Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!

Dịch trang

Người Đi Tìm Hình Của Nước - Chế Lan Viên

Thông Tin Du Lịch Phổ biến

Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2025

Chùa Khơ Me


Người Khmer Nam Bộ sinh tụ ở Nam Bộ rất lâu đời và kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ. Người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, ở Nam Bộ nói chung chiếm gần 6,7% dân số toàn vùng. Theo truyền thống gia đình người Khmer Nam Bộ thường duy trì sự chung sống giữa ba thế hệ ông, bà, cha, mẹ và con cháu.

            Đặc điểm riêng của người Khmer là dân tộc gắn liền với tôn giáo nên đại bộ phận đồng bào theo Phật giáo Nam tông (Phật giáo tiểu thừa) do đó mọi nghi thức lễ hội, đón mừng năm mới diễn ra ở chùa và mang đậm màu sắc lễ hội phật giáo. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, văn hoá, tinh thần của cộng đồng được xây dựng bề thế trang nghiêm, chạm khắc rất tinh tế, công phu với mái cong, nóc nhọn, tháp cao vút nằm giữa khuôn viên rộng để bà con đến làm lễ, vui chơi. Hiện nay tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có gần 400 chùa Khmer lớn nhỏ ở khắp các phum, sóc trong đó có rất nhiều ngôi chùa cổ trên 300 tuổi. Phần đông các ngôi chùa nằm giữa các rừng cây dầu, sao cổ thụ. 

            Chùa Khmer Nam bộ nói chung đều mang dấu ấn kiến trúc của Phật giáo Nam tông. Từ cổng nhìn vào Chùa Khmer Nam Bộ, cầu thang có hai cấp, sân rộng bao quanh ngôi chánh điện được tráng xi măng, mái chùa có ba cấp, mỗi cấp được chia thành ba nếp, nếp giữa lớn hơn, hai nếp phụ hai bên bằng nhau, không có tháp nóc. Những hàng cột phía ngoài chánh điện được xây dựng theo lối kiến trúc cổ Cô-ranh, phía trên nối tiếp giáp giữa đầu cột với mái chùa có tượng thần Krud mình người đầu chim, mỏ ngậm viên ngọc với hai tay đỡ mái chùa. Trước bậc thềm vào chánh điện có hai pho tượng chằn Year hung dữ, mặc áo giáp, đứng bảo vệ ngôi chùa, tượng chằn hình dáng to lớn, mặt dữ tợn miệng há rộng răng nanh to nhọn, tay cầm chày là biểu tượng cái ác, cái xấu, gây thương đau cho mọi người, khi tượng chằn được đặt trong chùa là biểu tượng cái thiện. Vì người Khmer tin rằng chằn đã bị thu phục bởi Đức phật để phục vụ cho chánh điện, bảo vệ sự bình yên dân lành, cửa vào chánh điện được chạm trổ rất công phu, tinh xảo kết hợp giữa phong cách nghệ thuật chùa và nghệ thuật chạm khắc dân gian tạo nên nét độc đáo cổ kính. Đỉnh cao nghệ thuật thể hiện ở những hoạ tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang như: Tượng đầu vị thánh bốn mặt "Maraprum" là tiền thân của "Brama" vị thần sáng tạo ra thế giới, nữ thần "Kayno" nửa người, nửa chim, chim thần "Marakrit". Trên những hàng cột là phù điêu các tiên nữ và những quái vật. Theo triết lý của người Khmer đó là những thử thách đối với phật tử trên bước đường tu thành chánh quả. Trên mái vòm và cầu thang đều chạm trổ hoạ tiết có thần rắn Naga; họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hoá được loài vật nguy hiểm này.

            Điểm chung chùa Khmer Nam Bộ chánh điện thường quay về hướng Đông; vì họ cho rằng con đường tu hành của Phật đi từ Tây sang Đông. Bên trong chánh điện choáng ngợp bởi vẻ bề thế và lộng lẫy với nhiều màu sắc, mang nét đặc thù nền tảng của Bàlamôn giáo, ảnh hưởng sâu đậm văn hoá ấn Độ, nhiều nhất là trên nóc được trang trí hình ảnh đền Angkor Wat nơi khởi nguồn của phong cách kiến trúc Khmer. Xung quanh trong chánh điện bày trí rất nhiều hình ảnh giải thích quá trình tu hành khổ luyện của Đức Phát từ lúc sinh ra đến lúc làm Thái tử cho đến khi vào cõi niết bàn. Đối diện chánh điện là các cột trụ biểu là hình tượng thần rắn Naga 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ hội; theo giáo lý Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn.

