Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!

Dịch trang

Người Đi Tìm Hình Của Nước

Thông Tin Du Lịch Phổ biến

Tìm Hiểu Về Phật Giáo - Phật Giáo Việt Nam - Phần 2

 Dù cố gắng, nhưng bn dch này chc cũng còn khuyết đim, dch gi ngưỡng mong chư vị thông hiểu đạo Pht b túc cho. Chúng tôi xin chân thành cm t!

Nguyện chia đều phn phước phiên dch này đến tt c chúng sanh và những Thiện nam tín nữ hu duyên đã trc tiếp hay gián tiếp ng h dch gi trong công tác sưu tm tài liệu và hùn phước n tng!
Dị
ch gi cũng không quên hi hướng mt phần phước báu đến song đấng sinh thành, và các ân nhân, Thy T ca dch giả.
Nguyệ
n cầu cho dân tộc Vit Nam sm thoát khi cnh kh, và chúng sanh nhân loại đừng oan trái ln nhau!

TU ÐÀ CẤP CÔ ÐỘC GẶP PHẬT VÀ TRỞ THÀNH MÔN ÐỒ
Vào mùa hạ thứ nhất, sau khi Thái tử Sĩ Ðạt Ta Cồ Ðàm (Siddhatta Gotama) chứng quả Phật Toàn Giác, và thu nhận đệ tử tại Vương Xá thành (Ràjagaha), thủ đô xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha), thì Tăng đoàn lúc ấy chỉ gồm một ít người. Họ sau khi được nghe Phật giảng pháp Tứ Diệu Ðế (Catu Àriyasaccàni), đều đắc quả A La Hán (Arahatta) giải thoát.
Chư Thánh Tăng A La Hán đầu tiên ấy đã dứt tận phiền não, nên sống một cuộc đời thanh tịnh, thoát ly gia đình, rày đây mai đó, lấy quãng trống hay rừng xanh làm nhà, lấy đồi núi hay đồng nội làm nơi hành đạo...
Khi ấy có một đại phú thương, vốn là anh rể của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, đã quy y đức Phật, và chứng kiến đời sống giải thoát, cao thượng của chư vị Thánh Tăng, bèn đề nghị họ yêu cầu đức Phật cho phép ông xây cúng những tịnh xá cố định.
Khi đức Phật chuẩn lời, ông phú thương liền xây cất hơn sáu chục tịnh cốc, để dâng đến đức Phật và chư Thánh Tăng. Ðược hỏi tại sao ông tạo số tịnh cốc quá nhiều, so với số Thánh Tăng có thể cư ngụ thì ông phú thương vui vẻ trả lời rằng:
- Tôi làm như vậy vì muốn được nhiều phước báu!
Và với những tịnh cốc nguyên khởi ấy, một tu viện Phật giáo đầu tiên đã được thành hình, để khai sáng giai đoạn truyền bá chánh pháp, đón tiếp những ai hữu duyên, muốn xuất gia tu học, và rèn luyện phẩm hạnh giải thoát. (Theo Cullavagga VI. 1: Tiểu phẩm số VI. 1).
Một hôm Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, người phú thương bá hộ Mạnh Thường Quân của thành Xá Vệ (Sàvatthì), trên chuyến thương hành xuyên qua nước lân cận Ma Kiệt Ðà (Magadha), đến thủ đô Vương Xá thành (Ràjagaha). Như thường lệ, ông trước tiên ghé thăm người anh rể vừa cũng là một bạn thân của mình.
Khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đi vào nhà người anh rể, thì ông lấy làm ngạc nhiên, vì không ai chú ý đến ông cả. Thói quen mỗi lần ông đến là người anh rể cùng toàn thể gia nhân đã vui mừng ra đón tiếp ông một cách thân mật tận ngoài cửa. Nhưng hôm nay khác hẳn, tất cả đều tỏ ra quá bận rộn đến nỗi hời hợt trước sự có mặt của ông, dường như họ đang để hết tâm ý sửa soạn nghinh đón một nhân vật vô cùng quan trọng!
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền hỏi người anh rể:
- Phải chăng trong nhà đang có đám cưới, hoặc gia đình đang chuẩn bị một cuộc đại tế lễ, hay tin quốc vương ngoạn cảnh sắp viếng thăm?
Thì câu trả lời vỏn vẹn chỉ có:
- Ngày mai đức Phật và chư Thánh Tăng đến thọ trai và ban phước lành.

Tu Ðà Cấp Cô Ðộc chợt chú ý hỏi tiếp:
- Hiền huynh nói có một vị Phật sẽ đến?
- Ðúng vậy thưa thân đệ! Ngày mai, đức Phật, đấng Toàn Giác sẽ đến.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc lộ hẳn sự kích thích. Ông nhắc lại câu hỏi ấy đến lần thứ hai, rồi lần thứ ba:
- Hiền huynh xác nhận là có một vị Phật sống trong vùng và ngày mai Ngài sẽ đến đây?
- Vâng! Thưa thân đệ! Ðấng Toàn Giác ấy sẽ đến ban phước lành trong ngôi nhà này! Hiện giờ Ngài đang an trú tại vườn Sìtavana, cạnh Trúc Lâm tịnh xá, phía Tây Vương Xá thành.
Trước câu trả lời đầy đức tin đó, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc vừa kinh cảm vừa ngạc nhiên. Ông rùng mình hít một hơi dài rồi thở ra từ từ, đồng thời lẩm bẩm:
"Ðức Phật là một danh từ mình đã hiếm được nghe trên đời rồi. Bây giờ lại có thể nhìn thấy một vị Phật bằng xương bằng thịt".
Người anh rể của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nghe thế liền xen vào:
- Bữa nay vì trời tối, nên thân đệ không thể gặp đức Phật được, nhưng ngày mai chuyện ấy sẽ chắc chắn.
Ðêm đó, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc ở lại tại nhà người anh rể, nhưng sự kinh cảm và lòng nôn nóng muốn gặp Phật đã làm cho ông không sao ngủ ngon được. Ông đã thức giấc đến ba lần, nghĩ rằng: "Chắc trời sáng rồi" và nhìn ra ngoài thấy màng đêm vẫn dày đặc. Lần thức giấc sau cùng nghe tiếng gà gáy đầu, nhằm lúc trời gần rạng đông, nên ông mạnh dạn rời nhà người anh rể, định ra khỏi Vương Xá thành, rồi hướng về Trúc Lâm tịnh xá.
Tuy nhiên, trong bóng đêm tàn tịch mịch, sự sợ sệt và lòng nghi ngại lại phát sinh trong ông. Vì Tu Ðà Cấp Cô Ðộc là một đại phú thương nổi tiếng, của cải rất nhiều, nếu ông phiêu lưu như thế, nhỡ gặp phải phường bất lương sẽ vô cùng nguy hiểm! Do đó, bản năng tự vệ lại khiến ông chùn chân quay lại.
Chợt Tu Ðà Cấp Cô Ðộc bình tĩnh, ông nghe tận trong tâm tư dường như có một âm thanh kỳ diệu thúc giục: "Hãy tiến bước! Ðến gặp một vị Phật Tổ không bao giờ nguy hiểm!". Thế là ông dũng mãnh tiến tới.
Ði một lúc khá lâu, ông đến bìa cụm rừng Sitavana, gần Trúc Lâm tịnh xá. Và trong màng sương rạng đông đùng đục mờ mờ, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc chợt thấy một bóng người thấp thoáng, trầm mặc bước đi.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền dừng chân quan sát, thì bóng người thanh tịnh ấy lại quay về phía ông, và một giọng nói thanh tao, hiền hòa, khó diễn tả, phát ra:
- Hãy đến đây! Này thiện bá hộ của dòng họ Tu Ðà!
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc giật mình đánh thót, kinh ngạc vô cùng khi nghe mấy lời "đón tiếp" nghiêm trang ấy. Vì trong vùng Vương Xá thành, ngoại trừ gia đình người anh rể, không một ai biết được tên họ của ông. Người ta chỉ biết ông qua cái danh hiệu Mạnh Thường Quân "Cấp Cô Ðộc", nhưng cũng ít người biết được mặt thật của ông, bởi trong việc cứu giúp hàng ngàn, hàng vạn dân nghèo, gia nhân ông đã thay thế ông làm hầu hết. Càng ngạc nhiên hơn nữa, là ông chưa bao giờ làm quen với "bóng người" đứng trước mặt kia. Nhất là ông đã đến bất thình lình không báo trước!
Một phút ngạc nhiên và yên lặng trôi qua... Lời "đón tiếp" của "bóng người" dường như có một linh lực khiến cho hai chân ông tự động bước tới. Khi đến gần thì ông nhận ra một đạo nhân phi phàm thoát tục. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tự nhiên không nghi ngờ gì nữa. Ông tin chắc đây là đức Phật, liền sụp lạy và vì cảm động, nói đứt quãng, không thông lời, rằng:
- Lạy Phật! Ngài có được bình an không?
- Như Lai luôn luôn bình an! Chúc lành ông vừa đến thăm.

Nghe câu trả lời thanh tịnh và từ ái ấy Tu Ðà Cấp Cô Ðộc cảm thấy vô cùng thỏa thích, và đến gần Phật hơn nữa để nghe những lời cao thượng tiếp theo:
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Một bậc đã chứng quả Toàn Giác, Giải Thoát thì không còn đau khổ, dù cho ấy là những đau khổ vi tế.
Ðoạn đức Phật dẫn Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nối theo bước chân kinh hành buổi sáng của Ngài. Vừa đi Ngài vừa giảng giải những Pháp bảo căn bản nhiệm mầu, nhất là các pháp có liên quan đến sự bố thí, trì giới, sinh diệt, vô thường, biến hoại, xuất gia, rồi bảo rằng ấy là "Nghiệp thiện và ý thức tiến hóa" có thể đưa con người tới các cõi cao hơn, được giải thoát khỏi những khổ đau phiền não do say đắm trong các nhục dục ở đời.
Khi đức Toàn Giác nhận thấy Tu Ðà Cấp Cô Ðộc thiện căn đã bộc lộ, tâm tánh đã khai mở, kiến chấp đã vỡ tan, ý thức đã an tịnh, sẵn sàng để hấp thụ chánh pháp, Ngài liền giảng giải cho ông bốn chân lý vô song của Phật giáo là Tứ Diệu Ðế (Catu Ariyasaccàni) gồm:
1- Khổ Ðế: Khổ đau là một thật tế.
2- Tập Ðế: Ái dục, nguyên nhân của khổ đau là một thật tế.
3- Diệt Ðế: Niết bàn, trạng thái dập tắt mọi ái dục, hết khổ đau là một thật tế.
4- Ðạo Ðế: Bát Chánh Ðạo, con đường có tám chi dẫn đến chỗ dập tắt mọi ái dục là một thật pháp.
Thấu đáo được bốn chân lý vô song đó, Tuệ nhãn (hay Pháp nhãn: Dhammacakkhu) nhìn thấy mọi sự vật liền phát sinh trong tâm Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, khiến cho ông mặc nhiên nhất niệm rằng: "Cái gì hễ có sinh thì phải có diệt". Tu Ðà Cấp Cô Ðộc bây giờ là một người hiểu đúng sự thật, dẹp bỏ được hoài nghi, tự tin chắc chắn vào đạo giải thoát, không còn trông đợi vào một tha ân nào khác. Và khi Phật giảng giải chánh pháp xong, ông đã đắc quả đầu Nhập Lưu Tu Ðà Hườn (Sotàpatti), một phẩm Thánh chỉ có tiến lên đích giải thoát chứ không bao giờ còn sa đọa vào ác đạo nữa.
Sau đó Tu Ðà Cấp Cô Ðộc thành tâm thỉnh mời đức Thế Tôn đến dự trai Tăng tại nhà người anh rể ngày mai và được đức Thế Tôn nhận lời. Sau buổi trai Tăng, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền xin phép đấng Toàn Giác chấp thuận cho ông xây cất một ngôi chùa dâng đến chư Tăng để cư ngụ trong thành phố Xá Vệ của mình.
Ðức Phật thay vì chấp thuận một cách xác định, Ngài lại bổ túc sự đồng ý của Ngài bằng cách lưu ý người yêu cầu rằng:
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Các bậc Giác Ngộ chỉ thích những nơi thanh tịnh.
- Bạch đức Thế Tôn! Con đã hiểu! Con rất hiểu tôn ý của đức Phật! Con sẽ chọn một nơi gần thành Xá Vệ nhưng không ồn ào.
Vừa nói Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tỏ vẻ vô cùng hoan hỷ, vì ông biết rằng đức Thế Tôn đã gián tiếp chấp thuận lời yêu cầu của ông (Theo Samyutta Nikàya 10, 8: Tạp A Hàm 10, 8 và CV VI. 4: Tiểu phẩm VI. 4).
Trên đường trở về thành Xá Vệ (Sàvatthi) đi đến đâu Tu Ðà Cấp Cô Ðộc cũng loan tin cho dân chúng biết ý định lập chùa của ông, và ông còn khuyến khích họ chuẩn bị thật chu đáo, để nghinh đón đức Phật một cách long trọng suốt quãng đường dài từ Vương Xá thành (Ràjagaha) đến thủ đô Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu).
Khi về đến đất nhà, ông lập tức đi tìm địa điểm để xây chùa. Nhất là chỗ nào không xa mà cũng không gần thành phố lắm. Ðịa thế phải đúng tiêu chuẩn ban ngày dẫu người đến đông cũng không trở thành hỗn độn và ban đêm tuyệt đối không có tiếng động. Ngôi chùa trong tương lai ấy cũng phải là nơi Phật tử bốn phương có thể lui tới dễ dàng, đồng thời nó phải thích hợp cho những Cao Tăng quen sống trong cảnh ẩn dật, thanh tịnh.

Sau cùng, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã tìm ra trong dải đồi bao quanh thành phố Xá Vệ một quãng đất rừng thưa rất thích hợp cho mục đích lập chùa. Khoảng đất rừng này hiện thuộc về Thái tử Kỳ Ðà (Jeta), con vua Ba Tư Nặc (Pasenadi).
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc lập tức đến gặp vị Hoàng tử ấy, để yêu cầu Hoàng tử nhường lại khoảng đất tốt kia. Nhưng Hoàng tử Kỳ Ðà trả lời rằng:
- Dải đất bằng rừng thưa này, bản Vương tử không có ý định bán cho ai cả.
Rồi Hoàng tử thấy nét mặt Tu Ðà Cấp Cô Ðộc có vẻ khẩn khoản, liền nói tiếp, nửa đùa nửa thật, nêu một cái giá cao gấp trăm lần thực tế:
- Cho dù có ai chịu trả đến mười tám triệu đồng tiền vàng, bản Vương tử cũng chưa chắc đã thuận.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nghe thế liền chụp lấy cơ hội:
- Nếu Hoàng tử chịu nhượng đất cho hạ thần thì giá nào hạ thần cũng mua cả có thể trả bằng vàng lập tức, không để trễ nải.
Hoàng tử Kỳ Ðà tưởng mình nói dọa bằng một giá cực đắc như thế để Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tự ý rút lui, nào ngờ ông tuyên bố chấp thuận mua vô điều kiện, khiến Hoàng tử đâm ra lúng túng
Sự lúng túng đó đã làm cho Hoàng tử Kỳ Ðà không biết giải quyết ra sao. Một mặt Hoàng tử không muốn bán đất, mặc khác Hoàng tử cũng không muốn mất thể diện đã nêu giá cao mà lại nuốt lời.
Sau cùng cả Hoàng tử Kỳ Ðà lẫn bá hộ Cấp Cô Ðộc phải đến nhờ một người làm trọng tài. Người trọng tài này, tuy sợ oai quyền của Hoàng tử Kỳ Ðà, nhưng trong tâm vốn kính nể Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không kém, nên nghĩ ra một cách, đề nghị rằng:
- Ðất của Hoàng tử là đất rất quí. Ai muốn mua đất ấy thì phải đem tiền vàng lót kín diện tích khoảng đất mà mình muốn mua để định giá trả cho Hoàng tử.
Do đó một giao kèo bán đất đã được thiết lập và cuộc thương thuyết kết thúc.
Sau đó, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc ra lệnh cho gia nhân dùng mấy chục cỗ xe chở đầy tiền vàng đến lót kín khoảng đất mà ông đã chọn. Tuy nhiên tổng số vàng của mấy chục cỗ xe chỉ đủ cho diện tích đất chùa mà thôi, còn các lối vào chưa lót, nên ông phải phái tùy tùng trở về, mở kho lấy vàng thêm.
Trong khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc chưa kịp làm vậy, thì Thái tử Kỳ Ðà, vì cảm kích hạnh bố thí của bá hộ Cấp Cô Ðộc nên phát tâm hiến dâng phần đất làm lối đi xung quanh chùa, nơi ấy Hoàng tử sẽ ra lệnh xây cất những ngọ môn, ngoại viên và vòng thành rất trang nghiêm hùng vĩ. Vòng thành và các ngọ môn đó sẽ bảo vệ ngôi chùa, ngăn cản tiếng động từ các trục giao thông có xe cộ di chuyển, đồng thời cũng ấn định ranh giới giữa thánh địa tôn nghiêm và làng xóm bên ngoài. Còn ngoại viên là một lối rộng làm vòng đai xung quanh chùa, cũng được Hoàng tử cho trồng nhiều thứ hoa trang trí, đủ màu sắc, và lót gạch men rất đẹp! Thế là việc Tu Ðà Cấp Cô Ðộc dùng vàng mua đất xây chùa đã kết thúc mỹ mãn.
Tiếp theo, người đại Thiện nam phi thường ấy còn dùng đến mười tám triệu đồng tiền vàng để xây cất chính điện, tịnh thất và tất cả các cơ sở cần thiết khác trong chùa. Chẳng hạn như Tăng phòng, giảng đường, phạn đường, hương đăng khố, hành lang, lối kinh hành, giếng nước, nhà vệ sinh, ao sen, chỗ tắm v.v...! Vì vậy chẳng bao lâu sau, khoảng đất rừng thưa đã trở thành một đại tu viện nguy nga đồ sộ, nổi bật như một trung ương tôn nghiêm, linh địa số một của Phật giáo, thời đức Toàn Giác còn tại thế (Theo CV. VI. 4: Tiểu phẩm số VI. 4).
Khi mọi kiến trúc hoàn tất, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc vội đích thân đi cung thỉnh đức Phật và chư Thánh Tăng đến chứng minh lễ khánh thành. Cuộc khánh thành đã được tổ chức vô cùng trọng thể dưới hình thức nhiều ngày trai Tăng, làm phước, cúng dường thực phẩm và tứ vật dụng đến Thánh nhân.
Phần cúng dường thực phẩm ngày đầu vừa kết thúc thì Tu Ðà Cấp Cô Ðộc yêu cầu đức Phật chỉ dạy cách nào đúng chánh pháp nhất, để ông dâng ngôi chùa vừa kiến tạo đến đấng trọn lành, đức Phật liền bảo:
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Ông hãy hiến dâng ngôi đại tự này cho tứ phương Tăng chúng cả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
Thế là Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã thành khẩn làm theo lời Phật dạy. Và ngôi chùa cũng kể từ đó, được đặt tên là Kỳ Viên Tự (Tức là một tu viện được xây lên ở trung tâm công viên của Thái tử Kỳ Ðà).
Nhân để khen ngợi thiện tâm có một không hai của hiền nhân Cấp Cô Ðộc, đức Phật còn ban kệ ngôn rằng:


"Tạo nơi che chở nhiệt, hàn, thú dữ,
Ngăn khỏi phi trùng, rắn, rít, gió mưa.
Tránh loạn cuồng phong, nóng bức hạn mùa,
Ðể Thánh chúng được yên lành tu tập.
Ðây bảo tự, duyên Tu Ðà nguyện lập,
Thiện hạnh nào hơn nghĩa cử đang làm!
Tịnh xá xây là trú sở cho tâm,
Hiến dâng vật dụng càng đầy ân đức.
Hành pháp Phật, ấy phước điền chân thật,
Gieo giống lành, quả giải thoát về sau.
Hoa nở là khi tâm hết ra vào,
Trong tam giới đầy khổ đau sinh diệt".
(N. Ð. Thoát dịch thành văn vần)



Sau lễ dâng chùa, cuộc làm phước còn kéo dài nhiều ngày, lôi cuốn toàn thể dân chúng quanh vùng tất cả giai cấp đều có mặt: Từ thượng tầng xã hội đến cùng đinh hạ tiện. Mỗi người đến lễ bái đều được Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tặng cho một món quà làm kỷ niệm, khiến chi phí cuộc lễ một lần nữa lên đến mười tám triệu đồng tiền vàng.
Như vậy tổng kết cuộc bố thí của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc trong ba đợt: mua đất, xây chùa và làm lễ đã trở thành một con số khổng lồ là năm mươi bốn triệu đồng tiền vàng. Ông quả thật là một tín thí vô địch của Phật giáo vậy! (Theo Anguttara Nikàya I. 19: Tăng Chi A Hàm số I. 19).
[II] TU ÐÀ CẤP CÔ ÐỘC - MỘT ÐẠI HỘ PHÁP
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tình nguyện tiếp tục nhận lãnh trách nhiệm nuôi nấng Tăng Già và bảo trì ngôi chùa Kỳ Viên cho đến trọn đời. Ông cung cấp hằng ngày tứ sự cúng dường đến chư Tăng. Mỗi buổi sáng, ông dâng cơm nước. Còn buổi chiều thì ông hộ độ thuốc men, nhang khói các lễ đài, và đôn đốc gia nhân rửa sạch bát dĩa, giặt giũ y phục, mền chiếu, cũng như quét dọn, lau chùi toàn diện ngôi chùa một cách thận trọng. Nói tóm lại là những công tác gì chư Tăng không thể làm được thì ông cắt đặt nhân viên thực hiện chu toàn. Nhất là việc chăm sóc vườn hoa và những cây cối rợp bóng mát, cùng ao sen, giếng nước và hồ tắm, để cho khuôn viên xung quanh ngôi chùa được luôn luôn tươi nhuận, hợp vệ sinh.
Về sau này, khi số Tăng chúng tụ tập tại chùa và những thiền viện phụ cận, lên đến hàng ngàn vị, thì hằng ngày, ngoài việc hộ trì toàn thể chùa Kỳ Viên, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc còn thỉnh thêm bảy trăm đại Tỳ khưu về nhà trai Tăng nữa. Nhà ông là một tòa lâu đài cao bảy từng, mỗi từng chứa một trăm Sa môn, nên đến giờ ngọ thực, lâu đài ấy trông giống như một cõi Phạm hạnh, vì từ trên xuống dưới thấp thoáng đầy bóng y vàng và lời ăn tiếng nói thấm nhuần thiện pháp.
Khi tiếng khen về tấm lòng hộ pháp, rộng rãi phi thường của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc lan rộng khắp nơi, thấu tai quốc vương Ba Tư Nặc (Pasenadi). Nhà vua muốn ganh đua danh tiếng với ông, đã bảo cận thần mời năm trăm vị Tỳ khưu vào cung cúng dường mỗi ngày. Một hôm nhà vua có ý định gặp chư Sa môn để xem phản ứng của họ về sự hộ độ rộng rãi của mình ra sao thì được vệ quan cho biết rằng:
- Các thức ăn thức uống của triều đình dành cho chư Tăng, tuy đã dọn sẵn và mời họ tự tiện dùng nhưng các Sa môn lại đem trao cho những Phật tử nhiệt thành khác, rồi bảo họ dâng cúng trở lại, cho hợp lẽ đạo.
Nhà vua cảm thấy khó chịu, thắc mắc rằng:
- Thực phẩm của hoàng gia là những thức ăn thượng hạng, không phải tầm thường, thế mà chư Sa môn đã chẳng tranh nhau thọ dụng, để khen ngợi mà còn có những cử chỉ kỳ lạ?
Sau đó, quốc vương Ba Tư Nặc đến gặp Phật để hỏi duyên cớ thì được Phật trả lời:
- Này bệ hạ! Sự cúng dường đến chư Tăng mời vô hoàng cung của bệ hạ chỉ có hình thức vật chất, nhưng không có giá trị tinh thần. Các quan quân được bệ hạ giao làm việc ấy chỉ biết hành động vì tuân lệnh. Họ tuân lệnh bố thí đến các hàng Sa môn như tuân lệnh dọn quét, rửa ráy một chỗ dơ bẩn, hay tuân lệnh lùng bắt một tên trộm nộp trước triều đình, chứ trong thâm tâm họ không có tối thiểu hiểu biết gì về thiện nghiệp của mình cả. Cũng như họ không có một niềm kính ngưỡng xứng đáng nào đến chư Tỳ khưu Tăng. Trong đầu họ còn nghĩ rằng: "Những Sa môn cao tuổi này chắc không biết làm gì để sống nên phải ăn bám nhờ dân chúng!"
- Này bệ hạ! Khi hiến tặng một vật mà người làm tỏ ra thái độ ấy thì người nhận không dám thọ dụng một cách yên tâm, cho dù vật hiến tặng có đắt giá đến đâu đi nữa! Ngược lại, khi những thí chủ gương mẫu như Tu Ðà Cấp Cô Ðộc hay Nguyệt Trang tín nữ dâng cúng bất cứ vật gì, họ cũng hành động với tất cả lòng thành. Chư Tỳ khưu Tăng lúc nhận, cũng thọ dụng một cách thanh tịnh và quán tưởng rằng: "Bậc xuất gia hằng ngày được thiện nam tín nữ hộ độ thì phải chăm lo tu hành để hồi hướng phúc đức cho toàn thể nhân loại chúng sanh". Rồi họ từ bi đón nhận vật thí.
- Một bữa cơm đạm bạc, hiến dâng bởi một tấm lòng thành vẫn quý hơn cao lương mỹ vị mà đem cho với sự lạnh lùng hay bằng một thái độ khinh bỉ.
- Này bệ hạ! Chắc bệ hạ còn nhớ câu ngạn ngữ: "Cơm chua mà thành tâm chia sớt cho nhau thì cũng trở thành ngon ngọt!?" (Theo Jàtaka 465: Túc Sinh truyện số 465).
Rồi để nhà vua dễ nhớ, đức Phật còn ngâm câu kệ rằng:
"Nắm cơm tuy có tầm thường,
Nhưng tâm thành kính khi nhường cho nhau.
Thì cơm ngon biết dường nào,
Ăn cơm ngon ấy tâm vào an vui".
(N. Ð. Phỏng dịch thành văn vần theo Jàtaka 346: Túc Sinh truyện số 346)
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc và Nguyệt Trang tín nữ không phải chỉ là hai thí chủ lớn nhất của Tăng Già tại thành Xá Vệ, mà họ còn là hai cư sĩ hộ pháp đặc biệt được đức Thế Tôn ban cho diễm phúc thay mặt Phật để tổ chức hàng ngũ Phật tử lúc bấy giờ. (Theo các Jàtaka 337, 346, 465: Túc Sinh truyện số 337, 346, 465).
Tuy nhiên Tu Ðà Cấp Cô Ðộc dù có tiền rừng, bạc biển đến đâu, ông cũng không tránh khỏi cái luật thịnh suy, vô thường và bất trắc. Trong một trận đại bão lụt nọ, ông đã bị nước cuốn trôi đi toàn thể tiền dự trữ gồm mười tám triệu đồng tiền vàng. Rồi những người vay tiền ông tổng cộng đến mười tám triệu đồng tiền vàng khác, cũng quịt luôn không trả!
Gia tài khổng lồ chín chục triệu đồng tiền vàng của ông vốn đã xuất ra ba phần năm để mua đất, cất chùa và làm lễ hết năm mươi bốn triệu đồng tiền vàng rồi (18x3=54). Bây giờ ông gặp nạn bị thiên tai và những kẻ thiếu nợ cướp mất ba mươi sáu triệu đồng tiền vàng còn lại nữa, thành thử bỗng chốc ông trở thành tay không. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc mới ngày nào là một đại triệu phú thì hiện tại là một người nghèo.
Nhưng điều đáng quí là đối diện với nghịch cảnh, ông vẫn tiếp tục làm bổn phận của một người hộ pháp, nuôi dưỡng Tăng Già. Khác chăng là ngày trước ông đủ điều kiện để dâng cúng những bữa ăn đầy đủ, thì ngày nay ông có món gì, thành kính đem dâng chư Sa môn món ấy, để cùng nhau thanh tịnh tu tập, sống qua ngày.
Nhắc lại lúc đó có một vị Thọ thần ngụ trong đỉnh tháp trên tầng lầu thứ bảy tòa nhà Tu Ðà Cấp Cô Ðộc. Cứ mỗi lần đức Phật và chư Thánh Tăng đến, y vì kinh sợ oai đức của Thánh nhân, không dám ở yên trong trú sở trên cao của mình phải bước xuống đất. Ðiều này làm cho y bực bội. Do đó, đã từ lâu, vị Thọ thần hằng tìm cách để làm cho Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không mời Phật và chư Thánh Tăng tới nhà nữa, nhưng y vốn chưa tìm ra dịp tốt.
Nhân cơ hội Tu Ðà Cấp Cô Ðộc trở thành nghèo, Thọ thần liền hiện đến trước mặt viên quản gia của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nói rằng:
- Này bạn! Nhà bá hộ bây giờ đã nghèo rồi, bạn nên khuyên ông chủ đừng cúng dường các Sa môn nữa.
Nhưng người quản gia lại làm ngơ, không nghe theo lời xúi giục ấy. Thọ thần bực tức quay sang dụ dỗ cậu con trai của viên quản gia với mục đích tương tự là chống lại đức Phật và chư Tăng. Rồi y cũng thất bại luôn.
Sau cùng Thọ thần vận dụng hết phép lực của mình, hiện nguyên hình có hào quang bao phủ, trước mặt chủ nhà Tu Ðà Cấp Cô Ðộc để khuyên ông không nên tiếp tục bố thí nữa. Thọ thần viện dẫn rằng: "Vàng bạc là của quí trên đời, không có nó đời sống sẽ vô cùng cơ cực. Vậy nếu còn chút ít, ông không nên đánh mất v.v...".
Nhưng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền điềm tỉnh trả lời:
- Này Thọ thần! Ðối với tôi, trên đời chỉ có ba thứ quí nhất: Ðó là Phật, đấng thân, khẩu, ý trọn lành, hoàn toàn giải thoát. Pháp những lời dạy chân chánh cứu khổ của Ngài, và Tăng, những Sa môn sống đúng phạm hạnh, diệt tận tham, sân, si phiền não, làm phước điền cho chúng sanh nhân loại.
- Này Thọ thần! Tu Ðà Cấp Cô Ðộc này từ ngày giác ngộ được chân lý, chỉ biết tìm kiếm và bảo vệ ba thứ ấy, ngoài ra không ưa thích bất cứ vật gì khác! Bây giờ yêu cầu Thọ thần hãy đi chỗ khác, vì trong nhà này không có chỗ để cho một Thọ thần chống lại Phật, Pháp, Tăng.
Thế là vị Thọ thần, theo luật của cõi Ðịa tiên dục giới phải rời chỗ ở nhà Tu Ðà, mong mỏi đến gặp vị Ðịa tiên đang là thần hoàng của thành Xá Vệ (Sàvatthì) để yêu cầu xin lên bậc trên cho mình có một trú sở mới. Nhưng khi ước muốn của Thọ thần được trình với Tứ Ðại Thiên Vương, thì bốn vị vua trời này cũng không đủ khả năng thẩm xét một vị Thọ thần chống lại Tam bảo, nên cuối cùng số phận của Thọ thần phải đặt vào trong tay của vua trời Ðế Thích (Sakka).
Sống trong cảnh không có trú sở nhất định, rày đây mai đó vị Thọ thần bắt đầu xét lại việc mình đã làm, và ý thức được ấy là nghiệp xấu nên âm thầm hối hận. Vua trời Ðế Thích biết được chuyện ấy bèn để cho Thọ thần lang thang một thời gian, chừng nào can đảm quay về sám hối thì ông mới giải quyết.
Khi Thọ thần đến trước Ðế Thích cầu sám hối và xin một thiện nghiệp gì làm, để chuộc tội thì Ðế Thích phán rằng:
- Này Thọ thần! Ngươi ở trong nhà Tu Ðà Cấp Cô Ðộc biết trước mọi tai nạn suy sụp của chủ nhà mà không báo trước để gia chủ tránh là một lầm lỗi quan trọng! Bây giờ muốn chuộc tội, người phải làm cách nào để hoàn lại gia sản cho Tu Ðà Cấp Cô Ðộc.
Cách chuộc tội đã được đưa ra, vị Thọ thần vô cùng mừng rỡ nhận thi hành lập tức những phán quyết của Ðế Thích để phục thiện. Trước tiên, Thọ thần dùng thần thông gom lại tất cả số đồng tiền vàng của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã bị nước cuốn trôi ra biển. Kế tiếp, Thọ thần tìm kiếm những kho tàng chôn dấu vô chủ nằm trong lòng đất hay dưới nước, hoặc những kho tàng đã có chủ, nhưng cả dòng họ con cháu hiện chết hết không còn ai thừa hưởng. Tìm xong Thọ thần đem tặng tất cả cho Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Sau cùng, Thọ thần quay sang đòi nợ cho ông bá hộ bằng cách hiện vào trong giấc mơ của những người thiếu nợ, dùng thần lực biểu diễn, bảo phải trả nợ cho ông Tu Ðà Cấp Cô Ðộc v.v...
Nhờ vậy, chẳng bao lâu sau, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc bỗng tự nhiên giàu có như cũ. Ngoài việc thu hồi số của cải xưa, ông còn được hoạch tài thêm năm mươi bốn triệu đồng tiền vàng nữa. Số của này tương đương với tổng cộng chi phí ba lần mua đất, cất chùa và làm lễ, chứng tỏ rằng sự cúng dường Tam bảo của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã không làm gia tài ông giảm xuống!
Sau đó, Thọ thần hiện ra trước mặt đức Phật để sám hối, xin Ngài tha thứ cho những nghiệp ác mà y đã tối tăm phạm phải. Ðức Thế Tôn với lòng từ bi vô lượng đã giải tội cho Thọ thần. Ngài còn ban pháp lành cho Thọ thần giác ngộ, rồi y xin qui y trở thành đệ tử Phật nữa.
Ðức Phật giảng thêm cho Thọ thần hiểu rằng:
- Một bậc đại hạnh khi đã dùng pháp bố thí để trở thành hoàn toàn giải thoát, thì không có sức mạnh nào trên thế gian này có thể ngăn cản họ được, dù cho sức mạnh ngăn cản đó phát xuất từ vua chúa, phát xuất từ hiền thần hay hung thần, phát xuất từ ác tiên hay thiện tiên, và ngay cả phát xuất từ thần chết. (Theo Jàtaka 140 và 340: Túc Sinh truyện số 140 và 340).
Sau khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã tái trở thành triệu phú, còn giàu có hơn trước, một người Bà la môn trong vùng vì ganh ghét, muốn tước đoạt cái "phép lạ" (hay bí quyết) đã cứu giúp và phục hồi gia tài Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nhanh chóng như thế. Y bèn nghĩ ngay đến thần tài Siri. (Theo văn minh Bà la môn giáo thì thần tài Siri xuất hiện dưới hình thức "điềm lành" trong nhà người nào thì người đó sẽ trở nên giàu có).
Vậy việc phải làm của người Bà la môn ác tâm kia, là tìm cách chiếm đoạt cái "thần tài" hay điềm lành ấy đem về nhà y, thì tự nhiên y sẽ trở nên giàu có. Ðiều này cũng phản ảnh niềm tin của tín đồ Bà la môn giáo rằng: Ai giàu có trên đời là nhờ tìm được "tín hiệu", tức thần tài hay phú lệnh (còn gọi là điềm lành) do Thượng đế ban xuống trần gian. Chứ không phải sự giàu có hiện tại là do gặt hái quả lành từ thiện nghiệp của mình đã tạo trong kiếp trước như đức Phật đã dạy! Nói một cách khác "thần tài" là một loại "âm binh" của Thượng đế rải xuống trần gian. Ai tìm cách chiếm đoạt hay dụ dỗ, cầm giữ được những hình tướng của các "âm binh" này trong nhà mình, thì mình sẽ trở nên giàu có
Nghĩ đoạn, người Bà la môn tìm đến nhà Tu Ðà Cấp Cô Ðộc. Y xin phép được vào tận bên trong để quan sát tìm kiếm tín hiệu của thần tài. Nhờ biết nham độn và có khả năng bói toán nên y liền thấy thần tài "nằm" trong con gà trống lông trắng được bá hộ Tu Ðà Cấp Cô Ðộc rất cưng, nhốt trong một lồng bằng vàng.
Người Bà La môn lập tức hỏi xin con gà cồ lông trắng, y viện lý do rằng y sẽ dùng tiếng gà gáy buổi sáng của nó để đánh thức đám học trò dậy. Với hạnh nguyện bố thí, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không chần chừ liền cho con gà. Nhưng ngay lúc ấy "tín hiệu thần tài" lại rời con gà, nhập vào một viên ngọc trên áo của chủ nhà. Người Bà la môn biết được sự việc quay qua xin viên ngọc thì y thấy "thần tài" bỏ viên ngọc, nhập vào trong cây gậy của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc. Y lại xin cây gậy thì "thần tài" di chuyển đến mái tóc của người đệ nhất phu nhân Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, tên là Punnalakkhana, một người đàn bà rất nhiều phúc đức và luôn luôn được các hàng chư Thiên vô hình bảo vệ.

Khi người Bà la môn nhìn thấy đệ nhất phu nhân Punnalakkhana thì y giật mình hoảng sợ, tự nhủ rằng: "Chết chửa! Bây giờ thần tài nằm trên mái tóc của đệ nhất phu nhân Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, lại có Thiên chúng hộ vệ thì ta hết đường chiếm đoạt".
Cuối cùng, người Bà la môn vì hổ thẹn đã thú thật dã tâm của mình với chủ nhà, rồi trả lại con gà, viên ngọc và cây gậy, đoạn bỏ đi.
Khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đến thăm Phật, thuật hết mọi chuyện liên quan đến người Bà la môn biết một thứ nham độn mà ông không hiểu gì cả, thì được nghe đức Phật giảng giải rằng:
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Sự định tâm của con người có thể giúp họ biểu diễn được một số khả năng đặc biệt.
- Này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Nếu khả năng vật chất của loài người có thể tiện lợi, nhanh chóng, chính xác và tối tân hơn, nhờ vào những dụng cụ hay máy móc tinh vi, thì khả năng tâm linh của họ cũng có thể nhiệm mầu tuyệt diệu hơn, nhờ những ưu tính tu luyện thuần thục, thanh tịnh và thánh thiện.
- Xa hơn nữa, này Tu Ðà Cấp Cô Ðộc! Niết bàn là một phẩm cách siêu việt đối với phàm nhân và những ai chưa dứt sạch phiền não. Nhưng Niết bàn là một pháp rất hiển nhiên và thực tế đối với các bậc đã hoàn toàn giải thoát. (Theo Jàtaka 284: Túc Sinh truyện số 284).
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc vốn có một lòng sùng kính đức Phật vô cùng chu đáo. Ông nghĩ đến mọi hình thức tạo phúc hướng về đức Phật. Khi đấng Toàn Giác có mặt gần ông tại đất nhà, thành phố Xá Vệ, thì ông hẳn đến Kỳ Viên Tự lễ bái hằng ngày. Nhưng những lúc đức Bổn Sư phải đi xa, lê gót chân ban bố chánh pháp các nơi khác, thì ông phải làm sao? Thế là một ý nghĩ tạo phương tiện để gián tiếp lễ bái đức Phật tại Xá Vệ lại nảy ra trong đầu óc ông.
Một hôm Tu Ðà Cấp Cô Ðộc ngỏ ý với Tôn giả A Nan Ðà rằng: "Ông muốn xây một kiến trúc dành riêng cho đức Phật gần Kỳ Viên Tự". Rồi qua trung gian của Tôn giả A Nan Ðà, ông được nghe đức Phật dạy:
- Có ba hình thức kiến trúc để tưởng nhớ lâu dài đến tròn giáo pháp một vị Phật. Ðó là Bảo tháp (hay đền thờ), đài Kỷ niệm, và Thánh địa:
1/ Bảo tháp (hay đền thờ) dành để an trí các di thể, từ nhục thân của Phật để lại. Chẳng hạn như Xá lợi hay tro quí sau khi viên tịch hỏa táng v.v...
2/ Ðài Kỷ niệm dùng để lưu giữ những vật dụng của đức Phật đã từng ít nhất là dùng một lần lúc sinh tiền. Chẳng hạn như bình bát, cội Bồ đề.
3/ Thánh địa dùng để gợi hình ảnh tượng trưng cho sự xuất hiện và những sinh hoạt của đức Phật khi còn tại thế.
Trong ba hình thức ấy để gián tiếp lễ bái này, cái thứ nhất không có được, vì đức Thế Tôn còn sống. Cái thứ ba cũng không thích hợp, vì Thánh địa gợi hình ảnh tượng trưng cho sự xuất hiện và sinh hoạt của đức Phật, chỉ có giá trị sau khi đức Phật đã khuất bóng! Còn lại hình thức lễ bái gián tiếp thứ hai là "Phật dụng" (hay đồ dùng của đức Phật) thì khả dĩ tạo được.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền nghĩ ngay đến cây Bồ đề ở xứ Uruvela, gần sông Ni Liên (Anoma) mà đức Phật đã dùng che nắng che mưa, để tìm ra con đường giải thoát, cứu khổ cho mình và toàn thể chúng sanh. Chính dưới cội Bồ đề này, Ngài đã tìm ra và mở được cánh cửa bất tử.
Suy nghĩ về những giá trị vật dụng như thế, sau cùng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc quyết định mang một nhánh Bồ đề, từ chỗ đức Phật đã đắc đạo kia, về trồng trong thành Xá Vệ.

Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên biết được thiện ý của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, liền tình nguyện dùng thần thông chiết một nhánh con Bồ đề từ Bồ đề đạo tràng, mé rừng Uruvela (Khổ Hạnh lâm) thuộc nước Ma Kiệt Ðà (Magadha) mang về thành Xá Vệ. (Lời thêm của dịch giả: Khoảng cách từ thành Xá Vệ đến Bồ đề đạo tràng rất xa, ngày nay nếu đi xe hơi cũng phải chạy một ngày ròng rã mới tới. Vả lại, thuở ấy kỹ thuật canh nông trồng trọt không tối tân như bây giờ. Một nhánh Bồ đề con mà chuyên chở bằng kỵ mã hay mã xa, dưới ánh nắng như thiêu như đốt của miền Trung Ấn thì không cách gì còn sống đến chỗ trồng. Ðây chính là lý do mà Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên đã phải dùng thần thông, một khả năng mà Thánh Tăng chỉ dùng trong những trường hợp bị bắt buộc.
Nhắc lại việc trồng cây Bồ đề tại đại ngọ môn chùa Kỳ Viên thành Xá Vệ. Khi ấy, ngoài sự chứng minh của đức Phật và Thánh chúng, còn có sự hiện diện của quốc vương Ba Tư Nặc. Tôn giả A Nan Ðà nhìn Ðại thánh Mục Kiền Liên thì thấy tự nhiên ông biến mất. Rồi chỉ một nháy mắt sau, ông đã hiện nguyên hình trở lại, trên tay cầm một nhánh Bồ đề con tươi rói, như mới được chiết từ thân cây mẹ cách đó vài giây. Tôn giả A Nan Ðà nhân muốn đề cao thẩm quyền cai trị của một vị quốc vương trong lãnh thổ của họ, nên đã đón lấy cây Bồ đề con trên tay Ðại thánh Mục Kiền Liên và trao lại cho vua Ba Tư Nặc.
Nhưng vua Ba Tư Nặc vội khiêm nhường nói rằng:
- Bạch đức Thế Tôn và chư Thánh Tăng! Trẫm chỉ là người đứng đầu trong vương quốc về mặt đời. Còn về mặt đạo, chính Tu Ðà Cấp Cô Ðộc mới là bậc cư sĩ duy nhất xứng đáng gieo trồng giống Bồ đề thánh thiện này trên lãnh thổ của chúng ta. Vậy trẫm đề nghị nhường danh dự ấy cho Tu Ðà Cấp Cô Ðộc".
Thế là cây Bồ đề được trồng tại trung tâm công trường, cổng chính dẫn vào Kỳ Viên Tự.
Và thời gian lặng lẽ trôi qua cây Bồ đề trước, chùa Kỳ Viên mỗi ngày một cao lớn, cành lá sum suê, cho bóng mát và nhắc nhở những kẻ thiện tâm tưởng nhớ đến khung cảnh nơi đức Phật đã thành đạo. Ðể tăng cường ý nghĩa sự hiện diện của cây Bồ đề chùa Kỳ Viên, Tôn giả A Nan Ðà còn cung thỉnh đức Phật ngồi tham thiền bên gốc cây Bồ đề này để ban phúc đến Thọ thần và làm cho địa điểm càng lúc càng tăng sự thánh thiện, thanh tịnh.
Riêng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, kể từ ngày cây Bồ đề hiện diện trước Kỳ Viên Tự ông đã xem đó như một hình ảnh thứ hai của đức Phật, nhất là những khi đấng Toàn Giác đi hóa đạo phương xa. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc hằng ngày lại dùng cây Bồ đề làm đề mục tu thiền và ông đã ổn định được tâm hồn mình xuyên qua một hình ảnh gần nhất với sự đắc đạo của đức Phật (Theo Jàtaka 479: Túc Sanh truyện số 479).

Chương 3
GIA QUYẾN TU ÐÀ CP CÔ ÐC
Tu Ðà Cấp Cô Ðcng có gia đình, v con mt cách êm m như tt c mi người. V hin ông tên là Punnalakkhana, nghĩa là "N nhân phúc tướng", và bà đã có mt đời sng trưởng giả đúng như ý nghĩa cái tên ca bà. Trong gia đình, phu nhân Punnalakkhana luôn được s yêu kính ca tt c mi người. Bà như mt n thn hng bo v toàn gia tộc, hin lành vi k ăn người và thường xuyên h độ chư v Thánh Tăng. Ngoài xã hội, bà là mt tín n rt thm nhun Pht giáo, vì bà đã theo chân người anh rể góp mt trong s nhng tín đồ đầu tiên ca đức Pht.
Tu Ðà Cấ
p Cô Ðc có bốn người con: ba gái mt trai. Trong ba tiu thư y, có hai nàng tên là Tiu Minh (Little Subhaddà) và Ðại Minh (Big Subhaddà) rt thm nhun chánh pháp và đã đắc qu Nhp Lưu Tu Ðà Hun (Sotàpatti) như thân ph ca hai cô. Ba nghip thân, khẩu, ý hng ngày ca hai cô này vn noi gương cha nên danh thơm đạo đức và sinh hoạt kinh doanh luôn luôn thnh vượng. Hai cô đã ly chng xng đáng và trở nên giàu có. Riêng cô gái thứ ba mà cũng là cô con gái út ca Tu Ðà Cp Cô Ðộc, tên là Sumanà (tm dch là M Hoa) thin căn vượt hn mi người trong gia đình. Cô này có trí tu phi thường. Ln đầu tiên M Hoa nghe Pht thuyết pháp, cô liền đắc qu Tư Ðà Hàm, tc quả Nhất Lai (ch còn b luân hi mt ln na). Thánh quả Tư Ðà Hàm là bc th hai sau thánh qu bc th nht là Tu Ðà Hun (còn bị luân hi by ln na ). K t đó, tâm hn c?a M Hoa (Sumanà) thường xuyên thanh tịnh. Cô không chu ly chng vì cô không bao giờ để tâm mình b ô nhim trong tình yêu nhục dc. Mi ln cô nhìn thy cái hnh phúc la đôi mà cô biết là không tránh khỏi lut vô thường, ca hai người ch, cô đâm ra bun bã và lo ngại cho h. Sau cùng vì không còn mt chút gì mc dính vi cuc sng thế gian, cô đã tinh tn tu thin, không màng đến ăn ung, nên cô đã viên tch trước sự tiếc thương ca toàn th gia đình.
Sau khi chế
t, M Hoa (Sumanà) được sinh lên cõi trời Tusita, thiên cnh cao nht ca cõi Dc gii. Và đó cô đã tinh tấn tu tp, diệt trừ nhng phin não vi tế còn li, ri đắc qu hoàn toàn giải thoát khi sinh t luân hi. (Theo chú gii Kinh Pháp Cú).
Ngườ
i con trai duy nhất ca Tu Ðà Cp Cô Ðc tên là Kàla, có nước da ngâm đen. Cu ta là đứa con ni dòng ca gia tc h Tu Ðà. Kàla không muốn biết bt c mt giáo thuyết nào c, hng ngày cu ch mit mài trong ngh buôn bán làm giàu. Mt hôm Tu Ðà Cấp Cô Ðc đã khuyến khích con mình gi Bát quan trai gii bng cách thưởng cho mt ngàn đồng tin vàng. Cu ta lin bng lòng, và sau đó cảm thy ngày thọ gii Bát quan trai đã làm cho tâm hn cu ta d chu. Thế là t y về sau, mỗi tun Kàla ngh buôn bán mt ngày, để cùng vi gia đình th Bát quan trai giới. Nh vy mà cái không khí gi Bát quan trai ca gia đình Tu Ðà Cp Cô Ðộc đã trở nên đồng thun, thoi mái, ch không phi là mt hình thc làm cho Kàla bực bi, khó chu như thu trước.
Tiế
p theo Tu Ðà Cp Cô Ðc li khuyến khích con trai mình đến chùa vào nhng ngày l để nghe đức Pht thuyết pháp, cũng bng cách thưởng cho mt ngàn đồng tin vàng khác. Kàla li mt ln nữa vui mng chp thun. Nhưng ln này chính là khúc quanh ca đời sng tâm linh cậu ta. Vì sau khi nghe pháp, cu lin đắc qu Tu Ðà Hun.
Kể
t đó, sinh hoạt hng ngày ca Kàla cũng ging như ph thân chàng là chỉ biết tu hành làm phước. Cu đã tr thành mt trong nhng thí ch quan trng nht ca Pht giáo. Người ta đã gi Kàla là "Thiếu Mnh Thường" Cp Cô Ðc để phân bit vi danh hiệu ca ph thân chàng là "Thái Mnh Thường" Cp Cô Ðc (Theo chú gii Pháp Cú Kinh: Dhammapada).
Kàla lậ
p gia đình vi nàng Sujàtà, em gái ca mt nữ thí chủ ni tiếng là bà Visàkhà (Nguyt Trang). Visàkhà là dâu ca mt ông bá hộ khác trong vùng tên là Migàra. Nhưng người đương thi thường gi Visàkhà (Nguyt Trang) là "Pháp mẫu" của bá hộ Migàra. Lý do ch vì Visàkhà rt thm nhun Pht giáo và đã đem chánh pháp truyn li cho cha chng. Người cha chng này lúc trước vn qun trí, đau kh vì mt s phin não, suýt t trn nên sau khi nhờ dâu hiền dùng Pht giáo cu kh lin không ngn ngi gi nàng là "Pháp mu", tc là kẻ đã dùng Pháp bo làm cho ông được "tái sinh" li vy.
Visàkhà (Nguyệ
t Trang) là mt người đàn bà hin hu, gương mu bao nhiêu, thì cô em gái Sujàtà, vợ ca Kàla, li là mt n nhân xu tính, t đắc by nhiêu. Cô vào sự giàu có của c bên mình ln bên chng nên t ra gay gt, bt b, chp nht mi người tng chút. Trong đầu óc Sujàtà, không bao gi có mt tư tưởng cao thượng hay thiện cm được gi lên, mà ch toàn là bt mãn, thiếu thn, bun bc sn sàng tuôn ra để làm phin ly cho bt c ai nm trong tm nóng gin ca cô.
Sujàtà có thể
đánh đập k ăn người bt c lúc nào. Và cô có mt ở đâu là đó có s s hãi, khng b. Cô cũng chng bao gi tôn trng gia giáo, trật t trong gia đình cha m chng, và ngay cả ca chính chng nàng na. Ðây vốn là lý do mà Sujàtà đã không được người ngoài hay thân nhân trong gia đình thương mến, kính trng.

Mộ
t hôm, sau ba th trai, như thường l, đức Phật bt đầu thuyết pháp thì nhiu tiếng la hét, gt gng, qu mng gia nhân của Sujàtà làm kinh động c nhà. Ðc Thế Tôn bèn ngưng thuyết pháp hi Tu Ðà Cp Cô Ðộc xem tiếng n ào xng xói y t đâu ti, thì Pht được biết ging gt gng kia không phải ca ai khác, mà là ca cô dâu trong nhà, mt người đàn bà đanh đá vô lễ đối với chng con, cha m. Cô ta chng bao gi biết b thí, chng bao giờ có tín đức và thường xuyên gây g cãi c vi mi người xung quanh.
Ðứ
c Phật lin cho mi cô dâu ca Tu Ðà Cp Cô Ðc ra nghe thuyết pháp. Khi thiếu phụ ấy xut hin trước mt, thì đấng Toàn Giác bèn hiền t hi:
- Này nữ thiế
u ch! Cô là v ca mt thanh niên bá h. Vy cô có th vui lòng cho Như Lai biết cô t xếp hng nào trong by loi v trên thế gian này?
- Thư
a Sa môn Cồ Ðàm! Ngài mun hi gì tôi không hiu. Xin Ngài hãy gii ra cho.
- Này nữ
thiếu ch! Ðược lm! Như Lai sn sàng gii đây, vy cô cn lng nghe!
Rồ
i đức Pht thuyết mt bài k dài gm chín đon:


1."Nữ nhân mê của, nim tin chng có
Chê chồ
ng mình, đàn ông khác li trông
Ðể
được giàu sang, bụng sn giết chng
Vợ
n thế, v sát nhân ác loại".
2."Củ
a chng kiếm bng bán buôn ln li
Bằ
ng cy cày, bng đồng áng quanh năm
Mà nữ nhân mưu s gi riêng mình
Vợ
như thế, khác nào phường trộm cp".
3-"Thích ngủ
, ham ăn, biếng lười, dng lp
Lờ
i l cc cn, cách chanh chua
Chồ
ng càng nhn, thương, càng hiếp đáp ba
Vợ
như thế, vợ bo tàn cay độc".
4."Nữ
nhân nào xem mình như nô bc
Chă
m sóc chng như hin mu chăm con
Giữ
ca cho chng không để hao mòn
Vợ
như thế sánh mẹ hin chng khác".
5."Nữ
nhân nào kính thương chồng trong mắt
Như
em gái dành cho một người anh
Phụ
c v chng luôn theo ý phu quân
Vợ
như thế, tỷ mui nào dám sánh?".
6."Nữ
nhân nào chng thy là hân hnh
Như
bn xa nhau gặp li hng năm
Dung mạ
o du dàng, nhân đức thm nhun
Vợ
như thế, thin hu nhân chánh trực".
7."Nữ
nhân nào, không gin hn thành thực
Mề
m mng vi chng, kiên nhn khoan tâm
Giậ
n chng gi lâu, vâng ý chồng làm
Vợ
như thế, chính là viên ph tá".
8-"Các vợ
sát nhân, độc tài, lang chạ
Cướ
p ca, bt lành, chng kính n ai
Mạ
ng th hết rồi, sẽ khổ chng sai
Cử
a địa ngc hn là nơi h đến".
9-"Như
ng nếu v như mẹ hiền, em mến
Như
bn thân hay ph tá nhân t

Ðầy đủ đức lành, thanh nhã tâm tư
Sau khi chết s tái sinh hnh phúc!".
(N. Ð. Thoát dị
ch ra văn vần).



- Này nữ
thiếu ch Sujàtà! Ðây là bảy hng người v mà mt người đàn ông có th gp! Vy Như Lai xin hi Sujàtà: Trong by hng v y Sujàtà tự mình xếp vào hng nào?
Bài kệ
đã làm cho Sujàtà thc tnh và động lòng. Cô liền ha vi đức Pht t rày v sau cô s c gng hành động như mt viên phụ tá đối vi chng. Li dy ca đức Thế Tôn qu đã có hiu lc làm cho Sujàtà trở thành một người v tt. T đó, nàng hết lòng tin tưởng vào đức Pht và không quên nhớ ơn Ngài đã dùng chánh pháp cu độ tâm hn mình.
Tin đồ
n nàng Sujàtà, con dâu của ông Tu Ðà Cp Cô Ðc đã phc thin loan ra rt nhanh. Mt buổi ti, đức Thế Tôn đi vào trong ging đường chùa K Viên, bng thy nhiu Tỳ khưu đang bàn tán. Pht hi lý do thì mi biết h ca ngi kết qu k l ca Pháp bảo. Sau đó h còn tán thán oai lực ca đấng Toàn Giác đã k diu, có th chuyn hóa được mt người đàn bà ác độc như rng, như rn, tr thành mt n ch nhân hiền lành, kiu dim. Nhân đó, đức Pht đã thut li cho chư T khưu đệ t nghe một câu chuyn trong quá kh gia tin thân Phật và tiền thân nàng Sujàtà. Kiếpy nàng sinh làm m v B Tát, và người con B Tát đã sáng sut khuyên nh bà mẹ nhiều tt xu ca mình, cha b chi mng và hng hách, bng cách so sánh phong cách của loài chim sơn ca có c ch thanh nhã và tiếng hót thanh tao với ging quạ có c ch xc xược và tiếng kêu chói tai, ai nghe cũng cm thy khó chu. (Theo Jàtaka 269 và Anguttara Nikàya VII 59: Túc Sinh truyện 269 và Tăng Chi A Hàm VII 59). (Lời thêm ca dch gi: Nàng Sujàtà, con dâu ca Tu Ðà Cp Cô Ðc là một người khác. Xin quí Pht t ch lm ln nàng vi n thí ch Sujàtà đã dâng cơm sa ln đầu tiên đến đức Pht, sau khi Ngài t b cách tu kh hnh thái quá để tr v con đường gia: Trung đạo).
Sau cùng là nói đế
n người cháu trai của Tu Ðà Cp Cô Ðc. Cậu này được tha hưởng mt gia tài lên đến bn chc triệu đồng vàng. Nhưng cu ta ch thích sng hoang đàng ăn chơi, phung phí, ti ngày chỉ biết rượu chè, c bc. Cu đã dùng hàng trăm ngàn đồng tin vàng trong việc chơi bi trác táng vi nhng cô gái lầu xanh và bạn bè hư hng. Mt con người ngu mui như cu thì tin bc dù cht cao bng núi cũng có lúc hết sạch.
Ngày kia, khi gia tài mạ
c tn, cu bèn tìm đến người chú để xin giúp đỡ. Tu Ðà Cp Cô Ðc lin tng cho cu ta mt ngàn đồng tin vàng và khuyên cháu mình nên dùng số y để làm vn, gy dng li sn nghip.
Như
ng cu ta vẫn chng nào tt ny, nên chng bao lâu s tin y cũng xài hết. Ln th hai cậu đến xin, ri ln th ba, ln th tư v.v... C mi ln người cháu phá sn yêu cầu, thì Tu Ðà Cp Cô Ðộc li cho tăng s giúp đỡ thêm mt ngàn đồng tin vàng nữa, hy vng rng cháu mình s đủ s làm vn hu xây li cuc đời.
Như
ng khi người cháu đến xin ln th năm thì Tu Ðà Cp Cô Ðc va cho năm ngàn đồng tiền vàng va cnh cáo: "Nếu cu không lo t sinh kế, tình chú cháu s chm dứt". Mc dù li hăm da đon giao ca Tu Ðà Cp Cô Ðc, người cháu vn đem nướng s tin y vào nhng nơi chơi bi trác táng.
Về
sau, mi ln người cháu hư hng này đến xin, thì toàn th gia đình Tu Ðà Cp Cô Ðc xem cu như mt người ăn mày ch không coi cu là con cháu trong nhà na. T đó h ch cho qun áo và thức ăn, ch không tng tin bc.
Như
ng con người trụỵ lc đó đã không còn biết h thn, t trng và danh d. Cu c nài n thân nhân hãy cho tiền để cu xài, ch cu không mun nhn áo qun hay thc phm. Bi tính lười biếng và ương ngnh, nên thm chí vic đi hành kht để kiếm ăn, cu cũng không làm. Kết qu cu đã chết đói trong mt góc đường tăm ti.
Khi thi hài cậ
u được tìm thy cnh mt chân tường, người ta đã nht nó vt vào trong hm xác, chôn những t thi vô ch. Tu Ðà Cp Cô Ðc được gia nhân thut li chuyn này, ông liền t hi rng: "Phi chăng ông đã gián tiếp để cho cháu ông chết kh như thế?".
Sau đ
ó Tu Ðà Cp Cô Ðc đến gp Pht, thut li mi chuyện, và hi đức Thế Tôn xem cương v mt người chú như ông, ông có th hành động cách nào khác, đối vi đứa cháu hư hng như thế?
Ðứ
c Pht lin dùng kh năng Chánh Biến Tri ca mt bc Toàn Giác để "nhìn vào" trong quá kh, thy rõ nhng nhân duyên ác nghiệp ca người cháu Tu Ðà Cp Cô Ðc chng cht như thế nào, ri bin giải được s lo âu, s cng nghip trong tâm hn Tu Ðà Cp Cô Ðc. Pht nói:
- Này Tu Ðà Cấ
p Cô Ðc! Lòng tham tin bc tích t ca loài người tuy vô đáy, nhưng còn có cách điu chnh, trước khi s chết xut hin. Ch lòng tham hưởng th khoái lc nhc dc thì không th nào cu vãn sm hơn lưỡi hái của t thn".

- Này Tu Ðà Cấ
p Cô Ðc! Vì tính say mê sc dc và hưởng thụ vt cht (sinh ra lười biếng ) mà đứa cháu try lc ca ông đã chịu chết đói hẩm hiu như thế trong quá kh (tin kiếp) nhiu ln ri, ch đây không phi là lần th nht!"

Chương 4
TU ÐÀ CẤP CÔ ÐỘC TIẾP ÐỘ GIA NHÂN, THÂN HỮU
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, một khi đã đắc quả Nhập Lưu, ông tinh tấn giữ đúng giới luật, thanh tịnh tâm hồn và nhiệt thành hướng dẫn thân thuộc xung quanh ông hướng về thiện nghiệp. Vì vậy ông đã sống trong một gia đình mà mọi người đều biết tu hành. Ðức hạnh của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không phải chỉ thấm nhuần đến vợ con, kẻ ăn người ở, mà còn thuyết phục được họ hàng của những cộng sự viên này nữa, khiến họ cũng thích bố thí, thích giữ giới và lo trai tịnh trong các ngày lễ (Theo Jàtaka 382).
Tư gia của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tự nhiên đã biến thành một trung tâm từ thiện và phạm hạnh. Rồi tiếng lành lan rộng khắp vùng, thấu tai bạn bè và những bá hộ trong giới trưởng giả thành Xá Vệ.
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không ép buộc bất kỳ ai tin theo Phật giáo. Ông cũng chẳng né tránh các khó khăn trong công cuộc làm ăn hằng ngày. Nhiều giai thoại về sự dũng cảm tranh đấu để tiến bước kinh doanh thuở ấy của ông, cũng đã được ghi lại trong nhiều kinh điển.
Một lần nọ, một nhóm người nghiện nhậu trong thành Xá Vệ hết tiền mua rượu. Họ bèn nghĩ ngay đến cách làm thế nào để phục rượu Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, ông bá hộ rất bình dân, hằng sống gần gũi với những dân nghèo. Trong đầu óc bọn người nghiện rượu này nghĩ rằng: "Hễ phục rượu được cho ông bá hộ thật say thì họ sẽ dễ dàng móc túi lấy tiền!". Sau thời gian theo dõi, họ biết Tu Ðà Cấp Cô Ðộc thường dùng một con đường đặc biệt để tới lui thăm viếng nhà vua, họ bèn dựng lên một quán nhậu trên con đường ấy. Khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đi ngang thấy họ, dừng chân lịch sự chào hỏi, thì họ lập tức mời ông uống rượu. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc liền nhã nhặn từ chối và nói rằng:
- Một Phật tử thuần thành không bao giờ say sưa. Rồi ông bỏ đi.
Nhưng nhóm người nghiện rượu vẫn không chịu bỏ qua. Họ chờ ông bá hộ thăm vua xong, trên đường trở về, sẽ mời uống rượu một lần nữa. Lần này, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc nhìn thẳng vào mặt nhóm người dã tâm nghiêm nghị nói rằng:
- Phải chăng các anh muốn phục rượu tôi để móc túi? - Nếu thật sự mấy anh thích nhậu thì tại sao tất cả các bình rượu ở đây vẫn còn nguyên? Ác tâm của các anh không thể qua mắt tôi được đâu".
Nhóm dân nhậu nghe thế, hoảng sợ, vội biện hộ cầm chừng rồi rút lui mất dạng. (Theo Jàtaka 53).
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc còn có một đức tính đáng khen khác là "hỷ xả" trước những kẻ sống nhờ một số nghề đồng lõa với sự phạm giới. Chẳng hạn như câu chuyện sau đây:
Một trong những người bạn của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc làm nghề bán rượu. Ông biết vậy nhưng vẫn đối xử bình thường như một người bạn. Ngày kia, người bạn "bán rượu" này, vì sự bất cẩn của một tên giúp việc, đã mất hết sản nghiệp. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc hay tin ấy, liền đến chia buồn và tùy khả năng giúp bạn, chứ không phân biệt nghề nghiệp của bạn mình có hợp với Phật giáo hay không. Nói một cách khác: Tu Ðà Cấp Cô Ðộc là một thiện tín giữ giới luật rất trong sạch, gương mẫu, nhưng ông không bao giờ ép buộc người thân phải làm như ông, hay tỏ ra mình đủ giới hạnh rồi xem thường kẻ khác! (Theo Jàtaka số 47).
Một lần khác, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc điều động chuyên chở một số hàng hóa ngang qua một vùng có nhiều trộm cướp. Ông đã khôn khéo chọn sự vất vả tìm đường đi, tránh nơi bọn cướp phục kích, dù phải hành trình suốt đêm. Kết quả đoàn vận tải của ông đã được bình yên. Và lời Phật dạy ông đem áp dụng thực sự mang lại kết quả tốt.
Phật dạy: "Người có trí là người biết tạo sự an toàn bằng cách tránh xa những địa điểm nguy hiểm, hơn là biểu dương anh hùng tính của mình, để chạm trán với kẻ dữ".
Tu Ðà Cấp Cô Ðộc cũng có tài tuyển chọn người hợp tác rất chính xác. Ông có một người bạn từng chơi với nhau từ lúc tuổi còn thơ. Người bạn này mang một cái tên nghe không mấy gì đẹp tai là "Bất Hạnh Ðiểu" (tức con chim xui xẻo). Nhưng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc không úy kỵ cái tên "xấu" ấy, ông luôn luôn đối xử thân mật với Bất Hạnh Ðiểu, và khi người bạn nghèo túng, ông còn sẵn sàng giúp đỡ tiền bạc, rồi đua bạn mình vào làm việc trong tư gia!
Thân nhân và người lối xóm ai cũng chỉ trích Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã mang điềm xấu (Bất Hạnh Ðiểu) vô nhà. Nhất là họ viện dẫn rằng: "Bất Hạnh Ðiểu thuộc về giai cấp thấp hèn hơn Tu Ðà Cấp Cô Ðộc". Nhưng Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã thẳng thắn phản đối. Ông nói:
- Cái tên chỉ là cái tên! Trong biệt danh không có sự lành sự dữ! Người trí không bao giờ bận tâm với chuyện dị đoan vô ích.
Ngày kia, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đi buôn bán xa. Ông giao phó nhà cửa cho Bất Hạnh Ðiểu trông coi. Bọn ăn trộm nghe tin ông bá hộ vắng mặt liền lập mưu cướp của. Nhưng khi chúng núp xung quanh ngôi nhà, chờ dịp xâm nhập, thì Bất Hạnh Ðiểu nhờ tính cảnh giác và thông minh canh chừng, đã dùng chuông trống đánh ầm lên, như trong nhà đang thiết lễ lớn, khiến cho bọn gian nhân đang rình ăn trộm bên ngoài hoảng sợ, tưởng rằng ông bá hộ và đoàn vệ sĩ hiện có mặt trong nhà chứ không đi đâu cả. Thế là chúng im lặng rút lui.
Khi Tu Ðà Cấp Cô Ðộc và đoàn tùy tùng trở về, thấy nhà cửa an toàn, đồng thời nghe câu chuyện bọn cướp bị thất bại ấy, ông bèn tuyên bố với những người "dị đoan" đã chỉ trích ông rằng:
- Ðấy! Quí vị thấy chưa? Bất Hạnh Ðiểu đã làm việc rất hữu hiệu, đẩy lui được trộm cướp. Nếu tôi nghe theo lời khuyên dị đoan của các người, đuổi Bất Hạnh Ðiểu đi, thì bây giờ tôi đã mất của rồi" (Theo Jàtaka 83. 121).
Hầu hết những thân hữu của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc là những người không Phật giáo, và giữ tín ngưỡng riêng. Thậm chí một số lớn còn là đệ tử của những đạo sĩ du phương cầm đầu, đại diện cho nhiều môn phái đang phát triển mạnh ở Trung Ấn Ðộ thuở bấy giờ. Thế mà một hôm Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tỏ nhã ý mời hết những thân hữu ấy kéo nhau đến nghe đức Phật thuyết pháp, thì họ đồng loạt vui vẻ đi liền. Và chỉ sau khi nghe thuyết pháp, lần đầu tâm hồn họ đã đổi khác. Một sự kinh cảm thấy được chân lý đã thúc đẩy họ lần lượt xin làm đệ tử Phật.
Và kể từ đó họ thường xuyên lui tới Kỳ Viên Tự, mang bốn món vật dụng đến dâng cúng cho chư Tăng và tinh tấn giữ tám giới trong những ngày thánh lễ. Nhưng tiếc thay, thiện hạnh ấy họ không thực hiện được lâu, vì sau đó, khi đức Phật đi hóa đạo phương xa, vắng mặt trong thành Xá Vệ, thì họ lại chểnh mảng ít đi chùa, rồi dần dần quay trở lại với những giáo chủ cũ.
Mấy tháng sau, khi đức Thế Tôn trở về thành Xá Vệ, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc lại dẫn những người bạn ấy đến thăm đức Phật. Lần này, đấng Toàn Giác không những giải rõ cho họ thấy các khía cạnh thực tế hữu ích của Phật giáo, mà Ngài còn cảnh cáo rằng:
- Chẳng có một Thần linh hay Thượng đế nào có thể che chở cho con người tránh khỏi khổ đau phiền não hơn là tự mình tự tu, tự độ, trong sự thường xuyên thân cận với Phật, Pháp, Tăng, lấy ba ngôi ấy làm chỗ nương nhờ tuyệt đối và làm đuốc soi đường.
Ai sinh ra vào thời có đức Phật độ sinh là một dịp may hiếm có. Nếu vì tăm tối lại để mất cơ hội học hỏi, tu hành theo Phật giáo là một điều vô cùng đáng tiếc! Ngược lại, ai sáng suốt khi tìm thấy chân lý Phật giáo rồi, liền nhất tâm qui y Tam bảo, trau giồi giới hạnh, tăng cường thiện nghiệp, thì người ấy nếu không được giải thoát trong kiếp này thì kiếp sau chắc chắn sẽ hạnh phúc tái sinh làm người hay làm trời.
Ðoạn đức Thế Tôn tán dương đức lành của Tam bảo (Ba ngôi Phật, Pháp, Tăng) bằng những kệ ngôn sau đây:


"Ai nương tựa vào ân Phật bảo (I)
Thì cõi đời khổ não được xa
Thân người khi tận tuổi già
Hạnh sinh thiên giới một nhà an vui.
Ai nương tựa vào ân Pháp bảo
Thì cõi đời khổ não được xa
Thân người khi tận tuổi già
Hạnh sinh thiên giới một nhà an vui.
Ai nương tựa vào ân Tăng bảo
Thì cõi đời khổ não được xa
Thân người khi tận tuổi già
Hạnh sinh thiên giới một nhà an vui.
Tìm giải khổ vào nơi rừng núi
Hay đền thờ, cây cối vườn hoang
Nơi nào vốn cũng lầm than
Tử sinh đeo đuổi không đường thoát thân.
Nhưng nếu đặt niềm tin Tam bảo
Phật, Pháp, Tăng thánh báu rõ ràng
Tâm nhuần Tứ Ðế, hành trang
Sống theo Bát Chánh, con đường cứu thân.
Ðến cõi giác bụi trần phủi sạch (II)
Nẻo luân hồi cũng tách lìa xa
Không sinh, không bệnh, không già
Không trong tam giới, không là triệt tiêu!
Phẩm giải thoát không nhiều, không ít
Không thấp, cao, xương thịt, buộc ràng
Không vui, không khổ Niết bàn
Tự do tuyệt đối, tịnh tràng vô biên!"



(I, II theo Dìgha Nikàya, 20 và Dhammapada các câu 188 -192 -N. Ð. thoát dịch ra văn vần).
Xuyên qua những câu kệ ngắn, gọn và thâm thúy như thế, đức Toàn Giác đã kích thích được chánh tâm của những người bạn Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, khiến họ hiểu thấu chân lý giải thoát trong Phật giáo, nhất là các pháp Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo. Rồi sau câu kệ cuối cùng tất cả đã đắc quả Nhập Lưu Tu Ðà Hườn, trước sự hiện diện của Tu Ðà Cấp Cô Ðộc. (Theo Jàtaka 1). Do đó, chúng ta có thể nói chính Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đã tiếp độ được bạn bè mình vậy!

Chương 5
NHỮNG BÀI PHÁP PHẬT THUYẾT CHO TU ÐÀ CẤP CÔ ÐỘC
Trong bốn mươi lăm năm trường hoằng dương chánh pháp, đức Phật đã nhập hạ mười chín lần ở thành Xá Vệ, tại chùa Kỳ Viên, do Tu Ðà Cấp Cô Ðộc tạo lập, thuộc tư thổ của Thái tử Kỳ Ðà (Jeta). Mỗi khi Phật nhập hạ (tức ở yên một chỗ tinh tấn hành thiền suốt ba tháng mùa mưa) như thế, thì Tu Ðà Cấp Cô Ðộc hằng ngày đến thăm Phật hai lần. Mục đích chính của ông là chỉ để thấy mặt đức Bổn Sư, nhưng nếu thuận duyên, cũng được nghe pháp. Vì vậy, Tu Ðà Cấp Cô Ðộc thường do dự lúc định hỏi đức Phật một vài vấn đề liên quan đến Pháp học. Bởi ông nghĩ rằng: "Ta là đại thí chủ của Giáo hội, ta không nên gây cảm tưởng nơi Tăng chúng hiểu lầm việc bố thí cúng dường của ta, là để đổi lấy những bài Pháp quí báu của đức Phật!".
Ðối với Tu Ðà Cấp Cô Ðộc, sự cúng dường bắt nguồn từ thiện tâm, từ sự thỏa thích trong hành động làm phước, chứ không phải làm phước để được đền bù. Vả chính trong sự thanh tịnh làm phước ấy, niềm hoan hỷ cao thượng hẳn là một đền bù xứng đáng rồi! Ông luôn luôn cố tránh không gây cho Tăng chúng hay đức Phật cảm giác rằng: "Mỗi lần Tu Ðà Cấp Cô Ðộc đến, Phật phải thuyết pháp cho ông nghe" - mà trái lại nếu đức Thế Tôn hay một Ðại Sa môn nào đó nói pháp đến ông, là do lòng từ bi

Chương 6
ÐOẠN CHÓT CUC ÐI...

Ðại cư sĩ Tu Ðà Cấp Cô Ðc nhum bnh ln th ba vô cùng trm trng. S đau đớn và tiu ty thân xác đã là mt tr ngi ln cho vic tp trung tinh thn. Mt ln na, Tu Ðà Cp Cô Ðộc li mi hai Ði tông đồ ca đức Pht là A Nan Ðà và Xá Li Pht đến bên giường bnh để tiếp độ.
Khi Trưở
ng lão Xá Li Pht nhìn thy sc din xanh xao của Tu Ðà Cp Cô Ðc thì biết rng ông sp t trn. Trưởng lão lin nhắn nh:
- Này Tu Ðà Cấ
p Cô Ðc! Ðo hu hãy thc hành pháp gii thoát bằng cách dt khoát buông b s mc dính vi lc căn: nhãn căn, nhĩ căn, t căn, thiệt căn, thân căn và ý căn! Ông nên dng dưng, khách quan mà nhìn sáu căn y, xem nó như sáu nguyên nhân đã t lâu làm cho mình đau kh. Th na, đạo hu cn tự gii thoát mình bng cách tách ri tâm thc ra khi lúc trn là sắc, thinh, hương, v, xúc và pháp thế gian. Ðng để cho lc thc ca đạo hu (tc nhãn thức, nhĩ thc, t thc, thit thc, thân thc, và ý thc) duyên theo chúng na! Như vy, sáu "yếu t gây kh", hay còn gi mt cách khác là "ngũ un" (gm sc uẩn, th un, tưởng un, hành un, và thc un) to thành mt con người, sẽ không hợp tác vi "T đại" (đất, nước, gió, la: th đại, thy đại, phong đại, và hỏa đại) để làm kh đạo hu xuyên qua nhng cái thy, nghe, ngi, nếm, đụng, và suy nghĩ na!"...
Lúc ấ
y Tôn giả A Nan Ðà cũng có mt bên giường bnh. Tu Ðà Cấp Cô Ðc chăm chú lng nghe Trưởng lão Xá Li Pht thuyết pháp. Ông cố gắng để tâm hành đúng theo li nhc nh ca v ging sư...
Chợ
t my git lệ rn ra nơi khoé mt bnh nhân Tu Ðà Cp Cô Ðc, Tôn giả A Nan Ðà quay li thấy vy, bèn động lòng t bi nói:
- Này đạ
o hu Cp Cô Ðc! Ðo hu nên giữ tâm bình thn, thanh tnh!"
Như
ng Tu Ðà Cp Cô Ðc lin yếu t đáp rằng: "Ôi! Tôn gi A Nan Ðà! Tôi không th gi tâm an tnh được! Tôi quá sung sướng và cảm động, vì t trước đến nay, tuy hng sng vi Giáo hi và đức Bn, tôi chưa bao gi được nghe mt bài pháp sâu xa, thn diu như thế!
Lậ
p tc Trưởng lão Xá Li Pht phân gii:
- Này đạ
o hu Cp Cô Ðộc! Bài pháp thâm mt y, Pht ch thuyết cho các hàng Sa môn an tịnh xut gia. Vì đối vi các hàng cư sĩ, nó quá tru tượng, khó hiu. Nhưng ln này, đức Thế Tôn đã ch th bn đạo đến lp li cho đạo hu nghe, bi hin ti tâm hn của đạo hu chng khác gì tâm hn ca mt Ði Sa môn vy.
Tu Ðà Cấ
p Cô Ðộc liền vui mng tiếp:
- Bạ
ch Trưởng lão Xá Li Pht! K t nay, Tu Ðà Cấp Cô Ðc này yêu cu chư Thánh Tăng và đức Pht hãy ban b cho các hàng cư sĩ túc duyên những bài pháp nhim mu như thế! Bi vì, tuy sng đời cư sĩ, nhưngng có nhiu bc đủ phm hạnh, pháp nhãn đã bng sáng, ch còn dính chút bi trần. Nếu h may mn được nghe nhng bài pháp thâm diu như thế, chc chn h sẽ được gii thoát, ko không h phi tiếp tc ch đợi duyên lành xut gia, chng đó h mi có th hưởng pháp tiếp độ thì tht là tội nghip.
Sự
khác bit giữa bài pháp mà Trưởng lão Xá Li Pht va thuyết đến Tu Ðà Cp Cô Ðc, vi những gì Pht đã ging gii trước đây cho ông, là tác dng đánh thng vào tâm linh, khi con người thc s phân bit được ngũ trn và các pháp thế gian, vốn chỉ là ngoi ti, và hng xâm nhp vào các căn thc, phi hp vi ni ma là tham, sân, si, làm khổ tâm linh như thế nào.
đây, bài pháp đang trc tiếp đi vào nhng vn đề thc tế, và cu cánh ti hu gii thoát, ch không phi là một lý thuyết giúp người nghe hiu biết mt khía cnh Pht giáo. Nói cách khác, Trưởng lão Xá Li Pht va ch cho Tu Ðà Cp Cô Ðc nhng phương pháp thc hành, vì ông đã đắc đạo Nhp Lưu Tu Ðà Hườn. Ông ví như người làm vườn đã có sn tấm kiếng thn trong tay. Ông ch cn biết cách nhìn vào tm kiếng thn y, để tự mình nhn ra nhng loi c độc mà nh b đi, ri vun xi nhng hoa lành, để được bình an. Và ngôi vườn chính là tâm hn con người vy.
Tu Ðà Cấ
p Cô Ðộc là mt Thánh nhân bc thp, giác tánh đã biu l. Trưởng lão Xá Lợi Pht chỉ cần ch cho ông thy rõ bn cht rng tuếch và tm thi ca ngũ un đang va bám víu vừa phá hoi ln nhau, để ông t mình nhn ra các l vô thường, kh não và vô ngã trong ông.
Vả
li, dù cho y là phương pháp thc tin, người nghe vẫn có thể chia làm hai loi: Loi th nht nghe để mà suy gm. Loi này nhn được li ích ch có năm phn mười. Loi th hai đã thm nhun Pht giáo, nghe xong lập tc thc hành, thì s gii thoát là mt điu chc chn! Thông thường các hàng Phật t cư sĩ thuộc loại th nht. Còn các hàng Sa môn thanh tnh xut gia thuộc loi th hai. Nhưng Tu Ðà Cp Cô Ðc trong trường hp này, nm trong loại th hai đó!
Ðố
i vi các hàng Pht t ti gia sơ đẳng, biết được sự thay đổi không ngng ca mi vt ch là mt kiến thc. Nhưng đối vi nhng bc xuất gia thanh tnh, thì s biết y chính là mt phương pháp để tiêu tr phin não phát sinh do tham sống, s chết!
Nế
u chúng ta quan sát, theo dõi cách trình bày Pháp bảo ca Trưởng lão Xá Li Pht dn dt tng bước mt, đưa tâm linh của Tu Ðà Cp Cô Ðc hướng đến gii thoát Niết bàn, thì chúng ta s thy rằng Tu Ðà Cp Cô Ðc, trước đó chưa bao gi được nghe mt bài pháp ct lõi, mô tả dưới dng thc cu cánh như thế!
Trong giờ
phút sp lâm chung, Tu Ðà Cấp Cô Ðc nh pháp tiếp độ y, đã t tách ri được tâm linh, khi nhng tham luyến thế gian, nht là tham luyến thân xác (ám ch s sng), ri an định thn trí trong chánh niệm, thì ông qu tht là mt cư sĩ phúc duyên vn toàn. Nhiu Sa môn đệ t Pht cũng chưa chc sánh bng!
Có thể
nói đây là mt trường hợp hy hu ca mt cư sĩ phm hnh hy hu được nghe mt ging sư vô song trình bày một pháp gii thoát thn hiu nht!
Khi Trưở
ng lão Xá Li Pht và Tôn giả A Nan Ðà chm dt li nhc nh cui cùng, thì Tu Ðà Cp Cô Ðc hoàn toàn an trụ trong chánh định. Ri ông t trn, tái sinh lên cõi tri Tusita Ðâu Sut, ở đó giác linh Tu Ðà Cp Cô Ðc được gp li "cô con gái út" hin là mt tiên nữ.
Như
ng điu đáng tưởng nim và ngưỡng m v c đại ân nhân Pht giáo ở đây là sau khi gia nhập Thiên chúng, "ông" đã là v thiên thn h trì Tam bo nhiệt thành nht. Theo kinh sách k li thì chùa K Viên, sau l ha táng Tu Ðà Cấp Cô Ðc, có nhiu đêm được Thiên chúng viếng thăm, l bái. Hào quang sáng rực. V dn đầu chư Thiên thn y dĩ nhiên là giác linh cố cư sĩ Tu Ðà Cp Cô Ðộc.
Mộ
t hôm đại Thiên thn H pháp này đến đảnh l đức Pht, còn cúng dường bng nhng câu k rng:


"Kỳ Viên Thánh địa Pht Ðà,
Ngôi chùa, Tă
ng chúng mt nhà sc không.
Pháp vươ
ng an độ cõi trn,
Ðây nguồ
n hnh phúc trong ngần bt lai.
Kiế
p xưa duy có hình hài?
Mà thân, khẩ
u, ý mit mài tịnh tu.
Hộ
trì Tam bo công phu,
Giúp đờ
i, danh li không mù mt linh.
Làm sao cho đượ
c biết mình,
Thông trong chánh pháp, vô tình cõi mơ
.
Tập rèn theo đức hnh sơ,
Tu Ðà Hườ
n qu, nay nh cõi Thiên.
Noi gươ
ng "Xá Li" Thánh hin (*)
Tị
nh tâm, tnh ý, ưu phin lc trong.
Sa môn ấ
y bc vô song,
Siêu sinh nhân Phậ
t gieo trng hôm nay".




(*) "Xá Lợ
i" ám ch Trưởng lão Xá Li Pht, người đã tiếp độ Tu Ðà Cấp Cô Ðc trước gi phút lâm chung.
Và vớ
i bài k cúng dường này, chúng tôi xin kết thúc câu chuyn Tu Ðà Cp Cô Ðc, mt v H pháp vô song, khi đức Phật còn ti thế!

35. i Nghip Phát Xut?

Phật Giáo Thực Sự Là Gì?
Theo Đức Phật dạy thì không một vị Thần Linh nào có thể ban thưởng hay trừng phạt bất cứ một người nào khi họ làm việc xấu hoặc tốt dù có theo đạo hay không theo, bởi vì chính chúng ta là người phải gánh chịu nghiệp do chính tạo nên. Sống dưới danh nghĩa Phật Giáo là một Phật Tử thì chúng ta phải thực hành những giáo lý của Đức Phật truyền lại chứ không phải là mượn việc tôn thờ hay sùng bái để cầu nguyện được những ước vọng, tức là chúng ta phải sống một cuộc đời trong sạch và cao thượng ở nơi cuộc sống nếu người đó muốn được hưởng niềm hạnh phúc an lạc.
Việc Thờ cúng và cầu nguyện thực chất chỉ là việc làm kính trọng hết lòng đối với phẩm hạnh cao thượng của Đức Phật và các Chư Phật, vì chúng ta biết ơn đến Đức Phật đã tìm ra chân lý để giúp ta thoát khỏi đau khổ của cuộc sống. “Trên thế giới, dân chúng chen chúc tại các chùa, nhà thờ, giáo đường và các nơi sùng bái để cầu nguyện, hy sinh các sinh vật, thực thi khổ hạnh. Nhưng khi họ ra khỏi các nơi trên, họ vẫn sân si, tham dục, ganh tị, thù hận và ác cảm như trước”. Đó thực sự là những con người không có đạo lý!. Nếu là như vậy thì họ không khác gì những con người “mượn hoa cúng Phật”, họ đến chùa chỉ để cầu khẩn được thỏa mãn những điều dục vọng và thoát khỏi khổ đau, bởi họ chỉ mong muốn những Chư Phật làm thỏa mãn những tâm tư trong lòng. Ngày nay có rất nhiều người theo Phật Giáo nhưng thực sự thì có bao nhiêu người là Phật Tử chân chính, là 1 con người có lối sống cao thượng không vị kỷ. Bạn suy nghĩ xem Bạn? Tôi? Hay những người bạn gặp? Nếu chúng ta mang đầy những ý nghĩ cùng việc làm xấu xa ác cảm thì chúng ta có cầu khuẩn đến đâu đi nữa thì vẫn phải chịu những khó khăn do những tư tưởng việc làm xấu ấy tạo nên. Nếu chúng ta phạm lỗi lầm rồi đến chùa cầu khuẩn Chư Phật để được tha lỗi và tránh được hậu quả xấu thì như thế quá bất công rồi, vì bạn làm mà bạn không phải chịu, vậy là bạn đang cố gắng chống đối lại với luật Nhân Quả. Bạn nên nhớ bạn tạo nên nghiệp xấu thì bạn phải gánh chịu và không có cách nào thoát khỏi bởi luật nhân quả là công bằng tuyệt đối. “Đức Phật không muốn các tín đồ của Ngài tin tưởng trong mù quáng. Với Ngài, tôn giáo không phải là sự mặc cả, mà là con đường sống cao thượng để đạt được giác ngộ và giải thoát”. Niềm tin không thôi đối với Đức Phật thì không thể cứu rỗi chúng ta được, khi ta vẫn tiếp tục phạm phải sai lầm mà không chịu thực hành theo giáo lý của Ngài dạy. Đạo Phật chính là lối sống cao thượng của một con người. Nó không phải là nơi để cho chúng ta chọn lựa giữ niềm hạnh phúc hay đau khổ bằng cách nguyện cầu những điều mong ước hay xin tha thứ những tội lỗi. Phật Giáo là một triết lý sống chân chánh nhằm mang lại một cuộc sống hòa bình an lạc, hạnh phúc cho mỗi chúng sanh hiện hữu trên cuộc đời này. Phật giáo là phương pháp đoạn trừ những khổ đau trong cuộc sống để tìm ra con đường giải thoát, giác ngộ bằng cách tu tập. Phật Giáo là nơi cho chúng ta tìm thấy con đường thoát khỏi đau khổ và tránh được những phiền phức nhưng phải do chính sự cố gắng của chính chúng ta bằng phương pháp thanh tịnh trong tinh thần. Chúng ta thường nghĩ rằng những việc xấu đến với chúng ta là do sự trừng phạt của các vị Thần Linh, nó hoàn toàn là một lối nghĩ sai lầm. Nếu bạn cho rằng Thượng Đế hay Thần linh quyết định số phận và tự phán quyết số mệnh của con người thì tại sao rất khó cho họ để thay đổi những bản tính xấu xa của chính mình và tại sao Thượng Đế không tạo cho tất cả mọi người được hưởng cảnh hạnh phúc nơi cuộc đời này để họ không phải làm những điều xấu xa hay đem mọi người lên Thiên Đàng sau khi chết mà phải xem xét việc xấu tốt của họ, bởi Thượng Đế hay Chư Phật là người có lòng từ bi thương chúng sanh vô lượng?. Khi chúng ta phạm phải một nghiệp xấu thì chúng ta phải sẳn sàng tâm lý gánh chịu những nghiệp ấy, chúng ta không thể cầu xin bất cứ nơi đâu để tránh được hậu quả ấy.
Sám Hối có nghĩa là gì? Sám là ngưng ngay những việc làm xấu xa, Hối là chúng ta cảm thấy hối hận vì hành vi không tốt rồi quyết tâm không còn phạm phải nữa. Chúng ta có thể ngăn những việc xấu đến với chúng ta bằng sự nổ lực của bản thân. Nơi Phật Giáo biểu hiện tình thương, lòng tôn trọng con người, lòng khoan dung và không có mặt của ích kỷ, không có thù hận, ác cảm, ganh ghét… Đó chính là Đạo Phật thực sự! “Bất cứ ai cũng có thể đứng trước Đức Phật trong tư thế một người có phẩm cách chứ không phải trong tư thế một người nô lệ”. Nếu chúng ta sống như một con người tốt đẹp thì chúng ta mới thực sự là người Phật Tử, như thế chúng ta mới xứng đáng là người theo Đạo Phật, như thế chúng ta mới cảm thấy rất gần với Đức Phật.
Đạo Phật chính là lối sống cao thượng của chính chúng ta, bạn có thực sự là một người có phẩm hạnh trong sạch cao thượng hay lối sống tốt đẹp?
Tự do tư tưởng trong ta! Đức Phật khuyên chúng ta không nên tin ngay những gì được ghi sẳn trong sách, những truyền thống, tập tục được truyền lại hay những lời của một trưởng lão đạo sư nào đó một cách mù quáng. Đối với những con người không hiểu biết liền cho rằng những lời đó là đúng thì chúng ta sẽ mắc phải những sai lầm nghiêm trọng, có thể làm chúng ta trở nên yếu đuối, sợ sệt và trở thành những con gối thiếu tự tin. Lời khuyên của Đức Phật là chúng ta phải tự do suy nghĩ những điều chúng ta nghe hoặc thấy; điều đó là đúng hay sai, phải hay trái, nên hay không nên, chấp nhận hay bác bỏ. Chúng ta phải thực sự là những người làm chủ suy nghĩ của chúng ta, không nên theo quán tính và lòng tin của mình đã có từ trước, rồi chấp nhận hay bác bỏ điều mà chúng ta nghe hay thấy ngay lập tức. Chúng ta không phải là những đứa trẻ nít vô tư không biết gì, liền nghe theo khi một người lớn nào đó nói, mà phải cho thời gian chúng ta xem xét bàn cãi. Nếu chúng ta cứ trông chờ vào bên ngoài để được cứu rỗi thì nó sẽ là một việc tai hại cho chúng ta. Đức Phật nói: “Ta không bao giờ có một vị thầy nào hay một Thần Linh nào dạy ta hay bảo ta làm cách nào để đạt được giác ngộ. Cái mà ta thành công là do sự cố gắng, năng lực, kiến thức, thanh tịnh của chính ta để đạt được trí tuệ tối thượng”
Trước khi Ngài qua đời, Ngài dặn dò những lời cuối cùng. “Hãy tìm nơi nương tựa ngay nơi các con”. Tại sao sau 45 năm hoằng Pháp, Ngài lại thốt ra những lời như vậy? Tại sao Ngài không khuyên răn mọi người tìm sự cứu rỗi nơi Ngài. Cái Ngài muốn nói là chúng ta không nên tìm sự cứu rỗi ỷ lại vào người khác. “Với niềm hy vọng và tự tin, một người có thể quyết định vận mạng của chính mình”. Điều đó nhắc nhở ta phải cố gắng bằng chính bản thân mình vượt qua những thói quen xấu dường như đã trở thành bản tính của chúng ta và phải là một con người có hiểu biết thật sự, sự hiểu biết sẽ giúp chúng ta thoát khỏi đau khổ của cuộc sống mang đến. Bằng phương cách thông qua sự giảng dạy của những bậc trưởng giáo chân chánh hoặc tìm kiếm để học hỏi, nếu không chúng ta sẽ chịu mãi đau khổ cho đến khi hiểu được những nguyên nhân của phiền não, bạn đã phải trả giá cho những hành động xấu của mình trong nhiều lần ở thời quá khứ mà có lẽ bây giờ bạn đã quên đi và bạn đã chưa bao giờ nghĩ đến nguyên nhân của những đau khổ ấy xuất phát từ đâu. Một số người nói rằng Đức Phật chỉ là một người bình thường không phải là một Thượng Đế, tại sao dân chúng lại theo Ngài? Những người này không hiểu rằng người Phật Tử không trông chờ sự cứu rỗi từ nơi Đức Phật mà là thực hành phương pháp cao thượng do Ngài dạy.
Niềm tin, sự tôn thờ và cầu nguyện các Chư Phật của chúng ta không phải là không có nghĩa lý gì? Điều đó cũng thực sự cần thiết vì sự an lạc trong tâm hồn. Cầu khẩn nơi Chư Phật chỉ được linh ứng khi chúng ta là những con người có lối sống tốt đẹp. Cầu khẩn Phật Bà Quan Thế Âm là một ví dụ qua một câu chuyện có thật như sau:
Vào khoảng những năm đầu khi đất nước hòa bình, một người đàn ông chưa bao giờ tin những gì về tôn giáo, ông thường cảm thấy phiền khi đến chùa để thờ cúng. Nhưng vào năm khi ông ta vượt biên qua nước ngoài, ông bị đắm thuyền trôi dạt trên biển mênh mông, dường như cái chết đang chờ. Được mọi người khuyên bảo niệm tưởng Phật Bà Quan Âm, thì trong tuyệt vọng ông ta nhìn thấy trên bầu trời đêm xuất hiện một người phụ nữ mặc áo trắng bay phất phới. Một lát sau bổng nhiên có thuyền đến rướt ông ta và những người trôi dạt trên biển. Từ khi an toàn vào đất liền thì ông ta đã thay đổi hoàn toàn, ông ta phát nguyện ăn chay trường và thường xuyên đến chùa lễ cúng. Đây là câu chuyện được ông viết thư kể lại cho người vợ sau khi ông ta đến được đất Mĩ.
Nhưng ta nên biết việc cầu nguyện không khác gì những viên thuốc chữa bệnh nhức đầu. Khi ta nhức đầu ta dùng những viên thuốc để chữa lành, cơn đau sẽ chấm dứt nhưng sau vài ba tiếng thì nó lại tái phát, vì nhức đầu không phải là căn bệnh mà chỉ là chịu chứng mà thôi. Vì thế nên chúng ta phải nhớ một điều rằng bạn phải tự mình chữa dứt căn bệnh bằng cách dứt bỏ hết những thói xấu trong tư tưởng, việc làm và lời nói, tập phát triển lòng yêu thương, khoang dung như thế bạn sẽ không bao giờ gặp phải những điều phiền phức, khó khăn, niềm an vui và hạnh phúc sẽ luôn đến với bạn.
Pháp Và Quy Luật của vũ trụ
Pháp (dharma hay Dhamma) ta có thể hiểu đó chính là những giáo lý của Ngài truyền lại, nếu chúng ta theo những phương pháp do Ngài đề ra, chúng ta sẽ không bao giờ sa vào những trường hợp bất hạnh như bị mù ngay từ lúc mới sanh, tàn tật, điếc, câm hay điên dại. Pháp là con đường mà tất cả mọi người đều phải đi theo và thực hành theo nó, nếu chúng ta đi ngược lại những giáo lý do Đức Phật dạy thì chúng ta sẽ phải chịu đau khổ trong kiếp sống này. Bởi những giáo lý ấy phù hợp hoàn toàn với những định luật của vũ trụ, và do chính Ngài trãi nghiệm trong nhiều kiếp sống của chính mình, những giáo lý ấy sẽ giúp chúng ta đạt được những an lạc và con đường giải thoát cuối cùng nếu chúng ta thực hành theo đúng vậy.
Chúng ta có thể chia ra làm ba loại người trong cuộc đời:
1. Thứ nhất: Đó là người có hiểu biết thì cuộc sống sẽ an lạc và vui sướng mãi trong cuộc đời do không có nhiều vướng bận chăm lo đến cái ‘tôi giả’ mà chỉ vì lợi ích của nhân sinh và hướng đến việc thanh tịnh trong tinh thần và con đường giải thoát cuối cùng.
2. Thứ hai: Đó là loại người không có hiểu biết nhưng không làm xấu cũng không làm tốt hay loại người không có hiểu biết cũng làm việc thiện và cũng tránh điều bất thiện thì cuộc sống sẽ ở trung đạo, những dạng người này cũng sẽ đau khổ ở dạng tiềm ẩn chờ biểu hiện do không có hiểu biết.
3. Thứ ba: Đó chính là người không hiểu biết mà mãi tạo nhiều nghiệp ác chỉ lo cho cái tôi của mình, cuộc sống mãi kiếm tìm lợi lạc không bền vững rồi mãi đau khổ ở đời sống hôm nay và cả đời sống mới bởi do tham dục của bản thân mình tạo ra.
Cuộc đời thực sự nếu ta suy nghĩ kỹ thì nó là một trường thử thách vô cùng khắc nghiệt đối với con người ngày nay bao gồm người sung sướng hay khổ cực. Khi những việc thuộc về lợi ích của chúng sinh đến với chúng ta thì ta bảo vệ cái tài sản của chính mình mà không muốn phải tổn hao đó chính là sự ích kỷ của con người, với người khổ cực thì họ cảm thấy khó khăn khi làm ra được của cải nên khư khư giữ lấy cho mình thì đó là một việc làm vô cùng vị kỷ, họ không hiểu rằng sự chia sẽ quan trọng đến thế nào và việc giúp đỡ ấy không khiến chúng ta phải chịu khó khăn nếu chúng ta bỏ ra một ít, khi họ quá ích kỷ thì hạnh phúc và an lạc sẽ không bao giờ đến với họ, rồi họ càng tranh đấu tìm kiếm càng dẫn đến đau khổ do lòng ích kỷ của chính mình, bạn thử nghĩ xem nếu bạn có tư tưởng và việc làm ích kỷ thì nhân quả sẽ trả cho bạn một quả lợi lạc không? bởi vì nguyên nhân thành hậu quả thì hậu quả lại trở thành nguyên nhân, như khi con người gặp khó khăn thì họ bất chấp thủ đoạn để kiếm được lợi lạc, do tính bất chấp thủ đoạn là đã tạo ra nghiệp xấu do bản tính cố ý, nó sẽ sinh ra những khó khăn tiếp tục và khó khăn thì họ càng không đạt được lợi lạc, cứ thế mà xoay vòng mãi cho đến khi vào đường cùng của cuộc sống, nó sẽ dẫn đến những tội lỗi thâm trọng. Đối với người được hạnh phúc trong vật chất thì họ càng xa lìa và cảm thấy khó chịu hay không thích những người nghèo khổ đến gần họ, bởi sự so sánh tầng lớp quá nặng trong tâm trí của mình, đó chính là bản chất khinh miệt rồi tạo thành ích kỷ do họ chỉ mãi vui hưởng cho riêng mình, Ích kỷ thì tất yếu chỉ có khổ đau mà thôi. Đức Phật dạy: Những định lệ, những phân biệt được đặt ra là do lòng Ngạo mạn của chính con người. Con người sinh ra không phải vì cao quý, con người sinh ra không phải vì đê hèn mà là hành vi của họ mới quyết định sự cao quý hay đê hèn của một con người.
Ta cũng sẽ hiểu bất cứ việc gì trong đời chúng ta làm điều là những thử thách, khi ta vượt qua thì việc khác lại đến, bạn có lúc nào mà không phải lo lắng làm việc này hay việc khác không? Nó đến giống như đồng hồ quay vòng ấy. Ta có thể ví những con số chính là những khó khăn, đau khổ hay thử thách ta phải vượt qua, còn vòng quay tượng trưng cho sức lực và cố gắng của ta, bạn sẽ không bao giờ ngừng tranh đấu cho đến lúc đồng hồ ngừng quay thì chúng ta phải khép mắt xuôi tay, để lại tất cả những lợi lạc đã tranh đấu bao nhiêu tháng ngày. Ngoài nghiệp thiện và nghiệp xấu thì bạn chỉ có nấm mồ sâu ba tất đất và bộ xương khô. Những thử thách sẽ đến với ta bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, nó sẽ đến mỗi lúc dưới dạng cuộc sống mưu sinh hay việc hành thiện nghiệp. Vì đó là bản chất cuộc sống là phải đấu tranh nếu không vượt qua được ý niệm yếu lòng bạn sẽ mắc phải những lỗi lầm, rồi điều xấu sẽ đến với chúng ta và ta phải hối tiếc vì hành động ngu si của chính mình. Nghiệp xấu được tạo nên từ việc làm, ý niệm, lời nói xuất phát từ tham, sân, si của chính mình nếu trong đó là sự cố ý. Khi chúng ta làm một việc gì đó ta phải xét xem điều đó là đúng hay sai? Nó có tạo ra nghiệp xấu cho chúng ta hay không?
Mọi nguyện ước để đi đến thành công đó chính là nổ lực và thiện nghiệp của chính chúng ta. Khi ta nổ lực thì chúng ta sẽ nhận được một số kết quả xứng đáng với những cố gắng ấy, bởi nhân quả không bao giờ có sự bất công. Còn Nghiệp Thiện sẽ tạo cho chúng ta những hòan cảnh thuận lợi để mau đạt thành điều ước nguyện. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta chỉ mãi nổ lực chống đối với khó khăn để tìm kiếm thành công, nếu ta sống một cuộc đời không tốt thì khó khăn sẽ gấp nhiều lần đối với người có một tấm lòng trong sạch thanh cao để đi đến thành công, có khi bạn còn phải gánh chịu những thất vọng trong việc tìm kiếm ấy. Chúng ta sống trên cuộc đời cần phải có một tấm lòng chân thành, nếu bạn có tấm lòng thì Trời Đất đều quý mến bạn. Với người có những phẩm hạnh đẹp thực sự thì chúng ta cảm thấy rất tôn trọng và quý mến họ đó chính là sự giàu có thật sự, còn những người có vật chất sống với tư tưởng cao ngạo thì chúng ta không thể nào tôn trọng được. Khi mà bạn cảm thấy giàu có về vật chất là nhiều thì đó chính là cái nhìn thiển kiến không hiểu biết, bởi ngay trong lòng bạn đang có những ham muốn đấy!. Bạn phải sớm hiểu và cố gắng thực hiện những công việc giúp ích cho con người nhiều hơn nữa nhưng đó không phải là sự mong muốn được những quả hạnh tốt. Nếu mang trong tâm những ý nghĩ làm thiện để hưởng quả lành thì bạn cũng sẽ được nhận lại cái quả như bạn đã gieo nhưng nó hoàn toàn không đầy đủ giống như gieo hạt xoài vậy, bạn sẽ chỉ nhận được quả do chúng sinh ra mà thôi, nhưng nó còn cho ta được bóng mát, gỗ, hạt …, chúng ta sẽ không thể nhận được. Bởi luật nhân quả chỉ nhìn nơi tấm lòng của bạn mà thôi, nó không bao giờ nhìn nơi tiền bạc hay việc làm khi bạn hành thiện nghiệp, nếu bạn không có tâm thành thật thì nó sẽ trở nên vô nghĩa và việc làm ấy cũng như phí bỏ.
Chúng ta suy nghĩ kỹ thì Tâm chúng ta là người quyết định tất cả cho số phận của chính mình. Tâm ở đây có thể hiểu chính là những dòng suy nghĩ tốt hay xấu. Mọi việc làm xấu chỉ được thực hiện khi ý nghĩ của chúng ta đã xuất phát trong đầu. Những khổ đau và hạnh phúc nảy sinh do chính tâm của mình tạo ra. Thế nào gọi là Nghiệp xấu phát xuất? Nghiệp xấu chỉ xuất hiện khi chúng ta có ý nghĩ xấu phát khởi, như khi bạn đang đi vô tình đạp chết một chú kiến, đó chính là sát nghiệp nhưng không tạo ra nghiệp xấu do ta không có ý niệm muốn giết chỉ do ta vô tình mà sát sanh, nhưng nghiệp xấu sẽ được tạo ra như khi chúng ta có một ý niệm cố ý, như khi bạn nhìn thấy một món đồ rất quý của một người nào đó, tuy chưa lấy được nhưng trong lòng bạn có ý niệm chiếm đoạt thì nghiệp xấu đã được tạo ra. Nghiệp xấu chính là những khó khăn hay những điều phiền phức mà ta gặp trong cuộc sống hằng ngày, nó làm cho ta cảm thấy khó chịu và bực dọc, đối với những con người lương thiện với tấm lòng trong sạch thanh cao thì họ không bao giờ gặp những phiền phức và họ không tin vào sự may mắn hay xui rủi, bởi họ không bao giờ gặp những việc không toại nguyện. Hằng ngày chúng ta dù cố gắng đến đâu thì tư tưởng vẫn có những ý nghĩ xấu, bởi vậy tại sao lâu lâu chúng ta cứ gặp nhiều phiền phức hoài. Đó là điều không thể tránh khỏi do chúng ta chỉ là những phàm nhân không đủ nghị lực để ngăn những dòng suy nghĩ của chính mình, rồi bạn sẽ có những cảm giác sợ sệt, lo âu khi tư tưởng xấu xuất hiện. Nghiệp xấu xuất hiện có những mức độ nặng nhẹ khác nhau tùy theo suy nghĩ, việc làm, lời nói của chúng ta mà chúng ta phải xem xét coi nó như thế nào!. Lòng ích kỷ, hận thù là nơi sinh ra đau khổ nhiều nhất.
1. Nghiệp xấu nhẹ có thể thuộc về tư tưởng của chúng ta, nó chỉ tạo ra cho ta cảm giác đau khổ
về tinh thần như phiền toái, bực bội, khó chịu nhưng không tổn hại đến bên ngoài của chúng ta, nhưng nó sẽ được biểu hiện ra bên ngoài khi những tư tưởng xấu tích lũy đầy đủ, thì nó sẽ bộc phát.
2. Nghiệp xấu nặng thuộc về thân của chúng ta đó chính là việc làm và lời nói, những hành vi
này làm ảnh hưởng đến người khác, cũng tùy theo mức độ mà ta phải chịu lại, với hành vi của thân này cũng dẫn đến đau khổ về tinh thần của chúng ta.
Bởi vậy bạn mới hiểu chúng ta đang sống trong một trường thử thách vô cùng khắc nghiệt, để giảm tối thiểu những nghiệp xấu mang đến theo như Đức Phật dạy đó chính là sống theo con đường Bát Chánh Đạo và đưa tâm vào sự thanh tịnh cao nhất. Nếu ngay bây giờ bạn có những biểu hiện bên ngoài của đức tính ích kỷ, hận thù, ác cảm, xấu xa thì chắc chắn rằng bạn còn chịu nhiều khó khăn của cuộc sống. Điều mà chúng ta nên làm ngay bây giờ chính là phát triển lòng thương yêu của mình đối với bất cứ con người, loài vật nào trên thế gian này, mà còn phát triển lòng khoang dung, không thù hận, không ích kỷ và ác cảm. Tâm từ chính là gốc căn bản nhất của Phật Giáo. Điều đầu tien bạn nên làm chính là giảm thiểu những tư tưởng xấu xa trong bạn
Nếu ngay bây giờ bạn có hiểu biết thì một bạn đã có một viễn cảnh vô cùng tươi đẹp ở ngày tháng tương lai nếu như bạn thực hành theo những chân lý ấy. Bạn nhìn thử ngoài cuộc sống có người đi sớm về khuya, đi trong mưa gió của cuộc đời dù đau khổ hay vui sướng suốt bao năm tháng dài dẳng, họ đã phí thời gian quá nhiều để tranh đấu và chịu đau khổ mà không có hiểu biết, bạn mới cảm thấy những người đó mới thực sự đáng thương vì những tham vọng, ganh ghét, vị kỷ đang chiếm giữ tâm hồn của họ và rằng đau khổ đang ở phía trước chờ đợi họ đến để nhận lấy hay chống trả. Khi nhìn lại thì mình đã thực sự quá nhiều may mắn, bởi những người ấy không biết đến bao giờ mới có được những hiểu biết và có khi họ không bao giờ chịu nghe vì bản tính cố chấp mà họ có. Ngày nay khi con người nghe nói đến tôn giáo thì họ có nụ cười ngạo nghể, vì họ nghĩ những thầy tu là khác người vì cuộc sống ẩn dật ở nơi hẻo lánh do trong tư tưởng họ không có hiểu biết, lòng ham muốn hưởng lạc thú ngắn ngủi đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm can của họ, họ có cảm giác sợ sệt rằng mình phải từ bỏ tất cả những lạc thú ở ngoài cuộc sống dù rằng họ đã đạt được hay chưa đạt được và không nhìn thấy được những khổ đau tiềm ẩn xung quanh mình. Họ chỉ nhìn thấy những vui sướng giả tạm trước mắt làm mờ đi tâm trí, rồi nó sẽ đem đến đau khổ khi mọi việc kết thúc, vì không điều gì trên thế gian mà không thay đổi.
Tất cả là hư ảo và Con đường duy nhất
Khi chúng ta theo con đường thiện nghiệp đã gieo; chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc và niềm vui về tinh thần và vật chất, đó chính là Thiên đường nơi trần thế. Nếu chúng ta hiểu thế mà gieo thiện nghiệp để mong được hưởng những lạc thú thì chúng ta vẫn là những con người chưa thực sự hiểu biết. Bởi khi chúng ta còn mãi đi trong vòng sinh tử thì chúng ta sẽ còn đau khổ mãi. Có khi con người hưởng lạc thú hoài mà không biết đau khổ thì họ sẽ không hiểu được sự giả tạm của đời sống và còn chịu đau khổ do những việc làm ở đời sống tương lai không nhìn thấy trước được. Vì có những người ngày nay sung sướng lúc ban đầu nhưng về già họ phải trở lại đau khổ vì lối sống không hiểu biết. Bởi đời sống này bạn hiểu biết thì đời sống mới chưa chắc bạn sẽ hiểu được vậy. Theo Đức Phật dạy con người không ai biết trước ngày mai, tháng sau hay năm tới của chúng ta. Chúng ta sẽ như khúc gỗ trôi trên sông có thể gặp đầy những bất trắc và nguy hiểm.
Một câu truyện về Đức Phật. Một hôm Đức Phật nhìn thấy một chú heo nái, Ngài đã nhìn thấy những tiền kiếp của chú heo này và đã thuyết giảng cho đệ tử. “Nguyên chú heo này những kiếp trước là chú gà mái, vì tìm thức ăn xung quanh chùa nên mỗi ngày đều nghe một vị sư tu thiền đọc kinh Thiền Minh Sát. Vì tích được thiện phước nên kiếp sống sau đã đầu thai vào làm công chúa tên Ubbari. Trong kiếp đó công chúa Ubbari đã vô tình nhìn thấy một đống vòi. Công chúa đã chú tâm niệm vào đống vòi và chứng đắt được Sơ Thiền. Trong phần còn lại của kiếp ấy bà sống trong Sơ Thiền, và do đó, sau khi qua đời, tái sanh vào cảnh trời. Lúc tuổi thọ ở cảnh trời chấm dứt vì nghiệp lực tốt được tích trữ đã hết, nghiệp bất thiện đã gieo trong những tiền kiếp xa xưa giờ đây trổ sanh, bà tái sanh trở lại làm con heo nái."
Trích trong Tứ Diệu Đế - Phạm Kim Khánh
Chúng ta hiểu rõ những nghiệp thiện và xấu khi chúng ta tạo ra nó không mất đi mà sẽ lưu giữ lại đó, đợi cho đến thời cơ thích hợp thì sẽ biểu hiện ra bên ngoài, nó có thể là ngay hiện tiền, đời sống sau hay đời sống sau sau đó nữa tùy thuộc vào lúc thích hợp mà nó tạo thành quả. Do chúng ta tích lũy thiện nghiệp với tư tưởng và hành động tốt nên những nghiệp xấu không có điều kiện thuận lợi để nảy xin, cùng khi hưởng lạc thú cho đến cuối đời với hiểu biết nên nghiệp xấu không thể phát sinh được, nhưng qua đời sống mới chúng ta bị hoàn cảnh tác động mà tâm tính bị thay đổi và nghiệp thiện đã dần hết chúng ta phải trả giá cho những nghiệp xấu đã gieo trước đây, rồi chúng ta sẽ phải chịu đau khổ. Nên bây giờ bạn có thể hiểu tại sao nghiệp xấu đến với chúng ta khi mà ta vẫn là một con người tốt hay tại sao những người xấu xa không gặp những quả báo ở hiện tiền, chúng ta không phải hỏi những câu hỏi dư thừa ấy nữa. Nhưng những niềm vui về vật chất, tinh thần chỉ là lạc thú tạm thời rồi nó cũng sẽ kết thúc mà thôi.
Trên thế giới hiện nay những nhà nghiên cứu thần học không bác bỏ chuyện có phép lạ trong đời sống thường nhật. Phép lạ hay thần thông đó chính là những điều tiềm ẩn trong ta chỉ đợi chờ chúng ta đánh thức nó dậy. Thiền định được xem là con đường duy nhất, sự tuyệt diệu của nó rất là lớn. Khi chúng ta dứt bỏ tất cả ngũ dục của cuộc sống và thực hành kiên định về thiền thì chúng ta sẽ đạt được bật A La Hán (Bậc đã dứt bỏ hết mọi đau khổ, luyến ái và không còn bị vướn níu bởi dục vọng) khi đó chúng ta sẽ phát tuệ (sự hiểu biết vô tận) cùng đạt được những phép thần thông. Đức Phật sau 6 năm thiền định bước đầu đạt được tuệ giác. Ngài đã hiểu rõ về Tứ Diệu Đế ( Đế thứ nhất: Đó là đau khổ, Đế thứ hai: Đó là nguyên nhân của đau khổ, Đế thứ ba: Đó là con đường diệt khổ, Đế thứ tư: Giác ngộ và diệt khổ), cùng con đường Bát Chánh Đạo cao thượng. Ngài có những hiểu biết tại sao con người lại sinh vào những nơi đau khổ hay vui sướng. Ngài cũng nhìn thấy được những tiền kiếp của chính mình và của bất kỳ một chúng sanh nào. Ngài hiểu được mọi vạn vật và có thể nhìn thấy được tâm suy nghĩ của con người, không có gì là Ngài không biết cả. Ngài còn đạt được những phép thần thông vô hạn. Thực ra chúng ta cũng có thể làm được điều đó nếu chúng ta muốn, bằng cách tu tập để phát triển những năng lực có sẵn trong ta do chính những dục vọng và tư tưởng xấu đã che mờ nó đi mà không thể phát triển được. Khi chúng ta thiền định và rèn luyện tâm dứt bỏ mọi luyến ái của đời sống thì chúng ta sẽ đạt được bậc cao nhất là A La Hán. Sống với một cuộc đời trong sạch và thanh tịnh đó chính là đời sống của một vị Phật.
Như phần trên đã nói về sự phát sinh Nghiệp Lực mà ta biết. Nên ta hiểu tại sao Thiền Định được xem là con đường duy nhất, nó ngăn những suy nghĩ chúng ta hoặt động bừa bãi mà không có sự kiểm soát, do Thiền Định đưa tâm con người trở về trạng thái thanh lặng, không có sự xáo trộn của ngoại cảnh tác động, đó chính là phương cách chấm dứt đau khổ. Khi chúng ta sống đúng theo con đường Trung Đạo thì chúng ta vẫn phải chịu đau khổ, do chúng ta còn bám víu vào những vật chất cuộc sống, tư tưởng con dao động hoài thì sẽ nảy sinh ra đau khổ. Cuộc đời cho chúng ta lựa chọn con đường để chúng ta đi thì hà tất chi cứ mãi chịu đau khổ nơi cuộc sống này trong tâm trạng sợ sệt, phiền não và đau khổ. Ngay bây giờ bạn đang được vui sướng hưởng những lạc thú của trần thế mà không có lo âu phải không? Chúng ta nên mau cố gắng tu tập nơi cuộc sống này.
Để đạt được con đường giải thoát cuối cùng thì chúng ta phải đoạn tuyệt với những luyến ái ngoài cuộc sống cùng ngũ dục của đời thường. Trong Túc sanh truyện có thuật: Trong một tiền kiếp của Đức Phật khi Ngài đã đạt được phép thần thông do tu tập, do được vua thường thỉnh vào trong cung để dâng cúng vật thực. Nhưng bất hạnh thay, một hôm tình cờ chợt thấy hoàng hậu từ phòng tắm bước ra chỉ khoác một chiếc áo choàng mỏng. Trong một khoảnh khắc lơ đểnh, tâm bị xúc động. Bồ Tát đã mất hết các phép thần thông.
Chúng ta không thể phát huệ được nếu chúng ta còn nhiều những luyến ái của cuộc sống. Thiền Định là con đường đưa chúng ta đi đến thanh tịnh nơi tinh thần và giúp chúng ta phát được tuệ giác. Ngày nay con người quá bận rộn dù để đọc một quyển sách cũng không có, ta nên hành trì câu Lục Tự Di Đà, nó là phương cách không làm ta mất nhiều thời gian. Đức Phật đã thuyết giảng về nơi Niết Bàn (nơi được Phật Di Đà sáng lập nên) và Kinh Vô Lượng Thọ. Bởi thế chúng ta hiểu việc niệm Phật nó quan trọng đến thế nào. Khi hành trì thì chúng ta sẽ cảm thấy an lạc trong tâm hồn và những nghiệp lực sẽ được nhẹ hơn. Chúng ta nên cố gắng để hiểu được sự huyền diệu của nó.

