GHE XUỒNG Ở NAM BỘ
Nguyễn Thanh Lợi
Sách Gia Định thành thông chí mô tả:”Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở hoặc đi chợ, hay để đi thăm người thân thích, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà ghe thuyền chật sông ngày đêm qua lại, sỏng xuồng liên tiếp”
1.Đặc điểm phân loại
Ghe
xuồng ở Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều kiểu loại, tên gọi khác nhau.
Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và phương thức hoạt động ta có
thể tạm phân chia thành những loại khác nhau.
Huỳnh
Tịnh Của định nghĩa về xuồng như sau:”Ghe nhỏ, ghe làm chơn, thường
dòng theo ghe lớn”[2] .
Về xuồng, ta thấy có các loại phổ biến như xuồng ba lá, xuồng năm lá, tam bản,
xuồng vỏ gòn, xuồng độc mộc, xuồng chèo, xuồng máy…
Xuồng
ba lá có chiều dài trung bình 4m, rộng 1m, sức chở từ 4-6 người. Xuồng làm
bằng ba tấm ván gỗ dài ghép lại, các đường nối được trét bằng nhựa chai, mũi và
lái đều nhọn. Dùng sào nạng và bơi chèo để đi lại. Riêng Cần Thơ có xuồng 5 lá.
Xuồng
tam bản giống như ghe câu, nhưng lớn hơn, có 4 bơi chèo, dùng để chuyên
chở nhẹ. Có loại thon dài, lại thêm mui ống, dáng đẹp. Số lượng tấm ván be
không chỉ có 3 mà có thể là 5, 7, hoặc 9 tấm. Các điền chủ hạng nhỏ và vừa
thường sử dụng để đi lại trên sông rạch. Ở Vĩnh Long, xuồng tam bản còn dùng để
đi câu tôm, câu rổi hoặc dùng làm xuồng cào tôm cá. Tam bản xuất xứ
từ tiếng Hoa “xam pản”, người Pháp phiên âm thành “sampan”.
Ghe
tam bản, xuồng bơi, xuồng chèo ở Cần Thơ đều là hai chèo, ba chèo, bốn chèo.
Không phải một một chèo lái, một chèo mũi như ở các vùng khác.
Xuồng
vở gòn (giống vỏ trái gòn) kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản (giàn đà, cong
và ván be), kiểu dáng gọn nhẹ, chủ yếu để đi lại, chuyên chở, trao đổi, buôn
bán.
Xuồng
độc mộc (ghe lườn) do người Khơme làm bằng cách chẻ dọc thân cây thốt nốt,
khoét rỗng ruột hoặc mua xuồng độc mộc thân gỗ sao, sến ở Campu chia và Lào.
Xuồng
câu tôm: giống kiểu kiểu ghe độc mộc của người Khơme dùng giăng câu thả lưới ở
ven sông cạn rạch nhỏ.
Xuồng
bơi (2 mái chèo) lớn hơn xuồng tam bản.
Xuồng
máy gắn máy nổ và chân vịt như xuồng máy đuôi tôm là loại phương tiện rất
“cơ động”, phổ biến ở vùng sông nước này, nhất là trong giới thương hồ.
Về
ghe dùng để vận chuyển hàng hóa thường là những chiếc ghe có kích
thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài.
Ghe
bầu là loại ghe lớn nhất, mũi và lái nhọn, bụng phình to, có tải trọng
tương đối lớn, chạy buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi nhanh, có nhiều
chèo để đi sông và đi biển dài ngày.thường dùng đi đường biển. Loại ghe
bầu lớn thường gọi là ghe trường đà.Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mã
Lai, do người Việt trong quá trình Nam tiến tiếp thu được của người Chăm.Trước
năm 1945, hàng năm các lái buôn lớn từ miền Trung chở cá, mắm cá mòi, chủ yếu
là nước mắm cá cơm của vùng Phan Thiết vào bán trong Nam, rồi mua gạo thóc chở
ra bằng loại ghe này.
Ghe
cửa: nhỏ, mũi nhọn, nhảy sóng tốt, chạy buồm vững vàng; có thể ra vào các cửa
sông dễ dàng, hay chở hàng đi men theo bờ biển.
Ghe
lồng (hay ghe bản lồng): loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che mưa
nắng, lòng ghe được ngăn thành từng khoang nhỏ để chứa các loại hàng hóa khác
nhau. Loại ghe này dùng vận chuyển hàng hóa đi dọc bờ biển.
