1. Triều vương thứ nhất (192-366) :
Sau hàng thập niên bị nhà hán đô hộ,
với chính sách hà hiếp, tàn bạo.Sri-mara đã lãnh đạo các bộ tộc champa
vùng lên,lật đổ ách cai trị nhà hán, thành lập quốc gia champa thống nhất.Ông
lên ngôi năm 192,Đóng đô trà kiệu,ông lãnh đạo vương quốc champa gồm một lãnh
thổ rộng lớn từ hoành sơn cho đến đồng nai ngày nay.Danh xưng vương quốc Champa
là quốc hồn, quốc túy của nhân dân Champa ( Champa là tên hoa đại hay hoa sứ
ngày nay người việt nam thường trồng ở những nơi tôn nghiêm, có mùi thơm nhẹ
nhàn, thanh thoát).Ngôn ngữ dân tộc Champa thuộc nhóm gia đình ngữ học Mã Lai
đa đảo (Malayo Polynesian) hay một danh xưng khác gọi là nhóm gia đình ngôn ngữ
Nam đảo (Austronesian). Văn tự champa sử dụng chữ:Phạn(Sanskrit ).Văn tự Ấn Độ
đi theo các nhà truyền giáo đã được phổ biến rộng rãi tại Champa và trở thành
chữ quốc ngữ của Champa.Tôn giáo lấy Bà la môn (Brahmanism): làm quốc giáo, giữ
vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, tinh thần tộc người Champa.Bà la môn
hình thành và phát triển có bề dày trên 3000 năm lịch sử Ấn Độ. Giáo lý
Bà-la-môn được thiết lập trên nguyên lý của kinh Veda.Vua sri-mara lấy
giáo điều bà la môn để xây dựng đất nước champa. Sri-mara(Khu Liên) lên ngôi
năm 192, trị vì trong nhiều năm, Sử cổ Trung Hoa (Lương thư) cho biết trong
khoảng thập niên 220-230, con cháu Khu Liên có gơi phái bộ đến thống đốc Quang
Đông và các thái thú Giao Châu (Lã Đại và Lục Dận) triều cống và duy trì quan
hệ ngoại giao. Sự kiện nổi bật sau thời Khu Liên là cuộc dấy binh của bà Triệu
năm 248 tại quận Cửu Chân chống lại quân Đông Ngô (Trung Hoa). Bà Triệu, còn
gọi là Triệu Trinh Nương, là một thiếu nữ Mường cưỡi voi ra trận làm khiếp đam
quân địch. Bà Triệu cũng là mẫu người lý tương cua chế độ mẫu hệ : thân hình
nẩy nơ (vú dài ba thước !?) và can đãm (dám đứng ra gánh vác việc nước). Có lẽ
trong giai đoạn này con cái của Khu Liên gia nhập vào đội quân của bà Triệu rất
đông vì cuộc khởi nghĩa được sử Trung Hoa ghi nhận là cuộc nổi dậy của người
dân Champa.
Nhà Đông Ngô phong danh tướng Lục Dận tước An Nam hiệu úy, tức thứ sư, sang
Giao Châu dẹp lọan. Lục Dận vừa dùng mưu vừa làm áp lực chiêu dụ các bộ lạc nổi
loạn ; sau hơn 6 tháng cầm cự quân của Bà Triệu bị cô lập và bị đánh bại phai
chạy về miền Nam lánh nạn. Lục Dận xua quân xuống chiếm Khu Lật (Huế), bắt theo
hàng ngàn thợ khéo tay mang về Giao Châu rồi dâng cho nhà Đông Ngô năm 260.
Những vùng đất bị nghĩa quân Lâm Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại. Lãnh thổ Lâm Ấp
trở về vị trí cũ, tức huyện Tượng Lâm, quân Đông Ngô không dám tiến xuống xa
hơn. Có lẽ truyền nhân đích tôn cua Khu Liên đã chết trong cuộc khởi nghĩa này
vì không còn được nhắc tới nữa. Sách Lương thư cho biết năm 270, cháu ngoại của
Khu Liên là Phạm Hùng (Fan Hiong) lên làm vua.
Cũng nên biết "Phạm" ở đây là cách phiên âm Hán hóa từ chữ
"Po" (hay Pô, Phò, Pha) của người Champa tức là người đứng đầu, lãnh
tụ hoặc là ngài, chứ không phải là cách phiên âm từ chữ "varman" của
người Ấn, cũng có nghĩa là vua, vương, ngài, hay "họ Phạm" của người
Việt Nam mà ra. Cũng nên biết người Champa theo chế độ mẫu hệ, chỉ có tên chứ
không có họ.
Dưới thời Phạm Hùng, lãnh thổ champa được nới rộng tới thành Khu Túc, cạnh sông
Gianh, phía bắc và tới Khánh Hòa (Kauthara) phía nam. Phạm Hùng cũng đã chinh
phục và thống nhất các tiểu vương quốc khác nằm trong các lõm đất dọc duyên hai
miền Trung : Amavarati (Quang Nam), Vijaya (Quang Ngãi, Bình Định) và một phần
lãnh thổ Aryaru (Phú Yên). Nhưng sau hơn 10 năm chinh chiến (271-282), Phạm
Hùng bị quân Tây Tấn (do Đào Hoàng chỉ huy) đánh bại, năm 283 con là Phạm Dật
(Fan Yi) lên ngôi thay. Năm 284, Phạm Dật gởi một sứ bộ sang Trung Hoa cầu hòa,
champa được thái hòa và Phạm Dật trị vì 52 năm thì qua đời.
2. Triều vương thứ hai (337-420) :Phạm Dật qua đời năm 336, một tể tướng cướp ngôi vua tự xưng
Phạm Văn (Fan Wen)Văn trở thành người thân tín của Phạm Dật và được giao trọng
trách xây thành, đắp lũy, dựng cung đài theo kiểu Trung Hoa, chế tạo chiến xa
và vũ khí, chế biến dụng cụ âm nhạc v.v... và được thăng chức tể tướng.
Dưới thời Phạm Văn, kỹ thuật luyện sắt (rèn kiếm, đúc lao) đạt đến tột đỉnh.
Nhà vua áp dụng văn minh Ấn Độ thẳng vào đời sống : cai tổ lại hệ thống quan
lại theo khuôn mẫu Ấn Dộ, nhờ đó guồng máy tổ chức chính quyền chạy đều và mang
lại hiệu qua tốt ; xây dựng thu phu chính trị tại Khu Lật (K’iu-sou, hay Thành
Lồi, Huế), hình chữ nhật, chu vi 2100 mét, tường cao 8 mét, có 16 cưa, dân
chúng sống chung quanh chân thành, mỗi khi có loạn, các cưa thành đều đóng lại.
Với thế mạnh này, Phạm Văn đánh thắng hai nước Đại Kỳ Giới và Tiểu Kỳ Giới (có
thể đây là hai vương quốc trên đất Lào ngày nay), chinh phục nhiều bộ lạc khác
như Che Phou, Siu Lang, Khiu Tou, Kan Lou và Fou Tan (có thể là những bộ lạc
thiểu số gốc Thái trên dãy Trường Sơn), tăng cường số phụ nữ mang về từ các
lãnh thổ đánh chiếm được và tăng nhân số trong quân đội (khoang từ 40.000 đến
50.000 người).
Năm 340, Phạm Văn xin nhà Đông Tấn cho sát nhập quận Nhật Nam, gồm các huyện
Tây Quyển, Ty Canh, Chu Ngô, Lô Dung và một phần đất phía nam quận Cưu Chân
huyện Hàm Hoan (Thanh Hóa) vào lãnh thổ Lâm Ấp nhưng không được toại nguyện.
Phạm Văn liền xua quân tiến công vào nội địa Nhật Nam, chiếm huyện Tây Quyển,
giết thứ sư Hạ Hầu Lâm, lấy mũi Hoành Sơn (nam Thanh Hóa) làm biên giới phía
bắc, cho xây lại thành Khu Túc (cạnh sông Gianh) phòng giữ. Từ đó phần lãnh thổ
từ đèo Ngang trơ xuống thuộc về Lâm Ấp và cũng kể từ đó phía bắc đèo Ngang là
nơi xay ra những trận thư hùng giữa Lâm Ấp và Giao Châu trong suốt hai thế ky 4
và 5. Năm 349 nhà Đông Tấn phản công, quân Lâm Ấp bị đánh bại, Phạm Văn bị
trọng thương và qua đời, con là Phạm Phật (Fan Fo) lên thay.
Phạm Phật là một vị tướng tài ba, được nhiều sử gia cho là người mở đầu vương
triều Gangaraja (Bắc Champa). Vừa lên ngôi, Phạm Phật tấn công quân Đông Tấn
tại Nhật Nam và vây thành Cửu Chân. Năm 351, quân Lâm Ấp bị đánh bại phải bỏ
chạy về phía tây tại Lãng Hồ, huyện Thọ Lãnh (Thanh Hóa), thành Khu Túc bị
chiếm, ranh giới được thiết lập lại tại huyện Ty Canh gần sông Nhật Lệ (Quang
Bình). Năm 359, quân Đông Tấn chiếm huyện Thọ Lãnh và đánh bại quân Lâm Ấp tại
vịnh Ôn Cấn, chiếm thành Khu Túc ; Phạm Phật xin hòa và gơi sứ bộ sang Trung
Hoa triều cống (372 và 377). Phạm Phật mất năm 380 nhường ngôi cho con là Phạm
Hồ Đạt.
Phạm Hồ Đạt (Fan Houta) nhiều học gia cho là vua Dharmamaharaja, hiệu
Bhadravarman I, người sáng lập vương triều Gangaraja. Dưới thời Phạm Hồ Đạt,
Phật giáo tiểu thừa (Thevada) phát triển mạnh, nhiều nhà sư đến trực tiếp từ Ấn
Độ sang truyền đạo. Thành Khu Lật (Huế) vẫn là trung tâm chính trị nhưng đổi
tên thành Kandapurpura, nghĩa là Phật Bao Thành (vì là nơi có nhiều đền đài và
hình tượng Phật và Siva). Bên cạnh đó nhà vua còn cho xây dựng thêm một trung
tâm tôn giáo mới tại Amavarati, tức thánh địa Hào Quang (nay là Mỹ Sơn, một
thung lũng cách Đà Nẵng 70km về phía tây). Nhiều đền thờ Bà La Môn được xây
dựng tại Mỹ Sơn để thờ thần Siva và tượng Linga, tượng trưng sức mạnh phái nam.
Ngôi đền đầu tiên được xây bằng gỗ vào cuối thế ky 4 mang tên Bradresvara, kết
hợp giữa tên vua Bradravarman I và thần Isvara (hay Siva). Kể từ thế ky thứ 4
trở đi lãnh tụ chính trị và tôn giáo tại Lâm Ấp là một : thờ thần tức thờ vua,
vua thay mặt thần Siva cai quan muôn dân. Siva vừa là thần bảo hộ xứ sở vừa là
vị thần giữ đền (Dvarapala) để dân chúng đến thờ phượng và dâng lễ vật.
Năm 399, Phạm Hồ Đạt mang quân chiếm quận Nhật Nam, giết thái thú Khổng Nguyên,
tiến công quận Cửu Đức, bắt sống thái thú Tào Bính nhưng bị quân cua thống chế
Đỗ Viện đánh bại phải rút về dưới đèo Ngang. Năm 413,Phạm Hồ Đạt mang bộ binh
chiếm đóng Nhật Nam, ra lệnh cho thủy binh đổ bộ vào Cưu Chân đốt phá các làng
xã ven duyên. Thứ sư Đỗ Tuệ Độ mang quân ra nghinh chiến, chém được con của
Phạm Hồ Đạt là Phạm Trân Trân (tiểu vương đất Giao Long) và tướng Phạm Kiện,
bắt làm tù binh hơn 100 người, trong có một hoàng tư tên Na Neng, tất ca đều bị
chém đầu. Phạm Hồ Đạt trốn vào rừng sâu rồi mất tích. Trong khi chưa tìm được
một vị vua mới, triều đình champa tiếp tục triều cống Trung Hoa để được yên về
chính trị.
Trong thời gian từ 413 đến 420, con cháu Phạm Hồ Đạt tranh giành ngôi vua, nội
chiến xảy ra khắp nơi. Năm 413, một người con cua Phạm Hồ Đạt là Địch Chớn (Ti
Chen), đạo sĩ Bà La Môn, được triều thần đưa lên ngôi vua, hiệu Gangaraja (sông
Gange bên Ấn Độ). Địch Chớn là người đam mê văn hóa Ấn Độ muốn nhường ngôi cho
em là Địch Khai (Ti Kai) để sang Ấn Độ sống những ngày cuối đời, nhưng Địch
Khai sợ bị triều thần ám hại, dẫn mẹ chạy trốn vào rừng. Ngôi báu đành nhường
cho Manorathavarman, cháu Địch Chớn nhưng tể tướng Thiếu Lâm (Tsang Lin) chống
lại vì người này không được sinh ra từ một người mẹ có dòng máu tinh khiết (tức
đẳng cấp Brahman), nên bị Manorathavarman giết chết.
3. Triều vương thứ ba (420-530):Năm 420,con cháu của Thiếu Lâm ám sát
vua Manorathavarman và đưa người em cùng mẹ khác cha của Địch Chớn là Văn Địch
(Wen Ti) lên thay. Văn Địch xưng hiệu là Phạm Dương Mại I (Yan Mah hay Fan Yang
Mai), có nghĩa là Hoàng tư Vàng, nhưng không trị vị lâu vì bị chết trong một
cuộc tấn công của quân Đông Tấn. Con là thái tư Đốt, 19 tuổi, được nhà Đông Tấn
phong vương năm 421, hiệu Dương Mại II.
Nhân tình thế loạn lạc bên Trung Hoa (nhà Tống dẹp nhà Đông Tấn), năm 431,
Dương Mại II dẫn hơn 100 chiến thuyền tấn công các làng ven biển tại cưa Thọ
Lãnh, Tứ Hội và Châu Ngô (quận Nhật Nam và Cưu Chân) nhưng bị đánh bại, quân
Tống chiếm thành Khu Lật, Dương Mại II chạy trốn ra Cù Lao Chàm (Quang Nam).
Năm 433, Dương Mại II xin "lãnh" đất Giao Châu về cai trị nhưng vua
Tống không chịu, chiến tranh lại xảy ra. Năm 443 vua Tống Du Long phong thống
chế Đàn Hòa Chi làm thứ sư Giao Châu, cùng hai phó tướng là Tống Xác và Túc
Canh Hiến, mang đại quân đánh Lâm Ấp, Phạm Dương Mại II chạy thoát được ra cưa
Tượng Phổ, vịnh Bành Long (Bình Định), tổ chức lại lực lượng, tăng cường thêm
nhiều đội tượng binh rồi ra lệnh tổng phan công nhưng không địch nổi quân Nam
Tống. Những người sống sót chạy sang Láng Cháng (Luang Prabang tại Bắc Lào) tị
nạn, một số chạy đến Champassak (Nam Lào) ẩn náu. Đàn Hòa Chi thu rất nhiều
vàng bạc, châu báu, tượng đồng vàđập phá rất nhiều đền đài. Sư Trung Hoa (Tống
Thư) chép rằng Đàn Hòa Chi lấy được nhiều tượng vàng (mười người mới ôm xuể),
đem nấu chay thâu được hơn 10 vạn cân (50.000 kí-lô vàng y?). Từ đó Trung Hoa
biết Lâm Ấp có nhiều vàng nên mỗi khi có dịp là tiến quân xuống đánh cướp.
Trong thời này, nhiều nhà sư Phật giáo Trung Hoa ái mộ nét kiến trúc và tượng
đài trong các đền thờ tại Mỹ Sơn sang Lâm Ấp tìm hiểu và học hoi rất đông,
nhiều tượng Bồ Tát cua Phật giáo Đại Thừa Trung Hoa được tìm thấy trong các
chùa (chùa Quang Khê) trong vùng.
Trong lúc chạy trốn về phía nam, Dương Mại II chinh phục luôn các tiểu vương
tại Vijaya (Bình Định), Aryaru (Phú Yên), thống nhất lãnh thổ phía Bắc. Năm
443, Dương Mại II về lại Khu Lật, thấy canh hoang tàn, buồn rầu rồi mất năm
446. Lãnh thổ phía Bắc cua Lâm Ấp bị đẩy lùi về huyện Lô Dung (Thừa Thiên), con
cháu Dương Mại II lại tranh chấp quyền hành.
Năm 455 con Dương Mại II là Phạm Chút (Fan Tou) lên ngôi, hiệu Trần Thành
(Devanika). Trung tâm chính trị vẫn tại Khu Lật, nhưng Trần Thành cho xây dựng
thêm một trung tâm văn hóa và tôn giáo mới tại Amaravati, gọi là thánh địa Hào
Quang (Mỹ Sơn, Quang Nam). Vương quốc Lâm Ấp tiếp tục được nới rộng xuống phía
nam đến tận sông Ba (Tuy Hòa), thuộc lãnh thổ Aryaru (Phú Yên) và vùng núi non
phía tây lân cận (cao nguyên Kontum, Darlac), và phía tây tới Champassak (Nam
Lào), nhiều bộ lạc Thượng sống trên dãy Trường Sơn cũng theo về triều cống.
Phạm Trần Thành mất năm 472, Lâm Ấp không có vua, nội bộ triều đình có biến
động. Năm 484, một người Khmer tên Phạm Đăng Căn Thăng (Kieou Tcheou Lo), con
vua Phù Nam Jayavarman tị nạn tại Lâm Ấp, cướp ngôi và cầm quyền trong gần 20
năm. Năm 492, con Phạm Trần Thành là Phạm Chư Nông giết Căn Thăng giành lại
ngôi báu. Phạm Chư Nông bị chết đuối năm 498, con cháu tiếp tục trị vì đến năm
527 : Phạm Văn Tổn (Fan Wen Kuoan) trị vì từ 498 đến 502, Phạm Thiên Khơi hiệu
Devavarman (510-514) và Cao Thức Thắng Khơi hiệu Vijayavarman hay Bật Tôi Bật
Ma (526-527).
4. Triều vương thứ tư (529-757) :Năm 529, Vijayavarman mất không người
kế tự. Triều đình champa phong Luật Đa La Bật Ma lên làm vua, hiệu Rudravarman
I. Năm 577 Luật Đa La Bật Ma mất, con là Prasastadharma lên kế nghiệp, hiệu
Phạm Phạn Chi (Sambhuvarman). Dưới thời Phạm Phạn Chi, văn hóa champa tỏa rộng
khắp Đông Nam Á. Năm 598, nhà Tùy chiếm dóng Lâm Ấp và phân chia thành ba châu
: châu Hoan (Ty Canh), châu Ái (Hai Âm) và châu Trong (Khương). Năm 605, Phạm
Phạn Chi dời kinh đô về Sinhapura, thành phố Sư Tư (nay là Trà Kiệu, cạnh sông
Thu Bồn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quang Nam). Danh xưng Champa chính thức xuất
hiện trong thời này.
Năm 629 Phạm Phạn Chi mất, con là Phạm Đầu Lê (Kandharpardharma) kế nghiệp. Năm
645 Phạm Đầu Lê qua đời, vương triều champa loạn lạc. Phạm Trấn Long
(Prabhasadharma), con Đầu Lê, vừa giành được ngôi vua liền bị giết chết, dân
chúng đưa con trai cua một công chúa, em gái cua Trấn Long, tên Chư Cát Địa lên
làm vua, hiệu Bhadresvaravarman (sự ghép tên giữa thần Bradresvara và vị tổ Bradravarman).
Chư Cát Địa làm vua được một năm (646) thì bị triều thần lật đổ, công chúa
Tchou Koti, con gái cua chánh phi của Phạm Đầu Lê, được tôn lên làm nữ vương,
hiệu Jagaddharma. Đức độ cua bà Jagaddharma rất được dân chúng kính trọng. Sau
khi qua đời, nữ vương Jagaddharma được dân chúng lập đền thờ tại tháp Po Nagar
(Xóm Bóng, Nha Trang). Năm 653 Tchou Koti nhường ngôi cho chồng (người Khmer)
tên Prakasadharma (Po Kiachopamo), hiệu Vikrantavarman I. Năm 685,
Vikrantavarman I qua đời, nhường ngôi cho con là Vikrantavarman II
(Kientotamo).
