NGUỒN GỐC 1 SỐ ĐỊA DANH Ở MIỀN NAM
Xin giới thiệu cùng các bạn bài viết của một người bạn về
"Nguồn gốc một số địa danh miền Nam",theo tôi rất đáng để chúng mình
tham khảo tìm hiểu thêm về quê hương!
Sơ lược về nguồn gốc một
số địa danh miền Nam
Có nhiều nơi ở miền Nam mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc
được ở đâu đó...riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc;nhưng chắc ít
khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như vậy?
Bài viết này được hình
thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng
Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích
chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê
hương mình.
Xin mời các bạn cùng
tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác - để đề tài này được
đầy đủ và phong phú hơn.
Tên do địa hình, địa thế
Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
"Gió đưa gió đẩy,
về rẫy ăn còng,
về bưng ăn cá,
về giồng ăn dưa..."
Giồng
"Ai dzìa Giồng Dứa qua truông
Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em..."
Truông
là đường xuyên ngang một
khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây
và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có
truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ.
"Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá
Tam Giang"
Tại sao lại có câu ca
dao này?
Ngày xưa truông nhà Hồ
thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa hình
trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.
Phá
là lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước
khi đổ ra biển nên nước xoáy,sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh ThừaThiên, phía
bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là sông Hương đổ ra
cửa Thuận An.
Bàu
là nơi đất trũng, mùa
mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác
với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn,
phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất
đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có
Bàu Cò.
Đầm
chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ
tận cùng của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước
tràn ra hai bên nhưng vẫn dòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở
Cà mau có Đầm Dơi,Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một
trung tâm giải trí rất lớn.
Bưng
từ gốc Khmer là bâng,
chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa
mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng... mọc. Mùa mưa ở bưng thường có
nhiều cá đồng.
"...về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa".
Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre,
có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.
Láng
chỗ đất thấp sát bên
đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở
Đức Hoà (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như vậy vì ở láng này có
nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài Gòn) xưa kia được
gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn tràn lên. Người Pháp
phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp
thuộc.
Trảng
chỗ trống trải vì không có cây mọc, ở giữa một
khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa
kia có nhiều cỏ bàng vì ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hoà có Trảng Bom,
Trảng Táo.
Đồng
khoảng đất rất rộng lớn
bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa
khai phá. Một vùng trên đường từ
Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngã tư Bình Hoà, trước kia toàn là ruộng, gọi là
Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài Gòn chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó
Ngáp, được gọi như thế vì trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc
cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã
từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp
Mười.
Hố
chỗ đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có
nơi nước lấp xấp. Ở
Củ Chi có Hố Bò, vì bò nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hoà có Hố Nai,
là nơi những người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành
một khu vực sầm uất.
Phần 2
Tên bắt nguồn từ tiếng Khmer
Miền Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người
Khmer sống chung với nhau,văn hoá đã ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu
hiện rõ nét qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua thì rất Việt Nam
nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đã Việt hoá một cách tài
tình.
Cần Thơ
Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng
này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người
nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn
toàn
Việt Nam và vội đi tìm
hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt "cần"
và "thơ". Cần Thơ
không phải là từ Hán
Việt và không có nghĩa.Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hoá, người
nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer "kìntho",
là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc
rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá "lò tho". Từ
quan điểm vững chắc rằng "lò tho" là một danh từ
được tạo thành bằng cách Việt hoá tiếng Khmer "kìntho",người
nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của
người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần
Thơ xuất phát từ danh từ Khmer "kìntho".
Mỹ Tho
Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm
hoàn toàn Việt Nam, "mỹ" và "tho", không tạo nên một ý
nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử
và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này
có lúc đã được gọi là "Srock Mỳ Xó" (xứ nàng
trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó
thôi.
Sóc Trăng
Theo cố học giả Vương
Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ tiếng
Khmer "Srock Khléang". Srock có nghĩa là xứ, cõi. Khléang
là kho chứa vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua.
Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng.Tên Sốc
Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đã đổi lại là
Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là
giang; trăng là nguyệt).Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên,châu thành
Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng.
Bãi Xàu
Bãi Xàu là tên một quận thuộc
tỉnh Sóc Trăng. Đây là một quận ven biển nên có một số người vội quyết
đoán,
cho rằng đây là một
trường hợp sai chính tả, phải gọi là Bãi Sau mới đúng. Thật ra, tuy là một vùng
bờ biển
nhưng Bãi Xàu không có
nghĩa là bãi nào cả. Nó xuất phát từ tiếng Khmer "bai xao" có
nghĩa là cơm sống. Theo truyền thuyết của dân địa phương, có địa danh này là vì
nơi đây ngày trước, một lực lượng quân Khmer chống lại nhà Nguyễn đã phải ăn
cơm chưa chín để chạy khi bị truy đuổi.
Kế Sách
Kế Sách cũng là một quận
của Sóc Trăng. Kế Sách nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của sông Củu Long),
phần lớn đất đai là cát
do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là
K'sach, như vậy Kế Sách là sự Việt hoá tiếng Khmer "k'sach".
Một số địa danh khác
Cái Răng (thuộc Cần Thơ)
là sự Việt hoá của "k'ran", tức cà ràn, là một loại bếp
lò nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.
Trà Vinh xuất phát
từ "prha trapenh" có nghĩa là ao linh thiêng.
Sông Trà Cuông ở Sóc
Trăng do tiếng Khmer "Prek Trakum", là sông rau muống
(trakum là rau muống).
Sa Đéc xuất phát
từ "Phsar Dek", phsar là chợ, dek là sắt.
Tha La, một địa danh nổi
tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer "srala",là
nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.
Cà Mau là sự Việt hoá
của tiếng Khmer "Tưck Khmau", có nghĩa là nước đen.
Phần 3
Địa danh do công dụng của
một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn.
Đây là trường hợp phổ
biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn hướng dẫn hay diễn tả
một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi,người ta thường hay mượn
một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và thêm vào một vào đặc
tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên, có khi bao trùm cả một
vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.
Chợ
Phổ biến nhất của các
địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều nơi. Sài Gòn có một
khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đã trở thành một địa danh quen thuộc. Chợ Mới cũng
trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài Gòn là Chợ Lớn, xa
hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức.Địa danh về chợ còn được phân biệt như
sau;
- Theo loại hàng được
bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ Tho, Chợ Búng
(đáng lý là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài Gòn.
- Theo tên người sáng
lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom,
chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa.
- Theo vị trí của chợ,
như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (vì gần một cây cầu sắt) ở Gò Vấp, chợ Cầu Ông
Lãnh ở Sài Gòn.
Xóm
là một từ để phân biệt
một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương
mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn thuần về vị trí,
trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm
Chùa, Xóm Đình...
Về các mục tiêu sản xuất
và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ còn ở nông thôn mà không còn
phổ biến ở thành thị.
Những địa danh còn sót
lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá,
Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi,
Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón
chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm luới hay làm bủa để nuôi
tằm).
Thủ
là danh từ chỉ đồn canh
gác dọc theo các đường sông, vì khá phổ biến thời trước nên "thủ" đã
đi vào một số địa danh hiện nay hãy còn thông dụng, như:Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ
Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An),Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức, Thiêm, Ngữ,
Thừa có lẽ là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đã giữ
chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm việc của
họ. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.
Bến
ban đầu là chỗ có đủ
điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ hoặc đậu lại do yêu cầu chuyên
chở, lên xuống hàng. Sau này nghĩa rộng ra cho cả xe đò,xe hàng, xe
lam...
Cũng như chợ, bến thường
được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được cất lên nhiều nhất. Một số
tên bến đặt theo cách này đã trở thành tên riêng của một số địa phương, như:
Bến Cỏ, Bến Súc, Bến Củi ở Bình Dương. Bến Đá ở Thủ Đức.Bến Gỗ ở Biên Hoà.
Ngoài ra bến cũng còn có
thể được đặt tên theo một đặc điểm nào ở đó, như một loại cây, cỏ nào mọc nhiều
ở đó, và cũng trở thành tên của một địa phương, như:
Bến Tranh ở Mỹ Tho, Bến
Lức ở Long An (đáng lý là lứt, là một loại cây nhỏ lá nhỏ, rễ dùng làm thuốc,
đông y gọi là sài hồ).
Một số trường hợp khác:
Có một số địa danh được
hình thành do vị trí liên hệ đến giao thông, như ngã năm, ngã bảy, cầu,
rạch...thêm vào đặc điểm của vị trí đó, hoặc tên riêng của một nhân vật có
tiếng ở tại vị trí đó. Ở Sài Gòn có rất nhiều địa danh được hình thành theo
cách này: Ngả Tư Bảy Hiền, Ngã Năm Chuồng Chó, Ngã Ba Ông Tạ...Ở Trà Vinh có
Cầu Ngang đã trở thành tên của một quận. Trường hợp hình thành của địa danh Nhà
Bè khá đặc biệt, đó là vị trí ngã ba sông, nơi gặp nhau của 2 con sông Đồng Nai
và Bến Nghé trước khi nhập lại thành sông Lòng Tảo. Lúc ròng, nước của hai con
sông đổ ra rất mạnh thuyền bè không thể đi được, phải đậu lại đợi con nước lớn
để nương theo sức nước mà về theo hai hướng Gia Định hoặc Đồng Nai.
"Nhà Bè nước chảy
chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai
thì về."
Tương truyền có ông Thủ
Huồng là một viên chức cai quản "thủ" ở vùng đó, tham nhũng nổi
tiếng. Có lần nằm mơ thấy cảnh mình chết bị xuống âm phủ phải đền trả những tội
lỗi khi còn sống. Sau đó ông từ chức và bắt đầu làm phúc bố thí rất nhiều; một
trong những việc làm phúc của ông là làm một cái bè lớn ở giữa sông trên đó làm
nhà, để sẵn những lu nước và củi lửa. Những ghe thuyền đợi nước lớn có thể cặp
đó lên bè để nấu cơm và nghỉ ngơi. Địa danh Nhà Bè bắt nguồn từ đó.