36. Lược sử cuộc đời đức phật thích ca mâu ni

(623 trước TL - 543 trước TL)
Cách đây hơn 2500 năm, ở vùng Hy mã lạp sơn, phía Bắc Ấn độ, có một bộ tộc nhỏ tên Thích-ca, sống yên bình dưới sự trị vì của vua Tịnh-phạn minh quân và hoàng hậu Ma-da nhân từ. Một hôm, hoàng hậu nằm mộng thấy một con voi sáu ngà từ trên hư không lẩn vào bên hông phải của bà, ít lâu sau bà thọ thai.
Trên đường về quê sanh nở, ngang qua vườn Lâm-tỳ-ni, vào ngày rằm tháng 4 năm 623 trước Tây lịch, gần thành Ca-tì-la-vệ, hoàng hậu đã hạ sanh thái tử Tất-đạt-đa. Thái tử bước 7 bước trên hoa sen, tay chỉ trời, tay chỉ đất nói:
Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn.
Ngày Thái Tử đản sanh là ngày hội lớn của toàn vương quốc. Mọi người kéo về kinh thành chúc tụng. Trong đó, có một vị đạo sư già tên là A-tư-đà cũng đến thăm và xem tướng Thái tử. Ngay khi nhìn thấy Thái tử, ông liền kính cẩn sụp lạy, tiên đoán tương lai Thái tử sẽ xuất gia tu hành, thành bậc Chánh đẳng giác, độ thoát chúng sanh.
Sau khi hạ sanh thái tử được 7 ngày, hoàng hậu qua đời nên bà dì Ma-ha-ba-xà-ba-đề trực tiếp nuôi dưỡng thái tử. Ngài được dạy dỗ giáo dục toàn vẹn cả về văn lẫn võ. Thái tử tư chất thông minh, tinh thông tất cả các môn học, thậm chí thắng lướt cả thầy dạy.
Trong một lần cùng vua cha dự lễ hạ điền, tận mắt nhìn thấy cảnh người nông dân làm lụng vất vả và các loài côn trùng, chim chóc, thú dữ tranh giành giết chóc lẫn nhau vì miếng ăn, thái tử cảm thấy xót thương cho kiếp phận muôn loài khổ đau. Trong khi mọi người vui chơi, thái tử đã thiền tọa tịch tĩnh dưới một gốc cây.
Năm 16 tuổi, Thái tử thành thân với công chúa Da-du-đà-la. Hai vợ chồng sống đời sống giàu sang suốt 13 năm liền trong ba lâu đài xây riêng cho họ, và sanh được hoàng nam La-hầu-la.
Một hôm, thái tử và người hầu Xa-nặc dạo chơi ở 4 cửa thành. Tận mắt chứng kiến cảnh người già, bịnh và chết, Thái tử vô cùng xót thương. Hình ảnh thoát tục của người xuất gia đã khiến thái tử quyết chí xuất gia, tìm đường học đạo, độ thoát chúng sanh.
Nửa đêm hôm ấy, sau khi đến nhìn vợ con lần cuối, thái tử lên ngựa Kiền-trắc cùng Xa-nặc vượt thành vào lúc. Sau khi vượt qua sông A-no-ma, thái tử xuống ngựa, cạo bỏ râu tóc, giao lại trang phục và đồ trang sức cho Xa-nặc bảo Xa-nặc hãy trở về. Kể từ đó, thái tử bắt đầu cuộc sống của kẻ xuất gia không nhà. Năm ấy thái tử tròn 29 tuổi.
Trên bước đường tìm đạo, Ngài theo học với 2 bậc đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ là A-la-lã và Uất-đầu-lam-phất. Ngài nhận ra rằng những cấp thiền mà Ngài đạt được không đưa đến giác ngộ và giải thoát. Thế là, Ngài quyết định vào rừng sâu tu hành khổ hạnh cùng với 5 anh em Kiều-trần-như. Ngài tu hành ép xác như thế ròng rã 6 năm, thân thể tiều tụy, chỉ còn da bọc xương mà vẫn không tìm ra được con đường giải thoát sanh tử. Nhân khi nghe trời Đế-thích nói về cách lên dây đàn, Ngài chợt tỉnh ngộ, từ bỏ khổ hạnh và thực hành trung đạo. Thấy vậy, 5 anh em Kiều-trần-như thất vọng, rời bỏ Ngài.
Còn lại một mình, sau khi thọ nhận bát sữa cúng dường của một mục nữ, Ngài xuống sông Ni-liên-thuyền tắm rửa và đến dưới gốc cây bồ-đề ngồi thiền. Ngài thề sẽ không đứng dậy nếu không đạt được giác ngộ giải thoát. Và Ngài đã ngồi im bất động như vậy suốt 49 ngày đêm. Ma vương sợ thái tử đắc đạo nên đã dắt binh tướng đến bao vây và tấn công Ngài. Nhưng bọn chúng đành thảm bại trước định lực kiên cố như kim cương của Ngài. Và cuối cùng, vào ngày rằm tháng 4 Âm lịch năm 588 trước tây lịch, vào lúc bình minh khi sao Mai vừa mọc, Ngài phá tan được màn vô minh, giác ngộ Tứ đế, chứng đạt Tam minh, chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác và thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Thế tôn.
Sau khi giác ngộ, đức Phật ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây Bồ đề. Ngài ngần ngại chưa muốn truyền pháp vì nghĩ giáo pháp của Ngài rất cao siêu, chúng sanh si mê không thể lãnh hội được, cho đến khi Phạm thiên Sahampati hiện thân khuyến thỉnh đôi lần, Phật mới nhận lời mở cánh cửa bất tử cho tất cả chúng sanh. Ngài đến Lộc Uyển chuyển pháp luân đầu tiên, độ 5 anh em Kiều-trần-như. Cũng kể từ đó, công cuộc hoằng pháp độ sanh của Ngài bắt đầu.
Sau khi thuyết pháp độ đời 45 năm, ngày rằm tháng 4, năm 543 trước Tây lịch, đức Phật thị hiện nhập Niết-bàn ở rừng cây sa-la gần thành Câu-thi-na, hưởng thọ 80 tuổi. Chúng đệ tử làm lễ trà tỳ cho kim thân Ngài, thâu được nhiều xá-lợi ngũ sắc rất đẹp

37. Ý Nghĩa Lễ Phật Đản (14_15/4 )

Năm nay, dương lịch 2007, Phật lịch 2551, nhân lễ kỷ niệm lần thứ 2631 Ðức Phật Thích Ca đản sanh, vào ngày rằm tháng tư (15 - 4) âm lịch, nhằm ngày 31-5-2007, chúng ta cùng nhau ôn lại lịch sử và tìm hiểu ý nghĩa thâm trầm của ngày lễ trọng đại này.
Ðức Phật Thích Ca đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni thuộc xứ Ca Tỳ La Vệ, được gọi là Thái tử Tất Ðạt Ða (hay Sĩ Ðạt Tha), con của đức vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia. Ngài lớn lên trong hoàng cung, vâng lệnh song thân lập gia đình với Công chúa Gia Du Ðà La, và hạ sanh Thái tử La Hầu La. Trong các chuyến xuất cung du ngoạn ngoại thành, Ngài chứng kiến các cảnh: sanh, lão, bệnh, tử trong nhân gian. Từ đó, Ngài luôn luôn trầm tư mặc tưởng, muốn tìm phương tự độ và cứu giúp chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân sanh tử, cho nên Ngài lìa bỏ hoàng cung, lên đường tìm đạo giải thoát. Sau 6 năm tu khổ hạnh ở chốn rừng già, và 49 ngày đêm ngồi thiền định dưới cội cây bồ đề, tâm trí thanh tịnh, Ngài hoát nhiên giác ngộ, thành Phật, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vào năm Ngài được 35 tuổi. Sau đó, Ngài đi khắp nơi thuyết pháp, đem chân lý giác ngộ giải thoát giảng dạy cho mọi người trong 45 năm ròng rã, và Ngài thị tịch, nhập niết bàn, năm 80 tuổi tại khu rừng ta la song thọ.
Toàn bộ lịch sử của Ðức Phật Thích Ca từ ngày đản sanh, đến thành đạo và nhập niết bàn, cũng như toàn bộ giáo lý của Phật giáo, không phân biệt tông phái, nêu lên những điểm quan trọng như sau:
1) Mọi người trên thế gian đều có thể trở thành một vị Phật, một bậc sáng suốt giác ngộ, không phân biệt dân tộc, nam nữ, xuất xứ, đẳng cấp, trẻ già, thời đại, đã có gia đình hay chưa, nếu người đó biết phát tâm tìm hiểu và tu tập theo đúng Chánh pháp, theo đúng bản đồ tu học. Do đó, có hằng hà sa số các vị Phật, từ quá khứ, đến hiện tại và vị lai, chứ không phải chỉ có một vị Phật duy nhất làm giáo chủ là Ðức Phật Thích Ca, còn tất cả các loài chúng sanh khác đều phải thờ lạy theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực. Đây chính là ưu điểm nổi bậc của giáo lý đạo Phật vậy.
2) Ðức Phật không phải là vị thần linh hay thượng đế tưởng tượng chuyên ban phước ra ơn hay giáng họa trừng phạt. Cho nên những ai cúng kiến, tin tưởng, thờ lạy Ðức Phật theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực, dù ở chùa hay ở nhà, đều không đạt được những ước muốn như ý. Bởi vậy, cúng kiến nhiều thì buồn phiền nhiều, tin tưởng nhiều thì thất vọng nhiều, xin xỏ nhiều đau khổ nhiều. Trái lại, những người sống đúng theo tinh thần những lời dạy của Ðức Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù có thờ lạy Ðức Phật hay không, cũng đều được an lạc và hạnh phúc hiện thời, giác ngộ và giải thoát mai sau. Đây chính là điểm chí công vô tư của giáo lý đạo Phật vậy.
3) Từ trước thời Ðức Phật xuất hiện trên thế gian này, cuộc đời vẫn thường đầy dẫy những sự đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa đảo, chứ không phải chỉ có thời hiện tại mà thôi. Do đó, giáo lý của đạo Phật thường được ví như chiếc thuyền, gọi là thuyền bát nhã, tức là thuyền từ bi trí tuệ, giúp đỡ con người vượt qua bể khổ, sông mê, lướt qua bát phong của cuộc đời, đến bến bờ giác ngộ và giải thoát. Ðức Phật vẫn sống ngay trên thế gian này, vẫn gặp bao nhiêu khổ nạn của cuộc đời, nhưng tâm trí của Ngài vẫn an nhiên tự tại, không cần phải đợi đến lúc về tây phương cực lạc hay thăng lên thiên đàng! Ðây chính là cốt tủy của đạo Phật vậy.
4) Ðạo Phật là một tôn giáo, cho nên cũng có những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện, cốt để giúp đỡ những người đang đau khổ trên thế gian này tìm đến với đạo, trong những bước ban đầu. Nếu như con người, dù tại gia hay xuất gia, đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà thôi, cứ đứng ở đó bao nhiêu năm trời, cho rằng như vậy là đủ rồi, không chịu bước thêm bước nữa, thì đau khổ vẫn hoàn khổ đau, có khác chi bao nhiêu người khác đâu? Bước đó chính là: phát tâm học hỏi, tìm hiểu Chánh pháp, xem Ðức Phật dạy những gì, để có thể áp dụng trong cuộc sống thực tế hằng ngày, đạt an lạc và hạnh phúc, thêm nữa đạt được: giác ngộ và giải thoát. Ðây chính là chánh kiến và chánh tín của đạo Phật vậy.
5) Các buổi lễ của Phật giáo, quan trọng nhứt là Lễ Phật Ðản, đều nhằm mục đích dẫn dắt con người đến với đạo, xoa dịu bớt những nỗi khổ đau của cuộc đời. Và mục đích quan trọng hơn hết là: "hãy bước vào cửa đạo", chứ không phải chỉ bước vào cửa chùa rồi thôi, hay vẫn cứ đi lang thang, lòng vòng bên ngoài, bằng lòng với các hình thức cúng kiến, lễ lạy, các buổi văn nghệ xổ số, các cuộc hành hương thương mại, các cuộc vận động in sách cầu vãng sanh lưu xá lợi, kêu gọi đóng góp tạo chùa to tượng lớn, mà không quan tâm việc tu học, không lo việc tu tâm dưỡng tánh, không biết đến Chánh pháp là gì? Bước vào cửa đạo nghĩa là: phải biết tu học theo lời Ðức Phật dạy trong các kinh sách, để đạt giác ngộ và giải thoát, chứ không phải là: không chịu học, chỉ tu mù, ai bảo sao làm vậy, ai nói sao nghe vậy, người trước làm người sau sao y bản chính, chẳng hiểu ý nghĩa, có nhiều điều hết sức mê tín dị đoan! Ðây chính là mục đích cứu cánh của đạo Phật vậy.
* * *
Theo truyền thuyết, ngay khi Thái tử Tất Ðạt Ða đản sanh, có hai vị Long vương đến phun hai dòng nước tắm cho Thái tử. Một vị phun dòng nước lạnh và một vị phun dòng nước nóng. Hai dòng nước lạnh và nóng tượng trưng cho hai cảnh giới thuận nghịch của cuộc đời, hai cảnh giới vui buồn, sướng khổ của cuộc sống hằng ngày, mà tất cả mọi người sanh ra trên thế gian này phải chịu đựng. Thái tử Tất Ðạt Ða đã chịu đựng được hai dòng nước lạnh nóng, cho nên sau này Ngài trở thành Ðức Phật Thích Ca. Trong kinh sách, Ðức Phật dạy rằng: người nào chịu đựng được những sự thuận nghịch của cuộc đời, mà tâm vẫn bình thường, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự tại, thì người đó sẽ là một vị Phật trong tương lai. Ðây chính là ý nghĩa hết sức thâm sâu vi diệu của đạo Phật vậy.
Trong kinh sách, những cảnh thuận nghịch của cuộc đời được gọi là: bát phong. Bát là tám, phong là ngọn gió. Bát phong chia làm bốn cặp, mỗi cặp gồm hai cảnh giới đối nghịch, đó là: lợi và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc. Lợi là những điều thuận lợi, đem lợi lộc, tài lợi đến cho con người. Suy là suy tàn, suy sụp, đem đến sự thua lỗ, mất mát cho con người. Cả hai điều này đều làm cho tâm của con người xao động, bất an. Hủy là hủy báng, chê bai làm cho tâm con người bị động. Dự là danh dự, khen tặng cũng làm cho tâm con người bị động. Kế đến là xưng và cơ, nghĩa là xưng tán, tán tụng, nói tốt, và cơ bài, bài bác, chỉ trích, nói xấu. Hai ngọn gió này của cuộc đời cũng làm cho tâm của con người bị xao động. Cuối cùng của bát phong là khổ nạn và lạc thú trên trần gian. Trên đời này, cảnh khổ quá nhiều, sanh lão bệnh tử là khổ, cầu mong không được cũng khổ, thương yêu phải chịu chia ly là khổ, thù ghét gặp nhau cũng khổ, thân thể ốm đau là khổ, tâm loạn động nhiều, bất an cũng khổ. Còn lạc thú trên đời cũng không ít việc đưa đến phiền não khổ đau. Chẳng hạn trò chơi bài bạc đỏ đen, tưởng là vui thú, nhưng thường dẫn tới hoàn cảnh bần cùng túng thiếu, tiền mất tật mang, lang thang lếch thếch, vợ bỏ con chê, mê chi cờ bạc, xạt nghiệp trắng tay, cửa nhà tan nát!
Trong Phật giáo, thường có nhiều hình thức nghi lễ, nhằm mục đích truyền bá giáo lý sâu rộng trong nhân gian, giúp đỡ mọi người xây dựng cuộc sống hiện đời được an lạc và hạnh phúc hơn. Nhân ngày rằm tháng tư âm lịch hằng năm, khắp nơi tưng bừng tổ chức lễ kỷ niệm ngày Ðức Phật đản sanh, để ghi nhớ công đức của bậc toàn giác tìm ra con đường cứu độ chúng sanh được giác ngộ và giải thoát khỏi phiền não khổ đau và sanh tử luân hồi. Trong phần nghi lễ kỷ niệm ngày Ðức Phật đản sanh, luôn luôn có tiết mục tắm Phật. Nghi lễ tắm Phật dựa vào truyền thuyết có hai vị Long vương phun hai dòng nước, một dòng nước lạnh và một dòng nước nóng, tắm cho Thái tử Tất Ðạt Ða trong ngày đản sanh. Mọi người đều hoan hỷ sắp hàng, tâm niệm Phật, miệng niệm Phật, chờ đến phiên mình tiến lên lễ đài để múc nước tắm cho tôn tượng Ðức Phật đản sanh. Khi múc gáo nước đầu tiên tắm cho vai phải tôn tượng Ðức Phật đản sanh nhỏ nhắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp thuận cảnh, phải lòng, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên. Khi múc gáo nước thứ hai tắm cho vai trái tôn tượng Ðức Phật đản sanh nhỏ nhắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp nghịch cảnh, trái lòng, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên. Việc làm này mang nhiều ý nghĩa vi diệu, có ích lợi lớn cho việc tu học, có thể chuyển hóa tâm trạng của con người từ phiền não khổ đau thành an lạc và hạnh phúc. Ðây chính là ý nghĩa sâu xa của nghi lễ tắm Phật vậy.
* * *
Trong các buổi lễ kỷ niệm ngày đức Phật đản sanh, chúng ta thường thấy hoạt cảnh, hoặc bức tranh vẽ Ðức Phật đản sanh đứng trên đóa hoa sen thứ 7, phía sau có 6 đóa hoa sen khác, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Bức tranh đó được vẽ theo truyền thuyết: Ngay khi đản sanh, Ðức Phật bước trên 7 đóa hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, và tuyên bố: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn".
7 đóa hoa sen tượng trưng cho thất chúng trong đạo Phật, đó là: Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Thức xoa ma na ni, Sa di, Sa di ni, nam Phật Tử và nữ Phật Tử. Nói chung là toàn thể con người, dù tại gia hay xuất gia đều có thể áp dụng giáo lý của đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày để được an lạc hạnh phúc và giác ngộ giải thoát. Muốn được như vậy, con người phải chứng được bản tâm thanh tịnh, được ví như đóa hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, cho nên vẫn sống trong trần đời đầy dẫy các điều hệ lụy, bất an, bất trắc, bất như ý, mà chẳng cảm thấy phiền não khổ đau!
Khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, Ðức Phật ngồi trên thảm cỏ, nhưng trong hình vẽ hay tôn tượng, Ðức Phật đều ngồi trên tòa sen, tượng trưng cho bản tâm thanh tịnh. Ngài đã giác ngộ được rằng: tất cả mọi chúng sanh đều có bản tâm thanh tịnh đó, cho nên đều có thể trở thành một vị Phật, nếu biết thực hành pháp môn tu tâm dưỡng tánh.
Bản tâm thanh tịnh trong kinh sách Phật giáo được gọi với nhiều danh từ khác nhau, chẳng hạn như là: chân ngã, chân tâm, chân tánh, Phật tâm, Phật Tánh, bản lai diện mục, v.v. Do đó, câu nói: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn", có nghĩa là trong 6 cõi luân hồi: trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, hay nói gọn hơn: trên trời dưới đất, chỉ có chân ngã, tức là bản tâm thanh tịnh, là đáng tôn kính. Người giác ngộ được điều này, sẽ giải thoát được phiền não khổ đau và sanh tử trong 6 cõi luân hồi, đứng trên tòa sen thứ 7, tức là an trú nơi cảnh giới niết bàn: thường, lạc, ngã, tịnh.
* * *
Một điều căn bản khác, chúng ta cần biết là: Phật lịch luôn luôn được tính thêm 544 năm vào dương lịch, kể từ năm Ðức Phật nhập diệt, trước công nguyên. Cho nên năm nay dương lịch 2007, Phật lịch chính là năm 2551 (= 2007 + 544). Tuổi thọ của Ðức Phật là 80 tuổi, cho nên năm đức Phật đản sanh được cộng thêm 80 năm vào Phật lịch. Tóm lại, năm nay dương lịch là 2007, Phật lịch là 2551, Lễ Phật đản 2631 (= 2551 + 80). 

38. Lễ Vua Lan Bồn ( 14_15/7 )


Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Nước biển mênh mông không đong dầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo sớm hôm Mẹ nuôi Con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy Cha che chở đời Con
Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ Khóc
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghe không?



=================================


Dù con đếm đựoc cát sông
Nhưng không đếm đựoc tấm lòng Mẹ yêu
Dù con đo dựoc sớm chiều
Nhưng không đo được tình yêu Mẹ hiền
Dù con đi hết trănm miền
Nhưng tình của mẹ vẫn liền núi non
Dù con cản đựoc sống cồn
Nhưng không ngăn đựoc tình thương mẹ dành
Dù con đến đựoc trời xanh
Nhưng không đến được tâm hành mẹ đi
Dù con bất hiếu một khi
Tình thương mẹ vẫn thầm thì bên con
Dù cho con đãn lớn khôn
Nhưng tình mẹ vẫn vuông tròn trứoc sau
Ôi tình mẹ tựu trăng sao
Như hoa hồng thắm một màu thủy chung
Tình của mẹ lớn khôn cùng
Bao dung vạn loại dung thông đất trời
Ôi tình mẹ đẹp tuyệt vời
Làm con hiếu thảo trọn đời khắc ghi.



Đã lâu rồi, mỗi năm một lần, dân Việt ta có tục cúng Rằm tháng Bảy. Một câu tục ngữ đã nói :
Rằm tháng giêng ai siêng thì quảy;
Rằm tháng Bảy người quảy khắp nơi...
"Quảy" là một tiếng Việt cổ, một động từ để chỉ việc cúng vái mà bây giờ ta ít nghe nói. Trong ngôn ngữ Việt lại có động từ "cúng quảy", "đơm quảy"... "Quảy" thì không phải chỉ cúng với hoa quả, trầm trà, hương đèn, mà "quảy" còn bao hàm ý nghĩa là có sắm sửa đồ ăn quý hơn đồ ăn nhật dụng để cúng ông bà tổ tiên nữa. Vì sao người Việt ta lại soạn đồ ăn để dâng cúng ông bà tổ tiên vào dịp Rằm tháng Bảy hằng năm ? Trong một bài ca dao cổ nói về công việc trong mười hai tháng của một năm, ta lại đọc được một câu :
"... Tháng Sáu buôn nhãn bán trăm
Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân..."
Ngày "xá tội vong nhân" phải là một hội lễ lớn và quan trọng, người dân mới ghi vào lịch sử sinh hoạt 12 tháng của mình như thế. Có lẽ ta cũng nên lưu ý là mỗi tháng người dân chỉ ghi vào lịch sử sinh hoạt một việc chính nhất, và như thế ngày Rằm mới có hội "xá tội vong nhân", nhưng suốt tháng Bảy nhất là nửa tháng đầu, người ta phải chuẩn bị tâm tưởng, chuẩn bị vật chất, nói chung là tất cả hoạt động trong tháng đó, để hướng về ngày Rằm có trăng tròn, có hội lễ "xá tội vong nhân". Nhớ, luôn luôn nhớ để cúng ông bà, tổ tiên và gần là cha mẹ.
Nhớ mà cúng, trong quan niệm của nhân gian những người bỏ "cúng quảy" là những kẻ "bất hiếu chi cực" tức là không có gì bất hiếu với cha mẹ, ông bà, tổ tiên hơn nữa.
Ngày Rằm tháng Bảy "xá tội vong nhân" là ngày quan trọng. Quan niệm "xá tội vong nhân" trong tư duy người dân rất đơn giản. Người dân thường giải thích với nhau : "Nghe mấy cụ đời xưa kể lại thì vào ngày Rằm tháng Bảy, dưới âm phủ người ta mở hết các cửa địa ngục để thả tù ra một ngày. Mình làm đồ ăn cúng để ông bà mình cả năm bị giam đói, có được thì ăn với con cháu một bữa cho no kẻo tội nghiệp". Tuy cách suy nghĩ đơn giản nhưng trong cách suy nghĩ đó có mang nội dung "hiếu đạo" luôn luôn nhớ đến người quá vãng, sợ họ bị đói khổ.
Tưởng chúng ta cũng nên nhìn sang một nước Á Đông có quan niệm gần giống dân ta về ngày Rằm tháng Bảy âm lịch như thế. Đó là dân tộc Nhật Bản.

Người Nhật cũng có một lễ hội vào dịp tháng Bảy. Họ cũng nghĩ là từ vong linh dưới các cửa địa ngục được thả ra một ngày vào Rằm tháng Bảy, trong đó có cha mẹ, ông bà, tổ tiên của họ. Cho nên mỗi nhà đều sắm sửa của cúng và làm rất nhiều đèn lồng đẹp treo trước nhà. Họ nghĩ là cửa ngục mở ra, vong linh tổ tiên họ đi về nhà với con cháu, sau một cuộc hành trình xa thì chắc đói bụng nên bày sẵn thức ăn để cúng tổ tiên hưởng dụng. Treo đèn để giúp tổ tiên tìm ra đường đi. Rất sớm vào sáng 16 tháng Bảy, đồ ăn ấy sẽ được đưa tống xuống sông hoặc xuống biển và đèn cũng được đem thả xuống nước để dẫn đường đưa ông bà tổ tiên trở về thế giới bên kia. Hội thả đèn này gây được niềm xúc động trong lòng người, vì từng đám đông, những người sau khi thả những cây đèn của mình, cứ đứng nhìn những cây đèn trôi xa đi mãi như theo dõi, lưu luyến tiễn đưa tổ tiên, cho đến khi không nhìn thấy đèn nữa mới thôi. Trong quan niệm người Nhật Bản cũng có bao hàm một nội dung "hiếu đạo" như dân tộc Việt ta.
Nhưng, nguồn gốc lễ này ở đâu ? Ai cũng biết Việt Nam hay Nhật Bản - cũng có thể kể luôn cả Trung Hoa, Tây Tạng, Cao Ly,... là những nước ở cõi Á Đông theo Phật giáo đã từ lâu đời. Trong Phật giáo có một đại lễ cử hành vào ngày trăng tròn tháng Bảy âm lịch hằng năm. Đó là lễ Vu Lan Bồn (Sanskrit : Ullambana). Sở dĩ có lễ này là vì trong thời Phật còn tại thế, có Tôn giả Mục Kiền Liên (Sanskrit : Maudgalyàyana; Pali : Moggallàna) muốn cứu mẹ ra khỏi ngục lửa, nhưng một mình Ngài không đủ lực. Tôn giả bèn kêu cầu Đức Phật cứu độ mẹ mình ra khỏi ác đọa. Chính Đức Phật cũng không độ bà Thanh Đề này được, vì nghiệp ác của bà quá dữ. Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên phải soạn lễ trai Tăng cúng dường "Đức Phật và chúng Thánh Tăng cả mười phương" sau lễ Tự Tứ ra hạ vào ngày 14 tháng Bảy, để Đức Phật và Thánh Tăng mười phương cùng hợp lực chú nguyện thì mới cứu mẹ của Tôn giả ra khỏi ngục lửa được. Là một Đại đệ tử của Đức Phật, đã đắc ngộ quả vị A La Hán, Ngài Mục Kiền Liên còn là một người con rất có hiếu với mẹ và rất trọng ân thâm của thầy tức là Đưc Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài đã vâng lời thầy sắm đèn hương hoa trầm và thức ăn để làm lễ trai Tăng. Sau đó, Đức Phật và chư Thánh Tăng mười phương và chính cả Ngài Đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát với hạnh bố thí bao la của mình đã hợp lực chú nguyện, bà Thanh Đề đã nương theo đó mà thoát khỏi ngục lửa để lên cõi siêu thăng. Sau lễ này, Đức Phật đã dạy Ngài Mục Kiền Liên mỗi năm làm lễ Vu Lan Bồn vào ngày Rằm tháng Bảy như Ngài đã làm để báo ân cha mẹ. Lời Phật thuyết trong dịp này được gọi là Vu Lan Bồn kinh; người ta thường gọi nôm na là kinh Báo Hiếu. Từ đó, lễ Vu Lan Bồn đã đi vào dân gian các nước phương Đông theo Phật giáo, và trở thành ngày gọi là "ngày Rằm xá tội vong nhân". Riêng dân Việt Nam ta có câu: "Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt" thì cũng đủ để minh họa ảnh hưởng Phật giáo trong dân gian như thế nào. Dân Nhật Bản thì ông Renodeau trong bài "Phật giáo Nhật Bản" đã đưa nhận xét : "Không những lễ Vu Lan Bồn là một biến cố hệ trọng trong năm theo Phật giáo, mà đại lễ này còn chiếm một tầm quan trọng đáng kể trong toàn dân Nhật; do đó mà dân Nhậ? đã tổ chức và sửa soạn lễ này trong ba ngày từ chiều 13 đến sáng 16 tháng Bảy mỗi năm; người Việt ta thì chỉ hai ngày 14 đến ngày 15 tháng Bảy hằng năm.. Nhưng trong quan niệm về hiếu đạo thì dân ta sâu sắc hơn, vì dân Việt ta nghĩ đến "tổ tiên bị giam đói trong ngục", nhờ ngày lễ xá tội vong nhân mới về được, nên con cháu phải dâng cúng để tổ tiên hưởng một bữa đặc biệt. Rõ ràng quan niệm "bị giam đói trong ngục" là gần với câu chuyện của Phật giáo hơn là quan niệm "tổ tiên đi đường xa đói bụng" của dân Nhật Bản".
Ta cũng cần phân biệt ý nghĩa "cúng quảy" trong ngày "xá tội vong nhân" tức là ngày lễ Vu Lan Bồn của Phật giáo với lễ Trung Nguyên của Nho giáo Trung Hoa mà người Việt ta cũng có bị ảnh hưởng. Trong ý thức hệ Nho giáo thì có đến ba lễ trong năm có chữ "Nguyên"; đó là lễ Thượng Nguyên vào ngày Rằm tháng Giêng; lễ Trung Nguyên vào ngày Rằm tháng Bảy và lễ Hạ Nguyên vào ngày Rằm tháng Mười và dân gian thường gọi là "các ngày Rằm lớn" vì đều có cùng quảy. Để hiểu cho tận căn nguyên các lễ này thì không phải là chuyện bàn ở đây. Cho nên chúng tôi chỉ xin phác sơ để phân biệt lễ Trung Nguyên với lễ Vu Lan Bồn là hai ngày lễ của hai tín ngưỡng khác nhau, có ý nghĩa khác nhau, nhưng đều được cử hành vào ngày Rằm tháng Bảy thôi. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, trong tập Bản Kỷ, Kỷ nhà Lý, có ghi rất rõ như sau :
1. "Mùa Thu tháng Bảy, tiết Trung Nguyên bãi cỗ bàn, vì là ngày lễ Vu Lan Bồn của Linh Nhân Hoàng Thái Hậu". (Sđd, tr. 249)
2. "Mùa Thu tháng Bảy, tiết Trung Nguyên, vua Thần Tông (1128-1138) ngự điện
Thiên An, các quan dân biểu mừng" . Vì là ngày lễ Vu Lan Bồn củaNhân Tông (1027-1127), nên không đặt lễ yến (Sđd, tr. 263)
Linh Nhân Hoàng Thái Hậu tức là Phù Thánh Cảm Linh Nhân Hoàng Thái Hậu, mẹ Vua Lý Nhân Tông (1072-1172), bà chính là Ỷ Lan Thái Phi, là một Phật tử thuần thành, bà đã cho trùng tu và xây dựng hơn trăm ngôi chùa. Bà mất vào ngày 25 tháng Bảy năm Hội Tường Đại Khánh thứ 8 (1117), và được hỏa táng vào tháng 8 năm ấy. Tháng Bảy năm sau, Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118) Vua Lý Nhân Tông bãi cổ bàn yến tiệc của Lễ Trung Nguyên để làm lễ Vu Lan Bồn cho mẹ. Mười năm sau, vào niên hiệu Thiên Thuận năm đầu, Mậu Thân (1928) Vua Lý Thần Tông bãi cỗ bàn yến tiệc của Lễ Trung Nguyên để làm lễ Vu Lan Bồn cho cha.
Như thế, không cần đi sâu hơn, ta cũng thấy được qua những dữ kiện mà chính sử có ghi, ý nghĩa lễ Trung Nguyên với lễ Vu Lan Bồn báo hiếu khác nhau rất xa. Trong lễ Trung Nguyên có cỗ bàn yến tiệc vui chơi ca hát và chúc tụng, trong lễ Vu Lan Bồn có cỗ bàn, hương hoa trầm trà để cầu quy lực của Phật cứu khổ cha mẹ ở địa ngục.
Tiếp nối truyền thống của triều Lý, năm Thiệu Bình nguyên niên (1434) triều Lê, Vua Lê Thái Tông đã thiết lễ Vu Lan Bồn của Vua Lê Thái Tổ rất lớn. Đến triều Nguyễn (1802-1945) thì các Vua Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) đều có thiết lễ Vu Lan Bồn rất trọng thể ở chùa Thiên Mụ - Huế.
Năm Ming Mệnh thứ 16, Ất T?(1835), thiết đại trai đàn vào dịp lễ Vu Lan ở chùa Thiên Mụ. Vua giao cho Hà Tôn Quyền, Hoàng Quýnh chịu trách nhiệm tổ chức, Bùi Công Huyên là "Đổng Lý trai đàn", vua có ngự lên Thiên Mụ để dự lễ và làm nhiều thơ sai đem dán ở điện Phật và các nơi đàn thủy lục.
Hai năm sau, vào năm Minh Mệnh thứ 18, Đinh Mùi (1837) thiết trai đàn 21 ngày đêm và tiết Trung Nguyên tức Rằm tháng Bảy để làm lễ Vu Lan. Năm này trong đại lễ Vu Lan có đốt pháo và có đến 146 biền binh phục vụ vẫn không đủ.
Đến thời Thiệu Trị, tháng Bảy năm thứ 5, Ất T? (1845) vào ngày Rằm Vu Lan vua lập đàn chay 21 ngày đêm liên tục ở chùa Thiên Mụ. Đàn được lập cả trên sân chùa lẫn dưới bờ sông. Trong bia Thiên Mụ Tự Phước Duyên Bảo Tháp Bi, chính l?#7901;i nhà vua đã nói : "Tế thử Vu Lan chi hội, Khai tam thất thủy lục đạo tràng, liệu tha đảm bặc chi hương, phổ đại thiên u minh thuyết pháp".
Trên bia "Ngự thế chi" ở chùa Diệu Đế khắc vào tháng Bảy năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) vua có làm bài thơ thứ hai nói về lễ Vu Lan trong đó có câu :
"Nguyệt minh như họa chính kim tiêu
Hà xứ Vu Lan thiết tiệc yêu..."
Toàn bài thơ vua Thiệu Trị không nói đến Vu Lan, song câu thứ hai trên đây, cho biết rằng trong dân gian người ta có làm lễ Vu Lan Bồn vào tiết Trung Nguyên.
Đến đời Vua Tự Đức, năm thứ 31 (1878) vào Rằm tháng Bảy có thiết lễ Vu Lan Bồn rất lớn ở chùa Thiên Mụ : Vào năm đó Mậu Dần, bộ Lễ Nghi tâu vua theo lệ đã đến kỳ mở đại trai đàn để chúc hỗ nhàvua. Vua Tự Đức bảo : "Chúc một người sống lâu không bằng cứu vớt muôn người chết oan... ". Sau đó vua ra lệnh triệu tập chư Tăng từ trong Nam ra tới Quảng Bình về kinh, lên chùa Thiên Mụ mở hội Vu Lan bạt độ và vua ra lệnh cho các chùa Quan ở Thừa Thiên - có 7 chùa là : Thiên Mụ, Long Quang, Từ Ân, Diệu Đế, Ngọc Sơn, Linh Quang và Thánh Duyên - lấy ngày Trung Nguyên, tức ngày Rằm tháng Bảy năm đó, khai kinh phổ tế các tướng sĩ trận vong khắp cả Nam-Trung-Bắc kể từ năm Tự Đức nguyên niên đến lúc đó (1848-1878).
Một lần nữa, ngay trong câu nói của vua Tự Đức người ta lại thấy ý nghĩa của lễ Trung Nguyên khác với ý nghĩa lễ Vu Lan Bồn rất nhiều. Nhưng có điều đặc biệt là vào buổi đầu, các vua triều Lý đã tổ chức lễ Vu Lan Bồn với ý nghĩa báo hiếu cha mẹ rất rõ. Nhưng càng về sau, nhất là trong triều Nguyễn ý nghĩa này đã mở rộng trong quan niệm dân gian không những cứu độ cha mẹ, tổ tiên màcòn lan ra tất cả mọi người. Như trong lễ Vu Lan Bồn năm Ất T?(1835) triều Minh Mệnh, tất cả tướng sĩ trận vong ở Phiên An thành đều được bạt độ khi tin thắng trận báo về kinh gặp lúc vua đang hành lễ Vu Lan Bồn ở chùa Thiên Mụ; và như lễ Vu Lan vào năm Tự Đức thứ 31 (1878) vừa nói ở trên, trong kỳ này lễ Vu Lan đã trở thành một đại lễ cầu siêu rộng lớn có cả chư Tăng đông đảo, có cả triều đình và cả vua Tự Đức đều hợp lực chú nguyện.
Trong truyền thống dân gian cũng vậy, lễ Vu Lan đã trở thành lễ bạt độ cầu siêu cho cả "thập loại cô hồn chúng sinh". Cho nên vào ngày Rằm tháng Bảy, ngoài việc mỗi nhà đều thiết bày hương, đèn, hoa, quả, trầm trà và đồ ăn chay đơn giản - thường là "xôi" một thức ăn quý mà dân ta thường dùng trong các dịp tế lễ, và "chè" nấu bằng nếp hoặc các thứ đậu vơí đường - để cúng tổ tiên; thì ở các chợ người ta cũng mua sắm cỗ bàn hoa quả và thỉnh các Thầy tụng kinh cúng đàn chẩn tế. Ông Đào Duy Anh trong Việt Nam Văn Hóa Sử Cương đã ghi : "Theo Phật giáo thì những cô hồn ấy phải giam ở địa ngục, cứ mỗi năm đến ngày Rằm tháng Bảy vong nhân xá tội thì các cô hồn được thoát ngục. Ngày ấy tại các chùa, các chợ người ta làm chay để cung cấp đồ ăn và quần áo cho cô hồn". (Sđd, tr 204)
Bài văn tế cô hồn thập loại chúng sinh của Nguyễn Du đã mở đầu bằng câu :
"Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt
Gió heo may lạnh buốt xương khô... "
là đã gợi nên cái cảnh đói, lạnh, khổ của cô hồn ở địa ngục và gợi mở lòng từ bi ở mọi người còn sống. Trong nhân gian từ đầu triều Nguyễn về sau thường dùng bài này đọc trong lúc làm lễ chẩn tế vào dịp đại lễ Vu Lan Bồn hằng năm.
Tại các chùa thì sau ngày Tự Tứ của chư Tăng để ra hạ , chùa nào cũng có cúng lễ Vu Lan. Lễ này là của chính các Tăng sĩ trong chùa đó làm lễ báo hiếu cho cha mẹ mình, đúng ý nghĩa với lời kinh Phật dạy; nhưng đồng thời cũng cúng chư linh được thờ trong chùa và rộng hơn nữa là thập loại cô hồn chúng sinh, đến chùa để "văn kinh thính pháp" và nương theo ánh sáng Phật pháp để giải thoát.
Cũng trong buổi sáng ngày Rằm tháng Bảy đó, những gia đình Phật tử quy y ở chùa nào thì vân tập về chúa ấy để cúng tổ tiên mình. Có tiếng chuông trống Bát Nhã, có tiếng mõ gia trì và chư Tăng tụng kinh; để tử quỳ lạy để cầu chư Phật phóng quang tiếp độ và hợp lực chú nguyện cầu vong linh của gia đình họ nương theo lời kinh tiếng kệ, âm thanh chuông trống của nhà chùa, nói chung là nương theo âm thanh và ánh sáng Phật pháp để giải bớt nghiệp chướng.
Nói chung, ngày đại lễ Vu Lan Bồn đã trở thành một ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam, theo đạo Phật hay không theo đạo Phật để báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên của mỗi người sống đã đành; mà còn mang một ý nghĩa đại thừa, là nhân ngày Vu Lan Bồn mà có việc "xá tội vong nhân", thì mọi người đều nghĩ đến và cầu cho tất cả mọi chúng sinh ở bên kia thế giới được thấy ánh sáng của chư Phật và được nghe mọi âm thanh của Phật pháp, cố gắng chuyển nghiệp để thoát khỏi cảnh đọa đày của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh mà sanh cõi Thiên, Nhân là hạng có thiện duyên dễ cận kề với Phật pháp hơn.

39. Thập bát la hán là gì?

Sự tích 16 vị La-hán được chép trong sách Pháp Trụ Ký. Sách này do vị Đại A-la-hán Nan Đề Mật Đa La (Nandimitra) trước thuật và Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (600-664) dịch ra chữ Hán.
Ngài Nan Đề Mật Đa La (còn có tên là Khánh Hữu) người Tích Lan, ra đời khoảng năm 800 năm sau Phật Niết bàn. Theo Pháp Trụ Ký (Fachu-chi), thì Ngài chỉ lược thuật lại kinh Pháp Trụ Ký do Phật thuyết giảng mà thôi. Sách này trình bày danh tánh, trú xứ và sứ mệnh của 16 vị La-hán. Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thông và Bát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp và làm lợi lạc quần sanh. Mỗi khi các tự viện tổ chức lễ hội khánh thành, làm phúc, cúng dường trai Tăng, các Ngài cùng với quyến thuộc thường vận dụng thần thông đến để chứng minh, tham dự, nhưng chúng ta không thể nào thấy được. Hiện nay, tuổi thọ trung bình của loài người là 80 tuổi. Tuổi thọ này - theo Pháp Trụ Ký - sẽ giảm dần còn 10 tuổi là giai đoạn cuối cùng của kiếp giảm. Sau đó, sang giai đoạn kiếp tăng, tuổi thọ con người từ 10 tuổi tăng dần đến 70000 tuổi. Bấy giờ các Ngài sẽ chấm dứt nhiệm vụ và nhập Niết bàn. (Bởi vì khi tuổi thọ loài người đến 80000 tuổi thì đức Phật Di Lạc sẽ ra đời).
Danh tánh và trú xứ của các Ngài như sau:
1. Tân Đâu Lô Bạt La Đọa Xà (S: Pindolabharadvàja), vị tôn giả này cùng 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tây Ngưu Hóa châu.
2. Ca Nặc Ca Phạt Sa (S: Kanakavatsa), vị tôn giả này cùng với 500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại phương Bắc nước Ca Thấp Di La.
3. Ca Nặc Ca Bạt Ly Đọa Xà (S: Kanakabharadvàja), vị tôn giả này cùng 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Đông Thắng Thân châu.
4. Tô Tân Đà (S: Subinda), vị tôn giả này cùng với 700 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bắc Cu Lô châu.
5. Nặc Cự La (S: Nakula), vị tôn giả này cùng 800 vị A-la-hán phần lớn cư trú tại Nam Thiệm Bộ châu.
6. Bạt Đa La (S: Bhadra), vị tôn giả này cùng 800 vi A-la-hán, phần lớn cư trú tại Đam Một La châu.
7. Ca Lý Ca (S: Kàlika), vị tôn giả này cùng với 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tăng Già Trà châu.
8. Phạt Xà La Phất Đa La (S: Vajraputra), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bát Thứ Noa châu.
9. Thú Bát Ca (S: Jìvaka), vị tôn giả này cùng với 900 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Hương Túy.
10. Bán Thác Ca (S: Panthaka), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A-la-hán cư trú tại cõi trời 33.
11. La Hỗ La (S: Ràhula), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tất Lợi Dương Cù châu.
12. Ma Già Tê Na (S: Nàgasena), vị tôn giả này cùng với 1200 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại núi Bán Độ Ba.
13. Nhân Yết Đà (S: Angala), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A Lan Hán, phần lớn cư trú tại trong núi Quảng Hiếp.
14. Phạt Na Bà Tư (S: Vanavàsin), vị tôn giả này cùng 400 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Khả Trụ.
15. A Thị Đa (S: Ajita), vị tôn giả này cùng với 1500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Thứu Phong.
16. Chú Trà Bán Thác Ca (S: Cùdapanthaka), vị tôn giả này cùng với 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú trong núi Trì Trục.
Sau khi Pháp Trụ ký được dịch sang chữ Hán, Thiền sư Quán Hưu (832-912), vốn là một họa sĩ tài ba đã vẽ ra hình ảnh 16 vị A-la-hán. Tương truyền, nhân Thiền sư nằm mơ cảm ứng thấy được hình ảnh của các Ngài rồi vẽ lại. Những hình ảnh này ngày nay người ta còn tìm thấy tàng trữ nơi vách tường Thiên Phật động tại Đôn Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Sau Thiền sư Quán Hưu còn có hoạ sĩ Pháp Nguyện, Pháp Cảnh và Tăng Diệu cũng chuyên vẽ về các vị La-hán.
Vì sao 16 vị La-hán trở thành 18 vị?
Từ khi có hình ảnh 16 vị La-hán, các chùa thường tôn trí hình ảnh của các Ngài, và từ con số 16 người ta thêm tôn giả Khánh Hữu thành 17 và tôn giả Tân Đầu Lô thành 18 (nhưng không biết ai là tác giả đầu tiên của con số 18 này).
Thật ra tôn giả Khánh Hữu (tên dịch nghĩa ra chữ Hán) vốn là Nan Đề Mật Đa La (tên phiên âm từ chữ Phạn), người đã thuyết minh sách Pháp Trụ Ký; còn Tân Đầu Lô chính là Tân Đầu Lô Bạt La Đọa Xa2, vị La-hán thứ nhất trong 16 vị. Do khômg am tường kinh điển và không hiểu tiếng Phạn mà thành lầm lẫn như thế!
Về sau, Sa môn Giáp Phạm và Đại thi hào Tô Đông Pha (1036-1101) dựa vào con số 18 này mà làm ra 18 bài văn ca tụng. Mỗi bài đều có đề tên một vị La-hán. Rồi họa sĩ Trương Huyền lại dựa vào 18 bài văn ca tụng của Tô Thức mà tạc tượng 18 vị La-hán, nhưng lại thay hai vị 17 và 18 bằng tôn giả Ca Diếp và Quân Đề Bát Thán. Do thế mà từ con số 16 lần hồi trở thành con số 18. Từ đời Nguyên trở đi, tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, con số 18 này được mọi người mặc nhiên chính thức công nhận, con số 16 chỉ còn lưu giữ trong sổ sách mà thôi. Nhưng, tại Tây Tạng, ngoài 16 vị trên, người ta thêm Đạt Ma Đa La và Bố Đại Hòa Thượng; hoặc thêm hai tôn giả Hoàng Long và Phục Hổ, hoặc thêm Ma Da Phu nhân và Di Lặc để thành ra 18 vị.
Ngoài ra, còn có hai sự tích khác về 18 vị La-hán
1. Sự tích thứ nhất được kể trong tập sách viết bằng chữ Hán của thầy Giáo thọ Hoằng Khai, trụ trì chùa Càn An, tỉnh Bình Định, vào năm Tự Đức thứ tư (1851). Theo sách này thì nước Triệu có nàng công chúa tên là Hy Đạt, vốn rất chí thành mộ đạo, nàng chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà. Năm 15 tuổi, nàng ăn một đóa hoa sen vàng rồi hoài thai đến 6 năm mới sinh ra 18 đồng tử. Các đồng tử ấy về sau được đức Quan Âm hóa độ và thọ ký để họ trở thành 18 vị La-hán.
Nội dung sự tích này khá lý thú, tương đối có giá trị về mặt văn chương, nhưng cốt truyện lại pha trộn tinh thần Phật, Khổng, Lão nên ít có giá trị về mặt lịch sử.
2. Sự tích thứ hai: tương truyền ngày xưa tại Trung Quốc có 18 tên tướng cướp rất hung hãn. Về sau họ hồi tâm cải tà quy chánh, nương theo Phật pháp tu hành và đắc quả A-la-hán. Sự tích này tương đối có ý nghĩa, nhưng lại có tính cách huyền thoại, do đó ít được người ta chấp nhận. (theo tài liệu của Thầy Thích Phước Sơn)
Theo nhà nghiên cứu Bezacier, hệ thống biểu tượng thờ Phật (tính từ trọng tâm ra) gồm có:
Thượng điện và Thiêu hương
1- Tượng Tam Thế: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (đức Phật A Di Đà, đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, đức Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật).
2- Di Đà Tam Tôn: Phật A Di Đà (Amitabha) ở giữa; đức Đại Thế Chí Bồ Tát (Maha Sthanaprata) ở bên trái; đức Quan Thế Âm Bồ Tát(Avalokitesvara) ở bên phải.
3- Tượng Thế Tôn: Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni (Cakyamonni) ở giữa; đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjucri) ở bên trái; đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát (Samantaghadha) ở bên phải. Một số chùa, bên cạnh đức Thế Tôn là đức A Nan Đà (Ananda) và Ma Ha Ca Diếp (Mahakacyapa) .
4- Tượng Di Lặc Tam Tôn: Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật (Maitreya) ở giữa, đức Pháp Hoa Lâm ở bên trái; Đại Diện Tướng ở bên phải.
5- Tượng Phật nhập Niết Bàn
6- Tượng đức Thích Ca đản sanh
7- Tượng Đế Thích (Indra) ở bên trái và đức Ngọc Hoàng (Brahma) ở bên phải.
8- Tượng Tứ Thiên Vương (Đông, Tây, Nam Bắc) hay Tứ Bồ Tát (Ái Bồ Tát, Sách Bồ Tát, Ngữ Bồ Tát và Quyền Bồ Tát).
9- Tượng Địa tạng Vương Bồ Tát (Ksutigabha) tay cầm bảo châu, tay kia cầm tích trượng. Hai tượng hầu hai bên là Chưởng Thiện (bên trái) và Chưởng Ác (bên phải).
10- Các tượng về đức Quan Thế Âm Bồ Tát như: Quan Âm Chuẩn Đề (3 mặt, 18 tay) Quan Âm Thiên Thủ, Thiên Nhãn (nghìn tay, nghìn mắt) Quan Âm Nam Hải (đi bè vượt biển cả), Quan Âm Thị Kính...
Tiền đường
1- Bát Bộ Kim Cương (Vajrapani) gồm có: Thanh Trừ Tai, Tích Độc Nhãn, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tĩnh Thủy, Xích Thanh Hoá, Định Trừ Tai, Tử Hiền và Đại Thần Học.
2- Hộ Pháp (Paladharma): ông Thiện và ông Ác 3- Thổ Thần, Long Thần, Đức Ông, Thánh Tăng (Ananda) Giám Trai. 4- Thập điện Diêm Vương: Tân Quảng Vương, Sở Giang Vương, Diêm La Vương, Ngũ Quan Vương, Biến Thành Vương, Thái Sơn Vương, Bình Đẳng Vương, Đô Thị Vương, Chuyển Luân Vương.
Hành lang:
Thờ những vị Tổ: Ma Ha Ca Diếp, A Nan Đà, Giá Na Hoà Tu,Ưu Ba Cầu Đa, Đề Ca Đa, Ba Tu Mật, Phật Đà Nan Đề, Phụng Đà Mật Đa, Hiếp Tôn Giả, Mã Minh, Ca Tỳ Ma La, Long Thụ Tôn Giả, La Hầu Ha, Tăng GiàNan Đề, Gia gia Đa Xá, Cưu Ma La Đa, Đồ Dạ Đa. Một trong những yếu tố tạo nên khung cảnh trang nghiêm của một ngôi chùa là quang cảnh bên trong. Không gian của chùa vốn dĩ thường đóng kín, ánh sáng chiếu vào rất hạn chế. Khi ánh sáng toả vào chùa theo con đường khúc xạ và phản quang, cho nên cường độ cũng rất yếu, khác hẳn không gian nội thất của đình làng. Đã thế, việc trang trí điện thờ ở chùa lại khá phức tạp, nhiều tầng lớp, đủ thể loại, đã gia tăng thêm cảnh u tịch, huyền bí, oai nghiêm. Bên trong, với không gian chùa như thế, những khối tròn, nhẳn bóng thường đọng ánh sáng và nổi lên rất rõ nét. Do đó, khi tạo hình, những pho tượng thường có bề mặt rất nhẵn, những khối rất căng tròn.
Những dãy tượng trong chùa thường xếp thành hàng như Di Đà Tam Tôn, Quần tượng Tam Thế, những tượng Quan Thế Âm Chuẩn Đề, Tống tử, Niệm hương, Tượng Ngọc Hoàng, Đế Thích, Thập Bát La Hán... cân xứng, đăng đối.

40. Các loại tượng Phật ở chùa

Về hình tướng Phật tượng nói chung, dựa theo những nguyên tắc trong nghệ thuật tạo hình, thường phân chia ra các loại: Phật hình, Bồ tát hình, La hán hình, Thần vương hình, Thiên vương hình, Quỷ hình, Súc hình. Mỗi thể loại còn được chế tác theo nguyên tắc cách điệu, biểu trưng, tả chân, ấn tượng. Điều cơ bản để tạo nên sự khu biệt ấy một phần quan trọng là do các tư thế toạ lập, các thức thủ ấn, trang phục.
Ở Ấn Độ cổ đại, việc điêu khắc, đắp vẽ tượng Phật bị xem là việc xúc phạm thần thánh, nên chỉ vẽ các hình ảnh tượng trưng như pháp luân, cội Bồ-đề, dấu chân Phật. Về sau, Đại thừa giáo phát triển, kinh điển mới nói nhiều đến nhân duyên công đức của việc tạo tượng.

Việc đắp tạo và điêu khắc tượng Phật đến thế kỷ I mới bắt đầu thịnh hành. Đại tháp Amaravati được xây dựng vào thế kỷ IV - V, trên lan can có Phật truyện đồ với những dụng cụ bằng vàng. Di phẩm nổi tiếng nhất về nghệ thuật điêu khắc là tượng khắc trong động đá Ajantà ở Panjab, được khen là "Cung nghệ thuật phương Đông". Bên trong có nhiều bích họa, còn bên ngoài có nhiều điêu khắc, các nhân vật đều rất trang nghiêm sinh động, đậm hơi thở tôn giáo. Phía Bắc Ấn Độ thì có phong cách nghệ thuật Kiền-đà-la. Di tích Bamian ở Afghanistan có tượng Đại Phật trên vách núi nổi tiếng thế giới cao đến 52m. Ngoài ra còn có động Angkor ở Campuchia, Bà-la-phù-đồ (Boro-budur) ở Java … đều là nghệ thuật điêu khắc đá tinh vi. Ở Trung Quốc thời kỳ đầu, nghệ thuật điêu khắc chịu ảnh hưởng Kiền-đà-la và Ấn Độ, đến đời Đường, Tống thì có phong cách riêng. Nổi tiếng có cách đắp tượng truyền thần của Dương Huệ đời Đường, các ông Đái Quỳ, Lý Nhã, Trương Tụ đời Tống.
Nói chung, Phật tượng có nhiều loại, được đúc tạo bằng nhiều chất liệu như vàng, bạc, gỗ, đá, xi măng, thạch cao … Kiểu dáng cũng rất đa dạng, nổi tiếng ở Ấn Độ là các vùng Kiền-đà-la, Mạt-thố-la. Khi Phật giáo truyền đến các nước Trung Quốc, Nhật Bản, nghệ thuật điêu khắc tượng Phật phát triển cực thịnh. Phật tượng phần nhiều được đúc bằng kim loại để thờ trong chùa viện, có khi điêu khắc trong các hang động, tạo tượng to lớn giữa cảnh quan thiên nhiên để mọi người chiêm bái, hoặc khắc chạm cả sườn núi, vách núi làm Đại Phật.
Về hình thức, tùy theo quan niệm thẩm mỹ và tâm hồn của dân tộc qua các triều đại mà tượng Phật có khác nhau. Lịch sử tạo tượng ở Trung Quốc biểu hiện rõ đặc điểm này, như tượng thời 16 nước Ngũ Hồ (khoảng thế kỷ III-IV) thì kích thước nhỏ, phong cách thuần phác, cổ điển và hào phóng, giống với nghệ thuật tạo tượng Kiền-đà-la và Mạt-thố-la, biểu hiện nhận thức thẩm mỹ của dân du mục phương Bắc. Tượng Phật thời kỳ khắc tạc ở động đá Vân Cương (460 - 493) thì đường nét đơn giản, hai má đầy, mắt dài và sắc, sống mũi ngay thẳng, môi dày, tai lớn, vai rộng, cổ thô, biểu hiện tình cảm và tướng mạo của bậc đại trượng phu trong quan niệm của người Trung Quốc. Đến thời kỳ tạo tượng ở Long Môn (494 - 550 ) thì tượng Phật lại nhỏ nhắn, khuôn mặt dài, thân hình yểu điệu, cao và ốm … Nói chung, càng về sau tượng Phật càng được nhân cách hóa, là do ảnh hưởng cung đình Trung Quốc mà các thời đại Tùy, Đường, Tống, tượng Phật được khắc tạo rất đẹp, đầy đặn và sinh động, y quan lộng lẫy, nét mặt hiền từ.
Ở Việt Nam, nghệ thuật tạo tượng cũng phát triển rất sớm. Từ khi hình thành trung tâm Phật giáo Luy Lâu, các tượng Phật đã được tôn tạo một cách tỉ mỉ, nổi tiếng nhất ở Việt Nam là tượng gỗ, chạm trổ công phu, như tượng Man Nương, Kim Đồng Ngọc Nữ ở chùa Dâu (chùa Pháp Vân), chùa Keo (chùa Pháp Vũ) ở Hà Bắc, các tượng La-hán, tượng Tuyết Sơn ở chùa Mía (chùa Sùng Nghiêm), chùa Tây Phương ở Hà Tây. Các tượng Phật ở các chùa Dư Hàng, chùa Phổ Chiếu ở Hải Phòng sau này cũng ảnh hưởng rất lớn hình thái tượng ở Hà Tây, vừa sinh động mà lại vừa hiền từ, biểu hiện rõ nét suy tư và tình cảm của tâm hồn người Việt. Các ngôi chùa cổ ở miền Nam Việt Nam cũng còn bảo lưu rất nhiều tượng Phật bằng gỗ quý, nhưng tượng Phật ở vùng này lại ảnh hưởng Phật giáo hệ Nam truyền từ Cao Miên truyền sang, tượng Phật đen đúa, khắc khổ hơn.
Ngày nay, nghệ thuật điêu khắc, đắp vẽ tượng Phật đã phát triển đến mức hoàn mỹ. Nghệ thuật truyền thống kết hợp với kỹ thuật và thẩm mỹ Tây phương, như kỷ hà học, lập thể … làm cho nghệ thuật điêu khắc, phù điêu, đắp tạo tượng Phật ngày càng tinh xảo và hiện đại. Nhưng giá trị cổ điển vẫn là giá trị văn hóa, giúp chúng ta hiểu rõ được nhận thức và tâm hồn của mỗi dân tộc qua nhiều thời đại khác nhau.

Tượng Phật
Có 5 cách thể hiện Phật Thích ca diễn tả những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của đức Thế Tôn: (a) Tượng Cửu Long (chín con rồng chầu) thể hiện lúc đức Thích Ca đản sanh. (b) Tượng Tuyết Sơn: thể hiện giai đoạn tìm đạo, tu khổ hạnh. (c) Tượng Niệm Hoa: thể hiện giai đoạn đức Bổn sư cầm hoa sen thuyết pháp. (d) Tĩnh toạ: đức Phật thành chánh quả. (e) Nhập diệt: đức Phật nhập Niết bàn, trong tư thế nằm.
Tượng Phật đản sinh

Tượng nầy được chế tác nhiều loại khác nhau. Đặc trưng của pho tượng nầy là tượng Ngài đứng trên một đài sen, một tay chỉ lên trời, tay kia chỉ xuống đất. Chi tiết biểu thị Phật trong hình tượng là hai tai có thùy châu dài theo lối hiểu "tai dài như tai Phật". Trong những pho tượng tạc bảo lưu đến nay, sự tuân thủ vào quy pháp tạo hình cũng không thống nhất: chẳng hạn: pho tượng đúc Thích Ca đản sanh tại chùa Hóc Ông Che thì tay phải chỉ lên trời; còn pho tượng lưu hành tại chùa Tân Quang (Hoá An / Biên Hoà) thì ngược lại, tay trái chỉ lên trời. Tính chất không nguyên tắc nầy cũng thấy trong những pho tượng gỗ, tượng đồng ở các ngôi chùa miền Nam.
Về sau từ thập niên 60 của thế kỷ XIX, trong những loại tượng đúc thành khuôn bằng thạch cao hay bằng xi măng, thì mới phổ biến hàng loạt những pho tượng "tay mặt chỉ lên trời". Những pho tượng nầy đều dựa theo ý niệm "trụ như sơn" chứ không theo lối "hành như phong". Ở những pho tượng Phật đản còn lưu hành tại miền Nam Việt Nam hiện nay,sự tuân thủ nguyên tắc đồ tượng cũng được áp dụng trong những loại tượng khác.
Tượng Di Đà Toạ Thiền

Tượng Phật nầy được chế tác chân phương và có phần đăng đối. Đầu có tóc xoắn ốc, giữa đỉnh đầu có nhục kế nổi cao, tai dài xuống gần vai, áo cà sa rộng trùm và hai bả vai, cổ tròn, tay áo dài rộng. Phật ngồi theo thế kiết già trên tứ phương toạ; chung quanh trang trí hình sen. Hai tay đặt chồng đối với nhau theo thế "thủ ấn thiền định" (dhyana mudra). Đây cũng là họa tiết và kiểu thức của các pho tượng Bồ tát Quan Âm, mà có những đường nét theo kiểu tượng hình Di Đà Tam Tôn; nhưng những ngôi chùa trong vùng lại không thấy tượng của ngài Bồ Tát Đại Thế Chí. Nhìn chung, tượng đức Phật Di Đà được chế tác theo đúng chuẩn mực, thể hiện được "tướng hảo quang minh" và "tùy hảo vô lượng". Chưa thấy có đủ các tượng "tam thập nhị tướng" và "bát thập tuỳ hản" mà kinh sách thường ghi chép.
Tượng đức Phật Di Lặc

Trong đồ tượng học, tượng Phật Di Lặc là tập hợp được thể hiện trong diện mạo hình tướng "Di Lặc lục tặc": đầu tròn, áo hậu,ngồi bệ lập phương, y toạ, tĩnh tâm, thiền định.
Tượng Quan Âm
Những pho tượng lưu hành đều theo sáu cách thể hiện quy định (a) Quan Âm Chuẩn Đề: theo công thức thì tượng nầy có ba mặt và 18 tay. (b) thiên thủ, thiên nhãn: Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt như pho tượng ở chùa Bút Tháp. (c) Quan Âm tọa sơn: thể hiện đức Quan Âm ngồi trên đỉnh núi. (d) Phật Bà: thể hiện Phật bà Quan Âm đội mũ ni, ngồi toà sen. (e) Quan Âm tống tử: thể hiện đức Quan Âm ngồi bế đức bé, một bên có Thiện Sĩ (biểu trưng bằng hình con vẹt).
Tượng Bồ Tát Chuẩn Đề

Trong đồ tượng, xét về hình tướng của Bồ Tát Chuẩn Đề không khác gì so với Quan Thế Âm Bồ Tát. Pho tượng thường trình bày nhiều tay: có tượng 6 tay, có tượng 18 tay, biểu trưng cho công năng trong từng giai đoạn và trường hợp hành trì. Tại chùa Hóc Ông Che, pho tượng Bồ Tát Chuẩn Đề lại thêm nhiều tay nữa, ngồi kiết già. Tại một số chùa khác thì đài toạ và tư thế có hai loại tượng khác nhau: một loại trình bày Chuẩn Đề cỡi công (gọi là Khổng Tước tọa); loại thứ hai gọi là Chuẩn Đề Lục giác toạ. Nếu so với quy pháp đề tượng chính thức của Ngài Chuẩn Đề thì các pho tượng Chuẩn Đề ở những chùa chiền Việt Nam có phần được giản lược hơn. Những trì vật thông thường là Nhật Nguyệt Quan Âm.
Địa Tạng Vương Bồ tát
Trong tập hợp những loại đất nung về đồ tượng đúc Địa tạng Vương Bồ tát được phân chia ra làm hai loại chính: loại thứ nhất là tượng ngồi trên ngai, chung quanh có các thị hầu oai nghiêm; loại thứ nhì ngồi trên con thanh sư, mỗi biểu trưng cho việc hành trì chánh pháp. Cả hai đều có những điểm chung nhất trong nghệ thuật tạo hình: đầu đội mũ Tì Lư (hay Thiên Sứ Tì Lư), toàn thân khoác Y bá nạp, một tay để ngửa trước bụng, trên có một hồ bình hay Bửu bát; tay kia giơ cao lên; ngón áp út khuyên tròn lên ngón cái. Phật thoại ghi: Tướng pháp nầy biểu trưng cho ấn thí vô uý. Ngoài ra, một số tượng biểu trưng cho "ấn an ủy".
Trong một số đồ tượng khác, tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát còn có hai đệ tử theo hầu: Mẫn Công và Đạo Minh. Một số tượng khác thì còn thêm Chủ Mạng Quy Vương. Trong nhiều tượng đất nung về pho tượng nầy thì gậy tích của ngài Địa Tạng Vương lại thấy ở tượng của Chủ Mạng Quỷ Vương; trong khi đó trái châu biểu hiện cho thần lự của Ngài thì thấy ở pho tượng Mẫn Công.
Giải thích điều nầy, Pháp Thoại ghi: Hình tướng Địa Tạng Vương ở đây là một trong 6 trường hợp hoá thân của Ngài, được gọi là Lục Địa Tạng. Lục địa tạng là: Đàn Đầu Địa Tạng, Bảo Châu Địa Tạng, Bản Ấn Địa Tạng, Trì Địa Địa Tạng, Trừ Chướng Địa Tạng và Nhật Quang Địa Tạng.
Tượng La Hán
Hình tướng của các bộ tượng La Hán ở tập hợp tượng đất nung, hầu hết được biểu hiện dưới dạng Thinh Văn Hình. Biểu tượng nầy còn gọi là Tỳ Kheo Hình, tức là có hình tướng chiếu theo hình tướng của đức Bổn Sư Thích Ca khi còn tại thế; tuy nhiên tóc không xoắn mà đầu cạo trọc, đỉnh đầu không có nhục kế, áo hậu có dây thắt lưng. Nói chung, hình tướng La Hán có phần thoát sáo, và trong chừng mực nào đó, đã thoát khỏi những nét đặc trưng nhân dạng của người Tây Vực hay Trung Hoa, mà lại có nhân dạng Việt Nam khá rõ nét.
Ở nhóm tượng nầy thường có hai loại: ngồi trên ngai và cưỡi thú. nhưng dù thuộc thể loại nào chăng đi nữa, thì hình tướng cũng có phần hiện thực hơn so với các tượng thuộc nhóm Phật hình, Bồ Tát hình, hay những nhóm tượng thuộc Thiên Vương, Hộ Pháp, Thiện Hữu, Ác Hữu, Kim Cang, thường được gọi chung là Thiên Thần Hộ Pháp.
Tứ Thiên Vương
Tứ Thiên Vương còn được gọi là Hộ Thế Tứ Vương là hình tướng tiêu biểu cho Thiên Vương Hình. Cả bốn vị đều ngự ở cõi trời "Tứ Thiên Vương Thiên" (Caturmaha Rajakasika) thuộc về cõi trời dục giới; lưng chừng trên ngọn núi trung tâm vũ trụ gọi là "Tu Di Sơn", thấp hơn cõi trời Đao Lỵ của Đế Thích.Tứ Thiên Vương là ngoại thần của Đế Thích có trách nhiệm thống quản cõi trời theo 4 hướng: Trì Quốc Thiên Vương (Virudka) (Hướng đông), Quảng Mục Thiên Vương (Viruphaka) (Hướng tây), Tăng Trưởng Thiên Vương (Dhrtarastra) (Hướng nam), Đa Văn Thiên Vương (Dhananda) (Hướng bắc).
Tứ Thiên Vương đã từng nghe đức Phật thuyết pháp kinh Đại Thừa và cũng đã nguyện độ trì Tam bảo. Do vậy, mà các chính điện chùa chiền đều có tượng Tứ Thiên Vương. Biểu tượng của các tướng Thiên vương là một tướng nhà trời oai nghiêm: đi giày trận, mặc áo giáp, đầu đội kim khôi, tay cầm bửu bối; đàn tỳ bà, bảo kiếm, vòng kim cang, ngọc châu, che dù, có con "hoa hồ điêu". đó là hình tướng phổ biến trong các tượng thuộc đề tài nầy cũng như trong điệu múa "Tứ Thiên Vương" ở cung đình Huế. Một số làng miền Nam cũng theo nghi lễ như vậy. Tuy nhiên, ở đây, các loại bửu bối đã được giản lược bớt, chẳng hạn như mũ kim khôi được thay bằng mũ "ngũ Phật" với hình 5 cánh sen.
Bát Bộ Kim CangĐây là các vị Kim Cang lực sĩ (Vajrapani) cũng được gọi là Kim Cang Thần; thường chỉ chung các vị thần cầm chày Kim Cang (như Kim Cang Thủ, chấp Kim Cang) biểu hiện uy thế lớn lao, bảo vệ Phật pháp ở khắp tám bộ chúng (Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khần Na La, Ma Ha La Già). (Theo Đoàn Trung Còn).
Nghiên cứu kỹ những đồ tượng đất nung và đồ gốm cải tiến, thì những vị Kim Cang Thần được chế tác với dạng các võ tướng: đầu đội kim khôi, mình mặc áo giáp, vai có phong đai, tay cầm hoasen, ngọc châu... Tuy là Thiên Hình tướng như Bát bộ Kim Cang đều có diện mạo thanh tú, khuôn mặt hiền hậu, phúc đức. Điều nầy khác với vẻ oai vệ và dữ dội của các loại tượng Kim Cang khác.
Những vị Hộ Pháp (Dharma Pala)
Những vị Hộ Pháp Thần cũng có hình tướng oai vệ và trang nghiêm: mặc áo giáp, đội kim khôi, có phong đai, đi giày trận, tay cầm chày Kim cang, chống mũi nhọn vào miệng một con rồng ẩn trong mây. Đây là hình tượng của Vi Đà (Skanda) - một vị thần có nguồn gốc Bà La Môn giáo. Theo truyền thuyết thì chức năng của chư Hộ Pháp là bảo hộ chư thần của tôn giáo này đã được Phật Giáo đồng hoá thành một thần Hộ Pháp. Thường thờ mặt trước của chùa chiền, miếu vũ.
Thiện Hữu và Ác Hữu
Hai vị thần Hộ Pháp nầy cũng rất phổ biến trong tập hợp những thể loại tượng đất nung, tượng gỗ ở các chùa. Phật Thoại viết: Thiện Hữu và một thái tử, tiền thân của dức Phật Thích Ca, đã chấp nhận mọi sự thử thách, để xuống tận Long Cung, tìm viên Ngọc Như Ý đem về để ban phước lạc cho dân chúng. Ác hữu là tiền thân của Đề Bà Đạt Đa (Devadatta); cũng là một hoàng tử cùng thời với thái tử Thiện Hữu, nhưng Ác Hữu thì lại thường có lòng ganh ghét, tìm đủ cách để ngăn cản Thiện Hữu làm việc thiện.Vào thời Phật Thích Ca giáng thế, Đề Bà Đạt Đa là con nhà chú củađức Phật Thích Ca. Ông là một người có tài, nhưng lòng đố kỵ và ngạo mạn. Về sau, ông xuất gia, nhưng lại tự cho mình chẳng kém gì đức Phật, nên chính ông đã gây những bất hòa trong thánh chúng, toàn tách rời hẳn ra để lập ra một Giáo hội khác. Ông đã sai người lén tìm cách để giết Phật, nhưng khi người đó đến nơit hấy cung cách siêu thoát của đức Phật thì quay lại quy y. Đề Bà Đạt Đa cũng thả thú dữ để làm hại Phật nhưng các con thú đó cũng cảm đức hạnh của đức Phật nên quay đầu trở về... Tuy nhiên, Đề Bà Đạt Đa "vốn có nhiều công đức" cho nên được Phật thọ ký cho thành Phật, hiện là Thiên Vương (Devaradja) của cõi Thiên đạo.
Theo Kinh Niết Bàn thì: Tùy thuận thế gian, Đề Bà Đạt Đa thị hiện ra việc hoại tăng, hoá tác ra nhiều hình mạo sắc tướng; đó là vì giúp cho Phật chế định giới luật. (Theo Phật Học Từ điển – Đoàn Trung Còn - trang 550). Có lẽ để biểu đạt về "sự hoá tác ra nhiều hình dạng sắc tướng" màcụ thể là một kẻ hung ác, cho nên hình tướng của Ác Hữu được thể hiện là một Thiên Tướng có mặt mày hung dữ.
Tiêu Diện Đại Sĩ
Đại Sĩ là một từ tôn xưng đối với các bậc Thanh Văn, Bồ Tát. Tiêu Diện Đại Sĩ có hình tượng khuôn mặt cháy nám. Theo truyền thuyết Phật Giáo, Tiêu Diện Đại Sĩ là một trong các thị hiện (tức là Hoáthân) của đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Theo "Tam thập nhị thân" (32cách hoá thân) của đức Quan Thế Âm Bồ Tát, thì hình tướng Tiêu Diện Đại Sĩ biểu thị cho một Quỷ Vương, mà truyền thuyết nói đếnvị chúa của Dạ Xoa (Yasha). Dạ Xoa là một loài ác thú có mặt ở dương thế, trên trời và âm phủ, tùy trường hợp hành trì. Hình tướng Dạ Xoa dữ tợn, kỳ quái, đầu gồ lên 3 u thịt, nhiều tay, nhiều mắt, nhiều đầu, nanh nhọn, mắt lồi, tai thú. Phật Thoại kể: Để có thể hoá độ cho các vong hồn nơi cõi Diêm Phù, cho nên đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã hoá thân theo dạng Quỷ hình, thì dễ bề dung hoá hơn. Chúa quỷ Dạ Xoa thống quản các vonghồn. Khi đó đức Quan Thế Âm Bồ Tát bèn hoá thân thành một chúa quỷ, có hình dáng kỳ quái hơn, để tỏ uy lực của mình. Bồ Tát nhấcngọn Tam sơn lên, đặt trên đầu để thị oai. Tuy nhiên, chúa quỷ vì quá ngạo mạn, nên lại phun lửa để đốt cháy đối thủ. Ngọn lửa chỉ là “cháy nám mặt" vị Bồ tát hoá thân cứu khổ, cứu nạn. Danh xưng Tiêu Diện Đại Sĩ có từ đó.
Chủ mạng Quỷ Vương
Theo bản Kinh Địa Tạng thì: Chủ Mạng Quỷ Vương là một trong nhiều Quỷ Vương ở trong núi Thiết Vi, cùng chung nơi trú ngụ của Diêm La Vương. Các Quỷ Vương và Diêm La Vương đã nương theo oai thần của Phật và Bồ tát Địa tạng lên cung trời Đao Lợi nghe Phật thuyết pháp. Nhân dịp nầy, Chủ Mạng Quỷ Vương đã phát nguyện quy y Phật, và ra sức tu hành cứu độ chúng sanh trong cõi Diêm Phù. Do đó, Chủ Mạng Quỷ Vương đã được đức Phật thọ ký. Đức Phật dạy Điạ Tạng Vương Bồ Tát: "Chủ Mạng Quỷ Vương là một bậc Bồ tát Đại Sĩ vì lòng từ bi phát nguyện hiện thân làm Quỷ Vương. Trải 170 kiếp, sẽ thành Phật hiệu Vô Tướng Như Lai". Như vậy, Chủ mạng Quỷ Vương là vị Bồ Tát hoá thân dưới dạng Quỷ.Trong nghệ thuật tạo hình bằng gốm nung, Chủ Mạng Quỷ Vương thường được chế tác dưới dạng một Quỷ Vương: cầm trì vật là tích trượng nhằm biểu thị phò tá vị Giáo chủ cõi u minh.
Thần Linh
Về những vị thần linh nói chung, trong đồ tượng học thường thể hiện đề tài tuân thủ khá nghiêm túc trong những loại tượng gỗ, đất nung, sành sứ. Đây là: tượng Ngọc Hoàng, 10 vị Minh Vương và các nữ thần. Các pho tượng Ngọc Hoàng, Minh Vương được chế tác trong tư thế ngồi nghiêm chỉnh trên ngai, hai tay chắp trước ngực, cầm hốt. Về trang phục thì đầu đội mũ bình thiên, mặc long bào, đai vàng. Những vị phụ tá như Nam Tào, Bắc Đẩu, 2 Phán Quan được chế tác theo thức văn quan. Tư thế đứng thẳng, đầu đội mũ đề bá, hai dải mũ thẳng xuống vai, đi hia, đai vàng. Các nữ thần được chế tác dạng Thiên mẫu Hình. Ngồi trên ngai, đội mũ bình thiên, mặc mãng bào, phủ yếm cổ hình hoa sen, đi hài thêu. Một số tượng khác thì mặc bì hay xiêm y, mũ phụng, tay vịn đai ngọc, bàn tay đỡ thẻ bài.

41. Chân lý phật giáo và văn hóa xã hội nhân văn

Phật giáo được khai sinh từ chiếc nôi là thành Ca Tỳ La Vệ (thuộc nước Ấn Độ bây giờ), trải qua hơn 2.500 năm lịch sử đầy những thăng trầm, có lúc tưởng như đã biến mất hẳn ngay trên bản địa. Nhưng Phật giáo vẫn tồn tại và phát triển rộng rãi khắp nơi.
Hiện nay, thành tựu vượt bậc của khoa học cùng với tư tưởng tiến hóa của nhân loại đòi hỏi phải thẩm định lại nhiều tư tưởng triết học xưa và nay. Đương nhiên, những tư tưởng mang tính phi lý, lạc hậu, phản khoa học đều phải bị đào thải.
Thế nhưng tòa nhà cổ kính hơn hai mươi lăm thế kỷ của Chân lý Phật giáo vẫn trường tồn cùng năm tháng, thời gian, sừng sững như cây đại thọ giữa núi non trùng điệp.
Điều này chứng tỏ Phật giáo đã toát ra một sức sống mãnh liệt bắt nguồn từ một giá trị tinh thần phong phú, tinh thần ấy thể hiện Chân lý và Giáo pháp của Chân lý Phật giáo, chúng ta đều biết rằng, Chân lý đạo Phật chứng ngộ được do Thái tử Tất Đạt Đa là Đức Thích Ca Mâu Ni cũng ở ngay thế giới này, chân lý này vận hành cùng vũ trụ - nhân sinh (Định lý duyên khởi).
Nó tồn tại khách quan trong sự sống của loài người. Do đó Đức Phật có xuất hiện hay không, nó cũng vận hành như vậy, nó lấy những điều Nhân bản, Vô ngã, Từ bi, Bình đẳng mà làm căn bản để vận hành.

Cũng vậy! Phật giáo Việt Nam vẫn sống trong lòng dân tộc, thịnh suy theo vận đất nước, Phật giáo có thể đóng góp một vai trò quan trọng trong sự hướng dẫn đời sống tinh thần cho mọi người và phát triển quốc gia trong thời kỳ hội nhập, làm nền tảng luân lý để xây dựng một xã hội tiến bộ, đạo đức, trí tuệ cho mọi người.
Nhân bản là đánh thức con người đức tín tự tin, tự chủ, tự trọng với tinh thần trách nhiệm bản thân và xã hội; Vô ngã: đánh thức cái ta, còn gọi là cái tôi, cái của tôi, nó giả tạo, mong manh, không bền chắc, luôn luôn biến chuyển. Thay thế bức tường thành ích kỷ, trở thành sự hy sinh nhẫn nhục.
Trong Phật giáo quan niệm: Mọi người đều bình đẳng có trí tuệ như nhau, nhưng đặc tính cố hữu của từng người khó hay dễ, mau hay chậm, chỉ khác nhau để nhận được trí tuệ này. Phật giáo lấy từ bi vị tha là quan điểm quan trọng khiến phát huy và tồn tại trên toàn cầu. Nhưng muốn làm được những việc này, bản thân Phật giáo phải đào tạo cho được con người chúng ta ứng dụng được việc đó.
Những triều đại trước, các nhà sư là thành phần ưu tú của xã hội, thông minh, đức hạnh. Phật giáo từ thời các nhà vua Lê, Lý, Trần, qua các trường Đại học Phật giáo cung cấp cho xã hội giai tầng trí tuệ. Vì thế, tư tưởng và hành động người tu sĩ Phật giáo khác người thường.
Một đằng vì lợi ích cá nhân, một bên vì lợi ích cho đại chúng. Phải vận dụng trí tuệ hòa nhập vào cuộc sống và xã hội, giúp người an vui hạnh phúc, làm sáng tỏ Phật pháp. Đạo Phật là đạo trí tuệ, tự bản thân mình phải rọi tuệ giác vào cuộc sống để nhập thế hành đạo.
Trực diện với mọi người để hiểu thêm "chư pháp thường không tánh, các vật điều giả hợp, hay không cố định" chúng ta có thể hướng dẫn, thay đổi được người xấu, thay đổi diễn biến trong cuộc sống, làm giàu đẹp văn minh trí tuệ xứ sở chúng ta, chúng ta có thể liên hệ mấy đặc tính sau:
1 - Nhân bản: Điểm căn bản nhất mà chúng ta nhận thấy được ở Chân lý Phật giáo là, Vị giáo chủ không phải là một thần linh, không phải là một thượng đế đầy quyền uy thưởng phạt, mà là một con người thật sự như bao nhiêu con người khác tên là Tất Đạt Đa, ngài thuộc giai cấp Sát Đế Lợi, dòng dõi vua chúa, con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da.
Ngài sinh ra, lớn lên, đi học. Vợ của ngài là công chúa Da Du Đà La, con của ngài là La Hầu La. Ngài thấu rõ nỗi thống khổ của sinh, lão, bịnh, tử, ngài chứng kiến những lầm than cơ cực của dân chúng trước những bất công của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Ngài đã một mình ra đi tìm phương pháp giải quyết những vấn đề trên. Sau những tháng năm học đạo với các đạo sĩ nổi tiếng mà kết quả vẫn không làm vị đạo sĩ trẻ tuổi, thông minh Tất Đạt Đa giải quyết những vấn đề bức xúc trong lòng.
Cuối cùng ngài quyết định tự mình tham cứu. Suốt 49 ngày tham thiền nhập định dưới cội cây Bồ đề. Ngày cuối cùng, khi sao mai vừa mới mọc, ngài đã thấu đạt được Chân lý, rõ được chân tướng của vạn pháp. Ngài đã giác ngộ và thành đạo, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Sự kiện trên đây đã hình thành một khái niệm về tính nhân bản của Phật giáo. Đạo Phật quan niệm, con người là trung tâm điểm, hay nói cách khác, không có nhân loại thì không có Chân lý Phật giáo hiện hữu trên cõi đời này.
Trong thế giới quan của đạo Phật, chủng loại chúng sinh được chia thành sáu bậc: Thiên, Nhân, Atula, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh. Trong sáu giới ấy, con người được coi là hội đủ điều kiện tốt nhất để đạt đến các quả vị tu chứng trí tuệ trong Phật giáo.
Chân lý Phật giáo giải thích rằng: Ở cõi Thiên thì khó nhận thức được khổ đau vì cuộc sống của họ quá ư sung sướng. Trái lại, các cõi Atula, Địa ngục, Súc sinh, Ngạ quỷ, chúng sanh quá si mê, ngu dốt trong hoàn cảnh tối tăm đọa đày nên cũng không dễ nắm bắt được Chân lý Phật Đà.
Duy chỉ có cõi Nhân, bản thân con người mới có hoàn cảnh nhận thức được khổ đau của cuộc sống (đây là điều kiện thích ứng để dễ dàng khai sáng) và có khả năng khai sáng được ngọn đèn trí tuệ nơi chính tấm thân nhỏ bé này.
Trong quan niệm Chân lý Phật giáo, con người là chủ nhân của mọi hành vi của chính bản thân mình ở cả ba thời: Quá khứ, hiện tại và vị lai, là thượng đế duy nhất có toàn quyền thưởng phạt cho chính cuộc đời mình. Ngoài mình ra không ai hoặc bất cứ thần linh nào có khả năng đưa mình lên thiên đàng hay ném mình xuống địa ngục. Trong Kinh Pháp Cú, câu 145, Đức Phật dạy rằng:
"Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta, không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch".
Lại nữa, Phật giáo luôn đề cao nỗ lực và ý chí của bản thân con người. Tinh tấn là một trong những đức tính quyết định việc thành tựu đạo quả Bồ Đề. Đến bờ giác ngộ chẳng bao giờ có dấu chân của kẻ lười biếng, bạc nhược.
Với những tâm hồn khát khao tự do và giải thoát tuyệt đối, dốc hết sức bình sinh cùng với sự hiểu biết Chân lý của đạo Phật, mỗi chúng ta chắc chắn sẽ đạt được kết quả tốt đẹp trên bước đường tu học tập và nhập thế. Nhược bằng ngược lại, cho dù có ngàn vị Phật giang tay tế độ cũng không làm sao đưa chúng ta thoát khỏi biển trần lao đầy thống khổ này.
Ngoài ra, Phật giáo còn đề cập đến những trường hợp của những người thời chưa có Đức Phật ra đời. Có những con người tự lực, tự vận dụng triệt để ý chí, khả năng của chính mình trong quá trình tư duy, chiêm nghiệm và tu tập đúng đắn, quán tưởng và thấu rõ lý vô thường của vạn pháp vẫn có thể bừng sáng được Chân lý. Đức Phật công nhận những người này là Bích Chi Phật.
Tính nhân bản đã được thể hiện mạnh mẽ ở điểm này. Đây là một điểm ưu việt của Chân lý đạo Phật mà chúng ta khó tìm thấy ở một giáo lý của bất cứ tôn giáo nào khác: Một vị giáo chủ lại đề cao khả năng của con người một cách khách quan hiện thực như vậy. Xuất phát từ tính nhân bản này, nhân cách con người được tôn trọng triệt để trong đạo Phật: Quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng đều có một giá trị đích thực.
Điều đáng nói nhất là khả năng của con người mà Phật giáo luôn nhấn mạnh, đó chính là trí tuệ chính mình tự có. Đây là khả năng tối cao của nhân loại, là di sản vô cùng quý báu mà bất kỳ ai cũng có, nếu biết vận dụng và phát huy đúng đắn, thì có thể tiêu diệt mọi khổ đau, đạt đến bến bờ hạnh phúc.
Điều này đã được minh chứng cụ thể qua đời sống của Đức Phật cũng như những bậc tiền nhân kế thừa trong lịch sử đạo Phật. Đức Phật đã tuyên bố: "Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật".
Trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, từ cuộc sống thô sơ lạc hậu từ xa xưa cho đến hôm nay, những phát minh khoa học cùng với thành quả của nó đã đưa nhân loại đến thời kỳ vàng son của sự tối tân hiện đại. Kết quả ấy có được là do khả năng khối óc của con người.
Dù vậy, theo phân tích của Chân lý Phật giáo khả năng đó chỉ mới là một phần nhỏ giới hạn của trí tuệ, hay nói cách khác, con người khoa học chỉ mới vận dụng được một phần trí sáng thế gian của mình, chứ chưa phải là toàn bộ trí tuệ của mỗi con người từ nơi tâm thanh tịnh nơi chính mình sẵn có.
Như Đức Phật đã chỉ rõ trong giáo điển, thuật ngữ đó tạm gọi là trí tuệ Bát Nhã, và chính trí tuệ ấy là chiếc chìa khóa vàng để mở cánh cửa Vô Sanh Niết Bàn Tịnh Tĩnh hạnh phúc.
Đối với Phật giáo, con người vốn là một chúng sanh ưu việt, có rất nhiều tiềm năng phi thường, nếu chúng ta khéo triển khai, thì không gì không thể thực hiện được trên cõi đời này.
Như vậy, ta có thể nói rằng: Phật giáo là đạo của con người, xuất phát từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài là một đấng giác ngộ nhưng ngài chính là một con người, ngài đã cất tiếng nói và có một đời sống của con người, vì con người mà ngài khai thị Chân lý, hướng dẫn con người đi đến cuộc sống thực sự an vui, hạnh phúc.
2 - Bình đẳng: Chúng ta biết rằng: Phật giáo đã ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng phức tạp của một đất nước, mà trong đó đời sống con người phải chịu nhiều bất công, trong một xã hội phân chia năm giai cấp lâu đời là Ấn Độ. Một là giai cấp Bàlamôn giáo tập trung số người tu của 62 đạo khác nhau, chủ trương công việc nghi lễ, tế tự, cúng tế.
Giai cấp này chiếm vị trí tối cao. Hai là giai cấp Sát Đế Lợi, tập trung dòng dõi vua chúa, là giai cấp nắm quyền điều hành xã hội. Ba là giai cấp thương gia giàu sang. Giai cấp thứ tư là Tỳ Sá, bao gồm những người bình dân.
Giai cấp thứ năm là thuộc giai cấp Thủ Đà La, họ là những người hạ tiện hay còn gọi là dân nô lệ. Hai giai cấp Bàlamôn và Sát Đế Lợi thuộc giai cấp thống trị. Năm giai cấp này theo chế độ thế tập, cha truyền con nối. Vì vậy, người dân nô lệ thì cứ làm nô lệ đời đời tạo thành một xã hội đầy rẫy những bất công.
Ngay trong buổi hoàng hôn tối tăm đó, một hiền nhân thuộc dòng dõi vua chúa đã dũng mãnh gióng tiếng chuông tiên phong, phá tan bóng đêm của xích xiềng nô lệ và bức tường phi lý phân chia giai cấp bằng một châm ngôn bất hủ: "Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn".
Lời tuyên bố hùng hồn của Đức Phật là nền tảng hình thành một hệ thống giáo lý mà trong đó tính bình đẳng được thể hiện trọn vẹn trên phương diện lý thuyết và cả thực tiễn.

42. Điều Nên Bạn Biết Để Đi Đến Dứt Khổ

Lời diễn giải theo những quan điểm của Tiến sĩ Hòa Thượng K. Sri. Dhammananda
Con người đang sống thực ra không có một mục đích cụ thể để theo đuổi. Có chăng đó là sự thụ hưởng những phẩm hạnh tốt được truyền lại từ gia đình hay một người có phẩm hạnh cao thượng nào đó. Khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời này thì nhiệm vụ chính của chúng ta là phải chu toàn trách nhiệm bản thân mình đối với: Gia đình, bạn bè, xã hội... Có nghĩa là chúng ta sinh ra là để làm việc thiện trong cuộc sống, phải làm lợi ích cho nhân sinh.
Con người đã phí năng lực và thời gian cả cuộc đời để tìm kiếm tiền tài, tên tuổi và danh lợi. Mà thực sự thì không mang theo được bất cứ thứ gì mà mình đã tranh đấu. Khi chúng ta ra đi để trở về nấm mồ thì tất cả sẽ ở lại tiền tài lẫn danh lợi ở nơi thế gian này, bạn bè và người thân chỉ đưa tiễn chúng ta tới huyệt mà thôi, điều duy nhất chúng ta mang theo được đó là nghiệp tốt và nghiệp xấu. Nếu chúng ta có nghiệp tốt thì một điều tất nhiên chúng ta biết là cuộc sống của những ngày tháng hôm nay cùng đời sống mới sẽ tốt đẹp, nhưng với nghiệp xấu chúng ta sẽ có một cuộc đời mới đầy đau khổ và bất trắc.
Nếu bạn không chấp nhận một lối sống chân chính và cao thượng thì bạn sẽ còn gặp nhiều điều phiền phức và đau khổ. Dale Carnegie có nói: “Dần về già chúng ta phải trả giá cho những việc làm trái luân thường đạo lý của chúng ta”, bạn phải trả giá cho tư tưởng xấu xa, ích kỷ, hận thù, ganh ghét hay việc làm xấu nào đó, bạn không thể không trả giống như bạn thê nhà vậy nhưng đổi lại sự thuê trả ấy là đau khổ về tinh thần và thể xác. Hiện tại chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn để tranh đấu trong cuộc sống để tìm kiếm hạnh phúc, có khi chúng ta sẽ vấp ngã, chịu đựng quá nhiều khổ đau và thị phi của kiếp sống này.
Bạn đã có lúc trằn trọc bâng khuâng phải làm gì hay từng bỏ một thời gian dài để thực hiện một công việc nào đó, sức khỏe sẽ suy tổn và nổi lo bao trùm trong tâm trạng để tìm kiếm chút ít thành công. Có thể sẽ đạt được một chút lạc thú sau những đấu tranh ấy, nhưng lạc thú nào rồi cũng sẽ kết thúc với khổ đau. Đó chính là bản chất của cuộc sống! Bởi vì chính ta đã không chịu suy nghĩ về những tạm bợ của lạc thú về vật chất cả tinh thần và chưa nhận thấy rõ được bản chất của nó. Bạn hãy thử nghĩ lại một cuộc vui nào hào hứng nhất trong đời bạn xem, giờ thì nó đang ở đâu? Bạn nên nhớ rằng thời gian sẽ bôi xóa tất vả và nó trở thành thời gian chết, cho dù hồi ức ấy đẹp đến đâu đi nữa thì Lạc Thú ấy đã trở thành mây khói thoáng qua và sẽ trở thành hư ảo của quá khứ, giống như bạn có cha, và cha của bạn có cha ông nhưng bây giờ họ ở đâu? tất cả điều quá vãng.
Bạn có thường nhắc lại hay muốn biết gì về ông cố cố của mình không? Nếu nhìn nhận kĩ thì Lạc thú ấy chỉ tồn tại một thời gian quá ngắn còn lại thời gian giành cho tranh đấu là cả cuộc đời. Vậy bạn sẽ có được nghiệp thiện ở đâu cho cuộc đời mới của mình khi mà thời gian chẳng có. Vì đời sống quá tất bật với những khó khăn mà bạn sẽ đổi lại bằng nước mắt, mồ hôi và những đau khổ cho những lạc thú tạm bợ ấy. Xin bạn hãy trả lời những câu hỏi sau đây: Đã đi được mấy chục năm cuộc đời rồi bạn đang tìm kiếm điều ước vọng gì? Ước nguyện đã làm bạn thỏa mãn chưa và bạn được an lạc gì từ đó?
Bạn đã gieo được bao nhiêu thiện nghiệp trong bao năm tháng dài dẳng ấy và bạn còn được bao nhiêu năm bạn phải chịu những khó khăn cuộc sống và kết thúc dưới nấm mồ sâu 3 tất đất? Và hãy nghĩ đến ngày tháng tương lai và đời sống mới của bạn nó có tốt đẹp và hạnh phúc hơn những năm tháng đã qua khi mà bạn chưa có thời gian để gieo thiện nghiệp. Bạn hãy để ý những người xung quanh,có người sống suốt cả đời trong cơ cực hay sung sướng nhưng họ chưa bao giờ hiểu được cảm giác thương một người nghèo, già cả hay bệnh hoạn là sao cả?...
Họ chưa bao giờ biết làm gì để giúp người khác mà không nghĩ đến lợi ích của chính mình, bởi họ xem sự hưởng lợi lạc của chính mình là quan trọng, đó là một lối sống không đáng tôn trọng. Bạn sẽ không nhận được một cảm giác thoải mái về tinh thần lẫn vật chất nếu bạn còn tư tưởng ích kỷ, hẹp hòi… Đức Phật dạy: “Con người tạo số phận cho chính mình. Bạn là người tạo ra hạnh phúc và đau khổ cho chính bạn”. Nếu một con người làm một điều xấu thì tất người đó phải chịu một hậu quả tương ứng như vậy. Bạn không thể cầu xin bất cứ một vị thiêng liêng, Thượng Đế hay Đức Phật để cứu rỗi mình.
Chỉ có chính bản thân mình mới cứu rỗi bản thân mình được. Khi bạn làm một việc xấu thì phải chuẩn bị tinh thần để chấp nhận nghiệp quả đó và đừng nên phí năng lực để lo âu và sợ hãi.
Thứ nhất chúng ta phải quyết định chấm dứt ngay việc xấu ấy, vì biết rằng nghiệp xấu ấy sẽ mang ta xuống nơi đau khổ. Thứ hai chúng ta phải luôn trao dồi và thực hành những nghiệp thiện. Thứ ba chúng ta phải giảm thiểu tư tưởng xấu xa, tội lỗi, ác cảm, ganh ghét… xuống mức thấp nhất kể cả từ bỏ. Thì chúng ta sẽ tránh được những hậu quả xấu mang đến và không còn gặp nhiều điều phiền phức trong cuộc sống bon chen hôm nay. Những ngày tháng tương lai của chúng ta sẽ thuận lợi như mong muốn, có thể nói là ước mơ được hiện thực dần dần. Rồi khi đó bạn sẽ cho đó là điều may mắn đấy! Nhưng không đâu, đó là do tư tưởng và việc làm chánh thiện của bạn tạo nên. “Tâm chúng ta là người kiến trúc sư cho số phận của chính mình”. Bạn hãy suy nghĩ xem mình muốn gì? Đau khổ hay vui sướng ở ngày tháng hôm nay?