Ghe
hàng bo là loại ghe lồng nhỏ, đi đường ngắn trong nội địa
Ghe
giàn : có kích thước khá lớn, hai bên hông trổ cánh cao để chở được nhiều
hàng hóa
Ghe
be không mui hoặc có mui nhỏ chệch về phần lái khoảng 1/4 chiều dài
của ghe, có thêm hai ghe bên sườn để tăng thêm sức chở.
Ghe
chài: to và chở được nhiều nhất, có mui rất kiên cố, gồm nhiều mảnh gỗ ghép
lại, có hai tầng. Ghe được chia làm hai phần, phần đầu chứa hàng hóa, phần sau
là chỗ nghỉ cho người đi ghe. Một mui rời phía sau phòng lái dùng làm nơi tắm
rửa, nấu cơm. Ghe có sức chở từ 150-200 tấn, loại ghe chài Nam Vang chở được
đến 300 tấn. Ghe chài thường có cả chục người chèo với kiểu chèo “neo” ngược
chứ không như kiểu chèo ghe bình thường. Về sau, người ta dùng tàu kéo ghe
chài. Ghe dùng cho người đi buôn bán xa, dài ngày và sống trên sông nước.
Thường dùng chở lúa gạo, than củi.
“Chài”
xuất xứ từ tiếng “Pok chài” của người Triều Châu, Pok: nhiều, chài:
tải, ghe chài là loại ghe có sức tải lớn.
Theo Vương Hồng Sển, ghe chài gọi đầy đủ là ghe bốc chài, gốc từ tiếng Khơme “tuk pokchay”, tuk: ghe, thuyền (Khơme); pokchay: chở nhiều (Triều Châu)
Ghe
cà vom: nhỏ, dài, có mui nhỏ nhưng khác ghe lườn và ghe ngo.
Ghe
cá, hay còn gọi là ghe rỗi ,chuyên chở sá đồng từ miền Tây
về Sài Gòn. Đặc biệt mực nước trong ghe luôn cân bằng với mực nước sông bên
ngoài để giữ cá luôn sống và ghe cũng luôn vững. “Anh đi ghe cá mũi son, để em
đan đệm cho mòn mười ngón tay”
Ghe
bè to và sâu, giống như chiếc xà lan, có mái che, tải trọng lớn, người
chèo có thể đi lại trên mui, dùng chuyên chở hàng hóa trên sông. Loại ghe to,
mau bán tận Campuchia.
Ghe
lưới :giống như chiếc thuyền độc mộc, thân dài, thon, mũi nhọn. Đây là
loại ghe của người Khơme.
Ghe
cào tôm: đầu mũi lài và khá phẳng, có bánh lái gặp bên hông, dáng nhỏ. Loại ghe
này thường dùng cào tôm vào ban đêm.
Ghe
mỏ vạch: mũi vớt cao lên như cái vạch của thợ may.
Ghe
cui: ngắn, mũi và lái tương đối bằng, không nhọn như các ghe khác. Dùng chở
củi, lá lợp nhà.
Ghe
ngo (tuk ngua): loại ghe nhiều màu sắc của dân tộc Khơme, thường dùng
trong bơi đua trong các lễ hội. Ghe làm bằng cây sao, dài 10m trở lên. Ghe
không mui, ở đầu mũi chạm hình rồng, rắn, phụng, lân hoặc voi, sư tử, ó biển.
Mỗi chiếc có thể chở từ 20 đến 40 tay chèo, xếp thành hàng đôi, một người cầm
lái và một người cầm mũi.
Ghe
điệu: mũi lái chạm trổ, kèo mui thường sơn son thếp vàng, bên trong lót ván
trơn bóng, có chỗ nấu nướng, đủ tiện nghi để hút á phiện cho giới nhà giàu.
Ghe hầu: sang hơn ghe điệu, dành cho cai tổng, tri phủ, tri huyện. Ban đêm ghe thắp sáng không phải vì mục đích soi đường, mà để báo hiệu cho biết là ghe của quan. Một đoạn trích của Huỳnh Minh cho ta thấy hình ảnh của chiếc ghe hầu ngày xưa: “Khác với những ghe thường, ghe hầu được đóng vẻ đẹp đẽ, sang trọng hơn: sơn son thếp vàng, đầu rồng đuôi phụng, trước mũi hai chèo, mui ghe lộng lẫy, bên trong trang trí rất đẹp như một phòng khách trên nhà, nào chiếu bông nẹp điều, gối dựa vải màu sặc sỡ, đồ lệ bộ, ống điếu bình, văn án thấpv.v…Ban đầu chỉ có loại quan chức mới đi loại ghe này, về sau các nhà giàu có, dư dả cũng đua nhau sắm ghe hầu, như kiểu đổi Citroen con cóc để sắm Dodge hay Mercédes đi cho oai”
Ghe
sai: còn gọi là ghe khoái, nhỏ, chèo nhẹ, dùng vào việc quan.
