Nhận xét tổng quát
Đồng bằng sông Cửu Long, Ménam và Irraouaddi là ba trung tâm sản xuất lúa gạo,
có dư để xuất cảng, quan trọng nhứt trên thế giới. Việt Nam, Xiêm, Miến Điện gồm
đa số dân sống bằng nghề nông. Ba quốc gia này liên ranh, nằm trong khu vực gió
mùa với những nét lớn giống nhau :
— Lãnh thổ phát triển lần hồi từ Bắc xuống Nam.
— Biết làm ruộng cấy ở đồng sâu, nhờ đó mà sản lượng đạt mức cao so với ruộng tỉa
ở đất khô.
— Mức sống thấp kém.
Nam tiến không phải là mãnh lực huyền bí của riêng dân tộc Việt Nam. Những dân
tộc chịu ảnh hưởng ấn độ vẫn đạt được kỹ thuật cày sâu cuốc bẫm không kém nước
ta. Việc tôn thờ rắn thần và rồng để cầu mưa, vài môn giải trí như thả diều,
trai gái đối đáp nhau nào phải chỉ xảy ra ở Việt Nam.
Dân Việt gặp dân Miên vốn có nền văn hóa cổ kính khá cao. Vào thế kỷ 13, người
Miên đã tìm ra giống lúa và dẫn thủy nhập điền thích ứng giúp họ thâu hoạch 3
hoặc 4 vụ trong một năm. Cuộc Nam tiến của người Xiêm, người Miến Điện gặp hoàn
cảnh khá tốt về địa lý, hai con sông Ménam và Irraouaddi thuận lợi cho việc
thông thương, trong khi Hồng Hà và sông Cửu Long có nhiều thác đá. Từ hạ lưu
sông Hồng, dân Việt len lỏi theo mấy cánh đồng nhỏ bé dọc theo bờ biển Đông nhiều
giông tố để lần hồi đến hạ lưu sông Đồng Nai, sông Cửu Long.
Tuy là đặt chân trên đất Cao Miên nhưng đối thủ đáng nể của người Việt đi khẩn
hoang lại là người Xiêm đang nuôi tham vọng đô hộ vùng Vạn Tượng, Cao Miên và
Mã Lai. Xiêm quốc lúc bấy giờ đang thời hưng thịnh, với tướng giỏi, quân sĩ có
kinh nghiệm về chiến đấu đường bộ và đường thủy.
Người Việt đã giữ được thế chủ động trong hoàn cảnh gay go.
Khi đặt chân ở đồng bằng sông Cửu Long, nước Việt bị chia cắt từ sông Gianh,
công trình khẩn đất và giữ đất lúc đầu chỉ do một số dân từ Quảng Bình trở vào
gánh vác. Bấy giờ, ưu thế của người Việt khong là kỹ thuật canh tác cao, nhưng
là ưu thế về tổ chức chính trị và quân sự. Bộ mấy hành chính khá hoàn hảo đã
giúp chúa Nguyễn theo dõi được tình hình ở những địa phương xa xôi, quân đội có
thể tập trung khá nhanh khi cần thiết. Đơn vị xã hội nhỏ nhất là thôn ấp đủ khả
năng tự trị, các tổ chức đồn điền có thể tự quản trị về kinh tế và an ninh.
Quân đội Xiêm hùng mạnh, nhưng đi xa thì mất hiệu năng. Nước Cao Miên bấy giờ
quá suy nhược, vua chúa kém năng lực chỉ biết cầu viện với ngoại bang, dân
chúng thì ly tán : người Xiêm thường lùa bắt từng loạt dân Cao Miên đem về xứ họ
để làm nông nô phục dịch.
Vua chúa Việt Nam thúc đẩy việc khẩn hoang vì những lý do sau đây :
— Mở rộng địa bàn thống trị, đất rộng, dân giàu thì kinh đô được bảo vệ chu đáo
hơn.
— Thuế điền và thuế đinh gia tăng nhanh chóng.
— Nạn đói kém được giảm thiểu, nơi này thất mùa, nơi kia bù lại, ít có nguy cơ
nội loạn.
— Dân số gia tăng, thêm lính tráng, thêm dân xâu.
Bộ Đinh và bộ Điền tiêu biểu cụ thể cho nhân lực, tài lực. Với binh sĩ giữ gìn
bờ cõi và trấn áp nội loạn, với tiền bạc và nhân công làm xâu, vua chúa tha hồ
phung phí, sống xa hoa, xây đắp cung điện lăng tẩm, ưu đãi người trong giòng họ,
mua chuộc quan lại, để ngôi vị được ổn định, chống các âm mưu ly khai ở địa
phương.
Về phía dân chúng, khẩn hoang là việc tích cực, không phải là hưởng thụ, thụ động,
chờ thời vận.
* Phải có yếu tố thiên nhiên tương đối thuận lợi, đất quá thấp thì lúa dễ bị ngập,
quá cao thì gặp nạn thiếu nước. Từ nơi cư trú đến thửa ruộng, đường đi phải gần
để khỏi phí thì giờ lui tới, lúa đem về nhà không mất nhiều công lao và phí tổn
chuyên chở.
* Đủ nước ngọt để uống, nấu cơm và cho trâu bò uống.
* Gia đình đủ vốn liếng, đủ lúa gạo ăn trong khi chờ lúa chín. Lại còn quần áo,
tu bổ nhà cửa, thuốc uống, trầu cau, lúa gạo để nuôi heo gà, ghe xuồng, nông cụ.
Thêm vào đó, còn yếu tố xã hội vì làm ruộng đòi hỏi sự hợp quần cần thiết :
— Sức một người, một gia đình chỉ có giới hạn. Một khoảnh ruộng ở giữa tư bề đất
hoang thì hoa mầu sẽ bị chim chuột từ các vùng lân cận tập trung lại phá nát.
Năm bảy gia đình góp sức canh tác liên ranh nhau thì sự tổn thất vì chim chuột
được giảm thiểu.
— Mùa cấy tuy là co giãn, xê xích mươi ngày nhưng nằm trong thời gian quy định.
Cấy quá sớm, thiếu nước, cấy quá trễ, cây lúa mọc không kịp nước mưa. Mỗi người
chỉ có thể cấy chừng 4 mẫu tây trong một mùa mà thôi, đàn bà lo cấy ở nơi này
thì đàn ông lo dọn đất ở nơi kia. Dọn đất cấy quá sớm, cỏ mọc trở lại, trì hoãn
thì nước trong ruộng lên cao, không dọn đất được. Lúa chín mà gặt trễ chừng năm
bảy ngày là hư hao.
Phát cỏ, cấy lúa, gặt lúa đòi hỏi sự tập trung nhân công, mướn hoặc đổi công,
theo lịch trình không được bê trễ. Phải nhờ người lân cận hoặc ở địa phương
khác đến. Ngay trong một khoảnh đất nhỏ, mặt đất chưa bằng phẳng, nơi cao nơi
thấp, việc đắp bờ, tát nước vẫn là công trình của nhiều người.
Vùng định cư để khẩn hoang cần liên lạc với vùng phụ cận dễ dàng để giải quyết
vấn đề nhân công. Trong một ấp, nhà này không được ở quá xa nhà kia. Gần thôn ấp,
phải có nơi bán tạp hóa, có người cho vay, người tiêu thụ lúa. Việc sanh đẻ, cưới
hỏi, may chay đòi hỏi các phương tiện tối thiểu. Nhà cửa, tính mạng người dân
phải được bảo vệ, chống trộm cướp, loạn lạc. Lại còn nhu cầu học vấn, nhu cầu về
tâm linh với đình, chùa, miễu, hát xướng.
Đơn vị tối thiểu về xã hội vẫn là một làng.
Khẩn hoang đòi hỏi nhiều yếu tố căn bản. Khẩn hoang ở đồng bằng sông Cửu Long
là cuộc vận động lớn, toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa.
Vua chúa quy định chính sách điền địa, thuế khóa, quân dịch và thưởng phạt. Tùy
nhu cầu mà có khi quân sĩ, lưu dân và tù nhân phải đóng đồn, lập ấp, cày cấy ở
nơi mất an ninh. Đất kém mầu mỡ, khó canh tác nhưng chính quyền lại cưỡng bách
đến định cư. Có những giai đoạn, những khu vực mà chính phủ kiểm soát chặt chẽ
việc khẩn hoang, nhưng cũng có lúc người dân được dễ dãi. Nhiều vùng đất tuy
người Cao Miên chưa chánh thức nhượng cho ta nhưng dân ta đã đến khẩn hoang, hoặc
ngược lại, đã nhượng từ lâu nhưng vẫn còn hoang phế.
Cuộc vận động phối hợp quân sự, chính trị và kỹ thuật này có thể chia ra từng
thời kỳ :
1) Từ các chúa Nguyễn đến những năm cuối đời Gia Long : Khai khẩn vùng đất phù
sa tốt, đất giồng ven sông, đất cù lao theo nhu cầu phát triển xứ Đàng Trong,
phục quốc và củng cố quốc gia.
Còn lại các vùng nước ngập sâu vào mùa mưa, đất quá phèn, rừng Sác. Vùng người
Miên tập trung, trên nguyên tắc thì để nguyên vẹn (Rạch Giá, Sóc Trăng, Trà
Vinh, Châu Đốc).
Thành lập các trấn Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Vĩnh Thanh.
tiếp
theo
2) Từ cuối đời Gia Long tới cuối đời Minh Mạng : Khai khẩn phía hữu ngạn Hậu
Giang, nối qua vùng đồi núi Thất Sơn, vì nhu cầu xác định biên giới Việt Miên.
Khai khẩn vùng đồi núi, vùng đất thấp, canh tác những lõm đất nhỏ mà cao ráo,
giữa vùng nước ngập lụt.
Thành lập tỉnh An Giang, tách ra từ trấn Vĩnh Thanh.
3) Từ đời Thiệu Trị tới đời Tự Đức : Khai khẩn những điểm chiến lược, nhằm đề
phòng nội loạn ở phía Hậu Giang, chánh sách đồn điền được thúc đẩy mạnh.
Thực dân Pháp đến, nhằm mục đích bóc lột nhân công rẻ tiền, và xuất cảng tài
nguyên, đã thực hiện được vài việc đáng kể :
1) Cho đào kinh để chuyên chở lúa gạo, giúp giao thông vận tải được dễ dàng, đồng
thời rút bớt nước vào mùa lụt từ Hậu Giang ra Vịnh Xiêm La. Vùng đất phèn, tạm
gọi là phù sa mới, không còn bị nước ngập quá cao. Việc chuyên chở sản phảm về
Sài Gòn ít tốn kém hơn trước.
Thành lập các tỉnh mới : Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, vùng này trở
thành nơi dư lúa gạo, nhờ dân ít mà mức sản xuất cao. Khai khẩn rừng tràm và đồng
cỏ.
2) Thúc đẩy việc làm ruộng sạ, nhờ chọn các giống lúa thích hợp hơn, giúp vùng
đất thấp ở Long Xuyên, Châu Đốc và Đồng Tháp Mười canh tác được. Còn lại là
vùng rừng Sác Cần Giờ, rừng Đước Cà Mau, vùng than bùn U Minh, vùng đất quá nhiều
phèn chung quanh Hà Tiên và Đồng Tháp Mười.
3) Lập đồn điền cao su ở miền Đông.
Chương
1 - 1
Nhu cầu phát triển xứ đàng trong, phục quốc và củng cố quốc gia
Những hành động quyết định
Từ lâu, các chúa Nguyễn đã biết về vùng đất ở Đồng Nai và Cửu Long, nhưng cơ hội
chưa thuận lợi để đẩy mạnh cuộc phát triển về phía Nam. Năm 1623, một phái bộ của
chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu được lập cơ sở ở Prei Nokor (vùng Sài Gòn) để
thu thuế hàng hóa.
Năm 1658, khi còn bận rộn giao tranh với chúa Trịnh ở phương Bắc, chúa Hiền cho
quan Khâm mạng đến Trấn Biên dinh (Phú Yên) đem 2000 quân đến Mỗi Xui (Mô Xoài)
để đánh phá, bắt vua Nặc Ông Chân giải về Quảng Bình. Khi ấy ở Mỗi Xui (vùng Bà
Rịa ngày nay) và ở Đồng Nai, “đã có lưu dân của nước ta đến sống chung lộn với
người Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều
đình đem nhượng hết cả đất ấy rồi đi lánh chỗ khác, không dám tranh trở chuyện
gì”.
Năm 1672, tình hình vô cùng thuận lợi cho Hiền Vương, ngài đã thắng chúa Trịnh,
lấy sông Gianh làm ranh giới. Năm 1764, Cao Miên có loạn, thêm lý do để quân
chúa Nguyễn can thiệp, lần này phá luôn được các đồn binh Cao Miên ở Sài Gòn,
Gò Bích và Nam Vang sau khi thắng ở Mô Xoài.
Bảy năm sau, 1679, Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch đem binh biền và gia quyến
hơn 3000 người và chiến thuyền hơn năm chục chiếc đến gần kinh đô.
Hiền Vương cho phép bọn di thần nhà Minh vào Nam. Chi tiết đáng chú ý là đoàn
chiến thuyền này được đưa vào Nam có người hướng dẫn. Đây là cuộc hướng dẫn thần
tình, chứng tỏ thời chúa Nguyễn bản đồ và khung cảnh ở đồng bằng sông Đồng Nai
và Cửu Long được nghiên cứu khá tường tận. Chúa Nguyễn và người hướng dẫn đã
đánh giá đúng mức giá trị chiến lược của vùng Mỹ Tho và vùng Biên Hòa — nơi bọn
di thần nhà Minh được phép đến định cư — sự đánh giá ấy mãi đến sau này vẫn còn
là đúng.
Miền Nam vẫn còn hai nơi quan trọng khác ở phía Tây và Tây Nam. Năm 1699, Nguyễn
Hữu Cảnh đem binh lên tận Nam Vang để can thiệp về quân sự. Chuyến về vào khoảng
tháng tư năm canh thìn (1700), ông cho quân sĩ theo dòng Tiền Giang, trú đóng tại
Cái Sao (vùng chợ Thủ của Long Xuyên) “Ba quân bị phát bịnh dịch và ông cũng bị
nhiễm bịnh”. Thời gian trú quân ở đây là hơn nửa tháng, binh kéo đi hai ngày
sau là ông mất. “Ông có công dẹp yên Cao Miên rồi khai thác đất này”. Ai trực
tiếp khai thác ? Chắc chắn là số binh sĩ bị bịnh, hoặc một số tình nguyện ở lại
vùng Cái Sao mà khai thác trước khi đất đai này được vua Cao Miên nhượng cho. Bấy
giờ nhóm này sống cheo leo bên kia sông Tiền. họ được gọi là dân Hai Huyện, trực
thuộc phủ Gia Định từ xưa.
Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân thừa lịnh hành quân lên Cao Miên để đánh quân Xiêm,
khi trở về lại cho trú quân ở Vũng Gù (nay là Tân An) lập đồn điền, “làm thủ xướng
cho quân dân”, đắp đồn và đào kinh cho rạch Vũng Gù và rạch Mỹ Tho ăn thông với
nhau, nối liền sông Vàm Cỏ Tây qua Tiền Giang.
Về phía Vịnh Xiêm La, khoảng năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm,
Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng,
thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất
cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác.
Trần Thắng Tài (Đồng Nai), Dương Ngạn Địch (Mỹ Tho), Nguyễn Hữu Cảnh (Tiền
Giang), Nguyễn Cửu Vân (Vàm Cỏ), Mặc Cửu (Hà Tiên) và quân dân đã đi những bước
tiên phong trong thời gian ngắn. Nhóm di thần nhà Minh và dân Việt thật sự làm
ruộng và định cư nơi đất lạ. Bao nhiêu khó khăn dồn dập xảy tới : cuộc tranh chấp
về quân sự với người Cao Miên, người Xiêm. Mãi đến 134 năm sau (1834), vùng đất
mà ông Nguyễn Hữu Cảnh
khai sáng còn gặp chinh chiến với quân Xiêm, mặc dầu cuộc Nam tiến hoàn tất vào
năm 1759. Lại còn việc tranh chấp dằng dai với anh em Tây Sơn, khiến việc khẩn
hoang bị đình trệ hoặc hư hại.
Chúa Nguyễn nắm nguyên tắc căn bản là phát triển các đơn vị hành chính liền
ranh nhau. Thoạt tiên dinh Trấn Biên đóng ở vùng Phú Yên. Năm 1698, chưởng cơ
Nguyễn Hữu Cảnh đặt ra Gia Định phủ gồm có :
— Xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên.
— Xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn;
Rồi lần hồi, vùng Long Hồ nối vào đất Gia Định, vùng Mỹ Tho nối vào Gia Định,
vùng An Giang nối vào Long Hồ (Vĩnh Long). Lúc Hà Tiên quá suy sụp, năm 1805 (đời
Gia Long) dinh Vĩnh Trấn (Vĩnh Long) cai quản từ hữu ngạn Tiền Giang đến Rạch
Giá, Cà Mau, tức Vịnh Xiêm la để rồi năm 1810 trả lại cho trấn Hà Tiên như cũ.
Từ
ngàn xưa, dân Việt học được kinh nghiệm về định cư : miền rừng núi bao giờ cũng
bất lợi, ít đất thịt, nhiều sỏi đá, nhứt là bịnh rét rừng (sơn lam chướng khí)
nguy hại có thể gây nạn diệt chủng. Nhà cửa nên cất nơi đồng bằng, nhưng đất phải
cao ráo, gần sông rạch càng tốt, tránh nơi nước đọng ao tù. “Sông sâu nước chảy”
là cuộc đất lý tưởng về phong thủy (tài lợi dồi dào) nhưng trong thực tế là ngừa
được bịnh rét, giao thông thuận lợi, có nước để làm ruộng, có nước để uống, nếu
là nơi nước mặn gần biển thì trên giồng cao vẫn đào giếng được.
Năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh đặt hai huyện đầu tiên, tình hình khẩn hoang được
mô tả như sau :
— Đất đai mở rộng 1000 dặm, dân số được hơn 40000 hộ, chiêu mộ lưu dân từ Bố
Chánh châu trở về Nam đến ở khắp nơi, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định
thuế đinh điền và lập hộ tịch đinh điền. Từ đó con cháu người Tàu ở nơi Trấn
Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi
ghép vào sổ hộ tịch.
Nhóm di thần nhà Minh đến ở cù lao Phố và vùng Mỹ Tho gồm 3000 người khi tiên
khởi. Hai mươi năm sau, con cái của họ lớn lần. Một số người Trung Hoa khác lần
hồi đến làm ăn buôn bán, rồi định cư luôn. Ta thấy còn lại trên ba chục ngàn
gia đình Việt Nam gồm có :
— Những người lập nghiệp từ trước ở Mô Xoài (Bà Rịa).
— Những người từ Bố Chánh (Quảng Bình) trở vào đến lập nghiệp. Số người này sống
rải rác từ Bà Rịa đến cù lao Phố (Biên Hòa), vùng Sài Gòn, Mỹ Tho. Địa danh Trấn
Biên bao gồm một vùng rộng rãi từ ranh Bình Thuận đến tận Nhà Bè. Phiên Trấn
bao gồm Tân Bình đến phía Cần Giuộc, Cần Đước, Tân An. Phủ Gia Định thuở ấy ăn
đến tận vùng Cái Bè (tả ngạn Tiền Giang) sau này là châu Định Viễn. Đây là những
lưu dân. Nhưng nên chú ý số người “có vật lực” từ miền Trung đến. Không vốn liếng
thì không làm ruộng được, người có chút ít vốn nếu chịu mang vào “đất mới” sẽ dễ
trở thành điền chủ, phú hào.
Lỵ sở thường đặt ở những nơi quan trọng, dân đông, kinh tế dồi dào, thuận lợi
cho việc thương mãi và là vị trí có giá trị chiến lược quân sự. ở lưu vực sông
Đồng Nai và Cửu Long, dân ta thiết lập được :
Vùng
cù lao Phố : nòng cốt của Biên Hòa
Đây là vị trí xứng danh ải địa đầu (Trấn Biên) với đường bộ đường thủy nối liền
về miền Trung, đường bộ lên Cao Miên và đường thủy ăn xuống Sài Gòn. Nhóm dân
Trung Hoa theo chân Trần Thắng Tài gây cơ sở lớn ở cù lao Phố, chọn vị trí thuận
lợi, sát mé sông. Năm năm sau khi định cư, chùa Quan Đế dựng lên.
Trần Thắng Tài chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá
đôi từng rực rỡ trên bờ sông, liên lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ,
nhai lớn giữa phố
Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam — Trang 6/6
lát đá trắng, nhai ngang lát đá ong, nhai nhỏ lát đá xanh, đường rộng, bằng phẳng,
người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những
nhà buôn to ở đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội.
“Đại Phố” bấy giờ là đệ nhứt thương cảng ở miền Nam, phồn thịnh nhờ lý do sau
đây :
— Việc thương mãi tổ chức khéo léo, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người buôn nước
Tàu đến kiến thiết, đây là bọn thương buôn chuyên nghiệp, có vốn to và giàu
kinh nghiệm, đến sau chớ không phải là người đi theo Trần Thượng Xuyên trong đợt
tiên phong (số người đi đầu gồm đa số là quân sĩ, tức là nông dân nghèo, không
vốn).
— Sông sâu có chỗ thuận lợi cho tàu biển đậu (đây là vực sâu gần đền thờ ông
Nguyễn Hữu Cảnh).
— Việc tồn trữ và phân phối hàng hóa được điều hành hợp lý. Nhà lầu, phố xá bên
các nhai lộ lát đá là kho hàng và cũng là nơi nghỉ giải trí của chủ tàu và thủy
thủ. Tàu chạy buồm gặp gió thuận thì mới đến hoặc đi được. “Xưa nay thuyền buôn
đến hạ neo xong là lên bờ thuê phố ở, rồi đến nhà chủ mua hàng, lại đấy kê khai
những hàng hóa trong thuyền và khuân cất lên, thương lượng giá cả, chủ mua hàng
định giá mua bao tất cả hàng hóa tốt xấu không bỏ sót lại thứ gì. Đến ngày
trương buồm trở về gọi là “hồi đường”, chủ thuyền có yêu cầu mua giúp vật gì
thì người chủ buôn ấy cũng chiếu y ước đơn mua dùm chở đến trước kỳ giao hẹn,
hai bên chủ khách chiếu tính hóa đơn thanh toán rồi cùng nhau đờn ca vui chơi,
đã được nước ngọt tắm rửa sạch sẽ lại không lo sự trùng hà ăn lủng ván thuyền,
khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi”.
Chưa thấy tài liệu cụ thể về các sản phẩm mua bán lúc ấy, nhưng ta đoán là
thương gia Huê kièu nắm độc quyền về xuất nhập cảng từ khi bắt đầu khẩn hoang,
ngoài những sản phẩm đất Đồng Nai như gạo, cá khô, còn một số sản phẩm từ Cao
Miên đem xuống : các loại thảo dược, ngà voi. Sản phẩm nhập cảng gồm tơ lụa, vải
bô, dược phẩm cho đến những xa xí phẩm. Người Tàu thích dùng đồ bên Tàu : gạch
ngói, đá xây cột chùa, nhang đèn, giấy tiền vàng bạc. Họ cưới vợ Việt Nam, bày
ra những thói ăn xài, phung phí vào dịp Tết.
Những địa điểm định cư lúc ban đầu là vùng Bà Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân
Uyên, những cánh đồng ở hai bên bờ sông Đồng Nai gần cù lao Phố. Đất Trấn Biên
lúc bấy giờ ăn đến Thủ Đức, Giồng Ông Tố, vùng Thủ Thiêm, Nhà Bè; phía Tây thì
ăn qua vùng Thủ Dầu Một, Lái Thiêu.
Vùng
Bến Nghé Sài Gòn : nòng cốt của Gia Định
Đây là vùng đất giồng ở sông Sài Gòn, rạch Thị Nghè lên Hốc Môn, Gò Vấp; vùng
Chợ Lớn ngày nay ăn xuống Bình Điền, Bình Chánh; Gò Đen, nối liền đến Cần Đước,
Cần Giuộc, những giồng thuận lợi để làm ruộng và làm rẩy. Nếu vùng cù lao Phố
được ưu thế là có nước ngọt quanh năm, thì vùng Sài Gòn lại bị ảnh hưởng nước mặn
từ biển tràn vào, giồng cao ráo, đào giếng có thể gặp mạch nước ngọt, phần còn
lại là đất quá thấp.
Vùng Sài Gòn là Prei Nokor (chùa Cây Mai được gọi là Vat Prei Nokor) nằm trên
giồng, phía Chợ Lớn ngày nay. Năm 1739, đồn Dinh đóng ở thôn Tân Mỹ, có tài liệu
ghi là Tân Thuận, phải chăng vì quân sĩ muốn ở gần bờ sông lớn (gần Nhà Bè) để
dễ di chuyển và kiểm soát an ninh ? Thoạt tiên từ cù lao Phố đến Bến Nghé — Sài
Gòn chỉ dùng đường thủy, chợ Nhà Bè thành hình, ứng dụng vào nhu cầu như một chợ
nổi ở giữa ngã ba. Hanh Thông xã (Gò Vấp) trở thành đơn vị hành chánh từ năm
1698, Phú Thọ năm 1747, Tân Sơn Nhứt năm 1749. Ngay từ năm 1698, người Hoa kiều
lập xã Minh Hương ở vùng Sài Gòn, nơi đây họ cũng nắm việc thương mãi. Năm
1770, sử chép chuyện ông Tăng Ñn đánh cọp tại chợ Tân Kiểng (Tân Cảnh), năm
1774 chùa Giác Lâm dựng lên, trên gò đất cao ráo (do người Minh Hương là Lý Thụy
Long quyên tiền), chùa Kim Chương lập năm 1775. Phú Lâm, vùng Bình Điền là đất
giồng. Nhưng nơi thuận tiện cho việc canh tác phải kể là vùng Cần Giuộc, Cần Đước.
“Gạo Cần Đước nước Đồng Nai” nổi danh là ngon và trong mát. Vùng ven biển Nam kỳ
(trừ ra rừng Sác — Cần Giờ và rừng Đước mũi Cà Mau) còn nhiều đất rất tốt. Bên
kia Cần Đước là Gò Công với nhiều giồng và đất phù sa ở bờ Cửa Đại, Ba Lai (trở
thành vựa lúa quan trọng đời Gia Long).
Đất đã tốt lại ở ven biển, lưu dân có thể đi ghe bầu từ miền Trung vào vàm mà lập
nghiệp, ngoài huê lợi ruộng nương còn huê lợi cá tôm. Đánh lưới ngoài biển vốn
là sở trường của dân Việt. Làm ruộng ở những nơi xa lỵ sở thì dễ trốn thuế, tha
hồ chọn lựa đất tốt. Nhờ đường biển, việc liên lạc về quê xứ miền Trung được
thuận lợi.
Trấn Biên và Phiên Trấn khi mới khẩn hoang tuy đất không tốt bằng phía Cửu Long
nhưng vẫn là phì nhiêu so với vùng Bình Thuận. Vì ở gần lỵ sở, gần thương cảng
nên lúa gạo bán có giá. Về mặt an ninh vì xa sông Tiền sông Hậu nên khỏi sợ nạn
chinh chiến khi chúa Nguyễn và Xiêm La gây hấn.
Vùng Ba Giồng : nòng cốt của Định Tường
Sông Cửu Long khác hơn sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ. Hằng năm, Cửu Long có nơi
nước lụt tràn bờ. Đất giồng ven bờ sông, đất cù lao ở Cửu Long khác hơn mấy gò ở
gần Đồng Nai. Vùng Cửu Long đất thấp, đào xuống vài lớp xuổng là gặp nước, việc
trồng cây ăn trái lại dễ dàng, khỏi tưới. Múc nước giếng, hay gánh nước từ mé rạch
lên nhà, lên rẫy lại ít tốn công. Bờ Cửu Long thường có bãi bùn, bồi đắp nhanh
chóng, đất cù lao lan ra trong vài năm là thấy cuộc biển dâu. Việc vận tải,
giao thông dùng ghe xuồng thay vì dùng xe bò hoặc đi bộ, khiêng gánh. Kỹ thuật
cày bừa cùng là ngày tháng cấy hái phải thay đổi cho thích ứng với hoàn cảnh mới.
Dương Ngạn Địch “đem binh lính ghe thuyền chạy vào cửa Soi Rạp và Đại Tiểu hải
khẩu rồi lên đồn trú ở xứ Mỹ Tho”. Đây là cuộc định cư có sắp đặt, “xá sai Văn
Trinh và tướng thần lại Văn Chiêu đưa dụ văn sang Cao Miên bảo Thu Vương chia đất
để cho bọn Dương Ngạn Địch ở. Tháng 5, Văn Trinh dẫn cả binh biền Long Môn và
đưa ghe thuyền đến đóng dinh trại ở địa phương Mỹ Tho rồi dựng nhà cửa, tụ tập
người Kinh, người Thượng (người Miên) kết thành chòm xóm”, “sau này mới lập
dinh trấn, đều là tùy thời dời đổi, hoặc hướng Nam, hoặc hướng Bắc, hoặc đem tới,
hoặc rút lui cũng chẳng ngoài địa cuộc ấy”.
Trên 1000 binh sĩ của Dương Ngạn Địch làm ăn tại đâu ?
Họ không rời khỏi “địa cuộc” tốt chọn lựa lúc ban đầu như tài liệu trên cho biết.
Chúng ta có thể xác nhận là giồng Cai Yến ăn đến vùng Ba Giồng, khởi đầu là Tân
Hiệp (nay còn gọi là giồng Trấn Định) đến Thuộc Nhiêu, Cai Lậy, giữa Tiền giang
và Đồng Tháp Mười.
Lúc mới khẩn hoang, hai lỵ sở chính là Biên Hòa và Phiên An ở gần nhau phía Đồng
Nai. Các quan thì muốn cho dân chúng phân tán ra chiếm cứ đất phía Tây Nam nên
đặt quy chế rộng rãi, không câu thúc. Về nguyên tắc, người khẩn hoang ở Vũng Gù
(Tân An, sông Vàm Cỏ) hoặc Mỹ Tho, đều là dân của hai huyện Phước Long và Tân
Bình. Để khỏi chuyên chở đường xa khi đóng thuế bằng lúa và bằng tiền mặt, họ
có thể nạp tại các kho thuế ở địa phương, vừa thuận lợi cho dân, cho các quan
cũng khỏi lo sợ nạn thất thâu. Một số người làm nghề rừng, nghề biển hưởng quy
chế riêng khỏi lập thôn ấp, chỉ cần đôi người thay mặt đứng ra chịu trách nhiệm
để kết họp thành trang trại, man, thuộc, nậu. Họ sống định cư hoặc lưu động, với
người cai trại hoặc người bộ trưởng, người đầu nậu cầm đầu.
Chín kho thâu thuế (cửu khố trường) dành cho các trại, các nậu, mang tên sau
đây (đặt ra từ năm 1741) :
— Quy An
— Quy Hóa
— Cảnh Dương
— Thiên Mụ
— Gian Thảo
— Hoàng Lạp
— Tam Lịch
— Bả Canh
— Tân Thạnh
Ba kho Tân Thạnh, Cảnh Dương, Thiên Mụ, làm chỗ cho dinh Trấn Biên trưng thâu
tô thuế để nạp tải về Kinh, đều ở phía bắc Hậu giang tức là sông Cát, phía đông
cù lao Phố.
Kho Tam Lạch (Tam Lịch) ở vùng Mỹ Tho (theo cha Jean de Jésus thì Tam Lạch là
nơi mà quân Đông Sơn khởi sự xưng danh tánh), ta hiểu là vùng Ba Giồng.
Kho Bả Canh ở vùng Cao Lãnh ngày nay.
Kho Gian Thảo ở cách phía nam thành Gia Định 4 dặm rưỡi, sau sửa lại gọi là kho
Bốn Trấn.
Kho
Hoàng Lạp ở huyện Phước Long (Biên Hòa). Phải chăng kho này dùng để thâu sáp
ong và lâm sản do thợ rừng phía biên giới Việt Miên đóng góp ?
Kho Quy An và Quy Hóa ở đâu ? Có nên suy luận là vùng An Hóa ở cửa Đại ngày
nay, lấy hai tiếng sau chót nhập lại ? Nguyễn Khoa Thuyên ghi rằng ở Quy An có
hơn 100 thôn, tên Quy An được nhắc tới theo thứ tự sau Tam Lạch và Tân Bình. Bả
Canh được Nguyễn Khoa Thuyên ghi lại như là một trại, cùng với hai trại khác là
Ba Lai và Rạch Kiến.
Trên bản đồ, ta thấy có đến 4 kho tập trung ở cù lao Phố và Bến Nghé để thuận
đường chở chuyên về kinh đô Huế và các tỉnh miền Trung khi chúa Nguyễn còn nắm
chủ quyền. Mấy kho kia ở Ba Giồng (Tam Lạch), Cao Lãnh (Bả Canh), Qui An có lẽ
gần một vàm sông nhánh của Cửu Long, hoặc Ba Lai, hoặc cửa Đại.
Đời vua Hiển Tôn (1691—1725), lập phủ trị ở phía bắc chợ. Năm 1772 lập Trường Đồn
đạo, năm 1779, lấy phần đất nằm giữa trấn Biên, Phiên trấn và Long Hồ đặt làm
Trường Đồn dinh có Lưu thủ, Ký lục và Cai bộ coi việc quân sự, hành chánh, thuế
vụ và bãi bỏ các kho trên. Trường Đồn dinh đóng ở giồng Cai Yến (giồng này bắt
đầu từ vùng Khánh Hậu thuộc Tân An ngày nay), rồi lại đổi tên là Trấn Định,
đóng ở Tân Hiệp. Hai tiếng Định Tường chỉ xuất hiện từ năm Gia Long thứ 7
(1808).
Vùng Long Hồ : nòng cốt của Vĩnh Long, An Giang
Kiểm soát sông Tiền, sông Hậu là vấn đề mà các chúa Nguyễn quan tâm nhứt, về mặt
quân sự và về canh tác. Muốn dùng binh lên Cao miên, phải cho chiến thuyền đi
ngược dòng Tiền giang để đến Ba Nam rồi Nam Vang. Tiền giang là sông nhiều
nhánh, gần vàm biển mỗi nhánh khá rộng với bờ đất phù sa cao ráo, thuận lợi để
trồng đậu, trồng khoai, đặc biệt là trồng dâu nuôi tằm, trồng cau, trồng trầu,
trồng dừa, các loại cây ăn trái. Đất còn lại là ruộng tốt. Đây là cuộc đất lý
tưởng “sông sâu nước chảy”. Thoạt tiên, hai tiếng Long Hồ phát xuất từ tả ngạn
Tiền giang. Năm 1732 chúa Nguyễn sai quan khổn súy Gia Định chia phần đất của
Gia Định (sau này là của Định Tường) lập châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ tại
Cái Bè, gọi là Cái Bè dinh.
Năm 1756 và 1757, cuộc Nam tiến hoàn tất về mặt chính trị. Trước mặt dinh Cái
Bè — ở vàm rạch Cái Bè phì nhiêu, bên cạnh rạch Cái Thia nhiều phù sa — là những
cù lao lớn giữa các sông Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên, chưa kể đến mấy cù lao
tuy nhỏ nhưng quan trọng ở giữa Tiền giang. Bên kia Tiền giang là nơi tập trung
nhiều sốc Miên, vùng Trà Vinh. Có thể là trước khi sáp nhập vào lãnh thổ Việt
Nam, lưu dân đã đến làm ăn rải rác nhưng cuộc khẩn hoang được xúc tiến quy mô
hơn từ khi trở thành lãnh thổ Việt Nam, danh chánh ngôn thuận. Hai địa danh cù
lao Bảo, cù lao Minh xuất hiện sau này, xứng danh là trái châu của Cửu Long.
Phía cù lao Bảo có tám giồng, phía cù lao Minh có 11 giồng. Đặc điểm của những
giồng này là chịu ảnh hưởng nước lớn nước ròng do thủy triều, nhưng không bao
giờ bị ngập vào mùa lụt của sông Cửu Long.
Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du xin dời dinh Long Hồ từ Cái Bè qua đất Tầm
Bào, tức là vùng chợ Vĩnh Long ngày nay, đồng thời đặt những đồn ở Tây Ninh, Hồng
Ngự, cù lao Giêng, Sa Đéc, Châu Đốc.
Dinh Long Hồ kiểm soát Tiền giang và hai bên bờ Hậu giang. Đồng thời dinh này
cũng bao trùm luôn vùng biên Vịnh Xiêm La với Long Xuyên đạo (Cà Mau), Kiên
Giang đạo (Rạch Giá). Riêng về vùng Ba Thắc (Sóc Trăng) nơi người Miên sống quá
tập trung thì việc cai trị vẫn thuộc về họ.
Dụng ý của chúa Nguyễn là dùng nơi này để khống chế Cao Miên. Sông Cửu Long là
biên giới Việt Nam ở miền ba biên giới.
Năm 1779, chúa Nguyễn duyệt xem bản đồ, nâng vùng Mỹ Tho làm dinh (Tường Đồn
dinh) đồng thời cũng thử bày một chuyến phiêu lưu : dời dinh Long Hồ đến cù lao
Hoằng Trấn, ở giữa Hậu giang. “Đương thời có người bàn rằng địa thế Hậu giang rộng
lớn, rừng núi mù mịt, vùng Ba Thắc, Cần Thơ, Trà Vinh có nhiều sốc của Cao Miên
mà cách xa dinh Long Hồ, nên đặt một đai trấn để khống chế, mộ dân đến khai khẩn
ruộng đất”. Dinh Long Hồ dời đến Hoằng Trấn năm trước là năm sau (1780) lại lui
về chỗ cũ (tức là vùng chợ Vĩnh Long), đổi tên là Vĩnh Trấn dinh.
Kinh nghiệm cho thấy rằng con đường từ Hậu giang lên Cao Miên quá xa, không thuận
bằng đường Tiền giang, phía Vĩnh Long. Cù lao Hoằng Trấn ở Hậu giang được khai
thác sớm, còn mang tên là cù lao Tân Dinh, gợi lại hình ảnh của dinh Long Hồ
ngày trước. Giữa Tiền giang và Hậu giang, có s≥n nhiều sông rạch lớn nhỏ liền lạc
nhau lại còn nhiều giồng đất tốt, quanh năm nước ngọt, mùa nước lụt không ngập
(vùng Sa Đéc). Những cù lao trên sông Tiền, sông Hậu đều đáng giá, nhiều cù lao
vừa rộng vừa dài, đất biền chung quanh cù lao rất màu mỡ, năng xuất cao : cù
lao Dung, cù lao Trâu, cù lao Dài, cù lao Giêng, cù lao Mây, cồn Bình Thủy, cù
lao Năng Gù. So với sông Vũng Gù (Vàm Cỏ Tây) luôn cả sông Đồng Nai thì Tiền
giang và Hậu giang đất tốt hơn, khí hậu khá lành. Dân cư còn thưa thớt, đòi hỏi
nhiều đợt lưu dân đến khai thác. Duy có điều bất lợi là xa Gia Định, người Miên
sống tập trung tại nhiều vùng lớn rộng có thể khuấy rối an ninh ; vùng Thất Sơn
chưa thám hiểm được, lại còn cánh đồng bát ngát (Rạch Giá, Cần Thơ) nằm giữa hữu
ngạn Hậu giang và vịnh Xiêm la. Nước Xiêm đang hồi hăng sức, có thể đột nhập miền
biên giới — một biên giới chưa rõ rệt, khó định cư vì nước ngập quá sâu, không
thích hợp với lối cày cấy đương thời (đồng Châu Đốc, Láng Linh, Tháp Mười).
