trên một đài sen, một tay chỉ lên trời, tay kia chỉ xuống đất.
Chi tiết biểu thị Phật trong hình tượng là hai tai có thùy châu dài theo lối
hiểu "tai dài như tai Phật". Trong những pho tượng tạc bảo lưu đến
nay, sự tuân thủ vào quy pháp tạo hình cũng không thống nhất: chẳng hạn: pho
tượng đúc Thích Ca đản sanh tại chùa Hóc Ông Che thì tay phải chỉ lên trời; còn
pho tượng lưu hành tại chùa Tân Quang (Hoá An / Biên Hoà) thì ngược lại, tay
trái chỉ lên trời. Tính chất không nguyên tắc nầy cũng thấy trong những pho
tượng gỗ, tượng đồng ở các ngôi chùa miền Nam.
Về sau từ thập niên 60 của thế kỷ XIX, trong những loại tượng đúc thành khuôn
bằng thạch cao hay bằng xi măng, thì mới phổ biến hàng loạt những pho tượng
"tay mặt chỉ lên trời". Những pho tượng nầy đều dựa theo ý niệm
"trụ như sơn" chứ không theo lối "hành như phong". Ở những
pho tượng Phật đản còn lưu hành tại miền Nam Việt Nam hiện nay,sự tuân thủ
nguyên tắc đồ tượng cũng được áp dụng trong những loại tượng khác.
Tượng Di Đà Toạ Thiền
Tượng Phật nầy được chế tác chân phương và có phần đăng đối. Đầu có tóc xoắn
ốc, giữa đỉnh đầu có nhục kế nổi cao, tai dài xuống gần vai, áo cà sa rộng trùm
và hai bả vai, cổ tròn, tay áo dài rộng. Phật ngồi theo thế kiết già trên tứ
phương toạ; chung quanh trang trí hình sen. Hai tay đặt chồng đối với nhau theo
thế "thủ ấn thiền định" (dhyana mudra). Đây cũng là họa tiết và kiểu
thức của các pho tượng Bồ tát Quan Âm, mà có những đường nét theo kiểu tượng
hình Di Đà Tam Tôn; nhưng những ngôi chùa trong vùng lại không thấy tượng của
ngài Bồ Tát Đại Thế Chí. Nhìn chung, tượng đức Phật Di Đà được chế tác theo
đúng chuẩn mực, thể hiện được "tướng hảo quang minh" và "tùy hảo
vô lượng". Chưa thấy có đủ các tượng "tam thập nhị tướng" và
"bát thập tuỳ hản" mà kinh sách thường ghi chép.
Tượng đức Phật Di Lặc
Trong đồ tượng học, tượng Phật Di Lặc là tập hợp được thể hiện trong diện mạo
hình tướng "Di Lặc lục tặc": đầu tròn, áo hậu,ngồi bệ lập phương, y
toạ, tĩnh tâm, thiền định.
Tượng Quan Âm
Những pho tượng lưu hành đều theo sáu cách thể hiện quy định (a) Quan Âm Chuẩn
Đề: theo công thức thì tượng nầy có ba mặt và 18 tay. (b) thiên thủ, thiên
nhãn: Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt như pho tượng ở chùa Bút Tháp. (c) Quan Âm
tọa sơn: thể hiện đức Quan Âm ngồi trên đỉnh núi. (d) Phật Bà: thể hiện Phật bà
Quan Âm đội mũ ni, ngồi toà sen. (e) Quan Âm tống tử: thể hiện đức Quan Âm ngồi
bế đức bé, một bên có Thiện Sĩ (biểu trưng bằng hình con vẹt).
Tượng Bồ Tát Chuẩn Đề
Trong đồ tượng, xét về hình tướng của Bồ Tát Chuẩn Đề không khác gì so với Quan
Thế Âm Bồ Tát. Pho tượng thường trình bày nhiều tay: có tượng 6 tay, có tượng
18 tay, biểu trưng cho công năng trong từng giai đoạn và trường hợp hành trì.
Tại chùa Hóc Ông Che, pho tượng Bồ Tát Chuẩn Đề lại thêm nhiều tay nữa, ngồi
kiết già. Tại một số chùa khác thì đài toạ và tư thế có hai loại tượng khác
nhau: một loại trình bày Chuẩn Đề cỡi công (gọi là Khổng Tước tọa); loại thứ
hai gọi là Chuẩn Đề Lục giác toạ. Nếu so với quy pháp đề tượng chính thức của
Ngài Chuẩn Đề thì các pho tượng Chuẩn Đề ở những chùa chiền Việt Nam có phần
được giản lược hơn. Những trì vật thông thường là Nhật Nguyệt Quan Âm.
Địa Tạng Vương Bồ tát
Trong tập hợp những loại đất nung về đồ tượng đúc Địa tạng Vương Bồ tát được
phân chia ra làm hai loại chính: loại thứ nhất là tượng ngồi trên ngai, chung
quanh có các thị hầu oai nghiêm; loại thứ nhì ngồi trên con thanh sư, mỗi biểu
trưng cho việc hành trì chánh pháp. Cả hai đều có những điểm chung nhất trong
nghệ thuật tạo hình: đầu đội mũ Tì Lư (hay Thiên Sứ Tì Lư), toàn thân khoác Y
bá nạp, một tay để ngửa trước bụng, trên có một hồ bình hay Bửu bát; tay kia
giơ cao lên; ngón áp út khuyên tròn lên ngón cái. Phật thoại ghi: Tướng pháp
nầy biểu trưng cho ấn thí vô uý. Ngoài ra, một số tượng biểu trưng cho "ấn
an ủy".
Trong một số đồ tượng khác, tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát còn có hai đệ tử theo
hầu: Mẫn Công và Đạo Minh. Một số tượng khác thì còn thêm Chủ Mạng Quy Vương.
Trong nhiều tượng đất nung về pho tượng nầy thì gậy tích của ngài Địa Tạng
Vương lại thấy ở tượng của Chủ Mạng Quỷ Vương; trong khi đó trái châu biểu hiện
cho thần lự của Ngài thì thấy ở pho tượng Mẫn Công.
Giải thích điều nầy, Pháp Thoại ghi: Hình tướng Địa Tạng Vương ở đây là một
trong 6 trường hợp hoá thân của Ngài, được gọi là Lục Địa Tạng. Lục địa tạng
là: Đàn Đầu Địa Tạng, Bảo Châu Địa Tạng, Bản Ấn Địa Tạng, Trì Địa Địa Tạng, Trừ
Chướng Địa Tạng và Nhật Quang Địa Tạng.
Tượng La Hán
Hình tướng của các bộ tượng La Hán ở tập hợp tượng đất nung, hầu hết được biểu
hiện dưới dạng Thinh Văn Hình. Biểu tượng nầy còn gọi là Tỳ Kheo Hình, tức là
có hình tướng chiếu theo hình tướng của đức Bổn Sư Thích Ca khi còn tại thế;
tuy nhiên tóc không xoắn mà đầu cạo trọc, đỉnh đầu không có nhục kế, áo hậu có
dây thắt lưng. Nói chung, hình tướng La Hán có phần thoát sáo, và trong chừng
mực nào đó, đã thoát khỏi những nét đặc trưng nhân dạng của người Tây Vực hay
Trung Hoa, mà lại có nhân dạng Việt Nam khá rõ nét.
Ở nhóm tượng nầy thường có hai loại: ngồi trên ngai và cưỡi thú. nhưng dù thuộc
thể loại nào chăng đi nữa, thì hình tướng cũng có phần hiện thực hơn so với các
tượng thuộc nhóm Phật hình, Bồ Tát hình, hay những nhóm tượng thuộc Thiên
Vương, Hộ Pháp, Thiện Hữu, Ác Hữu, Kim Cang, thường được gọi chung là Thiên
Thần Hộ Pháp.
Tứ Thiên Vương
Tứ Thiên Vương còn được gọi là Hộ Thế Tứ Vương là hình tướng tiêu biểu cho
Thiên Vương Hình. Cả bốn vị đều ngự ở cõi trời "Tứ Thiên Vương Thiên"
(Caturmaha Rajakasika) thuộc về cõi trời dục giới; lưng chừng trên ngọn núi
trung tâm vũ trụ gọi là "Tu Di Sơn", thấp hơn cõi trời Đao Lỵ của Đế
Thích.Tứ Thiên Vương là ngoại thần của Đế Thích có trách nhiệm thống quản cõi
trời theo 4 hướng: Trì Quốc Thiên Vương (Virudka) (Hướng đông), Quảng Mục Thiên
Vương (Viruphaka) (Hướng tây), Tăng Trưởng Thiên Vương (Dhrtarastra) (Hướng
nam), Đa Văn Thiên Vương (Dhananda) (Hướng bắc).
Tứ Thiên Vương đã từng nghe đức Phật thuyết pháp kinh Đại Thừa và cũng đã
nguyện độ trì Tam bảo. Do vậy, mà các chính điện chùa chiền đều có tượng Tứ
Thiên Vương. Biểu tượng của các tướng Thiên vương là một tướng nhà trời oai
nghiêm: đi giày trận, mặc áo giáp, đầu đội kim khôi, tay cầm bửu bối; đàn tỳ
bà, bảo kiếm, vòng kim cang, ngọc châu, che dù, có con "hoa hồ điêu".
đó là hình tướng phổ biến trong các tượng thuộc đề tài nầy cũng như trong điệu
múa "Tứ Thiên Vương" ở cung đình Huế. Một số làng miền Nam cũng theo
nghi lễ như vậy. Tuy nhiên, ở đây, các loại bửu bối đã được giản lược bớt,
chẳng hạn như mũ kim khôi được thay bằng mũ "ngũ Phật" với hình 5
cánh sen.
Bát Bộ Kim CangĐây là các vị Kim
Cang lực sĩ (Vajrapani) cũng được gọi là Kim Cang Thần; thường chỉ chung các vị
thần cầm chày Kim Cang (như Kim Cang Thủ, chấp Kim Cang) biểu hiện uy thế lớn
lao, bảo vệ Phật pháp ở khắp tám bộ chúng (Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A
Tu La, Khần Na La, Ma Ha La Già). (Theo Đoàn Trung Còn).
Nghiên cứu kỹ những đồ tượng đất nung và đồ gốm cải tiến, thì những vị Kim Cang
Thần được chế tác với dạng các võ tướng: đầu đội kim khôi, mình mặc áo giáp,
vai có phong đai, tay cầm hoasen, ngọc châu... Tuy là Thiên Hình tướng như Bát
bộ Kim Cang đều có diện mạo thanh tú, khuôn mặt hiền hậu, phúc đức. Điều nầy
khác với vẻ oai vệ và dữ dội của các loại tượng Kim Cang khác.
Những vị Hộ Pháp (Dharma Pala)
Những vị Hộ Pháp Thần cũng có hình tướng oai vệ và trang nghiêm: mặc áo giáp,
đội kim khôi, có phong đai, đi giày trận, tay cầm chày Kim cang, chống mũi nhọn
vào miệng một con rồng ẩn trong mây. Đây là hình tượng của Vi Đà (Skanda) - một
vị thần có nguồn gốc Bà La Môn giáo. Theo truyền thuyết thì chức năng của chư
Hộ Pháp là bảo hộ chư thần của tôn giáo này đã được Phật Giáo đồng hoá thành
một thần Hộ Pháp. Thường thờ mặt trước của chùa chiền, miếu vũ.
Thiện Hữu và Ác Hữu
Hai vị thần Hộ Pháp nầy cũng rất phổ biến trong tập hợp những thể loại
tượng đất nung, tượng gỗ ở các chùa. Phật Thoại viết: Thiện Hữu và một thái tử,
tiền thân của dức Phật Thích Ca, đã chấp nhận mọi sự thử thách, để xuống tận
Long Cung, tìm viên Ngọc Như Ý đem về để ban phước lạc cho dân chúng. Ác hữu là
tiền thân của Đề Bà Đạt Đa (Devadatta); cũng là một hoàng tử cùng thời với thái
tử Thiện Hữu, nhưng Ác Hữu thì lại thường có lòng ganh ghét, tìm đủ cách để
ngăn cản Thiện Hữu làm việc thiện.Vào thời Phật Thích Ca giáng thế, Đề Bà Đạt
Đa là con nhà chú củađức Phật Thích Ca. Ông là một người có tài, nhưng lòng đố
kỵ và ngạo mạn. Về sau, ông xuất gia, nhưng lại tự cho mình chẳng kém gì đức
Phật, nên chính ông đã gây những bất hòa trong thánh chúng, toàn tách rời hẳn
ra để lập ra một Giáo hội khác. Ông đã sai người lén tìm cách để giết Phật,
nhưng khi người đó đến nơit hấy cung cách siêu thoát của đức Phật thì quay lại
quy y. Đề Bà Đạt Đa cũng thả thú dữ để làm hại Phật nhưng các con thú đó cũng
cảm đức hạnh của đức Phật nên quay đầu trở về... Tuy nhiên, Đề Bà Đạt Đa
"vốn có nhiều công đức" cho nên được Phật thọ ký cho thành Phật, hiện
là Thiên Vương (Devaradja) của cõi Thiên đạo.
Theo Kinh Niết Bàn thì: Tùy thuận thế gian, Đề Bà Đạt Đa thị hiện ra việc hoại
tăng, hoá tác ra nhiều hình mạo sắc tướng; đó là vì giúp cho Phật chế định giới
luật. (Theo Phật Học Từ điển – Đoàn Trung Còn - trang 550). Có lẽ để biểu đạt
về "sự hoá tác ra nhiều hình dạng sắc tướng" màcụ thể là một kẻ hung
ác, cho nên hình tướng của Ác Hữu được thể hiện là một Thiên Tướng có mặt mày
hung dữ.
Tiêu Diện Đại Sĩ
Đại Sĩ là một từ tôn xưng đối với các bậc Thanh Văn, Bồ Tát. Tiêu Diện Đại Sĩ
có hình tượng khuôn mặt cháy nám. Theo truyền thuyết Phật Giáo, Tiêu Diện Đại
Sĩ là một trong các thị hiện (tức là Hoáthân) của đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Theo
"Tam thập nhị thân" (32cách hoá thân) của đức Quan Thế Âm Bồ Tát, thì
hình tướng Tiêu Diện Đại Sĩ biểu thị cho một Quỷ Vương, mà truyền thuyết nói
đếnvị chúa của Dạ Xoa (Yasha). Dạ Xoa là một loài ác thú có mặt ở dương thế,
trên trời và âm phủ, tùy trường hợp hành trì. Hình tướng Dạ Xoa dữ tợn, kỳ
quái, đầu gồ lên 3 u thịt, nhiều tay, nhiều mắt, nhiều đầu, nanh nhọn, mắt lồi,
tai thú. Phật Thoại kể: Để có thể hoá độ cho các vong hồn nơi cõi Diêm Phù, cho
nên đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã hoá thân theo dạng Quỷ hình, thì dễ bề dung hoá
hơn. Chúa quỷ Dạ Xoa thống quản các vonghồn. Khi đó đức Quan Thế Âm Bồ Tát bèn
hoá thân thành một chúa quỷ, có hình dáng kỳ quái hơn, để tỏ uy lực của mình.
Bồ Tát nhấcngọn Tam sơn lên, đặt trên đầu để thị oai. Tuy nhiên, chúa quỷ vì
quá ngạo mạn, nên lại phun lửa để đốt cháy đối thủ. Ngọn lửa chỉ là “cháy nám
mặt" vị Bồ tát hoá thân cứu khổ, cứu nạn. Danh xưng Tiêu Diện Đại Sĩ có từ
đó.
Chủ mạng Quỷ Vương
Theo bản Kinh Địa Tạng thì: Chủ Mạng Quỷ Vương là một trong nhiều Quỷ Vương ở
trong núi Thiết Vi, cùng chung nơi trú ngụ của Diêm La Vương. Các Quỷ Vương và
Diêm La Vương đã nương theo oai thần của Phật và Bồ tát Địa tạng lên cung trời
Đao Lợi nghe Phật thuyết pháp. Nhân dịp nầy, Chủ Mạng Quỷ Vương đã phát nguyện
quy y Phật, và ra sức tu hành cứu độ chúng sanh trong cõi Diêm Phù. Do đó, Chủ
Mạng Quỷ Vương đã được đức Phật thọ ký. Đức Phật dạy Điạ Tạng Vương Bồ Tát:
"Chủ Mạng Quỷ Vương là một bậc Bồ tát Đại Sĩ vì lòng từ bi phát nguyện
hiện thân làm Quỷ Vương. Trải 170 kiếp, sẽ thành Phật hiệu Vô Tướng Như
Lai". Như vậy, Chủ mạng Quỷ Vương là vị Bồ Tát hoá thân dưới dạng
Quỷ.Trong nghệ thuật tạo hình bằng gốm nung, Chủ Mạng Quỷ Vương thường được chế
tác dưới dạng một Quỷ Vương: cầm trì vật là tích trượng nhằm biểu thị phò tá vị
Giáo chủ cõi u minh.
Thần Linh
Về những vị thần linh nói chung, trong đồ tượng học thường thể hiện đề tài tuân
thủ khá nghiêm túc trong những loại tượng gỗ, đất nung, sành sứ. Đây là: tượng
Ngọc Hoàng, 10 vị Minh Vương và các nữ thần. Các pho tượng Ngọc Hoàng, Minh
Vương được chế tác trong tư thế ngồi nghiêm chỉnh trên ngai, hai tay chắp trước
ngực, cầm hốt. Về trang phục thì đầu đội mũ bình thiên, mặc long bào, đai vàng.
Những vị phụ tá như Nam Tào, Bắc Đẩu, 2 Phán Quan được chế tác theo thức văn
quan. Tư thế đứng thẳng, đầu đội mũ đề bá, hai dải mũ thẳng xuống vai, đi hia,
đai vàng. Các nữ thần được chế tác dạng Thiên mẫu Hình. Ngồi trên ngai, đội mũ
bình thiên, mặc mãng bào, phủ yếm cổ hình hoa sen, đi hài thêu. Một số tượng
khác thì mặc bì hay xiêm y, mũ phụng, tay vịn đai ngọc, bàn tay đỡ thẻ bài.
41. Chân
lý phật giáo và văn hóa xã hội nhân văn
Phật giáo được khai sinh từ chiếc nôi là thành Ca Tỳ La Vệ (thuộc nước
Ấn Độ bây giờ), trải qua hơn 2.500 năm lịch sử đầy những thăng trầm, có lúc
tưởng như đã biến mất hẳn ngay trên bản địa. Nhưng Phật giáo vẫn tồn tại và
phát triển rộng rãi khắp nơi.
Hiện nay, thành tựu vượt bậc của khoa học cùng với tư tưởng tiến hóa của nhân
loại đòi hỏi phải thẩm định lại nhiều tư tưởng triết học xưa và nay. Đương
nhiên, những tư tưởng mang tính phi lý, lạc hậu, phản khoa học đều phải bị đào
thải.
Thế nhưng tòa nhà cổ kính hơn hai mươi lăm thế kỷ của Chân lý Phật giáo vẫn
trường tồn cùng năm tháng, thời gian, sừng sững như cây đại thọ giữa núi non
trùng điệp.
Điều này chứng tỏ Phật giáo đã toát ra một sức sống mãnh liệt bắt nguồn từ một
giá trị tinh thần phong phú, tinh thần ấy thể hiện Chân lý và Giáo pháp của
Chân lý Phật giáo, chúng ta đều biết rằng, Chân lý đạo Phật chứng ngộ được do
Thái tử Tất Đạt Đa là Đức Thích Ca Mâu Ni cũng ở ngay thế giới này, chân lý này
vận hành cùng vũ trụ - nhân sinh (Định lý duyên khởi).
Nó tồn tại khách quan trong sự sống của loài người. Do đó Đức Phật có xuất hiện
hay không, nó cũng vận hành như vậy, nó lấy những điều Nhân bản, Vô ngã, Từ bi,
Bình đẳng mà làm căn bản để vận hành.
Cũng vậy! Phật
giáo Việt Nam vẫn sống trong lòng dân tộc, thịnh suy theo vận đất nước, Phật
giáo có thể đóng góp một vai trò quan trọng trong sự hướng dẫn đời sống tinh
thần cho mọi người và phát triển quốc gia trong thời kỳ hội nhập, làm nền tảng
luân lý để xây dựng một xã hội tiến bộ, đạo đức, trí tuệ cho mọi người.
Nhân bản là đánh thức con người đức tín tự tin, tự chủ, tự trọng với tinh thần
trách nhiệm bản thân và xã hội; Vô ngã: đánh thức cái ta, còn gọi là cái tôi,
cái của tôi, nó giả tạo, mong manh, không bền chắc, luôn luôn biến chuyển. Thay
thế bức tường thành ích kỷ, trở thành sự hy sinh nhẫn nhục.
Trong Phật giáo quan niệm: Mọi người đều bình đẳng có trí tuệ như nhau, nhưng
đặc tính cố hữu của từng người khó hay dễ, mau hay chậm, chỉ khác nhau để nhận
được trí tuệ này. Phật giáo lấy từ bi vị tha là quan điểm quan trọng khiến phát
huy và tồn tại trên toàn cầu. Nhưng muốn làm được những việc này, bản thân Phật
giáo phải đào tạo cho được con người chúng ta ứng dụng được việc đó.
Những triều đại trước, các nhà sư là thành phần ưu tú của xã hội, thông minh,
đức hạnh. Phật giáo từ thời các nhà vua Lê, Lý, Trần, qua các trường Đại học
Phật giáo cung cấp cho xã hội giai tầng trí tuệ. Vì thế, tư tưởng và hành động
người tu sĩ Phật giáo khác người thường.
Một đằng vì lợi ích cá nhân, một bên vì lợi ích cho đại chúng. Phải vận dụng
trí tuệ hòa nhập vào cuộc sống và xã hội, giúp người an vui hạnh phúc, làm sáng
tỏ Phật pháp. Đạo Phật là đạo trí tuệ, tự bản thân mình phải rọi tuệ giác vào cuộc
sống để nhập thế hành đạo.
Trực diện với mọi người để hiểu thêm "chư pháp thường không tánh, các vật
điều giả hợp, hay không cố định" chúng ta có thể hướng dẫn, thay đổi được
người xấu, thay đổi diễn biến trong cuộc sống, làm giàu đẹp văn minh trí tuệ xứ
sở chúng ta, chúng ta có thể liên hệ mấy đặc tính sau:
1 - Nhân bản: Điểm căn bản nhất mà chúng ta nhận thấy được ở Chân lý Phật giáo
là, Vị giáo chủ không phải là một thần linh, không phải là một thượng đế đầy
quyền uy thưởng phạt, mà là một con người thật sự như bao nhiêu con người khác
tên là Tất Đạt Đa, ngài thuộc giai cấp Sát Đế Lợi, dòng dõi vua chúa, con của
vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da.
Ngài sinh ra, lớn lên, đi học. Vợ của ngài là công chúa Da Du Đà La, con của
ngài là La Hầu La. Ngài thấu rõ nỗi thống khổ của sinh, lão, bịnh, tử, ngài
chứng kiến những lầm than cơ cực của dân chúng trước những bất công của xã hội
Ấn Độ thời bấy giờ. Ngài đã một mình ra đi tìm phương pháp giải quyết những vấn
đề trên. Sau những tháng năm học đạo với các đạo sĩ nổi tiếng mà kết quả vẫn
không làm vị đạo sĩ trẻ tuổi, thông minh Tất Đạt Đa giải quyết những vấn đề bức
xúc trong lòng.
Cuối cùng ngài quyết định tự mình tham cứu. Suốt 49 ngày tham thiền nhập định
dưới cội cây Bồ đề. Ngày cuối cùng, khi sao mai vừa mới mọc, ngài đã thấu đạt
được Chân lý, rõ được chân tướng của vạn pháp. Ngài đã giác ngộ và thành đạo,
hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Sự kiện trên đây đã hình thành một khái niệm về tính nhân bản của Phật giáo.
Đạo Phật quan niệm, con người là trung tâm điểm, hay nói cách khác, không có
nhân loại thì không có Chân lý Phật giáo hiện hữu trên cõi đời này.
Trong thế giới quan của đạo Phật, chủng loại chúng sinh được chia thành sáu
bậc: Thiên, Nhân, Atula, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh. Trong sáu giới ấy, con
người được coi là hội đủ điều kiện tốt nhất để đạt đến các quả vị tu chứng trí
tuệ trong Phật giáo.
Chân lý Phật giáo giải thích rằng: Ở cõi Thiên thì khó nhận thức được khổ đau
vì cuộc sống của họ quá ư sung sướng. Trái lại, các cõi Atula, Địa ngục, Súc
sinh, Ngạ quỷ, chúng sanh quá si mê, ngu dốt trong hoàn cảnh tối tăm đọa đày
nên cũng không dễ nắm bắt được Chân lý Phật Đà.
Duy chỉ có cõi Nhân, bản thân con người mới có hoàn cảnh nhận thức được khổ đau
của cuộc sống (đây là điều kiện thích ứng để dễ dàng khai sáng) và có khả năng
khai sáng được ngọn đèn trí tuệ nơi chính tấm thân nhỏ bé này.
Trong quan niệm Chân lý Phật giáo, con người là chủ nhân của mọi hành vi của
chính bản thân mình ở cả ba thời: Quá khứ, hiện tại và vị lai, là thượng đế duy
nhất có toàn quyền thưởng phạt cho chính cuộc đời mình. Ngoài mình ra không ai
hoặc bất cứ thần linh nào có khả năng đưa mình lên thiên đàng hay ném mình
xuống địa ngục. Trong Kinh Pháp Cú, câu 145, Đức Phật dạy rằng:
"Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội
rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta, không ai có thể làm cho người
khác trở nên trong sạch".
Lại nữa, Phật giáo luôn đề cao nỗ lực và ý chí của bản thân con người. Tinh tấn
là một trong những đức tính quyết định việc thành tựu đạo quả Bồ Đề. Đến bờ giác
ngộ chẳng bao giờ có dấu chân của kẻ lười biếng, bạc nhược.
Với những tâm hồn khát khao tự do và giải thoát tuyệt đối, dốc hết sức bình
sinh cùng với sự hiểu biết Chân lý của đạo Phật, mỗi chúng ta chắc chắn sẽ đạt
được kết quả tốt đẹp trên bước đường tu học tập và nhập thế. Nhược bằng ngược
lại, cho dù có ngàn vị Phật giang tay tế độ cũng không làm sao đưa chúng ta
thoát khỏi biển trần lao đầy thống khổ này.
Ngoài ra, Phật giáo còn đề cập đến những trường hợp của những người thời chưa
có Đức Phật ra đời. Có những con người tự lực, tự vận dụng triệt để ý chí, khả
năng của chính mình trong quá trình tư duy, chiêm nghiệm và tu tập đúng đắn,
quán tưởng và thấu rõ lý vô thường của vạn pháp vẫn có thể bừng sáng được Chân
lý. Đức Phật công nhận những người này là Bích Chi Phật.
Tính nhân bản đã được thể hiện mạnh mẽ ở điểm này. Đây là một điểm ưu việt của
Chân lý đạo Phật mà chúng ta khó tìm thấy ở một giáo lý của bất cứ tôn giáo nào
khác: Một vị giáo chủ lại đề cao khả năng của con người một cách khách quan
hiện thực như vậy. Xuất phát từ tính nhân bản này, nhân cách con người được tôn
trọng triệt để trong đạo Phật: Quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng đều có
một giá trị đích thực.
Điều đáng nói nhất là khả năng của con người mà Phật giáo luôn nhấn mạnh, đó
chính là trí tuệ chính mình tự có. Đây là khả năng tối cao của nhân loại, là di
sản vô cùng quý báu mà bất kỳ ai cũng có, nếu biết vận dụng và phát huy đúng
đắn, thì có thể tiêu diệt mọi khổ đau, đạt đến bến bờ hạnh phúc.
Điều này đã được minh chứng cụ thể qua đời sống của Đức Phật cũng như những bậc
tiền nhân kế thừa trong lịch sử đạo Phật. Đức Phật đã tuyên bố: "Tất cả
chúng sanh đều có khả năng thành Phật".
Trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, từ cuộc sống thô sơ lạc hậu từ xa xưa cho
đến hôm nay, những phát minh khoa học cùng với thành quả của nó đã đưa nhân
loại đến thời kỳ vàng son của sự tối tân hiện đại. Kết quả ấy có được là do khả
năng khối óc của con người.
Dù vậy, theo phân tích của Chân lý Phật giáo khả năng đó chỉ mới là một phần
nhỏ giới hạn của trí tuệ, hay nói cách khác, con người khoa học chỉ mới vận
dụng được một phần trí sáng thế gian của mình, chứ chưa phải là toàn bộ trí tuệ
của mỗi con người từ nơi tâm thanh tịnh nơi chính mình sẵn có.
Như Đức Phật đã chỉ rõ trong giáo điển, thuật ngữ đó tạm gọi là trí tuệ Bát
Nhã, và chính trí tuệ ấy là chiếc chìa khóa vàng để mở cánh cửa Vô Sanh Niết
Bàn Tịnh Tĩnh hạnh phúc.
Đối với Phật giáo, con người vốn là một chúng sanh ưu việt, có rất nhiều tiềm
năng phi thường, nếu chúng ta khéo triển khai, thì không gì không thể thực hiện
được trên cõi đời này.
Như vậy, ta có thể nói rằng: Phật giáo là đạo của con người, xuất phát từ Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài là một đấng giác ngộ nhưng ngài chính là một con
người, ngài đã cất tiếng nói và có một đời sống của con người, vì con người mà
ngài khai thị Chân lý, hướng dẫn con người đi đến cuộc sống thực sự an vui,
hạnh phúc.
2 - Bình đẳng: Chúng ta biết rằng: Phật giáo đã ra đời trong một hoàn cảnh vô
cùng phức tạp của một đất nước, mà trong đó đời sống con người phải chịu nhiều
bất công, trong một xã hội phân chia năm giai cấp lâu đời là Ấn Độ. Một là giai
cấp Bàlamôn giáo tập trung số người tu của 62 đạo khác nhau, chủ trương công
việc nghi lễ, tế tự, cúng tế.
Giai cấp này chiếm vị trí tối cao. Hai là giai cấp Sát Đế Lợi, tập trung dòng
dõi vua chúa, là giai cấp nắm quyền điều hành xã hội. Ba là giai cấp thương gia
giàu sang. Giai cấp thứ tư là Tỳ Sá, bao gồm những người bình dân.
Giai cấp thứ năm là thuộc giai cấp Thủ Đà La, họ là những người hạ tiện hay còn
gọi là dân nô lệ. Hai giai cấp Bàlamôn và Sát Đế Lợi thuộc giai cấp thống trị.
Năm giai cấp này theo chế độ thế tập, cha truyền con nối. Vì vậy, người dân nô
lệ thì cứ làm nô lệ đời đời tạo thành một xã hội đầy rẫy những bất công.
Ngay trong buổi hoàng hôn tối tăm đó, một hiền nhân thuộc dòng dõi vua chúa đã
dũng mãnh gióng tiếng chuông tiên phong, phá tan bóng đêm của xích xiềng nô lệ
và bức tường phi lý phân chia giai cấp bằng một châm ngôn bất hủ: "Không
có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn".
Lời tuyên bố hùng hồn của Đức Phật là nền tảng hình thành một hệ thống giáo lý
mà trong đó tính bình đẳng được thể hiện trọn vẹn trên phương diện lý thuyết và
cả thực tiễn.
42. Điều Nên Bạn Biết Để
Đi Đến Dứt Khổ
Lời diễn giải theo những quan điểm của Tiến sĩ Hòa Thượng K. Sri.
Dhammananda
Con người đang sống thực ra không có một mục đích cụ thể để theo đuổi. Có chăng
đó là sự thụ hưởng những phẩm hạnh tốt được truyền lại từ gia đình hay một
người có phẩm hạnh cao thượng nào đó. Khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời
này thì nhiệm vụ chính của chúng ta là phải chu toàn trách nhiệm bản thân mình
đối với: Gia đình, bạn bè, xã hội... Có nghĩa là chúng ta sinh ra là để làm
việc thiện trong cuộc sống, phải làm lợi ích cho nhân sinh.
Con người đã phí năng lực và thời gian cả cuộc đời để tìm kiếm tiền tài, tên
tuổi và danh lợi. Mà thực sự thì không mang theo được bất cứ thứ gì mà mình đã
tranh đấu. Khi chúng ta ra đi để trở về nấm mồ thì tất cả sẽ ở lại tiền tài lẫn
danh lợi ở nơi thế gian này, bạn bè và người thân chỉ đưa tiễn chúng ta tới
huyệt mà thôi, điều duy nhất chúng ta mang theo được đó là nghiệp tốt và nghiệp
xấu. Nếu chúng ta có nghiệp tốt thì một điều tất nhiên chúng ta biết là cuộc
sống của những ngày tháng hôm nay cùng đời sống mới sẽ tốt đẹp, nhưng với
nghiệp xấu chúng ta sẽ có một cuộc đời mới đầy đau khổ và bất trắc.
Nếu bạn không chấp nhận một lối sống chân chính và cao thượng thì bạn sẽ còn
gặp nhiều điều phiền phức và đau khổ. Dale Carnegie có nói: “Dần về già chúng
ta phải trả giá cho những việc làm trái luân thường đạo lý của chúng ta”, bạn
phải trả giá cho tư tưởng xấu xa, ích kỷ, hận thù, ganh ghét hay việc làm xấu
nào đó, bạn không thể không trả giống như bạn thê nhà vậy nhưng đổi lại sự thuê
trả ấy là đau khổ về tinh thần và thể xác. Hiện tại chúng ta đã gặp rất nhiều
khó khăn để tranh đấu trong cuộc sống để tìm kiếm hạnh phúc, có khi chúng ta sẽ
vấp ngã, chịu đựng quá nhiều khổ đau và thị phi của kiếp sống này.
Bạn đã có lúc trằn trọc bâng khuâng phải làm gì hay từng bỏ một thời gian dài
để thực hiện một công việc nào đó, sức khỏe sẽ suy tổn và nổi lo bao trùm trong
tâm trạng để tìm kiếm chút ít thành công. Có thể sẽ đạt được một chút lạc thú
sau những đấu tranh ấy, nhưng lạc thú nào rồi cũng sẽ kết thúc với khổ đau. Đó
chính là bản chất của cuộc sống! Bởi vì chính ta đã không chịu suy nghĩ về
những tạm bợ của lạc thú về vật chất cả tinh thần và chưa nhận thấy rõ được bản
chất của nó. Bạn hãy thử nghĩ lại một cuộc vui nào hào hứng nhất trong đời bạn
xem, giờ thì nó đang ở đâu? Bạn nên nhớ rằng thời gian sẽ bôi xóa tất vả và nó
trở thành thời gian chết, cho dù hồi ức ấy đẹp đến đâu đi nữa thì Lạc Thú ấy đã
trở thành mây khói thoáng qua và sẽ trở thành hư ảo của quá khứ, giống như bạn
có cha, và cha của bạn có cha ông nhưng bây giờ họ ở đâu? tất cả điều quá vãng.
Bạn có thường nhắc lại hay muốn biết gì về ông cố cố của mình không? Nếu nhìn
nhận kĩ thì Lạc thú ấy chỉ tồn tại một thời gian quá ngắn còn lại thời gian
giành cho tranh đấu là cả cuộc đời. Vậy bạn sẽ có được nghiệp thiện ở đâu cho
cuộc đời mới của mình khi mà thời gian chẳng có. Vì đời sống quá tất bật với
những khó khăn mà bạn sẽ đổi lại bằng nước mắt, mồ hôi và những đau khổ cho
những lạc thú tạm bợ ấy. Xin bạn hãy trả lời những câu hỏi sau đây: Đã đi được
mấy chục năm cuộc đời rồi bạn đang tìm kiếm điều ước vọng gì? Ước nguyện đã làm
bạn thỏa mãn chưa và bạn được an lạc gì từ đó?
Bạn đã gieo được bao nhiêu thiện nghiệp trong bao năm tháng dài dẳng ấy và bạn
còn được bao nhiêu năm bạn phải chịu những khó khăn cuộc sống và kết thúc dưới
nấm mồ sâu 3 tất đất? Và hãy nghĩ đến ngày tháng tương lai và đời sống mới của
bạn nó có tốt đẹp và hạnh phúc hơn những năm tháng đã qua khi mà bạn chưa có
thời gian để gieo thiện nghiệp. Bạn hãy để ý những người xung quanh,có người
sống suốt cả đời trong cơ cực hay sung sướng nhưng họ chưa bao giờ hiểu được
cảm giác thương một người nghèo, già cả hay bệnh hoạn là sao cả?...
Họ chưa bao giờ biết làm gì để giúp người khác mà không nghĩ đến lợi ích của
chính mình, bởi họ xem sự hưởng lợi lạc của chính mình là quan trọng, đó là một
lối sống không đáng tôn trọng. Bạn sẽ không nhận được một cảm giác thoải mái về
tinh thần lẫn vật chất nếu bạn còn tư tưởng ích kỷ, hẹp hòi… Đức Phật dạy: “Con
người tạo số phận cho chính mình. Bạn là người tạo ra hạnh phúc và đau khổ cho
chính bạn”. Nếu một con người làm một điều xấu thì tất người đó phải chịu một
hậu quả tương ứng như vậy. Bạn không thể cầu xin bất cứ một vị thiêng liêng,
Thượng Đế hay Đức Phật để cứu rỗi mình.
Chỉ có chính bản thân mình mới cứu rỗi bản thân mình được. Khi bạn làm một việc
xấu thì phải chuẩn bị tinh thần để chấp nhận nghiệp quả đó và đừng nên phí năng
lực để lo âu và sợ hãi.
Thứ nhất chúng ta phải quyết định chấm dứt ngay việc xấu ấy, vì biết rằng nghiệp
xấu ấy sẽ mang ta xuống nơi đau khổ. Thứ hai chúng ta phải luôn trao dồi và
thực hành những nghiệp thiện. Thứ ba chúng ta phải giảm thiểu tư tưởng xấu xa,
tội lỗi, ác cảm, ganh ghét… xuống mức thấp nhất kể cả từ bỏ. Thì chúng ta sẽ
tránh được những hậu quả xấu mang đến và không còn gặp nhiều điều phiền phức
trong cuộc sống bon chen hôm nay. Những ngày tháng tương lai của chúng ta sẽ
thuận lợi như mong muốn, có thể nói là ước mơ được hiện thực dần dần. Rồi khi
đó bạn sẽ cho đó là điều may mắn đấy! Nhưng không đâu, đó là do tư tưởng và
việc làm chánh thiện của bạn tạo nên. “Tâm chúng ta là người kiến trúc sư cho
số phận của chính mình”. Bạn hãy suy nghĩ xem mình muốn gì? Đau khổ hay vui
sướng ở ngày tháng hôm nay?
Và xin bạn nhớ kỹ một điều Không phải chỉ có việc làm mới mang đến hậu quả xấu
cho mình. Nhân quả là quy luật công bằng tuyệt đối nó nhìn thấu mọi thứ từ việc
làm cho đến tư tưởng. Khi tư tưởng xấu phát xuất nó sẽ tạo ra nghiệp xấu tiềm
ẩn, tích tụ cho đến một lúc nó sẽ biểu hiện ra bên ngoài. Những tư tưởng xấu
ảnh hướng lợi ích của người khác hay bạn muốn cảm thấy một người nào đó mắc
phải cảnh khó khăn... Thì tư tưởng đó sẽ không thể thoát khỏi tầm nhìn của Luật
Nhân Quả. Tính xấu đó của bạn sẽ được Luật Nhân Quả trả cho bạn một hậu quả
tương ứng như vậy. Khi bạn có một tư tưởng ích kỷ xuất hiện trong đầu, mà ý
tưởng đó hướng đến người khác thì Luật nhân quả sẽ nhìn thấu điều đó và bạn sẽ
không nhận được bất cứ thứ gì về niềm vui tinh thần hay vật chất.
Có khi nào bạn mời một người vừa ích kỷ với bạn đến nhà ăn cơm không? Do Nhân
Quả là luật công bằng tuyệt đối và không có sự thiên vị với mọi người, bạn gieo
gì bạn sẽ gặt nấy. Tuy hôm nay đời sống con người với con người có nhiều bất
công, sự bất công do con người tạo ra dẫn hậu quả xấu đến người khác giống như
họ thực hiện một công việc nào đó nhưng luật nhân quả xem xét cả sự bất công
đó. Bởi vậy muốn hạnh phúc và vui vẻ thì hãy nhìn lại tâm mình coi có xứng đáng
hay không?
Sự khó khăn và thuận tiên là hai mặt trái ngược nhau nhưng chúng có quan hệ
chặt chẽ đến nhân tố giúp đỡ con người của chúng ta. Khi chúng ta giúp đỡ con
người thật lòng, khi nhìn thấy họ khó khăn ta sẳn sàng giúp đỡ không cần phải
được nhờ vả, mà không cảm thấy rằng điều đó gây cản trở hay phiền phức, sự giúp
đỡ này không mang tính chất mong muốn được sự tưởng thưởng, nhận ơn hay đền đáp
của bất cứ một ngoại lực nào thì nó sẽ tạo cho chúng ta sự thuận tiện trong mọi
việc của cuộc sống. Đó được gọi là may mắn mà bất cứ con người nào cũng luôn
mong muốn. Nó liên hệ đến nhân quả ấy.
Dưới ánh sáng này thì đời sống của chúng ta hôm nay sung sướng hay đau khổ là
do chính nghiệp ta đã gieo từ thời quá khứ (đời sống trước hay thời gian trước
đây) cho đến nay ta phải gánh chịu. Nếu bạn muốn thoát khỏi khổ đau thì con
đường duy nhất để làm được đó chính là hành thiện bằng tâm thật của mình. Chỉ
có bản thân mình mới hiểu rõ mình nhất. Bạn phải hiểu một điều rằng được hạnh
phúc thì bạn phải sống theo con đường mà Đức Phật đã dạy, sống một cuộc đời
đúng với luân thường đạo lý. Nếu không bạn sẽ không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu
về an vui trong tinh thần, cho dù cầu khuẩn Thần Linh, Chư Thiên hay Thượng Đế.
Bạn phải cho mình thời gian để suy gẫm lại những việc tốt và xấu phát xuất từ
đâu? Lúc đó bạn sẽ hiểu rõ được định luật của vũ trụ. Bạn sẽ không dám cho tư
tưởng và việc làm của mình hành động theo bản năng tự nhiên của một con người
thiếu hiểu biết.
Sự ham muốn của con người. Bạn không thể chìu theo ngũ dục của chính mình để
chiếm đoạt những gì không được mang đến, nếu càng nhận thì nợ của bạn sẽ càng
ngày càng chồng chất. Tất yếu là khổ đau sẽ theo bạn mãi khi mà tờ giấy nợ chưa
được xé bỏ và chỉ có chính bạn mới có thể xé tờ giấy nợ ấy bằng cách tích lũy
thiện phước. Khi ngũ dục trói buột, tâm bị bao phủ nhiều tư tưởng xấu, bạn phải
rèn luyện bản thân một cách nghiêm khắc để vượt qua nó. Thời gian luyện tập có
thể dài và rất khó khăn nhưng bạn phải cố gắng và không chịu ngã gục trước thói
quen ngũ dục của mình.
Bạn phải hiểu rõ một điều rằng nếu chúng ta không có sự thành thật của con tim
khi hành nghiệp thiện thì bạn cũng đừng nghĩ đến việc được hưởng an lạc hay
hạnh phúc, cùng một điều rằng chúng ta không thể mong muốn kết quả tốt sẽ đến
với chúng ta, bởi nhân quả là luật của vũ trụ nó không bao giờ có sai sót. Việc
hành nghiệp thiện của chúng ta không phải mang tính chất là để tránh hậu quả
xấu mang đến hay trông chờ sự tưởng thưởng.
Tại sao phải luyện tập?
Nhân cách con người mỗi người mỗi khác, kẻ thông minh người khờ dại, người kỷ
luật bản thân, kẻ chẳng ý thức được chính mình,người có lòng từ bi cao thượng,
kẻ có tâm địa bất lương thiện… không một nhân thể nào giống nhau cả. Những tính
tình ấy là dạng tiềm ẩn sâu trong tâm thức của con người được truyền từ đời
sống này sang đời sống khác, từ đời quá khứ cho đến hiện tại của chúng ta, nó
tồn tại trong nhiều kiếp sống trước đây do ta tích lũy. Chúng sẽ được khơi dậy
trong quá trình giáo dục từ nhỏ cho đến lớn xung quanh gia đình, hàng xóm và
bạn bè cùng những trãi nghiệm của cuộc đời, hoàn cảnh bên ngoài cuộc sống do
con người, vật chất, và nhiều thứ khác thúc đẩy chúng.
Tam tự kinh có nói: “Thiên tính vốn không khác xa nhau mấy chỉ vì chịu ảnh
hưởng của hoàn cảnh xung quanh nên có sự khác nhau”. Bạn phải hiểu cuộc sống
hôm nay đầy những bất trắc, tội lỗi và ghê gớm của nhân sinh. Xung quanh chúng
ta nhìn ở đâu cũng thấy tư tưởng xấu xa và tội lỗi. Chúng là thuốc độc đang
ngấm dần và làm cho Đức tính xấu của chúng ta sẽ tỉnh thức càng ngày càng nhiều
mà những Đức tính thiện bị thay đổi và vùi lấp đi bởi ham muốn,ghen ghét, thù hận,
ích kỷ v.v.v.
Khiến chúng ta quen dần với chúng mà không thể chống cự do thói quen bản năng,
nếu bạn cứ để nó phát triển một cách không quản thúc theo lối tốt đẹp thì bạn
sẽ được nhiều tính xấu hơn là thiện. Rất hiếm và khó khăn để gặp được những tác
nhân tốt tác động lại triệt tiêu tư tưởng xấu đã trở thành bản tính của chúng
ta. Như bạn hiểu con người cho cái “tôi”, cái “ngã” là quan trọng nhất nó còn
nặng hơn cả núi vàng ấy, nên không thể chịu nghe những lời nặng nhẹ với mình.
Và ta phải chấp nhận rằng Bản tính cố chấp chính là tai họa lớn cho con người
ngày nay. Đức Phật có giảng: Chúng ta phải chăng chịu nghe những luân lý có
tính trái ngược với ý thức của mình cho dù nó có làm ta khó chịu. Và phải cho
tâm trí chúng ta được xem xét, nghiên cứu, bàn cãi điều đó là đúng hay sai,
phải hay trái, nên hay không nên, chấp nhận hay bác bỏ nếu nó thực sự đúng thì
chúng ta phải chấp nhận và thực hành theo nó.
Do sự cố chấp và không hiểu biết mà chúng ta sẽ phải chịu đau khổ và khó khăn
suốt cho đến khi chúng ta nhận ra được chân lý đúng và thực sự có kiến thức. Nó
có thể sẽ là cả cuộc đời của con người mà không tìm được lối sống chân chính,
bởi con người không bao giờ chấp nhận những giáo lý ảnh hưởng đến cái tôi giả
tạm của mình hay rất ít gặp được tác nhân tốt, nếu vậy đau khổ đang chờ họ đến
ở phía trước để gánh lấy. Nguồn gốc đau khổ của con người được Đạo Phật nói đến
với ngôn từ là bị màn vô minh che phủ, nhưng đối với đời sống thực chúng ta
hiểu chính là thiếu kiến thức về Pháp (những giáo lý được dạy bởi Đức Phật)
không thấu triệt được bản chất của cuộc sống, sự thay đổi không ngừng của vạn
vật, không gì là mãi mãi và nó chỉ tồn tại một thời gian ngắn ngủi bao gồm: vui
sướng và khổ đau.
Vì mọi vật đều vận động không ngừng trong không gian này, duyên sinh tất duyên
sẽ diệt, có hợp thì tất có tan rã đó là định luật của vũ trụ. Giống như trong
cơ thể ta dần theo thời gian những tế bào sẽ chết dần và được thay thế bởi
những tế bào khác, quá trình thoái hóa xảy ra trong con người từ khi sinh ra
cho đến khi sự tái tạo tế bào sống không còn khả năng thực hiện thì chúng ta
phải chấp nhận cái chết. Cái chết cũng là một điều nhắc nhở chúng ta sống đúng
đạo lý, chúng ta không thể biết nó sẽ đến với chúng ta bất cứ lúc vào và dưới
dạng thức nào. “Chúng ta tuy chỉ là một giọt nước nhỏ bé trong dòng sông to lớn
nhưng phải đóng góp vào dòng sông ấy.
Nếu một người nào đó chỉ sống cho bản thân mình trong cuộc đời, thì đó là một
gánh nặng cho thế giới”, đời sống đó thật sự dư thừa, một cuộc đời vô nghĩa và
chẳng đáng để chúng ta lưu tâm đến và kẻ đó sẽ gặp khó khăn nhất trong xã hội
này. Bởi thế chúng ta phải sớm tìm ra con đường cho chính mình bằng sự tu tập
và rèn luyện bản thân đạt được thanh tịnh hoàn toàn trong tâm trí để đi đến
hạnh phúc vĩnh cửu (Niết Bàn).
Rèn luyện đức tính chính là việc làm của ta cần thực hiện ngay bây giờ, ta phải
chấp nhận và vượt qua khó chịu khi những việc không như ý. Chúng ta không rèn
luyện tâm ngay bây giờ thì chúng ta không thể vượt qua được những thói xấu, tư
tưởng bất chánh do thói quen của chính mình. Mọi sự việc trên đời này để đi đến
thành công chính là sự nổ lực và thiện nghiệp. Chính nhờ sự nổ lực không ngừng
trong suốt 6 năm Thiền Định Đức Phật đã phát tuệ để hiểu rõ được những chân lý
bất diệt. Nếu điều đó là đúng chúng ta cố gắng làm mặc người khác nghĩ ra sao.
Ta phải hiểu rằng Ta tạo số phận cho chính mình.
Lòng Từ bi, yêu thương:
Chúng ta nên tập phát triển tình thương chân thật, khi nhìn thấy những sự khó
khăn của người ta phải thực sự muốn giúp họ với khả năng có thể, ban bố niềm
tin và lời an ủi. Không nên để tư tưởng ích kỷ tồn tại, nếu giúp được chúng ta
phải sẳn sàng hy sinh một ít tài sản và năng lực mà không làm hao tốn nhiều và
đẩy chúng ta vào khó khăn. Có nghĩa là nếu giúp đỡ được thì cứ giúp, rồi bạn sẽ
hiểu được cảm giác an vui khi mình giúp được người khác. Song Bởi vì bạn không
có thời gian nhiều để làm những việc có ích cho nhân sinh, điều đó lại rất ít
xuất hiện vì thể nếu có một điều kiện nào giúp được bạn phải sẳn sàng giúp
ngay, bởi thời gian bạn giành cho bản thân và những việc cho cuộc sống là quá
nhiều dường như nó đã chiếm hết thời gian của chính bạn.
Sự giúp đỡ phải mang nghĩa là chân thật từ tình thương như lòng từ bi vô bờ bến
của Đức Phật, không mong cầu được một sự đền đáp hay nhận ơn của ai, đó là tình
thương, lòng khoan dung không vụ lợi. Rất ít người có được Đức tính này bởi thế
chúng ta phải rèn luyện để có chúng, vì chúng không tự có trong ta được giống
như việc biết chữ ấy, chúng ta không thể biết được chữ nếu nhờ một người nào đó
học dùm mà phải do ta tự học. Bởi hiểu rõ rằng an lạc trong tinh thần là tất cả
mà chúng ta muốn.
Sự chia sẽ, lòng khoan dung, tình thương mến là tất cả điều chúng ta cần ngay
bây giờ, bởi nó chính là điều kiện thiết yếu để chúng ta được sự an lạc và vui
sướng. Có người nói rằng muốn giúp đỡ người khác ta phải có điều kiện, đó là
một quan niệm sai lầm. Sự giúp đỡ được thể hiện qua nhiều cách chứ không phải
đợi có của cải hay tiền bạc. Bạn có thể giúp đỡ bằng lời nói cho những con
người thiếu lòng tin hay nản chí trong cuộc sống, giúp một người nào đó bớt
gánh nặng bằng sức lực của chính mình hay điều mà mình có thể giúp được từ sự
chân thật của tình thương, một chén cơm hay vài đồng nhỏ nhoi cho con người
đang cần nó hơn chúng ta, sự khuyên răn cho con người hiểu biết rằng điều đó là
sai và nên tránh đi.
Một ví dụ phát triển dễ làm: Bạn có một phần vải thều, chúng ta phải chia sẽ
cho người đối diện cũng được dùng phần ăn đó. Bạn hãy tưởng tượng xem phần ăn
ngon đó vào miệng làm bạn cảm thấy vui sướng và thoải mái với rất nhiều xúc cảm
từ chất ngọt lan trong miệng bạn, thì khi vào miệng và xuống cổ họng của người
được chia phần ăn đó họ sẽ có cảm giác ngon ấy giống bạn. Bởi bạn biết cảm giác
ngon ấy thì người khác cũng sẽ cảm nhận y hệt mà không khác chút chi. Lúc đó
bạn được vui vẻ với lòng rộng lượng mà người bạn đó khắc trong đầu về bạn
(người đó biết rằng bạn là một người tốt thực sự), sự vui vẻ vì tình thương,
lòng không vị kỷ đang phát triển thành thói quen, và chính là lúc bạn đang gieo
cho mình nghiệp thiện.
Bạn biết rằng lúc này trên thế giới bạn đã làm được một người vui, và làm một
điều thiện chí trong ngày hôm nay. Mà cảm giác này bạn không gặp nhiều trong
đời sống của mình và có khi đã là một thời gian dài rồi.
Lòng từ bi được giành cho tất cả loài chúng sanh từ loài tiến hóa cao nhất là
con người cho đến con vật bé nhỏ như kiến, muỗi, loài bọ…. Trong giới cấm đầu
của Đức Phật thuyết giảng chính là giới cử sát sinh. Đức Phật giảng: “Thật là
một tội ác cho chúng ta khi giết hại những sinh vật nhỏ bé để tránh khỏi phiền
toái do chúng gây ra, đó không phải là phương cách duy nhất”. Khi chúng ta sát
sinh quá nhiều, điều xấu tất yếu sẽ đến với chúng ta. Thứ nhất: nghiệp lực ta
gieo càng nặng sự hung hăng trong tâm ta càng tăng, lòng cố chấp ương nghạnh sẽ
tăng theo và ta có thể mắc một số loại bệnh nguy hiểm về già.
Một câu chuyện kể rằng một người đàn ông trong suốt cuộc đời giết heo để mưu
sinh và có nói ‘Nếu người không ăn thì ta đã không làm’, Nhưng những năm tháng
cuối đời của ông ta thì sao, ông ta không được chết một cách yên bình như bao
người có thiện nghiệp, bệnh tật hành hạ khiến ông ta la hét như tiếng heo bị
thọt huyết trong suốt một quảng thời gian dài trước khi ông ta trút bỏ hơi thở
cuối cùng và nghiệp xấu ấy sẽ vẫn còn theo ông ta đến cuộc đời mới. Điều Thứ
hai ta hiểu đó là tuổi thọ chúng ta sẽ giảm dần, do chúng ta đã cướp đi mạng
sống của những sinh vật có cảm giác như ta, khi chúng ta không phải là người
tạo ra chúng nên ta không có quyền lấy đi sinh mạng ấy. Điều thứ ba, Trong Ngọc
Lịch Minh Kinh có nói: Nếu ta cử sát sinh thì được Chư Thần phù hộ., Chúng ta
sẽ không mắc phải một số tai nạn lớn trong cuộc đời như chết yểu, trộm cướp,
cháy nhà…, gia đình sẽ được bình an mà không xảy ra sự việc không như ý. Sự cầu
nguyện thành tâm trước các Chư Phật sẽ linh ứng như mong ước.
Lòng ganh tỵ trong bạn. Bạn phải hiểu rằng mọi người đều có một niềm vui và nổi
khổ riêng biệt, không ai là không buồn mà vui suốt được. Khi một người nào đó
được vui hưởng lạc thú nào đó thì họ phải sẳn sàng chịu đựng áp lực hay khổ đau
sau những lạc thú ấy mang đến và có khi họ còn phải mang những nỗi lo ngay bây
giờ mà bạn không thể nhìn thấy được. Nó sẽ sớm nhàm chán với chúng ta mau thôi.
Nếu ngay bây giờ bạn còn ham muốn những vật chất ấy thì bạn sẽ còn đau khổ, bạn
hãy xem lại một món vật mà bạn yêu quý nhất xem!.
Bạn cũng phải hiểu rằng mình có được sự vui sướng, an lạc vì thanh thản mà
không có được nổi lo như họ khi mà lạc thú sẽ sớm kết thúc cùng nổi khổ do
chúng mang đến. Điều bạn có được có khi nhiều hơn những người mãi đắm chìm
trong dục lạc ở đời sống, đó là sự hiểu biết để phát triển tâm thức của chính
mình chứ không phải theo đuổi những lạc thú ngắn ngủi và tạm bợ đó (Bởi ta hiểu
rõ bản chất của cuộc sống). Ngược lại khi đang được vui hưởng lạc thú thì bạn
phải càng tiếp tục hành nhiều việc tốt và phát triển tâm thức đến thanh tịnh
hoàn toàn chứ không phải đắm chìm quá nhiều vào chúng, vì bạn đã phí thời gian
quý báo của mình thay vì có thể làm một số việc có ích hơn. Đạo Phật vẫn chấp
nhận lạc thú nhưng nó phải ở con đường trung đạo và hợp với luân thường đạo lý,
không được quá mức hay quá tệ đối với tinh thần mà phải giữ ở mức ấy, như thế
bạn sẽ ngăn được sự khơi dậy những đức tính không tốt của chính mình.
Vô cùng khó khăn cho chúng ta trong cõi hồng trần này vì tư tưởng bị ô nhiễm,
sự bận rộn làm ta quên đi những việc làm trước đây. Trong quá trình tu tập ta
sẽ bị lãng quên đi những hiểu biết mà ta có, rồi tiếp tục chịu khổ đau do việc
làm cố ý của chúng ta hay chúng ta không vượt qua được chính mình trong sự cám
dỗ của trần tục. Cho nên sự rèn luyện tu tập phải có sự ôn luyện và học hỏi
liên tục không thể ngừng nghỉ để chúng ta khắc sâu vào trong tư tưởng những
kiến thức mà sẽ thực hành suốt trong cuộc sống này. Nguồn gốc đau khổ thực sự
của đời sống chính là không có hiểu biết và luyến ái.
Sự giàu có nhất của đời người chính là tấm lòng, còn sự giàu có về vật chất
không đáng để chúng ta nghĩ đến, một con người có tấm lòng giàu có hơn nhiều
những kẻ có nhiều vật chất nhưng tâm hồn bị ô nhiễm bởi những tư tưởng không
tốt, hẹp hòi, vị kỷ… Đức Phật nói: “Chúng ta nên tôn trọng những người xứng
đáng được tôn trọng”.
Lòng thỏa mãn: Trong thế giới hôm nay không có bất cứ thứ gì có thể làm thỏa
mãn cho con người được cả. Con người mãi tranh đấu trong chiến trường đau khổ
để giành lấy những lợi lạc. Nhưng bản chất nó không tồn tại được lâu mà chỉ
thoáng qua mà thôi giống như người dân quá cực khổ để có được một bữa ăn ngon
vào một ngày nào đó nhưng sau khi thức ăn đưa vào miệng và đi qua thực quản
xuống dạ dày, rồi được tống ra ngoài dưới dạng phân. Thời gian cho ta nhai
trong miệng và cảm thụ cảm giác ngon là bao lâu? Những Lạc thú cũng như vậy,
nếu chúng ta thực sự suy gẫm kỹ. Những Lợi Lạc hiếm hoi và nhỏ bé ấy phải đổi
bằng sức lực và phiền não trong một thời gian dài, nhiều hơn thời gian ta được
hưởng lạc thú ấy.
Ngày nay con người càng tạo ra những vật chất hiện đại rất cao để phục vụ cho
mình, nhưng không bao giờ có sự thỏa mản và ngừng lại, bởi khi họ tạo ra những
vật chất ấy khi đã phục vụ được thì họ sẽ đi tìm điều tốt hơn, họ cứ đi tìm mãi
mà không có sự dừng lại, họ tự gieo cho họ cái lòng ham muốn vô cùng. Nhưng bạn
đã thấy đời sống con người bị phân biệt bởi giai cấp là quá nặng, chúng tạo nên
những ganh ghét, thù hận, tội lỗi cho con người vì những theo đuổi vật chất rồi
sẽ đi đến nhàm chán rồi quên lãng.Một câu chuyện thuật lại như sau:
Người kia đi quanh quẩn giữa một khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn.
Trong khi lang thang bất định anh sực nhìn lại phía sau, và thấy một thớt voi
đang rượt theo. Giựt mình, anh vụt chạy. Voi đuổi theo. Chạy đến một cái giếng
cạn, anh định nhảy xuống để tránh voi. Nhưng thấy dưới đáy giếng có con rắn
độc. Thớt voi lù lù trờ tới. Hoảng hốt, anh chụp lấy một dây rừng từ cây cao
lòng thòng phía trên miệng giếng và vội vã trèo phăng lên, bất chấp gai nhọn
đầy trên sợi dây, quàu trầy cả mình mẩy và tay chân. Lúc ấy anh chàng ngước mặt
nhìn lên, thấy một ổ ong. Bầy ong bay tủa ra vây đánh anh. Phía trên nữa có hai
con chuột, một trắng một đen, đang cặm cụi gậm nhấm sợi dây mà anh đang đeo
trên đó. Vừa lúc ấy một giọt mật từ ổ ong rơi xuống ngay vào miệng anh. Bấy
giờ, quên cả thớt voi đang rượt, con rắn độc đang nằm dưới đáy giếng, sợi dây
đầy gai nhọn quàu trầy cả mình mẩy, bày ong đang vây đánh, và hai con chuột
đang gậm nhấm sợi dây, anh mê mệt thọ hưởng giọt mật một cách thỏa
thích..."
Đó là hình ảnh của cuộc sống mà chúng ta đang sống: Người lang thang lạc bước
giữa rừng là chúng ta. Khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn là kiếp nhân
sinh trong vòng luân hồi. Thớt voi tượng trưng cho Tử Thần. Con rắn độc nằm
dưới đáy giếng là sự già nua. Sợi dây rừng đầy gai nhọn là sự sanh. Bầy ong là
những nổi khổ đau luôn luôn đe dọa tình trạng an lành của chúng ta. Giọt mật
hình dung những thú vui hiếm hoi trong đời sống. Hai con chuột, một trắng, một
đen, là ngày và đêm...
Tứ Diệu Đế - Phạm Kim Khánh
Chúng ta không nên quá chú trọng nhiều về những vật chất trước mắt dù chúng có
làm ta say mê đến thế nào. Nói miệng thì rất khó lòng, bạn phải hiểu rằng khi
nhìn chúng thì ta biết nó là một nổi lo cho người giữ nó, rồi nó sẽ trôi qua
nhanh thôi, nó sẽ đến quên lãng sớm dù rằng chúng ta có cố giữ nó bằng cách mấy
đi nữa. Rồi Lạc thú nào cũng kết thúc với đau khổ. Vì khi bạn quá ham thích
điều đó bao nhiêu thì khi mất nó đi bạn sẽ đau khổ nhiều chừng ấy, nếu bạn có
một vật quý giá thì bạn đã phải mang nổi lo giữ gìn, lo sợ rằng nó sẽ bị lấy
mất bởi một người nào đó.
Thời gian quý giá của chúng ta giành để chăm lo và ngắm nhìn chúng nếu xảy ra
hư hại thì nổi lo sẽ được nhân đôi vì phải bận lòng cho việc sữa chữa. Nếu thời
gian để ý tới nó thì ta nên lo chu toàn bổn phận của chính mình với gia đình và
xã hội. Thực sự Lòng thỏa mãn được dung dưỡng và phát triển bằng lòng khiêm từ
của chúng ta. Chúng ta đã hiểu bản chất của cuộc sống thì nên cố gắng tránh
những sự việc nhận của người khác khi mà không được sự chân tâm dâng tặng của
con người, nếu bạn nhận nhiều quá thì bạn phải trả đấy. Bạn cũng nên nhớ chúng
ta không thể lấy không của bất cứ ai một xu nào cả, bởi quy luật nhân quả rất
công bằng và nó được định sẳn như vậy. Như một kinh nghiệm được thụ hưởng lại,
chúng ta không nên ở lại dùng cơm với một người khi ta đến nhà họ thăm hay đến
chơi nếu như đó không phải là người thân của chúng ta, vì điều đó không nên.
Hay ghi nhớ câu nói này của Đức Phật: “Chúng ta không thể làm nô lệ cho những
xúc cảm” khi chúng ta có những tư tưởng sai trái.
Lòng Hiếu Hạnh:
Đây là phẩm hạnh đầu của tất cả con người và không tội nào lớn hơn tội bất hiếu
cả. Nhiệm vụ của con người cần thực hiện là phải Phụng dưỡng và thương yêu cha
mẹ một cách hết lòng, bởi cha mẹ là người cho ta cả cuộc đời, cho ta sự sống
trên thế giới: niềm vui và niềm thương yêu vô bờ bến. Nhờ có cha mẹ mà thân thể
hôm nay của ta mới lớn khôn thế này.
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ hơn Cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo sớm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy Cha che chở đời con
Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghe con
Lời Phật Dạy “Chữ Hiếu”
Ước nguyện của cả cuộc đời họ chính là những đứa con thân yêu. Họ mong muốn con
cái của mình sống tốt đẹp trên cuộc đời đau khổ này. Để sau này ra đi thì họ
mãn nguyện vì con cái họ không phải chịu khổ cực và bị nhiều uy hiếp lụy phiền
bởi kiếp sống nhân sinh quá nhiều thị phi. Nếu họ có thể sống bao nhiêu năm thì
tình thương và nổi lo cho đứa con họ không ngừng. Nước mắt và mồ hôi để đổi lấy
no ấm cho con mình mà phải lăn lộn, chịu đựng và đối mặt với khó khăn trong
biển người, thì giấy bút nào làm sao viết hết được. Nếu một đứa con trưởng
thành sống với tư tưởng không hiểu biết, sống không theo luân thường đạo lý thì
đó sẽ là một vết thương không thể chữa lành trong lòng ba mẹ và giọt nước mắt
họ chỉ lặng lẽ rơi theo sự trôi dạt của dòng đời. Sự bất hiếu con người được
nho giáo nói rất rõ:
Nếu mình hiếu với mẹ cha Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận
Chắc rằng con hiếu với ta khác gì Ngỗ nghịch sinh con nào khác chi
Nếu mình ăn ở vô nghì Xem thử trước thềm mưa xối nước
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công Hạt trước hạt sau có khác gì
(Thái Công)
Ý nghĩa rất rõ ràng cho con người hôm nay nếu chúng ta nghĩ kỹ hơn và đưa mắt
nhìn xung quanh để hiểu rõ về luật nhân quả. Chúng ta đừng nên mong con cái
hiếu với ta cho uổng phí công sức nếu như sự bất hiếu ta giành cho chính cha mẹ
mình, rồi chúng ta sẽ là người cảm nhận được giọt nước mắt bi thương chảy trên
khuôn mặt vì con cái. Câu hát của nghệ sĩ Thanh Ngân như sau: “Đừng để ngày phụ
mẫu tàn hơi chẳng có ý nghĩa chi những dòng lệ đổ, đừng để hối tiếc khi quỳ bên
nấm mộ sẽ thấy lạc loài trong cảnh mồ côi” hay “ Đừng tham đắm miếng mồi danh
lợi mà bỏ gốc quên nguồn tội lỗi lắm ai ơi”.
Chúng ta phải hiểu bổn phận mà cố gắng dù chưa biết ngày tháng tương lai ra sao
nhưng phải giành thương yêu cho họ, giúp đỡ những công việc mà ta làm được, có
thể làm gánh nặng nhẹ bớt trên đôi vai đã mang nổi lo của cuộc sống và sự tốt
đẹp vì chúng ta. Điều mà họ cần nhất ở cuộc đời chính là tình thương yêu con
cháu và lối sống tốt đẹp của ta. “Cho dù con biết chỉ còn sống được một ngày
trên thế gian con cũng sống sao cho ra người như lời má dạy” - Minh Quân. Bởi
thế ta phải tỏ ra cho họ biết mình thương yêu họ cho đến những năm tháng cuối
cùng của cuộc đời, giành những điều tốt đẹp cho cha mẹ nếu ta có thể được.
Nguồn hạnh phúc mà ta có được nơi thế gian này không phải là sự thỏa mãn của
vật chất mà là tình thân của gia đình và thân nhân. Vật chất rồi sẽ đi đến tan
rã, rồi chúng ta sẽ đánh mất tình thương mà còn phải chịu những nghiệp xấu do
bất hiếu. Bởi bạn nên biết rằng người thân là người yêu thương ta nhất và không
ai giành cho ta tình thương chân thật ấy.
Quan hệ tình thân được viết trong Thiên Tự Văn: “Cô, bác, chú là anh em của
cha, cháu trai, cháu gái cũng phải tôn kính yêu quí giống như con đẻ. Anh em là
cùng cha mẹ sinh thành, giống như cành nhánh một cây sinh ra.”. Chúng ta cũng
phải thương yêu những người bên quan hệ gia đình, không nên có sự phân biệt đối
xử bởi thế nó sẽ làm ta đánh mất đi những điều tốt đẹp mà ta có thể giữ và tình
cảm cao quý đó không thể bị mất đi trong suốt cuộc đời này được. Những dư âm
vui vẻ nhất mà ta có chính là thời gian được ở gần những người thân. Vật chất
rồi sẽ đi đến tan rã nhưng tình thương thì không bao giờ mất đi được chỉ trừ
khi chúng ta tự mình hủy bỏ.
Sự Thành Tâm?
Sự thành tâm và niềm tin của con người là hai thành phần quan trọng trong Phật
Giáo, hai yếu tố này song hành với nhau và có ý nghĩa tương đương với sự nổ lực
và niềm tin vậy. Trong Đạo Phật không nói rằng ta phải cầu nguyện và thờ cúng
để được thoát khỏi những nghiệp xấu nhưng nó là nhân tố dẫn chúng ta đi đến sự
giải thoát cuối cùng.
Đời sống hôm nay được nói đến đã là thời kì cuối, con người càng ngày càng khổ
đau bởi chính con người tạo ra. Bạn có thể nhìn thấy thực tại mà không cần phải
được nói rõ, con người đang sống trong sợ hãi, đau khổ và lo âu bởi đời sống.
Những sự kiện cướp bóc, tai nạn, khó khăn về tài chính…. Cùng với tai họa thiên
nhiên và những biến chuyển trong cuộc sống dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng
đối với con người ngày nay, nếu chúng ta không tu tập sẽ không còn kịp nữa,
Chính con người đã đẩy mình vào cảnh diệt vong vì những hành động không có
lương tâm.
Thời kỳ xa xưa có nhiều con đường tu tập dẫn đến thoát khỏi đau khổ, Thiền Định
được xem là con đường duy nhất nhưng với cuộc sống ngày nay quá nhiều bận rộn.
Pháp môn ta có thể thực tập nhanh gọn mà không mất nhiều thời gian đó chính là
Hành Trì câu Lục Tự Di Đà. Ngày nay chúng ta nên cố gắng một ngày niệm danh
hiệu Di Đà ít nhất là 10 câu trong một ngày nếu thời gian quá bận rộn, nó giúp
ta được nhẹ nhàng thanh thản trong tâm hồn. Khi trì niệm sẽ làm nghiệp lực của
ta nhẹ bớt. Chúng ta nên thực hành càng nhiều sẽ dẫn đến sự thanh thản vô biên
trong tâm hồn.
Câu chuyện thật được kể lại:
Một người phụ nữ và chồng cùng buôn bán làm ăn nhưng thất bại cứ mãi xảy ra.
Sau hai lần mưu sinh cuối cùng, lần thứ nhất họ vẫn chịu số phận là thất bại vì
làm ăn lỗ lã, lần thứ hai họ quyết định mở một cửa hàng thuốc để mưu sinh nhưng
kết quả vẫn không thay đổi. Người chồng quyết chí lên núi tu hành, người vợ ở
lại nhà tu trong sự thanh tịnh tâm thần. Hằng ngày bà niệm danh hiệu Di Đà nhất
tâm không xao lãng, sau khi dùng cơm bà tắm rửa sạch sẽ và quỳ trước bàn thờ
tụng câu Lục Tự. Bà tụng liên tục dường như là suốt ngày từ sáng cho đến tối
trong những thời gian rãnh kể cả khi làm việc. Mỗi khi con cháu đến thăm bà và
kể cho bà nghe về chuyện của đời sống thường nhật nhưng bà đều từ chối. Sau quá
trình không ngừng nghỉ và kiên định của bốn mươi mấy năm, ngày cuối cùng bỗng
nhiên trên nóc nhà tỏa sáng luồng hào quang rực rỡ. Người con bên sông trông
thấy cứ tưởng cháy nhà liền chạy vội cả về nhà mẹ, thì bà đã viên tịch để trở
về đất Phật, thoát khỏi cảnh khổ của luân hồi và phiền não của thế gian mãi
mãi.
Sự Thành tâm và niềm tin là vô cùng quan trọng nhiều vấn đề, khi lễ Phật, thắp
nhang và khẩn nguyện lòng ta phải hướng về Chư Phật và lòng thành kính vô bờ
bến trước những phẩm hạnh không gì so sánh được của các Chư Phật. Sự hành trì
niệm Phật là rất cần thiết cho con người ngày nay, bởi ta đã bỏ thời gian quá
nhiều và chưa bao giờ trong tâm ta có lời vang của tiếng niệm Phật. Đó là một
nghiệp nặng hay là sự thiếu sót của tâm hồn. Khi thành tâm ta có cảm giác như
câu niệm đi vào lòng ta đó là lúc ta được thành tâm nhất “Miệng niệm và lỗ tai
phải nghe rõ từng chữ”.
Trong việc chữa bệnh của con người, ta có thể nghĩ mọi sự vật bắt nguồn từ
thiên nhiên, con người cũng là sự hợp thành của tứ đại. Trong Thiên Tự Văn có
nói: “Thân thể con người có liên quan đến đất, nước, lửa, gió. Con người có năm
đức tính Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Phật Giáo cũng có thuyết quá trình hợp
thành của con người từ chất lỏng, chắc rắn, lữa, gió. Do vậy con người sẽ dùng
thuốc của tự nhiên ban cho để chữa lành những căn bệnh gây đau khổ cho con
người ngày nay, đó là một hiệu quả vô cùng nếu được sự hướng dẫn của người
khác.
Câu chuyện thật được nghe kể lại như sau: Một người phụ nữ mắc 6 căn bệnh trong
cơ thể, ai đã từng gặp mặt người phụ nữ ấy điều nói là mặt ma và nghĩ rằng
người phụ nữ ấy không thể sống nổi. Khuôn mặt và thân hình xanh xao và hốc hác
quá nhiều. Nhưng được sự chỉ dẫn dùng một loại thuốc: lá Nàng Hai. Người phụ nữ
tin theo lời chỉ dẫn và thực hiện, hằng ngày đều dùng thuốc đó rửa sạch nấu
nước uống thay cho nước uống, mỗi lần uống thuốc đều thắp một cây nhang và
nguyện thành tâm: Xin Ơn Trên cho thuốc uống mau khỏi… Vậy chỉ sau hai tuần
người phụ nữ đã khỏi hẳn hết 6 loại bệnh. Khi gặp mọi người dường như ai cũng
không tin đó là một sự thật…
Chúng ta hãy nhớ một điều rằng Tâm
chúng ta sinh ra đau khổ và hạnh phúc cho chính ta. Cùng Luật Nhân Quả là công
bằng tuyệt đối không có sự sơ xuất hay chật lệch.
Trong tác phẩm “Tế Điên Hòa Thượng”. Khi kết thúc truyện Tế Điên lái thuyền
khuất đi và cất khúc hát:
[center]Đời thấm thoát chừ phù sinh giấc mộng
Thân người nhỏ bé chừ biển trời lồng lồng
Thấm thoát qua mau hết trẻ đến già
Ngoảnh mặt người thân bao người khuất bóng
43. Kiều Trần Như
Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa quyết bỏ cuộc sống
vinh hoa, vào rừng sâu xuất gia tìm đạo, vua
Tịnh Phạn sai hai đại thần đi thuyết dụ Thái Tử trở về. Không thể lay chuyển
được chí
hướng của Thái Tử, hai vị đại thần đành trở về chiêu mộ người muốn tìm đạo,
theo phù trợ
cho Thái Tử. Trong số 5 người phát tâm theo Thái Tử tu khổ hạnh tại núi Dà Xa,
xứ Ba La
Nại có Kiều Trần Như là người nhiệt tình cầu đạo hơn cả.
Kiều Trần Như là ngườI theo Phật đầu tiên do đó được thành vị Thánh chúng có
PHÁP
LẠP SỐ 1.
Khi chỉ thấy khổ hạnh làm cho cơ thể suy nhược, tinh thần hết minh mẫn, Phật ra
khỏi rừng
khổ hạnh dùng bát sữa của mục nữ Ta Xà Đề, xuống sông Ni Liên tắm gội rồi trở
lại thuyết
dụ nhóm Kiều Trần Như trở về con đường Trung đạo, may ra mới có thể chứng thành
Thánh
qủa. Kiều Trần Như cho là Phật đã thối chí, nên không theo và tiếp tục lối tu
ép xác, ngày
ăn một hạt đậu hoặc một hạt mè v.v ..
Vì có thành kiến từ trước, khi nghe Phật trở lại rừng khổ hạnh để thuyết pháp
cho nhóm của
ông. Kiều Trần Như tính kế không tiếp đón. Nhưng với dung mạo oai lực của Phật,
Kiều
Trần Như thay đổi thái độ, từ lạnh nhạt qua tôn kính.
Sau khi nghe Phật thuyết giáo, Kiều Trần Như khai mở trí tuệ, nhận chân sự cố
chấp kiến là
chướng đạo. Sống ở đời say đắm theo lạc thú vật chất, con người sẽ sa đọa vào
con đường
tội lỗi. Trái lại tu theo pháp khổ hạnh, khiến cơ thể suy nhược, tinh thần rối
loạn, không còn
minh mẫn. Bởi thế, trên con đường Trung đạo mới đạt được giải thoát, khỏi luân
hồi, sinh,
già, bệnh, chết. Qua sự chuyển bánh xe chánh pháp lần đầu của Phật, Kiều Trần
Như và
các đạo sĩ đồng hành, biết rõ con đường trung đạo qua pháp Bát chánh. Đó là
hiểu biết
chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành động chân chính, mưu
sinh chân
chính, siêng năng chân chính, định tâm chân chính.
Tám pháp chân chính là con đường đưa chúng sanh đến cảnh Tịch diệt Niết bàn.
Ngược lại cuộc sống buông trôi theo thám ái giận hờn, si mê, đó là nguyên nhân
chúng sinh
đến 3 cõi 6 đường chịu nhiều khổ não.
Các khổ não mà chúng sinh phải trôi nổi trong sinh tử luân hồi, đó là khổ khổ,
hoại khổ và
hành khổ. Rộng hơn đó là sinh, già, bệnh, chết, ân ái, xa lìa, oán thù gặp gở,
mong cầu
không được và thân 5 ấm không được điều hòa.
Nói ngược lại một cách khác hơn đó là 4 chân lý: Khổ, Tập, Diệt và Đạo.
VớI 4 chân lý qua lần chuyển pháp đầu tiên của Phật, Các đạo sĩ khổ hạnh và
nhất là Kiều
Trần Như đã rõ:
-
Đó là khổ vì hay bức não
-Đó là tập vì hay chiêu cảm
-Đó là diệt vì có thể chứng
-Đó là đạo vì có thể tu tập
Và -Vì nó là khổ Chúng ta cần phải biết
Vì nó là tập Chúng ta cần phải trừ
Vì nó là diệt Chúng ta cần phải chứng
Vì nó là đạo Chúng ta cần phải tu học.
Kiều Trần Như thấy cần phải theo gương Phật, vì:
-Đó là khổ Phật đã biết.
-Đó là tập Phật đã trừ.
-Đó là diệt Phật đã chứng.
-Đó là đạo Phật đã tu.
Sau khi nghe Phật chuyển pháp luân lần đầu, Kiều Trần Như và các bạn đồng hành
pháp
nguyện bỏ lối tu hành và xin làm đệ tử Phật. Kiều trần Như đã có công lập thành
giáo đoàn
đầu tiên của Phật. Kiều Trần Như cũng tinh tấn tu tập và trở thành thánh đệ tử
Phật, có
pháp lạp số 1.
1 - Ngài
Annàkondanna
Khoảng một trăm ngàn kiếp trái đất về trước,
Ðức Phật Jadumuttara (Liên Hoa Phật) giáng trần. Ngài có tông hiệu như vậy là
vì lúc nào cũng có liên hoa hiện lên đỡ chân ngài. Ðặt biệt là liên hoa ấy biến
và hiện rất nhịp nhàng. Nghĩa là liên hoa hiện lên đỡ chân mặt thì liên hoa ở
chân trái biến và ngược lại. Tóm lại, chân Ngài không bao giờ chạm đất. Hiện
tượng đặc biệt này có ngay khi Ngài vừa bước chân rời khỏi bồ đoàn trong ngày
thành Phật.
Trên đường hoằng pháp, Ngài trở về tế độ Hamsavati (Hăm-sa-va-ti) để độ vua cha
hoàng tộc và trào thân. Ða số đều được đắc đạo chứng quả tùy quá trình công
đức. Ðức vua cung thỉnh Phật và một trăm ngàn vị thánh Tăng theo hầu thọ trai
tại triều trong một thời gian hữu hạn.
Lúc bấy giờ ngài Annàkondanna là con trai của một gia đình đại phú tại kinh đô
này. Trong ngày Ðức Phật chính thức ấn chứng pháp vị Trưởng Lão đệ nhất cho một
vị Tỳ-kheo, vì vị này hội đủ điều kiện căn bản là: được Ðức Phật đặc truyền đại
giới bằng phương thức Thiện-lai Tỳ-kheo trước nhất, được liễu đạo trước nhất,
được gặp và nghe chánh pháp trước nhất. Chứng kiến sự kiện quan trọng này,
chàng thanh niên phát bồ đề tâm cung thỉnh Ðức Phật và Thánh chúng về tư gia
thiết lễ trai tăng cúng dường bảy ngày. Ngày đầu, chàng cúng dường vải hảo hạng
để may y cho Ðức Phật. Ðúng ngày thứ bảy, chàng cúng dường vải may y đến toàn
thể một trăm ngàn thánh tăng hiện diện và chính thức phát nguyện: "do
phước báu cúng dường thanh tịnh trong suốt bảy ngày, xin cho đệ tử được xuất
gia trong chánh pháp của Ðức Phật Tổ vị lai và được đắc ngộ trước nhất."
Ðức Thế Tôn Padumuttara, với thiện nhãn thuần tịnh, nhận thấy không có chướng
duyên ngăn ngại, Ngài hoan hỉ thọ ký: "Trong một chu kỳ là một trăm ngàn
kiếp trái đất về sau sẽ có một vị Phật tôn hiệu là Gotama giáng trần hóa đạo,
lúc bấy giờ đại nguyện của ngươi sẽ được thành tựu".
Sau khi Ðức Phật Padumuttara niết bàn, chàng kiến tạo một ngôi nhà nhỏ bằng
ngọc để tôn trí xá lợi an vị bên trong bảo tháp và thực hiện nhiều thiện sự
nhất là hạnh bố thí suốt một trăm ngàn tuổI. Khi thân hoại mạng chung, chàng
được sanh thiên. Suốt chín muôn chín ngàn chín trăm chín mươi chín kiếp, chàng
đều được hưởng phước nhuận thiên. Ðến kiếp thứ chín, muôn chín ngàn chín trăm
lẻ một, Ðức Phật Vipassi (Tì-bà-thi ) giáng trần. Lúc bấy giờ, chàng sanh làm
phú hộ tại làng Ràmagàma (Ra-ma-ga-ma) nước Bandhumati (Banh-thu-ma-ti) tên
Mahàkàla và vẩn tiếp tục thực hiện mọi thiện sự. Một hôm, chàng rủ người em
trai tên Cullakàla thực hiện đại thế bằng cách lấy tinh chất trong hạt lúa non
vừa ngậm sửa để cúng dường Ðức Phật và chúng Tăng, nhưng người em không hoan
hỉ. Chàng bèn chia đôi lúa ruộng và thực hiện hạnh đại thí theo sở nguyện.
Ngoài ra, chàng còn tổ chức đại thí tám lần tiếp theo từ lúc chắc hột đến khi
vô bồ. Sau khi thân hoại mạng chung, chàng lại được sanh thiên.
Suốt chín mươi mốt kiếp (91) chàng đều hưởng phước nhơn thiên. Ðến kiếp cuối
thứ 91, chàng sanh làm đại phú gia trong làng Donavatthu (Ðô-na-oach-thu) gần
Kapilavatthu (Ca-bì-la-vệ) tên là Kondanna (Côn-đanh-nha, Kiều-trần-như). Lớn lên,
chàng suốt thông toàn bộ giáo hệ Phệ-đà và là một vị trong số tám vị Bà-la-môn
tiên đoán hậu vận của Thái-tử Sỉ-Ðạt-Ta. Chính nhờ biết rỏ phước tướng và hậu
vận của Thái-tử nên chàng dứt khoát đi tu, lập nguyện sẽ làm đệ tử phục vụ ngài
và mọi việc đã diển tiến đúng như chàng dự liệu: Tại vườn Lộc-giả, Kondanna
được nghe Ðức-Phật thuyết bài kinh chuyển Pháp-luân và đắc được pháp nhãn. Sau
đó mấy hôm, nhờ nghe Ðức Phật thuyết bài Anattalakkhana Sutta (Vô-ngã-tướng
kinh) nên đắc A-la-hán, một quả vị cao nhất trong hàng Tứ Thánh.
Ðên khi Phật Pháp được truyền bá sâu rộng khắp cõi Diêm-phù-đề, Ðức Bổn Sư
chính thức ấn chứng pháp vị cho Ðại-đức là Trưởng lão Ðệ nhất của giới Tỳ-kheo.
Mỗi khi Ðức Phật thuyết pháp thì Ðại Ðức Xá-Lợi-Phất tọa vị bên mặt, Ðại Ðức
Mục-Kiền-Liên bên trái, còn lại Ðại Ðức thì ngay sau lưng Ðức Phật và tiếp theo
là chư vị Tỳ-kheo bao quanh. Trong những trường hợp như vậy, nhị vị Ðại Ðệ Tử
xem Ðại Ðức như đại-phạm-thiên hoặc như bậc huynh-trưởng khả kính trong đạo
tràng, cho nên rất cẩn trọng và kiên dè mỗi khi ngồi gần Ðại Ðức. Trước cử chỉ
cẩn trọng và kiên dè của nhị vị Ðại Ðệ Tử, Ðại Ðức tự nghĩ: Nhị vị Ðại Ðệ Tử đã
phải lập nguyện tô bồi công đức và trì hành Ba-la-mật suốt một A tăng kỳ và một
trăm ngàn kiếp để được ngồi gần hầu Phật, nay nguyện ước đã thành nhưng Nhị vị
lại quá kiên dè ta. Vậy, ta phải tạo sự tự nhiên cho Nhị vị. Dùng thiên nhãn
quán chiếu, nhận thấy người cháu trai tên Punna (Bun-na) có căn duyên xuất gia
và sẽ trở thành một vị Pháp Sư lỗi lạc trong hàng Tăng giới, Ðại Ðức bèn trở về
quê tiếp độ cậu Punna xuất gia và, sau đó xin phép Ðức Thế Tôn đến tịnh cư tại
bờ hồ Chaddanta nơi thường trú của chư Phật Ðộc-giác suốt mười hai năm dài.
Nguyên nhân Ðại Ðức đến định cư nơi đây là vì bản tánh không thích tiếp xúc và
bận rộn mà cuộc sống tập thể rất khó tránh. Hơn nữa, Ðại Ðức có nhiều phúc đức
gần như Ðức Phật. Phúc đức ấy lan rộng khắp một muôn thế giới sa-bà. Các hàng
thiên chúng mỗi khi bái kiến, cúng dường các loại hoa quí và các thứ hương liệu
đến Ðức Phật thì họ cũng đến bái kiến và cúng dường Ðại Ðức khi còn sống chung
tập thể. Do đó, sự bận rộn về phương diện giao tế cũng như giảng đạo không thể
tránh được.
Sau mười hai năm định cư, Ðại Ðức trở về bái kiến Ðức Phật tại chùa Trúc-lâm
vương xá. Ðại Ðức mọp sát chân Ðức Phật, vừa hôn vừa bóp chân vừa xưng tên:
"Ðệ tử là Kondanna! Ðệ tử là Kondanna!". Trước cử chỉ vô cùng thương
kính mà Ðại Ðức bộc lộ đối với Ðức Phật đã khiến Ðại Ðức Vangisa, một vị Ðệ
nhất biện tài, đang ngồi trong hội chúng liền đứng lên chấp tay tán thán:
"Ðại Ðức Kondanna, bậc tinh tiến bất thối, bậc ẩn sĩ, bậc tinh giả, đã đạt
được cứu cánh phạm hạnh, bậc có nhiều thần lực, đã đắc Tam Thông là bậc thừa tự
chánh pháp đang đãnh lễ bàn chân phúc đức của Ðấng Bổn Sư Tư Phụ."
Tại bờ hồ Chaddanta, một đàn voi khoảng 8 muôn con, sinh sống tại đây. Chúng
được Tượng chí phân công phục dịch chư Phật Ðộc giác về mặt ẩm thực và an ninh.
Diện tích hồ khoản 50 do tuần.Từ trong bờ trở ra khoản 20 do tuần, nước rất
cạn, có thể đứng được, cát hạt to, trắng như pha lê, không cặn bùn, không rong
rêu. Ở chu vi cạn này, loại liên hoa như bạch-liên, hồng-liên, huỳnh-liên,
xích-liên mọc rất thứ tự. Những nơi thật cạn thì có những loại lúa thơm màu đỏ,
những nơi tương đối ráo thì có các loại mía thật ngọt, thật mềm; những nơi ráo
hơn thì có các loại chuối ngon,thơm,ngọt và dẻo; những nơi đất khô thì các loại
cây ăn trái tự động mọc lên thứ tự, như mít, soài, mận, cam, quít, vân vân và
vân vân. Những yếu kiện này đã giúp các con voi có phương tiện dể dàng phục
dịch chư Phật Ðộc Giác.