Dưới thời Vikrantavarman II, văn hóa champa toa khắp Đông Nam Á, các quốc gia
lân bang đều muốn kết thân. Năm 731, Vikrantavarman II qua đời, con là
Rudravarman II (Lutolo) trị vì đến năm 757 thì mất. Con là Bhadravarman II lên
thay nhưng bị các vương tôn miền Nam hạ bệ, chấm dứt vai trò lãnh đạo của vương
triều miền Bắc.
5-Triều vương thứ năm (758-854) :Năm 757, môt tiểu vương phía Nam nổi lên hạ bệ Bhadravarman
II -nhà vua trẻ vừa lên ngôi - rồi tự xưng vương, hiệu Prithi Indravarman, chấm
dứt dòng Gangaraja phía Bắc.
Theo bia ký đọc được, Prithi Indravarman là người đã thống nhất lãnh thổ Champa
một cách chính danh nhất, vì được triều thần công nhận là "người thống
lãnh toàn bộ đất nước như Indra, thần của các vị thần". Tuy đất nước đã
được thống nhất, lãnh thổ này vẫn chưa có tên. Khi sang Trung Hoa triều cống,
không biết sứ thần của Prithi Indravarman đã giải thích như thế nào mà sử liệu
cổ Trung Hoa đặt tên lãnh thổ mới của người Champa trong thời kỳ này là Hoàn
Vương Quốc, "vương quyền trở về quê cũ". Để xác minh điều này, việc
làm đầu tiên của Prithi Indravarman là dời kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử
hay Trà Kiệu, Quảng Nam) về Virapura (thành phố Hùng Tráng, nay là thôn Palai
Bachong, xã Hòa Trinh, huyện An Phước - cách Sài Gòn 310 cây số về phía Bắc
trên quốc lộ 1, tỉnh Ninh Thuận).
Dưới thời Prithi Indravarman, văn minh và văn hóa Ấn Độ từ phía Nam đưa lên lấn
át toàn bộ sinh hoạt của người Chăm phía Bắc ; chữ Phạn được phổ biến rộng rãi
trong giới vương quyền và các nơi thờ phượng ; đạo Bà La Môn được đông đảo
người theo ; đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada) phát triển mạnh trong chốn dân gian ;
đền đài, dinh thự và chùa tháp được xây dựng lên khắp nơi, nhiều nhất là tại
Khu Lật (Huế), Amavarati (Mỹ Sơn), Sinhapura (Trà Kiệu)… để tạ ơn thần linh.
Tuy vậy nguyên tắc tự trị của các tiểu vương quốc phía Bắc vẫn được tôn trọng,
vì không thấy di ảnh hay hình tượng nữ thần Bhagavati - vị thần bảo hộ
Panduranga được Prithi Indravarman chọn làm "Bà Mẹ xứ sở" để dân
chúng thờ phượng,các di tích khảo cổ lãnh thổ Chiêm Thành phía Bắc.
Về "Bà Mẹ xứ sở", ngôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma
(646-653) được Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aya
Tră (Nha Trang), trên một ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ
tượng nữ thần Bhagavati (bằng vàng). Tháp này về sau được biết dưới tên Po Nagar,
hay Tháp Bà.
Truyền thuyết Champa cho rằng Hoàn Vương Quốc trước kia do nữ vương Po Nagar
cai trị trong suốt 200 năm, từ 758 đến 958. Thời gian trị vì lâu dài này là
thời gian mà vương triều Panduranga thịnh hành. Nữ vương Po Nagar - còn gọi là
Yan Pu Nagara, Po Ino Nagar hay Bà Đen (nguời Việt Nam gọi là Thánh Mẫu Thiên Y
Ana) - là vị nữ thần được tạo nên bởi áng mây trời và bọt biển, người tạo dựng
ra quả đất, sản sinh gỗ quí, cây cối và lúa gạo. Bà có 97 phu quân, trong đó
chỉ một mình Po Yan Amo là người có uy quyền và được tôn trọng hơn cả. Bà có 38
người con gái, tất cả đều hóa thân thành nữ thần, trong đó có ba người được
người Champa chọn làm thần bảo vệ đất đai và còn thờ phượng cho tới ngày nay :
Po Nagar Dara, nữ thần Kauthara (Khánh Hòa) ; Po Rarai Anaih, nữ thần
Panduranga (Ninh Thuận) và Po Bia Tikuk, nữ thần Manthit (Phan Thiết).
Prithi Indravarman là một quân vương tài giỏi, đất nước thái bình và rất phồn
vinh. Sự giàu có của Hoàn Vương Quốc hấp dẫn các vương quốc lân bang, đặc biệt
là Srivijaya (Palembang),Malayu (Malaysia),Javadvipa (Java), Nagara Phatom
(Thái Lan), Sriksetra (Miến Điện) và Angkor (Chân Lạp) ; họ đến để trao đổi
hoặc chờ dịp cướp phá.
Năm 774, quân Nam Đảo từ ngoài khơi đổ bộ vào Kauthara và Panduranga, chiếm
Virapura. Vua Prithi Indravarman đã chống trả lại mãnh liệt nhưng bị chết trong
đám loạn quân (sau này được dân chúng tôn thờ dưới pháp danh Rudraloka). Một
bia ký đọc được ở tháp Po Nagar ghi "những người đen đủi và gầy yếu từ
miền xa đến, ăn những thức ăn khủng khiếp hơn xác chết, lại có tính hung ác.
Bọn người này đi mành đến lấy cắp tượng linga của thần Sri Sambhu, đốt phá đền
thờ [Po Nagar]". Sau cuộc tấn công này quân Nam Đảo cướp đi rất nhiều báu
vật,có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng.
Ngay khi Prithi Indravarman vừa tử trận, một người cháu gọi ông bằng cậu tên
Satyavarman được hoàng tộc tôn lên thay thế. Nhưng vừa lên ngôi, Satyavarman đã
cùng hoàng tộc chạy lên miền Bắc (Bình Định) lánh nạn. Tại đây, nhà vua được
cộng đồng người Chăm và người Thượng địa phương (Bahnar, Hré) giúp thành lập
một đạo quân hùng mạnh tiến xuống Kauthara tấn công quân Nam Đảo. Trước uy lực
của Satyavarman, quân Nam Đảo lên thuyền bỏ chạy ra khơi, tân vương dẫn hoàng
gia về lại Virapura. Tại đây, nhà vua xây thêm một cung điện mới trong thành
Krong Laa và không ngờ đã sáng chế ra một phong tục mới mà các đời vua sau bắt
chước theo, đó là tục trồng cây Kraik, biểu tượng của hoàng gia, trước cung
điện. Đền Po Nagar, bị quân Nam Đảo phá hủy, được Satyavarman cho dựng lại bằng
gạch, 10 năm sau (774-784) thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. Năm 786,
Satyavarman mất (được dân chúng thờ phượng dưới pháp danh Isvaraloka), em trai
út của ông được hoàng tộc đưa lên ngôi, hiệu Indravarman I (786-801).
Hay tin Satyavarman từ trần, năm 787, quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào
Virapura cướp phá, sát hại rất nhiều binh sĩ và dân chúng, phá tháp Hòa Lai thờ
thần Bhadradhipatisvara tại Virapura. Quân Nam Đảo chia ra làm hai nhóm, một
nhóm bắt theo nhiều phụ nữ cùng báu vật chở về nước, một nhóm khác chiếm giữ
Panduranga. Phải hơn mười năm vất vả Indravarman I mới đuổi được quân Nam Đảo
ra khơi để khiến thiết lại xứ ở (năm 799). Tại Virapura, nhà vua xây lại tháp
Hòa Lai bằng ba tháp mới, gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các thần Indrabhadresvara,
Sankara và Narayana. Cũng vất vả lắm Indravarman I mới dẹp yên được một số giặc
giã nổi lên từ khắp nơi, như tại Candra (phía bắc), Indra (đông-bắc), Agni
(phía đông), Yama (đông-nam), quan trọng nhất là loạn Yakshas (phía nam).
Yakshas là những bộ lạc Thượng cư ngụ trên lãnh thổ đế quốc Angkor chứ không
phải là quân Khmer.
Đầu thế kỷ thứ 9, Indravarman I mất, em rể là hoàng thân Deva Rajadhiraja lên
thay, hiệu Harivarman I, mở đầu một trang sử mới.
Trong hai năm đầu tân vương dồn mọi nổ lực xây dựng lại đất nước và phục hồi
thế lực quân sự. Để nhận thêm sự ủng hộ của quần chúng, nhà vua sai tể tướng
Senapati Pangro trùng tu lại tháp Po Nagar và xây thêm hai tháp mới cạnh tháp
chính, một ở hướng nam và một ở hướng tây-bắc để dân chúng đến chiêm bái tượng
nữ thần Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương.
Sau những cố gắng vượt bực, Hoàn Vương Quốc hưng thịnh trở lại, Harivarman I
quyết định trả thù những quốc gia đã tấn công và cướp bóc đất nước của ông
trước đó. Tháng 1-803, quân Chăm tấn công châu Hoan (Tỷ Cảnh, nay là Thanh Hóa)
và châu Ái (Hải Âm, nay là Nghệ Tĩnh), mang về rất nhiều phẩm vật. Với lượng
lúa gạo mang về miền Bắc, thủy quân Hoàn Vương Quốc xuất dương trừng phạt vương
quốc Kelantan ở Java và Patani ở Malaysia. Khi trở về, nhà vua cho người lên
Tây Nguyên mộ thêm binh sĩ và được sự hưởng ứng nồng nhiệt của người thiểu số.
Với đạo quân này, hai lần (nam 803 và 817), Harivarman I tiến vào cao nguyên
Đồng Nai thượng, đánh bại quân Khmer và kiểm soát một vùng đất rộng lớn.
Để có thêm nguồn lương thực, năm 808, Harivarman I xua quân đánh chiếm châu
Hoan và châu Ái lần nữa, nhưng bị thái thú Trương Châu đánh bại : 59 người
trong hoàng tộc bị bắt sống, nhiều thớt voi, tàu chiến và quân trang quân dụng
bị tịch thu, hơn 30.000 người bỏ xác tại trận. Về con số ba vạn người bị chết
này, tưởng cũng nên tương đối hóa nó vì thời đó người Hoa chưa phát minh ra số
"không" (zéro) do đó cái gì nhiều quá, đếm không xuể đều được ghi là
"vạn" ; con số ba vạn ở đây có thể do nhiều đơn vị khác nhau cùng báo
cáo và cũng có thể được thổi phồng để được triều đình trung ương khen thưởng,
vì qua năm sau, năm 809, Harivarman I tái chiếm châu Hoan và châu Ái một cách
dễ dàng và mang về rất nhiều phẩm vật.
Không rõ Harivarman I mất năm nào nhưng con trai là tiểu vương (pulyan) đất
Panduranga lên kế vị năm 817, hiệu Vikrantavarman III. Vì tân vương còn nhỏ
tuổi, triều thần phong tể tướng Senapati Par, tiểu vương đất Manidhi (?), làm
phụ chính. Viên tể tướng này đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ
Kambujas (Kampuchea ngày nay), do vua Jayavarman II cai trị, phá nhiều thành
trì khmer trên cao nguyên Đồng Nai thượng. Để tạ ơn Bà Mẹ Xứ Sở, trong khuôn
viên Po Nagar, Senapati Par cho xây thêm hai tháp mới về phía tây và tây-nam,
thời gian sau xây thêm ba tháp khác : một tại khu trung tâm thờ Sri Shambu, một
phía tây-bắc thờ Shandhaka và một phía nam thờ Ganesha. Mặc dù vậy, trung tâm
chính trị và tôn giáo vẫn được duy trì tại Virapura, thủ phủ Panduranga.
Dưới thời Vikrantavarman III, Hoàn Vương Quốc rất là giàu có, quân lực rất là
hùng mạnh. Một bia ký, tìm được tại tháp Po Nagar, mô tả Vikrantavarman III như
sau : "[Người] đeo những dây vàng có đính ngọc trai và ngọc bích, giống
như mặt trăng tròn đầy đặn, che một chiếc lọng trắng bao phủ cả bốn phương trời
bởi vì lọng còn sâu hơn cả đại dương, thân thể [Người] trang sức phủ kín bởi
vương miện, đai, vòng, hoa tai, những tràng hồng ngọc... bằng vàng, từ đó phát
ra ánh sáng giống như những cây leo [sáng lấp lánh]". Thư tịch cổ Trung
Hoa (Cựu Đường thư) mô tả thêm : "[Vua] mặc áo cổ bối bạch diệp... trên
đeo thêm trân châu, dây chuyền vàng làm thành chuỗi...". Đẳng cấp quí tộc
và phụ nữ cung đình cũng đeo trang sức quí : "Phu nhân mặc vải cổ bối
triệu hà... mình trang sức dây chuyền vàng, chuỗi ngọc trai"Quân đội trang
bị nhiều loại vũ khí khác nhau...".
Với thời gian, Hoàn Vương Quốc trở thành nạn nhân của sự giàu có của mình, các
thế lực lân bang liên tục tràn váo cướp phá. Trong suốt hơn 20 năm, từ 854 đến
875, quân của đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến đánh Hoàn Vương Quốc, chiếm
nhiều vùng đất rộng lớn dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng cao nguyên
Langbian đột nhập vào lãnh thổ Panduranga cướp phá.
Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh Vikrantasvara), không
người kế tự, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp.
6-Triều vương thứ sáu (859-991) : Sau hơn 20 năm chinh chiến với Angkor
quyền hành trong nước lọt dần vào tay các dòng vương tôn miền Bắc, chính họ đã
chống trả lại các đợt xâm lăng của đế quốc Angkor.
Năm 859, một vương tôn mang nhiều chiến công, tên Laksmindra Bhumisvara
Gramasvamin, được triều thần đưa lên ngôi, hiệu Indravarman II.
Mặc dù là truyền nhân đích tôn của các đời vua trước (ông nội là Rudravarman
II, cha là Bhadravarman II), Indravarman II lên ngôi do "dày công tu
luyện, do sức mạnh của trí tuệ trong sáng", vì Indra là thần trên các vị
thần. Sau khi qua đời ông được dân chúng thờ dưới tên Paramabuddhaloka.
Dưới thời Indravarman II, trung tâm quyền lực chính trị và tôn giáo được dời
lên phía Bắc tại Indrapura - thành phố Sấm Sét (nay là Đồng Dương, cách Đà Nẵng
hơn 50km về phía nam) trên bờ sông Ly Ly (một nhánh sông Thu Bồn, cách thánh
địa Trà Kiệu 15 cây số). Vị trí của Indrapura rất thuận lợi trong việc phòng
thủ chống lại những cuộc tiến công của quân Khmer và quân Nam Đảo.
Phật giáo Đại Thừa cũng phát triển mạnh trong giai đoạn này, nhiều nhà sư Trung
Hoa được phép đến Indrapura truyền đạo, xây chùa chiền và thu nạp giáo đồ,
nhưng không mấy thịnh hành. Indravarman II là người đã dung hòa được hai tôn
giáo lớn nhất thời đó (Bà La Môn và Phật giáo) trong dân gian và xã hội : nhiều
Phật viện (Vihara), Phật đường, tu viện, đền thờ được xây dựng khắp nơi lãnh
thổ, một bảo tháp dài 1.330m tên Laksmindra Lokesvara được xây dựng cạnh đền
thờ Bà La Môn (một tượng Buddha thời này, cao 1,14m, được tìm thấy tại Đồng
Dương năm 1978). Đẳng cấp tu sĩ (Brahman) rất được trọng vọng, đạo Bà La Môn
rất thịnh hành. Indravarman II rất tự hào vì các đại thần dưới quyền đều là
những người Brahman và Ksatriya, và chính nhà vua cũng là một Brahman.
Quốc hiệu Champapura (đất nước của người Chăm, theo tiếng Phạn cổ) được
Indravarman II chính thức sử dụng khi tôn vinh đất nước mình. Sử sách Trung Hoa
phiên âm là Chang Cheng (từ chữ Campapura hay Campa mà ra), tiếng Việt là Chiêm
Thành hay Chiêm Bà, tiếng Tây phương là Champa. Trong thực tế, Champa là tên
của một cây có hoa màu trắng, nhụy vàng, hương rất thơm. Tiếng Việt gọi là hoa
đại hay bông sứ. Loài hoa này được trồng quanh cung điện của các vua và đền thờ
của người Champa ; sau này được trồng tại nhiều nơi thờ tự của các tôn giáo
khác ở miền Trung và các gia trang có sân vườn rộng. Mỗi dịp lễ lạc người
Champa thường hái bông sứ dâng lên bàn thờ, mùi hương tỏa ngát không gian của
đền thờ. Champa cũng là tên một địa danh miền bắc Ấn Độ, trên con sông Hasdo,
tỉnh Madhya Pradesh, gần thành phố Bhagalpur (Bilaspur).các vị lãnh đạo Champa
thường đặt tên triều vương, lãnh thổ và thành phố của mình theo tên các địa
danh đã có tại Ấn Độ. Champa dưới thời Indravarman II rất là hùng mạnh, hai
miền Nam-Bắc được thống nhất trong hòa bình.Trong những năm 861, 862 và 865,
quân Chiêm Thành tổ chức nhiều cuộc tấn công vào phủ An Nam, mang về rất nhiều
lương thực và của cải.Năm 889 vua Angkor Yasovarman hai lần tiến quân vào
Champa nhưng đều bị đánh bại và chết trong rừng sâu (năm 890), một phần đất
trên Đồng Nai thượng và lãnh thổ đông-bắc Angkor (cao nguyên Rattanakiri và
Mondolkiri) đặt dưới quyền kiểm soát của Champa
Năm 890 Indravarman II mất, cháu là hoàng thân Jaya Sinhavarmadeva Campapura
Paramesvara kế vị, hiệu Jaya Sinhavarman I. Tân vương được nhiều danh tướng
Ajna Jayendrapati, Ajna Narendranpavitra, Sivacarya, Po Klun Pilih Rajadvara…
tận tình giúp đỡ. Nhà vua tiếp tục cho xây thêm nhiều đền đài tráng lệ, tu viện
Phật giáo quanh thánh địa Đồng Dương. Tượng nữ thần Bhagavati được cho đúc lại
bằng vàng thờ trong chính điện tháp Yan Po Nagara.
Uy quyền của vương triều Indrapura nới rộng lên đến Tây Nguyên. Cao nguyên
Darlac-Kontum do một tiểu vương người Thượng, tên Mahindravarman, cai trị.
Nhiều đền đài Chăm được xây cất trong thung lũng sông Bla gần Kontum (đền Kon
Kor được xây cất năm 914 thờ thần Mahindra Lokesvara).
Jaya Sinhavarman I mất năm 898, con là Jaya Saktivarman lên thay (899-901).
Những vị vua tiếp theo - Bhadravarman II (901-918) và con là Indravarman III
(918-959) - tiếp tục sự nghiệp của cha ông trong lãnh vực tôn giáo:đạo Bà La
Môn trở thành quốc giáo.
Qua trung gian những gia đình hoàng tộc gốc Nam Đảo - Rahdar Ahmed Abu Kamil,
Naqid Amr Ali - trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương
Java, được tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận vào tị nạn, đạo Hồi chính thức
được phổ biến trong chốn hoàng gia. Với thời gian, đạo Hồi được đông đảo quần
chúng bình dân tin theo. Nhân cơ hội, những gia đình quí tộc tị nạn này truyền
bá luôn văn minh và văn hóa Nam Đảo, đặc biệt là lối kiến trúc và cách điêu
khắc, cho nghệ nhân Chăm. Vào thời này, người Chăm đã nắm vững kỹ thuật đi
biển, biết buôn bán ,giao hảo tốt với các quốc gia lân bang:Trung Hoa và Java.
