CÔN ĐẢO – HÒN NGỌC CỦA VŨNG TÀU
Côn
Lôn tức Côn Đảo là một quần đảo xa xôi trên biển đông, nơi đã từng là “địa ngục
trần gian” giam cầm những người Việt Nam yêu nước chống lại chế độ Thực Dân
Pháp và chính quyền Sài Gòn trong suốt 113 năm ( 1862 – 1975 ). Ngày nay, côn
đảo đã chuyển mình, là thiên đường du lịch xanh với những bờ cát trắng, nước
biển trong xanh, rừng nguyên sinh và núi non hùng vĩ. Những đảo nhỏ bao quanh
cũng là điểm hẹn lý tưởng cho các bạn trẻ yêu thích dã ngoại, bơi lặn …… hay đi tìm một không gian lãng mạn riêng
tư. Bao quanh Côn Lôn tức là Côn Đảo có 15 hòn đảo khác là:
1. Hòn Côn Lôn nhỏ tức Hòn Bà ngày nay (còn gọi là Phú
Sơn) nằm về phía Tây Nam của hòn Côn Lôn có diện tích 5,450km2. Hòn Côn Lôn nhỏ
cách hòn Côn Lôn lớn bởi một khi nước khoảng khoảng 20m gọi là Họng Đầm (cửa
tử). Nơi đây còn có đỉnh núi cao 321m gọ là Đỉnh Tình Yêu.
2.
Hòn Bảy Cạnh (hay Phú Cường) cách
Côn Lôn 7km về phía Đông Nam, có diện tích 5,500km2. Ở đây có ngọn hải đăng,
được xây dựng từ năm 1884. Hiện nay ngọn hải đăng này vẫn còn đang hoạt động
với tầm bán kính 72km, để hướng dẫn tàu thuyền đi lại gần vùng biển Côn Đảo.
3.
Hòn Cau (hay Phú Lệ) có diện tích
1,800km2 nằm cách Côn Lôn 12km về phía Đông. Đảo này có nhà ngục giam tù chính
trị và trong thời gian Pháp thuộc 1930 – 1931 đồng chí Phạm Văn Đồng đã bị đày
ra đày ra đảo Hòn Cau này.
4.
Hòn Bông Lan (hay Phú Phong) có
diện tích 0,150km2 có hình dạng như chiếc bánh bông lan
5.
Hòn Vung (hay Phú Vinh) có diện
tích 0,150km có hình dạng như chiếc vung nồi úp chụp trên mặt biển xanh.
6.
Hòn Trọc: (hay Phú Nghĩa) có diện
tích 0,400km2, nơi này có nguồn khai thác ngọc trai quý giá.
7.
Hòn Trứng (hay Phú Thọ): có diện
tích 0,100km2 với hình dạng như một quả trứng khổng lồ.
8.
Hòn Tài Lớn (hay Phú Bình) có diện
tích 0,380km2
9.
Hòn Tài Nhỏ (hay Phú An) có diện
tích 0,250km2.
10.
Hòn Trác Lớn (hay Phú Hưng) có
diện tích 0,250km2.
11.
Hòn Trác Nhỏ (hay Phú Thịnh) có
diện tích 0,100km2. Bốn hòn đảo này là chuổi đảo liên tiếp nối với hòn Bảy
Cạnh trải dài từ Đông Bắc xuống Tây Nam
che chắn bên ngoài hòn Côn Lôn.
12.
Hòn Tre Lớn (hay Phú Hòa) có diện
tich 0,750km2
13.
Hòn Tre Nhỏ (hay Phú Hội) có diện
tích 0,250; hai đảo này có rất nhiều tre. Năm 1930 – 1931 thực dân Pháp đã dùng
Hòn Tre Lớn làm nơi lưu đày tù chính trị như ở Hòn Cau và nơi đây đồng chí Lê
Duẩn bị đày ải một thời gian.
14.
Hòn Anh (hay hòn Trứng Lớn)
15.
Hòn Em (hay hòn Trứng Nhỏ) hai đảo
này nằm phía Tây Nam của Côn Lôn, và cách đảo chính gần 25 hải lý.
Lịch
sử :
· 1284:
Nhà thám hiểm Marco Polo ghé Côn Đảo để tránh bão
· đầu thế kỷ 16, những thủy thủ Bồ Đào Nha lần
đầu đặt chân lên côn đảo
· 1783:
Nguyễn Ánh bị truy đuổi ra tận côn đảo.
· 28/11/1787:
Linh mục Bá Đa Lộc thay mặt chúa Nguyễn kí hiệp ước Versailles, công nhận một
số quyền lợi của Pháp tại côn đảo
· 28/11/1861:
Thực dân Pháp đánh chiếm côn đảo.
· 20/3
đến 19/4/1895: Nhà soạn nhạc lừng danh người pháp là Camille Saint Saens hoàn
thành 3 chương cuối của cở nhạc kịch Brunenhilda tại Côn Đảo.
· 1862
đến 1975: Côn Đảo là nơi giam cầm những người yêu nước chống lại chế độ thực
dân pháp và chính quyền sài gòn
· 1976
đến nay: Côn Đảo là điểm hẹn của những cựu tù và những người yêu thích thiên
nhiên.
Côn
Đảo có 285 loài thực vật, 100 loài chim thú; nhiều loại cây đặc trưng cho rừng
ở Miền Bắc, miền Trung, miền Nam và rừng nước mặn. Có những loại chim thú riêng
có ở Côn Đảo như: sóc mun, chim gầm ghì trắng và nhiều sản vật quý như tổ yến, đồi
mồi, vích, cá heo, cá mập, hải sâm, rau câu…
Cách
Vũng Tàu 97 hải lý, Côn Đảo là một quần đảo bao gồm 16 đảo nằm ở 1060 36’
kinh đông và 8046’ vĩ bắc, đảo lớn nhất là côn sơn có diện tích 51,5
km2, với chiều dài khoảng 15 km và chiều rộng từ 1 – 3 km. Đảo có
địa hình đồi núi, hầu hết được phủ rừng, ngọn núi cao nhất là đỉnh thánh giá
cao 577m.
Côn
Đảo có khí hậu nhiệt đới với hai mùa rõ rệt trong năm : Khí hậu Côn Đảo mát mẻ,
thuận lợi cho sức khỏe con người. Nhiệt độ tring bình hàng năm 28oC. Mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11 (gió mùa tây nam), mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 (gió
mùa đông bắc), lượng mưa trung bình là 2.200,7 mm, nếu đến côn đảo bằng máy
bay, chúng ta có thể đi bất cứ lúc nào trong năm, nếu ra đảo bằng tàu thủy, thì thời gian tốt nhất từ tháng 3 đến tháng 7
– đây là mùa biển êm. Côn Đảo có 200km bờ biển với hàng chục bãi tắm đẹp. Nổi
tiếng là bãi Rong, bãi Đầm Trầu, bãi Ông Đụng.
Những phát hiện về khào cổ học cho
biết lớp dân cư đầu tiên đã có mặt ở Côn Đảo cách đây từ 4.000 – 5.000 năm. Họ
có mối quan hệ văn hóa gần gũi với chủ nhân di tích khảo cổ thời hậu kỳ đồng
thau, sơ kỳ đồ sắt ở lưu vực sông Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ).
Trong quá trình lập nghiệp ở Đàng
Trong, các chúa Nguyễn đã quan tâm thực hiện chủ quyền đất nước với các quần
đảo Trường Sa, Hoàng Sa và Côn Đảo. Đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1752), Côn
Đảo do hội Hoàng Sa quản lý. Thất bại trong cuộc giao tranh với quân Tây Sơn
năm 1783, chúa Nguyễn Ánh đã rút quân ra Côn Đảo, đem theo 100 gia đình, lập
nên các làng An Hội, An Hải, Cỏ Ống và Hòn Cau. Nhiều năm sau, dân nghèo các
tỉnh Vĩnh Long, Gia Định, Định Tường, Biên Hòa được chúa Nguyễn khuyến khích ra
lập nghiệp tại Côn Đảo. Chính quyền sở tại ưu tiên cấp vốn, công cụ, trâu bò và
phương tiện ra đảo cho họ.
Từ thưở ấy trong công cuộc khai phá
quần đảo, dựng làng, lập ấp đã để lại nhiều dấu ấn trong nhiều truyền thuyết
gắn với tên núi, tên làng trên hòn đảo này.
Từ sau ngày giải phóng, Côn Đảo là một
đơn vị hành chánh cấp tỉnh, sau trở thành một huyện của TP. Hồ Chí Minh, rồi
thuộc tỉnh Hậu Giang, đến tháng 5/1979 là một quận của đặc khu Vũng Tàu – Côn
Đảo; từ tháng 10/1991 đến nay là một huyện của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Qua nhiều đổi thay, Côn Đảo bao giờ
cũng là một đơn vị hành chính hết sức đặc biệt: Tỉnh không có quận, huyện không
có xã, phường. Trong nhiều năm qua dân số Côn Đảo biến động ở mức 2.000 người,
tương đương với dân số ở một xã hẻo lánh ở miền núi. Lịch sử đã để lại trên hòn
đảo này một nhà tù với chiều dài hơn một
thế kỷ. trong hơn một thế kỷ ấy, ngoài hệ thống nhà tù và bộ máy trị tù, Côn
Đảo không có một cơ cấu dân cư, không có một cơ sở kinh tế - xã hội nào khác.
