PHẬT GIÁO - Sự Ra Đời
Đạo Phật hình thành ở An Độ vào khoảng thế kỷ
VI trước công nguyên, người sáng lập là thái tử Sidharta (Tất Đạt Đa), họ là
Gotama (Cồ Đàm). Ông sinh năm 624 trước công nguyên, vào lúc ở An Độ đạo Bà La
Môn đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội. Nỗi bất bình
của thái tử về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nổi khổ của
muôn dân là những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một tôn giáo mới.
Tại một vương quốc nhỏ ở phía Bắc An Độ, có một sự kiện xảy ra làm thay đổi
toàn thể thế giới, hoàng hậu MaDa, vợ của vua Tịnh Phạn trong lúc ngủ đã có một
giấc mơ tuyệt diệu. Bà thấy một luồng ánh sáng trắng từ bầu trời chiếu xuống
thân thể mình, theo luồng ánh sáng này là một con voi chiến, thân hình trắng
xoá với 6 chiếc ngà. Luồng ánh sáng và con voi này cuối cùng nhập vào thân bà
và bà đã thọ thai.
Theo phong tục An Độ thời đó, người phụ nữ khi sinh phải về nhà cha mẹ ruột của
mình. Biết ngày sinh sắp đến, hoàng hậu MaDa cùng một số người hầu bắt đầu
chuyến hồi hương. Trên đường trở về, hoàng hậu trở dạ. Biết mình sắp sinh con
nên bà bảo mọi người dừng lại nghỉ ngơi. Họ dừng chân tại vườn Lâm Tì Ni, hoàng
hậu vào trong khu vườn tìm chỗ thích hợp để sinh con. Truyền thuyết kể lại rằng
ngay cả động vật và thực vật dường như cũng muốn giúp đỡ cho hoàng hậu trong
việc sinh nở. Có một nhánh cây rũ xuống, hoàng hậu đưa tay phải lên nắm lấy nó.
Ngay lúc ấy hoàng hậu hạ sinh thái tử. Vua và hoàng hậu đã quyết định đặt tên
cho thái tử là Tất Đạt Đa nghĩa là người đem đến tốt lành. Sau khi sinh thái tử
được 7 ngày thì hoàng hậu MaDa từ trần. Trước khi qua đời hoàng hậu đã dặn dò
người em của mình là Ma Ha Ba Xà Ba Đề chăm sóc cho thái tử. Thaí tử lớn lên
trở thành một cậu trai thông minh, xinh đẹp và nhân từ. Thái tử ngày càng
trưởng thành, lòng nhân ái càng bộc lộ rõ, song vua cha lại buồn rầu. Vua cha
cùng các quan bàn với nhau là sẽ kén vợ cho thái tử. Và người cuối cùng đựơc
chọn chính là công chúa Da Du Đà La, con gái của vua nước lân cận.
Thời gian trôi qua, Da Du Đà La đã hạ sinh một bé trai là La hầu La. Sống trong
cung điện lâu ngày Tất Đạt Đa muốn ra ngoài dạo chơi để xem cuộc sống bên ngoài
như thế nào. Qua những lần xuất cung, những cảnh tượng sanh, lão, bệnh, tử đã
làm cho thái tử suy nghĩ rất nhiều. Và trong một lần xuất cung sau đó, thái tử
gặp một tu sĩ và từ đây ngài càng muốn đi tìm con đường giải thoát mọi sự khổ
đau cho con người.
Vào một buổi tối thái tử cùng với người hầu của mình là Xa Nặc và con ngựa Kiền
Trắc đã rời khỏi cung điện. Trước khi chia tay. Thái tử đã rút gươm cắt tóc
trao lại cho Xa Nặc với các đồ trang sức bảo đem về cho Da Du Đà La.
Thái tử tìm gặp những người tu hành lâu năm để học hỏi, nhưng những điều thu
được không làm ông thoả mãn. Ông rủ 5 người bạn đến vùng núi Tuyết Sơn tu khổ
hạnh suốt 6 năm ròng mà chẳng ích lợi gì. Thấy mình đã tu sai đường, ngài liền
ăn uống cho lại sức rồi tìm đến một gốc cây Pipal lớn, lấy cỏ làm nệm ngồi tập
trung suy nghĩ. Sau một thời gian (tương truyền là 49 ngày đêm) tư tưởng ngài
liền đã trở nên sáng rõ, ngài đã hiểu ra quy luật của cuộc đời, nỗi khổ của
chúng sanh, thấy được điều mà bấy lâu tìm kiếm.
Ngài liền đi tìm 5 người bạn đã cùng tu khổ hạnh trứơc đây để giác ngộ cho họ,
rồi cùng với họ trong súôt 40 năm còn lại đi khắp vùng lưu vực sông Hằng để
truyền bá những tư tưởng của mình, ngài đựơc gọi là Buddha ( nghĩa là Bậc giác
ngộ, phiên âm tiếng Việt là Bụt, Phật ). Cây Pipal nơi ngài đã ngồi tu luyện,
được gọi là cây Bodhi (Bồ Đề) và trở thành biểu tượng cho sự giác ngộ. Đức Phật
qua đời năm 544 trứơc công nguyên, thọ 80 tuổi.
Sau khi đức Phật tạ thế, do sự bất đồng ý kiến trong việc giải thích kinh Phật,
các đệ tử của ngài đã chai ra làm hai phái :
Phái các vị trưởng lão, gọi là Thượng Toạ (Théravada) theo xu hứơng bảo thủ,
chủ trương bám sát kinh điển, giữ nghiêm giáo luật, Phật tử phải tự giác ngộ
cho bản thân mình, chỉ thờ Phật Thích Ca và chỉ tu đến bậc La Hán.
Số tăng chúng còn lại không chịu nghe theo, họ lập ra phái Đại Chúng
(Mahasanghika), chủ trương không cố chấp theo kinh điển, khoan dung độ lượng
trong thực hiện giáo luật, thu nạp tất cả những ai muốn qui y, giác ngộ, giải
thoát cho nhiều ngừơi, thờ nhiều Phật, và tu qua các bậc La Hán, Bồ Tát đến
Phật.
Tại các lần đại hội thứ 3-4, phái Đại Chúng soạn ra kinh sách riêng, tự xưng là
Đại Thừa, nghĩa là Cổ xe lớn (chở được nhiều người) và gọi phái Thượng Toạ là
Tiểu Thừa nghãi là cổ xe nhỏ (chở được ít ngừơi). Do danh từ Tiều Thừa ngụ ý
chê bai không đúng, khiến nhiều ngừơi hiểu lầm nên tại Hội Nghị Phật giáo quốc
tế họp tại Népal năm 1956, các vị lãnh đạo Phật giáo thế giới đề nghị thay danh
từ Tiểu thừa bằng “Phật Giáo Nguyên Thủy”. Hiện nay thì ngừơi ta đã thay Tiểu
Thừa thành Nam Tông và Đại Thừa thành Bắc Tông để tránh sự kì thị và hiểu lầm.
Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát. Đức Phật
từng nói : “ Ta chỉ dạy một điều : Khổ và khổ diệt ”. Cốt lõi của học thuyết
này là Tứ Diệu Đế (bốn chân lý kì diệu) hay Tứ thánh đế (bốn chân lý thánh), đó
là :
Khổ đế là chân lý về bản chất của nỗi khổ. Khổ là gì ? Đó là trạng thái buồn
phiền phổ biến ở con người do sinh, lão, bệnh, tử, do mọi nguyện vọng không
được thoả mãn.
Nhân đế hay tập đế là chân lý về nguyên nhân của nỗi khổ . Đó là do ái dục (ham
muốn) và vô minh (kém sáng suốt). Dục vọng thể hiện thành hành động gọi là
nghiệp (karma) , hành động xấu khiến con người phải nhận hậu quả của nó (nghiệp
báo), thành ra cứ lẩm quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được.
Diệt đế là chân lý về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên
nhân gây ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn (Nirvana,
nghĩa đen là “ không ham muốn, dập tắt ”). Đó là thế giới của sự giác ngộ và
giải thoát.
Đạo đế là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, giải thoát và
giác ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức (giới), tư tưởng (định) và khai sáng
trí tuệ (tuệ). Ba môn học này được cụ thể hoá trong khái niệm bát chánh đạo
(tám nẻo đường chân chính). Đó là : chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh
niệm, chánh định, chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn.
I.
VÀI NHẬN ĐỊNH KHI HỌC LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT
1. Ngài là một vị Đại Bồ tát ra đời vì bản nguyện độ sanh, vì lẽ đó, lịch sử
của Ngài có tính cách siêu việt hơn người thường.
2. Vì lòng từ bi lợi tha và tự chủ trong sự thọ sanh, nên mỗi cử động trong đời
Ngài đều hướng về sự giáo hóa trên đường giải thoát.
3. Nên nhận rõ ý nghĩa của lịch sử hơn là câu nệ từng chi tiết nhỏ.
II. THÂN THẾ CỦA NGÀI
Đức Phật Thích ca nguyên tên là Tất đạt đa. Họ Ngài là Thích ca, một chi nhánh
của họ Kiều tất la, là một quý tộc. Tên Ngài nói đủ là Kiều tất la Thích ca Tất
đạt đa (Kosala akya Siddhrtha). Còn Mâu ni là đức tính trong sạch, vắng lặng
của Ngài, chỉ là tiếng để khen ngợi.
Ngài là con vua Tịnh Phạn nước Ca tỳ la vệ (Kapilavastu), mẹ Ngài là Hoàng hậu
Ma da. Nước Ca tỳ la vệ tức là xứ Pipaova ở phía Bắc thành Ba la nại (Bénares)
ngày nay.
III. NGÀY VÀ CHỖ SINH CỦA NGÀI
Thái tử sinh lúc mặt trời vừa mọc, nhằm ngày trăng tròn tháng hai Ấn Độ, tức là
ngày mồng tám tháng tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm trước Tây lịch. Theo
tục lệ Ấn Độ đàn bà có chồng lúc sinh nở phải trở về nhà cha mẹ. Bà Hoàng hậu
Ma da trở về ngang qua vườn Lâm tỳ ni của vua Thiện Giác thì sinh Ngài dưới cây
vô ưu. Khi mới sinh, Ngài đứng trên hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất,
miệng nói: "Trên trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn."
IV. TƯỚNG MẠO VÀ TÀI NĂNG CỦA THÁI TỬ
Thái tử sinh ra có nhiều điềm lạ: quả đất rung động, vừa sinh ra Ngài đã đi bảy
bước,... mọi người đều hân hoan đón mừng vị cứu tinh xuất hiện. Thái tử sinh ra
đã có 32 tướng tốt báo trước Ngài là một vị xuất chúng và Ngài sẽ thành Phật để
dìu dắt muôn loài. Ngài sinh ra vừa được bảy ngày, mẹ Ngài từ trần. Bà dì Ngài
là bà Ma ha Ba xà ba đề nuôi nấng chăm sóc Ngài. Ngài rất thông minh, các vị
giáo sư danh tiếng dạy Ngài đều phải bái phục.
V. ĐỜI SỐNG CỦA THÁI TỬ
Thái tử sống trong cảnh cực kỳ sung sướng và được sự nuông chiều hết sức của
vua cha. Xung quanh Ngài luôn luôn có vũ nữ ngày đêm đờn ca xướng hát để làm
vui lòng Ngài. Tuy nhiên, Thái tử vẫn trầm tư mặc tưởng. Trên mặt luôn luôn lộ
nét buồn kín đáo và, một đôi khi Ngài đã tỏ với vua cha xin đi xuất gia để tìm
phương cứu mình, cứu đời. Đoán biết ý con, vua Tịnh Phạn sinh sợ sệt và tìm đủ
mọi cách tăng thêm dục lạc, mong làm khuây được chí nguyện xuất gia của Ngài.
VI. CHÍ NGUYỆN XUẤT GIA CỦA THÁI TỬ
Sau nhiều lần mục kích những thảm trạng già, đau, bệnh, chết và sự bất công
mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, trong những cuộc du ngoạn ở bốn cửa thành. Thái tử
Tất đạt đa cảm nhận được những nỗi thống khổ của con người. Lòng thương chúng
sanh bồng bột nổi dậy, Thái tử không còn vui được nữa.
Với một ý chí cương quyết tìm chân lý, nên trong một đêm kia sau buổi yến tiệc
linh đình, Ngài đã cưỡi ngựa Kiền Trắc vượt thành xuất gia với tên hầu cận
trung thành Xa nặc; giữa lúc mọi người đang chìm trong bóng tối và mê man theo
giấc ngủ. Ngài ra đi lúc 19 tuổi, ngày mồng tám tháng hai vào lúc giữa đêm.
VII. TÌM CHÂN LÝ VÀ TU ĐẠO
Đi sâu vào rừng đến bờ sông Anoma, Ngài cắt tóc và thay đổi y phục trao lại bảo
Xa nặc đem về dâng Phụ hoàng và tỏ rõ sự tình. Từ đây, Thái tử đã trở thành một
đạo sĩ và dấn thân trên đường tìm đạo. Ngài đi đến thành Vương xá (RajagrÌha)
xứ Ma kiệt đà, tìm đến các vị Đạo sĩ Bà la môn mà tham khảo phương pháp tu
hành. Sau một thời gian tu luyện, Ngài không thỏa mãn vì cho rằng chưa được rốt
ráo. Ngài liền vào rừng Ưu lâu tần loa xứ Phật đà già da (Bouddhagaya) tu hạnh
ép xác, một ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo và suy nghĩ trong sáu năm, song vẫn
thấy vô hiệu. Ngài nhận thấy lối tu khổ hạnh ấy không phải là lối tu giải
thoát. Và sau khi nhận bát sữa của nàng Tu xà đề dâng cúng, thân thể bình phục,
tâm hồn sảng khoái, Ngài đến dưới gốc cây bồ đề ngồi trên thảm tọa và phát
nguyện: "Nếu không tìm ra chân lý thì thà chết ta không rời thảm tọa
này". Trải một thời gian thiền quán, Ngài đã chiến thắng được tất cả những
tật xấu xa của thân thể và nội tâm. Ngài lại uốn dẹp được mọi sự phá rối của ma
vương bên ngoài.
Đầu đêm, Ngài chứng được Túc mạng minh, thấy rõ ràng những đời quá khứ, hiện
tại, vị lai; nửa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy được cả vũ trụ bao
la; cuối đêm vào lúc sao mai mọc, Ngài chứng được Lậu tận minh, nhận chân nguồn
gốc sanh tử luân hồi là sự mê mờ gọi là vô minh, và hoàn toàn giác ngộ.
Ngài đã thành đạo vào lúc sao mai mọc, ngày 8 tháng Chạp. Sau khi thành đạo,
Ngài đã than: "Than ôi! Chúng sanh vốn đầy đức tướng trí huệ Như lai,
nhưng chỉ vì vô minh che lấp nên phải sanh tử luân hồi đấy thôi!".
VIII. THUYẾT PHÁP ĐỘ SANH
Sau đó, Ngài liền đến vườn Lộc uyển nói pháp Tứ đế độ cho năm ông tỳ kheo (Kiều
trần như, Ac bệ, Thập lục ca diếp, Ma ha nam Câu ly và Bạc đề). Từ đó đạo Ngài
truyền khắp xứ Trung Ấn Độ và lan mãi khắp hoàn cầu.
IX. NHẬP DIỆT
Trải qua 49 năm trên đường giáo hóa, Ngài đã tận lực gieo rắc ánh đạo
vàng khắp đó đây, hóa độ chúng sanh. Vô số người đã được mang ơn pháp nhũ của
Ngài mà trở về với chánh đạo. Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều đã độ
xong. Ngài vào niết bàn tại rừng Ta la song thọ, để lại những nỗi thương tiếc
tràn ngập cả lòng người. Ngài nhập diệt lúc 81 tuổi, nửa đêm ngày Rằm tháng hai
âm lịch.
X. VÀI Ý NGHĨA CẦN NHẬN THỨC TRONG
LỊCH SỬ PHẬT
1. Vì lòng từ bi, Ngài ra đời cốt để vạch cho chúng sanh một con đường cao quý
ý nghĩa hơn, so với kiếp sống mong manh hiện tại.
2. Tuy sống trang đài danh vọng, Ngài vẫn cảm thấy những nỗi vô vị của vật
chất. Và Ngài đã nói rằng: "Hạnh phúc không phải chỉ tìm trong khoái lạc
của vật chất".
3. Những cuộc du ngoạn và nhiều lần mục kích những thảm cảnh của con người,
Ngài đã cho ta thấy rằng: "Đời là một bể khổ đầy dẫy những bất công, tội
lỗi, nếu ta duy trì mãi tình trạng mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, và thiếu một
lòng thương thành thật".
4. Anh sáng có thể trở lại với những tâm hồn vị tha rộng rãi, biết hy sinh dục
vọng riêng tư. Và chỉ có chân lý Ngài đã tìm ra, sau bao cuộc thử thách chiến
đấu với ma chướng mời là phương pháp cứu khổ độ lạc.
5. Sự hy sinh liên tiếp trong vô số kiếp của Ngài, đã làm cho Ngài trở nên một
đức Phật đầy đủ phước đức và trí huệ. Muốn cảm thông và được sức gia hộ của
Ngài, chúng ta phải thường niệm đến danh hiệu của Ngài và làm theo lời Ngài
dạy.
Đạo Phật
Vào giữa thế kỷ I TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện
một số dòng tư tưởng chống đạo Bà La Môn. Đạo Phật là một trong những dòng tư
tưởng ấy.
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Phật là Xitdacta Gôtama (Siddharta
Gautama), sau khi thành Phật được đệ tử tôn xưng là Xakia Muni( Thích Ca Mâu
Ni), con Vua Sutdodana nước Capilavaxtu ở chân núi Hymalaya, miền đất bao gồm
một phần miền Nam nước Nêpan và một phần của Ấn Độ ngày nay.
Năm 29 tuổi, Hoàng tử Xitdacta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt
những nỗi khổ của loài người. Đến năm 35 tuổi, Xitdacta đã nghĩ ra được cách
giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau, do đó cho rằng đã
tìm được con đường cứu vớt. Từ đó ông được gợi là " Buddha", ta quen
gọi là Phật hoặc Bụt, nghĩa là "người đã giác ngộ", "người đã
hiểu chân lý".
Về niên đại của Phật, hiện nay đang có những ý kiến khác nhayu. Có một số người
cho rằng Phật sinh năm 563 và mất năm 483 TCN; một số người khác thì cho rằng
Phật sinh năm 642 và mất năm 544 TCN. Tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN làm năm
mở đầu cho cho Kỷ nguyên Phật Giáo.
A) Học thuyết Phật Giáo.
Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật Giáo được tóm tắt trong câu nói sau đây
của Phật Thích Ca:" Trước đây và ngày nay ta chỉ lý giải và nêu ra cái
chân lý của nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ". "Cũng như
nước đại dương chỉ có một vị là vị mặn, học thuyết của ta chỉ có một vị là cứu
vớt".
Cái chân lý về nỗi đau khôt và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy được thể hiện
trong thuyết "Tứ Thánh Đế" hoặc còn được gọi là " Tứ Diệu
Đế", "Tứ Chân Đế", "Tứ Đế", nghĩa là 4 chân lý thánh.
Đó là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
Khổ đế: là chân lý về các nỗi
khổ. Theo Phật, con người có tám nỗi khổ (bát khổ): sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ
mình không ưa, xa người mình yêu, cầu mà không được, giữ lấy 5 uẩn(thủ ngũ
uẩn).
"Uẩn ( skandha) là tập hợp, tích tụ. Đạo Phật cho rằng con người không có
thực thể tự nó (vô ngã) mà chỉ là sự tập hợp 5 thứ: Sắc ( vật chất tạo thành
thân thể); Thụ (cảm giác); tưởng ( quan niệm); hành (hành động); thức ( nhận
thức). Vì con người chỉ là sự tập hợp của 5 thứ đó, nên đó cũng là một nỗi khổ.
Như vậy, đối với con người, ngoài khổ đau vô tận, không có cái gì khác!
Tập đế: là chân lý về nguyên
nhân của các nỗi khổ, nguyên nhân chủ yế là luân hồi, mà nguyên nhân của luân
hồi là nghiệp, sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn như ham sống, ham lạc thú,
ham giàu sang... ham muốn không dứt thì nghiệp không dứt, mà nghiệp không dứt
thì luân hồi mãi mãi.
Diệt đế: là nguyên lý về sự
chấm dứt các nỗi khổ. Nguyên nhân của khổ đau là luân hồi, vì vậy muốn diệt khổ
thì phải chấm dứt luân hồi. Muốn chấm dứt luân hồi thì phải chấm dứt nghiệp. Đó
là món nợ truyền từ kiếp này sang kiếp khác do lòng ham muốn tạo nên, do đó nói
vắn tắt, muốn chấm dứt luân hồi thì phải trừ bỏ hết mọi ham muốn. Một khi đã
chấm dứt được luân hồi thì sẽ được yên tĩnh, thanh thản, sáng suốt và như vậy
đã đạt tới cảnh giới Niết Bàn( Nirvana).
Đạo đế: là chân
lý về con đường diệt khổ tức là phương pháp thực hiện việc diệt khổ. Con đường
đó gọi là " Bát Chính Đạo" ( 8 con đường đúng đắn), gồm:
+. Chính kiến: Tín ngưỡng đúng đắn.
+. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn.
+. Chính ngữ: Nói văn đúng đắn.
+. Chính nghiệp: Hành động đúng đắn.
+. Chính mệnh: Sống đúng đắn.
+. Chính tịnh tiến: Mơ tưởng những cái đúng đắn.
+. Chính niệm: Tưởng nhớ những cái đúng đắn.
+. Chính định: Tập trung tư tưởng ngẫm nghĩ đúng đắn.
Chung quy " bát chính đạo" là suy nghĩ, nói năng và hành động đúng
đắn.
Về giới Luật, tín đồ Phật giáo chủ yếu phải kiêng 5 thứ (ngũ giới):
- Không sát sinh.
- Không trộm cắp.
- Không tà đâm.
- Không nói dối.
- Không uống rượu.
Trong số đó, luật " không sát sinh" là không được giết người, còn
giết các động vật thì luật cấm không khắt khe lắm. Phật giáo ban đầu không cấm
tín đồ ăn thịt.
Tục tín đồ, nhất là các tăng ni phải ăn chay, không được ăn thịt động vật là do
Lương Vũ Đế (502 549) của Trung Quốc đặt ra vào thời kỳ đạo Phật thịnh hành ở
nước này.
Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của thuyết Phật giáo là thuyết Duyên
khởi. Duyên Khởi là chữ nói tắt của câu " chư pháp do nhân duyên chi
khởi" nghĩa là "các pháp đều do nhân duyên mà có".
"Pháp" (dharma) là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh
thần. Giáo lý của Phật cũng là sự vật nên cũng gọi là " Pháp".
Còn nhân duyên là nguyên nhân, nhưng trong đó nhân là nguyên nhân chủ yếu,
duyên là nguyên nhân phụ. Ví dụ : Sở dĩ một cái cây có thể nảy mầm và phát
triển được là nhờ có hạt giống, đất, nước, khí trời, ánh sáng. Trong đó, hạt
giống là nhân, đất, nước, khí trời, ánh sáng là duyên.
Như vậy, mọi vật đều do nguyên nhân hòa hợp mà thành. Nhưng Duyên do khởi đâu
mà có? Học thuyết Phật Giáo giải thích rằng duyên khởi do tâm mà ra. Tâm là gốc
của duyên khởi thì cũng là nguồn gốc của vạn vật.
Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương " vô tạo
giả", đạo Phật còn nêu ra các thuyết " vô ngã", " vô
thường".
Vô ngã: là không có những thực
thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng chỉ là sự tập hợp của 5
uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài.
Đây là nội dung thứ hai mà ĐẠO Phật đưa ra để chống lại đạo Bà La Môn, vì đạo
Bà La Môn chủ trương có bản ngã.
Vô thường: là mọi sự vật đều
ở trong quá trình sinh ra, biến đổi, tiêu diệt chứ không bao giờ được ổn định.
Như vậy, về thế giới quan, tuy đạo Phật ban đầu chủ trương vô thần( vô tạo giả)
nhưng chung quy vẫn là duy tâm chủ quan. Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm
đến chế độ đẳng cấp, vì đạo phật cho rằng nguồn gốc xuất thân của mỗi người
không phải là điều kiện để được cứu vớt. Mọi người, dù thuộc đẳng cấp nào một
khi đã tu hành theo học thuyết của Phật thì đều trở thành một thành viên bình
đẳng trong một Tăng đoàn.
Đồng thời đạo Phật mong muốn có một xã hội trong đó Vua thì có đạo đức và phải
dựa vào Pháp Luật để trị nước, không được chuyên quyền độc đoán, còn nhân dân
thì được an cư lạc nghiệp.
Như vậy, đạo Phật ban đầu là một học thuyết khuyên người ta phải từ bỏ ham
muốn, tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt chứ không thừa nhận thượng
đế và các vị thần bảo hộ, do đó không cần nghi thức cúng bái và cũng không cần
có tầng lớp Thầy cúng.
B ) Sự phát triển của đạo Phật ở Ấn Độ.
Sau khi Phật tịch, đạo Phật được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc Ấn Độ. Để
soạn thảo giáo lý, quy chế và chấn chỉnh về tổ chức, từ thế kỷ V-III TCN, đạo
Phật đã triệu tập 3 cuộc đại hội ở nước Magada, quốc gia lớn nhất ở Ấn Độ lúc
bấy giờ. Từ nửa sau thế kỷ III TCN, tức là sau đại hội lần thứ 3, đạo Phật
trước tiên được truyền sang Xri Lanca, sau đó truyền đến các nước như Myanma,
Thái Lan, Indonexia...
Đến khoảng năm 100 sau CN, đạo Phật triệu tập Đại hội lần thứ 4 tại nước Cusan
ở Tây Ấn Độ. Đại hội này thông qua giáo lý của đạo Phật cải cách, và phái Phật
giáo mới này được gọi là phái Đại Thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ gọi
là phái Tiểu Thừa.
Sự khác nhau chủ yếu giữa hai phái biểu hiện ở các mặt sau đây:
- Phái Tiểu thừa ( Hinayana) nghĩa là "cỗ xe nhỏ" hoặc " con
đường cứu vớt hẹp" cho rằng chỉ có người xuất gia đi tu mới được cứu vớt.
- Phái Đại Thừa ( Mahayana) nghĩa là " cỗ xe lớn" hoặc " con
đường cứu vớt rộng" thì cho rằng không phải chỉ những người tu hành mà cả
những người trần tục quy y theo Phật cũng được cứu vớt.
- Phái Tiểu thừa cho rằng:
chỉ có phật Thích Ca là Phật duy nhất. Việc cứu độ chúng sinh chỉ có Phật mới
làm được, những người thường không thể thành Phật.
- Phái Đại Thừa cho rằng:
Phật Thích Ca là Phật cao nhất, nhưng ngoài phật Thích Ca còn có nhiều phật
khác như phật A Di Đà, Phật Di Lặc, phật Đại Dược Sư. Phật A Di Đà hiện đang
giáo hóa ở cõi cực lạc Phương Tây. Phật Di Lặc là vị Phật tương lai sẽ nối
nghiệp Phật Thích Ca đẻ giáo hóa cõi đời này mà sách Phật gọi là cõi Ta Bà
(saha) nghĩa là nơi khó chịu đựng. Phật Dược Sư ở cõi Tĩnh Lưu Li ở phía Đông
thế giới chúng ta. Phật Dược Sư thường cứu giúp chúng ta tai quan nạn khỏi.
Hơn nữa, phái Đại Thừa cho rằng ai cũng có thể thành Phật và thực tế đã có
nhiều người đã đạt đến cõi Phật. Đó là các Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quan
Âm, Địa Tạng... Tuy đã thành Phật, nhưng các bồ tát không lên cõi Niết Bàn mà
tự nguyện ở lại cõi trần để cứu độ chúng sinh.
- Phái Tiểu Thừa quan niệm:
Niết Bàn là cảnh giới yên tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền
não khổ đau. Phật Thích Ca đã đạt đến cảnh giới Niết Bàn vào năm 35 tuổi, sau
đó Phật vẫn tiếp tục sống và hoạt động 45 năm nữa.
- Phái Đại Thừa thì quan niệm
Niết Bàn là thế giới của các Phật giống như thiên đường của các tôn giáo khác.
Đồng thời với quan niệm đó, Phái ĐẠi Thừa còn tạo ra địa ngục, nơi đày đọa
những kẻ tội lỗi.
Phái Đại Thừa còn đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là kẻ trung gian
giữa tín đồ và Bồ tát.
Từ đó, tượng Phật được tạc đúc rất nhiều, nghi thức cúng bái càng phức tạp hơn,
hương hoa cũng được sử dụng trong khi cúng Phật.
Sau Đại hội Phật giáo lần thứ 4, các nhà sư càng được khuyến khích ra nước
ngoài truyền đạo; do đó đạo Phật càng đượch truyền bá mạnh mẽ sang Trung Á và
Trung Quốc. Những thế kỷ tiếp sau đó, Đạp Phật suy dần ở Ấn Độ, nhưng lại được
phát triển phần lớn ở Châu Á và đã trở thành Quốc Giáo của một số nước như Xri
Lanca, Myanma, Thái Lan, Campuchia, Lào...
Xin bổ sung vấn đề Đại và Tiểu thừa. Ngày nay
người ta không dùng thuật ngữ Tiểu thừa nữa vì đó ko phải là tên tự gọi của
những người theo giáo phái đó, tên này chỉ xuất hiện sau khi có phái chủ trương
Bồ Tát đạo ra đời, để nói về một khái niệm ngược với Maha (đại). Như vậy sẽ dẫn
đến chuyện Nhị Nguyên (dual) là điều mà Phật giáo cố tránh, nó chẳng khác gì so
với chuyện Thị-Phi.
Thuật ngữ Nam Tông (các quốc gia phía nam, hay con đường dẫn đạo từ phương nam)
hay thuật ngữ Therevada (Phật giáo nguyên thủy) được sử dụng một nay một cách
chính thức và rộng rải. Trong từ Therevada còn ẩn ý là Lời giáo huấn của các
bậc đạo sư, do vậy đôi khi từ này được dịch ra tiếng Việt là Thượng Tọa Bộ.
Ngoài ra còn một tông phái khác, gần với Mahayana hơn, là Kim cương thừa
(Vajrayana) được thực hành chủ yếu ở vùng Hymalaya và Tây Tạng trong đó trung
tâm là Tây Tạng. Các vị tổ sư được coi là đã đưa Phật giáo vào cao nguyên Tây
Tạng là Liên Hoa Sinh và Atisa (A Đề Sa), các vị này đã hòa nhập Phật giáo và
sự thông tuệ của các triết lý tại chổ (tiêu biểu là đạo đa thần Bon) tạo nên
một truyền thống Phật giáo vô cùng rực rỡ. Ngày nay truyền thống này góp phần
đưa Phật giáo sang phương Tây một cách rất thành công. Cũng nên ghi nhận rằng
việc này là tiếp sau câu chuyện buồn về những người Tạng mất nước sau cuộc nỏi
dậy không thành công của họ và bị quân đội Trung Quốc đàn áp.
Con đường du nhập và truyền bá phật giáo vào việt
nam
Việt
Phật giáo Bắc Tông ở Trung Quốc cũng đến Việt Nam và dưới ảnh hưởng này, tầng
lớp Tăng lữ Việt cũng đã đóng góp vào kho tàng lý luận Phật Giáo, với những nhà
sư nổi tiếng như Mâu Bác, Khương Tăng Hội...
Đặc biệt, một thời gian dài, dưới các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần ( thế kỷ thứ
X đến thế kỷ thứ XIV) Phật giáo đã phát triển cực thịnh, trở thành quốc đạo,
đóng góp rất lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nhiều nhà sư đã trực
tiếp tham gia công việc triều chính như các nhà sư: Khuông Việt đời Đinh và
Tiền Lê; nhà sư Pháp Thuật đời Tiền Lê; nhà sư Vạn Hạnh đời Lý... Vua Lý Thái
Tổ nguyên cũng chính là một chú tiểu chùa Tiên Sơn.
Vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, tuy không xuất gia nhưng tham gia hai phái
Thiền Vô Ngông Thông và Thảo Đường. Đời nhà Trần, vua Trần Thái Tông, Trần Nhân
Tông đều là những nhà Phật Học lỗi lạc. Bản thân vua Trần Nhân Tông, sau khi
chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông cũng đã xuất gia quy Phật, sáng lập Phái
" THIỀN TRÚC LÂM"
Thời kỳ này, chùa trở thành trung tâm văn hóa của làng, xã, nhà sư đồng thời
cũng là người hướng dẫn giáo dục về văn hóa, đạo đức.
Có thể nói rằng, suốt đời Lý và hầu hết đời Trần, Phật giáo được coi là Quốc
giáo nên hoạt động sôi nổi, khắp nơi. Làng nào cũng có chùa, có tháp. Người ta
học chữ, học kinh, hội hè, họp chợ ở ngay trước chùa. Hội chùa là một hoạt động
văn hóa hơn là hoạt động tôn giáo. Biết bao mối duyên lành đã được se kết trong
vườn chùa. Chùa làng quả đã từng một thời đóng vai trò trung tâm văn hóa tinh
thần của cộng đồng làng xã.
Đến thế kỷ thứ XV, Nho giáo thay chân Phật giáo trong lĩnh vực thượng tầng xã
hội. Phật giáo từ giã cung đình nhưng vẫn vững vàng trong làng xã. Đình xuất
hiện trở thành trung tâm hành chính của làng nhưng Chùa vẫn là niềm tin và hi
vọng của nhiều cộng đồng dân cư.
Nguồn gốc và Ý Nghĩa
Về Lá Cờ Phật Giáo
I.- Nguồn gốc
Người phác họa ra lá cờ Phật Giáo Thế Giới là ông Henry Steel Olcott, sinh ngày
2-8-1832 tại New Jersey, Hoa Kỳ và mất ngày 17-2-1907 tại Adgar, Ấn Ðộ. Ông
nguyên là Ðại Tá Hải Quân của Quân Ðội Hoa Kỳ. Khoảng năm 1875, ông chưa hề học
hỏi về giáo lý nhà Phật, nhưng khi cơ duyên đã tới, ông là phóng viên của tờ
báo The New-York Daily Graphic, đã giao cho ông nhiệm vụ gặp một phụ nữ người
Nga tên là Helena Petrovna Blavatsky (1831-1891), để viết bài về trường hợp bà
nầy có những sự kiện huyền bí. Tại nông trại của Eddys ở New-York, hai người đã
gặp nhau, từ đó bà Blavatsky đã hướng dẫn ông trên con đường đạo.
Bà H.P. Blavatsky, ông H.S. Olcott, ông W. Q. Judge là những người đã thành lập
Hội Thông Thiên Học Mỹ Quốc ngày 17-11-1875, nay trở thành Hội Thông Thiên Học
Quốc Tế, có 60 nước hội viên và trụ sở đặt tại Adgar, Ấn Ðộ.
Ông có công lớn nhất trong công cuộc chấn hưng Phật Giáo Tích Lan, từ đó nhà
Phật học uyên thâm Anaragika Dharmapala người Tích Lan, môn đệ của Olcott, đã
khôi phục nền Phật Giáo Ấn Ðộ ngày 21-1-1891, và cũng từ đó dần dần Phật Giáo
truyền bá sang phương Tây, rồi lan tràn khắp thế giới.
Ông và bà Blavatsky thọ trì tam quy, ngũ giới với Thượng Tọa Bulatgama tại chùa
Wijayananda có sự hiện diện của hàng ngàn chư Tăng, Ni, Phật Tử và gây xúc động
mạnh mẽ cho những Phật Tử đã chứng kiến, vì đây là lần đầu tiên Giáo Hội Tăng
Già Tích Lan làm lễ quy y cho hai người Phật Tử Âu Mỹ.
Sự nghiệp truyền bá và chấn hưng Phật Giáo của ông không thể nói hết trong
khuôn khổ bài nầy. Ông đã tổ chức những trường học Phật Giáo khắp xứ sở Tích
Lan, từ thành thị tới thôn quê hẻo lánh. Số trường học lúc ban đầu chỉ có 46
trường (năm 1897) và 6 năm sau (1903), số trường học đã lên đến 174 trường, và
đến năm 1940 đã có 429 trường, trong đó có 12 Trường Trung học được chính phủ
tài trợ . Không chỉ riêng ở Tích Lan, ông còn vận động để mở các trường học
Phật Giáo ở các quốc gia khác như Nhật Bản, Thái Lan, Miến Ðiện, Ấn Ðộ.
Năm 1889, ông cùng Thượng Tọa Susmangala, Tích Lan, phỏng theo sáu mầu hào
quang của Ðức Phật (xanh đậm, vàng, đỏ, trắng, cam và mầu tổng hợp của năm mầu
này), đã phác họa ra mẫu cờ Phật Giáo. Về ý nghĩa, ông phát biểu như sau :
"Nó có thể được các quốc gia Phật Giáo chấp nhận như một biểu tượng quốc
tế cho tín ngưỡng của họ, giống như cây thánh giá đối với tín đồ Thiên chúa
giáo ."
Lá cờ này được Tích Lan công nhận và treo tại các chùa ở xứ này trong ngày lễ
Phật Ðản từ năm 1889, và 61 năm sau, tại Ðại hội Phật Giáo Thế Giới lần đầu
tiên, tổ chức tại Colombo, thủ đô Tích Lan, từ ngày 25-5-1950 đến 8-6-1950 có
26 nước tham dự (1), phái đoàn Phật Giáo Việt Nam do Thượng Tọa Tố Liên, Trụ
trì chùa Quán Sứ Hà Nội làm đại biểu (2), Hội nghị đã thành lập Hội Liên Hữu
Phật Giáo Thế Giới (The World Fellowship of Buddhists), và chọn lá cờ Phật Giáo
Tích Lan làm cờ Phật Giáo Thế Giới.
Ðến ngày 6-5-1951, tại chùa Từ Ðàm, cố đô Huế, một Ðại Hội Phật Giáo ba miền
Bắc Trung Nam, gồm 51 đại biểu Tăng già và cư sĩ, sau 4 ngày họp, đã thành lập
Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Trong dịp nầy, Thượng Tọa Tố Liên đã tặng Ðại Hội
lá cờ Phật Giáo Thế Giới, và đại hội đã chấp nhận lá cờ nầy cũng là cờ Phật
Giáo Việt
Bằng một tâm hồn thiết tha với Ðạo Pháp, ròng rã suốt 38 năm, Phật tử Henry
Steel Olcott đã dùng quãng đời quí báu của mình, để phục vụ tha nhân và ông mất
ngày 17-2-1907 tại Adgar, quê hương Ðức Phật. Lúc đó ông 75 tuổi.
II- Ý nghĩa của lá cờ Phật Giáo
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên
toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng
hòa bình của mọi người con Phật .
Ngoài ra, cờ Phật Giáo còn có ý nghĩa cắt bỏ quan niệm cố chấp các ranh giới
địa phương, gia tăng niềm hăng hái đoàn kết để phụng sự cho Ðạo Pháp và dân
tộc.
Năm sắc theo chiều dọc : Xanh đậm, vàng, đỏ, trắng, cam, tượng trưng cho hào
quang chư Phật .
Năm sắc theo chiều ngang ( chiếm diện tích 1/6 lá cờ ) là mầu tổng hợp tượng
trưng cho ánh sáng hào quang chư Phật. Ý nghĩa của màu sắc phân biệt là :
1.- Xanh đậm : Tượng trưng cho Ðịnh căn. Màu xanh tượng trưng cho sự rộng lớn,
sáng suốt .
2.- Vàng lợt : Tượng trưng cho Niệm căn, vì có Chánh Niệm mới sanh Ðịnh và phát
Huệ.
3.- Ðỏ : Tượng trưng cho Tinh Tấn căn. Có tinh tấn mới khắc phục được mọi trở
ngại, nghịch cảnh .
4.- Trắng :Tượng trưng cho Tín căn, niềm tin không lay chuyển, và có tín căn là
có Nhân Duyên với chư Phật và nguồn gốc sanh ra muôn hạnh lành.
5.- Da cam : Tượng trưng cho Huệ căn. Khi có Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh đầy đủ thì
Tuệ sẽ phát sanh.
6.- Màu tổng hợp : Tượng trưng cho tinh thần đoàn kết của Phật giáo đồ trên
toàn thế giới.
III.-Kết luận
Là Phật Tử, chúng ta luôn luôn tôn trọng và bảo vệ lá cờ Phật Giáo, vì trên
hết, nó tượng trưng cho Phật Giáo, và cho tinh thần đoàn kết, bất phân biệt của
tín đồ Phật Giáo trên toàn thế giới .
Ghi chú: 1) 26 nước tham dự Ðại
Hội và trở nên Hội viên sáng lập Hội Phật Giáo Liên Hữu Thế Giới là : Anh, Ấn
Ðộ, Bhutan, Ðức, Hawai, Hong Kong, Kampuchia, Lào, Mã Lai, Miến Ðiện, Mỹ, Na
Uy, Nam Dương, Nhật Bản, Nepal, Pháp, Phi Luật Tân, Sikkim, Tân Gia Ba, Tây
Tạng, Thái Lan, Thụy Ðiển, Tích Lan, Triều Tiên, Trung Hoa và Việt Nam.
(2) Phái đoàn Việt
1. Thập đại đệ tử Phật
Thập đại đệ tử là mười đệ tử quan trọng của
Phật, hay được nhắc nhở trong kinh sách Đại thừa (sa. mahāyāna):
-Ma-ha-ca-diếp: Đầu-đà đệ nhất, được xem là Sơ tổ Thiền tông Ấn Độ;
-A-nan-đà : Đa văn đệ nhất, người “nghe và nhớ nhiều nhất”, được xem là Nhị tổ
Thiền tông Ấn Độ. A-nan-đà hay được trình bày trong tranh tượng đứng bên cạnh
Phật cùng với Ma-ha-ca-diếp;
-Xá-lợi-phất :Trí huệ đệ nhất, đệ tử quan trọng nhất của Phật trong các kinh
Tiểu thừa (sa. hīnayāna);
-Tu-bồ-đề: Giải Không đệ nhất. Tu-bồ-đề thường xuất hiện trong kinh điển hệ
Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
-Phú-lâu-na :Thuyết Pháp đệ nhất;
Mục-kiền-liên :Thần thông đệ nhất, hay đi đôi với Xá-lợi-phất;
-Ca-chiên-chiên : Biện luận đệ nhất;
-A-na-luật : Thiên nhãn đệ nhất;
-Ưu-ba-li : Giới luật đệ nhất;
-La-hầu-la: Mật hạnh đệ nhất.
2 . Sự Tương Quan Chặt Chẽ Giữa Nghiệp Và Đời Sống
Nay xin đúc kết những kinh nghiệm bản thân và
kiến thức được biết!
Về chữ Nghiệp hiểu một cách đơn giản nhất chính là những hành động có dụng ý từ Việc Làm, Lời Nói và Suy Nghĩ. Nói
một cách bao quát là tất cả những gì được xuất phát từ ba hành vi trên trong
mỗi giây phút hằng ngày đều có Nghiệp cả, gồm có nghiệp tốt, nghiệp xấu hay
nghiệp không tốt không xấu. Và chúng ta phải biết rằng khi Nghiệp đã được tạo
ra thì chúng ta phải trả cho những nghiệp đó, nó không hề mất đi.
Một ví dụ dễ hiểu và rất rõ ràng để ta thấy rõ chữ Nghiệp: Khi ta ném một viên
đá vào cửa kiếng, Nhân là hòn đá
được nén, Quả là cửa kiếng bể.
Trên đây chưa thực sự là kết thúc; vì 1 nghiệp được tạo ra thì sẽ dẫn đến nhiều
quả. Không phải chỉ có cửa kiếng bể thôi, mà chúng ta sẽ mất thêm một khoảng
tiền để thay kính khác, nhưng có thể số tiền đó ta đang cần dùng cho một việc quan
trọng khác nữa. (Thế Nào Là Nghiệp -
Hòa Thượng U. Thittila).
Nếu bạn suy nghĩ thật kỹ thì bạn sẽ thấy nó đúng như thế trong mọi sự việc. Cho
nên chúng ta càng phải cẩn trọng trong từng hành vi của đời sống. Vì thế chúng
ta nên sống một lối sống mà tình thương lan tỏa, lúc nào cũng phải nghĩ đến
người khác và điều hòa trong cuộc sống, ta phải càng làm nhiều việc thiện.
Một điều chúng ta phải biết: Ta phải
gặt cho hết những gì chúng ta tạo, trong đó bao gồm có nghiệp lớn và nhỏ
(nghiệp nặng và nhẹ). Trong quan điểm này đối với những người vô minh thì đúng;
nhưng đối với người có tri kiến thì không hoàn toàn là bế tắt. Bởi cuộc đời
được mắc xích và logic với nhau một cách chặt chẽ, phải nói rằng nó không bao
giờ có được kẻ hở. Phật Giáo không bao giờ chấp nhận về học thuyết “Định Mệnh”
(do một thần linh nào đó sắp đặt) và học thuyết “Ngẫu Nhiên”. Nhưng ta có thể
dùng tạm hai chữ vận mệnh để giải thích cho Luật Nhân Quả này. Nay xin nói rằng
cuộc đời của chúng ta được sắp đặt sẳn nó không hoàn toàn là sai, Ví như một
đứa bé mới sinh ra đã mắc phải căn bệnh quái ác hay vào một gia đình nghèo, khổ
cực nào đó; là ta nhận thấy con người đó phải trả cho nghiệp quả đời sống trước
đây. Ta thấy rõ ràng đây chính là sự sắp đặt trước (có thể gọi là vận mệnh,
nhưng phải hiểu do chính bản thân ta quyết định điều này).
Như một đường cong biểu hiện cho cuộc đời đầy bất trắc, không êm ấm; đó là vì
do nghiệp ta gieo trước đây nay ta phải chịu. Nhưng đường cong này sẽ được ta
bẻ lại cho ngay thẳng bằng cách tích lũy thiện phước trong đời sống hằng ngày. vì tính tình của
chúng ta sẽ xứng đáng với đời sống của chúng ta.
Cái quan trọng khác chính là sự liên kết với nhau mà tồn tại, một ví dụ: một
gia đình gồm có ba, mẹ, 2 con. Nếu như người cha và mẹ sống không lương thiện,
với lối sống lừa gạt, vay tạo nhiều mà không tích thiện phước thì chắc rằng dẫn
đến hai đứa con cũng phải chịu cảnh không hạnh phúc và sẽ khó khăn cho đời đứa
con, có thể ảnh hưởng đến đời cháu. Nhưng bổn phận người con không có quyền
than trách mà phải lo sống tốt đẹp và khuyên bảo cha mẹ, vì khi sinh vào một
gia đình khổ đau như vậy là do nợ duyên với người cha mẹ đó, ta đã vay tạo thì
nay ta phải trả. Nhưng khi cha mẹ sống tốt đẹp thì đứa con cũng sẽ được hưởng
sự thoải mái về đời sống và đứa con sẽ được thụ hưởng những phẩm hạnh tốt và
khi có phẩm hạnh tốt thì điều tốt đẹp sẽ đến. Phải nói rằng đứa con chịu ảnh
hưởng của ba mẹ là hoàn toàn, từ hình dáng, tính cách, hành vi cư xử… (Đối với
các bậc cha mẹ nên đọc tác phẩm Giáo Dục Trong Gia Đình của HT Dhammananda).
Tức là vậy khi mà một điềm đầu tốt đẹp thì có thể kéo theo sau những điều tốt
đẹp, ngược lại thì ta đã hiểu. Vì cuộc đời là một chuỗi mắc xích lẫn nhau, lý
thuyết này rất phù hợp với tự nhiên.
Chúng ta không cần phải hiểu hết tất cả kết quả của nghiệp, như làm điều này sẽ
sinh ra điều kia. Vì nếu là như vậy thì chúng ta không bao giờ thật sự có tình
thương (tấm lòng) và chúng ta chỉ được sự mong cầu nhiều hơn mà thôi, chúng ta
phải biết rằng ta sống trong cuộc đời này vì mọi người chứ không phải vì mình
nhiều quá. Lấy một ví dụ Có một người B đến xin ăn một người A, nhưng trong
lòng người A này vô cùng ghét cay đắng, sân hận người B này lắm, chỉ mong muốn
xua đuổi người B này đi mà thôi, nhưng không thể từ chối không cho người A vì
có nhiều người xung quanh lúc đó (tức người A nay mang lớp vỏ của người nhân
nghĩa), nếu bạn đóng vai là một người C thì bạn nhận thấy người A là người xấu
hay tốt ? và bạn có thường đem những đều tốt đẹp chia sẽ cho người A (xấu xa)
đó không?. Nhân quả cũng vậy, nó sẽ xét trên chiếc cân công lý rằng bạn có thực
sự xứng đáng với điều mà bạn mong muốn hay không? Vậy thì những điều tốt đẹp có
thật sự xứng đáng với loại người có tấm lòng ích kỷ, xấu xa hay không? Nhân quả chỉ xét
đoán tấm lòng chân thật của bạn mà thôi.
Người xưa có nói một câu:
Đời xưa trả quả
thì vay
Đời nay trả quả một giây nhãn tiền
Vào thời Đức Phật có một đạo giáo Ni Liên Kiền Tử, Đạo này chủ trương học
thuyết rằng những gì ta thụ lãnh hôm nay là do nghiệp trong đời quá khứ ta đã
tạo gây. Trong quan điểm này Đức Phật không hoàn toàn chấp nhận, Vì Ngài biết
rằng con người không nhất thiết là gieo tạo hôm nay thì sau nay mới gặt hái mà
chúng ta có thể sẽ gặt hái ngay khi ta gây tạo nghiệp tốt xấu, khi mà duyên đã
đủ. Lời dạy của Ngài phù hợp hoàn toàn với những trãi nghiệm của người xưa.
Vì Đức Phật dạy rằng tất cả mọi vạn vật không thể tự nhiên mà sinh khởi mà là
do duyên mà chúng mới xuất hiện, với khoa học đòi thực tế cũng bác bỏ về thuyết
ngẫu nhiên. Giống như một đứa bé ra đời cần phải hội đủ 3 yếu tố mới có một sự
sống. Ngài dạy: “ Khi cha mẹ đến với
nhau, mà không đúng thời kỳ mang thai của người mẹ, không có một thức tái sinh
đi vào thì sẽ không có một chủng tử hình thành. Khi cha mẹ đến với nhau, ngay
thời kỳ mang thai, mà không có một thức tái sinh thì một chủng tử cũng không được
hình thành. Khi cha mẹ đến với nhau, đúng thời kỳ người mẹ mang thai, khi có
một thức tái sinh đi vào thì một đứa bé mới được hình thành.”
Bởi vì luật của Nhân Quả nó tự sắp xếp cho chúng ta mà không cần ta phải biết
hay bận tâm đến, ta không thể hiểu được hoàn toàn ngoại trừ các vị Phật Chánh
Đẳng, Chánh Giác. Con người thường nói danh từ “xui khiến”, phải nói rằng
“duyên đã đến” mới hợp lý. Đồng thời rằng hai danh từ “May Mắn và Xui Rủi” thật
không thích hợp đối với những người có cái nhìn tri kiến. Mọi chuyện đến với
chúng ta đều có một cái nguyên nhân rõ ràng mà chúng ta không để ý đến điều mà
mình đã làm trước đó, khi chuyện toại nguyện đến là chúng ta biết chúng ta đã
làm những hành động đúng, khi điều đau khổ, bất toại nguyện đến là chúng ta
biết chúng ta đã làm sai.
Kết luận: Chúng ta là người quyết định cho số phận của
chính mình, cho dù là người thân đến đâu đi nữa thì nghiệp ta gieo thì chính ta
là người phải gánh trách nhiệm đó, nhưng ta sẽ ảnh hưởng đến những người xung
quanh nữa. Vì thế việc tốt do ta làm càng làm cho thế giới trở nên tốt đẹp.
3. Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích
Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích
Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng
Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch
Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng tại Kim Luân Thánh Tự,
Los Angeles, California, Hoa Kỳ năm 1983.
Vì vấn đề sanh tử của chúng sanh chúng ta mà đức Phật Thích Ca xuất hiện tại
cõi Ta-bà này. Ngài được sanh ra trong một gia đình vương giả, nhưng Ngài đã từ
bỏ sự giầu sang của cả một vương quốc để ra đi lo việc tu hành và chứng thành
Phật quả dưới gốc cây Bồ đề. Sau khi chứng quả Phật, Ngài quán sát các chúng
sanh trong thế giới Ta-bà và nhận thấy rằng các chúng sanh tại đây có một nhân
duyên sâu đậm với hai vị Phật, đó là đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở phương
Đông và đức A-Di Đà Như Lai ở phương Tây.
Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở thế giới Lưu ly nơi phương Đông có thể giúp
chúng ta tăng phước tăng thọ, tiêu trừ tai nạn; còn đức A Di Đà Như Lai ở
phương Tây thì có thể tiếp dẫn chúng ta mang theo nghiệp mà sanh về thế giới
Cực lạc, “hoa nở liền trông thấy Phật, ngộ được pháp Vô sanh nhẫn.”
Trong bài Nhị Phật Chú có câu:
“Nhị Phật diễn hóa tại Ta-bà
Đông A-súc, Tây Di-đà”
Hai câu này nghĩa là Phật A-súc, tức Phật Dược Sư và Phật Di-đà đều giáo hóa
chúng sanh tại thế giới Ta-bà. Hai vị Phật, một vị ở phương Đông, một vị ở
phương Tây, nhưng cả hai đều có nhân duyên rất sâu đậm với chúng ta nơi cõi
Ta-bà, do đó Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật chính là Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai, còn Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật chính là A-di-đà Như Lai.
Nếu có ai niệm danh hiệu của Đức Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư thì người đó
được giải trừ tai nạn, bệnh tật tiêu tan, tội diệt, phước sanh, tâm ý mãn
nguyện. Vậy, vị Phật giúp các chúng sanh kéo dài mạng sống chính là Tiêu Tai
Diên Thọ Dược Sư.
Còn đức Phật A-di-đà thì sao? Ở đây là vấn đề vãng sanh. Như có ai muốn về thế
giới Cực Lạc, thì phải niệm danh hiệu của đức Phật A-di đà. Nếu quý vị muốn
sanh về cõi Lưu Ly, tức là thế giới của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì hãy niệm
danh hiệu của Ngài Dược Sư.
Khi còn sống, người ta muốn tiêu trừ tai nạn, kéo dài tuổi thọ; còn khi lâm
chung người ta mong vể nơi thế giới Cực Lạc. Bởi vậy, trong Phật giáo chúng ta
thấy có cái bài vị mầu đỏ gọi là bài vị diên thọ, ngụ ý rằng Đức Phật Tiêu Tai
Diên Thọ Dược Sư phóng hào quang chiếu sáng ngôi sao bổn mạng. Còn khi vãng
sanh, nếu không muốn tái sanh nơi thế giới Lưu Ly mà muốn về cõi Cực Lạc thì
người ta niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Nhân duyên của chúng ta đối với hai vị
Phật nói trên quả là rất mật thiết.
Tuy nhiên, chúng ta vốn chưa biết về hai vị Phật này, ngay đến cả danh hiệu của
các Ngài chúng ta cũng không biết, do đó đức Phật Thích Ca mới giới thiệu cho
chúng ta về danh hiệu, bổn nguyện, cùng công đức nguyện lực của các Ngài. Bởi
vậy mới có bộ Kinh này, gọi là “Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai”
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười
tôn hiệu của mỗi vị Phật; “bổn nguyện” là các lời phát nguyện của Ngài khi Ngài
phát tâm Bồ đề, thời gian trước khi thành Phật quả. Lời nguyện phát ra trước khi
thành Phật gọi là bổn nguyện.
“Công đức” gồm có chữ “công”, chỉ những gì được tạo lập ở bên ngoài; chữ “đức”
chỉ những gì được tích lũy ở bên trong. Thí dụ, quý vị dựng chùa miếu, tu sửa
cầu đường, mưu cầu hạnh phúc và lợi ích cho mọi người, như vậy gọi là tạo lập
công. Còn đức là nói về sự tình ở trong tâm, ví dụ như quý vị làm một điều gì
mà khi ngước trông lên thì không thẹn với trời, trông xuống không hổ với người,
ngoài không dối người, trong không dối chính mình. Những hành động như vậy ở
bên ngoài thì lập nên công, ở bên trong tạo thành đức hạnh, đó gọi là công đức.
Về đức hạnh chúng ta có câu: “Thiện dục nhân kiến bất thị chân thiện”, nghĩa là
phàm điều thiện mà lại muốn mọi người trông thấy, thì chẳng phải là chân thiện.
Quý vị làm một điều thiện, quý vị không cần người ta biết đến, cũng không cần
phải quảng cáo với ai, chẳng hạn quý vị không cần phải tuyên bố rằng: “Tôi đã
làm việc thiện này, việc thiện kia” hay nói: “Tôi đã thọ Năm giới, thọ Tám
giới, rất nhiều giới, tôi đã thọ Bồ-tát giới!” Những điều đó quý vị đã làm
nhưng quý vị không khoa trương. Đức hạnh thì không ai hay biết, đó mới là đức
hạnh. Như muốn mọi người hay biết, thì không phải rồi! Cho nên mới có câu:
Làm thiện muốn
người thấy,
Đó chưa là thật thiện.
Làm ác sợ người biết,
Đó mới là đại ác.
(Thiện dục nhân kiến,
Bất thị chân thiện.
Ác khủng nhân tri,
Tiện thị đại ác.)
Làm việc thiện mà
muốn mọi người hay biết tức không phải là đức hạnh. Điều ác mà sợ có người biết
thì đó là một tội lỗi lớn. Do đó, đã là người học Phật, chúng ta không thể
giống như vậy, không nên tranh hơn tranh kém, chẳng hạn như nói những câu: “Tôi
đã làm nên những chuyện này, chuyện kia! Tôi như vậy đó! Tôi bố thí như thế
này! Tôi hộ pháp như thế kia!” Có những tư tưởng, hành vi khoa trương tự mãn,
thì đó không phải là tư cách của người hộ pháp.
Bởi vậy, nay quý vị học Phật Pháp, nghe giảng kinh, quý vị hãy dụng công ngay
tại đây, chớ không phải là để hư trương danh tiếng, mượn dịp này để quảng cáo
cho mình. Điều ta chú trọng là công phu thực sự, còn cái hư danh thì ta không
cần biết. Chúng ta là người học Phật thì chính chúng ta phải làm gương, khiến
cho mọi người phải kính nể phẩm hạnh của tín đồ Phật giáo! Công đức là ở chỗ
đó!
“Kinh” ở đây có nghĩa là kinh thường. Pháp kinh thường nghĩa là pháp không biến
đổi. Kinh chính là lời của thánh nhân, lời giảng dạy do bậc thánh nói ra, một
chữ cũng không thể bớt, một chữ cũng không thể thêm vào, ý tứ phong phú. Nói
tóm lược thì ý nghĩa của chữ Kinh không ngoài bốn nghĩa: quán, nhiếp, thường và
pháp.
- Quán tức là xâu qua, xuyên qua, ngụ ý rằng ý nghĩa và đạo lý trong lời Phật
dạy giống như một cái xâu, xuyên qua từ đầu đến cuối.
- Nhiếp nghĩa là bắt lấy, như nói thâu nhiếp, bởi kinh Phật có thể thâu nhiếp
hết mọi căn cơ.
- Thường, có nghĩa là không thay đổi, từ cổ chí kim luôn luôn như vậy, có tính
cách vượt thời gian.
- Pháp nghĩa là phép tắc. Chư Phật trong ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai,
cũng như ba đời các chúng sanh, tất cả đều tuân theo khuôn phép đó. Bởi vậy có
câu: “Tam thế đồng tuân danh viết pháp”, nghĩa là ba đời cùng tuân theo gọi là
pháp. Tất cả chúng ta cũng phải tuân thủ phép tắc đó.
“Kinh” còn được ví như dây mực của người thợ mộc, có khi mang ý nghĩa như một
giòng suối tuôn. Thật ra chữ kinh còn chứa đựng nhiều ý nghĩa lắm, có điều quý
vị chỉ cần nhớ lấy mấy ý chính. Kinh là gì? Kinh là kinh thường, là pháp không
đổi thay, không cải biến, vĩnh viễn nó như vậy. Nay Phật giảng như thế này,
trong tương lai Phật cũng giảng như thế, quá khứ Phật cũng đã giảng như vậy.
Như trong câu: “Cổ kim chẳng đổi gọi là thường, ba đời đều tuân theo gọi là
pháp” Vậy kinh này, tức Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai, nếu giải thích một cách đơn giản thì cũng giảng như trên.
Nay giảng các chữ trong đề kinh. “Dược” nghĩa là thuốc; “Sư” là thầy. Vị Phật
đây là một thầy thuốc lớn, có thể trị tất cả mọi bệnh tật của người trong thế
gian. Bất kể quý vị bị chứng bệnh nan y gì, nếu được Ngài cứu chữa thì chắc
chắn bệnh sẽ hết. Bệnh gì cũng chữa lành, ở cửa tử mà được hồi sanh, bệnh đáng
chết mà được cứu sống. Bởi vậy Ngài mới có tên gọi là “Dược Sư”
“Lưu ly” là một chất trong suốt, ở trong có thể nhìn thấu ra ngoài, ở ngoài có
thể nhìn thấu vào trong. Lưu Ly là tên của quốc độ quả báo (báo độ) của Đức
Dược Sư, gọi là thế giới Lưu Ly và Ngài là vị giáo chủ. Thân thể của Ngài cũng
là chất lưu ly, nội ngoại đều sáng trong, tinh khiết. Ngài thông hiểu hết các
loại thuốc. Ở Trung Hoa đời xưa có vua Thần Nông, và có câu nói: “Thần Nông
thường bách thảo”, nghĩa là vua Thần Nông đã từng nếm hết thảy các thứ thuốc.
Thân thể của vua Thần Nông cũng là chất lưu ly. Khi nếm thuốc, nuốt vào bụng
rồi, vua có thể nhận ra tác dụng của vị thuốc, biết được vị thuốc đó đi vào
đường kinh lạc nào trong cơ thể. Khi nếm đủ các loại thuốc xong, vua phân tích
ra từng tánh chất một (dược tánh), vị nào chua, ngọt, đắng, cay, mặn, thứ nào
là lạnh, nóng, ấm, trung bình, thứ nào độc thứ nào không độc.
“Quang” là ánh sáng. Thân thể Đức Dược Sư không những trong suốt, mà còn tỏa
sáng, tức là một đại quang minh tạng.
“Như Lai” là một trong mười tên hiệu của Phật: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Số là, mỗi vị Phật có mười vạn danh hiệu, nhưng
kể đủ cả mười vạn danh hiệu ấy thì không ai nhớ được, nên người ta rút ngắn lại
thành một vạn; tuy nhiên, một vạn kể ra cũng dài, lại rút thêm thành một ngàn;
sau rút nữa thành một trăm và cuối cùng rút xuống chỉ còn lại mười danh hiệu.
Vị Phật nào cũng có mười danh hiệu đó, chứ chẳng phải vị Phật này có mà vị Phật
kia thì không. Học Phật Pháp chúng ta phải hiểu điều đó. Tôi nghe những kẻ
ngoại đạo nói về “Như Lai Phật”. Họ không hiểu Như Lai Phật là vị Phật nào. Kỳ
thực, vị Phật nào cũng có hiệu là Như Lai. Như Lai nghĩa là “theo đạo như thực,
theo đạo như thực mà thành Chánh giác”.
“Bổn nguyện” là nói về các lời phát nguyện trong quá khứ của Đức Dược Sư. Đây
không phải là lời phát nguyện trong đời này. Trong kinh điển Phật giáo có các
danh từ như bổn sự, bổn nguyện, bổn sanh. Bổn sanh là đời hiện tại, bổn nguyện
lại thuộc đời quá khứ, còn bổn sự cũng là sự việc xẩy ra trong kiếp xưa.
“Công Đức” và “kinh”, các danh từ này đã được giảng rồi.
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là vị Phật ở phương Đông. Ngài có một tên khác nữa
là “Phật A Súc”. Phật Dược Sư thuộc Kim Cang Bộ ở phía Đông, và Bộ này chú
trọng Pháp Hàng Phục. Pháp này chuyên hàng phục thiên ma, ngoại đạo. Khi chúng
thấy các vị Kim Cang hộ pháp thuộc Bộ Kim Cang là chúng phải quy hàng. Giả tỷ
như bất cứ ai niệm Chú Lăng Nghiêm thì sẽ được tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng
Bồ Tát gia hộ, che chở. Cố nhiên người đó phải thành tâm niệm chú mới được!
Đại khái tôi giảng ý nghĩa về tên kinh là như vậy.
Kinh văn:
Hán Việt :
Như thị ngã văn, nhất thời Bạc-Già-Phạm, du hóa chư quốc, chí Quảng Nghiêm
thành, trú nhạc âm thụ hạ, dữ đại Bí-sô chúng bát thiên nhân câu, Bồ tát
Ma-ha-tát tam vạn lục thiên, cập quốc vương, đại thần, bà-la-môn, cư sĩ, thiên
long bát bộ, nhân, phi nhân đẳng, vô lượng đại chúng, cung kính vi nhiễu, nhi
vi thuyết pháp.
Việt :
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc Già Phạm đi độ các nước, đến thành Quảng
Nghiêm, Ngài dừng lại dưới gốc cây âm nhạc, cùng tám ngàn đại Bí-sô, ba vạn sáu
ngàn Bồ-tát Ma-ha-tát, các quốc vương đại thần, các bà-la-môn, các cư sĩ, trời
rồng và tám bộ chúng, người và chẳng phải người, đông không kể xiết, cả thảy
đều cung kính vây quanh nghe Phật thuyết pháp.
Lược giảng:
“Như thị” nghĩa là « như vầy. » Danh từ này ngụ ý rằng “pháp như vầy” thì có
thể tin theo, học tập và thực hành. Chúng ta phải phát nguyện tu hành pháp đó,
y theo lời dạy trong đó mà tu tập.
“Ngã văn”, nghĩa là “tôi nghe”. Đây là lời của Tôn giả A-nan. Tôn giả nói như
sau: “Các pháp nói trong bộ kinh này là do chính tôi, A-nan, được nghe từ kim
khẩu của đức Phật nói ra, chớ không phải là do người truyền lại. Chính là tôi
đã được nghe”.
Sở dĩ có mấy chữ “Như thị ngã văn” - tôi nghe như vầy - là bởi bốn nguyên do
sau: Đó là bốn điều Tôn giả A-nan hỏi Phật. Số là khi Phật sắp nhập Niết bàn,
Tôn giả A-nan rất đỗi bi thương, quên hết mọi sự mà chỉ biết than khóc. Ngày
ấy, ngài A-nan đã chứng Sơ quả song ngài vẫn chưa đoạn được vấn đề tình cảm,
cho nên khi biết tin Phật sẽ nhập Niết Bàn, ngài không thể nén được xúc động
nên mới khóc lóc một cách bi thảm, cơ hồ chỉ biết khóc, chẳng biết chuyện gì
khác nữa. Lúc đó có một vị tôn giả (Tôn giả A-nậu-lâu-đà) nhắc cho ngài thức
tỉnh và nói rằng: “Ông vốn có bổn phận ghi nhớ lại các lời Phật dạy, nay Phật
sắp vào Niết Bàn ông hãy ráng tỉnh táo mà nghĩ cho kỹ! Ngay bây giờ, ông hãy
xét coi có điều gì trọng yếu thì phải hỏi Phật đi, đặng Phật chỉ dạy cho. Ông
chỉ khóc lóc như vậy thì trong tương lai chúng ta sẽ ra làm sao đây?” Nghe lời
nhắc nhủ đó, Đức A-nan bèn tỉnh ngộ, ngài nói: “Đúng vậy! Có vấn đề gì quan
trọng thì chúng ta phải mang ra hỏi Phật ngay. Có điều tôi khóc quá nên quên cả
mọi thứ. Bây giờ chúng ta phải hỏi Phật những điều gì đây? Đầu óc tôi rối như tơ
vò, chẳng còn nghĩ ra được vấn đề gì cả”.
Vị tôn giả nói trên nói: “Ông cần hỏi Phật rằng trong tương lai khi kết tập
kinh tạng, tại mỗi bộ kinh phải lấy những chữ gì để bắt đầu. Đó là câu hỏi thứ
nhất. Điều thứ hai là khi Phật tại thế thì Ngài là thầy của chúng ta; sau khi
Phật nhập Niết Bàn thì ai sẽ là thầy? Điều này cũng cần phải hỏi Phật. Thứ ba,
ông hỏi Phật rằng khi Ngài tại thế thì tất cả các tỳ kheo chúng ta ở cùng với
Ngài. Vậy khi Ngài nhập Niết Bàn rồi, chúng ta sẽ ở với ai? Điều thứ bốn là khi
Phật tại thế nếu tỳ kheo nào có ác tính thì Phật điều phục họ. Sau khi Phật
nhập Niết Bàn ai sẽ điều phục họ?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Bốn vấn đề vừa nói quả là trọng yếu rất mực, tôi sẽ phải đi hỏi Phật ngay.”
Nói rồi, Tôn giả A-nan đi đến trước Phật, chắp tay, quỳ gối và thưa rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn! Nay Ngài sắp nhập Niết Bàn nên chúng con có những vấn đề
quan trọng muốn thỉnh Phật chỉ dạy cho chúng con.
Phật nói:- Ông muốn hỏi điều gì thì cứ việc hỏi.
Tôn giả A-nan thưa:- Trong thời gian trụ thế, Thế Tôn đã thuyết pháp 49 năm,
nói kinh trong hơn ba trăm pháp hội, vậy ngày sau, khi kết tập kinh tạng thì
phải lấy những chữ gì để khởi đầu cho mỗi bộ kinh?
Phật đáp:- Kinh điển của chúng ta khác với kinh điển của ngoại đạo. Kinh của
các đạo khác nếu họ chẳng nói về “có”, tức họ nói về “không”. Phần ghi trên đầu
các kinh đều chẳng đi ra ngoài hai chữ “có” và “không”. Vậy về điểm này, đối
với kinh của chúng ta, các ông nên ghi mấy chữ “tôi nghe như vầy”, ngụ ý rằng
“Tôi, A-nan, chính tôi được nghe như vầy, chớ đó không phải là lời tôi nghe
người ta truyền lại”.
A-nan thưa:! Trong tương lai chúng con sẽ ghi mấy chữ “tôi nghe như vầy”. Điều
thứ hai con muốn thỉnh Phật chỉ dạy là khi Phật còn ở tại thế gian, tất cả các
tỳ kheo chúng con đều tôn Phật là thầy. Vậy sau khi Phật vào Niết Bàn rồi,
chúng con sẽ tôn ai làm thầy?
Phật đáp- Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn các ông sẽ lấy “giới” làm thầy.
Ba-la-đề-mộc-xoa chính là thầy của các ông. Các ông giữ được giới thì chẳng
khác gì ta còn tại thế. Các ông hãy làm các điều lành và tránh xa các điều ác.
A-nan hỏi:- Điều thứ ba con xin thỉnh Phật chỉ dạy là nay Phật trú ở thế gian,
chúng con trú cùng một nơi với Phật, thường theo học với Phật. Vậy sau khi Phật
nhập Niết Bàn thì các tỳ kheo chúng con sẽ trú cùng với ai?
Phật đáp:- Sau khi ta nhập Niết Bàn, tất cả tỳ kheo các ông phải trú vào Tứ
Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ, hay bốn lãnh vực quán niệm, gồm có thân, thọ, tâm và pháp.
Các ông phải an trú vào bốn nơi này để quán niệm.
Thứ nhất là quán thân bất tịnh, nghĩa là mình tự quán sát thân thể của mình,
thấy thân thể này chẳng có cái gì gọi là sạch sẽ, tinh khiết, nó chỉ là sự tổng
hợp của bốn đại, đất, nước, gió, lửa mà thành. Thứ hai là quán thọ là khổ, thứ
ba quán tâm là vô thường, thứ tư quán pháp là vô ngã.
A-nan hỏi Phật điều thứ tư:
- Về những tỳ kheo có tánh ác, họ đều được Phật điều phục khi Phật còn tại thế.
Vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn, nếu có tỳ kheo có tánh ác, chúng sẽ phải đối xử
với họ ra sao?
Phật đáp:- Trong tương lai nếu các ông gặp những tỳ kheo này thì nên lặng yên
và bỏ mặc họ (mặc tẩn).
Điều này có nghĩa là khi gặp những trường hợp này, ta nên giữ im lặng, không
nói chuyện với những người ấy. Bỏ mặc tức là bỏ đi nơi khác, không lý tới họ,
không tranh cãi với họ. Như vậy, ít lâu sau họ sẽ tự cảm thấy rằng họ quấy và
sẽ tự sửa chữa. Đối với những người đó, nếu quý vị lại hỏi han, tranh biện với
họ thì họ sẽ tự cảm thấy họ có giá trị. Còn như quý vị chẳng hỏi han gì, họ sẽ
cảm thấy họ chẳng hay ho gì. Thế nào gọi là tỳ kheo có tính ác? Nên nhớ rằng
chẳng phải người xuất gia nào cũng cố gắng tu đạo, chẳng phải bất cứ ai ở đây
cũng chịu tu hành.
Ngày trước, tại những ngôi chùa lớn ở Trung quốc, các vị xuất gia rất đông, đủ
mọi hạng người. Trong số này, có những kẻ đã từng giết người, đốt nhà, trộm
cướp, hoặc xưa là thổ phỉ nay cải tà quy chánh, hoặc làm thổ phỉ nhưng mượn
danh nghĩa của người xuất gia để giả trang đối với nhà chức trách, các hạng
người như vậy đều có cả, nghĩa là rồng với rắn lẫn lộn, không đồng nhất.
Đó là tình trạng tại Trung quốc và tôi tin rằng ở đâu cũng như vậy mà thôi. Nói
về loại chuyên môn ăn cắp ở Trung quốc, người ta còn mệnh danh họ là “thiên thủ
Quan Âm” - nghĩa là đức Quan Âm ngàn tay - bởi họ có muôn ngàn tay thực. Ai có
đồ vật gì hay là họ lén lấy ngay, lấy xong mang đi bán, được đồng nào thì mua
rượu hay ma túy. Bởi vậy quý vị đừng có khờ khạo, chớ có nhắm mắt tin rằng ai
xuất gia cũng là người tốt cả. Tôi xin nói thẳng với quý vị như vậy, kể cả tôi
cũng có thể ở trong số đó nữa, không phải ai ai cũng tốt đâu. Có điều tôi đã
nguyện làm điều lành. Trong quá khứ tôi không biết đã từng làm những việc gì
xấu, nay thì tôi chỉ ước mong làm sao tu hành cho tốt mà thôi.
Tỳ kheo ác tính thì rất là ác, họ không biết nghe lẽ phải, quý vị càng tranh
biện với họ, họ càng thấy họ hay, họ càng làm tới, do đó Phật dạy chúng ta hãy
giữ im lặng và bỏ mặc họ, không lý tới họ nữa.
Nói về Tứ Niệm Xứ thì thứ nhất là quán thân bất tịnh. Quý vị có thể nghĩ rằng:
“Mỗi ngày tôi đều tắm rửa tấm thân này sạch sẽ, sau đó tôi còn tô điểm nó cho
thêm đẹp đẽ ”. Quý vị nói đúng! Quý vị trang điểm thân mình với nhiều thứ lắm!
Thân thể chúng ta có chín lỗ thường tiết ra những đồ bất tịnh. Ở hai con mắt
thì có chất ghèn, ở hai tai có ráy tai, ở hai lỗ mũi có nước mũi, ở miệng thì
có đờm, dãi. Đó là bảy lỗ. Còn hai lỗ kia dùng cho đại và tiểu tiện. Con người
của quý vị nếu lâu ngày không tắm rửa cũng thành hôi hám. Quý vị ăn hành thì
người quý vị sẽ tiết ra mùi hành; ai uống sữa bò thì có mùi sữa bò; ăn thịt bò
thì có mùi bò; ăn thịt dê, thịt heo, thịt chó thì sẽ tiết ra mùi của các thứ
ấy. Quý vị ăn tỏi ư? Người quý vị sẽ toàn là mùi tỏi!
Quý vị bảo rằng: “Mùi phát ra ở miệng. Nếu ăn xong súc miệng, đánh răng thì
chẳng còn mùi nữa”. Kỳ thực chẳng phải vậy. Ăn thứ gì thì chẳng phải chỉ có
răng miệng có mùi mà toàn thân thể đều có mùi của thứ đó. Nếu quý vị không tin
thì hãy thí nghiệm một lần cho biết. Quý vị thử uống thật nhiều sữa, tới khi đổ
mồ hôi thì sẽ thấy mồ hôi có mùi sữa. Xem ra chín lỗ nói trên thường tiết ra
chất bất tịnh, vậy chúng còn có gì là hay nữa? Quán sát như vậy gọi là quán
thân bất tịnh.
Thứ hai hãy quán thọ là khổ. Thọ có nghĩa là hưởng thọ, lãnh thọ. Bất cứ quý vị
nhận thứ gì của ai, lãnh thọ hay hưởng thọ một thứ gì, cái thọ đó là khổ. Cái
vui sướng, tức là “lạc,” cũng là nguyên nhân của khổ.
Thứ ba là quán tâm vô thường. Tâm của chúng ta, niệm niệm đổi thay, chẳng bao giờ
ngưng nghỉ, nó là vô thường.
Thứ tư, quán pháp vô ngã. Tất cả các pháp đều không có ngã. Không những thế
chúng cũng không có ngã sở.
Như quán thân bất tịnh, các thứ thọ, tâm, pháp cũng đều bất tịnh. Quán thọ là
khổ, các thứ thân, tâm và pháp cũng đều là khổ; quán tâm vô thường, các thứ
thân, thọ, pháp cũng đều vô thường; quán pháp vô ngã, các thứ kia cũng là vô
ngã. Gọi là Tứ Niệm Xứ, bốn lãnh vực để quán niệm, nhưng một là ba, ba là một;
một thứ tức là bốn thứ và bốn thứ tức là một thứ.
Thời gian Phật còn tại thế thì các tỳ kheo trú cùng một nơi với Phật và sau khi
Phật nhập Niết Bàn thì phải trú tại Tứ Niệm Xứ. Đó là di ngôn của Phật, lời
Ngài phó chúc, dạy các tỳ kheo chúng ta phải y theo như vậy.
Sau khi Phật vào Niết Bàn thì tất cả phải lấy giới làm thầy. Giới là nghĩa
“không làm các điều ác, luôn làm các điều lành”; cũng có nghĩa là “ngưng ác,
ngừa quấy” (chỉ ác phòng phi), tức là chấm dứt điều ác, tu mọi điều lành, hay
làm các điều phải, chấm dứt các điều quấy. Đó là giới luật. Kỳ thực nguyên ủy
chẳng có gì gọi là luật cả. Nguyên do là khi Phật còn tại thế, số đệ tử rất
đông, mà càng đông thì phát sinh nhiều vấn đề phức tạp. Có người giữ đúng quy
củ, nhưng cũng có kẻ không theo phép tắc gì cả. Mỗi khi gặp một nguyên do nào
đó Phật mới đưa ra một quy lệ, rồi lâu ngày các quy lệ đó gom lại thành giới
luật. Tỳ kheo có 250 điều giới, Tỳ kheo ni có 348 điều, Bồ tát thì có 10 giới
trọng 48 giới khinh, Sa di có 10 giới, cư sĩ tại gia thì hoặc 8 giới, hoặc 5
giới.
Các điều giới đó không ngoài chủ ý khuyên mọi người giữ quy củ. Cho nên giữ
được quy củ thì xã hội sẽ có những phần tử tốt, ưu tú, hiền lương, có thể mang
lại trật tự an lành cho tất cả, không còn điều gì phiền hà trong cuộc sống. Bởi
vậy giới luật là nền tảng của một thế giới an bình. Đó là lý do mà các tỳ kheo
phải lấy giới làm thầy.
“Tôi nghe như vầy ”. Vào ngày ông A-nan kết tập kinh điển, lúc ông vừa ngồi vào
cỗ pháp tọa, tức là chỗ thường ngồi của Phật khi thuyết pháp, người ta bỗng
thấy hiện ra nhiều tướng tốt lành. Đại chúng chứng kiến lấy làm lạ, trong lòng
nẩy sinh ba điều nghi hoặc. Thứ nhất người ta nghi rằng vị tôn giả đó chẳng
phải là A-nan thực, mà là đức Thích ca Phật sống lại, bởi họ thấy rõ vị tôn giả
xưng là A-nan cũng có ba mươi hai tướng tốt, cùng tám mươi vẻ đẹp nên nghi rằng
Phật đã hồi sanh.
Thứ hai, họ nghi rằng đây là một vị Phật ở cõi khác đến thế giới Ta-bà để
thuyết pháp. Nếu chẳng vậy thì làm gì có được những hiện tướng tốt lành đó.
Thứ ba, họ nghi tôn giả A-nan đã chứng Phật quả, ông đã thành Phật.
Bởi có những điểm nghi ngờ như vậy nên ai nấy đều bàng hoàng, chưa biết rõ sự
thể ra sao. Tới khi Tôn giả A-nan cất tiếng: “Như thị ngã văn” - tôi nghe như
vầy - bốn chữ đó có nghĩa như: “Đây! Pháp như vầy là do chính tôi, A-nan, được
nghe đức Thích-ca Mâu-ni Phật thuyết giảng”, mọi người mới thức tỉnh và các sự
nghi ngờ mới tiêu tan.
Ngay đến hàng A-la-hán, khi thấy ngài A-nan kết tập kinh điển cũng khởi lên ba
mối nghi như vậy. Nói gì chúng ta ngày nay, nghe tới kinh này, tâm chúng ta bèn
khởi lên, chẳng phải ba mà có thể tới hàng ngàn hàng vạn mối nghi nữa, tỷ như
có ý nghĩ rằng: “Kinh này có thiệt hay không?”, “có phải do Phật nói ra
chăng?”, “lấy gì làm bằng chứng?”. . . Cái máy điện toán trong thân thể này,
không phải là điện não (computer), mà là nhân não, một khi mở máy thì cả ngàn,
cả vạn mối nghi xuất hiện. Xem như vậy thì học Phật Pháp chẳng phải là dễ.
Chúng ta học Phật mà chẳng có thành tựu gì, chính là do cái tâm nghi ngờ đó.
Có câu rằng: “Tu đạo cần đừng có tâm nghi”, nghĩa là người tu đạo đừng có tâm
nghi. Nói thế này, thì quý vị không tin; nói thế kia, quý vị cũng không tin;
nói điều chân thực cũng không tin; song nói điều hư dối thì quý vị lại tin! Đó
là điên đảo.
Câu tiếp theo là: “Tâm nghi vừa khởi lạc đường mê”, nghĩa là một khi quý vị
khởi tâm nghi tức là quý vị đi ngay vào con đường lầm lạc. Bởi vậy người học
Phật phải theo đúng châm ngôn “sáng như vậy, chiều cũng vậy” (triêu ư tư, tịch
ư tư)-- , ngày ngày tu học, từng giờ, từng khắc phải tu học, đinh ninh trong
dạ, chớ không phải làm cho qua chuyện mà được.
Tại Vạn Phật Thánh Thành này, bất cứ là người xuất gia hay hàng cư sĩ, nếu muốn
học Phật thì phải ráng đọc tụng cho thuộc bộ Kinh Lăng Nghiêm. Nhớ và thuộc
lòng bộ kinh này thì công học Phật sẽ không uổng. Thực vậy, trong kinh này Phật
giảng đến chỗ tột cùng, rất là chính xác, phơi bày hết cái dở của hàng ngoại
đạo, lột trần bổn tướng của họ. Bởi vậy nếu chúng ta hiểu thấu kinh Lăng
nghiêm, thì thiên ma ngoại đạo sẽ phải khiếp sợ đến dựng lông tóc. Nay quý vị
muốn thực lòng hộ trì Tam Bảo, hoằng dương Phật Pháp, thì phải mau mau nghiên
cứu kinh Lăng Nghiêm, đọc tụng Lăng Nghiêm, giảng giải Lăng Nghiêm, tối thiểu
là như vậy.
Việc học kinh Lăng Nghiêm, nghe kinh, tụng kinh, đòi hỏi một sự nhẫn nại, không
được sanh lòng chán nản. Quý vị phải biết cái cây kia, mỗi ngày nó một lớn lên,
rồi hàng ngày quý vị phải lấy nước tưới lên, thì cây mới nở hoa, mới có mầu sắc
đẹp đẽ như vậy. Các trẻ nhỏ phải ngày ngày dạy dỗ, lớn lên đi học cũng ngày
ngày đọc sách. Học Phật Pháp thì cũng phải bỏ chút ít thời gian để hàng ngày
nghiên cứu, học tập Phật Pháp.
Quý vị học Phật Pháp còn tốt hơn là mang tiền gửi tại ngân hàng nữa. Về phương
diện huệ mạng và Pháp thân thì việc học Phật lại càng trọng yếu hơn nữa. Chớ
nên coi tiền tài trên thế gian này là thật. Học Phật Pháp mang lại pháp tài để
quý vị sử dụng tại thế gian. Nó là công đức pháp tài cho pháp xuất thế gian.
Quý vị không thể coi nhẹ vấn đề này, không thể làm một cách qua loa cho xong
việc! Bận rộn cả ngày mà cũng dành được chút thời gian để nghe kinh, nghiên cứu
Phật Pháp, vậy là tốt lắm!
Chớ có nghĩ rằng: “Ồ! Giảng kinh thì ngày nào cũng chỉ từng đó! Nghe hoài phát
chán!” Vậy chớ, công việc của quý vị bận rộn mà quý vị vẫn phải ăn, vẫn phải
bận quần áo, vẫn phải ngủ nghỉ thì sao? Như nghe kinh mà ta cũng coi trọng như
ăn, mặc, ngủ nghỉ thì hay biết bao!
“Như vầy” (Như thị), ý nói rằng pháp như vầy. Pháp đó có thể tin được, pháp đó
có thể tu theo, pháp đó có thể tu thành Phật được. Pháp đó phải tu tập, chúng
ta phải tin theo, chúng ta phải gắng sức tu một cách chân thành. Từ ngữ “Như
vầy” là chỉ về pháp, biểu tượng cho ý nghĩa thành tựu của bộ kinh về chữ “tín”.
Phàm là kinh thì phải thỏa mãn sáu điều kiện cần thiết, gọi là sáu thành tựu.
Thứ nhất là thành tựu về tín. Nếu quý vị tin được có nghĩa là niềm tin đã thành
tựu, mà tín có thành tựu thì mới có lợi ích. Nếu không tin thì chẳng có lợi gì.
Lấy thí dụ như cơm mà chúng ta ăn. Chúng ta tin rằng ăn cơm vào thì sẽ được no
bụng, bằng không ăn thì chẳng no được. Pháp cũng vậy, tuy Pháp đó có thể dẫn
tới Phật quả, nhưng quý vị không tin, không tu, thì Pháp đó chẳng có hiệu quả
gì đối với quý vị cả. Pháp chẳng phải nói suông, thực hành Pháp mới là đạo. Quý
vị phải thực sự tu hành, y theo Pháp mà tu tập, có như vậy mới có lợi lạc. Quý
vị có tin thì mới có sự thành tựu. Có được niềm tin thực ra cũng do nhiều nhân
duyên khác hỗ trợ.
“ Tôi nghe . Từ ngữ này nói lên điều kiện cần thiết thứ hai, đó là sự nghe, hay
nói cách khác là thành tựu về nghe. “Tôi nghe” thì chữ “tôi” chỉ Tôn giả A-nan.
Ngài tự xưng mình là “tôi”, nhưng chữ “tôi” ở đây có tính cách vô ngã, không hề
có sự chấp trước, cái “tôi” viên dung, không bị trở ngại; nó thấu suốt cả vạn
sự vạn vật mà lại buông bỏ hết; bởi vậy nó mới đích thực là chân ngã của tự
tánh. Cái “tôi” này không mang ý nghĩa đối ngoại, như nói tôi và người khác. Nó
là đối nội, đối với chính tâm sở của mình. Đây là cái “tôi” có trí huệ, cái
“tôi” không điên đảo, cái “tôi” trong sự trạch pháp. Bởi có con mắt trạch pháp
nên mới tới được trình độ “thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển”. Làm sao có
được con mắt trạch pháp? Chính là phải có thành tựu về tín và thành tựu về văn.
“ Một thời Nay đã có hai sự thành tựu, có lòng tin, có
ý muốn nghe, nhưng lại phải có một thời điểm để nghe, tức thời gian nghe bộ
kinh Công Đức Bổn Nguyện của Đức Phật Dược Sư, mà cũng chỉ cả thời gian Tôn giả
A-nan kết tập kinh tạng. Từ ngữ “một thời” chính là sự thành tựu về thời gian.
Có thể quý vị sẵn lòng tin, lại muốn nghe, nhưng thời gian không ăn khớp chẳng
hạn, đại khái quý vị không có dịp đến Kim Luân Thánh Tự để tham gia pháp hội
giảng kinh thuyết pháp, mà lại nằm ở nhà, thì dầu có tin và muốn nghe cũng
không nghe được. Đó là vần đề thành tựu về “thời”, một trong các điều kiện cần
thiết để nghe kinh.
“Bạc Già Phạm” là một tên khác của đức Phật. Từ ngữ này có sáu ý nghĩa. Quý vị
muốn tìm hiểu kỹ càng về từ ngữ này thì có thể tra từ điển Phật học. Nếu không,
thì chỉ cần nhớ rằng đây là tiếng Phạn và tiếng đó chỉ đức Phật. Từ ngữ “Bạc
Già Phạm” biểu tượng cho sự thành tựu về chủ thể.
Nay các điều kiện về tín, nghe và thời đã được thỏa mãn, nhưng nếu không ai
giảng kinh thì quý vị đâu có nghe được gì. Các thành tựu trên đều vô dụng nếu
không có sự thành tựu về chủ thể, tức là người chủ thuyết pháp.
Bây giờ tôi hỏi quý vị: Có ai nhớ sáu ý nghĩa của chữ “Bạc-Già-Phạm” này không?
[ Một đệ tử thưa: Đệ tử chỉ nhớ được bốn ý nghĩa.
Thượng Nhân: Cứ nói ra cho mọi người nghe đi! Còn hai nghĩa kia để người khác
nói.
Đệ tử: Một nghĩa là tự tại, ngụ ý rằng đức Phật ở nơi nào cũng thoải mái, không
có phiền não.
Thượng Nhân: Tự tại giống như ông chăng?
Đệ tử: Hoàn toàn khác.
Thượng Nhân: A! Ông làm gì mà không tự tại? Ông chạy đi đâu mà không ở chỗ này?
Đệ tử: Thường thường là hướng ngoại, lăng xăng ở bên ngoài.
Thượng Nhân: Okay! Nghĩa thứ hai là gì?
Đệ tử: Bạc Già Phạm có một nghĩa là danh xứng, ý nói rằng ai ai cũng biết tên
của đức Phật; công đức, hạnh nguyện, từ bi, tất cả mọi người đều hay biết.
Nghĩa thứ ba là đoan nghiêm, tức là sự đoan chính, không có chút gì gọi là tà,
không có vọng tưởng, tóm lại là rất trang nghiêm, rất chánh. Nghĩa thứ tư là xí
thịnh, ý nói rằng công đức của Ngài rất trang nghiêm, thật là viên mãn, có tính
cách sáng rực như một ngọn lửa phát ra ánh sáng, vô cùng mỹ lệ, rất hay, ai ai
cũng muốn xem, ngắm ánh sáng của ngọn lửa.
Thượng Nhân: Trong số quý vị đây có ai biết được ông ấy nói đúng hay sai chăng?
Bốn danh xưng về đức Phật vừa nói có nằm trong sáu ý nghĩa của chữ Bạc Già Phạm
không? Ai biết ông ấy nói sai? Mau nói thử coi! Ông ấy nói đúng ư? Cũng lên
tiếng cho biết đi! Chữ đó còn hai ý nghĩa nữa, tôi không cần gọi tên ai cả,
người nào biết thì hãy mau mau nói ra. Nếu chẳng ai nói cả thì chứng tỏ rằng
quý vị đã quên, không một người nào ghi nhớ hết.
Quả Huệ thì sao? Biết không? Người ta nói như vậy đó, có đúng không?
Quả Huệ: Có một nghĩa là cát tường.
Thượng Nhân: Còn gì nữa? Quả Nhã có biết không?
Quả Nhã: Có một nghĩa là tôn quý.
Thượng nhân: Còn bốn ý nghĩa mà vừa rồi người ta đã giảng thì có đúng không?
Quả Nhã: Một ý nghĩa gọi là trang nghiêm, nhưng ông ấy nói thành chữ đoan
chính.]
Cát tường! Người Trung Hoa thích chữ cát tường lắm! Nhất là tại vùng Quảng
Đông, cứ mỗi lần sang năm mới, người ta chỉ nói : “Như ý cát tường! Như ý cát
tường!” Muốn cát tường mà không chịu niệm Phật! Chỉ kiếm nơi đánh bài “mạc
chược”, hoặc đến chỗ khiêu vũ! Quý vị muốn được cát tường thì quý vị phải niệm
Phật, sống trong quy củ theo đúng phép tắc. Đánh mạc chược ư? Cát tường làm sao
được? Chỉ có thua bạc thôi! Thua tới thua lui, thua đến mất luôn cả cái quần
này. Quý vị bảo như vậy là cát tường ư?
Tôn quý! Phật là tôn quý nhất! Do đó muốn được tôn quý, chúng ta phải theo
gương Phật, học tập tấm gương rất tôn quý, rất hoàn chỉnh của Ngài, một tấm
gương trong, không còn tập khí, không còn vọng tưởng tạp niệm, hoàn toàn vượt
xa cảnh giới A-la-hán.
A-la-hán như trong kinh Pháp Hoa mở đầu như sau:
“Tôi nghe như vầy: Một thời Phật tại núi Kỳ-Xà-Quật, thuộc thành Vương Xá, cùng
các vị đại tỳ-kheo, một vạn hai ngàn người, đều là A-la-hán . . .”
A-la-hán là những vị đó. Họ là những người đã dứt sạch lậu hoặc - chư lậu dĩ
tận - dứt hết các điều xấu, các tập khí, lìa mọi vọng tưởng, thoát khỏi vòng
sanh tử. Các ngài đã làm xong mọi việc mà họ phải làm - sở tác dĩ biện - hoàn
thành mọi thứ, không còn hướng ra ngoài để mong cầu điều gì. Bởi không rong
ruổi tìm kiếm bên ngoài nữa nên mới dứt sạch các lậu hoặc.
Lậu là thế nào? Như ham nói chẳng hạn, đó là lậu. Thích nghe thanh âm cũng là
lậu. Có người bảo: “Tôi không nghe, tôi không nhìn, đâu có thể như vậy được?
Học Phật Pháp để đi tới chỗ không nghe, không nhìn thì tôi không thể làm được”.
Bởi không làm được như vậy nên cho đến nay quý vị vẫn chưa thành Phật, vẫn còn
hướng ra ngoài để tìm kiếm, không biết trở về, không thể hồi quang phản chiếu.
Một khi đã dứt hết các thứ lậu thì lúc đó quý vị chẳng còn tham, chẳng tranh,
chẳng cầu, chẳng ích kỷ, chẳng tự lợi. Chừng nào quý vị còn tham, là còn bệnh;
còn tranh, cầu, ích kỷ, tự lợi, là còn bệnh. Tình ái cũng là bệnh và bệnh nặng
nhất chính là dục niệm. Khi dứt sạch lậu thì hết dục niệm, hết các ý nghĩ dâm
dục, hết sự khát khao, vọng tưởng, niệm gì cũng không còn.
Bậc A-la-hán thì không có phiền não - vô phục phiền não - vì phiền não đã hết.
Bậc A-la-hán đã tìm được lợi lạc cho chính mình - đãi đắc kỷ lợi - đã có trí
huệ chân chánh, tức coi như đã gặt hái được cái kết quả chân chánh của việc tu
học Phật. Như tôi đã từng nói với quý vị, Phật chính là một vị đại trí huệ. Ai
có trí huệ thì người đó sẽ không điên đảo và người đó là Phật. Chừng nào quý vị
còn điên đảo, tâm còn tham không biết chán, không bao giờ vừa lòng, luôn luôn
tranh đua với người khác, chỉ biết ích kỷ, tự lợi, thì quý vị không thể nói tới
sự lợi ích của Phật Pháp được. Chỉ khi nào quý vị dứt hẳn lòng ham muốn ngoại
vật, như tiền bạc, đồ châu báu, rồi các thứ về sắc, thanh, hương, vị, xúc, tất
cả các cảnh giới này đều không lay chuyển được mình, lúc đó quý vị mới thật sự
hưởng lợi của chính mình, đãi đắc kỷ lợi.
A-la-hán đã thoát hết mọi thứ ràng buộc, tức là « tận chư hữu kết. » Lúc này
các tập khí đã hết, các thứ giây trói buộc không còn nữa nên hoàn toàn tự do.
Trong cảnh giới này, tâm mới thực sự tự tại.
Còn Phật thì sao? Địa vị của Phật còn siêu việt hơn nhiều lắm, bởi vậy Phật mới
là tôn quý bậc nhất.
Nếu chúng ta muốn học theo Phật thì bước đầu phải học tính cách không tranh,
không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi. Chẳng phải là cứ nói : “Tôi
không cái này, tôi không cái kia”, nhưng đồng thời lại muốn lấy các thứ của
người khác. Đó là quý vị đã dối người và dối chính mình. Quý vị thực sự không
có tâm tranh ư? Quý vị sẽ để cho mọi sự diễn tiến một cách tự nhiên. Quý vị
không tham ư? Quý vị cũng sẽ giữ một thái độ như vậy. Đến tình trạng không cầu
thì có câu nói: “Đáo vô sở cầu xứ tiện vô ưu”, nghĩa là còn mong cầu thì còn ưu
sầu, hết mong cầu thì chẳng còn gì phải ưu sầu nữa. Quý vị còn phải dứt bỏ tâm
ích kỷ (tự tư), tức là không nghĩ riêng cho mình. Các chuyện phiền phức trên
thế gian này là do mọi người có tâm ích kỷ, mà ích kỷ phát sinh là vì dục niệm.
Không ích kỷ còn bao gồm cả lòng không mong cầu và không còn vướng vào vòng yêu
thương nữa. Không tự lợi là không tìm cái lợi riêng cho mình, không tìm cái
khoái cảm riêng cho mình, các thứ đó phải dứt bỏ hết! Nếu loại được hết các căn
bệnh kể trên thì quý vị sẽ thành Phật.
Sáu ý nghĩa của từ Bạc-Già-Phạm quan trọng như vậy. Chúng ta là người học Phật,
phải nhớ cho kỹ. Bằng không, quý vị sẽ không có cách gì nhận thức được Phật.
Như trường hợp quý vị quen biết một người nào, quý vị nhận biết diện mạo, hình
dáng bên ngoài của người đó, còn nhận biết cả giọng nói. Như vậy mới gọi là
quen biết thực sự. Quý vị chẳng cần phải nhìn thấy tận mặt, chỉ cần nghe giọng
nói của người đó là đã nhận ra ngay người quen thuộc. Nhận biết Phật cũng cùng
một ý nghĩa như vậy. Nếu quý vị học Phật mà không ghi nhớ hết các nghĩa của
danh từ Bạc-Già-Phạm thì quý vị quả là kẻ học Phật hồ đồ.
Bởi vậy quý vị phải nhớ điều này đặng lần sau khi được hỏi đến thì có thể trả
lời được mà không hồ đồ. Quý vị hãy xem! Tôi đã mất nhiều hơi sức giảng cho quý
vị mà quý vị lại quên hết, tai nghe như gió thoảng qua, thật là đáng tiếc biết
bao! Bây giờ tôi giảng được chừng nào, quý vị phải cố gắng ghi nhớ, lần sau
nhất định tôi sẽ hỏi lại, ai không trả lời được tức là kẻ đó đã ngồi ngủ gục.
Phật đi hóa độ các nước, đến thành Quảng Nghiêm, Ngài dừng lại dưới gốc cây âm
nhạc.
Phật giáo hóa các chúng sanh không phải chỉ giới hạn trong một nước mà tại hết
thảy các nước nào có duyên với Phật Pháp, cũng như những chúng sanh ở một nước
nào hữu duyên thì Ngài cũng tới đó để giáo hóa. Bởi vậy mới nói là « du hóa chư
quốc ». Trên đường du hóa, Phật đi tới một thành phố lớn tên gọi là Quảng
Nghiêm (Vaisali). Ngài dừng lại tại gốc một cây âm nhạc, ngồi xuống trong thế
kiết già và thuyết pháp cho đại chúng.
Các từ ngữ “ thành Quảng Nghiêm, dưới gốc cây âm nhạc ” nói lên ý nghĩa của “xứ
thành tựu”. Phần trên chúng ta đã thấy những sự thành tựu về tín, văn, thời và
chủ. Thành tựu về chủ tức là nói về chủ thể của sự giảng kinh. Tuy nhiên, đã có
người giảng kinh rồi thì lại cần phải có địa điểm giảng nữa. Cũng giống như nay
giảng Kinh Dược Sư mà không có giảng đường thì giảng làm sao được? Bởi vậy phải
có yếu tố địa điểm, tức là nói về xứ thành tựu.
Đoạn sau kinh văn nói đến các Tỳ-kheo và Bồ tát, tức đề cập tới chúng thành
tựu. Vậy là đã có chủ thể giảng kinh, có địa điểm, nay lại có người nghe kinh.
Phật thuyết pháp mà nếu chẳng có ai nghe, Phật thuyết cho Phật nghe thì chẳng
còn ý nghĩa gì. Tất phải có sự hiện diện của chúng sanh thì Phật mới có đối
tượng thuyết pháp.
Chúng sanh trong các pháp hội đều là những người có duyên với Phật Pháp. Như
quý vị tới đây nghe kinh, chính là đã có sẵn nhân duyên rồi. Không có duyên thì
dầu muốn tới cũng không tới được. Đừng tưởng đây là một chuyện bình thường. Kỳ
thực nó không đơn giản như vậy. Chính quý vị đã từng gieo trồng căn lành từ bao
nhiêu kiếp trước, nên nay mới có cơ hội mỗi ngày đến đây nghe kinh. Có điều
chúng ta không nhận biết được điều đó mà thôi. Bởi không hiểu duyên lành này
nên chi, có lúc quý vị sanh tâm lười biếng, rồi lấy cớ rằng: “A! Sư Phụ chưa
tới, ta có thể chạy đi tiêu khiển chút xíu”. Rồi thì, từ đó chạy đi coi hát,
coi điện ảnh, đi nhảy, đi uống rượu, mở “party”, nghĩa là mang sức lực phung
phí vào những chuyện vô ích.
Mỗi lần đến đây nghe kinh, một là quý vị được nghe pháp âm, đủ khiến cho lòng
vơi bớt những phiền não trần lao của thế tục, hai là quý vị được thêm trí huệ
vì những gì kinh điển nói ra đều là trí huệ, đều là pháp bát-nhã.
Có người bảo rằng: “Tôi hiểu kinh cũng khá lắm rồi!” Vậy hiểu thêm nữa không
tốt hay sao? Quý vị sợ quá nhiều ư? Quý vị đến ngân hàng gửi tiền, có khi nào
quý vị thốt ra câu: “Trương mục của tôi quá nhiều tiền, nhiều quá thôi! Nhiều
quá thôi!”? Nhiều bao nhiêu đi nữa cũng chẳng ngại, càng nhiều càng tốt mà! Vậy
có thêm trí huệ, biết thêm Phật Pháp chân chánh mà cũng ngại ư? Chẳng phải như
vậy là điên đảo hay sao? Chẳng qua quý vị không biết suy tính, nên mới bỏ gốc
mà tìm ngọn, bỏ cái trước mắt mà tìm cái xa vời, bỏ lỡ việc học hỏi Phật Pháp,
để uổng phí hết thời gian!
« cùng với các đại bí-sô, đủ tám ngàn vị. »
Đại bí-sô hay tỳ kheo là chỉ các bậc xuất gia. Chữ “đại” ngụ ý rằng các vị này
đều là bậc trưởng lão, là những tỳ kheo đã xuất gia từ trên hai mươi tới ba
mươi năm. Không gọi bằng chữ “lão” là già mà gọi bằng chữ “đại” vì họ là những
bậc tỳ kheo lớn, đầy đủ đức hạnh, trí huệ viên mãn, phẩm cách tuyệt vời.
“Tỳ kheo” nguyên là tiếng Phạn, bao hàm ba nghĩa. Vị nào hay nghe kinh, ắt đã
được nghe nhiều lần ý nghĩa này: thứ nhất là nghĩa “khất sĩ”, thứ hai là “bố
ma”, thứ ba là “phá ác”.
1. Khất sĩ, chỉ
người đi xin ăn. Những người đi đến từng nhà để xin cơm ăn còn gọi là kẻ ăn
mày, nhưng khất sĩ thì không phải là hạng ăn mày bình thường, đi xin với một
tâm hồn phân biệt, không bình đẳng—hễ được cho nhiều thì vui thích, cho ít thì
buồn phiền. Đối với khất sĩ thì khác—cho đồ ngon hay không ngon, họ cũng chẳng
chú ý, hoặc cho nhiều cho ít, họ cũng không quan tâm, họ chỉ biết mang cơ duyên
đến để mọi người được gieo phước, ai cho thì người đó gieo nhân và gieo nhiều
nhân lành thì gặt hái nhiều phước, họ chẳng bao giờ có phiền não.
Trên đường đi khất thực, mắt vị Tỳ kheo không nhìn ngang nhìn ngửa hoặc quay
đầu ngắm nghía, mà luôn giữ thái độ nghiêm chỉnh uy nghi, theo đúng pháp túc
cung trai. Đã là người xuất gia, mỗi khi đi ra đường cũng không thể ngó ngang
ngó dọc, luôn luôn giữ cặp mắt nhìn xuống mũi, mũi chiếu xuống miệng, miệng thì
quán tâm. Phàm thứ gì không đúng với lễ nghi, thì mắt không nhìn, tai không
nghe, miệng không nói, thân không vọng động.
Khất sĩ đi xin ăn trong sự yên lặng, không nói năng, chớ không giống như người
ăn mày đến trước cửa nhà người ta thì nói những câu: “Thưa ông! Thưa bà! Phát
tài, phát phúc!” toàn là những từ ngữ tán dương, khách sáo. Tỳ kheo đi khất
thực thì không nói gì cả, ai bố thí thứ gì thì mang đi, không bố thí cũng vậy,
trong tâm không có phiền não.
2. Bố ma là ý nghĩa thứ hai của chữ “tỳ kheo”. Tỳ kheo luôn luôn giữ vẻ đoan
nghiêm nên thiên ma trông thấy thì kinh hãi, các loại tà ma quỷ quái thì phải
lánh xa. Tại sao vậy? Bởi chánh bao giờ cũng thắng tà.
3. Phá ác là ý nghĩa thứ ba. Người thường rất khó phá trừ các tập khí xấu,
không giống như các tỳ kheo là những người chuyên trị việc phá trừ tập khí,
chuyên sửa các lỗi lầm của mình, cải sửa điều ác thành điều thiện, do đó họ
được gọi là phá ác.