Và xin bạn nhớ kỹ một điều Không phải chỉ có việc làm mới mang đến hậu quả xấu cho mình. Nhân quả là quy luật công bằng tuyệt đối nó nhìn thấu mọi thứ từ việc làm cho đến tư tưởng. Khi tư tưởng xấu phát xuất nó sẽ tạo ra nghiệp xấu tiềm ẩn, tích tụ cho đến một lúc nó sẽ biểu hiện ra bên ngoài. Những tư tưởng xấu ảnh hướng lợi ích của người khác hay bạn muốn cảm thấy một người nào đó mắc phải cảnh khó khăn... Thì tư tưởng đó sẽ không thể thoát khỏi tầm nhìn của Luật Nhân Quả. Tính xấu đó của bạn sẽ được Luật Nhân Quả trả cho bạn một hậu quả tương ứng như vậy. Khi bạn có một tư tưởng ích kỷ xuất hiện trong đầu, mà ý tưởng đó hướng đến người khác thì Luật nhân quả sẽ nhìn thấu điều đó và bạn sẽ không nhận được bất cứ thứ gì về niềm vui tinh thần hay vật chất.
Có khi nào bạn mời một người vừa ích kỷ với bạn đến nhà ăn cơm không? Do Nhân Quả là luật công bằng tuyệt đối và không có sự thiên vị với mọi người, bạn gieo gì bạn sẽ gặt nấy. Tuy hôm nay đời sống con người với con người có nhiều bất công, sự bất công do con người tạo ra dẫn hậu quả xấu đến người khác giống như họ thực hiện một công việc nào đó nhưng luật nhân quả xem xét cả sự bất công đó. Bởi vậy muốn hạnh phúc và vui vẻ thì hãy nhìn lại tâm mình coi có xứng đáng hay không?
Sự khó khăn và thuận tiên là hai mặt trái ngược nhau nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ đến nhân tố giúp đỡ con người của chúng ta. Khi chúng ta giúp đỡ con người thật lòng, khi nhìn thấy họ khó khăn ta sẳn sàng giúp đỡ không cần phải được nhờ vả, mà không cảm thấy rằng điều đó gây cản trở hay phiền phức, sự giúp đỡ này không mang tính chất mong muốn được sự tưởng thưởng, nhận ơn hay đền đáp của bất cứ một ngoại lực nào thì nó sẽ tạo cho chúng ta sự thuận tiện trong mọi việc của cuộc sống. Đó được gọi là may mắn mà bất cứ con người nào cũng luôn mong muốn. Nó liên hệ đến nhân quả ấy.
Dưới ánh sáng này thì đời sống của chúng ta hôm nay sung sướng hay đau khổ là do chính nghiệp ta đã gieo từ thời quá khứ (đời sống trước hay thời gian trước đây) cho đến nay ta phải gánh chịu. Nếu bạn muốn thoát khỏi khổ đau thì con đường duy nhất để làm được đó chính là hành thiện bằng tâm thật của mình. Chỉ có bản thân mình mới hiểu rõ mình nhất. Bạn phải hiểu một điều rằng được hạnh phúc thì bạn phải sống theo con đường mà Đức Phật đã dạy, sống một cuộc đời đúng với luân thường đạo lý. Nếu không bạn sẽ không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu về an vui trong tinh thần, cho dù cầu khuẩn Thần Linh, Chư Thiên hay Thượng Đế. Bạn phải cho mình thời gian để suy gẫm lại những việc tốt và xấu phát xuất từ đâu? Lúc đó bạn sẽ hiểu rõ được định luật của vũ trụ. Bạn sẽ không dám cho tư tưởng và việc làm của mình hành động theo bản năng tự nhiên của một con người thiếu hiểu biết.
Sự ham muốn của con người. Bạn không thể chìu theo ngũ dục của chính mình để chiếm đoạt những gì không được mang đến, nếu càng nhận thì nợ của bạn sẽ càng ngày càng chồng chất. Tất yếu là khổ đau sẽ theo bạn mãi khi mà tờ giấy nợ chưa được xé bỏ và chỉ có chính bạn mới có thể xé tờ giấy nợ ấy bằng cách tích lũy thiện phước. Khi ngũ dục trói buột, tâm bị bao phủ nhiều tư tưởng xấu, bạn phải rèn luyện bản thân một cách nghiêm khắc để vượt qua nó. Thời gian luyện tập có thể dài và rất khó khăn nhưng bạn phải cố gắng và không chịu ngã gục trước thói quen ngũ dục của mình.
Bạn phải hiểu rõ một điều rằng nếu chúng ta không có sự thành thật của con tim khi hành nghiệp thiện thì bạn cũng đừng nghĩ đến việc được hưởng an lạc hay hạnh phúc, cùng một điều rằng chúng ta không thể mong muốn kết quả tốt sẽ đến với chúng ta, bởi nhân quả là luật của vũ trụ nó không bao giờ có sai sót. Việc hành nghiệp thiện của chúng ta không phải mang tính chất là để tránh hậu quả xấu mang đến hay trông chờ sự tưởng thưởng.

Tại sao phải luyện tập?
Nhân cách con người mỗi người mỗi khác, kẻ thông minh người khờ dại, người kỷ luật bản thân, kẻ chẳng ý thức được chính mình,người có lòng từ bi cao thượng, kẻ có tâm địa bất lương thiện… không một nhân thể nào giống nhau cả. Những tính tình ấy là dạng tiềm ẩn sâu trong tâm thức của con người được truyền từ đời sống này sang đời sống khác, từ đời quá khứ cho đến hiện tại của chúng ta, nó tồn tại trong nhiều kiếp sống trước đây do ta tích lũy. Chúng sẽ được khơi dậy trong quá trình giáo dục từ nhỏ cho đến lớn xung quanh gia đình, hàng xóm và bạn bè cùng những trãi nghiệm của cuộc đời, hoàn cảnh bên ngoài cuộc sống do con người, vật chất, và nhiều thứ khác thúc đẩy chúng.
Tam tự kinh có nói: “Thiên tính vốn không khác xa nhau mấy chỉ vì chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh nên có sự khác nhau”. Bạn phải hiểu cuộc sống hôm nay đầy những bất trắc, tội lỗi và ghê gớm của nhân sinh. Xung quanh chúng ta nhìn ở đâu cũng thấy tư tưởng xấu xa và tội lỗi. Chúng là thuốc độc đang ngấm dần và làm cho Đức tính xấu của chúng ta sẽ tỉnh thức càng ngày càng nhiều mà những Đức tính thiện bị thay đổi và vùi lấp đi bởi ham muốn,ghen ghét, thù hận, ích kỷ v.v.v.
Khiến chúng ta quen dần với chúng mà không thể chống cự do thói quen bản năng, nếu bạn cứ để nó phát triển một cách không quản thúc theo lối tốt đẹp thì bạn sẽ được nhiều tính xấu hơn là thiện. Rất hiếm và khó khăn để gặp được những tác nhân tốt tác động lại triệt tiêu tư tưởng xấu đã trở thành bản tính của chúng ta. Như bạn hiểu con người cho cái “tôi”, cái “ngã” là quan trọng nhất nó còn nặng hơn cả núi vàng ấy, nên không thể chịu nghe những lời nặng nhẹ với mình. Và ta phải chấp nhận rằng Bản tính cố chấp chính là tai họa lớn cho con người ngày nay. Đức Phật có giảng: Chúng ta phải chăng chịu nghe những luân lý có tính trái ngược với ý thức của mình cho dù nó có làm ta khó chịu. Và phải cho tâm trí chúng ta được xem xét, nghiên cứu, bàn cãi điều đó là đúng hay sai, phải hay trái, nên hay không nên, chấp nhận hay bác bỏ nếu nó thực sự đúng thì chúng ta phải chấp nhận và thực hành theo nó.
Do sự cố chấp và không hiểu biết mà chúng ta sẽ phải chịu đau khổ và khó khăn suốt cho đến khi chúng ta nhận ra được chân lý đúng và thực sự có kiến thức. Nó có thể sẽ là cả cuộc đời của con người mà không tìm được lối sống chân chính, bởi con người không bao giờ chấp nhận những giáo lý ảnh hưởng đến cái tôi giả tạm của mình hay rất ít gặp được tác nhân tốt, nếu vậy đau khổ đang chờ họ đến ở phía trước để gánh lấy. Nguồn gốc đau khổ của con người được Đạo Phật nói đến với ngôn từ là bị màn vô minh che phủ, nhưng đối với đời sống thực chúng ta hiểu chính là thiếu kiến thức về Pháp (những giáo lý được dạy bởi Đức Phật) không thấu triệt được bản chất của cuộc sống, sự thay đổi không ngừng của vạn vật, không gì là mãi mãi và nó chỉ tồn tại một thời gian ngắn ngủi bao gồm: vui sướng và khổ đau.
Vì mọi vật đều vận động không ngừng trong không gian này, duyên sinh tất duyên sẽ diệt, có hợp thì tất có tan rã đó là định luật của vũ trụ. Giống như trong cơ thể ta dần theo thời gian những tế bào sẽ chết dần và được thay thế bởi những tế bào khác, quá trình thoái hóa xảy ra trong con người từ khi sinh ra cho đến khi sự tái tạo tế bào sống không còn khả năng thực hiện thì chúng ta phải chấp nhận cái chết. Cái chết cũng là một điều nhắc nhở chúng ta sống đúng đạo lý, chúng ta không thể biết nó sẽ đến với chúng ta bất cứ lúc vào và dưới dạng thức nào. “Chúng ta tuy chỉ là một giọt nước nhỏ bé trong dòng sông to lớn nhưng phải đóng góp vào dòng sông ấy.

Nếu một người nào đó chỉ sống cho bản thân mình trong cuộc đời, thì đó là một gánh nặng cho thế giới”, đời sống đó thật sự dư thừa, một cuộc đời vô nghĩa và chẳng đáng để chúng ta lưu tâm đến và kẻ đó sẽ gặp khó khăn nhất trong xã hội này. Bởi thế chúng ta phải sớm tìm ra con đường cho chính mình bằng sự tu tập và rèn luyện bản thân đạt được thanh tịnh hoàn toàn trong tâm trí để đi đến hạnh phúc vĩnh cửu (Niết Bàn).
Rèn luyện đức tính chính là việc làm của ta cần thực hiện ngay bây giờ, ta phải chấp nhận và vượt qua khó chịu khi những việc không như ý. Chúng ta không rèn luyện tâm ngay bây giờ thì chúng ta không thể vượt qua được những thói xấu, tư tưởng bất chánh do thói quen của chính mình. Mọi sự việc trên đời này để đi đến thành công chính là sự nổ lực và thiện nghiệp. Chính nhờ sự nổ lực không ngừng trong suốt 6 năm Thiền Định Đức Phật đã phát tuệ để hiểu rõ được những chân lý bất diệt. Nếu điều đó là đúng chúng ta cố gắng làm mặc người khác nghĩ ra sao. Ta phải hiểu rằng Ta tạo số phận cho chính mình.

Lòng Từ bi, yêu thương:
Chúng ta nên tập phát triển tình thương chân thật, khi nhìn thấy những sự khó khăn của người ta phải thực sự muốn giúp họ với khả năng có thể, ban bố niềm tin và lời an ủi. Không nên để tư tưởng ích kỷ tồn tại, nếu giúp được chúng ta phải sẳn sàng hy sinh một ít tài sản và năng lực mà không làm hao tốn nhiều và đẩy chúng ta vào khó khăn. Có nghĩa là nếu giúp đỡ được thì cứ giúp, rồi bạn sẽ hiểu được cảm giác an vui khi mình giúp được người khác. Song Bởi vì bạn không có thời gian nhiều để làm những việc có ích cho nhân sinh, điều đó lại rất ít xuất hiện vì thể nếu có một điều kiện nào giúp được bạn phải sẳn sàng giúp ngay, bởi thời gian bạn giành cho bản thân và những việc cho cuộc sống là quá nhiều dường như nó đã chiếm hết thời gian của chính bạn.
Sự giúp đỡ phải mang nghĩa là chân thật từ tình thương như lòng từ bi vô bờ bến của Đức Phật, không mong cầu được một sự đền đáp hay nhận ơn của ai, đó là tình thương, lòng khoan dung không vụ lợi. Rất ít người có được Đức tính này bởi thế chúng ta phải rèn luyện để có chúng, vì chúng không tự có trong ta được giống như việc biết chữ ấy, chúng ta không thể biết được chữ nếu nhờ một người nào đó học dùm mà phải do ta tự học. Bởi hiểu rõ rằng an lạc trong tinh thần là tất cả mà chúng ta muốn.
Sự chia sẽ, lòng khoan dung, tình thương mến là tất cả điều chúng ta cần ngay bây giờ, bởi nó chính là điều kiện thiết yếu để chúng ta được sự an lạc và vui sướng. Có người nói rằng muốn giúp đỡ người khác ta phải có điều kiện, đó là một quan niệm sai lầm. Sự giúp đỡ được thể hiện qua nhiều cách chứ không phải đợi có của cải hay tiền bạc. Bạn có thể giúp đỡ bằng lời nói cho những con người thiếu lòng tin hay nản chí trong cuộc sống, giúp một người nào đó bớt gánh nặng bằng sức lực của chính mình hay điều mà mình có thể giúp được từ sự chân thật của tình thương, một chén cơm hay vài đồng nhỏ nhoi cho con người đang cần nó hơn chúng ta, sự khuyên răn cho con người hiểu biết rằng điều đó là sai và nên tránh đi.
Một ví dụ phát triển dễ làm: Bạn có một phần vải thều, chúng ta phải chia sẽ cho người đối diện cũng được dùng phần ăn đó. Bạn hãy tưởng tượng xem phần ăn ngon đó vào miệng làm bạn cảm thấy vui sướng và thoải mái với rất nhiều xúc cảm từ chất ngọt lan trong miệng bạn, thì khi vào miệng và xuống cổ họng của người được chia phần ăn đó họ sẽ có cảm giác ngon ấy giống bạn. Bởi bạn biết cảm giác ngon ấy thì người khác cũng sẽ cảm nhận y hệt mà không khác chút chi. Lúc đó bạn được vui vẻ với lòng rộng lượng mà người bạn đó khắc trong đầu về bạn (người đó biết rằng bạn là một người tốt thực sự), sự vui vẻ vì tình thương, lòng không vị kỷ đang phát triển thành thói quen, và chính là lúc bạn đang gieo cho mình nghiệp thiện.

Bạn biết rằng lúc này trên thế giới bạn đã làm được một người vui, và làm một điều thiện chí trong ngày hôm nay. Mà cảm giác này bạn không gặp nhiều trong đời sống của mình và có khi đã là một thời gian dài rồi.
Lòng từ bi được giành cho tất cả loài chúng sanh từ loài tiến hóa cao nhất là con người cho đến con vật bé nhỏ như kiến, muỗi, loài bọ…. Trong giới cấm đầu của Đức Phật thuyết giảng chính là giới cử sát sinh. Đức Phật giảng: “Thật là một tội ác cho chúng ta khi giết hại những sinh vật nhỏ bé để tránh khỏi phiền toái do chúng gây ra, đó không phải là phương cách duy nhất”. Khi chúng ta sát sinh quá nhiều, điều xấu tất yếu sẽ đến với chúng ta. Thứ nhất: nghiệp lực ta gieo càng nặng sự hung hăng trong tâm ta càng tăng, lòng cố chấp ương nghạnh sẽ tăng theo và ta có thể mắc một số loại bệnh nguy hiểm về già.
Một câu chuyện kể rằng một người đàn ông trong suốt cuộc đời giết heo để mưu sinh và có nói ‘Nếu người không ăn thì ta đã không làm’, Nhưng những năm tháng cuối đời của ông ta thì sao, ông ta không được chết một cách yên bình như bao người có thiện nghiệp, bệnh tật hành hạ khiến ông ta la hét như tiếng heo bị thọt huyết trong suốt một quảng thời gian dài trước khi ông ta trút bỏ hơi thở cuối cùng và nghiệp xấu ấy sẽ vẫn còn theo ông ta đến cuộc đời mới. Điều Thứ hai ta hiểu đó là tuổi thọ chúng ta sẽ giảm dần, do chúng ta đã cướp đi mạng sống của những sinh vật có cảm giác như ta, khi chúng ta không phải là người tạo ra chúng nên ta không có quyền lấy đi sinh mạng ấy. Điều thứ ba, Trong Ngọc Lịch Minh Kinh có nói: Nếu ta cử sát sinh thì được Chư Thần phù hộ., Chúng ta sẽ không mắc phải một số tai nạn lớn trong cuộc đời như chết yểu, trộm cướp, cháy nhà…, gia đình sẽ được bình an mà không xảy ra sự việc không như ý. Sự cầu nguyện thành tâm trước các Chư Phật sẽ linh ứng như mong ước.
Lòng ganh tỵ trong bạn. Bạn phải hiểu rằng mọi người đều có một niềm vui và nổi khổ riêng biệt, không ai là không buồn mà vui suốt được. Khi một người nào đó được vui hưởng lạc thú nào đó thì họ phải sẳn sàng chịu đựng áp lực hay khổ đau sau những lạc thú ấy mang đến và có khi họ còn phải mang những nỗi lo ngay bây giờ mà bạn không thể nhìn thấy được. Nó sẽ sớm nhàm chán với chúng ta mau thôi. Nếu ngay bây giờ bạn còn ham muốn những vật chất ấy thì bạn sẽ còn đau khổ, bạn hãy xem lại một món vật mà bạn yêu quý nhất xem!.
Bạn cũng phải hiểu rằng mình có được sự vui sướng, an lạc vì thanh thản mà không có được nổi lo như họ khi mà lạc thú sẽ sớm kết thúc cùng nổi khổ do chúng mang đến. Điều bạn có được có khi nhiều hơn những người mãi đắm chìm trong dục lạc ở đời sống, đó là sự hiểu biết để phát triển tâm thức của chính mình chứ không phải theo đuổi những lạc thú ngắn ngủi và tạm bợ đó (Bởi ta hiểu rõ bản chất của cuộc sống). Ngược lại khi đang được vui hưởng lạc thú thì bạn phải càng tiếp tục hành nhiều việc tốt và phát triển tâm thức đến thanh tịnh hoàn toàn chứ không phải đắm chìm quá nhiều vào chúng, vì bạn đã phí thời gian quý báo của mình thay vì có thể làm một số việc có ích hơn. Đạo Phật vẫn chấp nhận lạc thú nhưng nó phải ở con đường trung đạo và hợp với luân thường đạo lý, không được quá mức hay quá tệ đối với tinh thần mà phải giữ ở mức ấy, như thế bạn sẽ ngăn được sự khơi dậy những đức tính không tốt của chính mình.
Vô cùng khó khăn cho chúng ta trong cõi hồng trần này vì tư tưởng bị ô nhiễm, sự bận rộn làm ta quên đi những việc làm trước đây. Trong quá trình tu tập ta sẽ bị lãng quên đi những hiểu biết mà ta có, rồi tiếp tục chịu khổ đau do việc làm cố ý của chúng ta hay chúng ta không vượt qua được chính mình trong sự cám dỗ của trần tục. Cho nên sự rèn luyện tu tập phải có sự ôn luyện và học hỏi liên tục không thể ngừng nghỉ để chúng ta khắc sâu vào trong tư tưởng những kiến thức mà sẽ thực hành suốt trong cuộc sống này. Nguồn gốc đau khổ thực sự của đời sống chính là không có hiểu biết và luyến ái.

Sự giàu có nhất của đời người chính là tấm lòng, còn sự giàu có về vật chất không đáng để chúng ta nghĩ đến, một con người có tấm lòng giàu có hơn nhiều những kẻ có nhiều vật chất nhưng tâm hồn bị ô nhiễm bởi những tư tưởng không tốt, hẹp hòi, vị kỷ… Đức Phật nói: “Chúng ta nên tôn trọng những người xứng đáng được tôn trọng”.
Lòng thỏa mãn: Trong thế giới hôm nay không có bất cứ thứ gì có thể làm thỏa mãn cho con người được cả. Con người mãi tranh đấu trong chiến trường đau khổ để giành lấy những lợi lạc. Nhưng bản chất nó không tồn tại được lâu mà chỉ thoáng qua mà thôi giống như người dân quá cực khổ để có được một bữa ăn ngon vào một ngày nào đó nhưng sau khi thức ăn đưa vào miệng và đi qua thực quản xuống dạ dày, rồi được tống ra ngoài dưới dạng phân. Thời gian cho ta nhai trong miệng và cảm thụ cảm giác ngon là bao lâu? Những Lạc thú cũng như vậy, nếu chúng ta thực sự suy gẫm kỹ. Những Lợi Lạc hiếm hoi và nhỏ bé ấy phải đổi bằng sức lực và phiền não trong một thời gian dài, nhiều hơn thời gian ta được hưởng lạc thú ấy.
Ngày nay con người càng tạo ra những vật chất hiện đại rất cao để phục vụ cho mình, nhưng không bao giờ có sự thỏa mản và ngừng lại, bởi khi họ tạo ra những vật chất ấy khi đã phục vụ được thì họ sẽ đi tìm điều tốt hơn, họ cứ đi tìm mãi mà không có sự dừng lại, họ tự gieo cho họ cái lòng ham muốn vô cùng. Nhưng bạn đã thấy đời sống con người bị phân biệt bởi giai cấp là quá nặng, chúng tạo nên những ganh ghét, thù hận, tội lỗi cho con người vì những theo đuổi vật chất rồi sẽ đi đến nhàm chán rồi quên lãng.Một câu chuyện thuật lại như sau:
Người kia đi quanh quẩn giữa một khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn. Trong khi lang thang bất định anh sực nhìn lại phía sau, và thấy một thớt voi đang rượt theo. Giựt mình, anh vụt chạy. Voi đuổi theo. Chạy đến một cái giếng cạn, anh định nhảy xuống để tránh voi. Nhưng thấy dưới đáy giếng có con rắn độc. Thớt voi lù lù trờ tới. Hoảng hốt, anh chụp lấy một dây rừng từ cây cao lòng thòng phía trên miệng giếng và vội vã trèo phăng lên, bất chấp gai nhọn đầy trên sợi dây, quàu trầy cả mình mẩy và tay chân. Lúc ấy anh chàng ngước mặt nhìn lên, thấy một ổ ong. Bầy ong bay tủa ra vây đánh anh. Phía trên nữa có hai con chuột, một trắng một đen, đang cặm cụi gậm nhấm sợi dây mà anh đang đeo trên đó. Vừa lúc ấy một giọt mật từ ổ ong rơi xuống ngay vào miệng anh. Bấy giờ, quên cả thớt voi đang rượt, con rắn độc đang nằm dưới đáy giếng, sợi dây đầy gai nhọn quàu trầy cả mình mẩy, bày ong đang vây đánh, và hai con chuột đang gậm nhấm sợi dây, anh mê mệt thọ hưởng giọt mật một cách thỏa thích..."
Đó là hình ảnh của cuộc sống mà chúng ta đang sống: Người lang thang lạc bước giữa rừng là chúng ta. Khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn là kiếp nhân sinh trong vòng luân hồi. Thớt voi tượng trưng cho Tử Thần. Con rắn độc nằm dưới đáy giếng là sự già nua. Sợi dây rừng đầy gai nhọn là sự sanh. Bầy ong là những nổi khổ đau luôn luôn đe dọa tình trạng an lành của chúng ta. Giọt mật hình dung những thú vui hiếm hoi trong đời sống. Hai con chuột, một trắng, một đen, là ngày và đêm...

Tứ Diệu Đế - Phạm Kim Khánh
Chúng ta không nên quá chú trọng nhiều về những vật chất trước mắt dù chúng có làm ta say mê đến thế nào. Nói miệng thì rất khó lòng, bạn phải hiểu rằng khi nhìn chúng thì ta biết nó là một nổi lo cho người giữ nó, rồi nó sẽ trôi qua nhanh thôi, nó sẽ đến quên lãng sớm dù rằng chúng ta có cố giữ nó bằng cách mấy đi nữa. Rồi Lạc thú nào cũng kết thúc với đau khổ. Vì khi bạn quá ham thích điều đó bao nhiêu thì khi mất nó đi bạn sẽ đau khổ nhiều chừng ấy, nếu bạn có một vật quý giá thì bạn đã phải mang nổi lo giữ gìn, lo sợ rằng nó sẽ bị lấy mất bởi một người nào đó.
Thời gian quý giá của chúng ta giành để chăm lo và ngắm nhìn chúng nếu xảy ra hư hại thì nổi lo sẽ được nhân đôi vì phải bận lòng cho việc sữa chữa. Nếu thời gian để ý tới nó thì ta nên lo chu toàn bổn phận của chính mình với gia đình và xã hội. Thực sự Lòng thỏa mãn được dung dưỡng và phát triển bằng lòng khiêm từ của chúng ta. Chúng ta đã hiểu bản chất của cuộc sống thì nên cố gắng tránh những sự việc nhận của người khác khi mà không được sự chân tâm dâng tặng của con người, nếu bạn nhận nhiều quá thì bạn phải trả đấy. Bạn cũng nên nhớ chúng ta không thể lấy không của bất cứ ai một xu nào cả, bởi quy luật nhân quả rất công bằng và nó được định sẳn như vậy. Như một kinh nghiệm được thụ hưởng lại, chúng ta không nên ở lại dùng cơm với một người khi ta đến nhà họ thăm hay đến chơi nếu như đó không phải là người thân của chúng ta, vì điều đó không nên. Hay ghi nhớ câu nói này của Đức Phật: “Chúng ta không thể làm nô lệ cho những xúc cảm” khi chúng ta có những tư tưởng sai trái.
Lòng Hiếu Hạnh:
Đây là phẩm hạnh đầu của tất cả con người và không tội nào lớn hơn tội bất hiếu cả. Nhiệm vụ của con người cần thực hiện là phải Phụng dưỡng và thương yêu cha mẹ một cách hết lòng, bởi cha mẹ là người cho ta cả cuộc đời, cho ta sự sống trên thế giới: niềm vui và niềm thương yêu vô bờ bến. Nhờ có cha mẹ mà thân thể hôm nay của ta mới lớn khôn thế này.

Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ hơn Cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo sớm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy Cha che chở đời con
Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghe con
Lời Phật Dạy “Chữ Hiếu”


Ước nguyện của cả cuộc đời họ chính là những đứa con thân yêu. Họ mong muốn con cái của mình sống tốt đẹp trên cuộc đời đau khổ này. Để sau này ra đi thì họ mãn nguyện vì con cái họ không phải chịu khổ cực và bị nhiều uy hiếp lụy phiền bởi kiếp sống nhân sinh quá nhiều thị phi. Nếu họ có thể sống bao nhiêu năm thì tình thương và nổi lo cho đứa con họ không ngừng. Nước mắt và mồ hôi để đổi lấy no ấm cho con mình mà phải lăn lộn, chịu đựng và đối mặt với khó khăn trong biển người, thì giấy bút nào làm sao viết hết được. Nếu một đứa con trưởng thành sống với tư tưởng không hiểu biết, sống không theo luân thường đạo lý thì đó sẽ là một vết thương không thể chữa lành trong lòng ba mẹ và giọt nước mắt họ chỉ lặng lẽ rơi theo sự trôi dạt của dòng đời. Sự bất hiếu con người được nho giáo nói rất rõ:
Nếu mình hiếu với mẹ cha Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận
Chắc rằng con hiếu với ta khác gì Ngỗ nghịch sinh con nào khác chi
Nếu mình ăn ở vô nghì Xem thử trước thềm mưa xối nước
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công Hạt trước hạt sau có khác gì
(Thái Công)
Ý nghĩa rất rõ ràng cho con người hôm nay nếu chúng ta nghĩ kỹ hơn và đưa mắt nhìn xung quanh để hiểu rõ về luật nhân quả. Chúng ta đừng nên mong con cái hiếu với ta cho uổng phí công sức nếu như sự bất hiếu ta giành cho chính cha mẹ mình, rồi chúng ta sẽ là người cảm nhận được giọt nước mắt bi thương chảy trên khuôn mặt vì con cái. Câu hát của nghệ sĩ Thanh Ngân như sau: “Đừng để ngày phụ mẫu tàn hơi chẳng có ý nghĩa chi những dòng lệ đổ, đừng để hối tiếc khi quỳ bên nấm mộ sẽ thấy lạc loài trong cảnh mồ côi” hay “ Đừng tham đắm miếng mồi danh lợi mà bỏ gốc quên nguồn tội lỗi lắm ai ơi”.
Chúng ta phải hiểu bổn phận mà cố gắng dù chưa biết ngày tháng tương lai ra sao nhưng phải giành thương yêu cho họ, giúp đỡ những công việc mà ta làm được, có thể làm gánh nặng nhẹ bớt trên đôi vai đã mang nổi lo của cuộc sống và sự tốt đẹp vì chúng ta. Điều mà họ cần nhất ở cuộc đời chính là tình thương yêu con cháu và lối sống tốt đẹp của ta. “Cho dù con biết chỉ còn sống được một ngày trên thế gian con cũng sống sao cho ra người như lời má dạy” - Minh Quân. Bởi thế ta phải tỏ ra cho họ biết mình thương yêu họ cho đến những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, giành những điều tốt đẹp cho cha mẹ nếu ta có thể được. Nguồn hạnh phúc mà ta có được nơi thế gian này không phải là sự thỏa mãn của vật chất mà là tình thân của gia đình và thân nhân. Vật chất rồi sẽ đi đến tan rã, rồi chúng ta sẽ đánh mất tình thương mà còn phải chịu những nghiệp xấu do bất hiếu. Bởi bạn nên biết rằng người thân là người yêu thương ta nhất và không ai giành cho ta tình thương chân thật ấy.
Quan hệ tình thân được viết trong Thiên Tự Văn: “Cô, bác, chú là anh em của cha, cháu trai, cháu gái cũng phải tôn kính yêu quí giống như con đẻ. Anh em là cùng cha mẹ sinh thành, giống như cành nhánh một cây sinh ra.”. Chúng ta cũng phải thương yêu những người bên quan hệ gia đình, không nên có sự phân biệt đối xử bởi thế nó sẽ làm ta đánh mất đi những điều tốt đẹp mà ta có thể giữ và tình cảm cao quý đó không thể bị mất đi trong suốt cuộc đời này được. Những dư âm vui vẻ nhất mà ta có chính là thời gian được ở gần những người thân. Vật chất rồi sẽ đi đến tan rã nhưng tình thương thì không bao giờ mất đi được chỉ trừ khi chúng ta tự mình hủy bỏ.
Sự Thành Tâm?
Sự thành tâm và niềm tin của con người là hai thành phần quan trọng trong Phật Giáo, hai yếu tố này song hành với nhau và có ý nghĩa tương đương với sự nổ lực và niềm tin vậy. Trong Đạo Phật không nói rằng ta phải cầu nguyện và thờ cúng để được thoát khỏi những nghiệp xấu nhưng nó là nhân tố dẫn chúng ta đi đến sự giải thoát cuối cùng.
Đời sống hôm nay được nói đến đã là thời kì cuối, con người càng ngày càng khổ đau bởi chính con người tạo ra. Bạn có thể nhìn thấy thực tại mà không cần phải được nói rõ, con người đang sống trong sợ hãi, đau khổ và lo âu bởi đời sống. Những sự kiện cướp bóc, tai nạn, khó khăn về tài chính…. Cùng với tai họa thiên nhiên và những biến chuyển trong cuộc sống dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với con người ngày nay, nếu chúng ta không tu tập sẽ không còn kịp nữa, Chính con người đã đẩy mình vào cảnh diệt vong vì những hành động không có lương tâm.
Thời kỳ xa xưa có nhiều con đường tu tập dẫn đến thoát khỏi đau khổ, Thiền Định được xem là con đường duy nhất nhưng với cuộc sống ngày nay quá nhiều bận rộn. Pháp môn ta có thể thực tập nhanh gọn mà không mất nhiều thời gian đó chính là Hành Trì câu Lục Tự Di Đà. Ngày nay chúng ta nên cố gắng một ngày niệm danh hiệu Di Đà ít nhất là 10 câu trong một ngày nếu thời gian quá bận rộn, nó giúp ta được nhẹ nhàng thanh thản trong tâm hồn. Khi trì niệm sẽ làm nghiệp lực của ta nhẹ bớt. Chúng ta nên thực hành càng nhiều sẽ dẫn đến sự thanh thản vô biên trong tâm hồn.
Câu chuyện thật được kể lại:

Một người phụ nữ và chồng cùng buôn bán làm ăn nhưng thất bại cứ mãi xảy ra. Sau hai lần mưu sinh cuối cùng, lần thứ nhất họ vẫn chịu số phận là thất bại vì làm ăn lỗ lã, lần thứ hai họ quyết định mở một cửa hàng thuốc để mưu sinh nhưng kết quả vẫn không thay đổi. Người chồng quyết chí lên núi tu hành, người vợ ở lại nhà tu trong sự thanh tịnh tâm thần. Hằng ngày bà niệm danh hiệu Di Đà nhất tâm không xao lãng, sau khi dùng cơm bà tắm rửa sạch sẽ và quỳ trước bàn thờ tụng câu Lục Tự. Bà tụng liên tục dường như là suốt ngày từ sáng cho đến tối trong những thời gian rãnh kể cả khi làm việc. Mỗi khi con cháu đến thăm bà và kể cho bà nghe về chuyện của đời sống thường nhật nhưng bà đều từ chối. Sau quá trình không ngừng nghỉ và kiên định của bốn mươi mấy năm, ngày cuối cùng bỗng nhiên trên nóc nhà tỏa sáng luồng hào quang rực rỡ. Người con bên sông trông thấy cứ tưởng cháy nhà liền chạy vội cả về nhà mẹ, thì bà đã viên tịch để trở về đất Phật, thoát khỏi cảnh khổ của luân hồi và phiền não của thế gian mãi mãi.
Sự Thành tâm và niềm tin là vô cùng quan trọng nhiều vấn đề, khi lễ Phật, thắp nhang và khẩn nguyện lòng ta phải hướng về Chư Phật và lòng thành kính vô bờ bến trước những phẩm hạnh không gì so sánh được của các Chư Phật. Sự hành trì niệm Phật là rất cần thiết cho con người ngày nay, bởi ta đã bỏ thời gian quá nhiều và chưa bao giờ trong tâm ta có lời vang của tiếng niệm Phật. Đó là một nghiệp nặng hay là sự thiếu sót của tâm hồn. Khi thành tâm ta có cảm giác như câu niệm đi vào lòng ta đó là lúc ta được thành tâm nhất “Miệng niệm và lỗ tai phải nghe rõ từng chữ”.
Trong việc chữa bệnh của con người, ta có thể nghĩ mọi sự vật bắt nguồn từ thiên nhiên, con người cũng là sự hợp thành của tứ đại. Trong Thiên Tự Văn có nói: “Thân thể con người có liên quan đến đất, nước, lửa, gió. Con người có năm đức tính Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Phật Giáo cũng có thuyết quá trình hợp thành của con người từ chất lỏng, chắc rắn, lữa, gió. Do vậy con người sẽ dùng thuốc của tự nhiên ban cho để chữa lành những căn bệnh gây đau khổ cho con người ngày nay, đó là một hiệu quả vô cùng nếu được sự hướng dẫn của người khác.
Câu chuyện thật được nghe kể lại như sau: Một người phụ nữ mắc 6 căn bệnh trong cơ thể, ai đã từng gặp mặt người phụ nữ ấy điều nói là mặt ma và nghĩ rằng người phụ nữ ấy không thể sống nổi. Khuôn mặt và thân hình xanh xao và hốc hác quá nhiều. Nhưng được sự chỉ dẫn dùng một loại thuốc: lá Nàng Hai. Người phụ nữ tin theo lời chỉ dẫn và thực hiện, hằng ngày đều dùng thuốc đó rửa sạch nấu nước uống thay cho nước uống, mỗi lần uống thuốc đều thắp một cây nhang và nguyện thành tâm: Xin Ơn Trên cho thuốc uống mau khỏi… Vậy chỉ sau hai tuần người phụ nữ đã khỏi hẳn hết 6 loại bệnh. Khi gặp mọi người dường như ai cũng không tin đó là một sự thật…
Chúng ta hãy nhớ một điều rằng Tâm chúng ta sinh ra đau khổ và hạnh phúc cho chính ta. Cùng Luật Nhân Quả là công bằng tuyệt đối không có sự sơ xuất hay chật lệch.
Trong tác phẩm “Tế Điên Hòa Thượng”. Khi kết thúc truyện Tế Điên lái thuyền khuất đi và cất khúc hát:
[center]Đời thấm thoát chừ phù sinh giấc mộng
Thân người nhỏ bé chừ biển trời lồng lồng
Thấm thoát qua mau hết trẻ đến già
Ngoảnh mặt người thân bao người khuất bóng
43. Kiều Trn Như

Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa quyết bỏ cuộc sống vinh hoa, vào rừng sâu xuất gia tìm đạo, vua
Tịnh Phạn sai hai đại thần đi thuyết dụ Thái Tử trở về. Không thể lay chuyển được chí
hướng của Thái Tử, hai vị đại thần đành trở về chiêu mộ người muốn tìm đạo, theo phù trợ
cho Thái Tử. Trong số 5 người phát tâm theo Thái Tử tu khổ hạnh tại núi Dà Xa, xứ Ba La
Nại có Kiều Trần Như là người nhiệt tình cầu đạo hơn cả.

Kiều Trần Như là ngườI theo Phật đầu tiên do đó được thành vị Thánh chúng có PHÁP
LẠP SỐ 1.
Khi chỉ thấy khổ hạnh làm cho cơ thể suy nhược, tinh thần hết minh mẫn, Phật ra khỏi rừng
khổ hạnh dùng bát sữa của mục nữ Ta Xà Đề, xuống sông Ni Liên tắm gội rồi trở lại thuyết
dụ nhóm Kiều Trần Như trở về con đường Trung đạo, may ra mới có thể chứng thành Thánh
qủa. Kiều Trần Như cho là Phật đã thối chí, nên không theo và tiếp tục lối tu ép xác, ngày
ăn một hạt đậu hoặc một hạt mè v.v ..
Vì có thành kiến từ trước, khi nghe Phật trở lại rừng khổ hạnh để thuyết pháp cho nhóm của
ông. Kiều Trần Như tính kế không tiếp đón. Nhưng với dung mạo oai lực của Phật, Kiều
Trần Như thay đổi thái độ, từ lạnh nhạt qua tôn kính.
Sau khi nghe Phật thuyết giáo, Kiều Trần Như khai mở trí tuệ, nhận chân sự cố chấp kiến là
chướng đạo. Sống ở đời say đắm theo lạc thú vật chất, con người sẽ sa đọa vào con đường
tội lỗi. Trái lại tu theo pháp khổ hạnh, khiến cơ thể suy nhược, tinh thần rối loạn, không còn
minh mẫn. Bởi thế, trên con đường Trung đạo mới đạt được giải thoát, khỏi luân hồi, sinh,
già, bệnh, chết. Qua sự chuyển bánh xe chánh pháp lần đầu của Phật, Kiều Trần Như và
các đạo sĩ đồng hành, biết rõ con đường trung đạo qua pháp Bát chánh. Đó là hiểu biết
chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành động chân chính, mưu sinh chân
chính, siêng năng chân chính, định tâm chân chính.
Tám pháp chân chính là con đường đưa chúng sanh đến cảnh Tịch diệt Niết bàn.
Ngược lại cuộc sống buông trôi theo thám ái giận hờn, si mê, đó là nguyên nhân chúng sinh
đến 3 cõi 6 đường chịu nhiều khổ não.
Các khổ não mà chúng sinh phải trôi nổi trong sinh tử luân hồi, đó là khổ khổ, hoại khổ và
hành khổ. Rộng hơn đó là sinh, già, bệnh, chết, ân ái, xa lìa, oán thù gặp gở, mong cầu
không được và thân 5 ấm không được điều hòa.
Nói ngược lại một cách khác hơn đó là 4 chân lý: Khổ, Tập, Diệt và Đạo.
VớI 4 chân lý qua lần chuyển pháp đầu tiên của Phật, Các đạo sĩ khổ hạnh và nhất là Kiều
Trần Như đã rõ:
-


Đó là khổ vì hay bức não
-Đó là tập vì hay chiêu cảm
-Đó là diệt vì có thể chứng
-Đó là đạo vì có thể tu tập
Và -Vì nó là khổ Chúng ta cần phải biết
Vì nó là tập Chúng ta cần phải trừ
Vì nó là diệt Chúng ta cần phải chứng
Vì nó là đạo Chúng ta cần phải tu học.



Kiều Trần Như thấy cần phải theo gương Phật, vì:
-Đó là khổ Phật đã biết.
-Đó là tập Phật đã trừ.
-Đó là diệt Phật đã chứng.
-Đó là đạo Phật đã tu.
Sau khi nghe Phật chuyển pháp luân lần đầu, Kiều Trần Như và các bạn đồng hành pháp
nguyện bỏ lối tu hành và xin làm đệ tử Phật. Kiều trần Như đã có công lập thành giáo đoàn
đầu tiên của Phật. Kiều Trần Như cũng tinh tấn tu tập và trở thành thánh đệ tử Phật, có
pháp lạp số 1.

1 - Ngài Annàkondanna

Khoảng một trăm ngàn kiếp trái đất về trước, Ðức Phật Jadumuttara (Liên Hoa Phật) giáng trần. Ngài có tông hiệu như vậy là vì lúc nào cũng có liên hoa hiện lên đỡ chân ngài. Ðặt biệt là liên hoa ấy biến và hiện rất nhịp nhàng. Nghĩa là liên hoa hiện lên đỡ chân mặt thì liên hoa ở chân trái biến và ngược lại. Tóm lại, chân Ngài không bao giờ chạm đất. Hiện tượng đặc biệt này có ngay khi Ngài vừa bước chân rời khỏi bồ đoàn trong ngày thành Phật.
Trên đường hoằng pháp, Ngài trở về tế độ Hamsavati (Hăm-sa-va-ti) để độ vua cha hoàng tộc và trào thân. Ða số đều được đắc đạo chứng quả tùy quá trình công đức. Ðức vua cung thỉnh Phật và một trăm ngàn vị thánh Tăng theo hầu thọ trai tại triều trong một thời gian hữu hạn.
Lúc bấy giờ ngài Annàkondanna là con trai của một gia đình đại phú tại kinh đô này. Trong ngày Ðức Phật chính thức ấn chứng pháp vị Trưởng Lão đệ nhất cho một vị Tỳ-kheo, vì vị này hội đủ điều kiện căn bản là: được Ðức Phật đặc truyền đại giới bằng phương thức Thiện-lai Tỳ-kheo trước nhất, được liễu đạo trước nhất, được gặp và nghe chánh pháp trước nhất. Chứng kiến sự kiện quan trọng này, chàng thanh niên phát bồ đề tâm cung thỉnh Ðức Phật và Thánh chúng về tư gia thiết lễ trai tăng cúng dường bảy ngày. Ngày đầu, chàng cúng dường vải hảo hạng để may y cho Ðức Phật. Ðúng ngày thứ bảy, chàng cúng dường vải may y đến toàn thể một trăm ngàn thánh tăng hiện diện và chính thức phát nguyện: "do phước báu cúng dường thanh tịnh trong suốt bảy ngày, xin cho đệ tử được xuất gia trong chánh pháp của Ðức Phật Tổ vị lai và được đắc ngộ trước nhất."
Ðức Thế Tôn Padumuttara, với thiện nhãn thuần tịnh, nhận thấy không có chướng duyên ngăn ngại, Ngài hoan hỉ thọ ký: "Trong một chu kỳ là một trăm ngàn kiếp trái đất về sau sẽ có một vị Phật tôn hiệu là Gotama giáng trần hóa đạo, lúc bấy giờ đại nguyện của ngươi sẽ được thành tựu".
Sau khi Ðức Phật Padumuttara niết bàn, chàng kiến tạo một ngôi nhà nhỏ bằng ngọc để tôn trí xá lợi an vị bên trong bảo tháp và thực hiện nhiều thiện sự nhất là hạnh bố thí suốt một trăm ngàn tuổI. Khi thân hoại mạng chung, chàng được sanh thiên. Suốt chín muôn chín ngàn chín trăm chín mươi chín kiếp, chàng đều được hưởng phước nhuận thiên. Ðến kiếp thứ chín, muôn chín ngàn chín trăm lẻ một, Ðức Phật Vipassi (Tì-bà-thi ) giáng trần. Lúc bấy giờ, chàng sanh làm phú hộ tại làng Ràmagàma (Ra-ma-ga-ma) nước Bandhumati (Banh-thu-ma-ti) tên Mahàkàla và vẩn tiếp tục thực hiện mọi thiện sự. Một hôm, chàng rủ người em trai tên Cullakàla thực hiện đại thế bằng cách lấy tinh chất trong hạt lúa non vừa ngậm sửa để cúng dường Ðức Phật và chúng Tăng, nhưng người em không hoan hỉ. Chàng bèn chia đôi lúa ruộng và thực hiện hạnh đại thí theo sở nguyện. Ngoài ra, chàng còn tổ chức đại thí tám lần tiếp theo từ lúc chắc hột đến khi vô bồ. Sau khi thân hoại mạng chung, chàng lại được sanh thiên.
Suốt chín mươi mốt kiếp (91) chàng đều hưởng phước nhơn thiên. Ðến kiếp cuối thứ 91, chàng sanh làm đại phú gia trong làng Donavatthu (Ðô-na-oach-thu) gần Kapilavatthu (Ca-bì-la-vệ) tên là Kondanna (Côn-đanh-nha, Kiều-trần-như). Lớn lên, chàng suốt thông toàn bộ giáo hệ Phệ-đà và là một vị trong số tám vị Bà-la-môn tiên đoán hậu vận của Thái-tử Sỉ-Ðạt-Ta. Chính nhờ biết rỏ phước tướng và hậu vận của Thái-tử nên chàng dứt khoát đi tu, lập nguyện sẽ làm đệ tử phục vụ ngài và mọi việc đã diển tiến đúng như chàng dự liệu: Tại vườn Lộc-giả, Kondanna được nghe Ðức-Phật thuyết bài kinh chuyển Pháp-luân và đắc được pháp nhãn. Sau đó mấy hôm, nhờ nghe Ðức Phật thuyết bài Anattalakkhana Sutta (Vô-ngã-tướng kinh) nên đắc A-la-hán, một quả vị cao nhất trong hàng Tứ Thánh.
Ðên khi Phật Pháp được truyền bá sâu rộng khắp cõi Diêm-phù-đề, Ðức Bổn Sư chính thức ấn chứng pháp vị cho Ðại-đức là Trưởng lão Ðệ nhất của giới Tỳ-kheo.
Mỗi khi Ðức Phật thuyết pháp thì Ðại Ðức Xá-Lợi-Phất tọa vị bên mặt, Ðại Ðức Mục-Kiền-Liên bên trái, còn lại Ðại Ðức thì ngay sau lưng Ðức Phật và tiếp theo là chư vị Tỳ-kheo bao quanh. Trong những trường hợp như vậy, nhị vị Ðại Ðệ Tử xem Ðại Ðức như đại-phạm-thiên hoặc như bậc huynh-trưởng khả kính trong đạo tràng, cho nên rất cẩn trọng và kiên dè mỗi khi ngồi gần Ðại Ðức. Trước cử chỉ cẩn trọng và kiên dè của nhị vị Ðại Ðệ Tử, Ðại Ðức tự nghĩ: Nhị vị Ðại Ðệ Tử đã phải lập nguyện tô bồi công đức và trì hành Ba-la-mật suốt một A tăng kỳ và một trăm ngàn kiếp để được ngồi gần hầu Phật, nay nguyện ước đã thành nhưng Nhị vị lại quá kiên dè ta. Vậy, ta phải tạo sự tự nhiên cho Nhị vị. Dùng thiên nhãn quán chiếu, nhận thấy người cháu trai tên Punna (Bun-na) có căn duyên xuất gia và sẽ trở thành một vị Pháp Sư lỗi lạc trong hàng Tăng giới, Ðại Ðức bèn trở về quê tiếp độ cậu Punna xuất gia và, sau đó xin phép Ðức Thế Tôn đến tịnh cư tại bờ hồ Chaddanta nơi thường trú của chư Phật Ðộc-giác suốt mười hai năm dài.
Nguyên nhân Ðại Ðức đến định cư nơi đây là vì bản tánh không thích tiếp xúc và bận rộn mà cuộc sống tập thể rất khó tránh. Hơn nữa, Ðại Ðức có nhiều phúc đức gần như Ðức Phật. Phúc đức ấy lan rộng khắp một muôn thế giới sa-bà. Các hàng thiên chúng mỗi khi bái kiến, cúng dường các loại hoa quí và các thứ hương liệu đến Ðức Phật thì họ cũng đến bái kiến và cúng dường Ðại Ðức khi còn sống chung tập thể. Do đó, sự bận rộn về phương diện giao tế cũng như giảng đạo không thể tránh được.
Sau mười hai năm định cư, Ðại Ðức trở về bái kiến Ðức Phật tại chùa Trúc-lâm vương xá. Ðại Ðức mọp sát chân Ðức Phật, vừa hôn vừa bóp chân vừa xưng tên: "Ðệ tử là Kondanna! Ðệ tử là Kondanna!". Trước cử chỉ vô cùng thương kính mà Ðại Ðức bộc lộ đối với Ðức Phật đã khiến Ðại Ðức Vangisa, một vị Ðệ nhất biện tài, đang ngồi trong hội chúng liền đứng lên chấp tay tán thán: "Ðại Ðức Kondanna, bậc tinh tiến bất thối, bậc ẩn sĩ, bậc tinh giả, đã đạt được cứu cánh phạm hạnh, bậc có nhiều thần lực, đã đắc Tam Thông là bậc thừa tự chánh pháp đang đãnh lễ bàn chân phúc đức của Ðấng Bổn Sư Tư Phụ."
Tại bờ hồ Chaddanta, một đàn voi khoảng 8 muôn con, sinh sống tại đây. Chúng được Tượng chí phân công phục dịch chư Phật Ðộc giác về mặt ẩm thực và an ninh. Diện tích hồ khoản 50 do tuần.Từ trong bờ trở ra khoản 20 do tuần, nước rất cạn, có thể đứng được, cát hạt to, trắng như pha lê, không cặn bùn, không rong rêu. Ở chu vi cạn này, loại liên hoa như bạch-liên, hồng-liên, huỳnh-liên, xích-liên mọc rất thứ tự. Những nơi thật cạn thì có những loại lúa thơm màu đỏ, những nơi tương đối ráo thì có các loại mía thật ngọt, thật mềm; những nơi ráo hơn thì có các loại chuối ngon,thơm,ngọt và dẻo; những nơi đất khô thì các loại cây ăn trái tự động mọc lên thứ tự, như mít, soài, mận, cam, quít, vân vân và vân vân. Những yếu kiện này đã giúp các con voi có phương tiện dể dàng phục dịch chư Phật Ðộc Giác.
Ngày Ðại Ðức đến, đàn voi tỏ ra vô cùng hoan hỉ. Một cuộc họp mặt quan trọng đã diễn ra dưới quyền chủ tọa của tượng chúa để phân công phục dịch Ðạị Ðức. Vì biết rỏ bản tánh Ðại Ðức không thích rộn ràng nên các con voi được Tượng chúa dặn dò cẩn thận để tránh cho Ðại Ðức những phiền rộn không đáng.
Buổi sáng, Ðại Ðức đắp y mang bát bay đến khất thực tại cung điện của một vị tiên Nàgadanta (Na-ga-đanh-ta) trên ngọn núi Kelàsa (Kê-la-sa). Vị tiên này rất hoan hỉ cúng dường Ðại Ðức các thực phẩm của tiên. Quả phước đặc biệt này sở dĩ thành tựu riêng cho Ðại Ðức là do nhờ hạnh bố thí bằng cách bắt thăm mà Ðại đức đã thực hiện liên tục suốt hai muôn năm trong thời kỳ Ðức Phật Kassapa (Ca-Diếp).
Trong những ngày cuối cùng, Ðại Ðức tự chọn nơi Ðại Ðức định cư suốt mười hai năm làm địa điểm Niết bàn vì nghĩ đến công quả phục dịch vô cùng tận tâm trong sạch của tám muôn con voi. Quyết định song, Ðại Ðức trở về Trúc-lâm xin phép Ðức Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, đệ tử kính xin Ðức Thế Tôn cho phép đệ tử Niết bàn.
-- Kondanna, ngươi sẽ chọn nơi nào làm địa điểm Niết bàn?
-- Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử chọn bờ hồ Chaddanta
-- Kondanna, hãy khế cơ, khế thời hành sự.
Ðược Ðức Thế Tôn tùy thuận và, vì có dụng ý bồi đấp đức tin của hàng Phật tử, nên trên đường trở về địa điểm niết bàn, Ðại Ðức dùng thần thông bay từ từ thật chậm trên không trung để cho mọi người được chiêm ngưỡng. Trước thần lực phi thường này, tất cả đều phát bồ đề tâm qui ngưỡng chánh pháp.
Ngay chiều hôm ấy, Ðại Ðức xuống hồ Chaddanta tắm gội sạch sẽ, quét dọn tư thất, sắp xếp thứ tự các thứ giáo dụng, đắp y ngồi nhập định suốt đêm và an nhập Niết-bàn. Khi bình minh tỏ rạng, ngay lúc ấy hiện tượng lạ xảy ra: cây cối cuối đầu như tiển biệt một vị đại phúc đức. Sáng hôm ấy, con voi có bổn phận phục dịch Ðại Ðức, đứng chờ ngài ở đầu đường kinh hành nhưng không thấy, bèn đến tư thất thò vòi vào sờ nhẹ bàn chân thì mới hay ngài đã tịch diệt. Nó lập tức đút vòi vô miệng rống lên thật to. Tiếng rống bi thống, bất thần ấy vang vang bất tận khắp cả núi rừng. Nghe tiếng rống bất thường ấy, đàn voi lập tức tề tựu trong trật tự. Tiếng rống của đàn voi 8000 con làm chấn động đại sơn Hi-mã. Sau đó, chúng cung nghinh nhục thể Ðại Ðức nhiễu khắp một vòng tuyết sơn và trở về an trí nguyên vị.
Ðức Thiên-vương Ðế-Thích sai một vị tiên tên Vissakamma xuống tận nơi, dùng thần lực biến ra một ngôi nhà bằng ngọc cao 9 do-tuần để an vị nhục thể Ðại Ðức. Chư thiên các tầng trời thứ bậc luân phiên cung nghinh nhục thể Ðại Ðức đi nhiểu tại các tầng trời sở hữu kể cả cỏi trời phạm thiên và cuối cùng nhục thể được cung nghinh trở về vị trí củ.
Một hỏa đài bằng các loại trầm quí ky hương được dựng lên do thần lực của chư thiên. Ngay lúc ấy, bổng từ hư không xuất hiện 500 vị Thánh Tăng đến tụng những bài kệ kinh-cảm và những bài kinh liên quan định lý vô thường, khổ, vô-ngã và sự an vui tuyệt đối của Niết-bàn. Sau khóa lễ tưởng niệm, Ðại Ðức Anulaudda (A-nâu-lầu-đà) thuyết pháp. Chư thiên được nghe pháp đắc đạo chứng quả nhiều vô số.
Xá lợi Ðại Ðức trắng đẹp như màu hoa lài búp, được chư Thánh Tăng cung thỉnh đem về kính dâng lên Ðức Phật tại chùa Trúc-lâm. Một tấu xảo phi thường là hôm ấy, Ðức Thế Tôn từ hương thất quan lâm đến gần cửa Tam quan Trúc-lâm thì xá lợi của Ðại Ðức do chư vị Thánh Tăng cung nghinh cũng vừa đến. Ðức Thế Tôn trong tư thế đứng, đ? mặt nhận xá lợi, tay trái chỉ xuống đất. Lạ lùng thay! Ngay chổ ấy mọc lên một ngôi tháp bằng vàng và xá lợi Ðại Ðức được an trí trong ngôi tháp ấy.
Trong Trưởng Lão kệ có nhiều bài kệ của Ðại Ðức. Ở đây, chúng tôi xin ghi lại một vài bài tượng trưng đễ cúng dường và niệm ân một vị thánh tăng Niên Trưởng. "Trên quả địa cầu này, có rất nhiều bảo vật. Thuận cảnh thích hợp với tham dục lúc nào cũng chi phối nội tâm. Mưa trời làm sạch bụi trần cũng như chánh niệm về định lý vô thường, bất lạc và phi ngã sẽ chế phục được các tà niệm". Ðối với Ðại Ðức, những lời tán thán sau đây được phổ cập trong tăng chúng:

-"Ðại Ðức là bậc tinh cần bất thối, đã diệt được nguồn sinh tử, đã đạt cứu cánh phạm hạnh, đã khẻ mở vỏ cứng, đã cắt đứt mọi trói buộc, đã san bằng được đại sơn, đã cặp bến an toàn, đã vượt thoát ác ma, không phóng dật, cẩn ngôn, luôn luôn thúc liễm các căn, có nhiều thiện hữu, có trí tuệ, đã diệt tận khổ đau, có tiết độ vật thực, chịu đựng muỗi mòng và các loại bò sát như tướng chiến lâm trận."
Thỉnh thoảng Ðại Ðức tự bày tỏ cảm niệm: "Tôi không tham sống, không muốn chết mà chỉ chờ đợi thời cơ. Tôi đã được phụng sự Ðức Như-lai, đã y cứ phụng hành chánh pháp, đã quăng bỏ gánh nặng, đã loại trừ mọi nhân duyên đ???n hiện hữu, đã hoàn thành hạnh tư lợi của người xuất gia và tự thấy không cần thiết phải có bạn đồng trú."
Ðức Thiên vương Ðế Thích có lần đến cầu pháp, sau khi thính pháp, đã tán thán:
--"Tôi vô cùng hoan hỉ vì được nghe pháp-âm huyền diệu và được thưởng thức pháp vị thật tuyệt vờI. Ðại Ðức đã thuyết giảng pháp ly dục có khả năng đoạn diệt mọi chấp thủ".
Tóm lại, Ðại Ðức Annàkondanna đã phát đại nguyện và được Ðức Phật Padumuttara thọ ký. Suốt một trăm ngàn kiếp trái đất hưởng phước nhơn thiên, đến kiếp thứ một trăm ngàn lẽ một thì được sanh làm đại phú gia tại làng Donowatthu, gần kinh đô Kapilavatthu được xuất gia cùng lúc với đoàn năm Tỳ-kheo và được đắc quả A-la-hán sau khi nghe Ðức Phật thuyết kinh chuyển pháp-luân và kinh vô-ngã-tướng tại vườn Lộc-uyển. Ðại Ðức định cư suốt 12 năm tại bờ hồ Chaddanta gần chân núi Hi-mã-lạp và niết bàn tại đây. Xá lợi được tôn trí tại tháp vàng do Ðức Bổn Sư dùng ngón tay thần hóa hiện gần Tam quan chùa Trúc Lâm, nước Vương-xá.
Ðệ tử thành tâm kính lễ ngài Trưởng Lão Annakondanna, một vị Thánh Tăng có phước lớn gần như Ðức Phật, vị Tỳ-kheo Niên-trưởng trong đạo tràng của Ðức Bổn Sư. Cầu mong phúc đức vô lượng của Ngài trợ duyên cho đệ tử đày đủ nghị lực bước theo dấu chân Ngài trong cung cách dung thông hữu lậu và vô lậu công đức.

Ngài Moggallana-Mục Kiền Liên

Khoảng một a-tăng kỳ và một trăm ngàn kiếp về trước, có một đại phú gia tên Sirivaddha - là bạn chí thân của đạo sĩ Sarada, tiền thân của Sàrìputta. Lúc bấy giờ, nhờ nghe lời vị đạo sĩ bạn, ông đại phú phát tâm trong sạch thiết lập trai đàn, cúng đường trai tăng đến một trăm ngàn thánh chúng do Ðức Phật Tổ Anomadassì chủ tọa. Ðến ngày thứ bảy, ông cúng dường vãi may y hảo hạng cho Ðức Phật và toàn thể thánh chúng và nhất tâm lập đại nguyện:
-- Bạch Ðức Thế Tôn, đạo sĩ Sarada - bạn chí thân của đệ tử - đã phát nguyện làm đệ nhất Ðại Ðệ Tử của vị đương lai Phật Tổ nào thì đệ tử cũng xin được làm Ðệ nhị Ðại Ðệ Tử cũa vị Phật Tổ ấy.
Ðức Thế Tôn Anomadassì, qua thiên nhãn thuần tịnh, nhận thấy lập nguyện của Sìrìvaddha sẽ được thành tựu, bèn nghiêm từ thọ ký:
-- Một a-tăng kỳ và một trăm ngàn kiếp về sau, ngươi sẽ được làm vị Ðệ nhị Ðại Ðệ Tử của Ðức Phật tổ Gotama.
Kể từ ấy, ông đại phú luôn luôn tích cực tiến tu Phúc Huệ nhất là thực hiện hạnh đại -thí trong những hoàn cảnh thuận duyên. Sau khi mạng chung, ông được hóa sanh dục thiên giớI. Ðược làm vua trời Ðế Thích 177 lần, làm chuyển luân vương 55 lần, làm Quốc vương 108 lần. Ðến thời Ðức Bổn Sư, ông sinh vào một gia đình Bà-la-môn, làng Kolità, gần thành Ràjagaha, tên Kolita. Sau khi xuất gia được gọi là Moggallàna (Mục-kiền-Liên). Thân sinh là ông Kolita, thân mẫu là bà Moggalì. Mối tình thâm giao giữa Kolita và Ðại Ðức Sàrìputta đã được tường thuật đầy đủ ở câu chuyện số 2.
Khi được nghe nguyên văn câu Phật ngôn do bạn Upatissa đọc lại thì Kolita đắc được thánh quả Tu-đà-hườn. Sau đó, hai bạn nhất trí cùng nhau, mỗi người hướng dẩn 500 người gia nhân đến bái kiến Ðức Thế Tôn, nhưng chỉ có phân nửa tình nguyện đi theo, còn phân nửa xin ở lại. Trong cuộc bái kiến Ðức Thế Tôn lần này, hai bạn cùng được xuất gia bằng phương thức "Thiện-lai tỳ-kheo". Xuất gia được bảy ngày, Ðại Ðức Moggallàna tịnh cư hành thiền ở gần làng Kalavàla, xứ Magadha, nhưng bị triền cái hôn thụy chi phối trầm trọng. Nhờ Ðức Bổn Sư trợ duyên điềm chỉ phương pháp minh sát, quán về Tứ-Ðại nên đắc được A-la-hán, bậc có bốn tuệ vô-ngại-giải. Sau khi Ðại Ðức Xá-lợi-Phất được chính thức ấn chứng là Ðệ nhất Trí Tuệ thì cũng được Ðức Thế Tôn chính thức tuyên dương là Ðệ nhất Thần Thông.
Trong một phiên họp vô cùng quan trọng có tánh cách quyết định của nhóm Lục Sư ngoại đạo để đối phó với Phật-giáo, họ nhất trí phải thanh toán Ðại Ðức Moggallàna, vì theo họ, sở dĩ Phật giáo được cực thịnh là nhờ Ðại Ðức khi thì lên trờI, lúc thì xuống đ
ngục tìm hiểu sinh hoạt lạc, khổ của các hạng chúng sanh ấy rồi dem về thuật lại ở cỏi dương gian cho nên mọi người mới nể phục, tin tưởng và quy ngưỡng Phật-giáo. Nếu thanh toán được Ðại Ðức thì Phật-giáo sẽ bị suy yếu hoặc tối thiểu bị dậm chân tại chổ.
Quyết định xong, họ thuê 500 tên cướp hạ sát Ðại Ðức. Tiền tài, ám nhãn, hơn nửa, đã quen tánh cướp của giết người, cọng thêm số tiền thù lao quá lớn, bọn cướp quyết tâm thi hành thủ đoạn. họ bao vây Ðại Ðức suốt ba tháng ròng rả. Tháng đầu, Ðại Ðức dùng thần thông thoát thân theo cánh én; tháng thứ hai, theo lổ lạc. Ðến tháng thứ ba - tháng định mệnh - Ðại Ðức dùng Túc-mạng-Thông truy nguyên thì thấy rỏ đây là quả báo của trọng nghiệp trong tiền kiếp, vì nghe lời vợ, đánh đập cha mẹ đến phải thương vong.Tự thấy tội lỗ tầy trời của mình không đáng hưởng trường hợp ngọai lệ, nên Ðại Ðức vui lòng trả nghiệp, mặc dù ngài có thừa thần thông thoát. Ðừng nói một bọn cướp 500 tên, mà ngay thiên binh vạn mã, cũng không làm gì được nếu ngài phản ứng. Lúc bấy giờ, bọn cướp giết được ngài nhưng vì quá sợ thần lực của ngài nên chúng chặt ngài ra từng đoạn, đập gảy xương từng khúc, rồi dần nát ra và khi tin chắc ngài không thể sống được, chúng mới chịu rút lui.
Sau khi bọn cướp đi rồi, Ðại Ðức dùng thần thông hoàn hình như cũ và bay về chùa Trúc Lâm, bái kiến Ðức Bổn Sư, xin phép nhập Niết-bàn. Ðức Bổn Sư phán hỏi:
-- Mục-kiền-Liên sẽ Niết bàn tại đâu?
-- Bạch Thế Tôn, đệ tử sẽ Niết bàn tại làng Kàlasilà.
-- Mục-kiền-Liên hãy liệu lấy thời cơ.Nhưng sau cuộc tiếp xúc này, các pháp hữu của ông sẽ không còn gặp lại một vị tỳ-kheo như ông nữa. Vậy, ông hãy ban bố cho họ một thời pháp.
Tuân hành thánh huấn, Ðại Ðức Xá-lợi-Phất hiển lộng thần thông như Ðại Ðức đã từng khai triển một tuần trước. Sau đó, Ðại Ðức dảnh lễ lần cuối cùng bàn chân Ðức Thế Tôn và đi đến làng Kàlasilà nhập Niết bàn.
Tin Ðại Ðức nhập diệt đã khiến dư luận xúc động mãnh liệt. Họ đều bảo rằng Ðại Ðức bị mưu sát, chớ chưa đến thời kỳ nhập Niết bàn. Tin động trời này lọt đến tai đức vua A-xà-Thế (Ajàtasattu). Nhà vua hạ mật lịnh truy lùng những kẻ sát nhơn. Không đầy ba hôm, 500 tên cướp đều bị sa lưới pháp luật. Trong cuộc thẩm vấn, bọn cướp cung khai là do nhóm Lục sư ngoại đạo thuê giết. Những kẻ chủ mưu thuộc nhóm Lục sư bị bắt thêm khoản 500 người nửa. Tất cả đều bị hành hình.
Những bài kệ do Ðại Ðức ứng khẩu trong nhiều trường hợp có đến 68 bài, ý nghĩa súc tích, thâm huyền, hướng thượng và chứa đựng chất liệu giải thoát. chúng to6i xin trích ghi lại đây một phần nhỏ để nói lên lòng tôn sùng tuyệt đói và sự ngưỡng mộ cao độ của chúng tôi đói với vị Thánh Tăng Ðệ Nhất Thần Thông có một không hai trong đạo tràng của Ðức Từ Phụ.

Trước khi trích ghi bài kệ sau đây của ngài, tưởng chúng ta cũng nên biết qua duyên khởi
... Một lần nọ, một cô kỷ nữ dùng nhiều lời lẽ trử tình cám dổ ngài. Ngài cảnh tỉnh cô ta:
-- Bần đạo kinh tởm cái chòi bằng nhiều khúc xương, chằng chịt bằng những sợi gân, chứa đựng toàn vật nhơ uế, muì hôi xông lên khó ngữi. Những uế vật ấy được bài tiết theo cữu khiếu thường trực. Nhờ lớp da bao bọc, bằng không, cái thân nhơ uế của tín nữ còn đáng kinh tởm hơn nhiều. Nếu mọi người đều thấy rỏ thực chất đáng gớm ấy trong cơ thể tín nữ thì họ sẽ tránh xa tín nữ như tránh xa hầm phẩn vậy.
Mặc dù trong thâm tâm đã ít nhiều nhận sự thật, nhuung chưa chịu khuất phục, cô ta trả đòn nhẹ nhàng nhưng nguy hiểm ;
-- Thưa ngài Sa-môn, thưa nguuời hùng! Những lời ngài nói hoàn toàn đúng sự thật. Nhuung người đời đa số đều thích nhào xuống hầm phẩn ấy như bò già bị sa lầy.
Thấy chưa đánh tan được dục niệm trong lòng cô ta, Ðại Ðức tăng viện đạo lực:
-- Này tín nữ, người lấy chàm hoặc nước sơn để nhuộm hoặc tô màu hư không sẽ bị hoài công vô ích. Tâm hồn bần đạo như hư không. Tín nữ chớ đem cái tâm niệm dục nhiễm của tín nữ mà đánh giá tâm niệm vô cấu, vô nhiễm của bần đạo. Nếu tín nữ không kịp thời tỉnh ngộ, đình chỉ dục niệm bất chánh thì cầm bằng như con thiêu thân lao đầu vào đóng lửa tự sát.
Nhờ Ðại Ðức thẳng thắn cảnh giác, cô kỷ nữ cảm thấy hổ thẹn, rút lui.
Ðệ tử kính lễ ngài Trưởng lão Moggallàna, bậc thánh A-la-hán có bốn trí tuệ vô-ngại-giải, vị Ðại Ðệ Tử tay trái, được Ðức Thế Tôn ấn chứng thanh vị Ðệ Nhất Thần Thông. Cầu mong thần thông kỳ diệu của Ngài hoán chuyển tâm hồn những người còn nhiều mê vọng được đắc quả vô thượng bồ đề. Ðệ tử cầu xin đắc được một phần thần thông vô cấu, vô nhiễm của Ngài.
Trong một chu kỳ một trăm ngàn kiếp trái đất về trước, Ðức Phật Tổ Padumuttara giáng trần, ngụ tại tịnh xá trong vườn Khemamigadàya, gần kinh đô Hamsavatì. Lúc bấy giờ, Ðại Ðức Mahàkassapa chuyển kiếp làm đại phú trưởng giả, tên vedcha, thừa hưởng gia tài 80 triệu.
Một buổi sáng, sau khi điểm tâm và phát nguyện thọ bát quan trai, Vedeha cầm tràng hoa, hương liệu đến chùa cúng dường Ðức Thế Tôn. Chiều hôm ấy, Ðức Thế Tôn trạch cử một vị thánh tỳ-kheo làm Ðệ Tam Ðại Ðệ Tử, pháp danh Mahà Nisabha và ấn chứng thánh vị Ðệ Nhất Ðầu Ðà. Ðược chứng kiến cuộc trạch cử và ấn chứng vô cùng trọng thể này, Vedcha lấy làm hoan hỉ. Sau khi đại chúng thính pháp ra về, Vedcha cung thỉnh Ðức Thế Tôn quang lâm tư gia thọ trai. Ðức Thế Tôn cho biết số Tỳ-kheo hiện diện là sáu triệu tám trăm ngàn vị (6.800.000). Vedcha yêu cầu cho mình được cung thỉnh toàn thể kể cả vị Sadi nhỏ nhất.
Ðức Thế Tôn và chư tăng hôm sau thọ trai tại tư gia Vedcha. Trong khi Ðức Thế Tôn đang thọ trai và Vedcha ngồi hầu thì Ðại Ðức Mahà Nisabha khất thực ngang nhà. Vedcha lập tức xin nhập bát, chính tay để thực phẩm vào bát và đem trở ra cúng dường Ðại Ðức. Chờ Ðại Ðức đi một đổi đường, bèn trở vào bạch Phật:
-- Bạch Ðức thế Tôn, có phải đạo hạnh của Ðại Ðức Mahà Nisabha cao hơn Thế Tôn? Trong khi cung thỉnh Ðại Ðức vào nhà đệ tử có bạch là Thế Tôn đang ngự trong này, mà Ðại Ðức vẩn không vào.
Ðức Thế Tôn tán thán Ðại Ðức Nisabha:
-- Này thiện nam, tăng chúng và Như-lai cần thực phẩm nên ngồi trong nhà còn vị ấy không ngồi chờ nhận thực phẩm trong nhà; tăng chúng và Như-lai tạm trú trong tư thất gần làng, còn vị ấy chỉ sống ở trong rừng; tăng chúng và Như-lai ở những nơi không tịnh. Ðó là đạo hạnh của Mahà Nisabha.

Vedcha vô cùng hoan hỉ và tự tâm đã có chủ định. Suốt bảy ngày cúng dường đại thí, Vedcha luôn thành kính, trong sạch và hoan hỉ. Ðến ngày thứ bảy, Vedcha cúng dường vải may y hảo hạng đến Ðức Thế Tôn và toàn thể tăng chúng rồi mọp sát chân Ðức Thế Tôn phát nguyện:
-- Bạch Ðức Thế Tôn, suốt bảy ngày, cúng dường tịnh thí, thân, khẩu, ý đệ tử hoàn toàn trong sạch. Ðệ tử xin phát nguyện được trở thành một vị thinh văn Ðệ Nhất về hạnh đầu-đà trong đạo tràng của một vị đương lai Phật Tổ.
Ðức Thế Tôn Padumuttara, với thiên nhãn thuần tịnh, nhận thấy lập nguyện của Vedcha sẽ được thành tựu, Ngài nghiêm từ thọ ký:
-- Một trăm ngàn kiếp về sau, sẽ có một vị Phật Tổ tôn hiệu Gotama, giáng trần hóa đạo, ngươi sẽ được làm Ðệ Tam Thinh-văn của Ngài và được chính thức ấn chứng pháp vị là Ðầu-đà Ðệ Nhứt.
Vedcha mừng hơn bắt được vàng, hơn cả chết đi được sống lại. Một thời hạn dài kỷ lục là một trăm ngàn kiếp trái đất, vậy mà Vedcha không cảm thấy lâu, trái lại có cảm tưởng như mình sắp được chứng quả ngay ngày hôm sau. Từ đây, Vecha luôn luôn nghiêm trì giáo pháp, thực hiện hạnh bố thí không ngừng, và sau khi thân hoại mạng chung được hóa sanh thiên giới. Hết phước trời lại hưởng phước người tái tục nhiều lần như vậy ; cho đến kiếp thứ 91 ngàn thì chuyển kiếp sanh vào một gia đình thật nghèo, giai cấp Bà-la-môn.
Lúc bấy giờ nhằm thời kỳ giáo pháp Ðức Thế Tôn Vipassì (Tì-bà-Thi ). Ðng bảy năm, Ngài mới thuyết pháp một lần. Mỗi lần như vậy thì chư thiên bay đi khắp cỏi diêm -phù báo tin mừng, khiến cho trời, người vô cùng hân hoan phấn-khởI.
Vì gia cảnh quá nghèo, vợ chồng chỉ có một cái khố. Mỗi khi chồng hữu sự ra ngoài thì vợ phải ẩn mình trong chòi. Hôm được nghe lời rao truyền của chư thiên, chồng hỏi vợ:
-- Này em, em định đi nghe pháp ban ngày hay ban đêm?
-- Thưa anh, phận em là nữ, vấn đề đi đứng đêm hôm bất tiện. Do đó, anh cho em đi nghe pháp ban ngày.
Người chồng đồng ý. Khi vợ trở về thì chồng lật đật quấn khố đến chùa trong công viên Khemamigadàya, gần thành nội Bandhumatì. Trong khi nghe pháp, chàng phát sanh phỉ lạc. Luồng điện phỉ lạc lưu chuyển khắp toàn thân, xuyên qua từng đường gân, thớ thịt, khiến chàng cảm thấy vô cùng an lạc. Suốt canh một, chàng đã nhiều lần quyết tâm đem cái khố cúng dường Ðức Phật, nhưng phiền não ma đà trở ngại đạo tâm, viện lý hai vợ chồng chỉ có một cái khố, nếu đem bố thí thì chắc chắn phải chết đói.
Sang canh hai, luồng điện phỉ lạc vận hành mạnh hơn nhưng chàng cũng không thực hiện được đạo tâm bố thí. Mãi đến canh ba, chàng mới dứt khoát, cuộn tròn cái khố cúng dường dưới chân Ðức Phật, rồi vổ tay lớn tiếng ứng khẩu 3 lần: "Ta thắng rồi, ta thắng rồi."
Câu ứng khẩu của chàng khiến Ðức Vua đang ngồi nghe pháp cảm thấy khó chịu. Vì danh từ - thắng, toàn thắng, đại thắng, v.v... - chỉ dành cho nhà vua sau những lần chiến thắng mới có quyền dùng khẩu hiệu ấy. Khi được hỏi, chàng thú thật vì quá hoan hỉ với chiến công tự thắng tâm lý sợ chết vì hai vợ chồng chỉ có một cái khố duy nhất. Thế nên phải phấn đấu quyết liệt suốt từ canh một đến giờ mới dứt khoát đem cúng dường được. Ðức vua vô cùng cảm động và hoan hỉ.

Ngài ban thưởng cho chàng, hai b y phc ho hng. Chàng đem hai b y phc y cúng dường Ðc Pht. Ðc vua li ban cho bn b. Chàng li cũng đem cúng dường tất c. S y phc đức Vua ban cho được ghi nhn là c nhơn lên gp đôi và, chàng đều cúng dường tt cả. Ðến khi s lượng y phc tăng lên con s 32 b, thì chàng cúng dường 30 b và ch dành li 2 b đủ cho v chng dùng mà thôi. T y về sau, đức vua rt có cm tình vi anh chàng nghèo này.
Mộ
t hôm, mùa đông giá lạnh, đức vua đi chùa nghe pháp, thy anh chàng nghèo không có áo lạnh, ngài bèn cởi chiếc áo ng hàn màu đỏ ban cho và căn dn t nay hãy mc nó mi khi đi chùa nghe pháp. Nhưng sau đó, anh chàng bèn căng ra làm trn che bi trong hương thất Ðc Pht. Mt hôm, đức vua có dp bái kiến Ðc Thến và ngồi hu Ngài trong hương tht. Ngay lúc y, hào quang sáu màu t kim thân Ðc Thế Tôn ta ra phản chiếu khiến cho màu sc tm trn vô cùng rc r. Nhìn biết ng hàn ca mình, nhà vua bạch hi. Ðc Thế Tôn cho biết, chính anh chàng nghèo đã làm trn cúng dường Ngài. Ðc vua t nghĩ "Ti sao mình không biết tìm cách cúng dường cho được thích đáng như anh ta?". Thếđức vua ban thưởng cho anh chàng nghèo nhiều trăm nhu yếu phm, mi th 8 phn. Chng hn như rung 8 mu, bò 8 con, nam công nhân 8 người, nữ công nhân 8 người vân vân và vân vân. Ðng thi đúc vua sắc phong cho chàng chc v Tha Tướng.
Bắ
t đầu t y, tân Tha Tướng giúp vua điu hành quc s rt đắc lc. Tha Tướng xin cúng dường thc phm mi ngày đến chư tăng qua 64 lá thăm. Nghĩa là v nào bt được nhng lá thăm y thì đến th trai ti tư dinh ca Tha Tướng.
Sau khi mạ
ng chung, Tha Tướng được sanh làm tri. Hết phước tri li hưởng phước người. Trước khi Ðc Pht Kassapa giáng trần, Tha Tướng sinh vào mt gia đình bá h. Ti Bàrànasì, lớn lên có gia đình. Mt hôm, đang du ngon, ông bá h thy mt v Pht Ðc-giác đang ngi may y gn b sông, nhưng thiếu vi. Ông lp tc tháo vuông khăn trng quàng cổ cúng dường và phát nguyn:
-- Bạ
ch ngài, do công đức cúng dường với tt c lòng trong sạch hôm nay, xin cho tôi đừng bao gi gp điu bt hạnh.
Ðứ
c Pht Ðc giác phúc chúc cho chàng được đắc k sở nguyện.
Sau đ
ó không lâu, v ông có dp cúng dường thc phm, hoa sen cho Ðức Pht Ðc giác và phát nguyn:
-- Do phướ
c cúng đường tnh thí hôm nay, xin cho đệ t có mt sc đẹp tươi thơm như đóa hng liên.
Ðứ
c Pht Ðộc giác phúc chúc cho nàng được đắc k s nguyn.
Vợ
chng tiếp tc thc hiện mi thin s nht là b thí và, sau khi mng chung đều được hóa sanh thiên giới.
Ðế
n thi k Ðức Thế Tôn Kassapa xut trn, người chng được sanh làm đại-phú gia, tài sn 80 triu và, người v cũng được sanh vào mt gia đình triệu phú, cùng chung sinh quán là Bàrànasì. Ln lên, hai người nên duyên chng vợ.
Sau khi Ðứ
c Thế Tôn Kassapa nhp Niết bàn, người chng đặt th làm hoa sen vàng, lớn bng bánh xe cúng dường bo tháp, còn v thì cúng dường bng 8 đóa hng liên tươi. Sau khi mng chung c hai đều được sanh thiên. Hết phước trời, hai người cùng chuyn kiếp làm người. Chng làm đại tướng. V là công chúa. Lớn lên hai người được nên nghĩa v chng. Khi vua thăng hà, phò mã được kế v. Có mt điu rt l là ngay ngày Phò-mã đăng quang thì trong vườn thượng uyển bng mc lên 8 cây Như-ý-Th tám hướng. Ðc vua thường đem nhng quí kim, quí vật t sanh từ nhng cây Như-ý-Th này ban cho dân chúng. Mi ngày, ti hoàng thành, đức vua và Hoàng hu đều có cúng dường thc phm đến 500 v Pht Ðộc giác. Ðến khi ln tui, Nh v cùng xut gia và tích cc hành thin Tứ-vô-lượng-tâm. Sau khi thân hoi mng chung, Nhị v đều được hóa sanh Phm Thiên giới.
Ðế
n thi k Ðc Bn Sư Thích-ca giáng trn, người chng sanh vào một gia đình Bà-la-môn, ti th trn Mahàtittha, x Magadha, tên Pipphali. Còn người v thì sanh vào mt gia đình Bà-la-môn, giòng Kosiya, ti thị trn Sàgala, cũng x Magadha, tên Bhaddàkàpilànì.
Khi chàng đượ
c 20 tui, cha mẹ quyết định cưới v cho chàng, nhưng chàng quyết sng độc thân phng dưỡng Hai Thân và, sẽ đi tu sau khi cha m mãn phn. nhưng cha m chàng t ý không được vui và cứ nhc chuyện y mãi. Mt hôm, cha m chàng li đem chuyn cưới v ra nói nữa. Chàng bèn ly mt ngàn lượng vàng thuê th đúc mt tượng kiu n tuyt trần và nói rng nếu có thiếu n nào đẹp như vy thì s ưng ý.
Cha mẹ chàng bàn bạ
c: "Con mình có phước ln, biết đâu chng có mt thiếu n kiu dim xứng đôi va la vi nó." Sau khi nht trí, ông bà bèn giao phó trng trách cho 8 vị bô lão Bà-la-môn có danh v và uy-tín, mang tượng vàng trên xe đi tìm người đẹp. Nh có phương tin đầy đủ, mt hôm tám v đến th trn Sàgala, cho đem tượng vàng dng gn mt ao nước công cng ch xem phn ng. Tượng vàng đã đẹp lại thêm được phc sc toàn nhng th y trang thượng ho hng nên thoáng nhìn tưởng là tiên n giáng phàm.
Chiề
u hôm y, mt s th n ca nàng Bhaddàkàpilànì, được phân công đi đội nước. Vua trông thy tượng vàng ng tiểu thơ ca mình, bèn đến cung kính, quì cúi đầu ch sai bo. Ngay lúc y, tám vị bô lão xut hin gn hi thì được các th n cho biết là tiu thơ ca h còn đẹp hơn tượng nhiu. Thế là Tám v theo chân các th n đến gp cha m nàng Bhaddàkàpilànì, trân trọng trao tng tượng vàng làm sính l.
Sau khi đượ
c nhà gái ưng thun, Tám v bô lão lp tc tr v hi báo tin mng. Cha mẹ chàng vô cùng sung sướng, nhưng tâm trng chàng hoàn toàn trái ngược vì đã tự chọn cho mình mt lý tưởng xut gia ly dc ri. Trước s kin trái nghch này, chàng viết cho nàng mt lá thơ:
"Cô Bhaddà quí mế
n,
Thú thậ
t vi cô, tôi đã quyết chí đi tu, không thích đời sng gia đình. Xin cô thông cm cho chí nguyện ca tôi. cầu mong cô gp được mt người chng thc s lý tưởng.
Mộ
t người bn ca cô,
Pipphali "

Riêng tâm trạng cô Bhaddà cũng vô cùng khó x. Hơn na, gia giáo n-độ rt nghiêm khắc vi n gii. Không còn bin pháp nào khác, nàng cũng viết cho chàng một lá thư, đại ý ging hch lá thư chàng gi cho nàng. Tht là mt s trùng hp kỳ thú.
Hai ngườ
i đi thơ gp nhau gia đường. Vì là thân tín ca ch, nên hai người cũng rt thương ch. Nhn thy có s bt n trong hai lá thơ, hai người quyết định tìm hiu để kp thi đói phó. Thì qu tht h đoán không sai. Hai người bèn mo thơ vi ý nghĩa tương phn và, do đó, hôn l được c hành vô cùng trọng th. Ðêm động phòng hoa chúc, chàng ly mt tràng hoa tht to ngăn giữa hai ngườI. Mi người đều lo s có s đụng chm xác tht nên luôn luôn cnh giác, lại thêm mt tư tưởng trùng hp. Cuc sng như vy trôi đi trong bình lặng, hòa hài và nghiêm cn, không có bt c sơ h nào để cha m phi bun lòng.
Sau khi cha mẹ
qua đời, chàng phi trc tiếp qun lý, đìu hành gia tài. Chỉ riêng cn vàng được lc ra t 60 cái, mch nước mi ngày cũng lên đến số lượng 12 lít. Riêng nhà cửa dành cho công nhân chiếm mt chu vi rng 12 do-tuần tc din tích 12 gn cây s vuông. Ngoài ra, chàng còn có 140 tht voi, 140 con ngựa tt, 140 chiếc xe và trâu bò nhiu gp mười.
Mộ
t hôm, chàng cởi nga tham quan cơ s nông nghip, nhìn thấy cnh chim chc dành nhau cn mổ trùng dế theo các lung cày, chàng bèn hi nhuũng cng s viên:
-- Các bạ
n này, trường hp chim chc dành nhau cn m trùng dế theo các lung cày thì tội v phn ai chu?

-- Thưa ông ch, tt c đin sn này là ca ông chủ, nên tội cũng v phn ông ch chu.
Ngồ
i trên lưng nga, chàng miên man suy nghĩ: "Ta th hưởng bt quá vt thc mt bng, qun áo mt thân, giường nm một lưng, sng không quá 100 năm. Trong khi tt c ti li thì ta phi gánh chu riêng mình. Luân hồi kh sđảy ta vào vô cùng ca sinh t. Ta s tng tt cả gia tài này cho Bhaddàkàpilàn rồi ta đi tu."
Riêng nàng Bhaddàkàpilànì ở nhà, ngồ
i coi các th n phơi lúa, phơi đău và các loi ngũ cc. Nhng sinh vt nhỏ bò ra b nhng sinh vt ln xúm nhau dành dựt sát hi. Trước cnh tượng bt công ấy, nàng hi các th n:
-- Này các em, nhữ
ng con vt nh trong lúa, đậu bò ra b nhng con vt ln sát hi thì y v phn ai?
-- Thư
a cô chủ, tt c tài vt đây là ca cô ch. Cho nên ti y cũng v phn cô chủ.
Nàng suy nghiệ
m: "Phi chi cuc sng mình thc s vô sn, ch cn một b y để mc, mt phn cơm để ăn và mt tho lư để thì sung sướng, tiêu dao biết my. Thôi thì ch chàng v, mình s xin phép đi tu."
Lạ
i thêm mt lần na hai người cùng có chánh niệm trùng hp mt cách k diu.
Về
đến nhà, chàng tắm ra và ăn cơm trưa. Ăn xong, hai người r nhau qua ngi phòng khách. Chàng lên tiếng:
-- Bhaddà thân mế
n, khi v chung sng vi anh, Bhaddà đem theo bao nhiêu ca hi môn?
-- Thư
a anh, em đem theo chỉ có 5 muôn 5 ngàn cổ xe mà thôi.
-- Bhaddà mế
n, hin kim 87 t và tt c động sản, bt động sn hin có, anh xin giao hết cho Bhaddà trn quyn sử dụng.
-- Còn anh?
-- Anh sẽ
đi tu.
-- Thư
a anh, khi anh chưa v đến, em nhà cũng có ý nghĩ đó và em đã dt khoát, ch đợi anh v để xin phép mà thôi.
Ngay lúc ấ
y, tam gii đói vi hai người chng khác nhà lá đang b la cháy. C hai tìm vi màu đà, bát đất ri m thm thí phát, đấp y, mang bát và lập tc ri lâu đài by tng, nhm hướng đường rng thẳng tiến. Hai người băng đường rung hy vng đừng ai nhìn biết, nhưng mt vài người nhn thy tướng mo khác phàm và h để ý nhìn k thì ra là cô, cu ch ca h. Thế là họ kéo nhau đến, mt đồn mười, mười đồn trăm, tt c đều quì mp dưới chân hai người, khóc kể tht là bi ai thng thiết. H đồng lot yêu cu hai người đừng bỏ họ bơ vơ không nơi nương ta. Trước nay, h đã được sng an vui, đầm m trong tình thương yêu, đùm bc ca hai người. Gi, nếu hai người b h ra đi thì đời sống h s vô cùng lm than cơ cc.
Chàng khuyên họ
nín khóc, im lng nghe chàng nói:
-- Này các anh chị
, thú tht vi anh ch, hin ti tam giới đói vi chúng tôi như nhà la. Nếu chúng tôi trì hon thì s phn s phương cu vn. Còn đời sng anh ch chúng tôi đã có d liu. Sẳn có mt đông đủ tại đây, tôi xin long trng tuyên b hiến tng tt c động sn và, bt động sn cho anh chị toàn quyn s dng. Chúng tôi nghĩ, vi s tài sn chia được đồng đều này, anh ch đủ so6’ng sung sướng mt đờI. Anh ch hãy đứng lên, tm ra sạch s, thành lp y ban phân phi tài sn và chính thc hưởng quyn th đắcnh vin các tài sn y. Xin tt c anh ch nhn chút tình ca chúng tôi. Tm biệt tt c. Hn tái ng trong ánh đạo t bi cu khổ.

Hai người tiếp tc hành trình. Ði được mt đon đường khá xa, chàng quay nhìn lại thy nàng vn khoan thai ni gót, bèn t nghĩ: "Sc đẹp Bhaddà đáng giá ngang cỏi Diêm-Phù, nếu nàng đi theo ta thì tránh sao cho khi dư lun đàm tiếu, không khéo họ phi mang tôi, hoặc vì phát sanh dc nim mun chiếm hu nàng, hoặc có ý mun làm hi mình thì ti li y càng thêm nng n. Chi bng, hai người nên chia tay nhau". Trong khi chàng dt khóat vi ý nghĩ y thì hai ngườing va đến ngã r. Chàng dng chân, quay mt chờ nàng. Khi đói din, chàng lên tiếng:
-- Sư
muôi, nếu có ai thy chúng ta đã xut gia mà cò đi chung nhau thì họ s nghĩ quy và nói quy v chúng ta. Tin đây có hai con đường, vy muội hãy chn mt.
-- Thư
a sư huynh, li Sư-huynh dy rt phi. Mui ng nhận thy s bt n y. Hơn na, nhi n là phin não ca phm hnh. Do đó, chúng ta nên chia tay tại đây.
Nói xong, nàng chấ
p tay đi nhiu ba vòng quanh chàng và quì lạy bn phía: tay mt, tay trái, phía sau và phía trước, ri đứng chấp tay nói lời sinh biệt:
-- Thư
a Sư huynh, gi phút chia tay đã đim. Chúng ta hoan hỉ và tình nguyn chp nhn cuc sng sinh bit này. Nếu thân, khẩu, ý mui có điu sơ sót, xin Sư huynh hãy t bi h xã. Là nam nhơn, Sư-huynh nên chọn tay mt. Còn mui là n nhi, thì muội xin chn con đường tay trái.
Nói xong nàng quay mặ
t đi thng và không mt ln nhìn lại.
Ngay lúa ấ
y, qu địa cu rung chuyn, đại dương ni phong ba, núi Tu-di chuyển động, sét tri chp n t giăng. Vũ tr dường như không chu nõi trước cuc chia tay mang tính chất ly dc hi hu ca hai người.
Thấ
y hin tượng l, Ðc Bn Sư đang ng ti Trúc-lâm, dùng thiên nhãn thun tnh quán chiếu, biết được chí nguyn thoát ly cao c ca hai người, Ngài đấp y, mang bát, một mình ri hương tht, đi b khong 10 cây số và ngi dưới gc da lâu năm mc ngay giáp giới th trn Nàlandà và Ràjagaha. Hào quang t kim thân Ngài ta rng 80 hắc tay, khiến như có nhiu mt trăng, mt tri phn chiếu ánh sáng.
Nhờ
căn lành tin kiếp tr duyên Pipphali va nhìn thy Ðc Thế Tôn thì biết ngay là Ðc Bn Sư ca mình, nên lp tc chp tay, cui đầu đến gn quì mọp đảnh l và nghiêm túc ng khu ba ln:
-- Bạ
ch Thế Tôn, Thế Tôn là Bổn Sư ca đệ t. Ð tđệ t ca Thế Tôn.
Ðứ
c Thế Tôn nghiêm từ:
-- Này Kassapa, nế
u ngươi chp tay cung kính trái đất thì trái đấtng phi rung chuyn vì không chu ni phúc lc ca ngươi. Nhưng đối vi Như-lai thì hoàn toàn trái ngược, vì Như-lai có nhiu đạo lc. Ngi xung đi Kassapa! Như-lai s trao truyn kho tàng chánh pháp cho ngươi.
Khích lệ xong, Ðứ
c Thế Tôn cho Kassapa th t-kheo gii bng phương thc Thin-Lai Tỳ-kheo và, hướng dn Kassapa tr v Trúc-lâm tnh xá. Ðc Thế Tôn uy nghi và sáng chói với 32 Ði Trượng Phu, tướng thì Ði Ðc Kassapa cũng được 7 phn mười. Ði Ðc theo sau Ðức Thế Tôn trông đẹp như thuyn vàng kéo chiếc thuyn hoa. Ði một đổi đường, Ðc Thế Tôn ri đường mòn đến gc cây da t ý mun ngi. Ðại Ðc lp tc ly y tăng già lê bn lp ca mình tri cho Ðc Thế Tôn an ta. Khi an tọa, Ngài ly tay r tăng già lê của Ði Ðc, khen tht y mm và mn. Ði Ðức lãnh hi thánh ý, bèn cn bch:
-- Bạ
ch Ðc Thế Tôn, xin Thế Tôn từ mẫn s dng lá y này cho đệ t được phước.
-- Còn Kassapa sẽ
dùng y nào?
-- Nế
u được Thế Tôn đặc ban y ca Thế Tôn cho đệ t, thì đệ t s cùng hoan hỉ.
-- Này Kassapa, ngươ
i có th dùng phn to y cũ ca Như-lai được sao? Ngươi biết không, ngày Như -lai s dng phn to y này, qu địa cu đã phải rung chuyn, bn bin ni phong ba. Người thiu phước, kém đức không th sử dụng lá y tuy cũ nhưng nhiu oai lc ca Như-lai được. Tr phi người có đủ đạo lực, ý lc và nghiêm trì hnh đầu đà phn to y thì mi s dng được.

Huấ
n th xong, Ðc Thế Tôn nghiêm t trao y tăng già lê ca Ngài cho Ðại Ðc Kassapa. ngay lúc y, địa cu li rung chuyển, vì Ðc Thế Tôn chưa từng trao đổi y tăng già lê vi bt c v thinh văn nào. Trước đặc ân này, Ði Ðức Kassapa đã lp nguyn th trì toàn b 13 hnh đầu đà. Ðến ngày th tám, Ði Ðức chng qu A-la-hán bc có bn tu vô ngi gii.
Mộ
t thi gian sau, Ðức Thế Tôn chính thc n chng pháp v Ði Ðc là Ðu-đà Ð Nht. Ngay trong cuộc l này, Ðc Thế Tôn tán dương Ði Ðc:
-- Này các tỳ
-kheo, Kassapang như mt trăng. Thân, khu, ý, Kassapa hoàn toàn trong sch. Ði vi dc niệm và bt thin pháp, tâm hồn Kassapa vô nhim như hư không. Ði vi thin pháp thì tâm hồn Kassapa cũng vô cu như hư không.
Sau khi Ðứ
c Thế Tôn nhập Niết bàn, chính Ði Ðc đứng ra triu tp đại hi Kết Tp thánh giáo thành Tam Tạng Thánh đin và là ta ch trong k Kết Tp vì ngài là vị Trưởng lão tôn túc, được toàn th Tăng già tôn xưng là Tăng Trưởng, là Tăng Chưởng, là Thượng Thủ ca Tăng già. Lúc by gi tui đời ngài cũng đã lên đến con số 120.
Cuố
i thi đim ca 120, tc sau khi hoàn thành công trình kết tp Tam Tạng Thánh đin, Ngài nhp Niết bàn gia ba ngn núi nh có tên là Kukutasampàta, gần chùa Trúc-lâm, x Ràjagaha, nước Magadha.
Ðệ
t kính lễ ngài Ði Ðc Trưởng lão Mahà Kassapa, v thánh tăng A-la-hán có bn tu ngại gii, bc tha hưởng đặc ân Ðc Thế Tôn trao đổi y Tăng già lê, v thánh đại Ð-t được Ðc Bn Sư chính thc n chng pháp v là Ð Nht đầu đà.
Cầu mong đức hnh đầu đà thù thng ca Ngài nhiếp phc Phin-não-ma đang ng tr trong tâm hn chúng sanh và đệ t. Cu cho đệ t luôn luôn được tm gội trong dòng sui thanh tnh ca Ngài.

44. Căn bản của mọi người Học Phật

Học Phật phải tu pháp môn căn bản, tức là tài bồi căn lành, bồi nguyên cố bổn. Bồi nguyên tức là bồi dưỡng nguyên khí. Cố bổn tức là khiến cho gốc rễ kiên cố. Nguyên gọi là gì ? Bổn gọi là gì ? Nguyên là nguyên khí. Chúng ta ai ai cũng cần gốc. Gốc tức là gốc rễ, tức là cha mẹ. Cha mẹ sinh chúng ta ra, chúng ta phải hiếu thuận. Hiếu thuận cha mẹ mới là người chân chánh tin Phật, không hiếu thuận cha mẹ, chẳng phải là người tin Phật. Trên thế giới này cần phải hiếu thuận cha mẹ, nhất cử nhất động đều phải nghĩ đến lợi ích cho thế giới, thì sẽ có một sức lực ảnh hưởng. Nếu người hiếu thuận cha mẹ thì chánh khí trời đất tồn tại, không hiếu thuân cha mẹ thì trong trời đất tràn ngập tà khí. Hiếu thuận cha mẹ phải thành tâm thành ý, tất cung tất kính. Ðối với cha mẹ phải cung cung kính kính, cha mẹ tức là Phật sống hiện tiền. Cho nên chúng ta thường cúng dường cha mẹ là một việc hạnh phúc và may mắn nhất. Hiếu thuận cha mẹ phải dưỡng chí. Dưỡng chí tức là việc mà cha mẹ hoan hỷ thì làm nhiều một chút, việc mà cha mẹ không hoan hỷ thì làm ít một chút. Ðừng làm cha mẹ buồn phiền đau khổ, luôn luôn làm cho tâm của cha mẹ vui vẻ. Tóm lại hiếu thuận cha mẹ là căn bản của con người. Không biết hiếu thuận cha mẹ là quên mất gốc rễ. Chúng ta bất cứ vị nào cha mẹ còn sống thì nên hiếu thuận cha mẹ, mỗi người đều phải hiếu thuận cha mẹ, như vậy so với cuối đầu lạy sư phụ còn tốt hơn nhiều.
Khi tôi ở tại Ðông Bắc nước Tàu (Manchuria) làm Sa Di thì có rất nhiều người quy y với tôi, tại sao họ quy y với tôi ? Vì thấy tôi có vẻ không giống như người khác. Lúc đó có nhiều sự việc buồn cười. Mùa Ðông thì tôi không mang giày cũng không mang tất, đi trên tuyết, chuyện hy kỳ như thế, lúc đó không màn là trời lạnh hay không, chỉ mặc ba lớp vải bố. Vì vậy cho nên phần đông nhìn thấy thời tiết âm dưới -34, -35 độ C, cũng lạnh không chết tôi, họ cảm thấy rất đặc biệt, cho nên nhiều người quy y với tôi, nhưng quy y với tôi có một điều kiện, phàm là đệ tử quy y với tôi, mỗi ngày đều phải lạy cha mẹ. Vì tôi là như thế, mười hai tuổi thì lạy cha lạy mẹ, cung kính cha mẹ. Cho nên tôi hoan hỷ nhất là ai ai cũng đều hiếu thuận với cha mẹ. Ðừng đợi cha mẹ chết rồi, có muốn hiếu thuận cũng chẳng còn kịp nữa ! Ðừng đợi đến lúc :
‘’ Cây muốn đứng yên mà gió chẳng dừng,
Con muốn nuôi dưỡng mà cha mẹ không còn.’’
Cây muốn thanh tĩnh đứng yên, không giao động, nhưng gió luôn luôn thổi, làm cho cây giao động. Làm con muốn cúng dường phụng dưỡng cha mẹ, nhưng cha mẹ đã qua đời rồi. Các bạn, phàm là người còn cha mẹ, nên cung kính đối với cha mẹ. Còn chúng ta là người xuất gia, nói là không ở nhà, có cha mẹ nhưng làm thế nào ? Chỉ cần bạn từ từ tu hành, tu hành cho tốt thì là báo ân cha mẹ, tức là hiếu thuận. Nếu không tu hành đó là khinh thường cha mẹ, cho nên xuất gia tu đạo tức cũng là hành hiếu đạo, tu hành cho tốt tức là hiếu thuận cha mẹ, đừng làm việc ác, không nói dối, đó đều là hiếu thuận cha mẹ một khía cạnh. Làm một người con tốt cho cha mẹ, trong vô hình cha mẹ đắc được cảm ứng đạo giao, đó đều là biểu hiệu hiếu thuận cha mẹ. Cho nên nói :
‘’ Trời đất trọng hiếu, hiếu làm đầu,
Một chữ hiếu cả nhà yên,
Hiếu thuận thì sinh con hiếu thuận,
Con cái hiếu thuận tất người hiền.’’
Người học Phật phải hiếu thuận với cha mẹ, đây là một sức lực ảnh hưởng rất lớn, sức lực ảnh hưởng lớn thì người tin Phật sẽ nhiều. Bạn và người khác tin Phật chẳng có gì khác biệt. Người khác ăn cơm, bạn cũng ăn cơm, họ mặc đồ bạn cũng mặc đồ, họ ngủ bạn cũng ngủ, với người khác đều giống nhau. Chúng ta tin Phật chủ yếu là hiếu thuận cha mẹ, hiếu thuận cha mẹ tức là hiếu thuận trời Phật.

45. công dụng của Chú Lăng Nghiêm

Có một câu nói là : Niệm Chú Ðại Bi, dám đấu với vua Diêm Vương. Niệm Chú Ðại Bi thì quỷ thần không dám đấu. Nhưng bạn phải thường niệm Chú Ðại Bi thì sẽ dám đấu với lão Diêm Vương. Lão Diêm Vương chẳng có biện pháp. Niệm Chú Ðại Bi thì quỷ thần chẳng dám đấu. Quỷ thần đều sợ bạn. Sợ ở đây chẳng phải là nóng giận mà là bạn có một sức lực chân chánh, quyền lực chân chánh, đó gọi là có đức hạnh.
Có đạo đức thì Diêm Vương cũng phải nể bạn, quỷ thần cũng không dám nhiễu bạn, chứ chẳng phải vì bạn quá nóng giận khiến người sợ sệt, quỷ thần kính mà rời xa. Niệm Chú Ðại Bi có được oai lực như thế. Còn niệm Chú Lăng Nghiêm thì sao ? Không có oai lực như thế ? Ðương nhiên là siêu việt hơn, học Chú Lăng Nghiêm thiên chủ không dám đấu, mà ngược lại học Chú Lăng Nghiêm dám đấu với thiên chủ. Vậy, nói Chú Lăng Nghiêm này phải chăng không giảng đạo lý ? Không phải ! Phải chăng cường từ đoạt lý ? Chẳng phải !
Bạn niệm Chú Lăng Nghiêm thì tương lai bảy đời về sau đều giàu có như ông vua dầu hỏa của Mỹ, bảy đời đều làm viên ngoại, viên ngoại là người giàu có, nói tốt hơn như vậy tôi phải mau học Chú Lăng Nghiêm, để đấu với thiên chủ, làm bảy đời viên ngoại, đó là hy vọng nhỏ nhen, vậy đừng học Chú Lăng Nghiêm làm gì, bảy đời làm viên ngoại thời gian cũng chỉ là một nháy mắt. Bạn đấu với thiên chủ, đấu đi đấu lại vẫn lưu chuyển ở trong lục đạo luân hồi.
Vậy khi chưa niệm Chú Lăng Nghiêm phải cầu mong gì ? Phải cầu mong cứu kính làm Phật, đắc được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Tam Miệu Tam Bồ Ðề, đừng cầu cảnh giới nhỏ nhen như thế, mục đích nhỏ nhen như thế.
Trên thực tế, học Chú Lăng Nghiêm tức là hóa thân của Phật, không những là hóa thân của Phật mà còn là hóa Phật trên đỉnh của Phật, hóa Phật trong hóa Phật, đó là chỗ diệu không thể nghĩ bàn của Chú Lăng Nghiêm. Có người thật trì Chú Lăng Nghiêm thì chu vi trong bốn mươi do tuần, không có tai nạn gì hết.

46. Những ngôi chùa kỷ lục ba miền

4 ngôi chùa kỷ lục miền Bắc
Chùa Dâu (Pháp Vân tự) thuộc tỉnh Bắc Ninh, là ngôi chùa cổ xưa nhất Việt Nam. Được xây dựng từ thế kỷ thứ 3, chùa nằm ở vùng Dâu, tên chữ là Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Cổ Châu tự, người dân còn gọi là chùa Cả.
Những buổi đầu Công nguyên, nơi đây tấp nập phồn hoa và diễn ra các hoạt động giao thương, truyền giáo của các thương nhân tu sĩ người Ấn, người Hoa, người Việt. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam.
Chùa Một Cột (Ba Đình - Hà Nội) có kiến trúc độc đáo nhất, tên chữ là Diên Hựu (phúc lành dài lâu), được xây dựng năm 1049 thời vua Lý Thái Tông. Đây là một công trình kiến trúc sáng tạo kết hợp không gian kiến trúc có nhịp điệu cao thấp gồm điêu khắc đá, hội họa, chạm vẽ hành lang, mặt nước là biểu tượng văn hóa, nghệ thuật cao, tính dân tộc đậm nét. Chùa chỉ có một gian gọi là Liên Hoa Đài (đài hoa sen) hình vuông mỗi chiều 3m, mái cong dựng trên cột đá hình trụ cao 4m, đường kính 1,2m. Sự độc đáo của kiến trúc chùa là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá.

Chùa Đồng (Yên Tử - Quảng Ninh) tọa lạc trên độ cao 1.068m, là ngôi chùa lớn nhất và được xếp vào hàng độc đáo nhất trên thế giới. Chùa có diện tích 20m2 (cao 3,11m, dài 4,96m, rộng 3,96m) được lắp ráp từ 3.600 chi tiết lớn nhỏ, trọng lượng đến 60 tấn được đúc bằng đồng nguyên chất với tổng kinh phí hơn 20,2 tỷ đồng.
Chùa Bái Đính (Hoa Lư - Ninh Bình): khu chùa lớn nhất Việt Nam, đang được xây dựng, dự kiến năm 2010 sẽ hoàn thành để kỷ niệm 1.000 năm vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (1010 - 2010). Gồm những công trình chính là Điện Tam Thế, Điện thờ Pháp Chủ, Điện thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, Tam quan, giếng Ngọc, hồ Phóng Sinh, hồ Đàm Thị, khu thờ Mẫu, khu thờ Tổ, khu tháp mộ sư, khu nhà Tăng thiền viện, khu nhà khách, Bảo tháp 14 tầng và khu Bảo tàng Phật giáo Việt Nam... Chùa có tượng A Di Đà bằng đồng lớn nhất Việt Nam, nặng 100 tấn, có 500 tượng các vị La Hán bằng đá nguyên khối, mỗi tượng một dáng hình khác nhau cao to, đồ sộ...

4 ngôi chùa kỷ lục miền Trung
Chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên - Huế) có Tháp chuông hình bát giác xây dựng từ năm 1844, được coi là tháp cao và cổ nhất Việt Nam. Tháp có 7 tầng, cao 21m, mỗi tầng được trang trí một tượng Đức Phật.

Chùa Phật Quang (Phan Thiết - Bình Thuận) được xây dựng vào khoảng những năm đầu thế kỷ 18. Chùa có bộ kinh Pháp Hoa khắc gỗ đồ sộ và độc đáo xưa nhất Việt Nam. Bộ kinh gồm 118 bản gỗ thị huyết chia thành 7 quyển, 28 tác phẩm với 600.000 từ bằng chữ Nho và rất nhiều hình ảnh Đức Phật thuyết pháp. Cùng đó, chùa Phật Quang còn nhận thêm kỷ lục là ngôi chùa có mõ gia trì lớn nhất Việt Nam, chùa trang trí nhiều rồng nhất (166 con)...
Chùa Quán Thế Âm (TP. Đà Nẵng) nằm ở ngọn Kim Sơn thuộc khu danh thắng Ngũ Hành Sơn. Chùa tựa lưng vào núi, quay mặt ra dòng sông Cổ Cò. Sau chùa có động Quan Âm với nhiều hình ảnh kỳ thú do thạch nhũ tạo thành, nổi bật là pho tượng Quán Thế Âm cao 1,75m, một bức phù điêu thiên tạo kỳ diệu. Chùa là nơi tổ chức Lễ hội Quán Thế Âm hàng năm vào ngày 19-2 Âm lịch.
Thiền viện Trúc Lâm (Đà Lạt - Lâm Đồng) lớn nhất Việt Nam, nằm trên đỉnh Phụng Hoàng, phía dưới là hồ Tuyền Lâm. Trung tâm là ngôi chánh điện cùng các công trình tham vấn đường, lầu chuông và nhà trưng bày, gác trống, nhà khách tăng, thư viện, thiền thất viện trưởng và thiền đường. Bên ngoài thiền viện là tòa tháp uy nghiêm, bên trong có chuông lớn cao gần hai mét, nặng hơn một tấn, quanh mặt chuông có khắc bài thơ của Tổ Trúc Lâm Đầu Đà, pháp danh của vua Trần Nhân Tông (1258 - 1308) lúc xuất gia tu hành.