Thêm vào đó là sự cách trở với đất liền khiến cho việc phát triển kinh tế xã
hội ở Côn Đảo gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
Côn Đảo từ hơn 40 năm qua, kể từ ngày
hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ Côn Đảo đặt lên hàng đầu nhiệm vụ bào tồn, tôn
tạo khu di tích lịch sữ Côn Đảo, kết hợp với việc khai thác những tiềm năng
kinh tế và bảo vệ an ninh quốc phòng. Từng bước ổn định đời sống của cán bộ và nhân
dân trên đảo, ngăn ngừa sự xuống cấp của khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo,
xây dựng đề án bảo tồn khu di tìch và xây dựng quy hoạch tổng thể huyện Côn Đảo
(CĐ) là một trong những vấn đề chủ yếu mà Đảng bộ và nhân dân Côn Đào đã nổ lực
phấn đấu trong 20 năm qua.
Những năm gần đây CĐ đã thực sự chuyển
mình, phát huy mạnh mẽ những tiềm năng vốn có. Một trung tâm dịch vụ đánh bắt
và thu mua hải sản đang được hình thành trên đảo. Hàng trăm ghe đánh cá từ các
tỉnh miền Trung, miền Tây quần tụ về đây với số lượng ngư dân có lúc đông hơn
dân đảo. Hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc giữa CĐ với đất liền
đã có những bước tiến lớn. Số lượng khách du lịch đến thăm CĐ ngày càng nhiều,
trong đó có nhiều đoàn khách quốc tế. Khách đến thă CĐ đã tận mắt chứng kiến
những di vật lưu lại mà người tù chính trị đã làm nên những kỳ tích lớn lao
trong một nhà tù khổng lồ và khắc nghiệt có một không hai ở xứ Đông Dương. Đứng
trước một di tích lịch sử chuồng Cọp, Chuồng Bò, xà lim, hầm đá hay một nghĩa
trang liệt sỹ Hàng Dương, Hàng Keo với vô
số nấm mộ có tên và không tên thì không ai có thể dửng dưng trước nền
độc lập của dân tộc và máu xương của các thế hệ tiền bối. CĐ đã và đang thực sự
trở thành một trường học lớn cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Côn Đảo Nguồn Gốc các địa danh
SỰ
TÍCH NÚI CHÚA
Núi Chúa cao 515m, nằm ở khu vực trung tâm đảo lớn
sừng sững nhu bức tường thành che chắn phía tây bắc cho thị trấn Côn Sơn. Chưa
phải là ngọn núi cao nhất (núi An Hải cao 575m) nhưng núi Chúa gắn liên với
truyền thuyết thời chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu ra Côn Đảo. Năm 1883, bị quan Tây
Sơn đánh cho đại bại ở cửa Cần Giờ, Nguyễn Ánh chạy dạt ra Côn Đảo. Sợ vía quân
Tây Sơn, Nguyễn Ánh leo tuốt lên núi ở, buộc quân sỹ phục dịch rất khổ sở.
Chẳng bao lâu, chuyến thuyền quân Tây Sơn đuổi đến, Nguyễn Ánh tháo chạy ra đảo
Thổ Chu, bỏ lại hàng trăm thân quyến, trong đó có vị cận thần và bà thứ phi đã
dám đứng ra khuyên can Ánh đừng nên cõng rắn cắn gà nhà. Ngọn núi được mang tên
núi Chúa như một địa danh chúa ngự, vừa hàm ý chê cười chúa Nguyễn Ánh tham
vọng lớn mà khí phách, can trường chẳng có được bao nhiêu. Trên núi còn dấu
tích một bàn cờ khắc trên đá, vừa tầm 2 người ngồi chơi, tục truyền do quân sỹ
tạo dựng làm nơi vui chơi cho Chúa. Năm 16962, chúa đảo Lê Văn Thể cho quân truy
tìm, sửa sang lại bàn cờ, chuẩn bị rước Tổng Thống ngụy Ngô Đình Diệm ra thăm
vào dịp lễ Nôen năm ấy, nhưng cuộc đón tiếp của thiếu tá Thể không thành, Ngô
Đình Diệm bãi bỏ chuyến đi vì phong trào cách mạng miền Nam đang tiến công mạnh
mẽ.
SỰ TÍCH HÒN BÀ
Hòn Bà nằm kế hòn lớn Côn Đảo, cách nhau một doi nước
hẹp gọi là Họng Đầm tạo hợp với hòn Côn Đảo thành Vịnh Bến Đầm, nước sâu, kín
gió, có thể xây dựng thành hải cảng rất tốt. Hòn Bà rộng hơn 5km2, trên đỉnh có
một tảng đá dựng tựa hình vọng phu, có người nói rằng vì thế mà có tên Hòn Bà.
Một cách giải thích khác cho rằng Hòn Bà do chữ Bến Đầm, họng Đầm (tiếng Pháp:
Dame là Bà, phụ nữ) mà ra. Những người dân Côn Đảo có cách giải thích riêng gắn
với truyền thuyết về bà. Bà thứ phi của Nguyễn Ánh tên tục Nguyễn Thị Răm, được
tôn là Bà Phi Yến. Biết Nguyễn Ánh định gửi Hoàng Tử Cảnh làm con tin để cầu
viện binh Pháp, chống quân Tây Sơn, Bà đã lựa lời khuyên:
Việc
chúa công đánh nhau với Tây Sơn nên mộ binh trong xứ. Nếu nhờ ngoại viện, có
thắng cũng chẳng vẻ vang gì, mà thiếp e có nhiều chuyện rắc rối về sau. Nổi
giận vì trái ý, Ánh ghép Bà vào tội
thông đồng với Tây Sơn. Nhờ các cận thận can gián, Bà khỏi tội chém, nhưng bị
giam vào hang núi trên hòn đảo nhỏ, nay mang tên Hòn Bà. Trước hang đá có nhiều
hòn lớn chắn ngang, bà không ra được, trong hang chỉ có một ít bánh dầy và một
chum nước lã vừa đủ sống chừng nửa tháng. Tại đó có con vượn bạch là một con
vật hết sức khôn ngoan và trung thành luôn luôn ở cạnh để hầu hạ bà.
Vừa
nhốt xong bà Phi Yến, bỗng nghe tin có quân Tây Sơn đuổi tới nơi, Ánh cùng đám cận
thần lên thuyền chạy qua Phú Quốc. Theo với đám người tuôn chạy có con hắc hổ
của hoàng tử Cải, nó rất mến hoàng tử. Hoàng tử Cải không thấy Mẹ, khóc lóc
thảm thiết và yêu cầu cha: “Một là cho hoàng mẫu cùng theo, hai là được ở lại
sống chết với mẹ” Nguyễn Ánh dứt tình cho rằng hoàng tử đồng lòng phản trắc với
mẹ nên sai quẳng cậu bé vô tội xuống biển. Khi thấy hoàng tử rớt xuống biển,
con hắc hổ vội vàng phóng theo, nhưng cọp đen có thể lội nước vào bãi cạn dễ
dàng, còn hoàng tử Hội An mới có 8 tuổi đành phải chịu chết chìm. Xác cậu trôi
dạt vào Cỏ Ống, được dân làng an táng và
lập miếu thờ. Còn con hắc hổ ngày đêm nằm bên nấm mồ của hoàng tử. Dân làng Cỏ
Ống thấy con vật mà ăn ở có nghĩa như vậy nên cũng động lòng bèn họp nhau cào
đất chất đá cho nấm mồ cao thêm lên rồi lập miếu thờ. Miếu ấy được gọi về sau
là Miếu Cậu
Một
hôm không rõ đây là tình cờ hay do một sự huyền bí nào đó mà cọp đen lại gặp
vượn trắng. không biết nói, vượn bạch đã tỏ dấu và nó hướng dẫn con hắc hổ qua
tận bên hòn đảo (tức Hòn Bà ngày nay) để được gặp bà Phi Yến đang bị giam cầm
trong một động đá. Sau mấy chập mừng mừng tủi tủi, con hắc hổ và vượn bạch ra
dấu hiệu như bảo bà cùng đi theo, bà gượng sức leo lên lưng cọp cho nó cõng đi.
Hơn nửa ngày vượt suối qua đèo vất vả lắm mới qua được tới ven rừng Cỏ Ống. Khi
tới trước mồ của hoàng tử, hai con vật dừng chân lại, nhìn nấm mồ mới đắp và
lúc đó bà mới hiểu rằng con mình đã lìa đời. Song bà chưa rõ nguyên nhân tại
sao. Dân làng Cỏ Ống hay tin kéo tới rất đông, kể cho bà nghe mọi chuyện. Sau
đó, dân làng bèn xúm nhau lại làm một ngôi nhà khá đẹp ở ngay bên cạnh mả Cậu
để bà được trực tiếp sớm hôm chăm sóc ngôi mộ đứa con vô phúc của mình. Thời
bấy giờ có câu hát lịch sử:
“Gió đưa cây cải
về trời
Rau răm ở lại chịu đời đắng cay”
Cũng trong thời gian này, Bà Phi Yến
có sáng tác một bài thơ được truyền miệng cho đến hôm nay
“Đốt nén hương thề tạ Chúa công
Can vua nên nỗi
tội thông đồng
Ngai vàng một thưở
ngồi chưa vững
Bia đá nghìn năm
vết vẫn còn
Máu chảy ruột mềm
đau phận thiếp
Nồi da xáo thịt
thỏa lòng ông
Sông sâu, núi
thẳm, hoa mờ lệ
Đã khóc cho con
lại khóc chồng”
MIẾU BÀ VÀ ĐỀN AN HẢI
Ở gần Họng Đầm, đối diện với Hòn Bà,
có ngôi Miếu Bà dựng lên để ghi lại công
người phụ nữ can đảm dám can chúa Nguyễn Ánh đừng “cõng rắn cắn gà nhà”. Sau
khi Phi Yến chết, ngôi đền thờ Bà được dựng lên tại làng An Hải, gần thị trấn
Côn Đảo. Việc xây ngôi đền thờ Bà tại làng An Hải có một lý do lịch sử.