Vừa lo ngại vừa ganh tị sức mạnh và sự giàu có của Champa, năm 945 vua Khmer là
Rajendravarman II cùng binh sĩ băng rừng từ Angkor vào Kauthara, cướp tượng nữ
thần Bhagavati bằng vàng - vị thần bảo vệ xứ sở và là biểu tượng uy quyền của
Champa - trong tháp Yan Po Nagara mang về nước ; từ sau ngày đó, vương triều
Indravarman III suy yếu hẳn.
Dưới thời Indravarman III, biến cố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn vong của
vương quốc Champa là sự hình thành một vương quốc độc lập phía Bắc nước Đại Cồ
Việt, nhưng chỉ thực sự để lại hậu quả các triều vua sau.Năm 959,IndravarmanIII
từ trần,con là Jaya IndravarmanI lên thay năm 960. Việc làm đầu tiên của tân
vương là cho tạc lại tượng nữ thần Bhagavati bằng đá hoa cương để dân chúng đến
thờ, năm 965 mới xong. Năm 972, Jaya Indravarman Iraq từ trần, con là Phê Mi
Thuế, Paramesvaravarman I (972-982), lên thay. Sinh hoạt chính trị của Champa
trong giai đoạn này rất là hỗn độn, năm 978, một người tên Kinan Tache mang
phẩm vật sang Trung Hoa triều cống để được phong làm vua Champa nhưng không
được nhà Tống nhìn nhận. Trong lúc đó, lợi dụng tình trạng loạn lạc tại Đại Cồ
Việt (loạn thập nhị sứ quân, từ 944 đến 972), quân Champa nhiều lần tiến lên
đánh phá những quận huyện ở phía nam, gây nhiều thiệt hại nhân mạng và tài sản.
Năm 979, hay tin Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Ngô Nhật Khánh, một sứ quân Đại Cồ
Việt, thuyết phục vua Paramesvaravarman I, dẫn hơn một ngàn chiến thuyền từ
Chiêm Thành vào chiếm Hoa Lư, nhưng không thành. Ngô Nhật Khánh bị giết, quân
Champa phải rút về.
Tình hình chính trị của Đại Cồ Việt trong giai đoạn này cũng không lấy gì làm
sáng sủa : triều đình không có vua, Hạng Lang tức Đinh Vệ Vương còn quá nhỏ (6
tuổi), mẹ là thái hậu Dương Vân Nga không thể một mình đảm đương việc nước vì
phía Bắc quân Tống lăm le tiến xuống, phía Nam quân Champa sẵn sàng tiến lên.
Năm 980, Dương Vân Nga nhường cho Lê Hoàn làm vua Đại Cồ Việt, hiệu Lê Đại Hành
hoàng đế. Tân vương sai sứ sang Trung Hoa báo tin, dâng vài tù binh Champa vừa
bắt được làm quà biếu. Vua Tống nhận tặng phẩm nhưng lại muốn duy trì ảnh hưởng
tốt với Chiêm Thành, sai thống đốc Quảng Châu cho những tù binh Chiêm ăn uống
rồi thả về nước.
Bực mình trước tin này, Lê Đại Hành sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chiêm Thành
yêu cầu vua Champa sang bái kiến. Paramesvaravarman I, sau khi nhận lại tù binh
từ nhà Tống và tin chắc sẽ được Bắc triều bênh vực nếu bị Lê Đại Hành tấn công,
đã không những không sang bái kiến mà còn bắt giam sứ giả. Lê Đại Hành rất giận
nhưng chưa có phản ứng.
Sau khi đánh đuổi quân Tống ra khỏi lãnh thổ phía Bắc cuối năm 980, Lê Đại Hành
củng cố lại lực lượng chuẩn bị tấn công Chiêm Thành. Đầu năm 982, nhà vua dẫn
đại quân tiến vào Indrapura. Đây là cuộc Nam chinh đầu tiên của người Việt vào
đất Chiêm Thành. Paramesvaravarman I tử trận ngay tại cửa thành, chấm dứt triều
đại Indrapura. Lê Đại Hành tiến vào kinh đô Indrapura (Đồng Dương), giết tướng
giữ thành Tỳ My Thuế, bắt sống hàng trăm vũ nữ trong hậu cung, tịch thu rất
nhiều báu vật mang về nước. Bên ngoài binh lính Việt đốt phá thành trì, san
phẳng lăng tẩm các vị vua Champa, bắt theo hàng ngàn tù binh, trong đó một nhà
sư Ấn Độ tên Thiền Trước Tăng (bhiksu). Lãnh thổ Bắc Champa bị chiếm đóng từ
982 đến 983.
Sau chiến thắng này, văn hóa và nghệ thuật (nhất là âm nhạc) Champa chính thức
được du nhập vào đời sống cung đình và dân gian Việt. Đền đài, dinh thự tại Hoa
Lư được trang trí bằng những chiến lợi phẩm do thợ Champa chạm trổ và sản xuất
ra.
Indravarman IV (Xá Lợi Đà Ngô Nhựt Hoàn) – được hoàng triều tôn lên làm vua khi
Paramesvaravarman I vừa tử trận - chạy vào Panduranga lánh nạn và chịu triều
cống nhà Lê mới được yên. Năm 985 Nhựt Hoàn sai pháp sư Kinkoma sang Trung Hoa
xin nhà Tống cứu viện nhưng được khuyên là nên duy trì quan hệ tốt với Đại Cồ
Việt.
Nội bộ nhà Lê cũng xảy ra tranh chấp về quyền lãnh đạo trên lãnh thổ Bắc
Champa, người thì đề nghị cai trị trực tiếp, người thì khuyên tản quyền. Cuối
cùng một giải pháp trung gian được áp dụng : nơi nào còn đông đảo người Champa
cư ngụ thì giao cho người địa phương quản lý, nơi nào đông dân cư gốc Kinh sinh
sống thì triều đình Đại Cồ Việt đặt quan cai trị trực tiếp. Sự kiện này chứng
tỏ sự cộng cư giữa các nhóm cư dân địa phương sau khi Lâm Ấp giành được độc lập
vẫn còn khắng khít, nhưng từ khi người Kinh bắt đầu cai trị trực tiếp lãnh thổ
Bắc Champa chống đối bắt đầu xảy ra.
Năm 983, một quản giáp (trưởng làng) người Kinh sinh sống trên lãnh thổ Bắc
Champa tên Lưu Kỳ Tông nổi lên chém đầu một người con nuôi của Lê Đại Hành, lúc
đó là một quan cai trị trực tiếp, xây thêm thành lũy quanh Phật Thành (Fo Che)
phòng thủ lãnh thổ Bắc Champa, rồi mộ hơn 10.000 người và nhiều voi ngựa đánh
Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành tiến quân xuống đánh nhưng cuộc chiến đã không xảy ra,
vì sau khi vượt núi Đông Cổ và sông Bà Hòa (Thanh Hóa), đại quân của nhà Tiền
Lê chịu không nổi sương lam chướng khí phải rút về. Năm 986, hay tin vua
Indravartman IV (Ngô Nhựt Hoàn) của người Champa từ trần, Lưu Kỳ Tông liền tự
xưng vương và xin nhà Tống thừa nhận. Sự tiếm quyền này xúc phạm đến tín ngưỡng
của người Chăm vì Lưu Kỳ Tông không xuất thân từ vương tộc hay đẳng cấp tôn
giáo nào, và là một đe dọa cho cộng đồng người Hoa địa phương. Một người Champa
gốc Hoa tên Poulo Ngo dẫn theo khoảng 150 người đổ bộ lên đảo Hải Nàm và vùng
duyên hải nam Quảng Châu tị nạn. Năm 988, thêm 300 người khác do Ho Siuan dẫn
đầu đổ bộ lên bờ biển Quảng Châu. Người Chăm gốc Nam Đảo còn lại theo Bằng
Vương La (Cu-thì-lợi Hà-thanh-bài Ma-la),một người Cham sinh sống tại
Bàn.Thành, kháng chiến chống Lưu Kỳ Tông
Triều vương thứ bảy (991-1044) :
vương triều Vijaya
Năm 989 Lưu Kỳ Tông, một người Kinh tự nhận là vua lãnh thổ Champa phía Bắc từ
năm 983, bị Bằng Vương La (Cu-thì-lợi Hà-thanh-bài Ma-la), một vương tôn Champa
phía Nam, nổi lên lật đổ và được dân chúng tôn lên làm vua, hiệu Harivarman II
(Dương-to-pai hay Dương Đà Bài). Harivarman II xưng vương tại Phật Thành
(Vijaya), nhưng tổ chức vương quyền vẫn đặt tại Indrapura (Đồng Dương), ý muốn
đề cao nguồn gốc thần quyền của ông từ bộ tộc Dừa. Harivarman II được nhiều sử
gia xác nhận là người sáng lập vương triều thứ bảy của Champa
Năm 990, một người Việt tên Dương Tiến Lộc - làm quan quản giáp đi thu thuế tại
châu Ái và châu Hoan (Thanh Hóa, Nghệ An) - hô hào người Kinh và Chăm nổi lên
chống lại nhà Lê. Dương Tiến Lộc có yêu cầu Harivarman II giúp đỡ nhưng bị từ
chối. Hay tin có phản loạn, Lê Đại Hành liền mang quân vào đánh dẹp, Dương Tiến
Lộc cùng những người phản loạn bị giết chết, hơn 360 tù binh Chăm bị bắt mang
về miền Bắc, một số được tuyển làm nài điều khiển voi trong binh lực nhà Lê.
Năm 992, quan hệ giữa nhà Lê và vương triều Vijaya trở nên bình thường và, để
tỏ lòng biết ơn Harivarman II từ chối không ủng hộ cuộc phản loạn của Dương
Tiến Lộc, Lê Đại Hành trả tự do cho hơn 300 tù binh Chăm về nước. Cũng nên biết
làn ranh phân chia Đại Cồ Việt và Chiêm Thành trong giai đoạn này được xác định
tại đèo Ngang, tức địa phận Di Luân, gần cửa sông Gianh (Quảng Bình). Cùng thời
gian này, quan hệ giữa Chiêm Thành và Trung Hoa trở nên bình thường, Harivarman
II được nhà Tống công nhận, hai bên trao đổi nhiều phẩm vật quí giá. Nhân dịp
này Harivarman II yêu cầu vua Tống giao trả những người Champa tị nạn tại Quảng
Châu trước đó (986-988) về lại Champa.
Mối giao hảo thân thiết giữa Champa và Trung Hoa không làm vua Lê hài lòng. Năm
994, Lê Đại Hành cho người vào Viyaja yêu cầu Harivarman II triều cống nhưng bị
từ chối, vua Lê liền cất quân sang đánh. Quân Chiêm tuy có đẩy lui được cuộc
trừng chinh này nhưng hao tổn cũng khá nhiều, Harivarman II chấp nhận sẽ triều
cống trở lại. Nhưng Lê Đại Hành yêu cầu phải triều cống tức khắc và buộc
Harivarman II phải đích thân sang bái kiến mới vừa lòng. Vua Chiêm liền sai một
thân tín tên Chế Đông sang thay mặt, Lê Đại Hành trách là vô lễ ; Harivarman II
phải sai cháu là Chế Cai sang chầu và hứa sẽ không quấy phá vùng biên giới nữa
mọi việc mới yên. Tuy vậy trong những năm 995 và 997, do thiếu đói vì mất mùa
quân Chiêm có tràn sang cướp phá một số làng xã dọc vùng biên giới rồi rút về
liền. Lê Đại Hành cũng chỉ củng cố lại một số địa điểm phòng thủ chứ không trả
đũa ; một số gia đình nông dân nghèo gốc Kinh được đưa vào lập nghiệp trên một
phần lãnh thổ Bắc Chiêm Thành, sau này có tên là Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh.
Năm 999, Harivarman II mất, con là Po Alah (Po Ovlah hay Âu Loah) - một tín đồ
Hồi giáo trung kiên đã từng sang La Mecque hành hương - lên thay, hiệu Yanpuku
Vijaya (Dương-phổ-cu Bi-trà-xá-lợi). Trung tâm quyền lực đặt tại Vijaya, tức
thành phố Chiến Thắng (còn có tên là Phật Thệ, Phật Thành hay Chà Bàn, Đồ Bàn,
nay là thị trấn An Nhơn). Toàn bộ vương tộc tại Indrapura (Đồng Dương) được đưa
về Sri Bini (Qui Nhơn) định cư, vì nơi này ít bị uy hiếp hơn khi có chiến
tranh. Dưới thời Yanpuku Vijaya (999-1010), đạo Hồi cùng với đạo Bà La Môn phát
triển mạnh mẽ. Tân vương tổ chức lại quân đội và cử nhiều phái đoàn sang Trung
Hoa thông sứ với hy vọng được nhà Tống bảo vệ khi bị Đại Cồ Việt tấn công.
Năm 1005, hay tin Lê Đại Hành mất, Yanpuku Vijaya mang quân tấn công Đại Cồ
Việt, lúc đó do Lê Long Đĩnh (1005-1009), một hôn quân, cai trị. Hai bên giữ
thế giằng co, bất phân thắng bại trong 40 năm (1005-1044). Yanpuku Vijaya mất
năm 1010, Sri Harivarmadeva lên thay, hiệu Harivarman III. Tân vương cai trị
đến năm 1018 thì mất, Chế-mai-pa Mộ-tài (Chemeipai Moti) lên thay, hiệu Paramesvaravarman
II.
Trong lãnh thổ người Kinhù, Lý Công Uẩn lật đổ nhà Lê, thành lập nhà Lý (năm
1010), hiệu Thái Tổ, đổi quốc hiệu là Đại Việt. E ngại uy dũng và mến mộ đức độ
của Lý Thái Tổ, Chiêm Thành và Chân Lạp cử người sang triều cống. Giao hảo giữa
Champa và Đại Việt rất là tốt đẹp, nhưng chỉ kéo dài được mười năm. Năm 1020,
do mất mùa và đói kém, quân Chiêm Thành tiến chiếm hai châu Bố Chánh và Ma Linh
(Quảng Bình). Năm 1021, thái tử Phật Mã, trưởng nam của Lý Thái Tổ, chiếm lại
hai châu bị mất. Năm 1026, quân của thái tử Phật Mã chiếm luôn châu Điền (Thừa
Thiên). Lý Thái Tổ mất năm 1028, Phật Mã lên thay, xưng hiệu Thái Tôn. Vua
Chiêm Thành không những không chịu thông sứ với Đại Việt mà còn xua quân đánh
phá các làng ven biển tại châu Điền, châu Ái (Thanh Hóa) và châu Hoan (Nghệ
An). Sau khi củng cố lại lực lượng tại châu Hoan, Lý Thái Tôn sát nhập ba châu
Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh vào lãnh thổ Đại Việt và cử võ quan vào trấn thủ.
Năm 1030, Paramesvaravarman II qua đời, triều đình Viyaja rối loạn. Một vương
tôn tên Chế Li (Cheli) tiếm ngôi, xưng hiệu Vikrantavarman IV. Nội chiến liền
xảy ra, rất là khốc liệt. Con cháu Paramesvaravarman II nổi lên chống lại. Năm
1038, con Vikrantavarman IV là hoàng tử Địa Bà Thích cùng với một số thủ hạ
trong binh đội địa phận Bố Chánh (hơn 100 người do các tướng Bố Cả, Lan Đồ
Thích, Lạc Thuẩn, La Kế và A Thát Thích chỉ huy) nổi lên giành ngôi với vua cha
nhưng không thành, phải chạy vào Đại Việt xin tị nạn. Tại đây Địa Bà Thích hai
lần xin nhà Lý (1039 và 1040) đưa về làm vua, nhưng không được chấp nhận.
Trước đe dọa của chính con mình, năm 1041 Vikrantavarman IV - sau khi liên minh
được với vương quốc Angkor là vua Surayavarman I - yêu cầu nhà Lý giao hoàng tử
Địa Bà Thích phản nghịch về xử tội, nhưng không thành. Quân Chăm liền tấn công
Đại Việt, Vikrantavarman IV bị giết ngay trong trận đầu, con là thái tử Sạ Đẩu
(Po Tik) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman II. Tân vương sai sứ sang Trung Hoa
xin vua Tống tấn phong đồng thời cũng xin được bảo vệ, nhờ đó được yên bình vài
năm. Năm 1043, quân Champa dùng thuyền đổ bộ vào một số làng xã ven biển đánh
phá và chỉ rút lui khi quân Lý tiến tới.
Năm 1044, viện cớ Champa không chịu triều cống từ hơn 16 năm qua và còn quấy
rối lãnh thổ, Lý Thái Tôn dẫn đầu một đại binh gồm 10.000 thủy quân xuống đánh.
Jaya Sinhavarman II vừa tổ chức phản công vừa cho người sang Trung Hoa cầu cứu.
Quân Chiêm chận quân Đại Việt tại phía nam sông Thu Bồn (Quảng Nam) nhưng bị
thua to: gần 30.000 binh sĩ và hơn 60 voi trận phơi thây trên chiến trường, hơn
5.000 quân Champa và 30 voi trận bị bắt sống. Jaya Sinhavarman II cũng bị tử
thương trong trận này, tướng Quách Gia Gi (Isvaras) liền cắt lấy đầu mang sang
trại vua Lý làm lễ vật xin hàng. Lý Thái Tôn thấy quân Champa bị giết quá nhiều
liền ra lệnh không cho binh sĩ giết người vô cớ. Quân Đại Việt tiếp tục tiến
xuống phía Nam, chiếm đế đô Phật Thệ (Vijaya hay Đồ Bàn), bắt được vương phi Mỹ
Ê cùng nhiều cung nữ,nghệ nhân mang về đất Bắc.
Trên đường về nước, khi đến sông Lý Nhân (sông Hương), Lý Thái Tôn cho người
mời Mỵ Ê sang chầu nhưng bà nhảy xuống sông tự tử để giữ tiết với chồng. Quý
mến sự thủy chung này, vương phi Mỵ Ê được Lý Thái Tôn phong tước Hiệp chánh hộ
thiên và cho lập đền thờ. Những tù binh Chiêm Thành sau đó được cấp ruộng đất
và cho định cư tại Hưng Hóa (Nghệ An) trong hai xã Vĩnh Khương và Đăng Châu.
Nông dân Đại Việt cũng di cư vào các vùng đất mới tại Bố Chánh, Địa Lý và Ma
Linh lập nghiệp. Trong số tù binh Champa có một thiền sư Phật giáo tên Thảo
Đường. Tăng sư Thảo Đường lập ra phái Thiền tông thứ ba tại Đại Việt. Nhiều
chùa Phật giáo Tiểu Thừa tại miền Bắc Việt Nam (chùa Vạn Phúc ở Bắc Ninh, chùa
Thiên Phúc ở Sơn Tây) do nhân công gốc Chăm xây dựng. Thợ Chăm dạy cho thợ Đại
Việt cách đúc tượng Phật và xây cất chùa kiểu Ấn Độ. Nghệ nhân Chiêm Thành dạy
cho các cung nữ triều đình nhà Lý các điệu nhạc Chiêm Thành (các điệu nam ai,
nam oán...).
Triều vương thứ tám (1044-1074) :
Quách Gia Gi là một vương tôn thuộc đẳng cấp Ksatriya (chiến sĩ). Sau khi đầu
hàng nhà Lý, ông được triều thần tôn lên làm vua năm 1044, hiệu Jaya
Paramesvaravarman I. Trước một đất nước bị kiệt quệ vì chiến tranh, Quách Gia
Gi một mặt phải giao hảo tốt với Trung Hoa và Đại Việt để được yên thân, mặt
khác tập trung sức lực còn lại bình định loạn lạc ở phía nam. Trước kia, theo
thỏa hiệp giữa Vikrantavarman IV và Surayavarman I (vương quốc Angkor), quân
Khmer vào giúp Champa dựng trại tại Panduranga, khi Vikrantavarman IV mất quân
Khmer không những không chịu rút quân về mà còn muốn chiếm giữ luôn lãnh thổ
Panduranga.