Ngày Ðại Ðức đến, đàn voi tỏ ra vô cùng hoan hỉ. Một cuộc họp mặt quan trọng đã
diễn ra dưới quyền chủ tọa của tượng chúa để phân công phục dịch Ðạị Ðức. Vì
biết rỏ bản tánh Ðại Ðức không thích rộn ràng nên các con voi được Tượng chúa
dặn dò cẩn thận để tránh cho Ðại Ðức những phiền rộn không đáng.
Buổi sáng, Ðại Ðức đắp y mang bát bay đến khất thực tại cung điện của một vị
tiên Nàgadanta (Na-ga-đanh-ta) trên ngọn núi Kelàsa (Kê-la-sa). Vị tiên này rất
hoan hỉ cúng dường Ðại Ðức các thực phẩm của tiên. Quả phước đặc biệt này sở dĩ
thành tựu riêng cho Ðại Ðức là do nhờ hạnh bố thí bằng cách bắt thăm mà Ðại đức
đã thực hiện liên tục suốt hai muôn năm trong thời kỳ Ðức Phật Kassapa
(Ca-Diếp).
Trong những ngày cuối cùng, Ðại Ðức tự chọn nơi Ðại Ðức định cư suốt mười hai
năm làm địa điểm Niết bàn vì nghĩ đến công quả phục dịch vô cùng tận tâm trong
sạch của tám muôn con voi. Quyết định song, Ðại Ðức trở về Trúc-lâm xin phép
Ðức Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, đệ tử kính xin Ðức Thế Tôn cho phép đệ tử Niết bàn.
-- Kondanna, ngươi sẽ chọn nơi nào làm địa điểm Niết bàn?
-- Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử chọn bờ hồ Chaddanta
-- Kondanna, hãy khế cơ, khế thời hành sự.
Ðược Ðức Thế Tôn tùy thuận và, vì có dụng ý bồi đấp đức tin của hàng Phật tử,
nên trên đường trở về địa điểm niết bàn, Ðại Ðức dùng thần thông bay từ từ thật
chậm trên không trung để cho mọi người được chiêm ngưỡng. Trước thần lực phi
thường này, tất cả đều phát bồ đề tâm qui ngưỡng chánh pháp.
Ngay chiều hôm ấy, Ðại Ðức xuống hồ Chaddanta tắm gội sạch sẽ, quét dọn tư
thất, sắp xếp thứ tự các thứ giáo dụng, đắp y ngồi nhập định suốt đêm và an
nhập Niết-bàn. Khi bình minh tỏ rạng, ngay lúc ấy hiện tượng lạ xảy ra: cây cối
cuối đầu như tiển biệt một vị đại phúc đức. Sáng hôm ấy, con voi có bổn phận
phục dịch Ðại Ðức, đứng chờ ngài ở đầu đường kinh hành nhưng không thấy, bèn
đến tư thất thò vòi vào sờ nhẹ bàn chân thì mới hay ngài đã tịch diệt. Nó lập
tức đút vòi vô miệng rống lên thật to. Tiếng rống bi thống, bất thần ấy vang
vang bất tận khắp cả núi rừng. Nghe tiếng rống bất thường ấy, đàn voi lập tức
tề tựu trong trật tự. Tiếng rống của đàn voi 8000 con làm chấn động đại sơn
Hi-mã. Sau đó, chúng cung nghinh nhục thể Ðại Ðức nhiễu khắp một vòng tuyết sơn
và trở về an trí nguyên vị.
Ðức Thiên-vương Ðế-Thích sai một vị tiên tên Vissakamma xuống tận nơi, dùng
thần lực biến ra một ngôi nhà bằng ngọc cao 9 do-tuần để an vị nhục thể Ðại
Ðức. Chư thiên các tầng trời thứ bậc luân phiên cung nghinh nhục thể Ðại Ðức đi
nhiểu tại các tầng trời sở hữu kể cả cỏi trời phạm thiên và cuối cùng nhục thể
được cung nghinh trở về vị trí củ.
Một hỏa đài bằng các loại trầm quí ky hương được dựng lên do thần lực của chư
thiên. Ngay lúc ấy, bổng từ hư không xuất hiện 500 vị Thánh Tăng đến tụng những
bài kệ kinh-cảm và những bài kinh liên quan định lý vô thường, khổ, vô-ngã và
sự an vui tuyệt đối của Niết-bàn. Sau khóa lễ tưởng niệm, Ðại Ðức Anulaudda
(A-nâu-lầu-đà) thuyết pháp. Chư thiên được nghe pháp đắc đạo chứng quả nhiều vô
số.
Xá lợi Ðại Ðức trắng đẹp như màu hoa lài búp, được chư Thánh Tăng cung thỉnh
đem về kính dâng lên Ðức Phật tại chùa Trúc-lâm. Một tấu xảo phi thường là hôm
ấy, Ðức Thế Tôn từ hương thất quan lâm đến gần cửa Tam quan Trúc-lâm thì xá lợi
của Ðại Ðức do chư vị Thánh Tăng cung nghinh cũng vừa đến. Ðức Thế Tôn trong tư
thế đứng, đ? mặt nhận xá lợi, tay trái chỉ xuống đất. Lạ lùng thay! Ngay chổ ấy
mọc lên một ngôi tháp bằng vàng và xá lợi Ðại Ðức được an trí trong ngôi tháp
ấy.
Trong Trưởng Lão kệ có nhiều bài kệ của Ðại Ðức. Ở đây, chúng tôi xin ghi lại
một vài bài tượng trưng đễ cúng dường và niệm ân một vị thánh tăng Niên Trưởng.
"Trên quả địa cầu này, có rất nhiều bảo vật. Thuận cảnh thích hợp với tham
dục lúc nào cũng chi phối nội tâm. Mưa trời làm sạch bụi trần cũng như chánh
niệm về định lý vô thường, bất lạc và phi ngã sẽ chế phục được các tà
niệm". Ðối với Ðại Ðức, những lời tán thán sau đây được phổ cập trong tăng
chúng:
-"Ðại Ðức là bậc tinh cần bất thối, đã
diệt được nguồn sinh tử, đã đạt cứu cánh phạm hạnh, đã khẻ mở vỏ cứng, đã cắt
đứt mọi trói buộc, đã san bằng được đại sơn, đã cặp bến an toàn, đã vượt thoát
ác ma, không phóng dật, cẩn ngôn, luôn luôn thúc liễm các căn, có nhiều thiện
hữu, có trí tuệ, đã diệt tận khổ đau, có tiết độ vật thực, chịu đựng muỗi mòng
và các loại bò sát như tướng chiến lâm trận."
Thỉnh thoảng Ðại Ðức tự bày tỏ cảm niệm: "Tôi không tham sống, không muốn
chết mà chỉ chờ đợi thời cơ. Tôi đã được phụng sự Ðức Như-lai, đã y cứ phụng
hành chánh pháp, đã quăng bỏ gánh nặng, đã loại trừ mọi nhân duyên đ???n hiện
hữu, đã hoàn thành hạnh tư lợi của người xuất gia và tự thấy không cần thiết
phải có bạn đồng trú."
Ðức Thiên vương Ðế Thích có lần đến cầu pháp, sau khi thính pháp, đã tán thán:
--"Tôi vô cùng hoan hỉ vì được nghe pháp-âm huyền diệu và được thưởng thức
pháp vị thật tuyệt vờI. Ðại Ðức đã thuyết giảng pháp ly dục có khả năng đoạn
diệt mọi chấp thủ".
Tóm lại, Ðại Ðức Annàkondanna đã phát đại nguyện và được Ðức Phật Padumuttara
thọ ký. Suốt một trăm ngàn kiếp trái đất hưởng phước nhơn thiên, đến kiếp thứ
một trăm ngàn lẽ một thì được sanh làm đại phú gia tại làng Donowatthu, gần
kinh đô Kapilavatthu được xuất gia cùng lúc với đoàn năm Tỳ-kheo và được đắc
quả A-la-hán sau khi nghe Ðức Phật thuyết kinh chuyển pháp-luân và kinh
vô-ngã-tướng tại vườn Lộc-uyển. Ðại Ðức định cư suốt 12 năm tại bờ hồ Chaddanta
gần chân núi Hi-mã-lạp và niết bàn tại đây. Xá lợi được tôn trí tại tháp vàng
do Ðức Bổn Sư dùng ngón tay thần hóa hiện gần Tam quan chùa Trúc Lâm, nước
Vương-xá.
Ðệ tử thành tâm kính lễ ngài Trưởng Lão Annakondanna, một vị Thánh Tăng có
phước lớn gần như Ðức Phật, vị Tỳ-kheo Niên-trưởng trong đạo tràng của Ðức Bổn
Sư. Cầu mong phúc đức vô lượng của Ngài trợ duyên cho đệ tử đày đủ nghị lực
bước theo dấu chân Ngài trong cung cách dung thông hữu lậu và vô lậu công đức.
Ngài Moggallana-Mục
Kiền Liên
Khoảng một a-tăng kỳ và một trăm ngàn kiếp về
trước, có một đại phú gia tên Sirivaddha - là bạn chí thân của đạo sĩ Sarada,
tiền thân của Sàrìputta. Lúc bấy giờ, nhờ nghe lời vị đạo sĩ bạn, ông đại phú
phát tâm trong sạch thiết lập trai đàn, cúng đường trai tăng đến một trăm ngàn
thánh chúng do Ðức Phật Tổ Anomadassì chủ tọa. Ðến ngày thứ bảy, ông cúng dường
vãi may y hảo hạng cho Ðức Phật và toàn thể thánh chúng và nhất tâm lập đại
nguyện:
-- Bạch Ðức Thế Tôn, đạo sĩ Sarada - bạn chí thân của đệ tử - đã phát nguyện
làm đệ nhất Ðại Ðệ Tử của vị đương lai Phật Tổ nào thì đệ tử cũng xin được làm
Ðệ nhị Ðại Ðệ Tử cũa vị Phật Tổ ấy.
Ðức Thế Tôn Anomadassì, qua thiên nhãn thuần tịnh, nhận thấy lập nguyện của
Sìrìvaddha sẽ được thành tựu, bèn nghiêm từ thọ ký:
-- Một a-tăng kỳ và một trăm ngàn kiếp về sau, ngươi sẽ được làm vị Ðệ nhị Ðại
Ðệ Tử của Ðức Phật tổ Gotama.
Kể từ ấy, ông đại phú luôn luôn tích cực tiến tu Phúc Huệ nhất là thực hiện
hạnh đại -thí trong những hoàn cảnh thuận duyên. Sau khi mạng chung, ông được
hóa sanh dục thiên giớI. Ðược làm vua trời Ðế Thích 177 lần, làm chuyển luân
vương 55 lần, làm Quốc vương 108 lần. Ðến thời Ðức Bổn Sư, ông sinh vào một gia
đình Bà-la-môn, làng Kolità, gần thành Ràjagaha, tên Kolita. Sau khi xuất gia
được gọi là Moggallàna (Mục-kiền-Liên). Thân sinh là ông Kolita, thân mẫu là bà
Moggalì. Mối tình thâm giao giữa Kolita và Ðại Ðức Sàrìputta đã được tường thuật
đầy đủ ở câu chuyện số 2.
Khi được nghe nguyên văn câu Phật ngôn do bạn Upatissa đọc lại thì Kolita đắc
được thánh quả Tu-đà-hườn. Sau đó, hai bạn nhất trí cùng nhau, mỗi người hướng
dẩn 500 người gia nhân đến bái kiến Ðức Thế Tôn, nhưng chỉ có phân nửa tình
nguyện đi theo, còn phân nửa xin ở lại. Trong cuộc bái kiến Ðức Thế Tôn lần
này, hai bạn cùng được xuất gia bằng phương thức "Thiện-lai tỳ-kheo".
Xuất gia được bảy ngày, Ðại Ðức Moggallàna tịnh cư hành thiền ở gần làng
Kalavàla, xứ Magadha, nhưng bị triền cái hôn thụy chi phối trầm trọng. Nhờ Ðức
Bổn Sư trợ duyên điềm chỉ phương pháp minh sát, quán về Tứ-Ðại nên đắc được
A-la-hán, bậc có bốn tuệ vô-ngại-giải. Sau khi Ðại Ðức Xá-lợi-Phất được chính
thức ấn chứng là Ðệ nhất Trí Tuệ thì cũng được Ðức Thế Tôn chính thức tuyên
dương là Ðệ nhất Thần Thông.
Trong một phiên họp vô cùng quan trọng có tánh cách quyết định của nhóm Lục Sư
ngoại đạo để đối phó với Phật-giáo, họ nhất trí phải thanh toán Ðại Ðức
Moggallàna, vì theo họ, sở dĩ Phật giáo được cực thịnh là nhờ Ðại Ðức khi thì
lên trờI, lúc thì xuống đngục tìm hiểu sinh
hoạt lạc, khổ của các hạng chúng sanh ấy rồi dem về thuật lại ở cỏi dương gian
cho nên mọi người mới nể phục, tin tưởng và quy ngưỡng Phật-giáo. Nếu thanh
toán được Ðại Ðức thì Phật-giáo sẽ bị suy yếu hoặc tối thiểu bị dậm chân tại
chổ.
Quyết định xong, họ thuê 500 tên cướp hạ sát Ðại Ðức. Tiền tài, ám nhãn, hơn
nửa, đã quen tánh cướp của giết người, cọng thêm số tiền thù lao quá lớn, bọn
cướp quyết tâm thi hành thủ đoạn. họ bao vây Ðại Ðức suốt ba tháng ròng rả.
Tháng đầu, Ðại Ðức dùng thần thông thoát thân theo cánh én; tháng thứ hai, theo
lổ lạc. Ðến tháng thứ ba - tháng định mệnh - Ðại Ðức dùng Túc-mạng-Thông truy
nguyên thì thấy rỏ đây là quả báo của trọng nghiệp trong tiền kiếp, vì nghe lời
vợ, đánh đập cha mẹ đến phải thương vong.Tự thấy tội lỗ tầy trời của mình không
đáng hưởng trường hợp ngọai lệ, nên Ðại Ðức vui lòng trả nghiệp, mặc dù ngài có
thừa thần thông thoát. Ðừng nói một bọn cướp 500 tên, mà ngay thiên binh vạn
mã, cũng không làm gì được nếu ngài phản ứng. Lúc bấy giờ, bọn cướp giết được
ngài nhưng vì quá sợ thần lực của ngài nên chúng chặt ngài ra từng đoạn, đập
gảy xương từng khúc, rồi dần nát ra và khi tin chắc ngài không thể sống được,
chúng mới chịu rút lui.
Sau khi bọn cướp đi rồi, Ðại Ðức dùng thần thông hoàn hình như cũ và bay về
chùa Trúc Lâm, bái kiến Ðức Bổn Sư, xin phép nhập Niết-bàn. Ðức Bổn Sư phán
hỏi:
-- Mục-kiền-Liên sẽ Niết bàn tại đâu?
-- Bạch Thế Tôn, đệ tử sẽ Niết bàn tại làng Kàlasilà.
-- Mục-kiền-Liên hãy liệu lấy thời cơ.Nhưng sau cuộc tiếp xúc này, các pháp hữu
của ông sẽ không còn gặp lại một vị tỳ-kheo như ông nữa. Vậy, ông hãy ban bố
cho họ một thời pháp.
Tuân hành thánh huấn, Ðại Ðức Xá-lợi-Phất hiển lộng thần thông như Ðại Ðức đã
từng khai triển một tuần trước. Sau đó, Ðại Ðức dảnh lễ lần cuối cùng bàn chân
Ðức Thế Tôn và đi đến làng Kàlasilà nhập Niết bàn.
Tin Ðại Ðức nhập diệt đã khiến dư luận xúc động mãnh liệt. Họ đều bảo rằng Ðại
Ðức bị mưu sát, chớ chưa đến thời kỳ nhập Niết bàn. Tin động trời này lọt đến
tai đức vua A-xà-Thế (Ajàtasattu). Nhà vua hạ mật lịnh truy lùng những kẻ sát
nhơn. Không đầy ba hôm, 500 tên cướp đều bị sa lưới pháp luật. Trong cuộc thẩm
vấn, bọn cướp cung khai là do nhóm Lục sư ngoại đạo thuê giết. Những kẻ chủ mưu
thuộc nhóm Lục sư bị bắt thêm khoản 500 người nửa. Tất cả đều bị hành hình.
Những bài kệ do Ðại Ðức ứng khẩu trong nhiều trường hợp có đến 68 bài, ý nghĩa
súc tích, thâm huyền, hướng thượng và chứa đựng chất liệu giải thoát. chúng
to6i xin trích ghi lại đây một phần nhỏ để nói lên lòng tôn sùng tuyệt đói và
sự ngưỡng mộ cao độ của chúng tôi đói với vị Thánh Tăng Ðệ Nhất Thần Thông có
một không hai trong đạo tràng của Ðức Từ Phụ.
Trước khi trích ghi bài kệ sau đây của ngài, tưởng chúng ta cũng nên biết qua
duyên khởi
... Một lần nọ, một cô kỷ nữ dùng nhiều lời lẽ trử tình cám dổ ngài. Ngài cảnh
tỉnh cô ta:
-- Bần đạo kinh tởm cái chòi bằng nhiều khúc xương, chằng chịt bằng những sợi
gân, chứa đựng toàn vật nhơ uế, muì hôi xông lên khó ngữi. Những uế vật ấy được
bài tiết theo cữu khiếu thường trực. Nhờ lớp da bao bọc, bằng không, cái thân
nhơ uế của tín nữ còn đáng kinh tởm hơn nhiều. Nếu mọi người đều thấy rỏ thực
chất đáng gớm ấy trong cơ thể tín nữ thì họ sẽ tránh xa tín nữ như tránh xa hầm
phẩn vậy.
Mặc dù trong thâm tâm đã ít nhiều nhận sự thật, nhuung chưa chịu khuất phục, cô
ta trả đòn nhẹ nhàng nhưng nguy hiểm ;
-- Thưa ngài Sa-môn, thưa nguuời hùng! Những lời ngài nói hoàn toàn đúng sự
thật. Nhuung người đời đa số đều thích nhào xuống hầm phẩn ấy như bò già bị sa
lầy.
Thấy chưa đánh tan được dục niệm trong lòng cô ta, Ðại Ðức tăng viện đạo lực:
-- Này tín nữ, người lấy chàm hoặc nước sơn để nhuộm hoặc tô màu hư không sẽ bị
hoài công vô ích. Tâm hồn bần đạo như hư không. Tín nữ chớ đem cái tâm niệm dục
nhiễm của tín nữ mà đánh giá tâm niệm vô cấu, vô nhiễm của bần đạo. Nếu tín nữ
không kịp thời tỉnh ngộ, đình chỉ dục niệm bất chánh thì cầm bằng như con thiêu
thân lao đầu vào đóng lửa tự sát.
Nhờ Ðại Ðức thẳng thắn cảnh giác, cô kỷ nữ cảm thấy hổ thẹn, rút lui.
Ðệ tử kính lễ ngài Trưởng lão Moggallàna, bậc thánh A-la-hán có bốn trí tuệ
vô-ngại-giải, vị Ðại Ðệ Tử tay trái, được Ðức Thế Tôn ấn chứng thanh vị Ðệ Nhất
Thần Thông. Cầu mong thần thông kỳ diệu của Ngài hoán chuyển tâm hồn những
người còn nhiều mê vọng được đắc quả vô thượng bồ đề. Ðệ tử cầu xin đắc được
một phần thần thông vô cấu, vô nhiễm của Ngài.
Trong một chu kỳ một trăm ngàn kiếp trái đất về trước, Ðức Phật Tổ Padumuttara
giáng trần, ngụ tại tịnh xá trong vườn Khemamigadàya, gần kinh đô Hamsavatì.
Lúc bấy giờ, Ðại Ðức Mahàkassapa chuyển kiếp làm đại phú trưởng giả, tên vedcha,
thừa hưởng gia tài 80 triệu.
Một buổi sáng, sau khi điểm tâm và phát nguyện thọ bát quan trai, Vedeha cầm
tràng hoa, hương liệu đến chùa cúng dường Ðức Thế Tôn. Chiều hôm ấy, Ðức Thế
Tôn trạch cử một vị thánh tỳ-kheo làm Ðệ Tam Ðại Ðệ Tử, pháp danh Mahà Nisabha
và ấn chứng thánh vị Ðệ Nhất Ðầu Ðà. Ðược chứng kiến cuộc trạch cử và ấn chứng
vô cùng trọng thể này, Vedcha lấy làm hoan hỉ. Sau khi đại chúng thính pháp ra
về, Vedcha cung thỉnh Ðức Thế Tôn quang lâm tư gia thọ trai. Ðức Thế Tôn cho
biết số Tỳ-kheo hiện diện là sáu triệu tám trăm ngàn vị (6.800.000). Vedcha yêu
cầu cho mình được cung thỉnh toàn thể kể cả vị Sadi nhỏ nhất.
Ðức Thế Tôn và chư tăng hôm sau thọ trai tại tư gia Vedcha. Trong khi Ðức Thế
Tôn đang thọ trai và Vedcha ngồi hầu thì Ðại Ðức Mahà Nisabha khất thực ngang
nhà. Vedcha lập tức xin nhập bát, chính tay để thực phẩm vào bát và đem trở ra
cúng dường Ðại Ðức. Chờ Ðại Ðức đi một đổi đường, bèn trở vào bạch Phật:
-- Bạch Ðức thế Tôn, có phải đạo hạnh của Ðại Ðức Mahà Nisabha cao hơn Thế Tôn?
Trong khi cung thỉnh Ðại Ðức vào nhà đệ tử có bạch là Thế Tôn đang ngự trong
này, mà Ðại Ðức vẩn không vào.
Ðức Thế Tôn tán thán Ðại Ðức Nisabha:
-- Này thiện nam, tăng chúng và Như-lai cần thực phẩm nên ngồi trong nhà còn vị
ấy không ngồi chờ nhận thực phẩm trong nhà; tăng chúng và Như-lai tạm trú trong
tư thất gần làng, còn vị ấy chỉ sống ở trong rừng; tăng chúng và Như-lai ở
những nơi không tịnh. Ðó là đạo hạnh của Mahà Nisabha.
Vedcha vô cùng hoan hỉ và tự tâm đã có chủ định. Suốt bảy ngày cúng dường đại
thí, Vedcha luôn thành kính, trong sạch và hoan hỉ. Ðến ngày thứ bảy, Vedcha
cúng dường vải may y hảo hạng đến Ðức Thế Tôn và toàn thể tăng chúng rồi mọp sát
chân Ðức Thế Tôn phát nguyện:
-- Bạch Ðức Thế Tôn, suốt bảy ngày, cúng dường tịnh thí, thân, khẩu, ý đệ tử
hoàn toàn trong sạch. Ðệ tử xin phát nguyện được trở thành một vị thinh văn Ðệ
Nhất về hạnh đầu-đà trong đạo tràng của một vị đương lai Phật Tổ.
Ðức Thế Tôn Padumuttara, với thiên nhãn thuần tịnh, nhận thấy lập nguyện của
Vedcha sẽ được thành tựu, Ngài nghiêm từ thọ ký:
-- Một trăm ngàn kiếp về sau, sẽ có một vị Phật Tổ tôn hiệu Gotama, giáng trần
hóa đạo, ngươi sẽ được làm Ðệ Tam Thinh-văn của Ngài và được chính thức ấn chứng
pháp vị là Ðầu-đà Ðệ Nhứt.
Vedcha mừng hơn bắt được vàng, hơn cả chết đi được sống lại. Một thời hạn dài
kỷ lục là một trăm ngàn kiếp trái đất, vậy mà Vedcha không cảm thấy lâu, trái
lại có cảm tưởng như mình sắp được chứng quả ngay ngày hôm sau. Từ đây, Vecha
luôn luôn nghiêm trì giáo pháp, thực hiện hạnh bố thí không ngừng, và sau khi
thân hoại mạng chung được hóa sanh thiên giới. Hết phước trời lại hưởng phước
người tái tục nhiều lần như vậy ; cho đến kiếp thứ 91 ngàn thì chuyển kiếp sanh
vào một gia đình thật nghèo, giai cấp Bà-la-môn.
Lúc bấy giờ nhằm thời kỳ giáo pháp Ðức Thế Tôn Vipassì (Tì-bà-Thi ). Ðng bảy
năm, Ngài mới thuyết pháp một lần. Mỗi lần như vậy thì chư thiên bay đi khắp
cỏi diêm -phù báo tin mừng, khiến cho trời, người vô cùng hân hoan phấn-khởI.
Vì gia cảnh quá nghèo, vợ chồng chỉ có một cái khố. Mỗi khi chồng hữu sự ra
ngoài thì vợ phải ẩn mình trong chòi. Hôm được nghe lời rao truyền của chư
thiên, chồng hỏi vợ:
-- Này em, em định đi nghe pháp ban ngày hay ban đêm?
-- Thưa anh, phận em là nữ, vấn đề đi đứng đêm hôm bất tiện. Do đó, anh cho em
đi nghe pháp ban ngày.
Người chồng đồng ý. Khi vợ trở về thì chồng lật đật quấn khố đến chùa trong
công viên Khemamigadàya, gần thành nội Bandhumatì. Trong khi nghe pháp, chàng
phát sanh phỉ lạc. Luồng điện phỉ lạc lưu chuyển khắp toàn thân, xuyên qua từng
đường gân, thớ thịt, khiến chàng cảm thấy vô cùng an lạc. Suốt canh một, chàng
đã nhiều lần quyết tâm đem cái khố cúng dường Ðức Phật, nhưng phiền não ma đà
trở ngại đạo tâm, viện lý hai vợ chồng chỉ có một cái khố, nếu đem bố thí thì
chắc chắn phải chết đói.
Sang canh hai, luồng điện phỉ lạc vận hành mạnh hơn nhưng chàng cũng không thực
hiện được đạo tâm bố thí. Mãi đến canh ba, chàng mới dứt khoát, cuộn tròn cái
khố cúng dường dưới chân Ðức Phật, rồi vổ tay lớn tiếng ứng khẩu 3 lần:
"Ta thắng rồi, ta thắng rồi."
Câu ứng khẩu của chàng khiến Ðức Vua đang ngồi nghe pháp cảm thấy khó chịu. Vì
danh từ - thắng, toàn thắng, đại thắng, v.v... - chỉ dành cho nhà vua sau những
lần chiến thắng mới có quyền dùng khẩu hiệu ấy. Khi được hỏi, chàng thú thật vì
quá hoan hỉ với chiến công tự thắng tâm lý sợ chết vì hai vợ chồng chỉ có một
cái khố duy nhất. Thế nên phải phấn đấu quyết liệt suốt từ canh một đến giờ mới
dứt khoát đem cúng dường được. Ðức vua vô cùng cảm động và hoan hỉ.
Ngài ban thưởng cho
chàng, hai bộ y phục hảo hạng. Chàng đem hai bộ y phục ấy
cúng dường Ðức Phật. Ðức vua lại ban cho bốn bộ. Chàng lại cũng đem cúng dường
tất cả. Số y phục đức Vua ban cho được ghi nhận là cứ nhơn lên gấp đôi và, chàng
đều cúng dường tất
cả. Ðến khi số lượng y phục tăng lên con số 32 bộ, thì chàng
cúng dường 30 bộ và chỉ dành lại 2 bộ đủ cho vợ chồng dùng mà thôi. Từ ấy về sau, đức vua rất có cảm tình với anh chàng nghèo này.
Một hôm, mùa đông giá lạnh, đức vua đi chùa nghe pháp, thấy anh chàng nghèo không có áo lạnh, ngài
bèn cởi chiếc áo ngự hàn màu đỏ ban cho và căn dặn từ nay hãy mặc nó mỗi khi đi
chùa nghe pháp. Nhưng sau đó, anh chàng
bèn căng ra làm trần che bụi trong hương
thất Ðức Phật. Một hôm, đức vua có dịp bái kiến Ðức Thế Tôn
và ngồi hầu Ngài trong hương thất. Ngay lúc ấy, hào quang sáu màu từ kim thân Ðức Thế Tôn tỏa ra
phản chiếu khiến cho màu sắc tấm trần vô cùng rực rở. Nhìn biết ngự hàn của
mình, nhà vua bạch hỏi. Ðức Thế Tôn cho biết, chính anh chàng nghèo đã làm trần
cúng dường Ngài. Ðức vua tự nghĩ "Tại sao mình không biết tìm cách cúng dường cho được thích đáng như anh ta?". Thế là đức vua ban thưởng cho anh chàng nghèo nhiều trăm nhu yếu phẩm, mỗi thứ 8 phần. Chẳng hạn như ruộng 8 mẫu, bò 8 con,
nam công nhân 8 người, nữ công nhân 8
người vân vân và vân vân. Ðồng thời đúc
vua sắc phong cho chàng chức vị Thừa Tướng.
Bắt đầu từ ấy, tân Thừa Tướng
giúp vua điều hành quốc sự rất đắc lực. Thừa Tướng xin cúng dường thực phẩm mỗi
ngày đến chư tăng qua 64 lá thăm. Nghĩa là vị nào bắt được những lá thăm ấy thì
đến thọ trai tại tư dinh của Thừa Tướng.
Sau khi mạng chung, Thừa Tướng
được sanh làm trời. Hết phước trời lại hưởng phước người. Trước khi Ðức Phật
Kassapa giáng trần, Thừa Tướng sinh vào một gia đình bá hộ. Tại Bàrànasì,
lớn lên có gia đình. Một hôm, đang du ngoạn, ông bá hộ thấy một vị Phật Ðộc-giác
đang ngồi may y gần bờ sông, nhưng thiếu vải. Ông lập tức tháo vuông khăn trắng quàng cổ cúng dường và phát nguyện:
-- Bạch ngài, do công đức cúng dường
với tất cả lòng trong
sạch hôm nay, xin cho tôi đừng bao giờ gặp điều bất
hạnh.
Ðức Phật Ðộc giác phúc chúc cho chàng được đắc kỳ sở
nguyện.
Sau đó không lâu, vợ ông có dịp cúng dường thực phẩm, hoa sen cho
Ðức Phật Ðộc giác và phát nguyện:
-- Do phước cúng đường tịnh thí
hôm nay, xin cho đệ tử có một sắc đẹp tươi thơm như đóa hồng liên.
Ðức Phật Ðộc giác phúc chúc cho nàng được đắc kỳ sở nguyện.
Vợ chồng tiếp tục thực
hiện mọi thiện sự nhất là bố thí và, sau khi mạng chung đều được hóa sanh thiên giới.
Ðến thời kỳ Ðức
Thế Tôn Kassapa xuất trần, người chồng được sanh
làm đại-phú gia, tài sản 80 triệu và, người vợ cũng được sanh vào một gia đình
triệu phú, cùng chung sinh quán là Bàrànasì. Lớn lên, hai người nên duyên chồng
vợ.
Sau khi Ðức Thế Tôn Kassapa
nhập Niết bàn,
người chồng đặt thợ làm
hoa sen vàng, lớn bằng bánh xe
cúng dường bảo tháp, còn vợ thì cúng dường bằng 8
đóa hồng liên tươi. Sau khi mạng chung cả hai đều được sanh thiên. Hết phước trời, hai người cùng chuyển kiếp làm người. Chồng làm đại tướng. Vợ là công
chúa. Lớn lên hai người được nên nghĩa vợ chồng. Khi vua thăng hà, phò mã được
kế vị. Có một điều rất lạ là ngay ngày Phò-mã đăng quang thì
trong vườn thượng
uyển bổng mọc lên 8 cây Như-ý-Thọ ở tám hướng. Ðức vua thường đem những quí kim,
quí vật tự sanh từ những cây Như-ý-Thọ này ban cho dân chúng. Mỗi ngày, tại
hoàng thành, đức vua và Hoàng hậu đều có cúng dường thực phẩm đến 500 vị Phật
Ðộc giác. Ðến khi lớn tuổi, Nhị vị cùng xuất gia và tích cực hành thiền Tứ-vô-lượng-tâm. Sau khi thân hoại mạng chung,
Nhị vị đều được hóa sanh Phạm
Thiên giới.
Ðến thời kỳ Ðức Bổn Sư Thích-ca giáng trần, người chồng sanh
vào một gia đình Bà-la-môn,
tại thị trấn Mahàtittha, xứ Magadha, tên Pipphali. Còn người vợ thì sanh vào một gia đình Bà-la-môn,
giòng Kosiya, tại thị trấn
Sàgala, cũng xứ Magadha, tên
Bhaddàkàpilànì.
Khi chàng được 20 tuổi, cha mẹ quyết định cưới vợ cho chàng, nhưng chàng quyết sống độc thân phụng dưỡng Hai
Thân và, sẽ đi tu sau khi
cha mẹ mãn phần. nhưng cha mẹ chàng tỏ ý không được
vui và cứ nhắc chuyện ấy mãi. Một hôm, cha mẹ chàng lại đem chuyện cưới vợ ra
nói nữa. Chàng bèn lấy một ngàn lượng vàng thuê thợ đúc một tượng kiều nữ tuyệt
trần và nói rằng nếu có thiếu nữ nào đẹp như vậy thì sẽ ưng ý.
Cha mẹ chàng bàn bạc: "Con mình có phước lớn, biết
đâu chẳng có một thiếu nữ kiều diễm
xứng đôi vừa lứa với nó." Sau khi nhất trí, ông bà
bèn giao phó trọng trách cho
8 vị bô lão Bà-la-môn có danh vị và uy-tín, mang tượng vàng trên xe đi tìm người
đẹp. Nhờ có phương tiện đầy đủ, một hôm tám vị đến thị trấn Sàgala, cho đem
tượng vàng dựng gần một ao nước công cộng chờ xem phản ứng. Tượng vàng đã đẹp
lại thêm được phục sức toàn những thứ y trang thượng hảo hạng nên thoáng nhìn tưởng là tiên nữ giáng phàm.
Chiều hôm ấy, một số thị nữ của nàng
Bhaddàkàpilànì, được phân công đi đội nước. Vua trông thấy tượng vàng ngở là
tiểu thơ của mình, bèn đến cung kính, quì cúi đầu chờ sai bảo. Ngay lúc ấy, tám
vị bô lão xuất hiện gạn hỏi thì được các thị nữ cho biết là tiểu thơ của họ còn
đẹp hơn tượng nhiều. Thế là Tám vị theo chân các thị nữ đến gặp cha mẹ nàng
Bhaddàkàpilànì, trân trọng trao tặng tượng vàng làm sính lễ.
Sau khi được nhà gái ưng thuận, Tám vị bô lão lập tức trở về hồi báo tin mừng. Cha mẹ
chàng vô cùng sung sướng, nhưng tâm trạng chàng hoàn toàn trái ngược vì đã tự
chọn cho mình một lý tưởng xuất gia ly dục rồi. Trước sự kiện trái nghịch này,
chàng viết cho nàng một lá thơ:
"Cô Bhaddà quí mến,
Thú thật với cô, tôi đã quyết chí đi tu, không thích đời sống gia đình. Xin cô thông cảm cho chí nguyện của tôi.
cầu mong cô gặp được một người chồng thực sự lý tưởng.
Một người bạn của cô,
Pipphali "
Riêng tâm trạng cô
Bhaddà cũng vô cùng khó xử. Hơn nửa, gia giáo Ấn-độ rất
nghiêm khắc với nữ giới. Không còn biện pháp nào khác, nàng cũng viết cho chàng
một lá thư, đại ý giống hệch lá thư chàng gởi cho nàng. Thật là một sự trùng hợp
kỳ thú.
Hai người đi thơ gặp nhau giữa đường. Vì là thân tín của chủ, nên hai người cũng rất thương chủ. Nhận thấy có sự bất ổn trong hai lá thơ, hai người quyết định tìm hiểu để kịp thời đói phó. Thì quả thật họ đoán không sai.
Hai người bèn mạo thơ với ý nghĩa tương phản và, do
đó, hôn lễ được cử hành vô
cùng trọng thể. Ðêm động phòng hoa chúc, chàng lấy một tràng hoa thật to ngăn
giữa hai ngườI. Mỗi người đều lo sợ có sự đụng chạm xác thịt nên luôn luôn cảnh giác, lại thêm một tư tưởng trùng hợp. Cuộc sống như vậy trôi đi trong
bình lặng, hòa hài và nghiêm cẩn, không có bất cứ sơ hở nào để cha mẹ phải buồn
lòng.
Sau khi cha mẹ qua đời, chàng phải trực tiếp quản lý, đìều hành gia
tài. Chỉ riêng cặn vàng được lọc ra từ 60 cái, mạch nước mỗi ngày cũng lên đến
số lượng 12 lít. Riêng nhà cửa dành cho công nhân ở chiếm một chu vi rộng 12
do-tuần tức diện tích 12 gần cây số vuông. Ngoài ra, chàng còn có 140 thớt voi, 140 con ngựa tốt, 140 chiếc xe và trâu bò nhiều gấp mười.
Một hôm, chàng cởi ngựa tham quan cơ sở nông nghiệp, nhìn thấy cảnh chim chốc dành nhau cắn mổ
trùng dế theo các luống cày, chàng
bèn hỏi nhuũng cộng sự viên:
-- Các bạn này, trường hợp chim chốc dành nhau cắn mổ trùng dế theo các luống cày thì
tội về phần ai chịu?
-- Thưa ông chủ, tất cả điền sản này là của ông
chủ, nên tội cũng về phần ông chủ chịu.
Ngồi trên lưng ngựa, chàng miên man suy nghĩ: "Ta thụ hưởng bất quá vật thực một bụng, quần áo một thân, giường nệm
một lưng, sống không quá 100 năm. Trong khi tất cả tội lỗi thì ta phải gánh chịu
riêng mình. Luân hồi khổ sẽ xô đảy ta vào vô cùng của sinh tử. Ta sẽ tặng tất cả
gia tài này cho Bhaddàkàpilàn rồi ta đi tu."
Riêng nàng Bhaddàkàpilànì ở nhà, ngồi coi các thị nữ phơi lúa, phơi đău và các loại ngũ cốc. Những sinh vật
nhỏ bò ra bị những sinh vật lớn xúm nhau
dành dựt sát hại. Trước cảnh tượng bất
công ấy, nàng hỏi các thị nữ:
-- Này các em, những con vật nhỏ trong lúa,
đậu bò ra bị những con vật lớn sát hại thì ấy về phần ai?
-- Thưa cô chủ, tất cả tài vật ở đây là của cô chủ. Cho nên tội ấy cũng về phần
cô chủ.
Nàng suy nghiệm: "Phải chi cuộc sống mình thực sự vô sản, chỉ cần
một bộ y để mặc, một phần cơm để ăn và một thảo lư để ở thì sung sướng, tiêu dao
biết mấy. Thôi thì chờ chàng về, mình sẽ xin phép đi tu."
Lại thêm một lần nữa hai người cùng có chánh
niệm trùng hợp một cách kỳ diệu.
Về đến nhà, chàng tắm rửa và ăn cơm trưa. Ăn xong, hai người rủ nhau qua ngồi phòng
khách. Chàng lên tiếng:
-- Bhaddà thân mến, khi về chung sống với anh,
Bhaddà đem theo bao nhiêu của hồi môn?
-- Thưa anh, em đem theo chỉ có 5
muôn 5 ngàn cổ xe mà thôi.
-- Bhaddà mến, hiện kim 87 tỷ và tất cả động
sản, bất động sản hiện có, anh xin giao hết cho Bhaddà trọn quyền sử
dụng.
-- Còn anh?
-- Anh sẽ đi tu.
-- Thưa anh, khi anh chưa về đến, em ở nhà cũng có ý nghĩ đó và
em đã dứt khoát, chỉ đợi anh về để
xin phép mà thôi.
Ngay lúc ấy, tam giới đói với hai người chẳng khác nhà
lá đang bị lửa cháy. Cả hai tìm vải màu đà, bát đất rồi ầm thầm thí phát, đấp y,
mang bát và lập tức rời lâu đài bảy tầng, nhắm hướng đường rừng thẳng tiến. Hai
người băng đường ruộng hy vọng đừng ai nhìn biết, nhưng một vài người nhận thấy
tướng mạo khác phàm và
họ để ý nhìn kỷ thì ra là cô, cậu chủ của họ. Thế là họ
kéo nhau đến, một đồn mười, mười đồn trăm, tất cả đều quì mọp dưới chân hai
người, khóc kể thật là bi ai thống thiết. Họ đồng loạt yêu cầu hai người đừng bỏ
họ bơ vơ không nơi nương tựa. Trước nay, họ đã được sống an vui, đầm ấm trong
tình thương yêu, đùm bọc của hai người. Giờ, nếu hai người bỏ họ ra đi thì đời
sống họ sẽ vô cùng lầm than
cơ cực.
Chàng khuyên họ nín khóc, im lặng nghe chàng nói:
-- Này các anh chị, thú thật với anh chị, hiện tại tam
giới đói với chúng tôi như nhà lửa. Nếu chúng tôi trì hoản thì số phận sẽ vô
phương cứu vản. Còn đời sống anh chị chúng tôi đã có dự liệu.
Sẳn có mặt đông đủ
tại đây, tôi xin
long trọng tuyên bố hiến tặng tất cả động sản và, bất động sản
cho anh chị toàn quyền sử dụng. Chúng tôi nghĩ, với số tài sản chia được đồng
đều này, anh chị đủ so6’ng sung sướng một đờI. Anh chị hãy đứng lên, tắm rửa
sạch sẽ, thành lập ủy ban phân phối tài sản và chính thức hưởng quyền thủ đắc
vĩnh viển các tài sản ấy. Xin tất cả anh chị nhận chút tình của chúng tôi. Tạm
biệt tất cả. Hẹn tái ngộ trong ánh đạo từ bi cứu khổ.
Hai người tiếp tục hành trình. Ði được một đoạn đường khá xa, chàng quay nhìn lại thấy nàng vẫn khoan thai nối gót, bèn tự nghĩ: "Sắc đẹp Bhaddà đáng giá
ngang cỏi Diêm-Phù, nếu nàng đi theo ta thì tránh sao cho khỏi dư luận đàm tiếu,
không khéo họ phải mang tôi, hoặc vì phát sanh dục niệm muốn chiếm hữu nàng,
hoặc có ý muốn làm hại mình thì tội lỗi ấy càng thêm nặng nề. Chi bằng, hai
người nên chia tay nhau". Trong khi chàng dứt khóat với ý nghĩ ấy thì hai người
cũng vừa đến ngã rẻ. Chàng dừng chân, quay mặt chờ nàng. Khi đói diện, chàng lên
tiếng:
-- Sư muôi, nếu có ai thấy chúng ta đã xuất gia mà cò đi chung
nhau thì họ sẽ nghĩ quấy và nói quấy về chúng ta. Tiện đây có hai con đường, vậy
muội hãy chọn một.
-- Thưa sư huynh, lời Sư-huynh dạy rất phải. Muội cũng
nhận thấy sự bất ổn ấy. Hơn nữa, nhi nữ là phiền não của phạm hạnh. Do đó, chúng
ta nên chia tay tại đây.
Nói xong, nàng chấp tay đi nhiễu ba vòng quanh chàng và quì lạy ở bốn phía: tay mặt, tay trái, phía sau và phía trước, rồi đứng
chấp tay nói lời sinh biệt:
-- Thưa Sư huynh, giờ phút chia tay đã điểm.
Chúng ta hoan hỉ và tình nguyện chấp nhận cuộc sống sinh biệt này. Nếu thân,
khẩu, ý muội có điều sơ sót, xin Sư huynh hãy từ bi hỉ xã. Là nam nhơn, Sư-huynh
nên chọn tay mặt. Còn muội là nữ nhi, thì
muội xin chọn con đường tay
trái.
Nói xong nàng quay mặt đi thẳng và không một lần nhìn
lại.
Ngay lúa ấy, quả địa cầu rung chuyển, đại dương nổi phong ba, núi Tu-di chuyển động, sét trời chớp nổ tứ giăng. Vũ trụ dường như không chịu nõi
trước cuộc chia tay mang tính chất ly dục hi hữu của hai người.
Thấy hiện tượng lạ, Ðức Bổn Sư đang ngự tại Trúc-lâm, dùng thiên nhãn thuần tịnh quán
chiếu, biết được chí nguyện thoát ly cao cả của hai người, Ngài đấp y, mang bát,
một mình rời hương thất, đi bộ khoảng 10
cây số và ngồi dưới gốc dừa lâu năm mọc
ngay giáp giới thị trấn Nàlandà và Ràjagaha. Hào quang từ kim thân Ngài
tỏa rộng
80 hắc tay, khiến như có nhiều mặt trăng, mặt trời phản chiếu ánh
sáng.
Nhờ căn lành tiền kiếp trợ duyên Pipphali vừa nhìn thấy Ðức
Thế Tôn thì biết ngay là Ðức Bổn Sư của mình, nên lập tức chấp tay, cuối đầu đến gần quì
mọp đảnh lễ và nghiêm túc ứng khẩu ba lần:
-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là
Bổn Sư của đệ tử. Ðệ tử là đệ tử của Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn nghiêm từ:
-- Này Kassapa, nếu ngươi chấp tay cung kính trái đất thì trái đất
cũng phải rung chuyển vì không chịu nổi phúc lực của ngươi. Nhưng đối với
Như-lai thì hoàn toàn trái ngược, vì Như-lai có nhiều đạo lực. Ngồi xuống đi
Kassapa! Như-lai sẽ trao truyền kho tàng chánh pháp cho ngươi.
Khích lệ xong, Ðức Thế Tôn cho
Kassapa thọ tỳ-kheo giới bằng phương thức Thiện-Lai
Tỳ-kheo và, hướng dẫn Kassapa trở về Trúc-lâm tịnh xá. Ðức Thế Tôn uy nghi và sáng chói với 32 Ðại Trượng Phu, tướng thì Ðại Ðức Kassapa cũng được 7 phần
mười. Ðại Ðức theo
sau Ðức Thế Tôn trông đẹp như thuyền vàng kéo chiếc thuyền
hoa. Ði một đổi đường, Ðức Thế Tôn rời đường mòn đến gốc cây da tỏ ý muốn ngồi.
Ðại Ðức lập tức lấy y tăng già lê bốn lớp của mình trải cho Ðức Thế Tôn an tọa.
Khi an tọa, Ngài lấy tay rờ tăng già
lê của Ðại Ðức, khen thịt y mềm và mịn. Ðại
Ðức lãnh hội thánh ý, bèn
cẩn bạch:
-- Bạch Ðức Thế Tôn, xin Thế Tôn từ
mẫn sử dụng lá y này cho đệ tử được phước.
-- Còn Kassapa sẽ dùng y nào?
-- Nếu được Thế Tôn đặc ban y của Thế Tôn cho đệ tử, thì đệ tử sẽ vô
cùng hoan hỉ.
-- Này Kassapa, ngươi có thể dùng phấn tảo y cũ của Như-lai
được sao? Ngươi biết không, ngày Như -lai sử dụng phấn tảo y này, quả địa cầu đã
phải rung chuyển, bốn biển nổi phong ba. Người thiểu phước, kém đức không thể sử
dụng lá y tuy cũ nhưng nhiều oai lực của Như-lai được. Trừ phi người có đủ đạo
lực, ý lực và nghiêm
trì hạnh đầu đà phấn tảo y thì mới sử dụng
được.
Huấn thị xong, Ðức Thế Tôn nghiêm từ trao y tăng già lê của Ngài
cho Ðại Ðức Kassapa.
ngay lúc ấy, địa cầu lại rung chuyển, vì Ðức Thế Tôn chưa
từng trao đổi y tăng già lê với bất cứ vị thinh văn nào. Trước đặc ân này, Ðại
Ðức Kassapa đã lập nguyện thọ trì toàn bộ 13 hạnh đầu đà. Ðến ngày thứ tám, Ðại
Ðức chứng quả A-la-hán bậc có bốn tuệ vô ngại giải.
Một thời gian sau, Ðức Thế Tôn chính thức ấn chứng pháp vị Ðại Ðức là Ðầu-đà Ðệ Nhất. Ngay trong
cuộc lễ này, Ðức Thế Tôn tán dương Ðại Ðức:
-- Này các tỳ-kheo, Kassapa cũng như mặt trăng. Thân, khẩu, ý, Kassapa hoàn toàn trong sạch. Ðối với dục
niệm và bất thiện pháp, tâm
hồn Kassapa vô nhiễm như hư không. Ðối với thiện
pháp thì tâm hồn Kassapa cũng vô cầu như hư không.
Sau khi Ðức Thế Tôn nhập Niết bàn, chính Ðại Ðức đứng ra triệu tập đại hội Kết Tập thánh giáo thành Tam Tạng Thánh điển và là tọa chủ trong kỳ Kết Tập vì
ngài là vị Trưởng lão tôn túc, được toàn thể Tăng già tôn xưng là Tăng Trưởng, là Tăng Chưởng, là Thượng
Thủ của Tăng già. Lúc bấy giờ tuổi đời ngài cũng đã lên đến con số
120.
Cuối thời điểm của 120, tức sau khi hoàn thành công trình kết tập
Tam Tạng Thánh điển, Ngài nhập Niết bàn giữa ba ngọn núi nhỏ có tên là
Kukutasampàta, gần chùa Trúc-lâm, xứ Ràjagaha, nước Magadha.
Ðệ tử kính lễ ngài Ðại Ðức Trưởng lão Mahà Kassapa, vị thánh tăng A-la-hán có bốn tuệ vô ngại giải, bậc thừa hưởng đặc ân Ðức Thế Tôn trao
đổi y Tăng già lê, vị thánh
đại Ðệ-tử được Ðức Bổn Sư chính thức ấn chứng pháp vị là Ðệ Nhất đầu
đà.
Cầu mong đức hạnh đầu đà thù thắng của Ngài nhiếp phục Phiền-não-ma
đang ngự trị trong tâm hồn chúng sanh và đệ tử. Cầu cho đệ tử luôn luôn được tắm
gội trong dòng suối thanh tịnh của Ngài.
44. Căn
bản của mọi người Học Phật
Học Phật phải tu pháp môn căn bản, tức là tài
bồi căn lành, bồi nguyên cố bổn. Bồi nguyên tức là bồi dưỡng nguyên khí. Cố bổn
tức là khiến cho gốc rễ kiên cố. Nguyên gọi là gì ? Bổn gọi là gì ? Nguyên là
nguyên khí. Chúng ta ai ai cũng cần gốc. Gốc tức là gốc rễ, tức là cha mẹ. Cha
mẹ sinh chúng ta ra, chúng ta phải hiếu thuận. Hiếu thuận cha mẹ mới là người
chân chánh tin Phật, không hiếu thuận cha mẹ, chẳng phải là người tin Phật.
Trên thế giới này cần phải hiếu thuận cha mẹ, nhất cử nhất động đều phải nghĩ
đến lợi ích cho thế giới, thì sẽ có một sức lực ảnh hưởng. Nếu người hiếu thuận
cha mẹ thì chánh khí trời đất tồn tại, không hiếu thuân cha mẹ thì trong trời
đất tràn ngập tà khí. Hiếu thuận cha mẹ phải thành tâm thành ý, tất cung tất
kính. Ðối với cha mẹ phải cung cung kính kính, cha mẹ tức là Phật sống hiện
tiền. Cho nên chúng ta thường cúng dường cha mẹ là một việc hạnh phúc và may
mắn nhất. Hiếu thuận cha mẹ phải dưỡng chí. Dưỡng chí tức là việc mà cha mẹ
hoan hỷ thì làm nhiều một chút, việc mà cha mẹ không hoan hỷ thì làm ít một
chút. Ðừng làm cha mẹ buồn phiền đau khổ, luôn luôn làm cho tâm của cha mẹ vui
vẻ. Tóm lại hiếu thuận cha mẹ là căn bản của con người. Không biết hiếu thuận
cha mẹ là quên mất gốc rễ. Chúng ta bất cứ vị nào cha mẹ còn sống thì nên hiếu
thuận cha mẹ, mỗi người đều phải hiếu thuận cha mẹ, như vậy so với cuối đầu lạy
sư phụ còn tốt hơn nhiều.
Khi tôi ở tại Ðông Bắc nước Tàu (Manchuria) làm Sa Di thì có rất nhiều người
quy y với tôi, tại sao họ quy y với tôi ? Vì thấy tôi có vẻ không giống như
người khác. Lúc đó có nhiều sự việc buồn cười. Mùa Ðông thì tôi không mang giày
cũng không mang tất, đi trên tuyết, chuyện hy kỳ như thế, lúc đó không màn là
trời lạnh hay không, chỉ mặc ba lớp vải bố. Vì vậy cho nên phần đông nhìn thấy
thời tiết âm dưới -34, -35 độ C, cũng lạnh không chết tôi, họ cảm thấy rất đặc
biệt, cho nên nhiều người quy y với tôi, nhưng quy y với tôi có một điều kiện,
phàm là đệ tử quy y với tôi, mỗi ngày đều phải lạy cha mẹ. Vì tôi là như thế,
mười hai tuổi thì lạy cha lạy mẹ, cung kính cha mẹ. Cho nên tôi hoan hỷ nhất là
ai ai cũng đều hiếu thuận với cha mẹ. Ðừng đợi cha mẹ chết rồi, có muốn hiếu
thuận cũng chẳng còn kịp nữa ! Ðừng đợi đến lúc :
‘’ Cây muốn đứng yên mà gió chẳng dừng,
Con muốn nuôi dưỡng mà cha mẹ không còn.’’
Cây muốn thanh tĩnh đứng yên, không giao động, nhưng gió luôn luôn thổi, làm
cho cây giao động. Làm con muốn cúng dường phụng dưỡng cha mẹ, nhưng cha mẹ đã
qua đời rồi. Các bạn, phàm là người còn cha mẹ, nên cung kính đối với cha mẹ.
Còn chúng ta là người xuất gia, nói là không ở nhà, có cha mẹ nhưng làm thế nào
? Chỉ cần bạn từ từ tu hành, tu hành cho tốt thì là báo ân cha mẹ, tức là hiếu
thuận. Nếu không tu hành đó là khinh thường cha mẹ, cho nên xuất gia tu đạo tức
cũng là hành hiếu đạo, tu hành cho tốt tức là hiếu thuận cha mẹ, đừng làm việc
ác, không nói dối, đó đều là hiếu thuận cha mẹ một khía cạnh. Làm một người con
tốt cho cha mẹ, trong vô hình cha mẹ đắc được cảm ứng đạo giao, đó đều là biểu
hiệu hiếu thuận cha mẹ. Cho nên nói :
‘’ Trời đất trọng hiếu, hiếu làm đầu,
Một chữ hiếu cả nhà yên,
Hiếu thuận thì sinh con hiếu thuận,
Con cái hiếu thuận tất người hiền.’’
Người học Phật phải hiếu thuận với cha mẹ, đây là một sức lực ảnh hưởng rất
lớn, sức lực ảnh hưởng lớn thì người tin Phật sẽ nhiều. Bạn và người khác tin
Phật chẳng có gì khác biệt. Người khác ăn cơm, bạn cũng ăn cơm, họ mặc đồ bạn
cũng mặc đồ, họ ngủ bạn cũng ngủ, với người khác đều giống nhau. Chúng ta tin
Phật chủ yếu là hiếu thuận cha mẹ, hiếu thuận cha mẹ tức là hiếu thuận trời Phật.
45. công
dụng của Chú Lăng Nghiêm
Có một câu nói là : Niệm Chú Ðại Bi, dám đấu
với vua Diêm Vương. Niệm Chú Ðại Bi thì quỷ thần không dám đấu. Nhưng bạn phải
thường niệm Chú Ðại Bi thì sẽ dám đấu với lão Diêm Vương. Lão Diêm Vương chẳng
có biện pháp. Niệm Chú Ðại Bi thì quỷ thần chẳng dám đấu. Quỷ thần đều sợ bạn.
Sợ ở đây chẳng phải là nóng giận mà là bạn có một sức lực chân chánh, quyền lực
chân chánh, đó gọi là có đức hạnh.
Có đạo đức thì Diêm Vương cũng phải nể bạn, quỷ thần cũng không dám nhiễu bạn,
chứ chẳng phải vì bạn quá nóng giận khiến người sợ sệt, quỷ thần kính mà rời
xa. Niệm Chú Ðại Bi có được oai lực như thế. Còn niệm Chú Lăng Nghiêm thì sao ?
Không có oai lực như thế ? Ðương nhiên là siêu việt hơn, học Chú Lăng Nghiêm
thiên chủ không dám đấu, mà ngược lại học Chú Lăng Nghiêm dám đấu với thiên
chủ. Vậy, nói Chú Lăng Nghiêm này phải chăng không giảng đạo lý ? Không phải !
Phải chăng cường từ đoạt lý ? Chẳng phải !
Bạn niệm Chú Lăng Nghiêm thì tương lai bảy đời về sau đều giàu có như ông vua
dầu hỏa của Mỹ, bảy đời đều làm viên ngoại, viên ngoại là người giàu có, nói
tốt hơn như vậy tôi phải mau học Chú Lăng Nghiêm, để đấu với thiên chủ, làm bảy
đời viên ngoại, đó là hy vọng nhỏ nhen, vậy đừng học Chú Lăng Nghiêm làm gì,
bảy đời làm viên ngoại thời gian cũng chỉ là một nháy mắt. Bạn đấu với thiên
chủ, đấu đi đấu lại vẫn lưu chuyển ở trong lục đạo luân hồi.
Vậy khi chưa niệm Chú Lăng Nghiêm phải cầu mong gì ? Phải cầu mong cứu kính làm
Phật, đắc được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Tam Miệu Tam Bồ Ðề, đừng cầu
cảnh giới nhỏ nhen như thế, mục đích nhỏ nhen như thế.
Trên thực tế, học Chú Lăng Nghiêm tức là hóa thân của Phật, không những là hóa
thân của Phật mà còn là hóa Phật trên đỉnh của Phật, hóa Phật trong hóa Phật,
đó là chỗ diệu không thể nghĩ bàn của Chú Lăng Nghiêm. Có người thật trì Chú
Lăng Nghiêm thì chu vi trong bốn mươi do tuần, không có tai nạn gì hết.
46. Những
ngôi chùa kỷ lục ba miền
4 ngôi chùa kỷ lục
miền Bắc
Chùa Dâu (Pháp Vân tự) thuộc
tỉnh Bắc Ninh, là ngôi chùa cổ xưa nhất Việt Nam. Được xây dựng từ thế kỷ thứ
3, chùa nằm ở vùng Dâu, tên chữ là Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Cổ Châu tự, người
dân còn gọi là chùa Cả.
Những buổi đầu Công nguyên, nơi đây tấp nập phồn hoa và diễn ra các hoạt động
giao thương, truyền giáo của các thương nhân tu sĩ người Ấn, người Hoa, người
Việt. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam.
Chùa Một Cột (Ba Đình - Hà Nội)
có kiến trúc độc đáo nhất, tên chữ là Diên Hựu (phúc lành dài lâu), được xây
dựng năm 1049 thời vua Lý Thái Tông. Đây là một công trình kiến trúc sáng tạo
kết hợp không gian kiến trúc có nhịp điệu cao thấp gồm điêu khắc đá, hội họa,
chạm vẽ hành lang, mặt nước là biểu tượng văn hóa, nghệ thuật cao, tính dân tộc
đậm nét. Chùa chỉ có một gian gọi là Liên Hoa Đài (đài hoa sen) hình vuông mỗi
chiều 3m, mái cong dựng trên cột đá hình trụ cao 4m, đường kính 1,2m. Sự độc
đáo của kiến trúc chùa là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá.
Chùa Đồng
(Yên Tử - Quảng Ninh) tọa lạc trên độ cao 1.068m, là ngôi chùa lớn nhất và được
xếp vào hàng độc đáo nhất trên thế giới. Chùa có diện tích 20m2 (cao 3,11m, dài
4,96m, rộng 3,96m) được lắp ráp từ 3.600 chi tiết lớn nhỏ, trọng lượng đến 60
tấn được đúc bằng đồng nguyên chất với tổng kinh phí hơn 20,2 tỷ đồng.
Chùa Bái Đính (Hoa Lư - Ninh
Bình): khu chùa lớn nhất Việt Nam, đang được xây dựng, dự kiến năm 2010 sẽ hoàn
thành để kỷ niệm 1.000 năm vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (1010
- 2010). Gồm những công trình chính là Điện Tam Thế, Điện thờ Pháp Chủ, Điện
thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, Tam quan, giếng Ngọc, hồ Phóng Sinh, hồ Đàm Thị, khu
thờ Mẫu, khu thờ Tổ, khu tháp mộ sư, khu nhà Tăng thiền viện, khu nhà khách,
Bảo tháp 14 tầng và khu Bảo tàng Phật giáo Việt Nam... Chùa có tượng A Di Đà
bằng đồng lớn nhất Việt Nam, nặng 100 tấn, có 500 tượng các vị La Hán bằng đá
nguyên khối, mỗi tượng một dáng hình khác nhau cao to, đồ sộ...
4 ngôi chùa kỷ lục
miền Trung
Chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên - Huế)
có Tháp chuông hình bát giác xây dựng từ năm 1844, được coi là tháp cao và cổ
nhất Việt Nam. Tháp có 7 tầng, cao 21m, mỗi tầng được trang trí một tượng Đức
Phật.
Chùa Phật Quang (Phan Thiết - Bình
Thuận) được xây dựng vào khoảng những năm đầu thế kỷ 18. Chùa có bộ kinh Pháp
Hoa khắc gỗ đồ sộ và độc đáo xưa nhất Việt Nam. Bộ kinh gồm 118 bản gỗ thị
huyết chia thành 7 quyển, 28 tác phẩm với 600.000 từ bằng chữ Nho và rất nhiều
hình ảnh Đức Phật thuyết pháp. Cùng đó, chùa Phật Quang còn nhận thêm kỷ lục là
ngôi chùa có mõ gia trì lớn nhất Việt Nam, chùa trang trí nhiều rồng nhất (166
con)...
Chùa Quán Thế Âm (TP.
Đà Nẵng) nằm ở ngọn Kim Sơn thuộc khu danh thắng Ngũ Hành Sơn. Chùa tựa lưng
vào núi, quay mặt ra dòng sông Cổ Cò. Sau chùa có động Quan Âm với nhiều hình
ảnh kỳ thú do thạch nhũ tạo thành, nổi bật là pho tượng Quán Thế Âm cao 1,75m,
một bức phù điêu thiên tạo kỳ diệu. Chùa là nơi tổ chức Lễ hội Quán Thế Âm hàng
năm vào ngày 19-2 Âm lịch.
Thiền viện Trúc Lâm (Đà Lạt - Lâm Đồng) lớn nhất Việt Nam, nằm
trên đỉnh Phụng Hoàng, phía dưới là hồ Tuyền Lâm. Trung tâm là ngôi chánh điện
cùng các công trình tham vấn đường, lầu chuông và nhà trưng bày, gác trống, nhà
khách tăng, thư viện, thiền thất viện trưởng và thiền đường. Bên ngoài thiền
viện là tòa tháp uy nghiêm, bên trong có chuông lớn cao gần hai mét, nặng hơn
một tấn, quanh mặt chuông có khắc bài thơ của Tổ Trúc Lâm Đầu Đà, pháp danh của
vua Trần Nhân Tông (1258 - 1308) lúc xuất gia tu hành.
4 ngôi chùa kỷ lục miền nam
Chùa Vạn Đức (Thủ Đức – TP.HCM)
có ngôi chánh điện cao nhất (43,5m), nhìn từ xa thấy giống như một ngọn tháp 9
tầng và hai tháp nhỏ 5 tầng nhưng bên trong chỉ có hai tầng chính. Tầng trên là
nội điện thờ Phật, có nhiều ô cửa sổ, bên ngoài có lan can, bên trong tôn trí
tượng Phật Thích Ca và Tam thế Phật. Sau hai năm xây dựng mới hoàn thành tòa
chánh điện này.
Tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long): ngôi tịnh xá khất sĩ đầu tiên ở
Việt Nam. Kiến tạo cuối năm 1948 trên một khu đất rộng tại thị xã Vĩnh Long.
Tịnh xá Ngọc Viên được xem là ngôi Tổ đình và là trung tâm hoằng khai giáo pháp
khất sĩ của toàn sơn môn hệ phái, đặc biệt kể từ sau lần đầu tiên (1949) tổ
chức trọng thể Đại lễ Tự tứ Tăng và Vu Lan bồn trên quy mô lớn, gây ảnh hưởng
rộng khắp trong sinh hoạt Phật giáo của toàn miền.
Chùa Đại Tòng Lâm (Bà Rịa - Vũng Tàu) có ngôi chánh điện lớn nhất
Việt Nam. Chánh điện được xây năm 2002, hai tầng thờ Phật, dài 91m, rộng 46m,
diện tích hơn 3.000m2. Trong chùa có tượng Phật Di Lặc nguyên khối bằng đá hoa
cương lớn nhất (nặng hơn 40 tấn), chùa có số tượng Phật nhiều nhất với hơn
10.000 tượng và là nơi đào tạo, tu dưỡng có số lượng tăng ni tập trung nhiều
nhất, thường xuyên lên tới 1.250 vị.
Học viện Phật giáo TP.HCM là học viện Phật giáo lớn nhất Việt Nam, được thành
lập 1983, từ đó đến nay đã có 5 khóa đào tạo, thời gian của mỗi khóa là 4 năm,
cho đến nay có khoảng hơn 1.000 chư vị tăng ni được cấp bằng Cử nhân Phật học.
47. Chùa Huế xưa và nay
Nói đến chùa tháp Phật giáo Thuận Hóa, người
ta không thể không trở lại thời hồng hoang của xứ này. Kể từ đời Đường Nghiêu
đến đời Thành Chu, vùng này là đất Việt Thường Thị, đời Tần thuộc Tượng Quận,
đời Hán thuộc quận Nhật Nam, đời Tấn là nước Lâm Ấp, đời Tống gọi là nước Chiêm
Thành. Sách Đường thư, phần Địa lý chí chép: “Giáp châu Hoành Sơn quận, có năm
huyện là đất Thuận Hóa bây giờ. Năm huyện thành ấy là Tây Quyển, Tỵ Ảnh, Chu
Ngô, Lô Dung và Tượng Lâm”
Sách Đại Nam nhất thống chí, bản đời Tự Đức cho đất Tỵ Ảnh và Chu Ngô đời Hán
là châu Ô và châu Rí của Chiêm Thành. Các sử quan triều Nguyễn lại tham khảo
rất nhiều thuyết, đem từng địa điểm hiện nay để so sánh và cho rằng: “Tượng Lâm
và Chiêm Thành, tên gọi trước sau tuy có khác, cùng là một nước, cùng là một số
năm thành thuộc quận Nhật Nam...” .
Như thế, trước năm 1306 phần đất mang tên Ô, Rí vốn đã thuộc về của ta, nhưng
sau mất về tay người Chàm, mà mãi đến đời Trần Anh Tông (1293-1313) vua Chiêm
là Chế Mân đã dâng đất ấy để làm lễ cưới công chúa Huyền Trân thì hai châu Ô,
châu Rí lại trở về với Đại Việt (1306), đến năm sau (1307) hai châu này được
mang tên là Thuận châu (nửa nam tỉnh Quảng Trị hiện nay); và Hóa châu (toàn
tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay). Từ đó, tuy đã qua nhiều biến thiên, Thuận Hóa
trở thành nơi gặp gỡ và giao lưu hai nền văn hóa, tín ngưỡng rất khác nhau trên
dãi đất này.
Dân Đại Việt chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và dân Chămpa chịu ảnh hưởng văn
hóa Ấn Độ gián tiếp qua nước Phù Nam ở phần đất Nam bộ ngày nay, đã tạo thành
một nền văn hóa hỗn hợp Việt – Chăm. Chămpa là một nước rất giàu, tín ngưỡng
của họ là “đạo Kiền Nê, đúc người vàng, bạc to hàng mười ôm để thờ, nấu đem bán
có thể hơn mười vạn cân vàng” .Như vậy, trước lúc Đại Việt tiếp nhận hai châu
Ô, Rí thì ở đây đã có đạo Phật chưa ? Theo Nam Hải ký quy truyện của ngài Nghĩa
Tịnh thì nước Lâm Ấp tức Chiêm Thành đã có Phật giáo, số đông theo Chính lượng
phái, có ít người theo Hữu Bộ phái.
Tại Sở Bảo tồn văn hóa dân gian của Thành phố Huế hiện nay, có một tượng Phật
bằng đá đỏ, tượng tuy nhỏ nhưng rất đẹp, tạc hình đức Phật ngồi Thiền định trên
ba khoanh của vua loài rắn Naga là Mukalinda, và rắn giương năm đầu che ở bên
trên. Tượng Phật này rất có thể là sản phẩm văn hóa Chămpa, không một chút gì
tỏ ra ảnh hưởng Trung Hoa. Lại nữa, tuy một địa điểm rất xa hai châu Ô, Rí là
vùng đất Nha Tlang mà về sau ta gọi là Nha Trang, trại thôn Phúc Khang, hay Võ
Cạnh, các nhà khảo cổ Pháp ở Trường Viễn Đông Bác Cổ xưa đã đào được một tấm
bia, họ mệnh danh là “Bia Võ Cạnh”; trên bia khắc chữ Phạn của nước Lâm Ấp, tức
Chănpa cổ đại, có nói đến việc vua Sri Mara là người bảo hộ Phật pháp.
Như thế, có lẽ người Chămpa đã có theo đạo Phật Đại thừa trước khi người Đại
Việt đặt chân lên đất Ô, Rí. Song hiện nay, ta không hề tìm gặp Kinh sách Phật
bằng tiếng Chămpa hoặc có nhiều tượng Phật như ở nhiều nơi khác, mà chỉ gặp vô
số tượng thần chạm bằng đá còn sót lại mà các nhà khảo cổ đã đào được và trưng
bày ở Viện Bảo tàng cổ vật Huế cũng như Viện Bảo tàng Chàm ở Đà Nẵng. Những
tượng này đều được chạm khắc bằng đá cứng rất mỹ thuât, đều thuộc về các tín
ngưỡng Sivaisme, Vishnuisme, hoặc Brahmanisme.
Điều này chứng tỏ vào các thế kỷ X, XI và XII tl., người Chămpa đã có thờ Phật,
nhưng chưa nhiều lắm và bị Ấn Độ giáo lấn hẳn ảnh hưởng. Trên các mõm đồi cao,
không kể ở vùng Nam Trung bộ như tháp Phan Rang, tháp Bà Nha Trang, tháp núi
Nhạn Tuy Hòa, chỉ kể ở địa phận hai châu Ô, Rí thì trong sách vở như Ô châu cận
lục, Phủ biên tạp lục chỉ còn ghi lại ở trên núi Quy Sơn có tháp cổ của Chămpa,
cho đến đời vua Minh Mạng (1820-1840), trụ biểu trước tháp còn dấu tích chữ
Chămpa , tại xóm Bàu Tháp, làng Liễu Cốc Thượng, huyện Hương Trà, còn dấu tích
một tháp Chămpa đổ nát; ở làng Trung Đơn, huyện Hải Lăng, Quảng Trị (Thuận
châu) cũng còn một tháp Chămpa cao; nhưng tất cả đều thờ thần nữ hoặc một vị
thần nào đó thuộc các tín ngưỡng Ấn Độ giáo nói trên.
Tuy thế vào thế kỷ thứ X tl. có thể người Chămpa ở vùng Thuận Hóa đã biết đến
đạo Phật từ văn hóa Trung Hoa sang. Bởi vì vào niên hiệu Thần Vũ nguyên niên
(1069) vua Lý Thánh Tông (1054-1071) đem quân vào chinh phạt Chiêm Thành, vua
Chiêm dâng ba châu Địa Lý, Ma linh và Bố Chính (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị
hiện nay), quân nhà Lý đã bắt được nhiều tù binh, trong đó có cả một người mà
về sau mới khám phá ra là ngài Thảo Đường, người Trung Hoa theo thầy sang trú
tại Chiêm Thành để truyền bá đạo Phật . Trận này xảy ra ở thành Phật Thệ, làng
Nguyệt Biều hiện nay,tức là đã nằm trong địa vực châu Ô, tức Hóa châu về sau
vậy. Tuy nhiên, từ 1069 đến 1036 tl., trong 237 năm ấy không có sách nào nói
người Chămpa có theo đạo Phật.
Trái lại, người Đại Việt, tuy theo đạo Phật đã lâu, nhưng khi di dân vào đất
Chămpa ở cực nam để lập nghiệp, họ đã mang theo tín ngưỡng dân gian truyền
thống của mình vào để giao lưu và hỗn hợp tín ngưỡng Chămpa còn để lại, thành
một thứ tín ngưỡng rất bác tạp. Nói chung là tín ngưỡng đa thần giáo theo linh
hồn thuyết. Từ hốc cây, hòn đá, dòng sông, quả núi, con chim, con rắn, con hổ,
cho đến hiện tượng thiên nhiên như sấm, chớp, mây, mưa, bão, từ “thần cây đa,
ma cây gao, cú cáo cây đề” cho đến bất cứ hiện tượng lạ gì đều được dân Đại
Việt thờ lạy cả. “Việc cúng bái thì dùng xôi gà, lại mở cuộc chầu văn” .
Tuy nhiên, trong mớ tín ngưỡng đa tạp ấy thì đạo Phật đã nổi bật lên là một tôn
giáo đàng hoàng. Người Việt lập làng đến đâu, đào giếng lấy nước uống, trồng
cây đa đầu làng, xây đình làng, thì đều có làm chùa làng đến đấy. Vì ca dao đã
có câu: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Lại xét trong ngôn ngữ Việt đã có
thêm tiếng: “chùa, chuông, mõ, Bụt, ông Sư, bà Vãi, Thứu Lĩnh, Tào Khê,...”.
Như vậy, cho đến khoảng trước đời Trần, cõi Thuận Hóa chắc có nhiều chùa thờ
Phật. “Chùa đất Phật vàng”, tức là kiểu kiến trúc chùa bằng gỗ, tranh thấp bé
theo văn hóa Đại Việt. Bốn xung quanh thì đắp phên, rồi trét đất trộn rơm, rất
khác với lối kiến trúc bằng gạch nung của tháp Chămpa.
Sách Ô châu cận lục của Dương Văn An nhuận chính năm Ất Mão, niên hiệu Cảnh
Lịch đời Mạc (1555) ở mục “Phong tục tổng luận” có kể rất nhiều chùa, nhưng đa
số là ở Tiên Bình (tức Quảng Bình ngày nay). Tại Thuận Hóa, tức là Quảng Trị Và
Thừa Thiên - Huế hiện nay thì ông chỉ nói đến “chùa Dã Độ”, có lẽ ở làng Dã Độ,
huyện Triệu Phong ngày nay, “chùa Thiên Mỗ” ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim
Trà, “chùa Sùng Hóa cổ truyền” ở làng Triêm Ân, huyện Tư Vinh là một quốc tự,
“chùa Tư Khách” ở cửa Tư Khách, ( tức là cửa Tư Dung, nay là cửa Tư Hiền).
Tất cả đều được ông dùng hai chữ “chùa xưa” hay “chùa cổ”, ông laị dùng chữ
“Thiền lâm” chứng tỏ đạo Phật ở Thuận Hóa vào thời nhà Trần (1306) trở đi đã
thịnh, có nhiều chùa thuộc về Thiền tông. Hơn nữa, các chùa lớn thời này, ở
vùng Tiên Bình, Thuận Hóa, đã có đặt một chức quan coi giữ chùa gọi là “Tự
chính’’. Không thấy nói đến các nhà sư, cách tu hành và không có “Tăng” trú trì
như về sau... Đến năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn phương Nam thì ông chẳng để ý
gì đến Phật giáo, cho nên nhiều chùa cổ sập nát mà sách vở thì cũng không ghi
chép.
Mãi đến năm Tân Sửu (1601), gần như là một hành động có mang màu sắc chính trị,
ông mới cho sửa chùa Thiên Mụ và tung ra một huyền thoại rất có lợi cho ông.
Năm sau (1602), ông cho sửa chùa Sùng Hóa và mở hội Đại pháp ở chùa này. Rất
tiếc là sách không ghi chép tên các nhà sư đã có mặt trong các buổi lễ lớn
đó...Mãi đến đời Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), Cảnh Trị năm thứ tư, nhà Hậu Lê,
Bính Ngọ (1666), nhân đi chơi cửa biển Tư Dung, tức là cửa Tư Khách, chúa đã
cho sửa chùa Hòa Vinh – có thể là chùa Tư Khách xưa -- rất là rộng đẹp. Đến năm
Chính Hòa thứ chín, Mậu Thìn (1688), chúa Phúc Thái (1687-1691) cho sửa chữa
chùa Thuận An vốn đã có từ trước. Nay thì chùa này dường như đã mất hẳn dấu
tích.
Ngoài ra, vào thời các chúa Nguyễn, xứ Thuận Hóa, ngoài vô số chùa làng, lại
còn có nhiều chùa công như chùa Kim Long, chùa Quang Xuân, chùa Hà Trung, chùa
nào cũng có đặt chức “Tăng lục” do Ty Tăng lục coi sóc . Từ khoảng này trở về
sau, cõi Thuận Hóa bắt đầu có nhiều “thảo am”, hình thức sơ khai của những ngôi
chùa, như thảo am của Giác Phong Lão Tổ ở trên núi Hàm Long, về sau trở thành
chùa Báo Quốc, đời Gia Long (1802-1819) đổi thành chùa Thiên Thọ, kể từ đời
Minh Mạng (1820-1840) đổi lại là chùa Báo Quốc cho đến nay. Thảo am của ngài
Minh Hoằng Tử Dung, về sau thành chùa Ấn Tông, năm Thiệu Trị nguyên niên (1841)
đổi thành chùa Từ Đàm cho đến nay.
Thảo am của ngài Khắc Huyền, về sau trở thành
chùa Thiền Lâm, đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) chùa đã có lúc trở thành
Thiền Lâm Thiền Viện, là vùng đất trước chùa Từ Đàm lên tới đàn Nam Giao. Lại
có thảo am của ngài Từ Lâm, sau trở thành chùa Từ Lâm cho đến nay. Thảo am của
ngài Nguyên Thiều tức chùa Vĩnh Ân ở Phú Xuân Sơn, sau lại được chúa Nguyễn đổi
thành “Quốc Ân Tự”, từ khoảng 1689 cho đến nay. Đạo Phật do các ngài truyền đến
thì hoặc là thuộc phái Tào Động hoặc là thuộc phái Lâm Tế, mà đa số là thuộc
phái Lâm Tế. Nhưng dù Tào Động hay Lâm Tế, cũng đều thuộc Thiền tông.
Tất cả nằm vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVII, đầu thế kỷ thứ XVIII tl. Vào cuối
thế kỷ thứ XVII tl., cõi Thuận Hóa đã là nơi mà “chùa chiền khắp xứ, sãi vãi
đầy đoàn” . Nhưng chắc chắn tinh thần Phật giáo có phần lưu tệ, nên mới có tờ
bố cáo của ngài Thạch Liêm trình chúa Nguyễn Phúc Chu vào năm Ất Hợi (1695) ,
lại có cuốn văn lục bát Sãi vãi của Nguyễn Cư Trinh... có lẽ chúng ta không ai
chối cãi sự thực, song cả ngài Thạch Liêm lẫn Nguyễn Cư Trinh đều có cái nhìn
hơi thiên lệch: hoặc là từ khía cạnh nhà Nho thuần túy đến (Nguyễn Cư Trinh),
hoặc là từ khía cạnh Tam giáo đồng qui có pha lẫn chính trị đến (ngài Thạch
Liêm).
Có một điều rất đặc biệt là dân Đại Việt từ miền Bắc vào Thuận Hóa làm ăn,
nhưng ngược lại tất cả các ngài truyền bá Phật pháp, dựng thảo am và lập chùa
chiền thì đều Đàng Trong ra. Không hiểu các ngài Giác Phong, Từ Lâm, Khắc
Huyền, Minh Hoằng... đã từ Trung Quốc đáp thuyền buôn sang đổ bộ ngay Thuận
Hóa, hay lên Hội an rồi mới ra Thuận Hóa; chứ kể từ ngài Nguyên Thiều vào Quy
Ninh (1677), ngài Liễu Quán ở Phú Yên thì đều do Đàng Trong đi theo thuyền buôn
đến Thuận Đô bằng cửa Tư Dung lên.
Chính ngài Thạch Liêm cũng định đáp vào Quảng Nam, nhưng sau nhờ thuận gió mới
đáp vào đất Thuận Hóa (1695). Lại còn một yếu tố nữa mà chúng ta phải nghiên
cứu lâu theo quan điểm khoa học địa môi trường (géo-environement) mới có thể
giải đáp được, đó là tại sao tất cả các chùa chiền cõi Thuận Hóa đều ở về mạn
nam sông Phú Xuân cho đến núi Quy Sơn ở chân đèo Ngãi Lãnh (tức đèo Hải Vân
hiện nay). Điều này tạo cho chùa Huế có sắc thái vô cùng đặc sắc, là hàng trăm
ngôi chùa đều nằm trên các mõm đồi hoặc sườn đồi đầy cây cao bóng mát, cảnh trí
thiên nhiên u nhàn tĩnh lặng, làm cho chùa Huế trở thành những nơi bảo vệ được
môi trường thiên nhiên trong lành, mát mẻ; và đường đi lên các chùa trở thành
những cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời có sức thu hút người đăng lâm vãn cảnh.
Hiện nay thì vậy, nhưng trở về các thế kỷ thứ XVII, XVIII tl., chúng ta lại
thấy các dãy đồi Hàm Long Sơn, Hoàng Long Sơn, Ngũ Bình Sơn, Phú Xuân Sơn, Ngũ
Phong Sơn, Thiên Thai Sơn tuy đã có tên hay, nhưng đều là những nơi “sơn lâm
bóng cả cây già, với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi” (thơ Thế Lữ).
Lối đi từ nơi này sang nơi khác chỉ là đường mòn lối nhỏ len lỏi trong rừng rậm
như ngài Thạch Liêm đã tả : “Lối tiều quanh núi khi mờ tỏ”, chứ chẳng có đường
sá gì! Thế nhưng, tất cả các ngài đến truyền bá Phật pháp đều dựng tháo am
trong bóng cây rừng rậm rịt đầy cọp, beo, và rắn độc ấy cả. Tìm cho ra được mối
liên hệ giữa tinh thần, trí tuệ của các ngài sơ Tổ với môi trường thiên nhiên
“đẹp man dại” đó, chúng tôi nghĩ là chúng ta đã tìm được sắc thái đặc trưng của
chùa chiền và Phật giáo vùng Huế vậy.
Ngay như ngài Liễu Quán, người Đại Việt, phủ Phú Yên thời các chúa Nguyễn ở
Phương Nam, đi theo thuyền buôn ra Thuận Đô cũng đã ở thảo am Viên Thông dưới
chân Hòn Mô (tức Ngự Bình), rồi lại vào khai sơn thảo am ở núi Thiên Thai nổi
tiếng nhiều cọp dữ, ăn rong khe, uống nước suối độc, quyết chí tu hành đến đắc
đạo. Được ngài Minh Hoằng Tử Dung ấn khả Tâm tông, ngài Liễu Quán đã trở thành
một vị Tổ của cả một phái Thiền gọi là Thiền Tử Dung-Liễu Quán, rất long thịnh
suốt cả một dãi đất Nam Hà từ thế kỷ thứ XVIII, XIX tl. cho đến nay. Thảo am
xưa của ngài ở núi Thiên Thai, chính là Tổ đình Thuyền Tôn, tức là Thiên Thai
Thiền Tông Tự đã được các chúa Nguyễn “sắc tứ”, và đã tồn tại hơn hai trăm năm
nay. Cho đến hiện tại, hàng trăm ngôi chùa Huế ở vùng núi đồi mạn nam sông Hương
đều thuộc dòng kệ của ngài.
Chùa chiền ở Thuận
Hóa vào đời các chúa Nguyễn đã có rất nhiều, người xuất gia cũng rất đông. Song
đến khi Trịnh vào xâm chiếm Phú Xuân và nhất là thời Tây Sơn (1786-1801) thì
Phật giáo Thuận Hóa cơ hồ rơi vào tình trạng đồi phế. Mãi đến khi Gia Long lên
ngôi (1802) trở về sau, các chùa ở vùng Thuận Hóa mới lần hồi được sửa sang và
trùng hưng. Bà Hiếu Khương Hoàng thái hậu, mẫu hoàng của vua Gia Long, cho sửa
chùa Báo Quốc và cho đổi thành Hàm Long Thiên Thọ Tự. Long Thành công chúa, chị
em cùng mẹ với vua Gia Long, vào năm 1805 đã cúng 300 quan tiền để trùng tu cùa
Quốc Ân và lập một Tăng đoàn ở chùa này.
Chùa Thiền Lâm, chùa Kim Tiên lại được Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, mẹ Hoàng tử
Cảnh bỏ của riêng ra để trùng tu và sửa sang lại. Một quả chuông đồng cao bốn
thước, mình tròn sáu thước, dày bốn tấc, có khắc chữ “Lê Vĩnh Thịnh thập nhị
niên chú” do vua Gia Long chở từ Bắc Thành về để trong kho, sau khi trùng tu
xong chùa Thuyền Lâm thì đem treo ở đây, nhưng nay cũng không còn.
Trong giới xuất gia thì Hòa thượng Đạo Trung đã sửa chữa chùa Ấn Tông - Từ Đàm,
Hòa thượng Đạo Thành trùng hưng chùa Từ Lâm, Hòa thượng Đạo Thiện sửa lại chùa
Viên Thông, Hòa thượng Đại Huệ trùng hưng chùa Thuyền Tôn. Năm Gia Long thứ 14,
chính nhà vua cho tái thiết chùa Thiên Mụ. Năm Gia Long thứ hai (1803) chùa
Long Quang ở xã Xuân Hòa được trùng hưng. Long Quang là một ngôi chùa cổ, thời
chúa Duệ Tông đã có trùng tu và cho biển ngạch “Sắc tứ Long Quang Tự”, lại có
biển treo ở tầng trên của chùa có bốn chữ lớn “Tuệ Chiếu Nam Thiên”; vào năm
Khải Định thứ ba (1918) chùa này bị triệt bỏ, nay còn dấu tích.
Chùa Hà Trung, chùa núi Thúy Vân lần lượt đều được trùng hưng khang trang rộng
rải hơn xưa. Nhiều vị công chúa dưới triều Minh Mạng (1820-1840) cũng đã cúng
dường tiền bạc của cải để trùng tu hoặc xây dựng nhiều chùa ở Huế. Bà Thuận
Thiên Cao Hoàng hậu, mẫu hậu của vua Minh Mạng đã bỏ tièn của ra sửa lại chùa
Khánh Vân ở sơn phận xã Lựu Bảo, chùa Quang Bảo ở xã Kim Long, chùa Bảo Sơn ở
xã An Ninh, chùa Quang Đức ở xã An Vân Hạ, đều thuộc huyện Hương Trà.
Từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), chúa tự hiệu là Từ Tế Đạo Nhân, các
chùa này đã được chúa ban cho biển vàng “sắc tứ” và hiệu chùa; qua triều Tây
Sơn đổ nát, cũng đến thời Gia Long mới được trùng tu . Ngoài ra lại có Ngọc
Ngôn công chúa tức An Mỹ Thái trưởng công chúa sửa chùa Huệ Lâm; Diên Phúc công
chúa sửa chùa Viên Giác do Tỳ kheo Liễu Quán dựng trong vùng chùa Vạn Phước
hiện nay; Định Hòa công chúa Ngọc Ky (hay Cơ) sửa chùa Đông Thuyền; Ngọc Nguyệt
công chúa sửa chùa Phổ Quang; Ngọc Duệ công chúa sửa chùa Thiên Thai Ngoại ở
núi Kim Long, phía tây bắc huyện Hương Thủy (nay chùa đang còn ở về phía tay
trái mạn gần Cầu Lim, kể từ Huế lên). Năm Minh Mạng thứ mười bảy, chùa Trấn Hải
ở núi Quy Sơn, và chùa Thánh Duyên ở Thúy Vân Sơn được xây dựng trên dấu tích
chùa cổ.
Người ta phải công nhận một sự thật rất hiển nhiên là dưới thời các vua nhà
Nguyễn, kể từ Gia long (1802) cho đến Duy Tân (1916) chùa chiền ở vùng Huế phát
triển mạnh. Ngoài việc trùng tu, tái thiết và sửa chữa nhiều chùa đã nói ở
trên, còn có việc xây dựng thêm như: chùa Giác Hoàng, dựng năm Minh Mạng thứ
hai mươi tại phường Đoan Hà (sau cải là phường Thái Trạch, nay là phường Thuận
Thành). Giác Hoàng có nghĩa là ông vua đã giác ngộ, vì vua Minh Mạng cho rằng
kiếp trước của mình là thầy tu. Vua Thiệu Trị (1841-1847) có là bài thơ “Giác
Hoàng Phạn ngữ” để ca ngợi tiếng tụng Kinh ở chùa Giác Hoàng. Đến ngày
14-6-1885 chùa bị triệt bỏ, hiện còn dấu tích là Tam Tòa. Chùa Diệu Đế dựng đời
Thiệu Trị.
Chùa Từ Hiếu dựng năm Tự Đức nguyên niên (1848), và còn vô số chùa khác. Trái
lại, cũng có rất nhiều chùa danh tiếng vào thời cổ đã bị bỏ phế, hoang tàn một
độ rồi mất luôn dấu tích như chùa Sùng Hóa, chùa Kim Quang, chùa Tây Thiền,
chùa Huệ Minh, chùa Trấn Hải ở núi Linh Thái gần núi Quy Sơn, chùa Bạch Vân ở
trước am Bạch Vân tại núi Phụ Ổ, phía bắc huyện Hương Trà do chúa Nguyễn Phúc
Khoát dựng, có phong cảnh khá đẹp, chúa thường ngự lên chơi ở đấy, hiện còn dấu
tích; chùa Diên Thọ ở làng Hải Cát đều thuộc huyện Hương Trà.
Tại Kinh thành có Linh Hựu Quán ở phía bắc sông Ngự Hà, thuộc phường Ân Thịnh
(nay là Tây Linh, phường Thuận Lộc), dựng từ năm Minh Mạng thứ mười, phía hữu
có gác Tường Quang, phía tả có gác Từ Vân, trước mặt trông ra sông Ngự Hà. Đến
đời Thiệu Trị, vua có làm bài thơ “Linh Quán khánh vận” khắc vào bia đá và dựng
ở phía tả Quán . Hòa thượng Nhất Định đã được cấp giới đao và độ điệp, và sung
chức Tăng cang Linh Hựu Quán này trong một thời gian.