Rằm tháng 7 năm Ất Hợi (1785) bên hương chức làng An Hải cử đại diện
qua làng Cỏ Ống để thỉnh bà về dự lễ xá tội vong nhân. Buổi lễ kéo dài đến
khuya , sau đó Bà nghỉ đêm trong nhà việc tại làng An Hải để ngày hôm sau về Cỏ
Ống. Năm ấy Bà 24 tuổi , dung nhan còn lộng lẫy. Trong làng có tên đồ tể tên là
Biện Thi đem lòng tà dục, mò vào cấm phòng nắm lấy tay Bà. Nghe tiếng Bà tri
hô, dân làng kéo đến đóng gông tên Biện Thi chờ ngày xử tội. Theo luân lý xưa
không đợi gì có cưỡng bức mới gọi là thất tiết, chỉ cần nắm tay, động tới tà áo
coi như bị xâm phạm tiết hạnh rồi. Bà Phi Yến bấy lâu nay tuy dứt tình, vẫn giữ
vẹn mình trong sạch, bởi thế bà tự mình chặt đứt cánh tay ấy và nhờ một bà lão
đem chôn ở một nơi riêng biệt. Nhưng vẫn chưa thấy hết tủi nhục trong lòng Bà
đã quyên sinh giữ vẹn danh tiết.
Khi tin chẳng lành này được lan
truyền, toàn thể dân làng Cỏ Ống phẩn uất chẳng khác nào lửa đổ thêm dầu; với
đủ thứ gậy gộc, giáo mác, kéo sang làng An Hải buộc dân làng An Hải phải làm
thế nào cho bà sống lại, bằng không họ sẽ tiêu diệt cả làng. Do sự dàn xếp khôn
khéo của quan Hải Trấn, dân làng Cỏ Ống dần dần bớt cơn thịnh nộ. khi đó quan
Hải Trấn đưa ra giải pháp dung hòa như sau: Làng An Hải làm heo tạ lỗi và giải
nộp tên Biện Thi cho làng Cỏ Ống được toàn quyền định đoạt.
Số phận đã an bài cho bà nằm xuống tại
làng An Hải nên cũng theo ý trời để thi hài bà lại cho làng An Hải lo việc tống
táng và lập miếu thờ. Hàng năm cúng bái có sự tham dự của các giới chức và dân
làng Cỏ Ống.
Sau khi tống táng thi hài bà, một cuộc
hành quyết diễn ra tại làng Cỏ Ống. Tên Biện Thi phải đền tội bằng cách xử bá
đao, mỗi người dân Cỏ Ống đều cầm dao xẻo một miếng thịt của tên tội phạm.
Về sau người ta truyền rằng Bà Phi Yến
và hoàng tử Hội An đã hiển thánh thường hiện hình về mách bảo cho dân làng biết
điềm lành hay chuyện dữ sắp xảy ra.
Bà đã nêu cao tấm gương ái quốc và
sáng suốt nhận định được quốc vận hậu lai. Trước cảnh búa rìu sấm sé của một
ông chúa độc đoán, bà vẫn cương quyết chống trả không chịu đồng lõa những hành
động có tội với lịch sử. Đến như hoàng tử Hội An tuy mới vừa lên 8 tuổi cũng đã
tỏ ra là đứa con chí hiếu, thà chịu chết với mẹ hiền còn hơn ham sống với một
người cha độc ác. Người xưa đã có 4 câu thơ để tặng:
“Lòng đất chôn sâu niềm uất hận
Lưng trời đeo mãi
vết tang thương
Thương người cương
trực liều thân thể
Trách kẻ tà tây dạ
khó lường”
Từ khi Pháp chiếm Côn Đảo lập nhà tù,
thường dân bị đưa vào đất liền. Ngôi đền cổ uy nghi đã hoang tàn, xiêu vẹo. Năm
1958, những công chức trên đảo đã xin phép nhà cầm quyền, quyên góp tiền bạc và
huy động sức tù xây lại ngôi đền trên vị trí của tòa miếu cổ. Bài vị thờ Bà đặt
tại ngôi chính điện, với đôi câu đối:
“MẪU
NGHI XƯNG HẬU ẤM CÔN BANG – THÁNH ĐẮC PHỐI THIÊN AN HẢI QUỐC”
Hai bên tả - hữu hoàng tử Cải và quan
đô đốc Ngọc Lâm, người đã can gián chúa Nguyễn xin Bà khỏi tội chết khi Ánh
ghép Bà vào tội thông đồng với Tây Sơn. Trên hàng cột trước cửa đền được khắc
nổi câu đối của một tù chính trị để tặng người nữ trung hào kiệt:
“TRUNG NGHĨA GIÁN QUÂN THIÊN CỔ CHIẾU
– TIẾT HẠNH QUYÊN SINH VẠN ĐẠI TRUYỀN”
SỰ TÍCH HÒN CAU VÀ BÃI ĐẦM TRẦU
Thưở xưa Làng Cỏ Ống có chàng Trúc Văn
cau thông minh tháo vát, con ông Cau và
bà Tranh, cùng lứa với cô Mai Thị Trầu, con ông Đinh, bà Bèo, một thiếu nữ
duyên dáng, thạo nghiệp bút nghiêng. Trai tài gái sắc, đôi bên đem lòng cảm
mến. Một lần tình cờ gặp gỡ bên dòng suối vắng, chàng trai đã mượn câu ca dao
ướm thử lòng người xuân nữ: “Tiện đây anh mới hỏi nàng. Cau tươi ăn với trầu vàng
xứng không?’ Người con gái vốn thông minh đã đáp lại bằng một câu ca dao hợp
tình, hợp cảnh:”Mai vàng chen với trúc xanh. Duyên em sánh với tình anh tyệt
vời”, Biết rõ lòng nhau, chàng Cau ngỏ lời xin cha cưới nàng làm vợ, ông Câu
nghe nói rụng rời tay chân, bèn bộc lộ cho con biết, nàng Trầu chính là kết quả
mối tình vụng trộm giữa ông Câu với bà Bèo thời trai trẻ. Chàng Cau bàng hoàng
như sét đánh ngang tai vì trong lúc quá yêu, chàng đã trót hái “trái cấm” nơi
đứa em cùng cha khác mẹ. Trúc Văn Cau ôm hận thả bè qua một thung lũng hoang
vắng trên hòn đảo cách xa làng hơn 10 dặm , ẩn dật ở đấy cho đến chết. Người
đời đặt tên đảo là Hòn Cau. Nơi chàng nằm xuống sau mọc lên một rừng cau xanh
tốt quanh năm, mùa trái chín đỏ rực.
Nàng
Trầu đau đớn, ngày ngày ra ngóng nơi vách đá khi xưa thường hò hẹn. Khi thấy
thai nhi đã lớn , cũng là lúc nàng biết chuyện tình buồn của cha mẹ, và hiểu
rằng chàng Cau không bao giờ về nữa. Hoàn toàn tuyệt vọng, nàng gieo mình xuống
nước. Nơi nàng tự vận, nay mang tên là bãi Đầm Trầu. Cảm thương đôi bạn trẻ chết
vì mối tình oan nghiệt, dân làng Cỏ Ống đã đặt câu ca: Ai về nhắn gởi ông Câu –
Hòn Cau cách bãi Đầm Trầm bao xa?’ Bãi Đầm Trầu là nơi phong cảnh tuyệt đẹp. Bờ
cát mịn trải dài dưới chân vách đá dựng muôn hình. Trên một triền đá vươn ra
tận biển nổi lên 2 tảng đá lớn, chụm đầu vào nhau như đôi bạn đang trò chơi
chuyện mải mê, quên hết thời gian, năm tháng. Đặc biệt là nước biển ở đây trong
và xanh hơn bất cứ nơi nào. Sắc xanh một khoảng trời, một cánh rừng đổ bóng,
hòa vào màu xanh trong của biển trời nơi ấy.
Sau
chuyện tình bi đát ấy xảy ra, ông Câu thấy lương tâm bị cắn rứt phải bỏ làng Cỏ
Ống lánh sang một bãi bên sau núi Chúa mà ở, sau này ông qua đời người ta gọi
nơi ấy là bãi Ông Câu. Đồng thời bà Bèo cũng không sống nỗi với tiếng bấc tiếng
chì trong cảnh gia đình xào xáo nên bà phải bỏ nhà vô tận trong bưng để sống
độc thân, nơi ấy sau này gọi là bưng Bà Bèo. Về phần ông Đinh cũng chẳng kém
gì. Quá buồn do chuyện vợ con, ông vào tu trong một hốc núi bên cạnh con đường
qua nhà người anh cả là Ông Cường. Do đó sau này mới có tên là bãi ông Cường và
hốc ông Đinh.