Số tỳ kheo này tổng cộng là bao nhiêu? Trong pháp hội có tất cả tám ngàn vị.
: ba vạn sáu ngàn đại bồ-tát.
Danh từ “Bồ-tát” cũng là tiếng Phạn và rất lưu hành tại Trung Quốc. Hai chữ này
ai ai cũng quen thuộc, nhưng hỏi mọi người, kể cả trong hàng Phật tử, Bồ tát là
gì thì chẳng ai biết nói ra sao.
Chúng ta phải nhớ rằng hai chữ “Bồ tát” chính là chỉ một vị thánh trong Phật
giáo Đại thừa. Nói cho đủ thì đó là danh từ « bồ-đề tát-đỏa », còn tiếng Anh là
Bodhisattva, dịch nghĩa ra tức là « giác hữu tình ». Chữ hữu tình là chỉ chúng
sanh và, Bồ tát là một chúng sanh trong chín Pháp giới, là một thánh nhân trong
bốn Pháp giới thánh.
Giác hữu tình là ý nghĩa gì? Đó là ngụ ý rằng các vị này sử dụng trí huệ giác
ngộ của mình để độ thoát các chúng sanh hữu tình. Phàm loại gì có khí huyết thì
gọi là hữu tình, không có khí huyết thì gọi là vô tình. Như các giống thực vật,
tuy thuộc loại vô tình, nhưng chúng lại có “tánh” (bổn tánh) và chúng đều sanh
ra và được nuôi dưỡng trong đại quang minh tạng của Phật.
Bồ tát gọi là « giác hữu tình » nhưng cũng là một « hữu tình giác ». Tại sao
nói vậy? Bởi Bồ tát cũng là người như chúng ta, cũng là một chúng sanh, chỉ
khác là Bồ tát đã giác ngộ. Giác ngộ điều gì? Giác ngộ ý nghĩa “chư ác bất tác,
chúng thiện phụng hành” (các việc ác không làm, các việc lành thì làm). Một khi
đã giác ngộ thì dụng công phá trừ tập khí, tu tập trí huệ vô thượng. Như vậy
đây là một vị giác ngộ trong giới hữu tình. « Giác » là đối nghịch với « mê »,
nên Bồ tát là một chúng sanh không mê và, bởi không mê nên trong hành động
không còn sự vô minh nữa.
Chúng ta bây giờ phàm làm việc gì cũng là hành động trong sự vô minh, bởi lý do
chúng ta không có trí huệ chân chánh. Gặp việc là chúng ta không biết xử trí
cách nào cho đúng, tiến chẳng biết tiến, thoái chẳng biết thoái. Chúng ta không
phải là kẻ đã tự giác, còn hàng Nhị thừa thì đã tự giác rồi, hành động không
còn hồ đồ nữa, nhưng họ không dùng các pháp môn giác ngộ đó nói cho mọi người
biết để tất cả đều được giác ngộ. Bồ tát thì không những đã được tự giác, lại còn
truyền bá trí huệ giác ngộ đó cho hết thảy mọi người, khiến cho những ai thực
lòng mong ước giác ngộ, đều có thể theo phương pháp đó mà đạt được kết quả. Vậy
là Bồ tát đã tự giác lại còn đi giác ngộ người khác, tức là tự giác, giác tha.
Tuy nhiên sự giác ngộ của Bồ tát vẫn chưa tới chỗ viên mãn.
Phật thì sao? Phật thì tự giác, giác ngộ chúng sanh, sự giác ngộ của Phật lại
đạt tới độ viên mãn, ba hạnh giác ngộ đều viên mãn, do đó có câu: “tam giác
viên, vạn đức cụ”, cả vạn đức hạnh đều toàn vẹn, như vậy mới gọi là Phật.
Chỗ này đương nói về Bồ tát. Vậy nếu Bồ tát vẫn giữ bước tiến tu thì cũng sẽ
chứng được quả Bồ tát Đẳng giác, chỉ thua Phật một bậc. Hàng Bồ tát cũng có
nhiều bậc, có Bồ tát Sơ địa, Bồ tát Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, cho đến Bồ tát
Thập địa. Bồ tát Thập địa gọi là Bồ tát Đẳng giác. « Đẳng » là ngang hàng, ý
nói ngang với độ giác ngộ của Phật, nhưng so địa vị thì không bằng Phật.
Trong pháp hội của đức Phật Dược Sư có các hàng Bồ tát như trên, gọi là đại Bồ
tát hay ma-ha-tát. Gọi là “đại” tức chỉ nguyện lực lớn, trí huệ lớn, công phu
tu hành và đạo nghiệp đều lớn. Số Bồ tát đó trong pháp hội là ba vạn sáu ngàn
vị.
« các quốc vương, đại thần ». Một số quốc vương cũng có mặt trong Pháp hội. Họ
là vua một nước, lo việc trị vì để mang lại hạnh phúc cho toàn dân. Bên cạnh có
các vị đại thần, họ là những người phụ tá của vua để lo việc trị nước.
Bà-la-môn. Bà-la-môn là một giai cấp quý tộc ở Ấn. Nước Ấn độ có bốn giai cấp,
hai giai cấp tôn quý và hai giai cấp hạ tiện. Bà-la-môn theo pháp tu khổ hạnh,
ăn chay, nhưng họ cầu sanh về cõi trời, tâm tham hãy còn, tâm sân chưa hết, tâm
si và vọng tưởng cũng chưa hàng phục được. Họ chỉ là những người tu khổ hạnh
thanh tịnh, đại loại giống như hàng đạo sĩ ở Trung quốc, tuy hình tướng chẳng
giống nhau, nhưng tôn chỉ tu hành chẳng sai khác. Bà-la-môn chính là những
người tu ngoại đạo tại Ấn độ. Trong hàng Bà-la-môn cũng đã có khá nhiều người
đạt được công phu đáng kể.
Cư sĩ. Đây là một danh xưng, dùng trong việc xưng hô. Người khác xưng hô mình
như vậy chớ không phải chính mình tự xưng là “cư sĩ”. Tôi thấy có một số người,
dĩ nhiên không phải hàng xuất gia, nhận mình là cư sĩ, rồi cho in lên tấm danh
thiếp tên của mình với danh xưng cư sĩ; nói chuyện với ai cũng tự xưng tôi là
cư sĩ tên này, cư sĩ tên kia chẳng hạn. Như vậy là kém hiểu biết.
Lối xưng hô phổ thông tại Trung quốc là dùng hai chữ “tiên sinh”. Người khác có
thể dùng hai chữ đó để xưng hô ta, chớ ta không thể tự xưng là tiên sinh được.
Thí dụ tôi hỏi: “Ông là ai? ” Anh trả lời: “Tôi là Triệu tiên sinh, là Lý tiên
sinh, hoặc Tiền tiên sinh v.v..” Trả lời như vậy tức là chẳng biết tiếng Trung
Hoa.
Chữ “tiên sinh” thường dùng để xưng hô đối với những vị có học vấn, hoặc lớn
tuổi và có đức hạnh, hoặc những người lịch lãm. Chữ “cư sĩ” là dành cho những
ai đủ mười loại mỹ đức. Nếu quý vị chẳng được như vậy thì không xứng đáng với
danh xưng này. Lại nói đến mấy chữ “Pháp sư” nữa, phải để cho người khác gọi
ta, chớ ta không thể tự xưng mình là Pháp sư được, bởi như vậy có khác gì tự
mình tán tụng mình, tự mình xưng mình là hoàng đế? Chữ hoàng đế cũng phải để
người khác tung hô, đại khái như tung hô: “Hoàng đế vạn tuế!” Tự mình không thể
xưng hô như vậy! Dùng chữ cư sĩ để xưng hô là có ý cung kính, cung kính người
khác, chớ không phải cung kính chính mình. Anh đối với chính anh, trong lòng
cung kính, điều này nên lắm, nhưng không cần biểu lộ ra ngoài. Về văn hóa Trung
quốc, vấn đề học vấn là vô cùng tận. Sai một ly đi một dặm. Trên đây chỉ là
những điều thường thức, chẳng có gì là thâm sâu, chúng ta phải lưu ý.
Thiên long bát bộ. Trời, rồng và tám bộ chúng.
Đạo tràng của chúng ta hiện nay cũng đương nhờ sự che chở của các vị thiên
long. Chắc mọi người còn nhớ thời gian Kim Luân Thánh Tự mới dọn tới và khi bắt
đầu tu sửa, ở lưng trời người ta thấy có đức Bồ tát Quán Âm hiện ra. Ngài đặt
chân trên lưng con rùa và thị hiện ở không trung.
Một chuyện khác là hồi đó, có người cho tôi hay rằng ngay tại góc đường phía
đông của khu này có một quán rượu. Trong quán có đủ thứ trò quỷ quái, nào ma
túy, nào rượu, nào thoát y vũ, đi vào đi ra toàn là hạng ăn chơi trụy lạc.
Đương lúc chúng ta sửa soạn để khai trương thì quán rượu này bị cảnh sát ra
lệnh đóng cửa. Khu này ngày trước uế tạp nay trở thành khang trang sạch sẽ. Đó
chính là nhờ tám bộ thiên long che chở cho đạo tràng nên mới có sự cảm ứng như
vậy.
Chỗ đạo tràng này nguyên là một giáo đường cũ. Cư dân đến ở, đa số là hỗn tạp,
họ ăn ở thiếu sạch sẽ, khi ăn khi uống tùy tiện xả rác, thành thử loài chuột
kéo đến rất đông. Chúng ta đến đây để hoằng dương Phật Pháp, nên bổn phận của
các bộ thiên long tất phải hộ trì đạo tràng, từ đó họ phải đuổi hết các loài
chuột đi nơi khác. Thực lòng tôi chẳng có vấn đề gì với loài chuột, nhưng có
chuột thì thiếu vệ sinh, khiến cho những ai đến đây đều có cảm tưởng chỗ này là
dơ bẩn. Bởi vậy chúng ta phải cầu sự giúp đỡ của thiên long bát bộ, xin các vị
ấy hãy làm nhiệm vụ ủng hộ đạo tràng, bằng cách xua đuổi chuột cùng các thành
phần bất hảo ra khỏi nơi này.
Bát bộ là chỉ trời, rồng, dạ xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, khẩn-na-la,
ma-hầu-la-già, ca-lâu-la. Các vị này đều hộ trì đạo tràng. Hôm nay, nhân dịp
tôi giảng tới chỗ này mà nhắc tới các vị thiên long. Vậy xin các vị hãy làm
nhiệm vụ của mình, nhất định sẽ ra tay hộ trì cho đạo tràng của Phật.
Các chư thiên ở trên trời trong quá khứ đã từng phát nguyện ủng hộ đạo tràng
của Phật.
Long là rồng, thuộc loài linh vật, cũng là một chúng sanh. Tại sao lại làm thân
rồng? Trong qua khứ họ đã tu đạo, nhưng tu theo kiểu “thừa cấp giới hoãn”,
nghĩa là tu các thừa thì gấp gáp, mà trì giới thì trễ nãi. Chữ “thừa” ở đây là
chỉ Tiểu thừa, Đại thừa. Họ nguyện tu các pháp Đại thừa, nguyện tinh tấn, dũng
mãnh, nhưng lại muốn đi đường tắt cho mau, muốn được thần thông. Do đó họ đi
khắp nơi tìm Phật Pháp, kiếm Mật tông và chuyên tu theo tông này. Cách thức họ
tu như thế nào? Họ không chú trọng giới luật, không giữ giới. Những người giữ
giới phải luôn luôn theo đúng câu: “Việc ác thì tránh, việc lành thì làm” ,
trong khi đó, họ ăn cắp đầu lâu của xác chết để luyện công, niệm chú. Có khi họ
ăn cắp bài vị tổ tiên của các nhà rồi biến các vong linh đó làm quỷ để sai
khiến. Chữ “thừa cấp” là nói về sự tinh tấn, dũng mãnh của họ để luyện công,
đặng có thể tiến mau như hỏa tiễn vậy. “Giới hoãn” là nói họ không coi trọng
giới luật, mặc sức hành động, kể cả các loại giới như giết hại, ăn cắp, dâm
dục, họ không tuân thủ. Vậy thì còn nói gì nữa! Quý vị coi! Họ ăn cắp đầu lâu,
ăn cắp bài vị tổ tiên nhà người ta, lấy cả mấy cây trồng trên mộ phần để luyện
pháp, với tâm tham như vậy để tu pháp, do đó mới có câu “thừa cấp, giới hoãn”.
Bởi vậy do quả báo, họ phải mang thân rồng mà có thần thông. Rồng vẫn là loại
linh vật, có thể thu nhỏ, có thể hiện lớn, khi ẩn khi hiện vô chừng. Có điều
chúng rất sợ ánh sáng mặt trời, bởi một khi có ánh sáng chiếu tới chúng cảm
thấy khổ sở như bị lửa đốt thân, khiến chúng phải đổ mưa xuống, giống như người
ta tắm gội vậy.
Dạ xoa còn gọi là “tốc tật quỷ”, nghĩa là con quỷ chạy mau. Có loại chạy trên
không, gọi là không hành, có loại chạy dưới đất gọi là địa hành, cũng có loại
đi dưới nước gọi là thủy hành. Chúng chạy nhanh hơn xe hơi, hơn cả máy bay, có
thể so với hỏa tiễn, nhưng hỏa tiễn cũng không thể thần tốc bằng dạ xoa, chỉ
cần một niệm là ngàn dặm, vạn dặm cũng tới được.
Dạ xoa cũng có
nhiều chủng loại, kể cả ngàn vạn thứ khác nhau, giống như các loại chư thiên và
rồng, không thể kể hết được. Loài người chúng ta cũng có loài da trắng, da đen,
da vàng chẳng hạn, rồi trong số này lại phân chia thành quý vị ở bắc, tôi ở nam,
người này ở đông, kẻ kia ở tây. Trong số rồng thì có rồng xanh, rồng vàng, rồng
lửa, rồng trắng, rồng đen v.v.. Mỗi loài chúng sanh đều chia thành nhiều hạng.
Trên thế giới này có biết bao nhiêu loại chúng sanh, rồi mỗi loại lại phân
thành ngàn vạn giống có hình tướng khác nhau, đa dạng vô cùng, đó chính là điều
kỳ diệu của thế gian.
Không ai hiểu được sự bí mật của tạo hóa. Có người bảo rằng: “Ngày nay người ta
đã lên tới cung trăng, vậy chuyện gì con người cũng sẽ làm được cả, chẳng có gì
là không biết được”. Quý vị nên nhớ rằng dẫu từ địa cầu này quý vị có thể lên
tới các tinh cầu khác, nhưng có biết đâu, chỉ cần một trái bom nguyên tử hay
bom khinh khí nổ tung, một trận động đất hay núi lửa bộc phát, dù đó là thiên
tai hay do con người tác động, thì nguy cơ hủy diệt nhân loại vẫn có thể xảy ra
được. Càng ngày bí mật của thế giới càng được khám phá, các vấn đề lần lượt
được sáng tỏ, nhưng khi sáng tỏ đến cực điểm thì màn hắc ám lại trở lại. Tôi
nói một tỷ dụ: buổi ban mai chúng ta thức dậy, trời rạng sáng, rồi tới khi sáng
đến cực điểm thì dần dần về chiều; trời tối, chúng ta đi ngủ và nhắm mắt đi vào
giấc mơ với đầu óc mù mờ. Trong thế gian này, chuyện lớn chuyện nhỏ tất cả đều
đi theo cái vòng tuần hoàn này cả.
Càn-thát-bà là loại biết âm nhạc, chơi âm nhạc hay vô cùng. Mỗi khi chúng cử
nhạc thì tất cả chư thiên thượng giới đều chú ý lắng nghe đến say mê túy lúy
như người uống rượu, không còn biết đến chuyện gì chung quanh. Tuy nhiên không
dễ gì bảo chúng chơi nhạc cho chúng ta nghe. Chúng có một nhược điểm là ưa ngửi
mùi hương. Ở đâu có mùi hương thì dầu xa xôi cả ngàn vạn dặm chúng cũng tới
ngay được để thưởng thức hương thơm. Vua trời có một thứ hương, chuyên dùng để
chiêu dụ càn-thát-bà. Có mùi hương thì càn-thát-bà liền tới, rồi ở đấy nhẩy
múa, ca hát, tấu nhạc, nên càn-thát-bà còn gọi là khứu hương thần, nghĩa là
thần ngửi hương. Ở trên đã nói qua về loài rồng. Vậy trong loài rồng có tám vị
long vương (vua rồng), loài càn-thát-bà thì có bốn càn-thát-bà vương,
A-tu-la là loài hay nổi giận. Người nào hay tức giận đều ít nhiều có hạt giống
a-tu-la. Tại thiên giới, a-tu-la được gọi là loài không có rượu, bởi chúng
không có rượu để uống. Chúng còn được gọi là loại phi thiên, tức không phải là
dân thuộc thiên giới. Tại chốn này chúng chỉ là kẻ cư ngụ bất hợp pháp, tuy
rằng a-tu-la cũng được xếp vào hàng chúng sanh của một cõi lành (thiện đạo)
trong sáu cõi của dục giới. Tại thiên giới chúng thường giao tranh với các
thiên tướng, thiên binh, để lật đổ ngôi vua trời đặng có thể trở thành
Thích-đề-hoàn-nhân (Đế thích).
A-tu-la cũng có bốn loại. Chúng có thiên phước mà không có thiên quyền, nghĩa
là chúng ở trên thiên giới và được hưởng phước nơi đây, nhưng lại chẳng có
quyền hành như chư thiên, đại loại như các cư dân sống bất hợp lệ ở nước Mỹ,
được hưởng các tiện nghi của nước Mỹ, đó là phước báo của họ, nhưng họ không có
quyền tham gia vào việc điều hành của quốc gia này.
Ca-lâu-la là giống chim đại bàng cánh vàng, có thể biến thành lớn, thành nhỏ,
khi ẩn, khi hiện. Cánh chim trải rộng ra có thể tới ba trăm ba mươi do-tuần.
Mỗi do-tuần dài chừng 40 miles (dặm), vậy ba trăm ba mươi do-tuần thì quý vị
tưởng tượng nó xa tới đâu! Mỗi khi chim bằng vỗ cánh, nước biển bị quạt hết thì
cung điện loài rồng đâu còn nữa! Rồng lớn, rồng nhỏ đều bị nuốt hết. Quý vị
bảo: “Ghê gớm như vậy ư!” Cũng chưa ghê gớm lắm đâu!
Ca-lâu-la thần thông quảng đại, nên loài rồng rất sợ ca-lâu-la. May là chúng đã
quy y Phật, sống hòa bình không còn tàn sát các giống khác. Ca-lâu-la cũng có
bốn loại, muốn biết thêm chúng có những tên gì, thì hãy xem trong phẩm Tựa của
kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở đấy nói rất rõ ràng.
Thần thông biến hóa của loại đại bàng cánh vàng này thật là không thể nghĩ bàn.
Vỗ cánh một cái thì nước biển bị quét sạch, vỗ cánh hai cái là núi bị bạt đi
lấp bằng đáy biển. Đó là thần thông dời núi lấp biển của ca-lâu-la.
Khẩn-na-la thì như thế nào? Chúng cũng biết âm nhạc, trên đầu có một cái sừng,
còn có tên gọi là “nghi thần”, tức là loại thần hay nghi ngờ. Chúng chơi âm
nhạc rất giỏi.
Ma-hầu-la-già là một loại trăn lớn.
Nói chung thiên long tám bộ đều xuất thân từ các hạng yêu ma quỷ quái, rồi về
sau cải tà quy chánh, theo về Phật, trở thành một giới hộ pháp. Ngẫm lại, người
bạc ác mà biết hồi đầu, đều biết làm các điều thiện, cho nên có câu nói: “Bể
khổ không bờ, quay đầu là bến”. Phạm những tội thập ác, ngũ nghịch, nhưng biết
sửa lỗi lầm thì vẫn có thể trở thành người tốt.
Tám bộ quỷ thần này tự cảm thấy nhiều lỗi lầm trong quá khứ, bởi đã phá hoại
pháp Phật, làm tổn thương Phật giáo. Tới khi lương tâm phát hiện ra điều này,
chúng đã phát nguyện làm kẻ hộ pháp.
Nhân phi nhân đẳng. “Nhân” là chỉ những người phát tâm đến hộ trì Phật giáo.
“Phi nhân” tức là không phải loài người, chỉ các loài chúng sanh khác cũng phát
tâm hộ trì tam bảo.
Vô lượng đại chúng, cung kính vi nhiễu, nhi vi thuyết pháp. Đông không kể xiết,
cả thảy đều cung kính vây quanh nghe Phật thuyết pháp.
Lúc đó đại chúng trong pháp hội rất đông, không thể kể gồm bao nhiêu người, tất
cả cung kính vây kín xung quanh đức Bạc-già-phạm, và Ngài thuyết pháp cho các
chúng sanh trong pháp hội cũng như các chúng sanh trong đời vị lai.
Kinh văn: Hán Việt:
Nhĩ thời Mạn Thù Thất Lợi Pháp vương tử, thừa Phật uy thần, tòng tòa nhi khởi,
thiên đản nhất kiên, hữu tất trước địa, hướng Bạc Già Phạm, cung khúc hợp
chưởng, bạch ngôn: “Thế tôn! Duy nguyện diễn thuyết, như thị tướng loại chư
Phật danh hiệu, cập bản đại nguyện thù thắng công đức, linh chư văn giả, nghiệp
chướng tiêu trừ, vi dục lợi lạc, Tượng pháp chuyển thời, chư hữu tình cố”.
Việt:
Bấy giờ, con của đấng Pháp Vương là ngài Mạn-Thù-Thất-Lợi, nhờ oai thần của
Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, hở một vai áo, đầu gối bên hữu quỳ sát đất, hướng
về Bạc-Già-Phạm, cúi mình chắp tay, bạch rằng: “Thế Tôn! Xin Ngài diễn thuyết,
cũng giống như thế, diễn những danh hiệu và những điều nguyện căn bản lớn
lao,công đức tuyệt vời, của các đức Phật, cho những người nghe, đều hết nghiệp
chướng, vì sự lợi lạc của các hữu tình khi Tượng Pháp chuyển”.
Lược giảng:
Ngài Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi, còn được gọi là Pháp Vương tử, nghĩa
là con của đấng Pháp Vương. Phật là Pháp Vương, các Bồ tát là con của Pháp
Vương, nhất là Ngài Văn Thù Sư Lợi lại là một vị Bồ tát Đẳng giác, sắp sửa
thành Phật.
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi, nhờ oai thần của chư Phật mười phương, từ chỗ
ngồi đứng dậy, để lộ một bên vai. Bên vai nào? Chính là vai bên phải. Để lộ bên
vai phải là có ý nghĩa gì? Thứ nhất, theo phong tục của người Ấn, khi khí trời
nóng nực, họ trật một bên vai áo để hơi nóng ở trong mình thoát ra. Thứ hai, hở
vai bên phải là cách thức tỏ bày sự cung kính, cung kính bằng cả thân và tâm.
Một bên là tùy thuận thế tục, một bên là cầu pháp xuất thế nên biểu thị sự cung
kính. Chân nhưng không ly tục, tục chẳng ly chân, hai thứ chẳng chướng ngại
nhau.
Ngài quỳ xuống, đầu gối sát đất, hướng về Bạc Già Phạm (nghĩa là hướng tới
Phật), rồi cúi mình xuống chắp tay (tức là biểu thị thân tâm đều cung kính, ba
nghiệp thanh tịnh), và thưa với Phật:
“ Thế Tôn! Xin Ngài diễn thuyết, cũng giống như thế ”. . . ý nói rằng chúng con
tất cả chỉ có một nguyện ước, là được nghe Phật nói cho biết những tướng như
thế, những loại như thế. Tướng loại gì? Chính là danh hiệu của chư Phật và của
Phật Dược Sư Lưu Ly Quang, cùng các bổn nguyện lớn của Ngài. Bổn nguyện là chỉ
các nguyện lớn trong đời quá khứ, trong thời gian Ngài hành đạo Bồ tát, công
đức tích lũy như thế nào mà được thù thắng.
“, cho những người nghe, đều hết nghiệp chướng ”. . . nghĩa là khiến cho những
ai nghe đến nguyện lực, công đức vô lượng đó đều có thể giải trừ nghiệp chướng
mà được sự thanh tịnh.
“ vì sự lợi lạc của các hữu tình khi Tượng Pháp chuyển ”, đây lại còn vì lợi
ích của cả các loài hữu tình vào thời Tượng pháp trong tương lai. Trong thời
Tượng pháp, mọi người chú trọng xây chùa, mà không chú trọng việc tu tập. Chùa
miếu chẳng qua là một nơi có tượng của Phật, còn người tu chân chính thì rất là
ít. Nói chúng sanh hữu tình là nói loài có khí, có huyết, còn như không có khí
và huyết thì gọi là chúng sanh vô tình, tức các loài thảo mộc.
Kinh văn:
Hán Việt:
Nhĩ thời Thế Tôn tán Mạn Thù Thất Lợi đồng tử ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Mạn
Thù Thất Lợi! Nhữ dĩ đại bi, khuyến thỉnh ngã thuyết chư Phật danh hiệu, bổn
nguyện công đức, vi bạt nghiệp chướng sở triền hữu tình, lợi ích an lạc, Tượng
Pháp chuyển thời, chư hữu tình cố. Nhữ kim đế thính, cực thiện tư duy, đương vi
nhữ thuyết”.
Mạn Thù Thất Lợi ngôn: “Duy nhiên! Nguyện thuyết, ngã đẳng nhạo văn”.
Việt: Bấy giờ Thế Tôn tán thán đồng tử Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Hay lắm!
Hay lắm! Ông Mạn Thù Thất Lợi! Ông lấy lòng đại bi, khuyên mời Ta nói về danh
hiệu và công đức bổn nguyện của chư Phật, để dẹp cho hết nghiệp chướng ràng
buộc loài hữu tình, để cho lợi ích an lạc các loài hữu tình khi Tượng Pháp
chuyển”. Các ngươi hãy nghe kỹ, tư duy cho khéo, nay Ta sẽ nói cho các ngươi
nghe
Mạn Thù Thất Lợi bạch rằng: “Xin vâng! Xin Thế Tôn nói, chúng con thích nghe”.
Lược giảng
Bấy giờ Thế Tôn tán thán đồng tử Mạn Thù Thất Lợi rằng. Lúc bấy giờ, Phật
khen ngợi đồng tử Văn Thù Sư Lợi. Gọi là « đồng tử » là vì Ngài nhập đạo lúc
còn là trẻ thơ, sau đó tu hành đạo Bồ tát, để rồi thành bậc thượng thủ trong
hàng Bồ tát. Phật khen như thế nào? “Thiện tai! Thiện tai! Mạn Thù Thất Lợi!”
Đức Phật khen Ngài rằng: “Hay lắm! Hay lắm! Ông thực là một vị Bồ tát tốt!” Vì
lẽ gì mà Phật đưa ra những lời khen tụng như vậy?
Bởi vì “ Ông lấy lòng đại bi, khuyên mời Ta nói về danh hiệu và công đức bổn
nguyện của chư Phật ”. Phật nói: “Ông đã vận dụng một tâm lượng đại bi rộng
lớn, hướng tới hết thảy mọi chúng sanh, dầu họ có duyên hay không có duyên với
Phật Pháp, và đã thỉnh Ta nói về danh hiệu của chư Phật cùng những công đức bổn
nguyện của các Ngài”.
“để dẹp cho hết nghiệp chướng ràng buộc loài hữu tình, để cho lợi ích an lạc
các loài hữu tình khi Tượng Pháp chuyển ”, nghĩa là nhằm dẹp bỏ các nghiệp
chướng đương trói buộc các loài hữu tình, những nghiệp chướng đã đưa họ vào ba
đường ác, đầy họ vào bể khổ; vì sự lợi ích cứu độ các hữu tình trong thời Tượng
pháp, mang cho họ sự tự do, an lạc, hết phiền não.
"các ngươi hãy nghe kỹ, tư duy cho khéo, nay Ta sẽ nói cho các ngươi
nghe."
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Xin vâng! Chúng con ước mong Phật nói, chúng con rất
thích nghe”.
Kinh văn:
Hán Việt:Phật cáo Mạn Thù Thất Lợi: “Đông phương khứ thử quá thập Căng Già sa
đẳng Phật độ, hữu thế giới danh Tịnh Lưu Ly, Phật hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm.
Mạn Thù Thất Lợi! Bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, bổn hành Bồ tát đạo
thời, phát thập nhị đại nguyện, linh chư hữu tình, sở cầu giai đắc”.
Việt:
Phật bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi: “Về phía đông kia, cách đây nhiều Phật độ bằng
mười lần số cát sông Căng-già, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly, đức Phật cõi
ấy danh hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh
Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm.
Ông Mạn Thù Thất Lợi ơi! Khi đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, còn
đương hành đạo Bồ tát, Ngài đã phát ra mười hai nguyện lớn, khiến cho hữu tình
cầu gì cũng được”.
Lược giảng:
Đức Phật nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng ở phía đông, cách thế giới Ta-bà một
số Phật độ bằng mười lần số cát sông Căng Già, có một thế giới gọi là Tịnh Lưu
Ly. Căng Già tức là Hằng hà, Phật độ tức là Phật quốc, thế giới Tịnh Lưu Ly là
ngụ ý một thế giới thanh tịnh trong suốt như lưu ly.
Vị Phật ở nơi này có danh hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Ngoài ra, giống
như các đức Phật khác, Ngài cũng có mười danh hiệu, kể ra là: Như Lai; Ứng
Chánh Đẳng Giác (có nghĩa là chánh đẳng chánh giác); Minh Hạnh Viên Mãn (tức sự
tu hành và trí huệ của Ngài đạt tới chỗ viên mãn); Thiện Thệ Thế Gian Giải (trí
huệ cao vời và hiểu biết hết mọi sự của thế gian); Vô Thượng Sĩ; Điều Ngự
Trượng Phu; Thiên Nhân Sư (thầy của trời và người); Phật; Bạc Già Phạm (hay Thế
Tôn).
Theo lời Phật nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi thì trong thời gian chưa thành Phật,
tức thời kỳ nhân địa, đang tu đạo Bồ tát, đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai đã phát ra mười hai lời nguyện lớn. Phàm người tu hành là cần phải phát
nguyện, phát những lời nguyện chân chánh, từ trong tâm phát xuất, rồi theo đó
mà thực hành.
Đức Thế Tôn Dược Sư phát nguyện là để tất cả các loài hữu tình cầu gì cũng
được. Ngày nay chúng ta tu hành tương đối dễ dàng hơn so với đức Thích Ca, vì
Ngài đã phải trải qua ba kiếp lớn a-tăng-kỳ, nghĩa là một số vô lượng kiếp, tu
hành mới thành được quả Phật. Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai cũng
vậy. Còn như chúng ta hiện nay chỉ cần nương nhờ vào nguyện lực của các Ngài và
di sản của các Ngài để lại cho chúng ta, ý nói đó là Phật Pháp chứa đựng trong
ba tạng mười hai phần kinh.
Liệu chúng ta có thể nhận di sản này để thừa hưởng chăng? Điều đó còn phải hỏi
lại, xét xem chúng ta có phải là Phật tử chân chánh hay không? Giả tỷ công đức
của chúng ta chưa đủ, chúng ta chưa thực tâm muốn thành Phật tử chân chánh thì
chẳng thể nào thừa hưởng được di sản của Phật, loại Pháp bảo vô thượng này.
Nay Phật Lưu Ly Quang đã phát mười hai điều nguyện lớn, nên hết thảy mọi chúng
sanh hữu tình có thể cầu thứ gì được thứ ấy. Quý vị căn cứ vào câu kinh “sở cầu
giai đắc” (cầu gì cũng được), thì sẽ thấy bất luận điều gì mà quý vị mong cầu,
quý vị sẽ được toại lòng xứng ý, quý vị sẽ chóng thành Phật. Các vị Phật trong
quá khứ đã từng phát nguyện như vậy và, nhờ vào nguyện lực đó, chúng ta dụng
công ít mà thành tựu nhiều, chúng ta đạt quả vị cao mà công sức không nhiều
lắm, do đó gặp được pháp này chúng ta phải hết sức tinh tấn, sanh tâm hoan hỷ
lớn và đạt được niềm pháp hỷ sung mãn.
Kinh văn:Hán Việt:
Đệ nhất đại nguyện:
Nguyện ngã lai thế, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thời, tự thân quang
minh, xí nhiên chiếu diệu, vô lượng vô số vô biên thế giới, dĩ tam thập nhị đại
trượng phu tướng, bát thập tùy hình, trang nghiêm kỳ thân, linh nhất thiết hữu
tình, như ngã vô dị.
Việt:
Nguyện lớn thứ nhất:
Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thì tự thân
ta sáng chưng rực rỡ, chiếu soi tất cả vô lượng vô số vô biên thế giới, có đủ
ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ tùy hình, trang nghiêm thân ta,
khiến cho các loài hữu tình đều được như ta không khác.
Lược giảng:
Chư Phật và chư Bồ tát trong quá khứ đã từng lập vô lượng vô biên nguyện lớn để
lợi ích cho chúng sanh, tới khi các ngài thành Phật thì các nguyện lực đó đều
thành hiện thực, do đó hết thảy chúng sanh trong mười phương đều được thâu
nhiếp. Nguyện lực có thể ví như cục đá nam châm, còn chúng sanh ví như chất
sắt. Nguyện lực lớn thì sức hút mạnh, khiến cho bao nhiêu chúng sanh trong khắp
mười phương, dầu nghiệp chướng nặng nề đến chừng nào, cũng đều bị nguyện lực
thâu hút.
Do nguyện ý của Ngài muốn giúp đỡ các chúng sanh, nên giữa hai đàng có nhân
duyên đặc biệt với nhau. Bởi vậy, tuy chúng sanh bị vô minh che lấp, nhưng linh
tri và linh giác của họ có thể cảm nhận được nhân duyên này.
Lúc xưa, Dược Vương Bồ tát đã từng tự thiêu để cúng dường Phật, hy sinh thân
mình như vậy, còn chúng ta ngày nay, đừng nói tự thiêu toàn thân, ngay đến
thiêu một ngón tay cũng chưa dám thực hiện.
“ Nguyện lớn thứ nhất...”: Dược sư Lưu Ly Quang có lời phát nguyện đầu tiên như
thế nào?
“Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thì...”.
Ngài nói Ngài hy vọng rằng trong đời tương lai, khi Ngài chứng được Vô thượng
chánh đẳng chánh giác, tức là thành quả vị Phật, lúc đó:
“tự thân ta sáng chưng rực rỡ, chiếu soi tất cả vô lượng vô số vô biên thế
giới...”, thân Ngài sẽ sáng chói, rực rỡ, chiếu soi tới tận vô lượng, vô số, vô
biên thế giới,
“có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ tùy hình, trang nghiêm
thân ta...”, có đủ cả ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp, trang
nghiêm trên thân Ngài,
“khiến cho các loài hữu tình đều được như ta không khác...” khiến cho hết thảy
các loài hữu tình cũng được như ta, không khác, tức là thân hình cũng đủ các
tướng trang nghiêm như ta và cũng sáng chưng chiếu khắp vô lượng, vô số, vô
biên thế giới. Nguyện lực của ta là như vậy đó, ta không muốn chỉ riêng mình
thành Phật, riêng mình sáng chưng, mà muốn rằng các chúng sanh được ta chiếu
soi tới cũng sẽ có được thân thể giống như ta.
Nhân vì Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang đã có lời phát nguyện đó, cho nên ngày
nay khi nghe tới công đức bản nguyện này, chúng ta thấy được cơ hội có thể được
một tấm thân sáng chưng như Ngài. Chúng ta không nên tự coi thường mình. Quý vị
bảo rằng quý vị chẳng cần có thân thể sáng chói, sáng hay không sáng cũng chẳng
có ích lợi gì. Vậy chớ thân hình không sáng thì có ích lợi hay sao?
Kinh văn:Hán Việt
Đệ nhị đại nguyện:
Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ đề thời, thân như lưu ly, nội ngoại minh triệt, tịnh
vô hà uế, quang minh quảng đại, công đức nguy nguy, thân thiện an trú, diệm
võng trang nghiêm, quá ư nhật nguyệt, u minh chúng sanh, tất mông khai hiểu, tùy
ý sở thú, tác chư sự nghiệp.
Việt:
Nguyện lớn thứ hai:
Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo Bồ đề, thân ta như ngọc lưu ly, trong ngoài
sáng suốt, sạch không vết nhơ, sáng sủa rộng lớn, công đức cao vời, thân khéo
an trú, lưới sáng trang nghiêm, sáng hơn cả mặt trời và mặt trăng. Chúng sanh ở
nơi tối tăm, đều được sáng bừng, đâu cũng làm được, mọi sự như ý.
Lược giảng:
“ Nguyện lớn thứ hai: Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo Bồ đề, thân ta như ngọc
lưu ly...” Nguyện lớn thứ hai là khi ta thành Phật, thân ta sẽ giống như lưu
ly. “ trong ngoài sáng suốt ”, nghĩa là trong suốt từ trong ra ngoài; “sạch
không vết nhơ”, bên trong không có vết, không có chỗ nhơ, bên ngoài cũng vậy,
hoàn toàn trong sạch; “ sáng sủa rộng lớn ”, không thể nói là sáng rực tới độ
nào, chỉ biết là sáng sủa rộng lớn; “ công đức cao vời ”, công đức thì cao vời;
“ thân khéo an trú ”, thân thể của ta an ổn, không một bệnh tật gì; “ lưới sáng
trang nghiêm ”, trang nghiêm bằng một thứ lưới sáng rực; “ sáng hơn cả mặt trời
và mặt trăng ”, sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng; “ Chúng sanh ở nơi tối tăm ”,
các chúng sanh ở nơi tối tăm; “ đều được sáng bừng ”, đều được sáng rực như
vậy; “ đâu cũng làm được ”, tùy ý muốn đến chỗ nào thì được chỗ ấy; “ mọi sự
như ý ”, việc gì cũng thành tựu, mọi sự như ý nguyện.
Chúng ta thấy quả là Phật hết sức thông cảm cho các chúng sanh, dầu một chi
tiết nhỏ có thể lợi ích cho chúng sanh Phật cũng không bỏ sót. Không ai quan
tâm và thân thiết với chúng ta bằng Phật.
Kinh văn: Hán Việt:
Đệ tam đại nguyện:
Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ đề thời, dĩ vô lượng vô biên trí huệ phương tiện,
linh chư hữu tình, giai đắc vô tận sở thọ dụng vật, mạc linh chúng sanh hữu sở
phạp thiểu.
Việt:Nguyện lớn thứ ba:
Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề, ta dùng vô lượng vô biên phương
tiện trí tuệ, khiến cho chư hữu tình đều được mọi vật thọ dụng vô cùng, chẳng
để chúng sanh có chỗ thiếu sót.
Lược giảng:
“ Nguyện lớn thứ ba ”: Đức Dược Sư phát lời nguyện lớn này khi Ngài còn là một
tỳ kheo trong đời quá khứ. Thuở ấy, Ngài cũng giống như quý vị, như tôi hay các
chúng sanh khác, chỉ không giống là ở chỗ Ngài tự phát ra lời nguyện lớn, nên
chi Ngài đã sớm thành Phật. Còn như chúng ta, thì quả là ích kỷ, tự lợi, tham,
cầu, tranh chấp nhau, không muốn lập nguyện lớn, bởi vậy, cho đến nay chúng ta
chưa thành Phật được.
Ngài nói: “ Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề, ta dùng vô lượng vô biên
phương tiện trí tuệ ”: Ta nguyện đời sau, khi ta thành Phật, ta sẽ lấy những
phương tiện trí huệ, vô số kể và vô bờ bến - đây là phương tiện trí huệ, chẳng
phải là phương tiện ngu si. Phương tiện trí tuệ là thế nào? Là những pháp có
lợi ích cho người, pháp đó chẳng nhất thiết lợi ích cho ta, cứ loại nào có lợi
ích cho người thì mang ra để giáo hóa. Còn phương tiện ngu si thì sao? Đó là
những loại không hợp với thiện pháp, trái với thiện pháp, mà là hợp với ác
pháp, tương ưng với ác pháp.
Tương ưng với ác pháp là như thế này: ta lấy thí dụ khi bị muỗi cắn, ta vô ý
đập chết con muỗi, rồi tự bào chữa rằng đó là “phương tiện”, không đáng kể,
không phạm sát giới, không phải là phá giới. Cũng như trường hợp mỗi khi thấy
ai có thứ gì hay, động lòng tham, đến khi người ta không chú ý bèn lấy cắp mang
đi, rồi lại tự bảo rằng: “Đây không phải là ăn cắp, phương tiện mà! Người khác
dùng cũng như ta dùng, có gì đâu mà phân biệt?” Kỳ thực, lấy trộm của người là
không hợp pháp, tương ưng với ác pháp, vậy mà còn bảo là “phương tiện”, không
có gì là quan trọng!
Về tà dâm chẳng hạn, ai cũng biết vợ chồng một khi đã kết hôn chính thức với
nhau thì sự tư tình của chồng sẽ làm cho vợ không vui. Khi đã phạm điều tà dâm
rồi lại còn cho rằng chuyện đó chẳng quan hệ gì, chỉ là “phương tiện” thôi!
Biết rõ thế nào là tà dâm nhưng vẫn cố bao che, viện hết lẽ để bênh vực mình,
cứ một mực nghĩ rằng: “Có gì là quan hệ lắm đâu? Ai mà biết được!”
Quý vị thử nghĩ coi! Nói dối, uống rượu cũng lý luận tương tự như vậy đó!
- “Ồ! Uống chút xíu rượu, uống chơi cho vui thôi! Có gì là quan trọng đâu, tôi
đâu có say!”
- “Nói dối như vậy thì có gì đâu mà sợ! Có chết ai đâu mà nghiêm trọng quá
vậy!”
Đây chỉ là cách tự giành lẽ phải cho mình, đó gọi là những phương tiện ác,
phương tiện ngu si. Trở về kinh văn, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai nói Ngài dùng
phương tiện trí huệ.
“Khiến cho chư hữu tình đều được mọi vật thọ dụng vô cùng, ”, nghĩa là khiến
cho hết thảy các loài hữu tình đều được mọi vật thọ dụng, bất cứ thứ gì, cần gì
được nấy. Chúng ta thấy Phật có tâm bố thí rất mực rộng lớn, Ngài dùng nguyện
lực này để thỏa mãn các ước ao của chúng sanh, những gì chúng sanh mong cầu,
khiến cho “ chẳng để chúng sanh có chỗ thiếu sót ”, không để cho chúng sanh
thiếu thốn một thứ gì, cái gì cũng đầy đủ hết, khiến ai nấy đều xứng ý thỏa
lòng, mọi sự tốt đẹp.
Nếu quý vị muốn thỏa mãn lòng tham của mình thì hãy mau mau niệm danh hiệu của
Ngài hay tụng Kinh Công Đức Bổn Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, quý vị
sẽ được toại nguyện.
Có người nói rằng: “Tôi biết rồi! Tôi niệm danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai rồi tôi đến sòng bạc tại
Kinh văn:Hán Việt:
Đệ tứ đại nguyện:
Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ đề thời, nhược chư hữu tình, hành tà đạo giả,
tất linh an trú Bồ đề đạo trung, nhược hành Thanh văn, Độc giác thừa giả, giai
dĩ Đại thừa nhi an lập chi.
Việt:Nguyện lớn thứ tư:
Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề, nếu có những hữu tình tu hành tà đạo
thì ta sẽ khiến họ an trú trong đạo Bồ đề, còn nếu tu hành hạnh Thanh văn, Độc
giác thì đều an lập nơi pháp Đại thừa.
Lược giảng:
« Nguyện lớn thứ tư. » Trong điều nguyện thứ tư này, Ngài nguyện cho hết thảy
các loài hữu tình đều bỏ tà quy chánh, bỏ mê về giác, lìa khổ hưởng vui; nguyện
cho ai tu Tiểu thừa đều hướng về Đại thừa, phát tâm Bồ đề chân chánh, để tương
lai thành tựu quả Phật.
Ngài nguyện rằng: “Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề ”, tức là khi phát
nguyện thì Ngài chưa thành Phật; Ngài nói về đời sau này, khi Ngài chứng quả vị
Chánh Đẳng Chánh Giác. “nếu có những hữu tình” đây là bao quát hết thảy các
chúng sanh. Nói chung, trong số các chúng sanh, kẻ có chánh tri chánh kiến thì
rất ít, mà kẻ có tà tri tà kiến thì lại rất nhiều: nói đến chánh pháp, ít người
thông hiểu, chịu tiếp thu và thực hành. Ngược lại, nói tới tà pháp, loại bàng
môn tả đạo, hoặc thứ gì có vẻ huyền bí, có vẻ dễ dàng thì tức khắc người ta đổ
xô tới để theo. Bởi vậy mới nói: tu hành tà đạo”, tức ám chỉ người tu pháp
ngoại đạo, không cầu chánh pháp. Nói đến các loại như bùa ếm, đầu độc, cầu cơ,
đồng bóng v.v.. thì người ta tin ngay, còn giảng kinh, nói pháp thì những người
đó chẳng thấy hay ho gì. Nếu bảo họ rằng: “Anh sẽ gặp tai nạn như thế này. Muốn
tránh khỏi, anh phải làm việc này, việc kia”, nói vậy là họ tin ngay, còn giảng
cho họ Phật Pháp thì chẳng ai muốn nghe.
“thì ta sẽ khiến họ an trú trong đạo Bồ đề”. Tuy họ tu theo đạo tà, nhưng Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai cũng cố gắng dùng các pháp phương tiện, khiến họ bỏ
đường mê để quay về lối giác, bỏ tà quy chánh, dứt đường sanh tử, phát tâm Bồ
đề rộng lớn, an trú trong đạo Bồ đề. An trú ở đây có nghĩa là bỏ tà quy chánh,
không còn trở lại đường tà để an ổn trú nơi đường giác. Đường giác là đường trí
huệ. Quý vị có trí huệ, quý vị sẽ đi con đường chánh pháp; quý vị không có trí
huệ - ngu si - quý vị sẽ đi vào con đường nhỏ, con đường của loại bàng môn,
ngoại đạo. Nay, kẻ bàng môn ngoại đạo được Phật Lưu Ly Quang dùng phương tiện
để quay về đường chân chánh của Phật giáo.
“còn nếu tu hành hạnh Thanh văn, Độc giác ”. Thanh văn là những pháp Tứ đế, gồm
các món khổ, tập, diệt, đạo. Còn Độc giác là chỉ về pháp tu Thập nhị nhân
duyên; pháp đó tóm tắt như sau: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên
danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên
ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử. Hết thẩy
các chúng sanh đều do mười hai nhân duyên này mà sanh, do mười hai nhân duyên
này mà diệt; như trong câu: “các hành là vô thường, đó là pháp sanh diệt; sanh
diệt diệt rồi, tịch diệt là vui”. Nếu chứng ngộ được pháp tu mười hai nhân
duyên, tức bỏ mê quay về giác, rồi sau đó bỏ tiểu mà hướng tới đại. Bỏ tiểu
hướng tới đại chính là tu pháp môn Lục độ.
Thập nhị nhân duyên:
Do vô minh mà chúng ta sanh ra đời, tức là từ cái chỗ mơ hồ mà sanh ra. Vô minh
là gốc của phiền não, gốc của sanh tử, cũng là gốc của mọi sự phiền hà, hết
thảy mọi vấn đề rắc rối. Tu là tu cái gì? Tu chính là phá vô minh. Vô minh làm
cho quý vị mờ tối, không hiểu rõ việc mình làm. Hành động trong sự hồ đồ; hành
động mà không hiểu, không hiểu mà vẫn hành động, đó gọi là vô minh. Vô minh chi
phối hành động của quý vị, khiến quý vị thành điên đảo, mơ hồ, sống trong mơ,
chết trong mộng, tham đắm các thứ như tiền của, sắc dục, danh vọng, ăn uống và
ngủ nghỉ (tài, sắc, danh, thực, thùy).
Khi đã có vô minh thì nó thể hiện bằng hành vi. Hành vi gì? Tức là làm cái điều
mà không hiểu rõ, chỉ hiểu một chút mà không hiểu tất cả ngành ngọn. Đã có hành
vi thì sẽ có dấu vết, sẽ có hình tướng lưu lại. Có hành động, tức có sự tướng,
có sự tướng tất có cái tên.
Khi đương hành động thì tâm chưa khởi lên sự phân biệt. Hành động xong rồi, mới
có thức, tức là tâm phân biệt, gọi là cái biết, cái tri thức. Đã biết phân biệt
rồi thì sẽ có ngay bốn thứ tướng: nhân tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ
giả tướng. Thức này là ý thức và tác dụng của nó mang lại danh và sắc, tức là
nói tới vật thể. Vật thể thành hình hài gồm có lục nhập (mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ý).
Bằng lục nhập, hình hài tiếp xúc với ngoại giới; lúc đó xúc sẽ mang lại thọ (sự
cảm thọ); nhờ có tâm phân biệt mà xúc đưa tới cảm thọ dễ chịu hay khó chịu,
khoái cảm hay không khoái cảm, từ đó tâm ái, cái tham ái xuất hiện. Bởi vậy mới
nói là: “xúc duyên thọ, thọ duyên ái”, một tiến trình đi theo thứ tự đó.
Khi đã có ái, tức có ngay hữu, ý muốn chấp hữu, hướng về tự kỷ, cái ta, do đó
mà dẫn tới đời sau, rồi, theo trình tự, tiến tới già và chết.
Mười hai nhân duyên nói trên đã kể ra đủ hết tiến trình của hết thảy mọi chúng
sanh trong sự luân hồi sanh tử.
Độc giác là những người ngộ lý nhân duyên này. Họ thấy các nhân duyên nối kết
với nhau thành một vòng, không có đầu mối, không có chỗ đứt đoạn, do đó họ tu
để ra khỏi vòng sanh tử, thoát cảnh luân hồi.
Thanh Văn và Duyên giác, tức Độc giác là hai thừa trong Phật giáo, gọi chung là
Nhị thừa.
Hai thừa này thực ra chưa phải là chỗ cùng tột (cứu cánh). Ai tu và chứng được
hàng nhị thừa thì giải quyết xong vấn đề “phân đoạn sanh tử”, nhưng vẫn chưa
dứt được “biến dịch sanh tử”. Bởi vậy trong kinh, đức Như Lai Dược Sư Lưu Ly
Quang đã từng phát nguyện câu “ thì đều an lập nơi pháp Đại thừa ”, nghĩa là
Ngài nguyện độ cho họ từ Tiểu thừa mà tiến tu Đại thừa, đặng họ phát tâm tu
thành Phật đạo, tới bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Kinh văn:Hán Việt:
Đệ ngũ đại nguyện:
Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ đề thời, nhược hữu vô lượng vô biên hữu tình, ư ngã
pháp trung, tu hành phạm hạnh, nhất thiết giai linh đắc bất khuyết giới, cụ tam
tụ giới, thiết hữu hủy phạm, văn ngã danh dĩ, hoàn đắc thanh tịnh, bất đọa ác
thú.
Việt:Nguyện lớn thứ năm:
Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề, nếu có vô lượng vô biên hữu tình, tu
hành phạm hạnh trong pháp của ta, thì hết thẩy đều được giới chẳng thiếu, đủ
giới tam tụ; nếu có ai đã trót phạm giới, nghe tên ta rồi, lại trở về thanh
tịnh, chẳng vào đường ác.
Lược giảng:
Chúng ta ngày nay sở dĩ không bị đọa vào ba đường ác là nhờ danh hiệu của Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã cứu chúng ta. Giả tỷ tên của Ngài không có trên thế
gian này thì e rằng tất cả mọi người đã bị đày vào địa ngục, làm loài quỷ đói,
làm súc sanh, khó mà được làm thân người. Thực vậy, với nguyện lực của Ngài thì
dầu quý vị có phạm mười điều ác, ăn mặn phá giới, không làm điều lành, song nếu
được nghe đến hồng danh vạn đức hạnh của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì quý
vị sẽ được tiêu trừ hết tội nghiệp, lìa khổ, được vui, thoát vòng sanh tử.
Nguyên do là ngay từ thuở Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai gieo nhân tu đạo Bồ tát,
Ngài đã sớm biết đa số chúng ta ngày nay không giữ giới luật, ở trong cảnh
thiện ác hỗn tạp, chẳng rõ ràng, ví như nước với đất lẫn lộn, thành một chất
bùn nhơ. Nước là trí huệ, bùn là vô minh. Giữ giới luật là trở về nguồn cội, là
khôi phục lại trí huệ sẵn có của mình; không giữ giới luật tức là làm đục nước
trí huệ bằng chất bùn vô minh vậy.
Tuy nhiên, giữ được giới luật chẳng phải là điều dễ dàng. Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai vốn biết trước tập khí và lỗi lầm của các chúng sanh là như vậy, nên
trong « Nguyện lớn thứ năm, », Ngài đã nói:
“ Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề ”, đến đời sau này, khi ta thành
Phật, “ nếu có vô lượng vô biên hữu tình ”, tức là nói hết tất cả - tôi và các
vị cũng đều nằm trong cái vô lượng vô biên đó; “ tu hành phạm hạnh trong pháp
của ta ”, trong pháp của ta, tức là pháp Phật, pháp chung của chư Phật, tu hành
phạm hạnh, tức là tu hạnh thanh tịnh, hay nói khác là nghiêm trì giới luật; “
thì hết thẩy đều được giới chẳng thiếu, ”, đối với bất cứ ai tu Phật Pháp thì
nguyện lực của ta là khiến cho tất cả giữ được giới hạnh đầy đủ, viên mãn giống
như vầng mặt trăng không bị khuyết hãm; “ đủ giới tam tụ ”, đầy đủ giới tam tụ.
Tam tụ giới gồm các giới như sau:
1. Trì nhiếp chúng sanh giới.
2. Nhiếp thiện pháp giới.
3. Nhiếp luật nghi giới thanh tịnh.
Giữ được mấy điều giới này quả là một sự khó khăn, cho nên nguyện của Ngài là ;
nếu có ai đã trót phạm giới, nghe tên ta rồi, lại trở về thanh tịnh, chẳng vào
đường ác. ”, nếu phạm giới chẳng hạn, sau khi nghe đến tên ta, liền được thanh
tịnh trở lại, không bị đọa vào đường ác như địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh.
Tại sao gọi là giới tam tụ? Tụ nghĩa là tụ tập và chữ “tụ” nói lên ý nghĩa rằng
các giới này không cùng một loại. Thí dụ nói về nhiếp luật nghi tức là nói tới
ba trăm lễ nghi, ba ngàn oai nghi. Chữ “nhiếp” có nghĩa là bao quát, gồm thâu
hết thảy luật nghi và oai nghi. Thí dụ nói nhiếp thiện pháp, tức nói bao gồm
hết thảy các thiện pháp, kể ra thì là vô lượng vô biên, chẳng phải chỉ một loại
thiện pháp, như nói trong câu; “ không làm các điều ác, luôn làm các điều lành
”. Còn nhiếp chúng sanh cũng là nghĩa bao gồm hết thảy các chúng sanh, và, theo
giới này là độ các chúng sanh thành Phật, nhiếp thâu hết tất cả không trừ một
ai.
Giới tam tụ quả là nhiều, không dễ gì mà giữ được trọn vẹn. Vậy phải làm sao
nếu trót lỡ phạm giới? Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã nguyện rằng nếu người
nào phạm giới luật mà nghe đến danh hiệu của Ngài thì thanh tịnh sẽ trở lại và
người đó sẽ khôi phục lại tình trạng như lúc chưa phạm giới, không còn lo bị
đọa vào đường ác.
Các vị nghĩ coi. Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đối với mỗi người trong chúng
ta quan tâm đến như vậy, chu đáo đến như vậy, chúng ta không lẽ không đáp ứng
lòng từ bi của Ngài, để cố gắng tu hành, giữ gìn giới luật? Chúng ta có lý nào
lại bảo rằng: “Đâu cần giữ giới làm gì, ta cứ việc phá giới! Đàng nào đức Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai cũng đã phát nguyện cứu nếu chúng ta phạm giới mà!”
Nghĩ như vậy là sai lầm. Chúng ta không thể cố ý phá giới rồi ỷ y vào Ngài như
vậy.
4. Dù ở đâu cũng giữ giới luật
Người xuất gia dù ở bất cứ đâu cũng đều phải
giữ vững Giới Luật. Khi chưa dứt được sanh tử, chưa đoạn được tâm dâm dục, thì
chúng ta không lúc nào được biếng nhác, buông lung, phóng túng. Ðức Phổ Hiền Bồ
Tát dạy rằng :
"Một ngày đã hết, mạng cũng giảm dần,
Như cá cạn nước, thử hỏi vui gì ?
Ðại chúng ! Hãy siêng tinh tấn, như đầu bị đốt,
Chỉ nhớ vô thường, chớ mặc buông lung !"
Người xuất gia chúng ta phải biết quý trọng từng giây từng phút. Hãy nhớ rằng :
Một tấc thời gian : một tấc vàng,
Tấc vàng khó chuộc tấc thời gian.
Thời gian quý báu như thế, cho nên chúng ta không được lãng phí. Mỗi người đều
phải dụng công tu hành, phải tinh tấn hơn nữa, thì mới mong có được sự thành
tựu. Phàm là kẻ dụng công tu hành thì không có thời giờ để nói chuyện thị phi,
chẳng có thời giờ để làm những việc lăng xăng, làm gián đoạn sự tu hành. Về
điểm này. tôi hy vọng mọi người hãy chú ý.
Khi tôi thấy những người không chịu tu hành thì tôi cảm thấy vô cùng đau xót.
Như thế chẳng phải rằng họ đã không thực hành thệ nguyện mà họ đã lập lúc ban
đầu, khi mới xuất gia tu hành hay sao ? Những kẻ xuất gia mà "tâm nghĩ một
đằng, miệng nói một nẻo" thì có xứng đáng là Tăng Bảo hay không? Tôi mong
rằng các vị đều biết tự trọng! 5. Gieo trồng hạt giống Kim Cang
Niệm Phật hàng ngày trong thất niệm Phật là
chúng ta gieo trồng chủng tử thành Phật. Mỗi tiếng niệm Phật là gieo trồng một
chủng tử, mười tiếng niệm Phật là gieo trồng mười chủng tử. Nếu mỗi ngày quý vị
niệm một triệu lần, quý vị dã gieo trồng một triệu chủng tử. Cứ niệm, đừng lo
tâm tán loạn.
6. Nơi tất cả Tôn Giáo hòa đồng
Diễn Đàn Giao Lưu
Tư Tưởng mới thành lập , là nơi chia sẽ kinh nghiệm sống của Tôn Giáo mình ,
giao lưu bạn bè , là nơi không có ranh giới giữa các Đạo Phái ... Tất Cả Đều Là
Một Nhà .
Mời Các Bạn vào
đóng góp chia sẽ kinh nghiệm những điều hay của Tôn Giáo mình để thông cảm hiểu
biết lẫn nhau giúp nhau cùng tiến bộ đi tới hạnh phúc cứu cánh !
Tất cả Tôn Giáo trên đời đều giúp cho con người hạnh phúc sống tốt hơn đều đóng
góp ít nhiều cho thế giới này ...
Dù bạn là ai là Đạo gì Tôn Giáo gì thì tất cả chúng ta đều có Tâm , đều giống
nhau không khác , máu chúng ta cùng đỏ nước mắt chúng ta cùng mặn như nhau ,
vậy sao chúng ta không yêu thương bảo bọc nhau để giúp cho cuộc đời bớt khổ .
Đừng phân biệt chia rẻ nhau nửa , tất cả chúng ta là Một .
7. Trên cơ sở những tín
ngưỡng cổ sơ của thời Hùng Vương dựng nước, ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên
Việt Nam đã tiếp nhận cả cưỡng bức và tự nguyện những tôn giáo của các nền Văn
hóa lớn từ phương Bắc và phương Tây. Đó là Đạo – Nho – Phật. Đạo giáo Trung
Quốc có nhiều nét gần với tín ngưỡng thờ Thần, Tiên của người Việt; và Phật
giáo của ấn Độ cũng nhanh chóng giao hoan với hệ thống nữ thần nông nghiệp của
văn hóa lúa nước Việt Nam, và rồi hai thứ tôn giáo này quyện vào nhau, đi vào
tâm thức người dân, bám rễ khắp các xóm làng, phát triển đều đặn xuyên thời Bắc
thuộc sang thời độc lập tự chủ và lan tỏa trong xã hội ngày nay. Nho giáo từ cơ
sở nho sĩ qúy tộc thống trị dần thấm vào tầng lớp trên của xã hội người Việt,
là cơ sở chính trị cho bộ máy Nhà nước quân chủ vận hành mãi đến đầu thế kỷ XX.
Ba tôn giáo ấy từ chỗ song tồn đến hòa quyện vào nhau. Chẳng những nhiều quán
Đạo cũng là chùa Phật, lại còn thờ cả Khổng Tử, mà một số chùa chính thức mang
tên Tam Giáo hoặc ngoài hệ thống tượng Phật còn có tượng Khổng Tử và Lão Tử. ở
nông thôn, bên cạnh đình chùa có văn chỉ. ở trung ương có Văn Miếu với hệ thống
tượng Khổng Tử và Tứ Phối. Tình hình trên cho hay những tượng cổ đi vào tâm
linh dân tộc chính là Thần, Phật và các nhân vật phù trợ.
Là Tổ của từng tôn giáo, đã trở thành những vị Thần tối linh, nhưng cả Thích
Ca, Lão Tử và Khổng Tử đều có lý lịch rõ ràng với nguồn gốc cụ thể, từ hình hài
đến tính tình đều rất người. Vì thế tượng Thích Ca từ lúc sơ sinh, đến khi tu
khổ hạnh được gọi là Tuyết Sơn, khi giác ngộ thành Đức Phật Thế Tôn và cuối
cùng nhập Niết Bàn, dù hình tích gắn với các quý tướng và điềm tốt, song luôn
được thể hiện theo cấu trúc người thật việc thật, rất đạo cũng rất đời, luôn
luôn gần gũi với mọi người, rất phổ biến khắp các làng quê và thị tứ. Tượng Lão
Tử ở trong quán Đạo hay đôi khi ở trong chùa thường được thể hiện như một cụ
già Việt Nam quắc thước với bộ râu dài trắng, cũng rất gần với tượng thần Thổ
địa mà người dân Việt luôn quan niệm ” đất có Thổ công, sông có Hà bá” nghĩa là
có chủ. Gắn với Lão Tử, trong một số quán Đạo còn có cả tượng Thánh Phụ và
Thánh Mẫu là cha mẹ của Ngài cũng đều được tạc như những ông già và bà già Việt
Nam ở vùng quê, đôn hậu. Còn Nho giáo lấy Tổ là Khổng Tử, một số chùa và quán
cũng có tượng Ngài, song tiêu biểu phải là tượng ở Văn Miếu Hà Nội, cao to, uy
nghi, đức độ. Phía trước Ngài là bộ tượng Tứ Phối gồm bốn người học trò ngoan
và giỏi của Ngài, tất cả được tạo dáng thực theo tư thế các quan văn đầu triều.
Các nhân vật trên là những người thực việc thực gắn với ba tôn giáo lớn quán
xuyến suốt lịch sử thành văn Việt
Về Thần điện Phật Giáo, tùy chùa lớn hay nhỏ mà số tượng có thể thêm bớt, song
nếu tương đối đầy đủ sẽ gồm các loại tượng:
- Về Phật: Tam Thế, A Di Đà, Thế Tôn, Di Lặc. Đôi khi có Phật nhập Niết Bàn.
Cũng có thể gộp vào đây các tượng Thích Ca Sơ Sinh, Tuyết Sơn.
- Về Bồ Tát: Quan Âm Nam Hải (với các biến thể: Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn,
Quan Âm Chuẩn Đề) và các dạng gần gũi là Quan Âm Tọa Sơn, Quan Âm Tống Tử. Bên
cạnh đó là bộ Tứ đại Bồ Tát: Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền. Một
số chùa còn thêm Tứ Bồ Tát: Sách, Quyền, ái, Ngữ.
- Về Hộ Pháp: Khuyến Thiện, Trừng ác. Một số chùa có tượng Vi Đà thái tử làm
nhiệm vụ bảo vệ Phật Pháp thay hai vị trên. Cũng tính chất này phải kể đến tám
vị Kim Cương: Thanh Trừ Tai, Tích Độc Thần, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tịnh Thủy, Xích
Thanh Hỏa, Định Trừ Tai, Tử Hiền Thần, Đại Thần Lực. Một số chùa còn có các
tượng Thiên Lý Nhãn và Thiên Lý Nhĩ cũng thuộc loại thần bảo vệ Phật Pháp.
- Về La Hán: Theo sách Pháp trụ ký thì đức Phật chỉ định 16 vị La Hán sống mãi
ở cõi đời này để tế độ chúng sinh. Đó là các vị Tôn Giả: Tân Độ La Bạt La Nọa
Xà (tức Tân Đầu Lư Pha La Đọa Thệ), Ca Nhạ Ca Phạt Ta, Ca Nhạ Ca Bạt Ly Noa Xà,
Tô Tần Đà, Nhạ Cư La, Bạt Đà La (tức Bạt Đa Bà La), Ca Lý Ca, Phạt Xà La Phất
Đà La, Thú Bác Ca, Ban Thác Ca, La Hỗ La (tức La Vân), Nà Già Tê Na, Nhân Yết
Đà, Phạt Na Bà Tư, A Thị Đa, Chú Đồ Bán Thác Ca (tức Chu Lợi Bàn Dà Ca). Về
sau, có người thêm hai vị Tôn Giả nữa để thành 18, hoặc là Khánh Hữu (tức tác
giả sách Pháp trụ ký) và Tân Đầu Lư (lại là tên tắt của vị La Hán đầu tiên),
hoặc là Ca Diếp (lại là vị Tổ kế đăng số 1) và Quân Đồ Bát Thán.
- Về Tổ kế đăng: Lấy 20 vị Tổ đầu của Tây thổ nhưng bỏ Tổ 11 và Tổ 15. Đó là
các vị Tôn Giả: Ma Ha Ca Diếp, A Nan Đà, Thương Na Hòa Tu, Ưu Ba Cúc Đa, Đề Đa
Ca, Di Giá Ca, Bà Tu Mật, Phật Đà Nan Đề, Phục Đà Mật Đa, Hiệp, Mã Minh, Ca Tỳ
Ma La, Long Thụ, La Hầu La Đa, Tăng Già Nan Đề, Già Da Xá Đa, Cưu Ma La Đa, Xà
Dạ Đa.
- Về Diêm Vương: có 10 vị gọi là “Thập điện Diêm Vương”,đó là: Tần Quảng Vương,
Sở Giang Vương, Tống Đế Vương, Ngũ Quan Vương, Diêm La Vương, Biến Thành Vương,
Thái Sơn Vương, Bình Đẳng Vương, Đô Thị Vương, Chuyển Luân Vương
- Về phù trợ Thích Ca Sơ Sinh: Phạm Thiên, Đế Thích.
- Về Phù trợ Ngọc Hoàng: Nam Tào, Bắc Đẩu. Bộ tượng này vốn của Đạo giáo nhập
vào Phật Giáo.
- Về quản lý cảnh chùa: Giám Trai, Thổ Địa, Đức Ông và Già lam – Chân Tể, Thánh
Tăng và Đại Sĩ – Diệm Nhiên.
- Về Hậu Phật: Một số người thực đã mua Hậu.
- Về Tổ chùa: Bồ Đề Đạt Ma (vị Tổ cuối của Tây Thổ và đầu của Đông Độ) và các
cao tăng của chùa. Những tượng này đặt ở nhà Tổ
- Về điện Mẫu: vốn thuộc tín ngưỡng dân gian được duy trì trong một nhà riêng,
thông thường chỉ gồm có Tam Tòa Thánh Mẫu: Mẫu Thiên (Thiên Phủ), Mẫu Thoải
(Thủy Phủ), Mẫu Thượng Ngàn(Nhạc Phủ), lại thêm Mẫu Địa (Địa phủ) tạo thành Tứ
Phủ. Nếu rộng có thể thêm các Quan, ông Hoàng, Chầu Bà, Cô và Cậu. Để làm đối
trọng với Mẫu có Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo với các công chúa Quế Hoa và Quỳnh
Hoa.
Về Thần điện Đạo giáo được thể hiện ở các quán Đạo. Nhưng vì quán Đạo rất sớm
kết hợp với chùa Phật, thường được dân địa phương gọi là chùa, vì thế trong
quán cũng gặp một số tượng của chùa, thậm chí ở Văn Miếu nữa. Tuy vậy, Thần
điện chung của Đạo giáo là:
- Về Tam Thanh: Ngọc Thanh, Thái Thanh, Thượng Thanh tức ba vị Thần tối thượng
là Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân và Đạo Đức Thiên Tôn.
- Về Lão Tử: Thái Thượng Lão Quân và Thánh Phụ, Thánh Mẫu.
- Về tầng cao: Ngọc Hoàng thượng đế (tức Hoàng Quân giáo chủ) với hai thị giả
Kim Đồng – Ngọc Nữ và hai quan giúp việc là Nam Tòa – Bắc Đẩu.
- Về vũ trụ: Cửu Diệu Tinh Quân gồm Mặt Trời, Mặt Trăng, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ, Hổ Phù, Kế Đô.
- Về thế giới: Ngũ Nhạc gồm Đông phương Sóc, Tây Vương Mẫu, Huyền Thiên Trấn
Vũ, Cửu Thiên Huyền Nữ.
- Về Tứ trấn: các tượng trấn trị ma quỷ ở bốn phương.
Có nơi còn cả Văn Xương và Đế Quân chủ về các hoạt động văn và võ.
Thần điện của Nho giáo đơn giản hơn cả, về tượng ít nơi có, thường thờ bài vị.
Văn Miếu Hà Nội có hệ tượng:
- Tổ Sư: Khổng Tử
- Tứ Phối: Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử.
Thần điện của Đạo Mẫu đã ghép vào Phật điện của chùa, tuy nhiên khi có điều
kiện phát triển thì nâng cấp thành đền (đền Sòng, đền Ghềnh, đền Bắc Lệ…), rồi
thành phủ (phủ Giầy, phủ Tây Hồ), nhưng hệ thống tượng thờ vẫn thế.
8. Sự
tích tóm lược 18 vị La Hán
1. La Hán Ba Tiêu
2. La Hán Bố Đại
3. La Hán Cử Bát
4. La Hán Hàng Long
5. La Hán Khai Tâm
6. La Hán Kháng Môn
7. La Hán Khánh Hỷ
8. La Hán Khoái Nhĩ
9. La Hán Kỵ Tượng
10. La Hán Phục Hổ
11. La Hán Quá Giang
12. La Hán Thác Tháp
13. La Hán Thám Thủ
14. La Hán Tiếu Sư
15. La Hán Tĩnh Tọa
16. LaHán Tọa Lộc
17. La Hán Trầm Tư
18. La Hán Trường Mi
1. La Hán Ba Tiêu
Tên
của Ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền thuyết khi mẹ Ngài
vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh Ngài trong lúc ấy. Sau khi
xuất gia với Phật, Ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây
chuối nên còn được gọi là La-hán Ba Tiêu.
Có lần, đức Phật hàng phục con yêu long trong một cái đầm sâu. Cảm phục ân đức
của Phật, yêu long xin Ngài lưu lại chỗ của mình để được gần gũi cúng dường.
Phật dạy Ngài không thể ở một nơi lâu, nên cử năm vị Đại A-la-hán đến, đó là
các vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Nhân-kiệt-đà, Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư.
Khi tôn giả Phạt-na-bà-tư đến tiếp nhận lễ vật cúng dường, Ngài thường thích
tọa thiền trên phiến đá lớn bên cạnh đầm, khi thì ngồi suốt tuần, lúc ngồi cả
nửa tháng.
Theo lời phó chúc của đức Phật, Tôn giả lưu tâm hóa độ vua Ca-nị-sắc-ca. Nhân
dịp nhà vua đi săn, Tôn giả hóa làm con thỏ trắng dẫn đường cho vua đến gặp một
mục đồng đang lấy bùn đất nặn tháp Phật. Mục đồng nói rằng Phật thọ ký 400 năm
sau vua Ca-ni-sắc-ca sẽ xây tháp thờ Phật tại đây. Mục đồng ấy cũng chính là
Phạt-na-bà-tư hóa hiện. Từ đó, vua trở nên bậc đại quân vương hoằng dương Phật
pháp, xây chùa tháp tự viện, ủng hộ cúng dường Tăng chúng, tổ chức kiết tập
kinh điển Phật giáo lần thứ tư tại thủ đô Ca-thấp-di-la. Tất cả những thành tựu
này đều nhờ thâm ân giáo hóa của tôn giả Phạt-na-bà-tư.
Theo Pháp Trụ Ký, tôn giả Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ mười bốn, ngài và
1.400 vị La-hán thường ở trong núi Khả Trụ.
2. La Hán Bố Đại
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà 因羯陀 Nhân-kiệt-đà (Angada). Theo
truyền thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết
người, Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành
động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như biểu trưng của từ bi.
Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng
hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa.
Nhân có
một người nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di-lặc, nhưng chưa được thấy
diện mạo Bồ-tát nên không dám làm. Ông lập hương án trong vườn hoa chí thành
khấn nguyện, cung thỉnh một vị Hiền Thánh đến để giúp ông. Khấn xong thì có một
vị La-hán xuất hiện xưng tên là Nhân-yết-đà, đến đưa ông lên cung trời Đâu-suất
để gặp Bồ-tát Di-lặc. Tôn giả đã đưa người này lên cung trời trước sau cả thảy
ba lần để chiêm ngưỡng chân tướng trang nghiêm của Bồ-tát. Tượng Bồ-tát tạo
xong được bảo tồn tại thủ đô nước Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn giả.
La-hán là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại, các Ngài du hóa nhân gian dưới
mọi hình thức. La-hán Bố Đại có hình tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên
mình như là hiện thân của Bồ-tát Di-lặc, trong câu chuyện trên đã có ít nhiều
liên hệ.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ mười ba, thường cùng 1.300 vị A-la-hán
trụ trong núi Quảng Hiếp
3. La Hán Cử Bát
Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà 迦諾迦跋釐墮蛇
(Kanakabharadvāja). Ngài là vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần
Châu.
Quốc vương nước Tăng-già-la ở Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn giả Ca-nặc-ca
tìm cách hóa độ. Một sớm mai, khi đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình
kinh sợ vì trong gương không có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây
là do phép thần biến của Tôn giả. Theo lời khuyên của quần thần, nhà vua cho
tạc tượng Bồ-tát Quan Thế Âm để thờ phụng và từ đó hết lòng tin Phật.
Ngài Huyền Trang khi sang Ấn Độ, trú tại chùa Na-lan-đà nghe kể câu chuyện sau:
Sau khi Phật Niết-bàn vài trăm năm, quốc vương nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành
ngôi chùa Đại Phật, thỉnh mấy ngàn vị Hòa thượng đến cúng dường. Khi mọi người
bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị Hòa thượng từ không trung bay xuống. Cả
hội chúng kinh ngạc, vua hỏi lai lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở
Tây-cù-da-ni châu, một vị xưng là Ca-nặc-ca ở Đông Thắng Thần Châu. Vua vui
mừng thỉnh hai Tôn giả chứng minh trai phạn. Thọ trai xong, hai vị cười nói:
- Này các vị, 16 La-hán chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với
tất cả Phật tử chí thành đời sau.
Tôn giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực,
nên được gọi là La-hán Cử Bát.
Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị La-hán thứ ba, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại
Đông Thắng Thần Châu.
4. La Hán Hàng Long
Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra), Trung Hoa dịch Khánh Hữu, ra
đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử.
Ngài là vị Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền
có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay hàng
phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị tịch, mọi
người buồn thương lo sợ vì thế gian sẽ không còn bậc La-hán. Ngài cho biết có
16 vị La-hán vâng lệnh Phật lưu trụ cõi Ta-bà để ủng hộ Phật pháp. Lời dạy của
Ngài được ghi chép lại thành bộ “Pháp Trụ Ký”. Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả
Khánh Hữu bay lên không trung hóa hiện vô số thần biến, rồi dùng chơn hỏa
tam-muội thiêu thân. Xá-lợi ngũ sắc rơi xuống như mưa, mọi người tranh nhau lượm
mang về tôn thờ cúng dường.
Tuy đã thiêu thân, nhưng Tôn giả không rời nước Sư Tử, Ngài bay về động đá trên
núi để tọa thiền. Thời gian thoáng chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn giả xuất định
Ngài ôm bát xuống núi khất thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác. Ngài nhẫm tính
lại và khám phá ra mình đã tọa thiền hơn 400 năm bèn bật cười ha hả. Sau đó
Ngài thường xuất hiện khắp nơi, khi thì trì bát, lúc thì giảng kinh… Mọi người
vẫn còn tin rằng Ngài vĩnh viễn không rời thế gian mà luôn luôn cùng 16 vị
La-hán kia tiếp tục hoằng hóa.
* Dị bản: Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la là vị La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ
công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký.
5. La Hán Khai Tâm
Hình tượng vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật. Ngài tên là Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe nói thân
Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc dài đúng
một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ cách nào, thân Phật
vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang dài rồi leo lên thang đo lại,
kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần, không còn cây thang nào dài hơn mà thân
Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông thiệt tình khâm phục và xin quy y làm đệ tử.
Sau khi xuất gia, trải qua bảy năm khổ hạnh, Ngài chứng quả A-la-hán. Vì muốn
kỷ niệm nhân duyên đo Phật mà xuất gia ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi
đến chỗ cũ nói:
- Nếu Phật pháp là chân lý ngàn đời thì xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng
ở đây.
Nói xong, Ngài cắm cây sào xuống đất. Cây sào bỗng nẩy chồi ra lá. Thời gian
sau từ chỗ đó mọc lên một rừng trúc tốt tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi
ấy là Trượng Lâm. Quần chúng Phật tử kéo đến chiêm bái chứng tích mầu nhiệm của
cây gậy đo Phật. Nơi đây rừng núi khô cằn hoang dã, thiếu nước uống nghiêm
trọng, tôn giả Thú-bác-ca liền vận thần thông biến ra hai suối nước một nóng,
một lạnh để mọi người tha hồ sử dụng. Hai suối này nằm cách mười dặm về phía Tây
Theo Pháp Trụ Ký, ngài Thú-bác-ca là vị La-hán thứ chín, thường cùng 900 vị
La-hán trụ trong núi Hương Túy.
6. La Hán Kháng Môn
Tên của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特 (Cullapatka). Truyền thuyết Phật giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương cần cù
nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia Ngài không tiếp thu được
Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau được sự chỉ dạy
lân mẫn của Thế Tôn, Ngài thực hành pháp môn quét rác với cây chổi trên tay.
Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên
trong lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả.
Một hôm đại thần Kỳ-bà thành Vương Xá thỉnh Phật và các vị A-la-hán đến nhà thọ
trai. Tôn giả Bán-thác-ca không biết em mình đã chứng quả nên không phát thẻ
tham dự. Đến khi chuẩn bị thọ trai, Phật bảo Bán-thác-ca về tinh xá xem có sót
người nào. Tôn giả về Trúc Lâm thì thấy cả ngàn vị Hòa thượng đang tọa thiền
rải rác trong vườn. Ngạc nhiên và dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ lẽ ra đó là
trò đùa của em mình, Tôn giả mừng rỡ xúc động, tán thán công phu của
Châu-lợi-bàn-đặc.
Theo truyền thuyết, khi đi khất thực Tôn giả gõ cửa một nhà nọ và làm ngã cánh
cửa cũ hư. Điều này cũng gây bối rối! Về sau, Phật trao cho Tôn giả một cây gậy
có treo những chiếc chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn
bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu
tượng của Tôn giả, và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật giáo.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị La-hán thứ mười sáu, cùng với 1.600 vị A-la-hán
thường trú tại núi Trì Trục.
7. La Hán Khánh Hỷ
Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa), còn
gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen Ngài là vị La-hán phân biệt
thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia Ngài là người rất tuân thủ khuôn phép,
giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho phát khởi. Sau
khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện căn sâu dày Ngài
chứng quả A-la-hán rất mau.
Ngài thường đi du hóa khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết
pháp để chiêu phục chúng sanh. Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác
hằng ngày, tương lai bị quả khổ địa ngục nên khi thuyết pháp Ngài thường xiển
minh giáo lý nhân quả thiện ác, giúp chúng sanh phân biệt rõ ràng để sửa đổi.
Một lần nọ đi ngang qua thôn trang, thấây một gia đình đang giết vô số trâu dê
gà vịt để làm lễ mừng thọ. Ngài ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp
chúc thọ, về cách mừng sinh nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh
thành. Ngài dạy rằng, ngày sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận
làm con không được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha
mẹ, quyết chí tu tập thành tựu đạo nghiệp.
Bằng cách giảng dạy chân thật, Tôn giả suốt đời như ngọn hải đăng đem ánh sáng
Phật pháp soi rọi nhân sinh.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ hai, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại
nước Ca-thấp-di-la (
8. La Hán Khoái Nhĩ
Ngài tên là Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên. Nāgasena theo tiếng
Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh siêu nhiên. Ngài Na
Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về tài biện luận. Đương
thời của Ngài gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị, nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng
biện thuyết. Nghe tiếng tôn giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích
thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để
lại cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng
Có chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị
La-hán đang ngoáy tai một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh
nghe hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển
thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó
là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài cũng là vị La-hán thứ mười hai, thường cùng 1.200 vị
A-la-hán trụ trong núi Bán-độ-ba.
9. La Hán Kỵ Tượng
Tên của Ngài là Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi.
Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài nên ở tại quê hương mình (Tích
Lan) để ủng hộ Phật pháp.
Phật đến Tích Lan thuyết kinh Lăng Già, Tôn giả cũng là một trong số đệ tử đi
theo. Đức Phật sắp rời đảo, vua Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm
tại đảo để làm niềm tin cho hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một ngọn
núi, nơi đó trở thành Phật Túc Sơn, và bảo tôn giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích
này. Phật Túc Sơn nổi tiếng khắp nơi, mọi người đua nhau chiêm lễ. Trải qua
thời gian nó bị chìm vào quên lãng, con đường dẫn lên núi bị cỏ hoang phủ kín.
Trong dịp vua Tích Lan là Đạt-mã-ni-a-ba-á bị kẻ địch rượt đuổi nên chạy trốn
vào hang núi, Tôn giả hóa thành một con nai hoa rất đẹp dụ dẫn nhà vua lên núi
để hiển lộ lại dấu chân Phật. Sau nhiều triều đại kế tiếp, Phật Túc Sơn lại
không người viếng thăm. Tôn giả một phen nữa hóa thành thiếu nữ bẻ trộm hoa
trong vườn của vua. Khi bị bắt, thiếu nữ chỉ tay lên ngọn núi phủ sương mờ, bảo
rằng mình hái hoa cúng Phật ở trên ấy. Phật Túc Sơn từ đó khắc sâu hình ảnh
trong lòng người, mỗi năm đến ngày 15 tháng 3 âm lịch, quần chúng kéo nhau đi
lễ bái thánh tích rầm rộ không ngớt.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ bảy, cùng với 1.000 vị
A-la-hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu (Tích Lan).
10. La Hán Phục Hổ
Tên của Ngài là Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta), người ở núi Hạ Lan tỉnh Cam
Túc. Thuở nhỏ Đạt-ma-đa-la đến chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị
La-hán thờ trong điện. Sư phụ cũng hay kể cho cậu bé nghe những chuyện thần kỳ
của các vị La-hán, dần dần trong tánh linh trẻ thơ in đậm hình ảnh các Ngài,
thậm chí khi ngủ cũng mơ thấy.
Một hôm trong khi đang chiêm lễ, Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình tượng La-hán
cử động, vị thì quơ tay, vị thì chớp mắt như người thật. Ngỡ mình hoa mắt,
Đạt-ma-đa-la định thần nhìn kỹ lại, lần này thấy rõ hơn, một số vị còn cười
tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng thêm siêng năng lễ kỉnh, và ngày nào cũng
được chứng kiến các kỳ tích cảm ứng. Đạt-ma-đa-la theo hỏi một vị La-hán cách
tu tập để được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu nên siêng năng tọa thiền, xem
kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát tâm tu hành, thực hiện lời dạy của
bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng quả.
Thành một A-la-hán thần thông tự tại, Ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng
kinh thuyết pháp, gặp tai nạn liền ra tay cứu giúp. Tôn giả ba lần thu phục một
con hổ dữ đem nó về núi cho tu, đi đâu thì dẫn theo. Bên cạnh hình tượng Ngài
người ta vẽ thêm một con hổ, Ngài thành danh La-hán Phục Hổ.
La-hán Hàng Long và La-hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách Thập
Lục La-hán, để trở thành một truyền thuyết vĩnh viễn được tôn thờ.
11. La Hán Quá Giang
Tên của Ngài là Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ
Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền.
Theo truyền thuyết, Tôn giả rất thích tắm rửa, mỗi ngày tắm từ một đến mười
lần, và như vậy rất mất thời gian đồng thời trễ nải công việc. Chẳng hạn khi
mọi người thọ trai, Ngài lại đi tắm, khi lên ăn thì cơm rau đã hết. Nhiều buổi
tối, Ngài lén đi tắm khi mọi người đang tọa thiền. Thậm chí ngủ nửa đêm cũng
thức dậy đi tắm, có khi một đêm tắm năm, sáu lần! Việc này đến tai đức Phật.
Thế Tôn kêu Tôn giả đến bên, chỉ dạy cách tắm rửa thiết thực, nghĩa là ngoài
việc tẩy rửa thân thể còn phải tẩy rửa cấu uế trong tâm, gột sạch các tham sân
phiền não để cả thân tâm đều thanh tịnh.
Tiếp nhận lời Phật dạy, Tôn giả hành trì theo ý nghĩa đích thực của việc tắm
rửa, siêng năng gột rửa tâm nên chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Từ đó tắm rửa
là một pháp tu hữu dụng thiết thực mà Tôn giả thường khuyên dạy mọi người. Các
tự viện Trung Hoa thường thờ hình tượng Ngài trong nhà tắm để nhắc nhở ý nghĩa phản
tỉnh tư duy.
Tôn giả cũng thường dong thuyền đi hoằng hóa các quần đảo của miền đông Ấn Độ
như Java,
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ sáu, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ
tại Đam-một-la-châu.
12. La Hán Thác Tháp
Tên của Ngài là Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda). Thường ngày, Ngài tu tập rất tinh
nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng ít thích nói chuyện. Tôn giả ít khi đi theo
đức Phật ra ngoài, Ngài chỉ ở yên nơi tinh xá đọc sách hoặc quét sân. Có người
phê bình cách nói chuyện của Ngài không hay, đức Phật biết được an ủi: “Này
Tô-tần-đà! Nói chuyện hay hoặc dở không liên quan gì đến vấn đề giác ngộ. Mọi
người chỉ cần y theo lời ta dạy mà thực hành, dù không nói câu nào cũng thành
tựu sự giải thoát”.
Đúng thật là Tôn giả hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành
trọn thời gian tọa thiền nên chứng quả A-la-hán rất sớm.
Đương thời vua nước Án-đạt-la muốn xây dựng một tinh xá u tịch tại núi Hắc
Phong, nhưng tìm không ra những tảng đá lớn. Tôn giả chỉ cần vận thần thông
trong một đêm, mang đến vô số đá rất lớn từ bên kia sông Hằng. Quốc vương lại
muốn tạo một pho tượng thật lớn bằng vàng tôn trí trong tinh xá nhưng kho lẫm
quốc gia không đủ cung ứng. Tôn giả chỉ cần nhỏ vài giọt nước xuống mấy phiến
đá, chúng đều biến thành vàng. Quốc vương vui mừng gọi thợ giỏi nhất, đến lấy
vàng đúc tượng để nhân dân chiêm lễ.
Năm trăm năm sau Phật diệt độ, Tôn giả nhiều lần hiện thân tại nước Kiện-đà-la
để giáo hóa. Hình tượng Ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là
nơi thờ xá-lợi Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế Ngài
được gọi là La-hán Nâng Tháp.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà là vị La-hán thứ tư, thường cùng 700 vị
A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu.
13. La Hán Thám Thủ
Hình tượng đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán sau cơn thiền định.
Ngài tên là Bán-thác-ca? 半託迦
(Panthaka), Trung Hoa dịch: Đại lộ biên sanh. Ngài là anh của Châu-lợi-bàn-đặc.
Tương truyền hai anh em đều sanh ở bên đường, khi mẫu thân trở về quê ngoại
sinh nở theo phong tục Ấn Độ.
Bán-thác-ca lớn lên là một thanh niên trí thức, nhân mỗi khi theo ông ngoại đi
nghe Phật thuyết pháp, bèn có ý định xuất gia. Được gia đình chấp thuận, Ngài
gia nhập Tăng đoàn, trở thành một vị Tỳ-kheo tinh tấn dõng mãnh, chẳng bao lâu
chứng quả A-la-hán. Nhớ đến em mình là Châu-lợi-bàn-đặc, Ngài trở về hướng dẫn
em xuất gia. Rất tiếc, thời gian đầu thấy em mình quá dốt nên Ngài khuyên em
hoàn tục. Đó cũng là vì tình thương và trách nhiệm nên Tôn giả đối xử như thế, hoàn
toàn không phải giận ghét.
Về sau, khi Châu-lợi-bàn-đặc chứng Thánh quả, chính Tôn giả Bán-thác-ca là
người mừng hơn ai hết. Cả hai anh em dẫn nhau về pháp đường, đại chúng cảm động
tán thán ngợi khen. Đức Phật dạy: “Này Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đặc, khó ai
được như hai anh em các ông, vừa cùng xuất gia học đạo, vừa tận trừ phiền não
lậu hoặc, chứng quả A-la-hán. Sau này hai ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại
nhân gian để hoằng dương Phật pháp”.
Hai tôn giả vâng lời Phật nên thường tùy hỷ hóa độ chúng sanh.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ mười, Ngài thường cùng
1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.
14. La Hán Tiếu Sư
Tên
của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅 (Vajraputra). Tương truyền khi còn ở thế
tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng một con
voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt Ngài,
chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả
La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn quýt bên Ngài, do đó Ngài được biệt
hiệu La-hán Đùa Sư Tử.
Về phía Bắc tinh xá Trúc Lâm có ao Ca-lan-đà, nước trong mát có thể trị lành
được nhiều bịnh, đức Phật vẫn thường đến đó thuyết pháp. Sau khi Phật diệt độ,
nước ao bỗng cạn khô, ngoại đạo bèn phao tin rằng Phật pháp đã suy vi. Tôn giả
Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu Bát-thích-noa bay đến, lấy tay chỉ xuống ao, lập
tức nước đầy trở lại. Tôn giả bảo mọi người rằng:
- Nước ao cạn khô vì mọi người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp. Nếu tất
cả đều vâng lời Phật dạy, một lòng tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế
thì tôi bảo đảm nước trong ao sẽ không bao giờ cạn khô.
Mọi người nghe Tôn giả nói, ngưỡng vọng uy thần và nhiệt tâm hộ trì Phật pháp
của Tôn giả nên phát khởi lòng tin Tam bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và
tràn đầy.
Qua câu chuyện trên chúng ta có thể thấy các bậc La-hán luôn ở tại nhân gian để
xiển dương pháp Phật.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 8, thường cùng 1.100 vị La-hán? trụ ở
châu Bát-thích-noa.
15. La Hán Tĩnh Tọa
Tên của Ngài là Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula). Trên vách hang thứ 76 của động Đôn
Hoàng có vẽ hình tượng Ngài ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền thuyết,
Ngài thuộc giai cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có chiến
tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả A-la-hán trong tư thế
tĩnh tọa.
Đương thời của Tôn giả, có ngoại đạo Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định cao,
từng biện bác với hy vọng chinh phục Tôn giả theo pháp thuật của mình. Nhưng
với niềm tin chân chánh, Tôn giả khẳng định rằng chỉ có công phu tọa thiền,
quán chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn nhục bền bỉ, nghiêm trì tịnh giới mới đạt
được định lực không thối chuyển. Pháp tu luyện ngoại đạo chỉ được định lực tạm
thời, không thể an trú vĩnh viễn trong pháp giải thoát, khi gặp cảnh bên ngoài
quấy nhiễu sẽ bị hủy hoại.
Sau này quả nhiên Uất-đầu-lam-tử thọ hưởng sự cúng dường nồng hậu của vua nước
Ma-kiệt-đà, vì khởi vọng tâm mà toàn bộ công phu tiêu tán, sau khi chết lại rơi
vào địa ngục. Tôn giả Nặc-cù-la dùng thiên nhãn thấy rõ điều ấy, một lần nữa
cảnh giác với vua Ma-kiệt-đà:
- Đó chính là pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não căn bản của
con người chưa được diệt trừ hết.
Vua nghe Tôn giả giải thích mới hiểu được Phật pháp chân chánh đáng quý, phát
khởi niềm tin nơi Tôn giả.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc-cự-la được xếp vào vị trí La-hán thứ năm, Ngài
thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam Thiệm Bộ Châu.
16. La Hán Tọa Lộc
Ngài tên là Tân-đầu-lô-phả-la-đọa 賓頭盧頗羅墮 (Pindolabhāradvāja), xuất thân dòng
Bà-la-môn, là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên
rời bỏ triều đình vào rừng núi nỗ lực tu tập, sau khi chứng Thánh quả cỡi hươu
về triều khuyến hóa vua, nhân đó được tặng danh hiệu La-hán Cỡi Hươu.
Nhân một hôm Tôn giả dùng thần thông lấy cái bát quý treo trên cây trụ cao của
một trưởng giả, bị Phật quở trách việc biểu diễn thần thông làm mọi người ngộ
nhận mục đích tu học Phật pháp. Phật dạy Tôn giả phải vĩnh viễn lưu lại nhân
gian để làm phước điền cho chúng sanh, vì thế trong các pháp hội Tôn giả thường
làm bậc ứng cúng. Một lần ở thời Ngũ Đại, triều vua Ngô Việt thiết trai, có một
Hòa thượng lạ, tướng mạo gầy ốm, lông mày dài bạc trắng bay đến ngồi vào chỗ
dành cho khách quý mà ăn uống vui vẻ. Ăn xong Ngài tuyên bố Ngài là Tân-đầu-lô.
Dưới thời vua A-dục và vua Lương Võ Đế, Ngài đích thân hiện đến giáo hóa, làm
tăng trưởng lòng tin. Thời Đông Tấn ngài Đạo An là bậc cao tăng phiên dịch kinh
điển thường lo buồn vì sợ chỗ dịch của mình sai sót. Ngài khấn nguyện xin chư
Hiền Thánh hiển lộ thần tích để chứng minh. Tối hôm đó Ngài nằm mộng thấy một
vị Hòa thượng lông mày trắng nói:
- Ta là Tân-đầu-lô ở Ấn Độ, lấy tư cách là một đại A-la-hán, ta bảo chứng những
kinh điển ông dịch đều rất chính xác.
Tôn giả Tân-đầu-lô là một vị La-hán rất gần gũi nhân gian, Pháp Trụ Ký xếp Ngài
là vị La-hán thứ nhất, thường cùng 1.000 vị La-hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.
17. La Hán Trầm Tư
Ngài chính là La-hầu-la 羅喉羅
(Rāhula). Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ
dần tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh
quả. Ngài luôn khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua, phòng của
mình bị người chiếm ở, Ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất thực
bị bọn côn đồ ném đá trúng đầu chảy máu, Ngài lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi
tự tay băng bó. Tín chủ cúng cho Ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem
cúng người khác, Ngài cũng bình thản? dọn ra khỏi phòng.
Sau khi chứng quả A-la-hán, Ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng Ngài là
Mật hạnh đệ nhất và chọn Ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức
tánh lặng lẽ, Ngài được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư.
Sau Phật diệt độ, vua nước Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập phá chùa viện,
thiêu hủy kinh tượng, số người xuất gia giảm sút. Có một Hòa thượng ôm bát vào
thành khất thực, nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm Ngài mới gặp một
gia đình tin Phật cúng cho bát cháo nóng. Hòa thượng hớp xong miếng cháo thở
dài, thí chủ hỏi thăm thì được Hòa thượng kể lại thời Phật còn tại thế, Ngài
cũng từng theo Phật đến đây khất thực, lúc ấy nhà nhà tranh nhau cúng dường,
khác hẳn ngày nay. Hòa thượng tiết lộ thân thế mình chính là La-hầu-la, mấy
trăm năm nay dốc lòng hoằng dương Phật pháp.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị la-hán thứ mười một, thường cùng 1.100 vị A-la-hán
trụ ở Tất-lợi-dương-cù châu.
18. La Hán Trường Mi
Tên của Ngài là A-thị-đa 阿氏多
(Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh
ra đã có lông mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước Ngài là một nhà sư.
Sau khi theo Phật xuất gia, Ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán.
Ngài cũng là một trong những thị giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa
trong dân gian. Một hôm đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế, nhân dân nước này không
tin Phật pháp, chỉ thờ quỷ thần sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho
mời danh y trị bệnh và thỉnh giáo các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy bảo: “Đại
vương chớ lo, bệnh của Thái tử không cần uống thuốc cũng khỏi.” Khi gặp tôn giả
A-thị-đa, vua hỏi thử thì Tôn giả bảo rằng bệnh không qua khỏi. Vua rất tức
giận bỏ đi. Một tuần sau, Thái tử chết thật, vua tạm thời không tổ chức tang
lễ, ngày hôm sau vua đi gặp tôn giả A-thị-đa, Ngài chia buồn với vua, còn khi
vua gặp các ngoại đạo thì lại nghe chúc mừng Thái tử hết bệnh. Điều này chứng
tỏ các ngoại đạo không có dự kiến đúng đắn. Nhà vua từ đó quy ngưỡng Phật pháp.
Nhờ sự hoằng dương của Tôn giả mà Phật pháp hưng thịnh ở nước này.
Đã hơn 2.000 năm, nhưng tại Ấn Độ vẫn tin rằng tôn giả A-thị-đa còn đang trị
bệnh cho người hay tọa thiền trên núi.
Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ mười lăm, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ
trong Linh Thứu Sơn.
9. Các loại Phật tượng thờ
Đồ tượng học là
phương pháp phân định những loại tượng thờ tại những cơ sở tín ngưỡng đình
chùa, miếu điện… hay trong dân gian. Những nghệ nhân trong ngành đồ tượng học
đã nghiên cứu những pho tượng cổ điển đồng thời gia công cải tiến lại từng
khuôn mặt, thể dáng, thủ ấn, trì vật sao cho thích hợp. Chính do những gia giảm
các chi tiết của đồ tượng, mà nghệ nhân ngành chế tác tượng hình có thể biểu
đạt nguyên tắc nghi qui và đồ tượng. Nghi qui là cácnghi lễ, tư thế, trang phục
thích ứng. Đồ tượng là hình thể củatượng đi, đứng hay ngồi. Việc thực hiện đồ
tượng phải vâng theo: (a) kinh điển ghi chép của từng vị; (b) quy pháp và Phật
thoại; (c) nguyên tắc tạo hình trong nghệ thuật điêu khắc.
Hình tướng Phật và La Hán: Về
hình tướng Phật tượng nói chung, dựa theo những nguyên tắc trong nghệ thuật tạo
hình, thường phân chia ra các loại: Phật hình, Bồ Tát hình, La Hán hình, Thần
Vương hình, Thiên Vương hình, Quỷ hình và Súc hình. Mỗi thể loại còn được chế
tác theo nguyên tắc cách điệu, biểu trưng, tả chân, ấn tượng. Điều cơ bản để
tạo nên sự khu biệt ấy một phần quan trọng là do các tư tọa lập, các thức thủ
ấn, trang phục.
Tượng Phật: Có 5 cách thể
hiện Phật Thích Ca diễn tả những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của đức
Thế Tôn: (a) Tượng Cửu Long (chín con rồng chầu) thể hiện lúc đức Thích Ca đản
sanh. (b) Tượng Tuyết Sơn: thể hiện giai đoạn tìm đạo, tu khổ hạnh. (c) Tượng
Niệm Hoa: thể hiện giai đoạn đức Bổn sư cầm hoa sen thuyếtpháp. (d) Tĩnh toạ:
đức Phật thành chánh quả. (e) Nhập diệt: đức Phật nhập Niết bàn, trong tư thế
nằm.
Tượng Phật đản sinh: Tượng nầy được chế tác nhiều loại
khác nhau bằng tượng gốm ở khắp mọi miền đất nước. Đặc trưng của pho tượng nầy
là tượng Ngài đứng trên một đài sen, một tay chỉ lên trời, tay kia chỉ xuống
đất. Chi tiết biểu thị Phật trong hình tượng là hai taicó thùy châu dài theo
lối hiểu “tai dài như tai Phật”. Trong những pho tượng tạc bảo lưu đến nay, sự
tuân thủ vào quy pháp tạo hình cũng không thống nhất: chẳng hạn: pho tượng đức
Thích Ca Đản sanh tại nhiều ngôi chùa ở miền Bắc và miền Trung thì tay phải chỉ
lên trời; còn pho tượng lưu hành tại chùa Tây Phương, chùa Yên Tử, chùa BáoQuốc
thì ngược lại, tay trái chỉ lên trời. Tính chất không nguyên tắc nầy cũng thấy
trong những pho tượng gỗ, tượng đồng ở các ngôi chùa miền
Tượng Di Đà toạ thiền: Tượng Phật nầy được chế tác chân
phương và có phần đăng đối. Đầucó tóc xoắn ốc, giữa đỉnh đầu có nhục kế nổi
cao, tai dài xuống gần vai, áo cà sa rộng trùm cả hai bả vai, cổ tròn, tay áo
dài rộng. Phật ngồi theo thế kiết già trên tứ phượng toạ; chung quanh trang trí
hình sen. Hai tay đặt chồng lên nhau theo thế “thủ ấn thiền định” (Dhyana
mudra). Đây cũng là họa tiết và kiểu thức của các pho tượng Bồ Tát Quan Âm, mà
có những đường nét theo kiểu tượng hình Di Đà Tam tôn; nhưng nhiều ngôi chùa
miền Trung và miền
Tượng đức Phật Di Lặc: Trong
đồ tượng học, tượng Phật Di Lặc là tập hợp dược thể hiện trong diện mạo hình
tướng “Di Lặc Lục tặc”: đầu tròn, áo hậu,ngồi bệ lập phương, y toạ, tĩnh tâm,
thiền định.
Tượng Quan Âm: Những pho
tượng lưu hành đều theo sáu cách thể hiện quy định (a) Quan Âm Chuẩn Đề: theo
công thức thì tượng nầy có ba mặt và 18 tay. (b) Thiên thủ, Thiên nhãn: đức
Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt như pho tượng ở chùa Bút Tháp. (c) Quan Âm tọa
sơn: thể hiện đức Quan Âm ngồi trên đỉnh núi. (d) Phật Bà: thể hiện Phật bà
Quan Âm đội mũni, ngồi toà sen. (e) Quan Âm Tống Tử: thẻ hiện đức Quan Âm ngồi
bế đức bé, một bên có Thiện Sĩ (biểu trưng bằng hình con vẹt).
Tượng Bồ Tát Chuẩn Đề: Trong
đồ tượng, xét về hình tướng của Bồ tát Chuẩn Đề không khácgì so với Quan Thế Âm
Bồ Tát. Pho tượng thường trình bày nhiều tay: có tượng 6 tay, có tượng tay, có
tượng 18 tay, biểu trưng cho công năng trong từng giai đoạn và trường hợp hành
trì. Tại chùa Trăm Gian và chùa Diên Hựu, pho tượng Bồ Tát Chuẩn Đề lại thêm
nhiều taynữa, ngồi kiết già. Tại một số chùa khác thì đài toạ và tư thế có hai
loại tượng khác nhau: Một loại trình bày Chuẩn Đề cỡi công (gọi là Khổng Tước
tọa); loại thứ hai gọi là Chuẩn Đề Lục giác toạ.Nếu so với quy pháp đề tượng
chính thức của Ngài Chuẩn Đề thì cácpho tượng Chuẩn Đề ở nhiều chùa chiền Việt
Nam có phần được giảnlược hơn. Những trì vật thông thường là Nhật Nguyệt Quan
Âm.
Địa Tạng Vương Bồ Tát: Trong tập hợp những loại đất nung về
đồ tượng đức Địa Tạng Vương Bồ Tát được phân chia ra làm hai loại chính: Loại
thứ nhất làtượng ngồi trên ngai, chung quanh có các thị hầu oai nghiêm; loại
thứ nhì, Ngài ngồi trên con thanh sư, mỗi biểu trưng cho việc hành trì chánh
pháp. Cả hai đều có những điểm chung nhất trong nghệ thuậttạo hình: đầu đội mũ
Tì Lư (hay Thiên Sứ Tì Lư), toàn thân khoác Y bá nạp, một tay để ngửa trước
bụng, trên có một Hồ bình hay Bửu bát; tay kia giơ cao lên; ngón áp út khuyên
tròn lên ngón cái.
Phật thoại ghi: Tướng
pháp nầy biểu trưng cho ấn thí vô úy. Ngoàira, một số tượng biểu trưng cho “ấn
an ủy”. Trong một số đồ tượng khác, tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát còn cóhai đệ tử
theo hầu: Mẫn Công và Đạo Minh. Một số tượng khác thì còn thêm Chủ Mạng Quỷ
Vương. Trong nhiều thể loại tượng đất nung về pho tượng nầy thì gậy tích của
ngài Địa Tạng Vương lại thấy ở tượng của Chủ Mạng Quỷ Vương; trong khi đó trái
châu biểu hiện cho thần lực của Ngài thì thấy ở pho tượng Mẫn Công. Giải thích
điều nầy, Pháp Thoại ghi: Hình tướng Địa Tạng Vương ở đây là một trong 6 trường
hợp hoá thân của Ngài, được gọi là Lục Địa Tạng. Lục Địa Tạng là: Đàn Đầu Địa
Tạng, Bảo Châu Địa Tạng, Bản Ấn Địa Tạng, Trì Địa Địa Tạng, Trừ Chướng Địa Tạng
và Nhật Quang Địa Tạng.
Tượng La Hán: Hình tướng
của các bộ tượng La Hán ở tập hợp tượng đất nung, hầuhết được biểu hiện dưới
dạng Thinh Văn hình. Biểu tướng nầy còn gọi là Tỳ Kheo hình, tức là có hình
tướng chiếu theo hình tướng của đúc Bổn Sư Thích Ca khi còn tại thế; tuy nhiên
tóc không xoắn mà đầu cạo trọc, đỉnh đầu không có nhục kế, áo hậu có dây thắt
lưng. Nói chung, hình tướng La Hán có phần thoát sáo, và trong chừng mực nào
đó, đã thoát khỏi những nét đặc trưng nhân dạng của người Tây Vực hay Trung
Hoa, mà lại có nhân dạng Việt
Ở nhóm tượng nầy thường có hai loại: ngồi trên ngai và cưỡi thú. Nhưng dù
thuộc thể loại nào chăng đi nữa, thì hình tướng cũng có phần hiện thực hơn so
với các tượng thuộc nhóm Phật hình, Bồ Táthình, hay những nhóm tượng thuộc
Thiên Vương, Hộ Pháp, Thiện Hữu,Ác Hữu, Kim Cang, thường được gọi chung là
Thiên Thần Hộ Pháp.
