Người Khmer Nam Bộ sinh tụ ở Nam Bộ
rất lâu đời và kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ. Người Khmer ở Đồng bằng
sông Cửu Long nói riêng, ở Nam Bộ nói chung chiếm gần 6,7% dân số toàn vùng.
Theo truyền thống gia đình người Khmer Nam Bộ thường duy trì sự chung sống giữa
ba thế hệ ông, bà, cha, mẹ và con cháu.
Đặc điểm riêng của người Khmer là
dân tộc gắn liền với tôn giáo nên đại bộ phận đồng bào theo Phật giáo Nam tông
(Phật giáo tiểu thừa) do đó mọi nghi thức lễ hội, đón mừng năm mới diễn ra ở
chùa và mang đậm màu sắc lễ hội phật giáo. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt tôn
giáo, văn hoá, tinh thần của cộng đồng được xây dựng bề thế trang nghiêm, chạm
khắc rất tinh tế, công phu với mái cong, nóc nhọn, tháp cao vút nằm giữa khuôn
viên rộng để bà con đến làm lễ, vui chơi. Hiện nay tại khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long có gần 400 chùa Khmer lớn nhỏ ở khắp các phum, sóc trong đó có rất
nhiều ngôi chùa cổ trên 300 tuổi. Phần đông các ngôi chùa nằm giữa các rừng cây
dầu, sao cổ thụ.
Chùa Khmer Nam bộ nói chung đều mang
dấu ấn kiến trúc của Phật giáo Nam tông. Từ cổng nhìn vào Chùa Khmer Nam Bộ,
cầu thang có hai cấp, sân rộng bao quanh ngôi chánh điện được tráng xi măng,
mái chùa có ba cấp, mỗi cấp được chia thành ba nếp, nếp giữa lớn hơn, hai nếp
phụ hai bên bằng nhau, không có tháp nóc. Những hàng cột phía ngoài chánh điện
được xây dựng theo lối kiến trúc cổ Cô-ranh, phía trên nối tiếp giáp giữa đầu
cột với mái chùa có tượng thần Krud mình người đầu chim, mỏ ngậm viên ngọc với
hai tay đỡ mái chùa. Trước bậc thềm vào chánh điện có hai pho tượng chằn Year
hung dữ, mặc áo giáp, đứng bảo vệ ngôi chùa, tượng chằn hình dáng to lớn, mặt
dữ tợn miệng há rộng răng nanh to nhọn, tay cầm chày là biểu tượng cái ác, cái
xấu, gây thương đau cho mọi người, khi tượng chằn được đặt trong chùa là biểu
tượng cái thiện. Vì người Khmer tin rằng chằn đã bị thu phục bởi Đức phật để
phục vụ cho chánh điện, bảo vệ sự bình yên dân lành, cửa vào chánh điện được
chạm trổ rất công phu, tinh xảo kết hợp giữa phong cách nghệ thuật chùa và nghệ
thuật chạm khắc dân gian tạo nên nét độc đáo cổ kính. Đỉnh cao nghệ thuật thể
hiện ở những hoạ tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang
như: Tượng đầu vị thánh bốn mặt "Maraprum" là tiền thân của "Brama"
vị thần sáng tạo ra thế giới, nữ thần "Kayno" nửa người, nửa chim,
chim thần "Marakrit". Trên những hàng cột là phù điêu các tiên nữ và
những quái vật. Theo triết lý của người Khmer đó là những thử thách đối với
phật tử trên bước đường tu thành chánh quả. Trên mái vòm và cầu thang đều chạm
trổ hoạ tiết có thần rắn Naga; họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức
Phật đã thuần hoá được loài vật nguy hiểm này.
Điểm chung chùa Khmer Nam Bộ chánh
điện thường quay về hướng Đông; vì họ cho rằng con đường tu hành của Phật đi từ
Tây sang Đông. Bên trong chánh điện choáng ngợp bởi vẻ bề thế và lộng lẫy với
nhiều màu sắc, mang nét đặc thù nền tảng của Bàlamôn giáo, ảnh hưởng sâu đậm
văn hoá ấn Độ, nhiều nhất là trên nóc được trang trí hình ảnh đền Angkor Wat
nơi khởi nguồn của phong cách kiến trúc Khmer. Xung quanh trong chánh điện bày
trí rất nhiều hình ảnh giải thích quá trình tu hành khổ luyện của Đức Phát từ
lúc sinh ra đến lúc làm Thái tử cho đến khi vào cõi niết bàn. Đối diện chánh
điện là các cột trụ biểu là hình tượng thần rắn Naga 5 đầu, dùng để thắp nến
vào những ngày lễ hội; theo giáo lý Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp
mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn.