Năm 1050, viện cớ một tiểu vương tại Panduranga không tuân phục triều đình
trung ương, Jaya Paramesvaravarman I cùng cháu là hoàng thân Yavaraja
Mahasenapati mang quân chinh phạt và cũng nhân dịp đánh đuổi quân Khmer ra khỏi
lãnh thổ. Tiểu vương Panduranga thua trận, một số binh sĩ và dân chúng đất
Pănrăn (Phan Rang) phải trốn trong các hầm đất, hang động hoặc chạy lên núi
trốn, một số khác chạy theo quân Khmer về bên kia biên giới lánh nạn. Toàn bộ
tài sản, súc vật của dân chúng Pănrăn bị tịch thu mang về Vijaya làm chiến lợi
phẩm ; những tù binh bị mang về làm nô lệ và hạ xuống làm đẳng cấp Sudra. Tiểu
quốc Panduranga bị đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của triều đình trung ương
Vijaya. Trong giai đoạn này, người Champa chạy loạn lên Tây Nguyên (đặc biệt là
cao nguyên Đắc Lắc) lánh nạn một số đã ở lại định cư vĩnh viễn, hòa trộn với
những nhóm dân cư có trước để thành người Rhadé.
Dẹp xong loạn phía Nam, Jaya Paramesvaravarman I xây dựng lại đất nước. Nhà vua
cho dựng lại các tượng đài bằng đá hoa cương trong tháp Po Nagar, cấp cho những
vị tu sĩ giữ đền 50 nô lệ Chăm, Khmer, Hoa, Miến, Xiêm, 15 cân vàng, 15 cân
bạc, và nhiều vật dụng quí giá khác. Nhà vua mất năm 1060, con trai trưởng lên
kế vị hiệu Bhadravarman III, trị vì được một năm (1060-1061) thì mất. Năm 1061,
em trai của Bhadravarman III là Chế Củ lên thay, hiệu Rudravarman III.
Rudravarman III là một người tinh khôn, một mặt giao hảo bình thường nhà Lý để
tránh bị nghi ngờ, mặt khác chuẩn bị quân sĩ tiến đánh Đại Việt. Năm 1068,
Rudravarman III mang quân đánh vào các làng của người Việt tại Ma Linh và Địa
Lý, quân Lý thua phải rút lên phía Bắc.
Năm 1069, Lý Thánh Tôn (lên ngôi năm 1054) cùng Lý Thường Kiệt mang 30.000 quân
và 200 chiến thuyền tiến chiếm Sri Bini (Qui Nhơn), rồi đế đô Vijaya (Bình
Định), giết tướng giữ thành là Bố Bì Đà La trên sông Tu Mao (nay là Hà Giao).
Rudravarman III băng rừng chạy sang Chân Lạp tị nạn. Tại đây hoàng gia Chăm bị
người Khmer bạc đãi, Rudravarman III về lại Vijaya chịu cho quân Đại Việt bắt
sống, cùng với 3.000 quân và gia quyến, hơn là qui thuận Angkor. Tuy vậy thành
Vijaya vẫn bị quân Đại Việt tràn vào đốt phá trước khi rút về nước. Dân số
Vijaya lúc đó được ghi nhận là hơn 2.560 gia đình. Để chuộc lại tự do,
Rudravarman III xin dâng ba tỉnh phía bắc Champa gồm Bố Chánh (hay Bố Chính),
Địa Lý và Ma Linh (Quảng Bình và bắc Quảng Trị ngày nay). Lãnh địa Indrapura bị
xóa tên và trở thành ba tỉnh của Đại Việt. Nhà Lý đổi tên Ma Linh thành châu
Minh Linh, Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Bố Chánh được giữ nguyên tên.
Thật ra ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh đã thuộc về Đại Việt từ lâu, từ đời
nhà Tiền Lê (năm 982), cách đó gần 80 năm. Do sức ép về dân số, nhiều gia đình
nông dân nghèo khó không có đất canh tác trên đồng bằng sông Hồng và sông Cả đã
tự động di cư đến đây rồi khai phá đất hoang và canh tác hoa mầu. Trong cuộc
sống cộng cư, với thời gian, có thể những nhóm di dân cư này đã hòa trộn với
các nhóm dân cư gốc Kinh có mặt từ trước, khi vương quốc Lâm Ấp được thành
hình, hoặc với người Chăm địa phương từ nhiều đời để tạo thành các nhóm
"dân miền Trung". Yếu tố Chăm do đó không còn mạnh mẽ, nếu không muốn
nói là mất hẳn ảnh hưởng trên vùng đất này, nhường chỗ cho yếu tố Kinh, đầy sức
sống và đông đảo hơn. Nói một cách khác, sự dâng đất này là một hình thức công
nhận quyền sở hữu chính thức của nhà Lý trên một vùng đất đã thoát khỏi sự kiểm
soát của chính quyền trung ương Champa từ lâu. Sự dâng đất này còn ngụ ý là
Champa sẽ không mang quân sang quấy phá nữa, vì thần linh bảo vệ hoàng tộc và
đất đai không còn nữa. Đất ở ba châu này thật ra có phì nhiêu hơn ở vùng Thanh
Hóa (tức châu Điền), nhưng không phì nhiêu bằng đất ở Amavarati (Quảng Nam). Sự
tranh chấp giữa Đại Việt và Chiêm Thành về sau trên phần lãnh thổ này vì tự ái
dân tộc nhiều hơn vì sự mầu mỡ của đất đai. Sau khi nhượng hẳn cho Đại Việt ba
châu phía Bắc, Rudravarman III mất uy tín trước các tiểu vương. Chiêm Thành bị
loạn sứ quân, không ai còn nghe ai nữa. Hơn mười tiểu vương tự tuyên bố độc
lập, kẻ mạnh mang quân đi đánh tiểu vương quốc yếu để mở rộng lãnh thổ hoặc gây
thanh thế. Các tiểu vương ở phía Nam, liên minh với đế quốc Angkor, biến
Panduranga thành trung tâm chống lại vương triều và các tiểu vương phía Bắc.
Năm 1074, buồn phiền trước cảnh đất nước loạn lạc và bị các tiểu vương phía Nam
xua đuổi, Rudravarman III (Chế Củ) dẫn gia đình sang Đại Việt xin tị nạn và tan
biến luôn trong xã hội người Kinh.
Triều vương thứ chín (1074-1139) :
Tại Panduranga, một hoàng thân xuất thân từ Panduranga tên Thăn (còn gọi là Yan
Visnumurti, Madhavamurti hay Devatamurti, tiếng Việt là Thân), cùng em là hoàng
tử Pãn (tên Việt là Phan), đã lần lượt chinh phục các tiểu vương sứ quân, thống
nhất lại đất nước. Năm 1074, Thăn được quần thần tôn lên làm vua, hiệu
Harivarman IV, mở đầu triều vương thứ chín.
Thăn là tên một hoàng tộc thuộc bộ tộc Cau mà dân chúng Panduranga cho là dòng
vương tôn chân truyền của vương quốc Champa. Chính vì thế Harivarman IV rất tự
hào về nguồn gốc xuất thân của mình, vì luôn tự nhận là sự kết hợp của hai bộ
tộc lớn nhất của Champa : cha là Pralaysvara Dharmaraja, dòng Narikelavansa
thuộc đẳng cấp Ksatriya, bộ tộc Dừa ở Amaravati ; mẹ thuộc dòng Kramukavansa,
đẳng cấp Brahman, bộ tộc Cau ở Panduranga. Sở dĩ có sự giải thích dài dòng về
nguồn gốc xuất thân này - nhất là nguồn gốc xuất thân của mẹ, dòng Brahman
chính thống - vì Harivarman IV biết chắc rằng trong các sứ quân không ai hội đủ
điều kiện về nguồn gốc xuất thân để có thể được tôn lên làm vua trên toàn cõi
Champa.
Việc làm đầu tiên của Harivarman IV là phục hồi lại các đền đài đã bị tàn phá
bởi quân Đại Việt và cuộc nội chiến. Không đầy một năm sau, Champa trở nên hùng
mạnh trở lại. Harivarman IV mang quân sang đánh Đại Việt, giành lại phần lãnh
thổ mà Rudravarman III nhượng trước đó.
Năm 1075, viện cớ phục hồi ngôi vua cho con cháu Rudravarman III (Chế Củ), nhà
Lý sai Lý Thường Kiệt mang quân chiếm lại ba châu vừa bị mất. Trước sự chống
trả mãnh liệt của quân Chiêm, Lý Thường Kiệt phải lui binh nhưng cho người vẽ
lại địa thế rồi đưa một số nông dân gan dạ (thật ra là những binh lính trá
hình) vào định cư. Hay tin quân Lý bị Champa đánh bại, vua Tống sai Vương An
Thạch mang 10.000 quân tiến qua biên giới tấn công Đại Việt. Lý Thường Kiệt lui
về bảo vệ lãnh thổ phía bắc. Ba châu vừa chiếm lại lọt vào tay Champa.
Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì kết hợp với Champa và Angkor, mang 7.000 quân
tiến công Đại Việt nhưng bị Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh bại. Thừa thắng, Lý
Thường Kiệt tiến xuống chiếm đóng đế đô Phật Thành, Harivarman IV phải cùng con
cái và một số thân tín chạy lên núi trốn ; tại đây phái đoàn được các sắc dân
Thượng che chỡ.
Quân Lý chỉ chịu rút khỏi Phật Thành khi Harivarman IV tuyên bố chấp nhận triều
cống nhà Lý trở lại. Hay tin này, hoàng thân Sri Nandanavarmadeva (người Khmer)
- mang quân vào miên Nam Champa theo lời mời của Quách Quì để chống lại nhà Lý
- chiếm luôn Panduranga. Vua Harivarman IV phải yêu cầu nhà Lý giúp đỡ. Lúc này
mặc dù đã tuổi già sức yếu, Lý Thường Kiệt vẫn phải thân chinh đi đánh dẹp.
Quân Khmer thua to bỏ chạy về nước, Harivarman IV truy đuổi và tiêu diệt hết
tại Somesvara (Biên Hòa ngày nay). Nhà vua sai em là hoàng tử Pãên (tiếng Việt
là Phan) chiếm thành Sambhupura (Sambor) trên sông Mékong, bắt được nhiều tù
binh cùng vàng bạc và của cải mang về nước.
Dẹp xong loạn phương Nam, Harivarman IV tập trung phục hồi đất nước. Mặc dù vẫn
duy trì triều đình tại Vijaya, nhà vua sửa sang lại các nơi thờ phượng khác
trên toàn quốc và cho xây dựng lại các thánh địa tôn giáo tại Indrapura (Đồng
Dương) và Sinhapura (Mỹ Sơn). Hoàng tử Pãn đích thân đôn đốc việc trùng tu các
đền thờ tại Sinhapura (Mỹ Sơn). Dưới triều vua Harivarman IV, Champa trù phú
trở lại, đền đài cung điện tìm lại những nét huy hòang tráng lệ ngày xưa.
Năm 1080, Harivarman IV nhường ngôi cho con là thái tử Văk Pulyan Rajadvara, 9
tuổi. Tân vương lên ngôi năm 1081, hiệu Jaya Indravarman II (Chế Ma Na). Chú là
hoàng tử Pãn thế quyền giám quốc. Nhưng không biết vì nguyên do nào mà cả triều
thần và thái tử Văk đồng tôn Pãn lên làm vua, hiệu Sri Paramabodhisatva (Si-bà
Ra-ma Bồ-đề Sát-bà). Paramabodhisatva giao hảo tốt với Đại Việt, mục đích chính
của nhà vua là duy trì sự thống nhất của Champa, vì lúc đó một tiểu vương
Panduranga tên Rudravarman ly khai, không công nhận vương quyền phương Bắc.
Thật ra sự ly khai này đã xảy ra từ 16 năm trước, nhưng triều đình Vijaya vì
bận lo giải quyết những vấn đề khác cấp bách hơn nên chưa ra tay. Tiểu vương
Rudravarman bị đánh bại, Panduranga bị dưới quyền cai trị trực tiếp của Phật
Thành (Vijaya).
Năm 1086, nội bộ Champa xảy ra nội chiến. Thái tử Văk (Jaya Indravarman II)
được triều đình thúc đẩy muốn cầm quyền trở lại. Ước muốn này gặp sự phản đối
của vua Paramabodhisatva (hoàng tử Pãn) - người muốn đưa trưởng nam của mình là
hoàng tử Pulyan Sri Yavaraja lên ngôi - đã tìm mọi cách loại trừ thế lực thái
tử Văk nhưng không được.Cuối cùng Paramabodhisatva mất tích, phe của ông
bị phe của thái tử Văk giết hết. Jaya Indravarman II lên ngôi và tiếp tục triều
cống Đại Việt. Năm 1092, Jaya Indravarman II nhờ nhà Tống giúp đòi lại vùng đất
đã mất nhưng không kết quả.
Năm 1103, một người Việt ở phủ Diên Châu (Nghệ An) tên Lý Giác nổi lên làm
phản. Lý Thường Kiệt vào đánh, Lý Giác thua chạy sang Phật Thành (Vijaya)
thuyết phục vua Jaya Indravarman II hưng binh chiếm lại vùng đất đã mất. Lý
Thường Kiệt một lần nữa phải thân chinh đi dẹp lọan, Jaya Indravarman II bị
thua phải trả lại ba châu đã chiếm và chịu triều cống trở lại năm 1104.
Nhà Lý liền phân chia lại các châu vừa lấy lại như sau : châu Bố Chánh gồm
huyện Nam Bố Chánh (Bố Trạch ngày nay) và huyện Bắc Bố Chánh (Quảng Trạch và
Tuyên Hóa ngày nay), châu Lâm Bình (Địa Lý cũ) gồm huyện Phong Lộc (Quảng Ninh
ngày nay) và huyện Phong Đăng (sau gọi là Phong Phú, tức huyện Lệ Thủy ngày
nay). Hai huyện Phong Lộc và Phong Phú là vựa lúa lớn nhất của đất Indrapura.
Châu Minh Linh (Ma Linh cũ) được chia thành hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh.
Năm 1113, cháu Jaya Indravarman II là Harivarman V lên ngôi, tân vương giữ
nguyên chính sách cai trị của chú, quan hệ giữa Champa và Đại Việt rất là thân
thiết. Harivarman V trị vì đến năm 1129 thì mất không người kế vị, Champa lâm
cảnh loạn lạc. Vương triều Panduranga không chịu sự cai trị của Vijaya, liên
kết với Chân Lạp đánh lại. Hai miền Nam Bắc đánh phá lẫn nhau trong suốt 10 năm
(1129-1139).
Triều vương thứ mười (1139-1145) :
Năm 1129 Harivarman V mất, hoàng triều Champa tôn người con nuôi của nhà vua
tên Po Sulika lên thay, hiệu Jaya Indravarman III. Vì không có quan hệ gia tộc
trực tiếp với dòng vua cũ, Jaya Indravarman III phải tự nhận có quan hệ xa xôi
với các triều vua trước để được dân chúng phục tùng. Theo các bia ký đọc được
tại Đồng Dương và Po Nagar, Jaya Indravarman III sinh năm 1106, được nhận vào
hoàng tộc năm 1129 tước Devaraja, được phong vương (Yuvaraja) năm 1133. Jaya
Indravarman III xây thêm nhiều tượng thần Siva, Visnu và Linga trong những năm
1139, 1142 và 1143 tại Indrapura và Kauthara để xác nhận ông là truyền nhân của
đẳng cấp Brahman.
Cùng thời gian này, năm 1112, tại Chân Lạp vua Suryavarman II lên ngôi. Năm sau
tân vương xua quân đánh chiếm Chiêm Thành. Tham vọng của nhà vua được thời cuộc
hỗ trợ vì bên Trung Hoa nhà Tống đang bận chống quân Kim (Mãn Châu) ; vua Lý
Thần Tông chết sớm, Lý Anh Tôn còn quá nhỏ, các tướng lãnh tranh quyền, Đại
Việt bị suy kém. Năm 1128, được Nam Chiêm Thành hỗ trợ, Suryavarman II dẫn
20.000 quân, đi trên 700 chiến thuyền, đổ bộ vào Thanh Hóa đánh phá và cũng là
một cách răn đe Đại Việt không nên hỗ trợ Bắc Chiêm Thành, bị Angkor liên tục
đánh phá từ 1030. Không chịu đựng nổi sự hà hiếp của người Khmer, đời sống dân
chúng Chăm rất là khổ sở. Dưới sự cai trị hà khắc của người Khmer, một số vương
tôn Chăm chạy vào Đại Việt xin tị nạn (Cụ Ông và 30 gia nhân, Kim Đình A Phú và
4 gia nhân, Tư Bồ Đà La cùng 30 gia nhân, Êng Ma và Êng Câu…). Trong những năm
1131 và 1136, quân Nam Chiêm Thành và Chân Lạp hợp nhau đánh phá Nghệ An và bờ
biển Thanh Hóa.
Năm 1132, viện cớ Jaya Indravarman III không chịu hợp tác tấn công Đại Việt,
Suryavarman II tiến quân lần nữa sang đất Champa: đế đô Vijaya bị chiếm năm
1145. Jaya Indravarman III mất tích trên chiến trường (được dân chúng thờ dưới
tên Rudraloka), những người chống lại quân Khmer đều bị xử trảm. Suryavarman II
tự xưng là hoàng đế của cả Chân Lạp lẫn Chiêm Thành. Kể từ 1145 đến 1149, lãnh
thổ đế quốc Khmer được nới rộng lên phía Bắc, từ Champassak (Nam Lào) đến đèo
Hải Vân (Bắc Champa), người Khmer trực tiếp điều khiển binh lực Chiêm Thành.
Triều vương thứ mười một (1145-1318) :
Năm 1145 hoàng thân Parabrahman được triều thần đưa lên kế vị Jaya Indravarman
III, hiệu Rudravarman IV. Vừa lên ngôi, Rudravarman IV cùng con trai là
Ratnabhumivijaya (hoàng tử Sivanandana) bị quân Khmer truy lùng ráo riết phải
bỏ Vijaya chạy vào Đại Việt lánh nạn. Thời gian sau, Rudravarman IV băng rừng
về lại Panduranga lập chiến khu trên cao nguyên, nhiều bộ lạc Thượng gia nhập
quân kháng chiến rất đông. Trên đường chạy loạn, Rudravarman IV lâm bệnh mất
năm 1147 (dân chúng thờ dưới tên Brahmaloka hay Parabrahmaloka), con là thái tử
Ratnabhumivijaya lên thay, hiệu Jaya Harivarman I (Chế Bì Ri Bút).
Trên cao nguyên, Jaya Harivarman I được đông đảo người Thượng và người Khmer
(có thể là người Thượng thuộc hệ ngôn ngữ Môn Khmer) ủng hộ. Nhà vua tổ chức
kháng chiến chiếm lại Panduranga, nhưng lãnh thổ Bắc Champa (Vijaya) vẫn còn
nằm trong tay người Khmer, do em rể vua Jaya Indravarman III là hoàng tử
Hariveda (đẳng cấp Ksatriya) cai trị. Vương quốc Champa bị chia đôi.
Năm 1148, vua Khmer (Jaya Indravarman III) cử tể tướng Sankara cùng tướng
Sipakhya tấn công Panduranga, nhưng bị quân Champa đánh bại tại đồng bằng
Kayev, tỉnh Virapura (tiếng Khmer là Rajapura, tiếng Việt là Phan Rang). Thừa
thắng xông lên, năm 1149, Jaya Harivarman I dẫn đầu đoàn quân Champa, Thượng
chiếm thành Vijaya, giết Hariveda trên sông Yami (sông Hà Giao, Bình Định),
thống nhất lại đất nước. Kinh đô đặt tại Vijaya.
Do phân chia quyền lợi không đồng đều, người Rhadé, Bahnar và nhiều bộ lạc
Thượng khác tôn Vansaraja (Ưng Minh Diệp), anh rể Jaya Harivarman I, lãnh đạo
phong trào kháng chiến chống lại Jaya Harivarman I. Năm 1150, sau khi xưng
vương tại Madhyamagrama (ngày nay là An Khê, cạnh núi Yang Mung), Vansaraja dẫn
đại quân xuống đồng bằng tấn công người Chăm, nhưng bị đánh bại tại làng Slay.