Tứ Thiên Vương: Tứ Thiên
Vương còn được gọi là Hộ Thế Tứ Vương là 4 hình tướng tiêu biểu cho Thiên Vương
Hình. Cả bốn vị đều ngự ở cõi trời “Tứ Thiên Vương Thiên” (Caturmaha
Rajakasika) thuộc về cõi trời dục giới; lưng chừng trên ngọn núi trung tâm vũ
trụ gọi là “Tu Di Sơn”, thấp hơn cõi trời Đao Lỵ của Đế Thích. Tứ Thiên Vương
là ngoại thần của Đế Thích có trách nhiệm thống quản cõi trời theo 4 hướng: Trì
Quốc Thiên Vương (Virudka) (Hướng đông), Quảng Mục Thiên Vương (Viruphaka)
(Hướng tây), Tăng Trưởng Thiên Vương (Dhirtarastra) (Hướng nam), Đa Văn Thiên
Vương (Dhananda) (Hướng bắc). Tứ Thiên Vương đã từng nghe đức Phật thuyết pháp
kinh Đại Thừa vàcũng đã nguyện độ trì Tam Bảo. Do vậy mà các chính điện chùa
chiền đều có tượng Tứ Thiên Vương. Biểu tướng của các tướng Thiên vương là một
tướng nhà trời oai nghiêm: đi giày trận, mặc áo giáp, đầu đội kim khôi, tay cầm
bửu bối; đàn tỳ bà, bảo kiếm, vòng kim cang, ngọc châu, che dù, có con “hoa hồ
điêu”. Đó làhình tướng phổ biến trong các tượng thuộc đề tài nầy cũng nhưtrong
điệu múa “Tứ Thiên Vương” ở loại diễn xướng cung đình Huế. Một số làng miền
Bát Bộ Kim Cang: Đây là các vị
Kim Cang Lực Sĩ (Vajrapani) cũng được gọi là Kim Cang Thần; thường chỉ chung
các vị thần cầm chày Kim Cang (như Kim Cang Thủ, chấp Kim Cang) biểu hiện uy
thế lớn lao, bảo vệ Phật pháp ở khắp tám bộ chúng (Thiên, Long, Quỷ Vương, Dạ
Xoa, Càn Thát Bà,A Tu La, Khần Na La, Ma Ha La Già). (theo Đoàn Trung Còn).
Nghiên cứu kỹ những đồ tượng đất nung và đồ gốm cải tiến, thì những vị Kim Cang
Thần được chế tác với dạng các võ tướng: đầu đội kim khôi, mình mặc áo giáp,
vai có phong đai, tay cầm hoa sen, ngọc châu… Tuy là Thiên Hình tướng như Bát Bộ
Kim Cang đều có diện mạo thanh tú, khuôn mặt hiền hậu, phúc đức. Điều nầy
khácvới vẻ oai vệ và dữ dội của các loại tượng Kim Cang khác.
Điêu khắc tiêu biểu:
Một trong những ngôi chùa còn được bảo lưu từ thời Lê Sơ khá hoàn thiện là chùa
Tây Phương, tại núi Câu Lậu, huyện Thạch Thất, ngoại thành Hà Nội. Những công
trình điêu khắc tại chùa Tây Phương khá hoàn chỉnh, đãđóng vai trò chính yếu về
điêu khắc cuối thế kỷ XVIII, với sắc thái Tịnh Độ Tông. Những pho tượng tại
chùa nầy không điêu khắc cùng một lúc nhưng phần nhiều đều được hoàn tất vào
năm 1794, trong lễ khánh thành chùa. Có pho tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát 12 tay
vào thế kỷ XVII là tượng cổ nhất của thế kỷ XVII còn lưu lại; muộn nhất trong
nhóm tượng nầy là 2 tượng Kim Cương, được mang từ nơi khác đến; tượng đức Quan
thế Âm 112 tay vào thế kỷ XIX sau đó; còn hầu hết đều thuộc thế kỷ XVIII.
Những nhóm tượng tại chùa Tây Phương còn lại thì phải kể đến:
(1) 7 pho tượng Kim Cương. (2) Bộ tượng Di Đà Tam Tôn; tượng Thích Ca Tuyết
Sơn, tượng Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát,
tượng Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. (3) Bộ tượng Tam Thế. (4) 18 pho tượng các vị
tổ Thiền tông.Sự sắp đặt các hệ thống nầy có tính loại hình cao, mang tinh thần
nhập thế của Phật Giáo.Tuy là Bát Bộ Kim Cương (8 pho tượng) nhưng hiện nay
chùa Tây Phương chỉ còn 7. Tất cả đều có chiều cao vào khoảng 2,2m tính từ đầu
xuống không kể tầm vươn của các binh khí, thể hiện được trình độ rất cao của
nghệ thuât điêu khắc, lắp ghép các thành phần gỗ, cũng như cách bố cục, chuyển
động, trên một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ.
Các chi tiết trang trí mang tính chất hiện thực, về khuôn mặt mỗi người thì
theo một khác nhau, mang tính chất cường điệu. Chiều cao vào khoảng ba mét,
được sắp đặt chung quanh góc chùa trong thế phù trì. Những nghệ nhân nổi tiếng
tại huyện Ba Vì đã chăm lo điêu khắc;họ đã căn cứ vào đức tính và chức năng của
mỗi vị Thần, để từ đó,bố cục, trang trí những đường nét sao cho hợp lý về cử
chỉ cũng như trang phục cho từng vị một. Những tay thợ khéo cũng đã nghiên cứu
từng binh khí, giáp trụ, từng chiêu thức tiến thoái, bàn tấn trong võ thuật,
tạo những đường nét sinh động, tinh vi lạ thường. Những nét chính của sự sáng
tạo và nghiên cứu tâm lý nầy mà những pho tượng Bát Đại Kim Cương nầy đã trở
thành mẫu mực về nghệ thuật diễn đạt dung mạo của chư Thánh.
Linh động nhất trong toàn thể những công trình nầy thì phải kể đến các pho
tượng chư vị La Hán. Tượng lớn bằng người thật, có tượng đứng, có tượng ngồi, ở
phía tường hậu của thượng điện. Tất cả còn lại 14 pho tượng (trước kia là 18
pho); mỗi pho tượng đều biểu hiện cử chỉ, phong thái riêng, trang phục riêng.
10. Ý nghĩa khoa học
của tư thế Hoa sen
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp
thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh. Điều cơ
bản nhất của quá trình hành thiền là luôn tỉnh giác, quan sát, để biết được
điều gì đang xảy ra nơi thân và tâm. Tuy nhiên, do nghiệp lực thôi thúc hoặc do
áp lực của cuộc sống hiện đại, việc gìn giữ chánh niệm trong cả bốn oai nghi:
đi, đứng, nằm, ngồi, thường không dễ dàng. Do đó, bên cạnh việc duy trì một chế
độ ăn uống, sinh hoạt và giao tiếp thích hợp, thì việc dành ra những thời khắc
nhất định trong ngày để thực hành tọa thiền với tư thế kiết già (hoa sen) cũng
là một trợ duyên có nhiều ý nghĩa.
Về mặt khoa học, những thí nghiệm về yoga cho thấy chỉ cần ngồi vào tư thế kiết
già, dù ta không cố gắng tập trung tư tưởng vẫn có một sự thay đổi sóng não từ
nhịp beta khoảng 20 chu kỳ/giây xuống nhịp alpha khoảng 8 chu kỳ/giây. Nhịp
alpha là sóng não của một người đang trầm tĩnh và minh mẫn, tâm lý ổn định.
Điều này có ý nghĩa là tự thân tư thế kiết già đã có công năng làm êm dịu thần
kinh, một yếu tố quan trọng dể dẫn dắt người tập dễ đi đến tình trạng thư giãn,
nhập tĩnh.
Kết quả trên cũng phù hợp với những lý luận và thực tế lâm sàng của y học châm
cứu cổ truyền về huyệt tam âm giao, khi biết rằng ở tư thế kiết già xương mác
của một chân đã tạo một sức ép khá mạnh lên đúng vị trí của huyệt tam âm giao
của chân còn lại. Điều này có ý nghĩa là trong suốt thời gian ngồi kiết già,
huyệt tam âm giao liên tục được kích hoạt. Ở những người thường ngồi tư thế
này, sức ép tạo ra một dấu ấn trên mặt da tại vùng huyệt trông giống như một
vết thương cũ đã lành. Huyệt tam âm giao ở chỗ lõm bờ sau xương chày.
Đối với người có tầm vóc trung bình, huyệt ở trên mắt cá chân khoảng 6 đến
6,5cm. Được gọi là tam âm giao vì huyệt là giao điểm giao hội của ba đường kinh
âm: túc thái âm tỳ, túc thiếu âm thận và túc quyết âm can. Theo quan niệm chỉnh
thể của y học phương đông, một tạng hoặc một phủ khi phát sinh bệnh biến sẽ có
biểu hiện trên đường tuần hành của đường kinh đi qua nó. Ngược lại ta cũng có
thể thông qua những huyệt vị trên đường kinh để điều chỉnh những rối loạn bệnh
lý của các tạng phủ bên trong. Ở đây là can thận chủ hạ tiêu, tỳ chủ trung
tiêu. Do đó, khi tác động vào huyệt tam âm giao ta có thể điều chỉnh toàn bộ
quá trình chuyển hóa, hấp thu và bài tiết ở khu vực này. Đặc biệt là tác dụng
“dưỡng âm kiện tỳ” và “sơ tiết can khí” của huyệt. tác dụng này giúp tái lập
cân bằng nội tiết, nội tạng và điều hòa thần kinh giao cảm. Chính điều này giúp
an định cả thân và tâm trong quá trình hành thiền.
Việc kính hoạt vào huyệt tam âm giao của tư thế kiết già còn làm sáng tỏ thêm
một nghi vấn khác. Đó là ở tư thế này chân hữu chồng lên chân tả hay ngược lại,
chân tả phải chồng lên chân hữu? Trên thực tế, hệ thống kinh lạc ở hai bên thân
thể, bên phải và bên trái có tính tương đồng và đối xứng nhau. Do đó, thì ngồi
cách nào thì một trong hai huyệt, hoặc tam âm giao phải hoặc tam âm giao trái
sẽ được tác động. Hơn nữa, tam âm giao là một trong số ít các huyệt vị có tính
tự điều chỉnh rất cao. Dù kích thích vào huyệt theo cách nào, lâu hay mau, bên
phải hay bên trái, thì hiệu ứng mang lại vẫn là cải thiện, là điều chỉnh để
tiến tới hòa hợp và cân bằng. Do đó, tùy theo sở thích hoặc thói quen của mỗi
người, cả hai cách ngồi trên đều mang lại kết quả tốt cho việc hành thiền.
11. Tam Tạng
Kinh Điển
Trong 45 năm truyền giảng con đường giải thoát, Đức Phật thu nhận rất
nhiều đệ tử, có người xuất gia theo ngài và lập thành Tăng đoàn (Sangha), có
người cũng còn tại gia, gọi là các cư sĩ. Vùng truyền giáo của ngài là vùng
Đông Bắc Ấn Độ giáp biên giới xứ
Ngài thường được gọi là Đức Phật Cồ Đàm (Buddha Gotama). Chữ “Phật” là tiếng
gọi tắt của “Phật Đà”, phiên âm từ chữ Phạn “Buddha” – người bình dân Việt Nam
có nơi gọi là ông Bụt – nghĩa là người đã giác ngộ (Giác Giả) . Trong các kinh
sách ghi lại, ngài thường tự gọi mình là Tagatatha (Như Lai). Ngài có rất nhiều
đệ tử từ các quốc gia trong vùng, gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, lứa tuổi,
nam nữ, và từ nhiều nguồn gốc tín ngưỡng khác nhau.
Đức Phật đã để lại một kho tàng quí giá gồm nhiều bài thuyết giảng (Kinh,
Sutta), thường được gọi tổng quát là “tám vạn bốn ngàn” pháp môn, trong nhiều
dịp giảng dạy cho hàng đệ tử, bậc thánh thanh văn, cư sĩ, … Với sự phát triển
và bành trướng của Tăng đoàn, Ngài đặt ra nhiều giới luật để tạo điều kiện
thuận lợi trong công tác tu tập (Vinaya, Giới). Ngoài ra còn nhiều bài giảng
đặc biệt khác mà về sau nầy được đúc kết lại trong bộ A Tỳ Đàm (Abhidhamma).
Kết Tập Đầu Tiên
Ba tháng sau khi Đức Phật tịch diệt, một đại hội các vị tu sĩ (Tỳ kheo,
Bhikkhu) được tổ chức, ngày nay được gọi là Đại Hội Tăng Già I, tại vùng đồi
núi ngoại thành Rajagaha (Vương Xá). Mục đích là để kết tập các bài kinh giảng
và các điều luật thành một hệ thống chặt chẻ hơn [4]. Chủ trì phần Luật là Tỳ
kheo Upali (Ưu Ba Ly), và chủ trì phần Kinh là Tỳ kheo Ananda (A Nan Đà), là
người cận sự với Đức Phật và vì thế có nhiều dịp nhất để nghe và ghi nhớ các
bài giảng của Ngài. Đại hội gồm khoảng 500 vị cao tăng duyệt lại các giới luật
và các bài thuyết pháp, sắp xếp thành hai nhóm chính: Luật Tạng và Kinh Tạng.
Qua những thu thập lúc đó, Kinh Tạng được phân chia làm 4 Bộ chính: Trường bộ,
Trung bộ, Tương ưng bộ, và Tăng Chi bộ.
Kết Tập Lần Thứ 2
Trong 45 năm hoằng dương đạo pháp, Đức Phật đã đi nhiều nơi, giảng đạo cho
nhiều người và kết nạp nhiều đệ tử. Các đệ tử của Ngài ở rải rác khắp nơi,
không thể nào cùng về tham dự Đại hội đầu tiên. Do đó có thể có một số bài
thuyết giảng và giới luật phụ do Đức Phật đặt ra đã không được kết tập trong kỳ
Đại hội đó [4].
Vì vậy mà khoảng 100 năm sau, năm 383 trước CN, một đại hội kết tập kinh điển
được tổ chức, theo yêu cầu của tăng chúng thành Vesali và Vajji [5]. Sau lần
kết tập nầy, Luật Tạng được mở rộng với các giới luật mà các đại biểu cho rằng
đã không được kết tập trong kỳ Đại Hội I, và một số các bài kinh giảng khác
chưa kết tập, tạo thành một bộ kinh thứ 5 của Kinh Tạng (Tiểu Bộ).
Sau lần kết tập nầy, Luật Tạng và Kinh Tạng xem như đã thành hình, và các bài
giảng có lẽ cũng giống như bài giảng mà chúng ta có được trong bộ Đại Tạng hiện
nay [4].
Kết Tập Lần Thứ 3
Một trăm ba mươi năm sau đó, năm 253 trước CN, vua Asoka (A Dục) của Ấn Độ cho
triệu tập Đại hội lần thứ III. Tiểu Bộ của Kinh Tạng lại được mở rộng và kết
tập thêm nhiều bài kinh giảng khác. Quan trọng hơn hết là việc Đại hội đã đúc
kết các bài giảng về tâm lý, thể tính và sự tướng của vạn pháp, tạo thành Thắng
Pháp Tạng (Abhidhamma, A Tỳ Đàm, Vi Diệu Pháp, Luận Tạng).
Kết Tập Lần Thứ 4
Khoảng năm 20 trước CN, 500 năm sau ngày Phật nhập Đại Niết Bàn, vua
Vattagamani của Tích Lan (Sri Lanka) triệu tập Đại Hội Tăng Già IV tại
Aluhivihara — gần thành phố Kandy ngày nay [1], kết tập lại các phần Kinh,
Luật, và đúc kết phần Thắng Pháp Tạng [6]. Để gìn giữ các bài giảng của Đức
Phật dù đã kết tập nhưng chỉ truyền khẩu trong 500 năm qua, ba tạng kinh điển
được cho viết lại trên một loại giấy bằng lá bối-đa khô [4, 10]. Từ đó Tam Tạng
Pali được thành hình, và không còn thay đổi nào khác.
Trong thời kỳ gần đây, Miến Điện có tổ chức hai kỳ kết tập khác: kết tập lần
thứ V, năm 1870, và lần thứ VI, năm 1954. Tuy nhiên các kỳ kết tập nầy chỉ để
làm sáng tỏ các điểm chính trong kinh, nhưng không thay đổi gì trong bộ Tam
Tạng [5].
Tam Tạng Kinh Điển
“Tạng” hay “Tàng” là giỏ chứa, chổ chứa, tiếng Pali gọi là Pitaka. Ngày xưa tại
các chùa lớn thường có một thư viện gọi là “Tàng Kinh Các” để lưu trữ các bộ
kinh quí. Tam Tạng theo tiếng Pali gọi là Tipitaka, Ba Giỏ Chứa (The Three
Baskets), gồm có Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Kinh Tạng (Sutta Pitaka), và Thắng
Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka, còn gọi là Vi Diệu Pháp, hay Luận Tạng). Sau đây
là sơ lược về các tạng nầy:
1. Luật Tạng (Vinaya Pitaka)
Tạng nầy bao gồm các giới luật và nghi lễ cho nam tu sĩ (Bhikkhu, Tỳ Kheo) và
nữ tu sĩ (Bhikkhuni, Tỳ Kheo Ni), cách thức gia nhập tăng đoàn, truyền giới
luật, sinh hoạt tăng chúng, cách hành xử trong các trường hợp vi phạm giới
luật, vv. Tạng nầy thường được chia làm 5 bộ [1, 7]:
1. Ba-la-di (Parajika),
2. Ba-dật-đề (Pacittiya),
3. Đại Phẩm (Mahavagga),
4. Tiểu Phẩm (Cullavagga), và
5. Toát Yếu (Parivara).
2. Kinh Tạng (Sutta Pitaka)
Gồm 5 bộ chính (Nikaya): Trường Bộ (Digha Nikaya), Trung Bộ (Majjhima Nikaya),
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya), Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), và Tiểu Bộ
(Khuddaka Nikaya). Trong hệ Sanskrit (Bắc Phạn), 5 bộ nầy được gọi là 5 bộ A
Hàm (Agamas). Tuy nhiên, các bộ A Hàm nguyên thủy đã bị thất lạc và chỉ còn tìm
thấy các bản kinh tiếng Sanskrit rời rạc, mà hiện nay chỉ còn các bộ Hán dịch
từ nhiều nguồn gốc bộ phái và qua nhiều đời khác nhau [6].
Trường Bộ là tập hợp các bài kinh dài, gồm 34 bài kinh, đã được dịch sang Việt
ngữ, trong đó có hai quyển phổ thông nhất: Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha
Parinibanna Sutta) và Kinh Đại Quán Niệm (Maha Satipattana Sutta). Ngoài các
bài thuyết giảng của Đức Phật, Bộ nầy cũng có các bài giảng của Đại Đức
Sariputta (Xá Lợi Phất), vị đệ tử hàng đầu có tài thuyết giảng hùng biện nhất
thời đó, và các vị đệ tử nỗi tiếng khác.
Trung Bộ gồm có 152 bài kinh sắp xếp trong 15 phẩm, theo từng chủ đề. Bộ kinh
nầy rất phổ thông trong giới Phật tử sử dụng Anh ngữ và cũng đã được dịch sang
Việt ngữ. Bản dịch Anh ngữ được hiệu chỉnh nhiều lần, và bản dịch mới nhất đã
được hội Buddhist Publication Society, Tích Lan, xuất bản năm 1995. Các bài
kinh quan trọng thường có liên quan đến phép hành thiền quán niệm (Satipattana
Sutta), chính kiến (Sammaditthi), cách tịnh tâm (Kakacupama), cuộc đời Đức Phật
(Ariyaparyesana), tứ diệu đế (Mahahatthipadopama), không tính (Culasunnata),
quán niệm hơi thở (Anapanasati), vv… Có thể nói đây là một bộ kinh quan trọng
nhất, bao gồm các bài giảng thiết yếu trên đường tu tập, thực hành lời Phật
dạy.
Tương Ưng Bộ gồm 2,889 bài kinh ngắn, chia làm 5 chương và 56 phẩm. Đây là tập
hợp các bài kinh có chủ đề giống nhau về một điểm thảo luận, hoặc về một nhân
vật nào đó trong thời Đức Phật. Có những bài giảng quan trọng về 12 nhân duyên
và về 37 phần bồ đề (37 phẩm trợ đạo).
Tăng Chi Bộ là bộ kinh dựa theo cách sắp xếp số học (pháp số), từ các chủ đề có
liên quan đến 1 phần tử, 1 yếu tố, dần dần lên đến các chủ đề có 11 phần tử hay
yếu tố. Vì vậy, bộ kinh được chia làm 11 chương, gồm 2,308 bài kinh.
Tiểu Bộ thật ra không phải là bộ sách nhỏ, mà là tập hợp 15 bộ sách nhỏ:
1. Tiểu Tụng, Khuddaka Patha
2. Pháp Cú, Dhammapada
3. Phật Tự Thuyết, Udana
4. Như Thị Ngữ (Phật Thuyết Như Vậy), Itivuttaka
5. Kinh Tập, Sutta Nipata
6. Thiên Cung Sự, Vimana Vatthu
7. Ngạ Quỷ Sự, Peta Vatthu
8. Trưởng Lão Tăng Kệ, Theragatha
9. Trưởng Lão Ni Kệ, Therigatha
10. Bổn Sanh, Jataka
11. Nghĩa Thích, Niddesa
12. Vô Ngại Giải Đạo, Patisambhida
13. Thí Dụ, Apadana
14. Phật Sử, Buddhavamsa
15. Sở Hành Tạng, Cariya Pitaka
3. Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka)
Còn gọi là Vi Diệu Pháp hay Luận Tạng, đây là tập hợp các bài giảng của Đức
Phật về thể tính và sự tướng của vạn pháp, phân giải triết học và tâm lý học.
Thắng Pháp Tạng gồm có 7 quyển:
1. Pháp tụ (Dhammasangani)
2. Phân biệt (Vibhanga)
3. Giới thuyết (Dhatukatha)
4. Nhân thi thiết (Puggala Pannatti)
5. Biện giải (Kathavathu)
6. Song luận (Yamaka)
7. Nhân duyên thuyết (Patthana).
4. Các thánh điển trọng yếu khác:
Ngoài Tam Tạng Kinh Điển còn có các bộ Chú Giải và Phụ Chú Giải Kinh Điển, và
một số các tác phẩm Pali quan trọng khác cũng được học tập và lưu truyền cho
đến ngày nay:
Đảo sử (Dipavamsa)
Đại sử (Mahavamsa)
Tiểu sử (Culavamsa)
Mi Lan Đa vấn đạo (Milindapanha)
Thanh tịnh đạo luận (Visuddhi Magga)
Thắng Pháp tập yếu luận (Abhidhammattha Sanghaha)
Đại Tạng Việt Ngữ
Mặc dù Phật Giáo là một tôn giáo lớn ở Việt Nam và đã có mặt lâu đời tại đất
nước ta trên 18 thế kỷ, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một bộ Tam Tạng đầy đủ
bằng chữ Việt. Điều nầy đã được ghi nhận từ đầu thập niên 1950 [5], mà đã 40
năm qua, công tác dịch thuật vẫn chưa hoàn tất. Thật ra, công trình dịch thuật
sang chữ quốc ngữ từ các kinh điển Hán tạng bắt đầu trong thập niên 1930 với
nhiều vị danh tăng và học giả trong các phong trào phục hưng Phật Giáo và chấn
hưng Phật học [11].
Một chương trình phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt
Hệ phái Nguyên Thủy (Nam Tông) Việt Nam đã ấn hành các bộ Vi Diệu Pháp do Hòa
thượng Tịnh Sự dịch. Bộ Luật cơ bản đã được dịch từ các bản chữ Hán (Luật Tứ
Phần Giới Bổn Như Thích, HT Hành Trụ dịch). Các quyển Thanh Tịnh Đạo (Ni sư Trí
Hải dịch), Thắng Pháp Tập Yếu Luận (HT Minh Châu dịch) và Mi Lan Đa Vấn Đạo (Mi
Tiên Vấn Đáp, HT Giới Nghiêm dịch) cũng đã được xuất bản trong những năm gần
đây.
-oOo-
Ghi chú: Toàn bộ kinh điển Pali ngữ và bản dịch Anh ngữ đã được Hội Kinh Điển
Pali (Pali Text Society) lần lượt xuất bản trong 100 năm qua. Xin xem bài giới
thiệu bằng
12. Sự tích Quán Thế
Âm Bồ Tát
Quan Thế Âm tiếng Phạn là “Avalokitesvara” dịch sang tiếng Hán là Quan
Thế Âm hay Quán Tự Tại …Danh hiệu Quan Thế Âm, nghĩa là quan sát tiếng kêu than
của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ.Theo Kinh Bi Hoa thì ở vào
đời quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như Lai. thời đó có vua Chuyển
Luân Thanh Vương là Vô Chánh Niệm. Vua có quan đại thần là Bảo Hải, phụ thân
của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia đối trước Đức Phật Bảo Tạng phát ra 48 đại
nguyện.
Do đó, Đức Bảo Tạng thụ ký cho Vua (khi đó đã là Pháp Tạng Tỳ Kheo) sau này
thành Phật hiệu là A Di Đà ở vào thế giới cực lạc.
Trạm trổ Bồ Tát Quan Âm tại Trung Quốc. Nhiều cánh tay của Bồ Tát tượng
trưng cho khả năng cứu giúp chúng sinh vô tận.
Vua Chuyển Luân có nhiều con. Con cả là Thái Tử Bất Tuấn cũng do ngài
Bảo Hải khuyến tiến. Thái Tử cũng đi xuất gia theo cha và đối trước Đức Bảo
Tạng Như Lai phát ra bảo nguyện đại bi thương xót, cứu độ tất cả các loài chúng
sanh bị khổ não. vì vậy Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử thành Bồ Tát hiệu là
Quan Thế Âm, còn Bảo Haỉ là tiền thân của Đức Thích Ca Mầu Ni.Đức Bảo Tạng thụ
ký cho Thái Tử rằng: “Vì lòng đại bi Ông muốn quán niệm cho tất cả chúng sanh
được cùng về cõi an lạc (cực lạc). Vậy từ nay đặt tên cho Ông là Quan Thê Âm….
Bồ Tát Quan Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi
cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải
trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được ngu si. Do đó, Bồ Tát Quan
Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bi mà thực hiện đại thệ nguyện độ sanh của
Ngài.
TỪ là đem niềm vui đến cho kẻ khác. Chữ Từ như người ta thường nói: Từ thiện,
từ ái, từ mẫu, từ tâm. Từ tâm đối với ác tâm, sân tâm, ích kỷ tâm….BI là phương
châm, là cách thức hành động để cứu khổ.Từ là lòng yêu thương, Bi là ra tay
giải quyết và dấn thân nỗ lực làm việc để cứu giúp thực tế. Tóm lại Tu Bi:
Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi là Từ
(maritrya, maitri). Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng sinh, trừ bỏ nỗi khổ
cho họ gọi là Bi.
Quán Thế Âm xưa kia Ngài đã thành Phật hiệu là “Chánh Pháp Minh Như Lai”. Ngài
thị hiện làm Bồ Tát vì muốn đảm đương công tác cứu khổ ban vui cho chúng sanh.
Đức Bồ Tát quán thấy Phật và chúng sanh đồng chung một bản thể, đồng chung một
giác tánh duy nhất, nhưng Phật đã giác ngộ mà chúng sanh thì còn mê.
Do đó, Đức Quan Thế Âm tức là một vị Phật tương lai sẽ bổ vào ngôi của Đức Phật
A Di Đà, thì ngài cùng với ngài Đại Thế Chí (kiếp xưa là em ngài, con thứ vua
Chuyển Luân cũng cùng Ngài đồng thời được Đức Bảo Tạng thụ ký) giúp việc giáo
hoá độ sanh cho Đức Phật A Di Đà và 2 Ngài cũng ứng thân xuống sa bà trợ giáo
cho Đức Thích Ca Mâu Ni.
Theo Kinh Thủ Lăng
Nghiêm có chép lời Ngài bạch với Đức Thếâ Tôn rằng:
“Con nhớ cách đây vô số hằng hà sa kiếp về trước có Đức Phật ra đời hiệu là
Quan Thế Âm, từ Đức Phật kia dạy con, do nghe, nghĩ và tu mà vào Tam Ma Đề” Do
đó nên biết: Ngài đã phát tâm Bồ Đề từ đời Đức Phật Quan Thế Âm trong vô số
hằng hà sa kiếp về trước do nghe Phật truyền pháp, Ngài đã nhận định pháp tu
viên thông về nhĩ căn là hơn tất cả, do ngài khó chứng viên thông ở nhĩ căn nên
được Đức Phật thụ ký cho ngài danh hiệu Quán Thế Âm, một danh hiệu mà chúng
sanh ở mười phương cung kính chấp trì, nhất là trong những lúc nguy hiểm, đau
khổ.
Ngoài ra, Kinh Quán Âm Tam Muội nói: “Xưa kia Ngài Quán Thế Âm đã thành Phật
hiệu là “Chính Pháp Minh Như Lai”. Tiền thân Đức Thích Ca hồi ấy đã từng ở dưới
pháp toà, sung vào trong số đệ tử khổ hạnh để gần gũi”. Ngày nay Đức Thích Ca
thành Phật, thời Ngài trở lại làm đệ tử để gần gũi lại:” Một Đức Phật ra đời
thì hàng ngàn Đức Phật phù trì”.
Trong Kinh Đại Bi Tâm Đà Na Ni thì chép lời Ngài bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn ! con nhớ vô lượng ức kiêp trước có Đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quan
Vương tĩnh trụ Như Lai” Đức Phật ấy vì thương đến con và tất cả chúng sanh nên
nói ra môn Đại Bi Tâm Đà La Ni. Ngài lại dùng cánh tay sắc vàng xoa đầu con mà
bảo:”Thiện Nam Tử ! Ông nên trụ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh
trong cõi trược ở đời vị lai mà làm cho họ được sự lợi ích yên vui lớn.” Lúc đó
con mới ở ngôi Sơ Địa, vừa nghe xong thần chú này liền vượt lên chứng đại Bát
Địa”.
Mật tông thì theo trong Kinh Đại Bản Như Ý nói có 8 vị đại Quan Âm là:
1) Viên Mãn Ý,
Nguyệt Minh Vương Bồ Tát.
2) Bạch Y Tự Tại.
3) Cát La Sát Nữ.
4) Tứ Diện Quán Âm.
5) Mã Đầu La Sát.
6) Tỳ Cầu Chi.
7) Đại Thế Chí.
8) Đà La Quan Âm (Quán Âm Chuẩn Đề).
Ngài có đức uy
thần công đức và lòng từ bi rất lớn. Ngài vốn không phải là nữ tướng, nhưng vì
ngài thường cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh (mà phụ nữ thường nhiều khổ nạn hơn
so với nam giới) cho nên giới phụ nữ đặc biệt tín ngưỡng về Ngài. Nên chúng
sanh mới tưởng tượng ra Ngài là nữ tướng để tiện hoá độ cho phụ nữ. Theo Kinh
A-Di-Đà nói: Người sanh về cõi cực lạc tuy chưa chứng quả Thánh, vẫn không có
tướng nam, tướng nữ. Kinh A Hàm nói người nữ có 5 chướng không thể thành
Phật…..Thế mà Bồ Tát Quan Thế Âm lại hiện thân người Nư ư?
Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân của Đức Từ Bi, muốn nói lên tình Mẹ thương con, Mẹ
đối với con là tình thương chân thành, tha thiết nhất không có tình thương nào
sánh bằng. Cho nên, Đức Quan Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân
loại, hay của tất cả chúng sinh.
Căn cứ theo hình tướng đã thể hiện và đức tính Quan Thế Âm đã cứu khổ cứu nạn
cho chúng sinh, nhân loại được thoát khổ đau ở sa bà này to lớn biết chừng nào
!
Chân như đạo Phật rất mầu
Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân
Hiếu là độ được song thân
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài
Tinh thông nghìn mắt nghìn tay
Cũng trong một điểm linh đài hóa ra
Xem trong biển nước nam ta
Phổ môn có Đức Phật Bà Quan Âm.
Cho nên, Phật Tử chúng ta dù tu theo pháp môn nào: Mật Tông, Tịnh Độ hay Thiền
Tông cũng phải thường xuyên niệm hồng danh của Ngài. Ngài gia hộ, độ trì cho
mới thoát khỏi tai nạn, khổ ách mỗi khi đến với mọi người chúng ta đều phải
niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát” thì được giải
thoát, tai qua nạn khỏi và sự nghiệp tu hành mới mau chóng thành tựu theo sở
cầu như nguyện
- 13. Mắt Người Trinh Nữ - Subhà Gặp Tên Du Ðãng
Ðã tạo được nhiều phước báu trong quá khứ,
vào thời của Ðức Phật Siddhattha Gotama, Bậc Tôn Sư Toàn Giác Tối Thượng, nàng
Subhà tái sanh vào gia đình của một vị bà la môn khả kính tại Ràjagaha (Vương
Xá, ngày nay là Rajgir, Ấn Ðộ). Nàng có sắc đẹp tuyệt trần, trong toàn thể thân
nàng chỗ nào cũng dễ mến, vì lẽ ấy có tên là Subhà. Khi Ðức Bổn Sư ngự tại
Ràjagaha cô đặt niềm tin (saddhà) vững chắc nơi Ngài và trở thành một nữ thiện
tín. Về sau cô phát tâm lo sợ bản chất đáng kinh hoàng của vòng luân hồi (samsàra),
vòng quanh những kiếp sinh tồn triền miên tiếp diễn, và nhận thức rằng thú vui
trần tục là dây trói buộc vào vòng nô lệ, một loại hạnh phúc tạm bợ nhất thời,
có ít hứng vị. Tình trạng an toàn và tự do nằm trong sự buông bỏ khước từ. Vì
thế cô xin xuất gia với Sư Bà Mahà Pajàpati Gotami [1]. Cô Subhà tinh tấn
chuyên cần. Hành thiền vắng lặng (samàdhi) và tận lực gia công hành thiền minh
sát (vi- passanà) cô chứng đắc tầng thánh thứ ba (anàgàmi, bất lai), không còn
bao giờ trở lại Dục Giới sau khi chết.
Ngày kia, Tỳ Khưu Ni Subhà vào vườn xoài của Jìvaka để ngơi nghỉ vào buổi trưa.
Cùng lúc ấy có tên du đãng nọ ở thành Ràjagaha, trong lứa tuổi thanh xuân đầy
tham dục, thấy ni cô vào rừng thì đâm ra say đắm sắc đẹp diễm kiều của cô. Tên
du đãng đứng chận ngang đường không cho đi tới. Ni cô Subhà cố làm cho anh ta
hiểu rằng cô là người xuất gia, đã khước từ thế gian, và cảnh cáo anh về những
tai hại và nguy cơ của dục lạc, nhưng vô hiệu quả. Lời khuyên của ni cô đã lọt
vào lỗ tai của người điếc.
Cuộc đàm thoại sau đây được ghi lại bằng những vần thơ thanh nhã tiếng Pali,
trong bộ Therìgàthà, Trưởng Lão Ni Kệ.
1. Tỳ khưu ni Subhà đang vào khu vườn xoài xinh đẹp. Một tên du đãng chận ngang
giữa đàng. Sư cô nói với nó như sau:
2. "Lỗi gì, tội gì, bần ni đã xúc phạm đến ông mà ông chận đường? Này ông
bạn, tôi là một ni cô, đã xuất gia mà chạm đến người nam là phạm giới.
3. "Phật Giáo đối với tôi thật vô cùng quý báu và tôi rất mến chuộng. Giới
tu tập nào mà Ðức Bổn Sư đã ban hành (cho tỳ khưu ni), tôi nghiêm túc thọ trì.
Không mảy may ô nhiễm, tôi hoàn toàn trong sạch. Tại sao ông lại chận đường
tôi?
4. "Tâm của ông đầy những tư tưởng tham dục; tôi thì tâm thanh ý tịnh. Quả
tim của ông bị những khát vọng đê hèn khuấy động, tôi không còn dục vọng và dầu
đi đâu cũng không ham muốn gì cho cái thân xác phàm tục này. Tại sao ông mãi
đứng đó chận đường tôi?"
Tên du đãng trả lời:
5."Sư cô đang còn son trẻ, sắc đẹp của sư cô trong trẻo, thân hình đẹp đẽ
diễm kiều. Gia nhập Giáo Hội (sống đời thánh thiện) thì có lợi ích gì; hãy lột
bỏ đi bộ y vàng. Ðến đây, chúng ta hãy thọ hưởng lạc thú trong khu rừng đầy
bông hoa đang đua nở, hãy tìm thú vui của nhục dục.
6. "Xem kìa, hương thơm ngào ngạt của ngàn hoa đang phảng phất trong gió.
Hãy thưởng ngoạn mùa xuân đang tung nở, hớn hở trong niềm vui. Hãy đến đây, thọ
hưởng lạc thú trong khu rừng đầy bông hoa đang đua nở, hãy tìm thú vui trong
nhục dục.
7. "Những ngọn cây đầy bông hoa nghiêng ngả, lã lơi uốn mình trước gió,
hình như đang ca hát để đón mừng chúng ta. Nhưng sư cô thì thui thủi vào rừng
một mình, làm sao tìm được hạnh phúc trong đó?
8. "Vào trong khu rừng hoang dại, nơi mà thú dữ hằng lui tới, nơi bị khuấy
động và luôn luôn phải run sợ trước những thớt voi đi tìm mồi, bốc lên mùi rừng
rú dã man, hôi thúi nồng nặc, nơi vắng bóng người và đầy kinh sợ hải hùng [2],
sư cô muốn vào trong ấy một mình, không ai tháp tùng hay sao?
9."Ôi, này người thiếu nữ đẹp đẽ tuyệt trần! Như pho tượng đúc bằng vàng
ròng lộng lẫy sáng chói, như tiên nữ nhảy múa hát ca trong một hoa viên trên cảnh
trời, trong bộ y phục làm bằng tơ lụa của
10. "Ôi, thiếu nữ với cặp mắt mơ mộng đẹp như tiên! Tôi sẽ hàng phục dưới
quyền uy của cô nếu chúng ta có thể chung sống và cùng nhau trải qua cuộc đời
trong khu rừng hoang dại này và thọ hưởng dục lạc. Cùng khắp thế gian không có
ai dịu hiền và dễ mến như cô. (Ðối với tôi cô còn quý hơn là mạng sống của
tôi).
11. "Nếu cô lưu ý đến những lời của tôi (từ bỏ và lánh xa đời sống độc
thân của cô), cùng nhau sống đời tại gia cư sĩ và hưởng thụ nhục dục ngũ trần.
Những kiều nữ thướt tha dễ mến sống trong những tòa nhà đẹp đẽ sẽ chăm sóc và
cung phụng cô về mọi nhu cầu.
12. "Hãy mặc những y phục may bằng hàng lụa ở
13 "Cô sẽ nằm trải mình trên một cái giưòng ấm cúng tiện nghi và sang
trọng, có mùi thơm của gỗ trầm phảng phất, và bao phủ trong một tấm trải giường
mới mịn bằng lông trừu êm ấm và gối đầu trên những cái gối dồn với lông thiên
nga mềm mại, màn trướng mới mẻ tinh anh.
14. "Dường như hoa sen xinh đẹp mà nở tung trong một ao đầm hoang dại (và
lặng lẽ tàn tạ, không ai màng muốn), cùng thế ấy, cô là một sư cô thanh khiết;
thân hình trong trắng, trinh bạch và giữ vẹn tiết tháo, cô sẽ già nua và suy
nhược rồi tàn tạ hoại diệt với tuổi già."
Sư cô Subhà hỏi:
15. "Nhìn vào phần nào trong cơ thể phù du yếu ớt đang suy tàn này, ông
thấy thích thú? Có gì mà ông xem là dễ mến trong cái thân nhơ bẩn ngạt mùi hôi
thúi này?"
Tên du đãng trả lời:
16. "Mắt cô giống như mắt của những con hưu rụt rè e sợ; nó tựa như cặp
mắt xinh đẹp của bà tiên nữ sống nơi thâm sơn cùng cốc. Nhìn vào đó lòng tôi tê
tái tràn đầy khát vọng không thể kềm chế.
17. "Gương mặt sáng ngời của cô chói lọi xinh tươi như một pho tượng vàng
rực rỡ. Mắt cô lóng lánh như những tai sen màu đỏ. Nhìn vào lòng tôi rung cảm
không thể kềm chế.
18."Với lông nheo dài của cô! Với cặp mắt trong trẻo và lóng lánh sáng
ngời của cô! Dầu cách xa ngàn dậm tôi vẫn chỉ mơ cặp mắt chói dịu ấy. Ôi, người
có cặp mắt xinh đẹp như các vì tiên nữ trong câu chuyện thần thoại! Trong thế
gian này không có chi mà tôi yêu quý bằng đôi mắt ngọc của cô."
Sư cô Subhà trả lời:
19."Ông chận đường một người con gái của Ðức Phật. Ước vọng của ông cũng
điên rồ và vô ích như dấn bước trên con đường nguy hại. Lòng khao khát của ông
muốn được tôi cũng dại khờ và vô nghĩa như muốn nhảy vọt lên đỉnh núi Meru, hay
mong muốn mặt trăng là món đồ chơi của con người. (Là một ước muốn không bao
giờ được thỏa mãn).
20. "Không nơi nào trên thế gian này có bất luận cái chi (dầu vô tri vô
giác hay hữu giác hữu tri) mà có thể gợi lòng tham dục của tôi. Tôi không biết
tham dục là gì. Lòng tham dục ấy, tôi đã phá tan từ gốc rễ bằng cách vững chắc
tiến hành trên Con Ðường Cao Thượng.
21. "Như vật gì mình đã vứt bỏ trong đống lửa đang phừng cháy, như chai
thuốc độc đã bị hủy diệt, dường thế ấy ngọn lửa tham dục của tôi đã bị dập tắt
vĩnh viễn. Tôi không biết (thấy) tham dục là gì.
22."Nếu có thể được, hãy đi cám dỗ người đàn bà nào khác mà chưa từng có
đủ sáng suốt để trông thấy ngũ uẩn [3], hoặc người chưa từng liên hệ với Ðức
Phật. Nơi đây ông chỉ khuyấy rầy người tu nữ -- một sư cô đã chứng ngộ Tứ Diệu
Ðế. [4]
23."Trước những lời khiển trách và tán dương, trong đau khổ và hạnh phúc,
tôi luôn luôn giữ chánh niệm. Như vậy, không lúc nào tâm tôi bám níu hay thèm
khát điều chi. Tất cả các pháp hữu vi, hiện hữu do duyên sinh, đều giả tạm. Tôi
đã hoàn toàn thông suốt điều này.
24. "Tôi là đệ tử của Ðức Phật, người đã vượt thoát ra khỏi mọi thúc dục ô
nhiễm, đã tận diệt mọi ái dục bẩn thỉu đê hèn. Lái chiếc xe Bát Chánh Ðạo, tôi
thẳng tiến (đến Niết Bàn). Những mũi tên của tham dục đã được nhổ ra. Tôi tìm
những cảnh quạnh hiu cô tịch, đơn độc và thanh khiết để thích thú sống một mình
(an hưởng thú vui của rừng núi).
25. "Ôi, ta đã thấy những đồ chơi hình giả, tay chân sơn phết với màu mè
sực sỡ và những thằng hình bằng gỗ để làm trò chơi múa rối, được nối ráp và
khéo léo cột với nhau bằng chỉ và, có thể thong thả nhảy múa theo mọi chiều
hướng.
26. "Nhưng một khi gỗ, chỉ và trục quây đều được tháo gỡ hay nới lỏng và
bỏ tung toé món ở đây món ở kia, thì còn đâu là đồ chơi hình giả, đâu là thằng
hình múa rối. Có nơi nào trong đó mà ông có thể chú tâm đến?
27. "Cơ thể này của ta cũng dường như thằng hình gỗ đồ chơi. Nó không còn
nữa khi các bộ phận vật lý và những phụ tùng của nó không còn. Ngoài những bộ
phận và phụ thuộc không còn người sống nữa. Ông sẽ chú tâm vào đâu (phần nào)?
28. "Hãy nhìn bức hình vẻ một thiếu nữ trên tường, với cái nhìn sai lạc
ông sẽ thấy đó là một người sống. Sự nhận thấy ấy là một ảo ảnh. [5]
29. "Này ông, con người thiển trí! con người đui mù. Ông cố bám vào thân
này như vật gì thường còn và thuộc về của ông chăng, trong khi nó vốn chỉ là
bọt bèo và bong bóng? Tấm thân phù du tạm bợ này tựa hồ như trò chơi của nhà ảo
thuật, như một cội cây bằng vàng mà ông thấy trong mộng, một pho tượng bằng bạc
mà nhà ảo thuật khéo léo trình bày giữa đám đông, ông có luyến ái nó không?
30. "Mắt này chỉ là một hòn bi nhỏ nằm trên một nạng cây -- một cái bong
bóng đầy nước mắt và tiết ra chất nhờn, một sự pha trộn (những màu trắng, đen
và xanh v.v...) đó là tất cả những gì tạo nên hình dáng của mắt."
31. Sư cô Subhà không còn luyến ái bất cứ gì; cô không luyến ái cặp mắt. Do đó,
trong một cảnh tượng rất cảm động, sư cô thình lình hồn nhiên móc trồng mắt ra
đưa cho tên du đãng và nói: "Ðây là con mắt đó (con mắt mà ông đắm đuối
say mê). Hãy lấy đi."
32. Tức khắc, lòng tham dục của tên du đãng biến tan. Xin sám hối với sư cô,
chàng ta nói: "Ôi, này sư cô, bậc thánh thiện và vô nhiễm! Ngưỡng nguyện
sư cô được an lành! Ngưỡng nguyện mắt sư cô được hồi phục! Tôi không bao giờ
còn dám tái phạm tội ác ghê tởm như vậy nữa.
33. "Cũng dường như tôi đi vào một ngọn lửa đang cháy đỏ. Cũng giống như
tôi đang ôm một con rắn độc. Phá khuấy một người hiền lành thánh thiện như sư
cô thì ích lợi gì? Cúi xin sư cô khoan dung tha lỗi cho tôi.
34. Ðược thoát ra khỏi tay tên du đãng, sư cô Subhà về hầu Phật, bậc Toàn Giác
Tối Thượng. Nơi đây, ngưỡng nhìn lên dung nhan lộng lẩy của Ðức Bổn Sư nhãn
quan của sư cô liền được hồi phục trong tất cả tình trạng rực rỡ vinh quang của
nó.
Khi nhãn quan trở lại như xưa sư cô vô cùng hoan hỷ, và Ðức Phật thuyết giảng
về những pháp để thành đạt tầng thánh cao nhất. Bà đè nén niềm hoan hỷ thích
thú trong lòng, phát triển thiền minh sát và chứng ngộ Ðạo Quả A La Hán, tầng
thứ tư và cũng là tầng cuối cùng trong tứ thánh, bằng cách trọn vẹn nắm vững
Giáo Pháp, thông suốt đầy đủ ý nghĩa trong tất cả chi tiết.
Về sau, thọ hưởng hạnh phúc của đạo quả Niết Bàn, và suy tư về tầng thánh mà
mình đã chứng ngộ, bà tuyên bố cuộc đàm thọai với tên du đãng qua những vần thơ
được đề cập đến trên đây.
14. Một Số Vấn Đề
Quan Điểm Địa Ngục?
Luân Hồi?
Xóa bỏ quan điểm rằng có một linh hồn bản ngã trường tồn theo nhiều đời sống
tiếp diễn. Trên cuộc sống này không tồn tại linh hồn! Con người gồm có danh và
sắc (hay tâm và thân). Thân chính là vật mượn dùng tạm để trả cho những nghiệp
đã gieo, khi nghiệp chấm dứt, tâm hoàn toàn thanh tịnh thì chúng ta không còn
phải trả thì sẽ ra khỏi vòng luân hồi sanh tử.
Thập Nhị Nhân Duyên ( hay gọi là Pháp tùy thuộc phát sanh) do Đức Phật thuyết
giảng bao gồm có: Vô minh > Hành > Thức > Danh Sắc > Lục Căn >
Xúc > Thọ > Ái Dục > Hữu > Sanh > Lão và Tử. Vì từ không có hiểu
biết mà dẫn đến tội lỗi và được phát xuất theo sau các giá trị khác, theo một
tiến trình vòng tức là khi nhân có thì quả xuất hiện, rồi khi quả thành thì trở
lại làm nhân, cứ tiếp tục như vậy. Bởi cái quan trọng là phải thoát khỏi vô
minh, nó là vấn đề quan trọng.
Trong bộ kinh Mahà Nidàna Sutta của bộ Dìgha Nikàya, Trường A Hàm viết. “ một
khi vô minh và ái dục tận diệt ắt không còn hành động thiện và bất thiện, và do
đó thức tái sanh sẽ không trổ sanh trở lại trong bào thai của người mẹ” (*)
Đức Phật dạy rằng:
Khi điều này hiện hữu, thì có điều kia.
Với sự phát sanh của cái này, cái kia khởi phát
Khi điều này không hiện hữu, thì không có điều kia
Với sự chấm dứt của cái này, cái kia chấm dứt.”
Đức Phật chấp nhận về quan điểm Luân Hồi. Và
Ngài dạy rằng bánh xe của luân hồi sẽ còn tiếp diễn mãi mãi khi mà có bàn đạp
là Vô Minh và Luyến Ái. Chúng ta có thể nghĩ như thế này, nếu như không tồn tại
Luân Hồi, mà con người tự nhiên xuất hiện, từ một nơi nào đó đến thì họ không
mang tội lỗi gì hay phước lành gì thì tại sao có người mới sinh ra đã phải chịu
cảnh thương đau, nghèo khổ, bệnh tật hay sung túc nào đó. Phải chăng đây là sự
sắp đặt của Thượng Đế hay vị Thần Linh quyết định. Vậy thì một Đấng Tối Cao nào
đó sắp đặt cho con người dựa vào điều gì khi mà vừa mới sinh ra lại lâm vào
cảnh nghèo khổ hay giàu sang? (Trong sự sắp đặt có thiên vị?). Vậy đối với
những con người chịu đau thương phải chăng có sự bất công? Nếu mà có sự bất
công thì đã bác bỏ đi Luật Nhân Quả (hay Công bằng) của tự nhiên, thì quả thật
đáng sợ vì chúng ta vô vọng trong cuộc sống mà không có quyền lựa chọn tự do,
có thể chúng ta sẽ chịu một điều đau thương mà không có nguyên do. Và nếu chỉ
sống đời sống này thôi thì chúng ta không cần phải màn tới vinh nhục, giàu
nghèo, những luân lý ràng buột, không từ bất cứ một tội lỗi nào cả miễn là được
vui vẻ và sung sướng trong đời sống, vì khi chết đi thì ngàn thu vĩnh biệt lo
chi có sự khổ đau nữa. Và sau này thế giới sẽ bớt đi được sự trách móc và than
van vì rằng tại sao tôi lại phải sinh vào cảnh này, cảnh nọ.
Chúng ta nhận thấy rằng, ta là vị cứu tinh của chính mình, là người vẽ nên bản
đồ số phận cho chính mình. Khi ta tạo nghiệp, thì ta phải thừa hưởng cái nghiệp
đó.
Tại Sao Con Người Bị Hói?
Đây là một vấn đề tế nhị trong cuộc sống! Theo như luật nhân quả chúng ta chấp
nhận rằng không bao giờ có sự bất công và thiên vị. Chúng ta gieo tạo thì phải
gặt hái.
Trong đời sống hiện đại phần nhiều về sự phát triển đời sống vật chất đầy đủ,
nhưng nó cũng là một phần phẩm tồi tệ cho thế giới nếu con người sử dụng vào
mục đính sai lầm. Ngày nay truyền hình, điện thoại, phim ảnh… mặt trái của nó,
con người dùng vào mục đích thỏa mản dục vọng, vì đã nhìn thấy những điều không
được phép nhìn (dâm dục), nó trái với luân thường đạo đức của một con người.
Nên con người phải gánh chịu điều đó.
Cũng có nguyên nhân ngoại lệ trong cuộc sống, con người có thế mắc bệnh ung
thư, hay căn bệnh từ nhỏ nào đó… nên không thể nói trọn được hết. Nhưng một
nguyên nhân dẫn đến chính là do dâm dục. Về mặt di truyền, gội đầu, hay nhuộm
tóc, dùng gel…. Thì hơi bất công đối với con người. Xin đề cập một ít.
“Chúng ta có quyền tự do suy nghĩ không lệ thuộc bất cứ ai”
Tu Tập Bao Nhiêu Kiếp Mới Đạt Được Giải
Thoát?
Tu tập không cần phải nhiều kiếp mới đạt được giải thoát. Tứ thiền sẽ giúp
chúng ta đạt được bậc A La Hán ngay trong đời sống này. Khi đạt bậc A La Hán
thì sự sanh sẽ chấm dứt.
Ngày xưa Đức Phật trãi qua hơn năm trăm kiếp mới đạt được Đại Niết Bàn là do
trong nhiều kiếp trước Đức Phật chưa tìm thấy được phương pháp tu tập đúng
cách. Ngài chỉ tạo Thiện Nghiệp nên Ngài vẫn còn tái sanh vào cảnh Thiên giới.
Đời sống cuối cùng của Ngài đã tìm thấy phương pháp tu đúng cách bằng phương
pháp diệt sạch những tham ái trong tâm và những dục vọng nên Ngài đã tuyên bố
“Đây là đời sống cuối cùng của ta ”.
Nghiệp bất thiện chúng ta gieo sẽ được trả dần trong quá trình tu tập. Vì vậy
khi quyết chí tu hành, phải có một nghị lực dũng mãnh và sẽ được khảo hạch rất
nhiều. Khi vượt qua chúng ta sẽ đạt được giải thoát. Điều kiện là ta phải xóa
sạch những dục vọng trong tâm can của mình.
Đạt được giải thoát phải thông qua Thiền Định: Thiền Vắng Lặng và Thiền Minh
Sát. Khi đạt được kết quả ta sẽ thấy:
Ở tầng Thiền thứ nhất, những ham muốn, say mê, và một số tưởng bất thiện như
dâm dục, ác ý, bạc trược, lo lắng, bồn chồn, và nghi ngờ bị loại bỏ, và cảm
nghĩ vui và hạnh phúc được duy trì với một số hoặt động tinh thần. Ở tầng Thiền
thứ hai, tất cả những hoặt động tinh thần bị loại bỏ, tĩnh lặng và nhất điểm
tâm phát triển, và cảm nghĩ hỷ lạc, hạnh phúc vẫn còn. Ở tầng Thiền thứ ba, cảm
nghĩ hỷ lạc là cảm nghỉ tích cực cũng biến đi. Trong khi khuynh hướng hỷ lạc
vẫn còn thêm vào sự thanh thản trong tâm. Ở tầng Thiền thứ tư tất cả những cảm
giác, cả đến hạnh phúc hay không hạnh phúc, vui và phiền não biến đi và chỉ còn
lại sự tĩnh lặng thanh tịnh và tỉnh thức còn lại.
15. Thập nhị nhân duyên
Đây là một trong những giáo lý căn bản của
Phật Giáo, là nền tảng cho những hiểu biết nhằm thoát khỏi khổ đau và luân hồi.
Đức Phật nói: “Này Ananda, chính vì không thâm hiểu giáo pháp này mà chúng sanh
hiện đại bị rối loạn như ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và
lau sậy babaja (ba ba la) không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử
” – Kinh Đại Duyên.
Thập nhị nhân duyên hay còn gọi là Pháp tùy thuộc phát sanh, có ý nghĩa như là:
mọi vạn vật đều do duyên (hay điều kiện) mà sinh khởi nên, như danh từ Duyên
Nghiệp ta có thể hiểu đó chính là những nghiệp thiện hay bất thiện của chúng ta
tạo ra sẽ được lưu giữ lại và đến khi duyên (điều kiện) đến thì nó sẽ phát sinh
nghiệp đó. Như câu mọi vạn vật do duyên sinh, nên vạn vật vì thế cũng do duyên
mà diệt.
Thập nhị nhân duyên gồm có 12 yếu tố: Vô Minh (dẫn đến) > Hành > Thức
> Danh Sắc >Lục Căn > Xúc > Thọ > Ái > Thủ > Hữu > Sanh
> Lão Tử.
1. Vô minh: Đây là danh từ mang hàm nghĩa chỉ sự không hiểu
biết chánh pháp, không thông hiểu bản chất của cuộc sống, chứ không phải mang
nghĩa thông thường là không hiểu. Vì do vô minh mà con người chỉ lo bám víu đời
sống hôm nay, chỉ lo tìm kiếm lợi lạc cho riêng mình, mong muốn được thụ cảm
những những hạnh phúc, vui sướng, thoải mái tạm bợ bên ngoài nhằm thỏa mãn giác
quan. Đó là một sự ngu muội vô cùng, vì rằng hạnh phúc vĩnh cửu chỉ xuất hiện
từ trong nội tâm phát ra mà thôi. Còn nương tựa bên ngoài thì không bao giờ là
bền vững, nhất định nó sẽ tan biến và mất đi dù chúng ta có bám lấy sao đi nữa.
2. Hành: Chữ Hành ta có thể hiểu đó chính là những hành động,
hành vi của thân, khẩu, ý gây tạo nên nghiệp quả. Yếu tố này do vô minh dẫn
đến, Vì rằng không có hiểu biết mà con người hành động theo tham ái, hay dục
vọng của mình mà không có điều hòa, chế ngự tâm nên tội lỗi, khổ đau, buồn
phiền luôn xuất hiện theo sau.
3. Thức: Đây là yếu tố do
Hành dẫn đến. Mang hàm nghĩa là thức nối tiếp, thức tái sinh hay thức nhận
biết. Khi chúng ta hành động không có Chánh kiến sẽ dẫn đến những nhận biết sai
lầm, để rồi chúng ta trở nên vô minh nhiều hơn nữa.
4. Danh Sắc: Yếu tố do Thức dẫn đến. Danh Sắc hay
còn được gọi là tâm và thân. Khi sự thấu hiểu sai lệch được hình thành làm cho
Tâm (Danh) chúng ta có khuynh hướng lệ thuộc vào những quan kiến đó, khi đó bản
ngã sẽ xuất hiện. Cụm từ Danh Sắc bao hàm nên một con người.
5. Lục Căn: Đây là yếu tố
do Danh Sắc dẫn đến. Bao gồm có: Nhãn (Mắt), Nhĩ (Tai), Tỷ (), Thiệt(), Thân, Ý
và nó chỉ có khi con người tồn tại.
6. Xúc: Yếu tố do Lục Căn
dẫn đến. Bên cạnh lục căn gồm có Lục Trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Cả
hai Lục Căn và Lục Trần cấu tạo nên Xúc của con người. Giống như mũi (Thiệt)
ngửi thấy một mùi thơm (Hương) của ngoại cảnh mang đến sẽ dẫn đến xúc cảm.
7. Thọ: Yếu Tố do Xúc dẫn đến. Thọ ta có thể
hiểu nó chính là cảm giác hạnh phúc, đau khổ hay không hạnh phúc, không đau
khổ. Hiểu theo nghĩa thô đó chính là sự nhận, thụ hưởng. Có nghĩa là khi mà Xúc
phát xuất thì Thọ cũng sẽ xảy ra cùng lúc.
8. Ái: Yếu Tố do Thọ dẫn đến. Chỉ những dục
vọng mong muốn, yêu thích, thèm khát… Vì khi con người nhận được những xúc cảm
bên ngoài tác động vào, họ phát sinh nên tham ái đối với những đối tượng giác
quan đó.
9. Thủ: Yếu Tố do Ái dẫn đến. Chỉ sự bám
chặt, bám víu, thủ chấp…. Mang nghĩa gần giống với Luyến. Đây là yếu tố dẫn con
người đi trong vòng luân hồi mãi mãi. Do chúng ta bám chấp vào đời sống.
10. Hữu: Yếu tố do Thủ dẫn đến. Đây chỉ về
Nghiệp gồm có quá trình tạo tác, quá trình nhận lãnh.
Vì do bám víu, xem điều gì hay vật gì đó là của mình nên con người tạo những
nghiệp quả nhằm đem lại lợi ích cho chính mình, tiến trình thông qua 3 hành
động từ thân, khẩu và ý.
11. Sanh: Yếu tố do Hữu
dẫn đến. Yếu Tố Sanh mang hàm nghĩa là sự hình thành của của năm uẩn trong bào
thai của một người mẹ nào đó. Do chịu lý của Nghiệp Quả mà thức tái sanh sẽ
tiếp tục trở lại bào thai người mẹ và hình thành nên một con người để thụ lãnh
Nghiệp đã vay tạo.
12. Lão và Tử: Yếu tố
cuối cùng do Sanh dẫn đến. Đây là thuộc về luật tự nhiên và như một giai đoạn
mà không một người nào thoát khỏi nếu như còn mang nặng ngũ uẩn. Con người sẽ
già theo năm tháng và cuối cùng là phải giã từ cõi đời. Chúng ta muốn thoát
khỏi thì phải chấm dứt vòng quay của sanh tử bằng việc nhổ tận gốc vô minh và
luyến ái, phát triển Thiền Minh Sát đến tầng cao nhất *.
*: 4 Tầng thánh: Tư Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.
Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ,
Xả.
Từ: Đây chỉ tình thương không có luyến chấp, vị kỷ, phân biệt trong đó.
Bi: Xót thương đến những hoàn cảnh bi thương và những con người vô minh trong
đời sống.
Hỷ: Trạng thái an lạc và vui vẻ xả bỏ mọi thứ. Diệt được bám chấp trong tâm, từ
bỏ những tư tưởng tội lỗi, ác ý.
Xả: Trạng thái tâm quân bình, như Trung Dung của nho giáo.
16. Bái Đính - chùa lớn nhất Việt
Một ngôi chùa được coi là to và đẹp nhất Việt
Nam đó chính là chùa Bái Đính, nằm trong một thung lũng mênh mang hồ và núi đá,
thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn (Ninh Bình).
Mô hình Khu Tâm linh núi chùa Bái Đính
Trên đỉnh núi là Điện Tam Thế, được thiết kế 3 tầng mái cong, có 12 mái 4 phía,
cao 30m, rộng 47m, dài 52m
Từ cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) đi vào đến núi Bái Đính chỉ khoảng 20km. Cách xa
2-3km đã thấy 2 ngôi chùa như hai búp sen khổng lồ mọc vững chãi trên vách núi,
nối tiếp nhau, với những mái đao cong vút, xanh biếc. Tòa nằm phía trước, bên
dưới gọi là Pháp Chủ điện. Tòa nằm phía trên, cách khoảng 100m, gọi là Tam Thế
điện.
Chùa trong quần thể chùa Bái Đính. Phía ngoài cùng, ngay con đường quanh co dẫn
lên chùa, cách Pháp Chủ điện khoảng 300m là gác chuông 3 tầng, 24 mái. Đây là
nơi sẽ đặt một quả chuông nặng tới 36 tấn. Hiện tại, hai hạng mục gồm cổng tam
quan (chạy dài hơn 200m) và hai hành lang tượng La Hán (nằm ở hai bên, dẫn từ
cổng tam quan lên gần sát Tam Thế điện với chiều dài khoảng 500m, mỗi bên đặt
250 tượng La Hán bằng đá trắng) mới bắt đầu được động thổ.
Chùa Bái Đính, Ninh Bình với quả đại hồng chung bằng đồng nặng nhất Việt
Chùa Bái Đính, Ninh Bình với giếng nước lớn nhất Việt
Kỷ lục đầu tiên chính là sự bề thế và hoành tráng của ngôi chùa. Ngôi Tam Thế
điện có diện tích lên tới 2.400m2, gồm 12 mái, với những cây cột cao từ 22-30m.
Mỗi cây cột có đường kính 80-90cm, 2-3 vòng tay người ôm. Ngôi Pháp Chủ điện,
cây cột cao nhất cũng lên tới 27m và rộng gần 2.000m2 (trong khi những ngôi
chùa lớn hiện nay cũng chỉ rộng 150m2). Bước vào, khách phải ngước lên mỏi cổ
mới nhìn thấy xà nhà. Bên trong chằng chịt giàn giáo xây dựng.
Theo anh Ngô Xuân Chiến, một thợ mộc đang thi công ở đây cho biết, chỉ riêng
phần mái của ngôi Tam Thế đã rộng tới 4.000m2. “Toàn bộ phần mái, chủ đầu tư đã
mời thợ từ tận TP. Huế ra lợp. Họ phải lợp trong 3 tháng liền mới xong. Mỗi
ngày chỉ lợp được 2 hàng ngói”- anh kể.
Thế nhưng, điều còn gây sửng sốt hơn là những pho tượng Phật lớn chưa từng thấy
ở Việt Nam, được đúc và đặt ở Tam Thế điện và Pháp Chủ điện. Đây là những pho
tượng Phật khổng lồ được đúc bằng đồng nguyên khối nhập từ Nga về, do các nghệ
nhân đúc đồng nổi tiếng ở Ý Yên (
Bởi vậy, người ta phải định vị tượng vào tòa sen trước rồi mới tiến hành xây
dựng khung chùa. Trong đó, theo chủ đầu tư cho biết, riêng 3 pho tượng Tam Thế,
mỗi pho nặng tới 50 tấn. Còn pho tượng Pháp Chủ đặt trong Pháp Chủ điện thì
nặng tới 100 tấn. Riêng phần bệ xây để đặt đài sen đã cao ngang mặt một người
lớn.
Ngay khi vừa bước vào chùa, nhiều người đã phải giật mình trước kích cỡ của pho
tượng lớn chưa từng thấy bao giờ. Đây được coi là pho tượng không chỉ lớn nhất
Việt Nam mà còn lớn nhất cả khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, còn có 2 quả chuông
cũng được coi là lớn nhất Đông Nam Á hiện nay, gồm nặng 27 tấn và 36 tấn, do
chính nghệ nhân đúc Nguyễn Văn Sính ở TP. Huế trổ tài. Hiện hai quả chuông đã
được vận chuyển về đến chùa Bái Đính, sau Tết Nguyên đán sẽ được treo lên.
Điều còn khiến chúng tôi bất ngờ hơn là khu vực đang tập kết tượng La Hán trên
mỏm đồi ở phía trước Tam Thế điện. Tất cả có khoảng 200 pho tượng đá trắng
nguyên khối, mỗi pho cao quá đầu người (2,3m), đặt thành hàng lối như một “rừng
tượng”. Mỗi pho đều được đánh số theo thứ tự.
Anh Nguyễn Khắc Hùng, một thợ tạc tượng, cho biết: “Đây chỉ là một phần trong
tổng số 500 pho tượng La Hán sẽ được đặt dọc dãy hành lang La Hán do thợ tạc
tượng ở làng đá Ninh Vân (Hoa Lư-Ninh Bình) thực hiện. Còn 200 pho tượng nữa
hiện chúng tôi đang gấp rút hoàn thành. Để làm xong số tượng này, chúng tôi
phải đục đẽo ròng rã suốt 3 năm trời”. Ở đây, cái gì cũng lớn, cũng làm người
ta phải ngạc nhiên, từ tầm cỡ của ngôi chùa, các pho tượng đến số lượng thợ
tham gia, số lượng gỗ, đá được sử dụng. Bởi vậy, đi từ đầu chùa đến cuối chùa,
ở đâu người ta cũng phải sử dụng đến chữ “đại” để gọi tên, như đại hồng chung,
đại tượng, đại Phật tự… mới cảm thấy diễn đạt được đầy đủ ý nghĩa của công
trình “đệ nhất nước Nam” này.
Để kịp tiến độ, bất chấp tiết trời lạnh thấu xương, hơn 500 công nhân gồm hàng
chục cánh thợ đến từ những vùng nổi tiếng về xây dựng, mộc, điêu khắc, sơn mài,
đúc tạc như Quế Võ, Từ Sơn (Bắc Ninh), Kim Sơn, Yên Mô (Ninh Bình), Ý Yên (Nam
Định), TP Huế… gần như quên ăn quên ngủ để làm việc.
Họ phải “đánh vật” với những khúc gỗ dài hơn 10m, đường kính gần 1m trong cả
đống gỗ 8.000m3. Toàn là gỗ quý như sến, táu, dổi, lim, vàng tâm… Cưa xẻ, đục
đẽo ầm ầm. Quanh chùa, trên đỉnh núi, lán trại, nhà xưởng của công nhân dựng
chi chít như trại lính. Cả khu núi Bái Đính hoang vu trở thành một đại công
trường với máy xúc, máy ủi, xe benz chở đất, xe tải chở gỗ, gạch ngói… chạy
suốt ngày đêm. Ông Nguyễn Văn Chiến, 50 tuổi, thợ cả phụ trách một cánh thợ 60
người ở làng Cung Kiệm, xã Nhân Hòa (Quế Võ- Bắc Ninh), đang thi công dãy hành
lang đặt 500 tượng La Hán, bảo: “Chúng tôi đã từng đi ra tận đảo Phú Quốc, lên
tận Móng Cái (Quảng Ninh) để dựng chùa chiền, nhà cửa mà chưa thấy ở đâu có
ngôi chùa lớn như thế này”. Mặc dù chùa vẫn chưa xong nhưng ngày nào cũng có
hàng trăm khách mò mẫm tìm vào cúng bái. Người dân đội mũ bảo hiểm, đi xe máy
đến tham quan cũng có. Ôtô chở khách du lịch theo tour ghé qua cũng có. Trước 3
pho tượng Tam Thế và tượng Pháp Chủ, khói hương đã bắt đầu nghi ngút. Theo ông
Nguyễn Văn Công, tổng chỉ huy xây dựng công trình chùa Bái Đính, thì cả khu
chùa rộng tới 107ha. Tuy nhiên, đây chỉ là một phần của dự án xây dựng trung
tâm du lịch “tâm linh văn hóa” Tràng An rộng gần 2.000ha do Công ty TNHH Xuân
Trường (một doanh nghiệp chuyên hoạt động về xây dựng ở Ninh Bình) làm chủ đầu
tư.
Ông Nguyễn Xuân Trường, Giám đốc Công ty TNHH Xuân Trường (Ninh Bình)- chủ đầu
tư dự án- cho biết, chùa Bái Đính sẽ xong phần ngoại thất vào năm 2008 và hoàn
thành vào năm 2010 để kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội.
17. Lễ Vu Lan
"Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.
Hàng năm, cứ vào ngày rằm tháng bảy, nhiều
người Việt
Vu Lan rằm tháng bảy xuất xứ từ tích truyện tôn giả Mục Kiền Liên, một vị đệ tử
của Đức Phật, sau khi đắc đạo đã dùng phép thần thông tìm mẹ khắp nẻo luân hồi.
Vu Lan theo thuyết nhà Phật là “giải thoát đảo huyền”, tức giải cứu những linh
hồn thoát vòng trầm luân. Ở một cách nhìn khác, Vu Lan thực chất là sự kết hợp
của từ bi với trí tuệ, tu và học. Chính vì vậy, lễ Vu Lan không chỉ là ngày
dành riêng cho việc cầu siêu chư hương linh, ngày cúng Phật, mà còn là ngày xá
tội vong nhân.
Từ tích truyện đó mà người Việt từ lâu coi lễ Vu Lan là ngày cầu cúng cho ông
bà cha mẹ và thân nhân xa gần. Trong lễ Vu Lan, hình ảnh người mẹ luôn được đặt
ở vị trí trung tâm của các lễ nghi thờ cúng.
Ở nước ta, từ những năm của thập niên 50 của thế kỷ trước, nhiều địa phương
nhân ngày lễ Vu Lan đã tổ chức nghi thức bông hồng cài áo. Ai còn mẹ thì được
gắn một bông hồng đỏ, ai không còn mẹ thì cài một đóa hồng trắng trên ngực áo.
Nghi thức này như là cách thể hiện tình cảm của mỗi người để nhớ mẹ, để tôn
vinh mẹ, để mừng mẹ còn tại thế và để xót xa khi nghĩ đến mẹ đã qua đời. Đây
được coi là một nét văn hóa tôn vinh giá trị của tinh thần báo hiếu trong tình
cảm của người Việt
Và cứ vào dịp lễ Vu Lan, dù ai còn mẹ hay đã mất mẹ cũng muốn làm một việc gì
đó để mẹ được vui, được hạnh phúc. Và cũng vào ngày này, mỗi chúng ta luôn tự
nhủ lòng mình phải sống sao cho xứng đáng là con của mẹ để sau này nếu mẹ hiền
có mất đi thì ta vẫn có thể tự hào nói rằng: Chúng con đã sống tốt, sống có
trách nhiệm với quê hương, với đất nước, với đồng bào, dân tộc. “Tôi không khóc
khi áo cài hoa trắng / Vì trong hoa tôi thấy mẹ tôi cười”...
18. Sửa
bài Luyến Ái Nguồn Gốc mọi khổ đau
Bài viết của tôi có một phần lầm lẫn! Xin chư
vị thứ lỗi do viết vội!
Tựa đề tôi đề là Luyến Ái là nguồn gốc
của khổ đau. Đúng như Đức Phật nói vậy. Nhưng xuống dưới tôi viết là Đức
Phật Luyến Ái
Điều đó sai hoàn toàn. Phải sửa lại là Đức Phật có tình thương hay không?
Tôi xin giải thích từ Luyến Ái?
Luyến Ái tức là những thương yêu, cảm mến trong đó có sự bám chấp vào. Đức Phật
nói luyến ái này dẫn đến đau khổ
Còn Đức Phật và chư Vị Phật Hay Bồ Tát, hay A La Hán đã diệt hết mọi bợn nhơ
của cuộc sống này. Tình thương của Ngài là là lòng thương yêu từ bi
Từ có nghĩa là nhân từ, thương yêu không bám chấp. Bi là xót thương đến nổi khổ
của nhân sinh
Trích thêm phần Vì Sao Đức Phật nhập Niết Bàn.
Do không còn vay trả nghiệp nên các đời sống trước của Đức Phật đã sinh vào
cảnh Thiên Giới. Nhưng Ngài không nhập được Niết Bàn là do bởi vì khi đó vẫn
còn những dục vọng tham ái.
Vào đời sống cuối cùng Ngài đã tìm được chân lý, Ngài thiền định và xóa bỏ mọi
những tham ái, dục vọng.
(Câu chuyện sau đây xin kể lại tôi không thể nhớ từng chi tiết nhưng hàm ý rất
rõ ràng)
Thuở xưa có một người đi sau lưng Đức Phật, nhìn thấy những vết chân của Ngài
nên đã nói ra " Đây không phải là bước chân của một của một con người bình
thường".
Đức Phật dừng chân và đi vào gốc cây ngồi xuống với vẻ mặt trầm tĩnh và an lạc.
Vị đó đi đến và hỏi Đức Phật
- Ngài có phải là một Thiên Nhân không?. Đức phật trả lời: "Ta không phải
là một Thiên Nhân, nếu ta là một Thiên Nhân thì tức ta phải có ham muốn
đó."
- Ngài có phải là một Càn Thát Bà không?. Đức phật trả lời: "Ta không phải
là một Càn Thát Bà, nếu ta là một Càn Thát Bà thì tức ta phải có ham muốn của
một Càn Thát Bà."
- Ngài có phải là một Dạ Xoa không?. Đức phật trả lời: "Ta không phải là
một Dạ Xoa, nếu ta là một Dạ Xoa thì tức ta phải có ham muốn đó."
- Ngài có phải là một Con người không?. Đức phật trả lời: "Ta không phải
là một Con Người, nếu ta là một Con Người thì tức ta phải có những ham muốn của
một con người, ta đã quét sạch hết những ham muốn muốn, nhơ bẩn đó nên ta là
"Phật". Hãy gọi ta là "Phật".
Luyến Ái! Nguồn Gốc
Của Khổ Đau
Đức Phật nói: “Nguồn gốc đau khổ của con người chính là luyến ái”.
Lời dạy của Đức Phật là một chân lý bất diệt và quá sâu sắc huyền diệu, có thể
sẽ không có ai nhận thức thấu triệt được điều này nếu như chưa bao giờ trãi
nghiệm từ bản thân của mình. Con người bị ràng buột bởi những cảm giác yêu
thích, cảm mến quá nhiều nên phải chịu những khổ sở dằn vặt trong tâm can hay
chúng được gọi là những phiền muộn, ưu sầu.
Như vậy Đức
Phật có còn luyến ái hay không?
Có thể trả lời rằng: Có. Bởi vì Đức Phật còn thương chúng sinh đau khổ trong
những dục vọng của thế gian nên Ngài đi tìm chân lý và truyền dạy những giáo
pháp để con người theo đó mà thoát khỏi những khổ đau. Đến Bồ Tát đã thoát khỏi
con đường sinh tử luân hồi rồi nhưng vì còn thương chúng sinh trầm luân trong
bể khổ nên chưa nhập Niết Bàn mà còn tái sinh quay trở lại trần gian để cứu
giúp con người. Đó chính là lòng thương yêu!
Vậy tại sao
Đức Phật luyến ái mà không bị ràng buột trong những đau khổ hay phải chịu cảnh
luân hồi như chúng sinh? Sự khác nhau giữa luyến ái của nhân sinh và Đức Phật (
Do tình thương của Đức Phật bao trùm toàn bộ mọi vạn vật trong cuộc sống này từ
loài người, động vật cho đến cây cỏ. Sau khi Ngài đạt giác ngộ, thì ngay lúc
này trong tâm Ngài mọi con người đều như nhau, tất cả chúng sanh bây giờ đã trở
thành người thân của Ngài, tình yêu thương chỉ có một và được giành cho tất cả
mọi người. Ngài không phải vì xem vua Tịnh Phạn là cha mình mà thương yêu, giúp
đỡ, kính trọng người nhiều hơn những người khác. Không, Đức Phật bây giờ đã xem
mọi người đều là người thân của chính mình. Bây giờ Ngài đã không còn có một
người cha, một người vợ hay một người con.
Còn tình thương (luyến ái) của nhân sinh thì sao? đó chính là tình thương mến
của mọi vật thân cận cho rằng là của mình, như Ba mẹ thương yêu chúng ta, lo
lắng cho ta những khi đói rét, bệnh hoạn hay khó khăn, vì chúng ta là máu thịt
của cha mẹ, là một người con của cha mẹ. Còn những người đang đi ngoài kia của
cuộc sống dù có nghèo đói, khổ sở thì Ba mẹ chúng ta cũng không bận tâm để ý
tới hay phần nhiều không lo lắng đến, vì đó chính là người xa lạ không thân
thích chi cả. Đây chính là luyến ái vị kỷ!
Sự khác biệt rõ rệt! Đó là tình thương (luyến ái) của Đức Phật chính là tình
thương không còn “cái tôi” trong đó. Còn tình thương của chúng ta bám chấp vào
“cái tôi” của mình, cho rằng những điều đó là của ta nên ta mới quan tâm, chú
trọng, chăm lo vào nó thật nhiều. Chúng ta cho rằng đây là tiền của tôi, đây là
đồ của tôi, đây là xe của tôi nên khư khư giữ lấy. Chính điều này sẽ tạo ra cho
ta lòng vị kỷ vì bám vào những xác thân giả tạm, những vật chất không bao giờ
bền vững của cuộc sống này [Do bản chất cuộc sống quá vô thường]. Không chỉ thế
theo sau nó còn tạo cho ta lòng ham muốn, gìn giữ, ích kỹ. Cùng lòng thù hận,
ganh ghét, ngạo mạn cũng sẽ nảy sinh theo sau và khổ đau sẽ theo như bánh xe
theo dấu chân bò vậy. Vì quá bám víu vào điều gì hay vật gì mà làm cho ham muốn
sinh ra càng nhiều. Bởi trong cuộc sống chúng ta thường không bao giờ yêu thích
một điều gì mãi được, nó sẽ nhàm chán theo thời gian, để chúng ta cứ đi tìm
những niềm vui mới thì chính là ta đang gieo cho mình cái lòng dục vọng không
cùng đấy. Lòng ham muốn là một nổi khổ của con người mà sẽ thấu hiểu được khi
chính mình kinh qua việc ấy. Sợ hãi sẽ được sinh ra do lòng tham ái, nếu bạn
không còn tham ái thì sợ hãi sẽ chấm dứt, khổ đau sẽ xa lìa. Cũng vậy do bản
chất mong muốn mà ta sẽ bị hoàn cảnh làm thay đổi những bản tính, thường thì có
chiều hướng xấu đi nhiều hơn; như khi ta nhìn thấy người khác có cái điều mà ta
không có thì ta sẽ sinh ra ghen tức và ác cảm. Khi mà chúng ta còn cho rằng cái
này là của ta, cái kia là của ta thì dám chắc chắn một điều rằng ham muốn, ganh
ghét, thù hận, kiêu ngạo sẽ còn trong bạn và cho đến suốt cuộc đời cũng không
thể thoát khỏi những điều đó.
Đó chính là luyến ái khổ đau do ta thấy rằng những điều đó, vật đó quan trọng
đối với ta! Khi chúng ta không còn cho rằng những điều gì hay vật gì là của ta
thì chúng ta có được trạng thái thanh thản, và cũng chính là phương pháp ngăn
cản những khổ đau xuất hiện.
Sống trong cuộc sống này chúng ta không phải chịu lệ thuộc bất cứ sự ràng buột
nào; là phải từ bỏ như một người tu hành chính thức. Nhưng chúng ta phải biết
nguồn gốc xuất hiện những đau khổ và ngăn chặn nó, bởi vì không có hiểu biết
(vô minh) nên những thói quen xấu được hình thành, khi đó chúng ta phải chịu
một khó khăn vô cùng trong thời gian rất lâu để đấu tranh lại tâm can của chính
mình. Với ta ngày nay chúng ta phải từ bỏ những thói ham muốn không cần thiết
đối với mình. Có thể những lạc thú đó mang lại cho ta những cái thỏa mãn dục
vọng, những danh lợi, nhưng ta sẽ không bao giờ có sự an lạc trong tâm hồn
được. Lời Đức Phật dạy: Chẳng phải do cha mẹ hay bà con xa của ta làm, mà do
tâm niệm hướng đến điều chánh thiện mới làm cho ta cao thượng hơn. (Kinh Pháp
Cú).
Nhiều khi chúng ta tìm đọc khá nhiều sách, quá nhiều lời dạy từ kinh rồi chúng
ta cho rằng ta hiểu biết, thực vậy; thực ra chúng ta vẫn như những con người không
có hiểu biết, giống như một con người ngày xưa khi chúng ta chưa từng gặp được
Phật Pháp. Nhiều khi chúng ta lừa dối bản thân mình mà không hề biết điều đó,
chúng ta không thể nói rằng chúng ta đã không còn ham muốn, kiêu ngạo hay ganh
ghét khi mà trong tâm bạn vẫn chất chứa nó. Nếu trong lòng còn đầy những điều ô
nhiễm bất tịnh thì đọc kinh sách, tìm hiểu Phật Pháp không mang đến cho ta sự
an lạc được. Con đường để thoát khỏi đau khổ của cuộc sống hay đạt được thành
quả bậc A La Hán (không còn bám víu, ràng buột vào dục vọng cuộc sống) sẽ không
thể nào được nếu chúng ta còn cho rằng điều gì hay vật gì đó là của ta; hay ta
còn yêu thích điều gì, muốn được có điều gì đó, hoặc còn điều gì đó làm cho ta
cảm thấy yêu thích, rung động. Sẽ không bao giờ! và chắc một điều rằng đau khổ
sẽ còn xuất hiện!. Chúng ta hiểu rằng nghiên cứu Phật Pháp là để thực hành, chứ
không phải như tiền để bỏ túi, “ học để mà tu, chứ không phải học để mà học”.
Trong Ngọc Lịch Minh Kinh có nhắc đoạn Diêm Vương hỏi Lâm Tự Kỳ rằng: “Bao năm
tụng nhiều kinh sách chứ có thông hiểu nghĩa lý chăng?”. Tự Kỳ tâu: “Tôi đọc
nhưng không thông hiểu cho hết”. Phán: “Kinh sách của Đức Phật truyền dạy lại
rất thâm diệu khó thông hiểu hết, chỉ cần hiểu được vài câu và thực hành theo
nó thì cũng có thể đạt được thành quả trong đời sống hiện tại.” Lời kinh sách,
băng đĩa dạy quá nhiều nhưng chúng ta thực không làm theo được, rồi cứ tìm theo
học, đọc, xem nhiều thì chả có ích lợi chi cả. Giáo lý của Đức Phật được ví như
một chiếc bè, chúng ta dùng chiếc bè để qua sông tham ái chứ không phải đội
chiếc bè ở trên đầu, sau khi chúng ta đã qua được bờ bên kia thì chiếc bè sẽ
được để lại chứ không phải mang theo. Dường như ngày nay con người chỉ vác
chiếc bè trên đầu mà thôi, thì chúng ta mãi không thể nào qua được bờ bên kia.
Điều mà Đức Phật mong muốn chính là chúng ta phải sống cuộc đời phẩm hạnh chứ
không phải chỉ lo tôn thờ và sùng bái bằng hoa quả hay lời tán tụng.
Đời sống hôm nay chúng ta gặp được Phật Pháp thì đã mở ra một khởi đầu trên con
đường tu tập, đã trãi qua nhiều kiếp sống đến hôm nay cho ta gặp được giáo lý
chánh đạo, và được mang thân con người để tư duy thì chúng ta quá may mắn rồi,
chúng ta phải bước đi dần dần để đi đến Phật Quả, đừng nên chờ đợi và chịu khổ
đau nữa. Chúng ta đã qua khỏi bậc xúc sanh, ngạ quỷ rồi thì cứ tiếp tục mà tiến
lên, đừng vì những vướn bận của cuộc sống hôm nay mà khiến ta phải chịu đau khổ
trong vòng sanh tử hay trở lại bậc thấp hơn, chúng ta học thì phải lên lớp chứ
không phải lưu ban lại. Cuộc đời chỉ có 2 cảnh vui và khổ mà có người cam chịu
hoài, không có gì ngoài 2 bản chất ấy cả.
Đặc Tính
Vô Ngã - Tìm Phật Ở Đâu?
Như đã nghe chúng ta sẽ nói rằng tìm Phật ở Tâm. Phật tại tâm nghĩa là chúng ta
phải quay trở lại tâm can của mình để loại bỏ hết tất cả những luyến ái, ác
cảm, ngạo mạn, ganh ghét…, rửa sạch đi những vết nhơ ô nhiễm đã bám động trong
ta bấy lâu nay. Tâm chúng ta chính là nơi khởi dậy những thói xấu ấy và cũng
phải hiểu nó là nơi tạo tội lỗi của con người. Chúng ta tạo tỗi lỗi ở đâu thì
phải quay về nơi ấy mà cải sửa và khi ta đã qúet sạnh nhưng ô nhiễm trong tâm
can thì chúng ta đã trở thành một vị Phật rồi, lúc đó an lạc nhất định sẽ xuất
hiện. Con người ngày nay quá coi trọng vào việc cầu khẩn, nghi lễ, sách vở,
hình thức bên ngoài để cho tâm chạy theo những dục vọng của cuộc sống vô thường
này, thì hỏi cho đến bao giờ mới có thể tìm thấy Phật, không kể chi đến bậc
thánh mà ta có thể đạt được ngay trong cuộc sống này. Chúng ta hằng ngày chăm
sóc cho bản thân, đeo theo danh lợi để thỏa mản xác thân, làm thỏa đi cái lòng
dục vọng, ngạo mạn của mình. Bỏ phí thời gian quý báo để chăm sóc cho thân xác
giả tạm, bởi vì chúng ta quá chú trọng vào vẻ bên ngoài, chúng ta sợ phải đối
diện đến sự coi thường của nhân sinh với mình, nhưng quả thật không biết rằng
chính điều chánh thiện mang đến cho ta sự cao quý. Thân xác là gì? Khi mà chúng
ta ra đi thì nó sẽ bị vùi dưới 3 thướt đất giống như một thân củi khô bơ vơ
không một ai muốn chạm tới. Thân xác của ta không khác chi một cái áo, ta sẽ
thay bỏ khi nó cũ kỹ; tức là thân xác già và chết đi, qua đời sống mới chúng ta
sẽ mượn một chiếc áo khác để mặc tức là thân xác mới, thì thử hỏi xem chiếc áo
cũ sau khi đã bỏ đi thì có ai còn nhớ đến nữa, chúng ta có bao giờ nghĩ đến hay
đem chiếc áo đã rất cũ ra mặc hay không?, nó đã nằm trong quên lãng đời đời
kiếp kiếp, giống như Tần Thủy Hoàng để lại tiếng xấu muôn đời thật; nhưng bây
giờ nhớ lại thì chỉ có cái tên và hình ảnh tượng trưng thôi, thử hỏi bây giờ có
chỉ chích, ghét tận xương tủy hay nguyền rủa thì ông ấy bây giờ đang ở đâu? Có
thể Ông ấy đang mang một thân xác ở đâu đó trong cõi tam giới này, bây giờ Tần
Thủy Hoàng là quá khứ, ông ấy chỉ thuộc vào thời gian của ông ấy trong quá khứ
mà thôi và Tần Thủy Hoàng đã không còn liên quan gì đến ông ấy cả, ông ta đâu
còn là ông ấy nữa? Thì những căm hờn, thoái mạ kia ảnh hưởng chi tới bộ xương
khô của Tần Thủy Hoàng dưới mồ sâu hay tấm ảnh trên giấy viết. Cái thân xác mà
ta luôn cho rằng là của mình thì nó mang lại lợi ích chi ngoài những thị phi
của cuộc sống. Thuở xưa vào thời Đức Phật có một người tên Vakhali xuất gia chỉ
muốn được nhìn ngắm vẻ đẹp của Đức Phật. Khi đó Đức Phật nói: “Này Vakhali,
ngươi được lợi lộc gì từ tấm thân bất tịnh này?”. Cho ta thấy được rằng Tấm
thân chúng ta chỉ là một vũng bùn nhơ mà thôi, còn tâm thức là tất cả, nó mới
thực sự là của chúng ta. Con người được cao thượng là do hành vi chứ không phải
là vật chất tô điểm trên thân thể, những vật chất đó chỉ tăng thêm lòng ham
muốn, thù hận và ganh ghét nơi cuộc sống. Đức Phật từng nói: “Này, cái khăn và
bộ tóc là cái gì? Hỡi người ngốc nghếch kia? Sử dụng da báo làm đồ trang sức để
làm gì? Bên trong các ngươi tràn đầy bất tịnh, thế mà các ngươi lại giữ cho
sáng sủa và sạch sẽ bên ngoài.” (Trích Đức Phật Tối Thượng-HT Weragoda sarada
maha thero). Đặc tính vô ngã cần phải được quán xét hằng ngày để chúng ta hoàn
toàn tách khỏi được những dục vọng của chính mình. Và Tại sao Đức Phật được
toàn thế giới kính trọng, là một người vĩ đại nhất thế giới? Đó là nhờ vào phẩm
hạnh không gì sánh được chứ không phải là thân xác, quyền lực, hay thân phận là
một thái tử Tất Đạt Đa. Ngài nhìn thấy rõ đời sống sa hoa là một ràng buột, bởi
Ngài hiểu những thứ đó không thuộc về Ngài và nếu Ngài cố gắng giữ nó thì chỉ
được khoảng mấy chục năm mà thôi vì nó sẽ phải mất dần đi. Con người cho rằng
thời gian 1 đời sống con người là thật dài nên họ đi tìm những niềm vui hạnh
phúc vĩnh cửu. Họ bám vào cái ngã để thỏa mãn dục vọng. Chúng ta phải quay lại
tâm mình mà tìm cảnh Niết Bàn, đó chính là vứt bỏ đi cái tôi giả tạm thì bạn sẽ
hiểu được lòng thương, lòng khoang dung và sự từ bi, lúc ấy bạn sẽ hiểu được
cảm giác của vị Đạo Sư mà bạn vô cùng kính mến. “Khi bạn say mê phục người
khác, tỏa tình thương ra bên ngoài thì không bao lâu bạn sẽ thoát khỏi cái tự
cao, ngã mạn của chính mình – [Chết Có Thật Đáng Sợ - Is Dead really
fightening?] - Tiến Sĩ Hòa Thượng Dhammananda”
Tham ái xiềng xích con người vào những dục vọng của đời sống khiến chúng ta dần
mất đi tự chủ nếu như là một con người vô minh và thiếu sự tin tấn (một chi
trong Bát Chánh Đạo). Chúng ta sẽ nhìn nhận thấy rằng phải trãi qua 2 giai đoạn
để đi đến giải thoát: muốn đi tìm pháp môn tu thực hành đúng đắng thì chúng ta
phải nhận thấy và thấu triệt được sự vô thường, đau khổ và vô ngã, đây là 3 đặc
tính được Đức Phật thuyết giảng trong 49 năm hoằng pháp, như vậy chúng ta mới
đạt được trí tuệ trong kiếp sống này. Đây là đặc trưng mà bất cứ một vị Phật
hay nhà sư tu chân chính đều thấu triệt nó. Pháp môn tu kể ra thật rất nhiều
tùy theo cơ duyên và môi trường mà thích hợp cho mỗi người, nhưng khi chúng ta
không có sự hiểu biết thì chúng ta không bao giờ lưu giữ những điều đó trong
lòng và khó mà đạt sự thanh thản nào trong đời sống. Sự cần thiết mà Đức Phật
dạy rằng Chúng ta phải là người có kiến thức thật sự. Kiến thức ở đây là như
thế nào? Thực nói rằng có bốn mươi tám ngàn pháp môn để tu tập thì khó mà đạt
được trí huệ và giải thoát được, vì rằng Pháp truyền lại thật không sai nhưng
nó quá nhiều không tập trung vào sự giác ngộ chỉ giúp cho con người sống đời
sống bớt được tạo nghiệp khi theo các Pháp mà thôi. Cái quan trọng mà chúng ta
cần đó chính là thấu triệt được 3 đặc tính bằng sự suy gẫm và trãi nghiệm trên
bản thân, đó chính là sự vô thường, đau khổ và vô ngã. Khi thấu hiểu chúng ta
sẽ có hiểu biết thì đau khổ, phiền phức chỉ xuất hiện khi chúng ta có sự cố ý
hành động theo những bản năng xấu của mình mà thôi. Trong đó đặc tính vô ngã là
yếu tố quyết định để nhìn nhận vòng sinh tử luân hồi không còn tiếp diễn đối
với chúng ta. Khi hiểu sâu được 3 đặc tính khi đó chúng ta mới cảm thấy được
rằng con đường mà Đức Phật đã chỉ dạy quả thật đúng là con đường thường hằng.
Như sự từ bỏ, bạn có bao giờ nghĩ tại sao Đức Phật có một đời sống sung sướng
nhất cõi đời này, Ngài có được giàu sang, quyền lực, một người vợ đẹp và một đứa
con ngoan, hưởng được một đời sống sung sướng cùng cực. Vậy mà tại sao Đức Phật
bảo rằng đó là sự ràng buột, sự vướn bận; vì thế Ngài đã đặt tên cho đứa con là
La Hầu La (sự trói buột).
Niết Bàn hay giải thoát không đạt được khi chúng ta còn giữ cái ngã của mình,
vì bản chất của tự nhiên là “Không”, đó là cảnh giới mà rất nhiều Chư Phật và
Bồ Tát đã đạt được.
Bản Chất
Của Nghiệp
Ghét của nào trời cho của đó? Câu châm ngôn mà những người xưa đã nói ra và
được truyền lại cho đến nay, ý nghĩa của nó không phải nói, nghe rồi bỏ qua.
Trong đời sống hôm nay có quá nhiều hình ảnh bi thương mà con người gánh chịu,
thực không phải là một sự bất công trong cuộc sống. Chúng ta đối mặt rất nhiều
điều trong cuộc sống, khi một sự ghê tởm nào đó xuất hiện chúng ta có ý lẫn
tránh, cách xa vì nghĩ rằng nó làm chúng ta bị hạ thấp, như khi gặp một người
nghèo khổ hơn ta, đầu tiên chúng ta có cảm giác rằng sự dơ bẩn, bần hàn, thấp
kém hơn không đáng để ta nghĩ đến, khi ý nghĩ đã phát xuất trong đầu thì nghiệp
quả đã được tạo ra, nhân quả đã ghi nhận sự việc và bạn phải trả giá cho ý nghĩ
đó. Sau này bạn phải gánh chịu lại chính cái tình cảnh mà bạn đã làm như thế.
Cũng một ý nghĩa rằng sự khinh miệt phải được nhận lại một cái quả tương tự. Do
nhân quả là quy luật công bằng tuyệt đối! gieo thì phải gặt.
Đời sống của chúng ta ngày nay đau khổ
hay sung sướng thì xứng đáng với những dòng suy nghĩ và hành vi của chúng ta
trước đây, còn ngày tháng sau này sẽ xứng đáng với những dòng suy nghĩ và hành
vi hôm nay.
Vậy điều chỉnh nghiệp có thể không? Nghiệp đã vay tạo sẽ được trả dần trong đời
sống, nếu làm xấu việc xấu sẽ theo sau, nếu làm tốt việc toại nguyện sẽ theo
sau. Những dòng nghiệp cũ muốn xuất hiện phải có đầy đủ điều kiện thì sẽ bộc
phát, như chúng ta sống đời sống phẩm hạnh thì nó không thể trổ sanh, khi chúng
ta sống không thiện lành thì chúng ta đang tưới nước cho hạt nghiệp quả xấu trổ
sanh nhanh hơn. Vì thế muốn đời sống tốt đẹp chúng ta phải sống đời sống trong
sạch và cao thượng. Khi tích thiện nghiệp thì nghiệp xấu sẽ được trả dưới dạng
tiềm ẩn bằng những thử thách trong cuộc sống, có thể không ảnh hưởng quả xấu
lớn đến chúng ta. Để ngăn dòng chảy của Nghiệp chúng ta phải ở trạng thái thanh
thản không mong cầu và từ bỏ, chúng ta có thể tìm những trạng thái ấy bằng Thiền
Định. Khi tâm trở nên an lạc và bình tĩnh do thiền định mang đến, tư tưởng và
hành vi phát xuất do sự vô tình hay cố ý không còn nên Nghiệp sẽ không phát
xuất nhiều như Quả lớn.
Đời sống hôm nay đau khổ qua đời sống mới có thể thay đổi được nhưng điều kiện
để làm được chính là Tư tưởng và hành vi của chúng ta thực sự trong sạch và
phẩm hạnh? Vì những tâm tính của ta hôm nay sẽ được tiếp diễn theo vòng sinh tử
mãi, tức nếu chúng ta có những bản tính không thiện cảm, tham hận, ngạo mạn…
thì đời sống tới chúng ta tiếp tục cuộc sống như vậy do Nhân quả sắp đặt hoàn
cảnh cho chúng ta, và tâm thức của đời sống này chúng ta sẽ lại tiếp tục cho
đời sống mới. Chập tư tưởng cuối cùng của chúng ta cũng vô cùng quan trọng, có
người gần chết chịu phải bệnh hoạn, đau khổ vằn vặt, không có những tư tưởng
chánh thiện thì đời sống mới sẽ theo tư tưởng và nghiệp của mình đã tạo từ
trước. Còn người hiểu biết khi tuổi già đã đến, con người quay trở lại với tâm
tính, sự thanh thản, hồi hướng, nguyện cầu, và luôn nghĩ đến hình ảnh Chư Phật
hay nguyện được tiếp nối trên con đường đạo cao đẹp với lòng tin tưởng và chân
thành thật lòng; thì sẽ dẫn chúng ta tiếp tục gặp Phật Pháp ở đời sống sau.
Những người trong hiện tiền không gặp được Phật Pháp là do khinh chê, không
thích sự tu tập, xem thường đạo Phật nên đời sống cứ trôi theo nghiệp quả mà
không có bến bờ nương tựa và đời sống mới chắc chắn sẽ như vậy. Vì thế đối với
con người, khi những ngày hoàng hôn của cuộc đời bắt đầu thì nên tìm về với sự
thanh thản, sự từ bỏ và theo việc tụng niệm câu Lục Tự Di Đà, Thiền định hay
hồi hướng về với Phật Pháp Tăng bằng chân tâm của mình… Còn với chúng ta hiểu
biết thì phải thực hành ngay bây giờ không thể chờ đợi được. Như có một vị tùy
kheo đến nói với Đức Phật rằng: “ Xin Ngài hãy nói cho tôi nghe về thế giới này
là Hữu Hạn hay Vô Hạn, nếu Ngài không trả lời, tôi sẽ từ bỏ đời sống xuất gia
hiện nay.”. Đức Phật trả lời: “ Này Tùy kheo, nếu như có một người bị mũi tên
độc bắn trúng vào chân, người ấy không chấp nhận cho mọi người rút mũi tên ra
cho đến khi nào tìm được người đã bắn mũi tên và phải biết tên độc kia được làm
từ đâu, thì mạng sống của người đó đã kết thúc trước khi biết được nguyên
nhân”. Đức Phật muốn chúng ta phải thực hành những giáo Pháp do Ngài dạy ngay
bây giờ và không nên đợi chờ, bởi vì chúng ta không ai có thể biết trước được
ngày mai, tháng sau hay năm tới của chúng ta là như thế nào?. Muốn điều chỉnh
được Nghiệp của mình thì chúng ta phải hiểu rõ nơi đâu mà Nghiệp phát xuất?,
Vì sao
Đức Phật Đạt Được Niết Bàn?
Ngày xưa sau 6 năm tìm con đường giải thoát chịu biết bao nhiêu là khổ cực,
hành xác dường như là cùng cực của thế gian nhưng vẫn không tìm thấy sự giác
ngộ. Cuối cùng Ngài nhớ lại thuở thiếu thời lúc trầm tư đã cảm thấy sự an lạc,
cùng được học đạo từ hai vị Đạo sư chỉ dạy về Thiền hành, cuối cùng Ngài đã
ngồi dưới cội Bồ Đề chiến đấu với tâm ma (maga) của mình mà thành đạo. Ngài nói
“Cho dù thịt nát xương tan, cho thân thể này mục nát thì ta quyết không rời
khỏi đây cho đến khi đạt được giác ngộ”. Sau khi đắc được tứ thiền, Ngài đã
giải thoát hoàn toàn khỏi vòng sinh tử và những trói buột của thế gian. Ngài
tuyên bố: “Đây là đời sống cuối cùng của ta.”. Thiền Định được xem là con đường
duy nhất, nó mang cho ta sự thanh thản, dòng suy nghĩ không giao động và đưa ta
đến trí tuệ. Khi đạt được trạng thái an lạc và thanh tịnh mãi mãi nên nghiệp
lực sẽ bị đoạn tận và sẽ chấm dứt.
Đức Phật thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi do Ngài đã đoạn trừ được tất cả
Nghiệp lực của mình, Ngài đã đạt được bậc Bồ Tát trong nhiều tiền kiếp nên sự
thanh tịnh và từ bi tồn tại trong Ngài và không một cảm xúc nào khác, nên không
có tạo nghiệp bất thiện, vì thế Ngài không còn phải vay và trả. Vì Nghiệp đã
gieo sẽ do luật Nhân Quả quyết định, nó sẽ sắp đặt cho chúng ta nơi tái sanh và
được khổ đau hay vui sướng tùy theo nghiệp của mình đã tạo tác. Nghiệp chúng ta
đã gieo sẽ phải được trả từ từ và sẽ không mất đi bởi không có bất cứ một ngoại
lực nào có thể xóa bỏ chúng. Khi việc tác nghiệp đã dừng thì chúng ta sẽ không
còn bị luật nhân quả chi phối, cùng sự tĩnh lặng chúng ta hòa nhập vào hư không
và sẽ không bị ràng buột bởi vòng sanh tử luân hồi.
Trong tiền kiếp do Đức Phật đã là Bồ Tát nên không còn tạo nghiệp mà Ngài chỉ
lo việc hành thiện tích đức, cũng giống như Bậc A La Hán những tư tưởng và hành
vi không còn dao động nên nghiệp không thể sinh ra. Khi xưa Ngài khuất thực
trong 49 năm để hoằng Pháp giáo lý vậy Ngài có nợ nhân sinh không?. Có thể trả
lời là Không! Việc khuất thực thật có nhiều phần cao quý: Thứ nhất: Nó làm cho
chúng ta hạ thấp được cái tôi giả tạm của chính mình, vì đây là giai cấp thấp
nhất trong xã hội, tạo cho chúng ta không còn sự ham muốn và dục vọng. Thứ Hai:
Việc khuất thực giúp cho chúng sanh tích tạo phước đức từ việc bố thí, tạo điều
kiện để họ có căn lành trên đời sống và họ sẽ được phước báu vì từ sự bố thí.
Thứ Ba: Do Đức Phật mượn việc khuất thực để truyền lại giáo pháp cho con người
để thoát khỏi khổ đau và sự truyền đạt đó nhờ vào chén cơm của chúng sinh nên
nhờ phần phước đó mà họ sẽ đạt được lợi lạc, vì thế Ngài không tạo Nghiệp từ sự
khuất thực. Đức Phật nói rằng “ Khuất thực là lối tu cao quý nhất.”
Thiền Định?
Tiến Sĩ K Sri Dhammananda viết: “Thiền Định là con đường duy nhất”. Trên con
đường đi đến Niết Bàn chúng ta phải trãi qua giai đoạn Thiền Định, đó là giai
đoạn bắt buột. Thiền Định là giai đoạn cuối cùng sau khi thấu hiểu Tứ Diệu Đế,
đặc tính Vô Thường và từ bỏ Tham Ái. Nếu như không có Thiền Định thì chúng ta
không thể nào đạt được con đường giải thoát, nếu chỉ lo vào việc hành thiện và
giúp con người thì chúng ta chỉ được sinh vào nơi Thiên Giới hưởng được dục lạc
mà thôi, chúng ta vẫn phải chịu luân hồi sinh từ.
Thiền định mang đến cho ta sự thanh lặng ngoài cuộc sống, làm giảm dần đi những
dục vọng. Khi tiếp xúc với đời sống thường nhật chúng ta giảm được những sự
Khi chúng ta có hiểu biết thì chưa phải bạn đã đạt được an lạc, bạn còn phải
chịu khó khăn để thoát khỏi những cảm xúc của mình. Một thời gian dài và khó
khăn đó là điều bạn phải trãi qua và nhớ là không có con đường nào khác ngoài
việc từ bỏ. Bạn phải nhớ “Bạn phải chịu đau khổ rồi mới được hạnh phúc”. Hạnh
phúc không thể tự có được đó là một chân lý bất diệt và không có mặt trái của
nó.
Chúng ta còn bị ràng buột vòng luân hồi là do ta còn tạo nghiệp
19. ý
nghĩa phật đản
Mặc dù mọi người đương thời đều tôn vinh Đức
Phật là một đấng thần thánh siêu phàm, nhưng Đức Phật Thích Ca luôn khẳng định
rằng Ngài là một con người đã tìm thấy được nguyên nhân tạo nên đau khổ và hạnh
phúc của muôn loài. Và Ngài đã chỉ dạy mọi người con đường tiến đến nếp sống
chân thiện mỹ vĩnh hằng và xa rời sanh tử khổ đau. Nhiều lần Đức Phật đã tự xác
định tư cách của Ngài trên thế gian này là một vị đại đạo sư, một người dẫn
đường đúng đắn nhất để đưa chúng sanh đến thế giới an lành vĩnh cửu.