Riêng
bà Tranh (vợ ông Câu) rất thương chồng và nhớ con song không tội gì phải bỏ đi
đâu. Bà vẫn ở trong ngôi nhà cũ. Vì không có người thừa tự sau khi bà mất, dân
trong ấp được chia nhau thừa hưởng hoa lợi trong khu vườn cây trái của bà. Để
nhớ ơn bà, dân trong ấp lấy tên bà đặt tên ấp. Từ đó, nơi đây được mệnh danh là
ấp Trảng Tranh. Đến ngày nay dân làng Cỏ Ống vẫn còn truyền miệng câu thơ diễn
tả nỗi niềm bi đát của mối tình ngang trái giữa chàng Cau và nàng Trầu
“Đi đâu mà chẳng thấy về
Hay là quần tía
dựa kề áo nâu
Ai về nhắn với ông
Câu
Hòn Cau cách bãi
Đầm Trầu bao xa”
HÒN TRÁC – HÒN TÀI
Phía trước thị trấn Côn Đảo, từ mũi Cá
Mập, một chuỗi đảo nhỏ nằm gần nhau, mang tên Hòn Trác lớn, hòn Trác nhỏ, hòn
Tài lớn, hòn Tài nhỏ. Người xưa gọi nhóm đảo này là hòn huynh đệ. Chuyện kể
rằng có 2 anh em sinh đôi là Đặng Phong Tài và Đặng Trác Vân, giống nhau như
đúc. Đặng Phong Tài bị biệt xứ ra đảo từ thời Minh Mạng, được vị hương cả làng
An Hải mến mộ tài đức, gả cho người con gái yêu là Đào Minh Nguyệt. Hai vợ
chồng sống rất hạnh phúc trong ấp An Hội. Nàng Minh Nguyệt có nhan sắc, nết na,
trai làng thường gọi là nàng Tiên An Hội.
Ít lâu sau, Đặng Trác Vân, ngườ em
sinh đôi với Phong Tài cũng bị biệt xứ ra đảo, được người anh và chị dâu đón về
ở cùng nhà. Lạ thay 2 anh em giống nhau như hai giọt nước. Tình cờ, một lần
Trác Vân đi đốn củi về sớm, người chị dâu ngỡ là chồng về, săn sóc ân cần và
tặng một nụ hôn nồng ấm. Trác Vân đứng nghiêm như pho tượng một hồi rồi xin chị
thứ lỗi. Nàng tiên An Hội ngẩn người bối rối và xin người em giữ kín sự nhầm
lẫn này.
Oái ăm thay, một lần khác, Phong Tài
có việc đi qua làng Cỏ Ống, không hiểu vô tình hay hữu ý mà nàng Tiên An Hội
lại đặt nhầm nụ hôn tình tứ cho người em. Nhưng giống như lần trước Trác Vân
sụp lạy chị , xin giữ trọn đạo đệ huynh..
E ngại ẩn tình của chị dâu, Trác Vân
đã bỏ nhà, kết bè qua một hòn đảo nhỏ cốt ngăn ngừa phút giây sa ngã, trái đạo
luân thường. Khi Phong Tài trở về, biết chuyện bèn lặn lội đi tìm em. Hai anh
em không gặp được nhau và mỗi người đã bỏ mình trên một hòn đảo, hai hòn đảo ấy
sau được mang tên hòn Trác – hòn Tài, còn gọi là Hòn Huynh Đệ.
Thảm
thương thay cho số phận của nàng Minh Nguyệt giữa lúc tình nồng duyên thắm nàng
phải sống với cuộc đời cô độc quạnh hiu, trong những chuỗi ngày sầu thương
chiếc bóng còn gì não lòng hơn cái tuổi xuân tàn tạ mỏi mòn khiến nàng:
Thổn thức tình
xuân, vồ chín khúc
Ngẩn ngơ hồn điệp
xót năm canh
Khóc mưa thu tiếng
cuốc mỏi mòn…
Sầu nắng hạ mình
ve khô héo
Dân
gian còn lưu truyền câu ca về mối tình éo le và tấm lòng kết nghĩa giữa Minh
Nguyệt – Phong Tài và TrácVân:
Ai qua
hòn Trác hòn Tài
Cho em xin gởi một vài câu thơ:
Đêm
khuya gió lạnh sao mờ
Trăng
khuya chênh chếch bóng vẫn chờ đợi mây
Bao
giờ núi Chúa hết cây
Sông
mê hết nước, dạ này hết thương
Xuyên
qua cuộc tình bộ ba của hai anh em nhà học Đặng và cô Đào Minh Nguyệt ta thấy:
trong tên họ ông Tài có chữ Phong (là gió) đệm ở giữa thành ra Đặng Phong Tài.
Kế đó tên cậu Trác có chữ Vân (là mây) nối bên sau gọi là Đặng Trác Vân. Tên vợ
của ông Tài là Đào Minh Nguyệt (có nghĩa là mảnh trăng trong chiếu tỏa khắp
phương trời)..
NHÀ TÙ CÔN ĐẢO
Nằm trên trục giao lưu Đông – Tây, tàu buôn các nước
Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp… đã viếng thăm Côn Đảo từ thế kỷ
XIII. Hai công ty Đông Ấn của Anh và của Pháp nhiều lần cho người lên đảo
nghiên cứu địa thế, vẽ bản đồ. Năm 1702, Allen Catchpote, giám đốc công ty Đông
Ấn của Anh đích thân chỉ huy cuộc đổ quân chiếm Côn Đảo. Hắn mộ lính người
Macasca (thổ dân đảo Sulavedi theca Indosinea) xây pháo đài và canh giữ. Chúa
Nguyễn đưa người ra đảo, làm kế trá hàng rồi cùng đội lính Macasca làm binh
biến, đánh đuổi thực dân Anh thu lại chủ quyền, lãnh thổ xứ Đàng Trong (1705).
Thất bại của
người Anh tiếp tục nuôi dưỡng cho ý đồ của thực dân Pháp. Ngày 28 tháng 11 năm
1861, trung úy Lespès đã được lệnh của đô đốc Bonard, đưa chiến hạm Nogagaray
tới đánh chiếm Côn Đảo. Nhà tù Côn Đảo được thiết lập theo nghị định 1/12/1862
của đô đốc Bonard để giam giữ những tội nhân mang án từ 1 đến 10 năm. Phó trạm
trưởng Félix Roussel được chỉ định làm chỉ huy trưởng quần đảo kiêm quản đốc
đầu tiên của nhà tù Côn Đảo.
Ngày 31/01/1873 thống đốc Nam Kỳ Dupré ra nghị định
ban hành quy chế riêng cho đề lao Côn Đảo. Sau nhiều lần thi hành bổ sung và
sửa đổi, bản quy chế hoàn chỉnh nhất, gồm 20 chương, 109 điều ban hành vào ngày
17/05/1916, được áp dụng cho đến ngày cáo chung của thực dân Pháp trên bán đảo Đông
Dương.
Trong hơn nửa thế kỷ, nhà tù Côn Đảo chỉ có 1 trại
giam (Bagne No.1) với nguồn tài chính bổ sung từ ngân sách Liên Bang (Đông
Dương), Banh II được khở công từ 1917 và đưa vào sử dụng 1928. Banh III tiếp
tục được xây dựng và sử dụng 1939. Banh phụ
của Banh III cùng hai dãy chuồng cọp sử dụng từ 1944.
Năm 1955, thiếu tá Aloise Blanck bàn giao lại nhà tù
này cho ngụy quyền Sài Gòn, chấm dứt gần một thế kỷ tội ác của thực dân Pháp
trên quần đảo. Trong 20 năm 1954 – 1975), Mỹ Ngụy đã tăng quy mô từ 4 trại lên
8 trại. Trại V xây dựng 1962. Trại VI, trại VII và trại VIII xây dựng gần như
cùng một lúc, vào năm 1968, hoàn thành cơ bản cuối năm 1970. Ba trại này được
ngân sách MACCORD (chương trình viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ) chi tiền,
chuyên gia xây cất nhà tù của Mỹ thiết kế và hãng thầu Mỹ RMK – BRJ xây cất.
Trại IX, trại X cũng đã được đổ móng, đúc cột rồi bỏ dở khi hãng RMK – BRJ rút
khỏi Việt Nam (1972).
NHÀ CHÚA ĐẢO
Được xây dựng trong một khuôn viên rộng gần 2ha, ở khu
vực trung tâm thị trấn, cổng nhìn thẳng ra Cầu Tàu. Đây là nơi ở và làm việc
của 53 đời chúa đảo. Đối với người tù cũng như toàn bộ viên chức , giám đốc (có
lúc gọi là quản đốc) thật sự là chúa đảo. Theo quy chế giám đốc “toàn quyền đối
với các nhân viên chức trách và tù nhân trên đảo; đích thân trông coi việc làm
của tù nhân, chịu trách nhiệm về những biện pháp cần thiết để đảm bảo an ninh
các trại giam và đưa tù nhân vào vòng kỷ luật”
Vì thế tù nhân thường gọi giám đốc là Ông Lớn, Chúa
Đảo; gọi nơi ở của giám đốc là Dinh Ông Lớn, nhà Chúa Đảo – nơi tập trung cao
nhất quyền lực trên đảo cả về hành chính, tư pháp và quân sự. Đồng thời đây
cũng là nơi xuất phát âm mưu thủ đoạn cai trị tù nhân, trung tâm chỉ huy các
cuộc đàn áp quy mô toàn đảo. Tên chúa đảo đầu tiên là tên Félix Rousseel, trung
úy, phó hạm trưởng hải quân Pháp.