Kết
Miền Nam là đất mới đối
với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được hình thành trong vài thế kỷ trở
lại đây nên những nhà nghiên cứu còn có thể truy nguyên ra nguồn gốc và ghi
chép lại để lưu truyền. Cho đến nay thì rất nhiều địa danh chỉ còn lại cái tên
mà ý nghĩa hoặc dấu vết nguyên thuỷ đã biến mất theo thời gian. Thí dụ, Chợ
Quán ở đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, bây giờ chỉ biết có khu Chợ Quán, nhà thờ
Chợ Quán, nhà thương Chợ Quán...chứ còn cái chợ có cái quán đố ai mà tìm cho ra
được. Hoặc Chợ Đũi (có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi vì người buôn bán hay
bị nhân viên công lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ hàng dày
dệt bằng tơ lớn sợi, bây giờ mặt hàng đó đã biến mất nhưng địa danh thì vẫn
còn. Ngoài ra, đất Sài Gòn xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau này thành
phố được xây dựng một số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân vẫn
còn dùng tên cây cũ ở nơi đó để gọi khu đó,như khu Cầu Muối. Và cũng có một số
địa danh do phát âm sai nên ý nghĩa ban đầu đã bị biến đổi nhưng người ta đã
quen với cái tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ cái tên đã
được đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban đầu, vì
nơi đó có nhiều cây lứt; còn chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, sau này
bán đủ mặt hàng và cái tên được viết khác đi).
Thủ Đức
Ai chẳng một lần nghe nói đến nem Thủ Đức. Người ta nhắc đến cái
địa danh Thủ Đức, Xuân Trường như là một nơi danh thắng để giai nhân, tài tử,
tao nhân mặc khách đến đây thưởng thức phong quang.
Theo lời truyền khẩu của
các vị bô lão ở địa phương : Khi xưa, có vị thủ đồn đầu tiên ở nơi này tên là
Đức. Đến sau, ông Tạ Dương Minh đứng ra qui dân lập chợ buôn bán, nhớ đến công
vị thủ đồn tên Đức, nên lấy tên và chức tước của ông mà đặt cho chợ, gọi là chợ
Thủ Đức nay đã thành danh.
(trích trong cuốn Gia
Định Xưa của Huỳnh Minh)
Gò Vấp
Gò Vấp là tên một quận của tỉnh Gia Định. Gọi là Gò Vấp có ý nghĩa
gì ? Chúng tôi đã dụng công ra tìm những sử sách và hỏi thăm các vị bô lão,
nhưng chẳng tìm hiểu được gì đích xác.
Tuy nhiên, theo truyền
thuyết, cũng có thể tin được, địa danh mang tên Gò Vấp, vì lúc trước nơi ấy là
một ngọn đồi trồng cây Vấp (theo tiếng Chàm gọi là Krai, tiếng Việt là Vấp hay
Lùn). Thứ cây Vấp là thứ cây mà dân Chàm coi như thần mộc, yểm hộ cho dân tộc
Chàm.
(trích trong cuốn Gia
Định Xưa của Huỳnh Minh)
Cây Vấp (tên khoa học
là Mesua Ferrea L.)
Đồng Ông Cộ
Đồng bào ở tỉnh Gia Định từ xưa tới nay thường nghe nói đến tên "Đồng Ông
Cộ" nhưng không hiểu rõ cụm từ này do ai đặt ra mà được truyền tụng mãi đến ngày nay.
Ở miền Nam chúng ta, địa phương nào cũng có nhiều huyền thoại,
giai thoại truyền khẩu trong dân gian, lâu ngày trở thành một địa
danh.
Chúng tôi, người tình
nguyện vạch bóng thời gian,ghi lại những sự việc xảy ra từng vùng,từng địa
phương, để hiến quí bạn đọc hiểu rõ nguồn gốc từ thuở xa xưa nơi địa
phương chính mình. Theo một vài vị bô lão cố cựu sinh quán tại Gia Định,
thuật lại sự tích "Đồng ông Cộ" cho chúng tôi biết như sau.
Đất Gia Định ngày xưa rộng lớn hoang vu, dân chúng ở rải rác từng nhóm
theo ruộng gò nổng, rừng chòi dày đặc,đường sá chưa được khai mở, lối đi
vất vả khổ cực.
Khu đất "Đồng ông
Cộ" này ngày xưa thuộc vùng sát cận trung tâm tỉnh Gia Định. Nó ăn từ chợ
(ngã ba trong) dài tới cầu Hang; vòng ra đường Nguyễn Văn Học, phía bên
này cầu Bình Lợi nó ăn sâu luôn phía trong có hơn 10 cây số, rồi vòng ra
khu Hàng Xanh phía lò heo cũ Gia Định chạy dài tới ngã năm Bình Hoà.
Toàn thể khu vực rộng
lớn như vậy,thuở xưa không có lấy một con lộ cái quan nào để dân chúng xê
dịch. Dân cư trong vùng, sinh sống về nghề ruộng nương, rẫy bái, làm nghề
hạ bạc (đánh cá) dọc theo sông cầu Bình Lợi, cầy Băng Ky bây giờ. Những
khoảng đất không được khai phá thì toàn là rừng chồi cây lùm mọc rậm
rạp.
Về sau, Tây lấy Gia Định
rồi thì mở mang quốc lộ đi Thủ Đức và khu sát rìa quốc lộ, ăn sâu vô hằng 5-7
cây số (từ phía Gia Định lên nằm bên tay mặt),được Tây khai phá làm rừng
cao su. Toàn thể một khu đồng ruộng mênh mông như vậy, hơn phân nửa đất
đai toàn là rừng rậm, dân cư lại ít nên không có nhiều đường mòn để
xê dịch. Dân chúng di
chuyển bằng ngựa cũng không tiện chớ đừng nói chi đến dùng xe bò hoặc xe trâu.
Đây khác hơn mọi nơi là chỗ đó!
Mỗi khi dân cư trong
vùng này muốn ra tỉnh, lúc đó là thành Gia Định, có việc cần kíp, hoặc rước
thày trị bệnh, hoặc tải hàng rẫy, gạo thóc ra chợ bán,hoặc mua đổi các thứ
cần thiết đem về dùng.... thật là muôn vạn khó khăn. Chỉ có những trai tráng
khoẻ mạnh mới có thể di chuyển nổi hằng mấy chục cây số đường lồi
lõm không khác lên thác xuống ghềnh, khu đất này lại nhiều chỗ dốc lên,
dốc xuống, đồi nổng..v.v.. Rất ít chỗ được khai phá, thành giồng như xuyên
rừng vậy. Mà hễ mỗi lần đi như vậy thì ruộng nương, rẫy bái ở nhà
lại không ai khai phá, làm lụng sản xuất. Lại mỗi lần đi ra thành thì
lại mất ít nhất 2 ngày - 1 ngày đi, 1 ngày về mua bán, đổi chác.
Một ngày, bỗng dưng
người ta thấy trước cổng nhà của một ông Phú Hộ với nhà ngói 3 gian, 2 chái, 1
dãy nhà bếp, nền đúc cao treo tấm bảng lớn đề mấy chữ :
"Đảm nhận 'Cộ'
người và hàng hoá đi khắp nơi".
Đồng thời với tấm bảng
treo lên, ông Phú Hộ trong vùng gọi là ông Ba Phú Hộ truyền thâu dụng tất cả
thanh niên vạm vỡ trong toàn khu, hay bất cứ nơi nào,muốn có chuyện làm,
ngoài nghề ruộng rẫy.
"Cộ người và
hàng" !
Đó là một lối tải người và hàng hoá giản tiện hơn cả võng hay kiệu.
Ông Ba Phú Hộ bèn cho
dân đan những tấm vạc bằng tre, hai đầu có 4 lóng tre ló ra giống như cái băng
ca nhà thương khiêng bệnh, để người đầu trước người đầu gác lên hai vai,
khách thì ngồi ở vạc tre khúc giữa thòng chân lủng lẳng để người "Cộ"
đi.Hàng hoá thì lại để ở khoảng giữa, thay vì tấm vạc tre đương thì nó là một
miếng ván dày để có thể chất nhiều đồ mà không bị oằn chính giữa.
Người sử dụng muốn mướn
chỉ cần cho ông Ba Phú Hộ hay trước, cho biết nhà rồi thì sáng sớm, khi gà
vừa gáy là có dân phu mang "Cộ" đến tận nhà mà rước người, hoặc
"Cộ" hàng đi ra thành Gia Định.Từ đó, dân cư bắt đầu xê dịch dễ dàng,
không nhọc mệt, bận tâm, hay tốn hao người mỗi khi tải hàng đi
ra thành.
Rồi thì, thời gian trôi
qua, địa danh xuất hiện theo miệng người cư ngụ trong vùng. Khi hỏi:
- Ở đâu ?
Bèn đáp:
- Ở trong đồng ông Ba
"Cộ" !
Ông Ba "Cộ"
đây có nghĩa là ông Ba Phú Hộ"Cộ" người và hàng hoá.
Dần dần, hàng trăm năm
sau vùng này được mở mang, nhưng là một vùng rộng lớn, dân chúng quy tụ về
càng ngày càng đông lại không có địa danh, nên người ta nhớ ơn ông Ba
"Cộ" lập thành vùng này thành địa danh gọi là "Đồng ông Cộ"
cho đến ngày nay.
Cộ
- danh từ: xe quệt. (td. trâu kéo cộ, một cộ
lúa)
- động từ: kéo đi, mang chở, khuân lấy (td.
cộ lúa từ đồng về nhà)
ăn. (td. nồi cơm lớn quá mức tụi tôi đâu
có cộ nổi)
đảm đương (td. nhiều
việc quá liệu
mình có cộ nổi khổng)
(Theo cuốn Tự Điển
Phương Ngữ Nam Bộ.)
(Xe quệt, là loại xe
dùng trâu hoặc bò để lết trên mặt đất. Khung xe bằng tre đặt trên 2 cây trượt.
Đầu 2 cây trượt được gông vào càng xe. Người ta dùng dây chão buộc càng xe vào
vai của trâu hoặc bò. Đây là phương tiện vận chuyển đường dài chủ yếu dùng trong
mùa vụ nông nghiệp, thích ứng với địa hình phức tạp.)
Xe-cộ là danh từ kép,
trong trường này, chữ cộ phải là danh từ để đứng chung với chữ xe. Cái xe và
cái cộ cùng là danh từ chỉ một vật dùng để chuyển tải (người hoặc hàng
hoá).
Giống như danh từ kép
chợ-búa, chợ và búa là hai danh từ đồng nghĩa, nhưng chữ búa là từ cổ đã biến
mất không ai dùng nữa, chỉ còn tồn tại trong từ kép chợ-búa.
(trích trong cuốn Gia
Định Xưa của Huỳnh Minh)
Đồng Tháp Mười
Chú thích năm 1970. Theo tôi, thuyết dưới đây của ông Lê Hương có
phần đáng tin hơn cả. Trong bài Địa danh, di tích, thắng cảnh trong vùng người
Việt gốc Miên, tập san Sử Địa số 14, 15 năm 1969, ông viết: "Tháp mười là
một trong những ngôi tháp làm bằng đá do vua Jayavarman VII xây cất khắp lãnh
thổ để thờ vị thần Bà La Môn Lockecvera là vị thần chuyên trị bệnh cho nhân
loại. Bên cạnh tháp có những căn nhà sàn gỗ lợp bằng đá mỏng,bằng ngói hay bằng
lá thốt nốt để người bịnh nằm dưỡng bệnh do nhân viên y tế hoàng triều coi sóc.