Ghe
quyển: có mui che từ đầu đến cuối ghe, dùng để chở quân lính.
Ghe
lệ hoặc ghe ô: dùng vận chuyển lính hay quân cụ. Những chiếc dành cho
chỉ huy thường được chạm trổ toàn thân rất tinh xảo. Loại này thường được sơn
đỏ nên cũng gọi là ghe son hay ghe vẹm.
Ghe
trẹt (trẹt): không mui, đáy bằng, hai đầu ghe đều bằng để chở trâu bò.
Ghe
vợi: ghe nhỏ, cột theo sau những chiếc ghe lớn để chuyển hàng hóa vào bờ.
Vỏ
lãi: mũi ghe bằng, dài khoảng 9m, thành ghe thấp, bề ngang hẹp.
Tắc
ráng: thường dài hơn vỏ lãi, mũi nhọn, chạy rất nhanh (chiếc Speedo do Kiên
Giang Composite chế tạo có thể chạy đến 60km/giờ). Chiếc ghe đặc biệt xuất hiện
từ năm cuối 1959 ở địa danh mà cả xóm, ấp, chợ và con rạch đều mang tên Tắc
Ráng (nay là khóm Vĩnh Viễn, phường Vĩnh Hiệp, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên
Giang).
Ngoài
ra, ở mỗi địa phương cũng có những loại ghe phù hợp với điều kiện sông nước và
nhu cầu sản xuất, đi lại trong vùng. Một số loại ghe có tiếng như:
Ghe
câu Phú Quốc (Kiên Giang) có buồm, có 5 cặp chèo, dùng để đánh bắt
thuỷ sản.
Ghe
cửa Phú Quốc để chở thuỷ sản và mắm.
Ghe
Cần Thơ: lớn, dài, tiện cho việc đi sông.
Ghe
cửa Bà Rịa để chuyên chở thuỷ sản
Ghe
lưới rùng Phước Hải (Long Đất, Bà Rịa- Vũng Tàu) dùng đánh bắt thuỷ sản.
Ghe
Cửa Đại: dùng đánh bắt trên biển, chuyên chở hàng hóa đi biển hoặc trên các con
sông lớn. Loại ghe có đặc trưng riêng, khá nổi tiếng, do những thợ thủ công
Bình Đại (Bến Tre) đóng. Ngày xưa, vùng này có mối giao lưu mua bán với Mỹ Tho,
Sài Gòn, Gò Công, Vũng Tàu, Bà Rịa, Phan Thiết. “Khác với ghe Cần Đước mũi
ngắn, lườn rộng, ghe Vàm Láng (Gò Công) mũi nhọn mà cao, lườn dẹt, ghe Hòn (Phú
Quốc) của miền tây mũi đứng, lườn rộng, thân dài, ghe của Bình Đại- thường được
giới sông nước gọi là ghe số 14 mũi đen- cao vừa phải, lườn rộng, thân vững, đi
biển hoặc chuyên chở trên sông đều tốt, chịu nhảy sóng, mạnh sức chở. Ghe cửa
Bình Đại bánh lái đẹp và dài, có hai buồm, có trục cuốn, buồm đánh bằng lá buôn
đan( tức một loại lá cọ, người ta quen gọi là đệm buồm) “[5]
Ghe Cần Đước (Long An) dùng đánh bắt cá(đóng đáy, chài cá), chuyên chở
hàng hóa trên các tuyến sông. Loại ghe lớn, chạy nhanh, chở khoẻ, có dáng đẹp,
nhưng chỉ sử dụng tiện lợ tròn sông rạch vì lườn tròn, nhảy sóng kém. Mũi và
lái đều nhọn và nhô cao, chậu mũi vàchậu lái cong tròn, bánh lái to và cao, cần
lái nằm ngang quá mũi ghe. Ghe Cần Đước mũi sơn màu đỏ tươi, lườn màu xanh, hai
mắt tròn xoe, tròn đen và to, thường gọi là “đôi mắt đảo mèo”
Ghe
ai đỏ mũi trảng lườn
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em?