4 ngôi chùa kỷ lục miền nam

Chùa Vạn Đức (Thủ Đức – TP.HCM) có ngôi chánh điện cao nhất (43,5m), nhìn từ xa thấy giống như một ngọn tháp 9 tầng và hai tháp nhỏ 5 tầng nhưng bên trong chỉ có hai tầng chính. Tầng trên là nội điện thờ Phật, có nhiều ô cửa sổ, bên ngoài có lan can, bên trong tôn trí tượng Phật Thích Ca và Tam thế Phật. Sau hai năm xây dựng mới hoàn thành tòa chánh điện này.
Tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long): ngôi tịnh xá khất sĩ đầu tiên ở Việt Nam. Kiến tạo cuối năm 1948 trên một khu đất rộng tại thị xã Vĩnh Long. Tịnh xá Ngọc Viên được xem là ngôi Tổ đình và là trung tâm hoằng khai giáo pháp khất sĩ của toàn sơn môn hệ phái, đặc biệt kể từ sau lần đầu tiên (1949) tổ chức trọng thể Đại lễ Tự tứ Tăng và Vu Lan bồn trên quy mô lớn, gây ảnh hưởng rộng khắp trong sinh hoạt Phật giáo của toàn miền.
Chùa Đại Tòng Lâm (Bà Rịa - Vũng Tàu) có ngôi chánh điện lớn nhất Việt Nam. Chánh điện được xây năm 2002, hai tầng thờ Phật, dài 91m, rộng 46m, diện tích hơn 3.000m2. Trong chùa có tượng Phật Di Lặc nguyên khối bằng đá hoa cương lớn nhất (nặng hơn 40 tấn), chùa có số tượng Phật nhiều nhất với hơn 10.000 tượng và là nơi đào tạo, tu dưỡng có số lượng tăng ni tập trung nhiều nhất, thường xuyên lên tới 1.250 vị.
Học viện Phật giáo TP.HCM là học viện Phật giáo lớn nhất Việt Nam, được thành lập 1983, từ đó đến nay đã có 5 khóa đào tạo, thời gian của mỗi khóa là 4 năm, cho đến nay có khoảng hơn 1.000 chư vị tăng ni được cấp bằng Cử nhân Phật học.
47. Chùa Huế xưa và nay

Nói đến chùa tháp Phật giáo Thuận Hóa, người ta không thể không trở lại thời hồng hoang của xứ này. Kể từ đời Đường Nghiêu đến đời Thành Chu, vùng này là đất Việt Thường Thị, đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc quận Nhật Nam, đời Tấn là nước Lâm Ấp, đời Tống gọi là nước Chiêm Thành. Sách Đường thư, phần Địa lý chí chép: “Giáp châu Hoành Sơn quận, có năm huyện là đất Thuận Hóa bây giờ. Năm huyện thành ấy là Tây Quyển, Tỵ Ảnh, Chu Ngô, Lô Dung và Tượng Lâm”
Sách Đại Nam nhất thống chí, bản đời Tự Đức cho đất Tỵ Ảnh và Chu Ngô đời Hán là châu Ô và châu Rí của Chiêm Thành. Các sử quan triều Nguyễn lại tham khảo rất nhiều thuyết, đem từng địa điểm hiện nay để so sánh và cho rằng: “Tượng Lâm và Chiêm Thành, tên gọi trước sau tuy có khác, cùng là một nước, cùng là một số năm thành thuộc quận Nhật Nam...” .
Như thế, trước năm 1306 phần đất mang tên Ô, Rí vốn đã thuộc về của ta, nhưng sau mất về tay người Chàm, mà mãi đến đời Trần Anh Tông (1293-1313) vua Chiêm là Chế Mân đã dâng đất ấy để làm lễ cưới công chúa Huyền Trân thì hai châu Ô, châu Rí lại trở về với Đại Việt (1306), đến năm sau (1307) hai châu này được mang tên là Thuận châu (nửa nam tỉnh Quảng Trị hiện nay); và Hóa châu (toàn tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay). Từ đó, tuy đã qua nhiều biến thiên, Thuận Hóa trở thành nơi gặp gỡ và giao lưu hai nền văn hóa, tín ngưỡng rất khác nhau trên dãi đất này.
Dân Đại Việt chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và dân Chămpa chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ gián tiếp qua nước Phù Nam ở phần đất Nam bộ ngày nay, đã tạo thành một nền văn hóa hỗn hợp Việt – Chăm. Chămpa là một nước rất giàu, tín ngưỡng của họ là “đạo Kiền Nê, đúc người vàng, bạc to hàng mười ôm để thờ, nấu đem bán có thể hơn mười vạn cân vàng” .Như vậy, trước lúc Đại Việt tiếp nhận hai châu Ô, Rí thì ở đây đã có đạo Phật chưa ? Theo Nam Hải ký quy truyện của ngài Nghĩa Tịnh thì nước Lâm Ấp tức Chiêm Thành đã có Phật giáo, số đông theo Chính lượng phái, có ít người theo Hữu Bộ phái.
Tại Sở Bảo tồn văn hóa dân gian của Thành phố Huế hiện nay, có một tượng Phật bằng đá đỏ, tượng tuy nhỏ nhưng rất đẹp, tạc hình đức Phật ngồi Thiền định trên ba khoanh của vua loài rắn Naga là Mukalinda, và rắn giương năm đầu che ở bên trên. Tượng Phật này rất có thể là sản phẩm văn hóa Chămpa, không một chút gì tỏ ra ảnh hưởng Trung Hoa. Lại nữa, tuy một địa điểm rất xa hai châu Ô, Rí là vùng đất Nha Tlang mà về sau ta gọi là Nha Trang, trại thôn Phúc Khang, hay Võ Cạnh, các nhà khảo cổ Pháp ở Trường Viễn Đông Bác Cổ xưa đã đào được một tấm bia, họ mệnh danh là “Bia Võ Cạnh”; trên bia khắc chữ Phạn của nước Lâm Ấp, tức Chănpa cổ đại, có nói đến việc vua Sri Mara là người bảo hộ Phật pháp.
Như thế, có lẽ người Chămpa đã có theo đạo Phật Đại thừa trước khi người Đại Việt đặt chân lên đất Ô, Rí. Song hiện nay, ta không hề tìm gặp Kinh sách Phật bằng tiếng Chămpa hoặc có nhiều tượng Phật như ở nhiều nơi khác, mà chỉ gặp vô số tượng thần chạm bằng đá còn sót lại mà các nhà khảo cổ đã đào được và trưng bày ở Viện Bảo tàng cổ vật Huế cũng như Viện Bảo tàng Chàm ở Đà Nẵng. Những tượng này đều được chạm khắc bằng đá cứng rất mỹ thuât, đều thuộc về các tín ngưỡng Sivaisme, Vishnuisme, hoặc Brahmanisme.
Điều này chứng tỏ vào các thế kỷ X, XI và XII tl., người Chămpa đã có thờ Phật, nhưng chưa nhiều lắm và bị Ấn Độ giáo lấn hẳn ảnh hưởng. Trên các mõm đồi cao, không kể ở vùng Nam Trung bộ như tháp Phan Rang, tháp Bà Nha Trang, tháp núi Nhạn Tuy Hòa, chỉ kể ở địa phận hai châu Ô, Rí thì trong sách vở như Ô châu cận lục, Phủ biên tạp lục chỉ còn ghi lại ở trên núi Quy Sơn có tháp cổ của Chămpa, cho đến đời vua Minh Mạng (1820-1840), trụ biểu trước tháp còn dấu tích chữ Chămpa , tại xóm Bàu Tháp, làng Liễu Cốc Thượng, huyện Hương Trà, còn dấu tích một tháp Chămpa đổ nát; ở làng Trung Đơn, huyện Hải Lăng, Quảng Trị (Thuận châu) cũng còn một tháp Chămpa cao; nhưng tất cả đều thờ thần nữ hoặc một vị thần nào đó thuộc các tín ngưỡng Ấn Độ giáo nói trên.
Tuy thế vào thế kỷ thứ X tl. có thể người Chămpa ở vùng Thuận Hóa đã biết đến đạo Phật từ văn hóa Trung Hoa sang. Bởi vì vào niên hiệu Thần Vũ nguyên niên (1069) vua Lý Thánh Tông (1054-1071) đem quân vào chinh phạt Chiêm Thành, vua Chiêm dâng ba châu Địa Lý, Ma linh và Bố Chính (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị hiện nay), quân nhà Lý đã bắt được nhiều tù binh, trong đó có cả một người mà về sau mới khám phá ra là ngài Thảo Đường, người Trung Hoa theo thầy sang trú tại Chiêm Thành để truyền bá đạo Phật . Trận này xảy ra ở thành Phật Thệ, làng Nguyệt Biều hiện nay,tức là đã nằm trong địa vực châu Ô, tức Hóa châu về sau vậy. Tuy nhiên, từ 1069 đến 1036 tl., trong 237 năm ấy không có sách nào nói người Chămpa có theo đạo Phật.
Trái lại, người Đại Việt, tuy theo đạo Phật đã lâu, nhưng khi di dân vào đất Chămpa ở cực nam để lập nghiệp, họ đã mang theo tín ngưỡng dân gian truyền thống của mình vào để giao lưu và hỗn hợp tín ngưỡng Chămpa còn để lại, thành một thứ tín ngưỡng rất bác tạp. Nói chung là tín ngưỡng đa thần giáo theo linh hồn thuyết. Từ hốc cây, hòn đá, dòng sông, quả núi, con chim, con rắn, con hổ, cho đến hiện tượng thiên nhiên như sấm, chớp, mây, mưa, bão, từ “thần cây đa, ma cây gao, cú cáo cây đề” cho đến bất cứ hiện tượng lạ gì đều được dân Đại Việt thờ lạy cả. “Việc cúng bái thì dùng xôi gà, lại mở cuộc chầu văn” .

Tuy nhiên, trong mớ tín ngưỡng đa tạp ấy thì đạo Phật đã nổi bật lên là một tôn giáo đàng hoàng. Người Việt lập làng đến đâu, đào giếng lấy nước uống, trồng cây đa đầu làng, xây đình làng, thì đều có làm chùa làng đến đấy. Vì ca dao đã có câu: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Lại xét trong ngôn ngữ Việt đã có thêm tiếng: “chùa, chuông, mõ, Bụt, ông Sư, bà Vãi, Thứu Lĩnh, Tào Khê,...”. Như vậy, cho đến khoảng trước đời Trần, cõi Thuận Hóa chắc có nhiều chùa thờ Phật. “Chùa đất Phật vàng”, tức là kiểu kiến trúc chùa bằng gỗ, tranh thấp bé theo văn hóa Đại Việt. Bốn xung quanh thì đắp phên, rồi trét đất trộn rơm, rất khác với lối kiến trúc bằng gạch nung của tháp Chămpa.
Sách Ô châu cận lục của Dương Văn An nhuận chính năm Ất Mão, niên hiệu Cảnh Lịch đời Mạc (1555) ở mục “Phong tục tổng luận” có kể rất nhiều chùa, nhưng đa số là ở Tiên Bình (tức Quảng Bình ngày nay). Tại Thuận Hóa, tức là Quảng Trị Và Thừa Thiên - Huế hiện nay thì ông chỉ nói đến “chùa Dã Độ”, có lẽ ở làng Dã Độ, huyện Triệu Phong ngày nay, “chùa Thiên Mỗ” ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà, “chùa Sùng Hóa cổ truyền” ở làng Triêm Ân, huyện Tư Vinh là một quốc tự, “chùa Tư Khách” ở cửa Tư Khách, ( tức là cửa Tư Dung, nay là cửa Tư Hiền).
Tất cả đều được ông dùng hai chữ “chùa xưa” hay “chùa cổ”, ông laị dùng chữ “Thiền lâm” chứng tỏ đạo Phật ở Thuận Hóa vào thời nhà Trần (1306) trở đi đã thịnh, có nhiều chùa thuộc về Thiền tông. Hơn nữa, các chùa lớn thời này, ở vùng Tiên Bình, Thuận Hóa, đã có đặt một chức quan coi giữ chùa gọi là “Tự chính’’. Không thấy nói đến các nhà sư, cách tu hành và không có “Tăng” trú trì như về sau... Đến năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn phương Nam thì ông chẳng để ý gì đến Phật giáo, cho nên nhiều chùa cổ sập nát mà sách vở thì cũng không ghi chép.
Mãi đến năm Tân Sửu (1601), gần như là một hành động có mang màu sắc chính trị, ông mới cho sửa chùa Thiên Mụ và tung ra một huyền thoại rất có lợi cho ông. Năm sau (1602), ông cho sửa chùa Sùng Hóa và mở hội Đại pháp ở chùa này. Rất tiếc là sách không ghi chép tên các nhà sư đã có mặt trong các buổi lễ lớn đó...Mãi đến đời Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), Cảnh Trị năm thứ tư, nhà Hậu Lê, Bính Ngọ (1666), nhân đi chơi cửa biển Tư Dung, tức là cửa Tư Khách, chúa đã cho sửa chùa Hòa Vinh – có thể là chùa Tư Khách xưa -- rất là rộng đẹp. Đến năm Chính Hòa thứ chín, Mậu Thìn (1688), chúa Phúc Thái (1687-1691) cho sửa chữa chùa Thuận An vốn đã có từ trước. Nay thì chùa này dường như đã mất hẳn dấu tích.
Ngoài ra, vào thời các chúa Nguyễn, xứ Thuận Hóa, ngoài vô số chùa làng, lại còn có nhiều chùa công như chùa Kim Long, chùa Quang Xuân, chùa Hà Trung, chùa nào cũng có đặt chức “Tăng lục” do Ty Tăng lục coi sóc . Từ khoảng này trở về sau, cõi Thuận Hóa bắt đầu có nhiều “thảo am”, hình thức sơ khai của những ngôi chùa, như thảo am của Giác Phong Lão Tổ ở trên núi Hàm Long, về sau trở thành chùa Báo Quốc, đời Gia Long (1802-1819) đổi thành chùa Thiên Thọ, kể từ đời Minh Mạng (1820-1840) đổi lại là chùa Báo Quốc cho đến nay. Thảo am của ngài Minh Hoằng Tử Dung, về sau thành chùa Ấn Tông, năm Thiệu Trị nguyên niên (1841) đổi thành chùa Từ Đàm cho đến nay.

Thảo am của ngài Khắc Huyền, về sau trở thành chùa Thiền Lâm, đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) chùa đã có lúc trở thành Thiền Lâm Thiền Viện, là vùng đất trước chùa Từ Đàm lên tới đàn Nam Giao. Lại có thảo am của ngài Từ Lâm, sau trở thành chùa Từ Lâm cho đến nay. Thảo am của ngài Nguyên Thiều tức chùa Vĩnh Ân ở Phú Xuân Sơn, sau lại được chúa Nguyễn đổi thành “Quốc Ân Tự”, từ khoảng 1689 cho đến nay. Đạo Phật do các ngài truyền đến thì hoặc là thuộc phái Tào Động hoặc là thuộc phái Lâm Tế, mà đa số là thuộc phái Lâm Tế. Nhưng dù Tào Động hay Lâm Tế, cũng đều thuộc Thiền tông.
Tất cả nằm vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVII, đầu thế kỷ thứ XVIII tl. Vào cuối thế kỷ thứ XVII tl., cõi Thuận Hóa đã là nơi mà “chùa chiền khắp xứ, sãi vãi đầy đoàn” . Nhưng chắc chắn tinh thần Phật giáo có phần lưu tệ, nên mới có tờ bố cáo của ngài Thạch Liêm trình chúa Nguyễn Phúc Chu vào năm Ất Hợi (1695) , lại có cuốn văn lục bát Sãi vãi của Nguyễn Cư Trinh... có lẽ chúng ta không ai chối cãi sự thực, song cả ngài Thạch Liêm lẫn Nguyễn Cư Trinh đều có cái nhìn hơi thiên lệch: hoặc là từ khía cạnh nhà Nho thuần túy đến (Nguyễn Cư Trinh), hoặc là từ khía cạnh Tam giáo đồng qui có pha lẫn chính trị đến (ngài Thạch Liêm).
Có một điều rất đặc biệt là dân Đại Việt từ miền Bắc vào Thuận Hóa làm ăn, nhưng ngược lại tất cả các ngài truyền bá Phật pháp, dựng thảo am và lập chùa chiền thì đều Đàng Trong ra. Không hiểu các ngài Giác Phong, Từ Lâm, Khắc Huyền, Minh Hoằng... đã từ Trung Quốc đáp thuyền buôn sang đổ bộ ngay Thuận Hóa, hay lên Hội an rồi mới ra Thuận Hóa; chứ kể từ ngài Nguyên Thiều vào Quy Ninh (1677), ngài Liễu Quán ở Phú Yên thì đều do Đàng Trong đi theo thuyền buôn đến Thuận Đô bằng cửa Tư Dung lên.
Chính ngài Thạch Liêm cũng định đáp vào Quảng Nam, nhưng sau nhờ thuận gió mới đáp vào đất Thuận Hóa (1695). Lại còn một yếu tố nữa mà chúng ta phải nghiên cứu lâu theo quan điểm khoa học địa môi trường (géo-environement) mới có thể giải đáp được, đó là tại sao tất cả các chùa chiền cõi Thuận Hóa đều ở về mạn nam sông Phú Xuân cho đến núi Quy Sơn ở chân đèo Ngãi Lãnh (tức đèo Hải Vân hiện nay). Điều này tạo cho chùa Huế có sắc thái vô cùng đặc sắc, là hàng trăm ngôi chùa đều nằm trên các mõm đồi hoặc sườn đồi đầy cây cao bóng mát, cảnh trí thiên nhiên u nhàn tĩnh lặng, làm cho chùa Huế trở thành những nơi bảo vệ được môi trường thiên nhiên trong lành, mát mẻ; và đường đi lên các chùa trở thành những cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời có sức thu hút người đăng lâm vãn cảnh.
Hiện nay thì vậy, nhưng trở về các thế kỷ thứ XVII, XVIII tl., chúng ta lại thấy các dãy đồi Hàm Long Sơn, Hoàng Long Sơn, Ngũ Bình Sơn, Phú Xuân Sơn, Ngũ Phong Sơn, Thiên Thai Sơn tuy đã có tên hay, nhưng đều là những nơi “sơn lâm bóng cả cây già, với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi” (thơ Thế Lữ). Lối đi từ nơi này sang nơi khác chỉ là đường mòn lối nhỏ len lỏi trong rừng rậm như ngài Thạch Liêm đã tả : “Lối tiều quanh núi khi mờ tỏ”, chứ chẳng có đường sá gì! Thế nhưng, tất cả các ngài đến truyền bá Phật pháp đều dựng tháo am trong bóng cây rừng rậm rịt đầy cọp, beo, và rắn độc ấy cả. Tìm cho ra được mối liên hệ giữa tinh thần, trí tuệ của các ngài sơ Tổ với môi trường thiên nhiên “đẹp man dại” đó, chúng tôi nghĩ là chúng ta đã tìm được sắc thái đặc trưng của chùa chiền và Phật giáo vùng Huế vậy.
Ngay như ngài Liễu Quán, người Đại Việt, phủ Phú Yên thời các chúa Nguyễn ở Phương Nam, đi theo thuyền buôn ra Thuận Đô cũng đã ở thảo am Viên Thông dưới chân Hòn Mô (tức Ngự Bình), rồi lại vào khai sơn thảo am ở núi Thiên Thai nổi tiếng nhiều cọp dữ, ăn rong khe, uống nước suối độc, quyết chí tu hành đến đắc đạo. Được ngài Minh Hoằng Tử Dung ấn khả Tâm tông, ngài Liễu Quán đã trở thành một vị Tổ của cả một phái Thiền gọi là Thiền Tử Dung-Liễu Quán, rất long thịnh suốt cả một dãi đất Nam Hà từ thế kỷ thứ XVIII, XIX tl. cho đến nay. Thảo am xưa của ngài ở núi Thiên Thai, chính là Tổ đình Thuyền Tôn, tức là Thiên Thai Thiền Tông Tự đã được các chúa Nguyễn “sắc tứ”, và đã tồn tại hơn hai trăm năm nay. Cho đến hiện tại, hàng trăm ngôi chùa Huế ở vùng núi đồi mạn nam sông Hương đều thuộc dòng kệ của ngài.

Chùa chiền ở Thuận Hóa vào đời các chúa Nguyễn đã có rất nhiều, người xuất gia cũng rất đông. Song đến khi Trịnh vào xâm chiếm Phú Xuân và nhất là thời Tây Sơn (1786-1801) thì Phật giáo Thuận Hóa cơ hồ rơi vào tình trạng đồi phế. Mãi đến khi Gia Long lên ngôi (1802) trở về sau, các chùa ở vùng Thuận Hóa mới lần hồi được sửa sang và trùng hưng. Bà Hiếu Khương Hoàng thái hậu, mẫu hoàng của vua Gia Long, cho sửa chùa Báo Quốc và cho đổi thành Hàm Long Thiên Thọ Tự. Long Thành công chúa, chị em cùng mẹ với vua Gia Long, vào năm 1805 đã cúng 300 quan tiền để trùng tu cùa Quốc Ân và lập một Tăng đoàn ở chùa này.
Chùa Thiền Lâm, chùa Kim Tiên lại được Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, mẹ Hoàng tử Cảnh bỏ của riêng ra để trùng tu và sửa sang lại. Một quả chuông đồng cao bốn thước, mình tròn sáu thước, dày bốn tấc, có khắc chữ “Lê Vĩnh Thịnh thập nhị niên chú” do vua Gia Long chở từ Bắc Thành về để trong kho, sau khi trùng tu xong chùa Thuyền Lâm thì đem treo ở đây, nhưng nay cũng không còn.
Trong giới xuất gia thì Hòa thượng Đạo Trung đã sửa chữa chùa Ấn Tông - Từ Đàm, Hòa thượng Đạo Thành trùng hưng chùa Từ Lâm, Hòa thượng Đạo Thiện sửa lại chùa Viên Thông, Hòa thượng Đại Huệ trùng hưng chùa Thuyền Tôn. Năm Gia Long thứ 14, chính nhà vua cho tái thiết chùa Thiên Mụ. Năm Gia Long thứ hai (1803) chùa Long Quang ở xã Xuân Hòa được trùng hưng. Long Quang là một ngôi chùa cổ, thời chúa Duệ Tông đã có trùng tu và cho biển ngạch “Sắc tứ Long Quang Tự”, lại có biển treo ở tầng trên của chùa có bốn chữ lớn “Tuệ Chiếu Nam Thiên”; vào năm Khải Định thứ ba (1918) chùa này bị triệt bỏ, nay còn dấu tích.
Chùa Hà Trung, chùa núi Thúy Vân lần lượt đều được trùng hưng khang trang rộng rải hơn xưa. Nhiều vị công chúa dưới triều Minh Mạng (1820-1840) cũng đã cúng dường tiền bạc của cải để trùng tu hoặc xây dựng nhiều chùa ở Huế. Bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, mẫu hậu của vua Minh Mạng đã bỏ tièn của ra sửa lại chùa Khánh Vân ở sơn phận xã Lựu Bảo, chùa Quang Bảo ở xã Kim Long, chùa Bảo Sơn ở xã An Ninh, chùa Quang Đức ở xã An Vân Hạ, đều thuộc huyện Hương Trà.
Từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), chúa tự hiệu là Từ Tế Đạo Nhân, các chùa này đã được chúa ban cho biển vàng “sắc tứ” và hiệu chùa; qua triều Tây Sơn đổ nát, cũng đến thời Gia Long mới được trùng tu . Ngoài ra lại có Ngọc Ngôn công chúa tức An Mỹ Thái trưởng công chúa sửa chùa Huệ Lâm; Diên Phúc công chúa sửa chùa Viên Giác do Tỳ kheo Liễu Quán dựng trong vùng chùa Vạn Phước hiện nay; Định Hòa công chúa Ngọc Ky (hay Cơ) sửa chùa Đông Thuyền; Ngọc Nguyệt công chúa sửa chùa Phổ Quang; Ngọc Duệ công chúa sửa chùa Thiên Thai Ngoại ở núi Kim Long, phía tây bắc huyện Hương Thủy (nay chùa đang còn ở về phía tay trái mạn gần Cầu Lim, kể từ Huế lên). Năm Minh Mạng thứ mười bảy, chùa Trấn Hải ở núi Quy Sơn, và chùa Thánh Duyên ở Thúy Vân Sơn được xây dựng trên dấu tích chùa cổ.
Người ta phải công nhận một sự thật rất hiển nhiên là dưới thời các vua nhà Nguyễn, kể từ Gia long (1802) cho đến Duy Tân (1916) chùa chiền ở vùng Huế phát triển mạnh. Ngoài việc trùng tu, tái thiết và sửa chữa nhiều chùa đã nói ở trên, còn có việc xây dựng thêm như: chùa Giác Hoàng, dựng năm Minh Mạng thứ hai mươi tại phường Đoan Hà (sau cải là phường Thái Trạch, nay là phường Thuận Thành). Giác Hoàng có nghĩa là ông vua đã giác ngộ, vì vua Minh Mạng cho rằng kiếp trước của mình là thầy tu. Vua Thiệu Trị (1841-1847) có là bài thơ “Giác Hoàng Phạn ngữ” để ca ngợi tiếng tụng Kinh ở chùa Giác Hoàng. Đến ngày 14-6-1885 chùa bị triệt bỏ, hiện còn dấu tích là Tam Tòa. Chùa Diệu Đế dựng đời Thiệu Trị.
Chùa Từ Hiếu dựng năm Tự Đức nguyên niên (1848), và còn vô số chùa khác. Trái lại, cũng có rất nhiều chùa danh tiếng vào thời cổ đã bị bỏ phế, hoang tàn một độ rồi mất luôn dấu tích như chùa Sùng Hóa, chùa Kim Quang, chùa Tây Thiền, chùa Huệ Minh, chùa Trấn Hải ở núi Linh Thái gần núi Quy Sơn, chùa Bạch Vân ở trước am Bạch Vân tại núi Phụ Ổ, phía bắc huyện Hương Trà do chúa Nguyễn Phúc Khoát dựng, có phong cảnh khá đẹp, chúa thường ngự lên chơi ở đấy, hiện còn dấu tích; chùa Diên Thọ ở làng Hải Cát đều thuộc huyện Hương Trà.
Tại Kinh thành có Linh Hựu Quán ở phía bắc sông Ngự Hà, thuộc phường Ân Thịnh (nay là Tây Linh, phường Thuận Lộc), dựng từ năm Minh Mạng thứ mười, phía hữu có gác Tường Quang, phía tả có gác Từ Vân, trước mặt trông ra sông Ngự Hà. Đến đời Thiệu Trị, vua có làm bài thơ “Linh Quán khánh vận” khắc vào bia đá và dựng ở phía tả Quán . Hòa thượng Nhất Định đã được cấp giới đao và độ điệp, và sung chức Tăng cang Linh Hựu Quán này trong một thời gian.
Đời vua Thành Thái (1889-1906) Linh Hựu Quán đi vào đồi phế rồi bị sụp đổ; ông Ngô Đình Khả xin nhà vua cấp cho vùng đất này để làm từ đường, song đến đời vua Duy Tân (1906-19i6) thì ông này đem làm nhà thờ Thiên chúa giáo mà không làm từ đường trên đất ấy như lời ông đã xin với nhà vua. Bị Bộ Lễ và Bộ Công phản đối kịch liệt, ông bị biếm chức và nhà thờ Thiên chúa giáo phải triệt hạ , nhưng việc chưa đi đến đâu thì vua Duy Tân bị buộc phải tốn vị và bị lưu đày sang châu Phi, cùng chỗ với phụ hoàng Thành Thái của ngài. Đến năm Khải Định thứ ba (1918), nhà vua xuống chỉ dụ phế bỏ Linh Hựu Quán. Trong năm Duy Tân thứ hai (1907), có chùa Ngọc Sơn ở gần chùa Thiên Mụ cũng bị bỏ (theo Châu bản triều Nguyễn).
Hiện nay ở Huế có khoảng vài trăm ngôi chùa lớn và nhỏ. Bao mhiêu tượng Phật, tượng Bồ Tát, chuông, khánh đồng, khánh đá và nhiều văn vật khác của Phật giáo các thời Lê, Trịnh, Nguyễn còn lại đang được thờ tự và bảo quản tại các chùa Huế trở thành một kho tàng vô giá về văn hóa của Phật giáo Thuận Hóa. Ngoài ra, chúng ta lại còn có vô số biển hiệu chùa có nhiều mô-tip mỹ thuật các triều đại đó. Hàng trăm câu đối với nét chữ thuộc loại bút thiếp (chữ đẹp). Văn bia của các vua chúa ngự đề, của các nhà đại Nho thâm hiểu Phật pháp ghi chép lại lịch sử chùa khi chùa được trùng tu; lại có nhiều yếu tố liên quan đến tiểu sử các vị danh tướng như Điện Tiền Thái Bảo Giá Ngự Quận Công Võ Văn Dũng của triều Tây Sơn khắc trên chuông chùa làng La Chử, có cả tên tướng quân phu nhân Lê Thị Vy; như tên các vị Đô Đốc đời Tây Sơn khắc trên chuông chùa làng Hạ Lang; lại còn tên của các vị anh hùng yêu nước...
Nhiều tập thơ của các vị Thiền sư đời trước để lại như “Lược Ước tùng sao” của Viên Thành Thượng Nhân chùa Tra Am; tập “Thủy Nguyệt tùng sao” của ngài Bích Phong chùa Quy Thiện, thơ hay, đẫm phong cách Thiền, chữ viết xương kính...những câu đối rất hay của Sào Nam Phan Bội Châu, đều là những của báu trong kho tàng văn học Phật giáo Thuận Hóa. Lại còn nhiều bản gỗ khắc Kinh, Luật, Luận như “Pháp Bảo Đàn Kinh”, “Đại Thừa Vô lượng nghĩa Kinh”... và nhiều bộ khác ở chùa Từ Hiếu; “Tứ Phần Luật” và nhiều bộ khác ở chùa Viên Thông, chùa Quốic Ân; bộ “Hàm Long Sơn Chí” của Điềm Tịnh Cư Sĩ và Như Như Đạo Nhân biên soạn vào cuối thế kỷ thứ XIX tl. v.v...
Nhất là cách kiến trúc chùa viện theo kiểu chữ “khẩu”, chữ “nhất”, chữ “tam”, chữ “liễu”; những tiền đường hay điện thờ làm kiểu nhà “trùng lương” hay còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc” là kiểu đặc trưng của Huế, không đâu có. Lại còn cách trình bày nóc với các mô-tip “lưỡng long chầu mặt nguyệt”, “lưỡng long chầu Pháp luân”, các vật linh quy, phụng, lân, các kiểu hoa sen; mái lợp ngói âm dương có màu ảnh hưởng kiểu kiến trúc cung đình của các triều vua chúa để lại. “Hoa sen”, “chữ Vạn”, “hồi văn chữ vạn” , “lá sen”, “trái Phật thủ”, “lá bồ đề”, “Pháp luân”, “hải triều”, “hỏa luân”,”bầu cam lồ” là những đề tài, những mô-tip thuần Phật giáo tạo cho chùa Huế có nhiều sắc thái độc đáo cần được giới nghiên cứu văn hóa quan tâm và nghiên cứu tỉ mỉ với thời gian lâu dài để góp vào kho tàng văn hóa Việt Nam một nét rất đặc biệt, không thể bỏ qua được.
Mặt khác, tinh thần Phật giáo và tín ngưỡng Phật giáo, tín đồ ở Huế cũng là một đề tài có thể viết thành những tập sách dày, rất cần làm. Nhưng!.. sức một vài người không sao làm nỗi những công việc trên này, cho dù lẻ tẻ đó đây cũng đã có ít nhiều sách báo của nhiều nhà thức giả, nhiều bậc tu hành đã công bố hoặc đang thực hiện âm thầm; nhưng chúng tôi nghĩ không sao gọi là đủ vậy
Chú thích:
Quốc Sử Quán, Đại Nam nhất thống chí, q.II, trg. 78-79, Thừa Thiên Phủ, bản dịch của Viện Sử Học, Nxb KHXH, Hà Nội, 1969. . Nguyễn Trãi toàn tập, trg.643.Viện Sử Học biên dịch và chú giải, Nxb. KHXH. Hà Nội, 1969. Đại Nam nhất thống chi, trg 115. An Nam chí lược, 415, tờ 7. Dương Văn An, Ô châu cận lục, trg. 43; bản dịch của Bùi Lương, Văn Hóa Á Châu xb, Sài Gòn, 1961. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, trg. 113; Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977 . Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, trg. 40. Bản Việt UBSLVN, Viện Đại Học Huế xb, 1963. Thích Đại sán, Sđd. trg. 46,47,48,48 và 50. Quốc Sử Quán, Đại Nam nhất thống chí, trg. 178,179,180. Quốc Sử Quán, Sđd. trg. 71 Lý Kim Hoa, Châu bản triều Nguyễn, tư liệu Phật giáo, từ trg. 872 đến trg. 879. Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003

48. Bóng Phật trên Núi Hùng

Trong sách Đền Hùng – di tích và cảnh quan, tác giả cho biết: “Núi Hùng còn được gọi là núi Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, núi Cả, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn” (1). Trong các tên gọi này, hai tên gọi “Bảo Thiếu Lĩnh” và “Bảo Thiếu Sơn”, theo tôi là điều đáng ngờ, bởi lẽ, núi Hùng là ngọn núi Cả thiêng liêng, ở đó có ba đỉnh núi được xưng tụng là “Tam Sơn cấm địa”, được nhân dân ta coi là nơi phát nguyên của dân tộc nên khó mà coi đó là Thiếu Lĩnh (lĩnh/ lãnh: đỉnh núi trẻ) hay Thiếu Sơn (núi trẻ). Theo tôi có lẽ đây là cách ghi âm chưa được chính xác của từ “Thứu”, cụ thể là Bảo Thứu Lĩnh, Bảo Thứu Sơn. Theo sự đoán định này, núi Hùng, (núi Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, núi Cả, Hy Sơn) còn được coi là (Bảo) Thứu Lĩnh/ Thứu Sơn - tức cách gọi tôn vinh các ngọn núi thiêng theo cảm thức lịch sử - văn hóa Phật giáo. Nói cách khác, trong diễn trình của lịch sử, di tích và cảnh quan đền Hùng đã từng trải qua một lớp ảnh hưởng của Phật giáo.
1. Thứu Lĩnh/Thứu Sơn hay Linh Thứu Sơn/Linh Sơn là tên gọi chữ Hán của ngọn núi Kênh Kênh (Phạn: Garuda-kũta; Pali: Gjjha kũta; âm Hán: Kỳ Xà Quật) ở phía Đông Bắc thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, miền Trung Ấn Độ. Được gọi tên như vậy vì hình dáng núi này giống như đầu con chim thứu và trong núi có loại chim này sinh sống. Tại núi này, Đức Phật đã thuyết kinh Pháp Hoa (được gọi là Linh Sơn hội thượng). Từ đó, ngọn núi này là một thánh địa của Phật giáo và tên gọi của núi được dùng để đặt tên các ngọn núi, các ngôi sơn tự nổi tiếng khắp Trung Quốc cũng như ở nước ta. Chính vì vậy, ngọn núi Cả thiêng liêng, nơi đặt đền Hùng cũng được Tăng chúng Phật tử gọi là Bảo Thứu Lĩnh/ Bảo Thứu Sơn.
2. Điều này cũng có cơ sở thực tế của nó vì cơ cấu di tích ở đền Hùng, như chúng ta biết, ngoài các đền, lăng có ngôi chùa Phật - gọi là “chùa Thiên Quang”. Tính từ dưới lên có: đền Hạ và chùa Thiên Quang, đền Trung (Hùng Vương Tổ Miếu); đền Thượng (Kính Thiên Lĩnh Điện), lăng Hùng Vương và trở lộn xuống núi, ở phía bên kia là đền Giếng.
Đền Hạ, tương truyền là nơi Âu Cơ trở dạ sinh ra bọc 100 trứng. Bên cạnh đền Hạ là chùa Thiên Quang. Đền Trung là cơ sở thờ tự chính các vua Hùng - được gọi là “Hùng Vương Tổ Miếu”. Đền Thượng có tên là “Kính Thiên Lĩnh Điện” và cạnh đền Thượng là lăng vua Hùng Vương thứ 6. Chính tên gọi “Kính Thiên Lĩnh Điện” đã chỉ ra đây là nơi thờ trời trên đỉnh núi và có nghĩa là đền thờ Mặt Trời, tín ngưỡng cổ sơ của dân tộc ta với di tích nổi tiếng là hình mặt trời khắc trên trống đồng và các di tích liên quan hiện tồn ở đây như tục thờ hạt lúa thần và trụ đá (được đời sau gọi là Trụ Đá Thề). Chính từ ánh mặt trời trên đỉnh/ Đền Thượng này chiếu dọi xuống nên ngôi chùa ở đền Hạ được gọi là Thiên Quang tự - ngôi chùa ngập trong ánh mặt trời. Đó là chuyện mặt trời trống đồng rọi sáng chùa Phật, còn chuyện chùa Phật được tích hợp vào nơi thờ tự các vua Hùng, dù với ít nhiều tùy thuận, đã chỉ ra tính chất khế cơ của nhà Phật. Và đây cũng là một quá trình.
Chùa Thiên Quang vốn tên cũ là “Viễn Sơn cổ tự”, được một số nhà nghiên cứu xác định niên đại khai sơn vào đời nhà Lý (thế kỷ XI). Song niên đại ghi trên chuông chùa Thiên Quang là năm Bính Thìn (1676, 1736, 1796?): “Bính Thìn niên, Đại Việt quốc, Sơn Tây đạo, Lâm Than phủ, Sơn Vi huyện, Hy Cương xã, Cổ Tích thôn cư phụng”. Các tư liệu này gợi cho chúng ta chặng đường tiệm tiến của việc thống hợp ngôi chùa vào quần thể các cơ sở thờ tự của đền Hùng như là một sự hỗn dung văn hóa. Điều này cũng có thể nhận ra trong việc thờ Phù Đổng Thiên Vương ở đỉnh núi Cả này.
3. Bài vị chính ở đền Thượng ghi rõ: “Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương thánh vị” và hai bên là hai bài vị: “Ất sơn thánh vương thánh vị” và “Viễn sơn thánh vương thánh vị”(2). Điều này cho thấy đây là nơi thờ Thần Núi, chính xác hơn là Tam Sơn cấm địa của bộ tộc Hùng Vương thời cổ và ngày nay cũng có thể thấy ở nhiều nơi. Tập tục thờ kính núi cấm/ rừng cấm còn phổ biến trong nhiều cộng đồng dân cư, thậm chí tồn tại trong từng làng xã. Theo quan niệm truyền thống, đó là khu vực thiêng, nghiêm cấm không ai được vào đó săn bắt, đốn cây chặt củi và hàng năm có biện lễ cúng thần Núi, thần Rừng ở đó. Tập tục thờ thần Núi này, luôn xác định đó là ngọn núi thiêng trung tâm, xét về mặt tâm linh của một vùng đất. Nếu ở đất Tổ gọi là núi Cả thì ở Trung Bộ gọi là núi Chúa và vào đến vùng đất mới phương Nam thì gọi núi Bà (ví dụ núi Điện Bà/ Tây Ninh, núi Sam/ Bà Chúa Xứ Châu Đốc…) và thậm chí, cuối thế kỷ XIX, ở vùng Bảy Núi/ Thất Sơn, ngọn núi trung tâm là núi Cấm - nghe ra như một sự hồi cố của một cổ mẫu văn hóa, mặc dù đó là ngọn núi thiêng của một tôn giáo mới: Bửu Sơn Kỳ Hương (mùi hương kỳ diệu của ngọn núi báu)… Nói chung, dù có đi khắp bốn phương trời thì ở đâu, các cộng đồng cư dân cũng chọn cho mình một ngọn núi lớn (hiểu là núi Cả, núi Chúa, núi Một, núi Bà/ Cậu… chứ không phải lớn về kích thước, độ cao) và coi đó là núi thiêng, là trục vũ trụ của cộng đồng.
Trở lại núi Cả ở vùng Đất Tổ, truyền thuyết kể rằng: tại đây, Vua Hùng đã lập đền cầu trời ban cho người tài giúp dân cứu nước. Sau khi Thánh Gióng phá tan giặc Ân và bay về trời, vua Hùng đã cho dựng miếu trên núi để thờ cúng thần linh, trời đất và Thánh Gióng. Sự có mặt của Thánh Gióng trong điện thờ đền Thượng trên đỉnh núi Cả ngoài cách cắt nghĩa đậm tính “lịch sử” như truyền thuyết nêu trên cũng còn có thể lý giải theo hướng khác.
Như chúng ta biết, ngoài tôn danh Thanh Gióng (đậm màu sắc Đạo giáo, thống thuộc vào bộ Tứ bất tử), vị thần này còn được gọi bằng nhiều tôn danh mỹ hiệu khác nhau: Sóc Thiên Vương, Xung Thiên Đại Vương, Phù Đổng Thiên Vương, Xung Thiên Dũng liệt Chiên ứng uy tín Đại Vương, Sóc Thiên thần vương, Đổng Thiên Vương Sóc Thiên Đại Thánh, Vệ Linh sơn thần, Phù Thánh Đại Vương…(3). Điều này đã chỉ ra rằng đây là đối tượng thờ tự/ một hiện tượng văn hóa được thế nhân, ở từng tọa độ địa lý-lịch sử khác nhau, nhào nặn theo căn duyên và mục đích khác nhau. Điều đó dẫn đến việc đã có nhiều nỗ lực truy cứu nhằm tìm ra nguyên ủy của thần. Kết quả nghiên cứu trong thế kỷ XX, đã đưa ra một số kết luận hoặc Thánh Gióng vốn là thần Sấm/ Ông Đổng/ Khổng Lồ; lại có kết luận Thánh Gióng vốn là thần Đá, hoặc thần Cây hay thần Đất; và xu hướng phổ biến coi Thánh Gióng là truyền thuyết về một anh hùng dân tộc cổ đại (4) …
Ở đây, bằng cái nhìn quy chiếu với hệ thống thần linh Phật giáo hẳn cho phép chúng ta hiểu thêm một số khía cạnh khác của vấn đề.
Trước hết, trong các danh hiệu nêu trên, ngoài danh hiệu thánh, thần, vương/ đại vương, chúng ta lưu ý đến danh hiệu thiên vương, một danh hiệu khá phổ biến trong thần điện Phật giáo mà tiêu biểu là Tứ Thiên Vương (Lokapala), tức bốn vị Thiên Vương hộ thế, chủ quản bốn phương chính của thế giới và cũng là bốn vị Hộ pháp.
Thứ hai, Tứ Thiên Vương, theo vũ trụ luận Phật giáo, cư ngụ ở tầng trời Tứ Thiên Vương thiên trên đỉnh núi Meru (ngọn núi trung tâm vũ trụ). Điều này cho thấy rằng việc Thánh Gióng/ Sóc Thiên Vương được thờ tự trên đỉnh núi Cả - đỉnh thiêng trung tâm của Đất Tổ có điểm tương đồng.
Thứ ba, trong Tứ vị Thiên Vương, theo quan niệm Phật giáo thì vị Thiên Vương chủ quản phương Bắc là Vaisravana (Tỳ Sa Môn Thiên Vương/ Đa Văn Thiên Vương) là vị đứng đầu và chỉ có Vaisravana là được thờ riêng. Tín lý này chỉ ra sự đồng nhất giữa Vaisaravana và Sóc Thiên Vương (sóc: phương Bắc), vị Thiên Vương duy nhất được thờ tự ở nhiều đỉnh núi thiêng, đền thờ thiêng ở các vùng đất cổ miền Bắc, từ thời tiền Lê đến các triều Lý, Trần.
Thứ tư, Tứ Thiên Vương được thờ tự khắp thế giới Phật giáo từ thế kỷ thứ II trước TL. Bốn vị xuất hiện ở bốn phía như người canh giữ các thánh tích Phật giáo Ấn Độ (như bảo tháp Sanchi); ở Trung Á và Trung Quốc, vào thế kỷ thứ VIII, họ được thờ tự như những người bảo vệ Phật pháp và hộ trì các vị vua chúa tôn sùng đạo Phật chống lại các thế lực xâm lăng. Ở Nhật Bản, vào thế kỷ VI, thái tử mộ đạo Shotoku (Thánh Đức) đã xây điện thờ Shitenno-ji để thờ Tứ thiên Vương và sau đó, nhiều điện thờ khác được dựng lên ở khắp các tỉnh để họ có thể quan phòng sự an nguy của lãnh thổ và mùa màng.
Thực tế lịch sử phổ biến ở các quốc gia Phật giáo dẫn trên đã lý giải việc các triều đại Việt Nam tôn thờ vị Thiên Vương làm thần hộ quốc: Lê Đại Hành (980): Sóc Thiên thần vương; Lý Thái Tổ: Xung Thiên thần vương; Trùng hưng năm đầu: Dũng liệt đại vương; năm thứ 4, gia phong hai chữ: Chiêu ứng; năm Hưng Long 21, gia phong hai chữ: Uy tín (Xung Thiên Dũng liệt Chiêu ứng Uy tín Đại vương)… Mặt khác, tín lý hộ quốc đó cũng làm cho vị Thiên Vương chủ quản phương Bắc có được hành trạng của một anh hùng chống ngoại xâm.
Cuối cùng, theo hành trạng của Vaisravana (Tỳ sa Môn Thiên Vương, Đa Văn Thiên Vương) thì vị Thiên Vương này vốn là vị thần Ấn giáo Kuvera/ Kubera (Thần Tài): Kubera do đã chuyên chú tu khổ hạnh hàng ngàn năm nên được thần Brahma ban cho sự bất tử và làm thần Giàu Sang, trông giữ mọi kho tàng của trái đất. Với tư cách là Vaisravana, thần thống lĩnh tám Yaksha (Dạ xoa) - tất cả được coi là những lưu xuất (emarnations) từ chính Vaisravana; trong số đó, Kubera (da sẫm ở phương Bắc) và Jambala (màu trắng ở phương Đông) được coi là thần Tài lộc của các quốc gia Phật giáo vùng Nam Á và Đông Á.
Mỗi lưu xuất này đều cầm trên tay một con mangút (mongose) phun ra châu ngọc. Đa Văn Thiên Vương tay cầm tháp báu - biểu thị cho kho báu; trong một số trường hợp, ông cầm con mangút (Trung Quốc gọi là con Hoa hồ điêu) nên cũng được bá tánh coi là thần Tài Lộc; do đó, vị thiên vương này được đại chúng tôn thờ phổ biến.
Chính vì hàm chứa công năng tài lộc, chủ quản kho báu ở thế gian/ đất nên theo Việt điện u linh, vị Thiên Vương này được thờ làm thần Thổ Địa ở chùa Kiến Sơ; và sau đó, được Lý Thái Tổ sai thợ đắp tượng thần, lại “sai đắp 8 pho tượng đứng hầu” - đó là 8 Yaksha (Dạ xoa), bộ hạ lưu xuất của Vaisravana (5).
Nhìn chung, văn hóa bản địa của dân tộc ta trong quá trình lịch sử đã chịu ảnh hưởng của tổng thể văn hóa tam giáo. Ở đây đó, thường hiện diện sự hỗn dung văn hóa như vậy với những chừng mực nhất định. Ở đây, trên núi Cả, các thành tố tối thiêng của dân tộc cũng hiện ra một lớp văn hóa Phật giáo, tạo thành cái thực thể mà phương tiện có thể gọi là tổng thể đạo pháp và dân tộc.

49. Khơi li ngun tu giác & khí thiêng ngút trời ca vua Pht Trn Nhân Tông

Chắc có l đa s trong quí v đều đồng ý rng vic đề cp đến vua Trn Nhân Tông là nhằm khơi li khí thiêng ngút tri ca mt bc minh quân chói sáng, sưởi m lại ngun tu giác ca mt v Thin sư nhp thế siêu phàm xuyên qua công hnh của mt v B-tát, một thiên tài chính tr gia li lc, mt người con hiếu ca hoàng gia nói riêng và của dân tc nói chung, mt người anh hùng cái thế, nhu nhuyến và cương tr, mn tip và thông li, đã ly dân làm gc và da vào sc dân là chính, biết kêu gi toàn dân đn kết thành mt khi thng nht, khiến giặc Mông Nguyên phương bc hai ln thm bi ê ch.
Vậ
y nhân l k nim 700 năm ca vua Pht Trn Nhân Tông hôm nay, chúng ta th tìm xem nhng yếu tố và những nguyên nhân nào đã t hi và kết tinh thành vua Pht Trn Nhân Tông như thế? Đâu là nhng tính trng yếu đã giúp v vua này tr thành mt bc k tài vô cùng vĩ đại ca truyn thng chng ngoi xâm, người anh hùng ca dân tc, bc minh quân tài đức song toàn, mt thin sư Vit nam chói sáng trong tinh thn nhập thế ca Pht giáo thi Trn.

1. Bỉ cc và thái lai:
Ngườ
i ta nói rng "hết cơn b cc, đến thời thái lai" dường như có v thích đáng vi công cuc ‘công nghip hóa’, ‘hin đại hóa’ và ‘xã hi hóa’ cũng như ‘thi k hi nhp kinh tế quc tế’ ‘hi nhp cộng đồng quc tế’ trong dăm ba thp niên gn đây. S dĩ nói ‘b cc’ y là ngụ ý chỉ cho dân tc Vit nam k t thi lp quc đến na đầu thế k th sáu (544) Lý Bôn tuyên ngôn dựng nước [1]. Sau đó đất nước b thng tr dưới chế độ nhà Tùy (581-618) và kéo dài mãi cho đến khi nhà Đường (618-907) sp đổ và khi chiến tranh loạn lc xy ra khp nơi trong thi Ngũ Đại (907-960) Trung Hoa thì đóng chính là thi k đất nước ta tng bước giành li độc lp. Quyn t tr đã bắt đầu manh nha t thi h Khúc, mà đáng chú ý là hu Chúa Khúc Tha D sau khi đánh đui gic Tàu, ông tìm kế bang giao để tránh nn can qua cho dân chúng và được Tàu phong cho chc Tiết độ s. K t đó dân Vit tri qua 25 năm được sng yên ổn. Như vy là vào đầu thế k th 10 cơn ‘b cực’ của dân Vit đã chm dt [2].
Hế
t cơn b cc đến thi thái lai’ là qui lut tt yếu. S dĩ nói ‘thái lai’ tức là nói đến Pht giáo và dân tc có mi quan h hu cơ bt phân ly và vô cùng quan trọng mà đã được định hình trong thi Đinh (968-980), ln mnh trong thời tin Lê (980-1009), và ánh đạo vàng được phát huy đến cc đim ca nó trong thời Lý (1010-1225) và tht s ta sáng thi Trn (1225-1400). Li na, nói ‘thái lai’ ấy tc là thi k dân tc Vit nam đã đang gt hái được nhiu thành quả kh quan mà chưa tng thy trong thi gian trước đây, m ra mt kỷ nguyên mới, mt bước ngot lch s vô cùng vĩ đại mà đã khiến các nước trên thế giới phi răn dè và khâm phc.
2. Lượ
c s lp quc:
Ngượ
c dòng lch s, nếu không có vua Hùng dựng nước tha trước, thì làm sao có Trưng Trc và Trưng Nh (43-44) ni lên đánh đui Tô Định mà được xem như là cuc cách mng ln đầu tiên trong lch sử ca Giao Ch. Nếu không có ý chí độc lp và tinh thn yêu nước, thì làm gì có Bà Triệu [3] (Triu Th Chinh) cùng vi anh là Triệu Quc Đạt pht c khi nghĩa (248), chống gic Đông Ngô (222-280), như cuc cách mng gii phóng ln th hai.
Đ
ó là vào thi Tam Quc (Ngy_220-265, Thc_221-263, Ngô_222-280) chiến tranh loạn lc Trung Hoa. Gn ba thế k dân Nam phi làm thân trâu ngựa, mt thời k nhc nhã và đen ti nht bt đầu t năm 256-420 khi Giao Châu rơi vào tay nhà Tấn (265-420); kiếp sng ca dân sinh b nô l, kéo dài cho đến thi Nam Bắc Triu (420-588), tc là thi Liêu Tng (420-479), T (479-502), Lương (502-557), và Thần (557-589). Không khí độc lp kh quan, nn can qua tm dt, dân Nam mới bt đầu hi sinh dưới thi Tin Lý (544-602) mà ni bt là cuc khi nghĩa ca Lý Bôn năm 541 đã qui t nghĩa quân đồng lòng chng gic Lương. Sau thời tin Lý Nam Đế (Lý Bôn 544-548)_cải hiu là Thiên Đức vi tên nước là Vn Xuân_Triệu Quang Phc được tôn làm Triu Vit Vương (549-571) tr vì thiên hạ được 20 năm. Đến thi hu Lý Nam Đế (571-602), tc là Lý Pht T, mt tôn tht của Lý Nam Đế đã dy quân bt ng đánh Triệu Quang Phc và lên ngôi tr vì thiên hạ được gn 30 năm.
Nói chung, kể
t thi Bc Thuc ln th I (207-111 tr. CN) là kiếp sng khn cùng ca dân Nam c kéo dài mãi cho đến khi nhà Tây Hán nắm ch quyn tc là thi k Bc Thuc ln th II (111 tr. CN đến 39 sau CN); rồi đến thi Đông Hán và Nam Bc Triu, tc là thi Bc Thuc ln th III (43-544) và ‘cơn b cc’, nn can qua mi dn dà nguôi ngoa cho đến cui thi Bắc thuc ln th IV (603-939).
Sau khi nhà Đườ
ng (618-907) Trung Hoa suy sụp thì chính là thời k Vit Nam m ra mt bước ngot mi, trang s mi, một k nguyên mi ca dân tc. Tinh thn t tr đã bt đầu manh nha t thi họ Khúc, mà đáng chú ý là hu Chúa Khúc Tha D sau khi đánh đui gic Tàu, ông tìm kế bang giao triu cng vi Tàu (tức vào cui thi Đường đang lon lc) để tránh nạn can qua cho dân chúng và ông đã được Thiên triu ca Tàu phong chc Tiết độ sứ. K t đó dân Vit tri qua 25 năm được sng yên n. Ba đời h Khúc (tiên chúa_Khúc Hạo, trung chúa_Khúc Tha M và hu chúa-Khúc Thừa D), theo s thn Ngô Sĩ Liên, đã ny mm t tr dù chưa xưng đế, xưng vương.
Kế
đó là cuộc khi nghĩa đánh tan quân Nam Hán ca Dương Đình Ngh, giành độc lp cho non sông đất nước vào năm 931. Ông t xưng là Tiết độ s và nm ch quyn được 6 năm (931-936), nhưng ri thay, vn mnh tr vì kéo dài chưa bao lâu, sau b Kiu Công Tiễn ám hi (937). Năm 938, Ngô Quyn đánh tơi t đại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Nhà Hán nut hn kéo tàn quân v Tàu, chm dt nn thng tr kéo dài 1031 năm. m 939 Ngô Quyn - tướng quân ca Dương Đình Ngh - xưng vương, đóng đô C Loa (Phú Yên), nhưng ch trđược sáu năm thì mt (937-945) [4].
Vươ
ng v không truyn cho con trưởng ca Ngô Quyn là Ngô Xương Ngp nhưng li b Tam Kha cướp ngôi ri xưng vương. Năm 950 Ngô Xương Văn - nh Dương Cát Lợi và Đỗ Cnh Thc giúp - đã chiếm li ngôi, t xưng là Nam Tn Vương, ri mời anh rut Ngô Xương Ngp cùng coi vic nước. Thế nhưng tình hình ri lon xy ra khắp nơi, hu Ngô bt lc, khiến dn đến lon Thp Nhị S Quân, kéo dài trên 20 năm (945-967) [5]. Đó là thi chiến tranh xy ra liên tc trong thi Ngũ Đại (907-960) ở Trung Hoa.

3. Thời thịnh của Đạo pháp và Dân tộc:
Nền độc lập tự trị đã được duy trì rõ nét nhất là vào năm 937, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp loạn ‘Thập Nhị Sứ Quân’ và thống nhất giang sơn, được tôn là Vạn Thắng Vương. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng (968-980), đổi tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư, lấy niên hiệu là Thái Bình Nguyên Niên "nhằm xóa hẳn vết tích thống trị của hoàng đế phong kiến Trung Hoa, nêu cao ngọn cờ thống nhất độc lập quốc gia, lập triều chính", chỉnh đốn hàng ngũ Giáo hội Tăng già cũng như định phẩm vị cho những Tăng sĩ lỗi lạc tham gia quốc chính, như: chức Khuông Việt Thái Sư cho ngài Tăng Thống Ngô Chân Lưu năm 969 và vào năm 971 được ban hiệu là Khuông Việt Đại Sư.
Phật giáo được Đinh triều công nhận là ‘quốc giáo’[6]. Đến thời Tiền Lê (980-1009), vì Đinh Tuệ còn ấu Chúa [7], Lê Hoàn cầm quân, đánh đuổi giặc Tống (Bắc Tống 960-1127). Năm 980 Lê Hoàn lên làm ngôi [8], tức là vua Lê Đại Hành, chủ trương ngoại giao, tránh nạn can qua để vỗ về lòng dân; rồi thôn tính Chiêm Thành, mở mang bờ cõi. Lê Đại Hành vẫn trọng dụng những Tăng sĩ lỗi lạc tham chính và cố vấn trong thời nhà Đinh, như thỉnh Khuông Việt làm cố vấn và Thiền sư Đỗ Pháp Thuận lo việc ngoại giao. Ngoài ra, vua cho xây các tự viện và sai sứ sang Tàu thỉnh Đại tạng kinh, trị vì được 24 năm thì băng hà.
Nhờ sự lát đường và cải cách, củng cố và thiết lập trên nhiều lãnh vực của nhiều triều đại đi trước đã tạo nền móng vững bền, đến thời Nhà Lý (1010-1225) như gấm được thêu hoa, như nhật nguyệt tỏa sáng, đường ngoại giao phát triển, hạng trí thức nâng cao. Những bậc minh quân thời nhà Lý đều là những Phật tử chân chính, những Thiền sư lỗi lạc, như: Lý Thái Tổ (1010-1028), Lý Thái Tông (1028-1054), Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1127), Lý Thần Tông (1128-1138), Lý Anh Tông (1138-1175) Lý Cao Tông (1176-1210) và cuối cùng là Lý Huệ Tông (1211-1225).
Sau khi củng cố chính trị và quân sự, chiếm đất Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi, nhà Lý thống lãnh toàn dân, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình và cường thịnh trên nhiều lãnh vực khác nhau, đúng theo đường hướng Chánh pháp, không ngừng xiển dương giáo lý Phật đà, hoằng pháp lợi sanh. Nhà Lý trị vì suốt 215 năm, trải qua 7 đời vua, là thời kỳ hoàng kim của dân tộc Việt Nam.
4. Trần triều với Đạo pháp và Dân tộc:
Nếu như sự lớn mạnh của nhà Đường ở Trung Hoa đã trở thành thời kỳ hoàng kim vì được nhà Tùy và các triều đại trước đó đã đổ công sức làm thềm thang và lập nền móng vững chắc giúp cho Đường triều phát triển trên những lãnh vực khác nhau, thì ở Việt Nam sự hưng thịnh và phát triển từ thời nhà Đinh, Tiền Lê và nhất là thời Lý đã được phát triển mạnh trên mọi lãnh vực và đã làm nền tảng vững chắc cho Trần triếu ngày càng trên đà thăng hoa và hưng thịnh.
Sự nghiệp lịch sử vẻ vang ấy được chứng minh một cách hùng hồn, mang đậm nét truyền thống văn hóa tâm linh qua sự đồng hành phát triển của Phật giáo và dân tộc mà không ai có thể phủ nhận. Đến thời nhà Trần, cơ nghiệp tổ tiên đã vững bền, non sông qui về một mối, toàn dân an cư lạc nghiệp, đất nước thanh bình thịnh trị. Đẩy mạnh truyền thống văn hóa giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước, ra sức phát huy nguồn tài năng và tiềm lực cho xã hội, nâng cao kinh tế và quân sự, thiết lập chặt chẽ mối quan hệ chính trị và ngoại giao. Mầm móng và nền tảng cường thịnh của Trần triều đã được thời Đinh, Tiền Lê và thời nhà Lý thiết lập nên những thềm thang vững chắc trên mọi lãnh vực và đã hình thành nên một nhà nước Phật giáo thuần túy.
Lấy Phật giáo làm trụ cột để khai mở và phát triển mọi phương diện và Phật giáo được cân nhắc là quốc giáo bắt đầu từ thời vua Đinh Tiên Hoàng. Gần ba thế kỷ xây dựng sự nghiệp cho đất nước, lấy Phật giáo làm kim chỉ nam để thực thi chính sách. Kết quả sự phát triển cao trên mọi lãnh vực dưới thời nhà Trần đã khiến cho nhân dân các nước khác trên thế giới phải khâm phục và vô cùng kinh ngạc nhất là sau ba lần đại phá Mông Nguyên vĩ đại, toàn dân Việt trên dưới một lòng chống giặc giữ nước, bảo vệ độc lập và chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc dưới thời nhà Trần.
Kể ra cũng ngượng khi nhắc lại những vấn đề đã được nhai đi nhai lại mãi trong các thư tịch, nhưng thiết nghĩ rằng mỗi lần đọc kỹ lại là mỗi lần cảm nhận một điều gì đó thật sự xúc động và linh thiêng. Đáng lưu tâm nhất là lời dạy của Quốc sư Trúc Lâm khuyên vua Trần Thái Tông: "Phàm làm đấng Nhân Quân thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ về cung, Bệ hạ không về sao được? Tuy nhiên, sự nghiên tầm nội điển, xin Bệ hạ đừng phút nào quên"[9] chắc chắn đã khắc sâu trong lòng của Trần Thái Tông (1218-1277).
Nghe lời khuyên của Quốc sư, vua phải miễn cưỡng lên lại ngôi vua. Từ hôm ấy, vua đã trở thành một bậc minh quân nhiệt huyết và một Phật tử thuần thành. Chúng ta hãy nghe lời bộc bạch thống thiết và chân thành của vua: "Trẫm lo việc chăn dân, mỗi lúc gian nan thường lăn lóc trong công việc quên cả sớm chiều: công việc thì có hàng vạn thứ mà thì giờ nhàn rỗi không có được bao lăm. Siêng công việc, tiếc thì giờ, Trẫm cố gắng học hành thêm. Chữ nghĩa thì chưa biết được bao lăm, cho nên ban đêm đến giờ khuya vẫn còn thức để đọc sách, hết đọc sách Nho rồi lại đọc kinh Phật"[10].
Rõ thấy được tâm huyết của một bậc minh quân, muốn thông suốt chính trị và hoạt động xã hội thì không những đọc sách Nho, mà còn phải tìm phương pháp để trau dồi nội lực cho nên phải đọc kinh Phật. Đạo đời hai hướng mà thảy đều vẹn toàn trong một bậc minh quân; đó là biết trị quốc theo Chánh pháp, và phải tự thân nỗ lực tinh tấn tu tập để tự mình được giải thoát, nghiên tầm giáo điển để hoằng pháp lợi sanh.
Không những cố vấn về lãnh vực chính trị mà còn giáo huấn cho vua phương pháp tu tập để phát huy Phật tánh đang ngủ vùi trong tiềm thức của Trần Thái Tông, Quốc sư khuyên: "Trong núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lại và trí tuệ xuất hiện, thì đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ tâm ấy, thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần phải đi tìm cực nhọc ở bên ngoài"[11]. Vậy vua Trần Thái Tông đã chứng ngộ như thế nào? Việc chứng ngộ của ngài cũng tợ như Lục Tổ Huệ Năng trước kia ngộ kinh Kim Cang. Chúng ta hãy lắng nghe vua kể: "Mười mấy năm trời, mỗi khi công việc thư rỗi, Trẫm lại họp với các vị kỳ đức để bàn luận đạo Thiền và các kinh sách nhà Phật, không cuốn nào là Trẫm không xem xét.
Có lần đọc kinh Kim Cang đến câu "Ứng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", buông kinh xuống chiêm nghiệm, Trẫm chợt thấy tự mình giác ngộ"[12]. Nếu không có người chứng ngộ kiểm chứng thì chúng ta làm sao có thể đoan chắc rằng vua Trần Thái Tông đã có sở đắc? Nghi vấn này hẳn nhiên là đúng! Nhưng cứ vào những thư tịch và luận ngữ cũng như những tác phẩm trước tác còn lưu lại của vua, thì chúng ta có thể thấy được những báu vật đã đong đầy hương thiền và chất liệu của một vị minh quân trác tuyệt, một bậc Thiền sư siêu phàm.

Vậy lẽ nào sự trải nghiệm và nghiên tầm, trau dưỡng và sở ngộ của vua Trần Thái Tông lại không truyền đạt lại cho Trần Thánh Tông (1258-1278) và không ‘rót’ vào tâm của Trần Nhân Tông hay sao? Suốt 32 năm trị vì thiên hạ, 20 năm làm Thái Thượng Hoàng, chẳng lẽ Trần Thái Tông lại không phải là người đã dạy Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông qua thân giáo bằng phương pháp hành thiền, trau dồi nội lực để phát huy Phật tánh và thuật xử thế, tài thao lược chính trị và lãnh đạo muôn dân hay sao?
Có thể khả tín, bởi Nhân Tông là hiếu tử; vì một trưa nọ nghỉ tại chùa Tư Phúc, ngài mộng thấy Phật, tỉnh giấc, ngài bèn đem chuyện ấy kể lại cho phụ hoàng nghe, lúc ấy vua Thánh Tông rất đỗi ngạc nhiên. Cũng từ đó, Nhân Tông ăn chay trường, thân thể gầy yếu. Sau khi tìm hiểu nguyên nhân, vua Thánh Tông thốt lời ta thán rất chân tình: "Ta nay đã già rồi, chỉ trông cậy vào một mình con. Nếu con cứ như vậy, thì thịnh nghiệp của Tổ tông biết trông cậy vào ai?"[13]. Chưa kể đến những tuệ đăng thiền học tinh hoa trong Khoá Hư Lục, một tuyệt tác văn học Phật giáo vô cùng giá trị của vua Thái Tông, và những tác phẩm khác của Ngài.
Sau khi vua Thái Tông nhường ngôi cho Thánh Tông và lên làm Thái Thượng Hoàng, thì chắc chắn nơi Thánh Tông và sau này Nhân Tông cũng đều được bẩm nhận một nền giáo dục đặc biệt. Hơn thế nữa, vua Nhân Tông lại được ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ trực tiếp hoặc gián tiếp giáo huấn. Rõ biết Nhân Tông được bẩm nhận sự giáo huấn từ những vị thầy tinh thông thiền học Phật giáo từ nơi ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ cùng với thuật trị nước an dân theo Chánh pháp của những Thái Tông siêu phàm và Thánh Tông trác tuyệt là điều không thể phủ nhận.
Những kỳ tích chói sáng ấy đã tạo nền móng phát triển truyền thống văn hóa Phật giáo thiêng liêng và mầu nhiệm trải qua gần 3 thế kỷ, nêu cao ý chí quật cường, phát huy cùng tột bản sắc văn hóa dân tộc, thiết lập một nền công nghiệp vĩ đại, v.v... Nếu không phải những vị minh quân như Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành cùng với những Thiền sư như: Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh, v.v... thì làm sao giữ vững được cơ nghiệp của Tổ tiên, phát huy nghĩa lý cao thâm và bí tạng của đức Như-lai, đạo đời hỗ tương dung nhiếp song hành; vì vận mệnh của dân tộc là vận mệnh sống còn của đạo pháp, của nền văn hóa Việt Phật đã kế thừa và phát huy.
Có lẽ chính vì thế mà Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ đã nói: "Những gì chúng tôi làm cho đạo pháp cũng là làm cho dân tộc. Những gì chúng tôi làm cho dân tộc cũng chính là làm cho đạo pháp". Đúng như nhà văn hóa Lê Văn Siêu đã phát biểu rằng "chính nhờ đạo Phật, một nền văn hóa cao hơn văn hóa Trung Quốc, mà Việt Nam không bị Trung Hoa đồng hóa và đã lập quốc hiên ngang, hào hùng, nghĩa là đã tái sinh, đã sống lại hiển hách, vinh quang trong lần lập quốc thứ hai, cách đây gần đúng 1.000 năm: sự khai sinh thời đại Lý Trần vào năm 1009 với minh quân Phật tử Lý Công Uẩn và quốc sư Vạn Hạnh".
"Không phải đợi đến thời đại Lý Trần, ngay từ năm 544, anh hùng dân tộc Lý Bôn đã khởi nghĩa thắng lợi, đánh đuổi quân Tàu ra khỏi bờ cõi và thành lập một quốc gia đầu tiên sau 600 năm nô lệ phương Bắc. Việc đầu tiên là ông đặt tên nước là Vạn Xuân và xây một ngôi chùa lớn đặt tên là chùa Khai Quốc (sau đổi tên thành chùa Trấn Quốc). Chùa Khai Quốc, tự tên gọi đã là một bản tuyên ngôn chính trị hùng tráng của một quốc gia Việt Nam độc lập, tự chủ, và đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn văn hóa rực rỡ: Phật giáo là Quốc Đạo của quốc gia Việt Nam, ngay từ thế kỷ thứ 6, cách đây hơn 1.450 năm. Sự kiện lịch sử này đủ để nói lên công nghiệp cứu nước và dựng nước của Phật giáo trong thời kỳ đó và chứng minh đạo Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong việc xây đắp tinh thần quốc gia của nhân dân Việt Nam"[14].
Từ những sự kiện lịch sử trọng đại như thế, chúng ta thấy rằng trong thời nhà Trần, Trần Nhân Tông đã gặp nhiều may mắn và có nhiều phước đức; vì Ngài được bẩm nhận một nền giáo dục toàn thiện đậm nét truyền thống văn hóa thiêng liêng của Phật giáo, được tôi luyện bằng ý chí và nghị lực phi phàm hội đủ chất liệu từ bi và trí tuệ của bồ-tát hạnh, một đường lối tổ chức có hệ thống thấm đượm tinh thần yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo, một tinh thần kim-cang để nhiếp phục tự thân, nhạy bén và mẫn tiệp, nhuần nhuyễn và tinh thông trong những lãnh vực chính trị và ngoại giao...
Với sự nỗ lực tu tập tự thân và sự trau dưỡng tâm linh, lại uyên thâm kinh Phật; thông thạo cả binh thư yếu lược và thuật trị nước an dân, thấy rõ chỗ mạnh yếu của quốc gia xã tắc, am tường quan điểm cương nhu trong ngoại giao, biết cảm hóa ba quân tướng sĩ và muôn dân, v.v... những nền tảng và cơ sở ấy đã hội tụ trong Trần Nhân Tông, một vị Thiền sư chơn chất, một bậc minh quân chói sáng, một chính trị gia tài ba, một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một người Việt Nam giàu bản sắc dân tộc, thuận với đức hiếu sinh, tự tin và bản lĩnh. Có lẽ không phải chủ quan, chúng ta có thể phát biểu rằng tất cả những yếu tố và nguyên nhân xảy ra trong suốt thời kỳ dựng nước và giữ nước vừa được tóm lược trên đã tụ hội và kết tinh thành đệ nhất Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Chú thích
[1] Sau thời vua Hùng, công cuộc dựng nước được thiết lập vào thế kỷ 6 & đầu thế kỷ thứ 7 (542-603) vào thời Tiền và Hậu Lý Nam Đế. Dưới sự lãnh đạo của Lý Bôn (tức Lý Bí) năm 542 cuộc khởi nghĩa đại thắng vào mùa Xuân tháng Giêng năm Giáp Tý (544). Lý Bôn tuyên cáo dựng nước, lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, xây điện Vạn Thọ, tổ chức triều đình thành một quốc gia độc lập. Chúng ta đọc: "Tiền Lý Nam Đế, tính rất thông minh, phía Bắc đánh đuổi Tiêu Tư, phía Nam dẹp yên Lâm Ấp, lập quốc hiệu, chính ngôi tôn, đặt trăm quan, định miếu hiệu, có đại lược qui hoạch của Đế Vương". Sau khi Lý Nam Đế băng hà, Triệu Quang Phục lên ngôi, lấy hiệu là Triệu Việt Vương (546-557). Sau đó Lý Phật Tử dấy quân đánh Triệu Việt Vương, đất nước tạm chia đôi cho đến năm 571 Lý Phật Tử đánh thắng Việt Vương, rồi lên ngôi vua, trị vì được 32 năm (571-603). Đức Nhuận, Đạo Phật & Dòng Sử Việt, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết học Thế Giới California USA, 1996. tr. 50-51; Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam_Tập 2, Nxb Tp. HCM, 2001, tr. 30-1.
[2] Suốt chiều dài lịch sử của "một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ là nước Việt buồn" mà lời nhạc của Trịnh Công Sơn đã đòng vọng như nhắc nhở chúng ta những người "con Rồng cháu Tiên" về nổi nhục mất nước, dân tình cơ cực lầm than và khốn khổ muôn bề. Trong thời nhà Đinh, những Thiền sư lỗi lạc của Phật giáo bắt đầu tham chính và cố vấn hoàng gia; đất nước được thanh bình và nhân dân được no ấm, mọi lãnh vực đều được phát triển.
[3] Khi còn 17, 18 tuổi đã tỏ ra chí khí phi thường và lòng yêu nước quật khởi; vì giao du rộng, tập hợp cả hàng ngàn thanh niên thiếu nữ, sớm tối luyện võ, bàn kế chống giặc. Tuổi xuân đã có chí lớn, cho nên Bà đã trả lời với anh mình - Triệu Quốc Đạt, người khuyên bà rằng là phận gái chớ nên giao du nhiều và không nên có những hành động táo báo - như vầy: "Người ta sống ở cõi đời, như mầm cây ngọn cỏ, tươi héo chỉ trong nháy mắt; từ thanh xuân cho đến già cỗi, nhanh chóng như bay; cho nên không kể là trai hay gái, phải lập công to để tiếng thơm nghìn năm. Việc gì lại phải cúi đầu, khom lưng làm tôi tớ cho kẻ khác?!". Quốc Đạt khuyên bà nên lấy chồng, chứ không nên tham gia vào việc chống giặc cứu nước, Bà dõng dạc trả lời: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở ngoài biển Đông, quét sạch quân giặc ra khỏi bờ cõi, cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời, cúi đầu khom lưng làm tì thiếp người".
Thậm chí khi nhà Ngô sai Lục Dận sang làm thứ sử Giao Châu nhằm đàn áp phong trào khởi nghĩa, Bà Triệu đã cưỡi voi chiến, lãnh đạo nghĩa quân xông pha trận địa, quân giặc phải ngao ngán than rằng "Hoằng qua dương hổ dị, đối diện Bà vương nan". Nghĩa là ‘múa giáo đánh hổ dễ, địch Vua Bà khó ghê’. Lý Khôi Việt, Hai Ngàn Năm Việt Nam và Phật giáo, Phật Học Viện Quốc Tế, 1997, tr. 68-9.
[4] Xem Đức Nhuận, Đạo Phật & Dòng Sử Việt, ... tr. 65-8; và xem Lý Khôi Việt, Hai Ngàn Năm Việt Nam & Phật Giáo, ... tr. 80-1.
[5] Xem Đức Nhuận, Đạo Phật & Dòng Sử Việt, ... tr. 65-6; và xem Lý Khôi Việt, Hai Ngàn Năm Việt Nam & Phật Giáo, Học Viện Phật Giáo Quốc Tế, 1997, tr. 80-1.
[6] "Phật giáo đã trở thành một danh xưng khác đối với chủ nghĩa nhân văn mang tính đạo đức và khoa học. Tôn giáo, trong sự giải thích của ông về đạo Phật, đã trở thành đạo đức xã hội thiết yếu cho sự hình thành mối tương hệ chính đáng giữa người với người. Ông đã khiến cho nó tỏa sáng học thuyết trực giác và cảnh giới giải thoát của nó và rồi khiến nó tổng nhiếp cả chủ nghĩa thế gian, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa yêu nước (hay chủ nghĩa dân tộc) và chủ nghĩa nhân đạo. Cho đến khi nào tôn giáo của đức Như-lai có công năng để giải bày đối với thần thông biến hóa là một nghi vấn khác".
"Ambedkar B.R. đã tâm đắc để diện kiến được sự hình thành của tôn giáo này đối với nhân loại trong xã hội loài người. Tôn giáo đã tạo nên trung tâm của sự thờ tự và sự nhiệt tâm không phải đối với Thượng đế (hay bất kỳ một đấng siêu nhiên nào) nhưng đối với sự chứng ngộ của nhân loại bằng đức hạnh chân chánh của con người. Những tăng sĩ, đối với một tôn giáo thiêng liêng như vậy, đáng nên làm những người phục hưng cho xã hội lương thiện; vì họ thấy biết rõ những qui luật của xã hội.
Ambedkar B.R. đã tin tưởng rằng ông đã khám phá ra những qui luật về một xã hội trật tự thích hợp và ông đã tâm đắc những qui luật ấy nhằm thực hiện những điều khoản cho đức tin mới. Khái niệm xã hội có tính chất mới mẻ của ông đã trao truyền cảm hứng cho loài người để kiểm chứng lại những ưa thích được phong (hoặc ban) tặng của những cá nhân. Đối tượng của sự tôn kính không phải là Thượng đế, cũng không phải là đức Phật nhưng chính con người. Con người không có xã hội thì không thể được tiếp nhận. Vậy là sự phát triển của triết học mang tính chất nhân văn trong tư tưởng và hành động của Ambedkar". Jatava, D.R., Political philosophy of B.R.Ambedkar, ... tr. xix.
[7] Trị vì được 12 năm, về sau Đinh Tiên Hoàng và con cả là Nam Việt Vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích mưu sát, sau đó Đỗ Thích cũng bị bắt và bị giết. Đinh Tuệ mới sáu tuổi lên kế ngôi vua, mọi việc triều chính và quyền hành đều nằm trong tay Lê Hoàn và Dương Thái Hậu đảm nhiệm. Đức Nhuận, Đạo Phật và Dòng Sử Việt,... xem lời ghi chú tr. 70-1.
[8] Nhờ tư thông với Thái Hậu và sự ủng hộ của Phạm Cự Lương và quân sĩ, họ đã tôn Lê Hoàn lên ngôi vua để chống giặc Tống, nhằm bảo toàn nền độc lập tự chủ của quốc gia Đại Cồ Việt. Sđd

5. Hoa đạo bất diệt của Việt Nam:
Sơ Tổ Phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông tục danh là Trần Khâm, sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu ngọ, niên hiệu Nguyên Phong thứ VIII (1258), con trưởng của Thượng hoàng Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu. ‘Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái Tử, Ngài cố ý từ chối; vì muốn nhường ngôi cho em nhưng Phụ hoàng Trần Thánh Tông không chịu.
Vốn bẩm tính thông minh, hiếu học, đa tài, đọc thông ngoại điển và am tường ngoại điển, thường cùng những vị Tôn đức trong chốn thiền gia tham cứu Thiền học; đặc biệt được sự giáo huấn của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, nên càng uyên thâm kinh Phật. Năm 21 tuổi được Thượng hoàng truyền ngôi và lấy niên hiệu là Thiệu Bảo Nguyên Niên (1279)’[15]. Đường đường là đấng minh quân, Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh, ngày ngày tham gia triều chính, đêm về tá túc ở chùa Tư Phúc trong nội thành. Năm 41 tuổi xuất gia và tịch năm 1308, thọ 51 tuổi, trị vì ngôi vua được 14 năm (1279-1293).
Khi được hạ sanh "Vua được tinh anh của Thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tưới sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là ‘Vua lên ngôi năm 21 tuổi, trị vì 14 năm, đến niên hiệu Trùng Hưng thứ IX (năm Quí tỵ) thì nhường ngôi cho con là Anh Tông. Cách mấy năm sau xuất gia, ở hành cung Vũ Lâm, rồi sau ra tu ở núi Yên Tử và băng ở am Ngọa Vân. Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng làm vẻ vang đời trước. Thực là vị vua hiếu của nhà Trần..."[16].
Ròng rã suốt 6 năm giáo huấn và trang bị đầy đủ phép thuật trị nước an dân và phương pháp tu thân để trau dưỡng nội lực nhằm giúp cho con trở thành một bậc minh quân chơn chánh. Sắp xếp mọi việc chu đáo, Ngài truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng. Từ đây bắt đầu một cuộc đời mới, đó là vào năm 41 tuổi Ngài quyết định làm lễ xuất gia hành đạo [17] (1299) tại núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Kế đó, việc dựng chùa, cất Tinh xá, tiếp chúng độ Tăng, và cũng trong quãng thời gian ấy; cũng như việc vãng lai để giáo hóa và thuyết pháp độ sanh tại chùa Phổ Minh, lập giảng đường tại Phủ Thiên Trường, rồi vân du đến Bố Chánh lập Am Tri Kiến và lưu trú tại đây.
Những sự kiện khác như sau khi hai cuộc đại thắng Mông Nguyên[18] và khi đất nước được thái bình, Ngài đã đi khắp nơi, khuyến hóa dân chúng, dẹp bỏ những dâm từ, hành theo pháp Thập Thiện; rồi việc truyền giới Bồ-tát tại gia cho vua Anh Tông năm 1304, cũng như lên chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền yếu chỉ Thiền học cho môn đồ.
Năm 1308, lệnh cho Pháp Loa đến huyện Siêu Loaị tại Báo Ân Thiên Tự để khai giảng trú trì. Cùng năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang kiết hạ, sau khi giảng Truyền Đăng Lục và mãn hạ, Ngài lại hồi qui Yên Tử sơn. Ngài lại đăng Am Tử Tiêu, lệnh Pháp Loa giảng Truyền Đăng Lục, cho đến việc hạ sơn đích thân thăm Công chúa Thiên Đoan, ... cuối cùng là cuộc tọa đàm về thiền học và giải tỏa những nghi ngờ với Bảo Sát và chuyện Ngài đã viên tịch tại Am Ngọa Vân; cũng như những tác phẩm của Ngài...[19] Những chi tiết và những sự kiện như thế đã được nhiều sách sử ghi chép khá đầy đủ, ở đây xin khỏi phải nhắc lại.
Trộm nghĩ rằng, khuynh hướng và tư tưởng Thiền học của Phật Hoàng Trần Nhân Tông thảy đều được hấp thụ từ phụ vương, từ những bậc minh quân liệt Tổ liệt Tôn và từ những Thiền sư tiền bối đã giúp Ngài nghiễm nhiên trở thành như những gì Ngài đã trở thành. Nhiều sách vở cả nội điển lẫn sử học đã không hết lời ca ngợi và tán dương.
Với đạo pháp và dân tộc, hùng thiêng ngút trời và nghĩa khí cao ngất của Lý Công Uẩn; trí tuệ chói sáng xuyên qua tài chính trị siêu phàm của Vạn Hạnh Thiền sư; vì chính nghĩa bảo tồn đạo pháp và dân tộc xuyên qua tài hùng biện ngoại giao sắc nhạy và kỹ năng tham chính cố vấn kỳ tuyệt của Thái sư Khuông Việt và Thiền sư Pháp Thuận... tất cả đã kết thành hoa đạo bất diệt của Việt Nam.
Vực dậy tinh thần yêu nước, sức chiến đấu quật khởi và chân lý khả xâm phạm chủ quyền xuyên qua Bài kệ tuyên ngôn độc lập bất hủ của Lý Thường Kiệt; "Lời Hịch Tướng Sĩ" của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đã thật sự nung nấu ba quân tướng sĩ, khích lệ lòng dân - Hội nghị Bình Than (1282) và Hội nghị Diên Hồng (1285) - tất cả dân tộc Việt nam trên dưới một lòng chống giặc giữ nước, nêu cao chủ quyền độc lập của dân tộc, chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, mà đã được những vị tiền bối hữu công đi trước đã kế thừa và phát huy.
Tất cả những dữ kiện lịch sử trọng đại ấy đã hợp thành một thể thống nhất, một thiên anh hùng ca bất diệt, chấn động vang cả đất trời, cảm đến hồn thiêng sông núi. Chính những yếu tố quan trọng ấy đã nung nấu chí khí kiên cường và tinh thần chiến đấu quật khởi của toàn dân, cuối cùng đã giúp vua Nhân Tôn hai lần đại phá giặc Nguyên. Đó là những trang sử vàng chói sáng và cũng là những bước ngoặt lịch sử hào hùng và vô cùng vĩ đại của dân tộc Việt nam với đạo pháp mầu nhiệm.
Chỉ một câu nói thì đất nước phồn vinh, hành theo chánh đạo và nhân dân ai nấy đều hết lòng ủng hộ, như Quốc Sư Trúc Lâm đã từng khuyên Thái Tông giữ vững cơ nghiệp thịnh trị của Tổ tiên và ra sức xây dựng cho đạo pháp được nở hoa và nhân dân được no ấm. Cũng một câu nói khiến cho Nhân Tông yên lòng và ba quân tướng sĩ đều hưng phấn và tự tin, giàu chí khí và nghị lực với niềm tin tất thắng như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã từng đáp lời vua Nhân Tông khi đất nước đứng trước nguy cơ ngàn cân treo sợi tóc’ và với Lời Hịch Tướng Sĩ’ trong ‘Binh Thư Yếu Lược’ đã làm nức lòng muôn dân. Thế chẳng phải là càng ôn lại những nét son của lịch sử Phật giáo Việt nam thì càng sưởi ấm lại niềm tự hào của dân tộc. Càng điểm lại uy danh của các thiền gia Phật giáo thì càng khơi lại những đèn Thiền Tổ đạo và hương vị thượng diệu của Chánh pháp. Chưa kể đến ngọn đuốc thiêu thân bảo tồn đạo pháp đầu tiên và vô cùng thiêng liêng của Cố Hòa thượng Thích Quảng Đức mà tự cổ chí kim chưa từng thấy trong lịch sử.

6. Lửa thiêng đã cháy - Đề phòng Cảnh giác:

Với chủ trương bất bạo động của Phật giáo và thanh niên phụng sự xã hội cũng như mọi tầng lớp trí thức bảo vệ đạo pháp, những ngọn đuốc thiêu thân vì đạo pháp vì dân tộc lần lượt đi theo tiếng gọi lửa thiêng của Bồ-tát Quảng Đức dưới thời chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm. Nhờ chủ trương bất bạo động bằng những ngọn đuốc thiêu thân đã khiến cho nhân dân trên thế giới kinh ngạc và sững sờ, khâm phục và kính tiếc, tiếng vang xa đến nhiều nước trên thế giới, rồi nó vang dội lại thức tỉnh kẻ bán nước hại dân, hủy hoại đạo pháp, phá bỏ tự do tín ngưỡng tôn giáo, dập tắt những ‘ý đồ ma mãnh’ và ‘âm mưu thâm độc’ của những kẻ lạm dụng chức quyền, lợi dụng Tôn giáo, biến tôn giáo thành công cụ đấu tranh phi nghĩa, vì những lợi ích hẹp hòi, coi thường tín ngưỡng, bán rẽ dân tộc.
Nhất là chính sách ‘gia đình trị’ vô cùng tàn ác và hết sức bạo động của Diệm Nhu, muốn triệt tiêu Phật giáo dưới mọi hình thức và với những luận điệu xuyên tạc, vu oan giáng họa, bằng âm mưu ngông cuồng và điên rồ, hòng thực hiện một nước Thiên Chúa giáo trên toàn lãnh thổ Việt nam nói riêng và Châu Á nói chung, Châu Á nói riêng và Châu Âu, Châu Mỹ và các Châu khác nói chung[20].
Cuộc đấu tranh chống kỳ thị Tôn giáo và bảo vệ đạo pháp đã làm chấn động nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước cũng như các Tôn giáo khác trên thế giới bằng ngọn lửa thiêng của Bồ-tát Thích Quảng Đức. Rất nhiều Tăng Ni và tín đồ Phật giáo đã tự đốt thân mình để bảo tồn đạo pháp, cực lực lên án chế độ bù nhìn của Diệm Nhu; vì lợi ích cá nhân hẹp hòi đã mượn ‘chiêu bài tôn giáo’ để đả phá tự do tín ngưỡng, hủy hoại nền văn hóa truyền thống đậm bản sắc dân tộc; họ phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh phi nghĩa, bạo động, phi nhân bản của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tay sai của đế quốc Mỹ. Và hôm nay, tất cả đã qua rồi bao ác mộng, đã qua rồi ‘cơn bỉ cực’, đất nước đã đến ‘thời thái lai’.
Đối với những người sử dụng ‘chính trị vị chính trị’ là những chính trị gia bất chánh. Vì chính trị cũng là một trong những chính sách lãnh đạo và đóng vai trò quan trọng trong nhiều lãnh vực khác nhau, là phương tiện để làm lợi ích cho dân tộc và xã hội, cho quốc gia đất nước. Thế nhưng những ‘chúa chổm’ một khi sử dụng chính trị để ‘vinh thân phì gia’, vì những lợi ích hẹp hòi, thường gây tác hại rất lớn, ảnh hưởng mạnh đến đường lối chủ trương của tầng lớp lãnh đạo.
Bởi những chính trị gia rơi vào khuynh hướng này thường đặt lợi ích cá nhân và gia đình lên trên quyền lợi của quốc gia dân tộc. Những kẻ làm chính trị mà lạm dụng chính trị, luôn là mối đe dọa đối với quốc dân, uy tín và thanh danh của dân tộc sẽ bị chà đạp, đạo đức cá nhân sẽ bị hủy hoại, tiềm lực quốc gia và ngân sách của nhà nước sẽ bị phá sản dưới những chiêu bài và âm mưu của những kẻ thi hành việc ngoại giao với mưu đồ lợi dưỡng. Đó là những con ‘cáo già đáng lờm’ đã sử dụng chính trị vị chính trị. Ngược lại với khuynh hướng này là những gì chúng ta gọi là ‘chính trị vị nhân sinh’.

7. Hiện tượng thăng trầm:
Sự
thăng trm ca lch s, t xưa đến nay, tợ như nhng làn sóng bin trên mt đại dương, hết làn sóng này chìm xung lại đến làn sóng khác ni lên; nhưng đại dương vn mãi là đại dương. Cũng vy, hết chế độ này li đến chế độ khác, hết triu đại này li đến triu đại khác. Từ thời lp quc, hết thi k Bc thuc, đến thi k nhà Đinh, thi tin Lê, thi nhà Lý, thời nhà Trn, v.v.. ri đến thi Bo Đại, thi Ngô Đình Dim, thi Mỹ Ngụy, nay là thi k Cách mng[21].
Tấ
t c chế độ hay triu đại thy đều do con người hình thành, ch không phi do một đấng ti cao nào thiết lp. Thi nhà Lý, thời nhà Trn không dng dưng m ra bước ngot vĩ đại cho đất nước, cũng không phải ngu nhiên đạt đến cái ‘quc hn, quc túy’ ca dân tc, mà nó đã được un đúc t nhng nguyên nhân ni ti và ngoi ti khác nhau.
Đố
i vi Trung Hoa, nhà Đường đã phát trin toàn din trên mi lãnh vc, như: văn hóa và truyền thng, giáo dc và xã hi, tôn giáo và triết hc, kinh tế và chính trị ngoại giao, v.v... đều đạt đến đỉnh đim ca nó. Ti Vit nam, thi Lý và Trnng đã phát trin toàn din trên mi lãnh vc không khác. Như vy s thăng trm của lch s xuyên qua các triu đại là hin tượng ca xã hi, và gn như là qui luật tương quan sinh tn ca vn hu vũ tr. Đó là qu đạo tun hoàn ca vn pháp và cũng chính là hiện tượng thăng trm ca lch s.
Vậ
n tc ca mt chiếc xe chy lên dc, theo vt lý hc, dc càng cao thì vn tc càng gim, và cho đến khi nào chiếc xe y lên đến tn cùng ca đỉnh dc thì by gi vn tc (V) của xe y bng ‘không’, ký hiu là V = 0. Ngay khi vận tc ca xe bng ‘không’ thì chính là thời đim ca xe bt đầu xung dc. Tương t, thi nhà Trn đã đạt đến đỉnh cao nht ca nó và cũng t đó, Trn triu by gi như chiếc xe xuống dc. Suy rng ra, nếu phóng tm kho sát xuyên quc, chúng ta cũng thy Phật giáo trong thi đức Pht n Độ đã phát trin đến tt cùng và đến cc đim của nó và ri bt đầu suy tàn dn, t như chiếc xe lao xung dc.
Tự
u trung, nhà Trần được lit vào thi hoàng kim rc r ca dân tc và đạo pháp. Thế nhưng tt cả đã qua ri, đúng như nhng din biến đổi thay vn mnh ca đạo pháp và dân tộc. Điu đáng chú ý đây là nhng thi k hưng thnh nht ca lch sử Phật giáo Vit Nam trong thi Đinh, tin Lê, Lý và Trn đã cho chúng ta thy rằng Pht giáo đã đóng vai trò vô cùng quan trọng đối vi vn mnh sng còn ca dân tộc và đạo pháp, ch không phi mt tôn giáo ngoi lai nào khác.
Vậ
y kinh nghiệm cho thy, ngay trong thi bình cn phi nghĩ đến cái hướng duy trì lâu dài. Nói như Nho giáo có l ít người trong xã hội nghĩ được rng ‘người quân tử đang sng trong thi bình, cn phi nhìn xa trông rng đến nhng mm móng loạn lc và tai ha luôn rình rp dy khi’. Khác vi Nho giáo, Pht giáo trong thời bình cũng như thi lon, đều luôn khuyến hóa con người phi t làm chủ tâm mình, cần trang tri và qung bá giáo lý ca đức Pht để nâng cao trí giác cho muôn người, không tham quyn c v, mà phi thc thi tinh thn bình đẳng, vô ngã vị tha.
8. Trần Nhân Tông & Chính trị
8.1. Trần Nhân Tông - bậc Vĩ Nhân:
Những bậc minh quân nổi tiếng như: hoàng đế Aśoka (A-dục) ở Ấn Độ, Lương Võ Đế ở Trung Hoa và Trần Nhân Tông ở Việt Nam có lẽ được tôn kính như là những bậc Đại nhân. Họ không những chỉ là những con người bằng xương thịt mà xuyên qua những phép mầu tạo nên những kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc với một sự phát triển chuyển tiếp vô cùng qui mô đã làm kinh hoàng (gây sốc) và làm choáng váng những người bạn đồng hành cùng thời bằng những chiến công vô cùng vĩ đại của họ. Còn đối với những vị anh hùng quân đội, thì Ambedkar, một trong những chính trị gia nổi tiếng, cho rằng "‘Những kết quả miên viễn của họ trên bình diện lịch sử của nhân loại thì rất nhỏ’.
Vì những con người vĩ đại như vậy, họ không lưu lại một ‘dấu vết trường cửu nào trên đặc tính của xã hội mà họ đã sống trong đó’, tuy "những chi tiết ghi lại về sự nghiệp và đạo đức của họ, nhưng chúng không ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội và hình thức không phải là chất men (sống động) để chuyển tiếp cho tất cả con người’"[22]. Rõ ràng với AmBedkar, những anh hùng quân đội, như: Alexander, Attila, Caesar, Tamberlane, v.v... là những người anh hùng vĩ đại, nhưng đó không phải đặc tính trường cửu và bất diệt trong lịch sử của loài người. Đối với một số tư tưởng gia cho rằng "lòng nhân" (sincerity) là tín hiệu của sự vĩ đại; còn đối với một số khác thì cho rằng "trí năng" hoặc "trí tuệ" (intellect) là đủ để làm một con người vĩ đại.
Thế nhưng đối với những quan niệm như thế theo Ambedkar thì chưa đúng; vì cho đến khi nào kết hợp cả hai "lòng nhân" và "trí tuệ" thì mới có thể giúp cho con người trở thành bậc đại nhân. Ambedkar nói: "Một con người trở nên vĩ đại vì vị ấy đã tìm ra một con đường cứu tinh cho xã hội trong những tình huống nguy khốn nhất của nó. Nhưng những gì có thể giúp cho vị ấy tìm ra được đạo lộ này? Ông ta có thể làm được như vậy là nhờ vào trí tuệ. Trí tuệ là ánh sáng. Không điều gì khác hơn trí tuệ mà có thể thực thi đối với bất kỳ sự hữu ích nào... nếu không có kết hợp nhu nhuyến giữa ‘lòng nhân’ và ‘trí tuệ’ thì không một ai có thể trở thành vĩ đại"[23].
Với quan điểm này, Chủ tịch Hồ Chủ Tịch có lẽ xứng với danh nghĩa của một bậc đại nhân trong mối tương hệ với con người, xã hội và đất nước cũng như với các quốc gia khác trên thế giới. Bởi trong con người của Cụ Hồ là sự hội tụ và kết tinh của một nhân vật kỳ tài đã thông suốt hai dòng tư tưởng Đông Tây, vượt ra khỏi chế độ tư bản và giai cấp nô lệ rồi thoát xác và hình thành một quốc gia thật sự tự chủ bằng giai cấp vô sản, dựa vào sức dân là chính, lấy dân làm gốc, làm sinh mệnh sống còn cho đất nước cho dân tộc. Đó là tín hiệu "khó trăm lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong". Vậy những yếu tố đó không phải là lòng nhân và trí tuệ chăng? Đó là chúng ta chưa kể đến sự nghiệp vĩ đại trong tính chất vi mô và vĩ mô của những truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Như đức Khổng Tử, người có lòng nhân và trí tuệ nhưng không phải là một người anh hùng, cũng không phải là một chính trị gia và càng không phải là một vị Thiền sư. Nếu xét những học thuyết chính thống như ‘Tứ Thư’ và ‘Ngũ Kinh’ cũng như các luật tắc về ‘Tam cương’ và ‘Ngũ thường’ của Nho giáo, thì đức Khổng Tử chỉ là một nhà Giáo dục, một nhà Đạo đức và một bậc Thánh nhân theo sự tôn kính của nhân dân Trung Hoa. Luận Ngữ của đức Khổng Tử cùng với một hệ thống giáo lý của Nho giáo, như thế đã đủ để thiết lập một xã hội trật tự và hài hòa giữa cá nhân, gia đình và nhà nước.
Nhưng ý thức chính trị, xã hội và tôn giáo trong hệ thống Nho giáo thường bị những kẻ quyền lực lạm dụng Nho giáo làm công cụ thống trị với khuynh hướng độc tài, cho nên Nho giáo bị biến thái và mất chất. Ngược lại, những hiền thánh xưa kia cũng đã xuất hiện rất nhiều trong lịch sử của Nho giáo. Thế nhưng mấy ai dám khẳng định rằng những hiền thánh ấy đã ra khỏi ba cõi? Đức Khổng Tử đã thoát khỏi tam giới? Đối với Phật giáo thì có lẽ là không!
Đối với những bậc minh quân xưa nay, dĩ nhiên không giống như đại đế Aśoka ở Ấn Độ; vì đại đế Aśoka đã chiến thắng hàng vạn quân địch nhưng chưa có thể tự chiến thắng mình, mà có thể sánh với Lương Võ Đế (454-549) ở Trung Hoa thì có lẽ đúng hơn; vì vua Lương Võ Đế đã tự chiến thắng mình rất ưu việt, tuy rằng không thắng hàng ngàn quân địch để thống nhất đất nước trị vì thiên hạ. Trần Nhân Tông đã thật sự chiến thắng cả hai: chiến thắng hàng vạn giặc Nguyên và cũng đã tự chiến thắng mình; vì "chiến thắng chính mình là chiến công oanh liệt nhất".
Được một nền giáo dục Phật giáo toàn thiện từ những bậc minh quân chói sáng trước kia, mà nhất là Phụ hoàng của ngài, vua Trần Thánh Tông, vua Nhân Tông đã nghiễm nhiên trở thành một chính trị gia dày dạn kinh nghiệm và đầy bản lĩnh, một vị anh hùng cái thế siêu quần, tinh thông và bén nhạy, một bậc minh quân tài đức song toàn vô cùng vĩ đại của dân tộc, của đạo pháp. Hơn thế nữa, được kết tinh và hội tụ cả ba dòng thiền: Vinitaruci (Tỳ-ni-đa-lưu-chi_594), Vô Ngôn Thông (860) và Thảo Đường (1055-1205); đặc biệt với sự dung nhiếp cả ba hệ tư tưởng: Thiền, Tịnh và Mật; tất cả những chất liệu ấy đã tưới tẩm và thấm sâu vào nội tâm của Trần Nhân Tông.

Nhờ đó, chính Ngài đã thoát xác và tiêu hóa, lãnh hội và phát triển thành diệu pháp thượng vị và trưởng dưỡng thành một vị Thiền sư chơn chất lỗi lạc - dù thầy của ngài là Tuệ Trung Thượng Sĩ với một cuộc sống phóng khoáng, tự tại vô ngại, bất kỳ nơi đâu và trong bất kỳ tình huống nào. Nếu sánh ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ trong thời nhà Trần ở Việt Nam, thì vua Trần Nhân Tông chưa bằng mà chỉ có thể sánh với ngài Tịnh Danh (tức là ngài Duy Ma Cật) ở Ấn Độ mới bì kịp, mới sánh đặng.
8.2. Trầ
n Nhân Tông - Chính tr v nhân sinh:
Sự nghip chính tr và ngoi giao có nhiu xu hướng khác nhau. Tuy nhiên nó không ngoài hai khuynh hướng chính: chính tr vị nhân sinh và chính trị v chính tr. Hn nhiên, khuynh hướng th nht cũng khó có thể tránh khi nhng li ích tư hu và ngn c ca danh vng. Song nhng chính trị gia vi khuynh hướng này nếu đặt li ích ca quc gia dân tc lên trên những li ích nh, ích k và hp hòi, không vì tham quyn c v, thì vn là những mũi nhn cho đất nước. Đối vi khuynh hướng th hai đây có l chúng ta miễn bàn. Bi nhng chính tr gia rơi vào khuynh hướng này thường đặt li ích cá nhân và gia đình lên trên quyn li ca quc gia dân tc. Nhng người làm chính trị mà lm dng chính tr, thi hành vic ngoại giao vi mưu đồ li dưỡng.
Đố
i vi khuynh hướng th nht, chính tr v nhân sinh là nhng nhà chính trị li lc và hu như mi yếu t đều đạt chun. Nhng chính tr gia như thế rt hiếm tìm thy trong mi thi đại. Bi mi li ích ca quc gia và dân tộc được đặt lên hàng đầu, vì xem uy tín và thanh danh, quyn li ca đất nước là trên hết. Có thế mi có th quên mình vì nghĩa ln, vì li ích ln, không những rng r lch s dân tc hôm nay mà còn là nhng tm gương đáng được hu thế noi theo.
Chính trị
v nhân sinh đã được th hin rõ nơi bc minh quân chói sáng của thi Trn triu. Vua Nhân Tông đã hp th được mt s giáo huấn cn thn v phương din chính tr và ngoi giao nơi Thái Thượng Hoàng Trần Thái Tông và Thượng Hoàng Trn Thánh Tông. Xu hướng chính tr ca vua Nhân Tông đã được biu hin rõ bng sc mnh ca khi đoàn kết toàn dân. Đó là khi giặc Nguyên xâm lăng Đại Vit ln th hai vào cui năm 1282. Trước tình thế cp bách và nghiêm trọng bi sc mnh ca gic t phía Bc tràn xung, vua Nhân Tông đã triu tp Hi Ngh Bình Than, gm các vương hu, văn võ bách quan bên sông Bình Than huyện Quế Dương (Bc Ninh) để bàn kế hoch chng gic cu nước.
Đặ
c bit ti Hi ngh này Trn Khánh Dư được phc chc Phó đô Tướng quân và sự xut hin của Trn Quc Ton, tui tr nhưng chí ln [24] . Điu đáng lưu tâm ở đây là ging như Bình Ngô Đại Cáo ca Nguyn Trãi xưa kia, Binh Thư Yếu Lược ca Hưng Đạo Đại Vương Trn Quc Tun, tc là Li Hch Tướng Sĩ, đã kích thích và nung nấu ý chí, làm tăng mnh thêm khí thế chiến đấu ca ba quân tướng. Nh s kêu gi ca Trn triu và s đoàn kết mt lòng trên t vua quan văn võ, dưới đến th dân, c nước ai ny đều mt lòng, chun b lương thc và khí giới, tinh thn hưng phn, sn sàng chiến đấu quyết tâm đánh gic, vì nước hy sinh, bảo tn b cõi.
Đặ
c bit, vào đầu năm 1285, vua Nhân Tông triu tập Hi Ngh Diên Hng, mi các bc ph lão, nhng đại biu ca dân, v Thăng Long dự hi, nhm trưng cu dân ý, tìm phương kế chng gic. Kết qu Hi nghị này đã khơi dy tinh thn t ch và quyn li ca nhân dân, cho nên tt c đều thống nht và đồng thanh ‘quyết đánh’.[25] Bi đất hp người thưa, vũ khí còn nông nổi, sánh sao đặng Mông Nguyên, vang lng Âu sang Á, tinh nhu và bách thắng, không nước nào cn nn.
Nhấ
n mnh tinh thn yêu nước, nêu cao quyền độc lp t ch, đả phá phong kiến độc tài, do đó c hai Hi ngh này đã biểu hin rõ tính dân ch và sc mnh đoàn kết ca toàn dân; vì "khó trăm ln, không dân cũng chu; khó trăm ln, dân liu cũng xong". Vẫn biết Trn triu cònnh hưởng sâu đậm tư tưởng độc tài ca chế độ phong kiến, nhưng vic trưng cu dân ý, khơi dy tinh thn t ch, yêu nước chng gic ngoi xâm, gi yên non sông gấm vóc, là mt sách lược tài ba, làm ni bt đường hướng lãnh đạo sáng suốt và bn lĩnh, hiên ngang và bt khut ca vua Trn Nhân Tông đã hết lòng vì nước vì dân, quyết hiến thân cho đạo pháp cho dân tc.
Chủ
trương y đã nhấn mnh đến tinh thn bình đằng và quyn t ch rõ rt: không phân bit dòng dõi hay sắc dân, không kể tôn giáo hay tín ngưỡng, dù thành th hay nhng minn cước, là người Vit Nam phi đứng lên chng gic gi nước; đó là đòn tâm lý chính trị sng động, da vào sc dân là chính, ly dân làm gc để làm vn mnh sống còn cho dân tc. Đặc bit nht là, song song với khí thế qut khi và tinh thần bt khut ca hai Hi Ngh y, v đại H pháp ni bt là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quc Tun xuyên qua Li Hch Tướng Sĩ, mt Binh Thư Yếu Lược ca ngài đã làm nức lòng ba quân tướng sĩ, vc dy truyn thng chng ngoi xâm, nêu cao tinh thần yêu nước và ch quyn dân tc, quyết bo tn và gi vng nn độc lp cho đất nước. Qu tht, Trn triu đã rt tinh tế và vô cùng nhu nhuyến, biết kết hp c ba: thiên thi, địa li và nhân hòa, là sc mnh đoàn kết toàn dân thành một khi thng nht, là thành công ln trên mt trn tư tưởng, gi gìn bn sắc văn hóa ca dân tc.
Đ
áng lưu ý nht trong công cuc phát động toàn dân tham gia kháng chiến là vua Trn Nhân Tông đã đạp đổ quan nim bo th c hủ và chế độ phong kiến độc tài, m ra mt cuc cách mng tư tưởng dân ch bình đẳng và biu hin bn sc văn hóa dân tc đại đồng. Phi chăng đây là s biu hiện tinh thn vô ngã và v tha trong thâm tâm ca mt bc minh quân Pht giáo? Đó là mt thành công ln ca vua Nhân Tông trong công cuộc đoàn kết toàn dân vàng là chiến thng ln v lãnh vc tâm lý đối vi toàn quân dân Vit. Chng tỏ vua Trần Nhân Tông là chính tr gia tài ba, lãnh đạo gia sáng sut và cũng là tư tưởng gia vĩ đại, mà chúng ta rt hiếm thy nhng v quân vương đời trước.
Chú thích
[15] Có sách ghi rằ
ng Ngài lên ngôi năm Mu dn (1278), Thích Phước Sơn, Tam T Thc Lc, Vin Nghiên Cu Pht Học Vit Nam, 1995, tr. 17. Niên đại này tuy tác gi da vào Thánh Đăng Thc Lục, nhưng bên dưới có ghi chú rằng theo Đại Vit S Ký Toàn Thư, vua lên ngôing vào năm Mu dn, niên hiu Bo Phù th 6 (1278).
[16] Trích dẫ
n Đại Việt S Ký Toàn Thư, Đức Nhun, Đạo Pht và Dòng S Vit,... tr. 291-2; và xem Nguyễn Lang, Vit Nam Pht Giáo S Lun I, II, III, Nhà Xuất bn Văn Hc, Hà Nội, 2000, tr. 279-280.
[17] Nhân Tông, lúc 16 tuổ
i được lp làm Thái t, bấy gi đã có chí đi tu, xin nhường ngôi cho em, nhưng vua Thánh Tông không chịu. Đến khi chính thc nhn truyn, ban ngày thì làm vic nước, ban đêm vn tụng kinh. Đến đây li cùng các v Tăng Pháp Loa (Đồng Kiên Cương), Huyn Quang (Lý Đạo Tái) vân du các núi An T, Lôi Âm ging cu ni đin nhà Pht. Ngô Thi Sỹ, Vit S Tiêu Án, Văn Hóa Á Châu, 1960, tr. 212.
[18] Công cuộ
c đại phá Mông Nguyên lần th II (1285) và lần th III (1288), xem chi tiết Đức Nhun, Đạo Pht và Dòng S Vit, ... tr. 251-285; và xem Vin S Hc, Khâm Định Vit Sử Thông Giám Cương Mc_Tp 1, Nxb Giáo Dc, 1998, tr. 511-26 & 529-39; và xem chi tiết Lê Mnh Thát, Trn Nhân Tông Toàn Tp, Nxb Tp. HCM, 2000, tr. 56-107 & 108-153.
[19] Xem Thích Thanh Từ
, Tam T Trúc Lâm Ging Gii, Thin Viện Thường Chiếu, 1997, tr. 11-8; và xem Thin Sư Vit Nam cùng mt Tác gi, Thành Hội Pht giáo TP. HCM, 1992, tr. 288-302; cũng xem Thích Phước Sơn, Tam Tổ Thực Lc, .... tr. 18-35; và cũng xem Vin Triết Hc, Lch S Pht Giáo Vit Nam, Nhà xuất bn Khoa Hc Xã Hi, 1988, tr. 246-256.
[20] Xem Bùi Kha và nhiề
u tác gi, La Vang Giáo S, Giao Đim, 2007, tr. 63-83; và xem Ngô Triêu Lịch và nhiu tác gi, Bang Giao Với Vatican nên hay không?, Giao Đim, 2006, tr. 166-171.
[21] Về
công ngh cũng tương t, hết thi k hoang dã, đến thi đồ đá, thi k đồ st, thi k đồ đồng, ri đến thi k thông tin vin thông, vi tính, nguyên tử, v.v...
[22] Jatava, D.R., Political philosophy of B.R.Ambedkar, National Publishing House, Jaipur and Delhi, 2001, tr. 14.
[23] Jatava, D.R., Political philosophy of B.R.Ambedkar, ... tr. 14.
[24] Trầ
n Khánh Dư, mt tướng tài trong ln đại thng quân Nguyên năm 1257, vì phạm ti cho nên bị lt chc, sau được mi tham gia kháng chiến. Đối với Trn Quc Ton, tuy mi 15 tui, tuy không được tham d trc tiếp hi ngh - đã t mình đứng ra chiêu m được 1.000 nghĩa quân, giương cao c đại nghĩa "Phá cường địch, báo Hoàng ân", kéo thẳng đến trn mc để chng gic cu nước. Xem Phạm Văn Sơn, Vit S Tân Biên, ... 1959, tr. 174-5; và xem Đức Nhun, Đạo Pht & Dòng Sử Vit..., 1996, tr. 253-4; và xem Lê Mnh Thát, Trn Nhân Tông Toàn Tập,... tr. 51.
[25] Chúng ta đọ
c: "Tháng 12, Thái Thượng hoàng Trn Thánh Tông triệu tp các bô lão trong c nước v đãi tic , hi kế đánh gic. Để trả li câu hi ca vua v vic có nên đánh hay không, các v bô lão đã ‘muôn người như cùng mt li’, đáp li ‘nên đánh’. Nhà s hc Ngô S Liên bình lun về hành động này, đã nói: "Thánh Tông mun làm thế để xem s ái h thành tht ca hạ dân và mun cho h nghe d hi mà cm kích hăng hái lên". Đúng thế hi nghị Diên Hồng là mt cuc vn động tư tưởng ln, nhm ph biến rng rãi ch trương nhất định kháng chiến ca vua Trn Nhân Tông c triu đình cùng quân đội ti toàn dân". Lê Mạnh Thát, Toàn Tp Trn Nhân Tông,... tr. 54-5.