Những chuyến đi về “tẩu quốc và phục quốc” của vua Gia Long được thực hiện dễ
dàng là nhờ ngài am hiểu địa thế của vùng đất rộng ấy hơn quân Tây Sơn. Nào là
sông Mân Thít nối ngang Ba Kè tới vùng Trà Ôn, nơi nhiều người Miên sống tập
trung. Nào vùng Nước Xoáy tấn thối dễ dàng, lại còn vùng Cần Thơ với rạch Cần
Thơ ăn thông qua sông Cái Bè rồi sông Cái Lớn với vùng U Minh. Sông Gành Hào,
sông Ông Đốc ở tận mũi Cà Mau. Thời thạnh trị của họ Mạc quá phù du vì không đủ
dân và không đủ quân để kiểm soát một vùng Hậu giang quá rộng mà trên danh
nghĩa thì họ Mạc được chúa Nguyễn giao cho cai Sơ kết thành quả :
Thương cảng Sài Gòn thành hình và phát triển
Người Hoa kiều nắm nội và ngoại thương ngay từ buổi đầu, họ lại có thế lực quân
sự. ở cù lao Phố, Trần Thắng Tài sống thuận hòa với chúa Nguyễn, năm 1700, ông
cùng quân sĩ tùy tùng tham gia trận đánh quyết định, chiến thắng tại Nam Vang.
Con Trần Thắng Tài là Trần Đại Định cưới con gái Mạc Cửu, tức là em gái của Mạc
Thiên Tứ (vợ Mạc Cửu là người Việt Nam, quê ở Đồng Môn, thuộc Biên Hòa), về sau
Trần Đại Định vì bị hiểu lầm nên buồn tủi, chết trong ngục. Dương Ngạn Địch chết
vì phó tướng là Hoàng Tấn làm phản, Hoàng Tấn lại bị quân sĩ Việt Nam trừng trị.
Họ Mạc ở Hà Tiên được chúa Nguyễn cho hưởng quy chế tự trị. Dòng họ này trung
thành với chúa Nguyễn nhưng lại bị Xiêm Vương là Phi Nhã Tân quấy rối (ông vua
Xiêm này gốc người Triều Châu). Một viên tướng Triều Châu tên là Trần Liên đã
đem binh qua đốt phá Hà Tiên, quyết sanh tử với Mạc Thiên Tử. Hai tên cướp Triều
Châu khác là Hoắc Nhiên và Trần Thái cũng gây khá nhiều rắc rối cho họ Mạc ở Hà
Tiên.
Có người cho rằng người Trung Hoa hải ngoài thường tự tôn, ôm ấp giấc mơ làm bá
chủ một cõi. Nếu có thật vậy, thì những giấc mơ ấy không bao giờ thực hiện được
ở đất Đồng Nai, ít ra là về mặt chánh trị và quân sự. Chỉ một lần hồi năm 1747
khi có thương gia người Phước Kiến là Lý Văn Quang đến cư ngụ tại cù lao Phố,
nhân thấy việc phòng bị lơ là nên cấu kết với hơn 300 bè đảng, xưng là đại
vương. Cuộc khởi loạn bị dập tắt, Lý Văn Quang và đồng bọn bị áp giải về Phước
Kiến (bấy giờ, ta ngại rắc rối về ngoại giao với nhà Thanh).
Năm 1772, chúa Nguyễn suy yếu, Trương Phúc Loan lộng quyền nhưng quân sĩ Đàng
Trong vẫn còn mạnh, 10000 quân ở dinh Bình Khương, Bình Thuận cùng 300 chiến
thuyền hợp với quân ở dinh Long Hồ kéo lên Cao Miên đánh thắng một trận lớn để
cứu vãn tình thế nguy ngập ở Hà Tiên, cứu Mạc Thiên Tứ khi quân Xiêm chiếm cứ
thành này ;
Tình thế ở Đàng Trong trở nên bi đát khi anh em Tây Sơn khởi nghĩa. Tháng hai
năm 1776, Nguyễn Lữ léo vào đất Gia Định. Tháng năm năm ấy, Nguyễn Lữ rút lui
sau khi cướp lấy lúa kho, chở hơn 200 thuyền chạy về Quy Nhơn. Con số này giúp
chúng ta thấy phần nào thành quả của việc khẩn hoang ở Đồng Nai và Cửu Long.
Một viên cai bộ ở phủ Gia Định là Hiến đức hầu Nguyễn Khoa Thuyên báo cáo lại
những con số cụ thể về lực lượng quân sự và tình hình chánh trị, kinh tế. Sau
đây là vài chi tiết về xứ Đồng Nai :
— Huyện Phước Long (vùng Trấn Biên) có hơn 200 thôn, dân số 8000 người, lệ thuế
ruộng hơn 2000 hộc.
Các thuộc Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp có phỏng 40 thôn nậu, dân số 1000 người
phải nạp thuế.
Thuộc Ô Tất gồm phỏng 30 nậu, dân số ước 500.
— Huyện Tân Bình có hơn 350 thôn, số dân hơn 15000 dinh, thuế ruộng hơn 3000 hộc.
Quy An có hơn 100 thôn, số dân 3000 đinh, ruộng hơn 5000 thửa.
Tam Lạch có hơn 100 thôn, số dân 4000 đinh, ruộng hơn 5000 thửa.
Các trại Bả Canh, Ba Lai, Rạch Kiến, có 100 thôn, dân 4000 đinh, ruộng hơn 4000
thửa.
— Châu Định Viễn có lối 350 thôn, dân 7000 đinh, ruộng 7000 thửa.
Nhìn con số trên, ta thấy Cửu Khố (còn gọi 9 trường biệt nạp), dành cho vùng đất
ở xa Trấn Biên và Phiên Trấn (sau này là Trấn Định, trở thành Mỹ Tho), gồm các
thuộc :
Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp, Ô Tất (đóng thuế về Phước Long).
Tam Lạch, Quy An, Bả Canh, Ba Lai, Rạch Kiến (đóng thuế về huyện Tân Bình, vùng
Sài Gòn).
Tài liệu của Nguyễn Khoa Thuyên cũng nêu rõ quân số, các nơi trú quân của chúa
Nguyễn. Nhiều thủ ngự đặt ở Tiền giang và Hậu giang gần vàm rạch mà ta tin rằng
ở vùng phụ cận có thôn xóm khá sung túc : vàm Ông Chưởng, Tân Châu, chợ Thủ, Sa
Đéc, Vũng Liêm, Láng Thé, Lấp Vò, Trà Ôn, Cần Chung (Cần Chong nay là Tiểu Cần),
cù lao Tân Dinh, Bắc Trăng (thuộc Trà Vinh).
Thành tích này khá lớn lao : những vùng đất phù sa ven sông rạch, những cù lao
thuận lợi cho việc canh tác cổ truyền (ruộng cày, mỗi năm một mùa gặt) đều có
người chú ý đến, không bỏ sót. Đồng bằng Cửu Long hơn đồng bằng Đồng Nai rõ rệt
về mặt canh tác, sản xuất lúa gạo, với nhiều triển vọng tươi sáng hơn.
Trước 1776, thương cảng lớn nhất của miền Nam là cù lao Phố.
Năm 1776 và 1777 quân Tây Sơn tràn vào Gia Định, đánh cù lao Phố “chiếm dỡ lấy
phòng ốc, gạch đá, tài vật chở về Quy Nhơn”.
Nông Nại Đại Phố tức là thương cảng cù lao Phố suy sụp luôn, thương gia Hoa kiều
bèn kéo nhau xuống vùng Chợ Lớn ngày nay để lập chợ Sài Gòn, sát với chợ Tân Kiểng
thành hình từ trước 1770.
Thương cảng Sài Gòn (nên hiểu là Chợ Lớn ngày nay) thành hình và phát triển
nhanh từ năm 1778. “Từ khi Tây Sơn nổi lên, quan quân hội cả ở trấn Phiên An,
thuyền buôn cũng dời đậu ở sông Tân Bình (sông Sài Gòn)”. Nhưng 4 năm sau, năm
1782, Nguyễn Nhạc tới 18 thôn Vườn Trầu, bị phục kích thua thảm bại, hộ giá Ngạn
của Tây Sơn tử trận. Nhạc nhận ra bọn phục kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều
người Tàu theo giúp Nguyễn ánh. “Nhạc bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới
cũ đều giết cả hơn 10000 người. Từ Bến Nghé đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ
xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3 tháng người ta không dám ăn
cá tôm dưới sông. Còn như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy, nhất thiết các đồ
Tàu mà nhà ai đã dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám lấy. Qua năm
sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 quan tiền, còn
các loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở”.
Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc còn có dụng tâm tiêu diệt đầu
não kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu.
Suốt
thời gian tẩu quốc và phục quốc, Sài Gòn được xem là kinh đô của Nguyễn ánh
(1779—1801).
Sài Gòn được ưu thế là gần vùng Mỹ Tho và Long Hồ. Việc chuyên chở lúa gạo và sản
phẩm từ Tiền giang tuy khó khăn nhưng lúc bấy giờ kinh rạch vẫn tương đối thuận
lợi cho loại ghe có sức trọng tải nhẹ. Nhìn trên bản đồ, ta thấy sông rạch chằng
chịt ; vào mùa mưa nước sông tràn đầy, nhưng mùa nắng thì nhiều khúc không lưu
thông được, hoặc lưu thông khó khăn phải sang qua ghe nhỏ, kéo bằng sức người
hoặc sức trâu, sông rạch lại quanh co, không đủ nhân công để vét. Công trình
đào kinh khởi đầu với sáng kiến của Nguyễn Cửu Vân để cố gắng nối liền sông Vũ
Gù (Vàm Cỏ Tây) qua sông Mỹ Tho tức là Vàm Cỏ Tây qua Tiền giang, sau lại đào
sâu thêm. Tuy nhiên, vì có giáp nước khiến phù sa hai đầu dồn vào nên bị cạn,
thuyền to phải chờ khi nước lớn mới qua lại được. Đã có tạm đường thông thương
từ Mỹ Tho qua Vũng Gù. Vũng Gù thông qua Vàm Cỏ Đông đến Bến Lức, theo đường nước
đến Ba Cụm rồi theo sông Bình Điền đến Chợ Lớn. Năm 1772, Nguyễn Cửu Đàm (con của
Nguyễn Cửu Vân) đào kinh Ruột Ngựa, nối liền Rạch Cát đến kinh Lò Gốm mà trước
kia ghe thuyền không qua lại được, chỉ có “một đường nước đọng móng trâu”. Phía
Gò Công, Cần Giuộc cũng có đường thủy lên Rạch Cát. Phía Hậu giang, khi tranh
chấp bằng quân sự với Tây Sơn, Nguyễn ánh vẫn tấn thối theo đường sông từ Sài
Gòn Gia Định đến tận Sa Đéc, Cần Thơ, Cà Mau, Rạch Giá.
Dời đến Sài Gòn thì thể thức phân phối và tích trữ hàng hóa không được thuận lợi
như lúc ở cù lao Phố : “Khi thuyền cặp bến, không có chủ lớn bao trữ nên phải
gánh đến các chợ bán lẻ linh tinh, kịp khi muốn mua thổ hóa đem về, thì đi tìm
đông hỏi tây rất nhọc sức. Lại có bọn thổ côn giả dạng làm người giàu có nói dối,
mua xong rồi tìm nơi trốn tránh, nếu mất số vốn một ít thì còn gắng chịu mà về,
thảng hoặc mất vốn quá nhiều thì phải cầm ghe lấy tiền ở đến mùa đông để truy tầm
bọn ấy, làm cho kẻ viễn thương ngày càng cực khổ”.
Tệ đoan xảy ra vì địa bàn hoạt động của Sài Gòn rộng hơn cù lao Phố, nhưng chỉ
là lúc giao thời. Về sau, cũng chính thương gia Huê kiều đứng ra tổ chức hệ thống
mua bán hoàn hảo hơn.
ở vàm Hậu giang, từ lâu người Miên sống tập trung tại vùng Ba Thắc (Sóc Trăng)
trên đất giồng cao ráo, làm ruộng khéo léo, gạo nổi tiếng là ngon. Thay vì chở
lên Sài Gòn, thương gia địa phương đứng ra chịu mối với các ghe buôn từ nước
ngoài đến. Một thương cảng thành hình từ xưa, phỏng đoán là ở vùng Bãi Xàu (Mỹ
Xuyên ngày nay) nơi sông Ba Xuyên ăn thông ra Hậu giang. Theo nhựt ký của cố đạo
Levavasseur vào năm 1768, thì thương cảng này mang tên là Bassac thành lập ở mé
sông, nơi đất thấp với nhà lợp lá. ở đây dùng tiền quan (quan 600 đồng của Việt
Nam) ; một đồng bạc Con ó trị giá 5 quan tức là 3000 đồng. Chợ bán gạo, nhiều
loại trái cây, rau, gà vịt, heo. Phải chờ nước lớn ghe thuyền mới vào được.
Thuyền chủ toàn là Trung Hoa, dân ở chợ đa số là người Trung Hoa, quan cai trị
là người Cao Miên. Thuyền buôn đều của người Trung Hoa, đậu san sát từ 100 đến
150 chiếc để mua gạo và mua đường. Không hiểu họ đem tới đây bán những món gì.
Nên nhắc đến thương cảng Hà Tiên mà các thương gia ngoại quốc thường đề cập tới,
được phồn thịnh một thời nhờ xuất cảng sản phẩm của Cao Miên phần lớn, khi Mạc
Cửu và Mạc Thiên Tử còn hưng thời.
Việc
tổng động viên năm 1789
Cuộc tranh chấp bằng võ lực giữa Tây Sơn và Nguyễn ánh làm nguy hại cho nông
nghiệp. Nói chung thì quân Tây Sơn không thâu phục được nhân tâm, trừ một trường
hợp là cuộc chiến thắng quân Xiêm ở rạch Gầm, Xoài Hột vào năm 1874. Quân Xiêm
do hai tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương với lực lượng hùng hậu kéo đến nhưng Trịnh
Hoài Đức, người viết sử thiên vị rõ rệt về phe Nguyễn ánh cũng đã thú nhận :
“Binh Tiêm đến đâu đều cướp bóc khó bề hạn chế nên vua (Nguyễn ánh) lấy làm lo.
Đã vậy mà binh Tiêm lại kiêu hãnh, lòng dân bất phục”. ở trấn Vĩnh Thanh, trong
lúc Tây Sơn vào chiếm cứ thì dân chúng “đều chôn cất của cải không dám phơi bày
ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật gì”. “Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà
ngói cột chàm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông
đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cứ, đổi làm
chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm 1788 trở lại đây, người ta lần trở về,
tuy nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nửa”.
Chánh sách của Tây Sơn ở miền Nam là phá căn cứ địa, chận các đường thủy từ Sài
Gòn, Cần Giờ đến vùng vàm sông Cửu Long, chận các vị trí chiến lược nối Tiền
giang qua Hậu giang, Hậu giang đến vịnh Xiêm La, từ vùng Long Xuyên (Cà Mau) ra
Phú Quốc, qua Xiêm. Thủy quân của Tây Sơn đồn trú hoặc tuần tiểu tới lui vùng
Băng Cung, Ba Thắc, Phú Quốc, vàm sông Mân Thít, Trà Ôn, Sa Đéc, sông Ba Lai.
Khi chiếm đóng, chính sách kinh tế và việc tổ chức hành chính thay đổi như thế
nào ? Nguyễn Huệ chịu trách nhiệm từ Huế ra Bắc phần. Nguyễn Lữ, phò mã Trương
Văn Đa, lưu thủ Hóa ở đất Gia Định khong biểu dương được tài năng gì lạ ngoài
những hàng động quân sự.
Quân Tây Sơn bị cô lập ở đất Gia Định vì những lý do sau đây :
— Dân khẩn hoang mang ơn các chúa Nguyễn, họ được khá giả hơn lúc ở miền Trung,
đất tốt còn nhiều, chưa cần một chánh sách điền địa mới, hoặc một sự thay trào
đổi chúa.
— Quân Tây Sơn không thâu phục được người Huê kiều (đốt chợ cù lao Phố, đốt chợ
Sài Gòn, Chợ Lớn, phá chợ Mỹ Tho), là hậu thuẫn kinh tế cho Nguyễn ánh.
— Người Cao Miên ở Trà Ôn, người Đồ Bà (Chà Châu giang) đều có cảm tình và tích
cực ủng hộ Nguyễn ánh, nhờ đường lối chính trị mềm dẽo. Lúc bấy giờ quân Tây
Sơn nặng lo những vấn đề ở Bắc hà (cựu thần nhà Lê) và còn lo đối phó với quân
nhà Thanh. Quân Tây Sơn đánh giá quá thấp sức chịu đựng của Nguyễn ánh, nhứt là
chuyện Nguyễn ánh cầu viện với nước Pháp. Pháp quốc lúc bấy giờ đang nuôi nhiều
tham vọng, việc tổ chức quân đội của Pháp đạt kỹ thuật cao, với hải quân mạnh
và võ khí tốt. Hành động của Bá Đa Lộc tuy phiêu lưu nhưng gây nhiều hậu quả trầm
trọng. Tháng 9 năm 1788, chiến thuyền và sĩ quan Pháp đến trong khi Nguyễn Huệ
lo ứng phó với Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long.
Tháng 8 năm 1788, Nguyễn ánh thâu phục thành Gia Định. Tại Gia Định năm ấy lập
ra kho Bốn Trấn làm kho chung cho cả bốn trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh và
Định Tường để thâu trữ thuế khóa, chi cấp bổng hướng. Tháng sáu năm 1789, Nguyễn
ánh đưa ra chánh sách rõ rệt, lấy việc tăng gia sản xuất làm trọng, đặt ra các
điền toán gồm 12 người (trong đó có Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng
Châu, Hoàng Minh Khánh) đi khắp bốn dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn
Định để đốc xuất dân chăm làm việc ruộng. Ai không làm ruộng phải đi lính. Ai
làm ruộng đất tốt được 100 thúng lúa, hoặc làm ruộng đất xấu được 70 thúng lúa
trở lên thì được tưởng thưởng, nếu là phủ binh (binh lính phục vụ tại các công
sở) được miễn một năm khỏi làm việc quan (làm xâu). Những người dân lậu (không
vô sổ bộ) có thể làm ruộng dưới quyền chăm sóc của các quan điền toán, xem như
là lính, nếu thiếu vốn thì được vay trước, sau sẽ trả.
Vào tháng 10 năm 1890, ngài đặt thêm sở Đồn Điền nhằm khuyến khích quân sĩ tại
ngũ tích cực cày cấy, bấy lâu vì chiến tranh nhiều vùng đất phải bỏ hoang. Binh
sĩ thuộc dinh Trung quân và quân các vệ thuyền đến khẩn ruộng tại Tháo Mộc Câu
(sông Vàm Cỏ) gọi là trại Đồn Điền, nhà nước cấp ngưu canh điền khí và lúa giống,
đậu, bắp giống, hễ cắt hái xong rồi đem nạp vào kho, chánh cơ Nguyễn Bình coi
việc ấy.
Các quan địa phương phải lập đội đồn điền, mỗi năm một người trong đồn điền nạp
6 hộc lúa, ai mộ được 10 người trở lên cho làm quản trại, trừ tên trong sổ làng
(khỏi đi lính).
Về mặt quân sự, ngài sai lựa quân chiến tâm, tức là quân tinh nhuệ, hết lòng
đánh giặc, tập luyện kỹ càng được cấp lương và tiền rất hậu.
Để tích trữ thêm lúa gạo phòng khi hành quân tái chiếm các thành ở miền Trung,
ngài đặt ra lúa thị túc, thị nạp, tức là thứ thuế phụ thu (ngoài thuế điền).
— Năm 1792, mỗi người nộp thuế thị túc từ 1 đến 5 phương.
— Năm 1799, vùng Bình Định, Phú Yên mỗi mẫu ruộng nộp 17 thăng gạo.
— Năm 1800 ở Gia Định, mỗi người nạp 2 phương, người già tàn tật nộp phân nửa.
Ruộng một mẫu nộp một phương gạo; một phương gạo bấy giờ trị giá 7 tiền 30 đồng.
Những năm dùng binh, số thuế và số thị túc phụ thu vẫn không đủ để chi tiêu,
nhà nước thu trước thuế năm tới. Về thuế ruộng, mỗi năm nhà vua thâu hai kỳ.
Nhà nước giữ độc quyền mua những hóa hạng liên hệ tới nhu cầu quân sự như kẽm,
sắt, đồ đồng, diêm, lưu hoàng. Năm 1791, đặt thêm lệ về việc khẩn hoang : sau
khi khẩn, 3 năm mới thâu thuế, ai muốn khẩn thì nộp đơn trong thời hạn ngắn là
20 ngày, quá thời gian ấy, đất hoang sẽ giao cho quân sĩ cày cấy, dân không được
giành nữa.
Lúa gạo đất Gia Định tích cực góp phần vào việc phản công của Nguyễn ánh. năm
1795 và 1796, chở tiền gạo ở Gia Định ra trữ tại thành Diên Khánh. Năm 1799 lúc
ngài ra Quy Nhơn, quân lính lại chở thêm quân lương, “chẳng hề thiếu thốn”. Năm
1802, sử chép là Gia Định đói lắm, ngài sai quan trấn phát gạo kho cho dân mượn,
cùng ra lịnh giảm thuế ruộng cho tỉnh Gia Định. Phải chăng vì lúa gạo dùng vào
việc quân quá nhiều ?
Tháng 2/1790, Nguyễn ánh cho xây thành Sài Gòn, theo hình bát quái (còn có tên
là Quy Thành) kiểu thành Vauban của Pháp (do Olivier de Puymanel vẽ kiểu và coi
xây cất). Đây là Gia Định kinh, Nguyễn ánh xem như kinh đô của mình, với thái độ
tự tin. Từ thành này có đắp quan lộ lên Biên Hòa, và quan lộ xuống Trấn Định (Mỹ
Tho) đến Cai Lậy, đường rộng 6 tầm, hai bên đường có trồng cây mù u và cây mít
là thứ cây thổ nghi.
Nguyễn ánh tự tin là phải. Bấy giờ lúa gạo Gia Định có nhiều, quân sĩ đang thừa
thắng, một số sĩ quan Pháp lại trực tiếp giúp đỡ. Ngài ra lịnh tấn công Quy
Nhơn lần thứ nhất (1790). Nguyễn Huệ băng hà, lại có cuộc tấn công lần thứ hai,
lần thứ ba để rồi năm 1801, đến Huế.
Về sau, năm 1814, vua Gia Long còn nhắc nhở : “Gia Định là nơi trung hưng, ngày
xưa chỉ có một đám đất và một toán quân mà khôi phục đất cũ”. Nên nói thêm rằng
đó là “đám đất” tuy diện tích nhỏ hẹp nhưng tốt, gồm đất giồng và đất cù lao của
Đồng Nai và Cửu Long, và toán quân không quá đông đảo nhưng gồm toàn những nông
phu đã chịu cực khẩn hoang, đến khi đi lính cầm gươm rồi mà còn phải cày cấy,
phải đóng thuế. Đó là hình ảnh của Võ Tánh với 10000 quân ở vựa lúa Gò Công xin
theo chân ngài.
Nguyễn ánh vĩnh viễn rời đất Đồng Nai để về Huế đô, nhưng đất Đồng Nai, Gia Định
vẫn còn giữ vai trò cũ : vai trò vựa lúa, vai trò tiền đồn của nước Việt. Vua
Cao Miên và vua Xiêm càng thèm thuồng vùng
Những
năm thái bình đời Gia Long
Gia Long xưng Hoàng đế ở Huế, vùng Gia Định dứt nạn binh đao trong khoảng thời
gian ngắn, nhưng là khá dài so với thời chúa Nguyễn và các trào vua kế tiếp. Từ
Bình Thuận trở vào, về mặt hành chánh đặt ra Gia Định thành với quan Tổng trấn
cầm đầu, nắm khá nhiều quyền hạn, lãnh coi các việc binh dân, xâu thuế và hình
phạt của năm trấn : Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Lại
coi luôn trấn Bình Thuận về mặt quân sự. Dân số lần hồi đông đúc, các tổng trước
kia đa số đều thăng làm huyện, huyện thăng làm phủ.
Việc phồn thịnh của thương cảng Sài Gòn và lỵ sở của các trấn được ghi khá đầy
đủ qua Gia Định thành Thông chí do Trịnh Hoài Đức, người đương thời biên soạn.
Đường giao thông vận tải nắm ưu thế vẫn là đường thủy. Du khách Hoa Kỳ là John
White năm 1819 có đến Sài Gòn, ghi lại trong quyển sổ tay như sau :
— Thành lũy Sài Gòn xây bằng đá ong, kế bên một cơ thủy trại, gần đó là xóm nhà
của dân cư gồm những lều lụp xụp, thấp hẹp. Xóm buôn bán ở về hướng Đông. Khi đức
Gia Long dẹp yên giặc Tây Sơn thì dân chúng tụ về thành rất đông. Họ sửa sang
nhà cửa lại mới, một phần lớn các gia đình này dồn về hướng Tây của thành lũy
nhà vua”. ... “Thời buổi ấy, dọc theo hai bên bờ sông và bờ kinh rạch có vài chỗ
đã được cẩn đá hay xây gạch kỹ càng, chạy nối dài non ngàn thước tây. Về công lộ,
có đường đã lót đá nguyên miếng lớn dễ coi, nhưng phần nhiều vẫn quanh co uốn
khúc và không được săn sóc tu bổ nên không được sạch”.
Về nhân số thì thành Sài Gòn phỏng độ lối :
— 180 000 dân bổn thổ
— 10 000 người Trung quốc.
Năm 1822 “lại có một thú y sĩ qů danh là ông Finlayson tháp tùng phái đoàn
Crawfurd cũng có đến viếng Sài Gòn. Finlayson viết : Sài Gòn gồm hai thành phố,
mỗi cái đều rộng lớn bằng kinh đô nước Xiêm La, ấy là :
— Sài Gòn.
— Pingeh.
Nên hiểu Pingeh là Bến Nghé (Sài Gòn ngày nay), còn Sài Gòn là Chợ Lớn ngày
nay.
Mức sản xuất lúa gạo lúc bấy giờ gia tăng như thế nào ?
Chúng ta không có con số cụ thể. Chỉ biết là năm 1804, vua Gia Long sai các
quan địa phương trữ lúa thuế vào kho cho nhiều. Kho Đồn Điền của Gia Định thành
dựng năm 1805 gồm hai dãy kho ngói, mỗi dãy gồm sáu gian, trữ số lúa đồn điền để
làm số lưu trữ, còn dư thì trữ theo kho ở các trấn.
Năm 1804, nước Lữ Tống (Phi Luật Tân) đói, xin đong gạo Gia Định, vua cho đong
500000 cân gạo, năm 1817 vùng Long Hồ, Sa Đéc đủ sức bán cho Cao Miên, nhân nạn
đói đến 10000 hộc lúa. Năm 1816, có lịnh cấm thuyền buôn không được chở lúa gạo
ra nước ngoài. Đường thủy cũng được tu chỉnh lại, nhằm chuyên chở lúa gạo từ
sông Cửu Long lên Sài Gòn : năm 1819, sửa lại cho rộng và cho sâu con kinh nối
liền từ Vũng Gù (Tân An) đến rạch Mỹ Tho mà Nguyễn Cửu Vân đã cho đào từ năm
1705, dùng non 10000 dân phu trong trấn Định Tường. Đào xong, vua đặt tên là Bảo
Định Hà.
Cũng năm 1819, sai Huỳnh Công Lý đốc xuất dân phu đào con kinh nối liền từ cầu
Bà Thuông (Thị Thông) đến kinh Ruột Ngựa (kinh Ruột Ngựa đào từ năm 1772), vua
đặt tên là An Thông Hà vừa rộng, vừa sâu, hai bên bờ để đất trống, đưa sản phẩm
từ Tiền giang lên Sài Gòn “dòng sông sâu rộng, ghe thuyền đậu dài 10 dặm, theo
hai con nước lên, nước ròng, thuyền bè qua lại chèo chống ca hát, ngày đêm tấp
nập, làm chỗ đô hội lưu thông khắp ngả, thật là tiện lợi”.
Hương binh được bãi cho về cày ruộng (1810). Lúc chiến tranh, nhiều cường hào lợi
dụng thời cơ, chiếm đất của dân nên vua định lệ quân cấp công điền công thổ
(1804), và công điền công thổ không được bán vì bất cứ lý do gì. Ai làm ruộng ẩn
lậu, không khai báo để đóng thuế thì có thể mất đất, đất giao cho người tố
giác.
Vấn đề cho vay được đặt ra, trên nguyên tắc một vốn một lời (tức bất quá bổn),
người cho vay trái phép và con nợ lường gạt đều có tội. Từ năm 1806, khi mất
mùa vì thiên tai, hạn hán, lụt lội thì có lệ là chủ ruộng phải khai báo trước
khi gặt để được miễn thuế. Khai báo gian hoặc quan lại mà giấu không chịu khai
báo thì tội đồng nhau. Khi thâu thuế có người đáng tin cậy ngồi coi, đề phòng nạn
người coi kho làm khó dân, chê lúa xấu tốt, đong ít đong nhiều để ăn hối lộ.
Trịnh Hoài Đức ghi chép rằng người địa phương ít dùng những địa danh về hành
chánh. Họ dùng tên của “những lỵ sở hoặc chỗ nhóm họp đông lớn, hoặc chỗ địa đầu”
mà gọi đại khái, tổng quát.
Trong dân gian gọi trấn Biên Hòa là Đồng Nai Bà Rịa, trấn Phiên An là Bến Nghé
Sài Gòn, trấn Định Tường là Vĩnh Gù Mỹ Tho, trấn Vĩnh Thanh là Long Hồ Sa Đéc,
trấn Hà Tiên là Cà Mau Rạch Giá.
Trong một trấn tại sao chỉ chọn lựa hai vị trí, và tại sao lựa vị trí này mà
không lựa vị trí khác ? Dân gian nói thành thói quen ắt có lý do riêng. Theo
chúng tôi nghĩ đó là họ muốn xác nhận nơi làm ăn sung túc, “làm ăn“ có nghĩa là
mua bán, cày cấy.
Sài Gòn là thành phố của người Trung Hoa dựng lên lúc ban đầu, nặng về bán sỉ,
trong khi thành phố Bến Nghé do người Việt xây dựng về sau, nặng về bán lẻ và
là khu hành chính. Vũng Gù tức là chợ Tân An ngày nay, tuy không có chợ lớn
nhưng đáng chú ý nhờ khẩn hoang lâu đời, đất khá tốt. Sa Đéc nằm trong trấn
Vĩnh Thanh, là nơi sung túc dân cư trù mật, sống nhờ huê lợi ruộng tốt và vườn
cây ăn trái. Trấn Hà Tiên, với lỵ sở nổi danh là đẹp nhưng nghèo, không thể sản
xuất đủ lúa gạo, cá mắm, chỉ có vùng chung quanh chợ Cà Mau và chợ Rạch Giá là
dễ đánh lưới và làm ruộng dễ trúng mùa, tàu buồm Hải Nam ra vào chở cá khô, gạo.
Gia Định thành Thông chí (trong mục Cương Vực Chí) đã nêu rõ danh sách các huyện,
tổng, thôn ở toàn cõi Gia Định thành hồi đời Gia Long. Vùng nào tập trung nhiều
làng xã trên diện tích nhỏ thì nhứt định là đất tốt, khẩn hoang có kết quả.
Vùng nào có quá ít làng xã trên diện tích quá rộng thì đất xấu. Nguyên tắc lập
làng xã là có người, tức là dân bộ. Dân bộ phải nhiều đến mức nào đó (thường là
10 người) mới lập được một làng.
Mục Cương Vực Chí giúp ta thấy hình ảnh khá rõ rệt về tình hình khẩn hoang lúc
bấy giờ. Một thí dụ cụ thể là vùng Kiến Hòa ngày nay (tức là khái quát vùng cù
lao Bảo và cù lao Minh của Bến Tre thời Pháp thuộc) tuy diện tích nhỏ nhưng là
một huyện, lấy tên là huyện Tân An với hai tổng Tân Minh 72 thôn và An Bảo 63
thôn. Riêng tổng Hòa Bình (vùng Gò Công, Chợ Gạo và An Hóa) có đến 86 thôn, không
kém vùng đông dân Sài Gòn, Chợ Lớn.
Trong khi ấy, một huyện ở vùng khó khẩn hoang với diện tích to rộng chỉ có 37
thôn : huyện Vĩnh Định, bao gồm phía hữu ngạn Hậu giang, từ biên giới Châu Đốc
đến vàm Ba Thắc ở biển Nam Hải và chưa phân ra thành tổng như ở miệt trên;
Một
nơi khác, đất phèn và nước mặn là mũi Cà Mau (nay là An Xuyên và một phần của Bạc
Liêu) chỉ có 40 xã thôn. Vùng Rạch Giá (Kiên Giang ngày nay, trừ Hà Tiên) gồm một
huyện với 2 tổng, tổng thứ nhứt là Kiên Định có 7 thôn, tổng thứ nhì là Thanh
Giang có 4 thôn. Trong số này lại có những nậu, những thuộc, tức là xã thôn
chưa thành hình đầy đủ.
Đồng ruộng ở Sài Gòn gồm dân số đông đúc, lúa bán cao giá, hoa màu phụ dễ khai
thác: Hóc Môn, Bà Điểm, Gò Vấp, hoặc phía Phú Lâm, Bình Tiên, Bình Tây, Bình
Đông.
Những con số trên chỉ ghi những thôn xã do người Việt Nam thành lập. Phía Hậu
giang, ruộng nương chưa đến đổi ít oi, dân số không quá thưa thớt, chỉ vì phần
Cương Vực Chí không ghi lại nhân số, diện tích các sốc Cao Miên, tập trung ở
vùng Trà Vinh, Rạch Giá, Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng.
Riêng về vùng gần chợ Hà Tiên ghi 6 phố, sở của người Tàu, 26 sốc Cao Miên và
19 xã thôn Việt Nam (trong số này có 12 thôn ở đảo Phú Quốc).
“Huyện Kiến Hòa đất ruộng phì nhiêu, mênh mông bát ngát. Nhiều người lo việc
canh nông làm gốc, trong nhà có chứa vựa lúa gạo đầy dẩy”. Mục Phong Tục Chí của
Trịnh Hoài Đức ca ngợi trường hợp huyện Kiến Hòa (trấn Định Tường). Định Tường
lúc bấy giờ khá rộng rãi, huyện Kiến Hòa nói trên bao gồm trọn vùng Gò Công,
vùng Chợ Gạo, luôn cả vùng đất giữa sông Ba Lai và Cửa Đại (tức là An Hóa ngày
nay). Vùng Gò Công nổi danh đất tốt, gạo ngon. Đất ở bờ Cửa Tiểu và Cửa Đại là
phù sa cao ráo. Nói riêng về từng trấn, Định Tường (với Gò Công làm nòng cốt)
là vựa lúa quan trọng nhất của xứ Gia Định.
Về đất ruộng, ở nơi có núi đồi và có đồng bằng như miền Trung, theo lệ từ lâu,
cứ phân chia ra sơn điền và thảo điền. Sơn điền có năng xuất kém, thảo điền
năng xuất cao, vì vậy mà trong việc quy định thuế điền, luôn luôn thảo điền chịu
thuế cao hơn.
ở vùng đồng bằng Cửu Long, để tiện việc thuế khóa, nơi nào đất mới trưng khẩn
thì khai là sơn điền (mặc dầu không có núi) để chịu thuế nhẹ, vài năm sau khi đất
đã thành thục (trở thành đất thuộc) thì nâng lên làm thảo điền.
Ruộng ở đồng bằng Đồng Nai và Cửu Long chia ra hai loại, đứng về mặt kỹ thuật
cày bừa mà xét (sự phân biệt này qua thời Pháp thuộc vẫn còn) :
— Đất cày
— Đất phát
Ruộng đất cày thường là tương đối cao, chờ mưa mới cày, thường là khai thác lâu
năm, nếu không cày thì mặt đất quá cằn cỗi thiếu chất màu mỡ, cày để trộn đất
lên.
Vùng Phiên An, Biên Hòa gồm loại ruộng cày.
Ruộng đất phát là đất thấp, còn mới, ít khai thác, mặt đất còn nhiều cỏ và
phân, nếu cày thì đất phèn phía dưới lại trồi lên làm hư lúa (Trịnh Hoài Đức
ghi là “trạch điền” để chỉ loại đất phát này).
Muốn làm ruộng đất phát, khi sa mưa, nước lên cỡ ba tấc tây thì phát cỏ (Trịnh
Hoài Đức dùng chữ trảm phạt, nhưng không nói rõ là phát bằng thứ dụng cụ gì).
Theo ý kiến chúng tôi, nông dân thời ấy dùng cây phãng mà người Miên đã dùng từ
trước. Phãng giống như cây mã tấu, cán phãng uốn lại theo góc thước thợ, lưỡi
phãng dài cỡ bảy, tám tấc tây. Người phát cứ đứng nghiêng mình mà chém, dùng
cây cù nèo gạt cỏ qua một bên rồi chém tiếp. Phát cỏ xong xuôi, dùng cây bừa
cào thứ to mà dọn cho đất trống trải, sau đó là cấy với cây nọc (đất không cày
nếu dùng tay mà cấy thì không tài nào khoét lỗ để nhét cây mạ được).
Ruộng đất phát (trạch điền) ở Vĩnh Thanh một hộc giống thâu được 300 hộc, trong
khi ruộng cày ở Phiên An, Biên Hòa một hộc lúa giống chỉ đem lại 100 hộc.
Giống lúa sạ (lên cao theo nước lụt) tuyệt nhiên không thấy nhắc tới. Lúc bấy
giờ, việc mua bán, liên lạc với Cao Miên cũng khá thường xuyên. Lúa sạ có nhiều
ở Cao Miên, tại sao ta không cho du nhập để giải quyết việc trồng tỉa ở phần đất
rộng mênh mông phía Đồng Tháp Mười và phía Châu Đốc ? Theo thiển ý chúng tôi, bấy
giờ đất giồng ở bờ sông còn nhiều, chưa cần khai thác quá xa tận vùng Châu Đốc
và Đồng Tháp. Vả lại, lúa sạ không ngon cơm, bán thấp giá trên thị trường.
Trong Gia Định thành Thông Chí, không lời lẽ nào đề cập đến lối canh tác một
năm hai mùa ruộng (khi người Pháp chiếm nước ta hồi cuối thế kỷ 19, ở Nam kỳ vẫn
chưa làm một năm hai mùa). Ruộng hai mùa đòi hỏi đất cao ráo, để có thể đắp bờ
mà giữ nước hoặt tát nước vào ruộng cạn. Đắp bờ và tát nước đòi hỏi nhân công,
các thửa ruộng phải liền lạc, gần nhau. Người nông phu lúc bấy giờ vì đất còn tốt
và rộng nên chưa nghĩ đến cách khai thác thâm canh ấy. Lúc rảnh rỗi, họ trồng đậu,
bắp khao dễ sinh lợi và ít tốn công hơn.
Doãn Uẩn từng là thự án sát tỉnh Vĩnh Long vào năm 1833 (sau làm đến Tổng đốc
An Hà) ghi lại vài chi tiết về cách làm ruộng : “Việc trồng lúa thì cứ phát rạp
lau sậy, bừa cỏ hai ba lần rồi cấy, không phí sức nhiều. Như đã cấy rồi thì
không cần trông nom tới, cũng khỏi phải lo nước hạn. Vào những tháng 7, 8, 9 lục
tục cày cấy, đến những tháng 11, tháng chạp mới lần lượt gặt hái, rồi gom nhóm
lại để ngay ngoài ruộng, tới ra giêng lối tháng 2, tháng 3 mới cho trâu đạp lấy
lúa hột”. “Cổ nhân nói : Xuân canh, hạ vân, thu thâu, đông tàng xét ra không thể
hoàn toàn đúng với mọi vùng, hoặc thổ ngơi không điều hợp, thổ tục thì theo
thói quen mà làm, hoặc giả khí hậu có sớm có tối khác nhau, riêng tôi cũng chưa
thấu đạt được vậy. Cũng như nói về hoa quả, tại nhiều tỉnh dưa đều đại khái
chín vào mùa hạ, mà Nam Kỳ lại chín vào đông xuân. Tại Bắc kỳ, sen nở mùa hạ,
mà Kinh kỳ (Huế) lại trỗ bông vào giữa thời gian giao mùa đông xuân, còn Nam kỳ
thì bốn mùa sen đều có hoa cả”.