Trải qua tiến trình lịch sử ngôi
chùa có một vị thế rất vững chắc trong đời sống xã hội và tâm thức của người
Khmer Nam Bộ. Chùa chính là nơi diễn ra các Lễ hội lớn trong năm như: Tết cổ
truyền Chôl-thchnăm-thmây, lễ Đôn ta, lễ hội Ook-oom-bok, nơi tập trung bà con
Khmer đến học chữ Pali, học giáo lý, học nghề… Về với đồng bào Khmer Nam Bộ
trong dịp tết cổ truyền Chôl-thnăm-thmây hay trong các lễ hội là đi trong hương
hoa, nghe lời cầu kinh, niệm phật râm ran và được xem các lễ hội dân gian linh
đình. Tiếng trống Sa-dăm hoà tiếng hát, điệu múa lâm thôn rộn ràng.
Một số
thông tin về người Khơ Me
Tên
gọi khác: Cur, Cul, Cu, Thổ, Việt gốc Miên, Khơ me Krôm.
Nhóm
ngôn ngữ: Môn - Khmer
Dân số: 1.000.000
người.
Cư trú: Sống tập trung tại
các tỉnh Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Kiên Giang, An Giang.
Đặc điểm kinh tế
Người
Khmer đã biết thâm canh lúa nước từ lâu đời. Đồng bào biết chọn giống lúa, biết
làm thủy lợi và lợi dụng thủy triều để thau chua, xổ phèn cải tạo đất, có địa
phương trồng nhiều dưa hấu. Đồng bào cũng phát triển kinh tế toàn
diện như chăn nuôi trâu bò để cày kéo, nuôi lợn, gà, vịt đàn, thả cá
và phát triển các nghề thủ công như dệt, gốm, làm đường từ cây thốt
nốt.
Văn hóa
Từ lâu
và hiện nay, chùa Khmer là tụ điểm sinh hoạt văn hóa - xã hội của đồng bào.
Trong mỗi chùa có nhiều sư (gọi là các ông lục) và do sư cả đứng đầu. Thanh
niên người Khmer trước khi trưởng thành thường đến chùa tu học để trau dồi
đức hạnh và kiến thức. Hiện nay ở Nam Bộ có trên 400 chùa Khmer. Nhà chùa thường
dạy kinh nghiệm sản xuất, dạy chữ Khmer. Đồng bào Khmer có tiếng nói và chữ
viết riêng, nhưng cùng chung một nền văn hóa, một lịch sử bảo vệ và xây dựng
tổ quốc Việt Nam. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong
các phum, sóc, ấp. Đồng bào Khmer Nam Bộ có nhiều phong tục tập quán và có nền
văn hóa nghệ thuật rất độc đáo. Những chùa lớn thường có đội trống, kèn,
đàn, có đội ghe ngo... Hàng năm người Khmer có nhiều ngày hội, ngày tết dân
tộc. Đồng bào Khmer có các ngày lễ lớn là Chôn Chơ nam thơ mây (năm mới), lễ
Phật đản, lễ Đôn ta (xá tội vong nhân), Oóc bom boóc (cúng trăng).
Nhà cửa
Người
Khơ me vốn ở nhà sàn, nhưng nay nhà sàn chỉ còn lại rất ít ở dọc biên giới
Việt - Campuchia và một số nhỏ trong các chùa phật giáo Khơ me là nơi hội họp sư
sãi và tín đồ... Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Khơ me khá đơn
giản
Nay số
đông người Khơ me ở nhà đất. Bộ khung nhà đất được làm khá chắc chắn. Nhiều nơi
làm theo kiểu vì kèo của nhà Việt cùng địa phương. Trong nhà được bài
trí như sau: Nhà chia làm hai phần theo chiều ngang, một phần làm
nơi ở, một phần dành cho bếp núc. Phần dành để ở lại chia thành hai phần theo
chiều dọc: phần phía trước, ở giữa kê bàn ghế tiếp khách, bên cạnh thường có
tủ kính đựng những chiếc gối thêu vừa để trang trí vừa tiện dùng có khách. Sau
bộ bàn ghế tiếp khách là bàn thờ Phật. Nữa sau, bên phải là buồng của vợ chồng
chủ nhà. Về bên trái là phòng con gái.