8.3. Trần Nhân Tông - Chính trị ngoại giao
a. Với Chàm - mặt trận phía Nam:
Chắc chắn vì tránh nạn can qua cho dân tộc, giữ vững bờ cõi cho quốc gia xã tắc; do đó vua Nhân Tông đã không ngừng đẩy mạnh công việc ngoại giao. Để giữ tình hòa hiếu đôi bên giữa Đại Việt và Chăm ở mặt trận phía Nam, vua đành lòng cắt đứt tình phụ tử, bằng cách gã Công chúa Huyền Trân rất mực yêu thương của mình cho vua Chế Mân.
Hẳn nhiên việc gã Công chúa cho vua Chàm là một việc làm bất đắc dĩ, là sự hy sinh lớn đối với tình phụ tử thiêng liêng của hoàng gia nói riêng và cũng là sự gởi gắm và phó thác vận mệnh của đất nước, cả quốc hồn quốc túy của dân tộc Việt Nam nói chung. Có lẽ như chưa yên lòng khi gã con về đất khách, Ngài ân cần dạy bảo: "Vua Chế Mân là một thanh niên anh tuấn, có vũ dũng mà cũng có văn học.
Tuy Harijit không biết chữ Nho, nhưng chàng rất thông thạo Phạn ngữ. Ở Chiêm Thành, Phạn ngữ cũng quan trọng như chữ Nho ở Đại Việt. Trong thời gian gần tám tháng lưu lại kinh đô Phật Thệ, Ngài thấy cái nhìn của Ngài về nước Chàm thay đổi hẳn. Ngài rất yêu mến harijit, và muốn coi chàng như vua Anh Tông con Ngài... Năm nay Chế Mân mới vào khoảng bốn mươi, lớn hơn vua Anh Tông chừng mười tuổi. Dân Chàm rất thương yêu Harijit. Thượng hoàng bảo Công chúa: ‘Ta tin rằng sau khi về Chàm, con cũng được dân chúng thương mến như họ đã từng thương mến Harijit. Ta có thể nói chắc với con điều đó. Nếu con để hết tâm lực của con vào thì con có thể xây dựng thật nhiều cho vương quốc này và tạo được mối cảm tình bền chặt giữa hai nòi Chiêm và Việt". "...
Con có ở đâu thì ta ở đó, con làm gì thì ta làm cái đó và dân tộc con làm cái đó. Con hãy ghi nhớ điều này cho cẩn thận. Con về Chàm cũng như ta về Chàm, và ta trông cậy hoàn toàn nơi con để tránh cho hai dân tộc những cuộc đao binh sau này".[26] Tài chính trị ngoại giao của vua Nhân Tông rất tinh thông và nhuần nhuyễn, sắc nhạy nhưng cương nghị, không phải trên ngôn thuyết, mà nó được thể hiện bằng tình phụ tử thiêng liêng, bằng trái tim của cả Đại Việt, tất cả đều được gởi gắm cho Huyền Trân Công chúa.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận sự ảnh hưởng lớn của tư tưởng phong kiến, tập tục ‘môn đăng hộ đối’ và quan điểm bảo thủ ‘cha đặt đâu, con ngồi đó’; tuy rất xót xa nhưng vẫn cam lòng, vua Nhân Tông vẫn cố gắng để thi thố tài chính trị ngoại giao đối với một nước lân bang như Chàm là việc làm đáng khâm phục. Kết quả là vua Chế Mân đã dâng tặng hai châu: Châu Ô và Châu Lý (tức Thuận Hóa ngày nay) để đáp lại thịnh tình của vua Nhân Tông.
b. Với Tàu - mặt trận phía Bắc:
Sau ba lần thất bại nhục nhã, uy thế và thanh danh của quân Nguyên đã tan biến, mưu đồ xâm lăng và bành trướng đế quốc đã bị chặn đứng, quân Nguyên đã thật sự mệt mỏi, ngao ngán và thán phục khí thế chiến đấu quật khởi và tinh thần ‘quyết tử cho đất nước quyết sinh’ của toàn dân Đại Việt. Kể từ đó, nhà Nguyên đã không dám tiến hành âm mưu cướp nước; vì thất bại mà phải tôn trọng chủ quyền độc lập trên toàn lãnh thổ Đại Việt. Mọi yêu sách triều cống của Tàu đều bị vua Nhân Tông phản đối.
Tuy nhiên để mở ra một bước ngoặt mới của lịch sử, nâng cao chính trị ngoại giao, đưa vận nước ngang tầm với Tàu - như trước đây vua Đinh Bộ Lĩnh, vua Lê Đại Hành đã cậy vào những vị Tăng sĩ Phật giáo lỗi lạc, học vấn uyên bác, văn chương xuất chúng, am tường Nho giáo, uyên thâm Phật học, tinh thông thế trí và hùng biện siêu phàm để cố vấn chính trị, như: Thiền sư Pháp Thuận (914-990), Thái sư Khuông Việt (933-1011), Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) - vua sai Đỗ Thiên Thư, em của Đỗ Khắc Chung (người sứ giả có công lớn trước đây), sang Nguyên cống lễ.
Sách Thiên nam hành kỷ của Từ Minh Thiện nhà Nguyên nói: "Đại quân mới về nước, thiên sứ chưa sang, nhà Trần đã sai bọn trung đại phu Trần Khắc Dụng và tòng nghĩa lang Nguyễn Mạnh Thông dâng lễ vật trần tạ".[27] Đây là sách lược chính trị rất khôn ngoan nhằm xoa dịu cái nhục bại trận của giặc Nguyên, đồng thời cũng một nghệ thuật "dĩ hòa vi quí" của vua Nhân Tông đối với nước Tàu. Điều này cho thấy rằng nhà vua chủ động tiến hành chính sách hòa giải dân tộc, chứ không chịu tuân theo mọi đề nghị và yêu sách của nhà Nguyên.
Yêu sách của nhà Nguyên đòi hỏi vua Nhân Tông "sang chầu Thiên tử", vua khước từ yêu sách đó rất khôn khéo, bằng cách viện cớ đang có tang (Thượng hoàng Trần Thánh Tông mất năm 1278) rồi cử Đại Phạp và Hà Duy Nham đi sứ. Lần khác, vua lại lệnh cho Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo đi sứ khi Tân vương nhà Nguyên lên nối ngôi. Vua đã thể hiện ý định bất phục tùng và khước từ mọi yêu sách của nhà Nguyên đã đòi hỏi...

c. Với Lào - mặt trận Tây Nam & Tây Bắc:
Không khí đại thắng giặc Nguyên chưa nguôi, Nhân Tông đã nhanh chóng bình định giặc Lào để giữ vững phía Tây Nam và Tây Bắc. Bấy giờ bầy tôi can: "Giặc Nguyên mới rút lui, vết thương chưa hàn gắn được, không nên gây việc binh đao". Nhà vua nói: "Chỉ có thể nhân lúc này mà khởi binh thôi; vì sau khi giặc rút lui, các nước bên cạnh tất bảo là quân mã nước ta mỏi mệt, có ý coi thường, cho nên cần phải khởi đại binh để ra oai với nước khác".
Bầy tôi đều nói: "Thánh nhân lo xa như thế, bọn chúng tôi không thể nào nghĩ thấu được".[28] Theo lời bàn của Ngô Sĩ Liên thì cho rằng những lời can ngăn của bầy tôi về việc vua Nhân Tông thân chinh đánh Lào, nhưng sau khi vừa nghe ý định của vua thì họ liền sinh lòng "bợ đỡ", bởi ngay lúc ấy họ tán dương rằng "Thánh nhân lo xa". Đối với vua thì có lẽ muốn thực hiện cái ‘kế sách lâu dài’.
- Dương cao thanh thế và sức mạnh hùng hậu của quân đội nhà Trần.
- Tận dụng thời cơ tinh thần chiến đấu đang hăng của ba quân tướng sĩ sau khi đại thắng quân Nguyên mà đi chinh phạt Lào, giữ vững và ổn định mạn sườn mặt Tây Nam và Tây Bắc.
- Hoàn tất sự nghiệp đế vương để trao quyền trị vì và nhường ngôi cho Anh Tông nhằm thực hiện chí nguyện xuất gia, không còn bận tâm đến vấn đề triều chính cũng như không còn lo toan đến sự quấy nhiễu của các nước lân cận.
- Xiển dương giáo lý của đức Phật, giảng dạy Thiền học sau khi toàn dân đã được an cư lạc nghiệp thì việc làm này chắc chắn được đại đa số quần chúng hưởng ứng và qui ngưỡng.
Sau khi chinh phục Lào, vua về nước và tiến hành lễ xuất gia ở hành cung Vũ Lâm, sau đó hồi quy kinh sư.
Cuộc đời của vua Trần Nhân Tông là một bài thơ bất tuyệt, là bậc minh quân chói sáng của quân dân đất Việt, là đại chính trị gia lỗi lạc, là hoa đạo bất diệt của đạo pháp và cũng là một Thiền sư chân chính mang chất liệu của con người Việt Nam, chất Phật Việt Nam và cũng là vị Tổ đầu tiên đã khai mở và khơi lên ánh sáng đèn thiền tuệ giác của dòng Thiền Việt Nam, Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Cuộc đời Ngài có thể tóm lược qua những dấu ấn lịch sử như sau:
- Năm 21 tuổi lên ngôi hoàng đế.
- Năm 1285 đại thắng Mông Nguyên lần thứ hai.
- Năm 1288 đại thắng Mông Nguyên lần thứ ba.
- Năm 1293 truyền ngôi cho Anh Tông và lên làm Thái Thượng Hoàng.
- Năm 1295 bắt đầu hướng đến việc ‘thực tập xuất gia’ tu đạo.
- 1299 dựng thảo am Tử Tiêu ở non Yên Tử, lấy pháp danh là Hương Vân Đại Đầu Đà và pháp hiệu là Hương Vân Hải Ấn Thiền Sư. Sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, dựng chùa Long Động xiển dương Chánh pháp và giáo huấn môn Tăng.
- Năm 1304 lấy hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà Điều Ngự Giác Hoàng, vân du hóa độ, khuyên dân bỏ mê tín, hủy dâm từ, hành pháp Thập thiện, sống theo chánh đạo, nhằm xây dựng một ‘xã hội đạo đức’ để thành tựu ‘Tịnh độ trong nhân gian’.
- Năm 1304 truyền Bồ-tát giới cho vua Anh Tông.
- Năm 1306 ẩn thân nơi Am Ngọa Vân, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ.
- Năm 1308 cử Pháp Loa đảm nhiệm chức Trú trì Báo Ân tự ở Siêu Loại (Bắc Ninh).
- Tháng 4 năm 1308 đến Vĩnh Nghiêm tự ở Long Giang (Bắc Ninh) chủ trì và thuyết giảng Truyền Đăng Lục và mời Quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho chư Tăng an cư kiết hạ. Việc hoàn tất, ngài Giác Hoàng hồi qui Yên Tử sơn.
- Ngày 5 tháng 10 năm 1308 thăm Công chúa Thiên Thụy và hộ niệm tiếp dẫn.
- Ngày 17 tháng 10 năm 1308 an nghỉ ở Sùng Nghiêm tự, nơi Linh Thứu sơn và được Hoàng Thái Hậu Tuyên Từ thỉnh Ngài đến am Bình Dương để hiến cúng Ngọ trai.
- Ngày 18 tháng 10 năm 1308 đến Tú Lâm tự ở non An Sinh, cảm thấy nhức đầu và nhờ thị giả đưa lên Ngọa Vân Am.
- Ngày 19 bảo thị giả Pháp Không đến Am Tử Tiêu, Yên Tử sơn, rồi đòi gặp Bảo Sát để giải nghi trước khi thuận thế vô thường xả thân ngũ ấm.
- Ngày 20 Bảo Sát trên đường đến Am Ngọa Vân để yết kiến ngài Giác Hoàng.
- Ngày 21 Bảo Sát đến Am Ngọa Vân rồi vào yết kiến ngài Giác Hoàng. Cuộc đàm vấn xảy ra giữa Ngài và Bảo Sát, lúc đó Ngài đọc kệ:


"Nhất thiết pháp bất sanh,
Nhất thiết pháp bất diệt,
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền,
Hà khứ lai chi hữu dã".


Xong đâu vào đó, vào giờ Ngọ cùng ngày ấy, Ngài xả bỏ huyễn thân, rồi qui Phật cảnh. Sau khi đất nước được thái bình, vua Trần Nhân Tông đã đi khắp nơi, khuyến hóa dân chúng, dẹp bỏ những dâm từ, dạy pháp Thập Thiện cho dân hành đạo. Và sau khi đi bái yết sơn lăng thăm lại lăng tẩm của liệt Tổ liệt Tôn, Thượng hoàng đăng Yên Tử sơn, rồi thuận thế vô thường, xả ngũ ấm thân nơi Am Ngọa Vân, hồi qui Phật cảnh.

9. Quan niệm về Hội thảo & Hội nghị:
Đối với Phật giáo, việc hội thảo chỉ là những xu hướng, hoặc những biện pháp, hoặc những vấn đề trọng yếu cần phải được ‘bàn đến’ hoặc ‘nói về’, nhưng chưa phải ‘sống với’, và những hoạch định khả thi sẽ có thể đạt được. Trong hội thảo mọi vấn đề có thể được thổi phồng lên, mọi lãnh vực có thể được cường điệu hóa; còn trong thiền học đôi khi nó cũng na ná như những thoại đầu, hoặc những công án. Nhưng trên thực tế, thoại đầu vẫn mãi là thoại đầu, công án vẫn mãi là công án; vì nó na ná như những cái bánh vẽ, người ăn bánh vẽ không thể đở đói.
Cũng vậy người luôn nói về không thể giống với những người đã đang sống với, những vị đã thực tu thực chứng, và khi trình bày kiến giải hay quan điểm đều được số đông ngưỡng mộ và tôn kính, họ không tham quyền cố vị, sống với tinh thần bình đẳng vô ngã và vị tha. Lại nữa, hội thảo có thể là ‘kiến hòa đồng giải’, một trong sáu pháp lục hòa. Lắm khi hội thảo khai phóng ra những đường nét tâm linh siêu thế nhưng đó là chất liệu và sự trải nghiệm của những ‘người năng thuyên’ và ‘cảnh sở thuyên’ cho thính giả trong hội nghị đang lắng nghe. Dĩ nhiên, thính giả chỉ nghe chứ chưa thực nghiệm, chỉ hiểu chứ chưa thực chứng.
Nếu thính giả mượn những bí quyết khai tâm hoặc đã được chỉ bày từ nơi hội thảo, (hoặc nơi sách vở), hoặc từ nơi sự trải nghiệm thực chứng của những người năng thuyên để vào đời khai tâm cho số đông, thì không những người vay mượn đó đã đang ăn bánh vẽ mà còn mang những loại bánh vẽ ấy cho những kẻ khác nữa. Nếu không khéo thì nó sẽ dễ trở thành những cái máy phát thanh vô hồn, những lý thuyết suông vô vị - vẫn biết các pháp thảy đều được sử dụng như là phương tiện, nhưng phương tiện một khi bị lạm dụng thì sẽ dẫn đến những tác hại nguy hiểm không những cho cá nhân, cho gia đình giòng tộc, mà còn ảnh hưởng đến uy tín và thanh danh của một dân tộc một quốc gia.
Hội thảo hoặc tọa đàm trong lãnh vực ngoại giao thì rất quan trọng, là những phương hướng đầu tư, là những sách lược được hoạch định nhằm mở ra những giải pháp mới về đối tác song phương hoặc đa phương trong mọi lãnh vực đã được ký kết và thoả thuận. Nó đánh dấu cho một sức mạnh đối tác, nhấn mạnh đến uy danh của một quốc gia, chủ quyền của một dân tộc, đại diện cho tất cả sinh mệnh của toàn dân từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc.
Những vị lãnh đạo tối cao trong đối tác ngoại giao, đại diện cho dân tộc, phải là những đại biểu hội đủ nhiều yếu tố quan trọng mà Bác Hồ đã từng dạy rằng "cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư". "Cần kiệm, liêm chính" là đức hạnh cao vời; "chí công vô tư" là thực thi tinh thần bình đẳng đối với mọi giai tầng trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo với mọi tầng lớp thượng lưu, trung lưu hay hạ lưu, không kỳ thị sắc tộc hay màu da, không phân biệt Tôn giáo hay đảng phái, phải đặt sinh mệnh của quốc gia lên trên cả hơi thở sinh mệnh của chính mình; đó là tinh thần vô ngã vị tha, phải linh hoạt và mẫn tiệp trong thao tác, nhuần nhuyễn và tỉnh giác để hóa giải những chướng duyên, lấy phương châm "mình vì mọi người" để nêu cao đại nghĩa, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì mới có thể được lòng dân kính mến và quí chuộng, được quí cấp lãnh đạo tin tưởng và uỷ thác.
Nếu ngược lại với lòng mong muốn của dân, với đường lối của Đảng và nhà nước - dù trong ý niệm chưa biểu hiện hoặc chưa manh động, dù họ chưa phát hiện ra những ý đồ đen tối ấy, những âm mưu bất chính, chờ cơ hội là ra tay vơ vét của dân, lạm dụng quyền hành làm tổn hoại ngân sách của nhà nước. Không sớm thì muộn, những cửa ngõ của địa ngục đã đang và sẽ mở ra chờ đón những phần tử ấy; những lao tù và những trại giam đang nới rộng vòng đai sẵn sàng bắt tay và siết chặt gông xiềng. Có những kẻ bất chính thân xác tuy chưa vào ngục, nhưng "tòa án lương tâm" và "cán cân công lý" nơi nội tâm của họ đã biến thành những vành đai móng ngựa, những lao ngục đen tối ngay chính trong dòng hiện sinh này.
Hôm nay những thành quả khả quan mà toàn thể nhân dân Việt nam đạt được trong dăm ba thập niên gần đây. Thử có mấy ai đã nghĩ rằng hiện có lẽ Bác đang mỉm cười hân hoan, tự hào và hãnh diện về đất nước và dân tộc Việt đã đang từng bước hòa nhập cộng đồng quốc tế và sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới.[29] Toàn thể dân tộc Việt nam đã tuân theo lời huấn thị của Bác: "Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải ra công giữ nước".
Ngày nay toàn thể nhân dân Việt nam vẫn không quên duy trì và phát huy những hạnh nguyện cao vời của những bậc minh quân thủa trước và những vị lãnh tụ kính yêu đã quên mình cho dân tộc cũng như những vị Thiền sư, những người Phật tử đã cống hiến đời mình cho đạo pháp. Suốt 700 năm qua, đèn thiền tuệ giác và khí thiêng mầu nhiệm của vua Phật Trần Nhân Tông siêu phàm đã đang được khơi dậy cho hậu thế có đủ thiện duyên về lại cội nguồn tâm linh thiêng liêng và kỳ diệu ấy.
Ôn lại cuộc đời và tên tuổi cũng như những đóng góp khó lường của vua Phật Trần Nhân Tông chắc chắn là hâm nóng lại suối nguồn tâm linh siêu thoát; phải lấy hơi thở của thiền áp dụng làm sinh lực cứu tinh cho từng cá thể, giải tỏa những gông xiềng đoanh vây nơi nội tâm, tỉnh táo và sáng suốt đánh thức nguồn tuệ giác nội tại để vượt qua những chướng duyên ngoại tại khi cọ xát và đối đầu với, hoặc tiếp cận và thể nhập với cộng đồng và với các nước tiến bộ khác trên thế giới.
Năm nay 2008, Việt nam đã chính thức là Thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Vậy ai dám nói Việt nam không thể sánh ngang tầm với các cường quốc khác trên thế giới? Là Thành viên thứ 150 của Trung Tâm Thương Mãi Thế giới, như kết quả của các Hội nghị Apect, ai dám nói Việt nam là một nước lạc hậu và kém phát triển? Trước và sau Hội nghị Apect thứ 21 nhiều nước trên thế giới đã đang và sẽ ký kết và hợp tác song phương và đa phương, ai dám bảo rằng Việt nam không có an ninh và không có tiềm lực kinh tế? Với lời tuyên ngôn độc lập trong năm 1945 của lãnh tụ Hồ Chí Minh, vậy ai dám cho rằng Việt nam không có độc lập và chủ quyền dân tộc trên toàn lãnh thổ? Đó là chúng ta chưa kể đến những bước chuyển mình vĩ đại, như UNESCO đã công nhận Đại lễ Phật Đản là ngày lễ thiêng liêng và trọng đại nhất của Phật giáo thế giới.[30]
Trên đây là những kỳ tích lịch sử vẻ vang của vua Trần Nhân Tông nói riêng và Trần triều nói chung, của thiền phái Yên Tử nói riêng và của Thiền học Việt Nam nói chung. Vậy đó không phải là công đức vĩ đại có nguồn gốc từ Phật hoàng Trần Nhân Tông mà Ngài đã cống hiến đời mình cho cho dân tộc và đạo pháp cho quốc gia xã tắc hay sao?!
Chú thích:
[26] Nhất Hạnh, Am Mây Ngủ, 2001, tr. 24 & 26.
[27] Viện Sử Học, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục_Tập 1, Nxb Giáo Dục, 1998, tr. 538.
[28] Sđd., tr. 542.
[29] Khi khuyên các cháu nhi đồng, Bác nói: "Đất nước Việt nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ ở công lao học tập của các cháu". Chính hoài bão và niềm khát khao cao cả này, Bác đã đích thân huấn thị qua khuynh hướng giáo dục: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người". Đặc biệt với các tầng lớp cán bộ, thì Bác khuyên: "Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư" nhất là đối với quân đội, Bác cũng dạy: "Quân đội ta, trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Đó là những lời dạy thống thiết và chân tình của một vị lãnh tụ kính yêu, người anh hùng của dân tộc, nêu cao chí khí và nghị lực, giàu lòng yêu nước, thương dân mà dân tộc Việt nam mới có được những thành tựu vẻ vang như hôm nay. Với những thành quả nêu trên, vậy Bác không sung sướng và mỉm cười sao được?!
[30] Dười thời của chính quyền Ngô Đình Diệm, cờ Phật giáo bị cấm không được treo, lồng đèn, trong ngày lễ Phật Đản. Xem Lê Cung, Phong Trào Phật Giáo Miền Nam Việt Nam Năm 1963, Thuận Hóa, 2005, tr. 151-5.

50. Lòng Dâm Dục Hại Con Người

Phật Giáo Giảng Đường San Francisco 1968
Phần sau rốt của kinh Lăng Nghiêm Đức Phật nói rõ về những ma sự mà người tu gặp phải nhất là trong thời kỳ tà sư đầy dẫy nầy, cho nên kinh Lăng Nghiêm được ví như "kính chiếu yêu". Các yêu ma quỷ quái đều sợ nhất Kinh nầy, nên chúng tìm mọi cách hủy diệt kinh Lăng Nghiêm, tuyên bố kinh Lăng Nghiêm là giả, phỉ báng Chú Lăng Nghiêm, khiến cho người ta không tin, không nghiên cứu để rồi dễ lạc vào tà, làm quyến thuộc của chúng.
Yêu quái, ly mî, ma vương sợ nhất là Chú Lăng Nghiêm. Phật nói kinh Lăng Nghiêm là để hiển bày Chú Lăng Nghiêm. Chú Lăng Nghiêm liên quan mật thiết đến sự hưng suy của Phật giáo. Trên thế gian nếu có người trì tụng Chú Lăng Nghiêm thì Chánh pháp tồn tại, nếu không có người trì tụng chú Chú Lăng Nghiêm thì không còn Chánh Pháp; lúc ấy, ngũ đại ma quân ở năm phương mặc tình tác quái và đó là bắt sự biến mất của Phật Pháp. Hiện tại chùa, tu viện không trì Chú Lăng Nghiêm hay chỉ tụng phần cuối của Chú thôi, ấy chính là biểu hiện của Mạt Pháp.
Mong các Phật tử phát tâm nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm để có được trí huệ chơn chánh, phát tâm trường trai, tránh ngũ vị tân mà trì tụng Chú Lăng Nghiêm hầu Phật Pháp được cửu trụ, chúng sanh được lợi lạc.
Kinh Văn:
Nên biết, hư không sanh trong tâm ông ví như chút mây điểm trên nền trời xanh, huống nữa là các cõi nước thế giới ở trong hư không!
Giảng:
Các ông nên biết: Hư không sanh trong tâm ông ví như chút mây điểm trên trời xanh, hư không sanh từ tâm ông giống như chút mây điểm trên vùng trời xanh. Một phiến mây điểm trên bầu trời, thì nhỏ tí ti, nhưng bầu trời, tượng trưng cho tâm ông, thì lớn mênh mông. Trong đoạn kinh trước (quyển 6) đã nói:
"Không sanh đại giác, trung như hải âu phát"
Nghĩa là: Hư không sanh trong biển lớn giác ngộ, giống như một bọt nước nổi lên trong biển cả. Bây giờ lại nói: "Không sanh nhữ tâm trung, phiến vân điểm thái thanh." Hư không trong tâm ông nhỏ như một chút mây điểm trên vùng trời xanh. Thế thì tâm ông lớn biết chừng nào! Huống nữa là các cõi nước ở trong hư không! Tất cả thế giới trong hư không còn nhỏ đến chừng nào! Nếu hết thảy thế giới ở trong tâm ông thì chúng còn phải nhỏ hơn nữa. Do điểm nầy mà chúng ta có thể hình dung được rằng pháp tánh của mỗi chúng ta là trùm khắp mọi nơi.
Kinh Văn:
Nếu chỉ có một người trong các ông, phát chân quy nguyên, thì mười phương hư không thảy đều tiêu mất. Làm sao các cõi nước trong hư không kia không bị hủy diệt?
Giảng:Nếu chỉ có một người trong các ông phát chân quy nguyên. Nếu như thành Phật. Phát chân quy nguyên tức là thành Phật, chứng quả vị A la hán cũng gọi làụ phát chân quy nguyên. A Nan, nếu một người trong các ông thành Phật thì mười phương hư không đều tiêu mất. Hết thảy hư không trong mười phương đều không còn. Làm sao mà các cõi nước trong hư không kia không bị hủy diệt? Ngay hư không chẳng còn nữa thì làm sao mà các cõi nước tồn tại được? Các cõi nước cũng tiêu trầm luôn vậy.
Có người nói: "Thành Phật rồi thì hư không đều tiêu diệt. Có rất nhiều Phật trong mười phương đã thành Phật rồi, thì lẽ ra hư không không còn, thế tại sao hư không vẫn không tiêu mất?"
Ở cái nhìn của chúng sanh, ông thấy có hư không, nhưng ở chư Phật thì thấy không có hư không, không có gì cả. Sở dĩ sở kiến khác nhau nên các ông chớ bàn nói một cách khái quát. Ví dụ như chúng ta có người đã được Ngũ nhãn, y có thể nhìn thấy được những gì đang xảy ra ở nước này và nước khác cách nhau hàng ngàn dặm. Ông là người chưa khai Phật nhãn, liệu có thể thấy được những việc như vậy chăng? Do vậy ta không thể nói: Tôi thấy được nó nên nó phải hiện hữu. Ông có thể thấy như nó đang tồn tại, nhưng qua tầm nhìn của Đức Phật thì không có gì tồn tại cả. Ngay cả hư không cũng chẳng có.
Kinh Văn: Các ông tu thiền, đạt được Tam-ma-đề, tâm ông tương thông tương hợp với tâm của chư vị Bồ Tát, và các vị vô lậu đại A la hán trong mười phương, nên ngay đây mà được thanh tịnh trạm nhiên.
Giảng: Khi các ông tu tập thiền định, cũng tức là tu Tam-ma-đề, đạt được Tam-ma-đề, đắc được định lực, tâm của ông tương thông tương hợp với tâm của chư vị Bồ Tát và các vị vô lậu đại A la hán trong khắp mười phương. Cho nên, ngay đây mà được thanh tịnh trạm nhiên, mà an trụ trong cảnh giới thanh tịnh vắng lặng saün có. Sự thanh tịnh vắng lặng (thanh tịnh trạm nhiên) này, ông chớ đi nơi khác tìm kiếm. Nó ở ngay nơi ông (đương xứ), ngay đây (đương xứ tức thị) chính là Như Lai Tạng Tánh, vốn thanh tịnh vắng lặng và trùm khắp Pháp giới.
Tại sao tâm của chư vị Bồ Tát, các vị A la hán và với những người tu tập thiền định hỗ tương thông hợp như vậy? Bởi vì các Ngài cùng tu một thứ định như nhau, đều dùng pháp "phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo". Các ngài đều tu Thủ Lăng Nghiêm Đại Định nên các Ngài đều như nhau. Đã như nhau nên tâm của các Ngài kế hợp, hỗ tương thông đạt. Như thểụ có dòng điện nối liền giữa các Ngài với nhau vậy.
Sự thông hợp này không chỉ xảy ra ở cảnh giới của chư Phật, chư Bồ Tát và các vị A la hán, mà đối với hàng phàm phu chúng ta cũng có. Hễ ông nghĩ đến ai thì giống như ông đánh một bức điện tín đến tâm người đó. Hỏi rằng: "Người kia có biết (tôi nghĩ đến họ) chăng?" Tự tánh của người ấy thì biết rõ, dù tâm thức của người ấy có thể không hề biết. Trong tự tánh của hai người, họ đều cảm nhận được.
Nếu tôi cứ nghĩ đến người đó ngày đêm; nhớ nghĩ, nhớ nghĩ, nhớ nghĩ mãi... Vậy thì người ấy cũng nhớ nghĩ về tôi không?"
Ông có thể nghĩ nhớ tới chết cũng chẳng ích gì! Giống như sự si ái mà tôi giảng trước đây. Nếu một người si ái anh ta sẽ nghĩ về những cảnh đam mê tình ái suốt ngày, không lúc nào dừng lại được những vọng tưởng ấy. Nhớ nghĩ, nhớ nghĩ, nhớ nghĩ... cho đến anh ta muốn chết. Làm sao chết? Là nghĩ đến việc kết hôn. Kết hôn tức là hôn mê luôn. Khi hôn mê thì từ từ sẽ chết. Nên nói: kết hôn tức là hôn mê, hôn mê tức là ngu si, chuyện gì cũng không biết.
Trong Hán văn, ông có thể suy luận về nghĩa của hai chữ "kết hôn". Hôn có nghĩa là mờ tối. Trong Hán văn thì ý nghĩa là thế. Không biết trong Anh văn ý tứ thì ra sao.

Kinh Văn: Thì tất cả ma vương, quỷ thần, các trời phàm phu đều thấy cung điện mình vô cớ mà đổ vỡ. Đại địa rung động, các loài thủy lục không hành thảy đều kinh sợ. Nhưng hàng phàm phu mê muội thì chẳng hay biết những sự biến động này.
Giảng: Khi đạt được Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, là chân Tam-ma-đề (Chánh định), thì ma quân rúng động. Tất cả ma vương, cùng các loài quỷ thần, các cõi trời phàm phu của sáu cõi Dục và Tứ Thiền đều thấy cung điện của mình vô cớ mà đổ vỡ. Vô duyên vô cớ cung điện bỗng dưng đổ vỡ.
Khi còn ở Mãn Châu tôi có một chú đệ tử trẻ tuổi. Tuy chỉ mười bốn tuổi, nhưng thần thông chú không nhỏ. Chú có thể lên trời xuống đất tùy ý. Tuy đã mở được Ngũ nhãn nhưng chưa chứng được lục thông. Chỉ có ngũ thông chớ không có lậu tận thông. Nếu đạt được lậu tận thông thì được gọi là A la hán.
Một hôm, chú lên trời để tiêu khiển. Khi lên đó, Vua trời (ma vương) rất vui mừng và dụ chú ta vào trong cung điện của chúng. Đó là một tòa lâu đài tuyệt đẹp làm bằng ngọc lưu ly trong suốt.
Chú Sa Di đã bị mắc bẫy trong ấy.
Do chú có được Ngũ nhãn, nên chú có thể thấy được thân của mình đã bị cầm giữ bởi Tha Hóa Tự Tại Vương. Do vậy chú ta báo cho tôi biết: Thưa thầy, con lên trời nay không thể về được nữa.
"Thế là chú bị kẹt trên trời rồi! Hừ thế trước kia ai đã chỉ cho chú lên đó?"
Con nghĩ là ở đó sẽ rất vui nên con lên đó để xem cho biết. Bây giờ người ở trên đó không muốn cho con trở lại.
Tôi bảo: "Đi chơi, con không nên đến đó chơi. Các Thiên ma ở các tầng trời cõi Dục đều muốn tìm cơ hội để phá hủy định lực của người tu đạo."
Thế rồi tôi nói với chú: "Đừng sợ, thầy sẽ đưa con về."
Tôi kêu chú về, nhưng ma vương ở đó vây chú lại không để chú đi. Đến lúc đó, chú trở nên thật hoảng sợ và nói: Hắn không để con đi,vậy làm sao bây giờ?
Tôi bảo: "Đừng lo thầy sẽ đưa con về ngay!"
Rồi tôi dùng chú Thủ Lăng Nghiêm, đoạn chú văn chuyên phá vỡ ma thuật tức là Ngũ Đại Tâm Chú (1). Ha! Khi ấy cung điện của ma vương tức khắc sụp đổ tan tành. Do vậy chú mới ra về được.
Bấy giờ cung điện của ma vương đổ vỡ. Đại địa chấn động. Mặt đất nứt nẽ nhiều nơi. Các sanh vật dưới nước trên không thảy đều kinh sợ. Tất cả những loài sinh vật ở dưới nước, trên mặt đất, các loài bay nhảy, đều phi thường kinh sợ. Nhưng hàng phàm phu tối tăm (hôn ám) thì chẳng hay những biến đổi này. Hàng phàm phu chẳng có được tri giác bén nhậy, họ không nhận ra được quả đất đang trải qua những sự biến đổi như vậy. Họ không có đủ sự nhậy bén để nhận biết sáu thứ chấn động đang xảy ra.
Kinh Văn: Các loài này đều có năm thứ thần thông, trừ lậu tận thông, đương tham luyến cảnh trần lao. Làm sao nó để các ông phá vỡ chỗ ở? Vậy nên các loài quỷ thần, thiên ma, lî mî, võng lượng lượng, yêu tinh... trong lúc ông tu Tam-ma-đề đều đến quấy phá.
Giảng: Bây giờ các ông hiểu rồi chứ? Vì sao ma lại đến phá? Chỉ vì các loài thiên ma, quỷ thần này đều có năm thứ thần thông (thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông), chỉ trừ lậu tận thông mà thôi. Nếu có lậu tận thông chúng sẽ không quấy phá các ông làm gì. Chỉ vì không có lậu tận thông nên chúng vẫn còn muốn làm người xấu, người ác đến phá hoại người tu đạo. Do vậy mà thấy: khó đắc được lậu tận thông lắm. Thế nào gọi là lậu tận? Tôi sẽ giảng cặn kẽ về điều này. Tôi xin nói thật cho các ông nghe: bất luận là nam hay nữ, hễ nam nghĩ đến nữ hay nữ nghĩ đến nam, đó gọi là lậu. Nếu ý nghĩ (nam nữ) không đoạn thì các ông không đắc được lậu tận thông.

Lại nói sâu hơn nữa cho các ông nghe, tôi bây giờ giảng trắng ra, nói thật ra cho các ông biết, nếu úp úp mở mở thì các ông bao giờ biết được bên trong là gì? Nói thật ra là: Nếu các ông không để mất tinh thì gọi là lậu tận. Nếu tinh mất thì gọi là lậu. Không những tinh không mất mà ngay cả tư tưởng ý niệm (dâm dục) cũng phải không có. Khi ý niệm vi tế nhỏ nhiệm về dâm dục không có nữa thì mới lậu tận. Hiện tại các ông đã hiểu chưa? Vì sao thiên ma không có lậu tận thông? Vì chúng có tâm dâm dục. Quỷ thần cũng có tâm dâm dục.
Vì nó đương tham luyến cảnh trần lao. Trần lao là gì? Chính là sự dâm dục. Trần lao chính là dâm dục mà dâm dục chính là trần lao. Vì thiên ma tham luyến sự dâm dục nên nó không muốn các ông buông bỏ việc dâm dục. Nó khiến các ông tham luyến. Chúng nói: "Chúng ta là bạn tốt. Tôi không buông bỏ việc đó, nhưng anh muốn từ khước, buông bỏ việc ấy sao? Không thể được!" Vì thế bọn nó tới tìm quý vị. Để làm gì? Nói toạc ra, là vì chúng không thể để các ông giải thoát khỏi thế giới này. Nên các loài quỷ thần, thiên ma, lî mî, yêu tinh đến quấy phá khi ông tu tập Tam-ma-đề. Khi tôi đề cập đến chữ yêu tinh trước đây các ông chưa rõ nghĩa, hôm nay tôi sẽ giải thích. Ông có biết chữ yêu ( ) trong tiếng Hán gồm có chữ nữ ( ) và chữ yểu ( ) ghép lại. Tức là cô gái (nữ) yểu mạng (sống không lâu). Yểu là gì? Chết trước ba mươi tuổi thì gọi là chết yểu. Các ông nhìn xem nghĩa của chữ, không cần tôi giải thích dài dòng, thì cũng hiểu ý. Gái chết non thì làm quỷ đoản mạng, thanh niên chết yểu rất có khả năng làm yêu tinh.
Lúc ông trong định, chúng đều hè nhau kéo lại. Lại để làm gì? Để ăn thịt Đường Tăng. Ai là Đường Tăng? Tức là pháp sư Huyền Trang đời Đường. Rất nhiều yêu tinh muốn ăn thịt Ngài, tức là muốn phá hủy định lực của Ngài. Nếu ông tu hành có được định lực thì yêu ma quỷ quái đều muốn ăn thịt ông cho bằng được. Nhưng không phải là ăn thịt ông đâu. Tôi sẽ hết sức chân thực trình bày cho ông được rõ chẳng giữ lại điều gì. Điều gì thực sự sẽ xảy ra? Chỉ vì ông không nghĩ đến dâm dục, tinh đầy đủ, khí đầy đủ, thần đầy đủ, nên bọn chúng thấy rằng lúc này ông có nhiều của báu. Chúng nói: "Ta nhất định tới đoạt bảo bối của mày!" Thế là bọn kéo lại phá hoại ông. Nguyên nhân là chúng muốn đoạt bảo bối. Nếu ông có một người bạn gái và bà có một người bạn trai, thì những người ấy cũng sẽ cướp đi của báu trân quý của ông hay bà vậy. Ông thử nghĩ có điều gì khác sẽ xảy ra?
Ông nói: "Tôi học Phật Pháp, Phật Pháp dạy rằng phải biết bố thí, vậy nên tôi đem bảo bối tặng người ta kia mà!"
Thế thì tốt lắm! Nếu vậy tương lai ông sẽ biến thành quỷ đói, đọa địa ngục. Người cướp bảo bối của ông bấy giờ không thể tới (địa ngục) nói với ông rằng: "Đây này, tôi sẽ trả lại cho ông một ít của báu, để ông có thể thoát ra đây!" Lúc đó, chẳng có cách gì giúp ông được cả, ông suy nghĩ kỹ lại đi!
Kinh Văn: Các loài ma ấy, dầu có giận giữ, nhưng vẫn còn ở trong trần lao. Trong khi ông ở trong chánh giác vi diệu. Bọn nó chẳng ảnh hưởng gì đến ông, như gió thổi chẳng làm lay động ánh sáng; hoặc như dao chẳng cắt được nước. Ông như nước sôi, trong khi ma vương giống như tảng băng, khi gần hơi nóng, băng sẽ tiêu tan. Chúng nó cậy vào thần lực nhưng chỉ là khách thôi!
Giảng: Khi ông tu hành đắc được chút ít định lực, ma vương sợ hãi nên đến phá hủy. Nó không muốn ông thành tựu định lực, dù các loài ma ấy đến để quấy nhiễu ông và dù nó hết sức phẩn nộ, giận dữ nhưng nó vẫn còn ở trong trần lao. Nhưng nó có trần lao ô nhiễm. Trong khi ông ở trong tánh vi diệu. Bọn nó chẳng ảnh hưởng gì đến ông, như gió thổi chẳng làm lay động chút ánh sáng hoặc như dao cắt nước. Nó chẳng làm gì được ông cả, chỉ như gió không đủ làm ánh sáng lay động, và chỉ như dao dù bao nhiêu lần chém nước, nước chẳng hề hấn gì.
"Ông như nước sôi" trong cách so sánh này, định lực phát sanh từ công phu tu tập của ông được ví như nước sôi. Trong khi ma vương giống như tảng băng, ma vương được ví như tảng băng giá trong mùa đông. Khi gần hơi nóng, băng sẽ tiêu tan, cứng như băng nhưng sức nóng của nước sôi cũng sẽ dần dần làm băng tan chảy, chúng nó cậy vào thần lực nhưng chỉ là khách thôi. Nó chỉ trông mong vào thần lực của chính nó nên nó chẳng phải là chủ, nó chỉ là "khách" (chẳng ở được lâu). Nó không thể thành công trong nỗ lực quấy phá ông.
Kinh Văn: Chúng có thể phá rối được, do tại tâm ông, vốn là chủ nhân của ngũ ấm, nếu chủ nhân mê lầm thì khách mới được dịp quấy phá.
Giảng: Chúng có thể phá rối được là do tại tâm ông, vốn là chủ nhân của ngũ ấm. Căn bản là nó chẳng thể phá rối được. Tuy nhiên, nếu chủ nhân mê lầm, nếu tâm ông vốn là chủ nhân của ngũ ấm mà mê lầm, thì khách sẽ được dịp quấy phá.
Khách sẽ được dịp quấy phá. Còn nếu như ông là chủ nhân không mê lầm thì nó không thể làm được điều gì hại ông cả. Ai là chủ? Đó là tự tánh của ông, nếu tự tánh của ông mê, ma có cách để hại ông. Còn nếu tự tánh không mê thì nó đành chịu bó tay, chẳng làm gì được ông.
Kinh Văn: Khi trong thiền định, giác ngộ không mê thì các ma sự kia không làm gì được ông. Khi năm ấm tiêu trừ ông thể nhập vào bản tánh sáng suốt. Bọn tà ma kia đều nương vào khí u-ám. Do sáng phá được tối, nên bọn chúng sẽ bị tiêu hủy khi đến gần ông. Làm sao còn dám ở lại nhiễu loạn thiền định.
Giảng: Khi trong thiền định, khi ông làm cho tâm ý mình được thanh tịnh (tịnh lự), đạt được chánh định chánh thọ (tam muội), giác ngộ không mê, ông chỉ thuần có tâm giác ngộ các ma sự kia chẳng làm gì ông được. Ma không có biện pháp hay cách nào nhiễu loạn ông được. Khi năm ấm tiêu trừ ông thể nhập vào bản tánh sáng suốt. Ma thuộc về âm, mà âm hay cái tối tăm u ám có thể bị xua tan. Ma giống như băng, còn ông giống như nước nóng vậy. Chúng sẽ bị xua tan giống như băng tiêu trong nước nóng vậy. Lửa trí huệ của ông rất sáng nên ông hoàn toàn thể nhập với ánh sáng, thành tựu quang minh.
Bọn ma kia gồm yêu ma quỷ quái, tà ma ngoại đạo nương vào khí u-ám. Mọi bản lĩnh của chúng đều là u khí tối tăm. Do sáng phá được tối, nếu ông có định lực chân chánh, có trí huệ chân chánh, thì ánh sáng trí huệ sẽ chiếu sáng và xua tan mọi u ám. Nên bọn chúng tự sẽ tiêu hủy khi đến gần ông, sao còn dám ở lại nhiễu loạn thiền định? Chúng không dám ở lại quấy nhiễu ông.
Kinh Văn: Nếu không tỏ ngộ mà bị ngũ ấm làm cho mê lầm, thì chính ông là A Nan, ắt phải làm con của ma, sẽ thành loài ma.
Giảng: Nếu không tỏ ngộ. Nếùu ông không minh bạch, không giác ngộ mà lại bị mê lầm bởi ma của ngũ ấm, thì chính ông là A Nan ắt phải làm con của ma, nhất định sẽ làm con của ma, sẽ thành loài ma, ông sẽ trở thành một loài của ma.
Kinh Văn: Như ông gặp nạn Ma Đăng Già, là ma sự nhỏ nhặt. Cô ta dùng chú thuật bắt ông phá hủy luật nghi của Phật, trong tám muôn hạnh, chỉ phá một giới. Nhưng vì tâm ông thanh tịnh nên chưa bị chìm đắm.
Giảng: Ông gặp nạn con gái của Ma-Đăng-Già, là ma sự nhỏ nhặt. Đó chỉ là ma sự bình thường, nhỏ nhoi không đáng gì. Cô ta dùng chú thuật bắt ông phá hủy luật nghi của Phật, cô ta dùng chú thuật của Tiên Phạm Thiên để mê hoặc, khiến ông phá hủy luật nghi của Phật, trong tám muôn tế hạnh chỉ phá một giới mà thôi, nhưng vì tâm ông thanh tịnh nên không bị chìm đắm. Vì ông đã chứng được Sơ quả A la hán, ông không hoàn toàn bị ma khống chế, nên không bị đọa lạc.
Kinh Văn: Đây là nỗ lực muốn phá hoàn toàn sự giác ngộ quý báu của ông. (Nếu nó thành công ), ông sẽ như gia đình quan Tể Tướng bỗng nhiên bị lưu đày, gia đình ông ta trở nên xiêu bạt, bơ vơ, không thể thương-cứu.
Giảng: Đây là nỗ lực muốn phá hoại hoàn toàn sự giác ngộ quý báu của ông. Đó là hành vi cho ông đọa lạc. (Nếu nó thành công), ông sẽ như gia đình quan Tể Tướng bỗng nhiên bị lưu đày. Giống như một vị gia đình quan Đại thần bỗng nhiên bị lưu đày, gia sản bị tịch hết, gia đình ông ta trở nên xiêu bạt, bơ vơ, không thể thương-cứu. Ông hoàn toàn bơ vơ, không có nơi cầu cứu, không có người thương xót giúp đỡ.
(1) Ngũ Đại Tâm Chú (từ câu 104 đến 108 trong chú Lăng Nghiêm theo bản tiếng Hoa, còn bản tiếng Việt là từ ba chữ cuối của câu 80 đến câu 82. Đoạn chú nầy là pháp "Phá ác"- chuyên phá ma thuật, bùa ngãi, thư ếm, chú trớ... của tà ma):
Sất Đà Nể.
A Ca Ra.
Mật Rị Trụ.
Bát Rị Đác Ra Da.
Nãnh Yết Rị.

51. Pháp Ngữ Hòa Thượng Tuyên Hóa

Người đời cho rằng học thì ở nơi chỗ rộng (như núi), nào hay rằng học ở ngay chỗ nhỏ xíu (tâm mình) này đây. Nếu ai có đức hạnh thì phong thủy tự nhiên tốt bởi vì tâm họ tốt.
Người trí thì nhìn suốt tới cái lý của sự việc, không bị ngăn trệ bởi bề ngoài của sự việc. Người ngu chỉ nhìn thấy tướng trạng bên ngoài của sự việc, chẳng thấy suốt được chân lý bên trong của mọi chuyện.
Nếu ai muốn biết chư Phật trong ba đời, hãy quán bản tánh của pháp giới: Tất cả đều do tâm tạo.
Muốn có trí huệ, trước hết đừng chửi bới người ta, cũng đừng đánh đập, giết chóc, tổn hại kẻ khác.
Mình phải lập công với đời, làm lợi cho người. Nếu chỉ toàn là tính toán lợi ích cho mình, lo cho mình được sung sướng, thì đó nào phải là ý nghĩa của việc làm người.
Tôi biết được điều gì? Tôi biết thế nào là chịu thua thiệt, không chiếm tiện nghi. Nếu bạn thật sự hiểu rõ thì bạn sẽ biết rằng: Chịu thua thiệt chính là được tiện nghi (thắng thế), mà chiếm tiện nghi (giành hơn, giành thắng) chính là bị thua thiệt.
Không phải dễ sửa những lỗi lầm tật xấu nho nhỏ đâu. Nếu bạn sửa đổi được chúng thì bạn sẽ có định lực.
Người đời xem chuyện phát tài là vui sướng nhất. Có tiền rồi lại phải dùng óc não tính toán làm sao giữ gìn nó để nó không mất, không hết. Cứ cho rằng tiền là thật của mình, nên ngày ngày lo lắng. Song le, bất luận tiền nhiều hay ít, chết rồi chẳng đem được một xu. Thế rồi lại hai tay trắng! Bạn xem nó có vui sướng gì?
Chúng ta ai cũng bị nghiệp dắt dẫn, rằng: Thân không tự chủ. Mình sinh vào đời này chính là để trả nợ. Bởi vì xưa kia tạo nghiệp không giống nhau, nên đời này chịu quả báo khác nhau. Ðó là: Lưới nghiệp đan kết.
Làm việc quỷ thì tức là quỷ. Làm việc người thì là người. Làm việc Phật thì là Phật.
Bây giờ mình được nghe mấy chữ chú Ðại Bi thì nên sinh lòng hoan hỉ, rằng thật may mắn, thật hân hạnh, thật khó gặp được chú Ðại Bi. Thật vậy, rất khó mà bạn có thể gặp được chú Ðại Bi. Nay gặp được chú rồi, bạn nên nhớ, đừng coi thường nó rồi vất qua một bên.
Người học Phật phải bỏ ít thời gian ra học tập Phật pháp, không nên hiểu mường tượng chẳng rõ ràng, tợ hồ biết nhưng lại không biết. Có người nghĩ rằng: Tôi đã không biết, do đó tôi không cần muốn biết. Tôi đã không thông đạt, do đó cứ không thông đạt luôn. Ðó là thái độ tự mình đầu hàng, không chịu bước chân tới trước, tự vất bỏ tiền đồ của chính mình.
Người mới phát tâm tu hành, cái chướng ngại lớn nhất cho việc dụng công là: Tâm dâm dục, con trai tham luyến con gái, con gái tham luyến con trai. Ðây là vấn đề căn bản nhất.
Giảng kinh là tu huệ; tọa thiền là tu định; Không mở miệng nói lăng nhăng là tu giới.
Làm người trên đời mình phải hành thiện cho đúng lúc, cho kịp thời. Còn một chút hơi thở, một chút sức lực, mình phải hành thiện, tích đức, không nên phung phí căn lành mình đã trồng trong kiếp trước, bằng cách đời này cứ việc hưởng thụ cho hết những phước báo ấy.
Người tu mà sợ cô độc thì chẳng thể tu.
Trong tâm ta, tuyệt đối không được có quỷ. Cũng đừng có sân hận, oán ghét, buồn bực, khó chịu. Khi có những thứ ấy thì không xong, bởi vì có chúng tức là quỷ vào nhà rồi vậy.
Làm bậc thiện tri thức, bạn không được nịnh hót người ta, không được tìm cách làm vui lòng người ta, khiến người bạn của mình mê mờ chân lý mà cũng chẳng hay biết.
Quỷ vương chuyên môn nóng giận, không giữ quy củ. Quan Âm Bồ Tát chuyên môn chịu bị hà hiếp, luôn giữ quy củ.
Bạn suy nghĩ những việc không có giá trị, thì tương lai sẽ gặt những quả báo không có giá trị. Mọi thứ ẩm thực đều chỉ có một mùi vị. Cứ nghĩ về chuyện ăn uống thì tâm sẽ buông lung, không thể kiềm thúc được sáu căn.
Nếu vũ trụ đầy tràn khí kiết tường thì địa cầu sẽ không vỡ tung.
Các bạn chú ý: Phàm là cảnh giới từ bên ngoài tới, mình đừng chú ý vào nó, đừng can thiệp tới nó, cứ để tự nhiên, nhưng đừng để nó lay động tâm mình. Trong Kinh Lăng Nghiêm có giảng rất rõ ràng, hy vọng các bạn tham thiền nghiên cứu tường tận phần giảng về 50 Ấm Ma.
Buồn một chút: Là mình dạo chơi địa ngục. Cười một cái: Là già biến thành trẻ. Khóc một hơi: Thì địa ngục có một phòng nhỏ thật đen thui.
Việc quan trọng đối với người tu là đừng sinh phiền não, ở bất kỳ tình huống nào cũng vậy. Ngồi cũng không sinh phiền não; nằm cũng không sinh phiền não. Cốt yếu là phải đoạn phiền não. Rằng: Phiền não vô tận, thề nguyện biến; biến phiền não thành bồ đề. Phiền não tức là không giác ngộ. Bồ đề tức là giác ngộ.
Chú Ðại Bi tức là đại chú của tâm đại bi. Nó có thể thông thiên triệt địa. Nếu bạn có thể mỗi ngày trì tụng 108 biến, liên tục trong suốt ba năm, thì sau đó bạn có thể dùng chú Ðại Bi để trị bịnh. Lúc ấy, tay tới là bịnh trừ. Tôi biết nói về công hiệu của chú Ðại Bi. Hy vọng các bạn mỗi người dùng sức mạnh của chú Ðại Bi để vãng cứu hạo kiếp (tai ương, đại nạn) của thế giới, khiến cho người ta vĩnh viễn không còn tai nạn, và chánh pháp vĩnh viễn ở mãi trong thế gian.
Thánh nhân ngày xưa thì luôn tự trách phạt chính mình. Không như người đời nay, chuyện gì cũng chẳng bao giờ nhận là mình sai, cứ luôn tìm lỗi lầm của kẻ khác.
Chúng ta mỗi ngày phải bớt nói một chút, để niệm Phật nhiều hơn một chút. Ðánh chết ý niệm trong tâm thì Pháp thân mới sống đặng. Bớt nói chuyện, niệm Phật nhiều: chuyện thật dễ như trở bàn tay.
Người tu thì phải làm ngược trở lại. Ðó là nghĩa làm sao? Tức là: Chuyện tốt thì nhường kẻ khác, chuyện xấu thì gánh vào mình. Xả bỏ cái ngã nhỏ bé để hoàn thành cái ngã (Phật tánh) vĩ đại.
Muốn học tốt thì oan nghiệt tìm; muốn thành Phật thì phải gặp ma. Nếu không muốn học đạo giỏi, thì oan nghiệt không tới tìm bạn đâu. Càng muốn học giỏi thì oan nghiệt càng tới tìm bạn, vì nó muốn thanh toán hết mấy món nợ cũ.
Năm mới vui vẻ! Chúng ta cần mỗi năm đều vui vẻ, mỗi tháng đều vui vẻ, mỗi ngày đều vui vẻ, mỗi giờ đều vui vẻ. Chớ sinh phiền não thì mới là vun bồi miếng đất trong tâm, hàm dưỡng khoảng trời nơi tự tánh.
Các bạn là người tu thì phải chân thật, bước từng bước chắc thật, niệm niệm không để lãng phí, niệm niệm đều hướng tới đường đạo dấn bước. Làm được như vậy thì bạn mới chân chính là người học Phật.
Việc tu đạo có thể làm tăng trưởng trí huệ, tăng trưởng tâm bồ đề, tăng trưởng nguyện lực. Mọi thứ, chuyện gì cũng tăng trưởng.
Ngày ngày bạn không nên quên lãng con quỷ Vô Thường không biết bao giờ sẽ tới mời bạn đi.
Thời mạt Pháp là thời mà ma mạnh, pháp yếu. Thế lực của ma vương ngày càng lớn mạnh. Thế lực của đức Phật ngày càng thâu nhỏ. Ðối với Phật thì không phải nói về thế lực mà là oai đức mới đúng. Khi chúng sinh có phước báo lớn thì pháp mạnh, ma yếu. Khi chúng sinh phước báo ít thì ma mạnh, pháp yếu.
Nếu người xuất gia tham đồ cúng dường, ham ăn ham mặc, thì còn chánh pháp gì để nói?
Chuyên nhất thì linh cảm, phân tâm thì bế tắc. Làm sao chuyên nhất? Tất định phải đoạn dục, bỏ ái. Nếu không cắt bỏ ái dục thì người xuất gia tu tám vạn bốn ngàn đại kiếp cũng không thể thành tựu. Do đó điểm này rất trọng yếu.
Bạn không có tâm tham thì mới buông xả đặng. Có buông xả thì bạn mới tự tại, rồi sau đó mới có thể giác ngộ, khai đại viên giác.
Người tu đạo chúng ta phải từ có mà hóa ra không, phản bổn hoàn nguyên. Quay về lại với bản hữu Phật tánh của mình.
Giải thoát tức là bạn tốt nghiệp nơi vòng giới luật. Cũng là tốt nghiệp trong vòng quy củ. Cũng là tốt nghiệp khỏi vòng phiền não. Cũng là tốt nghiệp khỏi vòng vô minh.
Bản thể của Pháp là không, do đó bạn không nên chấp trước vào pháp. Nên nếu bạn đối với pháp mà không thể nhìn suốt, rồi buông bỏ thì bạn vẫn chưa được tự tại.
Người có lòng thù hằn, thì sẽ có con quỷ mặt đỏ.
Người có lòng oán ghét, thì sẽ có con quỷ mặt vàng.
Người có lòng áo não, thì sẽ có con quỷ mặt trắng.
Người có lòng sân nộ, thì sẽ có con quỷ mặt xanh.
Người có lòng phiền toái, thì sẽ có con quỷ mặt đen.
Người thù hằn thì hại tim. Người oán ghét thì hại tỳ. Người áo não thì hại phổi. Người sân nộ thì hại gan. Người phiền muộn thì hại thận.
Con trẻ, khi sinh lý chưa trưởng thành, mà đã đi tìm đối tượng yêu đương thì (thân thể và tinh thần) sẽ bị tổn thương, lại bị thiệt thòi nữa.
Tu hành không cần tìm kiếm chỗ cao, chỗ xa xăm. Ðạo thì tại trước mắt mình, tức là trong tâm mình. Vọng tâm thì ý ngựa, tâm khỉ vượn. Ý thì lăng xăng như con ngựa, tâm thì nhảy nhót như con khỉ. Nếu bạn có thể nhận thức tâm này thì tu hành nhất định mới có cảm ứng.
Có người hỏi tôi: Khi tới Tây phương, thầy làm sao hoằng dương Phật pháp? Tôi xin đáp rằng: Tôi hoàn toàn dựa vào Quán Thế Âm Bồ Tát, chú Ðại Bi và chú Lăng Nghiêm.
Chùa là chốn nuôi dưỡng người tu hành không phải nuôi dưỡng kẻ làm biếng.
Chúng ta phải tranh nhau học Phật pháp. Học Phật pháp so với việc kiếm tiền còn quan trọng hơn nhiều. Nếu bạn tu dưỡng Pháp thân huệ mạng cho khỏe mạnh, cho cường tráng thì còn tốt hơn đi kiếm tiền trăm ngàn vạn lần nữa.
Phước không thể hưởng hết. Hưởng hết thì không còn phước nữa. Khổ thì có thể chịu hết. Chịu hết thì hết khổ để chịu.
Suy gẫm về cái khổ của bịnh tật, thì mạnh khỏe là phước.
Suy gẫm về cái khổ của tai nạn, thì bình an là phước.
Suy gẫm về cái khổ khi có tiền, thì không tiền là phước.
Suy gẫm về cái khổ của giàu sang, thì nghèo cùng là phước.
Từ vô lượng kiếp tới nay, mình bị thứ hư vọng lừa đảo. Nên đời đời kiếp kiếp mình phải ở trong vòng sinh tử luân hồi. Cũng như cá trong lưới, bơi ra bơi vô, vĩnh viễn không thoát khỏi lưới. Ðó cũng là do mình không chịu phát tâm bồ đề, không chịu bị thua thiệt, nên vẫn phải ở mãi trong vòng sinh tử, kẹt trong bánh xe luân hồi xoay vần sáu nẻo.
Kẻ chân chính có trí huệ thì không bao giờ tự khen, chê người. Ai mà tự khen thì người đó không có tiền đồ gì nữa. Tuy rằng vẫn còn sống nhưng đã như chết rồi.
Ðời này người ta cứ tìm thứ giả, còn thứ thật thì bỏ đi.
Toàn thế giới tràn ngập khí hắc ám. Ở đâu có người chân chính tu hành, ở đó tai nạn ít bớt, và nhỏ hơn. Nếu nhiều người cùng tu ở tại một chỗ thì sức mạnh tập thể của họ có thể biến khí hắc ám thành khí kiết tường.
Người thuyết pháp bất luận rằng y có thần thông quảng đại tới đâu, bạn cũng phải quan sát hắn ta. Nếu y có lòng tham lam, tới đâu cũng kiếm tiền; hoặc có lòng dâm dục, thì y không phải thứ thiệt, mà là thứ giả. Nếu y không có lòng tham, lòng dâm dục, không có mưu đồ, thì y mới là thứ thiệt.
Tu hành không là chuyện một ngày một đêm mà thành. Nó đòi hỏi, ngày cũng như vậy mà đêm cũng như vậy: Tâm lúc nào cũng tu trì, kiên định không biến đổi. Sau một thời gian lâu dài thì sẽ phát triển thành trí huệ bát nhã. Nếu bạn một ngày tu, mười ngày nghỉ thì vĩnh viễn không thể thành tựu.
Trong chùa, bạn không nên nói chuyện bừa bãi. Không thể tùy tiện cẩu thả. Quy củ là giới luật. Giữ giới luật thì mới thanh tịnh. Có thanh tịnh thì mới gần gũi chư Phật.
Thân thể của ta cũng giống như một xưởng hóa học, thiên biến vạn hóa. Có lúc nó biến mình thành con trùng, có khi con chim, con quỷ đói, hay nếu phản ứng hóa học thành công thì biến mình thành Phật. Nó có thể biến có thành không, biến không thành có; hóa ra vô số sinh mạng khác nhau. Do đó mình phải cẩn thận đừng để nó biến mình thành quỷ đói hay thú vật. Tại xưởng hóa học này mình phải hun đúc, tôi luyện thành Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác. Biến hóa sai một chút thì kết quả sẽ sai khác xa lắc, muốn trở lại thì cũng chẳng phải dễ đâu.
Không tu hành mà muốn thành Phật: Chẳng có chuyện đó.
Vô minh tức là không hiểu biết. Căn bản của vô minh là ái dục.
Bạn chớ nghĩ rằng mình có cảnh giới rồi cho rằng đó là tốt. Có cảnh giới nhưng bạn không nhận biết nó rõ ràng thì sẽ rước ma.
Bất luận là bạn thấy việc gì, đừng nên bị cảnh ấy lay chuyển, đừng nên chạy theo cảnh giới ấy. Phải làm sao? Phải xem nó như không có. Gặp cảnh giới và không gặp cảnh giới, tâm bạn phải như nhau. Không sinh tâm vui mừng, cũng không sinh tâm ghét bỏ.
Rất nhiều người đời chỉ ăn rồi chờ chết, lãng phí thời giờ. Ai cũng vậy: Sáng sớm ngủ dậy, là bận rộn này nọ cho tới tối về lên giường ngủ. Cũng chỉ vì ba miếng cơm mà bôn ba. Sống như cục thịt biết đi, chẳng có chút giá trị, ý nghĩa gì cả, thì sống và chết có gì bất đồng?
Bởi do con ngưòi có tâm sân nên mới có hỏa tai (nạn cháy). Có tâm tham nên mới có thủy tai (nạn lụt lội). Có tâm si nên mới có phong tai (nạn gió bão). Ba tai nạn vốn do ba độc tham sân si mà ra. Chúng ta ai ai cũng có đủ ba độc trong tâm. Nếu tâm ấy một ngày một lớn mạnh thì tới một lúc nào đó, nó sẽ tạo thành đại tai nạn.
Bên ngoài có máy vi tính (computer), bên trong tự tánh chúng ta cũng có máy vi tính, gọi là thần não, thánh não hay Phật não. Cũng tức là đại trí huệ. Tuy khoa học tiến bộ, song phương hướng của nó hướng ngoại, nên càng truy tìm chân lý thì càng rời xa chân lý. Các vị khoa học gia chỉ dụng công nơi ngoài da, do vậy dường như có điều sở đắc, nhưng kỳ thật thì đã quên mất trí huệ bổn hữu. Ðó gọi là bỏ gốc, theo ngọn.
Lúc tu đạo không cần mình phải dùng sức mạnh để đối phó với chướng ngại. Nếu bạn chân thành thì tự nhiên mọi chuyện sẽ giải quyết êm đẹp.
Không thể muốn tu pháp xuất thế, đồng thời chẳng chịu buông bỏ pháp thế gian. Hai chân đạp lên hai chiếc thuyền: Một thuyền đi Giang Bắc, một thuyền đi Giang Nam. Ðó là chuyện không thể làm đặng.
Nếu muốn cái độc trong thế giới tiêu trừ thì mọi người phải ăn chay, không ăn thịt.
Ai mà không chấp trước? Chớ nghĩ rằng, lúc tôi không có việc gì làm, tức là tôi không chấp trước. Xem thử lúc có việc, cảnh giới tới, thì bạn sẽ ra sao. Lúc không có việc gì, bạn không có phiền não, thì đó chưa phải là thiệt. Phải chờ lúc cảnh giới tới, nếu bạn nhận thức được nó, thì đó mới đáng kể.
Người học Phật chúng ta cần thiết phải thâm nhập kinh tạng, thì mới có trí huệ rộng lớn như biển. Không thâm nhập kinh tạng thì trí huệ không sao rộng sâu như biển. Không thâm nhập kinh tạng thì cái gì sẽ như biển? Phiền não của bạn sẽ rộng như biển. Chấp trước của bạn cũng sẽ sâu như biển. Tà kiến của bạn cũng đầy như biển. Do đó việc đọc tụng kinh điển đại thừa thật vô cùng trọng yếu.
Người xưa nói: Vạn ác, dâm đứng đầu. Ðó là đường chết, không thể đi. Bạn cứ làm chuyện dâm dục thì cũng như đi vào đường chết.
Ðừng cho việc thiện quá nhỏ nên không làm, đừng cho việc ác nhỏ quá nên làm luôn. Việc tốt dù nhỏ đến đâu, mình cũng phải làm. Việc xấu tuy là nhỏ song mình chớ làm.
Tu hành thì phải nhịn khổ.
Không tranh, không tham, không truy cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối: Ðó là việc vốn rất dễ làm, chẳng ai cưỡng bách bạn làm cả. Nhưng bởi vì bạn không chịu làm nên nghịch cảnh mới tới. Nghịch cảnh đó là việc tranh giành, việc tham lam, truy cầu, ích kỷ, tự lợi, dối trá. Từ đó mới có nạn hoạnh nghịch. Khi gặp nghịch cảnh thì bạn chịu không nổi. Vậy thì khi bạn nói dối trá, sao chẳng cảm giác là chịu không nổi chớ?
Giới tức là cử tâm động niệm, bạn không được sinh tất cả thứ gì xấu ác.
Ðịnh tức là thành tích của tu giới. Nếu bạn trì giới cho lâu thì sẽ có định lực. Ðịnh lực tiếng Phạn gọi là samadhi hay tam muội, nghĩa là chính định hay chính thọ. Chính định thì khác với tà định. Chính thọ thì cũng khác với tà thọ. Chính định chính thọ thì mới hợp với chánh pháp. Còn tà định và tà thọ thì không phù hợp với pháp.
52. Hòn Đảo Của Những Di Sản Phật Giáo

PHÚ QUÍ HÒN ĐẢO CỦA NHỮNG DI SẢN PHẬT GiÁO
Nằm ở vùng biển đông mênh mông sóng nước – đảo phú quí như con cá thu khổng lồ đang trồi lên mặt nước chở trên mình một bức tranh thiên nhiên với vốn di sản cổ xưa quí giá. Hòn đảo được hình thành là dấu tích của hoả diệm sơn đã tắt qua nhiều lớp phun thạch của miệng hoả sơn – chuỳ taọ thành núi cao nhô lên khỏi mặt biển với sự bồi tụ của lượng cát biển hàng năm tạo thành một loại đất màu nâu , vàng hay xám đen khiến ta liên tưởng đến nét rêu phong cổ xưa của những ngôi tháp cổ sừng sửng giữa trời xanh biếc. Từ xưa hòn đảo này đã có nhều tên gọi khác nhau đối vói cộng đồng người Chăm đây là khu Kulau Koh Klong còn đối với cư dân Qủang Nam – Đà Nẵng thường gọi là Thuận Tịnh, cù lao Khoai Xứ hay cù lao Thu, tên gọi Phú Quí chỉ xuất hiện vào thời Thiệu Trị thứ 4 (1844) vì nơi đây có tầm quan trọng lớn đối với việc quan hệ buôn bán và khả năng quân sự.

Nền văn hoá hình thành khá sớm được đánh dấu bằng những di chỉ cổ xưa mà nhân dân nơi đây tìm thấy như rìu, chum vò lớn, đồ trang sức bằng đá với kỷ thuật chế tác khá tinh sảo. Căn cứ những di chỉ trên ta có thể đoán được chủ nhân của nền văn hoá phú quý thuộc văn hoá Sa Huỳnh tồn tại cách ngàynay từ 3000 – 4000 năm. Nói thế để thấy con người đã khám phá ra hòn đảo này từ rất sớm, có thể nói tộc người Chăm từ Qủang Nam – Đà Nẵng trở lại thường gọi là thị tộc Dừa hay từ Phú Yên trở vào ( thị tộc này có tên gọi là Cau), có phải vì là nơi giao lưu hành hoá – văn hoá từ khu vực Đông Nam Á hay không mà dư âm Phật giáo còn ảnh hưởng khá sâu sắc ở hòn đảo này. Từ tính cách đến tín ngưỡng, từ việc tế lễ đến sinh hoạt cộng đồng, đều mang âm hưởng tư tưởng Phật với bản sắc của ngư dân vùng biển. Tuy khiêm tốn về diện tích nhưng đảo Phú Qúi đã có trên 6 ngôi chùa được xây dựng có nhiều ngôi chùa lâu năm như Thạch Lâm, Linh Quang….
Tiêu biểu cho 6 ngôi chùa trên Phú Qúi, đó là cùa Linh Quang Tự: xét về thời gian chùa được xây dựng năm 1747 đời vua lê cảnh hưng thứ 8 do các nhà sư theo các thương buôn từ đất liền ra tạo lập. Ban đầu chỉ là mái tranh vách dứa nhưng do sự đóang góp nảo trì của nhiều phật tử, ngôi chùa ngày một xây dựn trang hoàng và tôn nghiêm hơn. Theo cách đánh giá của nhiều nhà sử học, đây là chùa cổ nhất của tỉnh Bình Thuận, ngoài những nét cấu trúc hài hoà, chùa còn lưu giữ nhiều di vật cổ có giá trị nghệ thuật dân gian rất lớn. Nhiều pho tượng cổ với thể loại và chất liệu khá phong phú như đá, đất nung, gỗ, cùng nhiều nét chạm khắc sắc sảo, tào hoa những nghệ nhân đất đảo đã để lại cho đời sau vốn giá trị nghệ thuật lớn lao. Các pho tượng được thờ ở chùa Linh Quang phần lớn có niên đại vào thế kỷ XVII, XVIII, XIX, đặc biệt những bức tượng được xem cóa niên đại sớm hơn như tượng Quan Thế Aâm Bồ Tát, Phật Nhiên Đăng…
Xét về đặc điểm nhân chủng, tượng phật được lưu giữ tại chùa Linh Quang hầu như mang âm hưởng của tính cách tượng phật tìm thấy ở đại hữu, đồng dương thuộc nguồn gốc phật giáo Đại Thừa Chămpa. Với khuôn mặt bầu tròn, môi dày mũi tẹt, đôi lông mày gần giao nhau ùng với sự phóng khoáng mô típ tạc trong thế đứng hay ngồi đưa tay về thiên hướng cảm thụ ngệ thuật hơn là để dùng trong việc tôn thờ đã cho ta thấy ảnh hưởng trong tâm thức tạc tượng Chămpa thật sự đang hiện diện trong vùng đảo xa khơi. Điều này là một trong những gợi hướng mở cho chúng ta hiểu thêm về đời sống tín ngưỡng – tôn giáo của người dân đất đảo và sự giao thoa tuyệt vời của hai nguồn văn hoá Chămpa – Đại Việt mà ngôi chùa Linh Quang là một biểu tượng cần được tìm hiểu. Một điều làm cho chúng ta chú ý hơn là sự xuất hiện của tượng Phật Nhiên Đăng được tôn thờ ở đây như là biểu hiện rõ hơn về cuộc sống ngư dân biển.
Ngược lại đối với ngư dân khu vực ven biển miền Trung thường thấy rất ít khi xuất hiện quan nịêm thờ hay tạc tượng Đức Phật Nhiên Đăng có lẽ đây là nét biểu hiện rõ nhất về phật giáo Chămpa còn lại. Đến phú quuý, đến tâm thanh nhìn lên trên đồi cao Linh Quang Tự đứng sừng sững oai nghiêm với cổng Tam Quan, với tầm vóc ngguy nga cho ta thấy sự sùng tín đạo phật của người dân hun đúc tự bao đời. Hiểu được tầm vóc quan trọng đó nên vừa qua bộ văn hoá – thông tin đã công nhận chùa Linh Quang là di sản văn hoá quốc gia và trước đó nhiều thế kỷ vào thời Nguyễn các vua Nguyễn đã phong tặng gồm 10 sắc phong cho ngôi chùa này. Cuốn Thiền phả, loại văn tự cổ của chùa cũng đã ghi chép khá tỉ mỉ về sự hình thành của chùa cũng như sự truyền bá và thịnh hành phật giáo trên đảo.
Di tích đặc biệt liên hoan đến đặc tính của Chămpa là đền thờ Bà Tàng Tranh. Theo truyền thuyết cho biết Bà vốn là công chúa của vua Chămpa do sai phạm nên bị đày về đảo này. Trong tìm thức người dân đảo vẫn cho rằng bà là ngưòi đầu tiên đặt chân khai hoang và sinh sống tại đảo, là tiền hiền vun đáp sự sống cho thế hệ đến sau. Ngoài truyền thuyết mang tính huyền bí về cuộc đời của Bà, một đuề khá lý thú là hầu như ngư dân sống ở vùng đảo này đều xem Bà như là hiện thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Trong một lần trao đổi với chúng tôi Thượng Toạ Thích Thiện Tâm trụ trì chùa Đạt Ma là người con đất đảo – đã đề cập đến những câu chuyện kì bí xung quanh Bà mang đậm tính chất phật giáo.
Ngư dân mỗi lần ra hơi bị giông tố ập đến người ta hay chú tâm cầu nguyện đến Bà. Thường thì Bà hay ấn thân để giúp đỡ và che chở. Trong một chuyến điền giả vào năm 1994 tại đảo Phú Quý chúng tôi đã tìm về ngôi mộ cũng là nơi thờ tự Bà. Điêu phát hiện khá trùng lặp, chính tại đây là một di chỉ khá phong phú về giai tầng văn hoá Sa Huỳnh – Chămpa như mảnh vỡ của sành sứ, các khí cụ bằng sắt… như vậy cho chúng ta thấy rằng trước đó đã có cư dân Chămpa sinh sống và hình tượng tôn thờ Bà Trang Tranh hiện nay chính là sự nối tiếp của tính tôn thờ mẫu hệ và còn là điểm mốc đầu tiên để tưởng nhớ cư dân đi trước.
Có được như ngày hôm nay Phú Quý đã trải qua những biến suy rồi hưng thịnh, nhiều thế hệ với những công sức to lớn đã góp nên một Phú Quý như hiện nay, bản sắc văn hoá được bảo tồn, đời sống kinh tế ngày càng thêm ổn định. Tuổi trẻ Phú Quý với tinh thần Phật sự đang được củng cố và bồi đắp là nìêm tin chắc chắn là sự bảo trì vốn van hoá đặc sắc của quê hương mình góp chung vào nền văn hoá đa màu của dân tộc Việt Nam.

53. Du Nhập Phật Giáo Ở Chămpa

THỜI ĐIỂM DU NHẬP PHẬT GIÁO TẠI CHĂMPA

Từ khi hình thành nhà nước dưới dạng sơ khai Lâm Ấp{190 – 193 sau công nguyên), đời sống văn hoá của cộng đồng người Chămpa đã chịu sự tác động mạnh mẽ của sự đối lưu qua các nền văn hoá bên ngoài. Vấn đề phát triển kinh tế – văn hoá mà đòn bẩy chính là sự phát triển công kĩ nghệ sắt Sa Huỳnh, cùng với sự tác động mạnh của nền nông nghiệp định cư bằng sản xuất lúa hai vụ đã đưa cộng đồng này tiến đến thời kì thịnh vượng nhất. Không chỉ có sự tác động qua lại giữa công nghệ – kỹ thuật sắt và nền nông nghiệp với tính ưu việt mà qua đó, chúng tôi còn muốn đề cập đến vấn đề khác có tính tương trợ hết sức quan trọng, đó là tầm quan hệ đối lưu của ngành thương nghiệp thông qua đường biển.
Nhờ nhiều sản vật quý hiếm, nhiều kỹ nghệ đồ sắt ưu việt, cộng đồng người Chămpa đã có những tổ chức đưa các “ mặt hàng” của mình qua trao đổi đồng thời nhập về những “mặt hàng” thiết yếu gia dụng, điều này được khẳng định qua sự có mặt của các đồ đồng của văn hoá Đông Sơn, Phù Nam, và một số có liên quan đến sự đối lưu – trao đổi qua đường biển như các vật trang sức, khuyên tai hai đầu thú, xâu chuỗi bằng thuỷ tinh… xuất phát từ các nước Nam Á. Đặc biệt qua vấn đề hình thành chữ viết dựa trên nền tảng đặc trưng chữ hình tượng của văn hoá Ấn Độ. Bằng chữ Phạn qua các kí tự tìm được từ thế từ thế kỉ thứ I sau công nguyên, đồng với sự tiếp thu và biến thể của một số nền văn hoá ngoại để phù hợp với nền văn hoá bản địa. Trong đó, chịu sự rác động mạnh nhất của văn hoá Ấn Độ – Nam Á là điều tất yếu không thể phủ nhận được, khi mà sự đối lưu hàng hải của Chămpa vào những giai đoạn đó phát triển mạnh nhất vùng Đông Nam Á.
Song song với việc chấp nhận nền văn hoá Ấn ở thời kì dòng Phật giáo và Bà – La- môn đang được phát triển mạnh mẽ. Hai triết học này cùng với nền kinh tế tăng trưởng đã có những bước tác động sâu vào vaasn đề định hìh nền văn hoá Chămpa. Từ những vấn đề chúng tôi vừa nêu ra ta có thể khẳng định rằng nền văn hoá Ấn Độ và Nam Á được truyền về đây từ rất sớm đối với một cộng đồng mà tín ngưỡng tôn giáo là chủ lực chính.

Vậy thì phật giáo được du nhập vào Chămpa như thế nào? Câu hỏi này đã được nhiều lớp học giả nghiên cứu về văn hoá Chămpa quan tâm và tiếp cận, nhiều nhà sử học cũng dành nhiều thời gian để tìm hiểu vấn đề này. Riêng chúng tôi chỉ là những người thừa kế của các bậc tôn sư đi trước để lại cùng với việc sưu tập tài liệu, các thư tịch cổ có liên quan đến văn hoá Chămpa để phác thảo một trình tự nhất định nào đó của dòng phật giáo, nét tư tưởng nổi bậc của nhiều vương triều Chămpa kế thừa và phát huy. Lật các thư tịch cổ của Trung Hoa có liên hệ mua bán trao đổi với người Chămpa vào những thế kỷ VII, Nghĩa Tịnh (I – Sting ) đã kể lại cộng đồng người Chămpa vào thời kì này rất kính mến Phật Thích Ca.
Khi tìm hiểu các sử liệu Trung Hoa khác, một số nhà nghiên cứu còn cho biết thêm vào năm 605, quân nhà Tuỳ khi đánh chiếm Chămpa đã thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, trong đó nổi bật nhất là 1.350 pho kinh phật. Đồng thời dựa trên một văn bản được tìm thấy trên bia Võ Cạnh – Nha Trang – Khánh Hoà – cho rằng vào thế kỉ thứ I, phật giáo là tôn giáo chủ đạo xung quanh khu vực trung tâm của xứ kauthara. Sự sùng bái đạo Phật có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng cộng đồng Chămpa đương thời. Khi tiến hành nghiên cứu về văn hoá Chămpa, nhà nghiên cứu L.Finot đã có những khảo cứu sưu tra bia Võ Cạnh – Nha Trang, cho biết thêm: “Nhà vua dựng bia để thể hiện ý thức về sự bất thường của cuộc đời, về lòng trất ẩn đối với chúng sanh, sự hy sinh của cải mình cho lợi ích chung…” đây là biểu hiện rỏ nét về sự ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo về tinh thần nhận thức của mọi tầng lớp trong xã hội Chămpa lúc bấy giờ.
Căn cứ vào những chứng cứ trên, chúng ta có thể cho rằng tư tưởng cùng dòng Phật giáo được truyền về và phát sinh ở đây vào những giai đoạn niên kỉ I sau Công nguyên, cùng song song với sự du nhập “ nở rộ” của nền văn hoá Ấn Độ và Nam Á. Thật vậy,miền duyên hải miền Trung vốn có điều kiện thuận lợi về tìm năng hàng hải có các cửa biển tự nhiên ưu đãi về vấn đề an toàn nơi trú ngụ của tàu thuyền, từ đây cùng với sự phát triển phồn thịnh cùng với tính ưu việt của nền văn hoá ảnh hưởng đến là biến chuyển từ nền văn hoá bản địa tiền Chămpa đưa đến một văn hoá Chăm. Sự tác động mạnh mẽ đó làm ảnh hưởng nhất định đến tôn giáo trong thời kì này. Xét về bối cảnh thời kì trước của Ấn Độ về khía cạnh tôn giáo cho đến lúc đức Phật nhập diệt, trải qua một trăm năm biến chuyển trong cộng đồng Tăng lữ.
Từ sự ủng hộ nhiệt tình của các vương quốc, các trưởng giả giàu có và danh tiếng. Cũng từ đây, dư âm và uy đức của đức Phật vẫn còn đang bao trùm các vương quốc nên vấn đề qui ngưỡng về Tam bảo theo tinh thần tuyệt đối vẫn còn sâu đậm. Từ đó tư tưởng của Arya- Samiti – Nikaya và Sarvativada theo đà đó phát triển mạnh mẽ, nhiều vị vua trị vì ủng hộ sùng bái Phật giáo tạo nên một thời phồn vinh. Tất nhiên những thương buôn là những Phật tử và những vị Sa môn theo gót viễn du về những vùng đất mới còn mang bên mình một triết học – tôn giáo bản địa của mình do mình hấp thụ được qua khắp vùng Châu Á. Trong những chuyến diễn du để trao đổi hàng hoá trước yêu cầu ngày một lớn ấy, theo điều kiện của từng vùng đất và điều kiện thuận lợi về hải cảng tạo nên một nền kinh tế phồn vinh – giao lưu văn hoá có những bước thành tựu khả quan : trong đó hải cảng Chămpa là địa điểm các thương buôn thường chú ý và tìm đến nhất bởi tầm quan trọng của vấn đề trao đổi hàng hoá.
Cũng từ đây một số vị Sa môn nhìn nhận và thấy rằng vùng đất này có thể phù hợp để truyền bá chánh pháp và được cộng đồng này chấp nhận một cách tích cực. Những vị chân tu Phật giaó theo thời gian phiêu du tìm về nơi vắng vẻ để tụ tập – đồng thời hoằng hoá khai ngộ cho chúng sanh trước công nguyên, và từ đó đưa triết lý của Phật giáo lên tuyệt đỉnh. Cùng với sự phát triển đa chiều của Bà- la –môn, giáo, hai tôn giáo này đã bắt đầu ăn sâu vào tư tưởng cuả cộng đồng người Chămpa đương sự. Bước vào thời kì sau công nguyên, sự hoàn thiện về tư tưởng - tôn giáo được khẳng định tại vùng đất này với một quốc gia phong kiến mang tên Chămpa. Một loài hoa tinh khiết để cúng dường đức Phật đồng thời các phạm thiên ( đối với Bà- la – môn) để chính thức lấy làm tên quốc hiệu của cộng đồng này.

54. Ðạo Phật, Một Biểu Tượng Của Hoa Sen

Với đạo Phật, thế giới này là do nguyên lý Nhân duyên tương quan mà cấu thành; còn con người thì đều do quy luật Nhân quả tương xứng của con người mà được hạnh phúc hay bị khổ đau. Bên cạnh đó, ai nấy đều có Phật tánh bình đẳng, tùy theo mỗi người có biết tu dưỡng thân tâm hay không.
Tuy nhiên, hai bộ kinh quan trọng của đại thừa (kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa) đều mở đầu bằng Bồ tát Ðại Trí Văn Thù và kết thúc bằng Bồ tát Ðại Hạnh Phổ Hiền. Nghĩa là, muốn đạt được ngôi vị Giác ngộ và Giải thoát, thì mỗi người nam hay nữ phải tu dưỡng cả trí tuệ và đạo đức từ bi, cả giác ngộ và hành động viên mãn, hướng tới tự lợi và lợi tha, tự giác và giác tha, tự hành và tự nhiệm.
Ðạo Phật, Một Biểu Tượng Của Hoa Sen
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Giáo chủ của đạo Phật hiện nay, giáng sinh vào mùa sen nở, ngày Trăng tròn (Vesak) 15 tháng 04 Âm lịch. Tuy nhiên, theo truyền thống ngày xưa của Phật giáo Phát triển, thì ngày giáng sinh của Ðức Phật lại được kỷ niệm vào ngày 08 tháng 04 mỗi năm, tại Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản. Từ trước tới nay, vào mùa Phật Ðản, tôi thường nghe thấy các cháu nam nữ Gia đình Phật tử hát bài nhạc Hoa sen để dâng lên Ðức Phật, đại ý như:
“Hoa sen xinh đẹp biết là bao!
Hoa ơi, hoa có tự thủa nào?
Mà người hằng nói: hoa quân tử
Gần bùn vẫn giữ vẻ thanh cao...”
Trong các chùa, không chỉ tại Việt Nam, mà còn cả các nước trên thế giới, các pho tượng Phật thường ngồi trên bông sen. Về mặt giáo lý Phát triển, hầu hết các kinh điển đều nhắc tới hai chữ Liên hoa (hoa sen). Ðặc biệt kinh Thiền Ðịnh Hoa Sen (Pháp Hoa Tam Muội) đã được dịch đầu tiên tại miền Bắc (Việt Nam) vào giữa thế kỷ thứ III sau Tây lịch, từ chữ Phạn thành chữ Hán. Cứ theo thư mục Phật giáo của Punyo Najio, thì ghi: “Tăng sĩ Chi Cương Lương Tiếp (Kalaruci), người nước Ðại Nhục Chi (Indo-Scythe), đã dịch nhiều kinh Ðại thừa tại Giao Châu (Bắc Việt), vào những năm 255-256. Trong những kinh này, có bộ kinh Ðại thừa nổi tiếng, gọi là Pháp Hoa Tam Muội. Ðồng thời có Tăng sĩ Việt Nam, tên là Thích Ðạo Thanh, đã giúp Chi Cương Lương Tiếp cùng dịch bộ kinh Thiền Ðịnh Hoa Sen đó”.
Cũng giống như Thích Tăng Duệ, Tăng sĩ Trung Quốc, đã giúp ngài Kumarajiva (Cưu Ma La Thập, Ðồng Thọ), người xứ Quy Tư (Kucha), đến Trung Quốc dịch bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma-pundarika sutra), gồm 7 quyển, 28 phẩm, vào đầu thế kỷ thứ V, tức năm 406; và chúng tôi tạm dịch là kinh Hoa Sen Phép Mầu.
Tiếp theo phương Ðông, ông Eugène Burnouf, người Pháp, đầu tiên ở phương Tây, cũng đã dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa, từ chữ Phạn thành chữ Pháp, mà ông dịch là “Le Lotus de la Bonne Loi”, Paris, năm 1852. Bộ kinh này nằm trong tập sách “Introduction à lõhistoire du Bouddhisme Indien”, Giới thiệu lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ, mà ông đã biên soạn trước, năm 1844.
Sau đó, tại Anh và Ðức, lại có các học giả khác, cũng dịch kinh Pháp Hoa này thành chữ bản xứ. Do vậy, người phương Tây: Âu, Mỹ, Úc, thường gọi đạo Phật là Tôn giáo Hoa Sen (Religion of Lotus).

1/ Về biểu tượng
Hoa sen là một loại hoa bình dị, tượng trưng cho đạo Phật và, thực tế, hoa sen lại phát sinh ở hồ, ao bùn, rồi vươn lên và tỏa ra hương sắc, làm đẹp thơm cho cả mọi người và môi trường sinh thái. Cũng vậy, đạo Phật là Trung đạo, vừa xuất thế vừa nhập thế, vừa vượt khỏi bùn vừa sinh ra từ bùn, xuất thế cho Tăng Ni, nhập thế cho các Phật tử, là một nếp sống hài hòa, cân đối; không thiên chấp, chẳng cực đoan. Nghĩa là, chẳng duy tâm, duy vật gì cả... Nói cách khác, mục đích của đạo Phật là giác ngộ và giải thoát, bình đẳng hạnh phúc và tự do, làm cho mọi người đều đạt tới đỉnh cao phẩm giá nhân bản.
Vì thế, ngay từ đầu, đạo Phật đã công khai bác bỏ thẩm quyền của Thượng đế Phạm Thiên (Brahma) và xóa sạch xã hội bất công gồm 4 giai cấp của Bà La Môn giáo hay Ấn Ðộ giáo. Bởi lẽ Thượng đế, bất kể là gì, đều do sự tưởng tượng của con người tạo ra, hơn nữa, ai nghe theo Thượng đế, thì được lên Thiên đàng, hưởng hạnh phúc; trái lại, thì phải đọa xuống Hỏa ngục đời đời, đúng như lời dạy trong Thánh kinh. Như vậy, rõ ràng thân phận con người suốt đời chỉ là nô lệ, chẳng có quyền sống và càng chẳng có giá trị nhân phẩm gì hết.
Với đạo Phật, thế giới này là do nguyên lý Nhân duyên tương quan mà cấu thành; còn con người thì đều do quy luật Nhân quả tương xứng của con người mà được hạnh phúc hay bị khổ đau. Bên cạnh đó, ai nấy đều có Phật tánh bình đẳng, tùy theo mỗi người có biết tu dưỡng thân tâm hay không.
2/ Về ý nghĩa
Nói chung theo giáo lý của Phật giáo Phát triển; nói riêng theo kinh Hoa Sen, kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật, thành người giác ngộ và giải thoát, hạnh phúc và tự do, trong một thế giới thanh bình và an lạc. Ví dụ:
a) Trong kinh Hoa Nghiêm, pháp hội đầu tiên mà Ðức Phật giảng dạy cho các hàng Bồ tát, có Thiện Tài đồng tử được thụ ký thành Phật;
b) Trong kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Sen, pháp hội Pháp Hoa và Niết Bàn cuối cùng mà Ðức Phật giảng dạy cho các hàng Bồ tát Viên Giáo, lại có Long Nữ cũng được thụ ký thành Phật.
Tuy nhiên, hai bộ kinh kể trên đều mở đầu bằng Bồ tát Ðại Trí Văn Thù và kết thúc bằng Bồ tát Ðại Hạnh Phổ Hiền. Nghĩa là, muốn đạt được ngôi vị Giác ngộ và Giải thoát, thì mỗi người nam hay nữ phải tu dưỡng cả trí tuệ và đạo đức từ bi, cả giác ngộ và hành động viên mãn, hướng tới tự lợi và lợi tha, tự giác và giác tha, tự hành và tự nhiệm.
Vậy, mỗi năm Ðại lễ Phật Ðản trở về, để tỏ lòng thành kính tri ân và báo ân Ðức Phật, một trong bốn trọng ân - ân cha mẹ, ân Tổ quốc, ân những người giúp đỡ và ân Phật Pháp Tăng, thì chúng ta hãy tích cực thực hiện chủ trương từ bi cứu khổ, cứu nhân độ thế của Ðức Phật. Nghĩa là, chúng ta phải vận dụng giáo lý Ðại thừa thành cụ thể như:
Về mặt trí tuệ:
Chúng ta phải hiểu rõ 5 pháp môn Ngũ minh:
- Nội minh: tất cả giáo lý nội điển trong đạo Phật - Kinh, Luật, Luận, Sớ, Lục và Sử Truyện;
- Nhân minh: triết học, luận lý học và biện chứng pháp;
- Thanh minh: ngôn ngữ học, cổ ngữ và sinh ngữ;
- Y phương minh: y dược học, Ðông y và Tây y;
- Công xảo minh: khoa học và kỹ thuật.
Về mặt thực hành:
Chúng ta ứng dụng những kiến thức nói trên vào các việc thực tế sau đây:

- Từ thiện xã hội: góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng những nhà tình thương, cô nhi khuyết tật, đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực xã hội, xóa bỏ hủ tục, mê tín dị đoan...;
- Giáo dục Phật học và thế học: tham gia ngành giáo dục, từ sơ học, tiểu học, trung học, đại học và các trường dạy nghề chuyên nghiệp cho cả đạo và đời;
- Y tế: Thực hiện cả Ðông y và Tây y. Xây dựng các phòng khám bệnh, phát thuốc miễn phí, bệnh xá và bệnh viện. Ðồng thời, đào tạo các y tá, y sĩ, dược sĩ và bác sĩ trẻ và ưu tú, bằng các Tăng Ni, nhằm phục vụ các bệnh nhân nghèo và thể hiện thiết thực lòng từ bi cứu khổ. Ngoài ra, với sứ mạng Như Lai sứ giả, chúng ta sẵn sàng dấn thân trên đường hoằng pháp lợi sinh, chia sẻ những nỗi niềm khổ đau, bất hạnh, tử biệt sinh ly, bằng những khóa lễ cầu an, cầu siêu và thăm viếng.
Vận động, động viên mọi Phật tử có lòng có sức, trong và ngoài nước, cùng nhau nhiệt tình phát tâm, kẻ ít người nhiều, tự nguyện, vượt ngoài lợi danh, thành lập Ban Từ thiện Phật giáo, nhằm tạo kinh phí trang trải cho ba việc công đức nêu trên. Ðược vậy, thì Phật tử chúng ta xứng đáng cúng dường ngày Ðại lễ Phật Ðản hàng năm với tinh thần: hoa sen nở ngát và sáng tỏa khắp đất nước Việt Nam yêu quý.

55. Văn minh Khmer

Văn minh Khmer - Trên đỉnh núi thiêng
Trên đỉnh núi thiêng


Dòng suối với hàng ngàn tượng Linga, Yoni, thần Laksmi, apsara được chạm khắc trong 100 năm dưới lòng suối - Ảnh: Binh Nguyên
Từ đỉnh núi này đã ra đời tuyên ngôn độc lập của vương quốc Khơme. Người ta đã mất hơn 100 năm để biến một dòng suối thành bức tranh tượng đá khổng lồ và kẻ hậu thế vẫn tin rằng đó là bước chân đầu tiên của vị thần xây dựng nên kỳ quan Angkor.
Thánh địa ngàn năm
Ba năm trước chúng tôi đã đến nơi này trong một chuyến hành trình đầy hiểm nguy bằng xe gắn máy. Con đường mòn dẫn lên núi Kulen ngày ấy vẫn còn hoang sơ, chưa in đậm dấu chân người, rắn bò ngang đường, đàn khỉ phóng mình trên những hàng cây và những tấm bảng cảnh báo mìn ở khắp nơi. Vậy mà hôm nay, khi đặt chân lên đỉnh núi, chúng tôi đã bắt gặp hàng đoàn người từ nhiều miền của đất nước chùa tháp tụ hội về đây từ nhiều ngày để chiêm bái núi thiêng. Giờ đây con đường đã được nâng cấp, dòng người hướng về Kulen ngày một đông hơn.
Năm 802, đức vua Jayavarman II đã tìm ra khu rừng nguyên sinh rộng đến 37.500ha, từ đây có thể phóng tầm mắt về bốn hướng của đồng bằng Siem Reap ngút ngàn. Trên đỉnh núi này có dòng suối trong veo được xem là nơi phát nguồn của dòng sông Siem Reap. Tại đây - trên đồi Mahendra, Jayavarman II đã tuyên bố nền độc lập của vương quốc Khơme khỏi đế quốc Java và chọn nơi này làm kinh đô, mở ra kỷ nguyên rực rỡ mà hậu thế hôm nay gọi đó là thời kỳ "Đông Nam Á dưới bóng Angkor".
Sau thời kỳ huy hoàng kéo dài hàng trăm năm, kinh đô Kulen lại chìm đắm giữa núi rừng âm u. Mãi đến năm 1968, những nhà thám hiểm người Pháp mới phát hiện Kulen, nhưng do chiến tranh triền miên và nhất là trong những năm 1980-1990 nơi đây là căn cứ địa của Khơme Đỏ, nên mãi đến năm 2000 người ta mới khai phá một con đường độc đạo lên Kulen và nơi này được xem là thánh địa hành hương về cội nguồn của người Khơme.
Gần một ngàn năm trước, năm 1050, vua Suryavarman I đã cho ngăn con suối trên đỉnh núi để thực hiện một công trình tôn giáo được xem là tốn kém và kỳ vĩ nhất đất nước chùa tháp: biến dòng suối có chiều dài hơn bốn cây số thành một bức tranh điêu khắc đá dưới nước với hàng ngàn tượng Linga, Yoni, nữ thần Laksmi, tiên nữ apsara... Cho đến bây giờ người ta vẫn chưa thể giải thích được câu trả lời tiền nhân đã thực hiện công trình đục đá, tạc tượng dưới dòng suối này như thế nào, nhưng theo sử sách Khơme thì việc tạc tượng dưới đáy dòng suối kéo dài hơn 100 năm và cho đến giờ vẫn tồn tại như một thách thức với thời gian.
Bây giờ đang là mùa mưa, nước suối Kulen dường như dâng cao hơn, nhưng bên dưới lòng suối những kiệt tác điêu khắc khổng lồ với hàng ngàn tượng Linga, Yoni (miêu tả bộ phận sinh dục của nam và nữ) được tạc thẳng vào nền đá vẫn huyền ảo lung linh. Hàng ngàn bức phù điêu chạm trổ rất tinh vi về các tượng thần Deva, tiên nữ apsara mà qua ánh nắng chúng tôi có cảm giác những bức tượng đang nhảy múa. Đi lên thượng nguồn dòng suối, chúng tôi phát hiện nhiều phiến đá khổng lồ chạm trổ nữ thần sắc đẹp Laksmi vô cùng sống động

Dấu chân thần xây đền Angkor
Rời dòng suối ngàn Linga huyền bí, chúng tôi lên đỉnh - nơi có ngọn đồi Mahendra lịch sử, Lim Sopheaktra - người dẫn đường của chúng tôi - cho biết cả khu rừng Kulen còn đến 37 ngôi đền, chùa cổ có tuổi đời hàng ngàn năm, nhưng đặc biệt nhất vẫn là chùa Paang Thom, nơi đây ngoài bức tượng Phật được tạc thẳng vào núi đá, phần thân tượng dài 9,7m, cao 3,3m. Tương truyền để xây dựng kỳ quan Angkor, người Khơme đã được sự giúp sức của các vị thần và nơi này còn lưu giữ dấu chân phải dài 2m, sâu 0,4m mà theo truyền thuyết là dấu chân đầu tiên của thần và dấu chân trái nằm trên đỉnh núi Ba Kheng cách Kulen 50km.
Khi chúng tôi tìm đến núi Ba Kheng - một ngọn núi thấp, chỉ cao 65m, thì quả nhiên nơi này vẫn còn lưu giữ dấu vết được cho là dấu chân thần bên trái. Đỉnh núi này cũng đã từng là trung tâm kinh đô của đế chế Khơme cổ xưa được xây dựng trong thời gian từ năm 889 đến năm 915 dưới thời vua Yasovarman I. Dưới chân ngôi đền thờ tượng thần Linga của nhà vua vẫn còn hình dáng bốn con đường và hào nước sâu bao bọc bốn hướng như một thành trì bảo vệ đền tháp trên đỉnh núi. Cũng còn đó dấu tích của những giếng nước mà sử sách đã ghi nhận về sự tồn tại của hơn 800 giếng nước cung cấp cho cả kinh đô ngày xưa.
Phnom Ba Kheng là biểu tượng của đỉnh núi thiêng Meru trong thần tích đạo Hindu, những cột đá, những bức tượng thần, những bức phù điêu còn lại vẫn cho chúng tôi cảm nhận sự vĩ đại của nó thời xa xưa với bốn ngọn tháp trên tầng cao nhất, năm tầng ở giữa với mỗi tầng 12 tháp được dựng lên bằng gạch nung tượng trưng cho 12 con giáp. Một con số thật bất ngờ: tổng cộng 108 tháp đền tượng trưng cho bốn chu kỳ mặt trăng tương ứng với 27 ngày cho một chu kỳ trong trời đất.
Cho dù chỉ là ngọn núi thấp, nhưng người xưa đã thật tài tình khi chọn nơi này làm trung tâm kinh đô. Từ trên đỉnh Ba Kheng, chúng tôi có thể phóng tầm mắt ra bốn phương trời, nhìn được đỉnh năm ngọn tháp của đền Angkor Wat phía xa xa, thấy được cả đỉnh núi Kulen và cả một bình nguyên rộng lớn. Người ta kể ngày xưa khi cho xây dựng khu đền Ba Kheng, đức vua chọn nơi này để nhìn ra thiên hạ mà đưa ra những cuộc chinh phạt mở rộng bờ cõi.
Không hiểu từ khi nào Ba Kheng đã trở thành nơi đón ánh hoàng hôn của khách thập phương. Nhưng chúng tôi lại thích tìm cho mình một góc nhìn khác từ Ba Kheng nhìn về đền Angkor Wat, nơi mà những người giữ đền kể rằng: "Khi màn đêm xuống, hàng ngàn tiên nữ apsara từ những bức phù điêu trên các dãy hành lang cổ kính dài hun hút sà xuống nhảy múa, nữ thần sắc đẹp Laksmi lại ngồi bên chú khỉ Hanuman nghe kể chuyện khuấy biển sữa tìm thuốc trường sinh, và quan quân của đức vua Suryavarman II - người xây đền Angkor - lại từ trên các bức phù điêu hiện ra". Đi khắp các ngôi đền trên đất nước chùa tháp, chúng tôi như đi giữa những câu chuyện cổ tích như vậy.
56. Những chuyện lạ kỳ

Những chuyện lạ kỳ trên non thiêng Yên Tử

Một đoàn du khách đến mấy chục người, toàn nam thanh nữ tú, lên đến chùa Hoa Yên, cười nói vô duyên, trai văng bậy bạ, gái cười hô hố, liền bị đau bụng quằn quại, không đi nổi nữa. Họ cứ cố lên mỗi bước, bụng lại đau hơn, cuối cùng phải xuống núi. Khi xuống đến chân núi, thì các cơn đau khủng khiếp chợt tan biến đâu mất. Đám người này hoảng hồn, không dám lên Yên Tử nữa.
Nếu so về địa hình, thì dãy Yên Tử và đỉnh Yên Tử, nơi đặt chùa Đồng chỉ cao hơn 1.000 mét so với mực nước biển, chưa phải là cao lắm. Nhưng, như các cụ bảo: Núi không cốt ở cao, vấn đề là trên núi có tiên ngụ; sông không cốt ở sâu, niềm thiêng ở chỗ dưới sông có rồng ở.
Và, Yên Tử được xưng tôn là đệ nhất danh sơn miền Đông thổ, là một non thiêng, bởi nó là ngọn núi của tâm linh, của Phật và chỉ những người có căn cơ với thiền mới sống được.
Người có căn cơ đầu tiên và kỳ lạ nhất chính là đấng quân vương kiệt xuất Trần Nhân Tông. Người đã rũ bụi trần, bỏ long bào cùng với ngai vàng lấp lánh, kiệu hoa bóng lọng, người đẹp sớm chiều để khoác áo cà sa lên núi tu hành, đã đủ để chứng tỏ mảnh đất này thiêng liêng, cuốn hút ngài như thế nào.
Sự rũ bỏ tham, sân, si của ngài cao độ đến nỗi ngài coi cái chết như sự trở về, như một điều giản dị đến khó tưởng tượng. Ngài nằm nghiêng thanh thản trong rừng, tựa dáng sư tử nằm, ngóng về xa xăm, rồi "hóa" giữa đại ngàn hoang vu đến nỗi, khi cây trúc mọc xuyên qua người ngài, đệ tử mới phát hiện ra, để rồi dựng lại hình ảnh ấy bằng bức tượng đá gây cảm động cho muôn đời sau.
Phật hoàng Trần Nhân Tông từng có 19 năm tu rất khắc nghiệt. Di tích chùa Cầm là để tưởng nhớ tới việc ngài chỉ uống nước cầm hơi, không ăn uống gì. Trong chuyến xuyên rừng thăm thẳm trọn một vòng quanh dãy non thiêng, tôi đã được nghe kể và được thấy tận mắt rất nhiều những con người của thế giới Phật cứ như trong chuyện cổ tích. Họ đang thầm lặng tiếp bước con đường vị Phật tổ của mình.
Sư Thích Minh Tiến, Đạt ma Trí Thông, Thích Thanh Quý... đang từng ngày, từng giờ ăn quả vả, chuối rừng, uống nước cầm hơi, tu luyện trong mái đá giữa rừng già để mong được tìm thấy chính mình trong vòng luân hồi bể khổ. Tôi cũng được nghe những câu chuyện về những con người biến mất một cách kỳ lạ khi đang trên đoạn đường hành xác.
Chuyện rằng, từ những năm 80 của thế kỷ XX, trên sườn Đông Yên Tử, có một nữ tu vô cùng khổ hạnh. Khi đó, Yên Tử còn hoang vu, rậm rạp. Cỏ mọc bịt bùng bít hết lối đi. Vị nữ tu này ngày ngày đào măng và cũng chỉ ăn một bữa, rồi ngồi trong am tu thiền. Người ta kể, dáng bà thanh mảnh, mặc áo nâu sồng, đôi mắt sáng, hiền từ như một vị Bồ Tát. Rồi người đi rừng phát hiện ra bà.
Những câu chuyện đồn thổi về bà cứ ngày một lớn. Phật tử khắp nơi đổ về tôn bà như vị Thánh, theo hầu nhang khói. Rồi một ngày, bà đột nhiên mất tích, chẳng ai còn thấy bóng dáng bà trong cánh rừng hoang rậm. Người dân quanh vùng thì tin bà là đức Bồ Tát hiển linh.
Sau khi đã vặt đầy một rổ quả vả lẫn lá vả non thết đãi chúng tôi trong bữa cơm chiều, chú tiểu Hà (ở Ngọa Vân Am bên sườn Tây Yên Tử, thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang, nơi mà chúng tôi phải cuốc bộ ngót một ngày từ chùa Hoa Yên mới tới nơi) dẫn tôi đi tìm khu mộ tháp hoang phế, dưới bóng những cây thông khổng lồ.
Giữa cảnh rừng rú, không có đường đi, các nhà sư chỉ còn biết lấy mấy cây thông làm “la bàn” mà đi. Điều đặc biệt là cứ chỗ nào có thông khổng lồ, y rằng có vườn mộ tháp. Lâm tặc xả gỗ ầm ầm giữa rừng, nhưng lạ ở chỗ, chúng vẫn tha cho những cây thông mà gốc nó to đến mức 2-3 người ôm mới xuể ấy.
Có lần, chú tiểu Hà thật thà tâm sự với đám lâm tặc rằng: “Các anh tốt thật đấy, không nỡ đẵn mấy cây thông do Phật tổ trồng!”.
Nhưng đám lâm tặc cười và nói rất thật: “Thú thật với chú tiểu. Ngày trước, chúng tôi cũng hạ một cây thông lớn, xẻ thành từng khúc, cho trâu kéo. Nhưng trâu không sao kéo được những khúc thông ấy đi. Chúng tôi dồn hết sức lực để vần, thì khúc thông lăn đè chết trâu luôn. Thay 3 con trâu mộng khác thì chết cả 3 con. Sau vụ ấy, chúng tôi hoảng, phải làm lễ tạ rồi không dám động vào những cây thông ấy nữa”.
Kể về sư Cường:
Được nghe kể về những gốc thông bí ẩn, sư Cường đã một mình tìm đến dựng lều để hành xác dưới gốc thông bên vườn tháp mộ u tịch. Sư Cường ngoài 40 tuổi, dáng cao to. Có tài đóng đồ mộc, nên ông đóng cả một căn nhà nhỏ bằng gỗ dưới gốc thông và mấy chiếc ghế tuyệt đẹp. Nền nhà được ghép bởi những thân trúc rất trang nhã.
Ông cũng sống một cuộc đời đạm bạc, cũng ngày ăn một bữa cơm với quả vả, quả chuối rừng, rồi ngồi thiền từ sáng đến tối như các vị chân tu. Thế nhưng, được vài năm, đột nhiên sư Cường bỏ lại cả căn nhà giữa rừng hoang đi đâu mất, không một lời từ biệt. Đến cả người huynh đệ của sư Cường là thầy Trí Thông cũng không rõ thực hư thế nào. Mọi người chỉ biết rằng, trước ngày ra đi, sư Cường bỏ rất nhiều công sức khiêng một pho tượng vượt qua nhiều ngọn núi để cúng vào chùa Hồ Thiên.
Trong đại ngàn non thiêng Yên Tử còn có một di tích trong hệ thống chùa chiền, am tháp từ xa xưa bị bỏ quên, đó là chùa Ba Bậc. Chùa Ba Bậc nằm rất sâu trong rừng, giữa bốn bề những núi đá phô bày những hình thể kỳ dị.
Theo các nhà chân tu nhiều năm sống trên Yên Tử thì khu vực chùa Ba Bậc là nơi hội tụ nhiều linh khí, nên sản sinh ra nhiều kỳ hoa dị thảo. Trên đường đi qua, tôi được tận mắt thấy những loài cây cỏ, hoa lá rất kỳ lạ, mà tôi chưa từng biết đến bao giờ.
Cũng tại đây, nơi bắt nguồn con suối Vàng kỳ lạ, nước như màu mật ong. Tại nơi hội tụ linh khí này, mấy năm trước, người đàn ông tên Khiêm cũng lập thảo am, sống hoang biệt với thế giới. Ông Khiêm có quyết tâm rất cao trong suốt mấy năm trời. Nhưng rồi, một ngày, người ta không còn thấy bóng ông đâu nữa. Ông mất hút một cách kỳ lạ.
Nhân nói về Yên Tử, các nhà khoa học, các thiền sư tu hành đắc đạo ở Trúc Lâm đều khẳng định loài tùng cổ ở Yên Tử đã hút được linh khí trời đất nên sống trường sinh bất tử.
Mới đây, những người đi rừng đã phát hiện ra một con đường xích tùng cổ 700 năm tuổi trên núi Yên Tử, nơi mà Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông thường đi lên núi tu hành. Những cây tùng này cũng là do ông trồng, để vừa lấy bóng mát vừa tỏ rõ cốt cách quân tử.
Hiện ở Yên Tử có 3 loại tùng, gồm: thủy tùng (gỗ trắng), thanh tùng (gỗ xanh) và xích tùng (gỗ đỏ). Xích tùng là loại cực kỳ quý hiếm, chỉ còn tồn tại ở nước ta, vân nó như hoa mẫu đơn và đường kính thân cây rất lớn. Hiện ở Yên tử còn 274 cây tùng có tuổi thọ vắt qua 7 thế kỷ.
Sau một thời gian khám phá, các nhà khoa học phát hiện ra rằng, trên dãy Yên Tử, cứ ở đâu có bóng tùng, y rằng ở đó có am và mộ tháp. Các thiền sư xưa kia thường tu hành trong một chiếc am dưới gốc tùng, sau khi chết đi, thì tro cốt được quàn luôn ở mộ tháp, nằm giữa hai gốc cây tùng. Trong thời gian vừa qua, các nhà khoa học dễ dàng phát hiện thêm được nhiều am, tháp thông qua việc tìm bóng các cây tùng khổng lồ.
Hiểu được lý do vì sao các thiền sư thường tu hành và khi "hóa" cũng nằm dưới gốc tùng, mấy năm trước võ sư Bùi Long Thành đã cùng môn sinh lên Yên Tử luyện khí công với... gốc tùng.
Ông Lê Quang, Phó giám đốc TTQL Di tích - Danh thắng Yên Tử, kể: “Hôm võ sư Bùi Long Thành và môn sinh luyện công dưới gốc tùng, tôi tận mắt chứng kiến và thấy chuyện xảy ra vô cùng kỳ lạ. Các võ sinh bất động, người dính chặt vào thân cây tùng”.
Sau 30 phút “thụ khí” của “lão tùng”, võ sư Bùi Long Thành mới kể với ông Quang rằng, vùng đất Yên Tử là vùng đất tụ khí, những cây tùng này đã có 700 năm nạp một lượng khí của đất trời rất lớn. Khi các võ sinh luyện công, họ vừa được nạp linh khí của trời đất, lại được nạp “trường điện” mạnh mẽ của “lão tùng” nên mới xảy ra hiện tượng thân thể dính chặt vào thân cây như vậy.
Những chuyện lạ kỳ trên non thiêng Yên Tử

Một ngày giữa năm 2007, khi đang lang thang ở suối Giải Oan, nơi thuở xưa các cung nữ trẫm mình, ông Lê Quang, Phó GĐ TTQL Di tích - Danh thắng Yên Tử gặp một cảnh tượng khá lạ: Mấy chục người đàn bà vừa quỳ vừa lạy, vừa khóc bên bờ suối. Trước mặt họ là một mâm đầy ăm ắp lễ vật và cạnh mâm lễ là một làn đựng đầy đá cuội. Khóc lóc và lạy xong, họ bê làn đá rải dọc suối.
Thấy khó hiểu, ông Quang liền hỏi tài xế lái xe thì được anh ta kể rằng, hồi đầu năm, chính anh chở mấy chục phụ nữ Lạng Sơn này về Yên Tử trẩy hội. Qua suối Giải Oan, chị em nào cũng nhặt đá cuội mang về, người nhặt nhiều thì cả chục hòn, người ít cũng 2 - 3 hòn.
Mọi người mang đá cuội về để kỳ cọ chân tay khi tắm, mong da dẻ được trắng đẹp như những... cung nữ. Nhưng không ngờ, sau ngày dùng đá cuội ở suối Giải Oan kỳ cọ, đêm nào họ cũng gặp... "ma" (?). Toàn là "hồn ma" của các cung nữ chết oan, dựng họ dậy đòi trả đá.
Điều lạ là tất cả những người mang đá cuội từ suối Giải Oan về đều bị như vậy và sau vài tháng mất ngủ thì ai cũng phờ phạc như người mất hồn. Ngay cả anh lái xe, lấy về cho vợ mấy viên cuội, cũng gặp cảnh tương tự. Sợ quá, những người này phải về Yên Tử làm lễ tạ tội rồi trả lại đá cho suối Giải Oan.
Bản thân ông Quang cũng để ý và được nghe, biết rất nhiều chuyện lạ ở suối Giải Oan. Nhiều cô gái có hoàn cảnh éo le như trót mang bầu bị ruồng bỏ, mắc AIDS, hoặc gặp cảnh trớ trêu, sau khi ngồi bên suối Giải Oan khóc lóc, tâm sự với các cung nữ, tự dưng thấy lòng thanh thản và tìm được cách giải thoát cho sự bế tắc trong cuộc đời mình(?).
Những câu chuyện huyền bí trên Yên Tử kể cả ngày không hết. Chính ông Quang đã từng được chứng kiến cảnh tượng một đoàn du khách đến mấy chục người, toàn nam thanh nữ tú, lên đến chùa Hoa Yên, cười nói vô duyên, trai văng bậy bạ, gái cười hô hố, liền bị đau bụng quằn quại, không đi nổi nữa.
Họ cứ cố lên mỗi bước, bụng lại đau hơn, cuối cùng phải xuống núi. Khi xuống đến chân núi, thì các cơn đau khủng khiếp chợt tan biến đâu mất. Đám người này hoảng hồn, không dám lên Yên Tử nữa.
Ông Trần Trương, nguyên Trưởng BQL Di tích - Danh thắng Yên Tử cũng kể rằng, tại vườn tháp Huệ Quang có một chuyện rất lạ mà ông được chứng kiến. Sau khi đám công nhân làm xong nhà khách Yên Tử, thì rủ nhau lên lễ chùa Đồng. Khi đi qua vườn mộ tháp Huệ Quang, thấy một hòn đá nằm trên ngọn một tháp cổ, liền thách đố nhau ném trúng hòn đá đó. Một cậu vung tay ném trúng khiến hòn đá rơi xuống đất.
Lên đến chùa Đồng, đám công nhân này mới phát hiện thiếu một người, người đó chính là cậu thanh niên ném trúng hòn đá lúc nãy. Nhưng không ai lo lắng vì cậu ta cũng là người địa phương, không sợ lạc đường.