Có nhiều tên chúa đảo mà sự tàn bạo của chúng đồng nghĩa với chế độ giết người ở đây.
Andouard là một trong số đó,
Báo Chí Nam Kỳ lúc đó đã đưa tít đậm Tên đao phủ ở Côn
Lôn với những lời xỉ vả thậm tệ vì chính hắn đã xả súng máy giết hại 83 người
tù chung thân tại góc sân Banh I (14/02/1918), trong số đó có những ngưởi tù
không dính dáng gì đến cuộc nổi dậy, trong tay không có một tấc vũ khí.
Người kế tục được nhiều chất tàn bạo của những tên
chúa ngục kiểu Andouard lả Bouvier, làm
chúa đảo trong 15 năm (1927 – 1942). Trong vòng 5 năm (1930 – 1934) chế độ
khủng bố thởi Bouvier đã giết hại 802 người tù. Báo Thần Trung hồi ấy đã gọi
Côn Lôn là “Địa ngục trền gian” dưới “chế độ giết người Bouvier”
Nguyễn Văn Vệ là tên chúa ngục điển hình chi sự tàn bạo và thâm độc thời Mỹ
ngụy (1965 – 1974). Trong ký ức của hàng ngàn tù nhân. Nguyễn Văn Vệ là “con
hùm xám” là “siêu đẳng” trong nghề rị tù. Vệ từng ngự trị chín năm, 2 nhiệm kỳ
tại nhà tù Côn Đảo, thiết lập độ kỷ luật nghiệt ngã nhất ở Chuồng Cọp: sào nhọn
bị đồng, vôi bột, gậy gộc và đạo quân trật tự an ninhdo Vệ tổ chứx đã gây hiều
tội ác man rợ mà vụ “Chuồng Cọp Côn Đảo” năm 1970 đã lảm chấn động lương tri
loài người.
Xét đến cùng, mỗi đời chúa ngục chỉ là những tên tay sai trung thành với mức độ khác nhau của
bọn thực dân, đế quốc. Với bản năng riêng, mỗi tên lại có cách riêng để ghi dấu
ấn tội ác đối với dân tộc ta, trong hơn 1 thế kỷ đau thương khi chúng dựng lên
“Địa ngục trần gian” trên Côn Đảo. Nhà chúa đảo là nơi chứng kiến những thủ
đoạn cai trị cùng tội ác man rợ của chúng.
CẦU TÀU
Cầu Tàu được khởi công xây dựng năm 1873, với phác thảo dài 107m, tư2 mép lộ
trước cổng dinh chúa đảo lao thẳng ra vịnh Côn Sơn. Có người từng gọi Cầu Tàu
bằng danh số 871; 914, 915 để tưởng nhớ số người đã chết trong lúc xây dựng cầu
tàu. Những con số đó ít nhiều mang tính ước lệ.
Dấu ấn sâu lắng nhất đọng
lại di tích lịch sử này trong hơn 1 thế kỷ qua chính là những phiến đá ngổn
ngang, sắp lớp. Những tảng đá lớn hàng thước khối, nặng nhiều tấn kia đã làm
kiệt quệ và đè nát bao nhiêu thân tù khi họ xeo chúng tù núi Chúa về đây. Không
xeo được thì chết vì đòn, xeo được thì chết vì kiệt sức. Cái thời đau thương ấy
như còn âm vang trong từng phiến đá và câu ca trường hận của tù nhân: “Côn Lôn
ơi, viên đá mạng người…”
Không ai biết một cách chính xác bao nhiêu người bị
núi lở, đá đè, hoặc chết vì kiệt sức đòn roi khi chuyển đá, khi làm Cầu Tàu và
kè đá dọc con đường ven biển. Cầu Tàu là
nơi ghi dấu bước chân lưu đày đầu tiên của hàng chục vạn người tù trên hòn đảo
này, với tất cả nỗi tủi nhục của trận đòn phủ đầu từ Cầu Tàu về trại giam. Hàng
vạn người chỉ một lần đặt chân lên đây rồi vĩnh viễn nằm lại Hàng Keo, Hàng
Dương, Cỏ Ống, Hòn Cau…
Cầu Tàu còn là một đầu mối liên lạc quan trọng giũa tù
chính trị Côn Đảo với Đảng Xã Hội, Đảng Cộng Sản Pháp với Xứ Ủy Nam Kỳ, Ủy Ban
Kháng Chiến Hành Chính Nam Bộ và Thành Ủy Sài Gòn – Gia Định. Sách lý luận,
kinh điển Mác – Lênin, sách văn học, báo chí tiến bộ, nghị quyết của Quốc Tế Cộng
Sản của Trung Ương Đảng ta cùng thư từ, chỉ thị của xứ ủy…đã đến với người tù
qua Cầu Tàu này.
Cầu Tàu từng rợp bóng cờ đỏ sao vàng những ngày Cách
Mạng Tháng 8 (1945) thành công ở Côn Đảo. Trên 2.000 tù chính trị đã từ đây trở
về đất liền tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ và anh dũng. Một số
người đã trở thành những đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà Nước ta trong nhiều năm
qua. Cuối năm 1954, thực dân Pháp cũng phải đưa gần 600 tù binh và trên 1.000
tù án qua Cầu Tàu về trao trả lại cho chính phủ Hồ Chí Minh. Ngày 1/5/1975 tù
chính trị Côn Đảo đã chớp thời cơ, nổi dậy làm chủ hoàn toàn Côn Đảo.
Ngày 4/5/1975 trên chyến tàu đầu tiên ra giải phóng
Côn Đảo, 500 tấm ảnh Bác Hồ in lụa đã chuyển tới Cầu Tàu và được những người tù
trang trọng rước về từng trại. Ít ngày sau, từng đoàn tù lần lượt tập trung ra
Cầu Tàu để xuống tàu về đất liền, chấm dứt vĩnh viễn hơn một thế kỷ :Địa ngục
trần gian” nơi Côn Đảo.
CẦU MA THIÊN LÃNH
Khoảng năm 1930,
thực dân pháp mở con đường từ ngã ba núi Chúa qua đèo Ông Đụng để đến sở Ông Câu. Sở Ông Câu nằm phía sau núi Chúa từ những năm 1930 thực dân Pháp bắt
tù nhân leo lên những triền núi cao, đốn cây lớn rồi thả xuống mé biển theo
những đường mòn. Nhiều người đã bị cây đè chết hoặc nát chân nát tay vì không
tránh kịp những cây gỗ lớn từ trên núi lao xuống.
Khi mở con đường
nay bọn chúa ngục bắt tù nhân vác đá xây trên đèo Ông Đụng một cây cầu. Do địa
thế núi cheo leo hiểm trở, tù nhân ăn uống thiếu thốn đói khát phải khiêng đá
xây mố cầu bị chết hại trước sau tới 356 người mà vẫn chưa làm xong nỗi. Cách Mạng
Tháng Tám thành công công trình bị bỏ dỡ dang (2 mố cầu).
Cái tên Ma Thiên
Lãnh để gọi hai mố cầu đắp dang dở bằng máu sương của 356 con người, có lẻ do
địa thế núi hiểm ác nước suối lại rất độc, quá trình tù nhân làm khổ sai còn bị
đá đè cây đổ..v..v.. từ đó tù nhân mới lấy tên ngọn núi Ma Thiên Lãnh ở Triều
Tiên địa thế hiểm ác khó lên xuống, phỏng theo truyện tàu:” Tiết Nhơn Quí Chinh
Đông” xưa đặt tên cho cầu này.
Thời ấy để tố cáo
chế độ thực dân pháp đày ãi tù nhân làm khổ sai cực kỳ dã mang tù nhân còn sáng
tác bài hát: Cầu Ma Thiên Lãnh.
“Ai
bước qua, ai bước qua Cầu Ma Thiên Lãnh
Hãy dừng chân ngắm cảnh quốc hờn
Do quân thù tàn bạo gây nên
Ai
đã trong mà lòng không hờn
Ai nghe đến mà lòng không căm giặc pháp
Quân pháp kia, quân pháp kia là loài tham
tàn.
Gây oán thù vạn thuở khôn nguôi
Mau đứng lên mau đứng lên người dân yêu nước.
Giết thù chung dắt dìu giống nòi
Ra khỏi cảnh bùn lây điêu linh
Bao máu sương bao máu sương trong
lao tù còn gây oán hờn, gây mối thù vạn thuở khôn nguôi.”
DI TÍCH BIỆT LẬP CHUỒNG BÒ
Chuồng bò là một sở tù
nuôi bò thịt, bò sữa, dê, ngựa, heo, gà vịt, bồ câu, có lúc kiêm việc làm rẫy
với tên gọi kép mà trước đây thường gọi là sở rẫy – chuồng bò, sở củi – chuồng
bò. Nhưng người ta gọi tắt là Chuồng Bò.
Chuồng Bò có một trại giam phụ, xây khá chắc chắn vào năm 1930,
trên khu đất rộng 4110 m2 làm nơi tạm giam số tù nhân làm ở sở này.
Cạnh đó còn có 24 hộc để nuôi chứa heo nên có người còn gọi là Chuồng Heo, đối
diện có hai chuồng nuôi bò cùng với một hầm chứa phân và nước thải từ chuồng
nuôi bò cũng được xây khá kiên cố.