Những ngôi tháp được xây dựng dọc theo các con đường lớn trong nước mà ngôi nằm
trong đồng Tháp Mười, tính từ địa điểm xuất phát, đứng vào hàng thứ muời.
Thời gian trôi qua, tàn
phá tất cả các công trình kiến trúc của cổ nhân, dãy nhà gỗ tiêu tan, chỉ còn
một tượng sư tử đá và một linh phù (linga) cũng bằng đá, dưới bệ có khắc chữ
Bắc Phạn (sanscrit) ghi tên Tháp thứ mười. Trong năm 1932, nhà khảo cổ Pháp
Parmentier đã đi vào Đồng Tháp bằng ghe và xuồng để đọc những chữ khắc vào đó
và phát giác ra ngôi tháp..."
(tríchtrong cuốn Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Muời của Nguyễn Hiến Lê)
Bến Tre
Trường hợp hình thành tên gọi Bến Tre thật đặc biệt, vì đó là sự
gán ghép giữa tiếng Khmer và tiếng Việt.Xưa
kia người Khmer gọi nơi
đó là Srok Treay - srok là xứ,treay là cá. Sau người Việt thay chỗ người Khmer
đến sinh sống làm chủ chốn đó, biến chữ srok thành Bến nhưng chữ treay không
dịch là cá mà phát âm theo tiếng Khmer thành Tre. Quả tình nơi đó không có tre
mà thật nhiều tôm cá.
(theo ông Vương Hồng Sển)
Địa danh Sai gon - Chợ lớn
Đất Nam Việt mà trước đây người ta còn gọi là Nam Kỳ,người Tây
Phương khi đặt chân lên xứ mình hồi thế kỷ 16 , 17 đã gọi bằng tên Cochinchine
hay Đằng Trong.
Người ta cũng gọi xứ
này là Đồng Nai ( đồng có nhiều nai),Lộc Dã,Lộc Đồng (cùng một
nghĩa) hoặc Nông Nại,là nơi mà người Việt mình đặt chân lần đầu tiên năm
1623.Sử chép rằng Chúa Sãi Vương Nguyễn phúc Nguyên (1613-1635),đã gả Công chúa
Ngọc Vạn,lệnh ái thứ 2,cho vua Cao Miên Chei Chetta II (1618-1626) từ Xiêm trở
về lên ngôi báu và đóng đô tại Oulong.Nhờ sự giao hiếu ấy vua Cao Miên mới cho
phép người Việt di dân vào Nam Bộ.Chúng ta đã đặt đầu cầu tại Mô Xoài(gò trồng
xoài),gần Bà Rịa đúng vào năm 1623( Theo Claude Madrolle -Indochine du
Sud,Paris 1926).
Cũng trong năm này
một phái đoàn ngoại giao đã được cử sang Oulong để thương thuyết sự nhượng lại
Sở Thuế quan Saigon.Về sau đến đời vua Réam Thip Dei Chan(1642-1659),em vua
trước,vị hoàng hậu Việt Nam nói trên đã xin vua Cao Miên cho phép người Việt
được quyền khai thác xứ Biên Hòa năm 1638.
Sở dĩ vua Cao Miên đã
giao hảo với nước ta và tự ý nhân nhượng một phần nào,là vì muốn cậy thế lực
của triều đình Huế để chế ngự ảnh hưởng của người Xiêm.Như vậy chúng ta đã đến
sinh cơ,lập nghiệp,khai khẩn đất đai Nam Bộ là do sự thỏa thuận hoàn toàn của
đôi bên,chứ tuyệt nhiên không phải là một sự xâm nhập.Lại nữa nhờ uy thế của
chúng ta mà Cao Miên đã đối phó hiệu quả với những tham vọng của nước Xiêm và
bảo toàn được nền độc lập của mình.
Nói tóm lại sự hiện
diện của chúng ta từ hơn 800 năm nay tại Nam bộ rất là hợp tình,hợp lý và hợp
pháp.Nói một cách khác công cuộc Nam tiến của tổ tiên ta là một sự kiện lịch sử
bất di bất dịch,nó hiển nhiên cũng như cuộc Tây tiến của người Âu Châu tại Mỹ
Quốc và cuộc Đông tiến của người Anh tai Úc Châu.
Con sông Đồng Nai đã
đưa ta đến tỉnh Biên hòa ( hòa bình ở biên cương),một trấn đã được sáp nhập vào
nước ta năm 1653.Khoảng đất này xưa được gọi là Đông phố đúng ra là Giãn phố vì
hai chữ Đông và Giãn viết theo chữ Hán hơi giống nhau.Về sau nơi này đã được
triều đình Huế giao cho bọn người Trung Hoa gốc Quảng Tây di cư theo hai tướng
Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình đến khai khẩn và lập nghiệp năm 1679 tại Cù
lao Phố,sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ.
Miền trên Biên hòa
thì có Hố Nai (hố sập nai),Trảng Bom( trảng là một đồi
bằng phẳng và rộng rải có trồng nhiều cây chum-bao hom đọc trạnh thành bom,sinh
ra một thứ dầu gọi là chaulmougra,dùng để trị phong hủi.
Phía dưới là nhà
thương điên Nguyễn Văn Hoài ,một nhà bác học đã quả quyết với chúng tôi rằng
trong một đời người,số giờ mà chúng ta điên cuồng cộng lại ít nhất cũng được
vài năm!
Biên Hòa là quê hương của Đỗ Thành Nhân ,một trong Gia
định Tam hùng.Hai người kia là Võ Tánh quê ở Gò Công và Nguyễn Huỳnh Đức quê ở
Tân An.
Biên hòa là xứ bưởi
bòng ngon ngọt có tiếng nên mới có câu ca dao :
Thủy để ngư,thiên
biên nhạn
Cao khả xạ hề,đê khả
điếu,
Chỉ kích nhơn tâm bất
khả phòng
E sau lòng lại đổi
lòng,
Nhiều tay tham bưởi
chê bòng lắm anh
Chúng ta đi ngang qua
trước ngọn núi Châu Thới ,cao 65m trên có ngôi chùa Hội
sơn,được trùng tu vào đầu thế kỷ thứ 19,nhờ công đức sư Khải Long:
Bao giờ cạn lạch Đồng
Nai,
Nghiêng chùa Châu
Thới mới sai lời nguyền !
Rồi đến Thủ
Đức với những hồ bơi nước suối,và những gói nem ngon lành.Thủ nhắc lại
ngày xưa có những chức quan văn như thủ bạ,thủ hô lo về việc thuế má và nhơn
thế bộ.Do đó mà có những địa danh như Thủ Thiêm,Thủ Thừa,Thủ Ngữ v.v.. để nhắc
lại tên mấy ông thủ bạ và thủ hộ ngày trước.Miền Thủ Đức lại nhắc cho ta hai
câu đối " tréo dò" "
Xứ Thủ Đức năm canh
thức đủ
Kẻ cơ thần trở lại
Cần Thơ
Có lẽ vì năm canh
thức đủ mà có kẻ than thân trách phận tự mình sánh với cái nem Thủ Đức lột
trần :
Người ta năm chị bảy
em
Tôi đây như thể chiếc
nem lột trần
Phía tay mặt là Gò
Vấp,xưa kia là một ngọn đồi trồng cây vấp.Thứ cây này xưa kia được coi như
thần mộc,yểm hộ cho dân tộc Chàm.Dã sử thuật lại rằng vào đời vua Chiêm cuối
cùng là Pô Romé (1627-1651),vua này muốn vừa ý một ái phi người Việt đã ra lệnh
đốn cây Kraik ( vấp) cổ thụ rợp bóng nơi vườn ngự uyển.Hơn
một trăm thị vệ lực
lưỡng không sao hạ nổi vì vết rìu mỗi lần bổ xong thì khép lại ngay.Nhà vua tức
giận cầm lấy rìu hạ xuống một nhát,tức thời một tiếng rên rỉ vang lên và cây
gục xuống giữa một vũng máu.Và cũng từ đó vận khí nước Chiêm suy dần cho đến ngày
tàn tạ.
Bây giờ ta vào thành
phốSaigon,nơi mà 300 năm về trước(1674)tiền đạo quân ta lần đầu tiên đã
đặt chân tới,mang theo khẩu hiệu :" Tĩnh vi nông,động vi binh".Quân
ta không phải tư động mà đến,chính là do lời yêu cầu khẩn thiết của nhà đương
cuộc hồi bấy giờ.
Họ khai khẩn đất đai
với sức dẻo dai sẵn có,đào sông ngòi trong vùng đất thấp và đây đó khắp nơi,xây
dựng thành trì kiên cố.
Một trong những công
tác quân sự ấy do tướng Nguyễn Đức Đàm xây năm 1772,rồi đến thành trì Phan An
xây năm 1790,kế đến là thànhGia Định xây năm 1836.Những thành ấy
xây đắp với mấy vạn nhân công và bao nhiêu tài trí như đã ghi trong câu ngạn
ngữ :
Dân đất Bắc
Đắp thành Nam:
Đông đã là đông!
Sầu Tây vòi
vọi!
Chúng ta đang ở trung
tâm thành phố Saigon ( Sài là củi,gòn là bông gòn)chuyển sang
chữ nho thành Sài-côn là củi gòn,vì chữ nôm gòn viết là Côn,như Ông Trịnh Hoài
Đức (1765-1825) đã ghi trong tác phẩn Gia Định Thống Chí mà hiện nay chúng còn
một bản dịch ra pháp văn của ông Gabriel Aubaret.
Theo một số người
khác thì Saigon có lẽ do chữ Đê Ngạn đọc thành Tai Ngon hay Thay gon theo giọng
Quảng Đông hay Tingan theo giọng Triều Châu,dùng để chỉ thành phố do người Tàu
lập nên năm 1778 sau khi họ phải rời bỏ Biên hòa vì chiến sự giữa Nguyễn Ánh và
Tây Sơn,để nhờ sự bảo hộ của quân đội chúa Nguyễn đóng tại Bến Nghé.
Nguyên ủy xa hơn cả
có lẽ là sự chuyển âm của một danh xưng tối cổ Preikor,có nghĩa là rừng gòn,một
loại cây hiện nay còn trồng ở Thủ Đô.