Sau mấy tiếng đồng hồ xuống núi, quay trở về khu tháp Huệ Quang, đám công nhân sửng sốt khi phát hiện ra cậu thanh niên ném đá lúc nãy đang ngồi xếp bằng tròn bên lăng mộ tháp, mặt áp vào tường, hai tay đặt lên đùi, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa, lắc vai mãi không tỉnh, cứ ngồi bất động như khúc gỗ.
Đám công nhân sợ quá, liền báo BQL, rồi BQL lên chùa Hoa Yên mời thầy Diệu Nhàn xuống làm lễ sám hối. Một lát sau, cậu công nhân nghịch dại kia mới như chợt tỉnh, khóc nức nở, rồi xuống núi. Sau này, tôi gặp sư Diệu Nhàn, sư bảo, những chuyện kiểu như vậy diễn ra thường xuyên ở Yên Tử.
Từng là một thầy giáo, ông Lê Quang không mấy tin vào những chuyện huyễn hoặc, nhưng trong quá trình nhiều năm sống với Yên Tử, ông đã được chứng kiến tận mắt những chuyện khó tin xảy ra.
Lạ nhất là đoạn đường từ chùa Bảo Sái, qua An Kỳ Sinh lên chùa Đồng trên đỉnh Yên Tử, từ xưa đến nay, chưa có vụ chết người do tai nạn nào cả, mặc dù đây là đoạn đường cực kỳ cheo leo, dốc dác, núi đá lô nhô, rất trơn. Nhiều trường hợp ngã rất mạnh, nhưng chỉ xước sát tay chân mà thôi.
Trong những ngày cao điểm, Yên Tử đón tới 7 vạn du khách, người hành hương chật kín mọi con đường, mà không xảy ra tai nạn chết người là một chuyện rất lạ.
Thậm chí, hồi thi công chùa Đồng, đột nhiên mây đen kéo đến ngay trên đầu, sét đánh thẳng vào khu vực đang xây chùa khiến mọi thứ cháy đen, tróc hết cả nền chùa, nhưng lạ ở chỗ mấy chục người đứng đó mà không ai hề hấn gì, chỉ bị ù tai một lúc.
Đám công nhân đều tin Phật tổ phù hộ nên tiếp tục làm việc, mà không sợ sấm sét đánh chết.
Nhưng lạ nhất là chuyện năm nào cũng có một cụ già chết ở đoạn từ chùa Một Mái lên chùa Bảo Sái và cái cách chết của họ cũng vô cùng bí ẩn.
Mới đầu năm nay, có một cụ già 77 tuổi, quê ở Hải Phòng, nhất định bắt con cháu cùng đi lên Yên Tử. Bình thường cụ rất yếu, nhưng đến Yên Tử, cụ cứ đi bộ leo núi mà không cần đi cáp treo. Đi một mạch đến gần chùa Bảo Sái, cụ bảo con cháu giở đồ ra ăn. Ăn uống xong, cụ đi vào rừng, ngồi dựa vào gốc cây, nhắm mắt rồi “hóa”.
Cụ “hóa” một lúc rồi mà con cháu cứ tưởng cụ ngủ, vì khuôn mặt cụ rất thanh thản. Những câu chuyện tôi ghi được thật khó khẳng định chính xác đến mức độ nào, có thể do nhiều người sùng bái cõi Phật mà thêu dệt thêm. Nếu có các nhà khoa học về Yên Tử nghiên cứu và lý giải cụ thể thì hay biết mấy.
Rời non thiêng Yên Tử sau mấy ngày cuốc bộ trong rừng, chỉ được chén “đặc sản” vả luộc, chuối rừng dầm muối, tôi tưởng mình phải kiệt sức, nhưng lạ ở chỗ, tôi thấy lòng mình thanh thản lạ thường, không chút mệt nhọc.
Rất nhiều người chưa từng leo núi cũng thấy ngạc nhiên vì sức khỏe của mình khi hành hương về Yên Tử. Điều này cũng là một bí ẩn lạ thường.

Yên Tử còn một chốn thiêng
Khi nhắc đến khu di tích Yên Tử và Thiền phái Trúc Lâm, người ta thường chỉ biết đến chùa Yên Tử mà quên mất di tích Ngọa Vân và Hồ Thiên. Đây chính là nơi vị vua anh minh Trần Nhân Tông tu hành và viên tịch. Đến nay hai di tích quan trọng này đã hoang phế, kéo theo nó là cả một hệ thống kiến trúc văn hóa Phật giáo như chùa, am, tháp, lăng, mộ cũng bị thời gian vùi lấp.
Lật mở những điều bí ẩn
Nằm trên đỉnh núi cao, với cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng, di tích Hồ Thiên từng được sử cũ ngợi ca là nơi cảnh đẹp dấu thiêng của vùng đất Đông Triều.
Cùng với Yên Tử, Hồ Thiên và Ngọa Vân là hai địa danh nổi tiếng gắn với tên tuổi và sự nghiệp tu hành của vua Trần Nhân Tông, người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm – một thiền phái Phật giáo lớn của Việt Nam mà cho đến hôm nay triết lý của nó vẫn thấm đượm tinh thần dân tộc, có giá trị nhân văn cao cả, có sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội.
Nơi đây chính là một trong những trung tâm Phật giáo quan trọng của thiền phái này vào cuối thời Trần (đầu thế kỷ 14) và là chốn tu hành của nhiều vị cao tăng. Nhưng do di tích này nằm trên đỉnh núi cao, không tiện đường qua lại nên nó dần bị rơi vào quên lãng và hoang phế.
Cuối năm 2007, Viện Khảo cổ học đã phối hợp với UBND huyện Đông Triều tiến hành điều tra khảo sát khảo cổ học và thu được nhiều tư liệu quan trọng, làm sáng rõ giá trị lịch sử văn hóa về khu di tích và cung cấp những bằng chứng khoa học chân thực về quy mô và chức năng của các công trình kiến trúc tôn giáo trong hệ thống các di tích Phật giáo ở khu vực này.
Cụ thể là đã xác định được vị trí của các công trình kiến trúc như chùa, vườn, tháp, nhà bia, nhà tổ, nhà tăng và khu tịnh thất tại chùa Hồ Thiên.
Đặc biệt tại một số vị trí, các nhà khảo cổ học đã lắp ghép được những manh mối quan trọng dự báo về khả năng sẽ tìm thấy những kiến trúc tháp chùa thời Trần.
Không những thế, qua quá trình điều tra, các nhà khảo cổ học còn nhận diện được chùa Hồ Thiên có quy mô rất lớn (500m2), mặt bằng hình chữ “Công” hoàn toàn khác với những nhận định trước đó cho rằng Hồ Thiên chỉ có quy mô nhỏ và mặt bằng hình chữ “Đinh”.
Tại khu nhà tổ chùa Hồ Thiên - nơi từng đặt tượng đá thờ ba vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm là vua Trần Nhân Tông và hai đệ tử Thiền sư Pháp Loa và Huyền Quang - hiện còn lưu giữ hai pho tượng đá trong tư thế tọa thiền, đều đã bị mất đầu, trong đó có một pho được suy đoán là tượng vua Trần Nhân Tông.
Bên cạnh đó, tại khu di tích Ngọa Vân (chùa Ngọa Vân và am Ngọa Vân) nơi tu hành và viên tịch của Vua Trần Nhân Tông, các nhà khảo cổ học đã chứng minh được Ngọa Vân là một quần thể kiến trúc chùa tháp Phật giáo lớn bao gồm 4 khu vực với 12 điểm di tích nằm trải rộng và kết nối dài với hệ thống di tích chùa tháp của Thiền phái Trúc Lâm thời Trần trên suốt chiều dài của dãy núi Yên Tử.
Tại đây đoàn điều tra khảo sát còn tìm thấy rất nhiều dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc chùa tháp cùng nhiều loại di vật như gạch, ngói, chân tảng, đồ gốm, sành có niên đại từ thời Trần đến thời Lê, Nguyễn. Đặc biệt các nhà khảo cổ còn tìm thấy một dấu tích lò nung ngói của thời Lê Trung Hưng thế kỷ 18.
Tư liệu này cho thấy trong điều kiện xây dựng trên núi cao, rất khó khăn về vận chuyển nên người xưa đã xây dựng những lò nung gạch ngói ở vị trí thuận lợi về nguồn nước và nguyên liệu điều này trùng hợp với việc xây dựng chùa Vân Tiêu (Yên Tử) và chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều).
Một minh chứng quan trọng khác đó là tại Ngọa Vân hiện cũng vẫn còn những công trình kiến trúc liên quan đến vị vua Trần Nhân Tông đó là tháp Phật Hoàng - tháp mộ của Hoàng đế Trần Nhân Tông, và chiếc bàn đá tương truyền là nơi ngài ngồi thiền và viên tịch. Đây là những bằng chứng cho thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của khu di tích Ngọa Vân.
Cần trả lại vị trí xứng đáng
Hệ thống chùa tháp thiền phái Trúc Lâm không chỉ dừng ở khu Yên Tử mà nó là một hệ thống quần thể các di tích chùa tháp nằm trên dãy núi Yên Tử từ Đông Triều sang Uông Bí.
Chính vì vậy hai di tích Hồ Thiên và Ngọa Vân cần được đặt trong chiến lược quy hoạch bảo tồn để gắn kết với khu di tích Yên Tử tạo thành một quần thể về không gian văn hóa Phật giáo của Việt Nam và gắn kết với quần thể không gian văn hóa Trần gồm khu di tích lăng mộ các vua nhà Trần, khu đền Sinh và chùa Quỳnh Lâm.
Làm được điều này, không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo vệ di sản văn hóa mà còn mở ra những triển vọng mới cho việc phát triển kinh tế du lịch.
Theo Tiến sĩ Bùi Minh Trí – Viện Khảo cổ thì để thực hiện được ý tưởng trên phải tính ngay đến việc khai thông những tuyến đường hành hương kết nối giữa các không gian văn hóa bởi điều này sẽ giúp cho người hành hương có một tuyến thăm quan nhiều di tích nổi tiếng mà còn hiểu thêm về không gian văn hóa tâm linh.
Song trước hết phải có kế hoạch trùng tu tôn tạo những công trình kiến trúc tôn giáo quan trọng khi có đầy đủ bằng chứng và những cơ sở khoa học tin cậy.
Được biết, UBND huyện Đông Triều cũng đồng tình với việc quy hoạch bảo tồn di tích để phát huy giá trị lịch sử văn hóa to lớn của quần thể di tích trong sự kết nối với hệ thống di tích Yên Tử.
Hy vọng rằng, không lâu nữa, những người hành hương về nơi đất Phật sẽ được biết thêm rằng Yên Tử còn một chốn thiêng.

57. Các Trung Tâm Phật Giáo Việt Nam Trong Lịch Sử Cận Đại

Trung tâm Phật giáo Luy Lâu được hình thành đầu tiên ở Việt Nam, có thể sớm hơn cả 2 trung tâm Phật giáo Trung Hoa (Lạc Dương và Bành Thành), gắn liền với việc truyền bá đạo Phật vào Việt Nam, khoảng những năm đầu Công nguyên và phát triển rực rỡ nhiều thế kỷ, cho đến khoảng thế kỷ 13 cuối thời Lý, đầu thời Trần.

I.TRUNG TÂM LUY LÂU
1. Lịch sử:

Trung tâm Phật giáo Luy Lâu được hình thành đầu tiên ở Việt Nam, có thể sớm hơn cả 2 trung tâm Phật giáo Trung Hoa (Lạc Dương và Bành Thành), gắn liền với việc truyền bá đạo Phật vào Việt Nam, khoảng những năm đầu Công nguyên và phát triển rực rỡ nhiều thế kỷ, cho đến khoảng thế kỷ 13 cuối thời Lý, đầu thời Trần.
2. Vị trí địa lý:
Luy Lâu hiện nay thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, nằm ở khoảng giữa vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ, một vùng bình nguyên giữa hai con sông Hồng và sông Đuống.
Theo sử liệu và khảo sát điền dã còn chứng tích, Luy Lâu khoảng đầu thế kỷ thứ I đến thứ VII là một đô thị sầm uất, thủ phủ hành chính của cả Giao Châu (địa phận lãnh thổ Việt Nam thời đó).
Khu vực này, ngoài dấu tích thành cổ Luy Lâu, mộ Sĩ Nhiếp (viên thái thú có công truyền bá văn hoá Hán vào Việt Nam), hiện tại còn một số chùa cổ, tiêu biểu là chùa Dâu. Việc truyền bá và tiếp thu đạo Phật diễn ra sôi nổi bắt đầu từ chính Luy Lâu. Nhiều chuyên gia nghiên cứu Phật giáo cho rằng, nơi đây đã có một hệ thống chùa, tu viện phục vụ cho việc hành đạo, truyền bá đạo Phật.
3. Hoạt động học thuật:
Luy Lâu được coi là nơi tu hành của nhiều cao tăng Trung Hoa, Việt Nam và các thiền sư đến từ chính quê hương Phật, trong đó tiêu biểu nhất là thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người đã lập nên một Thiền phái đầu tiên tại Việt Nam.
Ngoài ra, tuy không phải là nơi tu hành của thiền sư lập nên Thiền phái Vô Ngôn Thông, nhưng chắc chắn Luy Lâu cũng là nơi diễn ra các hoạt động hành đạo, nghiên cứu kinh Phật của các thiền sư dòng thiền này.
Theo các nhà nghiên cứu, Trung tâm Luy Lâu là Trung tâm có tổ chức tăng đoàn lớn nhất, sớm nhất, căn cứ vào những tài liệu của Mâu Thường “Lý hoặc luận”, là nơi giao lưu có nhiều thiền sư Ấn Độ, số lượng tăng sĩ theo Thiền Uyển tập anh, có ở Luy Lâu khoảng 500 vị; Luy Lâu cũng là nơi ngay từ đầu Công nguyên đã lưu hành khoảng 15 bộ kinh Phật; hoạt động học thuật, trước tác diễn ra rất sôi nổi.
Tác phẩm được coi là cổ nhất được xuất bản tại Việt Nam, chính là được viết tại Giao Châu thời kỳ Trung tâm Luy Lâu phồn thịnh nhất. Đó là tác phẩm “Lý hoặc luận” do Mâu Tử, một người Trung Hoa đến cư trú tại Giao Châu, diễn đạt việc bảo vệ tư tưởng Phật giáo trước sự bài bác của Nho gia và Đạo gia.
Thời kỳ Luy Lâu, Thiền học Việt Nam cũng bắt đầu phát triển với Khương Tăng Hội, người được coi là đã dịch Lục độ tập kinh, đặt nền móng cho Thiền đại thừa Việt Nam.
4. Hệ thống chùa tiêu biểu thuộc trung tâm Luy Lâu:
a. Chùa Dâu
Chùa Dâu, còn có tên là Diễn ứng, Pháp Vân, hay Cổ Châu, nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là ngôi chùa được đánh giá là xưa nhất Việt Nam, xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, nằm trong khu vực đô thị cổ Luy Lâu, thủ đô Giao Châu cổ, trong đó chùa Dâu là một trung tâm trong hệ thống các chùa thờ Phật và thờ tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ Pháp Lội, Pháp Điện), nét độc đáo trong sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng Dâu.
Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì Ni Đa Lưu Chi từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền ở Việt Nam.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần nay chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời Trần và thời Lê.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 mét.
Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gót liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu.
Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ 18. Bên trái của thượng điện có pho tượng Mặc Đĩnh Chi, tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong xây bằng gạch cổ cỡ lớn, đã bị mất đi 6 tầng trên, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 mét. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và chiếc khánh đúc năm 1817.
Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.

b. Chùa Đậu

Chùa Đậu còn có tên là Thành Đạo, Pháp Vũ, chùa Vua, chùa Bà, nằm ở làng Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, được khởi dựng từ thế kỷ thứ 3, xây cất lớn vào đời Lý, trùng tu vào đời Lê (thế kỷ 17 -18).
Một số di tích quý còn lại như: khánh đồng to đời Lê Cảnh Hưng thứ 33 (1772), chuông đồng to thời Tây Sơn (1801), 2 tấm gỗ tứ thiết sơn son thếp vàng có chạm 2 bài thơ của vua Lê Hy Tông (1680 - 1705) và vua Lê Dụ Tông (1705 - 1719), một số bia đá cổ và đặc biệt là cuốn sách đồng thi lịch sử chùa có từ thời Sĩ Nhiếp đầu thế kỷ thứ 3 (năm 200 - 210) hiện cất giữ tại chùa cho biết rõ sự tích Phật giáo là toàn Độ du nhập vào Việt Nam, tượng lưu cốt 2 thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường từng trụ trì chùa vào đầu và giữa thế kỷ 17.
Hai tượng nhục thân thiền sư họ Vũ được phát hiện khi đã bị nguy cơ hư hại, năm 1983, Viện Khảo cổ và chuyên gia Nguyên Lân Cường đã tiến hành phục chế, bảo quản 2 pho tượng nhục thân này. Đây là một di vật quý, hiếm thấy, cho biết phương thức tượng táng trong tín ngưỡng thờ Phật ở Việt Nam.
Chùa Đậu nguyên bản thờ Pháp Vũ, một trong tứ pháp trong tín ngưỡng người Việt cổ, nằm trong hệ thống chùa cổ thờ tứ pháp, có mối liên hệ mật thiết với trung tâm Phật giáo Luy Lâu, thủ đô chính trị của Giao Châu (miền đất Việt Nam thời đầu Công Nguyên).

c. Chùa Kiến Sơ
Chùa tọa lạc ở xã Phù Đồng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chùa do Thiền sư Cảm Thành dựng trước năm 820. Đến năm 820, Thiền sư Vô Ngôn Thông từ Quảng Châu, Trung Quốc sang Việt Nam, được Thiền sư Cảm Thành tôn làm thầy, mời ở lại trụ trì chùa Kiến Sơ. Từ đấy, chùa trở thành xuất phát của Thiền phái Vô Ngôn Thông.
Chùa hiện nay có thờ tượng Thiền sư Vô Ngôn Thông, tượng Lý Công Uẩn và thân mẫu của ông.... Chính Lý Công Uẩn hay lui tới chùa nên khi lên làm vua là Lý Thái Tổ (1010 - 1028), nhà vua thường thỉnh Thiền sư Đa Bảo (đời thứ 5 dòng Vô Ngôn Thông) vào cung thưa hỏi yếu chỉ Thiền và vua đã xuống chiếu trùng tu chùa.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Di tích cổ còn rất ít. Chùa còn giữ chiếc khánh đá bề ngang 2,3m, cao 0,60m, dày 0,17m.

e. Chùa Tiêu Sơn

Tiêu Sơn tự (còn có các tên: chùa Thiên Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Chùa Tiêu Sơn là nơi trụ trì của Thiền sư Vạn Hạnh, vị tổ thuộc phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, chính Vạn Hanh đã nuôi dưỡng và hun đúc tài năng Lý Công Uẩn tại đây. Dân gian coi chùa Tiêu là nơi.khởi phát của nhà Lý. Thiền sư Vạn Hạnh được phong Quốc sư, chùa Tiêu Sơn là một trung tâm Phật giáo hàng đầu thời Lý.
Vai trò Trung tâm Phật giáo của chùa Tiêu còn được tiếp nối truyền thống đến thời Lê Trung Hưng, với sự trụ trì của Thiền sư Như Trí. Đến nay nhục thân của Thiền sư Như Trí, một trong 4 pho tượng nhục thân còn phát hiện thấy tại Việt Nam đã được trùng tu và được coi là bảo vật vô giá.
Thời Thiền sư Như Trí, nhiều kinh Phật và tác phẩm Phật học đã được khắc in tại đây, trong đó có bản Thiền Uyển Tập Anh khắc in năm 1715.
f. Chùa Phật Tích
Chùa Phật Tích thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nằm trên sườn núi Lạn Kha, cách Hà Nội khoảng 20 km, xây khoảng thế kỷ thứ VII - X, được trùng tu nhiều lần ở thời Lê, Nguyễn.
Do chiến tranh, chùa bị phá huỷ, nay chỉ còn giếng rồng, 10 con thứ bằng đá có niên đất thời Lý, và 2 di vật thuộc loại “quốc bảo” tà pho tượng nhục thân của thiền sư Chuyết Chuyết trụ trì cách đây 300 - 400 năm và pho tượng Phật A Di Đà ngồi trên tòa sen cao 1,85m, kể cả bệ là 3m, là một kiệt tác điêu khắc bằng đá có niên đại cổ nhất Việt Nam.
Theo thư tịch cổ, chùa Phật tích là nơi được vua Lý Thái tông xây Thiền viện để lưu trữ kinh Phật, vua Lý Thánh tông cho dựng tháp cao trên núi (năm 1066) và viết chữ Phật dài 1 trượng 6 thước (năm 1071).
Nơi đây có hệ thống chùa lộng lẫy nhất Việt Nam dưới thời Lý Trần, là trung tâm Phật giáo có sức sống lâu bền, còn sôi động đến thời Lê trung hưng.
Khoảng thế kỷ 17, sau khi Thiền sư Chuyết Chuyết Lý Thiên Tộ từ Trung Hoa đến Đại Việt, trụ trì tại Phật Tích, đưa dòng Thiền Lâm Tế đến Việt Nam, hoạt động học thuật ở Phật Tích trở nên rất sôi nổi, trong đó có việc dịch kinh Phật do Thiền sư Chuyết Chuyết mang sang, có việc phục hồi, in ấn các bản kinh Phật, tác phẩm từ thời Lý Trần.
Sau Chuyết Chuyết, các thiền sư tại Trung tâm Phật tích đã có những cố gắng phục hưng Thiền phái Trúc Lâm.

II. TRUNG TÂM PHẬT GIÁO THĂNG LONG
1. Vị trí, vai trò của Trung tâm Phật giáo Thăng Long: Nhà Lý chú trong dùng đạo Phật phục vụ cho việc xây dựng vương triều gìn giữ độc lập, đưa Thăng Long thành một trung tâm văn hoá, chính trị lớn, cũng là một Trung tâm Phật giáo, nhất là sau khi hình thành Thiền phái Thảo Đường.
Thời Lý, do việc đặt ra các chức quan chuyên trách về tăng sĩ là Tăng thống, tăng lục, Quốc sư, nên kinh đô trở thành một trung tâm hoạt động Phật giáo lớn.
Nhà Lý xây dựng chùa quanh khu vực Thăng Long, hầu như các làng đều có chùa. Công trình kiến trúc Phật giáo lớn và đặc sắc cũng được xây dựng ở Thăng Long như Chùa Một Cột, Chùa tháp Báo Thiên, Chùa Quỳnh Lâm, Chùa Khai Quốc...
Vào năm 1069, sau cuộc chinh phạt Chiêm Thành thắng lợi, Lý Thánh Tông bắt được một nhà sư tù binh, sau phát hiện là một cao tăng bèn trọng dụng, cho làm Quốc sư trụ trì chùa Khai Quốc, lập nên Thiền phái Thảo Đường.
Thảo Đường đã đáp ứng nhu cầu đưa Phật giáo vốn phát triển sâu rộng trong dân gian đến với tầng lớp quan lại Nho học, kéo Phật giáo bản địa từ đại chúng trở nên trí thức hoá, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền độc lập và vương triều.
Trong số 19 người tổ của 7 thế hệ Thảo Đường, có đến 9 vị cư sĩ là vua hoặc quan lại cao cấp. Điều đó chứng tỏ kinh thành Thăng Long trở thành một Trung tâm Phật giáo quan trọng nhất thời Lý, bên cạnh Trung tâm Luy Lâu và Phật Tích vẫn đang phát triển sầm uất.
2. Một số ngôi chùa tiêu biểu
a. Chùa Một Cột
Hiện nay, chùa lọt giữa trung tâm thủ đô Hà Nội, theo Đại Việt sử ký toàn thư, chùa được xây dựng vào năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ nhất (1409) đời Lý Thái Tông. Vua chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên toà sen đưa tay dắt vua lên toà nên xây dựng chùa cầu Phật được trường thọ, nên gọi là chùa Diên Hựu. Chùa xây trên một cột đá nên thường gọi là Nhất Trụ (Một Cột).
Theo văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh chùa Long Đọi (Nam Hà) dựng năm 1121, quy mô chùa Một Cột vào thế kỷ 12 to lớn lộng lẫy hơn như hiện nay rất nhiều. Hiện nay, toàn bộ ngôi chùa bằng gỗ, hình vuông, mỗi cạnh 3m, đặt trên một cột đá tròn cao 4m, đường kính 1,25m
b. Chùa Trấn Quốc
Hiện nay, chùa nằm trên bán đảo nhỏ nhô ra Hồ Tây. Chùa nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ thời Tiền Lý Nam Đế (541 -547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng, thuộc phường An Phụ, năm Lê Hoằng Định (1615) mới dời về vị trí hiện tại, là nền cũ cung Thúy Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Khoảng Chính hoà (1680 - 1704), vua đến chơi, đổi tên chùa là Trấn Quốc.
Chùa vốn là một trung tâm Phật giáo thời Lý, nơi trụ trì của nhà sư Thảo Đường, lập nên dòng Thiền Thảo Đường, tồn tại cùng với 2 dòng Thiền vốn đã có trong đời sống Phật giáo Việt Nam thời đó (Vô Ngôn Thông và Tỳ Ni Đa Lưu Chi).
Chùa còn có 14 tấm bia, trong đó có bia của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính, tiến sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1639 và 1015...
c. Chùa Cổ Lễ

Chùa tên chữ là Thần Quang, thường gọi là chùa Cổ Lễ, tọa lạc ở thị trấn Cổ Lễ, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà. Tương truyền, chùa do Thiền sư Minh Không thời Lý Thần tông (thế kỷ 11) sáng lập. Ngôi chùa hiện nay do Hòa thượng Quang Tuyên tạo dựng vào năm 1920 và được trùng tu nhiều lần.
Trước chùa có tháp Cửu Phẩm Liên Hoa 12 tầng (đế tháp đặt trên lưng một con rùa lớn đầu quay vào chùa), cao 32m, có 8 mặt, dựng năm 1926. Giữa sân chùa có đại hồng chung nặng 9 tấn, cao 3,20m, đúc vào năm 1936.
Kiến trúc chùa mang tính độc đáo, là sự hòa nhập các yếu tố kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố gô-tích của Châu Âu. Tòa thượng điện được bài trí đặc biệt, tượng đức Phật sơn son thếp vàng cao khoảng 4m được đặt ở tầng cao, gần mái vòm gô-tích. Mặt sau có thờ tượng Quốc sư Minh Không.

TRUNG TÂM YÊN TỬ VÀ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM
Yên Tử là một đỉnh núi nằm trong dãy núi thuộc Vòng cung Đông Triều, cách Thăng Long khoảng 70 cây số, có địa thế tốt theo quan niệm phong thuỷ, mạch núi châu về kinh đô, nhìn ra biển lớn.
Theo truyền thuyết, tại Yên Tử đã có nhà sư Ấn Độ đến tu tập từ thời đầu công nguyên (truyền thuyết về An Kỳ Sinh). Vào thời Trần, Yên Tử trở thành linh sơn của triều Trần, do nằm ở vùng dấy nghiệp của nhà Trần, án ngữ con đường thuỷ huyết mạch từ biển đến kinh thành.
Từ vị vua đầu triều Trần Thái Tông, tại Yên Tử đã có một hệ phái Thiền có khuynh hướng độc lập, dưới ảnh hưởng của Trúc Lâm thiền sư, hay sư Đạo Viên, còn gọi là Phù Vân quốc sư, được nhà Trần phong là Quốc sư.
Hoạt động Phật giáo mạnh mẽ ở Yên Tử, căn cứ vào sử thành văn, có thể hình dung được, vì Trần Thái Tông một lần bỏ ngôi vua định vào tu ở Yên Tử, Trần Nhân Tông cũng có 1 lần có ý định nhường ngôi cho em đi tu ở Yên Tử, cuối cùng chính nhà vua sau khi nhường ngôi cho vua Anh Tông, thành Thái thượng hoàng thì đã đến Hoa Yên trở thành Vua Phật, Điều Ngự Giác Hoàng.
Từ Trần Nhân Tông, Thiền phái Trúc Lâm chính thức trở thành một Thiền phái mang tính dân tộc sâu sắc. Là Thiền phái do chính cao tăng Việt Nam lập ra, hành đạo theo lối Việt, dành cho người Việt. Trúc Lâm Thiền phái dung hợp cả 3 dòng Thiền chính vốn đã có trước ở thời kỳ đó (Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường), là dòng thiền nhập thế, phù hợp với tư duy của người Việt.
Tăng đoàn có tổ chức lần đầu tiên cũng hình thành ở chính Yên Tử với các vị tổ kế tiếp của phái Trúc Lâm là Pháp Loa và Huyền Quang. Hoạt động trước thuật chắc chắn là rất phát triển, những tác phẩm quan trọng nhất của Thiền Việt Nam xuất hiện ở giai đoạn Trúc Lâm hưng thịnh.
a. Chùa Hoa Yên núi Yên Tử
Khu vực núi Yên Tử có một hệ thống gần 10 chùa, trải dài khoảng 20 km, từ chùa Bí Thượng đến chùa Đồng (độ cao 1065 mét), thuộc xã Thượng Yên Công và Phương Đông thuộc thị xã Uống Bí - Quảng Ninh, trong đó trung tâm là chùa Hoa Yên ở lưng chừng núi Yên Tử (độ cao 516 mét).
Hàng trăm am, tháp mộ các thiền sư, tượng đá thiên tạo, bia Phật và đặc biệt là hang đá Bảo Sái nơi Thiền tổ Trần Nhân Tông ngôi thiền và viên tịnh ngày 1/1/1308. Yên Tử là linh địa nơi sinh ra đạo Phật Việt Nam.
Chùa này vốn được dựng từ đời Lý, tên là Phù Vân; tới đời Trần đổi tên là Vân Yên: vào đời Lê, vua Lê Thánh Tông ngự du thăm chùa, thấy hoa cỏ xanh tươi, mới đặt tên là Hoa Yên.
Chùa đã là nơi tu hành của nhiều cao tăng, đặc biệt là vua Trần Nhân Tông đã tu hành ở đây những năm cuối đời, lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Đến Huyền Quang, tổ thứ ba của Trúc Lâm cũng trụ trì ở Hoa Yên.
Trong chùa Hoa Yên, ở chính điên, có bức hoành phi đề “Trúc Lâm Tam Tổ”: Có ba pho tương, ngự toà sen, pho ngự ở giữa, là vua Trần Nhân Tông, bên trái là ngài Pháp Loa đệ Nhị tổ, bên phải là Huyền Quang đệ Tam tổ. ....
Tại Hoa Yên, còn có một số tháp, thấp thoáng dưới bóng những cây đại cổ thụ, lưu giữ kỷ niệm về một thời huy hoàng của Phật giáo Việt Nam.
b. Chùa Quỳnh Lâm
Chùa Quỳnh Lâm xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, được khởi dựng từ thời Lý. Chùa từng là nơi trụ trì của nhiều vị Thiền sư danh tiếng như Quốc sư Nguyễn Minh Không (đời Vua Lý Thần Tông), Thiền sư Pháp Loa (vị tổ thứ 2 của phái Thiền Trúc Lâm), Thiền sư Chân Nguyên (thời Hậu Lê)... và trở thành một trung tâm Phật giáo của cả nước từ lúc Thiền sư Pháp Loa lập Viện Quỳnh Lâm vào năm 1317 với kiến trúc đồ sộ và hoàn chỉnh vào năm 1329.
Quỳnh Lâm trở thành “Đệ nhất danh lam cổ tích của nước An Nam”. Đây là nơi trung tâm truyền kinh giảng đạo và đào tạo hàng ngũ sư sãi cho đạo Phật, nhiều hội lớn có tiếng trong sử sách được tổ chức tại đây như hội “Thiên Phật bảy ngày, bảy đêm” (1352)...
Hiện ở sân trước chùa có nhiều tháp cổ, trong đó có tháp Tuệ Quang là tháp mộ Thiền sư Chân Nguyên dựng năm 1726. Đặc biệt, chùa còn giữ một tấm bia thời Lý cao 2,43m, ngang 1,54m khắc chữ hai mặt và một số di vật bằng đá, đất nung cổ.
c. Chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa ở thôn Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng. Chùa này nằm ở cho hợp lưu của sông Lục Nam và sông Thương. Khu vực này năm xưa còn gọi là khu vực ngã ba Phượng Nhãn. Chùa nhìn ra ngã ba sông và nhìn về phía Lục Đầu Giang - Kiếp Bạc.
Chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa cổ nổi tiếng có từ thời Lý, Trần (thế kỷ XII - XIII) thuộc dòng Thiền phái Trúc Lâm. Theo bi ký, chính tại nơi đây Pháp Loa tu hành, vua Trần Nhân Tông đến thăm và phát hiện Pháp Loa, truyền tâm ấn cho Pháp Loa thành tổ đệ nhị Thiền phái Trúc Lâm. Hiện nay, chùa thờ cả 3 vị tam tổ Trúc Lâm (Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang).
58. Chùa Tây Tạng: Vết chân đầu tiên ca Mt tông Vit Nam

Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
Muốn khám phá sự kiện quan trọng này, chúng ta hãy dở lại từng trang, cho dù là khái quát, cái mà các vị Phật tử của chùa yêu kính gọi là Nhật ký Sư ông, mà sau này, trong phần biên tập lại, các đệ tử của Ngài, sư ông - Hòa thượng Nhẫn Tế - đã ghi lại trong một cuộc du hành gian truân của mình về với tạng cội nguồn của Pháp: Sự tích tây du Phật quốc.
Ta cũng có thể tìm thấy hành tích này trong Sơ thảo Phật giáo Bình Dương của T. Huệ Thông. Tuy nhiên, các mẫu chứng cứ rời rạc và không nhất quán trong tác phẩm biên khảo ấy, chỉ cho ta biết những nét đặc trưng của công cuộc đấu tranh trong thời kỳ đen tối của đất nước và một ít phát triển đơn điệu của các ngôi chùa ở đây.
Lịch sử phát triển của một dân tộc, không chỉ là các cuộc xung đột giữa thiện và ác, giữa nô lệ và giải phóng, mà nó còn phải chuyển tải cho được hệ thống phát triển văn minh của mình như thế nào trong lòng cuộc đấu tranh như vậy, nếu ta cho rằng, Phật giáo là cốt tủy văn hóa không thể thiếu, nói chung, của nhân loại, nói riêng, ở chính Việt Nam. Tuy nhiên, công phu của tác phẩm biên khảo này vẫn đáng trân trọng. Lịch sử không chỉ là những con số thống kê, dù chỉ là thống kê sơ thảo, mà nó còn liên quan đến các lãnh vực xã hội, văn hóa, kinh tế và giáo dục, phong tục

học...,nhất là, trong đó có vai trò tất yếu của Phật giáo.
Sư ông thế danh Nguyễn Văn Tạo, tên thường gọi là ông Mười Tạo, sanh năm 1888, ở thôn An Thạnh (bây giờ là thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An), tỉnh Bình Dương. Sư là bậc am tường Đông và Tây học, và là công chức của ngành y tế. Sư “đam mê” Phật giáo từ năm 16 tuổi, sau đó xuất gia với Hòa thượng Ấn Thành-Từ Thiện, chùa Thiên Tôn với pháp danh Chơn Phổ-Nhẫn Tế, thuộc về cây phả hệ của giòng thiền Lâm Tế đời thứ 40.
Sở dĩ sư có thêm pháp danh Minh Tịnh là do cầu pháp học đạo với tổ Huệ Đăng và thụ giới với Hòa thượng Ngộ Định-Từ Phong. (Theo Sơ thảo Phật giáo Bình Dương, gọi tắt là ST). Thuận theo hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ thời bấy giờ, sư ông từng đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc Thủ Dầu Một do mặt trận Việt Minh hướng dẫn, và theo ST, thì Hội ra mắt tại chùa Hội Khánh vào ngày 23-3-1945 dưới sự chứng nhận của bác sĩ Trần Công Vị, Chủ tịch Ủy ban Hành chánh của tỉnh Thủ Dầu Một thời bấy giờ.
Theo tôn giả Thế Thân, sự tồn tại của Phật giáo được cấu thành trên “đôi chân” của Giáo và Hành. Giáo, tức là những công trình tư duy, nghiên cứu, xiển dương... những gì vốn được bẩm thụ từ Phật dạy, và Hành, tức là sự nghiêm chứng của tự thân, trên cơ sở truyền thừa. Cả hai, là toàn khối văn minh xuất thế của Phật giáo và nhờ đó mà Thế pháp được tồn tại, nói cách khác, sự thanh bình của thế gian, luôn sở y trên khối thống nhất vi diệu ấy. Thế là chúng ta có một cuộc xuất dương của một trong những hành giả mộ Phật vào những ngày giữa đầu thế kỷ thứ 20. ST cho biết rằng, sư ông là một trong những vị đầu tiên mang Xá lợi của Phật về Việt Nam và được nghiêm thờ đến giờ tại chùa Thiên Thai, Bà Rịa, Vũng Tàu.

Lên đường
Nhật ký sư ông (gọi tắt là NK), cho ta biết là, công việc xuất dương của sư được hoàn tất hơn 15 ngày với bao thủ tục phiền hà của một đất nước bị trị - chế độ mật thám và “lý lịch chánh trị” - đúng vào ngày 17-4-1935, sư lên tàu trực hướng Ấn Độ, khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, sau khi lễ Phật và tạm biệt thân bằng đạo hữu. Sư cho biết là, mình xin Phật để lại pháp phục "theo tục lệ nước nhà mà đi. Qua đến Tây Thiên sẽ tùy cơ ứng biến. Đó là đề phòng ngoại đạo, e biết pháp phục mà sinh khó”. Và, "mới một lần thứ nhất có cái hạnh phúc này, vì sao lại không vui, mà lại có sắc buồn bã là cớ sao?” (NK. tr.4).
Tàu nhổ neo, bỏ Sài Gòn lại, chỉ còn sóng nước chập chùng, trùng dương viễn mộng. Bấy giờ là những ngày trăng tỏ, tháng ba Âm lịch, biển cả tịnh êm và như thế ta được hai khổ thơ tuyệt diệu như sau:


Cửa sổ ngựa qua, đời mấy lát,
Lỗ-bô tàu chạy cảnh thay liền.
Hỏi thăm giả thiệt, cùng Hoàn vũ,
Giấc mộng trả lời, dứt đảo điên.
Và,

Gió êm, biển lặng bóng trăng lồng,
Đáy nước, bầu trời, một Hóa công,
Đuốc nguyệt, đèn soi trên dưới tỏ,
Thiên, Long hội yến tiễn bần tăng.


Thế đó, 8 ngày đã đi qua, 8 ngày trên đại dương mênh mông ảo hóa, bậc hành giả của chúng ta đã cảm nghiệm được "chân như" trong huyễn tượng, "thường tại" trong "cửa sổ ngựa qua, đời mấy lát", và rồi, tàu cũng thả neo khi đến tận bờ bên kia, nơi mà đức Phật hiện thân, đứa con của Bát nhã - Ấn Độ, Tây Thiên Trúc.
Thế đó, du khách của chúng ta, trong 8 ngày, tự mình tham học tiếng Anh, tiếng người Nam Ấn, tức là tiếng Tamil, tham quan cảnh trí Singapore và nơi đây, ta lại một lần nữa, được lắng mình trong vài khổ thơ trầm mặc:


Không kim, không cổ, vẫn quen nhau,
Cảnh huyễn, mài bôi, ngũ thể màu,
Mắt huệ toàn xem, nào có lạ,
Nơi mô cũng gặp, ngảnh là sao?
Là sao bỉ thử, buổi hôm nay?
Ngũ dục tranh mồi, quên lửng ai;
Nhượng hết cho đời, tay rũ sạch,
Xin đừng chia rẽ, nói là hai.



Rạng sáng ngày 25-4, tàu vào cảng Madras và hành giả lưu lại đây ba ngày, có khi thì cải trang thành đạo sĩ Bà La Môn, có khi thì cải dạng là đạo sĩ Hindu, nhờ vậy mà Ngài “xông pha” với họ một cách dễ dàng, “người bốn thổ [hay bốn châu thiên hạ], không lạ mắt như cái áo tràng”. (NK, tr.23). Bởi vì, ở đây, tuy người ta không sùng Phật, nhưng vẫn nể trọng kẻ xuất gia. 8 giờ sáng, tàu hỏa rú còi rời Madras hướng đến Xá Vệ Quốc (Calcutta) và rạng sáng ngày 30-4 thì tàu đã đến nơi đây. Sau đó, khoảng 3 giờ chiều, hành giả làm thủ tục đi về Bénarés (Ba La Nại) bằng vốn liếng tiếng Bắc Ấn có được suốt ba ngày trên tàu hỏa, vì đôi chút tiếng Tamil đã học không sử dụng được nơi đây.
Hướng về thành Ba La Nại, nơi mà giáo pháp đầu tiên vận chuyển và cũng là nơi mà năm anh em ông Kiều Trần Như đắc thánh quả. Nhật ký ghi rằng “mang gói ra đi, phú mặc cơ duyên, bần tăng chỉ vững lòng niệm Phật đi tới”. Chất văn bắt đầu từ tr.29 - tr.36 toát lên sự an ổn lạ kỳ, tuy đã vào nơi thánh địa, tuy gặp toàn ngoại đạo, nhưng lòng lữ khách vẫn không phân biệt, luôn kính ngưỡng, vẫn hướng lên phía trước cho đến khi nào chạm mặt Phật tích thì thôi. Suốt đêm thao thức nơi thành Ba La Nại, hành giả bỗng nhiên uất nghẹn, bao nhiêu tập khí muộn phiền ngàn xưa, bỗng đâu trút sạch và nghe trong hư không như có tiếng hộ trì.
Vậy đó, hành giả đã lưu lại tại chùa ngoại đạo ngót cả hai tuần với tâm niệm “phép làm người tu hành trong đạo Phật, sở dĩ là tùy thuận, nhẫn nhục, là cái bài học cần yếu của nhà Thích tử”. Và ngày 31-4, bước chân hành giả đã nhập thành, tính ra trọn nửa tháng ròng mới thỏa ước mơ. "Có lẽ chí nguyện đạt thành từ đây”. (NK tr.34). Mãi đến ngày 14-5 "nghe nói có chùa Phật cách xa thành Xá Vệ tám ngàn cây số, xin cho người dẫn đi viếng chùa Phật”; và rồi "thẳng vào chánh điện thấy tượng Như Lai, phút chốc động lòng, sa nước mắt, vì từ 17 tháng Tư tới nay không đặng lễ bái thánh tượng”. Thì ra đây là chùa của hội Mahâ-Bodhi (Đại Bồ Đề) của Tích Lan, hội chúng đó đến đây để chấn hưng Phật giáo.
Sáng hôm sau đó, hành giả chúng ta từ giã nhà thờ đạo Hindu, "quảy gói đi bộ tầm Tăng-già mà vào, phút gặp hai vị Sa-di Xiêm đạo hiệu là Mêta và Karnna,” (NK, tr.53) sau khi ra mắt nhau, nhờ huynh Mêta biết đôi chút tiếng Pháp, nên chuyện vãn, hành giả mới biết chỗ mình vừa đến chính là Lộc-giả-viên (Sarnath) và như thế là, sư ông xin gia nhập hội. Ở đây, hành giả an lòng học tiếng Anh và tiếng Hindi vừa đủ giao tiếp phổ thông với những đạo huynh cùng hội. Và cho đến tháng 11-1935, sư ông mới chính thức xin đến cội bồ đề, nơi Đức Thích Ca tọa thiền để lễ bái cúng dường.
Giai đoạn từ tháng 5 đến tháng 11-1935, NK không cho ta biết sư đã làm gì, nhưng ta cũng đoán ra rằng, đây là khoảng thời gian mà sư ông, bậc hành giả của chúng ta, buộc phải học bản ngữ Ấn Độ và nhất là tiếng Anh, sự kiện này, chính những lá thơ sau đó mà sư đã viết cho tòa Lãnh sự Anh v.v... và thời gian còn lại, là những thời gian, ta biết chắc rằng, sư ông dành hết cho tọa thiền và quán tưởng các chủng tự Phật, như các tiểu đoạn của tr.51-53 đã ghi, khi sư quán chữ (
) hay là quán "mặt nhật ở mi gian của Phật tổ”, "chập lâu có đến 10 phút, tôi mới lấy mắt nhìn dòm người nơi mé sông, thì sắc diện ai cũng đặng màu kim sắc. Tôi toại nguyện bình đẳng quán”. (NK, tr.52).
Đoạn nhật ký này dạy ta biết rằng, “Đại và Tiểu thừa” không có một ranh giới nào cả trong lòng của sư. Bởi vì, khi vào vườn Lộc Giả, chính sư đã xin gia nhập hội của chư sư người Tích Lan, tức là các vị Phật giáo Nguyên Thủy. Vấn đề ở đây, là “đứa con chung của một đấng cha lành - Đức Phật” và, người cha nào lại không muốn con mình “thành Phật” bao giờ. Sự kiện này cho ta biết rằng, với lòng thiết tha cầu Phật, với nơi nào có tháp tích, điện thờ Phật Đà, thì nơi đó luôn là Phật địa, luôn là bình đẳng địa, như phép quán mà sư ông từng thực hiện, cho những ai cầu pháp, và ta đã có một sư ông như vậy.
Một sự kiện thật là quan trọng diễn ra trong khoảng thời gian đầu tháng Giêng năm 1936 (15 / janvier / 1936), là sư đã được tháp tùng cùng các vị Lama đi Népal để lễ Thánh tháp. Phái đoàn hành hương gồm có: sư (người Việt Nam), tì-kheo Phạm Ngộ người Hoa và, Losang Lama, Losang Kompo, Kolchch Tâmpa (ba vị sư Tây Tạng). Sau khi vuợt qua hàng ngàn cây số, đoàn hành hương cũng đã đến Tuyết Sơn, tức thắng địa Népal, lúc đó khoảng 4 giờ sáng, ngày 2-2-1936, tức ngày mùng 10-1-Bính Tý.
Ta nói sự kiện này quan trọng, là vì, chuyến đi ấy, sẽ mở ra một nhân duyên cho việc tấn nhập Tây Tạng của sư mà mục đích duy nhất là: nếm tận nguồn pháp vị như vậy của cả hai pháp tu mà hành giả của chúng ta vốn đã thực hành, như ta biết, đó là: sư thực hành cả hai pháp tu, Thiền Mật như trong những trang nhật ký đã cho biết.
Sự kiện này cũng nói lên rằng, lịch sử cụ thể của Thiền và Mật, trên dòng chảy của Phật giáo Việt Nam, nói chung, sư là vị được trực tiếp truyền trao, bởi vì, đúng như ST cho biết: “Ông nghiên cứu Phật giáo từ năm 16 tuổi, sau đó xuất gia với hòa thượng Ấn Thành-Từ Thiện, chùa Thiên Tôn với pháp danh Chơn Phổ-Nhẫn Tế, thuộc về dòng Lâm Tế đời thứ 40” và cũng đúng như bài viết của TS. Trần Hồng Liên, “Chùa Tây Tạng - dấu ấn Phật giáo Mật tông Tây Tạng” đăng trong tập san Khoa học Lịch sử Bình Dương, số 1, tháng 12-2005, và bài viết này được phát triển thành một tiểu luận, với tiêu đề: "Chùa Tây Tạng, Bình Dương: ngôi chùa duy nhất ở Nam bộ mang dấu ấn Mật tông Tây Tạng” đăng trong tập san Chùa cổ Bình Dương và đây là những gì mà ta đang đeo đuổi.

Tuy nhiên, tại nhiều nơi trong NK, cho phép ta tuyên bố rằng, sư còn là một hành nhân Niệm Phật nữa. Chúng ta nên nhớ, giáo pháp dù là giáo pháp gì được Phật thuyết ra, chính là Sắc, bởi vì nó là phương tiện và cũng bởi vì, nó được thuyết ra cho ba cõi. Và, chính Đức Phật đã nhập Niết bàn trên sắc pháp này, tức là cảnh giới của Thiền thứ tư vậy.
Do đó, trên cơ sở như thế, Đại thừa kiến lập học thuyết “Tam Thân”, là vì ngoài sắc, thì chúng sinh trong ba cõi biết dựa vào đâu - chúng ta có Bồ tát hạnh. Nghĩa rằng, cho dù “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”, thì “trực chỉ” vẫn phải luôn là Sắc trong mọi trường hợp, còn “kiến tính” thì hãy để cho hành nhân tự nghiệm bằng chính Phật tâm của mình. Theo chỗ tôi biết, chùa Tây Tạng, mỗi tháng vẫn hai ngày tổ chức lễ sám, mỗi chiều về viếng chùa, Phật tử luôn nghe chư sư tụng niệm Di Đà, Phổ Môn.
Bởi vì, chúng ta, đôi khi đọc NK sư ông bằng cái tâm lạm phát (inflationary-mind) của mình nhiều hơn, cái mà thuật ngữ Phật giáo gọi là “ngã mạn - adhimàna”, cho nên ta làm sao mà hiểu được hành tích của sư ông, thế thì, có cái gọi là “tông môn”, “giáo phái” mới có cơ hội xuất sinh theo lẽ thường tình. Nói theo Duy thức, mọi thứ cưỡng danh, cũng chỉ là “danh ngôn tập khí - adhivacàna” mà thôi. Cái “phần mềm” của bất cứ giáo pháp nào, thì phải do ta tự nghiệm.
Trở lại, 4 giờ sáng ngày 3-2-1936, đoàn đã đến chân núi Hy Mã Lạp Sơn, thuộc nước Népal, họ đã viếng thăm tháp "Sư tử, tẩy uế và lễ Phật, nhiễu tháp”. (NK, tr.60). Sau đó, bằng mọi phương tiện, trải qua 6 ngày gian khó, đoàn đã trực nhập Népal. Và ở đây, nơi tháp Bouddha-Narth, sư đã thỉnh đặng một số Xá lợi Phật, hiện đang trang nghiêm tại chùa Thiên Thai, Bà Rịa, Vũng Tàu, và một ít cũng đang được phụng kính nơi chùa Tây Tạng. NK ghi rằng: "Đó là bình Xá-lợi của Phật Thích-Ca, thầy mà lễ đặng món ấy cũng như chơn Phật thân...
Nghe qua, bần tăng chưng hửng. Chập lâu, bèn thưa: nghe rằng, xưa kia Xá-lợi đã phân từ bửu bình, chia mỗi tháp một bình, mà đây sao lại nhiều bình? Ngài [thượng tọa quản tháp] rằng: phải, nhưng duyên cớ ấy có lẽ ông cũng hiểu, vì ông là Thích tử, lựa hỏi tôi làm chi? Bần tăng chắp tay bạch rằng: ở An Nam qua tới xứ này là thiên sơn vạn hải, thì có đâu đặng rõ biết duyên cớ ấy, xin Ngài hoan hỷ.
Đoạn Ngài dẫn tích: xưa thì Xá-lợi Phật tổ ở tại tháp Niết-Bàn (Cu-thi-na-quốc), lúc binh Ăng-lê náo loạn, thì tổ sư bèn dời qua nước Niếp-ba-lê, thờ tại Sư-tử tháp này. Từ khi ngoại đạo thạnh hành, Phật đạo đã qua [bước sang] thời kỳ mạt pháp. Ông qua tới Thiên Trúc, ông có thấy những tháp tự tiêu tan hư sập chăng?... Bần tăng về cả ngày buồn bã, bữa ngọ biếng ăn. Cái tham tâm đã dậy động và nghĩ rằng, "Mình đi, mình thấy, mình đặng lễ bái, mà ngặt một điều là: thương thầy bổn sư [y chỉ sư], tuổi đã cao mà công cũng cao trong nền đạo hạnh, nhưng không đặng thấy và lễ bái.
Trọn ngày đêm van vái vọng tưởng đức Như Lai, xin thương Nam-Việt chư Thích tử và chúng sinh xui sao cho đệ tử cầu đặng chút phần Xá-lợi đem về nước Nam (đó là cái tham tâm nó lộ là vậy: đã lễ bái được rồi muốn thấy, thấy rồi lại muốn cho đặng đem về xứ mà chia phước với chư Tăng và bá tánh)... vì Ngài cũng rõ, Xá-lợi là vật báu nhà Phật đạo, sáu đời hằng giữ chỗ này, chưa có ai đặng hồng phúc ấy... Thôi thôi, vì đạo đức của thầy, vì công đức khổ hạnh của thầy, vì chúng sinh, dầu tôi có bị khổ sau khi dâng cho thầy chút đỉnh Xá-lợi, thì tôi cũng cam tâm.
Ôi! nghe qua dường như bệnh hấp hối mà gặp thuốc hồi dương, nên lễ nữa, ngài đỡ dậy và nắm tay kéo thẳng vào đại điện, lấy chìa khóa mở cửa tháp, vào vọng bái, quỳ lại, rồi đứng dậy, nói rằng: nhơn duyên bao nhiêu thì đặng bấy nhiêu, tôi không biết. Nói rồi, bưng bửu bình xuống, bảo bần tăng lấy một cái khăn vải vàng của bổn đạo cúng trên điện, để lên đầu, trải ra, ngài trút cả bình lên khăn, thì nghe có chút ít rớt vào khăn. Dở bình lên, bần tăng bèn túm lấy khăn, rồi lễ bái đi ra. Ngài căn dặn, cẩn thận, rồi ngài đưa ra cửa. Bần đạo kiếu luôn... lòng mừng khấp khởi”. (NK, tr.68-69).
Qua đây, ta thấy rằng, mục đích Tây du của sư không chỉ vì sự ham muốn của cá nhân mình, mà chuyến hành hương ấy, còn mang theo cả tâm nguyện của mình cho toàn dân tộc Việt, cho hạnh phúc của chư Tăng và bá tánh nữa. Một lần nữa, ta học nơi đây, hạnh nguyện của một chúng sinh có tuệ giác. Do vậy, khi bước vào cổng của chùa Tây Tạng, ta bắt gặp ngay hai câu kệ khắc trên hai trụ đá của chùa:
西歸獨?妙天真寶
藏出含靈地正香
Tây quy độc diệu thiên chơn bửu
Tạng xuất hàm linh địa chánh hương.
Tạm dịch:
Ngọc thật của trời độc diệu từ Tây lại
Chánh hương của đất chứa linh thiêng do Tạng sinh.
TS. Trần Hồng Liên, cho rằng, “thiên chơn bửu” nhắm vào hai chùa Thiên Chơn và Bửu Hương (các ngôi chùa do sư kiến lập hoặc trùng tân) và “Tây” thì cho là Tây Tạng. Tất nhiên, để chứng minh cho bài viết của mình, ở góc độ lịch sử, nên ST đã quy như vậy, và đây cũng là một mẫu chứng cứ phổ biến, hợp lý (tiếc rằng, trong tiểu luận tạp san Chùa Cổ Bình Dương chữ
đ viế lộ thành .
Nguyên văn là hàm linh [
含靈],chỉ cho chúng sinh có tình thức). Tuy nhiên, 天真寶, còn có nghĩa là ngọc Như ý (maniratna), bản chất trong sáng đặc thù và 藏出, có nghĩa là xuất từ Như Lai Tạng hay gọi là xuất từ chủng tính Như Lai, cũng có nghĩa là, pháp giới Tạng thân, gọi là A Di Đà Phật”, chớ không phải là bọn dị sinh hay prthak; còn “正香 - chánh hương”, có nghĩa là: Định hương, Tuệ hương và Giới hương, ba yếu pháp làm nên đời sống xuất thế của Phật giáo và, , chỉ cho Thập Địa (dasabhùmi) của Bồ tát đạo; hàm linh (含靈), chỉ cho tính phương tiện Sắc châu biến hay phổ quát từ Phật tính; Tây (西) và Tạng () ghép lạ, chỉcho chùa Tây Tạg trong cách uyên thâm Nho họ củ sư Tóm lạ, hai câu trên, theo thiể ý có nghĩ la "ai cũg có thểtu thành Phậ cảvì sinh ra từTạng Như lai, nhưng pháp môn thù thắng nhất, phải là từTây lại".
Tấ cả những điều đó sẽ có thể nên lý giải như thế nếu xét trên quan điểm triết học của Đại thừa. Song, trí phàm làm sao dõi được hành tướng củ bậc “vô vịc chân nhân” Thế nhưng, có một điều chắc chắn rằng, hạnh của sư phải là hạnh “vô công dụng hạnh”mới đúng, tức là thanh tịnh hạnh, hạnh không tư lợi, như ta bắt gặp bất cứ nơi đâu, trong toàn NK.
Nếu chúng ta viếng chùa, trước khi vào chánh điện lễ Phật, ta sẽ gặp trước tiên là một cái tháp khiêm tốn có bốn tầng, tầng đầu có khắca họ hình của sư tầng kế là câu "từ Lâm tế pháp nhãn gia phong, húy như đi Pháp Minh, diệu vân yết ma vị?, viết bằng Hán tự tầng ba là bài chú “Om manipadme trong hoa sen là ngọ Như ý Hùm”viết bằng tiếng Tây Tạng và tầng trên cùng là lục tự "Nam mô A Di Đà Phật” bằng Hán tự Tháp này do Hòa thượng Tịch Chiếu, tổ thứ nhì của chùa thực hiện. Đặc trưng cấu trúc của tháp này cho ta biết theo “tư kiến”là, sư không xiển dương, hay chủ trương bất cứ giáo pháp nào, cho dù, sư là mộ Lama đắc pháp chánh truyền từTây Tạng.
Trở lại, vào ngày 7-2, đoàn khởi hành về Bồ Đề Đạo Tràng, ghé viếng đại học Nalanda, hồi tưởng đại sưHuyền Tránng khi xưa có lần ở đâ y học đạo, lễ bái thạch tòa đạo tràng, nơi Phật dừng chân khai hóa. Đàn trú nơi đây suốt ba tháng và thực hiện mọi công hạnh của một Thích tử như công quả cúng dường, chiêm bái khắp các thánh tích. Và rồi, sư xin phép Hội Đại Bồ Đề đi Tây Tạng.

Nhập Lahsa, kinh đô Tây Tạng
Đã vào thành Lahsa rồi, mãi đến 3-7-1936, sư mới được yết kiến và hành lễ với quan nhiếp chánh với tư cách là Quốc vương Bơdalama (tức là quan nhiếp chính của vương quốc Tây Tạng thời bấy giờ, bởi vì đức Dalai Lama, người kế vị chánh thức mới chừng 5 tuổi mà thôi), lúc bấy giờ Quốc vương (quan nhiếp chính) chỉ 27 tuổi. NK ghi rằng: “ Bữa điểm tâm cải salade chấm muối, không có giấm mà trộn salade. Đoạn 9 giờ, quan thừa tướng cho người lại bảo, giờ này đi đảnh lễ Quốc vương Bơdalama đặng; Bảo rằng: bần đạo phải đắp y bí-sô, chớ không nên bận đồ Tây Tạng đi yết kiến Quốc vương. Y theo lời dạy, rồi cùng huynh đệ của Samdhen, bốn người khuân lễ vật...
Lén ngó, thấy Đại đức Bơda Lama Quốc vương (tuổi) tác còn thơ (hỏi lại thì mới 27 tuổi, thế ngôi Tả-lê lama Quốc vương tịch, đặng bốn năm), mặt mày sáng láng, ngồi nơi long đơn trải gấm Tây Tạng. Nội bọn, chỉ bần đạo đắp y vàng rực từ trên sấp dưới, làm cho Quốc vương chăm chỉ ngó ngay, các quan nội điện đều để mắt. Đoạn Samdhen đảnh lễ, bần đạo y theo, rồi Samdhen đem Anh-lạc long tợ dưng... các quan hầu mời bần đạo ngồi nơi đơn cao...
Đến nay đi ra mắt Quốc vương thì thừa tướng đã tâu trước, lại đi với bọn tôi, đi con đường đến ngự điện, ai ai thấy cũng biết, nào ai dám nói. Lại thêm lúc về tuy nội bọn đi không có Lama quan dẫn đường, nhưng nhân dân quan lại xem thấy cái niệt điều trên cổ [tức là khúc vải vàng quấn cổ vua ban] cũng đủ biết ở trong ngự điện, hoàng thiền mà ra. Bần đạo nghe qua, niệm Phật và cảm oai linh Phật lực ủng hộ làm cho bần đạo an ổn các nơi vô chướng ngại”.
Từ thời điểm này, sư chánh thức là một vị tu sĩ Tây Tạng, cho đến khi sư đắc thiền pháp và được Pháp danh là: Thubten Osall Lama (có nghĩa: Thubten là tên đức Tả-lê Lama Thái thượng hoàng đã băng hà. Thubten là vòng cứng bền chắc kim cương. Còn chữ Osall là: ánh sáng mặt trời, tên của đương kim quốc vương Lama, nên bần đạo biết là: Huệ nhật. (NK, tr.319-320) và pháp danh này được loan báo khắp nơi.
Ngày 30-6-1937, lúc “ 7 giờ sáng sư về Sài Gòn, về tới am 11 giờ trưa”. (NK, tr.406). Đúng ra, sư còn phải ở Tây Tạng một thời gian nữa, nhưng, theo NK, các sư Tây Tang cho biết là đất nước mình sẽ trải qua binh biến, nên sư không thể lưu lại được. Ta thấy, “pháp nạn” của Tây Tạng, vốn đã được người Tây Tạng biết trước rồi. Và đây cũng là vấn đề lịch sử, xét trên thánh trí của các Lama.
Theo NK, ta có thể chia ra làm hai phần: từ tr.13-tr.186, là quá trình chiêm bái Phật tích ở Tây Trúc và, từ yt.192-tr.317, là quá trình tu học tại Tây Tạng. Nghĩa rằng, sư đã thật sự “hóa thân” làm một Lama Tây Tạng với mọi công hạnh đặc thù của một Lama - học Tạng văn, thiền định, quán tưởng Tứ niệm xứ theo cách riêng của Phật giáo Tây Tạng, trì chú và các phương pháp Yoga mang tính vật lý đặc thù (của Tây Tạng)... - cho đến khi đắc pháp và thọ pháp danh.
Với lối văn bình dị, khoa học và giàu lòng bi, NK dẫn ta đi vào chi tiết của lịch sử Phật tích ở Ấn Độ, các tập quán cũng như các phương thức tu hành Phật giáo cũng như của các ngoại đạo, lồng trong đó là các quan điểm trung thực và thắm đượm tình cảm của sư. Và rồi, bản văn dẫn ta vào đất nước Tây Tạng với các chuỗi gian truân trong quá trình cầu và đắc pháp. Có thể nói, vào những ngày giữa của phân nửa đầu thế kỷ XX, thì NK, không chỉ là một nhật ký, mà còn là một áng văn ký sự thiên tài, một vần thơ lộng lẫy của một nhà thơ giàu tình cảm, thấm đượm tính nhân bản và Phật bản.
Hơn thế, NK còn thể hiện là một giáo pháp thực sự của một bậc chân tu. Nó chuyển tải hầu hết mọi thể nghiệm của “căn” và “cảnh”, một quá trình lịch nghiệm của một cá nhân. Xa hơn, NK đã trở thành kim chỉ nam cho cả hai mặt: lịch sử thuở “bình minh” của Mật giáo ở Việt Nam nói chung, và nói riêng tại Bình Dương, và lịch sử giáo chứng nữa.

Như mt đim son, mt vết chân trên dòng lch s còn nhiu khut tất, bi vì, chỉ hai ch “truyn tha” vn đã mang li biết bao xung đột h phái trong bt cứ tôn giáo nào, bất k Pht giáo hay là không. NK sư ông là mt du n lch s, nó chia phần mình cho giáo pháp và cho tt c chúng sinh, như chính chân lý chia phần bình đẳng cho tt c. Pht giáo, tht vy, như con Rng thn, người ta chỉ có thể thy được phn “đuôi” ca nó.
Chùa Tây Tạ
ng, cũng như, có th còn biết bao nhiêu ngôi chùa như th vi dáng v khiêm nhn ca mình, đã chuyn tii t thân biết bao điều huyền nhim và điu này cn đến s phê xét và nghiên cứu ca nhng nhà s hc. Bi vì, nói cho cùng, c Mt và Thin mà s tn ti của c hai, phi luôn được s y trên bình din trc truyn đúng như bn thân ca chúng.
Nằ
m dưới rng đại th đã thành lõi xám, chùa Tây Tạng ( “đã được nhiều ln trùng tu và ngày thêm trang nghiêm theo li kiến trúc kết tân. Chánh đin thiết kế th phượng như mt pháp hi khi Pht còn ti thế. gia đin thờ Phật Thích-Ca (tượng cao thin ta 2m3). Chung quanh gm chư Pht các v trí như tng dưới th Địa Tng, Di Lc; tng kế th Ph Hin, Văn Thù; tng trên là Quan Âm, Thế Chí...
Đặ
c bit đích thân Hòa thượng trú trì (tc hòa thượng Tch Chiếu, hin còn ti thế, tui đã ngoài 95) cũng góp phn tham gia vào việc chnh sửa trong quá trình to tác mt s nh tượng Pht như tượng Đức Bổn Sư... cho được hoàn m hơn... Sau ln đại trùng tu vào năm 1992, chùa có dáng dấp gn ging như mt ngôi chùa Tây Tng. Chánh đin cu trúc hình khi vuông, chính giữa là ngôi tháp (stupa), tứ giác có chiu cao trên 15 mét. Cách thiết kế tng thượng mt bng nc chùa... năm đin th năm v gi là ‘ngũ trí Như Lai’ (chiu cao mi v 1m5)...
Đặ
c bit hơn c, có l Minh Tnh là nhà sư Vit Nam đầu tiên ghi chép, lưu gi được hình nh, s kin cuc hành trình về đất Pht mt cách chi tiết đầy đủ tng ngày t Viêt Nam qua n Độ - Népal - Tây Tạng và ngược li. Cun nht ký này, có th xem như là tp “Tây Trúc - Tây Tạng ký” ghi rõ thi gian, các địa danh và Pht s sut cuc hành trình từ khi ngài xuất hành t Th Du Mt, Bình Dương, ri bến Nhà Rng (Sàigòn) vào ngày 17- 4-1935 cho đến lúc tr v Vit Nam vào ngày 30- 6-1937 (kéo dài 2 năm 2 tháng 13 ngày).
Cuố
n nht ký ghi bng th bút ca Ngài vi nét chữ nghiêng, đẹp, rõ ràng bng ch quc ng, có xen ln ghi chú thêm bng tiếng Pháp, Anh (Tây Tạng, Phn...). Nht ký có độ dày trên 300 trang kh ln, hin còn lưu gi cn thn ti chùa Tây Tng”. Và, có th nói “Ngài là mt “tiu Huyn Tráng của Vit Nam” ) vy. (Theo tp san Chùa C Bình Dương).
Để
kính tán công đức ca sư đối vi nước Vit nói chung và riêng đối vi Bình Dương và rt riêng đối vi người viết - bc hành nhân sau khi đắc pháp t Tây Tng v, đã “mặc như lôi” cho đến khi th tch, nghĩa rng, Pht giáo ch có th tìm thyi mt vài vuông đất “th cư” khiêm tn hơn là nơi hàng trăm mu đất “trng cây ăn trái” hay “đất nông nghip” - đã có chút phước duyên đọc được NK này vi “tư kiến” ca mình. Cho nên, xin trích mt bài chú thuc h Bát Nhã nhm quy mnh dưới phm tính y. Chú viết (Các linh tự như: Om, ā, ī, ū, là nhng linh t phi đắc thành trong cách tnh hóa ngũ căn.)
59. Trạng Phật - Khôi nguyên Lê Ích Mộc

Đạo Phật và lịch sử dân tộc có cùng chung những biến động thăng trầm. Đó là sự dịch chuyển mang hơi thở triết lý vô thường của Phật giáo. Không có vô thường thì Phật giáo sẽ mất đi một phần tinh túy bản sắc.
Bản sắc của một tôn giáo không cưỡng lại những biến động, thăng trầm. Lịch sử dân tộc đã ghi nhận điều này, từ thời người dân đi ngủ không cần phải đóng cửa, đến thời mà nơi đặt tượng Phật, bia đá, chuông đồng phải đề phòng cài then, chốt cửa.
Nói đến chuyện thăng trầm, xin kể đôi điều về một nhà vua anh minh và một vị “Trạng Phật”.
Trong lịch sử Việt Nam, vua anh minh có nhiều, nhưng thời Lê rất đáng kể vì có một số vị vua như Lê Thần Tông (1607-1662) sùng mộ Phật, vua Lê Hy Tông (1663-1716) lúc đầu ngăn cấm đạo Phật, nhưng sau được sự khuyến hóa của thiền sư Tông Diễn đã quay trở về đạo Phật, cho tạc tượng mình quỳ mọp đội tượng Phật trên lưng để tỏ lòng sám hối.
Thiền tông bản hạnh đã viết: “Bụt sinh hoàng giác Lê gia… Hưng sùng đạo Bụt chợ quê khắp miền”. Gần như triều đại nào cũng có “Bụt sinh”, nhưng thời Lê đáng để nói vì có người cho rằng vào thời này, Phật giáo bị đẩy về những nơi thôn quê. Khái niệm “bị đẩy” này xuất hiện do một vài vị vua nhà Lê có lúc đã ra lệnh thải bớt tăng đồ, không cho tăng sĩ tiếp xúc với người trong cung và hậu đình…
Thời ấy, đạo Phật tuy rời xa chốn cung đình nhưng vẫn là nền tảng tâm linh trong cuộc sống của đa số người Việt, nên tư tưởng Nho giáo chỉ có thể hấp dẫn với những người có chí hướng ra làm quan. Khi nhà nho nhận thức được sự thăng trầm, vinh nhục trong chốn quan trường, thấu tỏ được quan niệm “cùng thông đắc thất”, “công thành thần thoái”, “xuất xử hành tàng”, cũng là lúc đạo Phật trở nên gần gũi với họ nhiều hơn.
Có những bậc trọng nho, túc nho, một lúc nào đó trong đời đã “lệch chuẩn” để lui tới chốn chùa chiền, đàm đạo với các thiền sư… Vì thế mà dần hình thành xu hướng “cư Nho mộ Thích” ngay trong thời Nho giáo phát triển, đến mức có vị vua phải ra lệnh cấm đại thần thờ Phật trong nhà.
Thực tế Phật giáo chưa từng đi khỏi nơi thôn quê bao giờ nên không có chuyện bị đẩy về. Vậy nó suy tàn ở chỗ nào? Không có lực lượng trí thức đông đảo chốn quan trường mà bảo nó suy tàn chăng? Đó không phải mục đích của đạo Phật, bởi vậy muốn hiểu đạo Phật, hiểu nhân cách người Phật tử dấn thân nhập thế, tư cách học giả (bác học) không thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tư cách của một hành giả.
Danh nho Nguyễn Trãi thường lui tới làm bạn thiền sư Đạo Khiêm, từng phát biểu: “Ta dư cửu bị nho quan ngộ” (Bấy lâu ta bị cái mũ nhà nho nó chụp làm cho sai lầm) và “Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền” (Gặp dịp tôi cũng sẽ đi tu đạo thiền). Thiền sư Đạo Khiêm hẳn phải là người có sức cảm hóa lớn đối với trí thức đương thời.
Trên nền tảng là niềm tin lớn của dân chúng, Phật giáo tiếp tục được mở ra trong nhận thức của vua Lê Hiến Tông (1461-1504). Đại Việt sử ký bản kỷ thực lục chép: “Vua Lê Hiến Tông tên húy là Sanh, lại húy là Huy, là con trưởng của Thánh Tông, ở ngôi 7 năm, thọ 44 tuổi… Vua thiên tư anh minh thông duệ, giữ vận thịnh trị, thái bình, mới trong khoảng 7 năm mà thiên hạ bình yên, xứng đáng là bậc vua giỏi giữ cơ đồ…” (1).
Vua Lê Hiến Tông là con trưởng của vua Lê Thánh Tông. Chính sử chép rằng, vua Lê Thánh Tông ở ngôi lâu mà chưa có con nối dõi, Hoàng thái hậu Quang Thục làm lễ cầu đảo và sai Nguyễn Đức Trung đến cầu tự ở am Từ Công núi Phật Tích (chùa Thầy núi Sài Sơn). Hoàng hậu Trường Lạc ở cung Vĩnh Ninh tức thì có mang, đến khi đầy đủ ngày tháng, chiêm bao thấy rồng vàng từ trên trời sa xuống, bay vào trong phòng, một lát thì sinh ra hoàng tử, ứng thân của sao Thiên Lộc.
Trong văn bia chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), Nguyễn Bá Bằng có viết: “Trường Lạc hoàng thái hậu có điềm rồng vàng nhập vào sườn bên tả”. Đây cũng là lý do mà sau một năm lên ngôi, vua Lê Hiến Tông đã cho sửa chùa Thiên Phúc và cho dựng bia theo ý nguyện của Trình quốc công Nguyễn Đức Trung, thân phụ của Hoàng thái hậu" (2). Cần nói thêm, các vị vua anh minh thời xưa đều gắn với những truyện tích về điềm sinh kỳ lạ.
Nói lan man như vậy để dễ đi vào chuyện chính của vị “Trạng Phật”. Vì câu chuyện này liên quan đến quốc sách giáo dục của vua Lê Hiến Tông.
Tháng Tư, Kỷ Mùi, Cảnh Thống năm thứ 2 (1499), vua Lê Hiến Tông ra sắc dụ rằng: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí mạnh thì đạo trị nước mới thịnh…” (3).
Tháng 12 năm Tân Dậu, Cảnh Thống thứ Tư (1501), vua Hiến Tông ra sắc chỉ quy định các thể lệ thi Hương (tương đương với tú tài hiện nay). Trong sắc chỉ này, đáng chú ý là xã trưởng ở các xã phải bảo đảm cho học trò của xã mình. Nếu xã trưởng nào khai nhận, đảm bảo không đúng, quan phủ, huyện châu khảo không kỹ để đến nỗi học trò vào thi còn nhũng tạp và có người viết bất thành văn, hay vì họ hàng con em mà gửi gắm thì sai nhân của khoa, đài đó phải dò xét cho ra sự thật, giao hết lên để xét hỏi trị tội. Khi học trò vào khi thì khám xét kỹ càng từ ngoài cửa. Nếu thấy mang tài liệu vào hoặc cho người vào thi hộ thì phải bắt ngay để xét hỏi. Những người can phạm như trên bị sung làm quân bản phủ 3 năm, suốt đời không được vào trường thi và bổ dùng nữa. Các viên giám thị niêm phong bài thi, kẻ nào bất minh thì biếm hay giáng chức… (4).
Tháng 2, Nhâm Tuất, Cảnh Thống năm thứ 5 (1502), diễn ra kỳ thi Hội, tuyển các cử nhân trong nước, số dự thi 5.000 người. Vua đích thân ra đầu bài văn sách hỏi về đế vương trị thiên hạ. Người không có kiến thức rộng về đạo Nho, ắt không thể vượt qua kỳ thi này.
Đến kỳ thi Đình vua đã chọn Lê Ích Mộc (1458-1538) làm Trạng nguyên, “vua sai tuyên đọc chế từ, bưng lư hương cháy rực lửa ra trước, bị bỏng tuột cả tay mà không biết. Vua ngự điện Kính Thiên, Hồng lô đích thân truyền loa xướng danh. Mọi năm bảng vàng vẫn treo ở ngoài cửa Đông Hoa, đến nay vua sai Lễ bộ bưng ra, đánh trống nổi nhạc rước ra treo ở cửa nhà Thái học. Bảng vàng treo ở cửa nhà Thái học bắt đầu từ đó…” (5). Có thể nói, mọi vinh dự đều đến với Trạng nguyên Lê Ích Mộc.

Lê Ích Mộc bưng lư hương bỏng tuột cả tay mà không biết. Nhưng cả triều đình đều biết Lê Ích Mộc đỗ Trạng nguyên vì thông tỏ Phật pháp. Trong kỳ thi cao nhất (thi Đình) cấp quốc gia, vua Lê Hiến Tông đã bỏ qua bao nhiêu đạo lý trị nước của Nho giáo để bất ngờ hỏi về Phật pháp, nhằm thử sức những trí thức Nho giáo đương thời. Bài trắc nghiệm bất ngờ và táo bạo này đã chứng minh thêm cho tư tưởng coi trọng hiền tài, tập hợp mọi sức mạnh tư tưởng của vua Lê Hiến Tông. Các trí thức Nho giáo có một phen để suy nghĩ về việc học phiến diện của mình. Điều này cho thấy “nguyên khí quốc gia” không thể bị bó rọ vào một “bộ óc”, “tư tưởng” đặc thù nào.
Với bài thi Phật pháp của Lê Ích Mộc, vua Lê Hiến Tông đã phải sửng sốt mà rằng: “Bài văn của Lê Ích Mộc hơn hẳn mấy tầm so với bạn đồng khoa. Trẫm rất hài lòng duyệt cho người ấy xứng đáng bậc khôi nguyên” (Công dư tiệp ký).

Trong hơn 100 câu hỏi về các lĩnh vực khác nhau từ lịch sử đến giáo lý Phật giáo, Lê Ích Mộc đều biện giải trôi chảy. Có đoạn ông đã nói về đạo Phật như thế này: “…Kính nghĩ bậc thánh thiên tử Thánh triều ta, kế thừa các bậc vua thánh, gặp gỡ vận hội lớn lao, để tâm nội điển, xoay chuyển pháp luân, trên có thánh từ Thái hoàng thái hậu và thánh Thái hậu, cõi Nam nuôi dưỡng công đức, Thiên Trúc ngưng hội tinh thần, vui sướng nơi quê Trường lạc, siêng năng chăm đạo chí chân.
Lại thêm có ngài Bình Cao Vương và các bậc đại thần trông coi việc nước, thảy đều tha thiết với việc thờ Phật, gió vua nhân thổi mãi, mặt trời Phật sáng lâu, tăng thêm vẻ sáng của tổ thành, giúp thêm thánh hóa của Hoàng triều. Cả những hạng đệ tử chúng tôi, sinh gặp đời thịnh trị, được học tập pháp môn, phát Bồ đề vô thượng đạo tâm, thụ Như Lai vi mật giáo pháp, phàm là Phật pháp, thảy đều thi hành. Song nay đấng thánh minh đã sách vấn, vì vẫn cầu đạo đấy, cho nên mới hỏi lũ hạ thần…”.
Bấy nhiêu lời của Lê Ích Mộc và sự chứng thực của vua Lê Hiến Tông, ai có thể nói rằng đạo Phật thời ấy suy tàn. Một anh minh sách vấn tài tình, một Phật tử hùng biện xứng danh “Trạng Phật”. Họ đã cùng nhau để lời tuyên ngôn giáo dục “hiền tài là nguyên khí quốc gia” trở thành bất hủ, khẳng định thêm Phật pháp trường tồn.
Thời Lý - Trần, Phật giáo cực thịnh, đêm ngủ người dân không phải đóng cửa. Vậy có thể nhìn hành vi ứng xử thường ngày của người dân mà nhìn ra bóng dáng của vị “trụ trì”, của đạo Phật được không? Chắc chắn Phật giáo nên nhìn thật kỹ vào những ứng xử như vậy của dân chúng để điều chỉnh mình. Nếu cứ nhằm vào sự “cực thịnh” bằng chùa to, Phật lớn với nhiều kỷ lục và các sư có nhiều “thần thông” đi mây về gió như hiện nay thì sẽ có người đẩy ngay thời đại Phật giáo Lý - Trần vào tút mút vùng sâu vùng xa, vùng biên địa hạ tiện.
Mở cửa có cái hiên ngang của mở cửa. Cài then có cái cẩn thận của cài then. Làm ra cái cửa cũng để nhằm mục đích ra vào và phải biết lúc nào nên mở, lúc nào nên đóng. Mở đóng là vô thường, là đi qua ngày đêm, đi qua không gian thời gian và đi qua vui buồn.
Ở thời nào mà nhà chùa phải đóng cửa? Đóng mở là chuyện của mọi thời, điều quan trọng là đứng trước cái gì thì phải đóng, đứng trước cái gì thì nên mở. Không phải chỉ do mất trộm nhiều mà phải đóng kín cửa chùa. Bởi với những người có quyết tâm chiếm thì dù có cài then, khóa cửa cũng chẳng ích gì. Khóa được cái lòng tham thì cửa chùa ban đêm cũng như ban ngày. Không khóa được cái lòng tham thì ban ngày cũng chẳng khác ban đêm.
Cơn gió lòng tham (cả chủ quan lẫn khách quan) mà thổi vào nhà chùa thì đúng biến thành sai, ngày biến thành đêm, có giấy tờ biến thành không giấy tờ, nhân chứng thật biến thành nhân chứng giả… Nói chung các giá trị sẽ bị đảo chiều, quy ngược.
Thời Lý - Trần, ban đêm đi ngủ không cần đóng cửa, vì có những vị vua anh minh như Trần Nhân Tông chống gậy đi khắp trong thôn ngoài làng khuyên dân giữ gìn mười điều thiện. Giữ gìn điều thiện như giữ con ngươi của mắt mình thì đêm tối nào có thể ngăn cái tính sáng trong lòng mình đi được. Nay lòng tham nổi lên như ong, không lẽ vì thế mà cứ đóng mãi cửa vào. Đóng vào thì biết giao du với ai? Còn ai khác ngoài dân, bởi càng gần láng giềng, gần dân, thân dân thì càng giảm áp lực cho cái cửa, cho người đóng mở cửa. Vậy sự thăng trầm, liên quan gì đến người đóng mở?
Liên quan nhiều lắm, vì nếu đóng lúc không đáng đóng, mở lúc không đáng mở thì tâm sẽ cứ canh cánh, bất an, thậm chí cả lo sợ nữa. Đạo Phật là đạo trí tuệ, đạo của những người có trí tuệ. Đạo Phật là đạo từ bi, đạo của những người có lòng từ bi. Thế thì phải làm gì để cho dân thấy trước mắt họ là những người có trí tuệ và từ bi, ở nhà gặp người có trí tuệ từ bi, ra đường, vào chợ gặp người có trí tuệ từ bi...
Người đóng mở cửa là người phải có được nhận thức đầy đủ về hai vấn đề lớn ấy. Bằng không thì không thể dung hòa được cái nhà và cái chùa. Là cái “nhà” mà không biết giữ gìn, sử dụng đúng thì hoang phí của đàn na tín thí. Là cái “chùa” thì phải biết mở rộng lòng, mở rộng đường hướng thượng, phát bồ đề tâm. Nhà sư là nhà chùa. Các vị sư đã tự xưng mình như thế, nhằm xóa nhòa cái tôi, đề cao sự “vô ngã”.
Người đóng mở cửa chùa không chỉ là người làm công quả bình thường trong chùa đâu, nên đừng xem đó là việc vặt, việc nhỏ. Người “đóng mở” cửa chùa phải là người mang danh “trụ trì” (trụ Pháp vương gia, trì Như Lai tạng).
Chuyện “nhà chùa”, chuyện cái cửa, cái tâm, chuyện “đóng mở” cũng là những chuyện liên quan đến thăng trầm, thúc đẩy cho thăng trầm diễn ra.
Người ta thường ví von “lắm sãi không ai đóng cửa chùa”. Không chỉ là đóng cái cửa vật lý đâu, vì cái cửa ấy ngày nào mà không có người đóng. Chùa không sư thì hư mất chùa (hư chùa và mất chùa). Thời Pháp thuộc, đạo Phật Việt Nam mất quá nhiều chùa bởi người ta nghĩ chùa không có bằng khoán, khế ước, nên nếu bỏ trống mà không có người kế tục thì gọi là đất “vô chủ”, rất đáng phá.
Đó là cái nhìn sai lầm, vì điều đáng bàn là xưa nay người Việt vẫn quan niệm “chùa của dân, sư của dân”, “đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Dân xây chùa và dân mời sư về ở chùa. Chùa là sở hữu của dân, là tài sản vật chất và tinh thần chung của dân, là di sản văn hóa truyền đời của dân. Sao có thể gọi nó là vô chủ được. Chừng nào còn một người dân Việt Nam tin Phật thì chừng ấy chùa chiền vẫn còn có chủ. Ở thời thịnh Nho, cụ Nguyễn Trãi (1380-1442) trong đời có lúc cần đến sự “nhờ gửi” đã khiêm tốn nói thế này: “Ao quan thả gửi hai bè muống. Đất Bụt ương nhờ một lảnh mùng”.
Muốn làm gì trên đất ấy phải nhờ phải gửi, bởi “ao quan” và “đất Bụt” là hai giá trị mang hình hài của đất nước, non sông, mang tâm tình của dân chúng.
Hóa ra cái chùa (đất Bụt) ấy không chỉ là tài sản vật lý thông thường, nó là là biểu tượng của cái đẹp, cái thiêng, cái cao cả, là niềm tin lớn vào các giá trị. Cái đó có ý nghĩa, giá trị hơn nhiều chứng từ và khế ước. Vì lẽ đó chùa ấy, sư ấy đã sống trong tâm niệm của dân, kỳ vọng của dân. Đáp ứng sự tin tưởng đó, người giữ chùa phải có từ bi và trí tuệ. Có được hai điều đó thì sẽ biết cách đóng mở cửa chùa đúng lúc, không quay lưng lại với niềm tin lớn của dân tộc.
Lê Ích Mộc thời hàn vi ở nhờ nhà chùa và được các vị sư giao cho việc chép dịch kinh Phật. Có ai ngờ đạo Phật được nối tiếp ở đời lại nhờ cả vào những người (chỉ mới) “ở nhờ” chùa như vậy. “Trạng Phật” Lê Ích Mộc gắn với câu chuyện “thăng trầm” của Phật giáo thời Lê, thời mà không có nhà sư nào học làm danh thần, tiến sĩ, nhưng vẫn hấp dẫn các tiến sĩ, danh thần đến với đạo thiền.
Trước mắt việc đi mãi… Đã hơn 5 thế kỷ trôi qua (550 năm ngày sinh Lê Ích Mộc), không biết có những ngôi chùa Việt nào đã nhắc đến khôi nguyên Lê Ích Mộc như một vị Trạng Phật và nhắc đến vua Lê Hiến Tông như một vị trọng hiền tài? Và ngày mai biết có còn ai “ở nhờ” chùa sẽ tiếp danh “Trạng Phật”?

60. Tại sao trái tim Ngài Quảng Đức thiêu không cháy ?

Hòa Thượng Thích Huyền Quang
với trái tim bất diệt của Bồ Tát Thích Quảng Đức

Ngay sau khi Thày Quảng Đức tự thiêu, mọi người đã ngạc nhiên khi hay tin Trái tim của thày đã không bị thiêu hủy cùng ngọn lửạ Từ đó đến nay suốt thời gian ngót 37 năm qua, người Việt Nam luôn luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi: Tại sao trái tim của ngài không bị đốt cháỷ Đây là câu hỏi không những ám ảnh những người bình thường mà còn ám ảnh đối với nhiều khoa học gia, nhiều nhà thần học cũng như các nhà nghiên cứu về những điều kỳ diệu của thế giới vô hình. Tuần qua, nhật báo Người Việt Hoa Kỳ đã đăng tải bài viết của ông Mật Nghiêm Đặng Nguyên Phả, trong đó tác giả đã trình bầy lý do vì sao trái tim của Thầy Quảng Đức vẫn còn nguyên vẹn sau khi nhục thể của Thầy bị thiêu thành tro bụi trong lửa đỏ. Mời quý độc giả theo dõi nguyên văn bài viết của tác giả đăng ở trang 3.
Mười ba năm sau ngày Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu, tôi được nghe một Bạn Đạo của Ngài kể lại: "Vì sao Ngài để lại Trái Tim", như một huyền thoại, như một giai thoại Thiền thời đạị Người kể là Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long, nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước đâỵ Thời gian là vào đầu năm 1976 và địa điểm là Trại Cải Tạo Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hòạ Vào thời gian trước khi bị đưa ra Bắc, tôi được giam chung với hai vị Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long và Thích Độ Lượng là những người lãnh đạo ngành Tuyên Úy Phật Giáo trong Quân Đội Miền Nam trước 1975. Nhờ cơ hội đó, tôi đã học hỏi được rất nhiều về Phật Pháp, về đức độ và về công hạnh của Ngài Thanh Long. Cũng nhân dịp này, tôi đã đặt câu hỏi về "Trái Tim Ngài Quảng Đức" có thật không và chuyện xảy ra như thế nào?
Hòa Thượng Thanh Long đã trừng mắt nhìn tôi rồi nói: "Đó là sự thật một trăm phần trăm, thế cậu không tin à?" - Ngài thường dùng chữ cậu để xưng hô với tôi cho thân mật theo kiểu Bắc, thay vì dùng chữ anh hay đạo hữu - Và tôi trả lời: "Không phải con không tin về chuyện trái tim có thật hay không. Điều con thắc mắc là tại sao thiêu mà trái tim không cháy".
Hòa Thượng đã mỉm cười và ôn tồn nói: "Chính chúng tôi cũng không ngờ và chính tôi là nhân chứng về chuyện này, giờ tôi kể cho cậu nghẹ" Rồi Ngài bắt đầu thuật lại như sau:
"Tôi không nhớ rõ thời gian bao lâu trước ngày Thày Quảng Đức tự thiêu, trong một buổi họp kín giữa những thành phần lãnh đạo cuộc đấu tranh Phật Giáo tại chùa Xá Lợi, trong đó có tôị Sau khi bàn thảo xong các việc, đến phần linh tinh thì Thày Quảng Đức giơ tay, xin ghi tên tự thiêụ Vì là chỗ thân tình, mà cũng để đùa với ông, nên tôi nói: "Này Thày ơi! Mấy vị thiền sư khi chết thường để lại xá lợi đấy nhé. Vậy Thày định để lại cái gì?" Ngay lúc đó, theo phản ứng tự nhiên ông trả lời tôi: "Để lại trái tim được không?"
Tôi đáp: "Được chứ, tốt lắm, tốt lắm!" Sau buổi họp hôm đó, tôi đã gọi Taxi đưa Thày Quảng Đức về chùa Quán Âm trước, rồi sau mới về chùa mình. Thời gian tiếp theo vì bận Phật sự và việc đấu tranh tôi cũng quên đi chuyện nàỵ
Đến ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão tức ngày 11 tháng 6 năm 1963 thì Thày Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt vào lúc 11 giờ trưạ Khi đó tôi đang ở chùa Xá Lợi họp. Lúc đó tình hình rất căng, vì nằm trong thành phần lãnh đạo nên tôi ở luôn tại chùa Xá Lợi để được bảo vệ chứ không về chùa nữạ Nhục thân Thày Quảng Đức được mang về chùa Xá Lợi nên các Phật tử thường xuyên đến viếng, ngày đêm hàng ngàn ngườị Mãi năm ngày sau mới đem xuống thiêu tại An Dưỡng Địa Phú Lâm.
Vào chiều ngày 16-6-63, một thày trẻ phụ trách việc thiêu đã chạy về chùa Xá Lợi bạch rằng đã thiêu xong, nhưng không hiểu sao trái tim chưa bị rã, tôi và các vị lãnh đạo cho lệnh tiếp tục thiêu thêm 6 giờ nữạ Sáng ngày hôm sau, cũng thày trẻ trên đã về chùa Xá Lợi tay cầm trái tim mầu nâu cứng với nước mắt đầm đìa, nói rằng đã thiêu thêm lò điện không chỉ 6 giờ mà đến 10 tiếng đồng hồ nhưng trái tim vẫn còn, nên đành chịu mà phải mang về trình lên Hội Đồng Viện. Lúc đó tôi nghĩ ra (`ng trái tim thuộc loại cơ nhục nên có lẽ không cháy, thôi thì để thờ.
Bốn ngày sau, một Thượng Tọa bên Nguyên Thủy viên tịch cũng đem thiêu thì cốt thành tro hết, lúc đó tôi mới suy nghĩ và nhớ lại câu nói đùa của tôi và lời hứa của Thày Quảng Đức trong ngày ghi tên xin được tự thiêụ Và tôi tự giải thích rằng: Trong khi Thày Quảng Đức ngồi thiền để tự thiêu thì Thày đã dùng lửa Tam Muội là một thứ nội hỏa đốt đi trái tim của mình, khiến trái tim đã hóa thạch mà lửa thường không thể đốt nổị Lửa Tam Muội đã khiến trái tim Thày Quảng Đức thành Kim Cang bất hoạị"
Trên đây là tất cả những lời Hòa Thượng Thanh Long đã kể lại cho tôi nghe 24 năm về trước, tính đến hôm naỵ Nếu kể từ ngày Ngài Quảng Đức tự thiêu thì đến giờ đã 37 năm rồị Hôm nay, nhân sa ('p đến ngày kỷ niệm xả bỏ nhục thân của Ngài, tôi viết những dòng này để cúng dường Ngài và Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long, người bạn của Ngàị Nhân dịp này tôi cũng xin nhắc lại về Ngài Quảng Đức.
Ngài có tục danh là Lâm Văn Tuất, sinh năm 1897 tại làng Hội Ninh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòạ Thuở bé Ngài khó nuôi nên cha mẹ cho người cậu ruột làm con, đổi tên là Nguyễn Văn Khiết. Năm 7 tuổi gia đình cho Ngài xuất gia học đạo với Hòa Thượng Thích Hoằng Thâm. Năm 15 tuổi thọ Sa Di và 20 tuổi thọ Tỳ Kheọ Sau khi thọ giới Ngài bắt đầu tu năm na (m khổ hạnh tại núi Ninh Hòa rồi Ngài hành hạnh đầu đà, một y một bát du hóa khắp nơi, mãi sau mới về an trú tại chùa Thiên Ân thị trấn Ninh Hòạ
Năm 1932 khi Ngài được 35 tuổi đời và 28 tuổi Đạo thì Chi Hội Ninh Hòa của Hội An Nam Phật Học mời Ngài làm Chứng Minh Đạo Sự Từ đó Ngài đi hành hóa khắp các tỉnh Miền Nam Trung Việt, đã góp công kiến tạo và trùng tu được 14 ngôi chùa rải rác khắp miền. Năm 1943, Ngài rời miền Trung, vào Nam hành hóa tại các tỉnh Sài Gòn, Gia Định, Bà Rịa, Long Khánh, Định Tường và Hà Tiên. Trong thời gian này Ngài có lên Nam Vang thuộc Cambodia hành đạo ba na (m và nghiên cứu, học hỏi về kinh điển Palị Năm 1953, Ngài được Giáo Hội Tăng Già Nam Việt mời làm Trưởng Ban Nghi Lễ và Hội Phật Học Nam Việt mời Ngài làm trú trì chùa Phước Hòa, trụ sở của Hội tại Sài Gòn. Trong thời gian này Ngài đã góp công trùng tu và tạo lập được 17 ngôi chùạ Ngôi chùa mà Ngài thường trú lâu nhất là chùa Long Vĩnh tại quận Phú Nhuận, Gia Định, cho nên Phật tử Miền Nam thường gọi Ngài là Hòa Thượng Long Vĩnh. Chùa cuối cùng mà Ngài trú trì trước khi tự thiêu là chùa Quán Thế Âm, số 68 đường Nguyễn Huệ, quận Phú Nhuận, tỉnh Gia Đi.nh. Đường Nguyễn Huệ nay đổi là đường Thích Quảng Đức.
Ngài tự thiêu ngày 11-6-63, đã để lại một kỳ tích là "Trái Tim Xá Lợi". Thông điệp của Ngài để lại là "Xả thân vì Đạo Pháp và Dân Tộc" với tinh thần Bi-TríĐũng sáng ngời và sự nhiệm màu của Phật Pháp. Cố Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương ngay ngày đó đã nhìn lửa thiêu trên nhục thân Ngài mà cảm tác viết bài "Lửa Từ Bi", chúng tôi xin trích ra đây ba đoạn mượn làm lời kết cho bài viết này:


"Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dày
bước ra ngồi nhập định, hướng về Tây
gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời taỵ
Sáu ngả luân hồi đâu đó
mang mang cùng nín thở
tiếng nấc lên từng nhịp bánh xe quay
không khí vặn mình theo, khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng... giông bão lắng từ đây
bóng người vượt chín từng mây
nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi
chỗ Người ngồi: một thiên thu tuyệt tác
trong vô hình sáng chói nét từ bi..."


Lửa Quảng Đức mãi mãi soi đường cho Phật Giáo Việt Nam. Trái Tim Quảng Đức chứng tỏ rằng Phật Pháp trường tồn, bất diệt...

60. BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC

Tất cả các chi tiết từng giờ, từng ngày trong diễn tiến cuộc tranh đấu của Phật Giáo từ khơiû đầu đến kết thúc bằng cuộc cách mạng lật đổ một chế độ độc tài gia đình trị, tôn giáo trị, của giòng họ Ngô năm 1963, đã được các cơ quan truyền thông báo chí phổ biến từ 42 năm qua,. Lịch sử vẫn là lịch sử, không ai có thể chối cãi được, ngoại trừ những kẻ ngoại đạo, đã và đang tìm mọi cách để vu cáo, xuyên tạc lịch sử hầu đánh lừa các thế hệ mai său. Trong phạm vi bài này tôi chỉ tóm lược một số nguyên nhân chính để đưa đến sự tự thiêu của Bồ Tát Thích Quảng Đức năm 1963, hầu bảo tồn đạo pháp và dân tộc.
Vụ khủng hoảng chính trị ở Miền Nam VN bắt nguồn từ lệnh cấm treo cờ Phật Giáo nhân mùa Phật Đản, phật lịch năm 2507 (ngày 8–5-1963) của chính phủ Ngô Đình Diệm. Nguyên Tổng Giám Mục Huế là Ông Ngô Đình Thục (anh ruột của Ông Ngô Đình Diệm), nuôi tham vọng được thăng chức Hồng Y, ra lệnh cho chính quyền địa phương cấm phật tử treo cờ Phật giáo trong dịp lễ Phật Đản. (Hành động này tương tự như một vị Hoà Thượng áp lực chính quyền cấm giáo dân đạo thiên chúa treo cờ Vatican trong dip lễ mừng Chúa Giáng Sinh). Các Tăng, Ni phật tử cảm thấy bị nhục mạ, tìm cách chống đối, kể cả Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân đòan I. Đúng ngày Phật Đản, Thượng tọa Trí Quang đọc diễn văn tại chùa Từ Đàm, với sự hiện diện của khá đầy đủ các viên chức chính quyền và quân sự, đòi hỏi bình quyền tôn giáo. Tối đó, Phật tử Huế biểu tình chống lệnh cấm treo cờ, rồi tụ họp trước đài phát thanh để yêu cầu phát lại bài diễn văn của Thầy Trí Quang. Chính phủ đàn áp vô cùng dã man. Cuộc tranh đấu bùng nổ kháp miền Nam. Mãnh liệt nhất là tại cố đô Huế và Đà Nẵng.
Lệnh cấm treo cờ Phật Giáo nhân dịp Phật Đản là một sai lầm vô cùng nghiêm trọng và đây là một ngọn lửa đưa vào thùng thuốc súng để có dịp bùng nổ, său bao nhiêu năm vẫn âm thầm âm ỷ, mà chưa có dịp bộc phát. Său này, chính phủ Ngô Đình Diệm và cá nhân Ông Nhu tìm cách che đậy sai lầm của họ bằng cách ngụy biện ràng Ông Diệm chỉ cho lệnh cấm treo cờ nơi công cộng, và phải treo cờ tôn giáo cùng với quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà. tức cờ vàng 3 sọc đỏ tại các chùa chiền. Sai lầm hơn nữa, Ông Ngô Đình Nhu (em ruột của Ông Diệm) và tay chân vu cáo rằng những người tham gia các cuộc tranh đấu là “cán bộ cộng sản” hoặc “các phần tử chống đối chế độ một cách quá khích”Lời vu cáo này trong khuôn khổ pháp luật đương thời, có nghĩa chính phủ Ngô Đình Diệm được toàn quyền trừng trị những kẻ phiến loạn trên, từ tù đầy tới tử hình. Không hiểu tại sao anh em Ông Ngô Đình Diệm và thuộc hạ có thể thản nhiên, lì lợm chụp cái mũ cộng sản cho những người tranh đấu đòi bình đảng tôn giáo (Thiên Chúa giáo và Phật Giáo), không đưa ra được một bằng chứng nào, “Trong khi đó chính anh em Ông Diệm + Nhu đang tiếp tục bí mật ve vãn Cộng Sản” qua đường dây Vatican và Pháp. Đâu có ngờ chính khâm sứ Salvadore d’Asta của tòa thanh Vatican và đại sứ Pháp Roger Lalouette lại mang bí mật của họ Ngô tố cáo với Mỹ. Bởi vậy chảng những không tin lời tố cáo Phật Giáo của chế độ Diệm, chính quyền Mỹ còn đi đến quyết định “thay ngựa”, thật là trời bất dung gian, đúng là “Mưu sự tại nhân và thành sự tại thiên” Lấy thứ pháp luật man trá để dễ giết hại người, rồi cũng có ngày bản thân và gia đình phải gánh chịu hậu quả vì thứ pháp luật ấy. Những ai có tham vọng đại sự chớ quên tấm gương ố máu của anh em Ông Diệm. “Mưu thâm thì hoạ dược thâm”.
Biến cố Phật Đản 1963, đã làm cho chính quyền Kennedy hoang mang và tự hỏi ? Ho. Phật Giáo Việt Nam là ai đây ? Vì Ông cùng các cố vấn thân cận của Ong chẳng ai hiểu gì về Phật Gíao cũng không lấy gì làm lạ bởi đại sứ Frederick Nothing và Giám đốc CIA John Richardson đều là những kẻ che đậy sự thật và bênh vực chế độ nhà Ngô lúc đó, không có báo cáo của hai ngành này thì làm gì có thể biết được.
Đã đến lúc thời vận của nhà Ngô đã hết, nên giữa lúc tranh đấu của Phật giáo đã nên đến cao điểm thì Đại Sứ Nothing lại rời Việt Nam đi nghỉ phép thường niên để cho phó Đại Sứ William C. Truehart xử lý thường vụ. Cho nên chính quyền Kennedy đã vội chỉ thị cho Truehart phải dùng mọi áp lực để khuyến cáo chính quyền Ngô Đình Diệm phải ngừng đàn áp Phật Giáo và phải công khai giải quyết các đòi hỏi của Phật Giáo. Do đó ngày 5/6/1963, Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ được lệnh tiếp xúc với phía Phật Giáo.
Ngày 14/6 chính quyền và Phật Giáo chính thức họp ở hội trường Diên Hồng và hai ngày său. Ngày 16/6 thông cáo chung về năm nguyện vọng của Phật Giáo đã được hai bên cùng ký kết. Ngày 17 tháng 6 Phật giáo ra thông cáo tuyên bố đời sống mọi sinh hoạt trở lại bình thường và thành tâm cầu nguyện cho 5 nguyện vọng thông cáo chung được thi hành nghiêm chỉnh. Quả thực không sai, phía chính quyền thì nhượng bộ nhưng phía gia đình trị và tôn giáo trị không chấp nhận. Do đo, chưa đầy một tuần lễ său là một chiến dịch do Ông, Bà Ngô Đình Nhu và Ông TGM Ngô Đình Thục đã tận dụng mọi phương tiện của nhà nước dùng các tổ chức Thanh Niên Cộng Hòa, Hội Phụ Nữ Liên Đới, trung tâm Nhân Vị Vĩnh Long, đảng Cần Lao, thương phế binh, Công An mật vụ………. Truyền thông báo chí thi nhau vu khống, mạ lỵ đàn áp, cách chức, bắt giam, ám sát, bắt cóc, tra tấn, thủ tiêu….. Thế là Các nhà lãnh đạo Phật Giáo lại phải kêu gọi các chư Tăng, Ni cùng đồng bao Phật tử vùng lên tái đấu tranh.
Cuộc tranh đấu này quả thực gay go và phức tạp, Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu đã phải từ chức để phản đối hành động đàn áp Phật Giáo của chế độ Ngô Đình Diệm, Ong Trần Văn Chương, dại sứ của chính phủ VNCH tại liên hiệp quốc và là thân phụ của Bà Ngô Đình Nhu, cũng từ chức để phản đối cuộc đàn áp Phật Giáo của chính quyền Ngô Dình Diệm. Tướng Lê Văn Nghiêm tư lệnh Quân Đoàn I, lên tiếng phản đối sự đàn áp dã man của phía chính quyền thì bị cách chức, đa số các quân nhân ở Quân Đòan I đã cùng đồng bào Phật Tử tham gia biểu tình, nhất là ở tại Huế và Đà Nẵng. Thị Trưởng Đà Nẵng lúc đó là Đại Tá Lê Quang Mỹ nguyên tư lệnh Hải Quân, bị cách chức, său đó lạiï được Tổng Thống Ngô Dình Diệm cử Đại Tá Trân Ngọc Châu ra hay thế. Trần Ngọc Châu có rất nhiều kế hoạch thâm độc để đánh phá các cuộc biểu tình của Phật Giáo lúc đó. Tại Huế và Đà Nẵng khí thế tranh đấu đòi bình đảng tôn giáo (Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo) của Phật Giáo rất sôi đọng.
Tại Sàogon lúc đó trụ sở chính của ủy ban Liên Phái Phật Giáo vẫn đặt tại Chùa Xá Lợi, nhưng quí ngài lành đạo Phật Giáo trong cuộc tranh đấu, thường xuyên di chuyển địa điểm họp mật để đặït kế hoạch đấu tranh. Đến ngày 9 tháng 6 năm 1963, xuyên qua những lần thảo luận giữa ủy ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo và Ủy ban Liên Bộ của chính quyền Ngô Đình Diệm không đi đến thỏa thuận. Trái lại chính quyền Diệm vẫn gia tăng các cuộc khủng bố, đàn áp Tăng, Ni và Phật Tử. Trong tình hình đó nếu cứ kéo dài các cuộc đấu tranh bình thường như từ trước đến nay thì dần dần sẽ bị tan rã vì thiếu hình thức khác lạ để có thể gây xúc động lương tâm con người. Nên quí ngài lãnh đạo Liên Phái Phật Giáo lúc đó phải chấp nhận hạnh nguyện xin được tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức.
Ngảy 11 tháng 6 năm 1963 (nhằm ngày 20 tháng 4 năm Quí Mão), tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt Saigon, - (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Đình Chiểu TP HCM)- , Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã anh dũng tự thiêu, trước hàng ngàn các Tăng, Ni và Phật Tử đứng gần đó để cầu nguyện, cùng hàng trăm các phóng viên ngoại quốc đứng gần, xa và trên các tòa nhà cao tầng để chứng kiến và thực hiện các phóng sự rồi tìm cách lén lút đưa ra nước ngoài phổ biến. .Lực lương an ninh của Diệm được điều động đến để trấn áp và phá hoại cuộc tự thiêu nhưng đều thất bại, vì các Tăng, Ni và Phật Tử quyết bảo vệ bằng cách bao vây thành nhiều vòng trong tiếng niệm Phật ngân vang cả một bầu trời, có người nằm ngăn cản trước bánh xe cứu hỏa, xe tăng của lực lượng cảnh sát.
Chiều ngày 11-6-63, chính quyền Diệm ra lệnh phong tỏa các chùa, nhất là chùa Xá Lợi, nơi quàng nhục thân cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức. Khắp các nẻo đường dẫn về Chùa Xá Lợi, cảnh sát được điều động đến để ngăn chặn làn sóng người đang đổ dồn về chùa Xa Lợi. Tối hôm đó Ngô Đình Diệm đọc bài diễn văn trên đài phát thanh Saigon, lên án vụ tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức và nói “..do một số ngưồi đầu độc gây án mạng” và kêu gọi đồng bào hay nhận định tình thế” lời lẽ qua thông địệp đã bộc lộ sự độc tài khi tuyên bố “sau hiến pháp còn có tôi” cái tôi đã có thẩm quyền hơn cả hiến pháp. Tiếp theo là một lời tuyên bố nay lửa của bà cố vấn Ngô Đình Nhu là “Một nhóm người đã nhẫn tâm mang nướng một Ông thầy tu” thật là ghê tởm, khi mọi người nghe được điều này đã phẫn uất tột cùng.
Ảnh hưởng và âm vang về cái chết Vô Úy của Bồ Tát Thích Quảng Đức.
Sự hy sinh phi thường, dũng cảm của HT Thích Quảng Đức với hình ảnh ngài ngồi yên tư thế tọạ thiền trong ngọn lửa hồng đã như làn sóng điện cực mạnh lan khắp trong nước và thế giới, hàng triệu trái tim con người quàn thắt trước sự hy sinh cao cả của Ngài. Báo chí, truyền thanh, truyền hình đã loan truyền các tin tức và hình ảnh của Ngài đang ngồi kiết già trong ngọn lửa rực cháy với những lời ngợi ca khâm phục trên khắp năm châu. “Đây là một gương Đại Hùng Đại Lực, tinh tiến bất chuyển mà chúng ta thường nghe nói. Sự hy sinh cao cả của Ngài là một tiếng chuông gọi đàn cho hàng tứ chúng.” Và cũng là ngọn đuốc soi sáng lương tri những kẻ vô minh”.đồng thời đã tiếp thêm sức mạnh lạ thường cho hàng triệu người ở miền Nam, miền Trung sôi sục vùng lên bất chấp cường quyền, bạo lực đã cùng nhău hiên ngang xuống đường đấu tranh chống bạo tàn của chế độ Ngô Đình Diệm.
Ngày 12/6 tại Hoa Thịnh Đốn, đã đón nghe một cách xúc động cuộc đấu tranh của Phật Giáo Việt Nam. và tờ New York Herald Tribune đã viết ..”Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã biến tấm áo Cà Sa với tấm thân tứ đại làm một giàn hỏa thiêu cả một chế độ kỳ thị tôn giáo”. Tổng thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam đang làm một việc rất hay là Ông đang tự đốt hết nền tảng của chế độ Ông.
Mục Sư Donakds Harring Ton (Mỹ) đánh giá cái chết của Hòa Thượng Thích Quảng Đức giống như cái chết của Chúa Giê-Su, Michqel Servetus, Jeanne d’Are cho rằng cái chết của HT Quảng Đức cao cả hơn hành động mổ bụng của người Nhật. Vì “sự tự thiêu của Ngài đã cứu vớt bao sinh linh chìm đám trong khổ hận, kẻ đàn áp cũng như những người bị đàn áp đều bừng tỉnh. Ngài đã tô đậm nét vàng son vào trang sử huy hoàng của Phật Giáo ở Việt Nam”.Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc rúng động trước chính sách kỳ thị tôn giáo tại miền Nam Việt Nam, dư luận Mỹ quay sang chống Diệm và gia đình trị của Ông ta.
TRÁI TIM BẤT DIỆT.
Său khi ngọn lửa bọc quanh thi hài Hòa Thượng Thích Quảng Đức vừa tàn. Tăng, Ni vây quanh Ngài và phủ lên một lá Phật kỳ. Nhục thân của Ngài được đưa về quàng tại giảng đường Chùa Xá Lợi. Său lễ nhập kim quan, hàng ngàn Tăng, Ni và Phật Tử ngày đêm tụ tập về Chùa Xá Lợi để cầu nguyện và canh phòng chính quyền Diệm cướp mất thi hài của Ngài. Đến ngày 20 tháng 6 năm 1963. Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo và nhiều Tăng, Ni, Phật tử đưa nhục thân Ngài đi hỏa táng tại An Dưỡng địa Phú Lâm.
Său 24 tiếng đồng hồ đốt trong lò với sức nóng 4000o C, Kim quan và nhục thân Ngài đã biến thành tro bụi, nhưng một kỳ tích ngoài tửơng tượng của mọi người, đó là quả tim của Ngài vẫn còn nguyên vẹn, lúc đầu ở trạng thái mềm và său dần dần cứng như sắt. Đúng như tâm nguyện của Ngài trước Tam Bảo khi phát nguyện tự thiêu “Xin thân này làm đước cảnh tỉnh chế độ Ngô Đình Diệm và xin cho trái tim này được tồn tại mãi”.
Thượng Tọa Thích Thông Bửu Trụ Trì Chùa Quan Thế Âm là nơi Hòa Thượng Thích Quảng Đức trú sứ, và Thầy Thông Bữu cũng là trưởng tử của HT Thích Quảng Đức đả nói chuyện lại rằng : …. . .Său đó Tăng, Ni đã đem hài cốt và Trái Tim Bất Diệt của HT về Chùa Xá Lợi….. .Khi biết được trái tim không cháy, chính quyền Ngô Đình Diệm luôn gây sức ép căng thảng với Phật Giáo lúc bấy giờ đểu nhằm mục đích chiếm đoạt lại hoặc phá hủy “Trái Tim Bất Diệt “ này. Ủy ban Liên Phái Phật Giáo biết được ý đồ đó đã họp và quyết định thay thế trái tim thật thành trái tim giả.
Ngày 28 tháng 6 năm 1963, Chính quyền Diệm mở một cuộc tấn công và đàn áp vào chùa Xá Lợi để chiếm đoạt trái tim. Họ cũng lầy được trái tim, nhưng trái tim đó là trái tim giả, còn trái tim thật đã được niêm phong cất vào tủ sắt và bí mật cất vào một ngân hàng lưu giữ.
CẢM NGHĨ VÀ KẾT LUẬN.
Hôm nay nhân kỷ niệm 42 năm về sụ hy sinh cao cả và tuyệt vời của Bô Tát Thích Quang Đức, với tư cách là một phật tử, đã trải qua ba thời kỳ chinh chiến tai ï quê nhà đó là thời Nhật, thời Pháp và thời Mỹ biết bao thăng trầm, với tuổi đời 77 (song thất). Theo tôi đất nước thời chiến có những nhu cần đạo đức, văn hóa thời chiến. Đất nước thời bình có những nhu cầu đạo đức, văn hóa thời bình. Tâm nguyện chung của những người phật tử trong nước cũng như hải ngoại. Trong thời bình là đào tạo Tăng tài, trẻ trung hóa nhận sự, lãnh đạo xã hội, hiện đại hóa phương thức hoằng pháp và quản trị Phật sự, bảo tồn di sản Phật giáo. Tương lai của Phật Giáo său này còn tồn tại và phát triển là nhờ vào các vị Tăng Tài trẻ tuổi như Thầy Tuệ Sĩ, tục danh là Phạm Văn Thương, Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Thầy Thích Nhật Từ, Thầy Thích Nguyên Tạng. Thầy Thích Tâm Thiện .. .
Người Phật tử Việt Nam bất cứ sống ở đâu dù trong nước hay hải ngoại phải cố gắng vươn lên khỏi những vướng mác của hội chứng, hòa nhi bất đồng, đồng nhi bất hòa, hãy vượt qua khỏi những định chế, hình thức để hòa nhập với ước vọng và quyết tâm củng cố tự lực, tự cường và tự tin. Nếu cứ sa lầy vào những bận tâm chấp tánh, chấp tướng, tham danh, tham lợi, thì Phật Giáo sẽ lệ thuộc vào quyền lực thế tục. Phật giáo càng đi xa con đường phục vụ đạo pháp. Giáo chủ của Phật Giáo là kẻ đã từ bỏ quyền lực thế tục đương nhiên có sãn trong tay để chứng đắc quyên lực tâm linh và cũng không cầu mong quyền lực thế tục thị thực cho quyền lực tâm linh đó. Đó là bài học Phật tử đã rút tỉa được qua kinh nghiệm đắng cay của tình trạng tiến thối lưỡng nan “Ấn Quang – Quốc Tự”
“Quốc Tự – Ấn Quang” trước năm 1975 và “Phật Giáo Quốc Doanh” – Phật Giáo Quốc Gia –Phật Giáo Thống Nhất”. Hôm nay nhân kỷ niệm năm thứ 42 ngày Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu, con kính cần cầu xin quí Ngài, quí chư Tăng, Ni hãy thực thi lục hòa của Đức Thế Tôn, để cùng nhău xây dựng và bảo vệ đạo pháp và dân tộc.
Ở hải ngoại, đặc biệt là tại Mỹ nơi tôi ở hiện nay có khoảng hơn 300 ngàn người Việt cư trú đa số là Phật giáo, quí chư Tăng, Ni cũng khoảng mấy trăm vị, lớn nhỏ khoảng trên 30 ngôi chùa và tự viện. Thế mà chỉ có một lần tổ chức tại chùa Phật giáo Việt Nam ở Orange County do TT Thích Pháp Châu làm trưởng ban tổ chức và dưới sự chứng minh của HT Thích Mẫn Giác với gần 2 chục vị Tăng, Ni và trên 500 đồng bào phật tử tham dự. Đó là ngày 20 tháng 6 năm 1999. Ban tổ chức chúng tôi lấy tên là “LỄ TƯỞNG NIỆM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VÀ CÁC VỊ TIỀN BỐI HỮU CÔNG”. Giáo Sư Trần văn Chi đã đọc bài diền văn khai mạc, tiếp theo là các bài tham luận của các vị khoa bảng, trí thức và nhân sĩ Phật Giáo. Gồm có Thạc sĩ Nguyễn Cao Hách, GS Phạm Nam Sách, GS Nguyễn Khắc Hoạch cựu khoa trưởng đại học văn khoa Saigon, BS Nguyễn Tường Bách, BS Tôn Thất Niệm, nhân sĩ Phật giáo Trần Văn Kha v.v.
Său buổi lễ Cư Sĩ Nguyễn Đức Can đã thay mặt ban tổ chức cám ơn qui Chư Tôn Đức Tăng, Ni và quan khách cùng quí Phật tử và mời quí vị hiện diện xuống tầng dưới xem khu triển lãm do các họa sĩ, Nguyễn Đồng, Nguyễn Thị Hơp, Khánh Trường, Nguyên Khai, Nguyễn Văn Trung, Lương văn Tỷ trưng bày. . .và thọ trai. Tôi đã viết bài phóng sự về lễ tưởng niệm Bồ Tát Thích Quảng Đức có phổ biến trên các báo chí, Internet và có in trong cuốn sách “Trở Về Cội Nguồn” phần phụ lục, do nhà Văn Nghệ phát hành năm 2000, nếu muốn biết đầy đủ hơn xin mở trang nhà trong website : www.thuvienhoasen.org bấm vào chữ Index (tác giả và dịch giả) ra họ tên của tôi, bấm tiếp vào chữ Nguyễn Đức Can sẽ ra các tác phẩm và bài viết của tôi.
Trên đây tôi chỉ sơ lược qua một số lịch sử diễn tiến trong cuộc tranh đấu của Phật Giáo đòi được bình đảng truyền đạo như Thiên Chúa Giáo mà đỉnh cao là sự tự thiêu của Bồ Tát Thích Quảng Đức với trái tim bất diệt, trong mùa Phật Đản 1963, phật lịch 2507. Tất nhiên trong phạm vi nhỏ hẹp của một bài viết này không thể diển tả hết được, nhưng người viết cũng hy vọng đóng góp một phần nào trong lịch sử với cảm nghĩ của mình, để độc giả tùy nghi phán xét

62. Truyện pht giáo

Tiếng ho ca người bn nm cnh khiến thiếu úy Sơn Đin tnh dy. Anh chàng đang phiêu lưu trong gic mng êm đềm vi tình nhân Kim Sa bng git mình ngn ngơ trước thc tế phũ phàng. Trn đêm qua, người lính chiến, đã đưa đồng đội ra gia cánh đồng, lng l nm phc kích, để ri gn sáng mi có th dt d chp mt ngay trên bờ rung. Mt tri đỏ rc va hé dng, ta ánh nng êm du sưởi m cảnh vt, còn ướt đẫm sương đêm. Không khí tươi mát, hăng hăng mùi rơm r mc, mùi đất mi cày, và đây đó, tiếng chim ríu rít trong đám tràm hòa ln vi tiếng dế gáy dòn tan reo rt. Tiếng dế nhc nh Đin hi tưởng li thi u thơ vui nhộn, thường lang thang ra đồng, vch t lung đất cày, xăm xoi tng l n, để tìm bắt dế chi, đem v giao đấu vi chúng bn. Nghe tiếng dế gáy, Đin có thể phân biệt được âm thanh thp lè tè và ng nghệch ca đám dế mi khù kh vô dng, âm thanh thô đục ca th dế cơm to xác, ch hp dn khu v vi tiết mc dn đậu phọng lăn bt chiên dòn, và tiếng gáy dòn tan ca nhng chàng dế la, dế than hào hùng. May mắn bt được mt chú dế "chì chi", chiến đấu lỳ lm h nhiu địch thủ, Đin cưng quí như báu vt, ra công hái đọt c non, hng sương ban thưởng. Dế hèn nhát, Đin x dng phương pháp "nng" trng tr : nhét dế ăn tí thuc rê cho say hay cột tóc vào chân dế quây "mòng mòng" cho chóng mt, để kết cuc rồi, chúng sẽ ni cơn điên cung lăn x vào cn xé nhau chí chóe. Mt chút hi hn len về, Đin chép ming : "Ti chúng quá !". Thương phn dế, Đin liên tưởng đến thân phận người dân lành nước nhược tiu. Chàng chán chường t hi, dân mình đã được đàn anh quây mòng mòng hay nhét cho ăn th bã ch nghĩa hung tn nào, để bôi mặt cung quay hn thù, bn giết nhau đây. Hào khí ca người lính chiến cht tan biến, chàng rùng mình u oi bước đến b ao, kha nước ra mt. Làn sóng nhấp nhô lay động đám lá u non n mn, tht d thương. Loi giây hoang mc trên nước ny cung cp th c đen đúa vùi sâu dước lp bùn, v bùi bùi như ht mít, một thc ăn chơi đồng quê r tin. Trái u hình dáng tương t như đầu trâu cui với cp sng cong cong nhn hot, sn sùi xu xí, chẳng có nét nào tròn tra cả, thế nhưng dân quê min Nam li có câu hát ru con :

"Thươ
ng nhau trái u cũng tròn !
Ghét nhau, trái bồ
hòn cũng méo !".
Đ
in tm tm cười. Câu ca dao d thương, mc mc mà ý v thâm trm, đã phn nh trung thc tâm trạng của k đang ln ngp trong hương v tình yêu tuyt vi như chàng. Mang cặp kính tình yêu mu nhim dy cm vào thì ma lem cũng biến thành tiên n, hung tợn cũng đổi thành hin thc, thì dĩ nhiê⮠chua cay, đắng chát gì cũng có thể là mật ngt. Tht vy, vi chàng thì người tình Kim Sa bao gi cũng "tròn vo", cũng tuyệt vi, dù đó là lúc nàng nhu mì tươi vui, hay khi nàng cong cn, gin di, cay chua… Đin làm sao mà quên được v mt cau có và ging gt gng ca người đẹp đã dành cho chàng trong bui đầu tiên gặp g vào ngày l chôlchnam (1) va qua. Như thường l, hàng năm dù bn thế nào, Đin cũng c gng tìm v ngôi chùa Miên, để tham d l Tết, tc chôlchnam, theo phong tc c truyn được t chc vào mùa trăng khong tháng tư dương lch. Vì bn hành quân liên tiếp, mãi đến ngày thứ ba l Tết, gn bn gi chiu Đin mi "dù" v đến chùa Wat Ông, xã Lương Hòa, Vĩnh Bình vi b đồ tác chiến còn bê bết sình ly nơi trn mc. By giờ, đồng bào đang quây qun làm l tm cho chư tăng, dưới bóng cây xoài to. Thiện tín lần lượt long trng múc nước thơm xi ướt thân th chư tu sĩ, c chỉ thành kính như thm nguyn s tn lc h trì cúng dường tam bo, hu to đủ cơ duyên cho chư sư "gt ra thân tâm" thanh tnh. Đin hp tp đến lu nước thơm múc nước, ri bước nhanh v hướng v sãi c. Nn đất sét m ướt trơn trt, mà Đin li vi vã vô ý, nên b chi vi ngã nhào, vô tình gáo nước tm sư tt thẳng vào mt cô gái đang lù lù bước ti. Cô gái mím môi, trn trng mt nhìn Đin, khiến cho anh chàng quân nhân ngang tàn bướng bỉnh, bng s điếng người, luống cung xin li, mà chng phát nên li. Cũng may, cô nàng có l cht nh đang tham d mt l nghi tôn giáo, nên ch "nguýt" mt cái dài "thòng", ri ngoe nguẩy b đi mt nước. Ôi ! cái "háy nguýt" sc bén như mũi gươm báu cắm php vào quả tim nng nàn khao khát yêu đương ca Đin, khiến chàng đê mê, ng nghch như kẻ mt hn. Đin lng l theo sau người đẹp, gi khong cách khá xa để khi bị nghi ngờ. Cht thy Trung sĩ Kim Hên, người đàn em trong đơn v đang ba hoa vi một cô gái phía trước, Đin s b lôi kéo mt du người đẹp, nên vi ln vào đám đông để tránh mt. Ng đâu, Kim Hên va thy nàng đã ri rít gi vang :
- Chị
Sa ! Ch Sa ! Ch biến đâu mt ny gi vy !
- Cô cậ
u bên nhau thì còn thấy biết ai na ! Ch vừa tham d l tm sư, ri đi quanh ch đến gi nghe thuyết pháp !
"May thậ
t là may !", Đin thm nh. Ri chàng lng thng bước ti, gi v như k vô tình, ngây thơ ng nghch. Kim Hên li reo vang :
- Thiế
u úy ! Thiếu úy !
Đ
on Kim Hên lăn xăn nm tay Đin kéo lại, xum xoe gii thiu :
Chị
Kim Sa, ch nhà Bác và cô Lp, giáo viên…, Và đây là thiếu úy Sơn Đin.
Xoay qua Kim Sa, Kim Hên nhỏ
ging nhưng âm thanh cũng va cho mi người cùng nghe : "Người hùng đơn v mà em thường k chị nghe đó !".
Đin đỏ mt, sung sướng lên tiếng :
Nghe Kim Hên ca tụ
ng người ch xinh đẹp mãi…, gi đây…
Giờ
gp mt ri, chc người hùng hối tiếc phi không ? Người đẹp nhanh nhu cướp li.
Ơ
…, ơ, hi tiếc lm chớ ! Tiếc phn mình kém may mn, nên mãi đến gi ny mi có duyên gặp gỡ !
Kẻ
tung người hng, tán tng đẩy đưa, đôi thanh niên nam n cùng trang lứa càng hàn huyên đối đáp càng dòn dã thân mt.
Tiế
ng loa thông báo thi pháp của sư Thch Phen sp bt đầu. Kim Sa xăn xái chn mt ch gn, t chnh ngồi chè he, nhu mì chăm chú lng nghe. Đin bám sát bên cnh, cũng gi v nghe, nhưng bao nhiêu tình ý dn v nàng. Sư Thch Phen vn hot bát, k chuyn linh động, dù điu khó khăn khúc mc cũng biến thành gin d, rõ ràng, nên tuy mang tâ⭠giải đãi mà Điền vẫn theo dõi được mu chuyn đạo (2) :
"- Vua Assaka trị
vì mt vương quc thuc min Nam Thiên Trúc, vào khong hai trăm năm sau khi Phật nhp dit, là v minh quân, giao ho hòa bình vi lân bang, li hết lòng thương yêu chăm sóc thn dân, nh vy đất nước ngày càng thanh bình thịnh tr. Một hôm, vua gi trang thành k thương gia tm thường, ln ln tham d các trò vui Xuân tại ngôi chùa vùng ngoi ô, để tìm hiu dân tình. Trong khi vua đang xối nước tm chư tăng, thình lình có cô gái chen ln bước vào ri b trt chân té, tạt nguyên thùng nước vào người nhà vua. Cô gái va hong ht va thn thùng, lí nhí xin lỗi. Vua bàng hoàng nhìn cô gái, ri b ngay tiếng sét ái tình, mê man nhan sắc tuyt vi và ging nói êm du thanh tao ca nàng…".
Nghe chuyệ
n người xưa mà như nghe được nim tâm s thm kín ca mình, Đin xúc cm len lén nhìn người đẹp, và bt ng bt gp nàng cũng va trm nhìn chàng. Mắt nàng chp chp như vô tình, mà gò má đỏ bừng vô cùng xinh xn. Đin sung sướng tiếp tc lng nghe mu chuyn đạo, càng lúc càng hứng thú.
"Nhà vua tứ
c thi tuyn người đẹp, nàng Ubbari, vào cung ri tn phong hoàng hậu. Vua đặc bit sùng ái nàng, không ngó ngàng gì đến cung tn mỹ nữ ngày trước, và cũng lơ là c vic triu chính na. Đối vi vua, thì đất nước thần dân đều vô nghĩa, vì tt c tâm tư ca người bây gi hoàn toàn dành cho hoàng hậu và ch vì hoàng hu mà thôi. Hoàng hu qun quít bên vua, vòi vĩnh đủ điu, và dĩ nhiên, luôn luôn được vua cưng chiu, ngay c trường hp vì hoàng hậu, vua đã đưa ra nhng quyết định gây khổ đau cho người khác, mt vic mà trước kia vua vn tránh.
Mố
i tình vương gi đang mn nng, bng nhiên hoàng hậu Ubbari lâm bnh, ri đột ngt t trn. Vua Assaka đau kh tt cùng. Người kêu gào thm khc, lên tiếng trách Tri, trách Pht ác độc, và cũng lên án bọn y sĩ bt tài bt lc. Ri vua li điên r, không chu tin rng hoàng hu thực s chết. Người h lnh tm hương hoa xác v, tiếp tc đặt nm cnh bên long sàn, để tìm phương cu cha. Vua h lnh gii tu sĩ phi tng nim khn cu Tri Phật cho hoàng hậu sng dy; mt khác truyn lnh cho đòi các bc lương y đại tài khắp nước v hoàng cung tr bnh hoàng hu, ha chia na giang san cho bt cứ ai cu được nàng. Tuy nhiên, sau my ngày ch đợi vô vng, vua thnh n kỳ hạn bn h phi cha trị trong bảy ngày, nếu bt lc thì tt c s b h sát. Tai họa bng dưng đổ lên đầu bn y sĩ, khiến gia đình h lo s cung cung, tiếng kêu thương rn vang c nước. Gii tu sĩ cũng b ha lây. Vua trách c họ đạo hnh thp kém, nên đã không đủ đức độ khn cầu "thn linh" buông tha mng sống hoàng hu. Vua da s bt tt c tu sĩ hoàn tc, phá hy chùa chin đền miếu trong nước. Quyết định tàn ác ca nhà Vua loan truyn nhanh chóng khiến toàn dân xôn xao thán oán, nguy cơ biến lon trm trng có th bùng n bất cứ lúc nào. Các vị đại thn vi vàng hi hp triu kiến long nhan, khn trương báo cáo hiện tình đất nước, đồng thi cũng la li khuyên gii : "Tâu b h ! trên đời ny, h có sanh thì phi có t, t xưa đến nay, chưa ai thoát khi định lut vô thường đó. Bn lương y dù thc tài, cũng ch cu cha mt s trường hp nào đó, ch làm sao có th giúp cho con người sng mãi mãi hay ci t hoàn sanh được ! Hoàng hậu đã chết ri, đó là s tht không th chi b được. Vua có bun phiền, đau kh thế nào cũng không cứu vãn ni. Chi bng vua chp thun cho chôn cất hoàng hu ri nghĩ đến vic tuyn m n khác vào cung mà vơi nim cô độc…".

Càng đượ
c khuyên gii, vua càng sanh tâm gin d, cương quyết cho thi hành lệnh hành quyết y sĩ và phá hy chùa chin ngay ngày hôm sau.
Bấ
y gi, có v t sư pháp hiu B Đề Tát Đỏa đang n tu ti mt hang đá sâu thm ti đỉnh Hi Mã Lp Sơn, trong khi ta thin nhp định cht cm ng nỗi nim oán than ca người dân mà rúng động toàn thân. Người vi x dng thn thông xuất hin trước ca ng môn, công khai tuyến b có kh năng tr bnh cho hoàng hậu. Vua đang nm rũ rit trên long sàng cht được thông báo tin vui, lm cồm bò dy cung quít phóng tìm v tu sĩ già, lp bp hi han :
- Thậ
t vậy sao ? Tht vy sao ? Nhà ngươi ! Ơ Ngài ! Ngài có thể cha bnh cho hoàng hậu… hu… sng… li phi không ?
Tổ
sư đim đạm :- Dạ khi bm hoàng thượng ! đúng vy ! Bn tăng có kh năng cu sng hoàng hu, min là được hoàng thượng giúp cho mt vic !
- Việ
c khó khăn tn kém thế nào trm cũng sẵn sàng ! đánh đổi c giang san ny cho hoàng hu trm chng t nan !
- Bẩ
m hoàng thượng ! Hoàng hu lìa đời trên by ngày, nên đã đầu thai sang kiếp khác. Bn tăng ch có kh năng cu tnh hoàng hu, nếu bà chp nhn từ bỏ hin kiếp để tr v vi nhà vua ! Còn trường hp bà khăng khăng chn kiếp mi thì bần tăng đành bt lc !
- Hoàng hậ
u yêu trm chí tình dĩ nhiên tâm tâm nguyện nguyn v vi trm, hung chi, địa v hoàng hu cao sang quyn quí tột bc như thế ny thì ai mà ch ham mun !
- Dạ
! Nếu hoàng thượng tin tưởng như vy thì bn tăng xin phép đưa hoàng thượng đến gp bà trong kiếp hin tại để thuyết phc bà vy…
Thế
ri, t sư B Đề hướng dn nhà vua đến mt xó vườn cnh khu chung nga, ch Vua xem hai con b hung đang lay hoay trên đống phân ngựa, ri lên tiếng :
- Hiệ
n kiếp ca hoàng hu là con b hung cái đang nhi đầu trong bãi phân dơ dáy đó !
- Câm họ
ng ngay tên già xc láo ! Ngươi ln gan ln mt mi dám d trò trêu ct hn láo ta !
Vua giậ
n dữ hét sang, tay run run s đốc kiếm n mun phân thây nhà sư thành muôn mnh mới h d. Tuy vy, nhìn phong thái an nhiên t ti ca nhà sư, Vua bng phân vân nên chùng tay lại.
- Khả
i bm hoàng thượng ! h thn là k tu hành quyết chng dám nói li đặt điu thêu dt. Nguyên nhân là thu sinh thời, tuy hoàng hậu nhu mì ngoan ngoãn vi Vua, nhưng li đối x cc k tàn ác thâm độc với thuc h. Bn th n cung nô luôn b bà nhiếc mng là hng thúi tha hèn mn. Do đó, sau khi mng chung, nghip lc xu đã dn dt bà sanh sang kiếp côn trùng nầy !
Thấ
y vua tiếp tc lc đầu bt mãn, t sư th dài ri dn d tiếp :
- Nế
u b h vn nghi ng, thì xin nm cht cánh tay ny, để bn tăng đưa b h đi xuyên qua nếp sng côn trùng, đích thân tìm gp hoàng hu để hiu rõ nguồn cơn…
- Nhà Vua ngầ
n ng rồi nắm tay v sư già tiến bước. Va đến giáp mí vũng nước đái nga, Vua bng rùng mình ri cht thy mình biến dng thành một con b hung trng tui mang phong thái quyn quí ca bc vương gia. Vua cảm giác như mình lc vào chn thn tiên m o, phong cnh xinh tươi hu tình, hồ nước trong vt thong hương ngào ngt, khiến Vua thích chí hít ly hít để.
- Nầ
y khanh, đây có phi "hương hi thy" mà kinh sách xưa hng ca tụng chăng ?
- Thư
a b h ! nước ny chính thc là "hương mã thy", chỉ thơm tho hp dn với loi t căn tương ưng nào đó mà thôi ! Xin b h đừng quyến luyến chn ny ! Phi mau tìm gp hoàng hu để thuyết phc bà tr li trn thế !

Tổ
sư và nhà Vua, trong thân mng hai con b hung già, bì bõm li qua vùng nước thơm, ri vt v leo lên ngn đồi đất xp bát ngát hương trm quế. Sư kéo nhà Vua núp dưới gò đất, ch hang động phía trước, kh nói :
- Bệ
hạ quan sát kỹ cp v chng tr kia. Người đàn bà chính là hoàng hu kiếp trước đó
Dướ
i nhãn quan ca loài b hung, Vua mê mang ngm nhìn thân hình kiều diễm tuyt trn hin hin trước mt. Ôi ! nàng qu thc chính là hoàng hu Ubbari ngày trước, không th lm ln được ! Ôi ! tr trêu thay ! cái thân hình quyến r nng nàn đó gi li đang nm trong vòng tay k khác, li nói ân tìnhng nu ngày xưa th th bên tai Vua, gi cũng lp li cho ai kia… Bao nhiêu yêu thương, hn ghen bùng n tràn ngp, khiến Vua dm chm dy trng tr bn "gian phu dâm phụ". T sư gh Vua li, nho nh khuyên gii :
- Tên đ
ó khỏe mnh lm ! xin b h n nhn ch hn ngủ, thì mi có th t do thuyết phc hoàng hậu được.
Nhớ
đến thân hình lc sĩ ca tình địch, Vua cm thy "n lạnh" xương sng, nên dù tc bc cũng đành nm p, tiếp tc thy nghe nhng điu trái tai, gai mắt.
- Mình ơ
i ! em th trn đời yêu thương mình ! phục vụ cho mình ! mà mình có thương yêu em chút "xíu" nào không !, tiếng người đẹp õngo.
- Ơ
! thương lm !
- Mình buồ
n ng phi không ? để em gãi lưng và quạt cho mình ng nhé !
Nhìn cả
nh người đẹp tn ty chăm sóc, cưng chiều chng mà Vua đau lòng xót dạ. Cũng may, chng bao lâu, thì có tiếng ngáy vang như sm ca tên đàn ông, khiến Vua mng mng ti ti rón rén lên tiếng :
- Em Ubbari ! em Ubbari !
- Nầ
y lão già kia ! người lm ri ! Ở đây chng có ai tên đó c ! Hãy tránh ra xa, gi yên tnh để chng ta ngủ !
- Ubbari chính là tên nàng đ
ó ! Nàng nguyên là v ta…
- Ê ! thằ
ng già dch ! Ngươi ăn nói by b, ta vn hng ngươi bây gi ! Ta đẹp đẽ sang trọng như vy mà ngươi dám m ming nói ta là v ca k già khù, sói si, xu xí như ngươi sao ?
- Nàng ơ
i ! Ta tạm mang thân ny thôi, ch thc ra ta là loài người !
- Xí ! Loài ngườ
i h ! th quái vt xu xa đó có gì quí giá mà ngươi khoe khang !
- Ta là Vua của loài người, cai tr mt đất nước hùng mạnh, phn thnh và sung túc. Nàng kiếp trước là vợ ta, là bc mu nghi thiên hạ, quyn uy tt bc, được muôn người hu h… Ta thương yêu nàng khôn nguôi, nên tìm đến đây đưa nàng tr li kiếp người mà an dưỡng giàu sang phú quí…
- Hứ
! Làm gì có x s nào mà đẹp đẽ, thơm tho, sung sướng hơn x sở nầy! Làm gì có người chng nào đẹp trai, anh hùng hơn người chng ny ! Dù người nói thật, thì ta cũng chng thèm mơ mng đến người nào khác, thế gii nào khác nữa ! Thôi đi tên già dch ! đừng có mong ba chuyn hoang đường để d d gái tơ nữa ! Hãy tránh xa đi, nếu c nói dang ca ta s gi chng ta thc dy tr ti ngươi đó !
- Ubbari ơi ! ta chính thc là chng nàng ! ch có ta mi thc sự yêu nàng chí tình tha thiết mà thôi !
- Ê ! cha già nầ
y điên khùng ri ! ngươi mà lãi nhãi na thì đừng trách ta sao ra tay ác độc đó nghe !
- Xin nàng hãy tin tưở
ng ta ! theo ta tr v vi loài người thì s hiu rõ đâu là sự tht…
- Anh ơ
i ! thc dy mau lên ! có thng cha già ny nó c "thả dê" em hoài nè ! Anh trị ti nó đi !
- Cha già nầ
y ti s ri ! tao quyết vặn c my ! m bng my !, tiếng tên đàn ông gin d hét vang.
Nhìn vẻ mặ
t hung tn, thân hình vm v ca tình địch, Vua đâm ra s hãi cung cung nm tay vị sư già chy tri chết. Trong va vượt khi vũng "hương mã thy", thoát cái Vua biến tr li hình người, mình my lm lem sc nc mùi phân và nước tiu ngựa hôi hám, mà chng lưu tâm. Vua vn kinh hoàng tiếp tc chy mt mch v hu cung, rồi ngn ngơ nhìn xác chết đã hôi thúi ca hoàng hu, buông tiếng thở dài.
- Như
thế đó, tâu b h ! người ta tạo tác bao nhiêu ác nghiệp để cưng chiu xác thân ny, nhưng cui cùng thì có ai gi mãi được đâu ? Người ta phải ling b thân xác, và c tài sn, danh vng, thân quyến… để tùy theo nghip lực cun lôi mà trôi ni trong lc đạo luân hi…
Vua sự
c tnh cơn mê, quỳ lạy cm t nhà sư, thì ch còn thy bóng dáng ca người ln khut xa xa…
Thch Phen chun b mu chuyn đạo chu đáo, hi vng qua câu chuyn Phật t s nhn chân được l vô thường mà cũng thm nhun lý nghip báo, hu luôn luôn khởi tâm nim làm lành, tránh xa điu d. Thy v mt vui tươi hn hở của Đin, sư hi vng tìm được người góp ý cho thi pháp linh động hơn, nên vi cất tiếng hi han :
- Con có nhậ
n xét gì qua chuyn vua Assaka !
Đ
iu tr trêu là Đin, tuy vn thường viếng thăm chùa chin, nhưng chàng trai trẻ "yêu cung, sng vi" đó, trong lòng lúc nào cũng hng hc chuyn tình yêu nóng bỏng, còn lý vô thường vô ngã, lý nghip báo nhân duyên… thì chng mảy may nh nghĩ đến. Đang ln vn trong đầu mi tình vương gi, Đin thành tht đáp :
- Vua Assaka hay thiệ
t ! Ông dám đánh đổi na giang san để cu mng người yêu, k ra cũng đa tình đáo để !
- Đ
a tình thì có ! nhưng coi bộ hèn quá ! Chẳng dám liu mng sng chết vì tình thì cũng chng ra gì ! Kim Hên thích chí bổ túc.
- Đ
úng vy ! yêu thì phải "hùng", dám liu mng vì tình ! dẫu có chết thì cũng làm th ma "phong lưu trang nhã" !
Hai ngườ
i đẹp : Kim Sa và Lọp rng r nghe hai chàng trai tán dương thuyết si tình, trong khi sư Thạch Phen ngao ngán th dài, thương cho k di kh, đang mờ mt đắm chìm trong vòng tình ái nghiệt oan… Để tránh thi pháp khi chuyn biến thành bui mn đàm về tình ái lăng nhăng, sư Thch Phen vi ct ngang phn tho lun, ri tiu nghu tuyên bố chm dt thi pháp.
Trờ
i chiu mát m, bn tr r nhau ra ao Bà Om ngoạn cnh. Va đến nơi, hi ý cái nháy mt ám hiu ca Đin, Hên vi đưa cô giáo Lọp đi riêng v hướng rng thưa. Đin và Kim Sa, tiếp tc đi chm chm trên con đường đất li lm đấp quanh b ao. Hai người ngây ngt hàn huyên đủ mi đề tài, đề tài nàong hp dn đặc bit c, dù đó là chuyn phn son duyên dáng hay chuyện lính tráng hào hùng. Mi chân thì h dng li dưới tàng cây du, cây sao già. Hồ rng, cây to là hai ưu đim ca ao Bà Om. Loi cây tui trên hai trăm năm ny, vn ngo ngh vươn mình cao ngất rp bóng mát c vùng, mà m r to chằn cht tri lên mt đất li chu đáo biến thành th ghế ngi thiên nhiên ngộ nghĩnh d k. Hai người r nhau ngi lt lo trên mt cái r nhô cao lơ đảng ngoạn cnh h. C hai bng chú ý đến đôi le le đang tung tăng bơi ra gia h, trững gin ln hp trong vùng sen chen chúc lá xanh, đim vài đóa hoa trng lác đác. Chàng le le bng "nnh đầm" âu yếm ra lông nàng, khiến cô nàng e l gc gặc đầu…
- Đ
ôi le le ny ! hnh phúc anh nh !, Kim Sa lên tiếng.
- Tuyệ
t thật ! Ước gì chúng mình…
Đ
in đáp na chng ri bỏ lửng, vì tht ra s lng yên đó li chuyên ch tình ý miên man hơn. Tình yêu đến với h d dàng, t nhiên mà dường như cũng k diu vô cùng. Ch my gi bên nhau, mà Đin nghe nhu mình đã gp g, yêu nhau, thề tht t kiếp nào rồi.
- Đ
in ơi ! anh ha sut đời ta sng bên nhau nghen anh !
- Số
ng làm v chng ! chết cũng thành ma v chng ! Anh th chng để ai cướp đot em đâu !
* *
Kinh nghiệm xương máu t Tết nguyên đán năm Mậu Thân, lnh cm trại một trăm phn trăm nghiêm khc ban hành. Để bo v cho đồng bào vui hưởng mt ngày xuân an vui, đêm ba mươi, đơn v địa phương quân ca Đin cn thn chia nhau nm b, ng bi để đề phòng nhng hành động khng b tàn khốc có th xy ra. Tình hình nói chung có vẻ yên tnh. Ngoài nhng lot súng nổ vang dội thay cho tiếng pháp vào lúc giao tha, không có mt v đột kích nào xy ra. Trời sáng dn, không khí chiến tranh chết chóc nng n, nhường ch cho mt ngày Xuân đầy mng đẹp.
Trạ
i lính nhn nhp hn lên. Những túp lu p p của gia đình binh sĩ rng r vi cm vn th, cành mai vàng. Đám tr con thường nhựt trn tri cũng xúng xính áo qun mi. Người ta bt đầu qua li viếng thăm, long trọng chúc mng năm mi. Náo nhit nht là đám tr con, lo le phong bì đỏ đựng tin "lì xì", gm đầu quanh bàn lc bu cua cá cp, cãi vã nhau chí chóe. Đin đang loay hoay din b đồ "vía", chun b đi viếng thăm chúc Tết đơn vị trưởng, cht có người cn v hp tp vào báo cáo :
- Trình thiế
u úy ! quốc l s 4 ti ngã tư Sambour bị đấp mô ! lnh tiu khu giao cho mình phi cp thời gii ta !
Đ
in tc bc buôn tiếng chi th "… M nó!", ri đột nhiên chàng bỗng rùng mình, linh tính báo nguy mt đim hung him khó lường. Chàng bức rc nghĩ mình đã sơ h không c người nm kích ở đim đó, và lo ngi, tai họa có th đột ngt xy ra cho người dân lành ngày đầu năm nếu h bt cn vượt mô khi lính chàng chưa phá hy kp. Đin hp tp ra lnh đàn em di chuyn ngay, mà vẫn chưa yên lòng, nên li tt t bước nhanh theo.
Niề
m lo lắng của Đin vơi dn khi cnh tượng nhng chiếc xe kiên nhn đậu dài dài, tương phn với v mt nhăn nhó st rut ca gii hành khách lăn xăn qua li, hin ra trước mắt. Cht có chiếc xe lam ba bánh đầy người t đàng xa tr đến. Người tài xế thắng xe li, ngần ng giây phút, ri táo bo lái xe leo l chy sát mí mô đất hung hiểm. Đin ht hong, ct tiếng la ngăn cn nhưng ch còn kp nghe thy mt tiếng n long tri, ht tung chiếc xe lam lên cao, bi đất văng mù mt. Đin hi hả phóng nhanh đến cp cu. Chiếc xe sp by mìn gãy đôi, thì con người có lẽ khó lòng sống sót. Thm cnh máu đổ, tht rơi, tiếng kêu la khóc thét hãi hùng, đến ni nhng người lính chiến tng quen thuc cnh chết chóc nơi chiến trường vẫn lm ging bun nôn. Người tài xế cm đầu dưới ruộng, rut gan lòng thòng. Trên mặt l ly nhy thân xác người hành khách b gãy c, đứt lìa cánh tay chết tốt. My người hành khách khác may mn, thương tích đầy người nhưng tình trng có lẽ không đến ni nguy kch, đang rên r, kêu khóc thm thiết. Trong khi đó, dưới thùng xe lam lt úp, mt nn nhân còn b kt cng, chng biết mnh h như thế nào ? Toán lính t động phân chia nhau cu cp người sng sót, thu dn xác chết và gii ta mô. Đin đích thân hô hào k hiếu k tiếp tay nâng thùng xe lam hi vọng cứu mng kp thi nn nhân đang b xe đè. Nhìn bàn chân k xu s va lộ ra, Đin lin cm thy có nét gì quen thuc, gn gũi quá. Chàng mun trn tránh sự tht, di lòng, không dám suy nghĩ gì c, nhưng hình dáng Kim Sa vn lng vảng ám nh chàng. "Còn sớm quá ! chc nàng chưa ri nhà viếng thăm mình đâu !". Đin c gng t thuyết phc mình, nhưng ni s hãi cũng tràn ngp khiến chàng run rẫy c toàn thân. Đin bi ri lôi nhanh xác nn nhân ra ngoài, ri bng thất thanh ôm chm gào thét : "Tri ơi ! em Kim Sa ! Ôi sao em lại ra nông ni như thế này !". Đin ht hong kêu gi nàng tnh dy, s mũi, thăm dò nhp tim của nàng… mà chng thy tăm hơi. Đin khn cp mang nàng v bnh vin tnh cu chữa nhưng ch nhc công vô ích.
Niề
m kh đau hành h không nguôi, nhất là càng suy nghĩ, Đin li càng t trách mình là nguyên nhân để Kim Sa xut hành ngày Tết ri t nn. Đầu óc chàng căng thng như sp n tung trước nhng ý tưởng dồn dp biến hin đổi thay vùn vt. Khi chàng bng mm yếu khóc lóc thương cm, lúc mơ ước t sát theo nàng, và khi thì hùng h mưu tính vic sng chết báo thù bọn ác nhân. Dù vy, Đin cũng tươm tt tham gia vic chung s cho người yêu, với thái độ va trm tnh va lnh lùng.
Theo tụ
c l người Vit gc Miên, thân xác nàng sẽ được ha táng, nhưng gia đình nàng thương con không chn th áo quan ván tạp thông thường, mà tn lim nàng trong cái đỉnh (3) g đắc giá, đặt người chết vào theo kiu ngi chm hm, tay chân co li, đầu chúi xung, dáng điu ca mt hài nhi trong bng m.
Ba ngày sau, quan tài nàng đượ
c đưa đến nhà thiêu Pachha cnh chùa Wat Ong, để chun b l ha táng. Ông Acha (4) thay mặt thân nhân thnh sư Thch Phen ch l. "Gi phút nghiêm trng sp đến, xác nàng rồi s thành m tro tàn", Đin thm nghĩ. Cơn kh đau cùng tn bỗng bừng bng ni dy dày xéo tâm tư khiến chàng ràn ra nước mt. Đin cn chtng để đè nén khi hn thù đang mun bt thành tiếng hét nguyn ra bn sát nhân khát máu, nguyền ra cuc chiến dơ bn và nguyn ra c cuc đời phi lý vô nghĩa ny. Sư Thch Phen lng l chp tay ri ln lượt nhìn tng người, như để khuyên lơn, an i và chia x nim kh đau ca h. Trong ánh mt t bi ca sư, Đin còn cm nhn được s bình an vô b, bt ngun t giòng sui đạo pháp tươi mát.
Thch Phen bt đầu thuyết pháp và đây là ln đầu tiên trên đời Đin thc s nghe pháp. Ngày trước, Đin ngi cnh người yêu nghe sư dn d về cái chết ca hoàng hu Ubbari, mà lòng h hng coi như s sng chết chng chút liên hệ gì vi mình. Gi đây đang cơn on oi kh đau, ni tâm rung chuyển k lạ đã thúc đẩy chàng biết thành khn lng nghe, hu đón nhn diu lý thâm trm thm sâu vào tâm tư mình. Sư k câu chuyn Uraga Jãtaka (5), theo đó, c gia đình ca người chết đều ý thc rt ráo l vô thường nên đã đón nhn tin lìa đời ca thân nhân bằng thái độ đim nhiên thanh thn. Li phát biu ca bà m v cái chết ca con, nhẹ nhàng và thâm thúy, đã ban cho chàng nim an i sâu xa :
"Không ai mờ
i mc, nó đã đến !
Không ai đ
ui xô, nó vi ra đi !
Đế
n như thế nào, nó đi như thế y !
Có gì mà tôi phả
i âu su phin mun ?
Khi con tôi hoàn tấ
t đon đường nó đã tri qua !"
Thuyế
t pháp xong, sư bt đầu tng kinh siêu độ "Trây lak Khana Sotta" ba ln để nhc k sng người chết v lý vô thường, vô ngã. Sư rưới nước da lên c áo quan, ri ra hiệu cho ông Acha châm lửa.
Ngọ
n la bùng lên cao. Cha me Kim Sa khóc ngt lên và Đin cũng ràn ra nước mt. Trong mt thoáng Đin nghĩ là t đây chàng sẽ vĩnh vin mt nàng. Kh đau và hn thù li đùng đùng ni dy. Đin nghiến răng đè nén, mt căm hờn long lên. Phin não đang cht ngt dày xéo, bng Đin bt gặp ánh mt dào dt t bi ca sư Thch Phen nhìn chàng. Tình thương ca sư, phong thái an nhiên của sư ln ln thu phc chàng, xoa du cơn kh đau thù hn trong lòng. Nhờ tiếp nhn được ngun sui bình an ca sư, Đin bt đầu lng lẽ suy niệm nhng li Pht dy v cái chết, Đin lm bm : "Nàng đã đến, nàng đã hoàn tất cuc hành trình, và nàng li ra đi. Có ai sng mà không chết đâu ? Cớ sao mình lại phi đau bun ?". Đin bình tnh nhìn dàn ha, chàng hình dung lại hình dáng nàng khi liệm. Tư thế ngi như mt bào thai trong đỉnh, bng gi chàng một biu hin ca tư thế sn sàng chuyn kiếp. Thế ri, Đin cht có cm tưởng như mình đã khám phá ra ý nghĩa sâu xa ca s sng và chết. Sanh và t ch là một chui chuyn biến miên miên bt tn, nên tht ra cũng không sanh cũng không diệt, chàng chng h được mà cũng chng vĩnh vin mt nàng. Ôi t sinh như thế đó : mt ca ngõ ra vào, mt trò chơi cút bt trêu gho khách trn ai. Trên ha đài la vn phng phc đốt cháy thân xác Kim Sa, nhưng hình như Đin cm thy lòng mình nhẹ hn ra. Trong ánh la lung linh, chàng cm tưởng như t tư thế bào thai, nàng Kim Sa đã bàng hoàng sng dy. Nàng chng h chết. Nàng vn an nhiên tự ti ct tiếng ca vang bài kinh "Không đến không đi" (6), mt nhc phm mà chàng và nàng đã có ln nghe nhng anh em Thanh niên Phng S Xã Hi trình bày :
"Thân nầ
y không phi là tôi, tôi không kt vào nơi thân y.
Tôi là sự
sng thênh thang, tôi chưa bao gi tng sinh mà cũng chưa bao giờ tng diệt.
Nầ
y kia, bin rng, tri cao, muôn vàn tinh tú lao xao, tt c đều biểu hin tôi t ngun linh tâm thc.
Từ
muôn đời tôi vn t do
Tử sinh là cử
a ngõ ra vào
Tử
sinh là trò chơi cút bt.
Hãy cườ
i cùng tôi, hãy nắm tay tôi
Gặ
p li hôm nay, gặp li ngày mai,
Chúng ta sẽ
gp nhaui sui ngun
Chúng ta sẽ
gp nhau tng phút giây trên muôn ngàn no sống……"
Tháng 1.1992
Ghi chú
Chôlchnam : lễ
Vào năm mới ca người Vit gc Miên, nhm vào mùa trăng gia tháng tư dương lch.
Truyệ
n c tích Pht giáo v vua Assaka ca người Vit gc Miên không rõ phát xut t kinh sách nào. Trong quyn sách "Người Việt gc Miên" ca Lê Hương có ghi chuyn Vua Assaka và hoàng hậu Ubbari, nhưng chi tiết có vài khác bit vi chuyn tác gi nghe được.
Ngườ
i Vit gc Miên theo tục l ha táng nên c quan ca gii bình dân thường ch dùng g tp, quàng từ mt đến ba ngày thì đưa ra nhà thiêu xác (pachha). Đối vi các v sưi, hoàng thân hay những gia đình giàu sang, người ta có th chn loi c quan đặc biệt là đỉnh. C quan ny hình tr, np hình nón chc chn nên có th quàng cả năm, ri mi đưa đi thiêu.
Acha : vị
bô lão thông hiu phong tc tp quán kinh đin, thường được dân làng kính trng thnh làm ch l cúng dường, tang ma, hỉ s.
Uraga Jãtaka : Đ
ây là chuyn tin thân Đức Pht ghi li trong b Túc Sanh Truyện, ni dung tm tóm lược như sau : Gia đình người nông dân có người con bị rn cn chết. C nhà hp li ha táng người vn s, nhưng không h khóc than sầu não. V Tri Đế Thích ngc nhiên, hóa hin để hi rõ tng người nguyên nhân nầy :
Ngườ
i cha gii đáp : "Con người ri b cái v mng manh ny khi đời sng trôi qua, cũng như con rn lt da cũ b đi. Không lời ta thán nào làm động lòng đống tro tàn người quá c. Vy sao tôi phi phin mun ?"
Ngườ
i mẹ đáp : "Không ai mi mc nó đã đến. Không ai đui xô nó vi ra đi. Có gì mà tôi phải âu su phin mun, khi con tôi hoàn tt đon đường đã đi…"
Ngườ
i em gái đáp : "Dầu tôi có nhn ăn và khóc than c ngày, điu đó có đem li ích nào không ? Than ôi ! nó chỉ làm thân bng quyến thuc thêm bt hạnh…"
Ngườ
i dâu đáp : "Than khóc cái chết ca người thân yêu cũng ging như tr con khóc đòi chp ly mt trăng…"
Ngườ
i t gái đáp : "Mt l đất đã b, ai có th ráp li như cũ ? Than khóc người chết ch hoài công…"
6. Kinh Giáo hóa ngườ
i bnh (Trung A Hàm s 28, Tăng Nht A Hàm s 51, Hán tng tương đương vi Kinh Giáo Gii Cp Cô Độc, s 143. Trung A Hàm, tng Pali), ni dung ghi lại lời thuyết pháp ca Ngài Xá Li Pht cho Ông Cp Cô Độc khi v ny bị bnh nng hành h kh s. Ngài Xá Li Pht khuyên cư sĩ quán nim v mt : "Mắt này không phi là tôi, tôi không kt vào con mt ny"… Tiếp đến cư sĩ được dạy quán nim ln lượt đến tai, mũi, lưỡi, thân và ý, ri sang đến sáu đối tượng giác quan, sáu thức, sáu yếu t, năm un, và ba thi : quá kh, hin ti, vị lai. Đon Ngài Xá Li Pht ch dy rng các pháp đều do nhân duyên sanh khi và do nhân duyên mà hoại dit; nên tht ra, tự tính ca các pháp là không sanh cũng không diệt, không ti cũng không đi. Bài pháp đã được thy Nht Hnh trích dn và phổ nhc dước nhan đề "Không đến không đi"

63. Kiến Trúc Ngôi Chùa Việt Nam Ngày Nay

1.4 Kiến Trúc Ngôi Chùa Việt Nam Ngày Nay
Qua ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu thì không có một kiểu mẫu nào cho ngôi chùa Việt Nam cả. Mỗi thời đại, ngôi chùa có một số đặc điểm kiến trúc riêng. Mỗi địa phương cũng tuỳ theo những điều kiện địa lý mà có kiểu kiến trúc phù hợp. Các hệ phái Phật giáo cũng có những kiến trúc khác nhau
1.4.1 Chùa Bắc Tông
Nét chung nhất trong kiến trúc ngôi chùa đi từ ngoài vào là : cổng chùa, sân chùa, tháp, gác chuông, nhà bia, vườn hoa, ngôi chánh điện, nhà thờ tổ, sân thiên tĩnh, nhà tăng, nhà khách, nhà trai, nhà giảng, tuệ tĩnh đường, nhà bếp, khu tháp mộ…
Cổng chùa là ranh giới giữa cõi đời và cõi đạo. Cổng có 3 cửa gọi là Tam quan ( tam quán ) nghĩa là ba mối, ba chỗ quán tưởng , gồm có:
- Không quán ( quan ) : xét ra sự vật đều không có thật tánh, thật tướng, mọi pháp vốn không.
- Giả quán ( quan ) : xét rằng vạn vật, chư pháp đều biến hoá khôn lường, đều là giả tam cả.
- Trung quán ( quan ) : phải quán cho đắc lẽ trung đạo, không phải không, không phải giả. Đó là chỗ trọng yếu của đạo Phật.
Sau cổng chùa là trục chánh đạo dẫn vào sân chùa. Ơ sân trước, nhiều chùa có xây tháp thờ Phật, tháp chuông, tháp vong, nhà bia, tháp trống… Cuối sân chùa là nhà bái đường hay toà thượng điện.
Ơ miền Bắc : thường gặp kiểu chữ Đinh, Công, Tam, Nội Công Ngoại Quốc
Ơ miền Trung : đặc biệt là ở Huế, chùa thường được xây dựng kiểu chữ Môn, chữ Khẩu.
Ơ miền Nam : chùa Tứ trụ, chữ Nhị, chữ Tam
1.4.2 Chùa Nam Tông
Có hai dạng: chùa Nam Tông Việt và Nam Tông khmer. Phật giáo Nam tông phát triển chủ yếu ở miền Trung và miền Nam.
Kiến trúc chùa Nam Tông Việt thường đơn giản. Chùa có tam quan, trên đầu bốn trụ có bốn hoa sen nở.
Chùa Nam Tông Khmer chỉ có ở miền Nam. Chùa là cơ sở văn hoá, tín ngưỡng, giáo dục của cả cộng đồng nên thường đựơc xây dựng ở trung tâm của làng. Cổng chùa được xây dựng bên lề đường với nhiều kiểu, bằng gỗ hay bằng gạch, có bốn hoặc sáu cột, trên mái là ngôi tháp tứ giác có nhiều tầng hoặc ba tháp tròn ba tầng. Ngôi chánh điện là công trình kiến trúc qui mô nhất, thường xây dọc,mặt hướng Đông. Chánh điện thường được xây dựng trên hai cấp nền, cao hơn hẳn các công trình khác ở chùa. Ngôi chánh điện luôn có các cấp mái, mỗi cấp mái chia làm ba lớp. Hai mái trên cùng hợp thành một góc 600 ở hai đầu hồi.
1.4.3 Tinh xá Phật giáo Khất Sĩ
Hệ phái Khất sĩ do tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập từ năm 1944. hiện nay, hệ phái có hơn 2000 tăng ni xuất gia tu học tại 400 ngôi tịnh xá, tịnh thất ở các tỉnh miền Trung và miền Nam. Ngôi chùa của hệ phái được tổ sư Minh Đăng Quang gọi là tịnh xá, tức là nơi trú xứ an tịnh, trong sạch.
Danh hiệu của ngôi tịnh xá đều có chữ ngọc đứng trước. Y của vị tổ sư muốn khuyên dạy đệ tử luôn tinh tấn tu học để có được phẩm chất quý như ngọc, hiển lộ được ngọc trong tâm mình.
Tam quan các ngôi tịnh xá thường được xây dựng đơn giản . thường trên đỉnh tam quan có ngọn đèn Chơn lý thắp sáng ( ý pháp tám vạn bốn ngàn pháp môn của chư Phật ).
Qua tam quan, sân trước tịnh xá thường tôn trí tượng Bồ tát Quán Thế Am. Ngôi chánh điện được xây kiểu bát giác , chính giữa có tháp tam cấp tôn thờ bảo tượng đức Phật Thích Ca.
1.5 Du lịch:
Hiện nay trong cả nước có đến cả hàng ngàn ngôi chùa, nhằm phục vụ cho mục đích tín ngưỡng của người dân Việt Nam. những tuour du lịch hành hương cũng rất được các công ty du lịch quan tâm. nhưng ngôi chùa nổi tiếng ở Việt Nam như: chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Mía, chùa Đậu, chùa Dâu, chùa Diên Hựu, chùa một cột, …
1.5.1 Chùa Dâu (Hà Bắc)
.
Đây là ngôi chùa đầu tiên của Việt Nam được khởi dựng vào đầu thế kỷ thứ III. Từ những thế kỷ đầu Công nguyên, vùng Dâu đã là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng trong và ngoài nước. Chùa còn có tên là Thiền Định, Duyên Ứng, Pháp Vân.
Vào đời Tuỳ, thế kỷ VI, VII, chùa là chốn tu trì và là đạo tràng thuyết pháp, nơi truyền bá Phật giáo quan trọng của các danh tăng Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Pháp Hiền, Quan Duyên... Vào thời này, Lưu Phương theo lệnh Tuỳ Văn Đế dựng tháp để bảo tàng xá-lợi. Tháp Hoà Phong ở sân chùa, trước có 9 tầng, sau đổ mất. Năm 1738, tháp được xây lại 3 tầng.
Vào các năm 1073, 1169, 1434, 1448, các vua Lý Nhân Tông, Lý Anh Tông, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông đã tổ chức cầu đảo tại chùa, hoặc đến chùa rước tượng về chủa Bảo Thiên ở Hà Nội để cầu đảo.
Ông Mạc Đĩnh Chi là người đứng ra hưng công xây dựng lại chùa với quy mô to lớn vào thế kỷ XIV. Chùa đã được trùng tu nhiều lần.
1.5.2 Chùa Côn Sơn ( Hải Hưng)
Toạ lạc ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, trong khu vực Côn Sơn nổi tiếng với những núi non, chùa tháp, rừng thông, khe suối... và những di tích gắn liền cuộc đời nhiều danh nhân trong lịch sử. Côn Sơn còn là một trung tâm Phật giáo lớn ở nước ta. Chùa Côn Sơn, tên chữ là Tư Phúc Tự dựng ở chân núi phía Nam, Chùa có từ thời Trần. Vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã từng đến đến thăm chùa. Chùa được trùng tu mở rộng từ đời Lê, tương truyền có tới 83 gian nguy nga đồ sộ. Ngày nay chỉ còn là ngôi chùa nhỏ, còn gọi là chùa Hun.
Chùa có nhiều pho tượng cổ. Phía sau chùa là khu tháp mộ, nổi bật là: ''Đăng Minh Bảo Tháp'' cao trên 5m đặt xá-lợi và tượng của Huyền Quang tôn giả (1254 - 1334).
Phía trước chùa có dùng 4 nhà bia. Một tấm bia có 3 chữ lớn ''Thanh Hư Động'' bút tích của Trần Nghệ Tông (1322 - 1395) được khắc trên phiến đá lớn đặt trên thung lũng rùa. Nhà bia cũ bên trái có tấm bia ghi bài minh có tựa đề là: ''Côn Sơn Tư Phúc Thiền Tự Bi'' hình trụ 6 mặt, nóc bia tạc kiểu long đình, dựng năm Hoằng Định thứ 8 (1608) đời vua Lê Kim Tông, nội dung ghi lại việc trùng tu chùa.
1.5.3 Chùa Keo (Thái Bình)

Toạ lạc ở thôn Dũng Nhuệ, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, Thái Bình: Chùa có tên chữ là: Trần Quang Tự, dựng trên một khu đất rộng 20 hecta vào năm 1608. Chùa nguyên dựng bên bờ sông Nhĩ Hà nên bị nước xói lở dần. Quận công Nguyễn Quyên đã dâng đất cúng vườn để dựng lại chùa. Ngôi chùa hiện nay được trùng kiến vào năm 1930. Chùa còn lưu giữ được nhiều di vật, đồ thờ quý giá: Đại hồng chung đúc từ đời Lê, đôi lọ sứ Bát Tràng, bàn hương án...
Gác chuông của chùa là một kỳ công về mặt nghệ thuật kiến trúc. Gác gồm 3 tầng, cao 11,50m, mỗi tầng treo một quả đại hồng chung. Gác chuông trong như đoá sen mới nở vươn lên bên những thân cau cao vút.
Hàng năm, chùa mở hội vào ngày rằm tháng 9 âm lịch.
1.5.4 Chùa Trấn Quốc (Hà Nội)

Toạ lạc ở đường Thanh Niên, quận Ba Đình.
Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất nước ta, tương truyền có từ thời Lý Nam Đế (544 - 548), lúc ấy có tên là Khai Quốc Tự; đến đời Lê Thánh Tông (1440 - 1442), đổi là chùa An Quốc. Đến đời Lê Kính Tông (1600 - 1618), chùa được dời vào hòn đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây, tức địa điểm hiện nay. Đời Lê Hy Tông (1680 - 1705), đổi tên là chùa Trấn Quốc.
Chùa còn giữ được 14 tấm bia, đáng kể là tấm bia của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính dựng năm 1639 và tấm bia của Tiến sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1815.
Chùa có nhiều tượng đẹp, đáng chú ý là pho tượng đức Phật Thích-ca nhập Niết bàn bằng gỗ thếp vàng.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần.
1.5.5 Chùa Láng (Hà Nội)
Toạ lạc ở làng Yên Lãng (tên nôm là Láng), thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 6km về phía Tây, chùa có tên chữ là Chiêu Thiền Tự, được dựng từ đời Lý Anh Tông (1138 - 1175), đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc hiện nay là do lần trùng tu vào giữa thế kỷ XIX.
Trong chùa, ngoài các pho tượng phật, có đặt thờ tượng vua Lý Thần Tông và tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Chùa là một danh lam thắng cảnh của thủ đô.
1.5.6 Chùa Quán Sứ (Hà Nội)
Toạ lạc ở số 73 phố Quán Sứ, quận Hoàn Kiếm, Xưa thuộc địa phận thôn An Tệp, huyện Thọ Xương, Thăng Long.
Sách: ''Đại Nam Nhất Thống Chí'' có ghi về chùa: ''Về đời nhà Lê (1428 - 1788), các nước Chiêm Thành, Vạn Tượng. Ai Lao thường cắt sứ giả sang cống nước ta. Nhà vua dựng một ngôi chùa cho sứ giả vào ở (vì những nước kể trên rất sùng đạo Phật) và đặt tên chùa là Quán Sứ để phân biệt với các chùa khác...''.
Chùa đã trải qua bao thay đổi. Tới năm 1934, Tổng hội phật giáo Bắc Kỳ ra đời, đặt trụ sở ở chùa. Chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của 2 kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do tổ Vĩnh Nghiêm duyệt vào năm 1941.
Điện phật chùa được bài trí trang nghiêm. Các pho tượng đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy.
Lá cờ Phật giáo thế giới lần đầu tiên được treo tại Việt Nam ở chùa Quán Sứ nhân ngày lễ Phật đàn năm 1951, Phật lịch 2495.
Chùa nay là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trường cao cấp Phật học Việt Nam (cơ sở 1).
1.5.7 Chùa Liên Phái (Hà Nội)
Toạ lạc ở phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng. Theo tài liệu của Sở Văn hoá Thông tin Hà Nôi, chùa thuộc phái Lâm Tế do vị Lâm Giác Thượng Sĩ sáng lập từ năm Bính Ngọ, năm Bảo Thái thứ 7, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1726).
Lâm Giác Thượng Sĩ tên là Trịnh Thập, con trai của Tân Quang Vương, là cháu nội của chúa Trịnh Căn, cưới con gái thứ tư vua Lê Hy Tông. Ông đã sai đào ở gò cao sau nhà để xây bể cạn thì thấy trong lòng đất có cái ngó sen. Phò mã cho mình có duyên với đạo Phật nên đi tu, trở thành vị tổ đầu tiên của chùa, lúc đó gọi là chùa Liên Tông. Đến thời Tự Đức, chùa đổi tên thành Liên Phái để tránh phạm huý.
Tháp Diệu Quang ở bên sau cổng chùa, hình lục lăng cao 10 tầng, xây vào khoảng thế kỷ XIX, trong đó đặt hài cốt tổ Diệu Quang cùng 5 vị sư khác.
1.5.8 Chùa Đậu (Hà Tây)
Toạ lạc ở thông Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín.
Chùa có tên chữ là Thành Đạo Tự, thờ nữ thần Pháp Vũ nên còn gọi là chùa Pháp Vũ, tương truyền có từ đầu công nguyên cùng thời với chùa Dâu (Hà Bắc). Nhưng theo văn bia ở chùa thì được dựng từ thời Lý. Các triều đại kế tiếp đều có trùng tu, nhất là lần trung tu vào năm Dương Hoà thứ 1 (1635) đời Lê Thần Tông do bà Ngô Thị Ngọc Quyên đứng ra làm hội chủ hưng công.
Chùa dựng theo kiểu: ''Nội Công ngoại quốc''. Tam quan chùa đồng thời là gác chuông, bên trong treo quả đại hồng chung đúc năm Canh Thịnh thứ 9 (1801) đời Tây Sơn. Chùa còn lưu lại nhiều di vật và đồ thờ có giá trị như đôi rồng đá (dáng dấp đời Trần), gạch (đời Mạc), sách đồng (đời Lê), khánh chuông...
Tương truyền 2 vị Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường là người thôn Gia Phúc, sống vào đầu và giữa thế kỷ XVII, đã kế tiếp nhau trụ trì Chùa Đậu. Trước lúc viên tịch, cả 2 vị đều cho biết nhục thân sẽ không bị hư thối. Quả đúng như thế, nhưng lâu về sau, người ta gia thêm vào nhục thân một số kỹ thuật để hạn chế sức phá huỷ của thời gian.
Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh ngôi theo tư thế nhập Thiền, mình gập hẳn, đầu hơi cúi về phía trước. Sau năm 1931, ở đầu có một vết nứt 2mm đã thấy bên trong cùng là xương sọ, tiếp đến khoảng không, rồi lớp bồi dày từ 2 đến 4mm. Chất bồi là đất gò mối mịn trộn sơn sống và mùn cưa giã nhỏ. Sau đó là một lớp sơn màu cánh gián, ngoài cùng là một lượt quang dầu.
Toàn bộ pho tượng hiện nay chỉ còn nặng 7kg, cao 57 cm.
Tượng Thiền sư Vũ Khắc Trường. Theo lời truyền thì Thiền Sư đã khắc tấm bia năm Dương Hoà thứ 5, là người thừa kế thiền sư Vũ Khắc Minh. Tượng được quét sơn trắng, môi tô son, mắt và lông mày được tô vẽ.
Đây là phương pháp giữ xác độc đáo ở Việt Nam, đang còn là điều bí ẩn với các nhà khoa học.
1.5.9 Chùa Trăm Gian (Hà Tây)
Toạ lạc ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, trên một quả đồi cao khoảng 50m, xung quanh có nhiều cây cổ thụ. Chùa có tên chữ là Quảng Nghiêm Tử, được lập từ thời Lý Cao Tông, niên hiệu Trịnh Phù thứ 10 (1185).
Đến đời Trần có Hoà thượng Bình An, quê ở Bối Khê, tu ở đây được người đời gọi là đức Thánh Bối.
Chùa gọi là Trăm Gian vì có 100 gian theo cách tính 4 cột là 1 gian.
Ở sân chùa có gác chuông 2 tầng 8 mái được dựng vào năm Quý Dậu, niên hiệu Chính Hoà, đời Lê Hy Tông (1693), là một công trình có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa còn giữ được nhiều di vật, đồ tế khí và tượng quý.
Đây là ngôi chùa đẹp về mặt kiến trúc và khung cảnh thiên nhiên, nên ca dao đã có câu:

Chùa Trăm Gian (Hà Tây)
Đình So, quân Giá, chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp, chưa tày Trăm Gian
1.5.10 Chùa Mía (Hà Tây)
Toạ lạc ở làng Mía, xã Dương Lâm, huyện Ba Vì.
Chùa có tên chữ là Sùng Nghiêm Tự, được đại trùng tu vào năm Đức Long thứ 4 (1632) do bà Nguyễn Thị Dong (còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Diệu) , vợ chúa Trịnh đứng ra hưng công.
Chùa có 37 pho tượng lớn nhỏ, một nửa tạc bằng gỗ, một nửa tạc bằng gỗm, một nửa bằng đất luyện, sơn son thếp vàng. Tiêu biểu là Bát bộ Kim Cang bằng đất luyện ở toà thượng điện, là những điển hình nghệ thuật miêu tả dung mạo những con người giàu tinh thần thượng võ. Pho tượng tuyệt tác ở chùa là ''Quan Âm Tống Tử'' với đường nét chạm khắc mềm mại, sinh động. Tượng Thuyết Sơn chùa Mía cũng là pho tượng có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa còn lưu giữ rất nhiều cổ vật, như đại hồng chung đúc năm 1743, khánh đồng đúc năm 1846, bia Bà Chúa Mía dựng năm 1632...
1.5.11 Chùa Thiên Trù - Hương Sơn (Hà Tây)
Toàn cảnh chùa Hương là một khi vực rộng lớn, có đủ khe suối, núi rừng, hang động, thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, cách Hà Nội khoảng 60km.
Chùa Thiên Trù nằm ở Bến Trò, được dựng vào đời Lê Hy Tông, niên hiệu Chánh Hoà năm thứ 7 (1686). Chùa bị đổ năm 19947, nay mới được xây lại và đang tiếp tục công cuộc trùng tu
Ở chùa có tấm bia cổ dựng vào năm 1686, nói việc nhà sư Viên Quang có công sửa sang động báu Hương Tích và xây dựng ngôi chùa Ngoài. Có 2 ngọn tháp đáng chú ý là tháp Thiên Thuỷ - một khối đã nước mưa bào mòn và tháp Viên Công xây bằng gạch cổ.
Chùa Hương là một danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Việt Nam. Động Hương Tích được gọi là ''Nam Thiên Đệ Nhất Động''.
1.5.12 Chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên - Huế)
Toạ lạc trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách thành phố Huế 5km, về phía Tây, do chúa Nguyễn Hoàng tái thiết năm Tân Sửu (1601). Năm Ất Tỵ (1665), chùa Nguyễn Phúc Tân cho trùng tu chùa. Sau đó, chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc chuông và dựng bia. Năm Giáp Ngọ (1714), chúa Nguyễn Phúc Chu lại tiếp tục cho sửa sang chùa. Đến năm 1815 và năm 1831, vua Gia Long và vua Minh Mạng cho trùng tu chùa sau thời gian bị hư hỏng. Năm 1844, vua Thiệu Trị cho dựng tháp Phước Duyên. Năm 1907, vua Thành Thái cho trùng tu chùa sau cơn bão Giáp Thìn (1904). Đến năm 1943, chùa lại bị hư hỏng, Hoà thượng trụ trì Thích Đôn Hậu đã chỉ đạo công cuộc đại trùng tu kéo dài hơn 30 năm. Hiện nay chùa vẫn tiếp tục được chỉnh trang.
Chùa Thiên Mụ là ''Quốc Tự Đệ Nhất'' nên nhiều sư được phong tước hiệu. Chùa là ngôi danh lam cổ tự bậc nhất của đất Thần Kinh.
1.5.13 Chùa Báo Quốc (Thừa thiên - Huế)
Năm 1824, vua Minh Mạng lấy lại tên chùa Báo Quốc. Năm 1858, vua Tự Đức cho trùng tu. Năm 1957, chùa được tái thiết, song vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ kính. Cổng tam quan chùa được xây năm 1808 và sửa lại năm 1873. Năm 1940, trường Cao đẳng Phật học được mở tại chùa Báo Quốc, và chùa trở thành một trung tâm đào tạo Tăng Ni cho đến ngày nay.
1.5.14 Chùa Linh Quang (Lâm Đồng)
Toạ lạc tại số 133 đường Hai Bà Trưng, thuộc khu phố 4, thành phố Đà Lạt.
Chùa do Hoà thượng Thích Nhân Thứ tạo lập vào năm 1931, sau đó được các Hoà thượng trụ trì kế tiếp trùng tu, nhất là đợt trùng tu năm 1958 và năm 1972 dưới thời Hoà thượng Minh Cảnh trụ trì.
Chùa có lối kiến trúc cổ, mái chồng cong, trên mái hình long, lân, quy, phụng được gắn bằng những mảnh sành đủ màu sắc. Chính điện thờ đức phật Thích - ca, 2 bên là Bồ-tát Quán Thế Âm và Hộ Pháp.
Chùa được xem là ngôi Tổ đình đầu tiên của thành phố Đà Lạt.
1.5.15 Chùa Giác Lâm (Tp.Hcm)

Toạ lạc ở số 118 đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình.
Chùa ở trên gò Cẩm Sơn, do Lý Thuỵ Long người xã Minh Hương quyên tiền xây dựng vào mùa xuân Giáp Tý (1744) đời chúa Thế Tông (Nguyễn Phúc Khoát). Năm Giáp Tý (1804), Hoà thượng Viên Quang đã cho xây dựng lại ngôi chùa. Đến năm Kỷ Dậu (1909), Hoà thượng Hồng Hưng và Hoà thượng Như Phòng đã cho trùng tu lại như kiến trúc hiện nay.
Chùa được xây theo hình chữ ''Tam'', gồn chánh điện, giảng đường và nhà giám trai. Hai bên chánh điện là 2 bộ Thập Bát La-Hán (bộ lớn và bộ nhỏ). Chùa có cả thảy 133 pho tượng bằng danh mộc (chủ yếu là gỗ mít nài) được sơn son thếp vàng. Tất cả những pho tượng, các bộ bao lam, bàn ghế, bài vị, các tháp mộ cổ... đều được chạm khắc cực kỳ tinh xảo.
Chùa là ngôi đình danh tiếng bậc nhất ở thành phố.
1.5.16 Chùa Xá Lợi (TP.HCM)
Toạ lạc tại số 69, đường Bà Huyện Thanh Quan, quận 3.
Chùa được khởi công xây dựng vào ngày 5 tháng 8 năm 1956 dưới sự quản đốc công trường của 2 kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hà Tố Thuận thi công theo hoạ đồ của 2 kiến trúc sư Trần Văn Đường và Đỗ Bá Vinh. Chùa được khánh thành vào các ngày 2, 3, 4 tháng 5 năm 1958.
Chánh điện ở lầu 1, dài 31m, rộng 15m, tôn tri đức Phật Thích-ca. Tượng này do Trường Mỹ nghệ Biên Hoà thực hiện năm 1958 bằng bột đá màu hồng.
Ở trên tường chánh điện có những bức tranh minh họa đời sống đực Phật Thích-ca do họa sĩ Nguyễn Văn Long thực hiện vào các năm 1959 - 1960.
Tháp chuông có 7 tầng, được khởi công xây dựng ngày 15/12/1980 và khánh thành ngày 23/12/1961.
Đại hồng chung được đem lên tháp ngày 17/10/1961 dưới sự chững minh của cố Hoà thượng Thích Tịnh Khiết.
Trước đây, chùa là nơi đặt trụ sở Hội Phật học Việt Nam. Chùa được chọn làm nơi tổ chức Đạo hội thành lập Giáo hội phật giáo Việt Nam họp từ ngày 30/12/1963 đến ngày 01/01/1964. Chùa nguyên đặt trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Văn phòng II).
Ngày 31/8/1991, chùa là nơi tổ chức lễ tiếp nhận và phát hành 2 tập đầu tiên Đại Tràng Kinh Việt Nam.
1.5.17 Chùa Vĩnh Nghiêm (Tp.Hcm)
Tọa lạc ở số 339 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3.
Chùa được xây dựng từ năm 1964 và hoàn thành năm 1971, do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng vẽ kiểu với sự cộng tác của kiến trúc sư Lê Tấn Chuyên và Cổ Văn Hậu.
Chùa có sân thượng sâu khoảng 10m, bên trái có tháp Quan Âm với 7 tầng mái, bên phải có tháp chuông xây cao trên sân thượng. Quả đại hồng chung do Giáo hội Phật giáo Nhật Bản hiến cúng. Bái điện là một toà nguy nga, bề rộng 22m, dài 35m, cao 15m. Những công trình chạm khắc gỗ ở đây có bao lam tứ linh, bao lam cửu long, các tượng La-hán... Đặc biệt là các phù điều trên các hương án chạm các ngôi chùa danh tiếng trong nước và các nước Châu Á. Các nghệ nhân Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Văn Dụ, Bá Nhâm và tập thể thợ chạm những năm 1960 đã đạt những thành tựu đáng kể về mặt điêu khắc gỗ ở đây.
Bàn thờ Phật được thiết lập rất trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích-ca, 2 bên là Bồ-tát Phổ Hiến và Bồ-tát Văn-thù.
Hiện nay, chùa đặt Trường cơ bản Phật học TP.HCM.

64. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam

1.1 Từ Đầu Tây Lịch Đến Thế Kỷ IX:
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, nhiều học giả ngày nay đều phỏng định vào khoảng đầu Tây lịch. Nước Việt lúc bấy giờ là Giao Châu, một trong những địa điểm mà các thương nhân hàng hải của An Độ đến miền Viễn Đông để mua các thứ gia vị, hương liệu, gỗ, trầm hương… Những nơi thờ từ được tạo lập để thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng của họ.
Trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu đã xuất hiện. Những ngôi chùa nổi tiếng lúc bấy giờ là : chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Dàn, chùa Tướng thờ các Nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
Đạo Phật phát triển mạnh vào các thế kỷ V, VI, VI. Mật tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông đã được người dân tiếp nhận. Cư dân nông nghiệp bấy giờ tin nhiều vào phép lạ thần thông của các vị sư như Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La… Đàm Hoằng, người Trung Quốc đến việt Nam vào thế kỷ thứ V, truyền bá Tịnh Độ Tông với pháp môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh, được lớp bình dân tin theo. Còn Khương Tăng Hội, người mang Thiền Tông vào Việt Nam trong giai đoạn đầu cũng được các vị sư và trí thức tiếp nhận, tuy nhiên Thiền vẫn còn phôi thai.
Đến năm 580, Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi đến Giao Châu, trụ trì chùa Dâu, mới mở ra Thiền phái thứ nhất ở Việt nam, truyền thừa 19 đời, đến thế kỷ XIII. Thiền phái này coi trọng việc tham thiền, tu định, hoằng hoá độ sanh, có ảnh hưởng đến dân chúng mộ đạo.
Vị Thiền sư kế tiếp có ảnh hưởng rộng lớn trong dân chúng là Pháp Hiền. Ngài tu ở chùa Chúng Thiện, dạy dỗ, giáo hoá tăng chúng có hơn 300 người. Cũng vào thế kỷ VI, chùa Khai Quốc đựơc vua Lý Nam Đế ( 541 – 547 ) cho xây dựng sau khi giành lại nền độc lập cho đất nứơc.
Năm 820, Thiền sư Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc, sang ở chùa Kiến Sơ, lập ra thiền phái thứ hai ở Việt Nam. Thiền phái Vô Ngôn Thông truyền thừa 15 đời, đến thế kỷ XIII. Tư tưởng Thiền học của Vô Ngôn Thông là thiền đến ngộ và vô đắc của phương Nam Trung Quốc. Thiền có khuynh hướng biệt truyền, chú trọng đến ngộ tâm địa. Nhưng khi truyền vào Việt Nam, thiền phái này không quá thiên về bí hiểm, trầm tư mặc tưởng, mà rất gần gũi với đời sống xã hội, hoà mình vào tinh thần tập thể.
1.2 Từ Thế Kỷ X Đến Thế Kỷ XIX
Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập và phát triển. Trong buổi đầu của nhà nước phong kiến tự chủ, đạo Phật phát triển mạnh. Đây là thời kỳ hoàng kim của Phật giáo trong lịch sử dân tộc. Những trung tâm phật giáo như Luy Lâu, Kiến sơ có ảnh hưởng toàn vùng. Nhiều chùa mới đựơc tạo lập. Một số trung âtm Phật giáo mới xuất hiện, đó là : trung tâm Đại La (từ thời Lý là Thăng Long) và trung tâm Hoa Lư trong dãy núi đá vôi Trường yên tỉnh Ninh Bình.
Ơ thời Lý (1010 – 1225), Nho giáo phát triển, còn Phật giáo thì đạt đến độ cực thịnh. Các vua Lý đều tôn sùng đạo phật. Vua Lý Thái Tổ thuộc thế hệ thứ 7 của thiền phái Vô NgônThông. Nhiều nhà sư xuất thân từ tầng lớp quý tộc, như thiền sư Viên Chiếu (999 – 1090), thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096), Ni sư Diệu Nhân (1042 – 1113) … Một số nhà sư được phong làm quốc sư như Thiền sư Viên Thông (1080 – 1151), thiền sư Minh Không 1099 – 1174).trong thời kỳ này, thiền sư Thảo Đường ở chùa Khai Quốc lập thiền phái Thảo Đường. Vua Lý Thánh Tông, Thiền sư Bát Nhã, thiền sư Không Lộ, vua Lý Anh Tông, vua Lý Cao Tông … đều thuộc thiền phái này.
Các danh lam thời Lý phần lớn do nhà vua hay các quan cho xây dựng. Vị vua nhà Lý nào cũng có xây chùa dựng tháp. Năm 1010, vừa dời đô về Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã cho dựng các chùa ở trong và ngoài kinh thành. Vua Lý Thái Tông lên ngôi năm 1031, cho dựng 150 chùa thờ Phật và quán Đạo giáo. Năm 1049 vua cho dựng chùa Diên Hựu ở Thăng Long. Vua Lý Thánh Tông cho xây chùa Sùng Khánh Báo Thiên , chùa Thiên Phúc, tháp Báo Thiên, tháp Tường Long, chùa Sùng Nghiêm Báo Đức, chùa Nhị Thiên Vương… Dươi đời Lý Nhân Tông nhiều chùa tháp lớn được xây dựng.
Các vua nhà Lý đời sau cũng cho xây dựng và trùng tu nhiều chùa tháp. Ngoài ra có rất nhiều chuà tháp được xây dựng ở nhiều địa phương trong nước như chùa Linh Xứng (Thanh Hoá) được thái uý Lý Thường Kiệt cho xây năm 1126, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Thanh Hoá) xây năm 1117, chùa Bảo Ninh Sùng Phúc (Tuyên Quang) xây năm 1107, chùa Tự Già Báo Ân (Vĩnh Phú) xây năm 1209…Bấy giờ cũng đã có Ni viện, như Ni viện Hương Hải ở Phù Đổng (ngoại thành Hà Nội ngày nay).
Vào thời Ly, mỗi làng có một hoặc vài ngôi chùa. Chùa nhiều nên tăng, ni phải đông. Các vua đã nhiều lần xuống chiếu độ dân làm tăng. Các chùa thường có nhiều ruộng đất do vua ban hoặc do giới quý tộc cúng để có điều kiện phát triển, hoằng pháp và nuôi tăng, ni. Chùa được chia làm ba loại : đại danh lam, trung danh lam, tiểu danh lam.
Đến thời Trần, Phật giáo tiếp tục phát triển rực rỡ trong sự dung hợp với Nho giáo. Các thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường vẫn phát triển cho đến lúc vua Trần Nhân Tông xuất gia năm 1299, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ, lập ra thiền phái Trúc lâm – Yên tử, thống nhất tổ chức Phật giáo trong cả nứơc.
Đặc điểm của Phật giáo đời Trần là tinh thần độc lập, tự cường, tinh thần nhập thế hành động, tinh thần phóng khoáng tự do. Quan điểm của Trúc lâm Đại Sĩ là Phật tức tâm, chẳng cần tìm cầu Phật bên ngoài.
Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông vừa có kiến thức thế học vững chắc lại có trình độ Phật học uyên thâm. Các vị đã dùng đạo Phật để phục vụ cho mục đích chính trị, đó là một nền chính trị nhân bản, lấy con người làm trung tâm.
Các ngôi chùa nổi tiếng đời Trần là chùa Phổ Minh được xây năm 1262 ở phủ Thiên Trường (ngoại thành Nam Định ngày nay), chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều (Quảng Ninh), chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang (Bắc Giang) và các chùa tháp ở Yên Tử (Quảng Ninh).
Nhiều chùa tháp đã được xây dựng trong thời thiền sư Pháp Loa đứng đầu giáo hội. Năm 1308, Trúc Lâm Đại Sĩ viên tịch, thiền sư Pháp Loa nối pháp, trụ trì ở chùa Siêu Loại. Phật giáo đã phát triển rất mạnh. Chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang được chọn làm trụ sở trung ương của gíao hội Phật giáo Trúc Lâm, lưu giữ hồ sơ tăng ni cả nước. Đến năm 1329 số tăng ni xuất gia trên 15000 vị. Các tự viện được kiểm kê ghi vào sổ bộ. Ngài đã xây dựng hai khu chùa lớn là Báo An và Quỳnh Lâm, 5 ngọn tháp va 200 tăng đường.
Thiền sư Pháp Loa đã khai sơn các thắng cảnh ở Côn Sơn và Thanh Mai Sơn. Ngài lại lo việc thiếc kế việc thờ tự trong chùa. Đựơc sự ủng hộ tích cực của giới quý tộc đương thời, ngoài việc dựng chùa, Ngài đã cho đúc hơn 1300 pho tượng đồng lớn nhỏ, đắp hơn 100 pho tượng đất. Đặc biệt là Ngài cho đúc pho tượng Phật Di Lặc lớn ở chùa Quỳnh Lâm năm 1327. Pháp Loa còn cho mở các hội giảng kinh, ấn loát các tài liệu Phật giáo, nhất là việc tiếp tục in kinh Đại Tạng vào năm 1311. Ngài là vị tổ sư thứ hai trong Trúc Lâm Tam Tổ.
Nối tiếp thiền sư Pháp Loa là thiền sư Huyền Quang. Ông đã làm quan 30 năm (1275 – 1305) rồi mới xuất gia, trụ trì chùa Vân yên (núi Yên Tử quảng Ninh) sau về trụ trì chùa Côn Sơn (Hải Dương). Ngài là vị tổ sư thứ ba trong Trúc Lâm Tam Tổ.
Kể từ vua Trần Anh Tông về sau, Phật giáo bị pha lẫn phần nào Đạo giáo. Nho giáo tạo được nhiều thế lực. Năm 1381 đời vua Phế Đế, triều đình sắc thiền sư Đại Nam thống suất tăng chúng trong nước đi đánh giặc Chiêm. Đến cuối thế kỷ XIV, ở thời Hồ, Hố Quý Ly bắt các tăng sĩ dưới 40 tuổi phải hoàn tục, Phật giáo bước vào giai đoạn suy yếu.
1.3 Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
Sau khi nghĩa quân Lê Lợi thắng quân Minh, triều Lê Sơ (1428 – 1527) được thiết lập. Phật giáo ở thời kỳ này không còn khởi sắc như trước nữa. Một phần do thiết chế và quy định thi cử chặt chẽ của triều đình, thêm vào đó, chùa chiền bị hư hỏng nhiều qua chiến tranh.
Tình hình này kéo dài một thời gian. Đến khi xảy ra cuộc chiến tranh Lê – Mạc rồi phân tranh Trịnh – Nguyễn, các chúa tỏ ra hâm mộ đạo Phật, Phật giáo có cơ phục hưng. Ngoài Thiền phái Trúc lâm, có thêm mấy phái thiền và thiền sư danh tiếng.
Ơ đàng ngoài: chúa Trịnh đã cho tu bổ nhiều ngôi chùa và tạo lập nhiều chùa mới với quy mô lớn. Năm 1648, chúa Trịnh Tráng lập chùa Phúc Long ở làng Lãng Ngâm, năm 1727 chúa Trịnh Cương lập chùa Thiền Tây ở làng Sơn Đình, năm 1730 chúa Trịnh Giang trùng tu chùa Quỳnh Lâm, chùa Sùng Nghiêm. Phật giáo thời kỳ này còn được phát triển qua sự du nhập và truyền bá của các phái thiền Lâm Tế và Tào Động từ Trung Quốc cùng phái Thiền Liên Tôn ở Việt Nam.
Năm 1630, thiền sư Chuyết Chuyết (1590 – 1644) cùng đệ tử dùng thuyền qua Việt Nam, đến Chân Lạp rồi Chiêm Thành. Sau Ngài ra đàng ngoài, hoằng hoá tại chùa Thiên Trượng (Nghệ An) và chùa Trạch Lâm (Thanh Hoá). Năm 1633, Thiền sư ra ở chùa Khán Sơn (Thăng Long) rồi về chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Ngài được chúa Trịnh Tráng hâm mộ. Thiền sư có hai đệ tử xuất sắc là Minh Hành (người Hoa) và Minh Lương (người Việt). Đệ tử của thềin sư Minh Lương là thiền sư Chân Nguyên (1647 – 1726) truyền xuống Như Trừng – Lân Giác tức Vương công Trịnh Thập. Thiền sư Như Trừng – Lân Giác là khai tổ chi phái thiền Liên tôn ở chùa Liên Phái (Hà Nội).
Thiền sư Thuỷ Nguyệt (1634 – 1704) người Thái Bình đến Trung Quốc cầu đạo Thiền sư Nhất Cú – Tri Giáo và du nhập Thiền phái Tào Động vào Việt Nam năm 1667. chùa Hoè Nhai (Hà Nội) là ngôi tổ đình của thiền phái này.
Ơ thế kỷ XVIII, có hai ngôi chùa đặc sắc về kiến trúc và điêu khắc là chùa Kim Liên (Hà Nội) và chùa Tây Phương (Hà Tây). Công việc xây dựng và trùng tu chùa vẫn được các chúa Trịnh quan tâm. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc xây dựng này có bị dừng lại do phong trào nông dân nổi dậy lan rộng khắp nơi.
Ơ Đàng Trong, ngay từ thế kỷ XIII, XIV đã có nhiều ngôi chùa Khmer trên đất Nam Bộ hiện nay, như các chùa Samrông Ek, chùa Ông Mek ở Trà Vinh, chùa Vũng Liêm ở Vĩnh Long…
Chămpa đã có thời chịu ảnh hưởng phật giáo. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết một tự viện và tượng phật bằng đồng ở Đồng Dương thế kỷ IX, X nhưng Phật giáo không duy trì lâu ở đây.
Xứ Đàng Trong: từ khi chúa nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá. Trong hơn 200 năm các chúa Nguyễn hết lòng sùng mộ đạo Phật. Nhiều chùa chiền đã được xây dựng ở vùng đất mới. Năm 1601, chúa Nguyễn Hoàng cho trùng tu chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê (Huế). Sau đó chúa cho dựng chùa Sùng Hoá (Phú vang), chùa Bảo Châu (Quảng Nam), chùa Kính Thiên (Quảng Bình).
Ơ thế kỷ XVII, nhiều vị thiền sư từ Trung Quốc đem hai thiền phái Lâm tế và Tào Động truyền vào Đàng Trong làm Phật giáo ở đây thêm khởi sắc. Hai thiền sư nổi tiếng của phái thiền Lâm Tế là Thiền Sư Nguyên Thiều (1649 – 1729) người Trung Quốc và tiền sư Liễu Quán (? – 1742) người Phú Yên, Việt Nam..
Vào cuối thế kỷ XVIII, khi triều đại Tây Sơn được thành lập, Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển.
1.4 Từ Thế Kỷ XIX Đến Năm 1920
Năm 1802 Nguyễn Phúc Anh thắng triều Tây Sơn lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Gia Long, đóng đô tạo Phú Xuân ( Huế ).
Nhìn chung, nhiều vua nhà Nguyễn không sùng đạo Phật như chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Nhiều quan lại nhà Nguyễn đã tham gia xây dựng nhiều chuà chiền. Trong dân chúng, việc xây chùa, tạc tượng, đúc chuông, khắc in kinh điển vẫn đưỡc tiếp tục. Đến thời kỳ này từ Bắc chí Nam hầu như làng nào cũng có một ngôi chùa.
Nhiều thiền sư trong thời kỳ này đã có công truyền bá rộng rãi đạo phật. Một số thiền sư được nhà vua phong Tăng cang và cấp giới đao độ điệp. Một số thiền sư khác nhờ giới đức, kiến thức giáo lý, xây dựng, tổ chức giáo phái đã có ảnh hưởng, uy tín trong tăng ni và quần chúng.
Các nhà thơ lớn xuất thân từ Nho học cũng không khỏi không chịu ảnh hương của Phật giáo. Ông Nguyễn Gia Thiều với Cung Oán Ngâm Khúc nói đến nỗi đau khổ ,vô thường trong cuộc đời. Anh hưởng bởi đức từ bi của phật giáo, Nguyễn Du đã đựa vào giáo lý nha Phật để viết Văn tế thập loại chúng sanh. Còn Nguyễn công Trứ với bài Vịnh Phật, vừa theo Nho lại vừa tin Phật. Nhà thơ Chu Mạnh Trinh đến với cảnh chùa qua bài thơ Phong cảnh Hương Sơn.
1.5 Từ Năm 1920 Đến Nay
Ơ miền Bắc, Tổng hội Phật giáo ra đời năm 1934, đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Ơ miền Trung, Hội An Nam Phật học cũng ra mắt và đặt trụ sở taị chùa Từ Đàm, xuất bản tạp chí Viên An ( 1934 ) mở Phật học đường báo Quốc và Kim Sơn, Phật học đường Trúc Lâm và Tây Thiên. Ơ Bình Định có hội phật học Bình Định. Ơ Đà Nẵng có Hội Phật học Đà Thành, ra tạp chí Tam Bảo.
Ơ miền Nam, hội Lục Hoà được thành lập từ năm 1920 để vận động phong trào chấn hưng Phật giáo. Năm 1931 Hội nghiên cứu Phật học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn, xuất bản tạp chí Từ Bi âm ( 1932 ). Năm 1934 hội phật học lưỡng Xuyên ra đời, xuất bản tạp chí Duy Tâm Phật Học và mở Phật học đường Lưỡng Xuyên.
50 năm của Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo ( 1920 – 1970 ) đã có những kết quả sâu rộng. Đội ngũ tăng, ni được huấn luyện qua nhiều trường lớp và phát triển ở các tỉnh, thành phố. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhất là hệ thống chùa phật học ở các thành thị.
Bên cạnh đó, có nhiều hệ phái, tông phái Phật giáo mới ra đời như giáo phái Khất sĩ Việt Nam, Thiên Thai giáo quán tông…một yêu cầu thống nhất Phật giáo được đặt ra. Năm 1951, giáo hội Tăng Già toàn quốc được thành lập, đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, hoà thượng Tuệ Tạng làm thượng thủ. Tổng hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập tại huế, đặt trụ sở chùa Từ Đàm, hội chủ là Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết. Đến năm 1963 một đại hội phật giáo được tổ chức tại chuà Xá Lợi thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ( ở miền Nam)
Đến tháng 11 năm 1981, một hội nghị 165 đại biểu của 9 tổ chức giáo hội, hệ phái cả nứơc đã họp tại chùa Quán Sứ thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

 

Truyện Cổ Phật Giáo

Vui Trong Đau Khổ
Một hôm, Ðức Phật cùng đệ tử vào thuyết pháp trong thành La Duyệt Kỳ, lúc ra về gặp chành thanh niên đang lùa một bầy bò vừa ăn no, chúng nhảy vọt vào húc nhau. Thấy vậy, Ðức Phật nói mấy bài tụng sau đây:
"Người đi chăn đưa roi chăn, lùa bầy bò; Cũng như thế già chết chăn nuôi và lùa kéo sinh mạng đi mà nào ai có biết!
Xưa nay, hàng trăm hàng ngàn người chứ không phải một, chứa chất của cải cho lắm, cung dưỡng thân thể cho nhiều, nhưng rồi không ai khỏi điêu tàn chết chóc.
Sống nghĩa là ngày đêm sinh mạng bị công kích, bị tước dần, cho nên sự sống bị tiêu mòn đi in như bờ đất bị nước soi lở".
Lúc về Tịnh xá, tôn giả A Nan bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vừa rồi trên đường về Ðức Phật có nói ba bài tụng nhưng chúng con không hiểu hết ý nghĩa, xin Thế Tôn từ bi chỉ giáo cho.
- A Nan! Trên đường về vừa rồi ông có thấy người lùa bầy bò không?
- Bạch có.
- Người ấy là người thợ thịt. Bò của anh ta có đến ba ngàn con, cứ ngày lùa ra ngoài thành tìm nơi cỏ tốt cho ăn rồi lựa con nào to béo thì làm thịt để bán. Giết hơn một nữa rồi mà bầy bò ấy không con nào biết số phận của mình ra sao cả. Chúng vẫn thản nhiên vui vẻ, húc nhau, nhảy vọt, kêu rống, ăn chơi... Ta cảm thương chúng nó nên mới nói mấy bài tụng vừa rồi.
Nhưng A Nan nầy! Có phải riêng chỉ người chăn bò và bầy bò ấy mới như thế đâu, nhân loại cũng có lắm người vùi mình trong hoàn cảnh tương tợ như thế. Họ chấp trước "Bản Ngã", không biết bản ngã chỉ là sự chuyển biến liên tiếp, vì thế, họ tham lam dục lạc cung dưỡng thân xác, rồi sung sướng khoái chí họ sát hại lẫn nhau, húc chết sự sống của nhau mà không biết là mình đang húc nhau với cái chết! Trong khi đó, bên cạnh sự sống, vô thường chết chóc lanh lẹ tiến đến, thế mà họ vẫn ngang nhiên không hay không biết, có khác gì bầy bò kia?
Phật dạy như thế, trong số được nghe có những người xưa nay cung dưỡng thân thế quá đáng liền tỉnh ngộ, tự cố gắng khuyến khích mình sống theo sự thật. Nhờ thế, nên không bao lâu họ đều chứng được vô sanh.

Hoa Sen Trong Người
Không có giai cấp khi trong máu người cùng đỏ.
Không có giai cấp khi trong nước mắt người cùng mặn.