Thật vậy, Đức Phật Thích Ca xuất thân từ dòng dõi vua Tịnh Phạn nổi tiếng bảy
đời là hiền đức và Ngài có trí thông minh tuyệt đỉnh, sức khỏe phi thường,
tướng hảo trọn vẹn, văn võ song toàn không một ai sánh bằng. Vì vậy, vua cha
cũng như quần thần, nhân dân cả nước đều hết sức yêu quý Ngài. Tuy nhiên, dù có
được những khả năng vẹn toàn như vậy, được kính trọng tuyệt đối và chìu chuộng
hết mực, nhưng Đức Phật không bao giờ tự mãn với tài năng, uy quyền hay những
thứ cao sang nắm trong tay. Trái lại, danh vọng, của cải, quyền lực, sắc đẹp,
v.v... mà mọi người ham muốn thì đối với Ngài, chúng chỉ là những xiềng xích
trói buộc con người trong vòng khổ đau triền miên và trôi lăn mãi trong vòng
sanh tử vô cùng.
Nhận chân được những thứ tài sản tạm bợ của con người ở thế gian, và khi nhắm
mắt xuôi tay lìa đời, thì cũng chỉ có nắm tay không, Ngài đã quyết chí xuất
gia, tìm con đường giải thoát cứu khổ nhân loại. Bằng tất cả sự quyết tâm phi
thường đến quên ăn bỏ ngủ, Ngài đã sử dụng trọn vẹn tài sản quý báu là sức khỏe
tuyệt vời và trí thông minh tột đỉnh của mình. Và quả tình đúng như chí nguyện
cao vời luôn hướng tới, Ngài đã tìm ra con đường sống an bình vĩnh cửu cho
chính Ngài và tất cả chúng sanh.
Trải qua bao năm gian khổ cầu học với tất cả nhà tiên tri nổi tiếng đương thời,
Đức Phật đã nhận thấy hiểu biết của họ chỉ rất hạn hẹp trong vòng khổ đau, sanh
tử của con người. Từ đó, Ngài nỗ lực tìm một cuộc sống vượt ra ngoài tầm chi
phối của vô thường. Sau 49 ngày đêm thâm nhập thiền định dưới cội bồ đề, Ngài
liền tỏ ngộ, chứng được Tam minh và Lục thông.
Tam minh và Lục thông không phải là cái gì bí hiểm, đó là tiềm năng sẵn có của
mọi người, nếu họ biết cách thực tập đúng đắn trong cuộc sống, thì sẽ đạt được
khả năng siêu việt ấy. Vì vậy, Tam minh và Lục thông không phải dành riêng cho
ai, nó có sẵn trong mỗi người, chỉ vì không biết khai thác mà thôi. Đức Phật
từng khẳng định rằng mọi người đều có đủ điều kiện đạt đến sự giác ngộ, giải
thoát giống như Ngài. Vì Ngài đắc đạo, nhận chân được con người có khả năng làm
được việc phi thường là vượt khỏi sự chi phối của sanh tử luân hồi và chuyển
đổi được muôn sự, muôn vật hoàn toàn tự tại theo ý mình. Và Đức Phật là người
đầu tiên chứng minh được khả năng lớn lao ấy.
Tam minh gồm Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh, theo Phật, những
khả năng này không phải là cái gì xa lạ đối với loài người. Đức Phật dạy rằng
chỉ cần tập trung tư tưởng, phát huy thiền định đúng chánh pháp thì sẽ có được
năng lực siêu tự nhiên này.
Chỉ vì con người quá tham vọng và sân si làm mất tánh sáng suốt và năng lực
siêu việt của chính mình. Theo lời Phật dạy, chúng ta dùng thiền định để diệt
trừ tham, sân, si, thì tâm tự lắng yên và trí sáng, mới thấy được mối quan hệ
giữa mình và người hôm nay cũng như sự quan hệ sâu xa từ thời quá khứ giữa mình
và người. Đó chính là sự tu chứng Túc mạng minh và Thiên nhãn minh.
Từ hai khả năng căn bản là Túc mạng minh và Thiên nhãn minh, nhận ra được phải
làm điều gì đúng đối với người mà Ngài tiếp xúc, nghĩa là hóa giải được nghiệp
xấu của quá khứ và hiện tại làm cho người hoan hỷ, tức tạo nên nghiệp tốt hiện
tại với người. Thành tựu như vậy, Đức Phật đã xây dựng con đường hoằng pháp độ
sanh không bao giờ bị trở ngại.
Với khả năng của Tam minh, suốt 49 năm thuyết giáo, Đức Phật gặp bất cứ người
nào, Ngài cũng giúp đỡ họ khai thác tiềm năng của chính họ để nâng cao tài năng
họ và giải quyết tốt đẹp mọi việc đến với Ngài.
Chính vì Đức Phật đã thể nghiệm trọn vẹn tinh ba của Tam minh trong cuộc đời
giáo hóa độ sanh, không những người đương thời theo Ngài được lợi lạc, mà cả
những người ở đời sau, cách Ngài hàng ngàn năm, điển hình như vua A Dục hay Ca
Ni Sắc Ca. Hai ông vua này đã thấm nhuần lời Phật dạy và áp dụng thành công
trong việc chinh phục thiên hạ bằng đạo đức và tri thức.
Mãi cho đến ngày nay, nếu tất cả những ai biết ôn lại lời dạy của Phật để thể
nghiệm trong đời thường, chắc chắn đều học được rất nhiều, tịnh hóa được bản
thân và giúp đỡ người cùng thăng hoa cuộc sống
20. Vô Minh
Sự Vô Minh? (Không
hiểu biết)
Hai nguồn gốc chính trong cuộc sống dẫn đến đau khổ triền miên đó chính Luyến
ái và Vô minh. Về vô minh thực sự nó nguy hiểm hơn luyến ái nhiều, vì luyến ái
chúng ta có thể từ bỏ dần mà hoàn thiện được thiên tính riêng, nhưng vô minh
thì không thể. Con người ngày nay chúng ta nhìn thấy quá rõ đó chính là tính cố
chấp, tự cho mình là chính xác, là đúng và cái lòng ngạo mạn (tự ái) quá cao
nên phải chịu khổ đau, vì họ đã khướt từ đi những chân lý mà có lẽ sẽ mang đến
cho họ một đời sống vui tươi và hạnh phúc, vì họ không tin hay chán ngán để
nghe những lời chỉ dẫn. Điều này có thể nói rằng với những con người đó, chính
là họ thấy được hạnh phúc mà họ không biết bước tới để nhận lấy và chối bỏ con
đường tốt đẹp mà họ có thể đi.
Sự vô minh sẽ ngăn cản tình thương phát triển. Giống như người ăn mày, con
người thường có cái xúc cảm ghê sợ, lánh xa. Đó chính là vô minh, vì người ăn
mày đó phải chịu cảnh ấy chính là nghiệp do đời sống trước tạo tác, chứ thực ta
cảm thấy ghét hay thương họ? nếu ghét và khinh chê thì chúng ta đã là người
thực sự không hiểu biết và sau này chúng ta phải gặp lại cái tình cảnh mà trong
tư tưởng và hành vi hôm nay của mình đã phát xuất với người đó, nếu nghiệp
không nặng đến nổi ăn xin thì có thể chúng ta phải chịu cảnh đó với một người
trên mình hay một điều gì đó, bởi bạn tạo thì bạn phải gặt. Nếu là thương thì
thương họ nghèo đói? Đó chỉ đúng một phần. Thực chúng ta nhìn thấy họ lê lếch,
cầm chén đi xin ăn thì chúng ta phải hiểu rằng mình thương họ vì vô minh mà đời
sống này đển nổi thế và tình thương khác là vì họ chịu phải cảnh đau thương đó,
do ảnh hưởng sự vô minh kiếp trước, nên đời này chịu cảnh mong muốn được chén
cơm no ấm và lấy của thiên hạ mà thôi, vậy thì hiểu biết không thể đạt được,
nghiệp thiện không gieo trong đời sống này thì đời sống sau vẫn tiếp tục thế.
Vậy thì đời sống nào họ được trở lại cảnh vui sướng?
Xin nhớ rằng dù là ăn mày hay kẻ bệnh nặng ghẻ lở ghê tởm đến thế nào thì trái
tim họ vẫn đập giống như trái tim con người, họ vẫn có thịt, có da, có cảm giác
đau đớn hay thương yêu, vậy thì tại sao chúng ta phải ghê tởm, lánh xa họ, ai
cũng muốn được lợi ích vậy thì làm thế mang đến cho ta lợi ích chi?. Vì thế đối
với người gặp cảnh thương đau chúng ta phải hiểu rằng vì họ không hiểu biết mà
phải chịu cảnh đau thương đó, và phải thương họ vì mắc phải cái khổ đau mà
chúng ta có thể mắc phải. Tình thương chân thật chỉ phát triển khi chúng ta có hiểu
biết và vô minh bị xóa bỏ.
Về mặt khác đối với những con người được hưởng cảnh hạnh phúc và an nhàn, thoải
mái về vật chất; tận hưởng vì những duyên nghiệp tốt trước đây đã tạo; nên đời
sống này chỉ biết sống mà không để tâm đến việc rèn luyện tâm trí, nên càng
sống họ lo đeo đuổi theo danh lợi, tên tuổi, tô điểm cho thân xác giả tạm nên
năm tháng dần bị phí bỏ một cách vô ích. Để rồi sau khi hưởng được hết những
nghiệp thiện đã gieo thì chúng ta phải trả gía cho những nghiệp bất thiện còn
lại đã gieo trước đây hoặc do đời sống này lo đeo theo những phù du cuộc sống
nên không tạo tích thiện phước thì đời sống mới sẽ không thể nào tốt đẹp và
hiểu biết không đạt được dần dẫn chúng ta đi đến gần sự đau khổ trong vòng luân
hồi mãi. Đức Phật nói: “Đêm chỉ dài đối với những thiếu ngủ, đường chỉ dài đối
với những người lữ hành mệt mỏi, vòng luân hồi sinh tử sẽ tiếp nối vô tận đối
với những người không minh đạt được chánh pháp.” – Kinh pháp cú.
Vô minh không thể xóa bỏ được khi chúng ta không có suy gẫm về trãi nghiệm của
chính mình. Quán tưởng từng hành vi trong đời sống bạn sẽ nhìn thấy rõ được
điều đó. Khi hiểu biết đã có thì đau khổ sẽ chấm dứt vì bạn có thể điểu khiển
bản thân theo lối sống tốt đẹp. Tâm ta tràn đầy những nhơ bẩn của nhân sinh này
mà còn không có sự hiểu biết nữa thì ngoài những đau khổ và bi thương thì không
có gì xứng đáng cho ta thụ hưởng được cả.
Để phát triển tình thương. Chúng ta phải quên đi lợi ích của bản thân (đó là sự
hy sinh) thì sự phục vụ chân thật của chúng ta mới hình thành được và lòng
thương được phát triển một cách mạnh mẽ, khi đó chính chúng ta sẽ hiểu được
lòng từ bi của vị Đạo Sư vĩ đại nhất thế gian này. Và như: “Trong các pháp, tâm
dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác; Nếu nói hoặc làm với tâm thanh tịnh, sự vui
sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình.” – Kinh Pháp Cú (câu 2). Thế giới
này đau khổ hay tốt đẹp là do chính chúng ta tạo nên, khi chúng ta sống tốt đẹp
thì bạn đang làm cho xã hội tốt đẹp hơn và dù cho có đi đến đâu thì sự lan tỏa
của hạnh phúc cũng sẽ theo đến đó, thì thử hỏi nơi nào có bạn mà không có hạnh
phúc và an lạc trong cõi đời này.
Chúng ta có hiểu biết thì chưa phải bạn đã đạt được an lạc, vì bạn còn phải
chịu khó khăn để thoát khỏi những cảm xúc của mình. Một thời gian dài và khó
khăn đó là điều bạn phải trãi qua và nhớ là không có con đường nào khác ngoài
việc từ bỏ. Bạn phải nhớ “Bạn phải chịu đau khổ rồi mới được hạnh phúc”. Hạnh
phúc không thể tự có được đó là một chân lý muôn thuở.
Điều cần phải biết:
- Khó khăn chỉ xuất hiện khi tư tưởng
xấu chúng ta phát xuất.
- Hành vi (việc làm) xấu tạo ra thì chúng ta phải chấp nhận gánh chịu quả đó
- Lời nói ác cảm, xấu xa sẽ trả cho ta một quả tương xứng với những gì mình
thốt ra.
- Đời sống
tốt đẹp chỉ xứng đáng với một tấm lòng cao thượng và trong sạch.
21. Phát
lộ 2 cuốn sách đồng ở chùa Bút Tháp
Vừa qua, 2 cuốn
sách đồng khắc chữ Hán đã phát lộ trong khi trùng tu toà tháp Tôn Đức tại chùa
Bút Tháp (Thuận Thành).
Hai cuốn sách hiện đang được giữ tại Bảo tàng tỉnh để tiến hành nghiên cứu,
tổng thể còn rất mới, có kích thước 14,4 x 24,8cm. Trong đó 1 cuốn gồm 23 tờ
đồng có tên “Đại phương Quảng hoa nghiêm kinh Hải hội Phật”; cuốn còn lại có 33
tờ đồng hiện chưa rõ tên; cuốn dày được khắc nông hơn và chữ đẹp hơn; tổng số
trang có chữ của cả 2 cuốn là 108. Trong gói cổ vật phát lộ 2 cuốn sách đồng
này còn có một thanh kim loại đã han gỉ để lật giở sách. Qua nghiên cứu bước
đầu, 2 cuốn sách có niên đại khắc là năm Vĩnh Thọ thứ 3 (1660), rất có thể vì
khắc xong chôn ngay nên còn rất mới. Cả 2 cuốn đều là sách Kinh Phật và là đồ
tuỳ táng của nhà sư được Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc tổ chức chôn vào
ngôi tháp song hiện vẫn chưa xác định người viết nội dung 2 cuốn này là bà hay
người khác.
Cuốn sách đang được các cán bộ Bảo tàng tỉnh khẩn trương nghiên cứu, phục chế
phó bản. Hiện chưa có quyết định chính thức của các cơ quan chức năng về việc
xử trí với 2 cuốn sách đồng này. Đây là lần đầu tiên phát lộ cổ vật là sách
đồng trên địa bàn tỉnh. Được biết một người dân ở xã Phật Tích (Tiên Du) có giữ
một cuốn sách đồng khác ít trang hơn.
23. Việt
Nam Phật Giáo Sử Luận - Tập Một
CHƯƠNG I
TRUNG TÂM PHẬT GIÁO LUY LÂU
BA TRUNG TÂM PHẬT
GIÁO ÐỜI HÁN
Ðạo Phật truyền vào Việt
Các tài liệu như Hậu Hán Thư trong đó có câu chuyện Sở Vương Anh theo Phật
Giáo, sách Lý Hoặc Luận của Mâu tử viết tại Việt Nam vào hạ bán thế kỷ thứ hai,
kinh Tứ Thập Nhị Chương và một số tài liệu khác, có tính cách lặt vặt hơn, cho
ta thấy rằng trong đời Hậu Hán (thế kỷ thứ nhất và thứ hai) ngoài hai trung tâm
Phật Giáo ở Trung Hoa, còn có một trung tâm Phật Giáo rất quan trong khác ở
Giao Chỉ, tưc Việt Nam, lúc bấy giờ đang nội thuộc Trung Quốc.
Hai trung tâm ở Trung Hoa là trung tâm Lạc Dương và trung tâm Bành Thành. Lạc
Dương là kinh đô Trung Hoa vào đời nhà Hán, Hiện nay là một huyeetnj ở tỉnh Hà
Nam, còn Bành Thành thì ở về hạ lưu sông Dương Tử, hiện thuộc tỉnh Giang Tô. Ở
nước ta thì có trung tâm Luy Lâu: Luy Lâu là trị sở bấy giờ của Giao Chỉ, hiện
nay thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Trong ba trung tâm Phật Giáo đời Hán vừa kể, trung tâm nào được thành lập sớm
nhất? Hiện giời chưa có câu trả lời dứt khoát. Nhưng đứng về nguồn gốc, chỉ có
trung tâm Luy Lâu tại Giao Chỉ là ta biết chắc chắn do đau mà được thành lập.
Nguồn gốc của hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành vẫn còn rất mờ. Có nhiều dữ
kiện khiến cho chúng ta nghĩ trung tâm Luy Lâu được thành lập sớm nhất, và
trung tâm này đã làm bàn đạp cho sự thành lập các trung tâm Bành Thành và Lạc
Dương ở Trung Hoa.
NGUỒN GỐC TRUNG TÂM
LUY LÂU
Trung tâm Luy Lâu được hình thành do sự viếng
thăm của những tăng sĩ Ấn Ðộ. Các vị tăng sĩ này tới viếng Việt Nam bằng đường
biển, theo các thuyền buôn người Ấn. Nhưng trước khi các vị tăng sĩ Ấn Ðộ tới
Việt Nam, các thương gia Ấn Ðộ cũng đã tới Việt Nam rồi và cũng đã mang theo
sinh hoạt Phật Giáo tới xứ ta.
Hồi bấy giờ (đầu kỷ nguyên) Ấn Ðộ đã có liên hệ th ưong mai trực tiếp với Trung
Ðông và gián tiếp với các nước vùng Ðịa Trung Hải, Ðế quốc La Mã tiêu thụ rất
nhiều vàng, lụa, hương liệu, trầm, quế, tiêu, ngà voi, châu báu... Ðể có đủ
hàng cung cấp cho thị trường ấy, các thương gia Ấn Ðộ đã dong thuyền đi mãi vè
Viễn Ðông. Những thương thuyền này theo gió mùa Tây nam đi về Ðông Nam Á, tời
bờ biển Mã Lai, Phù Nam và Giao Chỉ. Thương gia Ấn Ðộ phải ở lại đây cho đến
năm tới, chờ cho gió mà Ðông bắc để trở về Ấn Ðộ. Trong thời gian này, họ lại
sống với dân bản xứ à đã ảnh hưởng tới dân bản xứ bằng lối sống văn minh của
họ. Vì sự có mặt của những thương gia Ấn Ðộ mà dân ta hồi đó đã biết đến ít
nhiều về kỹ thuật canh tác, y thuật và tôn giáo Ấn Ðộ. Ta có thể nói rằng chính
những thương gia Ấn Ðộ đã trước tiên đem Phật giáo vào nước ta.
Những thương gia kia, tuy vậy, không phải là những nhà truyền giáo, và mục đích
của họ khi đến xứ ta là để buôn bán chứ không phải là để truyền đạo. Trong thời
gian lưu lại Giao Chỉ, họ thờ Phật, đốt trầm, đọc kinh và cúng dường những pháp
Phật nho nhỏ mà họ mang theo. Người Giao Chỉ ta đã áp dụng những điều hay về
canh nông và về y thuật do họ chỉ bày, cố nhiên là cũng tỏ ra mến chuộng tôn
giáo của họ. Nhưng nếu hồi đó có những người Giao Chỉ theo đạo Phật thì đạo
Phật đây cũng mới chỉ là những sinh hoạt tín ngưỡng đơn sơ của người cư sĩ,
giới hạn trong sự tụng đọc tam quy, cúng dường Phật tháp và bố thí cho người ốm
đau đói khổ mà thôi, chứ chưa có sự học hỏi kinh điển và chế độ tăng sĩ.
Trong các chuyến đi xa hàng năm với nhiều tháng lênh đênh trên biển cả như thế,
các thương gia Ấn cũng th ờ cúng và cầu nguyện đức Phật và các vị Bồ Tát hộ trì
cho trời yên biển lặng và mọi sự yên lành. Các thương thuyền này thường thờ đức
Quán Thế Âm (Avalokitesvara) và đức Nhiên Ðăng (Dipankara), được nổi tiếng là
những vị che chở cho thủy thủ được an lành ngoài biển khơi.
Cũng trong mục đích cầu nguyện và cúng dường tam bảo, họ thỉnh theo thương
thuyền một vị tăng sĩ. Chính những vị tăng sĩ đi theo thương thuyền này sẽ lập
nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu tại Giao Chỉ.
Tuy nhiên, những vị tăng sĩ đi theo các thương thuyền Ấn Ðộ không phải chỉ mục
đích giảng đạo và cầu nguyện cho các Phật tử trong thương thuyền. Vào cuối thế
kỷ thứ nhất trước Tây lịch, khuynh hướng Phật Giáo đại thừa đã nẩy nở tại Ấn
Ðộ, và vào đầu th ế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên Tây lịch, các trung tâm Amaravati
và Nagarjunakonda ở miền duyên hải Ðông nam Ấn Ðộ dần dần trở nên những trung
tâm Phật giáo truyền báo vào các nước xa là một trong những hoa trái của đạo
Phật đại thừa; chính ý hướng này đã thúc đẩy những vị tăng sĩ đi theo vơi các
thương thuyền về Ðông Nam Á. Trung tâm Phật Giáo Luy Lâu được thiết lập do sự
viếng thăm của thương gia và tăng sĩ Ấn Ðộ tới bằng đường biển, đó là một điều
tất cả các học giả đều phải đồng ý. Ðạo Phật tại Giao Châu do từ Ấn Ðộ truyền
sang trực tiếp, không phải là từ Trung Hoa truyền xuống.
TRUNG TÂM LUY LÂU
THÀNH LẬP SỚM HƠN CÁC TRUNG TÂM LẠC DƯƠNG VÀ BÀNH THÀNH
Giao Chỉ tuy nội thuộc nhà Hán nhưng vì ở quá
xa và vì phong tục văn hóa khác biệt với đời sống người Hán nên thư tịch Trung
Hoa, trong đó kể cả Hậu Hán Thư, hầu như không hề để cập đến. Tác phẩm Phật
giáo đầu tiên viết bằng Hán tự, trong khi đó, lại được viết tại Giao Chỉ, đó là
cuốn Lý Hoặc Luận [1] của Mâu Tử, một người Trung Hoa trước theo Lão Giáo, sau
nhập tịch Giao Chỉ, theo học đạo Phật ở đây và trở nên một Phật tử rất thuần
thành. Nhiều người, trong đó có ông Trần Văn Giáp, tác giả cuốn Le Bouddhisme
En Annam Des Origines Au XIIè Sièle, căn cứ vào sự kiện đó nói rằng vì tài liệu
sớm nhất ta hiện có về đạo Phật tại Giao Chỉ vào cuối thế kỷ thứ hai, ta chỉ có
thể nói là đạo Phật được truyền vào nước ta trễ lắm là trong thế kỷ ấy.
Ở đây, dù thiếu tài liệu trực tiếp về đạo Phật Giao Chỉ, chúng tôi cũng muốn
dùng những tài liệu liên hệ tới các trung tâm Phật Giáo Hậu Hán để chứng minh
rằng trung tâm Luy Lâu được thành lập sớm hơn các trung tâm Lạc Dương và Bành
Thành, và như thế là đã được hình thành vào thượng bán thế kỷ thứ nhất của Tây
lịch.
Ðạo Phật truyền qua Trung Hoa bằng hai đường: đường bộ từ Trung Á, và đường
thủy ngang qua biển Nam Hải. Theo Thang Dụng Hình, tác giả Hán Ngụy Lưỡng Tấn
Nam Bắc Triều Phật Giáo Sử [2], đạo Phật Trung Hoa phần lớn được truyền sang
bằng đường bộ. Ông Thang nhấn mạnh nhiều lần về điểm này, tuy nhiên ông không
đưa ra những bằng chứng cụ thể. Nhiều người có khuynh hướng cho rằng trung tâm
Lạc Dương được thiết lập do những tăng sĩ Phật Giáo Ấn Ðộ và Trung Á tới bằng
đường bộ: nhìn trên bản đồ ta thấy đường bộ gần hơn đường thủy, và đọc sách xưa
ta đã bị ảnh hưởng gián tiếp của câu chuyện giấc mộng vua Hán Minh Ðế[3] . Sự
thực là tuy con đường bộ nối liền Ấn Ðộ và Trung Hoa có đóng một vai trò quan
trọng trong lịch sử truyền bá Phật Giáo vào Trung Hoa, nhưng những vị tăng sĩ
đầu tiên tời Trung Hoa hầu h ết đều do đường biển mà tới. Lý do giản dị nhất là
hồi đó tuy con đường thủy có thể dài hơn nhưng tương đối an ninh và dễ dàng hơn
con đường núi non và sa mạc rất nhiều.
Con đường bộ trở nên tương đối dễ dàng bắt đầu từ thế kỷ thứ tư. Tuy vậy Pháp
Hiển (cuối thế kỷ thứ tư) và Huyền Trang (thế kỷ thứ bảy) vẫn còn phải trải qua
bao khổ nhọc mới đi trọn con đường ấy. Nhiều vị tăng sĩ ở các nước Trung Á đã
sang Việt Nam rồi đên Trung Hoa bằng đường thủy, trong khi đó thì những nước
Trung Á ấy lại nằm giữa Ấn Ðộ và Trung Hoa.
TRUNG TÂM LẠC DƯƠNG
Lạc Dương là kinh đô của nhà Hán. Tục truyền
rằng vua Hán Minh Ðế (58 - 75 T.L) một đêm nằm mộng thấy một người vàng bay
trước điện. Vua hoan hỷ ngắm nhìn, sáng mai thức dậy liền hỏi quần thần “đó là
vị thần nào vậy?” Có một vị cận thần tên Truyền Nghị tâu “Thần nghe ở nước
Thiên Trúc có người đắc đạo, gọi là Phật, có thể phi hành trên hư không, thân
thể có hào quang. Chắc là vị thần ấy đấy”. Vua liền cử một phái đoàn đi sang
nước Ðại Nhục Chi (
Câu truyện trên kia được ghi chép đầu tiên trong Lý Hoặc Luận của Mâu Tử, trong
Lão Tử Hóa Hồ Kinh và trong bài tựa kinh Tứ Thấp Nhị Chương; và trong suốt mười
mấy thế kỷ đã được xem như là câu chuyện thực vè sự du nhập của Phật Giáo và
đất Hán.
Có quá nhiều nghi vấn được đặt ra về câu chuyện trên khiến cho câu chuyện đã
mất hết giá trị lịch sử. Trước hết, nếu Truyền Nghị có thể giải thích được giấc
mộng “người vàng” là Phật, thì đó có nghĩa là ông ta đã nghe nói đến Phật giáo
đã được du nhập trước khi vua Hán nằm mộng. Thứ đến, dữ kiện về năm đi năm về
của phái đoàn và về tên tuổi các nhân viên của phái đoàn cũng bất nhất. Có bản
chép Trương Khiên là một trong những nhân viên của phái đoàn, trong khi Trương
Khiên là nhân vật sống vào thế kỷ thứ hai trước Tây lịch. Các bản xưa nhất
không chép có vị tăng Ấn Ðộ nào về theo phái đoàn, trong khi các bản in thế kỷ
thứ năm nói có một vị, và một tác phẩm thế kỷ thứ sáu lại nói có hai vị tăng Ấn
Ðộ.
Cuối cùng, người ta nghĩ khó mà tin rằng chỉ vì một giấc mộng mà một phái đoàn
quan trọng thế kia đã được gửi đi một chuyến hành trình quá gian khổ như thế.
Truyền thuyết giấc mộng Hán Minh Ðế vì vậy không có căn bản vững chắc. Ông
Henri Maspéro năm 1910 đã đem nhiều chứng liệu để chứng minh rằng chuyện Giấc
Mộng Hán Minh Ðế chỉ là một sự “ăn gian vì đạo” (fraude pieuse) bịa đặt vào hạu
bán thế kỷ thứ hai (Le Songe Et l’Ambassade De l’Empereur Ming, étude critique
des sources - BEFEO, X).
Nhưng tại sao người ta lại bịa đặt ra câu chuyện giấc mộng? Rất có stheer vì
trong đời nhà Hán, ngoài trung tâm Phật Giáo Lạc Dương còn có trung tâm Bành
Thành và trung tâm Luy Lâu. Những người theo Phật Giáo ở kinh đô Lạc Dương
trong khoảng giữa thế kỷ thứ hai có thể đã tạo dựng nên câu chuyện kia để chứng
tỏ rằng Phật Giáo Lạc Dương có sớm nhất, trong mục đích tạo uy tín cho trung
tâm này. Nếu câu chuyện thấy có chép trong tác phẩm Lý Hoặc Luận, chắc chắn đó
là một sự thêm thắt sau này. Mâu Tử học Phật ở Luy Lâu, không phải ở Lạc Dương;
ông có thể chưa bao giờ nghe nói đến một nơi nào có Phật Giáo ngoại trừ Giao
Châu cả, và câu chuyện giấc mộng chắc đã được thêm vào tác phẩm sớm nhất là vào
giữa thế kỷ thứ ba. Trong Lý Hoặc Luận, ta có thể tìm ra một số từ ngữ và cách
hành văn có mầu sắc thế kỷ thứ ba và thứ năm; những yếu tố này cho ta biết một
vài điều sửa chữa và thêm thắt đã xảy ra cho tác phẩm trong các thé kỷ đó.
Tuy nhiên, trung tâm Phật Giáo Lạc Dương là một trung tâm quan trọng vào hạ bán
thế kỷ thứ hai. Vua Hoàn Ðế (tức vị năm 165) đã thờ Phật trong cung cùng với
Lão Tử (trong lá sớ của Tương Giai dâng vua Hoàn Ðế năm 166. Hậu Hán Thư chép);
như vậy ta biết ảnh hưởng của Phật Giáo lúc này đã khá mạnh. Thời đó, tại Lạc
Dương có các vị tăng sĩ ngoại quốc cộng tác với người Hán phiên dịch kinh sách
từ Phạn Ngữ ra Hán tự. An Thế Cao một vị tăng sĩ người An Tức (
Hai ngôi chùa nổi tiếng của thời đại là chùa Bạch Mã và chùa Hứa Xương. Chính
cái tên của ngôi chùa Hứa Xương này đã cho ta một vài dữ kiện về nguồn gốc sự
thành lập trung tâm Lạc Dương.
TRUNG TÂM LẠC DƯƠNG
ÐƯỢC THÀNH LẬP DO TỪ TRUNG TÂM BÀNH THÀNH
Hứa Xương là tên một ngôi chùa cổ nhất của
trung tâm Lạc Dương, nhưng cũng là tên của một người em họ của Sở Vương Anh. Sở
Vương Anh là em cùng cha khác mẹ với vua Hán Minh Ðế, được phong tước Vương năm
41. Năm 52, Sở Vương Anh di cư ra Bành Thành, kinh đô của nước Sở. Hậu Hán Thư
có chép câu chuyện sau đây: Năm 65, vua Minh Ðế xuống chiếu cho phép những
người nào bị tội nặng được dâng vóc lụa để chuộc tội. Sở Vương Anh có mặc cảm
mình cũng có tội, nên dang lên vua Minh Ðế ba mươi tấm lụa. Vua Minh Ðế xuống
chiếu nói rằng Vương không có tội gì, trái lại, Vương còn có công đức “biết
sùng thượng giáo lý cao siêu của Hoàng Lão và đức nhân từ bao la của Phật”
(Thượng Hoàng Lão chi vi ngôn, thượng Phù Ðồ chi nhân từ). Vương bèn làm lễ sám
hối, ăn chay ba tháng và tổ chức thịnh soạn cúng dường tăng sĩ và cư sĩ. Như
thế rõ ràng là trung tâm Bành Thành được thành lập sớm hơn trung tâm Lạc Dương;
chính ở đây vào năm 65 đã có một đoàn thể Phật Giáo vừa tăng già và cư sĩ. Tăng
già đây chắc chắn là những vị tăng già ngoại quốc, bởi lẽ người Trung Hoa trong
đời Hán chưa được phép xuất gia. Cao Tăng Truyện trích lời sớ của Vương Ðộ đời
Tấn: “Từ khi Phật Giáo được du nhập chỉ nghe nói đến các sư Tây Vực được phép
lập chùa thờ Phật, người Hán không được phép xuất gia. Nhà Ngụy theo pháp chế
của nhà Hán cũng chưa cho dân bản xứ xuất gia”. Ông Thang Dụng Hình: Trong sách
Hán Ngụy Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều Phật Giáo Sử nêu lên thuyết là vào đời Hán đã
có người Hán xuất gia rồi. Và có lẽ những người xuất gia này chỉ thọ Nguyễn giới
của Ưu Bà Tắc thôi. Ðiều này không đứng vững, bởi vì như thế thì câu chuyện cần
già phải phân biệt xuất gia và tại gia trong câu nói “đặt tiệc thịnh soạn cúng
dường tăng sĩ và cư sĩ”. Ông Thang Dụng Hình còn đưa ra chứng cớ Nghiêm Phù
Ðiều, người Phật tử cộng tác với An Thế Cao dịch kinh tại Lạc Dương, là một
người Hán xuất gia. Nhưng không có tài liệu gì chứng chắc Nghiêm Phù Ðiều cũng
không có vẻ là tên của một người xuất gia. Trở lại chùa Hứa Xương. Sở Vương Anh
mất năm 71, đã biến một ngôi nhà của Hứa Xương Tự và đã ảnh hưởng sâu xa tới
tín ngưỡng của Hán Hoàn Ðế.
NGUỒN GỐC TRUNG TÂM
BÀNH THÀNH
Liên hệ tới trung tâm Bành Thành, ngoài câu
chuyện Sở Vương Anh theo Phật, còn có câu chuyện Sạ Dung làm chùa. Theo sách
Ngô Chí, Sạ Dung người Ðơn Dương, làm quan phụ trách vận tải lương thực miền hạ
lưu sông Dương Tử, Sa Dung làm cách mệnh giữ lấy lương thực, quyền bính một
phương. Ông chùa o nấu thức ăn bầy ra đường dài tới mười dặm để cho người đói
tới ăn. Sau đó ông ta cất một ngôi chùa lớn, trong đó có thờ tượng Phật thếp
vàng; lại xây một cái lầu có thể chứa tới tới 3.000 người. Ông ta tổ chức tụng
kinh, thuyết pháp, làm lễ cúng Phật. Sạ Dung mất năm Hưng Bình thứ hai đời Hán
Hiến Ðế (195). Sách Thủy Kinh Chú cũng cho biết trước khi Sạ Dung làm chùa vài
năm, có một gia đình theo đạo Phật gần đó đã xây một cây tháp cao để thờ một
người trong gia đình vừa mất. Các câu chuyện trên đều xác nhận thêm rằng Bành
Thành vào hạ bán thế kỷ thứ hai là một trung tâm Phật Giáo quan trọng. Không có
sử liệu nào nói về nguồn gốc của trung tâm Phật Giáo Bành Thành. Trung tâm này,
như ta đã thấy, đã là nguồn gốc của trung tâm Lạc Dương thì không thẻ nào do từ
trung tâm Lạc Dương mà được thành lập. Ta cũng phải loại gỉ thuyết cho rằng đạo
Phật truyền vào miền hạ lưu sông Dương Tử bằng đường bộ. Chỉ còn có thẻ nói
Phật Giáo được truyền vào Bành Thành bằng đường biển. Lương Khải Siêu cũng quả
quyết như vậy. Nếu đã do hải đạo thì đạo Phật chắc chắn phải đi qua Giao Chỉ
trước, bởi vì Giao Chỉ là một điểm giao tiếp quan trọng giữa Trung Hoa va thế
giới bên ngoài. Sự có mặt của trung tâm Luy Lâu trong thời Hán đã là một sự thực
hiển nhiên, thì trung tâm Luy Lâu làm căn cứ là bàn đạp cho Phật giáo đi vào
đất Hán là một chuyện dĩ nhiên vậy. Ta không thể tưởng tượng rằng trong đầu thế
kỷ thứ nhất, các vị du tăng Ấn Ðộ đổ bộ lên Quảng Châu và đi thẳng lên miền hạ
lưu sông Dương Tử trong khi họ chưa biết Hán ngữ và trong khi đất Hán chưa có
một cơ sở và một dấu tích gì về đạo Phật để móc nối. Các vị tăng sĩ theo thương
thuyền, dù đổ bộ lên đất Phù Nam, Chân Lạp, Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ hay
Quảng Châu hẳn cũng phải dừng chân quy tụ tại địa điểm giao tiếp Giao Chỉ, rất
thuận lợi cho họ về mọi mặt. Giao Chỉ sát các nước chịu ảnh hưởng văn minh Ấn
Ðộ như Phù
Nhà học giả Trung Hoa Hồ Thích (Hồ Thích Luận Học Cận Trước, Thượng Hỉa, 1935)
nói rằng hồi đó đã có những đường liên lạc giữa trung tâm Luy Lâu và trung tâm
Bành Thành. Ông cho rằng đã có những vị tăng sĩ khởi hành từ Giao Châu đến Vũ
Châu (ở Quảng Tây) rồi từ Quảng Tây đến Quảng Ðông, và từ Quảng đông vượt qua
núi non đi tới miền hạ lưu lưu châu thổ sông Dương Tử. Hậu Hán Thư cũng có nói
đến những chuyến đi từ Giao Châu đến miền hạ lưu sông Dương Tử bằng đường biển.
Hậu Hán Thư ghi chép: Quận Nhật
1. Trong ba trung tâm Phật Giáo đời Hán, trung tâm Luy Lâu là trung tâm có tổ
chức tăng đoàn sớm nhất. Trong sách Lý Hoặc Luận viết về những tệ trạng của
giới tăng sĩ Giao Châu vào hạ bán thế kỷ thứ hai, Mâu Tử nói: “Sa môn ngày nay
có kẻ lại thích uống rượu ngon, có khi có vợ con, biết cất giữ tiền bạc, của
quý, lại chuyên môn lừa dối”. Như vậy ta biết rằng tăng đoàn Giao Châu thời đó
đã khá đông đảo mời có nhiều tệ đoan như vậy. Danh từ “Sa môn ngày nay” mà Mâu
Tử dùng không thể để chỉ một số ít tăng sĩ Ấn Ðộ có mặt tại Giao Châu, mà là
chỉ số đông tăng sĩ Giao Châu vậy.
2. Ở Trung Hoa, mãi đến năm thứ hai niên hiệu Gia Bình (năm 250) mới có Ðàm Ma
Ca La từ Trung Ấn qua thực hành pháp “thập nhân thọ” để làm lễ trao giới xuất
gia cho người muốn làm Sa môn. Theo phép này, lễ xuất gia truyền giới phải do
một hội đồng mười vị tăng sĩ chủ tọa mới được hợp pháp. Trong mười vị đó, có ba
vị thầy (Tam sư: hòa thượng, yết ma và giáo thụ) và bảy vị Tôn chứng chứng
minh.Ở Giao Châu phép “thập nhân thọ” này đã được áp dụng chậm nhát là vào hạ
bán thế kỷ thứ hai. Ta thấy Khương Tăng Hội (sinh trưởng tại Giao Châu, cha mẹ
mất lúc mười tuổi, đã đi xuất gia tại Giao Châu khoảng mười năm sau đó) viết
trong bài tựa kinh An Bang Thủ Ý, có than thở rằng tam sư của mình đã viên tịch
qúa sớm: “Tôi sinh ra như dấu tích cuối cùng, vừa mới đủ sức vác củi thì mẹ cha
đều mất, bậc tam sư cũng viên tịch, nhìn lên mây trời, buồn thấy mình thiếu
người chỉ dạy...”Trong số mười vị truyền giáo cho Khương Tăng Hội ta không biết
có vị nào là tăng sĩ ngọai quốc không. Ta cũng không thể nói tất cả mười vị kia
đều là tăng sĩ ngoại quốc được. Khương Tăng Hội tuy là dòng dõi người Khương
Cư, nhưng theo Lương Cao Tăng Truyện, thì cha mẹ ông đã sang cư trú tại Giao
Châu làm nghề buôn bán, và khi ông lên mười tuổi thì cha mẹ đều mất. Sinh
trưởng tại Giao Châu, cố nhiên ông nói tiếng Giao Châu: xuất gia học Phật tại
Giao Châu và có khả năng dịch thuật kinh Phạn ra kinh Hán, ông chắc chắn đã học
Phạn ngữ và Hán ngữ tại Giao Châu. Cao Tăng Truyện (viết vào khoảng 520 sau Tây
lịch) cho rằng Tăng Hội là vị tăng sĩ đầu tiên xuất hiện sớm nhất ở Giang Nam,
và trước đó tại đất này chỉ có một vị cứ sĩ tên là Chi Khiêm người nước Nhục
Chi từ phương Bắc chạy loạn xuống.
3. Tập luận thuyết đầu tiên về đạo Phật bằng Hán tự đã được viết tại Giao Châu.
Tác giả như ta đã biết,là Mâu Tử, sinh vào khoảng 165 - 170.
Người Phật tử này đã học Phật tại Giao Châu và viết cuốn sách kia để đáp lại
những kích bác về Phật tử của những người không theo đạo Phật, nhất là những
người theo Khổng Lão từ đất hán chạy qua tị nạn Tam Quốc. Bài tựa sách Lý Hoặc
Luận nói: “Sau khi Hán Linh Ðế mất [4] trong nước rối loạn, chỉ có đất Giao
Châu tạm yên, những bậc dị nhân Bắc phương đều đến ở lại đây, nhiều người theo
thuật tịch cốc trường sinh của thần tiên. Thời ấy có nhiều học giả. Mâu Tử
thường đem Ngũ Kinh ra vấn nạn, nhiều đạo gia và thuật sĩ không làm sao đối đáp
lại được”. Mâu Tử học Phật ở Giao Châu, chắc chắn không phải với những nhân sĩ
theo đạo tịch cốc trường sinh, mà là với những tăng sĩ Ấn Ðộ có mặt tại Giao
Châu thời và với những tăng sĩ người Giao Châu. Không biết Mâu Tử có góp phần
vào công việc dịch thuật kinh sách Phạn ngữ ra Hán ngữ đầu tiên về Phật Giáo
không? Có lẽ Mâu Tử đã phải học tiếng Phạn để nghiên cứu Phật Giáo. Cũng có thể
có một số ít người theo gương Mâu Tử theo đạo Phật và góp công vào việc dịch
thuật kinh điển. Xét về hình thức cũng như nội dung kinh TưThập Nhị Chương, ta
có thể nói rằng kinh này được trích dịch lại từ nhiều kinh điển, và xuất hiện
tại Giao Châu trong thế kỷ thứ hai Tây lịch, chứ không phải do phái đoàn Hán Minh
Ðế mang từ nước Nhục Chi về.
4. Sách Ngô Chí có chép một lá thư của Viên Huy nhà Hán gửi từ Giao Châu cho
thượng thư lệnh là Tuân Húc năm 207, trong đó có một đoạn như sau: “Sĩ Nhiếp ở
Giao Châu đã học vấn sâu rộng lại giỏi chính trị, nên trong buổi đại loạn vẫn
được một quận yên ổn hơn 20 năm, bờ cõi không việc gì, dân vẫn yên nghiệp. Anh
em đều làm quan coi quận, hùng tướng một châu, ở lánh xa muôn dặm, uy tín không
ai hơn. Khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết: kèn sáo thổi vang, xe
ngựa đầy đường; người Hồ đi sát bánh xe đốt hương thường có đến mấy mươi
người...”. Danh từ Hồ ở đây chỉ cho người Ấn Ðộ. Ðây cũng là một chứng cớ về
tính chất Ấn Ðộ của đạo Phật Giao Châu ở trong hạ bán thế kỷ thứ hai.
5. Vào thời Mâu Tử và Khương Tăng Hội (cuối thế kỷ thứ hai đầu thế kỷ thứ ba) ở
Giao Châu đã có lưu hành ít nhất là mười lăm bộ kinh rồi, và số tăng sĩ tại
Giao Châu đã có khoảng năm trăm vị. Tài liệu này được chép trong cuốn Thiền
Uyển Tập Anh Ngữ Lục, một tác phẩm hoàn thành đầu đời Trần, nói về ba phái
Thiền tông Việt
“Ngày rằm tháng Hai năm Hội Phong thứ năm (1906), hoàng thái hậu Phù Cảm Linh N
hân thiết lễ trai tăng và cùng các bậc kỳ túc cứu vấn về nghĩa Phật và Tổ {...}
Bà hỏi: “Phật ở phương nào? Tổ ở nước nào? Ai hơn ai kém? Ðến nước ta hồi nào
để truyền đạo? Ai đến trước ai đến sau? Người nào dạy niệm danh hiệu Phật,
người nào dạy đạt tâm ý Tổ?” Trong khi mọi người còn đang yên lặng thì thiền sư
Trí Không trả lời: “Phật là bậc thường trú thế gian, bất sinh bất diệt; Tổ là
người đạt đến tông chỉ của Phật Tâm và tới trình độ kiến giải và thực hành đi
đôi với nhau. Phật và Tổ là một. Chỉ có kẻ kém học mới vọng nghĩ giữa Tổ và
Phật có hơn có kém. Vả lại, Phật là giác ngộ. Sự giác ngộ này vốn trạm nhiên
thường trú - tất cả mọi sinh linh đều có bản tính giác ngộ, chỉ vì bụi vọng
tình che lấp, trôi theo nghiệp báo mà lưu lạc mà lưu lạc mãi trong vòng ngũ
thú. Vì tâm từ bi nên Phật thị hiện giáng sinh ở Tây Trúc vốn là xứ trung ương
vậy. Năm mười chín tuổi xuất gia, năm ba mươi tuổi thành đạo. Thuyết pháp trên
đời trong 49 năm, bày ra bao nhiêu phương tiện giáo hóa để giúp cho người ngộ
đạo; đó là thời đại lập giáo vậy. Trước khi nhập niết bàn, Ngài ngại người sau
mê chấp nên nói với Văn Thù: Trong số 49 năm qua, ta chưa từng nói một tiếng,
chứ đừng nói là có diễn bày ra những học thuyết. Nhân đó Ngài đưa lên cành hao.
Ðại chúng đều mang mang, chỉ có tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Phật biết Ca Diếp có
điều khế ngộ, liền đem chính pháp nhãn tạng trao cho, đó là tổ thứ nhất. Ðây là
tâm tông truyền lại, biệt lập ngoài giáo điển vậy. Sau đó Ma Ðằng đem giáo lý
này lưu nhập vào đất Hán, Ðạt Ma đem tông chỉ này truyền vào Lương Ngụy. Về
Giáo Tông thì đến Thiên Thai Trí Giả là thanh; về Thiền Tông thì người đạt được
tông chỉ vẻ vang nhất là Tào Khê Huệ Năng. Hai tông này đến nước Việt ta đã lâu
rồi. Giáo Tông thì từ Mâg Tăng Hội. Thiền Tông thì có phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi là
phái đầu tiên, rồi đến phái Vô Ngôn Thông, Hai vị đó là tổ của hai phái vậy”.
Hậu hỏi: “Về hai thiền phái ấy, có chứng cơ gì để giảo nghiệm?” Thiền sư đáp:
“Xét truyện Ðàm Thiên pháp sư, ta thấy vào đời Tùy Cao Tổ, giáo pháp được nâng
đỡ rất nhiều. vua Văn Ðế nói: “Trẫm nghĩ nhớ tới lòng từ bi của đức Ðiều Ngự
khi ngày thuyết dạy chính pháp, không biết làm sao để báo ân đức này. Từ khi
lên ngôi, trẫm đã hỗ trợ tam bảo khắp nơi, thâu xá lợi di thể để làm bảo tháp
thờ khắp nước đến 49 nơi, để làm nơi dẫn dắt cho nhân gian. Trẫm đã làm hơn 150
ngôi chùa và tháp. Ta cũng muốn là chùa tháp ở Giao Châu để cho phước đức được
thấm nhuần cả đại thiên thế giới. Xứ ấy tuy nội thuộc, nhưng ở quá xa. Vậy pháp
sư hãy chọn một số danh tăng sang đó để giáo hóa khiến cho mọi người đều được
biết đến đạo bồ đề”. Pháp sư Ðàm Thiên tâu: “Giao Châu có đường thẳng thông với
Thiên Trúc”. Khi Phật Pháp mới tới Giang Ðông chưa đầy đủ gì thì ở thủ đô Luy
Lâu của Giao Châu đã có tới hai mươi ngôi bảo sát (chùa), độ được h ơn 500 vịt
tăng và dịch được 15 cuốn kinh rồi... Như vậy là vì Phật Giáo truyền đến Giao
Châu trước khi truyền đến Giang Ðông vậy. Hồi ấy, có các vị Tăng như Ma Ha Kỳ
Vực, Khương Tăng Hội,Chi Cương Lương, Mâu Bác... cư trú tại đó. Nay lại có Pháp
Hiền thượng sĩ, đắc pháp với Tỳ Ni Ða Lưu Chi, truyền bá tông chỉ của Tam Tổ,
là một vị bồ tát sống, cư trú tại chùa Chúng Thiện, dạy dỗ giáo hóa đồ chúng có
hơn ba trăm người, không thua gì ở Trung Quốc. Bệ hạ là một bực cha hiền khắp
chốn, muốn bình đẳng bố thí, nhưng đất kia đã có người rồi, ta không cần gửi
người tới nữa”.
Thiền sư Trí Không còn nói tiếp thêm về hai phái thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi và Vô
Ngôn Thông và dẫn thêm chứng cớ. Hoàng thái hậu rất vừa ý. Sau này thiền sư
được triều đình tôn xưng là Thông Biện quốc sư.
Thông Biện quốc sư là người học rộng biết nhiều, đã dùng một sử liệu Trung
Quốc. Chúng ta chưa biết tiểu sử Ðàm Thiên pháp sư mà thiền sư trích dẫn nằm
trong sách nào. Những sách Thích Thị Thông Giams, Phật Tổ Lịch Ðại Thông Tải,
Phật Tổ Thống Kỷ, Tục Cao Tăng Truyện... đều không thấy chép đoạn này. Nhưng
Cao Tăng Truyện khi nói đến Khương Tăng Hội đã ghi một câu có thể chứng minh
được lời Ðàm Thiên pháp sư nói. Sách này viết: “Khương Tăng Hội vào năm Xích Ô
thứ mười (năm 247. Sách Quảng Hằng Minh Tập trong Ðại Tạng Ðại chánh trích dẫn
Ngô Thư, nói là năm Xích Ô thứ tư, tức là năm 241.) đến đất Kiến Nghiệp; vì cảm
phục, sự linh ứng của Xá Lợi, vua Ngô Tôn Quyền bèn dựng chùa Kiến Sơ. Từ đó,
Phật pháp tại miền Giang Nam bắt đầu hưng thịnh”. Sách Lương Cao Tăng Truyện
cũng chép tương tự:”Lúc ấy đại pháp đã truyền vào đất Ngô,nhưng sự hoằng pháp
chưa đầy đủ. Tăng Hội muốn cho Phật pháp được hưng khởi ở miền Giang Tả, và
chùa tháp được kiến lập thêm, nên Ngài mang tích trượng đi về phương Ðông. Vào
năm Xích Ô thứ hai nhà Ngô, Ngài đến Kiến Nghiệp, và cất một thảo am... Khi
Khương Tăng Hội cho thấy tính cách linh ứng của Xá Lợi Phật, Ngô Tôn Quyền rất
kinh dị và thuần phục, ông liền cho dựng một ngôi chùa thờ Xá Lợi, gọi là chùa
Kiến Sơ. Còn nơi Tăng Hội ở, gọi là Phật Ðà Lý. Sau đó, đại pháp được hưong
thịnh tại miền Giang Tả”.
Trần Văn Giáp nêu nghi vấn về Ðàm Thiên pháp sư, nói rằng Ðàm Thiên sống trong
triều đại nhà Tề, không phải Tùy. Sự thực là Ðàm Thiên sống trong triều đại nhà
Tùy, là một vị pháp sư được vua Tùy Văn Ðế kính trọng vào bậc nhất (Xem Phật Tổ
Lịch Ðại Thông Tải).
Mười lăm cuốn kinh đã được dịch ra Hán tự và lưu hành tại Giao Châu vào cuối
thế kỷ thứ hai là những kinh nào? Ta biết chắc chắn là trong số đó có kinh Tứ
Thập Nhị Chương, bởi sách Lý Hoặc Luận của Mâu Bác có nói tới têm kinh này. Con
số 15 bộ kinh có thể không đúng, cũng như lời nói của Ðàm Thiên: “Giáo Tông bắt
đầu từ Mâu Tử và Khướng Tăng Hội” đã không đúng. Cả hai người Mâu Tử và Khương
Tăng Hội, đều không phải là người nước ngoài tới truyền đạo, trái lại cả hai
người đều bắt đầu học Phật tại Giao Chỉ. Như thế, họ không phải là những người
mà tên tuổi còn thấy rõ ràng trong sử sách thôi. Khương Tăng Hội xuất gia tại
Giao Chỉ, có tam sư và thất chứng. Mâu Tử cũng đã xuất gia. Trong Lý Hoặc Luận
có nhiều đoạn khiến ta nghĩ rằng số kinh điển lưu hành tại Giao Chỉ dồi dào hơn
con số Ðàm Thiên kể ra gấp bội. Ta đọc thử đoạn sau đây của Lý Hoặc Luận:
“Người ta hỏi Mâu Tử: Chân lý chí thật thì thường không văn hoa, lời nói chí lý
thì không hoa hòe... cho nên châu ngọc thì quý giá mà ngói vụn thì là đồ bỏ.
Xưa thánh nhân chế ra bảy kinh, văn từ không quá ba vạn lời và không có gì
không đủ trong từng ấy kinh văn. Ngày nay, chương điển của Phật Giáo có đến
hàng ngàn ức, sức một người không thể nào đọc hết được. Tôi chán và không muốn
đọc”.
Một đoạn khác:“Người ta hoải Mâu Tử: Lời lẽ trong kinh Phật không chỉ bày được
chân lý của vạn vật mà chỉ dùng ví dụ quá nhiều.. Dù lời lẽ nhiều nhưng cũng
như chiếc xe bò đựng đầy bụi ngọc, người ta không cho là quý”.
Những đoạn trên, viết vào cuối thế kỷ thứ hai hẳn có thể cho ta một khái niệm
về số lượng kinh Phật lưu hành ở Giao Chỉ thời ấy.
Rất tiếc ta không biết được đó là những kinh gì, ngoài kinh Tứ Thập Nhị Chương,
kinh Bản Sinh (Vessantara - jātaka trong đó có chuyện thái tử Tu Ðại Noa) và
kinh Bản Sự (đời của Phật), nhờ một vài chi tiết của Lý Hoặc Luận. Có thể trong
số kinh điển kia cũng có cả một bản dịch Milinda - panha nữa, bởi vì thể tài Lý
và Luận là thể tài vấn đáp bắt chước y hệt như Di Lan Vấn Ðạo Kinh, và trong
văn học Trung Hoa trước đó cũng như sau đó hàng trăm năm cũng không có một tác
phẩm nào viết theo đề tai ấy.
Ðàm Thiên còn nói tới việc “độ được hơn 500 vị tăng”. Danh từ “độ Tăng” ở đây
có nghĩa là làm lễ truyền giới Sa Môn xuất gia để người cư sĩ trở thành người
tăng sĩ. Số tăng sĩ này chắc chắc là tăng sĩ Giao Châu, bởi vì những tăng sĩ
ngoại quốc có mặt tại đó đã là tăng sĩ rồi, không cần phải “độ” nữa. Ðiều này
cũng xác nhận thêm về sự có mặt của một tăng đoàn quan trọng tại Giao Châu vào
thế kỷ thứ hai phù hợp với lời nói của Mâu Tử về những tệ đoan trong giơi Sa
Môn thời ấy.
6. Tại trung tâm Luy Lâu, việc sáng tác được chú trọng sớm hơn ở các trung tâm
khác, như ta đã biết, Mâu Tử viết tập Lý Hoặc Luận là cuốn sách sáng tác về đạo
Phật cổ nhất mà ta hiện có bằng Hán tự. Tăng Hội cũng chú trọng nhiều về sáng
tác: ông đã biên tập cuốn Lục Ðộ Yếu Mục, sáng tác Nê Hoàn Phạm Bối, chú giải
các kinh An Ban Thủ Ý, Pháp Cảnh và Ðạo Thọ cũng viết bài tựa cho ba kinh này
(Cao Tăng Truyện). Trong những kinh Tăng Hội dịch, bây giờ chỉ còn Lục Ðộ Tập
Kinh, mà Thang Dụng Hình nghĩ là một tác phẩm của Tăng Hội chứ không phải một
bản dịch từ Phạn văn. Những chú sớ của Tăng Hội về các kinh An Ban Thủ Ý, Pháp
Cảnh và Ðạo Thọ đã mất, duy các bài tựa các kinh An Bang Thủ Ý và Pháp Cảnh là
còn.
Trong số những tác phẩm kia, một số đã được sáng tấc tại đất Kiến Nghiệp, và
một số tại Giao Châu. Ðiều ta cần lưu ý đây là so với các trung tâm Lạc Dương
và Bành Thành, trung tâm Luy Lâu ngoài việc dịch thuật: Chi Khiêm ở Kiến Nghiệp
tuy có biên tập Tán Bồ Tát Liên Cú Phạm Bối và chú thích Liễu Bản Sinh Tử Kinh
ngoài ra đều là tác phẩm dịch thuật. Ta có thể kết luận là trung tâm Phật Giáo
Luy Lâu đã trưởng thành trước hai trung tâm Phật Giáo đất Hán.
CHƯƠNG II
HAI THẾ KỶ ĐẦU
ÐẠO PHẬT GIAO CHÂU TRONG THẾ KỶ ÐẦU TÂY LỊCH
Sự thành lập tăng
đoàn, dịch kinh, sáng tác và làm chùa hẳn được thực hiện vào thế kỷ thứ 2.
Trong thế kỷ đầu của Tập lịch sinh hoạt Phật ở Giao Châu chắc chắn còn thô sơ
lắm.
Như ta đã biết, đạo Phật đầu tiên do các thương gia Ấn Ðộ đem đến. Những người
này không phải là những nhà truyền giáo; họ chỉ sống đời sống tín ngưỡng của họ
trong lúc lưu lại Giao Châu, và chính vì vậy mà người Giao Châu biết đến đạo
Phật. Sinh hoạt của Phật tử Ấn Ðộ thời ấy thế nào? Họ đọc ba điều quy y, giữ
tam quy, tin tưởng ở Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng. Họ giữ ngũ giới: không sát
sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Họ tin ở
thuyết nhân quả; vì vậy họ lo bố thí cúng dường, nhất là cúng dường ẩm thực, y
phục và chỗ cư ngụ cho tăng sĩ , bởi vì tăng sĩ là “ruộng phước đức tốt nhất”
để gieo hạt giống công đức, họ còn thờ phụng Xá Lợi Phật, đốt hương trầm, đọc
thuộc vài đoạn kinh nhân quả, kể chuyện tiền thân của Ðức Phật.
Tín ngưỡng của người Giao Châu hồi ấy ra sao? Ông
trời ở trên cao, có thể nhìn thấu mọi việc dưới đất, biết trừng phạt kẻ ác,
biết giúp đỡ kẻ làm lành. Tuy nhiên Ông trời không phải là đấng tạo hóa nên mọi
vật, nhất là không phải vị thần của nhất thần giáo. Ông trời có những thuộc hạ
gần và xa. Gần thì có ông Sấm, mụ Sét. Xa thì có Sơn Tinh, Thủy Tinh, thần núi
Tản Viên, thần cây Ða, ông Táo, ông Ðịa vân vân... Linh hồn con người không hẳn
là bất diệt, nhưng có thể tồn tại thời gian khá lâu quanh quẩn bên xác chết, va
có thể ở chung quanh người thân thích còn sống một thời gian để che chở bảo hộ.
Ma Xó là linh hồn người chết còn ở quanh quẩn trong
nhà, coi sóc bảo hộ gia đình. Nhà mồ là nơi an trí linh cữu người chết trong
rừng, trong một thời gian nào đó, có cơm canh bày cúng người chết.
Người Giao Châu đi đánh cá, lặn xuống nước, bị
thụồng luồng làm hai, bèn vẽ mình cho thuồng luồng sợ. Sau đó, họ tin mình là
dòng dõi của rồng. Ý niệm về nguồn gốc tiên rồng là do đó. Khi triệu Vũ Ðế làm
vua ở Lĩnh Nam, vào thế kỷ thứ hai trước Tây lịch, triều đình có dùng trâu,
ngựa và dê để cúng tế trời đất, và dân chúng đã biết mua dụng cụ canh nông bằng
sắt của người Hán (thư Triệu Vũ Vương gửi Hán Văn Ðế năm 181 trước Tây lịch),
biết nhì những hiện tượng thiên văn như sao chổi, nhật thực để đoán thời vận.
Tuy vậy, văn minh Giao Châu còn rất khác với văn minh Hán. “Dân Việt là dân cạo
tóc, vẽ mình, không thể lấy pháp độ của nước đội mũ mang đai {nước Hán} mà trị
được. Từ thời Tam Ðại tự trị, đất Hồ, đất Việt không theo lịch sử của Trung
Quốc...” (thư của Hoài Nam Vương dâng vua Hán, can không nên đem quân can thiệp
vào cuộc gây hấn giữa Mân Việt và Nam Việt vào năm 135 trước Tây lịch). Người
Giao Châu chắc đã dùng lịch Ấn Ðộ trong thời đó.
Trong bối cảnh tín ngưỡng và văn hóa kia, đạo Phật
đã được mang vào Việt
Những tăng sĩ Ấn Ðộ đi theo thương thuyền có thể đã
cư trú tại những ngôi am nhỏ làm ra cho họ, và được những thương gia Ấn Ðộ cùng
những người Giao Chỉ thân cận họ cúng dường áo xống và thực phẩm. Trong thế kỷ
đầu này, có thể đã có những ngôi chùa lập ra cho một hay hai vị tăng sĩ ngoại
quốc lưu trú, với một vài người Giao Châu mộ Phật ở chung. Người Giao Chỉ chắc
chắn đã học tụng bài tam quy bằng tiếng Phạn, mà bất cứ người Phật tử Ấn nào
cũng thuộc. Họ cũng đã học cúng dường vị tăng sĩ, thờ Phật, lạy Phật, làm phúc
thiện, bố thí. Bố thí ở đây có nghĩa là cho người đói ăn cơm. Kinh Tứ Thập Nhị
Chương lưu hành tại Giao Châu trong thế kỷ thứ hai, nói đến công đức đem cơm
cho người khác ăn: “Cho một trăm người ác ăn cơm có công đức, nhưng công đức ấy
không nhiều bằng cho một người hiền ăn cơm...” Họ cũng học cách đọc kinh tam
quy cầu nguyện cho người mới chết. Ðạo Phật vào thế kỷ này chắc hẳn chỉ là ngưỡng
Phật Giáo bình dân, chưa có kinh điển phiên dịch, chưa có chế độ tự viện và
tăng sĩ đàng hoàng. Ta có thể phác họa sơ lược tín ngưỡng Phật Giáo Giao Chỉ
trong thế kỷ đầu như sau:
Quan niệm về Phật: Bụt (hay Bụt Ðà) như một đấng có
phép thần thông, nghe biết hết mọi chuyện trên đời như ông Trời, nhưng không ở
trên cao nhìn xuống như ông Trời, mà rất thân cận vơi con người. Bụt có thể
hiện ra dưới nhiều hình thức để cứu giúp người, giúp đời, nhất là những người
có lòng tốt bị nhiều điều oan ức. Bụt rất thương người, cứu giúp người hiền,
nhưng khác với ông Trời là không hành phạt kẻ ác. Bụt không bị nước trôi, lửa
cháy, vì Bụt có phép thần thông và biến hiện.
Quan niệm về Pháp: Không biết lúc ban đầu danh từ
nào đã dùng để dịch tiếng Dharma; có lẽ tiếng “Phép Bụt” đã được sử dụng. Phép
Bụt ở đây có thể là những phép biến hiện thần thông của Phật để cứu đời giúp
người. Phép Bụt cũng là những điều người ta làm cho nếu người ta tin Bụt, như
đọc ba câu tam quy, ban đầu thì bằng Phạn ngữ, giống như đọc thần chú, để tỏ
lòng quy kính Bụt mà cũng để Bụt che chở (Buddham Saranam gacchami, Dharmam
Saranam gacchami, Sangham Saranam gacchami). Ba câu tam quy này về sau hẳn cũng
được đọc bằng tiếng mẹ đẻ và tiếng Hán Việt. Ngoài việc đọc tam quy, còn có
việc cúng dường tăng sĩ, bố thí người nghèo, cho kẻ đói ăn. Phép của Bụt cũng
là tin ở nghiệp báo, luân hồi và linh hồn bất diệt.
Quan niệm về Tăng: Danh từ Tang Môn được dùng trước
danh từ Sa Môn để chỉ các vị tăng sĩ ngoại quốc, như ta thấy trong các bản dịch
kinh điển chữ Hán sớm nhất. Tang Môn không phải là một đoàn thể xuất gia từ sáu
người trở lên (định nghĩa Sangha) mà là con người của những tu sĩ khoác áo
vàng, đầu cạo trọc, từ bỏ đời sống gia đình, của cải, thở Bụt, đọc kinh chữ
Phạn; và sống trên sự cúng dường của người tin theo Bụt. Ngoài những Tang Môn
ngoại quốc, có thể có vài người Giao Chỉ cũng được nhận học làm Tang Môn. Có lẽ
Chử Ðồng Tử là một người trong số này. Sách Lĩnh Nam Chích Quái, chẳng hạn,
chép: “Ðồng Tử và Tiên Dung lập nên phố xá làm nghề buôn bán. Công việc buôn
bán thịnh đạt, và địa phương trở nên chợ búa to lớn. Nhiều nhà buôn nước ngoài
thường ghé qua lại với Ðồng Tử, xem Ðồng Tử như chủ. Một hôm, Ðồng Tử theo một
người khách buôn ngoại quốc ra khỏi xứ, đi bằng thuyền. Họ ghé lại một hòn núi
tên Quỳnh Viên (Ðạo Giáo Nguyên Lưu nói là Quỳnh Vi), nơi đó, họ lấy nước ngọt
để dùng cho thuyền. Ở dưới núi Quỳnh Viên, có một túp lều, nơi đây Ðồng Tử gặp
một nhà sư Ấn Ðộ. Nhà sư giảng cho Ðồng Tử, và Ðồng Tử ở lại để học đạo, giao
vàng cho người đồng hành đi buôn bán giùm mình và hẹn khi về thì ghé lại đón
cùng về. Vị tăng cho Ðồng Tử một cây gậy và một cái nón lá, bảo rằng những vật
này có thể làm phép lạ. Lúc về nước, Ðồng Tử dạy Phật pháp cho Tiên Dung. Họ
thâm hiểu đạo lý, liền bỏ chuyện buôn bán, đi tìm thầy học đạo. Một hôm đang đi
thì trời tối, họ cắm cây gậy và chiếc nón lá làm nơi trú ẩn. Các nhà buôn ngoại
quốc nói nơi đây hẳn là các nhà buôn Ấn Ðộ tới bằng thuyền và sự việc Ðồng Tử
bỏ hết sản nghiệp để nhận một chiếc gậy và một cái nón có thể giải thích như sự
xuất gia làm Tang Môn của Ðồng Tử. Cây gậy và bình bát là hai vật tùy thân của
người tăng sĩ. Chiếc nón đã thay bình bát, và hình ảnh chiếc nón là hình ảnh
của kẻ xuất gia không nhà đi du hành đây đó.
Quan niệm về nghiệp báo luân hồi: Làm lành gặp
lành, ở ác gặp ác; quan niện này của gp dĩ nhiên được chấp nhận dễ dàng trong
tín ngưỡng dân gian Giao Chỉ. Tín ngưỡng về hồn ma tồn tại sau khi chết cũng là
căn bản rộng rãi để chấp nhận luân hồi. Con Tấm trong truyện Tấm Cám dù bị hại
bao nhiêu phen cũng vẫn luân hồi trở lại, hoặc trong hình thức trái thị, hoặc
trong hình thức chim hoàng anh... Bà mẹ ghẻ vì ác độc nên phải ăn mắm xác chết
của con mình. Trong truyện thần thoại Con muỗi, người vợ xinh đẹp nhưng dâm tà
của anh lái buôn si tình đã phải luân hồi làm con muỗi, suốt đời tìm hút lại ba
giọt máu để trở lại thân người. Tín ngưỡng nghiệp báo luân hồi khiến người ta
lo ăn ở nhân từ, thương người và tu đạo phúc đức.
- Từ Bi: Từ bi là đặc điểm của đạo Bụt. Bụt rất
thương người. Tang Môn cũng dạy bố thí, cứu người ốm đau tai nạn, cho người đói
ăn cơm, đừng trả thù kẻ khác.
- Công Ðức: Muốn được sung sướng kiếp này và kiếp
sau, phải có công đức (punya). Dâng thức ăn cho các Tang Môn, trọng nễ và nghe
lời họ tức là gieo hạt giống công đức vào ruộng tốt (Tang Môn là phúc điền).
Ðem cơm cho người đói ăn, công đức cũng rất lớn. Sạ Dung cuối thế kỷ thứ hai
cũng còn xem chuyện cho người đói ăn là điều quan trọng nhất trong đạo Phật.
Sau khi làm cách mạng, ông giữ lấy lúa gạo, và cho nấu cơm cùng thức ăn bày ra
cúng dường có tới hàng mười dặm, để người đói ai muốn thì ăn. Có hàng vạn người
tới ăn một lúc (Hậu Hán Thư).
- Tiết dục: Giáo lý vô ngã tuy là giáo lý căn bản
trong Phật Giáo nhưng có lẽ đã không được giảng dạy trong bước đầu này bởi tính
cách khó hiểu khó nhận của nó. Ðạo lý Ly Dục cũng chỉ giới hạn trong giới Tang
Môn. Chắc hẳn trong khi dạy về đạo lý Từ Bi và công đức, cá Tang Môn cũng đã
dạy tiết dục, bỏ bớt những hưởng thụ vật chất cho riêng mình để bố thí cho kẻ
khốn khó đói khổ.
LÝ HOẶC LUẬN CỦA
MÂU TỬ
Nhờ có tác phẩm của Mâu Tử và cũng nhờ có
kinh Tứ Thập N hị Chương mà ta biết được khá rõ tư tưởng tín ngưỡng và tình
trạng Phật Giáo Giao Châu trong thế kỷ thứ hai. Trước hết ta hãy xét về tác
phẩm Lý Hoặc Luận của Mâu Tử. “Lý Hoặc Luận” có nghĩa là những luận lý để làm
tiêu tan mối nghi hoặc về Phật Giáo”. Tác phẩm này còn giữ lại được trong bộ
Hoằng Minh Tập do Tăng Hựu sưu tập, ấn hành vào đầu thế kỷ thứ sáu. Các sách
Tùy Chí và Ðường Chí đều có nói đến sách này của Mâu Tử. Riêng sách Tùy Chí lại
còn chua thêm: “Hán thái ủy Mâu Dung soạn”. Sách này đã lầm thái úy Mâu Dung
thời Chương đế (tự là Tử Ưu) với Mâu Tử thời Linh Ðế. Ông Pelliot có nói rõ về
điểm này trong một bài đăng trong Toung Pao (Meou-tséu ou Les Doutes Levés.
Toung Pao, 1918-1919). Bài tựa của sách Lý Hoặc Luận cho ta rất nhiều dữ kiện
quý báu. Nguyên văn như sau:
“Mâu Tử tôi đối với kinh truyện và chư gia, sách lớn sách nhỏ không sách nào
không mê. Tuy không thích binh pháp, nhưng cũng đọc sách binh pháp. Tuy đọc
sách thần tiên bất tử nhưng không tin thần tiên bất tử, cho đó là chuyện hư
đản. Sau khi vua Hán Linh đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ có Giao Châu là
yên ổn, các bậc dị nhân phương Bắc đều tới đây, phần lớn đều tin theo thuật
thần tiên tịch cốc trường sinh. Hồi ấy có nhiều học giả, Mâu Tử thường lấy ngũ
kinh ta vấn nạn, các đạo gia và thuật sĩ không ai đối đáp cho xuôi được, cũng
tỷ như Mạnh Kha cự lại với Dương Chu Mặc Ðịch. Trước kia Mâu Tử cùng mẹ tới tị
nạn ở Giao Chỉ, năm 26 tuổi về quê Thương Ngô cưới vợ. Thái thú {Sĩ Nhiếp} nghe
có chút học thức, tới mời nhận một chức vụ. Hồi đó tuổi vừa lớn, lòng chuyên về
việc học, lại thấy đời loạn lạc không có ý muốn ra làm quan, cho nên tôi từ
chối không đến. Lúc bấy giờ các châu quân [ở Hán] nghi ngờ nhau, chia cách
không thông thương với nhau. Thái thú thấy tôi học biết nhiều, muốn nhờ đi Kinh
Châu. Mâu Tử cho rằng quyền tước vinh hoa thì dễ từ, nhưng sứ mạng thì khó từ
chối, cho nên đã chuẩn bị để đi. Gặp lúc đó vị châu mục cảm tài học, thấy chưa
có chức phận liền muốn giao cho một quan chức, nhưng tôi muốn cáo bệnh không
đi, người em của châu mục là thái thú Dự Chương bị viên tướng tải lương là Sạ
Dung sát hại; châu mục sai kỵ đô úy Lưu Sản đem binh đi cứu Dự Chướng, nhưng sợ
các phiên trấn nghi nan không để cho quân lính đi. Châu mục liền mời Mâu Tử tới
mà nói rằng: “Em tôi b ị nghịch tặc hại, niềm đau cốt nhục nung nấu tâm can;
nay tôi muốn sai Lưu đô úy đi về, nhưng sợ ngoại giới nghi nan đi không ltij
được. Ngài văn võ kiêm toàn, có tài ứng đối, nay tôi muốn nhờ Ngài đi Linh Lăng
và Quế Dương mượn đường đi được chăng?” Mâu tử nói: “Lâu nay ăn cơm của các
châu quận, ngày tri ngộ đã dài, nay gặp việc cần, kẻ liệt sĩ phải quên thân
mình để lo phụng sự”. Liền chuẩn bị lên đường. Nhưng lúc ấy mẹ mất, không thể
đi được. Sau suy nghĩ chín chắn cho rằng vì tài biện đối mà người ta giao cho
sứ mạng, thực ra trong thời buổi nhiễu nhương này, không phải lúc nên lộ diện.
Bèn than rằng: “Lão Tử sinh vào khoảng 165 - 170. Sạ Dung mất năm 195; năm ông
ta làm cách mạng chắc là năm 193, bởi trước đó “ông làm quan tải lương dười
quyền châu mục Từ Châu là Ðào Khiêm”, Ngôi tháp Phật rộng lớn của Sạ Dung được
dựng năm 194. Chắc Mâu Bác theo đạo Phật cũng vào năm này, một năm sau cái chết
của thái thú Dự Chương.
Theo bài tựa Lý Hoặc Luận, chính những tao loạn của thời thế đã làm cho Mâu Tử
thấm nhuần được của Lão Tử nói về nguyên tắc “tuyệt tánh khí trí” mà ngày xưa
ông không hiểu, chỉ vì ông đã đọc với trí năng mà không có kinh nghiệm sống. Vì
ông đã đọc hết sách Lão, bây giờ không còn chuyện học Lão nữa mà là chuyện
chiêm nghiệm về Lão. Có học thì là học Phật, và trong lúc học Phật, từ ngữ và
tư tưởng Lão đã giúp ông đi vào Phật học một cách mau chóng. Và cũng chính vì
biết rộng về Lão Giáo và Khổng Giáo mà ông có thể trình bày đạo Phật cho những
người theo đạo Lão và Khổng một cách dễ dàng và hữu hiệu.
Mâu Tử đã xuất gia sau khi xâm nhập vào Phật lý hay không? Ðiều này ta chưa thể
quả quyết được.
Ông cưới vợ năm 26 tuổi, và bắt đầu học Phật vào khoảng từ năm 30 tới năm 35
tuổi. Cái tên Mâu Tử hay Mâu Bác có thể là một pháp danh[1]. Ðoạn kết của Lý
Hoặc Luận cho ta cảm tưởng Mâu Tử là một Sa Môn, bởi vì theo đoạn này người đối
thoại với ông, sau khi được thuyết phục, đã lạy ông và “xin thọ ngũ giới làm ưu
bà tắc”.
KINH TỨ THẬP NHỊ
CHƯƠNG
Trước khi đi vào tư tưởng Phật Giáo thế kỷ
thứ hai, ta còn phải cứu xét về kinh Tứ Thập Nhị Chương, một kinh đã từng được
lưu hành ở Giao Chỉ trong thế kỷ này.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương mà Phật tử đọc tụng ngày nay gọi là do Ca Diếp Ma Ðằng
và Trúc Pháp Lan dịch, hình thức và nội dung đã khác nhiều với Tứ Thập Nhị
Chương lưu hành ở thế kỷ thứ hai. Nhiều tư tưởng Thiền và Ðại Thừa đã được thêm
vào. Ví dụ đoạn này có trong bản in đời Tống mà không có trong những bản in
trước đó: “Pháp của ta và quan niệm cái vô niệm, thực hành và cái vô hành, nói
cái vô ngôn tu cái vô tu” (ngô pháp niệm vô niệm niệm, hành vô hành vô hành
hành, tu vô tu tu). Câu này là tư tưởng đặc biệt của Thiền tông và chắc chắn đã
do truyền thống của thền thêm vào. Trong bản in Cao Ly của Ðại Tạng Kinh, thay
vì câu nói ấy, ta thấy một câu khác hẳn: “Ta phải niệm nghĩ gì? Niệm nghĩ tới
Ðạo. Ta phải hành những gì? Hành Ðạo. Ta phải nói về gì? Nói về Ðạo.” Các quan
niệm vê kiến tính học đạo (kiến tính học đạo nan), vô tu vô chứng (bất như phạn
nhất vô tu vô chứng chi giả) đều là các quan niệm Thiền học đại thừa tương đối
đến trễ, cũng không thể có trong sơ bản được.
Văn thẻ của kinh đã trải qua nhiều thay đổi. Ta hãy ví dụ về đoạn nói về vô
thường:
Sách Phụng Phá Yếu đời Tây Tấn có trích dẫn đoạn ấy của kinh Tứ Thập Nhị Chương
như sau:
“Phật vấn chư đệ tử, hà vị vô thường? Nhất nhân viết: “nhất nhật bất khả bảo,
thị vị vô thường”. Phật ngôn: “Phi Phật đệ tử”. Nhất nhân viết: “xuất tức bất
bảo, tiện tựu hậu thế, thị vị vô thường”. Phật ngôn: “Chân Phật đệ tử”. (Phật
hỏi các đệ tử: “Sao gọi là vô thường? Một người nói: “Trong một ngày không bảo
tồn được gọi là vô thường”. Phật nói: “Chưa phải là đệ tử Phật”. Một người nói:
“Thở ra mà chưa kịp thở vào thì chuyển qua đời khác gọi là vô thường”. Phật
nói: “Ðúng là đệ tử Phật”.)
Bản in trong tạng Cao Ly như sau:
“Phật vấn chư sa môn: “nhân mạng tại kỷ gian?” Ðối viết: “tại sổ nhật gian”.
Phật ngôn: “tử vị năng vi đạo”. Phục vấn nhất sa môn: “Nhân mạng tại kỷ gian?”
Ðối viết “tại ẩm thực gian”. Phật ngôn: “Khứ, tử năng vi đạo”. Hậu vấn nhất sa
môn: “nhân mạng tại kỷ gian?” Ðối viết: “tại hô hấp gian”. Phật ngôn: “Thiện
tai, tử khả vị vi đạo giả hỹ”. (Phật hỏi các vị sa môn: “Mạng người được trong
bao lâu?” Trả lời “trong thời gian một bữa cơm”. Phật nói: “Ði đi, ông chưa có
thể hành đạo”. Sau lại hỏi một sa môn: “Mạng người được trong bao lâu?” Trả lời
“trong thời gian một hơi thở”. Phật nói: “Lành thay, ông có thể được gọi là hành
đạo”.)
Một bản khác lưu hành ngày nay ở Trung Hoa như sau:
“Phật vấn sa môn: “Nhân mạng tại kỷ gian?” Ðối viết: “sổ nhật gian”. Phật ngôn:
“Tử vị văn đạo”. Phục vấn nhất sa môn: “Nhân mạng tại kỷ gian?” Ðối viết: “Phạn
thực gian”. Phật ngôn: “Tử vị văn đạo”. Phục vấn sa môn: “Nhân mạng tại kỷ
gian?” Ðối viết: “hô hấp gian”. Phật ngôn: “Thiện tai, tử tri đạo hỹ”. (Phật
hỏi các sa môn:”Mạng người được trong bao lâu?” Trả lời “trong vài ngày”. Phật
nói: “Ông chưa nghe đạo”. Lại hỏi một sa môn: ”Mạng người được trong bao lâu?”
Trả lời “trong thời gian một hơi thở”. Phật nói: “Lành thay, ông hiểu đạo
rồi”.)
Có nhiều ấn bản khác nhau như vậy không có nghĩa là có nhiều bản dịch khác
nhau. Kinh Tứ Thập Nhị Chương, xét theo thể tài, không phải được dịch ra từ một
cuốn kinh Phạn ngữ, mà là được trích dịch từ nhiều bản kinh Phạn ngữ. Ví dụ như
đoạn sau đây giống như một đoạn trong Ðại Bát Niết Bàn Kinh, bản Pali hiện lưu
hành (Mahaparinibbanasutta):
“Hãy thận trọng đừng nhìn nữ sắc: Nếu gặp họ thì làm như không trông thấy họ.
Ðừng nói chuyện với họ, hãy giữ chánh niệm đoan nghiêm...”. những đoạn khác, cố
nhiên được trích dịch rải rác đây đó từ các kinh điển khác.
Có những họ giả cho rằng không phải kinh này xuất hiện vào thế kỷ thứ hai, mà
là sau đó rất lâu. Lương Khải Siêu chẳng hạn (Lương Nhậm Công Cận Trước Ðệ Nhất
Tập, Thượng Hải, 1925-1928) xét văn thể cho rằng kinh này xuất hiện thế kỷ thứ
tư, trong khi học giả Nhật Sakaino Koyo (Cảnh Dạ Hoàng Vương, trong tác phẩm
Chi Na Phật Giáo Tính Sử, Tokyo, 1935) lại cho rằng kinh này xuất hiện thế kỷ
thứ năm. Nhưng nếu ta tin rằng Lý Hoặc Luận xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ hai
và có nói đến kinh này, thì ta cũng tin rằng kinh này xuất hiện trước đó, sớm
hơn trong thế kỷ. Ta lại còn có một chứng cớ nữa: đó là tờ biểu Tương Giai dâng
lên vua Hoàn Ðế năm 166. Sau khi nhắc đến vua có thờ Phật và Lão Trong cung,
Tương Giai trách vua không học theo Phật Lão để tôn trọng sự sống và giảm bớt
dục lạc. Rồi Tương Giai nói tiếp: “Phật không ngủ quá ba đêm dưới một gốc cây
đâu, vì e ngại sẽ yêu thích gốc cây đó, tinh khiết như vậy là đúng mức. Thiên
thần gửi ngọc nữ đến thử Phật, nhưng Ngài nói “Ðây là những đãy bằng da đựng
đầy máu huyết”, liền không chú ý. Tâm ý chuyên nhất như vậy, mới có thể hành
đạo. Nay các cung nữ của bệ hạ đẹp tuyệt trần thế kia, rượu và thịt ngon ngọt
như thế kia, làm sao bệ hạ theo kịp được Hoàng Lão?” Trong lời sớ, ta thấy dấu
tích kinh Tứ Thập Nhị Chương tới hai lần: chuyện thụ hạ nhất túc (chỉ ngủ một
đêm dưới gốc cây) và chuyện thiên thần hiến ngọc nữ ư Phật (thiên thần đem ngọc
nữ dâng Phật). Tương Giai như thế đã được đọc kinh Tứ Thập Nhị Chương trước nâm
166, và có thể đã đọc được ở trung tâm Bành Thành, ở đây ông ta đã sinh trưởng,
và ở đây có những liên hệ truyền bá Phật Giáo với Luy Lâu. Hẳn là kinh Tứ Thập
Nhị Chương đã được tuyển dịch tại Giao Châu và đã do một Phật tử hay tăng sĩ
nào đó từ Luy Lâu đem tới Bành Thành.
Xét về văn thể của kinh, loại bỏ những từ ngữ và quan niệm Thiền học và đại
thừa tương đối phát triển trễ về sau, ta có thể có được một nhận định chính xác
về sơ bản của kinh này lúc mới được tuyển dịch. Văn thể của sơ bản cố nhiên còn
thô sơ hơn đoạn nói về vô thường mà ta thấy ở sách Phụng Pháp Yếu đời Tây Tấn
trích dẫn ở trang trước.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương hiện giờ lời văn đẹp đẽ, là do sự trau chuốt không
ngừng suốt trong gần hai mươi thế kỷ, mỗi lần có một bản in mới. Sách Lý Hoặc
Luận cũng như tờ biểu của Tương Giai viết và hạ bán thế kỷ thứ hai chứng thực
rằng kinh này ra đời trong thượng bán thế kỷ. Nhưng có một điều lạ là trong bản
mục lục kinh điển ra đời sớm nhất ở Trung Hoa, Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục của Ðạo
An, biên tập vào năm 374, không có liệt kê kinh này. Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục
hiện nay không còn, nhưng trong bản mục lục Xuất Tam Tạng Ký Lục của Tăng H ựu
ra dời sau đó chừng một trăm năm mươi năm, có câu sau đây liệt kê về Tứ Thập
Nhị Chương:
“Tứ Thập Nhị Chương Kinh, một quyển. Cựu Lục gọi là “Hiếu Minh Hoàng Ðế Tứ Thập
Nhị Chương Kinh”. Pháp sư Ðạo An trong khi soạn Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục đã
bỏ sót kinh này không nói đến”.
Không những Ðạo An bỏ sót kinh Tứ Thập Nhị Chương, ông lại bỏ sót luôn Lý Hoặc
Luận của Mâu Tử nữa. Theo Ðạo an, những kinh sách đầu tiên bằng Hán tự được
dịch tại Lạc Dương. Ðạo An là người miền Bắc, đã từng ở Lạc Dương, biết nhiều
về tình hình lưu truyền của Phật kinh miền Bắc, thế mà đã không nghe nói kinh
Tứ Thập Nhị Chương; điều này làm ta tin rằng miền Bắc không phải là nơi xuất
phát kinh này. Paul Pelliot (Meou Tseu ou les Doutes Levés) nói rằng có thể
kinh này phát xuất ở miền hạ lưu Dương Tử, bởi dấu tích đầu tiên về kinh đã
thấy ở twof biểu của Tương Giai, mà Tương Giai là người ở gần miền này. Như vậy
Ðạo An có lẽ chưa từng đặt chân tới những miền có lưu hành kinh Tứ Thập Nhị
Chương, tức là miền Giang Tả, và Giao Chỉ ở miền Nam. Ðạo An cho rằng Lạc Dương
là trung tâm đầu tiên phát xuất kinh điển Hán tự, không nói đến Tứ Thập Nhị
Chương và Lý Hoặc Luận vốn là hai tác phẩm không phát xuất từ Lạc Dương trong
khi đó hai tác phẩm này đều tuyên truyền cho uy tín lãnh đạo của Phật giáo Lạc
Dương bằng cách kể truyện giấc mộng Hán Minh Ðế. Ông Henri Maspéro nghĩ rằng
Mâu Tử đã viết trong chương 21 của Lý Hoặc Luận về giấc mộng Minh Ðế sau khi đã
chịu ảnh hưởng bài tựa kinh Tứ Thập Nhị Chương. Nhưng ông Paul Pellot thì cho
rằng không có gì chắc bài tựa kia đã được viết trước Mâu Tử; vào cuối thế kỷ
thứ năm mới có tài liệu chứng thực về sự có mặt của bài tựa này. Tuy Hóa Hồ
Kinh, viết về cuối thế kỷ thứ tư cũng có ghi câu chuyện giấc mộng, nhưng Hóa Hồ
Kinh cũng có thể lấy tài liệu từ Lý Hoặc Luận chứ không phải từa bài tựa kia,
ông Pelliot nói vậy. Theo chúng tôi, có lẽ ông Maspéro nói đúng. Chắc hẳn bài
tựa kia đã do một người tỵ nạn Lạc Dương viết tại Giao Chỉ để tạo uy tín cho
Lạc Dương. Kinh Tứ Thập Nhị Chương nếu không phát xuất từ Lạc Dương hẳn phát
xuát từ Bành Thành hoặc từ Luy Lâu. Nhưng như ta biết trung tâm Luy Lâu là bàn
đạp để Phật Giáo truyền vào đất Hán; cuốn kinh đầu tiên tuyển dịch lời Phật dạy
hẳn đã phát xuất từ trung tâm Luy Lâu vào thượng bán thế kỷ thứ hai và được đưa
vào miền Giang Tả vào khoảng giữa thế kỷ này.
HỌC THUẬT GIAO CHỈ
Nước Nam Việt của Nhà Triệu bị nội thuộc nhà
Hán bắt đầu năm 110 trước Công Nguyên. Trong thế kỷ đầu của thời Bắc thuộc này,
Tích Quang, thái thú quận Giao Chỉ, và Nhâm Diên, thái thú quận Cửu Chân, đã
lấy văn hóa nhà Hán truyền bá trong dân gian. Sinh hoạt kinh tế (nông nghiệp),
phong tục (cưới hỏi, sính lễ...) và văn học (chữ Hán) Hán trở thành quan trọng.
Trong thế kỷ này và trong thế kỷ kế tiếp, không biết trong dân chúng có nhiều
người học chữ Hán và đọc sách Hán không, nhưng ít nhất những người tham dự vào
guồng máy cai trị cũng đã phải học theo Hán học. Người cai trị cấp huyện, như
thân phụ của Trưng Trắc và Trưng Nhị có lẽ phần nhiều làm lạc tướng. Thân phụ
của Trưng Trắc và thân phụ của Thi Sách đều là lạc tướng, thuộc giai cấp lãnh
đạo của Lạc Việt ngày xưa, khi mà Lạc Vương[2] cầm đầu quốc gia, Lạc Hầu tay
chân của Lạc vương coi sóc đất nước và Lạc Tướng cai trị quận huyện. Thi Sách
và chị em bà Trưng có lẽ cũng đã thấm nhuần ít nhiều Hán học. Ngoài ra còn có
những người thông dịch và thư lại mà thời nội thuộc nào cũng có. Chính vì Hán
học đã được sử dụng trong thế kỷ này mà những người theo Phật có biết Phạn ngữ
cũng phải học Hán để ghi chép những điều vè đạo Phật bằng thứ tiếng mà chính
quyền bảo hộ và guồng máy cai trị đang dùng. Nếu văn tự bán nhà bán đất hay
kiện cáo được viết bằng Hán tự thì bài tam gquy hay những đoạn kinh Phật thường
được các vị sa môn dạy cho tín đồ cũng phải được phiên dịch và lưu hành bằng
Hán tự.
Ðến cuối thế kỷ thứ hai, Lý Tiến lên làm thứ sử. Ðây là người Giao Chỉ đầu tiên
được đưa lên chức vụ này. Năm 200, hai người Giao Chỉ khác, một được bổ làm
lệnh huyện Hạ Dương, một làm lệnh huyện Hạ Hợp, cả hai nhiệm sở đều ở Hán. Sau
đó, một người Giao Chỉ tên Trương Trọng được làm thái thú Kim Thành, một người
khác tên Lý Cầm làm quan bên triều đinh Hán đến chức tư lệ hiệu úy (Ðại Việt Sử
Ký Toàn Thư). Hán học tại Giao Châu thịnh hành rực rỡ vào cuối thế kỷ thứ hai,
điều này khiên cho người ta nghĩ rằng thái thú Sĩ Nhiếp có công lớn trong việc
mở mang học vấn tại Giao Châu, và gọi ông là “Nam Giao Học Tổ”. Cố nhiên Sĩ
Nhiếp có công lớn trong việc học vấn tại Giao Châu, nhưng không thể vì vậy mà
người ta có thể nói Hán học bắt đầu từ thời Sĩ Nhiếp. Có lẽ người ta nghĩ rằng
khi có người ra làm quan thì khi ây mới thực sự có Hán học. Nhưng trước khi Lý
tiến làm thứ sử, chính quyền bảo hộ đã thực hành một chính sách kỳ thị không
cho người Giao Chỉ lên nắm những chức vụ quan trọng. Chính Lý Tiến đã dâng sớ
về vua Hán Ðế năm 200 để kêu ca việc bất công ấy, và Lý Cầm, lúc này đang làm
túc vệ ở triều Hán đã cùng với năm người đồng hương ra nằm phục trước điện vua
Hán để phụ lực ủng hộ cho lời sớ của Lý Tiến (Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư). Như vậy
Hán học, bắt cắm rễ tại Giao Châu từ Tích Quang và Nhâm Diên trong thế kỷ thứ
hai và đến cuối thế kỷ này thì trở nên rực rỡ. Vài trò của chữ Hán trong sự
truyền đạt tư tưởng và văn hóa Phật giáo suốt thế kỷ thứ hai tại Giao Châu hẳn
là quan trọng. Có như thế thì thời Mâu Tử tại Giao Chỉ mới có số lượng kinh
Phật lưu hành mà Lý Hoặc Luận ghi chép là “quá nhiều”.
Những Kinh Ðiển Ðược Phiên Dịch Ðầu Tiên Ðều Nhằm Ðối Tượng Người Xuất Gia.
Những kinh điển đầu tiên được phiên dịch hay tuyển dịch tại Giao Chỉ như kinh
Tứ Thập Nhị Chương đã nhắm tới đối tượng người xuất gia hơn là người tại gia.
Chúng ta đã biết tăng đoàn Giao Chỉ và thời Mâu Tử đã có hơn 500 vị, trong khi
ở Trung Quốc mãi đến thế kỷ thứ ba mới có tăng đoàn. Giáo lý truyền dịch trong
kinh Tứ Thập Nhị Chương, phần lớn là để dành cho giới tăng sĩ. Ðoạn đầu kinh
dịch nghĩa thế nào là Sa Môn:
“Từ bỏ người thân, đi xuất gia, biết được tâm mình, về được gốc mình gọi là sa
môn. Người sa môn giữ giới luật thanh tịnh, thực hành bốn đạo hạnh chân chính
thì đắc quả A La Hán..
Ðoạn kế tiếp:
“Người sa môn xuất gia với mục đích đoạn dục khử ái, tìm về nguồn gốc tự tâm,
đạt chân lý sâu xa của Phật, giác ngộ được vô vi”...[3]
Ðoạn khác:“Người sa môn cạo bỏ râu tóc nhận
lấy đạo pháp thì phải từ bỏ tài sản trong đời, chỉ khất thực đủ sống, mỗi ngày
một bữa ăn, ngũ mỗi đêm dưới một gốc cây... Ðiều là cho người ta ngu si và tệ
lậu là ái dục...”
Những đoạn kinh khác dăn doc cách thức tu tập, giữ tâm, trì giới, xa nữ sắc...
đều nhắm tới người xuất gia. Kinh Tứ Thập Nhị Chương, tóm lại, không phải đã
được tuyển dịch để nhắm vào quần chúng Phật tử cư sĩ trong dân gian mà chính là
nhắm tới hàng xuất gia, điều này thấy rõ khi ta xét đến nội dung của kinh. Ðể
cho giới cư sĩ, những kinh Bản Sinh và Bản Sự nói về các đời trước của Phật hẳn
là thích dụng hơn. Những kinh này nhấn mạnh về giáo lý nhân quả nghiệp báo.
Sách Lý Hoặc Luận cho ta biết những chuyện tiền thân (như chuyện thái tử Tu Ðại
Noa bố thí cả vợ con) đã phổ thông trong dân gian hồi ấy, và cũng chứng tỏ rằng
ít ra vào thời ấy kinh Vesantara-Jataka cũng đã được phiên dịch và lưu hành
trong dân gian.
Sự hành đạo trong thế kỷ thứ hai cũng đã gặp những trở lực gây ra do những
người bài báng đạo Phật, có lẽ là những người bênh vực văn hóa Khổng Lão. Kinh
Tứ Thập Nhị Chương nói nhiều về thái độ cần có để đối xử với những bài báng và
mạ lỵ kia:
“Người ác nghe ta hành thiện muốn tới nhiễu loạn ta: hãy giữ tâm bình thản không
giận dữ trách móc...”
Và:“Hành đạo cũng khó khăn như một người địch lại vạn người, phải kiên trì, vô
úy...”
Và: “Người ác hại người hiền cũng như ngửa mặt lên trời nhổ nước bọt; nước bọt
không tới trời mà rơi xuống mặt mình...”
NHỮNG QUAN NIỆM CĂN
BẢN VỀ GIÁO LÝ
Quan Niệm Về Phật - Ðối với người xuất gia,
Phật là người giác ngộ và dạy đạo giác ngộ và dạy đạo giác ngộ. Nhưng đối với
người trí thức theo Khổng hay theo Lão, thì Phật được trình bày như nguyên tổ
của đạo và đức. Ta hãy đọc đoạn sau đây của Lý Hoặc Luận để thấy quan niệm tín
ngưỡng bình dân về Phật phối hợp với quan niệm về Phật của Phật tử trí thức
(những người như Mâu Tử) trình bày trong một ngôn ngữ có thể đối thoại được với
người theo Khổng Lão:
“Phật là nguyên Tổ của Ðạo và Ðức, nguồn gốc của thần minh. Phật nghĩa là Thức
Tỉnh (Giác). Ngài có thể biến hóa không cùng, phân thân tán thể, khi có đó,
không đó, khi lớn khi nhỏ, khi vuông khi tròn, khi già khi trẻ, khi ẩn khi
hiện, lửa không đốt được, trong bùn không nhiễm, giữa họa mà không bị tai ương,
khi đi có thể bay, khi ngồi hào quang sáng chói. Ðó gọi là Phật” (Lý Hoặc
Luận).
Ðoạn văn trên của Lý Hoặc Luận cho ta thấy luôn cả tín ngưỡng bình dân về Phật,
có lẽ đã được tiếp nối từ thế kỷ thứ nhất.
Quan Niệm Về Pháp - Trong thế kỷ này, chữ Ðạo được dùng để dịch chữ paps (sau
này trở thành đạo pháp). Chữ pháp trong nghĩa Phật Pháp Tăng có lẽ cũng được
dùng, nhưng trong giới trí thức có khuynh hướng Khổng Lão, chữ đạo rất được
thích dụng. Mâu Tử nói về Ðạo như sau:
“Ðạo là dẫn dắt (lãnh đạo). Ðạo dẫn dắt người tới vô vi (vô vi đây tức là niết
bàn, dịch từ chữ Nirvana chứ không phải từ chữ asamkrta). Ðạo có thể vì kéo mà
đi tới, đẩy mà đi lui, nâng mà lên cao, đè mà xuống thấp: nhìn nó thì nó vô
hình, nghe nó thì nó vô thanh, bốn bên không có giới hạn, tràn ra ngoài tứ
phía, nhỏ như hào ly nhưng trong đó không gian lại mênh mông”.
Ta liên tưởng đến định nghĩa về Ðạo trong Ðạo Ðức Kinh của Lão Tử. Nhưng đây
chỉ là ngữ phong của Mâu Tử nhằm tới người theo Lão Khổng. Ðối với quân chúng
Phật tử, Ðạo vẫn là phép Phật, là phép Tam Quy, Ngũ Giới, Bố Thì và cúng Dường.
Ðối với giới tăng đồ, Ðạo là lời Phật dạy về vô thường, vô ngã, giới luật, cách
giữ tâm, gìn ý và tu chứng niết bàn (vô vi). Tứ Thập Nhị Chương đầy những lời
dặn dò về cách hành đạo. Câu chuyện về dây đàn mà Phật đem ra nói vói chư tăng
là một ví dụ: dây đàn chùng quá thì âm không tới, căng quá thì đứt và âm bay,
người tu hành phải giữ mức tinh tấn trung bình.
Quan Niệm Về Tăng - Quan niệm về Tăng rất rõ ràng: 250 giới luật, cạo đầu, mặc
áo vàng, xả bỏ tài sản, đi khất thực và hóa đạo, nhắm tới sự chứng nhập vô vi:
đó là hình ảnh của người xuất gia. Không có dấu hiệu gì chứng tỏ có sự có mặt
của ni giới hồi đó.
Quan Niệm Niết bàn - Niết bàn (nirvara) được dịch alf vô vi, mục đích của người
Phật tử xuất gia. Nhưng tuy sử dụng danh từ vô vi, Phật luôn luôn nói rằng vô
vi của Phật không phải vô vi của Lão. Một người hỏi Mâu Tử tại sao cần phân
biệt như vậy. Mâu Tử đáp:
“Nếu ta chỉ gọi chung các thứ cỏ là cỏ, thì ta đâu thấy các loại cỏ khác nhau.
Nếu ta chỉ gọi chung các kim loại là kim loại, thì ta thấy các kim loại khác
nhau. Sự vật có thể đồng loại nhưng dị tính”.
Quan Niện Về Luân Hồi Nghiệp Báo - Luân hồi và Nghiệp báo là những tín ngưỡng
đã được chấp nhận trong dân gian từ thế kỷ trước. Dân chúng Giao Chỉ sau khi
hai bà Trưng chết, vào giữa thế kỷ thứ nhất, đã làm đền thờ Hai bà. Quan niệm
linh hồn tồn tại sau khi chết và thác sinh vào một hình thái khác tùy theo
nghiệp báo đã ăn sâu vào tín ngưỡng bình dân. Nhưng đối với giới Nho gia, những
người thường lấy câu “vị năng sự sinh yên năng sự tử” (chưa biết đối phó với
vấn đề sống làm sao biết đối phó vấn đề chết) và với sự hoài nghi về việc tái
sinh tiếp tục của con người để đã kích đạo Phật, Mâu Tử đã trả lời:
“Hồn thần của con người không tiêu diệt khi chết, chỉ có xác thân là mục nát
thôi. Thân xác cũng ví như rễ và lá ngũ cốc, hồn thần ví như hạt giống của loại
ngũ cốc. Rễ và lá có sinh tất có tử, nhưng không phải vài rễ lá hoại mà giống
ngũ cốc không còn” (Lý Hoặc Luận)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương cũng nói: “Những nhơ uế của ác tâm đã rữa sạch thì mới
biết được hồn linh từ đâu tới và sẽ đi về phía sinh tử nào”.
Quan Niệm Về Vô Ngã - Mâu Tử không có những câu trả lời về sự công kích lý
thuyết vô ngã. Có lẽ ít người nghĩ đến vô ngã là một viên đá nền tảng của triết
học Phật Giáo. Kinh Tứ Thập Nhị Chương dành cho tăng sĩ nói về vô ngã như sau:
“Phật nói: nên suy ngẫm đến tứ đại trong thân thể (tứ đại là địa, thủy, hỏa,
phong). Mỗi đại đều có tên gọi, nhưng trong {hợp thể] ấy tìm không ra ngã (đó
vì vô ngô). Ngã là một quan niệm sinh ra dựa trên bốn đại, không trường cửu; nó
như huyễn”.
Ta thấy trong cổ bản này, danh từ vô ngô đã được dùng để dịch anātma. Rải rác
trong các kinh luận thời Hán ta cũng thấy chữ “phi thân” dùng cho vô ngã. Có lẽ
quan niệm vô ngã không được phổ thông lắm, bởi lẽ quan niệm này không được phổ
cập nhiều trong nhân gian vì rất có thể bị xem như mâu thuẩn với quan niệm hồn
linh bất tử đang làm căn bản cho tín ngưỡng nghiệp báo luân hồi.
Từ Bi, Bố Thí và Tĩnh Dục - Kinh Tứ Thập Nhị Chương và sách Lý Hoặc Luận nói
nhiều tới bố thí, nhưng chỉ có kinh Tứ Thập Nhị Chương nói nhiều về vấn đề diệt
dục. Ðiều này cũng dễ hiểu bởi kinh Tứ Thập Nhị Chương được xem là cuốn sách
chỉ nam của người xuất gia. Danh từ “đại nhân từ” trong Tứ Thập Nhị Chương được
dùng thay co danh từ đại từ bi.
Thiền- Kinh Tứ Thập Nhị Chương có dùng danh từ “thiền định” một lần, trong lời
mở đầu (trú tại thiền định, hàng chư ma đạo), và trong một chương, có nói đến
sự quán niệm về vô thường (quán thế giới niệm vô thường, quán thiên địa niệm vô
thường). Ðây cũng là một hình thức thiền định, gọi là vô thường quán.
TINH THẦN HÒA ĐỒNG
TÔN GIÁO
Một điểm nổi bật của Phật Giáo Việt
Ðạo Phật thâm nhập vào đời sống tín ngưỡng dân gian ở Giao Chỉ một cách tự
nhiên như nước thấm lòng đất, không gặp pahrn ứng và trở ngại, bởi lẽ những tín
ngưỡng nhân gian không chống lại những tín ngưỡng cơ bản của đạo Phật. Nhưng
đối với dân trí thức lãnh đạo Giao Chỉ đã thâm nhiễm văn hóa Hán tộc, nhất là
đối với giới trí thức người Hán tỵ nạn chiến tranh, trong đó có những nhà trí
thức bậc lớn như Mâu Tử gọi là”di nhân Bắc phương”, thì đạo Phật phải làm nỗ
lực để thắng vượt. Phương pháp của đạo Phật không phải là chống đối, mà là hòa
đồng. Ðặc điểm này thấy rất rõ trong lịch sử phát triển của đạo Phật khắp trên
thế giới. Ðiều này một phần do tinh thần cởi mở không giáo điều của đạo Phật,
một phần do Phật tử chịu học hiểu về các ý thức hệ mà họ muốn đối thoại. Kết
quả của phương pháp hòa đồng là không những Phật Giáo đã sử dụng được kho tàng
từ ngữ của cả Khổng lẫn Lão để phiên dịch kinh điển và truyền đạt tư tưởng mà
còn khiến cho nhiều người theo Khổng Lão thấy được chiều sâu và giá trị của đạo
Phật một cách dễ dàng, Mâu Tử trong Lý Hoặc Luận đã áp dụng phương pháp này một
cách triệt để, và nhờ quán xuyến được giáo lý Khổng Lão mà ông đã giải thích
rành rẽ về đạo Phật cho những người theo hai giáo này.
Mâu Tử nói rằng giáo lý của Khổng Lão bắt nguồn từ tuệ giác của Khổng Lão và có
giá trị về đạo và đức của chúng; giáo lý đạo Phật bắt nguồn từ tuệ giác của
Phật và cũng có giá trị về đạo và đức của đạo Phật. Vậy đạo Phật và các đạo
Khổng, Lãi không chống đối nhau. Trả lời câu hỏi tại sao học Phật rồi còn cần
phải học kinh truyện nữa, Mâu Tử trả lời: “Khi người ta khát, người ta không
đợi phải gặp sông Dương Tử hay sông Hoàng Hà, mới uống. Gặp giếng hay gặp suối
người ta cũng có thể uống đủ để hết khát rồi”: Ý ní giáo lý Khổng Lão cũng đủ
tuệ giác để hướng dẫn người.