Theo Ông Verdeille
thì Saigon có thể là hai chữ nho :Tây Cống đọc chạnh ra,tên này ám
chỉ rằng thành phố là phần đất xưa kia đã được các vị vua phía Tây cống hiến
cho ta.Ta nên lưu ý rằng tên Siagon chỉ được dùng trong các văn kiện của Pháp
kể từ 1784 trở đi mà thôi
Còn danh xưng
của Chợ-lớn mà người Tây đọc liền lại là Cholon,nó chỉ ngôi
chợ xưa kia nằm trên địa điểm hiện tại của Sở Bưu điện Chợ-lớn kéo dài tới tận
Đại Thế Giới cũ.Chợ này lập song song với chợ nhỏ hiện nay còn tồn tại với tên
chợ Thiếc ở phía trường đua Phú Thọ.Về sau Chợ-lớn được dời tới Chợ-lớn mới do
nhà đại phú Quách Đàm xây tặng,tượng họ Quách vẫn còn ở giữa đỉnh chợ Bình Tây
Sự biến đổi địa âm
dạng của địa danh Saigon đã tùy sự hiện diện liên tiếp của những
người quốc tịch khác nhau như Preikor (rừng gòn),Tai- Ngon hay Thầy gòn của
người Trung Hoa mà ta đọc là Đê-ngan,người phương tây dùng chữ la mã ghi
là Saigon từ năm 1784.
Hồi xưa tên Saigon
chỉ áp dụng cho khu vực Chợ -lớn hiện thời,còn chính Saigon bây giờ thì khi ấy
là Bến Nghé (theo Trịnh Hoài Đức,theo các nhà hàng hải Âu Mỹ ,theo bản đồ do
ông Trần Văn Học vẽ ngày mùng 4 tháng chạp năm Gia-long thứ 14( 1815) ghi trên vùng
Chợ-lớn hiện tại chỗ nhà thương Chợ-Rẫy ba chữ Saigon xứ,khoảng gần Cây Mai và
Phước Lâm )Khu Saigon cao ,nằm phía Đồn Đất tức là cái đồn thâu hẹp năm 1836
sau khi Lê Văn Khôi nổi loạn,chắc đã có người ở từ thời thượng cổ,chứng cớ là
những khí giới và đồ dùng bằng đá mài tìm thấy khi đào móng nhà thờ Đức Bà.Khu
thấp thường gọi là Bến Nghé hay bến Thành.
Bến Thành là cái tên ở gần hào thành Gia-Định,nguyên trước có cái rạch nối liền hào thành với sông Bến-Nghé và có cái chợ gọi là chợ Bền Thành.Cái rạch ấy về sau lấp đi thành Đại lộ Nguyễn Huệ và đến bây giờ có câu ca dao như sau :
Chợ Bền Thành đèn xanh đèn đỏ,
Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu;
Lấy em anh đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em!
Bến Nghé theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con,do một tên rất cũ là Kompong Krabey ( bến trâu) đã được Việt hóa.Nhưng ông Đốc phủ Trần Quang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng thườn kêu nghé nên gọi là Bến Nghé-Trịnh hoài Đức dịch là" Ngưu-tân"Bến Nghé là cái bến sông Saigon có tên là sông Bến Nghé,cũng có tên là Tân Bình Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ở Ban Bót(theo gia-định thống chí) .Còn cái rạch Bến nghé nối dài bởi kinh Tàu -hủ(Arroyo chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé.Bến Nghé tức là Saigon và khi ta nói Đồng Nai-Bến Nghé tức là nói đến Nam Bộ vậy.
Phía đông Saigon có một cái kênh gọi là rạch Thị Nghè hay là rạch Bà Nghè.Bà tên là Nguyễn Thị Canh,con gái thống suất Nguyễn Cửu Văn tức Văn Trường Hầu,đẹp duyên với một ông nghè.Để cho chồng bà tiện đường qua rạch hàng ngày vào làm trong thành,bà cho dựng một chiếc cầu mà dân sự có thể dùng được.Để tỏ lòng nhớ ơn một bậc nữ lưu,họ đã gọi cầu ấy là cầu Bà Nghè.Đến khi Tây đến đánh thành Saigon,pháo hạm Avalanche tiến vào rạch này đầu tiên nên họ mới gọi là Arroyo de l'Avalanche.
Trên rạch Bến Nghé hồi xưa có nhiều chiếc cầu ván dựng tạm cho người qua lại.Chiếc cầu nổi tiếng hơn cả là cầu Ông Lãnh,được xây nhờ công ông Lãnh binh,thời tả quân Lê Văn Duyệt.Còn những chiếc cầu khác là Cầu Muối,Cầu Khóm (thơm),Cầu Kho và Cầu học(giếng học).Về các công sự thì có :
Chợ Bến Thành (mới) xây năm 1914 trùng tu năm 1950
Nhà thờ Đức Bà khởi công năm 1877,hoàn thành năm 1883
Sở Bưu Điện và Tòa án cất năm 188
Dinh Norodom khởi công ngày chủ nhật 23-2-1868 với sự tham dự dông đảo của dân chúng.Thủy sư Đô Đốc De La Grandìère với sự hiện diện của kiến trúc sư Hermitte từ HongKong tới,đã đặt viên đá đầu tiên vuông vức mỗi bề nửa mét,trong đó đựng một hộp chì chứa nhũng đồng tiền vàng và bạc dập hình vua Napoléon III.Đức Giám mục Miche,cai quản địa phận,với một số đông con chiên,đã ban phép lành và đọc một diễn văn lời lẽ cao quý đã làm cử tọa đặc biệt chú ý.Công cuộc xây cất trên một khoảng đất rộng 14 mẫu tây đã phải dùng tới hai triệu viên gạch,và cái móng dày tới 3,5m tốn mất 2.436 thước khối đá xanh Biên Hòa.Công tác đã hoàn thành năm 1875 và người đầu tiên đến ở trong dinh đó là Thủy sư Đô Đốc Roze.Sau 84 năm Pháp thuộc,ngày 7-9-1954 Đại tướng Ely,Cao ủy Pháp đã trả dinh thự này cho Chính phủ Việt Nam thời bấy giờ.
Tòa Đô Sảnh (1901-1908) trên có một gác chuông do họa sĩ Ruffier trang trí mặt tiền
Viện Bảo Tàng Quốc Gia xây năm 1927,khánh thành ngày 1-1-1929 ,bị vụ nổ nhà thuốc súng làm hư hại ngày 8-3-1946 và được hoàn lại chính phủ Việt Nam ngày 19-9-1951 thu thập tới 4.000 cổ vật đã kê thành mục lục và trình bày trong 14 gian phòng.
Vườn Cầm Thảo (Sở Thú)tương tự với rừng Vincennes ở Pháp,được lập năm 1864.Sau khi đã san bằng,việc đứa thú tới nhốt nơi đó hoàn tất năm 1865.Ngày 28-3-1865 nhà thực vật học Pierre đảm nhiệm việc điều khiển vườn Cầm Thảo Saigon và ngày nay nhiều giống cây ở xứ ta còn mang tên nhà bác học ấy.
Đây đó ta còn gặp một số địa danh nguồn gốc Tây Phương như : Ba-Son (Arsenal) trong có một bến sửa tàu(bassin de radoub) xây bằng ximăng cốt sắt từ năm 1858,và bến tàu nổi được hạ thủy tháng giêng năm 1866.Chữ Ba-Son do chữ Bassin mà ra.
Vườn Bờ Rô(do chữ Jardin des Beaux Jeux)hay là vườn Ông Thượng,xưa kia là hoa viên của Tổng Trấn Lê Văn Duyệt,nay là vườn Tao Đàn.
Dakao là biến danh của Đất Mộ(đất của lăng)
Lăng-tô là biến danh của Tân thuận,tên một làng mà dân Saigon thường đến hóng mát(pointe des flaneurs).
Bây giờ chúng ta rời Saigon xuống đò Thủ-Thiêm qua bên kia sông xem địa phận mà chính phủ đang trù định một chương trình kiến thiết rộng lớn,để biến nơi này thành một khu vực nguy nga tráng lệ.
Con đò Thủ-Thiêm ngày xưa đã hấp dẫn một số đông những chàng trai trẻ :
Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Thủ-Thiêm.
nhưng một ngày kia chàng trai phải ra đi trong khói lửa chiến tranh,đến khi trở về thì than ôi :
Ngày đi trăm hoa hẹn hò,
Ngày về vắng bóng con đò Thủ-Thiêm!
Từ Thủ-Thiêm chúng ta thẳng tiến đến một nơi gọi là Nhà Bè hay là Ngã Ba Sông Nhà Bè,nơi mà con sông Đồng Nai gặp con sông Saigon cũng gọi là sông Bến Nghé.Ngày xưa ở chỗ ấy ông Thủ khoa Hườn có lập nhà bè để bố thí lúa gạo cho những kẻ lỡ đường và ngày nay còn vọng lại mấy câu hò tình tứ của cô lái miền quê:
Nhà Bè nước chảy chia hai:
Ai về Gia định Đồng Nai thì về!
Rời Nhà Bè ,chúng ta trở lại Saigon để đi về miền Bà Chiểu,một vùng ngoại ô trù mật ở phía đông ,chúng ta phải đi qua một cái cầu gọi làCầu Bông,vì xưa kia ở gần đó Tả Quân Lê Văn Duyệt có lập vườn hoa rất ngoạn mục.Bà Chiểu tỉnh lỵ Gia định,nổi tiếng về lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt (1764-1832),một vĩ nhân được người Việt và người Tàu tôn thờ như một vị thần thánh.
Theo Trương Vĩnh Ký thì Bà Chiểu là một trong 5 bà vợ của ông Lãnh Binh đã xây cái cầu ông Lãnh.Theo phương pháp kinh tế tự túc mà các cụ ngày xưa thường áp dụng,ông đã lập ra 5 cái chợ,giao cho mỗi bà cai quản một cái : Bà Rịa (Phước Lễ),Bà Chỉểu (Gia-Định),Bà Hom (Phước Lâm),Bà Quẹo (phía Quán Tre) và Bà Điểm (phía Thụân Kiều).Riêng chợ Bà Điểm gần làng Tân thới quê hương của Cụ Đồ Chiểu,tác giả Lục Vân Tiên,thi phẩm đầu giường của đồng bào Nam bộ là nơi bán trầu ngon có tiếng ở Miền Nam.Món trầu là đầu câu chuyện,cho nên bao nhiêu chuyện,hay dở gì cũng do miếng trầu trao cho nhau mà sinh ra cả :
Trồng trầu trồng lộn dây tiêu
Con theo hát bội mẹ liều con hư!