Về phong tục ở miền Nam lúc bấy giờ, Trịnh Hoài Đức ghi lại khá nhiều chi tiết,
xin lược kê vài đoạn, chứng tỏ việc khẩn hoang đem lại mức sống sung túc : “ở
Gia Định, có khách đến nhà đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng tiếp cơm
bánh, tiếp đãi trọng hậu, không kể người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, ắt
đều thâu nạp khoản đãi, cho nên người đi chơi không cần đem tiền gạo theo, mà lại
có nhiều người lậu xâu, trốn thuế đi đến xứ này ẩn núp, bởi vì có chỗ dung dưỡng
vậy”. “Đất Gia Định nhiều sông, kinh, cù lao, bãi cát nên trong 10 người đã có
9 người biết nghề bơi lội, chèo thuyền, lại ưa ăn mắm, ngày ăn ba bữa cơm mà ít
khi ăn cháo”. Lại có thói đùa cợt, bằng cách thách đố nhau ăn hoặc uống thật
nhiều. Doãn Uẩn chép : “Cũng có kẻ nghèo phải đi ăn xin, nhưng mỗi tháng họ chỉ
đi xin một lần cũng đủ sống rồi. Họ thường tựu nhau nơi đình miếu, mỗi người đều
có mùng màn riêng. Trộm cắp cũng ít xảy ra, trâu thì có chuồng nhốt ngoài đồng”.
Họ rất thích ca hát, không ngày nào là k
Chương
1 - 2
Nhu cầu xác định vùng biên giới Việt Miên
Đời Gia Long, vấn đề biên giới ở Gia Định thành được tạm ổn định. Các hải đảo
quan trọng đều có người Việt đến khai thác. Tại đảo Côn Lôn lúa, bắp, khoai, đậu
tuy không đủ dùng nhưng dân ở đảo kết đoàn làm binh sĩ, gồm 3 đội, khai thác hải
sản, trồng cau. Giặc cướp Mã Lai chỉ đến khuấy rối tạm thời. Đảo Phú Quốc phía
vịnh Xiêm La được bố trí phòng thủ cẩn thận, dân Phú Quốc đã từng hết lòng ủng
hộ lúc Gia Long tẩu quốc, gồm 12 thôn xã và thuộc. Hòn Sơn Rái có dân, lập
thành một thôn.
Riêng về Hà Tiên thì không còn quan trọng, từ khi bị giặc Xiêm đốt phá năm
1771. Hậu duệ của họ Mạc tuy được Gia Long chiếu cố nhưng thiếu tài kinh bang tế
thế, vả lại, trọng tâm việc thương mãi đã nghiêng hẳn về phía Sài Gòn, Đà Nẵng
; việc mua bán với Cao Miên thì đã có Sa Đéc, Cái Bè. Vua Gia Long cho các tàu
buôn và ghe buôn ở hạt Hà Tiên được miễn thuế (1810), đồng thời di chuyển một số
quan lại, viên chức ở bốn trấn miền trên đến tăng cường cho trấn Hà Tiên, gia
tăng binh sĩ để lo việc tuần phòng giặc biển. Năm sau (1811) vua cho Trương Phước
Giáo và Bùi Đức Mân đến Hà Tiên để tu chỉnh thành phố, chiêu dụ lưu dân : người
Trung Hoa, người Cao Miên, ngườiChà (gọi là chà Châu Giang), đều có dành khu vực
cư trú riêng, khá phân minh. Tuy nhiên, thương cảng Hà Tiên không sao hưng thịnh
được như trước.
Vua Gia Long đặt quan bảo hộ ở Cao Miên, nhưng như đã nói, đối thủ của dân Việt
Nam vẫn là vua Xiêm với chính sách hung hăng đang tìm cách mở rộng biên giới. Từ
năm 1795, Xiêm chiếm cứ luôn vùng Battambang và Siemrap của Cao Miên. Năm 1814,
lấn luôn vùng Mélouprey và Stungtreng thuộc tả ngạn sông Cửu Long, thọc sâu giữa
lãnh thổ Lào và Miên. Vua Xiêm còn có tham vọng “Nam tiến” xuống bán đảo Mã
Lai.
Về mặt nội an, từ lúc tẩu quốc, Gia Long nắm được tình thế đối với các vùng tập
trung sốc Miên. Năm 1780, người Miên ở Trà Vinh làm loạn, nhưng tướng Đỗ Thanh
Nhân dẹp được với chiến thuật khá tinh vi. Năm 1757, nhờ lãnh tụ Miên là Nguyễn
Văn Tồn theo chúa Nguyễn nên vùng Trà Ôn sống yên lành, chẳng có mầm mống phản
loạn. Người Miên trở thành dân binh giữ an ninh, đóng đồn tại địa phương, họ hưởng
chế độ tự trị khá rộng rãi, nhờ đó mà “những chỗ gò hoang đất trống đã được
khai khẩn thành ruộng vườn trồng tỉa”. Vua Gia Long cũng ra lịnh cho quân và
dân trong đất Gia Định trả lại những phần ruộng đất chiếm của người Cao Miên và
không tán thành việc dùng người Miên làm đầy tớ (1816).
Việc
bảo vệ biên giới Việt Miên
Địa thế Châu Đốc, Hà Tiên không kém Bắc thành. Vua Gia Long đã quan niệm rõ rệt
như thế. Bắc thành để ngăn ngừa nạn xâm lăng của Trung Hoa; Hà Tiên, Châu Đốc để
ngăn ngừa giặc Xiêm và giặc Cao Miên.
Giữa ta và Cao Miên, biên giới có phần giáp vào trấn Phiên An và Đồng Tháp Mười,
nhưng con đường chiến lược bấy lâu vẫn là sông Cửu Long, cụ thể là Tiền giang,
nơi đối phương có thể từ Nam Vang đổ xuống nhanh chóng rồi thọc vào Định Tường.
Về phía vịnh Xiêm La, còn Rạch Giá, Hà Tiên ở sát mé biển.
Đồn lũy ở Hà Tiên và Châu Đốc đã có từ lâu, kể cả đồn Tân Châu, đồn Sa Đéc.
Lằn ranh biên giới giữa ta và Cao Miên khi Cao Miên dâng đất Tầm Phong Long là
vùng người Miên gọi là Méat Chruk (tức là mõ của con heo, ta âm lại là Ngọc Luật,
Mật Luật), đại khái lấy sông Châu Đốc làm ranh giới. Đồn Châu Đốc ở phía tây
sông Châu Đốc, thủ sở phủ Mật Luật Cao Miên ở bờ phía đông sông Châu Đốc, ấy là
địa đầu quan ải trấn Vĩnh Thanh và nước Cao Miên. Vua Gia Long đặt tên vùng
Châu Đốc là Châu Đốc Tân Cương, đặt chức Quản đạo. Từ đồn Châu Đốc đến vịnh
Xiêm La, đường ranh giới quá mơ hồ : Vàm sông Châu Đốc (ngược về phía bắc) tiếp
đến vùng Thất Sơn và rạch Giang Thành. Năm thứ 14 (1815), Gia Long ra lịnh cho
trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu Phước Tường đem dân binh trong trấn hạt 3000 người để
xây đồn, chung quanh có hào thông với sông cái, xây vào tháng chạp. Ngài giải
thích với vua Cao Miên rằng đắp đồn Châu Đốc là để giữ yên trấn Hà Tiên, làm
nơi tiếp ứng cho thành Nam Vang. Ngài muốn nói đến việc quân Xiêm sẽ can thiệp
vào Cao Miên. Ngài ra lịnh xây đồn cho nhanh kẻo bận rộn đến việc cày cấy của
đám người đi làm xâu. Đồn Châu Đốc vừa xây xong, vua Gia Long xem địa đồ, nêu ý
kiến : “Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên thời nông thương đều lợi cả,
ngày sau dân ở càng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to”. Nhưng Nguyễn
Văn Nhân tâu can nên ngài bỏ ý kiến ấy.
Tuy nhiên đó chỉ là bỏ tạm thời. Ngài muốn lập một trấn mới, tách ra khỏi trấn
Vĩnh Thanh quá dài (trấn Vĩnh Thanh ăn từ biên giới Cao Miên đến biển Nam Hải).
Ngài muốn cho lưu dân quy tụ để mở đất. Một người Tàu làm quan cho ta bên Cao
Miên tên là Diệp Hội được gọi về, bấy lâu Diệp Hội được tiếng là mẫn cán “xử việc
gì dân cũng bằng lòng”. Diệp Hội được cử làm Cơi phủ Châu Đốc, khiến chiêu tập
người ta, người Thổ và người Tàu vào đó cho đông, hễ có biết nghề trồng cây,
nuôi súc vật, buôn bán hay làm nghề gốm, cho tùy nghề nghiệp làm ăn, người nào
thiếu vốn thì nhà nước cho vay. Lại truyền dụ quan Tổng trấn Gia Định rằng :
dân mới phủ tập, nên dạy làm các việc lợi ích khiến dân được an cư lạc nghiệp,
chờ các việc thành rồi sẽ tâu lên.
Vua Gia Long hiểu rõ tình hình vùng biên giới Châu Đốc ; xứ này có đồi núi,
chăn nuôi súc vật dễ dàng ; từ xưa, người Miên giỏi về nghề làm đồ gốm, nên thử
cải tiến lại. Rất tiết là đất ở vùng Thất Sơn quá xấu, chỉ có thể làm nồi, cà
ràn, gạch ngói, chớ không làm tô chén được. Việc quy dân lập ấp lúc bấy giờ
cũng khó vì dân Việt thưa thớt ; ở phía nam, gần Cần Thơ và gần Vĩnh Long còn
nhiều đất tốt chưa khẩn hết, đi làm ăn ở tận biên giới Châu Đốc là chuyện phiêu
lưu. Người Tàu, người Cao Miên với nghề làm đồ gốm, nghề chăn nuôi, trồng cây
được nhắc tới là phải.
Trước khi muốn khơi động sinh hoạt kinh tế cho vùng Châu Đốc, ngài ra lịnh cho
Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) đào con kinh sau này gọi là Thoại Hà (gọi nôm
na là kinh Núi Sập) trong năm 1817, vào tháng 11, dùng 1500 dân xâu gồm người
Việt và người Cao Miên, đào hơn một tháng mới xong. Đây là con đường mà trước
kia dân gian thường đi, nhưng chật hẹp, nay đào nới rộng thêm. Thoại Hà đã có sẵn
ở khúc đầu và đoạn chót, chỉ vét lại phần giữ để nối liền từ Hậu giang qua Rạch
Giá bên bờ vịnh Xiêm La (ngọn của Rạch Giá là rạch Sốc Suông, địa danh Miên, sử
ghi là Khe Song). Mục đích trước tiên của việc đào kinh vẫn là quân sự. Ngài
nghĩ : chỗ ấy gần Chân Lạp, địa thế rậm rạp lắm, đàng thủy đi qua Kiên Giang
thì lắm bùn và cỏ. Ngài ra lịnh cắm dân không được chặt cây trên núi Sập, nơi
con kinh này đi ngang qua, chắc vì muốn giữ phong thủy.
Nhưng việc đào kinh nối liền Châu Đốc qua Hà Tiên ở biên giới vẫn là mối bận
tâm của ngài. Kinh Thoại Hà đào xong ở phía Nam cũng như con kinh Vĩnh Tế sắp
đào ở phía Bắc vẫn nhằm mục đích đưa thủy quân của ta từ Hậu giang ra vịnh Xiêm
La thật nhanh, để giữ Kiên Giang và chợ Hà Tiên, ngừa quân Xiêm đem binh đến
thình lình. Khi vỗ về và động viên dân trong trấn Vĩnh Thanh, ngài nói thẳng là
“công trình đào sông ấy (nối Châu Đốc qua Hà Tiên) rất khó. Việc nhà nước và
cách phòng giữ bờ cõi quan hệ rất lớn. Bọn ngươi tuy là khó nhọc một lần mà ích
lợi cho muôn đời về sau, phải bảo nhau biết, chớ nên sợ nhọc”. Trước khi đào
kinh, ngài cũng trấn an sứ giả của Cao Miên.
Kinh Vĩnh Tế đào năm năm mới xong, ngưng rồi lại tiếp tục. Có đoạn dễ đào vì nhằm
nơi đất ruộng, sình lầy (khúc kinh này qua vùng Bến Đổi), nhưng có khúc ở đất cứng,
có đá, sát chân núi. Mùa nắng phải ngưng lại vì thiếu nước uống cho dân phu.
Vua Minh Mạng tiếp tục công trình do Gia Long đề xướng. Lê Văn Duyệt huy động đến
55000 dân công, gồm người Việt ở Vĩnh Thanh, Định Tường và người Miên ở đồn Uy
Viễn (Trà Ôn do Nguyễn Văn Tồn cầm đầu).
Mãi đến nay, dân gian còn nhắc lại những khó khăn khi đào con kinh này, lớp thì
chết vì bịnh, lớp thì trốn về dọc đường bị sấu ăn thịt. Nói đến kinh Vĩnh Tế,
vua Minh Mạng không che giấu mục đích quân sự : “Đức Hoàng khảo Thế tổ Cao
hoàng đế ta (Gia Long) mưu sâu, nghĩ xa, chú ý việc ngoại biên...”. Việc ấy (việc
đào kinh) không lợi gì cho Chân Lạp.
Những
thành quả đầu tiên
Nên nhớ trấn Vĩnh Thanh đời Gia Long và đầu Minh Mạng bao gồm các tỉnh thời
Pháp thuộc : Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc, Sóc Trăng, Long Xuyên, Châu
Đốc, Cần Thơ.
Nói chung thì phía Nam đã có dân cư, đất không bị ảnh hưởng ngập lụt hằng năm của
sông Cửu Long và Hậu Giang, phía Bắc thì quá thưa thớt, trừ vùng Sa Đéc, Tân
Châu. Vùng ngày nay thuộc Cần Thơ (Phong Dinh), Long Xuyên, Châu Đốc chưa có
người Việt đến định cư nhiều. Tại Cần Thơ, Ô Môn, Thốt Nốt đất khá cao và tốt,
dân ta đến lập thôn xóm, nhưng người Miên còn chen chúc gần đấy. Hữu ngạn Hậu
giang, phía biên giới hầu như không người ở, trừ mấy cù lao trên sông. Đây là
vùng bị ngập lụt quá sâu, cấy lúa không được, ai siêng năng thì chỉ có thể chọn
vài giồng đất nhỏ, vài gò ở ven sông hay giữa đồng mà làm ruộng kiểu “móc lõm”
tức là theo hình thức “da beo”, nhưng lối làm ăn này quá phiêu lưu, khi nước
sông lên quá mức bình thường là bị lụt, hoặc mùa màng bị chim chuột cắn hại, đầu
hôm sớm mai.
Kinh Vĩnh Tế đào chưa xon glà Thoại Ngọc Hầu cho phép dân lập làng với quy chế
rộng rãi, từ cù lao Năng Gù đến Bình Thiên theo sông Hậu, và dọc theo bờ kinh
Vĩnh Tế, từ Châu Đốc đến Thất Sơn. Người khẩn đất cứ dâng đơn, Thoại Ngọc Hầu
lúc bấy giờ được trọn quyền ở biên giới (với chức vụ Khâm sai thống chế, án thủ
Châu Đốc đồn, lãnh bảo hộ Cao Miên quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ),
phê vào đơn rồi đóng ấn son “Bảo hộ Cao Miên quốc chi dương” là xong. Tờ đơn được
đóng dấu này có giá trị như tờ bằng khoán. Dọc theo kinh Vĩnh Tế, nhiều người
thử làm ruộng trên phần đất phía Nam, bờ kinh đắp cao, dễ cất nhà. Kinh rút bớt
nước, lại thuận lợi giao thông. Một số lưu dân đến mấy vùng đất cao ở chân đồi,
chân núi phía Thất Sơn mà canh tác. Rải rác trên bờ kinh, quân sĩ xây nhiều đồn
bão nhỏ, giữ an ninh, lại còn đường lộ đắp từ bờ kinh chạy vòng quanh, liền lạc
nhau (gọi là xa lộ). Để tiện việc di chuyển và để khi mùa lụt nước ruộng rút
nhanh, người khẩn hoang lúc bấy giờ nghĩ ra sáng kiến đào nhiều con kinh ngắn
(gọi là cựa gà) đổ ra kinh Vĩnh Tế, bên phần đất mới khẩn để thăm ruộng hoặc chở
lúa từ ruộng về nhà dễ dàng hơn. Lịnh của triều đình cấm ngặt không được khẩn
vào phần đất hiện có người Cao Miên làm chủ. Núi Sam, gần Châu Đốc nối liền vào
chợ với con lộ đắp đất. Làng Vĩnh Tế thành lập (gọi là Vĩnh Tế Sơn thôn, làng ở
núi Vĩnh Tế tức là núi Sam). Thoạt Ngọc Hầu tỏ ra xứng đáng, làm đúng lời dụ mà
vua Minh Mạng đưa ra vào năm thứ hai (1821) “Châu Đốc là một vùng xung yếu, nhà
ngươi phải khéo léo trong mọi trường hợp, trấn an phủ dụ nhân dân địa phương.
Trước hết phải chiêu mộ dân buôn, xây dựng xóm làng, làm cho đinh số hộ khẩu
ngày càng tăng, ruộng đất ngày càng được khai khẩn thêm”. Thoại Ngọc Hầu mất
năm 1829, thống chế Nguyễn Văn Tuyên thay thế, rồi năm 1832 người lãnh bảo hộ
Chân Lạp, giữ đồn Châu Đốc là Ngô Bá Nhân. Tính đến năm Minh Mạng thứ 19
(1838), dọc theo kinh Vĩnh Tế qua phía Thất Sơn, các thôn sau đây thành hình, lần
hồi dân chúng xin khẩn thêm đất, đa số là vu đậu thổ, tức là đất làm rẫy :
— Vĩnh Tế Sơn thôn (từ Châu Đốc vào)
— Nhơn Hòa thôn
— An Qů thôn
— Thân Nhơn thôn (giữa An Qů và Vĩnh Bảo)
— Vĩnh Bảo thôn (giữa Thân Nhơn và Long Thạnh)
— Long Thạnh thôn (giữa Vĩnh Bảo và Vĩnh Nguơn)
— Toàn Thạnh thôn (giữa Nhơn Hòa và An Thạnh)
— Vĩnh Gia thôn (giữa Vĩnh Điền và Vĩnh Thông)
— Vĩnh Lạc thôn (giáp với An Nông)...
Từ biển Nam Hải trở lên Châu Đốc, tức là hữu ngạn sông Hậu giang có vài khu vực
đáng kể không chịu ảnh hưởng nước lụt. Vùng Ba Thắc, Sóc Trăng đã có người Miên
khai khẩn từ lâu rồi. Phía Sóc Trăng từ đời Gia Long thấy ghi làng Tân An (rạch
Cần Thơ), làng Thới An (Ô Môn), làng Thới Thuận, Tân Thuận Đông (vùng Thốt Nốt),
làng Bình Đức ở rạch Long Xuyên, làng Bình Lâm ở Năng Gù. Làng này cách làng
kia hàng chục cây số, nằm trên các vùng đất gò, đất giồng. Các thôn xóm này đều
bám sát vào bờ Hậu giang. Cù lao ngoài bờ sông cái thì phì nhiêu hơn : ven cù
lao là đất cao ráo, thích hợp để trồng khoai, trồng đậu. Nhìn các bản đồ kèm
theo đơn xin khẩn đất đời Minh Mạng ở vùng này, ta thấy đa số đồng bào khẩn
theo lối móc lõm, ở ngọn, ở ngay ngả ba rạch. Đông đúc nhất là vùng Năng Gù, Chắc
Cà Đao, đất khẩn liên ranh nhau. Tiếp giáp vào phần đất làm ruộng làm rẫy là đất
lâm (ở vùng mé sông là rừng tre, thanh trúc lâm). Vì là bờ sông cái nên chim cò
bay tới lui, đáp xuống bãi sông, tre chịu được ngập lụt hằng năm mà không chết.
Ta có thể đoán rằng mực nước ở đồng ruộng vùng Cần Thơ, Thốt Nốt, Ô Môn hồi đời
Minh Mạng tương đối cao hơn bây giờ. Vào mùa lụt (bấy giờ chưa có nhiều kinh
đào đổ nước ra vịnh Xiêm La như sau khi người Pháp đến).
Rạch Cần Thơ nổi danh là phì nhiêu, đất tốt, không bị ngập. Vùng Cái Răng trở
thành làng vào đời Minh Mạng rồi phát triển thêm. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834),
làng Thường Thạnh của Cái Răng tăng thêm dân cư, tách ra một làng mới lấy tên
là Trường Thạnh.
Rạch Bò ót được dân khẩn hoang chú ý.
Rạch Cái Côn đã có làng từ đời Gia Long (làng Phú Mỹ), ấy thế mà năm Minh Mạng
thứ 19 (1838) còn đến năm khoảnh rừng rậm hoang vu. Làng Bình Mỹ cũng thành lập
từ đời Minh Mạng, ăn tới rạch Cái Dầu. Vùng Thốt Nốt, đời Gia Long chỉ có làng
Thới Thuận, qua Minh Mạng thêm các làng Tân Thuận Đông, Vĩnh Trinh.
Những làng vừa kể trên trở thành phần đất của các tổng mới lập : Châu Phú, Định
Thành, Định Phước, thuộc huyện Tây Xuyên (có nghĩa là bờ phía Tây của Hậu
Giang). Từ Cần Thơ trở xuống thuộc về huyện Vĩnh Định với các tổng Định Thới, Định
An, Định Khánh. Phía Sa Đéc, vùng Cái Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ, Nha Mân và những
cù lao trên Tiền giang đã đông đúc dân cư từ đời Gia Long. Đời Minh Mạng còn
lưu lại vài văn kiện xác nhận việc xúc tiến khẩn hoang ở huyện Vĩnh An, với nhiều
đơn xin khẩn đất :
— Năm Minh Mạng thứ 12, khẩn thêm ở các thôn Tân Dương, Tân Đông, Tân Phú Đông,
Phú Mỹ, Tân Hòa, Tân Quý, Tân Thuận.
— Năm Minh Mạng thứ 19 và 20, khẩn thêm ở các tổng An Thới, An Thạnh, An Mỹ, An
Trường, những vùng Nha Mân, cù lao Tòng Sơn, rạch Cái Vồn được chú ý nhứt.
Từ đời Minh Mạng về sau, phần đất phì nhiêu, nhiều huê lợi của An giang vẫn là
phía Tiền giang với Sa Đéc và các vùng phụ cận.
Việc
lập làng — Sự phân chia điền địa
Vua Minh Mạng đặc biệt khuyến khích việc lập ấp ở vùng Châu Đốc. Năm 1830,
thành thần trấn Gia Định tâu : Hạt Châu Đốc là vùng biên cương mới mẻ, ruộng đất
chưa được khai khẩn hết, xin triển hoãn việc thâu thuế. Vua phán : “Đó là vùng
biên giới quan trọng của quốc gia, trẫm muốn vì nhân dân mà gìn giữ cho nên phải
đặc biệt chú ý tới việc cai trị. Đó chính là kế hoạch biên phòng. Còn vấn đề
thuế khóa đinh điền, đâu phải là việc cần tính toán trước”. Rồi ngài cho miễn
thuế ba năm. Ba năm sau, thành thần Gia Định tâu xin thâu thuế. Ngài ra lịnh :
“Những xóm làng tân lập được miễn thuế thêm ba năm nữa. Riêng thuế thân, thuế
điền thổ được hoãn thêm một năm nữa”. Một tài liệu khác cho biết thêm con số :
đồn Châu Đốc mới lập được 41 xã, thôn, phường; dân đinh chỉ mới được hơn 800
người. Nhưng năm sau (1831), Tổng trấn Gia Định thành lại tâu với lời lẽ bi
quan : “Đồn Châu Đốc xã dân mới thiết lập, địa thế ruộng đất khó khai khẩn”.
Vua cho bộ Hộ biết : “Đồn ấy là nơi địa đầu quan yếu, ta đã từng xuống chỉ
chiêu tập dân buôn bán, cho vay tiền gạo để lập ấp khẩn điền, quây quần sinh sống.
Đó là ý niệm quan trọng của ta trong việc củng cố vùng ngoại biên cương. Nhất
sơ việc khai khẩn còn khó khăn nên đã được triển hạn nhiều lần. Năm ngoái đây,
quan trấn thành đã có lời xin, lần thứ hai trẫm đã khoan miễn cho ba năm tiền
dung (tiền xâu) cùng dịch vụ, và đã phán bảo phải dùng nhiều phương pháp để
chiêu dụ thu nạp, để cho đồng áng ngày càng mở mang, sinh sống dồi dào, đã hơn
một năm nay mà vẫn chưa thấy thi thố phát triển điều gì, liền vội cho là vì
tình trạng khó khăn. Đó phải chăng là lối làm việc tắc trách cho xong chuyện ?
Nay truyền chỉ cho thành thần (quan trấn Gia Định) phải nghiêm sức các công chức
của đồn phải tất tâm thi thố, hầu làm cho đất rộng đông dân, hạn đúng ba năm phải
có đủ hồ sơ về triều đình khen thưởng, không thể đổ cho là tại tình hình khó
khăn mãi được”.
Vua quan tâm đến vấn đề biên giới Châu Đốc, và tiên đoán những rắc rối sắp xảy
ra giữa Việt Nam và Xiêm La, không riêng ở mặt trận Cao Miên mà còn ở cả mặt trận
Lào. Ngài muốn quy dân gần như vô điều kiện, miễn thuế hai đợt.
Hai năm sau, cuối năm 1833, quân Xiêm tràn qua.
Làng ấp ở vùng kinh Vĩnh Tế và Thất Sơn lúc bấy giờ thành lập với quy chế dễ
dãi, như trường hợp làng Phú Cường, tách ra từ làng An Nông. Năm Minh Mạng thứ
12 (1831), vào tháng 3, Trương Văn Nghĩa đứng đơn, xin khẩn vùng đất hoang từ
núi Chân Tầm Lon tới núi Trà Béc, bấy lâu thuộc làng An Nông. Lúc đầu, Trương
Văn Nghĩa và đồng bọn 11 người đến khai phá, sau chiêu mộ thêm được 4 người nữa,
đã có nền tảng để lập làng mới lấy tên là Phú Cường. Cả bọn xin đến năm thứ 17
(1836) sẽ đóng đủ thuế, khi mộ được thêm dân và lập hộ. Đơn được phú hồi cho
Tuy Biên phủ để tra khám và chuẩn cho vào tháng 11, năm Minh Mạng thứ 15
(1834). Qua văn kiện trên, ta thấy việc cứu xét kéo dài từ 1831, khi Trương Văn
Nghĩa khẩn đất, xin sẽ lập bộ và đóng thuế; quan địa phương thâu đơn, chờ đến
ba năm sau mới chánh thức chấp nhận. Trong thời gian chờ đợi, bọn người khẩn
hoang tha hồ làm ăn, khỏi đóng thuế, khỏi khai báo gì cả.
Làng Trường Thạnh tách ra từ làng Thường Thạnh, rạch Cái Răng (Cần Thơ) lập vào
năm Minh Mạng thứ 15 (1834) do hai người đứng đơn. Làng tân lập này gồm 8 người
dân có tên trong bộ làng Thường Thạnh, 8 người dân lậu và một niên lão 67 tuổi.
Họ chịu đóng thuế 5 khoảnh đất, hạng sơn điền (thuế nhẹ). Đây là vùng có an
ninh, đất tương đối tốt, cách xa Châu Đốc hàng trăm cây số ngàn, nên không thấy
ghi những điều khoản dễ dãi dành cho vùng biên giới.
Sử thường nhắc tới việc cho phép tù nhân đi khẩn hoang. Chúng tôi gặp tài liệu
về một hộ thợ săn, tập trung thợ săn thú rừng, gọi là “Thuộc Tỉnh Biệt Nạp Lạp
Hộ” được hưởng quy chế của một làng, nhưng không có đất đai. Cầm đầu là Hộ trưởng
tên Nguyễn Văn Luật, người ở kinh Vĩnh Tế, 55 tuổi. Hộ trưởng phải chịu trách
nhiệm về thuế vụ cho 7 người do ông ta bảo lãnh, thuế đóng bằng ngà voi, 150 mỗi
năm. Gia nhập hộ thợ săn, có mọt người quê ở Cái Thia (Định Tường), 1 người ở
vùng Chợ Gạo (Định Tường), đặc biệt là 1 người quê ở Vĩnh Tế can tội đồng lõa
ăn cướp, đang bị phát vãng (lưu đày) lên Trấn Tây (Cao Miên) để làm đồn điền
binh.
Về sự phân chia đất sai, đặc biệt là vùng Thốt Nốt, nhiều điền chủ khẩn đất rộng
tới 26, 28 hoặc 60 mẫu, trong khi tính trung bình mỗi phần đất của dân khẩn
hoang là 2 hoặc 3 mẫu. ở đất tốt mé sông Cái hoặc cù lao, việc phân khoảnh nhỏ
bé hơn, trung bình từ 1 đến 2 mẫu.
Mãi đến năm Minh Mạng thứ 19 (1839) tỉnh An Giang vẫn còn được triều đình nâng
đỡ so với các tỉnh khác. Tỉnh thần dâng bộ sổ, ghi rõ số dân đinh, vì dân đinh
có phần tăng, nên xin tăng thêm ngạch lính giản. Vua xuống dụ rằng : Hạt ấy lâu
nay mong được dìu dắt dạy dỗ, hộ khẩu mỗi năm một tăng, nay lại nhân được thái
bình nên cùng với dân nghỉ ngơi, khiến cho cùng lo việc cày cấy, đào giếng mà
an nghiệp, để dân chúng ngày càng thêm đông đảo, thịnh vượng, hà tất phải xin
thêm ngạch lính giản làm chi. ý vua muốn nói tới việc xâm lăng của Xiêm mà vùng
Châu Đốc hứng chịu hậu quả nặng nề nhất, trong thời gian vừa qua...
Vài
vấn đề nội an : Loạn Lê Văn Khôi. Các vùng người Miên đông đảo
Tháng 7 năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành mất. Vì có thù
hằn lâu đời với Tả quân, vua Minh Mạng thừa cơ hội này đưa toán vệ binh Minh
Nghĩa về Quảng Ngãi. Sau khi chôn cất Tả quân xong, vua Minh Mạng còn ra lịnh
đưa cơ An Thuận về Kinh. Tháng 10 năm ấy, Gia Định thành không còn là đơn vị
quan trọng nữa. Vua bãi bỏ chế độ Tổng trấn, tất cả đổi là tỉnh, trực thuộc vào
triều đình Huế. Tháng 11 năm ấy, vua cho nguyên Tổng đốc tỉnh Sơn Tây là Lê Đại
Cương làm Tổng đốc An Hà kiêm lãnh ấn Bảo hộ Chân Lạp.
Việc thuyên chuyển một viên chức từ Sơn Tây vào Nam không là điều lạ nếu ta biết
rõ chính sách của vua Minh Mạng là triệt hạ uy thế và nhân tâm mà Tả quân Lê
Văn Duyệt đã gây được ở kinh Vĩnh Tế do ngài đốc xuất đào ra trong hoàn cảnh
khó khăn. Tỉnh An Giang chánh thức thành hình với hai phủ Tuy Biên và Tân
Thành, năm 1835 lấy thêm đất Ba Thắc lập thành phủ Ba Xuyên. An Giang chiếm trọn
miền hữu ngạn của Hậu giang, phía Bắc thì gồm luôn vùng Vĩnh an (Sa Đéc) cắt ra
khỏi trấn Vĩnh Thanh lúc trước.
Lê Văn Khôi nổi loạn, thành công nhanh chóng trong đợt đầu, chiếm lần hồi 6 tỉnh,
nhưng giữ không được lâu. Dân chúng tuy mến một công đức Tả quân Lê Văn Duyệt,
nhưng cá nhân Lê Văn Khôi không đủ uy tín. Hơn nữa ngày qua tháng lại, dân
chúng thấy Lê Văn Khôi không tin vào dân trong nước, lại còn trực tiếp hoặc
gián tiếp làm việc cõng rắn cắn gà nhà.
Lê Văn Khôi có chút ít tinh thần tiến bộ, chống lại chế độ tập quyền hà khắc của
vua Minh Mạng ? Một tài liệu cho biết là khi được hỏi về ruộng nương và tình
hình an ninh tại các tỉnh, tỉnh thần Vĩnh Long tâu rằng : “Trước đây bọn giặc
(Lê Văn Khôi) chiếm cứ tỉnh thành, các thôn ấp đều bị chúng đốt phá rồi chúng
còn chiếu theo nóc nhà dân, đem tiền trong kho ra tán cấp đến hơn một ngàn
quan, nay dân tình nguyện y số đem nạp lại”. Vua ra lịnh miễn cho. Việc lấy tiền
trong kho chia đều cho dân, lúc đang xảy ra, chắc là được dân hoan nghinh. Và
dân đem nộp lại cho quan khi bọn phản loạn bị dẹp, chưa chắc vì tình nguyện, vì
sợ đúng hơn.
Loạn Lê Văn Khôi chỉ là một trong những mối lo sợ của vua Minh Mạng, vì lúc bấy
giờ ở Bắc kỳ loạn lạc nổi lên với cường độ đáng kể, lý do chánh là nạn đói kém,
là quan lại tham nhũng. Nhưng cuộc khởi loạn Lê Văn Khôi tạo cơ hội cho quân
Xiêm đánh ta trong đó có mặt trận Lào, riêng mặt trận An Giang là quan trọng
hơn cả.
Từ lâu, vua chúa nhà Nguyễn lo lắng về các vùng người Miên định cư tập trung,
nhiều nhứt là ở địa phận trấn Vĩnh Thanh ngày xưa :
— Vùng Trà Ôn được yên ổn nhờ có Nguyễn Văn Tồn (một người Miên hữu công, trong
thời gian phục quốc, được mang họ Việt Nam) nắm được nhân tâm. Nguyễn Văn Tồn
chết, con là Nguyễn Văn Vị được trưng dụng và có ra tận Huế đô bái kiến vua.
— Vùng Lạc Hóa (Cầu Kè, Tiểu Cần). Năm 1835 đặt ra xã thôn, tùy theo sốc lớn nhỏ,
quan đến tận nơi khám xét, để định rõ thuế khóa.
— Vùng Ba Thắc (Sóc Trăng, Kế Sách). Vua Gia Long khi còn ở đất Gia Định thì
cho người Miên ở địa phương lập đồn điền mỗi năm nạp lúa sưu thuế. Năm 1792, Nặc
ấn ở Xiêm về, vua đem đất ấy cho lại ; năm 1835, các quan lại người Miên ở địa
phương yêu cầu ta giúp đỡ, vua Minh Mạng cho người Miên hưởng chế độ tự trị rộng
rãi với quan phủ coi việc nội an, mãi đến khi người Pháp đánh nước ta, quan phủ
vẫn là người Miên.
— Vùng Ô Môn (phía bắc Cần Thơ) là nơi người Miên tập trung đáng kể. Về sau, họ
phân tán, rút về phía hậu bối, xa bờ Hậu giang (Đại Nam Nhứt thống chí ghi là
“thổ huyện Ô Môn”).
— Vùng chợ Hà Tiên, rạch Gianh Thành, vùng Thất Sơn là những trung tâm gần biên
giới, nơi mà vấn đề an ninh không được toàn hảo, mặc dầu triều đình đã chú ý từ
đời Gia Long, Hà Tiên đất nhiều phèn, quá xấu, trừ vài lõm nhỏ ở sườn đồi mà
người Trung Hoa đến làm rẫy, người Việt đến đánh cá ven biển. Vị trí chợ Hà
Tiên tuy “tốt” về phong thủy, trên lý thuyết, nhưng quân Xiêm đánh chiếm chớp
nhoáng. Người Miên ở Thất Sơn và ở Hà Tiên thường liên lạc với họ, hễ cơ hội đến
là nổi loạn, vào cuối đời Minh Mạng. Năm 1835, theo lịnh nhà vua, tuần phủ Trần
Chấn lập đồn điền ở núi Đá Dựng (chữ gọi là Châu Nham) sát biên giới, binh sĩ vừa
cày ruộng, vừa luyện tập.
Chánh sách của vua Minh Mạng đối với người Miên (luôn cả người Lào, người Mường...)
là “nhứt thị đồng nhân” (xem tất cả cùng là người), nghe qua thì như là dân chủ,
nhưng thực chất là muốn bắt buộc các sắc dân phải theo luân lý, theo cách tổ chức
thôn xóm, cúng tế của Việt Nam và Tàu, lại buộc lấy họ (như họ Sơn, Thạch, Kim,
Kiên...)
Biến
cố quân sự ở An Giang và ở Cao Miên
Tháng 6, Lê Văn Khôi nổi loạn thì tháng 11 quân Xiêm đem binh đánh nước ta
(1833), bề ngoài như để cứu Lê Văn Khôi nhưng bên trong là quân Xiêm chọn lựa
đúng thời cơ để thủ lợi. Quân sĩ ta lúc bấy giờ bị tiêu hao và bị cầm chân khá
nhiều, một số vào trong thành Phiên An theo Lê Văn Khôi, một số thì bao quanh
chờ cơ hội tái chiếm.
Trong đợt tấn công đầu tiên, quân Xiêm làm chủ tình thế, tướng Xiêm chỉ huy cuộc
hành quân cấp tốc này là tay có tài, tên là Phi Nhã Chất Tri (sử gia Tây phương
gọi là tướng Bodin, Phi Nhã chỉ là chức tước). Tháng 11 năm 1833, Hà Tiên mất,
tháng 12 thành Nam Vang rồi đến đồn Châu Đốc cũng mất theo.
Nhưng vua Minh Mạng bình tĩnh đối phó, bố trí cẩn thận và giữ bí mật. Quân Xiêm
thừa thắng, từ Ba Nam cho chiến thuyền đổ xuống theo Tiền giang. Đây là con đường
chiến lược vô cùng quan trọng, nếu cứ tiến thêm thì đến Sa Đéc, rạch Gầm, Định
Tường, thọc vào trung tâm miền Nam, nơi nhà cửa đông đúc, nhiều tài nguyên.
Quân ta liền phản công. Tại Tiền giang, nơi Vàm Thuận (sử ghi là Thuận Cảng,
Thuận Phiếm cửa của Vàm Nao phía Tiền giang) ta chiến thắng. Giặc phải dừng lại
rồi tạm rút lui về Ba Nam với dụng ý đánh theo đường bộ đến Tây Ninh, nhưng mặt
trận này không mở ra được.
Vài mươi ngày sau, qua tháng giêng năm 1834, thủy quân Xiêm lại theo đường cũ,
đến vùng mà chúng đã thu hôm nọ để quyết chiếm yết hầu Tiền giang, đến Vàm Thuận
không thấy gì xảy ra, chúng thử tiến thêm đến rạch Củ Hủ (vùng chợ Thủ). Khi ấy,
giặc nhân lúc nước xuống, theo bờ sông phóng hỏa đốt bè, ngăn trở thủy quân ta
rồi chúng lại sấn tới đánh, Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc binh đánh từ giờ Dần đến
giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều, thây chồng nhau, giặc liền lui. Đây là trận đánh
kéo dài từ ba bốn giờ khuya đến chín mười giờ trưa, giặc chết nhiều, thây chồng
lên nhau. Trận này khiến ta nhớ tới trận rạch Gầm ở dưới Mỹ Tho vào năm 1784
Nguyễn Huệ đã thắng quân Xiêm. Từ Vàm Thuận đến chợ Thủ thuộc huyện Đông Xuyên,
tỉnh An Giang, bao nhiêu tàn phá diễn ra. Nhưng quân ta lại thừa thắng thâu phục
đồn Châu Đốc, thâu phục thành Hà Tiên rồi chiếm thành Nam Vang từ tay quân
Xiêm.
Giặc Xiêm đồng thời cũng đánh ta theo mặt Quảng Trị và Nghệ An trên đất Lào,
nhưng bị chặn lại.
Ta rượt theo đến vùng Biển Hồ (Tonlé Sap) tận căn cứ địa của quân Xiêm. Cũng
năm 1834 này, vào tháng tư, Trương Minh Giảng (bấy giờ là Tổng đốc An Giang, Hà
Tiên) từ Nam Vang trở về ra lịnh tu bổ đồn Châu Đốc, rồi nghĩ đến việc dời tỉnh
lỵ Hà Tiên qua phía Giang Thành (xa bờ biển, dễ phòng thủ hơn). Vừa lúc ấy, lại
hay tin quân Xiêm cũng do Phi Nhã Chất Tri cầm đầu đang kéo qua Cao Miên với lực
lượng là 5000 quân. Quân ta đến nơi trấn áp, đóng đồn tại Vũng Xà Năng (Kompong
Chnang).