Có người hỏi nếu đạo Phật quan trọng tại sao Nghiêu Thuấn, Chu Công và Khổng Tử
không nói đến đạo Phật trong kinh truyện và cũng không theo đạo Phật. Mâu Tử
trả lời là không phải cuốn kinh nào hay cũng là do Khổng Khâu tác thuật, không
phải phương thuốc nào thần diệu cũng là do Biển Thước chế ra. “Chu Công xem Lão
Ðam như bậc thầy, những điều này có được chép trong bảy kinh đâu?”
Mâu Tử dùng văn học Khổng Lão để giải thích đạo Phật một cách hùng biện quá
khiến cho có người nghi: “Lời của ông giải thích đạo Phật sáng sủa đẹp đẽ, tôi
nghi đó là do sự khéo léo của ông chứ không phải là do đạo Phật hay”. Mâu Tử
trả lời: “Thì có bao nhiêu kinh sách của Phật đó. Ngày xưa chưa hiểu Phật tôi
còn kích bác nhiều hơn ông nữa... Ngũ Kinh đối với tôi ngày xưa chỉ là hoa mà
chưa phải là trái...”
Cuối cùng khi người ta trách ông sao không dùng ngay từ ngữ Phật Giáo mà giảng
đạo lại dùng từ ngữ Khổng Lão, ông nói: “Tại vì ông đã biết về kinh truyện, nên
tôi dùng sự việc trong kinh truyện để làm cho ông dễ hiểu”. Và ông kể chuyện
Công Minh Nghị: “Công Minh Nghị đàn điệu “thanh Giốc” cho con bò cái nghe, con
bò cứ cuối xuống gặm cỏ như trước. Không phải là do con bò điếc, mà vì cái điệu
nhạc kia chẳng nghĩa lý gì qua lỗ tai con bò: nó tưởng điệu nhạc là tiếng muỗi
hay tiếng nhặng gì đó. Nhưng nếu mà con bò con kêu lên một tiếng thì lập tức bò
cái quẫy đuôi, ngảnh cổ và nghe ngóng...”
PHÁ MẶC CẢM TỰ TÔN
VỀ “TRUNG QUỐC”
Tinh thần oeucuménique của Mâu Tử cũng nhắm
tới mục đích phá mặc cảm tự tôn về Trung Quốc, cho rằng nước Tàu là trung tâm
của trời đất, xung quanh chỉ là biên địa, mọi rợ, di dịch. Người kích bác đạo
Phật đã viện dẫn Khổng Tử và Mạnh Tử: “Khổng Tử nói: “Các giống di địch ở miền
Ðông và miền Bắc dù thời thái bình có vua cũng không bì được với nước ta trong
thời loạn không vua”. Mạnh Tử chê Trần Tương đi học theo phép Hứa Hành và nói:
“Ta từng nghe dùng học thuyết nước lớn để giáo hóa di địch, chưa từng nghe dùng
lấy học thuyết di địch đẻ giáo hóa nước lớn bao giờ”. Hồi hai mươi tuổi, ngài
đã học Nghiêu, Thuấn, Chu Công và Khổng Tử, tại sao bây giờ lại bỏ đi để học
những thứ di địch miền Ðông và miền Bắc”.
Sau khi giải thích rằng người kia không thực sự hiểu câu nói của Khổng và Mạnh,
Mâu Tử nêu ra chứng cớ những bậc vi nhân như Ngu, có nhiều người xuất thân từ
các miền di địch, và nói: Không chắc là đát Hán nằm giữa. Tôi kính trọng đạo
Phật và tôi học Phật, không phải vì vậy mà tôi bỏ Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng.
Vàng ngọc không gây tỳ vết cho nhau, bích ngọc và mã não để chung không sao cả.
Khi ông cho người khác lầm lạc, có nghĩa chính ông đã lầm lạc không?”. Ở một
nơi khác, Mâu Tử còn nói: “Ấn Ðộ mưói thật là nằm giữa trời đất, và địa vị
trung hòa, vì vậy Phật đã ra đời nơi đó”. Nguyên tắc pháp môn của Mâu Tử được
tóm tắt như sau: “Xe và thuyền không đi cùng một lối, nhưng đều đưa người tới
chốn”.
LÃO TỬ THÀNH PHẬT Ở
ÐẤT HỒ
Phật Giáo tuy gặp trở lực ở Giao Chỉ nhưng
những trở lực ấy so với những trở lực gặp ở đất Hán thì vẫn nhẹ hơn nhiều. Lý
do căn bản là ở Giao Chỉ, Phật Giáo đã chinh phục giới quần chúng bình dị
trước. Trong khi đó tại đất Hán, Phật Giáo phải đương đầu trước hết với giới
trí thức Khổng Lão.
Vào thời đại Ðông Hán, Lão Giáo chưa có nhiều sắc thái tâm linh triết học mà
chỉ thịnh hành như một tôn giáo thần tiên bất tử. Một số người thờ phụng Hoàng
Lão thấy Phật có vai vế ở Giao Châu và thấy một số trí thức nhà Hán hâm mộ, bèn
dựng ra một thuyết gọi là thuyết Hóa Hồ. Tức là giáo hóa người Hồ; theo thuyết
này, Lão Tử sau khi biệt tăm tại miền Tây đã đi qua đất Hồ (Ấn Ðộ). Nơi đây
ngài đã giáo hóa chinh phục người Hồ và sau dó trở thành Phật Thích Ca. Phật
Thích Ca do đó cũng là Lão Tử, và vì vậy theo Phật cũng như theo Lão. Nhờ cánh
cửa này mà đạo Phật đi sâu vào nội địa nhà Hán, và ta nghe câu chuyện Hán Hoàn
Ðế thờ Phật và Hoàng Lão chung trên một bàn thờ. Thuyết Hóa Hồ được phát sinh ở
miền hạ lưu sông Dương Tử, nơi đây Sở Vương Anh đã tin theo cả Phật Giáo và Lão
Giáo. Hóa Hồ Kinh tục truyền do Vương Phù chế tác trong thời đại tây Tấn
(265-316). Không phải Vương phù snags chế thuyết Hóa Hồ; ông chỉ thu lượm thần
thoại liên hệ đế Lão Tử mà ghi chép ra thôi.
Ở Giao Chỉ, sự truyền bá đạo Phật đã không cần nhờ vào thuyết Hóa Hồ, bởi quần
chúng không phải là những người theo đạo Lão và không có mặc cảm tự tôn về văn
hóa. Ðối với trí thức ay mê Hoàng Lão, phương pháp hòa đồng và diẽn đạt tư
tưởng bằng ngôn ngữ Khổng Lão cũng đủ để đưa tới thành công.
CHƯƠNG III KHỞI
NGUYÊN CỦA THIỀN HỌC VIỆT NAM
KHƯƠNG TĂNG HỘI
Thiền học Việt
Cha Mẹ Tăng Hội là người nước Khương Cư (Sogdiane)
cư trú tại Giao Chỉ để buôn bán. Tăng Hội chắc chắn là sinh trên đất Giao Chỉ;
cha và mẹ ông mất năm ông lên mười tuổi. Không biết ai đã nuôi dạy Tăng Hội sau
khi cha mẹ ông mất, chỉ biết rằng lớn lên ông đi xuất gia và tu học rất tinh
tiến (Cao Tăng Truyện). Ta cũng không biết thầy ông là ai, và trong số mười vị
tăng sĩ truyền giới cho ông có vị nào là tăng sĩ ngoại quốc không. Ta chỉ biết
ông giỏi cả Phạn ngữ lẫn Hán tự. Trong các tác phẩm của ông ta thấy có tập Nê
Hoàn Phạm Bối là một tập thi ca về đề tài niết bàn chuyển dịch từ những bài thi
tụng Phạn ngữ. Lục Ðộ Tập Kinh của ông văn từ điển nhã, chứng tỏ Hán văn ông
không thua gì người Trung Hoa thời ấy. Cố nhiên là sinh trưởng tại Giao Chỉ ông
phải nói rất thạo tiếng nước ta.
Sách Cao Tăng Truyện nói rằng ông đến Kiến Nghiệp
thủ đô nước Ngô (nay là Nam Kinh) vào năm Xích Ô thứ mười, tức là năm 247. Ông
mất vào năm 280, niên hiệu Thái Khương nguyên niên đời nhà Tấn. Như vậy ông đã
ở trên đất Trung Hoa 33 năm. Nhiều người cho rằng ông đã trước tác và dịch
thuật tại đây, nhưng kỳ thực một phần quan trọng của công việc này đã được ông
làm tại Giao Chỉ.
Trong bài tựa kinh An Ban Thủ Ý do ông viết, ta
thấy có một chứng cớ tỏ rằng ông đã viết bài tựa này trước năm 229, nghĩa là
hồi ông còn hành đạo tại Giao Chỉ. Ðó là chi tiết An Thế Cao, người đã dịch
kinh kinh An Ban Thủ Ý : “Có vị bồ tát tên An Thanh, tự là Thế Cao, con đích
của vua An Tức, sau khi nhường ngôi cho chú lánh qua đất này, sau bèn về kinh
sư...” Kinh sư ở đây là Lạc Dương, chính ở Lạc Dương mà An Thế Cao đã dịch
nhiều kinh vào hậu bán thế kỷ thứ hai. Nếu bài tựa này viết sau năm 229, tức là
năm Ngô Tôn Quyền xưng đế, thì kinh sư phải là Kiến Nghiệp chứ không phải là
Lạc Dương nữa, Bởi vì sau ngày Ngô Tôn Quyền xưng đế, nước ta đã nội thuộc Ðông
Ngô rồi mà không theo Bắc Ngụy.
Chi tiết quan trọng trên còn cho ta một dữ kiện
lịch sử nữa: những cuốn kinh mà An Thế Cao dịch tại Lạc Dương đã được mang tới
và lưu hành tại Giao Chỉ trong thời gian Tăng Hội hành đạo tại đây. Những kinh
này ví dụ kinh kinh An Ban Thủ Ý, đã được mang xuống do những người Phật tử Lạc
Dương tới tỵ nạn tại Giao Chỉ. Trong số người Phật tử này có cư sĩ Trần Tuệ,
học trò của An Thế Cao, người mà Tăng Hội đã gặp và cùng cộng tác để chú sở
kinh kinh An Ban Thủ Ý. Ta có thể nói rằng chính Trần Tuệ đã mang kinh này từ
Lạc Dương xuống.
An Thế Cao tại Lạc Dương đã dịch một số kinh về
thiền như kinh kinh An Ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Những kinh này thuộc về
thiền nhưng có khuynh hướng tiểu thừa. Chính Tăng Hội đã giới thiệu kinh này
theo tinh thần đại thừa. Chính ông đã soạn Lục Ðộ Tập Kinh và phát huy Thiền
học trong tinh thần đại thừa.
Theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục, ông cũng đã dịch
Ngô Phẩm (tức Bát Thiên Tụng Bát Nhã hay Ðạo Hành Bát Nhã) là kinh bản xuất
hiện sớm nhất trong số các kinh Bát Nhã. Như thế, Phật Giáo Việt
Ta không thể nào biết được hết những tác phẩm dịch
thuật và sáng tác của Tăng Hội. Trong bản mục lục kinh điển của Ðạo An có một
số dịch phẩm không mang tên dịch giả, nhưng trong những bản mục lục ra đời sau
đó thì người ta lại gán những dịch phẩm kia cho An Thế Cao. Có thể trong số đó
có những dịch phẩm của Tăng Hội. Những tác phẩm mà ta biết được có dính líu đến
Tăng Hội được kê ra như sau:
1) An Ban Thủ Ý, An Thế Cao dịch, Tăng Hội và Trần
Huệ chú sớ, Tăng Hội đề tựa.
2) Pháp Cảnh Kinh, An Huyền dịch, Tăng Hội chú sớ
và đề tựa.
3) Ðạo Thọ Kinh, Chi Khiêm dịch, Tăng Hội chú sớ và
đề tựa.
4) Lục Ðộ Yếu Mục, Tăng Hội biên tập (không còn).
5) Nê Hoàn Phạm Bối Tăng Hội biên tập (không còn).
6) Ngô Phẩm (Ðạo Hành Bồ Tát), Tăng Hội dịch (không
còn).
7) Lục Ðộ Tập Kinh, Tăng Hội biên tập.
Những chú sớ của Tăng Hội trong ba kinh kinh An Ban
Thủ Ý, Pháp cảnh và Ðạo Thọ nay không còn; bài tựa của kinh Ðạo Thọ cũng vậy;
duy chỉ còn lại hai bài tựa của kinh kinh An Ban Thủ Ý và kinh Pháp Cảnh. Kinh
kinh An Ban Thủ Ý dạy về phương pháp đếm hơi thở và tập trung thiền quán; tuy
đó là một kinh thuộc tiểu thừa, nhưng Tăng Hội đã phô giải theo tinh thần đại
thừa. Trong bài tựa kinh này, Tăng Hội viết: “An Ban tức là đại thừa của chư
Phật để tế độ cho chúng sinh đang phiêu trầm sinh tử”.
Lục Ðộ Tập Kinh là một tác phẩm rất đặc biệt. Xét
văn thể và nội dung, ta biết chắc chắn đây không phải là một tác phẩm dịch
thuật từ Phạn ngữ mà là một tác phẩm sưu khảo biên tập trong đó có nhiều đoạn
lược dịch từ nhiều kinh điển và có những đoạn hoàn toàn do Tăng Hội viết, ví
như đoạn nói về thiền. Có cả thảy tám quyền, nói về sáu độ (độ tức là sự vượt
qua bờ, chữ paramia): bố thí độ, giới độ, nhẫn nhục độ, thiền độ và Minh độ.
Minh ở đây là trí tuệ. Ba quyển đầu nói về bố thí độ, còn các quyển sau, mỗi
quyển nói về một độ trong các độ còn lại.
Về mỗi độ, có nhiều đoạn trích dịch trong các kinh.
Ví dụ trong bố thí độ, có trích dịch cá kinh Ba La Nại Quốc Vương, Tát Hòa Ðàm
Vương, Tu Ðại Noa, PhậtThuyết Tứ Tính...
Vai trò xướng minh Thiền học của Tăng Hội ăn sâu
vào cả trong tuyền thuyết. Cao Tăng Truyện chép câu chuyện An Thế Cao để lại
một bức cẩm nang, trong đó ông tiên đoán như sau: “Tôn Ngộ đạo giả, cư sĩ Trần
Tuệ; truyền thiền kinh giả, tỷ kheo Tăng Hội”. Nghĩa là cư sĩ Trần Tuệ là người
làm tôn giá trị đạo học của tôi, còn tỳ khưu Tăng Hội là người truyền dạy kinh
thiền”. Câu chuyện này có thể cho ta một ý niệm về sự cộng tác của Tăng Hội và
Trần Tuệ trong việc truyền bá thiền pháp trước tiên tại Giao Chỉ và sau đó ở
miền Giang Tả. Trong bài tựa An Ban Thủ Ý, Tăng Hội viết: “Trần Tuệ chú giải,
còn tôi giúp sửa chữa thêm bớt” (Trần Tuệ chú giải, dư trợ châm chước). Tăng
Hội còn nói rằng những sửa chữa đó nằm trong tinh thần đạo học của An Thế Cao,
ông không tự do thêm vào những điều trái với tinh thần này (phi sư bất truyền
bất cảm tự do giả). Nhưng đây chẳng qua là lời khiêm nhường đối với thầy của
người cộng tác với mình; trong công việc, thực ra Tăng Hội đã đại thừa hóa
Thiền học của An Thế Cao. Cùng có mặt với Trần Tuệ lúc ấy, còn có hai người cư
sĩ khác, cũng có thể là học trò của An Thế Cao; đó là Hàn Lâm và Bì Nghiệp. Ta
thấy học trò của An Thế Cao đều là cư sĩ, kể cả An Huyền và Nghiêm Phù Ðiều
(trong bài tựa An Ban Thủ Ý, Tăng Hội gọi ba cư sĩ Trần Tuệ, Hàn Lâm và Bì
Nghiệp là tam hiền; trong bài tựa Pháp Cảnh, ông cũng gọi An Huyền và Nghiêm
Phù Ðiều là nhị hiền; trong bài tựa Pháp Cảnh, ông cũng gọi An Huyền và Nghiêm
Phù Ðiều là nhị hiền. Không biết sau này Nghiêm Phù Ðiều có được làm sa di
không, bởi vì ông có viết cuốn Sa Di Thập Tuệ Chương Cú. Chắc chắn là Trần Tuệ
có kể cho Tăng Hội về cách thức dịch kinh ở Lạc Dương, bởi vì Tăng Hội có nói
trong bài tựa Pháp Cảnh là An Huyền dịch miệng và Nghiêm Phù Ðiều, vốn người
Hán, chép lên giấy thành chữ. Ðó là trường hợp kinh Pháp Cảnh.
TƯ TƯỞNG THIỀN CỦA TĂNG HỘI
Danh từ thiền định
ta thấy được nhắc một lần trong kinh Tứ Thập Nhị Chương ngay trong câu đầu.
Những người trích dịch kinh này lại dùng những chữ có thể thay cho danh từ
thiền, như danh từ “hành đạo” chẳng hạn. Kinh có nói “quán thiên địa, niệm vô
thường”; đây là một phép thiền gọi là vô thường quán... Sách Lý Hoặc Luận của
Mâu Tử không nói đến thiền, có lẽ vì sách này chú trọng về việc biện luân hơn
kinh Tứ Thập Nhị Chương, một cuốn sách gối đầu gường của tăng sĩ. Sự có mặt của
những cuốn kinh về thiền đem xuống từ Lạc Dương vào đầu thế kỷ thứ ba và cái
học đại thừa của Tăng Hội đã là những yếu tố đẩy mạnh phong trào Thiền học.
Thiền học đối với Tăng Hội không phải chỉ là những
phương pháp hành đạo mà còn có cả một căn bản triết học về tâm học. Trong bài
tựa An Ban Thủ Ý Kinh, Tăng Hội nói: “Trong thời gian búng ngón tay, tâm ý ta
có thể chuyển qua 960 lần chuyển niệm: trong thời gian một ngày một đêm, ta có
thể trải qua 13 ức ý niệm. Dùng phương pháp đếm hơi thở... ta có thể khử bỏ 13
ức ý niệm không trong sach ấy”.
An Ban tức là Anapana (An Na Ba Na), nghĩa là hơi
thở, Thủ Ý là sự nhiếp tâm, định tâm. An Ban Thủ Ý tức là dùng phương pháp điều
khiển hơi thở để điều phục tâm ý. Có sáu pháp gọi là lục diệu môn:
1) Sổ Tức Môn: điều phục thân thể, đếm hơi thở từ
một đến mười, tập trung tâm tư vào sự đếm để trừ diệt loạn tâm, đi vào định.
2) Tùy Môn: theo dõi hơi thở, ý thức được trong
từng giây sự ra vào của hơi thở. Bỏ con số mà theo hẳn hơi thở.
3) Chỉ môn: bỏ sự theo dõi hơi thở để thực hiện sự
ngưng lặng (chỉ).
4) Quán Môn: tuy là ở trong định nhưng tuệ giác
chưa phát hiện. Phải quán về tâm, về ngũ ấm và những điểm sai lạc như ngã, ngã
sở... để khơi mở tuệ giác.
5) Hoàn Môn: Xoay về quán sát tự tâm để phá trừ
quan điểm nhị nguyên về chủ thể, quán sát đối tượng, phá trừ ngã chấp.
6) Tịnh Môn: Trạng thái vô phân biệt chủ thể và đối
tượng kia vẫn chưa phải là chứng ngộ, hành giả không nên vướng mắc vào đó. Phải
vượt thoát trạng thái này để trí tuệ chân minh hoàn toàn hiển lộ.
Tăng Hội định nghĩa tâm là “không có hình, không có
tiếng, không có trước, không có sau, thâm diệu, vi tế, không có tóc tơ hình
thức: Phạm Thiên, Ðế Thích và tiên thánh cũng không thấy rõ được; những hạt
giống của tâm khi thì ẩn khi thì hiện, cái này hóa sinh thành cái kia, người
phàm không thể thấy được; đó gọi là ấm”. Chúng sinh phiêu trầm vì tâm ấy bị lôi
kéo theo lục tình và mười ba ức uế niệm. Lục tình gồm có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, tâm (ý), gòi là nội tình; và sắc, thanh, hương, vị tế hoạt, (xúc) và tà
niệm (pháp) tức là ngoại tình. Những tà hạnh của lục tình nhiều như nước muôn
sông chảy về biển, bất tận, do đó phương pháp an ban thủ ý là để đối phó lục
tình và ngăn chặn tà hạnh. Tăng Hội nói tiếp “người hành giả đã chứng đắc được
phép An Ban, thì tâm bừng sáng, dùng cái sáng ấy để quán chiếu thì không gì tối
tăm mà không thấy ...” (tựa kinh An Ban Thủ Ý).
Quan trọng nhất là đoạn Tăng Hội viết trong Lục Ðộ
Tập Kinh về Thiền. Ông nói về bốn trình tự của thiền (tứ thiền) như phương pháp
để “chính tâm, nhất ý, tập trung điều thiện duy trì trong tâm, ý thức những ý
niệm dơ bẩn để mà khử diệt”:
Phương Pháp Thực Hành Của Nhất Thiền: khử bỏ tham
ái, ngũ yêu tà sự, như khi mắt thấy sắc đẹp tâm sinh dâm cuồng, khử bỏ những
thanh, hương vị và xúc thường gây tai hại. Người có chí hành đạo ắt phải xa
lánh chúng. Lại còn phải diệt trừ năm sự ngân che: sự tham dục, sự giận dữ, sự
mê ngủ, sự dâm lạc và sự hối hận nghi ngờ. Ðối với những vấn đề như có đạo hay
không có đạo, có Phật hay không có Phật, có kinh hay không có kinh... tâm ý đạt
đến hiểu biết, trở nên thanh tịnh không dơ bẩn, tâm sáng thấy được chân lý, đạt
tới trình độ không gì là không biết, các loài trời, rồng và quỷ mị không thể
nào đánh lừa được. Ðạt được nhất thiền cũng như người có mười loại oán thù đã
thoát ly thân thuộc, một mình ở trên núi chẳng ai hay biết, không còn sợ ai. Vì
xa lìa được tính dục mà nội tâm vắng lặng.
Phương Pháp Nhị Thiền: như người đã thoát ly oán
thù tìm tới chốn thâm sơn để cư trú nhưng còn sợ oán thù có thể tìm tới, kẻ
hành giả tuy đã xa mười thứ dục tình nhưng còn sợ những thứ này tìm theo để
lung lạc chí hành đạo của mình. Vì vậy kẻ hành giả không nên vui cái vui đã
dùng thiện để diệt ác, thiện tiến thì ác lui; bởi cái vui này là mầm của sự lo
sợ. Phải diệt trừ quan niệm thiện ác chống nhau, do đó ý niệm vui và sợ đều
tiêu diệt, mười điều ác tuyệt dứt, không còn ngoại duyên nào có thể tới xâm
nhập tâm mình. Cũng như khi ở trên đỉnh núi cao thì không còn dòng nước nào có
thể làm cho mình bị ngập lụt, cũng không sợ mưa và rồng làm cho chìm đắm. Chính
là từ đỉnh núi đó mà các dòng suối lưu xuất; từ sự hành đạo này mà các điều
thiện do tâm xuất hiện và điều ác không còn do đâu phát sinh được nữa.
Phương Pháp Tam Thiền: Giữ gìn tâm ý một cách kiên
cố, cả thiện và ác cũng đều không thâm nhập được, tâm an ổn như núi Tu Di; từ
bên trong thiện cũng không phát xuất mà từ bên ngoài thiện, ác và tịch diệt
cũng không xâm nhập được[1]. Tâm như hoa sen, rễ hoa trong bùn, khi hoa chưa
mọc thì còn bị lấp dưới nước. Người thực hành tam thiền thanh tịnh như hoa, lìa
xa ác niệm, cả thân và tâm đều an ổn, để hướng về tứ thiền.
Phương Pháp Tứ Thiền: Tới đây cả thiện và ác đều
bỏ, tâm không nhớ ác; trong tâm yên và sáng như ngọc lưu ly; như nàng công chúa
tự tắm gội và lấy hương thơm ướp mình, mặc xiêm y mới. Bồ Tát khi đã đạt được
thứ thiền thì các loại tà cấu không còn làm hư tệ tâm minh... Ðạt được tứ thiền
thì muốn gì cũng được, phi hành nhẹ nhàng trên không, đi dưới nước, phân tâm
tán thể, biến hóa vạn cách, ra vào không ngăn cách, tồn vong tự do, có cả mặt
trời, mặt trăng, động tới cả thiên địa, đắc nhất thiết trí...”
Mở đầu bài kinh An Ban Thủ Ý, Tăng Hội đã nói “An
Ban là đại thừa của chư Phật để tế độ chúng sinh phiêu trầm...: Câu nói này đủ
để chứng tỏ khuynh hướng đại thừa hóa Thiền học của Tăng Hội. Những chú giải
của Tăng Hội về kinh An Ban Thủ Ý tuy không còn nhưng cách thức biên tập Lục Ðộ
Tập Kinh của Tăng Hội cũng cho ta thấy rõ ràng khuynh hướng ấy. Ta không biết
Tăng Hội đã học Thiền học đại thừa với ai ở Giao Châu; sự gặp gỡ giữa Tăng Hội
với Trần Tuệ không thể làm phát tinh thần đại thừa đó, bởi vì cư sĩ Trần Tuệ
cũng như thầy của ông là An Thế Cao đều theo hệ thống thiền tiểu thừa. Ta biết
Tăng Hội đã dịch Tiểu Phẩm Bát Nhã (tức là Ðạo Hành hay Bát Thiên Tụng Bát
Nhã), kinh căn bản và xuất hiện sớm nhất của đại thừa. Bản dịch này Khai Nguyên
Thích Giáo Lục có nói tới, tuy rằng trong khi viết tựa cho kinh Ðạo Hành Bát
Nhã, Ðạo An, Chi Tuần và Lương Võ Ðế, đều không nhắc gì tới. Ta có thể nói rằng
vào thế kỷ thứ hai tại Giao Chỉ thế nào cũng có mặt những Tăng sĩ Ấn Ðộ đã mang
đạo Phật đại thừa tới cùng những bản kinh đại thừa căn bản như Bát Thiên Tụng
Bát Nhã. Trong kinh này các quan niệm không và chân như của đại thừa đã được
diễn tả một cách đầy đủ và chu đáo. Thiền học tại Việt
Chính vì ảnh hưởng sâu đậm của giáo lý không và
chân như của đại thừa mà Tăng Hội đã diễn tả về tâm như sau trong bài kinh An
Ban Thủ Ý: “Tâm không hình sắc, không có âm thanh, không có tiền hậu; tâm thâm
sâu vi tế không tóc tơ hình tướng, cho nên Phạm Thiên, Ðế Thích và các tiên
thánh khác cũng không thể thấy được; kẻ phàm tục không thể thấy được sự hóa
sinh từ hình thức này sang hình thức khác của các chủng tử khi thì minh hiển
khi thì trầm mặc trong tâm. Ðó gọi là “ấm”, vậy” (Tâm vô hình vô thanh, vô hậu
tiền, thâm vi tế hảo, hình vô ti phát, Phạm Thích tiên thánh sở bất năng chiếu;
minh mặc chủng tử, thử hóa sinh hồ bỉ, phi phàm sở đồ, vị chi ấm giả). Danh từ
ấm ở đây có nghĩa là tích tụ, có thể là do dịch từ chữ skandha mà cũng có thể
đã được dịch từ chữ alaya. Theo chúng tôi, đây là dịch từ chữ alaya (tạng thức)
- bởi vì ở đây Tăng Hội đang đích thực nói về tâm mà nói về tâm mà không nói về
năm sự tổ hợp tích tụ gọi là ngũ ấm (hay ngũ uẩn). Trong bài tựa kinh An Ban
Thủ Ý, Tăng Hội nói: “Tâm ấy thâm sâu và vi diệu, không chút tóc tơ hình tướng
cả đến Phạm Thiên, Ðế Thích và các bậc tiên thánh cũng không thấy rõ được sự
hóa sinh của các hạt giống ẩn tàng trong ấy...” Danh từ “hạt giống” ở đây cho
ta thấy ý niệm về thức Alaya như “nhất thiết chủng thức” (Sarva Bijaka) đã có
trong tư tưởng Tăng Hội, và điều này làm cho ta chắc tin thêm ở điều vừa nói.
Như vậy là Tăng Hội đã chịu ảnh hưởng không những tư tưởng Bát Nhã mà còn chịu
ảnh hưởng tư tưởng duy thức nữa. Mà tư tưởng duy thức ở thời này chưa được hệ
thống hóa: chính kinh Lăng Già (Lankavatara) mà Bồ Ðề Ðạt Ma trao cho Huệ Khả
(vào khoảng đầu thế kỷ thứ sáu) cũng chỉ mới xuất hiện vào thế kỷ thứ tư.
Ta biết rằng Thiền đại thừa khác với Thiền tiểu
thừa ở chỗ, Thiền đại thừa xem diệu tâm chân như là bản thể của giác ngộ. Tăng
Hội đã thực sự khơi mở cho khơi mở cho Thiền học đại thừa bằng cách nói với tâm
như uyên nguyên và chân như của vạn pháp.
CHI CƯƠNG LƯƠNG
TIẾP
Cùng trong thế kỷ thứ ba, có một vị tăng sĩ tên Chi Cương Lương Tiếp
(Kalasivi, dịch là Chính Vô Úy) đã dịch kinh Pháp Hoa Tam Muội
(Saddharmasamadhi - sutra) ở Giao Châu vào năm 255 hay 256.
Chi Lương Cương Tiếp, có khi viết là Chi Lương
Cương Lâu, là người nước Nhục Chi. Vài bản mục lục còn nói tới một người tên
Cương Lương Lâu Chi (dịch là Chân Hỷ) đã dịch nhiều kinh tại Giao Châu; Paul
Pelliot cho rằng hai người trên đây chỉ là một, và ông cho rằng tên Phạn ngữ
của người này là Kalaruci (Toung Pao, 1923). Ông còn dẫn chứng Phí Trường
Phòng, rút trong Lịch Ðại Tam Bảo Ký, rằng Chi Cương Lương Tiếp cũng đã dịch
kinh Thập Nhị Du. Sách Thiền Uyển Tập Anh chép tên ông là Chi Cương Lương, chắc
có lẽ là vị sự thiếu sót qua nhiều kỳ sao chép hoặc ấn loát. Bản dịch kinh Pháp
Hoa Tam Muội đã mất vào trước 730. Kinh này cũng thuộc về loại Thiền kinh đại
thừa; chữ tam muội có nghĩa là định. Kinh này nói đến một loại thiền định gọi
là thiền định hoa sen, trong ấy các quan niệm về pháp thân, huyễn hóa và không
đã được đề cập tới. Một bài kệ trong kinh ấy như sau:
“Trong pháp thân có tất cả các pháp
tất cả đều huyễn hóa
biến hiện khi nổi khi chìm
các pháp phiền não như
dâm, nộ và si thực ra đều vô hình vô thể
cũng như các bọt bèo
hiện trên mặt nước
nên quan sát thân ta và
mọi hiện tượng
như an trú nơi tịnh diệt
vô hình
Chúng được thành lập do
sự hội hợp và ly tan
nếu phân biệt kỹ lưỡng,
thì sẽ thấy rõ bản tính của chúng là không”.
Như thế Chi Cương Lương Tiếp cũng thuộc hệ
phái Phật Giáo đại thừa và cũng có khuynh hướng Thiền học. Ngoài Tăng Hội và
Chi Cương Lương Tiếp, trong thế kỷ thứ ba tại Giao Châu còn có Ma La Kỳ Vực
(Marajivaka), nhưng ta không biết được tư tưởng Phật giáo của vị này thuộc hệ
thống nào. Cao Tăng Truyện nới tới Ma La Kỳ Vực như một người có thể làm nhiều
phép lạ, thì có thể ông này đã có khuynh hướng Mật Giáo. Cao Tăng Truyện chép:
“Ma La Kỳ Vực, nguyên người Tây Trúc, đã vân du khắp các xứ văn minh và mọi rợ,
không ở yên ở một nơi nào. Ngài có những hành động mà các đệ tử và tùy tùng
không biết trước được. Ngài đi từ nước Tây Trúc đến nước Phù
ÐẠT MA ÐỀ BÀ VÀ HUỆ
THẮNG
Hiện ta chưa tìm
ra được tài liệu nào nói về Phật Giáo Việt
Theo tài liệu trên, ta biết Huệ Thắng chuyên về
kinh Pháp Hoa và thiền pháp đại thừa. Hẳn là Ðạt Ma Ðề Bà, người dạy ông về thiền,
cũng là thiền sư đại thừa. Như ta thấy trong Tục Cao Tăng Truyện, Huệ Thắng
trước khi dời về Diên Hiền tịnh xá vào năm 487. Ðạt Ma Ðề Bà như vậy đã sang
Giao Châu vào khoảng trước thế kỷ thứ năm, và như thế là trước ngày Bồ Ðề Ðạt
Ma sang Lương. Truyền Ðăng Lục của Ðạo Nguyên nói rằng Bồ Ðề Ðạt Ma sang Trung
Hoa năm 520, và sau khi không thành công với Lương Vũ Ðế liền vượt sông sang
Bắc Ngụy. Nhưng Tục Cao Tăng Truyện của Ðạo Tuyên lại viết: “ Bồ Ðề Ðạt Ma ban
đầu lên đất nước Nam Việt thuộc Tống, cuối cùng vượt sông sang Ngụy”. (Sơ liên
Tống cảnh Nam Việt, mạt hựu tỷ độ chi Ngụy). Chữ Nam Việt ở đây có thể là Giao
Châu hồi bấy giờ, cũng thuộc Tống. Nhà Tống (420-447) tới trước nhà Tề
(479-501). Nếu quả thực Bồ Ðề Ðạt Ma đến Nam Việt vào cuối đời nhà Tống thì có
thể ông đã qua Lương đồng thời với lúc Ðạt Ma Ðề Bà qua Giao Châu. Có điều Bồ
Ðề Ðạt Ma ở Trung Hoa trở nên rất nổi tiếng, trái lại Ðạt Ma Ðề Bà ở Giao Châu
thì sử sách lại ít nói đến. Ðiều này có thể do hai lý do: lý do thứ nhất là sử
liệu Việt Nam về thời Bắc thuộc vì binh hỏa loạn lạc đã không còn gì được giữ
lại, thư tịch Trung Hoa cũng hầu như không nói gì về Giao Châu trong thời đại
này; lý do thứ hai là vì Thiền học Nam Phương chú trọng hoàn toàn đến thực hành
và có khuynh hướng thần bí, ít chú trọng về vấn đề ghi chép lịch sử và về sự
phân tông lập phái, và nhân vật Bồ Ðề Ðạt Ma đã được thổi phồng lên một cách
quá đáng.
Tăng Hội sang Nam Kinh vào giữa thế kỷ thứ ba để
hoằng dương thiền pháp; vào giữa thế kỷ thứ tư tại Trung Hoa có Ðạo An cũng chú
trọng về thiền pháp, và cũng như Tăng Hội, bắt đầu chú thích những kinh về
thiền do An Thế Cao dịch như An Ban Thủ Ý. Và cũng như Tăng Hội, Ðạo An đã
nghiên cứu kinh Bát Nhã và hướng tới đại thừa hóa Thiền học. Tiếp theo Ðạo An,
vào cuối thế kỷ thứ và đầu thế kỷ thứ năm, có Huệ Viễn cũng rất chú trọng về
Thiền học và sự sưu tâm thiền kinh. Khi Huệ Thắng từ Giao Châu sang, thì tại
đất Nam Kinh có nhiều phật tử hâm mộ Thiền học rồi và chính những người này mới
thấy rõ được giá trị của Huệ Thắng (Thiền học giả kính mỹ - Tục Cao Tăng
Truyện). Trong lịch sử phát triển Thiền học tại Trung Quốc, Giao Châu đã trực
tiếp cống hiến ít nhất là hai thiền sư, đó là Tăng Hội và Huệ Thắng vậy.
Ðồng thời với Huệ Thắng, Giao Châu còn cống hiến
cho Trung Quốc một thiền sư lỗi lạc khác tên là Ðạo Thiền. Sách Tục Cao Tăng
Truyện của Ðạo Tuyên cho biết thiền sư Ðạo Thiền người Giao Chỉ, xuất gia từ
nhỏ, giữ giới rất tinh nghiêm. Ông là một người rất thành thực, được cả hai
giới xuất gia và tại gia yêu mến. Ðạo Thiền đã trụ trì chùa Tiên Châu Sơn ở
miền rừng núi, một miền có nhiều cọp dữ. Từ khi thiền sư tới hành đạo ở đây,
nạn cọp bắt người được chấm dứt. Thiền sư được mời về Kim Lăng để dự đại hội về
thiền và luật, đại hội do Cách Lăng Vương nhà Tề tổ chức, có không biết bao
nhiêu vị cao đức bốn phương về dự. Về tới Kim Lăng, Ðạo Thiền đã chinh phục
được tứ chúng bằng đạo đức và cách giảng dạy của mình. Vào đầu của niên hiệu
Vĩnh Minh, thiền sư về trú trì chùa Vân Cứ Hạ ở núi Chung Sơn để giáo hóa.
Thiền sư dạy rất đông giới xuất gia và đã sử dụng bộ luật Thập Tụng của phái
Thuyết nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada) để dạy giới này. Sách Tục Cao Tăng
Truyện viết: “Thầy có nghệ thuật tóm tắt đại ý các kinh điển danh tiếng, làm
cho các giới xuất gia nam và nữ phát khởi niềm tin và làm theo, vì vậy uy danh
của thầy càng lúc càng chấn phát. {..} Người tới nghe giảng có tới hàng trăm.
Người xin quy y thọ giới có trên cả ngàn. “Thiền sư sống giản dị, ưa đạm bạc,
tránh chốn ồn ào, vui cảnh thanh tịnh. Tuổi già thiền sư đi ẩn cư miền rừng
núi, từ chối không giao du với các bậc quyền quý cao sang, làm cho những người
này buồn. Thiền sư tịch năm 70 tuổi, năm Ðại Thông thứ nhất, tức năm 527. Vậy
thì thiền sư đã sinh ở Giao Chỉ vào năm 457. Ta có thể nói Ðạo Thiền là một
thiền sư chuyên về Luật Học, và ở Giao Châu, thầy đã sử dụng luật Thập Tụng của
Hữu Bộ, không như ngày naty chúng ta sử dụng luật Tứ Phần của Pháp Tạng Bộ.Từ
Thông Biện thiền sư đời Lý cho đến nay, chúng ta có khuynh hướng cho rằng Thiền
học là từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam, lần đầu tiên do thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu
Chi, học trò của Tăng Xán, tổ thứ ba của Thiền tông Trung Hoa, vào hạ bán thế
kỷ thứ sáu. Thực ra, Thiền học Việt Nam đã khởi đầu từ thế kỷ thứ ba, và chính
Tăng Hội của Giao Châu đã sang truyền bá thuyền pháp tại Trung Hoa. Tiếp theo
Tăng Hội đã có Huệ Thắng vào thế kỷ thứ năm được một vị thái thú mời về Trung
Hoa hoằng dương Thiền học. Khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi thiền sư Trung Hoa sang Việt
VAI TRÒ QUAN TRỌNG
CỦA TĂNG HỘI TẠI KIẾN NGHIỆP
Ở đây ta cần ghi
nhận vai trò quan trọng của Tăng Hội ở Kiến Nghiệp vào giữa thế kỷ thứ ba.
Trước khi Tăng Hội đến hoằng dương thiền học tại
miền hạ lưu sông Dương Tử, đã có một người cư sĩ tên là Chi Khiêm đến đây và
dịch một số kinh điển như Duy Ma, Ðại Bát Nê Hoàn, Pháp Cú, Bồ Tát Liên Cú,
Thoại Ứng Bổn Khởi và Liểu Bản Sinh Tử. Cao Tăng Truyện, trong đoạn nói về Tăng
Hội, cho biết rằng tại đất Ðông Ngô, ngoài sự có mặt của vị cư sĩ này, Phật
giáo chưa có cơ sở gì đáng kể. Chi Khiêm người gốc Nhục Chi, thông hiểu cả Phạn
ngữ lẫn Hán ngữ, là một trong những người ở miền Bắc chạy loạn xuống Ðông Ngô.
Cao Tăng Truyện cũng cho biết là Tăng Hội là vị sa môn đầu tiên xuất hiện ở đất
này, khiến cho người ta rất nghi và chính Ngô vương Tôn Quyền cũng đưa ra nhiều
thử thách trước khi tin phục Tăng Hội. Người nối nghiệp Tôn Quyền là Tôn Hạo
(264-280) ban đầu cũng không tôn phục Tăng Hội, Nhờ đức độ tài năng của Tăng
Hội, Tôn Hạo mới chuyển hóa và sau đó mới chịu thọ ngũ giới. Cũng sách này cho
biết Tăng Hội đã lập ngôi chùa đầu tiên ở xứ này và vì vậy ngôi chùa được gọi
là Kiến Sơ Tự. Ðây là một tập sách về các vị cao tăng viết vào khoảng đầu thế
kỷ thứ sáu và vì vậy không xa với thời đại Tăng Hội bao nhiêu. Chính sách này
đã viết rằng, sau khi Tăng Hội đến, “đại pháp trở nên hưng thịnh ở Giang
Cao Tăng Truyện cho biết Tăng Hội là một người
thông minh xuất chúng: “Hiểu rõ ba tạng kinh điển, đọc khắp cả sáu kinh (Nho,
Lão), những sách về thiên văn và đồ vĩ phần lớn ông đều thông thạo”. Ðiều này
làm ta nhớ đến Mâu Tử. Giao Châu hồi đó là một trung tâm văn hóa thực sự với sự
có mặt của nhiều nhân vật lỗi lạc từ phương Bắc tới (Mâu Tử gọi là dị nhân Bắc
Phương), sự học vấn cũng như sự hành đạo tại địa phương cố nhiên đòi hỏi những
kiến thức về cả hai nền học thuật đang gặp gỡ trên đất Việt. Trong những trước
tác và dịch thuật, Tăng Hội không còn dùng những dẫn chứng và luận lý của Nho
và Lão như Mâu Tử nữa; văn ông đã thuần túy Phật giáo. Tuy nhiên khi biện luận
về đạo Phật với Tôn Hạo (người kế vị với Tôn Quyền) ông đã trích dẫn Kinh Dịch,
Chu Công và Khổng Tử (Cao Tăng Truyện nói trong khi đàm luận với Tôn Hạo ông đã
trích câu “tích thiện chi gia, tất hữu dư khương”). Nhìn vào sự nghiệp Tăng Hội
tại Ðông Ngô, ta có thể có một ý niệm về tầm quan trọng của trung tâm Phật Giáo
Giao Châu, nơi đã đào tạo nên Tăng Hội. Sự gặp gỡ của hai nền văn hóa tại Giao
Chỉ quả đã biến đất này thành một bàn đạp cho sự truyền bá đạo Phật vào lục địa
Trung Hoa.
TỰA KINH AN BAN THỦ
Ý
An Ban là đại thừa của các vị Bụt dùng để tế độ
chúng sanh đang lênh đênh chìm nổi. An Ban gồm sau loại, nhằm đối trị sáu tính.
Tính có trong và ngoài: sáu tinh bên trong là mắt tai mũi lưỡi thân ý, sáu tính
bên ngoài là sắc thanh hương vị xúc và tà niệm. Kinh có nói đến 12 sự nguy hiểm
của biển cả, đó là những tà hạnh xảy ra giữa sự tiếp xúc sáu tính bên trong và
sáu tính bên ngoài.
Tâm chúng sanh bị tà niệm đi vào như biển cả tiếp
nhận nước từ các dòng sông, như một kẻ đói ăn hoài mà không no. Tâm chứa đầy
mọi thứ, không một pháp vi tế nào mà tâm không tiếp nhận. Hiện tượng ra vào qua
lại của tâm lý xẩy ra như chớp nhoáng, không lúc nào gián đoạn.
Ta không thấy được tâm vì nó không có hình tướng,
ta không nghe được tâm vì nó không có âm thanh; đi ngược lại để tìm thì không
gặp bởi vì tâm không có khởi điểm, đi xuôi về để kiếm cũng không thấy bởi vì
tâm không có chung kết. Tâm ấy thâm sâu và vi diệu, không chút tóc tơ hình
tướng cả đến Phạm Thiên, Ðế Thích và các bậc tiên thánh cũng không thấy rõ được
sự hóa sinh của các hạt giống ẩn tàng trong ấy, huống hồ là kẻ phàm tục. Cũng
vì thế tâm cũng được gọi là ấm (ngăn che). Cũng giống như một người gieo hạt
trong lúc trời sẩm tối; một nắm tay đưa lên thì hàng vạn hạt được gieo xuống.
Người đứng bên không thấy được hình dáng những hạt giống ấy, và chính người
gieo cũng không sao biết được số lượng của những hạt kia. Một nắm hạt gieo
xuống, hàng vạn cây con sẽ mọc lên. Cũng như thế, trong thời gian một cái búng
tay, tâm có thể trải qua tới 960 lần chuyển niệm. Trong thời gian một ngày đêm,
tâm có thể trải qua mười ba ức ý niệm mà ta không biết được, cũng giống hệt như
người gieo hạt kia. Vì vậy nên ta phải thực tập lắng lòng, buộc ý vào hơi thở
và đếm từ một tới mười. Trong thời gian mười hơi thở ấy, mà đếm không lộn là ý
bắt đầu có định. Ðịnh nhỏ thì có thể kéo dài trong ba ngày, định lớn 7 ngày.
Trong thời gian ấy không có một tư tưởng tạp loạn chen vào, hành giả ngồi yên
như người đã chết, đó gọi là sơ thiền.
Thiền có nghĩa là loại trừ. Loại trừ cái tâm có
mười ba ức uế niệm để đạt tới tám pháp: sổ, định, chuyển, niệm, trước, tùy, xúc
và trừ (đếm tập trung, đổi, nhớ, gắn, vào, theo, chạm và loại trừ). Tám pháp
này đại khái được chia làm hai phần. Tâm ý sở dĩ định được là nhờ theo dõi hơi
thở (tùy). Mà muốn theo dõi được hơi thở dễ dàng thì ta nên thực tập phép đếm
hơi thở (sổ). Khi cấu uế đã được tiêu diệt thì tâm ý dần dần trong sạch. Ðó gọi
là nhị thiền. Bỏ phép đếm đi, chú tâm và chóp mũi gọi là chỉ. Thành công thì
các thứ cấu uế của ba chất độc, bốn sự rong ruổi, năm sự ngăn che và sáu đường
ám muội đều được tiêu diệt. Lúc bấy giờ, tâm tư bừng sáng, còn sáng hơn cả hạt
châu minh nguyệt. Những tâm niệm dâm tà và ô nhiễm như bùn nhơ bám vào tấm kính
sáng đều được gột sạch. Tấm kính này giờ đây đặt trên mặt đất và ngữa lên trời,
thì không có cõi nào mà không chiếu tới. Trời đất rộng lớn vô cùng nhưng tấm
kính vẫn có thể thu nhiếp tất cả. Tâm ta bị các thứ uế cấu bao phủ như tấm kính
lấm bùn kia, nếu gặp được minh sư trau chuốt dũa mài và lau sạch hết mọi đất
bùn và bụi bặm thì khi đem tâm ấy ra soi chiếu, không tơ hào nào là không hiện
rõ trên mặt kính. Cáu bẩn không còn thì ánh sáng hiện ra. Ðó là chuyện tất
nhiên. Ngược lại, nếu phiền não tràn ngập mà tâm ý tán loạn thì trong số một
vạn niệm được khởi lên ta không nhận biết được một niệm. Cũng giống như ngồi
ngoài chợ mà nghe lao xao một lần bao nhiêu tiếng ồn ào rồi trở về ngồi yên mà
cố nhớ lại thì không thể nhưng hứo được một lời nào.
Sở dĩ tâm phóng dật và ý tán loạn vì uế trược chưa
được khai thông. Nếu tìm về chỗ thanh vắng để thực tâm cho tâm lắng đọng và ý
không còn bị những dục tà dục lôi kéo thì lúc ấy lắng tai ta ta có thể nghe rõ
được cả vạn lời, không có một lời nào được bỏ sót. Tâm tĩnh và ý trong thì có
thể làm được như vậy.
Thực tập sự vắng lặng và làm ngưng chỉ tâm ý ở đầu
chóp mũi, đó gọi là tam thiền. Quay trở về để quán chiếu thân mình, từ đầu tới
chân, ta gặp lại sự quan sát những yếu tố ô nhiễm trong cơ thể và thấy được rõ
ràng mọi lỗ chân lông dày đặc trong toàn thân và chất loãng rịn ra từ các lỗ
chân lông ấy. Từ đấy ta có thể quán chiếu được cả trời, đất, người và vật, tất
cả những thịnh suy của các hiện tượng ấy và ta sẽ được tính cách không còn mất
của chúng. Lúc ấy niềm vui nơi tam bảo trở nên vững chãi. Bây giờ tất cả những
gì u tối đều trở nên trong sáng, đó gọi là tứ thiền.
Nhiếp tâm để trở về chánh niệm thì mọi sự ngăn che
đều tiêu diệt, đó gọi là hòan (trở về). Khi những đam mê và cấu uế đã lắng
xuống hoàn toàn thì tâm không còn vọng tưởng, đó gọi là tịnh. Hành giả đã thành
tựu được pháp An Ban là thấy tâm mình sáng ra. Lấy cái sáng mà quán chiếu thì
không có chỗ tối tăm nào mà không soi tới. Người ấy có thể thấy được những sự
gì đã xảy ra từ vô số kiếp về trước và cũng có thể thấy được các cảnh giới
trong hiện tại cùng với người và vật trong cảnh giới ấy, trong đó có các vị Bụt
đang giáo hóa các giới đệ tử đang học hỏi và thực tập. Lúc bấy giờ không cảnh
nào mà không thấy, không tiếng nào mà không nghe, người ấy đạt tới cái tự do
lớn, không còn bị ràng buộc bởi ý niệm còn, mất, thấy được cái vô cùng lớn như
núi Tu Di trong cái vô cùng nhỏ như lỗ chân lông, chế ngự được trời đất, làm
chủ được thọ mạng. Thần lực bấy giờ trở nên dũng mãnh, người ấy có thể đánh bại
cả thiên binh chuyển động được thế giới tam thiên, xê dịch được muôn ngàn cõi
nước, thể nhập được vào cõi bất tư nghị, nang lực này đến cả Phạm Thiên cũng
không lường được. Thần đức của người ấy trở nên không hạn lượng, chỉ vì người
ấy đã thực hành được sáu hạnh (ba la mật) vậy. Trước khi Bụt thuyết kinh này,
hai cõi nhân thiên đều chấn động và thay đổi màu sắc. Suốt trong ba ngày Bụt an
trú trong an ban, không ai được tiếp xúc với Người. Rồi Bụt hóa hiện làm hai
thân, một là báo thân, một là ứng thân để diễn bày chân nghĩa. Các vị đại sĩ và
thượng nhân trong giới sáu đôi và mười hai hạng, không ai là không chấp hành
theo lời Bụt dạy.
Có vị bồ tát tên là An Thanh hiệu là Thế Cao, con
đích của vua nước An Tức, sau khi nhường ngôi cho chú đã lánh sang nước này,
sau khi chu du nhiều nơi mới về đến kinh sư. Là người học rộng biết nhiều, uyên
bác trong mọi lĩnh vực, ngài có kiiến thức giàu về bảy môn học đương thời.
Những thuật phong khí, những điềm lành dữ, những thiên tai như núi dời đất
động, những y thuật như thấy mặt biết bệnh, ngài đều nắm vững. Ngài lại biết
được âm thanh của các loài chim thú và ôm được vào lòng cả sự rộng rãi của âm
dương. Thấy lê dân sống trong mờ tối, ngài cảm thấy xót thương, muốn mở rộng
tầm thấy nghe của họ, để giúp cho họ thấy cho rõ, nghe cho thông, cho nên đã vì
họ mà giảng bày con được lục độ chân chánh, và phiên dịch pho bí áo An Ban Thủ
Ý này. Không ai học theo với ngài mà không khử bỏ được uế trược vô minh và đạt
tới mức sống sáng tỏ và trong sạch.
Tăng Hội tôi, sinh ra mới tới tuổi vác nổi bó củi
thì cha mẹ đã qua đời. Bậc tam sư cũng theo nhau khuất núi. Mỗi khi ngước nhìn
mây trời thường không khỏi cảm thấy xúc động, buồn thương rơi lệ. May thay, nhờ
phước duyên kiếp xưa chưa hết nên đã may mắn gặp được ba vị hiền giả là Hàn Lâm
người Nam Dương, Bì Nghiệp người Dĩnh Xuyên và Trần Tuệ người Hội Khế. Cả ba
đều có niềm tin vững chãi, chí đức cao siêu, cả ba đều tinh cần đi tới trên con
đường phục vụ đạo pháp, không biết mệt mõi là gì. Từ lúc có dịp thân cận và đàm
đạo với ba vị, tôi nhận ra rằng giữa chúng tôi, lề lối làm việc và tâm ý phối
hợp nhau một cách hoàn toàn, không có chỗ nào mâu thuẩn. Cư sĩ Trần Tuệ làm
việc chú giải và thích nghĩa còn tôi thì giúp đỡ bằng cách gạn lọc, thêm chỗ
này, bớt chỗ kia. Tuy nhiên những điều màđại sư không truyền thừa thì chúng tôi
không dám tự do thêm thắt. Nói bao nhiêu cũng không cạn được ý Bụt, vì vậy
chúng tôi kính mời các bậc hiền giả minh triết cùng nhau tham cứu. Hễ thấy có
điềm nào còn sơ sót, xin vui lòng bổ chính để cùng nhau làm sáng tỏ thêm ra
chánh lý của Bụt.
CHƯƠNG IV :SÁCH THIỀN UYỂN TẬP ANH
VÀ CÁC TÀI LIỆU VỀ ÐẠO PHẬT VIỆT NAM ÐỜI ÐƯỜNG
(TK VII VÀ TK VIII)
SÁCH THIỀN UYỂN TẬP
ANH NGỮ LỤC
Sách Thiền Uyển
Tập Anh Ngữ Lục, là một tập sách nói về các vị thiền sư Việt
Bản in cũ nhất còn là bản in năm 1715. Sách có 62
tờ, mỗi tờ có 12 dòng. Ðầu sách có một bài tựa viết năm 1715 trong dịp khắc
bản. Bài tựa này không mang tên tác giả, nhưng có mang ngày tháng: “khắc lại
vào một ngày tháng Tư niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 triều Lê”. Ðó là năm 1715.
Sau bài tựa có danh sách 14 người đệ tử của thiền sư Như Trí (Như Trí có lẽ là
người đứng ra lo việc trùng khắc): mười bốn người này chắc hẳn đã góp công và
của vào việc ấn loát. Tiếp theo bài tựa và bản danh sách, là tiểu sử 38 vị
thiền sư thuộc phái Vô Ngôn Thông. Tiếp theo nữa là tiểu sử 28 vị thiền sư
thuộc phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Và cuối cùng là tiểu sử (đúng hơn là danh sách)
của 19 người thuộc thiền phái Thảo Ðường.
Ngoài bản in 1715, chúng ta còn có một bản in khác
do hòa thượng Phúc Ðiền thực hiện, mang tên là Trùng Khắc Ðại Nam Thiền Uyển
Truyền Ðăng Tập Lục, có lời chua: quyển thượng, thất tập nhân danh, cựu bản
Tiêu Sơn Tự (quyển thứ nhất, mất tên tác giả, in theo bản củ của chùa Tiêu
Sơn). Bản cũ của chùa Tiêu Sơn có thể là bản in năm 1715 vừa kể trên. trong bản
này của Phúc Ðiền hòa thượng, ta không thấy đề ngày tháng; nhưng chỉ thấy đề
Liên Tông Tự đạo điệp Lâm Tế Phúc Ðiền hòa thượng đính tử (chùa Liên Tông, phía
Lâm Tế, hòa thượng Phúc Ðiền với Giới đao và độ điệp đính tử). Giới đao và độ
điệp ngày xưa thay cho chứng thư và thông hành của tăng sĩ, do vua ban. ta
không thấy có đề ngày tháng của kỳ in này, nhưng ta biết được đó là năm 1859
nhưng có một bài tựa của Phúc Ðiền hòa thượng viết không thấy ở quyển thượng
này mà lại in ở đầu một bản in của “quyển hạ” của Thiền Uyển Tập Anh Ngữ
Lục[1]. Cả ông Trần Văn Giáp trong sách Le Bouddhisme En Annam Des Origines Au
XIIIè Siècle và ông Gaspardone trong Bibliographie Annamite đã không chú ý
nhiều tới bài tựa này trong đó Phúc Ðiền hòa thượng nói về lai lịch bản in của
ông. Theo Phúc Ðiền hòa thượng, khi ông đọc Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, ông
thấy có nhiều chỗ sai lầm bất nhất nên ông đã ra công hiệu đính trước khi ấn
hành lại[2]. Nhưng thay vì phải in lại cuốn này, ông lại in luôn cả hai cuốn
khác cũng nói về Thiền học Việt Nam và đặt tên chung cho cả ba cuốn là Ðại Nam
Thiền UyểnTruyền Ðăng Tập Lục. Hai tập mà ông đã in chung với Thiền Uyển Tập
Anh là:
1) Tam tổ thực lục, nói về ba vị tổ Trúc Lâm đời
Trần.
2) Ngự Chế Thiền Ðiển Thống Yếu Kế Ðăng Lục, tác
giả là Như Sơn thiền sư, chùa Hồng Phúc, ấn hành năm 1734.
Hai cuốn sách này, Phúc Ðiền hòa thượng cho in
thành “quyển hạ” của Ðại Nam Thiền UyểnTruyền Ðăng Tập Lục. Nhưng trước khi in,
ông đã cho viết thêm tiểu sử của năm vị thiền sư gần ông nhất vào tác phẩm của
Như Sơn, đồng thời cũng ghi chép thêm những điều ông nghe về truyền thừa chùa
Hoa Yên núi Yên Tử.
Bài tựa này cho chúng ta biết lý do tại sao bản in
Thiền Uyển Tập Anh của Phúc Ðiền lại mang một cái tên khác là Ðại Nam Thiền
UyểnTruyền Ðăng Tập Lục, và tại sao lại có chữ “quyển thượng”. Cuối bài tựa này
ta thấy có đề như sau;: Năm Tự Ðức thứ 12, ngày rằm tháng Giêng năm Kỷ mùi
(1859), Hòa thượng Phúc Ðiền ở Bồ Sơn với giới đao và độ điệp soạn.
VỀ TÁC GIẢ THIỀN
UYỂN TẬP ANH
Tác giả Thiền Uyển
Tập Anh là ai? Lê Quý Ðôn (Ðại Việt Thông Sử) cũng như Phan Huy Chú (Lịch Triều
Hiến Chương Loại Chí) nói là do một tác giả đời Trần. Trần Văn Giáp cũng nói là
sách do một tác giả đời Trần, sống vào thượng bán thế kỷ thứ mười ba đồng thời
với thiền sư Hiện Quang, vị thiền sư cuối cùng của phải Vô Ngôn Thông “cho đến
nay, vào năm Ðinh Sửu, niên hiệu Khai Hựu”, ông kết luận là năm Ðinh Sửu (1337)
là năm soạn thảo sách Thiền Uyển Tập Anh.
Xét kỷ nội dung Thiền Uyển Tập Anh, ta thấy rằng
sách này không phải do một người biên tập mà do nhiều người biên tập. Có nhiều
dữ liệu cho ta nghĩ rằng chính thiền sư Thông Biện (mất năm 1134) là người bắt
đầu việc ghi chép biên tập. Ông thuộc về thiền phái Vô Ngô Thông, và những
người nối tiếp theo công việc của ông cũng là những thiền sư thuộc cùng một
thiền phái.
Trước hết ta nhận thấy Thiền Uyển Tập Anh, phái Vô
Ngôn Thông được đặt lên đầu sách, dù phái này đã được thành lập sau phái Tỳ Ni
Ða Lưu Chi đến hai trăm bốn mươi năm (thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi qua Việt Nam
năm 580, trong khi thiền sư Vô Ngôn Thông qua Việt Nam năm 820). Theo thứ tự
thời gian, đáng lý phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi phải được đặt lên đầu sách. Nhưng đây
thì không phải như vậy. Ðiều này chứng tỏ chính các thiền sư Vô Ngôn Thông đã
làm công việc biên tập sách Thiền Uyển Tập Anh. Ngoài lý do trên ta còn có một
lý do khác nữa: tài liệu về phái Vô Ngôn Thông so sánh với tài liệu phái Tỳ Ni
Ða Lưu Chi thì phong phú hơn nhiều. Sự ghi chép về sáu bảy thế hệ đầu của phái
Tỳ Ni Ða Lưu Chi rất thiếu sót. Thiền phái Vô Ngôn Thông, so với thiền phái Tỳ
Ni Ða Lưu Chi, chịu ảnh hưởng Trung Hoa đậm đà hơn, nên có ý thức nhiều hơn về
sự ghi chép truyền thừa [3]. Các thiền sư phái Vô Ngôn Thông đã có liên lạc với
thiền sư phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, có vị đã cư trú hẳn trong một ngôi chùa tổ đình
của Tỳ Ni Ða Lưu Chi (như các thiền sư Thường Chiếu và Thần Nghi của phái Vô
Ngôn Thông đã cư trú trong chùa Lục Tổ, một tổ đình rất xưa của phái Tỳ Ni Ða
Lưu Chi) và do đó đã thu thập tài liệu lịch sử của phái này để ghi chép trong
sách.
Ðọc sự tích thiền sư Thông Biện, ta thấy thiền sư
này rất giỏi về sự hcọ và chú tâm nhiều về lịch sử truyền bá Phật giáo ở Việt
Nói về thiền sư Thần Nghi, Thiền Uyển Tập Anh có
đoạn sau đây khá quan trọng: “Thiền sư Thần Nghi thưa {với thiền sư Thường
Chiếu}: “Con theo phụng sự hòa thượng đã lâu nhưng chưa rõ những nhân vật nào
đã truyền thừa đạo này đầu tiên, xin hòa thượng chỉ bày cho con những thế hệ đã
truyền thừa khiến cho học giả biết được nguyên lưu của mình”. Thường Chiếu thấy
thái độ khẩn thiết ấy đưa cho Thần Nghi xem một tài liệu của Thông Biện trong
đó có ghi chép về các tông phái và sự truyền thừa của các thế hệ. Thần Nghi đọc
xong hỏi: “Tại sao hai hệ phái Nguyễn Ðại Ðiên và hệ phái Nguyễn Bát Nhã [4]
không được chép vào đây?” Thường Chiếu trả lời: “Thông Biện đã suy nghĩ kỹ rồi
mới không chép hai hệ phái ấy”. Năm Kiến Giả thứ sáu ngày mười tám tháng Hai
năm Bính tý (1216), thiền sư Thần Nghi lấy tập sách mà Thường Chiếu đã truyền
lại cho đệ tử là Ẩn Không và nói: “Ðời tao loạn, nhưng người nên giữ sách này
đừng để cho binh lữa hủy hoại, như thế lịch sử truyền thừa của tổ phong ta mới
không bị tán mất. Nói xong thì tịch”.
Căn cứ vào đoạn văn trên ta có thể quả quyết rằng
chính thiền sư Thông Biện là người bắt đầu biên tập Thiền Uyển Tập Anh. Tập tài
liệu này truyền đến Thường Chiếu (mật năm 1203) qua sự truyền thừa của Ðạo Huệ
(mất năm 1172), Minh Trí (mất 1190), Thường Chiếu (mất 1203) đã truyền lại cho
Thần Nghi (mắt 1216) và Thần Nghi truyền lại cho Ẩn Không vào năm đó. Chắc hẳn
là mỗi vị khi nhận được sách đã ghi chép về những gì mình nghe thấy về đạo Phật
trong thời đại mình. Vậy ta có thể kết luận là tác giả Thiền Uyển Tập Anh gồm
nhiều người trong đó những vị sau đây là quan trọng nhất:
1) Thông Biện
2) Thường Chiếu
3) Thần Nghi
4) Ẩn Không
Ẩn Không có thể là người ghi chép sự tích các thiền
sư thuộc những thế hệ chót của phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo
Ðường. Sau phần tiểu sử của thiền sư Thần Nghi, ta thấy một câu chú thích về
thiền sư Ẩn Không, in bằng chữ nhỏ, chắc hẳn là đã được thêm vào sau này: “Ẩn
Không xưa ở tại Lương Châu huyện Na Ngạn, lúc bấy giờ được người đời gọi là Na
Ngạn đại sư”.
Trong bốn tác giả trên, Thường Chiếu và Thần Nghi
đã trú trì tại chùa Lục Tổ, ngôi chùa rất xưa của phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi; ta có
thể nói hai người này đã đóng góp nhiều vào sự ghi chép sự tích các thiền sư
phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Riêng Thường Chiếu đã soạn thảo thêm một cuốn sách đặc
biệt về sự truyền thừa của Phật giáo Việt Nam, tên sách là Nam Thông Tự Tháp
Ðồ. Tiếc thay tác phẩm này hiện chưa tìm lại được. Thiền Uyển Tập Anh, trong
khi nói về thiền sư Ðịnh Giác phái Thảo Ðường, có nhắc đến tên tác phẩm này.
Thiền Uyển Tập Anh ghi chép tiểu sử các thiền sư tử
cuối thế kỷ thứ sáu đến đầu thế kỷ thứ mười ba, nghĩa là trong khoảng trên sáu
trăm năm. Nhưng những ghi chép được giới hạn trong các thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu
Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường. Các truyền thống Phật giáo khác ngoài các
thiền phái ấy không được ghi chép. Tiếp theo, là sự ghi chép về ba thiền phái
kể trên cũng rất thiếu sót. Về thiền phái Vô Ngôn Thông, các thế hệ thứ 11, 12,
13, 14 và 15 được ghi chép rất sơ sài. Thế hệ thứ 11 gồm chín vị thiền sư mà
chỉ có một vị được ghi chép tiểu sử. Thế hệ thứ 12 gồm bảy vị thiền sư mà cũng
chỉ có một vị được ghi chép. Ta không hiểu vì sao các vị Thường Chiếu (thếhệ
thứ 12), Thần Nghi (thếhệ thứ 13) và Ẩn Không (thế hệ thứ 14) có bản thảo sách
Thiền Uyển trong tay lại không ghi chép về những người thuộc thế hệ của họ.
Trái lại tiểu sử những thiền sư thuộc phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi sống cùng thời đại
với họ lại được ghi chép trong sách Thiền Uyển. Phải chăng đó là các vị Thường
Chiếu và Thần Nghi đã dời về chùa Lục Tổ, một tổ đình xưa có trên 400 năm của
thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi và do đó họ đã am tường tình trạng phái Tỳ Ni Ða
Lưu Chi hơn là tình trạng bản phái?
MỘT SỐ CÁC VỊ TĂNG
SĨ KHÔNG ÐƯỢC THIỀN UYỂN TẬP ANH NHẮC TỚI
Trước khi xem xét về các thiền phái được ghi chép trong Thiền Uyển Tập
Anh, ta hãy nhắc đến một số các vị tăng sĩ Việt
Trước hết ta hãy nói đến những vị mà Lê Quý Ðôn đã
trích dẫn trong các sách Loại Hàm và Anh Hoa: đó là thiền sư Vô Ngại, pháp sư
Duy Giám và một vị khác không biết tên mà thi sĩ Trương Tịch nhà Ðường gọi là
Nhật Nam Tăng. Hai vị pháp sư Duy Giám và Phụng Ðình là những tăng sĩ rất giỏi
về kinh luận và đã được vua Ðường mời sang giảng kinh trong cung điện. Thi sĩ
Dương Cự Nguyên cuối thế kỷ thứ bảy có một bài thơ tiễn pháp sư Phụng Ðình về
nước như sau:
"Cố hương Nam Việt ấy
Ngàn dặm mây trắng bay
Cửa trời vắng kinh kệ
Biển rộng hương hoa đầy
[5]
Bóng có in sóng bạc
Thành quách lung linh
xây
Trường An lòng tưởng nhớ
Giao Châu chuông canh
chầy..."
(Cố hương Nam Việt ngoại
Vạn lý bách văn phong
Kinh luận từ thiên khứ
Hương hoa nhập hải phùng
Lộ đào thanh phạm triệt
Thận các hóa thành trùng
Tâm đáo Trường An mạch
Giao Châu hậu dạ chung...
Khi pháp sư Duy Giám giảng kinh xong sắp về nước, thi sĩ Giả Ðảo cũng
làm một bài thơ tiễn ông như sau:"
Giảng kinh nơi cung điện
Vườn ngự hoa xuân bay
Xa quê từ mấy độ
Núi cũ về từ nay
Mưa sa dầm áo bạc
Gió táp ấn hương phai
[6]
Biển vắng như thế đó
Tin tức làm sao hay [7]"
(Giảng kinh xuân điện lý
Hoa nhiễu ngự sàng phi
Nam hải kỷ hồi hóa?
Cựu sơn lâm lão quy!
Xúc phong hương tổn ấn
Lộ vũ khánh sinh y
Không thủy ký như bỉ
Vãng lai tiêu tức hy)
Thi sĩ Thẩm Thuyên Kỳ đầu thế kỷ thứ tám có qua Việt
"Phật xưa sinh Thiên Trúc
Nay hóa thân Nhật Nam
Vòng não phiền ra khỏi
Dưới núi dựng già lam
Khe suối thơm là cảnh
Ðá non là cao am
Chim xanh tập thiền định
Vượn trắng nghe giảng
đàn
Vách đá giây mây quấn
Mặt đầm hoa leo thang
Theo suối vào bóng mát
Giặt áo phơi rừng hương
Ðệ tử hận mình dở
Phật pháp chưa am tường
[9]
Qua khe Hổ nhìn lại [10]
Dưới cây sương khói lam"
(Ðại sĩ sinh Thiên Trúc
Phân thân hóa Nhật Nam
Nhân trung xuất phiền não
Sơn hạ tức già lam
Tiểu giản hương vị sát
Nguy phong thạch tác am
Hầu thiền thanh cốc nhú
Khuy giảng bạch viên tham
Ðằng ái vân gian bích
Hoa thuê thạch dạ đàm
Tuyền hành u cung bảo
Lâm quải dục y kham
Ðệ tử ai vô thức
Y vương tích vị đàm
Siêu nhiên Hổ Khê tịch
Chích thọ hạ hư am)
Thi sĩ Trương Tịch cũng có làm một bài thơ tặng một
vị sư người quận Nhật Nam đang tu ở trong núi, không biết núi nào
"Ở mãi mấy ngọn núi
Hai cánh cửa thông gài
Viết kinh lên lá chuối
Treo áo rụng hoa mây
Ðục đá khơi giếng mới
Xuyên rừng trồng cây đay
Nếu gặp người Nam Hải
Líu lưỡi hỏi nhà ai? "
(Ðộc hướng song phong lão
Tùng môn bế lưỡng nha
Phiên kinh thượng tiêu diệp
Quái nạp lạc đằng hoa
Thứu thạch tán khai tỉnh
Xuyên lâm tự chúng ma
Thời phùng Nam Hải khách
Man ngữ vấn thùy gia?)
Chính nhờ những
bài thơ của Trương Tịch, Thẩm Thuyên Kỳ, Giả Ðào và Dương Cự Nguyên mà ta biết
được sự có mặt của bốn vị cao tăng Việt
Ông Lê Quý Ðôn đã có lý khi nói: “Các bậc cao tăng
nước ta không phải ít; trong khoảng thuộc Tấn thuộc Ðường, tất nhiên có nhiều
điều đáng ghi chép, nhưng ghi chép thiếu sót” (Kiến Văn Tiểu Lục).
Sách Ðại Ðường Cầu Pháp Cao Tăng Truyện của Nghĩa
Tịnh (682 - 727), người đã đi Ấn Ðộ và về bằng đường thủy, cũng có chép tiểu sử
của sáu vị tăng sĩ Việt Nam đã từng qua du học Ấn Ðộ vào cuối thế kỷ thứ bảy và
đầu thế kỷ thứ tám. Ðó là các vị: pháp sư Vận Kyø, pháp sư Giải Thoát Thiên, pháp
sư Khuy Xung, pháp sư Huệ Diệm, pháp sư Trí Hành, thiền sư Ðại Thừa Ðăng.
Pháp sư Vận Kỳ từng đi vân du với thiền sư Ðàm
Nhuận người Trung Hoa. Ðàm Nhuận cũng đã lưu lại Giao Châu một thời gian: Vận
Kỳ giỏi Phạn ngữ và Hán ngữ. Ông thọ giới cụ túc (tỳ khưu) với Jnanaphadra (Trí
Hiền) ở đảo Java. Tại đây thiền sư Hội Ninh người Trung Hoa đang dịch với thầy
ông là Jnanaphadra cuốn Ðại Niết Bàn của hệ phái đại thừa. Kinh này dịch xong,
hai người nhờ Vận Kỳ đem về dâng cho vua Ðường. Vận Kỳ ghé qua Giao Châu trước
khi qua Ðường trao kinh, rồi lại trở lại Giao Châu thuyết pháp cho cả hai giới
tăng và tục. Sau đó, Vận Kỳ trở lại Java. Ông gặp thầy là Jnanaphadra, nhưng
không gặp Hội Ninh, vì ông này đã đi Ấn Ðộ, Nghĩa tịnh cho biết rằng chính ông
đã gặp Vận Kỳ ở Ấn Ðộ lúc ông còn khoảng 30 tuổi.
Pháp sư Giải Thoát Thiên đã từng qua Ấn Ðộ bằng
đường thủy, từng tham bái Bồ Ðề Ðạo Tràng (Ðại Giác Tự) và các thánh tich quanh
đó. Tên Phạn ngữ của ông là Mộc Xoa Ðề Bà (Moksadeva). Ông mất khoảng 25 tuổi.
Pháp sư Khuy Xung, tên Phạn ngữ là Chất Ðát La Ðề
Bà (Citradeva), cùng một vị thiền sư Trung Hoa tên là Minh Viễn đi thuyền qua
Tích Lan rồi lên Ấn Ðộ. Minh Viễn chuyên về Thiền học, đã gặp Khuy Xung ở Giao
Châu. Họ đi đến đâu thì thu thập kinh điển thêm đến đó. Họ có đến Bồ Ðề Ðạo
Tràng và thành Vương Xá. Ðến khi tới được rừng Trúc Lâm thì Khuy Xung ngã bệnh
và mất tại đây.
Pháp sư Huệ Diệm là đệ tử của thiền sư Vô Hành
người Trung Hoa. Ông họ Hứa, đã cùng du hành đi Tích Lan và ở luôn tu học tại
đây.
Pháp sư Trí Hành người Ái Châu (Thanh hóa), tên
Phạn ngữ là Bát Nhã Ðề Bà (Prajnadeva). Ông đi Ấn Ðộ bằng thuyền và chiêm bái
đủ các Phật tích. Ông đi lên miền bắc vùng sông Hằng và ở tại đó tu chùa Tín
Giả. Ông viên tịch ở đây lúc 50 tuổi.
Thiền sư Ðại Thừa Ðăng, tên Phạn ngữ là Ma Ha Dạ Na
Bát Ðịa Dĩ Ba (Mahayanapradipa). Ông xuất gia ở Dvararati, Ấn Ðộ; sau đó ông
theo sứ thần nhà Ðường là Diệm Tự về Trường An. Tới chùa Từ Ân ông gặp pháp sư
Huyền Trang và xin thọ giới tỳ kheo với ông này. Sau một thời gian tu học, ông trở
về Giao Châu rồi lại đi Tích Lan bằng đường biển. Sau đó ông tói
Sách Ðại Ðường Câu Pháp Cao Tăng Truyện cũng có ghi
chép tiểu sử một số thiền sư Trung Hoa trên đường đi Ấn Ðộ đã từng ghé lại Giao
Châu. Ðó là các vị Minh Viễn, Huệ Mạng, Vô Hành, Ðàm Nhuận, và Trí Hoằng. Ngoài
ra còn có một vị thiền sư người Khương Cư tên Samghavarma (Tăng Già Bạt Ma) đã
từ Trung Hoa sang Giao Châu mục đích để đi hái thuốc cho vua đường. Ông qua
Giao Châu vào llúc nạn đói đang hoành hành, người và vật chết như rạ. Ông phân
phát thực phẩm và y dược ngay giữa đường cho những người đói và bệnh. Xúc động
về cảnh khổ, ông thường vừa lo việc cứu trợ vừa khóc, khiến người bấy giờ
thường gọi ông là “vị Bồ Tát hay khóc”. Ông bị nhọt ở chân và chết lúc 60 tuổi.
Sách An Nam Chí {Nguyên} của Cao Hùng Trưng viết
vào đời Minh cũng có ghi chép về vài ba vị tăng sĩ không thấy Thiền Uyển Tập
Anh nhắc đến:
Thiền sư Tam Mạch, người châu Tam Ðới, triều Lý,
xuất gia tại chùa Gián Ân, tu hành đăc đạo, có thể bay lên trời giữa ban ngày.
Thiền sư Vô Châu, người huyện Phi Lộc, cao lớn,
tướng mạo dị kỳ, râu dài, lập am trên núi Sư Tử Phong, tu chúng Vân Hoa Tam
Muội (chắc là Pháp Hoa Tam Muội), mỗi khi giảng kinh thì hào quang phóng xạ.
Ông mất lúc 83 tuổi.
Pháp sư Ma Ni, người huyện Lê Bình, tu ở Ðại Tiên
Thánh Nhan, bảy năm thành đạo, hàng long phục hổ và cầu mưa cầu tạnh không gì
không linh nghiệm.
Tứ Quán Huệ Thông là một vị ni sư, quê huyện Chí
Linh, xuất giahồi 12 tuổi, thị tịch lúc 84 tuổi.
Thiền sư Trí Nhan, người huyên An Lương, có thể phục hổ.
Sách An Nam Chí {Nguyên} cũng có ghi chép một vài
vị thiền sư có tên trong Thiền Uyển Tập Anh; những ghi chép này cũng khá phù
hợp với sách Thiền Uyển. Sau đây là tên hai vị thiền sư đời Trần mà ta thấy có
chép trong Sách An Nam Chí {Nguyên}:
Thiền sư Giới Châu, giới hạnh tinh nghiêm cầu mưa rất
ứng nghiệm, vua Trần Thái Tông mời vào cho ở trong dinh.
Thiền sư Nghĩa Tồn, người huyện Thanh Uy, ở chùa
Tiên Lữ Sơn, đắc đạo, chan than còn giữ lại.
Ðọc những tài liệu trên, ta thấy rằng trong các thế
kỷ thứ bảy và thứ tám, trong giới thiền sư Việt
CHÚ THÍCH:
[1] Bài tựa này có thể đọc trong ấn bản Thiền Uyển
Kế Ðăng Lục do hội Phật Giáo Bắc Kỳ thực hiện năm 1943 tại Hà Nội với sự bảo
trợ của trường Viễn Ðông Bác Cổ. Trong sách này, bài tựa có đề là “San khắc Truyền
Ðăng Thủ Trần Gia Bản”.
[2] Bài tựa ấn bản 1715 do một ông đồ nho viết (“sau buổi dạy học tại Chiền
Ðường, một vị thiền tăng đã đến đàm luận rất lâu với tôi về kinh Phật. Những
chuyện. Những chuyện bàn luận các vấn đề Phật giáo như lông rùa, sừng thỏ... Vị
tăng liền lấy trong tay áo một quyển Lục tên là Tập Anh nhờ tôi sửa chữa chổ
sai để in lại”). Ông đồ này có thể là giỏi về Hán học nhưng lời văn chứng tỏ
sức học Phật kém, ưa dùng từ ngữ Phật mà dùng không được chính. IIng ta nói rằn
ông đã làm công việc hiệu đính này trong 10 ngày. Ta không biết tình trạng
trong bản văn mà vị thiền tăng (có lẽ là Thích Như Trí) đem tới nhờ ông ta sửa
chữa ra sao, nhưng ta rất nghi có lẽ vì sức học Phật non yếu mà ông đồ này đã
làm hại đến bản văn kia không ít. Bản in 1715 cũng còn đầy dẫy những sai lầm;
chỉ những người quen thuộc lắm với loịa ngữ lục Thiền học mới có thể tự hiệu
đính được những đoạn đã trở nên vô nghĩa vì tam sao thất bổn. Thích Như Trí có
lẽ không đủ tự tin về Hán học nhưng giao bản thảo kia cho một nhà nho ngôn ngữ
Phật giáo còn bập bẹ thì qsủa là một chuyện đáng làm cho ta ngạc nhiên vậy.
[3] Truyền thống Ấn Ðộ thường ít có khuynh hướng
ghi chép lịch sử tông môn hơn truyền thống Trung Hoa.
[4] Hai vị thiền sư triều Lý có khuynh hướng thần
bí ma thuật.
[5] Tại cung điện vua Ðường từ nay sẽ vắng tiếng
giảng kinh của Ngài, trong khi đó lênh đênh ngoài biển cả, đạo đức của Ngài làm
hương hoa nổi khắp mặt biển.
[6] Trên con đường vè, mưa làm thấm dập chiếc áo
vải thô và gió làm phai lạt bớt mùi hương của chiếc ấn ngài mang theo - áo và
ấn đây là tùy thân của thiền sư đắc truyền.
[7] Biển vắng không thuyền bè đi lại, làm sao tôi nhận được tin tức của ngài
sau này.
[8] Sách Thiền Uyển Tập Anh trong đoạn nói về thiền
sư Sùng Phạm có nhắc đến tên Vô Ngại, một vị thiền sư ngụ ở chùa Pháp Vân và
dạy Thiền học vào thế kỷ thứ mười. Nhưng đây không phải là Vô Ngại thượng nhân
mà Thẩm Thuyên kỳ nói tới.
[9] Y Vương Tích Vị Ðàm: Phật được gọi là Y vương,
vua của các thầy thuốc, chữa được mọi tâm bệnh. Y vương ở đây có nghĩa là Phật
pháp.
[10] Hổ Khê: pháp sư Huệ Viễn ít khi đưa khách qua
khỏi con khe chảy ngang trước núi. Pháp sư một lần cùng khách đàm luận về Ðạo
Phật vì vui câu chuyên nên đã đi qua khe, có một con hổ rống lên vì lấy làm lạ.
CHƯƠNG V:THIỀN PHÁI TỲ NI ÐA LƯU CHI
HÀNH TRANG VÀ TRUYỀN THỪA
Theo Thuyền Uyển
Tập Anh, “Thiền Sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi là dòng Bà La Môn, gốc ở Nam Thiên Trúc,
vân du qua Trung Hoa; vào năm Nhâm ngọ (562) niên hiệu Ðại Kiến thứ sáu nhà
Trần thì đến Trường An. Vào năm 574 sau khi Phật giáo bị Võ Ðế đàn áp, ông đi
về đất Nghiệp (Hồ Nam). Hồi đó, tổ thứ ba của Thiền tông Trung Hoa là Tăng Xán
đang bị nạn ở đây, ẩn tại núi Tư Không. Khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi gặp tổ Tăng Xán,
thấy phong độ phi phàm, liền chăp tay ba lần, tổ vẫn ngồi yên không nói nói
năng gì. Trong lúc đứng chờ suy tư, tâm bổng mở ra như có chổ sở đắc, ông liền
lạy xuống ba lạy. Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi. Ông lùi ba bước, thưa
rằng: đệ tử từ trước tới nay chưa có cơ hội, xin hòa thượng từ bi cho đệ tử
được theo hầu bên tả hữu. Tổ nói: ông mau mau đi về phương
Thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi cũng đã được nói tới
trong sách Thích Thị Thông Giám của Thích Bản Giác viết năm đời Tống, tương
đương với nhà Lý Việt
Như vậy, theo Thích Thị Thông Giám, kinh Nghiệp Báo
Sai Biệt (Thuyền Uyển Tập Anh chép nhầm la Báo Nghiệp Sai Biệt) là do Pháp Trí
dịch chứ không phải do Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Ðiều này chắc đúng, bởi kinh Nghiệp
Báo Sai Biệt trong Ðại Tạng hiện mang tên Pháp Trí là dịch giả. Cũng theo Thích
Thị Thông Giám, Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã dịch xong kinh Tổng Trì tại Trung Hoa mà
không phải tại Việt Nam như Thuyền Uyển Tập Anh đã nói.
Nếu Thích Thị Thông Giám nói đúng, thì Tỳ Ni Ða Lưu
Chi vào Việt
Thiền sư Thông Biện, theo Thuyền Uyển Tập Anh, đã
trích dẫn lời của pháp sư Ðàm Thiên nói về Tỳ Ni Ða Lưu Chi: “Nay lại có Pháp
Hiền thượng sĩ, đắc pháp với Tỳ Ni Ða Lưu Chi, truyền bá tông chỉ của tam Tổ,
là một vị Bồ Tát sống, cư trú tại chùa Chúng Thiện, dạy dỗ giáo hóa đồ chúng có
hơn 300 người, không thua gì ở Trung Quốc”[1]. Thông Biện dẫn chứng chuyện của
pháp sư Ðàm Thiên nhưng không cho biết là chuyện này chép ở sách nào. Như đã
nói chuyện của pháp sư Ðàm Thiên trong các tác phẩm như Phật Tổ Thống Kỷ, Thích
Thị Thông Giám, vv... không có đoạn văn nào mà Thông Biện trích dẫn. Các sách
Cao Tăng Truyện và Tục Cao Tăng Truyện đều không chép về Ðàm Thiên vì lẽ các
sách ấy được viết trước thời đại Ðàm Thiên [2].
Theo Thuyền Uyển Tập Anh, Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã nghe
lời tổ Tăng Xán xuống phương Nam hành đạo và do đó đã dịch các kinh Tượng Ðầu
và Nghiệp Báo Sai Biệt tại chùa Chế Chi ở Quảng Châu và sau khi tới chùa Pháp
Vân ở làng Cổ Châu, Long Biên, mới bắt đầu dịch kinh Tổng Trì. Thuyền Uyển Tập
Anh nói rõ rằng ông đến chùa Pháp Vân vào tháng Ba năm Giáp dần (594) thì tịch.
Thời gian ông lưu trú tại Việt
Khi ông qua tới chùa Pháp Vân thì ở đây đã có một
vị thiền sư Việt
Sau đây là bảng liệt kê mười chín thế hệ của thiền
phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi:
Thế hệ 1: Tỳ Ni Ða Lưu Chi
(mất 594).
Thế hệ 2: Pháp Hiển (mất
624).
Thế hệ 3: Huệ Nghiêm,
người truyền pháp cho Thanh Biện của thế hệ thứ tư. Huệ Nghiêm là một trong 300
học trò của Pháp Hiển, sống đồng thời với Pháp Ðăng, trước vốn là thầy của
Thanh Biện. Huệ Nghiêm ở chùa Sùng Nghiệp, còn Pháp Ðăng ở chùa Phổ Quang có
thể Pháp Ðăng cũng là học trò của Pháp Hiển.
Thế hệ 4: Thanh Biện (mất
686).
Thế hệ 5: một người,
khuyết lục.
Thế hệ 6: một người khuyết
lục.
Thế hệ 7: Long Tuyề, chùa
Thế hệ 8: Ðịnh Không (mất
808) và hai người khuyết lục.
Thế hệ 9: Thông Biện và
hai người khuyết lục, trong số này có thể có Phù Trì chùa Long Thọ, thầy của
Pháp Thuận.
Thế hệ 10: La Quý An (mất
979), Pháp Thuận (mất 991), Mahamaya (mất 1029) và một người khuyết lục (có thể
và Vô Ngại, thầy của Sùng Phạm).
Thế hệ 11: Thiền Ông (mất
979), Sùng Phạm (mất 1087) và hai người khuyết lục (có thể là Trí Hiền, giáo sư
của Ðạo Hạnh và Pháp Bảo, thầy của Thuần Chân).
Thế hệ 12: Vạn Hạnh (mất
1018), Ðinh Tuệ (mất?), Ðạo Hạnh (mất 1112), Trì Bát (mất 1117), Thuần chân
(mất 1101) và hai vị khuyết lục.
Thế hệ 13: Huệ Sinh (mất
1063), Thiền Nham (mất 1163), Minh Không (mất 1141), bản tịch (mất 1140) và hai
người khuyết lục (có thể là Pháp Thông bạn đồng môn của Huệ Sinh và Biện Tài,
giáo sư của Khánh Hỷ).
Thế hệ 14: Khánh Hỷ (1142)
và bốn vị khuyết lục trong đó có thể là tính nhãn và Tính Như, hai người bạn
đồng môn, và Quảng Phúc, thầy của Giới Không.
Thế hệ 15: Giới Không
(mất?), Pháp Dung (mất 1174) và một người khuyết lục, có lẽ là Thảo Nhất chùa
Tĩnh Lự, thầy của Chân Không.
Thế hệ 16: Trí (mất?), Chân
Không (mất 1100), Ðạo Lâm (mất 1203).
Thế hệ 17: Diệu Nhân (mất
1113), Viên Học (mất 1136), Tĩnh Thiền (mất 1193) và một người khuyết danh, có
lẽ là Viên Học, người đã chỉ dạy Viên Thông(*).
Thế hệ 18: Viên Thông (mất
1151) và một người khuyết lục, có lẽ là Ðịnh Hương thầy của Y Sơn.
Thế hệ 19: Y Sơn (mất 1213)
và một người khuyết lục.
BỐI CẢNH TƯ TƯỞNG
CỦA TỲ NI ÐA LƯU CHI
Cuốn kinh đầu tiên mà Tỳ Ni Ða Lưu Chi phiên dịch là cuốn kinh Tượng Ðầu
Tinh Xá, một cuốn kinh có tính chất Thiền học và mang mầu sắc của văn hệ Bát
Nhã. Kinh này nói về bản chất của giác ngộ, tức là bồ đề. Ðây là mọt vài đoạn
chọn trong những đoạn quan trọng nhất của kinh.
“Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Bồ đề siêu việt tam giới,
siêu việt ngôn ngữ, siêu việt văn tự, không cần địa điểm nương tựa. Lại nữa Văn
Thù, an trú vào nơi không an trú tức là an trú ở bồ đề; an trú ở nơi không chấp
trước tứ c là an trú bồ đề; an trú ở pháp không tức là an trú nơi nơi bồ đề; an
trú nơi chân lý tất-cả-các-pháp-không-có-tướng tức là an trú nơi bồ đề; an trú
nơi không tăng - không giảm tức là an trú nơi bồ đề...”.
“Lại nữa dạy về các phép thiền quán, nhất là mười
phương pháp thiền quán nội ngoại để phá trừ các chấp trước: 1) quán nội giới
của thân là không; 2) quán ngoại giới của thân là không; 3) quán các pháp trong
và ngoài đều không; 4) không bị chấp trước vào nhất thiết trí; 5) không bị chấp
trước vào những phương tiện tu hành; 6) không bị chấp trước vào các địa vị tu
chứng của các bậc hiền thánh; 7) không chấp trước vào sự thanh tịnh đạt được do
sự hành đạo lâu ngày; 8) an trú ở Bát Nhã Ba La Mật; 9) không bị chấp trước vào
công việc giảng luận giáo hóa; 10) quán các chúng sinh phát khởi lòng từ bi lân
mẫn.
Tỳ Ni Ða Lưu Chi qua Trung Hoa năm 562, đến năm
dịch kinh này (582 theo Thích Thị Thông Giám) là 20 năm, cố nhiên lúc đó Hán
văn của ông đã giỏi lắm rồi. Thời gian đạo Phật bị Võ Ðế nhà Bắc Chu đàn áp là
từ năm 574 đến 577. Chính trong thời gian này mà ông gặp được Tăng Xán đang
lánh nạn tại núi Tư Không, và chắc hẵn là cuộc gặp gỡ đã có ảnh hưởng trong sự
chọn lựa kinh này để dịch, bởi Tăng Xán chuyên về Thiền học. Tỳ Ni Ða Lưu Chi
chịu ảnh hưởng của Tăng Xán khá sâu đậm; sự ảnh hưởng này thấy rõ trong lời dặn
của ông dặn lại đệ tử Pháp Hiển trước khi viên tịch: “Tâm ấn của chư Phật không
lừa dối ta đâu; tâm ấy tròn như núi thái hư, không thiếu không dư, không đi
không tới, không được không mất, không nhất nguyên, không đa nguyên, không
thường không đoạn, vốn không sinh ra cũng không diệt mất... (lược). Khi Tăng
Xán ấn cho ta tâm này thì có bảo ta nên gấp về phương Nam mà giao tiếp.. “Những
chữ tròn đầy như thái hư, không thiếu không dư” (viên đồng thái hư, vô khuyết
vô dư) là hai câu mà ta thấy trong bài ca Tín Tâm Minh rất có giá trị của Tăng
Xán:
"Viên đồng thái hư
Vô khuyết vô dư
Lương do thủ xả
Sở dĩ bất như"
Thấy ảnh hưởng đó của Tăng Xán nơi Tỳ Ni Ða Lưu Chi, ta có thể tin rằng
vị sau này đã nghe lời Tăng Xán đi về phương Nam và dịch kinh Tượng Ðầu tại
chùa Chế Chỉ ở Quảng Châu, sát bên Giao Châu. Cố nhiên là ông đã có mang theo
bên mình nhiều bản Phạn ngữ mà ông ưa thích, trong đó có kinh Tượng Ðầu Tinh Xá
và kinh Tổng Trì. Như vậy là trước khi qua Trung Hoa, ông đã có nghiên cứu về
Bát Nhã, Thiền học (kinh Tượng Ðầu) và Mật Giáo (kinh Tổng Trì).
Ta nên biết Mật Giáo có liên hệ mật thiết với Thiền
tông. Tỳ Ni Ða Lưu Chi là một trong những người đã dùng danh từ tâm ấn sớm nhất
trong lịch sử thiền, mà danh từ này đã phát xuất từ các kinh điển Mật Giáo.
Kinh Ðại Nhật, kinh căn bản của Mật Tông, nói như sau về tâm ấn: “Ðối với mọi
lời giáo huấn của Phật không có gì là không nắm được tinh yếu; nếu có thể giữ
gìn được tâm ấn ấy để mở rộng tất cả các pháp môn, đó gọi là người đã thông đạt
được tam thừa”. Tâm ấn ở đây là tinh yếu mật ý của kinh Ðại Nhật.
Trong giới thiền gia, danh từ tâm ấn sau này có
nghĩa là đối tượng của sự trao truyền trực tiếp từ thầy sang trò. Ấn có nghĩa
là quyết định hay là khuôn dấu tượng trưng cho sự chân truyền và chính thống.
Sự trao truyền tinh yếu của giác ngộ được thực hiện bằng tâm, được thực hiện
giữa tâm với tâm, không cần đi qua bất cứ mọt trung gian nào, đó gọi là tâm ấn.
Khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi nói rằng Tăng Xán đã ấn cho ông cái tâm ấn của chư Phật,
tức là ông nhận Tăng Xán là người đã giúp ông giác ngộ.
Tượng Ðầu Tinh Xá Kinh chắc chắn đã được phổ biến
và sử dụng ở Giao Châu thời ấy: kinh này có thể xem như là kinh căn bản của
Thiền học sử dụng trong thiền viện Pháp Vân mà trong các tòng lâm thiền phái Tỳ
Ni Ða Lưu Chi như tòng lâm Thiền Chúng, nơi đó có 300 tăng sĩ học tập thiền
quán dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Pháp Hiển. Kinh Tượng Ðầu Tinh Xá có đặc tính
phá chấp của văn hệ bát nhã và đặc biệt chú trọng thiền quán. Lục tổ Huệ Năng
là người đầu tiên ở Trung Hoa dùng một kinh thuộc văn hệ bát nhã (kinh Kim
Cương) trong sự giảng dạy Thiền học - lúc đó, Kinh Lăng Già là kinh được thị bậc
nhất trong giới thiền gia - Sự sử dụng kinh Tượng Ðầu Tinh Xá ở Giao Châu cho
ta thấy sự liên hệ giữa văn hệ bát nhã vàThiền học ở Giao Châu đã có sớm hơn ở
Trung Hoa một thế kỷ. Kinh Lăng Già là một cuốn kinh được Bồ Ðề Ðạt Ma trao cho
Huệ Khả và được truyền lại cho các tổ kế tiếp. Kinh Tượng Ðầu Tinh Xá nói về
không, thuộc hệ thống bát nhã, đã được dùng để bổ túc cho kinh Lăng Già. Vua Lý
Thái Tông đã tỏ ra rất tinh tường trong bài thơ mà vua làm để cho truy tán Tỳ
Ni Ða Lưu Chi.
"Trăng Lăng Già vằng vặc
Sen Bát Nhã ngạt ngào
Bao giờ được tương kiến
Ðàm đạo huyền cùng nhau?"
(Hạo hạo Lăng Già nguyệt
Phân phân Bát Nhã liên
Hà thời đắc tương kiến
Tương dữ thoại trùng huyền?)
SIÊU VIỆT NGÔN NGỮ
VĂN TỰ
Kinh Tượng Ðầu
Tinh Xá nói về bản chất của giác ngộ (tức là bồ đề) như một cái gì không thể
dùng lời nói và chữ viết để diễn tả được: “Văn Thù Sư Lợi ơi, bồ đề siêu việt
ngôn ngữ, siêu việt văn tự, không cần điểm tựa”. Quan niệm này phù hợp với quan
niệm tâm ấn của kinh Ðại Nhật bên Mật Giáo: kinh điển là thánh giáo, tinh yếu
của thánh giáo là tâm ấn; tâm ấn do đó cũng siêu việt kinh điển và thánh giáo.
Chính căn cứ trên điểm này mà Ðề Ðạt Ma, hồi mới qua Ngụy, đã tuyên bố rằng tuệ
giác của ông “được truyền lại độc lập với kinh giáo, không căn cứ trên văn tự,
đi thẳng vào tâm người, thấy được tự tính và thành Phật” (giáo ngoại biệt
truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật). Ðề Ðạt Ma qua
Ngụy vào khoảng đầu thế kỷ thứ sáu; tuy tuyên bố như vậy nhưng ông vẫn đem bên
mình một bản kinh Lăng Già mà ông trao lại cho Huệ Khả, và Huệ Khả trao lại cho
Tăng Xán. Tỳ Ni Ða Lưu Chi khi đến Giao Châu đã dụng kinh Tượng Ðầu Tinh Xá để
làm căn bản cho sự hành thiền ở đây. Thiền không bị ràng buộc vào ngôn ngữ văn
tự nhưng thiền ở trách nhiệm chưa từng có thái độ druồng bỏ khinh khi văn tự:
trong thiền môn, kinh điển vẫn thường được đem ra nghiên cứu giảng dạy. Có điều
là trong khi giảng dạy kinh điển, các thiền sư luôn nhắc đến rằng các thiền giả
không nên ràng buộc trong ngôn ngữ và khái niệm. Kinh điển là những phương tiện
giúp thiền giả hành đạo: mục đích của thiền giả là giác ngộ chứ không phải là
chứa chấp kiến thức. Cái biết giác ngộ khác với cái biết khái niệm. Khi Tỳ Ni
Ða Lưu Chi gặp Pháp Hiền, thấy người khác thường, ông liền nhìn vào mặt Pháp
Hiền và hỏi: “Thầy tính (họ) gì? (lúc mới qua Giao Châu, cố nhiên ông chưa nói
được tiếng Việt, do đó các cuộc đàm thoại chắc bằng tiếng Tàu. Chữ Tính có
nghĩa là họ, cũng có nghĩa là thể tính) Pháp Hiền hỏi lại: “ Hòa thượng tính
gì?” Tỳ Ni Ða Lưu Chi hỏi lại: “Thầy không có tính à?” Pháp Hiền nói: “Tính thì
sao lại không có, nhưng hòa thượng làm thế nào để biết?” Tỳ Ni Ða Lưu Chi liền
quát “Biết để làm gì?” Pháp Hiền bổng tỉnh ngộ, sụp xuống lạy, và nhận được
tông chỉ.
Ban đầu Tỳ Ni Ða Lưu Chi chỉ muốn hỏi tên họ của
Pháp Hiền. Nhưng Pháp Hiền lại muốn đưa câu chuyện lên bình diện triết học. Ông
hỏi “hòa thượng tính gì?” tức là đàm luận về thể tính của tâm. Nhưng Tỳ Ni Ða
Lưu Chi một mực từ chối không muốn đi vào cuộc đàm luận về thể tính học. Ông
hỏi lại câu hỏi đơn giản “tôi muốn biết thầy tên gì sao thầy không nói? Thầy
không có tên sao?”. Pháp Hiền vẫn cứng đầu muốn đứng trên bình diện đàm luận
thể tính. Ông nói: “thể tính thì ai lại không có, nhưng hòa thượng làm cáh nào
đẻ biết được thể tính đó?”. Tới đây Tỳ Ni Ða Lưu Chi giáng cho Pháp Hiền một
đòn sinh tử. Ông quát “biết để làm gì?”. Ý muốn nói: cái biết khái niệm mà ông
đang đi tìm đó không có mảy may ích lợi gì cho ông hết. Cái biết của sự tỉnh
thức giác ngộ không phải là cái biết có tính cách kiến thức. Vì là người lanh
lợi, nên Pháp Hiền đã bừng thấy được sự thực.
Cuộc đàm thoại giữa Huệ Nghiêm (thế hệ thứ ba và
thứ tư của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi) cho ta thấy rõ tinh thần siêu việt văn
tự của thiền. Thanh Biện rất say mê kinh Kim Cương Bát Nha Ba La Mật, nhưng vì
đã học kinh này theo kiểu từ chương, nên ông không đạt được tinh yếu của kinh.
Ông tìm đến Huệ Nghiêm tại chùa Sùng Nghiệp. Huệ Nghiêm hỏi: “Theo ông thì ai
đã nói ra kinh này?” Thanh Biện nói: “Không phải chính Phật thích Ca Như Lai đã
nói kinh này sao?” Huệ Nghiêm: “Trong kinh có câu: “Nếu ai cho rằng Như Lai có
thuyết pháp, kẻ ấy là người bài báng Phật, không hiểu điều ta muốn nói”. Vậy
ông hãy suy nghĩ cho chín đi: nếu nói kinh này không phải là của Phật thuyết
thì là báng kinh, nếu nói kinh này là do Phật thuyết thì là báng Phật. Ông hiểu
như thế nào, nói mau, nói mau!” Thanh Biện mở miệng định nói thì Thanh Biện lấy
chiếc phất trần đánh ngay một cái vào miệng. Thanh Biện bỗng nhiên tỉnh ngộ,
cúi xuống làm lễ.
SIÊU VIỆT HỮU VÔ
Tín Tâm Minh của Tăng Xán chịu ảnh hưởng rất nhiều của giáo lý Hoa
Nghiêm và Tam Luận. Ðối với vấn đề hữu thể và vô thể, kinh Hoa Nghiêm
(Avatamsaka) đi từ nguyên lý duyên sinh (sự sinh diệt của hiện tượng tùy thuộc
nhiều điều kiện) đến nguyên lý trùng trùng duyên khởi (các điều kiện liên hệ
với nhau lớp này sang lớp khác đi về vô tận) để kết luận rằng một là tất cả,
tất cả là một. Siêu việt một lần trong các quan niệm hữu, vô, nhất nguyên và đa
nguyên. Tư tưởng Tam luận là kết quả hệ thống tư tưởng hóa tư tưởng Bát Nhã do
Long Thọ và Ðề Bà ở thế kỷ thứ hai xiển dương trong ba bộ luận Trung Luận, Bách
Luận và Thập Nhị Môn Luận. Tư tưởng này mang màu sắc mọi biện chứng pháp nhằm
đến đánh đổ và vô lý hóa mọi quan niệm về hữu, vô, sinh, diệt v.v... mở đường cho
trí tuệ phi khái niệm tức là vô phân biệt trí, hoặc tuệ giác bồ đề. Kinh Tượng
Ðầu Tinh Xá là một thiền kinh đại thừa, trong đó tư tưởng siêu việt hữu vô cũng
rất rõ rệt. “Bậc trí giả phải lấy thiền làm thể, thiền trí phải bình đẳng không
phân biệt (theo lề thói khái niệm), vì phân biệt chỉ là phương tiện. Phải quán
ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới, thập nhị nhân duyên, sự lưu chuyển sinh tử và
các hình tướng thiện ác là huyễn hóa, không phải hữu cũng không phải vô” (Tượng
Ðầu Tinh Xá Kinh). Ðoạn kinh này vừa nhấn mạnh đến trí tuệ vô phân biệt như
công cụ duy nhất có thể làm chứng nhận thực tại vừa nhấn mạnh đến bản chất
duyên sinh hư huyễn và phi hữu phi vô của vạn pháp. Tỳ Ni Ða Lưu Chi cố nhiên
là đại diện cho tư tưởng Thiền học đại thừa này. Lời của ông với Pháp Hiền về
tâm pháp trước khi tịch chứng tỏ điều đó: “tròn như thái hư, không thiếu, không
dư, không đi, không tới, không được, không mất, không nhất nguyên, cũng không
đa nguyên, không thường cũng không đoạn, không sinh cũng không diệt”. Ðó thực là
thuần túy tư tưởng tam luận, siêu việt mọi khái niệm đối lập hữu vô, nhất dị,
lai khứ, sinh diệt, thường đoạn.
Thiền sư Huệ Sinh (mất 1063) thuộc thế hệ thứ 13
thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, từng được phong tăng thống, trong một kệ trình vua
Lý Thái Tông đã nói rõ về quan niệm siêu việt hữu vô của thực tại. Một hôm vua
Lý Thái Tông mời các cao tăng thọ trai; nhân dịp vua xin mỗi người một bài thi
kệ ngắn để tỏ bày kiến giải về đạo Phật. Khi mọi người còn đang suy nghĩ thì
vua đã làm xong một bài kệ như sau:
"
Bát Nhã vốn không tông
Nhân không, ngã cũng
không
Ba đời các đức Phật
Pháp tính vốn chung đồng"
(Bát Nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Quá hiện vị lai Phật
Pháp tính bản lai đồng)
Bài kệ nói về bản tính không (sunyata) của nhân, của ngã, của tông bát
nhã, và của cả các chư Phật trong hiện tại và vị lai. Bài kệ có tính lặp lại
những kiến thức thu lượm trong các kinh Bát Nhã. Thiền sư Huệ Sinh liền trình
vua bài kệ sau đây, trong đó ta thấy rõ tính cách siêu việt cả không và hữu:
"Pháp cũng như vô pháp
Không hữu cũng không
không
Nếu đạt được lẽ ấy
Chúng sinh với Phật đồng
Trăng Lăng Già lặng
chiếu
Thuyền vượt biển trống
không
Không cũ không như có
Ðịnh Tuệ chiéu vô
cùng"
(Pháp bản như vô pháp
Phi hữu diệt phi không
Nhược nhân tri thử pháp
Chúng sinh với Phật đồng
Tịch tịch Lăng Già nguyệt
Không không độ hải chu
Trí không không, giác hữu
Tam muội nhậm thông chu)
Ðây là một bài kệ rất sâu sắc thuộc loại siêu đẳng trong kho tàng văn
hóa Phật Giáo. không những đứng vững về phương diện tư tưởng mà đứng về phương
diện văn học, hình ảnh một chiếc thuyền trống không lặng lẽ vượt biển dưới ánh
trăng tịch tĩnh của Lăng Già là một hình ảnh màu nhiệm. Thiền sư Huệ Sinh đã
bắt đầu bằng quan niệm pháp (sự vật) phù hợp với tinh thần bát nhã: nếu pháp là
một sự tập hợp của nhiều điều kiện và không có một bản chất hay tự tính trong
bản thân nó, thì pháp ngang với vô pháp, và vì vậy những thuộc tính hữu và
không không thể gán cho nó được (pháp cũng như vô pháp, không hữu cũng không
không). Nếu đạt được chân lý đó - đạt bằng thực chứng mà không phải nắm bắt
bằng khái niệm - thì sẽ không thấy gì khác nhau giữa chúng sinh (người không
giác ngộ) và Phật (người giác ngộ) nữa. Trong thế giới thực tại của chân lý ấy,
mọi ngôn ngữ khái niệm không còn hiệu lực gì nữa, tất cả đều lặng yên: dưới ánh
sáng trầm lặng của mặt trăng Lăng Già, tượng trưng cho trí tuệ giác chiếu, một
chiếc thuyền vượt biển, trong lòng chiếc thuyền tuyệt đối không mang theo ai,
không mang theo gì. Ở đây Phật và chúng sinh là một, không có người mê, không
có người ngộ, không có người cứu độ, không có người được cứu độ, không có ai
qua bờ.