Từ Bà Chiểu chúng ta trở lại Saigon để rẽ về Phú Nhuận ,qua Cầu Kiệu hay là Cầu Xóm Kiệu là nơi xưa kia trồng rất nhiều hành kiệu.Phú-Nhuận(giàu sang và thuần nhã) là nơi còn nhiều cổ tích như: Lăng Đô-đốc Võ Di Nguy,mất tại cửa bể Thị Nại năm 1801.Lăng Trương Tấn Bửu và lăng Võ quốc Công tức là hậu quân Vũ Tính,nơi đây vua Gia-Long có cho trồng 4 cây thông đưa từ Huế vào để tỏ lòng mến tiếc.Võ Tánh là một trong Gia-Định tam hùng mà dân chúng nhắc tới trong những điệu hò giao duyên.Theo thường lệ :
Người con gái lên tiếng trước :
Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam-Trung :
Hỏi ai Gia-Định tam hùng,
Mà ai trọn nghĩa thủy chung một lòng ?
Người con trai liền đáp lại :
Ông Tánh,Ông Nhân cùng Ông Huỳnh Đức,
Ba Ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia-Định tam hùng:
Trọn nghĩa thủy chung có Ông Võ Tánh,
Tài cao sức mạnh,trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát giác thiêu mình như không!
Vìa phía Tân Sơn hòa có Lăng Cha Cả là một cổ tích kiến trúc Việt Nam xưa nhất ở vùng Saigon.Nơi đây mai táng Đức Giám Mục Bá-Đa-Lộc,mất tại cửa Thị Nại năm 1799.
Rời khỏi ngoại ô Saigon chúng ta thuê một chiếc thuyền con về vùng Lái-Thiêu (tức là ông Lái gốm họ Huỳnh đã thiêu nhà vì say rượu) để thăm vườn trái :
Ghe anh Nhỏ mũi tráng lường
Ở trên Gia-Định xuống vườn thăm em.
Nơi đây quy tụ rất nhiều trái ngon đặc biệt như : dâu da,thơm,bòn bon,mít tố nữ,măng cụt và nhất là sầu
riêng (Durion) là giống cây từ Mã-Lai đưa vào Cây Sầu riêng thân cao lá ít,trái có gai bén nhọn kinh khủng,cho nên trời chỉ cho phép nó rụng khi đêm khuya thanh vắng mà thôi!Đồng bào Nam-bộ liệt nó vào hàng đầu trong các loài trái,vì nó có đủ năm mùi hương vị đặc biệt như quả lê Trung hoa.Những người xa lạ phải chịu nhẫn nại một thời gian mới thông cảm và khi đã thông cảm rồi thì thèm muốn như mê say,chỉ trừ anh học trò thi rớt:
Có anh thi rớt trở về
Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn
Sầu riêng anh chẳng buồn ăn,
Bòn bon,tố nữ anh quăng cùng đường!
Tại vùng Lái Thiêu,có một ngôi nhà thờ cổ kính xây từ thế kỷ XVIII trên ngọn đồi xinh tươi,chung quanh có nhiều lò gốm,lò sành và một trường dạy học cho trẻ em câm điếc với một phương pháp riêng biệt.
Đến Búng chúng ta không quên đi thăm chùa Phước Long ở vùng An-Sơn,có ông huề thượng thâm nho,thường ra nhiều câu đối bí hiểm cho những khách nhàn du :
Rượu áp sanh(absinthe) say chí tử
Có người đã đối lại như sau :
Bóng măng cụt mát nằm dài
Trong chùa ông huề thượng có ghi hai câu :
Cúng bình hoa,tụng pháp hoa,hoa khai kiến Phật.
Dâng nải quả,tu chánh quả,quả mãn thông Thần
Tên gọi Saigon từ đâu?
Đây là một đề tài được các nhà nghiên cứu, học giả, Tây lẫn Ta,
tốn rất nhiều thì giờ và công sức.
Cho đến nay thì có
khoảng 5 giả thuyết về xuất xứ của chữ Sài Gòn, trong đó có 3 thuộc loại quan
trọng hơn. Xin ghi lại 3 thuyết quan trọng hơn dưới đây:
Sài Gòn từ Thầy Ngòn (Đề
Ngạn), Xi- Coón (Tây Cống):
Đây là thuyết được đưa
ra bởi 2 tay thực dân Pháp là Aubaret và Francis Garnier ( người bị giặc Cờ Đen
phục kích chết ).Theo Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine
và Garnier,Cholen, thì người Tàu ở miền Nam, sau khi bị Tây Sơn tàn sát, đã lập
nên thành phố Chợ Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành phố đó là Tai-ngon hay
Ti-ngan.Sau dó, người Việt bắt chước gọi theo và phát âm thành Sài Gòn.
Thuyết này được hai học
giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ
âm, thì Thầy Ngòn, Xi Coón,rất giống Sài Gòn! Tuy
nhiên, theo lịch sử thì không phải.
Tại sao? Vì lịch sử
chứng minh rằng Saigon có trước, rồi người Tàu mới đọc theo và đọc
trại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coọn.
Theo Phủ Biên Tạp Lục
của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống Suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh
chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vở "Luỹ Sài Gòn"(theo Hán-Việt viết
là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn xuất hiện
trong tài liệu sử sách Việt Nam . Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán
"Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo Nôm là
"Gòn", còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là
"Côn".
Như vậy, ngay từ năm
1674 đã có địa danh Saigon! Thì làm gì phải đợi đến 1778 khi người
Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức
Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng.
Sài Gòn từ Củi Gòn, Cây
Gòn, Prey Kor:
Thuyết này được Petrus
Trương Vĩnh Ký đưa ra dựa theo sự "nghe nói" như sau:
"Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ; Gòn là
tiếng Nam chỉ bông gòn .Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự
kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa
của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận".
Pétrus-Trương Vĩnh Ký-
Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong
Excursions et Reconnaissance X. Saigon , Imprimerie Coloniale
1885.
Không biết tại sao mà
sau này Louis Malleret và Vương Hồng Sển lại quả quyết thuyết này là
"của" Trương Vĩnh Ký , mặc dù ngay sau đoạn này, TVK lại viết
tiếp "Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ
này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc
đích thực của tên đó".
Tương tự, có nhiều
thuyết phụ theo nói rằng Sàigòn từ "Cây Gòn" (Kai Gon) hay "Rừng
Gòn" (Prey Kor) mà ra.
Nói chung, các thuyết
này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bông gòn.
Nhưng thuyết này phần
lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm được dấu tích của một
thứ "rừng gòn" ở vùng Sàigòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở
miền Nam, kể cả nhà bác học Trương Vĩnh Ký . Ngay vào thời của Trương
Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng
của thứ rừng này, mặc dù lúc đó Sàigòn không có phát triển hay thay đổi gì
cho lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không
có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sàigòn.
Sài Gòn từ Prei
Nokor
Đây là thuyết mà thoạt
đầu khó có thể chấp nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng hiện nay được coi như là
"most likely".
Chính Petrus Trương Vĩnh
Ký là người đưa ra thuyết này Trong Tiểu Giáo Trình Địa Lý Nam Kỳ, ông đã
công bố 1 danh sách đôi chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ
là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei
Nokọr
Trước nhất, theo sử Cao
Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623,một sứ thần của chúa Nguyễn
đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor (Saigon)
và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế.
Năm 1747, theo danh mục
các họ đạo trong Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi Rai
Gon Thong (Sài Gòn Thượng) và Rai Gon Hạ(Sài Gòn
Hạ).
Đó là theo sử sách, còn
theo tiếng nói thì Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng
Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là "thị trấn ở trong rừng",Prei
hay Brai là rừng, Nokor hay Nagara là thị trấn. Đây là vùng mà chúa
Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế như đã nói ở trên.
Theo tiến trình của ngôn
ngữ, Prei hay Brai biến thành RAI, thành"Sài", Nokor bị bỏ
"no" thành "kor", và từ "kor" thành
"Gòn".
Từ Prei
Nokor …mà thành SàiGòn thì thật là …dễ sợ !
Còn sở dĩ có Saigon viết dính nhau là do các giáo sĩ
Tây phương đã bỏ mất dấu và gắn liền nhau khi in. Sau khi chiếm nước ta,
để khỏi đọc "sai" ra "sê" theo giọng Pháp
nên Saigon được viết với hai dấu chấm trên chữ i.
Saigon …muôn thuở
là Sàigòn !
Ca dao - Tục ngữ Sài Gòn
Saigon là Hòn ngọc Viễn Đông, là một thành phố lớn nhất
Việt Nam. Những nơi như Saigon được mệnh danh là Kẻ Chợ, đã là Kẻ Chợ ắt
có chợ, mà phải là ngôi chợ lớn, khách Lục tỉnh lên thăm Saigon, ra vào chợ
Saigon hẳn không quên. Chợ Saigon được đồng bào Hậu Giang so sánh với ngôi chợ
tỉnh nhà:
Chợ Saigon cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi
măng.
Giã em xứ sở vuông tròn,
Anh về xứ sở không còn
ra vô.
Người con gái ở đô thành
tiêm nhiễm nếp sống Tây phương, chàng trai xa nàng khỏi sao thắc mắc, lo nàng ở
lại chẳng vuông tròn nên phải ra vô, nàng vuông tròn chàng yên tâm về xứ sở.
Cúc mọc bờ ao kêu bằng
cúc thủy,
Chợ Saigon xa, chợ Mỹ
cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi
nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau
là thăm em.
Saigon và Mỹ Tho, hai
nơi cách nhau trên sáu chục cây số, nay tuy thật gần những xưa thật xa,vì
phương tiện di chuyển đâu có dồi dào như nay, chàng và nàng dù đã yêu nhau,
nhưng mỗi lúc tới thăm đâu có dễ dàng, đôi bên cùng bận làm ăn buôn bán, nàng ở
chợ Saigon, chàng ở chợ Mỹ Tho. Nhớ nhung nhau, chỉ biết tin thư thăm hỏi, lấy
giấy thay lời. Chàng yêu nàng vì duyên, vì tình, tình yêu chân thật, đâu thấy
nàng giàu mà ham hoặc thấy nàng nghèo mà chê.
Chợ Saigon đèn xanh, đèn
đỏ,
Anh coi không tỏ, anh
ngỡ đèn tàu.
Lấy anh em đâu kể sang
giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi
nào hơn em.
Chợ Saigon với những
hàng quảng cáo đèn màu xanh đỏ, chàng trai quê lên nhầm lẫn đó là đèn tàu. Sự
lầm lẫn thị giác này có thể có được, nhưng lầm về yêu đương, chàng đâu có lầm.
Chàng lấy nàng đâu có kể sang giàu, vì tiền tài bao nhiêu cũng có thể hết, duy
tình nghĩa mới bền lâu, như người xưa đã nói:
Theo vàng bỏ ngãi ai
hơi,
Vàng thời đã hết, ngãi
tôi vẫn còn.