Năm thứ 16 (1835), vua Minh Mạng cho đổi đồn An Man ở Nam Vang làm thành Trấn
Tây, định chế độ cai trị, đứng đầu là một vị tướng quân, hai vị tham táng, quan
lãnh binh, quan đồn điền. Việc này chỉ gây thêm mệt nhọc cho quân dân ta. Từ
năm trước, nước Chân Lạp bị đói kém đến đổi có người phải ăn các thứ tấm cám
nên phải xuất ra từ các kho hai tỉnh Định Tường và Vĩnh Long chở lên Cao Miên một
vạn vuông gạo để phát chẩn cho dân khỏi xiêu tán.
Chánh sách đồn điền được ban hành ở Trấn Tây, người đi đồn điền gồm tù phạm của
Nam kỳ lục tỉnh. Ai trốn về thì bị tập nã gắt gao. Theo lời Trương Minh Giảng
năm 1839 thì ở Trấn Tây, dân tâu của Việt chiêu tập thành lập được 25 xã thôn,
với 470 dân binh, 340 mẫu điều, theo quy chế thì ba năm sau mới đóng thuế. ở Trấn
Tây, người Tàu cư ngụ khá đông, số người có sản nghiệp là 220, xin thành lập 5
bang.
Năm 1837, Trương Minh Giảng mở rộng thêm ảnh hưởng, lấn sát vùng mà người Xiêm
chiếm đóng ở Biển Hồ. Biển Hồ (Tonlé Sap) được gọi là Hồ Hải (vì hình dáng có
eo giống như cái bầu đựng rượu). Đây là khu vực nhiều huê lợi. Trương Minh Giảng
xin lập ba phủ Hải Đông, Hải Tây và Sơn Định ở phía đông, phía tây Biển Hồ và ở
núi Đậu Khấu (dãy Cardamomes), đồng thời lập đồn điền, tập lính, trử lương, cho
người Việt và người Miên đến khẩn hoang, tìm cách dạy tiếng Việt, dạy chữ cho
người địa phương để việc cai trị được dễ dàng.
Một
ngàn người Xiêm trốn khỏi vùng quân Xiêm kiểm soát để theo ta năm 1837 ; năm
1839 dân Miên ở vùng Battambang do Xiêm kiểm soát cũng trốn về, tạo thêm nhiều
gánh nặng cho quan quân đến bảo hộ, như cấp phát gạo muốn cho họ. Nhưng một số
người Miên thích nếp sống lưu động. Vua Minh Mạng bắt buộc họ phải có gia cư để
dễ lập số bộ. Lính Miên thì chia nhau cày ruộng, phân nửa ở tại ngũ, phân nửa về
quê, mỗi năm chỉ tập trung đầy đủ vào tháng mười, mùa nắng. Lúa gạo sản xuất ở
Cao Miên lúc bấy giờ không đủ cung cấp cho việc binh, vua Minh Mạng hiểu thị
cho dân sáu tỉnh Nam kỳ : Ai nạp lúa xay gạo để làm quân nhu lên thành Trấn Tây
thì được thưởng phẩm hàm, miễn thuế thân, miễn đi lính và làm xâu, ai cấp 2500
hộc lúa thì được thưởng chánh cửu phẩm.
Cuối đời Minh Mạng (1840) xảy ra cuộc tranh tài giữa Phi Nhã Chất Tri và Trương
Minh Giảng. Nếu từ lâu Trương Minh Giảng thắng thì phen này lần hồi lâm vào thế
yếu. Nhân tâm ở Cao Miên lúc bấy giờ rất bất lợi, loạn lạc nổi lên đối phó
không kịp, phần lớn do các quan của ta cai trị không công bình lại thêm tham
nhũng.
Việc đóng quân ở Cao Miên có thể tạm tổng kết như sau :
— Về chánh sách, vua chúa phong kiến Việt Nam cũng như Xiêm là cứ luôn luôn mở
mang bờ cõi. Đất Cao Miên là nơi tranh chấp. Đánh qua Cao Miên, đưa các quan
cai trị là phiêu lưu, nhưng thử hỏi nếu không làm việc ấy để cho Xiêm chiếm
đóng ở Cao Miên sát Châu Đốc, Hà Tiên, sát Tây Ninh, liệu lãnh thổ ta có được
yên ổn, vẹn toàn ? Đây là cuộc tấn công để phòng ngự.
— Về quân sự, khi nào quân Xiêm tiến vào lãnh thổ của ta thì họ thua. Hễ nắm vững
đường thủy chiến lược từ Nam Vang đến Tân Châu là ta thắng. Cứ điểm quan trọng
nhứt là Ba Nam (Ba Cầu Nam) trên sông Tiền giang. Ngược lại, khi nào quân ta
phiêu lưu đến vùng Biển Hồ, sát căn cứ của quân Xiêm La là ta bị khó khăn, nếu
không nói là thua. Nguyễn Công Trứ từng dẹp giặc Nồng Văn Vân ở Bắc kỳ đã dâng
sớ và so sánh : So với sự thế đảng giặc Nồng Văn Vân thời việc dẹp yên giặc Thổ
(Cao Miên) này hơi khó mà chậm... Nay, giặc Thổ dậy khắp nơi, trong chỗ hoang mảng,
trông bốn mặt đều là tre gai rậm rạp, nước sâu bùn lầy, không phải như cây lớn,
núi cao có thể đốn phá tìm đường đi băng được... Huống chi đường đem lương từ
Trấn Tây (Nam Vang) đến chỗ quân thứ, một lần đi tám ngày đường mà chỉ đủ ăn một
tháng... Chúng tôi trộm nghĩ trước phải đánh được giặc Xiêm rồi sau đó giặc Thổ
mới dẹp yên được.
Tình hình năm 1840 thật bi đát. Cũng theo lời tâu trên của Nguyễn Công Trứ, thời
bấy giờ từ An Giang đến Trấn Tây, từ An Giang đến Hà Tiên, quân giặc đóng đồn cả.
— Về chính trị, có sự kỳ thị rõ rệt, nhưng nặng nhứt là vì lý do văn hóa. Người
Cao Miên chịu ảnh hưởng văn hóa ấn độ với những tập tục địa phương, thích sống
rày đây mai đó. Vì còn tàn tích mẫu hệ, việc cưới gã của người Miên hơi khó hiểu,
không giống người Việt theo phụ hệ, vì vậy bị hiểu là loạn luân. Cách mặc, cách
ăn (ăn bốc, mặc sà rong) của người Miên không hợp với cảm quan của nho sĩ Việt,
cùng là tục lệ hỏa thiêu. Ngay đến đạo Phật, người Miên theo hình thức Tiểu Thừa,
nghĩa là khác với cách tụng niệm, cách ăn uống của chùa theo Đại Thừa. Và quyền
hạn của giai cấp tăng lữ ở Cao Miên cũng khá rộng. Quan lại Cao Miên, dưới thời
đô hộ của vua Minh Mạng phải mặc áo, đội mão như quan lại Việt Nam. Từ việc tuyển
chọn quan lại, cách thu thuế, nói chung công việc hành chánh ở Cao Miên ngày
xưa rất khác với Việt Nam. Doãn Uẩn viết trong Trấn Tây Kỷ Lược: Họ cũng chưa
biết đạo dựng nước, ta chỉ còn mong ở sau này ngày càng củng cố mở rộng thêm
chánh thể duy tân dần, chắc sẽ không còn phác lậu như trước nữa vậy.
Trong khi ấy, giới bình dân Việt Nam và người Miên sống chung đụng nhau dễ
dàng. Lúc canh tác, bắt cá, chế biến thức ăn, ta cũng bắt chước vài kỹ thuật của
người Miên; việc người Việt cưới vợ Miên không phải là không có.
Lập
địa bộ năm Minh Mạng thứ 17 (1836)
Đây là lần đầu tiên mà ở đất Gia Định lập địa bộ với quy mô lớn, lưu lại bằng
chứng cụ thể. Mỗi thôn vẽ bản đồ các sở đất, loại đất, diện tích, ranh giới bốn
phía, ghi tên chủ điền. Lịnh vua ban ra vào tháng 2, phái đoàn này do Trương
Đăng Quế cầm đầu, với Nguyễn Kim Bảng, cả hai đều sung chức Kinh lược đại sứ
(nhưng Nguyễn Kim Bảng mang bịnh, Trấn tây đại tướng là Trương Minh Giảng thay
thế). Trương Đăng Quế là Binh bộ Thượng thư, Nguyễn Kim Bảng là Lại bộ Thượng
thư. Hai vị Phó sứ là Tôn Thất Bạch và Nguyễn Khắc Trí. Tháng 7 năm ấy, phái
đoàn trở về, công tác hoàn thành. Vua ban thưởng và xuống dụ cho nội các :
Trương Đăng Quế là người công bằng vô tư nên việc làm đến chỗ thành tựu, đúng
như mệnh lệnh của trẫm, tuy không thể sánh với việc đi dẹp biên cương, mở rộng
bờ cõi được phân minh, so với việc mở đất đai cho rộng biên giới có khác gì ?
Sử chép tiếp : Sau đó 6 tỉnh Nam kỳ không phải tăng thuế ruộng mà tiền tài vẫn
bội thu. Thuế điền thổ Nam kỳ được định lại, sau khi đạc điền. Kết quả là tăng
thuế cho công quỹ, nhưng người khẩn đất chịu thiệt thòi nhiều là không được giữ
ruộng đất ẩn lậu như trước.
Năm 1836 rồi 1839, vua Minh Mạng quy định về thể lệ thưởng phạt dành cho các
viên chức địa phương, đất khẩn thêm thì thưởng, bỏ hoang thì phạt. Hậu quả đi tới
đâu ? Việc đạc điền có lẽ đã làm cho dân khẩn hoang mất hào hứng phần nào, vì
thuế vụ. Năm 1837, liền sau khi đạc điền và ban hành lệ khen thưởng, theo báo
cáo của “các tỉnh Hà Tiên, Vĩnh Long, Định Tường thì con số khẩn thêm không được
bao nhiêu, riêng tỉnh Biên Hòa lại càng thấy vắng vẻ. Đến như Gia Định An Giang
tới nay vẫn còn chưa tâu báo... Làm việc không đứng đắn như vậy thiệt nên trị tội
xứng đáng... Hãy dặn Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, án sát mấy nơi ấy nhắc nhở
các phủ huyện sở tại hãy hết lòng khuyến khích, làm cho nông dân vui vẻ quay về
việc nông, đem những ruộng đất hoang phế trong hạt mà khai khẩn cho hết”.
Chương
1 - 3
Nhu cầu chỉnh đốn về nội trị :
Những đồn điền chiến lược ở Hậu giang
Vua Minh Mạng mất, để lại gánh nặng ở phía biên giới Việt Miên. Loạn lạc đã
phát khởi ngay từ khi cuộc chinh phạt của tướng Trương Minh Giảng đang diễn ra
tại phía Biển Hồ, tuy rằng về hình thức là dẹp xong nhưng mầm mống còn đó. Người
Miên cư ngụ trên lãnh thổ Việt Nam dường như sẵn sàng hưởng ứng, chống đối quan
lại địa phương khi ở Cao Miên phong trào lên cao. Quân Xiêm lại khéo phao tin
tuyên truyền. Người Cao Miên lúc bấy giờ ở Nam kỳ lại bực dọc với chính sách
“nhứt thị đồng nhơn” của vua Minh Mạng, bắt buộc họ phải lấy tên, lấy họ như
người Việt để đồng hóa. Lại còn chủ trương cải cách tổ chức nông thôn cổ truyền
của sốc Miên khiến họ mất quyền tự trị. Vùng biên giới Hà Tiên, An Giang bắt đầu
xáo trộn khi vào năm 1838, tên Gi — làm chức An phủ cho ta — cấu kết với người
Xiêm. Năm sau, viên quản cơ người Miên ở An Giang là Hàn Biện cùng đồng bọn làm
phản rồi bỏ đi, một số đông lính Miên cũng chạy theo chúng như rồi một số quay
trở lại. Vua truyền lịnh tha tội những người biết hối cải. Năm 1840, tình hình
thêm bi đát : người Miên ở Tịnh Biên (An Giang) nổi loạn khiến quan tri phủ bỏ
trốn, loạn quân kéo về phía biên giới Hà Tiên đánh đồn Châu Nham (Đá Dựng),
quan binh nhiều kẻ bị hại. Tháng 10 năm ấy, giặc từ Thất Sơn gồm hơn 2000 người
kéo qua tận Kiên Giang, phá chợ Rạch Giá, đắp đồn ở hai bên bờ rạch này; vùng
Xà Tón (Tri Tôn) cũng bị khuấy động. Năm Thiệu Trị nguyên niên, tất cả các vùng
người Miên sống đông đúc đều nổi loạn, quan quân vô cùng vất vả. Ba khu vực
quan trọng nhứt là :
— Vùng Trà vinh (nay là Vĩnh Bình) bao gồm các khu vực rộng lớn từ Tiền giang
qua Hậu giang (Trà Vinh, Cầu Kè, Tiểu Cần, Cầu Chong), sử gọi là vùng Lạc Hóa.
Cuộc khởi loạn dai dẳng và có quy mô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1841,
người cầm đầu là Lâm Sâm (còn đọc Lâm Sum, người địa phương gọi là Xà Na Xom hoặc
Xà Xom, tức là viên tướng tên Xom). Thủ đoạn xách động là dùng bùa ngãi, do các
tên thày bùa đưa ra rồi loan tin thất thiệt : Ai không theo chúng sẽ bị Trời Phật
hại, ai theo thì được cứu thoát, võ khí là đao mác, chà gạc, phãng kéo cổ thẳng
(trở thành cây mã tấu). Thoạt tiên loạn quân chiếm Trà Vinh (đồn Nguyệt Lãng của
ta). Giặc lại lôi cuốn được mấy sốc Miên ở rạch Cần Chong (nay là Tiểu Cần) xuống
đến Bắc Trang ra đến mé sông Hậu giang, vùng Trà Điêu. Có lúc giặc thắng thế,
chiếm giữ một vùng dài hơn 30 cây số, gồm toàn sốc Miên. Trận gay go nhất xảy
ra ở vùng Trà Tử (nay gọi là Hiếu Tử), bố chánh Trần Tuyênvà tri huyện Huỳnh Hữu
Quang đều tử trận. Số loạn quân lên đến bảy tám ngàn, ngoài Lâm Sum còn tên tổng
Cộng (chắc là cai tổng tên Cộng) và một tên tự xưng là phó mã Đội. Tham dự cuộc
tảo thanh ở vùng Lạc Hóa, gồm có tổng đốc Bùi Công Huyên, tham tánh thành Trấn
Tây là Nguyễn Tấn Lâm và Nguyễn Công Trứ cũng rút về nước tiếp tay, ngoài ra
còn có tướng Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Tri Phương dời binh tiến đánh, tuy phá
tan được luôn, nhưng chỗ này tan rã thì chỗ kia quy tụ, cứ đánh phía đông, giữ
phía tây, không thể nào diệt hết được. Khi Trương Minh Giảng rút lui về An
Giang, ta được thêm 3000 quân sĩ đến tiếp ứng ở mặt trận Lạc Hóa. Trong đám loạn
quân đầu thú, có cả người Việt và người Tàu. Phải chăng là những người Việt trước
kia theo Lê Văn Khôi, nay trốn lánh ?
— Vùng Sóc Trăng, trung tâm cuộc khởi loạn là Ba Xuyên, Trà Tâm, từ tháng ba
cũng năm tân sửu. Thoạt tiên giặc bị phân tán rồi tập trung tại Sóc Đâm đóng đồn
mà chống cự. Tháng 11, quân của Nguyễn Tấn Lâm và Nguyễn Tri Phương đánh hai mặt
giáp lại. Giặc tan, vua Thiệu Trị cho Nguyễn Tấn Lâm ở lại Ba Xuyên dẹp đám tàn
quân và lập an ninh. Theo truyền thuyết, lãnh tụ loạn quân ở đây là Xa Ne Tia.
— Vùng Thất Sơn, Vĩnh Tế. Nếu Trà Vinh và Sóc Trăng nối liền nhau (bên này và
bên kia sông Hậu Giang), dân đông, kinh tế phì nhiêu, người Miên sống tập trung
thì vùng Thất Sơn lại là nơi mà người Miên dễ tấn thối và khuấy động, với hàng
chục ngọn đồi lớn nhỏ, nhiều thung lũng, dân cư thuần nhứt lại ở sát biên giới
Cao Miên. Năm nguyên niên, giặc tụ tập tại Lẹt Đẹt, quân ta dẹp tan rồi đánh
luôn tới Cần Sư. Phía Tịnh Biên cũng có loạn vài ngàn tên, nhưng dẹp được. Nguyễn
Tri Phương đến núi Tượng để đánh loạn quân. ở hai huyện Hà Dương và Hà Ñm, tình
hình khuấy động. Hà Dương gồm vùng núi Cấm, núi Tượng; Hà Ñm gồm các làng dọc
theo biên giới bên kinh Vĩnh Tế. Sở dĩ loạn quân dám kiêu ngạo vì bên kia biên
giới, Phi Nhã Chất Tri “đem quân Xiêm đến dựng đồn lũy ở bờ sông Vĩnh Tế rồi
qua lại gây sự với những đồn bảo của quân ta. Quan binh bèn chia đường đi tiễu
trừ, giết và làm bị thương rất đông, chiếm lấy được bảy đồn, hai bên bờ sông
Vĩnh Tế một loạt được dẹp yên. Bọn giặc ở trong các đồn ở núi Cấm, núi Tượng
nghe tin bèn chạy trốn. Quân Xiêm gặp sự thất bại tan rã ấy muốn tăng thêm binh
và chiến thuyền để trở lại một lần nữa giúp dân Miên gây sự, vừa lúc ấy nước họ
có việc nên ngưng.
Nhưng tình hình ở Cao Miên, Thất Sơn và kinh Vĩnh Tế chỉ là tạm thời lắng đọng.
Năm sau, cuộc xâm lăng đại quy mô lại diễn ra. Nếu lần trước chiến sự xảy ra tại
Tiền giang, từ Vàm Thuận đến Chợ Thủ thì lần này mặt trận chánh lại diễn ra ở
vùng Thất Sơn và kinh Vĩnh Tế.
Ngăn
chận giặc Xiêm năm 1842
Trong khi nội loạn xảy ra ở Lạc Hóa (Trà Vinh) thì tình hình trên Cao Miên rất
tồi tệ, vua Thiệu Trị đồng ý với các đại thần là nên rút quân về An Giang, thật
khéo và lặng lẽ. Voi đem về không tiện thì làm thịt cho quân sĩ ăn, những người
Việt trước kia gồm đa số là tù phạm lên Cao Miên làm ăn thì lựa chỗ mà cho ở lại.
Tháng 9 năm 1841, quân sĩ ta rút về An Giang. Khi về đến nơi, tướng Trương Minh
Giảng mất vì bịnh, nhưng lý do chánh là vì buồn giận triều đình. Quân Xiêm
không bỏ lỡ cơ hội, mở ngay cuộc xâm lăng vào lãnh thổ Việt Nam. Lần này sự bố
trí của Xiêm khá chu đáo, chiến thuật thay đổi hẳn. Lại còn một yếu tố đáng chú
ý : yếu tố chính trị. Đó là những người Việt đa số là tù phạm bị đày làm đồn điền.
Khi mới lên ngôi, vua Thiệu Trị đã nghĩ tới số phận của họ. “Nhưng trong xứ Trấn
Tây, giặc Thổ chưa yên mà những tên tù phạm khi trước can án phát quân hiện
đương sai phái ở đó, phải đợi khi yên giặc rồi sẽ nghỉ”. Bấy giờ ở Nam Vang có
người con trai tự xưng là con của hoàng tử Cảnh, lấy hiệu là Hoàng Tôn (có
nghĩa là cháu nội vua Gia Long) đang tụ tập một số đông gồm Xiêm, Lào, Hán (Việt
Nam), Thổ, những đứa trốn tội cũng theo nhiều lắm. Phải chăng trong số tù nhân
bị phát quân lên Cao Miên, đời Minh Mạng, gồm nhiều người can tội dính líu xa gần
tới cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi, ở Sài Gòn và các tỉnh ?
Đưa kẻ tự xưng là Hoàng Tôn về nước chỉ là một trong những lý do của quân Xiêm;
hành động chính trị này không gây được xúc động tâm lý đáng kể. Dù sao đi nữa,
ta cũng thấy Phi Nhã Chất Tri là kẻ tinh tế và đa mưu.
Tháng giêng năm 1842, chiến thuyền Xiêm đến vùng đảo Phú Quốc, tấn công để dò
xét. Nguyễn Công Trứ, người đã từng dẹp giặc Tàu Ô ở vịnh Hạ Long thử trổ tài,
nhưng bị “sóng gió ngăn trở”.
Bọn Hoàng Tôn đưa 5000 người đến Sách Sô, thành phần toàn người Xiêm và Lào
(người Xiêm có thói bắt dân vùng bị chiếm làm nô lệ, làm lính). Sách Sô là vị
trí quan trọng ở giữa Tiền giang và Hậu giang. Tướng Nguyễn Tri Phương nhận định
rằng Tiền giang là con sông quan trọng ăn thông giữa trung tâm An Giang, Vĩnh
Long và Định Tường, xin đem binh thuyền bố trí sẵn.
Việc xảy ra nhằm lúc vua Thiệu Trị đang ra Hà Nội để nhận lễ thụ phong của sứ
Tàu.
Tháng 2 quân Xiêm lại tăng cường hải quân, đến gần Cần Vọt (Quảng Biên,
Kampot), ta bố trí giữa tại cửa Hà Tiên (Kim Dữ). Rồi binh thuyền của Xiêm kéo
tới Bạch Mã (Kép) đông đảo hơn với ý định chiếm Lư Khê (Rạch Vược, phía nam Hà
Tiên, bờ biển) và chiếm Tô Môn (cửa Đông Hồ, bên cạnh núi Tô Châu) để bao vây
Hà Tiên. Xiêm kéo mấy vạn binh tràn vùng kinh Vĩnh Tế, ta chống đỡ không kịp.
Cánh quân chánh của Xiêm đánh từ bờ biển vịnh Xiêm La qua theo đường Hà Tiên,
chớ không từ Nam Vang mà thọc xuống theo sông Tiền giang như mấy lần trước. Trước
nguy cơ ấy, vua Thiệu Trị cho quân lực từ Huế kéo vào tăng cường, cùng với lính
thú từ Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đợt tấn công đầu tiên của quân Xiêm bị chận lại, ở
khắp các mặt trận Vĩnh Tế, Tiền giang và Hậu giang. Nhưng quân Xiêm chưa rút
lui, cho củng cố thành lũy, chiếm trọn vùng núi Cô Tô (Tô Sơn, thuộc dãy Thất
Sơn). Tháng năm năm ấy, ta kéo vào chiếm lại khu Cô Tô mà quân Xiêm vừa xây dựng
trên lãnh thổ của ta. Đây là nơi người Miên sống tập trung từ lâu đời. Binh ta
gồm năm đạo, mỗi đạo 1000 quân, đem súng lớn đặt tại Tri Tôn (Xà Tón) mà bắn
phá lũy giặc. Nguyễn Tri Phương đem đại binh đến núi Cô Tô, giặc tan, một số
đông ra đầu thú gồm người Tàu và người Miên có đến số ngàn. Vua Thiệu Trị sai
Nguyễn Công Trứ điều động việc lập ấp, khuyến khích khẩn ruộng. Nhưng ta tin rằng
việc làm này không đi tới đâu cả, đất ở chân núi từ lâu đã được người Miên canh
tác, họa chăng các quan của ta chỉ lo chỉnh đốn an ninh trong các sốc Miên.
Rồi ta kéo quân lên phía Nam Vang, truy nã. Tháng 7 năm 1845, giặc Miên lại đến
bờ kinh Vĩnh Tế tại làng Vĩnh Điền, phá rồi Trường Lũy (Trường Lũy là bức trường
thành mà ta dựng lên, trồng tre gai, xa xa có đồn nhỏ dọc theo kinh Vĩnh Tế,
khi Pháp đến còn di tích này). Nhưng giặc bị đánh lui.
Năm 1845, ta thắng vài trận đáng kể. Đến lượt Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn thi
tài với Phi Nhã Chất Tri. Ta tiến đến Vũng Long (Kompong Luông). Cao Miên nhìn
nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt Nam.
Thành
lập các đồn điền chiến lược
Hậu quả những năm loạn lạc ở vùng An Giang, Trà Vinh, Ba Xuyên, Hà Tiên như thế
nào ? Chắc là trầm trọng lắm. Hễ loạn lạc là đốt nhà cướp của, bộ sổ mất mát,
quan lại tham nhũng, cường hào thổ mục tha hồ húng hiếp dân. ở những vùng người
Miên sống tập trung, việc bình định chỉ có nghĩa là gìn giữ được an ninh. Mầm mống
bất mãn vẫn còn. Vua Thiệu Trị mất năm 1847, ngài gánh tất cả những hậu quả của
vua Minh Mạng để lại. Tình thế không suy sụp là nhờ tướng tài, giàu kinh nghiệm
chiến trường và quân sĩ hết lòng. Doãn Uẩn dựng chùa Tây An ở núi Sam năm 1847
là việc có nhiều ý nghĩa đối với nhân tâm thời bấy giờ và nhứt là đối với cá
nhân một nho sĩ hăng hái nhưng thấm mệt.
Công tác khẩn hoang ngưng trệ, nếu không nói là bị đổ vỡ phần nào ở Hậu giang.
năm Thiệu Trị thứ ba (1843), đào thêm con kinh nối liền Tiền giang (từ Tân
Châu) đến thủ Châu Giang phía Hậu giang. Kinh này ngắn nhằm mục đích quân sự để
chiến thuyền đi nhanh từ Tân Châu đến vịnh Xiêm La khi hữu sự, qua kinh Vĩnh Tế.
Dân phu từ hai tỉnh Vĩnh Long và An Giang tập trung lại. Đợt đầu đào dở dang rồi
ngưng, số dịch lại coi việc đào kinh đã bức hiếp khiến dân phu bất mãn, trốn né
rất nhiều. Sau mùa gặt, dân phu lại được huy động lần thứ nhì. Một tài liệu của
phủ Hoằng Đạo tỉnh Vĩnh Long (Bến Tre, cù lao Bảo) cho biết dân phu phủ này đi
đào kinh Vĩnh An gồm 8 đội, mỗi đội 50 người, có viên phó tổng hoặc lý dịch coi
sóc. Mỗi đội mang theo 10 cây cuốc, 10 cây mai, phãng, rìu, cây mù u, gàu nước,
gióng, gánh, ky, mỗi thứ 30 cái, lại còn dây tre dài hơn 1 trượng. Viên chức ở
tỉnh tới địa điểm đào kinh từ trước để cất trại cho dân phu ở. Cứ 15 ngày thay
đổi một lần cho dân nghỉ ngơi. Kinh đào xong vào tháng 4 năm 1844, đặt tên là
Long An Hà.
Nội loạn vừa dẹp xong, tổng đốc An Hà là Nguyễn Tri Phương và Tuần phủ An Giang
là Doãn Uẩn điều trần ba biệc (1844) :
— Xin lượng bớt các điều lệ thanh tra.
— Xin tước trừ ngạch hư trong bộ sổ dân.
— Xin tha các hạng thuế thiếu lâu nay.
Mấy điều trên chứng tỏ dân An Giang, đặc biệt là vùng kinh Vĩnh Tế xiêu tán quá
nhiều, lắm người đến nơi khác làm ăn, kẻ ở lại bám đất thì đành chịu trực tiếp ảnh
hưởng chiến tranh. Các sở đồn điền ở Biên Hòa, Định Tường được khả quan hơn,
giao lại cho dân địa phương cày mà nạp thuế làm ruộng công (trở thành công điền
cho dân mướn), lính khai thác đồn điền thì triệt về tỉnh, lo việc khác. ở Tây
Ninh, giáp biên giới Miên, cũng xúc tiến lập đồn điền từ năm 1843.
Vua Tự Đức lên ngôi, gánh bao nhiêu hậu quả. Trương Quốc Dụng dâng sớ tâu :
“Tài lực trong dân, soi với năm trước mười phần kém đến năm sáu mà các quan địa
phương thường hay trau dồi tiếng tốt, hỏi số dân thì tâu rằng tăng, hỏi mùa
màng thời tâu rằng được, chỉ muốn cho mình được tiếng khen”. Vua Tự Đức răn các
quan đã dụng tâm làm nặng nhẹ, bắt lính đòi thuế, lo hối lộ quan trên, góp tiền
kẻ dưới. Đời Minh Mạng, Thiệu Trị đã xảy ra nội loạn rồi. Vua Tự Đức cố đề
phòng nhưng khó cứu vãn, nhứt là đối với miền Bắc và miền Trung nơi đói kém thường
xảy ra. Lại còn nạn ngoại xâm của thực dân Pháp mà ngài không tiên đoán nổi mức
trầm trọng.
Tháng giêng năm 1850, cho Nguyễn Tri Phương là Thượng thơ bộ Công làm Kinh lược
đại sứ Nam kỳ. Nguyễn Tri Phương giữ chức vụ này đến cuối năm 1858 để rồi trở về
Kinh, lo đối phó với thực dân Pháp.
Nguyễn Tri Phương am hiểu tình hình các tỉnh Tiền giang, Hậu giang, luôn cả Cao
Miên từ hồi Thiệu Trị. Ông đã đặt chân đến những nơi hẻo lánh và nguy hiểm nhứt
như Thất Sơn, Vĩnh Tế, Trà Vinh, Ba Xuyên. Tóm lại, những vùng mà người Miên sống
tập trung.
Năm 1853, vua Tự Đức cho phép lập đồn điền, lập ấp ở xứ Nam kỳ theo lời tâu của
đình thần. Tại sao có việc lập đồn điền này ? Từ trước đã có chánh sách đồn điền
rồi. Nhưng lần này đưa ra cấp bách nhằm đối phó kịp thời với tình hình điêu tán
ở vùng biên giới và Hậu giang. Nguyễn Tri Phương nói thẳng mục đích : “Đất Nam
kỳ liền với giặc Miên, dân xiêu tán nhiều. Nay mượn điều chiêu mộ để dụ dân về
đốc việc khai khẩn để nuôi dân ăn, thật là một cách quan yếu để giữ giặc và yên
dân đó
Lập
đồn điền và lập ấp là hình thức tổ chức nhằm phục vụ chiến lược lớn : giữ giặc
và yên dân. Nội dung tóm tắt như sau :
— Thành phần : dân ở khắp Lục tỉnh Nam kỳ cùng các tỉnh từ Bình Thuận trở ra
phía Bắc, theo nguyên tắc tình nguyện.
— Địa điểm thành lập : ở hai tỉnh An Giang và Hà Tiên còn dư thì cho qua vùng
kinh Vĩnh Tế, Tịnh Biên, hoặc Ba Xuyên.
— Hình thức tổ chức : có hai hình thức, lập đồn điền và lập ấp.
Mộ dân lập đồn điền
Dân sống tập trung làm lính đồn điền, đây là hình thức bán quân sự.
Ai mộ được 50 người thì tổ chức thành một đội, người mộ được làm suất đội. Về
sau, khi cày cấy có kết quả, đội này cải ra thành một ấp, viên suất đội mặc
nhiên trở thành ấp trưởng, theo quy chế dân sự.
Ai mộ được 500 người thời tổ chức thành một cơ (gồm 10 đội), người mộ được bổ
nhiệm làm chánh đội thí sai phó quản cơ, khi đất trở nên thành thuộc, cơ này trở
thành một tổng, người đứng mộ trở thành cai tổng, theo quy chế dân sự.
Mộ dân lập ấp
Dân trong ấp sống theo quy chế dân sự, không bị câu thúc nhiều. Con số tối thiểu
để lập một ấp là 10 người, đủ số ấy mới được chọn đất mà khai khẩn, lập bộ. Nên
hiểu đây là 10 người dân cam kết chịu thuế, lần hồi ấp này quy tụ thêm một số
lưu dân, bọn này không cần vô bộ, cứ sống theo quy chế dân lậu. Khi ruộng đất
thành thuộc, dân đông hơn thì nâng lên thành một làng.
Người Tàu cũng có thể đầu mộ, lập ấp.
Có lệ khen thưởng những người mộ dân lập ấp : được 30 người thì tha xâu thuế trọn
đời, 50 người thời thưởng chánh cửu phẩm, 100 người thời thưởng chánh bát phẩm.
Nên nhớ là muốn mộ dân thì phải có vốn lớn để nuôi dân, cho vay làm mùa trong mấy
năm đầu (vay tiền và vay lúa ăn). Các ông bá hộ, tức là chủ nợ (đồng thời cũng
là ân nhân) khi chết thì trở thành tiền hiền, thờ trong đình làng. Đây là nội
dung lời tâu đặc biệt của Nguyễn Tri Phương :
— Người Cao Miên ở các sốc thuộc Ba Xuyên và Tịnh Biên mới quy tụ về theo ta
(sau các biến loạn đời Thiệu Trị) đáng lý thì phải đem phân tán khắp nơi, nhưng
ta lại cho họ trở về quê quán, nếu tiếp tục sống như thế họ sẽ có cơ hội để làm
loạn như trước. Bởi vậy dân khắp Nam kỳ lục tỉnh nếu muốn ứng mộ qua Tịnh Biên,
Ba Xuyên để lập ấp thì cứ cho, nhưng họ phải sống trong các tổng đã thành lập rồi
(nhưng nay thì đã xiêu tán, dân không còn đủ số).
— Tù phạm ở Lục tỉnh, ai mộ được một đội hoặc một thôn (50 người) thời cho làng
chúng nó bảo kiết, sẽ tha tội rồi đưa đến vùng kinh Vĩnh Tế (thuộc tỉnh An
Giang) hoặc vùng rạch Giang Thành (tỉnh Hà Tiên) để cày ruộng, tùy theo công việc
kết quả tới đâu, hạnh kiểm ra sao sẽ liệu định mà giải quyết.
Qua lời tâu của Nguyễn Tri Phương, ta thấy có dụng ý cho tù phạm đoái công chuộc
tội vì vùng Vĩnh Tế và Giang Thành là nơi khó khai khẩn, lại ở sát biên giới,
nguy hiểm hơn các vùng khác.
Năm sau, 1854, sáng kiến của Nguyễn Tri Phương gặp nhiều sự khen chê của các
quan, thấu tai vua. Nguyễn Tri Phương tâu về việc ích lợi của chánh sách nói
trên và nhìn nhận rằng : “Tôi xét việc đồn điền vẫn lợi nước lợi dân mà không lợi
cho Tổng, Lý. Vậy nên Tổng, Lý đặt điều để phỉnh dân, những người nói bất tiện
đó chẳng qua bị chúng phỉnh mà thôi”.
Tổng, Lý tức là cai tổng và lý trưởng, họ chống đối vì chính sách này khiến cho
dân trong làng trong tổng có thể qua vùng đất khác mà làm ăn. Làng tổng của họ
trở nên thưa thớt, thiếu người đóng thuế và làm xâu. Hoặc những phần đất hoang
trong làng trong tổng sẽ bị cắt ra để trở thành một làng, một ấp khác, địa bàn
hoạt động và số dân mà họ cai trị bấy lâu nay bị thâu hẹp lại.
Nhân dịp ấy Nguyễn Tri Phương báo cáo kết quả đầu tiên sau một năm : lập được
21 cơ đồn điền và phỏng chừng 100 làng. Đồng thời Nguyễn Tri Phương cũng xin
khen thưởng những địa phương mà việc khẩn hoang thâu kết quả tốt.
Một trăm làng (ấp) nói trên quy tụ 10500 người. Năm 1866, nha Dinh điền xứ An
Giang, Hà Tiên và vùng có nhiều người Miên ở Vĩnh Long (Lạc Hóa). Đồng thời với
các tỉnh nói trên, những tỉnh còn lại ở Nam kỳ cũng tổ chức đồn điền để khẩn
hoang; đáng chú ý nhất là đồn điền ở Gia Thuận, huyện Tân Hòa (Gò Công) thuộc tỉnh
Gia Định do Trương Định cầm đầu. Lực lượng bán quân sự của đồn điền trợ giúp đắc
lực cho quân sĩ triều đình khi giữ thành Chí Hòa và còn tham gia các cuộc khởi
nghĩa về sau.
Những
chi tiết cụ thể
Lập đồn điền là chánh sách tốt, tuy nhiên người dân chịu khá nhiều hy sinh, cực
nhọc? Họ bị cưỡng bách, như trường hợp đám dân nghèo ở làng Tân Niên Tây (nay
thuộc Gò Công). Họ là dân lậu, hương chức làng tống khứ họ qua Gia thuận để gia
nhập đồn điền. Nhưng vài ngày sau, họ bỏ trốn, qua cư ngụ tại làng Kiểng Phước.
Để cho dân số trong đồn điền khỏi bị hao hụt, viên đội của đồn điền Gia Thuận
là Bùi Văn Cẩm báo cáo lên, và quan huyện cho phép viên đội này truy nã bọn dân
vừa trốn, gồm 5 người. Dầu sao đi nữa, làm dân lậu trong một làng có nếp sinh
hoạt thuần thục vẫn khỏe thân hơn là bị bắt đi nơi khác để làm đồn điền. Trường
hợp nói trên xảy ra vào năm Tự Đức thứ 11 (1858). Người dân có phản ứng vì khi
bận rộn cày cấy thì làm sao họ có thể diễn tập về quân sự như quan trên mong muốn
? Vả lại cày cấy ở đất hoang đòi hỏi nhiều công phu hơn ở vùng đất thành thuộc,
tốn công nhiều nhưng huê lợi không thu được bao nhiêu, trong những năm đầu
tiên.
Vì nhu cầu gìn giữ biên giới, tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên) là Cao Hữu Dực
đã đưa nhiều kế hoạch thúc ép dân, đến đỗi các quan ở Nội các phải can thiệp.
Năm Tự Đức thứ 7 (1854), một năm sau khi ban hành quy chế đồn điền, Trương Đăng
Quế, Trương Văn Uyển và Võ Đức Nhu bái yết vua, nhắc lại việc làm và những yêu
sách của Cao Hữu Dực, rồi đi đến một kết luận mà nhà vua đã đồng ý : Phải mộ
người và tập luyện lần lần thì việc làm mới có kết quả. Cứ chờ ba năm rồi hãy
hay. Nhà vua hiểu rằng các quan địa phương thấu rõ hoàn cảnh và có xin nhiều việc
vấn đề đồn điền. Tóm lại, phải cho dân sống dễ dàng, góp công từ từ. Không cần
con số quá đông. Cao Hữu Dực xin việc chế quân phục (dân đồn điền khi thao diễn
có sắc phục riêng) và việc thao diễn thường xuyên. Hai việc ấy không cần kíp lắm.
Nên làm sổ sách để ghi số lưu dân, dân lậu, từ từ gom thành đội để khai khẩn
cho hợp với hoàn cảnh. Sau 3 năm chuẩn bị thì hai điều trên (sắc phục và thao
diễn) mới làm được.
Cũng năm 1854, ta có một tài liệu về việc lập đồn điền. Đây là một đội (50 người
dân lậu) xin khẩn 2 khoảnh đất tổng cộng là 200 mẫu của làng Thường Thạnh (nay
là Cái Răng, Cần Thơ). Đội trưởng Nguyễn Văn Tấn đứng đơn, có thôn trưởng,
hương thôn và dịch mục ký tên. Thôn trưởng làng giáp ranh (làng Như Lăng) ký
vào để xác nhận vấn đề ranh giới, viên cai tổng cũng ký vào. Đơn này được quan
Tổng đốc An Hà phê.
Đồn điền nói trên thu hút dân của làng Thường Thạnh và cắt đất làng này bớt ra
đến 200 mẫu. Ta hiểu tại sao việc lập đồn điền thường bị các làng có đất tốt chống
đối, nếu là cắt đất xấu ở nơi nước mặn đồng chua thì chẳng ai tranh cản làm
chi.