Jaya Harivarman I tiến lên cao nguyên càn quét quân nổi loạn, Vansaraja phải
chạy vào Đại Việt xin nhà Lý giúp đỡ đưa về làm vua. Lý Anh Tôn sai thương chế
Nguyễn Mông mang 5.000 binh sĩ từ Thanh Hóa và Nghệ An vào đánh Champa. Chiến
trận đã diễn ra rất là khốc liệt tại Dalva (Đông Hà) và Lavan (La Vang), cả
Nguyễn Mông lẫn Vansaraja đều bị tử trận. Trong những năm sau (1151-1155), quân
Champa thường xuyên vào lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) cướp phá, vua Lý Anh Tôn
định cất quân đi chinh phạt nhưng Jaya Harivarman I chịu dâng nhiều phẩm vật
quí giá nên thôi, thực sự nhà Lý cũng e ngại sức mạnh quân sự của Champa.
Vì dồn hết mọi năng lực vào chiến tranh đánh dẹp nội loạn và ngoại xâm, đời
sống dân chúng Champa trở nên cơ cực, nhiều lãnh chúa địa phương nổi lên chống
lại triều đình trung ương. Năm 1151, Jaya Harivarman I phải hao tổn nhiều công
sức lắm mới khuất phục được những cuộc nổi loạn tại Amavarati. Vừa dẹp loạn
phương Bắc, Jaya Harivarman I lại phải đương đầu với những cuộc nổi loạn tại
Panduranga, do người Khmer đỡ đầu. Phải mất năm năm (1151-1155), nhà vua mới
dẹp xong được loạn và sau 1160 Champa tìm được lại sự hùng mạnh của quá khứ và
giao hảo tốt với các lân bang.
Năm 1162, Jaya Harivarman I băng hà truyền ngôi cho con là hoàng tử Sakan
Vijaya, hiệu Jaya Harivarman II. Năm 1167 Sakan Vijaya bị hoàng thân Vatuv
Gramapuravijaya soán ngôi, hiệu Jaya Indravarman IV.
Trong những năm 1164-1166, quân Champa thường xuyên tổ chức đánh cướp các tàu
buôn Ả Rập qua lại trên Biển Đông và tiến lên đánh phá các làng xã của Đại Việt
tại châu Lâm Bình và Minh Linh. Năm 1167, Lý Anh Tôn sai Tô Hiến Thành mang
quân đánh Champa. Jaya Indravarman IV vội cử người sang cống nạp, Tô Hiến Thành
lui quân về nước. Quà cáp thường là chiến lợi phẩm cướp từ các tàu buôn Ả Rập.
Chính vì những hành vi cướp bóc tàu thuyền này mà nhà Tống từ chối không phong
vương cho Jaya Indravarman IV, mặc dầu đã cử nhiều phái đoàn sang Trung Hoa
triều cống.
Jaya Indravarman IV (1151-1205), còn gọi là Po Klong Girai, Po Klong Garai hay
Po Klău Girai, là người có công xây đập Chaklin (Nha Trinh) và hai mương dẫn
nước (mương Cái và mương Đực) tại Phan Rang để canh tác nông nghiệp. Theo
truyền thuyết, Po Klong Garai - còn gọi là Vua Lác, con của nữ thần Po Sah Ino
- lúc mới sinh ra đã mắc bệnh cùi, may nhờ có rắn naga liếm nên lành bệnh. Tuy
mang bệnh cùi từ lúc còn trẻ nhưng nhà vua đã tỏ ra đắc lực trong việc chiến
chinh. Khi băng hà, nhà vua dân được chúng thờ trong tháp Po Klong Garai (tháp
Chàm Phan Rang, phường Lưu Vinh, thị xã Tháp Chàm).
Jaya Indravarman IV quyết chí phục thù đế quốc Angkor về việc xâm chiếm và đô
hộ Champa. Quân lực Champa dưới thời Jaya Indravarman IV rất giỏi về tượng binh
và thủy chiến. Năm 1170, sau khi điều đình với Đại Việt giữ thế trung lập (bằng
phẩm vật triều cống), Jaya Indravarman IV mang đoàn tượng binh tấn công Chân
Lạp, lúc đó do vua Dharanindravarman II cai trị. Cuộc chiến kéo dài một năm,
bất phân thắng bại (quân Khmer cũng dùng tượng binh đối chọi), sau cùng quân
Champa phải rút về nước vì hết lương thực.
Năm 1171, một quan nhân gốc Hoa (không rõ tên) - quê ở Ki Yang Kiun, Quí Châu,
thuộc đảo Hải Nàm, bị chìm tàu trôi giạt vào bờ biển Champa - được dân chúng
dẫn đến trình diện Jaya Indravarman IV. Người này chỉ cho vua Champa cách cưỡi
ngựa xung trận thay vì dùng voi như trước, điều này làm nhà vua rất thích thú
vì hiệu quả thần tốc và gọn nhẹ của nó. Sau khi nắm vững được thuật cỡi ngựa,
Jaya Indravarman IV cử một đoàn người sang Cửu Châu, đảo Hải Nàm, mua hết ngựa
chiến nhưng bị vua Tống không cho bán (vì những hành vi hải tặc trước đó). Đoàn
thương buôn Chăm nổi giận bắt người, đốt những trại nuôi ngựa không chịu bán.
Dân Hải Nàm quá lo sợ phải bán cho họ một số ngựa mới được yên, nhưng không đủ
để thành lập một đội kỵ binh. Năm 1172, Jaya Indravarman IV cử một đoàn người
khác sang Trung Hoa triều cống, trả về những thường dân bị bắt và yêu cầu xin
được mua ngựa, vua Tống vẫn từ chối.
Không mua được ngựa, Jaya Indravarman IV tấn công Chân Lạp bằng đường thủy (năm
1176). Nhà vua cho đóng thêm nhiều tàu chiến, tập dượt thủy binh. Năm 1177,
Jaya Indravarman IV đi thuyền từ cửa sông Cửu Long vào chiếm Vrah Nagar (Prah
Nokor, ngày nay là Sài Gòn). Quân Chiêm tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và bắt
theo nhiều tù binh Khmer về nước. Những tù binh này lúc đầu có bị bạc đãi,
nhưng về sau được đối xử tử tế để trở thành dân Champa và hội nhập hoàn toàn
vào xã hội dân Champa.
Trong số tù binh này có một vương tôn Khmer, sau này là Jayavarman VII. Lúc còn
ở Champa, Jayavarman VII học được cách tổ chức xã hội, cách huấn luyện binh sĩ
thủy bộ và còn kết thân được với nhiều hoàng thân của xứ này. Ông được thả về
nước năm 1186 để kế nghiệp anh là vua Yasovarman II, bị soán ngôi.
Về lại Chân Lạp, Jayavarman VII kết nghĩa với một vương tôn Champa tên Sri
Vidyanandana, quê ở Tumpraukvijaya (một làng ở Bình Định), đến Chân Lạp lập
nghiệp từ 1182. Sau khi dẹp được loạn ở Malyan (hay Mou Leang, một làng ở vùng
phía Đông Chân Lạp), hoàng thân Sri Vidyanandana được Jayavarman VII phong một
tước hoàng tộc Khmer là Yuvaraja. Năm 1190, Jayavarman VII sai Vidyanandana đi
đánh Champa, ông chiếm được Vijaya, bắt sống Jaya Indravarman IV mang về Chân
Lạp. Hoàng tử In (anh em cột chèo với Jayavarman VII) được phong làm tiểu vương
xứ Nagara Vijaya (Bắc Champa), hiệu Surya Jayavarman (hay Surya Jayavarmadeva),
hoàng thân Vidyanandana được phong làm tiểu vương xứ Rajapura (Nam Champa),
hiệu Suryavarman (còn gọi là Suryavarmadeva hay Bố Trì), cả hai đều đạt dưới sự
lãnh đạo của Jayavarman VII. Vương quốc Champa trở thành một thuộc địa của Chân
Lạp. Panduranga và Vijaya là hai tỉnh của đế quốc Angkor. Người Thượng trên Tây
Nguyên không công nhận vương quyền mới này đã cùng một số vương tôn Champa khác
tổ chức đánh phá Amavarati, Vijaya và Panduranga.
Năm 1191 tại Vijaya, Surya Jayavarman (hoàng tử In) bị Rasupati, một hoàng thân
Champa, đánh bại phải chạy về lại Chân Lạp. Rasupati tự xưng là vua xứ Vijaya,
hiệu Jaya Indravarman V. Không nhìn nhận vương quyền mới này, Jayavarman VII
cho Jaya Indravarman IV (cựu vương Champa và cũng là thân phụ của hoàng tử In)
về Bắc Champa chiếm lại ngôi báu. Jaya Indravarman IV được Suryavarman (hoàng
thân Sri Vidyananda) tiếp sức mới chiếm được Vijaya, Rasupati (Jaya Indravarman
V) bị xử trảm. Thay vì giao thành lại cho vua Champa cũ, Suryavarman chiếm luôn
Vijaya ; Jaya Indravarman IV liền kêu gọi dân chúng tại Amavarati và các làng
Ulik, Vyar, Jriy, Traik chống lại. Năm 1192, Jaya Indravarman IV bị tử trận tại
Traik. Suryavarman thống nhất lại đất nước, lên ngôi vua và tìm cách tách khỏi
ảnh hưởng của đế quốc Angkor.
Hay tin hoàng thân Suryavarman làm phản, Jayavarman VII cử đại quân, trong số
này có cả người Thượng (do tướng Jai Ramya cầm đầu), sang đánh Champa. Cuộc
chiến kéo dài từ 1193 đến 1194, đại quân Khmer bị đánh bại. Thay vì theo quân
Khmer về nước, một người Djarai tên Sri Agara chiếm một vùng đất lớn từ
Amavarati đến Pidhyan (Phú Giang, bắc Phú Yên) rồi tự xưng vương năm 1193, hiệu
Patau Ajna Po Ku.
Tuy đẩy lui được quân Khmer, Suryavarman vẫn lo sợ. Năm 1194, ông dời cư lên
Amaravati (Quảng Nam) tránh nạn và giao hảo tốt với Đại Việt năm 1198, bằng
cách triều cống hằng năm, và được vua Lý Cao Tông (Long Cán) phong vương năm
1199. Đất nước được thái bình trong vài năm thì Suryavarman bị chú là Yuvaraja
on Dhanapati Grama (Bố Do) soán ngôi năm 1203. Dhanapati Grama đưa quân Khmer
vào chiếm Amaravati, Suryavarman dẫn một hải đội hơn 200 chiến thuyền chạy vào
cửa Cửu La (Nghệ An) xin tị nạn.Tại đây, vị hoàng thân Champa (người Việt gọi
là Bố Trì) bị Dĩ Mông và Phạm Giêng, hai quan trấn thủ Nghệ An.nghi ngờ Suryavarman
rất buồn lòng, dùng mưu đốt thuyền của Phạm Giêng và giăng buồm ra khơi mất
tích.
Dhanapati được lệnh vua Khmer đánh dẹp các cuộc nổi loạn tại Champa, đặc biệt
là trên cao nguyên. Patau Ajna Po Ku bị bắt sống đem về Chân Lạp trị tội.
Dhanapati được phong toàn quyền cai trị xứ Champa. Champa trở thành một tỉnh
của đế quốc Angkor lần thứ hai. Dhanapati được con trưởng của Jaya Harivarman
II (1162-1167), sinh sống tại Chân Lạp, tên Ansaraja Turaivijaya phụ lực cai
trị Champa. Turaivijaya cai quản đất Amavarati, tổ chức nhiều cuộc tấn công vào
lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) trong những năm 1207, 1216 và 1218 ; tất cả đều bị
quan trấn thủ Nghệ An Lý Bất Nhiêm đẩy lui. Champa bị đế quốc Angkor tái đô hộ
trong suốt 17 năm (1203-1220). Năm 1220 bị quân Xiêm La làm áp lực tại chính
quốc, quân Khmer rút khỏi Champa. Trong gần 100 năm chống chọi và bị Angkor đô
hộ, Champa bị kiệt quệ.
Quân Chân Lạp vừa rút khỏi Champa, hoàng tử Ansaraja Turaivijaya (tên Khmer là
Sri Ajirang) được hoàng tộc Champa tôn lên làm vua, hiệu Jaya Paramesvaravarman
II, đóng đô tại Viyaja. Vừa lên ngôi, tân vương cho xây lại những tượng đài bị
đập phá tại tháp Sri Sanabhadresvara (Mỹ Sơn) và Po Nagar (Nha Trang), xây thêm
các đập nước, mở rộng diện tích dinh điền, đất nước phồn thịnh trở lại ; nhiều
bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên về thần phục. Năm 1230, hoàng tử Abhimanyuvarman,
một vương tôn tỉnh Pankaja người Cathei, được Jaya Paramesvaravarman II cử làm
thống lãnh đất Panduranga. Những tiểu vương kế nghiệp ông được biết đến sau này
tại Panduranga là Po Unvavah, Po Binasur, Po Putrik v.v... (Tên những vương tôn
Champa tại miền Nam Champa, hay tại Panduranga sau này, đều kèm theo chữ Po
(Pô, Pu, Pou hay Poh), có nghĩa là Ông, Ngài hay Vua). Năm 1244, vua Champa tổ
chức nhiều đợt tấn công vào duyên hải Nghệ An và Thanh Hóa, chiếm đóng Bố
Chính, Địa Lý và Ma Linh.
Tại Đại Việt, sau khi ổn định triều chính, năm 1252 Trần Thái Tôn dẫn đại quân
đi đánh Champa. Cuộc tiến công kéo dài gần một năm, thành Vijaya thắt thủ,
vương phi Bố Gia La cùng nhiều cung phi, tù binh và quan chức triều đình Champa
bị bắt mang về Đại Việt. Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận năm 1254, em là
hoàng tử Sakan Vijaya lên thay, hiệu Jaya Indravarman VI. Jaya Indravarman VI
duy trì giao hảo với Đại Việt, triều cống đều đặn. Năm 1257, nhà Trần rút quân
về nước, lúc đó đang bị quân Nguyên (Mông Cổ) đe dọa.
Năm 1257, Jaya Indravarman VI bị ám sát, hoàng tử Pulyan Sri Yuvaraja, con
người chị (công chúa Suryadevi) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman VI. Năm 1266,
hoàng tử Chay Nuk, con Jaya Paramesvaravarman II, lên kế vị, hiệu Indravarman
V. Indravarman V tiếp tục giao hảo tốt với Đại Việt. Năm 1278, Indravarman V
sai hai sứ giả (Bồ Tinh và Bồ Đột) sang Đại Việt xin bảo hộ và thành lập một
liên minh chống lại quân Mông Cổ.
Hay tin này, năm 1281, vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) cử hữu thống chế Toa Đô
(Sogatu) và tả thống chế Lưu Thâm cùng tham chính A Lý và Ô Mã Nhi mang 10 vạn
thủy binh từ Quảng Châu sang Chiêm Thành buộc Indravarman V phải đích thân về
Trung Nguyên triều cống. Không chống nổi quân Mông Cổ, Indravarman V chịu đặt
Champa dưới sự bảo hộ của nhà Nguyên năm 1282. Toa Đô được nhà Nguyên phong làm
thống đốc toàn quyền cai trị xứ Champa, tiểu vương Champa nào chịu theo quân
Nguyên đều được phong làm phó vương.
Hoàng tử Harijit Po Devada Svor (hay Po Depitathor), con Indravarman V, cùng mẹ
là hoàng hậu Gaurendraksmi, không chấp nhận sự đô hộ của Mông Cổ rút vào rừng,
tổ chức kháng chiến. Harijit mộ được khoảng 20.000 người, gồm đủ mọi các sắc
tộc Thượng sinh sống trên cao nguyên Ya Heou, phía tây bắc Champa, tấn công
quân Nguyên trên khắp lãnh thổ Bắc Champa. Năm 1283, Toa Đô dẫn đầu một đoàn
quân gồm 5.000 người, 100 tàu và 250 thuyền đi dọc theo bờ biển và các con sông
lớn đổ bộ lên Tây Nguyên nhưng bị đánh bại. Quân Mông Cổ - một phần bị bệnh
tật, không chịu đựng nổi khí hậu nóng nực của miền nhiệt đới, một phần vì đói
kém, thiếu tiếp liệu từ lục địa - phải rút về trấn giữ đồng bằng.
Tháng 4-1285, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi mang hải đội từ Champa, trong đó có đội thủy
binh người Chăm, tiến lên ra Bắc hợp với Thoát Hoan vây thành Thăng Long, kinh
đô của Đại Việt. Quân của Thoát Hoan bị quân Trần đánh bại phải rút về nội địa,
quân của Toa Đô bị đánh tan tại Nghệ An. Toa Đô bị chết tại trận, quân Trần bắt
được rất nhiều tù binh Mông Cổ và Chăm, trong đó có hai tướng Chăm tên Lậu Khê
và Na Liên, bị trả về cho vua Champa xử tội. Những binh lính Chăm khác theo
Mông Cổ, không dám về lại quê cũ, theo quân Nguyên về Hoa lục và được cho định
cư trên đảo Hải Nàm, bờ biển nam Quảng Châu, nơi đã có nhiều người Chăm khác
đến lập nghiệp từ năm 992 dưới thời Lưu Kỳ Tông. Những binh lính Chăm này, đa
số theo đạo Hồi, đã lập gia đình với người địa phương và ở lại lập nghiệp. Đây
là đợt di dân thứ hai của người Champa ra hải ngoại.
Năm 1288 Indravarman V mất, hoàng tử Harijit lên ngôi, hiệu Jaya Sinhavarman
III (Chế Mân), đặt kinh đô tại Vijaya. Mặc dù không triều cống nhà Trần, bang
giao giữa Đại Việt và Champa rất là thắm thiết. Chỉ một thời gian ngắn sau
Champa hùng mạnh trở lại, các vương quốc lân bang, trong có Đại Việt cử người
sang thông hiếu đều đặn. Nhiều đền đài được xây cất cả tại đồng bằng lẫn trên
cao nguyên. Chế Mân cho xây một tháp trên đồi Chok Hala, gọi là đồi Trầu, để
dân chúng đến tế lễ, sau này là tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm Phan Rang).
Năm 1292 và 1293, trên đường tiến đánh Java (Indonesia) và Madjapahit (Mã Lai)
quân Mông Cổ xin vào bờ mua tiếp liệu nhưng bị Chế Mân từ chối, phải giương
buồm đi tiếp. Cũng nên biết Chế Mân có rất nhiều quan hệ tình cảm với các tiểu
vương Nam Đảo. Vợ cả của Chế Mân là vương phi Bhaskaradevi, con một đại vương
Java ; thứ phi là hoàng hậu Tapasi, con gái một tiểu vương Yavadvipa (Mã Lai).
Lãnh thổ Champa trong thời kỳ này được nới rộng lên cao nguyên Darlac và
Langbian, Chế Mân cho xây một đền thờ tại Yang Prong (An Khê) để đón nhận phẩm
vật triều cống của những bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên.
Năm 1301, cựu hoàng Đại Việt là Trần Nhân Tôn, sau khi nhường ngôi cho con là
Trần Anh Tôn, đi thăm các nước láng giềng. Khi thăm Champa, Trần Nhân Tôn được
Chế Mân tiếp đãi nồng hậu và đã ở lại đây 9 tháng. Để tạ ơn, khi ra về cựu
vương hứa gả công chúa Huyền Trân (em gái Trần Anh Tôn) cho Chế Mân. Cuối năm
1301, Chế Mân sai Chế Bồ Đày mang lễ vật sang cưới Huyền Trân. Triều đình nhà
Trần có nhiều người không thuận, cuộc thương thảo kéo dài từ 1302 đến 1305 ;
sau cùng, mùa hè năm 1306, Chế Mân thuận tặng cho nhà Trần hai châu Ô và châu
Rí (châu Lý), phía bắc đèo Hải Vân, để làm quà cưới, nhà Trần mới chịu và sai
Đoàn Nhữ Hài đưa Huyền Trân về Champa. Tại đây, Huyền Trân được Chế Mân đặt tên
là hoàng hậu Paramesvari.