Hai câu cuối đối trị lại khuynh hướng chống đối
giữa không và hữu, nhằm gỡ vua Lý Thánh Tông ra khỏi sự bám víu vào khái niệm
không mà vua đã học được trong Bát Nhã. Thiền sư nói “sau khi biết không cũng
là không, thì mới thực sự biết có là gì” (trí không không giác hữu). Bởi chấp
vào không thì cũng hại cũng như chấp vào có; nếu thoát khỏi không, biết không
cũng không thì có cũng sẽ không ràng buộc được ta nữa. Có như vậy thì công phu
thiền định mới không bị kẹt (tam muội nhậm thông chu).
Thiền sư Ðạo Hạnh (mất 1112) thuộc thế hệ thứ 12
của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi cũng có một bài kệ rất sâu sắc về vấn đề siêu
việt không hữu:
"Có thì có tự mảy may
Không thì cả vũ trụ này
cũng không
Có, không bóng nguyệt
lòng sông
Cả hai tuy vậy chẳng
không chút nào"
(Tắc hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không)
Hai câu đầu “nói
có thì từ hạt bụi hạt cát đều có, nói không thì cả vũ trụ đèu không” phản chiếu
trung thực tư tưởng Hoa Nghiêm. Câu thứ ba “ có và không đối nhau và nương tựa
nhau như bóng nguyệt dòng sông”. Câu thứ tư nhằm vào sự ngăn ngừa không để người
ta mắc vướng vào sự chấp không: “đừng bị mắc kẹt vào cái không của có và không”
(vật trước hữu không không).
YẾU TỐ MẬT GIÁO
Theo Thuyền Uyển Tập Anh, Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã dịch kinh Ðại Thừa Phương
Quảng Tổng Trì tại chùa Pháp Vân.
Kinh Tổng Trì là một kinh về Mật Giáo. Sự có mặt
của yếu tố Mật Giáo trong thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi là một trong những đặc
điểm của thiền phái này.
Mật Giáo là giai đoạn phát triển thứ ba của tư
tưởng Phật Giáo đại thừa ở Ấn Ðộ ( giai đoạn thứ nhất là Bát Nhã, giai đoạn thứ
hai là Duy Thức). Giai đoạn này bắt đầu từ thế kỷ thứ tư, trở nên hưng thịnh từ
đầu thế kỷ thứ sáu, đến giữa thế kỷ thứ tám thì được hệ thống thống hóa trong
một truyền thống gọi là Kim Cương thừa (Varayana). Từ Kim Cương thừa xuất hiện
nhiều hệ thống mật giáo, trong đó có hệ thống Sahajayana mà giáo lý và thực
hành rất giống với thiền, nhấn mạnh đến sự quan trọng của thiền tọa, của trực
giác bồ đề, và sử dụng những hình ảnh cụ thể và những mật ngữ để khai mở trí
tuệ giác ngộ.
Mật Giáo bắt đầu từ tư tưởng thâm sâu của Bát Nhã
đồng thời cũng bắt đầu từ những tín ngưỡng nhân gian Ấn Ðộ. Về phương diện này,
Mật Giáo chấp nhận sự có mặt của những thần linh được thờ phượng trong dân
gian, và như thế khiến cho đạo Phật phát triển rộng trong sinh hoạt quần chúng.
Ở Giao Châu khuynh hướng này rất phù hợp với sinh hoạt tín ngưỡng và phong tục
người Việt, vì vậy cho nên Mật Giáo đã trở nên một yếu tố khá quan trọng trong
sinh hoạt thiền môn.
Ðứng về phương diện tư tưởng, Mật Giáo là một phản
ứng đối với khuynh hướng quá thiên trọng tri thức và nghiên cứu các hệ thống
Bát Nhã và Duy Thức. Theo Mật Giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu
nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất
mau trên con đường giác ngộ thành đạo, khỏi phải đi tuần tự từng bước. Sự giác
ngộ cũng có thể thực hiện trong giây phút hiện tại. Sự sử dụng thế lực của thần
linh, sự sử dụng thần chú, ấn quyết và các hình ảnh mạn đà la [3] có thể hổ trợ
đắc lực cho thiền quán hành đạo. Chính vì khuynh hướng này của Mật Giáo mà Phật
giáo đã bao trùm trong mọi tín ngưỡng bình dân trong lòng nó, ở Ấn Ðộ, cũng như
ở Việt Nam. từ ngữ Tổng Trì nguyên làdharani (đà la ni) trong Phạn ngữ, có
nghĩa là nắm giữ, duy trì và ngăn ngừa. Sách Ðại Trí Ðộ Luận
(Mahapra-jnaparanita-sastra) của Long Thọ (Nagarjuna) viết vào thế kỷ thứ hai
nói: “đà la ni có nghĩa là duy trì và ngăn ngừa: duy trì làduy trì những thiện
pháp không để cho thất lạc, như một cái bình nguyên vẹn có thể chứa nước không
để nước rịn ra; ngăn ngừa là ngăn ngừa những ác pháp không cho phát sinh, nếu
có khuynh hướng tạo tạo tội ác thì ngăn ngừa không cho tạo tắc: đó là đà la
ni”. Có bốn loại đà la ni, tức là bốn loại tổng trì: pháp, nghĩa, chú và nhẫn:
Pháp đà la ni là duy trì những điều học hỏi về phật pháp, không cho tán thất.
Nghĩa đà la ni là duy trì yếu nghĩa của các giáo pháp không để cho quên mất.
Chú đà la ni là duy trì các thần chú không để quên mất. Thần chú là những lời
nói bí mật được phát sinh trong khi ngồi thiền định, những mật ngữ này có những
hiệu lực linh nghiệm không thể đo lường được. Nhẫn đà là ni là an trú trong
thực tướng của vạn pháp không để tán loạn.
Tổng trì, như thế, có thể liên hệ rất nhiều tới
thiền định. Kinh Tổng trì của Mật Giáo đã được dùng cho nhiều thiền giáo ngay
từ buổi khởi đầu của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Tỳ Ni Ða Lưu Chi rời Ấn Ðộ
vào khoảng bán thế kỷ thứ sáu, và đã thừa kế tinh thần mật giáo: ông đem theo
với ông ít nhất là một cuốn kinh Mật Giáo bằng Phạn ngữ. Ta nên nhớ Mật tông ở
Trung Hoa được thành lập vào thế kỷ thứ tám. Ba vị sư Ấn Ðộ là Subhakarasimha
(637-735) Vajrabodhi (670) và Amoghavajra (705-775) đã mang Mật Giáo vào Trung
Hoa trong thế kỷ này và đã gây ảnh hưởng lớn tại triều đình nhà Ðường. Các vua
Ðường đã nhừo tới Mật Giáo yểm trợ và che chở, cũng giống như các vua nhà lý
Việt Nam vậy. Ông Hà Văn Tấn (trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 76 tháng 7
năm 1965 xuất bản tại Hà Nội) cho biết vào khoảng năm 1963, tại làng Trường Yên
thuộc kinh đô HoaLư cũng của nhà Ðinh, người ta đã đào được một cây bia đá,
trên bia có khắc câu kệ và chú Ðà La Ni, dựng vào năm 973 đời Ðinh. Bia này là
một trụ đá có tám mặt, một mặt rộng sáu phân rưỡi. Trên mỗi mặt biađều có khắc
chữ Hán, bắt đầu bằng câu “Phật Ðính Tối Tắng Già Cú Linh Nghiệm Ðà La Ni”, ghi
là do Tinh Hải Quân Tiết Chế Nam Việt Vương Ðinh Liễn tạolập. Lại phát hiện một
kinh tạng dựng năm 995 thời Lê Ðại Hành có một bài kệ với những câu sau đây:
"Chư thiên thường Phạn ngữ thanh
Văn niệm Phật đỉnh Ðà La
Ni
Tắc đắc cụ túc trai
giới"
Những tài liệu trên cho biết sự thực hành trì chú
của Mật Giáo rất được phổ thông qua các triều đại Ðinh và Tièn Lê vậy.
Nhưng Tỳ Ni Ða Lưu Chi không phải là nguồng gốc duy
nhất cho yếu tố Mật Giáo của thiền phái mang tênông. Yếu tố Mật Giáo còn thâm
nhập do những ngõ ngáhc khác: sự du học của các tsvn ở Ấn Ðộ, ảnh hưởng của
Phật Giáo Chiêm Thành và sự viếng thăm crnx thiền sư Mật Giáo ngoại quốc.
Trong số những người đi du học Ấn Ðộ, có thiền sư
Sùng Phạm (mất 1087) đệ tử của thiền sư Vô Ngại tại chùa Hương Thành. Sùng Phạm
thuộc thế hệ 11 thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Ông ở lại Ấn Ðộ chín năm, sau khi
về nước ông mở trường dạy tại chùa Pháp Vân, đẹ tử theo học drất đông, trong số
đố có thiền sư Ðạo Hạnh sau này rất nổi tiếng về phù chú Mật Giáo (Ðạo Hạnh
cũng đã lên đường đi Ấn, nhưng chỉ tới Miến Ðiện thì quay trở về; sau khi tìm
thầy được gặp Sùng Phạm). Vua Lê Ðại Hành nhiều lần triệu thỉnh Sùng Phạm vào
kinh khuyết để tham khảo đạo Phật. Ðạo phong của Sùng Phạm còn khiến cho vua lý
Nhân Tông sau này làm một bài kệ tán ca tụng:
"Tên Sùng Phạm, nhưng người Nam Quốc
Phật trường về đỗ được
Tâm Không
Tai dài tướng tốt đoan
trang
Hạnh ngôn đúng pháp trăm
đường không chê"
(Sung Phạm cư nam Quốc
Tâm Không cập đệ quy
Những trường hồi thụy chất
Pháp Pháp cái ly vi)
Sùng Phạm còn một vị đệ tử khác tên là Trì Bát (mất
1117) thuộc thế hệ thứ 12 của thiền phái. Trì Bát cũng học với Sùng Phạm tại
chùa Pháp Vân. Thiền học của Trì Bát cũng thấm nhuần Mật Giáo. Trong bài kệ thị
tịch nói về sinh tử, trì Bát đã kết thúc bài kệ bằng một câu mật ngữ “án rô tô
rô tất rị” [4].
Trong số những vị sư gốc Chiêm Thành ta có thể kể
tên thiền sư Ma Ha Ma Gia (Mahamaya), thuộc thế hệ thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni
Ða Lưu Chi.. thiền sư Ma Gia nổi tiếng về pháp thuật, đã từng theo học với Pháp
Thuận.
Cái tên Mahamaya cho ta thấy nguồn gốc tín ngưỡng
Siva của thiền sư này. Ta biết drằng vào năm 875 Indrapura lập một tu viện Phật
Giáo tại Chiêm Thành mà những di tích còn lại chứng tỏ sự có mặt của Phật giáo
đại thừa ở đây vào thế kỷ thứ chín. Ðó là tu viện Lakshmindralokesvara (Les
états Hindouisés d'Indochine, Georges coedès, 1984). Vào thế kỷ thứ chín và thứ
mười tại Chiêm Thành tín ngưỡng đại thừa được phối ngưỡng với tín ngưỡng Siva,
và chính từ trong bối cảnh tín ngưỡng này mà gia đình thiền sư Mahamaya xuất
hiện. Theo tín ngưỡng Siva, thần Siva (Tự Tại Thiên) là thực tại tối cao, là
nguyên nhân đầu tiên; còn Skati (Xá Chi) là năng lực vô tận cho sự sáng tạo,
trong khi đó Mahamaya (nghĩa là Ðại Ảo Tưởng tức là chất liệu dùng để sáng tạo.
Trong tín ngưỡng tổng hợp của Chiêm Thành hồi đó người ta đã thờ tượng đức Quan
AÂm (Lokesvara), đức Dược Sư và cả đức Ðại Tự Tại Thiên Vương nữa. Cái tên
Mahamaya không thể là một cái tên thuần túy trong Phật giáo Chiêm Thành mà là
một cái tên chứng tỏ yếu tố tín ngưỡng Siva trong Phật Giáo Chiêm Thành. Theo
Edward Coze (A Short History of Buddhism, 1960) hồi đó giáo lý Thuyết Nhất
Thiết Hữu Bộ (Sarastivada) và Tam Di Ðể Bộ (Sammitiyas) cũng được lưu truyền
tại Chiêm Thành.
Thuyền Uyển Tập Anh cho biết thiền sư Mahamaya
người gốc Chiêm Thành sau lấy họ Dương; cha là Bối Ðà rất giỏi về văn học Phạn
ngữ, làm quan ở nhà Tiền Lê. Mahamaya học thông cả tiếng Phạn lẫn tiếng Hán.
Ông trụ trì tại chùa Quán Ái và mở lớp giảng kinh Phạn ngữ. Ta biết rằng căn
bản Mật Giáo của ông đã được bồi đắp do sự học hỏi với thiền sư Pháp Thuận (mất
991) thuộc thế hệ thứ mười của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi Mahamaya. Chính Pháp
Thuận dạy ông pháp hành sám và trì tụng thần chú Ðại Bi. Sau đó ông cũng đi
Trường An để bồi đắp thêm sở học. Sách Thuyền Uyển Tập Anh nói ông đắc pháp
Tổng Trì Tam Muội và có thể thực hành nhiều pháp thuật. Vua Lê Ðại Hành nghe
tiếng, ba phen triệu ông đến: hỏi gì ông cũng không đáp, chỉ chắp tay cúi đầu.
Hỏi đến lần thứ ba ông mới nói: “Tôi là ông thầy tu khùng của chùa Quán Ái”.
Vua Lê Ðại Hành giận quá liền bảo quân h ầu giữ ông lại trong chùa Vạn Tuế ở
đại nội, khóa cửa lại không cho ông ra. Ðến sáng người ta đến thì đã thấy ông
đứng thơ thẩn bên ngoài, cửa phòng vẫn còn khóa như cũ. Vua lấy làm lạ, từ đó
để ông tự do muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Ông đi vào Thanh Hóa nơi đó
dân chúng rất hâm mộ sự thờ phụng quỷ thần, hay giết hại loài vật để cúng tế.
Khi ông khuyên họ nên dùng thức ăn chay để cúng, không cần phải sát sinh hại
vật thì họ nói: “Vấn đề phúc họa chúng tôi đâu dám làm trái ý thần”. Ông bảo:
“Các ngài cứ bỏ ác làm lành, nếu có tội gì tôi xin chịu thế cho”. Người làng
nói: “Miền này thiên hạ đau ốm chết chóc nhiều, thầy thuốc đều bó tay, nếu ông
chữa họ lành bệnh, chúng tôi sẽ theo ông”. Ôn liền đọc chú vào nước lã và phun
thì bệnh đều lành. Tuy vậy dân làng vẫn chưa theo. Họ đem rượu thịt đến ép ông
ăn và nói: “Nếu hòa thượng cùng ăn uống vui vẽ với chúng tôi thì chúng tôi
theo”. Ông trả lời: “Tôi không dám từ chối chỉ sợ ăn vào thì bệnh đau bụng tái
phát thôi”. Người hương hào họ Ngô vui vẽ nói: “Nếu đau bụng thì tôi xin chịu
thay cho hòa thượng.” Ông liền thuận theo; khi ăn xong bụng căng lên, sôi như
sấm; ông la lớn: “Ông Ngô đâu rồi, ra chịu thay cho tôi đi”. Ông này cuống quýt
không biết làm sao. Mahamaya liền chắp tay niệm Phật, pháp, Tăng rồi mửa ra nào
tôm nào cá nào thú vật, loài nào loài ấy đều nhảy đi như thật... Dân làng đều
bái phục và nghe lời ông.
Tên tuổi những vị sư Ấn Ðộ sang truyền Mật Giáo ở
xứ ta không được ghi chép trong Thuyền Uyển Tập Anh. Nhưng Ðại Việt Sử Ký Toàn
Thư của Ngô Sĩ Liên có nói đến một vị thiền sư Mật Giáo Tây Tạng tên Du Chi Bà
Lam đến Việt Nam vào thời của Trần Nhân Tông. “Ông dung mạo đen sạm, tự nói là
ba trăm tuổi, có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước, lại có thể thu cả ngũ
tạng lên ở trên ngực, làm cho trong bụng lép đi như không có gì, chỉ có da bụng
và xương sống thôi. Ông chỉ ăn lưu hoàn, mật và rau dưa. Ở nước ta mấy năm lại
về nước. Ðến đây (1311) lại sang với con gái là Ða La Thanh. Vua tuyển vào
cung. Du Chi Bà Lam ở lại, cuối cùng mất ở kinh sư”. Sách Ðại Việt Sử Ký Toàn
Thư thêm rằng vào đời Trần Ming Tông cũng có một vị sư Mật Giáo khác từ Ấn Ðộ
sang. Ông này tên là Bồ Ðề Thất Lý, cũng có thể nổi trên mặt nước.
Theo Thuyền Uyển Tập Anh, ngoài Sùng Phạm Mahamaya,
trong thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi có nhiều vi thiền sư giỏi về Mật Giáo: các
thiền sư Vạn Hạnh (thế hệ thứ 12, mất 1068), Thiền Nham (thế hệ thứ 13, mất
1163) đều đã học tập Tổng Trì Tam Ma Ðịa [5]. Vạn Hạnh vừa giỏi về Phật học vừa
giỏi về Khổng học, còn Thiền Nham thì giỏi về kinh điển Phạn ngữ.
Về pháp thuật, ta không thể không nói đến thiền sư
Ðạo Hạnh. Hiện giờ tại Bắc Việt có hai nơi còn thờ thiền sư Ðạo Hạnh: chùa Láng
và Sài Sơn. Vài ba năm hội chùa Láng lại được tổ chức một lần, dân làng diễn tả
lại sự tích thiền sư Ðạo Hạnh.
Ðạo Hạnh tên tục là Từ Lộ. Cha ông là Từ Vinh, làm
chức tăng quan đô án, ông Từ Vinh bị Diên Thành Hầu mượn tay pháp sư là Ðại
Ðiên dùng pháp thuật đánh chết và quăng xác xuống sông Tô Lịch. “Tử thi Từ Vinh
trôi đến cầu Quyết, trước nhà Diên Thành Hầu thì dựng đứng dậy như người sống,
không trôi nữa, chỉ tay vào nhà Hầu suốt một ngày. Hầu sợ, chạy đi tìm Ðại
Ðiên. Ðại Ðiên đến đọc câu kệ “Người xuất gia có giận ai cũng không quá một đêm
ngày”. Tử thi bèn trôi đi. Ðạo Hạnh suy nghĩ cách thức báo thù cho cha, nhưng
chưa biết cách gì. Một hôm gặp Ðại Ðiên, định đánh, bỗng nghe trên không có
tiếng kêu: “Ấy, đừng, đừng!” Sư sợ hãi bỏ gậy mà đi. Sư muốn đi Ấn Ðộ cầu học
pháp thuật linh dị để chống lại Ðại Ðiên, nhưng khi đến xứ Kim Xỉ [6] thấy
đường xá hiễm trở quá thì về. Từ đó ở ẩn trong núi Từ Sơn, ngày ngày chuyên trì
tụng Ðại Bi Tâm Ðà La Ni, tụng đủ một vạn tám nghìn lần thì thấy một thần nhân
đến trước mặt nói: “Ðệ tử là Trấn Thiên Vương cảm công đức ngài trì kinh cho
nên đến hầu ngài để sai bảo”. Sư biết đạo pháp mình đã viên thành, thù cha có
thể trả, liền tìm đến cầu Quết quang chiếc gậy xuống dòng nước chảy xiết. Gậy
bèn lội ngược nước như con rồng, đến cầu Tây Dương mới ngừng. Sư mừng nói: Pháp
ta có thể thắng được rồi”. Và đến chỗ Ðại Ðiên ở. Ðại Ðiên thấy sư hỏi rằng:
“Ngươi quên câu chuyện ngày trước rồi sao?” Sư ngữa mặt lên trời, không thấy
gì, bèn lấy gậy đánh Ðại Ðiên. Ðại Ðiên phát bệnh rồi chết. Từ đó oán cừu tiêu
tán, niềm tục lạnh như tro tàn, sư liền đi khắp tùng lâm tìm thầy ấn chứng.
Nghe nói đến thiền sư Trí Huyền đang hóa đạo ở Thái Bình, sư liền tìm đến tham
yết đặt câu hỏi về chân tâm như sau:
"Lẫn với bụi đời tự bấy lâu
Chân tâm vang ngọc biết
tìm đâu
Cúi xin rộng mở bày
phương tiện
Thấy được chân như sạch
khổ sầu"
(Cửu hổn phàm trần vị thức kim
Bất tri hà xứ thị chân tâm
Nguyện thùy chỉ đích khai phương tiện
Liễu kiến như như đoạn khổ tầm)
Trí Huyền đáp lại bằng một bài kệ:
"Trong ngọc vang ra tiếng diệu huyền
Mỗi âm đều hiển lộ tâm
thiền
Bồ đề hiện rõ ngay tầm
mắt
Tìm kiếm lại càng ngăn
cách thêm"
(Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm
Hà sa cảnh thị bồ đề đạo
Nghĩ hướng bồ đề cách vạn tầm)
Sư hoang mang kinh
hiểu. Khi đến nghe Sùng Phạm giảng kinh ở chùa Pháp Vân, sư hỏi: “thế nào là
chân tâm?” Sùng Phạm hỏi trở lại: “cái gì không phải là chân tâm?” Lần này sư
thoạt nhiên tỏ ngộ bèn nói: “ Làm thế nào để giữ gì?” Sùng Phạm nói: “Ðói thì
ăn, khát thì uống” Từ đó pháp lực tăng tiến, thiền duyên càng chín, có thể sai
sử điều phục sơn đà dã thú, cầu mưa mưa tạnh, chú thủy trị bệnh, không gì là
không ứng nghiệm...(Thuyền Uyển Tập Anh).
SẤM VĨ HỌC, PHONG THỦY HỌC VÀ Ý THỨC ÐỘC LẬP QUỐC GIA
Sự sử dụng thuật sấm vĩ và địa lý trong thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi nhất
là trong lĩnh vực chính trị, rất là quan trọng.
Sấm vĩ học là môn học suy trắc về tương lai, căn cứ
trên lý thuyết âm dương và lý thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc. Có nhiều
khoa sấm vĩ;khoa thì căn cứ trên Kinh Dịch, gọi là Dịch Vĩ; khoa thì căn cứ
trên Kinh Thư, gọi là Thư vĩ v.v...
Còn phong thủy học là một môn học xem xét đại thể
để xây chùa tháp, nhà cửa, mộ phần và thành quách. Môn học này dựa trên sự tin
tưởng rằng mặt đất chịu ảnh hưởng của tinh tú trên trời và các gò đống sông
ngòi mô phỏng theo cách sắp xếp của tinh hệ và tinh vân. Ðịa thế và long mạch
đóng một vai trò rất quan tọng trong sự an nguy và thịnh suy của một nhà, một
họ, một vùng hay một nước. Phong thủy học có lẽ phổ thông ở Việt Nam từ những
thế kỷ đầu của kỷ nguyên Tây lịch, và trong dân gian ai cũng tin vào việc tìm
phương định hướng theo môn học này để chọn nơi xây mồ mã lăng tẩm hay dựng nhà
cửa, đền chùa, cung phủ và thành quách.
Trong thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, có nhiều thiền
sư học rộng không những về Phật Lão Khổng mà còn về cấc khoa sấm vĩ và phong
thủy nữa. Chính sách hà khắc ngu dân của nhà Ðường đã hạn chế sự học hỏi của
quần chúng; kẻ sĩ ngoài đời không có bao lăm còn bị dòm ngó, nên tăng sĩ ngoài
vai trò hướng dẫn sinh hoạt đạo đức, còn phải lo về các nhu cầu thực tế của
dân. Không ai dạy cho dân học và viết thì các nhà sư mở lớp dạy chữ ở chùa. Trẻ
em đến học ở chùa không hẳn là đi xuất gia, như trường hợp Lý Công Uẩn vậy.
Thiếu người làm thuốc trị bệnh thì các nhà sư, sẵn có kiến thức về y khoa, chẩn
mạch hốt thuốc. Cho đến những việc cầu an, ma chay, chọn đất cất nhà, chọn ngày
lành tháng tốt để khai trương buôn bán, dân chúng đều có thể nhờ vào các vị sư.
Là những người có học và gần gũi dân chúng như thế mà không thuộc về giai cấp
thống trị theo đuôi chính quyền đô hộ, cố nhiên các nhà sư này thông cảm và
chia xẻ những nỗi khổ của dân; do đó các chùa đã trở nên những trung tâm xây
dựng ý thức độc lập quốc gia. Trong bối cảnh đó, sự thực hành pháp thuật cũng
như sử dụng thuật sấm vĩ và phong thủy và phong thủy đã góp phần vào công việc
xây dựng ý thức dân tộc về một quốc gia độc lập.
Khi nhà Ðường bắt đầu suy yếu và bộ máy cai trị của
thực dân bắt đầu lỏng lẻo, các cuộc quật khởi của dân chúng bắt đầu xuất hiện.
Mai Hắc Ðế, Bố Cái Ðại Vương chưa thành công vì lúc ấy nhà Ðường còn mạnh;
nhưng Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ, Dương Diên Nghệ và Ngô Quyền đã
tiếp nối nổi dậy chống lại nhà Ðường và nhà Nam Hán một cách hữu hiệu. Tiếp
theo Ngô Quyền, các triều đại Ðinh, Tiền Lê và Lý đã nỗ lực xây dựng một nền
độc lập quốc gia về mọi mặt vh, kinh tế, chính trị và quân sự. Sự đóng góp của
các thiền sư trong buổi đầu đã quan trọng.
Về phong thủy học, các thiền sư Ðịnh Không
(730-808), La Quý An (852-936) và Vạn Hạnh (mất 1068) đều là những người nỗi
tiếng. Ta có nhiều lý do để tin rằng quốc sư Vạn Hạnh, thầy của Lý Công Uẩn, là
người đã thuyết phục vua này dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long trong ý nguyện bảo
vệ cho nền độc lập được lâu dài. Theo bài Chiếu Dời Ðô của Lý Thái Tổ, đất Hoa
Lư là nơi “thế địa không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, vạn vật không
nên” trong khi đất Thăng Long thì “ở giữa khu vực trời đất, có địa thế rồng
cuốn hổ phục, ở giữa Nam Bắc Ðông Tây, tiện hình thế núi sông sau trước: đất
rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật
rất thịnh mà phồn vinh” (Ðại Việt Sử Ký Toàn thư). Ta có thể nghĩ rằng thiền sư
Vạn Hạnh vừa là người thảo chiếu, vừa là người thiết kế họa đồ cho kinh đô
Thăng Long vậy.
Trước đó hai thế kỷ, trong khi đất nước còn nằm
dưới ách cai trị nhà Ðường, thiền sư Ðịnh Không đã nhen nhóm đức tin về một nền
độc lập quốc gia, bảo rằng chính địa thế của làng ông sẽ sản xuất ra nhân vật
chính trị có thể thực hiện được nền độc lập đó, và căn cứ vào sự tiên đoán của
ông, nhân vật này sẽ là người họ Lý, một hôm đào đất đắp nền dựng ngôi chùa
Quỳnh Lâm ở làng Dịch Bảng (năm 785) ông tìm thấy mười chiếc khánh và một chiếc
lư hương, khi đem xuống sông rửa, một chiếc khánh chìm xuống nước. Cảm hứng về
chuyện này, ông nói: “mười chiếc” là “thập khẩu” viết chung là chữ “cổ” “một
chiếc rơi xuống nước chìm đi” là “thủy khứ” viết chúng là chữ “pháp”; thôi ta
đặt cho cuộc đất linh thiêng này là “Cổ Pháp”. Ông làm bài thơ sau:
"Ðất trình hai pháp khí
Phẩm chất tinh đồng
Ðưa Phật Pháp đến thuở
hưng long
Ðặt tên làng là Cổ Pháp
Pháp khí xuất hiện
Mười chiếc chuông đồng
Nhà Lý hưng vương, tam
phẩm thành công"
(Ðịa trình pháp khí
Nhất phẩm trinh đồng
Tri Phật Pháp chi hưng long
Lập hương danh chi Cổ Pháp
Pháp khí xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Lý hưng vương, tam
phẩm thành công)
Ông còn dặn lại đệ tử là Thông Thiện: “Ðất Cổ Pháp này là đất quan
trọng, sau này có thể có kẻ dị nhân đến phá hoại, ngươi phải giữ gìn”. Ý ông
thì nếu cuộc đất này bị phá hoại thì vĩ nhân không còn có thể xuất hiện từ cuộc
đất ấy để cứu nước và làm hưng thịnh Phật Pháp.
Thông Thiện ghi lại lời của Ðịnh Không ở ngôi tháp
được dựng lên thờ Ðịnh Không (*) tại phía tây chùa Lục Tổ, và trước khi mất thì
dặn dò lại cho đệ tử là La Qúy An (852-936). Thiền sư La Quý An cho biết là
trong thời đại ông cuộc đất đó một lần bị phá hoại rồi. Người phá hoại đó là
Cao Biền, một vũ tướng nhà Ðường đã sang Việt Nam năm 865 để đánh giặc Nam
Chiếu. Cao Biền rất giỏi thuật phong thủy và đã viết một cuốn sách về tình
trạng phong thủy địa lý của nước Việt. Tên sách là Nam Cảnh Ðịa Lý Chư Cát Lục.
Sách này có khi còn gọi là Cao Vương Di Cảo, Cao Biền Tấn Thư hay Ðịa Lý Cao
Biền Cảo, Nguyễn Ðổng Chi trong sách Việt Nam Cổ Văn Học Sử (Hà Nội,1942) có
trích một đoạn trong một bài tựa sách ấy do nhà xuất bản viết năm 1720 như sau:
“Ðời vua Ðường Ý Tông (860-873) gồm cả đất An Nam làm quận huyện. Nghĩ đến việc
Triệu Ðà xưng làm Hoàng Ðế, vua bèn sai thái sử là Cao Biền làm đô hộ An Nam.
Khi Biền sắp ra đi, vua triệu vào điện bảo rằng: Trẩm nghe nói ở An Nam có
nhiều ngôi đất thiên tử, ngươi tinh thông về địa lý học thì nên hết sức yểm đi
và vẽ tình thế đất ấy về cho trẫm xem. Biền đến An Nam, qua núi sông nào tốt
thì yểm cả. Biền có làm tờ tấu tâu rằng chỉ có núi Tản Viên là rất thiêng, yểm
không được, cho nên không động đến”.
Theo La Quý An, Cao Biền khi đắp thành ở sông Tô
Lịch đã biết đất Cổ Pháp là đất có khí vương giả nên cho đào 19 địa điểm để yểm
phá, và chính Lê Quý An đã cho lấp 19 địa điểm để yểm phá và chính La Quý An đã
lắp cả 19 nơi như cũ. Ông lại xác định là thế nào đất này cũng có một nhân vật
có mệnh đế vương xuất hiện để phù trợ quốc gia và chính pháp, nên đã làm hai
việc:
1) Quyên góp tài sản và đúc một tượng Lục Tổ bằng
vàng, chôn ở gần tam quan để khỏi bị trộm cắp, dặn rằng khi nào có các bậc minh
vương ra đời để giúp dân cứu nước thì đào lên, lấy vàng ủng hộ, còn khi nào ám
chúa còn ngự trị thì phải cất dấu dưới đất.
2) Trồng một cây gạo ở chùa Minh Châu để trấn áp và
dặn đệ tử sau này phải đắp nền xây tháp, nếu cần thì cất giữ tượng vàng Lục Tổ
trong ấy, đừng cho kẻ khác thấy.
Năm thiền sư trồng cây gạo là năm Bính thân (936),
cũng là năm ông thị tịch. Khi trồng cây, ông có để lại một bài sấm như sau:
"Trên núi lớn, có đầu Rồng xuất hiện
Sau đuôi Rắn có ẩn ngọc
minh châu
Mười tám chàng trai [7]
Nhất định công thành
Hình Rồng hiện từ gốc
cây miên mộc
Trong tháng chuột, vào
ngày gà, giờ thỏ
Mặt trời lên rực rỡ trên
mây xanh"
(Ðại sơn long đầu khởi
Xà vĩ ẩn minh châu
Thập bát tử định thành
Miên thọ hiện long trình
Thố kê thử nguyệt nội
Ðịnh kiến nhật xuất thanh)
Bài sấm đó tiên đoán sự thành công của Lý Công Uẩn
căn cứ vào phong thủy sấm vĩ.
Về độn số, hai thiền sư Pháp thuận (mất 991) và Vạn
Hạnh (mất1016) là những người nổi tiếng. Thiền sư Pháp Thuận họ Ðỗ, xuất gia
hồi còn thơ, học với thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ. Sau khi ông đắc pháp,
những điều ông nói đều phù hợp với phù sấm. Chính ông đã dùng nghệ thuật phù
sấm để giúp vua Lê Ðại Hành (980-1005) nắm lấy quyền bính, chấm dứt tình trạng
xáo trộn nguy hiểm trong triều đình hồi cuối Ðinh. Thuyền Uyển Tập Anh nói rằng
ông là một nhà bác học, giỏi về nghệ thuật và thi ca, có tài phụ tá nhà vua
trong việc chính trị và thông hiểu tình hình thực tại của đất nước (bác học
công thi, phụ vương tá chi tài, minh đương thế chi vụ). “Trong buổi đầu sáng
nghiệp của triều Lê, ông có công trù tính và quyết định kế hoạch cùng chính
sách, nhưng khi thiên hạ đã thái bình rồi thì không chịu phong thưởng. Vua Lê
Ðại Hành rất kính trọng, không gọi tên, chỉ xưng hô là Ðỗ Pháp sư mà
thôi”(Thuyền Uyển Tập Anh ). Hồi sứ giả nhà Tống là Lý Giác qua, thiếu người cư
sĩ để ứng đối, vua mới nhờ ông cải trang là người đưa sứ sang sông, đồng thời
quan sát cử động của Lý Giác. Thuyền đang đi, bỗng ông đại sứ nhà Tống thấy đôi
bạch nga bơi, liền ngâm:
"Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên
nha"
(Song song ngỗng một đôi
Ngữa mặt ngó ven trời)
Pháp Thuận vốn giỏi thi ca, liền nối vần lập tức:
"
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh
ba"
(Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi)
Lý giác rất thán phục. Sau này khi vua Lê Ðại Hành
hỏi về sự bền vững của vận nước, thiền sư Pháp Thuận đáp bằng một bài kệ:
"Vận nước như dây quấn
Trời Nam ôm thái bình
Ðạo đức ngự cung điện
Muôn xứ hết đao binh"
(Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh)
Ý thiền sư muốn nói sự đoàn kết nương tựa lẫn nhau và sự thực hành đạo
từ bi sẽ khiến cho ngôi vua vững bền và hòa bình trường cửu. Pháp Thuận có sáng
tác cuốn Bồ Tát Hiệu Sáng Hối Văn, ngày nay không còn.
Thiền sư Vạn Hạnh là bậc đàn em của thiền sư Pháp
Thuận, nhưng cũng đã cùng Pháp Thuận phù tá vua Lê Ðại Hành. Vạn Hạnh, mà sau
này được nhà Lý tôn xưng Quốc sư, rất giỏi về chính trị và đã sử dụng sấm vĩ
một cách tài tình trong cuộc cách mạng bất bạo động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi
vua.
Vạn Hạnh là người họ Nguyễn, quê làng Cổ Pháp, từ
thuở nhỏ thông minh siêu dị, học thông Nho, Lão, Phật và nghiên cứu hàng trăm
bộ luận Phật giáo, xem giàu sang xe ngựa không vào đâu. Năm hai mươi mốt tuổi
ông xuất gia, cùng tu học với bạn là thiền sư Ðịnh Tuệ dưới sự chỉ dẫn của
thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ, siêng năng đêm ngày. Sau khi Thiền Ông mất,
ông bắt đầu chuyên thực tập vềTổng Trì Tam Ma Ðịa, và sau đó, hễ nói lời gì đều
được thiên hạ cho là lời phù sấm. Vua Lê Ðại Hành rất tôn kính ông. Năm 980,
Hầu Nhân Bảo của nhà Tống mang quân sang đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm
chiếm Việt Nam. Vua triệu Vạn Hạnh và nói nếu đánh thì thắng hay bại. Vạn Hạnh
bảo: Nọi trong vòng từ ba đến bảy ngày giặc sẽ rút lui. Lời nói này sau quả ứng
nghiệm. Khi vua Lê Ðại Hành muốn can thiệp vào Chiêm Thành để cứu sứ giả Việt
Nam bị Chiêm Thành bắt giữ nhưng còn do dự, thì Vạn Hạnh nói đây là cơ hội đừng
để mất. Sau quả y lời, trận ấy quân Lê thành công.
Trong cuộc vận động Lý Công Uẩn lên ngôi, Vạn Hạnh
đã vận động dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu. Sách Thuyền Uyển
Tập Anh nói những loại sấm truyền và tiên tri Vạn Hạnh dùng có rất nhiều thứ.
Không kể ra hết được. Sách này kể ra một vài phương sách đã dùng:
1) Hồi Lê Ngoại Triều đang thi hành chính sách bạo ngược[8] , bị thiên hạ ghét
bỏ, thì tại Cổ Pháp, có một con chó trắng xuất hiện trên lưng nó có hai chữ
“thiên tử” lấm tấm bằng lông đen. Thiên hạ bèn đồn rằng con chó là tượng trưng
cho năm Tuất, và một bậc thiên tử sẽ sinh vào năm Tuất sẽ xuất hiện cũng vào
năm Tuất (năm 1010, năm cách mạng thành công);
2) Sét đánh lên cây gạo do thiền sư La Quý An trồng ngày xưa, inh thành chữ.
Ðại Việ Sử Ký Toàn Thư nói rằng dân làng đọc được những chữ sau đây trên thân
cây gạo:
"Gốc cây thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Cây hòa đao rụng
Mười tám hạt thành
Cành đông xuống đất
Cây khác lại sinh
Ðông mặt trời mọc
Tây sao ẩn hình
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái bình"
(Thụ căn diểu diểu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Ðông a nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Ðoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình)
Sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư nói tiếp: “Nhà sư Vạn
Hanh tự đoán riêng rằng: Trong câu: “thụ căn diểu diểu” chữ căn là gốc, gốc tức
chỉ là vua, chữ diểu đồng âm với chữ yểu, thế là nhà vua chết yểu; trong câu:
mộc biểu thanh thanh”, chữ biểu là ngọn, ngọn là bầy tôi, chữ thanh là xanh,
đồng âm với chữ thanh là thịnh, thế là một người trong số quần thần sẽ lên nắm
chính quyền; ba chữ hòa đao mộc góp lại là Lê, lạc là rớt, tức là nhà Lê rớt;
ba chữ thập bát tử góp lại là chữ Lý, “thập bát tử thành” là nhà Lý lên; trong
câu “đông a nhập địa”, chữ đông và chữ a hợp lại là chữ Trần, nhập địa là người
phương bắc vào cướp; câu “dị mộc tái sinh” tức là họ Lê khác lại nổi lên; trong
câu “chấn cung kiến nhật” thì chấn là phương Ðông, kiến là mọc ra, nhật là
thiên tử, thiên tử xuất hiện ở phương Ðông; trong câu “đoài cung ẩn tinh” thì
đoài là phương Tây, ẩn là lặn, tinh là người tầm thường, người tầm thường mai
một ở phương Tây. Mấy câu này có ý nói vua thì non yếu, tôi thì cường thịnh, họ
Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Ðông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây
lặn mất, trong vòng sáu bảy năm nữa thì thiên hạ thái bình; 3) Trong chùa Song
Lâm côn trùng ăn lá cây si thành chữ “quốc” là nước; 4) Ban đêm ở mộ Hiển Khánh
Ðại Vương, người ta nghe tiếng thần nhân ngâm kệ từ bốn phương vọng tới, các
bài kệ đều báo trước sự lên ngôi của Lý Công Uẩn.
Ngày Lý Công Uẩn được suy tôn hoàng đế trong cung
thì Vạn Hạnh đang ở chùa Lục Tổ. Ông biết trước về việc này và nói cho mọi
người xung quanh nghe. Họ hoảng hốt chạy về kinh sư nghe tin, thì đó quả là sự
thực.
Vạn Hạnh không những là một vị lãnh đạo đời sống
tâm linh mà còn là một người lãnh đạo hành động. Kiến thức của ông rất rộng:
những hiểu biết của ông về Nho học cũng được ông đem ra sử dụng trong phạm vi
hành động, và sử dụng trong tinh thần tự do phá chấp của đạo Phật. Thái độ của
ông đượm nhuần tinh thần tự do phá chấp ấy. Triết học hành động của ông tóm
lược trong câu nói của ông với môn đệ trước khi ông qua đời: “Các vị nên nương
tựa vào đâu? Tôi thì tôi không nương tựa vào nơi có thể không nương tựa và cũng
không nương tựa vào chỗ không thể nương tựa”. Câu này thật thấm nhuần tinh thần
Bát Nhã và cho ta thấy đâu là bí quyết thành công của ông. Ta còn thấy lập
trường về triết học hành động của ông rõ ràng hưon nữa, khi ta đọc bài kệ Thị
tịch ông để lại để dặn dò đệ tử về vấn đề sinh diệt, thịnh suy và thành bại.
Ông nói:
"
Thân như sấm chớp, có rồi không
Cây cối xuân tươi, thu
héo hon
Nhìn cuộc thịnh suy,
đừng sợ hãi
Thịnh suy: ngọn cỏ giọt
sương hồng"
(Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy, vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô)
Vua Lý Nhân Tông (1072-1127) sau khi nghe nói đến hành trạng Vạn Hạnh,
đã viết bài thơ sau đây để ca ngợi vị thiền sư có công nhất trong buổi đầu lập
quốc của nhà Lý:
"Hành tung thấu triệt ba đời
Ngữ ngôn phù hợp muôn
lời sấm xưa
Quê hương Cổ Pháp bây
giờ
Dựng cây tích trượng,
kinh đô vững bền"
(Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm ky
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ)
TÓM LƯỢC NHỮNG ÐẶC TÍNH CỦA THIỀN PHÁI TỲ NI ÐA LƯU CHI
Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi bắt nguồn từ tư tưởng Bát Nhã, Tam Luận và
Hoa Nghiêm, có khuynh hướng thiên vọng về Mật Giáo, theo tinh thần bất lập văn
tự nhưng vẫn chú trọng sự nghiên cứu kinh luận, chủ trương thực tại siêu việt
không hữu, chú trọng việc truyền thụ tâm ấn, có khuynh hướng nhập thế giúp dân
và biết sử dụng các thuật phong thủy sấm vĩ. Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi hầu
như chỉ chịu ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn
Ðộ mà ít chịu ảnh hưởng Trung Hoa. Ðây là một thiền phái rất có tính
cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật
Giáo vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng nghèo khổ.
CHÚ THÍCH:
[1] Trần Văn Giáp nói ông không hiểu câu: “Kim hựu hữu Pháp Ðắc Hiền Thượng
Pháp Sĩ ư Tỳ Ni Ða Lưu Chi truyền tam tổ Phái, vi bồ tát trung nhân...” Ông
nói: “Bao nhiêu tên người được kể ra trong sáu chữ Pháp, Ðắc, Hiền, Thượng,
Pháp, Sĩ này?” Theo chúng tôi, đây là một lối ấn loát. Hai chữ “Ðắc và Pháp” đã
được đặt nhầm chỗ. Ðáng lý phải để: “Kim hựu hữu Pháp Hiền thượng sĩ, đắc pháp
ư Tỳ Ni Ða Lưu Chi, truyền tam tổ phái, vi bồ tát trung nhân”. Nghĩa câu này
trở nên rõ ràng: nay lại có thượng sĩ Pháp Hiền (thượng sĩ là danh hiệu tôn
xưng một vị cao đức, như thượng sĩ Tuệ Trungv.v...) đắc pháp với Tỳ Ni Ða Lưu
Chi, truyền tông phái của tam tổ, là một vị bồ tát sống...”
[2]Trần Văn Giáp trong Le bouddhisme En Annam Des Origines Au XIII è Siècle,
nêu ra nghi vấn cho rằng nếu Ðàm Thiên mất vào khoảng 479-484 thì làm sao biết
Tỳ Ni Ða Lưu Chi và Pháp Hiền vốn đã hành đạo vào cuối thế kỷ kế tiếp. Và ông
cho rằng Tùy Cao Ðế nói tới trong Thuyền Uyển Tập Anh phải là Tề Cao Ðế... Thực
ra Ðàm Thiên không những sống qua thời đại nhà Tề mà còn sống vào thời đại nhà
Trần và Tùy nữa. sách Thích Thị Thông Giám (cuốn 6) của Bản Giác nói: Ðàm
Thiên, khi nước Tề diệt thì vào nước Trần thì gặp được tác phẩm Nhiếp Ðại Thừa
Luận mà đất Bắc chưa bao giờ nghe nói đến. Khi nhà Tùy ủng hộ chính pháp, Ðàm
Thiên liền vượt sông đem kinh qua. Sách Phật Tổ Thống Ký (quyển 40) cũng nói:
“Tùy Văn Ðế, năm thứ bảy sau khi lên ngôi chiếu ban cho pháp sư Ðàm Thiên hiệu
Chiêu Huyền Ðại Sa Môn Thống. Năm thứ 14, chiếu lập chùa Thiền Ðịnh, triệu Pháp
sư Ðàm Thiên triệu tập 120 vị danh đức hải nội về ở”. Vua Văn Ðế nhà Tùy (Tùy
Cao Tổ) lên ngôi năm 582, ngay sau thời gian Phật giáo bị vua Võ Ðế nhà Bắc Chu
đàn áp, bắt tăng đồ hoàn tục, lấy tự viện cho các vị công hầu sử dụng. Tùy Văn
Ðế ngay sau khi lên ngôi đã ra lệnh thiết lập lại mọi tự do hành đạo và ủng hộ
Phật giáo hết mực. Ðàm Thiên cộng tác với vua trong việc trùng hưng đạo Phật,
hẳn biết rõ về tình trạng Phật giáo Giao Châu. Dẫn chứng của Thông Biện rất hợp
với những sự kiện này.
[3]Mạn Ðà La: Phạn ngữ là Mandala, đồ hình tròn
trong đó các Ðức Phật và Bồ tát được sắp xếp theo những lề lối khác nhau để
tượng trưng cho Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới nói đến trong Mật Giáo. Thai
Tạng Giáo là tượng trưng cho nguyên lý (lý) và nguyên nhân (nhân) trong khi Kim
Cương Giới tượng trưng cho trí tuệ (trí) và kết quả (quả).
[4]Nguyên văn bài kệ:
"Có tử tất có sinh
Có sinh tất có tử
Tử khiến cho người buồn
Sinh làm người vui vẻ
Buồn vui thật vô cùng
Bổng nhiên sinh bỉ thử
Với chuyện tử sinh đừng
để tâm chi
Án tô rô tô rô tất rị!"
(Hữu tử tức hữu sinh
Hữu sinh tất hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sinh vi thế sở hỷ
Bi hỷ lưỡng vô cùng
Hốt nhiên thành bỉ thử
Ư chư sinh tử bất quan hoài
Án tô rô tô rô tất rị!)
[5] Tam Ma Ðịa
(Samadhi) là thiền định: Tổng trì Tam Ma đại (Dharanisamadhi) là thiền định về
tổng trì.
[6] Kim xỉ là răng vàng. Có lẽ là xứ Miến Ðiện.
[7] Mười tám đứa con là thập bát tử, viết chung lại
thì thành chữ Lý, tức nhà Lý.
[8] Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Vua thích giết
người; phàm người bị hành hình thì sai lấy cỏ tranh quấn vào người mà đốt cho
lửa cháy gần hết; hoặc sai người ... (lược) lấy dao ngắn, dao cùn, xẻ từng mảnh
để không cho chết chóng... (lược). Ði đánh dẹp bắt được tù thì giải đến bờ
sông, khi nước triều rút, sai người làm lao dưới nước, dồn cả vào trong ấy, đến
khi triều lên thì ngập nước mà chết... (lược), từng róc mía ở đầu sư Quách
Ngang, giả lỡ tay, lưỡi dao trượt xuống đầu nhà sư chảy máu, rồi cả cười.
CHƯƠNG VI:THIỀN PHÁI VÔ NGÔN THÔNG
VÔ NGÔN THÔNG VÀ TRUYỀN THỪA
Năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông từ Trung Hoa sang Việt Nam. từ đó một
thiền phái khác được thành lập mang tên thiền phái Vô Ngôn Thông.
Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, họ Trịnh, xuất gia
tu học tại chùa Song Lâm ở Vũ Châu. Tính tình trầm lặng, ít nói, nhưng lại
thông minh, cái gì cũng mau biểu biết cho nên thời nhân đã tặng hiệu là Vô Ngôn
Thông. Sách Cao Tăng Truyền Ðăng Lục (Tam Tập) của Thông Tuệ đời Tống gọi ông
là Thông thiền sư.
Một hôm ông vừa làm lễ Phật xong, có vị thiền sư
tới hỏi: “Ông vừa làm lễ gì đó?” Ông đáp: “Lễ Phật”. Vị thiền sư chỉ vào tượng
Phật nói: “Phật là cái này đấy hả?” Ông không đáp. Ðêm ấy, ông mặc y áo chỉnh
tề, tìm đến phòng vị thiền giả làm lễ hỏi: “Hồi sáng ngài có hỏi một câu, tôi
chưa biết được tôn ý thế nào”. Vị thiền giả nói: “Ông xuất gia tu được bao
nhiêu mùa kết hạ [1]rồi?” Ông đáp: “Mười mùa”. Vị thiền giả hỏi: “Vậy thì ông
đã xuất gia chưa?” Câu hỏi làm ông hoang mang. Vị thiền giả nói: “Có vậy mà
cũng không hiểu thì có tu đến một trăm mùa kế hạ cũng vô ích”. Vị thiền giả
liền đưa ông đi Giang Tây để tham yết thiền sư Mã Tổ Ðạo Nhất. Không may thiền
sư Mã Tổ đã tịch rồi, ông liền đưa Vô Ngôn Thông đi tham yết thiền sư Bách
Trượng Hoài Hải tức là đệ tử đắc pháp của Mã Tổ. Lúc bấy giờ có một vị tăng đến
hỏi Bách Trượng: “Con đường giác ngộ cấp thời của Ðại Thừa là gì?” Bách Trượng
trả lời: “Mặt đất của tâm nếu không bị ngăn che thì mặt trời trí tuệ tự nhiên
rọi đến” (tâm địa nhược thông, tuệ nhật tự chiếu). Nghe câu nói này Vô Ngôn
Thông bổng nhiên đại ngộ. Sau đó một thời gian, Vô Ngôn Thông về lại Quảng
Châu, ở tại chùa Hòa An.
Sách Cao Tăng Truyện (Tam Tập) của Thông Tuệ nói
rằng ông cũng có một thời gian trú trì chùa Hoa Nam ở Thiều Châu, nơi đây ngày
xưa Lục Tổ Huệ Năng đã từng cư ngụ. Trong thời gian ở chùa Hoa Nam, ông có dạy
thiền sư Ngưỡng Sơn học. Thiền sư Ngưỡng Sơn hồi đó mới xuất gia, mười bảy
tuổi. Sách Thuyền Uyển Tập Anh chép rằng một hôm Vô Ngôn Thông bảo Ngưỡng Sơn:
“Chú khiêng cái ghế kia qua đây cho tôi một chút”. Khi Ngưỡng Sơn khiêng ghế
tới, ông nói: “Chú khiêng giúp trở lại chỗ cũ”. Ngưỡng Sơn khiêng lại chỗ cũ.
Ông hỏi Ngưỡng Sơn: “Bên này có gì không?” Sơn nói: “Không có gì”. Ông lại hỏi:
“Còn bên kia có gì không?” Sơn nói: “Không có gì”. Ông gọi: “Chú ơi”. Sơn đáp:
“Dạ”. Ông bèn nói: “Thôi, chú đi đi”. Những câu đối đáp kia chính là những thí
nghiệm mà Vô Ngôn Thông đã làm để thử trình độ của Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn sau
này còn đi học với Ðàm Nguyên, Ứng Chân và Quy Sơn. Sau này Ngưỡng Sơn thành
lập một trong năm thiền phái nổi tiếng ở Trung Hoa là thiền phái Quy Ngưỡng.
Một hôm tại chùa Hòa An, có người hỏi Vô Ngôn
Thông: “Ngài có phải là một vị thiền sư không?” Vô Ngôn Thông đáp:”Tôi chừa
từng học về Thiền”. Một lúc lâu ông gọi tên người kia. Người kia đáp: “Dạ”. Vô
Ngôn Thông liền chi tay ra một gốc cây thoan lư (gỗ gụ) ngoài sân mà không nói
gì[2] .
Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 15 đường Ðường (năm 820)
Vô Ngôn Thông từ Quảng Châu qua Việt Nam, ở lại chùa Kiến Sơ, làng Phù Ðổng,
huyện Tiên Du (Bắc Ninh). Ðây là một ngôi chùa mới được thành lập, ở đó có một
vị tăng tên là Ðức Lập trú trì.
Vô Ngôn Thông cư trú chùa Kiến Sơ, ngoài hai bữa
cơm cháo thì dành hết thì giờ vào việc thiền tọa, xây mặt vào vách, không nói
năng gì. Nhiều năm trôi qua như thế, ít ai để ý đến ông: duy chỉ có Lập Ðức
thấy phong thái đặc biệt của ông hết lòng chăm sóc. Do sự gần gũi này mà Lập
Ðức tiếp nhận được tông chỉ màu nhiệm của Vô Ngôn Thông, đường ông đổi tên cho
là Cảm thành vào truyền cho tâm pháp. Ông tịch vào năm 826; thời gian cư trú
tại chùa Kiến Sơ chỉ có sáu năm.
Trước khi thị tịch, ông gọi Cảm Thành vào và dặn:
“Ngày xưa đức Thế Tôn vì lý do lớn [3] mà xuất hiện ở đời. Việc hóa độ hoàn
tất, ngài thị hiện niết bàn. Cái diệu tâm [4] gọi là Chính Pháp Nhãn Tạng [5]
là Thực Tướng Vô Tướng [6] là Pháp Môn Tam Muội [7], ngài đem phú chú cho đệ tử
là Ma Ha Ca Diếp - tổ thứ nhất. Thế rồi đời đời truyền nối, từ Ðề Ðạt Ma từ Ấn
Ðộ sang, vượt bao nguy hiễm để truyền pháp này, qua Lục Tổ ở Tào Khê, người đã
từng đạt được chính pháp mà Ðật Ma truyền đến ngũ tổ Hoàng Nhẫn. Trong thời gian
đó vì người đời còn thiếu hiểu biết và đức tin cho nên phải truyền y bát để
chứng tro sự đắc pháp. Nay thì đức tin đã thuần thục nên không cần truyền y
truyền bát nữa mà chỉ lấy tâm truyền tâm mà thôi. Lúc đó tổ Nam Nhạc Hoài
Nhượng đắc thọ tâm truyền trước, liền truyền cho Mã Tổ Ðạo Nhất, Mã Tổ Ðạo Nhất
truyền lại cho Bách Trượng Hoài Hải. Ta được tâm pháp của Bách Trượng đã từng ở
lâu phương Bắc tìm người có căn cơ đại thừa nhưng chưa gặp, nên đã đi về phương
nam để tìm bậc thiện tri thức. Nay gặp ông ở đây thật là có duyên đời trước,
vậy hãy nghe bài kệ truyền pháp này:
"Bốn phương lồng lộng
Mặc sức huyên thuyên
Rằng thủy tổ ra
Gốc ở Tây Thiên
Truyền kho pháp nhãn
Ðược gọi là “Thiền”
Bông hoa năm cánh
Hạt giống lâu bền
Ngàn lời mật ngữ
Vạn câu bản nguyên
Tự nhận làm tông
Tự cho là thiền
Tây Thiên là đây!
Ðây là Tây Thiên!
Xưa nay cùng một
Nhật nguỵêt xuyên sơn
Vướng vào là mắc
Phật tổ mang oan
Sai một hào ly
Lạc tới trăm nghìn
Nên quan sát lại
Chớ lừa hậu côn
Ðừng hỏi ta nữa
Ta vốn “Vô Ngôn”"
(Chư phương hạo hạo
võng tự huyên truyền
Vị ngô thủy tổ
Thân tự Tây Thiên
Truyền pháp nhãn tạng
Viết vị chỉ “thiền”
Nhất hoa ngũ diệp
Chủng tử miên miên
Tiềm phù mật ngữ
Thiên phạn hữu duyên
Hàm vị tâm tông
Thanh tịnh bản nhiên
Tây Thiên thử độ
Thử độ Tây Thiên
Cổ kim nhật nguyệt
Cổ kim sơn xuyên
Xúc đồ thành trệ
Phật tổ thành oan
Sai chỉ hào ly
Thất chi bách thiên
Nhữ thiện quan sát
Mạc khiểm nhi tôn
Trực nhiêu vấn ngã
Ngã bản vô ngôn)
Sau đây là bảng liệt kê mười bảy thế hệ của thiền
phái Vô Ngôn Thông:
Thế hệ 1: Vô Ngôn Thông (mất 826).
Thế hệ 2: Cảm Thành (mất 860).
Thế hệ 3: Thiện Hội (mất 900).
Thế hệ 4: Vân Phong (mất 959).
Thế hệ 5: Khuôn Việt Chân Lưu (mất 1011) và một
người khuyết lục.
Thế hệ 6: Ða Bảo (mất ?) vàmột người khuyết lục.
Thế hệ 7: Ðịnh Hương (mất 1051), thiền lão (mất ?)
và một người khuyết lục.
Thế hệ 8: Viên Chiếu (mất 1090), Cứu Chỉ (mất
1067), Bảo Tính (mất 1034), Quảng trí mất 1090), Lý Thái Tông (mất 1028), và
một người khuyết lục.
Thế hệ 9: Thông Biện (mất 1134), Mãn Giác (mất
1096), Ngô ấn (mất 1088) và ba người khuyết lục.
Thế hệ 10: Ðạo Huệ (mất 1172), Biện Tài (mất ?),
Bảo Giám (mất 1173), Khuông lộ (mất 1141), Bản Tịnh (mất 1177) và ba người
khuyết lục.
BỐI CẢNH THIỀN HỌC VÔ NGÔN THÔNG
Ðiều nên nói trước
tiên là Vô Ngôn Thông, từng tu học trong tu viện của Bách Trượng, đã đem thanh
quy của thiền viện do Bách Trượng sáng tác áp dụng vào sinh hoạt thiền viện
Việt Nam.
Bách Trượng Thiền sư (779-803) là tác giả bộ quy
chế nổi tiếng về sinh hoạt thiền viện được gọi là Bách Trượng Thanh Quy, được
áp dụng trong rất nhiều tu viện thiền tại Trung Hoa và Việt Nam thời ấy. Trước
Bách Trượng, các thiền sư chưa có thiền viện riêng, do đó vẫn sống chung trong
các Luật viện [8a]. Ðến khi đã có thanh quy của thiền môn rồi, Thiền mới bắt
đầu tách ra khỏi Luật viện và trở nên một truyền thống hoàn toàn độc lập.
Ta không biết các tu viện Pháp Vân và Chúng Thiện
của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi được tổ chức cách nào, dù ta biết ảnh hưởng Ấn
Ðộ trong cách tổ chức thiền viện ở đây rất quan trọng. Hiện giờ, thiền phái Tỳ
Ni Ða Lưu Chi đã dứt đoạn, những di tích về kiến trúc còn lại của các tổ đường
thiền phái này không đủ để cho ta có một khái niệm về cách tổ chức tu viện thời
ấy. Còn về thiền phái Vô Ngôn Thông dù sự truyền thừa đã chấm dứt vào đầu thế
kỷ thứ mười ba nhưng ta có thể biết được sơ lược cách thức tổ chức các tu viện
của thiền phái này, bởi vì trong những thế kỷ gần đây, tại Trung Hoa, Việt Nam,
Nhật Bản và Triều Tiên, nhiều tu viện còn sinh hoạt theo một quy chế phỏng theo
bản quy chế của Bách Trượng do Ðức Huy thiền sư đời Nguyên biên tập, bản này
gọi là Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy gồm có tám cuốn. Còn bản của Bách Trượng đã
mất từ lâu.
Hiện nay các chùa và tu viện lớn có đồ chúng tu học
tại Việt Nam vẫn còn theo Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy.
TRUYỀN THUYẾT NAM
TÔNG VỀ LỊCH SỬ THIỀN
Ðọc tiểu sử Vô
Ngôn Thông, ta biết rằng thiền phái này chấp nhận lối giải thích của thiền phái
Nam Tông bên Trung Hoa về lịch sử của thiền học. Theo giải thích này, tâm
truyền của ngũ tổ Hoàng Nhẫn đã được trao truyền cho lục tổ Huệ Năng, còn thiền
sư Thần Tú ở Bắc Tông không đại diện được cho truyền thống thiền học Bồ Ðề Ðạt
Ma.
Thiền phái của thiền Thần Tú (606-706) thực ra hồi
ấy cũng hưng thịnh ở miền Bắc Trung Hoa và được giới trí thức tư sản cùng giới
chính trị nâng đỡ. Thiền phái của thiền sư Huệ Năng (658-713) ở miền Nam có
khunh hướng thần bí, ít thiên trọng trí thức hơn, và được quần chúng đặc biệt
ủng hộ. Nhưng truyền thừa Bắc Tông ngắn ngũi quá, chỉ trong mấy thế hệ đã bị
mai một. Trong khi đó truyền thừa Nam Tông đã phát triển mạnh. Thiền sư Thần
Hội, đệ tử của Huệ Năng, thấy Thiền Tông trở nên một tông phái lớn có nhiều uy
tín, mới bắt đầu dựng lại lịch sử của Thiền. Ông đã sắp xếp 28 thế hệ thiền ở
Ấn Ðộ, bắt đầu từ Ma Ha Ca Diếp cho đến Bồ Ðề Ðạt Ma, Bồ Ðề Ðạt Ma được xem như
là vị là tổ thứ 28 của Thiền Tông Ấn Ðộ, và sơ tổ của thiền tông Trung Hoa. Bồ
Ðề Ðạt Ma truyền y bát cho Huệ Khả tuyền cho Tăng Xán, Tăng Xán truyền cho Ðạo
Tín. Ðạo tín truyền cho Hoàng Nhẫn và Hoàng Nhẫn truyền cho Huệ Năng (mà không
phải cho Thần Tú). Thần Hội đệ tử Huệ Năng, cố nhiên là người thừa kế tâm ấn!
Vào thời Thần Tú và Huệ Năng thì chưa có phân biệt Nam Bắc và chưa có sự phê
phán lẫn nhau, tuy Bắc Tông được triều đình công nhận là chính thống trong khi
Nam Tông được quần chúng ủng hộ. Mãi đến thời Thần Hội mới có sự kỳ thị phân
biệt; chính Thần Hội đã mở đầu sự tranh chấp bằng cách chỉ trích lập trường
tiệm giáo của Bắc Tông. Lập trường này, cho rằng sự giác ngộ phải được thực
hiện hiện từ từ và tuần tự, thực ra đã gần với giáo lý của Bồ Ðề Ðạt Ma hơn.
Nam Tông đã xướng xuất lập trường đốn giáo, theo đó sự giác ngộ có thể thực
hiện đột ngột mau chóng.
Trong lời Vô Ngôn Thông căn dặn Cảm Thành trước khi
tịch, ta thấy thiền sư đã lập lại truyền thuyết về lịch sử Thiền Tông của Thần
Hội, nghĩa là của Nam Tông. Trong thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, mãi đến thế hệ
thứ mười ab mới thấy thiền sư Bản Tịch (mất 1140) nêu lên vấn đề đốn và tiệm,
và chủ trương dung hòa hai quan niệm này. Ðây hẳn là do ảnh hưởng của thiền
phái Vô Ngôn Thông vậy.
ÐỐN NGỘ VÀ TÂM ÐỊA
Thiền phái Vô Ngôn Thông nhấn mạnh thuyết đốn
ngộ chủ trương con người có thể, trong một giây lát, đạt được quả vị giác ngộ,
khỏi cần đi qua nhiều giai đoạn tiệm tiến. Vô Ngôn Thông, ngay từ buổi đầu tại
pháp hội của Bách Trượng, đã nghe một câu hỏi về vấn đề đốn ngộ do một vị thiền
giả hỏi Bách Trượng: “Pháp môn đại thừa nào có thể giúp ta đạt được giác ngộ
tức khắc” (như hà thị đại thừa đốn ngộ pháp môn?). Chính câu trả lời của Bách
Trượng đã làm cho Vô Ngôn Thông bừng tỉnh: “Mặt đất của tâm nếu không bị ngăn
che thì mặt trời trí tuệ tự nhiên chiếu đến”.
Thiền sư Cảm Thành (mất 860, đệ tử Vô Ngôn Thông) giải thích rất rõ cho đệ tử
là Thiện Hội vào thiền thất của Cảm Thành và hỏi: “Kinh nói Ðức Thích Ca phải
tu hành trong ba a-tăng-kỳ-kiếp [8] mới thành tựu được quả Phật Như Lai; nay
thầy lại dạy thuyết “tức tâm tức Phật”, đệ tử không hiểu, xin thầy chỉ giáo”.
Ðó chỉ là một câu chất vấn về thuyết đốn ngộ. Cảm Thành hỏi lại: “Chú nói trong
kinh nói, vậy đó là ai nói? Nếu là Phật nói, tại sao kinh Văn Thuø lại nói: Như
Lai ở đời trong 49 năm chưa từng nói một tiếng nào với ai? Với lại Cổ Ðức đã
nói: tìm tòi sự chứng ngộ trong kinh văn chỉ thêm sự u trệ, cầu thành Phật bằng
khổ hạnh thì là mê lầm, bỏ tâm mà cầu Phật là ngoại đạo, nắm lấy tâm Phật mà
cầu Phật là ma quân”. Thiền Hội hỏi: “Nếu nói vậy thì trong tâm này cái gì là
Phật, cái gì không phải là Phật?” Cảm Thành nói: “Ngày xưa, có người hỏi Mã Tổ
Ðạo Nhất: nếu “tức tâm tức Phật” thì trong tâm ấy cái gì là Phật? Ðạo Nhất trả
lời: ông nghĩ trong tâm ấy cái gì không phải là Phật thì chỉ cho tôi xem nào?
Người ấy không nói. Mã Tổ lại nói: Khi đạt ngộ thì cái gì cũng là Phật, khi
chưa đạt ngộ thì, cái gì cũng vĩnh viễn sai lầm[9]. Câu thoại đầu đó chú có
hiểu không?”
Sau sự giải thích đó, Thiện Hội đã hiểu thế nào là đốn ngộ.
Kinh Viên Giác mà nhiều thiền sư trong thiền phái Vô Ngôn Thông (như Viên
Chiếu, Tín Học, Tịnh Lực,...) rất chuyên trì được mô tả là một kinh dạy về
phương pháp đốn ngộ. Kinh này có câu “Thiện nam tử, kinh này gọi là giáo lýđốn
ngộ của đại thừa, những chúng sinh có đốn căn ở đây tức là có khả năng lớn về
trí tuệ và hành đạo. Ðối lại với đốn căn là tiệm căn, tức là căn trí của những
kẻ phải đi từng bước một, trải qua nhiều kiếp tu hành mới dần dần chứng nhập
được Phật quả. Kinh Viên Giác là một thiền định đại thừa. Sách Thuyền Uyển Tập
Anh nói rằng các thiền sư Viên Chiếu (mất 1090) và Ngộ Ấn (mất 1090) rất am
tường phép Tam Quán của Viên Giác, và các thiền sư Tín Học (mất 1190) và Tịnh
lực (mất 1173) đều đắc ngộ Viên Giác Tam Quán. Tam Quán trong kinh Viên Giác là
Xa Ma Tha (Samatha), Tam Ma Bạt Ðể (Samapatli) và Thiền Na (Dhytha), tất cả đều
là những phương pháp thiền định tu chứng.
Thuyến đốn ngộ được căn cứ trên quan niệm tâm địa mà Vô Ngôn Thông được nhắc
tới. Chữ địa ở đây có nghĩa là đất. Kinh Tâm Ðịa Quán nói: “Các pháp thiện, ác,
ngũ thú, hữu học, vô học, độc giác, bồ tát và Như Lai đều từ nơi tâm sinh khởi,
cũng như các loại ngũ cốc và ngũ quả từ đất mọc lên, cho nên nói là tâm địa”.
Tâm địa là bản nguyên của vạn pháp (Kinh Lăng Nghiêm nói là tâm địa bản
nguyên”) thì một khi khai thông được tâm địa, trí tuệ giác ngộ tự nhiên giác
ngộ tự nhiên xuất hiện. Ðó là ý của Bách Trượng trong câu nói “ tâm địa nhược
thông, tuệ nhật tự chiếu”. Vô Ngôn Thông trước khi tịch đã nhắc lại lời của
thiền sư Nam Nhạc (677-744) cho Cảm Thành nghe: “ Tất cả các pháp từ tâm sinh,
nếu tâm không sinh thì làm sao pháp đứng vững được. Nếu đạt được tâm địa thì
hoàn toàn tự do [10]. Ðó là căn bản lời tuyên bố “tức tâm tức Phật”. Nếu đạt
ngộ thì tâm là Phật, pháp là Phật, tất cả những gì từ tâm địa phát sinh đều là
Phật, còn nếu không đạt ngộ thì tức là ngoảnh lưng lại với tất cả mọi thực tại
giác ngộ. Sự giác ngộ bản tâm là căn bản mọi biến cải. Từ thế kỷ thứ ba, Tăng
Hội đã nêu lên tính cách thiết yếu của Tâm học và của sự giác ngộ tự tâm như
đường lối duy nhất để chứng đạo. Ðể thực hiện sự chứng ngộ này, thiền phái Vô
Ngôn Thông nhấn mạnh đến nguyên tắc thiền định vô đắc.
NGUYÊN TẮC VÔ ÐẮC
Vô đắc là không có đối tượng của sự giác ngộ. Trước hết, nó có nghĩa là
sự giác ngộ không thể do một ai khác trao truyền cho mình, mà mình phải thực
hiện lấy. Thiền sư Nguyện Học (mất 1174) thuộc thế hệ thứ 11 của thiền phái Vô
Ngôn Thông đã nói rất rõ về vấn đề này:
“Ðạo koc có hình tượng
Nhưng nó ở ngay trước
mát ta, không gì làm xa cách
Phải trở về với tự tâm
mà thực hiện
Chứ không thể đi tìm nơi
kẻ khác”
Thiền sư nói tiếp: “Nếu thấy mình có đắc đạo do sự truyền thừa của kẻ
khác thì sự đắc đạo đó không chân thật”. Và ông kết luận: “Sự trao truyền tâm
ấn của Phật và của tổ phải được hiểu như vậy” [11]
Chính Vô Ngôn Thông trong bài kệ thị tịch để lại
cho đời sau cũng nhấn mạnh đến nguyên tắc vô đắc. Ông nói rằng câu chuyện
truyền thừa từ Phật sang Tổ phải được hiểu theo nghĩa phương tiện: “Thiên hạ
huyên truyền từ bốn phương rằng thủy tổ của ta ở gốc Tây Thiên, có truyền lại
chính pháp nhãn tạng, gọi là Thiền; rằng như một đóa hoa có năm cánh, Thiền
tông sinh trưởng ở Ðông Ðộ và gieo hạt giống thiền mãi mãi bất diệt về sau:
rằng những mật ngữ có đến hàng ngàn hàng vạn lời kia đều thuộc về truyền thống
thiền. Nhưng ta tự hỏi: Tây Thiên là đâu? Tây Thiên chính là đây chứ không ở
đâu khác; mặt trời mặt trăng năm xưa chính là mặt trời mặt trăng mà ta đang
thấy đây; hễ vưỡng mắc một từ ngữ là liệt b ị kẹt và làm oan cho chính Phật và
Tổ. Sai một li đi một dặm. Các vị nên chiem nghiệm kỹ, để cho thế hệ tương lai
trách móc vì bị đánh lạc đường”. Vô Ngôn Thông đã muốn nói rằng sự kiện trao
trruyền tâm ấn phải được hiểu như một sự trao truyền không-trao-truyền, không
có người trao truyền, không có người tiếp nhận sự trao truyền, không có đối
tượng trao và nhận. Sự giác ngộ phải do tự mình thực hiện chứ không thể tiếp
nhận ở một người khác, dù người đó là Phật hay là Tổ. Thiền sư Ðạo Huệ (mất
1172) một hôm bảo thiền sư Tịnh Lực: “Tâm ấn của chư Phật chính ông đã có rồi,
khỏi đi theo ai mà tìm cầu nữa”.
Vô đắc cũng là phương pháp thiền quán trong đó
người hành giả không chạy theo một đối tượng gọi là sự giác ngộ. Ở đây thiền
quán, không có người trao truyền và kẻ được trao truyền. Nhưng ở đây cũng không
có chủ thể thiền quán và đối tượng thiền quán. Chủ thể và đối tượng là một:
giác ngộ cũng giống như một khả năng chiếu rọi sẵn có trong một bức gương;
không cần phải đi tìm ngoài tự tâm mình. Nếu có sự tìm đuổi tứac là còn bị giam
hãm trong thế giới nhị nguyên. Bản chất của giác ngộ là không có cá tính độc
lập (không), không có hình thể để nhận biết (vô tướng), không thể theo đuổi và
nắm bắt (vô tác). Không, vô tướng và vô tác được gọi là ba cánh cửa giải thoát
trong đạo Phật (tam giải thoát môn).
Thiền sư Nguyện Học diễn đạt ý này một cách rất đầy
đủ trong bài kệ sau đây:
"Giác ngộ chân tâm và mở được con mắt trí tuệ ra rồi
Thì thật tướng của vũ
trụ hiện diện thông suốt trước mắt
Dù khi đi, đứng, nằm hay
ngồi như thường ngày
Thì cũng thấy mình có
mặt mọi nơi một cách mầu nhiệm
Tuy rằng thực tướng ấy
đầy dẫy cả vũ trụ và hư không
Nhưng nhìn lại thì thực
tướng ấy không có hình tướng
Ở thế gian không có gì
có thể đem ra so sánh với thực tướng ấy
Vì tự thân nó chiếu sáng
vĩnh viễn cho vạn vật
Người ta có thể diễn
thuyết bất tuyệt về thực tướng huyền diệu này
Nhưng không lời diễn
thuyết nào sánh được với hai chữ vô đắc [12]"
SỰ SỬ DỤNG THOẠI
ÐẦU
Sau khi Cảm Thành
nhắc lại cho Thiện Hội nghe câu nói của Mã Tổ Ðạo Nhất “Khi đạt ngộ thì cái gì
cũng là Phật, không không đạt ngộ thì cái gì cũng vĩnh viễn là sai lầm” (đạt
thời biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ). Cảm Thành hỏi Thiện Hội: “Câu thoại
đầu đó chú có hiểu không?” Danh từ thoại đầu, như thế, đã được sử dụng tại Việt
Nam hồi thế kỷ thứ chín.
Thoại đầu là một câu hay một mẫu đối thoại có tác
dụng thúc đẩy hay làm phát khởi sự đạt ngộ nơi tâm tư người thiền giả. Thoại
đầu có thể là một câu trích trong kinh điển lời Phật nói, một lời gợi ý của một
vị tổ sư hay lời đáp của một vị thiền sư. Phương pháp sử dụng thoại đầu bắt đầu
từ giữa thế kỷ thứ chín: Quy Sơn (771-853) ở Trung Hoa và Vô Ngôn Thông (mất
826) ở Việt Nam, cả hai đều là học trò của Bách Trượng, đều là những người đầu
tiên sử dụng phương pháp thoại đầu này. Ta không thấy ghi chép trường hợp Vô
Ngôn Thông (mất 826) ở Việt Nam, cả hai đều là học trò của Bách Trượng, đều là
những người đầu tiên sử dụng phương pháp thoại đầu này. Ta không thấy ghi chép
trường hợp Vô Ngôn Thông sử dụng thoại đầu để dạy đệ tử, nhưng ta được biết Cảm
Thành, đệ tử ông, đã biết sử dụng phương pháp ấy[13] . Ðây là một cuộc vấn đáp
giữa Ngộ Ấn (mất 1090) và một vị tăng:
Vị tăng: Thế nào là đại đạo?
Ngộ Ấn: Ðường lớn.
Vị tăng: Kẻ học nhân này hỏi về đại đạo, hòa thượng
lại nói về đường lớn; như vậy ngày nào kẻ học nhân này mới đạt được đại đạo?
Ngộ Ấn: Mèo con chưa biết bắt chuột đâu.
Vị tăng: Mèo con có Phật tính không?
Ngộ ấn: Không.
Vị tăng: Tất cả các loại hàm linh, loại nào cũng có
Phật tính cả, tại sao hòa thượng lại không có Phật tính?
Ngộ Ấn: Ta không phải hàm linh.
Vị tăng: Nếu không là hàm linh thì hòa thượng là
Phật chăng?
Ngộ Ấn: Ta không phải Phật cũng không phải hàm
linh.
Mẫu đối thoại trên đây cho thấy sự cố gắng của cả
thiền sư lẫn đệ tử trong việc khai mở trí huệ của người đệ tử. Bắt đầu ta thấy
vị tăng đưa ra câu hỏi về “đại đạo” đối tượng của giác ngộ, và muốn nghe lời
giải thích của Ngộ Ấn về đối tượng và sự chứng đắc này. Ngộ Ấn thấy rằng đưa
cho vị tăng một mớ ý tượng về đại đạo thì chẳng ích lợi gì cho ông ta cả, nên
chi nói đường lớn. Câu trả lời này làm thất vọng vị tăng, bởi ông này đang chờ
đợi những giải thích có tính cách khái niệm và trừu tượng. Ðường lớn là một
hình ảnh cụ thể, là sự sống hiện thực mà không phải là những khái niệm triết
học trừu tượng. Vào trường hợp của một căn cơ bén nhạy hình ảnh này có thể gây
xúc chạm để gợi ý chứng ngộ. Nhưng ở đây, vi tăng chỉ tỏ vẽ thất vọng suông:
mũi tên thứ nhất không bắn trúng đích. Ngộ Ấn liền nói: “mèo con chưa bắt được
chuột đâu” mục đích để cho vị tăng chiêm nghiệm thêm về thoại đầu “con đường
lớn”. Nhưng vị tăng lại nghĩ rằng vị thiền sư chê mình không đủ khả năng để
hiểu những lời giải thích về đại đạo nên đã không chịu giải thích. Ông ta liền
đem giáo lý đại thừa ra để chặn thiền sư : “Mèo con có Phật tính không?” Ngộ Ấn
là người giác ngộ, đâu còn bị ràng buộc bởi kinh điển giáo lý nữa, ông nói
“Không”. Vị tăng bắt đầu nghĩ rằng Ngộ Ấn đi lệch khỏi giáo lý nhà Phật, bèn
gạn hỏi lại, lần này một cách thiếu cung kính: “Kinh nói tất cả hàm linh đều có
Phật tính, tại sao hòa thượng nói hoàn toàn (thay vì con mèo) lại không có Phật
tính?” Thiền sư Ngộ Ấn vẫn còn kiên nhẫn: “Ta không phải hàm linh” và sau câu
hỏi “Thế ngài là Phật chăng” ông còn cố gắng lần chót: “Ta không phải là Phật
cũng không phải là hàm linh”.
Ta thấy ngay sự khác nhau giữa hai đàng: một đàng
thì muốn nghe những tư tưởng về đại đạo, một người muốn kéo người đối thoại về
thế giới sinh hoạt thực tại. Một người thì đi tìm định nghĩa căn cứ trên sự
phân biệt, một người thì cố gắng đập gãy lề lối thói phân biệt để hiển lộ thực
tại vốn thoát ly danh từ và sự phân biệt. Thoại đầu không cần phải dài dòng bởi
thoại đàu là dụng cù tháo gỡ sự đạt ngộ mà kinh phải là những giải thích về đốn
ngộ. Vân Phong (mất 956) hỏi Thiện Hội (mất 950): Làm sao tránh khỏi sinh tử?
Thiện hội: Ði vào chỗ vô sinh tử.
Vân Phong: Chỗ vô sinh tử là chỗ nào?
Thiện Hội: Nó nằm ngay trong chỗ sinh tử.
Vân Phong: Làm sao hiểu được?
Thiện Hội: Ði đi, mai sẽ tới gặp lại.
Thiện hội đưa cho Vân Phong một chìa khóa “Vô sinh
tử nằm ngay sinh tử”. Vân Phong không hiểu được, đòi Thiện Hội giải thích.
Nhưng làm thế nào để giải thích một chiếc chìa khóa? Làm thế nào để giải thích
một thoại đầu? Nếu Vân Phong có thể hiểu, là ông đã hiểu ngay khi đó; nếu ông
không hiểu, đó là vì tâm trí của ông chưa chìm, dù có nói thêm hai ba chục câu
nữa ông cũng không hiểu. Thà rằng ông về phòng còn hơn. Sáng mai, qua một đêm
thiền quán, có lẽ ông sẽ có thể bừng tỉnh được nhờ câu thoại đầu ấy.
Tu viện không phải là một Phật Hcọ Viện: người hành
giả phải sống điều mình học và sống bằng thiền quán. Nếu định lực đã mạnh, nếu
căn cơ đã thuần thục, thì phải trở về với đời sống thiền quán. Một mũi tên bắn
ra một là trúng đích, hai là trật đích” nên hành giả không đạt ngộ ngay lúc đó,
là thoại đầu không có hiệu lực dù có giải thích cũng vô ích.
Một hôm thiền sư Ðịnh Hương (mất 1051) hỏi đệ tử là
Cứu Chỉ (mất 1067) “Nghĩa cứu cánh” [14]là gì, ngươi có biết không?”Cứu Chỉ trả
lời “Không”. Ðịnh Hương nói: “Nghĩa cứu cánh là cái mà ta vừa mới trao cho
người đó”. Cứu Chỉ còn đang nghĩ ngợi thì Ðịnh Hương nói: “Người đã bước trượt
qua mất rồi!”.
Thoại đầu là thế; thoại đầu như một con sào do
thiền sư đưa ra để người đệ tử nắm bắt, có khi bắt được, có khi không bắt được.
Mỗi khi “bước trượt qua” là người đệ tử người đệ tử phải quay về với đời sống
thường nhật để gia tăng công phu.
THIỀN NGỮ VÀ HÌNH
ẢNH THI CA
Thiền sư thường dùng những hình ảnh cụ thể làm phượng tiện đưa người
hành giả đến sự đạt ngộ. Khi Vô Ngôn Thông được người ta hỏi về thiền và thiền
sư, ông đãim lặng lấy tay chỉ vào gôc một gốc cây thoan lư. Thiền và Thiền sư
trong lĩnh vực đàm luận chỉ có thể là những khái niệm trừu tượng; gốc cây thoan
lư là một hình ảnh cụ thể của thực tại; nếu nhìn thấy gốc cây thoan lư trong
chính thực tại của nó là đã thâm nhập thế giới Thiền và trở thành thiền sư. Các
thiền sư bao giờ cũng muốn đưa học trò của mình vào thế giới suy luận trừu
tượng. Khi Nam Tuyền hỏi Triệu Châu (hai vị thiền sư Trung Hoa thuộc thế kỷ thứ
chín) về chủ ý của Bồ Ðề Ðạt Ma khi qua Trung Hoa, Triệu Châu cũng chỉ ra ngoài
sân và nói: “Nhìn cây tùng ở ngoài sân”. Thiền học, vì vậy rất gần với thi ca ở
chỗ chú trọng tới hình ảnh mà xem thường những khái niệm trừu tượng. Thi ca
không có hình ảnh thì không còn thi ca nữa, cũng như đi vào suy luận siêu hình
thì thiền không còn có gì là thiền. Cho nên ta không lấy làm lạ khi thấy có
những thiền sư dùng những câu thơ làm lời thiền ngữ. Một thiền sư có tâm hồn
thi sĩ tự khắc diễn tả thực chứng bằng thi ca và hướng dẫn thiền giả bằng những
hình ảnh thi ca.
Thiền sư Tuyết Ðậu (980-1052) ở Trung Hoa là một
thi sĩ bậc lớn trong thiền môn. Ông là người đã dựng nen truyền thống lấy hình
ảnh thi ca làm thiền ngữ. Sự xuất hiện tại Việt Nam năm 1969 của thiền sư Thảo
Ðường, đệ tử thiền sư Tuyết Ðậu, đã khiến cho khuynh hướng thiền ngữ thi ca ảnh
hưởng sâu đậm đến thiền học Việt Nam, đặc biệt là trong thiền phái Vô Ngôn
Thông. Thảo Ðường, đệ tử của thiền sư Tuyết Ðậu, đã khiến cho khuynh hướng
thiền ngữ thi ca ảnh hưởng sâu đậm đến thiền học Việt Nam, đặc biệt là trong
thiền phái Vô Ngôn Thông. Thảo Ðường đã mang qua Việt Nam các tác phẩm của
Tuyết Ðậu vốn đã thấm nhuằn tính chất thi ca, vì trong thiền phái Vô Ngôn
Thông, nhiều thiền sư như Minh Trí (mất 1190) và Quảng Nghiêm (mất 1190) rất
hâm mộ Tuyết Ðậu Ngữ Lục. Tuy nhiên, trước mắt thiền sư Thảo Ðường, tại Việt
Nam có thiền sư Thiền Lão cũng đã dùng hình ảnh thi ca làm thiền ngữ. Thiền sư
Thiền Lão (mất 1073) ở chùa Trùng Minh, núi Thiên Phúc, huyện Tiên Du, về sau
có về núi Từ Sơn dạy học, học chúng quy tụ có hơn một ngàn người. Vua Lý Thái
Tông có vào núi thăm thiền sư. Sau đây là cuộc đối thoại giữa hai người:
Vua: Ngài ở đây bao lâu rồi?
Thiền Lão:
"Ðãn tri kim nhật nguyệt
Hà thức cựu xuân
thu?"
(Sống trong giờ hiện tại
Ai hay năm tháng xưa?)
Vua: Ngài làm gì hàng ngày ở đây?
Thiền lão
"Trúc biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt
hiện toàn chân"
(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân)
Vua: Như vậy ý chỉ là gì, xin ngài cho biết?
Thiền lão: Nói nhiều lời, sợ sau này bất lợi.
Những câu thơ mà Thiền Lão đọc ở đây không phải chỉ
là những câu thơ, mà còn là những câu thoại đầu, những lời thiền sư nhằm đánh
thức sự tỉnh ngộ thiền giả. Vua Lý Thái Tông, sau hai câu thiền ngữ, không hiểu
được chủ ý của thiền sư và đã hỏi lại. Chính vì tính chất thoại đầu của các câu
thơ mà thiền sư đã đáp: chừng đó lời đã quá đủ, nhà vua chỉ cần tham cứu cho
kỹ, nói thêm thì câu sau chỉ bất lợi (từ đa vô hậu ích).
Vị thiền sư thi sĩ tài ba nhất của thiền phái Vô
Ngôn Thông là thiền sư Viên Chiếu (998-1090). Ông họ Mai, tên là Trực, con anh
bà Linh Cảm Thái Hậu. Ông rất am tường về pháp tam quán của kinh Viên Giác.
Sách Thuyền Uyển Tập Anh nói ông thâm đắc “ngôn ngữ tam muội”; các thiền ngữ
của ông xuất phát từ thực chứng sâu xa về thiền. Ông là tác giả những cuốn:
- Tán Viên Giác Kinh.
- Thập Nhị Bồ Tát Hạnh Tu Chứng Ðạo Trường.
- Tham Ðồ Hiển Quyết.
- Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.
Cuốn Dược sư Thập nhị nguyện văn được vua Lý Nhân
Tông sai sứ thần đem sang tặng vua Triết Tông nhà Tống. Vua Tống giao sách này
cho các thiền sư chùa Tướng Quốc xem và bảo có chỗ nào đáng sửa chữa thì sửa
chữa lại. Các vị này xem xong thì tâu vua: “Ðây là đấng hóa thân đại sĩ ra đời
ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi không dám thêm bớt
gì nữa”. Vua Tống liền cho sao một bản, còn bản chính thì trả lại Lý Nhân Tông
với những lời khen ngợi. Sau đây là một số thiền ngữ có tính thi ca còn được
chép lại trong Thuyền Uyển Tập Anh, có lẽ là những gì còn lại trong tập Tham đồ
Hiển Quyết, một tác phẩm ghi lại những đề án thiền học. Một vài câu vấn đáp:
Hỏi: Phật và Thánh khác nhau chỗ nào
Ðáp:
"Cúc trùng dương dưới dậu
Oanh thục khí đầu
cành"
(Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu thục khí oanh
)
Hỏi: Kẻ học nhân chưa hiểu xin thầy dạy lại.
Ðáp:
"Ngày quạ vàng chiếu sáng
Ðêm thỏ ngọc sáng
soi"
(Trú tắc kim vô chiếu
Dạ lai ngọc thố minh)
Hỏi: Ðã nhận được yếu chỉ nhưng huyền cơ ra sao?
Ðáp:
"Nước đã đầy bình vạc, chân vô ý
Vấp ngã một lần hối được
sao?"
(Bất thận hủy bàn kinh mãn xứ
Nhất tao sa điệt hối hà chi?)
Và:
"Muốn dìm cho sóng chết
Ai hay thân tự
trầm"
(Mạc quán giang ba nịch
Thân lai khước tự trầm
Hỏi: Bồ Ðề Ðạt Ma ở núi Thiếu Thất hành đạo đạt đến
chỗ huyền diệu sâu thẳm: từ xưa đến nay ai là kẻ thừa kế xứng đáng nhất?
Ðáp:
"Trời tối sáng soi nhờ nhật nguyệt
Ðất hiểm phân ranh có
núi sông"
(U minh càn tượng nhân ô, thố
khuất khúc khôn duy vị nhạc, hoài)
Hỏi: Thế nào là
con đường đưa đến căn nguyên của đại đạo?
Ðáp:
"Cỏ mạch đứng bờ cao gió dữ
Nước nhà thời loạn biết
trung lương"
Hỏi: Tất cả mọi chúng sinh từ đâu tới và sẽ đi về
đâu.
Ðáp
: Rùa mù xuyên vách đá
Rùa què leo núi
cao"
(Manh quy xuyên thạch bích
Bì miết thướng cao sơn)
Hỏi: Người ta nói: khóm trúc xanh xanh kia là chân như. Vậy công dụng
của chân như là gì?
Ðáp:
"Ðưa người xa ngàn dặm
Cười tặng một bình
trà"
(Tặng quân thiên lý viễn
Tiểu bá nhất bình trà)
Thiền sư Trí Bảo (mất 1190), một thiền sư sống khổ hạnh có đức khiêm
nhượng lớn, mỗi khi có người trêu chọc thường chắp hai tay lại, cũng là một
thiền sư hay dùng thiền ngữ thi ca. Ông thường ra tay bắc cầu sửa đường mỗi khi
gặp đường hư đường lở. Trong khi đàm luận với thầy là Ðạo Huệ, ông đã dùng
những câu sau đây:
"Không nhờ gió cuốn mây trôi hết
Màu xanh sao tỏ một trời
thu?"
(Bất nhân phong quyện phù vân tận
tranh kiến thanh thiên vạn lý thu)
Và:
"Quen biết đầy thiên hạ
Tri âm được mấy
người?"
(Tương thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỳ nhân?)
Thiền sư Tịnh Không (mất 1170) chuyên tu hạnh đầu đà, mỗi lần nhập định
lâu tới năm bảy ngày. Có một lần kẻ trộm tới, ông chỉ vào thùng phước sương cho
kẻ kia lấy tiền. Ðây cũng là một thiền sư thi sĩ. Người ta hỏi Phật là gì, ông
đáp:
"
Nhật nguyệt lệ tam thiên hàm trân sát
Thùy tri vân tụ lạc sơn
hà?"
(Nhật nguyệt trời cao soi mọi cõi
Ai hay mây khói phủ non sông)
Người kia hỏi: “Làm thế nào mà hiểu?”
Ông đáp:
"Mục đồng kỳ quán ngọ ngưu bối
Sĩ hữu anh hùng khoa đắc
y?"
(Mục đồng ngủ mãi lưng trâu nọ
Câu chuyện anh hùng biết được sao?)
Hỏi: Ý chỉ của Tổ truyền khác với ý chỉ của giáo lý
ở chỗ nào?
Ðáp:
"Chư hầu vạn nẽo đều xuôi khuyết"
(Vạn lý thê hàng giai triều khuyết)
Hỏi: Hòa thượng có sở đắc đặc biệt tại sao không
nói cho chúng con nghe?
Ðáp:
"Thượng vô phiến ngõa già
Hạ vô trác chùy địa
Hoặc dị phục trực nghệ
Hoặc sách trượng nhi chí
Ðộng chuyển xúc xử gian
Tự long được thị
thôn"
(Ông thổi lửa, tôi vo gạo.
Ông khất thực tôi mang bình
Ai có phụ ai đâu
Một hôm ông họp chúng lại đọc một bài thơ sau đây:
Trên không manh ngói che
Dưới không đất cắm dùi
Kẻ mặc áo lạ tới
Người xách gậy tìm lại
Khi hành động xúc tiếp
Như rồng nhảy đớp mồi)
Có một vị tăng bước ra hỏi: “Ngài có cái gì thế?”
Ông cười:
"Nhật nhật khứ hoặch hòa
Thời thời không thương
lẫm!"
(Ngày ngày đi hái củi
Kho lúa vẫn còn rồng
!)Thiền phái Tỳ Ni
Ða Lưu Chi cũng chịu an lối dùng thiền ngữ thi ca, nhưng ít hơn thiền phái Vô
Ngôn Thông. Thiền sư Chân Không (mất 1100) giỏi về sử học, cũng đã từng cư trú
núi Từ Sơn nơi Thiền Lão dạy học. Những thiền ngữ của ông chứa đầy thi vị. Một
hôm có vị tăng hỏi: “Diệu đạo là gì?” Ông nói: “Giác rồi mới biết”. Người kia
nói: “Học nhân chưa hiểu được, xin thầy dạy cho”. Ông nói:
"Nhược đáo tiên gia thâm động nội
Hoàn đan hoán cốt đắc
hoài quy"
(Ðến được động tiên sâu thẳm ấy
Linh đơn đổi xác mới quay về)
Hỏi: Linh đơn nào mới được chớ
Ðáp:
"Kiếp tịch ngu mông vô động hiểu
Kim thần nhất ngộ đắc
khai minh"
(Vạn kiếp si mê không hiểu thấu
Sáng nay bừng mở nẻo khai minh)
Hỏi: Nhưng khai minh thế nào?
Ðáp:
"Khai minh chiếu triệt ta bà giới
Nhất thiết chúng sinh
cộng nhất gia"
(Khai minh thấy hết trần gian nọ
Muôn loại sinh linh thảy một nhà)
Hỏi: người ta nói: “Tuy không biện luận nhưng đâu
đâu cũng gặp người”. Người đây là ai?
Ðáp:
"Kiếp hào đồng nhiên hào mạt tịnh
Thanh sơn y cựu bạch vân
phi"
(Lửa cháy tàn rồi, tan sạch hết
Non xanh, mây trắng vẫn còn bay)
Hỏi: Sau khi chết xác thân tan rã rồi thì sao
Ðáp:
"Xuân lai Xuân khứ nghi xuân tận
Hoa lạc hoa khai chỉ thị
xuân"
(Xuân đi xuân đến ngờ xuân hết
Hoa nở hoa tàn cũng lại xuân)
Người kia đang suy nghĩ thì ông hét một tiếng và nói:
"Bình nguyên kinh hỏa hậu
Thực vật các thù
phương"
(Bình nguyên sau trận cháy
Cây cỏ càng xanh thơm)
Người kia bừng tỉnh bèn lạy xuống.
ẢNH HƯỞNG MẬT GIÁO
Thiền học Vô Ngôn Thông không có màu sắc Mật Giáo, nhưng ảnh hưởng của
Mật Giáo trong thiền phái đó do ông lập ra cũng khá quan trọng. Ảnh hưởng ấy có
thể thấy rõ ở các thiền sư Không Lộ, Giác Hải và Nguyện Học.
Thiền sư Không Lộ đã từng là bạn với các thiền sư
Giác Hải và Ðạo Hạnh. Ðã từng đi Ấn Ðộ học về Mật Giáo, và đắc “lục trí thần
thông”. Ông họ Nguyễn, tên là Chí Thành, cũng có tên là Minh Không, và được sắc
phong là quốc sư sau khi dùng pháp thuật chữa lành bệnh cho vua Lý Thần Tông.
Năm lên 21 tuổi,vua này mắc phải một chứng bệnh kỳ lạ: ngồi xổm và rống như
mãnh hổ: triều đình hoảng sợ không biết chạy thầy thuốc làm sao. Lúc ấy ngoài
thành có trẻ con bỗng hát bài hát đồng dao rằng:
"Nước có Lý Thần Tông
Triều đinh vạn sự thông
Muốn chữa lành bệnh
Hoàng Ðế
Phải tìm Nguyễn Minh
Không"
Người ta cho đi tìm Không Lộ. Khi người của triều đình đến nơi, ông hỏi:
“Có phải là để cứu bệnh hóa cọp đó chăng?” và lập tức cùng sứ giả trở lên kinh
đô. Ông đi thẳng đến điện, sai người đun sôi một vạc nước lớn, bỏ một ít cây
đinh vào đó, sau lấy nước cho vua tắm, lông lá liền rụng và bệnh vua lành.
Tục truyền là Không Lộ đã có công trong sự tạo
thành bốn tác phẩm nghệ thuật lơn thời Lý gọi là tứ đại khí: Tháp chùa Báo
Thiên, tượng Phật A Di Ðà chùa Quỳnh Lâm, đỉnh chuông Phổ Minh và chuông chùa
Phổ Lại. Bao nhiêu chuyện thần kỳ đã được dựng ra quanh việc Không Lộ tạo dựng
những tác phẩm nghệ thuật này. Ví dụ chuyện Không Lộ đi qua Tống xin đồng về
đúc chuông, tượng và đỉnh. Với một tay nải, ông đã bỏ vào gần hết kho đồng nhà
Tống.
Thiền sư Không Lộ mất vào năm 1141, hiện còn thờ ở
đền Lý Quốc Sư, huyện Thọ Xương, Hà Nội.
Thiền sư Giác Hải lúc nhỏ làm nghề đánh cá, hai
mươi lăm tuổi xuất gia, đã từng cùng Không Lộ học với thiền sư Lôi Hà Trạch.
Ông cũng quen với một đạo sĩ tên là Thông Huyền, và đã được một lần cùng với
Thông Huyền được vua Lý Nhân Tông mời vào cung. Cả hai, sau khi thực hiện phép
niệm chú (Thông Huyền) và chú mục ngưng thần (Giác Hải) để làm rơi hai con cắc
kè trên nóc điện, được vua Lý Nhân Tông khen ngợi trong bài thơ sau:
"Tâm Giác Hải như hải
Ðạo Thông Huyền thật
huyền
Thần thông và biến hóa
Bên Phật bên là Tiên
[15]"
Sách Thuyền Uyển
Tập Anh kể: một hôm vua Nhân Tông hỏi Giác Hải về thuật “ứng chân thần túc”,
ông này liền biến hiện tâm cách, nhảy lên trên không, cách mặt đất mấy trượng.
Vua và quần thần đều thán phục. Sau này vua Lý Thần Tông có triệu thỉnh, nhưng
ông cáo bệnh không vào. Ông mất năm 1138.
Thiền sư Nguyễn Học (mất 1174) từng theo học với
thiền sư Viên Trí chùa Mật Nghiêm; sau khi đắc đạo liền về ở ẩn núi Vệ Linh
chuyên tu thiền quán trong 12 năm. Ông thường trì tụng chú Hương Hải Ðại Bi trị
bệnh và cầu mưa không khi nào là không linh nghiệm. Vau Anh Tông thấy sự thần
nghiệm, triệu ông vào cung, để ông ra vào tự do, nhưng sau ông cáo bệnh về
chùa, dạy học hơn trăm người. Ông là người cực lực chủ trương thuyết vô đắc.
Mật Giáo thịnh hành tại Việt Nam từ những thế kỷ
thứ bảy và thứ tám: tuy thiền phái Vô Ngôn Thông cố sức tự bảo vệ không để cho
Mật Giáo thâm nhập (Thông Biện rất chống Ðại Ðiên và Bát Nhã) nhưng vẫn không
tránh khỏi ảnh hưởng của giáo lý này. Sự kiện cho ta thấy tầm quan trọng của
Mật Giáo ở Việt Nam từ ngày Tỳ Ni Ða Lưu Chi đến Việt Nam qua Ðinh, Tiền Lê cho
đến cuối Lý.
ẢNH HƯỞNG TỊNH ÐỘ GIÁO
Trong câu chuyện
về Không Lộ, ta nghẹ nói đến việc thiền sư tạo nên tượng Phật A Di Ðà của chùa
Quỳnh Lâm. Không Lộ mất vào năm 1141 nhưng trước đó 100 năm, vào năm 1057, một
tượng Phật A Di Ðà bằng đá cao hai thước rưỡi tây đã được lang tướng của vua Lý
Thánh Tông thực hiện tại núi Lạng Kha, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tượng Di
Ðà này vẫn còn ở chùa Phật Tích, Bắc Ninh. Bia đá chùa Phật tích có nói về
chuyện này. Vậy thì có sự có mặt của giáo lý Tịnh Ðộ ở Việt Nam được đánh dấu
chậm lắm vào khoảng giữa thế kỷ thứ mười một.
Tịnh Ðộ Giáo chủ trượng niệm Phật để đạt đến Nhất
tâm bất loạn và cũng để vãng sanh vào nước Cực Lạc của Phật A Di Ðà. Giáo lý
niệm Phật được Huệ Viễn khởi xướng ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ năm, chú trọng
vào phương pháp quán niệm cũng rất gần gũi với thiền định. Trong truyền thống
thiền buổi đầu thỉnh thoảng đã thấy có những người áp dụng phương pháp niệm
Phật: Tuyên Thập, đệ tử ngũ tổ Hoàng Nhẫn, đã thành lập nhóm: “ Nam Sơn Niệm
Phật Thiền”; Pháp Trí chùa Ngưu Ðầu Tông cũng là một thiền giả chuyên niệm
Phật. Nhưng từ Huệ Năng (thế kỷ thứ bảy) người ta phải đợi đến thế kỷ thứ mười
mới có thiền sư Diên Thọ (904-975) sử dụng phương pháp niệm Phật. Chịu ảnh
hưởng của Mật Giáo còn lại của đời Ðường, ông cũng thực hành phương pháp trì
chú của Mật Giáo nữa. Ta biết rằng thiền học Việt Nam đã từ lâu thấm nhuần Mật
Giáo; nhưng ta không biết được cách nào mà giáo lý niệm Phật đã thâm nhập vào
thiền phái Vô Ngôn Thông. Ta chỉ có thể nói đây là do sự tiếp xúc giữa các
thiền sư phái này với thế hệ tăng sĩ Trung Hoa đệ tử thiền sư Diên Thọ. Nguyên
tắc của Diên Thọ là “cõi Tịnh Ðộ ở ngay trong tâm, ngoài tâm không có Pháp”
(Duy tâm Tịnh Ðộ, tâm ngoại vô Pháp). Ông rất sở trường về kinh Hoa Nghiêm: ông
chủ trương “chân tâm duy nhất” và “lý sự vô ngại”.
Sách Thuyền Uyển Tập Anh, ngoài việc nhắc đến tượng
đồng A Di Ðà do Không Lộ thực hiện, còn có nói đến thiền sư Tịnh Lực như một
người đã đắc được pháp “niệm Phật mà hoàn thành được thiền định. Ông dạy đệ tử
là “không nên cầu sự chứng ngộ bên ngoài” và “nếu muốn diệt trừ các ác nghiệp
thì nên áp dụng phương pháp niệm tụng bằng cả tâm lẫn miệng”. Sự phối hợp giữa
Thiền và Tịnh Ðộ sau này sẽ trở nên quan trọng trong đạo Phật tại Việt Nam.
TÓM LƯỢC NHỮNG ÐẶC TÍNH CỦA THIỀN PHÁI VÔ NGÔN THÔNG
Thiền phái Vô Ngôn
Thông được truyền thừa trong thời gian bốn thế kỷ (từ đầu thế kỷ thứ chín đến
đầu thế kỷ thứ mười ba), trong khi thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi có một lịch sử
truyền thừa dài sáu thế kỷ (từ thế kỷ thứ sáu đến thế kỷ thứ mười ba). Thiền phái
Vô Ngôn Thông chịu ảnh hưởng Phật Giáo Trung Hoa sâu đậm hơn thiền phái Tỳ Ni
Ða Lưu Chi. Ảnh hưởng nay được thấy trong lối trình bày lịch sử Thiền, trong
lối tổ chức tu viện, trong việc sử dụng thoại đầu, và ở chỗ ảnh hưởng của Tịnh
Ðộ Giáo. Các thiền sư trong thiền phái này thay vì chỉ dùng các kinh Bát Nhã,
đã sử dụng rất nhiều các kinh điển khác như kinh Viên Giác, Pháp Hoa, họ nhấn
mạnh đến chủ trương đốn ngộ và vô đắc vốn rất gần gũi với giáo lý thiền phái
Nam Phương ở Trung Hoa. Nhưng khác với thiền phái Trung Hoa, thiền phái này,
cũng như thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, đã rất gần gũi với đời sống xã hội, tham
dự vào đời sống nhập thế trong khi vẫn duy trì được sinh hoạt tâm linh độc lập
của mình.
CHÚ THÍCH:
[1] 27) Mùa kết hạ; Varsas, tức là ba tháng mùa
mưa, trong thời gian này chư tăng an cư tĩnh tu không ra khỏi tu viện.