Sang thời Mỹ Ngụy
khoảng cuối năm 1969 địch đã đưa tù chính trị chống chào cờ bị còng xiềng cầm
cố lâu ngày, bị teo cơ bại liệt cả hai chân về giam ở đây.
Sau khi chuồng
cọp bị phát hiện Chuồng Bò được gấp rút sửa chửa dẹp bỏ 24 hộc chứa heo và xây
dựng lại gồm 3 khu A< B< C, tổng cộng có 33 phòng biệt giam.
Chuồng bò lúc bấy giờ
là một chi nhánh trực thuộc trại IV biệt lập dưới quyền của tên giám thị ác ông
Lê Văn Khương phụ trách.
Phát huy truyền
thống đấu tranh kiên cường, lưc lượng tù bại liệt tiếp tục đấu tranh, chống
chào cờ, chống nội quy khắc nghiệt của nhà tù. Họ đã bị đánh đập bỏ đói bỏ khát
và không được ăn rau trong nhiều tháng.
Từ năm 1973 Chuồng
Bò là văn phòng của tiểu ban điều tra khai thác thuộc ban chuyên môn những
người tù bị lộ mặt trong hoạt động đấu tranh bị đưa về đây để khai thác. Ban
chuyên môn áp dụng nhiều hình thức điều tra tàn bạo như : đánh đập bằng củi
giòn, nẹp hai thanh tre vào ống chân. ..v..v… nhiều tù nhân đã bị bại liệt tàn
phế bởi đoàn tra tấn và chế độ đày ải dã mang ở chuồng bò. Đây cũng là trại
giam được mở cửa giải phóng sau cùng trong ngày 1/5/1975 (08h30 sáng)
HẦM PHÂN BÒ : theo lời kể
của một số cựu tù chính trị côn đảo thời mỹ ngụy : “ngày giải phóng nhà tù côn
đảo 1/5/1975 đã phát hiện còn hai người tù bị phạt ngâm mình trong hầm phân” sự
kiện này đã được ban quản lý di tích lịch sử cách mạng côn đảo và các nhà
nghiên cứu lịch sử nhà tù côn đảo tiến hành sưu tầm tư liệu và nhân chứng cũng
như bằng chứng cụ thể.
DI TÍCH : TRẠI VII” CHUỒNG CỌP KIỂU MỸ
Tổng diện tích :25.788m2
tên gọi đầu tiên là trại VII, sau đó gọi là Trại Phú Bình. bao gồm 04 khu
AB,CD,EF, GH.mỗi khu có hai dãy, mỗi
dãy có 48 phòng bịêt lập, trên có song sắt tương tự như chuồng cọp pháp nhưng
không có hành lang bên trên thay vào đó là mái tôn rất thấp, trời hắt xuống như
thêu như đốt .dưới thì không có xây bệ ,tù nhân nằm dưới nền nhà hứng chịu khí
ẩm uớt, khí đất xông lên khi chuyển về khuya tù nhân phải tiểu tiện vào thùng
gỗ, mỗi khi tù nhân đấu tranh chúng phạt không cho đổ thùng vệ sinh ,03 hôm-5
hôm, một tuần lễ hoặc lâu hơn nữa…phân và nước tiểu bê bết trên mình của 8-10
người tù trong một vùng biệt giam chưa đuợc 5m2 khi ấy nhà giam đã
biến thành nhà cầu sống trong cảnh ấy ngày này qua ngày khác thì chẳng khác nào
sống trong địa ngục chưa kể buổi trưa nắng nóng trêu đốt cùng với mùi ô uế xông
lên ,bọn phục vụ mở cánh cửa sắt ra kiểm tra rồi đóng dập lại thật mạnh, tiếng
kêu dội lên đinh tai nhức óc khi chúng lần lượt kiểm tra 48 phòng giam trong
một dãy và liên tiếp 8 dãy với 384 lần dội vào đầu, vào lồng ngực của tù nhân.
Đúng là một trại
giam điển hình kiểu mỹ, do chuyên gia mỹ thiết kế thầu Mỹ xây dựng (hãng thầu RMK) bằng đôla Mỹ viện trợ. Đây là trại
giam khắc nghiệt nhất trong giai đoạn cuối cùng của nhà ngục này Mỹ ngụy dùng
cả yếu tố bất lợi của thiên nhiên vào việt đày ải con người. Chưa cần đến đòn
roi chuồng cọp mỹ đã hành hạ người tù rất tinh vi, chết dần chết mòn bởi lối
kiến trúc Mỹ nên còn được gọi là “chuồng cọp kiểu Mỹ” cùng với trại VI khu B,
trại VII là nơi tập trung số tù chính trị chống đối, trở thành trung tâm phong
trào đấu tranh của tù chính trị côn đảo trong giai đoạn này.
Đây là nơi khở
đầu và trung tâm chỉ đạo cuộc nổi dậy giải phóng côn đảo, khi nghe tin tổng
thống Dương Văn Minh đầu hàng Ngụy Quân Ngụy Quyền Côn Đảo hoang mang tháo
chạy, những người tù ở trại VII đã quyết định hành động chóp thời cơ giải phóng
vào lúc1h00 sáng ngày 1/5/1975 tù nhân ở trại phú bình đã hoàn toàn giải phóng,
đảo ủy lâm thời được thành lập tại đây ngay sau đó và lần lượt giải phóng các
trại. Đến 8h30 ngày 1/5/1975 tù nhân tù chính trị đã hoàn toàn giải phóng côn
đảo chấm dứt cảnh địa ngục trần gian sau 113 năm từ năm (1862 – 1975).
DI TÍCH BANH MỘT TRẠI PHÚ HẢI:
Trung tâm cải huấn
phú hải – trại phú hải, đây là một trại giám lớn và cổ nhất của hệ thống nhà tù
Côn Đảo do Thực Dân Pháp xây dựng từ những năm cuối thế kỷ 19.
Tên gọi đầu tiên là Banh I, sang thời mỹ ngụy gọi là Lao I,
sau đó đổi tên là trại cộng hòa, trại hai, và tên gọi cuối cùng là trại phú hải
tên gọi này được sử dụng từ tháng 11/1974.
Sau hiệp định Paris
ký kết trong âm mưu ém dấu tù chính trị không trao trả, địch cho đổi tên gọi
tất cả các trại giam ở côn đảo, mỗi trại đều được ghép với chử phú và hệ thống
nhà tù côn đảo trực thuộc TTCH Phú Hải.
Ngày 28/11/1861, thực dân pháp chiếm quần đảo Côn Đảo,
sau đó hai tháng Thống Đốc Bonard ở nam kỳ ban hành nghị định thành lập khu
giam cầm tại Côn Đảo, lập tức ở vị trì này họ cho xây lên một dãy nhà ngục
nhưng tạm thời bằng vách đất, mái tranh và 50 tù nhân có án từ một đến mười năm
bị đưa ra côn đảo giam vào đây vào đầu tháng 3/1862. sau đó ba tháng vào đêm
28/6/1862 50 tù nhân đã kết hợp với hơn 100 quan lính triều nguyễn làm cuộc
khởi nghĩa nổi dậy đốt phá trại giam, đánh đuổi khoảng một chục tên cai ngục
pháp phải bỏ chạy xuống một chiếc thuyền nhỏ về nước.
Nhưng sau cuộc
khởi nghĩa số nghĩa binh này không tìm được phương tiện về đất liền nên hai
tuần lễ sau thực dân Pháp phái một thông hạm Norazaray đến Côn Đảo tàn sát số
nghĩa binh, họ giết chết hơn 100 người và bắt sống 20 tù nhân. Họ buộc 20 tù
nhân này phải mang hơn 100 xác chết lên trên một đồi cát chôn chung một mồ, sau
đó họ chôn sống luôn 20 tù nhân ở đó (di tích bãi sọ người).
Sau đó thực dân
pháp có kế hoạch cho xây dựng một nhà ngục kiên cố với tổng diện tích là 12015
m2 có tường dày bao bọc bên ngoài.
Năm 1896 đã hoàn tất bao gồm :hai dãy khám giam được xây
đối diện nhau, mỗi dãy 5 khám (đánh số từ trái sang phải 1-10), phía cuối sân,
nối qua hai dãy khám có 20 hầm đá (còn gọi là xà lim) cuối dãy khám giam bên
trái còn có một phòng giam “ tù đặc biệt”. Kế đó là “hầm xay lúa”, vừa là nơi
khổ sai xay lúa, vừa là nơi đày ải trừng phạt ngiệt ngã đối với tù nhân. Ở góc
cuối bên phải còn có một khu đất trống dùng để phạt tù nhân khổ sai đập đá. Đây
cũng là nơi dành cho những tù nhân bị ghép vào thành phần nguy hiểm, có thể
vượt ngục bất cứ lúc nào vì thế nên họ không dám cho đi làm khổ sai ở các sở tù
bên ngoài.
Bình quân ở trên đảo có khoảng 18 sở tù khổ sai, háng
ngày họ đưa tù nhân đi làm các công việc khổ sai ở các sở này, chiều về đến
trước cửa phòng giam tù nhân phải cởi hết quần, áo cho cai ngục khám xét, cứ
trần truồng như thế nằm ngủ. Nơi đây còn là hiện thân của “địa ngục trần gian”
những công việc khổ sai như: xuống biển mò lấy san hô mang lên nung thành vôi
bột, đến việc lên rừng khai thác đá, khéo gỗ, dọn tàu… còn rùng rợn hơn cả cái
chết.