Đời vua Thành Thái (1889-1906) Linh Hựu Quán đi vào đồi phế rồi bị sụp đổ; ông
Ngô Đình Khả xin nhà vua cấp cho vùng đất này để làm từ đường, song đến đời vua
Duy Tân (1906-19i6) thì ông này đem làm nhà thờ Thiên chúa giáo mà không làm từ
đường trên đất ấy như lời ông đã xin với nhà vua. Bị Bộ Lễ và Bộ Công phản đối
kịch liệt, ông bị biếm chức và nhà thờ Thiên chúa giáo phải triệt hạ , nhưng
việc chưa đi đến đâu thì vua Duy Tân bị buộc phải tốn vị và bị lưu đày sang
châu Phi, cùng chỗ với phụ hoàng Thành Thái của ngài. Đến năm Khải Định thứ ba
(1918), nhà vua xuống chỉ dụ phế bỏ Linh Hựu Quán. Trong năm Duy Tân thứ hai
(1907), có chùa Ngọc Sơn ở gần chùa Thiên Mụ cũng bị bỏ (theo Châu bản triều
Nguyễn).
Hiện nay ở Huế có khoảng vài trăm ngôi chùa lớn và nhỏ. Bao mhiêu tượng Phật,
tượng Bồ Tát, chuông, khánh đồng, khánh đá và nhiều văn vật khác của Phật giáo
các thời Lê, Trịnh, Nguyễn còn lại đang được thờ tự và bảo quản tại các chùa
Huế trở thành một kho tàng vô giá về văn hóa của Phật giáo Thuận Hóa. Ngoài ra,
chúng ta lại còn có vô số biển hiệu chùa có nhiều mô-tip mỹ thuật các triều đại
đó. Hàng trăm câu đối với nét chữ thuộc loại bút thiếp (chữ đẹp). Văn bia của
các vua chúa ngự đề, của các nhà đại Nho thâm hiểu Phật pháp ghi chép lại lịch
sử chùa khi chùa được trùng tu; lại có nhiều yếu tố liên quan đến tiểu sử các
vị danh tướng như Điện Tiền Thái Bảo Giá Ngự Quận Công Võ Văn Dũng của triều
Tây Sơn khắc trên chuông chùa làng La Chử, có cả tên tướng quân phu nhân Lê Thị
Vy; như tên các vị Đô Đốc đời Tây Sơn khắc trên chuông chùa làng Hạ Lang; lại
còn tên của các vị anh hùng yêu nước...
Nhiều tập thơ của các vị Thiền sư đời trước để lại như “Lược Ước tùng sao” của
Viên Thành Thượng Nhân chùa Tra Am; tập “Thủy Nguyệt tùng sao” của ngài Bích
Phong chùa Quy Thiện, thơ hay, đẫm phong cách Thiền, chữ viết xương
kính...những câu đối rất hay của Sào Nam Phan Bội Châu, đều là những của báu
trong kho tàng văn học Phật giáo Thuận Hóa. Lại còn nhiều bản gỗ khắc Kinh,
Luật, Luận như “Pháp Bảo Đàn Kinh”, “Đại Thừa Vô lượng nghĩa Kinh”... và nhiều
bộ khác ở chùa Từ Hiếu; “Tứ Phần Luật” và nhiều bộ khác ở chùa Viên Thông, chùa
Quốic Ân; bộ “Hàm Long Sơn Chí” của Điềm Tịnh Cư Sĩ và Như Như Đạo Nhân biên
soạn vào cuối thế kỷ thứ XIX tl. v.v...
Nhất là cách kiến trúc chùa viện theo kiểu chữ “khẩu”, chữ “nhất”, chữ “tam”,
chữ “liễu”; những tiền đường hay điện thờ làm kiểu nhà “trùng lương” hay còn
gọi là “trùng thiềm điệp ốc” là kiểu đặc trưng của Huế, không đâu có. Lại còn
cách trình bày nóc với các mô-tip “lưỡng long chầu mặt nguyệt”, “lưỡng long
chầu Pháp luân”, các vật linh quy, phụng, lân, các kiểu hoa sen; mái lợp ngói
âm dương có màu ảnh hưởng kiểu kiến trúc cung đình của các triều vua chúa để
lại. “Hoa sen”, “chữ Vạn”, “hồi văn chữ vạn” , “lá sen”, “trái Phật thủ”, “lá
bồ đề”, “Pháp luân”, “hải triều”, “hỏa luân”,”bầu cam lồ” là những đề tài,
những mô-tip thuần Phật giáo tạo cho chùa Huế có nhiều sắc thái độc đáo cần
được giới nghiên cứu văn hóa quan tâm và nghiên cứu tỉ mỉ với thời gian lâu dài
để góp vào kho tàng văn hóa Việt Nam một nét rất đặc biệt, không thể bỏ qua
được.
Mặt khác, tinh thần Phật giáo và tín ngưỡng Phật giáo, tín đồ ở Huế cũng là một
đề tài có thể viết thành những tập sách dày, rất cần làm. Nhưng!.. sức một vài
người không sao làm nỗi những công việc trên này, cho dù lẻ tẻ đó đây cũng đã
có ít nhiều sách báo của nhiều nhà thức giả, nhiều bậc tu hành đã công bố hoặc
đang thực hiện âm thầm; nhưng chúng tôi nghĩ không sao gọi là đủ vậy
Chú thích:
Quốc Sử Quán, Đại Nam nhất thống chí, q.II, trg. 78-79, Thừa Thiên Phủ, bản
dịch của Viện Sử Học, Nxb KHXH, Hà Nội, 1969. . Nguyễn Trãi toàn tập,
trg.643.Viện Sử Học biên dịch và chú giải, Nxb. KHXH. Hà Nội, 1969. Đại Nam
nhất thống chi, trg 115. An Nam chí lược, 415, tờ 7. Dương Văn An, Ô châu cận
lục, trg. 43; bản dịch của Bùi Lương, Văn Hóa Á Châu xb, Sài Gòn, 1961. Lê Quý
Đôn, Phủ biên tạp lục, trg. 113; Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977
. Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, trg. 40. Bản Việt UBSLVN, Viện Đại Học Huế
xb, 1963. Thích Đại sán, Sđd. trg. 46,47,48,48 và 50. Quốc Sử Quán, Đại Nam
nhất thống chí, trg. 178,179,180. Quốc Sử Quán, Sđd. trg. 71 Lý Kim Hoa, Châu
bản triều Nguyễn, tư liệu Phật giáo, từ trg. 872 đến trg. 879. Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 2003
48. Bóng
Phật trên Núi Hùng
Trong sách Đền Hùng –
di tích và cảnh quan, tác giả cho biết: “Núi Hùng còn được gọi là núi Nghĩa
Lĩnh, Nghĩa Cương, núi Cả, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn” (1). Trong
các tên gọi này, hai tên gọi “Bảo Thiếu Lĩnh” và “Bảo Thiếu Sơn”, theo tôi là điều
đáng ngờ, bởi lẽ, núi Hùng là ngọn núi Cả thiêng liêng, ở đó có ba đỉnh núi
được xưng tụng là “Tam Sơn cấm địa”, được nhân dân ta coi là nơi phát nguyên
của dân tộc nên khó mà coi đó là Thiếu Lĩnh (lĩnh/ lãnh: đỉnh núi trẻ) hay
Thiếu Sơn (núi trẻ). Theo tôi có lẽ đây là cách ghi âm chưa được chính xác của
từ “Thứu”, cụ thể là Bảo Thứu Lĩnh, Bảo Thứu Sơn. Theo sự đoán định này, núi
Hùng, (núi Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, núi Cả, Hy Sơn) còn được coi là (Bảo) Thứu
Lĩnh/ Thứu Sơn - tức cách gọi tôn vinh các ngọn núi thiêng theo cảm thức lịch
sử - văn hóa Phật giáo. Nói cách khác, trong diễn trình của lịch sử, di tích và
cảnh quan đền Hùng đã từng trải qua một lớp ảnh hưởng của Phật giáo.
1. Thứu Lĩnh/Thứu Sơn hay Linh Thứu Sơn/Linh Sơn là tên gọi chữ Hán của ngọn
núi Kênh Kênh (Phạn: Garuda-kũta; Pali: Gjjha kũta; âm Hán: Kỳ Xà Quật) ở phía
Đông Bắc thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, miền Trung Ấn Độ. Được gọi tên như
vậy vì hình dáng núi này giống như đầu con chim thứu và trong núi có loại chim
này sinh sống. Tại núi này, Đức Phật đã thuyết kinh Pháp Hoa (được gọi là Linh
Sơn hội thượng). Từ đó, ngọn núi này là một thánh địa của Phật giáo và tên gọi
của núi được dùng để đặt tên các ngọn núi, các ngôi sơn tự nổi tiếng khắp Trung
Quốc cũng như ở nước ta. Chính vì vậy, ngọn núi Cả thiêng liêng, nơi đặt đền
Hùng cũng được Tăng chúng Phật tử gọi là Bảo Thứu Lĩnh/ Bảo Thứu Sơn.
2. Điều này cũng có cơ sở thực tế của nó vì cơ cấu di tích ở đền Hùng, như
chúng ta biết, ngoài các đền, lăng có ngôi chùa Phật - gọi là “chùa Thiên
Quang”. Tính từ dưới lên có: đền Hạ và chùa Thiên Quang, đền Trung (Hùng Vương
Tổ Miếu); đền Thượng (Kính Thiên Lĩnh Điện), lăng Hùng Vương và trở lộn xuống
núi, ở phía bên kia là đền Giếng.
Đền Hạ, tương truyền là nơi Âu Cơ trở dạ sinh ra bọc 100 trứng. Bên cạnh đền Hạ
là chùa Thiên Quang. Đền Trung là cơ sở thờ tự chính các vua Hùng - được gọi là
“Hùng Vương Tổ Miếu”. Đền Thượng có tên là “Kính Thiên Lĩnh Điện” và cạnh đền
Thượng là lăng vua Hùng Vương thứ 6. Chính tên gọi “Kính Thiên Lĩnh Điện” đã chỉ
ra đây là nơi thờ trời trên đỉnh núi và có nghĩa là đền thờ Mặt Trời, tín
ngưỡng cổ sơ của dân tộc ta với di tích nổi tiếng là hình mặt trời khắc trên
trống đồng và các di tích liên quan hiện tồn ở đây như tục thờ hạt lúa thần và
trụ đá (được đời sau gọi là Trụ Đá Thề). Chính từ ánh mặt trời trên đỉnh/ Đền
Thượng này chiếu dọi xuống nên ngôi chùa ở đền Hạ được gọi là Thiên Quang tự -
ngôi chùa ngập trong ánh mặt trời. Đó là chuyện mặt trời trống đồng rọi sáng
chùa Phật, còn chuyện chùa Phật được tích hợp vào nơi thờ tự các vua Hùng, dù
với ít nhiều tùy thuận, đã chỉ ra tính chất khế cơ của nhà Phật. Và đây cũng là
một quá trình.
Chùa Thiên Quang vốn tên cũ là “Viễn Sơn cổ tự”, được một số nhà nghiên cứu xác
định niên đại khai sơn vào đời nhà Lý (thế kỷ XI). Song niên đại ghi trên
chuông chùa Thiên Quang là năm Bính Thìn (1676, 1736, 1796?): “Bính Thìn niên,
Đại Việt quốc, Sơn Tây đạo, Lâm Than phủ, Sơn Vi huyện, Hy Cương xã, Cổ Tích
thôn cư phụng”. Các tư liệu này gợi cho chúng ta chặng đường tiệm tiến của việc
thống hợp ngôi chùa vào quần thể các cơ sở thờ tự của đền Hùng như là một sự
hỗn dung văn hóa. Điều này cũng có thể nhận ra trong việc thờ Phù Đổng Thiên
Vương ở đỉnh núi Cả này.
3. Bài vị chính ở đền Thượng ghi rõ: “Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng thị thập
bát thế thánh vương thánh vị” và hai bên là hai bài vị: “Ất sơn thánh vương
thánh vị” và “Viễn sơn thánh vương thánh vị”(2). Điều này cho thấy đây là nơi
thờ Thần Núi, chính xác hơn là Tam Sơn cấm địa của bộ tộc Hùng Vương thời cổ và
ngày nay cũng có thể thấy ở nhiều nơi. Tập tục thờ kính núi cấm/ rừng cấm còn
phổ biến trong nhiều cộng đồng dân cư, thậm chí tồn tại trong từng làng xã.
Theo quan niệm truyền thống, đó là khu vực thiêng, nghiêm cấm không ai được vào
đó săn bắt, đốn cây chặt củi và hàng năm có biện lễ cúng thần Núi, thần Rừng ở
đó. Tập tục thờ thần Núi này, luôn xác định đó là ngọn núi thiêng trung tâm,
xét về mặt tâm linh của một vùng đất. Nếu ở đất Tổ gọi là núi Cả thì ở Trung Bộ
gọi là núi Chúa và vào đến vùng đất mới phương Nam thì gọi núi Bà (ví dụ núi
Điện Bà/ Tây Ninh, núi Sam/ Bà Chúa Xứ Châu Đốc…) và thậm chí, cuối thế kỷ XIX,
ở vùng Bảy Núi/ Thất Sơn, ngọn núi trung tâm là núi Cấm - nghe ra như một sự
hồi cố của một cổ mẫu văn hóa, mặc dù đó là ngọn núi thiêng của một tôn giáo mới:
Bửu Sơn Kỳ Hương (mùi hương kỳ diệu của ngọn núi báu)… Nói chung, dù có đi khắp
bốn phương trời thì ở đâu, các cộng đồng cư dân cũng chọn cho mình một ngọn núi
lớn (hiểu là núi Cả, núi Chúa, núi Một, núi Bà/ Cậu… chứ không phải lớn về kích
thước, độ cao) và coi đó là núi thiêng, là trục vũ trụ của cộng đồng.
Trở lại núi Cả ở vùng Đất Tổ, truyền thuyết kể rằng: tại đây, Vua Hùng đã lập
đền cầu trời ban cho người tài giúp dân cứu nước. Sau khi Thánh Gióng phá tan
giặc Ân và bay về trời, vua Hùng đã cho dựng miếu trên núi để thờ cúng thần
linh, trời đất và Thánh Gióng. Sự có mặt của Thánh Gióng trong điện thờ đền
Thượng trên đỉnh núi Cả ngoài cách cắt nghĩa đậm tính “lịch sử” như truyền
thuyết nêu trên cũng còn có thể lý giải theo hướng khác.
Như chúng ta biết, ngoài tôn danh Thanh Gióng (đậm màu sắc Đạo giáo, thống
thuộc vào bộ Tứ bất tử), vị thần này còn được gọi bằng nhiều tôn danh mỹ hiệu
khác nhau: Sóc Thiên Vương, Xung Thiên Đại Vương, Phù Đổng Thiên Vương, Xung
Thiên Dũng liệt Chiên ứng uy tín Đại Vương, Sóc Thiên thần vương, Đổng Thiên
Vương Sóc Thiên Đại Thánh, Vệ Linh sơn thần, Phù Thánh Đại Vương…(3). Điều này
đã chỉ ra rằng đây là đối tượng thờ tự/ một hiện tượng văn hóa được thế nhân, ở
từng tọa độ địa lý-lịch sử khác nhau, nhào nặn theo căn duyên và mục đích khác
nhau. Điều đó dẫn đến việc đã có nhiều nỗ lực truy cứu nhằm tìm ra nguyên ủy
của thần. Kết quả nghiên cứu trong thế kỷ XX, đã đưa ra một số kết luận hoặc
Thánh Gióng vốn là thần Sấm/ Ông Đổng/ Khổng Lồ; lại có kết luận Thánh Gióng
vốn là thần Đá, hoặc thần Cây hay thần Đất; và xu hướng phổ biến coi Thánh
Gióng là truyền thuyết về một anh hùng dân tộc cổ đại (4) …
Ở đây, bằng cái nhìn quy chiếu với hệ thống thần linh Phật giáo hẳn cho phép
chúng ta hiểu thêm một số khía cạnh khác của vấn đề.
Trước hết, trong các danh hiệu nêu trên, ngoài danh hiệu thánh, thần, vương/
đại vương, chúng ta lưu ý đến danh hiệu thiên vương, một danh hiệu khá phổ biến
trong thần điện Phật giáo mà tiêu biểu là Tứ Thiên Vương (Lokapala), tức bốn vị
Thiên Vương hộ thế, chủ quản bốn phương chính của thế giới và cũng là bốn vị Hộ
pháp.
Thứ hai, Tứ Thiên Vương, theo vũ trụ luận Phật giáo, cư ngụ ở tầng trời Tứ
Thiên Vương thiên trên đỉnh núi Meru (ngọn núi trung tâm vũ trụ). Điều này cho
thấy rằng việc Thánh Gióng/ Sóc Thiên Vương được thờ tự trên đỉnh núi Cả - đỉnh
thiêng trung tâm của Đất Tổ có điểm tương đồng.
Thứ ba, trong Tứ vị Thiên Vương, theo quan niệm Phật giáo thì vị Thiên Vương
chủ quản phương Bắc là Vaisravana (Tỳ Sa Môn Thiên Vương/ Đa Văn Thiên Vương)
là vị đứng đầu và chỉ có Vaisravana là được thờ riêng. Tín lý này chỉ ra sự
đồng nhất giữa Vaisaravana và Sóc Thiên Vương (sóc: phương Bắc), vị Thiên Vương
duy nhất được thờ tự ở nhiều đỉnh núi thiêng, đền thờ thiêng ở các vùng đất cổ
miền Bắc, từ thời tiền Lê đến các triều Lý, Trần.
Thứ tư, Tứ Thiên Vương được thờ tự khắp thế giới Phật giáo từ thế kỷ thứ II
trước TL. Bốn vị xuất hiện ở bốn phía như người canh giữ các thánh tích Phật
giáo Ấn Độ (như bảo tháp Sanchi); ở Trung Á và Trung Quốc, vào thế kỷ thứ VIII,
họ được thờ tự như những người bảo vệ Phật pháp và hộ trì các vị vua chúa tôn
sùng đạo Phật chống lại các thế lực xâm lăng. Ở Nhật Bản, vào thế kỷ VI, thái
tử mộ đạo Shotoku (Thánh Đức) đã xây điện thờ Shitenno-ji để thờ Tứ thiên Vương
và sau đó, nhiều điện thờ khác được dựng lên ở khắp các tỉnh để họ có thể quan
phòng sự an nguy của lãnh thổ và mùa màng.
Thực tế lịch sử phổ biến ở các quốc gia Phật giáo dẫn trên đã lý giải việc các
triều đại Việt Nam tôn thờ vị Thiên Vương làm thần hộ quốc: Lê Đại Hành (980):
Sóc Thiên thần vương; Lý Thái Tổ: Xung Thiên thần vương; Trùng hưng năm đầu:
Dũng liệt đại vương; năm thứ 4, gia phong hai chữ: Chiêu ứng; năm Hưng Long 21,
gia phong hai chữ: Uy tín (Xung Thiên Dũng liệt Chiêu ứng Uy tín Đại vương)…
Mặt khác, tín lý hộ quốc đó cũng làm cho vị Thiên Vương chủ quản phương Bắc có
được hành trạng của một anh hùng chống ngoại xâm.
Cuối cùng, theo hành trạng của Vaisravana (Tỳ sa Môn Thiên Vương, Đa Văn Thiên
Vương) thì vị Thiên Vương này vốn là vị thần Ấn giáo Kuvera/ Kubera (Thần Tài):
Kubera do đã chuyên chú tu khổ hạnh hàng ngàn năm nên được thần Brahma ban cho
sự bất tử và làm thần Giàu Sang, trông giữ mọi kho tàng của trái đất. Với tư
cách là Vaisravana, thần thống lĩnh tám Yaksha (Dạ xoa) - tất cả được coi là
những lưu xuất (emarnations) từ chính Vaisravana; trong số đó, Kubera (da sẫm ở
phương Bắc) và Jambala (màu trắng ở phương Đông) được coi là thần Tài lộc của
các quốc gia Phật giáo vùng Nam Á và Đông Á.
Mỗi lưu xuất này đều cầm trên tay một con mangút (mongose) phun ra châu ngọc.
Đa Văn Thiên Vương tay cầm tháp báu - biểu thị cho kho báu; trong một số trường
hợp, ông cầm con mangút (Trung Quốc gọi là con Hoa hồ điêu) nên cũng được bá
tánh coi là thần Tài Lộc; do đó, vị thiên vương này được đại chúng tôn thờ phổ
biến.
Chính vì hàm chứa công năng tài lộc, chủ quản kho báu ở thế gian/ đất nên theo
Việt điện u linh, vị Thiên Vương này được thờ làm thần Thổ Địa ở chùa Kiến Sơ;
và sau đó, được Lý Thái Tổ sai thợ đắp tượng thần, lại “sai đắp 8 pho tượng
đứng hầu” - đó là 8 Yaksha (Dạ xoa), bộ hạ lưu xuất của Vaisravana (5).
Nhìn chung, văn hóa bản địa của dân tộc ta trong quá trình lịch sử đã chịu ảnh
hưởng của tổng thể văn hóa tam giáo. Ở đây đó, thường hiện diện sự hỗn dung văn
hóa như vậy với những chừng mực nhất định. Ở đây, trên núi Cả, các thành tố tối
thiêng của dân tộc cũng hiện ra một lớp văn hóa Phật giáo, tạo thành cái thực
thể mà phương tiện có thể gọi là tổng thể đạo pháp và dân tộc.
49. Khơi lại nguồn tuệ giác & khí thiêng ngút trời của vua Phật Trần Nhân Tông
Chắc có lẽ đa số trong quí vị đều đồng ý rằng việc đề cập đến vua Trần Nhân Tông
là nhằm khơi lại khí thiêng ngút trời của một bậc minh quân chói sáng, sưởi ấm
lại nguồn tuệ giác của một vị Thiền sư nhập thế siêu phàm xuyên qua công hạnh của một vị Bồ-tát,
một thiên tài chính trị gia lỗi lạc, một người con hiếu của
hoàng gia nói riêng và của dân tộc nói chung, một người anh hùng cái thế, nhu nhuyến và cương trị, mẫn tiệp và thông lợi, đã lấy dân làm gốc và dựa vào sức
dân là chính, biết kêu gọi toàn dân đoàn
kết thành một khối thống nhất, khiến
giặc Mông Nguyên phương bắc hai lần thảm bại ê chề.
Vậy nhân lễ kỷ niệm
700 năm của vua Phật Trần Nhân Tông hôm nay, chúng ta thử tìm xem những yếu tố
và những nguyên nhân nào đã tụ hội và kết tinh thành vua Phật Trần Nhân Tông như thế? Đâu là những tính trọng yếu đã giúp vị vua này trở thành một bậc kỳ tài vô
cùng vĩ đại của truyền thống chống ngoại xâm, người anh hùng của dân tộc, bậc
minh quân tài đức song toàn, một thiền sư Việt nam chói sáng trong tinh thần nhập
thế của Phật giáo thời Trần.
1. Bỉ cực và thái lai:
Người ta nói rằng "hết cơn bỉ cực, đến
thời thái lai" dường như có vẻ thích đáng với công cuộc ‘công nghiệp hóa’, ‘hiện
đại hóa’ và ‘xã hội hóa’ cũng như ‘thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế’ ‘hội nhập
cộng đồng quốc tế’ trong dăm ba thập niên gần đây. Sở dĩ nói ‘bỉ cực’ ấy là ngụ
ý chỉ cho dân tộc Việt nam kể từ thời lập quốc đến nửa đầu thế kỷ thứ sáu (544)
Lý Bôn tuyên ngôn dựng nước [1]. Sau đó đất nước bị thống trị dưới chế độ nhà
Tùy (581-618) và kéo dài mãi cho đến khi nhà Đường (618-907) sụp đổ và khi chiến
tranh loạn lạc xảy ra khắp nơi trong thời Ngũ Đại (907-960) ở Trung Hoa thì đó cũng chính là thời kỳ đất nước ta từng bước giành lại độc lập. Quyền tự trị đã
bắt đầu manh nha từ thời họ Khúc, mà
đáng chú ý là hậu Chúa Khúc Thừa Dụ sau khi
đánh đuổi giặc Tàu, ông tìm kế bang giao để tránh nạn can qua cho dân chúng và được Tàu phong
cho chức Tiết độ sứ. Kể từ đó dân Việt trải qua 25 năm được sống
yên ổn. Như vậy là vào đầu thế kỷ thứ 10 cơn ‘bỉ cực’
của dân Việt đã chấm dứt
[2].
Hết cơn bỉ cực đến thời thái lai’ là qui luật tất yếu. Sở dĩ nói
‘thái lai’ tức là nói đến Phật giáo và dân tộc có mối quan hệ hữu cơ bất phân ly
và vô cùng quan trọng mà đã được định hình trong thời Đinh (968-980),
lớn mạnh
trong thời tiền Lê
(980-1009), và ánh đạo vàng được phát huy đến cực điểm của nó
trong thời Lý (1010-1225) và thật sự tỏa sáng thời Trần (1225-1400). Lại nữa, nói ‘thái lai’ ấy tức là thời kỳ dân tộc Việt nam đã đang gặt hái được nhiều
thành quả khả quan mà chưa từng thấy trong thời gian trước đây, mở ra một kỷ
nguyên mới, một bước ngoặt lịch sử vô cùng vĩ đại mà đã khiến các nước trên thế
giới phải răn dè và khâm phục.
2. Lược sử lập quốc:
Ngược dòng lịch sử, nếu không có vua
Hùng dựng nước thủa trước, thì làm sao có Trưng Trắc và Trưng Nhị (43-44) nổi
lên đánh đuổi Tô Định mà được xem như là cuộc cách mạng lần đầu tiên trong lịch
sử của Giao Chỉ. Nếu không có ý chí độc lập và tinh thần yêu nước, thì làm gì có Bà Triệu [3] (Triệu Thị Chinh) cùng với
anh là Triệu Quốc Đạt phất cờ khởi nghĩa
(248), chống giặc Đông Ngô (222-280), như cuộc cách mạng giải phóng lần thứ hai.
Đó là vào thời Tam Quốc (Ngụy_220-265, Thục_221-263, Ngô_222-280) chiến tranh loạn lạc ở Trung Hoa. Gần ba thế kỷ dân Nam phải làm thân
trâu ngựa, một thời kỳ nhục nhã và đen tối nhất bắt đầu từ năm 256-420 khi Giao Châu rơi vào tay nhà Tấn (265-420); kiếp sống của dân sinh bị nô lệ, kéo dài cho đến thời Nam
Bắc Triều (420-588), tức là thời Liêu Tống (420-479), Tề (479-502), Lương (502-557), và Thần (557-589). Không khí độc lập khả quan, nạn can qua tạm dứt,
dân Nam mới bắt đầu hồi sinh dưới thời Tiền Lý (544-602) mà nổi bật là cuộc khởi
nghĩa của Lý Bôn năm 541 đã qui tụ nghĩa quân đồng lòng chống giặc Lương. Sau
thời tiền Lý Nam Đế (Lý
Bôn 544-548)_cải hiệu là Thiên Đức với tên nước là Vạn
Xuân_Triệu Quang Phục được tôn làm Triệu Việt Vương (549-571) trị vì thiên hạ được 20 năm. Đến thời hậu Lý Nam Đế (571-602), tức là Lý Phật Tử, một tôn thất
của Lý Nam Đế đã dấy quân bất ngờ đánh Triệu Quang Phục và lên ngôi trị vì thiên hạ được gần 30 năm.
Nói chung, kể từ thời Bắc Thuộc lần thứ I (207-111
tr. CN) là kiếp sống khốn cùng của dân Nam cứ kéo dài mãi cho đến khi nhà Tây Hán nắm chủ quyền tức là thời kỳ Bắc Thuộc lần thứ II (111 tr. CN đến 39 sau CN); rồi đến thời Đông Hán và Nam Bắc Triều, tức là thời Bắc Thuộc lần thứ III
(43-544) và ‘cơn bỉ cực’, nạn can qua mới dần dà nguôi ngoa cho đến cuối thời
Bắc thuộc lần thứ IV (603-939).
Sau khi nhà Đường (618-907) ở Trung Hoa suy sụp thì chính
là thời kỳ Việt Nam mở ra một bước ngoặt mới, trang sử mới,
một kỷ nguyên mới của dân tộc. Tinh thần tự trị đã bắt đầu manh nha từ thời họ
Khúc, mà đáng chú ý là hậu Chúa Khúc Thừa Dụ sau khi đánh đuổi giặc Tàu, ông tìm
kế bang giao triều cống với Tàu
(tức vào cuối thời Đường đang loạn lạc) để tránh
nạn can qua cho dân chúng và ông đã được Thiên triều của Tàu phong chức Tiết độ
sứ. Kể từ đó dân Việt trải qua 25 năm được sống yên ổn. Ba đời họ Khúc (tiên
chúa_Khúc Hạo, trung chúa_Khúc Thừa Mỹ và hậu chúa-Khúc
Thừa Dụ), theo sử thần
Ngô Sĩ Liên, đã nẩy mầm tự trị dù chưa xưng đế, xưng vương.
Kế đó là cuộc khởi nghĩa đánh tan quân Nam Hán của Dương Đình Nghệ, giành độc lập cho non
sông đất nước vào năm 931. Ông tự xưng là Tiết độ sứ và nắm chủ quyền được
6 năm (931-936), nhưng rủi thay, vận mệnh trị vì kéo dài chưa bao lâu, sau bị Kiều Công Tiễn ám hại (937). Năm 938, Ngô Quyền đánh tơi tả đại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Nhà Hán nuốt hận kéo tàn quân về Tàu, chấm dứt nền thống trị kéo
dài 1031 năm. Năm 939 Ngô Quyền - tướng quân của Dương Đình Nghệ - xưng vương,
đóng đô ở Cổ Loa (Phú Yên), nhưng chỉ trị vì được sáu năm thì mất (937-945) [4].
Vương vị không truyền cho con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập
nhưng lại bị Tam Kha cướp ngôi rồi xưng
vương. Năm 950 Ngô Xương Văn - nhờ Dương
Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc giúp - đã chiếm lại ngôi, tự xưng là Nam Tấn Vương, rồi
mời anh ruột Ngô Xương Ngập cùng coi việc nước. Thế nhưng tình hình rối loạn xảy
ra khắp nơi, hậu Ngô bất lực, khiến dẫn đến loạn Thập
Nhị Sứ Quân, kéo dài
trên 20
năm (945-967) [5]. Đó là thời chiến tranh xảy ra liên tục trong thời Ngũ Đại
(907-960) ở Trung Hoa.
3. Thời thịnh của Đạo
pháp và Dân tộc:
Nền độc lập tự trị đã được duy trì rõ nét nhất là vào năm 937, Đinh Bộ Lĩnh đã
dẹp loạn ‘Thập Nhị Sứ Quân’ và thống nhất giang sơn, được tôn là Vạn Thắng
Vương. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng (968-980),
đổi tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư, lấy niên hiệu là Thái Bình
Nguyên Niên "nhằm xóa hẳn vết tích thống trị của hoàng đế phong kiến Trung
Hoa, nêu cao ngọn cờ thống nhất độc lập quốc gia, lập triều chính", chỉnh
đốn hàng ngũ Giáo hội Tăng già cũng như định phẩm vị cho những Tăng sĩ lỗi lạc
tham gia quốc chính, như: chức Khuông Việt Thái Sư cho ngài Tăng Thống Ngô Chân
Lưu năm 969 và vào năm 971 được ban hiệu là Khuông Việt Đại Sư.
Phật giáo được Đinh triều công nhận là ‘quốc giáo’[6]. Đến thời Tiền Lê
(980-1009), vì Đinh Tuệ còn ấu Chúa [7], Lê Hoàn cầm quân, đánh đuổi giặc Tống
(Bắc Tống 960-1127). Năm 980 Lê Hoàn lên làm ngôi [8], tức là vua Lê Đại Hành,
chủ trương ngoại giao, tránh nạn can qua để vỗ về lòng dân; rồi thôn tính Chiêm
Thành, mở mang bờ cõi. Lê Đại Hành vẫn trọng dụng những Tăng sĩ lỗi lạc tham
chính và cố vấn trong thời nhà Đinh, như thỉnh Khuông Việt làm cố vấn và Thiền
sư Đỗ Pháp Thuận lo việc ngoại giao. Ngoài ra, vua cho xây các tự viện và sai
sứ sang Tàu thỉnh Đại tạng kinh, trị vì được 24 năm thì băng hà.
Nhờ sự lát đường và cải cách, củng cố và thiết lập trên nhiều lãnh vực của
nhiều triều đại đi trước đã tạo nền móng vững bền, đến thời Nhà Lý (1010-1225)
như gấm được thêu hoa, như nhật nguyệt tỏa sáng, đường ngoại giao phát triển,
hạng trí thức nâng cao. Những bậc minh quân thời nhà Lý đều là những Phật tử
chân chính, những Thiền sư lỗi lạc, như: Lý Thái Tổ (1010-1028), Lý Thái Tông
(1028-1054), Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1127), Lý Thần Tông
(1128-1138), Lý Anh Tông (1138-1175) Lý Cao Tông (1176-1210) và cuối cùng là Lý
Huệ Tông (1211-1225).
Sau khi củng cố chính trị và quân sự, chiếm đất Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi,
nhà Lý thống lãnh toàn dân, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình và cường thịnh
trên nhiều lãnh vực khác nhau, đúng theo đường hướng Chánh pháp, không ngừng
xiển dương giáo lý Phật đà, hoằng pháp lợi sanh. Nhà Lý trị vì suốt 215 năm,
trải qua 7 đời vua, là thời kỳ hoàng kim của dân tộc Việt Nam.
4. Trần triều với Đạo pháp và Dân tộc:
Nếu như sự lớn mạnh của nhà Đường ở Trung Hoa đã trở thành thời kỳ hoàng kim vì
được nhà Tùy và các triều đại trước đó đã đổ công sức làm thềm thang và lập nền
móng vững chắc giúp cho Đường triều phát triển trên những lãnh vực khác nhau,
thì ở Việt Nam sự hưng thịnh và phát triển từ thời nhà Đinh, Tiền Lê và nhất là
thời Lý đã được phát triển mạnh trên mọi lãnh vực và đã làm nền tảng vững chắc
cho Trần triếu ngày càng trên đà thăng hoa và hưng thịnh.
Sự nghiệp lịch sử vẻ vang ấy được chứng minh một cách hùng hồn, mang đậm nét
truyền thống văn hóa tâm linh qua sự đồng hành phát triển của Phật giáo và dân
tộc mà không ai có thể phủ nhận. Đến thời nhà Trần, cơ nghiệp tổ tiên đã vững
bền, non sông qui về một mối, toàn dân an cư lạc nghiệp, đất nước thanh bình
thịnh trị. Đẩy mạnh truyền thống văn hóa giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất
nước, ra sức phát huy nguồn tài năng và tiềm lực cho xã hội, nâng cao kinh tế
và quân sự, thiết lập chặt chẽ mối quan hệ chính trị và ngoại giao. Mầm móng và
nền tảng cường thịnh của Trần triều đã được thời Đinh, Tiền Lê và thời nhà Lý
thiết lập nên những thềm thang vững chắc trên mọi lãnh vực và đã hình thành nên
một nhà nước Phật giáo thuần túy.
Lấy Phật giáo làm trụ cột để khai mở và phát triển mọi phương diện và Phật giáo
được cân nhắc là quốc giáo bắt đầu từ thời vua Đinh Tiên Hoàng. Gần ba thế kỷ
xây dựng sự nghiệp cho đất nước, lấy Phật giáo làm kim chỉ nam để thực thi
chính sách. Kết quả sự phát triển cao trên mọi lãnh vực dưới thời nhà Trần đã
khiến cho nhân dân các nước khác trên thế giới phải khâm phục và vô cùng kinh
ngạc nhất là sau ba lần đại phá Mông Nguyên vĩ đại, toàn dân Việt trên dưới một
lòng chống giặc giữ nước, bảo vệ độc lập và chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ của
dân tộc dưới thời nhà Trần.
Kể ra cũng ngượng khi nhắc lại những vấn đề đã được nhai đi nhai lại mãi trong
các thư tịch, nhưng thiết nghĩ rằng mỗi lần đọc kỹ lại là mỗi lần cảm nhận một
điều gì đó thật sự xúc động và linh thiêng. Đáng lưu tâm nhất là lời dạy của
Quốc sư Trúc Lâm khuyên vua Trần Thái Tông: "Phàm làm đấng Nhân Quân thì
phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và lấy tâm thiên hạ làm tâm
của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ về cung, Bệ hạ không về sao được? Tuy
nhiên, sự nghiên tầm nội điển, xin Bệ hạ đừng phút nào quên"[9] chắc chắn
đã khắc sâu trong lòng của Trần Thái Tông (1218-1277).
Nghe lời khuyên của Quốc sư, vua phải miễn cưỡng lên lại ngôi vua. Từ hôm ấy,
vua đã trở thành một bậc minh quân nhiệt huyết và một Phật tử thuần thành.
Chúng ta hãy nghe lời bộc bạch thống thiết và chân thành của vua: "Trẫm lo
việc chăn dân, mỗi lúc gian nan thường lăn lóc trong công việc quên cả sớm
chiều: công việc thì có hàng vạn thứ mà thì giờ nhàn rỗi không có được bao lăm.
Siêng công việc, tiếc thì giờ, Trẫm cố gắng học hành thêm. Chữ nghĩa thì chưa
biết được bao lăm, cho nên ban đêm đến giờ khuya vẫn còn thức để đọc sách, hết
đọc sách Nho rồi lại đọc kinh Phật"[10].
Rõ thấy được tâm huyết của một bậc minh quân, muốn thông suốt chính trị và hoạt
động xã hội thì không những đọc sách Nho, mà còn phải tìm phương pháp để trau
dồi nội lực cho nên phải đọc kinh Phật. Đạo đời hai hướng mà thảy đều vẹn toàn
trong một bậc minh quân; đó là biết trị quốc theo Chánh pháp, và phải tự thân
nỗ lực tinh tấn tu tập để tự mình được giải thoát, nghiên tầm giáo điển để
hoằng pháp lợi sanh.
Không những cố vấn về lãnh vực chính trị mà còn giáo huấn cho vua phương pháp
tu tập để phát huy Phật tánh đang ngủ vùi trong tiềm thức của Trần Thái Tông,
Quốc sư khuyên: "Trong núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm
lắng lại và trí tuệ xuất hiện, thì đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ tâm ấy,
thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần phải đi tìm cực nhọc ở bên
ngoài"[11]. Vậy vua Trần Thái Tông đã chứng ngộ như thế nào? Việc chứng
ngộ của ngài cũng tợ như Lục Tổ Huệ Năng trước kia ngộ kinh Kim Cang. Chúng ta
hãy lắng nghe vua kể: "Mười mấy năm trời, mỗi khi công việc thư rỗi, Trẫm
lại họp với các vị kỳ đức để bàn luận đạo Thiền và các kinh sách nhà Phật,
không cuốn nào là Trẫm không xem xét.
Có lần đọc kinh Kim Cang đến câu "Ứng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm",
buông kinh xuống chiêm nghiệm, Trẫm chợt thấy tự mình giác ngộ"[12]. Nếu
không có người chứng ngộ kiểm chứng thì chúng ta làm sao có thể đoan chắc rằng
vua Trần Thái Tông đã có sở đắc? Nghi vấn này hẳn nhiên là đúng! Nhưng cứ vào
những thư tịch và luận ngữ cũng như những tác phẩm trước tác còn lưu lại của
vua, thì chúng ta có thể thấy được những báu vật đã đong đầy hương thiền và
chất liệu của một vị minh quân trác tuyệt, một bậc Thiền sư siêu phàm.
Vậy lẽ nào sự trải
nghiệm và nghiên tầm, trau dưỡng và sở ngộ của vua Trần Thái Tông lại không
truyền đạt lại cho Trần Thánh Tông (1258-1278) và không ‘rót’ vào tâm của Trần
Nhân Tông hay sao? Suốt 32 năm trị vì thiên hạ, 20 năm làm Thái Thượng Hoàng,
chẳng lẽ Trần Thái Tông lại không phải là người đã dạy Trần Thánh Tông và Trần
Nhân Tông qua thân giáo bằng phương pháp hành thiền, trau dồi nội lực để phát
huy Phật tánh và thuật xử thế, tài thao lược chính trị và lãnh đạo muôn dân hay
sao?
Có thể khả tín, bởi Nhân Tông là hiếu tử; vì một trưa nọ nghỉ tại chùa Tư Phúc,
ngài mộng thấy Phật, tỉnh giấc, ngài bèn đem chuyện ấy kể lại cho phụ hoàng
nghe, lúc ấy vua Thánh Tông rất đỗi ngạc nhiên. Cũng từ đó, Nhân Tông ăn chay
trường, thân thể gầy yếu. Sau khi tìm hiểu nguyên nhân, vua Thánh Tông thốt lời
ta thán rất chân tình: "Ta nay đã già rồi, chỉ trông cậy vào một mình con.
Nếu con cứ như vậy, thì thịnh nghiệp của Tổ tông biết trông cậy vào
ai?"[13]. Chưa kể đến những tuệ đăng thiền học tinh hoa trong Khoá Hư Lục,
một tuyệt tác văn học Phật giáo vô cùng giá trị của vua Thái Tông, và những tác
phẩm khác của Ngài.
Sau khi vua Thái Tông nhường ngôi cho Thánh Tông và lên làm Thái Thượng Hoàng,
thì chắc chắn nơi Thánh Tông và sau này Nhân Tông cũng đều được bẩm nhận một
nền giáo dục đặc biệt. Hơn thế nữa, vua Nhân Tông lại được ngài Tuệ Trung
Thượng Sĩ trực tiếp hoặc gián tiếp giáo huấn. Rõ biết Nhân Tông được bẩm nhận
sự giáo huấn từ những vị thầy tinh thông thiền học Phật giáo từ nơi ngài Tuệ
Trung Thượng Sĩ cùng với thuật trị nước an dân theo Chánh pháp của những Thái
Tông siêu phàm và Thánh Tông trác tuyệt là điều không thể phủ nhận.
Những kỳ tích chói sáng ấy đã tạo nền móng phát triển truyền thống văn hóa Phật
giáo thiêng liêng và mầu nhiệm trải qua gần 3 thế kỷ, nêu cao ý chí quật cường,
phát huy cùng tột bản sắc văn hóa dân tộc, thiết lập một nền công nghiệp vĩ
đại, v.v... Nếu không phải những vị minh quân như Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành
cùng với những Thiền sư như: Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh, v.v... thì làm
sao giữ vững được cơ nghiệp của Tổ tiên, phát huy nghĩa lý cao thâm và bí tạng
của đức Như-lai, đạo đời hỗ tương dung nhiếp song hành; vì vận mệnh của dân tộc
là vận mệnh sống còn của đạo pháp, của nền văn hóa Việt Phật đã kế thừa và phát
huy.
Có lẽ chính vì thế mà Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ đã nói: "Những gì chúng
tôi làm cho đạo pháp cũng là làm cho dân tộc. Những gì chúng tôi làm cho dân
tộc cũng chính là làm cho đạo pháp". Đúng như nhà văn hóa Lê Văn Siêu đã
phát biểu rằng "chính nhờ đạo Phật, một nền văn hóa cao hơn văn hóa Trung
Quốc, mà Việt Nam không bị Trung Hoa đồng hóa và đã lập quốc hiên ngang, hào
hùng, nghĩa là đã tái sinh, đã sống lại hiển hách, vinh quang trong lần lập
quốc thứ hai, cách đây gần đúng 1.000 năm: sự khai sinh thời đại Lý Trần vào
năm 1009 với minh quân Phật tử Lý Công Uẩn và quốc sư Vạn Hạnh".
"Không phải đợi đến thời đại Lý Trần, ngay từ năm 544, anh hùng dân tộc Lý
Bôn đã khởi nghĩa thắng lợi, đánh đuổi quân Tàu ra khỏi bờ cõi và thành lập một
quốc gia đầu tiên sau 600 năm nô lệ phương Bắc. Việc đầu tiên là ông đặt tên
nước là Vạn Xuân và xây một ngôi chùa lớn đặt tên là chùa Khai Quốc (sau đổi
tên thành chùa Trấn Quốc). Chùa Khai Quốc, tự tên gọi đã là một bản tuyên ngôn
chính trị hùng tráng của một quốc gia Việt Nam độc lập, tự chủ, và đồng thời
cũng là một bản tuyên ngôn văn hóa rực rỡ: Phật giáo là Quốc Đạo của quốc gia
Việt Nam, ngay từ thế kỷ thứ 6, cách đây hơn 1.450 năm. Sự kiện lịch sử này đủ
để nói lên công nghiệp cứu nước và dựng nước của Phật giáo trong thời kỳ đó và
chứng minh đạo Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong việc xây đắp tinh thần
quốc gia của nhân dân Việt Nam"[14].
Từ những sự kiện lịch sử trọng đại như thế, chúng ta thấy rằng trong thời nhà
Trần, Trần Nhân Tông đã gặp nhiều may mắn và có nhiều phước đức; vì Ngài được
bẩm nhận một nền giáo dục toàn thiện đậm nét truyền thống văn hóa thiêng liêng
của Phật giáo, được tôi luyện bằng ý chí và nghị lực phi phàm hội đủ chất liệu
từ bi và trí tuệ của bồ-tát hạnh, một đường lối tổ chức có hệ thống thấm đượm
tinh thần yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo, một tinh thần kim-cang để nhiếp phục
tự thân, nhạy bén và mẫn tiệp, nhuần nhuyễn và tinh thông trong những lãnh vực
chính trị và ngoại giao...
Với sự nỗ lực tu tập tự thân và sự trau dưỡng tâm linh, lại uyên thâm kinh
Phật; thông thạo cả binh thư yếu lược và thuật trị nước an dân, thấy rõ chỗ
mạnh yếu của quốc gia xã tắc, am tường quan điểm cương nhu trong ngoại giao,
biết cảm hóa ba quân tướng sĩ và muôn dân, v.v... những nền tảng và cơ sở ấy đã
hội tụ trong Trần Nhân Tông, một vị Thiền sư chơn chất, một bậc minh quân chói
sáng, một chính trị gia tài ba, một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một người Việt Nam
giàu bản sắc dân tộc, thuận với đức hiếu sinh, tự tin và bản lĩnh. Có lẽ không
phải chủ quan, chúng ta có thể phát biểu rằng tất cả những yếu tố và nguyên
nhân xảy ra trong suốt thời kỳ dựng nước và giữ nước vừa được tóm lược trên đã
tụ hội và kết tinh thành đệ nhất Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Chú thích
[1] Sau thời vua Hùng, công cuộc dựng nước được thiết lập vào thế kỷ 6 &
đầu thế kỷ thứ 7 (542-603) vào thời Tiền và Hậu Lý Nam Đế. Dưới sự lãnh đạo của
Lý Bôn (tức Lý Bí) năm 542 cuộc khởi nghĩa đại thắng vào mùa Xuân tháng Giêng
năm Giáp Tý (544). Lý Bôn tuyên cáo dựng nước, lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên
nước là Vạn Xuân, xây điện Vạn Thọ, tổ chức triều đình thành một quốc gia độc
lập. Chúng ta đọc: "Tiền Lý Nam Đế, tính rất thông minh, phía Bắc đánh
đuổi Tiêu Tư, phía Nam dẹp yên Lâm Ấp, lập quốc hiệu, chính ngôi tôn, đặt trăm
quan, định miếu hiệu, có đại lược qui hoạch của Đế Vương". Sau khi Lý Nam
Đế băng hà, Triệu Quang Phục lên ngôi, lấy hiệu là Triệu Việt Vương (546-557).
Sau đó Lý Phật Tử dấy quân đánh Triệu Việt Vương, đất nước tạm chia đôi cho đến
năm 571 Lý Phật Tử đánh thắng Việt Vương, rồi lên ngôi vua, trị vì được 32 năm
(571-603). Đức Nhuận, Đạo Phật & Dòng Sử Việt, Viện Triết Lý Việt Nam &
Triết học Thế Giới California USA, 1996. tr. 50-51; Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật
Giáo Việt Nam_Tập 2, Nxb Tp. HCM, 2001, tr. 30-1.
[2] Suốt chiều dài lịch sử của "một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm
đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ để lại cho
con, gia tài của mẹ là nước Việt buồn" mà lời nhạc của Trịnh Công Sơn đã
đòng vọng như nhắc nhở chúng ta những người "con Rồng cháu Tiên" về
nổi nhục mất nước, dân tình cơ cực lầm than và khốn khổ muôn bề. Trong thời nhà
Đinh, những Thiền sư lỗi lạc của Phật giáo bắt đầu tham chính và cố vấn hoàng
gia; đất nước được thanh bình và nhân dân được no ấm, mọi lãnh vực đều được
phát triển.
[3] Khi còn 17, 18 tuổi đã tỏ ra chí khí phi thường và lòng yêu nước quật khởi;
vì giao du rộng, tập hợp cả hàng ngàn thanh niên thiếu nữ, sớm tối luyện võ,
bàn kế chống giặc. Tuổi xuân đã có chí lớn, cho nên Bà đã trả lời với anh mình
- Triệu Quốc Đạt, người khuyên bà rằng là phận gái chớ nên giao du nhiều và
không nên có những hành động táo báo - như vầy: "Người ta sống ở cõi đời,
như mầm cây ngọn cỏ, tươi héo chỉ trong nháy mắt; từ thanh xuân cho đến già
cỗi, nhanh chóng như bay; cho nên không kể là trai hay gái, phải lập công to để
tiếng thơm nghìn năm. Việc gì lại phải cúi đầu, khom lưng làm tôi tớ cho kẻ
khác?!". Quốc Đạt khuyên bà nên lấy chồng, chứ không nên tham gia vào việc
chống giặc cứu nước, Bà dõng dạc trả lời: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp
luồng sóng dữ, chém cá Kình ở ngoài biển Đông, quét sạch quân giặc ra khỏi bờ
cõi, cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời, cúi đầu khom
lưng làm tì thiếp người".
Thậm chí khi nhà Ngô sai Lục Dận sang làm thứ sử Giao Châu nhằm đàn áp phong trào
khởi nghĩa, Bà Triệu đã cưỡi voi chiến, lãnh đạo nghĩa quân xông pha trận địa,
quân giặc phải ngao ngán than rằng "Hoằng qua dương hổ dị, đối diện Bà
vương nan". Nghĩa là ‘múa giáo đánh hổ dễ, địch Vua Bà khó ghê’. Lý Khôi
Việt, Hai Ngàn Năm Việt Nam và Phật giáo, Phật Học Viện Quốc Tế, 1997, tr.
68-9.
[4] Xem Đức Nhuận, Đạo Phật & Dòng Sử Việt, ... tr. 65-8; và xem Lý Khôi
Việt, Hai Ngàn Năm Việt Nam & Phật Giáo, ... tr. 80-1.
[5] Xem Đức Nhuận, Đạo Phật & Dòng Sử Việt, ... tr. 65-6; và xem Lý Khôi Việt,
Hai Ngàn Năm Việt Nam & Phật Giáo, Học Viện Phật Giáo Quốc Tế, 1997, tr.
80-1.
[6] "Phật giáo đã trở thành một danh xưng khác đối với chủ nghĩa nhân văn
mang tính đạo đức và khoa học. Tôn giáo, trong sự giải thích của ông về đạo
Phật, đã trở thành đạo đức xã hội thiết yếu cho sự hình thành mối tương hệ
chính đáng giữa người với người. Ông đã khiến cho nó tỏa sáng học thuyết trực
giác và cảnh giới giải thoát của nó và rồi khiến nó tổng nhiếp cả chủ nghĩa thế
gian, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa yêu nước (hay chủ nghĩa dân tộc) và chủ
nghĩa nhân đạo. Cho đến khi nào tôn giáo của đức Như-lai có công năng để giải
bày đối với thần thông biến hóa là một nghi vấn khác".
"Ambedkar B.R. đã tâm đắc để diện kiến được sự hình thành của tôn giáo này
đối với nhân loại trong xã hội loài người. Tôn giáo đã tạo nên trung tâm của sự
thờ tự và sự nhiệt tâm không phải đối với Thượng đế (hay bất kỳ một đấng siêu
nhiên nào) nhưng đối với sự chứng ngộ của nhân loại bằng đức hạnh chân chánh
của con người. Những tăng sĩ, đối với một tôn giáo thiêng liêng như vậy, đáng
nên làm những người phục hưng cho xã hội lương thiện; vì họ thấy biết rõ những
qui luật của xã hội.
Ambedkar B.R. đã tin tưởng rằng ông đã khám phá ra những qui luật về một xã hội
trật tự thích hợp và ông đã tâm đắc những qui luật ấy nhằm thực hiện những điều
khoản cho đức tin mới. Khái niệm xã hội có tính chất mới mẻ của ông đã trao
truyền cảm hứng cho loài người để kiểm chứng lại những ưa thích được phong
(hoặc ban) tặng của những cá nhân. Đối tượng của sự tôn kính không phải là
Thượng đế, cũng không phải là đức Phật nhưng chính con người. Con người không
có xã hội thì không thể được tiếp nhận. Vậy là sự phát triển của triết học mang
tính chất nhân văn trong tư tưởng và hành động của Ambedkar". Jatava, D.R.,
Political philosophy of B.R.Ambedkar, ... tr. xix.
[7] Trị vì được 12 năm, về sau Đinh Tiên Hoàng và con cả là Nam Việt Vương Đinh
Liễn bị Đỗ Thích mưu sát, sau đó Đỗ Thích cũng bị bắt và bị giết. Đinh Tuệ mới
sáu tuổi lên kế ngôi vua, mọi việc triều chính và quyền hành đều nằm trong tay
Lê Hoàn và Dương Thái Hậu đảm nhiệm. Đức Nhuận, Đạo Phật và Dòng Sử Việt,...
xem lời ghi chú tr. 70-1.
[8] Nhờ tư thông với Thái Hậu và sự ủng hộ của Phạm Cự Lương và quân sĩ, họ đã
tôn Lê Hoàn lên ngôi vua để chống giặc Tống, nhằm bảo toàn nền độc lập tự chủ
của quốc gia Đại Cồ Việt. Sđd
5. Hoa đạo bất diệt
của Việt Nam:
Sơ Tổ Phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông tục danh là Trần Khâm, sinh ngày 11 tháng 11
năm Mậu ngọ, niên hiệu Nguyên Phong thứ VIII (1258), con trưởng của Thượng
hoàng Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu. ‘Năm 16 tuổi
được lập làm Hoàng Thái Tử, Ngài cố ý từ chối; vì muốn nhường ngôi cho em nhưng
Phụ hoàng Trần Thánh Tông không chịu.
Vốn bẩm tính thông minh, hiếu học, đa tài, đọc thông ngoại điển và am tường
ngoại điển, thường cùng những vị Tôn đức trong chốn thiền gia tham cứu Thiền
học; đặc biệt được sự giáo huấn của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, nên càng uyên
thâm kinh Phật. Năm 21 tuổi được Thượng hoàng truyền ngôi và lấy niên hiệu là
Thiệu Bảo Nguyên Niên (1279)’[15]. Đường đường là đấng minh quân, Ngài vẫn giữ
mình thanh tịnh, ngày ngày tham gia triều chính, đêm về tá túc ở chùa Tư Phúc
trong nội thành. Năm 41 tuổi xuất gia và tịch năm 1308, thọ 51 tuổi, trị vì
ngôi vua được 14 năm (1279-1293).
Khi được hạ sanh "Vua được tinh anh của Thánh nhân, đạo mạo thuần túy,
nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tưới sáng, hai cung đều cho là
lạ, gọi là ‘Vua lên ngôi năm 21 tuổi, trị vì 14 năm, đến niên hiệu Trùng Hưng
thứ IX (năm Quí tỵ) thì nhường ngôi cho con là Anh Tông. Cách mấy năm sau xuất
gia, ở hành cung Vũ Lâm, rồi sau ra tu ở núi Yên Tử và băng ở am Ngọa Vân. Nhân
Tông là một vị vua nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng làm
vẻ vang đời trước. Thực là vị vua hiếu của nhà Trần..."[16].
Ròng rã suốt 6 năm giáo huấn và trang bị đầy đủ phép thuật trị nước an dân và
phương pháp tu thân để trau dưỡng nội lực nhằm giúp cho con trở thành một bậc
minh quân chơn chánh. Sắp xếp mọi việc chu đáo, Ngài truyền ngôi cho con là
Trần Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng. Từ đây bắt đầu một cuộc đời mới, đó
là vào năm 41 tuổi Ngài quyết định làm lễ xuất gia hành đạo [17] (1299) tại núi
Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Kế đó, việc dựng chùa, cất Tinh xá,
tiếp chúng độ Tăng, và cũng trong quãng thời gian ấy; cũng như việc vãng lai để
giáo hóa và thuyết pháp độ sanh tại chùa Phổ Minh, lập giảng đường tại Phủ
Thiên Trường, rồi vân du đến Bố Chánh lập Am Tri Kiến và lưu trú tại đây.
Những sự kiện khác như sau khi hai cuộc đại thắng Mông Nguyên[18] và khi đất
nước được thái bình, Ngài đã đi khắp nơi, khuyến hóa dân chúng, dẹp bỏ những
dâm từ, hành theo pháp Thập Thiện; rồi việc truyền giới Bồ-tát tại gia cho vua
Anh Tông năm 1304, cũng như lên chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền yếu
chỉ Thiền học cho môn đồ.
Năm 1308, lệnh cho Pháp Loa đến huyện Siêu Loaị tại Báo Ân Thiên Tự để khai
giảng trú trì. Cùng năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang kiết hạ,
sau khi giảng Truyền Đăng Lục và mãn hạ, Ngài lại hồi qui Yên Tử sơn. Ngài lại
đăng Am Tử Tiêu, lệnh Pháp Loa giảng Truyền Đăng Lục, cho đến việc hạ sơn đích
thân thăm Công chúa Thiên Đoan, ... cuối cùng là cuộc tọa đàm về thiền học và
giải tỏa những nghi ngờ với Bảo Sát và chuyện Ngài đã viên tịch tại Am Ngọa
Vân; cũng như những tác phẩm của Ngài...[19] Những chi tiết và những sự kiện như
thế đã được nhiều sách sử ghi chép khá đầy đủ, ở đây xin khỏi phải nhắc lại.
Trộm nghĩ rằng, khuynh hướng và tư tưởng Thiền học của Phật Hoàng Trần Nhân
Tông thảy đều được hấp thụ từ phụ vương, từ những bậc minh quân liệt Tổ liệt
Tôn và từ những Thiền sư tiền bối đã giúp Ngài nghiễm nhiên trở thành như những
gì Ngài đã trở thành. Nhiều sách vở cả nội điển lẫn sử học đã không hết lời ca
ngợi và tán dương.
Với đạo pháp và dân tộc, hùng thiêng ngút trời và nghĩa khí cao ngất của Lý
Công Uẩn; trí tuệ chói sáng xuyên qua tài chính trị siêu phàm của Vạn Hạnh
Thiền sư; vì chính nghĩa bảo tồn đạo pháp và dân tộc xuyên qua tài hùng biện
ngoại giao sắc nhạy và kỹ năng tham chính cố vấn kỳ tuyệt của Thái sư Khuông
Việt và Thiền sư Pháp Thuận... tất cả đã kết thành hoa đạo bất diệt của Việt
Nam.
Vực dậy tinh thần yêu nước, sức chiến đấu quật khởi và chân lý khả xâm phạm chủ
quyền xuyên qua Bài kệ tuyên ngôn độc lập bất hủ của Lý Thường Kiệt; "Lời
Hịch Tướng Sĩ" của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đã thật sự nung nấu
ba quân tướng sĩ, khích lệ lòng dân - Hội nghị Bình Than (1282) và Hội nghị
Diên Hồng (1285) - tất cả dân tộc Việt nam trên dưới một lòng chống giặc giữ
nước, nêu cao chủ quyền độc lập của dân tộc, chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, mà đã
được những vị tiền bối hữu công đi trước đã kế thừa và phát huy.
Tất cả những dữ kiện lịch sử trọng đại ấy đã hợp thành một thể thống nhất, một
thiên anh hùng ca bất diệt, chấn động vang cả đất trời, cảm đến hồn thiêng sông
núi. Chính những yếu tố quan trọng ấy đã nung nấu chí khí kiên cường và tinh
thần chiến đấu quật khởi của toàn dân, cuối cùng đã giúp vua Nhân Tôn hai lần
đại phá giặc Nguyên. Đó là những trang sử vàng chói sáng và cũng là những bước
ngoặt lịch sử hào hùng và vô cùng vĩ đại của dân tộc Việt nam với đạo pháp mầu
nhiệm.
Chỉ một câu nói thì đất nước phồn vinh, hành theo chánh đạo và nhân dân ai nấy
đều hết lòng ủng hộ, như Quốc Sư Trúc Lâm đã từng khuyên Thái Tông giữ vững cơ
nghiệp thịnh trị của Tổ tiên và ra sức xây dựng cho đạo pháp được nở hoa và
nhân dân được no ấm. Cũng một câu nói khiến cho Nhân Tông yên lòng và ba quân
tướng sĩ đều hưng phấn và tự tin, giàu chí khí và nghị lực với niềm tin tất
thắng như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã từng đáp lời vua Nhân Tông khi
đất nước đứng trước nguy cơ ngàn cân treo sợi tóc’ và với Lời Hịch Tướng Sĩ’
trong ‘Binh Thư Yếu Lược’ đã làm nức lòng muôn dân. Thế chẳng phải là càng ôn
lại những nét son của lịch sử Phật giáo Việt nam thì càng sưởi ấm lại niềm tự
hào của dân tộc. Càng điểm lại uy danh của các thiền gia Phật giáo thì càng
khơi lại những đèn Thiền Tổ đạo và hương vị thượng diệu của Chánh pháp. Chưa kể
đến ngọn đuốc thiêu thân bảo tồn đạo pháp đầu tiên và vô cùng thiêng liêng của
Cố Hòa thượng Thích Quảng Đức mà tự cổ chí kim chưa từng thấy trong lịch sử.
6. Lửa thiêng đã cháy - Đề phòng Cảnh
giác:
Với chủ trương bất bạo động của Phật giáo và
thanh niên phụng sự xã hội cũng như mọi tầng lớp trí thức bảo vệ đạo pháp,
những ngọn đuốc thiêu thân vì đạo pháp vì dân tộc lần lượt đi theo tiếng gọi
lửa thiêng của Bồ-tát Quảng Đức dưới thời chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm.
Nhờ chủ trương bất bạo động bằng những ngọn đuốc thiêu thân đã khiến cho nhân
dân trên thế giới kinh ngạc và sững sờ, khâm phục và kính tiếc, tiếng vang xa
đến nhiều nước trên thế giới, rồi nó vang dội lại thức tỉnh kẻ bán nước hại dân,
hủy hoại đạo pháp, phá bỏ tự do tín ngưỡng tôn giáo, dập tắt những ‘ý đồ ma
mãnh’ và ‘âm mưu thâm độc’ của những kẻ lạm dụng chức quyền, lợi dụng Tôn giáo,
biến tôn giáo thành công cụ đấu tranh phi nghĩa, vì những lợi ích hẹp hòi, coi
thường tín ngưỡng, bán rẽ dân tộc.
Nhất là chính sách ‘gia đình trị’ vô cùng tàn ác và hết sức bạo động của Diệm
Nhu, muốn triệt tiêu Phật giáo dưới mọi hình thức và với những luận điệu xuyên
tạc, vu oan giáng họa, bằng âm mưu ngông cuồng và điên rồ, hòng thực hiện một
nước Thiên Chúa giáo trên toàn lãnh thổ Việt nam nói riêng và Châu Á nói chung,
Châu Á nói riêng và Châu Âu, Châu Mỹ và các Châu khác nói chung[20].
Cuộc đấu tranh chống kỳ thị Tôn giáo và bảo vệ đạo pháp đã làm chấn động nhân
dân Việt Nam và nhân dân các nước cũng như các Tôn giáo khác trên thế giới bằng
ngọn lửa thiêng của Bồ-tát Thích Quảng Đức. Rất nhiều Tăng Ni và tín đồ Phật
giáo đã tự đốt thân mình để bảo tồn đạo pháp, cực lực lên án chế độ bù nhìn của
Diệm Nhu; vì lợi ích cá nhân hẹp hòi đã mượn ‘chiêu bài tôn giáo’ để đả phá tự
do tín ngưỡng, hủy hoại nền văn hóa truyền thống đậm bản sắc dân tộc; họ phản
đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh phi nghĩa, bạo động, phi nhân bản của tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu tay sai của đế quốc Mỹ. Và hôm nay, tất cả đã qua rồi bao ác
mộng, đã qua rồi ‘cơn bỉ cực’, đất nước đã đến ‘thời thái lai’.
Đối với những người sử dụng ‘chính trị vị chính trị’ là những chính trị gia bất
chánh. Vì chính trị cũng là một trong những chính sách lãnh đạo và đóng vai trò
quan trọng trong nhiều lãnh vực khác nhau, là phương tiện để làm lợi ích cho
dân tộc và xã hội, cho quốc gia đất nước. Thế nhưng những ‘chúa chổm’ một khi
sử dụng chính trị để ‘vinh thân phì gia’, vì những lợi ích hẹp hòi, thường gây
tác hại rất lớn, ảnh hưởng mạnh đến đường lối chủ trương của tầng lớp lãnh đạo.
Bởi những chính trị gia rơi vào khuynh hướng này thường đặt lợi ích cá nhân và
gia đình lên trên quyền lợi của quốc gia dân tộc. Những kẻ làm chính trị mà lạm
dụng chính trị, luôn là mối đe dọa đối với quốc dân, uy tín và thanh danh của
dân tộc sẽ bị chà đạp, đạo đức cá nhân sẽ bị hủy hoại, tiềm lực quốc gia và
ngân sách của nhà nước sẽ bị phá sản dưới những chiêu bài và âm mưu của những
kẻ thi hành việc ngoại giao với mưu đồ lợi dưỡng. Đó là những con ‘cáo già đáng
lờm’ đã sử dụng chính trị vị chính trị. Ngược lại với khuynh hướng này là những
gì chúng ta gọi là ‘chính trị vị nhân sinh’.
7. Hiện tượng thăng trầm:
Sự thăng trầm của lịch sử, từ xưa đến
nay, tợ như những làn sóng biển trên mặt đại dương, hết làn sóng này chìm xuống lại đến làn sóng khác nổi lên; nhưng đại dương vẫn mãi là đại dương. Cũng vậy,
hết chế độ này lại đến chế độ khác, hết triều đại này lại đến triều đại khác. Từ
thời lập quốc, hết thời kỳ Bắc thuộc, đến thời kỳ nhà Đinh, thời tiền Lê, thời
nhà Lý, thời nhà Trần, v.v.. rồi đến thời Bảo Đại, thời Ngô Đình Diệm, thời Mỹ
Ngụy, nay là thời kỳ Cách mạng[21].
Tất cả chế độ hay triều đại thảy đều
do con người hình thành, chứ không phải
do một đấng tối cao nào thiết lập. Thời
nhà Lý, thời nhà Trần không dửng dưng mở ra bước ngoặt vĩ đại cho đất nước, cũng
không phải ngẫu nhiên đạt đến cái ‘quốc hồn, quốc túy’ của dân tộc, mà nó đã
được un đúc từ những nguyên nhân nội tại và ngoại tại khác
nhau.
Đối với Trung Hoa, nhà Đường đã phát triển toàn diện trên mọi lãnh vực, như: văn hóa và
truyền thống, giáo dục và xã hội, tôn giáo và triết học, kinh tế và chính trị
ngoại giao, v.v... đều đạt đến đỉnh điểm của nó. Tại Việt nam, thời Lý và Trần
cũng đã phát triển toàn diện trên mọi lãnh vực không khác. Như vậy sự thăng trầm
của lịch sử xuyên qua các triều đại là hiện tượng của xã hội, và gần như là qui
luật tương quan sinh tồn của vạn hữu vũ trụ. Đó là quỹ đạo tuần hoàn của vạn
pháp và cũng chính là hiện tượng thăng trầm của lịch sử.
Vận tốc của một
chiếc xe chạy lên dốc, theo vật lý học, dốc càng cao thì vận tốc càng giảm, và
cho đến khi nào chiếc xe ấy lên đến tận cùng của đỉnh dốc thì bấy giờ vận tốc
(V) của xe ấy bằng ‘không’, ký hiệu là V = 0. Ngay khi vận tốc của xe bằng
‘không’ thì chính là thời điểm của xe bắt đầu xuống dốc. Tương tự, thời nhà Trần
đã đạt đến đỉnh cao nhất của nó và cũng từ đó, Trần triều bấy giờ như chiếc xe
xuống dốc. Suy rộng ra, nếu phóng tầm khảo sát xuyên quốc, chúng ta
cũng thấy Phật giáo trong thời đức Phật ở Ấn Độ đã phát triển đến tột cùng và đến cực điểm
của nó và rồi bắt đầu suy tàn dần, tợ như chiếc xe lao xuống dốc.
Tựu trung, nhà Trần được liệt vào thời hoàng kim rực rỡ của dân tộc và đạo pháp. Thế
nhưng tất cả đã qua rồi, đúng như những diễn biến đổi thay vận mệnh của đạo pháp
và dân tộc. Điều đáng chú ý ở đây là những thời kỳ hưng thịnh nhất của lịch sử
Phật giáo Việt Nam trong thời Đinh, tiền Lê, Lý và Trần đã cho chúng ta thấy rằng Phật giáo đã đóng vai trò
vô cùng quan trọng đối với vận mệnh sống còn của
dân tộc và đạo pháp, chứ không phải một tôn giáo ngoại lai nào khác.
Vậy kinh nghiệm cho
thấy, ngay trong thời bình cần phải nghĩ đến cái hướng duy trì
lâu dài. Nói như Nho giáo có lẽ ít người trong xã hội nghĩ được rằng ‘người quân
tử đang sống trong thời bình, cần phải nhìn xa trông rộng đến những mầm móng
loạn lạc và tai họa luôn rình rập dấy khởi’. Khác với Nho giáo, Phật giáo trong
thời bình cũng như thời loạn, đều luôn khuyến hóa con người phải tự làm
chủ tâm mình, cần trang trải và quảng bá giáo lý của đức Phật để nâng cao trí giác cho muôn người, không tham
quyền cố vị, mà phải thực thi tinh thần bình đẳng, vô ngã
vị tha.
8. Trần Nhân Tông & Chính trị
8.1. Trần Nhân Tông - bậc Vĩ Nhân:
Những bậc minh quân nổi tiếng như: hoàng đế Aśoka (A-dục) ở Ấn Độ, Lương Võ Đế
ở Trung Hoa và Trần Nhân Tông ở Việt Nam có lẽ được tôn kính như là những bậc
Đại nhân. Họ không những chỉ là những con người bằng xương thịt mà xuyên qua
những phép mầu tạo nên những kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc với một sự
phát triển chuyển tiếp vô cùng qui mô đã làm kinh hoàng (gây sốc) và làm choáng
váng những người bạn đồng hành cùng thời bằng những chiến công vô cùng vĩ đại
của họ. Còn đối với những vị anh hùng quân đội, thì Ambedkar, một trong những
chính trị gia nổi tiếng, cho rằng "‘Những kết quả miên viễn của họ trên
bình diện lịch sử của nhân loại thì rất nhỏ’.
Vì những con người vĩ đại như vậy, họ không lưu lại một ‘dấu vết trường cửu nào
trên đặc tính của xã hội mà họ đã sống trong đó’, tuy "những chi tiết ghi
lại về sự nghiệp và đạo đức của họ, nhưng chúng không ảnh hưởng lớn đến đời
sống xã hội và hình thức không phải là chất men (sống động) để chuyển tiếp cho
tất cả con người’"[22]. Rõ ràng với AmBedkar, những anh hùng quân đội,
như: Alexander, Attila, Caesar, Tamberlane, v.v... là những người anh hùng vĩ
đại, nhưng đó không phải đặc tính trường cửu và bất diệt trong lịch sử của loài
người. Đối với một số tư tưởng gia cho rằng "lòng nhân" (sincerity)
là tín hiệu của sự vĩ đại; còn đối với một số khác thì cho rằng "trí
năng" hoặc "trí tuệ" (intellect) là đủ để làm một con người vĩ
đại.
Thế nhưng đối với những quan niệm như thế theo Ambedkar thì chưa đúng; vì cho đến
khi nào kết hợp cả hai "lòng nhân" và "trí tuệ" thì mới có
thể giúp cho con người trở thành bậc đại nhân. Ambedkar nói: "Một con
người trở nên vĩ đại vì vị ấy đã tìm ra một con đường cứu tinh cho xã hội trong
những tình huống nguy khốn nhất của nó. Nhưng những gì có thể giúp cho vị ấy
tìm ra được đạo lộ này? Ông ta có thể làm được như vậy là nhờ vào trí tuệ. Trí
tuệ là ánh sáng. Không điều gì khác hơn trí tuệ mà có thể thực thi đối với bất
kỳ sự hữu ích nào... nếu không có kết hợp nhu nhuyến giữa ‘lòng nhân’ và ‘trí
tuệ’ thì không một ai có thể trở thành vĩ đại"[23].
Với quan điểm này, Chủ tịch Hồ Chủ Tịch có lẽ xứng với danh nghĩa của một bậc
đại nhân trong mối tương hệ với con người, xã hội và đất nước cũng như với các
quốc gia khác trên thế giới. Bởi trong con người của Cụ Hồ là sự hội tụ và kết
tinh của một nhân vật kỳ tài đã thông suốt hai dòng tư tưởng Đông Tây, vượt ra
khỏi chế độ tư bản và giai cấp nô lệ rồi thoát xác và hình thành một quốc gia
thật sự tự chủ bằng giai cấp vô sản, dựa vào sức dân là chính, lấy dân làm gốc,
làm sinh mệnh sống còn cho đất nước cho dân tộc. Đó là tín hiệu "khó trăm
lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong". Vậy những yếu
tố đó không phải là lòng nhân và trí tuệ chăng? Đó là chúng ta chưa kể đến sự
nghiệp vĩ đại trong tính chất vi mô và vĩ mô của những truyền thống mang đậm
bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Như đức Khổng Tử, người có lòng nhân và trí tuệ nhưng không phải là một người
anh hùng, cũng không phải là một chính trị gia và càng không phải là một vị
Thiền sư. Nếu xét những học thuyết chính thống như ‘Tứ Thư’ và ‘Ngũ Kinh’ cũng
như các luật tắc về ‘Tam cương’ và ‘Ngũ thường’ của Nho giáo, thì đức Khổng Tử
chỉ là một nhà Giáo dục, một nhà Đạo đức và một bậc Thánh nhân theo sự tôn kính
của nhân dân Trung Hoa. Luận Ngữ của đức Khổng Tử cùng với một hệ thống giáo lý
của Nho giáo, như thế đã đủ để thiết lập một xã hội trật tự và hài hòa giữa cá
nhân, gia đình và nhà nước.
Nhưng ý thức chính trị, xã hội và tôn giáo trong hệ thống Nho giáo thường bị
những kẻ quyền lực lạm dụng Nho giáo làm công cụ thống trị với khuynh hướng độc
tài, cho nên Nho giáo bị biến thái và mất chất. Ngược lại, những hiền thánh xưa
kia cũng đã xuất hiện rất nhiều trong lịch sử của Nho giáo. Thế nhưng mấy ai
dám khẳng định rằng những hiền thánh ấy đã ra khỏi ba cõi? Đức Khổng Tử đã
thoát khỏi tam giới? Đối với Phật giáo thì có lẽ là không!
Đối với những bậc minh quân xưa nay, dĩ nhiên không giống như đại đế Aśoka ở Ấn
Độ; vì đại đế Aśoka đã chiến thắng hàng vạn quân địch nhưng chưa có thể tự
chiến thắng mình, mà có thể sánh với Lương Võ Đế (454-549) ở Trung Hoa thì có
lẽ đúng hơn; vì vua Lương Võ Đế đã tự chiến thắng mình rất ưu việt, tuy rằng
không thắng hàng ngàn quân địch để thống nhất đất nước trị vì thiên hạ. Trần
Nhân Tông đã thật sự chiến thắng cả hai: chiến thắng hàng vạn giặc Nguyên và
cũng đã tự chiến thắng mình; vì "chiến thắng chính mình là chiến công oanh
liệt nhất".
Được một nền giáo dục Phật giáo toàn thiện từ những bậc minh quân chói sáng
trước kia, mà nhất là Phụ hoàng của ngài, vua Trần Thánh Tông, vua Nhân Tông đã
nghiễm nhiên trở thành một chính trị gia dày dạn kinh nghiệm và đầy bản lĩnh,
một vị anh hùng cái thế siêu quần, tinh thông và bén nhạy, một bậc minh quân
tài đức song toàn vô cùng vĩ đại của dân tộc, của đạo pháp. Hơn thế nữa, được
kết tinh và hội tụ cả ba dòng thiền: Vinitaruci (Tỳ-ni-đa-lưu-chi_594), Vô Ngôn
Thông (860) và Thảo Đường (1055-1205); đặc biệt với sự dung nhiếp cả ba hệ tư
tưởng: Thiền, Tịnh và Mật; tất cả những chất liệu ấy đã tưới tẩm và thấm sâu
vào nội tâm của Trần Nhân Tông.
Nhờ đó, chính Ngài đã thoát xác và tiêu hóa, lãnh hội và phát triển thành diệu
pháp thượng vị và trưởng dưỡng thành một vị Thiền sư chơn chất lỗi lạc - dù
thầy của ngài là Tuệ Trung Thượng Sĩ với một cuộc sống phóng khoáng, tự tại vô
ngại, bất kỳ nơi đâu và trong bất kỳ tình huống nào. Nếu sánh ngài Tuệ Trung
Thượng Sĩ trong thời nhà Trần ở Việt Nam, thì vua Trần Nhân Tông chưa bằng mà
chỉ có thể sánh với ngài Tịnh Danh (tức là ngài Duy Ma Cật) ở Ấn Độ mới bì kịp,
mới sánh đặng.
8.2. Trần Nhân Tông - Chính trị vị nhân sinh:
Sự nghiệp chính trị và ngoại giao có nhiều xu
hướng khác nhau. Tuy nhiên nó không ngoài hai
khuynh hướng chính: chính trị vị nhân sinh và chính trị vị chính trị. Hẳn nhiên, khuynh hướng thứ nhất cũng khó
có thể tránh khỏi những lợi ích tư hữu và ngọn cờ của danh vọng. Song những
chính trị gia với khuynh hướng này nếu đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên
những lợi ích nhỏ, ích kỷ và hẹp hòi, không vì tham quyền cố vị, thì vẫn là
những mũi nhọn cho đất nước. Đối với khuynh hướng thứ hai ở đây có lẽ chúng ta
miễn bàn. Bởi những chính trị gia rơi vào khuynh hướng này thường đặt lợi ích cá
nhân và gia đình lên trên quyền lợi của quốc gia dân tộc. Những người làm chính
trị mà lạm dụng chính trị, thi hành việc
ngoại giao với mưu đồ lợi
dưỡng.
Đối với khuynh hướng thứ nhất, chính trị vị nhân sinh là những nhà chính trị lỗi lạc và hầu như mọi yếu tố đều đạt chuẩn. Những chính trị gia như
thế rất hiếm tìm thấy trong mọi thời đại. Bởi mọi lợi ích của quốc gia và dân
tộc được đặt lên hàng đầu, vì xem uy tín và thanh danh, quyền lợi của đất nước
là trên hết. Có thế mới có thể quên mình vì nghĩa lớn, vì lợi ích lớn, không
những rạng rỡ lịch sử dân tộc hôm nay mà còn là những tấm gương đáng được hậu
thế noi theo.
Chính trị vị nhân sinh đã được thể hiện rõ nơi bậc minh
quân chói sáng của thời Trần triều. Vua Nhân Tông đã hấp thụ được một sự giáo
huấn cẩn thận về phương diện chính trị và ngoại giao ở nơi Thái Thượng Hoàng
Trần Thái Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông. Xu hướng chính trị của vua Nhân
Tông đã được biểu hiện rõ bằng sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Đó là khi
giặc Nguyên xâm lăng Đại Việt lần thứ hai vào cuối năm 1282. Trước tình thế cấp
bách và nghiêm trọng bởi sức mạnh của giặc từ phía Bắc tràn xuống, vua
Nhân Tông đã triệu tập Hội Nghị Bình Than, gồm các vương hầu, văn võ bách quan bên sông Bình Than huyện Quế Dương (Bắc Ninh) để bàn kế hoạch chống giặc cứu nước.
Đặc biệt tại Hội nghị này Trần Khánh Dư được phục chức Phó đô Tướng quân
và sự xuất hiện
của Trần Quốc Toản, tuổi trẻ nhưng chí lớn [24] . Điều đáng lưu
tâm ở đây là giống như Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi xưa kia, Binh Thư Yếu
Lược của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, tức là Lời Hịch Tướng Sĩ, đã kích
thích và nung nấu ý chí, làm tăng mạnh thêm khí thế chiến đấu của ba quân tướng
sĩ. Nhờ sự kêu gọi của Trần triều và sự đoàn kết một lòng trên từ vua quan văn
võ, dưới đến thứ dân, cả nước ai nấy đều một lòng, chuẩn bị lương thực và khí
giới, tinh thần hưng phấn, sẵn sàng chiến đấu quyết tâm
đánh giặc, vì nước hy
sinh, bảo tồn bỡ cõi.
Đặc biệt, vào đầu năm 1285, vua Nhân Tông triệu tập Hội Nghị Diên Hồng, mời các bậc phụ lão, những đại biểu của dân, về Thăng
Long dự hội, nhằm trưng cầu dân ý, tìm phương kế chống giặc. Kết quả Hội nghị
này đã khơi dậy tinh thần tự chủ và quyền lợi của nhân dân, cho nên tất cả đều
thống nhất và đồng thanh ‘quyết đánh’.[25] Bởi đất hẹp người thưa, vũ khí còn
nông nổi, sánh sao đặng Mông
Nguyên, vang lừng Âu sang Á, tinh nhuệ và bách thắng, không nước nào cản ngăn.
Nhấn mạnh tinh thần yêu nước, nêu cao
quyền độc lập tự chủ, đả phá phong kiến độc tài, do đó cả hai Hội nghị này đã
biểu hiện rõ tính dân
chủ và sức mạnh đoàn kết của toàn dân; vì "khó trăm lần,
không dân cũng chịu; khó trăm lần, dân liệu cũng xong".
Vẫn biết Trần triều còn
ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng độc tài của chế độ phong kiến, nhưng việc trưng cầu
dân ý, khơi dậy tinh thần tự chủ, yêu nước chống giặc ngoại xâm, giữ yên non
sông gấm vóc, là một sách lược tài ba, làm nổi bật đường hướng lãnh đạo sáng
suốt và bản lĩnh, hiên ngang và bất khuất của vua Trần Nhân Tông đã hết lòng vì
nước vì dân, quyết hiến thân cho đạo pháp cho dân tộc.
Chủ trương ấy đã
nhấn mạnh đến tinh thần bình đằng và quyền tự chủ rõ rệt: không phân biệt dòng dõi hay sắc dân,
không kể tôn giáo hay tín ngưỡng, dù ở thành thị hay những miền
sơn cước, là người Việt Nam phải đứng lên chống giặc giữ nước; đó là đòn tâm lý
chính trị sống động, dựa vào sức dân là chính, lấy dân làm gốc để làm vận mệnh
sống còn cho dân tộc. Đặc biệt nhất là,
song song với khí thế quật khởi và tinh
thần bất khuất của hai Hội Nghị ấy, vị đại Hộ pháp nổi bật là Hưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn xuyên qua Lời Hịch Tướng Sĩ, một Binh Thư Yếu Lược của ngài đã
làm nức lòng ba quân tướng sĩ, vực dậy truyền thống chống ngoại xâm, nêu cao
tinh thần yêu nước và chủ quyền dân tộc, quyết bảo tồn và giữ vững nền độc lập
cho đất nước. Quả thật, Trần triều đã rất tinh tế và vô cùng nhu nhuyến, biết kết hợp cả ba: thiên thời, địa lợi và nhân hòa, là sức mạnh đoàn kết toàn dân
thành một khối thống nhất, là thành công lớn trên mặt trận tư tưởng, giữ gìn bản
sắc văn hóa của dân tộc.
Đáng lưu ý nhất trong công cuộc phát động toàn dân tham gia kháng
chiến là vua Trần Nhân Tông đã đạp đổ quan niệm bảo thủ cổ hủ
và chế độ phong kiến độc tài, mở ra một cuộc cách mạng tư tưởng dân chủ bình
đẳng và biểu hiện bản sắc văn hóa dân tộc đại đồng. Phải chăng đây là sự biểu
hiện tinh thần vô ngã và vị tha trong thâm tâm của một bậc minh quân Phật giáo?
Đó là một thành công lớn của vua Nhân Tông
trong công cuộc đoàn kết toàn dân và
cũng là chiến thắng lớn về lãnh vực tâm lý đối với toàn quân dân Việt. Chứng tỏ vua Trần Nhân Tông là chính trị gia tài ba,
lãnh đạo gia sáng suốt và cũng là tư
tưởng gia vĩ đại, mà chúng ta rất hiếm thấy ở những vị quân
vương đời trước.
Chú thích
[15] Có sách ghi rằng Ngài lên ngôi năm Mậu dần (1278), Thích Phước Sơn, Tam Tổ Thực Lục, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1995, tr. 17.
Niên đại
này tuy tác giả
dựa
vào Thánh Đăng
Thực Lục, nhưng bên dưới có ghi chú rằng theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, vua lên ngôi cũng vào năm Mậu dần, niên hiệu Bảo Phù thứ 6 (1278).
[16] Trích dẫn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Đức Nhuận, Đạo Phật và Dòng Sử Việt,... tr. 291-2; và
xem Nguyễn Lang, Việt
Nam Phật
Giáo Sử
Luận
I, II, III, Nhà Xuất bản
Văn
Học,
Hà Nội,
2000, tr. 279-280.
[17] Nhân Tông, lúc 16 tuổi
được
lập
làm Thái tử, bấy giờ đã có chí đi tu, xin nhường ngôi cho em, nhưng vua Thánh Tông
không chịu. Đến
khi chính thức
nhận
truyền,
ban ngày thì làm việc
nước,
ban đêm
vẫn tụng kinh. Đến đây lại cùng các vị Tăng Pháp Loa (Đồng Kiên Cương), Huyền Quang (Lý Đạo Tái) vân du các
núi An Tử,
Lôi Âm giảng
cứu
nội
điển nhà Phật. Ngô Thời Sỹ, Việt Sử Tiêu Án, Văn Hóa Á Châu, 1960,
tr. 212.
[18] Công cuộc đại phá Mông Nguyên lần
thứ
II (1285) và lần thứ
III (1288), xem chi tiết
Đức
Nhuận, Đạo Phật và Dòng Sử Việt, ... tr. 251-285;
và xem Viện
Sử
Học,
Khâm Định
Việt
Sử Thông Giám Cương Mục_Tập 1, Nxb Giáo Dục, 1998, tr. 511-26 & 529-39; và xem chi tiết Lê Mạnh
Thát, Trần
Nhân Tông Toàn Tập, Nxb Tp. HCM, 2000, tr. 56-107 & 108-153.
[19] Xem Thích Thanh Từ, Tam Tổ Trúc Lâm Giảng Giải, Thiền Viện Thường Chiếu, 1997, tr. 11-8;
và xem Thiền
Sư
Việt
Nam cùng một
Tác giả, Thành Hội Phật giáo TP. HCM,
1992, tr. 288-302; cũng
xem Thích Phước
Sơn,
Tam Tổ Thực Lục,
.... tr. 18-35; và cũng
xem Viện
Triết
Học,
Lịch
Sử
Phật
Giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1988, tr.
246-256.
[20] Xem Bùi Kha và nhiều tác giả, La Vang Giáo Sử, Giao Điểm, 2007, tr. 63-83;
và xem Ngô Triêu Lịch
và nhiều
tác giả, Bang Giao Với Vatican nên hay
không?, Giao Điểm, 2006, tr. 166-171.
[21] Về công nghệ cũng tương tợ, hết thời kỳ hoang dã, đến thời đồ đá, thời kỳ đồ sắt, thời kỳ đồ đồng, rồi đến thời kỳ thông tin viễn thông, vi tính, nguyên tử, v.v...
[22] Jatava, D.R., Political philosophy of B.R.Ambedkar, National Publishing
House, Jaipur and Delhi, 2001, tr. 14.
[23] Jatava, D.R., Political philosophy of B.R.Ambedkar, ... tr. 14.
[24] Trần Khánh Dư, một tướng tài trong lần đại thắng quân Nguyên năm 1257, vì phạm tội cho nên bị lột chức, sau được mời tham gia kháng chiến. Đối với Trần Quốc Toản, tuy mới 15 tuổi, tuy không được tham dự trực tiếp hội nghị - đã tự mình đứng ra chiêu mộ được 1.000 nghĩa quân, giương cao cờ đại nghĩa "Phá cường địch, báo Hoàng
ân", kéo thẳng đến trận
mạc
để
chống
giặc
cứu
nước.
Xem Phạm Văn
Sơn,
Việt
Sử
Tân Biên, ... 1959, tr. 174-5; và xem Đức Nhuận, Đạo Phật & Dòng Sử Việt..., 1996, tr. 253-4; và xem Lê Mạnh Thát, Trần Nhân Tông Toàn Tập,... tr. 51.
[25] Chúng ta đọc: "Tháng 12,
Thái Thượng
hoàng Trần Thánh Tông triệu tập các bô lão trong cả nước về đãi tiệc , hỏi kế đánh giặc. Để trả lời câu hỏi của vua về việc có nên đánh hay không, các vị bô lão đã ‘muôn người như cùng một lời’, đáp lại ‘nên đánh’. Nhà sử học Ngô Sỹ Liên bình luận về hành động này, đã nói: "Thánh
Tông muốn
làm thế
để
xem sự
ái hộ
thành thật
của hạ dân và muốn cho họ nghe dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên". Đúng thế hội nghị Diên Hồng là một cuộc vận động tư tưởng lớn, nhằm phổ biến rộng rãi chủ trương nhất định kháng chiến của vua Trần Nhân Tông cả triều đình cùng quân đội tới toàn dân". Lê Mạnh
Thát, Toàn Tập
Trần
Nhân Tông,... tr. 54-5.