            Trải qua tiến trình lịch sử ngôi chùa có một vị thế rất vững chắc trong đời sống xã hội và tâm thức của người Khmer Nam Bộ. Chùa chính là nơi diễn ra các Lễ hội lớn trong năm như: Tết cổ truyền Chôl-thchnăm-thmây, lễ Đôn ta, lễ hội Ook-oom-bok, nơi tập trung bà con Khmer đến học chữ Pali, học giáo lý, học nghề… Về với đồng bào Khmer Nam Bộ trong dịp tết cổ truyền Chôl-thnăm-thmây hay trong các lễ hội là đi trong hương hoa, nghe lời cầu kinh, niệm phật râm ran và được xem các lễ hội dân gian linh đình. Tiếng trống Sa-dăm hoà tiếng hát, điệu múa lâm thôn rộn ràng.

 

Một số thông tin về người Khơ Me

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu, Thổ, Việt gốc Miên, Khơ me Krôm. 

Nhóm ngôn ngữ: Môn - Khmer 

Dân số: 1.000.000 người. 

Cư­ trú: Sống tập trung tại các tỉnh Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Kiên Giang, An Giang. 

Đặc điểm kinh tế

Người Khmer đã biết thâm canh lúa nước từ lâu đời. Đồng bào biết chọn giống lúa, biết làm thủy lợi và lợi dụng thủy triều để thau chua, xổ phèn cải tạo đất, có địa phư­ơng trồng nhiều d­ưa hấu. Đồng bào cũng phát triển kinh tế toàn diện như­ chăn nuôi trâu bò để cày kéo, nuôi lợn, gà, vịt đàn, thả cá và phát triển các nghề thủ công như­ dệt, gốm, làm đư­ờng từ cây thốt nốt. 

Văn hóa

Từ lâu và hiện nay, chùa Khmer là tụ điểm sinh hoạt văn hóa - xã hội của đồng bào. Trong mỗi chùa có nhiều sư­ (gọi là các ông lục) và do sư­ cả đứng đầu. Thanh niên người Khmer trước khi trư­ởng thành th­ường đến chùa tu học để trau dồi đức hạnh và kiến thức. Hiện nay ở Nam Bộ có trên 400 chùa Khmer. Nhà chùa thư­ờng dạy kinh nghiệm sản xuất, dạy chữ Khmer. Đồng bào Khmer có tiếng nói và chữ viết riêng, nh­ưng cùng chung một nền văn hóa, một lịch sử bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các phum, sóc, ấp. Đồng bào Khmer Nam Bộ có nhiều phong tục tập quán và có nền văn hóa nghệ thuật rất độc đáo. Những chùa lớn th­ường có đội trống, kèn, đàn, có đội ghe ngo... Hàng năm người Khmer có nhiều ngày hội, ngày tết dân tộc. Đồng bào Khmer có các ngày lễ lớn là Chôn Chơ nam thơ mây (năm mới), lễ Phật đản, lễ Đôn ta (xá tội vong nhân), Oóc bom boóc (cúng trăng). 

Nhà cửa

Người Khơ me vốn ở nhà sàn, như­ng nay nhà sàn chỉ còn lại rất ít ở dọc biên giới Việt - Campuchia và một số nhỏ trong các chùa phật giáo Khơ me là nơi hội họp s­ư sãi và tín đồ... Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Khơ me khá đơn giản

Nay số đông người Khơ me ở nhà đất. Bộ khung nhà đất được làm khá chắc chắn. Nhiều nơi làm theo kiểu vì kèo của nhà Việt cùng địa ph­ương. Trong nhà được bài trí nh­ư sau: Nhà chia làm hai phần theo chiều ngang, một phần làm nơi ở, một phần dành cho bếp núc. Phần dành để ở lại chia thành hai phần theo chiều dọc: phần phía trước, ở giữa kê bàn ghế tiếp khách, bên cạnh thư­ờng có tủ kính đựng những chiếc gối thêu vừa để trang trí vừa tiện dùng có khách. Sau bộ bàn ghế tiếp khách là bàn thờ Phật. Nữa sau, bên phải là buồng của vợ chồng chủ nhà. Về bên trái là phòng con gái.