Châu Ô và châu Rí là đề tài tranh chấp giữa Đại Việt và Champa trong thời gian
sau đó. Năm 1307, Trần Anh Tôn đặt tên lại hai châu mới này thành Thuận châu
(Quảng Trị) và Hóa châu (Thừa Thiên và một phần Quảng Nam ngày nay), rồi giao
cho Đoàn Nhữ Hài cai quản. Châu Thuận gồm các huyện Đăng Xương (nay là Triệu
Phong), Hải Lăng, Phong Điền , Quảng Điền và Hương Trà. Châu Hóa gồm các huyện
Phú Vang, Phú Lộc, Diên Phước và Hòa Vang. Người Chăm sống trong các làng La
thỉ, Tác Hồng và Đà Bồng nổi lên chống sự cai trị của người Việt. Để trấn an
dân Chăm, Đoàn Nhữ Hài chấp nhận để người Chăm chịu sự quản trị trưc tiếp của
các nhân sĩ Chăm địa phương và cho miễn thuế ba năm.
Về chủ quyền, nông dân Việt đã đến lập nghiệp và khai phá hai châu này từ lâu,
nhất là trong thời gian có chiến tranh với Mông Cổ. Thật ra sự sát nhập này,
trên bình diện nào đó, chỉ là sự hợp thức hóa một sự kiện đã rồi, vì quan hệ
cộng sinh giữa hai chủng tộc đã diễn ra từ lâu đời. Những cuộc hôn nhân dị
chủng chắc chắn không phải là những trường hợp ngoại lệ, với thời gian dân cư
Việt có lẽ đã đông hơn dân cư Chăm tại đây.
Sau 5 năm thương lượng gay go giữa
hai triều đình về của hồi môn, năm 1306 vua Trần Anh Tôn chấp thuận gả công
chúa Huyền Trân cho Chế Mân, bù lại lãnh thổ bắc Champa (Indrapura) : châu Ô và
châu Lý thuộc nhà Trần. Cuộc hôn nhân dị chủng này đã trở thành tranh chấp giữa
hai dân tộc và hai triều đình suốt thời gian sau đó. Cho đến nay chưa một tài
liệu nào giải thích về trường hợp công chúa Huyền Trân một cách rõ ràng và có
tính thuyết phục. Người Champa tố cáo nhà Trần lợi dụng cuộc hôn nhân này để
chiếm đoạt đất đai của họ. Thơ văn Việt Nam bênh vực Huyền Trân như là nạn nhân
của một vụ đổi chác chính trị và đả kích Chế Mân (với những lời lẽ khiếm nhã)
dám sánh ngang hàng với người Việt…
Những lý luận vừa kể chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về phong tục tập quán của
người Chăm. Khi cựu vương Trần Nhân Tôn hứa gả Huyền Trân cho Chế Mân, ông muốn
thành lập một liên minh quân sự chống lại quân Mông Cổ khi bị tấn công. Nhưng
chiến lược này đã không được quần thần chấp nhận vì không muốn một sự pha chủng
nào trong quan hệ hoàng gia.
Có lẽ bà hoàng hậu thứ ba này của Chế Mân đã rất được sủng ái nên sử tích Chăm
kể rằng Huyền Trân được nhà vua đưa đi thăm viếng những danh lam thắng cảnh của
Champa. Các suối nước nóng dọc bờ biển miền Trung được dành riêng cho bà tắm
rửa, kể cả suối Vĩnh Hảo (huyện Tuy Phong, Phan Thiết), để hạnh phúc của vua và
hoàng hậu được bền lâu. Nhưng hạnh phúc đã không dài lâu. Hơn một năm sau,
tháng 5-1307 Chế Mân từ trần. Hung tin đến tai nhà Trần bốn tháng sau đó, tháng
9-1307. Lo sợ em gái mình bị hỏa thiêu??? Trần Nhân Tôn sai quan nhập nội hành
khiển thượng thư tả bộc sạ Trần Khắc Chung và quan an phủ sứ Đặng Văn sang
Champa phúng điếu rồi tìm kế đưa Huyền Trân về.
Việc hỏa thiêu vợ khi vua băng hà là hoàn toàn bịa đặt. Nếu Huyền Trân bị triều
đình Champa bắt chết theo Chế Mân thì bà đã bị hỏa thiêu từ lâu rồi, vì theo
tục lệ của người theo đạo Hồi hay Bà La Môn xác người chết chỉ giữ tối đa là 7
ngày sau đó phải đem hỏa thiêu.
Thật ra trong vụ này triều đình Champa đã quyết định trả Huyền Trân về lại cho
nhà Trần để đòi lại hai châu Ô và Rí nên đã tiếp đón phái đoàn Trần Khắc Chung
một cách ân cần và cấp hơn 300 thủy binh hộ tống. Sự từ khước kết nghĩa suôi
gia này có một ý nghĩa đặc biệt, nó thể hiện sự từ chối hợp tác giữa hai nền
văn minh và văn hóa khác nhau, một bên là văn minh văn hóa Khổng Mạnh và một
bên là văn minh văn hóa Ấn Độ. Cả hai vương triều gần như chấp nhận sự khác
biệt đó và không muốn có một sự hòa hợp nào.
Còn chuyện hỏa thiêu có lẽ đã do Trần Khắc Chung thêu dệt ra để được Trần Anh
Tôn cử sang Champa đón Huyền Trân về nước. Sau khi gặp lại người yêu, thay vì
căng buồm về Bắc ông dẫn Huyền Trân ra một hoang đảo tư thông với nhau trong
suốt một năm liền, đến mùa thu năm 1308 mới lên thuyền về lại Thăng Long. Đoàn
thủy binh Chăm lúc đó mới được giao trả cho Champa để báo cáo sự việc.
Cũng nên biết, nhà Trần áp dụng chế độ nội hôn để bảo vệ quyền lợi hoàng tộc.
Việc Trần Khắc Chung tư thông với Huyền Trân được coi là bình thường. Nhưng
triều đình Champa không chấp nhận và rất căm hận về chuyện này, vì Huyền Trân
là hoàng hậu Champa bị một quan Việt thông dâm xúc phạm đến danh dự hoàng triều
và tín ngưỡng quốc gia. Có lẽ cũng chính vì thế mà Hưng Nhượng đại vương Trần
Quốc Tảng (con Trần Hưng Đạo) mắng "họ tên người này không tốt, có lẽ nhà
Trần mất vì người này chăng?", vì Khắc là thắng, Chung là tàn (thắng xong
thì tàn lụi theo). Cuộc tình sử tay ba này ít được người đời nhắc tới mà chỉ
nói về cuộc hôn nhân dị chủng mà thôi.
Về phía Champa, đền thờ Chế Mân được lập tại Tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm,
Phan Rang) và tại Yan Prong (An Khê, Đắc Lắc) cạnh núi Se San. Dân chúng thờ
ông dưới tên Sri Jaya Sinhavarma Lingesvara.
Hoàng tử Po Sah - 23 tuổi, con của chánh hậu Bhaskaradevi (người Java), tước
Pulyan Mahendravarman tiểu vương lãnh địa từ sông Vok (sông Bung) đến bắc Bình
Định (Bhumana) - lên thay năm 1307, hiệu Jaya Sinhavarman IV (còn gọi là Chế
Chí hay Chế Dà La). Việc đầu tiên của tân vương là xúi giục dân Chăm tại Thuận
châu và Hóa châu nổi loạn.
Năm 1311, Trần Anh Tôn tấn công Champa, bắt Chế Chí về giam tại cung Gia Lâm
(và mất năm 1313), đưa em trai của Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm lên thay, hiệu
Chế Năng. Năm 1314 Chế Năng kéo quân ra Bắc chiếm lại châu Ô và châu Rí và chỉ
bị đẩy lui năm năm sau đó. Năm 1318, quân Trần tiến xuống Đồ Bàn, Chế Năng cùng
hoàng gia chạy sang Java lánh nạn, triều đình Chiêm Thành bị bỏ trống. Đây là
đợt di dân thứ ba của người Chăm ra hải ngoại. Chế Năng là con thứ hậu Tapasi,
người Yavadvipa.
Triều vương thứ mười hai (1318-1390) :
Năm 1318, nhà Trần phong một tướng Champa tên Thủ (Patalthor) lên ngôi, hiệu
Chế A Năng (hay Thành A vương, tương đương với tước phó vương của Đại Việt). Vì
không thuộc dòng dõi bộ tộc Cau và Dừa, Chế A Năng liên tục bị triều thần chống
đối từ 1323 đến 1326. Để có sự chính thống, năm 1323 Chế A Năng cử em trai là
Pao Yeou Patseutcho đi sứ sang Trung Hoa xin nhà Nguyên công nhận. Hay tin này,
năm 1326 nhà Trần mang quân sang đánh nhưng bị đẩy lùi.
Năm 1342 khi Chế a năng mất,con rể Tra hoa bo de ( Trà hoa bồ đề)lên ngôi. Ông
thuộc vương triều thứ 12,Triều đại thứ 9,đóng đô ở thành Vijaya(Đồ bàn,bình
định),giai đoan cực thịnh của vương quốc Champa.Có nhiều sử sách đại việt viết
rằng ông cướp ngôi Chế mỗ ( hoàng tử), nhưng thực ra ông lên ngôi vì quyết định
của vua cha Chế a Năng và hội đồng hoàng gia champa.Vì Chế mỗ nhu nhược và ăn
chơi sa đọa.Ông lên ngôi để đãm trách một sứ mệnh lịch sử mà champa giao cho
ông.Vương quốc ông trị vì trải dài từ dãy hoàng liên sơn phía bắc ,nam giáp đến
Đồng nai ngày nay.Đông giáp biển champa(biển đông), tây giáp tây lào.Kinh tế
phát triển mạnh mẽ dựa vào nguồn đánh bắt thủy sản đồi mồi, ngọc trai, yến sào
,ngà voi,trầm hương..,nền nông nghiệp trồng lúa nước nổi tiếng đông nam á,sản
suất gốm sứ sa huỳnh,điêu khắc,dệt thổ cẫm,công nghiệp sx đồng, đồng thau phát
triển rực rỡ,đội tàu thuyền hùng mạnh cung cấp hàng hóa cho một vùng rông lớn
Đông á và tây á. Quảng lí một vùng biển champa rộng lớn(biển đông)gần
3.500.000km2 .Trong khoảng thời điểm đó, Người Champa rất nổi tiếng trong việc
buôn bán các loại gia vị , hồ tiêu và tơ lụa với các nước như Trung Quốc, Ấn
độ,Nusantara ( Indonesia, Malaysia, brunei…ngày nay) và nước Abbasiah ở Baghdad
.Vào khoảng thời gian này, người Champa được biết đến với tài đi biển rất giỏi
và những thương nhân tài ba.Quân đội gồm những đội tượng binh hằng ngàn voi
chiến,đội thuyền chiến hùng hậu,đẩy lui các cuộc xâm lược ngoại bang khmer và
đại việt trong thời gian trị vì,bảo vệ đất nước.Năm 1360, Trà Hoa Bồ Đề qua
đời, em Chế A Năng là Po Binasor (Po Bhinethuor) được triều thần tôn lên làm
vua, hiệu Chế Bồng Nga (Che Bonguar). Chế Bồng Nga là một vị tướng tài, chỉ huy
nhiều trận đánh vào lãnh thổ Đại Việt. Vừa lên ngôi, ông liền tổ chức lại quân
đội, chuẩn bị chiến tranh với nhà Trần nhằm chiếm lại những phần lãnh thổ bị
mất. Những tù trưởng và bộ lạc trên Tây Nguyên theo Chế Bồng Nga rất đông.
Từ 1360 đến 1370, quân Champa ra vào lãnh thổ Đại Việt như chốn không người.
Dân cư Đại Việt lập nghiệp dọc các vùng bờ biển Bố Chánh, Tân Bình, Thuận Hóa
(Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên) sinh sống rất khổ sở trước nạn
binh đao. Từ 1371 đến 1383, quân Champa đã ba lần chiếm đóng Thăng Long và năm
1390 lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư thì Chế Bồng Nga bị tử trận, chấm
dứt một trang sử anh hùng.
Nét đặc biệt của Chế Bồng Nga là mỗi lần đánh phá xong, ông cho rút quân về bên
kia đèo Hải Vân chứ không cho người ở lại quản trị trực tiếp những vùng đất vừa
bị chiếm như những vua trước, vì người Champa tin rằng trấn đóng những vùng đất
lạ sẽ mang tai họa và cũng không muốn bị hao tổn lực lượng bởi những hành động
kháng chiến. Tuy vậy vẫn có thể nói trong vòng 30 năm, Chế Bồng Nga đã khôi
phục lại những vùng đã mất từ hơn 300 năm trước đó (Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh
bị mất năm 1069, châu Ô, châu Rí năm 1306).
Chế Bồng Nga chết, quân Champa như rắn không đầu liền bị rối loạn, quân Trần
sát hại rất nhiều. Các vùng đất dưới ảnh hưởng Champa đều được thu hồi. Lê Quí
Ly (tức Hồ Quí Ly sau này) kinh lý các vùng đất Hóa châu và Thuận châu, tổ chức
lại việc phòng thủ và cho xây dựng lại những nơi bị tàn phá. Phan Mãnh được bổ
nhiệm cai trị hai xứ Tân Bình (Quảng Bình) và Thuận Hóa (Quảng Trị và Thừa
Thiên). Nhà Trần đưa dân chúng từ các vùng trung du, vùng đồng bằng sông Hồng
và sông Mã vào định cư tại Tân Bình và Thuận Hóa.
Triều vương thứ mười ba (1390-1458) :
Bị đánh bại năm 1390, tướng La Khải (Ko Cheng) chiếm được xác Chế Bồng Nga mang
đi hỏa táng, rồi thu quân về nước. Về Đồ Bàn, La Khải liền xưng vương và chịu
triều cống nhà Trần trở lại. Năm 1391, La Khải xin nhà Minh thừa nhận nhưng đến
năm 1413 con của ông là Ba Đích Lại mới được nhà Minh tấn phong.
Chính sách cai trị khắt khe của La Khải gây bất mãn trong nước. Vây cánh của
Chế Bồng Nga đều bị La Khải thay bằng những tướng sĩ thân tín, con trai của Chế
Bồng Nga tên Chế Ma Nô Dã Na cùng em là Chế San Nô sợ bị ám hại đã chạy qua Đại
Việt xin tị nạn. Cả hai được nhà Trần phong tước Hiệu chính hầu. Năm 1397, một
hoàng thân tên Chế Đà Biệt, em là Mộ Hoa, con là Gia Diếp cùng toàn thể gia
quyến sang Đại Việt tị nạn. Chế Đà Biệt được Lê Quí Ly giao trọng trách bảo vệ
biên giới phía nam của Đại Việt đề phòng những cuộc tấn công mới của quân
Champa. Năm 1400, La Khải mất, con là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) lên
ngôi.
Tại Đại Việt, năm 1400 Lê Quí Ly lên ngôi vua, đổi thành họ Hồ. Cũng nên biết,
lúc nhà Trần suy yếu vai trò của Lê Quí Ly trở nên nổi bật và trực tiếp điều
khiển triều đình từ 1372. Vì thiếu sự chính thống, Hồ Quí Ly thường ra oai bằng
cách tấn công Champa và các lãnh thổ Chiêm Động (nay là Thăng Bình, Quảng Nam,
hay bắc Amavarati), Cổ Lũy (nay là Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch
(nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định) và Sa Lý Nha (tức Sa Huỳnh) lần lượt bị sát
nhập từ 1400 đến 1403. Vựa lúa lớn nhất Bắc Champa bị mất hẳn, toàn bộ đất đai
tại Indrapura và Amaravati (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và
Quảng Ngãi) cũng không còn. Những vùng đất mới được phân thành châu Thăng, châu
Hoa, châu Tư và châu Nghĩa ; bốn châu mới này họp lại thành lộ Thăng Hoa do một
quan an phủ sứ cai trị, chỗ giáp giới đặt thành trấn Tân Ninh. Chế Ma Nô Dã Na
(con Chế Bồng Nga), lúc đầu làm Thăng Hoa quận vương để chiêu dụ dân chúng
Chăm, sau được phong Cổ Lũy thượng hầu giữ hai châu Tư và Nghĩa. Quí Ly đưa
những nông dân cùng gia đình không có đất cày từ những châu khác ở phía bắc vào
khai phá đất mới. Người Champa không chấp nhận sống dưới sự cai trị của người
Việt bỏ đi lên núi hoặc về Vijaya (Đồ Bàn) lập nghiệp.
Năm 1403, Ba Đích Lại yêu cầu nhà Minh can thiệp để đòi lại Indrapura và
Amavarati, nhưng bị nhà Hồ từ chối. Chỉ khi nhà Hồ bị dẹp và nước Đại Ngu bị
nhà Minh đô hộ, từ 1407 đến 1427, Champa mới phục hồi lại sức mạnh quân sự và
những vùng đất đã mất dưới tay nhà Hồ đều lấy lại được.
Năm 1407, hoàng tử Ngauk Glaun Vijaya (con Ba Đích Lại) cất quân đánh Đại Việt,
giết quan trấn thủ lộ Thăng Hoa là Chế Ma Nô Dã Na (con của Chế Bồng Nga). Ba
Đích Lại được nhà Minh phong vương năm 1413. Mặc dù vậy, dân chúng Champa không
muốn di dân lên những vùng đất vừa chiếm lại lập nghiệp, chỉ một số người muốn
trở về để giữ gìn hương hỏa mà thôi. Dẹp yên phía Bắc, Ba Đích Lại mang quân
xuống tấn công vương quốc Chân Lạp phía nam đang suy yếu, vì bị Xiêm La đánh
phá liên tục. Quân Champa chiếm được nhiều vùng đất lớn dọc sông Đồng Nai và
trên đồng bằng sông Cửu Long. Quân Khmer bị đuổi tới thành phố Chantabun, gần
biên giới Xiêm La, vua Chau Ponea Yat phải cầu cứu nhà Minh và quân Minh đã hai
lần tiến vào Champa (1408 và 1414) làm áp lực Champa mới chịu rút quân, Chân
Lạp thoát nạn đô hộ. Mặc dầu vậy, quân Champa cũng chiếm được thị trấn Nagara
Brah Kanda (thị xã Biên Hòa ngày nay).
Năm 1428, Lê Lợi đuổi được quân Minh ra khỏi lãnh thổ và lên ngôi vua, hiệu
Thánh Tổ. Trước thế lực của nhà Lê, Ba Đích Lại trả những vùng đất đã chiếm
dưới thời nhà Minh, đổi thành lộ Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây và đặt quan cai
trị. Việc giao hảo giữa Champa và Đại Việt trở nên tốt đẹp.
Năm 1433 Lê Lợi mất, con là Nguyên Long, 11 tuổi, lên ngôi hiệu Thái Tôn, Ba
Đích Lại liền trở mặt. Năm 1434, ông cho quân sang đánh phá các vùng đất (Hóa châu)
vừa giao trả trước đó, vua Lê phải cử Lê Khôi và Lê Chiếc ra dẹp, vua Champa
mới chịu triều cống trở lại.
Thật ra từ 1390 đến 1433 Champa không có vua, đất nước lâm vào cảnh nội loạn.
Đối với người Champa, La Khải và Ba Đích Lại chỉ là những kẻ soán ngôi. Năm
1433, quần thần Champa đưa công chúa Po Sahnar về miền Nam cai trị
(Panduranga), đóng đô tại Phan Rí, không tuân lệnh Vijaya. Hoàng tử Nauk Glaun
Vijaya thân chinh đi đánh dẹp, gây nhiều thù oán với các dòng vương tôn Champa
phía nam như bắt công chúa Po Sahnar về giam tại Vijaya. Chính vì thế năm 1441
khi Ba Đích Lại qua đời, Nauk Glaun Vijaya không được triều thần cho nối ngôi
mà đưa người cháu của cố vương là Maha Kilai (Mã Kha Qui Lai) lên thay. Chú của
tân vương là Po Parichanh tự đứng ra nhiếp chính, rồi tự xưng vương năm 1442,
hiệu Bí Cai (Maha Vijaya) và được nhà Minh công nhận.