Ngoài
ra, tuỳ vào mục đích sử dụng mà ghe xuồng ở Nam Bộ có những tên gọi khác nhau,
như dùng để giăng câu thì gọi là xuồng câu ; đánh bắt thì có ghe
lưới, ghe đáy; đưa khách trên sông thì gọi ghe đò (đò ngang, đò
dọc; đò chèo, đò đạp, đò máy) ; dùng buôn bán hàng hóa thì có ghe
hàng…
2. Nghề đóng ghe
Từ
cuối thế kỷ XVIII, ở đất Gia Định- Đồng Nai, ngành đóng và sửa chữa tàu thuyền
đã ra đời, phục vụ cho nhu cầu vận chuyển đường thuỷ ngày càng lớn của vùng đất
này.”Ở ngã
ba
sông Nhà Bè thuộc huyện Phước Long, tục gọi phường Thương Đà, trước kia tàu
thuyền của phương Bắc đến buôn bán, phàm thuyền bị nát, bị rò phải sửa chữa
hoặc đóng thuyền mới, tất do chỗ này”[7].
“Luỹ cũ Trao Trảo ở huyện Long Thành năm Canh Tuất (1790) đầu đời trung hưng,
đắp thành luỹ, đóng tàu thuyền”[8]
Ở
Nam Bộ có nhiều “lò” đóng ghe nổi tiếng, thành ra những trường phái riêng, có
thể kể như: ghe Bình Đại, ghe Cần Đước, ghe Bà Rịa, ghe Phú Quốc…
Trước Cách mạng tháng Tám- 1945, tại Bình Đại có các trại ghe Bắc Hải ở Thọ Phú và ghe Đông Hải ở Phước Thuận chuyên đóng những ghe cửa lớn vận chuyển hàng hóa đi buôn với các tỉnh cực Nam Trung Bộ, nổi tiếng một thời. Thợ thủ công ở Vũng Luông (Thọ Phú- Thới Thuận) và vàm Bà Khoai là những nơi có tay nghề cao.
Tại Cần Đước đã hình thành nên hai trung tâm đóng ghe, một ở chợ Kinh và một ở vàm Cầu Nổi với những trại ghe tiếng tăm như Hiệp Phát, Hiệp Lợi, Trần Văn Chà (sau đổi là Tân Hưng) ở chợ Kinh; Năm Châu, Bảy Thạch…ở Phước Đông hay có thể kể thêm Hiệp Đồng, Hiệp Hoà ở Tân Tập (Cần Giuộc)
Từ
đầu thế kỷ XX, nghề đóng ghe xuồng ở Cần Thơ đã phát triển. Lúc đầu chỉ vài hộ,
rồi dần dần trở thành làng nghề, mang tính chuyên nghiệp, cha truyền con nối.
Nổi tiếng nhất là ở Ngã Bảy (Phụng Hiệp). Ở Vàm Xáng, Phong Điền, thị trấn Cái
Răng (Châu Thành) cũng là những làng nghề đóng ghe xuồng danh tiếng.
Ghe
đóng ở Cần Thơ nổi tiếng kiểu dáng thanh mảnh, mũi nhọn, nhảy sóng tốt. Phong
Điền là nơi chuyên đóng ghe hầu với kỹ thuật chạm trổ rất khéo.
Ở
thành phố Hồ Chí Minh có làng đóng ghe cầu Rạch Ong nằm hai bên bờ rạch Ong,
gần ngã ba của con rạch này và kinh Tẻ, thuộc địa bàn phường Tân Hưng (quận 7)
và phường 1 (quận 8). Làng nghề này hình thành khoảng năm 1962, do những người
thợ từ Cần Đước, Cần Giuộc (Long An) mang đến. Trọng tải của loại ghe Cần Đước
đóng tại đây có nhiều cỡ, khoảng từ 30-200 tấn. Gần đây, làng nghề chủ yếu đóng
các loại tàu kéo, tàu ủi và xuồng thông với sức chở từ 500kg đến 3 tấn, và sửa
chữa các loại ghe thuyền khác nhau.[11]
Ở
An Giang, nghề đóng ghe xuồng ngày càng phát triển ở một số làng xã như: Mỹ
Hiệp, Mỹ Luông, Chợ Thủ (Chợ Mới), Bình Mỹ, Bình Long (Châu Phú). Ghe xuồng có
giá rẻ, dễ mua sắm, kiểu dáng luôn được cải tiến.