Chính vì nghĩa mới bền
lâu, nên khi xa người nghĩa, người con trai đứng ngồi không yên:
Chim quyên xuống đất tha
mồi,
Tôi xa người nghĩa đứng
ngồi không yên!
Giấy tây bán mấy,
Mua lấy tờ nguyên,
Làm thơ hỏi bạn tình
duyên chuyện gì?
Mến thương nàng, đem
nàng so sánh với các nàng Lục tỉnh, cô gái Saigon thật hơn:
Nội trong lục tỉnh Nam
kỳ,
Mấy ai được nết nhu mì
như em.
Hai hàng lụy ngọc ướt
nhèm,
Làm sao cho đặng anh với
em giao hòa.
Sự ước vọng, lòng mong
mỏi của chàng là được cùng nàng giao hòa!
Chợ Saigon ngày nay ta
vẫn gọi là chợ Bến Thành, nhưng Bến Thành trước đây là bến tàu và hàng ngày
thường 10 giờ thì tàu đến bến này:
Mười giờ tàu lại Bến Thành,
Súp lê còi thổi bộ hành
lao xao.
Sao lại mệnh danh Bến
Thành? Phải chăng đây là bến của đô thành Saigon hay của Gia Định
thành? Còn khách bộ hành lao xao vì muốn ngắm tàu Tây.
Anh ngồi quạt quán Bến
Thành,
Nghe em có chốn anh đành
quăng om!
Anh ngồi quạt quán Bà
Hom,
Hành khách chẳng có, đá
om quăng lò.
Chàng trai ngồi quạt
quán ở Bến Thành với bình trà Huế, được tin người mình thương đã có nơi chốn,
chàng tỏ buồn rầu quẳng cả bình trà đi! Kể cũng đáng buồn, tưởng được cùng
người thương thưởng thức bình trà (om) ngon, ngờ đâu nàng là hoa có chủ, chàng
đành ôm hận, trút mối giận vào om, cái bình trà vô tội.
Nhắc đến Bến Thành, quên
sao được thành Tây:
Dân đất Bắc,
Đắp thành Tây.
Đông thật là đông,
Sầu Nam vời
vợi.
Câu này gồm đủ đông,
tây, nam, bắc! Dân đất Bắc phải chăng những người dân miền Bắc bị đưa
vào Nam làm dân phu,đắp thành cho người Tây? Số dân phu ắt nhiều lắm,
Đông thật là đông. Sự đông đúc này quả là một mối sầu vời vợi cho
nước Nam, cho dân Nam! Nước mất nhà tan, thân làm nô lệ, phải đi đắp
thành cực khổ cho Tây để chúng dựa vào thành trì đô hộ đồng bào mình. Người
miền Bắc bị đi dân phu hằng than thở:
Nhà tan nước mất ai ơi,
Cái thân nô lệ sống đời
cu ly!
Người dân than thân như
vậy, nhưng vẫn có bọn mũ cao áo dài hà hiếp dân để nịnh bợ quân thù! Thật đau
đớn nhưng những kẻ mãi quốc cầu vinh, cõng rắn cắn gà nhà, có bao giờ chúng
nghĩ đến Sầu Nam vời vợi. Và
trong khi sống đời cu ly
đi đắp thành Tây, đã biết bao nhiêu người bỏ thây cùng công việc, ngày xưa đâu
đã có máy móc, kỹ thuật xây dựng đắp hoàn toàn công ở sức người.
Đắp thành Tây rồi xây
soái phủ cho Tây, người dân Nam trong cảnh căm hờn muốn nói không ra,
đành gởi tâm tình vào ca dao tục ngữ:
Trên thượng thơ bán giấy
Dưới Thủ Ngữ treo cờ.
Kìa Ba còn đứng trơ vơ!
Nào khi núp bụi, núp bờ,
Mũi Di đánh dạo bây giờ
bỏ em.
Thượng thơ, xưa chính là
soái phủ miền Nam ở góc đường Tự Do và Gia Long ngày nay. Nơi ấy có
bán ấn chỉ cho dân, trong Nam quen gọi là bán giấy. Thủ Ngữ là nơi
thủy quân Pháp đóng,cọ dựng cột cờ. Con người ái quốc trông hai nơi này căm gan
sôi ruột! Ai đã khéo đạt ra cau ca dao trên để kích thích lòng căm hờn của
người dan Việt, đã nhắc đến tượng Gambotta ở vườn Tao Đàn, gọi một cách nhục
nhã là Ba Tượng một người Pháp gọi là Ba,ai là dân Việt ắt thấy nhục vong quốc
này. Nếu câu ca dao chỉ có ba dòng đầu có thể gợi sự
nghi ngờ của người Pháp,
bởi vậy phải thêm hai hàng sau gắn vào, mượn lời tình nhân oán trách tình nhân
che dấu ý kín của câu hát. Tuy đây là lời tình nhân oán trách tình nhân, nhưng
cũng là lời đồng chí oán trách đồng chí, đã cùng nhau núp bụi ngồi bờ, đã cùng
nhau đánh dạo ở mũi Di, vậy mà quên nhau, về đầu thú người Pháp để cầu công
danh phú quý.
Pháp chiếm Việt Nam, một
mặt dân Việt Nam căm hờn, một mặt một số cô gái Việt Nam kém ý thức, vì hoàn
cảnh đã sánh duyên với Pháp trở thành me Tây. Lính Pháp lấy me trong thời gian
ở đất Việt, rồi anh lính trở về Pháp, cô me Tây ở lại nước Việt lại lấy chồng,
đậng một anh lính khác, chẳng khác chi các nàng Giao chỉ sau này trong thập
niên 60 cho đến năm 1975 sánh duyên cùng các chú lính Mẽo:
Saigon mũi đõ,
Gia Đinh súp lê.
Giã hiền thê ở lại lấy
chồng,
Thuyền anh ra cửa bể như
rồng lên mây.
Thuyền,tàu Saigon hồi
đó sơn mũi đỏ để phân biệt với thuyền tàu lục tỉnh, như vậy thực dân tiện bề
kiểm soát.
Thuyền anh ra cửa bể như
rồng lên mây, câu này muốn nói khi anh lính Tây đã ra cửa bể rồi, anh tha hồ
được tự do, đến bến mới anh tha hồ kết duyên cùng người mới.
Về các cuộc hôn nhân
Việt Pháp, lúc tiễn đưa, chúng tôi đã từng nhắc tới một câu trong ca dao hôn
nhân dị chủng, xin phép được nhắc lại như sau:
Còi súp lê một anh còn
than thở,
Còi súp lê hai anh nức
nở vắn dài.
Còi súp lê ba, tàu ra
biển Bắc,
Nước mắt anh nhỏ ra, anh
rút mù xoa anh chậm,
Tình nghĩa vợ chồng ngàn
dặm không quên.
Cuộc tiễn đưa ắt phải
xảy ra tại bến tàu Saigon, và có anh chàng Tây đã thút thít vì phải xa vợ, anh
bảo rằng ngàn dặm không quên, có thật hay chăng anh ra cửa bể như rồng lên mây?
Sao có sự mâu thuẫn giữa hai câu thơ trên, hay ý tại ngôn ngoại, chỉ có sự mâu
thuẫn trên hình thức, còn thực ra thì ngàn dặm có đời nào mà không quên đối với
những lứa đôi dị chủng, nhất là trong cuộc chắp nối giang hồ.
Saigon nơi có đô
hội lớn, phố xá rộng rãi, cây cao và rậm mát:
Đường Saigon cây to bóng
mát,
Đường Chợ Lớn hạt cát
nhỏ dễ đi.
Đường Saigon có
đúng cây to bóng mát, còn đường Chợ Lớn có lẽ trước đây với đất phù sa của đồng
bằng Cửu Long, cát nhỏ dễ đi chăng!Dưới thời Pháp thuộc,
đường Saigon cũng như đường Chợ Lớn đều đã rải đá và sau này tráng
nhựa... Ngày nay, với thời gian đường đã hư hỏng dù rải đá hay tráng nhựa, mà
chính quyền có ít chú ý tới sửa chữa, nên có thể có người than:
Đường Saigon ổ
gà đi xóc,
Đường Chợ Lớn đi xóc ổ
gà.
Ca
dao Saigon có những câu rất ngộ nghĩnh, nhắc tới địa danh một cách khéo
léo:
Chị Hươu đi chợ Đồng
Nai,
Bước qua Bến Nghé ngồi
nhai thịt bò.
Trong bài này chúng ta
bắt gặp bốn con vật ăn cỏ là Hươu, Nai, Nghé, Bò với hai địa danh là Đồng Nai,
Bến Nghé.
Dưới đây là câu ca dao
nhắc tới các chợ khác ngoài chợ Bến Thành:
Mẹ đi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau chợ Vải, mua
trầu chợ Dinh.
Sáng mai đi chợ Gò Vấp,
Anh mua một xấp vải đem
về.
Cho con hai nó cắt, con
ba nó may,
Con tư nó đột, con năm
nó viền.
Con sáu đơm nút, con bảy
vắt khuy;
Anh bước ra đi,
Con tám núi, con chín
trì,
Ớ em mười ơi!
Sao em để vậy còn gì áo
anh?
Ca
dao Saigon hẳn phải còn nhiều, biết tới đâu xin tỏ tường tới đó,
những điều chưa biết xin nhờ sự chỉ giáo của người biết.
(Trích tác phẩm "Hương
Nước Hồn Quê" – Toan Ánh )
Tứ Đại Hào Phú đất SaiGon xưa:
Đất Sài Gòn - Gia Định ngày xưa xuất hiện những tay giàu có nổi
tiếng cho đến ngày nay vẫn được truyền tụng về những huyền thoại “ giàu nức đố
đổ vách “ của thời đầu thế kỷ 20 . Đứng đầu trong số đó có lẽ phải nhắc tới Tứ
Đại Hào Phú, giàu nhất Sài Gòn (gần như giàu nhất cả Nam Kỳ). Bốn người này
được dân gian nhắc tới trong câu:
Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam
Xường, Tứ Hỏa.
1. Nhất Sỹ ( hay Huyện Sỹ
)
Tên thật là Lê Phát Đạt, sinh quán tại Cầu Kho, Sài Gòn, là ông
ngoại của bà Nguyễn Hữu Thị Lan chính là Nam Phương Hoàng Hâu. Thuở nhỏ ông tên
là Sĩ, sau theo học trường dòng nên đổi tên thành Đạt. Trở về sau khi đi du
học, ông lại lấy tên cũ của mình, từ đó người ta quen gọi là ông Sĩ.