Mai hôm ấy, kinh thành Xá Vệ rộn rịp trong cảnh phố phường buổi sáng. Trên các đường lớn ngựa xe tấp nập; từng đoàn người qua lại trong những bộ áo màu sặc sỡ. Các cửa hàng đông nghẹt những người mua. Tiếng guốc giày của những người quí phái liên tiếp vang lên tạo thành những âm thanh ồn ào náo nhiệt. Nhưng đi sâu vào các đường hẻm thì những cảnh sống hình như vui tươi, giàu mạnh của số đông người trong hai giai cấp Sát Ðế Lợi và Bà La Môn ấy không còn nữa, mà những cảnh bần cùng, đen tối của hai hạng người Tỳ Xá và Chiên Ðà La hiện ra quá rõ rệt: những chiếc nhà lá thấp lè tè, chật hẹp, đóng cửa từ sáng sớm... Những đứa trẻ đang **a giỡn chọc ghẹo nhau trên vệ đường. Những người tàn tật nghèo khổ lũ lượt đi từ nhà này sang nhà nọ xin nhờ sự bố thí một cách khó khăn...
Như lệ thường, sáng nay Ðức Thế Tôn vào thành để giáo hóa. Bình đẳng, không phân biệt nghèo, giàu, sang, hèn; Ngài đi hết phố này đến xóm khác.
Ni Ðề, một thanh niên thuộc giai cấp Chiên Ðà La, giai cấp thấp nhất ở Ấn Ðộ, đang gánh một gánh phân chạy lon bon trên con đường xóm, thấy Ðức Phật, chàng bối rối, sợ sệt, vội rẽ qua đường khác và tự thanh trách; chàng nghĩ rằng mình đã sinh vào nơi thấp kém mà còn phải làm những việc đê hèn như thế này nữa, thật là vô phước quá, đồng là người thì tại sao người ta lại dìm nhau trong cuộc sống? Tuy rẽ qua đường khác nhưng đôi mắt chàng vẫn đăm đăm hướng về hình ảnh trang nghiêm; sáng rực hào quang của Ðức Phật. Một sự ước ao trào dậy trong lòng chàng: Ôi! Biết bao giờ ta được trực tiếp gặp Ðức sáng suốt kia. Càng nhìn lòng chàng càng cảm mộ. Tuy chưa gặp Ðức Phật lần nào, song đức hạnh hoàn toàn của Ngài, chàng được nghe nhiều người kể lại.
Hiểu tâm niệm Ni Ðề qua những cử chỉ rụt rè và đôi mắt đăm chiêu, Ðức Phật bước nhanh về phía Ni Ðề. Thấy Phật đến, Ni Ðề hoảng hốt: Vì tự thấy mình nhớp nhúa không đáng gần Phật, phần sợ người bắt tội nên chàng nhanh chân lẩn tránh.
- Con ôi! Như Lai đến với con đây! Sao con lại tránh? Ðức Phật ở xa nói lại với một giọng trong thanh, êm ái.
Ðể đôi thùng xuống, run rẩy Ni Ðề quỳ thưa:
- Bạch Ngài con không dám... Có điều chi dạy bảo xin Ngài ban cho, xin Ngài đừng đến gần con...
Ðức Phật bước thêm và đến sát Ni Ðề. Ni Ðề cúi xuống và sắc mặt biến xanh, ra vẻ sợ sệt lắm. Nở một nụ cười chan chứa tình thương Ðức Phật nói:
- Con ơi! Không ai có quyền bắt tội con đâu, vì chính Như Lai đến với con, chứ không phải con đến với Như Lai. Hơn nữa Như Lai nay không phải là người trong giai cấp vua chúa như Thái tử Tất Ðạt Ða ngày xưa, mà là người của tất cả chúng sanh, nhất là hạng người đau khổ như con. Như Lai muốn nói với con một vài câu chuyện... Nghe qua những lời nói dịu hiền và có lý của Ðức Phật, Ni Ðề bớt lo sợ và nhìn Ðức Phật một cách kính mến, chàng thưa:
- Chẳng hay Ðức Thế Tôn vẫn đoái hoài đến người cùng khổ này sao? Và con đây cũng được Như Lai dạy bảo và được thật hành theo đạo của Như Lai nữa sao?
Một cách nghiêm nghị Ðức Phật hỏi: Ai đã làm cho các con thắc mắc những điều ấy?
- Bạch Thế Tôn: những đạo sĩ Bà La Môn thường nói chỉ có giai cấp họ và người trong dòng Sát Ðế Lợi mới có quyền thờ kính Hiền Thánh và có quyền giao thiệp với người đồng giai cấp, chứ bọn con thuộc dòng hạ tiện không có phép làm những việc của họ làm và phải trọn đời phục dịch họ...
Ni Ðề muốn nói nhiều nữa song Ðức Phật ngắt lời và hỏi:
- Vậy con không biết Như Lai ra đời để cứu khổ cho chúng sanh bằng cách phá tan những sự mê tín dị đoan, ỷ lại thần quyền và đưa chúng sanh đến cuộc sống bình đẳng và an vui sao?
Thôi, giờ đây, con có muốn sống một đời sống tươi đẹp và rộng rãi không? Và con muốn sống gần Như Lai không?
Sung sướng muốn chảy nước mắt, Ni Ðề đáp: - Ðó là điều mà con tưởng không bao giờ thực hiện được; nếu được Như Lai cứu độ thì đó là một phước lành của con vậy.
Dịu dàng Ðức Phật cầm tay Ni Ðề dắt đến bờ sông gần đấy... Tắm rửa xong, Ni Ðề theo Ðức Phật trở về Tịnh xá Kỳ Hoàn được Phật và Giáo Hội thâu nạp cho là Tỳ kheo, qua một thời gian tinh tấn tu luyện vị Tỳ kheo mới nhập đạo này đắc quả Tu Ðà Hoàn rồi lần chứng quả A La Hán.
Bấy lâu Ba Tư Nặc vương bất bình và không hiểu tại sao Ðức Phật là người của dòng hào thế Thích Ca mà lại độ đệ tử phần nhiều là những người ở hai giai cấp dưới. Nay lại được nghe Ðức Phật vừa độ cho Ni Ðề, ông càng bất bình hơn nữa. "Ðảnh lễ - ai chứ ta không đảnh lễ anh chàng Ni Ðề được...!". Ba Tư Nặc vương lẩm bẩm như vậy. Càng nghĩ càng tức giận, Ba Tư Nặc vương liền cùng với các vị cận thần đi đến Tịnh xá Kỳ Hoàn để xin Phật đừng độ cho Ni Ðề là Tỳ kheo và từ rày về sau đừng cho những người thuộc cấp hạ tiện (theo quan niệm của ông và những người trong hai giai cấp trên) xuất gia.
Vừa đến tam quan Tịnh xá Kỳ Hoàn, thấy một vị Tỳ kheo đang ngồi trên một hòn đá lớn khâu vá chiếc áo cũ, Ba Tư Nặc vương liền đến nhờ vị Tỳ kheo ấy vào bạch Phật xin cho ông yết kiến. Nhận lời, vị Tỳ kheo liền xuyên qua hòn đá và ẩn mình đâu mất, làm cho Ba Tư Nặc vương và các cận thần hoảng sợ nhưng vô cùng khâm phục!
Một lát sau, cũng từ hòn đá ấy hiện ra, vị Tỳ kheo khi nãy trả lời cho Ba Tư Nặc vượng:
- Ðại vương cứ vào, Ðức Thế Tôn đã hứa cho.
Ba Tư Nặc vương bái chào rồi đi ngay vào tịnh xá.
Ðảnh lễ Ðức Phật xong, Ba Tư Nặc vương liền hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Thầy Tỳ kheo vừa xin cho con vào yết kiến là ai và tên là gì mà có thần thông quảng đại như vậy? Thầy đã xuyên qua đá cứng một cách nhẹ nhàng, tự tại...
- Ðại vương! Ấy là Ni Ðề, người gánh phân ở thành Xá Vệ mà ta đã độ cách đây hơn một tháng, nay đã chứng quả A La Hán nên đã có những thần lực như vậy.
Thấy Ba Tư Nặc vương im lặng và ra chiều suy nghĩ, Ðức Phật ôn tồn nói thêm:
- Này Ðại vưng! Trong đất bùn nhơ nhớp nở lên những cánh sen đầy hương thơm tinh khiết. Ðại vương có thích và có ưa hái khống?
- Bạch Thế Tôn! nếu là hoa đẹp hương thơm thì không ai không quý và không muốn hái để ngắm nghía và trang hoàng cả.
- Ðại vương! Cũng vậy tuy là người ở trong các giai cấp dưới (ấy là do con người phân chia), nhưng nhờ sự trau dồi đức hạnh, rèn luyện trí tuệ mà trở thành Thánh Hiền thì người trí tuệ có nên cung kính cúng dường không?
- Bạch Thế Tôn! Ðã là Thánh Hiền thì rất đáng cho phàm phu chúng con cung kính cúng dường lắm!
- Lành thay! Ðại vương quả là người sáng suốt biết quý trọng "giá trị chân thật" của con người.
Mặt trời làm tan mây mù ra sao thì những lời của Ðức Phật cũng làm tan những ý niệm khinh rẻ chán ghét Ni Ðề và các người trong hai giai cấp dưới của Ba Tư Nặc vương thế ấy... Bắt đầu từ đó ông vô cùng kính phục tài năng và đức hạnh của Ni Ðề, vị Tỳ kheo mà ông đã gặp ở tam quan.
Ba Tư Nặc vương lại xin Phật cho thỉnh A La Hán Ni Ðề ngày mai vào nội thành để giáo hóa cho hoàng tộc và nhân dân và cũng để ông cúng dường luôn thể. Phật hứa cho, Ba Tư Nặc và các vị cận thần đảnh lễ và trở ra tam quan để trực tiếp cung thỉnh vị A La Hán thần thông tự tại khi nãy.
Ðược vị A La Hán này chấp nhận, Ba Tư Nặc vương vô cùng sung sướng. Trên đường về ông không ngớt tán thán Ðức Phật, đấng hiện thân của bình đẳng và Giáo Hội của Ngài là một đoàn thể đầy đủ tài năng và đức độ.

Vua A Dục Trở Về Với Phật Giáo
Lúc Ðức Phật còn tại thế, Ngài đã đem Chánh pháp phú chúc cho các vị quốc vương và đại thần, để sự truyền bá Phật pháp mau phổ biến.
Từ ngày Ðức Phật diệt độ, nếu quan sát trong lịch sử Phật giáo, thì thấy có hai vị quốc vương thật hết lòng lo hộ trì Phật pháp. Tại xứ Ấn Ðộ, thì có vua A Dục. Ở Trung Hoa thì có đến mười ông vua có nhiệt tâm với đạo, nhưng chỉ có ông Lương Võ Ðế hết lòng vì đạo hơn cả.
Nay xin thuật sơ lịch sử của vua A Dục:
Nguyên vua A Dục là dòng dõi của A Xà Thế vương, thân phụ của Ngài tên là Tần Ðầu Sa, thân mẫu thuộc phái Bà La Môn.
Khi Ngài còn nhỏ thì thân thể rất thô kịch xấu xa, nên vua cha chẳng thương yêu. Ðến lúc Ngài thành nhân, thì oai võng hơn người và võ nghệ xuất chúng.
Sau nhân có việc nội loạn tại thành Hưu Thị La, vua cha mới sai Ngài đi chinh phục. Khi đâu đó được bình yên, vua cha thấy Ngài có công lao nên phong làm Thái tử.

Cách ít lâu, vua Tần Ðầu Sa thăng hà, thì Ngài kế vị, song tánh rất bạo tàn vô đạo, đến nổi giết hết mất trăm người tôi đại thần và kẻ thân thuộc.
Mùa xuân năm ấy... trăm hoa đua nở, cảnh vật vui tươi, Ngài mới dẫn bọn cung nữ đi dạo khắp vườn hoa mà thưởng ngoạn. Khi ra ngắm cảnh vườn xuân, bọn cung nữ chỉ lo chơi giỡn và trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, chớ chẳng quây quần bên Ngài như lúc ở tại nội điện. Vua nổi giận, truyền bắt giết tất cả, rồi tức thì trở về cung, chứ không đi thưởng ngoạn nữa. Lúc ấy, toàn dân trong nước đều ta thán cho Ngài là một ông vua đại gian ác.
Ðã vậy mà Ngài còn lập ra một chỗ gọi là: "Ðịa ngục ở trần gian", đặt tên là vườn "Ái lạc" ngoài thì sắp đặt cực kỳ tốt đẹp, nào là ao sen non bộ, cỏ quý hoa thơm, cũng như công viên, để cho nhân dân mặc tình đến đó mà thưởng thức giải trí...
Nhưng trong, thì có non đao rừng kiếm, lò lửa vạt dầu, và đủ các món khí cụ để hành hình người một cách ghê gớm.
Hễ người nào vào trong vườn Ái lạc đó, thì ngục tốt bắt giam, rồi cứ hành hình. Còn những thế nữ ở trong cung mà cãi cọ xung đột với nhau, thì bắt đem vào cho chủ ngục phân xử. Thiệt là một cái thảm trạng thống khổ của nhân gian không kể xiết. Khi ấy có một vị Tỳ kheo, nhân đi khất thực nơi thành Hoa Thị, vì chẳng thông thuộc đường xá nên lạc vào vườn "Ái lạc", nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài thì tốt đẹp lạ lùng, còn phía trong quả là một chốn địa ngục.
Thầy Tỳ khoe hoảng kinh, toan kiếm đường trở ra, ai ngờ bị ngục tốt đón bắt lại. Thầy hết sức yêu cầu mà bọn ấy không dung thứ, nên thầy bèn khóc òa.
Chủ ngục thấy vậy liền hỏi: Thầy là người tu hành, sao mà sợ chết đến đỗi khóc như con nít vậy?
Thầy Tỳ kheo đáp:
- Tôi chẳng phải sợ chết mà khóc, vì sợ mất sự lợi ích cả một đời người của tôi, nên mới ai bi như thế?
- Sự lợi ích làm sao, Thầy bày tỏ cho tôi nghe thử?
- Số là tôi mới xuất gia, chưa chứng đặng đạo quả. Tôi nghỉ lại thân người khó đặng, Phật pháp khó gặp, nay rủi sa vào chỗ ác địa này, thế nào cũng phải hủy mạng, thì còn đâu mà tu học nữa nên tôi mới khóc, chứ tôi đâu có sợ chết.
Thấy Tỳ kheo nói rồi, mới khẩn cầu với chủ ngục xin dung thứ cho Thầy sống sót trong bảy ngày, rồi sẽ hành hình chẳng muộn.
Chủ ngục thấy người tu, thì cũng động tâm, nên y theo lời của Thầy xin mà đình lại bảy ngày mới toan hạ thủ.
Ngày đầu, thầy Tỳ kheo nhìn thấy cách hành phạt rất độc ác, nào là người phụ nữ thân hình tốt đẹp mà bị bỏ vào cối quết người thì xương tan thịt nát, xem rất ghê sợ; nào là bọn ca nhi nhan sắc tuyệt vời mà cũng bị quăng vào lò lửa, đứa thì rút tay co cổ, đứa thì hả miệng nhăn răng.
Thầy Tỳ kheo thấy cảnh tượng ấy thì sanh lòng nhàm chán, mới nhớ lời Phật dạy rằng: "Sắc lịch dịu dàng dường như bọt nhóm, dung y đẹp đẽ mà đâu còn hoài". Nhờ chỗ dẫn chứng lời của Phật dạy đó mà Thầy tỏ ngộ, dứt hết các đều tạp nhiễm, liền chứng đặng quả A La Há.
Ðến ngày thứ tám, ngục tốt bèn bắt Thầy đem bỏ vào chảo dầu, rồi chất củi mà đốt. Song khi lửa hạ và củi thành tro mà dầu trong chảo vẫn tự nhiên không nóng.
Chủ ngục thấy vậy nổi giận, đánh đập bọn ngục tốt, rồi hối đem củi cho nhiều và chụm thêm vào mãi mãi, nhưng đến khi xem lại trong chảo dầu thì thấy Thần Tỳ kheo ngồi kiết già trên hoa sen, xem bộ tự nhiên chẳng hề lay động chút nào cả. Chủ ngục hoảng kinh, lật đật đến tâu tự sự cho vua A Dục rõ.

Vua tánh nóng như lửa, khi nghe tin ấy liền tức tốc đi thẳng đến vườn Ái lạc.
Vua vào đến nơi, thì thấy Thầy Tỳ kheo hiện thân lên hư không, biên đủ 18 phép thần thông, trên mình thì nước tràn lênh láng, phía dưới thì lửa cháy rần rần, thí như một hòn núi lớn ở giữa không gian vậy.
Vua A Dục đứng nhìn sửng sốt một hồi, rồi tự nghĩ: "Mình với Thầy Tỳ kheo này cũng đồng là loài người, cớ sao Thầy lại đặng phép thần thông tự tại như thế, còn mình thì lo việc sát hại nhân dân, làm việc đại ác!".
Vua nghĩ như thế nên vội vàng quỳ xuống bạch với vị Tỳ kheo ấy rằng: "Ngửa mong Thánh giả chiếu cố đến tôi, xin hạ xuống nơi đây, tôi nguyện từ rày về sau bỏ dữ làm lành mà quy với Ngài".
Thầy Tỳ kheo đáp:
- "Hay thay! Hay thay! Nay đại vương đã tự hối mà quy đầu Tam bảo, thì sẽ đặng phước đức vô cùng và hân hạnh cho dân chúng biết bao".
Thầy Tỳ kheo nói xong, liền dùng thần lực của mình mà trở về tịnh xá.
Khi vua A Dục đã quy y theo Phật rồi, thì trong lòng hân hoan vô cùng, định sửa soạn trở về cung. Bỗng người chủ ngục đến tâu: "Khi Ðại vương lập ra cảnh "Nhân gian địa ngục" này, có ra lệnh hễ ai vào đây thì không cho ra. Tôi đã thọ mạng rồi, nên không dám cãi. Còn Ðại vương là bực thiên tử cũng phải nhất ngôn mới được".
Nghe chủ ngục nói như thế, vua A Dục mới hỏi: "Cứ theo lời của nhà ngươi nói đó, thì bây giờ nhà ngươi muốn giết ta hay sao?".
Chủ ngục đáp: "Quả như lời của Ðại Vương đó, thì mới đúng với quân lệnh".
Vua A Dục liền hỏi lại chủ ngục: "Vậy khi ban sơ tạo vườn Ái lạc này, nhà ngươi với quả nhân ai vào đây trước?".
Chủ ngục thưa: "Tâu Ðại vương! Tôi vào đây trước".
Vua nghe đáp như vậy, tức thì truyền cho ngục tốt áp lại bắt chủ ngục bỏ vào chảo dầu, đồng thời ra lệnh phóng hỏa đốt hết cả vườn Ái lạc.
Từ đấy về sau, vua bỏ hẳn các điều dữ mà làm những việc lành, và tâm tánh hết sức từ bi nên kẻ thời nhơn đồng ca tụng là Ðạt Ma A Dục Vương (ông vua hiền lành).
Sau lại nhờ đức Ưu Ba Cúc Ða (Tổ thứ tư) giáo hóa thêm, nên vua càng tín ngưỡng Phật pháp hơn nữa, chính vua đã phái 256 vị Cao tăng đi khắp trong xứ để truyền bá Phật giáo...

Con Chó Đói
Thuở Ðức Phật còn tại thế, có một ông vua rất hung ác, nghe Phật đến thuyết pháp trong nước mình, ông liền ngự giá đến chỗ Phật ở và xin Ngài kể một câu chuyện gì đã vui lại hữu ích nữa.
Ðức Phật liền kể chuyện con "Con Chó Ðói" như sau:
"Thuở xưa, có một vị quốc vương rất bạo ngược, hà khắc với dân lành, nhân dân đều oán trách. Ông Ðế Thích thấy vậy liền hiện xuống trần dắt theo một con quỷ rất dữ. Ông Ðế Thích hóa mình thành một người thợ săn, còn con quỉ thì biến thành một con chó cao lớn.
Người thợ săn dẫn con chó vào cung của vị quốc vương để yết kiến. Bỗng con chó vùng tru lên dữ dộI, làm cho lâu đài cung điện đều rung rinh... Vị quốc vương thất kinh, liền đòi người thợ săn đến trước ngai vàng mà hỏi rằng:
- "Gã kia, vì cớ gì mà con chó tru lên dữ vậy?".
Người thợ săn thưa:
- Tâu Bệ hạ, vì đói nên nó tru.
Vị quốc vương liền ra lệnh đem cơm cho chó ăn. Nhưng một điều không ngờ là đem bao nhiêu thì con chó ăn hết bấy nhiêu, tất cả thực vật trong kho đã hết sạch mà nó vẫn chưa no, nên nó càng tru lên dữ dội hơn nữa, mà ác hại thay, mỗi lần nó tru thì cung điện đền đài của quốc vương lung lay hình như muốn sụp đổ...
Vị quốc vương không biết tính thế nào, mới hỏi người thợ săn:
- Lấy cái gì cho nó ăn để nó nín?
Người thợ săn đáp:
- Tâu Bệ hạ, lấy thịt của người nó ghét cho nó ăn nó hết tru.
Quốc vương hỏi:
- Nó ghét kẻ nào?
Người thợ săn tâu:
- Nó ghét những kẻ bất công hãm hại dân nghèo. Ngày nào trong nước không có dân đói khó nữa, ngày đó nó mới nín...
Vị quốc vương liền nhớ tới những việc ác của mình làm thì hết sức hối hận, từ đó mới ăn năn chừa cải, chịu nghe những lời công bình chánh trực".
Ðức Phật kể dứt câu chuyện này thì mặt vua tái ngắt.
Ðức Phật dịu dàng dặn với nhà vua rằng: "Ngày nào bệ hạ nghe tiếng chó tru thì bệ hạ hãy nhớ đến câu chuyện ta kể. Bệ hạ có thể làm cho con chó nín được".

Công Chúa Nhật Quang
Sướng gì hơn sướng làm lành
Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu

Công chúa Nhật Quang là con thứ hai của vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ.
Công chúa rất đẹp, một vẻ đẹp thùy mị hơn hẳn các thiếu nữ đương thời ở nước Xá Vệ; Công chúa lại rất thông minh học đâu nhớ đấy. Không những công chúa sắc sảo về môn nữ công mà còn tinh thông các triết lý học thuật; đức hạnh công chúa cũng quán chúng, tuy sanh trong giai cấp vua chúa cao sang, nhưng vẫn giữ thái độ khiêm tốn nhã nhặn, nhất là đối với hạng nghèo khổ tật nguyền, công chúa thành thật yêu mến và luôn luôn tìm cách giúp đỡ. Vì thế nên công chúa được rất nhiều người kính trọng. Người nào đã hân hạnh gặp công chúa một lần, họ sẽ nhớ mãi nụ cười hiền hòa và lời nói thanh tao của công chúa. Ðối với cha mẹ, công chúa thật là người con hiếu hạnh, nàng hầu hạ vua và hoàng hậu hết sức chu đáo, và không bao giờ nói một lời hay làm một việc trái ý vua và hoàng hậu.
Ba Tư Nặc vương được một người con xứng đáng như vậy, vua rất cưng quý, có thể nói công chúa Nhật Quang là viên ngọc vô giá của vua nước Xá Vệ. Những cuộc quan sơn ngoạn thủy của vua, công chúa đều được tham dự, mỗi khi quốc sự rảnh rang, nhà vua thường đòi công chúa đến hầu chuyện, hỏi những vấn đề thắc mắc công chúa đều trả lời trôi chảy, nhà vua rất đẹp dạ.
Một buổi chiều nhà vua đang dùng trà tại vườn ngự uyển, có công chúa đứng bên cạnh, nhà vua nhìn con rồi vui miệng phán rằng: "Khắp nước Xá Vệ này không ai được hạnh phúc bằng con, đời con được như thế thật là hoàn toàn nhờ sức của cha mẹ tác thành vậy".
Công chúa Nhật Quang thành thật trả lời: "Tâu phụ vương, công ơn sanh dưỡng của Phụ hoàng và Mẫu hậu như trời bể con không hề dám quên. Nhưng đời con được hạnh phúc như thế này, con thiết tưởng cũng có ảnh hưởng của cha mẹ một phần nào, nhưng phần lớn nhờ kiếp trước con đã tu nhân tích đức nhiều vậy".
Câu nói của công chúa không ngờ đã chạm lòng tự ái của vua Ba Tư Nặc quá mạnh, vua liền đứng dậy, lặng lẽ trở vào cung.
Ðêm hôm ấy, nhà vua không hề chợp mắt, suy nghĩ mãi lời nói của công chúa, và vua rất bực tức, đứa con yêu và ngoan ngoãn của mình chưa bao giờ trái ý mình dù là một cử chỉ nhỏ nhặt, hôm nay lại xúc phạm đến lòng tự ái của mình, có thể nói là không thừa nhận một lý thuyết (nghĩa là hạnh phúc của con hoàn toàn do cha mẹ tác thành) mà ông cho là muôn đời bất biến và ai cũng phải công nhận.
Muốn bảo thủ thành kiến của mình, nên mới sáng tinh sương, Ba Tư Nặc vương liền đòi viên cận thần thân tín bảo rằng: ta cần một thanh niên trạc tuổi công chúa Nhật Quang mà hiện sống trong một cảnh nghèo hèn, cơm không có ăn, áo không đủ mặc, ngươi phải tìm cho ra một người có đủ điều kiện ấy, dẫn về đây cho ta.
Ba ngày sau, viên cận thần dẫn về một thanh niên hành khất, mặt mũi khôi ngô, nhưng trong người chỉ mặc vỏn vẹn một chiếc khố rách đến yết kiến vua Ba Tư Nặc. Vua rất mừng ban thưởng viên cận thần xong, quay lại hỏi thân thế thanh niên hành khất rồi bảo rằng: Ta thấy ngươi nghèo khổ, chưa có gia thất, nay ta đem công chúa Nhật Quang gả cho ngươi, ngươi được quyền dẫn công chúa đi đâu tùy ngươi.
Thanh niên nghèo khổ kia không biết trả lời ra sao chỉ cúi đầu vâng lệnh.
Vua lại kêu công chúa Nhật Quang đến phán rằng: hôm kia con đã nói: "Hạnh phúc của con hiện tại phần lớn là do con đã tu nhân tích đức ngày trước. Nay ta muốn thí nghiệm lời ấy, nên ta đã gả con cho một thanh niên hành khất, nếu con có phước báo thì con cũng trở nên giàu có sung sướng. Con hãy sửa soạn ngày mai lên đường với chồng con, khi nào có chiếu chỉ mới được trở về cung".
Với nét mặt đầy nghiêm nghị của Vua Ba Tư Nặc vương, công chúa không dám nói gì, chỉ yên lặng trở về hậu cung.
Sáng ngày công chúa vào lạy cha mẹ, từ biệt mọi người, rồi bình tĩnh ra đi với thanh niên hành khất.
Hoàng hậu và thần dân đều thương xót và khóc lóc, lo ngại cho số phận công chúa, nhưng ý vua đã quyết nào ai dám mở lời khuyên can!
Ra khỏi hoàng cung, công chúa hỏi thanh niên hành khất rằng: Cha mẹ chàng đâu? Nhà cửa chàng đâu? Vì sao chàng lại nghèo khổ đến thế?
Thanh niên buồn rầu đáp: "Gia đình tôi trước cũng giàu có, vì được cha mẹ cưng quý, tôi tiêu xài hoang phí, ham chơi bời với chúng bạn, có học tập nhưng không đâu đạt gì, đến khi cha mẹ qua đời, tôi bán hết ruộng đất nhà cửa, hiện nay chỉ còn một sở vườn cách đây ba trăm dặm cỏ lác mọc đầy, cho người ta mướn họ không mướn, bán họ không thèm mua, hết của cải, không nghề nghiệp không biết nghề gì nuôi thân, nên phải hành khất độ nhật. Hôm nay tôi đang lang thang giữa đường, thì gặp một vị quan của vua, ông ta hỏi cặn kẽ về gia thế tôi, rồi ông dẫn tôi yết kiến nhà vua, không biết gì sao nhà vua lại đem công chúa gã cho một kẻ nghèo hèn như tôi?".
Vẫn nét mặt ôn hòa công chúa nói với thanh niên hành khất rằng: "Dù sao từ nay chúng ta cũng đã là vợ chồng, chúng ta phải tìm phương kế làm ăn và trước hết phải tìm nơi tạm trú"
Không biết tìm chỗ nào khác, nên công chúa và thanh niên hành khất liền dẫn nhau đến sở vườn của cha mẹ thanh niên để lại - thật là một mảnh vườn hoang phế, cỏ lác um tùm sỏi đá lởm chởm. Hai người bàn định cắt cỏ đốn cây che một chiếc chòi nhỏ vừa tạm ở, những người quanh đấy có người biết công chúa Nhật Quang nên cùng nhau đến giúp đỡ công việc cho công chúa. Ðến khi đào đất để dựng cột nhà, vừa đào được vài lát đất thì gặp ngay ba cái chum lớn niêm khằn cẩn thận. Công chúa liền mở chum ra thì thấy trong ba cái chum ấy, vô số là vàng bạc châu báu, công chúa vui mừng sung sướng đem bán bớt một số châu báu rồ9 mướn ngườ9 dọn dẹp cỏ rác, trồng tỉa hoa quả, tạo lập lâu đài... Vốn sẵn tánh hiền lành lạ9 sẵn lòng yêu thương giúp đỡ mọi người, nên thợ thuyền tôi tớ rất trung thành tận tụy, không bao lâu đám vườn hoang phế kia đã biến thành một vườn hoa trăm sắc muôn màu; lâu đài trang hoàng lộng lẫy, người vô kẻ ra tấp nập không khác dinh thự của bậc đế vương.
Từ khi công chúa rời khỏi cung điện, vua Ba Tư Nặc sanh lòng hối hận đêm ngày trông nhớ, nhà vua đinh ninh rằng: Công chúa lâu nay chắc gặp nhiều khổ sở và định đón công chúa trở về cung để an hưởng cảnh đoàn viên phú quý. Nhà vua liền phái một số cận thần tìm nơi công chúa ở và dò xem đời sống của công chúa ra sao?
Sau một thời gian dò xét, các cận thần về tâu với nhà vua: "Công chúa ở cách xa cung điện nhà vua chừng ba trăm dặm và hiện đang ở trong cảnh phong lưu sung sướng giàu có ức triệu". Vua Ba Tư Nặc không tin, liền đến nơi dò xét quả đúng như lời các cận thần. Nhà vua nói với kẻ tả hữu rằng: "Trẫm thấy đời sống của vợ chồng công chúa Nhật Quang hiện tại, tuy trẫm là vua một nước, thật cũng không sung sướng bằng".
Nhưng vua cũng băn khoăn thắc mắc không biết tiền kiếp công chúa đã tu những nhân lành gì mà nay được nhiều phước báo như vậy.
Vốn nghe Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc đại giác, nên vua thân hành đến Tịnh xá nơi Phật thuyết pháp, cung kính bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Nghe danh Ngài là bậc đại giác chứng nhất thế trí, hiểu thấu việc trong ba đời, nay đệ tử có điều nghi xin Ngài chỉ dạy: "Nhật Quang công chúa thứ hai của đệ tử, không biết đời trước tạo nhân lành gì, mà ngày nay tướng mạo đẹp đẽ, thông minh xuất chúng, giàu có sang trọng... Ðệ tử đã gả công chúa cho một kẻ hành khất nghèo hèn thế mà công chúa cũng đào được vàng bạc rồi trở nên sang trọng hơn người.
Ðệ tử cứ thắc mắc mãi mong Ngài từ bi khai thị cho đệ tử rõ?"
Ðức Phật Thích Ca nở nụ cười hiền hòa muôn thuở thong thả dạy rằng: "Nghi vấn Ðại vương sẽ được tiêu tan sau khi nghe câu chuyện này:
- Nầy Ðại vương! Xưa kia khi Ðức Phật Ca Diếp ra đời, có hai vợ chồng người lái buôn giàu có, người vợ rất tôn kính Tam bảo, thường khuyến khích mọi người bỏ việc ác làm lành, quy y Tam bảo, lại hay làm việc bố thí cúng dường, nhất là đối với kẻ tàn tật, nàng hết sức thương mến và tận tâm chăm sóc. Người chồng lại có tánh bỏn sẻn, mỗi khi thấy vợ làm việc cúng dường bố thí, thì tỏ ra thái độ bất bằng, tìm cách ngăn cản.
Một hôm gặp ngày nguyên đán, người vợ thành tâm sắm sửa lễ vật để cúng dường Tam bảo và bố thí kẻ nghèo trong ba ngày, người chồng thấy vậy bực tức nói rằng: "Hãy để dành tiền của lại sắm sửa thêm nhà cửa ruộng đất, chứ làm những việc ấy thêm hao tốn, phỏng có ích gì!". Người vợ dịu dàng trả lời: "Của cải là vật vô thường ta không bỏ nó, rồi nó sẽ bỏ ta; hơn nữa những kẻ nghèo khổ hiện tại, theo trong kinh Phật dạy, đều do đời trước tham lam ích kỷ, không biết dùng tiền của làm các việc phước thiện; ngày nay đời sống của vợ chồng chúng ta tạm gọi là khá giả, chúng ta nên dùng một số tiền làm các việc phước thiện để bảo tồn hạnh phục tương lai cho chúng ta, và cũng gọi là góp một phần trong công việc nghĩa chung vậy".
Nghe mấy lời giải thích của vợ, người lái buôn mới tỉnh ngộ và cảm động, từ đó anh không ngăn cản vợ mà lại rất hăng hái trong công việc làm phước đức...
Này Ðại vương! Vợ người lái buôn xưa kia chính là công chúa Nhật Quang ngày nay, đời trước nàng thường khuyến khích mọi người bỏ ác làm lành, quy y Tam bảo, nên được quả báo thông minh xuất chúng; đời trước sốt sắng cúng dường bố thí, nên nay được quả báo sung sướng giàu sang, nhiều người mến phục; đời trước tận tâm săn sóc giúp đỡ kẻ tàn tật, ngày nay được quả báo nhan sắc đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang.
Người lái buôn xưa kia chính là chồng công chúa hiện tại, ngày trước lúc chưa tỉnh ngộ, anh ta bỏn sẻn hay ngăn cản việc làm phước thiện của vợ, nên ngày nay phải chịu đói rách một thời.
Vua Ba Tư Nặc nghe Phật kể rõ tiền kiếp của công chúa Nhật Quang, nhà vua mới tỉnh ngộ, và rất thâm cảm đạo lý nhân quả tội phước của Phật. Rồi vua cúi đầu đảnh lễ Ðức Phật ra về.
Về đến cung, công việc đầu tiên của vua là cho người đón rước vợ chồng công chúa Nhật Quang về. Gặp công chúa, vua Ba Tư Nặc khôn xiết vui mừng, vua không quên nói nhiều lời hối hận, với công chúa Nhật Quang cũng rất sung sướng được gần gũi phụng sự cha mẹ, và giúp vua cha trong việc trau dồi đạo đức, bảo quốc an dân. Thanh niên hành khất chồng công chúa, cũng được vua phong cho một chức quan cao cấp trong triền đình.

Đức Phật Với Con Voi Dữ
Thời kỳ Phật hành đạo tại thành Vương Xá, kinh đô của Vua A Xà Thế, vua A Xà Thế rất tham lam hung bạo, đã sát hại vua cha để dành ngôi báu. A Xà Thế lại hay thù ghét và manh tâm làm hại những kẻ trung lương nên thường lập vây cánh bè đảng làm hậu thuẫn.
Trong số bè cánh nhà vua lại có Ðề Bà Ðạt Ða em họ Ðức Phật. Vị này cũng sẳn lòng ganh tỵ với kẻ khác, thấy Ðức Phật được nhiều người cung kính, Ðề Bà Ðạt Ða cũng giả cách tu hành như Phật, nhưng không hề được ai cung kính, nên tức giận muốn tìm cách hại Phật. Nhưng những điều không may có bao giờ đến với những người có lòng từ bi cao cả, đấng Giác ngộ đã tu hành trong nhiều kiếp. Nhưng chứng nào tật nấy, ông liền liên kết với vua A Xà Thế cầu xin nhà vua cộng tác trong việc sát hại Phật. Nhờ sự bằng lòng của nhà vua, nên Ðề Bà Ðạt Ða đến tại sở nuôi voi năn nỉ với bọn nài: "Ta đây là bạn thân với nhà vua, các người giúp ta việc này, ta sẽ xin nhà vua cho lương cao chức lớn. - Sáng mai thầy Gotama (Ðức Phật) sẽ đi trì bình khất thực qua đây, các ngươi cứ việc thả voi hung dử Nalagiri ra để làm thịt thầy".
Sáng hôm sau, Ðức Phật cùng một số đệ tử đi vào thành Vương Xá để trì bình khất thực, trông thấy bóng Ngài, bọn nài thả voi Nalagiri ra. Dân chúng nội thành phải tán loạn, dày xéo nhau mà chạy, lo sợ cho tánh mạng của mình, kẻ leo lên cây người núp ở tường cao nhà kín. Sau khi đã tìm được chỗ ẩn núp chắc chắn, những con mắt hiếu kỳ hay lo sợ cũng cố tình mắt để nhìn cho được sự việc sắp xảy đến.
Voi thấy bóng người đàng trước, nó cong đuôi, thẳng vòi chống tai xông tới như vũ bão. Các vị đệ tử thấy cơ nguy mới bạch với Ðức Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con voi Nalagiri nó có tánh hung dữ và thù ghét loài người đã đến nơi kìa! Ðức Phật vẫn thản nhiên dạy rằng:
- Này các Tỳ kheo, các người không nên sợ hãi. Không bao giờ một vị Chánh Giác phải chết vì một tai nạn ghê gớm như thế. Những đấng Như Lai chỉ tịch diệt khi thì giờ đã đến bằng cái chết tự nhiên và vẫn sống mãi trong tâm linh mọi người.
Trong khi ấy có tiếng bàn tán nhỏ to của mọi người đang ẩn núp. Những kẻ thiếu đức tin, u mê cho rằng: đó là một sự hy sinh vô lý, nên thốt ra những câu đầy mỉa mai:
- Chà, uổng quá, vị Sa môn kia trẻ đẹp như thế mà lại hy sinh cho con voi hung dữ giết hại thì thiệt là một việc dại khờ.
Nhưng nhóm người có đủ đức tin hơn là hiểu biết chân lý đôi chút thì cho rằng: đó là một cuộc thử thách, sự tranh đấu giữa loài vật với vị Từ phụ của loài người.
Voi hung hăng đã phóng tới trước mặt Ðức Phật, mọi người phập phồng lo sợ. Nhưng Ngài vẫn điềm nhiên đem tất cả lòng Từ bi vô lượng để đối lại với sự hung dữ của con voi. Voi như bị một sức thôi miên huyền bí, từ từ hạ vòi và quỳ ngay trước mặt Ngài.
Ðức Phật dịu dàng thoa vào đầu quy y cho voi và nói:
- Này voi ơi! Ngươi nên ăn ở hiền lành để đạt đến an vui chớ nên hung hăng như trước nữa.
Voi như hiểu được lời Ngài, từ từ lấy vòi hút tất cả bụi đã bám vào châm Ngài và rải lên khắp đầu nó như để chứng tỏ nó đã biến ăn năn và xin phục thiện. Ðoạn cúi đầu đảnh lễ

Ngài rồi trở về chuồng cũ.
Từ đó về sau voi Nalagiri trở nên hiền lành dễ thương. Và đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho Ðề Bà Ðạt Ða biết hối hận! Vua A Xà Thế biết trở về với Chánh Pháp.

Năm Giọt Mật
Ngày xưa có một tên tử tù vừa vượt thoát khỏi lao ngục, chạy bán sống bán chết. Ðàng sau hắn, hai con voi say đang đuổi theo, do sự tổ chức truy nã của nhà cầm quyền.
Trong cơn hốt hoảng, chẳng may hắn ta rơi tõm xuống một cái giếng sâu ở dọc đường.
Nhưng trong cái rủi ro cũng còn được chút may mắn: Khi thân mình chưa rơi tới đáy, không biết quờ quạng vùng vẫy như thế nào mà hắn ta níu được một cái rễ cây mọc thòng xuống giếng.
Hú vía ! qua giờ phút nguy ngập ấy, hắn tưởng chừng như đã yên thân: hai con voi sẽ chẳng biết mình ở đâu mà tìm. Nhưng ý nghĩ ấy thoạt biến mất theo hơi thở: hai con voi say đã đến bên miệng giếng, gầm rống vang động, hút phăng tất cả những cây cỏ mọc trên miệng giếng như để thị uy.
Nếu hắn mà lên thì phải chết!
Hắn hốt hoảng quá. Nếu sợi dây đang đeo mà đứt thì thật là chắc chết mười phần. Hắn ta tính phăng tuột lần xuống đáy giếng để may ra có chút hy vọng nào không. Nhưng bất đồ nhìn xuống đáy giếng sâu thẳm, hắn ta thấy ba con rồng đang múa vuốt, giơ nanh, miệng phun lửa dữ, như muốn bay đến nuốt trửng hắn. Ðiếng hồn, hắn đành phải cố bám chặt sợ dây, đeo lủng lẳng giữa chừng. Nhưng có phải được vậy là yên thân đâu? Ác nghiệt làm sao, kề trên miệng giếng, hai con chuột cống xù, một đen một trắng, đang đua nhau ráp cắn sợi dây. Ác nghiệt hơn nữa là bao quanh thành giếng, theo những lỗ trũng gần hắn nhất, bốn con rắn độc bây giờ xuất hiện, ngóc đầu, thè lưỡi toan mổ
Những biến cố dồn dập xẩy tới tấp làm cho hắn ta hết phương trốn tránh, ý nghĩ liều mạng lại hiện đến: bề nào cũng không khỏi chết, thà leo ngược trở lên mặt đất, rồi bỏ chạy, dù có chết cũng còn thây. Thế là hắn ráng phăng lần leo ngược trở lên. Khốn khổ quá, phần lo sợ, phần đuối sức, bồ hôi bồ kê ướt dầm. Miệng khô cổ cháy, hắn ngước mặt lên trời mà than rằng: "Trời sao nỡ hành hạ ta đến nông nỗi này".
Càng mệt, càng thở, hơi thở càng lúc càng ngắn dần; thở bằng mũi không kịp, hắn phải há miệng để thở phụ, trong giờ phút mạng cùng tuyệt vọng ấy, bỗng một bầy ong mật bay ngang qua làm rơi vào miệng hắn 5 giọt mật... Hắn ta chíp ngay, chắp chắp thấy ngon ngon... mê tít... và trong giây phút, quên mất bao nhiêu sự nguy nan đang bao vây hắn...[1]
Người ta có thể quên bẳng đi được tất cả bao nhiêu khổ sở, đau đớn, khi người ta nhận được chút ít an ủi bằng Danh lợi, Tiền tài, Sắc đẹp, Tiếng khen, Ăn ngon, Ngủ kỹ.
Chỉ vì năm giọt mật "Ngũ dục" không đáng giá trong lòng lúc dục vọng đang khao khát trông chờ, mà người trong giếng có thể quên đi được bao nhiêu sự nguy hiểm đang bao bọc quanh mình; loài người vì năm món dục lạc mà quên đi tất cả những gì khổ não, tạm bợ, mạng sống không khác nào như chỉ mành treo chuông!

Nai Hiền
Ở hiền thì gặp lành,
Hễ ai làm dữ tan tành ra tro.

Ngày xưa...
Ngày xưa trong một khu rừng ven bờ sông Hằng Ðộ, xuất hiện một con Nai hiền. Nai đẹp vô cùng, sừng màu trắng vươn cao như pha lê lóng lánh: da óng ánh vàng như gấm đính thêm từng hành minh muôn màu. Cả thân hình Nai thanh tú ấy có thể đã tập trung hết mọi vẻ đẹp của trần gian. Nhưng đôi mắt Nai buồn lắm thế? Có cái chi u ẩn như thương cho cuộc sống mê lầm
Nai chính là hiện thân của một vị Bồ tát. Nai nghe và nói được tiếng người. Thú trong rừng thương Nai, quay quần bên Nai như một bà mẹ hiền, theo lời Nai như một bậc thầy sáng suốt. Nai đem tình thương hòa vào cuộc sống muôn loài, núi rừng vì thế ít nhuộm màu hồng, con cháu trong rừng chỉ ăn cỏ cây.
Vốn biết thân mình là một miếng mồi thế nhân hằng ao ước, Nai chỉ ở trong rừng sâu, không để cho loài người được thấy. Những đêm trăng sáng. Nai vui cùng muôn thú cảnh thanh bình. Nhưng mà nếu cuộc đời chỉ là có thế thì còn đâu nước mắt đầy vơi?
Có một sáng mùa thu, rừng vừa qua cơn mưa lớn. Nước sông Hằng chảy mạnh. Những dòng suối nhỏ từ lâu vẫn hiền hòa róc rách giữa những triền đá trắng phau, hôm nay mở rộng bờ hung hăng như trăng lớn phun nước vào dòng sông cả. Nai đủng đỉnh xuống bờ sông uống nước.
Nhìn dòng nước cứ mãi tuôn đi, bọt trắng tóe tung trên mặt sông một màu xanh biếc, Nai bỗng thấy lòng ngập tràn chua xót. Không biết bao giờ vạn vật mới thôi quay cuồng trong bóng tối vô minh để trở về với thanh tịnh? Nai tử nhủ: "Nếu cần thì thân này có tiếc chi?".
Bỗng một tiếng kêu cứu từ xa vọng lại:
- Ai cứu tôi với! Trời ơi, tôi sẽ chết mất giữa dòng sâu.
Tiếng kêu càng lúc càng rõ. Nai ngước mắt nhìn ra giữa dòng sông Hằng hung bạo: Một người đang chới với trên một thanh củi mục. Có lẽ y đã chìm đò ở phía trên kia và nhờ niú được thanh củi mục mà khỏi chết. Nhưng tình thế thì cũng đã ngặt nghèo lắm. Y nổi lên chìm xuống, đôi tay co quắp một cách tuyệt vọng. Chắc sức cũng đã yếu rồi. Tiếng kêu càng lúc càng khan, mất dần trong tiếng reo hát điên cuồng của sóng nước. Nai biết giờ phút quyết định sự sống còn của người kia đã đến. Không lẽ làm ngơ? Lòng Bồ tát bỗng dạt dào một tình thương cao cả. Ðau khổ của người là đau khổ của mình, cứu người là tự cứu mình. Nhìn người quằn quại ai thấy vui chi?
Nai lao nhanh xuống dòng nước lũ. Tình thương đã làm nên tất cả. Không quản nhọc nhằn và nguy hiểm, Nai lướt qua sông lớn và cõng người kia lên bờ. Người kia tỉnh lại, ngạc nhiên vô cùng khi biết một con Nai đẹp đã cứu mình thoát nạn. Quá cảm động y quỳ xuống đội lên đầu công đức của Nai. Y nói:
- Hỡi vị Nai thần, tôi không biết làm sao để nói tất cả tấm lòng. Ngài đẹp lắm, nhưng chính lòng vị tha của Ngài mới đẹp hơn cả. Kể từ nay, thân tôi là của Ngài, tùy Ngài sử dụng
Nai hiền rưng rưng nước mắt. Quả thật không ngờ lại có người biết ơn đến thế. Nai nói:
- Ông ơi, tôi tưởng sẽ không bao giờ tìm được một người tốt ở cõi thế sa đọa này. Lòng biết ơn của ông đã làm cho tôi vô cùng sung sướng. Nhưng nói làm chi đến chuyện trả ơn. Ông còn vợ con ở nhà, không nên nán lại đây lâu, chắc họ đang nóng lòng chờ đợi. Nhưng ông đừng đem chuyện gặp tôi đây mà nói lại với ai, họ sẽ không ngại gì mà đến tìm bắt tôi. Hãy sống vì đời, vì người. Là thú rừng, tôi không biết nói lời gì đẹp đẽ hơn.
Người kia hứa chắc với Nai, xá tạ xong y lên đường về chốn cũ.
Lúc y về đến thành chính là lúc Hoàng hậu vừa chiêm bao thấy một con Nai vàng kỳ dị. Bà thấy trên một ngôi báu cao sang có một con Nai hiện đang giảng pháp bằng tiếng người. Mình Nai gắn đầy châu ngọc, da Nai óng ánh như những lớp gấm đẹp nhất của đời. Hoàng hậu liền đem chuyện ấy thỏ thẻ với nhà vua.
Bà nói:
- Tâu Bệ hạ, thần thiếp nghĩ không còn vật chi quý giá hơn con Nai vàng trong mộng ấy. Nếu vườn thượng uyển này mà có nó... trời ơi, Bệ hạ hãy tìm cách bắt đi!
Vua tin ngay lời Hoàng hậu, ở đời đã có được mấy người đàn ông không nghe lời vợ, không nghe lời thỏ thẻ của một người đàn bà, nhất là người đàn bà đẹp? Thế là vua cho truyền khắp nước:
"Trong sử có chuyện một con Nai vàng mình đầy châu ngọc. Ðã nhiều người thấy nó, nhưng không biết bây giờ ở đâu. Nếu ai bắt được, hay chỉ cho người khác bắt, vua sẽ thưởng cho quyền cai trị một làng giàu có và vô số bạc vàng".
"Quyền cai trị một làng giàu có và vô số bạc vàng". Ai mà không ham? Người được Nai cứu lắng nghe cho rõ lời truyền rao của vua rồi bất giác y nhìn xuống chiếc áo đã sờn, đôi hài há miệng: Y nghèo quá! Một tiếng thở báo trước cơn giông tố của lòng. Y biết chắc chắn vợ con y đã hai hôm rồi nhịn đói. Ngay những lúc có y ở nhà, nai lưng người ra đối lấy bát cơm, gia đình y vẫn không lúc nào no đủ, huống hồ là y đã đi vắng những hai ngày.
Y nhắc lại lời truyền rao: "Nếu ai bắt được, hay chỉ cho người khác bắt, vua sẽ thưởng cho quyền cai trị một làng giàu có và vô số bạc vàng". Có thể như thế được không? Sung sướng giàu sang đến thế ư? Trong lòng con người vừa thọ ơn bỗng nổ ra một trận chiến gay go giữa tham lam và đức hạnh. Ðức hạnh như nói với y: "Anh có thể quên được công đức của Nai hiền sao? Nếu không có Nai thì bây giờ có anh không? Cứ bội ước đi rồi không còn một kiếp nào anh cất đầu lên được!". Nhưng tham lam nhỏ to than thỉ: "Hãy chỉ chỗ của Nai đi! Anh sẽ được vinh hoa phú quí, vợ con anh sẽ được no đủ".
Lòng y thật như guồng chỉ rối. Y không biết nên theo đạo đức hay giàu sang, trung thành hay phản bội. Con quỷ tham lam gớm guốc vẫn cứ kề bên than thỉ. Cuối cùng, quỷ tham đã thắng. Một chút lương tâm còn nuối lại trong lòng, y tự nhủ:
- Ta quyết chỉ chỗ Nai ở cho nhà vua. Kể ra thì cũng tàn nhẫn thật nhưng còn dịp nào để được giàu sang. Bạc tiền và danh vọng trên hết!
Y cười lên sặc sụa, cái cười khoái trá của một con người sắp thỏa mãn. Nhưng y có biết không, bắt nguồi từ cái cười ấy, gương mặt y từ hiền lành chất phát bỗng trở thành gớm ghiếc lạ thường. Nếu soi gương, chắc y ngạc nhiên về sự đội thay của mình lắm.
Y vào cung tâu vua biết chỗ ở của Nai hiền. Như mở nước cờ, vua ra lệnh đi săn Nai ngay buổi chiều ấy, khu rừng bị quân lính nhà vua vây kín. Từng đàn chó dữ ào ạt sủa cắn vang động cả một vùng. Chúng lục lội từng hóc núi, bụi lùm. Tiếng kèn săn rền vọng lên như một lời kết tội.
Nai choàng dậy trong giấc ngủ. Sau cơn hoảng hốt ban đầu, Nai biết mình không thể thoát khỏi tay người hung ác. Cũng vừa lúc ấy, vua và người được Nai cứu đến kề bên.
Y đưa tay chỉ chỗ cho Vua:
- Ðó, Bệ hạ xem, con Nai vàng kỳ dị!...
Những tia nắng cuối của chiều thu chiếu lên mình Nai lộng lẫy, từng hang châu ngọc lóe sáng muôn màu. Vua say nhìn Nai đẹp. Cung tên đã sẵn sàng, bọn lính định bắn quị linh thú, nhưng vua ngăn lại:
- Ðừng bắn, hãy bắt sống cho ta!...
Nhưng chưa đuổi bắt thì Nai đã tự dẫn mình đến trước mặt vua và nói lớn:
- Thưa Ngài, tôi không hiểu tại sao Ngài có thể tìm được chỗ trú của tôi!
Nhà vua ngạc nhiên - có thể nói là sửng sốt - vì Ngài chưa từng thấy Nai nào lại biết nói tiếng người. Vua đáp:
- Hởi Nai thần, chính người này đã chỉ cho ta.
Mặt Nai và vua đồng một lúc quay về người được Nai cứu. Bỗng nhà vua kêu lên kinh hãi: mặt người kia chỉ trong một khắc trở thành lở loét gớm ghê. Mủ máu chan hòa trên gương mặt trước kia hiền lành chất phát.

Nai lên tiếng giảng:
- Thưa Ngài không có gì lạ cả. Ðó chính là cái quả báo mà nguyên nhân là sự vong ân của y. Thưa Ngài, người này trước kia đã được tôi cứu khỏi chết đuối, nhưng y đã quên lời hứa mà chỉ chỗ của tôi cho vua. Tham lam đã làm mờ mắt nhân gian. Trong bóng tối vô minh ác nghiệt con người quên hết liêm sĩ và ân tình. Ôi tham lam, gốc nguồn của bao tội lỗi! Vua chợt hiểu. Ngài bỗng thấy ghét cay ghét đắng người được cứu. Quay mũi tên về phía y, vua hét lên dữ dội:
- Kẻ vong ân bội nghĩa kia, mi đã làm nhơ nhuốc danh người. Ta quyết vì đời cho mi chết! Dây cung trương lên, nhưng Nai hiền đã đến chận phía trước. Mình Nai đã biến thành bình phong che chở cho người kia đang run như một cái đuôi thằn lằn. Nai nói với vua:
- Không nên Ngài ạ! Quả báo bao giờ cũng đến với người gây nhân như hình với bóng. Không cần và cũng không có một người nào thưởng phạt hay định đoạt quả báo cả. Chính gương mặt lở loét kia đã trừng phạt y nhiều lắm. Tôi xin Ngài hãy tha cho y. Phần tôi, tôi đang chờ Ngài quyết định.
Vua bỗng thấy ánh sáng đạo. Ngài thấy kính phục Nai hiền cùng tột. Ngài kêu lên:
- Ðối với kẻ mưu hại mình Nai còn tỏ lòng từ bi cao cả như thế. Nai ơi, trong lốt thú rừng man dã ấy, chính Nai mới thật là người, một con người đúng nghĩa. Còn chúng tôi đây, Tuy mang lốt người, nhưng quả thật chưa bằng muông thú.
Rồi vung tay ra hiệu, vua hét vào tai tên phản bội:
- Ta tha cho ngươi. Hãy đi đi, đi cho khuất loài người.
Y lầm lũi bỏ đi, mặt cúi gầm xuống đất. Bóng y đổ dài trên nền cỏ rừng, lưng y quay lại phía mặt trời, y đang bước lần, bước lần vào bóng tối...
Vua nói với Nai
- Thưa Ngài, Ngài đã hoàn toàn tự do. Từ nay, không ai trong nước này lại động đến thân Ngài nữa.
Về phần tôi, những lời cao đẹp của Ngài đã làm tôi trong phút chốc giác ngộ được chân lý. Tôi sẽ khắc những lời đó vào tim và đem chí hướng từ bi của Ngài gieo vào lòng nhân loại.
Thế rồi vua từ giả Nai, kéo quân về chốn củ. Rừng trở lại thanh bình như xưa. Người và vật từ nay hiểu nhau, không còn tìm cách sát hại nhau nữa. Rừng già thổi vọng tiếng kèn săn hung hăng, máu hồng thôi hoen trên cỏ màu xanh. Con cháu trong rừng ngày một đông thêm, phơi phới lớn lên, không lo loài người tàn bạo.
Và đêm đêm, lúc trăng ngà dọi bóng xuống rừng hoang, đàn thú hiền lành quây quần chung quanh Nai như để nghe lời giảng đạo.

Một Lòng Vì Đạo
Thà có đạo đức mà chết, chớ không chịu mất đạo đức để được sống.
Cũng một mùa xuân trong sáng đẹp đẽ như hôm nay nhưng là một mùa Xuân xa xăm lắm, một vị Quốc vương có tiếng nhân từ vui vẻ, ngự giá về các làng mạc thôn xóm, thăm viếng quần chúng và tặng quà tết cho kẻ nghèo. Ngài cùng chung vui với muôn dân. Ðó còn là một dịp để nhà vua được tìm hiểu đời sống và tâm tình của dân.
Khi ra đi ngài vui vẻ bao nhiêu, khi trở về Ngài lại buồn rầu lo âu bấy nhiêu.
Nhà vua thường khuyến khích mọi người phụng thờ Tam bảo, thực hành phép ăn chay, làm các việc thiện, hiếu thảo với cha mẹ, thuận hòa với anh em. Ngài tha sưu thuế cho tất cả những ai thực hành theo lời Ngài khuyên bảo.
Mọi người đều răm rắp làm theo.
Nhưng có ngờ đâu, bề ngoài họ mạng một lớp "đạo đức giả" để che đậy bao nhiêu điều xấu xa, hung ác, nham hiểm ở bên trong. Nhờ có cuộc kinh lý trong ngày Xuân hôm ấy ngày mới thấu rõ được lòng người. Từ đó Ngài luôn luôn suy nghĩ để tìm một giải pháp cải thiện dân chúng một cách hoàn bị.
Một tuần sau gương mặt Ngài trở lại tươi vui như trước. Rồi khắp dân chúng được ban truyền sắc dụ của nhà vua: "Kể từ nay ai còn ăn chay niệm Phật sẽ bị tội xử tử, còn người nào không theo đạo Phật được tự do, an phần chức nghiệp".
Ðương nhiên những kẻ giả tâm đều trở lại hành động như cũ, không còn phải che đậy một chút gì.
Tuy thế, sáng kia người ta dẫn đến sân triều một cụ già tả tơi yếu đuối, cụ này đã không tuân lệnh nhà vua vẫn quy ngưỡng theo đạo Phật. Cụ nghĩ rằng: "Lâu nay ta nghèo khổ trọn ngày chỉ có một bữa cơm rau nhưng được quy y Tam bảo, được nghe giáo lý của Chư Phật, lòng ta sung sướng vô cùng. Còn dẫu sống một cuộc đời sung túc trên châu báu ngọc ngà hay có được lên cõi Thiên đàng hưởng thụ mãi mãi cuộc sống Thần tiên đi nữa mà không được nghe đến một câu kinh, Phật, đối với ta cũng chỉ là ngục hình".
Cụ già khẳng khái tâu:
- Tâu Bệ hạ, bần dân này đã có tội không tuân lệnh của Ngài xin Ngài cứ việc chặt đầu.
Nhà vua phán:- Nếu người biết tự hối và thi hành theo sắc lệnh mới của Trẫm, Trẫm sẽ tha tội và phong chức tước cho. Còn kẻ làm dân mà không tuân theo quốc pháp Trẫm sẽ xử chém đặng răn kẻ trái phép về sau.
- Tâu Bệ hạ, nếu bỏ chánh pháp mà làm đến bực vua chúa, hưởng thụ tất cả mọi khoái lạc trong cõi Nhân Thiên, bần dân này cũng không ham.
- Ngươi cãi lệnh ta sẽ truyền đem xử tử ngay tức khắc.
- Tâu Bệ hạ, trong Kinh Phật có dạy: "Nếu chúng sanh tự gieo mình vào ba đường ác thì khó được làm người và có làm người chăng nữa cũng không thể sanh vào nước có đạo đức, không xem được Kinh Phật, không gặp được các cao Tăng để cúng dường và nghe pháp". Nay tôi được biết pháp Tam bảo, hiểu được chút ít Kinh Phật, vậy có lẽ kiếp trước tôi đã dày công tu luyện lắm. Thế thì dẫu Bệ hạ có bỏ tôi vào nước sôi hay nung vào lửa đỏ đi nữa tôi vẫn giữ trọn một niềm theo Tam bảo mà thôi.
- Ngươi là ai mà còn khí khái với ta? Trước cái chết mà vẫn còn hùng hổ.
- Tôi tên là Thanh Tiến Sử, tâu Bệ hạ cứ việc xử tội, tôi không bao giờ oán than hay van xin một điều gì.
Quân sĩ hãy đem chém ngay ông lão Thanh Tiến Sử nầy.
Rất nhanh, các tên lính xáp đến dẫn cụ già ra pháp trường.
Trước pháp trường, bên cạnh những lưỡi gươm sáng quắc đang sẵn sang đưa lên cổ, Thanh Tiến Sử vẫn thản nhiên vui vẻ và khuyên người con trước khi vĩnh biệt: "Con ơi! Con sanh gặp thời có Phật pháp, biết sùng bái Tam Bảo là một điều phước đức của con. Con hãy vững dạ tu học, noi gương cha đây, dẫu đầu cha phải rơi vì sắc lệnh nghiêm ngặt của nhà vua. Cha vẫn vui lòng và quyết theo Chánh đạo không bao giờ lãng bỏ".
Vừa dứt lời, vị cận thần truyền cho quân lính dẫn cụ trở về triều.
Khi vị cận thần về tâu lại lời khuyên con của Thanh Tiến Sử, nhà vua rất cảm động và vô tình những dòng nước mắt tươm chảy trên đôi má nhăn nheo của vị vua hiền đức. Ngài bước xuống bệ rồng ra tận cửa thành ôm lấy Thanh Tiến Sử. Mọi người đều ngạc nhiên. Cụ già cũng trố mắt nhìn vua vì không hiểu chuyện gì. Nhà vua đưa cụ vào cung một cách ân cần vui vẻ, song Thanh Tiến Sử cũng chưa rõ điều gì nên chỉ biết cúi đầu sát đất lạy tạ ơn vua. Nhà vua liền đỡ lấy tay Thanh Tiến Sử rồi thân mật bảo: "Trong quốc dân này chỉ có một Thanh Tiến Sử! Chỉ có một Thanh Tiến Sử thuần thành theo Phật pháp, quyết một lòng vì đạo. Ngoài ra đều giả dối, đều vụ lợi. Chiếu dụ của Trẫm ban ra chỉ cốt để thử lòng người mà thôi. Vậy từ nay xin ngươi hãy sống cùng Trẫm, giúp Trẫm trong việc truyền bá Phật pháp thức tỉnh nhân tâm". Rồi cả hai chuyện trò vui vẻ. Sau đó nhà vua phong cho Thanh Tiến Sử chức Tướng quốc.
Câu chuyện ấy được truyền tụng trên môi quần chúng lan ra tận các hang cùng ngõ hẻm, và cũng từ đó tiếng chuông cảnh tỉnh ngân vang trong tâm hồn mọi người.
Chẳng bao lâu dân chúng được sống trong cảnh êm ấm, thân yêu, an hòa, vui vẻ, ai ai cũng đều quay về với Ðạo Phật.
Vị Quốc vương ấy chính là tiền thân của Ðức Thích Ca

Lòng Hiếu Của Chim Anh Vũ
Thuở xưa, ở núi Tuyết Sơn có một con chim Oanh Vũ, cha mẹ đều mù, thường đi tìm trái cây thơm chín, dâng cha mẹ dùng. Lúc bấy giờ, có vị điền chủ mới cấy lúa bèn phát nguyện rằng: "Lúa tôi đây, xin nguyện cho chúng sanh ăn dùng". Chim Oanh Vũ thấy vị điền chủ phát tâm bố thí như vậy, bèn thường bay xuống lấy lúa cúng dường cha mẹ. Người điền chủ đi xem lúa, thấy loài chim loài sùng phá hại lúa, bèn nổi giận đặt lưới bắt được chim Oanh Vũ. Chim Oanh Vũ thưa vị điền chủ rằng: "Trước đây ông có lòng tốt bố thí nên tôi mới dám lấy của ông, sao lại đặt lưới bắt tôi?". Người điền chủ hỏi: "Ngươi lấy lúa làm gì?". Chim Oanh Vũ đáp: "Tôi có cha mẹ mù, nên phải lấy lúa cúng dường". Vị điền chủ nói rằng: "Từ nay về sau, ngươi cứ lấy lúa mà dùng, đừng e ngại gì cả". Loài súc sanh còn biết hiếu thuận với cha mẹ huống nữa là người.
Chim Oanh Vũ là tiền thân của Ðức Phật Thích Ca. Người điền chủ là tiền thân ông Xá Lợi Phất.

Trọng Pháp
Ðời xưa, có một vị đại quốc vương tên là Tu Lâu Ðà, thống trị rất nhiều chư hầu nhỏ. Oai đức của nhà vua rất to, nhưng Ngài cũng chưa mãn ý. Một hôm Ngài nghĩ: "Ta có một khuyết điểm lớn.
Mặc dù ta dùng đức trị dân, đem tài lực để giúp người, song đó chỉ là nuôi sống phần vật chất không được vĩnh cửu. Cần phải có một nền đạo giáo để trị muôn dân tu tỉnh. Ta phải tìm làm sao cho ra "Pháp tài chân thật" để cho mọi người cùng nhờ đó mà giải thoát được mọi sự khổ não ở đời. Ðược như thế ta mới khỏi ân hận".
Nhà vua liền truyền rao khắp trong xứ: Ai có phép giải thoát đem truyền trao cho nhà vua, sẽ được gia thưởng như ý muốn. Qua một thời gian khá lâu, không thấy ai đáp lại lời kêu gọi của nhà vua. Ngài đâm lo nghĩ, buồn rầu khổ sở, ăn không ngon, ngủ không yên. Người ngoài cuộc, ai trông thấy cũng phải cảm động và thương hại cho Ngài.
Lúc ấy, có một vị Tỳ sa môn Thiên Vương, rõ được tâm trạng của Tu Lâu Ðà, bèn hóa hiện làm thân một con quỷ Dạ xoa hình sắc ai thấy cũng phải kinh tởm: hai con mắt lồi to và đỏ như huyết, nanh vuốt nhọn bén, tóc tai bờm xờm, lửa đầy miệng. Quỉ đến chỗ vua, hô to lên rằng: "Ai muốn nghe pháp ta sẽ nói cho".
Nhà vua nghe thấy mừng lắm, vội đến nghênh tiếp, mời ngồi tòa cao, làm lễ đúng pháp để cầu nghe quên cả sợ hãi.
- Xin Ngài vui lòng bố thí cho chúng tôi một pháp tài để cứu khổ cho nhơn sanh, ơn trọng vô cùng.
- Thân người khó được, chánh pháp khó gặp, đâu phải qua những nghi lễ tầm thường kém vẻ tôn trọng như vậy mà có thể nghe được.
- Tôi xin sẵn sàng làm theo ý Ngài muốn, chỉ cốt hầu được nghe pháp, dù phải tan thân mất mạng cũng không sao.
- Quý lắm, nhà vua hãy đem Hoàng hậu và Hoàng Thái tử đến cho ta xơi, xong rồi ta sẽ nói pháp cho nghe
- Ðược tôi sẽ trân trọng làm theo ý Ngài muốn.
Trong khi ấy, tất cả triều thần đều nhao nhao phản đối: "Bệ hạ làm thế nhẫn tâm lắm, chúng tôi không tán thành! Bệ hạ giết chúng tôi trước, rồi sẽ thi hành cái cử chỉ thảm não ấy".
Nhà vua vẫn bình tĩnh, thản nhiên an ủi quần thần: "Các khanh yên lòng, ta cũng biết thế là đau xót lắm, nhưng trong đời, hễ có hợp rồi sẽ tan, không có gì là đáng quí cả, chỉ có chánh pháp mới là đáng quí, vậy dù đổi tánh mạng ta, ta quyết cũng không từ".
Trong khi quỷ Dạ xoa ăn thịt Hoàng hậu và Hoàng Thái tử, tất cả triều thần cùng cung phi mỹ nữ trong tam cung lục viện đều kêu gào, than khóc vô cùng thảm não. Tiếng kêu than náo động cả kinh thành, mong làm chuyển được lòng cương quyết của nhà vua, để Ngài xóa bỏ ý định. Nhưng nhà vua vẫn điềm tĩnh như thường, chỉ một mực chăm chờ nghe pháp.
Quỷ Dạ xoa sau khi ăn xong Hoàng hậu và Hoàng Thái tử liền vì vua mà nói bài kệ rằng:
"Tất cả các hành đều là vô thường,
Có sanh đều có khổ,
Năm ấm không thật tướng,
Không ngã và ngã sở". [1]
Nhà vua nghe xong bài kệ vui mừng vô cùng, lòng không chút hối hận, liền truyền thần dân biên chép bài kệ ban khắp trong nhân gian, bắt phải đọc tụng, nhờ đó mà rất nhiều người được tỏ ngộ.
Lúc ấy, vị Tỳ sa môn Thiên Vương hiện lại nguyên hình và không tiếc lời khen ngợi:
- Quí hóa thay! Cao cả thay, tâm trọng pháp của nhà vua không ai sánh bằng. Hoàng hậu và Thái tử xin hoàn lại vẫn không sao cả. Chẳng qua là chỉ để thư lòng nhà vua mà thôi, thật không phải tôi đã ăn nuốt đi đâu.
Tôi mong ngày sau Ngài sẽ đạt đạo Bồ đề độ muôn loài hàm thức.
Làm đau thương không gì hơn buồn. Bắn tên độc không gì hơn ngu si. Không thể lấy sức mạnh gì trừ diệt được hai nỗi khổ ấy. Chỉ có học nhiều mới có thể trừ diệt được. Người mù sẽ nhờ học mà có mắt, người tối sẽ nhờ học mà sáng suốt. Nhờ học mới có thể chỉ đường cho mọi người. Có học như đem mắt cho người mù. Vậy phải rời bỏ ngục ngu si, xả lòng kiêu mạn và sự an hưởng giàu có, chuộng học nghe nhiều mới gọi là nhóm họp công đức.
Hết
[1] Tất cả vạn sự vật thế gian đều luôn luôn chuyển biến không ngừng, các hiện tượng chuyển biến ấy Kinh gọi là Hành. Các pháp do nhân duyên cấu hợp, không thật thể, không khác nào hình ảnh trên màn bạc. Người phàm phu không làm sao nhìn thấy sự thật của sự vật, luôn luôn chấp cho là thật cảnh, thật ra, nên khi được thì vui mừng, mất thì sanh đau khổ.
Nên biết năm ấm (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hòa hợp gọi là thân, song năm ấm biến chuyển không thường nên thân người thoạt còn thoạt mất, không có cái gì là "ta" cũng như không có cái gì là "của ta". Chẳng qua cũng như những bóng trong màn ảnh sân khấu, những giả ảnh trong chiêm bao mà thôi.
Chư Phật tỏ ngộ do đây, mà phàm phu mê muội cũng do đây vậy.

Công Đức Trì Giới
Giới luật là thọ mạng Phật pháp
Giới luật còn Phật pháp còn.

Xưa ở nước Xá Vệ, có một huyện nhân dân đều quy Tam bảo, phụng trì năm giới và thực hành mười thiện nghiệp của Phật dạy. Khắp huyện không bao giờ sát sanh, người uống rượu nấu rượu cũng không có.
Trong huyện, có một người con dòng dõi, sắp đi buôn tha phương. Trước khi đi, cha mẹ cặn kẽ dặn rằng: "Con nên cố gắng siêng năng, giữ gìn 5 giới cấm, thực hành mười điều thiện và cẩn thận chớ uống rượu, phạm đến trọng giới của Phật".

Người con vui vẻ ra đi, khi qua tới xứ khác vừa gặp người bạn đồng học cùng nhau chuyện trò tương đắc vui vẻ lắm. Bạn mời về nhà, đem rượu Bồ đào ra đãi. Người ấy tự cười nói rằng: "Nước tôi toàn giữ năm giới cấm của Phật, không một ai dám uống rượu; vì nếu uống rượu thì đời sau phải ngu si đần độn không thấy được Phật. Vả lại khi ra đi, cha mẹ tôi khuyên không nên uống rượu. Bây giờ tôi phạm giới cấm, thời trái mệnh lệnh của cha mẹ, tội ấy chẳng gì lớn bằng. Chúng ta là bạn thâm giao lâu ngày, được gặp nhau không gì mừng rỡ hơn nữa. Nhưng bạn chớ làm tôi phạm giới cấm của Phật và trái lời dạy của song thân tôi".
Người bạn tiếp lời: "Chúng ta là bạn đồng học một thầy, coi như anh em ruột; cha mẹ tôi cũng như cha mẹ anh, với cha mẹ, chúng ta có bổn phận kính thờ, không được trái mạng. Tôi nếu ở bên nhà anh là phải tuân theo ý muốn của cha mẹ anh, nhưng nay anh ở nhà tôi anh nên tùy thuận ý của cha mẹ tôi mới phải".
Trước sự khẩn khoản của lòng bạn, anh ta phải uống rượu, uống xong anh ta say luôn trong ba ngày, không biết gì, khi tỉnh anh ta ăn năn lo sợ vô cùng.
Công việc xong, người ấy trở về nhà trình lỗi của mình cho cha mẹ rõ; cha mẹ tức giận mắng rằng: "Ngươi trái lời ta, phạm giới cấm thật là loạn pháp, không phải đứa con thảo". Tự nghĩ làm gương trước cho mọi người trong xứ, cha mẹ bèn thâu hết đồ đạc của đứa con, rồi đuổi ra khỏi nhà. Người con bị đuổi bèn đi qua nước khác, xin ở đậu trong một cái nhà. Chủ nhà ấy là người thờ phụng quỷ thần, thứ quỉ thần rất khôn ngoan, hay hiện ra thân người, ăn uống nói chuyện, chủ nhà ấy hết lòng tin tưởng với quỷ thần. Vì phải thờ phụng lâu năm mệt nhọc, của tiền hết sạch, trong nhà người đau chết xảy ra luôn, quỷ thần không cứu gì cả. Quỷ thần hiểu ý chủ nhà, liền bảo với nhau: "Nhà này của tiền hết sạch cũng chính vì ta. Ðã lâu ta chưa làm gì được lợi ích cho chủ, nên chủ chán nản là phải lắm. Bây giờ chúng ta phải kiếm đồ trân bảo đem về biếu chủ, để chủ vui lòng". Nói rồi, cùng nhau đi lấy trộm vàng bạc trong kho nhà vua của nước khác, đem về giấu ở sau vườn rồi bảo chủ rằng: "Ngươi có công nhọc, nay ta muốn ban phước cho ngươi được giàu có. Sau vườn nhà ngươi có một tráp vàng bạc, ta cho ngươi đó". Chủ nhà ra vườn tìm thấy tráp vàng, sung sướng lắm, sáng sớm thiết tiệc rất long trọng mời thần tạ ân.
Thần vừa đến cửa, thấy trong nhà có bóng người ở nước Xá Vệ, liền tránh không đi vào. Chủ nhà chạy theo cố mời trở lại. Thần trả lời: "Trong nhà ngươi có vị Tôn khách ta đâu dám vào". Nói xong rồi tỏ vẻ sợ hãi rồi bỏ chạy. Chủ nhà nghĩ trong nhà chỉ có một mình người khách này thôi, liền kính cẩn đến thưa rằng: "Xin mời ngài đến dự tiệc với chúng tôi cho vui". Ăn uống xong chủ nhà hỏi vị Tôn khách rằng: "Ngài có công đức gì mà vị thần của tôi thờ phụng sợ hãi ngài mà phải tránh đi?".
Vị Tôn khách trả lời: "Tôi chỉ có công đức thọ trì 5 giới và mười điều thiện của Ðức Phật. Tôi vi phạm một giới uống rượu, bị cha mẹ đuổi, qua trọ tại đây. Nhưng còn giữ được bốn giới nên thiên thần ủng hộ, còn thần của ngươi thờ phụng là thứ tà thần ác quỷ làm sao sánh kịp".
Chủ nhà thưa rằng: "Tôi thờ các vị thần đã lâu rồi, không có lợi ích gì nên tôi chán quá, mong ngài hoan hỷ dạy cho". Nói rồi bèn theo vị Tôn khách thọ trì Tam quy Ngũ giới và pháp thập thiện. Thọ xong một lòng tinh tấn siêng năng phụng trì không hề hủy phạm. Một hôm hỏi vị Tôn khách rằng: "Ðức Phật hiện nay ở đâu? Có thể đến yết kiến Ngài được không?" Tôn khách trả lời: "Ðức Phật hiện nay ở nước Xá Vệ trong vườn Cấp Cô Ðộc, qua đó sẽ được yết kiến Ngài".
Nghe vậy, người chủ nhà rất sung sướng, quyết qua Xá Vệ để yết kiến Phật. Giữa đường trời tối ghé lại xin trọ một nhà thiếu nữ xinh đẹp. Thiếu nữ ấy chính là vợ của một con quỷ ăn thịt người. Thiếu nữ liền can rằng: "Ông chớ ở lại đây nên đi gấp tốt hơn". Người ấy hỏi có gì nguy hiểm chăng? Thiếu nữ tỏ ý không bằng lòng nói rằng: "Tôi đã nói với ông như vậy, ông còn hỏi làm gì nữa". Người kia tự nghĩ: "Người ở nước Xá Vệ chỉ giữ 4 giới của Phật còn khiến cho quỹ thần sợ hãi thay, huống chi ta đã thọ trì chắc chắn pháp Tam quy Ngũ giới và Thập thiện của Phật". Nghĩ vậy, nhất định ở lại không chịu đi. Ðêm ấy con quỷ ăn thịt người về nhà thấy có khách oai thần và công đức trì giới nên phải lẩn quẫn ngoài hè, rồi đi trọ một đêm nơi nhà hàng xóm cách xa tới bốn mươi dặm. Sớm mai người ấy lên đường để qua Xá Vệ. Ra khỏi cửa ngỏ, thấy thây chết xương máu đầy đường, do quỷ ăn thịt người đã ăn xả.
Cảnh tượng ấy khiến người kia quá sợ hãi và hối hận rằng: "Nước ta sẵn đủ áo mặc, cơm ăn, nhà ở, không thiếu món chi ở trong nhà chẳng sướng hơn sao? Ta tưởng đến được yết kiến Phật và coi sự kỳ diệu của Ngài, ngờ đâu lại gặp hài cốt rùng rợn như vậy". Nghĩ xong chàng sanh ác ý, trở về khuyên người thiếu nữ kia theo mình trở về nước, cùng nhau chung sống trăm năm. Khi về ngay nhà thiếu nữ xin ở lại. Thiếu phụ hỏi: "Sao ông phải trở lui vậy?". Người kia đáp: "Hành kế không thành nên tôi phải trở lui, mong thiếu nữ cho tôi ở tạm một đêm". Thiếu nữ nói: "Ông ở đây chắc chắn phải chết vì chồng tôi. Chồng tôi là quỷ ăn thịt người và sắp về đến. Ông nên đi gấp tốt hơn". Người ấy không tin, năn nỉ xin ở lại cho được và trước sắp đẹp của thiếu nữ, người ấy khởi nhiều ý niệm không tốt đẹp, không còn tin pháp Tam quy Ngũ giới và thập thiện của Phật. Vị thiện thần hộ giới liền bỏ đi không ủng hộ cho người ấy nữa.
Quỷ ăn thịt người được dịp thuận tiện trở về. Thiếu phụ sợ chồng ăn thịt người kia tội nghiệp nên đem lòng thương hại, giấu người kia trong một cái lu. Quỉ bắt hơi người bảo vợ: "Mình có kiếm được thịt người phải không? Bây giờ ta thèm lắm". Vợ trả lời: "Tôi không đi đâu cả làm chi có thịt, sao hôm qua không thấy anh về?". Con quỷ nói: "Hôm qua trong nhà có vị Tôn khách nên ta phải đi tránh". Người ở trong lu nghe vậy càng thêm sợ hãi, đến nỗi không nhớ gì đến pháp Tam qui Ngũ giới của mình thọ. Người vợ hỏi tiếp: "Vì lẽ gì anh không kiếm được thịt?". Quỷ trả lời: "Vì trong nhà có đệ tử của Phật ở lại, nên thiên thần đuổi ta đi xa ngoài bốn mươi dặm, phải ngủ trống giữa trời một đêm rất là sợ hãi, đến bây giờ vẫn chưa hoàn hồn, cho nên không kiếm thịt được". Người vợ nghe vậy rất mừng thầm, mới hỏi chồng làm thế nào được nghe và phụng trì giới cấm của Phật?". Quỷ trả lời: "Bây giờ ta đói lắm, lấy thịt cho ta ăn đã, không nên hỏi việc ấy vội. Giới là pháp vô thượng chân chánh của Ðức Như Lai, ta đâu dám nói đến". Người vợ cố năn nỉ: "Anh hãy vì tôi nói đi, tôi sẽ lấy thịt anh ăn". Giống quỷ tham ăn đã sẵn, thèm ăn lắm, lại thêm vợ cố hỏi, buộc phải nói Tam quy Ngũ giới cho vợ nghe.


Pháp Tam quy là:
1/ Quy y Phật
2/ Quy y Pháp
3/ Quy y Tăng
Ngũ giới là:
1/ Không sát sinh
2/ Không trộm cắp
3/ Không tà dâm
4/ Không nói dối
5/ Không uống rượu.


Khi quỷ vừa nói giới đầu, người vợ nghe liền định tâm lĩnh thọ, lần lượt nói hết 5 giới, thì vợ quỷ rất sung sướng nhất tâm chấp trì, và miệng đọc tụng không nghỉ. Người dấu ở trong lu nghe lại được pháp Tam quy Ngũ giới rất lấy làm hổ thẹn và vui mừng, tự tâm lãnh thọ trở lại.
Thiên Ðế Thích biết hai người này đã phát tâm quy y Phật, thọ trì 5 giới, bèn lựa 50 vị thiên thần đến ủng hộ hai người ấy. Quỷ ăn thịt người sợ hãi phải trốn đi nơi khác.
Ðến sáng, vợ quỷ hỏi người dấu ở trong lu: "Những chuyện vừa qua ông có sợ không?". Người kia trả lời: "Sợ lắm, nhưng được cái may là nhờ ơn ân giả, mà tôi ngày nay được hiểu biết oai thần và công đức giới pháp của Phật!".
Vợ hỏi quỷ tiếp: "Hôm qua ông trở lui làm gì vậy?".
- Vì tôi thấy hài cốt đầy đường nên quá sợ hãi phải trở lui.
Vợ quỷ mới nói rằng: "Hài cốt đó chính tôi bỏ đấy". Tôi đây vốn con nhà lương thiện, không may bị quỷ bắt đem về làm vợ, tôi buồn khổ vô cùng, nhưng chẳng biết tỏ cùng ai. Nhờ ơn nhân giả tôi được thọ năm giới cấm của Phật và được xa lánh con quỷ ác độc này thật là hạnh phúc cho tôi. Bây giờ nhân giả còn đi đâu nữa?
- Tôi cần qua nước Xá Vệ đế yết kiến Phật. Thiếu nữ nghe lấy rất làm sung sướng khen rằng: "Hay lắm thay! Tôi sẽ về nhà đem cha mẹ tôi theo nhân giả đi yết kiến Phật". Nói xong, cùng nhau lên đường. Ði được nữa đường thì gặp một đoàn 498 người ở bên nước Xá Vệ đi về. Người kia và thiếu nữ mới hỏi: "Các hiền giả đi đâu đông thế?".
- Chúng tôi đi yết kiến Phật về đây.
- Chúng tôi sắp qua nước Xá Vệ, chúng tôi nhờ thọ trì Tam quy Ngũ giới và mười điều thiện của Phật nên mới thoát khỏi nạn quỷ ăn thịt. Nay chúng tôi muốn qua yết kiến để tạ ơn và nghe thuyết pháp. Các hiền giả được thấy Phật rồi còn đi đâu làm gì nữa?
- "Phật thuyết pháp suốt ngày, nhưng chúng tôi ngu độn chưa hiểu được rõ. Nay trở về nước được gặp hai hiền giả và được nghe hai hiền giả cho biết công đức của người trì giới pháp của Phật. Chúng tôi xin theo hai hiền giả trở lui một lần nữa để yết kiến Phật".
Phật ở xa trông thấy đoàn người kéo đến liền mĩm cười chói tỏa hào quang năm sắc, tôn giả A Nan liền bước ra quì sát đất, trong tâm nghĩ ngợi, chắc Phật sắp dạy điều gì đây.
Phật bảo A Nan: "Ngươi có hiểu không, ngươi có thấy 498 người khi nãy trở về đây không?".
A Nan thưa: "Bạch Ðức Thế Tôn, con có thấy".
Ðức Phật thuật lại tất cả việc xảy ra và bảo: "498 người đó ngày nay đã gặp được thầy và đã được thấy Phật, rồi đây họ sẽ đắc đạo không lâu".
Cả 500 người đến trước Phật đảnh lễ một cách rất thành kính và nhất tâm thính Pháp, mọi người đều được tâm ý thông suốt thành các bậc Sa môn và chứng được đạo quả A La Hán.
Phật dạy A Nan và chúng hội rằng: "Các người nên biết người phạm giới kia với thiếu nữ vợ con quỷ ăn thịt người là anh em trong nhiều đời vậy. Hai người này đời trước chính là thầy của 498 người kia đó, chớ không phải ai xa lạ".
Người đời phát tâm tu hành cầu đạo, thọ trì giới pháp, cần gặp được thầy hiền bạn tốt sự tu hành mới mong kết quả.
Phật dạy đến đây, các vị Tỳ kheo, 500 người ấy; và tất cả chúng hội đều sung sướng vui mừng, đảnh lễ Phật, và nguyện nhất tâm giữ gìn tịnh giới.

Máu Sanh Linh Không Rửa Sạch Tội Lỗi Của Người
Kinh thành Ba La Nại đang sống trong những ngày bối rối.
Khắp nơi, khắp nơi, những lễ đàn được dựng lên cao vọi. Tiếng nguyện cầu như muốn vượt mấy từng trời. Nhưng thuốc thang cũng đã nhiều, cầu đảo cũng đã lắm mà có ăn thua gì đâu?
Hôm nay cũng như mọi hôm, hoàng cung vẫn rộn ràng lo lắng. Mạng sống của Hoàng thái hậu như treo đầu sợi tóc. Thần chết chắc đang cầm lưỡi hái đợi chờ đâu đây. Bọn cung nga thế nữ vẫn túc trực đó, vẻ mỏi mệt hiện rõ trên nét mặt. Không biết họ thức trọn mấy đêm rồi?
Quốc vương Hòa Mặc thì như trong giấc mộng. Cứ nhìn gương mặt mẹ mình ngày một teo gầy lại, nhà vua thấy lòng tơi bời từng đoạn, cuộc sống không còn ý nghĩa gì nữa. Cung nga thế nữ mà làm chi? Lầu son gác tía mà làm chi? Nhà vua thấy có thể bỏ tất cả, hy sinh tất cả, miễn là mẹ mình được sống.

Tất cả những danh y trong nước đều đã được vời. Nhưng người nào cũng lắc đầu ái ngại. Vô kế khả thi. Hơi thở của mẫu hậu càng lúc càng khò khè, ngột ngạt. Ôi còn chi đau đớn hơn cảnh một người con hiếu đang thấy mẹ mình chết dần mà không làm sao cứu được!
Cuối cùng nhà vua cho triệu tất cả những vị Phạm Chí xa gần về để hỏi nguyên nhân và phương pháp chữa bệnh cho mẹ mình. Họ đã về đầy đủ rồi đó, nhưng nào ai có ý kiến gì đích xác đâu? Người thì bảo Thần sông, kẻ thì bảo Thần núi. Họ đổ lỗi cho trăng sao trời đất... Thế rồi, đến khi nhà vua thiết tha xin phương pháp điều trị thì yên lặng. Im lặng nặng nề ngự trị... Ai dại gì mà bày tỏ cái bất lực của mình?
Bỗng một Phạm chí, có lẽ lớn tuổi nhất, đứng dậy bấm tay chiêm quẻ rồi trân trọng trả lời:
- Tâu đại vương, nguyên nhân bệnh trọng của Hoàng thái hậu cũng chẳng có gì khó hiểu. Âm dương không hòa hiệp, thiên địa quỷ thần trách móc, Hoàng thái hậu lại mắt phải hung tinh, trách gì không yểu mệnh? Muốn khỏi, nhất định phải tìm đủ một trăm súc vật khác giống để tế đất trời. Ðại vương và Hoàng thái hậu cũng phải đến tại lễ đàn cần đảo thì mới mong bảo toàn mạng sống và được bình an.
Quốc vương như người sắp chết khát bỗng gặp nước lành . Tình thương mẹ cộng thêm lòng mê tín dị đoan khiến nhà vua không suy nghĩ gì thêm trước khi thi hành ý kiến của Phạm chí. Một trăm sinh mạng đã được đổi lấy một mạng trong hy vọng.
Bầy súc vật được xua ra lễ đàn một cách tàn nhẫn. Có ai nghe tiếng kêu than của những kẻ vô tội sắp phải bị hành hình? Có những con cừu non biết mình sắp chết, cố dừng lại không chịu bước. Có những con bò cứ ngoái đầu trở lại, nước mắt chảy ròng ròng. Những bọn lính thì có kể gì cả. Chúng lấy roi dài quất vùn vụt vào thân đàn thú, lấy đá ném vào những con nào đi chậm nhất. Ðã có những vết máu hồng hoen trên đường cỏ.
Xa giá cũng theo sát bầy thú vật. Hoàng thái hậu thì mê man trong chiếc xe lắc lư trên đường đá sỏi. Quốc vương Hoà Mặc thì luôn luôn nhìn ra ngoài, xem thử đã đến lễ đàn chưa? Lúc xe vừa ra khỏi cửa thành thì bỗng nhà vua giật mình nhỏm dậy. Có cái gì uy nghiêm trên nét mặt của đại sĩ đang đứng chận giữa đường. Ðôi mắt sáng ngời làm cho ta mến phục, y vàng giản dị nhưng lại có tính cách siêu phàm.
Quốc vương bước xuống xe. Ngài ngạc nhiên thấy đoàn hầu cận của mình không biết đã quỳ rạp xuống từ lúc nào. Có những lời chúc tụng vang vang, không phải cho một vị quốc vương, nhưng mà cho một đấng vô cùng cao trọng. Ngài bỗng thấy sợ sệt. Không, Ðạo sĩ có gì hung dữ đâu. Ðó là cái run sợ của một đứa con thơ trước mặt mẹ hiền. Rồi riú ríu chân, Vua cũng quì xuống. Muôn miệng một lời tung hô vang dậy: Kính chào Ðức Thế Tôn!
Vâng chính là Ðức Thế Tôn, Ðức Phật Thích Ca. Cảm thông nỗi đau thương của một trăm sanh linh vô tội sắp phải bị hành hình, Phật đã từ Tịnh xá Kỳ Hoàn nước Xá Vệ, trèo đèo vượt núi về đây gieo mầm chân lý. Phật đỡ Quốc vương dậy và hỏi lý do việc cầu đảo. Quốc vương rơm rớm nước mắt trả lời:
- Bạch Thế Tôn, mẹ con lâm trọng bệnh đã lâu, không thang thuốc gì cứu khỏi. Nay theo lời Phạm chí con định dùng tinh huyết của một trăm con súc vật khác giống mà tạ lễ với trời đất. Kính lạy đấng Ðiều Ngự xin Ngài hãy chỉ đường vạch lối cho con.
Một con cừu nhỏ lê chiếc chân vấy máu đến ép mình vào chân Ðức Phật, như để tìm một nguồn che chở thiêng liêng. Phật cúi nhìn và để một bàn tay lên đầu con thú nhỏ. Ôi cử chỉ mới dịu dàng và êm ái làm sao. Mắt cừu nhỏ gặp mắt Phật long lanh rồi nhỏ lệ. Cả đàn thú cũng ngước đôi mắt ướt hướng về Phật như muốn nói lên những điều oan ức, bất công.

Ðức Phật trả lời:
- Này Quốc vương, không nên theo những lời mê hoặc. Không một ai, dù là thiên thần quỷ vật, có thể ban phúc hay giáng họa cho người. Ta quyết định đời ta theo đúng luật nhân quả. Muốn được mùa nông dân phải cày sâu cuốc bẩm, muốn giàu sang phải bố thí cho kẻ nghèo hèn, muốn sống lâu phải thực hành Từ bi và không sát hại. Không ai có thể chối cải điều đó.
- Nhưng bạch Thế Tôn, thiên địa quỷ thần là những kẻ có quyền phép, ta có thể nhờ họ giúp ta?
- Này Quốc vương, người có thích mặc chiếc áo sơ sài của hành khất không? Người có tham bữa ăn tồi tàn của lớp cùng dân?... Chư thiên cũng thế Quốc vương ạ. Vốn là hạng người phát tâm theo mười điều thiện, khi mạng chung, họ đã được sanh lên một trong ba mươi sáu cõi trời. Ở đó có cung điện huy hoàng, có cung nga thế nữ hần cận, y thực tự nhiên có... nào họ có cần chi những thứ đồ tạ lễ của Quốc vương, khi lấy huyết một trăm sanh mạng để mưu cầu hạnh phúc cho một người? Quốc vương thật đã làm một việc thiếu suy xét, mà chỉ tin theo lời đường mật của những tà sư. Tội đó lớn lắm.
Từ châu thân đấng Từ bi bỗng lóe lên muôn vàn ánh sáng, chiếu rực cả muôn loài. Tất cả chúng sanh trong ba đường sáu nẽo bỗng thấy hân hoan và thấm nhuần ánh đạo. Toàn thể hai trăm vị Phạm chí thấy mình lầm đường lạc lối. Họ vội vả cùng nhà vua xin Phật thâu làm đệ tử.
Hoàng thái hậu cũng thấy một sinh lực mới dào dạt chảy vào lòng. Bà đón nhận ánh sáng của chánh đạo, xả bớt lòng tham lam, phát tâm bồ đề, cầu đạo giải thoát. Liền đó bà thấy sức khỏe đã trở lại như xưa. Dưới chân cha lành, bà không ngớt lời chúc tụng.
Phật hiền từ nhìn đàn vật như an ủi, rồi theo lời mời của vua trở về cung.
Ðêm ấy, có một trăm sanh linh thoát khỏi hành hình oan uổng. Cũng trong đêm ấy ở miền biên giới Ấn Ðộ xa xôi, dân gian say sưa uống những lời thuyết pháp của Ðức Từ phụ. Lòng người rửa sạch oán thù, lũ cướp ác hung bỗng ghê bàn tay vấy máu của mình mà trở lại cuộc đời lương thiện. Chánh pháp tung ra, thấm vào từng bộ óc. Không còn cảnh chém giết ghê gớm, không còn người tin theo tà đạo.
Và non nước vui hưởng thái bình trong hào quang Từ bi và Trí tuệ.

Nhận Lầm Con
Có một chàng ngu kia sinh được đứa con trai, chăm chút thương yêu như ngọc như ngà. Một buổi sáng anh chàng đi ra chợ sớm, ở nhà lửa bốc cháy nhà và người ta bồng đứa con anh chạy mất, lúc trở về thấy nhà cháy, anh không tiếc, anh chỉ cuống cuống lên khi không thấy con.
Một người láng giềng ức đoán chỉ vào thây của một kẻ bất hạnh đã cháy thành than và bảo: "Con anh chết cháy đây rồi". Thế là anh chàng tin ngay là thật, khóc than kể lể khôn xiết, rồi may một cái túi vải vuông bỏ nắm tro tàn vào đó mang luôn bên mình không lúc nào rời. Rồi cứ đinh ninh rằng con mình đã chết cháy, và nắm tro bên mình là xác con, không biết con mình hiện giờ đang còn sống.
Một buổi kia được thả, đứa con về gõ cửa kêu cha. Anh chàng buồn quá đóng cửa ngồi trong nhà, nghe gõ cửa hỏi vọng ra:
- Ai gọi đó?
- Con đây.
- Con, tôi đâu dám! Con tôi chết đã ba tháng rồi.
- Không, con còn sống đây mà, mở cửa cho con vào!! Con tao đã chết, mày là ai, đến đây nhận hảo thế? Cha con gì?
Ðứa con nằn nì ngoài cửa mãi, người cha ngồi trong nhất định không mở cửa. Cuối cùng nó đành khắc khoải ra đi. Thương hại cho anh chàng! Cha con không nhận, lại nhận bị xương khô!
- Người ngu tự biết mình ngu, nên biết người ấy có trí;
- Người có trí tự cho là có trí, nên biết người ấy ngu nhất trên đời.
- Người ngu cố chấp sự hiểu biết của mình là đúng, nên không bao giờ chịu thừa nhận những điều hiểu biết của kẻ khác. Vì thế, không bao giờ họ đạt đến được chân lý.

Nan Đà Tôn Giả
Luân hồi nhân quả không sai
Không tu ắt phải đọa đày khổ thân.

Ðã mấy năm qua. Từ ngày chứng nghiệm chân lý dưới gốc cây Bồ Ðề, Ðức Phật Thích Ca đã đặt chân lên nhiều kinh thành, nhiều thôn dã, nhiều đất nước để truyền bá đạo Từ Bi. Hàng đệ tử của Ngài càng ngày càng đông.
Trên con đường giải thoát cho nhân loại không biên giới ấy, một hôm kia, Ðức Phật trở về đất nước quê hương, nước Ca Tỳ La Vệ. Ngài thấy nhân loại đáng thương đang chìm trong sự lôi cuốn của cuộc đời có bà con thân thuộc mình, có... em Ngài, Hoàng tử Nan Ðà.
Hoàng tử Nan Ðà là em cùng cha khác mẹ với Ðức Phật. Lúc Phật xuất gia, Nan Ðà còn tấm bé, Nan Ðà chỉ buồn thoang thoảng vì thiếu sự chăm sóc chỉ bảo của một người anh hiền từ. Thế thôi. Và tuổi trẻ cũng mau quên. Nan Ðà lớn lên trong sự hầu hạ ân cần cẩn thận của cung vua. Không như anh. Nan Ðà buông theo các thú vui. Cuộc đời bó hẹp lại, nhỏ dần trước mắt người thanh niên ham mê sắc dục. Nan Ðà chỉ còn thấy các mỹ nữ trong giọng hát, trong điệu múa, trong những cuộc truy hoan...
Phật trở về giữa sự vui mừng của dân chúng. Ngài ở Tịnh xá và hàng ngày mang bình bát đi khất thực và truyền đạo như trong khi Ngài ở các nước khác. Lối sống bình dị ấy làm mọi người thán phục. Ðời sống của kinh thành xáo trộn. Vàng bạc không còn là cứu cánh. Lòng thương yêu nhau, thương yêu đến cả các sinh vật được xem là cao quí. Người ta đã thấy những gì chắc thật của cuộc đời, thú vui chỉ là mong manh chốc lát.
Nhà vua đã mở nhiều cuộc bố thí, giảm nhẹ thuế má cho dân chúng.
Về phần Nan Ðà, Nan Ðà cũng cảm thấy vui. Những hình ảnh tươi đẹp của những năm xưa hiện lên. Nhưng trong hai người như có một cái gì khác nhau nhiều lắm, nên Nan Ðà chưa dám gặp Phật. Nghe những lời ca ngợi về lòng nhân ái, về cuộc sống bình dị của Ðức Phật, Nan Ðà tự đối chiếu với mình. Và đã có lúc chàng nghiệm thấy một cái gì mong manh, chóng tàn trong những cuộc vui say, trên nét nhăn mệt mỏi của những mỹ nữ qua những cuộc múa ca.
Một hôm, Nan Ðà thức dậy sau một giấc ngủ dài mệt mỏi. Mặt trời đã lên cao. Chưa kịp sửa soạn, chàng đã thấy Ðức Phật đang tiến vào nhà. Phật khoác chiếc y vàng, tay cầm bình bát, Ngài đi khoan thai như lùa vào đây tất cả những ánh sáng trong lành của buổi mai.
Phật không khác xưa nhiều lắm, vẫn gương mặt hiền lành nhưng thêm phần sáng suốt. Tất cả những hình ảnh trên diễn ra trước mắt Nan Ðà đang đứng ngây người nhìn. Ðức Phật tiến lạI gần, ân cần hỏi han. Lời nói của Ngài dịu dàng làm cho Nan Ðà nhớ lại những ngày vui vẻ thuở xưa, hồi ấy Nan Ðà nhìn đời một cách đẹp đẽ. Rồi Ngài nói với Nan Ðà:
- Từ lâu, ta vẫn thấy bên trong ra có phụ hoàng và em. Chính trong mục đích giải thoát cho loài người rộng lớn và cho những người thân thuộc mà ta thấy được đạo lý. Ta biết em đang khao khát chân thật. Ta đi trước em, ta đã biết rằng hạnh phúc chân thật không thể tìm ở đâu khác ánh đạo. Ánh đạo ấy ta đem về cho em đây.
Nan Ðà im lặng, cảm động. Người đứng trước mình là anh, là thầy, là ân nhân? Nan Ðà thấy trong người rạo rực một mối tình muốn hướng về đường lành. Chàng cúi xuống thân mến ôm bàn tay của Ðức Phật đang đưa ra nâng chàng dậy. Ðức Phật âu yếm:
- Ðường ta đi sáng như sao nhưng khó khắn trở lực không phải là ít. Mà có sự thành đạt nào không phải mua bằng gian lao, ta đã nghiệm điều đó. Biết em có đủ trí lực để vượt qua không?
Nan Ðà ngẫm nghĩ rồi nguyện theo Phật. Chàng sửa soạn rất nhanh chóng. Phật đã tiến ra cửa. Ngài bước đi, Nan Ðà theo Ngài, tuy lòng đang dâng lên một cái gì âm ấm, trong sáng như ánh nắng và trời đất tươi đẹp bên ngoài. Hai người cùng tiến về Tịnh xá.
Ðến Tịnh xá, Phật bảo các đệ tử săn sóc cho Nan Ðà. Người ta thay chiếc áo gấm xanh và khoác cho chàng chiếc áo nâu bằn vải. Người ta dành cho chàng một phòng rộng ngó ra vườn hoa. Nan Ðà ngồi xuống chiếc ghế mây rồi nhìn ra vườn. Trăm hoa đang mở rộng tung cánh để đón ánh trời, màu hồng tươi mát của đào. Màu vàng dịu của mai, màu trắng như tuyết của huệ, nổi bật lên trên màu xanh tươi của lá cây. Ðây đó một vài đạo sĩ đang ngồi trên các phiến đá trầm tĩnh niệm Pháp. Trong cái yên lặng, lâu lâu có điểm một tiếng chuông ngân dài. Nan Ðà thấy một sức sống mạnh mẽ của muôn cây, một sự rạo rực hướng về đạo của con người. Thật là một thay đổi cực kỳ lớn lao trong tâm hồn vị Hoàng tử thanh niên.
Nhưng rồi có những lúc Nan Ðà thiêu thiếu một cái gì. Chàng tiếc rẽ cái áo gấm chăng? Ðâu phải thế! Trước đây cũng có nhiều lần chàng áo ước cởi bỏ nó đi để được mát mẻ. Chàng tiếc một cái gì? Ðó là các sinh hoạt cũ, cái lối ăn chơi say sưa bên cạnh những người vũ nữ có bàn tay ngọc ngà, có thân hình mềm mại.
Ðức Phật thừa hiểu rằng trong một sớm một chiều, Nan Ðà chưa thể giác ngộ được chân lý nên chú ý đến Nan Ðà nhiều hơn các đệ tử khác. Một hôm, có người mời Phật đi thọ trai, Ngài không đưa Nan Ðà đi mà còn kêu đến đưa bình bát cho và dặn nhà múc nước đổ vào cho đầy.
Ðược ở nhà, Nan Ðà là vui thích vì chàng thấy có cơ hội trở về thăm cung điện và các mỹ nữ. Biết như thế là sai lầm nhưng có một sức mạnh nào thúc đẩy mãnh liệt. Dầu sao, Nan Ðà cũng không quên lời Phật dặn "đổ nước vào bình bát" mà chàng không biết đổ để làm gì. Cái bình bát nhỏ bè này, hãy đổ vào một gàu là đầy ngay và rồi sẽ trở về thăm cung điện cũng không muộn. Nan Ðà đem bình bát ra giếng. Chàng xách lên gàu nước và đổ nước vào. Chàng cẩn thận để nước khỏi đổ ra ngoài. Lạ quá! Gàu nước đồ hết rồi mà sao không thấy nước tràn lên miệng bình. Nan Ðà cúi xuống xem bình bát có bị nứt không. Tuyệt nhiên không một đường rạn nào, lớp men vẫn liền láng. Chàng múc gàu nước thứ hai, thứ ba, thứ tư và liên tiếp nhanh tay đổ vào. Lạ thật, không có nước chảy ra ngoài mà nước đổ vào biến đi đâu cả.
Nan Ðà đã mệt nhoài mà bình bát vẫn không được một tí nào cả. Làm sao để về thăm cung điện? Nôn nả quá, chàng để bình bát ngay bên giếng và vụt chạy đi, hẹn trong lòng chốc trở lại sẽ tiếp tục đổ nước vào.
Chạy được một quảng, Nan Ðà thấy ở xa có đoàn người đi ngược lại. Chàng dừng lại nhìn. Khốn rồi! Chính Phật và đoàn đệ tử thọ trai về. Nan Ðà biết không có cách nào tránh khỏi, bèn nép bên đường, cúi mặt nhìn xuống đất. Phật đến bên Nan Ðà hiền lành bảo:
- Thôi! Trở lại. Em hãy còn lời hứa đối với ta, còn công việc ta giao chưa làm xong. Hãy tự chiến thắng mình mới đi đến đích cuối cùng.
Nan Ðà đi theo Ngài cùng trở về Tịnh xá.
Năm hôm sau, trong cuộc du hành thuyết pháp ở cõi trời, Phật cho Nan Ðà đi theo, Nan Ðà mừng lắm.
Ðấy là một trong những cõi trời đẹp đẽ và hạnh phúc nhất. Không biết bao nhiêu lâu đài tráng lệ nguy nga. Những chiếc bàn, những độc bình bằng thủy tinh muôn màu rực rỡ. Những vườn hoa với các cây xanh mướt, quanh năm hoa nở thắm tươi và tỏa mùi hương nồng ấm. Ánh sáng một màu huyền ảo. Mặt trời không gay gắt, ban ngày vẫn có sao sáng và ban đêm trời luôn luôn sáng, thứ ánh sáng vàng trắng của những đêm rằm.
Phật đưa Nan Ðà đến một cung điện rực rỡ. Các tiên ông râu bạc trắng ra đón tiếp. Phật thuyết pháp cho họ nghe. Trong lúc đó các nàng tiên mời Nan Ðà đi xem khắp nơi. Chỗ nào Nan Ðà cũng tấm tắc khen ngợi. Rồi các nàng tiên múa cho Nan Ðà xem. Những gương mặt tươi đẹp như chưa bao giờ lo buồn, các điệu múa uyển chuyển như còn gởi mãi trong không gian các đường nét mềm mại. Sau đó Nan Ðà hỏi họ:
- Ai sẽ có vinh hạnh hưởng cảnh sống êm đẹp trong những cung điện ở đây?
Các nàng tiên nhỏ nhẹ thưa:
- Cung điện, vườn hoa, ánh sáng ở đây đang chờ đón một người tên là Nan Ðà, nếu người ấy tu hành được chánh quả.
Nan Ðà sung sướng nhẹ nhõm khi theo các nàng về cung điện.
Trên đườg về Tịnh xá, Nan Ðà định hỏi Phật xem lời các nàng tiên nói có đúng không, nhưng không dám, chỉ tự bảo với mình phải cố gắng tu tập. Nhưng biết đến bao giờ mới lên cõi trời sung sướng. Nan Ðà nôn nả nên thiếu thái độ hiền từ, tĩnh tâm, định trí. Và cái hăng hái của những ngày mới trở về lần lần phai nhạt.
Một thời gian sau, Phật lại chuẩn bị một cuộc đi truyền thuyết xa và Nan Ðà cũng được đi theo. Lần này Phật dẫn chàng xuống địa ngục.
Ðịa ngục bày ta trước mắt Nan Ðà trước những cảnh tượng ghê rợn. Ðây là một người đàn ông bị ép dưới một tản đá khổng lồ. Tảng đá lún dần, lún dần trong tiếng kêu thắt nghẹn trong tiếng răng rắc của bộ xương ngực, xương tay, xương chân đang dập nát. Ðây là một người đàn bà mang trên đầu một vành lửa đỏ. Tóc của người ấy cũng cháy khét lẹt; và tay bị trói chặt ra phía sau, người đàn bà vừa chạy vừa kêu không ra tiếng người. Nan Ðà biết những hình phạt ấy là do sự tàn ác của họ ở kiếp trước nên im lặng đi theo Phật. Gương mặt của Ngài tỏ vẻ vô cùng thương xót và Ngài cầu nguyện cho họ.
Ðến một đoạn nữa, Nan Ðà thấy trước mặt có năm chảo dầu xếp thành hành dài trước mặt một cái đền tối om. Năm con quỷ đang sắp sửa đun lửa. Trong bốn cái chảo đã có bốn người không rõ là đàn ông hay đàn bà. Lửa đỏ, dầu gần sôi. Người trong chảo vẫy vùng, chồm lên rồi lại rơi xuống. Tiếng kêu của họ tắt đi trong tiếng sôi sùng sục của dầu, tiếng củi cháy phừng phực. Nan Ðà đến gần con quỷ coi chảo dầu thứ năm và hỏi:
- Tại sao trong nầy lại không có người nào?
Con quỷ không nhìn Nan Ðà, chăm chú coi lửa và trả lời:
- Chảo không này cứ đun sẵn, để dành riêng cho một người tên là Nan Ðà nếu người ấy biếng nhác, không lo tu tập.
Nan Ðà giật nẩy mình và không dám hỏi thêm gì nữa.
Từ độ ấy về, Nan Ðà không một chút nào dám xao nhãng việc tu niệm, chàng lo tụng niệm, thuộc làu kinh kệ. Mãi đến chiều chiều, Nan Ðà mới để một ít thì giờ đi dạo ngoài vườn Tịnh xá.
Nhưng có một điều là chàng đến chỗ nào, người chỗ ấy đều lánh đi nơi khác. Nan Ðà bực lắm. Có một hôm Nan Ðà đến gặp Ngài A Nan, Ngài A Nan là em họ chàng và là đệ tử yêu mến nhất của Ðức Phật. Thấy Nan Ðà đến, Ngài A Nan cũng lánh đi nơi khác. Không thể giữ nổi sự bực bội trong lòng, chàng đến trước mặt Ngài A Nan là lấy lời kính cẩn thưa:
- "Xin chú cho tôi biết vì lẽ gì các Ngài và chú lại không muốn gặp tôi. Tôi tưởng đã ở một đạo với nhau, hơn nữa lại là bà con, chú cũng không nên đối xử với tôi như thế".
Ngài A Nan biết không còn cơ hội nào tốt hơn cơ hội nầy để trình bày cho Nan Ðà rõ đầu đuôi nên ôn tồn bảo:- Chúng ta tuy theo một đạo nhưng mục đích chúng ta không giống nhau. Anh nhắm một mục đích khác. Anh tu hành để được lên cõi tiên, để sống trong hạnh phúc, riêng anh, tu hành vì cảnh khủng khiếp của địa ngục. Anh Nan Ðà ơi! Mục đích của anh hẹp hòi. Phải lấy sự đau khổ của chúng sinh làm đau khổ của mình, xem thường tài sản và tính mệnh của mình, phát tâm thực hành lục độ để giải thoát vô lượng chúng sanh. Ðó là mục đích của thầy ta, của chúng ta, của những người tu hành chân chính.
Ngài A Nan dừng lại để Nan Ðà kịp suy nghiệm. Rồi âu yếm nhìn Nan Ðà Ngài nói tiếp.
- Anh Nan Ðà ơi! Ðường tu hành còn dài lắm, cho đến khi nào chúng sinh không còn khổ đau. Cho nên không nhìn một mục đích cao rộng, ta sẽ dễ nản lòng thối chí như anh, đã có lần muốn bỏ dỡ công cuộc nửa chừng. Phải can đảm lên anh ạ! Quả lành sẽ đến với chúng ta.
Lời Ngài A Nan đi thẳng vào tâm can, vào trí óc A Nan. Từ đó Nan Ðà công phu tu luyện với mục đích cao quý giải thoát cho chúng sanh và một ngày kia, bước theo A Nan, Nan Ðà trở thành một đệ tử chân chính của Ðức Phật, trở thành Nan Ðà tôn giả đáng kính mến muôn đời của chúng ta.