Tại
Bà Rịa- Vũng Tàu, các trại ghe tập trung chủ yếu ở Bình Châu, Phước Bửu, Long
Hải, Phước Lễ, Phước Tỉnh, Phước Hải, Vũng Tàu…
Ở Vĩnh Long hiện còn vài trại ghe nổi tiếng, do cha truyền con nối nhiều đời, như trại ghe Năm Danh, Phước Thành, Năm Sên, Thanh Hải ở Trà Ôn; trại ghe Hòa Hiệp tại Cầu Mới; trại ghe ở ấp Thanh Tân và Thanh Khê xã Thanh Bình, huyện Vũng Liêm…
3.Phương
thức hoạt động
Ngày
xưa, việc lưu thông của ghe xuồng trên sông đã được nhà nước đặt thành những
luật lệ với những quy định cụ thể:”phàm ghe thuyền đi bất luận gặp gió nước
thuận hay nghịch, khi đi gần gặp nhau thì phải hô là “bát” (tục thường ghe đi
phía tả gọi là “cạy”, đi phía hữu gọi là “bát”) thì ghe mình đi qua phía hữu,
để cho thuận lái thuận sào dễ điều khiển mà tránh nhau. Nếu ghe nay đã hô “bát”
mà ghe kia còn đi tới phía tả không tránh để cho đụng nhau hư hỏng, thì lỗi ấy
về ghe không tránh kia. Lại trong trường hợp ấy có kẻ biện chiết chưa chịu
khuất phục, thì phải xét ghe nào chở nhẹ hơn và đi thuận dòng nước, thừa thế ấy
chạy mau phải đụng ghe kia, thì ghe ấy bị lỗi”[13]
Khoảng
từ 1920, chính quyền thuộc địa đã ra một “bài chỉ” ghe ở các tỉnh Nam Bộ, quy
định ghe mỗi tỉnh có một con số riêng. Bài chỉ ấy lấy chữ đầu của 20 tỉnh ở Nam
Kỳ ghép thành vần, rồi đặt số:
“Gia, Châu, Hà,
Rạch, Trà, Sa, Bến,
Long, Tân, Sóc, Thủ, Tây, Biên,
Mỹ, Bà, Chợ, Vĩnh, Gò, Cần, Bạc “
Như
vậy ghe Gia Định mang số 1, ghe Bến Tre có số 7, ghe Bà Rịa thì số 15…
Hoặc
như ghe của các vùng cũng sơn màu nơi mũi ghe để phân biệt nhau
Thuyền Bắc Nam lui tới
Ghe đen mũi, ghe vàng mũi ra vào
coi loà nước
Người Đông Tây qua lại
Tàu xanh mang, tàu đỏ mang, hàng
hóa chất ngất
(Ngô Nhân Tịnh)
Trước
năm 1954, ở Nam Bộ các phương tiện máy móc còn ít, ghe xuồng đi lại chủ yếu là
bơi, chèo. Ở các thị trấn, thị tứ đông dân cư thì có đò đạp, đò dọc đưa rước
khách đi lại. Đò đạp, đò dọc thì đi theo chiều dài, khách có thể thuê bao trọn
chuyến.
Gọi là “đò đạp” vì chiếc ghe thông thường di động trêm mặt nước do bơi, hoặc chèo bằng tay, nay được thay bằng động tác chân Những người phu đạp trên những tấm ván ghép trên một cái vòng tròn như chiếc guồng quay nước. Một chiếc đò có 4 người đạp. Đò đạp có tốc độ tương đương với đò chèo bằng tay, nhưng hành khách thích đi loại đò này hơn vì nó ít chòng chành. Chiếc đò thường được thiết kế thành 2 tầng. Tầng dưới được che kín, chủ yếu để chở hàng hóa. Tầng trên thông thoáng, dùng để thường ngoạn cảnh sông nước. Đò đạp thường chở khách ở cự ly gần, khoảng 10-20km, nước ít chảy, không có sóng to. Nghệ sĩ cải lương Tư Trang (tức Trần Hữu Trang) từng có thời gian làm phu đò chở khách từ Hương Điểm đi tỉnh lỵ Bến Tre.
Người miệt quê cấy hái xong, mùa
màng nhàn rỗi hay có chuyện cần sắm sửa mua bán là đi đò dọc về thị xã. Con đò
dài hơn mười lăm thước, chở được bốn năm chục người. Đi đò dọc là ta có thể
hình dung được phần nào cuộc sống nơi miền sông nước. Đò dọc chạy rất đúng giờ,
nhiều nhà xem đò chạy qua là có thể đoán được giờ giấc một cách chính xác.
Khách đi đò cũng dễ thân quen nhau, cứ chuyện trò rôm rả suốt cả hành trình.Ven
sông, mỗi nhà đều làm cho mình một bến nước nho nhỏ. Đó là nơi đón đò, nơi tắm
rửa, giặt giũ, nơi hẹn hò của đôi lứa.