Khi ra trường, ông làm
thông ngôn (interpreter) rồi lên làm tham biện, sau đó là chức Huyện hàm. Vốn
là công chức mẫn cán, có tài, ông được ưu tiên mua đất đai giá rẻ và muốn mua
bao nhiêu cũng có. Huyện Sĩ đã đầu tư lớn đất đai ở Sài Gòn, Tân An... Một thời
gian sau mật độ dân cư đông lên, đất đai trổ nên quý giá, mua một bán trăm. Với
đầu óc thông minh, Huyện Sỹ đã khiến tài sản của mình tăng lên thật nahnh chóng
và trở thành đại phú hào ở Sài Gòn.
Ngôi Thánh đường còn lưu dất tích đến ngày nay: nhà thờ Huyện Sĩ (
hay còn gọi là Nhà Thờ Chợ Đũi ) góc Nguyễn Trãi - Tôn Thất Tùng ngày nay chính
do ông xây dựng vào năm 1902 do cha Bouttier thiết kế . (phần sau nhà thờ là mộ
phần ông bà Huyện Sỹ )
2. Nhì Phương ( hay Tổng
Đốc Phương )
Tên đầy đủ là Đỗ Hữu Phương, sinh năm 1844 tại Saigon, nguyên
chủng sinh tại Penang, là tổng đốc Sài Gòn. Thông thạo tiếng Pháp, được Pháp
chọn tham gia phái đoàn của Pháp trong cuộc thương lượng với triều đình Huế năm
1868. Sau đó Phương tham gia các cuộc tảo thanh chống Nguyễn Trung Trực tại
Rạch Giá. Năm 1872, Phương được Pháp thăng chức tổng đốc Saigon. Tên ông
được đặt cho một con đường ở Sài Gòn, nay là đường Châu Văn Liêm. Đây là một
tay Việt gian, song xét về tài sản thì xứng đáng trong nhóm cự phú đứng đầu Sài
Gòn.
Tài sản của Tổng đốc
Phương tương truyền do bà vợ giỏi kinh doanh cộng với thế lực của chồng đã làm
đủ việc để làm giàu,từ phân phối hàng hóa dịch vụ cho đến bất động sản. Người
Pháp cũng muốn trả ơn sự "tận tuỵ" của Phương Tổng đốc mà giành cho
gia đình này nhiều đặc quyền đặc lợi.
3. Tam Xường ( hay Bá Hộ
Xường )
Tên thật là Lý Tường Quan, người Minh Hương. Giỏi tiếng Pháp,
thông thuộc ngôn ngữ Hoa Việt, Lý Tường Quan làm thông ngôn cho chính quyền
Pháp, được yêu mến và trọng dụng bởi sự thông minh, đắc dụng.
Đến năm 30 tuổi ông từ
bỏ địa vị mà nhiều người mơ cũng không có được để bước vào lĩnh vực kinh doanh.
Ông tập trung vào lĩnh vực kinh doanh lương thực dịch vụ, độc quyền cung cấp
thịt cá cho Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Không lâu, bá hộ Xường đã trở thành
"trùm" về lương thực thực phẩm và công nghệ thời ấy. Dinh thự riêng
của ông tọa lạc tại đường Gaudot (Hải Thương lãn Ông ngày nay) nguy nga bề thế,
nhiều người nể vì. (Đường Hải Thượng Lãn Ông ngày nay cũng là đường tập trung
nhiều đại gia sản xuất lớn).
4. Tứ Hỏa ( hay Chú Hỏa
)
Tên đầy đủ là Hui Bon Hoa, hay người ta thường
gọi thân mật là chú Hỏa. Ông là người có nhiều huyền thoại nhất trong tứ đại
hào phú Sài Gòn xưa. Đi lên bằng hai bàn tay trắng (làm nghề bán ve chai, đồ
phế liệu), nhiều người đã thêu dệt những câu chuyện như nhặt được vàng trong
đống đồng nát, an táng mộ cha đúng long mạch hay bí mật mang vàng bạc từ Trung
Quốc sang...
Song cuộc đời chú Hỏa là chuỗi ngày cần cù làm việc để làm giàu.
Sau mấy chục năm đi thu mua ve chai (Thầu ve chai không phải là công việc thấp
kém mang ít tiền như nhiều người nghĩ. Hiện Sài Gòn có những công ty thu mua
giấy, sắt, dầu nhớt vụn và hàng tỷ thứ lung tung khác thải ra từ các khu công
nghiệp, các nhà máy lớn, kiếm bộn tiền), kiếm được số vốn kha khá, chú Hỏa nhảy
vào lĩnh vực bất động sản. Sài Gòn bây giờ bước từ thưở sơ khai sang thời buôn
bán thịnh vượng, tụ hội dân tứ xứ nên đất đai luôn là điểm nóng. Trong vòng
mười năm, tài sản chú Hỏa trở nên khổng lồ. Trước thế chiến thứ nhất, gia sản
của chú Hỏa đã ngót nghét 20,000 căn nhà phố ở khắp Sài Gòn - Gia Định -
Chợ Lớn, thành lập công ty "Hui Bon Hoa và các con".
Ngày nay, hầu hết con
cháu chú Hỏa đều đã sống ở nước ngoài. Dấu tích xưa chỉ còn tòa dinh thự đồ sộ
nằm ở khu tứ giác Phó Đức Chính - Lê Thị Hồng Gấm -Calmette - Nguyễn Thái Bình
(Quận Nhất ngày nay). Ít người biết Trung tâm cấp cứu Sài Gòn trên đường Lê Lợi
cũng là một công trình chú Hỏa dựng nên để tặng
cho thành phố.
Những Địa Danh Mang Tên 'Ông', 'Bà' Ở Sài Gòn:
Đầu tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi hồi trước của con rạch
Thị Nghè quận 1 sát bên Sở thú Sài Gòn. Trong Gia Định phú do Phan Văn Thị sáng
tác có câu ví ngộ nghĩnh.
Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ
quyến trải,
Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm rai.
Tôi chịu thua, tìm cả trong tự điển cây "chàm rai" là
cây gì, mà lá nó xanh dữ vậy.
Nội ô Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh còn có một bà cũng nổi tiếng đó là Bà
Chiểu, nằm trên địa bàn phường 1, 2 và 14 thuộc quận Bình Thạnh. Khu vực
này có cái chợ cùng tên Bà Chiểu tấp nập ngày đêm, chủ yếu là bán lẻ. Có câu ca
dao, nghe cũng vui tai:
Xe mui chiều thả chung quanh
Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi.
Có lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà Điểm. Tương
truyền bà Điểm là một chủ quán nước chè vùng Tân Thới Nhứt, Hóc Môn, có 18 thôn
vườn trầu, nơi đây Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định từng hoạt động (khoảng
năm 1861).
Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa
danh,một con đường, con hẻm một cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ nhớ, sau
là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng; thứ nữa nhìn hình vóc
của khu vực đó mà đặt.
Thí dụ: Bà Quẹo, là khu vực gồm các phường 13, 14
quận Tân Bình. Ai đi trên đường Cách mạng Tháng Tám nối liền đường Trường-Chinh
lên Tây Ninh, vọt thẳng biên giới với Cam-pu-chia, có một ngã ba, nếu nhà ở
hướng lộ 14 thì quẹo trái (rẽ) vào.
Hay Bà Đô, là con rạch ở phường 1, quận 5, thông từ
các ao, đầm ra rạch Bến Nghé, nay bị lấp rồi. Bà Đô còn là tên chiếc cầu ở đầu
đường Hàm Tử bắc qua rạch Bà Đô (còn gọi là Thị Đô). Dân chèo ghe ở Sài Gòn hồi
trước, qua đây hay hát:
Kể từ chợ Sỏi trở vô
Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.
Hay như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên kênh Tàu Hũ,
từ đầu đường Tản Đà đến đầu đường Phú Định. Trong Gia Định phú có câu ví rất
hay:
Giếng Bà Nhuận rạch cam tuyền, trai gái nhảy thỏa tình khát
vọng Cầu Bà Thuông đường quan lộ gần xa đều phỉ chí quy lai.
Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ Bà rất nhiều. Như: rạch Bà
Bướm có tên từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông, quận 7 chảy vào sông Sài
Gòn, nay nằm trong khu chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy
qua hai xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh
giới với Tây Ninh đến
sông Láng Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6
giáp ranh với Tân Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân Tạo. Bà
Tàng, vừa là các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu bắc qua
rạch Lào trên đường Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng, Bà Lát,
Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà
Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp... cũng là cầu, là rạch, là tên riêng vùng
đất. Như tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa ở vùng Cầu Kho quận 1.
Khắc trong tiếng Nam Bộ còn gọi là Khấc, để cầu khỏi trơn trợt.
Trong bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh có câu:
Trên cây Da Còm, nỡ để ông già gùi đội
Dưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài.
Chiếc cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không còn
nữa.
Nhiều tên đường cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh Quan trên
địa bàn phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue Nouvelle, đến năm 1920
đổi thành Pierre Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay.
Bà Ký là đường trên địa bàn phường 9, quận 6. Bà Lài là đường nối
từ đường Phạm Văn Chí với Lò Gốm, nay tên đường mới là Đặng Thái Thân. Bà
Lê Chân ở Tân Định. Năm 1906 có tên là Frostin. Đến 19-10-1955 đổi lại
thành đường Bà Lê Chân. Bà Triệu nằm sau Bệnh viện Chợ Rẫy,
thời Pháp có tên là Merlande. Năm 1955 mới đổi thành Bà Triệu... Chắc là còn
nhiều "bà" nữa mà người viết chưa có vinh hạnh làm quen xin mọi người
tìm thêm nữa.
Cũng lạ, khi đặt tên cho cái rạch, con sông, chiếc cầu, hay địa danh một vùng
đất gắn với một bà nào đó, thì có cả ca dao, câu hát, câu ví dí dỏm. Nhưng, với
cánh đàn ông thì thiệt là khô khan, chả thơ phú, câu vè, câu đố nào. Dù sao, có
bà thì phải có ông, bởi thiếu ông nghe như trống trải trong lòng vậy.
Ở Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, địa danh mang tên năm ông sau đây, cứ nhắc
tới thì cả nam, phụ, lão, ấu ai cũng rành.
Đầu sổ là Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông
Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh (Nói nhỏ: chỗ này hồi trước
bụi đời dữ lắm nghen, nay thì đỡ nhiều rồi). Đúng là có cầu, có chợ, có phường
100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là ai vậy, thưa bà con, thì nghe chừng
ngắc ngứ lắm!Có giả thuyết cầu này do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 -
1866) đóng quân ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đình Nhơn Hòa, quận 1 gần chiếc
cầu. Vả lại,năm 1885, Trương Vĩnh Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh
ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ không phải ai khác.
Cũng có người bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe
chừng chuyện này không thuyết phục mấy.