[2] 28) Ý thiền sư Vô Ngôn Thông là thiền hay thiền sư không phải làmột cái gì
có thể định nghĩa được, như cây thoan lư kia, nhìn thẳng vào đó thì thấy ngay,
khỏi cần qua trung gian ngôn ngữ và khái niệm. Thiền là sự tỉnh thức, sự sinh
hoạt trong thế giới thực tại chỉ có thể thể nghiệm mà không thể đàm luận và
giảng giải.
[3] 29) Nhất đại sự nhân duyên: Lý do lớn của sự
xuất hiện của Phật trên đời, tức là khai mở cho chúng sinh thấy, hiểu, giác ngộ
và thâm nhập tri kiến Phật (khai thị ngộ nhập Phật tri kiến - Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa).
[4] 30) Diệu tâm: Tâm màu nhiệm.
[5] 31) Chính pháp nhãn tạng: Kho tàng của cải thấy
về chính pháp.
[6] 32) Thực tướng vô tướng: Chân lý không màu sắc.
[7] 33) Pháp môn tam muội: Phương pháp thiền định.
[8a] 34) Những tu viện của Luật Tông, lấy giới luật
làm căn bản cho giáo lý.
[8] 35) A tăng kỳ kiếp: Vô số kiếp
[9] 36) “Ðạt thời biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai
sơ”.
[10] 37) “Nhất thiết chư pháp giai tòng tâm sinh,
tâm vô sở sinh, pháp vô sở trú, nhược đạt tâm địa, sở vô tác ngại”.
[11] 38) Ðạo vô hình tượng
Xúc mục phi dao
Tự phản suy cầu
Mạc cầu tha đắc
Túng nhiêu cầu đắc
Ðắc tức bất chân
(Lược)
Sở dĩ tam thế chư Phật, lịch đại tổ sư
Ấn thụ tâm truyền, diệc như thị thuyết
[12] 39) Liễu ngộ chân tâm khai tuệ nhãn
Biến hóa linh thông hiện thực tướng
Hành trú tọa ngọa độc trác nhiên
Ứng hiện hóa thân bất khả lượng
Tuy nhiên sung mãn biến hư không
Quán lai bất biến như hữu tướng
Thế gian vô vật khả tỷ huống
Trường hiện linh quang minh lãng lãng
Thường thời diễn thuyết bất tư nghị
Vô đắc nhất ngôn dĩ vô đương
(Chú thêm: trong thơ ca Nguyện học va một số thiền
sư Việt Nam, có sự lẫn lộn ít nhiều với thơ ca của các thiền sư Trung Quốc. Xem
Hà Văn Tấn: Vấn đề văn bản học các tác phẩm văn học Phật Giáo Việt Nam. Tạp chí
văn học, số 4-1992 - N.HC.)
[13] 40) Ðây là ví dụ thoại đầu mà Quy Sơn dùng cho
Hương Nghiêm, một đệ tử thông minh học rộng, nhưng chưa có chiều sâu tu chứng:
“Tôi không muốn hỏi về những kiến thức của ông. Tôi chỉ muốn hỏi xem trong đời
sống thường nhật của ông, ông đã thấy được gì. Hãy tùy tiện nói ra một câu xem?
Ông hãy nói cho tôi xem trước khi được cha mẹ ông sinh ra thì mặt mũi của ông
như thế nào?” Hương Nghiêm không trả lời được. Ông nói: “Xin thầy dạy con đi”.
Quy Sơn: “Nếu tôi nói kiến giải của tôi cho ông nghe thì có lợi ích gì cho ông
đâu?” Hương Nghiêm về đốt hết sách vở, bắt đầu vào thực tế Thiền quán, sau này
nhân cuốc đất làm văng một hột sỏi vào thân tre [cốc] một cái, liền hoắt nhiên
khai ngộ. Quy Sơn đã dùng một thoại đầu.
[14] 41) Nghĩa cứu cánh: Chân lý tuyệt đối
[15] 42) Giác hải tâm như hải
Thông Huyền đạo hựu huyền
Thần thông kiêm biến hóa
Nhất Phật nhất thần tiên.
24.3 Lịch sử chữ thập ngoặc
Rất nhiều người thắc
mắc không hiểu tại sao chữ Vạn của Phật giáo lại có hình thức trùng lặp với “chữ
thập ngoặc” của Đức quốc xã.
Gọi là “chữ”, nhưng thực ra cả hai đều là những biểu tượng. Người Việt Nam đã
khéo léo phân biệt 2 biểu tượng này bằng cách dùng hai tên gọi khác nhau. Nhưng
với người tây phương, cả 2 biểu tượng đều được gọi là Swastika, vì hình thức
của chúng hoàn toàn như nhau.
Trước đây, trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” trên Văn Nghệ ngày 15-06-2002,
tôi đã nêu lên nhận xét cho rằng đây không phải là một sự trùng lặp ngẫu nhiên,
mà phải có chủ ý – chủ nghĩa quốc xã Đức đã cố tình lợi dụng Swastika để làm
biểu tượng của chúng. Tuy nhiên, mọi nhận định trong bài viết đó vẫn mang tính
chất suy luận cá nhân, chưa thể hiện đánh giá chính thức của lịch sử thế giới.
Hôm nay tôi đã có đủ tài liệu để giới thiệu với đọc giả những sự thật lịch sử
được ghi chép trên các tài liệu chính thức, trong đó cho biết đích thân Hitler
đã chọn Swastika làm biểu tượng của đảng quốc xã, nhà nước quốc xã và quân đội
quốc xã.
Trước khi tìm hiểu cụ thể, xin chú ý rằng:
• Swastika không phải là biểu tượng của riêng Phật giáo, mà là biểu tượng của
rất nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau.
• Swastika của Đức quốc xã hoàn toàn không liên quan gì đến chữ Vạn của Phật
giáo, mà chỉ liên quan đến Swastika của người Aryan.
Vì thế để tránh nhầm lẫn, bài viết này sẽ sử dụng tên gọi chung của biểu tượng
này là “Swastika”. “Chữ Vạn” sẽ chỉ được dùng cho Swastika của Phật giáo.
Vậy Swastika có xuất xứ từ đâu? Ý nghĩa nguyên thuỷ của nó là gì? Người Aryan
là ai? Tại sao Hitler lại sử dụng Swastika của người Aryan? Đó là những câu hỏi
sẽ được trả lời trong bài viết này.
1- Hành trình và ý nghĩa nguyên thuỷ
của Swastika
Swastika là một trong những biểu tượng cổ xưa nhất mà loài người đã sử dụng. Nó
đã được phát hiện trên những di chỉ khảo cổ có độ tuổi ít nhất hơn 3000 năm tại
khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng
trong thung lũng sông Indus (Bản đồ 1). Swastika cũng xuất hiện trên các bình
gốm và những đồng xu cổ trên đống đổ nát của thành Troy (Bản đồ 2), chứng tỏ nó
đã được sử dụng ít nhất từ 1000 năm trước C.N.
Mặc dù chưa ai vẽ ra được một “lộ trình di cư” chính xác của Swastika qua các
thời đại, nhưng có thể biết chắc chắn rằng trải qua hàng ngàn năm, Swastika đã
có mặt ở hầu khắp các lục địa Á, Âu, Mỹ. Vì thế, Swastika có rất nhiều tên gọi
khác nhau. Tiếng Hán gọi là “wan” (Vạn), tiếng Hy Lạp – tetraskelion, tiếng
Pháp – croix gammé, tiếng Anh – fylfot, tiếng Đức – hakenkreuz, tiếng Ý – croce
uncinata, v.v… Nhưng tên gọi phổ biến nhất vẫn là swastika, bắt nguồn từ chữ
svastika (đọc là suastika) trong tiếng Sanscrit – ngôn ngữ cổ Ấn Độ.
Trong tiếng Sanscrit: Sv, đọc là su, có nghĩa là tốt lành (good, well); asti có
nghĩa là tồn tại (to be); ka là một tiếp vĩ ngữ thể hiện một sự vật hay sự việc
nào đó. Vậy swastika là một sự vật hay một sự việc tồn tại tốt lành, hoặc có trạng
thái tốt lành (well-being).
Charles Messenger trong cuốn “Lịch sử Thế Chiến II bằng hình” (The Pictorial
History of World War II) nói rằng Swastika thể hiện sự phồn thịnh (prosperity)
và sáng tạo (creativity).
Swastika trong nghệ thuật của người Hindu có các dấu chấm trong các cung phần
tư (Hình 1-1), nhưng Swastika của Hindu giáo (Ấn giáo) không có những dấu chấm
này, thể hiện sự thiêng liêng cao cả
Phật giáo đã thừa hưởng Swastika của Hindu giáo. Trong các kinh Phật, Swastika
thường xuất hiện ngay ở phần mở đầu. Trong tiếng Hán, chữ Vạn (wan) biểu thị
cái bao trùm tất cả (all) và sự vĩnh hằng (eternality).
Cuốn “Phật Học Quần Nghi” xuất bản tại Đài Loan viết:
Theo truyền thuyết cổ Ấn Độ, phàm là thánh vương chuyển luân cai trị thế giới
đều có 32 tướng tốt. Phật là một thánh vương trong Pháp nên cũng có 32 tướng
tốt. Điều này được ghi trong kinh Kim Cương Bát Nhã. Chữ Vạn là một trong 32
tướng tốt của Phật. Theo kinh Trường A Hàm thì đó là tướng tốt thứ 16 nằm trước
ngực của Phật.
Tại Nhật Bản, chữ Vạn của Phật giáo được gọi là manji, thể hiện Dharma – sự hài
hoà và cân bằng âm dương trong vũ trụ (giống tư tưởng của Dịch và Lão học) –
trong đó manji quay trái được gọi là một omote manji, thể hiện tình yêu và lòng
nhân từ, khoan dung; manji quay phải được gọi là ura manji, thể hiện sức mạnh
và trí thông minh.
Tại Nam Âu, khu vực tiếp giáp với châu Á, dấu vết Swastika cũng đã được tìm
thấy trong các công trình kiến trúc thuộc nền văn hoá Byzantine – nền văn hoá
thuộc khu vực Biển Đen và Địa Trung Hải kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trước CN đến
tận thời trung cổ.
Dấu vết Swastika cũng xuất hiện trong các đền đài thuộc nền văn hoá Celtic (đọc
là Seltic hoặc Keltic) – nền văn hoá đậm nét Âu châu phi Địa Trung Hải, có xuất
xứ từ Tây và Trung Âu từ khoảng 1000 năm trước CN kéo dài mãi đến nhiều thế kỷ
sau CN, ảnh hưởng sâu rộng khắp Âu châu. Chủ nhân của nền văn hoá này là người
Celt – người nói tiếng Celtic – những người nổi tiếng thông minh, yêu tự do,
dũng cảm trong chiến đấu.
Cần đặc biệt chú ý rằng ngôn ngữ Celtic là một bộ phận của một nhóm ngôn ngữ
rộng lớn hơn được gọi là ngôn ngữ Aryan hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu. Vậy ngôn ngữ Aryan
và ngôn ngữ Ấn-Âu là gì?
2- Ngôn ngữ Aryan và người Aryan
Những người ít quan tâm đến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng
hầu hết các thứ tiếng Âu châu ngày nay hoá ra lại có chung một thuỷ tổ với
tiếng Hindi (tiếng Ấn Độ).
Thuỷ tổ ấy là ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European languages) –
ngôn ngữ của những cư dân sinh sống từ xa xưa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam
Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay (Bản đồ 3). Những cư
dân này tự gọi mình là người Aryan.
Vào khoảng 1500 năm trước CN, người Aryan đã xâm chiếm vùng tây bắc Ấn Độ. Họ
mang theo một nhánh ngôn ngữ của họ đến đó, và trong suốt 1000 năm đầu tiên tại
Ấn, họ đã hoàn thiện ngôn ngữ này đến mức tìm ra cách để viết. Đó chính là ngôn
ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Độ cổ.
Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Độ ngày nay, cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ
Sanscrit. Chính nhờ các văn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit vẫn còn lưu giữ
được trong các di tích tôn giáo và văn hoá của người Hindu mà ngày nay ta biết
được lịch sử của người Aryan. Những văn bản này mô tả người Aryan có nước da
sáng mầu (fair-skinned), có máu mê chiến tranh (warlike), và bản thân chữ Aryan
trong tiếng Sanscrit có nghĩa là người phú quý (nobleman) hoặc chúa tể đất đai
(lords of land)!
Một nhánh khác của người Aryan đã di cư sang xâm chiếm Âu châu và truyền bá
ngôn ngữ của họ ở đó. Vì thế ngôn ngữ của phần lớn người Âu châu ngày nay rất
giống nhau – thực ra hầu hết người Âu đều nói một thứ ngôn ngữ có nguồn gốc
Aryan (trừ tiếng Thổ, Hung, xứ Basques, Phần Lan, Latvia, Estonia, và một vài
nhóm nhỏ ở Nga).
Vì thế ngôn ngữ Aryan được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, người Aryan được gọi là người
Ấn-Âu tiền sử (proto-Indo-European). Người Ấn ở miền bắc Ấn Độ còn được gọi là
người Ấn-Âu. Họ cao lớn, nước da sáng mầu, trong khi người Ấn ở miền nam có
nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé hơn, nước da tối mầu hơn.
Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những năm 1790 được coi là một trong những
khám phá vĩ đại nhất của ngôn ngữ học. Người Âu châu thời đó đã sửng sốt khi
biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp”
vào thời đó như Bắc Ấn, hoá ra cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với họ,
thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ đó, các nhà khảo cổ học lao vào nghiên
cứu mối liên hệ giữa người Âu châu tiền sử với người Aryan cổ đại.
Trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” (đã dẫn), tôi đã đặt dấu hỏi: “Dân tộc
Iran ngày nay và người Aryan xưa kia có liên hệ gì với nhau không? Về mặt âm
ngữ, hai từ Iran và Aryan rất giống nhau. Về mặt lịch sử, chẳng lẽ người Aryan
đi chinh phục Ấn Độ và Âu châu hết mà không để lại một chi nhánh nào của dòng
họ ở nơi xuất xứ là cao nguyên Iran hay sao?”.
Và tôi đã tìm thấy câu trả lời. Bách khoa toàn thư Wikipedia viết: “Vào khoảng
nửa đầu của thiên niên kỷ thứ nhất trước CN, người Aryan đã có mặt trên cao
nguyên Iran và tiểu lục địa Ấn Độ. Thực ra, thuật ngữ Iran là kết quả của thuật
ngữ Ariana (Airyana) có nghĩa là xứ sở của người Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có
hai nhánh chủ yếu: Ngôn ngữ Sanskrit và ngôn ngữ cổ-Iran … trong tiếng Ba-Tư
thời trung cổ, chúng ta thấy chữ Ariana được gọi là Eran, và cuối cùng trong
tiếng Ba-Tư hiện đại, được gọi là Iran”.
Nhà triết học nổi tiếng Hegel từng viết trong cuốn Triết học Lịch sử (The
Philosophy of history) rằng: "Lịch sử của loài người bắt đầu từ lịch sử
của Iran”. Các di chỉ khảo cổ tại Tây Nam Á cho thấy nền văn minh Iran có trước
nền văn minh Ai Cập quãng 3000 năm, khởi đầu ít nhất từ 12000 năm trước đây.
Tóm lại, người Aryan một phần đã chinh phục Bắc Ấn, một phần ở lại Iran, và một
phần đã di cư sang Âu châu và chinh phục hầu khắp Âu châu, lai tạp với cư dân
bản địa Âu châu cổ đại để dần dà trở thành người Âu Mỹ như ngày nay.
Tuy nhiên, khái niệm “người Aryan” dần dần đã bị những kẻ theo chủ nghĩa dân
tộc biến tướng thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ đó dẫn tới những hậu quả chính
trị xã hội vô cùng tệ hại.
3- Về cái gọi là “chủng tộc Aryan”
Như đọc giả đã thấy, những văn bản cổ mô tả người Aryan là những người có những
“ưu điểm vượt trội”: những người “phú quý” hoặc “chúa tể đất đai”! Trong thực
tế, người Aryan đã chinh phục một dải đất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu! “Thành
tích vượt trội” của người Aryan đã làm nức lòng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc
ở châu Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Trong con mắt của họ, “người Aryan”
đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan race) – một “chủng tộc ưu tú hơn”
(superior race) so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ thời đó, tư tưởng này
đã bị phê phán. Nhà Sanscrit học lỗi lạc Max Muller từng nhấn mạnh: “Khi tôi
nói đến chữ Aryan, tôi không hề có ý định đề cập đến những khái niệm liên quan
đến hộp sọ”. Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề
có cái gọi là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có người Aryan mà thôi. Nhưng bất chấp
mọi giải thích, những kẻ có đầu óc dân tộc tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng
tộc Aryan” như một sự thật lịch sử và khoa học.
Đến những năm 1920, chủ nghĩa quốc xã Đức đã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan
lên đến mức cực kỳ phản động: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thượng đẳng (master
race) có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một học
thuyết được coi là “khoa học” vào thời đó: Học thuyết Đác-uyn-xã-hội
(Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trương áp dụng nguyên lý đấu
tranh sinh tồn của Darwin vào trong xã hội loài người.
Nhưng tại sao Đức quốc xã lại chọn Swastika làm biểu tượng của chúng?
Trước khi biết rõ bối cảnh nào đã dẫn Hitler tới chỗ đích thân hắn chọn
Swastika làm biểu tượng cho đảng quốc xã, đọc giả cần biết rõ sự kiện sau đây:
Cuối thế kỷ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng Heinrich Schliemann, người đã khám
phá ra Swastika trên đống đổ nát của thành Troy, trong một công trình nghiên
cứu công phu kết hợp khảo cổ học với Sanscrit học, đã đi đến một kết luận vô
cùng quan trọng rằng Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu. Nói cách khác:
Swastika là biểu tượng đặc trưng của người Aryan
25. Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm tại các nước châu Á
Tư tưởng Đại thừa ra đời như một bước ngoặt
mới của sự phát triển Phật giáo mà nổi bật nhất là lý tưởng hình tượng Bồ tát
ngày càng chiếm ưu thế trong niềm tin của hàng Phật tử theo Phật giáo Đại thừa.
Trong vô số các vị Bồ tát, chỉ có những vị Bồ tát hàng Thập địa mới được tín đồ
ngưỡng mộ, thờ tự và cầu nguyện. Và, Bồ tát Quán Thế Âm là một trong những vị
Bồ tát thuộc hàng Thập địa nhận được sự sùng bái và kính trọng bậc nhất. Sở dĩ
vị Bồ tát này có được sự tôn kính như thế là nhờ vào những đặc tính mà Ngài đại
diện như từ bi, phát nguyện cứu độ tất cả chúng sanh đang trầm luân trong biển
khổ,...
Chính những điều này đã giải quyết được những nhu cầu trong hiện thực cũng như
thỏa mãn phần lớn những đòi hỏi về tâm linh của con người. Hầu như ở tất cả các
quốc gia trên thế giới, nếu như nơi đó có cộng đồng Phật tử theo Phật giáo Đại
thừa thì hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm đều có mặt. Chính vì thế, Ngài cũng là đối
tượng được giới học giả trong lẫn ngoài Phật giáo quan tâm nghiên cứu. Tín
ngưỡng Quán Thế Âm phát triển sang các nước châu Á khá mạnh mẽ sau khi đã hình
thành và truyền bá rộng rãi khắp xứ Ấn.
Việc truyền bá tín ngưỡng Quán Thế Âm theo con đường buôn bán đến các nước phía
Đông theo hai hướng: con đường biển xuyên qua các nước Nam và Đông Nam Á rồi
sang vùng Viễn Đông và Con đường tơ lụa từ Trung Á băng qua sa mạc Gobi đến
phía Đông Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Bắc Việt Nam. Như thế, việc giao
thương buôn bán đã trở thành điều kiện thuận lợi để tín ngưỡng Quán Thế Âm lan
tỏa khắp nơi. Giới Tăng sĩ Phật giáo đã theo đoàn người buôn bán trên Con đường
tơ lụa để vượt qua sa mạc, hay theo các thương thuyền để đến Nam, Đông Nam Á
rồi sang vùng Viễn Đông, và chính những thương nhân cũng là lực lượng góp phần
quan trọng trong quá trình truyền bá này.
Đến bất cứ vùng nào, Bồ tát Quán Thế Âm cũng được thể hiện thông qua sự kết hợp
thêm những tính chất của các vị thần linh bản địa. Thực tế, tín ngưỡng Quán Thế
Âm là một hình thức pha trộn những nét đặc trưng giữa Phật giáo và các tín
ngưỡng, tôn giáo thịnh hành trong thời gian này. Vì thế, Ngài có những nét đặc
trưng không chỉ của Phật giáo mà còn của các vị thần thời Veda như Purusa,
Siva, Indra, Vishnu, Surya và của những vị thần bản địa khác. Chính những điểm
này đã là chiếc cầu lấp đầy khoảng cách giữa Hindu giáo, Phật giáo và tín
ngưỡng bản địa. Sự tổng hòa các đặc trưng đó làm cho Bồ tát Quán Thế Âm được
đông đảo tín đồ sùng kính, phổ biến hơn cả Đức Phật Thích Ca trong niềm tin của
một số cộng đồng dân cư.
Việc buôn bán quốc tế trên đường biển xuyên qua Đông Nam Á trở nên thường xuyên
vào khoảng cuối thế kỷ thứ II. Từ đó, khu vực Đông Nam Á được thế giới biết đến
như một vùng đất thần bí, nơi sản xuất hương liệu gia vị. Trong nhiều thế kỷ,
Đông Nam Á là nơi trung chuyển, kết nối và tham gia vào quá trình buôn bán trên
con đường này. Cũng nhờ tiến trình thương mại đó mà các quốc gia ven biển vùng
Đông Nam Á đã ra đời và phát triển mạnh. Sự thịnh suy về phương diện kinh tế,
văn hóa… của họ cũng lệ thuộc khá nhiều vào con đường buôn trên biển.
Nhìn ở góc độ văn hóa, nhờ đường buôn phát triển mà các nước Đông Nam Á đã tiếp
thu văn hóa Ấn Độ, trong đó có tín ngưỡng tôn giáo. Lịch sử ghi nhận, Phật giáo
cũng theo con đường này mà hòa nhập vào đời sống của người dân bản địa. Ban
đầu, chỉ giới thương nhân Phật tử tham gia truyền bá. Về sau, giới Tăng sĩ Phật
giáo mới tham gia khi họ đi nhờ trên thuyền buôn giữa Trung Hoa và Ấn Độ.
Phật giáo đến với vùng đất Đông Nam Á theo nhiều thời kỳ khác nhau, tùy theo
quốc gia, dân tộc nào tiếp cận sớm hay muộn. Với hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm,
sau khi hình thành và phát triển mạnh ở trên đất Ấn, thì đến thế kỷ thứ V, Ngài
mới bắt đầu “vượt biển” để đến với các quốc gia phía Đông Nam Á. Như thế, nhờ
vào con đường giao thương, việc thờ phụng Quán Thế Âm đã được truyền đến và
phát triển mạnh ở Sri Lanka và những quốc gia Đông Nam Á lục địa khác.
Đến bất cứ vùng đất nào, hình ảnh từ bi của Bồ tát Quán Thế Âm cũng luôn giữ
một vai trò quan trọng trong cộng đồng Phật giáo. Các nền văn hóa khác nhau có
những lựa chọn khác nhau để thể hiện Ngài. Thông qua quá trình tiếp biến, các
nước trong khu vực này có cách tôn thờ Bồ tát Quán Thế Âm thật đặc trưng.
Những quốc gia trong khu vực Nam và Đông Nam Á lục địa phần lớn theo truyền
thống Phật giáo Theravada. Mặc dù vậy, việc thờ tự Quán Thế Âm xuất phát từ
Phật giáo Đại thừa (Mahàyana) cũng chiếm được tình cảm của quần chúng trong các
quốc gia như Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Indonesia,... Có thể,
trong khi giáo lý Theravada tạo được sự hấp dẫn đối với hàng đệ tử Tỳ kheo tu
khổ hạnh thì niềm tin Đại thừa tương đối tự do và có tư tưởng thông thoáng hơn,
hơn nữa, đặc tính từ bi của Bồ tát Quán Thế Âm, giúp đỡ tất cả những ai đang
gặp bất hạnh, đã thỏa nguyện ước vọng quần chúng, lan tỏa rộng rãi trong dân
chúng.
Trên đường phát triển sang Đông Nam Á, hình
tượng Bồ tát Quán Thế Âm đã đến với đảo quốc Sri Lanka. Họ gọi Ngài với tên
Natha Deviyo. Ở vùng đất này, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Di Lặc dường như là
đại biểu cho hai mặt của niềm tin trong thế kỷ thứ VII. Chutiwongs đã nhận định
rằng, Guàabhadra (394-468) hay Pháp Hiển, những vị sùng kính Quán Thế Âm, đã
truyền bá tín ngưỡng này đến Sri Lanka. Guàabhadra đã đến Trung Quốc theo con
đường buôn trên biển và có ghé qua vùng Sri Lanka vào năm 435. Cao tăng Pháp Hiển,
cũng trong khoảng thời gian này, đã hành hương sang đất Ấn thỉnh kinh. Khi về,
ngài đã đi đường biển và có ghé lên đảo quốc Sri Lanka, Indonesia. Đây là hai
vị sư trí thức của Phật giáo Đại thừa rất tín phụng Bồ tát Quán Thế Âm.
Bên cạnh hàng Tỳ kheo trí thức Theravada, Sri Lanka đã sản sinh những nhà
truyền giáo Đại thừa vĩ đại. Trong lịch sử, Vajrabodhi (671-741) đã viếng thăm
Sri Lanka trước khi ngài đến Trung Hoa. Hơn nữa, Amoghavajra (705-774), đệ tử
của ngài và là một vị pháp sư nổi tiếng của Trung Hoa, là cư dân Sri Lanka.
Điều này chứng tỏ, ở Sri Lanka có một thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo Đại thừa
và có sức lan tỏa rất mạnh.
Tín ngưỡng dân gian Natha, từng phổ biến ở Sri Lanka, dường như cũng bị hình
ảnh Quán Thế Âm che khuất hay đồng hóa. Trong thời gian tín ngưỡng Quán Thế Âm
hưng thịnh, quốc gia này đã tạo nên những hình ảnh tuyệt đẹp về Ngài, dấu tích
hiện còn là những hình tượng bằng đá hay bằng đồng đang được trưng bày trong
các viện bảo tàng quốc gia trong và ngoài nước.
Hiện nay, tại Viện Bảo tàng Quốc gia ở thủ đô Columbo của Sri Lanka còn lưu giữ
bức tượng Bồ tát Quán Thế Âm. Tượng mạ vàng, mắt gắn hạt đá thạch anh trong
suốt, mình trần đóng khố, tư thế ngồi của bậc vương giả, tóc búi cao và trước
búi tóc, trên vùng trán có hình Phật. Tay phải bức tượng đang ở tư thế cầm một
biểu tượng và tay trái chống xuống bàn thạch để đỡ thẳng thân người, một chân
thả lỏng, một chân chống trên bệ.
Như Sri Lanka, Myanmar đón nhận Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ vào khoảng đầu thế
kỷ thứ III trước Tây lịch. Hai tông phái Phật giáo Mahàsanghikas và Theravada
đã tạo nên ở Myanmar một pháo đài Phật giáo kiên cố trong thế kỷ thứ II, thứ
III.
Triều đại Pagan (1044 – 1287) tại Myanmar đã đánh dấu một thời kỳ mới của sự
thờ phụng tín ngưỡng Quán Thế Âm khi Ngài đến và trở thành một đối tượng sùng
bái như một vị linh thần độc lập. Trong khoảng thời gian đó, Myanmar chịu ảnh
hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau. Mặc dù vua Aniruddha theo Phật giáo
Theravada, nhưng ông vẫn tín phụng Quán Thế Âm. Vì thế, ông thường tôn xưng
Ngài là Lokanàtha(1). Rất tiếc, những dấu ấn một thời của tín ngưỡng Bồ tát
Quán Thế Âm trên đất nước Myanmar chỉ còn lại trên sách vở. Chúng tôi chưa tìm
thấy một tác phẩm nghệ thuật nào miêu tả về hình tượng của Ngài như những quốc
gia khác trong khu vực Đông Nam Á.
Vào thế kỷ thứ VII, Dvaravati (miền Trung Thái Lan) trở thành một trong những
vương quốc hùng mạnh trong vùng Đông Nam Á. Điều đó được ghi nhận cùng với
những hình ảnh Đức Phật vượt trội so với các di chỉ văn hóa khác của Dvaravati.
Chúng tiêu biểu cho những đặc tính của quá trình ảnh hưởng văn hóa Andhradesa
và Sri Lanka hòa lẫn với số lượng đáng kể ảnh hưởng văn hóa thời kỳ cuối và hậu
Gupta từ phía Bắc Ấn và Mahàrashtra. Cho dù các vùng dân cư Dvaravati phần lớn
theo Phật giáo Theravada, nhưng tư tưởng Đại thừa vẫn phát triển. Có thể, theo
chân sự ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ, tư tưởng Phật giáo Đại thừa đã đến vào
khoảng thế kỷ thứ VII. Niềm tin Đại thừa đã lan tỏa mạnh trong dân chúng trong
vài thế kỷ sau đó. Diện mạo của Bồ tát Quán Thế Âm xuất hiện trong nghệ thuật
Dvaravati và tạo nên những nét sinh động mới.
Ở Campuchia, Phật giáo được truyền đến từ rất sớm. Sự thờ phụng Quán Thế Âm
cũng thắng thế vào đầu thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ VIII. Campuchia là quốc
gia tiêu biểu nhất cho nét văn hóa truyền thống tín ngưỡng Vua – Thần. Angkor
là thời kỳ hưng thịnh nhất trong lịch sử Khmer. Họ đã xây dựng cho mình một
vương quốc hùng mạnh, tạo nên một nền văn minh Angkor nổi tiếng, lan tỏa sự ảnh
hưởng sang các vùng xung quanh, kéo dài hàng thế kỷ. Các vị vua trong triều đại
Angkor luôn tự xưng mình là một vị vua được hóa thân từ một vị thần mà họ
ngưỡng mộ, sùng kính. Trong giai đoạn đầu, Angkor theo Hindu giáo, thần Siva
được ngưỡng mộ và trở thành vị thần được ưu ái nhất. Hầu hết các vị vua
Campuchia đều đồng nhất mình với thần Siva.
Khi Phật giáo được truyền bá vào đất nước này, hình ảnh của Phật hay của một vị
Bồ tát mà họ ngưỡng mộ đã thế chân các vị thần bản địa hay các vị thần Hindu
xuất hiện trước đó. Từ đó, danh xưng của họ cũng gắn liền với tên tuổi của vị
Phật hay Bồ tát mà họ ngưỡng mộ. Đó là giai đoạn cai trị của vua Jayavarman VII
(1181-1201), một trong những vị vua xuất sắc và nổi tiếng nhất của thời kỳ văn
minh Angkor. Sau khi giành lại đất nước từ quân xâm lược Champa, năm 1181, ông
đã thực hiện một cuộc chuyển hướng mạnh mẽ về mặt tín ngưỡng. Thay vì tôn thờ
các vị thần Hindu như các vị vua trước, ông đặc biệt đề cao và tôn thờ Phật
giáo Đại thừa. Ông cho xây dựng nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc
mang đậm dấu ấn Phật giáo và cũng tự nhận mình là hóa thân của Bồ tát Quán Thế
Âm.
Từ đó, Bồ tát Quán Thế Âm được xưng tụng dưới nhiều danh hiệu khác nhau trong
các bi ký, như Vrah Kamrateu, Sri Avalokitesvara, Avalokitesa, Avalokita,...
Những danh hiệu này xuất hiện trong thời kỳ Angkor. Hình ảnh của Ngài xuất hiện
riêng biệt cũng được tạo dựng ở đây trong thế kỷ thứ VII. Văn hóa Campuchia đã
tạo nên những nét đặc trưng hấp dẫn riêng về Bồ tát Quán Thế Âm trong khoảng thế
kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ X.
Triều đại của vua Jayavarman VII đánh dấu đỉnh cao của nghệ thuật Khmer. Là một
Phật tử thuần thành, ông củng cố lại vương quyền Khmer hùng mạnh, xây dựng nên
một vương quốc của lòng từ bi vô bờ bến. Những bức tượng về Đức Phật và Bồ tát
Quán Thế Âm hầu như có mặt khắp các ngôi đền linh thiêng trên toàn quốc. Kể từ
khi ông tuyên bố nhận mình là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm, tín ngưỡng này
bắt đầu lan tỏa và phát triển mạnh trên toàn vương quốc và đây là thời gian
hưng thịnh nhất của tín ngưỡng Quán Thế Âm trên vùng đất của người Khmer.
Vì thế, thành tựu nổi bật nhất của thời kỳ này và cũng là của toàn bộ nền văn
minh Angkor có dấu ấn rất đậm của tín ngưỡng Quán Thế Âm, đặc biệt nhất là thời
kỳ Bayon (1177-1230). Những bức tượng bốn mặt cùng nụ cười bí hiểm và khó hiểu
đã làm ngây ngất những ai đã từng đến đây chiêm ngưỡng, từ những du khách bình
thường đến những nhà nghiên cứu, đền Bayon được xem là đỉnh cao nghệ thuật trong
quần thể kiến trúc Angkor.
Trong những quan điểm khác nhau về bức tượng Bayon, có ý kiến giải thích Bayon
là những bức tượng bán thân Quán Thế Âm bốn mặt, tượng trưng cho bốn hạnh
nguyện của Bồ tát: từ, bi, hỷ, xả. Bởi vì, đền Bayon được xây dựng vào thời kỳ
hưng thịnh nhất của tín ngưỡng Quán Thế Âm trong lịch sử Campuchia. Nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng đó cũng chính là khuôn mặt của vua Jayavarman VII. Điều đó
cũng có lý vì chính ông tự nhận mình là hiện thân của Bồ tát Quán Thế Âm. Hơn
nữa, trọn quyền quyết định trong tay, nhà vua tất phải ưu tiên xây dựng những
hình tượng thần thánh mà mình ngưỡng mộ để phục vụ cho mục đích bảo vệ vương
quyền của nhà vua. Từ những nhận định trên, chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng
những bức tượng trên đền Bayon nổi tiếng là hình ảnh của Bồ tát Quán Thế Âm.
Vừa qua, hình ảnh ngôi đền Bayon đã được Chính phủ Campuchia chọn làm biểu
tượng cho Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN lần thứ 36 diễn ra tại
Phnom Penh. Sự kiện hình ảnh ngôi đền Bốn mặt được sử dụng để thể hiện cho ước
nguyện hòa bình và thịnh vượng trong toàn khu vực đã nói lên tầm quan trọng của
hình ảnh này trong tiềm thức của người dân Campuchia.
Ngoài ra, cư dân Đông Nam Á hải đảo cũng đón nhận và thờ phụng Bồ tát Quán Thế
Âm rất thành kính. Cũng trong thời kỳ nở rộ, hình tượng của Ngài đã lan đến các
vùng đảo của Malaysia và Indonesia. Ngài thậm chí còn có mặt ở tận đảo quốc
Philippines, một quốc gia hải đảo ở về phía cực Đông của khu vực Đông Nam Á.
Hiện nay, các bức tượng của Bồ tát Quán Thế Âm vẫn còn ở Indonesia và
Philippines như những nhân chứng cho sự hiện hữu của Ngài trong quá khứ trên những
đảo quốc này.
Có thể nói, Quán Thế Âm là vị Bồ tát có hình tướng thể hiện cực kỳ linh động và
phong phú bậc nhất trong hệ thống thờ tự Phật giáo nói riêng và tín ngưỡng dân
gian nói chung. Sự phổ biến mạnh mẽ của hình tượng này đã chứng tỏ sức mạnh vi
diệu của từ bi, trí tuệ Phật giáo. Tiến sĩ Vu Quân Phương, Khoa trưởng Phân
khoa Tôn giáo, Đại học Quốc gia New Jersey – Hoa Kỳ, đã từng nhận xét “Quán Thế
Âm là vị Bồ tát của một nửa Á châu”. Lời nhận xét đó thiết tưởng đã khái quát
trọn vẹn sự ảnh hưởng của Ngài đối với giới Phật tử từ xưa đến nay.
(1) Loka: Thế giới, nàtha: được tôn trọng, Lokanàtha là người đáng được tôn
trọng hơn hết trong các bậc chúng sinh. Từ này thường được dùng để tôn xưng Đức
Phật. Trung Hoa dịch là Thế Tôn.
26. Chữ Vạn
Chữ Vạn (
svastika) là một biểu tượng chữ thập với bốn đầu mút cong về góc traí và hướng
sang bên traí, có hướng xoay ngược chiều kim đồng hồ. Tên gọi svastika (gồm chữ
sv và asti ghép lại) hiểu theo tiếng Phạn có nghĩa là “phúc lộc, an khang,
thành công thịnh vượng”. Biểu tượng chữ Vạn của Ấn Độ giáo, đôi khi còn được
trang trí thêm các chấm tròn ở các góc một phần tư.
Đây là biểu tượng
của hạnh vận và cũng đã từng được bắt gặp trong nghệ thuật của người Ai Cập, La
Mã, Ba Tư, Hy Lạp cổ đại. Ở Ấn Độ, biểu tượng này được phát hiện từ khoảng 2500
năm TCN và thường được coi là biểu tượng của Mặt Trời. Trong tín ngưỡng Ấn Độ
giáo, chữ Vạn được đồng hóa với thần Vishnu và được liên kết với thần Shiva và
việc thờ rắn thần Nagar.
Chữ Vạn được coi là biểu tượng của Phật giáo, hàm chứa Phật tính. Đây là một
trong 80 vẻ đẹp của Phật. Trong truyền thống đạo Bon bản địa của Tây Tạng, chữ
Vạn là biểu tượng của sự vĩnh hằng, bất biến. Tuy nhiên, chữ Vạn của đạo này
lại quay ngược chiều kim đồng hồ.
Tại Trung Quốc, từ khoảng năm 700, chữ Phạn biểu thị con số 10 ngàn nhưng hàm ý
vô hạn.
Chữ Vạn được xuất hiện trên ngực hoặc trên lòng bàn tay và gót chân của Phật
hoặc các Jinas. Nó còn được dùng làm hoa văn trang trí trên vải, tạo thành
đường viền cho mẫu thiết kế.
Bát thập chủng hảo
Bát thập chủng hảo : Là tám mươi vẻ đẹp phụ trên thân của một vị Phật. Tương
truyền các tướng tốt nầy cần phải tu hành một trăm đại kiếp mới đạt được. Bản
liệt kê 80 vẻ đẹp nầy không thấy ghi trong các kinh văn nguyên thuỷ, nhưng rất
thường thấy đề cập trong tiểu sử của Phật và các kinh văn Đại thừa. Có lẽ nó có
xuất xứ từ các đại biểu của Thuyết nhất thiết hữu bộ, nhưng nó lại được sử dụng
thường xuyên trong văn học Đại thừa.
Kinh văn đầu tiên liệt kê đầy đủ 80 vẻ đẹp có lẽ được tìm thấy trong Phật bản
hạnh tập kinh ( sa. abhiniṣkramaṇa-sūtra), là bản ghi lịch sử
đức Phật trọn vẹn nhất trong Hán tạng. Dưới đây là bản liệt kê 80 vẻ đẹp bằng
tiếng Hán trong Phật Quang đại từ điển (đã được dịch):
Hình tượng Phật ở Thái Lan có nhiều nét đẹp của phật được hiểu theo kiểu người
xứ Thái và tạc thành tượng.
1. Chỉ trảo hiệp trường, bạc nhuận quang khiết : Móng tay thon dài, mảnh và
sáng bóng;
2. Thủ túc chi chỉ viên nhi tiêm trường, nhu nhuyễn : Ngón tay, ngón chân tròn,
thon dài, mềm dịu;
3. Thủ túc các đẳng vô sai, chư chỉ gian giai sung mật : Tay chân cân xứng, các
ngón khi khép lại thì kín đầy;
4. Thủ túc quang trạch hồng nhuận : Tay chân sáng bóng, tươi hồng;
5. Cân cốt ẩn nhi bất hiện : Gân xương ẩn kín, không lộ ra;
6. Lưỡng khoả câu ẩn : Hai mắt cá chân ẩn kín;
7. Hành bộ trực tiến, uy nghi hoà mục như long tượng vương : dáng di hướng
thẳng phía trước, uy nghi khoan thai như rồng chúa, voi chúa;
8. Hành bộ uy dung tề túc như sư tử vương : Dáng đi oai vệ như sư tử chúa;
9. Hành bộ an bình do như ngưu vương : Dáng đi bình thản nhr trâu chúa;
10. Tiến chỉ nghi nhã uyển như nga vương : Phong thái tiến, dừng thanh nhã, uyển
chuyển như ngỗng chúa;
11. Hồi cố tất giai hữu toàn như long tượng vương chi cử thân tùy chuyển : Quay
nhìn đều theo bên phải như voi chúa nhấc mình để di chuyển;
12. Chi tiết quân vân viên diệu : Các khớp tay chân đều tròn và đẹp;
13. Cốt tiết giao kết do nhược long bàn : Các đốt xương liên kết nhau như rồng
cuốn;
14. Tất luân viên mãn : Đầu gối tròn đầy;
15. Ẩn xứ chi văn diệu hảo thanh tịnh : Chỗ ẩn vân tốt đẹp và thanh tịnh;
16. Thân chi nhuận hoạt khiết tịnh : Thân và tay chân tươi nhuận, trơn láng, thanh
tịnh;
17. Thân dung đôn túc vô uý : Phong thái đôn hậu, vô uý;
18. Thân chi kiện tráng : Thân thể tráng kiện;
19. Thân thể an khang viên mãn ;
20. Thân tướng do như tiên vương, chu táp đoan nghiêm quang tịnh : Thân tướng
như tiên chúa, toàn thân đoan nghiêm sáng sạch;
21. Thân chi chu táp viên quang, đản tự nhiên diệu : Có hào quang thường chiếu
sáng quanh thân; 22. Phúc hình phương chính, trang nghiêm : Bụng vuông vức,
trang nghiêm;
23. Tề thâm hữu toàn : Rốn sâu, xoay về hướng phải;
24. Tề hậu bất ao bất đột : Rốn đầy, không lõm không lồi;
25. Bì phu vô giới tiển : Da không ghẻ lác;
26. Thủ chưởng nhu nhuyến, túc hạ an bình : Bàn tay mềm mại, lòng bàn chân bằng
phẳng;
27. Thủ văn thâm trường minh trực : Chỉ tay sâu, dày, rõ ràng;
28. Thần sắc quang nhuận đan huy : Môi đỏ thắm, sáng và tươi nhuần;
29. Diện môn bất trường bất đoản, bất đại bất tiểu như lượng đoan nghiêm : Mặt
không dài không ngắn, không lớn không nhỏ, vừa vặn, đoan nghiêm;
30. Thiệt tướng nhu nhuyễn quảng trường : Lưỡi mềm, dài, rộng;
31. Thanh âm uy viễn thanh triệt : Tiếng nói oai hùng, vang xa, trong suốt;
32. Thanh vận mĩ diệu như thâm cốc hưởng : Âm vận hay đẹp như tiếng vang nơi
hang sâu;
33. Tỉ cao thả trực, kì khổng bất hiện : Mũi cao và thẳng, lỗ mũi kín;
34. Xỉ phương chỉnh tiên bạch : Răng đều đặn, trắng đẹp;
35. Nha viên bạch quang khiết phong lợi : Răng trắng tròn, sáng sạch, bén nhọn;
36. Nhãn tịnh thanh bạch phân minh : Mắt trong, lòng đen lòng trắng phân minh;
37. Nhãn tướng tu quảng : Mắt dài rộng;
38. Nhãn tiệp tề chỉnh trù mật : Lông mi đều và dày;
39. Song mi trường nhi tế nhuyễn : Lông mày dài và mịn;
40. Song mi trình cam lưu li sắc : Lông mày xanh biếc như lưu li;
41. Mi cao hiển hình như sơ nguyệt : Lông mày cách xa mắt và cong như trăng
lưỡi liềm;
42. Nhĩ hậu quảng đại tu trường luân đoá thành tựu : Vành tai rộng, đoá tai dài
thòng xuống;
43. Lưỡng nhĩ tề bình, li chúng quá thất : Hai vành tai bằng nhau, không có sai
khuyết;
44. Dung nghi linh kiến giả giai sinh ái kính : Phong cách uy nghi, khiến người
thấy liền sinh kính mến;
45. Tảng quảng bình chính (額廣平正): Trán rộng, bằng
phẳng;
46. Thân uy nghiêm cụ túc (身威嚴具足): Thân đầy đủ
tướng oai nghiêm;
47. Phát tu trường cam thanh, mật nhi bất bạch : Tóc dài xanh biếc, dày mà
không bạc;
48. Phát hương khiết tế nhuận (髮 香 潔 細 潤): Tóc mịn, toả hương thanh khiết;
49. Phát tề bất giao tạp (髮齊不交雜): Tóc ngay ngắn
không rối;
50. Phát bất đoạn lạc (髮不斷落): Tóc không đứt rụng;
51. Phát quang ho�
��t thù diệu, trần cấu bất trước : Tóc trơn bóng, bụi không dính;
52. Thân thể kiên cố sung thật : Thân thể vững chắc đầy đặn;
53. Thân thể trường đại đoan trực : Thân thể cao lớn đoan chính;
54. Chư khiếu thanh tịnh viên hảo : Các huyệt thanh tịnh tròn đẹp;
55. Thân lực thù thắng vô dư đẳng giả : Sức mạnh thù thắng, không ai sánh bằng;
56. Thân tướng chúng sở lạc quán : Thân tướng được mọi người ưa nhìn;
57. Diện như thu mãn nguyệt : Khuôn mặt như trăng tròn mùa thu;
58. Nhan mạo thư thái : Vẻ mặt thư thái;
59. Diện mạo quang trạch vô hữu tần xúc : Gương mặt sáng bóng không vết nhăn;
60. Thân bì thanh tịnh vô cấu, thường vô xú uế : Da sạch không cáu ghét, thường
không có mùi hôi;
61. Chư mao khổng thường xuất diệu hương : Các lỗ chân lông thường toả hương
thơm;
62. Diện môn thường xuất tối thù thắng hương : Diện môn thường toả mùi hương
thù thắng;
63. Tướng chu viên diệu hảo : Tướng tròn đầy tốt đẹp;
64. Thân mao cam thanh quang tịnh : Lông trên mình xanh biếc sạch sẽ;
65. Pháp âm tùy chúng, ứng hiện vô sai : Pháp âm tùy theo đại chúng mà ứng
hiện, bình đẳng không sai biệt;
66. Đỉnh tướng vô năng kiến giả : Tướng đỉnh đầu không ai thấy được;
67. Thủ túc chỉ cương phân minh : Đường vân của ngón tay, ngón chân phân minh;
68. Hành thời kì túc li địa : Khi đi, hai chân đều cách mặt đất;
69. Tự trì bất thị tha vệ : Tự giữ gìn, không nhờ người khác hộ vệ;
70. Uy đức nhiếp nhất thiết : Uy đức nhiếp phục hết thảy;
71. Âm thanh bất ti bất kháng, tùy chúng sinh ý : Thanh âm nói ra không thấp
không cao, vừa sự tiếp thu của chúng sinh;
72. Tùy chư hữu tình, nhạo vi thuyết pháp (: Tùy theo sự ưa thích của chúng
sinh mà thuyết pháp;
73. Nhất âm diễn thuyết chính pháp, tùy hữu tình loại các linh đắc giải : Diễn
thuyết chính pháp chỉ bằng một âm thanh, tùy các loài chúng sinh nghe đều được
giải thoát;
74. Thuyết pháp y thứ đệ, tuần nhân duyên : Thuyết pháp theo thứ lớp, tùy nhân
duyên;
75. Quán hữu tình, tán thiện huỷ ác nhi vô ái tắng : Quán sát chúng sinh, khen
thiện chê ác, nhưng không có tâm yêu ghét;
76. Sở vi tiên quán hậu tác, cụ túc quỹ phạm : Trước quan sát kĩ các việc rồi
sau mới làm, tuân thủ đúng quy tắc;
77. Tướng hảo, hữu tình vô năng quán tận : Tướng tốt đẹp, chúng sinh không thể
nào thấy hết được;
78. Đỉnh cốt kiên thật viên mãn : Xương đầu cứng chắc, tròn đầy;
79. Nhan dung thường thiếu bất lão : Dung nhan trẻ mãi không già;
80. Thủ túc cập hung ức tiền, câu hữu cát tường hỉ toàn đức tướng : Nơi chân
tay và trước lồng ngực đều có tướng tốt cát tường hỉ (chữ Vạn 卐) xoay vần.
Phật thuyết như sau: Tâm bố thí mà kiên định, thành kính hướng về tha nhân,
không đợi chờ họ nói ra lời những gì họ mong muốn được bố thí. người phát tâm
phải xét đoán biết ý cầu mong của họ và mở hết lòng rộng lớn thương kính cần
cầu cung cấp cho người, không một mảy may trước tâm. bố thí như vậy, thì người
đó vì, do tâm kiên định nên được thiện báo : Tay chân mềm mại, tướng hảo đoan
nghiêm, tay dài tới gối, chân có luân tướng, mắt sáng răng trong v.v… và đầy đủ
các tướng hảo
27. đạt lai lạt ma - vị thánh sống của nhân loại
Mới đây theo công
trình nghiên cứu cá nhân của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney,
Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân
người châu Á, đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh
Mahatma Ghandi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.
Đức Đạt Lai Lạt Ma 14, tên thật là Tenzin
Gyatso, là một nhà lãnh đạo thế quyền và giáo quyền của nhân dân Tây Tạng. Ngài
chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày 6 tháng 7 năm 1935
(Ất Hợi) trong một gia đình nông dân. Ngài được thừa nhận là Dalai Lama vào năm
2 tuổi theo truyền thống Tây Tạng như là hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
13, cũng là hiện thân của Đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara), một vị Bồ tát của
lòng từ.
Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân lòng từ
của chư Phật và Bồ tát, người chọn con đường tái sinh trở lại kiếp người để cứu
giúp chúng sanh. Dalai Lama, nghĩa là "Người bảo vệ đức tin"
(Defender of the Faith), "Biển lớn của trí tuệ" (Ocean of Wisdom),
"Vua của Chánh Pháp" (King of Dharma), Viên bảo châu như ý
(Wishfulfilling Gem).....
Đức Đạt Lai Lạt Ma được tấn phong tước vị Dalai Lama vào ngày 22 tháng 2 năm
1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, chính thức là người lãnh đạo chính trị và
tôn giáo cho 6 triệu người Tây Tạng.
1. Quá trình tìm kiếm Đức Đạt Lai
Lạt Ma:
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 viên tịch vào năm 1933, chính phủ Tây Tạng
gặp khủng hoảng trong việc tìm kiếm một người thừa kế. Năm 1935, vị nhiếp chính
đi đến hồ thiêng Lhamo Lhatso ở Chokhorgyal, khoảng 90 dặm từ thủ đô Lhasa.
Theo truyền thống của Tây Tạng, người ta có thể nhìn thấy mọi việc ở tương lai
từ hồ thiêng (Holy lake) này. Lúc bấy giờ vị nhiếp chính thấy ba chữ Tây Tạng
Ah, Ka và Ma hiện lên giữa mặt nước trong vắt của hồ thiêng, theo sau ba mẫu tự
này là bức tranh của một ngôi chùa ba tầng với mái ngói màu xanh lục và một căn
nhà có chiếc máng xối kỳ lạ.
Năm 1937, chính phủ Tây Tạng đã gởi những hình ảnh thiêng liêng ấy từ hồ thiêng
đến các tỉnh thành của Tây Tạng để tìm kiếm nơi tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt
Ma. Một phái đoàn tìm kiếm tái sanh được thành lập và đi về hướng Đông Bắc Tây
Tạng, vị trưởng phái đoàn là Lạt ma Kewtsang Rinpoche, Tu viện trưởng Tu viện
Sera. Khi phái đoàn đến làng Amdo, họ thấy quang cảnh nơi này giống y như hình
ảnh đã thấy dưới hồ thiêng. Lobsang Tsewang cải trang thành người trưởng đoàn,
và Lạt ma Kewtsang cải trang thành người thị giả và họ vào thăm một căn nhà với
chiếc máng xối kỳ lạ. Bấy giờ Lạt ma Kewtsang có mang một xâu chuỗi (rosary)
của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và chú bé trong căn nhà ấy đã nhận ra nó và yêu
cầu được cầm xem. Lạt Ma Kewtsang hứa sẽ cho nếu chú đoán được ngài là ai. Và
chú bé liền trả lời ngay bằng một loại tiếng lóng của địa phương là "Sera
aga'', nghĩa là ''Lạt ma ở tu viện Sera". Tiếp đó, Ngài hỏi chú bé vị trưởng
đoàn là ai và chú bé đã trả lời đúng; chú cũng cho biết tên chính xác tên của
người thị giả. Theo sau đó là một loạt trắc nghiệm khác để chú bé chọn lựa
những đồ dùng thường ngày của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và chú bé cũng nhận ra
tất cả và nói: ''của tôi, của tôi". Chú bé ấy chính là Đức Đạt Lai Lạt Ma
hiện nay.
Từ những kết quả của cuộc kiểm tra này giúp họ đoán chắc rằng họ đã tìm ra hóa
thân mới và niềm tin của họ càng được vững mạnh thêm bởi những ý nghĩa từ ba
mẫu tự Tây Tạng đã từng thấy dưới hồ thiêng: Ah là hàm nghĩa cho tỉnh lmdo,
nơi chú bé chào đời, Ka là chỉ cho Tu viện Kumbum, một ngôi Tu viện lớn nhất
với ba tầng gần nhà của chú bé và Ma là ám chỉ cho ngôi tu viện Karma Rolpai
Dorje ở trên ngọn núi của ngôi làng gần bên. Cuối cùng phái đoàn quyết định chú
bé ấy là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.
2. Tu học tại Tây Tạng :
Đức Đạt Lai Lạt bắt đầu sự nghiệp học vấn của mình vào năm 6 tuổi và hoàn tất
học vị cao nhất của PG Tây Tạng là Geshe Lharampa, tương đương với Tiến sĩ
triết học Phật giáo (Doctorate of Buddhist Philosophy) ở tuổi 25 vào năm 1959.
Năm 24 tuổi, Ngài đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại học Phật giáo Drepung,
Sera và Ganden. Kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ đô Lhasa trong
thời gian lễ hội Monlam, tháng giêng theo lịch Tây Tạng.
Trước đó Ngài phải học tất cả các môn học chính như Luận lý (Logic) văn hóa và
nghệ thuật Tây Tạng (Culture & Tibetan Art), Phạn ngữ (Sanskrit), Y học
(Medicine), Triết học Phật giáo (Buddhist philosophy). Riêng môn Phật học này
là khó nhất, được chia ra làm năm phần là Bát nhã (Prajnaparamita), Trung quán
luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), Luận A Tỳ Đạt Ma (Abidharma) và Nhân
minh luận (Pramana) . Và các môn học phụ khác là: biện luận (dialetics), thơ ca
(poetry), âm nhạc (music) và kịch nghệ (drama), thiên văn (astrology), văn phạm
(metre and phraseing ).
3. Vai trò và trách nhiệm lãnh đạo :
Vào ngày 17 tháng 11 năm 1950, Đức Đạt Lai Lạt đã khoác lên mình một trọng
trách là người lãnh đạo thế quyền của người dân Tây Tạng (head of the State and
Government) sau khi có khoảng 80.000 quân lính của Trung Quốc tấn công vào Tây
Tạng.
Năm 1954, Ngài đã đến Bắc kinh để thương thuyết hòa bình với chủ tịch Mao Trạch
Đông (Mao Tse-tung) và những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân Lai (Chou
En-lai) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping). Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong
chuyến đi này không mang lại kết quả, cuối cùng Ngài đã quyết định muốn cứu vãn
cho Tây Tạng Ngài phải ra nước ngoài.
4. Đào thoát khỏi Tây Tạng :
Với nỗ lực mang lại một giải pháp hòa bình của Ngài cho người dân Tây Tạng đã
bị cản trở bởi một chính sách tàn bạo của nhà cầm quyền Bắc Kinh, trong khi đó
ở miền Đông Tây Tạng dân chúng đã đứng lên kháng cự mạnh mẽ đối với sự đàn áp
của Trung Hoa. Sự kháng cự này đã lan ra trên nhiều tỉnh thành của Tây Tạng.
Vào ngày 10 tháng 3 năm 1959, một cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử của Tây
Tạng tại thủ đô Lhasa để kêu gọi binh lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng và
tái xác định rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập. Cuộc biểu tình ôn hòa này
đã bị bẻ gãy một cách tàn nhẫn của quân đội điên cuồng của Hoa Lục. Kết quả của
cuộc xâm lăng này đã giết chết hàng triệu người Tây Tạng vô tội và phá hủy 6
triệu chùa chiền tại đất nước này. Để tìm con đường giải phóng nỗi khổ đau ấy,
80.000 người dân Tây Tạng cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma vượt qua dãy Hy Mã Lạp
Sơn để đến tị nạn tại miền bắc Ấn Độ vào năm 1959.
5. Chính phủ lưu vong tại
Dharamsala, miền Bắc Ấn Độ :
Ngày nay, với hơn 120.000 người Tây Tạng lưu trú tại vùng đất Dharamsala, Ấn
Độ, được biết như là một ''Lhasa nhỏ", lập thành một chính quyền lưu vong
Tây Tạng với một Hội Đồng Dân Cử Tây Tạng (Commission of Tibetan People's
Deputies) vào năm 1960.
Trong những năm đầu lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi Hoa Kỳ lên tiếng về
vấn đề của Tây Tạng, kết quả ba quyết nghị đã được thông qua tại Hội Đồng lập
Pháp của Hoa Kỳ vào năm 1959, 1961 và năm 1965, kêu gọi nhà cầm quyền Bắc Kinh
phải tôn trọng nhân quyền của người Tây Tạng và ước muốn tự trị của họ. Với
việc thành lập một chính phủ lưu vong Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma thấy rằng
công việc khẩn cấp phải làm là cứu nguy dân tị nạn và nền văn hóa của Tây Tạng.
Các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, văn hóa, giáo dục đã dần được tái hoạt động
tại Ấn Độ. Trẻ em Tây Tạng được đi học và một Trường đại học Tây Tạng được
thành lập tại Ấn Độ. Có khoảng 200 tu viện Tây Tạng được xây dựng tại Ấn để
Tăng chúng tu học, duy trì và bảo vệ văn hóa và tôn giáo của Tây Tạng.
Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một hiến pháp dân chủ (democratic
constitution) hoàn toàn dựa trên giới luật của nhà Phật và bản hiến chương nhân
quyền của LHQ để biên soạn và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do
ở tương lai.
Năm 1965, Ngài đến tham dự đại lễ Phật Đản Phật lịch 2500 tại Ấn Độ, đã gặp
được Thủ tướng Ấn ông Nehru và ông Chu Ân Lai, đàm phán về vấn đề của Tây Tạng.
Ngày nay, thành viên của quốc hội Tây Tạng sẽ được bầu cử bởi dân chúng. Hội
đồng nội các được bầu cử bởi quốc hội. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng nhiệm
vụ chính của chính quyền Tây Tạng là chăm lo cho đời sống người dân và Ngài
cũng nói thêm, khi Tây Tạng giành lại nền độc lập, Ngài sẽ không còn ngồi ở văn
phòng chính phủ nữa.
Năm 1987, Đức Đạt Lai Lạt Ma tham dự một hội nghị nhân quyền tại thủ đô
Washington, Hoa Kỳ. Ngài đề xuất một Chương Trình Hòa Bình Năm Điểm (A
Five-Point Peace Plan) bao gồm, 1) Biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình; 2)
Chấm dứt việc di dân Trung Hoa đang de dọa sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng; 3)
Tôn trọng các quyền dân chủ, tự do và quyền làm người của dân Tây Tạng; 4) Phục
hồi và bảo vệ môi sinh của Tây Tạng và chấm dứt việc sử dụng đất Tây Tạng để
sản xuất vũ khí nguyên tử và bỏ đồ phế thải nguyên tử; và 5) Khởi sự thương
thảo ngay về quy chế tương lai của Tây Tạng và bang giao giữa Tây Tạng với Trung
Hoa.
Ngày 15 tháng 6 năm 1988, tại Strasbourg, Pháp quốc, Ngài nhắc lại Chương Trình
Hòa Bình Năm Điểm và yêu cầu nhà cầm quyền Bắc kinh trao trả lại nền độc lập
cho Tây Tạng. Ngày 9 tháng 10 năm 1991, trong khi phát biểu tại đại học Yale,
Hoa Kỳ, Ngài bày tỏ ý định muốn trở về thăm Tây Tạng để đích thân đánh giá tình
hình chính trị nơi ấy. Ngài nói: ''Tôi thật sự lo lắng vì tình cảnh bạo động có
lẽ sẽ bùng nỗ. Tôi muốn làm cái gì đó để chận đứng lại... chuyến viếng thăm của
tôi sẽ là một cơ hội mới để làm tăng thêm sự cảm thông và tạo ra một nền tảng
để giải quyết''.
6. Các giải thưởng :
Từ chuyến viếng thăm phương Tây đầu tiên của Ngài vào năm1973, một số trường
đại học và viện nghiên cứu đã trao tặng Ngài những Giải thưởng về Hòa bình
(Peace Award) và Bằng Tiến sĩ danh dự (honorary Doctorate Degree) để tuyên
dương những tác phẩm xuất sắc của Ngài viết về triết học Phật giáo, giải pháp
cho những xung đột của quốc tế, vấn đề nhân quyền và môi sinh toàn cầu. Trong
lần trao giải thưởng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Ủy Hội Nhân quyền Raoul
Wallenberg, dân biểu Mỹ ông Tom Lantos đã nói: "sự đấu tranh dũng cảm của
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tạo ra một sự chú ý đặc biệt về nhân quyền và hòa bình
thế giới. Sự kiên trì đấu tranh của Ngài để chấm dứt khổ đau cho dân tộc Tây
Tạng qua những cuộc đàm phán hòa bình và hòa giải".
7. Giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1989
:
Ủy ban Hòa Bình Na Uy quyết định trao tặng Giải thưởng Nobel Hòa Bình (Peace
Prize) cho Ngài vào năm 1989 sau khi được cả thế giới tán dương và tán thành,
ngoại
trừ Trung Hoa. Trong quyết định ấy có đoạn viết: "Ủy ban muốn nhấn mạnh
rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma với sự đấu tranh cho tự do cho Tây Tạng vẫn kiên quyết
không sử dụng bạo lực. Ngài đã ủng hộ giải pháp hòa bình dựa trên tinh thần
khoan dung và tôn trọng lẫn nhau để bảo vệ lịch sử và tài sản văn hóa của con
người''.
Vào ngày 10 tháng 12 năm 1989, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiếp nhận giải thưởng hòa
bình trên tinh thần nhân danh những người bị đàn áp ở khắp mọi nơi, tất cả
những ai đấu tranh cho tự do và hòa bình thế giới và đặc biệt là nhân dân Tây
Tạng. Trong lời phát biểu tại buổi lễ nhận giải, Ngài đã nói: ''Giải thưởng đã
tái xác nhận một lần nữa lòng quyết tâm của chúng tôi rằng chân lý, lòng dũng
cảm và quyết tâm của chúng tôi như là những vũ khí, Tây Tạng sẽ được tự do.
Cuộc đấu tranh của chúng tôi vẫn phải theo đuổi đường hướng bất bạo động và
loại bỏ hận thù'' ("The prize reaffirms our conviction that with truth,
courage and determination as our weapons, Tibet will be liberated. Our struggle
must remain nonviolent and free of hatred").
8. Tiếp xúc với Đông & Tây :
Từ năm 1967, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khởi hàng loạt chuyến viếng thăm, đến nay đã
được 46 quốc gia. Vào mùa thu năm 1991, Ngài đến thăm vùng Baltic khi nhận được
lời mời của Tổng thống Lithuania, ông Vytautas Landsbergis, và Ngài đã trở
thành vị khách ngoại quốc đầu tiên đọc diễn văn tại quốc hội của Lithuania.
Ngài đã gặp đức Giáo Hoàng Paul đệ lục tại Vatican vào năm 1973 và đức Giáo
Hoàng John Paul đệ nhị vào năm 1980 tại Rome và các năm khác là 1980, 1982,
1986, 1988 và 1990.
Sau đây là bản liệt kê danh sách các quốc gia mà Đức Đạt Lai Lạt đã viếng thăm:
Argentina 1992, 1999; Úc Đại Lợi: 1982, 1992, 1996; Áo quốc: 1973, 1983, 1986,
1989, 1991,1992, 1993, 1995, 1998; Bỉ: 1973, 1990, 1991, 1994, 1999; Bulgaria
1991; Buryat Autonomous 1991, 1993; Brazil, 1992, 1999; Canada 1980, 1990,
1993; Chile 1992, 1999; Costa Rica 1989; Czechkoslvakia 1990; Đan Mạch: 1973,
1991, 1996; Estonia 1991; Phần Lan: 1988, 1996, 1998; Pháp: 1982, 1986, 1988,
1989, 1990, 1991, 1992, 1993, 1994, 1998; Đức: 1973, 1982, 1983, 1984, 1986,
1987, 1988, 1989, 1990, 1991,1992,1994, 1995, 1996, 1998, 1999; Greece 1979;
Hungary 1982, 1989, 1992, 1993. 1996; Indonesia 1982; Israel 1994, 1999; Italy
1982, 1986, 1988, 1989, 1991, 1994, 1996, 1999; Nhật Bản: 1967, 1978, 1980,
1984,1994, 1995, 1998; Latvia 1991; Liechtenstein 1991; Lithunia 1991; Mã Lai:
1982; Mexico 1989 ; Mông Cổ: 1979, 1982, 1991, 1994; Nepal 1981; Tân Tây Lan:
1992, 1996; Na Uy: 1973, 1989, 1991, 1996; Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa: 1954;
Hòa Lan: 1993; Cộng Hòa Ấn Độ: 1956, 1959 (cũng là nơi Ngài trú ngụ hiện nay);
Cộng Hòa Ái Nhĩ Lan: 1973, 1991; Singapore: 1982 ; Tây Ban Nha: 1982, 1994 ;
Nam Phi: 1996; Thụy Điển: 1973, 1988, 1990, 1991, 1996; Thụy Sĩ: 1973, 1974, 1974,
1983, 1985, 1987, 1988, 1990, 1991,1994, 1995, 1996, 1998; Thái Lan: 1967,
1972, 1993; Hà Lan 1973, 1986, 1990,1994; Tòa thánh Vatican: 1973, 1981, 1984,
1988, 1990, 1991, 1996; Thổ Nhĩ Kỳ: 1983; Anh quốc: 1973, 1981, 1984, 1988,
1991,1993, 1994, 1996, 1999; Liên Xô cũ: 1991,1994; Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ:
1979, 1980, 1981, 1984, 1987, 1990, 1991, 1992, 1993, 1994, 1995, 1996, 1998,
1999.
9. Những nhà lãnh đạo mà Đức Đạt Lai
Lạt Ma tiếp xúc:
Năm 1999 :
Ngày 16 tháng 6: ông Josckha Fischer, Bộ trưởng ngoại giao Đức
Ngày 12 tháng 5: ông Robin Cook, Bộ trưởng ngoại giao Anh
Ngày 13tháng 5: ông Tony Blair, Thủ tướng Anh
Ngày 4 tháng 5: ông Jean Luc DEHAENE, Thủ tướng Bỉ
Ngày 14 tháng 4: ông Edwardo Frei, Tổng thống cộng hòa Chile
Ngày 7 tháng 4: ông Fernando Henrique Cardoso, Tổng thống Brazil
Năm 1998:
Ngày 8 tháng 12: ông Jacques Chirac, Tổng Thống Pháp
Ngày 8 tháng 12: ông Lionel Jospin, Thủ tướng Pháp
Ngày 8 tháng 12: ông Kofi Annan, Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc
Ngày 10 tháng 12: ông William J. Clinton, Tổng thống Mỹ
Ngày 10 tháng 12: ông Albert Gore, Phó Tổng thống Mỹ
Ngày 10 tháng 12: bà Madeleine Alright, Ngoại trưởng Mỹ
Ngày 20 tháng 12: ông Claes Anderson, Bộ Trưởng Văn Hóa, Phần Lan
Ngày 16 tháng 12: bà Elisabeth Guigou, Bộ Trưởng Tư Pháp, Pháp quốc
Ngày 9 tháng 12: ông Wolfgang Schuessel, Bộ Trưởng Ngoại giao, Áo
Năm 1997
Ngày 23 tháng 4: bà Madeleine Albright, Ngoại trưởng Mỹ
Ngày 23 tháng 4: ông William J. Clinton, Tổng thống Mỹ
Ngày 23 tháng 4: ông Albert Gore, Phó Tổng thống Mỹ
Ngày 24 tháng 3: ông Lin Feng-cheng, Bộ Trưởng Nội Vu, Đài Loan
Ngày 26 tháng 3: ông Lien Chan, Phó Tổng Thống Đài Loan
Ngày 27 tháng 3: ông Lee Teng-hui, Tổng Thống Đài Loan
Ngày 26 tháng 9: ông John Howard, Thủ tướng Úc
Năm 1996
Ngày 23 tháng 10: ông Van Mierlo, Ngoại Trưởng Phần Lan
Ngày 23 tháng 10: Tiến sĩ Klaus Hansch, Chủ tịch Nghị Viện Châu Âu
Ngày 23 tháng 10: ông Jacques Santer, Chủ tịch Liên Minh Châu Âu
Ngày 29 tháng 10: ông Jacues Toubon, Bộ Trưởng Tư Pháp, Pháp quốc
Ngày 26 tháng 9: ông John Howard, Thủ tướng Úc
Ngày 14 tháng 9: ông Alexander Downer, Ngọai trưởng Úc
Ngày 11 tháng 9: ông Jim Bolger, Thủ tướng Tân Tây Lan
Ngày 11 tháng 9: ông Don McKinnon, Phó Thủ tướng Tân Tây Lan
Ngày 22 tháng 6: ông Nelson Mandela, Tổng thống Nam Phi
Ngày 17 tháng 7: ông Malcom Rifkind, Ngoại trưởng Anh
Ngày 28 tháng 5: ông Bjore Godal, Ngoại trưởng Na Uy
Ngày 27 tháng 5: ông Pekka Haavisto, Bộ Trưởng Môi Sinh, Phần Lan
Ngày 23 tháng 5: bà Lena Hjelm-Walln, Ngoại Trưởng Thụy Điển
Ngày 20 tháng 5: Giáo hoàng Pope John Paul II
Ngày 15 tháng 5: ông Niels Petersen, Ngoại Trưởng Đan Mạch
Ngày 30 tháng 4: Hoàng tử Albert, xứ Monaco
Ngày 26 tháng 9: ông John Howard, Thủ tướng Úc
Năm 1995
Ngày 13 tháng 9: ông William J. Clinton, Tổng Thống Mỹ
Ngày 13 tháng 9: ông Albert Gore, Phó Tổng Thống Mỹ
Ngày 4 tháng 5: Tiến sĩ Klaus Kinkel, Ngoại trưởng Đức
Ngày 23 tháng 6: ông Flavio Cotti, Ngoại Trưởng Thụy Sĩ
Năm 1994
Ngày 8 tháng 10: bà Gro Harlem Brundtland, Thủ Tướng Na Uy
Ngày 3 tháng 7: bàVioleta Chamorro, Tổng Thống Nicaragua
Ngày 17 tháng 6: ông Silvio Berlusconi, Thủ Tướng Italy
Ngày 16 tháng 6: ông Oscar Luigi Scalfaro, Tổng Thống Italy
Ngày 9 ttháng 6: ông Marin Gonzalez, Phó Chủ Tịch Liên Minh Châu Âu
Ngày 7 tháng 6: ông Jean Luc Dehene, Thủ Tướng Bỉ
Ngày 6 tháng 6: ông Pleter Kooilmans, Ngoại Trưởng Hà Lan
Ngày 5 tháng 6: ông Wim Kok, Tổng Trưởng Tài chính Hà Lan
Ngày 29 tháng 4: Giáo sư Karl-Hans Laermann, Tổng Trưởng Giáo Dục Đức
Ngày 28 tháng 4: ông William J. Clinton, Tổng Thống Mỹ
Ngày 28 tháng 4: ông Albert Gore, Phó Tổng Thống Mỹ
Ngày 21 tháng 3: ông Yossi Sarid, Bộ Trưởng Môi Sinh Israel
Năm 1993
Ngày 16 tháng 11: ông Francois Mitterrand, Tổng Thống Pháp
Ngày 16 tháng 11: ông Alain Juppe, Bộ Trưởng Ngoại giao Pháp
Ngày 14 tháng 11: ông Philippe Douste Blazy, Bộ Trưởng Y Tế Pháp
Ngày 30 tháng 10: ông Alain Carignon, Tổng Trưởng Thông Tin Pháp
Ngày 28 tháng 10: ông Michel Barnier, Bộ Trưởng Môi Sinh Pháp
Ngày 14 tháng 6: Tiến sĩ Thomas Klestil, Tổng Thống Áo
Ngày 14 tháng 6: Tiến sĩ Alois Mock, Bộ Trưởng Ngoại giao Áo
Ngày 14 tháng 6: Tiến sĩ Nikolaus Michalek, Bộ Trưởng Tư Pháp Áo
Ngày 15 tháng 6: ông Franz Vranitzky, Thủ Tướng Áo
Ngày 15 tháng 6: Tiến sĩ Erhard Buiek, Phó Thủ Tướng Áo
Ngày 29 tháng 6: bà Barbara McDougal, Bộ Trưởng Nội Vụ Canada
Ngày 12 tháng 5: ông Douglas Hurd, Bộ Trưởng Ngoại giao Anh
Ngày 27 tháng 4: ông William J. Clinton, Tổng Thống Mỹ
Ngày 27 tháng 4: ông Albert Gore, Phó Tổng Thống Mỹ
Ngày 26 tháng 4: ông Warren Christopher, Bộ Trưởng Ngoại giao Mỹ
Năm 1992
Ngày 6 tháng 4: ông Gareth Evan, Bộ Trưởng Ngoại giao Úc
Ngày 8 tháng 4: ông Paul Keating, Thủ Tướng Úc
Ngày 14 tháng 4: ông Don McKinnon, Bộ Trưởng Ngoại giao Tân Tây Lan
Ngày 11 tháng 4: ông Carlos Menem, Tổng Thống Argentina
Ngày 17 tháng 5: ông Patiricio Aylwin, Tổng Thống Chile
Ngày 16 tháng 7: Tiến sĩ Thomas Klestil, Tổng Thống Áo
Ngày 26 tháng 7: ông Franz Vranitzky, Thủ Tướng Áo
Năm 1991
Ngày 22 tháng 3: bà Mary Rohinson, Tổng Thống Ái Nhĩ Lan
Ngày 16 tháng 4: ông George Bush, Tổng Thống Mỹ
Ngày 16 tháng 8: His Highness Hans Adam, Prince of Lichtenstein
Ngày 19 tháng 8: ông Rene Felber, Bộ Trưởng Ngoại giao Thụy Sĩ
Ngày 16 tháng 8: ông Ronald Dumas, Bộ Trưởng Ngoại giao Pháp
Ngày 2 tháng 9: ông Kurt Waldheim, Tổng Thống Áo
Ngày 2 tháng 9: ông Alois Mock, Bộ Trưởng Ngoại giao Áo
Ngày 3 tháng 9: ông Franz Vranitzky, Thủ Tướng Áo
Ngày 29 tháng 9: ông Vytautas Landsbergis, Tổng Thống Lithaunia
Ngày 30 tháng 9: ông Gediminas Vagnorius, Thủ Tướng Lithaunia
Ngày 1 tháng 10: ông Kazimieras Motieka, Phó Tổng Thống Lithaunia
Ngày 2 tháng 10: ông Anatolijs Gorbunvos, Tổng Thống Lavtia
Ngày 3 tháng 10: ông Andregs Krastins, Phó Tổng Thống Lavtia
Ngày 4tháng 10: ông Bronius Kuzmickas, Phó Tổng Thống Estonia
Ngày 5tháng 10: ông Zhelyn Zhelev, Tổng Thống Bulgaria
Ngày 2 tháng 12: ông John Major, Thủ Tướng Anh
Ngày 4 tháng 12: bà Margaretha af Ugglas, Tổng Thống Thụy Điển
Ngày 5 tháng 12: ông Uffe Ellemann-Jensen, Bộ Trưởng Ngoại giao Đan Mạch
Ngày 8 tháng 12: ông Torvald Stoltenberg, Bộ Trưởng Ngoại giao Na Uy
Năm 1990
Ngày 2 tháng 2: ông Vaclav Havel, Tổng Thống Czechoslovakia
Ngày 24 tháng 24: Hon Lizin, Bộ Trưởng thương Mại và Hợp Tác Pháp
Ngày 1 tháng 6: Đức Giáo hoàng John Paul II
Ngày 2 tháng 9: ông Gerry Weiner, Ngoại Trưởng Canada
Ngày 10 tháng 9: ông H. van den Broek, Bộ Trưởng Ngoại giao Hà Lan
Ngày 7 tháng 10: ông Richard von Weizsacher, Tổng Thống Đức
Năm 1989
Ngày 27 tháng 6: Tiến sĩ Oscar Arias, Tổng Thống Costa Rica
Ngày 3 than1g 7: ông Carlos Salinas de Gortari, Tổng Thống Mexico
Ngày 6 tháng 12: ông Jurgen Wohlrabe, Tổng Thống Tây Đức
Ngày 9 tháng 12: ông Kjell Magne Bondevik, Bộ Trưởng Ngoại giao Na Uy
Ngày 10 tháng 12: Vua Olav, Na Uy
Ngày 11 tháng 12: ông Jan P. Syse, Thủ Tướng Na Uy
Năm 1986
Ngày 13 tháng 5: Tiến sĩ Rudolf Kirchschlaeger, Tổng Thống Áo
Ngày 27 tháng 5: ông Jacques Chirac, Thủ Tướng Pháp
Năm 1982
Ngày 27 tháng 7: ông Tunku Abdul Rahman, Bộ Trưởng Ngoại giao Mã Lai
Ngày 26 tháng 7: ông A. Ratu Perwiranegasa, Tổng Trưởng Tôn giáo Mã Lai
Ngày 2 tháng 8: Ông Adam Malik, Phó Tổng Thống Nam Dương
Năm 1980
Ông Suzuki Zenko, Thủ Tướng Nhật Bản
Năm 1978
Bà J.R. Jayewardene, Phu nhân Tổng Thống Sri Lanka
Năm 1973
Ngày 1 tháng 9: Đức Giáo Hòang Pual V
Ngày 10 tháng 10: ông Erskine Chidlers, Tổng Thống Ái Nhĩ Lan
Ngày 10 tháng 10 ông Lien Cosgrade, Thủ Tướng Ái Nhĩ Lan
Ngày 10 tháng 10: ông Frank Aiken, Bộ Trưởng Ngoại giao Ái Nhĩ Lan
Năm 1967
Ngày 13 tháng 11: ông Field Marshal T. Kittikachorn, Thủ Tướng Thái Lan
Ngày 14 tháng 11: Vua Bhumibol Adulyadej, Thái Lan
Năm 1956
Tất cả các vị Thủ Tướng, Tổng Thống, Phó Tổng Thống Ấn Độ
Năm 1954
Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình
10. Một Tu sĩ Phật Giáo bình thường
Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng: ''Tôi chỉ là một tu sĩ Phật giáo bình
thường, không hơn, không kém'' (I am just a simple Buddhist monk - no more, no
less). Sống trong một tịnh thất nhỏ ở Dharamsala, Ngài thức dậy vào lúc 4 giờ
sáng, ngồi thiền, rồi tiếp tục làm việc theo thời khóa biểu của văn phòng chính
phủ, tiếp khách và diễn giảng giáo lý cho các khóa tu hoặc chứng minh các đại
lễ.
11. Tác phẩm của Ngài :
Mặc dù bận rộn với nhiều công tác của chính phủ và hoằng Pháp, nhưng Đức Đạt
Lai Lạt Ma cũng dành những thời gian nhất định để viết những tác phẩm Phật học,
lịch sử, tự truyện... để phổ biến những tinh túy trong giáo lý của Phật Đà.
Khởi viết cuốn ''Đất nước và Con người của Tôi'' (My Land and My People) vào
năm 1964 sau khi Ngài đến tị nạn tại Ấn Độ, tính đến nay đã có trên dưới 50 tác
phẩm các loại, do chính ngài tự tay viết hoặc do đệ tử ghi chép những bài giảng
của Ngài hoặc họ viết về ngài. Đáng chú ý trong số tác phẩm này là: "Khai
mở con mắt trí tuệ" (The opening of the Wisdom eye, xuất bản năm 1972;
"Phật giáo của Tây Tạng'' (The Buddhism of Tibet, xb năm 1975);
"Dalai Lama: chính sách của Lòng Từ" (The Dalai Lama: A Policy of
Kindness, xb năm 1990); "Tự do nơi lưu đầy'' (Free in Exile, xb năm 1991);
"Ý nghĩa của cuộc sống'' (The meaning of Life, xb năm 1992) "Tia sáng
trong bóng đêm" (Flash of Lightning in the Dark of Night, xb năm 1994);
''Cuộc đối thoại về trách nhiệm chung và giáo dục ''(Dialogues on Universal
Responsibility and Education, xb năm 1995); "Sức mạnh của lòng từ'' (The
power of compassion, xb năm 1995); "Con đường giải thoát'' (The path of
Enlightenment, xb năm 1995); "Bạo lực và Lòng từ bi/ sức mạnh của Phật
giáo" (Violence and Compassion/ Power of Buddhism, xb năm 1995); "Bốn
Chân Lý Mầu Nhiệm" (The Four Noble Truths, xb năm 1998); "Nghệ thuật
hạnh phúc" (The art of Happiness, xb năm 1998).,"Mật Tông Kalachkra
(KALACHAKRA TANTRA, Xb 1999); "ý Nghĩa cuộc cuộc sống"( THE MEANING
OF LIFE, Xb 1999); " Khoa học Tâm Linh, cuộc đối thoại của đông
&Tây" (MIND SCIENCE,An East-West Dialogue, xb 1999); "Ngủ, nằm mơ
và Chết, một cuộc khám phá của Tâm thức" (SLEEPING, DREAMING, AND DYING,
An Exploration of Consciousness, Xb 1999) "Thế giới của PG Tây Tang, khái
quát về triết lý và thực hành" (THE WORLD OF TIBETAN BUDDHISM, An Overview
of Its Philosophy and Practice, Xb 1999 ) .v.v... (địa chỉ liên lạc để thỉnh
sách của Ngài là: Snow Lion, PO Box 6483. Thaca, NY 14851, USA. Tel:
001-607-273-8519. Fax: 001-607-273-8508. e-mail: Snow Lion. http://www.snowlionpub.com.
Wisdom Publication, 361 Newbury Street, Boston, Ma. 02115, USA. Tel:
001-617-536-3358, Fax: 001-617-536-1897. http://www.snowlionpub.com; Dharma Publishing, 2910 San Pablo
Ave, Berkeley, CA 94702, USA. Tel: 001-510-548-5407. Fax: 001-510-548-2230.
Wisdom Books, 402 Hoe Street, London E17 9AA, UK. Tel: 0044-181-520-5588. Fax:
0044-181-520-0932. http://www.demon.co.uk/wisdom.
Địa chỉ liên lạc với tác giả: His Holiness the Dalai-Lama's Religious and
Cultural Society. Gangchen Kyishong, Dharamsala 176215, District Kangra,
Himachal Pradesh INDIA.
2. Kết luận:
Như sự mô tả của giáo sư Eric Sharpe thánh nhân là người suốt đời chú trọng đến
việc mang lại an lạc cho con người và cuộc đời. Trong khi theo đuổi lý tưởng
ấy, họ thường phải hứng chịu những trở ngại, đau đớn hoặc nguy hiểm đến sinh
mạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã hiện thân cho những gì đã được mô tả ấy. Tuy
nhiên, theo các nhà phân tích, sự xuất hiện của ngài như là một định mệnh, đã
thừa kế tước vị Dalai Lama ở trong một giai đoạn bấp bênh nhất trong toàn bộ
lịch sử cao quý này. Hiện nay, vẫn trong thân phận người tị nạn lưu vong, tuy
nhiên, Ngài rất lạc quan và hy vọng cho
tương lai độc lập và tự do cho thế giới và xứ
sở của Ngài như lời Ngài đã nhắc tới trong bức Thông Điệp 2000: "Thế kỷ 20
đầy xung đột và chiến tranh. Từng bước, chúng ta bảo đảm thế kỷ tới sẽ có đặc
tính bất bạo động và đối thoại, là điều kiện tiên quyết để cùng hiện hữu bên
nhau trong hòa bình". "Xã hội nào cũng có những khác biệt và xung
đột. Tuy vậy, chúng ta cần phát triển niềm tin tưởng rằng: đối thoại và tình
bạn là một đường lối chính chắn để tránh bạo động. Trước thiên kỷ mới, điều mọi
người cần thực hiện là tăng cường tinh thần trách nhiệm đối với quốc tế".
Tổng hợp
theo các tài liệu:
- Mary craig (1997) Kundun, A biography of the Family of the Dalai Lama, Harper
Collins Publishers, London
- Roger Hicks & Ngakpa Chogyam (1984) Great Ocean, An Authories Biography
of the Buddhist Monk Tenzin Gyatso His Holiness The 14th Dalai Lama, Element
Books, Great Britain.
- Tenzin Gyatso Dalai Lama (1998), Freedom in Exile, Snow Lion Publications,
New York.
28. Nghe Phật dạy về tình yêu
(Dân trí) - Này người trẻ, bạn có biết Phật
dạy như thế nào về tình yêu? Tôi đã may mắn tham dự một buổi pháp thoại của
Thiền sư Nhất Hạnh về tình yêu: mối quan hệ giữa yêu thương và hiểu biết, tình
yêu từ bi hỉ xả, tình yêu và tình dục. Ông gọi đó là “yêu thương theo phương
pháp Phật dạy”.
Trước khi bắt đầu bài thuyết pháp của mình tại Tổ Đình Trung Hậu - Vĩnh Phúc,
Thiền sư Nhất Hạnh đã mời các bạn trẻ ngồi lên trên, để có thể nghe thật rõ.
Ông muốn nói về tình yêu, bản chất tình yêu nhìn từ góc độ Phật giáo.
Miệng mỉm cười, ông đã kể một câu chuyện tình yêu, giản dị thôi nhưng hàm ý sâu
sắc: Có một chàng trai ở vùng California - Mỹ, rất đẹp trai, học giỏi, tốt
nghiệp một trường đại học nổi tiếng, có nhiều bạn gái xinh đẹp. Chàng trai sống
với mẹ, người mẹ biết trong các cô gái ngưỡng mộ con mình, có một cô gái không
xinh nhất, cô không trắng, không cao lắm nhưng được chàng trai đặc biệt chú ý.
Ngạc nhiên, người mẹ hỏi con trai: Vì sao con lại thích cô gái ấy, cô ta đâu có
gì nổi bật?Cô ấy hiểu con - chàng trai trả lời đơn giản.
hàng trai học ngành công nghệ thông tin nhưng rất hay làm thơ. Mỗi lần chàng
đọc thơ, cô gái nọ lắng nghe rất chăm chú và có những nhận xét sâu sắc, trong
khi những cô gái xinh đẹp kia không để ý gì đến. Chàng trai đã chọn người yêu
không vì vẻ đẹp bề ngoài, mà bởi sự lắng nghe và thấu hiểu.
“Đạo Phật cũng dạy như vậy, có hiểu mới có thương, tình yêu phải làm bằng sự
hiểu biết”, Thiền sư kết luận.
Muốn thương phải hiểu
Trong đạo Phật, từ bi gắn liền với trí tuệ. Không hiểu, không thể thương yêu
sâu sắc. Không hiểu, không thể thương yêu đích thực. Hiểu chính là nền tảng của
tình thương yêu.
Mỗi người có những nỗi niềm, những khổ đau, bức xúc riêng, nếu không hiểu, sẽ
không thương mà giận hờn, trách móc. Không hiểu, tình thương của mình sẽ làm
người khác ngột ngạt, khổ đau. Không hiểu, sẽ làm người mình thương đau khổ
suốt đời.
Nhân danh tình thương, người ta làm khổ nhau. Chuyện đó vẫn thưòng xảy ra.
Được hiểu và được thương vốn là một nhu cầu muôn đời của con người. Nhiều người
thường cảm thấy không ai hiểu mình. Họ “đói” thương, “đói” hiểu. Họ thơ thẩn,
lang thang trong cuộc đời tìm người hiểu mình, thương mình. Gặp được người hiểu
mình, thương mình là may mắn lớn của cuộc đời. Tình yêu nảy nở, lớn lên từ đó.
Vậy nên, “có hiểu mới có thương” là nguyên tắc chọn người yêu, chọn chồng/vợ
theo quan điểm Phật giáo. Dù người ta có đẹp, có giàu đến đâu nhưng không hiểu
mình sẽ làm mình khổ suốt đời. Hôn nhân có thể mở ra những con đường hoa hồng,
có thể mở ra cánh cửa tù ngục. Chọn vợ, chọn chồng là một sự mạo hiểm lớn. Hãy
cẩn thận, nếu không muốn chọn án tù chung thân cho cuộc đời mình.
Chọn người hiểu và thương mình - hãy nhớ - đó là nguyên tắc tìm người tri kỷ
trong cuộc đời.
Bốn yếu tố của tình yêu: Từ bi hỉ xả
Phật dạy về tình yêu rất sâu sắc. Tình yêu phải hội tụ đủ bốn yếu tố: từ, bi,
hỉ, xả.
“Từ” là khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu thương không phải
là vấn đề hưởng thụ, yêu thương là hiến tặng. Tình thương mà không đem đến hạnh
phúc cho người yêu không phải là tình thương đích thực. Yêu mà làm khổ nhau
không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào cũng khổ, đó là tình yêu
hệ luỵ, chỉ mang tới sự khổ đau. Yêu thương ai đó thực sự, nghĩa là làm cho
người ta hạnh phúc, mỗi ngày.
“Bi” là khả năng người ta lấy cái khổ ra khỏi mình. Mình đã khổ, người ta làm
cho thêm khổ, đó không thể là tình yêu đích thực. Còn gì cho nhau nếu chỉ có
khổ đau tuyệt vọng. Người yêu mình phải là người biết sẻ chia, biết xoa dịu,
làm vơi bớt nỗi khổ của mình trong cuộc đời.
Như vậy, “từ bi” theo Phật dạy là khả năng đem lại hạnh phúc cho nhau. Yêu
thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê, say đắm
nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực. “Từ bi” trong tình yêu
không phải tự dưng mà có. Phải học, phải “tu tập”. Cần nhiều thời gian, để quan
sát, để lắng nghe, để thấu hiểu những nỗi khổ niềm đau của người yêu, để giúp
người ta vượt qua, tháo gỡ, bớt khổ đau, thêm hạnh phúc.
“Hỉ” là niềm vui, tình yêu chân thật phải làm cho cả hai đều vui. Dấu ấn của
tình yêu đích thực là niềm vui. Càng yêu, càng vui, niềm vui lớn, cả gia đình
cùng hạnh phúc. Cuộc nhân duyên như thế là thành công.
“Xả” là không phân biệt, kì thị trong tình yêu. Mình yêu ai, hạnh phúc của
người ta là của mình, khó khăn của người ta là của mình, khổ đau của người ta
là của mình. Không thể nói đây là vấn đề của em/ anh, em/ anh ráng chịu. Khi
yêu, hai người không phải là hai thực thể riêng biệt nữa, hạnh phúc khổ đau
không còn là vấn đề cá nhân. Tất cả những gì mình phải làm coi đó là vấn đề của
hai người, chuyển hoá nỗi khổ đau, làm lớn thêm hạnh phúc.
Này người trẻ, bạn nghĩ về tình yêu của mình đi, có “từ bi hỉ xả không”? Bạn
hãy can đảm tự hỏi mình rằng “Người yêu ta có hiểu niềm vui nỗi khổ của ta
không? Có quan tâm đến an vui hàng ngày của ta không? Người ấy có nâng đỡ ta
trên con đường sự nghiệp không?...” Và tự hỏi lại mình, liệu bạn có đang thành
thực với tình yêu của mình?! Liệu tình yêu của bạn đã đủ “từ bi hỉ xả”?!
Tình dục và tình yêu
Phật giáo quan niệm như thế nào về tình dục trong tình yêu? Không phải ngẫu
nhiên mà vị thiền sư tôi được hạnh ngộ bắt đầu vấn đề này bằng cách bàn về
“thân tâm” trong truyền thống văn hoá Á Đông.
Trong truyền thống văn hoá ta, thân với tâm là “nhất như”, tức là nếu ta không
tôn kính thân thể người yêu thì cũng không tôn kính được tâm hồn người ấy. Yêu
nhau là giữ gìn cho nhau, kính trọng nhau. Khi sự rẻ rúng xem thường xảy ra thì
tình yêu đích thực không còn.
Thân thể ta cũng như tâm hồn ta. Có những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn, chúng
ta chỉ chia sẻ với người tri kỉ. Thân thể ta cũng vậy, có những vùng thiêng
liêng và riêng tư, ta không muốn ai chạm tới, ngoài người ta yêu, ta tin, ta
muốn sống trọn đời, trọn kiếp.
Trong tình yêu lớn và cao quý, bất cứ lời nói và cử chỉ nào cũng phải biểu lộ
sự tương kính. Người con trai phải tôn trọng người con gái mình yêu, cả thân
thể lẫn tâm hồn. Người con gái biết giữ gìn, cũng là biết làm người yêu thêm
tương kính, nuôi dưỡng hạnh phúc lâu dài về sau.
Bạn muốn thương yêu theo phương pháp Phật dạy chăng? Hãy hiểu, thương và tương
kính người yêu của mình, cũng chính là đem hạnh phúc đến cho người và cho mình
vậy!
29. Lục tổ huệ năng là người việt nam
Sự thực lịch sử về
việc hình thành Thiền tông được khai quật từ động Đôn Hoàng ở vùng sa mạc Tân
Cương tại Trung Á
Nguyên
bản Pháp Bảo Đàn kinh mà tôi dịch đây là bản mới tìm được từ động Đôn Hoàng,
vùng sa mạc Tân Cương, miền Trung Á. Bản này đã được viết ra vào khoảng năm 830
và trễ nhất là năm 860 (theo giảo nghiệm lối viết chữ thảo ở thời đó, do một
chuyên viên danh tiếng, giáo sư Akira Fujieda của Đại học Tokyo). Đây là bản
Pháp Bảo Đàn xưa nhất của thế giới hiện nay. Trước đây, ở Việt Nam, tôi được biết
ít nhất có ba bản dịch Việt của ba dịch giả (Hòa thượng Thích Minh Trực, ông
Đoàn Trung Còn, và ông Tô Quế), nhưng cả ba bản dịch này được dựa theo bản chữ
Hán Pháp Bảo Đàn kinh được viết vào thế kỷ thứ XIII (năm 1291), gọi bản Tông
Bảo; bản này không khác lắm với bản Đức Dị được in vào năm 1290 tại Nam Hải
(bản Đức Dị đã được du nhập vào Triều Tiên vào năm 1316 và tất cả bản Pháp Bảo
Đàn kinh bằng tiếng Triều Tiên đều xuất phát từ bản Đức Dị). Bản Pháp Bảo Đàn
kinh được thông dụng nhất hiện nay ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam chính là
bản Tông Bảo được viết vào năm 1291 và được in trong Đại Tạng kinh ở đời Minh.
Ngoài những bản vừa kể, ít nhất chúng ta được biết có gần mười bản Pháp Bảo Đàn
kinh khác nhau, ngoài bản xưa nhất tìm lại được ở động Đôn Hoàng, viết vào
khoảng những năm 830-860 (chính là bản tôi dịch), những bản khác là bản Huệ Hân
(năm 967), bản Thiều Hồi (năm 1013), bản Tồn Trung (năm 1116), bản Bắc Tống
(năm 1153). Ngoài ra có hai bản đáng lưu ý và được coi đầy đủ nhất là hai bản ở
Nhật Bản, bản Đại Thừa Tự (Daijòji) và bản Hưng Thánh Tự (Kòshòji); bản Đại
Thừa Tự thì dựa vào bản Tồn Trung, còn bản Hưng Thánh Tự thì dựa vào bản Bắc
Tống và bản Thiều Hồi. Tất cả những bản Pháp Bảo Đàn kinh khác nhau vừa kể trên
đều xuất phát từ bản duy nhất còn tìm lại được: chính là bản Đôn Hoàng
(830-860) mà tôi dịch ở đây. Bản Đôn Hoàng là bản ngắn gọn nhất và chỉ gồm có
mười hai ngàn chữ, còn những bản khác (bản đời Nguyên và Minh) gồm khoảng hai
mươi mốt ngàn chữ. Bản chữ Hán tôi dịch ở đây được dựa theo bản chữ Hán đã được
san định kỹ lưỡng do công phu uyên bác của giáo sư Philip B.Yampolsky của Đại
học Columbia (The Platform Sutra of the Six Patriarch, the Text of the
Tun-Huang Manuscript with Translation, Introduction, and Notes by Philip
B.Yampolsky, Columbia University Press, New York, 1967).
Trong phần mở đầu của quyển sách, giáo sư uyên bác Yampolsky đã cống hiến cho
độc giả những dữ kiện lịch sử rõ rệt về sự thành hình của Thiền tông, căn cứ
theo những tài liệu được khai quật từ động Đôn Hoàng; giáo sư đã chịu khó tham
khảo hàng ngàn thiên khảo cứu Trung Hoa và Nhật Bản, cho độc giả nhìn thấy lại
sự diễn biến của Thiền tông tại Trung Hoa từ những thế kỷ thứ VI, VII, VIII và
IX, giáo sư đã tham khảo tất cả những tài liệu dữ kiện liên hệ đến Thiền tông ở
những thế kỷ ấy, mà ngay rất nhiều học giả Trung Hoa và Nhật Bản cũng ít biết
đến. Bản dịch này được dựa theo bản chữ Hán do giáo sư Yampolsky san nhuận thấu
đáo, nhưng tôi không hẳn hoàn toàn đồng ý với giáo sư ở nhiều điểm quan trọng,
và khi dịch thì tôi dựa hẳn theo nguyên tắc chữ Hán và không đồng ý với giáo sư
trong vài ba chi tiết ở nguyên bản. Giáo sư đã tự ý sửa đổi nhiều và thường lấy
tiêu chuẩn nơi bản Hưng Thánh Tự. Tôi thì chỉ chú trọng giữ lại sắc thái độc
đáo của nguyên bản động Đôn Hoàng, chỉ trừi ra có những điểm chép sai quá lộ
liễu thì tự ý sửa lại cho đúng văn pháp. Khi dịch, tôi cũng dịch trung thành
theo những thành ngữ thông tục ở đời Đường, chẳng hạn thành ngữ "đệ nhất
vật" (phân đoạn 13 của bản kinh) là một thành ngữ thông tục ở đời Đường có
nghĩa là "không bao giờ trông bất cứ trường hợp nào" chứ không có
nghĩa ngày nay là "vật thứ nhất", chẳng hạn thành ngữ "ưng
thị" (phân đoạn 35 bản kinh) cũng là chữ thông tục đời Đường có nghĩa là
"tất cả". Còn chữ "đường" (phân đoạn 35), tôi không đồng ý
với Yampolsky mà dịch là "Trung Quốc" (hiểu theo nghĩa đời Đường).
Tôi hiểu "đường" ở đây có nghĩa là "hành lang", "con
đường đi từ thềm ra cửa"; ý kiến này cũng đồng ý với giáo sư Nhật nổi
tiếng về Thiền học Ui Hakuju, tác giả bộ Zenshu shi kenkyu, cuốn II, trang 148
(Tokyo, 1939-43).
Tôi tạm đưa ra vài thí dụ vừa rồi có tính cách kỹ thuật về phương diện khảo cứu
ngôn ngữ học, nhưng có một điểm cần phải nhấn mạnh nơi đây, trong mọi trường
hợp thảo luận và quyết định về những điểm dị đồng trong những bản khác nhau
trong kinh điển Phật giáo, tiêu chuẩn quyết định vẫn là nội dung giáo lý căn
bản; nói một cách khác, không thể chỉ thuần túy đứng về mặt khảo sát ngôn ngữ
học mà có thể quyết định việc san nhuận kinh điển mà đồng thời phải lấy ánh sáng
căn bản của giáo lý được thuyết minh trong chính kinh điển ấy để soi chiếu và
giải minh những vấn đề dị biệt ở bình diện hình thức văn từ có tính cách lịch
sử cục bộ giới hạn. Có nắm được giáo lý căn bản của ngài Huệ Năng thì tất cả
những vấn đề nan giải về sử học và ngôn ngữ học sẽ được giải quyết một cách
nghiêm chỉnh. Nói một cách khác hơn nữa, phải nhìn con người và hành trạng của
ngài Huệ Năng, phải nhìn bản Pháp Bảo Đàn kinh với cái nhìn của một thiền sư,
một người đã được nuôi dưỡng trong truyền thống của Thiền tông, thì mới thấy
được những gì mà những người khác, dù là học giả uyên bác nhất, cũng không có
đủ điều kiện tâm linh để nhìn thấy được.
Đó là lý do tại sao tôi cảm thấy cần thiết phải dịch lại nguyên bản xưa nhất
của Pháp Bảo Đàn kinh và nhất là giới thiệu cho dân tộc Việt Nam một nền đạo lý
chính thống đã nuôi dưỡng dân tộc ta suốt từ mười mấy thế kỷ nay. Không có ngài
Huệ Năng thì chẳng bao giờ có đời Lý và đời Trần, hai triều đại quyết định tất
cả tinh túy hồn tính của Việt Nam. Chẳng những ở Việt Nam mà thôi, nếu không có
ngài Huệ Năng thì chẳng bao giờ có cái đạo Thiền, gọi là Thiền tông Trung Hoa
và Triều Tiên, Zen của Nhật Bản và tất cả những gì người ta nói đến Thiền hiện
nay ở Tây phương; Thiền đã ảnh hưởng thế nào đến học thuật văn hóa Tây phương ở
thế kỷ XX thì mọi người đều biết; Thiền đã tác động đến cả một nền văn chương
Hoa Kỳ ở hạ bán thế kỷ XX này (không kể văn hào Henry Miller đã đi trước trong
việc lãnh hội Thiền từ những năm 1932-34, mà chỉ cần kể những tên tuổi nổi tiếng
khắp thế giới của thế hệ văn, thi sĩ Hoa Kỳ như J.D.Salinger, William
Burroughs, Jack Kerouac Allen Ginsberg và nhất là đại thi sĩ Gary Snyder, người
mở đầu khai thị Thiền tông cho cả một thế hệ và nhiều thế hệ văn, thi sĩ Hoa
Kỳ, vừa mới đây Gary Snyder có đến thăm Phật tử và gặp tôi tại chùa Việt Nam
Los Angeles, nhân đến nói chuyện với giới trí thức Mỹ tại Đại học UCLA).
Thiền tông đã ảnh hưởng toàn bộ đến văn hóa, học thuật Tây phương ở thế kỷ XX,
và người đã thực sự sáng tạo ra Thiền tông lại chính là Huệ Năng chứ không phải
Bồ Đề Đạt Ma; ngài Bồ Đề Đạt Ma chỉ là được truyền thống Thiền chọn lựa đứng
tên danh dự mà thôi để linh động hóa tinh thần tạ ơn đối với Aán Độ, quê hương
tâm linh của Phật giáo nhân loại. Một người độc thân duy nhất đã thay đổi toàn
triệt truyền thống Phật giáo Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản, và ảnh hưởng
toàn diện đến văn hóa học thuật Á Đông và hiện nay của cả thế giới, người ấy là
Huệ Năng, và Huệ Năng là người Việt Nam
mà chính toàn dân Việt Nam lại không hề biết đến, và ngay cả truyền
thống Phật giáo Việt Nam lại bỏ quên ngài và coi ngài như bao nhiêu vị sư tổ
Trung Hoa khác. Những nhà học giả Trung Hoa rất hãnh diện về ngài Huệ Năng và
cho rằng ít nhất ngài ngang hàng với Lão Tử, Khổng Tử, Trang Tử và Mạnh Tử,
chẳng hạn giáo sư John C.H.Wu, Viện trưởng Viện Đại học Văn hóa Trung Hoa ở Đài
Loan, hãnh diện quả quyết như vầy: "Huệ
Năng nhất định là một trong những thiên tài cao lớn nhất, vĩ đại nhất mà đất
Trung Hoa đã sinh sản ra. Huệ Năng đứng chung ngang hàng với Lão Tử, Khổng Tử,
Mạnh Tử và Trang Tử". (Hui Neng is assuredly one of the superlative
geniuses that China has ever produce. He belongs to the company of Lao Tseu,
Confucius, Mencius and Chuang Tzu) (xin đọc John W.C.H.Wu, The Golden Age of
Zen, trang 56. NXB United Publishing Center, Đài Loan, 1975).
Lần lượt sau đây, chúng ta sẽ thấy rằng Huệ Năng là người Việt Nam và điều này
đã được chứng minh dứt khoát rõ ràng trong tất cả những bản khác nhau của Pháp
Bảo Đàn kinh, dù cho những đời sau cố tình thêm bớt che giấu sự thật thì tất cả
những bản kinh khác đều còn giữ lại những câu quyết định nhất để nói lên sự
thực lịch sử quyết định trầm trọng rằng ngài Lục Tổ Huệ Năng là người Việt Nam.
Dù tất cả di bản, bia ký, tài liệu, văn thư, sách vở của Trung Hoa còn để lại
đều để tạo ra cảm tưởng sai lầm rằng Huệ Năng là người Trung Hoa, nhưng chính
đồng thời tất cả những tài liệu lịch sử còn giữ lại đó đã giúp đỡ đưa ta đi đến
những kết luận nghịch hướng và không thể chối cãi được rằng ngài Huệ Năng là
một người Việt Nam. Đây là một khám phá lớn nhất cho cả dân tộc, và chúng ta có
đặc ân khai thác và bảo tồn như viên ngọc quý nhất của dân tộc. Tôi xin khiêm
tốn trao tặng viên ngọc quý này cho nền Quốc học Việt Nam.