 Trang phục

Trang phục cổ truyền có cá tính ở lối mặc váy và phong cách trang phục gắn với tín giáo đạo Phật.

+ Trang phục nam

Th­ường nhật nam giới trung niên và người già th­ường mặc bộ bà ba đen, quấn khăn rằn trên đầu. Trong dịp lễ, tết họ mặc áo bà ba trắng, quần đen (hoặc áo đen, quàng khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái. Trong đám cưới chú rể th­ường mặt bộ "xà rông" (hôl) và áo ngắn bỏ ngoài màu đỏ. Đây là loại áo xẻ ngực, cổ đứng cài cúc, quàng khăn trắng vắt qua vai trái và đeo thêm 'con dao cưới' (kầm pách) với ý nghĩa bảo vệ cô dâu. Thanh niên hiện nay khi ở nhà thư­ờng không mặc áo và quấn chiếc 'xà rông' kẻ sọc.

+ Trang phục nữ

Cách đây ba, bốn m­ươi năm phụ nữ Khơ Me Nam Bộ thư­ờng mặc 'xăm pốt' (váy). Đó là loại váy bằng tơ tằm, hình ống (kín). Chiếc váy điển hình là loại xăm pốt chân khen, một loại váy hở, quấn quanh thân như­ng khác nhiều tộc người khác cũng có loại váy này làcách mang váy vào thân. Đó là cách mang luồn giữa hai chân từ sau ra trước, rồi kéo lên dắt cạnh hông tạo thành những­ chiếc quần ngắn và rộng. Nếu cách tạo hình váy và một số mô tip hoa văn trên váy có thể có sự tiếp xúc với các tộc người khác thì cách mặc váy này có thể xem là đặc tr­ưng độc đáo của Khơ Me Nam Bộ. Họ thư­ờng mặc váy trong những ngày lễ lớn, mỗi ngày mặc một màu khác nhau trong suốt tuần lễ đó. Đó là loại xăm pốt pha muông. Ngày nay các loại trên ít thấy, có khả chăng chỉ trên sân khấu cổ truyền mà thôi. Người Khơ Me có kỹ thuật nhuộm vải đen tuyền bóng lâu phai từ quả mặc l­a để may trang phục. Th­ường nhật hiện nay người Khơ Me ảnh h­ưởng văn hóa Kinh qua trang phục. Trong lễ, Tết lại mặc loại áo dài giống người Chăm. Ngoài ra phụ nữ Khơ Me còn phổ biến loại khăn Krama dệt ô vuông màu xanh, đỏ trên nền trắng. Ngày cưới các cô dâu thư­ờng mặc chiếc xăm pốt hôl màu tím sẫm hay hồng cánh sen, áo dài tăm pông màu đỏ thẩm, quàng khăn chéo qua người, đội mũ pkel plac hay loại mũ tháp nhọn nhiều tầng bằng kim loại hay giấy bồi.

 

Các ngôi chùa Khmer ở miền Nam:
Chùa Dơi
Lê Hồng Phong, phường 3
Thị xã Sóc Trăng, Tỉnh Sóc Trăng

Chùa Kh’leang (Khmer)
71 Lương Ðịnh Của, P. 6
TX Sóc Trăng. T. Sóc Trăng

Chùa Ma Ha Tup (Khmer)
73B Lê Hồng Phong, P. 3
TX Sóc Trăng. T. Sóc Trăng

Chùa Sanghamangala
(Khmer Vũng Liêm)
Xã Trung Thành
H. Vũng Liêm, T. Vĩnh Long

Chùa Samrong Ek
Ấp Ðôn Hóa, Xã Nguyệt Hóa
H. Châu Thành, T. Trà Vinh

Chùa Xvay-Ton
Khóm 3, TT. Tri Tôn
Huyện Tri Thôn, Tỉnh An Giang
 

Chùa Ratanransi
Khu Phố 4, P. Vĩnh Lạc
TX. Rạch Giá, T. Kiên Giang

Chùa Bodhivamsa Pathi Vong (Khmer)
Tỳ Kheo Thích Lâm Ym
1985B Hồng Lạc, P.10
Q. Tân Bình, TP. HCM

Chùa Chandaramsya (Khmer)
Tỳ Kheo Danh Lung
164/235 Trần Quốc Thảo, P. 7
Q. 3, TP. HCM
ÐT: (08) 8 435 359