Trang phục
Trang
phục cổ truyền có cá tính ở lối mặc váy và phong cách trang phục gắn với tín
giáo đạo Phật.
+ Trang
phục nam
Thường
nhật nam giới trung niên và người già thường mặc bộ bà ba đen, quấn khăn rằn
trên đầu. Trong dịp lễ, tết họ mặc áo bà ba trắng, quần đen (hoặc áo đen, quàng
khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái. Trong đám cưới chú rể thường
mặt bộ "xà rông" (hôl) và áo ngắn bỏ ngoài màu đỏ. Đây là loại áo xẻ
ngực, cổ đứng cài cúc, quàng khăn trắng vắt qua vai trái và đeo thêm 'con dao
cưới' (kầm pách) với ý nghĩa bảo vệ cô dâu. Thanh niên hiện nay khi ở nhà thường
không mặc áo và quấn chiếc 'xà rông' kẻ sọc.
+ Trang
phục nữ
Cách đây
ba, bốn mươi năm phụ nữ Khơ Me Nam Bộ thường mặc 'xăm pốt' (váy). Đó là loại
váy bằng tơ tằm, hình ống (kín). Chiếc váy điển hình là loại xăm pốt chân
khen, một loại váy hở, quấn quanh thân nhưng khác nhiều tộc người khác cũng có
loại váy này làcách mang váy vào thân. Đó là cách mang luồn giữa hai
chân từ sau ra trước, rồi kéo lên dắt cạnh hông tạo thành những chiếc
quần ngắn và rộng. Nếu cách tạo hình váy và một số mô tip hoa văn trên váy có
thể có sự tiếp xúc với các tộc người khác thì cách mặc váy này có thể xem là
đặc trưng độc đáo của Khơ Me Nam Bộ. Họ thường mặc váy trong những ngày lễ
lớn, mỗi ngày mặc một màu khác nhau trong suốt tuần lễ đó. Đó là loại xăm
pốt pha muông. Ngày nay các loại trên ít thấy, có khả chăng chỉ trên sân khấu
cổ truyền mà thôi. Người Khơ Me có kỹ thuật nhuộm vải đen tuyền bóng lâu phai
từ quả mặc la để may trang phục. Thường nhật hiện nay người Khơ Me
ảnh hưởng văn hóa Kinh qua trang phục. Trong lễ, Tết lại mặc loại áo dài giống
người Chăm. Ngoài ra phụ nữ Khơ Me còn phổ biến loại khăn Krama dệt ô vuông màu
xanh, đỏ trên nền trắng. Ngày cưới các cô dâu thường mặc chiếc xăm pốt
hôl màu tím sẫm hay hồng cánh sen, áo dài tăm pông màu đỏ thẩm,
quàng khăn chéo qua người, đội mũ pkel plac hay loại mũ tháp nhọn
nhiều tầng bằng kim loại hay giấy bồi.
Các ngôi chùa Khmer ở miền Nam:
Chùa Dơi
Lê Hồng Phong, phường 3
Thị xã Sóc Trăng, Tỉnh Sóc Trăng
Chùa Kh’leang (Khmer)
71 Lương Ðịnh Của, P. 6
TX Sóc Trăng. T. Sóc Trăng
Chùa Ma Ha Tup (Khmer)
73B Lê Hồng Phong, P. 3
TX Sóc Trăng. T. Sóc Trăng
Chùa Sanghamangala
(Khmer Vũng Liêm)
Xã Trung Thành
H. Vũng Liêm, T. Vĩnh Long
Chùa Samrong Ek
Ấp Ðôn Hóa, Xã Nguyệt Hóa
H. Châu Thành, T. Trà Vinh
Chùa Xvay-Ton
Khóm 3, TT. Tri Tôn
Huyện Tri Thôn, Tỉnh An Giang
Chùa Ratanransi
Khu Phố 4, P. Vĩnh Lạc
TX. Rạch Giá, T. Kiên Giang
Chùa Bodhivamsa Pathi Vong (Khmer)
Tỳ Kheo Thích Lâm Ym
1985B Hồng Lạc, P.10
Q. Tân Bình, TP. HCM
Chùa Chandaramsya (Khmer)
Tỳ Kheo Danh Lung
164/235 Trần Quốc Thảo, P. 7
Q. 3, TP. HCM
ÐT: (08) 8 435 359