8.3. Trần Nhân Tông - Chính trị ngoại
giao
a. Với Chàm - mặt trận phía Nam:
Chắc chắn vì tránh nạn can qua cho dân tộc, giữ vững bờ cõi cho quốc gia xã
tắc; do đó vua Nhân Tông đã không ngừng đẩy mạnh công việc ngoại giao. Để giữ
tình hòa hiếu đôi bên giữa Đại Việt và Chăm ở mặt trận phía Nam, vua đành lòng
cắt đứt tình phụ tử, bằng cách gã Công chúa Huyền Trân rất mực yêu thương của
mình cho vua Chế Mân.
Hẳn nhiên việc gã Công chúa cho vua Chàm là một việc làm bất đắc dĩ, là sự hy
sinh lớn đối với tình phụ tử thiêng liêng của hoàng gia nói riêng và cũng là sự
gởi gắm và phó thác vận mệnh của đất nước, cả quốc hồn quốc túy của dân tộc
Việt Nam nói chung. Có lẽ như chưa yên lòng khi gã con về đất khách, Ngài ân
cần dạy bảo: "Vua Chế Mân là một thanh niên anh tuấn, có vũ dũng mà cũng
có văn học.
Tuy Harijit không biết chữ Nho, nhưng chàng rất thông thạo Phạn ngữ. Ở Chiêm
Thành, Phạn ngữ cũng quan trọng như chữ Nho ở Đại Việt. Trong thời gian gần tám
tháng lưu lại kinh đô Phật Thệ, Ngài thấy cái nhìn của Ngài về nước Chàm thay
đổi hẳn. Ngài rất yêu mến harijit, và muốn coi chàng như vua Anh Tông con
Ngài... Năm nay Chế Mân mới vào khoảng bốn mươi, lớn hơn vua Anh Tông chừng
mười tuổi. Dân Chàm rất thương yêu Harijit. Thượng hoàng bảo Công chúa: ‘Ta tin
rằng sau khi về Chàm, con cũng được dân chúng thương mến như họ đã từng thương
mến Harijit. Ta có thể nói chắc với con điều đó. Nếu con để hết tâm lực của con
vào thì con có thể xây dựng thật nhiều cho vương quốc này và tạo được mối cảm
tình bền chặt giữa hai nòi Chiêm và Việt". "...
Con có ở đâu thì ta ở đó, con làm gì thì ta làm cái đó và dân tộc con làm cái
đó. Con hãy ghi nhớ điều này cho cẩn thận. Con về Chàm cũng như ta về Chàm, và
ta trông cậy hoàn toàn nơi con để tránh cho hai dân tộc những cuộc đao binh sau
này".[26] Tài chính trị ngoại giao của vua Nhân Tông rất tinh thông và
nhuần nhuyễn, sắc nhạy nhưng cương nghị, không phải trên ngôn thuyết, mà nó
được thể hiện bằng tình phụ tử thiêng liêng, bằng trái tim của cả Đại Việt, tất
cả đều được gởi gắm cho Huyền Trân Công chúa.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận sự ảnh hưởng lớn của tư tưởng phong kiến, tập
tục ‘môn đăng hộ đối’ và quan điểm bảo thủ ‘cha đặt đâu, con ngồi đó’; tuy rất
xót xa nhưng vẫn cam lòng, vua Nhân Tông vẫn cố gắng để thi thố tài chính trị
ngoại giao đối với một nước lân bang như Chàm là việc làm đáng khâm phục. Kết
quả là vua Chế Mân đã dâng tặng hai châu: Châu Ô và Châu Lý (tức Thuận Hóa ngày
nay) để đáp lại thịnh tình của vua Nhân Tông.
b. Với Tàu - mặt trận phía Bắc:
Sau ba lần thất bại nhục nhã, uy thế và thanh danh của quân Nguyên đã tan biến,
mưu đồ xâm lăng và bành trướng đế quốc đã bị chặn đứng, quân Nguyên đã thật sự
mệt mỏi, ngao ngán và thán phục khí thế chiến đấu quật khởi và tinh thần ‘quyết
tử cho đất nước quyết sinh’ của toàn dân Đại Việt. Kể từ đó, nhà Nguyên đã
không dám tiến hành âm mưu cướp nước; vì thất bại mà phải tôn trọng chủ quyền
độc lập trên toàn lãnh thổ Đại Việt. Mọi yêu sách triều cống của Tàu đều bị vua
Nhân Tông phản đối.
Tuy nhiên để mở ra một bước ngoặt mới của lịch sử, nâng cao chính trị ngoại
giao, đưa vận nước ngang tầm với Tàu - như trước đây vua Đinh Bộ Lĩnh, vua Lê
Đại Hành đã cậy vào những vị Tăng sĩ Phật giáo lỗi lạc, học vấn uyên bác, văn
chương xuất chúng, am tường Nho giáo, uyên thâm Phật học, tinh thông thế trí và
hùng biện siêu phàm để cố vấn chính trị, như: Thiền sư Pháp Thuận (914-990),
Thái sư Khuông Việt (933-1011), Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) - vua sai Đỗ Thiên
Thư, em của Đỗ Khắc Chung (người sứ giả có công lớn trước đây), sang Nguyên
cống lễ.
Sách Thiên nam hành kỷ của Từ Minh Thiện nhà Nguyên nói: "Đại quân mới về
nước, thiên sứ chưa sang, nhà Trần đã sai bọn trung đại phu Trần Khắc Dụng và
tòng nghĩa lang Nguyễn Mạnh Thông dâng lễ vật trần tạ".[27] Đây là sách
lược chính trị rất khôn ngoan nhằm xoa dịu cái nhục bại trận của giặc Nguyên,
đồng thời cũng một nghệ thuật "dĩ hòa vi quí" của vua Nhân Tông đối
với nước Tàu. Điều này cho thấy rằng nhà vua chủ động tiến hành chính sách hòa
giải dân tộc, chứ không chịu tuân theo mọi đề nghị và yêu sách của nhà Nguyên.
Yêu sách của nhà Nguyên đòi hỏi vua Nhân Tông "sang chầu Thiên tử",
vua khước từ yêu sách đó rất khôn khéo, bằng cách viện cớ đang có tang (Thượng
hoàng Trần Thánh Tông mất năm 1278) rồi cử Đại Phạp và Hà Duy Nham đi sứ. Lần
khác, vua lại lệnh cho Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo đi sứ khi Tân vương nhà
Nguyên lên nối ngôi. Vua đã thể hiện ý định bất phục tùng và khước từ mọi yêu
sách của nhà Nguyên đã đòi hỏi...
c. Với Lào - mặt trận
Tây Nam & Tây Bắc:
Không khí đại thắng giặc Nguyên chưa nguôi, Nhân Tông đã nhanh chóng bình định
giặc Lào để giữ vững phía Tây Nam và Tây Bắc. Bấy giờ bầy tôi can: "Giặc
Nguyên mới rút lui, vết thương chưa hàn gắn được, không nên gây việc binh
đao". Nhà vua nói: "Chỉ có thể nhân lúc này mà khởi binh thôi; vì sau
khi giặc rút lui, các nước bên cạnh tất bảo là quân mã nước ta mỏi mệt, có ý
coi thường, cho nên cần phải khởi đại binh để ra oai với nước khác".
Bầy tôi đều nói: "Thánh nhân lo xa như thế, bọn chúng tôi không thể nào
nghĩ thấu được".[28] Theo lời bàn của Ngô Sĩ Liên thì cho rằng những lời
can ngăn của bầy tôi về việc vua Nhân Tông thân chinh đánh Lào, nhưng sau khi
vừa nghe ý định của vua thì họ liền sinh lòng "bợ đỡ", bởi ngay lúc
ấy họ tán dương rằng "Thánh nhân lo xa". Đối với vua thì có lẽ muốn
thực hiện cái ‘kế sách lâu dài’.
- Dương cao thanh thế và sức mạnh hùng hậu của quân đội nhà Trần.
- Tận dụng thời cơ tinh thần chiến đấu đang hăng của ba quân tướng sĩ sau khi
đại thắng quân Nguyên mà đi chinh phạt Lào, giữ vững và ổn định mạn sườn mặt
Tây Nam và Tây Bắc.
- Hoàn tất sự nghiệp đế vương để trao quyền trị vì và nhường ngôi cho Anh Tông
nhằm thực hiện chí nguyện xuất gia, không còn bận tâm đến vấn đề triều chính
cũng như không còn lo toan đến sự quấy nhiễu của các nước lân cận.
- Xiển dương giáo lý của đức Phật, giảng dạy Thiền học sau khi toàn dân đã được
an cư lạc nghiệp thì việc làm này chắc chắn được đại đa số quần chúng hưởng ứng
và qui ngưỡng.
Sau khi chinh phục Lào, vua về nước và tiến hành lễ xuất gia ở hành cung Vũ
Lâm, sau đó hồi quy kinh sư.
Cuộc đời của vua Trần Nhân Tông là một bài thơ bất tuyệt, là bậc minh quân chói
sáng của quân dân đất Việt, là đại chính trị gia lỗi lạc, là hoa đạo bất diệt
của đạo pháp và cũng là một Thiền sư chân chính mang chất liệu của con người
Việt Nam, chất Phật Việt Nam và cũng là vị Tổ đầu tiên đã khai mở và khơi lên
ánh sáng đèn thiền tuệ giác của dòng Thiền Việt Nam, Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Cuộc đời Ngài có thể tóm lược qua những dấu ấn lịch sử như sau:
- Năm 21 tuổi lên ngôi hoàng đế.
- Năm 1285 đại thắng Mông Nguyên lần thứ hai.
- Năm 1288 đại thắng Mông Nguyên lần thứ ba.
- Năm 1293 truyền ngôi cho Anh Tông và lên làm Thái Thượng Hoàng.
- Năm 1295 bắt đầu hướng đến việc ‘thực tập xuất gia’ tu đạo.
- 1299 dựng thảo am Tử Tiêu ở non Yên Tử, lấy pháp danh là Hương Vân Đại Đầu Đà
và pháp hiệu là Hương Vân Hải Ấn Thiền Sư. Sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,
dựng chùa Long Động xiển dương Chánh pháp và giáo huấn môn Tăng.
- Năm 1304 lấy hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà Điều Ngự Giác Hoàng, vân du hóa độ,
khuyên dân bỏ mê tín, hủy dâm từ, hành pháp Thập thiện, sống theo chánh đạo,
nhằm xây dựng một ‘xã hội đạo đức’ để thành tựu ‘Tịnh độ trong nhân gian’.
- Năm 1304 truyền Bồ-tát giới cho vua Anh Tông.
- Năm 1306 ẩn thân nơi Am Ngọa Vân, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ.
- Năm 1308 cử Pháp Loa đảm nhiệm chức Trú trì Báo Ân tự ở Siêu Loại (Bắc Ninh).
- Tháng 4 năm 1308 đến Vĩnh Nghiêm tự ở Long Giang (Bắc Ninh) chủ trì và thuyết
giảng Truyền Đăng Lục và mời Quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho chư Tăng
an cư kiết hạ. Việc hoàn tất, ngài Giác Hoàng hồi qui Yên Tử sơn.
- Ngày 5 tháng 10 năm 1308 thăm Công chúa Thiên Thụy và hộ niệm tiếp dẫn.
- Ngày 17 tháng 10 năm 1308 an nghỉ ở Sùng Nghiêm tự, nơi Linh Thứu sơn và được
Hoàng Thái Hậu Tuyên Từ thỉnh Ngài đến am Bình Dương để hiến cúng Ngọ trai.
- Ngày 18 tháng 10 năm 1308 đến Tú Lâm tự ở non An Sinh, cảm thấy nhức đầu và nhờ
thị giả đưa lên Ngọa Vân Am.
- Ngày 19 bảo thị giả Pháp Không đến Am Tử Tiêu, Yên Tử sơn, rồi đòi gặp Bảo
Sát để giải nghi trước khi thuận thế vô thường xả thân ngũ ấm.
- Ngày 20 Bảo Sát trên đường đến Am Ngọa Vân để yết kiến ngài Giác Hoàng.
- Ngày 21 Bảo Sát đến Am Ngọa Vân rồi vào yết kiến ngài Giác Hoàng. Cuộc đàm
vấn xảy ra giữa Ngài và Bảo Sát, lúc đó Ngài đọc kệ:
"Nhất thiết pháp bất sanh,
Nhất thiết pháp bất diệt,
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền,
Hà khứ lai chi hữu dã".
Xong đâu vào đó, vào giờ Ngọ cùng ngày ấy,
Ngài xả bỏ huyễn thân, rồi qui Phật cảnh. Sau khi đất nước được thái bình, vua
Trần Nhân Tông đã đi khắp nơi, khuyến hóa dân chúng, dẹp bỏ những dâm từ, dạy
pháp Thập Thiện cho dân hành đạo. Và sau khi đi bái yết sơn lăng thăm lại lăng
tẩm của liệt Tổ liệt Tôn, Thượng hoàng đăng Yên Tử sơn, rồi thuận thế vô
thường, xả ngũ ấm thân nơi Am Ngọa Vân, hồi qui Phật cảnh.
9. Quan niệm về Hội thảo & Hội
nghị:
Đối
với Phật giáo, việc hội thảo chỉ là những xu hướng, hoặc những biện pháp, hoặc
những vấn đề trọng yếu cần phải được ‘bàn đến’ hoặc ‘nói về’, nhưng chưa phải
‘sống với’, và những hoạch định khả thi sẽ có thể đạt được. Trong hội thảo mọi
vấn đề có thể được thổi phồng lên, mọi lãnh vực có thể được cường điệu hóa; còn
trong thiền học đôi khi nó cũng na ná như những thoại đầu, hoặc những công án.
Nhưng trên thực tế, thoại đầu vẫn mãi là thoại đầu, công án vẫn mãi là công án;
vì nó na ná như những cái bánh vẽ, người ăn bánh vẽ không thể đở đói.
Cũng vậy người luôn nói về không thể giống với những người đã đang sống với,
những vị đã thực tu thực chứng, và khi trình bày kiến giải hay quan điểm đều
được số đông ngưỡng mộ và tôn kính, họ không tham quyền cố vị, sống với tinh
thần bình đẳng vô ngã và vị tha. Lại nữa, hội thảo có thể là ‘kiến hòa đồng
giải’, một trong sáu pháp lục hòa. Lắm khi hội thảo khai phóng ra những đường
nét tâm linh siêu thế nhưng đó là chất liệu và sự trải nghiệm của những ‘người
năng thuyên’ và ‘cảnh sở thuyên’ cho thính giả trong hội nghị đang lắng nghe.
Dĩ nhiên, thính giả chỉ nghe chứ chưa thực nghiệm, chỉ hiểu chứ chưa thực
chứng.
Nếu thính giả mượn những bí quyết khai tâm hoặc đã được chỉ bày từ nơi hội
thảo, (hoặc nơi sách vở), hoặc từ nơi sự trải nghiệm thực chứng của những người
năng thuyên để vào đời khai tâm cho số đông, thì không những người vay mượn đó
đã đang ăn bánh vẽ mà còn mang những loại bánh vẽ ấy cho những kẻ khác nữa. Nếu
không khéo thì nó sẽ dễ trở thành những cái máy phát thanh vô hồn, những lý
thuyết suông vô vị - vẫn biết các pháp thảy đều được sử dụng như là phương
tiện, nhưng phương tiện một khi bị lạm dụng thì sẽ dẫn đến những tác hại nguy
hiểm không những cho cá nhân, cho gia đình giòng tộc, mà còn ảnh hưởng đến uy
tín và thanh danh của một dân tộc một quốc gia.
Hội thảo hoặc tọa đàm trong lãnh vực ngoại giao thì rất quan trọng, là những
phương hướng đầu tư, là những sách lược được hoạch định nhằm mở ra những giải
pháp mới về đối tác song phương hoặc đa phương trong mọi lãnh vực đã được ký
kết và thoả thuận. Nó đánh dấu cho một sức mạnh đối tác, nhấn mạnh đến uy danh
của một quốc gia, chủ quyền của một dân tộc, đại diện cho tất cả sinh mệnh của
toàn dân từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc.
Những vị lãnh đạo tối cao trong đối tác ngoại giao, đại diện cho dân tộc, phải
là những đại biểu hội đủ nhiều yếu tố quan trọng mà Bác Hồ đã từng dạy rằng
"cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư". "Cần kiệm, liêm
chính" là đức hạnh cao vời; "chí công vô tư" là thực thi tinh
thần bình đẳng đối với mọi giai tầng trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo
với mọi tầng lớp thượng lưu, trung lưu hay hạ lưu, không kỳ thị sắc tộc hay màu
da, không phân biệt Tôn giáo hay đảng phái, phải đặt sinh mệnh của quốc gia lên
trên cả hơi thở sinh mệnh của chính mình; đó là tinh thần vô ngã vị tha, phải
linh hoạt và mẫn tiệp trong thao tác, nhuần nhuyễn và tỉnh giác để hóa giải
những chướng duyên, lấy phương châm "mình vì mọi người" để nêu cao
đại nghĩa, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì mới có thể
được lòng dân kính mến và quí chuộng, được quí cấp lãnh đạo tin tưởng và uỷ
thác.
Nếu ngược lại với lòng mong muốn của dân, với đường lối của Đảng và nhà nước -
dù trong ý niệm chưa biểu hiện hoặc chưa manh động, dù họ chưa phát hiện ra
những ý đồ đen tối ấy, những âm mưu bất chính, chờ cơ hội là ra tay vơ vét của
dân, lạm dụng quyền hành làm tổn hoại ngân sách của nhà nước. Không sớm thì
muộn, những cửa ngõ của địa ngục đã đang và sẽ mở ra chờ đón những phần tử ấy;
những lao tù và những trại giam đang nới rộng vòng đai sẵn sàng bắt tay và siết
chặt gông xiềng. Có những kẻ bất chính thân xác tuy chưa vào ngục, nhưng
"tòa án lương tâm" và "cán cân công lý" nơi nội tâm của họ
đã biến thành những vành đai móng ngựa, những lao ngục đen tối ngay chính trong
dòng hiện sinh này.
Hôm nay những thành quả khả quan mà toàn thể nhân dân Việt nam đạt được trong
dăm ba thập niên gần đây. Thử có mấy ai đã nghĩ rằng hiện có lẽ Bác đang mỉm
cười hân hoan, tự hào và hãnh diện về đất nước và dân tộc Việt đã đang từng
bước hòa nhập cộng đồng quốc tế và sánh vai với các cường quốc năm châu trên
thế giới.[29] Toàn thể dân tộc Việt nam đã tuân theo lời huấn thị của Bác:
"Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải ra công giữ nước".
Ngày nay toàn thể nhân dân Việt nam vẫn không quên duy trì và phát huy những
hạnh nguyện cao vời của những bậc minh quân thủa trước và những vị lãnh tụ kính
yêu đã quên mình cho dân tộc cũng như những vị Thiền sư, những người Phật tử đã
cống hiến đời mình cho đạo pháp. Suốt 700 năm qua, đèn thiền tuệ giác và khí
thiêng mầu nhiệm của vua Phật Trần Nhân Tông siêu phàm đã đang được khơi dậy
cho hậu thế có đủ thiện duyên về lại cội nguồn tâm linh thiêng liêng và kỳ diệu
ấy.
Ôn lại cuộc đời và tên tuổi cũng như những đóng góp khó lường của vua Phật Trần
Nhân Tông chắc chắn là hâm nóng lại suối nguồn tâm linh siêu thoát; phải lấy
hơi thở của thiền áp dụng làm sinh lực cứu tinh cho từng cá thể, giải tỏa những
gông xiềng đoanh vây nơi nội tâm, tỉnh táo và sáng suốt đánh thức nguồn tuệ
giác nội tại để vượt qua những chướng duyên ngoại tại khi cọ xát và đối đầu
với, hoặc tiếp cận và thể nhập với cộng đồng và với các nước tiến bộ khác trên
thế giới.
Năm nay 2008, Việt nam đã chính thức là Thành viên không thường trực của Hội
Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Vậy ai dám nói Việt nam không
thể sánh ngang tầm với các cường quốc khác trên thế giới? Là Thành viên thứ 150
của Trung Tâm Thương Mãi Thế giới, như kết quả của các Hội nghị Apect, ai dám
nói Việt nam là một nước lạc hậu và kém phát triển? Trước và sau Hội nghị Apect
thứ 21 nhiều nước trên thế giới đã đang và sẽ ký kết và hợp tác song phương và
đa phương, ai dám bảo rằng Việt nam không có an ninh và không có tiềm lực kinh
tế? Với lời tuyên ngôn độc lập trong năm 1945 của lãnh tụ Hồ Chí Minh, vậy ai
dám cho rằng Việt nam không có độc lập và chủ quyền dân tộc trên toàn lãnh thổ?
Đó là chúng ta chưa kể đến những bước chuyển mình vĩ đại, như UNESCO đã công
nhận Đại lễ Phật Đản là ngày lễ thiêng liêng và trọng đại nhất của Phật giáo
thế giới.[30]
Trên đây là những kỳ tích lịch sử vẻ vang của vua Trần Nhân Tông nói riêng và
Trần triều nói chung, của thiền phái Yên Tử nói riêng và của Thiền học Việt Nam
nói chung. Vậy đó không phải là công đức vĩ đại có nguồn gốc từ Phật hoàng Trần
Nhân Tông mà Ngài đã cống hiến đời mình cho cho dân tộc và đạo pháp cho quốc
gia xã tắc hay sao?!
Chú thích:
[26] Nhất Hạnh, Am Mây Ngủ, 2001, tr.
24 & 26.
[27] Viện Sử Học, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục_Tập 1, Nxb Giáo Dục,
1998, tr. 538.
[28] Sđd., tr. 542.
[29] Khi khuyên các cháu nhi đồng, Bác nói: "Đất nước Việt nam có trở nên
vẻ vang hay không, dân tộc Việt nam có được sánh vai với các cường quốc năm
châu hay không, chính là nhờ ở công lao học tập của các cháu". Chính hoài
bão và niềm khát khao cao cả này, Bác đã đích thân huấn thị qua khuynh hướng
giáo dục: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người". Đặc biệt với các tầng lớp cán bộ, thì Bác khuyên: "Cần kiệm,
liêm chính, chí công vô tư" nhất là đối với quân đội, Bác cũng dạy:
"Quân đội ta, trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Đó là những lời
dạy thống thiết và chân tình của một vị lãnh tụ kính yêu, người anh hùng của
dân tộc, nêu cao chí khí và nghị lực, giàu lòng yêu nước, thương dân mà dân tộc
Việt nam mới có được những thành tựu vẻ vang như hôm nay. Với những thành quả
nêu trên, vậy Bác không sung sướng và mỉm cười sao được?!
[30] Dười thời của chính quyền Ngô Đình Diệm, cờ Phật giáo bị cấm không được
treo, lồng đèn, trong ngày lễ Phật Đản. Xem Lê Cung, Phong Trào Phật Giáo Miền
Nam Việt Nam Năm 1963, Thuận Hóa, 2005, tr. 151-5.
50. Lòng Dâm Dục Hại Con Người
Phật Giáo Giảng
Đường San Francisco 1968
Phần sau rốt của kinh Lăng Nghiêm Đức Phật nói rõ về những ma sự mà người tu
gặp phải nhất là trong thời kỳ tà sư đầy dẫy nầy, cho nên kinh Lăng Nghiêm được
ví như "kính chiếu yêu". Các yêu ma quỷ quái đều sợ nhất Kinh nầy,
nên chúng tìm mọi cách hủy diệt kinh Lăng Nghiêm, tuyên bố kinh Lăng Nghiêm là
giả, phỉ báng Chú Lăng Nghiêm, khiến cho người ta không tin, không nghiên cứu
để rồi dễ lạc vào tà, làm quyến thuộc của chúng.
Yêu quái, ly mî, ma vương sợ nhất là Chú Lăng Nghiêm. Phật nói kinh Lăng Nghiêm
là để hiển bày Chú Lăng Nghiêm. Chú Lăng Nghiêm liên quan mật thiết đến sự hưng
suy của Phật giáo. Trên thế gian nếu có người trì tụng Chú Lăng Nghiêm thì
Chánh pháp tồn tại, nếu không có người trì tụng chú Chú Lăng Nghiêm thì không
còn Chánh Pháp; lúc ấy, ngũ đại ma quân ở năm phương mặc tình tác quái và đó là
bắt sự biến mất của Phật Pháp. Hiện tại chùa, tu viện không trì Chú Lăng Nghiêm
hay chỉ tụng phần cuối của Chú thôi, ấy chính là biểu hiện của Mạt Pháp.
Mong các Phật tử phát tâm nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm để có được trí huệ chơn
chánh, phát tâm trường trai, tránh ngũ vị tân mà trì tụng Chú Lăng Nghiêm hầu
Phật Pháp được cửu trụ, chúng sanh được lợi lạc.
Kinh Văn:
Nên biết, hư không sanh trong tâm ông ví như chút mây điểm trên nền trời xanh,
huống nữa là các cõi nước thế giới ở trong hư không!
Giảng:
Các ông nên biết: Hư không sanh trong tâm ông ví như chút mây điểm trên trời
xanh, hư không sanh từ tâm ông giống như chút mây điểm trên vùng trời xanh. Một
phiến mây điểm trên bầu trời, thì nhỏ tí ti, nhưng bầu trời, tượng trưng cho
tâm ông, thì lớn mênh mông. Trong đoạn kinh trước (quyển 6) đã nói:
"Không sanh đại giác, trung như hải âu phát"
Nghĩa là: Hư không sanh trong biển lớn giác ngộ, giống như một bọt nước nổi lên
trong biển cả. Bây giờ lại nói: "Không sanh nhữ tâm trung, phiến vân điểm
thái thanh." Hư không trong tâm ông nhỏ như một chút mây điểm trên vùng
trời xanh. Thế thì tâm ông lớn biết chừng nào! Huống nữa là các cõi nước ở
trong hư không! Tất cả thế giới trong hư không còn nhỏ đến chừng nào! Nếu hết
thảy thế giới ở trong tâm ông thì chúng còn phải nhỏ hơn nữa. Do điểm nầy mà
chúng ta có thể hình dung được rằng pháp tánh của mỗi chúng ta là trùm khắp mọi
nơi.
Kinh Văn:
Nếu chỉ có một người trong các ông, phát chân quy nguyên, thì mười phương hư
không thảy đều tiêu mất. Làm sao các cõi nước trong hư không kia không bị hủy
diệt?
Giảng:Nếu chỉ có một người trong các ông phát chân quy nguyên. Nếu như thành
Phật. Phát chân quy nguyên tức là thành Phật, chứng quả vị A la hán cũng gọi
làụ phát chân quy nguyên. A Nan, nếu một người trong các ông thành Phật thì
mười phương hư không đều tiêu mất. Hết thảy hư không trong mười phương đều
không còn. Làm sao mà các cõi nước trong hư không kia không bị hủy diệt? Ngay
hư không chẳng còn nữa thì làm sao mà các cõi nước tồn tại được? Các cõi nước
cũng tiêu trầm luôn vậy.
Có người nói: "Thành Phật rồi thì hư không đều tiêu diệt. Có rất nhiều
Phật trong mười phương đã thành Phật rồi, thì lẽ ra hư không không còn, thế tại
sao hư không vẫn không tiêu mất?"
Ở cái nhìn của chúng sanh, ông thấy có hư không, nhưng ở chư Phật thì thấy
không có hư không, không có gì cả. Sở dĩ sở kiến khác nhau nên các ông chớ bàn
nói một cách khái quát. Ví dụ như chúng ta có người đã được Ngũ nhãn, y có thể
nhìn thấy được những gì đang xảy ra ở nước này và nước khác cách nhau hàng ngàn
dặm. Ông là người chưa khai Phật nhãn, liệu có thể thấy được những việc như vậy
chăng? Do vậy ta không thể nói: Tôi thấy được nó nên nó phải hiện hữu. Ông có
thể thấy như nó đang tồn tại, nhưng qua tầm nhìn của Đức Phật thì không có gì
tồn tại cả. Ngay cả hư không cũng chẳng có.
Kinh Văn: Các ông tu thiền, đạt được Tam-ma-đề, tâm ông tương thông tương hợp
với tâm của chư vị Bồ Tát, và các vị vô lậu đại A la hán trong mười phương, nên
ngay đây mà được thanh tịnh trạm nhiên.
Giảng: Khi các ông tu tập thiền định, cũng tức là tu Tam-ma-đề, đạt được
Tam-ma-đề, đắc được định lực, tâm của ông tương thông tương hợp với tâm của chư
vị Bồ Tát và các vị vô lậu đại A la hán trong khắp mười phương. Cho nên, ngay
đây mà được thanh tịnh trạm nhiên, mà an trụ trong cảnh giới thanh tịnh vắng
lặng saün có. Sự thanh tịnh vắng lặng (thanh tịnh trạm nhiên) này, ông chớ đi
nơi khác tìm kiếm. Nó ở ngay nơi ông (đương xứ), ngay đây (đương xứ tức thị)
chính là Như Lai Tạng Tánh, vốn thanh tịnh vắng lặng và trùm khắp Pháp giới.
Tại sao tâm của chư vị Bồ Tát, các vị A la hán và với những người tu tập thiền
định hỗ tương thông hợp như vậy? Bởi vì các Ngài cùng tu một thứ định như nhau,
đều dùng pháp "phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo". Các
ngài đều tu Thủ Lăng Nghiêm Đại Định nên các Ngài đều như nhau. Đã như nhau nên
tâm của các Ngài kế hợp, hỗ tương thông đạt. Như thểụ có dòng điện nối liền
giữa các Ngài với nhau vậy.
Sự thông hợp này không chỉ xảy ra ở cảnh giới của chư Phật, chư Bồ Tát và các
vị A la hán, mà đối với hàng phàm phu chúng ta cũng có. Hễ ông nghĩ đến ai thì
giống như ông đánh một bức điện tín đến tâm người đó. Hỏi rằng: "Người kia
có biết (tôi nghĩ đến họ) chăng?" Tự tánh của người ấy thì biết rõ, dù tâm
thức của người ấy có thể không hề biết. Trong tự tánh của hai người, họ đều cảm
nhận được.
Nếu tôi cứ nghĩ đến người đó ngày đêm; nhớ nghĩ, nhớ nghĩ, nhớ nghĩ mãi... Vậy
thì người ấy cũng nhớ nghĩ về tôi không?"
Ông có thể nghĩ nhớ tới chết cũng chẳng ích gì! Giống như sự si ái mà tôi giảng
trước đây. Nếu một người si ái anh ta sẽ nghĩ về những cảnh đam mê tình ái suốt
ngày, không lúc nào dừng lại được những vọng tưởng ấy. Nhớ nghĩ, nhớ nghĩ, nhớ
nghĩ... cho đến anh ta muốn chết. Làm sao chết? Là nghĩ đến việc kết hôn. Kết
hôn tức là hôn mê luôn. Khi hôn mê thì từ từ sẽ chết. Nên nói: kết hôn tức là
hôn mê, hôn mê tức là ngu si, chuyện gì cũng không biết.
Trong Hán văn, ông có thể suy luận về nghĩa của hai chữ "kết hôn".
Hôn có nghĩa là mờ tối. Trong Hán văn thì ý nghĩa là thế. Không biết trong Anh
văn ý tứ thì ra sao.
Kinh Văn: Thì tất cả ma vương, quỷ thần, các trời phàm phu đều thấy cung điện
mình vô cớ mà đổ vỡ. Đại địa rung động, các loài thủy lục không hành thảy đều
kinh sợ. Nhưng hàng phàm phu mê muội thì chẳng hay biết những sự biến động này.
Giảng: Khi đạt được Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, là chân Tam-ma-đề (Chánh định),
thì ma quân rúng động. Tất cả ma vương, cùng các loài quỷ thần, các cõi trời
phàm phu của sáu cõi Dục và Tứ Thiền đều thấy cung điện của mình vô cớ mà đổ
vỡ. Vô duyên vô cớ cung điện bỗng dưng đổ vỡ.
Khi còn ở Mãn Châu tôi có một chú đệ tử trẻ tuổi. Tuy chỉ mười bốn tuổi, nhưng
thần thông chú không nhỏ. Chú có thể lên trời xuống đất tùy ý. Tuy đã mở được
Ngũ nhãn nhưng chưa chứng được lục thông. Chỉ có ngũ thông chớ không có lậu tận
thông. Nếu đạt được lậu tận thông thì được gọi là A la hán.
Một hôm, chú lên trời để tiêu khiển. Khi lên đó, Vua trời (ma vương) rất vui
mừng và dụ chú ta vào trong cung điện của chúng. Đó là một tòa lâu đài tuyệt
đẹp làm bằng ngọc lưu ly trong suốt.
Chú Sa Di đã bị mắc bẫy trong ấy.
Do chú có được Ngũ nhãn, nên chú có thể thấy được thân của mình đã bị cầm giữ
bởi Tha Hóa Tự Tại Vương. Do vậy chú ta báo cho tôi biết: Thưa thầy, con lên trời
nay không thể về được nữa.
"Thế là chú bị kẹt trên trời rồi! Hừ thế trước kia ai đã chỉ cho chú lên
đó?"
Con nghĩ là ở đó sẽ rất vui nên con lên đó để xem cho biết. Bây giờ người ở
trên đó không muốn cho con trở lại.
Tôi bảo: "Đi chơi, con không nên đến đó chơi. Các Thiên ma ở các tầng trời
cõi Dục đều muốn tìm cơ hội để phá hủy định lực của người tu đạo."
Thế rồi tôi nói với chú: "Đừng sợ, thầy sẽ đưa con về."
Tôi kêu chú về, nhưng ma vương ở đó vây chú lại không để chú đi. Đến lúc đó,
chú trở nên thật hoảng sợ và nói: Hắn không để con đi,vậy làm sao bây giờ?
Tôi bảo: "Đừng lo thầy sẽ đưa con về ngay!"
Rồi tôi dùng chú Thủ Lăng Nghiêm, đoạn chú văn chuyên phá vỡ ma thuật tức là
Ngũ Đại Tâm Chú (1). Ha! Khi ấy cung điện của ma vương tức khắc sụp đổ tan tành.
Do vậy chú mới ra về được.
Bấy giờ cung điện của ma vương đổ vỡ. Đại địa chấn động. Mặt đất nứt nẽ nhiều
nơi. Các sanh vật dưới nước trên không thảy đều kinh sợ. Tất cả những loài sinh
vật ở dưới nước, trên mặt đất, các loài bay nhảy, đều phi thường kinh sợ. Nhưng
hàng phàm phu tối tăm (hôn ám) thì chẳng hay những biến đổi này. Hàng phàm phu
chẳng có được tri giác bén nhậy, họ không nhận ra được quả đất đang trải qua
những sự biến đổi như vậy. Họ không có đủ sự nhậy bén để nhận biết sáu thứ chấn
động đang xảy ra.
Kinh Văn: Các loài này đều có năm thứ thần thông, trừ lậu tận thông, đương tham
luyến cảnh trần lao. Làm sao nó để các ông phá vỡ chỗ ở? Vậy nên các loài quỷ
thần, thiên ma, lî mî, võng lượng lượng, yêu tinh... trong lúc ông tu Tam-ma-đề
đều đến quấy phá.
Giảng: Bây giờ các ông hiểu rồi chứ? Vì sao ma lại đến phá? Chỉ vì các loài
thiên ma, quỷ thần này đều có năm thứ thần thông (thiên nhãn thông, thiên nhĩ
thông, tha tâm thông, túc mạng thông), chỉ trừ lậu tận thông mà thôi. Nếu có
lậu tận thông chúng sẽ không quấy phá các ông làm gì. Chỉ vì không có lậu tận
thông nên chúng vẫn còn muốn làm người xấu, người ác đến phá hoại người tu đạo.
Do vậy mà thấy: khó đắc được lậu tận thông lắm. Thế nào gọi là lậu tận? Tôi sẽ
giảng cặn kẽ về điều này. Tôi xin nói thật cho các ông nghe: bất luận là nam
hay nữ, hễ nam nghĩ đến nữ hay nữ nghĩ đến nam, đó gọi là lậu. Nếu ý nghĩ (nam
nữ) không đoạn thì các ông không đắc được lậu tận thông.
Lại nói sâu hơn nữa cho các ông nghe, tôi bây giờ giảng trắng ra, nói thật ra
cho các ông biết, nếu úp úp mở mở thì các ông bao giờ biết được bên trong là
gì? Nói thật ra là: Nếu các ông không để mất tinh thì gọi là lậu tận. Nếu tinh
mất thì gọi là lậu. Không những tinh không mất mà ngay cả tư tưởng ý niệm (dâm
dục) cũng phải không có. Khi ý niệm vi tế nhỏ nhiệm về dâm dục không có nữa thì
mới lậu tận. Hiện tại các ông đã hiểu chưa? Vì sao thiên ma không có lậu tận
thông? Vì chúng có tâm dâm dục. Quỷ thần cũng có tâm dâm dục.
Vì nó đương tham luyến cảnh trần lao. Trần lao là gì? Chính là sự dâm dục. Trần
lao chính là dâm dục mà dâm dục chính là trần lao. Vì thiên ma tham luyến sự
dâm dục nên nó không muốn các ông buông bỏ việc dâm dục. Nó khiến các ông tham
luyến. Chúng nói: "Chúng ta là bạn tốt. Tôi không buông bỏ việc đó, nhưng
anh muốn từ khước, buông bỏ việc ấy sao? Không thể được!" Vì thế bọn nó
tới tìm quý vị. Để làm gì? Nói toạc ra, là vì chúng không thể để các ông giải
thoát khỏi thế giới này. Nên các loài quỷ thần, thiên ma, lî mî, yêu tinh đến
quấy phá khi ông tu tập Tam-ma-đề. Khi tôi đề cập đến chữ yêu tinh trước đây
các ông chưa rõ nghĩa, hôm nay tôi sẽ giải thích. Ông có biết chữ yêu ( ) trong
tiếng Hán gồm có chữ nữ ( ) và chữ yểu ( ) ghép lại. Tức là cô gái (nữ) yểu
mạng (sống không lâu). Yểu là gì? Chết trước ba mươi tuổi thì gọi là chết yểu.
Các ông nhìn xem nghĩa của chữ, không cần tôi giải thích dài dòng, thì cũng
hiểu ý. Gái chết non thì làm quỷ đoản mạng, thanh niên chết yểu rất có khả năng
làm yêu tinh.
Lúc ông trong định, chúng đều hè nhau kéo lại. Lại để làm gì? Để ăn thịt Đường
Tăng. Ai là Đường Tăng? Tức là pháp sư Huyền Trang đời Đường. Rất nhiều yêu
tinh muốn ăn thịt Ngài, tức là muốn phá hủy định lực của Ngài. Nếu ông tu hành
có được định lực thì yêu ma quỷ quái đều muốn ăn thịt ông cho bằng được. Nhưng
không phải là ăn thịt ông đâu. Tôi sẽ hết sức chân thực trình bày cho ông được
rõ chẳng giữ lại điều gì. Điều gì thực sự sẽ xảy ra? Chỉ vì ông không nghĩ đến
dâm dục, tinh đầy đủ, khí đầy đủ, thần đầy đủ, nên bọn chúng thấy rằng lúc này
ông có nhiều của báu. Chúng nói: "Ta nhất định tới đoạt bảo bối của
mày!" Thế là bọn kéo lại phá hoại ông. Nguyên nhân là chúng muốn đoạt bảo
bối. Nếu ông có một người bạn gái và bà có một người bạn trai, thì những người
ấy cũng sẽ cướp đi của báu trân quý của ông hay bà vậy. Ông thử nghĩ có điều gì
khác sẽ xảy ra?
Ông nói: "Tôi học Phật Pháp, Phật Pháp dạy rằng phải biết bố thí, vậy nên
tôi đem bảo bối tặng người ta kia mà!"
Thế thì tốt lắm! Nếu vậy tương lai ông sẽ biến thành quỷ đói, đọa địa ngục.
Người cướp bảo bối của ông bấy giờ không thể tới (địa ngục) nói với ông rằng:
"Đây này, tôi sẽ trả lại cho ông một ít của báu, để ông có thể thoát ra
đây!" Lúc đó, chẳng có cách gì giúp ông được cả, ông suy nghĩ kỹ lại đi!
Kinh Văn: Các loài ma ấy, dầu có giận giữ, nhưng vẫn còn ở trong trần lao.
Trong khi ông ở trong chánh giác vi diệu. Bọn nó chẳng ảnh hưởng gì đến ông,
như gió thổi chẳng làm lay động ánh sáng; hoặc như dao chẳng cắt được nước. Ông
như nước sôi, trong khi ma vương giống như tảng băng, khi gần hơi nóng, băng sẽ
tiêu tan. Chúng nó cậy vào thần lực nhưng chỉ là khách thôi!
Giảng: Khi ông tu hành đắc được chút ít định lực, ma vương sợ hãi nên đến phá
hủy. Nó không muốn ông thành tựu định lực, dù các loài ma ấy đến để quấy nhiễu
ông và dù nó hết sức phẩn nộ, giận dữ nhưng nó vẫn còn ở trong trần lao. Nhưng
nó có trần lao ô nhiễm. Trong khi ông ở trong tánh vi diệu. Bọn nó chẳng ảnh
hưởng gì đến ông, như gió thổi chẳng làm lay động chút ánh sáng hoặc như dao
cắt nước. Nó chẳng làm gì được ông cả, chỉ như gió không đủ làm ánh sáng lay
động, và chỉ như dao dù bao nhiêu lần chém nước, nước chẳng hề hấn gì.
"Ông như nước sôi" trong cách so sánh này, định lực phát sanh từ công
phu tu tập của ông được ví như nước sôi. Trong khi ma vương giống như tảng
băng, ma vương được ví như tảng băng giá trong mùa đông. Khi gần hơi nóng, băng
sẽ tiêu tan, cứng như băng nhưng sức nóng của nước sôi cũng sẽ dần dần làm băng
tan chảy, chúng nó cậy vào thần lực nhưng chỉ là khách thôi. Nó chỉ trông mong
vào thần lực của chính nó nên nó chẳng phải là chủ, nó chỉ là "khách"
(chẳng ở được lâu). Nó không thể thành công trong nỗ lực quấy phá ông.
Kinh Văn: Chúng có thể phá rối được, do tại tâm ông, vốn là chủ nhân của ngũ
ấm, nếu chủ nhân mê lầm thì khách mới được dịp quấy phá.
Giảng: Chúng có thể phá rối được là do tại tâm ông, vốn là chủ nhân của ngũ ấm.
Căn bản là nó chẳng thể phá rối được. Tuy nhiên, nếu chủ nhân mê lầm, nếu tâm
ông vốn là chủ nhân của ngũ ấm mà mê lầm, thì khách sẽ được dịp quấy phá.
Khách sẽ được dịp quấy phá. Còn nếu như ông là chủ nhân không mê lầm thì nó
không thể làm được điều gì hại ông cả. Ai là chủ? Đó là tự tánh của ông, nếu tự
tánh của ông mê, ma có cách để hại ông. Còn nếu tự tánh không mê thì nó đành
chịu bó tay, chẳng làm gì được ông.
Kinh Văn: Khi trong thiền định, giác ngộ không mê thì các ma sự kia không làm
gì được ông. Khi năm ấm tiêu trừ ông thể nhập vào bản tánh sáng suốt. Bọn tà ma
kia đều nương vào khí u-ám. Do sáng phá được tối, nên bọn chúng sẽ bị tiêu hủy
khi đến gần ông. Làm sao còn dám ở lại nhiễu loạn thiền định.
Giảng: Khi trong thiền định, khi ông làm cho tâm ý mình được thanh tịnh (tịnh
lự), đạt được chánh định chánh thọ (tam muội), giác ngộ không mê, ông chỉ thuần
có tâm giác ngộ các ma sự kia chẳng làm gì ông được. Ma không có biện pháp hay
cách nào nhiễu loạn ông được. Khi năm ấm tiêu trừ ông thể nhập vào bản tánh
sáng suốt. Ma thuộc về âm, mà âm hay cái tối tăm u ám có thể bị xua tan. Ma
giống như băng, còn ông giống như nước nóng vậy. Chúng sẽ bị xua tan giống như
băng tiêu trong nước nóng vậy. Lửa trí huệ của ông rất sáng nên ông hoàn toàn
thể nhập với ánh sáng, thành tựu quang minh.
Bọn ma kia gồm yêu ma quỷ quái, tà ma ngoại đạo nương vào khí u-ám. Mọi bản
lĩnh của chúng đều là u khí tối tăm. Do sáng phá được tối, nếu ông có định lực
chân chánh, có trí huệ chân chánh, thì ánh sáng trí huệ sẽ chiếu sáng và xua
tan mọi u ám. Nên bọn chúng tự sẽ tiêu hủy khi đến gần ông, sao còn dám ở lại
nhiễu loạn thiền định? Chúng không dám ở lại quấy nhiễu ông.
Kinh Văn: Nếu không tỏ ngộ mà bị ngũ ấm làm cho mê lầm, thì chính ông là A Nan,
ắt phải làm con của ma, sẽ thành loài ma.
Giảng: Nếu không tỏ ngộ. Nếùu ông không minh bạch, không giác ngộ mà lại bị mê
lầm bởi ma của ngũ ấm, thì chính ông là A Nan ắt phải làm con của ma, nhất định
sẽ làm con của ma, sẽ thành loài ma, ông sẽ trở thành một loài của ma.
Kinh Văn: Như ông gặp nạn Ma Đăng Già, là ma sự nhỏ nhặt. Cô ta dùng chú thuật
bắt ông phá hủy luật nghi của Phật, trong tám muôn hạnh, chỉ phá một giới.
Nhưng vì tâm ông thanh tịnh nên chưa bị chìm đắm.
Giảng: Ông gặp nạn con gái của Ma-Đăng-Già, là ma sự nhỏ nhặt. Đó chỉ là ma sự
bình thường, nhỏ nhoi không đáng gì. Cô ta dùng chú thuật bắt ông phá hủy luật
nghi của Phật, cô ta dùng chú thuật của Tiên Phạm Thiên để mê hoặc, khiến ông
phá hủy luật nghi của Phật, trong tám muôn tế hạnh chỉ phá một giới mà thôi,
nhưng vì tâm ông thanh tịnh nên không bị chìm đắm. Vì ông đã chứng được Sơ quả
A la hán, ông không hoàn toàn bị ma khống chế, nên không bị đọa lạc.
Kinh Văn: Đây là nỗ lực muốn phá hoàn toàn sự giác ngộ quý báu của ông. (Nếu nó
thành công ), ông sẽ như gia đình quan Tể Tướng bỗng nhiên bị lưu đày, gia đình
ông ta trở nên xiêu bạt, bơ vơ, không thể thương-cứu.
Giảng: Đây là nỗ lực muốn phá hoại hoàn toàn sự giác ngộ quý báu của ông. Đó là
hành vi cho ông đọa lạc. (Nếu nó thành công), ông sẽ như gia đình quan Tể Tướng
bỗng nhiên bị lưu đày. Giống như một vị gia đình quan Đại thần bỗng nhiên bị
lưu đày, gia sản bị tịch hết, gia đình ông ta trở nên xiêu bạt, bơ vơ, không
thể thương-cứu. Ông hoàn toàn bơ vơ, không có nơi cầu cứu, không có người
thương xót giúp đỡ.
(1) Ngũ Đại Tâm Chú (từ câu 104 đến 108 trong chú Lăng Nghiêm theo bản tiếng
Hoa, còn bản tiếng Việt là từ ba chữ cuối của câu 80 đến câu 82. Đoạn chú nầy
là pháp "Phá ác"- chuyên phá ma thuật, bùa ngãi, thư ếm, chú trớ...
của tà ma):
Sất Đà Nể.
A Ca Ra.
Mật Rị Trụ.
Bát Rị Đác Ra Da.
Nãnh Yết Rị.
51. Pháp Ngữ Hòa Thượng Tuyên Hóa
Người đời cho rằng học thì ở nơi chỗ rộng
(như núi), nào hay rằng học ở ngay chỗ nhỏ xíu (tâm mình) này đây. Nếu ai có
đức hạnh thì phong thủy tự nhiên tốt bởi vì tâm họ tốt.
Người trí thì nhìn suốt tới cái lý của sự việc, không bị ngăn trệ bởi bề ngoài
của sự việc. Người ngu chỉ nhìn thấy tướng trạng bên ngoài của sự việc, chẳng
thấy suốt được chân lý bên trong của mọi chuyện.
Nếu ai muốn biết chư Phật trong ba đời, hãy quán bản tánh của pháp giới: Tất cả
đều do tâm tạo.
Muốn có trí huệ, trước hết đừng chửi bới người ta, cũng đừng đánh đập, giết
chóc, tổn hại kẻ khác.
Mình phải lập công với đời, làm lợi cho người. Nếu chỉ toàn là tính toán lợi
ích cho mình, lo cho mình được sung sướng, thì đó nào phải là ý nghĩa của việc
làm người.
Tôi biết được điều gì? Tôi biết thế nào là chịu thua thiệt, không chiếm tiện
nghi. Nếu bạn thật sự hiểu rõ thì bạn sẽ biết rằng: Chịu thua thiệt chính là
được tiện nghi (thắng thế), mà chiếm tiện nghi (giành hơn, giành thắng) chính
là bị thua thiệt.
Không phải dễ sửa những lỗi lầm tật xấu nho nhỏ đâu. Nếu bạn sửa đổi được chúng
thì bạn sẽ có định lực.
Người đời xem chuyện phát tài là vui sướng nhất. Có tiền rồi lại phải dùng óc
não tính toán làm sao giữ gìn nó để nó không mất, không hết. Cứ cho rằng tiền
là thật của mình, nên ngày ngày lo lắng. Song le, bất luận tiền nhiều hay ít,
chết rồi chẳng đem được một xu. Thế rồi lại hai tay trắng! Bạn xem nó có vui
sướng gì?
Chúng ta ai cũng bị nghiệp dắt dẫn, rằng: Thân không tự chủ. Mình sinh vào đời
này chính là để trả nợ. Bởi vì xưa kia tạo nghiệp không giống nhau, nên đời này
chịu quả báo khác nhau. Ðó là: Lưới nghiệp đan kết.
Làm việc quỷ thì tức là quỷ. Làm việc người thì là người. Làm việc Phật thì là
Phật.
Bây giờ mình được nghe mấy chữ chú Ðại Bi thì nên sinh lòng hoan hỉ, rằng thật
may mắn, thật hân hạnh, thật khó gặp được chú Ðại Bi. Thật vậy, rất khó mà bạn
có thể gặp được chú Ðại Bi. Nay gặp được chú rồi, bạn nên nhớ, đừng coi thường
nó rồi vất qua một bên.
Người học Phật phải bỏ ít thời gian ra học tập Phật pháp, không nên hiểu mường
tượng chẳng rõ ràng, tợ hồ biết nhưng lại không biết. Có người nghĩ rằng: Tôi
đã không biết, do đó tôi không cần muốn biết. Tôi đã không thông đạt, do đó cứ
không thông đạt luôn. Ðó là thái độ tự mình đầu hàng, không chịu bước chân tới
trước, tự vất bỏ tiền đồ của chính mình.
Người mới phát tâm tu hành, cái chướng ngại lớn nhất cho việc dụng công là: Tâm
dâm dục, con trai tham luyến con gái, con gái tham luyến con trai. Ðây là vấn
đề căn bản nhất.
Giảng kinh là tu huệ; tọa thiền là tu định; Không mở miệng nói lăng nhăng là tu
giới.
Làm người trên đời mình phải hành thiện cho đúng lúc, cho kịp thời. Còn một
chút hơi thở, một chút sức lực, mình phải hành thiện, tích đức, không nên phung
phí căn lành mình đã trồng trong kiếp trước, bằng cách đời này cứ việc hưởng thụ
cho hết những phước báo ấy.
Người tu mà sợ cô độc thì chẳng thể tu.
Trong tâm ta, tuyệt đối không được có quỷ. Cũng đừng có sân hận, oán ghét, buồn
bực, khó chịu. Khi có những thứ ấy thì không xong, bởi vì có chúng tức là quỷ
vào nhà rồi vậy.
Làm bậc thiện tri thức, bạn không được nịnh hót người ta, không được tìm cách
làm vui lòng người ta, khiến người bạn của mình mê mờ chân lý mà cũng chẳng hay
biết.
Quỷ vương chuyên môn nóng giận, không giữ quy củ. Quan Âm Bồ Tát chuyên môn
chịu bị hà hiếp, luôn giữ quy củ.
Bạn suy nghĩ những việc không có giá trị, thì tương lai sẽ gặt những quả báo
không có giá trị. Mọi thứ ẩm thực đều chỉ có một mùi vị. Cứ nghĩ về chuyện ăn
uống thì tâm sẽ buông lung, không thể kiềm thúc được sáu căn.
Nếu vũ trụ đầy tràn khí kiết tường thì địa cầu sẽ không vỡ tung.
Các bạn chú ý: Phàm là cảnh giới từ bên ngoài tới, mình đừng chú ý vào nó, đừng
can thiệp tới nó, cứ để tự nhiên, nhưng đừng để nó lay động tâm mình. Trong
Kinh Lăng Nghiêm có giảng rất rõ ràng, hy vọng các bạn tham thiền nghiên cứu tường
tận phần giảng về 50 Ấm Ma.
Buồn một chút: Là mình dạo chơi địa ngục. Cười một cái: Là già biến thành trẻ.
Khóc một hơi: Thì địa ngục có một phòng nhỏ thật đen thui.
Việc quan trọng đối với người tu là đừng sinh phiền não, ở bất kỳ tình huống
nào cũng vậy. Ngồi cũng không sinh phiền não; nằm cũng không sinh phiền não.
Cốt yếu là phải đoạn phiền não. Rằng: Phiền não vô tận, thề nguyện biến; biến
phiền não thành bồ đề. Phiền não tức là không giác ngộ. Bồ đề tức là giác ngộ.
Chú Ðại Bi tức là đại chú của tâm đại bi. Nó có thể thông thiên triệt địa. Nếu
bạn có thể mỗi ngày trì tụng 108 biến, liên tục trong suốt ba năm, thì sau đó
bạn có thể dùng chú Ðại Bi để trị bịnh. Lúc ấy, tay tới là bịnh trừ. Tôi biết
nói về công hiệu của chú Ðại Bi. Hy vọng các bạn mỗi người dùng sức mạnh của
chú Ðại Bi để vãng cứu hạo kiếp (tai ương, đại nạn) của thế giới, khiến cho
người ta vĩnh viễn không còn tai nạn, và chánh pháp vĩnh viễn ở mãi trong thế
gian.
Thánh nhân ngày xưa thì luôn tự trách phạt chính mình. Không như người đời nay,
chuyện gì cũng chẳng bao giờ nhận là mình sai, cứ luôn tìm lỗi lầm của kẻ khác.
Chúng ta mỗi ngày phải bớt nói một chút, để niệm Phật nhiều hơn một chút. Ðánh
chết ý niệm trong tâm thì Pháp thân mới sống đặng. Bớt nói chuyện, niệm Phật
nhiều: chuyện thật dễ như trở bàn tay.
Người tu thì phải làm ngược trở lại. Ðó là nghĩa làm sao? Tức là: Chuyện tốt
thì nhường kẻ khác, chuyện xấu thì gánh vào mình. Xả bỏ cái ngã nhỏ bé để hoàn
thành cái ngã (Phật tánh) vĩ đại.
Muốn học tốt thì oan nghiệt tìm; muốn thành Phật thì phải gặp ma. Nếu không
muốn học đạo giỏi, thì oan nghiệt không tới tìm bạn đâu. Càng muốn học giỏi thì
oan nghiệt càng tới tìm bạn, vì nó muốn thanh toán hết mấy món nợ cũ.
Năm mới vui vẻ! Chúng ta cần mỗi năm đều vui vẻ, mỗi tháng đều vui vẻ, mỗi ngày
đều vui vẻ, mỗi giờ đều vui vẻ. Chớ sinh phiền não thì mới là vun bồi miếng đất
trong tâm, hàm dưỡng khoảng trời nơi tự tánh.
Các bạn là người tu thì phải chân thật, bước từng bước chắc thật, niệm niệm
không để lãng phí, niệm niệm đều hướng tới đường đạo dấn bước. Làm được như vậy
thì bạn mới chân chính là người học Phật.
Việc tu đạo có thể làm tăng trưởng trí huệ, tăng trưởng tâm bồ đề, tăng trưởng
nguyện lực. Mọi thứ, chuyện gì cũng tăng trưởng.
Ngày ngày bạn không nên quên lãng con quỷ Vô Thường không biết bao giờ sẽ tới
mời bạn đi.
Thời mạt Pháp là thời mà ma mạnh, pháp yếu. Thế lực của ma vương ngày càng lớn
mạnh. Thế lực của đức Phật ngày càng thâu nhỏ. Ðối với Phật thì không phải nói
về thế lực mà là oai đức mới đúng. Khi chúng sinh có phước báo lớn thì pháp
mạnh, ma yếu. Khi chúng sinh phước báo ít thì ma mạnh, pháp yếu.
Nếu người xuất gia tham đồ cúng dường, ham ăn ham mặc, thì còn chánh pháp gì để
nói?
Chuyên nhất thì linh cảm, phân tâm thì bế tắc. Làm sao chuyên nhất? Tất định
phải đoạn dục, bỏ ái. Nếu không cắt bỏ ái dục thì người xuất gia tu tám vạn bốn
ngàn đại kiếp cũng không thể thành tựu. Do đó điểm này rất trọng yếu.
Bạn không có tâm tham thì mới buông xả đặng. Có buông xả thì bạn mới tự tại,
rồi sau đó mới có thể giác ngộ, khai đại viên giác.
Người tu đạo chúng ta phải từ có mà hóa ra không, phản bổn hoàn nguyên. Quay về
lại với bản hữu Phật tánh của mình.
Giải thoát tức là bạn tốt nghiệp nơi vòng giới luật. Cũng là tốt nghiệp trong
vòng quy củ. Cũng là tốt nghiệp khỏi vòng phiền não. Cũng là tốt nghiệp khỏi
vòng vô minh.
Bản thể của Pháp là không, do đó bạn không nên chấp trước vào pháp. Nên nếu bạn
đối với pháp mà không thể nhìn suốt, rồi buông bỏ thì bạn vẫn chưa được tự tại.
Người có lòng thù hằn, thì sẽ có con quỷ mặt đỏ.
Người có lòng oán ghét, thì sẽ có con quỷ mặt vàng.
Người có lòng áo não, thì sẽ có con quỷ mặt trắng.
Người có lòng sân nộ, thì sẽ có con quỷ mặt xanh.
Người có lòng phiền toái, thì sẽ có con quỷ mặt đen.
Người thù hằn thì hại tim. Người oán ghét thì hại tỳ. Người áo não thì hại
phổi. Người sân nộ thì hại gan. Người phiền muộn thì hại thận.
Con trẻ, khi sinh lý chưa trưởng thành, mà đã đi tìm đối tượng yêu đương thì
(thân thể và tinh thần) sẽ bị tổn thương, lại bị thiệt thòi nữa.
Tu hành không cần tìm kiếm chỗ cao, chỗ xa xăm. Ðạo thì tại trước mắt mình, tức
là trong tâm mình. Vọng tâm thì ý ngựa, tâm khỉ vượn. Ý thì lăng xăng như con
ngựa, tâm thì nhảy nhót như con khỉ. Nếu bạn có thể nhận thức tâm này thì tu hành
nhất định mới có cảm ứng.
Có người hỏi tôi: Khi tới Tây phương, thầy làm sao hoằng dương Phật pháp? Tôi
xin đáp rằng: Tôi hoàn toàn dựa vào Quán Thế Âm Bồ Tát, chú Ðại Bi và chú Lăng
Nghiêm.
Chùa là chốn nuôi dưỡng người tu hành không phải nuôi dưỡng kẻ làm biếng.
Chúng ta phải tranh nhau học Phật pháp. Học Phật pháp so với việc kiếm tiền còn
quan trọng hơn nhiều. Nếu bạn tu dưỡng Pháp thân huệ mạng cho khỏe mạnh, cho
cường tráng thì còn tốt hơn đi kiếm tiền trăm ngàn vạn lần nữa.
Phước không thể hưởng hết. Hưởng hết thì không còn phước nữa. Khổ thì có thể
chịu hết. Chịu hết thì hết khổ để chịu.
Suy gẫm về cái khổ của bịnh tật, thì mạnh khỏe là phước.
Suy gẫm về cái khổ của tai nạn, thì bình an là phước.
Suy gẫm về cái khổ khi có tiền, thì không tiền là phước.
Suy gẫm về cái khổ của giàu sang, thì nghèo cùng là phước.
Từ vô lượng kiếp tới nay, mình bị thứ hư vọng lừa đảo. Nên đời đời kiếp kiếp
mình phải ở trong vòng sinh tử luân hồi. Cũng như cá trong lưới, bơi ra bơi vô,
vĩnh viễn không thoát khỏi lưới. Ðó cũng là do mình không chịu phát tâm bồ đề,
không chịu bị thua thiệt, nên vẫn phải ở mãi trong vòng sinh tử, kẹt trong bánh
xe luân hồi xoay vần sáu nẻo.
Kẻ chân chính có trí huệ thì không bao giờ tự khen, chê người. Ai mà tự khen
thì người đó không có tiền đồ gì nữa. Tuy rằng vẫn còn sống nhưng đã như chết
rồi.
Ðời này người ta cứ tìm thứ giả, còn thứ thật thì bỏ đi.
Toàn thế giới tràn ngập khí hắc ám. Ở đâu có người chân chính tu hành, ở đó tai
nạn ít bớt, và nhỏ hơn. Nếu nhiều người cùng tu ở tại một chỗ thì sức mạnh tập
thể của họ có thể biến khí hắc ám thành khí kiết tường.
Người thuyết pháp bất luận rằng y có thần thông quảng đại tới đâu, bạn cũng
phải quan sát hắn ta. Nếu y có lòng tham lam, tới đâu cũng kiếm tiền; hoặc có
lòng dâm dục, thì y không phải thứ thiệt, mà là thứ giả. Nếu y không có lòng
tham, lòng dâm dục, không có mưu đồ, thì y mới là thứ thiệt.
Tu hành không là chuyện một ngày một đêm mà thành. Nó đòi hỏi, ngày cũng như
vậy mà đêm cũng như vậy: Tâm lúc nào cũng tu trì, kiên định không biến đổi. Sau
một thời gian lâu dài thì sẽ phát triển thành trí huệ bát nhã. Nếu bạn một ngày
tu, mười ngày nghỉ thì vĩnh viễn không thể thành tựu.
Trong chùa, bạn không nên nói chuyện bừa bãi. Không thể tùy tiện cẩu thả. Quy
củ là giới luật. Giữ giới luật thì mới thanh tịnh. Có thanh tịnh thì mới gần
gũi chư Phật.
Thân thể của ta cũng giống như một xưởng hóa học, thiên biến vạn hóa. Có lúc nó
biến mình thành con trùng, có khi con chim, con quỷ đói, hay nếu phản ứng hóa
học thành công thì biến mình thành Phật. Nó có thể biến có thành không, biến
không thành có; hóa ra vô số sinh mạng khác nhau. Do đó mình phải cẩn thận đừng
để nó biến mình thành quỷ đói hay thú vật. Tại xưởng hóa học này mình phải hun
đúc, tôi luyện thành Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác. Biến hóa sai một chút
thì kết quả sẽ sai khác xa lắc, muốn trở lại thì cũng chẳng phải dễ đâu.
Không tu hành mà muốn thành Phật: Chẳng có chuyện đó.
Vô minh tức là không hiểu biết. Căn bản của vô minh là ái dục.
Bạn chớ nghĩ rằng mình có cảnh giới rồi cho rằng đó là tốt. Có cảnh giới nhưng
bạn không nhận biết nó rõ ràng thì sẽ rước ma.
Bất luận là bạn thấy việc gì, đừng nên bị cảnh ấy lay chuyển, đừng nên chạy
theo cảnh giới ấy. Phải làm sao? Phải xem nó như không có. Gặp cảnh giới và
không gặp cảnh giới, tâm bạn phải như nhau. Không sinh tâm vui mừng, cũng không
sinh tâm ghét bỏ.
Rất nhiều người đời chỉ ăn rồi chờ chết, lãng phí thời giờ. Ai cũng vậy: Sáng
sớm ngủ dậy, là bận rộn này nọ cho tới tối về lên giường ngủ. Cũng chỉ vì ba
miếng cơm mà bôn ba. Sống như cục thịt biết đi, chẳng có chút giá trị, ý nghĩa
gì cả, thì sống và chết có gì bất đồng?
Bởi do con ngưòi có tâm sân nên mới có hỏa tai (nạn cháy). Có tâm tham nên mới
có thủy tai (nạn lụt lội). Có tâm si nên mới có phong tai (nạn gió bão). Ba tai
nạn vốn do ba độc tham sân si mà ra. Chúng ta ai ai cũng có đủ ba độc trong
tâm. Nếu tâm ấy một ngày một lớn mạnh thì tới một lúc nào đó, nó sẽ tạo thành
đại tai nạn.
Bên ngoài có máy vi tính (computer), bên trong tự tánh chúng ta cũng có máy vi
tính, gọi là thần não, thánh não hay Phật não. Cũng tức là đại trí huệ. Tuy
khoa học tiến bộ, song phương hướng của nó hướng ngoại, nên càng truy tìm chân
lý thì càng rời xa chân lý. Các vị khoa học gia chỉ dụng công nơi ngoài da, do
vậy dường như có điều sở đắc, nhưng kỳ thật thì đã quên mất trí huệ bổn hữu. Ðó
gọi là bỏ gốc, theo ngọn.
Lúc tu đạo không cần mình phải dùng sức mạnh để đối phó với chướng ngại. Nếu
bạn chân thành thì tự nhiên mọi chuyện sẽ giải quyết êm đẹp.
Không thể muốn tu pháp xuất thế, đồng thời chẳng chịu buông bỏ pháp thế gian.
Hai chân đạp lên hai chiếc thuyền: Một thuyền đi Giang Bắc, một thuyền đi Giang
Nam. Ðó là chuyện không thể làm đặng.
Nếu muốn cái độc trong thế giới tiêu trừ thì mọi người phải ăn chay, không ăn
thịt.
Ai mà không chấp trước? Chớ nghĩ rằng, lúc tôi không có việc gì làm, tức là tôi
không chấp trước. Xem thử lúc có việc, cảnh giới tới, thì bạn sẽ ra sao. Lúc
không có việc gì, bạn không có phiền não, thì đó chưa phải là thiệt. Phải chờ
lúc cảnh giới tới, nếu bạn nhận thức được nó, thì đó mới đáng kể.
Người học Phật chúng ta cần thiết phải thâm nhập kinh tạng, thì mới có trí huệ
rộng lớn như biển. Không thâm nhập kinh tạng thì trí huệ không sao rộng sâu như
biển. Không thâm nhập kinh tạng thì cái gì sẽ như biển? Phiền não của bạn sẽ
rộng như biển. Chấp trước của bạn cũng sẽ sâu như biển. Tà kiến của bạn cũng
đầy như biển. Do đó việc đọc tụng kinh điển đại thừa thật vô cùng trọng yếu.
Người xưa nói: Vạn ác, dâm đứng đầu. Ðó là đường chết, không thể đi. Bạn cứ làm
chuyện dâm dục thì cũng như đi vào đường chết.
Ðừng cho việc thiện quá nhỏ nên không làm, đừng cho việc ác nhỏ quá nên làm
luôn. Việc tốt dù nhỏ đến đâu, mình cũng phải làm. Việc xấu tuy là nhỏ song
mình chớ làm.
Tu hành thì phải nhịn khổ.
Không tranh, không tham, không truy cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói
dối: Ðó là việc vốn rất dễ làm, chẳng ai cưỡng bách bạn làm cả. Nhưng bởi vì
bạn không chịu làm nên nghịch cảnh mới tới. Nghịch cảnh đó là việc tranh giành,
việc tham lam, truy cầu, ích kỷ, tự lợi, dối trá. Từ đó mới có nạn hoạnh nghịch.
Khi gặp nghịch cảnh thì bạn chịu không nổi. Vậy thì khi bạn nói dối trá, sao
chẳng cảm giác là chịu không nổi chớ?
Giới tức là cử tâm động niệm, bạn không được sinh tất cả thứ gì xấu ác.
Ðịnh tức là thành tích của tu giới. Nếu bạn trì giới cho lâu thì sẽ có định
lực. Ðịnh lực tiếng Phạn gọi là samadhi hay tam muội, nghĩa là chính định hay
chính thọ. Chính định thì khác với tà định. Chính thọ thì cũng khác với tà thọ.
Chính định chính thọ thì mới hợp với chánh pháp. Còn tà định và tà thọ thì
không phù hợp với pháp.
52. Hòn Đảo Của Những Di Sản Phật Giáo
PHÚ QUÍ HÒN ĐẢO CỦA
NHỮNG DI SẢN PHẬT GiÁO
Nằm ở vùng biển đông mênh mông sóng nước – đảo phú quí như con cá thu khổng lồ
đang trồi lên mặt nước chở trên mình một bức tranh thiên nhiên với vốn di sản
cổ xưa quí giá. Hòn đảo được hình thành là dấu tích của hoả diệm sơn đã tắt qua
nhiều lớp phun thạch của miệng hoả sơn – chuỳ taọ thành núi cao nhô lên khỏi
mặt biển với sự bồi tụ của lượng cát biển hàng năm tạo thành một loại đất màu
nâu , vàng hay xám đen khiến ta liên tưởng đến nét rêu phong cổ xưa của những
ngôi tháp cổ sừng sửng giữa trời xanh biếc. Từ xưa hòn đảo này đã có nhều tên
gọi khác nhau đối vói cộng đồng người Chăm đây là khu Kulau Koh Klong còn đối
với cư dân Qủang Nam – Đà Nẵng thường gọi là Thuận Tịnh, cù lao Khoai Xứ hay cù
lao Thu, tên gọi Phú Quí chỉ xuất hiện vào thời Thiệu Trị thứ 4 (1844) vì nơi
đây có tầm quan trọng lớn đối với việc quan hệ buôn bán và khả năng quân sự.
Nền văn hoá hình thành khá sớm được đánh dấu bằng những di chỉ cổ xưa mà nhân
dân nơi đây tìm thấy như rìu, chum vò lớn, đồ trang sức bằng đá với kỷ thuật
chế tác khá tinh sảo. Căn cứ những di chỉ trên ta có thể đoán được chủ nhân của
nền văn hoá phú quý thuộc văn hoá Sa Huỳnh tồn tại cách ngàynay từ 3000 – 4000
năm. Nói thế để thấy con người đã khám phá ra hòn đảo này từ rất sớm, có thể
nói tộc người Chăm từ Qủang Nam – Đà Nẵng trở lại thường gọi là thị tộc Dừa hay
từ Phú Yên trở vào ( thị tộc này có tên gọi là Cau), có phải vì là nơi giao lưu
hành hoá – văn hoá từ khu vực Đông Nam Á hay không mà dư âm Phật giáo còn ảnh
hưởng khá sâu sắc ở hòn đảo này. Từ tính cách đến tín ngưỡng, từ việc tế lễ đến
sinh hoạt cộng đồng, đều mang âm hưởng tư tưởng Phật với bản sắc của ngư dân
vùng biển. Tuy khiêm tốn về diện tích nhưng đảo Phú Qúi đã có trên 6 ngôi chùa
được xây dựng có nhiều ngôi chùa lâu năm như Thạch Lâm, Linh Quang….
Tiêu biểu cho 6 ngôi chùa trên Phú Qúi, đó là cùa Linh Quang Tự: xét về thời
gian chùa được xây dựng năm 1747 đời vua lê cảnh hưng thứ 8 do các nhà sư theo
các thương buôn từ đất liền ra tạo lập. Ban đầu chỉ là mái tranh vách dứa nhưng
do sự đóang góp nảo trì của nhiều phật tử, ngôi chùa ngày một xây dựn trang
hoàng và tôn nghiêm hơn. Theo cách đánh giá của nhiều nhà sử học, đây là chùa
cổ nhất của tỉnh Bình Thuận, ngoài những nét cấu trúc hài hoà, chùa còn lưu giữ
nhiều di vật cổ có giá trị nghệ thuật dân gian rất lớn. Nhiều pho tượng cổ với
thể loại và chất liệu khá phong phú như đá, đất nung, gỗ, cùng nhiều nét chạm
khắc sắc sảo, tào hoa những nghệ nhân đất đảo đã để lại cho đời sau vốn giá trị
nghệ thuật lớn lao. Các pho tượng được thờ ở chùa Linh Quang phần lớn có niên
đại vào thế kỷ XVII, XVIII, XIX, đặc biệt những bức tượng được xem cóa niên đại
sớm hơn như tượng Quan Thế Aâm Bồ Tát, Phật Nhiên Đăng…
Xét về đặc điểm nhân chủng, tượng phật được lưu giữ tại chùa Linh Quang hầu như
mang âm hưởng của tính cách tượng phật tìm thấy ở đại hữu, đồng dương thuộc
nguồn gốc phật giáo Đại Thừa Chămpa. Với khuôn mặt bầu tròn, môi dày mũi tẹt,
đôi lông mày gần giao nhau ùng với sự phóng khoáng mô típ tạc trong thế đứng hay
ngồi đưa tay về thiên hướng cảm thụ ngệ thuật hơn là để dùng trong việc tôn thờ
đã cho ta thấy ảnh hưởng trong tâm thức tạc tượng Chămpa thật sự đang hiện diện
trong vùng đảo xa khơi. Điều này là một trong những gợi hướng mở cho chúng ta
hiểu thêm về đời sống tín ngưỡng – tôn giáo của người dân đất đảo và sự giao
thoa tuyệt vời của hai nguồn văn hoá Chămpa – Đại Việt mà ngôi chùa Linh Quang
là một biểu tượng cần được tìm hiểu. Một điều làm cho chúng ta chú ý hơn là sự
xuất hiện của tượng Phật Nhiên Đăng được tôn thờ ở đây như là biểu hiện rõ hơn
về cuộc sống ngư dân biển.
Ngược lại đối với ngư dân khu vực ven biển miền Trung thường thấy rất ít khi
xuất hiện quan nịêm thờ hay tạc tượng Đức Phật Nhiên Đăng có lẽ đây là nét biểu
hiện rõ nhất về phật giáo Chămpa còn lại. Đến phú quuý, đến tâm thanh nhìn lên
trên đồi cao Linh Quang Tự đứng sừng sững oai nghiêm với cổng Tam Quan, với tầm
vóc ngguy nga cho ta thấy sự sùng tín đạo phật của người dân hun đúc tự bao
đời. Hiểu được tầm vóc quan trọng đó nên vừa qua bộ văn hoá – thông tin đã công
nhận chùa Linh Quang là di sản văn hoá quốc gia và trước đó nhiều thế kỷ vào
thời Nguyễn các vua Nguyễn đã phong tặng gồm 10 sắc phong cho ngôi chùa này.
Cuốn Thiền phả, loại văn tự cổ của chùa cũng đã ghi chép khá tỉ mỉ về sự hình
thành của chùa cũng như sự truyền bá và thịnh hành phật giáo trên đảo.
Di tích đặc biệt liên hoan đến đặc tính của Chămpa là đền thờ Bà Tàng Tranh.
Theo truyền thuyết cho biết Bà vốn là công chúa của vua Chămpa do sai phạm nên
bị đày về đảo này. Trong tìm thức người dân đảo vẫn cho rằng bà là ngưòi đầu
tiên đặt chân khai hoang và sinh sống tại đảo, là tiền hiền vun đáp sự sống cho
thế hệ đến sau. Ngoài truyền thuyết mang tính huyền bí về cuộc đời của Bà, một
đuề khá lý thú là hầu như ngư dân sống ở vùng đảo này đều xem Bà như là hiện
thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Trong một lần trao đổi với chúng tôi Thượng Toạ
Thích Thiện Tâm trụ trì chùa Đạt Ma là người con đất đảo – đã đề cập đến những
câu chuyện kì bí xung quanh Bà mang đậm tính chất phật giáo.
Ngư dân mỗi lần ra hơi bị giông tố ập đến người ta hay chú tâm cầu nguyện đến
Bà. Thường thì Bà hay ấn thân để giúp đỡ và che chở. Trong một chuyến điền giả
vào năm 1994 tại đảo Phú Quý chúng tôi đã tìm về ngôi mộ cũng là nơi thờ tự Bà.
Điêu phát hiện khá trùng lặp, chính tại đây là một di chỉ khá phong phú về giai
tầng văn hoá Sa Huỳnh – Chămpa như mảnh vỡ của sành sứ, các khí cụ bằng sắt…
như vậy cho chúng ta thấy rằng trước đó đã có cư dân Chămpa sinh sống và hình
tượng tôn thờ Bà Trang Tranh hiện nay chính là sự nối tiếp của tính tôn thờ mẫu
hệ và còn là điểm mốc đầu tiên để tưởng nhớ cư dân đi trước.
Có được như ngày hôm nay Phú Quý đã trải qua những biến suy rồi hưng thịnh,
nhiều thế hệ với những công sức to lớn đã góp nên một Phú Quý như hiện nay, bản
sắc văn hoá được bảo tồn, đời sống kinh tế ngày càng thêm ổn định. Tuổi trẻ Phú
Quý với tinh thần Phật sự đang được củng cố và bồi đắp là nìêm tin chắc chắn là
sự bảo trì vốn van hoá đặc sắc của quê hương mình góp chung vào nền văn hoá đa
màu của dân tộc Việt Nam.
53. Du Nhập Phật Giáo Ở Chămpa
THỜI ĐIỂM DU NHẬP
PHẬT GIÁO TẠI CHĂMPA
Từ khi hình thành nhà nước dưới dạng sơ khai
Lâm Ấp{190 – 193 sau công nguyên), đời sống văn hoá của cộng đồng người Chămpa
đã chịu sự tác động mạnh mẽ của sự đối lưu qua các nền văn hoá bên ngoài. Vấn
đề phát triển kinh tế – văn hoá mà đòn bẩy chính là sự phát triển công kĩ nghệ
sắt Sa Huỳnh, cùng với sự tác động mạnh của nền nông nghiệp định cư bằng sản
xuất lúa hai vụ đã đưa cộng đồng này tiến đến thời kì thịnh vượng nhất. Không
chỉ có sự tác động qua lại giữa công nghệ – kỹ thuật sắt và nền nông nghiệp với
tính ưu việt mà qua đó, chúng tôi còn muốn đề cập đến vấn đề khác có tính tương
trợ hết sức quan trọng, đó là tầm quan hệ đối lưu của ngành thương nghiệp thông
qua đường biển.
Nhờ nhiều sản vật quý hiếm, nhiều kỹ nghệ đồ sắt ưu việt, cộng đồng người
Chămpa đã có những tổ chức đưa các “ mặt hàng” của mình qua trao đổi đồng thời
nhập về những “mặt hàng” thiết yếu gia dụng, điều này được khẳng định qua sự có
mặt của các đồ đồng của văn hoá Đông Sơn, Phù Nam, và một số có liên quan đến
sự đối lưu – trao đổi qua đường biển như các vật trang sức, khuyên tai hai đầu
thú, xâu chuỗi bằng thuỷ tinh… xuất phát từ các nước Nam Á. Đặc biệt qua vấn đề
hình thành chữ viết dựa trên nền tảng đặc trưng chữ hình tượng của văn hoá Ấn
Độ. Bằng chữ Phạn qua các kí tự tìm được từ thế từ thế kỉ thứ I sau công
nguyên, đồng với sự tiếp thu và biến thể của một số nền văn hoá ngoại để phù
hợp với nền văn hoá bản địa. Trong đó, chịu sự rác động mạnh nhất của văn hoá
Ấn Độ – Nam Á là điều tất yếu không thể phủ nhận được, khi mà sự đối lưu hàng
hải của Chămpa vào những giai đoạn đó phát triển mạnh nhất vùng Đông Nam Á.
Song song với việc chấp nhận nền văn hoá Ấn ở thời kì dòng Phật giáo và Bà –
La- môn đang được phát triển mạnh mẽ. Hai triết học này cùng với nền kinh tế
tăng trưởng đã có những bước tác động sâu vào vaasn đề định hìh nền văn hoá
Chămpa. Từ những vấn đề chúng tôi vừa nêu ra ta có thể khẳng định rằng nền văn
hoá Ấn Độ và Nam Á được truyền về đây từ rất sớm đối với một cộng đồng mà tín
ngưỡng tôn giáo là chủ lực chính.
Vậy thì phật giáo được du nhập vào Chămpa như thế nào? Câu hỏi này đã được
nhiều lớp học giả nghiên cứu về văn hoá Chămpa quan tâm và tiếp cận, nhiều nhà
sử học cũng dành nhiều thời gian để tìm hiểu vấn đề này. Riêng chúng tôi chỉ là
những người thừa kế của các bậc tôn sư đi trước để lại cùng với việc sưu tập
tài liệu, các thư tịch cổ có liên quan đến văn hoá Chămpa để phác thảo một
trình tự nhất định nào đó của dòng phật giáo, nét tư tưởng nổi bậc của nhiều
vương triều Chămpa kế thừa và phát huy. Lật các thư tịch cổ của Trung Hoa có
liên hệ mua bán trao đổi với người Chămpa vào những thế kỷ VII, Nghĩa Tịnh (I –
Sting ) đã kể lại cộng đồng người Chămpa vào thời kì này rất kính mến Phật
Thích Ca.
Khi tìm hiểu các sử liệu Trung Hoa khác, một số nhà nghiên cứu còn cho biết
thêm vào năm 605, quân nhà Tuỳ khi đánh chiếm Chămpa đã thu được rất nhiều
chiến lợi phẩm, trong đó nổi bật nhất là 1.350 pho kinh phật. Đồng thời dựa
trên một văn bản được tìm thấy trên bia Võ Cạnh – Nha Trang – Khánh Hoà – cho
rằng vào thế kỉ thứ I, phật giáo là tôn giáo chủ đạo xung quanh khu vực trung
tâm của xứ kauthara. Sự sùng bái đạo Phật có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng cộng
đồng Chămpa đương thời. Khi tiến hành nghiên cứu về văn hoá Chămpa, nhà nghiên
cứu L.Finot đã có những khảo cứu sưu tra bia Võ Cạnh – Nha Trang, cho biết
thêm: “Nhà vua dựng bia để thể hiện ý thức về sự bất thường của cuộc đời, về
lòng trất ẩn đối với chúng sanh, sự hy sinh của cải mình cho lợi ích chung…”
đây là biểu hiện rỏ nét về sự ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo về tinh thần nhận
thức của mọi tầng lớp trong xã hội Chămpa lúc bấy giờ.
Căn cứ vào những chứng cứ trên, chúng ta có thể cho rằng tư tưởng cùng dòng
Phật giáo được truyền về và phát sinh ở đây vào những giai đoạn niên kỉ I sau
Công nguyên, cùng song song với sự du nhập “ nở rộ” của nền văn hoá Ấn Độ và
Nam Á. Thật vậy,miền duyên hải miền Trung vốn có điều kiện thuận lợi về tìm
năng hàng hải có các cửa biển tự nhiên ưu đãi về vấn đề an toàn nơi trú ngụ của
tàu thuyền, từ đây cùng với sự phát triển phồn thịnh cùng với tính ưu việt của
nền văn hoá ảnh hưởng đến là biến chuyển từ nền văn hoá bản địa tiền Chămpa đưa
đến một văn hoá Chăm. Sự tác động mạnh mẽ đó làm ảnh hưởng nhất định đến tôn
giáo trong thời kì này. Xét về bối cảnh thời kì trước của Ấn Độ về khía cạnh
tôn giáo cho đến lúc đức Phật nhập diệt, trải qua một trăm năm biến chuyển
trong cộng đồng Tăng lữ.
Từ sự ủng hộ nhiệt tình của các vương quốc, các trưởng giả giàu có và danh
tiếng. Cũng từ đây, dư âm và uy đức của đức Phật vẫn còn đang bao trùm các vương
quốc nên vấn đề qui ngưỡng về Tam bảo theo tinh thần tuyệt đối vẫn còn sâu đậm.
Từ đó tư tưởng của Arya- Samiti – Nikaya và Sarvativada theo đà đó phát triển
mạnh mẽ, nhiều vị vua trị vì ủng hộ sùng bái Phật giáo tạo nên một thời phồn
vinh. Tất nhiên những thương buôn là những Phật tử và những vị Sa môn theo gót
viễn du về những vùng đất mới còn mang bên mình một triết học – tôn giáo bản
địa của mình do mình hấp thụ được qua khắp vùng Châu Á. Trong những chuyến diễn
du để trao đổi hàng hoá trước yêu cầu ngày một lớn ấy, theo điều kiện của từng
vùng đất và điều kiện thuận lợi về hải cảng tạo nên một nền kinh tế phồn vinh –
giao lưu văn hoá có những bước thành tựu khả quan : trong đó hải cảng Chămpa là
địa điểm các thương buôn thường chú ý và tìm đến nhất bởi tầm quan trọng của
vấn đề trao đổi hàng hoá.
Cũng từ đây một số vị Sa môn nhìn nhận và thấy rằng vùng đất này có thể phù hợp
để truyền bá chánh pháp và được cộng đồng này chấp nhận một cách tích cực.
Những vị chân tu Phật giaó theo thời gian phiêu du tìm về nơi vắng vẻ để tụ tập
– đồng thời hoằng hoá khai ngộ cho chúng sanh trước công nguyên, và từ đó đưa
triết lý của Phật giáo lên tuyệt đỉnh. Cùng với sự phát triển đa chiều của Bà-
la –môn, giáo, hai tôn giáo này đã bắt đầu ăn sâu vào tư tưởng cuả cộng đồng
người Chămpa đương sự. Bước vào thời kì sau công nguyên, sự hoàn thiện về tư
tưởng - tôn giáo được khẳng định tại vùng đất này với một quốc gia phong kiến
mang tên Chămpa. Một loài hoa tinh khiết để cúng dường đức Phật đồng thời các
phạm thiên ( đối với Bà- la – môn) để chính thức lấy làm tên quốc hiệu của cộng
đồng này.
54. Ðạo Phật, Một Biểu Tượng Của Hoa Sen
Với đạo Phật, thế giới này là do nguyên lý
Nhân duyên tương quan mà cấu thành; còn con người thì đều do quy luật Nhân quả
tương xứng của con người mà được hạnh phúc hay bị khổ đau. Bên cạnh đó, ai nấy
đều có Phật tánh bình đẳng, tùy theo mỗi người có biết tu dưỡng thân tâm hay
không.
Tuy nhiên, hai bộ kinh quan trọng của đại thừa (kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp
Hoa) đều mở đầu bằng Bồ tát Ðại Trí Văn Thù và kết thúc bằng Bồ tát Ðại Hạnh
Phổ Hiền. Nghĩa là, muốn đạt được ngôi vị Giác ngộ và Giải thoát, thì mỗi người
nam hay nữ phải tu dưỡng cả trí tuệ và đạo đức từ bi, cả giác ngộ và hành động
viên mãn, hướng tới tự lợi và lợi tha, tự giác và giác tha, tự hành và tự
nhiệm.
Ðạo Phật, Một Biểu Tượng Của Hoa Sen
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Giáo chủ của đạo Phật hiện nay, giáng sinh vào mùa
sen nở, ngày Trăng tròn (Vesak) 15 tháng 04 Âm lịch. Tuy nhiên, theo truyền
thống ngày xưa của Phật giáo Phát triển, thì ngày giáng sinh của Ðức Phật lại
được kỷ niệm vào ngày 08 tháng 04 mỗi năm, tại Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản.
Từ trước tới nay, vào mùa Phật Ðản, tôi thường nghe thấy các cháu nam nữ Gia
đình Phật tử hát bài nhạc Hoa sen để dâng lên Ðức Phật, đại ý như:
“Hoa sen xinh đẹp biết là bao!
Hoa ơi, hoa có tự thủa nào?
Mà người hằng nói: hoa quân tử
Gần bùn vẫn giữ vẻ thanh cao...”
Trong các chùa, không chỉ tại Việt Nam, mà còn cả các nước trên thế giới, các
pho tượng Phật thường ngồi trên bông sen. Về mặt giáo lý Phát triển, hầu hết
các kinh điển đều nhắc tới hai chữ Liên hoa (hoa sen). Ðặc biệt kinh Thiền Ðịnh
Hoa Sen (Pháp Hoa Tam Muội) đã được dịch đầu tiên tại miền Bắc (Việt Nam) vào
giữa thế kỷ thứ III sau Tây lịch, từ chữ Phạn thành chữ Hán. Cứ theo thư mục
Phật giáo của Punyo Najio, thì ghi: “Tăng sĩ Chi Cương Lương Tiếp (Kalaruci),
người nước Ðại Nhục Chi (Indo-Scythe), đã dịch nhiều kinh Ðại thừa tại Giao
Châu (Bắc Việt), vào những năm 255-256. Trong những kinh này, có bộ kinh Ðại
thừa nổi tiếng, gọi là Pháp Hoa Tam Muội. Ðồng thời có Tăng sĩ Việt Nam, tên là
Thích Ðạo Thanh, đã giúp Chi Cương Lương Tiếp cùng dịch bộ kinh Thiền Ðịnh Hoa
Sen đó”.
Cũng giống như Thích Tăng Duệ, Tăng sĩ Trung Quốc, đã giúp ngài Kumarajiva (Cưu
Ma La Thập, Ðồng Thọ), người xứ Quy Tư (Kucha), đến Trung Quốc dịch bộ kinh
Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma-pundarika sutra), gồm 7 quyển, 28 phẩm, vào đầu
thế kỷ thứ V, tức năm 406; và chúng tôi tạm dịch là kinh Hoa Sen Phép Mầu.
Tiếp theo phương Ðông, ông Eugène Burnouf, người Pháp, đầu tiên ở phương Tây,
cũng đã dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa, từ chữ Phạn thành chữ Pháp, mà ông dịch
là “Le Lotus de la Bonne Loi”, Paris, năm 1852. Bộ kinh này nằm trong tập sách
“Introduction à lõhistoire du Bouddhisme Indien”, Giới thiệu lịch sử Phật giáo
Ấn Ðộ, mà ông đã biên soạn trước, năm 1844.