Có thể nói, ghe xuồng có mặt khắp
mọi nơi, theo từng bước chân của người dân Nam Bộ, trên mọi “địa hình” của miền
sông nước: từ nơi thị tứ đô hội cho đến chốn kinh cùng, từ đầu nguồn đến cuối
bãi, nơi giáp nước, ngã ba sông, dọc ven biển…Người ta dùng ghe xuồng đi mua
bán, thu hoạch nông sản, đánh bắt tôm cá trên sông cho đến đi thăm người quen,
giỗ chạp, ma chay, cưới xin…Ngày nay tận dụng ưu thế đó, những con “thuyền văn
hóa”, “thuyền bệnh viện” đã hoạt động khá hiệu quả nơi miền sông rạch này.
Một
phương thức sinh hoạt kinh tế nhưng lại mang đậm dấu ấn của văn minh sông nước,
đó là chợ nổi của miền Tây Nam Bộ. Người dân miền Tây đã tạo cho mình một phong
cách sinh hoạt riêng, phù hợp với điều kiện đặc thù của tự nhiên nơi đây. Gần
như ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đều có chợ nổi: Ngã Bảy, Cái Răng, Phong
Điền (Cần Thơ), An Hữu (Tiền Giang), Ngã Năm, Trà Men (Sóc Trăng), Năm Căn,
phường 8, Thới Bình (Cà Mau), Long Xuyên (An Giang), Sa Đéc (Đồng Tháp)…Trong
đó vang tiếng cả nước là chợ nổi Ngã Bảy (Phụng Hiệp, Cần Thơ) và chợ nổi Ngã
Năm (Thạnh Trị, Sóc Trăng) trên kênh Quản Lộ. Ở chợ nổi bán người ta mua bán đủ
thứ, từ trái cây, rau thịt, cá…cho đến hàng tiêu dùng, bán cả đồ ăn thức uống,
gần như không thiếu thứ gì. Chợ nổi có lối tiếp thị trên trời, theo kiểu “treo
gì bán nấy”. Trước mỗi ghe có một cây sào cao, trên đó treo những hàng hóa cần
bán (dân địa phương gọi là bẹo). Chợ nổi cũng có những chợ dạng “chuyên
doanh”. Chợ nổi An Hữu (Cái Bè, Tiền Giang) là chợ trái cây đầu mối lớn nhất
đồng bằng sông Cửu Long. Chợ Trà Men (Sóc Trăng) nổi tiếng với các mặt hàng
lọp, lờ, lu, khạp…Chợ nổi thực sự là bức tranh đầy màu sắc của châu thổ sông
Cửu Long.
4.Trong đời sống văn
hóa
Ghe
xuồng ở Nam Bộ cũng được phản ánh khá đậm nét trong nhiều từ điển. Chúng tôi
thử làm một thống kê (chưa đầy đủ) để thấy được sự đa dạng, phong phú trong
cách thức đặt tên theo chức năng, theo địa phương, theo chất liệu cấu tạo, theo
màu sắc của loại hình phương tiện giao thông đặc biệt này.
Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của ghi 28 tên ghe: ghe bầu, ghe trường đà, ghe cửa, ghe bản lồng, ghe bất mãn, ghe vạch (ghe mỏ vạch), ghe cui, ghe trẹt, ghe chài, ghe lườn, ghe ngo, ghe vợi, ghe giàn, ghe câu, ghe lưới, ghe be, ghe cá, ghe lái ngoài, ghe đuôi tôm then trỗ, ghe hầu, ghe lê, ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe chiến, ghe vẹm, ghe khoái, ghe hàng bổ.
Dictionnaire
Vietnamien – Francais (1898) của Génibrel thống kê được 38 tên ghe:
ghe bầu, ghe biển, ghe cửa, ghe nốc (ghe giã), ghe mành, ghe nang, ghe lồng,
ghe lồng chón, ghe bốc chài, ghe trẹt, ghe giàn, ghe rập đáy, ghe cui, ghe cá,
ghe rớ, ghe lườn, ghe vạch (mũi vạch, mỏ vạch), ghe câu, ghe rỗi, ghe đò,
ghe hầu, ghe lê, ghe son, ghe vẹm, ghe ô, ghe hồng, ghe quyển, ghe diều,
ghe mui ống, ghe giã vọng, ghe sơn đỏ, ghe tiểu điếu, ghe bản lồng, ghe khoái,
ghe sai, ghe đại trường đà, ghe chiến, ghe nan.[18]Trong
đó có một số loại ghe không phải của (hoặc chỉ có) ở Nam Bộ như: ghe nốc, ghe
mành, ghe nang, ghe giã vọng, ghe bầu, ghe đại trường đà.