Năm Tự Đức thứ 9 (1856), có một tài liệu theo đó các ấp trưởng của 9 ấp (Thanh
Thiện, An Mỹ, Phú Hữu, Vĩnh Lộc, Phú Thạnh, Mỹ Thành, Vĩnh Thới, Phú Mỹ, Phú
Khai) họp cùng đội trưởng và bốn ông bá hộ cùng đi tu khám điền địa để đo đạc rồi
khai vào sổ bộ. Chẳng hiểu ngày nay các ấp nói trên nằm trong địa phương nào,
nhưng ta thấy sự phối hợp giữa ấp trưởng (đội đồn điền) và vai trò các ông bá hộ
giúp vốn.
Chúng tôi thử xác nhận vị trí của vài đồn điền thành lập dưới thời Tự Đức. Việc
làm này khó khăn vì một số đồn điền lần hồi trở thành làng xã, một số khác về
sau bị thực dân Pháp giải tán.
— Vùng Tân Châu còn tài liệu liên quan đến ông Đội Chín Tài ở Vịnh Đồn, theo đó
vào những năm 1853 và 1856, ông được viên chỉ huy bảo Tân Châu cho làm ấp trưởng,
rồi tác đắc cử ấp trưởng. Năm 1860, ông được cấp cho một “vi bằng cấp sự” để đi
mộ lính ở thôn Phú Lâm. Ông Đội Chín Tài sau thăng chức hiệp quản, trong đội
binh Giang Nghĩa.
— Dọc theo kinh Vĩnh Tế, những làng mạc thành lập từ đời Minh Mạng và Thiệu Trị
ắt đã tiêu điều, lúc quân Xiêm tràn tới và chiếm đồn Châu Đốc. Trung tâm quy tụ
lưu dân được nói nhiều nhất trong vùng này đời Tự Đức là Tịnh Biên và bờ kinh
Vĩnh Tế. Nhưng ở đây, như Nguyễn Tri Phương quy định “họ phải sống trong các tổng
đã thành lập rồi” tức là bổ sung vào các làng cũ, có ranh giới, có bộ đinh, bộ
điền từ đời Minh Mạng để tránh việc lấn vào ruộng đất người Miên. Riêng về các
đội do tù phạm lập ra, đưa về Giang Thành hoặc Vĩnh Tế thì không thấy dấu vết cụ
thể, ngày nay tìm lại cũng quá khó khăn vì người địa phương nếu là con cháu của
tù phạm thì cũng che giấu, hoặc không biết rõ việc này (và chính ông cha của họ
cũng che giấu lai lịch, vì thể diện đối với các làng khác).
Tu sĩ Đoàn Minh Huyên, sau này là Giáo chủ của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương đã đến
vùng Tịnh Biên, tại Thới Sơn để lập trại ruộng, quan địa phương không ưa thích
nhưng ta không thấy tài liệu nào nói đến việc ngăn cản, chứng tỏ khẩn hoang ở
vùng biên giới đời Tự Đức là công tác được khuyến khích.
— Người Chàm sống tập trung ở Châu Giang (ngang Châu Đốc) tổ chức lại thành từng
đội, có quan hiệp quản cầm đầu.
— Tại vùng Trà Vinh (Lạc Hóa) nơi người Miên từng gây náo động hồi đầu đời Thiệu
Trị, Nguyễn Tri Phương đã lập đồn điền ở vùng Cầu Ngang, Trà Cú ước vài ngàn
dân, một người Miên là Thạch In được làm hiệp quản đồn điền (khi Pháp đến ông
này ra làm cai tổng). Tại ngả ba Trà Cú, có ông đội Mười Nhơn.
— Tại vùng Mỹ Tho, Nguyễn Tri Phương lập đồn điền ở miền Xoài Tư.
— Tại vùng Ba Xuyên, việc lập ấp, lập đồn điền phát triển nên lập thêm một huyện
mới ở Nhu Gia, năm Tự Đức thứ 13 (1860).
Nói chung các đồn điền chiến lược, các ấp nói trên được thiết lập xen kẽ vào
vùng có người Miên cư ngụ tập trung. Vì vậy mà ngày nay du khách phải ngạc
nhiên khi gặp những xóm đông đúc người Việt Nam, với nếp sống thuần thục, ở nơi
chung quanh toàn là sốc Miên, nhứt là ở Trà Vinh, Thất Sơn, ở vùng Sóc Trăng.
Việc lập ấp, lập đồn điền xúc tiến trong vòng non 6 năm là thực dân Pháp đánh
chiếm thành Gia Định. Tuy nhiên, sau khi cắt ba tỉnh miền Đông cho Pháp, năm
1864, vua Tự Đức chuẩn cho Trần Hoán làm tuần phủ Hà Tiên kiêm sung chức Dinh
điền ở An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long : kết quả chắc là mong manh vì thực dân lại
đánh vào ba tỉnh miền Tây năm 1867.
Đồng
thời với quy chế lập ấp và lập đồn điền năm 1835, vua Tự Đức định lệ người cày
mướn ruộng : Gặp năm mất mùa, nếu nhà nước miễn thuế cho chủ điền theo tỷ lệ
nào thì chủ điền phải theo tỷ lệ ấy mà bớt lúa ruộng cho tá điền. Đây là việc
làm có chút ít tiến bộ.
Năm 1850, khi được sung Nam kỳ kinh lược sứ, Nguyễn Tri Phương chú ý đến nạn
cho vay nặng lời. Từ lâu, theo lệ triều đình thì cho vay riêng tư hoặc cầm cố
tài vật, bất luận là năm tháng lâu mau thì chỉ lấy một vốn một lời mà thôi, mỗi
tháng tiền lời không quá 3 phân, ai trái lịnh thì bị phạt 40 roi. Lời dạy của
Hình Bộ nói rất kỹ : như mượn một lượng bạc, cứ mỗi tháng 3 phân mà lấy lời,
kéo dài tới 33 tháng thì bạc lời đã đầy một lượng tức là ngang với số vốn rồi.
Như con nợ không trả tiền lời đều đặn, trả kéo dài năm mười năm thì cũng giữ
nguyên tắc “một vốn một lời” là dứt nợ. Nguyễn Tri Phương nhắc lại nguyên tắc
không quá 3 phân mỗi tháng. “Gần đây, nghe Gia Định tỉnh có phú hộ cho vay, phần
nhiều trái lịnh cấm cho nên con nợ không thể trả, thường bị chủ nợ làm khổ. Người
lính (mang nợ) không yên trong cơ ngũ, mà dân sống không yên cho nên có người
sinh tâm phải ăn trộm, chớ không phải nhứt thiết vì tham. Cổ nhân thường nói :
cho vay tiền không bằng cho vay đức (trái tài bất như trái đức), nên giảm thuế,
bớt tô. Triều đình thường ra kế an dân, sao người ta lại tham để làm hại nhau ?
Bởi vậy bản chức thể đức ý của triều đình, lấy an dân làm nhiệm vụ, đã sức cho
phủ huyện bảo cho người phóng trái : trừ người từ trước đã trả được ít nhiều,
còn kỳ dư là bất lực, hãy hoản cho họ một năm để cho họ an cư sinh sống, chậm
việc thúc bách đòi nợ họ”.
Mấy nét trên đây giúp soi sáng một khía cạnh quan trọng của việc lập ấp di dân
: các ông bá hộ đứng ra đỡ đầu đều thủ lợi quá đáng. Lời kêu gọi của Nguyễn Tri
Phương chắc ít được lưu ý. Nguyễn Tri Phương khuyên các chủ điền (cũng là bá hộ,
là chủ nợ) nên giảm địa tô. Điều này lại càng khó được hưởng ứng vì luật pháp
không hề quy định rõ rệt, cứ để cho người chủ đất thao túng.
Năm Tự Đức thứ 13 (1860) là năm bi đát. Tháng giêng, quân sĩ Cao Miên gây sự
đánh vào An Giang và Hà Tiên, nhưng ta đuổi được (quân Cao Miên qua chiếm vùng
Thất Sơn). Tướng Nguyễn Tri Phương được phái vào Nam để lo chiếm lại thành Sài
Gòn, sau khi nguyên soái Pháp (Page) đưa ra một dự thảo hòa ước rất ngặt nghèo
cho ta.
Tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn Uyển truyền cho dân dũng trong đồn điền, trong ấp
phải thao diễn tại tỉnh, các đồn ở trong làng canh phòng cẩn mật, dân trong ấp
phải chăm lo việc nông, các nhà phú hộ thì tích trữ lúa thóc để bán cho nông
dân hoặc cho vay, ai bán hết thì bị phạt nặng. Mặt khác, phải ngừa gian thương
chở lúa gạo bán ra vùng giặc. Đất không được bỏ hoang, lúa phải tích trữ để dân
khỏi bị khốn trong lúc “thanh hoàng bất tiếp” (lúa bắt đầu chín, chưa gặt ăn được).
Chương
1 - 4
Làng xóm, điền đất và người dân thời đàng cựu
Trước khi người Pháp đến, đất Nam kỳ đã là nơi việc cai trị tổ chức thành nền nếp
khá minh bạch. Người Pháp nghiên cứu kỹ lưỡng, sửa đổi hoặc noi theo phần nào để
áp dụng có lợi cho việc thực dân. Những tài liệu sau đây phần lớn rút từ “Những
bài giảng về cách cai trị thời đàng cựu” do viên tham biện nhiều kinh nghiệm là
J.B. Eliacin Luro đem dạy tại trường Hậu Bổ Sài Gòn vào năm 1875. Luro từng là
sĩ quan tham gia đánh chiếm và bình định xứ Nam kỳ. Thời ấy, tài liệu tuy bị mất
mát nhưng còn khá nhiều, vài viên chức thời đàng cựu đã giúp Luro biên soạn, đặc
biệt là ông Trần Nguơn Vị (bát phẩm cựu trào, tục danh ông Hạp) làm việc cho
Pháp thăng lần đến Đốc phủ sứ. Theo quy chế đàng cựu (thời Tự Đức) ở mỗi tỉnh
có năm phòng : phòng Lại, phòng Hộ, phòng Lễ... Ông Hạp là viên chức đứng đầu một
phòng, tương đương với chức vụ trưởng ty ngày nay. Mỗi công văn đều lần lượt do
thơ lại thảo ra, trình cho ông Hạp, ông Hạp trình cho viên kinh lịch hoặc thông
phán xem kỹ trước khi trình lên quan Tổng đốc. Ông Hạp Trần Nguơn Vị là người
vùng Lấp Vò (Long Xuyên) nên trưng ra nhiều tài liệu về vùng này.
Về địa bộ năm Minh Mạng thứ mười bảy
Như đã nói, ở Nam kỳ đây là lần duy nhất triều đình tổ chức việc đo đạc do
Trương Đăng Quế cầm đầu, cùng với một số viên chức chuyên môn từ kinh đô vào.
Nên phân biệt địa bộ và điền bộ :
— Địa bộ ghi rõ từng khoảnh đất : diện tích, loại đất, ranh giới tứ cận, tên
người chủ.
— Điền bộ, gọi nôm na là bộ điền, chỉ ghi tên người chủ đất, diện tích, loại đất,
đặc biệt là số thuế phải đóng.
Địa bộ nặng về chi tiết liên quan đến tên họ chủ đất, ranh giới, diện tích mà
không ghi số thuế hàng năm trong khi điền bộ chỉ chú trọng vào thuế má : thuế ấy
ai phải trả ?
Năm Minh Mạng thứ 17, mỗi làng phải lập một địa bộ gồm 3 bổn giống nhau.
— Bổn Giáp, gởi về Hộ Bộ ở Kinh đô.
— Bổn ất, giữ tại tỉnh, nơi văn phòng quan Bố chánh.
— Bổn Bính, giữ tại làng.
Từ đó về sau, mỗi khi mua bán đất, nhà nước lấy địa bộ Minh Mạng này ra điều chỉnh.
Xin đơn cử làm thí dụ bổn địa bộ Minh Mạng của thôn Tân Bình, thuộc Tân Phú tổng,
Đông Xuyên huyện, Tân Thành phủ, tức vùng Lấp Vò, thuộc tỉnh An Giang.
Hương chức gồm Thôn trưởng, Hương thân, Hương hào đứng tên lập ra, có Cai tổng
và Phó tổng “Thừa nhận thiệt”.
Sau đó là viên Tri huyện “Thừa duyệt thiệt”.
Các viên chức của tỉnh (tỉnh phái) cũng ký vào, theo thứ tự :
— Thơ lại của án sát sứ ty “Thừa cứu”
— Thông phán của Bố chánh sứ ty “Thừa tỷ”
— Quan Bố chánh và quan án sát của tỉnh An Giang “Thừa hạch thiệt”
Các viên chức từ Kinh đô đến (Kinh phái) ký vào theo thứ tự :
— Thơ lại của Tào chánh ty, thuộc Bộ Công “Thừa Cứu”
— Viên ngoại lang của Bộ Lễ “Thừa tỷ”
— Chủ sự của Bộ Binh “Thừa phúc cứu”
Tổng cộng các hạng điền thổ trong làng Tân Bình là 208 mẫu.
Trong số này, ruộng canh tác gồm 88 mẫu : 19 mẫu thảo điền và 69 mẫu sơn điền.
Đất ruộng đổi thành vườn cau, có gia cư : 11 mẫu.
Đất ruộng đổi thành vườn chuối, tre, có gia cư : 13 mẫu.
Đất trồng dâu và trồng mía : 10 mẫu.
Đất trước kia trồng dâu, nay trồng đậu, khoai : 17 mẫu.
Đất trồng tre : 30 mẫu.
Đất trồng lá dừa nước : 30 mẫu.
Đất trước kia trồng dâu, nay đổi thành đất lập chợ phố : 5 mẫu.
Ngoài ra còn đất gò quá cao, đất làm nghĩa địa, đất bỏ hoang không đo đạc diện
tích.
Về sự phân khoảnh đất ruộng, 19 mẫu thảo điền đã kê khai chia làm ba sở : 5 mẫu,
8 mẫu, 6 mẫu.
Về sơn điền, chia ra 4 sở : 18, 17, 12 và 20 mẫu.
Địa bộ của làng chỉ có tên họ năm bảy ông điền chủ mà thôi.
Khu đất dành để cất chợ là 5 mẫu, do hai người đứng tên làm chủ. Cuối bổn địa bộ,
hương chức làng cam kết không khai thêm bớt, nếu sai lạc hoặc còn đất ẩn lậu mà
không khai thì chịu tội.
Về điền bộ, (tức là bộ ghi thuế điền) trước sau chỉ lập ra có bốn lần từ hồi
nhà Nguyễn tới khi thực dân Pháp đến, gọi là Đại Tu Điền Bộ, làm chuẩn để thêm
bớt vào những năm sau.
Bốn lần ấy là :
— Năm Thiệu Trị thứ ba.
— Năm Tự Đức nguyên niên.
— Năm Tự Đức thứ 11.
— Năm Tự Đức thứ 16.
Cũng làng Tân Bình (Lấp Vó) nói trên, so với địa bộ Minh Mạng hồi 12 năm về trước,
có sự thay đổi rõ rệt : đất ruộng chịu thuế đã giảm về diện tích trong khi các
loại đất trồng đậu, khoai và trồng tre vẫn như cũ. Trong địa bộ Minh Mạng không
ghi đất công điền, nhưng trong điền bộ sau này ghi rõ các sở công điền. Có lẽ
diện tích sút giảm vì dân qua các làng khác làm ăn, hoặc có sự ẩn lậu diện tích
để trốn thuế. Đây là một làng thuộc tỉnh An Giang, thành lập từ đời Gia Long
nên dân lậu rút bớt qua các làng tân lập, khiến các chủ điền vì sợ đóng thuế
không nổi nên hiến cho làng để làm công điền ; một số đất khác thì lần hồi canh
tác rồi cũng bỏ hoang.
Đất thiệt trưng, tổng cộng 165 mẫu trong đó “điền” (đất làm ruộng) là 58 mẫu và
“thổ” (các loại trồng tỉa khác) là 106 mẫu.
Thảo điền gồm một sở công điền 5 mẫu và 10 mẫu tư điền khác chia làm hai sở.
Sơn điền gồm 42 mẫu, trong đó công điền ba sở, tư điền hai sở. Đáng chú ý là có
một sở 12 mẫu do Mai Văn Ngọc làm chủ, ông này vì can án theo ngụy (phải chăng
là theo ngụy Khôi) nên đất bị tịch biên đem vào công điền.
Ngoài số đất ruộng nói trên, những phần đất trồng tre, trồng dâu, trồng khoai đậu
không thay đổi mấy.
Trong làng Tân Bình, bộ điền ghi 18 mẫu liệt vào loại “hoang phế” (vì dân đã thất
lạc) từ năm Thiệu Trị thứ 5, bỏ hoang dưới 5 năm.
Lại còn 28 mẫu ghi vào loại “cửu kinh hoang phế” tức là bỏ hoang lâu hơn. Một số
đất lần hồi trở thành xấu, lúc trước canh tác được nhưng về sau đất chai lần,
sanh ra sỏi (loại đá ong). Lại còn vài mẫu đất phù sa mới bồi, ghi vào bộ. Một
số người khẩn đất trước kia bỏ xứ mà đi, không biết lý do, đất trở thành công
điền. Lại có người chết không có con cháu thừa tự nên đất cũng trở thành công
điền.
Về thuế đất, năm Tự Đức nguyên niên, thấy ghi rõ trong bộ như sau :
Thảo điền, mỗi mẫu thâu tô túc 26 thăng, thập vật tiền là 3 tiền.
Sơn điền, mỗi mẫu tô túc 23 thăng, thập vật tiền là 3 tiền.
Tang căn thổ (đất trồng dâu), mỗi mẫu 2 quan.
Viên lang thổ (đất lập vườn cau), mỗi mẫu 1 quan 4 tiền.
Vu đậu thổ (đất trồng khoai đậu), mỗi mẫu 8 tiền.
Thổ trạch, mỗi mẫu 8 tiền.
Thanh trúc thổ (đất trồng tre), mỗi mẫu 4 tiền.
Dà diệp thổ (đất trồng lá dừa nước), mỗi mẫu 4 tiền.
Biểu thuế trên đây tính theo lệ đã ban hành từ năm Minh Mạng thứ 17.
Lập làng mới
Đời Tự Đức, ở Nam kỳ Lục tỉnh, nhà nước khuyến khích lập làng để thúc đẩy khẩn hoang, thâu thêm thuế đinh và thuế điền. Việc lập làng được hưởng ứng, bất kể dân giàu hay dân nghèo.
— Người giàu (thường là bá hộ) được dịp ban ơn bố đức cho dân đi khẩn đất. Trong giai đoạn đầu, người khẩn đất cần vốn liếng để sắm nhà cửa, ghe xuồng, nông cụ, quần áo, gạo để ăn, tiền để xài. Ông bá hộ cho vay tiền, vay lúa với mức lời rất nặng, trên 50 phần trăm mỗi năm. Ngoài ra, nếu ông bá hộ trực tiếp khẩn đất thì có thể canh tác với nhân công mướn rẻ, đó là những người bạn làm ruộng ăn lương hàng năm, khi rảnh việc cày cấy gặt hái thì chủ bắt chèo ghe, sửa nhà, đắp bờ, đào mương vườn. Bạn làm công luôn luôn mượn tiền trước với tiền lời rất nặng, lắm khi vì đau yếu hay cờ bạc, vợ và con phải làm việc thay thế để trừ nợ.
— Người nghèo không gia cư, đã túng thiếu đổ nợ ở các làng cũ nếu có chí thì đi nơi khác xin lập làng mới, chịu khó làm ăn thì có thể trở thành điền chủ nhỏ, được làm hương chức. Trong nhiều trường hợp, người đi lập làng thường lôi kéo theo nào là bạn thân, nào là bà con xa, bà con gần để trong việc làm ăn hàng ngày họ sống trong bầu không khí thân mật và tin cậy hơn.
Đơn xin lập làng làm ra hai bổn, dâng lên quan Bố chánh. Trong đơn ghi rõ :
— Ranh giới tứ cận của làng mới lập.
— Tên những người gia trưởng (điền hộ).
— Ranh giới các sở đất xin khẩn, tên chủ đất, diện tích, loại đất gì (sơn điền, thảo điền hoặc vu đậu).
— Nêu rõ tên làng mới (xin đặt tên).
— Xin miễn thuế, miễn sưu và miễn lính trong ba năm.
— Ghi tên những người dân bộ (bộ đinh) để bảo đảm có số thuế tối thiểu trong tương lai.
Quan Bố chánh nhận đơn, chỉ cần biết rõ ranh giới làng mới và tên tuổi của dân lập làng (gồm dân đã từng đứng bộ trong làng khác và dân lậu) rồi phê vào mấy chữ : “Phú hồi sở tại phủ viên khám biện”.
Khi nhận được lịnh, quan phủ bèn đến tận nơi với vài nhân viên (lại lệ), đòi hương chức các làng kế cận, luôn cả viên cai tổng để xác nhận rằng làng mới xin lập không lấn ranh vào những làng đã có ở bốn phía và chẳng ai ngăn cản. Dân xin lập làng phải có mặt để xác nhận chịu khẩn và chịu đóng thuế, sở đất của người này không lấn ranh vào sở của người kia. Dân lậu xin lập làng cũng đến để được điều tra xem có tội trạng, tiền án, hoặc có giả mạo tên tuổi không. Quan phủ cho đo diện tích để biết lần đo trước của dân làng có chính xác chăng (dư hoặc thiếu), xem ranh giới từng sở đất, tên người chủ, loại sơn điền, thảo điền hoặc đất trồng dâu, trồng khoai đậu... Luôn dịp ấy, quan phủ nhìn nhận cho người xin lập làng làm chức thôn trưởng, cấp cho con dấu nhỏ, hình chữ nhựt, theo nguyên tắc con dấu phải làm bằng cây (vì vậy gọi là mộc ký, hoặc nói gọn là con mộc). Đồng thời quan phủ cho phép làng cũ hủy bỏ tên những người dân đã di chuyển để ghi vào bộ sổ của làng mới lập.
Quan phủ soạn tờ phúc bẩm, trình với quan Bố chánh việc mình đã làm, kèm theo bản đồ tổng quát của làng tân lập, vị trí các sở đất, loại đất, tên người xin khẩn, diện tích. Trên bản đồ thường vẽ hình cây lâm vồ, chòm tre, lung bàu hoặc hình chùa miễu để làm chuẩn. Thôn trưởng ở mấy làng giáp ranh đồng ký vào.
Tờ phúc bẩm này được quan phủ dâng cho quan Bố chánh, làm hai bổn. Khi nhận được, quan Bố chánh phê “trình biện”; chuyển lên quan Tổng đốc thì được phê “chiếu biện” khi chấp thuận.
Một bổn có lời phê trên đây lại gởi trả xuống cho quan phủ hoặc quan huyện. Lập tức, quan phủ hoặc quan huyện đến làng tân lập nọ, lần thứ nhì, để làm tờ khám án (Luro dịch là jugement procès verbal). Trong tờ này ghi là đã đến nơi, gọi các viên cai tổng, thôn trưởng kế cận đến để xác nhận, rồi kê khai các sở đất, diện tích, loại đất, tên người khẩn như trong tờ phúc bẩm. Bên dưới là chữ ký của thôn trưởng, hương thân, của dân làng tân lập cùng các ông cai tổng sở tại và lân cận.
Tóm lại, việc lập làng chia ra ba giai đoạn :
— Dâng đơn lên quan Bố chánh
— Quan phủ hoặc quan huyện đến nơi làm tờ phúc bẩm
— Khi được quan Tổng đốc đồng ý, quan phủ trở lại làng, làm tờ khám án
Trường hợp làng Châu Quới tân lập, tách ra từ làng Châu Phú (nay là vùng chợ Châu Đốc) lúc mới làm đơn xin chỉ có 7 người dân đứng tên (2 người dân có bộ cũ, 5 người dân lậu), đất khẩn các loại tổng cộng 66 mẫu (trong đó chỉ có 2 mẫu thảo điền và 3 mẫu sơn điền) giúp ta thấy rõ tình trạng làng xóm lúc bấy giờ, quan trên tỏ ra dễ dãi, những người đứng tên là tiểu điền chủ, sau này sẽ quy tụ thêm dân đến làm công hoặc làm tá điền cho họ.
Nói chung, hương chức làng (hương dịch) chia ra làm 2 hạng : “các chức lớn” và “các chức nhỏ”. Các chức nhỏ là người thi hành, đi gặp dân để truyền lịnh của các chức lớn. Muốn được hương chức cần có điều kiện tuy đơn giản nhưng gắt gao : phải cư ngụ trong làng, có hằng sản hoặc uy tín lớn (thí dụ như người nghèo nhưng ông cha ngày xưa làm quan hoặc đã sáng lập làng). Lúc ban đầu chỉ đặt ra thôn trưởng (xã trưởng) và hương thân (theo Luro, chức hương thân do Nguyễn Tri Phương bày ra). Lần hồi khi làng đông dân, thuế má dồi dào thì cử thêm ấp trưởng, cai tuần, trùm cả, thủ hộ, biện lại, biện đình. Hương chức lớn thì có thêm hương hào, hương sư, hương chánh, hương lễ...
Nhiều người cho rằng hương chức làng là tổ chức dân chủ. Đó là nói quá đáng, nếu không sai lạc : tổ chức phong kiến, của phe đảng thì đúng hơn. Khi thiếu một người hương chức thì mấy người sáng lập làng hoặc những người đang làm hương chức bèn nhóm lại rồi cử người trong nhóm, trong phe. Dân nghèo không hằng sản, tức là không điền đất hoặc không vốn liếng to để làm nghề mua bán thì chỉ được quyền đứng ngoài xa mà nhìn, hoặc là nấu nước pha trà cho các ông hương chức uống khi họ bầu cử lẫn nhau. Vua chúa ngày xưa nhắc nhở đến dân, “dân vi quý” hoặc gọi tổng quát là bá tánh. Nhìn qua bộ điền hoặc địa bộ của làng, ta thấy tên họ của những người dân mà thời phong kiến đề cập tới : đó là những điền chủ lớn nhỏ, những ông bá hộ. Dân lậu, không tên trong bộ, không được nhìn nhận là dân.
Việc khẩn đất
Lần hồi, khi Gia Long bắt đầu cai trị thì việc khẩn hoang không còn quá dễ dãi như lúc mới bắt đầu Nam tiến. Nhà nước kiểm soát kỹ lưỡng việc khẩn đất, nhằm mục đích thâu thuế. Đời Tự Đức, trên nguyên tắc thì đất hoang (hoang nhàn) ai làm đơn xin khẩn trước là người đó được.
Hễ đất bỏ hoang, không đóng thuế là đem cho người khác trưng khẩn để nhà nước khỏi bị mất thuế.
Đất tạm bỏ hoang, trong trường hợp chủ đất chết, không con, thân nhân chưa hay biết thì giao tạm cho người khác, chờ có người đến nhìn nhận.
Không đóng thuế, đất có thể bị mất. Muốn đóng thuế, phải đăng vào địa bộ. Muốn đăng vào địa bộ thì phải làm đơn theo thủ tục.
Nhà nước luôn luôn thúc giục dân khẩn đất, ghi vào địa bộ và đóng thuế để khỏi bị tranh cản về sau, nhứt là trường hợp đất tốt ở nơi đông dân cư, gần đường giao thông tiện lợi.
Nhiều sự trừng phạt đích đáng dành cho kẻ ẩn giấu diện tích, canh tác lậu.
Năm Gia Long thứ 9, theo lệ thì khi gặp đất canh tác lậu thuế (đất không xin ghi vào bộ), kể tố giác được hưởng phần đất ấy, xin ghi vào bộ để làm chủ, tức là hưởng công lao khẩn hoang của kẻ đi trước. Nếu người tố giác không muốn khẩn thì đất vẫn còn là của chủ cũ, chủ cũ phải lập tức hợp thức hóa.
Nếu là vùng đất tốt, tên Giáp khai 5 mẫu nhưng trong thực tế cày cấy đến 8 mẫu, người tố giác có thể xin trưng khẩn 3 mẫu thặng dư.
Lệ năm Minh Mạng thứ 15, sửa đổi chút ít : kẻ nào canh tác trên phần đất ruộng hơn diện tích đã khai trong bộ thì bị phạt, tiền phạt đem thưởng cho kẻ tố giác (đất lậu ấy không bị tịch thâu).
Nếu khẩn một khoảnh đất riêng rẽ, hoàn toàn trốn thuế từ lâu thì đất bị tịch thu, giao cho kẻ nào chịu đến canh tác và chịu đóng thuế.
Lệ năm Tự Đức nguyên niên đặt ra : hễ đất mới khẩn mà chưa làm ruộng, chủ hoàn toàn trốn thuế thì giao cho người tố giác làm chủ, ghi vào bộ. Nếu đất trước đó có canh tác, có đóng thuế nhưng trải qua một thời kỳ bỏ hoang lâu hay mau, chủ trở lại canh tác mà không chịu đóng thuế thì chủ đất bị phạt 3 quan mỗi mẫu, đất không bị tịch thâu. Tóm lại, đời Tự Đức đất chỉ bị tịch thâu giao cho người khác khi là đất hoang, mới khai khẩn. Kẻ bị tố giác phải chịu đóng thuế năm trước và những hình phạt bằng roi cho kẻ khai gian diện tích.
Luật lệ khẩn đất ngày xưa định như sau :
— Đất đã ghi vào bộ, biết rõ ranh giới và diện tích mà bỏ hoang vô thừa nhận thì dân làng cứ làm đơn xin phục khẩn, quan Bố chánh có trọn quyền định đoạt. Đất mới bỏ hoang dưới 5 năm, được miễn một năm thuế điền, đất bỏ hoang quá lâu (cửu kinh hoang phế), miễn 3 năm.
— Chủ đất chết, không con thừa tự thì làng cho người khác tới lãnh, ghi tên vào bộ (diện tích đã biết rõ rồi).
— Nếu muốn khẩn nới rộng thêm một sở đất đã vô bộ từ trước, chủ đất cứ làm đơn, quan trên sẽ chấp nhận sau khi khám xét (trường hợp tăng trưng).
— Nếu là sở đất to, ở vùng hoang nhàn chưa ai khai khẩn thì theo thủ tục khá phức tạp, giống như thủ tục xin lập một làng mới :
* Làm đơn dâng lên quan Bố chánh để xin khẩn, kèm theo bản đồ sơ sài, ghi tứ cận ranh giới. Quan Bố chánh sẽ phú hồi cho quan huyện sở tại khám xét.
* Quan huyện gọi hương chức làng và những người chủ đất giáp ranh đến, khám xét lại, mục đích chánh là đề phòng trường hợp lấn vào phần đất mà người khác đang khai khẩn nhưng chưa xin vô bộ kịp, rồi lập tờ phúc bẩm, chờ quan Bố chánh duyệt xem.
* Quan huyện cho viên chức tới lập tờ án khám, xác nhận cấp đất.
Trên thực tế, thủ tục khẩn đất quá khó khăn. Ngày xưa đường giao thông bất lợi, dân ở vùng Sóc Trăng phải vượt đường xa, đến tận chợ Châu Đốc để dâng đơn lên quan Bố chánh, hơn trăm cây số. Lại còn bao nhiêu sở phí linh tinh : lo lót cho lính lệ, cho các viên chức và quan huyện đi làm phúc bẩm và án khám, lo lót cho hương chức làng. Người dân nghèo thiếu vốn liếng để giao thiệp và lo hối lộ thì chẳng bao giờ làm chủ đất được. Lương bổng của các quan rất ít oi; đứng về pháp lý và luân lý Khổng Mạnh, các quan lớn nhỏ được phép tha hồ nhận tiền hối lộ (gọi là lộc). Làm chuyện ích lợi cho dân, dân đền ơn thì cứ hưởng một cách thoải mái, lương tâm chẳng ray rứt !
Chủ điền, chủ nợ và tá điền
Dân trong làng phải ghi vào bộ để chịu thuế; dân có nghĩa là đàn ông, con trai. Tất cả dân, làm bất cứ nghề gì cũng phải ghi. Trên nguyên tắc thì vậy nhưng ở làng có rất nhiều người không ghi tên vào bộ đinh. Họ là dân lậu. Rốt cuộc, chỉ những người điền chủ mới ghi tên, chịu thuế. Luro giải thích : Hương chức làng đã qua mặt Triều đình và Triều đình làm ngơ vì nếu áp dụng luật lệ quá gắt gao, một số đông dân làng sẽ bỏ trốn vì đóng thuế không nổi, chi bằng cứ chấp nhận một số ít dân đóng thuế mà làng xóm tồn tại, việc ruộng nương được điều hòa.
Dân lậu là ai ? Là tá điền, tức là những người không đủ thế lực, không đủ vốn khẩn đất, họ mướn lại đất của chủ điền.
Là tá điền, khi mướn đất họ phải làm tờ tá điền (gọi tắt là tờ tá) tức là tờ mướn đất để làm ruộng. Mỗi mùa, họ đong cho điền chủ một số lúa gọi nôm na là lúa ruộng (chữ nho gọi là “tá túc”), lúa mướn đất. Nên phân biệt với “tô túc” là số lúa mà chủ điền đóng cho nhà nước trong thuế bằng hiện vật, cộng với một số tiền mặt.
Thời phong kiến (luôn cả đến thời Pháp thuộc) giữa chủ điền và tá điền không có quy định nào rõ rệt do nhà nước đưa ra về số lúa ruộng (tá túc) mà tá điền phải đóng cho chủ điền, theo tỷ lệ hoặc giá biểu nào cả. Tá điền chỉ biết trông cậy vào lòng nhân đạo của chủ điền mà thôi. Luân lý Khổng Mạnh thường nhắc đến hai tiếng “tích đức”, là nhắm vào chủ điền trong việc đối xử với tá điền, giới tá điền dầu có lòng tốt thì cũng chẳng có ai dưới tay để mà ban bố.
Về pháp lý, tờ tá (tờ mướn đất) là văn kiện do chủ điền và tá điền tự ý ký kết. Nếu tá điền vi phạm điều giao kết thì chủ điền tố cáo, nhờ quan làng xử. Năm nào tá điền trả không nổi thì chủ điền giữ giấy ấy lại, xem như là giấy nợ hợp pháp.
Một số hương chức và thân hào tuy không đứng bộ, không làm chủ sở đất nào trong làng nhưng lại có ưu thế đối với đất gọi là công điền, do làng làm chủ (nhưng hương chức làng không được tự ý bán, trong bất cứ trường hợp hoặc vì lý do nào). Họ đứng ra mướn đất công điền với giá rẻ rồi cho dân mướn lại với giá cao hơn, họ đóng vai trung gian mà ăn lời. Trên lý thuyết thì sự thành lập công điền nhằm mục đích giúp cho công quỹ của làng thâu thêm lúa và tiền để dùng vào công ích, đồng thời giúp một số tá điền có đất làm ruộng. Nhưng người tá điền chẳng được hưởng ân huệ gì cả.
Người chủ điền thời xưa được quyền hưởng “lộc” do tá điền đền ơn cho, vì chủ điền đã giúp tá điền có đất mà cày, có nơi cất nhà, có chỗ vay mượn lúc đau ốm. Khi vay, con nợ phải mang ơn; chủ điền là ông vua nho nhỏ trong đất đai của họ, tá điền đóng vai thần dân của tiểu giang sơn. Chủ điền bắt buộc tá điền làm “công nhựt”, tức là làm thí công, mỗi năm vài ba ngày, (tùy theo lòng nhân đức của mỗi chủ điền) lúc có đám giỗ, lúc chủ điền gả con, ăn mừng tuổi thọ ngũ tuần, lục tuần. Đặc biệt là trước ngày Tết, tá điền phải đến làm cỏ vườn, bửa củi, xay lúa, chèo ghe. Ngoài số lúa ruộng ghi trong giấy mướn đất, tá điền còn góp một số hiện vật gọi là “công lễ”, thì dụ như vài lít rượu nếp thứ ngon, một thúng nếp trắng, một cặp vịt vào dịp đám giỗ trong gia đình chủ điền hoặc ngày Tết, theo kiểu chư hầu cống sứ cho thiên tử. Đáp lại, nhiều chủ điền tỏ ra rộng lượng, bố thí và tích đức cho con cháu mình bằng cách đốt bỏ giấy nợ của tá điền, loại giấy nợ không thanh toán nổi từ mấy năm trước vì mất mùa hoặc đau yếu.
Thân phận đàn ông làm tá điền gẫm lại còn khỏe hơn đàn bà. Đàn bà trong gia đình nghèo lo lắng cực nhọc, trong ngoài : gặt lúa, cấy lúa, bửa củi, nuôi heo gà, xay lúa giã gạo, lại còn nuôi con. Con trẻ lớn lên đôi khi trở thành một thứ động sản mà cha mẹ đem cầm cố cho người khác để chăn trâu, khi nào dứt nợ hoặc đủ tiền chuộc thì mới được về nhà.
Về mức sống cụ thể của chủ điền, chúng tôi không sưu tầm được tài liệu để so sánh, hoặc trường hợp tiêu biểu. Trong tài liệu của Luro, có sao lục lại tờ chia gia tài của một chủ điền ở Tân Thành phủ, Vĩnh Phước thôn, tỉnh An Giang tức là địa phận Sa Đéc đất ruộng phì nhiêu. Ông điền chủ này kê khai tài sản để chia cho con cái :
— 3 sở đất cộng là 75 mẫu
— 2 đôi xuyến vàng
— 7 đôi bông vàng
— 10 đôi xuyến bằng vàng (tử kim)
— 4 bộ ngũ sự (chưn đèn, lư hương...)
— 10 xâu chuỗi hổ (hổ phách)
— 50 đính bạc, mỗi đính 10 lượng, tức là 500 lượng bạc.
— 1000 đồng bạc “điểu ngân” (bạc con ó Mễ Tây Cơ)
— 15000 quan tiền kẽm
và một số nợ mà người khác chưa trả cho ông.
Ông điền chủ nói trên làm tờ chia gia tài vào năm Minh Mạng thứ 20 (1839), để lại một nhà ngói ba căn, chẳng hiểu ngoài nghề làm điền chủ, cho tá điền vay, ông còn buôn bán gì khác chăng ?
Về giá đất, có vài tài liệu như sau, lẽ dĩ nhiên giá thay đổi tùy theo địa phương, tùy loại đất hoặc vị trí gần xa đường giao thông, chợ phố.
— Đất tốt (thảo điền) ở Định Tường : 10 mẫu, 9 sào, 8 thước trị giá 1682 quan, bán đứt, năm Thiệu Trị thứ 7.
— Đất hơi xấu (sơn điền) ở Phú Mỹ thôn (vùng Thị Nghè), Gia Định : 5 mẫu, 6 cao, 7 thước, cố vô thời hạn (mại lai thục) với giá 650 quan, khi có tiền cứ chuộc lại đúng số tiền trên không ăn lời, năm Tự Đức thứ 5.
— Đất ở Long Thành (Biên Hòa) loại sơn điền : 2 mẫu, 3 sào cầm với giá 190 quan, hẹn 3 năm thì chuộc lại, trả vốn và lời theo luật định (3 phân), năm Tự Đức thứ 5.
Về lúa ruộng (nay gọi là địa tô, xưa gọi là tá túc) ở làng Nhơn Ngãi, tổng Dương Hòa Trung, tỉnh Vĩnh Long : 10 mẫu đất cho tá điền mướn với giá là 50 phương lúa, hẹn tháng 2 âm lịch năm sau, khi làm mùa xong phải đong cho chủ điền. Thuế điền thì do chủ điền đóng, năm Tự Đức thứ 4.
Về lúa ruộng ở làng Vĩnh Điền, phủ Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc : mướn sơn điền 10 mẫu trong 10, mỗi năm 500 quan tiền mặt hoặc thay vào đó, đong lúa hột (húc tử) 500 giạ. Tá điền phải đong lúa hoặc trả tiền vào tháng 2 âm lịch, sau khi làm mùa. Chủ điền chịu đóng thuế điền cho nhà nước, nếu trong thời gian trên tá điền không canh tác hết, còn đất bỏ hoang phế thì khi giao trả đất cho chủ điền, phải làm cỏ cho sạch, năm Qů Dậu (1873) khi người Pháp vừa xâm chiếm nước ta.