Sang thời Mỹ Ngụy để đánh lừa dư luận trong và ngòai
nước, Mỹ Ngụy cho xây dựng: nhà nguyện, giảng đường, câu lạc bộ, nhà ăn, phòng
hớt tóc….và cho chuyển “hầm xay lúa” thành bệnh xá của trại giam. Sân trại còn
được trồng hoa kiểng như một công viên. Đây là một công trình vừa mang tính
hình thức để đối phó với dư luận vừa dùng để mua chuộc dụ dỗ tù chính trị ly
khai, tố cộng…
Có thể nói, tất cả các lớp tù từ thưở Cần Vương, Văn Thân
chống pháp, đến nhiều chiến sỹ cách mạng việt nam, tiếp đến thế hệ nam nữ sinh
viên học sinh xuống đường biểu tình chống mỹ –thiệu đều trải qua những năm
tháng tù đày khốc liệt tại đây.
Phòng 6-còn được gọi là phòng chết điển hình: thời mỹ
–ngụy, từ 1957 đây là nơi khởi đầu cuộc chiến tranh chống ly khai đảng cộng sản
của tù chính trị câu lưu(không án);ngọn cờ đầu của phong trào đấu tranh bảo vệ
khí tiết của tù chính trị côn đảo. Địch đã thực hiện âm mưu phân hóa giữa cộng
sản và kháng chiến nhưng âm mưu đó thất bại nên họ đã ra sức đàn áp dã man
những người tù chính trị, do đó mà người tù hy sinh ở đây rất nhiều. Chính vì
vậy, phòng giam này vào thời mỹ ngụy được gọi là “phòng chết điển hình”
Năm 1995, để kỷ niệm 20 năm ngày Côn Đảo giải
phóng, bộ văn hóa thông tin giao cho công ty mỹ thuật TW phục chế lại mô hình
tượng nhằm tái hiện lại cảnh sống và sinh hoạt của tù nhân (thời thực dân pháp)
trong 24 tiếng đồng hồ. Phòng giam lúc bấy giờ giam trung bình từ 80-120 tù
nhân, nhưng sang thời mỹ ngụy số tù chính trị bị đày ra Côn Đảo ngày càng nhiều
nên số lượng tù nhân tăng lên 100-150 người, lúc cao điểm lên đến 180 người. Những
lúc ấy tù nhân nằm trên bệ không đủ phải nằm trên nền nhà. Khắc nghiệt nhất là
lúc phạt cấm cố (xiềng chân) người tù nằm ở dưới bệ phải chịu cảnh treo chân
lên thanh sắt. Thêm nữa là khi bị xiềng chân cấm cố tù nhân phải đi vệ sinh tại
chổ vào một thùng gổ. Trên mỗi bệ ximăng có bố trí thùng gỗ để người tù đi vệ
sinh và đây cũng là điều rất khắc nghiệt, bởi vì người nào có nhu cầu đi vệ
sinh phải đánh thức những người bạn tù thức dậy hết để chuyển thùng gỗ này lần
lượt đến tay họ do đó mà suốt đêm tù nhân khó có thể ngủ yên giấc (thường là
mỗi bệ chỉ bố trí có một thùng)
Phòng số 7: đây là nơi chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiên
trong nhà tù côn đảo ra đời cuối năm 1932 tại banh I, sau phát triển thành Đảng
ủy Côn Đảo,lãnh đạo cuộc đấu tranh của tù nhân với sự đóng góp xuất sắc của
đồng chí Nguyễn Hới, Tôn Đức Thắng, Ngô
Gia Tự, Trần Quan Tặng, Nguyễn Chí Diểu, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh…..
Banh I cũng là nơi dnhững người cộng sản mở lớp học văn
hóa, lý luận, chính trị. Đặc biệt là khóa học chủ nghĩa lênin theo chương trình
huấn luyện của đại học phương đông(liên xô) do giáo sư trần văn giàu phụ trách.
Tờ báo Tiến Lên (tiếng nói của hội tù nhân) và tờ ý kiến chung (cơ quan lý luận
của tù chính trị)từ cuối năm 1935 cũng chuyển từ banh II về banh I.
*Phòng 9: Nơi đây từng giam giữ đồng chí Tôn Đức Thắng, Võ Sỹ, Võ Thúc Đồng…. Và
cũng là nơi biên soạn Tạp Chí “Ý Kiến
Chung”. Ngày đầu tiên bác Tôn Đức Thắng bị đày ra côn đảo bị đưa vào khám
giam này(2/7/1930).
*Phòng 10: Thời Mỹ Ngụy vào năm 1958 trong đợt chống học
tập tố cộng địch đã đàn áp dã man 175 người tù chính trị trong âm mưu phân hóa
giữa cộng sản và kháng chiến nhưng địch đã không thực hiện được.
*Phòng giam tù đặc biệt: Ngoài 10 phòng giam ra
còn có 1 phòng giam dành cho tù đặc biệt nằm phía sau câu lạc bộ. Thời pháp đã
dùng nơi đây giam giữ những người làm khổ sai hàng ngày ở hầm sai lúa trong đó
có Bác Tôn, Phạm Hùng,Lê Văn Lương, Ngô
Gia Tự……sau đó (1946)thực dân pháp giam giữ 46 người tù có án tử hình đầu
tiên.
Đến năm 1957, Mỹ Ngụy đã đưa ra 41 phụ nữ chống ly khai,
tố cộng (đã có thành tích từ các nhà lao ở đất liền đưa ra côn đảo.
Sau đó năm
1958 – 1960, giam giữ đàn áp dã man cán bộ cốt cán chống học tập tố cộng ly
khai Đảng Cộng Sản.
*Hầm xay lúa: Thời thực dân pháp đây là một căn phòng xây
tường đá bao vây, ở trên có một lớp trần làm bằng vải đen, bao tời,… và chỉ có
một cửa đi thông qua phòng giam đặc biệt (không có cửa thông gió như hiện nay)
trong căn nhà bịt kín này được bố trí 5 cối xay lúa. Cối xay được làm bằng vỏ
thùng rượu vang cưa đôi ra và lèn đất sét bên trong nên rất nặng mỗi cối phải
có từ 4 đến 6 người mới kéo nổi. Từ công việc kéo cối xay, vác lúa gạo…..người
tù làm khổ sai ở đây còn phải chịu thêm cực hình nữa là hai người bị xích chung
một sợi dây xích có lê theo một quả tạ (quả tạ nặng trung bình từ 3-7kg). Có
thể nói đây là nhà tù trong nhà tù.
Sang thời Mỹ Ngụy, để đánh lừa dư luận địch cho dẹp cối
xay và chuyển thành bệnh xá. Bệnh xá ở nhà tù côn đảo được xem như một nhà xác.
Tù nhân được chuyển đến đây để nằm chờ chết. Chưa kể trong chiến dịch đàn áp tù
nhân chống ly khai địch dùng bệnh xá để mua chuộc dụ dỗ người tù trong cơn hấp
hối. Một cái lắc đầu (không chấp nhận ly khai) lập tức mũi thuốc bơm bỏ xuống
đất. Hoặc phát thuốc súng không đúng bệnh, bất kể bệnh gì cũng phát một loại
thuốc- thuốc ký ninh (thuốc trị bệnh sốt rét).
Khu xà lim: xà lim còn gọi là hầm đá, gồm có 20 hầm đá địch
sử dụng những xà lim này để biệt lập, cấm cố và đày ảinhững người tù bị ghép
vào thành phần huy hiểm, ngoan cố, chống đối...hay những người vượt ngục bị bắt
lại. Họ bị chốt chặt chân vào còng suốt ngày đêm, kể cả lúc ăn cơm và đi vệ
sinh cho đến khi nào mãn hạn nằm hầm mới được cởi bỏ chiếc cùm ra (nếu nặng thì
chốt cả hai chân). Trong 10 ngày đầu bị phạt ở xà lim người tù phải ăn cơm
nhạt, uống nước lã (mặc dù thức ăn ở nhà tù Côn Đảo chỉ là khô, tương, mắm...để
lâu ngày bị mục đắng, ôi chua...)
Hầm xây bằng đá cao hơn 2m, trần xây cuốn, ở đây nhà tù
có cảm giác như bị nhốt vào nhà mồ, vào mùa nắng nóng bức thì hơi nóng hầm hập
suốt ngày, mùa đông hơi đá toả ra lạnh thấu xương, cửa xà lim bằng gỗ or sắt
dày, đóng vào là kính như hủ nút, chỉ được hé vội một chút khi cai ngục mang
cơm đến, hay dội cho một thùng nước vào buổi sáng cuối tuần (gọi là được
tắm),người tù bị nhốt vào xà lim ít lâu là người héo quắt lại “mắt mờ, bại
liệt”.
Xà lim đôi: bên cạnh những xà lim đơn còn có những xà lim
đôi, ở đây có thể giam một lúc 10-30 người, cốt để cho người tù nóng bức, ngột
ngạt vì thiếu không khí...làm kiệt sức và hao mòn sinh lực tù nhân, mặt khác
muốn đánh vào tâm lý người tù bị cấm cố ở xà lim đơn, sẽ cảm thấy cô độc, không
có bạn bè, đồng đội để chia sẻ, tâm sự hay chăm sóc như thế ý chí họ sẽ bị rạn
nứt...