Sau đó, tại Anh và Ðức, lại có các học giả khác, cũng dịch kinh Pháp Hoa này
thành chữ bản xứ. Do vậy, người phương Tây: Âu, Mỹ, Úc, thường gọi đạo Phật là
Tôn giáo Hoa Sen (Religion of Lotus).
1/ Về biểu tượng
Hoa sen là một loại hoa bình dị, tượng trưng cho đạo Phật và, thực tế, hoa sen
lại phát sinh ở hồ, ao bùn, rồi vươn lên và tỏa ra hương sắc, làm đẹp thơm cho
cả mọi người và môi trường sinh thái. Cũng vậy, đạo Phật là Trung đạo, vừa xuất
thế vừa nhập thế, vừa vượt khỏi bùn vừa sinh ra từ bùn, xuất thế cho Tăng Ni,
nhập thế cho các Phật tử, là một nếp sống hài hòa, cân đối; không thiên chấp,
chẳng cực đoan. Nghĩa là, chẳng duy tâm, duy vật gì cả... Nói cách khác, mục
đích của đạo Phật là giác ngộ và giải thoát, bình đẳng hạnh phúc và tự do, làm
cho mọi người đều đạt tới đỉnh cao phẩm giá nhân bản.
Vì thế, ngay từ đầu, đạo Phật đã công khai bác bỏ thẩm quyền của Thượng đế Phạm
Thiên (Brahma) và xóa sạch xã hội bất công gồm 4 giai cấp của Bà La Môn giáo
hay Ấn Ðộ giáo. Bởi lẽ Thượng đế, bất kể là gì, đều do sự tưởng tượng của con
người tạo ra, hơn nữa, ai nghe theo Thượng đế, thì được lên Thiên đàng, hưởng
hạnh phúc; trái lại, thì phải đọa xuống Hỏa ngục đời đời, đúng như lời dạy
trong Thánh kinh. Như vậy, rõ ràng thân phận con người suốt đời chỉ là nô lệ,
chẳng có quyền sống và càng chẳng có giá trị nhân phẩm gì hết.
Với đạo Phật, thế giới này là do nguyên lý Nhân duyên tương quan mà cấu thành;
còn con người thì đều do quy luật Nhân quả tương xứng của con người mà được
hạnh phúc hay bị khổ đau. Bên cạnh đó, ai nấy đều có Phật tánh bình đẳng, tùy
theo mỗi người có biết tu dưỡng thân tâm hay không.
2/ Về ý nghĩa
Nói chung theo giáo lý của Phật giáo Phát triển; nói riêng theo kinh Hoa Sen,
kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả
năng thành Phật, thành người giác ngộ và giải thoát, hạnh phúc và tự do, trong
một thế giới thanh bình và an lạc. Ví dụ:
a) Trong kinh Hoa Nghiêm, pháp hội đầu tiên mà Ðức Phật giảng dạy cho các hàng
Bồ tát, có Thiện Tài đồng tử được thụ ký thành Phật;
b) Trong kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Sen, pháp hội Pháp Hoa và Niết Bàn cuối cùng
mà Ðức Phật giảng dạy cho các hàng Bồ tát Viên Giáo, lại có Long Nữ cũng được
thụ ký thành Phật.
Tuy nhiên, hai bộ kinh kể trên đều mở đầu bằng Bồ tát Ðại Trí Văn Thù và kết
thúc bằng Bồ tát Ðại Hạnh Phổ Hiền. Nghĩa là, muốn đạt được ngôi vị Giác ngộ và
Giải thoát, thì mỗi người nam hay nữ phải tu dưỡng cả trí tuệ và đạo đức từ bi,
cả giác ngộ và hành động viên mãn, hướng tới tự lợi và lợi tha, tự giác và giác
tha, tự hành và tự nhiệm.
Vậy, mỗi năm Ðại lễ Phật Ðản trở về, để tỏ lòng thành kính tri ân và báo ân Ðức
Phật, một trong bốn trọng ân - ân cha mẹ, ân Tổ quốc, ân những người giúp đỡ và
ân Phật Pháp Tăng, thì chúng ta hãy tích cực thực hiện chủ trương từ bi cứu
khổ, cứu nhân độ thế của Ðức Phật. Nghĩa là, chúng ta phải vận dụng giáo lý Ðại
thừa thành cụ thể như:
Về mặt trí tuệ:
Chúng ta phải hiểu rõ 5 pháp môn Ngũ minh:
- Nội minh: tất cả giáo lý nội điển trong đạo Phật - Kinh, Luật, Luận, Sớ, Lục
và Sử Truyện;
- Nhân minh: triết học, luận lý học và biện chứng pháp;
- Thanh minh: ngôn ngữ học, cổ ngữ và sinh ngữ;
- Y phương minh: y dược học, Ðông y và Tây y;
- Công xảo minh: khoa học và kỹ thuật.
Về mặt thực hành:
Chúng ta ứng dụng những kiến thức nói trên vào các việc thực tế sau
đây:
- Từ thiện xã hội: góp phần xóa đói giảm
nghèo, xây dựng những nhà tình thương, cô nhi khuyết tật, đẩy lùi những hiện
tượng tiêu cực xã hội, xóa bỏ hủ tục, mê tín dị đoan...;
- Giáo dục Phật học và thế học: tham gia ngành giáo dục, từ sơ học, tiểu học,
trung học, đại học và các trường dạy nghề chuyên nghiệp cho cả đạo và đời;
- Y tế: Thực hiện cả Ðông y và
Tây y. Xây dựng các phòng khám bệnh, phát thuốc miễn phí, bệnh xá và bệnh viện.
Ðồng thời, đào tạo các y tá, y sĩ, dược sĩ và bác sĩ trẻ và ưu tú, bằng các
Tăng Ni, nhằm phục vụ các bệnh nhân nghèo và thể hiện thiết thực lòng từ bi cứu
khổ. Ngoài ra, với sứ mạng Như Lai sứ giả, chúng ta sẵn sàng dấn thân trên
đường hoằng pháp lợi sinh, chia sẻ những nỗi niềm khổ đau, bất hạnh, tử biệt
sinh ly, bằng những khóa lễ cầu an, cầu siêu và thăm viếng.
Vận động, động viên mọi Phật tử có lòng có sức, trong và ngoài nước, cùng nhau
nhiệt tình phát tâm, kẻ ít người nhiều, tự nguyện, vượt ngoài lợi danh, thành
lập Ban Từ thiện Phật giáo, nhằm tạo kinh phí trang trải cho ba việc công đức
nêu trên. Ðược vậy, thì Phật tử chúng ta xứng đáng cúng dường ngày Ðại lễ Phật
Ðản hàng năm với tinh thần: hoa sen nở ngát và sáng tỏa khắp đất nước Việt Nam
yêu quý.
55. Văn minh Khmer
Văn minh Khmer - Trên đỉnh núi thiêng
Trên đỉnh núi thiêng
Dòng suối với hàng ngàn tượng Linga, Yoni, thần Laksmi, apsara được chạm khắc
trong 100 năm dưới lòng suối - Ảnh: Binh Nguyên
Từ đỉnh núi này đã ra đời tuyên ngôn độc lập của vương quốc Khơme. Người ta đã
mất hơn 100 năm để biến một dòng suối thành bức tranh tượng đá khổng lồ và kẻ
hậu thế vẫn tin rằng đó là bước chân đầu tiên của vị thần xây dựng nên kỳ quan
Angkor.
Thánh địa ngàn năm
Ba năm trước chúng tôi đã đến nơi này trong một chuyến hành trình đầy hiểm nguy
bằng xe gắn máy. Con đường mòn dẫn lên núi Kulen ngày ấy vẫn còn hoang sơ, chưa
in đậm dấu chân người, rắn bò ngang đường, đàn khỉ phóng mình trên những hàng
cây và những tấm bảng cảnh báo mìn ở khắp nơi. Vậy mà hôm nay, khi đặt chân lên
đỉnh núi, chúng tôi đã bắt gặp hàng đoàn người từ nhiều miền của đất nước chùa
tháp tụ hội về đây từ nhiều ngày để chiêm bái núi thiêng. Giờ đây con đường đã
được nâng cấp, dòng người hướng về Kulen ngày một đông hơn.
Năm 802, đức vua Jayavarman II đã tìm ra khu rừng nguyên sinh rộng đến
37.500ha, từ đây có thể phóng tầm mắt về bốn hướng của đồng bằng Siem Reap ngút
ngàn. Trên đỉnh núi này có dòng suối trong veo được xem là nơi phát nguồn của
dòng sông Siem Reap. Tại đây - trên đồi Mahendra, Jayavarman II đã tuyên bố nền
độc lập của vương quốc Khơme khỏi đế quốc Java và chọn nơi này làm kinh đô, mở
ra kỷ nguyên rực rỡ mà hậu thế hôm nay gọi đó là thời kỳ "Đông Nam Á dưới
bóng Angkor".
Sau thời kỳ huy hoàng kéo dài hàng trăm năm, kinh đô Kulen lại chìm đắm giữa
núi rừng âm u. Mãi đến năm 1968, những nhà thám hiểm người Pháp mới phát hiện
Kulen, nhưng do chiến tranh triền miên và nhất là trong những năm 1980-1990 nơi
đây là căn cứ địa của Khơme Đỏ, nên mãi đến năm 2000 người ta mới khai phá một
con đường độc đạo lên Kulen và nơi này được xem là thánh địa hành hương về cội
nguồn của người Khơme.
Gần một ngàn năm trước, năm 1050, vua Suryavarman I đã cho ngăn con suối trên
đỉnh núi để thực hiện một công trình tôn giáo được xem là tốn kém và kỳ vĩ nhất
đất nước chùa tháp: biến dòng suối có chiều dài hơn bốn cây số thành một bức
tranh điêu khắc đá dưới nước với hàng ngàn tượng Linga, Yoni, nữ thần Laksmi,
tiên nữ apsara... Cho đến bây giờ người ta vẫn chưa thể giải thích được câu trả
lời tiền nhân đã thực hiện công trình đục đá, tạc tượng dưới dòng suối này như
thế nào, nhưng theo sử sách Khơme thì việc tạc tượng dưới đáy dòng suối kéo dài
hơn 100 năm và cho đến giờ vẫn tồn tại như một thách thức với thời gian.
Bây giờ đang là mùa mưa, nước suối Kulen dường như dâng cao hơn, nhưng bên dưới
lòng suối những kiệt tác điêu khắc khổng lồ với hàng ngàn tượng Linga, Yoni
(miêu tả bộ phận sinh dục của nam và nữ) được tạc thẳng vào nền đá vẫn huyền ảo
lung linh. Hàng ngàn bức phù điêu chạm trổ rất tinh vi về các tượng thần Deva,
tiên nữ apsara mà qua ánh nắng chúng tôi có cảm giác những bức tượng đang nhảy
múa. Đi lên thượng nguồn dòng suối, chúng tôi phát hiện nhiều phiến đá khổng lồ
chạm trổ nữ thần sắc đẹp Laksmi vô cùng sống động
Dấu chân thần xây đền Angkor
Rời
dòng suối ngàn Linga huyền bí, chúng tôi lên đỉnh - nơi có ngọn đồi Mahendra
lịch sử, Lim Sopheaktra - người dẫn đường của chúng tôi - cho biết cả khu rừng
Kulen còn đến 37 ngôi đền, chùa cổ có tuổi đời hàng ngàn năm, nhưng đặc biệt
nhất vẫn là chùa Paang Thom, nơi đây ngoài bức tượng Phật được tạc thẳng vào
núi đá, phần thân tượng dài 9,7m, cao 3,3m. Tương truyền để xây dựng kỳ quan
Angkor, người Khơme đã được sự giúp sức của các vị thần và nơi này còn lưu giữ
dấu chân phải dài 2m, sâu 0,4m mà theo truyền thuyết là dấu chân đầu tiên của
thần và dấu chân trái nằm trên đỉnh núi Ba Kheng cách Kulen 50km.
Khi chúng tôi tìm đến núi Ba Kheng - một ngọn núi thấp, chỉ cao 65m, thì quả
nhiên nơi này vẫn còn lưu giữ dấu vết được cho là dấu chân thần bên trái. Đỉnh
núi này cũng đã từng là trung tâm kinh đô của đế chế Khơme cổ xưa được xây dựng
trong thời gian từ năm 889 đến năm 915 dưới thời vua Yasovarman I. Dưới chân
ngôi đền thờ tượng thần Linga của nhà vua vẫn còn hình dáng bốn con đường và
hào nước sâu bao bọc bốn hướng như một thành trì bảo vệ đền tháp trên đỉnh núi.
Cũng còn đó dấu tích của những giếng nước mà sử sách đã ghi nhận về sự tồn tại
của hơn 800 giếng nước cung cấp cho cả kinh đô ngày xưa.
Phnom Ba Kheng là biểu tượng của đỉnh núi thiêng Meru trong thần tích đạo
Hindu, những cột đá, những bức tượng thần, những bức phù điêu còn lại vẫn cho
chúng tôi cảm nhận sự vĩ đại của nó thời xa xưa với bốn ngọn tháp trên tầng cao
nhất, năm tầng ở giữa với mỗi tầng 12 tháp được dựng lên bằng gạch nung tượng
trưng cho 12 con giáp. Một con số thật bất ngờ: tổng cộng 108 tháp đền tượng
trưng cho bốn chu kỳ mặt trăng tương ứng với 27 ngày cho một chu kỳ trong trời
đất.
Cho dù chỉ là ngọn núi thấp, nhưng người xưa đã thật tài tình khi chọn nơi này
làm trung tâm kinh đô. Từ trên đỉnh Ba Kheng, chúng tôi có thể phóng tầm mắt ra
bốn phương trời, nhìn được đỉnh năm ngọn tháp của đền Angkor Wat phía xa xa,
thấy được cả đỉnh núi Kulen và cả một bình nguyên rộng lớn. Người ta kể ngày
xưa khi cho xây dựng khu đền Ba Kheng, đức vua chọn nơi này để nhìn ra thiên hạ
mà đưa ra những cuộc chinh phạt mở rộng bờ cõi.
Không hiểu từ khi nào Ba Kheng đã trở thành nơi đón ánh hoàng hôn của khách
thập phương. Nhưng chúng tôi lại thích tìm cho mình một góc nhìn khác từ Ba
Kheng nhìn về đền Angkor Wat, nơi mà những người giữ đền kể rằng: "Khi màn
đêm xuống, hàng ngàn tiên nữ apsara từ những bức phù điêu trên các dãy hành
lang cổ kính dài hun hút sà xuống nhảy múa, nữ thần sắc đẹp Laksmi lại ngồi bên
chú khỉ Hanuman nghe kể chuyện khuấy biển sữa tìm thuốc trường sinh, và quan
quân của đức vua Suryavarman II - người xây đền Angkor - lại từ trên các bức
phù điêu hiện ra". Đi khắp các ngôi đền trên đất nước chùa tháp, chúng tôi
như đi giữa những câu chuyện cổ tích như vậy.
56. Những
chuyện lạ kỳ
Những chuyện lạ kỳ
trên non thiêng Yên Tử
Một đoàn du khách đến mấy chục người, toàn
nam thanh nữ tú, lên đến chùa Hoa Yên, cười nói vô duyên, trai văng bậy bạ, gái
cười hô hố, liền bị đau bụng quằn quại, không đi nổi nữa. Họ cứ cố lên mỗi
bước, bụng lại đau hơn, cuối cùng phải xuống núi. Khi xuống đến chân núi, thì
các cơn đau khủng khiếp chợt tan biến đâu mất. Đám người này hoảng hồn, không
dám lên Yên Tử nữa.
Nếu so về địa hình, thì dãy Yên Tử và đỉnh Yên Tử, nơi đặt chùa Đồng chỉ cao
hơn 1.000 mét so với mực nước biển, chưa phải là cao lắm. Nhưng, như các cụ
bảo: Núi không cốt ở cao, vấn đề là trên núi có tiên ngụ; sông không cốt ở sâu,
niềm thiêng ở chỗ dưới sông có rồng ở.
Và, Yên Tử được xưng tôn là đệ nhất danh sơn miền Đông thổ, là một non thiêng,
bởi nó là ngọn núi của tâm linh, của Phật và chỉ những người có căn cơ với
thiền mới sống được.
Người có căn cơ đầu tiên và kỳ lạ nhất chính là đấng quân vương kiệt xuất Trần
Nhân Tông. Người đã rũ bụi trần, bỏ long bào cùng với ngai vàng lấp lánh, kiệu
hoa bóng lọng, người đẹp sớm chiều để khoác áo cà sa lên núi tu hành, đã đủ để
chứng tỏ mảnh đất này thiêng liêng, cuốn hút ngài như thế nào.
Sự rũ bỏ tham, sân, si của ngài cao độ đến nỗi ngài coi cái chết như sự trở về,
như một điều giản dị đến khó tưởng tượng. Ngài nằm nghiêng thanh thản trong
rừng, tựa dáng sư tử nằm, ngóng về xa xăm, rồi "hóa" giữa đại ngàn
hoang vu đến nỗi, khi cây trúc mọc xuyên qua người ngài, đệ tử mới phát hiện
ra, để rồi dựng lại hình ảnh ấy bằng bức tượng đá gây cảm động cho muôn đời
sau.
Phật hoàng Trần Nhân Tông từng có 19 năm tu rất khắc nghiệt. Di tích chùa Cầm
là để tưởng nhớ tới việc ngài chỉ uống nước cầm hơi, không ăn uống gì. Trong
chuyến xuyên rừng thăm thẳm trọn một vòng quanh dãy non thiêng, tôi đã được
nghe kể và được thấy tận mắt rất nhiều những con người của thế giới Phật cứ như
trong chuyện cổ tích. Họ đang thầm lặng tiếp bước con đường vị Phật tổ của
mình.
Sư Thích Minh Tiến, Đạt ma Trí Thông, Thích Thanh Quý... đang từng ngày, từng
giờ ăn quả vả, chuối rừng, uống nước cầm hơi, tu luyện trong mái đá giữa rừng
già để mong được tìm thấy chính mình trong vòng luân hồi bể khổ. Tôi cũng được
nghe những câu chuyện về những con người biến mất một cách kỳ lạ khi đang trên
đoạn đường hành xác.
Chuyện rằng, từ những năm 80 của thế kỷ XX, trên sườn Đông Yên Tử, có một nữ tu
vô cùng khổ hạnh. Khi đó, Yên Tử còn hoang vu, rậm rạp. Cỏ mọc bịt bùng bít hết
lối đi. Vị nữ tu này ngày ngày đào măng và cũng chỉ ăn một bữa, rồi ngồi trong
am tu thiền. Người ta kể, dáng bà thanh mảnh, mặc áo nâu sồng, đôi mắt sáng,
hiền từ như một vị Bồ Tát. Rồi người đi rừng phát hiện ra bà.
Những câu chuyện đồn thổi về bà cứ ngày một lớn. Phật tử khắp nơi đổ về tôn bà
như vị Thánh, theo hầu nhang khói. Rồi một ngày, bà đột nhiên mất tích, chẳng
ai còn thấy bóng dáng bà trong cánh rừng hoang rậm. Người dân quanh vùng thì tin
bà là đức Bồ Tát hiển linh.
Sau khi đã vặt đầy một rổ quả vả lẫn lá vả non thết đãi chúng tôi trong bữa cơm
chiều, chú tiểu Hà (ở Ngọa Vân Am bên sườn Tây Yên Tử, thuộc địa phận tỉnh Bắc
Giang, nơi mà chúng tôi phải cuốc bộ ngót một ngày từ chùa Hoa Yên mới tới nơi)
dẫn tôi đi tìm khu mộ tháp hoang phế, dưới bóng những cây thông khổng lồ.
Giữa cảnh rừng rú, không có đường đi, các nhà sư chỉ còn biết lấy mấy cây thông
làm “la bàn” mà đi. Điều đặc biệt là cứ chỗ nào có thông khổng lồ, y rằng có
vườn mộ tháp. Lâm tặc xả gỗ ầm ầm giữa rừng, nhưng lạ ở chỗ, chúng vẫn tha cho
những cây thông mà gốc nó to đến mức 2-3 người ôm mới xuể ấy.
Có lần, chú tiểu Hà thật thà tâm sự với đám lâm tặc rằng: “Các anh tốt thật
đấy, không nỡ đẵn mấy cây thông do Phật tổ trồng!”.
Nhưng đám lâm tặc cười và nói rất thật: “Thú thật với chú tiểu. Ngày trước,
chúng tôi cũng hạ một cây thông lớn, xẻ thành từng khúc, cho trâu kéo. Nhưng
trâu không sao kéo được những khúc thông ấy đi. Chúng tôi dồn hết sức lực để
vần, thì khúc thông lăn đè chết trâu luôn. Thay 3 con trâu mộng khác thì chết
cả 3 con. Sau vụ ấy, chúng tôi hoảng, phải làm lễ tạ rồi không dám động vào
những cây thông ấy nữa”.
Kể về sư Cường:
Được nghe kể về những gốc thông bí ẩn, sư Cường đã một mình tìm đến dựng lều để
hành xác dưới gốc thông bên vườn tháp mộ u tịch. Sư Cường ngoài 40 tuổi, dáng
cao to. Có tài đóng đồ mộc, nên ông đóng cả một căn nhà nhỏ bằng gỗ dưới gốc
thông và mấy chiếc ghế tuyệt đẹp. Nền nhà được ghép bởi những thân trúc rất
trang nhã.
Ông cũng sống một cuộc đời đạm bạc, cũng ngày ăn một bữa cơm với quả vả, quả
chuối rừng, rồi ngồi thiền từ sáng đến tối như các vị chân tu. Thế nhưng, được
vài năm, đột nhiên sư Cường bỏ lại cả căn nhà giữa rừng hoang đi đâu mất, không
một lời từ biệt. Đến cả người huynh đệ của sư Cường là thầy Trí Thông cũng
không rõ thực hư thế nào. Mọi người chỉ biết rằng, trước ngày ra đi, sư Cường
bỏ rất nhiều công sức khiêng một pho tượng vượt qua nhiều ngọn núi để cúng vào
chùa Hồ Thiên.
Trong đại ngàn non thiêng Yên Tử còn có một di tích trong hệ thống chùa chiền,
am tháp từ xa xưa bị bỏ quên, đó là chùa Ba Bậc. Chùa Ba Bậc nằm rất sâu trong
rừng, giữa bốn bề những núi đá phô bày những hình thể kỳ dị.
Theo các nhà chân tu nhiều năm sống trên Yên Tử thì khu vực chùa Ba Bậc là nơi
hội tụ nhiều linh khí, nên sản sinh ra nhiều kỳ hoa dị thảo. Trên đường đi qua,
tôi được tận mắt thấy những loài cây cỏ, hoa lá rất kỳ lạ, mà tôi chưa từng
biết đến bao giờ.
Cũng tại đây, nơi bắt nguồn con suối Vàng kỳ lạ, nước như màu mật ong. Tại nơi
hội tụ linh khí này, mấy năm trước, người đàn ông tên Khiêm cũng lập thảo am,
sống hoang biệt với thế giới. Ông Khiêm có quyết tâm rất cao trong suốt mấy năm
trời. Nhưng rồi, một ngày, người ta không còn thấy bóng ông đâu nữa. Ông mất
hút một cách kỳ lạ.
Nhân nói về Yên Tử, các nhà khoa học, các thiền sư tu hành đắc đạo ở Trúc Lâm
đều khẳng định loài tùng cổ ở Yên Tử đã hút được linh khí trời đất nên sống
trường sinh bất tử.
Mới đây, những người đi rừng đã phát hiện ra một con đường xích tùng cổ 700 năm
tuổi trên núi Yên Tử, nơi mà Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông thường đi lên
núi tu hành. Những cây tùng này cũng là do ông trồng, để vừa lấy bóng mát vừa
tỏ rõ cốt cách quân tử.
Hiện ở Yên Tử có 3 loại tùng, gồm: thủy tùng (gỗ trắng), thanh tùng (gỗ xanh)
và xích tùng (gỗ đỏ). Xích tùng là loại cực kỳ quý hiếm, chỉ còn tồn tại ở nước
ta, vân nó như hoa mẫu đơn và đường kính thân cây rất lớn. Hiện ở Yên tử còn
274 cây tùng có tuổi thọ vắt qua 7 thế kỷ.
Sau một thời gian khám phá, các nhà khoa học phát hiện ra rằng, trên dãy Yên
Tử, cứ ở đâu có bóng tùng, y rằng ở đó có am và mộ tháp. Các thiền sư xưa kia
thường tu hành trong một chiếc am dưới gốc tùng, sau khi chết đi, thì tro cốt
được quàn luôn ở mộ tháp, nằm giữa hai gốc cây tùng. Trong thời gian vừa qua,
các nhà khoa học dễ dàng phát hiện thêm được nhiều am, tháp thông qua việc tìm
bóng các cây tùng khổng lồ.
Hiểu được lý do vì sao các thiền sư thường tu hành và khi "hóa" cũng
nằm dưới gốc tùng, mấy năm trước võ sư Bùi Long Thành đã cùng môn sinh lên Yên
Tử luyện khí công với... gốc tùng.
Ông Lê Quang, Phó giám đốc TTQL Di tích - Danh thắng Yên Tử, kể: “Hôm võ sư Bùi
Long Thành và môn sinh luyện công dưới gốc tùng, tôi tận mắt chứng kiến và thấy
chuyện xảy ra vô cùng kỳ lạ. Các võ sinh bất động, người dính chặt vào thân cây
tùng”.
Sau 30 phút “thụ khí” của “lão tùng”, võ sư Bùi Long Thành mới kể với ông Quang
rằng, vùng đất Yên Tử là vùng đất tụ khí, những cây tùng này đã có 700 năm nạp
một lượng khí của đất trời rất lớn. Khi các võ sinh luyện công, họ vừa được nạp
linh khí của trời đất, lại được nạp “trường điện” mạnh mẽ của “lão tùng” nên
mới xảy ra hiện tượng thân thể dính chặt vào thân cây như vậy.
Những chuyện lạ kỳ trên non thiêng Yên Tử
Một ngày giữa năm 2007, khi đang lang thang ở
suối Giải Oan, nơi thuở xưa các cung nữ trẫm mình, ông Lê Quang, Phó GĐ TTQL Di
tích - Danh thắng Yên Tử gặp một cảnh tượng khá lạ: Mấy chục người đàn bà vừa
quỳ vừa lạy, vừa khóc bên bờ suối. Trước mặt họ là một mâm đầy ăm ắp lễ vật và
cạnh mâm lễ là một làn đựng đầy đá cuội. Khóc lóc và lạy xong, họ bê làn đá rải
dọc suối.
Thấy khó hiểu, ông Quang liền hỏi tài xế lái xe thì được anh ta kể rằng, hồi
đầu năm, chính anh chở mấy chục phụ nữ Lạng Sơn này về Yên Tử trẩy hội. Qua
suối Giải Oan, chị em nào cũng nhặt đá cuội mang về, người nhặt nhiều thì cả
chục hòn, người ít cũng 2 - 3 hòn.
Mọi người mang đá cuội về để kỳ cọ chân tay khi tắm, mong da dẻ được trắng đẹp
như những... cung nữ. Nhưng không ngờ, sau ngày dùng đá cuội ở suối Giải Oan kỳ
cọ, đêm nào họ cũng gặp... "ma" (?). Toàn là "hồn ma" của
các cung nữ chết oan, dựng họ dậy đòi trả đá.
Điều lạ là tất cả những người mang đá cuội từ suối Giải Oan về đều bị như vậy
và sau vài tháng mất ngủ thì ai cũng phờ phạc như người mất hồn. Ngay cả anh
lái xe, lấy về cho vợ mấy viên cuội, cũng gặp cảnh tương tự. Sợ quá, những
người này phải về Yên Tử làm lễ tạ tội rồi trả lại đá cho suối Giải Oan.
Bản thân ông Quang cũng để ý và được nghe, biết rất nhiều chuyện lạ ở suối Giải
Oan. Nhiều cô gái có hoàn cảnh éo le như trót mang bầu bị ruồng bỏ, mắc AIDS,
hoặc gặp cảnh trớ trêu, sau khi ngồi bên suối Giải Oan khóc lóc, tâm sự với các
cung nữ, tự dưng thấy lòng thanh thản và tìm được cách giải thoát cho sự bế tắc
trong cuộc đời mình(?).
Những câu chuyện huyền bí trên Yên Tử kể cả ngày không hết. Chính ông Quang đã
từng được chứng kiến cảnh tượng một đoàn du khách đến mấy chục người, toàn nam
thanh nữ tú, lên đến chùa Hoa Yên, cười nói vô duyên, trai văng bậy bạ, gái
cười hô hố, liền bị đau bụng quằn quại, không đi nổi nữa.
Họ cứ cố lên mỗi bước, bụng lại đau hơn, cuối cùng phải xuống núi. Khi xuống
đến chân núi, thì các cơn đau khủng khiếp chợt tan biến đâu mất. Đám người này
hoảng hồn, không dám lên Yên Tử nữa.
Ông Trần Trương, nguyên Trưởng BQL Di tích - Danh thắng Yên Tử cũng kể rằng,
tại vườn tháp Huệ Quang có một chuyện rất lạ mà ông được chứng kiến. Sau khi
đám công nhân làm xong nhà khách Yên Tử, thì rủ nhau lên lễ chùa Đồng. Khi đi
qua vườn mộ tháp Huệ Quang, thấy một hòn đá nằm trên ngọn một tháp cổ, liền
thách đố nhau ném trúng hòn đá đó. Một cậu vung tay ném trúng khiến hòn đá rơi
xuống đất.
Lên đến chùa Đồng, đám công nhân này mới phát hiện thiếu một người, người đó
chính là cậu thanh niên ném trúng hòn đá lúc nãy. Nhưng không ai lo lắng vì cậu
ta cũng là người địa phương, không sợ lạc đường.
Sau mấy tiếng đồng hồ xuống núi, quay trở về khu tháp Huệ Quang, đám công nhân
sửng sốt khi phát hiện ra cậu thanh niên ném đá lúc nãy đang ngồi xếp bằng tròn
bên lăng mộ tháp, mặt áp vào tường, hai tay đặt lên đùi, hỏi chẳng nói, gọi
chẳng thưa, lắc vai mãi không tỉnh, cứ ngồi bất động như khúc gỗ.
Đám công nhân sợ quá, liền báo BQL, rồi BQL lên chùa Hoa Yên mời thầy Diệu Nhàn
xuống làm lễ sám hối. Một lát sau, cậu công nhân nghịch dại kia mới như chợt
tỉnh, khóc nức nở, rồi xuống núi. Sau này, tôi gặp sư Diệu Nhàn, sư bảo, những
chuyện kiểu như vậy diễn ra thường xuyên ở Yên Tử.
Từng là một thầy giáo, ông Lê Quang không mấy tin vào những chuyện huyễn hoặc,
nhưng trong quá trình nhiều năm sống với Yên Tử, ông đã được chứng kiến tận mắt
những chuyện khó tin xảy ra.
Lạ nhất là đoạn đường từ chùa Bảo Sái, qua An Kỳ Sinh lên chùa Đồng trên đỉnh
Yên Tử, từ xưa đến nay, chưa có vụ chết người do tai nạn nào cả, mặc dù đây là
đoạn đường cực kỳ cheo leo, dốc dác, núi đá lô nhô, rất trơn. Nhiều trường hợp
ngã rất mạnh, nhưng chỉ xước sát tay chân mà thôi.
Trong những ngày cao điểm, Yên Tử đón tới 7 vạn du khách, người hành hương chật
kín mọi con đường, mà không xảy ra tai nạn chết người là một chuyện rất lạ.
Thậm chí, hồi thi công chùa Đồng, đột nhiên mây đen kéo đến ngay trên đầu, sét
đánh thẳng vào khu vực đang xây chùa khiến mọi thứ cháy đen, tróc hết cả nền
chùa, nhưng lạ ở chỗ mấy chục người đứng đó mà không ai hề hấn gì, chỉ bị ù tai
một lúc.
Đám công nhân đều tin Phật tổ phù hộ nên tiếp tục làm việc, mà không sợ sấm sét
đánh chết.
Nhưng lạ nhất là chuyện năm nào cũng có một cụ già chết ở đoạn từ chùa Một Mái
lên chùa Bảo Sái và cái cách chết của họ cũng vô cùng bí ẩn.
Mới đầu năm nay, có một cụ già 77 tuổi, quê ở Hải Phòng, nhất định bắt con cháu
cùng đi lên Yên Tử. Bình thường cụ rất yếu, nhưng đến Yên Tử, cụ cứ đi bộ leo
núi mà không cần đi cáp treo. Đi một mạch đến gần chùa Bảo Sái, cụ bảo con cháu
giở đồ ra ăn. Ăn uống xong, cụ đi vào rừng, ngồi dựa vào gốc cây, nhắm mắt rồi
“hóa”.
Cụ “hóa” một lúc rồi mà con cháu cứ tưởng cụ ngủ, vì khuôn mặt cụ rất thanh
thản. Những câu chuyện tôi ghi được thật khó khẳng định chính xác đến mức độ
nào, có thể do nhiều người sùng bái cõi Phật mà thêu dệt thêm. Nếu có các nhà
khoa học về Yên Tử nghiên cứu và lý giải cụ thể thì hay biết mấy.
Rời non thiêng Yên Tử sau mấy ngày cuốc bộ trong rừng, chỉ được chén “đặc sản”
vả luộc, chuối rừng dầm muối, tôi tưởng mình phải kiệt sức, nhưng lạ ở chỗ, tôi
thấy lòng mình thanh thản lạ thường, không chút mệt nhọc.
Rất nhiều người chưa từng leo núi cũng thấy ngạc nhiên vì sức khỏe của mình khi
hành hương về Yên Tử. Điều này cũng là một bí ẩn lạ thường.
Yên Tử còn một chốn thiêng
Khi nhắc đến khu di tích Yên Tử và Thiền phái Trúc Lâm, người ta thường chỉ
biết đến chùa Yên Tử mà quên mất di tích Ngọa Vân và Hồ Thiên. Đây chính là nơi
vị vua anh minh Trần Nhân Tông tu hành và viên tịch. Đến nay hai di tích quan
trọng này đã hoang phế, kéo theo nó là cả một hệ thống kiến trúc văn hóa Phật
giáo như chùa, am, tháp, lăng, mộ cũng bị thời gian vùi lấp.
Lật mở những điều bí ẩn
Nằm trên đỉnh núi cao, với cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng, di tích Hồ
Thiên từng được sử cũ ngợi ca là nơi cảnh đẹp dấu thiêng của vùng đất Đông
Triều.
Cùng với Yên Tử, Hồ Thiên và Ngọa Vân là hai địa danh nổi tiếng gắn với tên
tuổi và sự nghiệp tu hành của vua Trần Nhân Tông, người sáng lập ra Thiền phái
Trúc Lâm – một thiền phái Phật giáo lớn của Việt Nam mà cho đến hôm nay triết
lý của nó vẫn thấm đượm tinh thần dân tộc, có giá trị nhân văn cao cả, có sức
lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội.
Nơi đây chính là một trong những trung tâm Phật giáo quan trọng của thiền phái
này vào cuối thời Trần (đầu thế kỷ 14) và là chốn tu hành của nhiều vị cao
tăng. Nhưng do di tích này nằm trên đỉnh núi cao, không tiện đường qua lại nên
nó dần bị rơi vào quên lãng và hoang phế.
Cuối năm 2007, Viện Khảo cổ học đã phối hợp với UBND huyện Đông Triều tiến hành
điều tra khảo sát khảo cổ học và thu được nhiều tư liệu quan trọng, làm sáng rõ
giá trị lịch sử văn hóa về khu di tích và cung cấp những bằng chứng khoa học
chân thực về quy mô và chức năng của các công trình kiến trúc tôn giáo trong hệ
thống các di tích Phật giáo ở khu vực này.
Cụ thể là đã xác định được vị trí của các công trình kiến trúc như chùa, vườn,
tháp, nhà bia, nhà tổ, nhà tăng và khu tịnh thất tại chùa Hồ Thiên.
Đặc biệt tại một số vị trí, các nhà khảo cổ học đã lắp ghép được những manh mối
quan trọng dự báo về khả năng sẽ tìm thấy những kiến trúc tháp chùa thời Trần.
Không những thế, qua quá trình điều tra, các nhà khảo cổ học còn nhận diện được
chùa Hồ Thiên có quy mô rất lớn (500m2), mặt bằng hình chữ “Công” hoàn toàn
khác với những nhận định trước đó cho rằng Hồ Thiên chỉ có quy mô nhỏ và mặt
bằng hình chữ “Đinh”.
Tại khu nhà tổ chùa Hồ Thiên - nơi từng đặt tượng đá thờ ba vị tổ của Thiền
phái Trúc Lâm là vua Trần Nhân Tông và hai đệ tử Thiền sư Pháp Loa và Huyền
Quang - hiện còn lưu giữ hai pho tượng đá trong tư thế tọa thiền, đều đã bị mất
đầu, trong đó có một pho được suy đoán là tượng vua Trần Nhân Tông.
Bên cạnh đó, tại khu di tích Ngọa Vân (chùa Ngọa Vân và am Ngọa Vân) nơi tu
hành và viên tịch của Vua Trần Nhân Tông, các nhà khảo cổ học đã chứng minh
được Ngọa Vân là một quần thể kiến trúc chùa tháp Phật giáo lớn bao gồm 4 khu
vực với 12 điểm di tích nằm trải rộng và kết nối dài với hệ thống di tích chùa
tháp của Thiền phái Trúc Lâm thời Trần trên suốt chiều dài của dãy núi Yên Tử.
Tại đây đoàn điều tra khảo sát còn tìm thấy rất nhiều dấu tích nền móng của các
công trình kiến trúc chùa tháp cùng nhiều loại di vật như gạch, ngói, chân
tảng, đồ gốm, sành có niên đại từ thời Trần đến thời Lê, Nguyễn. Đặc biệt các
nhà khảo cổ còn tìm thấy một dấu tích lò nung ngói của thời Lê Trung Hưng thế
kỷ 18.
Tư liệu này cho thấy trong điều kiện xây dựng trên núi cao, rất khó khăn về vận
chuyển nên người xưa đã xây dựng những lò nung gạch ngói ở vị trí thuận lợi về
nguồn nước và nguyên liệu điều này trùng hợp với việc xây dựng chùa Vân Tiêu
(Yên Tử) và chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều).
Một minh chứng quan trọng khác đó là tại Ngọa Vân hiện cũng vẫn còn những công
trình kiến trúc liên quan đến vị vua Trần Nhân Tông đó là tháp Phật Hoàng - tháp
mộ của Hoàng đế Trần Nhân Tông, và chiếc bàn đá tương truyền là nơi ngài ngồi
thiền và viên tịch. Đây là những bằng chứng cho thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt
của khu di tích Ngọa Vân.
Cần trả lại vị trí xứng đáng
Hệ thống chùa tháp thiền phái Trúc Lâm không chỉ dừng ở khu Yên Tử mà nó là một
hệ thống quần thể các di tích chùa tháp nằm trên dãy núi Yên Tử từ Đông Triều
sang Uông Bí.
Chính vì vậy hai di tích Hồ Thiên và Ngọa Vân cần được đặt trong chiến lược quy
hoạch bảo tồn để gắn kết với khu di tích Yên Tử tạo thành một quần thể về không
gian văn hóa Phật giáo của Việt Nam và gắn kết với quần thể không gian văn hóa
Trần gồm khu di tích lăng mộ các vua nhà Trần, khu đền Sinh và chùa Quỳnh Lâm.
Làm được điều này, không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo vệ di sản văn hóa mà còn
mở ra những triển vọng mới cho việc phát triển kinh tế du lịch.
Theo Tiến sĩ Bùi Minh Trí – Viện Khảo cổ thì để thực hiện được ý tưởng trên
phải tính ngay đến việc khai thông những tuyến đường hành hương kết nối giữa
các không gian văn hóa bởi điều này sẽ giúp cho người hành hương có một tuyến
thăm quan nhiều di tích nổi tiếng mà còn hiểu thêm về không gian văn hóa tâm
linh.
Song trước hết phải có kế hoạch trùng tu tôn tạo những công trình kiến trúc tôn
giáo quan trọng khi có đầy đủ bằng chứng và những cơ sở khoa học tin cậy.
Được biết, UBND huyện Đông Triều cũng đồng tình với việc quy hoạch bảo tồn di
tích để phát huy giá trị lịch sử văn hóa to lớn của quần thể di tích trong sự
kết nối với hệ thống di tích Yên Tử.
Hy vọng rằng, không lâu nữa, những người hành hương về nơi đất Phật sẽ được
biết thêm rằng Yên Tử còn một chốn thiêng.
57. Các Trung Tâm Phật Giáo Việt Nam Trong Lịch Sử Cận
Đại
Trung tâm Phật giáo Luy Lâu được hình thành
đầu tiên ở Việt Nam, có thể sớm hơn cả 2 trung tâm Phật giáo Trung Hoa (Lạc
Dương và Bành Thành), gắn liền với việc truyền bá đạo Phật vào Việt Nam, khoảng
những năm đầu Công nguyên và phát triển rực rỡ nhiều thế kỷ, cho đến khoảng thế
kỷ 13 cuối thời Lý, đầu thời Trần.
I.TRUNG TÂM LUY LÂU
1. Lịch sử:
Trung tâm Phật giáo Luy Lâu được hình thành đầu tiên ở Việt Nam, có thể sớm hơn
cả 2 trung tâm Phật giáo Trung Hoa (Lạc Dương và Bành Thành), gắn liền với việc
truyền bá đạo Phật vào Việt Nam, khoảng những năm đầu Công nguyên và phát triển
rực rỡ nhiều thế kỷ, cho đến khoảng thế kỷ 13 cuối thời Lý, đầu thời Trần.
2. Vị trí địa lý:
Luy Lâu hiện nay thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, nằm ở khoảng giữa vùng đồng
bằng châu thổ Bắc bộ, một vùng bình nguyên giữa hai con sông Hồng và sông
Đuống.
Theo sử liệu và khảo sát điền dã còn chứng tích, Luy Lâu khoảng đầu thế kỷ thứ
I đến thứ VII là một đô thị sầm uất, thủ phủ hành chính của cả Giao Châu (địa
phận lãnh thổ Việt Nam thời đó).
Khu vực này, ngoài dấu tích thành cổ Luy Lâu, mộ Sĩ Nhiếp (viên thái thú có
công truyền bá văn hoá Hán vào Việt Nam), hiện tại còn một số chùa cổ, tiêu
biểu là chùa Dâu. Việc truyền bá và tiếp thu đạo Phật diễn ra sôi nổi bắt đầu
từ chính Luy Lâu. Nhiều chuyên gia nghiên cứu Phật giáo cho rằng, nơi đây đã có
một hệ thống chùa, tu viện phục vụ cho việc hành đạo, truyền bá đạo Phật.
3. Hoạt động học thuật:
Luy Lâu được coi là nơi tu hành của nhiều cao tăng Trung Hoa, Việt Nam
và các thiền sư đến từ chính quê hương Phật, trong đó tiêu biểu nhất là thiền
sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người đã lập nên một Thiền phái đầu tiên tại Việt Nam.
Ngoài ra, tuy không phải là nơi tu hành của thiền sư lập nên Thiền phái Vô Ngôn
Thông, nhưng chắc chắn Luy Lâu cũng là nơi diễn ra các hoạt động hành đạo,
nghiên cứu kinh Phật của các thiền sư dòng thiền này.
Theo các nhà nghiên cứu, Trung tâm Luy Lâu là Trung tâm có tổ chức tăng đoàn
lớn nhất, sớm nhất, căn cứ vào những tài liệu của Mâu Thường “Lý hoặc luận”, là
nơi giao lưu có nhiều thiền sư Ấn Độ, số lượng tăng sĩ theo Thiền Uyển tập anh,
có ở Luy Lâu khoảng 500 vị; Luy Lâu cũng là nơi ngay từ đầu Công nguyên đã lưu
hành khoảng 15 bộ kinh Phật; hoạt động học thuật, trước tác diễn ra rất sôi
nổi.
Tác phẩm được coi là cổ nhất được xuất bản tại Việt Nam, chính là được viết tại
Giao Châu thời kỳ Trung tâm Luy Lâu phồn thịnh nhất. Đó là tác phẩm “Lý hoặc
luận” do Mâu Tử, một người Trung Hoa đến cư trú tại Giao Châu, diễn đạt việc
bảo vệ tư tưởng Phật giáo trước sự bài bác của Nho gia và Đạo gia.
Thời kỳ Luy Lâu, Thiền học Việt Nam cũng bắt đầu phát triển với Khương Tăng
Hội, người được coi là đã dịch Lục độ tập kinh, đặt nền móng cho Thiền đại thừa
Việt Nam.
4. Hệ thống chùa tiêu biểu thuộc trung tâm Luy Lâu:
a. Chùa Dâu
Chùa Dâu, còn có tên là Diễn ứng, Pháp Vân, hay Cổ Châu, nằm ở xã Thanh
Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là ngôi
chùa được đánh giá là xưa nhất Việt Nam, xây dựng năm 187 và hoàn thành năm
226, nằm trong khu vực đô thị cổ Luy Lâu, thủ đô Giao Châu cổ, trong đó chùa
Dâu là một trung tâm trong hệ thống các chùa thờ Phật và thờ tứ pháp (Pháp Vân,
Pháp Vũ Pháp Lội, Pháp Điện), nét độc đáo trong sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ
và tín ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng Dâu.
Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì Ni Đa Lưu Chi từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên
một phái Thiền ở Việt Nam.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần nay chỉ còn sót lại
vài mảng chạm khắc thời Trần và thời Lê.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ.
Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu
đồng hun, cao gần 2 mét.
Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gót liên tưởng tới những
nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc
Nữ. Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng
được đưa về thờ ở chùa Dâu.
Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có
niên đại thế kỷ 18. Bên trái của thượng điện có pho tượng Mặc Đĩnh Chi, tượng
được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong xây bằng gạch cổ cỡ lớn, đã bị
mất đi 6 tầng trên, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 mét. Trong tháp,
treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và chiếc khánh đúc năm 1817.
Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con
cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời
nhà Hán.
b. Chùa Đậu
Chùa Đậu còn có tên
là Thành Đạo, Pháp Vũ, chùa Vua, chùa Bà, nằm ở làng Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi,
huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, được khởi dựng từ thế kỷ thứ 3, xây cất lớn vào
đời Lý, trùng tu vào đời Lê (thế kỷ 17 -18).
Một số di tích quý còn lại như: khánh đồng to đời Lê Cảnh Hưng thứ 33 (1772),
chuông đồng to thời Tây Sơn (1801), 2 tấm gỗ tứ thiết sơn son thếp vàng có chạm
2 bài thơ của vua Lê Hy Tông (1680 - 1705) và vua Lê Dụ Tông (1705 - 1719), một
số bia đá cổ và đặc biệt là cuốn sách đồng thi lịch sử chùa có từ thời Sĩ Nhiếp
đầu thế kỷ thứ 3 (năm 200 - 210) hiện cất giữ tại chùa cho biết rõ sự tích Phật
giáo là toàn Độ du nhập vào Việt Nam, tượng lưu cốt 2 thiền sư Vũ Khắc Minh và
Vũ Khắc Trường từng trụ trì chùa vào đầu và giữa thế kỷ 17.
Hai tượng nhục thân thiền sư họ Vũ được phát hiện khi đã bị nguy cơ hư hại, năm
1983, Viện Khảo cổ và chuyên gia Nguyên Lân Cường đã tiến hành phục chế, bảo
quản 2 pho tượng nhục thân này. Đây là một di vật quý, hiếm thấy, cho biết
phương thức tượng táng trong tín ngưỡng thờ Phật ở Việt Nam.
Chùa Đậu nguyên bản thờ Pháp Vũ, một trong tứ pháp trong tín ngưỡng người Việt
cổ, nằm trong hệ thống chùa cổ thờ tứ pháp, có mối liên hệ mật thiết với trung
tâm Phật giáo Luy Lâu, thủ đô chính trị của Giao Châu (miền đất Việt Nam thời
đầu Công Nguyên).
c. Chùa Kiến Sơ
Chùa tọa lạc ở xã Phù Đồng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chùa do Thiền sư
Cảm Thành dựng trước năm 820. Đến năm 820, Thiền sư Vô Ngôn Thông từ Quảng
Châu, Trung Quốc sang Việt Nam, được Thiền sư Cảm Thành tôn làm thầy, mời ở lại
trụ trì chùa Kiến Sơ. Từ đấy, chùa trở thành xuất phát của Thiền phái Vô Ngôn
Thông.
Chùa hiện nay có thờ tượng Thiền sư Vô Ngôn Thông, tượng Lý Công Uẩn và thân
mẫu của ông.... Chính Lý Công Uẩn hay lui tới chùa nên khi lên làm vua là Lý
Thái Tổ (1010 - 1028), nhà vua thường thỉnh Thiền sư Đa Bảo (đời thứ 5 dòng Vô
Ngôn Thông) vào cung thưa hỏi yếu chỉ Thiền và vua đã xuống chiếu trùng tu
chùa.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Di tích cổ còn rất ít. Chùa còn giữ chiếc
khánh đá bề ngang 2,3m, cao 0,60m, dày 0,17m.
e. Chùa Tiêu Sơn
Tiêu Sơn tự (còn có
các tên: chùa Thiên Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Chùa Tiêu Sơn là nơi trụ trì của Thiền sư Vạn Hạnh, vị tổ thuộc phái Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, chính Vạn Hanh đã nuôi dưỡng và hun đúc tài năng Lý Công Uẩn tại đây.
Dân gian coi chùa Tiêu là nơi.khởi phát của nhà Lý. Thiền sư Vạn Hạnh được
phong Quốc sư, chùa Tiêu Sơn là một trung tâm Phật giáo hàng đầu thời Lý.
Vai trò Trung tâm Phật giáo của chùa Tiêu còn được tiếp nối truyền thống đến thời
Lê Trung Hưng, với sự trụ trì của Thiền sư Như Trí. Đến nay nhục thân của Thiền
sư Như Trí, một trong 4 pho tượng nhục thân còn phát hiện thấy tại Việt Nam đã
được trùng tu và được coi là bảo vật vô giá.
Thời Thiền sư Như Trí, nhiều kinh Phật và tác phẩm Phật học đã được khắc in tại
đây, trong đó có bản Thiền Uyển Tập Anh khắc in năm 1715.
f. Chùa Phật Tích
Chùa Phật Tích thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nằm trên sườn núi Lạn Kha,
cách Hà Nội khoảng 20 km, xây khoảng thế kỷ thứ VII - X, được trùng tu nhiều
lần ở thời Lê, Nguyễn.
Do chiến tranh, chùa bị phá huỷ, nay chỉ còn giếng rồng, 10 con thứ bằng đá có
niên đất thời Lý, và 2 di vật thuộc loại “quốc bảo” tà pho tượng nhục thân của
thiền sư Chuyết Chuyết trụ trì cách đây 300 - 400 năm và pho tượng Phật A Di Đà
ngồi trên tòa sen cao 1,85m, kể cả bệ là 3m, là một kiệt tác điêu khắc bằng đá
có niên đại cổ nhất Việt Nam.
Theo thư tịch cổ, chùa Phật tích là nơi được vua Lý Thái tông xây Thiền viện để
lưu trữ kinh Phật, vua Lý Thánh tông cho dựng tháp cao trên núi (năm 1066) và
viết chữ Phật dài 1 trượng 6 thước (năm 1071).
Nơi đây có hệ thống chùa lộng lẫy nhất Việt Nam dưới thời Lý Trần, là trung tâm
Phật giáo có sức sống lâu bền, còn sôi động đến thời Lê trung hưng.
Khoảng thế kỷ 17, sau khi Thiền sư Chuyết Chuyết Lý Thiên Tộ từ Trung Hoa đến
Đại Việt, trụ trì tại Phật Tích, đưa dòng Thiền Lâm Tế đến Việt Nam, hoạt động
học thuật ở Phật Tích trở nên rất sôi nổi, trong đó có việc dịch kinh Phật do
Thiền sư Chuyết Chuyết mang sang, có việc phục hồi, in ấn các bản kinh Phật,
tác phẩm từ thời Lý Trần.
Sau Chuyết Chuyết, các thiền sư tại Trung tâm Phật tích đã có những cố gắng
phục hưng Thiền phái Trúc Lâm.
II. TRUNG TÂM PHẬT GIÁO THĂNG LONG
1.
Vị trí, vai trò của Trung tâm Phật giáo Thăng Long: Nhà Lý chú trong dùng đạo
Phật phục vụ cho việc xây dựng vương triều gìn giữ độc lập, đưa Thăng Long
thành một trung tâm văn hoá, chính trị lớn, cũng là một Trung tâm Phật giáo,
nhất là sau khi hình thành Thiền phái Thảo Đường.
Thời Lý, do việc đặt ra các chức quan chuyên trách về tăng sĩ là Tăng thống,
tăng lục, Quốc sư, nên kinh đô trở thành một trung tâm hoạt động Phật giáo lớn.
Nhà Lý xây dựng chùa quanh khu vực Thăng Long, hầu như các làng đều có chùa.
Công trình kiến trúc Phật giáo lớn và đặc sắc cũng được xây dựng ở Thăng Long
như Chùa Một Cột, Chùa tháp Báo Thiên, Chùa Quỳnh Lâm, Chùa Khai Quốc...
Vào năm 1069, sau cuộc chinh phạt Chiêm Thành thắng lợi, Lý Thánh Tông bắt được
một nhà sư tù binh, sau phát hiện là một cao tăng bèn trọng dụng, cho làm Quốc
sư trụ trì chùa Khai Quốc, lập nên Thiền phái Thảo Đường.
Thảo Đường đã đáp ứng nhu cầu đưa Phật giáo vốn phát triển sâu rộng trong dân
gian đến với tầng lớp quan lại Nho học, kéo Phật giáo bản địa từ đại chúng trở
nên trí thức hoá, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền độc lập và vương
triều.
Trong số 19 người tổ của 7 thế hệ Thảo Đường, có đến 9 vị cư sĩ là vua hoặc
quan lại cao cấp. Điều đó chứng tỏ kinh thành Thăng Long trở thành một Trung
tâm Phật giáo quan trọng nhất thời Lý, bên cạnh Trung tâm Luy Lâu và Phật Tích
vẫn đang phát triển sầm uất.
2. Một số ngôi chùa tiêu biểu
a. Chùa Một Cột
Hiện nay, chùa lọt giữa trung tâm thủ đô Hà Nội, theo Đại Việt sử ký toàn thư,
chùa được xây dựng vào năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ nhất (1409) đời Lý Thái Tông.
Vua chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên toà sen đưa tay dắt vua lên toà nên xây
dựng chùa cầu Phật được trường thọ, nên gọi là chùa Diên Hựu. Chùa xây trên một
cột đá nên thường gọi là Nhất Trụ (Một Cột).
Theo văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh chùa Long Đọi (Nam Hà) dựng năm 1121,
quy mô chùa Một Cột vào thế kỷ 12 to lớn lộng lẫy hơn như hiện nay rất nhiều.
Hiện nay, toàn bộ ngôi chùa bằng gỗ, hình vuông, mỗi cạnh 3m, đặt trên một cột
đá tròn cao 4m, đường kính 1,25m
b. Chùa Trấn Quốc
Hiện nay, chùa nằm trên bán đảo nhỏ nhô ra Hồ Tây. Chùa nguyên là chùa Khai
Quốc, dựng từ thời Tiền Lý Nam Đế (541 -547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông
Hồng, thuộc phường An Phụ, năm Lê Hoằng Định (1615) mới dời về vị trí hiện tại,
là nền cũ cung Thúy Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Khoảng Chính
hoà (1680 - 1704), vua đến chơi, đổi tên chùa là Trấn Quốc.
Chùa vốn là một trung tâm Phật giáo thời Lý, nơi trụ trì của nhà sư Thảo Đường,
lập nên dòng Thiền Thảo Đường, tồn tại cùng với 2 dòng Thiền vốn đã có trong
đời sống Phật giáo Việt Nam thời đó (Vô Ngôn Thông và Tỳ Ni Đa Lưu Chi).
Chùa còn có 14 tấm bia, trong đó có bia của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính,
tiến sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1639 và 1015...
c. Chùa Cổ Lễ
Chùa tên chữ là Thần Quang, thường gọi là chùa Cổ Lễ, tọa lạc ở thị trấn Cổ Lễ,
huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà. Tương truyền, chùa do Thiền sư Minh Không thời Lý
Thần tông (thế kỷ 11) sáng lập. Ngôi chùa hiện nay do Hòa thượng Quang Tuyên
tạo dựng vào năm 1920 và được trùng tu nhiều lần.
Trước chùa có tháp Cửu Phẩm Liên Hoa 12 tầng (đế tháp đặt trên lưng một con rùa
lớn đầu quay vào chùa), cao 32m, có 8 mặt, dựng năm 1926. Giữa sân chùa có đại
hồng chung nặng 9 tấn, cao 3,20m, đúc vào năm 1936.
Kiến trúc chùa mang tính độc đáo, là sự hòa nhập các yếu tố kiến trúc cổ truyền
Việt Nam với các yếu tố gô-tích của Châu Âu. Tòa thượng điện được bài trí đặc
biệt, tượng đức Phật sơn son thếp vàng cao khoảng 4m được đặt ở tầng cao, gần
mái vòm gô-tích. Mặt sau có thờ tượng Quốc sư Minh Không.
TRUNG TÂM YÊN TỬ VÀ THIỀN PHÁI TRÚC
LÂM
Yên Tử là một đỉnh núi nằm trong dãy núi thuộc Vòng cung Đông Triều, cách Thăng
Long khoảng 70 cây số, có địa thế tốt theo quan niệm phong thuỷ, mạch núi châu
về kinh đô, nhìn ra biển lớn.
Theo truyền thuyết, tại Yên Tử đã có nhà sư Ấn Độ đến tu tập từ thời đầu công
nguyên (truyền thuyết về An Kỳ Sinh). Vào thời Trần, Yên Tử trở thành linh sơn
của triều Trần, do nằm ở vùng dấy nghiệp của nhà Trần, án ngữ con đường thuỷ
huyết mạch từ biển đến kinh thành.
Từ vị vua đầu triều Trần Thái Tông, tại Yên Tử đã có một hệ phái Thiền có
khuynh hướng độc lập, dưới ảnh hưởng của Trúc Lâm thiền sư, hay sư Đạo Viên,
còn gọi là Phù Vân quốc sư, được nhà Trần phong là Quốc sư.
Hoạt động Phật giáo mạnh mẽ ở Yên Tử, căn cứ vào sử thành văn, có thể hình dung
được, vì Trần Thái Tông một lần bỏ ngôi vua định vào tu ở Yên Tử, Trần Nhân
Tông cũng có 1 lần có ý định nhường ngôi cho em đi tu ở Yên Tử, cuối cùng chính
nhà vua sau khi nhường ngôi cho vua Anh Tông, thành Thái thượng hoàng thì đã
đến Hoa Yên trở thành Vua Phật, Điều Ngự Giác Hoàng.
Từ Trần Nhân Tông, Thiền phái Trúc Lâm chính thức trở thành một Thiền phái mang
tính dân tộc sâu sắc. Là Thiền phái do chính cao tăng Việt Nam lập ra, hành đạo
theo lối Việt, dành cho người Việt. Trúc Lâm Thiền phái dung hợp cả 3 dòng
Thiền chính vốn đã có trước ở thời kỳ đó (Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và
Thảo Đường), là dòng thiền nhập thế, phù hợp với tư duy của người Việt.
Tăng đoàn có tổ chức lần đầu tiên cũng hình thành ở chính Yên Tử với các vị tổ
kế tiếp của phái Trúc Lâm là Pháp Loa và Huyền Quang. Hoạt động trước thuật
chắc chắn là rất phát triển, những tác phẩm quan trọng nhất của Thiền Việt Nam
xuất hiện ở giai đoạn Trúc Lâm hưng thịnh.
a. Chùa Hoa Yên núi Yên Tử
Khu vực núi Yên Tử có một hệ thống gần 10 chùa, trải dài khoảng 20 km, từ chùa
Bí Thượng đến chùa Đồng (độ cao 1065 mét), thuộc xã Thượng Yên Công và Phương
Đông thuộc thị xã Uống Bí - Quảng Ninh, trong đó trung tâm là chùa Hoa Yên ở
lưng chừng núi Yên Tử (độ cao 516 mét).
Hàng trăm am, tháp mộ các thiền sư, tượng đá thiên tạo, bia Phật và đặc biệt là
hang đá Bảo Sái nơi Thiền tổ Trần Nhân Tông ngôi thiền và viên tịnh ngày
1/1/1308. Yên Tử là linh địa nơi sinh ra đạo Phật Việt Nam.
Chùa này vốn được dựng từ đời Lý, tên là Phù Vân; tới đời Trần đổi tên là Vân
Yên: vào đời Lê, vua Lê Thánh Tông ngự du thăm chùa, thấy hoa cỏ xanh tươi, mới
đặt tên là Hoa Yên.
Chùa đã là nơi tu hành của nhiều cao tăng, đặc biệt là vua Trần Nhân Tông đã tu
hành ở đây những năm cuối đời, lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Đến Huyền Quang, tổ
thứ ba của Trúc Lâm cũng trụ trì ở Hoa Yên.
Trong chùa Hoa Yên, ở chính điên, có bức hoành phi đề “Trúc Lâm Tam Tổ”: Có ba
pho tương, ngự toà sen, pho ngự ở giữa, là vua Trần Nhân Tông, bên trái là ngài
Pháp Loa đệ Nhị tổ, bên phải là Huyền Quang đệ Tam tổ. ....
Tại Hoa Yên, còn có một số tháp, thấp thoáng dưới bóng những cây đại cổ thụ,
lưu giữ kỷ niệm về một thời huy hoàng của Phật giáo Việt Nam.
b. Chùa Quỳnh Lâm
Chùa Quỳnh Lâm xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, được khởi dựng
từ thời Lý. Chùa từng là nơi trụ trì của nhiều vị Thiền sư danh tiếng như Quốc
sư Nguyễn Minh Không (đời Vua Lý Thần Tông), Thiền sư Pháp Loa (vị tổ thứ 2 của
phái Thiền Trúc Lâm), Thiền sư Chân Nguyên (thời Hậu Lê)... và trở thành một
trung tâm Phật giáo của cả nước từ lúc Thiền sư Pháp Loa lập Viện Quỳnh Lâm vào
năm 1317 với kiến trúc đồ sộ và hoàn chỉnh vào năm 1329.
Quỳnh Lâm trở thành “Đệ nhất danh lam cổ tích của nước An Nam”. Đây là nơi
trung tâm truyền kinh giảng đạo và đào tạo hàng ngũ sư sãi cho đạo Phật, nhiều
hội lớn có tiếng trong sử sách được tổ chức tại đây như hội “Thiên Phật bảy
ngày, bảy đêm” (1352)...
Hiện ở sân trước chùa có nhiều tháp cổ, trong đó có tháp Tuệ Quang là tháp mộ
Thiền sư Chân Nguyên dựng năm 1726. Đặc biệt, chùa còn giữ một tấm bia thời Lý
cao 2,43m, ngang 1,54m khắc chữ hai mặt và một số di vật bằng đá, đất nung cổ.
c. Chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa ở thôn Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng. Chùa này nằm ở cho hợp lưu của
sông Lục Nam và sông Thương. Khu vực này năm xưa còn gọi là khu vực ngã ba
Phượng Nhãn. Chùa nhìn ra ngã ba sông và nhìn về phía Lục Đầu Giang - Kiếp Bạc.
Chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa cổ nổi tiếng có từ thời Lý, Trần (thế kỷ XII -
XIII) thuộc dòng Thiền phái Trúc Lâm. Theo bi ký, chính tại nơi đây Pháp Loa tu
hành, vua Trần Nhân Tông đến thăm và phát hiện Pháp Loa, truyền tâm ấn cho Pháp
Loa thành tổ đệ nhị Thiền phái Trúc Lâm. Hiện nay, chùa thờ cả 3 vị tam tổ Trúc
Lâm (Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang).
58. Chùa Tây Tạng: Vết chân đầu tiên của Mật tông Việt Nam
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ
Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
Muốn khám phá sự kiện quan trọng này, chúng ta hãy dở lại từng trang, cho dù là
khái quát, cái mà các vị Phật tử của chùa yêu kính gọi là Nhật ký Sư ông, mà
sau này, trong phần biên tập lại, các đệ tử của Ngài, sư ông - Hòa thượng Nhẫn
Tế - đã ghi lại trong một cuộc du hành gian truân của mình về với tạng cội
nguồn của Pháp: Sự tích tây du Phật quốc.
Ta cũng có thể tìm thấy hành tích này trong Sơ thảo Phật giáo Bình Dương của T.
Huệ Thông. Tuy nhiên, các mẫu chứng cứ rời rạc và không nhất quán trong tác
phẩm biên khảo ấy, chỉ cho ta biết những nét đặc trưng của công cuộc đấu tranh
trong thời kỳ đen tối của đất nước và một ít phát triển đơn điệu của các ngôi
chùa ở đây.
Lịch sử phát triển của một dân tộc, không chỉ là các cuộc xung đột giữa thiện
và ác, giữa nô lệ và giải phóng, mà nó còn phải chuyển tải cho được hệ thống
phát triển văn minh của mình như thế nào trong lòng cuộc đấu tranh như vậy, nếu
ta cho rằng, Phật giáo là cốt tủy văn hóa không thể thiếu, nói chung, của nhân
loại, nói riêng, ở chính Việt Nam. Tuy nhiên, công phu của tác phẩm biên khảo
này vẫn đáng trân trọng. Lịch sử không chỉ là những con số thống kê, dù chỉ là
thống kê sơ thảo, mà nó còn liên quan đến các lãnh vực xã hội, văn hóa, kinh tế
và giáo dục, phong tục
học...,nhất là, trong
đó có vai trò tất yếu của Phật giáo.
Sư ông thế danh Nguyễn Văn Tạo, tên thường gọi là ông Mười Tạo, sanh năm 1888,
ở thôn An Thạnh (bây giờ là thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An), tỉnh Bình
Dương. Sư là bậc am tường Đông và Tây học, và là công chức của ngành y tế. Sư
“đam mê” Phật giáo từ năm 16 tuổi, sau đó xuất gia với Hòa thượng Ấn Thành-Từ
Thiện, chùa Thiên Tôn với pháp danh Chơn Phổ-Nhẫn Tế, thuộc về cây phả hệ của
giòng thiền Lâm Tế đời thứ 40.
Sở dĩ sư có thêm pháp danh Minh Tịnh là do cầu pháp học đạo với tổ Huệ Đăng và
thụ giới với Hòa thượng Ngộ Định-Từ Phong. (Theo Sơ thảo Phật giáo Bình Dương,
gọi tắt là ST). Thuận theo hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ thời bấy
giờ, sư ông từng đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc Thủ Dầu Một
do mặt trận Việt Minh hướng dẫn, và theo ST, thì Hội ra mắt tại chùa Hội Khánh
vào ngày 23-3-1945 dưới sự chứng nhận của bác sĩ Trần Công Vị, Chủ tịch Ủy ban
Hành chánh của tỉnh Thủ Dầu Một thời bấy giờ.
Theo tôn giả Thế Thân, sự tồn tại của Phật giáo được cấu thành trên “đôi chân”
của Giáo và Hành. Giáo, tức là những công trình tư duy, nghiên cứu, xiển
dương... những gì vốn được bẩm thụ từ Phật dạy, và Hành, tức là sự nghiêm chứng
của tự thân, trên cơ sở truyền thừa. Cả hai, là toàn khối văn minh xuất thế của
Phật giáo và nhờ đó mà Thế pháp được tồn tại, nói cách khác, sự thanh bình của
thế gian, luôn sở y trên khối thống nhất vi diệu ấy. Thế là chúng ta có một
cuộc xuất dương của một trong những hành giả mộ Phật vào những ngày giữa đầu
thế kỷ thứ 20. ST cho biết rằng, sư ông là một trong những vị đầu tiên mang Xá
lợi của Phật về Việt Nam và được nghiêm thờ đến giờ tại chùa Thiên Thai, Bà
Rịa, Vũng Tàu.
Lên đường
Nhật ký sư ông (gọi tắt là NK), cho ta biết là, công việc xuất dương của sư
được hoàn tất hơn 15 ngày với bao thủ tục phiền hà của một đất nước bị trị -
chế độ mật thám và “lý lịch chánh trị” - đúng vào ngày 17-4-1935, sư lên tàu
trực hướng Ấn Độ, khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, sau khi lễ Phật và tạm biệt
thân bằng đạo hữu. Sư cho biết là, mình xin Phật để lại pháp phục "theo
tục lệ nước nhà mà đi. Qua đến Tây Thiên sẽ tùy cơ ứng biến. Đó là đề phòng
ngoại đạo, e biết pháp phục mà sinh khó”. Và, "mới một lần thứ nhất có cái
hạnh phúc này, vì sao lại không vui, mà lại có sắc buồn bã là cớ sao?” (NK.
tr.4).
Tàu nhổ neo, bỏ Sài Gòn lại, chỉ còn sóng nước chập chùng, trùng dương viễn
mộng. Bấy giờ là những ngày trăng tỏ, tháng ba Âm lịch, biển cả tịnh êm và như
thế ta được hai khổ thơ tuyệt diệu như sau:
Cửa sổ ngựa qua, đời mấy lát,
Lỗ-bô tàu chạy cảnh thay liền.
Hỏi thăm giả thiệt, cùng Hoàn vũ,
Giấc mộng trả lời, dứt đảo điên.
Và,
Gió êm, biển lặng bóng trăng lồng,
Đáy nước, bầu trời, một Hóa công,
Đuốc nguyệt, đèn soi trên dưới tỏ,
Thiên, Long hội yến tiễn bần tăng.
Thế đó, 8 ngày đã đi
qua, 8 ngày trên đại dương mênh mông ảo hóa, bậc hành giả của chúng ta đã cảm
nghiệm được "chân như" trong huyễn tượng, "thường tại"
trong "cửa sổ ngựa qua, đời mấy lát", và rồi, tàu cũng thả neo khi
đến tận bờ bên kia, nơi mà đức Phật hiện thân, đứa con của Bát nhã - Ấn Độ, Tây
Thiên Trúc.
Thế đó, du khách của chúng ta, trong 8 ngày, tự mình tham học tiếng Anh, tiếng
người Nam Ấn, tức là tiếng Tamil, tham quan cảnh trí Singapore và nơi đây, ta
lại một lần nữa, được lắng mình trong vài khổ thơ trầm mặc:
Không kim, không cổ, vẫn quen nhau,
Cảnh huyễn, mài bôi, ngũ thể màu,
Mắt huệ toàn xem, nào có lạ,
Nơi mô cũng gặp, ngảnh là sao?
Là sao bỉ thử, buổi hôm nay?
Ngũ dục tranh mồi, quên lửng ai;
Nhượng hết cho đời, tay rũ sạch,
Xin đừng chia rẽ, nói là hai.
Rạng sáng ngày 25-4, tàu vào cảng Madras và hành giả lưu lại đây ba ngày, có
khi thì cải trang thành đạo sĩ Bà La Môn, có khi thì cải dạng là đạo sĩ Hindu,
nhờ vậy mà Ngài “xông pha” với họ một cách dễ dàng, “người bốn thổ [hay bốn
châu thiên hạ], không lạ mắt như cái áo tràng”. (NK, tr.23). Bởi vì, ở đây, tuy
người ta không sùng Phật, nhưng vẫn nể trọng kẻ xuất gia. 8 giờ sáng, tàu hỏa
rú còi rời Madras hướng đến Xá Vệ Quốc (Calcutta) và rạng sáng ngày 30-4 thì
tàu đã đến nơi đây. Sau đó, khoảng 3 giờ chiều, hành giả làm thủ tục đi về
Bénarés (Ba La Nại) bằng vốn liếng tiếng Bắc Ấn có được suốt ba ngày trên tàu
hỏa, vì đôi chút tiếng Tamil đã học không sử dụng được nơi đây.
Hướng về thành Ba La Nại, nơi mà giáo pháp đầu tiên vận chuyển và cũng là nơi
mà năm anh em ông Kiều Trần Như đắc thánh quả. Nhật ký ghi rằng “mang gói ra
đi, phú mặc cơ duyên, bần tăng chỉ vững lòng niệm Phật đi tới”. Chất văn bắt
đầu từ tr.29 - tr.36 toát lên sự an ổn lạ kỳ, tuy đã vào nơi thánh địa, tuy gặp
toàn ngoại đạo, nhưng lòng lữ khách vẫn không phân biệt, luôn kính ngưỡng, vẫn
hướng lên phía trước cho đến khi nào chạm mặt Phật tích thì thôi. Suốt đêm thao
thức nơi thành Ba La Nại, hành giả bỗng nhiên uất nghẹn, bao nhiêu tập khí muộn
phiền ngàn xưa, bỗng đâu trút sạch và nghe trong hư không như có tiếng hộ trì.
Vậy đó, hành giả đã lưu lại tại chùa ngoại đạo ngót cả hai tuần với tâm niệm
“phép làm người tu hành trong đạo Phật, sở dĩ là tùy thuận, nhẫn nhục, là cái
bài học cần yếu của nhà Thích tử”. Và ngày 31-4, bước chân hành giả đã nhập
thành, tính ra trọn nửa tháng ròng mới thỏa ước mơ. "Có lẽ chí nguyện đạt
thành từ đây”. (NK tr.34). Mãi đến ngày 14-5 "nghe nói có chùa Phật cách
xa thành Xá Vệ tám ngàn cây số, xin cho người dẫn đi viếng chùa Phật”; và rồi
"thẳng vào chánh điện thấy tượng Như Lai, phút chốc động lòng, sa nước
mắt, vì từ 17 tháng Tư tới nay không đặng lễ bái thánh tượng”. Thì ra đây là
chùa của hội Mahâ-Bodhi (Đại Bồ Đề) của Tích Lan, hội chúng đó đến đây để chấn
hưng Phật giáo.
Sáng hôm sau đó, hành giả chúng ta từ giã nhà thờ đạo Hindu, "quảy gói đi
bộ tầm Tăng-già mà vào, phút gặp hai vị Sa-di Xiêm đạo hiệu là Mêta và Karnna,”
(NK, tr.53) sau khi ra mắt nhau, nhờ huynh Mêta biết đôi chút tiếng Pháp, nên
chuyện vãn, hành giả mới biết chỗ mình vừa đến chính là Lộc-giả-viên (Sarnath)
và như thế là, sư ông xin gia nhập hội. Ở đây, hành giả an lòng học tiếng Anh
và tiếng Hindi vừa đủ giao tiếp phổ thông với những đạo huynh cùng hội. Và cho
đến tháng 11-1935, sư ông mới chính thức xin đến cội bồ đề, nơi Đức Thích Ca tọa
thiền để lễ bái cúng dường.
Giai đoạn từ tháng 5 đến tháng 11-1935, NK không cho ta biết sư đã làm gì,
nhưng ta cũng đoán ra rằng, đây là khoảng thời gian mà sư ông, bậc hành giả của
chúng ta, buộc phải học bản ngữ Ấn Độ và nhất là tiếng Anh, sự kiện này, chính
những lá thơ sau đó mà sư đã viết cho tòa Lãnh sự Anh v.v... và thời gian còn
lại, là những thời gian, ta biết chắc rằng, sư ông dành hết cho tọa thiền và
quán tưởng các chủng tự Phật, như các tiểu đoạn của tr.51-53 đã ghi, khi sư
quán chữ (अ) hay là quán "mặt nhật ở mi gian của Phật tổ”,
"chập lâu có đến 10 phút, tôi mới lấy mắt nhìn dòm người nơi mé sông, thì
sắc diện ai cũng đặng màu kim sắc. Tôi toại nguyện bình đẳng quán”. (NK, tr.52).
Đoạn nhật ký này dạy ta biết rằng, “Đại và Tiểu thừa” không có một ranh giới
nào cả trong lòng của sư. Bởi vì, khi vào vườn Lộc Giả, chính sư đã xin gia
nhập hội của chư sư người Tích Lan, tức là các vị Phật giáo Nguyên Thủy. Vấn đề
ở đây, là “đứa con chung của một đấng cha lành - Đức Phật” và, người cha nào lại
không muốn con mình “thành Phật” bao giờ. Sự kiện này cho ta biết rằng, với
lòng thiết tha cầu Phật, với nơi nào có tháp tích, điện thờ Phật Đà, thì nơi đó
luôn là Phật địa, luôn là bình đẳng địa, như phép quán mà sư ông từng thực
hiện, cho những ai cầu pháp, và ta đã có một sư ông như vậy.
Một sự kiện thật là quan trọng diễn ra trong khoảng thời gian đầu tháng Giêng
năm 1936 (15 / janvier / 1936), là sư đã được tháp tùng cùng các vị Lama đi
Népal để lễ Thánh tháp. Phái đoàn hành hương gồm có: sư (người Việt Nam),
tì-kheo Phạm Ngộ người Hoa và, Losang Lama, Losang Kompo, Kolchch Tâmpa (ba vị
sư Tây Tạng). Sau khi vuợt qua hàng ngàn cây số, đoàn hành hương cũng đã đến
Tuyết Sơn, tức thắng địa Népal, lúc đó khoảng 4 giờ sáng, ngày 2-2-1936, tức
ngày mùng 10-1-Bính Tý.
Ta nói sự kiện này quan trọng, là vì, chuyến đi ấy, sẽ mở ra một nhân duyên cho
việc tấn nhập Tây Tạng của sư mà mục đích duy nhất là: nếm tận nguồn pháp vị
như vậy của cả hai pháp tu mà hành giả của chúng ta vốn đã thực hành, như ta
biết, đó là: sư thực hành cả hai pháp tu, Thiền Mật như trong những trang nhật
ký đã cho biết.
Sự kiện này cũng nói lên rằng, lịch sử cụ thể của Thiền và Mật, trên dòng chảy
của Phật giáo Việt Nam, nói chung, sư là vị được trực tiếp truyền trao, bởi vì,
đúng như ST cho biết: “Ông nghiên cứu Phật giáo từ năm 16 tuổi, sau đó xuất gia
với hòa thượng Ấn Thành-Từ Thiện, chùa Thiên Tôn với pháp danh Chơn Phổ-Nhẫn
Tế, thuộc về dòng Lâm Tế đời thứ 40” và cũng đúng như bài viết của TS. Trần
Hồng Liên, “Chùa Tây Tạng - dấu ấn Phật giáo Mật tông Tây Tạng” đăng trong tập
san Khoa học Lịch sử Bình Dương, số 1, tháng 12-2005, và bài viết này được phát
triển thành một tiểu luận, với tiêu đề: "Chùa Tây Tạng, Bình Dương: ngôi
chùa duy nhất ở Nam bộ mang dấu ấn Mật tông Tây Tạng” đăng trong tập san Chùa
cổ Bình Dương và đây là những gì mà ta đang đeo đuổi.
Tuy nhiên, tại nhiều nơi trong NK, cho phép
ta tuyên bố rằng, sư còn là một hành nhân Niệm Phật nữa. Chúng ta nên nhớ, giáo
pháp dù là giáo pháp gì được Phật thuyết ra, chính là Sắc, bởi vì nó là phương
tiện và cũng bởi vì, nó được thuyết ra cho ba cõi. Và, chính Đức Phật đã nhập
Niết bàn trên sắc pháp này, tức là cảnh giới của Thiền thứ tư vậy.
Do đó, trên cơ sở như thế, Đại thừa kiến lập học thuyết “Tam Thân”, là vì ngoài
sắc, thì chúng sinh trong ba cõi biết dựa vào đâu - chúng ta có Bồ tát hạnh.
Nghĩa rằng, cho dù “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”, thì “trực chỉ”
vẫn phải luôn là Sắc trong mọi trường hợp, còn “kiến tính” thì hãy để cho hành
nhân tự nghiệm bằng chính Phật tâm của mình. Theo chỗ tôi biết, chùa Tây Tạng,
mỗi tháng vẫn hai ngày tổ chức lễ sám, mỗi chiều về viếng chùa, Phật tử luôn
nghe chư sư tụng niệm Di Đà, Phổ Môn.
Bởi vì, chúng ta, đôi khi đọc NK sư ông bằng cái tâm lạm phát
(inflationary-mind) của mình nhiều hơn, cái mà thuật ngữ Phật giáo gọi là “ngã
mạn - adhimàna”, cho nên ta làm sao mà hiểu được hành tích của sư ông, thế thì,
có cái gọi là “tông môn”, “giáo phái” mới có cơ hội xuất sinh theo lẽ thường
tình. Nói theo Duy thức, mọi thứ cưỡng danh, cũng chỉ là “danh ngôn tập khí -
adhivacàna” mà thôi. Cái “phần mềm” của bất cứ giáo pháp nào, thì phải do ta tự
nghiệm.
Trở lại, 4 giờ sáng ngày 3-2-1936, đoàn đã đến chân núi Hy Mã Lạp Sơn, thuộc
nước Népal, họ đã viếng thăm tháp "Sư tử, tẩy uế và lễ Phật, nhiễu tháp”.
(NK, tr.60). Sau đó, bằng mọi phương tiện, trải qua 6 ngày gian khó, đoàn đã
trực nhập Népal. Và ở đây, nơi tháp Bouddha-Narth, sư đã thỉnh đặng một số Xá
lợi Phật, hiện đang trang nghiêm tại chùa Thiên Thai, Bà Rịa, Vũng Tàu, và một
ít cũng đang được phụng kính nơi chùa Tây Tạng. NK ghi rằng: "Đó là bình
Xá-lợi của Phật Thích-Ca, thầy mà lễ đặng món ấy cũng như chơn Phật thân...
Nghe qua, bần tăng chưng hửng. Chập lâu, bèn thưa: nghe rằng, xưa kia Xá-lợi đã
phân từ bửu bình, chia mỗi tháp một bình, mà đây sao lại nhiều bình? Ngài
[thượng tọa quản tháp] rằng: phải, nhưng duyên cớ ấy có lẽ ông cũng hiểu, vì
ông là Thích tử, lựa hỏi tôi làm chi? Bần tăng chắp tay bạch rằng: ở An Nam qua
tới xứ này là thiên sơn vạn hải, thì có đâu đặng rõ biết duyên cớ ấy, xin Ngài
hoan hỷ.
Đoạn Ngài dẫn tích: xưa thì Xá-lợi Phật tổ ở tại tháp Niết-Bàn
(Cu-thi-na-quốc), lúc binh Ăng-lê náo loạn, thì tổ sư bèn dời qua nước
Niếp-ba-lê, thờ tại Sư-tử tháp này. Từ khi ngoại đạo thạnh hành, Phật đạo đã
qua [bước sang] thời kỳ mạt pháp. Ông qua tới Thiên Trúc, ông có thấy những
tháp tự tiêu tan hư sập chăng?... Bần tăng về cả ngày buồn bã, bữa ngọ biếng
ăn. Cái tham tâm đã dậy động và nghĩ rằng, "Mình đi, mình thấy, mình đặng
lễ bái, mà ngặt một điều là: thương thầy bổn sư [y chỉ sư], tuổi đã cao mà công
cũng cao trong nền đạo hạnh, nhưng không đặng thấy và lễ bái.
Trọn ngày đêm van vái vọng tưởng đức Như Lai, xin thương Nam-Việt chư Thích tử
và chúng sinh xui sao cho đệ tử cầu đặng chút phần Xá-lợi đem về nước Nam (đó
là cái tham tâm nó lộ là vậy: đã lễ bái được rồi muốn thấy, thấy rồi lại muốn cho
đặng đem về xứ mà chia phước với chư Tăng và bá tánh)... vì Ngài cũng rõ,
Xá-lợi là vật báu nhà Phật đạo, sáu đời hằng giữ chỗ này, chưa có ai đặng hồng
phúc ấy... Thôi thôi, vì đạo đức của thầy, vì công đức khổ hạnh của thầy, vì
chúng sinh, dầu tôi có bị khổ sau khi dâng cho thầy chút đỉnh Xá-lợi, thì tôi
cũng cam tâm.
Ôi! nghe qua dường như bệnh hấp hối mà gặp thuốc hồi dương, nên lễ nữa, ngài đỡ
dậy và nắm tay kéo thẳng vào đại điện, lấy chìa khóa mở cửa tháp, vào vọng bái,
quỳ lại, rồi đứng dậy, nói rằng: nhơn duyên bao nhiêu thì đặng bấy nhiêu, tôi
không biết. Nói rồi, bưng bửu bình xuống, bảo bần tăng lấy một cái khăn vải
vàng của bổn đạo cúng trên điện, để lên đầu, trải ra, ngài trút cả bình lên
khăn, thì nghe có chút ít rớt vào khăn. Dở bình lên, bần tăng bèn túm lấy khăn,
rồi lễ bái đi ra. Ngài căn dặn, cẩn thận, rồi ngài đưa ra cửa. Bần đạo kiếu
luôn... lòng mừng khấp khởi”. (NK, tr.68-69).
Qua đây, ta thấy rằng, mục đích Tây du của sư không chỉ vì sự ham muốn của cá
nhân mình, mà chuyến hành hương ấy, còn mang theo cả tâm nguyện của mình cho
toàn dân tộc Việt, cho hạnh phúc của chư Tăng và bá tánh nữa. Một lần nữa, ta
học nơi đây, hạnh nguyện của một chúng sinh có tuệ giác. Do vậy, khi bước vào
cổng của chùa Tây Tạng, ta bắt gặp ngay hai câu kệ khắc trên hai trụ đá của
chùa:
西歸獨?妙天真寶
藏出含靈地正香
Tây quy độc diệu thiên chơn bửu
Tạng xuất hàm linh địa chánh hương.
Tạm dịch:
Ngọc thật của trời độc diệu từ Tây lại
Chánh hương của đất chứa linh thiêng do Tạng sinh.
TS. Trần Hồng Liên, cho rằng, “thiên chơn bửu” nhắm vào hai chùa Thiên Chơn và
Bửu Hương (các ngôi chùa do sư kiến lập hoặc trùng tân) và “Tây” thì cho là Tây
Tạng. Tất nhiên, để chứng minh cho bài viết của mình, ở góc độ lịch sử, nên ST
đã quy như vậy, và đây cũng là một mẫu chứng cứ phổ biến, hợp lý (tiếc rằng,
trong tiểu luận tạp san Chùa Cổ Bình Dương chữ 靈 đ viế lộ thành 零.
Nguyên văn là hàm linh [含靈],chỉ
cho chúng sinh có tình thức). Tuy nhiên, 天真寶, còn có nghĩa là ngọc Như ý (maniratna), bản
chất trong sáng đặc thù và 藏出, có nghĩa là xuất từ Như Lai Tạng hay gọi là
xuất từ chủng tính Như Lai, cũng có nghĩa là, pháp giới Tạng thân, gọi là A Di
Đà Phật”, chớ không phải là bọn dị sinh hay prthak; còn “正香 - chánh hương”, có
nghĩa là: Định hương, Tuệ hương và Giới hương, ba yếu pháp làm nên đời sống
xuất thế của Phật giáo và, 地, chỉ cho Thập Địa (dasabhùmi) của Bồ tát
đạo; hàm linh (含靈),
chỉ cho tính phương tiện Sắc châu biến hay phổ quát từ Phật tính; Tây (西) và Tạng (藏) ghép lạ, chỉcho
chùa Tây Tạg trong cách uyên thâm Nho họ củ sư Tóm lạ, hai câu trên, theo thiể
ý có nghĩ la "ai cũg có thểtu thành Phậ cảvì sinh ra từTạng Như lai, nhưng
pháp môn thù thắng nhất, phải là từTây lại".
Tấ cả những điều đó sẽ có thể nên lý giải như thế nếu xét trên quan điểm triết
học của Đại thừa. Song, trí phàm làm sao dõi được hành tướng củ bậc “vô vịc
chân nhân” Thế nhưng, có một điều chắc chắn rằng, hạnh của sư phải là hạnh “vô
công dụng hạnh”mới đúng, tức là thanh tịnh hạnh, hạnh không tư lợi, như ta bắt
gặp bất cứ nơi đâu, trong toàn NK.
Nếu chúng ta viếng chùa, trước khi vào chánh điện lễ Phật, ta sẽ gặp trước tiên
là một cái tháp khiêm tốn có bốn tầng, tầng đầu có khắca họ hình của sư tầng kế
là câu "từ Lâm tế pháp nhãn gia phong, húy như đi Pháp Minh, diệu vân yết
ma vị?, viết bằng Hán tự tầng ba là bài chú “Om manipadme trong hoa sen là ngọ
Như ý Hùm”viết bằng tiếng Tây Tạng và tầng trên cùng là lục tự "Nam mô A
Di Đà Phật” bằng Hán tự Tháp này do Hòa thượng Tịch Chiếu, tổ thứ nhì của chùa
thực hiện. Đặc trưng cấu trúc của tháp này cho ta biết theo “tư kiến”là, sư
không xiển dương, hay chủ trương bất cứ giáo pháp nào, cho dù, sư là mộ Lama đắc
pháp chánh truyền từTây Tạng.
Trở lại, vào ngày 7-2, đoàn khởi hành về Bồ Đề Đạo Tràng, ghé viếng đại học
Nalanda, hồi tưởng đại sưHuyền Tránng khi xưa có lần ở đâ y học đạo, lễ bái
thạch tòa đạo tràng, nơi Phật dừng chân khai hóa. Đàn trú nơi đây suốt ba tháng
và thực hiện mọi công hạnh của một Thích tử như công quả cúng dường, chiêm bái
khắp các thánh tích. Và rồi, sư xin phép Hội Đại Bồ Đề đi Tây Tạng.
Nhập Lahsa, kinh đô Tây Tạng
Đã vào thành Lahsa rồi, mãi đến 3-7-1936, sư mới được yết kiến và hành lễ với
quan nhiếp chánh với tư cách là Quốc vương Bơdalama (tức là quan nhiếp chính
của vương quốc Tây Tạng thời bấy giờ, bởi vì đức Dalai Lama, người kế vị chánh
thức mới chừng 5 tuổi mà thôi), lúc bấy giờ Quốc vương (quan nhiếp chính) chỉ
27 tuổi. NK ghi rằng: “ Bữa điểm tâm cải salade chấm muối, không có giấm mà
trộn salade. Đoạn 9 giờ, quan thừa tướng cho người lại bảo, giờ này đi đảnh lễ
Quốc vương Bơdalama đặng; Bảo rằng: bần đạo phải đắp y bí-sô, chớ không nên bận
đồ Tây Tạng đi yết kiến Quốc vương. Y theo lời dạy, rồi cùng huynh đệ của Samdhen,
bốn người khuân lễ vật...