Dictionnaire Vietnamien – Chinois – Francais (1937) của Gustave Hue chép 40 tên ghe: ghe bản lồng, ghe bầu, ghe bể (ghe biển), ghe bốc chài, ghe cá(ghe câu), ghe cui (ghe be), ghe cửa, ghe chiến, ghe diểu, ghe đại trường đà, ghe đinh, ghe đò, ghe guộc, ghe giã, ghe vọng, ghe giàn, ghe hầu, ghe hồng, ghe khoái, ghe lê (ghe hầu), ghe lồng, ghe chón, ghe lườn, ghe mành (ghe biển), ghe mui ống, ghe nan, ghe nốc (ghe biển), ghe ngo, ghe quyển, ghe rập đẩy (ghe be), ghe rỗi, ghe rớ, ghe sai, ghe son, ghe sơn đỏ, ghe tiểu điếu, ghe trẹt, ghe vạch (ghe mỏ vạch, mũi vạch), ghe vụn (ghe son), ghe nan.
Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais (1957) của E. Gouin cho ta 39 tên ghe: ghe bầu, ghe be, ghe bể (ghe biển), ghe bốc chài, ghe cá, ghe câu, ghe cui, ghe cửa, ghe chiến, ghe chiều, ghe giàn, ghe diểu, ghe đại trường đà, ghe đinh, ghe đò, ghe giã, ghe giã vọng, ghe hầu, ghe kẻ, ghe khoái, ghe lê (ghe hầu), ghe lồng, ghe lườn, ghe mành, ghe mui ống, ghe nan, ghe nốc, ghe ngo, ghe quyển, ghe ô, ghe rỗi, ghe rớ, ghe sai, ghe son, ghe sơn đỏ, ghe tiểu điếu, ghe trẹt, ghe vạch, ghe vẹm (ghe son).
Tự vị tiếng Việt miền Nam (1993) của Vương Hồng Sển cung cấp 32 tên ghe: ghe bầu, ghe trường đà, ghe nạn, ghe cửa, ghe bản lồng (ghe lồng), ghe bất mãn, ghe vạch (ghe mỏ vạch), ghe cui, ghe trẹt, ghe lườn, ghe be, ghe ngo, ghe vợi, ghe đò, ghe giàn, ghe câu, ghe lưới, ghe cá, ghe lái ngoài, ghe đuôi tôm then trỗ, ghe hầu, ghe lê, ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe chiến, ghe điệu, ghe vẹm, ghe khoái, ghe hàng bổ, ghe bè, ghe chài.
Từ
điển phương ngữ Nam Bộ (1994) do Nguyễn Văn Ái chủ biên đếm được 15 tên
ghe: ghe bản lồng, ghe bầu, ghe bầu nóc, ghe be, ghe cà vom, ghe chài, ghe chài
lớn, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe hầu, ghe lồng, ghe lườn, ghe mỏ vạch, ghe
ngo. Đây
là số tên ghe được ghi nhận ít trong số 5 cuốn từ điển trên và ít hơn trong
thực tế rất nhiều.
Các từ ngữ liên quan đến chiếc ghe cũng được thể hiện khá rõ, chỉ riêng trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của đã có: ở ghe, đi ghe, về ghe, ra ghe, lui ghe, xuống ghe, coi ghe, đậu ghe, ghe guộc. Về tục ngữ thì có câu: Ghe không lái như gái không chồng.
Xung
quanh chuyện ghe xuồng ở Nam Bộ đã để lại dấu ấn qua nhiều địa danh, chẳng hạn
như: Nhà Bè, Cái Bè, Vũng Tàu, Rạch Tàu…
Nhà
Bè vốn gắn liền với truyền thuyết Võ Thủ Hoằng (đọc trại thành Huồng), nhà giàu
có, thường cho vay nặng lãi. Sau sợ bị trừng phạt nơi âm phủ bèn phát tích làm
lành, dựng nhà bè nơi ngã ba sông, trên để gạo củi mắm muối cho khách lỡ đường.
Truyền thuyết Thủ Huồng với môtip “du địa phủ” này, nay hãy còn để lại dấu vết
ở chùa Chúc Đảo (thường gọi chùa Sau hay chùa Thủ Huồng), xã Hiệp Hoà, thành
phố Biên Hoà.
Nhà
Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Trên
sông La Ngà (Đồng Nai) và Long Xuyên (An Giang) trên sông Hậu nay là
những nhà bè nuôi cá nổi tiếng, mà con cá basa đã đi vào thị trường nước Mỹ.