Hai là Ông Thượng. Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông
Thượng thì biết ngay là Công viên văn hóa Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi
bọn trẻ,chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên dân
gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và 30 của thế kỷ
19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát đến biểu diễn, cả cải
lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi nhỏ cũng hay đến đây coi tuồng hát
bội.
Ba là Ông Tố. Giồng Ông Tố là vùng đất thuộc quận 2, thành phố
Hồ Chí Minh, hồi năm nẳm, ở vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có
câu:
Coi cọp, xuống Thị Nghè
Ăn ve, lên Ông Tố.
Ve mà nướng lên ăn cũng thơm như cào cào, châu chấu vậy. Không rõ ông
Trương Vĩnh Tố có làm quan chức gì, chỉ biết ông ở gần đấy và khu đất cao (gọi
là giồng)có lẽ là của ông chăng?
Bốn là Ông Tạ. Là chợ mang tên một thầy thuốc nam nổi tiếng
Trần Văn Bỉ (còn gọi là Tạ Thủ). Chợ Ông Tạ còn là vùng đất thuộc các phường 3,
4, 5, 7 của quận Tân Bình. Nói thêm: Dân ghiền thịt chó nghe đến chợ Ông Tạ là
gợi ngay đến các hàng thịt chó nằm trên đường Cách mạng Tháng Tám treo lủng
lẳng cả chục con thui vàng rực, coi bắt mắt lắm.
Năm là Ông Thìn. Cầu Ông Thìn bắc qua sông Cần Giuộc, nối hai
xã Đa Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng
Ông Thìn là tên người lái đò đưa khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc dã
chiến năm 1925, nay đã nâng thành cầu đúc dài 162 m.
Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn này. Đó là Lăng Ông (dân
thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được
xây trên khuôn viên khá rộng 18.500 m2. Nghe rằng tác giả công trình này về sau
xây lăng Tự Đức ở Huế. Ngày 16-11-1988,Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Lăng
Ông là di tích kiến trúc nghệ thuật. ở lăng có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp ở chánh
điện. Cổng tam quan có cây thốt nốt
tạo vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch.
Ở Sài Gòn, còn có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân
Trường) tại xã Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
Tên đường chỉ duy nhất có Ông ích Khiêm. Gắn với tên ông còn
có rạch, cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2.800 m từ ngả ba rạch
bến Trâu và Tân Hóa tới rạch Lò Gốm);rạch Ông Cái ở quận 2,
rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở Tân Túc, Bình Chánh,
rạch Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè, rạch Ông
Đội ở quận 7, rạch Ông Mưu ở Bình Chánh; rạch Ông
Nghĩa ở xã An Thới Đông, Cần Giờ từ rừng lá đến sông Lòng Tàu.
Có cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ; cầu Ông Nhiêu,
cầu Ông Thìn, cầu Ông Tiều...Rồi đập Ông
Hiền ở xã Bình Hưng dài đến ba cây số.
Quả tình, gắn với tên ông thì còn nhiều lắm, nhưng xin tạm dừng ở đây.
Nhà thờ THỦ ĐỨC-Thánh đường trên 100 tuổi.
Từ chợ Thủ Đức, lên một con dốc thoai thoải, bên trái đường là một ngôi thánh đường màu hồng đậm nằm lọt trong rừng cây xanh um tùm, đó là nhà thờ Thủ Đức có trên trăm tuổi nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp nguy nga ban đầu.
Tương truyền, giáo dân vùngphụ cận Thủ Đức rất
sùng đạo nhưng trong vùng không có nhà thờ. Mỗi chủ nhật,người dân phải cùng
nhau đến nhà thờ Lái Thiêu để dự lễ. Khi đó vùng Thủ Đứcbây giờ đang là rừng
rậm, cọp beo rất nhiều, việc đi lại hết sức khó khăn, nguyhiểm. Năm 1880, linh
mục Boutier được bổ nhiệm làm cha sở họ Phong Phú - ThủĐức. Ông là một kiến
trúc sư có tài và nhà thờ Thủ Đức hiện nay là một trongnhững công trình kiến
trúc do ông thiết kế.
Nhà thờ Thủ Đức được xây dựng theo kiến trúc
Gothique. Nhìn từ ngoài vào, tất cả các cửa chính và cửa sổ của nhà thờ đều có
hình vòm nhọn, tạo cho công trình vẻ cao ráo, nhẹ nhàng. Hai hàng cột chính
trong thánh đường không cầu kỳ như kiến trúc Roman nhưng vẫn đẹp nhờ những
đường nét trang trí thanh thoát phần đỉnh cột. Vòm trần nhà thờ có hình nhiều
quả trám chụm lại, tạo cảm giác thánh đường rộng và cao vút. Các cửa sổ nằm sát
mái gắn kính màu sáng có hình hoa hồng, vừa là nơi lấy ánh sáng vừa là điểm nhấn
trang trí. Suốt chiều dài tường hai bên nhà thờ trang trí rất nhiều tượng gỗ
diễn tả các tích trong kinh thánh.Phong cách kiến trúc Gothique khiến nhà thờ
Thủ Đức mang đậm vẻ thâm nghiêm nhưng hết sức lộng lẫy và gần gũi. Năm 1931,
nhà thờ được mở rộng ra hai bên.Năm 1935, nhà thờ một lần nữa được nới rộng
thêm và có hình dáng như hiện nay.Điều đáng nói là tất cả các phần nới thêm
không hề phá vỡ kiến trúc vốn có của ngôi thánh đường mà còn khiến nó đẹp và bề
thế hơn. Nhà thờ Thủ Đức có khuôn viên rất rộng, khoảng trên sáu ngàn mét
vuông. Khu vườn quanh nhà thờ còn nhiều cây cổ thụ tuổi ngót nghét bằng tuổi
ngôi thánh đường. Khu rừng cây tạo cho nhà thờ một không gian thoáng mát, màu
sơn hồng đậm của thánh đường được màu xanh mát của cây lá tôn lên càng nổi
bật.
Được biết, ngoài nhà thờ Thủ Đức, linh mục
Boutier còn là người vẽ thiết kế nhà thờ Huyện Sĩ ở TPHCM. Hai ngôi thánh đường
có chung kiến trúc Gothique nhưng mỗi nơi có một vẻ đẹp riêng.
Thủ Dầu Một
Thủ Dầu Một là thị xã tỉnh lỵ tỉnh Bình Dương, cách Sài Gòn khoảng 20
km về phía bắc.Trước 1975, thị xã thuộc quận Châu Thành.
Nguồn gốc tên gọi
Có hai giả thuyết:
1. Trong thế kỷ 17-18, vùng Bình Dương-Lái Thiêu là nơi định cư của nhiều
dân triều Minh chạy trốn triều Thanh,phần đông làm nghề gốm, ít học vấn. Họ gọi
vùng đất nầy là Thụ Dầu Mục hoặc Thú Dầu Mục, vì vùng này có mọc nhiều cây có
tên địa phương là Thù du mộc .Dân Bình Dương gọi hai loài thực vật, một cây
ngắn ngày là bụp giấm (Hibiscuss abdarffa) và cây thầu dầu (Ricinus
communis) bằng cùng một tên là cây Thù du. Đây là nguyên nhân có từ Thủ Dầu
Một thuộc tỉnh Bình Dương.
2. Có giải thích khác là nơi có cây Dầu Một, là "cây dầu đứng một
mình ở đầu con đường". Không hợp cách đặt tên của miền Nam. Trường hợp này
sẽ gọi là: ngã ba, ngã tư Cây Dầu,nếu có đất gò thì gọi Gò Dầu.
Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
Đêm rằm mười sáu trăng treo
Anh đóng giường lèo, cưới vợ Lái Thiêu (Ca dao)
Năm xưa, có bao chàng trai người Minh Hương bỏ tiền ra mua cho được chiếc
giường lèo (giường bằng gổ, có chạm trỗ) với ước mong cưới được những cô con
gái Việt hương sắc ở Lái Thiêu ? Không ai biết. Có điều tôi biết chắc là người
Sài Gòn xưa mong cuối tuần đi Lái Thiêu đổi gió và ăn trái cây, nhứt là cứ độ
từ tháng 5 đến tháng 8, là mùa trái cây ở Lái Thiêu chín rộ.
Đất Bình Dương - Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn -
Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh "mang gươm đi mở cõi". Đất Bình Dương
nằm trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung Phần với đồng bằng sông
Cửu Long nên thế đất bằng phẳng hơi dốc, có độ cao trung bình 20-25m so với mặt
biển, rất thích hợp với các loại cây công nghiệp và cây ăn trái. Và Lái Thiêu
là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trải
rộng trên diện tích 1,250 ha.
Thuở trước, Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một. Đến tháng 12 năm 1899
tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập từ Sở Tham biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên
Hòa. Đến tháng 10 năm 1956 tỉnh Bình Dương được thành lập, bao gồm tỉnh Thủ Dầu
Một và một phần tỉnh Bình Long, có 5 quận, tỉnh lỵ là Phú Cường. Người Bình
Dương trong lịch sử của mình đã làm nên di sản văn hóa miệt vườn “đặc trưng
miền Đông” và làng nghề truyền thống điêu khắc gỗ, đồ gốm và tranh sơn mài,
tiếng tăm vang lừng cả nước cho tới ngày nay.
Lái Thiêu cách Sài Gòn khoảng 20 km, thuở xưa là nơi nghỉ cuối tuần tuyệt diệu
“dành riêng” cho người Sài Gòn. Lái Thiêu còn nổi tiếng là điểm hò hẹn của các
lứa tuổi… Lái Thiệu tuyệt vời như thế nhưng hồi đó đâu phải người Sài Gòn nào
cũng biết thưởng thức Lái Thiêu đâu!
Qua khỏi cầu Bình Triệu, theo Quốc lộ 13 đi khoảng 20 phút chúng ta sẽ đi vào
Lái Thiêu, một vùng đất vườn cây xanh tốt, mát lạnh (trung bình 26 độ, mùa tết
24 độ C), không khí trong lành. Vào trong làng, sâu vào là những nhà vườn, nơi
đây có sông có rạch đưa nước len lỏi vào từng góc vườn, có những con đường đất
đỏ quanh co theo các lùm cây rợp bóng trái trĩu trên đầu…
Người Sài Gòn đến Lái Thiêu một phần vì tiếng đồn “Sầu riêng Lái Thiêu”.
Quả không sai! Nói đến Lái Thiêu không thể không nhắc cái tên “Sầu riêng Lái
Thiêu”. Trái sầu riêng ở đây được liệt vào hàng ngon, bổ nhứt và đắt giá nhứt.
Sầu riêng trồng được ở Lục Tỉnh nhưng trái không ngon bằng sầu riêng trồng ở
Lái Thiêu.