Về việc mướn trâu của chủ điền để cày và kéo lúa, ở làng Mỹ Trà (Cao Lãnh) : mướn một con trâu đực 6 tuổi, một con trâu cái 5 tuổi, mỗi năm trả 80 giạ, vào năm Bính Ngọ (đời Thiệu Trị, 1846). Nếu trâu đau thì cho chủ biết kịp thời, phòng khi trâu chết có chứng cớ.
Bán trâu ở làng Tân Sơn (Vĩnh Long) : một con đực 5 tuổi, một con cái 4 tuổi và một con nghé chưa đủ 1 tuổi với giá 400 quan, năm Giáp Tuất (1874) khi người Pháp đã qua xứ ta.
Tài liệu nói trên chỉ là giấy tờ, trên thực tế chắc có khác. Lại còn vài tài liệu về giấy nợ, nhưng chỉ ghi là ăn 3 phân lời theo luật định (trong thực tế, theo Luro, việc cho vay lúa ăn làm mùa tính lời 50 phần trăm trong vòng năm ba tháng). Lại còn vài chủ điền bắt ép tá điền phải vay mặc dầu tá điền đã đủ ăn, nếu không vay nợ thì chủ điền không cho mướn đất ruộng.
Người có đất thì ít khi nào chịu bán đứng vì còn bận bịu về tình cảm, về thể diện với xóm làng. Hơn nữa, còn chữ hiếu. Ông bà để đất lại, con cháu phải gìn giữ cho bằng được, nhiều khi mồ mả ông bà còn nằm trong ấy. Bởi vậy, túng tiền thì đem đất mà cầm hoặc cố; cầm thì phải chịu lời, trong khi cố thì không chịu tiền lời. Lắm khi vì cần tiền nhiều và nhắm sức mình khó trả, chủ đất đem cố trong thời hạn 10 hoặc 20 năm (lệ quy định quá 30 năm, con nợ không được quyền chuộc lại). Trong suốt thời gian đất bị cầm hoặc cố, thường là người chủ nợ hưởng lợi, đem đất ấy cho người khác canh tác mà thâu lúa ruộng.
Việc cầm cố thường xảy ra, nhứt là đối với người có đứng bộ vài sở đất. Họ không dám vay nợ quá nhiều, vì vay nhiều thì chẳng cách nào trả nổi. Vay bạc (không có đất cầm hoặc cố) thường chịu lời hơn 50 phần trăm mỗi năm; dầu cho tiết kiệm và mùa màng thâu hoạch ở mức trung bình, huê lợi ruộng nương chỉ đem lời độ 20 phần trăm mà thôi.
Đời Tự Đức, đơn vị để đo là một thước, còn gọi là thước quan, lấy tiêu chuẩn là 22 đồng tiền đời Gia Long sắp liền nhau; phỏng định tương đối chính xác là 526 ly (tức là hơn 5 tấc 2, tính theo mét).
Một thước quan chia ra 10 tấc, 1 tấc 10 phân.
Để đo diện tích ruộng đất, lệ xưa định một mẫu là diện tích của một hình vuông mỗi góc 150 thước quan ; tính ra mẫu tây (hectare) là 62 ares, 2521. Theo cố đạo Tabert thì một mẫu thời đàng cựu to hơn, là 73 ares, 0890.
Một mẫu chia ra 10 sào.
Một sào chia ra 15 thước, còn gọi là cao.
Người thời xưa quan niệm đơn giản rằng mẫu là sở đất hình vuông; sào là sở đất hình chữ nhật với bề ngang là 15 thước, bề dài là 150 thước.
Người Pháp ra nghị định ngày 3/10/1865 để thống nhứt việc đo đạc, họ quy định đại khái 2 mẫu ta ngày xưa là một mẫu tây (hectare). Như vậy có sự sai biệt, thật ra, hai mẫu ta là 125 ares tức là to hơn một mẫu tây.
Một mẫu tây chia ra 100 sào tây (100 ares).
Về đong lường, trên nguyên tắc thì dùng hộc để đong lúa, dùng vuông để đong gạo.
Một hộc chia ra 26 thăng, một thăng là 10 hiệp, một hiệp là 10 thược. Một hộc tính ra 71 lít, 905, đem cân nặng cỡ một tạ.
Một vuông chia ra 13 thăng (phân nửa của hộc) tính ra nhằm 35 lít, 953.
Một hộc lúa khi xay ra thì được một vuông gạo, tính đổ đồng.
Trong thực tế, khi mua bán đổi chác, người dân thường đong lúa gạo bằng vuông, gọi nôm na là “giạ”.
Người Pháp quy định một vuông là 40 lít, lúc ban đầu còn thâu thuế điền bằng lúa và một số tiền mặt theo lệ đằng cựu. Một vuông nâng lên là 40 lít thay vì non 36 lít như thời xưa, có lợi cho nhà nước thực dân hơn, dễ tính toán, với con số tròn trịa là 40 lít.
Chương 2 - 1
Nghĩa quân thất trận và nông dân mất ruộng
Thực dân Pháp gây xáo trộn toàn diện cho việc khẩn hoang ở miền Nam, mạng sống người dân không được bảo đảm, nói chi đến mùa màng, đất ruộng. Thực dân không dung túng hạng dân lậu như hồi cựu trào. Đất ruộng cũng thay đổi chủ. Giới quan lại, nho sĩ bị phân hóa, một số ít theo thực dân Pháp nhưng chỉ được chúng xài lúc ban đầu, vắt chanh rồi bỏ vỏ. Một số khác thì giữ thái độ tùy thời, tự biện hộ là minh triết bảo thân. Nhưng ở miền Nam, thực dân đưa ra miếng mồi khá ngon là khẩn đất, cơ hội tốt cho ông nhiêu, cậu ấm trở thành điền chủ để rồi rảnh rang uống rượu ngâm thơ, công kích vu vơ, chán đời lúc về già. Một số đông cố ý lẩn tránh, không hưởng bất cứ ân huệ nào của tân trào, sống nghèo với nghề dạy trẻ, hốt thuốc, coi quẻ diệc, dạy đờn ca, về thôn xóm mà vui với điền viên, mơ đời Nghiêu Thuấn, biết vinh biết nhục, tuy nhiên sinh kế khó khăn khiến cho các ông phải lâm vào cảnh “chỉ nhện lăng nhăng, cò vướng cánh ; bãi lau lẩn bẩn, cá quên sông”. Nho sĩ dùng võ lực kháng Pháp nổi danh là Thủ khoa Huân, đáng danh chí sĩ ; chiến sĩ văn hóa là ông Đồ Chiểu. Liều mạng đến mức gàn là ông Cử Trị, ông Nhiêu Phang. Thiên hộ Dương là điền chủ. Trương Định coi việc đồn điền, cũng là điền chủ. Nguyễn Trung Trực là nông dân, dân chài (anh chài Lịch).
Thoạt tiên, thực dân lúng túng, chưa tìm ra thể thức cai trị thích hợp : Việt Nam là dân có trình độ văn hóa khá cao và có nét độc đáo khác hơn các thuộc địa “da đen” ở Phi Châu. Thực dân cố ý dùng chánh sách :
— Đồng hóa về mặt hành chánh để dễ cai trị, sửa đổi lề lối làm việc cùng là cách soạn thảo công văn, cách thâu thuế, dự trù thuế, cách giam giữ, cách đấu thầu, tức là sắp đặt bộ máy hành chánh quan liêu mới thay cho những thủ tục quan liêu cũ.
— Bảo vệ những tệ đoan phong kiến, gọi cho ra vẻ sang trọng là bảo vệ văn hóa dân tộc : Duy trì hủ tục ở thôn quê, đình làng xôi thịt, các ông hương chức làng vẫn tha hồ bầu cử lẫn nhau trong phe phái, duy trì chế độ bắt dân làm xâu, “xá bẩm” các quan to quan nhỏ. Tham biện chủ tỉnh Pháp được gọi là quan Lớn trong công văn, với lời lẽ sợ sệt của người dân thời đàng cựu (trăm lạy quan Lớn, xuống phước cho con dân nhờ). Không quy định giá biểu mướn ruộng, chủ điền muốn cho mướn giá nào tùy theo lòng nhân đạo. Nhưng điểm đáng chú ý hơn hết trong lúc đàn áp các phong trào chống đối là dùng luật bổn xứ tức là luật Gia Long, với những biện pháp vô nhân đạo : tra tấn công khai, kẻ tòng phạm bị kết tội như chánh phạm, tru di tam tộc (bắt vợ con, cha mẹ của tội nhân). Quan Thống đốc được đón rước theo nghi lễ ngày xưa dành cho vua hoặc cho quan kinh lược với bàn hương án.
Lúc đánh chiếm và bình định xứ Nam kỳ Lục tỉnh, thực dân đã may mắn gặp được ba tên tay sai độc ác mà chúng dung túng lúc ban đầu. Đành rằng nếu kẻ này không làm Việt gian đắc lực thì còn kẻ khác, nhưng phải nhìn nhận rằng chính vì bọn này mà phong trào kháng Pháp bị suy giảm nhiều. Đó là Lãnh binh Tấn, Tổng đốc Phương, Tổng đốc Lộc.
Khi Pháp đánh thành Sài Gòn (1859), cả ba đều còn trẻ : Lộc 20 tuổi, Phương 18 tuổi, Tấn 22 tuổi.
Lãnh binh Huỳnh Công Tấn
Trước là tay chân của Trương Định chống Pháp ở Gò Công, bị Pháp bắt cung khai mọi việc và lập công lớn là dẫn quân Pháp bao vây “Đám lá tối trời” để giết chủ cũ. Tấn cũng tham gia trận bao vây đảo Phú Quốc để nhìn mặt và bắt Nguyễn Trung Trực. Nói chung thì Tấn không nuôi tham vọng lớn, chỉ có khả năng giới hạn, Pháp xài Tấn để gìn giữ vùng Gò Công và Bến Tre là nơi Tấn từng lui tới nhiều, am hiểu nhân dân và địa thế. Tấn lãnh trách nhiệm dọ thám, theo dõi những người kháng Pháp, lợi dụng địa vị để bắt bớ người này tha lỏng người kia, lẽ dĩ nhiên là vì tư lợi. Tấn làm giàu nhờ tổ chức sòng bạc, chiếm đất, bắt dân làm xâu phục vụ cho việc làm ăn riêng tư. Quan Tham biện (người Pháp) ở địa phương chán ngán lối làm việc luông tuồng và thất nhân tâm vì Tấn lấn quyền. Thực dân phong cho chức lãnh binh của lính mã tà, tức là chức vụ quân sự cao nhứt trong một tỉnh thời đàng cựu. Về sau, thực dân không phong chức này cho ai nữa vì ở thuộc địa, quyền chỉ huy quân sự nằm trong tay người Pháp, chẳng qua là sự khích lệ lúc ban đầu để Tấn hăng hái hoạt động. Tấn là người thất học, quê mùa nên ngây thơ đến mức dám chê bai, tố cáo đến quan Giám đốc Nội vụ lề lối cai trị của quan Tham biện Pháp ở hạt Bến Tre : “bởi quan Tham biện chúng tôi xưa là quan coi binh chưa từng biết việc dân cho nên ra việc quan, làm thì làm bậy, nói thì chẳng thông lý sự bằng dường như kẻ ngu si dốt nát”. Tấn lại lập công, tố cao : “Chúng tôi nghe bà con hai cậu (con Phan Thanh Giản) những người làm giặc trốn ở trong làng Bảo Thạnh nhiều lắm”. Quan Giám đốc Nội vụ (directeur de líintérieur) phẫn nộ, trách mắng và tìm cách đổi Tấn về miền Đông Nam kỳ, nhưng Tấn lại được chút tín nhiệm nhờ qua Cần Giuộc bắt phó Đốc binh đàng cựu là Bùi Duy Nhứt đang hoạt động chống Pháp với danh nghĩa Tham biện toàn hạt (bắt năm 1869). Thời kỳ bắt giết bừa bãi đã qua, Pháp muốn chiêu an và Tấn lọt vào “mê hồn trận”. Pháp cho một tay sai khác là huyện Vĩnh tố cáo Tấn về tội lạm quyền, Tấn tự bào chữa bằng cách tố lại sự lạm quyền của huyện Vĩnh. Sau cùng, Tấn chết năm 37 tuổi, vì bịnh, trong chiếc ghe hầu trên đường Gò Công Sài Gòn.
Tổng đốc Đỗ Hữu Phương
Sanh quán ở Chợ Đũi, Pháp chiếm Sài Gòn, Phương trốn lánh lên Bà Điểm chờ thời. Khi thành Chí Hòa thất thủ, nhờ cai tổng Phước ở Bình Điền dẫn ra trình diện với Francis Garnier bấy giờ, làm Tham biện hạt Chợ Lớn. Lãnh phận sự dọ thám và kêu gọi những người khởi nghĩa ra hàng. Về mặt quân sự, Phương rất khôn ngoan, chỉ tham gia vài trận đánh cho Pháp tin cậy : trận đánh Ba Điểm, lúc bấy giờ lọt vào tay cậu Hai Quyền (con Trương Định) vào tháng 7/1866, vài ngày sau, truy nã tới Bến Lức. Tháng 11/1867 cùng Tôn Thọ Tường đi Bến Tre để chiêu dụ hai cậu trai con ông Phan Thanh Giản; tháng 6/1868 xuống Rạch Giá dẹp loạn Nguyễn Trung Trực, tàu mắc cạn, nghĩa quân đóng đồn ở Sóc Suông (gần chợ Rạch Giá) chống cự mãnh liệt, Phương và bọn mã tà gần 200 người đã hết đạn nhưng vẫn cố thủ để chờ viện binh. Tháng 7/1868 được làm Đốc phủ sứ ở Vĩnh Long, góp phần truy nã nghĩa quân khi tên phó tổng ác độc ở Vũng Liêm bị giết.
Năm 1878, qua Pháp dự hội chợ Quốc Tế, năm 1881 gia nhập Pháp tịch, và lại qua Pháp chơi, thăm các con đang du học, hai lần vào những năm 1884 và 1889. Là một trong những người đề xướng việc thành lập trường Nữ trung học ở Sài Gòn. Xin chép vài chi tiết liên quan đến việc đàn áp của Phương để chứng minh rằng tuy lọt vào tay Pháp nhưng ở vùng Chợ Lớn, phong trào chống Pháp vẫn mạnh :
— Bắt quản Thiện và quản Việt ở Lò Gốm.
— Năm 1866, có cuộc khởi loạn ở vùng Chợ Lớn (nên hiểu là tỉnh Chợ Lớn), Nguyễn Văn Hoan bị bắt. Năm 1867, xảy ra nhiều vụ ám sát cũng ở Chợ Lớn, Pháp gọi Phương đến để cho thêm tài liệu và điều tra.
— Năm 1871 và 1875, có khởi nghĩa ở Phước Lộc (Cần Giuộc), Phương ra công dọ thám.
— Năm 1873, Phương trình cho thực dân danh sách một số lãnh tụ kháng Pháp, sắp khởi loạn ở các tỉnh miền Tây. Cuộc khởi loạn này do Trần Tuân điều khiển từ Khánh Hòa.
— Năm 1879, tố giác kịp thời âm mưu khởi loạn của nhóm Thiên Địa Hội ở Sóc Trăng.
— Năm 1881, cùng với một cha sở ở Lương Hòa (Tân An) kịp thời tố giác âm mưu khởi loạn ở Long Hưng, Lộc Thành và ở vùng Thất Sơn.
— Năm 1878, điều khiển việc sửa con kinh Nước Mặn, bắt dân ở tổng Lộc Thành Hạ làm xâu, dân vùng này nổi tiếng là cứng đầu.
Nhiệm vụ quan trọng của Phương vẫn là dọ thám vùng Chợ Lớn, Cần Giuộc và Tân An. Về mặt chánh quyền, trước tiên làm hộ trưởng (bấy giờ, thành phố Chợ Lớn chia ra làm 20 hộ); năm 1868 Phương trình cho thực dân danh sách những người đáng tin cậy có thể làm chức hội tề. Năm 1872, được chỉ định làm hội viên Hội đồng thành phố Chợ Lớn. Năm 1879, làm phụ tá cho Xã Tây Chợ Lớn. Như ta biết, Chợ Lớn là nơi tập trung thương gia Huê kiều, Phương không bỏ qua cơ hội để làm giàu, giải quyết mọi “áp—phe” giùm cho thương gia, đãi tiệc viên chức Pháp, làm trung gian lo hối lộ. Nhờ vậy mà làm giàu nhanh chóng, uy thế lên cao đến mức quan Toàn quyền Paul Doumer khi vào Nam còn ghé nhà Phương ăn uống, có lẽ nhờ dịp này mà được quan Toàn quyền cho khẩn trưng sở đất ruộng lớn đến 2223 mẫu tây. Trong lúc dọ thám, Phương tỏ ra khéo léo, tránh gây thù oán công khai, nhờ đó mà so với Lãnh binh Tấn và Tổng đốc Lộc, bề ngoài thấy như là Phương hiền lành, cứu người này, bảo lãnh người kia.
Nhưng trời bất dung gian đảng, Phương bị mất tín nhiệm vì đã bảo lãnh, xin chứa chấp để theo dõi Thủ khoa Huân trong nhà. Suốt khoảng 3 năm (sau khi bị đày ở Cayenne rồi được ân xá), Thủ khoa Huân biết lợi dụng hoàn cảnh để liên lạc với những Huê kiều theo Thiên Địa Hội ở Chợ Lớn và tới lui vùng Tân An để cổ súy, tổ chức cuộc kháng Pháp. Chuyện vỡ lỡ ra, tưởng chừng Phương mang họa. Bấy lâu ngoài Thủ khoa Huân, Phương đã từng bảo lãnh nhiều người mà thực dân Pháp không tin cậy cho lắm. Kẻ thù của Phương là Tổng đốc Lộc thừa dịp này làm núng, đưa điều kiện là giam lỏng Phương trước khi dẹp loạn Thủ khoa Huân. Nhưng rốt cuộc, Phương vẫn ung dung, càng mau giàu thêm và được thang Tổng đốc — nên hiểu là Tổng đốc hàm — vì theo quy chế quan lại bản xứ do thực dân ở Nam kỳ bày ra, chỉ đến ngạch đốc phủ sứ là hết.
Tổng đốc Trần Bá Lộc
Đây là tay sai đắc lực số một, vượt hẳn hai nhân vật trên : háo thắng, ham địa vị, ưa tàn sát theo lối phong kiến. Khi Pháp chiếm thành Mỹ Tho, Lộc sốt sắng tìm cơ hội bèn tản cư với chiếc ghe chở đầy tiền kẽm (tiền của ai ?), đến trình diện với Cha Marc, bấy giờ cha sở này kiêm luôn chức tham biện. Năm 1861, ngay sau khi xin việc, Lộc được cấp cho căn nhà lá, gia nhập lính mã tà rồi lập công lên cai, lên đội. Ngoài thời giờ làm lính, Lộc còn lãnh trách nhiệm giữ kho lúa cho nhà nước và được quan tham biện cho ân huệ là đem cơm dư của lính về nhà mà nuôi heo. Nhờ hăng hái điềm chỉ và bắn giết, năm 1865 làm huyện, ngồi tại Cái Bè để canh chừng vùng Đồng Tháp. Cái Bè là vị trí chiến lược trên Tiền giang, có thể đi thẳng lên Cao Miên. Bấy giờ một số quan lại đàng cựu gom về Bình Cách, Thuộc Nhiêu, Cai Lậy, lập đồn để liên lạc với Thiên Hộ Dương trong bưng. Lộc đánh quân sĩ đàng cựu ra khỏi Cai Lậy rồi cuộc tấn công đại quy mô của Pháp diễn ra, Lộc đóng vai trò quan trọng, đánh từ Cần Lố để nối với mấy cánh quân khác đánh từ đồn Hữu (phía Bến Lức) và đồn Tiền (phía Cai Lậy). Năm 1867, thăng làm phủ rồi năm sau góp công đánh đuổi và bắt sống Tổng binh Bút khi ông này đánh vào toán quân Pháp trú đóng tại Sa Đéc (đình làng Tân Qů Đông). Lộc coi huyện Tân Thành (Sa Đéc), sau được gọi về Cái Bè, thăng đốc phủ sứ (15/8/1868). Bấy giờ ở Rạch Giá, Nguyễn Trung Trực khởi nghĩa, tỉnh lỵ này bị tái chiếm, Nguyễn Trung Trực chạy ra đảo Phú Quốc. Pháp kéo binh bao vây đảo. Lộc dùng thủ đoạn cố hữu là bắt giết thân nhân những người trong cuộc. Nguyễn Trung Trực phải ra mặt để cứu sống những người bị bắt làm con tin. Lộc lãnh trách nhiệm điều tra rồi trình cho Pháp danh sách 170 người liên can với Nguyễn Trung Trực.
Từ 1868 tới 1871, Lộc góp phần giảy vây đồn Cái Bè, bấy giờ bị bốn ông Long, Thận, Rộng, Đước tấn công (bốn ông này đều bị Lộc giết). Rồi đến vụ tham biện Vĩnh Long là Salicetti bị giết khi đến Vũng Liêm đàn áp cuộc khởi loạn : Lộc đụng với nghĩa quân ở Láng Thé, gồm đa số là người Miên, cuộc chiến khá sôi nổi, nhiều phen tưởng chừng Lộc thua trận nhưng sau rốt nhờ khí giới tốt nên thắng.
Năm 1875, lại nổ lực dẹp cuộc khởi nghĩa của Thủ khoa Huân, có Phủ Đức tiếp tay để chận phía cửa Tiểu (đề phòng Thủ khoa Huân trốn theo đường biển). Lộc ruồng vùng còn lại, Thủ khoa Huân bị bắt gần Chợ Gạo. Trận này Pháp giao trọn quyến bắn giết nên lính của Lộc ruồng các lùm bụi, đến mức nai, chồn, cọp chạy tán loạn vào xóm.
Năm 1878, dẹp cuộc khởi loạn của Ong và Khả ; hai vị này toan đánh thình lình chợ Mỹ Tho. Năm 1883, đàn áp cuộc khởi nghĩa của người Miên ở Trà Béc (Cao Miên).
ở miền Trung bấy giờ Mai Xuân Thưởng nổi lên, Pháp dẹp không nổi nên nhờ bàn tay gian ác của Lộc. Lộc mộ 1050 lính mã tà, đem về thành Ô Ma (Sài Gòn) tập dượt rồi đến chiến trường thi hành thủ đoạn bắt thân nhân của Mai Xuân Thưởng và của những người theo quân khởi nghĩa. Lộc tỏ ra hách dịch, làm việc lấn quyền các sĩ quan Pháp ở địa phương. Lúc hành quân, Lộc dùng con dấu “Thuận Khánh Tổng đốc”, tức là Tổng đốc của hai tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa. Khi xong việc, về Cái Bè vẫn thích dùng con dấu ấy. Lộc lại đề nghị với Pháp tách hai tỉnh này ra khỏi Trung kỳ, nhập vào Nam kỳ vì chính quân sĩ Nam kỳ (tức là của Lộc) đã ra tay dẹp loạn, nhưng đề nghị này khó thi hành !
Về già, Lộc đau ung thư bao tử nhưng vẫn hăng hái ra tài “kinh bang tế thế”. Loạn lạc không còn, Lộc ra tay chỉnh trang vùng Cái Bè. Học được phép đo đạc nên đem áp dụng, phóng mấy con lộ ở chợ này. Lộc lại xin bắt dân xâu để đào kinh trong vùng Đồng Tháp, ban đầu đào thử (kinh bề ngang rộng 3 mét), nhưng lại bắt dân xâu đợt nhì nới rộng ra 10 mét, nối liền từ Bà Bèo tới Rạch Ruộng (1897) gọi là kinh Tổng đốc Lộc (thực dân cho phép đặt tên). Lộc trở thành người điền chủ lớn nhứt của tỉnh Mỹ Tho khi mua lại cù lao Năm Thôn và đất ở cù lao Rồng.
Tóm lại, Lộc đóng vai tích cực trong việc đàn áp các phong trào Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân, Mai Xuân Thưởng. Pháp dung túng cho Lộc làm những việc dã man, vô nhân đạo mà chúng không muốn làm, sợ mang tiếng xấu về chúng. Nhưng được chim thì treo ná, thực dân lần hồi tỏ ra lạnh nhạt đối với kẻ đã quá sốt sắng với nhiệm vụ — lỗi thời. Pháp cho người nói xấu công khai rằng chức Tổng đốc của Lộc là bất hợp lệ, chỉ dùng ở Trung kỳ chớ không dùng ở xứ thuộc địa, do đó phải sửa lại là “Tổng đốc hàm” (honoraire). Lại còn chức vụ Khâm sai mà Lộc đã tự phong khi in thiệp chúc Tết năm 1888. Lộc cho rằng Khâm sai là chức vụ hợp pháp, vì ông ta thừa lịnh quan Thống đốc Nam kỳ ra ngoài Trung dẹp giặc, nhưng có người tố cáo rằng Lộc tự xưng Khâm sai của triều đình Huế, với dụng ý làm loạn về sau.
Lộc thích đánh giặc với đạo quân riêng lúc ban đầu gồm hơn 100 người nhưng về già, thực dân chỉ để cho 5 người lính hầu mà thôi.
Lời phê của các quan tham biện giúp chúng ta hiểu rõ thái độ của thực dân. Đại khái, họ biết Lộc tàn ác nhưng họ xài trong thủ đoạn dùntg người và luật lệ bổn xứ để đàn áp người bổn xứ : “Một viên chức quá kỹ lưỡng, quá tận tâm trong vài trường hợp”, “không cẩn thận trong việc dùng phương tiện, nhưng lại đạt mục đích chắc chắn”. Lộc sanh tật uống rượu, tánh tình thay đổi rõ rệt. Ba năm trước khi chết, Lộc được viên tham biện Mỹ Tho phê như sau : “Người ta có thể phàn nàn lão già này về những hành động ác độc lúc trước đã trở thành chuyện huyễn hoặc, khó tin, nhưng tôi cho là trong hàng ngũ viên chức bổn xứ hiện nay khó tìm được một người biết kính bề trên, dám tận tụy với chính nghĩa của nước Pháp bằng ông ta”.
Tình trạng xáo trộn về gia cư, tài sản
Trong giai đoạn khá dài, dân chúng chịu cảnh ly tán, kẻ lương thiện có thể bị vạ lây. Chỉ cần bị tình nghi là bị tù, bị đày ra Côn Nôn hoặc Đại Hải (đảo Bourbon) hoặc qua tận Mỹ Châu, ở thuộc địa Pháp nổi danh ma thiêng nước độc : xứ Cayenne (gọi là Cai Danh quận). Hoặc qua tận đảo Antilles sát Nam Mỹ Châu, hoặc qua nhà tù ở Toulon.
Ngoài chuyện nhắm mắt cho bọn Việt gian bắt giết, tống tiền và hăm họa, thực dân còn ngang nhiên phán quyết những bản án hành chánh (jugement administratif) theo đó, tham biện chủ tỉnh được quyền đề nghị bỏ tù, đày ra Côn Đảo hoặc các lãnh thổ ngoại thuộc Pháp những người chỉ bị tình nghi, vu cáo là làm loạn nhưng chưa tìm được bằng chứng gì cụ thể. Thống đốc Nam kỳ hoặc Giám đốc Nội vụ (directeur de líIntérieur, lúc đầu dịch ra chữ Nho là Lại Bộ thượng thơ), xét lại rồi chuẩn y. Một dịp cho bọn Việt gian địa phương tha hồ báo cáo để giựt ruộng vườn nhà cửa.
Thoạt tiên, bọn tham biện chủ tỉnh bắt bớ tù đày quá nhiều, đến mức ba tháng sau (23/11/1868), đô đốc Ohier gởi văn thư khiển trách viên tham biện hạt Vĩnh Long đã lạm dụng. Ngày 9/3/1875, Duperré ra lịnh dứt khoát rằng tài sản của những người bị lên án phản loạn đều bị tịch thâu, tiền bán tài sản này dùng trợ cấp cho gia đình bọn lính mã tà tử trận lúc đi ruồng bố. Nhưng năm sau, ngày 25/8/1876 lại có lịnh : tài sản của bọn phiến loạn đem bán ra, thay vì đem thưởng cho kẻ tố giác thì lại thuộc về nhà nước ; nhà nước tùy trường hợp mà thưởng riêng. Trong thực tế, ruộng đất do con của Trương Định làm chủ đã bị bán đấu giá từ năm 1869, nhưng không ai ra mua. Kinh nghiệm vụ khởi loạn Thủ khoa Huân cho thực dân biết rằng một số không ít hương chức hội tề làm việc cho Pháp đã tán trợ trực tiếp hoặc gián tiếp những người làm loạn. Do đó, đô đốc Nam kỳ ký nghị định số 123 ngày 20/5/1875 quy định từ rày về sau làng nào làm loạn hoặc đồng lõa với loạn quân thì bị xóa tên, giải tán, sáp nhập qua làng lân cận, tài sản của hương chức hội tề bị tịch thâu, hương chức hội tề bị quản thúc ở tỉnh xa. Nghị định ngày 25/5/1881 ban hành quy chế thổ trước (indigénat) theo đó tham biện chủ tỉnh được quyền xét xử bỏ tù trong vài trường hợp, khỏi cần đưa qua tòa án (gọi nôm na là ở tù bố, tức là ở tù theo lịnh của tòa Bố, lúc Pháp mới qua, có quan Bố chánh như thời đàng cựu, nhưng là quan Bố người Pháp). Bộ Thuộc địa tán thành việc bắt giam một số đông người mà không cần truy tố ra tòa, để đề phòng cuộc khởi loạn mà thực dân được tin là sắp bùng nổ ở Mỹ Tho vào năm 1883, cho đó là áp dụng quy chế thổ trước. Đồng thời, Bộ cũng cho phép thống đốc Nam kỳ được quyền câu lưu trong thời hạn nhứt định những phần tử bị tình nghi, và ân xá họ khi nào thấy thuận lợi (5/9/1884).
Việc kháng Pháp ở Nam kỳ Lục tỉnh khá rầm rộ, thực dân và tay sai đã dẫm nát những vùng gần tỉnh lỵ đến tận thôn xóm hẻo lánh. Dân chúng hăng hái vì bấy giờ triều đình Huế hãy còn. Họ đặt hy vọng vào sự can thiệp của triều đình. Đi theo Pháp thì sợ về sau sẽ bị trừng trị. Việc Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông với hiệp ước 1862 không làm cho dân chúng tuyệt vọng. Họ sẵn sàng tản cư qua ba tỉnh miền Tây. Ngay sau hiệp ước 1862, trong bức thư trả lời cho nguyên soái Bonard đề mùng 6 tháng 8 âm lịch năm Tự Đức thứ 15, ông Phan Thanh Giản tỏ thái độ đứng đắn về việc giải giới những người còn cầm khí giới ở ba tỉnh miền Đông. Những người này được ông Phan gọi là dân mộ nghĩa (mộ nghĩa nhân) ; ông viện cớ là “già nua và bất tài” nên chưa thể nào thực thi chuyện tước khí giới đám dân mộ nghĩa ấy được. Việc ấy, nhà cầm quyền Pháp ở ba tỉnh miền Đông cứ ra lịnh kêu gọi những người quản suất quân nghĩa dõng.
Sau khi mất ba tỉnh miền Tây, dân chúng vẫn tiếp tục chiến đấu. Dân ở nông thôn dời chỗ nhiều lần, xa sanh quán, họ hàng thất lạc, thay tên đổi họ để khỏi bị tập nã. So với cõi Bắc kỳ và Trung kỳ, làng mạc miền Nam bị phá tán nhiều hơn, ngoài mục đích bình định, thực dân còn nhằm hủy hoại văn hóa ; thành lũy bị san bằng trăm phần trăm tại Sài Gòn cũng như ở các tỉnh, gia phả không còn, người có căn cư trở thành lưu dân, đất ruộng đổi chủ. Sau khi hạ thành Chí Hòa, thực dân muốn giữ các tổ chức đồn điền như cũ để việc sản xuất lúa gạo không bị đình trệ và việc cai trị ít bị xáo trộn. Nhưng đến ngày 22/8/1861, lại giải tán vì đồn điền là cơ sở chống đối mạnh mẽ.
Vài thí dụ điển hình
Vào cuối năm 1868, đô đốc Ohier ba hành quyết định số 473 ra giải thưởng cho những ai bắt nộp những lãnh tụ kháng Pháp gồm 11 người với giá 1000 quan mỗi người : cậu Hai Quyền (con Trương Định) bấy giờ cỡ 25 tuổi ; Hàn Lâm Phu ; Tổng binh Thành ; ấp Quyền (phó của Trương Định) ; Nguyên soái Thân (người đã đánh đồn Mỹ Tho) ; Tổng binh Hinh ; Tổng binh Cách ; cậu Tư, cậu Năm (hai con của Phan Thanh Giản), Tổng binh Thành (gốc ở Thất Sơn, trước đấy có ở Rạch Giá) ; phó Nguyên soái Dương (vượt ngục Mỹ Tho năm 1867, hiện đang ở Ba Động).
Tổng binh Thành mà thực dân hài rõ gốc ở Thất Sơn chính là nhân vật quan trọng thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương (đức Cố Quản).
Hàn lâm Phu, không rõ là ai (trong nguyên văn không bỏ dấu).
Và 2 người với giá 500 quan : Đốc binh Sắc, Đề đốc Đạo (trước đấy, Đạo ở Mỹ Tho).
Quyết định nói rõ là lính hoặc viên chức bổn xứ hữu công có thể lên cấp bực, ngoài tiền thưởng. Các viên cai tổng, hương chức hội tề nếu có hành động cản ngăn việc truy tầm, không sốt sắng tập nã sẽ bị trừng phạt theo luật đàng cựu (lois annamites). Vào dịp khởi nghĩa Thủ khoa Huân, thực dân Pháp cố ý phá tan cơ sở nông thôn đến tận gốc rễ, khủng bố luôn những ai sống dưới sự cai trị của chúng nhưng còn thái độ úp mở. Cả một vùng rộng lớn từ Tân An, từ vùng Chợ Gạo đến sát chợ Mỹ Tho, dài theo Tiền giang phía rạch Gầm đều chịu họa lây. Đồng bào nhân dĩ Mỹ Tho, Chợ Gạo đã hết lòng ủng hộ cuộc khởi nghĩa này với sự tán trợ của hương chức hội tề.
Chủ tỉnh Mỹ Tho được quan Thống đốc cho xuất ra 6550 quan để trả những chi phí về cuộc hành quân chống Thủ khoa Huân là 4481 quan, tiền còn lại thì dành trợ cấp cho vợ bọn lính tử trận. Nhưng thực dân không mất gì cả, lại có lời cho ngân sách khi ra lịnh phạt những người đã tham gia khởi nghĩa nhưng không ra đầu thú và trình diện kịp thời, phạt bằng tiền theo quyết định của Thống đốc Nam kỳ ngày 5/7/1875. Và Thống đốc Nam kỳ cũng trừng phạt 47 làng trong tỉnh Mỹ Tho đã gián tiếp hoặc trực tiếp ủng hộ Thủ khoa Huân (quyết định ngày 5/7/1875) tổng số là 53700 quan, lẽ dĩ nhiên, hương chức làng gánh chịu và dân làng phải chia sớt để khỏi bị rắc rối.
Lúc hành quân và truy nã, thực dân còn tịch thâu được 1515 quan, Hương chức hội tề ở hai làng Song Thạnh và Bình Dương đã góp cho quân khởi nghĩa 387 đồng (trị giá 2147 quan) là tiền do làng thâu thuế được ; nhà nước ra lịnh bồi thường bằng cách tịch thâu và bán tài sản của hai vị hương chức hội tề làng Song Thạnh có tham gia khởi nghĩa (đã bị giết), số tiền còn lại thì một ông hương chức hội tề làng Song Thạnh và 5 ông ở làng Bình Dương phải bồi thường cho đủ, các người này lẽ dĩ nhiên là bị cách chức.
Vào tháng 9, cũng năm 1875, Thống đốc Nam kỳ ra quyết định phạt hương chức làng Mỹ Đức, tỉnh Châu Đốc về tội cho phép một người “phản loạn” từ Mõ Cày (Bến Tre) đến trú ngụ mà không bắt buộc kẻ lạ mặt phải xuất trình giấy của địa phương cũ cho phép thay đổi nơi cư trú.
Đầu năm 1872, vùng rạch Cái Tàu (ven rừng U Minh Hạ) tuy là thưa thớt, nghèo nàn, làng xóm chưa thành nền nếp nhưng hai anh em Đỗ Thừa Luông và Đỗ Thừa Tự đã khởi nghĩa, giết được lính mã tà. Đỗ Thừa Tự có lần ẩn lánh ngoài khơi vịnh Xiêm La, tận hòn Sơn Rái nơi thảo am của thầy Đước : người tu hành ở cheo leo ngoài biển khơi vẫn nặng lòng vì nước. Về sau, hai anh em họ Đỗ bị bắt và xử tử, nghĩa quân thì bị đày. Tham biện Rạch Giá xử họ trong phiên tòa gọi là “tòa án bổn xứ”, chính ông ta làm Chánh án. Tên chủ tỉnh Benoist nổi danh là tàn ác (và thích khảo cứu) đã “nhân danh dân chúng nước Pháp” mà buộc tội và tuyên án đúng “luật An Nam” theo đó “người làm loạn bị xử trảm, kể luôn những bọn đồng lõa, không cần phân biệt tội nặng nhẹ giữa chánh phạm và tòng phạm”. Tuy nhiên, viên chủ tỉnh cho ân giảm đổi án tử hình ra 20 năm lưu đày (trường hợp Phạm Tấn Trì). Một can phạm cũng trong vụ khởi nghĩa này là Võ Văn Trước, người làng Đông Thái bị xử lưu đày chung thân.
Nay hãy còn nhiều danh tánh can phạm do thực dân xử theo biện pháp cao hứng, tùy theo sự tố cáo với tang chứng mơ hồ. Họ là chiến sĩ vô danh, đa số bị lưu đày từ thanh niên đến kẻ già nua, từ kẻ thất học đến kẻ đậu tú tài, ngụ ở làng mạc vùng Mỹ Tho, Tây Ninh, Bà Rịa, Cao Lãnh, Tân An, Cần Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc, Gò Công, Thủ Dầu Một, Long Xuyên, Vĩnh Long, Châu Đốc, Bến Tre. Thân nhân của họ nhờ các quan địa phương chuyển đơn kêu nài. Trường hợp ông Võ Văn Tòng từng làm đội quản (lãnh bằng cấp để khởi nghĩa) bị bắt vào cuối năm 1864, vừa bị đày ra Côn Nôn một tháng là chết bịnh ; ấy thế mà 15 năm sau, vì gia đình chưa hay tin nên con là Võ Văn Toán lại làm đơn xin ân xá vì cha đã thọ án được 15 năm rồi ! Trường hợp của ông tú tài Trần Văn Trà bị đày qua Cayenne, vợ làm đơn xin ân xá, xin giảm án quá nhiều lần mà không được chấp thuận, mặc dầu có tri phủ Tôn Thọ Tường đứng ra làm tờ bảo lãnh với quan trên : “Như ông còn hồ nghi sự gì thì xin khi tha nó ra rồi dạy nó phải ở tại Sài Gòn sau nó còn làm sự gì quấy quá thì tôi cũng xin chịu tội chung với nó”.
Vụ ông Quản Hớn giết phủ Ca ở Hóc Môn được xử tại Gia Định vào 12/9/1885 gồm 37 người lãnh án, trong đó 14 người bị lên án tử hình. Cũng năm 1885 này, ở Cao Miên phong trào chống Pháp lên cao.
Người Miên ở Hà Tiên và người Việt hợp tác nhau đánh Pháp vài trận, quân khởi nghĩa gom đến trăm người ở vùng Mũi Nai (chợ Hà Tiên) và Rạch Vược, Ba Hòn.