Lén ngó, thấy Đại đức Bơda Lama Quốc vương (tuổi) tác còn thơ (hỏi lại thì mới
27 tuổi, thế ngôi Tả-lê lama Quốc vương tịch, đặng bốn năm), mặt mày sáng láng,
ngồi nơi long đơn trải gấm Tây Tạng. Nội bọn, chỉ bần đạo đắp y vàng rực từ
trên sấp dưới, làm cho Quốc vương chăm chỉ ngó ngay, các quan nội điện đều để
mắt. Đoạn Samdhen đảnh lễ, bần đạo y theo, rồi Samdhen đem Anh-lạc long tợ
dưng... các quan hầu mời bần đạo ngồi nơi đơn cao...
Đến nay đi ra mắt Quốc vương thì thừa tướng đã tâu trước, lại đi với bọn tôi,
đi con đường đến ngự điện, ai ai thấy cũng biết, nào ai dám nói. Lại thêm lúc
về tuy nội bọn đi không có Lama quan dẫn đường, nhưng nhân dân quan lại xem
thấy cái niệt điều trên cổ [tức là khúc vải vàng quấn cổ vua ban] cũng đủ biết
ở trong ngự điện, hoàng thiền mà ra. Bần đạo nghe qua, niệm Phật và cảm oai
linh Phật lực ủng hộ làm cho bần đạo an ổn các nơi vô chướng ngại”.
Từ thời điểm này, sư chánh thức là một vị tu sĩ Tây Tạng, cho đến khi sư đắc
thiền pháp và được Pháp danh là: Thubten Osall Lama (có nghĩa: Thubten là tên
đức Tả-lê Lama Thái thượng hoàng đã băng hà. Thubten là vòng cứng bền chắc kim
cương. Còn chữ Osall là: ánh sáng mặt trời, tên của đương kim quốc vương Lama,
nên bần đạo biết là: Huệ nhật. (NK, tr.319-320) và pháp danh này được loan báo
khắp nơi.
Ngày 30-6-1937, lúc “ 7 giờ sáng sư về Sài Gòn, về tới am 11 giờ trưa”. (NK,
tr.406). Đúng ra, sư còn phải ở Tây Tạng một thời gian nữa, nhưng, theo NK, các
sư Tây Tang cho biết là đất nước mình sẽ trải qua binh biến, nên sư không thể
lưu lại được. Ta thấy, “pháp nạn” của Tây Tạng, vốn đã được người Tây Tạng biết
trước rồi. Và đây cũng là vấn đề lịch sử, xét trên thánh trí của các Lama.
Theo NK, ta có thể chia ra làm hai phần: từ tr.13-tr.186, là quá trình chiêm
bái Phật tích ở Tây Trúc và, từ yt.192-tr.317, là quá trình tu học tại Tây
Tạng. Nghĩa rằng, sư đã thật sự “hóa thân” làm một Lama Tây Tạng với mọi công
hạnh đặc thù của một Lama - học Tạng văn, thiền định, quán tưởng Tứ niệm xứ
theo cách riêng của Phật giáo Tây Tạng, trì chú và các phương pháp Yoga mang
tính vật lý đặc thù (của Tây Tạng)... - cho đến khi đắc pháp và thọ pháp danh.
Với lối văn bình dị, khoa học và giàu lòng bi, NK dẫn ta đi vào chi tiết của
lịch sử Phật tích ở Ấn Độ, các tập quán cũng như các phương thức tu hành Phật
giáo cũng như của các ngoại đạo, lồng trong đó là các quan điểm trung thực và
thắm đượm tình cảm của sư. Và rồi, bản văn dẫn ta vào đất nước Tây Tạng với các
chuỗi gian truân trong quá trình cầu và đắc pháp. Có thể nói, vào những ngày
giữa của phân nửa đầu thế kỷ XX, thì NK, không chỉ là một nhật ký, mà còn là
một áng văn ký sự thiên tài, một vần thơ lộng lẫy của một nhà thơ giàu tình
cảm, thấm đượm tính nhân bản và Phật bản.
Hơn thế, NK còn thể hiện là một giáo pháp thực sự của một bậc chân tu. Nó
chuyển tải hầu hết mọi thể nghiệm của “căn” và “cảnh”, một quá trình lịch
nghiệm của một cá nhân. Xa hơn, NK đã trở thành kim chỉ nam cho cả hai mặt:
lịch sử thuở “bình minh” của Mật giáo ở Việt Nam nói chung, và nói riêng tại
Bình Dương, và lịch sử giáo chứng nữa.
Như một điểm son, một vết chân trên dòng lịch sử còn nhiều khuất tất, bởi vì,
chỉ hai chữ “truyền thừa” vốn đã mang lại biết bao xung đột hệ phái trong bất cứ
tôn giáo nào, bất kể Phật giáo hay là không. NK sư ông là một dấu ấn lịch sử, nó
chia phần mình cho giáo pháp và cho tất cả chúng sinh, như chính chân lý chia phần bình đẳng cho tất cả. Phật giáo, thật vậy, như con Rồng thần, người ta chỉ
có thể thấy được phần “đuôi” của nó.
Chùa Tây Tạng, cũng như, có thể còn
biết bao nhiêu ngôi chùa như thể với dáng vẻ khiêm nhẫn của mình, đã chuyển tải
nơi tự thân biết bao điều
huyền nhiệm và điều này cần đến sự phê xét và nghiên cứu của những nhà sử học. Bởi vì, nói cho cùng, cả Mật và Thiền mà sự tồn tại
của cả hai, phải luôn được sở y trên bình diện trực truyền đúng như bản thân của
chúng.
Nằm dưới rừng đại thọ đã thành lõi
xám, chùa Tây Tạng ( “đã được
nhiều lần trùng tu và
ngày thêm trang nghiêm theo lối kiến trúc kết tân. Chánh
điện thiết kế thờ phượng như một pháp hội khi Phật còn tại thế. Ở giữa điện thờ
Phật Thích-Ca (tượng cao thiền tọa 2m3). Chung quanh gồm chư Phật
ở các vị trí như tầng dưới thờ Địa Tạng, Di Lặc; tầng kế thờ Phổ Hiền, Văn Thù; tầng trên là
Quan Âm, Thế Chí...
Đặc biệt đích thân Hòa thượng trú trì (tức hòa thượng Tịch Chiếu, hiện còn tại thế, tuổi đã ngoài 95) cũng góp phần tham gia
vào việc chỉnh sửa trong quá trình tạo tác một số ảnh tượng Phật như tượng Đức
Bổn Sư... cho được hoàn mỹ hơn... Sau lần đại trùng tu vào năm 1992, chùa có dáng dấp gần giống như một ngôi chùa Tây Tạng. Chánh điện cấu trúc hình khối
vuông, chính giữa là ngôi tháp (stupa), tứ giác có chiều cao trên 15 mét. Cách thiết kế tầng thượng ở mặt bằng nốc chùa... năm điện thờ năm vị gọi là ‘ngũ trí
Như Lai’ (chiều cao mỗi vị 1m5)...
Đặc biệt hơn cả, có lẽ Minh Tịnh là
nhà sư Việt Nam đầu tiên ghi chép, lưu giữ được hình ảnh, sự kiện cuộc hành
trình về đất Phật một cách chi tiết đầy đủ từng ngày từ Viêt Nam qua Ấn Độ -
Népal - Tây Tạng và ngược lại. Cuốn nhật ký này, có thể xem như là tập “Tây Trúc
- Tây Tạng ký” ghi rõ thời gian, các địa danh và Phật sự suốt cuộc hành trình từ
khi ngài xuất hành từ Thủ Dầu Một, Bình Dương, rời bến Nhà Rồng (Sàigòn) vào ngày 17- 4-1935 cho đến lúc
trở về Việt Nam vào ngày 30- 6-1937 (kéo dài 2 năm 2 tháng 13 ngày).
Cuốn nhật ký ghi bằng thủ bút của Ngài với nét chữ
nghiêng, đẹp, rõ ràng bằng chữ quốc ngữ, có xen lẫn ghi chú thêm bằng tiếng Pháp, Anh (Tây Tạng, Phạn...). Nhật ký có độ dày trên 300 trang khổ lớn, hiện
còn lưu giữ cẩn thận tại chùa Tây Tạng”. Và, có thể nói “Ngài là một “tiểu Huyền
Tráng của Việt Nam” ) vậy. (Theo tập san Chùa Cổ Bình Dương).
Để kính tán công đức của sư đối với nước Việt nói chung và riêng đối với Bình Dương và rất
riêng đối với người viết - bậc hành nhân sau khi đắc pháp từ Tây Tạng về, đã
“mặc như lôi” cho đến khi thị tịch, nghĩa rằng, Phật giáo chỉ có thể tìm thấy
nơi một vài vuông đất “thổ cư” khiêm tốn hơn là nơi hàng trăm mẫu đất “trồng cây
ăn trái” hay “đất nông nghiệp” - đã có chút phước duyên đọc được NK này với “tư
kiến” của mình. Cho
nên, xin trích một bài chú thuộc hệ Bát Nhã nhằm quy mệnh
dưới phẩm tính ấy.
Chú viết (Các linh tự như: Om, ā, ī, ū, là những linh tự phải đắc thành trong cách tịnh hóa ngũ căn.)
59. Trạng Phật - Khôi nguyên Lê Ích Mộc
Đạo Phật và lịch sử dân tộc có cùng chung
những biến động thăng trầm. Đó là sự dịch chuyển mang hơi thở triết lý vô
thường của Phật giáo. Không có vô thường thì Phật giáo sẽ mất đi một phần tinh
túy bản sắc.
Bản sắc của một tôn giáo không cưỡng lại những biến động, thăng trầm. Lịch sử
dân tộc đã ghi nhận điều này, từ thời người dân đi ngủ không cần phải đóng cửa,
đến thời mà nơi đặt tượng Phật, bia đá, chuông đồng phải đề phòng cài then,
chốt cửa.
Nói đến chuyện thăng trầm, xin kể đôi điều về một nhà vua anh minh và một vị
“Trạng Phật”.
Trong lịch sử Việt Nam, vua anh minh có nhiều, nhưng thời Lê rất đáng kể vì có
một số vị vua như Lê Thần Tông (1607-1662) sùng mộ Phật, vua Lê Hy Tông
(1663-1716) lúc đầu ngăn cấm đạo Phật, nhưng sau được sự khuyến hóa của thiền
sư Tông Diễn đã quay trở về đạo Phật, cho tạc tượng mình quỳ mọp đội tượng Phật
trên lưng để tỏ lòng sám hối.
Thiền tông bản hạnh đã viết: “Bụt sinh hoàng giác Lê gia… Hưng sùng đạo Bụt chợ
quê khắp miền”. Gần như triều đại nào cũng có “Bụt sinh”, nhưng thời Lê đáng để
nói vì có người cho rằng vào thời này, Phật giáo bị đẩy về những nơi thôn quê.
Khái niệm “bị đẩy” này xuất hiện do một vài vị vua nhà Lê có lúc đã ra lệnh
thải bớt tăng đồ, không cho tăng sĩ tiếp xúc với người trong cung và hậu đình…
Thời ấy, đạo Phật tuy rời xa chốn cung đình nhưng vẫn là nền tảng tâm linh
trong cuộc sống của đa số người Việt, nên tư tưởng Nho giáo chỉ có thể hấp dẫn
với những người có chí hướng ra làm quan. Khi nhà nho nhận thức được sự thăng
trầm, vinh nhục trong chốn quan trường, thấu tỏ được quan niệm “cùng thông đắc
thất”, “công thành thần thoái”, “xuất xử hành tàng”, cũng là lúc đạo Phật trở
nên gần gũi với họ nhiều hơn.
Có những bậc trọng nho, túc nho, một lúc nào đó trong đời đã “lệch chuẩn” để
lui tới chốn chùa chiền, đàm đạo với các thiền sư… Vì thế mà dần hình thành xu
hướng “cư Nho mộ Thích” ngay trong thời Nho giáo phát triển, đến mức có vị vua
phải ra lệnh cấm đại thần thờ Phật trong nhà.
Thực tế Phật giáo chưa từng đi khỏi nơi thôn quê bao giờ nên không có chuyện bị
đẩy về. Vậy nó suy tàn ở chỗ nào? Không có lực lượng trí thức đông đảo chốn
quan trường mà bảo nó suy tàn chăng? Đó không phải mục đích của đạo Phật, bởi
vậy muốn hiểu đạo Phật, hiểu nhân cách người Phật tử dấn thân nhập thế, tư cách
học giả (bác học) không thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tư cách của một hành
giả.
Danh nho Nguyễn Trãi thường lui tới làm bạn thiền sư Đạo Khiêm, từng phát biểu:
“Ta dư cửu bị nho quan ngộ” (Bấy lâu ta bị cái mũ nhà nho nó chụp làm cho sai
lầm) và “Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền” (Gặp dịp tôi cũng sẽ đi tu đạo
thiền). Thiền sư Đạo Khiêm hẳn phải là người có sức cảm hóa lớn đối với trí
thức đương thời.
Trên nền tảng là niềm tin lớn của dân chúng, Phật giáo tiếp tục được mở ra
trong nhận thức của vua Lê Hiến Tông (1461-1504). Đại Việt sử ký bản kỷ thực
lục chép: “Vua Lê Hiến Tông tên húy là Sanh, lại húy là Huy, là con trưởng của
Thánh Tông, ở ngôi 7 năm, thọ 44 tuổi… Vua thiên tư anh minh thông duệ, giữ vận
thịnh trị, thái bình, mới trong khoảng 7 năm mà thiên hạ bình yên, xứng đáng là
bậc vua giỏi giữ cơ đồ…” (1).
Vua Lê Hiến Tông là con trưởng của vua Lê Thánh Tông. Chính sử chép rằng, vua
Lê Thánh Tông ở ngôi lâu mà chưa có con nối dõi, Hoàng thái hậu Quang Thục làm
lễ cầu đảo và sai Nguyễn Đức Trung đến cầu tự ở am Từ Công núi Phật Tích (chùa
Thầy núi Sài Sơn). Hoàng hậu Trường Lạc ở cung Vĩnh Ninh tức thì có mang, đến
khi đầy đủ ngày tháng, chiêm bao thấy rồng vàng từ trên trời sa xuống, bay vào
trong phòng, một lát thì sinh ra hoàng tử, ứng thân của sao Thiên Lộc.
Trong văn bia chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), Nguyễn Bá Bằng có viết: “Trường Lạc
hoàng thái hậu có điềm rồng vàng nhập vào sườn bên tả”. Đây cũng là lý do mà
sau một năm lên ngôi, vua Lê Hiến Tông đã cho sửa chùa Thiên Phúc và cho dựng
bia theo ý nguyện của Trình quốc công Nguyễn Đức Trung, thân phụ của Hoàng thái
hậu" (2). Cần nói thêm, các vị vua anh minh thời xưa đều gắn với những truyện
tích về điềm sinh kỳ lạ.
Nói lan man như vậy để dễ đi vào chuyện chính của vị “Trạng Phật”. Vì câu
chuyện này liên quan đến quốc sách giáo dục của vua Lê Hiến Tông.
Tháng Tư, Kỷ Mùi, Cảnh Thống năm thứ 2 (1499), vua Lê Hiến Tông ra sắc dụ rằng:
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí mạnh thì đạo trị nước mới thịnh…”
(3).
Tháng 12 năm Tân Dậu, Cảnh Thống thứ Tư (1501), vua Hiến Tông ra sắc chỉ quy
định các thể lệ thi Hương (tương đương với tú tài hiện nay). Trong sắc chỉ này,
đáng chú ý là xã trưởng ở các xã phải bảo đảm cho học trò của xã mình. Nếu xã
trưởng nào khai nhận, đảm bảo không đúng, quan phủ, huyện châu khảo không kỹ để
đến nỗi học trò vào thi còn nhũng tạp và có người viết bất thành văn, hay vì họ
hàng con em mà gửi gắm thì sai nhân của khoa, đài đó phải dò xét cho ra sự
thật, giao hết lên để xét hỏi trị tội. Khi học trò vào khi thì khám xét kỹ càng
từ ngoài cửa. Nếu thấy mang tài liệu vào hoặc cho người vào thi hộ thì phải bắt
ngay để xét hỏi. Những người can phạm như trên bị sung làm quân bản phủ 3 năm,
suốt đời không được vào trường thi và bổ dùng nữa. Các viên giám thị niêm phong
bài thi, kẻ nào bất minh thì biếm hay giáng chức… (4).
Tháng 2, Nhâm Tuất, Cảnh Thống năm thứ 5 (1502), diễn ra kỳ thi Hội, tuyển các
cử nhân trong nước, số dự thi 5.000 người. Vua đích thân ra đầu bài văn sách
hỏi về đế vương trị thiên hạ. Người không có kiến thức rộng về đạo Nho, ắt
không thể vượt qua kỳ thi này.
Đến kỳ thi Đình vua đã chọn Lê Ích Mộc (1458-1538) làm Trạng nguyên, “vua sai
tuyên đọc chế từ, bưng lư hương cháy rực lửa ra trước, bị bỏng tuột cả tay mà
không biết. Vua ngự điện Kính Thiên, Hồng lô đích thân truyền loa xướng danh.
Mọi năm bảng vàng vẫn treo ở ngoài cửa Đông Hoa, đến nay vua sai Lễ bộ bưng ra,
đánh trống nổi nhạc rước ra treo ở cửa nhà Thái học. Bảng vàng treo ở cửa nhà
Thái học bắt đầu từ đó…” (5). Có thể nói, mọi vinh dự đều đến với Trạng nguyên
Lê Ích Mộc.
Lê Ích Mộc bưng lư hương bỏng tuột cả tay mà không biết. Nhưng cả triều đình
đều biết Lê Ích Mộc đỗ Trạng nguyên vì thông tỏ Phật pháp. Trong kỳ thi cao
nhất (thi Đình) cấp quốc gia, vua Lê Hiến Tông đã bỏ qua bao nhiêu đạo lý trị
nước của Nho giáo để bất ngờ hỏi về Phật pháp, nhằm thử sức những trí thức Nho
giáo đương thời. Bài trắc nghiệm bất ngờ và táo bạo này đã chứng minh thêm cho
tư tưởng coi trọng hiền tài, tập hợp mọi sức mạnh tư tưởng của vua Lê Hiến
Tông. Các trí thức Nho giáo có một phen để suy nghĩ về việc học phiến diện của
mình. Điều này cho thấy “nguyên khí quốc gia” không thể bị bó rọ vào một “bộ
óc”, “tư tưởng” đặc thù nào.
Với bài thi Phật pháp của Lê Ích Mộc, vua Lê Hiến Tông đã phải sửng sốt mà
rằng: “Bài văn của Lê Ích Mộc hơn hẳn mấy tầm so với bạn đồng khoa. Trẫm rất
hài lòng duyệt cho người ấy xứng đáng bậc khôi nguyên” (Công dư tiệp ký).
Trong hơn 100 câu hỏi về các lĩnh vực khác
nhau từ lịch sử đến giáo lý Phật giáo, Lê Ích Mộc đều biện giải trôi chảy. Có
đoạn ông đã nói về đạo Phật như thế này: “…Kính nghĩ bậc thánh thiên tử Thánh
triều ta, kế thừa các bậc vua thánh, gặp gỡ vận hội lớn lao, để tâm nội điển,
xoay chuyển pháp luân, trên có thánh từ Thái hoàng thái hậu và thánh Thái hậu,
cõi Nam nuôi dưỡng công đức, Thiên Trúc ngưng hội tinh thần, vui sướng nơi quê
Trường lạc, siêng năng chăm đạo chí chân.
Lại thêm có ngài Bình Cao Vương và các bậc đại thần trông coi việc nước, thảy
đều tha thiết với việc thờ Phật, gió vua nhân thổi mãi, mặt trời Phật sáng lâu,
tăng thêm vẻ sáng của tổ thành, giúp thêm thánh hóa của Hoàng triều. Cả những
hạng đệ tử chúng tôi, sinh gặp đời thịnh trị, được học tập pháp môn, phát Bồ đề
vô thượng đạo tâm, thụ Như Lai vi mật giáo pháp, phàm là Phật pháp, thảy đều
thi hành. Song nay đấng thánh minh đã sách vấn, vì vẫn cầu đạo đấy, cho nên mới
hỏi lũ hạ thần…”.
Bấy nhiêu lời của Lê Ích Mộc và sự chứng thực của vua Lê Hiến Tông, ai có thể
nói rằng đạo Phật thời ấy suy tàn. Một anh minh sách vấn tài tình, một Phật tử
hùng biện xứng danh “Trạng Phật”. Họ đã cùng nhau để lời tuyên ngôn giáo dục
“hiền tài là nguyên khí quốc gia” trở thành bất hủ, khẳng định thêm Phật pháp
trường tồn.
Thời Lý - Trần, Phật giáo cực thịnh, đêm ngủ người dân không phải đóng cửa. Vậy
có thể nhìn hành vi ứng xử thường ngày của người dân mà nhìn ra bóng dáng của
vị “trụ trì”, của đạo Phật được không? Chắc chắn Phật giáo nên nhìn thật kỹ vào
những ứng xử như vậy của dân chúng để điều chỉnh mình. Nếu cứ nhằm vào sự “cực
thịnh” bằng chùa to, Phật lớn với nhiều kỷ lục và các sư có nhiều “thần thông”
đi mây về gió như hiện nay thì sẽ có người đẩy ngay thời đại Phật giáo Lý -
Trần vào tút mút vùng sâu vùng xa, vùng biên địa hạ tiện.
Mở cửa có cái hiên ngang của mở cửa. Cài then có cái cẩn thận của cài then. Làm
ra cái cửa cũng để nhằm mục đích ra vào và phải biết lúc nào nên mở, lúc nào
nên đóng. Mở đóng là vô thường, là đi qua ngày đêm, đi qua không gian thời gian
và đi qua vui buồn.
Ở thời nào mà nhà chùa phải đóng cửa? Đóng mở là chuyện của mọi thời, điều quan
trọng là đứng trước cái gì thì phải đóng, đứng trước cái gì thì nên mở. Không
phải chỉ do mất trộm nhiều mà phải đóng kín cửa chùa. Bởi với những người có
quyết tâm chiếm thì dù có cài then, khóa cửa cũng chẳng ích gì. Khóa được cái
lòng tham thì cửa chùa ban đêm cũng như ban ngày. Không khóa được cái lòng tham
thì ban ngày cũng chẳng khác ban đêm.
Cơn gió lòng tham (cả chủ quan lẫn khách quan) mà thổi vào nhà chùa thì đúng
biến thành sai, ngày biến thành đêm, có giấy tờ biến thành không giấy tờ, nhân
chứng thật biến thành nhân chứng giả… Nói chung các giá trị sẽ bị đảo chiều,
quy ngược.
Thời Lý - Trần, ban đêm đi ngủ không cần đóng cửa, vì có những vị vua anh minh
như Trần Nhân Tông chống gậy đi khắp trong thôn ngoài làng khuyên dân giữ gìn
mười điều thiện. Giữ gìn điều thiện như giữ con ngươi của mắt mình thì đêm tối
nào có thể ngăn cái tính sáng trong lòng mình đi được. Nay lòng tham nổi lên như
ong, không lẽ vì thế mà cứ đóng mãi cửa vào. Đóng vào thì biết giao du với ai?
Còn ai khác ngoài dân, bởi càng gần láng giềng, gần dân, thân dân thì càng giảm
áp lực cho cái cửa, cho người đóng mở cửa. Vậy sự thăng trầm, liên quan gì đến
người đóng mở?
Liên quan nhiều lắm, vì nếu đóng lúc không đáng đóng, mở lúc không đáng mở thì
tâm sẽ cứ canh cánh, bất an, thậm chí cả lo sợ nữa. Đạo Phật là đạo trí tuệ,
đạo của những người có trí tuệ. Đạo Phật là đạo từ bi, đạo của những người có
lòng từ bi. Thế thì phải làm gì để cho dân thấy trước mắt họ là những người có
trí tuệ và từ bi, ở nhà gặp người có trí tuệ từ bi, ra đường, vào chợ gặp người
có trí tuệ từ bi...
Người đóng mở cửa là người phải có được nhận thức đầy đủ về hai vấn đề lớn ấy.
Bằng không thì không thể dung hòa được cái nhà và cái chùa. Là cái “nhà” mà
không biết giữ gìn, sử dụng đúng thì hoang phí của đàn na tín thí. Là cái
“chùa” thì phải biết mở rộng lòng, mở rộng đường hướng thượng, phát bồ đề tâm.
Nhà sư là nhà chùa. Các vị sư đã tự xưng mình như thế, nhằm xóa nhòa cái tôi,
đề cao sự “vô ngã”.
Người đóng mở cửa chùa không chỉ là người làm công quả bình thường trong chùa
đâu, nên đừng xem đó là việc vặt, việc nhỏ. Người “đóng mở” cửa chùa phải là
người mang danh “trụ trì” (trụ Pháp vương gia, trì Như Lai tạng).
Chuyện “nhà chùa”, chuyện cái cửa, cái tâm, chuyện “đóng mở” cũng là những
chuyện liên quan đến thăng trầm, thúc đẩy cho thăng trầm diễn ra.
Người ta thường ví von “lắm sãi không ai đóng cửa chùa”. Không chỉ là đóng cái
cửa vật lý đâu, vì cái cửa ấy ngày nào mà không có người đóng. Chùa không sư
thì hư mất chùa (hư chùa và mất chùa). Thời Pháp thuộc, đạo Phật Việt Nam mất
quá nhiều chùa bởi người ta nghĩ chùa không có bằng khoán, khế ước, nên nếu bỏ
trống mà không có người kế tục thì gọi là đất “vô chủ”, rất đáng phá.
Đó là cái nhìn sai lầm, vì điều đáng bàn là xưa nay người Việt vẫn quan niệm
“chùa của dân, sư của dân”, “đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Dân xây chùa
và dân mời sư về ở chùa. Chùa là sở hữu của dân, là tài sản vật chất và tinh
thần chung của dân, là di sản văn hóa truyền đời của dân. Sao có thể gọi nó là
vô chủ được. Chừng nào còn một người dân Việt Nam tin Phật thì chừng ấy chùa
chiền vẫn còn có chủ. Ở thời thịnh Nho, cụ Nguyễn Trãi (1380-1442) trong đời có
lúc cần đến sự “nhờ gửi” đã khiêm tốn nói thế này: “Ao quan thả gửi hai bè
muống. Đất Bụt ương nhờ một lảnh mùng”.
Muốn làm gì trên đất ấy phải nhờ phải gửi, bởi “ao quan” và “đất Bụt” là hai
giá trị mang hình hài của đất nước, non sông, mang tâm tình của dân chúng.
Hóa ra cái chùa (đất Bụt) ấy không chỉ là tài sản vật lý thông thường, nó là là
biểu tượng của cái đẹp, cái thiêng, cái cao cả, là niềm tin lớn vào các giá
trị. Cái đó có ý nghĩa, giá trị hơn nhiều chứng từ và khế ước. Vì lẽ đó chùa
ấy, sư ấy đã sống trong tâm niệm của dân, kỳ vọng của dân. Đáp ứng sự tin tưởng
đó, người giữ chùa phải có từ bi và trí tuệ. Có được hai điều đó thì sẽ biết
cách đóng mở cửa chùa đúng lúc, không quay lưng lại với niềm tin lớn của dân
tộc.
Lê Ích Mộc thời hàn vi ở nhờ nhà chùa và được các vị sư giao cho việc chép dịch
kinh Phật. Có ai ngờ đạo Phật được nối tiếp ở đời lại nhờ cả vào những người
(chỉ mới) “ở nhờ” chùa như vậy. “Trạng Phật” Lê Ích Mộc gắn với câu chuyện
“thăng trầm” của Phật giáo thời Lê, thời mà không có nhà sư nào học làm danh
thần, tiến sĩ, nhưng vẫn hấp dẫn các tiến sĩ, danh thần đến với đạo thiền.
Trước mắt việc đi mãi… Đã hơn 5 thế kỷ trôi qua (550 năm ngày sinh Lê Ích Mộc),
không biết có những ngôi chùa Việt nào đã nhắc đến khôi nguyên Lê Ích Mộc như
một vị Trạng Phật và nhắc đến vua Lê Hiến Tông như một vị trọng hiền tài? Và
ngày mai biết có còn ai “ở nhờ” chùa sẽ tiếp danh “Trạng Phật”?
60. Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?
Hòa Thượng Thích
Huyền Quang
với trái tim bất diệt của Bồ Tát Thích Quảng Đức
Ngay sau khi Thày Quảng Đức tự thiêu, mọi
người đã ngạc nhiên khi hay tin Trái tim của thày đã không bị thiêu hủy cùng
ngọn lửạ Từ đó đến nay suốt thời gian ngót 37 năm qua, người Việt Nam luôn luôn
bị ám ảnh bởi câu hỏi: Tại sao trái tim của ngài không bị đốt cháỷ Đây là câu
hỏi không những ám ảnh những người bình thường mà còn ám ảnh đối với nhiều khoa
học gia, nhiều nhà thần học cũng như các nhà nghiên cứu về những điều kỳ diệu
của thế giới vô hình. Tuần qua, nhật báo Người Việt Hoa Kỳ đã đăng tải bài viết
của ông Mật Nghiêm Đặng Nguyên Phả, trong đó tác giả đã trình bầy lý do vì sao
trái tim của Thầy Quảng Đức vẫn còn nguyên vẹn sau khi nhục thể của Thầy bị
thiêu thành tro bụi trong lửa đỏ. Mời quý độc giả theo dõi nguyên văn bài viết
của tác giả đăng ở trang 3.
Mười ba năm sau ngày Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu, tôi được nghe một Bạn Đạo của
Ngài kể lại: "Vì sao Ngài để lại Trái Tim", như một huyền thoại, như
một giai thoại Thiền thời đạị Người kể là Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long,
nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước
đâỵ Thời gian là vào đầu năm 1976 và địa điểm là Trại Cải Tạo Suối Máu, Tam
Hiệp, Biên Hòạ Vào thời gian trước khi bị đưa ra Bắc, tôi được giam chung với
hai vị Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long và Thích Độ Lượng là những người lãnh đạo
ngành Tuyên Úy Phật Giáo trong Quân Đội Miền Nam trước 1975. Nhờ cơ hội đó, tôi
đã học hỏi được rất nhiều về Phật Pháp, về đức độ và về công hạnh của Ngài
Thanh Long. Cũng nhân dịp này, tôi đã đặt câu hỏi về "Trái Tim Ngài Quảng
Đức" có thật không và chuyện xảy ra như thế nào?
Hòa Thượng Thanh Long đã trừng mắt nhìn tôi rồi nói: "Đó là sự thật một
trăm phần trăm, thế cậu không tin à?" - Ngài thường dùng chữ cậu để xưng
hô với tôi cho thân mật theo kiểu Bắc, thay vì dùng chữ anh hay đạo hữu - Và
tôi trả lời: "Không phải con không tin về chuyện trái tim có thật hay
không. Điều con thắc mắc là tại sao thiêu mà trái tim không cháy".
Hòa Thượng đã mỉm cười và ôn tồn nói: "Chính chúng tôi cũng không ngờ và
chính tôi là nhân chứng về chuyện này, giờ tôi kể cho cậu nghẹ" Rồi Ngài
bắt đầu thuật lại như sau:
"Tôi không nhớ rõ thời gian bao lâu trước ngày Thày Quảng Đức tự thiêu,
trong một buổi họp kín giữa những thành phần lãnh đạo cuộc đấu tranh Phật Giáo
tại chùa Xá Lợi, trong đó có tôị Sau khi bàn thảo xong các việc, đến phần linh
tinh thì Thày Quảng Đức giơ tay, xin ghi tên tự thiêụ Vì là chỗ thân tình, mà
cũng để đùa với ông, nên tôi nói: "Này Thày ơi! Mấy vị thiền sư khi chết
thường để lại xá lợi đấy nhé. Vậy Thày định để lại cái gì?" Ngay lúc đó,
theo phản ứng tự nhiên ông trả lời tôi: "Để lại trái tim được không?"
Tôi đáp: "Được chứ, tốt lắm, tốt lắm!" Sau buổi họp hôm đó, tôi đã
gọi Taxi đưa Thày Quảng Đức về chùa Quán Âm trước, rồi sau mới về chùa mình.
Thời gian tiếp theo vì bận Phật sự và việc đấu tranh tôi cũng quên đi chuyện
nàỵ
Đến ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão tức ngày 11 tháng 6 năm 1963 thì Thày Quảng Đức
tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt vào lúc 11 giờ trưạ Khi đó
tôi đang ở chùa Xá Lợi họp. Lúc đó tình hình rất căng, vì nằm trong thành phần
lãnh đạo nên tôi ở luôn tại chùa Xá Lợi để được bảo vệ chứ không về chùa nữạ
Nhục thân Thày Quảng Đức được mang về chùa Xá Lợi nên các Phật tử thường xuyên
đến viếng, ngày đêm hàng ngàn ngườị Mãi năm ngày sau mới đem xuống thiêu tại An
Dưỡng Địa Phú Lâm.
Vào chiều ngày 16-6-63, một thày trẻ phụ trách việc thiêu đã chạy về chùa Xá
Lợi bạch rằng đã thiêu xong, nhưng không hiểu sao trái tim chưa bị rã, tôi và
các vị lãnh đạo cho lệnh tiếp tục thiêu thêm 6 giờ nữạ Sáng ngày hôm sau, cũng
thày trẻ trên đã về chùa Xá Lợi tay cầm trái tim mầu nâu cứng với nước mắt đầm
đìa, nói rằng đã thiêu thêm lò điện không chỉ 6 giờ mà đến 10 tiếng đồng hồ
nhưng trái tim vẫn còn, nên đành chịu mà phải mang về trình lên Hội Đồng Viện.
Lúc đó tôi nghĩ ra (`ng trái tim thuộc loại cơ nhục nên có lẽ không cháy, thôi
thì để thờ.
Bốn ngày sau, một Thượng Tọa bên Nguyên Thủy viên tịch cũng đem thiêu thì cốt
thành tro hết, lúc đó tôi mới suy nghĩ và nhớ lại câu nói đùa của tôi và lời
hứa của Thày Quảng Đức trong ngày ghi tên xin được tự thiêụ Và tôi tự giải
thích rằng: Trong khi Thày Quảng Đức ngồi thiền để tự thiêu thì Thày đã dùng
lửa Tam Muội là một thứ nội hỏa đốt đi trái tim của mình, khiến trái tim đã hóa
thạch mà lửa thường không thể đốt nổị Lửa Tam Muội đã khiến trái tim Thày Quảng
Đức thành Kim Cang bất hoạị"
Trên đây là tất cả những lời Hòa Thượng Thanh Long đã kể lại cho tôi nghe 24
năm về trước, tính đến hôm naỵ Nếu kể từ ngày Ngài Quảng Đức tự thiêu thì đến
giờ đã 37 năm rồị Hôm nay, nhân sa ('p đến ngày kỷ niệm xả bỏ nhục thân của
Ngài, tôi viết những dòng này để cúng dường Ngài và Cố Hòa Thượng Thích Thanh
Long, người bạn của Ngàị Nhân dịp này tôi cũng xin nhắc lại về Ngài Quảng Đức.
Ngài có tục danh là Lâm Văn Tuất, sinh năm 1897 tại làng Hội Ninh, quận Vạn
Ninh, tỉnh Khánh Hòạ Thuở bé Ngài khó nuôi nên cha mẹ cho người cậu ruột làm
con, đổi tên là Nguyễn Văn Khiết. Năm 7 tuổi gia đình cho Ngài xuất gia học đạo
với Hòa Thượng Thích Hoằng Thâm. Năm 15 tuổi thọ Sa Di và 20 tuổi thọ Tỳ Kheọ
Sau khi thọ giới Ngài bắt đầu tu năm na (m khổ hạnh tại núi Ninh Hòa rồi Ngài
hành hạnh đầu đà, một y một bát du hóa khắp nơi, mãi sau mới về an trú tại chùa
Thiên Ân thị trấn Ninh Hòạ
Năm 1932 khi Ngài được 35 tuổi đời và 28 tuổi Đạo thì Chi Hội Ninh Hòa của Hội
An Nam Phật Học mời Ngài làm Chứng Minh Đạo Sự Từ đó Ngài đi hành hóa khắp các
tỉnh Miền Nam Trung Việt, đã góp công kiến tạo và trùng tu được 14 ngôi chùa
rải rác khắp miền. Năm 1943, Ngài rời miền Trung, vào Nam hành hóa tại các tỉnh
Sài Gòn, Gia Định, Bà Rịa, Long Khánh, Định Tường và Hà Tiên. Trong thời gian
này Ngài có lên Nam Vang thuộc Cambodia hành đạo ba na (m và nghiên cứu, học
hỏi về kinh điển Palị Năm 1953, Ngài được Giáo Hội Tăng Già Nam Việt mời làm
Trưởng Ban Nghi Lễ và Hội Phật Học Nam Việt mời Ngài làm trú trì chùa Phước
Hòa, trụ sở của Hội tại Sài Gòn. Trong thời gian này Ngài đã góp công trùng tu
và tạo lập được 17 ngôi chùạ Ngôi chùa mà Ngài thường trú lâu nhất là chùa Long
Vĩnh tại quận Phú Nhuận, Gia Định, cho nên Phật tử Miền Nam thường gọi Ngài là
Hòa Thượng Long Vĩnh. Chùa cuối cùng mà Ngài trú trì trước khi tự thiêu là chùa
Quán Thế Âm, số 68 đường Nguyễn Huệ, quận Phú Nhuận, tỉnh Gia Đi.nh. Đường
Nguyễn Huệ nay đổi là đường Thích Quảng Đức.
Ngài tự thiêu ngày 11-6-63, đã để lại một kỳ tích là "Trái Tim Xá
Lợi". Thông điệp của Ngài để lại là "Xả thân vì Đạo Pháp và Dân
Tộc" với tinh thần Bi-TríĐũng sáng ngời và sự nhiệm màu của Phật Pháp. Cố
Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương ngay ngày đó đã nhìn lửa thiêu trên nhục thân Ngài mà cảm
tác viết bài "Lửa Từ Bi", chúng tôi xin trích ra đây ba đoạn mượn làm
lời kết cho bài viết này:
"Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dày
bước ra ngồi nhập định, hướng về Tây
gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời taỵ
Sáu ngả luân hồi đâu đó
mang mang cùng nín thở
tiếng nấc lên từng nhịp bánh xe quay
không khí vặn mình theo, khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng... giông bão lắng từ đây
bóng người vượt chín từng mây
nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi
chỗ Người ngồi: một thiên thu tuyệt tác
trong vô hình sáng chói nét từ bi..."
Lửa Quảng Đức mãi mãi soi đường cho Phật Giáo
Việt Nam. Trái Tim Quảng Đức chứng tỏ rằng Phật Pháp trường tồn, bất diệt...
60. BỒ TÁT THÍCH
QUẢNG ĐỨC
Tất cả các chi tiết từng giờ, từng ngày trong
diễn tiến cuộc tranh đấu của Phật Giáo từ khơiû đầu đến kết thúc bằng cuộc cách
mạng lật đổ một chế độ độc tài gia đình trị, tôn giáo trị, của giòng họ Ngô năm
1963, đã được các cơ quan truyền thông báo chí phổ biến từ 42 năm qua,. Lịch sử
vẫn là lịch sử, không ai có thể chối cãi được, ngoại trừ những kẻ ngoại đạo, đã
và đang tìm mọi cách để vu cáo, xuyên tạc lịch sử hầu đánh lừa các thế hệ mai
său. Trong phạm vi bài này tôi chỉ tóm lược một số nguyên nhân chính để đưa đến
sự tự thiêu của Bồ Tát Thích Quảng Đức năm 1963, hầu bảo tồn đạo pháp và dân
tộc.
Vụ khủng hoảng chính trị ở Miền Nam VN bắt nguồn từ lệnh cấm treo cờ Phật Giáo
nhân mùa Phật Đản, phật lịch năm 2507 (ngày 8–5-1963) của chính phủ Ngô Đình
Diệm. Nguyên Tổng Giám Mục Huế là Ông Ngô Đình Thục (anh ruột của Ông Ngô Đình
Diệm), nuôi tham vọng được thăng chức Hồng Y, ra lệnh cho chính quyền địa
phương cấm phật tử treo cờ Phật giáo trong dịp lễ Phật Đản. (Hành động này
tương tự như một vị Hoà Thượng áp lực chính quyền cấm giáo dân đạo thiên chúa
treo cờ Vatican trong dip lễ mừng Chúa Giáng Sinh). Các Tăng, Ni phật tử cảm
thấy bị nhục mạ, tìm cách chống đối, kể cả Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân
đòan I. Đúng ngày Phật Đản, Thượng tọa Trí Quang đọc diễn văn tại chùa Từ Đàm,
với sự hiện diện của khá đầy đủ các viên chức chính quyền và quân sự, đòi hỏi
bình quyền tôn giáo. Tối đó, Phật tử Huế biểu tình chống lệnh cấm treo cờ, rồi
tụ họp trước đài phát thanh để yêu cầu phát lại bài diễn văn của Thầy Trí Quang.
Chính phủ đàn áp vô cùng dã man. Cuộc tranh đấu bùng nổ kháp miền Nam. Mãnh
liệt nhất là tại cố đô Huế và Đà Nẵng.
Lệnh cấm treo cờ Phật Giáo nhân dịp Phật Đản là một sai lầm vô cùng nghiêm
trọng và đây là một ngọn lửa đưa vào thùng thuốc súng để có dịp bùng nổ, său
bao nhiêu năm vẫn âm thầm âm ỷ, mà chưa có dịp bộc phát. Său này, chính phủ Ngô
Đình Diệm và cá nhân Ông Nhu tìm cách che đậy sai lầm của họ bằng cách ngụy
biện ràng Ông Diệm chỉ cho lệnh cấm treo cờ nơi công cộng, và phải treo cờ tôn
giáo cùng với quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà. tức cờ vàng 3 sọc đỏ tại các chùa
chiền. Sai lầm hơn nữa, Ông Ngô Đình Nhu (em ruột của Ông Diệm) và tay chân vu
cáo rằng những người tham gia các cuộc tranh đấu là “cán bộ cộng sản” hoặc “các
phần tử chống đối chế độ một cách quá khích”Lời vu cáo này trong khuôn khổ pháp
luật đương thời, có nghĩa chính phủ Ngô Đình Diệm được toàn quyền trừng trị
những kẻ phiến loạn trên, từ tù đầy tới tử hình. Không hiểu tại sao anh em Ông
Ngô Đình Diệm và thuộc hạ có thể thản nhiên, lì lợm chụp cái mũ cộng sản cho
những người tranh đấu đòi bình đảng tôn giáo (Thiên Chúa giáo và Phật Giáo),
không đưa ra được một bằng chứng nào, “Trong khi đó chính anh em Ông Diệm + Nhu
đang tiếp tục bí mật ve vãn Cộng Sản” qua đường dây Vatican và Pháp. Đâu có ngờ
chính khâm sứ Salvadore d’Asta của tòa thanh Vatican và đại sứ Pháp Roger
Lalouette lại mang bí mật của họ Ngô tố cáo với Mỹ. Bởi vậy chảng những không
tin lời tố cáo Phật Giáo của chế độ Diệm, chính quyền Mỹ còn đi đến quyết định
“thay ngựa”, thật là trời bất dung gian, đúng là “Mưu sự tại nhân và thành sự
tại thiên” Lấy thứ pháp luật man trá để dễ giết hại người, rồi cũng có ngày bản
thân và gia đình phải gánh chịu hậu quả vì thứ pháp luật ấy. Những ai có tham
vọng đại sự chớ quên tấm gương ố máu của anh em Ông Diệm. “Mưu thâm thì hoạ
dược thâm”.
Biến cố Phật Đản 1963, đã làm cho chính quyền Kennedy hoang mang và tự hỏi ?
Ho. Phật Giáo Việt Nam là ai đây ? Vì Ông cùng các cố vấn thân cận của Ong
chẳng ai hiểu gì về Phật Gíao cũng không lấy gì làm lạ bởi đại sứ Frederick
Nothing và Giám đốc CIA John Richardson đều là những kẻ che đậy sự thật và bênh
vực chế độ nhà Ngô lúc đó, không có báo cáo của hai ngành này thì làm gì có thể
biết được.
Đã đến lúc thời vận của nhà Ngô đã hết, nên giữa lúc tranh đấu của Phật giáo đã
nên đến cao điểm thì Đại Sứ Nothing lại rời Việt Nam đi nghỉ phép thường niên
để cho phó Đại Sứ William C. Truehart xử lý thường vụ. Cho nên chính quyền
Kennedy đã vội chỉ thị cho Truehart phải dùng mọi áp lực để khuyến cáo chính
quyền Ngô Đình Diệm phải ngừng đàn áp Phật Giáo và phải công khai giải quyết
các đòi hỏi của Phật Giáo. Do đó ngày 5/6/1963, Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ
được lệnh tiếp xúc với phía Phật Giáo.
Ngày 14/6 chính quyền và Phật Giáo chính thức họp ở hội trường Diên Hồng và hai
ngày său. Ngày 16/6 thông cáo chung về năm nguyện vọng của Phật Giáo đã được
hai bên cùng ký kết. Ngày 17 tháng 6 Phật giáo ra thông cáo tuyên bố đời sống
mọi sinh hoạt trở lại bình thường và thành tâm cầu nguyện cho 5 nguyện vọng
thông cáo chung được thi hành nghiêm chỉnh. Quả thực không sai, phía chính
quyền thì nhượng bộ nhưng phía gia đình trị và tôn giáo trị không chấp nhận. Do
đo, chưa đầy một tuần lễ său là một chiến dịch do Ông, Bà Ngô Đình Nhu và Ông
TGM Ngô Đình Thục đã tận dụng mọi phương tiện của nhà nước dùng các tổ chức
Thanh Niên Cộng Hòa, Hội Phụ Nữ Liên Đới, trung tâm Nhân Vị Vĩnh Long, đảng Cần
Lao, thương phế binh, Công An mật vụ………. Truyền thông báo chí thi nhau vu
khống, mạ lỵ đàn áp, cách chức, bắt giam, ám sát, bắt cóc, tra tấn, thủ tiêu…..
Thế là Các nhà lãnh đạo Phật Giáo lại phải kêu gọi các chư Tăng, Ni cùng đồng
bao Phật tử vùng lên tái đấu tranh.
Cuộc tranh đấu này quả thực gay go và phức tạp, Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu đã phải
từ chức để phản đối hành động đàn áp Phật Giáo của chế độ Ngô Đình Diệm, Ong
Trần Văn Chương, dại sứ của chính phủ VNCH tại liên hiệp quốc và là thân phụ
của Bà Ngô Đình Nhu, cũng từ chức để phản đối cuộc đàn áp Phật Giáo của chính
quyền Ngô Dình Diệm. Tướng Lê Văn Nghiêm tư lệnh Quân Đoàn I, lên tiếng phản
đối sự đàn áp dã man của phía chính quyền thì bị cách chức, đa số các quân nhân
ở Quân Đòan I đã cùng đồng bào Phật Tử tham gia biểu tình, nhất là ở tại Huế và
Đà Nẵng. Thị Trưởng Đà Nẵng lúc đó là Đại Tá Lê Quang Mỹ nguyên tư lệnh Hải
Quân, bị cách chức, său đó lạiï được Tổng Thống Ngô Dình Diệm cử Đại Tá Trân
Ngọc Châu ra hay thế. Trần Ngọc Châu có rất nhiều kế hoạch thâm độc để đánh phá
các cuộc biểu tình của Phật Giáo lúc đó. Tại Huế và Đà Nẵng khí thế tranh đấu
đòi bình đảng tôn giáo (Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo) của Phật Giáo rất sôi
đọng.
Tại Sàogon lúc đó trụ sở chính của ủy ban Liên Phái Phật Giáo vẫn đặt tại Chùa
Xá Lợi, nhưng quí ngài lành đạo Phật Giáo trong cuộc tranh đấu, thường xuyên di
chuyển địa điểm họp mật để đặït kế hoạch đấu tranh. Đến ngày 9 tháng 6 năm
1963, xuyên qua những lần thảo luận giữa ủy ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo và
Ủy ban Liên Bộ của chính quyền Ngô Đình Diệm không đi đến thỏa thuận. Trái lại
chính quyền Diệm vẫn gia tăng các cuộc khủng bố, đàn áp Tăng, Ni và Phật Tử.
Trong tình hình đó nếu cứ kéo dài các cuộc đấu tranh bình thường như từ trước
đến nay thì dần dần sẽ bị tan rã vì thiếu hình thức khác lạ để có thể gây xúc
động lương tâm con người. Nên quí ngài lãnh đạo Liên Phái Phật Giáo lúc đó phải
chấp nhận hạnh nguyện xin được tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức.
Ngảy 11 tháng 6 năm 1963 (nhằm ngày 20 tháng 4 năm Quí Mão), tại ngã tư Phan
Đình Phùng và Lê Văn Duyệt Saigon, - (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám và
Nguyễn Đình Chiểu TP HCM)- , Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã anh dũng tự thiêu,
trước hàng ngàn các Tăng, Ni và Phật Tử đứng gần đó để cầu nguyện, cùng hàng
trăm các phóng viên ngoại quốc đứng gần, xa và trên các tòa nhà cao tầng để
chứng kiến và thực hiện các phóng sự rồi tìm cách lén lút đưa ra nước ngoài phổ
biến. .Lực lương an ninh của Diệm được điều động đến để trấn áp và phá hoại
cuộc tự thiêu nhưng đều thất bại, vì các Tăng, Ni và Phật Tử quyết bảo vệ bằng
cách bao vây thành nhiều vòng trong tiếng niệm Phật ngân vang cả một bầu trời,
có người nằm ngăn cản trước bánh xe cứu hỏa, xe tăng của lực lượng cảnh sát.
Chiều ngày 11-6-63, chính quyền Diệm ra lệnh phong tỏa các chùa, nhất là chùa
Xá Lợi, nơi quàng nhục thân cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức. Khắp các nẻo đường
dẫn về Chùa Xá Lợi, cảnh sát được điều động đến để ngăn chặn làn sóng người
đang đổ dồn về chùa Xa Lợi. Tối hôm đó Ngô Đình Diệm đọc bài diễn văn trên đài
phát thanh Saigon, lên án vụ tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức và nói
“..do một số ngưồi đầu độc gây án mạng” và kêu gọi đồng bào hay nhận định tình
thế” lời lẽ qua thông địệp đã bộc lộ sự độc tài khi tuyên bố “sau hiến pháp còn
có tôi” cái tôi đã có thẩm quyền hơn cả hiến pháp. Tiếp theo là một lời tuyên
bố nay lửa của bà cố vấn Ngô Đình Nhu là “Một nhóm người đã nhẫn tâm mang nướng
một Ông thầy tu” thật là ghê tởm, khi mọi người nghe được điều này đã phẫn uất
tột cùng.
Ảnh hưởng và âm vang về cái chết Vô Úy của Bồ Tát Thích Quảng Đức.
Sự hy sinh phi thường, dũng cảm của HT Thích Quảng Đức với hình ảnh ngài ngồi
yên tư thế tọạ thiền trong ngọn lửa hồng đã như làn sóng điện cực mạnh lan khắp
trong nước và thế giới, hàng triệu trái tim con người quàn thắt trước sự hy
sinh cao cả của Ngài. Báo chí, truyền thanh, truyền hình đã loan truyền các tin
tức và hình ảnh của Ngài đang ngồi kiết già trong ngọn lửa rực cháy với những
lời ngợi ca khâm phục trên khắp năm châu. “Đây là một gương Đại Hùng Đại Lực,
tinh tiến bất chuyển mà chúng ta thường nghe nói. Sự hy sinh cao cả của Ngài là
một tiếng chuông gọi đàn cho hàng tứ chúng.” Và cũng là ngọn đuốc soi sáng
lương tri những kẻ vô minh”.đồng thời đã tiếp thêm sức mạnh lạ thường cho hàng
triệu người ở miền Nam, miền Trung sôi sục vùng lên bất chấp cường quyền, bạo
lực đã cùng nhău hiên ngang xuống đường đấu tranh chống bạo tàn của chế độ Ngô
Đình Diệm.
Ngày 12/6 tại Hoa Thịnh Đốn, đã đón nghe một cách xúc động cuộc đấu tranh của
Phật Giáo Việt Nam. và tờ New York Herald Tribune đã viết ..”Hòa Thượng Thích
Quảng Đức đã biến tấm áo Cà Sa với tấm thân tứ đại làm một giàn hỏa thiêu cả
một chế độ kỳ thị tôn giáo”. Tổng thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam
đang làm một việc rất hay là Ông đang tự đốt hết nền tảng của chế độ Ông.
Mục Sư Donakds Harring Ton (Mỹ) đánh giá cái chết của Hòa Thượng Thích Quảng
Đức giống như cái chết của Chúa Giê-Su, Michqel Servetus, Jeanne d’Are cho rằng
cái chết của HT Quảng Đức cao cả hơn hành động mổ bụng của người Nhật. Vì “sự
tự thiêu của Ngài đã cứu vớt bao sinh linh chìm đám trong khổ hận, kẻ đàn áp
cũng như những người bị đàn áp đều bừng tỉnh. Ngài đã tô đậm nét vàng son vào
trang sử huy hoàng của Phật Giáo ở Việt Nam”.Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc
rúng động trước chính sách kỳ thị tôn giáo tại miền Nam Việt Nam, dư luận Mỹ
quay sang chống Diệm và gia đình trị của Ông ta.
TRÁI TIM BẤT DIỆT.
Său khi ngọn lửa bọc quanh thi hài Hòa Thượng Thích Quảng Đức vừa tàn. Tăng, Ni
vây quanh Ngài và phủ lên một lá Phật kỳ. Nhục thân của Ngài được đưa về quàng
tại giảng đường Chùa Xá Lợi. Său lễ nhập kim quan, hàng ngàn Tăng, Ni và Phật
Tử ngày đêm tụ tập về Chùa Xá Lợi để cầu nguyện và canh phòng chính quyền Diệm
cướp mất thi hài của Ngài. Đến ngày 20 tháng 6 năm 1963. Ủy Ban Liên Phái Bảo
Vệ Phật Giáo và nhiều Tăng, Ni, Phật tử đưa nhục thân Ngài đi hỏa táng tại An
Dưỡng địa Phú Lâm.
Său 24 tiếng đồng hồ đốt trong lò với sức nóng 4000o C, Kim quan và nhục thân
Ngài đã biến thành tro bụi, nhưng một kỳ tích ngoài tửơng tượng của mọi người,
đó là quả tim của Ngài vẫn còn nguyên vẹn, lúc đầu ở trạng thái mềm và său dần
dần cứng như sắt. Đúng như tâm nguyện của Ngài trước Tam Bảo khi phát nguyện tự
thiêu “Xin thân này làm đước cảnh tỉnh chế độ Ngô Đình Diệm và xin cho trái tim
này được tồn tại mãi”.
Thượng Tọa Thích Thông Bửu Trụ Trì Chùa Quan Thế Âm là nơi Hòa Thượng Thích
Quảng Đức trú sứ, và Thầy Thông Bữu cũng là trưởng tử của HT Thích Quảng Đức đả
nói chuyện lại rằng : …. . .Său đó Tăng, Ni đã đem hài cốt và Trái Tim Bất Diệt
của HT về Chùa Xá Lợi….. .Khi biết được trái tim không cháy, chính quyền Ngô
Đình Diệm luôn gây sức ép căng thảng với Phật Giáo lúc bấy giờ đểu nhằm mục
đích chiếm đoạt lại hoặc phá hủy “Trái Tim Bất Diệt “ này. Ủy ban Liên Phái
Phật Giáo biết được ý đồ đó đã họp và quyết định thay thế trái tim thật thành
trái tim giả.
Ngày 28 tháng 6 năm 1963, Chính quyền Diệm mở một cuộc tấn công và đàn áp vào
chùa Xá Lợi để chiếm đoạt trái tim. Họ cũng lầy được trái tim, nhưng trái tim
đó là trái tim giả, còn trái tim thật đã được niêm phong cất vào tủ sắt và bí
mật cất vào một ngân hàng lưu giữ.
CẢM NGHĨ VÀ KẾT LUẬN.
Hôm nay nhân kỷ niệm 42 năm về sụ hy sinh cao cả và tuyệt vời của Bô Tát Thích
Quang Đức, với tư cách là một phật tử, đã trải qua ba thời kỳ chinh chiến tai ï
quê nhà đó là thời Nhật, thời Pháp và thời Mỹ biết bao thăng trầm, với tuổi đời
77 (song thất). Theo tôi đất nước thời chiến có những nhu cần đạo đức, văn hóa
thời chiến. Đất nước thời bình có những nhu cầu đạo đức, văn hóa thời bình. Tâm
nguyện chung của những người phật tử trong nước cũng như hải ngoại. Trong thời
bình là đào tạo Tăng tài, trẻ trung hóa nhận sự, lãnh đạo xã hội, hiện đại hóa
phương thức hoằng pháp và quản trị Phật sự, bảo tồn di sản Phật giáo. Tương lai
của Phật Giáo său này còn tồn tại và phát triển là nhờ vào các vị Tăng Tài trẻ
tuổi như Thầy Tuệ Sĩ, tục danh là Phạm Văn Thương, Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát,
Thầy Thích Nhật Từ, Thầy Thích Nguyên Tạng. Thầy Thích Tâm Thiện .. .
Người Phật tử Việt Nam bất cứ sống ở đâu dù trong nước hay hải ngoại phải cố
gắng vươn lên khỏi những vướng mác của hội chứng, hòa nhi bất đồng, đồng nhi
bất hòa, hãy vượt qua khỏi những định chế, hình thức để hòa nhập với ước vọng
và quyết tâm củng cố tự lực, tự cường và tự tin. Nếu cứ sa lầy vào những bận
tâm chấp tánh, chấp tướng, tham danh, tham lợi, thì Phật Giáo sẽ lệ thuộc vào
quyền lực thế tục. Phật giáo càng đi xa con đường phục vụ đạo pháp. Giáo chủ
của Phật Giáo là kẻ đã từ bỏ quyền lực thế tục đương nhiên có sãn trong tay để
chứng đắc quyên lực tâm linh và cũng không cầu mong quyền lực thế tục thị thực
cho quyền lực tâm linh đó. Đó là bài học Phật tử đã rút tỉa được qua kinh
nghiệm đắng cay của tình trạng tiến thối lưỡng nan “Ấn Quang – Quốc Tự”
“Quốc Tự – Ấn Quang” trước năm 1975 và “Phật Giáo Quốc Doanh” – Phật Giáo Quốc
Gia –Phật Giáo Thống Nhất”. Hôm nay nhân kỷ niệm năm thứ 42 ngày Bồ Tát Thích
Quảng Đức tự thiêu, con kính cần cầu xin quí Ngài, quí chư Tăng, Ni hãy thực
thi lục hòa của Đức Thế Tôn, để cùng nhău xây dựng và bảo vệ đạo pháp và dân
tộc.
Ở hải ngoại, đặc biệt là tại Mỹ nơi tôi ở hiện nay có khoảng hơn 300 ngàn người
Việt cư trú đa số là Phật giáo, quí chư Tăng, Ni cũng khoảng mấy trăm vị, lớn
nhỏ khoảng trên 30 ngôi chùa và tự viện. Thế mà chỉ có một lần tổ chức tại chùa
Phật giáo Việt Nam ở Orange County do TT Thích Pháp Châu làm trưởng ban tổ chức
và dưới sự chứng minh của HT Thích Mẫn Giác với gần 2 chục vị Tăng, Ni và trên
500 đồng bào phật tử tham dự. Đó là ngày 20 tháng 6 năm 1999. Ban tổ chức chúng
tôi lấy tên là “LỄ TƯỞNG NIỆM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VÀ CÁC VỊ TIỀN BỐI HỮU
CÔNG”. Giáo Sư Trần văn Chi đã đọc bài diền văn khai mạc, tiếp theo là các bài
tham luận của các vị khoa bảng, trí thức và nhân sĩ Phật Giáo. Gồm có Thạc sĩ
Nguyễn Cao Hách, GS Phạm Nam Sách, GS Nguyễn Khắc Hoạch cựu khoa trưởng đại học
văn khoa Saigon, BS Nguyễn Tường Bách, BS Tôn Thất Niệm, nhân sĩ Phật giáo Trần
Văn Kha v.v.
Său buổi lễ Cư Sĩ Nguyễn Đức Can đã thay mặt ban tổ chức cám ơn qui Chư Tôn Đức
Tăng, Ni và quan khách cùng quí Phật tử và mời quí vị hiện diện xuống tầng dưới
xem khu triển lãm do các họa sĩ, Nguyễn Đồng, Nguyễn Thị Hơp, Khánh Trường,
Nguyên Khai, Nguyễn Văn Trung, Lương văn Tỷ trưng bày. . .và thọ trai. Tôi đã
viết bài phóng sự về lễ tưởng niệm Bồ Tát Thích Quảng Đức có phổ biến trên các
báo chí, Internet và có in trong cuốn sách “Trở Về Cội Nguồn” phần phụ lục, do
nhà Văn Nghệ phát hành năm 2000, nếu muốn biết đầy đủ hơn xin mở trang nhà trong
website : www.thuvienhoasen.org
bấm vào chữ Index (tác giả và dịch giả) ra họ tên của tôi, bấm tiếp vào chữ
Nguyễn Đức Can sẽ ra các tác phẩm và bài viết của tôi.
Trên đây tôi chỉ sơ lược qua một số lịch sử diễn tiến trong cuộc tranh đấu của
Phật Giáo đòi được bình đảng truyền đạo như Thiên Chúa Giáo mà đỉnh cao là sự
tự thiêu của Bồ Tát Thích Quảng Đức với trái tim bất diệt, trong mùa Phật Đản
1963, phật lịch 2507. Tất nhiên trong phạm vi nhỏ hẹp của một bài viết này
không thể diển tả hết được, nhưng người viết cũng hy vọng đóng góp một phần nào
trong lịch sử với cảm nghĩ của mình, để độc giả tùy nghi phán xét
62. Truyện phật giáo
Tiếng ho của người bạn nằm cạnh khiến thiếu úy Sơn Điền tỉnh dậy.
Anh chàng đang phiêu lưu trong giấc mộng êm đềm với tình nhân Kim Sa bỗng giựt mình ngẩn ngơ
trước thực tế phũ phàng. Trọn đêm qua, người lính chiến, đã đưa đồng đội ra giữa
cánh đồng, lặng lẽ nằm phục kích, để rồi gần sáng mới có thể dật dờ chợp mắt
ngay trên bờ ruộng. Mặt trời đỏ rực vừa hé dạng, tỏa ánh nắng êm dịu sưởi ấm
cảnh vật, còn ướt đẫm sương đêm. Không khí tươi mát, hăng hăng mùi rơm rạ mục,
mùi đất mới cày, và đây đó, tiếng chim ríu rít trong đám tràm hòa lẫn với tiếng
dế gáy dòn tan reo rắt.
Tiếng dế nhắc nhở Điền hồi tưởng lại thời ấu thơ vui
nhộn, thường lang thang
ra đồng, vạch từ luống đất cày, xăm xoi từng lỗ nẻ, để
tìm bắt dế chọi, đem về giao đấu với chúng bạn. Nghe tiếng dế gáy, Điền có thể
phân biệt được âm thanh thấp lè tè và ngờ nghệch của đám dế mọi khù khờ vô dụng,
âm thanh thô đục của thứ dế cơm to xác, chỉ hấp dẫn khẩu vị với tiết mục dồn đậu
phọng lăn bột chiên dòn, và tiếng gáy dòn tan của những chàng dế lửa, dế than
hào hùng. May mắn bắt được một chú dế "chì chội", chiến đấu lỳ lợm hạ nhiều địch
thủ, Điền cưng quí như báu vật, ra công hái đọt cỏ non, hứng sương ban thưởng.
Dế hèn nhát, Điền xử dụng phương pháp "nặng" trừng trị : nhét dế ăn tí thuốc rê
cho say hay cột tóc vào chân dế quây
"mòng mòng" cho chóng mặt, để kết cuộc rồi,
chúng sẽ nổi cơn điên cuồng lăn xả vào cắn xé nhau chí chóe. Một chút hối hận
len về, Điền chép miệng : "Tội chúng quá !". Thương phận dế, Điền liên tưởng đến
thân phận người dân lành nước nhược tiểu. Chàng chán chường tự hỏi, dân mình đã
được đàn anh quây mòng mòng hay
nhét cho ăn thứ bã chủ nghĩa hung tợn nào, để
bôi mặt cuồng quay hận thù, bắn giết nhau đây. Hào khí của người lính chiến chợt
tan biến, chàng rùng mình uể oải bước đến bờ ao, khỏa nước rửa mặt. Làn sóng
nhấp nhô lay động đám lá ấu non mơn mởn, thật dễ thương. Loại giây hoang mọc
trên nước nầy cung cấp thứ củ đen đúa vùi sâu dước lớp bùn, vị bùi bùi như hột
mít, một thức ăn chơi đồng quê rẻ tiền. Trái ấu hình dáng tương tợ như đầu trâu
cui với cặp sừng cong cong nhọn hoắt, sần sùi xấu xí,
chẳng có nét nào tròn trịa
cả, thế nhưng dân quê miền Nam lại có câu hát ru con :
"Thương nhau trái ấu cũng tròn !
Ghét nhau, trái bồ hòn cũng méo
!".
Điền tủm tỉm
cười. Câu ca dao dễ thương, mộc mạc mà ý vị thâm trầm, đã phản ảnh trung thực
tâm trạng của kẻ đang lặn ngụp trong hương vị tình yêu tuyệt vời như chàng. Mang
cặp kính tình yêu mầu nhiệm dầy cợm vào thì ma lem cũng biến thành tiên nữ, hung
tợn cũng đổi thành hiền thục, thì dĩ nhiê⮠chua
cay, đắng chát gì cũng có thể là mật ngọt. Thật vậy, với
chàng thì người tình Kim Sa bao giờ cũng "tròn vo", cũng tuyệt vời, dù đó là lúc nàng nhu mì tươi vui, hay khi
nàng cong cớn, giận dỗi,
cay chua… Điền làm sao mà
quên được vẻ mặt cau có và giọng gắt gỏng của người
đẹp đã dành cho
chàng trong buổi đầu tiên
gặp gỡ vào ngày lễ chôlchnam (1) vừa qua. Như thường lệ, hàng năm dù bận thế nào, Điền cũng cố gắng tìm về ngôi chùa
Miên, để tham dự lễ Tết, tức chôlchnam, theo phong tục cổ truyền được tổ chức
vào mùa trăng khoảng tháng tư dương lịch. Vì bận hành quân liên
tiếp, mãi đến ngày thứ ba lễ Tết, gần bốn giờ chiều Điền mới "dù" về đến chùa Wat
Ông, xã
Lương Hòa, Vĩnh Bình với bộ đồ tác chiến còn bê bết sình lầy nơi trận mạc. Bấy
giờ, đồng bào đang quây quần làm lễ tắm cho chư tăng, dưới bóng cây xoài to. Thiện tín lần lượt long trọng múc nước thơm xối ướt thân thể chư tu sĩ, cử chỉ
thành kính như thầm nguyện sẽ tận lực hộ trì cúng dường tam bảo, hầu tạo đủ cơ
duyên cho chư sư "gột rửa thân tâm" thanh tịnh. Điền hấp tấp đến lu nước thơm
múc nước, rồi bước nhanh về hướng vị sãi cả. Nền đất sét ẩm ướt trơn trợt, mà
Điền lại vội vã vô ý, nên bị chới với ngã nhào, vô tình gáo nước tắm sư tạt
thẳng vào mặt cô gái đang lù lù bước tới. Cô gái mím môi, trợn trừng mắt nhìn
Điền, khiến cho anh chàng quân nhân ngang tàn bướng bỉnh, bỗng sợ điếng người,
luống cuống xin lỗi, mà chẳng phát nên lời. Cũng may, cô nàng có lẽ chợt nhớ là
đang tham dự một lễ nghi tôn giáo, nên chỉ
"nguýt" một cái dài "thòng", rồi ngoe nguẩy bỏ đi một nước. Ôi ! cái "háy nguýt" sắc bén như mũi gươm báu
cắm phập vào quả tim nồng nàn khao khát yêu đương của Điền, khiến chàng đê mê, ngờ nghệch như
kẻ mất hồn. Điền lặng lẽ theo sau người đẹp, giữ khoảng cách khá xa để khỏi bị nghi ngờ. Chợt thấy Trung sĩ Kim Hên, người đàn em trong đơn vị đang ba hoa với
một cô gái phía trước, Điền sợ bị lôi kéo mất dấu người đẹp, nên vội lẫn vào đám
đông để tránh mặt. Ngờ đâu, Kim Hên vừa thấy nàng đã rối rít gọi vang :
- Chị Sa ! Chị Sa ! Chị biến đâu mất nảy giờ vậy !
- Cô cậu ở bên nhau thì còn thấy biết ai nữa ! Chị vừa tham dự lễ tắm sư, rồi đi quanh chờ đến giờ nghe
thuyết pháp !
"May thật là may !", Điền thầm nhủ. Rồi chàng lửng thửng
bước tới, giả vờ như kẻ vô tình, ngây thơ ngờ nghệch. Kim Hên lại reo vang
:
- Thiếu úy ! Thiếu úy !
Đoạn Kim Hên lăn xăn nắm tay
Điền kéo lại, xum xoe giới thiệu :
Chị Kim Sa, chị nhà Bác và cô
Lọp, giáo viên…,
Và đây là thiếu úy Sơn Điền.
Xoay qua Kim Sa, Kim Hên nhỏ giọng nhưng âm
thanh cũng vừa cho mọi người cùng nghe : "Người hùng đơn vị mà em thường kể chị
nghe đó !".
Điền đỏ mặt, sung sướng lên tiếng :
Nghe Kim Hên ca tụng người chị xinh đẹp mãi…, giờ đây…
Giờ gặp mặt rồi, chắc người hùng
hối tiếc phải không ? Người đẹp nhanh nhẩu cướp lời.
Ơ…, ơ, hối tiếc lắm
chớ ! Tiếc phận mình kém may mắn, nên mãi đến giờ nầy mới có duyên
gặp gỡ !
Kẻ tung người hứng, tán tụng đẩy đưa, đôi thanh niên nam nữ cùng trang lứa càng hàn
huyên đối đáp càng dòn dã thân mật.
Tiếng loa thông báo thời
pháp của sư Thạch Phen sắp bắt đầu. Kim Sa xăn xái chọn một chỗ gần, tề chỉnh
ngồi chè he, nhu mì chăm chú lắng nghe. Điền bám sát bên cạnh, cũng giả vờ nghe,
nhưng bao nhiêu tình ý dồn về nàng. Sư Thạch Phen vốn hoạt bát, kể chuyện linh
động, dù điều khó khăn khúc mắc cũng biến thành giản dị, rõ ràng, nên tuy mang tâ⭠giải đãi mà Điền vẫn theo dõi được mẫu chuyện đạo (2) :
"- Vua Assaka trị vì một vương quốc thuộc miền Nam Thiên Trúc, vào khoảng hai trăm năm sau khi
Phật nhập diệt, là vị minh quân, giao hảo hòa bình với lân bang, lại hết lòng
thương yêu chăm sóc thần dân, nhờ vậy đất nước ngày càng
thanh bình thịnh trị. Một hôm, vua giả trang thành kẻ thương gia tầm thường, lẫn lộn tham dự các trò
vui Xuân tại ngôi chùa vùng ngoại ô, để tìm hiểu dân tình. Trong khi vua đang xối nước tắm chư tăng, thình lình có cô gái chen lấn bước vào rồi bị trợt chân
té, tạt nguyên thùng nước vào người nhà vua. Cô gái vừa hoảng hốt vừa thẹn
thùng, lí nhí xin lỗi. Vua bàng hoàng nhìn cô gái, rồi bị ngay tiếng sét ái
tình, mê man nhan sắc tuyệt vời và giọng nói êm dịu thanh tao của
nàng…".
Nghe chuyện người xưa mà như nghe được niềm tâm sự thầm kín của
mình, Điền xúc cảm len lén nhìn người đẹp, và bất ngờ bắt gặp nàng cũng vừa trộm
nhìn chàng. Mắt nàng chớp chớp như vô tình, mà gò má đỏ bừng vô cùng xinh xắn.
Điền sung sướng tiếp tục lắng nghe mẫu chuyện đạo, càng lúc
càng hứng thú.
"Nhà vua tức thời tuyển người đẹp, nàng Ubbari, vào cung rồi tấn
phong hoàng hậu. Vua đặc biệt sùng ái nàng, không ngó ngàng gì đến cung tần mỹ
nữ ngày trước, và cũng lơ là cả việc triều chính nữa. Đối với vua, thì đất nước
thần dân đều vô nghĩa, vì tất cả tâm tư của người bây giờ hoàn toàn dành cho hoàng hậu và chỉ vì hoàng hậu mà thôi. Hoàng hậu quấn quít bên
vua, vòi vĩnh đủ
điều, và dĩ nhiên, luôn luôn được vua cưng chiều, ngay cả trường hợp vì hoàng
hậu, vua đã đưa ra những quyết định gây
khổ đau cho người khác, một việc mà
trước kia vua vẫn tránh.
Mối tình vương giả đang mặn nồng, bỗng nhiên
hoàng hậu Ubbari lâm bệnh, rồi đột ngột từ trần. Vua Assaka đau khổ tột cùng.
Người kêu gào thảm khốc, lên tiếng trách Trời, trách Phật ác độc, và
cũng lên án bọn y sĩ bất tài bất lực. Rồi vua lại điên rồ, không chịu tin rằng hoàng hậu
thực sự chết. Người hạ lệnh tẩm hương hoa xác vợ, tiếp tục đặt nằm cạnh bên long
sàn, để tìm phương cứu chữa. Vua hạ lệnh giới tu sĩ phải tụng niệm khẩn cầu Trời
Phật cho hoàng hậu sống dậy; mặt khác truyền lệnh cho đòi các bậc lương y đại
tài khắp nước về hoàng cung trị bệnh hoàng hậu, hứa chia nửa giang san cho bất cứ ai cứu được nàng. Tuy nhiên, sau mấy ngày chờ đợi vô vọng, vua thịnh nộ kỳ
hạn bọn họ phải chữa trị
trong bảy ngày, nếu bất lực thì tất cả sẽ bị hạ sát.
Tai họa bỗng dưng đổ lên đầu bọn y sĩ, khiến gia đình họ lo sợ cuống cuồng,
tiếng kêu thương rền vang cả nước. Giới tu sĩ cũng bị họa lây. Vua trách cứ họ đạo hạnh thấp kém, nên đã không đủ đức độ khẩn cầu "thần linh" buông tha mạng sống hoàng hậu. Vua dọa sẽ bắt tất cả tu sĩ hoàn tục, phá hủy chùa chiền đền
miếu trong nước. Quyết định tàn ác của nhà Vua loan truyền nhanh chóng khiến toàn dân xôn xao
thán oán, nguy cơ biến loạn trầm trọng có thể bùng nổ bất cứ
lúc nào. Các vị đại thần vội vàng hội hợp triều kiến long nhan, khẩn trương báo cáo hiện tình đất nước, đồng thời cũng lựa lời khuyên giải : "Tâu bệ hạ ! trên đời nầy, hể có sanh thì phải có tử, từ xưa đến nay, chưa ai thoát khỏi định luật
vô thường đó. Bọn lương y dù thực tài, cũng chỉ cứu chữa một số trường hợp nào
đó, chớ làm sao có thể giúp cho con người sống mãi mãi hay
cải tử hoàn sanh được
! Hoàng hậu đã chết rồi, đó là sự thật không thể chối bỏ được. Vua có buồn
phiền, đau khổ thế nào cũng không
cứu vãn nỗi. Chi bằng vua chấp thuận cho chôn
cất hoàng hậu rồi nghĩ đến việc tuyển mỹ nữ khác vào cung mà vơi niềm cô độc…".
Càng được khuyên giải, vua càng
sanh tâm giận dữ, cương quyết cho
thi hành lệnh hành quyết y sĩ và phá hủy chùa chiền ngay ngày
hôm sau.
Bấy giờ, có vị tổ sư pháp hiệu Bồ Đề Tát Đỏa đang ẩn tu tại một hang
đá sâu thẩm tại đỉnh Hi Mã Lạp Sơn, trong khi tọa thiền nhập định chợt cảm ứng
nỗi niềm oán than của người dân mà rúng động toàn thân. Người vội xử dụng thần
thông xuất hiện trước cửa ngọ môn, công khai tuyến bố có khả năng trị bệnh cho
hoàng hậu. Vua đang nằm rũ riệt trên long sàng chợt được thông báo
tin vui, lồm
cồm bò dậy cuống quít phóng tìm vị tu sĩ già, lập bập hỏi han :
- Thật vậy sao ? Thật vậy sao ? Nhà ngươi ! Ơ Ngài
! Ngài có thể chữa bệnh cho hoàng
hậu… hậu… sống… lại phải không ?
Tổ sư điềm đạm :-
Dạ khải bẩm
hoàng thượng ! đúng vậy ! Bần tăng có khả năng cứu sống hoàng hậu, miễn là được
hoàng thượng giúp cho một việc !
- Việc khó khăn tốn kém thế nào trẫm
cũng sẵn sàng ! đánh đổi cả giang san nầy cho hoàng hậu trẫm chẳng từ nan
!
- Bẩm hoàng thượng ! Hoàng hậu lìa đời trên bảy ngày, nên đã đầu thai
sang kiếp khác. Bần tăng chỉ có khả năng cứu tỉnh hoàng hậu, nếu bà chấp nhận từ
bỏ hiện kiếp để trở về với nhà
vua ! Còn trường hợp bà khăng khăng chọn kiếp mới
thì bần tăng đành bất lực !
- Hoàng hậu yêu trẫm chí tình dĩ nhiên tâm
tâm nguyện nguyện về với trẫm, huống chi, địa vị hoàng hậu cao sang quyền quí
tột bực như thế nầy thì ai mà chả ham muốn !
- Dạ ! Nếu hoàng thượng tin tưởng như vậy thì bần tăng xin phép đưa hoàng thượng đến gặp bà trong kiếp hiện
tại để thuyết phục bà vậy…
Thế rồi, tổ sư Bồ Đề hướng dẫn nhà vua đến một
xó vườn cạnh khu chuồng ngựa, chỉ Vua xem hai con bọ hung đang lay hoay
trên đống phân
ngựa, rồi lên tiếng :
- Hiện kiếp của hoàng hậu là con bọ hung
cái đang nhủi đầu trong bãi phân dơ dáy đó !
- Câm họng ngay tên già xấc láo ! Ngươi lớn gan lớn mật mới dám dở trò trêu cợt hổn láo ta !
Vua giận dữ hét sang, tay
run run sờ đốc kiếm như muốn phân thây nhà sư thành muôn mảnh mới hả dạ. Tuy vậy, nhìn phong thái an nhiên tự tại của nhà sư, Vua bỗng phân
vân nên chùng tay lại.
- Khải bẩm hoàng thượng ! hạ thần là kẻ tu hành
quyết chẳng dám nói lời đặt điều thêu dệt. Nguyên nhân là thuở sinh thời, tuy
hoàng hậu nhu mì ngoan ngoãn với Vua, nhưng lại đối xử cực kỳ tàn ác thâm độc
với thuộc hạ. Bọn thị nữ cung nô luôn bị bà nhiếc mắng là hạng thúi tha hèn mọn. Do đó, sau khi mạng chung, nghiệp lực xấu đã dẫn dắt bà sanh sang kiếp côn trùng nầy !
Thấy vua tiếp tục lắc đầu bất mãn, tổ sư thở dài rồi dẫn dụ tiếp
:
- Nếu bệ hạ vẫn nghi ngờ, thì xin nắm chặt cánh tay nầy, để bần tăng
đưa bệ hạ đi xuyên qua nếp sống côn trùng, đích thân tìm gặp hoàng hậu để hiểu
rõ nguồn cơn…
- Nhà Vua ngần ngừ rồi nắm tay vị sư già tiến bước. Vừa đến
giáp mí vũng nước đái ngựa, Vua bỗng rùng mình rồi chợt thấy mình biến dạng
thành một con bọ hung trọng tuổi mang phong thái quyền quí của bậc vương gia.
Vua cảm giác như mình lạc vào chốn thần tiên mờ ảo, phong cảnh xinh
tươi hữu tình, hồ nước trong vắt thoảng hương ngào ngạt, khiến Vua thích chí hít lấy hít để.
- Nầy khanh, đây có phải "hương hải thủy" mà kinh sách xưa hằng ca
tụng chăng ?
- Thưa bệ hạ ! nước nầy chính thực là "hương mã thủy", chỉ
thơm tho hấp dẫn với loại tỉ căn tương ưng nào đó mà thôi ! Xin bệ hạ đừng quyến
luyến chốn nầy ! Phải mau tìm gặp hoàng hậu để thuyết phục bà trở lại trần thế
!
Tổ sư và nhà Vua,
trong thân mạng hai con bọ hung già, bì bõm lội qua vùng nước thơm, rồi vất vả leo lên ngọn đồi đất xốp bát ngát hương trầm quế. Sư
kéo nhà Vua núp dưới gò đất, chỉ hang động phía trước, khẽ nói :
- Bệ hạ quan sát kỹ cặp vợ chồng trẻ kia. Người đàn bà chính là hoàng hậu kiếp trước đó
Dưới nhãn quan của loài bọ hung, Vua mê mang ngắm nhìn thân hình kiều
diễm tuyệt trần hiển hiện trước mắt. Ôi ! nàng quả thực chính là
hoàng hậu
Ubbari ngày trước, không thể lầm lẫn được ! Ôi ! trớ trêu thay ! cái thân hình quyến rủ nồng nàn đó giờ lại đang nằm trong vòng tay kẻ khác, lời nói ân tình nũng nịu ngày
xưa thủ thỉ bên tai Vua, giờ cũng lập lại cho ai kia… Bao nhiêu yêu thương, hờn ghen bùng nổ tràn ngập, khiến Vua dợm chồm dậy trừng trị bọn
"gian phu dâm phụ". Tổ sư ghị Vua lại, nho nhỏ khuyên giải :
- Tên đó khỏe mạnh lắm ! xin bệ hạ ẩn nhẫn chờ hắn ngủ, thì mới có thể tự do thuyết phục
hoàng hậu được.
Nhớ đến thân hình lực sĩ của tình địch, Vua cảm thấy "ớn
lạnh" xương sống, nên dù tức bực cũng đành nằm ẹp, tiếp tục thấy nghe những điều
trái tai, gai mắt.
- Mình ơi ! em thề trọn đời yêu thương mình
! phục vụ cho mình ! mà mình có thương yêu em chút "xíu" nào không !, tiếng người đẹp õng
ẹo.
- Ơ ! thương lắm !
- Mình buồn ngủ phải không ? để em gãi lưng
và quạt cho mình ngủ nhé !
Nhìn cảnh người đẹp tận tụy chăm sóc, cưng
chiều chồng mà Vua đau lòng
xót dạ. Cũng may, chẳng bao lâu, thì có tiếng ngáy vang như sấm của tên đàn ông, khiến Vua mừng mừng tủi tủi rón rén lên tiếng :
- Em Ubbari ! em Ubbari !
- Nầy lão già kia ! người lầm rồi ! Ở
đây chẳng có ai tên đó cả ! Hãy tránh ra xa, giữ yên tịnh để chồng ta ngủ
!
- Ubbari chính là tên nàng đó ! Nàng nguyên là vợ ta…
- Ê ! thằng già dịch ! Ngươi ăn nói bậy bạ, ta vặn họng ngươi bây giờ ! Ta đẹp đẽ sang
trọng như vầy mà ngươi dám mở miệng nói ta là vợ của kẻ già khù, sói sọi, xấu xí như ngươi sao
?
- Nàng ơi ! Ta tạm mang thân nầy thôi, chớ thực ra ta là
loài người !
- Xí ! Loài người hả ! thứ quái vật xấu xa đó có gì quí giá mà ngươi khoe khang !
- Ta là
Vua của loài người, cai trị một đất nước
hùng mạnh, phồn thịnh và sung túc. Nàng kiếp trước là vợ ta, là bực mẫu nghi
thiên hạ, quyền uy tột bực, được muôn người hầu hạ… Ta thương yêu nàng khôn nguôi, nên tìm đến đây đưa nàng trở lại kiếp người mà an dưỡng giàu sang phú quí…
- Hứ ! Làm gì có xứ sở nào mà đẹp đẽ, thơm tho, sung sướng hơn xứ sở
nầy! Làm gì có người chồng nào đẹp trai, anh hùng hơn người chồng nầy ! Dù người
nói thật, thì ta cũng chẳng thèm mơ mộng đến người nào khác, thế giới nào khác
nữa ! Thôi đi tên già dịch ! đừng có mong bịa chuyện hoang đường để dụ dỗ gái tơ
nữa ! Hãy tránh xa đi, nếu cứ nói dang ca ta sẽ gọi chồng ta thức dậy trị tội
ngươi đó !
- Ubbari
ơi ! ta chính thực là chồng nàng ! chỉ có ta mới thực
sự yêu nàng chí tình tha thiết mà thôi !
- Ê ! cha già nầy điên khùng rồi
! ngươi mà lãi nhãi nữa thì đừng trách ta sao
ra tay ác độc đó nghe !
- Xin nàng hãy tin tưởng ta ! theo ta trở về với loài người thì sẽ hiểu rõ đâu là
sự thật…
- Anh ơi ! thức dậy mau lên ! có thằng cha già nầy nó cứ "thả
dê" em hoài nè ! Anh trị tội nó đi !
- Cha già nầy tới số rồi ! tao quyết
vặn cổ mầy ! mổ bụng mầy !, tiếng tên đàn ông giận dữ hét vang.
Nhìn vẻ mặt hung tợn, thân hình vạm vỡ của tình địch, Vua đâm ra sợ hãi cuống cuồng nắm
tay vị sư già chạy trối chết. Trong vừa vượt khỏi vũng "hương mã thủy", thoát
cái Vua biến trở lại hình
người, mình mẫy lấm lem sực nức mùi phân và nước tiểu ngựa hôi hám, mà chẳng lưu tâm. Vua vẫn kinh hoàng tiếp tục chạy một mạch về hậu
cung, rồi ngẩn ngơ nhìn xác chết đã hôi thúi của hoàng hậu, buông tiếng thở
dài.
- Như thế đó, tâu bệ hạ ! người ta tạo
tác bao nhiêu ác nghiệp để cưng chiều xác thân nầy, nhưng cuối cùng thì có ai giữ mãi được đâu ? Người ta
phải liệng bỏ thân xác, và cả tài sản, danh vọng, thân quyến… để tùy theo nghiệp
lực cuốn lôi mà trôi
nổi trong lục đạo luân hồi…
Vua sực tỉnh cơn mê,
quỳ lạy cảm tạ nhà sư, thì chỉ còn thấy bóng dáng của người lẫn khuất xa
xa…
Sư Thạch Phen chuẩn bị mẫu chuyện đạo chu đáo, hi vọng qua câu chuyện Phật tử sẽ nhận chân được lẽ vô thường mà cũng thấm nhuần lý nghiệp báo, hầu
luôn luôn khởi tâm niệm làm lành, tránh xa điều dữ. Thấy vẻ mặt vui tươi hớn hở
của Điền, sư hi vọng tìm được người góp ý cho thời pháp linh động hơn, nên vội
cất tiếng hỏi han :
- Con có nhận xét gì qua chuyện vua Assaka !
Điều trớ trêu là Điền, tuy vẫn thường viếng thăm chùa chiền, nhưng
chàng trai trẻ "yêu cuồng, sống vội" đó, trong lòng lúc nào cũng hừng hực chuyện
tình yêu nóng bỏng, còn lý vô thường vô ngã, lý
nghiệp báo nhân duyên… thì chẳng mảy may nhớ nghĩ đến. Đang lởn vởn trong đầu mối tình vương giả, Điền thành thật
đáp :
- Vua Assaka hay thiệt ! Ông dám đánh đổi nửa giang san để cứu mạng
người yêu, kể ra cũng đa tình đáo để !
- Đa tình thì có ! nhưng coi bộ
hèn quá ! Chẳng dám liều mạng sống chết vì tình thì cũng chẳng ra gì ! Kim
Hên
thích chí bổ túc.
- Đúng vậy ! yêu thì phải "hùng", dám liều mạng vì tình
! dẫu có chết thì cũng làm thứ ma "phong lưu trang nhã" !
Hai người đẹp : Kim Sa và Lọp rạng rỡ nghe hai chàng trai tán dương thuyết si tình, trong khi sư Thạch Phen ngao
ngán thở dài, thương cho kẻ dại khờ, đang mờ mịt đắm chìm trong
vòng tình ái nghiệt oan… Để tránh thời pháp khỏi chuyển biến thành buổi mạn đàm
về tình ái lăng nhăng, sư Thạch Phen vội cắt ngang phần thảo luận, rồi tiu nghỉu
tuyên bố chấm dứt thời pháp.
Trời chiều mát mẻ, bọn trẻ rủ nhau ra ao Bà
Om ngoạn cảnh. Vừa đến nơi, hội ý cái nháy mắt ám hiệu của Điền, Hên vội đưa cô
giáo Lọp đi riêng về hướng rừng thưa. Điền và Kim Sa, tiếp tục đi chầm chậm trên
con đường đất lồi lỡm đấp quanh bờ ao. Hai người ngây ngất hàn huyên đủ mọi đề
tài, đề tài nào cũng hấp dẫn đặc biệt cả, dù đó là chuyện phấn son duyên dáng hay chuyện lính tráng
hào hùng. Mỏi chân thì họ dừng lại dưới tàng cây dầu, cây
sao già. Hồ rộng, cây to là
hai ưu điểm của ao Bà Om. Loại cây tuổi trên hai
trăm năm nầy, vẫn ngạo nghễ vươn mình
cao ngất rợp bóng mát cả vùng, mà mớ rễ to
chằn chịt trồi lên mặt đất lại chu đáo biến thành thứ ghế ngồi thiên nhiên ngộ nghĩnh dị kỳ. Hai người rủ nhau ngồi lắt lẻo trên một cái rễ nhô cao lơ đảng
ngoạn cảnh hồ. Cả hai bỗng chú ý đến đôi le le đang tung
tăng bơi ra giữa hồ,
trững giỡn lặn hụp trong vùng sen chen chúc lá xanh, điểm vài đóa hoa trắng lác
đác. Chàng le le bỗng "nịnh đầm" âu yếm rỉa lông nàng, khiến cô nàng e lệ gục
gặc đầu…
- Đôi le le nầy ! hạnh phúc anh nhỉ !, Kim Sa lên
tiếng.