Vừa lên ngôi, Bí Cai liền mang quân tấn công nhà Lê và bị đánh bại. Vua Lê Nhân
Tôn tiến chiếm Phật Thành (còn gọi là Đồ Bàn, Chà Bàn, Vijaya) bắt được nhiều
vương tôn Champa, trong đó có công chúa Po Sahnar, rồi rút về. Ba Đích Lại cùng
hoàng gia phải chạy lên núi trốn trong những buôn làng của người tây nguyên như
Trà Toàn (Po Ka Prah), Trà Toại (Po Ka Prih). Kinh đô Phật Thành (Vijaya) bị
nhà Lê đổi thành Đồ Bàn.
Trong hai năm 1444 và 1445, Bí Cái nhiều lần dẫn quân tiến vào Hóa châu nhưng
đều bị đẩy lùi. Năm 1446, được Maha Quí Lai hướng dẫn, quân Lê chiếm thành Đồ
Bàn, bắt sống Bí Cai và tất cả phi tần đem về Thăng Long. Maha Quí Lai được nhà
Lê tôn lên làm vua Champa và chịu triều cống, quan hệ giữa hai nước tốt đẹp trở
lại. Năm 1448, Lê Nhân Tôn đánh dẹp các lực lượng Thượng do những hoàng tôn
Champa lãnh đạo, chiếm xứ Bồn Man (Djarai-Kontum) và đặt thành châu Quy Hợp rồi
giao cho một vương tôn Champa thần phục nhà Lê cai quản.
Năm 1449 Maha Quí Lai bị người em tên Bí Do (Maha Kido) bắt giam rồi xưng
vương. Bí Do sai Giao Nể Mỗ và Bàng Thoan sang Đại Việt báo tin, vua Lê không
những không công nhận mà còn khiển trách nặng nề. Sau biến cố này, Bí Do đuổi
70 gia đình Việt định cư tại Champa về nước rồi ngưng luôn việc xin tấn phong.
Năm 1452, Quí Lai mất, Bí Do sai sứ sang Trung Hoa xin nhà Minh công nhận và
được phong vương năm 1457.
Triều vương thứ mười bốn (1458-1471) :
Năm 1458 thái tử Po Tam (Po Dam hay Po Kathit), con Bí Cai, giết Bí Do rồi tự
xưng vương, hiệu Bàn La Trà Nguyệt (Maha Banla Tranguyet). Năm 1460, Trà Nguyệt
nhường ngôi cho em là Po Kaprah, hiệu Bàn La Trà Toàn (Maha Tratoan). Trà Toàn
cử người sang Đại Việt xin tấn phong nhưng bị nhà Lê buộc dâng phẩm vật triều
cống nên Trà Toàn tức giận. Trong hai năm 1468 và 1469, Trà Toàn vừa cho người
sang cầu viện nhà Minh vừa mang đại quân (100.000 người) sang chiếm Hóa châu
(1469-1471).
Tức giận trước sự khiêu khích này, vua Lê Thánh Tôn quyết định phạt Champa một
lần cho đích đáng. Trước khi ra quân, ngày 6-10-1471, nhà vua đọc hịch Bình
Chiêm trước ba quân, lời lẽ rất đanh thép, rồi cho sứ sang Trung Hoa báo cáo sự
xâm phạm lãnh thổ của Champa. Lê Thánh Tôn cất đại quân hơn 250.000 người sang
đánh Champa, trong đó 100.000 đi bằng đường thủy, 150.000 đi bằng đường bộ. Đại
quân nhà Lê chiếm cửa Thị Nại rồi tiến về Đồ Bàn. Trà Toàn sai em là Po Kaprih
dẫn đội tượng binh gồm 5.000 người ra đối chọi nhưng bị đánh bại, Trà Toàn rút
vào cố thủ thành Đồ Bàn.
Thành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua
Champa là Trà Toàn bị bắt sống và tự sát trên đường chở về Thăng Long.(05/03/
Al) Trong cuộc tiếp kiến, Trà Toàn xin vua Lê chỉ làm tội một mình ông và tha
cho con cái gồm 10 người. Trên đường về tới Nghệ An, Trà Toàn tự tử chết. Lê
Thánh Tôn sai cắt đầu Trà Toàn treo ở đầu thuyền và cho khắc chữ "Cổ Chiêm
Thành ngươn ác Trà Toàn chi thủ". Ít nhất hơn 60.000 người Chăm bị giết và
30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn
toàn.Đây là cuộc tàn sát đẫm máu nhất của đại việt với champa. Hoàng tộc champa
chạy sang malacca( khoảng 20.000 trốn thoát bằng thuyền qua cửa đầm thi nại,
trong đó có con vua trà toàn là Indravarman và bàn la trà ko lai(Pau liang).
Sau cuộc chính biến lịch sử này rất nhiều người di cư chính trị Champa đã đến
các vùng đất Mã Lai an bình , một số khác thì tới Melaka . Cũng trong đoàn
người di cư đó là hai hoàng tử con vua Champa Trà Toàn , đó là Indravarman và
Pau Liang như đã nói ở trên. Bằng chứng được tìm thấy chứng minh sự gắn kết
lịch sử giữa Champa và Mã Lai là Al-kisah 29 trong đó đã kể lại câu chuyện về
một người Nakhoda Champa có tên là Sayyid Ahmad đã làm bạn cùng Hang Tuah( một
anh hùng rất nổi tiếng trong lịch sử Mã Lai) và cùng đến Inderapura
(Pahang_Malaysia) để trốn Tun Teja đến Melaka. Sức mạnh Champa được chứng minh
là lớn hơn cả vùng Pahang sau khi được giúp đỡ của người anh hùng Melaka trốn
khỏi Tun Teja. sự có mặt của Nakhoda Champa tại Melaka và Pahang này lại được
chứng minh bằng một cơ sở chắc chắn sau khi tìm được trong Al-kisah ke-34 nói
về cuộc hôn nhân giữa một công chúa thuộc dòng tộc Champa với một quy tộc ở
Melaka.( theo Sejarah Melayu Champa +Ban La Tra Toan
memerintah di ibu kota Sri Vini (Sri Raja Than Ton). Setelah Kota Vijaya jatuh.
Raja Champa pun mati terbunuh. Dengan kejatuhanibu ota Vijaya ini ramai
pelarian politik Cham yang menuju ke daerah Melayu yang selamatk, antara lain
ke Melaka. Yang
termasuk dalam pelarian itu ialah dua orang putera raja Champa, iaitu
Indravarman dan Pau Liang di atas. Gambaran Sejarah Melayu tentang Champa
terdapat dalam Al-Kisah ke29 yang menceritakan seorang Nakhoda Champa yang
bernama Sayyid Ahmad bersahabat dengan Hang Tuah pergi ke Inderapura (Pahang)
untuk melarikan Tun Teja Ke Melaka. Kekuatan Champa berdasarkan fakta jelas
lebih besar daripada perahu Pahang hingga dapat menolong pahlawan Melaka itu
melarikan Tun Teja. Kehadiran tokoh Nakhoda Champa di Melaka dan di Pahang
dapat dihubungkan pula dengan wujudnya pedagang Champa di Banten seperti yang
diceritakan oleh Sejarah Melayu dalam Al-Kisah ke-34 menceritakan perkahwinan
seorang puteri keturunan Champa dengan anak seorang pembesar Melaka.)khoảng
30000 người chạy sang lào và campuchia sau cuộc tàn sát đẫm máu này.Lê Thánh
Tôn giải tán vương quốc Champa. Thủ đô chính trị, hành chánh và tín ngưỡng của
vương quốc Bắc Champa .Vijaya bị đổi thành Đồ Bàn và cấm người Champa đến cư
ngụ.
Em Trà Toàn là Po Kaprih dẫn theo một số tàn quân trốn lên xứ Bồn Man (cao
nguyên Kontum-Darlac), được dân chúng tôn lên làm vua. Po Kaprih xưng hiệu Trà
Toại và cho người sang Trung Hoa cầu cứu nhà Minh, báo cáo tình hình của
Champa. Lê Thánh Tôn sai Lê Niệm mang 30.000 quân lên Tây Nguyên lùng bắt Trà
Toại đem về trị tội.
Nhà Minh không tán thành việc Đại Việt chiếm đóng Champa nhưng không dám can
thiệp trực tiếp, kể cả việc xin phóng thích Trà Toàn và hoàng gia Champa. Năm
1472 nhân vua Lê Thánh Tôn sai sứ sang Trung Hoa báo cáo sự tình, Minh Hiển
Tông trách cứ việc chiếm đế đô Đồ Bàn. Sau đó nhà Minh sai sứ sang phong vương
cho Trà Toại nhưng khi đến cửa Tân Châu (Quảng Nam) quân Lê không cho cập bờ.
Lê Thánh Tôn phản đối việc phong vương này và tuyên bố Champa đã trở thành một
châu của Đại Việt : châu Giao Nam. Nhà Lê phong cháu của Trà Toàn tên Bố Trì
Tri (Thái Da) làm vương đất Giao Nam (còn gọi là Phan Long).
1471-1653: Sự thất thủ Kauthara
Ðại Việt đã quyết định dành cho Po Trì Trì quyền cai trị trên lãnh thổ Champa
còn lại ở miền nam, tức là vùng Kauthara, Panduranga và vùng Cao Nguyên ở phía
tây của Panduranga. Khi đã nhận ân huệ này, Bố Trì Trì cũng tìm cách xin Trung
Quốc chính thức hóa vương chức của mình. Tiếc rằng, ông ta chỉ nhận sự trả lời
của Trung Quốc sau một thời gian ngắn, trước khi ông ta đã từ trần.
Theo sử liệu của trung Quốc , tiếp theo Bố Trí Trì, có hai vị vua kế tiếp nối
ngôi, nhưng sử liệu này không cho biết tên tuổi và năm tháng nhậm chức của họ.
Nếu theo biên niên sử Panduranga, vị vua kế vị Bố Trì Trì có thể là Po Kabih
(1494-1530), Po Karutdrak (1530-1536), Po Maha Sarak (1536-1541), Po Kunarai
(1541-1553),Po At (1553-1579).
Vương quốc ở miền nam dưới quyền cai trị Po tri tri và những ông vua nối tiếp,
vẫn còn mang tên là Champa trong những sử liệu viết bằng tiếng Chăm và Việt.
Nhưng vương quốc Champa này đã bắt đầu lánh xa dần với truyền thống của Champa
theo Ấn Ðộ Giáo ở miền bắc. Mọi cơ cấu tổ chức hành chánh, chính trị và xã hội
của Vương Quốc này đều dựa trên nền tảng cơ bản riêng biệt của tập tục và tín
ngưỡng của địa phương mình .Qua sử liệu còn để lại, nền văn minh của vương quốc
Champa “mới” này chỉ là một sự tổng hợp của ba truyền thống tín ngưỡng khác
biệt, đó là di sản văn hóa cổ truyền địa phương của Panduranga và Kauthara, một
số ảnh hưởng còn dư lại của tín ngưỡng Bà La Môn Giáo, và nhất là từ thế kỷ thứ
17,tín ngưỡng Hồi Giáo du nhập vào ở các hải cảng vùng Panduranga và Kauthara.
Qua ngày từ trần của Lê Thánh Tông
vào năm 1497, Ðại Việt lại rơi vào nội chiến giữa chúa Trịnh cai trị miền bắc
và chúa Nguyễn, tự xưng vương và đặt thủ đô của mình ở gần khu vực Huế bây giờ.
Chính chúa Nguyễn mới là tác giả chính thức của chính sách “Nam Tiến” chủ yếu
để di chuyển tối đa biên giới của mình về miền nam của Champa . Ngược lại, với
những gì mà nhiều nhà nghiên cứu thường nêu ra, cuộc “Nam Tiến” của chúa Nguyễn
đã gặp một sức kháng cự mãnh liệt của các nhà lãnh đạo Champa “mới” này. Ngoài
chính sách đương đầu chống lại “Nam Tiến” của chúa Nguyễn, vương quốc Champa
cũng mấy lần áp dụng chính sách “Bắc Tiến”, thí dụ vào năm 1578, cho tới Phú
Yên để thu hồi lại một thành lũy đã rơi vào tay nhà Nguyễn.
Vào cuối thế kỷ thứ 16, Champa “mới” bao gồm một dải đất chạy dài từ biên giới
Saigon đến đèo Cù Mông (phía nam Bình Ðịnh) vẫn còn đủ điều kiện để nuôi dưỡng
một đoàn quân khá hùng mạnh. Chính vì thế, vào năm 1594, vua Champa, (dường như
đã theo Hồi Giáo), đã gởi một đoàn quân sang giúp vua Johor, một tiểu vương
quốc ở miền nam bán đảo Mã Lai, để chống lại thực dân Bồ Ðào Nha ở Malaka.
Chính nhờ quân lực hùng mạnh này, Po Nit (1603-1613) đã quyết định xuất trận
tiến đánh Quảng Nam, một khu vực hành chánh nằm trong lãnh thổ của nhà Nguyễn.
Trước hành động này, chúa Nguyễn cũng xuất quân để chinh phạt Champa. Thừa cơ
hội chiến thắng, chúa Nguyễn xâm chiếm khu vực Phú Yên và dời biên giới phía
nam của mình đến Cap Varella, ở phía bắc Nha Trang. Sau đó, chúa Nguyễn biến
đổi lãnh thổ này thành Dinh Trấn Biên và đưa hơn ba chục ngàn tù binh của nhà
Trịnh sang khu vực này để phát hoang khai triển kinh tế.
Dẫu thất bại, Champa “mới” vẫn giữ nguyên được truyền thống bất khuất của
Champa, đó là truyền thống đấu tranh để bảo vệ quyền độc lập, và nhất là sự
sống còn của quốc gia này. Chính vì thế, vương quốc Champa không ngần ngại tiến
quân chống lại sự xâm lược của nhà Nguyễn ở Dinh Trấn Biên (Phú Yên) vào năm
1620. Vào khoảng ba chục năm sau, tức là năm 1653, vua Champa là Po Nraop chuẩn
bị lực lượng quân sự của mình để tuyên chiến với chúa Nguyễn, thu phục lại khu
vực Phú Yên bị rơi vào tay của Nguyễn vào năm 1611. Trước tình thế này, chúa
Nguyễn đã gởi một đoàn quân hùng mạnh sang tấn công Champa, tiến đến sông Phan
Rang, bắt được vua Po Nraop và cưỡng bách vua này ngồi trong rọ bằng sắt để đưa
về Huế. Vì không chịu để cho nhà Nguyễn hành xử mình, Po Nraop quyết định tự
hủy thân để nêu cao tinh thần bất khuất của mình. Nhân cơ hội này, chúa Nguyễn
cũng xâm chiếm vùng Nha Trang và dời biên giới của mình đến khu vực Cam-ranh .
Thế là tiểu vương quốc Kauthara lại rơi vào tay nhà Nguyễn vào năm 1653 và khu
vực này bị biến đổi thành Dinh Thái Khang và Diên Khánh trong hệ thống hành
chánh nhà Nguyễn .
Kauthara thất thủ, đền thiêng liêng của Po Ina Nagar “Bà Mẹ Vương Quốc” ở Nha
Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết
định rước Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một cái đền ở Mông
Ðức gần làng Hữu Ðức bây giờ.
Kể từ năm 1653, đất đai Champa tự thu hẹp lại trong lãnh địa của tiểu vương
quốc Panduranga, mà nhà sử học thường gọi là vương quốc Panduranga-Champa.
Thời kỳ 1653-1771: Sự suy yếu của Panduranga
Năm năm sau ngày thất thủ Kauthara (Nha Trang), tức là năm 1658, chúa Nguyễn,
lợi dụng sự khủng hoảng chính trị trong nội bộ Campuchia, dùng vũ lực để xâm
chiếm khu vực Saigon-Biên Hoà. Sự hiện diện của quân đội nhà Nguyễn ở Saigon đã
đưa Panduranga vào địa thế mới, đó là, vương quốc này đã trở thành một khu vực
nằm ngay chính giữa lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã làm chủ đất đai: Biên Hoà ở phía
nam và Nha Trang ở phía bắc. Bị kìm kẹp và bị bao vây, Panduranga-Champa đã mất
đi toàn diện những địa thế quân sự trọng yếu của mình.
Chưa đầy 40 năm làm chủ Biên Hòa, chúa Nguyễn quyết định tiếp tục áp dụng chính
sách “Nam Tiến” của mình. Ðể trả đủa cuộc tấn công của vua Po Saot nhằm thu hồi
lại vùng thánh địa Kauthara (Nha Trang) vào năm 1692, chúa Nguyễn đưa một đoàn
quân hùng mạnh để thanh toán vương quốc này. Sau khi thắng trận, nhà Nguyễn đổi
danh xưng Chiêm Thành (Campapura) thành Trấn Thuận Thành, đặt dưới quyền cai
trị của một ông Tham Mưu của quân viễn chinh nhà Nguyễn. Một năm sau, nhà
Nguyễn xóa bỏ Trấn Thuận Thành để thành lập Phủ Bình Thuận và giao quyền quản
trị phủ này cho em của vua Po Saot .Cuối năm 1692, Panduranga-Champa đã biến
mất trên bản đồ Ðông Dương với tính cách là một quốc gia chủ quyền.Vì không
chấp nhận sự hiện diện quân nhà Nguyễn trên lãnh thổ mình và vì không chấp nhận
nhà Nguyễn tự xóa bỏ vương quốc này trên bản đồ, toàn bộ nhân dân
Panduranga-Champa vùng dậy đánh đuổi quân xâm lược trong suốt hai năm trường,
từ 1693-1694. Vì không thể kháng cự lại sự vùng dậy của toàn bộ nhân dân của
vương quốc này, chúa Nguyễn quyết định giao trả lại quyền độc lập cho
Panduranga-Champa, nhưng độc lập dưới sự bảo trợ chính trị và quân sự của mình.
Kể từ đó, danh xưng Thuận Thành đã trở thành thông lệ trong văn bản nhà Nguyễn
để gọi Panduranga-Champa. Khi đã thu hồi độc lập, nhà Nguyễn phong vương cho Po
Saktiraydaputih, em của vua Po Saot và cũng là một tù binh của nhà Nguyễn trong
trận chiến vào năm 1692.
Mặc dù giao trả quyền độc lập cho Panduranga-Champa, nhà Nguyễn quyết định giữ
quyền cai trị trực tiếp của mình trên cộng đồng Việt kiều sống trong lãnh thổ
Champa. Chính sách này nhằm kiểm soát chặt chẽ mọi biến cố xảy ra ở
Panduranga-Champa và nhằm điều động Việt kiều này, khi cần thiết, để gây chiến
tranh chống lại vương quốc Champa. Ðể áp dụng chính sách này, nhà Nguyễn thành
lập một phủ Bình Thuận rất là đặc biệt trong lãnh thổ Panduranga-Champa vào năm
1697. Theo tư liệu hoàng gia Panduranga viết bằng tiếng Chăm và Hán, kể từ năm
1702, tất cả Việt kiều sống trong Panduranga-Champa không trực thuộc quyền quản
trị của vương quốc này, nhưng trực thuộc phủ Bình Thuận của nhà Nguyễn. Phủ
Bình Thuận này là một cơ quan đại diện cho nhà Nguyễn, có vai trò để giải quyết
với chính quyền Panduranga-Champa mọi vấn đề liên quan đến quyền lợi Việt kiều
sống ở vương quốc này.Sự hiện diện của Việt kiều núp sau cái bóng hình của phủ
Bình Thuận là nguyên nhân chính yếu đưa đến xự xung đột hàng ngày giữa đồng bào
Panduranga-Champa và cộng đồng Việt kiều. Và xự xung đột này thường xảy ra
chung quanh vấn đề khủng hoảng đất đai. Vì rằng Việt kiều càng ngày càng mở
rộng lãnh thổ của mình, hoặc qua các cuộc mua bán ruộng đất một khi dân tộc
Champa bị thiếu nợ, hoặc qua các cuộc chiếm đất bất hợp lệ trong những khu vực
hoang vắng. Kể từ đó, Panduranga-Champa không còn biên giới cố định, vì lãnh
thổ có một hình dạng như vết dầu loan, nằm xen kẻ trong biên giới của đất đai
thuộc phủ Bình Thuận của nhà Nguyễn
Thời kỳ 1771-1832: Những ngày cuối cùng của Champa
Năm 1771 đánh dấu cuộc vùng dậy của Tây Sơn chống lại chế độ bạo tàn của nhà
Nguyễn. Công trình đấu tranh của Tây Sơn bắt đầu lan rộng trong khắp nước.