LỤC TỔ HUỆ NĂNG LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
Trước khi đi đến những dữ kiện, tài liệu lịch sử để chứng minh Huệ Năng
là người Việt Nam, tôi xin cụ thể gợi lại đây cho ta thấy "bản lai diện
mục" của ngài Huệ Năng qua cái nhìn của tôi từ những dữ kiện rõ ràng có
thể thấy được, dưới một luồng ánh sáng khác chiếu rọi trên con đường cô độc của
một đạo sĩ Việt Nam cách đây trên 13 thế kỷ. Điều sai lầm lớn nhất là mỗi khi
ta nhắc đến ngài Huệ Năng thì lập tức chúng ta hình dung rằng ngài có hình dáng
một cụ Hòa thượng già nua, mường tượng như những hình ảnh ta nhìn thấy trong
sách vở Tàu; tất cả những hình ảnh của ngài và ngay cả hình ảnh chụp nhục thân
của ngài đều là những hình ảnh do những đời sau nguỵ tạo. Chúng ta cần phải
thành kính thờ lạy tất cả những hình ảnh về ngài do những thế hệ đã qua để lại,
vì tất cả những di ảnh ấy đều là những biểu tượng cần thiết hữu hình về ngài;
chúng ta phải cần có những biểu tượng hữu hình để thờ lạy, vì cơ cấu tâm thức
của chúng ta cần phải nương tựa thành kính vào một hình tượng cụ thể để mới có
khả năng vượt qua hình tượng, chứ không thì dễ rơi vào chủ nghĩa hư vô. Nhu yếu
vô hình và siêu hình của tâm hồn phải cần nương tựa vào một hình tượng nhất
định để rồi siêu hóa và chuyển hóa tất cả những hình tượng. Chính ngay đương
thời với ngài Huệ Năng, theo truyền thuyết, có đệ tử tạc tượng ngài, nhưng
chính ngài Huệ Năng ngó tượng và mỉm cười: "Ngươi chỉ có tài nặn hình mà
chẳng hiểu được tánh Phật". Dù đây chỉ là đoạn văn do người sau thêm vào
Tông Bảo của Pháp Bảo Đàn kinh, nhưng vẫn nói lên được cụ thể cái tinh thần vô
tướng của nguyên ngữ khí của Huệ Năng. (Bản Tông Bảo có điều vô lý là ghi rằng
Phương Biên, người tạc tượng, đã gặp Bồ Đề Đạt Ma, đến trước Huệ Năng năm đời
Tổ). Chúng ta thường hình dung nét mặt của ngài Huệ Năng là nét mặt hiền hậu
của một cụ già, nhưng chúng ta đã quên rằng Huệ Năng đã từng rất trẻ, và chính
tuổi trẻ của Huệ Năng quyết định hết tất cả sự nghiệp tâm linh vĩ đại của Huệ
Năng, vì tất cả những bản khác nhau của Pháp Bảo Đàn kinh đều giống nhau ở chỗ
nói lên tuổi trẻ của Huệ Năng, khi ngài đến gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Ba điều cần
nhấn mạnh về tuổi trẻ của ngài Huệ Năng:
- Thứ nhất: Huệ Năng đã đắc đạo vừa lúc mới nghe người lạ tụng kinh Kim Cang
trước khi ngài đến gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn;
- Thứ hai: Huệ Năng là một thanh niên đầy tự tin, hãnh diện về sự chứng ngộ tâm
linh của mình và không hề có một mặc cảm tự ti nào cả khi mới vừa gặp Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn. Theo tiêu chuẩn lễ nghi, lễ phép ở tông môn thì cách đối đáp của
Huệ Năng (vừa mới gặp Ngũ Tổ lần đầu tiên) quả thực là rất "vô lễ".
Ngay ở Việt Nam ngày nay, cũng không thấy một thanh niên trẻ măng mới đến chùa
xin đi tu mà dám cả gan đối đáp như vậy với một vị Hòa thượng nổi tiếng (như
Hoằng Nhẫn), huống chi đây là một thanh niên ngoại quốc ở vùng nhược tiểu
"man rợ" mà dám đối đáp với Đại lão Hòa thượng đại cường quốc thống trị
Trung Hoa thịnh Đường như vậy; Hoằng Nhẫn giả vờ hỏi một câu chê trách về nguồn
gốc Việt Nam của Huệ Năng thì Huệ Năng trả đũa ngay lập tức như một kẻ đã chứng
ngộ rồi mới dám khẳng định rằng: "Con người tuy có Tàu có Việt, tuy thân
mọi rợ này không giống với thân Hòa thượng, nhưng Phật tánh trong Hòa thượng và
trong tôi chẳng có gì là sai biệt". (Chúng ta phải hiểu chữ
"Bắc" trong kinh có nghĩa là "Trung Quốc" và
"Nam" có nghĩa là Việt Nam; ngày xưa người Trung Hoa coi nước Việt
Nam là thuộc địa miền Nam của họ);
- Thứ ba: Huệ Năng không được Hoằng Nhẫn dạy đạo gì cả và chỉ ở chùa với Ngũ Tổ
có tám tháng mà thôi, và được Ngũ Tổ trao truyền y pháp và ngôi Lục Tổ, lúc Huệ
Năng mới có được khoảng 22 tuổi và chỉ non khoảng 23 tuổi. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
chỉ giữ vai trò danh dự là ấn chứng cho Huệ Năng, vì thế Ngũ Tổ mới lén lút kêu
gọi Huệ Năng đêm khuya vào gặp riêng Ngũ Tổ để ngài trao y pháp và giảng cho
một thời kinh Kim Cang gọi là lấy lệ thôi, rồi sau đó Ngũ Tổ âm thầm lén lút
đưa tiễn Huệ Năng đến trạm Cửu Giang, và đuổi khéo Huệ Năng trở về rừng rú Việt
Nam, không dám giữ lại đất Trung Hoa, vì Ngũ Tổ đã làm một việc can đảm phi
thường nhất đáng ngại: trao ngôi vị lớn nhất của Thiền tông (lúc đó chưa có tên
là "Thiền tông" mà chỉ có tên là Đông Sơn pháp môn) cho một thanh
niên "mọi rợ" mới chưa đầy 23 tuổi.
Có một điều không nên quên đó là lần đầu tiên và có thể là lần cuối cùng độc
nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa mà ngôi vị Tổ sư của một tông pháp lớn
nhất của Phật giáo lại được trao truyền cho một người ngoại quốc còn rất trẻ
tuổi và chưa thọ giới xuất gia gì cả (Huệ Năng chỉ làm lễ thế phát xuất gia
theo điệu hình thức lúc gần 40 tuổi, vì "phương tiện thiện xảo", vì
từ bi để hoằng pháp và gìn giữ ý nghĩa siêu việt của chữ "Tăng" trong
Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), nhưng chi tiết này cũng do những bản đời sau của
Pháp Bảo Đàn kinh thêm vào để cho "cụ túc" hình tướng cần thiết hóa
độ). Chúng ta phải tán thán công đức siêu phàm của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ở đây: Hòa
thượng đã nhìn nhận ra tất cả vĩ đại phi thường của một anh con nít, chưa đầy
23 tuổi, lại thuộc giống người "mọi rợ", chưa xuất gia; và Hòa thượng
khéo léo kín đáo trao truyền tất cả trách nhiệm tâm linh nặng nề nhất của đạo
pháp, khéo léo khuyên Huệ Năng lui trở về Việt Nam và trốn tránh ở Việt Nam,
chứ đừng ra mắt xuất hiện ở đất Trung Hoa nữa; Huệ Năng đã nghe lời dạy của Ngũ
Tổ và đã mất dạng ở đất Trung Hoa trong vòng mười sáu năm; ngài trở về ẩn náu ở
vùng rừng núi Việt Nam và đến mười sáu năm sau mới xuất hiện giữa vùng biên cương
hai nước để thuyết pháp.
Từ ba điều cần nhấn mạnh trên, bây giờ chúng ta thử hình dung người thanh niên
Huệ Năng. Chúng ta thử hình dung cách đây trên 13 thế kỷ, lúc đó tại vùng miền
Bắc nước Việt Nam, quanh quẩn đâu đó thuộc vùng thượng du Bắc Việt, có một đứa
con nít Việt Nam ra đời khoảng năm 638, tại vùng đất gọi là Lĩnh Nam, tức là
Việt Nam, lúc đó nước Việt Nam đã mất chủ quyền độc lập, gọi là thời Bắc thuộc
lần thứ ba, vào thời nhà Đường (cuộc Bắc thuộc dã man này kéo dài từ năm 603
cho đến năm 939). Tất cả những gì huy hoàng nhất của Việt Nam trong giai đoạn
ấy đều bị Trung Hoa đồng hóa sát nhập vào sở hữu của họ). Cũng xin mở dấu ngoặc
ở đây: Phật giáo Việt Nam lúc ấy rất huy hoàng và có nhiều vị sư Việt Nam đã
được triệu thỉnh về triều đình Trung Hoa để dạy đạo Phật cho vua quan học; đó
là chưa nói đến Trung tâm Phật giáo Đại thừa có từ trước đời Đường ít nhất ba,
bốn thế kỷ là nước Vu Điền (Khotan) ở Trung Á đã sản xuất bao nhiêu đạo sĩ
truyền giáo Đại thừa cho Trung Hoa, hầu hết tất cả những vị này đã mang kinh
điển Phật giáo đến Trung Hoa từ thế kỷ thứ hai và mấy thế kỷ sau; hầu hết tất
cả những vị truyền giáo vùng Trung Á này đều đi bằng đường biển đến Trung Hoa
và bắt buộc phải ghé Việt Nam trước khi đổ bộ sang Trung Hoa (ngay cả Bồ Đề Đạt
Ma, người vùng Trung Á, chứ không phải Ấn Độ, vì không có sách Phật giáo Ấn Độ
nào nói đến Bồ Đề Đạt Ma cả, ngay cả tài liệu Tây Tạng về Phật giáo Ấn Độ cũng
không có nói đến Bồ Đề Đạt Ma), ngay đến Bồ Đề Đạt Ma, người vùng Trung Á, cũng
phải đi đường biển và mất hết ba năm trời mới đến Trung Hoa, như thế trong thời
gian ba năm đó, Bồ Đề Đạt Ma cũng phải lưu lại Việt Nam trước khi sang Trung
Hoa. Việt Nam đã từng chịu ảnh hưởng mạnh về hình thức Phật giáo Trung Hoa,
nhưng ngược lại Việt Nam đã ảnh hưởng lại Trung Hoa rất mãnh liệt mà ít ai thấy
được, và trường hợp Huệ Năng là một thí dụ điển hình.
Phật giáo Việt Nam đã ảnh hưởng mãnh liệt đến Phật giáo nước ngoài, như một
trường hợp điển hình khác ít ai biết: năm 735, Thiền sư Việt Nam tên là Phật
Triệt đã đến Nhật Bản và dạy chữ Phạn cho những Tăng sĩ Nhật Bản, và đồng thời
Tổ sư trao truyền nhạc Phật giáo cho nền vũ nhạc triều đình Nhật Bản mà ngày
nay người Nhật rất hãnh diện đã giữ lại nền vũ nhạc tuyệt vời ấy và coi như
"một trong những kỳ quan của thế giới" và chính người Nhật cũng công
nhận rằng đó là nền vũ nhạc mà chính một người Việt Nam đã trao truyền cho họ
vào thế kỷ thứ VIII đang khi đó ở Việt Nam chúng ta đã quên mất hết tất cả
những gì gọi là tinh túy của dân tộc (*). Đây là một trường hợp đáng lưu ý cho
những người quan tâm đến quốc học mà tôi sẽ đề cập trong dịp khác. Bây giờ xin
đóng dấu ngoặc lại và trở về ngài Huệ Năng.
Chúng ta thử tưởng tượng hình dung một đứa con nít Việt Nam khi sinh ra đời thì
nước Việt Nam đã trở thành lãnh thổ của nước Trung Hoa. Chúng ta chỉ biết đứa
con nít ấy tên là Năng (chữ "Huệ" có thể do Ngũ Tổ đặt thêm cho
Năng). Không ai biết rõ tung tích của đứa bé ấy, chỉ biết rõ rằng đứa bé ấy là
người đất Lĩnh Nam (tức là Việt Nam). Ngay đến tên tuổi cha mẹ của Huệ Năng
trong bản Đôn Hoàng và những bản sau của Pháp Bảo Đàn kinh đều do những thế hệ
sau thêm vào (bản Đôn Hoàng Pháp Bảo Đàn kinh xuất hiện sau năm viên tịch của
Huệ Năng ít nhất trên một thế kỷ sau). Khi đứa trẻ ấy lớn lên khoảng ngoài hai
mươi tuổi, ở vùng gần biên giới Trung Hoa, nghèo khổ, phải đi bán củi nuôi
sống, người nhỏ bé, ốm yếu, gầy đét, nhưng thông minh siêu phàm xuất chúng;
tình cờ chỉ nghe một người tụng kinh Kim Cang mà giác ngộ; Huệ Năng biết nói
tiếng Tàu, nhưng nói đại khái thôi và không rành lắm: dữ kiện lịch sử đã chứng
minh rằng Huệ Năng nói không rành tiếng Tàu (đã được những hậu bản kinh Pháp
Bảo Đàn ghi chép) dù Huệ năng có nói tiếng Tàu theo giọng Quảng Đông đi nữa thì
không có lý do gì mà Huệ Năng phải cần tự biện hộ (ngài đối đáp với Hoằng Nhẫn)
lúc Ngũ Tổ đưa ngài đến trạm Cửu Giang để trở về Việt Nam, nhất là trong một
lúc nghiêm trọng như sắp vĩnh biệt Ngũ Tổ. Chẳng hạn đọc lại bản Tông Bảo của
Pháp Bảo Đàn kinh:
"Lúc vào canh ba, Huệ Năng lãnh được y bát rồi thì mới hỏi: "Năng này
gốc gác là người Việt Nam, vốn chẳng biết đường đi vùng núi này, làm thế nào mà
ra vàm sông?". Ngũ Tổ đáp, con chẳng cần đi, tự ta sẽ đưa con đi. Tổ đưa
Huệ Năng thẳng tới trạm Cửu Giang. Rồi Tổ bảo Huệ Năng lên thuyền, ngài cầm mái
chèo lấy, nhưng Huệ Năng nói: "Xin Hòa thượng ngồi và hãy để đệ tử chèo
lấy mới phải". Tổ nói: "Đáng lẽ ta độ cho người". Huệ Năng trả
lời: "Khi mê thì thầy độ cho, ngộ rồi thì mình độ lấy mình. Chữ
"độ" tuy có một mà chỗ dùng chẳng giống nhau. Huệ Năng này sinh ở
chốn biên thùy xa xôi, thành ra tiếng nói không được đúng. Nhờ thầy truyền pháp
rồi và nay đã đắc ngộ rồi thì chỉ tự mình mà độ lấy mình thôi". Chúng ta
thấy gì trong lời ghi chép trên? Hiển nhiên chữ Hán "độ" có nghĩa là
"đưa" mà cũng có nghĩa là "cứu độ". Khi Huệ Năng trả lời:
"Lúc mê thì Tổ sư độ, ngộ rồi thì tự độ lấy mình. Huệ Năng này sanh tại xứ
dã man và giọng nói không đúng, nhờ Tổ sư truyền pháp, nay đã được tỏ sáng thì
chỉ nên mình tự độ lấy mình". Đoạn này mới nghe qua tưởng dễ hiểu. Nếu
chúng ta biết nhìn thấy qua bên trong sự việc thì chúng ta sẽ thấy được mật ý
của đoạn văn. Đây không phải lúc mà Huệ Năng có thể "chơi chữ" với Tổ
sư, vì đây là giây phút vô cùng nghiêm trọng và ngôn ngữ ở đây là ngôn ngữ bí
mật giữa hai thiền sư; ngôn ngữ bí mật nằm giữa hai biên giới, biên giới Sống
và Chết: một Tổ sư rút lui về sự Chết và một Tổ sư khác mới khai sinh. Huệ Năng
đã hiểu mật ý của Ngũ Tổ và muốn nói với Ngũ Tổ rằng: "Thầy muốn đưa con
về Việt Nam là để cứu thoát con để khỏi bị lâm nạn ở đất Tàu, vì con nói tiếng
Tàu không rành, là người mọi rợ, lại lên ngôi vị Tổ sư, nhưng thầy đưa con đi
đây có nghĩa rằng thầy muốn cứu thoát con, dù con nói không rành tiếng Tàu,
nhưng con cũng hiểu ý của thầy khi thầy muốn "đưa" con đi và đồng
thời muốn "cứu thoát" con ("độ"), con đã hiểu ý thầy rồi
thì con phải tự cứu thoát lấy mình và trở về Việt Nam". Tất cả mật ý trên
chỉ muốn nói lên điều duy nhất: Huệ Năng hiểu lý do tại sao Ngũ Tổ đưa trả Huệ
Năng về Việt Nam, vì rất nguy hiểm cho tính mệnh của một người thanh niên trẻ
tuổi, người "man rợ dã man" mà được trao truyền ngôi vị Tổ sư thống
lãnh tất cả Đông Sơn pháp môn, trường phái nổi tiếng nhất của Trung Hoa hồi đó.
Chỉ có thể hiểu như vậy mới không thấy cái "lố bịch" của Huệ Năng khi
tỏ vẻ "khôn vặt" chơi chữ với chữ "độ" trong một giây phút
linh thiêng nhất, lúc giã biệt thầy. Sau đó, chàng thanh niên Huệ Năng phải mai
danh ẩn tích ở rừng núi Việt Nam trong khoảng mười sáu năm trời, rồi mới dám
xuất đầu lộ diện thuyết pháp ở vùng biên giới Trung - Việt.
Ngài Huệ Năng thuyết pháp trên ba mươi mấy năm trời chung quanh vùng Quảng Đông
và vùng biên giới Trung - Việt, và cả nước Trung Hoa lúc ấy không ai biết đến
tên tuổi ngài cả, lúc ấy Thần Tú được trọng đãi ở triều đình Trung Hoa và được
chính thức coi như Lục Tổ của Đông Sơn pháp môn (lúc đó chưa có phân biệt
"Bắc Tú, Nam Năng" như ta thấy trong bản Đôn Hoàng và những hậu bản
Pháp Bảo Đàn kinh). Danh tiếng, uy thế của Thần Tú và đệ tử Phổ Tịch lẫy lừng
vang dội và được vua Trung Hoa coi như Quốc sư, đang khi ấy ngài Huệ Năng chỉ
là một ông đạo sĩ "man rợ" tối tăm ở biên cương, chỉ có được một số
môn đệ người Trung Hoa trung thành sùng bái, trong số đó có một người tên là
Thần Hội; chính Thần Hội sau này đã khôi phục lại ngôi vị Tổ sư thứ sáu cho Huệ
Năng và rao truyền đạo lý Đốn ngộ Bát nhã của Huệ Năng và đẩy lùi tất cả những
trường phái Thiền tông khác đi vào bóng tối của lịch sử. Tất cả tư tưởng đạo lý
của Thần Hội đều được rút ra trực tiếp từ Huệ Năng.
Vai trò quyết định của Thần Hội đối với lịch sử Phật giáo Thiền tông Trung Hoa
và Nhật Bản chỉ mới được Hồ Thích khám phá ra từ những tài liệu đào ra được ở
động Đôn Hoàng, lưu giữ ở Thư viện Quốc gia Paris. Tác phẩm của Thiền sư Thần
Hội đã thất lạc từ lâu ở Trung Quốc và Nhật Bản, chỉ nhờ Hồ Thích khám phá ra ở
thư loại Pelliot tại Paris mà lịch sử Phật giáo Thiền tông Trung Hoa đã được
viết lại hết, chẳng những tài liệu của Hồ Thích thôi mà còn bao nhiêu tài liệu
khác từ Đôn Hoàng đã giúpc ho các học giả Nhật và phương Tây thấy rằng sự thực
lịch sử về sự thành hình của Thiền tông không giống như những tài liệu lịch sử
Phật giáo Trung Hoa như chúng ta từng quen biết từ lâu.
Những gì chúng ta biết được về những Tổ sư Trung Hoa từ Bồ Đề Đạt Ma cho đến
Huệ Năng đều do những truyền thuyết nguỵ tạo ở những thế hệ sau. Tất cả những
sử gia Trung Hoa và ngoại quốc muốn viết gì về Huệ Năng đều lấy tài liệu chứng
minh từ bộ Toàn Đường văn (Đài Bắc, 1961, 20 cuốn), nhưng theo giáo sư
Yampolsky thì bộ "Bộ sách Toàn Đường văn" được biên soạn vào năm 1814
và sử dụng tạp nhạp tất cả những tài liệu một cách bừa bãi, và nhiều tài liệu đã được viết ra sau này và rất
gần đây, thành ra không thể tin vào giá trị của những tài liệu ấy"
(Yampolsky, op. cit., trang 31). Sau khi khảo xét rất kỹ lương xtất cả tài liệu
liên quan đến Huệ Năng trong bộ Toàn Đường văn, Yampolsky phải đi đến kết luận
rằng tất cả đều là ngụy tạo (op. cit., trang 59). Sau khi đã duyệt qua hàng
ngàn tài liệu Trung Hoa và Nhật Bản, cùng những tài liệu khai quật ở Đôn Hoàng,
Yampolsky đi đến kết luận rằng: "Chúng ta không có được những dữ kiện nào
về Huệ Năng cả... (For Hui-Neng we have
no facts..." op. cit., trang 60). "Chúng ta chỉ có thể kết
luận rằng thực ra gần như không có gì để chúng ta có thể nói thực sự về Huệ Năng" ("We
may only conclude that there is infacts, almost nothing that we can really say about him", op.
cit., trang 69). Theo Yampolsky, chúng ta chỉ biết chắc có một điều là có một
người tên là Huệ Năng, một thiền sư có đôi chút tiếng tăm đương thời và sống
đâu đó ở vùng miền Nam Trung Hoa".
Theo Yampolsky, chỉ có hai tài liệu đáng tin cậy: thứ nhất là Lăng Già sư tử ký
(khai quật ở Đôn Hoàng), và tài liệu này chỉ nhắc đến tên Huệ Năng như là một
trong mười học trò của Hoằng Nhẫn, chỉ
thế thôi và không có ghi chép sự kiện gì khác; tài liệu thứ hai là bia
ký của thi hào Vương Duy vào khoảng năm 740. Còn tất cả những tài liệu khác đều
do những thời đại sau ngụy tạo. Trong bia ký của thi hào Vương Duy mà Yampolsky
đã trích dịch ở trang 66-67 (op. cit.), chúng ta chỉ thấy Vương Duy ghi rằng:
"Nơi quê quán của Thiền sư Huệ Năng không ai biết. Thiền sư sinh sống ở một thôn làng mọi rợ. Khi trẻ, học đạo
với Hoằng Nhẫn, thiên tài của ngài được Ngũ Tổ ghi nhận và được trao truyền y
pháp; Ngũ Tổ bảo ngài phải lìa bỏ (tức là lìa bỏ đất Trung Hoa), và trong mười
sáu năm, ngài sống ẩn trốn với phường buôn bán dân ngu khu đen (tức là phường dân
ngu khu đen ở Việt Nam). Từ hai dữ kiện lịch sử trên và dựa theo tất cả những
bản khác nhau của Pháp Bảo Đàn kinh, và loại bỏ tất cả những gì có tính cách
thần thoại hay truyền thuyết (và ngay cả bản Đôn Hoàng Pháp Bảo Đàn kinh chỉ
được chép vào năm 830-860, gọi là do Pháp Hải ghi lại, chưa hẳn là nguyên bản
của Pháp Bảo Đàn kinh mà những học giả Nhật cho rằng đã có một nguyên bản khác
đã được viết vào khoảng năm 713-714 sau khi Huệ Năng viên tịch, bản này đã mất
và chưa tìm lại được); dựa vào tất cả những dữ kiện kiểm chứng được, chúng ta
chỉ có thể có những kết luận sau đây:
- Huệ Năng là người Việt Nam, sinh ở Lĩnh Nam;
- Lĩnh Nam là đất Việt Nam (ngày xưa Lưỡng Quảng: Quảng Đông và Quảng Tây cũng
thuộc Việt Nam). Ngay đến Yampolsky cũng đã chú thích rất rõ: "Lĩnh Nam là
những vùng ở Quảng Đông, Quảng Tây, và miền "Bắc Đông Dương Việt Nam" ("Ling-nan indicates the
areas of Kwangtung, Kwangsi, and Northern
Indochina", op. cit., trang 126). Còn địa danhh "Nam Hải"
ghi trong tất cả những bản Pháp Bảo Đàn kinh thì theo Yampolsky đó là Phiên
Ngung, tức là thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày xưa (xin đọc Trần Trọng Kim, Việt
Nam sử lược, trang 37: "Triệu Đà đánh được An Dương vương, sát nhập nước
Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập thành một nước gọi là Nam Việt, tự xưng làm vua,
tức là Vũ vương, đóng đô ở Phiên Ngung").
Ngoài ra, còn một điểm đáng lưu ý mà Yampolsky đã nêu ra: Bài thuyết pháp quan
trọng nhất của Huệ Năng là ở chùa Đại Phạm, nhưng theo Yampolsky thì, không ai
có thể truy tìm cho ra chùa Đại Phạm ở đâu, chỉ biết chùa ấy còn có tên là chùa
Báo Ân. Ngôi chùa quan trọng nhất, nơi xảy ra bài thuyết pháp quan trọng nhất
của Huệ Năng và là nội dung quan trọng nhất của tất cả các bản Pháp Bảo Đàn
kinh mà không có học giả nào truy ra được địa điểm đích xác, đang khi đó, một
sự kiện lạ lùng, là chúng ta đã thấy cái tên chùa Báo Ân rất nhiều lần trong quyển Việt Nam Phật giáo sử luận của
Nguyễn Lang, cuốn 1, trang 342 và 344; và điều lạ lùng nhất trong lịch sử Phật
giáo Việt Nam: trong Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi có hai tên khuyết lục vào thế
hệ thứ năm và thế hệ thứ sáu, vào thế kỷ thứ VII và thế kỷ thứ VIII, đồng thời với Huệ Năng và Thần Hội (mà
Thần Hội ở chùa Hà Trạch, Hà Trạch nào, phải chăng là Hà Trạch ở Lạc Dương hay
Hà Trạch ở Việt Nam?), vì trong Lĩnh Nam chích quái có ghi rằng: "Thiền sư
Không Lộ kết làm đạo hữu với Giác Hải, lần đến chùa Hà Trạch nương thân..." (trang 90). Và riêng về tài liệu
Phật giáo Việt Nam có một nghi vấn mà chưa ai trả lời được và còn ghi lại trong
Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang (trang 224 và 98): có hai hệ phái
Đại Điên và Bát Nhã không được chép vào
lịch sử những thế hệ truyền thừa.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng Huệ Năng và Thần Hội thuộc vào hệ phái Bát Nhã và
chống lại hệ phái Lăng Già của Thần Tú và Phổ Tịch. Có một điều đáng nói hơn
nữa, đang khi Huệ Năng đương thời không được người Trung Hoa biết đến, và mãi
sau đến sự xuất hiện hoằng pháp của Thần Hội (sau khi Huệ Năng đã chết lâu rồi)
thì ảnh hưởng của Huệ Năng lớn mạnh như vũ bão quét sạch tất cả tông phái khác
ở đất Trung Hoa, đang khi ấy nước Trung Hoa không có một tổ đình nào mang tên
là Lục Tổ thì trái lại tại Việt Nam đã có một tổ đình rất lâu đời, mang tên là
Tổ đình Lục Tổ (xin đọc Nguyễn Lang, trang 218, trang 98, trang 101). Như trong
Việt Nam Phật giáo sử luận thì Tổ đình Lục Tổ đã có tới trên 400 năm, tính kể
từ cuối thế kỷ thứ XII, tức là Tổ đình Huệ Năng đã có từ thế kỷ thứ VIII, thời
đại của Huệ Năng (Huệ Năng viên tịch vào thập niên đầu thế kỷ VIII, tức khoảng
năm 713) (Nguyễn Lang, op. cit., trang 101). Thiền sư Thần Hội, đệ tử của Huệ
Năng chỉ xuất hiện ở những kinh đô Trung Hoa để vũ bão quét sạch tất cả những
tông phái Thiền của Phổ Tịch (đệ tử Thần Tú) và lấy lại ngôi vị Lục Tổ cho Huệ
Năng, bắt đầu từ năm 732, và Thần Hội đã chiến thắng vẻ vang rực rỡ và mất đi
vào năm 758 hay 760, thì đang lúc đó ở Việt Nam đã có một tổ đình mang tên là
Lục Tổ.
Còn một điều nữa là quyển Nam Tông tự pháp đồ (ghi lại lịch sử truyền thừa của
Phật giáo Việt Nam) đã bị mất, và chính mấy chữ "Nam Tông" đáng cho chúng ta lưu ý, vì mấy chữ ấy chỉ
xuất hiện với sự xuất hiện của Thần Hội vào khoảng từ năm 732 trở đi. Còn một
điểm lịch sử vô cùng quan trọng đáng cho chúng ta suy nghĩ: "Thiền sư Việt Nam La Quý An quyên
góp tài sản và đúc một tượng Lục Tổ bằng vàng, chôn ở gần tam quan để khỏi bị
trộm cắp, dặn rằng khi nào có bậc minh vương ra đời để giúp dân cứu nước thì
đào lên". Đây có ngụ ý chính trị gì đối với dân tộc Việt Nam lúc ấy, và
nhất là một điểm khác sau đây: "Ngày Lý Công Uẩn được suy tôn hoàng đế
trong cung thì Thiền sư Vạn Hạnh đang ở chùa Lục Tổ (đọc Nguyễn Lang, op. cit.,
trang 243-24). Nơi đây chứa đựng những bí mật nào về lịch sử của dân tộc mà
chúng ta không còn để ý tới? Nhất là phải cần nhớ rằng Huệ Năng là đại diện cho
ý thức độc lập của Việt Nam chống lại Trung Hoa, chẳng những về phương diện đạo
lý mà còn đại diện ý thức độc lập tự chủ chính trị của chính trị Việt Nam đối
với Trung Hoa; chúng ta phải cần nhớ lại rằng Thần Hội đã bị triều đình Trung
Hoa bắt giam và lưu đày vì bị kết án là "muốn âm mưu chính trị có hại cho
chính quyền Trung Quốc". (cf. Yampolsky, op. cit., trang 36). Và chính
Thần Hội đã tạo ra vai trò Bồ Đề Đạt Ma (truyền thừa y bát của Bồ Đề Đạt Ma cho
đến Huệ Năng) và cũng chính Thần Hội lật đổ vai trò tối ư quan trọng của Thần
Tú và Phổ Tịch (đệ tử Thần Tú) lúc bấy giờ và giành lại ngôi vị Lục Tổ cho Huệ
Năng và đưa Thiền Việt Nam của Huệ Năng thống trị cả Phật giáo Trung Hoa. Đây
không phải chỉ là sự chiến thắng về mặt ý thức đạo lý Việt Nam mà cũng là sự
chiến thắng của tư tưởng Bát nhã đối với tư tưởng Lăng già (của phái Lăng Già
tông, tức là tất cả trường phái Thiền Trung Quốc đương thời mà đại diện là Pháp
Như, Thần Tú và Phổ Tịch). Tất cả bản kinh khác nhau của Pháp Bảo đàn kinh đều xác nhận hai điều quan trọng:
- Thứ nhất: Huệ Năng không biết
đọc và không biết viết chữ Tàu;
- Thứ hai: Huệ Năng sinh trưởng
tại Lĩnh Nam và hoằng pháp chung quanh vùng Nam Hải, tức là Phiên Ngung (thuộc
lãnh thổ Việt Nam thời đó).
Và điều quan trọng là tất cả các bản khác nhau của Pháp Bảo Đàn kinh đều còn
giữ lại ít nhất hai lần, nếu không muốn nói là năm sáu lần những câu đại loại
sau đây để chứng tỏ Huệ Năng không phải
là người Hán tộc mà là người Việt Nam:
- Hoằng Nhẫn mắng Huệ Năng: "Mi
là dân Lĩnh Nam, vốn là đồ mọi rợ, làm thế nào thành Phật được?" (phân
đoạn 3, bản Đôn Hoàng).
- "Thực không ai ngờ nơi đất Lĩnh
Nam lại được phúc có Phật sinh ra nơi ấy" (phân đoạn 37, bản Đôn
Hoàng).
Mấy chữ "đồ mọi rợ" ở đây là dịch mấy chữ chửi thề ở đời đường "các lão" mà Yampolsky đã
chú thích như sau: "Ko-lao" (các
lão) là một tiếng mắng chửi, có nghĩa
là dân dã man, gần như súc vật ở phương Nam nước Trung Hoa (tức là Việt
Nam)" (op. cit., trang 127).
Chỉ nội mấy chữ "các lão" trên
cũng đủ để chứng minh Huệ Năng không phải người Trung Hoa mà là người Lĩnh Nam.
Và riêng mấy chữ "Lĩnh Nam", chúng tôi xin trở lại Lĩnh Nam chích
quái: theo giáo sư Lê Hữu Mục, dịch giả Lĩnh Nam chích quái thì "Lĩnh Nam chích quái còn mang nhiều giá
trị lịch sử, lịch sử vẻ vang của tổ tiên trong công cuộc xây dựng đất
nước" (trang 28). Từ đó, chúng ta có thể kết luận rằng: Nếu nói
Lĩnh Nam là của Trung Hoa thì chúng ta phải bôi hết Lĩnh Nam chích quái và phải
bôi hết "lịch sử vẻ vang của tổ
tiên trong công cuộc xây dựng đất nước" (Lê Hữu Mục). Nếu có người
Việt Nam nào lên tiếng nói rằng Huệ Năng người đất Lĩnh Nam là người Trung Hoa,
thì tôi phải kết luận rằng "người Việt Nam" ấy cho tới thế kỷ thứ XX
vẫn chấp nhận "sự Bắc thuộc lần thứ ba" của Trung Hoa, vì lúc đó vào thời
Huệ Năng, chúng ta bị coi như lệ thuộc Trung Hoa. Mặt khác, nếu có người Trung
Hoa nào muốn chứng minh Huệ Năng là người Trung Hoa thì phải bôi mấy chữ "các lão" và "Lĩnh Nam" trong tất cả
những bản Pháp Bảo Đàn kinh được chép ra liên tiếp trong mười ba thế kỷ.
Giữa những khó khăn lớn lao đang xảy đến cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại
quê hương, giữa những ngày khó khăn trong thời gian phải đối diện và hóa giải
những thử thách gay gắt dành cho Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ mà tôi
là đại diện lãnh đạo, mỗi khuya tôi đã thức dậy tụng kinh Lăng Nghiêm, sau đó,
tôi đã kiên nhẫn âm thầm yên lặng trong ba tháng An cư kiết hạ ngồi dịch lại
tiếng nói của ngài Huệ Năng, trả lại tiếng nói của ngài về đúng tiếng mẹ đẻ của
ngài: tiếng Việt Nam, để cho tất cả chúng ta, những người Phật tử Việt Nam ở
hải ngoại, trong tình cảnh sống tha phương trên đất khách, được nghe lại tiếng
nói của hồn Dân tộc và Đạo pháp, tiếng nói của một thiên tài vĩ đại nhất Việt
Nam và một trong những thiên tài tâm linh lớn nhất của nhân loại. Dù bất cứ
chúng ta lưu lạc ở phương trời nào, mỗi khi chúng ta không quên được tiếng nói
của quê hương, tiếng nói suối nguồn trong khiết của đạo lý, thì "chính thân thể mình là quê hương" như
ngài Huệ Năng đã nói, và dù có ai đã đem vô minh đen tối đến cho quê hương và
đạo pháp, nhưng chơn lý vẫn luôn luôn chiến thắng như ngài Huệ Năng đã nhắn lại
với chúng ta: "Cũng như một ngọn đèn có thể trừ được một ngàn năm bóng tối
thì một ánh sáng của trí tuệ cũng có thể diệt được một vạn năm ngu si đen
tối".
Los Angeles, ngày 1 tháng 9 năm 1985
Hòa thượng THÍCH MÃN GIÁC
(*) Theo học giả Hajime Nakamura, vũ nhạc
triều đình Nhật Bản (tên Nhật là bungaku hoặc gagaku) đã được du nhập vào Nhật
Bản cách đây 1.200 năm do một thiền sư Việt Nam tên là Phật Triệt. Đó thật là
một trong những kỳ quan của nhân loại (one of wonders of the world). Người Nhật
đã hãnh diện chí lý về nghệ thuật này mà họ đã gìn giữ được qua bao nhiêu thế
kỷ (cf. Hajime Nakamura, Contribution
of Eastern Thought and Buddhism to world culture, Vạn Hạnh Bulletin,
Vol.V, Number 2, June, 1973, trang 157).
Theo học giả Nhật Kyòshò Hayashima thì Thiền sư Phật Triệt đã dạy nhạc Việt Nam
ở Học nhạc viện Hoàng gia Nhật, vũ nhạc tên là rinyù-hachiraku, và Thiền sư
Phật Triệt dạy chữ Phạn cho Tăng sĩ Nhật (cf. Encyclopedia of Buddhism, Vol.III, 1972).
30. Quán Thế Âm Bồ Tát
Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu hành, có một kiếp Ngài làm con đầu
long của vua Vô Tránh Niệm , tên là Bất Huyến Thái Tử.
Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, thì có Phật Bảo Tạng ra đời.
Vua thấy nhân tâm xu hướng theo lời giáo hóa của Phật càng ngày càng đông bèn
suy nghĩ rằng: “ Nếu đạo Phật không phải chân chánh, thì đâu có lẽ người ta
sung bái khắp xứ như vậy!”
Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và chúng tăng trong ba
tháng, và lại khuyên các vị vương tử và đại thần cũng làm như vậy.
Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời phụ vương, hết long tin kính, sắm đủ các món
ngon quí và đem những đồ trân trọng của mình mà dâng cúng cho Phật và đại chúng
trong ba tháng, không trễ nải bữa nào và cũng không món gì kém thiếu.
Quan Đại thần Bảo Hải, là phụ than của Phật Bảo Tạng, thấy vậy khuyên rằng :
“Điện hạ đã sẵn long tu phước mà cúng Phật cúng Tăng: vậy xin Điện hạ hãy đem
công đức đó mà hồi hướng về đạo vô thượng Bồ đề, chớ nên cầu sự phước báo trên
cõi trời Đao lợi hay là cõi trời Phạm thiên làm chi.
Bởi vì mấy cõi ấy, tuy là cảnh vật vui tốt, nhân dân sung sướng, căn than đẹp
đẻ . thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thong, dạo đi tự tại, những đồ y thực sẵn
có , các cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ đều khoái lạc, không
có sự khổ như cõi Nhân gian.
Cái phước báo như trong các cõi đó tuy là mỹ mãn như thế, nhưng còn thuộc về
hữu lậu, có hư có mất, chắc chắn gì đâu, chính là sự vô thươờg, thật là tướng
vô định, như cơn gió thỗi mau không có thế lực gì cầm lại đặng: hết vui thì xảy
ra buồn , hết sướng thì trở lại khổ, dầu có sống lâu đến mấy ngàn năm đi nữa,
cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo vào đường nọ ngõ kia.
Nếu Điện hạ cứ cầu phước báo đó, chắc không thoát khỏi ải sanh tử luân hồi, thì
chưa chắc lúc nào đặng tiêu diêu tự tại.
Chi bằng Điện hạ đem công đức đó mà cầu món phước báo vô lậu, không hư không
mất, đời đời kiếp kiếp, vượt ra ngoài ba cõi bốn dòng hưởng sự an vui vô cùng
vô tận, và hồi hướng về đạo Bồ đề mà cầu mau thành Phật quả, đặng cứu độ chúng
sanh khỏi song mê biển khổ. Vậy phần tự lợi đã vuông tròn, mà đức lợi tha lại
đầy đủ nữa“.
Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói như vậy, bèn đáp rằng : “Ta xem
xét cả thảy chúng sanh trong đường Địa ngục chịu sự khổ cực : còn kẻ nhân gian
và người thiên thượng thì đủ đều cấu nhiễm, lắm chuyện trần lao, không có chút
nào đặng thanh tịnh; bởi đó mà tạo thành tội nghiệp, nên mới thọ quả báo mà đọa
vào ba đường dữ là : Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh”.
Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng : “ Bởi chúng sanh ở trong đời không
gặp đặng những người hiền nhân quân tử, khuyên việc lánh dữ làm lành mà dìu dắt
lên con đường giải thoát, chỉ gạp những kẻ tàn ác tiể nhân cũ dụ nhau kết bạn
bè thường xúi giục những điều bất thiện, và lại phá hư chánh pháp, khinh pháp
Đại thừa, làm cho mất cả căn lành, thêm điều tà kiến ; vì vậy mới che lấp tâm
tánh, không biết đạo đức là gì, nên phải chịu nỗi đày đọa “.
Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng : “ Nay tôi đối trước mặt
Phật và đại chúng mà tỏ lời như vầy : Tôi nguyện đem tất cả các món công đức
tôi đã từng cúng dường Tam Bảo và các món công đức tôi đã từng tu tập pháp mầu
mà hồi hướng về đạo Bô thượng Bồ đề .
Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh Bồ Tát, làm những việc lợi ích
cho chúng sanh, nếu tôi xem có kẻ mắc sự khốn khổ hiểm nghèo ở trong hoàn cảnh
ám muội, không biết cậy nhờ ai, không biết nương dựa đâu, mà có xưng niệm danh
hiệi tôi, tức thì tôi dùng phép Thiên nhĩ mà long nghe và dùng phép Thiên nhãn
mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc gì, đặng tôi hiện đến mà
cứu độ cho khỏi khổ mà đặng vui . Nếu chẳng đặng như lời thề đó, thì tôi không
thành Phật .
Thưa Đức Thế Tô ! Nay tôi vì hết thảy chúng sanh mà phát long đại nguyện , tu
học về pháp xuất thế, lo làm các công hạnh tự giác tự lợi, nguyên khi phụ vương
tôi Vô Tránh Niệm, trải hằng sa kiếp nhẫn sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như
Lai ở cõi An Lạc, Thế giới, hóa độ chúng sanh xong rồi, chứng nhập Niết bàn ,
chánh pháp truyền lại, thì tôi tu hạnh làm việc Phật sự . Đến lúc chánh pháp
gần diệt, hễ diệt bữa trước thì bữa sau tôi chứng đạo Bồ đề .
Xin đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi , và tôi cũng hết long yêu cầu các đức
Phật hiện tại ỡ hằng sa thế giới trong mười phương điều thọ ký cho tôi như vậy
nữa ?
Đức Bảo Tạng như lai nghe mấy lời nguyện ấy , liền thọ ký Bất Huyến Thái Tử
rằng : “ Ngươi xem xét chúng sanh trong cỏi Thiên thượng Nhân gian và trong ba
đường dữ đều mắc những sự tội báo , mà sanh long đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự
khổ cực, dứt bỏ những điều phiền não và làm cho cả thảy đều đặng hưởng sự an
vui .
Vì người có lòng soi xét những lời yêu cầu của loài hữu tình trong thế gian mà
cứu khổ như vậy , nên nay ta đặt hiệu là : Quán Thế Âm .
Trong khi ngươi tu hạnh Bồ tát , thì giáo hóa cả vô lượng chúng sanh cho thoát
khỏi sự khổ não và là đủ mọi việc Phật sự .
Sau khi A Di Đà Như Lai nhập Niết bàn rồi , thì cõi Cực lạc lại đổi tên là
“Nhất thiết trân bảo sở thành tựu”. Y báo càng them tốt đẹp hơn trước đến bội
phần .
Chừng đó, đương lúc ban đêm , độ trong giây phút , có hiện ra đủ thức trang
nghiêm, thì ngươi sẽ ngồi trên tòa Kim cang ở dưới cây Bồ đề mà chứng ngôi
Chánh giác hiệu là ; “Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sang Vương Như
Lai: , phước tròn hạnh đủ , muôn sự vẻ vang , đạo pháp cao siêu , thần thong
rộng lớn , rất tôn rất quí , không ai sánh bằng mà lại sống lâu đến chin mươi
sáu ức na do tha kiếp , rồi khi diệt độ thì chánh pháp còn truyền bá lại đến
sáu mươi ba ức kiếp nữa .
Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi , liền vui mừng mà thưa rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn ! Nếu sự thề nguyện của tôi quả đặng hoàn mãn như lời ngài
nói đó , thiệt l àhân hạnh biết bao ! Nay tôi lạy ngài xin làm thế nào cho các
đức Phật hiện ở hằng sa thế giớicũng đều thọ ký cho tôi và khiến cho cả thảy
thế giới đều đồng thời vang ra những tiếng ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà
xa lìa mọi sự dục vọng trên đời “.
Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi , đương cúi đầu lễ Phật , tức thì các thế giới
tự nhiên rung động vang rền, kêu ra những tiếng hòa nhã , ai ai nghe đến cũng
sanh long vui vẻ , làm cho các điều dục vọng bỗng nhiên tiêu tan cả .
Khi ấy , thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương đồng thinh thọ ký cho Quan Thế
Âm rằng: “Đương khi thời kiếp Thiện trụ , ở tại cõi Tán đề lam thế giới , nhằm
lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà giáo hóa chúng sanh , có con của vua Vô Tránh Niệm
, tên là Bất Huyến Thái Tử phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trong ba
tháng: do công đức đó , nên trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật hiệu là : Biết Xuất
Nhất Thiết Công đức Quang Minh San Vương Như Lai , ở về thế giới Nhất Thiết
Trân Bảo Sở Thành Tựu”.
Bất Huyến Thái Tử khi đặng Chư Phật thọ ký rồi , thì long rất vui mừng.
-Đến khi mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời khác , trải kiếp nọ qua kiếp
kia, hằng giữ bổn nguyện , gắng công tu hành, cầu đạo Bồ đề , làm hạnh Bồ Tát ,
chăm lòng thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh , không có khi nào mà Ngài
quên cái niệm đại bi đại nguyện .
Hiện nay Quan Thế Âm đã chứng được bự Đẳng giác Bồ Tát , ở cõi Cực Lạc mà hầu
hạ Đức A Di Đà , hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương đem về cõi ấỵ
Đến sau , Đức Phật A Di Đà nhập Niết bàn rồi thì Ngài kế ngôi Phật vị mà giáo
hoá chúng sanh.
31. Bồ Tát Địa Tạng
Đức Địa Tạng là một vì đã chứng bực Đẳng giác trải đến vô lượng a
tăng kỳ kiếp rồi .
Ngài có lời đại nguyện
rằng: nếu chưa độ hết chúng sanh , thì không chứng quả Bồ đề , và nếu sự thọ khổ
trong Địa nguc hãy còn , thì thề không chịu thành Phật
.
Do cái bổn nguyện ấy , nên
Ngài phân thân nhiều phen , đặng độ thoát hằng hà sa số chúng sanh đương tội
khổ, trải đã không biết bao nhiêu kiếp rồi , mà Ngài cũng còn làm một vị Bồ tát
như vậy .
Còn như nói đến tiền thân
của Ngài từ khi chưa chứng quả vị , có kiếp
Ngài làm con gái , có kiếp thì Ngài làm con trai, và cũng có kiếp Ngài làm vua nữa .
Nay y theo kinh Địa Tạng của Phật Thích Ca nói tại cung trời Đao Lợi rất có chứng cớ rõ rang, mà lược
điển một sự tích , khi Ngài làm con gái dòng Bà la môn như dưới
nàỵ
Hồi đời quá khứ, tại kiếp
bất khả tư nghị a tăng kỳ, có Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương ra đời
.
Sau Phật ấy nhập diệt rồi
, đến thời kỳ Tượng pháp thì ngài Địa Tạng lúc ấy chưa chứng vị Bồ tát , sanh
làm con gái dòng Bà la môn .
Vì nàng có túc phước rất nhiều , nên hết thảy mỗi người trong hang thân thích đều tôn trọng cung kính; cho đến khi đi đứng nằm ngồi , cũng đều có hang chư Thiên ủng
hộ .
Ngặt vì thân mẫu của nàng
tin theo ngoại đạo, nên thường đem lòng tà niệm mà khinh khi Tam bảo , đã không tin nhân quả nghiệp báo , mà còn chê bai chánh pháp nữa .
Khi đó, nàng đã biết mẹ
mình không tin Phật pháp , thế nào đến khi thác rồi cũng phải trầm luân nơi khổ
hải ; nên nàng mới hết lòng khuyên can, sớm tối kiếm nhiều lời phương tiện giảng
giải , muốn làm sao cho mẹ mình tin nguũng theo Chánh giáo , thì mới đành lòng
.
Song khuyên thì khuyên , can thì ca, mà thân mẫu của nàng ác nghiệp đã nhẩy đầy và tín tâm lại cạn cợt ,
nên chẳng có chút gì tin theo .
Ôi ! Chẳng bao lâu bà đã nhuốm bệnh trầm kha , bỗng chốc hóa ra người thiên cổ . Vì
lúc sanh tiền ác nghiệp đã thành thục , nên chi thần hồn phải theo nghiệp quả mà
đọa lạc vào Vô gián Địa ngục .
Còn phần nàng, một nổi thì thương mẹ cách biệt , dậm đất kêu trời , một nổi thì sợ mẹ
trầm luân , kinh hồn hãi vía , ngổn ngang trăm mối bên lòng, ăn không ngon, nằm không ngủ , đêm ngày than khóc , ngàn thảm muôn sầu . Tưởng trong cảnh huống ấy
, nếu có phương gì mà cứu mẹ được , dầu thịt nát xương mòn nàng cũng không hề
tiếc, huống ci nói đến sự gì . Khi ấy nàng mới bàn hết nhà cửa ruộng vướn , rồi
mua sắm đủ c’ac thứ hương hoa và những đồ quí báu đem đến chùa Phật mà dâng cúng
.
Lúc nàng vào chùa lễ lạy, xem thấy hình tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai sơn vẽ trang
hoàng, oai dung nghiêm chỉnh, dường
như một vị Phật sống thì trong lòng nàng lại bội phần kính ngưỡng.
Nàng lễ bái rồi tự nghĩ
rằng: “Phật là bực Đại giác, đủ trí sáng suốt và hiểu thấu các lễ, nếu được Phật
còn tại thế, thì trong về đường nào, ắt nhờ Phật từ bi chỉ bảo cho ta biết đặng,
có đến nỗi đâu mà thảm như thế này !”
Nàng nghĩ như vậy rồi , cứ đứng nhìn sững tượng Phật mà khóc , không chịu bước sững
tượng Phật mà khóc ,
không chịu bước ra, dường có vẻ muốn tỏ lòng cầu khẩn với
đêm –Thình lình nàng thầm mộng đi đến môt chỗ bờ biển kia
, nước cuồn cuộn sôi
trao , ba đào song bủa, lại thấy nhiều giống ác thú, cả mình bằng sătắ nhảy nhót
bơi chạy trên mặt biển, không biết là bao nhiêu; lại thấy những đàn ông và đàn
bà, kể hơn trăm ngàn , lặn xuống trồi lên ở trên ấy , thảy đêu bị nhữg thú
dữ kia dành giựt bấu xe mà ăn thịt .
Còn quỉ Dạ Xoa thì hình thù khác nhau hoặc có thứ nhiều tay nhiều chân , hoặc có thứ
nhiều con mắt nhiều đầu , hoặc có thứ nanh bé nhọn như gươm mọc ló ra ngoài
miệng, thảy đêu áp lại lùa đuổi những bọn tôi nhân đến gần
cho thú dữ kia ăn thịt - Thiệt là cái thảm trạng ấy không dám xem cho lâu !
Nhưng nàng nhờ có sức niệm
Phật , nên tâm vẫn thanh tịnh , tự nhiên không có chút lo sợ hãi cả .
Xảy đâu có một Quỉ vương ,
tên là Vô Độ , thấy hình tướng nàng chảng phải người phàm
, oai nghi không giống kẻ tục , bèn đến trước mặt nàng cuối đầu nhienh tiếp mà bạch rằng: “Dám hỏi Đức
Bồ tát vì duyên có chi mà đi tới đây ?”
Nàng lại hỏi Quỉ vương rằng : “Chỗ này kêu là xứ gì
?
Quỉ Vô Độc đáp rằng : “Đây
là biển nghiệp thứ nhất , về
phía Tây núi Thiết vi”.
Nàng nghe nói liền bảo rằng; “Ta nghe trong núi Thiết vi có Địa ngục ở chính giữa; việc ấy quả như vậy
hay không ?”
Quỉ Vô Độc đáp rằng:
“Thiệt có Địa ngục , chớ không phải huyễn hoặc đâu
!”
Nàng nghe rồi bèn khởi lòng kinh nghi mà hỏi nữa rằng: “Địa nguc là nơi để giam nhốt những người có
tội; còn ta đây có lòng
kính ngôi Tam Bảo , mà duyên cớ gì cũng đi đến chỗ ấy
như vậy ?”
Quỉ Vô Độc đáp rằng: “Phàm
người đi đến đây có hai cách: một là có oai đức thần thong , đến cứu độ cho mấy
người tôi khổ, hay là đến chơi cho biết ; hai là mấy người tội ác đã thành thục
, phải đi tới đây mà chịu khổ . Nếu trừ hai lẽ ấy ra , thì không thể đến đây
được “ . Nàng lại hỏi nữa rằng: trào lên hoài ; còn ở trong thì có
nhièu tội
nhân lặn lên hụp xuống
, lại bị các loài thú
dữ xâu xé ăn thịt như thế
!”
Quỉ Vô Độc đáp rằng: “Đây
là chổ nhốt những kẻ chúng sanh tạo ác ở cõi Diêm phù đề , nên khi chết rồi ,
tra?i qua 49 ngày , không ai tế tự lo làm việc công đức đặng cứu vớt vong linh
bị khốn nạn . Còn những
người đã chết đó , lúc sanh tiền lại không có
chút mảy
gì là điều phước thiện ; vì vậy nên cứ theo bổn nghiệp của mình mà chiêu cảm lấu cái khổ báo ở nơi Địa ngục tự nhiên trước hết phải đọa tới đây
.
Ở bên phía Động biển này ,
cách chừng 10 vạn do tuần
lại có một biển nữa ; sự đày đọa của chúng sanh bị vào
đó còn khổ hơn đây đến bội phần . Còn bên mé Đông biển kia, lại có một cái biển
khác , sự thảm trạng thống thiết không thể kể xiết
!
Những hạng người thọ khổ
là do bình nhật ở Thế gian tạo những nghiệp
ác mà phải cảm lấy sự tội báo như
vậy , nên ba cái biển đó đều gọi là : “biển
Nghiệp”.
Nàng lại hỏi Quỉ Vô Độc
rằng : “Sao đây chỉ thấy có biển nghiệp mà thôi ; còn Địa ngục lại ở chỗ nào đâu
?”
Quỉ Vô Độc đáp rằng: “Ở
giữa ba cái biển ấy là chỗ Địa ngục
. Nếu kể số riêng ra thì nhiều đến trăm ngàn
mà sự thọ khổ đều mỗi mỗi khác nhau ; như nói về phần ngục lớn thì có 18 chỗ còn
nói về phần ngục trung thì có năm trăm chổ và lại có ngàn trăm chỗ ngục nhỏ nữa
. Sự khổ độc trong mấy chỗ ngục đó không biết bao
nhiêu mà kể cho xiết đặng
!”
Nàng lại hỏi Quỉ vương
rằng : “Mẹ ta khi chết đến nay tuy chưa bao lâu mà chẳng biết thần hồn đã đi đến
chỗ nào ?”
Quỉ vương lại hỏi nàng
rằng: “Chẳng hay mẹ của Bồ tát , lúc sanh tiền làm những nghiệp gì , xin tỏ cho
tôi rõ”
Nàng đáp rằng: “Mẹ ta
trước bị nhiễm theo tà kiến , chê bai ngôi Tam Bảo , gửi long không thường , lập tánh không định , dẫu có nghe lời khuyên can mà tạm tín , rồi cũng trở lại huỷ
báng nữa . Nay chết tuy chưa bao lâu , ắt có lẽ theo ác nghiệp mà đọa vào khổ
thú ; nên ta muốn tìm cho biết chỗ sanh xứ của mẹ ta , nhưng không hiểu ở nơi
nào ?”
Quỉ Vô Độc hỏi rằng: “Vậy
chớ mẹ của Bồ tát tiên họ là chi ?”
Nàng đáp rằng: “Cha ta
tên là Thi La Thiện Hiện còn mẹ hiệu là Duyệt Đề Lợi , đều là dòng
dõi Bà La Môn cả “.
Quỉ Vô Độc nghe rồi , lật
đật chấp tay mà bạch với nàng rằng : “Xin Thánh giả trở về bổn xứ , chẳng nên
nhớ lịnh thân mẫu mà buồn rầu làm cho hao mòn quí thể . Số bà Duyệt Đề Lợi đã
khỏi sự khổ ở chốn địa ngục này mà sanh lên cõi Trời cách nay đã ba ngày
rồi . Nguyên bà nhờ có người con hết long thảo thuận , lập đàn tràng tu phước và cúng
dường nơi tháp tự của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai , nên mới cảm đến
Phật Thánh mà được sanh về cõi Trời như vậy
.
Chẳng những thân mẫu của
Bồ Tát nhờ phước
đó mà thoát khỏi chỗ Vô gián Địa ngục , đặng sanh lên cõi Trời mà thôi , cho đến những người đồng thọ tội ở đó cũng nhờ duyên phước ấy mà đều
đặng an vui và đồng sanh về cõi Thiên đàng trong ngày đó nữa ?
Quỉ vương nói rồi, liền
chấp tay tỏ vẻ cung kính mà
xin lui .
Còn nàng thì trong lúc ấy , dường như chiêm bao tỉnh giấc , mới rõ biết việc này là nhờ
Phật lực làm cho thân
mình được đi tới chỗ thác sanh của mẹ như vậy . Nên nàng
cảm ơn Phật , lập tức đến trước bổn tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như
Lai mà phát lời thệ nguyện lớn rằng : “Nay tôi nguyện cho đến kiếp vị lai nếu có
chúng sanh nào tạo tội mà chịu dhổ ở nơi Địa ngục , bất luận là kẻ thân thuộc
hay người cừu oán , tôi lập ra nhiều pháp môn phương tiện mà cứ độ cho đều được
phần giải thoát tất cả “.
Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát
32. Phổ hiền bồ tát
Khi Đức Phổ Hiền Bồ Tát chưa xuất gia học
đạo, còn làm con thứ tư của vua vô Tránh Niệm, tên là Năng Đà Nô.
Nhờ Phụ Vương khuyên bảo, nên Thái Tử mới phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và
chúng sanh trong ba tháng.
Lúc ấy có quan Đại thần Bảo Hải thấy vậy, khuyên rằng: “Nay Điện hạ có lòng làm
đặng món công đức rất tốt như thế, xin hãy hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề, mà
cầu đặng thành Phật, hơn là cầu sự phước báu hữu lậu nơi cõi nhơn Thiên, vì cõi
ấy còn ở trong vòng sinh tử”.
Năng Đà Nô Thái Tử nghe quan Đại thần khuyên bảo như vậy, liền thưa với Phật
Bảo Tạng rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi có món công đức cúng dường Ngài và
đại chúng trong ba tháng, xin hồi hướng về đạo vô thượng Chánh Giác, nguyện
phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ tát mà giáo hóa mọi loài chúng sanh, đặng thành Phật
đạo, và nguyện đặng cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm, bao nhiêu những sự
tốt đẹp và sự giáo hóa chúng sanh đều y như thế giới của Đức Phổ Hiền Như Lai
vậy”.
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe Năng Đà Nô Thái Tử phát nguyện như thế, liền thọ ký
rằng: Hay thay! hay thay! Ngươi phát thệ nguyện rộng lớn, muốn độ hết thảy
chúng sanh đều thành Phật Đạo. Trong khi tu Bồ tát đạo, dùng trí kim cang mà
phá nát các núi phiền não của mọi loài chúng sanh, vì vậy nên ta đặt hiệu ngươi
là: Kim Cang Trí Huệ Quang Minh Công Đức, trãi hằng sa kiếp làm nhiều công việc
Phật sự rất lớn, rồi đến thế giới Bất Huyến ở phương Đông mà thành Phật, hiệu
là Phổ Hiền Như Lai, chừng đó những sự tốt đẹp trang nghiêm của ngươi đã cầu
nguyện thảy đều thỏa mãn”.
Khi Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký rồi, tự nhiên giữa hư không có nhiều vị Thiên
tử ở các cõi Trời đem đủ thứ bông thơm đẹp đến mà cúng dường và đồng thinh khen
ngợi.
Năng Đà Nô Thái Tử thưa với Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu những sự ao ước
của tôi ngày sau quả nhiên đặng như lời Ngài thọ ký, nay tôi kính lễ Ngài và
chư Phật mà xin làm sao hằng sa thế giới có đủ món hương rất tốt rất thơm, mùi
bay khắp trong các cõi, và mọi chúng sanh, hoặc ở trong địa ngục, ngạ quỷ cùng
súc sanh, cho đến các người ở cõi Thiên Thượng Nhơn gian, đương mắc phải nghiệp
báo gì, nếu ngửi đặng món hương thơm ấy, tức thì đều đặng rảnh khổ và lại hưởng
sự an vui”.
Năng Đà Nô Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu mà lễ Phật, thì trong các thế giới
mười phương tự nhiên có mùi hương thơm bay khắp cả. Lúc đó mọi loài chúng sanh
ngửi đặng mùi hương ấy, lòng dạ hớn hở, các bệnh phiền não thảy đều tiêu trừ.
Năng Đà Nô Thái Tử nhờ Phật thọ ký như vậy, thân tâm vui mừng, bèn đảnh lễ
Phật, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết Pháp.
Năng Đà Nô Thái Tử nhờ công đức đó, nên sau khi mạng chung, sanh ra các thân
khác và các đời khác, kiếp nào cũng nhờ lời thệ nguyện mà chăm làm các việc
Phật sự và hóa độ chúng sanh, đặng cầu cho mau viên mãn những sự của mình đã ao
ước.
Bởi Ngài có lòng tu hành tinh tấn như vậy, nên nay đã thành Phật, ở cõi Bất
Huyến, và hóa thân vô số ở trong các thế giới mà giáo hóa chúng sanh
NAM MÔ HẠNH NGUYỆN PHỔ HIỀN BỒ TÁT
33. Hiểu Về Bản Chất
Của Cuộc Sống
Lời diễn giải theo
những quan điểm của Tiến sĩ Hòa Thượng K. Sri. Dhammananda
Con người đang sống thực ra không có một mục đích cụ thể để theo đuổi. Có chăng
đó là sự thụ hưởng những phẩm hạnh tốt được truyền lại từ gia đình hay một
người có phẩm hạnh cao thượng nào đó. Khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời
này thì nhiệm vụ chính của chúng ta là phải chu toàn trách nhiệm bản thân mình
đối với: Gia đình, bạn bè, xã hội... Có nghĩa là chúng ta sinh ra là để làm
việc thiện trong cuộc sống, phải làm lợi ích cho nhân sinh. Con người đã phí
năng lực và thời gian cả cuộc đời để tìm kiếm tiền tài, tên tuổi và danh lợi.
Mà thực sự thì không mang theo được bất cứ thứ gì mà mình đã tranh đấu. Khi
chúng ta ra đi để trở về nấm mồ thì tất cả sẽ ở lại tiền tài lẫn danh lợi ở nơi
thế gian này, bạn bè và người thân chỉ đưa tiễn chúng ta tới huyệt mà thôi,
điều duy nhất chúng ta mang theo được đó là nghiệp tốt và nghiệp xấu. Nếu chúng
ta có nghiệp tốt thì một điều tất nhiên chúng ta biết là cuộc sống của những
ngày tháng hôm nay cùng đời sống mới sẽ tốt đẹp, nhưng với nghiệp xấu chúng ta
sẽ có một cuộc đời mới đầy đau khổ và bất trắc. Nếu bạn không chấp nhận một lối
sống chân chính và cao thượng thì bạn sẽ còn gặp nhiều điều phiền phức và đau
khổ. Dale Carnegie có nói: “Dần về già chúng ta phải trả giá cho những việc làm trái luân thường
đạo lý của chúng ta”, bạn phải trả giá cho tư tưởng xấu xa, ích kỷ, hận
thù, ganh ghét hay việc làm xấu nào đó, bạn không thể không trả giống như bạn
thê nhà vậy nhưng đổi lại sự thuê trả ấy là đau khổ về tinh thần và thể xác.
Hiện tại chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn để tranh đấu trong cuộc sống để tìm
kiếm hạnh phúc, có khi chúng ta sẽ vấp ngã, chịu đựng quá nhiều khổ đau và thị
phi của kiếp sống này. Bạn đã có lúc trằn trọc bâng khuâng phải làm gì hay từng
bỏ một thời gian dài để thực hiện một công việc nào đó, sức khỏe sẽ suy tổn và
nổi lo bao trùm trong tâm trạng để tìm kiếm chút ít thành công. Có thể sẽ đạt
được một chút lạc thú sau những đấu tranh ấy, nhưng lạc thú nào rồi cũng sẽ kết
thúc với khổ đau. Đó chính là bản chất của cuộc sống! Bởi vì chính ta đã không
chịu suy nghĩ về những tạm bợ của lạc thú về vật chất cả tinh thần và chưa nhận
thấy rõ được bản chất của nó. Bạn hãy thử nghĩ lại một cuộc vui nào hào hứng
nhất trong đời bạn xem, giờ thì nó đang ở đâu? Bạn nên nhớ rằng thời gian sẽ
bôi xóa tất cả và nó trở thành thời gian chết, cho dù hồi ức ấy đẹp đến đâu đi
nữa thì Lạc Thú ấy đã trở thành mây khói thoáng qua và sẽ trở thành hư ảo của
quá khứ, giống như bạn có cha, và cha của bạn có cha ông nhưng bây giờ họ ở
đâu? tất cả điều quá vãng. Bạn có thường nhắc lại hay muốn biết gì về ông cố cố
của mình không? Nếu nhìn nhận kĩ thì Lạc thú ấy chỉ tồn tại một thời gian quá
ngắn còn lại thời gian giành cho tranh đấu là cả cuộc đời. Vậy bạn sẽ có được
nghiệp thiện ở đâu cho cuộc đời mới của mình khi mà thời gian chẳng có. Vì đời
sống quá tất bật với những khó khăn mà bạn sẽ đổi lại bằng nước mắt, mồ hôi và
những đau khổ cho những lạc thú tạm bợ ấy. Xin bạn hãy trả lời những câu hỏi
sau đây: Đã đi được mấy chục năm cuộc đời rồi bạn đang tìm kiếm điều ước vọng
gì? Ước nguyện đã làm bạn thỏa mãn chưa và bạn được an lạc gì từ đó? Bạn đã
gieo được bao nhiêu thiện nghiệp trong bao năm tháng dài dẳng ấy và bạn còn
được bao nhiêu năm bạn phải chịu những khó khăn cuộc sống và kết thúc dưới nấm
mồ sâu 3 tất đất? Và hãy nghĩ đến ngày tháng tương lai và đời sống mới của bạn
nó có tốt đẹp và hạnh phúc hơn những năm tháng đã qua khi mà bạn chưa có thời
gian để gieo thiện nghiệp. Bạn hãy để ý những người xung quanh,có người sống
suốt cả đời trong cơ cực hay sung sướng nhưng họ chưa bao giờ hiểu được cảm
giác thương một người nghèo, già cả hay bệnh hoạn là sao cả?... Họ chưa bao giờ
biết làm gì để giúp người khác mà không nghĩ đến lợi ích của chính mình, bởi họ
xem sự hưởng lợi lạc của chính mình là quan trọng nhất, đó là một lối sống
không đáng tôn trọng. Bạn sẽ không nhận được một cảm giác thoải mái về tinh
thần lẫn vật chất nếu bạn còn tư tưởng ích kỷ, hẹp hòi… Đức Phật dạy: “Con người tạo số
phận cho chính mình. Bạn là người tạo ra hạnh phúc và đau khổ cho chính bạn”.
Nếu một con người làm một điều xấu thì tất người đó phải chịu một hậu quả tương
ứng như vậy. Bạn
không thể cầu xin bất cứ một vị thiêng liêng, Thượng Đế hay Đức Phật để cứu rỗi
mình. Chỉ có chính bản thân mình mới cứu rỗi bản thân mình được. Khi bạn làm
một việc xấu thì phải chuẩn bị tinh thần để chấp nhận nghiệp quả đó và đừng nên
phí năng lực để lo âu và sợ hãi. Thứ nhất chúng ta phải quyết định chấm
dứt ngay việc xấu ấy, vì biết rằng nghiệp xấu ấy sẽ mang ta xuống nơi đau khổ.
Thứ hai chúng ta phải luôn trao dồi và thực hành những nghiệp thiện. Thứ ba
chúng ta phải giảm thiểu tư tưởng xấu xa, tội lỗi, ác cảm, ganh ghét… xuống mức
thấp nhất kể cả từ bỏ.
Như vậy chúng ta sẽ tránh được những hậu quả xấu mang đến và không còn gặp
nhiều điều phiền phức trong cuộc sống bon chen hôm nay. Những ngày tháng tương
lai của chúng ta sẽ thuận lợi như mong muốn, có thể nói là ước mơ được hiện
thực dần dần. Rồi khi đó bạn sẽ cho đó là điều may mắn đấy! Nhưng không đâu, đó
là do tư tưởng và việc làm chánh thiện của bạn tạo nên. “Tâm chúng ta là
người kiến trúc sư cho số phận của chính mình”. Bạn hãy suy nghĩ xem
mình muốn gì? Đau khổ hay vui sướng ở ngày tháng hôm nay?
Và xin bạn nhớ kỹ một điều Không phải chỉ có việc làm mới mang đến hậu quả xấu
cho mình. Nhân quả là quy luật công bằng tuyệt đối nó nhìn thấu mọi thứ từ việc
làm cho đến tư tưởng. Khi tư tưởng,lời nói xấu phát xuất nó sẽ tạo ra nghiệp
xấu tiềm ẩn, tích tụ cho đến một lúc nó sẽ biểu hiện ra bên ngoài. Những tư
tưởng xấu ảnh hướng lợi ích của người khác hay bạn muốn cảm thấy một người nào
đó mắc phải cảnh khó khăn... Thì tư tưởng đó sẽ không thể thoát khỏi tầm nhìn
của Luật Nhân Quả. Tính xấu đó của bạn sẽ được Luật Nhân Quả trả cho bạn một
hậu quả tương ứng như vậy. Khi bạn có một tư tưởng ích kỷ xuất hiện trong đầu,
mà ý tưởng đó hướng đến người khác thì Luật nhân quả sẽ nhìn thấu điều đó và
bạn sẽ không nhận được bất cứ thứ gì về niềm vui tinh thần hay vật chất. Có khi
nào bạn mời một người vừa ích kỷ với bạn đến nhà ăn cơm không? Do Nhân Quả là
luật công bằng tuyệt đối và không có sự thiên vị với mọi người, bạn gieo gì bạn
sẽ gặt nấy. Tuy hôm nay đời sống con người với con người có nhiều bất công, sự
bất công do con người tạo ra dẫn hậu quả xấu đến người khác giống như họ thực
hiện một công việc nào đó nhưng luật nhân quả xem xét cả sự bất công đó. Bởi
vậy muốn hạnh phúc và vui vẻ thì hãy nhìn lại tâm mình coi có xứng đáng hay
không?
Sự khó khăn và thuận tiên là hai mặt trái ngược nhau nhưng chúng có quan hệ
chặt chẽ đến nhân tố giúp đỡ con người của chúng ta. Khi chúng ta giúp đỡ con
người thật lòng, khi nhìn thấy họ khó khăn ta sẳn sàng giúp đỡ không cần phải
được nhờ vả, mà không cảm thấy rằng điều đó gây cản trở hay phiền phức, sự giúp
đỡ này không mang tính chất mong muốn được sự tưởng thưởng, nhận ơn hay đền đáp
của bất cứ một ngoại lực nào thì nó sẽ tạo cho chúng ta sự thuận tiện trong mọi
việc của cuộc sống. Đó được gọi là may mắn mà bất cứ con người nào cũng luôn
mong muốn. Nó liên hệ đến nhân quả ấy.
Dưới ánh sáng này thì đời sống của chúng ta hôm nay sung sướng hay đau khổ là
do chính nghiệp ta đã gieo từ thời quá khứ (đời sống trước hay thời gian trước
đây) cho đến nay ta phải gánh chịu. Nếu bạn muốn thoát khỏi khổ đau thì con
đường duy nhất để làm được đó chính là hành thiện bằng tâm thật của mình. Chỉ có
bản thân mình mới hiểu rõ mình nhất!. Bạn phải hiểu một điều rằng được hạnh
phúc thì bạn phải sống theo con đường mà Đức Phật đã dạy, sống một cuộc đời
đúng với luân thường đạo lý. Nếu không bạn sẽ không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu
về an vui trong tinh thần, cho dù cầu khuẩn Thần Linh, Chư Thiên hay Thượng Đế.
Bạn phải cho mình thời gian để suy gẫm lại những việc tốt và xấu phát xuất từ
đâu? Lúc đó bạn sẽ hiểu rõ được định luật của vũ trụ. Bạn sẽ không dám cho tư
tưởng và việc làm của mình hành động theo bản năng tự nhiên của một con người
thiếu hiểu biết.
Sự ham muốn của con người. Bạn không thể chìu theo ngũ dục của chính mình để
chiếm đoạt những gì không được mang đến, nếu càng nhận thì nợ của bạn sẽ càng
ngày càng chồng chất. Tất yếu là khổ đau sẽ theo bạn mãi khi mà tờ giấy nợ chưa
được xé bỏ và chỉ có chính bạn mới có thể xé tờ giấy nợ ấy bằng cách tích lũy
thiện phước. Khi ngũ dục trói buột, tâm bị bao phủ nhiều tư tưởng xấu, bạn phải
rèn luyện bản thân một cách nghiêm khắc để vượt qua nó. Thời gian luyện tập có
thể dài và rất khó khăn nhưng bạn phải cố gắng và không chịu ngã gục trước thói
quen ngũ dục của mình.
Bạn phải hiểu rõ một điều rằng nếu chúng ta không có sự thành thật của con tim
khi hành nghiệp thiện thì bạn cũng đừng nghĩ đến việc được hưởng an lạc hay
hạnh phúc, cùng một điều rằng chúng ta không thể mong muốn kết quả tốt sẽ đến
với chúng ta, bởi nhân quả là luật của vũ trụ nó không bao giờ có sai sót. Việc
hành nghiệp thiện của chúng ta không phải mang tính chất là để tránh hậu quả
xấu mang đến hay trông chờ sự tưởng thưởng.
Tại sao phải luyện tập?
Nhân cách con người mỗi người mỗi khác, kẻ thông minh người khờ dại, người kỷ
luật bản thân, kẻ chẳng ý thức được chính mình,người có lòng từ bi cao thượng,
kẻ có tâm địa bất lương thiện… không một nhân thể nào giống nhau cả. Những tính
tình ấy là dạng tiềm ẩn sâu trong tâm thức của con người được truyền từ đời
sống này sang đời sống khác, từ đời quá khứ cho đến hiện tại của chúng ta, nó
tồn tại trong nhiều kiếp sống trước đây do ta tích lũy. Chúng sẽ được khơi dậy
trong quá trình giáo dục từ nhỏ cho đến lớn xung quanh gia đình, hàng xóm và
bạn bè cùng những trãi nghiệm của cuộc đời, hoàn cảnh bên ngoài cuộc sống do
con người, vật chất, và nhiều thứ khác thúc đẩy chúng. Tam tự kinh có nói:
“Thiên tính vốn không khác xa nhau mấy chỉ vì chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung
quanh nên có sự khác nhau”. Bạn phải hiểu cuộc sống hôm nay đầy những bất trắc,
tội lỗi và ghê gớm của nhân sinh. Xung quanh chúng ta nhìn ở đâu cũng thấy tư
tưởng xấu xa và tội lỗi. Chúng là thuốc độc đang ngấm dần và làm cho Đức tính
xấu của chúng ta sẽ tỉnh thức càng ngày càng nhiều mà những Đức tính thiện bị
thay đổi và vùi lấp đi bởi ham muốn,ghen ghét, thù hận, ích kỷ v.v.v. Khiến
chúng ta quen dần với chúng mà không thể chống cự do thói quen bản năng, nếu
bạn cứ để nó phát triển một cách không quản thúc theo lối tốt đẹp thì bạn sẽ
được nhiều tính xấu hơn là tốt. Rất hiếm và khó khăn để gặp được những tác nhân
tốt tác động lại triệt tiêu tư tưởng xấu đã trở thành bản tính của chúng ta.
Như bạn hiểu con người cho cái “tôi”, cái “ngã” là quan trọng nhất nó còn nặng
hơn cả núi vàng ấy, nên không thể chịu nghe những lời nặng nhẹ với mình. Và ta
phải chấp nhận rằng Bản tính cố chấp chính là tai họa lớn cho con người ngày
nay. Đức Phật dạy: Chúng ta phải chăng chịu nghe những luân lý có tính trái ngược với ý
thức của mình cho dù nó có làm ta khó chịu. Và phải cho tâm trí chúng ta được
xem xét, nghiên cứu, bàn cãi điều đó là đúng hay sai, phải hay trái, nên hay
không nên, chấp nhận hay bác bỏ nếu nó thực sự đúng thì chúng ta phải chấp nhận
và thực hành theo nó. Do sự cố chấp và không hiểu biết mà chúng ta sẽ
phải chịu đau khổ và khó khăn suốt cho đến khi chúng ta nhận ra được chân lý
đúng và thực sự có kiến thức. Nó có thể sẽ là cả cuộc đời của con người mà
không tìm được lối sống chân chính, bởi con người không bao giờ chấp nhận những
giáo lý ảnh hưởng đến cái tôi giả tạm của mình hay rất ít gặp được tác nhân
tốt, nếu vậy đau khổ đang chờ họ đến ở phía trước để gánh lấy. Nguồn gốc đau
khổ của con người được Đạo Phật nói đến với ngôn từ là bị màn vô minh che phủ,
nhưng đối với đời sống thực chúng ta hiểu chính là thiếu kiến thức về Pháp
(những giáo lý được dạy bởi Đức Phật) không thấu triệt được bản chất của cuộc
sống, sự thay đổi không ngừng của vạn vật, không gì là mãi mãi và nó chỉ tồn
tại một thời gian ngắn ngủi bao gồm: vui sướng và khổ đau. Vì mọi vật đều vận
động không ngừng trong không gian này, duyên sinh tất duyên sẽ diệt, có hợp thì tất có tan
rã đó là định luật của vũ trụ. Giống như trong cơ thể ta dần theo thời
gian những tế bào sẽ chết dần và được thay thế bởi những tế bào khác, quá trình
thoái hóa xảy ra trong con người từ khi sinh ra cho đến khi sự tái tạo tế bào
sống không còn khả năng thực hiện thì chúng ta phải chấp nhận cái chết. Cái
chết cũng là một điều nhắc nhở chúng ta sống đúng đạo lý, chúng ta không thể
biết nó sẽ đến với chúng ta bất cứ lúc vào và dưới dạng thức nào. “Chúng ta tuy
chỉ là một giọt nước nhỏ bé trong dòng sông to lớn nhưng phải đóng góp vào dòng
sông ấy. Nếu một người nào đó chỉ sống cho bản thân mình trong cuộc đời, thì đó
là một gánh nặng cho thế giới”, đời sống đó thật sự dư thừa, một cuộc đời vô
nghĩa và chẳng đáng để chúng ta lưu tâm đến và kẻ đó sẽ gặp khó khăn nhất trong
xã hội này. Bởi thế chúng ta phải sớm tìm ra con đường cho chính mình bằng sự
tu tập và rèn luyện bản thân đạt được thanh tịnh hoàn toàn trong tâm trí để đi
đến hạnh phúc vĩnh cửu (Niết Bàn).
Rèn luyện đức tính chính là việc làm của ta cần thực hiện ngay bây giờ, ta phải
chấp nhận và vượt qua khó chịu khi những việc không như ý. Chúng ta không rèn
luyện tâm ngay bây giờ thì chúng ta không thể vượt qua được những thói xấu, tư
tưởng bất chánh do thói quen của chính mình. Mọi sự việc trên đời này để đi đến
thành công chính là sự nổ lực và thiện nghiệp. Chính nhờ sự nổ lực không ngừng
trong suốt 6 năm Thiền Định Đức Phật đã phát tuệ để hiểu rõ được những chân lý
bất diệt. Nếu điều đó là đúng chúng ta cố gắng làm mặc người khác nghĩ ra sao.
Ta phải hiểu rằng Ta tạo số phận cho chính mình.
Lòng Từ bi, yêu thương: Chúng ta
nên tập phát triển tình thương chân thật, khi nhìn thấy những sự khó khăn của
người ta phải thực sự muốn giúp họ với khả năng có thể, ban bố niềm tin và lời
an ủi. Không nên để tư tưởng ích kỷ tồn tại, nếu giúp được chúng ta phải sẳn
sàng hy sinh một ít tài sản và năng lực mà không làm hao tốn nhiều và đẩy chúng
ta vào khó khăn. Có nghĩa là nếu giúp đỡ được thì cứ giúp, rồi bạn sẽ hiểu
được cảm giác an vui khi mình giúp được người khác. Song Bởi vì bạn không có
thời gian nhiều để làm những việc có ích cho nhân sinh, điều đó lại rất ít xuất
hiện vì thể nếu có một điều kiện nào giúp được bạn phải sẳn sàng giúp ngay, bởi
thời gian bạn giành cho bản thân và những việc cho cuộc sống là quá nhiều dường
như nó đã chiếm hết thời gian của chính bạn. Sự giúp đỡ phải mang nghĩa là chân
thật từ tình thương như lòng từ bi vô bờ bến của Đức Phật, không mong cầu được
một sự đền đáp hay nhận ơn của ai, đó là tình thương, lòng khoan dung không vụ
lợi. Rất ít người có được Đức tính này bởi thế chúng ta phải rèn luyện để có
chúng, vì chúng không tự có trong ta được giống như việc biết chữ ấy, chúng ta
không thể biết được chữ nếu nhờ một người nào đó học dùm mà phải do ta tự học.
Bởi hiểu rõ rằng an lạc trong tinh thần là tất cả mà chúng ta muốn. Sự chia sẽ,
lòng khoan dung, tình thương mến là tất cả điều chúng ta cần ngay bây giờ, bởi
nó chính là điều kiện thiết yếu để chúng ta được sự an lạc và vui sướng. Có
người nói rằng muốn giúp đỡ người khác ta phải có điều kiện, đó là một quan
niệm sai lầm. Sự giúp đỡ được thể hiện qua nhiều cách chứ không phải đợi có của
cải hay tiền bạc. Bạn có thể giúp đỡ bằng lời nói cho những con người thiếu
lòng tin hay nản chí trong cuộc sống, giúp một người nào đó bớt gánh nặng bằng
sức lực của chính mình hay điều mà mình có thể giúp được từ sự chân thật của
tình thương, một chén cơm hay vài đồng nhỏ nhoi cho con người đang cần nó hơn
chúng ta, sự khuyên răn cho con người hiểu biết rằng điều đó là sai và nên
tránh đi. Một ví dụ phát triển dễ làm: Bạn có một phần vải thều, chúng ta phải
chia sẽ cho người đối diện cũng được dùng phần ăn đó. Bạn hãy tưởng tượng xem
phần ăn ngon đó vào miệng làm bạn cảm thấy vui sướng và thoải mái với rất nhiều
xúc cảm từ chất ngọt lan trong miệng bạn, thì khi vào miệng và xuống cổ họng
của người được chia phần ăn đó họ sẽ có cảm giác ngon ấy giống bạn. Bởi bạn
biết cảm giác ngon ấy thì người khác cũng sẽ cảm nhận y hệt mà không khác chút
chi. Lúc đó bạn được vui vẻ với lòng rộng lượng mà người đó khắc trong đầu về
bạn (người đó biết rằng bạn là một người tốt thực sự), sự vui vẻ vì tình
thương, lòng không vị kỷ đang phát triển thành thói quen, và chính là lúc bạn
đang gieo cho mình nghiệp thiện. Bạn biết rằng lúc này trên thế giới bạn đã làm
được một người vui, và làm một điều thiện chí trong ngày hôm nay. Mà cảm giác
này bạn không gặp nhiều trong đời sống của mình và có khi đã là một thời gian
dài rồi.
Lòng từ bi được giành cho tất cả loài chúng sanh từ loài tiến hóa cao nhất là
con người cho đến con vật bé nhỏ như kiến, muỗi, loài bọ…. Trong giới cấm đầu
của Đức Phật thuyết giảng chính là giới cử sát sinh. Đức Phật giảng: “Thật là một tội ác
cho chúng ta khi giết hại những sinh vật nhỏ bé để tránh khỏi phiền toái do
chúng gây ra, đó không phải là phương cách duy nhất”. Khi chúng ta sát
sinh quá nhiều, điều xấu tất yếu sẽ đến với chúng ta. Thứ nhất: nghiệp lực ta
gieo càng nặng sự hung hăng trong tâm ta càng tăng, lòng cố chấp ương nghạnh sẽ
tăng theo và ta có thể mắc một số loại bệnh nguy hiểm về già. Một câu chuyện kể
rằng một người đàn ông trong suốt cuộc đời giết heo để mưu sinh và có nói ‘Nếu
người không ăn thì ta đã không làm’, Nhưng những năm tháng cuối đời của ông ta
thì sao, ông ta không được chết một cách yên bình như bao người có thiện
nghiệp, bệnh tật hành hạ khiến ông ta la hét như tiếng heo bị thọt huyết trong
suốt một quảng thời gian dài trước khi ông ta trút bỏ hơi thở cuối cùng và
nghiệp xấu ấy sẽ vẫn còn theo ông ta đến cuộc đời mới. Điều Thứ hai ta hiểu đó là
tuổi thọ chúng ta sẽ giảm dần, do chúng ta đã cướp đi mạng sống của những sinh
vật có cảm giác như ta, khi chúng ta không phải là người tạo ra chúng nên ta
không có quyền lấy đi sinh mạng ấy. Điều thứ ba, Trong Ngọc Lịch Minh Kinh có
nói: Nếu ta cử sát sinh thì được Chư Thần phù hộ., Chúng ta sẽ không mắc phải
một số tai nạn lớn trong cuộc đời như chết yểu, trộm cướp, cháy nhà…, gia đình
sẽ được bình an mà không xảy ra sự việc không như ý. Sự cầu nguyện thành tâm
trước các Chư Phật sẽ linh ứng như mong ước.
Lòng ganh tỵ trong bạn. Bạn phải hiểu rằng mọi người đều có một niềm vui và nổi
khổ riêng biệt, không ai là không buồn mà vui suốt được. Khi một người nào đó
được vui hưởng lạc thú nào đó thì họ phải sẳn sàng chịu đựng áp lực hay khổ đau
sau những lạc thú ấy mang đến và có khi họ còn phải mang những nỗi lo ngay bây
giờ mà bạn không thể nhìn thấy được. Nó sẽ sớm nhàm chán với chúng ta mau thôi.
Nếu ngay bây giờ bạn còn ham muốn những vật chất ấy thì bạn sẽ còn đau khổ, bạn
hãy xem lại một món vật mà bạn yêu quý nhất xem!. Bạn cũng phải hiểu rằng mình
có được sự vui sướng, an lạc vì thanh thản mà không có được nổi lo như họ khi
mà lạc thú sẽ sớm kết thúc cùng nổi khổ do chúng mang đến. Điều bạn có được có
khi nhiều hơn những người mãi đắm chìm trong dục lạc ở đời sống, đó là sự hiểu
biết để phát triển tâm thức của chính mình chứ không phải theo đuổi những lạc
thú ngắn ngủi và tạm bợ đó (Bởi ta hiểu rõ bản chất của cuộc sống). Ngược lại
khi đang được vui hưởng lạc thú thì bạn phải càng tiếp tục hành nhiều việc tốt
và phát triển tâm thức đến thanh tịnh hoàn toàn chứ không phải đắm chìm quá
nhiều vào chúng, vì bạn đã phí thời gian quý báo của mình thay vì có thể làm
một số việc có ích hơn. Đạo Phật vẫn chấp nhận lạc thú nhưng nó phải ở con
đường trung đạo và hợp với luân thường đạo lý, không được quá mức hay quá tệ
đối với tinh thần mà phải giữ ở mức ấy, như thế bạn sẽ ngăn được sự khơi dậy
những đức tính không tốt của chính mình.
Vô cùng khó khăn cho chúng ta trong cõi hồng trần này vì tư tưởng bị ô nhiễm,
sự bận rộn làm ta quên đi những việc làm trước đây. Trong quá trình tu tập ta
sẽ bị lãng quên đi những hiểu biết mà ta có, rồi tiếp tục chịu khổ đau do việc
làm cố ý của chúng ta hay chúng ta không vượt qua được chính mình trong sự cám
dỗ của trần tục. Cho nên sự rèn luyện tu tập phải có sự ôn luyện và học hỏi
liên tục không thể ngừng nghỉ để chúng ta khắc sâu vào trong tư tưởng những
kiến thức mà sẽ thực hành suốt trong cuộc sống này. Nguồn gốc đau khổ thực sự
của đời sống chính là không có hiểu biết và luyến ái.
Sự giàu có nhất của đời người chính là tấm lòng, còn sự giàu có về vật chất
không đáng để chúng ta nghĩ đến, một con người có tấm lòng giàu có hơn nhiều
những kẻ có nhiều vật chất nhưng tâm hồn bị ô nhiễm bởi những tư tưởng không
tốt, hẹp hòi, vị kỷ… Đức Phật nói: “Chúng ta nên tôn trọng những người xứng đáng được
tôn trọng”.
Lòng thỏa mãn: Trong thế giới hôm nay không có bất cứ thứ gì có thể làm thỏa
mãn cho con người được cả. Con người mãi tranh đấu trong chiến trường đau khổ
để giành lấy những lợi lạc. Nhưng bản chất nó không tồn tại được lâu mà chỉ
thoáng qua mà thôi giống như người dân quá cực khổ để có được một bữa ăn ngon
vào một ngày nào đó nhưng sau khi thức ăn đưa vào miệng và đi qua thực quản
xuống dạ dày, rồi được tống ra ngoài dưới dạng phân. Thời gian cho ta nhai
trong miệng và cảm thụ cảm giác ngon là bao lâu? Những Lạc thú cũng như vậy,
nếu chúng ta thực sự suy gẫm kỹ. Những Lợi Lạc hiếm hoi và nhỏ bé ấy phải đổi
bằng sức lực và phiền não trong một thời gian dài, nhiều hơn thời gian ta được
hưởng lạc thú ấy. Ngày nay con người càng tạo ra những vật chất hiện đại rất
cao để phục vụ cho mình, nhưng không bao giờ có sự thỏa mản và ngừng lại, bởi
khi họ tạo ra những vật chất ấy khi đã phục vụ được thì họ sẽ đi tìm điều tốt
hơn, họ cứ đi tìm mãi mà không có sự dừng lại, họ tự gieo cho họ cái lòng ham
muốn vô cùng. Nhưng bạn đã thấy đời sống con người bị phân biệt bởi giai cấp là
quá nặng, chúng tạo nên những ganh ghét, thù hận, tội lỗi cho con người vì
những theo đuổi vật chất rồi sẽ đi đến nhàm chán rồi quên lãng.Một câu chuyện
thuật lại như sau:
Người kia đi quanh quẩn giữa một khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn.
Trong khi lang thang bất định anh sực nhìn lại phía sau, và thấy một thớt voi
đang rượt theo. Giựt mình, anh vụt chạy. Voi đuổi theo. Chạy đến một cái giếng
cạn, anh định nhảy xuống để tránh voi. Nhưng thấy dưới đáy giếng có con rắn
độc. Thớt voi lù lù trờ tới. Hoảng hốt, anh chụp lấy một dây rừng từ cây cao
lòng thòng phía trên miệng giếng và vội vã trèo phăng lên, bất chấp gai nhọn
đầy trên sợi dây, quàu trầy cả mình mẩy và tay chân. Lúc ấy anh chàng ngước mặt
nhìn lên, thấy một ổ ong. Bầy ong bay tủa ra vây đánh anh. Phía trên nữa có hai
con chuột, một trắng một đen, đang cặm cụi gậm nhấm sợi dây mà anh đang đeo
trên đó. Vừa lúc ấy một giọt mật từ ổ ong rơi xuống ngay vào miệng anh. Bấy
giờ, quên cả thớt voi đang rượt, con rắn độc đang nằm dưới đáy giếng, sợi dây
đầy gai nhọn quàu trầy cả mình mẩy, bày ong đang vây đánh, và hai con chuột
đang gậm nhấm sợi dây, anh mê mệt thọ hưởng giọt mật một cách thỏa
thích..."
Đó là hình ảnh của cuộc sống mà chúng ta đang sống: Người lang thang lạc bước
giữa rừng là chúng ta. Khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn là kiếp nhân
sinh trong vòng luân hồi. Thớt voi tượng trưng cho Tử Thần. Con rắn độc nằm
dưới đáy giếng là sự già nua. Sợi dây rừng đầy gai nhọn là sự sanh. Bầy ong là
những nổi khổ đau luôn luôn đe dọa tình trạng an lành của chúng ta. Giọt mật
hình dung những thú vui hiếm hoi trong đời sống. Hai con chuột, một trắng, một
đen, là ngày và đêm...
Tứ Diệu Đế - Phạm Kim Khánh
Chúng ta không nên quá chú trọng nhiều về những vật chất trước mắt dù chúng có
làm ta say mê đến thế nào. Nói miệng thì rất khó lòng, bạn phải hiểu rằng khi
nhìn chúng thì ta biết nó là một nổi lo cho người giữ nó, rồi nó sẽ trôi qua
nhanh thôi, nó sẽ đến quên lãng sớm dù rằng chúng ta có cố giữ nó bằng cách mấy
đi nữa. Rồi Lạc
thú nào cũng kết thúc với đau khổ. Vì khi bạn quá ham thích điều đó bao
nhiêu thì khi mất nó đi bạn sẽ đau khổ nhiều chừng ấy, nếu bạn có một vật quý
giá thì bạn đã phải mang nổi lo giữ gìn, lo sợ rằng nó sẽ bị lấy mất bởi một
người nào đó. Thời gian quý giá của chúng ta giành để chăm lo và ngắm nhìn
chúng nếu xảy ra hư hại thì nổi lo sẽ được nhân đôi vì phải bận lòng cho việc
sữa chữa. Nếu thời gian để ý tới nó thì ta nên lo chu toàn bổn phận của chính
mình với gia đình và xã hội. Thực sự Lòng thỏa mãn được dung dưỡng và phát
triển bằng lòng khiêm từ của chúng ta. Chúng ta đã hiểu bản chất của cuộc sống
thì nên cố gắng tránh những sự việc nhận của người khác khi mà không được sự
chân tâm dâng tặng của con người, nếu bạn nhận nhiều quá thì bạn phải trả đấy.
Bạn cũng nên nhớ chúng ta không thể lấy không của bất cứ ai một xu nào cả, bởi
quy luật nhân quả rất công bằng và nó được định sẳn như vậy. Như một kinh
nghiệm được thụ hưởng lại, chúng ta không nên ở lại dùng cơm với một người khi
ta đến nhà họ thăm hay đến chơi nếu như đó không phải là người thân của chúng
ta, vì điều đó không nên. Hay ghi nhớ câu nói này của Đức Phật: “Chúng ta không thể
làm nô lệ cho những xúc cảm” khi chúng ta có những tư tưởng sai trái.
Lòng Hiếu Hạnh: Đây là phẩm hạnh đầu của tất cả con người và không tội nào lớn
hơn tội bất hiếu cả. Nhiệm vụ của con người cần thực hiện là phải Phụng dưỡng
và thương yêu cha mẹ một cách hết lòng, bởi cha mẹ là người cho ta cả cuộc đời,
cho ta sự sống trên thế giới: niềm vui và niềm thương yêu vô bờ bến. Nhờ có cha
mẹ mà thân thể hôm nay của ta mới lớn khôn thế này.
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ hơn Cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo sớm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy Cha che chở đời con
Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghe con
Lời Phật Dạy “Chữ Hiếu”
Ước nguyện của cả cuộc đời họ chính là những
đứa con thân yêu. Họ mong muốn con cái của mình sống tốt đẹp trên cuộc đời đau
khổ này. Để sau này ra đi thì họ mãn nguyện vì con cái họ không phải chịu khổ
cực và bị nhiều uy hiếp lụy phiền bởi kiếp sống nhân sinh quá nhiều thị phi.
Nếu họ có thể sống bao nhiêu năm thì tình thương và nổi lo cho đứa con họ không
ngừng. Nước mắt và mồ hôi để đổi lấy no ấm cho con mình mà phải lăn lộn, chịu
đựng và đối mặt với khó khăn trong biển người, thì giấy bút nào làm sao viết
hết được. Nếu một đứa con trưởng thành sống với tư tưởng không hiểu biết, sống
không theo luân thường đạo lý thì đó sẽ là một vết thương không thể chữa lành
trong lòng ba mẹ và giọt nước mắt họ chỉ lặng lẽ rơi theo sự trôi dạt của dòng
đời. Sự bất hiếu con người được nho giáo nói rất rõ:
Nếu mình hiếu với mẹ cha Hiếu thuận sinh ra
con hiếu thuận
Chắc rằng con hiếu với ta khác gì Ngỗ nghịch sinh con nào khác chi
Nếu mình ăn ở vô nghì Xem thử trước thềm mưa xối nước
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công Hạt trước hạt sau có khác gì
(Thái Công)
Ý nghĩa rất rõ ràng cho con người hôm nay nếu
chúng ta nghĩ kỹ hơn và đưa mắt nhìn xung quanh để hiểu rõ về luật nhân quả.
Chúng ta đừng nên mong con cái hiếu với ta cho uổng phí công sức nếu như sự bất
hiếu ta giành cho chính cha mẹ mình, rồi chúng ta sẽ là người cảm nhận được
giọt nước mắt bi thương chảy trên khuôn mặt vì con cái. Câu hát của nghệ sĩ
Thanh Ngân như sau: “Đừng để ngày phụ
mẫu tàn hơi chẳng có ý nghĩa chi những dòng lệ đổ, đừng để hối tiếc khi quỳ bên
nấm mộ sẽ thấy lạc loài trong cảnh mồ côi” hay “ Đừng tham đắm miếng mồi danh lợi mà bỏ gốc quên nguồn tội lỗi lắm ai ơi”.
Chúng ta phải hiểu bổn phận mà cố gắng dù chưa biết ngày tháng tương lai ra sao
nhưng phải giành thương yêu cho họ, giúp đỡ những công việc mà ta làm được, có
thể làm gánh nặng nhẹ bớt trên đôi vai đã mang nổi lo của cuộc sống và sự tốt
đẹp vì chúng ta. Điều mà họ cần nhất ở cuộc đời chính là tình thương yêu con
cháu và lối sống tốt đẹp của ta. “Cho dù con biết chỉ còn sống được một ngày trên thế
gian con cũng sống sao cho ra người như lời má dạy” - Minh Quân. Bởi thế ta phải tỏ ra cho
họ biết mình thương yêu họ cho đến những năm tháng cuối cùng của cuộc đời,
giành những điều tốt đẹp cho cha mẹ nếu ta có thể được. Nguồn hạnh phúc mà ta
có được nơi thế gian này không phải là sự thỏa mãn của vật chất mà là tình thân
của gia đình và thân nhân. Vật chất rồi sẽ đi đến tan rã, rồi chúng ta sẽ đánh
mất tình thương mà còn phải chịu những nghiệp xấu do bất hiếu. Bởi bạn nên biết
rằng người thân là người yêu thương ta nhất và không ai giành cho ta tình
thương chân thật ấy.
Quan hệ tình thân được viết trong Thiên Tự Văn: “Cô, bác, chú là anh em của
cha, cháu trai, cháu gái cũng phải tôn kính yêu quí giống như con đẻ. Anh em là
cùng cha mẹ sinh thành, giống như cành nhánh một cây sinh ra.”. Chúng ta cũng
phải thương yêu những người bên quan hệ gia đình, không nên có sự phân biệt đối
xử bởi thế nó sẽ làm ta đánh mất đi những điều tốt đẹp mà ta có thể giữ và tình
cảm cao quý đó không thể bị mất đi trong suốt cuộc đời này được. Những dư âm vui
vẻ nhất mà ta có chính là thời gian được ở gần những người thân. Vật chất rồi
sẽ đi đến tan rã nhưng tình thương thì không bao giờ mất đi được chỉ trừ khi
chúng ta tự mình hủy bỏ.
Sự Thành Tâm?
Sự thành tâm và niềm tin của con người là hai thành phần quan trọng trong Phật
Giáo, hai yếu tố này song hành với nhau và có ý nghĩa tương đương với sự nổ lực
và niềm tin vậy. Trong Đạo Phật không nói rằng ta phải cầu nguyện và thờ cúng
để được thoát khỏi những nghiệp xấu nhưng nó là nhân tố dẫn chúng ta đi đến sự giải
thoát cuối cùng.
Đời sống hôm nay được nói đến đã là thời kì cuối, con người càng ngày càng khổ
đau bởi chính con người tạo ra. Bạn có thể nhìn thấy thực tại mà không cần phải
được nói rõ, con người đang sống trong sợ hãi, đau khổ và lo âu bởi đời sống.
Những sự kiện cướp bóc, tai nạn, khó khăn về tài chính…. Cùng với tai họa thiên
nhiên và những biến chuyển trong cuộc sống dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng
đối với con người ngày nay, nếu chúng ta không tu tập sẽ không còn kịp nữa,
Chính con người đã đẩy mình vào cảnh diệt vong vì những hành động không có
lương tâm. Thời kỳ xa xưa có nhiều con đường tu tập dẫn đến thoát khỏi đau khổ,
Thiền Định được xem là con đường duy nhất nhưng với cuộc sống ngày nay quá
nhiều bận rộn. Pháp môn ta có thể thực tập nhanh gọn mà không mất nhiều thời
gian đó chính là Hành Trì câu Lục Tự Di Đà. Ngày nay chúng ta nên cố gắng một
ngày niệm danh hiệu Di Đà ít nhất là 10 câu trong một ngày nếu thời gian quá
bận rộn, nó giúp ta được nhẹ nhàng thanh thản trong tâm hồn. Khi trì niệm sẽ
làm nghiệp lực của ta nhẹ bớt. Chúng ta nên thực hành càng nhiều sẽ dẫn đến sự
thanh thản vô biên trong tâm hồn.
Câu chuyện thật được kể lại:
Một người phụ nữ và chồng cùng buôn bán làm ăn nhưng thất bại cứ mãi xảy ra.
Sau hai lần mưu sinh cuối cùng, lần thứ nhất họ vẫn chịu số phận là thất bại vì
làm ăn lỗ lã, lần thứ hai họ quyết định mở một cửa hàng thuốc để mưu sinh nhưng
kết quả vẫn không thay đổi. Người chồng quyết chí lên núi tu hành, người vợ ở
lại nhà tu trong sự thanh tịnh tâm thần. Hằng ngày bà niệm danh hiệu Di Đà nhất
tâm không xao lãng, sau khi dùng cơm bà tắm rửa sạch sẽ và quỳ trước bàn thờ
tụng câu Lục Tự. Bà tụng liên tục dường như là suốt ngày từ sáng cho đến tối
trong những thời gian rãnh kể cả khi làm việc. Mỗi khi con cháu đến thăm bà và
kể cho bà nghe về chuyện của đời sống thường nhật nhưng bà đều từ chối. Sau quá
trình không ngừng nghỉ và kiên định của bốn mươi mấy năm, ngày cuối cùng bỗng
nhiên trên nóc nhà tỏa sáng luồng hào quang rực rỡ. Người con bên sông trông
thấy cứ tưởng cháy nhà liền chạy vội cả về nhà mẹ, thì bà đã viên tịch để trở
về đất Phật, thoát khỏi cảnh khổ của luân hồi và phiền não của thế gian mãi
mãi.
Sự Thành tâm và niềm tin là vô cùng quan trọng nhiều vấn đề, khi lễ Phật, thắp
nhang và khẩn nguyện lòng ta phải hướng về Chư Phật và lòng thành kính vô bờ
bến trước những phẩm hạnh không gì so sánh được của các Chư Phật. Sự hành trì
niệm Phật là rất cần thiết cho con người ngày nay, bởi ta đã bỏ thời gian quá
nhiều và chưa bao giờ trong tâm ta có lời vang của tiếng niệm Phật. Đó là một
nghiệp nặng hay là sự thiếu sót của tâm hồn. Khi thành tâm ta có cảm giác như
câu niệm đi vào lòng ta đó là lúc ta được thành tâm nhất “Miệng niệm và lỗ tai
phải nghe rõ từng chữ”.
Trong việc chữa bệnh của con người, ta có thể nghĩ mọi sự vật bắt nguồn từ
thiên nhiên, con người cũng là sự hợp thành của tứ đại. Trong Thiên Tự Văn có
nói: “Thân thể con người có liên quan đến đất, nước, lửa, gió. Con người có năm
đức tính Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Phật Giáo cũng có thuyết quá trình hợp
thành của con người từ chất lỏng, chắc rắn, lữa, gió. Do vậy con người sẽ dùng
thuốc của tự nhiên ban cho để chữa lành những căn bệnh gây đau khổ cho con
người ngày nay, đó là một hiệu quả vô cùng nếu được sự hướng dẫn của người
khác. Câu chuyện thật được nghe kể lại như sau: Một người phụ nữ mắc 6 căn bệnh
trong cơ thể, ai đã từng gặp mặt người phụ nữ ấy điều nói là mặt ma và nghĩ
rằng người phụ nữ ấy không thể sống nổi. Khuôn mặt và thân hình xanh xao và hốc
hác quá nhiều. Nhưng được sự chỉ dẫn dùng một loại thuốc: lá Nàng Hai. Người
phụ nữ tin theo lời chỉ dẫn và thực hiện, hằng ngày đều dùng thuốc đó rửa sạch
nấu nước uống thay cho nước uống, mỗi lần uống thuốc đều thắp một cây nhang và
nguyện thành tâm: Xin Ơn Trên cho thuốc uống mau khỏi… Vậy chỉ sau hai tuần
người phụ nữ đã khỏi hẳn hết 6 loại bệnh. Khi gặp mọi người dường như ai cũng
không tin đó là một sự thật…
Chúng ta hãy nhớ một điều rằng Tâm chúng ta sinh ra đau khổ và hạnh phúc cho
chính ta. Cùng Luật Nhân Quả là công bằng tuyệt đối không có sự sơ xuất hay
chật lệch.
Chúng ta hãy lắng tai nghe Đạo Hữu Huỳnh Thanh Long ngỏ lời nhắn nhủ
người khách lữ hành
đang lạc lối giữa rừng:
"Hỡi người khách lữ hành trên cõi thế
Đi lang thang vô định đã bao đời!
Vòng tử-sanh sanh-tử, nẽo luân hồi
Trong Tam Giới xoay đi rồi chuyển lại!
Vô lượng kiếp khóc cha rồi khóc mẹ
Khóc vợ con, quyến thuộc, kẻ thân yêu,
Khóc cửa nhà, tài sản sớm tiêu điều!
Từ vô thỉ khóc than bao cảnh khổ.
Những giọt lệ đắng cay người đã đổ
Còn nhiều hơn nước mặn khắp trùng dương!
Hỡi người khách lữ hành trên cõi thế
Đi lang thang vô định đã bao đời!
Vòng tử-sanh sanh-tử, nẽo luân hồi
Trong Tam Giới kiếp nầy rồi kiếp khác!
Từ vô thỉ mỗi đời người bỏ xác
Khắp địa cầu phủ trắng đống xương khô!
Trong tác phẩm “Tế Điên Hòa Thượng”. Khi kết
thúc truyện Tế Điên lái thuyền khuất đi và cất khúc hát:
Đời thấm thoát chừ phù sinh giấc mộng
Thân người nhỏ bé chừ biển trời lồng lồng
Thấm thoát qua mau hết trẻ đến già
Ngoảnh mặt người thân bao người khuất bóng.
34. Tu Ðà Cấp Cô Ðộc