Xà lim số 9: còn lưu lại bốn câu thơ của người tù tên Huỳnh Văn Chẩn bị đưa vào
hầm đá ngày 14/12/1958.
“Người cách
mạng chịu nhiều gian khổ
Dẫu gian lao
nhưng vẫn coi thường
Bền chí vững
lập trường
Vượt qua gian
khó trên đường quang vinh”
Nhà ăn: đây cũng là hình thức trá hình của mỹ ngụy. Từ
khi xây dựng nhà ăn này (1963) cho đến ngày nhà tù được giải phóng, không một
người tù nào được đến đây ăn cơm( kể cả tù thường phạm).
Khu đập đá :
các cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn...đã từng khổ sai đập đá tại đây.
Năm 1918 ông tú Phạm Cao Chẩm một nhân sĩ yêu
nước ở Quảng Ngãi và người thanh niên Nguyễn Trọng Thạc, một tướng tài, con
trai của cụ Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh nghĩa quân bãi sậy đã hi sinh tại đây
cùng 81 người tù khổ sai trong cuộc nổi dậy ngày mồng 4 tết (mậu ngọ), dưới làn
đạn súng máy của tên bạo chúa Andouard chỉ huy bắn giết.
Đây cũng là nơi chiến sỹ yêu nước phan chu trinh sáng tác
bài thơ Đập Đá Côn Lôn (được đưa vào văn học VN).
Làm trai đứng giữa đất côn lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập vỡ mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con non.
Sang thời mỹ nguỵ nơi đây được chuyển làm trại mộc.
*Phòng số 3: thời mỹ ngụy đã giam cầm lần lược 250 tù tử
hình (theo luật 10/59 cũa diệm ban hành). Đây cũng là nơi xảy ra cuộc vượt ngục
hiếm thấy ở Nhà Tù Côn Đảo.
Vào đêm 12/10/1966, đồng chí Lê Văn Việt (tên trong tù là Nguyễn Văn Hai) chiến sĩ biệt động sài
gòn, người đã từng làm chân động thủ đô sài gòn trong trận đánh sập tòa đại sứ
mỹ năm 1965, cùng với chiến sĩ đặc công phạm văn dẩu và sinh viên yêu nước lê
hồng tư đã dũng cảm trổ máy ngói khám tử hình vượt ngục tuy cuộc vượt ngục bất
thành trong vòng 10 ngày sau ba người tửtù điều bị địch bắt lại song cuột vượt
ngục ấy đã làm rung động bộ máy cai trị nhà tù côn đảo, địch phải gấp rút cho
giăng dây thép gai kín trên nóc các phòng giam.
Banh I : là điển hình của chế độ khổ sai giết tù. Hầu như
mỗi mảnh đất Côn Đảo đều khắt sâu nổi cực nhọc và thấm máu của người tù khổ
sai. Trong sự đọa dày khốn cùng, những người cộng sản, những người yêu nước
việt nam ở đây phải quyết định vân mênh hoặt là chịu chết mỏi mòn, hoặc là đâu
tranh để sống trở vê tiếp tục hoạt động cách mạng họ phải chống chọi cả một bộ
máy khủng bố từ tên chúa đảo đến đám gác ngục và bọn cập rằng tay sai. Điều đó
đòi hỏi những người tù cộng sản phải được tổ chức thành đội ngũ chặt chẻ, hình
thức đấu tranh thích hợp.
Trước cách mạng tháng tám 1945 một chi bộ đặc biệt được
thành lập tại đây đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu của người chiến sĩ cách
mạng trong nhà tù và lòng trung thành với Đảng được đặt lên hàng đầu.
Tiếp theo lời kháng chiến chống pháp, những người tù
chính trị ở banh một đã tổ chức ra liên đoàn tù nhân côn đảo (1947) và đảng ủy
nhà tù (1950), sau gọi là đảo ủy. Liên đoàn tù nhân được tổ chức chặt chẻ ở
từng trại từng phòng từng kiếp tù cho đến tận mâm ăn, tổ nhóm, giống như một cơ
quan quyền lực của tù nhân.
Banh một đã trải qua 113 năm với bề dày lịch sử ngang
tuổi nhà tù còn lưu lại nhiều dấu ấn anh hùng trong cuộc đấu tranh lâu dài và
bất khuất của những người yêu nước và Cách Mạng Việt Nam trong nhà tù thực dân
đế quốc.
NGHĨA TRANG
LIỆT SỸ HÀNG DƯƠNG
Nghĩa
Trang Hàng Dương được quy hoạch rộng 190.000 m2, gồm 3 khu: khu A, khu B, khuC.
Theo số lượng ước tính có khoảng 20.000 tù nhân đã chết ở Côn Đảo. Tuy nhiên
không phải tất cả đều nằm ở Hàng Dương. Nghĩa địa tù được lập ở khu vực Chuồng
Bò, sau dời lên Hàng Keo. Từ năm 1944, chế độ khủng bố trắng sau cuộc khởi
nghĩa Nam Kỳ đã giết hại hàng ngàn tù nhân. Nghĩa địa Hàng Keo hầu như hết chỗ,
thực dân Pháp mở nghĩa địa Hàng Dương để chôn tù. Tính đến ngày Côn Đảo hoàn
toàn giải phóng (1975), nghĩa trang liệt sỹ này đã tròn 35 tuổi. Trong vòng 35
năm ấy, ước tính khoảng 6.000 tù nhân bị giết hại.
Khu A nghĩa trang, nơi
có phần mộ cũ Nguyễn An Ninh và đồng chí
Lê Hồng Phong là nơi chôn những ngôi mộ đầu tiên. Mỗi người tù xấu số được
liệm bằng 2 chiếc bao bàng (đan bằng loại cỏ ống), cột 7 nút lại, rồi đưa ra
vùi chung một hố.
Năm 1944, khu A đã chôn
chật mộ, nhà tù đã mở rộng nghĩa trang về phía Nam, tức khu B hiện nay. Hài cốt
lớp tù nhân kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) được chôn kế tiếp từ đồi cát
chạy dài xuống phía Đông Nam, nơi có phần mộ người thiếu nữ anh hùng Võ Thị
Sáu.
Hài cốt lớp tù nhân
chống Mỹ được chôn tiếp vào phần còn lại của khu B và chôn tiếp qua khu C. Gần
500 tù chính trị câu lưu chống ly khai Đảng Cộng Sản trong những năm 1957 –
1963 được chôn trong khu B.
Mỗi ngôi mộ ở nghĩa
trang này không chỉ là một số phận bi hùng, một chứng tích tội ác của thực dân
đế quốc mà còn âm vang những trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh trong tù, tỏa
sáng chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Sân hành lễ nằm ở trung
tâm nghĩa trang với một tượng đài mang hình tượng Trao Áo. Tượng đài cao 9m,
nặng 25 tấn được khởi dựng ngày 16/7/1980. Dưới chân bức tượng có ghi “Vĩnh
biệt các đồng chí”. Tượng đài được tái tạo từ câu chuyện”Chết còn cởi áo trao nhau”. Người trao áo là ông Vũ Văn Hiếu, nguyên là Bí thư đầu tiên của
đặc khu mỏ Hòn Gai (tháng 10/1930). Người nhận áo nguyên là cố Tổng Bí Thư Lê
Duẩn.
Nghĩa trang Hàng Dương
được bảo tồn như một di tích lịch sử đặc biệt. Nghĩa trang Hàng Dương với hàng
ngàn nấm mộ có tên và không tên là bằng chứng hùng hồn về tội ác của đế quốc,
thực dân đối với dân tộc ta. Đó là nơi yên nghỉ của hàng ngàn người con ưu tú
của dân tộc ta, đã đối mặt với kẻ thù giữa lao tù, xiềng xích, trong cuộc đấu
tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
THÔNG TIN:
TT - Sáng 12-11, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu đã khánh thành cầu Chà Và - cây cầu nối thôn đảo Gò Găng với
trung tâm xã Long Sơn, TP Vũng Tàu. Cầu được khởi công xây dựng từ
tháng 6-2009, với tổng mức đầu tư 850 tỉ đồng và là cầu dài nhất khu
vực Đông Nam bộ với chiều dài hơn 1,1km.
Việc có cầu này cùng với việc đưa vào sử
dụng cầu Gò Găng từ năm 2007 (nối thôn Gò Găng với quốc lộ 51, đoạn
thuộc P.12, TP Vũng Tàu), đã xóa sổ “ốc đảo” cuối cùng của TP Vũng Tàu.
Cầu Chà Và có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và là một trong những
hạng mục hạ tầng quan trọng chuẩn bị cho các dự án trọng điểm tại Long Sơn sẽ
đi vào hoạt động như: sân bay Vũng Tàu, khu chế biến hải sản tập trung tại
Gò Găng, khu công nghiệp dầu khí, Nhà máy lọc dầu Long Sơn...
Có cầu Chà Và, gần 200 hộ dân ở thôn Gò Găng
được đi lại thuận tiện qua trung tâm xã hay về TP Vũng Tàu - vốn
trước đây phải đi bằng thuyền hoặc đi đường vòng rất xa. Ngoài ra, khi
có cầu, điện nước cũng sẽ được kéo đến phục vụ bà con thôn Gò
Găng. Hiện các hộ dân ở đây phải dùng bình ăcquy hoặc điện bằng năng
lượng gió để sinh hoạt, xem tivi và chưa có nước sạch để dùng.