- Tuyệt thật ! Ước gì chúng mình…
Điền đáp nửa chừng rồi bỏ
lửng, vì thật ra sự lặng yên đó lại chuyên chở tình ý miên man hơn. Tình yêu đến với họ dễ dàng, tự nhiên mà dường như cũng kỳ diệu vô cùng. Chỉ mấy giờ bên
nhau, mà Điền nghe nhu
mình đã gặp gỡ, yêu nhau,
thề thốt tự kiếp nào
rồi.
- Điền ơi ! anh hứa suốt đời ta sống bên nhau nghen anh !
- Sống làm vợ chồng ! chết cũng thành ma vợ chồng ! Anh thề chẳng để ai cướp đoạt
em đâu !
* *
Kinh
nghiệm xương máu từ Tết nguyên đán năm
Mậu Thân, lệnh cấm trại
một trăm phần trăm nghiêm khắc ban hành. Để bảo vệ cho
đồng bào vui hưởng một ngày xuân an vui, đêm ba mươi, đơn vị địa phương quân của
Điền cẩn thận chia nhau nằm bờ, ngủ bụi để đề phòng những hành động khủng bố tàn
khốc có thể xảy ra. Tình hình nói chung có vẻ yên tỉnh. Ngoài những loạt súng nổ
vang dội thay cho tiếng pháp vào
lúc giao thừa, không có một vụ đột kích nào xảy
ra. Trời sáng dần, không khí
chiến tranh chết chóc nặng nề, nhường chỗ cho một
ngày Xuân đầy mộng đẹp.
Trại lính nhộn nhịp hẳn lên.
Những túp lều ọp ẹp
của gia đình binh sĩ rạng rỡ với cụm vạn thọ, cành mai vàng. Đám trẻ con thường
nhựt trần trụi cũng xúng xính áo quần mới. Người ta bắt đầu qua lại viếng thăm,
long trọng chúc mừng năm mới. Náo nhiệt nhất là đám trẻ con, lo le phong bì đỏ đựng tiền "lì xì", gầm đầu quanh bàn lắc bầu cua cá cọp, cãi vã nhau chí chóe. Điền đang loay hoay diện bộ đồ "vía", chuẩn bị đi viếng thăm chúc Tết đơn vị
trưởng, chợt có người cận vệ hấp tấp vào báo cáo :
- Trình thiếu úy ! quốc lộ số 4 tại ngã tư Sambour
bị đấp mô ! lệnh tiểu khu giao cho mình phải cấp
thời giải tỏa !
Điền tức bực buôn tiếng chửi thề "… Mẹ nó!", rồi đột
nhiên chàng bỗng rùng mình, linh tính báo nguy một điềm hung hiểm khó lường.
Chàng bức rức nghĩ mình đã sơ hở không cử người nằm kích
ở điểm đó, và lo ngại,
tai họa có thể đột ngột xảy ra cho người dân lành ngày đầu năm nếu họ bất cẩn
vượt mô khi lính chàng chưa phá hủy kịp. Điền hấp tấp ra lệnh đàn em di chuyển
ngay, mà vẫn chưa yên lòng,
nên lại tất tả bước nhanh theo.
Niềm lo lắng của Điền vơi dần khi cảnh tượng những chiếc xe kiên nhẫn đậu dài dài, tương phản
với vẻ mặt nhăn nhó sốt ruột của giới hành khách lăn xăn qua lại, hiện ra trước
mắt. Chợt có chiếc xe lam ba bánh đầy người từ đàng xa trờ đến. Người tài xế
thắng xe lại, ngần ngừ giây phút, rồi táo bạo lái xe leo lề chạy sát mí mô đất
hung hiểm. Điền hốt hoảng, cất tiếng la ngăn cản nhưng chỉ còn kịp nghe thấy một
tiếng nổ long trời, hất tung chiếc xe lam lên cao, bụi đất văng mù mịt. Điền hối
hả phóng nhanh đến cấp cứu. Chiếc xe sụp bẫy mìn gãy đôi, thì con người có lẽ
khó lòng sống sót. Thảm cảnh máu đổ, thịt rơi, tiếng kêu la khóc thét hãi hùng, đến nỗi những người lính chiến từng quen thuộc cảnh chết chóc nơi chiến trường
vẫn lợm giọng buồn nôn. Người tài xế cấm đầu dưới
ruộng, ruột gan lòng thòng. Trên mặt lộ lầy nhầy thân xác người hành khách bị gãy cổ, đứt lìa cánh tay chết tốt. Mấy người hành khách khác may mắn, thương tích đầy người nhưng tình trạng
có lẽ không đến nỗi nguy kịch, đang rên rỉ, kêu khóc thảm thiết. Trong
khi đó, dưới thùng xe lam
lật úp, một nạn nhân còn bị kẹt cứng, chẳng biết mệnh hệ như
thế nào ? Toán lính tự động phân chia nhau cứu cấp người sống sót, thu dọn xác
chết và giải tỏa mô. Điền đích thân hô hào kẻ hiếu kỳ tiếp tay nâng thùng xe lam hi vọng cứu mạng kịp thời nạn nhân đang bị xe đè. Nhìn bàn chân kẻ xấu số vừa lộ
ra, Điền liền cảm thấy có nét gì quen thuộc, gần gũi quá. Chàng muốn trốn tránh sự thật, dối lòng, không dám suy nghĩ gì cả, nhưng hình dáng Kim Sa vẫn lảng
vảng ám ảnh chàng.
"Còn sớm quá ! chắc nàng chưa rời nhà viếng thăm mình đâu !".
Điền cố gắng tự thuyết phục mình, nhưng nỗi sợ hãi cũng tràn ngập khiến chàng
run rẫy cả toàn thân. Điền bối rối lôi nhanh xác nạn nhân ra ngoài, rồi bỗng
thất thanh ôm chầm gào thét :
"Trời ơi ! em Kim
Sa ! Ôi sao em lại ra nông nỗi như thế này !". Điền hốt hoảng kêu gọi nàng tỉnh dậy, sờ mũi, thăm dò nhịp tim
của nàng… mà chẳng thấy tăm hơi. Điền khẩn cấp mang nàng về bệnh viện tỉnh cứu
chữa nhưng chỉ nhọc công vô ích.
Niềm khổ đau hành hạ không nguôi,
nhất là càng suy nghĩ, Điền lại càng tự trách mình là nguyên nhân để Kim Sa xuất hành
ngày Tết rồi tử nạn. Đầu óc chàng căng thẳng như sắp nổ tung trước những ý tưởng
dồn dập biến hiện đổi thay vùn vụt. Khi chàng bỗng mềm yếu khóc lóc thương cảm,
lúc mơ ước tự sát theo nàng, và khi thì hùng hổ mưu tính việc sống chết báo thù
bọn ác nhân. Dù vậy, Điền cũng tươm tất tham gia việc chung sự cho người yêu,
với thái độ vừa trầm tỉnh vừa lạnh lùng.
Theo tục lệ người Việt gốc Miên,
thân xác nàng sẽ được hỏa táng,
nhưng gia đình nàng thương con không chọn thứ áo quan ván tạp thông thường, mà tẩn liệm nàng trong cái đỉnh (3) gỗ đắc giá, đặt
người chết vào theo kiểu ngồi chồm hỗm, tay chân co lại, đầu chúi xuống, dáng
điệu của một hài nhi trong bụng mẹ.
Ba ngày sau, quan tài nàng được đưa
đến nhà thiêu Pachha cạnh chùa Wat Ong, để chuẩn bị lễ hỏa táng. Ông Acha (4) thay mặt thân nhân thỉnh sư Thạch Phen chủ lễ. "Giờ phút nghiêm trọng sắp đến,
xác nàng rồi sẽ thành mớ tro tàn", Điền thầm nghĩ. Cơn khổ đau cùng tận
bỗng bừng bừng nổi dậy dày xéo tâm tư khiến chàng ràn rụa nước mắt. Điền cắn chặt
răng để đè nén khối hận thù đang muốn bật thành tiếng hét nguyền rủa bọn sát
nhân khát máu, nguyền rủa cuộc chiến dơ bẩn và nguyền rủa cả cuộc đời phi lý vô
nghĩa nầy. Sư Thạch Phen lặng lẽ chấp tay rồi lần lượt nhìn từng người, như để
khuyên lơn, an ủi và chia xẻ niềm khổ đau của họ. Trong ánh mắt từ bi của sư,
Điền còn cảm nhận được sự bình an vô bờ, bắt nguồn từ giòng suối đạo pháp tươi
mát.
Sư Thạch Phen bắt đầu thuyết pháp
và đây là lần đầu tiên trên đời
Điền thực sự nghe pháp. Ngày trước, Điền ngồi cạnh người yêu nghe sư dẫn dụ về
cái chết của hoàng hậu Ubbari, mà lòng hờ hững coi như sự sống chết chẳng chút
liên hệ gì với mình. Giờ đây đang cơn oằn oại khổ đau, nội tâm
rung chuyển kỳ lạ đã thúc đẩy chàng biết thành khẩn lắng nghe, hầu đón nhận diệu lý thâm trầm thấm
sâu vào tâm tư mình. Sư kể câu chuyện Uraga Jãtaka (5), theo đó, cả gia đình của
người chết đều ý thức rốt ráo lẽ vô thường nên đã đón nhận tin lìa đời của thân
nhân bằng thái độ điềm nhiên thanh thản. Lời phát biểu của bà mẹ về cái chết của
con, nhẹ nhàng và thâm thúy, đã ban cho chàng niềm an ủi sâu xa :
"Không ai mời mọc, nó đã đến !
Không ai đuổi xô, nó vội ra đi !
Đến như thế nào, nó đi như thế ấy !
Có gì mà tôi phải âu sầu phiền muộn
?
Khi con tôi hoàn tất đoạn đường nó đã trải qua !"
Thuyết pháp xong, sư bắt đầu tụng kinh siêu độ "Trây lak Khana Sotta" ba lần để nhắc kẻ sống
người chết về lý vô thường, vô ngã. Sư rưới nước dừa lên cổ áo quan, rồi
ra hiệu cho ông Acha châm lửa.
Ngọn lửa bùng lên
cao. Cha me Kim Sa khóc ngất lên và Điền cũng ràn rụa nước mắt. Trong một thoáng Điền nghĩ là từ đây chàng sẽ
vĩnh viễn mất nàng. Khổ đau và hận thù lại đùng đùng nổi dậy. Điền nghiến răng
đè nén, mắt căm hờn long lên. Phiền não đang chất ngất dày xéo, bỗng Điền bắt
gặp ánh mắt dào dạt từ bi của sư Thạch Phen nhìn chàng. Tình thương của sư,
phong thái an nhiên của sư lần lần thu phục chàng, xoa dịu cơn khổ đau thù hận
trong lòng. Nhờ tiếp nhận được nguồn suối bình an của sư, Điền bắt đầu lặng lẽ
suy niệm những lời Phật dạy về cái chết, Điền lẩm bẩm : "Nàng đã đến, nàng đã
hoàn tất cuộc hành trình,
và nàng lại ra đi. Có ai sống mà không chết đâu ? Cớ
sao mình lại phải đau buồn ?". Điền bình tỉnh nhìn dàn hỏa,
chàng hình dung lại hình dáng nàng khi liệm. Tư thế ngồi như một bào thai trong đỉnh, bỗng gợi chàng
một biểu hiện của tư thế sẵn sàng chuyển kiếp. Thế rồi, Điền chợt có cảm tưởng
như mình đã khám phá ra
ý nghĩa sâu xa của sự sống và chết. Sanh và tử chỉ là
một chuỗi chuyển biến miên miên bất tận, nên thật ra cũng không sanh cũng không diệt, chàng chẳng hề được mà cũng chẳng vĩnh viễn mất nàng. Ôi tử sinh như thế
đó : một cửa ngõ ra vào, một trò chơi cút bắt trêu ghẹo khách trần ai. Trên hỏa
đài lửa vẫn phừng phực đốt cháy thân xác Kim Sa, nhưng hình như Điền cảm thấy
lòng mình nhẹ hẳn ra. Trong
ánh lửa lung linh, chàng cảm tưởng như từ tư thế bào
thai, nàng Kim Sa đã bàng hoàng sống dậy. Nàng chẳng hề chết. Nàng vẫn an nhiên
tự tại cất tiếng ca vang bài kinh "Không đến không đi" (6), một nhạc phẩm mà
chàng và nàng đã có lần nghe những anh em Thanh niên Phụng Sự Xã Hội trình bày
:
"Thân nầy không phải là tôi, tôi
không kẹt vào nơi thân ấy.
Tôi là sự sống thênh
thang, tôi chưa bao giờ từng sinh mà cũng chưa
bao giờ từng diệt.
Nầy kia, biển rộng, trời cao, muôn vàn tinh tú lao xao, tất cả đều
biểu hiện tôi từ nguồn linh tâm thức.
Từ muôn đời tôi vẫn tự do
Tử sinh là cửa ngõ ra vào
Tử sinh là trò chơi cút bắt.
Hãy cười cùng tôi, hãy nắm tay tôi
Gặp lại hôm nay, gặp lại ngày mai,
Chúng ta sẽ gặp nhau nơi suối nguồn
Chúng ta sẽ gặp nhau từng phút giây trên muôn ngàn nẻo sống……"
Tháng 1.1992
Ghi chú
Chôlchnam : lễ Vào năm mới của người Việt gốc Miên, nhằm vào mùa
trăng giữa tháng tư dương lịch.
Truyện cổ tích Phật giáo về vua Assaka của
người Việt gốc Miên không rõ phát xuất từ kinh sách nào. Trong quyển sách
"Người
Việt gốc Miên" của Lê Hương có ghi chuyện Vua Assaka và hoàng hậu Ubbari, nhưng
chi tiết có vài khác biệt với chuyện tác giả nghe được.
Người Việt gốc Miên
theo tục lệ hỏa táng nên cổ quan của giới bình dân thường chỉ dùng gỗ tạp, quàng
từ một đến ba ngày thì đưa ra nhà thiêu xác (pachha). Đối với các vị sư sãi,
hoàng thân hay những gia đình giàu sang,
người ta có thể chọn loại cổ quan đặc
biệt là đỉnh. Cổ quan nầy hình trụ, nắp hình nón chắc chắn nên có thể quàng cả
năm, rồi mới đưa đi thiêu.
Acha : vị bô lão thông hiểu phong tục tập quán
kinh điển, thường được dân làng kính trọng thỉnh làm chủ lễ cúng dường, tang ma,
hỉ sự.
Uraga Jãtaka : Đây là chuyện tiền thân Đức Phật ghi lại trong bộ Túc
Sanh Truyện, nội dung tạm tóm lược như sau : Gia đình người nông dân có người con bị rắn cắn chết. Cả nhà họp lại hỏa táng
người vắn số, nhưng không hề khóc
than sầu não. Vị Trời Đế Thích ngạc nhiên, hóa hiện để hỏi rõ từng người nguyên
nhân nầy :
Người cha giải đáp : "Con người rời bỏ cái vỏ mỏng manh nầy khi
đời sống trôi qua, cũng như con rắn lột da cũ bỏ đi. Không lời
ta thán nào làm động lòng đống tro tàn người quá cố. Vậy sao tôi phải phiền muộn ?"
Người mẹ đáp : "Không ai mời mọc nó đã đến. Không ai đuổi xô nó vội ra đi. Có gì mà
tôi phải âu sầu phiền muộn, khi con tôi hoàn tất đoạn đường đã đi…"
Người em gái đáp : "Dầu tôi có nhịn ăn và khóc than cả ngày, điều đó có đem lợi ích
nào không ? Than ôi ! nó chỉ làm thân bằng quyến thuộc thêm bất
hạnh…"
Người dâu đáp :
"Than khóc cái chết của người thân yêu cũng giống
như trẻ con khóc đòi chụp lấy mặt trăng…"
Người tớ gái đáp : "Một lọ đất
đã bể, ai có thể ráp lại như cũ ? Than khóc người chết chỉ hoài công…"
6. Kinh Giáo hóa người bệnh (Trung A Hàm số 28, Tăng Nhất A Hàm số 51, Hán tạng
tương đương với Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc, số 143. Trung A Hàm, tạng Pali), nội dung ghi lại lời
thuyết pháp của Ngài Xá Lợi Phất cho Ông Cấp Cô Độc khi vị nầy
bị bệnh nặng hành hạ khổ sở. Ngài Xá Lợi Phất khuyên cư sĩ quán niệm về mắt :
"Mắt này không phải là tôi, tôi
không kẹt vào con mắt nầy"… Tiếp đến cư sĩ được
dạy quán niệm lần lượt đến tai, mũi, lưỡi, thân và ý, rồi sang đến sáu đối tượng
giác quan, sáu thức, sáu yếu tố, năm uẩn, và ba thời : quá khứ, hiện tại, vị
lai. Đoạn Ngài Xá Lợi Phất chỉ dạy rằng các pháp đều do nhân duyên sanh khởi và do nhân duyên mà hoại diệt; nên thật
ra, tự tính của các pháp là
không sanh cũng
không diệt, không tới cũng không đi. Bài pháp đã được thầy Nhất Hạnh trích dẫn
và phổ nhạc dước nhan đề "Không đến không đi"
63. Kiến Trúc Ngôi Chùa Việt Nam Ngày
Nay
1.4 Kiến Trúc Ngôi
Chùa Việt Nam Ngày Nay
Qua ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu thì không có một kiểu mẫu nào cho ngôi chùa
Việt Nam cả. Mỗi thời đại, ngôi chùa có một số đặc điểm kiến trúc riêng. Mỗi
địa phương cũng tuỳ theo những điều kiện địa lý mà có kiểu kiến trúc phù hợp.
Các hệ phái Phật giáo cũng có những kiến trúc khác nhau
1.4.1 Chùa Bắc Tông
Nét chung nhất trong kiến trúc ngôi chùa đi từ ngoài vào là : cổng chùa, sân
chùa, tháp, gác chuông, nhà bia, vườn hoa, ngôi chánh điện, nhà thờ tổ, sân
thiên tĩnh, nhà tăng, nhà khách, nhà trai, nhà giảng, tuệ tĩnh đường, nhà bếp,
khu tháp mộ…
Cổng chùa là ranh giới giữa cõi đời và cõi đạo. Cổng có 3 cửa gọi là Tam quan (
tam quán ) nghĩa là ba mối, ba chỗ quán tưởng , gồm có:
- Không quán ( quan ) : xét ra sự vật đều không có thật tánh, thật tướng, mọi
pháp vốn không.
- Giả quán ( quan ) : xét rằng vạn vật, chư pháp đều biến hoá khôn lường, đều
là giả tam cả.
- Trung quán ( quan ) : phải quán cho đắc lẽ trung đạo, không phải không, không
phải giả. Đó là chỗ trọng yếu của đạo Phật.
Sau cổng chùa là trục chánh đạo dẫn vào sân chùa. Ơ sân trước, nhiều chùa có
xây tháp thờ Phật, tháp chuông, tháp vong, nhà bia, tháp trống… Cuối sân chùa
là nhà bái đường hay toà thượng điện.
Ơ miền Bắc : thường gặp kiểu chữ Đinh, Công, Tam, Nội Công Ngoại Quốc
Ơ miền Trung : đặc biệt là ở Huế, chùa thường được xây dựng kiểu chữ Môn, chữ
Khẩu.
Ơ miền Nam : chùa Tứ trụ, chữ Nhị, chữ Tam
1.4.2 Chùa Nam Tông
Có hai dạng: chùa Nam Tông Việt và Nam Tông khmer. Phật giáo Nam tông phát
triển chủ yếu ở miền Trung và miền Nam.
Kiến trúc chùa Nam Tông Việt thường đơn giản. Chùa có tam quan, trên đầu bốn
trụ có bốn hoa sen nở.
Chùa Nam Tông Khmer chỉ có ở miền Nam. Chùa là cơ sở văn hoá, tín ngưỡng, giáo
dục của cả cộng đồng nên thường đựơc xây dựng ở trung tâm của làng. Cổng chùa
được xây dựng bên lề đường với nhiều kiểu, bằng gỗ hay bằng gạch, có bốn hoặc
sáu cột, trên mái là ngôi tháp tứ giác có nhiều tầng hoặc ba tháp tròn ba tầng.
Ngôi chánh điện là công trình kiến trúc qui mô nhất, thường xây dọc,mặt hướng
Đông. Chánh điện thường được xây dựng trên hai cấp nền, cao hơn hẳn các công
trình khác ở chùa. Ngôi chánh điện luôn có các cấp mái, mỗi cấp mái chia làm ba
lớp. Hai mái trên cùng hợp thành một góc 600 ở hai đầu hồi.
1.4.3 Tinh xá Phật giáo Khất Sĩ
Hệ phái Khất sĩ do tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập từ năm 1944. hiện nay, hệ
phái có hơn 2000 tăng ni xuất gia tu học tại 400 ngôi tịnh xá, tịnh thất ở các
tỉnh miền Trung và miền Nam. Ngôi chùa của hệ phái được tổ sư Minh Đăng Quang
gọi là tịnh xá, tức là nơi trú xứ an tịnh, trong sạch.
Danh hiệu của ngôi tịnh xá đều có chữ ngọc đứng trước. Y của vị tổ sư muốn
khuyên dạy đệ tử luôn tinh tấn tu học để có được phẩm chất quý như ngọc, hiển
lộ được ngọc trong tâm mình.
Tam quan các ngôi tịnh xá thường được xây dựng đơn giản . thường trên đỉnh tam
quan có ngọn đèn Chơn lý thắp sáng ( ý pháp tám vạn bốn ngàn pháp môn của chư
Phật ).
Qua tam quan, sân trước tịnh xá thường tôn trí tượng Bồ tát Quán Thế Am. Ngôi
chánh điện được xây kiểu bát giác , chính giữa có tháp tam cấp tôn thờ bảo
tượng đức Phật Thích Ca.
1.5 Du lịch:
Hiện nay trong cả nước có đến cả hàng ngàn ngôi chùa, nhằm phục vụ cho mục đích
tín ngưỡng của người dân Việt Nam. những tuour du lịch hành hương cũng rất được
các công ty du lịch quan tâm. nhưng ngôi chùa nổi tiếng ở Việt Nam như: chùa
Hương, chùa Tây Phương, chùa Mía, chùa Đậu, chùa Dâu, chùa Diên Hựu, chùa một
cột, …
1.5.1 Chùa Dâu (Hà Bắc) .
Đây là ngôi chùa đầu tiên của Việt Nam được khởi dựng vào đầu thế kỷ thứ III.
Từ những thế kỷ đầu Công nguyên, vùng Dâu đã là một trung tâm Phật giáo nổi
tiếng trong và ngoài nước. Chùa còn có tên là Thiền Định, Duyên Ứng, Pháp Vân.
Vào đời Tuỳ, thế kỷ VI, VII, chùa là chốn tu trì và là đạo tràng thuyết pháp,
nơi truyền bá Phật giáo quan trọng của các danh tăng Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Pháp
Hiền, Quan Duyên... Vào thời này, Lưu Phương theo lệnh Tuỳ Văn Đế dựng tháp để
bảo tàng xá-lợi. Tháp Hoà Phong ở sân chùa, trước có 9 tầng, sau đổ mất. Năm 1738,
tháp được xây lại 3 tầng.
Vào các năm 1073, 1169, 1434, 1448, các vua Lý Nhân Tông, Lý Anh Tông, Lê Thái
Tông và Lê Nhân Tông đã tổ chức cầu đảo tại chùa, hoặc đến chùa rước tượng về
chủa Bảo Thiên ở Hà Nội để cầu đảo.
Ông Mạc Đĩnh Chi là người đứng ra hưng công xây dựng lại chùa với quy mô to lớn
vào thế kỷ XIV. Chùa đã được trùng tu nhiều lần.
1.5.2 Chùa Côn Sơn ( Hải Hưng)
Toạ lạc ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, trong khu vực Côn Sơn nổi tiếng với
những núi non, chùa tháp, rừng thông, khe suối... và những di tích gắn liền
cuộc đời nhiều danh nhân trong lịch sử. Côn Sơn còn là một trung tâm Phật giáo
lớn ở nước ta. Chùa Côn Sơn, tên chữ là Tư Phúc Tự dựng ở chân núi phía Nam,
Chùa có từ thời Trần. Vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã từng đến đến thăm
chùa. Chùa được trùng tu mở rộng từ đời Lê, tương truyền có tới 83 gian nguy
nga đồ sộ. Ngày nay chỉ còn là ngôi chùa nhỏ, còn gọi là chùa Hun.
Chùa có nhiều pho tượng cổ. Phía sau chùa là khu tháp mộ, nổi bật là: ''Đăng
Minh Bảo Tháp'' cao trên 5m đặt xá-lợi và tượng của Huyền Quang tôn giả (1254 -
1334).
Phía trước chùa có dùng 4 nhà bia. Một tấm bia có 3 chữ lớn ''Thanh Hư Động''
bút tích của Trần Nghệ Tông (1322 - 1395) được khắc trên phiến đá lớn đặt trên
thung lũng rùa. Nhà bia cũ bên trái có tấm bia ghi bài minh có tựa đề là: ''Côn
Sơn Tư Phúc Thiền Tự Bi'' hình trụ 6 mặt, nóc bia tạc kiểu long đình, dựng năm
Hoằng Định thứ 8 (1608) đời vua Lê Kim Tông, nội dung ghi lại việc trùng tu
chùa.
1.5.3 Chùa Keo (Thái Bình)
Toạ lạc ở thôn Dũng Nhuệ, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, Thái Bình: Chùa có tên chữ
là: Trần Quang Tự, dựng trên một khu đất rộng 20 hecta vào năm 1608. Chùa
nguyên dựng bên bờ sông Nhĩ Hà nên bị nước xói lở dần. Quận công Nguyễn Quyên
đã dâng đất cúng vườn để dựng lại chùa. Ngôi chùa hiện nay được trùng kiến vào
năm 1930. Chùa còn lưu giữ được nhiều di vật, đồ thờ quý giá: Đại hồng chung
đúc từ đời Lê, đôi lọ sứ Bát Tràng, bàn hương án...
Gác chuông của chùa là một kỳ công về mặt nghệ thuật kiến trúc. Gác gồm 3 tầng,
cao 11,50m, mỗi tầng treo một quả đại hồng chung. Gác chuông trong như đoá sen
mới nở vươn lên bên những thân cau cao vút.
Hàng năm, chùa mở hội vào ngày rằm tháng 9 âm lịch.
1.5.4 Chùa Trấn Quốc (Hà Nội)
Toạ lạc ở đường Thanh Niên, quận Ba Đình.
Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất nước ta, tương truyền có từ thời Lý
Nam Đế (544 - 548), lúc ấy có tên là Khai Quốc Tự; đến đời Lê Thánh Tông (1440
- 1442), đổi là chùa An Quốc. Đến đời Lê Kính Tông (1600 - 1618), chùa được dời
vào hòn đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây, tức địa điểm hiện nay. Đời Lê Hy Tông (1680
- 1705), đổi tên là chùa Trấn Quốc.
Chùa còn giữ được 14 tấm bia, đáng kể là tấm bia của Trạng nguyên Nguyễn Xuân
Chính dựng năm 1639 và tấm bia của Tiến sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1815.
Chùa có nhiều tượng đẹp, đáng chú ý là pho tượng đức Phật Thích-ca nhập Niết
bàn bằng gỗ thếp vàng.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần.
1.5.5 Chùa Láng (Hà Nội)
Toạ lạc ở làng Yên Lãng (tên nôm là Láng), thuộc phường Láng Thượng, quận Đống
Đa, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 6km về phía Tây, chùa có tên chữ là
Chiêu Thiền Tự, được dựng từ đời Lý Anh Tông (1138 - 1175), đã được trùng tu
nhiều lần. Kiến trúc hiện nay là do lần trùng tu vào giữa thế kỷ XIX.
Trong chùa, ngoài các pho tượng phật, có đặt thờ tượng vua Lý Thần Tông và
tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Chùa là một danh lam thắng cảnh của thủ đô.
1.5.6 Chùa Quán Sứ (Hà Nội)
Toạ lạc ở số 73 phố Quán Sứ, quận Hoàn Kiếm, Xưa thuộc địa phận thôn An Tệp,
huyện Thọ Xương, Thăng Long.
Sách: ''Đại Nam Nhất Thống Chí'' có ghi về chùa: ''Về đời nhà Lê (1428 - 1788),
các nước Chiêm Thành, Vạn Tượng. Ai Lao thường cắt sứ giả sang cống nước ta.
Nhà vua dựng một ngôi chùa cho sứ giả vào ở (vì những nước kể trên rất sùng đạo
Phật) và đặt tên chùa là Quán Sứ để phân biệt với các chùa khác...''.
Chùa đã trải qua bao thay đổi. Tới năm 1934, Tổng hội phật giáo Bắc Kỳ ra đời,
đặt trụ sở ở chùa. Chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của 2 kiến trúc
sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do tổ Vĩnh Nghiêm duyệt vào năm 1941.
Điện phật chùa được bài trí trang nghiêm. Các pho tượng đều khá lớn và thếp
vàng lộng lẫy.
Lá cờ Phật giáo thế giới lần đầu tiên được treo tại Việt Nam ở chùa Quán Sứ
nhân ngày lễ Phật đàn năm 1951, Phật lịch 2495.
Chùa nay là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trường cao cấp Phật học
Việt Nam (cơ sở 1).
1.5.7 Chùa Liên Phái (Hà Nội)
Toạ lạc ở phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng. Theo tài liệu của Sở Văn hoá Thông
tin Hà Nôi, chùa thuộc phái Lâm Tế do vị Lâm Giác Thượng Sĩ sáng lập từ năm
Bính Ngọ, năm Bảo Thái thứ 7, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1726).
Lâm Giác Thượng Sĩ tên là Trịnh Thập, con trai của Tân Quang Vương, là cháu nội
của chúa Trịnh Căn, cưới con gái thứ tư vua Lê Hy Tông. Ông đã sai đào ở gò cao
sau nhà để xây bể cạn thì thấy trong lòng đất có cái ngó sen. Phò mã cho mình
có duyên với đạo Phật nên đi tu, trở thành vị tổ đầu tiên của chùa, lúc đó gọi
là chùa Liên Tông. Đến thời Tự Đức, chùa đổi tên thành Liên Phái để tránh phạm
huý.
Tháp Diệu Quang ở bên sau cổng chùa, hình lục lăng cao 10 tầng, xây vào khoảng
thế kỷ XIX, trong đó đặt hài cốt tổ Diệu Quang cùng 5 vị sư khác.
1.5.8 Chùa Đậu (Hà Tây)
Toạ lạc ở thông Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín.
Chùa có tên chữ là Thành Đạo Tự, thờ nữ thần Pháp Vũ nên còn gọi là chùa Pháp
Vũ, tương truyền có từ đầu công nguyên cùng thời với chùa Dâu (Hà Bắc). Nhưng
theo văn bia ở chùa thì được dựng từ thời Lý. Các triều đại kế tiếp đều có
trùng tu, nhất là lần trung tu vào năm Dương Hoà thứ 1 (1635) đời Lê Thần Tông
do bà Ngô Thị Ngọc Quyên đứng ra làm hội chủ hưng công.
Chùa dựng theo kiểu: ''Nội Công ngoại quốc''. Tam quan chùa đồng thời là gác chuông,
bên trong treo quả đại hồng chung đúc năm Canh Thịnh thứ 9 (1801) đời Tây Sơn.
Chùa còn lưu lại nhiều di vật và đồ thờ có giá trị như đôi rồng đá (dáng dấp
đời Trần), gạch (đời Mạc), sách đồng (đời Lê), khánh chuông...
Tương truyền 2 vị Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường là người thôn Gia
Phúc, sống vào đầu và giữa thế kỷ XVII, đã kế tiếp nhau trụ trì Chùa Đậu. Trước
lúc viên tịch, cả 2 vị đều cho biết nhục thân sẽ không bị hư thối. Quả đúng như
thế, nhưng lâu về sau, người ta gia thêm vào nhục thân một số kỹ thuật để hạn
chế sức phá huỷ của thời gian.
Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh ngôi theo tư thế nhập Thiền, mình gập hẳn, đầu hơi
cúi về phía trước. Sau năm 1931, ở đầu có một vết nứt 2mm đã thấy bên trong
cùng là xương sọ, tiếp đến khoảng không, rồi lớp bồi dày từ 2 đến 4mm. Chất bồi
là đất gò mối mịn trộn sơn sống và mùn cưa giã nhỏ. Sau đó là một lớp sơn màu
cánh gián, ngoài cùng là một lượt quang dầu.
Toàn bộ pho tượng hiện nay chỉ còn nặng 7kg, cao 57 cm.
Tượng Thiền sư Vũ Khắc Trường. Theo lời truyền thì Thiền Sư đã khắc tấm bia năm
Dương Hoà thứ 5, là người thừa kế thiền sư Vũ Khắc Minh. Tượng được quét sơn
trắng, môi tô son, mắt và lông mày được tô vẽ.
Đây là phương pháp giữ xác độc đáo ở Việt Nam, đang còn là điều bí ẩn với các
nhà khoa học.
1.5.9 Chùa Trăm Gian (Hà Tây)
Toạ lạc ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, trên một quả đồi cao
khoảng 50m, xung quanh có nhiều cây cổ thụ. Chùa có tên chữ là Quảng Nghiêm Tử,
được lập từ thời Lý Cao Tông, niên hiệu Trịnh Phù thứ 10 (1185).
Đến đời Trần có Hoà thượng Bình An, quê ở Bối Khê, tu ở đây được người đời gọi
là đức Thánh Bối.
Chùa gọi là Trăm Gian vì có 100 gian theo cách tính 4 cột là 1 gian.
Ở sân chùa có gác chuông 2 tầng 8 mái được dựng vào năm Quý Dậu, niên hiệu
Chính Hoà, đời Lê Hy Tông (1693), là một công trình có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa còn giữ được nhiều di vật, đồ tế khí và tượng quý.
Đây là ngôi chùa đẹp về mặt kiến trúc và khung cảnh thiên nhiên, nên ca dao đã
có câu:
Chùa Trăm Gian (Hà Tây)
Đình So, quân Giá, chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp, chưa tày Trăm Gian
1.5.10 Chùa Mía (Hà Tây)
Toạ lạc ở làng Mía, xã Dương Lâm, huyện Ba Vì.
Chùa có tên chữ là Sùng Nghiêm Tự, được đại trùng tu vào năm Đức Long thứ 4
(1632) do bà Nguyễn Thị Dong (còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Diệu) , vợ chúa
Trịnh đứng ra hưng công.
Chùa có 37 pho tượng lớn nhỏ, một nửa tạc bằng gỗ, một nửa tạc bằng gỗm, một
nửa bằng đất luyện, sơn son thếp vàng. Tiêu biểu là Bát bộ Kim Cang bằng đất
luyện ở toà thượng điện, là những điển hình nghệ thuật miêu tả dung mạo những
con người giàu tinh thần thượng võ. Pho tượng tuyệt tác ở chùa là ''Quan Âm
Tống Tử'' với đường nét chạm khắc mềm mại, sinh động. Tượng Thuyết Sơn chùa Mía
cũng là pho tượng có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa còn lưu giữ rất nhiều cổ vật, như đại hồng chung đúc năm 1743, khánh đồng
đúc năm 1846, bia Bà Chúa Mía dựng năm 1632...
1.5.11 Chùa Thiên Trù - Hương Sơn (Hà Tây)
Toàn cảnh chùa Hương là một khi vực rộng lớn, có đủ khe suối, núi rừng, hang
động, thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, cách Hà Nội khoảng 60km.
Chùa Thiên Trù nằm ở Bến Trò, được dựng vào đời Lê Hy Tông, niên hiệu Chánh Hoà
năm thứ 7 (1686). Chùa bị đổ năm 19947, nay mới được xây lại và đang tiếp tục
công cuộc trùng tu
Ở chùa có tấm bia cổ dựng vào năm 1686, nói việc nhà sư Viên Quang có công sửa
sang động báu Hương Tích và xây dựng ngôi chùa Ngoài. Có 2 ngọn tháp đáng chú ý
là tháp Thiên Thuỷ - một khối đã nước mưa bào mòn và tháp Viên Công xây bằng
gạch cổ.
Chùa Hương là một danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Việt Nam. Động Hương Tích
được gọi là ''Nam Thiên Đệ Nhất Động''.
1.5.12 Chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên - Huế)
Toạ lạc trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách thành phố Huế 5km, về phía
Tây, do chúa Nguyễn Hoàng tái thiết năm Tân Sửu (1601). Năm Ất Tỵ (1665), chùa
Nguyễn Phúc Tân cho trùng tu chùa. Sau đó, chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc chuông
và dựng bia. Năm Giáp Ngọ (1714), chúa Nguyễn Phúc Chu lại tiếp tục cho sửa
sang chùa. Đến năm 1815 và năm 1831, vua Gia Long và vua Minh Mạng cho trùng tu
chùa sau thời gian bị hư hỏng. Năm 1844, vua Thiệu Trị cho dựng tháp Phước
Duyên. Năm 1907, vua Thành Thái cho trùng tu chùa sau cơn bão Giáp Thìn (1904).
Đến năm 1943, chùa lại bị hư hỏng, Hoà thượng trụ trì Thích Đôn Hậu đã chỉ đạo
công cuộc đại trùng tu kéo dài hơn 30 năm. Hiện nay chùa vẫn tiếp tục được
chỉnh trang.
Chùa Thiên Mụ là ''Quốc Tự Đệ Nhất'' nên nhiều sư được phong tước hiệu. Chùa là
ngôi danh lam cổ tự bậc nhất của đất Thần Kinh.
1.5.13 Chùa Báo Quốc (Thừa thiên - Huế)
Năm 1824, vua Minh Mạng lấy lại tên chùa Báo Quốc. Năm 1858, vua Tự Đức cho
trùng tu. Năm 1957, chùa được tái thiết, song vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ kính.
Cổng tam quan chùa được xây năm 1808 và sửa lại năm 1873. Năm 1940, trường Cao
đẳng Phật học được mở tại chùa Báo Quốc, và chùa trở thành một trung tâm đào
tạo Tăng Ni cho đến ngày nay.
1.5.14 Chùa Linh Quang (Lâm Đồng)
Toạ lạc tại số 133 đường Hai Bà Trưng, thuộc khu phố 4, thành phố Đà Lạt.
Chùa do Hoà thượng Thích Nhân Thứ tạo lập vào năm 1931, sau đó được các Hoà
thượng trụ trì kế tiếp trùng tu, nhất là đợt trùng tu năm 1958 và năm 1972 dưới
thời Hoà thượng Minh Cảnh trụ trì.
Chùa có lối kiến trúc cổ, mái chồng cong, trên mái hình long, lân, quy, phụng
được gắn bằng những mảnh sành đủ màu sắc. Chính điện thờ đức phật Thích - ca, 2
bên là Bồ-tát Quán Thế Âm và Hộ Pháp.
Chùa được xem là ngôi Tổ đình đầu tiên của thành phố Đà Lạt.
1.5.15 Chùa Giác Lâm (Tp.Hcm)
Toạ lạc ở số 118 đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình.
Chùa ở trên gò Cẩm Sơn, do Lý Thuỵ Long người xã Minh Hương quyên tiền xây dựng
vào mùa xuân Giáp Tý (1744) đời chúa Thế Tông (Nguyễn Phúc Khoát). Năm Giáp Tý
(1804), Hoà thượng Viên Quang đã cho xây dựng lại ngôi chùa. Đến năm Kỷ Dậu
(1909), Hoà thượng Hồng Hưng và Hoà thượng Như Phòng đã cho trùng tu lại như
kiến trúc hiện nay.
Chùa được xây theo hình chữ ''Tam'', gồn chánh điện, giảng đường và nhà giám
trai. Hai bên chánh điện là 2 bộ Thập Bát La-Hán (bộ lớn và bộ nhỏ). Chùa có cả
thảy 133 pho tượng bằng danh mộc (chủ yếu là gỗ mít nài) được sơn son thếp
vàng. Tất cả những pho tượng, các bộ bao lam, bàn ghế, bài vị, các tháp mộ
cổ... đều được chạm khắc cực kỳ tinh xảo.
Chùa là ngôi đình danh tiếng bậc nhất ở thành phố.
1.5.16 Chùa Xá Lợi (TP.HCM)
Toạ lạc tại số 69, đường Bà Huyện Thanh Quan, quận 3.
Chùa được khởi công xây dựng vào ngày 5 tháng 8 năm 1956 dưới sự quản đốc công
trường của 2 kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hà Tố Thuận thi công theo hoạ đồ của 2 kiến
trúc sư Trần Văn Đường và Đỗ Bá Vinh. Chùa được khánh thành vào các ngày 2, 3,
4 tháng 5 năm 1958.
Chánh điện ở lầu 1, dài 31m, rộng 15m, tôn tri đức Phật Thích-ca. Tượng này do
Trường Mỹ nghệ Biên Hoà thực hiện năm 1958 bằng bột đá màu hồng.
Ở trên tường chánh điện có những bức tranh minh họa đời sống đực Phật Thích-ca
do họa sĩ Nguyễn Văn Long thực hiện vào các năm 1959 - 1960.
Tháp chuông có 7 tầng, được khởi công xây dựng ngày 15/12/1980 và khánh thành
ngày 23/12/1961.
Đại hồng chung được đem lên tháp ngày 17/10/1961 dưới sự chững minh của cố Hoà
thượng Thích Tịnh Khiết.
Trước đây, chùa là nơi đặt trụ sở Hội Phật học Việt Nam. Chùa được chọn làm nơi
tổ chức Đạo hội thành lập Giáo hội phật giáo Việt Nam họp từ ngày 30/12/1963
đến ngày 01/01/1964. Chùa nguyên đặt trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
(Văn phòng II).
Ngày 31/8/1991, chùa là nơi tổ chức lễ tiếp nhận và phát hành 2 tập đầu tiên
Đại Tràng Kinh Việt Nam.
1.5.17 Chùa Vĩnh Nghiêm (Tp.Hcm)
Tọa lạc ở số 339 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3.
Chùa được xây dựng từ năm 1964 và hoàn thành năm 1971, do kiến trúc sư Nguyễn
Bá Lăng vẽ kiểu với sự cộng tác của kiến trúc sư Lê Tấn Chuyên và Cổ Văn Hậu.
Chùa có sân thượng sâu khoảng 10m, bên trái có tháp Quan Âm với 7 tầng mái, bên
phải có tháp chuông xây cao trên sân thượng. Quả đại hồng chung do Giáo hội
Phật giáo Nhật Bản hiến cúng. Bái điện là một toà nguy nga, bề rộng 22m, dài
35m, cao 15m. Những công trình chạm khắc gỗ ở đây có bao lam tứ linh, bao lam
cửu long, các tượng La-hán... Đặc biệt là các phù điều trên các hương án chạm
các ngôi chùa danh tiếng trong nước và các nước Châu Á. Các nghệ nhân Nguyễn
Văn Phúc, Nguyễn Văn Dụ, Bá Nhâm và tập thể thợ chạm những năm 1960 đã đạt
những thành tựu đáng kể về mặt điêu khắc gỗ ở đây.
Bàn thờ Phật được thiết lập rất trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích-ca,
2 bên là Bồ-tát Phổ Hiến và Bồ-tát Văn-thù.
Hiện nay, chùa đặt Trường cơ bản Phật học TP.HCM.
64. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam
1.1 Từ Đầu Tây Lịch Đến Thế Kỷ IX:
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, nhiều học giả ngày nay đều phỏng định
vào khoảng đầu Tây lịch. Nước Việt lúc bấy giờ là Giao Châu, một trong những
địa điểm mà các thương nhân hàng hải của An Độ đến miền Viễn Đông để mua các
thứ gia vị, hương liệu, gỗ, trầm hương… Những nơi thờ từ được tạo lập để thoả
mãn nhu cầu tín ngưỡng của họ.
Trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu đã xuất hiện. Những ngôi chùa nổi tiếng lúc bấy
giờ là : chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Dàn, chùa Tướng thờ các Nữ thần Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
Đạo Phật phát triển mạnh vào các thế kỷ V, VI, VI. Mật tông, Tịnh Độ Tông,
Thiền Tông đã được người dân tiếp nhận. Cư dân nông nghiệp bấy giờ tin nhiều
vào phép lạ thần thông của các vị sư như Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La… Đàm Hoằng,
người Trung Quốc đến việt Nam vào thế kỷ thứ V, truyền bá Tịnh Độ Tông với pháp
môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh, được lớp bình dân tin theo. Còn Khương
Tăng Hội, người mang Thiền Tông vào Việt Nam trong giai đoạn đầu cũng được các
vị sư và trí thức tiếp nhận, tuy nhiên Thiền vẫn còn phôi thai.
Đến năm 580, Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi đến Giao Châu, trụ trì chùa Dâu, mới mở
ra Thiền phái thứ nhất ở Việt nam, truyền thừa 19 đời, đến thế kỷ XIII. Thiền
phái này coi trọng việc tham thiền, tu định, hoằng hoá độ sanh, có ảnh hưởng
đến dân chúng mộ đạo.
Vị Thiền sư kế tiếp có ảnh hưởng rộng lớn trong dân chúng là Pháp Hiền. Ngài tu
ở chùa Chúng Thiện, dạy dỗ, giáo hoá tăng chúng có hơn 300 người. Cũng vào thế
kỷ VI, chùa Khai Quốc đựơc vua Lý Nam Đế ( 541 – 547 ) cho xây dựng sau khi
giành lại nền độc lập cho đất nứơc.
Năm 820, Thiền sư Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc, sang ở chùa Kiến Sơ, lập ra
thiền phái thứ hai ở Việt Nam. Thiền phái Vô Ngôn Thông truyền thừa 15 đời, đến
thế kỷ XIII. Tư tưởng Thiền học của Vô Ngôn Thông là thiền đến ngộ và vô đắc
của phương Nam Trung Quốc. Thiền có khuynh hướng biệt truyền, chú trọng đến ngộ
tâm địa. Nhưng khi truyền vào Việt Nam, thiền phái này không quá thiên về bí
hiểm, trầm tư mặc tưởng, mà rất gần gũi với đời sống xã hội, hoà mình vào tinh
thần tập thể.
1.2 Từ Thế Kỷ X Đến Thế Kỷ XIX
Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập và phát
triển. Trong buổi đầu của nhà nước phong kiến tự chủ, đạo Phật phát triển mạnh.
Đây là thời kỳ hoàng kim của Phật giáo trong lịch sử dân tộc. Những trung tâm
phật giáo như Luy Lâu, Kiến sơ có ảnh hưởng toàn vùng. Nhiều chùa mới đựơc tạo
lập. Một số trung âtm Phật giáo mới xuất hiện, đó là : trung tâm Đại La (từ
thời Lý là Thăng Long) và trung tâm Hoa Lư trong dãy núi đá vôi Trường yên tỉnh
Ninh Bình.
Ơ thời Lý (1010 – 1225), Nho giáo phát triển, còn Phật giáo thì đạt đến độ cực
thịnh. Các vua Lý đều tôn sùng đạo phật. Vua Lý Thái Tổ thuộc thế hệ thứ 7 của
thiền phái Vô NgônThông. Nhiều nhà sư xuất thân từ tầng lớp quý tộc, như thiền
sư Viên Chiếu (999 – 1090), thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096), Ni sư Diệu Nhân
(1042 – 1113) … Một số nhà sư được phong làm quốc sư như Thiền sư Viên Thông
(1080 – 1151), thiền sư Minh Không 1099 – 1174).trong thời kỳ này, thiền sư
Thảo Đường ở chùa Khai Quốc lập thiền phái Thảo Đường. Vua Lý Thánh Tông, Thiền
sư Bát Nhã, thiền sư Không Lộ, vua Lý Anh Tông, vua Lý Cao Tông … đều thuộc
thiền phái này.
Các danh lam thời Lý phần lớn do nhà vua hay các quan cho xây dựng. Vị vua nhà
Lý nào cũng có xây chùa dựng tháp. Năm 1010, vừa dời đô về Thăng Long, vua Lý
Thái Tổ đã cho dựng các chùa ở trong và ngoài kinh thành. Vua Lý Thái Tông lên
ngôi năm 1031, cho dựng 150 chùa thờ Phật và quán Đạo giáo. Năm 1049 vua cho
dựng chùa Diên Hựu ở Thăng Long. Vua Lý Thánh Tông cho xây chùa Sùng Khánh Báo
Thiên , chùa Thiên Phúc, tháp Báo Thiên, tháp Tường Long, chùa Sùng Nghiêm Báo
Đức, chùa Nhị Thiên Vương… Dươi đời Lý Nhân Tông nhiều chùa tháp lớn được xây
dựng.
Các vua nhà Lý đời sau cũng cho xây dựng và trùng tu nhiều chùa tháp. Ngoài ra
có rất nhiều chuà tháp được xây dựng ở nhiều địa phương trong nước như chùa
Linh Xứng (Thanh Hoá) được thái uý Lý Thường Kiệt cho xây năm 1126, chùa Sùng
Nghiêm Diên Thánh (Thanh Hoá) xây năm 1117, chùa Bảo Ninh Sùng Phúc (Tuyên
Quang) xây năm 1107, chùa Tự Già Báo Ân (Vĩnh Phú) xây năm 1209…Bấy giờ cũng đã
có Ni viện, như Ni viện Hương Hải ở Phù Đổng (ngoại thành Hà Nội ngày nay).
Vào thời Ly, mỗi làng có một hoặc vài ngôi chùa. Chùa nhiều nên tăng, ni phải
đông. Các vua đã nhiều lần xuống chiếu độ dân làm tăng. Các chùa thường có
nhiều ruộng đất do vua ban hoặc do giới quý tộc cúng để có điều kiện phát
triển, hoằng pháp và nuôi tăng, ni. Chùa được chia làm ba loại : đại danh lam,
trung danh lam, tiểu danh lam.
Đến thời Trần, Phật giáo tiếp tục phát triển rực rỡ trong sự dung hợp với Nho
giáo. Các thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường vẫn phát
triển cho đến lúc vua Trần Nhân Tông xuất gia năm 1299, lấy pháp hiệu là Trúc
Lâm Đại Sĩ, lập ra thiền phái Trúc lâm – Yên tử, thống nhất tổ chức Phật giáo
trong cả nứơc.
Đặc điểm của Phật giáo đời Trần là tinh thần độc lập, tự cường, tinh thần nhập
thế hành động, tinh thần phóng khoáng tự do. Quan điểm của Trúc lâm Đại Sĩ là
Phật tức tâm, chẳng cần tìm cầu Phật bên ngoài.
Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông vừa có kiến thức thế
học vững chắc lại có trình độ Phật học uyên thâm. Các vị đã dùng đạo Phật để
phục vụ cho mục đích chính trị, đó là một nền chính trị nhân bản, lấy con người
làm trung tâm.
Các ngôi chùa nổi tiếng đời Trần là chùa Phổ Minh được xây năm 1262 ở phủ Thiên
Trường (ngoại thành Nam Định ngày nay), chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều (Quảng
Ninh), chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang (Bắc Giang) và các chùa tháp ở Yên Tử
(Quảng Ninh).
Nhiều chùa tháp đã được xây dựng trong thời thiền sư Pháp Loa đứng đầu giáo
hội. Năm 1308, Trúc Lâm Đại Sĩ viên tịch, thiền sư Pháp Loa nối pháp, trụ trì ở
chùa Siêu Loại. Phật giáo đã phát triển rất mạnh. Chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang
được chọn làm trụ sở trung ương của gíao hội Phật giáo Trúc Lâm, lưu giữ hồ sơ
tăng ni cả nước. Đến năm 1329 số tăng ni xuất gia trên 15000 vị. Các tự viện
được kiểm kê ghi vào sổ bộ. Ngài đã xây dựng hai khu chùa lớn là Báo An và
Quỳnh Lâm, 5 ngọn tháp va 200 tăng đường.
Thiền sư Pháp Loa đã khai sơn các thắng cảnh ở Côn Sơn và Thanh Mai Sơn. Ngài
lại lo việc thiếc kế việc thờ tự trong chùa. Đựơc sự ủng hộ tích cực của giới
quý tộc đương thời, ngoài việc dựng chùa, Ngài đã cho đúc hơn 1300 pho tượng
đồng lớn nhỏ, đắp hơn 100 pho tượng đất. Đặc biệt là Ngài cho đúc pho tượng
Phật Di Lặc lớn ở chùa Quỳnh Lâm năm 1327. Pháp Loa còn cho mở các hội giảng
kinh, ấn loát các tài liệu Phật giáo, nhất là việc tiếp tục in kinh Đại Tạng
vào năm 1311. Ngài là vị tổ sư thứ hai trong Trúc Lâm Tam Tổ.
Nối tiếp thiền sư Pháp Loa là thiền sư Huyền Quang. Ông đã làm quan 30 năm
(1275 – 1305) rồi mới xuất gia, trụ trì chùa Vân yên (núi Yên Tử quảng Ninh)
sau về trụ trì chùa Côn Sơn (Hải Dương). Ngài là vị tổ sư thứ ba trong Trúc Lâm
Tam Tổ.
Kể từ vua Trần Anh Tông về sau, Phật giáo bị pha lẫn phần nào Đạo giáo. Nho
giáo tạo được nhiều thế lực. Năm 1381 đời vua Phế Đế, triều đình sắc thiền sư
Đại Nam thống suất tăng chúng trong nước đi đánh giặc Chiêm. Đến cuối thế kỷ
XIV, ở thời Hồ, Hố Quý Ly bắt các tăng sĩ dưới 40 tuổi phải hoàn tục, Phật giáo
bước vào giai đoạn suy yếu.
1.3 Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
Sau khi nghĩa quân Lê Lợi thắng quân Minh, triều Lê Sơ (1428 – 1527) được thiết
lập. Phật giáo ở thời kỳ này không còn khởi sắc như trước nữa. Một phần do
thiết chế và quy định thi cử chặt chẽ của triều đình, thêm vào đó, chùa chiền
bị hư hỏng nhiều qua chiến tranh.
Tình hình này kéo dài một thời gian. Đến khi xảy ra cuộc chiến tranh Lê – Mạc
rồi phân tranh Trịnh – Nguyễn, các chúa tỏ ra hâm mộ đạo Phật, Phật giáo có cơ
phục hưng. Ngoài Thiền phái Trúc lâm, có thêm mấy phái thiền và thiền sư danh
tiếng.
Ơ đàng ngoài: chúa Trịnh đã cho tu bổ nhiều ngôi chùa và tạo lập nhiều chùa mới
với quy mô lớn. Năm 1648, chúa Trịnh Tráng lập chùa Phúc Long ở làng Lãng Ngâm,
năm 1727 chúa Trịnh Cương lập chùa Thiền Tây ở làng Sơn Đình, năm 1730 chúa
Trịnh Giang trùng tu chùa Quỳnh Lâm, chùa Sùng Nghiêm. Phật giáo thời kỳ này
còn được phát triển qua sự du nhập và truyền bá của các phái thiền Lâm Tế và
Tào Động từ Trung Quốc cùng phái Thiền Liên Tôn ở Việt Nam.
Năm 1630, thiền sư Chuyết Chuyết (1590 – 1644) cùng đệ tử dùng thuyền qua Việt
Nam, đến Chân Lạp rồi Chiêm Thành. Sau Ngài ra đàng ngoài, hoằng hoá tại chùa
Thiên Trượng (Nghệ An) và chùa Trạch Lâm (Thanh Hoá). Năm 1633, Thiền sư ra ở
chùa Khán Sơn (Thăng Long) rồi về chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Ngài được chúa
Trịnh Tráng hâm mộ. Thiền sư có hai đệ tử xuất sắc là Minh Hành (người Hoa) và
Minh Lương (người Việt). Đệ tử của thềin sư Minh Lương là thiền sư Chân Nguyên
(1647 – 1726) truyền xuống Như Trừng – Lân Giác tức Vương công Trịnh Thập.
Thiền sư Như Trừng – Lân Giác là khai tổ chi phái thiền Liên tôn ở chùa Liên
Phái (Hà Nội).
Thiền sư Thuỷ Nguyệt (1634 – 1704) người Thái Bình đến Trung Quốc cầu đạo Thiền
sư Nhất Cú – Tri Giáo và du nhập Thiền phái Tào Động vào Việt Nam năm 1667.
chùa Hoè Nhai (Hà Nội) là ngôi tổ đình của thiền phái này.
Ơ thế kỷ XVIII, có hai ngôi chùa đặc sắc về kiến trúc và điêu khắc là chùa Kim
Liên (Hà Nội) và chùa Tây Phương (Hà Tây). Công việc xây dựng và trùng tu chùa
vẫn được các chúa Trịnh quan tâm. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc xây dựng này có
bị dừng lại do phong trào nông dân nổi dậy lan rộng khắp nơi.
Ơ Đàng Trong, ngay từ thế kỷ XIII, XIV đã có nhiều ngôi chùa Khmer trên đất Nam
Bộ hiện nay, như các chùa Samrông Ek, chùa Ông Mek ở Trà Vinh, chùa Vũng Liêm ở
Vĩnh Long…
Chămpa đã có thời chịu ảnh hưởng phật giáo. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết
một tự viện và tượng phật bằng đồng ở Đồng Dương thế kỷ IX, X nhưng Phật giáo
không duy trì lâu ở đây.
Xứ Đàng Trong: từ khi chúa nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá. Trong hơn 200
năm các chúa Nguyễn hết lòng sùng mộ đạo Phật. Nhiều chùa chiền đã được xây
dựng ở vùng đất mới. Năm 1601, chúa Nguyễn Hoàng cho trùng tu chùa Thiên Mụ
trên đồi Hà Khê (Huế). Sau đó chúa cho dựng chùa Sùng Hoá (Phú vang), chùa Bảo
Châu (Quảng Nam), chùa Kính Thiên (Quảng Bình).
Ơ thế kỷ XVII, nhiều vị thiền sư từ Trung Quốc đem hai thiền phái Lâm tế và Tào
Động truyền vào Đàng Trong làm Phật giáo ở đây thêm khởi sắc. Hai thiền sư nổi
tiếng của phái thiền Lâm Tế là Thiền Sư Nguyên Thiều (1649 – 1729) người Trung
Quốc và tiền sư Liễu Quán (? – 1742) người Phú Yên, Việt Nam..
Vào cuối thế kỷ XVIII, khi triều đại Tây Sơn được thành lập, Phật giáo vẫn tiếp
tục phát triển.
1.4 Từ Thế Kỷ XIX Đến Năm 1920
Năm 1802 Nguyễn Phúc Anh thắng triều Tây Sơn lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu
là Gia Long, đóng đô tạo Phú Xuân ( Huế ).
Nhìn chung, nhiều vua nhà Nguyễn không sùng đạo Phật như chúa Trịnh và chúa
Nguyễn. Nhiều quan lại nhà Nguyễn đã tham gia xây dựng nhiều chuà chiền. Trong
dân chúng, việc xây chùa, tạc tượng, đúc chuông, khắc in kinh điển vẫn đưỡc
tiếp tục. Đến thời kỳ này từ Bắc chí Nam hầu như làng nào cũng có một ngôi
chùa.
Nhiều thiền sư trong thời kỳ này đã có công truyền bá rộng rãi đạo phật. Một số
thiền sư được nhà vua phong Tăng cang và cấp giới đao độ điệp. Một số thiền sư
khác nhờ giới đức, kiến thức giáo lý, xây dựng, tổ chức giáo phái đã có ảnh
hưởng, uy tín trong tăng ni và quần chúng.
Các nhà thơ lớn xuất thân từ Nho học cũng không khỏi không chịu ảnh hương của
Phật giáo. Ông Nguyễn Gia Thiều với Cung Oán Ngâm Khúc nói đến nỗi đau khổ ,vô
thường trong cuộc đời. Anh hưởng bởi đức từ bi của phật giáo, Nguyễn Du đã đựa
vào giáo lý nha Phật để viết Văn tế thập loại chúng sanh. Còn Nguyễn công Trứ
với bài Vịnh Phật, vừa theo Nho lại vừa tin Phật. Nhà thơ Chu Mạnh Trinh đến
với cảnh chùa qua bài thơ Phong cảnh Hương Sơn.
1.5 Từ Năm 1920 Đến Nay
Ơ miền Bắc, Tổng hội Phật giáo ra đời năm 1934, đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ,
xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Ơ miền Trung, Hội An Nam Phật học cũng ra mắt và đặt
trụ sở taị chùa Từ Đàm, xuất bản tạp chí Viên An ( 1934 ) mở Phật học đường báo
Quốc và Kim Sơn, Phật học đường Trúc Lâm và Tây Thiên. Ơ Bình Định có hội phật
học Bình Định. Ơ Đà Nẵng có Hội Phật học Đà Thành, ra tạp chí Tam Bảo.
Ơ miền Nam, hội Lục Hoà được thành lập từ năm 1920 để vận động phong trào chấn
hưng Phật giáo. Năm 1931 Hội nghiên cứu Phật học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại
chùa Linh Sơn, xuất bản tạp chí Từ Bi âm ( 1932 ). Năm 1934 hội phật học lưỡng
Xuyên ra đời, xuất bản tạp chí Duy Tâm Phật Học và mở Phật học đường Lưỡng
Xuyên.
50 năm của Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo ( 1920 – 1970 ) đã có những kết quả
sâu rộng. Đội ngũ tăng, ni được huấn luyện qua nhiều trường lớp và phát triển ở
các tỉnh, thành phố. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhất là hệ thống chùa
phật học ở các thành thị.
Bên cạnh đó, có nhiều hệ phái, tông phái Phật giáo mới ra đời như giáo phái
Khất sĩ Việt Nam, Thiên Thai giáo quán tông…một yêu cầu thống nhất Phật giáo
được đặt ra. Năm 1951, giáo hội Tăng Già toàn quốc được thành lập, đặt trụ sở
tại chùa Quán Sứ, hoà thượng Tuệ Tạng làm thượng thủ. Tổng hội Phật Giáo Việt
Nam được thành lập tại huế, đặt trụ sở chùa Từ Đàm, hội chủ là Hoà Thượng Thích
Tịnh Khiết. Đến năm 1963 một đại hội phật giáo được tổ chức tại chuà Xá Lợi
thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ( ở miền Nam)
Đến tháng 11 năm 1981, một hội nghị 165 đại biểu của 9 tổ chức giáo hội, hệ
phái cả nứơc đã họp tại chùa Quán Sứ thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Truyện Cổ Phật Giáo
Vui Trong
Đau Khổ
Một hôm, Ðức Phật cùng đệ tử vào thuyết pháp trong thành La Duyệt Kỳ, lúc ra về
gặp chành thanh niên đang lùa một bầy bò vừa ăn no, chúng nhảy vọt vào húc
nhau. Thấy vậy, Ðức Phật nói mấy bài tụng sau đây:
"Người đi chăn đưa roi chăn, lùa bầy bò; Cũng như thế già chết chăn nuôi
và lùa kéo sinh mạng đi mà nào ai có biết!
Xưa nay, hàng trăm hàng ngàn người chứ không phải một, chứa chất của cải cho
lắm, cung dưỡng thân thể cho nhiều, nhưng rồi không ai khỏi điêu tàn chết chóc.
Sống nghĩa là ngày đêm sinh mạng bị công kích, bị tước dần, cho nên sự sống bị
tiêu mòn đi in như bờ đất bị nước soi lở".
Lúc về Tịnh xá, tôn giả A Nan bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vừa rồi trên đường về Ðức Phật có nói ba bài tụng nhưng chúng
con không hiểu hết ý nghĩa, xin Thế Tôn từ bi chỉ giáo cho.
- A Nan! Trên đường về vừa rồi ông có thấy người lùa bầy bò không?
- Bạch có.
- Người ấy là người thợ thịt. Bò của anh ta có đến ba ngàn con, cứ ngày lùa ra
ngoài thành tìm nơi cỏ tốt cho ăn rồi lựa con nào to béo thì làm thịt để bán.
Giết hơn một nữa rồi mà bầy bò ấy không con nào biết số phận của mình ra sao
cả. Chúng vẫn thản nhiên vui vẻ, húc nhau, nhảy vọt, kêu rống, ăn chơi... Ta
cảm thương chúng nó nên mới nói mấy bài tụng vừa rồi.
Nhưng A Nan nầy! Có phải riêng chỉ người chăn bò và bầy bò ấy mới như thế đâu,
nhân loại cũng có lắm người vùi mình trong hoàn cảnh tương tợ như thế. Họ chấp
trước "Bản Ngã", không biết bản ngã chỉ là sự chuyển biến liên tiếp,
vì thế, họ tham lam dục lạc cung dưỡng thân xác, rồi sung sướng khoái chí họ
sát hại lẫn nhau, húc chết sự sống của nhau mà không biết là mình đang húc nhau
với cái chết! Trong khi đó, bên cạnh sự sống, vô thường chết chóc lanh lẹ tiến
đến, thế mà họ vẫn ngang nhiên không hay không biết, có khác gì bầy bò kia?
Phật dạy như thế, trong số được nghe có những người xưa nay cung dưỡng thân thế
quá đáng liền tỉnh ngộ, tự cố gắng khuyến khích mình sống theo sự thật. Nhờ
thế, nên không bao lâu họ đều chứng được vô sanh.
Hoa Sen Trong Người
Không có giai cấp khi trong máu người
cùng đỏ.
Không có giai cấp khi trong nước mắt người cùng mặn.
Mai hôm ấy, kinh thành Xá Vệ rộn rịp trong cảnh phố phường buổi sáng. Trên các
đường lớn ngựa xe tấp nập; từng đoàn người qua lại trong những bộ áo màu sặc
sỡ. Các cửa hàng đông nghẹt những người mua. Tiếng guốc giày của những người
quí phái liên tiếp vang lên tạo thành những âm thanh ồn ào náo nhiệt. Nhưng đi
sâu vào các đường hẻm thì những cảnh sống hình như vui tươi, giàu mạnh của số đông
người trong hai giai cấp Sát Ðế Lợi và Bà La Môn ấy không còn nữa, mà những
cảnh bần cùng, đen tối của hai hạng người Tỳ Xá và Chiên Ðà La hiện ra quá rõ
rệt: những chiếc nhà lá thấp lè tè, chật hẹp, đóng cửa từ sáng sớm... Những đứa
trẻ đang **a giỡn chọc ghẹo nhau trên vệ đường. Những người tàn tật nghèo khổ
lũ lượt đi từ nhà này sang nhà nọ xin nhờ sự bố thí một cách khó khăn...
Như lệ thường, sáng nay Ðức Thế Tôn vào thành để giáo hóa. Bình đẳng, không
phân biệt nghèo, giàu, sang, hèn; Ngài đi hết phố này đến xóm khác.
Ni Ðề, một thanh niên thuộc giai cấp Chiên Ðà La, giai cấp thấp nhất ở Ấn Ðộ,
đang gánh một gánh phân chạy lon bon trên con đường xóm, thấy Ðức Phật, chàng
bối rối, sợ sệt, vội rẽ qua đường khác và tự thanh trách; chàng nghĩ rằng mình
đã sinh vào nơi thấp kém mà còn phải làm những việc đê hèn như thế này nữa,
thật là vô phước quá, đồng là người thì tại sao người ta lại dìm nhau trong
cuộc sống? Tuy rẽ qua đường khác nhưng đôi mắt chàng vẫn đăm đăm hướng về hình
ảnh trang nghiêm; sáng rực hào quang của Ðức Phật. Một sự ước ao trào dậy trong
lòng chàng: Ôi! Biết bao giờ ta được trực tiếp gặp Ðức sáng suốt kia. Càng nhìn
lòng chàng càng cảm mộ. Tuy chưa gặp Ðức Phật lần nào, song đức hạnh hoàn toàn
của Ngài, chàng được nghe nhiều người kể lại.
Hiểu tâm niệm Ni Ðề qua những cử chỉ rụt rè và đôi mắt đăm chiêu, Ðức Phật bước
nhanh về phía Ni Ðề. Thấy Phật đến, Ni Ðề hoảng hốt: Vì tự thấy mình nhớp nhúa
không đáng gần Phật, phần sợ người bắt tội nên chàng nhanh chân lẩn tránh.
- Con ôi! Như Lai đến với con đây! Sao con lại tránh? Ðức Phật ở xa nói lại với
một giọng trong thanh, êm ái.
Ðể đôi thùng xuống, run rẩy Ni Ðề quỳ thưa:
- Bạch Ngài con không dám... Có điều chi dạy bảo xin Ngài ban cho, xin Ngài
đừng đến gần con...
Ðức Phật bước thêm và đến sát Ni Ðề. Ni Ðề cúi xuống và sắc mặt biến xanh, ra
vẻ sợ sệt lắm. Nở một nụ cười chan chứa tình thương Ðức Phật nói:
- Con ơi! Không ai có quyền bắt tội con đâu, vì chính Như Lai đến với con, chứ
không phải con đến với Như Lai. Hơn nữa Như Lai nay không phải là người trong
giai cấp vua chúa như Thái tử Tất Ðạt Ða ngày xưa, mà là người của tất cả chúng
sanh, nhất là hạng người đau khổ như con. Như Lai muốn nói với con một vài câu
chuyện... Nghe qua những lời nói dịu hiền và có lý của Ðức Phật, Ni Ðề bớt lo
sợ và nhìn Ðức Phật một cách kính mến, chàng thưa:
- Chẳng hay Ðức Thế Tôn vẫn đoái hoài đến người cùng khổ này sao? Và con đây
cũng được Như Lai dạy bảo và được thật hành theo đạo của Như Lai nữa sao?
Một cách nghiêm nghị Ðức Phật hỏi: Ai đã làm cho các con thắc mắc những điều
ấy?
- Bạch Thế Tôn: những đạo sĩ Bà La Môn thường nói chỉ có giai cấp họ và người
trong dòng Sát Ðế Lợi mới có quyền thờ kính Hiền Thánh và có quyền giao thiệp
với người đồng giai cấp, chứ bọn con thuộc dòng hạ tiện không có phép làm những
việc của họ làm và phải trọn đời phục dịch họ...
Ni Ðề muốn nói nhiều nữa song Ðức Phật ngắt lời và hỏi:
- Vậy con không biết Như Lai ra đời để cứu khổ cho chúng sanh bằng cách phá tan
những sự mê tín dị đoan, ỷ lại thần quyền và đưa chúng sanh đến cuộc sống bình
đẳng và an vui sao?
Thôi, giờ đây, con có muốn sống một đời sống tươi đẹp và rộng rãi không? Và con
muốn sống gần Như Lai không?
Sung sướng muốn chảy nước mắt, Ni Ðề đáp: - Ðó là điều mà con tưởng không bao
giờ thực hiện được; nếu được Như Lai cứu độ thì đó là một phước lành của con
vậy.
Dịu dàng Ðức Phật cầm tay Ni Ðề dắt đến bờ sông gần đấy... Tắm rửa xong, Ni Ðề
theo Ðức Phật trở về Tịnh xá Kỳ Hoàn được Phật và Giáo Hội thâu nạp cho là Tỳ
kheo, qua một thời gian tinh tấn tu luyện vị Tỳ kheo mới nhập đạo này đắc quả
Tu Ðà Hoàn rồi lần chứng quả A La Hán.
Bấy lâu Ba Tư Nặc vương bất bình và không hiểu tại sao Ðức Phật là người của
dòng hào thế Thích Ca mà lại độ đệ tử phần nhiều là những người ở hai giai cấp
dưới. Nay lại được nghe Ðức Phật vừa độ cho Ni Ðề, ông càng bất bình hơn nữa.
"Ðảnh lễ - ai chứ ta không đảnh lễ anh chàng Ni Ðề được...!". Ba Tư
Nặc vương lẩm bẩm như vậy. Càng nghĩ càng tức giận, Ba Tư Nặc vương liền cùng
với các vị cận thần đi đến Tịnh xá Kỳ Hoàn để xin Phật đừng độ cho Ni Ðề là Tỳ
kheo và từ rày về sau đừng cho những người thuộc cấp hạ tiện (theo quan niệm
của ông và những người trong hai giai cấp trên) xuất gia.
Vừa đến tam quan Tịnh xá Kỳ Hoàn, thấy một vị Tỳ kheo đang ngồi trên một hòn đá
lớn khâu vá chiếc áo cũ, Ba Tư Nặc vương liền đến nhờ vị Tỳ kheo ấy vào bạch
Phật xin cho ông yết kiến. Nhận lời, vị Tỳ kheo liền xuyên qua hòn đá và ẩn
mình đâu mất, làm cho Ba Tư Nặc vương và các cận thần hoảng sợ nhưng vô cùng
khâm phục!
Một lát sau, cũng từ hòn đá ấy hiện ra, vị Tỳ kheo khi nãy trả lời cho Ba Tư
Nặc vượng:
- Ðại vương cứ vào, Ðức Thế Tôn đã hứa cho.
Ba Tư Nặc vương bái chào rồi đi ngay vào tịnh xá.
Ðảnh lễ Ðức Phật xong, Ba Tư Nặc vương liền hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Thầy Tỳ kheo vừa xin cho con vào yết kiến là ai và tên là gì mà
có thần thông quảng đại như vậy? Thầy đã xuyên qua đá cứng một cách nhẹ nhàng,
tự tại...
- Ðại vương! Ấy là Ni Ðề, người gánh phân ở thành Xá Vệ mà ta đã độ cách đây
hơn một tháng, nay đã chứng quả A La Hán nên đã có những thần lực như vậy.
Thấy Ba Tư Nặc vương im lặng và ra chiều suy nghĩ, Ðức Phật ôn tồn nói thêm:
- Này Ðại vưng! Trong đất bùn nhơ nhớp nở lên những cánh sen đầy hương thơm
tinh khiết. Ðại vương có thích và có ưa hái khống?
- Bạch Thế Tôn! nếu là hoa đẹp hương thơm thì không ai không quý và không muốn
hái để ngắm nghía và trang hoàng cả.
- Ðại vương! Cũng vậy tuy là người ở trong các giai cấp dưới (ấy là do con
người phân chia), nhưng nhờ sự trau dồi đức hạnh, rèn luyện trí tuệ mà trở
thành Thánh Hiền thì người trí tuệ có nên cung kính cúng dường không?
- Bạch Thế Tôn! Ðã là Thánh Hiền thì rất đáng cho phàm phu chúng con cung kính
cúng dường lắm!
- Lành thay! Ðại vương quả là người sáng suốt biết quý trọng "giá trị chân
thật" của con người.
Mặt trời làm tan mây mù ra sao thì những lời của Ðức Phật cũng làm tan những ý
niệm khinh rẻ chán ghét Ni Ðề và các người trong hai giai cấp dưới của Ba Tư
Nặc vương thế ấy... Bắt đầu từ đó ông vô cùng kính phục tài năng và đức hạnh
của Ni Ðề, vị Tỳ kheo mà ông đã gặp ở tam quan.
Ba Tư Nặc vương lại xin Phật cho thỉnh A La Hán Ni Ðề ngày mai vào nội thành để
giáo hóa cho hoàng tộc và nhân dân và cũng để ông cúng dường luôn thể. Phật hứa
cho, Ba Tư Nặc và các vị cận thần đảnh lễ và trở ra tam quan để trực tiếp cung
thỉnh vị A La Hán thần thông tự tại khi nãy.
Ðược vị A La Hán này chấp nhận, Ba Tư Nặc vương vô cùng sung sướng. Trên đường
về ông không ngớt tán thán Ðức Phật, đấng hiện thân của bình đẳng và Giáo Hội
của Ngài là một đoàn thể đầy đủ tài năng và đức độ.
Vua A Dục Trở Về Với Phật Giáo
Lúc Ðức Phật còn tại thế, Ngài đã đem Chánh pháp phú chúc cho các vị quốc vương
và đại thần, để sự truyền bá Phật pháp mau phổ biến.
Từ ngày Ðức Phật diệt độ, nếu quan sát trong lịch sử Phật giáo, thì thấy có hai
vị quốc vương thật hết lòng lo hộ trì Phật pháp. Tại xứ Ấn Ðộ, thì có vua A
Dục. Ở Trung Hoa thì có đến mười ông vua có nhiệt tâm với đạo, nhưng chỉ có ông
Lương Võ Ðế hết lòng vì đạo hơn cả.
Nay xin thuật sơ lịch sử của vua A Dục:
Nguyên vua A Dục là dòng dõi của A Xà Thế vương, thân phụ của Ngài tên là Tần
Ðầu Sa, thân mẫu thuộc phái Bà La Môn.
Khi Ngài còn nhỏ thì thân thể rất thô kịch xấu xa, nên vua cha chẳng thương
yêu. Ðến lúc Ngài thành nhân, thì oai võng hơn người và võ nghệ xuất chúng.
Sau nhân có việc nội loạn tại thành Hưu Thị La, vua cha mới sai Ngài đi chinh
phục. Khi đâu đó được bình yên, vua cha thấy Ngài có công lao nên phong làm
Thái tử.
Cách ít lâu, vua Tần Ðầu Sa thăng hà, thì Ngài kế vị, song tánh rất bạo tàn vô
đạo, đến nổi giết hết mất trăm người tôi đại thần và kẻ thân thuộc.
Mùa xuân năm ấy... trăm hoa đua nở, cảnh vật vui tươi, Ngài mới dẫn bọn cung nữ
đi dạo khắp vườn hoa mà thưởng ngoạn. Khi ra ngắm cảnh vườn xuân, bọn cung nữ
chỉ lo chơi giỡn và trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, chớ chẳng quây quần
bên Ngài như lúc ở tại nội điện. Vua nổi giận, truyền bắt giết tất cả, rồi tức
thì trở về cung, chứ không đi thưởng ngoạn nữa. Lúc ấy, toàn dân trong nước đều
ta thán cho Ngài là một ông vua đại gian ác.
Ðã vậy mà Ngài còn lập ra một chỗ gọi là: "Ðịa ngục ở trần gian", đặt
tên là vườn "Ái lạc" ngoài thì sắp đặt cực kỳ tốt đẹp, nào là ao sen
non bộ, cỏ quý hoa thơm, cũng như công viên, để cho nhân dân mặc tình đến đó mà
thưởng thức giải trí...
Nhưng trong, thì có non đao rừng kiếm, lò lửa vạt dầu, và đủ các món khí cụ để
hành hình người một cách ghê gớm.
Hễ người nào vào trong vườn Ái lạc đó, thì ngục tốt bắt giam, rồi cứ hành hình.
Còn những thế nữ ở trong cung mà cãi cọ xung đột với nhau, thì bắt đem vào cho
chủ ngục phân xử. Thiệt là một cái thảm trạng thống khổ của nhân gian không kể
xiết. Khi ấy có một vị Tỳ kheo, nhân đi khất thực nơi thành Hoa Thị, vì chẳng
thông thuộc đường xá nên lạc vào vườn "Ái lạc", nhìn thấy cảnh tượng
bên ngoài thì tốt đẹp lạ lùng, còn phía trong quả là một chốn địa ngục.
Thầy Tỳ khoe hoảng kinh, toan kiếm đường trở ra, ai ngờ bị ngục tốt đón bắt
lại. Thầy hết sức yêu cầu mà bọn ấy không dung thứ, nên thầy bèn khóc òa.
Chủ ngục thấy vậy liền hỏi: Thầy là người tu hành, sao mà sợ chết đến đỗi khóc
như con nít vậy?
Thầy Tỳ kheo đáp:
- Tôi chẳng phải sợ chết mà khóc, vì sợ mất sự lợi ích cả một đời người của
tôi, nên mới ai bi như thế?
- Sự lợi ích làm sao, Thầy bày tỏ cho tôi nghe thử?
- Số là tôi mới xuất gia, chưa chứng đặng đạo quả. Tôi nghỉ lại thân người khó
đặng, Phật pháp khó gặp, nay rủi sa vào chỗ ác địa này, thế nào cũng phải hủy
mạng, thì còn đâu mà tu học nữa nên tôi mới khóc, chứ tôi đâu có sợ chết.
Thấy Tỳ kheo nói rồi, mới khẩn cầu với chủ ngục xin dung thứ cho Thầy sống sót
trong bảy ngày, rồi sẽ hành hình chẳng muộn.
Chủ ngục thấy người tu, thì cũng động tâm, nên y theo lời của Thầy xin mà đình
lại bảy ngày mới toan hạ thủ.
Ngày đầu, thầy Tỳ kheo nhìn thấy cách hành phạt rất độc ác, nào là người phụ nữ
thân hình tốt đẹp mà bị bỏ vào cối quết người thì xương tan thịt nát, xem rất
ghê sợ; nào là bọn ca nhi nhan sắc tuyệt vời mà cũng bị quăng vào lò lửa, đứa
thì rút tay co cổ, đứa thì hả miệng nhăn răng.
Thầy Tỳ kheo thấy cảnh tượng ấy thì sanh lòng nhàm chán, mới nhớ lời Phật dạy
rằng: "Sắc lịch dịu dàng dường như bọt nhóm, dung y đẹp đẽ mà đâu còn
hoài". Nhờ chỗ dẫn chứng lời của Phật dạy đó mà Thầy tỏ ngộ, dứt hết các
đều tạp nhiễm, liền chứng đặng quả A La Há.
Ðến ngày thứ tám, ngục tốt bèn bắt Thầy đem bỏ vào chảo dầu, rồi chất củi mà
đốt. Song khi lửa hạ và củi thành tro mà dầu trong chảo vẫn tự nhiên không
nóng.
Chủ ngục thấy vậy nổi giận, đánh đập bọn ngục tốt, rồi hối đem củi cho nhiều và
chụm thêm vào mãi mãi, nhưng đến khi xem lại trong chảo dầu thì thấy Thần Tỳ
kheo ngồi kiết già trên hoa sen, xem bộ tự nhiên chẳng hề lay động chút nào cả.
Chủ ngục hoảng kinh, lật đật đến tâu tự sự cho vua A Dục rõ.
Vua tánh nóng như lửa, khi nghe tin ấy liền tức tốc đi thẳng đến vườn Ái lạc.
Vua vào đến nơi, thì thấy Thầy Tỳ kheo hiện thân lên hư không, biên đủ 18 phép
thần thông, trên mình thì nước tràn lênh láng, phía dưới thì lửa cháy rần rần,
thí như một hòn núi lớn ở giữa không gian vậy.
Vua A Dục đứng nhìn sửng sốt một hồi, rồi tự nghĩ: "Mình với Thầy Tỳ kheo
này cũng đồng là loài người, cớ sao Thầy lại đặng phép thần thông tự tại như
thế, còn mình thì lo việc sát hại nhân dân, làm việc đại ác!".
Vua nghĩ như thế nên vội vàng quỳ xuống bạch với vị Tỳ kheo ấy rằng: "Ngửa
mong Thánh giả chiếu cố đến tôi, xin hạ xuống nơi đây, tôi nguyện từ rày về sau
bỏ dữ làm lành mà quy với Ngài".
Thầy Tỳ kheo đáp:
- "Hay thay! Hay thay! Nay đại vương đã tự hối mà quy đầu Tam bảo, thì sẽ
đặng phước đức vô cùng và hân hạnh cho dân chúng biết bao".
Thầy Tỳ kheo nói xong, liền dùng thần lực của mình mà trở về tịnh xá.
Khi vua A Dục đã quy y theo Phật rồi, thì trong lòng hân hoan vô cùng, định sửa
soạn trở về cung. Bỗng người chủ ngục đến tâu: "Khi Ðại vương lập ra cảnh
"Nhân gian địa ngục" này, có ra lệnh hễ ai vào đây thì không cho ra.
Tôi đã thọ mạng rồi, nên không dám cãi. Còn Ðại vương là bực thiên tử cũng phải
nhất ngôn mới được".
Nghe chủ ngục nói như thế, vua A Dục mới hỏi: "Cứ theo lời của nhà ngươi
nói đó, thì bây giờ nhà ngươi muốn giết ta hay sao?".
Chủ ngục đáp: "Quả như lời của Ðại Vương đó, thì mới đúng với quân
lệnh".
Vua A Dục liền hỏi lại chủ ngục: "Vậy khi ban sơ tạo vườn Ái lạc này, nhà
ngươi với quả nhân ai vào đây trước?".
Chủ ngục thưa: "Tâu Ðại vương! Tôi vào đây trước".
Vua nghe đáp như vậy, tức thì truyền cho ngục tốt áp lại bắt chủ ngục bỏ vào
chảo dầu, đồng thời ra lệnh phóng hỏa đốt hết cả vườn Ái lạc.
Từ đấy về sau, vua bỏ hẳn các điều dữ mà làm những việc lành, và tâm tánh hết
sức từ bi nên kẻ thời nhơn đồng ca tụng là Ðạt Ma A Dục Vương (ông vua hiền
lành).
Sau lại nhờ đức Ưu Ba Cúc Ða (Tổ thứ tư) giáo hóa thêm, nên vua càng tín ngưỡng
Phật pháp hơn nữa, chính vua đã phái 256 vị Cao tăng đi khắp trong xứ để truyền
bá Phật giáo...
Con Chó Đói
Thuở Ðức Phật còn tại thế, có một ông vua rất hung ác, nghe Phật đến thuyết
pháp trong nước mình, ông liền ngự giá đến chỗ Phật ở và xin Ngài kể một câu chuyện
gì đã vui lại hữu ích nữa.
Ðức Phật liền kể chuyện con "Con Chó Ðói" như sau:
"Thuở xưa, có một vị quốc vương rất bạo ngược, hà khắc với dân lành, nhân
dân đều oán trách. Ông Ðế Thích thấy vậy liền hiện xuống trần dắt theo một con
quỷ rất dữ. Ông Ðế Thích hóa mình thành một người thợ săn, còn con quỉ thì biến
thành một con chó cao lớn.
Người thợ săn dẫn con chó vào cung của vị quốc vương để yết kiến. Bỗng con chó
vùng tru lên dữ dộI, làm cho lâu đài cung điện đều rung rinh... Vị quốc vương
thất kinh, liền đòi người thợ săn đến trước ngai vàng mà hỏi rằng:
- "Gã kia, vì cớ gì mà con chó tru lên dữ vậy?".
Người thợ săn thưa:
- Tâu Bệ hạ, vì đói nên nó tru.
Vị quốc vương liền ra lệnh đem cơm cho chó ăn. Nhưng một điều không ngờ là đem
bao nhiêu thì con chó ăn hết bấy nhiêu, tất cả thực vật trong kho đã hết sạch
mà nó vẫn chưa no, nên nó càng tru lên dữ dội hơn nữa, mà ác hại thay, mỗi lần
nó tru thì cung điện đền đài của quốc vương lung lay hình như muốn sụp đổ...
Vị quốc vương không biết tính thế nào, mới hỏi người thợ săn:
- Lấy cái gì cho nó ăn để nó nín?
Người thợ săn đáp:
- Tâu Bệ hạ, lấy thịt của người nó ghét cho nó ăn nó hết tru.
Quốc vương hỏi:
- Nó ghét kẻ nào?
Người thợ săn tâu:
- Nó ghét những kẻ bất công hãm hại dân nghèo. Ngày nào trong nước không có dân
đói khó nữa, ngày đó nó mới nín...
Vị quốc vương liền nhớ tới những việc ác của mình làm thì hết sức hối hận, từ
đó mới ăn năn chừa cải, chịu nghe những lời công bình chánh trực".
Ðức Phật kể dứt câu chuyện này thì mặt vua tái ngắt.
Ðức Phật dịu dàng dặn với nhà vua rằng: "Ngày nào bệ hạ nghe tiếng chó tru
thì bệ hạ hãy nhớ đến câu chuyện ta kể. Bệ hạ có thể làm cho con chó nín
được".
Công Chúa
Nhật Quang
Sướng gì hơn sướng làm lành
Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu
Công chúa Nhật Quang là con thứ hai của vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ.
Công chúa rất đẹp, một vẻ đẹp thùy mị hơn hẳn các thiếu nữ đương thời ở nước Xá
Vệ; Công chúa lại rất thông minh học đâu nhớ đấy. Không những công chúa sắc sảo
về môn nữ công mà còn tinh thông các triết lý học thuật; đức hạnh công chúa
cũng quán chúng, tuy sanh trong giai cấp vua chúa cao sang, nhưng vẫn giữ thái
độ khiêm tốn nhã nhặn, nhất là đối với hạng nghèo khổ tật nguyền, công chúa
thành thật yêu mến và luôn luôn tìm cách giúp đỡ. Vì thế nên công chúa được rất
nhiều người kính trọng. Người nào đã hân hạnh gặp công chúa một lần, họ sẽ nhớ
mãi nụ cười hiền hòa và lời nói thanh tao của công chúa. Ðối với cha mẹ, công
chúa thật là người con hiếu hạnh, nàng hầu hạ vua và hoàng hậu hết sức chu đáo,
và không bao giờ nói một lời hay làm một việc trái ý vua và hoàng hậu.
Ba Tư Nặc vương được một người con xứng đáng như vậy, vua rất cưng quý, có thể
nói công chúa Nhật Quang là viên ngọc vô giá của vua nước Xá Vệ. Những cuộc
quan sơn ngoạn thủy của vua, công chúa đều được tham dự, mỗi khi quốc sự rảnh
rang, nhà vua thường đòi công chúa đến hầu chuyện, hỏi những vấn đề thắc mắc
công chúa đều trả lời trôi chảy, nhà vua rất đẹp dạ.
Một buổi chiều nhà vua đang dùng trà tại vườn ngự uyển, có công chúa đứng bên
cạnh, nhà vua nhìn con rồi vui miệng phán rằng: "Khắp nước Xá Vệ này không
ai được hạnh phúc bằng con, đời con được như thế thật là hoàn toàn nhờ sức của
cha mẹ tác thành vậy".
Công chúa Nhật Quang thành thật trả lời: "Tâu phụ vương, công ơn sanh
dưỡng của Phụ hoàng và Mẫu hậu như trời bể con không hề dám quên. Nhưng đời con
được hạnh phúc như thế này, con thiết tưởng cũng có ảnh hưởng của cha mẹ một
phần nào, nhưng phần lớn nhờ kiếp trước con đã tu nhân tích đức nhiều
vậy".
Câu nói của công chúa không ngờ đã chạm lòng tự ái của vua Ba Tư Nặc quá mạnh,
vua liền đứng dậy, lặng lẽ trở vào cung.