Trước tình thế này, nhà Nguyễn từ bỏ thủ đô mình để lui vềẩn náu ở khu vực đồng
bằng sông Mékong, chờ đợi thời cơ khôi phục lại đất nước. Kể từ ngày ấy Tây sơn
làm chủ miền bắc, còn hoàng tử Nguyễn Ánh của nhà Nguyễn làm chủ miền nam. Thế
là Panduranga-Champa, vì địa thế của mình, một lần nữa trở thành nạn nhân của
chiến tranh giữa người Việt với người Việt, một cuộc chiến tranh chẳng có gì
liên hệ với vương quốc Champa. Theo sử liệu của Việt Nam , mục tiêu tiên quyết
của Nguyễn Ánh và Tây Sơn là phải chiếm cho kỳ được Panduranga-Champa để làm
nhịp cầu tiến quân chống phá thành Saigon do Nguyễn Ánh trấn giữ hay chống phá
Nha Trang dưới sự kiểm soát của Tây Sơn. Làm chủ Panduranga-Champa tức là làm
chủ tình hình quân sự trong sự xung đột này. Chính vì thế, kể từ năm 1771 vương
quốc Panduranga-Champa đã trở thành một bãi chiến trường khủng khiếp giữa quân
Tây Sơn và lực lượng Nguyễn Ánh. Trước biến cố này, sự sống còn của
Panduranga-Champa chỉ là một giấc mơ huyền ảo và nó tùy thuộc hoàn toàn vào kết
quả của chiến tranh giữa người Việt Nam hơn là tuỳ thuộc vào ý muốn của mình.
Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại tàn quân Tây Sơn, làm chủ toàn diện lãnh thổ Việt
Nam, sau đó lên ngôi lấy danh hiệu là Gia Long. Khi chiến tranh đã chấm dứt,
Gia Long quyết định trao trả lại cho vương quốc Panduranga-Champa, không phải là
quyền độc lập, nhưng là quyền tự trị dưới sự bảo hộ của triều đình Huế. Sau đó,
Gia Long phong tước cho ong Po Soang Nhung Ceng, một tướng tài gốc người Chăm
(tổ tiên bà Thềm ở Phan Rí), đã từng tham gia với Nguyễn Ánh để chống Tây Sơn,
quyền cai trị vương quốc này. Mặc dù là một vương quốc tự trị, nhưng Po Saong
Nhung Ceng có quyền tuyệt đối trên nhân dân của Panduranga, có quyền thành lập
quân đội riêng và quyết định thuế má riêng trong lãnh thổ của mình.Thành hình
trong qui chế thuộc địa Việt Nam, nếu Gia Long quyết định cho tái lập lại vương
quốc Panduranga-Champa, đó là để tỏ bày sự cám ơn của mình đối với tướng Saong
Nhung Ceng đã có công trong công trình đánh đuổi Tây Sơn hơn là bày tỏ ý muốn
của mình để vương qưốc Champa này được phục hồi lại . Dù trong hoàn cảnh nào đi
nữa, Panduranga-Champa cũng là một vương quốc tự trị dưới sự bảo trợ của Gia
Long,nhất là dưới sự che chở tối đa của ông Lê Văn Duyệt, Tổng
Trấn Gia Ðịnh Thành.Năm 1802, Gia Long từ trần. Minh Mệnh kế tiếp cha mình để
cai trị toàn vẹn Việt Nam. Sau ngày lên ngôi, Minh Mệnh xóa bỏ tất cả chính
sách liên quan đến Panduranga-Champa do Gia Long để lại, và quyền kiểm soát của
Lê Văn Duyệt trên vương quốc này. Vấn đề này đã dẫn đến sự xung đột giữa Minh
Mệnh và Tổng Trấn Gia Ðịnh Thành. Kể từ ngày ấy, Panduranaga-Champa lại trở
thành nạn nhân lần thứ hai trong biến cố chính trị giữa người Việt Nam. Khi Po
Saong Nhung Ceng đã từ trần ở Champa (chứ không phải ông vua này là người chạy
sang Kampuchea lánh nạn như người ta thường hiểu lầm), Minh Mệnh tự phong tước
cho một người Chăm kề cận của mình lên ngôi. Lê văn Duyệt phản đối lại Minh
Mệnh, tự quyết định cho con của Po Saong Nhung Ceng lên làm vua
Panduranga-Champa, để trấn giữ trọn vẹn quyền kiểm soát chính trị và hành chánh
của vương quốc này. Nhiều sử liệu cũng nêu lên rằng, năm 1832 là năm đánh dấu
một khúc quanh lịch sử lớn lao trong chính sách bang giao giữa
Panduranga-Champa và triều đình Huế. Nếu từ năm 1822 đến 1828, vương quốc này
trực thuộc dưới quyền kiểm soát của triều đình Huế, nhưng sau năm 1828,
Panduranga-Champa đã trở thành một vương quốc đặt dưới quyền cai trị của Gia
Ðịnh Thành. Chính vì thế, sự sống còn của Panduranga-Cham hôm nay tùy thuộc hẳn
vào tư thế mạnh ,yếu của Lê VDuyệt đối với Minh Mệnh.Năm 1832, Lê Văn Duyệt từ
trần. Tức tốc, Minh Mệnh quyết định chiếm đóng Panduranga-Champa, cho lệnh
trừng trị thẳng tay tất cả quan chức nào trong vương quốc đã theo Lê Văn Duyệt
, Minh Mệnh đã áp dụng chính sách tàn bạo chống lại nhân dân Champa vì tội
không chịu phục tùng triều đình Huế. Sau cuộc trừng phạt này, Minh Mệnh cho
lệnh xóa bỏ Panduranga-Champa trên bản đồ Ðông Dương, chia lại đất đai này
thành hai huyện An Phước và Hòa Ða trực thuộc tỉnh Bình Thuận.Thế là, vương
quốc Panduranga-Champa hoàn tàn bị diệt vong vào năm 1832.
1832-1835: Sự vùng dậy cuối cùng
Những chính sách tàn bạo của một số quan chức Minh Mệnh nhằm trừng trị thẳng
tay nhân dân Champa vì tội theo Lê Văn Duyệt là nguyên nhân chính yếu giải
thích cho sự vùng dậy của dân tộc Champa vào năm 1833. Ðói khát, tù đày, xử
trảm không cần lý do, không cần xét xử, tập trung người dân Champa vào lao dịch
trong những nông trường kinh tế, đốt cháy làng xã thành tro bụi, v.v. là sự
việc diễn ra hàng ngày sau ngày mất nước. Không thể kham nổi những sự khốn khổ
này, Katip Sumat, một nhà lãnh đạo tinh thần Hồi Giáo, kêu gọi quần chúng nổi
dậy, thành lập một mật trận kháng chiến Hồi Giáo, dùng chiến tranh tử vì đạo
(Jihâd) chống lại Minh Mệnh để dành độc lập Champa. Phong trào kháng chiến của
Katip Sumat đã trở thành một mối đe dọa lớn cho Minh Mệnh trong khu vực này.
Chính thế, ngoài đoàn quân hùng mạnh của triều đình Huế, Minh Mệnh kêu gọi tất
cả Việt kiều sống ở đây góp sức để đánh phá toàn diện lực lượng Katip Sumat vào
năm 1834.
Nếu sử liệu Việt Nam ít nói đến cuộc nổi dậy của Katip Sumat, thì sử liệu này
không bỏ lỡ cơ hội viết về biến cố 1834-1835, biến cố mà triều đình Huế coi đó
là một cơ cấu cách mạng mới mang hình thức “Mật Trận Giải Phóng” hơn là hình
thức nổi loạn. Ðúng vậy, Ja Thak Wa, người làng Văn Lâm (Ninh Thuận), là một
quan chức lớn trong triều Champa thời trước, là người đứng ra thành lập Mật
Trận Giải Phóng, và thành lập chính phủ lâm thời để điều hành công cuộc cách
mạng giải phóng Champa. Lấy khu Ðồng Nai, nơi mà dân Việt không dám xâm nhập,
để làm mật khu. Ông ta đứng ra đề nghị một ông hoàng tử gốc Raglai, dòng Po
Romé, lên ngôi của vương quốc. Ông kêu gọi toàn dân Champa, cả anh em cao
nguyên và người Chăm cùng đứng dậy chống lại quân xâm lược Minh Mệnh. Sau khi
chiếm đóng khu vực Phan rang, ông cho lệnh tiến đánh khu vực Phú Yên và Bình
Ðịnh. Tiếc thay, ông bị tử trận ở làng Hữu Ðức (Phan Rang) vào năm 1835. Phong
trào của Ja Thak Wa được coi như là cuộc nổi dậy cuối cùng sau ngày mất nước
của vương quốc Champa vào năm 1832.
Sau cái chết của Ja Thak Wa, Minh Mệnh phát động một chính sách vô cùng tàn bạo
để trừng trị những ai dính dáng vào cuộc cách mạng này: trưng thu ruộng đất,
theo dõi và bắt bớ, tập trung cải tạo và tù đày tối đa, cấm phân phối lương
thực, thiêu đốt làng xã cho đến quật cả mồ mã những gia đình theo cách mạng .
Sau cùng, để kiểm soát sự tập trung của dân tộc Champa, Minh Mệnh cho lệnh dời
hết tất cả làng xã Champa đi chổ khác để thành lập làng xã người Việt. Chương
trình dời làng xã người Champa là một chính sách nhằm phá hủy toàn bộ cơ cấu tổ
chức cổ truyền của xã hội và gia đình người dân Champa thời đó .họ định diệt
chủng một phần hay toàn bộ sắc tộc đáng thương này?Sự diệt vong của Champa có
một nguyên nhân chính yếu, đó là vương quốc này đã trở thành một nạn nhân của
chính sách Nam Tiến Việt Nam.Nơi giao lưu và triệt hạ lẫn nhau của 3 nền văn
hóa lớn:Ấn độ-trung hoa và trung đông Sau ngày diệt vong, vương quốc này chỉ để
lại sau lưng mình mốt số di tích lịch sử đã chôn sâu vào lòng đất lạnh, hai
cộng đồng nhân chủng xuất thân từ dân tộc Champa thời trước. Cộng đồng đầu tiên
gồm vào khoảng 300.000 anh em Tây nguyên ở miền trung Việt Nam. Nhóm thứ hai
vào khoảng 100.000 người Chăm ở vùng Phan Rang, Phan Rí,30.000 ở khu vực Châu
Ðốc và Tây Ninh,hơn150.000 lánh nạn ở Kampuchea,100000 người ỏ malaysia,
indonesia .Thế rồi qua thời gian thăng trầm của nhiều biến cố lịch sử mà theo
nhiều sử gia và học giả phương Tây thì biến cố 2/3/1471 đánh dấu sự giải thể
vương quốc Champa và không một biên khảo lịch sử hay niên giám triều đình
Champa nào được phổ biến từ sau ngày đó.Tuy nhiên trong thực tế thì sinh hoạt
triều chính của các dòng vương tôn Champa vẫn tiếp tục, với một qui mô tuy nhỏ
hẹp nhưng không kém phần nghiêm túc.Năm 1832 đánh dấu sự diệt vong toàn diện
của vương quốc Champa, nhưng cộng đồng Champa vẫn còn đó: một cộng đồng không
vua chúa, không người lãnh đạo.Chính vì thế, tiến trình của xã hội Champa sau
ngày mất nước đã đi vào một khúc quanh mới, một khúc quanh mà tôi cùng mọi
người, một người con champa,tiền thân Malayo Polynésien mong muốn rằng: hãy bỏ
qua đi những xung đột quá khứ,mà hãy học hỏi những gì tốt đẹp trong quá khứ để
cùng nhau hướng đến tương lai tốt đẹp hơn.Trên cõi đời này ai cũng có đôi lần
vấp ngã,Những ai vấp ngã thì phải xác định ta vấp ngã vì đường đời hay vấp ngã
vì chính vũng lấy ta tạo nên.Ta sinh ra trên cõi đời này điều có anh em, cha
mẹ, ông bà, họ hàng,dòng tộc, thủy tổ. Vậy dòng máu ta chảy từ đời này là sự
chắc lọc từ bao đời đi trước để ta thừa hưởng cho ngày hôm nay.Dân tộc, thủy
tổ, họ hàng, ông bà,cha mẹ đi trước đã hy sinh chống lại vô vàn thiên tai,dịch
bệnh ,chiến tranh chính vì sự trường tồn hôm nay của chúng ta.Là thế hệ hôm nay
chúng ta phải phát huy tố chất cha ông để lại, gìn giữ,sáng tạo thêm nữa giữ
vai trò tiên phong cho dân tộc.
TÓM TẮC CÁC TRIỀU ĐẠI VUA CHAMPA
***Triều đại thứ nhất
-192 - 230 Sri Mara (Khu Liên)
-230-270:???
-270 – 282 (Phạm Hùng )
- 283 – 336 Phạm Duật
***Triều đại thứ hai
-336 – 349 Phạm Văn
-349- 380:Bhadravarman( Phạm Phật )
-380 – 413 DRAMAMAHARAJA (Phạm Hồ
Đạt Fan houta)
-413- 419 Bhadravarman (Phạm Tu Đạt)
-Gangajai (Địch Châu)
***Triều đại thứ ba
-420 -421:Phạm Dương Mại 1 (fan yang
mai)
-421 – 445:Phạm Dương Mại thứ 2 (wen
ti)
-Khoảng 455– 472:Phạm Thần Thành
hiệu: DEVANIKA
- 484 – 491: Phạm Đang Căng Thuần (
KHMER Cướp ngôi)KIEOU TCHEOU LO
- 491 – 498 Phạm Chư Nông
-502 - 510 Phạm Văn Tẩn Fan wen
kuoan
-510 – 514 Detavarman (Phạm Thiên
Khởi)
-526 – 527 Vikrantavarman (Bật Tồi
Bật Ma - Cao Thức)
***Triều đại thứ tư: thời kỳ quá độ
giữa Lâm Ấp và Vương quốc Chăm Pa
-529 – 572 Rudravarman
- 605 – 629 sambhuvarman (Phạm Phan
Chí)
- 640 – 645 Kandharpadjarma (Phạm
Đầu Lê)
- 645 - ? Bharadharma (Phạm
Trấn Long)
-Bhadrecvaravarman
-Kandarpadharma
-Prakacadharma
-663 – 679
Vikrantavarman
- 686 – 731
Vimantavarman II
-749
Rudravarman II
***Triều đại
thứ năm: Pânduranga
-khoảng
757-770: Prithivîndravarman
-khoảng
774-780: Satyavarman
-khoảng
793-803: Indravarman
-khoảng
801-817: Harivarman
-khoảng
820-850: Vikrântavarman III
***Triều đại
thứ sáu: Bhrigu
- 854-898:
Indravarman II
-898-903:
Jaya Simhavarman I
-903-905:Jaya
Saktivarman
-905-910:
Bhadravarman II
-918-
959: Indravarman III (hồi giáo)
-971-982:
Paramesvara Varman I (Bê Mị Thuế)
-982:
Indravarman IV
-983-986:
Lưu Kế Tông (CƯỚP NGÔI)
-988:
Indravarman V
***Triều đại
thứ bảy: Indrapura
-991-999: Vijaya Shri Harivarman II
(Băng vương la Huệ)
-999-1007: Po Alah (Yan Pu Ku Vijaya Shri) (Dương-phổ-cu
Bi-trà-xá-lợi).
-khoảng
1010: Harivarman III ( sri harivarmadeva)
-1018-1021:
Parasmesvara Varman II
-1021-1030:
Vikranta Varman II
-1030-1044:
Po-Tik (Jaya Simhavarman II) (sạ đẫu)
***Triều đại
thứ tám: Vijaya
-1044-1060:
Jaya Paramesvara Varman I (Ứng Ni)
-1060-1061:
Bhadra Varman III
-1061-1074:
Rudra Varman III ( Chế cũ)
***-Triều
đại thứ chín: Sud
-1074-1080:
Harivarman IV
-1080-1081:
Jaya Indravarman II
-1081-1086:
Paramabodhisattva
-1086-1113:
Jaya Indravarman II (lên ngôi lần thứ hai)
-1113-1129:
Harivarman V
-1139-1145:Po-Sulika
(Jaya Indravarman III )
-1145-1147:
Phó vương Harideva (thuộc đế quốc Khmer)
-1147-1166: Jaya Harivarman I ( Chế
bi la but)
-1166-1167:
Jaya Harivarman II
-1167-1190:
Jaya Indravarman IV
-1190-1191:
Surya Jayavarman tại Vijaya
-1191-1192:
Jaya Indravarman IV tại Pandurang
-1192-1203:
Surya Jayavarman (lên ngôi lần thứ hai)
-1203-1220:
Thời kỳ trực thuộc đế quốc khmer
-1220-1252:
Jaya Paramesvara Varman II (sri ajiang)
-1252-1257:
Jaya Indravarman V
-1257-1285:
(Jaya Indravarman VI )
-1285-1307:
Po-Depitathor (Jaya Simhavarman III) ( Chế Mân )
-1307-1313: Jaya Simhavarman IV (Chế
Chí)
-1313-1318: Chế Năng
-1318-1342: Che Anan (Chế A Năng)
-1342-1360:Tra
Hoa Bo-De (TRÀ HOA BỒ ĐỀ)
-1360-1390: Po
Binasor (Che Bonguar) ( Chế Bồng Nga)
-1390-1400:
Simhavarman VI (La Khai tức La Ngai)
-1400-1441:
Jaya Indravarman VII (Ngauk Klaung)
-1441-1446:
Vijaya (Bí Cai)
-1446-1449:
Maha kilai (Ma Ha Quí Lai )
-1449-1458:
Po-Parichanh (Maha-vijaya) (Ma Ha Quí Do)
-1458-1460:
Po Kathit (Maha banla tranguyet)(Bàn La Trà nguyệt )
-1460-1471
Po KaPrah (Maha
banla tratoan)(Bàn La Trà Toàn)
***Thời kỳ
suy tàn: 1471-1696: Thời kỳ đất nước bị chia cắt. Triều đại Po là phiên thuộc
của Việt nam
-1471-1494-
Po Trì Trì Jayavarman Mafoungnan
-1494-1530-Po
Kabih
-1530-1536-Po
Krut Drak
-1536-1541-Po
Maha Sarak
-1541-1553-Po Kunarai
-1553-1579-Po At
-1579-1603-Po Klong Halau
-1603-1613-Po Nit
-1613-1618-Po Chai Paran
-(1618-1622)Po Ehklan
-(1622-1627)
Po Klong Menai (Mahataha)
-(1627-1651) Po Rome
-(1651-1653)
Po Nraup– Bà Tấm
-(1653-1659)Po
Thot
- 1659-1692- Po Sout
- 1693-1728- Po Saktiray daputih Kế
Bà Tử
-1696-1728:
Po Saktirai da putih
-1728-1730:
Po Ganvuh da putih
-1731-1732:
Po Thuttirai
-1733-1734:
không có vua
-1735-1763:
Po Rattirai
-1763-1765:
Po Tathun da moh-rai
-1765-1780:
Po Tithuntirai da paguh
-1780-1781:
Po Tithuntirai da parang
-1782: không
có vua
-1783-1786:
Chei Krei Brei
-1786-1793:
Po Tithun da parang
-1793-1799:
Po Lathun da paguh
-1799-1822:
Po Chong Chan
-1832: Bị sát nhập hoàn toàn vào việt nam
-1832-1835: Ja Thak Wa (cuộc khởi nghĩa cuối cùng)