Vấn đề lưu dân ở Sài Gòn
Sự khủng bố ở thôn quê khiến nhiều người mất công ăn việc làm, kéo lên Sài Gòn, Chợ Lớn và vùng ngoại ô nhưng họ chưa thích ứng được với hoàn cảnh sinh sống mới. Do đó, thực dân gặp nhiều khó khăn trước phong trào mà chúng gọi là “lưu manh, du côn” Sài Gòn. Từ năm 1864, đô đốc Lagrandière ra quyết định bắt buộc những người Việt cư trú ở Sài Gòn phải ghi tên vào bộ vì nhiều vụ cướp bóc (?) xảy ra từ lâu, hạn 8 ngày không đến làng để khai lý lịch và ghi tên vào bộ thì bị phạt từ 5 đến 10 quan và ở tù từ 8 ngày đến hai tháng. Non hai tháng sau có lịnh nghiêm nhặt hơn : xét bắt những người Việt hiện đang cư trú chung quanh thành Sài Gòn cũ và vùng rạch Thị Nghè, luôn cả người Tàu ; ai có giấy tờ của làng cũ thì bị đuổi trở về, ai không căn cư, chẳng làng xã nào nhìn nhận thì bị nhốt để chờ ngày đày ra Côn Đảo hoặc đảo Bourbon. Thực dân đề phòng gắt gao vì được tin sắp có khởi nghĩa tại Sài Gòn. Mãi đến năm 1875, vùng ngoại ô Sài Gòn vẫn chưa yên tịnh, một tay sai đắc lực của thực dân từng điềm chỉ những người cầm đầu khởi loạn lại bị giết bỏ xác gần chùa ở ranh giới ba làng Tân Thới, Bình Hưng và Bình Hưng Đông ; thống đốc Nam kỳ ra lịnh phạt hương chức hội tề ba làng nói trên về tội không phát giác kịp thời và giấu nhẹm ; tiền phạt cộng chung là 1000 quan, trong đó 500 quan xuất ra trợ cấp cho gia đình nạn nhân. Đến năm 1887, quan tham biện hạt thứ 20 (sau đổi lại là tỉnh Bình Hòa rồi đổi là tỉnh Gia Định) báo cáo tỉ mỉ hơn, nhận định rằng thành phần bọn bất hảo gồm nào thợ thất nghiệp, lao công Việt và Tàu, bọn đánh xe ngựa, bọn làm bồi cho Tây đang thất nghiệp, đông đảo nhứt là bọn lưu dân từ khắp các tỉnh Nam kỳ tựu về tìm phương kế sinh sống. Bọn này thường tỏ ra ngạo mạn, bất phục tùng luật pháp. Vì có lịnh không cho áp dụng quy chế thổ trước tại quận Gia Định nên viên chức không còn khả năng trừng trị họ. Họ cứ ung dung làm điều sai quấy, hễ bị bắt là 24 giờ sau họ được thả ra, theo luật định. Năm 1899, tình hình ở tỉnh Gia Định và ngoại ô Sài Gòn thêm bi đát hơn. Du đãng tụ tập ở Bà Điểm Bà Quẹo để lộng hành, chỉ huy bọn nài ngựa ở trường đua, cầm đầu bọn ăn trộm ở Hòa Hưng ; hương chức làng Hòa Hưng không dám hó hé. Én cướp đánh tại làng Bình Sơn, trên sông Sài Gòn, có tên cướp xăm mấy chữ “anh hùng nhứt xứ”. Tổng đốc Phương nhận định rằng từ năm 1895 việc du côn ngày càng thêm, hiệp với bọn Thiên Địa Hội mà hà hiếp dân sự, ai giận ai thì mướn nó đánh phá, muốn được cử làm hội đồng, cai tổng thì mướn du côn coi chừng, ai không bỏ thăm cho phe thì chận đánh, ở nhà quê, du côn lại nhà giàu mượn tiền 50, 30 đồng, ai thưa với làng thì nó đốt nhà, mượn không bao giờ trả, chẳng ai dám tố cáo. Bọn du côn hăm he hương chức làng rằng nếu bắt chúng, sau khi ở tù về, chúng giết chết. Bắt thì tòa theo luật Lang Sa không cầm tù lâu. Bởi vậy, chẳng ai dám bắt, trở về tụi nó sẽ dữ hơn. Nếu tòa phạt năm bảy ngày, cả bọn góp tiền mướn thày kiện lãnh ra. Tổng đốc Phương yêu cầu đày bọn du côn đi làm xâu vào dịp mở đường xe lửa Lang Bian, du côn thứ dữ thì phạt một năm tù, thứ vừa thì phạt sáu tháng, làng xã phải kê khai tên tuổi bọn du côn trong làng.
Năm 1901, bọn du côn đánh nhau giữa ban ngày, cách tòa Bố Gia Định có 500 thước, đánh nhau mà không bao giờ thưa gởi tới cò bót. Tại sòng bạc ở Gò Vấp, lính mã tà phải xin lỗi bọn du côn chứa bạc vì đã trót đến xét bắt. Mỗi xứ đều có anh hùng riêng, đường Monceaux, vùng Đất Hộ, Phú Nhuận, vùng Bình Hòa, vùng Gò Vấp. Nổi danh nhứt là bọn Ba Thiên và Sáu Thắm, chúng hẹn nhau đến Lăng Cha Cả hoặc ngả tư Phú Nhuận mà so tài, theo luật giang hồ. Du côn ở Đất Hộ mà quan cầu thì bị du côn Phú Nhuận hành hung. Bên trong vấn đề trừng phạt bọn du côn là cuộc tranh chấp về quyền hành giữa các tham biện chủ tỉnh và các cơ quan tư pháp vào năm 1901—1902. Nha Tư pháp Đông Dương muốn áp dụng luật pháp, chống những bản án hành chánh mà tham biện các tỉnh bấy lâu đã lạm dụng để đày ra Côn Đảo những kẻ mà quan làng không thích, mặc dầu không bằng cớ. Các viên chức hành chánh thì cho là nếu căn cứ vào luật pháp thì làm sao bắt bọn du côn được ? Điển hình nhứt là lập luận của tham biện tỉnh Gia Định bảo rằng dân thuộc địa chỉ sợ sức mạnh của người Pháp mà thôi, không nên đối xử bình đẳng vì dân du côn xem việc ở tù sướng hơn là sống ở ngoài đời. Và làm sao trưng được bằng cớ cụ thể để buộc tội, khi bọn du côn ăn thề, kết nghĩa với nhau trong quán rượu chớ không ghi trên giấy trắng mực đen.
— Bọn bất lương, đâm thuê chém mướn, không lý tưởng gì cả.
— Một số người theo Thiên Địa Hội muốn tạo khu vực ảnh hưởng riêng để làm ăn, nắm độc quyền về bến xe, chứa cờ bạc.
— Một số nông dân mất cơ sở làm ăn ở thôn quê, lên thành phố nhưng chưa thích ứng được với hoàn cảnh mới, họ vẫn giữ óc tự tôn cho rằng xã hội nông nghiệp đàng cựu đẹp hơn xã hội mà người Tây phương đặt trên đầu dân ta. Họ có tinh thần chống Pháp.
Mãi đến đệ nhứt thế chiến, “anh chị” ở Sài Gòn Chợ Lớn còn là đề tài lưu truyền trong dân gian. Những áng thơ bình dân, những người mù nói thơ đờn độc huyền vẫn ca ngợi Năm Tỵ, Sáu Nhỏ, Sáu Trọng hoặc tiết tháo của thày Thông Chánh, cậu Hai Miên mặc dầu thực dân tìm cách ngăn cấm.
Bến Nghé Sài Gòn trong sanh hoạt mới
Trong khi vùng ngoại ô Sài Gòn chưa bình định xong thì thực dân chánh thức cho phép tàu ngoại quốc vào thương cảng Sài Gòn mua bán (22/2/1860). Năm 1860, có 246 chiếc tàu máy và thuyền buồm của các nước Ñu Châu và của Trung Hoa tổng cộng sức trọng tải là 63299 tonneaux, đã ăn 53939 tonneaux gạo trị giá khoảng 5184000 quan và các sản phẩm linh tinh khác trị giá một triệu quan. Đồng thời hàng hóa nhập cảng vào Sài Gòn trị giá ước lượng một triệu quan, cộng thêm 500 000 quan á phiện để tiêu thụ trong xư.
Đây là năm mđầu mà thương cảng mở cửa, xuất cảng hơi nhiều vì gạo từ năm trước còn ứ đọng lại, thành Sài Gòn mất nên ghe bầu từ ngoài Trung không vào ăn gạo như trước được. Năm 1861, mức xuất cảng gạo sụt, năm 1862 lại sụt hơn vì ảnh hưởng cuộc khởi nghĩa của Trương Định ở vựa lúa quan trọng miền Nam lúc bấy giờ là Gò Công. Nhưng năm 1862 lại xuất cảng thêm 1 200 000 quan cá khô của Cao Miên, do thương cảng Sài Gòn.
Ba loại gạo mà giới xuất cảng chuộng nhứt là gạo Gò Công, rồi đến gạo Vĩnh Long; gạo sản xuất từ Sóc Trăng, vùng Bãi Xào (gạo Ba Thắt) thì được giá trên thị trường Trung Hoa hơn.
Ngày 16/6/1865 đô đốc Roze cho phép thành lập Ű ban nghiên cứu phát triển Canh Nông và Kỹ nghệ ở Nam kỳ, bốn tháng sau ủy ban ra tạp chí chuyên môn, dành nhiên cứu các loại sản phẩm nông nghiệp và kỹ nghệ mà Nam kỳ có thể phát triển trong tương lai, nhằm giúp đường hướng cho bọn thực dân làm ăn.
Ngoài ra, nhiều tờ Công báo cũng ra đời từ 1862, 1865, đáng chú ý là bọn thực dân ở Sài Gòn chia phe nhóm, ra báo Pháp ngữ công kích lẫn nhau như “Líindépendant de Saigon, Ere Nouvelle...” và công kích luôn chính sánh của Thống đốc. Tờ Gia Định Báo ra vào tháng 4/1865 bằng chữ quốc ngữ nhằm mục đích phổ biến thông cáo, nghị định đến các làng các tổng.
Năm 1865, dân đinh trong bộ ở 3 tỉnh miền Đông là 35 778 người, năm 1866 được 39369 người, một phần do sự đăng bộ của đám dân ậu, một phần là những người chạy giặc trở về trình diện để bảo vệ đất đai ruộng vườn cho khỏi mất. Năm 1867, Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây, nhờ đó mà dân số Nam kỳ được thêm khoảng 477000 người (kể cả nam phụ lão ấu), diện tích ruộng đất tăng thêm khỏang 123000 mẫu tây và nhiều huê lợi khác chừng ba triệu quan.
Năm 1883, đường xe lửa Sài Gòn Mỹ Tho bắt đầu hoạt động, hãng Tàu chạy sông ra đời vào 1883, gọi nôm na là tàu Mỹ (xuất phát từ Mỹ Tho, rồi từ đó nối về Sài Gòn bằng xe lửa) hoặc tàu Nam Vang vì chạy tới kinh đô chùa Tháp.
Thoạt tiên, để thử phát triển các giống lúa, thảo mộc và gia súc, thực dân cho lập nông trại làm thí điểm do nhà nước tài trợ tại khu đất Ô Ma ăn lên đồng Tập Trận rộng hơn 50 mẫu, trồng một mẫu lúa giống đem từ Miến Điện nhưng thất bại, còn dư là để cho cỏ mọc, thử nuôi ngựa giống. Cũng năm 1885, Ű ban thành lập “Viện Bảo tàng thuộc địa” hoạt động lai rai, thu lượm những mảnh tượng đá xưa, sưu tập cây cỏ ngoài Côn Đảo, trồng cây kỹ nghệ và vài trăm loại thảo dược đem về từ Thượng Hải. Riêng về cây cà phê, từ năm 1873, Thống đốc Nam kỳ khuyến khích, trợ cấp cho những người Pháp thử trồng tỉa.
Dưới mắt một số thực dân và sĩ quan hải quân Pháp thì vùng Sài Gòn (không kể vùng Chợ Lớn ngày nay) giống như quê hương của họ ở xứ Normandie, họ khen ngợi vùng Chợ Quán và vùng Gò Vấp, nơi dân Việt định cư lâu đời, có vườn tược, mỗi nhà đều có hàng rào bằng cây tươi, với đường xá quanh co nối liền xóm nhỏ, bên đường là cây cổ thụ che mát.
Thực dân nghĩ đến việc thiết kế thành phố, và trong việc “làm đẹp” thành phố, họ cố ý làm cho đất Sài Gòn mất vẻ cổ kính mà dân Việt đã tạo được từ 170 năm qua. Nhà và đất có bằng khoán, cứ đóng thuế thổ cư rồi đều mặc nhiên bị truất hữu theo quyết định của đô đốc, chỉ huy quân lực khiêm chức thống đốc ký ngày 20/2/1862. Đất chia từng lô bán bằng bạc con ó (không nhận trả bằng tiền kẽm), tất cả nhà cửa, vườn tược trên lô đất đều bị bán luôn. Nếu chủ đất đấu không kịp giá thì có thể xin bồi thường với người đấu giá được, muốn khiếu nại phải xuất trình toa vé xác nhận sở phí cất nhà trước kia, nếu có.
Phía Chí Hòa, Hòa Hưng, Phú Thọ xưa kia là làng xóm trù mật mà dân đã tản cư từ khi Nguyễn Tri Phương cho đắp thành Chí Hòa (ăn từ Chí Hòa đến tận Bà Quẹo). Phần đất này lại chia ra từng lô từ 20 mẫu đến 35 mẫu, bán hoặc cho mướn dài hạn, chỉ dành riêng cho người Pháp mà thôi.
Vùng bên kia sông, thuộc Khánh Hội và Thủ Thiêm cũng phân lô, bán từ năm 1861. Mấy chợ nhỏ ở mé sông Sài Gòn ngày xưa bị dẹp bỏ, dành cất phố xá và công sở. Quyết định ngày 12/8/1864 cho phép cất một nhà chợ ở đầu cầu Ông Lãnh, công việc không trôi chảy như ý muốn, mãi đến tháng 6/1874 chợ này mới cất xong. Một số đất tốt được cấp vô điều kiện cho thân hào nhân sĩ hữu công vào năm 1873 để cất nhà. Tháng 8/1880, cho đấu giá đất thổ cư Chợ Lớn và Bình Tây, đa số người mua được là Huê kiều và ấn kiều.
Thể thức mà người Pháp dùng bấy giờ là cho đấu thầu mọi dịch vụ, quan lại tha hồ tham nhũng và thương gia giỏi chạy áp phe thì làm giàu nhanh chóng.
Thương gia Pháp và Đức kiều tha hồ làm mưa làm gió, nào là đấu giá xây cất đồn bót, dinh thự ở Quy Nhơn, ở Bắc kỳ, Hải Phòng, cung cấp mùng mền cho bọn lính sơn đá, đèn thắp ngoài đường, thức ăn cho lính, cho tù, cho bệnh viện, nhứt là cung cấp vôi, xi măng, cây, ván, gạch. Người Trung Hoa nhiều thế lực nhứt là Wang Tai. Lại còn nhiều dịch vụ đấu thầu khác mà người Trung Hoa chiếm ưu thế : khi chiếm ba tỉnh miền Tây vừa xong, công ty Hoa kiều Ban Hop nắm độc quyền về bán á phiện ở ba tỉnh này (28/8/1867). Và số tiền kẽm thu thuế của dân cũng được Hoa kiều đấu giá mua lại : Công ty Tang Keng Sing và Ban Hop mua 90000 quan tiền kẽm ở kho bạc Sa Đéc (1868), mua luôn 120000 quan ở Mõ Cày, 25000 quan ở Mỹ Tho. Hoa chi góp chợ, bến đò ở Sài Gòn và các tỉnh thường lọt vào tay người ấn.
Từ 1861, riêng vùng Chợ Lớn, Pháp cho đấu thầu hoa chi sòng bạc, quy định là mười sòng, cuối năm ấy lại áp dụng cho vùng Sài Gòn, năm sau (1862) cho toàn ba tỉnh miền Đông. Người Trung Hoa rành về tổ chức sòng bạc nên nắm độc quyền khai thác. Người Trung Hoa được ưu đãi, vì đã giúp đắc lực để xuất cảng lúa gạo và phân phối các sản phẩm nhập cảng. Không nên chê trách dân Nam kỳ thuở ấy không biết nắm độc quyền to lớn này, ta nên thấy rõ vấn đề : người Trung Hoa đã tạo lập hệ thống buôn bán từ khi mới khẩn hoang, lập chợ cù lao Phố, chợ Sài Gòn. Dầu cho người Việt muốn tranh thương thì cũng chẳng tài nào làm nổi. Huê kiều ở Chợ Lớn dính líu với các nhóm tài phiệt ở Tân Gia Ba. Và những Huê kiều chuyên mua lúa gạo ở Tân Gia Ba đến Chợ Lớn lại được phép thành lập một bang riêng, với ít nhiều tánh chất tự trị. Người Huê kiều có vốn lớn đem từ ngoại quốc sang mà tung khắp hang cùng ngõ hẻm. Để cờ bạc, thưởng thức nhan sắc của ca nhi, họ được phép thành lập nhà “xẹc” riêng để giải trí, bàn chuyện đầu cơ, chuyện lo hối lộ với bọn Pháp hoặc là buôn lậu. Hàng chục nhà “xẹc” khác trở thành nơi tụ tập riêng của từng tổ hợp: nào của người Phước Kiến, của Nhóm thương gia Huê kiều ở Tân Gia Ba, Thương gia chuyên mua bán lúa gạo, Nhóm thương gia chuyên mua lúa gạo Quảng Đông, Thương gia Huê kiều ở Chợ Lớn hoặc Thương gia Huê kiều ở Chợ Lớn thuộc quốc tịch Anh... Họ cất chành trữ lúa, mỗi nhóm giữ quyền lợi riêng, hoặc lập nhà máy xay lúa, mua ghe chài.
Luật lệ về công thổ
Danh từ công thổ chỉ những loại đất còn hoang, hoặc có chủ khai khẩn rồi bỏ phế trở thành vô thừa nhận. Ngày trước, đất là của Vua. Người Pháp đến, xác nhận ruộng đất là của Thuộc địa, mặc nhiên nhà nước làm chủ tất cả đất đai trong toàn cõi thuộc địa, muốn là sở hữu chủ phải có sự chấp nhận về mặt pháp lý của Thống đốc Nam kỳ, ở tỉnh thì chủ tỉnh là người được ủy quyền của quan Thống đốc trong phạm vi nhỏ.
Nhiều nghị định liên tiếp ra đời rồi điều chỉnh lại vì sự thi hành không trôi chảy như ý. Đại khái, nghị định 30/3/1865 và 29/12/1871 định rằng nhà nước sẽ đo đạc, điều tra về đất đai để lần hồi cho dân khẩn. Những điền chủ cũ có ghi tên trong địa bộ hồi đời Tự Đức phải trình diện để khiếu nại trong vòng 3 tháng để từ ngày dán yết thị tại địa phương và đăng trên Công báo, quá thời hạn trên thì đất ấy thuộc về nhà nước, xem là công thổ. Nhà nước bán theo giá thuận mãi với giá là 10 quan mỗi mẫu tây. Riêng những ngừười hữu công với nhà nước, đất có thể cấp không.
Năm 1885, nhìn chung là ít ai chịu khẩn đất với diện tích rộng hơn 20 mẫu (đa số dân nghèo đều làm đơn xin trưng khẩn dưới 10 mẫu) vì sợ đóng thuế không nỗi. Kẻ nào xin khẩn sở đất to là nhắm vào đất tốt để đầu cơ, bán lại. Từ năm 1882 đến 1885 số đất được dân xin khẩn là 9055 mẫu.
Về công điền, tên tham biện Nicolai đã làm tờ phúc trình dứt khoát để tước đoạt không cho hương chức làng hưởng quyền hạn rộng như xưa. Nicolai trình bày :
— Theo nghị định 29/10/1871 và 22/8/1882 hễ phần đất nào không ghi vào địa bộ với sở hữu chủ rõ rệt thì phải theo quy chế đất công thổ. Trước khi người Pháp đến, hương chức làng có quyền đối với đất hoang trong địa phận họ cai trị, quan Bố chánh chỉ can thiệp khi đất ấy đã có người canh tác nhưng người ấy không đóng thuế hoặc đóng thuế ít so với diện tích. Hương chức làng ngày xưa được quyền gọi dân tới khẩn, bắt buộc họ làm đơn, vẽ bản đồ sơ sài rồi chịu thuế.
Nicolai nhắc lại những nguyên tắc của nghị định 1871 :
— Đất hoan, chưa vô bộ, chỉ có quan Thống đốc Nam kỳ mới được phép cho trưng khẩn, bán hoặc đổi.
— Chỉ có tham biện chủ tỉnh, thừa ủy quyền của Thống đốc Nam kỳ mới được phép quy định ranh giới công thổ.
— Đất nào có chủ thời đàng cựu, nhưng sau ba tháng truyền rao trên Công báo mà chủ không nhìn nhận, hoặc thiếu bằng cớ cần trưng ra khi nhìn nhận, thì sẽ không được tranh chấp nữa và trở thành công thổ. Tóm lại, công thổ (đất hoang, vô chủ trong địa phận mỗi làng) không phải là đất của làng, dẫu là về mặt tinh thần, tượng trưng. Hương chức không có quyền cấp đất hoang, hoặc cho dân tạm khẩn hoặc cày cấy tạm. Quyền ấy là của tham biện chủ tỉnh, thay mặt cho nhà nước. Bấy lâu vì chưa hiểu nguyên tắc ấy, nhiều nơi hương chức còn tự ý cấp đất hoang. Quan Toàn quyền Đông Dương đã ký nghị định 2/1/1892 để ngăn cản tình trạng trên.
Với sự quy định ấy, thôn xóm chỉ còn tự trị về mặt hình thức mà thôi, vì trong thực chất, hương chức làng chẳng còn quyền hạn gì đối với đất đai bỏ hoang cả. Ngay đến sở đất gọi là công điền của làng, phải được nhà nước thừa nhận thì mới là hợp pháp.
Tình hình các tỉnh dưới mắt người Pháp
Tài liệu vào thời người Pháp mới đến tuy dồi dào nhưng phiến diện, chỉ là sự nhận xét và báo cáo chủ quan của vài viên chức nặng óc thực dân. Xin lược kê đôi ba tài liệu, gọi là chỉ dẫn mà thôi :
— Báo cáo của Paul Vial, Giám đốc Nội vụ vào tháng 9/1865 : tỉnh Mỹ Tho ở vào ải địa đầu (Vĩnh Long, bấy giờ thuộc quyền triều đình Huế) chia ra bốn hạt tham biện, mỗi hạt do người Pháp trực tiếp trông coi, dân làng đã tự động chống quân làm loạn. Tháng rồi, 4 lãnh tụ trước kia theo Trương Định bị bắt và giết ở phía Gò Công, do người bổn xứ giết (nên hiểu là bọn theo Pháp như lãnh binh Tấn).
So với năm rồi, diện tích làm ruộng tăng thêm 50 phần trăm. Dân ở Sài Gòn và Biên Hòa tăng thêm, đó là dân hồi cư. Tỉnh Biên Hòa được khả quan từ khi lập đồn Bảo Chánh, một số dân miền Thượng giúp đỡ Pháp để chận loạn quân từ Bình Thuận đột nhập. Người Thượng theo Pháp vì dư đảng của Trương Định đối xử vụng về với họ.
Tỉnh Sài Gòn (Gia Định) không còn loạn quân nhưng bọn cướp còn đánh phá ghe thuyền di chuyển lẻ tẻ. Có chừng 20000 ghe thuyền lớn nhỏ chở chuyên hàng hóa, phân nửa số này di chuyển thường trực. Vial đề nghị cho tàu máy đi tuần theo sông rạch, mỗi tàu chỉ cần 2 người Pháp, 6 tên lính mã tà là đủ. Trước kia, chợ quan trọng ở nơi xa, nước cạn, vì vậy bọn giặc Tàu Ô khó khuấy rối, bây giờ cũng vì nước cạn mà tàu máy khó tới (phải chăng muốn ám chỉ vùng Ba Cụm lừng danh). Gần sông Vàm Cỏ (có lẽ Vàm Cỏ Tây) còn một nhóm 7 người Tagal và một số loạn quân ẩn náu, trước sau gì chúng cũng bị dẹp (đây là lính Tagal từ Phi Luật Tân qua đánh ta lúc trước). Vial nhận định rằng quan lại thời đàng cựu hống hách với dân ; nạn nhân của chế độ cũ là những điền chủ và thương gia giàu có. Hai hạng này được Pháp chú ý trọng dụng. Vial khen ngợi họ hăng hái hoạt động và có óc thực tế, họ sẽ giúp người Pháp thâu phục nhân tâm.
á phiện đem cho nhà nước hoa chi 1 200 000 quan mỗi năm. Vial cho rằng người bổn xứ đã hút trước khi Pháp đến, á phiện không hại gì cả, nếu hút có độ lượng. Đề nghị nên tiếp tục cho hút vì dân Trung Hoa hút khá nhiều nhưng vẫn giữ được đức tánh cố hữu là hăng hái, siêng năng.
Hoa chi sòng bạc thâu được 400 000 quan vào năm rồi nhưng gây xáo trộn ở làng xóm. Hương chức làng vì mê cờ bạc nên ăn cắp công quỹ và ăn hối lộ. Nông phu đánh bài, trẻ con cũng vậy, sanh nạn trộm cắp. Đề nghị dẹp hoa chi cờ bạc, nếu cần thì chỉ cho phép mở sòng bạc tại Sài Gòn mà thôi.
Về thuế bến thì tàu Pháp và tàu Tây Ban Nha hưởng ưu tiên khỏi đóng. Đề nghị nên bỏ thuế này cho tàu buôn bán các nước khác, để thương cảnh thêm tấp nập.
Gạo tăng giá 5 lần lúc hơn trước, nhờ xuất cảng được.
Ruộng làm nhiều vì lúa bán cao giá. Ruộng canh tác lậu thuế quá nhiều, có đến phân nửa diện tích trốn thuế. Vài năm nữa, nếu đo đạc xong, thuế điền sẽ thâu được gần bằng hai mà khỏi cần tăng giá biểu thuế. Vial cho rằng giá biểu thuế điền còn quá thấp.
Số dân công làm xâu trị giá 1 triệu quan mỗi năm. Với số bạc mặt tương đương, chưa chắc mướn được nhân công để đào kinh, đắp lộ như người Pháp đã làm (đây là việc cưỡng bách làm xâu thời đàng cựu mà người Pháp duy trì).
Giá đường, non 1 quan 1 kí lô. Dầu phộng, 60 quan 1 tạ dầu, dầu dừa 8 quan 10 lít, cau khô bán qua Trung Hoa (?) từ 60 đến 80 quan mỗi tạ...
Điền chủ bổn xứ cho tá điền vay ăn lời từ 5 đến 10 phân mỗi tháng, tá điền phải chịu điều kiện là dùng hoa màu thu hoạc được để thế chân. Thông lệ là tháng 7 dương lịch năm tới là trả điền vay, tới tháng 1 dương lịch năm tới là trả gấp đôi. Vial nhận xét thêm về mức sống và trình độ văn minh của dân Nam kỳ : khá cao, sang trọng, mỗi chợ đều có đủ thứ nghề, nào là dệt chiếu, nào trại mộc, lò đặt rượu, nhà dệt, lò nhuộm. Trại hòm hoạt động mạnh, hòm (quan tài) hạng thường nbán 30 quan, mỗi năm sản xuất từ 20 đến 20 ngàn cái tức là trong 3 tỉnh miền đông Nam kỳ xài 1 000 000 quan về hòm, người Việt chú trọng đến cái hòm của mình từ khi còn sống.
Năm 1885, nhìn chung là ít ai chịu khẩn đất với diện tích rộng hơn 20 mẫu (đa số dân nghèo đều làm đơn xin trưng khẩn dưới 10 mẫu) vì sợ đóng thuế không nỗi. Kẻ nào xin khẩn sở đất to là nhắm vào đất tốt để đầu cơ, bán lại. Từ năm 1882 đến 1885 số đất được dân xin khẩn là 9055 mẫu.
Về công điền, tên tham biện Nicolai đã làm tờ phúc trình dứt khoát để tước đoạt không cho hương chức làng hưởng quyền hạn rộng như xưa. Nicolai trình bày :
— Theo nghị định 29/10/1871 và 22/8/1882 hễ phần đất nào không ghi vào địa bộ với sở hữu chủ rõ rệt thì phải theo quy chế đất công thổ. Trước khi người Pháp đến, hương chức làng có quyền đối với đất hoang trong địa phận họ cai trị, quan Bố chánh chỉ can thiệp khi đất ấy đã có người canh tác nhưng người ấy không đóng thuế hoặc đóng thuế ít so với diện tích. Hương chức làng ngày xưa được quyền gọi dân tới khẩn, bắt buộc họ làm đơn, vẽ bản đồ sơ sài rồi chịu thuế.
Nicolai nhắc lại những nguyên tắc của nghị định 1871 :
— Đất hoan, chưa vô bộ, chỉ có quan Thống đốc Nam kỳ mới được phép cho trưng khẩn, bán hoặc đổi.
— Chỉ có tham biện chủ tỉnh, thừa ủy quyền của Thống đốc Nam kỳ mới được phép quy định ranh giới công thổ.
— Đất nào có chủ thời đàng cựu, nhưng sau ba tháng truyền rao trên Công báo mà chủ không nhìn nhận, hoặc thiếu bằng cớ cần trưng ra khi nhìn nhận, thì sẽ không được tranh chấp nữa và trở thành công thổ. Tóm lại, công thổ (đất hoang, vô chủ trong địa phận mỗi làng) không phải là đất của làng, dẫu là về mặt tinh thần, tượng trưng. Hương chức không có quyền cấp đất hoang, hoặc cho dân tạm khẩn hoặc cày cấy tạm. Quyền ấy là của tham biện chủ tỉnh, thay mặt cho nhà nước. Bấy lâu vì chưa hiểu nguyên tắc ấy, nhiều nơi hương chức còn tự ý cấp đất hoang. Quan Toàn quyền Đông Dương đã ký nghị định 2/1/1892 để ngăn cản tình trạng trên.
Với sự quy định ấy, thôn xóm chỉ còn tự trị về mặt hình thức mà thôi, vì trong thực chất, hương chức làng chẳng còn quyền hạn gì đối với đất đai bỏ hoang cả. Ngay đến sở đất gọi là công điền của làng, phải được nhà nước thừa nhận thì mới là hợp pháp.
Tài liệu vào thời người Pháp mới đến tuy dồi dào nhưng phiến diện, chỉ là sự nhận xét và báo cáo chủ quan của vài viên chức nặng óc thực dân. Xin lược kê đôi ba tài liệu, gọi là chỉ dẫn mà thôi :
— Báo cáo của Paul Vial, Giám đốc Nội vụ vào tháng 9/1865 : tỉnh Mỹ Tho ở vào ải địa đầu (Vĩnh Long, bấy giờ thuộc quyền triều đình Huế) chia ra bốn hạt tham biện, mỗi hạt do người Pháp trực tiếp trông coi, dân làng đã tự động chống quân làm loạn. Tháng rồi, 4 lãnh tụ trước kia theo Trương Định bị bắt và giết ở phía Gò Công, do người bổn xứ giết (nên hiểu là bọn theo Pháp như lãnh binh Tấn).
So với năm rồi, diện tích làm ruộng tăng thêm 50 phần trăm. Dân ở Sài Gòn và Biên Hòa tăng thêm, đó là dân hồi cư. Tỉnh Biên Hòa được khả quan từ khi lập đồn Bảo Chánh, một số dân miền Thượng giúp đỡ Pháp để chận loạn quân từ Bình Thuận đột nhập. Người Thượng theo Pháp vì dư đảng của Trương Định đối xử vụng về với họ.
Tỉnh Sài Gòn (Gia Định) không còn loạn quân nhưng bọn cướp còn đánh phá ghe thuyền di chuyển lẻ tẻ. Có chừng 20000 ghe thuyền lớn nhỏ chở chuyên hàng hóa, phân nửa số này di chuyển thường trực. Vial đề nghị cho tàu máy đi tuần theo sông rạch, mỗi tàu chỉ cần 2 người Pháp, 6 tên lính mã tà là đủ. Trước kia, chợ quan trọng ở nơi xa, nước cạn, vì vậy bọn giặc Tàu Ô khó khuấy rối, bây giờ cũng vì nước cạn mà tàu máy khó tới (phải chăng muốn ám chỉ vùng Ba Cụm lừng danh). Gần sông Vàm Cỏ (có lẽ Vàm Cỏ Tây) còn một nhóm 7 người Tagal và một số loạn quân ẩn náu, trước sau gì chúng cũng bị dẹp (đây là lính Tagal từ Phi Luật Tân qua đánh ta lúc trước). Vial nhận định rằng quan lại thời đàng cựu hống hách với dân ; nạn nhân của chế độ cũ là những điền chủ và thương gia giàu có. Hai hạng này được Pháp chú ý trọng dụng. Vial khen ngợi họ hăng hái hoạt động và có óc thực tế, họ sẽ giúp người Pháp thâu phục nhân tâm.
á phiện đem cho nhà nước hoa chi 1 200 000 quan mỗi năm. Vial cho rằng người bổn xứ đã hút trước khi Pháp đến, á phiện không hại gì cả, nếu hút có độ lượng. Đề nghị nên tiếp tục cho hút vì dân Trung Hoa hút khá nhiều nhưng vẫn giữ được đức tánh cố hữu là hăng hái, siêng năng.
Hoa chi sòng bạc thâu được 400 000 quan vào năm rồi nhưng gây xáo trộn ở làng xóm. Hương chức làng vì mê cờ bạc nên ăn cắp công quỹ và ăn hối lộ. Nông phu đánh bài, trẻ con cũng vậy, sanh nạn trộm cắp. Đề nghị dẹp hoa chi cờ bạc, nếu cần thì chỉ cho phép mở sòng bạc tại Sài Gòn mà thôi.
Về thuế bến thì tàu Pháp và tàu Tây Ban Nha hưởng ưu tiên khỏi đóng. Đề nghị nên bỏ thuế này cho tàu buôn bán các nước khác, để thương cảnh thêm tấp nập.
Gạo tăng giá 5 lần lúc hơn trước, nhờ xuất cảng được.
Ruộng làm nhiều vì lúa bán cao giá. Ruộng canh tác lậu thuế quá nhiều, có đến phân nửa diện tích trốn thuế. Vài năm nữa, nếu đo đạc xong, thuế điền sẽ thâu được gần bằng hai mà khỏi cần tăng giá biểu thuế. Vial cho rằng giá biểu thuế điền còn quá thấp.
Số dân công làm xâu trị giá 1 triệu quan mỗi năm. Với số bạc mặt tương đương, chưa chắc mướn được nhân công để đào kinh, đắp lộ như người Pháp đã làm (đây là việc cưỡng bách làm xâu thời đàng cựu mà người Pháp duy trì).
Giá đường, non 1 quan 1 kí lô. Dầu phộng, 60 quan 1 tạ dầu, dầu dừa 8 quan 10 lít, cau khô bán qua Trung Hoa (?) từ 60 đến 80 quan mỗi tạ...
Điền chủ bổn xứ cho tá điền vay ăn lời từ 5 đến 10 phân mỗi tháng, tá điền phải chịu điều kiện là dùng hoa màu thu hoạc được để thế chân. Thông lệ là tháng 7 dương lịch năm tới là trả điền vay, tới tháng 1 dương lịch năm tới là trả gấp đôi. Vial nhận xét thêm về mức sống và trình độ văn minh của dân Nam kỳ : khá cao, sang trọng, mỗi chợ đều có đủ thứ nghề, nào là dệt chiếu, nào trại mộc, lò đặt rượu, nhà dệt, lò nhuộm. Trại hòm hoạt động mạnh, hòm (quan tài) hạng thường nbán 30 quan, mỗi năm sản xuất từ 20 đến 20 ngàn cái tức là trong 3 tỉnh miền đông Nam kỳ xài 1 000 000 quan về hòm, người Việt chú trọng đến cái hòm của mình từ khi còn sống.
Về tiền tệ, Vial nêu vài chi tiết đáng chú ý :
Một quan tiền kẽm gồm 600 đồng, ăn 1 quan tiền Pháp.
Một quan tiền kẽm đời các vua sau này cân nặng từ 1 kí lô 10 đến 1 kí lô 1, trong khi tiền kẽm đời Gia Long cân nặng hơn : từ 1 kí lô 20 đến 1 kí lô 25. Trong quan tiền kẽm thông dụng, có khoảng 5/7 là tiền đời Gia Long.
Bạc nén, mỗi nén nặng 374 g (10 lượng) nhà nước nhận khi thâu thuế với giá là 74 quan 61, nhưng bạc nén đem ra chợ đổi được từ 95 đến 100 quan tiền ta, hoặc từ 16 đến 20 đồng bạc con ó.
Một nén vàng, mà Vial cho là ít khi thấy xài, cân nặng khoảng 336 g, dân xài với giá từ 1400 đến 1500 quan, kho bạc nhà nước nhận xài với giá chính thức là 1050 quan.
Đồng bạc con ó lúc đầu khó xài trong dân gian, một đồng con ó đổi 3 quan mà thôi, phổ biến rất chậm. ở thôn quê chưa thấy xài. Thời ấy vì xài nhiều thứ tiền khác nhau nên có nạn đầu cơ tùy theo mùa, có thể đem lợi cho bọn người chuyên đổi tiền.
— Báo cáo của Paul Vial ngày 17/9/1867 : giúp thấy sơ qua tình hình 3 tỉnh miền tây vừa bị Pháp chiếm từ 20/6 tức là non 3 tháng trước. Mục đích của viên Giám đốc Nội vụ này là tìm hiểu nguyện vọng, giải thích cho dân hiểu thiện chí của người Pháp. Mặt khác, thử nghiên cứu cách thức thâu thuế điền bằng tiền mặt, thay vì thâu bằng lúa như thời đàng cựu.
Theo Vial, lúc trước ở 3 tỉnh miền Tây có từ 4 đến 5000 lính đàng cựu, nay chỉ cần tuyển chọn 900 người là đủ dùng vào việc trị an (bớt tốn công quỹ để nuôi lính). Nên tuyển chọn lính mã tà trong gia đình dân có bộ (khá giả), được bảo đảm hơn là lựa trong đám lưu dân. Vial xuống tàu ngày 31/8/1867 (từ Mỹ Tho) với 25 lính mã tà từ Gò Công gởi qua tăng cường cho Trà Vinh, trước đó có 50 lính mã tà đã đến Trà Vinh rồi. Tới Bến Tre, Vial còn thấy di tích của dinh phủ Hoằng Trị thời đàng cựu đã bị bắn sập từ 1862, quan tham biện làm việc trong căn nhà lá, tiếp tay với tham biện là hai quan huyện : một là cựu cai tổng ở Gò Vấp, một là tay phú hộ ở Gò Công. Tham biện Bến Tre lúc bấy giờ là Champeaux. Theo ý kiến Champeaux thì dân Bến Tre sẵn sàng đóng thuế bằng tiền. Champeaux thắc mắc về sự hiện diện của m
Sau đây vài con số, gọi là để chỉ dẫn lúc người Pháp cai trị đến cuối năm 1929, rút phần lớn từ tài liệu do viên chức Pháp soạn ra. Lúc bấy giờ, việc thống kê đã tương đối chính xác, ranh giới các tỉnh đã cố định, chỉ trừ giai đoạn sơ khởi. Tuy nhiên, có nhiều việc ghi trên giấy tờ, trên nghị định nhưng không áp dụng đúng mức hoặc bị méo mó (trường hợp những nghị định cho khẩn đất, trường hợp Nhà Băng Canh nông cho vay), hoặc những báo cáo chánh thức căn cứ vào tài liệu do hương chức thời xưa sưu tầm về dân số, sản lượng.
— Dân số vào năm 1873 : 1 500 000 người.
Đất đã khai thác : 600.000 mẫu tây làm ruộng và 90.000 mẫu tây vườn tược, hoa màu phụ (dừa, cau, thuốc, mía, bắp...)
— Dân số vào năm 1929 : 4.500.000 người (tăng gấp ba lần).