Ðêm hôm ấy, nhà vua không hề chợp mắt, suy nghĩ mãi lời nói của công chúa, và
vua rất bực tức, đứa con yêu và ngoan ngoãn của mình chưa bao giờ trái ý mình
dù là một cử chỉ nhỏ nhặt, hôm nay lại xúc phạm đến lòng tự ái của mình, có thể
nói là không thừa nhận một lý thuyết (nghĩa là hạnh phúc của con hoàn toàn do
cha mẹ tác thành) mà ông cho là muôn đời bất biến và ai cũng phải công nhận.
Muốn bảo thủ thành kiến của mình, nên mới sáng tinh sương, Ba Tư Nặc vương liền
đòi viên cận thần thân tín bảo rằng: ta cần một thanh niên trạc tuổi công chúa
Nhật Quang mà hiện sống trong một cảnh nghèo hèn, cơm không có ăn, áo không đủ
mặc, ngươi phải tìm cho ra một người có đủ điều kiện ấy, dẫn về đây cho ta.
Ba ngày sau, viên cận thần dẫn về một thanh niên hành khất, mặt mũi khôi ngô,
nhưng trong người chỉ mặc vỏn vẹn một chiếc khố rách đến yết kiến vua Ba Tư
Nặc. Vua rất mừng ban thưởng viên cận thần xong, quay lại hỏi thân thế thanh
niên hành khất rồi bảo rằng: Ta thấy ngươi nghèo khổ, chưa có gia thất, nay ta
đem công chúa Nhật Quang gả cho ngươi, ngươi được quyền dẫn công chúa đi đâu
tùy ngươi.
Thanh niên nghèo khổ kia không biết trả lời ra sao chỉ cúi đầu vâng lệnh.
Vua lại kêu công chúa Nhật Quang đến phán rằng: hôm kia con đã nói: "Hạnh
phúc của con hiện tại phần lớn là do con đã tu nhân tích đức ngày trước. Nay ta
muốn thí nghiệm lời ấy, nên ta đã gả con cho một thanh niên hành khất, nếu con
có phước báo thì con cũng trở nên giàu có sung sướng. Con hãy sửa soạn ngày mai
lên đường với chồng con, khi nào có chiếu chỉ mới được trở về cung".
Với nét mặt đầy nghiêm nghị của Vua Ba Tư Nặc vương, công chúa không dám nói
gì, chỉ yên lặng trở về hậu cung.
Sáng ngày công chúa vào lạy cha mẹ, từ biệt mọi người, rồi bình tĩnh ra đi với
thanh niên hành khất.
Hoàng hậu và thần dân đều thương xót và khóc lóc, lo ngại cho số phận công
chúa, nhưng ý vua đã quyết nào ai dám mở lời khuyên can!
Ra khỏi hoàng cung, công chúa hỏi thanh niên hành khất rằng: Cha mẹ chàng đâu?
Nhà cửa chàng đâu? Vì sao chàng lại nghèo khổ đến thế?
Thanh niên buồn rầu đáp: "Gia đình tôi trước cũng giàu có, vì được cha mẹ
cưng quý, tôi tiêu xài hoang phí, ham chơi bời với chúng bạn, có học tập nhưng
không đâu đạt gì, đến khi cha mẹ qua đời, tôi bán hết ruộng đất nhà cửa, hiện
nay chỉ còn một sở vườn cách đây ba trăm dặm cỏ lác mọc đầy, cho người ta mướn
họ không mướn, bán họ không thèm mua, hết của cải, không nghề nghiệp không biết
nghề gì nuôi thân, nên phải hành khất độ nhật. Hôm nay tôi đang lang thang giữa
đường, thì gặp một vị quan của vua, ông ta hỏi cặn kẽ về gia thế tôi, rồi ông
dẫn tôi yết kiến nhà vua, không biết gì sao nhà vua lại đem công chúa gã cho
một kẻ nghèo hèn như tôi?".
Vẫn nét mặt ôn hòa công chúa nói với thanh niên hành khất rằng: "Dù sao từ
nay chúng ta cũng đã là vợ chồng, chúng ta phải tìm phương kế làm ăn và trước
hết phải tìm nơi tạm trú"
Không biết tìm chỗ nào khác, nên công chúa và thanh niên hành khất liền dẫn
nhau đến sở vườn của cha mẹ thanh niên để lại - thật là một mảnh vườn hoang
phế, cỏ lác um tùm sỏi đá lởm chởm. Hai người bàn định cắt cỏ đốn cây che một
chiếc chòi nhỏ vừa tạm ở, những người quanh đấy có người biết công chúa Nhật
Quang nên cùng nhau đến giúp đỡ công việc cho công chúa. Ðến khi đào đất để
dựng cột nhà, vừa đào được vài lát đất thì gặp ngay ba cái chum lớn niêm khằn
cẩn thận. Công chúa liền mở chum ra thì thấy trong ba cái chum ấy, vô số là
vàng bạc châu báu, công chúa vui mừng sung sướng đem bán bớt một số châu báu
rồ9 mướn ngườ9 dọn dẹp cỏ rác, trồng tỉa hoa quả, tạo lập lâu đài... Vốn sẵn
tánh hiền lành lạ9 sẵn lòng yêu thương giúp đỡ mọi người, nên thợ thuyền tôi tớ
rất trung thành tận tụy, không bao lâu đám vườn hoang phế kia đã biến thành một
vườn hoa trăm sắc muôn màu; lâu đài trang hoàng lộng lẫy, người vô kẻ ra tấp
nập không khác dinh thự của bậc đế vương.
Từ khi công chúa rời khỏi cung điện, vua Ba Tư Nặc sanh lòng hối hận đêm ngày
trông nhớ, nhà vua đinh ninh rằng: Công chúa lâu nay chắc gặp nhiều khổ sở và
định đón công chúa trở về cung để an hưởng cảnh đoàn viên phú quý. Nhà vua liền
phái một số cận thần tìm nơi công chúa ở và dò xem đời sống của công chúa ra
sao?
Sau một thời gian dò xét, các cận thần về tâu với nhà vua: "Công chúa ở
cách xa cung điện nhà vua chừng ba trăm dặm và hiện đang ở trong cảnh phong lưu
sung sướng giàu có ức triệu". Vua Ba Tư Nặc không tin, liền đến nơi dò xét
quả đúng như lời các cận thần. Nhà vua nói với kẻ tả hữu rằng: "Trẫm thấy
đời sống của vợ chồng công chúa Nhật Quang hiện tại, tuy trẫm là vua một nước,
thật cũng không sung sướng bằng".
Nhưng vua cũng băn khoăn thắc mắc không biết tiền kiếp công chúa đã tu những
nhân lành gì mà nay được nhiều phước báo như vậy.
Vốn nghe Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc đại giác, nên vua thân hành đến Tịnh
xá nơi Phật thuyết pháp, cung kính bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Nghe danh Ngài là
bậc đại giác chứng nhất thế trí, hiểu thấu việc trong ba đời, nay đệ tử có điều
nghi xin Ngài chỉ dạy: "Nhật Quang công chúa thứ hai của đệ tử, không biết
đời trước tạo nhân lành gì, mà ngày nay tướng mạo đẹp đẽ, thông minh xuất
chúng, giàu có sang trọng... Ðệ tử đã gả công chúa cho một kẻ hành khất nghèo
hèn thế mà công chúa cũng đào được vàng bạc rồi trở nên sang trọng hơn người.
Ðệ tử cứ thắc mắc mãi mong Ngài từ bi khai thị cho đệ tử rõ?"
Ðức Phật Thích Ca nở nụ cười hiền hòa muôn thuở thong thả dạy rằng: "Nghi
vấn Ðại vương sẽ được tiêu tan sau khi nghe câu chuyện này:
- Nầy Ðại vương! Xưa kia khi Ðức Phật Ca Diếp ra đời, có hai vợ chồng người lái
buôn giàu có, người vợ rất tôn kính Tam bảo, thường khuyến khích mọi người bỏ
việc ác làm lành, quy y Tam bảo, lại hay làm việc bố thí cúng dường, nhất là
đối với kẻ tàn tật, nàng hết sức thương mến và tận tâm chăm sóc. Người chồng
lại có tánh bỏn sẻn, mỗi khi thấy vợ làm việc cúng dường bố thí, thì tỏ ra thái
độ bất bằng, tìm cách ngăn cản.
Một hôm gặp ngày nguyên đán, người vợ thành tâm sắm sửa lễ vật để cúng dường
Tam bảo và bố thí kẻ nghèo trong ba ngày, người chồng thấy vậy bực tức nói
rằng: "Hãy để dành tiền của lại sắm sửa thêm nhà cửa ruộng đất, chứ làm
những việc ấy thêm hao tốn, phỏng có ích gì!". Người vợ dịu dàng trả lời:
"Của cải là vật vô thường ta không bỏ nó, rồi nó sẽ bỏ ta; hơn nữa những
kẻ nghèo khổ hiện tại, theo trong kinh Phật dạy, đều do đời trước tham lam ích
kỷ, không biết dùng tiền của làm các việc phước thiện; ngày nay đời sống của vợ
chồng chúng ta tạm gọi là khá giả, chúng ta nên dùng một số tiền làm các việc
phước thiện để bảo tồn hạnh phục tương lai cho chúng ta, và cũng gọi là góp một
phần trong công việc nghĩa chung vậy".
Nghe mấy lời giải thích của vợ, người lái buôn mới tỉnh ngộ và cảm động, từ đó
anh không ngăn cản vợ mà lại rất hăng hái trong công việc làm phước đức...
Này Ðại vương! Vợ người lái buôn xưa kia chính là công chúa Nhật Quang ngày
nay, đời trước nàng thường khuyến khích mọi người bỏ ác làm lành, quy y Tam
bảo, nên được quả báo thông minh xuất chúng; đời trước sốt sắng cúng dường bố
thí, nên nay được quả báo sung sướng giàu sang, nhiều người mến phục; đời trước
tận tâm săn sóc giúp đỡ kẻ tàn tật, ngày nay được quả báo nhan sắc đẹp đẽ,
tướng mạo đoan trang.
Người lái buôn xưa kia chính là chồng công chúa hiện tại, ngày trước lúc chưa
tỉnh ngộ, anh ta bỏn sẻn hay ngăn cản việc làm phước thiện của vợ, nên ngày nay
phải chịu đói rách một thời.
Vua Ba Tư Nặc nghe Phật kể rõ tiền kiếp của công chúa Nhật Quang, nhà vua mới
tỉnh ngộ, và rất thâm cảm đạo lý nhân quả tội phước của Phật. Rồi vua cúi đầu
đảnh lễ Ðức Phật ra về.
Về đến cung, công việc đầu tiên của vua là cho người đón rước vợ chồng công
chúa Nhật Quang về. Gặp công chúa, vua Ba Tư Nặc khôn xiết vui mừng, vua không
quên nói nhiều lời hối hận, với công chúa Nhật Quang cũng rất sung sướng được
gần gũi phụng sự cha mẹ, và giúp vua cha trong việc trau dồi đạo đức, bảo quốc
an dân. Thanh niên hành khất chồng công chúa, cũng được vua phong cho một chức
quan cao cấp trong triền đình.
Đức Phật
Với Con Voi Dữ
Thời kỳ Phật hành đạo tại thành Vương Xá, kinh đô của Vua A Xà Thế, vua A Xà
Thế rất tham lam hung bạo, đã sát hại vua cha để dành ngôi báu. A Xà Thế lại
hay thù ghét và manh tâm làm hại những kẻ trung lương nên thường lập vây cánh
bè đảng làm hậu thuẫn.
Trong số bè cánh nhà vua lại có Ðề Bà Ðạt Ða em họ Ðức Phật. Vị này cũng sẳn
lòng ganh tỵ với kẻ khác, thấy Ðức Phật được nhiều người cung kính, Ðề Bà Ðạt
Ða cũng giả cách tu hành như Phật, nhưng không hề được ai cung kính, nên tức giận
muốn tìm cách hại Phật. Nhưng những điều không may có bao giờ đến với những
người có lòng từ bi cao cả, đấng Giác ngộ đã tu hành trong nhiều kiếp. Nhưng
chứng nào tật nấy, ông liền liên kết với vua A Xà Thế cầu xin nhà vua cộng tác
trong việc sát hại Phật. Nhờ sự bằng lòng của nhà vua, nên Ðề Bà Ðạt Ða đến tại
sở nuôi voi năn nỉ với bọn nài: "Ta đây là bạn thân với nhà vua, các người
giúp ta việc này, ta sẽ xin nhà vua cho lương cao chức lớn. - Sáng mai thầy
Gotama (Ðức Phật) sẽ đi trì bình khất thực qua đây, các ngươi cứ việc thả voi
hung dử Nalagiri ra để làm thịt thầy".
Sáng hôm sau, Ðức Phật cùng một số đệ tử đi vào thành Vương Xá để trì bình khất
thực, trông thấy bóng Ngài, bọn nài thả voi Nalagiri ra. Dân chúng nội thành
phải tán loạn, dày xéo nhau mà chạy, lo sợ cho tánh mạng của mình, kẻ leo lên
cây người núp ở tường cao nhà kín. Sau khi đã tìm được chỗ ẩn núp chắc chắn,
những con mắt hiếu kỳ hay lo sợ cũng cố tình mắt để nhìn cho được sự việc sắp
xảy đến.
Voi thấy bóng người đàng trước, nó cong đuôi, thẳng vòi chống tai xông tới như
vũ bão. Các vị đệ tử thấy cơ nguy mới bạch với Ðức Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con voi Nalagiri nó có tánh hung dữ và thù ghét loài người đã
đến nơi kìa! Ðức Phật vẫn thản nhiên dạy rằng:
- Này các Tỳ kheo, các người không nên sợ hãi. Không bao giờ một vị Chánh Giác
phải chết vì một tai nạn ghê gớm như thế. Những đấng Như Lai chỉ tịch diệt khi
thì giờ đã đến bằng cái chết tự nhiên và vẫn sống mãi trong tâm linh mọi người.
Trong khi ấy có tiếng bàn tán nhỏ to của mọi người đang ẩn núp. Những kẻ thiếu
đức tin, u mê cho rằng: đó là một sự hy sinh vô lý, nên thốt ra những câu đầy
mỉa mai:
- Chà, uổng quá, vị Sa môn kia trẻ đẹp như thế mà lại hy sinh cho con voi hung
dữ giết hại thì thiệt là một việc dại khờ.
Nhưng nhóm người có đủ đức tin hơn là hiểu biết chân lý đôi chút thì cho rằng:
đó là một cuộc thử thách, sự tranh đấu giữa loài vật với vị Từ phụ của loài
người.
Voi hung hăng đã phóng tới trước mặt Ðức Phật, mọi người phập phồng lo sợ.
Nhưng Ngài vẫn điềm nhiên đem tất cả lòng Từ bi vô lượng để đối lại với sự hung
dữ của con voi. Voi như bị một sức thôi miên huyền bí, từ từ hạ vòi và quỳ ngay
trước mặt Ngài.
Ðức Phật dịu dàng thoa vào đầu quy y cho voi và nói:
- Này voi ơi! Ngươi nên ăn ở hiền lành để đạt đến an vui chớ nên hung hăng như
trước nữa.
Voi như hiểu được lời Ngài, từ từ lấy vòi hút tất cả bụi đã bám vào châm Ngài
và rải lên khắp đầu nó như để chứng tỏ nó đã biến ăn năn và xin phục thiện.
Ðoạn cúi đầu đảnh lễ
Ngài rồi trở về
chuồng cũ.
Từ đó về sau voi Nalagiri trở nên hiền lành dễ thương. Và đó cũng là một trong
những nguyên nhân làm cho Ðề Bà Ðạt Ða biết hối hận! Vua A Xà Thế biết trở về
với Chánh Pháp.
Năm Giọt
Mật
Ngày xưa có một tên tử tù vừa vượt thoát khỏi lao ngục, chạy bán sống bán chết.
Ðàng sau hắn, hai con voi say đang đuổi theo, do sự tổ chức truy nã của nhà cầm
quyền.
Trong cơn hốt hoảng, chẳng may hắn ta rơi tõm xuống một cái giếng sâu ở dọc
đường.
Nhưng trong cái rủi ro cũng còn được chút may mắn: Khi thân mình chưa rơi tới
đáy, không biết quờ quạng vùng vẫy như thế nào mà hắn ta níu được một cái rễ
cây mọc thòng xuống giếng.
Hú vía ! qua giờ phút nguy ngập ấy, hắn tưởng chừng như đã yên thân: hai con
voi sẽ chẳng biết mình ở đâu mà tìm. Nhưng ý nghĩ ấy thoạt biến mất theo hơi
thở: hai con voi say đã đến bên miệng giếng, gầm rống vang động, hút phăng tất
cả những cây cỏ mọc trên miệng giếng như để thị uy.
Nếu hắn mà lên thì phải chết!
Hắn hốt hoảng quá. Nếu sợi dây đang đeo mà đứt thì thật là chắc chết mười phần.
Hắn ta tính phăng tuột lần xuống đáy giếng để may ra có chút hy vọng nào không.
Nhưng bất đồ nhìn xuống đáy giếng sâu thẳm, hắn ta thấy ba con rồng đang múa
vuốt, giơ nanh, miệng phun lửa dữ, như muốn bay đến nuốt trửng hắn. Ðiếng hồn,
hắn đành phải cố bám chặt sợ dây, đeo lủng lẳng giữa chừng. Nhưng có phải được
vậy là yên thân đâu? Ác nghiệt làm sao, kề trên miệng giếng, hai con chuột cống
xù, một đen một trắng, đang đua nhau ráp cắn sợi dây. Ác nghiệt hơn nữa là bao
quanh thành giếng, theo những lỗ trũng gần hắn nhất, bốn con rắn độc bây giờ
xuất hiện, ngóc đầu, thè lưỡi toan mổ
Những biến cố dồn dập xẩy tới tấp làm cho hắn ta hết phương trốn tránh, ý nghĩ
liều mạng lại hiện đến: bề nào cũng không khỏi chết, thà leo ngược trở lên mặt
đất, rồi bỏ chạy, dù có chết cũng còn thây. Thế là hắn ráng phăng lần leo ngược
trở lên. Khốn khổ quá, phần lo sợ, phần đuối sức, bồ hôi bồ kê ướt dầm. Miệng
khô cổ cháy, hắn ngước mặt lên trời mà than rằng: "Trời sao nỡ hành hạ ta
đến nông nỗi này".
Càng mệt, càng thở, hơi thở càng lúc càng ngắn dần; thở bằng mũi không kịp, hắn
phải há miệng để thở phụ, trong giờ phút mạng cùng tuyệt vọng ấy, bỗng một bầy
ong mật bay ngang qua làm rơi vào miệng hắn 5 giọt mật... Hắn ta chíp ngay,
chắp chắp thấy ngon ngon... mê tít... và trong giây phút, quên mất bao nhiêu sự
nguy nan đang bao vây hắn...[1]
Người ta có thể quên bẳng đi được tất cả bao nhiêu khổ sở, đau đớn, khi người
ta nhận được chút ít an ủi bằng Danh lợi, Tiền tài, Sắc đẹp, Tiếng khen, Ăn ngon,
Ngủ kỹ.
Chỉ vì năm giọt mật "Ngũ dục" không đáng giá trong lòng lúc dục vọng
đang khao khát trông chờ, mà người trong giếng có thể quên đi được bao nhiêu sự
nguy hiểm đang bao bọc quanh mình; loài người vì năm món dục lạc mà quên đi tất
cả những gì khổ não, tạm bợ, mạng sống không khác nào như chỉ mành treo chuông!
Nai Hiền
Ở hiền thì gặp lành,
Hễ ai làm dữ tan tành ra tro.
Ngày xưa...
Ngày xưa trong một khu rừng ven bờ sông Hằng Ðộ, xuất hiện một con Nai hiền.
Nai đẹp vô cùng, sừng màu trắng vươn cao như pha lê lóng lánh: da óng ánh vàng
như gấm đính thêm từng hành minh muôn màu. Cả thân hình Nai thanh tú ấy có thể
đã tập trung hết mọi vẻ đẹp của trần gian. Nhưng đôi mắt Nai buồn lắm thế? Có
cái chi u ẩn như thương cho cuộc sống mê lầm
Nai chính là hiện thân của một vị Bồ tát. Nai nghe và nói được tiếng người. Thú
trong rừng thương Nai, quay quần bên Nai như một bà mẹ hiền, theo lời Nai như
một bậc thầy sáng suốt. Nai đem tình thương hòa vào cuộc sống muôn loài, núi
rừng vì thế ít nhuộm màu hồng, con cháu trong rừng chỉ ăn cỏ cây.
Vốn biết thân mình là một miếng mồi thế nhân hằng ao ước, Nai chỉ ở trong rừng
sâu, không để cho loài người được thấy. Những đêm trăng sáng. Nai vui cùng muôn
thú cảnh thanh bình. Nhưng mà nếu cuộc đời chỉ là có thế thì còn đâu nước mắt
đầy vơi?
Có một sáng mùa thu, rừng vừa qua cơn mưa lớn. Nước sông Hằng chảy mạnh. Những
dòng suối nhỏ từ lâu vẫn hiền hòa róc rách giữa những triền đá trắng phau, hôm
nay mở rộng bờ hung hăng như trăng lớn phun nước vào dòng sông cả. Nai đủng
đỉnh xuống bờ sông uống nước.
Nhìn dòng nước cứ mãi tuôn đi, bọt trắng tóe tung trên mặt sông một màu xanh
biếc, Nai bỗng thấy lòng ngập tràn chua xót. Không biết bao giờ vạn vật mới
thôi quay cuồng trong bóng tối vô minh để trở về với thanh tịnh? Nai tử nhủ:
"Nếu cần thì thân này có tiếc chi?".
Bỗng một tiếng kêu cứu từ xa vọng lại:
- Ai cứu tôi với! Trời ơi, tôi sẽ chết mất giữa dòng sâu.
Tiếng kêu càng lúc càng rõ. Nai ngước mắt nhìn ra giữa dòng sông Hằng hung bạo:
Một người đang chới với trên một thanh củi mục. Có lẽ y đã chìm đò ở phía trên
kia và nhờ niú được thanh củi mục mà khỏi chết. Nhưng tình thế thì cũng đã ngặt
nghèo lắm. Y nổi lên chìm xuống, đôi tay co quắp một cách tuyệt vọng. Chắc sức
cũng đã yếu rồi. Tiếng kêu càng lúc càng khan, mất dần trong tiếng reo hát điên
cuồng của sóng nước. Nai biết giờ phút quyết định sự sống còn của người kia đã
đến. Không lẽ làm ngơ? Lòng Bồ tát bỗng dạt dào một tình thương cao cả. Ðau khổ
của người là đau khổ của mình, cứu người là tự cứu mình. Nhìn người quằn quại
ai thấy vui chi?
Nai lao nhanh xuống dòng nước lũ. Tình thương đã làm nên tất cả. Không quản
nhọc nhằn và nguy hiểm, Nai lướt qua sông lớn và cõng người kia lên bờ. Người
kia tỉnh lại, ngạc nhiên vô cùng khi biết một con Nai đẹp đã cứu mình thoát
nạn. Quá cảm động y quỳ xuống đội lên đầu công đức của Nai. Y nói:
- Hỡi vị Nai thần, tôi không biết làm sao để nói tất cả tấm lòng. Ngài đẹp lắm,
nhưng chính lòng vị tha của Ngài mới đẹp hơn cả. Kể từ nay, thân tôi là của
Ngài, tùy Ngài sử dụng
Nai hiền rưng rưng nước mắt. Quả thật không ngờ lại có người biết ơn đến thế.
Nai nói:
- Ông ơi, tôi tưởng sẽ không bao giờ tìm được một người tốt ở cõi thế sa đọa
này. Lòng biết ơn của ông đã làm cho tôi vô cùng sung sướng. Nhưng nói làm chi
đến chuyện trả ơn. Ông còn vợ con ở nhà, không nên nán lại đây lâu, chắc họ
đang nóng lòng chờ đợi. Nhưng ông đừng đem chuyện gặp tôi đây mà nói lại với
ai, họ sẽ không ngại gì mà đến tìm bắt tôi. Hãy sống vì đời, vì người. Là thú
rừng, tôi không biết nói lời gì đẹp đẽ hơn.
Người kia hứa chắc với Nai, xá tạ xong y lên đường về chốn cũ.
Lúc y về đến thành chính là lúc Hoàng hậu vừa chiêm bao thấy một con Nai vàng
kỳ dị. Bà thấy trên một ngôi báu cao sang có một con Nai hiện đang giảng pháp
bằng tiếng người. Mình Nai gắn đầy châu ngọc, da Nai óng ánh như những lớp gấm
đẹp nhất của đời. Hoàng hậu liền đem chuyện ấy thỏ thẻ với nhà vua.
Bà nói:
- Tâu Bệ hạ, thần thiếp nghĩ không còn vật chi quý giá hơn con Nai vàng trong
mộng ấy. Nếu vườn thượng uyển này mà có nó... trời ơi, Bệ hạ hãy tìm cách bắt
đi!
Vua tin ngay lời Hoàng hậu, ở đời đã có được mấy người đàn ông không nghe lời
vợ, không nghe lời thỏ thẻ của một người đàn bà, nhất là người đàn bà đẹp? Thế
là vua cho truyền khắp nước:
"Trong sử có chuyện một con Nai vàng mình đầy châu ngọc. Ðã nhiều người
thấy nó, nhưng không biết bây giờ ở đâu. Nếu ai bắt được, hay chỉ cho người
khác bắt, vua sẽ thưởng cho quyền cai trị một làng giàu có và vô số bạc
vàng".
"Quyền cai trị một làng giàu có và vô số bạc vàng". Ai mà không ham?
Người được Nai cứu lắng nghe cho rõ lời truyền rao của vua rồi bất giác y nhìn
xuống chiếc áo đã sờn, đôi hài há miệng: Y nghèo quá! Một tiếng thở báo trước
cơn giông tố của lòng. Y biết chắc chắn vợ con y đã hai hôm rồi nhịn đói. Ngay
những lúc có y ở nhà, nai lưng người ra đối lấy bát cơm, gia đình y vẫn không
lúc nào no đủ, huống hồ là y đã đi vắng những hai ngày.
Y nhắc lại lời truyền rao: "Nếu ai bắt được, hay chỉ cho người khác bắt,
vua sẽ thưởng cho quyền cai trị một làng giàu có và vô số bạc vàng". Có
thể như thế được không? Sung sướng giàu sang đến thế ư? Trong lòng con người
vừa thọ ơn bỗng nổ ra một trận chiến gay go giữa tham lam và đức hạnh. Ðức hạnh
như nói với y: "Anh có thể quên được công đức của Nai hiền sao? Nếu không
có Nai thì bây giờ có anh không? Cứ bội ước đi rồi không còn một kiếp nào anh
cất đầu lên được!". Nhưng tham lam nhỏ to than thỉ: "Hãy chỉ chỗ của
Nai đi! Anh sẽ được vinh hoa phú quí, vợ con anh sẽ được no đủ".
Lòng y thật như guồng chỉ rối. Y không biết nên theo đạo đức hay giàu sang,
trung thành hay phản bội. Con quỷ tham lam gớm guốc vẫn cứ kề bên than thỉ.
Cuối cùng, quỷ tham đã thắng. Một chút lương tâm còn nuối lại trong lòng, y tự
nhủ:
- Ta quyết chỉ chỗ Nai ở cho nhà vua. Kể ra thì cũng tàn nhẫn thật nhưng còn
dịp nào để được giàu sang. Bạc tiền và danh vọng trên hết!
Y cười lên sặc sụa, cái cười khoái trá của một con người sắp thỏa mãn. Nhưng y
có biết không, bắt nguồi từ cái cười ấy, gương mặt y từ hiền lành chất phát
bỗng trở thành gớm ghiếc lạ thường. Nếu soi gương, chắc y ngạc nhiên về sự đội
thay của mình lắm.
Y vào cung tâu vua biết chỗ ở của Nai hiền. Như mở nước cờ, vua ra lệnh đi săn
Nai ngay buổi chiều ấy, khu rừng bị quân lính nhà vua vây kín. Từng đàn chó dữ
ào ạt sủa cắn vang động cả một vùng. Chúng lục lội từng hóc núi, bụi lùm. Tiếng
kèn săn rền vọng lên như một lời kết tội.
Nai choàng dậy trong giấc ngủ. Sau cơn hoảng hốt ban đầu, Nai biết mình không
thể thoát khỏi tay người hung ác. Cũng vừa lúc ấy, vua và người được Nai cứu
đến kề bên.
Y đưa tay chỉ chỗ cho Vua:
- Ðó, Bệ hạ xem, con Nai vàng kỳ dị!...
Những tia nắng cuối của chiều thu chiếu lên mình Nai lộng lẫy, từng hang châu
ngọc lóe sáng muôn màu. Vua say nhìn Nai đẹp. Cung tên đã sẵn sàng, bọn lính
định bắn quị linh thú, nhưng vua ngăn lại:
- Ðừng bắn, hãy bắt sống cho ta!...
Nhưng chưa đuổi bắt thì Nai đã tự dẫn mình đến trước mặt vua và nói lớn:
- Thưa Ngài, tôi không hiểu tại sao Ngài có thể tìm được chỗ trú của tôi!
Nhà vua ngạc nhiên - có thể nói là sửng sốt - vì Ngài chưa từng thấy Nai nào
lại biết nói tiếng người. Vua đáp:
- Hởi Nai thần, chính người này đã chỉ cho ta.
Mặt Nai và vua đồng một lúc quay về người được Nai cứu. Bỗng nhà vua kêu lên
kinh hãi: mặt người kia chỉ trong một khắc trở thành lở loét gớm ghê. Mủ máu
chan hòa trên gương mặt trước kia hiền lành chất phát.
Nai lên tiếng
giảng:
- Thưa Ngài không có gì lạ cả. Ðó chính là cái quả báo mà nguyên nhân là sự
vong ân của y. Thưa Ngài, người này trước kia đã được tôi cứu khỏi chết đuối,
nhưng y đã quên lời hứa mà chỉ chỗ của tôi cho vua. Tham lam đã làm mờ mắt nhân
gian. Trong bóng tối vô minh ác nghiệt con người quên hết liêm sĩ và ân tình.
Ôi tham lam, gốc nguồn của bao tội lỗi! Vua chợt hiểu. Ngài bỗng thấy ghét cay
ghét đắng người được cứu. Quay mũi tên về phía y, vua hét lên dữ dội:
- Kẻ vong ân bội nghĩa kia, mi đã làm nhơ nhuốc danh người. Ta quyết vì đời cho
mi chết! Dây cung trương lên, nhưng Nai hiền đã đến chận phía trước. Mình Nai
đã biến thành bình phong che chở cho người kia đang run như một cái đuôi thằn
lằn. Nai nói với vua:
- Không nên Ngài ạ! Quả báo bao giờ cũng đến với người gây nhân như hình với
bóng. Không cần và cũng không có một người nào thưởng phạt hay định đoạt quả
báo cả. Chính gương mặt lở loét kia đã trừng phạt y nhiều lắm. Tôi xin Ngài hãy
tha cho y. Phần tôi, tôi đang chờ Ngài quyết định.
Vua bỗng thấy ánh sáng đạo. Ngài thấy kính phục Nai hiền cùng tột. Ngài kêu
lên:
- Ðối với kẻ mưu hại mình Nai còn tỏ lòng từ bi cao cả như thế. Nai ơi, trong
lốt thú rừng man dã ấy, chính Nai mới thật là người, một con người đúng nghĩa.
Còn chúng tôi đây, Tuy mang lốt người, nhưng quả thật chưa bằng muông thú.
Rồi vung tay ra hiệu, vua hét vào tai tên phản bội:
- Ta tha cho ngươi. Hãy đi đi, đi cho khuất loài người.
Y lầm lũi bỏ đi, mặt cúi gầm xuống đất. Bóng y đổ dài trên nền cỏ rừng, lưng y
quay lại phía mặt trời, y đang bước lần, bước lần vào bóng tối...
Vua nói với Nai
- Thưa Ngài, Ngài đã hoàn toàn tự do. Từ nay, không ai trong nước này lại động
đến thân Ngài nữa.
Về phần tôi, những lời cao đẹp của Ngài đã làm tôi trong phút chốc giác ngộ
được chân lý. Tôi sẽ khắc những lời đó vào tim và đem chí hướng từ bi của Ngài
gieo vào lòng nhân loại.
Thế rồi vua từ giả Nai, kéo quân về chốn củ. Rừng trở lại thanh bình như xưa.
Người và vật từ nay hiểu nhau, không còn tìm cách sát hại nhau nữa. Rừng già
thổi vọng tiếng kèn săn hung hăng, máu hồng thôi hoen trên cỏ màu xanh. Con
cháu trong rừng ngày một đông thêm, phơi phới lớn lên, không lo loài người tàn
bạo.
Và đêm đêm, lúc trăng ngà dọi bóng xuống rừng hoang, đàn thú hiền lành quây
quần chung quanh Nai như để nghe lời giảng đạo.
Một Lòng Vì Đạo
Thà có đạo đức mà chết, chớ không chịu mất đạo đức để được sống.
Cũng một mùa xuân trong sáng đẹp đẽ như hôm nay nhưng là một mùa Xuân xa xăm
lắm, một vị Quốc vương có tiếng nhân từ vui vẻ, ngự giá về các làng mạc thôn
xóm, thăm viếng quần chúng và tặng quà tết cho kẻ nghèo. Ngài cùng chung vui
với muôn dân. Ðó còn là một dịp để nhà vua được tìm hiểu đời sống và tâm tình
của dân.
Khi ra đi ngài vui vẻ bao nhiêu, khi trở về Ngài lại buồn rầu lo âu bấy nhiêu.
Nhà vua thường khuyến khích mọi người phụng thờ Tam bảo, thực hành phép ăn
chay, làm các việc thiện, hiếu thảo với cha mẹ, thuận hòa với anh em. Ngài tha
sưu thuế cho tất cả những ai thực hành theo lời Ngài khuyên bảo.
Mọi người đều răm rắp làm theo.
Nhưng có ngờ đâu, bề ngoài họ mạng một lớp "đạo đức giả" để che đậy
bao nhiêu điều xấu xa, hung ác, nham hiểm ở bên trong. Nhờ có cuộc kinh lý
trong ngày Xuân hôm ấy ngày mới thấu rõ được lòng người. Từ đó Ngài luôn luôn
suy nghĩ để tìm một giải pháp cải thiện dân chúng một cách hoàn bị.
Một tuần sau gương mặt Ngài trở lại tươi vui như trước. Rồi khắp dân chúng được
ban truyền sắc dụ của nhà vua: "Kể từ nay ai còn ăn chay niệm Phật sẽ bị
tội xử tử, còn người nào không theo đạo Phật được tự do, an phần chức
nghiệp".
Ðương nhiên những kẻ giả tâm đều trở lại hành động như cũ, không còn phải che
đậy một chút gì.
Tuy thế, sáng kia người ta dẫn đến sân triều một cụ già tả tơi yếu đuối, cụ này
đã không tuân lệnh nhà vua vẫn quy ngưỡng theo đạo Phật. Cụ nghĩ rằng:
"Lâu nay ta nghèo khổ trọn ngày chỉ có một bữa cơm rau nhưng được quy y
Tam bảo, được nghe giáo lý của Chư Phật, lòng ta sung sướng vô cùng. Còn dẫu
sống một cuộc đời sung túc trên châu báu ngọc ngà hay có được lên cõi Thiên
đàng hưởng thụ mãi mãi cuộc sống Thần tiên đi nữa mà không được nghe đến một
câu kinh, Phật, đối với ta cũng chỉ là ngục hình".
Cụ già khẳng khái tâu:
- Tâu Bệ hạ, bần dân này đã có tội không tuân lệnh của Ngài xin Ngài cứ việc chặt
đầu.
Nhà vua phán:- Nếu người biết tự hối và thi hành theo sắc lệnh mới của Trẫm,
Trẫm sẽ tha tội và phong chức tước cho. Còn kẻ làm dân mà không tuân theo quốc
pháp Trẫm sẽ xử chém đặng răn kẻ trái phép về sau.
- Tâu Bệ hạ, nếu bỏ chánh pháp mà làm đến bực vua chúa, hưởng thụ tất cả mọi
khoái lạc trong cõi Nhân Thiên, bần dân này cũng không ham.
- Ngươi cãi lệnh ta sẽ truyền đem xử tử ngay tức khắc.
- Tâu Bệ hạ, trong Kinh Phật có dạy: "Nếu chúng sanh tự gieo mình vào ba
đường ác thì khó được làm người và có làm người chăng nữa cũng không thể sanh
vào nước có đạo đức, không xem được Kinh Phật, không gặp được các cao Tăng để
cúng dường và nghe pháp". Nay tôi được biết pháp Tam bảo, hiểu được chút
ít Kinh Phật, vậy có lẽ kiếp trước tôi đã dày công tu luyện lắm. Thế thì dẫu Bệ
hạ có bỏ tôi vào nước sôi hay nung vào lửa đỏ đi nữa tôi vẫn giữ trọn một niềm
theo Tam bảo mà thôi.
- Ngươi là ai mà còn khí khái với ta? Trước cái chết mà vẫn còn hùng hổ.
- Tôi tên là Thanh Tiến Sử, tâu Bệ hạ cứ việc xử tội, tôi không bao giờ oán
than hay van xin một điều gì.
Quân sĩ hãy đem chém ngay ông lão Thanh Tiến Sử nầy.
Rất nhanh, các tên lính xáp đến dẫn cụ già ra pháp trường.
Trước pháp trường, bên cạnh những lưỡi gươm sáng quắc đang sẵn sang đưa lên cổ,
Thanh Tiến Sử vẫn thản nhiên vui vẻ và khuyên người con trước khi vĩnh biệt:
"Con ơi! Con sanh gặp thời có Phật pháp, biết sùng bái Tam Bảo là một điều
phước đức của con. Con hãy vững dạ tu học, noi gương cha đây, dẫu đầu cha phải
rơi vì sắc lệnh nghiêm ngặt của nhà vua. Cha vẫn vui lòng và quyết theo Chánh
đạo không bao giờ lãng bỏ".
Vừa dứt lời, vị cận thần truyền cho quân lính dẫn cụ trở về triều.
Khi vị cận thần về tâu lại lời khuyên con của Thanh Tiến Sử, nhà vua rất cảm
động và vô tình những dòng nước mắt tươm chảy trên đôi má nhăn nheo của vị vua
hiền đức. Ngài bước xuống bệ rồng ra tận cửa thành ôm lấy Thanh Tiến Sử. Mọi
người đều ngạc nhiên. Cụ già cũng trố mắt nhìn vua vì không hiểu chuyện gì. Nhà
vua đưa cụ vào cung một cách ân cần vui vẻ, song Thanh Tiến Sử cũng chưa rõ
điều gì nên chỉ biết cúi đầu sát đất lạy tạ ơn vua. Nhà vua liền đỡ lấy tay
Thanh Tiến Sử rồi thân mật bảo: "Trong quốc dân này chỉ có một Thanh Tiến
Sử! Chỉ có một Thanh Tiến Sử thuần thành theo Phật pháp, quyết một lòng vì đạo.
Ngoài ra đều giả dối, đều vụ lợi. Chiếu dụ của Trẫm ban ra chỉ cốt để thử lòng
người mà thôi. Vậy từ nay xin ngươi hãy sống cùng Trẫm, giúp Trẫm trong việc
truyền bá Phật pháp thức tỉnh nhân tâm". Rồi cả hai chuyện trò vui vẻ. Sau
đó nhà vua phong cho Thanh Tiến Sử chức Tướng quốc.
Câu chuyện ấy được truyền tụng trên môi quần chúng lan ra tận các hang cùng ngõ
hẻm, và cũng từ đó tiếng chuông cảnh tỉnh ngân vang trong tâm hồn mọi người.
Chẳng bao lâu dân chúng được sống trong cảnh êm ấm, thân yêu, an hòa, vui vẻ,
ai ai cũng đều quay về với Ðạo Phật.
Vị Quốc vương ấy chính là tiền thân của Ðức Thích Ca
Lòng Hiếu Của Chim Anh Vũ
Thuở xưa, ở núi Tuyết Sơn có một con chim Oanh Vũ, cha mẹ đều mù, thường đi tìm
trái cây thơm chín, dâng cha mẹ dùng. Lúc bấy giờ, có vị điền chủ mới cấy lúa
bèn phát nguyện rằng: "Lúa tôi đây, xin nguyện cho chúng sanh ăn
dùng". Chim Oanh Vũ thấy vị điền chủ phát tâm bố thí như vậy, bèn thường
bay xuống lấy lúa cúng dường cha mẹ. Người điền chủ đi xem lúa, thấy loài chim
loài sùng phá hại lúa, bèn nổi giận đặt lưới bắt được chim Oanh Vũ. Chim Oanh
Vũ thưa vị điền chủ rằng: "Trước đây ông có lòng tốt bố thí nên tôi mới
dám lấy của ông, sao lại đặt lưới bắt tôi?". Người điền chủ hỏi:
"Ngươi lấy lúa làm gì?". Chim Oanh Vũ đáp: "Tôi có cha mẹ mù,
nên phải lấy lúa cúng dường". Vị điền chủ nói rằng: "Từ nay về sau,
ngươi cứ lấy lúa mà dùng, đừng e ngại gì cả". Loài súc sanh còn biết hiếu
thuận với cha mẹ huống nữa là người.
Chim Oanh Vũ là tiền thân của Ðức Phật Thích Ca. Người điền chủ là tiền thân
ông Xá Lợi Phất.
Trọng Pháp
Ðời xưa, có một vị đại quốc vương tên là Tu Lâu Ðà, thống trị rất nhiều chư hầu
nhỏ. Oai đức của nhà vua rất to, nhưng Ngài cũng chưa mãn ý. Một hôm Ngài nghĩ:
"Ta có một khuyết điểm lớn.
Mặc dù ta dùng đức trị dân, đem tài lực để giúp người, song đó chỉ là nuôi sống
phần vật chất không được vĩnh cửu. Cần phải có một nền đạo giáo để trị muôn dân
tu tỉnh. Ta phải tìm làm sao cho ra "Pháp tài chân thật" để cho mọi
người cùng nhờ đó mà giải thoát được mọi sự khổ não ở đời. Ðược như thế ta mới
khỏi ân hận".
Nhà vua liền truyền rao khắp trong xứ: Ai có phép giải thoát đem truyền trao
cho nhà vua, sẽ được gia thưởng như ý muốn. Qua một thời gian khá lâu, không
thấy ai đáp lại lời kêu gọi của nhà vua. Ngài đâm lo nghĩ, buồn rầu khổ sở, ăn
không ngon, ngủ không yên. Người ngoài cuộc, ai trông thấy cũng phải cảm động
và thương hại cho Ngài.
Lúc ấy, có một vị Tỳ sa môn Thiên Vương, rõ được tâm trạng của Tu Lâu Ðà, bèn
hóa hiện làm thân một con quỷ Dạ xoa hình sắc ai thấy cũng phải kinh tởm: hai
con mắt lồi to và đỏ như huyết, nanh vuốt nhọn bén, tóc tai bờm xờm, lửa đầy
miệng. Quỉ đến chỗ vua, hô to lên rằng: "Ai muốn nghe pháp ta sẽ nói
cho".
Nhà vua nghe thấy mừng lắm, vội đến nghênh tiếp, mời ngồi tòa cao, làm lễ đúng
pháp để cầu nghe quên cả sợ hãi.
- Xin Ngài vui lòng bố thí cho chúng tôi một pháp tài để cứu khổ cho nhơn sanh,
ơn trọng vô cùng.
- Thân người khó được, chánh pháp khó gặp, đâu phải qua những nghi lễ tầm
thường kém vẻ tôn trọng như vậy mà có thể nghe được.
- Tôi xin sẵn sàng làm theo ý Ngài muốn, chỉ cốt hầu được nghe pháp, dù phải tan
thân mất mạng cũng không sao.
- Quý lắm, nhà vua hãy đem Hoàng hậu và Hoàng Thái tử đến cho ta xơi, xong rồi
ta sẽ nói pháp cho nghe
- Ðược tôi sẽ trân trọng làm theo ý Ngài muốn.
Trong khi ấy, tất cả triều thần đều nhao nhao phản đối: "Bệ hạ làm thế
nhẫn tâm lắm, chúng tôi không tán thành! Bệ hạ giết chúng tôi trước, rồi sẽ thi
hành cái cử chỉ thảm não ấy".
Nhà vua vẫn bình tĩnh, thản nhiên an ủi quần thần: "Các khanh yên lòng, ta
cũng biết thế là đau xót lắm, nhưng trong đời, hễ có hợp rồi sẽ tan, không có
gì là đáng quí cả, chỉ có chánh pháp mới là đáng quí, vậy dù đổi tánh mạng ta,
ta quyết cũng không từ".
Trong khi quỷ Dạ xoa ăn thịt Hoàng hậu và Hoàng Thái tử, tất cả triều thần cùng
cung phi mỹ nữ trong tam cung lục viện đều kêu gào, than khóc vô cùng thảm não.
Tiếng kêu than náo động cả kinh thành, mong làm chuyển được lòng cương quyết
của nhà vua, để Ngài xóa bỏ ý định. Nhưng nhà vua vẫn điềm tĩnh như thường, chỉ
một mực chăm chờ nghe pháp.
Quỷ Dạ xoa sau khi ăn xong Hoàng hậu và Hoàng Thái tử liền vì vua mà nói bài kệ
rằng:
"Tất cả các hành đều là vô thường,
Có sanh đều có khổ,
Năm ấm không thật tướng,
Không ngã và ngã sở". [1]
Nhà vua nghe xong bài kệ vui mừng vô cùng, lòng không chút hối hận, liền truyền
thần dân biên chép bài kệ ban khắp trong nhân gian, bắt phải đọc tụng, nhờ đó mà
rất nhiều người được tỏ ngộ.
Lúc ấy, vị Tỳ sa môn Thiên Vương hiện lại nguyên hình và không tiếc lời khen
ngợi:
- Quí hóa thay! Cao cả thay, tâm trọng pháp của nhà vua không ai sánh bằng.
Hoàng hậu và Thái tử xin hoàn lại vẫn không sao cả. Chẳng qua là chỉ để thư
lòng nhà vua mà thôi, thật không phải tôi đã ăn nuốt đi đâu.
Tôi mong ngày sau Ngài sẽ đạt đạo Bồ đề độ muôn loài hàm thức.
Làm đau thương không gì hơn buồn. Bắn tên độc không gì hơn ngu si. Không thể
lấy sức mạnh gì trừ diệt được hai nỗi khổ ấy. Chỉ có học nhiều mới có thể trừ
diệt được. Người mù sẽ nhờ học mà có mắt, người tối sẽ nhờ học mà sáng suốt.
Nhờ học mới có thể chỉ đường cho mọi người. Có học như đem mắt cho người mù.
Vậy phải rời bỏ ngục ngu si, xả lòng kiêu mạn và sự an hưởng giàu có, chuộng
học nghe nhiều mới gọi là nhóm họp công đức.
Hết
[1] Tất cả vạn sự vật thế gian đều luôn luôn chuyển biến không ngừng, các hiện
tượng chuyển biến ấy Kinh gọi là Hành. Các pháp do nhân duyên cấu hợp, không
thật thể, không khác nào hình ảnh trên màn bạc. Người phàm phu không làm sao
nhìn thấy sự thật của sự vật, luôn luôn chấp cho là thật cảnh, thật ra, nên khi
được thì vui mừng, mất thì sanh đau khổ.
Nên biết năm ấm (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hòa hợp gọi là thân, song năm ấm
biến chuyển không thường nên thân người thoạt còn thoạt mất, không có cái gì là
"ta" cũng như không có cái gì là "của ta". Chẳng qua cũng
như những bóng trong màn ảnh sân khấu, những giả ảnh trong chiêm bao mà thôi.
Chư Phật tỏ ngộ do đây, mà phàm phu mê muội cũng do đây vậy.
Công Đức Trì Giới
Giới luật là thọ mạng Phật pháp
Giới luật còn Phật pháp còn.
Xưa ở nước Xá Vệ, có một huyện nhân dân đều quy Tam bảo, phụng trì năm giới và
thực hành mười thiện nghiệp của Phật dạy. Khắp huyện không bao giờ sát sanh,
người uống rượu nấu rượu cũng không có.
Trong huyện, có một người con dòng dõi, sắp đi buôn tha phương. Trước khi đi,
cha mẹ cặn kẽ dặn rằng: "Con nên cố gắng siêng năng, giữ gìn 5 giới cấm,
thực hành mười điều thiện và cẩn thận chớ uống rượu, phạm đến trọng giới của
Phật".
Người con vui vẻ ra đi, khi qua tới xứ khác vừa gặp người bạn đồng học cùng
nhau chuyện trò tương đắc vui vẻ lắm. Bạn mời về nhà, đem rượu Bồ đào ra đãi.
Người ấy tự cười nói rằng: "Nước tôi toàn giữ năm giới cấm của Phật, không
một ai dám uống rượu; vì nếu uống rượu thì đời sau phải ngu si đần độn không
thấy được Phật. Vả lại khi ra đi, cha mẹ tôi khuyên không nên uống rượu. Bây
giờ tôi phạm giới cấm, thời trái mệnh lệnh của cha mẹ, tội ấy chẳng gì lớn
bằng. Chúng ta là bạn thâm giao lâu ngày, được gặp nhau không gì mừng rỡ hơn
nữa. Nhưng bạn chớ làm tôi phạm giới cấm của Phật và trái lời dạy của song thân
tôi".
Người bạn tiếp lời: "Chúng ta là bạn đồng học một thầy, coi như anh em
ruột; cha mẹ tôi cũng như cha mẹ anh, với cha mẹ, chúng ta có bổn phận kính
thờ, không được trái mạng. Tôi nếu ở bên nhà anh là phải tuân theo ý muốn của
cha mẹ anh, nhưng nay anh ở nhà tôi anh nên tùy thuận ý của cha mẹ tôi mới
phải".
Trước sự khẩn khoản của lòng bạn, anh ta phải uống rượu, uống xong anh ta say
luôn trong ba ngày, không biết gì, khi tỉnh anh ta ăn năn lo sợ vô cùng.
Công việc xong, người ấy trở về nhà trình lỗi của mình cho cha mẹ rõ; cha mẹ
tức giận mắng rằng: "Ngươi trái lời ta, phạm giới cấm thật là loạn pháp,
không phải đứa con thảo". Tự nghĩ làm gương trước cho mọi người trong xứ,
cha mẹ bèn thâu hết đồ đạc của đứa con, rồi đuổi ra khỏi nhà. Người con bị đuổi
bèn đi qua nước khác, xin ở đậu trong một cái nhà. Chủ nhà ấy là người thờ
phụng quỷ thần, thứ quỉ thần rất khôn ngoan, hay hiện ra thân người, ăn uống nói
chuyện, chủ nhà ấy hết lòng tin tưởng với quỷ thần. Vì phải thờ phụng lâu năm
mệt nhọc, của tiền hết sạch, trong nhà người đau chết xảy ra luôn, quỷ thần
không cứu gì cả. Quỷ thần hiểu ý chủ nhà, liền bảo với nhau: "Nhà này của
tiền hết sạch cũng chính vì ta. Ðã lâu ta chưa làm gì được lợi ích cho chủ, nên
chủ chán nản là phải lắm. Bây giờ chúng ta phải kiếm đồ trân bảo đem về biếu
chủ, để chủ vui lòng". Nói rồi, cùng nhau đi lấy trộm vàng bạc trong kho
nhà vua của nước khác, đem về giấu ở sau vườn rồi bảo chủ rằng: "Ngươi có
công nhọc, nay ta muốn ban phước cho ngươi được giàu có. Sau vườn nhà ngươi có
một tráp vàng bạc, ta cho ngươi đó". Chủ nhà ra vườn tìm thấy tráp vàng,
sung sướng lắm, sáng sớm thiết tiệc rất long trọng mời thần tạ ân.
Thần vừa đến cửa, thấy trong nhà có bóng người ở nước Xá Vệ, liền tránh không
đi vào. Chủ nhà chạy theo cố mời trở lại. Thần trả lời: "Trong nhà ngươi
có vị Tôn khách ta đâu dám vào". Nói xong rồi tỏ vẻ sợ hãi rồi bỏ chạy.
Chủ nhà nghĩ trong nhà chỉ có một mình người khách này thôi, liền kính cẩn đến
thưa rằng: "Xin mời ngài đến dự tiệc với chúng tôi cho vui". Ăn uống
xong chủ nhà hỏi vị Tôn khách rằng: "Ngài có công đức gì mà vị thần của
tôi thờ phụng sợ hãi ngài mà phải tránh đi?".
Vị Tôn khách trả lời: "Tôi chỉ có công đức thọ trì 5 giới và mười điều
thiện của Ðức Phật. Tôi vi phạm một giới uống rượu, bị cha mẹ đuổi, qua trọ tại
đây. Nhưng còn giữ được bốn giới nên thiên thần ủng hộ, còn thần của ngươi thờ
phụng là thứ tà thần ác quỷ làm sao sánh kịp".
Chủ nhà thưa rằng: "Tôi thờ các vị thần đã lâu rồi, không có lợi ích gì
nên tôi chán quá, mong ngài hoan hỷ dạy cho". Nói rồi bèn theo vị Tôn
khách thọ trì Tam quy Ngũ giới và pháp thập thiện. Thọ xong một lòng tinh tấn
siêng năng phụng trì không hề hủy phạm. Một hôm hỏi vị Tôn khách rằng:
"Ðức Phật hiện nay ở đâu? Có thể đến yết kiến Ngài được không?" Tôn
khách trả lời: "Ðức Phật hiện nay ở nước Xá Vệ trong vườn Cấp Cô Ðộc, qua
đó sẽ được yết kiến Ngài".
Nghe vậy, người chủ nhà rất sung sướng, quyết qua Xá Vệ để yết kiến Phật. Giữa
đường trời tối ghé lại xin trọ một nhà thiếu nữ xinh đẹp. Thiếu nữ ấy chính là
vợ của một con quỷ ăn thịt người. Thiếu nữ liền can rằng: "Ông chớ ở lại
đây nên đi gấp tốt hơn". Người ấy hỏi có gì nguy hiểm chăng? Thiếu nữ tỏ ý
không bằng lòng nói rằng: "Tôi đã nói với ông như vậy, ông còn hỏi làm gì
nữa". Người kia tự nghĩ: "Người ở nước Xá Vệ chỉ giữ 4 giới của Phật
còn khiến cho quỹ thần sợ hãi thay, huống chi ta đã thọ trì chắc chắn pháp Tam
quy Ngũ giới và Thập thiện của Phật". Nghĩ vậy, nhất định ở lại không chịu
đi. Ðêm ấy con quỷ ăn thịt người về nhà thấy có khách oai thần và công đức trì
giới nên phải lẩn quẫn ngoài hè, rồi đi trọ một đêm nơi nhà hàng xóm cách xa
tới bốn mươi dặm. Sớm mai người ấy lên đường để qua Xá Vệ. Ra khỏi cửa ngỏ,
thấy thây chết xương máu đầy đường, do quỷ ăn thịt người đã ăn xả.
Cảnh tượng ấy khiến người kia quá sợ hãi và hối hận rằng: "Nước ta sẵn đủ
áo mặc, cơm ăn, nhà ở, không thiếu món chi ở trong nhà chẳng sướng hơn sao? Ta
tưởng đến được yết kiến Phật và coi sự kỳ diệu của Ngài, ngờ đâu lại gặp hài
cốt rùng rợn như vậy". Nghĩ xong chàng sanh ác ý, trở về khuyên người
thiếu nữ kia theo mình trở về nước, cùng nhau chung sống trăm năm. Khi về ngay
nhà thiếu nữ xin ở lại. Thiếu phụ hỏi: "Sao ông phải trở lui vậy?".
Người kia đáp: "Hành kế không thành nên tôi phải trở lui, mong thiếu nữ
cho tôi ở tạm một đêm". Thiếu nữ nói: "Ông ở đây chắc chắn phải chết
vì chồng tôi. Chồng tôi là quỷ ăn thịt người và sắp về đến. Ông nên đi gấp tốt hơn".
Người ấy không tin, năn nỉ xin ở lại cho được và trước sắp đẹp của thiếu nữ,
người ấy khởi nhiều ý niệm không tốt đẹp, không còn tin pháp Tam quy Ngũ giới
và thập thiện của Phật. Vị thiện thần hộ giới liền bỏ đi không ủng hộ cho người
ấy nữa.
Quỷ ăn thịt người được dịp thuận tiện trở về. Thiếu phụ sợ chồng ăn thịt người
kia tội nghiệp nên đem lòng thương hại, giấu người kia trong một cái lu. Quỉ
bắt hơi người bảo vợ: "Mình có kiếm được thịt người phải không? Bây giờ ta
thèm lắm". Vợ trả lời: "Tôi không đi đâu cả làm chi có thịt, sao hôm
qua không thấy anh về?". Con quỷ nói: "Hôm qua trong nhà có vị Tôn
khách nên ta phải đi tránh". Người ở trong lu nghe vậy càng thêm sợ hãi,
đến nỗi không nhớ gì đến pháp Tam qui Ngũ giới của mình thọ. Người vợ hỏi tiếp:
"Vì lẽ gì anh không kiếm được thịt?". Quỷ trả lời: "Vì trong nhà
có đệ tử của Phật ở lại, nên thiên thần đuổi ta đi xa ngoài bốn mươi dặm, phải
ngủ trống giữa trời một đêm rất là sợ hãi, đến bây giờ vẫn chưa hoàn hồn, cho
nên không kiếm thịt được". Người vợ nghe vậy rất mừng thầm, mới hỏi chồng
làm thế nào được nghe và phụng trì giới cấm của Phật?". Quỷ trả lời:
"Bây giờ ta đói lắm, lấy thịt cho ta ăn đã, không nên hỏi việc ấy vội.
Giới là pháp vô thượng chân chánh của Ðức Như Lai, ta đâu dám nói đến".
Người vợ cố năn nỉ: "Anh hãy vì tôi nói đi, tôi sẽ lấy thịt anh ăn".
Giống quỷ tham ăn đã sẵn, thèm ăn lắm, lại thêm vợ cố hỏi, buộc phải nói Tam
quy Ngũ giới cho vợ nghe.
Pháp Tam quy là:
1/ Quy y Phật
2/ Quy y Pháp
3/ Quy y Tăng
Ngũ giới là:
1/ Không sát sinh
2/ Không trộm cắp
3/ Không tà dâm
4/ Không nói dối
5/ Không uống rượu.
Khi quỷ vừa nói
giới đầu, người vợ nghe liền định tâm lĩnh thọ, lần lượt nói hết 5 giới, thì vợ
quỷ rất sung sướng nhất tâm chấp trì, và miệng đọc tụng không nghỉ. Người dấu ở
trong lu nghe lại được pháp Tam quy Ngũ giới rất lấy làm hổ thẹn và vui mừng,
tự tâm lãnh thọ trở lại.
Thiên Ðế Thích biết hai người này đã phát tâm quy y Phật, thọ trì 5 giới, bèn
lựa 50 vị thiên thần đến ủng hộ hai người ấy. Quỷ ăn thịt người sợ hãi phải
trốn đi nơi khác.
Ðến sáng, vợ quỷ hỏi người dấu ở trong lu: "Những chuyện vừa qua ông có sợ
không?". Người kia trả lời: "Sợ lắm, nhưng được cái may là nhờ ơn ân
giả, mà tôi ngày nay được hiểu biết oai thần và công đức giới pháp của
Phật!".
Vợ hỏi quỷ tiếp: "Hôm qua ông trở lui làm gì vậy?".
- Vì tôi thấy hài cốt đầy đường nên quá sợ hãi phải trở lui.
Vợ quỷ mới nói rằng: "Hài cốt đó chính tôi bỏ đấy". Tôi đây vốn con
nhà lương thiện, không may bị quỷ bắt đem về làm vợ, tôi buồn khổ vô cùng,
nhưng chẳng biết tỏ cùng ai. Nhờ ơn nhân giả tôi được thọ năm giới cấm của Phật
và được xa lánh con quỷ ác độc này thật là hạnh phúc cho tôi. Bây giờ nhân giả
còn đi đâu nữa?
- Tôi cần qua nước Xá Vệ đế yết kiến Phật. Thiếu nữ nghe lấy rất làm sung sướng
khen rằng: "Hay lắm thay! Tôi sẽ về nhà đem cha mẹ tôi theo nhân giả đi
yết kiến Phật". Nói xong, cùng nhau lên đường. Ði được nữa đường thì gặp
một đoàn 498 người ở bên nước Xá Vệ đi về. Người kia và thiếu nữ mới hỏi:
"Các hiền giả đi đâu đông thế?".
- Chúng tôi đi yết kiến Phật về đây.
- Chúng tôi sắp qua nước Xá Vệ, chúng tôi nhờ thọ trì Tam quy Ngũ giới và mười
điều thiện của Phật nên mới thoát khỏi nạn quỷ ăn thịt. Nay chúng tôi muốn qua
yết kiến để tạ ơn và nghe thuyết pháp. Các hiền giả được thấy Phật rồi còn đi
đâu làm gì nữa?
- "Phật thuyết pháp suốt ngày, nhưng chúng tôi ngu độn chưa hiểu được rõ.
Nay trở về nước được gặp hai hiền giả và được nghe hai hiền giả cho biết công
đức của người trì giới pháp của Phật. Chúng tôi xin theo hai hiền giả trở lui
một lần nữa để yết kiến Phật".
Phật ở xa trông thấy đoàn người kéo đến liền mĩm cười chói tỏa hào quang năm
sắc, tôn giả A Nan liền bước ra quì sát đất, trong tâm nghĩ ngợi, chắc Phật sắp
dạy điều gì đây.
Phật bảo A Nan: "Ngươi có hiểu không, ngươi có thấy 498 người khi nãy trở
về đây không?".
A Nan thưa: "Bạch Ðức Thế Tôn, con có thấy".
Ðức Phật thuật lại tất cả việc xảy ra và bảo: "498 người đó ngày nay đã
gặp được thầy và đã được thấy Phật, rồi đây họ sẽ đắc đạo không lâu".
Cả 500 người đến trước Phật đảnh lễ một cách rất thành kính và nhất tâm thính
Pháp, mọi người đều được tâm ý thông suốt thành các bậc Sa môn và chứng được
đạo quả A La Hán.
Phật dạy A Nan và chúng hội rằng: "Các người nên biết người phạm giới kia
với thiếu nữ vợ con quỷ ăn thịt người là anh em trong nhiều đời vậy. Hai người
này đời trước chính là thầy của 498 người kia đó, chớ không phải ai xa
lạ".
Người đời phát tâm tu hành cầu đạo, thọ trì giới pháp, cần gặp được thầy hiền
bạn tốt sự tu hành mới mong kết quả.
Phật dạy đến đây, các vị Tỳ kheo, 500 người ấy; và tất cả chúng hội đều sung
sướng vui mừng, đảnh lễ Phật, và nguyện nhất tâm giữ gìn tịnh giới.
Máu Sanh Linh Không Rửa Sạch Tội Lỗi Của Người
Kinh thành Ba La Nại đang sống trong những ngày bối rối.
Khắp nơi, khắp nơi, những lễ đàn được dựng lên cao vọi. Tiếng nguyện cầu như
muốn vượt mấy từng trời. Nhưng thuốc thang cũng đã nhiều, cầu đảo cũng đã lắm
mà có ăn thua gì đâu?
Hôm nay cũng như mọi hôm, hoàng cung vẫn rộn ràng lo lắng. Mạng sống của Hoàng
thái hậu như treo đầu sợi tóc. Thần chết chắc đang cầm lưỡi hái đợi chờ đâu
đây. Bọn cung nga thế nữ vẫn túc trực đó, vẻ mỏi mệt hiện rõ trên nét mặt. Không
biết họ thức trọn mấy đêm rồi?
Quốc vương Hòa Mặc thì như trong giấc mộng. Cứ nhìn gương mặt mẹ mình ngày một
teo gầy lại, nhà vua thấy lòng tơi bời từng đoạn, cuộc sống không còn ý nghĩa
gì nữa. Cung nga thế nữ mà làm chi? Lầu son gác tía mà làm chi? Nhà vua thấy có
thể bỏ tất cả, hy sinh tất cả, miễn là mẹ mình được sống.
Tất cả những danh
y trong nước đều đã được vời. Nhưng người nào cũng lắc đầu ái ngại. Vô kế khả
thi. Hơi thở của mẫu hậu càng lúc càng khò khè, ngột ngạt. Ôi còn chi đau đớn
hơn cảnh một người con hiếu đang thấy mẹ mình chết dần mà không làm sao cứu
được!
Cuối cùng nhà vua cho triệu tất cả những vị Phạm Chí xa gần về để hỏi nguyên
nhân và phương pháp chữa bệnh cho mẹ mình. Họ đã về đầy đủ rồi đó, nhưng nào ai
có ý kiến gì đích xác đâu? Người thì bảo Thần sông, kẻ thì bảo Thần núi. Họ đổ
lỗi cho trăng sao trời đất... Thế rồi, đến khi nhà vua thiết tha xin phương
pháp điều trị thì yên lặng. Im lặng nặng nề ngự trị... Ai dại gì mà bày tỏ cái
bất lực của mình?
Bỗng một Phạm chí, có lẽ lớn tuổi nhất, đứng dậy bấm tay chiêm quẻ rồi trân
trọng trả lời:
- Tâu đại vương, nguyên nhân bệnh trọng của Hoàng thái hậu cũng chẳng có gì khó
hiểu. Âm dương không hòa hiệp, thiên địa quỷ thần trách móc, Hoàng thái hậu lại
mắt phải hung tinh, trách gì không yểu mệnh? Muốn khỏi, nhất định phải tìm đủ
một trăm súc vật khác giống để tế đất trời. Ðại vương và Hoàng thái hậu cũng
phải đến tại lễ đàn cần đảo thì mới mong bảo toàn mạng sống và được bình an.
Quốc vương như người sắp chết khát bỗng gặp nước lành . Tình thương mẹ cộng
thêm lòng mê tín dị đoan khiến nhà vua không suy nghĩ gì thêm trước khi thi
hành ý kiến của Phạm chí. Một trăm sinh mạng đã được đổi lấy một mạng trong hy
vọng.
Bầy súc vật được xua ra lễ đàn một cách tàn nhẫn. Có ai nghe tiếng kêu than của
những kẻ vô tội sắp phải bị hành hình? Có những con cừu non biết mình sắp chết,
cố dừng lại không chịu bước. Có những con bò cứ ngoái đầu trở lại, nước mắt
chảy ròng ròng. Những bọn lính thì có kể gì cả. Chúng lấy roi dài quất vùn vụt
vào thân đàn thú, lấy đá ném vào những con nào đi chậm nhất. Ðã có những vết
máu hồng hoen trên đường cỏ.
Xa giá cũng theo sát bầy thú vật. Hoàng thái hậu thì mê man trong chiếc xe lắc
lư trên đường đá sỏi. Quốc vương Hoà Mặc thì luôn luôn nhìn ra ngoài, xem thử
đã đến lễ đàn chưa? Lúc xe vừa ra khỏi cửa thành thì bỗng nhà vua giật mình
nhỏm dậy. Có cái gì uy nghiêm trên nét mặt của đại sĩ đang đứng chận giữa
đường. Ðôi mắt sáng ngời làm cho ta mến phục, y vàng giản dị nhưng lại có tính
cách siêu phàm.
Quốc vương bước xuống xe. Ngài ngạc nhiên thấy đoàn hầu cận của mình không biết
đã quỳ rạp xuống từ lúc nào. Có những lời chúc tụng vang vang, không phải cho
một vị quốc vương, nhưng mà cho một đấng vô cùng cao trọng. Ngài bỗng thấy sợ
sệt. Không, Ðạo sĩ có gì hung dữ đâu. Ðó là cái run sợ của một đứa con thơ
trước mặt mẹ hiền. Rồi riú ríu chân, Vua cũng quì xuống. Muôn miệng một lời
tung hô vang dậy: Kính chào Ðức Thế Tôn!
Vâng chính là Ðức Thế Tôn, Ðức Phật Thích Ca. Cảm thông nỗi đau thương của một
trăm sanh linh vô tội sắp phải bị hành hình, Phật đã từ Tịnh xá Kỳ Hoàn nước Xá
Vệ, trèo đèo vượt núi về đây gieo mầm chân lý. Phật đỡ Quốc vương dậy và hỏi lý
do việc cầu đảo. Quốc vương rơm rớm nước mắt trả lời:
- Bạch Thế Tôn, mẹ con lâm trọng bệnh đã lâu, không thang thuốc gì cứu khỏi.
Nay theo lời Phạm chí con định dùng tinh huyết của một trăm con súc vật khác
giống mà tạ lễ với trời đất. Kính lạy đấng Ðiều Ngự xin Ngài hãy chỉ đường vạch
lối cho con.
Một con cừu nhỏ lê chiếc chân vấy máu đến ép mình vào chân Ðức Phật, như để tìm
một nguồn che chở thiêng liêng. Phật cúi nhìn và để một bàn tay lên đầu con thú
nhỏ. Ôi cử chỉ mới dịu dàng và êm ái làm sao. Mắt cừu nhỏ gặp mắt Phật long
lanh rồi nhỏ lệ. Cả đàn thú cũng ngước đôi mắt ướt hướng về Phật như muốn nói
lên những điều oan ức, bất công.
Ðức Phật trả lời:
- Này Quốc vương, không nên theo những lời mê hoặc. Không một ai, dù là thiên
thần quỷ vật, có thể ban phúc hay giáng họa cho người. Ta quyết định đời ta
theo đúng luật nhân quả. Muốn được mùa nông dân phải cày sâu cuốc bẩm, muốn
giàu sang phải bố thí cho kẻ nghèo hèn, muốn sống lâu phải thực hành Từ bi và
không sát hại. Không ai có thể chối cải điều đó.
- Nhưng bạch Thế Tôn, thiên địa quỷ thần là những kẻ có quyền phép, ta có thể
nhờ họ giúp ta?
- Này Quốc vương, người có thích mặc chiếc áo sơ sài của hành khất không? Người
có tham bữa ăn tồi tàn của lớp cùng dân?... Chư thiên cũng thế Quốc vương ạ.
Vốn là hạng người phát tâm theo mười điều thiện, khi mạng chung, họ đã được
sanh lên một trong ba mươi sáu cõi trời. Ở đó có cung điện huy hoàng, có cung
nga thế nữ hần cận, y thực tự nhiên có... nào họ có cần chi những thứ đồ tạ lễ
của Quốc vương, khi lấy huyết một trăm sanh mạng để mưu cầu hạnh phúc cho một
người? Quốc vương thật đã làm một việc thiếu suy xét, mà chỉ tin theo lời đường
mật của những tà sư. Tội đó lớn lắm.
Từ châu thân đấng Từ bi bỗng lóe lên muôn vàn ánh sáng, chiếu rực cả muôn loài.
Tất cả chúng sanh trong ba đường sáu nẽo bỗng thấy hân hoan và thấm nhuần ánh
đạo. Toàn thể hai trăm vị Phạm chí thấy mình lầm đường lạc lối. Họ vội vả cùng
nhà vua xin Phật thâu làm đệ tử.
Hoàng thái hậu cũng thấy một sinh lực mới dào dạt chảy vào lòng. Bà đón nhận
ánh sáng của chánh đạo, xả bớt lòng tham lam, phát tâm bồ đề, cầu đạo giải
thoát. Liền đó bà thấy sức khỏe đã trở lại như xưa. Dưới chân cha lành, bà
không ngớt lời chúc tụng.
Phật hiền từ nhìn đàn vật như an ủi, rồi theo lời mời của vua trở về cung.
Ðêm ấy, có một trăm sanh linh thoát khỏi hành hình oan uổng. Cũng trong đêm ấy
ở miền biên giới Ấn Ðộ xa xôi, dân gian say sưa uống những lời thuyết pháp của
Ðức Từ phụ. Lòng người rửa sạch oán thù, lũ cướp ác hung bỗng ghê bàn tay vấy
máu của mình mà trở lại cuộc đời lương thiện. Chánh pháp tung ra, thấm vào từng
bộ óc. Không còn cảnh chém giết ghê gớm, không còn người tin theo tà đạo.
Và non nước vui hưởng thái bình trong hào quang Từ bi và Trí tuệ.
Nhận Lầm Con
Có một chàng ngu kia sinh được đứa con trai, chăm chút thương yêu như ngọc như
ngà. Một buổi sáng anh chàng đi ra chợ sớm, ở nhà lửa bốc cháy nhà và người ta
bồng đứa con anh chạy mất, lúc trở về thấy nhà cháy, anh không tiếc, anh chỉ
cuống cuống lên khi không thấy con.
Một người láng giềng ức đoán chỉ vào thây của một kẻ bất hạnh đã cháy thành
than và bảo: "Con anh chết cháy đây rồi". Thế là anh chàng tin ngay
là thật, khóc than kể lể khôn xiết, rồi may một cái túi vải vuông bỏ nắm tro
tàn vào đó mang luôn bên mình không lúc nào rời. Rồi cứ đinh ninh rằng con mình
đã chết cháy, và nắm tro bên mình là xác con, không biết con mình hiện giờ đang
còn sống.
Một buổi kia được thả, đứa con về gõ cửa kêu cha. Anh chàng buồn quá đóng cửa
ngồi trong nhà, nghe gõ cửa hỏi vọng ra:
- Ai gọi đó?
- Con đây.
- Con, tôi đâu dám! Con tôi chết đã ba tháng rồi.
- Không, con còn sống đây mà, mở cửa cho con vào!! Con tao đã chết, mày là ai,
đến đây nhận hảo thế? Cha con gì?
Ðứa con nằn nì ngoài cửa mãi, người cha ngồi trong nhất định không mở cửa. Cuối
cùng nó đành khắc khoải ra đi. Thương hại cho anh chàng! Cha con không nhận,
lại nhận bị xương khô!
- Người ngu tự biết mình ngu, nên biết người ấy có trí;
- Người có trí tự cho là có trí, nên biết người ấy ngu nhất trên đời.
- Người ngu cố chấp sự hiểu biết của mình là đúng, nên không bao giờ chịu thừa
nhận những điều hiểu biết của kẻ khác. Vì thế, không bao giờ họ đạt đến được
chân lý.
Nan Đà Tôn
Giả
Luân hồi nhân quả không sai
Không tu ắt phải đọa đày khổ thân.
Ðã mấy năm qua. Từ ngày chứng nghiệm chân lý dưới gốc cây Bồ Ðề, Ðức Phật Thích
Ca đã đặt chân lên nhiều kinh thành, nhiều thôn dã, nhiều đất nước để truyền bá
đạo Từ Bi. Hàng đệ tử của Ngài càng ngày càng đông.
Trên con đường giải thoát cho nhân loại không biên giới ấy, một hôm kia, Ðức
Phật trở về đất nước quê hương, nước Ca Tỳ La Vệ. Ngài thấy nhân loại đáng
thương đang chìm trong sự lôi cuốn của cuộc đời có bà con thân thuộc mình, có...
em Ngài, Hoàng tử Nan Ðà.
Hoàng tử Nan Ðà là em cùng cha khác mẹ với Ðức Phật. Lúc Phật xuất gia, Nan Ðà
còn tấm bé, Nan Ðà chỉ buồn thoang thoảng vì thiếu sự chăm sóc chỉ bảo của một
người anh hiền từ. Thế thôi. Và tuổi trẻ cũng mau quên. Nan Ðà lớn lên trong sự
hầu hạ ân cần cẩn thận của cung vua. Không như anh. Nan Ðà buông theo các thú
vui. Cuộc đời bó hẹp lại, nhỏ dần trước mắt người thanh niên ham mê sắc dục.
Nan Ðà chỉ còn thấy các mỹ nữ trong giọng hát, trong điệu múa, trong những cuộc
truy hoan...
Phật trở về giữa sự vui mừng của dân chúng. Ngài ở Tịnh xá và hàng ngày mang
bình bát đi khất thực và truyền đạo như trong khi Ngài ở các nước khác. Lối
sống bình dị ấy làm mọi người thán phục. Ðời sống của kinh thành xáo trộn. Vàng
bạc không còn là cứu cánh. Lòng thương yêu nhau, thương yêu đến cả các sinh vật
được xem là cao quí. Người ta đã thấy những gì chắc thật của cuộc đời, thú vui
chỉ là mong manh chốc lát.
Nhà vua đã mở nhiều cuộc bố thí, giảm nhẹ thuế má cho dân chúng.
Về phần Nan Ðà, Nan Ðà cũng cảm thấy vui. Những hình ảnh tươi đẹp của những năm
xưa hiện lên. Nhưng trong hai người như có một cái gì khác nhau nhiều lắm, nên
Nan Ðà chưa dám gặp Phật. Nghe những lời ca ngợi về lòng nhân ái, về cuộc sống
bình dị của Ðức Phật, Nan Ðà tự đối chiếu với mình. Và đã có lúc chàng nghiệm
thấy một cái gì mong manh, chóng tàn trong những cuộc vui say, trên nét nhăn
mệt mỏi của những mỹ nữ qua những cuộc múa ca.
Một hôm, Nan Ðà thức dậy sau một giấc ngủ dài mệt mỏi. Mặt trời đã lên cao.
Chưa kịp sửa soạn, chàng đã thấy Ðức Phật đang tiến vào nhà. Phật khoác chiếc y
vàng, tay cầm bình bát, Ngài đi khoan thai như lùa vào đây tất cả những ánh
sáng trong lành của buổi mai.
Phật không khác xưa nhiều lắm, vẫn gương mặt hiền lành nhưng thêm phần sáng
suốt. Tất cả những hình ảnh trên diễn ra trước mắt Nan Ðà đang đứng ngây người
nhìn. Ðức Phật tiến lạI gần, ân cần hỏi han. Lời nói của Ngài dịu dàng làm cho
Nan Ðà nhớ lại những ngày vui vẻ thuở xưa, hồi ấy Nan Ðà nhìn đời một cách đẹp
đẽ. Rồi Ngài nói với Nan Ðà:
- Từ lâu, ta vẫn thấy bên trong ra có phụ hoàng và em. Chính trong mục đích
giải thoát cho loài người rộng lớn và cho những người thân thuộc mà ta thấy
được đạo lý. Ta biết em đang khao khát chân thật. Ta đi trước em, ta đã biết
rằng hạnh phúc chân thật không thể tìm ở đâu khác ánh đạo. Ánh đạo ấy ta đem về
cho em đây.
Nan Ðà im lặng, cảm động. Người đứng trước mình là anh, là thầy, là ân nhân?
Nan Ðà thấy trong người rạo rực một mối tình muốn hướng về đường lành. Chàng
cúi xuống thân mến ôm bàn tay của Ðức Phật đang đưa ra nâng chàng dậy. Ðức Phật
âu yếm:
- Ðường ta đi sáng như sao nhưng khó khắn trở lực không phải là ít. Mà có sự
thành đạt nào không phải mua bằng gian lao, ta đã nghiệm điều đó. Biết em có đủ
trí lực để vượt qua không?
Nan Ðà ngẫm nghĩ rồi nguyện theo Phật. Chàng sửa soạn rất nhanh chóng. Phật đã
tiến ra cửa. Ngài bước đi, Nan Ðà theo Ngài, tuy lòng đang dâng lên một cái gì
âm ấm, trong sáng như ánh nắng và trời đất tươi đẹp bên ngoài. Hai người cùng
tiến về Tịnh xá.
Ðến Tịnh xá, Phật bảo các đệ tử săn sóc cho Nan Ðà. Người ta thay chiếc áo gấm
xanh và khoác cho chàng chiếc áo nâu bằn vải. Người ta dành cho chàng một phòng
rộng ngó ra vườn hoa. Nan Ðà ngồi xuống chiếc ghế mây rồi nhìn ra vườn. Trăm
hoa đang mở rộng tung cánh để đón ánh trời, màu hồng tươi mát của đào. Màu vàng
dịu của mai, màu trắng như tuyết của huệ, nổi bật lên trên màu xanh tươi của lá
cây. Ðây đó một vài đạo sĩ đang ngồi trên các phiến đá trầm tĩnh niệm Pháp.
Trong cái yên lặng, lâu lâu có điểm một tiếng chuông ngân dài. Nan Ðà thấy một
sức sống mạnh mẽ của muôn cây, một sự rạo rực hướng về đạo của con người. Thật
là một thay đổi cực kỳ lớn lao trong tâm hồn vị Hoàng tử thanh niên.
Nhưng rồi có những lúc Nan Ðà thiêu thiếu một cái gì. Chàng tiếc rẽ cái áo gấm
chăng? Ðâu phải thế! Trước đây cũng có nhiều lần chàng áo ước cởi bỏ nó đi để
được mát mẻ. Chàng tiếc một cái gì? Ðó là các sinh hoạt cũ, cái lối ăn chơi say
sưa bên cạnh những người vũ nữ có bàn tay ngọc ngà, có thân hình mềm mại.
Ðức Phật thừa hiểu rằng trong một sớm một chiều, Nan Ðà chưa thể giác ngộ được
chân lý nên chú ý đến Nan Ðà nhiều hơn các đệ tử khác. Một hôm, có người mời
Phật đi thọ trai, Ngài không đưa Nan Ðà đi mà còn kêu đến đưa bình bát cho và dặn
nhà múc nước đổ vào cho đầy.
Ðược ở nhà, Nan Ðà là vui thích vì chàng thấy có cơ hội trở về thăm cung điện
và các mỹ nữ. Biết như thế là sai lầm nhưng có một sức mạnh nào thúc đẩy mãnh
liệt. Dầu sao, Nan Ðà cũng không quên lời Phật dặn "đổ nước vào bình
bát" mà chàng không biết đổ để làm gì. Cái bình bát nhỏ bè này, hãy đổ vào
một gàu là đầy ngay và rồi sẽ trở về thăm cung điện cũng không muộn. Nan Ðà đem
bình bát ra giếng. Chàng xách lên gàu nước và đổ nước vào. Chàng cẩn thận để
nước khỏi đổ ra ngoài. Lạ quá! Gàu nước đồ hết rồi mà sao không thấy nước tràn
lên miệng bình. Nan Ðà cúi xuống xem bình bát có bị nứt không. Tuyệt nhiên
không một đường rạn nào, lớp men vẫn liền láng. Chàng múc gàu nước thứ hai, thứ
ba, thứ tư và liên tiếp nhanh tay đổ vào. Lạ thật, không có nước chảy ra ngoài
mà nước đổ vào biến đi đâu cả.
Nan Ðà đã mệt nhoài mà bình bát vẫn không được một tí nào cả. Làm sao để về
thăm cung điện? Nôn nả quá, chàng để bình bát ngay bên giếng và vụt chạy đi,
hẹn trong lòng chốc trở lại sẽ tiếp tục đổ nước vào.
Chạy được một quảng, Nan Ðà thấy ở xa có đoàn người đi ngược lại. Chàng dừng
lại nhìn. Khốn rồi! Chính Phật và đoàn đệ tử thọ trai về. Nan Ðà biết không có
cách nào tránh khỏi, bèn nép bên đường, cúi mặt nhìn xuống đất. Phật đến bên
Nan Ðà hiền lành bảo:
- Thôi! Trở lại. Em hãy còn lời hứa đối với ta, còn công việc ta giao chưa làm
xong. Hãy tự chiến thắng mình mới đi đến đích cuối cùng.
Nan Ðà đi theo Ngài cùng trở về Tịnh xá.
Năm hôm sau, trong cuộc du hành thuyết pháp ở cõi trời, Phật cho Nan Ðà đi
theo, Nan Ðà mừng lắm.
Ðấy là một trong những cõi trời đẹp đẽ và hạnh phúc nhất. Không biết bao nhiêu
lâu đài tráng lệ nguy nga. Những chiếc bàn, những độc bình bằng thủy tinh muôn
màu rực rỡ. Những vườn hoa với các cây xanh mướt, quanh năm hoa nở thắm tươi và
tỏa mùi hương nồng ấm. Ánh sáng một màu huyền ảo. Mặt trời không gay gắt, ban
ngày vẫn có sao sáng và ban đêm trời luôn luôn sáng, thứ ánh sáng vàng trắng của
những đêm rằm.
Phật đưa Nan Ðà đến một cung điện rực rỡ. Các tiên ông râu bạc trắng ra đón
tiếp. Phật thuyết pháp cho họ nghe. Trong lúc đó các nàng tiên mời Nan Ðà đi
xem khắp nơi. Chỗ nào Nan Ðà cũng tấm tắc khen ngợi. Rồi các nàng tiên múa cho
Nan Ðà xem. Những gương mặt tươi đẹp như chưa bao giờ lo buồn, các điệu múa
uyển chuyển như còn gởi mãi trong không gian các đường nét mềm mại. Sau đó Nan
Ðà hỏi họ:
- Ai sẽ có vinh hạnh hưởng cảnh sống êm đẹp trong những cung điện ở đây?
Các nàng tiên nhỏ nhẹ thưa:
- Cung điện, vườn hoa, ánh sáng ở đây đang chờ đón một người tên là Nan Ðà, nếu
người ấy tu hành được chánh quả.
Nan Ðà sung sướng nhẹ nhõm khi theo các nàng về cung điện.
Trên đườg về Tịnh xá, Nan Ðà định hỏi Phật xem lời các nàng tiên nói có đúng
không, nhưng không dám, chỉ tự bảo với mình phải cố gắng tu tập. Nhưng biết đến
bao giờ mới lên cõi trời sung sướng. Nan Ðà nôn nả nên thiếu thái độ hiền từ,
tĩnh tâm, định trí. Và cái hăng hái của những ngày mới trở về lần lần phai
nhạt.
Một thời gian sau, Phật lại chuẩn bị một cuộc đi truyền thuyết xa và Nan Ðà
cũng được đi theo. Lần này Phật dẫn chàng xuống địa ngục.
Ðịa ngục bày ta trước mắt Nan Ðà trước những cảnh tượng ghê rợn. Ðây là một
người đàn ông bị ép dưới một tản đá khổng lồ. Tảng đá lún dần, lún dần trong
tiếng kêu thắt nghẹn trong tiếng răng rắc của bộ xương ngực, xương tay, xương
chân đang dập nát. Ðây là một người đàn bà mang trên đầu một vành lửa đỏ. Tóc
của người ấy cũng cháy khét lẹt; và tay bị trói chặt ra phía sau, người đàn bà
vừa chạy vừa kêu không ra tiếng người. Nan Ðà biết những hình phạt ấy là do sự
tàn ác của họ ở kiếp trước nên im lặng đi theo Phật. Gương mặt của Ngài tỏ vẻ
vô cùng thương xót và Ngài cầu nguyện cho họ.
Ðến một đoạn nữa, Nan Ðà thấy trước mặt có năm chảo dầu xếp thành hành dài
trước mặt một cái đền tối om. Năm con quỷ đang sắp sửa đun lửa. Trong bốn cái
chảo đã có bốn người không rõ là đàn ông hay đàn bà. Lửa đỏ, dầu gần sôi. Người
trong chảo vẫy vùng, chồm lên rồi lại rơi xuống. Tiếng kêu của họ tắt đi trong
tiếng sôi sùng sục của dầu, tiếng củi cháy phừng phực. Nan Ðà đến gần con quỷ
coi chảo dầu thứ năm và hỏi:
- Tại sao trong nầy lại không có người nào?
Con quỷ không nhìn Nan Ðà, chăm chú coi lửa và trả lời:
- Chảo không này cứ đun sẵn, để dành riêng cho một người tên là Nan Ðà nếu
người ấy biếng nhác, không lo tu tập.
Nan Ðà giật nẩy mình và không dám hỏi thêm gì nữa.
Từ độ ấy về, Nan Ðà không một chút nào dám xao nhãng việc tu niệm, chàng lo
tụng niệm, thuộc làu kinh kệ. Mãi đến chiều chiều, Nan Ðà mới để một ít thì giờ
đi dạo ngoài vườn Tịnh xá.
Nhưng có một điều là chàng đến chỗ nào, người chỗ ấy đều lánh đi nơi khác. Nan
Ðà bực lắm. Có một hôm Nan Ðà đến gặp Ngài A Nan, Ngài A Nan là em họ chàng và
là đệ tử yêu mến nhất của Ðức Phật. Thấy Nan Ðà đến, Ngài A Nan cũng lánh đi
nơi khác. Không thể giữ nổi sự bực bội trong lòng, chàng đến trước mặt Ngài A
Nan là lấy lời kính cẩn thưa:
- "Xin chú cho tôi biết vì lẽ gì các Ngài và chú lại không muốn gặp tôi.
Tôi tưởng đã ở một đạo với nhau, hơn nữa lại là bà con, chú cũng không nên đối
xử với tôi như thế".
Ngài A Nan biết không còn cơ hội nào tốt hơn cơ hội nầy để trình bày cho Nan Ðà
rõ đầu đuôi nên ôn tồn bảo:- Chúng ta tuy theo một đạo nhưng mục đích chúng ta
không giống nhau. Anh nhắm một mục đích khác. Anh tu hành để được lên cõi tiên,
để sống trong hạnh phúc, riêng anh, tu hành vì cảnh khủng khiếp của địa ngục.
Anh Nan Ðà ơi! Mục đích của anh hẹp hòi. Phải lấy sự đau khổ của chúng sinh làm
đau khổ của mình, xem thường tài sản và tính mệnh của mình, phát tâm thực hành
lục độ để giải thoát vô lượng chúng sanh. Ðó là mục đích của thầy ta, của chúng
ta, của những người tu hành chân chính.
Ngài A Nan dừng lại để Nan Ðà kịp suy nghiệm. Rồi âu yếm nhìn Nan Ðà Ngài nói
tiếp.
- Anh Nan Ðà ơi! Ðường tu hành còn dài lắm, cho đến khi nào chúng sinh không
còn khổ đau. Cho nên không nhìn một mục đích cao rộng, ta sẽ dễ nản lòng thối
chí như anh, đã có lần muốn bỏ dỡ công cuộc nửa chừng. Phải can đảm lên anh ạ!
Quả lành sẽ đến với chúng ta.
Lời Ngài A Nan đi thẳng vào tâm can, vào trí óc A Nan. Từ đó Nan Ðà công phu tu
luyện với mục đích cao quý giải thoát cho chúng sanh và một ngày kia, bước theo
A Nan, Nan Ðà trở thành một đệ tử chân chính của Ðức Phật, trở thành Nan Ðà tôn
giả đáng kính mến muôn đời của chúng ta.