Đất đã khai thác : 2.440.000 mẫu tây làm ruộng và 170.000 mẫu trồng bắp, mía, dừa, thuốc, đậu... (trong số này kể luôn 87.000 mẫu trồng cây cao su). Ngoài ra, còn vườn cây ăn trái từ 12.000 đến 15.000 mẫu.
Như vậy riêng về ruộng nương, diện tích tăng gấp 4 lần, sau khoảng 60 năm thực dân cai trị.
— Đường giao thông vào năm 1929 :
Quốc lộ (gọi là lộ Đông Dương) : 1.013 km
Liên tỉnh lộ : 1.083 km
Tỉnh lộ 1.728 km
Tổng cộng : 3.824 km, ngoài ra còn 3.243 km hương lộ xấu và nhỏ, lắm khi mùa mưa không dùng được.
— Kinh đào (kinh xáng múc hoặc đào tay) : 1.664 km
Miền Đông Nam kỳ đất cao, nhiều rừng, là khu vực đa canh. Miền Tây Nam là khu vực độc canh.
Đất miền Đông đại khái chia ra 150.000 mẫu làm ruộng, hơn 80.000 mẫu trồng cao su, 7.5000 mẫu trồng mía, 800 mẫu vườn tược, đậu, thuốc (trong tỉnh Gia Định), 600 mẫu trồng gòn ở Thủ Dầu Một, 450 mẫu trồng cà phê (trong đó 300 mẫu ở Thủ Dầu Một), lại còn vài vườn tiêu ở Bà Rịa.
Đất miền Tây Nam dành ưu tiên cho ruộng lúa, chiếm khoảng 2.400.000 mẫu trong tổng số đất có trồng tỉa của miền này là 2.460.000 mẫu, tức là 97 % diện tích trồng trọt, ngoài ra nên kể thêm khoảng 20.000 mẫu vườn cây ăn trái.
Ruộng lúa miền Tây Nam đứng hàng đầu, chiếm 92 % diện tích trồng tỉa của Nam kỳ, và là 37 % diện tích của toàn lãnh thổ Nam kỳ. Mức sản xuất ước định như sau :
Mùa 1924—1925 : 22.270.000 quintaux
Mùa 1925—1246 : 19.900.000
Mùa 1926—1927 :
Mùa 1927—1928 : 28.239.500
Mùa 1928—1929 : 21.500.000
Tính đổ đồng, mỗi người ăn từ 175 đến 219 kg mỗi năm, ngoài ra còn dùng để nấu rượu, nuôi gia súc. Số dư đem xuất cảng. Lúc trước Miến Điện là nước xuất cảng lúa đứng đầu thế giới nhưng từ năm 1925, Nam kỳ lại dẫn đầu. Gạo Nam kỳ kém phẩm chất hơn gạo Miến Điện vì quá nát, nhiều tấm.
Về cao su, tuy phát triển mạnh nhưng chỉ có 1,9 % của tổng số sản xuất trên thế giới.
Năng xuất lúa còn kém, đất tốt thâu hoạc 1.600 kg lúa mỗi mẫu, đất trung bình và đất xấu từ 400 kg đến 600 kg, thua xa các nước khác. Lúc bấy giờ, ở các tỉnh miền Hậu giang chưa biết phân hóa học là gì.
Trước khi Pháp đến, những vùng thuận lợi có sông rạch đều làm ruộng rồi. Trong thời cai trị của người Pháp, có thêm hai việc lớn :
— Đào kinh thêm ở những nơi có thể làm ruộng được, tạo đường giao thông chuyên chở, rút bớt nước lụt, rút bớt phèn.
— Vài giống lúa sạ được canh tác có kết quả ở những nơi mực nước lụt quá cao là loại lúa thường (lúa cấy) không sống nổi.
Việc đào kinh cứ gia tăng từ năm 1880 :
1880—1890 đào 2.110.000 thước khối đất. Năm 1890, diện tích ruộng là 932.000 mẫu, tăng 169.000 mẫu, so với thời đàng cựu.
1890—1900 đào 8.106.000 thước khối. Năm 1900, diện tích ruộng là 1.212.000 mẫu, tăng 280.000 mẫu so với năm 1890.
1900—1910 đào 27.491.000 thước khối đất. Năm 1910, diện tích canh tác là 1.542.000 mẫu, so với năm 1900, tăng 331.000 mẫu.
1910—1920 đào 66.104.000 thước khối đất. Năm 1920, diện tích canh tác là 1.953.000 mẫu, tức gia tăng 410.000 mẫu so với năm 1910.
1920—1930 đào 72.042.000 thước khối. Diện tích canh tác năm 1930 là 2.452.000 mẫu, so với năm 1920, tăng thêm 499.000 mẫu.
Nhìn qua thì thập niên đầu (1880—1890) đến thập niên chót, số thước khối đất phải đào để khẩn thêm một mẫu ruộng là 12 thước khối, rồi tăng lên đến 28, đến 83, rồi phải 161, đến mức 144 thước khối.
Như vậy có nghĩa là trong tổng quát, càng ngày việc đào kinh càng tốn kém hơn. Năm 1890, muốn khai thác một mẫu đất mới, chỉ cần đào 12 thước khối. Năm 1930, muốn khai thác thêm một mẫu đất phải đào đến 144 thước khối, hơn 10 lần.
Hiện tượng trên đây có thể giải thích :
— Trước khi người Pháp đào kinh xáng đã có một số đất ruộng khá tốt, có năng xuất cao sẵn rồi, không đào thêm một thước khối đất nào nữa thì cũng có dư lúa để bán ra ngoài.
— Diện tích đất hoang chỉ có giới hạn, càng đào kinh thì diện tích ấy càng thu hẹp lại.
— Tới mức chót, có đào thêm kinh nơi đất quá xấu thì diện tích ruộng canh tác cũng không tăng bao nhiêu. Người khẩn đất không thích đến, làm ăn thưa thớt, không như trong đợt đầu tiên đào kinh qua vùng đất tốt.
Hơn nữa, việc sản xuất lúa gạo đòi hỏi nhiều yếu tố khác, ngoài yếu tố thuần túy kỹ thuật : vay mượn vốn để làm mùa, quy chế cho trưng khẩn, giá cả trên thị trường quốc tế.
Tính đến năm 1930 thì những tỉnh có đất phù sa tốt như Bến Tre, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Mỹ Tho, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng đã khai thác xong, kể luôn những phần đất giồng ở Long Xuyên, Châu Đốc, Tân An, Sa Đéc. Trong các tỉnh này chỉ còn lại chừng 150.000 mẫu đất chưa trồng tỉa ở vùng Đồng Tháp, vùng Láng Linh và phụ cận tỉnh lỵ Hà Tiên là nơi đất quá phèn.
Từ năm 1880, các tỉnh trù phú như Bến Tre, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Mỹ Tho, Trà Vinh, Vĩnh Long đã khai thác xong trên diện tích hơn phân nửa diện tích canh tác vào năm 1929, tức là ở các tỉnh nói trên việc khẩn hoang xúc tiến rất chậm, trong khoảng 50 năm người Pháp cai trị chỉ tăng chừng 40 %.
Cũng từ năm 1880, các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Tân An, Hà Tiên, Sa Đéc tính đến năm 1929, tăng thêm 3/4 so với diện tích canh tác cũ, đối với các tỉnh Sóc Trăng, Cần Thơ thì tăng 2/3.
Khi mới chiếm cứ, thực dân chỉ chú trọng vào phần đất tốt, đông dân, có sẵn đường giao thông ở miền Tiền giang. Các tỉnh này xem như giải quyết xong từ năm 1910 tổng số là 651.000 mẫu, đến năm 1930 tổng số là 705.000 mẫu.
Từ năm 1910 trở về sau, thực dân mới chú ý các tỉnh ở xa, hoặc đất xấu hơn thuộc Châu Đốc, Long Xuyên, Tân An, Sa Đéc, phía Đồng Tháp. Diện tích đã canh tác ở các tỉnh nói trên cộng lại như sau :
1910 241.000 mẫu
1920 399.999 mẫu
1930 534.000 mẫu
Các tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng cũng phát triển từ năm 1910 về sau :
Cần Thơ
1910 132.000 mẫu
1920 202.000 mẫu
1930 205.000 mẫu
Sóc Trăng
1910 176.000 mẫu
1920 188.000 mẫu
1930 212.000 mẫu
Việc đào kinh đã thúc đẩy công tác khai khẩn ở hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng từ năm 1890 đến 1920. Riêng về tỉnh Cần Thơ, khoảng 1900 đến 1920, có hơn 350 km kinh đào thêm nối qua Rạch Giá và Sóc Trăng.
Lúa sạ giúp khai thác phần đất bấy lâu bỏ hoang, nhờ đó mà Châu Đốc có thêm 90.000 mẫu, Long Xuyên 47.000 mẫu (năm 1929).
Đây là khu vực nhờ đào thêm kinh mà diện tích canh tác gia tăng với những con số hùng biện nhứt. Đời Tự Đức, ít ai chịu tới làm ăn, lý do chánh là đất quá phèn, đường giao thông chuyên chở khó khăn và quá xa Sài Gòn. Hầu hết mấy con sông lớn vùng này đều đổ ngược qua phía vịnh Xiêm La.
Mãi đến năm 1897 (trường hợp Bạc Liêu) và năm 1916 (trường hợp Rạch Giá) mới có đường xe nối liền với Sài Gòn, trong khi đường xe lửa Sài Gòn, Mỹ Tho đã có từ năm 1883. Việc đào kinh xáng giúp các vùng Bạc Liêu và Rạch Giá bán lúa nhanh và có giá hơn trước, đồng thời đất ráo phèn, nước bớt sâu dễ cày cấy hơn. Diện tích canh tác của hai tỉnh này gia tăng như sau :
1880 20.000 mẫu
1890 83.000 mẫu
1900 136.000 mẫu
1910 265.000 mẫu
1920 405.000 mẫu
1930 600.000 mẫu
Ruộng hai tỉnh này chiếm 1/4 trong tổng số diện tích làm ruộng của toàn cõi Nam kỳ.
Ngay khi vừa đào xong những con kinh đầu tiên, dân tứ xứ tới cất nhà, làm ruộng mà nhà nước khỏi cần giúp đỡ về vốn liếng, gia súc, hoặc cây lá gì cả. Họ đến cánh đồng bao la giữa Hậu giang và vịnh Xiêm La, mạnh ai nấy chiếm, nấy cấm ranh. Chỉ trong 3 năm (1927—1930) họ tự động chiếm 17.000 mẫu. Việc chiếm hữu này xảy ra :
— Do những nông dân nghèo ở các tỉnh miền trên đến lập nghiệp. Họ muốn làm chủ phần đất tương đối đầy đủ để nuôi sống gia đình.
— Do những người đem vốn lớn từ các tỉnh khác đến, họ mướn dân địa phương cắm ranh, khẩn hoang đợt đầu tiên cho họ rồi họ gom lại, trở thành đại điền chủ.
Rồi tình trạng hỗn loạn, tranh chấp, tham nhũng lại xảy ra. Nhiều người có uy thế, nhìn xa và rành luật lệ đã nộp đơn tại Sài Gòn xin trưng khẩn, vì trên bản đồ những phần đất này vô chủ. Khi thấy đất khai thác xong, bắt đầu có huê lợi thì họ đến địa phương để tranh chấp với những người thật sự khai khẩn (nhưng không có giấy tờ).
Nhà nước phàn nàn rằng dân đã tự động chiếm đất công thổ, không có cách gì ngăn được. Nhưng một số thân hào nhân sĩ, hội đồng, cai tổng hoặc đại điền chủ ở những tỉnh khác thì lại vui mừng vì rốt cuộc, những vùng đất này rơi vào tay họ. Một số người Pháp cũng lợi dụng tình thế để lập đồn điền. Nhà nước lại xúc tiến việc đạc điền, để ghi vào bộ và đánh thuế. Dân địa phương nổi lên tranh chấp, ngăn cản những kẻ chiếm đoạt đang mướn chuyên viên đến đo đạc. Hoặc dân địa phương dùng khí giới bén mà ngăn chận những người tự xưng là “chủ đất hợp pháp” đến đòi thâu lúa ruộng. Hoặc họ tự đứng đơn tập thể, kéo nhau đến Tòa bố (tòa Hành chánh tỉnh) để ngồi lì, hoặc tự vệ một cách tuyệt vọng.
Nhiều luật lệ về trưng khẩn đất ruộng ra đời, ban đầu thể thức dễ dãi, lần hồi thì siết lại thêm khó khăn. Xin lược kê những nghị định căn bản, với nét chánh :
— Những nghị định năm 1864, 1871 và 22/8//1882 : ngoại trừ những đất đã canh tác rồi hoặc đất thổ cư (đặc biệt là đất thổ cư ở Sài Gòn, Chợ Lớn) thì đất công thổ cho trưng khẩn không, tức là không bán lại bằng tiền. Muốn khẩn thì làm đơn, ghi diện tích, ranh giới, rồi đóng thuế. Những nghị định trên không nêu điều kiện là bắt buột người trưng khẩn phải khai thác, không được bỏ đất hoang (về sau, nghị định 15/10/1890 bổ túc chi tiết này). Tham biện chủ tỉnh được quyền cho trưng khẩn những sở đất nhỏ dưới 20 mẫu (nghị định 9/6/1886 rút lại còn 10 mẫu).
— Nghị định 15/10/1890 bắt buộc phải canh tác trong thời gian là 5 năm cho xong và định rằng nhà nước có quyền lấy lại đất khi có nhu cầu công ích (đào kinh, đắp lộ...)
— Nghị định 10/5/1893 định rằng đất trưng khẩn không được ăn dài theo mé kinh, mé sông rạch quá 1/4 của chu vi sở đất (tránh trường hợp người tham, chỉ khẩn đất phía mặt tiền kinh rạch, đất mặt tiền thì luôn luôn có giá hơn đất ở hậu bối).
— Nghị định 27/1/1896 quy định những lố đất đã xin tạm khẩn mà người thừa kế không nhận làm chủ, trường hợp đất quá xấu, thì phải hoàn trả lại để nhà nước ấp cho kẻ khác.
— Nghị định 13/10/1910 lần đầu tiên quy định đất công thổ được tư nhân trưng khẩn phải bán theo giá thuận mãi, đặc biệt là đất trồng cao su. Nhà nước chánh thức bán đất công thổ cho dân.
Nghị định của phủ toàn quyền ngày 27/12/1913 và của Thống đốc Nam kỳ ngày 11/11/1914 định rằng đất ruộng chỉ cấp với điều kiện là đem đấu giá công khai hoặc theo thể thức thuận mãi. Không bao giờ cấp cho không (khỏi mua) những sở đất trên 300 mẫu như trước kia đã làm. Việc trưng khẩn đất trên 1.000 mẫu phải do phủ Toàn quyền Đông Dương cho phép.
— Nghị định của phủ Toàn quyền ngày 26/11/1918 bổ túc nghị định 27/12/1913 : những người trong một gia đình chỉ có thể xin cấp cho không (khỏi mua) một lần dứt khoát tối đa là 300 mẫu mà thôi. Chỉ có thể xin cấp cho không một lần thứ nhì là 300 mẫu, nếu đã canh tác xong ít nhất là 4/5 của sở đất cấp cho không lần trước. Và đương sự không được quyền xin cấp cho không một lần thứ ba.
— Nghị định 4/10/1928 quy định chặt chẽ việc khẩn đất, tuyệt đối cấm không được chiếm đất công thổ theo kiểu tiền trảm hậu tấu, làm ruộng rồi sau đó mới khai xin vào bộ. Cũng vì nghị định này mà số người xuống Rạch Giá, Bạc Liêu để lập nghiệp phải giảm bớt, họ chẳng còn cơ hội khai khẩn nơi nào họ thích, dành quyền ưu tiên như trước kia.
— Nghị định 25/6/1930 quy định những vùng còn cho phép và những vùng không còn cho phép trưng khẩn. Đại khái, sau khi áp dụng nghị định này thì chỉ có khoảng 150.000 mẫu ở Bạc Liêu và 80.000 mẫu ở Rạch Giá là còn được phép cho trưng khẩn mà thôi, lẽ dĩ nhiên, chỉ còn loại đất phèn, đất nước mặc quá thấp và xấu, thiếu kinh thoát thủy.
Hậu quả của những nghị định trên là tạo ra một thực tế bi đát. Người Pháp cho rằng họ cố ý phát triển chế độ tiểu điền chủ mà thôi nhưng trong thực tế, đại điền chủ lại phát triển.
Luật định rằng những phần đất 10 mẫu mà tham biện chủ tỉnh có quyền cấp phát (gọi nôm na là đất công nghiệp) không được phép bán trong thời gian tạm khẩn, chỉ 3 năm sau khi chánh thức làm sở hữu chủ, chủ đất mới được bán cho người khác. Nhưng thực dân lại cố ý dung túng việc cho vay nặng lời, khiến người tiểu điền chủ không đủ vốn canh tác mang nợ, vốn lời chồng chất đến mức giao phần đất công nghiệp của mình cho kẻ khác để trừ nợ.
Một số viên chức thực dân đã bào chữa cho rằng chế độ đại điền chủ ở Nam kỳ, đặc biệt là ở các tỉnh miền Tây lần hồi tự nó suy sụp : về lâu về dài, không còn đất trống để khẩn thêm và gia đình người đại điền chủ lại đông con, đất chia ra mãi đến đời cháu nội thì chỉ còn là từng mảnh nhỏ !
Nhà nước có tổ chức những nhà băng Canh nông nhưng trong thực tế chỉ một số nhỏ điền chủ vay được, họ đem về cho tá điền vay lại với tiền lời cao hơn. Người Chà Chetty cũng cho vay với tiền lời theo luật định (năm 1930, phỏng định họ cho điền chủ Nam kỳ vay khoảng 30 triệu đồng) nhưng người được vay phải chịu tiền lời cao, trên giấy tờ ghi đã nhận một ngàn đồng mà thật sự chỉ nhận có 900.
Điền chủ cỡ nhỏ, luôn cả điền chủ cỡ lớn thường thích vay bạc lúa (lấy bạc lúa) của thương gia Hoa kiều vì thủ tục giấy tờ gần như không có, lấy tiền rồi đến mùa thì đong lúa trả lại. Thương gia Huê kiều đưa tiền ra mua lúa khi chưa tới mùa, với giá rất thấp so với giá thị trường lúc gặt hái. Họ thâu lợi nhiều nhưng họ khéo đối xử với chủ điền. Tùy giá thị trường do họ tiên đoán, tùy sản nghiệp của ông điền chủ (con nợ), tùy sự tín nhiệm trong quá khứ mà họ cho vay nhiều hay ít. Nét đặc biệt là trong việc cho vay này là nếu con nợ giựt thì họ không cho vay nữa, gần như chẳng khi nào họ truy tố hoặc nhờ pháp luật tịch thu đất đai. Trường hợp vay tiền của Chà Chetty hoặc của nhà băng Canh nông thì trái ngược lại : ăn lời rất ít nhưng khi thất hẹn thì đất đai bị tịch ký.
Nhiều tài liệu đề cập đến việc đào kinh xem là yếu tố quan trọng để vựa lúa thành hình với các chi tiết kỹ thuật. Xin ghi lại vài nét chánh :
— Vùng Cần Thơ đào từ 1890 đến 1900 : kinh Trà ết, kinh Xà No, kinh Long Mỹ, Bassac (gọi nôm na là kinh Lái Hiếu); từ 1900 — 1920 : kinh Thốt Nốt qua Giồng Riềng, kinh Thới Lai, Ô Môn, Xuân Hòa, Phong Điền, Cái Răng, Trà Lồng, kinh Cái Vồn...
— Vùng Sóc Trăng : đào từ 1890 — 1900 : kinh Bocquillon, kinh Saintenoy...; từ 1900 — 1920 : kinh Phụng Hiệp, Sóc Trăng (1905), kinh Maspéro (1911), kinh Cái Trầu (1914—1917), kinh Quan lộ, Nhu Gia (1925), kinh Cái Trầu qua Chàng Ré (1917), kinh Nàng Rền (1911), kinh Tiếp Nhựt (1911)...
Một phần lớn kinh do xáng đào từng chặn, sửa chữa nới rộng và vét tới vét lui nhiều lần; một số kinh thì đào tay, bắt dân làm xâu. Tỉnh Rạch Giá được ảnh hưởng tốt nhờ mấy con kinh đào từ Cần Thơ và Sóc Trăng ăn qua.
Để nhiên cứu vựa lúa Hậu giang cũng là vựa lúa quan trọng của Nam kỳ và Việt Nam, chúng tôi chọn ba tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu và Cần Thơ.
Rạch Giá và Bạc Liêu là hai tỉnh rất mới mà việc khai khẩn vẫn chưa hoàn tất mãi đến khi người Pháp rời xứ Nam kỳ. Nghiên cứu hai tỉnh này, ta thấy rõ việc làm của người Pháp và những nét đặc biệt của vùng đất rộng người thưa mà vùng Tiền giang không có.
Tỉnh Cần Thơ điển hình cho sự sung túc của Hậu giang, nơi gọi là thủ đô miền Tây, với nhiều đồn điền của Pháp. Một phần đất của Cần Thơ đã được khai khẩn từ thời Minh Mạng, Tự Đức. Cần Thơ là nơi người Việt chiếm đa số, phong tục thuần tục, nước ngọt, đất tốt, đường giao thông thuận lợi về Sài Gòn, với vùng Ngả Bảy (Phụng Hiệp), một quận thành hình nhờ việc đào kinh thời Pháp thuộc.
Về địa tô (lúa ruộng) thì giống như thời đàng cựu, thực dân Pháp không đưa ra luật lệ nào cả, chủ điền cứ thỏa thuận với tá điền. Giá biểu địa tô cao thấp tùy theo đất tốt xấu, tùy theo “lòng nhân đạo” của chủ điền. Nhưng ta có thể nắm lấy nguyên tắc : chủ điền đã tính toán thật kỹ để đến khi lúa chín, bằng mọi cách, họ thâu 80 % sản lượng mà tá điền gặt hái được. Tá điền chỉ còn đủ lúa để mua sắm quần áo, ăn chơi trong mấy ngày Tết, ra giêng là bắt đầu vay nợ mới. Nhiều chủ điền tỏ ra nhân đạo, thâu địa tô rất thấp nhưng bắt buộc tá điền phải vay thêm tiền mặt và lúa để ăn với tỷ lệ lời quá cao.
Xin miễn đề cập đến việc tổ chức cho vay của nhà nước vì bấy giờ trong thực tế, người điền chủ bực trung không hưởng gì ráo. Cũng như xin bỏ qua việc khuyến nông, việc nghiên cứ về kỹ thuật trồng tỉa, cùng cách tổ chức quan sát khí tượng mà trên báo cáo về mặt chính quyền thì rất “tiến bộ”, đầy đủ. Vào năm 1930, chừng 30 máy cày trong vòng thí nghiệm ở các điền của người Pháp. Lưỡi cày, vòng gặt, nọc cấy, cây bừa cào, cách thức trị định trâu bò nếu được cải tiến chút ít so với thời Tự Đức thì hoàn toàn do người Việt bày ra mà thôi.
Trong tổng số đất đai trồng tỉa ở Nam kỳ là 2.700.000 mẫu, người Việt đứng tên làm chủ được chừng 2.400.000 mẫu, tức là 8/9 diện tích. Trong đất đai trồng tỉa, nên chia ra :
— Đất trồng cao su : 80.000 mẫu của người Pháp, người Việt chỉ có 5.300 mẫu.
— Đất làm ruộng : người Pháp đứng bộ 243.000 mẫu tức là hơn 1/10 diện tích tổng quất trồng lúa, con số này kể luôn đất của người Việt nhập Pháp tịch ; người Pháp chánh gốc đứng bộ khoảng 150.000 mẫu.
Các bảng thống kê nêu con số hơi khác nhau về chi tiết, nhưng đại để các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu, Cần Thơ là nơi tập trung đại điền chủ vì là đất mới.
Vựa lúa miền Nam thành hình trong hoàn cảnh mới
Đời Gia Long, vùng sản xuất lúa gạo nhiều nhứt của đất Gia Định nói chung là vùng Gò Công, thuộc trấn Định Tường.
Khi người Pháp đến, trung tâm điểm của vựa lúa di chuyển lần hồi về miền Tây Nam. Muốn có lúa gạo thặng dư để xuất cảng, cần hai điều kiện :
— Diện tích canh tác rộng.
— Dân số địa phương ít, mức tiêu thụ tại chỗ không cao.
Sau đây là vài con số về diện tích canh tác của từng tỉnh. Thời Pháp thuộc, việc phân chia ranh giới các tỉnh không đồng đều, tỉnh thì quá lớn, tỉnh thì quá nhỏ. Số lượng đất đai chỉ là chỉ dẫn, vì đất tốt xấu khác nhau.
Năm 1873 :
Chợ Lớn 37.340 mẫu (tỉnh Chợ Lớn gồm Cần Đước, Cần Giuộc là nơi sản xuất lúa tốt và nhiều)
Mỹ Tho 34.238
Vĩnh Long 28.784
Gò Công 28.146 (Gò Công là tỉnh có diện tích tổng quát rất nhỏ nhưng đứng hạng tư về đất canh tác, tức là vẫn còn giữ vị trí bực nhứt).
Năm 1900 :
Sóc Trăng 158.439 mẫu (đứng đầu Nam kỳ)
Cần Thơ 124.588
Trà Vinh 120.419
Mỹ Tho 91.748
Năm 1930 :
Rạch Giá 358.900 mẫu (đứng đầu Nam kỳ)
Bạc Liêu 330.030
Sóc Trăng 212.909
Cần Thơ 205.000
Long Xuyên 186.049 (đa số lúa sạ, gạo xấu)
Mỹ Tho 154.662 (dân đông đúc, một phần lúa sạ phía Đồng Tháp)
Trà Vinh 152.000
Theo P. Bernard, mấy tỉnh Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh là vựa lúa thật sự của Nam kỳ để xuất cảng. Năm tỉnh nói trên gồm 966.000 mẫu ruộng, những năm bình thường cung cấp hơn phân nửa tổng số lúa xuất cảng của Đông Dương. Các tỉnh ấy xuất cảng 986.000 tấn. Dân số trong hiện tại (ở các tỉnh vừa kể, khoảng năm 1930) phỏng chừng 1.130.000 người, tính đổ đồng mỗi mẫu ruộng là 1,15 người và mỗi mẫu ruộng xuất cảng được một tấn.
Theo bác sĩ Trần Như Lân thì buổi bình thường trước khi xảy ra kinh tế khủng hoảng, Nam kỳ và Cao Miên mỗi năm xuất cảng 1.300.000 tấn gạo; trong số này có 200.000 tấn gạo của vùng Battambang (Cao Miên) và 900.000 tấn của miền Hậu giang.
Vùng Rạch Giá đất rộng người thưa
Rạch Giá là hậu bối khá rộng của bờ biển vịnh Xiêm La. Bờ biển từ Rạch Giá (vàm sông Cái Lớn) ăn về phía Nam là khu rừng sác với cây mắm, cây giá, cây cóc, loại cây tạp không đem huê lợi gì đáng kể, trừ huê lợi sáp và mật ong, hoặc cua, ba khía sống nhun nhúc trong bãi bùn (khu vực của cây đước chỉ ở về phía cực Nam tận mũi Cà Mau). Hậu bối tức là sau lưng, giáp vào rừng sác. Có thể nói đất Rạch Giá là rừng tràm minh mông, nhiều phèn và thấp; xa bờ biển hàng đôi chục cây số ngàn vẫn còn là rừng tràm cầm thủy (trầm thủy). Nổi danh nhứt là U Minh Thượng và U Minh Hạ. U Minh Thượng là rừng chồi, có từng lõm “đất cháy” (than bùn) nằm bên tả ngạn sông Cái Lớn. U Minh Hạ là rừng tràm tốt và mọc dày, dọc ven biển chạy dài tới Cà Mau. Đất Rạch Giá khi người Pháp đến hãy còn nhiều cọp, khỉ, sấu, heo rừng, huê lợi chánh vẫn là mật và sáp (nhờ bông cây tràm, cây giá). Ngoài ra còn cây tràm (làm củi, cột nhà), lá dừa nước (để lợp nhà), cá đồng và cá biển. Đáng chú ý là voi thường tới lui cánh đồng nối liền với Cần Thơ mà ăn lau sậy.
Hai con sông đáng kể là Cái Bé và Cái Lớn từ đất thấp phía Đông chảy ra vịnh Xiêm La, hiệp lại ở một vàm khá rộng. Hai con sông này chia ra nhiều nhánh nhóc. Ngọn sông Cái Bé ăn qua rạch Cần Thơ, về bờ Hậu giang. Sông Cái Lớn ăn xuống Ba Xuyên, thuộc Sóc Trăng hoặc xuống phía chợ Cà Mau nhưng là những đường liên lạc nhỏ bé, vào mùa nắng có nhiều chặng cạn và hẹp, đầy cỏ. Dân ở vùng Rạch Giá, trước khi đào kinh xáng, phần lớn sống nhờ nước mưa, trừ trường hợp chợ Rạch Giá hứng nước ngọt từ kinh Thoại Hà (đào từ cuối đời Gia Long) nối qua Hậu giang. Giếng có thể đào trên mấy giồng cao ráo, chắc thịt bên bờ sông. Vùng ven biển vịnh Xiêm La định cư được là nhờ nước suối chở từ Hòn Tre. Bên bờ Cái Lớn, Cái Bé và các phụ lưu, rải rác nhiều giồng, nhiều gò, nơi người Miên đến lập từng sốc : những ốc đảo hoang vắng, chung quanh là rừng che kín chân trời. Muỗi mòng, rắn và vô số chim cò tha hồ nẩy nở.
Trước đời Gia Long, dân chúng đã chọn lựa vài gò cao lập được bảy xã theo sông Cái Bé và chợ Rạch Giá (tổng Kiên Định), bốn xã theo sông Cái Lớn (tổng Thanh Giang). Nhưng dân số người Miên và diện tích ruộng đất do họ canh tác từ xưa vẫn đáng kể tuy không có con số chánh thức. ít ra họ cũng dư khả năng tự túc về lúa gạo. ở Rạch Giá, người Miên đứng vào hàng đầu (Rạch Giá : 80.000 người, Trà Vinh : 80.000, Sóc Trăng : 50.000, Châu Đốc : 30.000, Bạch Liêu : 23.000).
Vĩnh Long mất, Hà Tiên lại mất, thực dân chiếm huyện Kiên Giang không tốn một phát đạn. Viên tham biện đầu tiên là Luro. Paulin Vial đến Rạch Giá thanh tra nhưng năm sau Nguyễn Trung Trực đánh một trận thần tình, giết gần trọn người Pháp vừa lính vừa viên chức ở tỉnh lỵ này (16/6/1868).
Dạo ấy, Rạch Giá là hải cảng tấp nập, tàu buồm Hải Nam tới mua bán luân lưu giữa khu vực Cao Miên (thương cảng Kampot), Xiêm (Vọng Các), Tân Gia Ba và Nam Dương. Nhà cửa san sát ở hai bờ rạch sát vàm biển. Thoạt tiên, hạt Rạch Giá bao gồm luôn trọn mũi Cà Mau, tức là huyện Kiên Giang và huyện Long Xuyên thời Tự Đức. Sông rạch nhỏ chằng chịt, tháng nắng dùng không được, chỉ thuận lợi cho ghe xuồng cỡ nhỏ. Nhiều con đường mòn dành riêng cho dân địa phương sử dụng ở nơi đi bộ không được đi xuồng không xong; đó là đường cộ, dùng cộ có trâu kéo (không bánh xe, kiểu cộ trượt tuyết ở Bắc Ñu). Mãi đến năm 1879, vùng Rạch Giá còn trong vòng thám hiểm của thực dân, bản đồ chưa được chính xác, nhiều con rạch dân chúng sử dụng được nhưng chưa ghi, lại còn vị trí nhiều xóm nhỏ ẩn lánh ở ngọn rạch của bọn người đốn củi lậu thuế hoặc ăn ong (lấy sáp và mật). Bọn thợ rừng sử dụng những con đường quanh co để chở củi lậu thuế. Việc cai trị ở thôn quê xa tỉnh lỵ chưa thành nền nếp. Theo báo cáo của tham biện thì năm 1879, tỉnh này tuyệt nhiên chưa có địa bộ, tất cả đất trong tỉnh đều được xem như là công điền. Hương chức làng kê khai diện tích tổng quát, chịu thuế rồi gán ép lại cho dân. Vài người tự nhận là chủ của phần đất đang canh tác, vì chính họ khai phá hoặc do cha mẹ để lại. Trường hợp làng Vĩnh Lộc (vùng Ngan Dừa, còn gọi là Ngan Gừa) : hương chức làng chịu thuế điền là 406 quan để rồi bắt buộc dân gồm đa số là Cao Miên phải đóng gấp đôi gấp ba. Hương chức cứ ở không mà hưởng, đến độ dân địa phương phẫn nộ, đòi tản cư luôn qua Sóc Trăng nếu họ không được phép lập một làng riêng.
Đầu năm 1880, tham biện chủ tỉnh làm tờ trình về tình hình thuế khóa và dự án thâu như sau (Rạch Giá và Cà Mau) :
— Thuế điền ănm 1879 : 11.068 quan, tính trên tổng số đất ruộng và rẫy là 2.847 mẫu.
Dân đinh gồm người Việt và Cao Miên : 2744 người (2.010 Việt và 734 Miên).
Mấy giồng chung quanh chợ Rạch Giá trồng xoài, vì lâu năm nên hóa xoài rừng. Người Huê kiều và người Minh Hương làm rẫy rau cải, đất ngoại ô cũng như tại chợ đều không có bộ sổ chi cả.
Thuế kiểm lâm thất thâu, dân chúng lén đốn cây tràm trong rừng rồi theo đường quanh nẻo tắt mà chở qua Sóc Trăng thay vì đi ngang qua trạm kiểm soát.
Nguồn lợi lớn nhứt của ngân sách vẫn là thuế phong ngạn (đấu giá từng lô rừng cho dân khai thác sáp, mật) : năm 1879 đã thâu : 29.546 quan (trong khi thuế điền chỉ có 11.068 quan).
Nguồn lợi thứ yếu là đấu thầu sân chim : năm 1879 đã thâu : 25.000 quan.
Tóm lại, năm 1880, Rạch Giá không được chánh phủ Nam kỳ chú ý nhiều. Riêng về sân chim thì các viên tỉnh trưởng xem như là “kỳ quan”. Tuy nhiên, những nguồn lợi sáp mập cùng là sân chim giảm bớt trong những năm sau, dân phá rừng lần hồi để bán cây. Cây tràm tuy không là danh mộc nhưng làm cột nhà rất tốt, bán qua các tỉnh lân cận. Sân chim mỗi lần khai thác là giết cả trăm ngàn con vừa lớn vừa nhỏ để lấy lông kết quạt.
Trong khi ấy ở một tỉnh xưa như tỉnh Sa Đéc (tức huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang đời Tự Đức, thuộc trấn Vĩnh Thanh đời Gia Long) dân số và bộ điền đã khá rành mạch :
Chúng ta thử so sánh tạm.
Diện tích ruộng vườn và rẫy, trong bộ sổ của Pháp mới lập :
Rạch Giá 2.2847 mẫu
Sa Đéc 53.386
Dân đinh ở Rạch Giá, Cà Mau 2.744 người
Sa Đéc 128.902 người
Vì là tỉnh xưa, ở Sa Đéc nhiều vùng đông đúc, mật độ cao đến 241 người mỗi cây số vuông, đất bị cắt manh mún theo chế độ tiểu điền chủ, những sở đất dưới 5 mẫu chiếm 4/10 của tổng số đất khai thác. Và 6/10 của đất khai thác là đất thổ cư và vườn tược.
Sáu năm sau, năm 1886, tình hình tỉnh Rạch Giá bắt đầu khả quan hơn. Báo cáo của tham biện ngày 8/8/1886 nêu vài chi tiết :
— Trong 7 người dân, tỷ lệ là 4 người Cao Miên, 3 người Việt.
— Biến cố ở Kinh thành Huế (vụ Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi 1885) chẳng gây xúc động gì rõ rệt trong dân gian;
— Đường bộ quá ít, dân chúng ao ước đường thủy phát triển thêm. Mọi việc xê dịch đều dùng đường thủy.
— Dân ra chợ mua bán thường dùng đường biển cho nhanh hơn. ở vùng Cái Lớn (Mũi Gảnh) nạn chìm ghe thường xảy ra.
— Năm 1883, đã bắt dân xâu đào con kinh, gọi là kinh Ông Hiển, để đi từ sông Cái Bé, từ rạch Tà Niên ra chợ mà khỏi vượt biển. Kinh này tiếp tục đào đến năm 1886. Đường liên lạc từ Rạch Giá đến Châu Đốc gần như không có, dân chúng dùng xuồng nhỏ, theo đường quanh len lỏi giữa rừng tràm.
— Đào xong con kinh từ Cạnh Đền ăn xuống Cà Mau (kinh Bạch Ngưu), dùng dân xâu làng Vĩnh Lộc.
— Con lộ chiến lược quan trọng nhứt trong tỉnh chạy từ chợ Rạch Giá vô Minh Lương (khoảng 15 cây số). Minh Lương làm xóm sung túc từ lâu đời, gồm đa số người Miên. Lộ này vạch sẵn hồi xưa, nay tu bổ lại để đem thơ từ, chạy ngựa.
— Trường học tại tỉnh lỵ lợp lá, ngưng dạy từ mấy năm qua đang bắt đầu hoạt động trở
— Năm 1885, trong toàn tỉnh có 6 trường tổng, trường ở Minh Lương không đem lại kết quả vì thiếu giáo viên.
— Dân bộ chịu thuế năm 1883 là 8.000 người, năm 1886 là 10.000 người. Kết quả này thâu được là nhờ lập bộ kỹ lưỡng hơn trước.
— Bộ điền năm 1883 : 8000 mẫu; năm 1886 : 10000 mẫu.
Đất ruộng khó kiểm soát vì dân làm ruộng không đều, hễ thất mùa thì họ dời chỗ. Nhiều vùng đất 3 năm mới có làm một mùa ruộng.
Tại chợ, từ 4 năm qua đã lập một lò gạch nhưng xấu về phẩm chất. Vì chưa cấp bằng khoán thổ cư nên chẳng ai dám xây nhà gói, sợ sau này bị đuổi.
— Việc mua bán xáo trộn vì giá tiền kẽm bị sụt. Tiền điếu (bằng đồng phiếu) lại khó xài, nhà nước phát ra khi dân lãnh ngân phiếu, nhưng dân đem tiền điếu đóng trở lại cho “công xi” khi mua á phiện và rượu.
Tóm lại, tỉnh Rạch Giá (gồm luôn Cà Mau) là miếng mồi khó nuốt so với các tỉnh miền Tiền giang như Sa Đéc, Mỹ Tho, Vĩnh Long hoặc Long Xuyên. Huê lợi, thuế khóa quá thấp kém. Các viên tham biện không rành về hành chánh, những bản phúc trình chánh thức gởi về cho Giám đốc Nội vụ về hình thức cũng như nội dung gần như là thơ riêng gởi cho bạn, viết tháu, báo cáo đại khái vài nét, nhận xét tùy hứng, không thứ tự.
Trong thực tế, muốn báo cáo kỹ lưỡng cũng không được vì tỉnh này vừa khi mới thành lập đã thiếu người hợp tác; các tỉnh Tiền giang dầu sao đi nữa cũng thừa một số người lịch lãm biết chữ nho hoặc chữ quốc ngữ, am hiểu địa phương. Sau cuộc đánh úp đồn chợ Rạch Giá vào năm 1868, người Pháp nghi kỵ tất cả người Việt vì đa số lính mã tà, đến viên quản mã tà cũng đều làm nội ứng. Thực dân không muốn xài người Việt ở Rạch Giá và nhân dịp tu chỉnh lại bộ máy cai trị, chúng cố ý dùng người Miên để trị người Việt, cổ xů chia rẽ. Vài người hữu công được nâng lên làm huyện, bấy giờ đóng vai phụ tá của tham biện để cai trị, đi điều tra miền quê. Đây là những người kém văn hóa, háo sát, ham danh vọng.
Nguồn: sách Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam - nhà văn Sơn Nam