Theo
Sơn Nam trong Bến Nghé xưa thì Cái Bè (Tiền Giang) vốn do ghe
bè, một loại ghe lớn, tụ tập mua bán lên Campuchia mà thành tên
đất. Cái trong từ cổ chỉ sông rạch.
Vũng
Tàu (Bà Rịa- Vũng Tàu), Rạch Tàu (Cà Mau) là những nơi tàu thuyền thường trú
đậu.
Trong
diễn xướng dân gian Nam Bộ, hò sông nước chiếm một vị trí quan trọng. Liên quan
đến việc đi lại trên sông nước có thể kể ra như những điệu hò như: hò chèo ghe,
hò mái đoản, hò mái nhì, hò mái trường, hò khoan, hò mái ố, hò Đồng Tháp, hò
Sông Hậu…Có những câu tư duy nghệ thuật dân gian đạt đến mức táo bạo:
Nước
Tân Ba chảy qua Vàm Cú
Thấy em chèo cặp vú muốn hun
Gắn
với ghe xuồng còn có nhiều bài vè mô tả lại các hoạt động sản xuất, mua
bán: Vè đánh lưới, Vè đi biển, Vè lái rỗi, Vè đường sông Lục Tỉnh, Vè
thương hồ…
Đua
ghe là một trò chơi giải trí mang tính cộng đồng không thể thiếu được ở miền
Tây Nam Bộ. Hoạt động này thường diễn ra vào dịp Tết, dịp lễ, cúng đình…Người
ta thường tổ chức đua ghe giữa các thôn ấp với nhau. Ghe đua của người Việt là
loại ghe be, ghe trảng lườn. Trong khi đó ghe đua của người Khơme lại là ghe
ngo.
C. Lemire trong tác phẩm Cochinchine Francaise et Royaume de Cambodge (1884) của mình đã mô tả lại cảnh đua thuyền độc mộc đầy náo nhiệt trên sông Sài Gòn vào cuối thế kỷ XIX. Đây chính là những cuộc đua ghe ngo hào hứng mà ta thường thấy trong các dịp lễ Óoc-om-bóc ở Sóc Trăng. Đọc lại đoạn trích này để thấy được sức sống mãnh liệt của một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đậm đà bản sắc của dân tộc Khơme, mà đã có một thời người ta phục hồi lại ở thành phố Hồ Chí Minh những năm đầu 90 của thế kỷ trước.”Mỗi năm ở Sài Gòn vào ngày 15 tháng tám có đua ghe kỳ lạ. Trên sông Sài Gòn bề ngang từ ba đến bốn trăm mét vắt ngang qua thành phố, khoảng 20 ghe độc mộc dài, thon có treo cờ: ở đằng đầu sừng sững một đầu rồng bằng cáctông với sừng và râu dài bằng dây sắt, ở đằng sau là hình cái đuôi của con quái vật. Các thuyền độc mộc này hẹp đến nỗi hai người chỉ có thể ngồi đối diện nhau trên một cái băng nhỏ (…). Ba chục người ngồi ép sát nhau trên các ghe mảnh mai này và chờ lệnh. Một phát đại bác từ soái hạm được bắn đi, chuông trống đáp lại và các ghe lướt trên sóng thi đua chèo nhanh. Các bạn tưởng đâu là những con rắn, rất quái đản lướt trên nước. Các tay chèo mình trần đến thắt lưng, màu da hơi xanh xanh màu ô liu, bắp thịt nổi vồng; (...)Âm thanh của các nhạc cụ xa lạ này, những tiếng la thét này làm người ta liên tưởng đến các cuộc tấn công của giặc cướp rất thường xảy ra ngày trước trên các sông lớn này (…)
Một
khía cạnh văn hóa liên quan đến ghe xuồng đó là tín ngưỡng xung quanh loại
phương tiện giao thông thuỷ đặc biệt này. Người đóng ghe thì có lễ cúng ghim
lô, cúng khai nhãn, cúng hạ thuỷ, đại khái cầu cho mọi việc được hanh thông.
Người sử dụng ghe thì cúng ở đầu mũi ghe cầu cho mua mai bán đắt (dân thương
hồ), đánh bắt được nhiều cá tôm (nghề hạ bạc), chở khách được an toàn (dân tàu
đò)…
Đặc biệt mắt ghe là một biểu tượng văn hóa cần được giải mã. Mắt ghe từ TP.Hồ
Chí Minh đến Kiên Giang cùng chung đặc điểm là mắt tròn, tròng đen, nhãn trắng,
mang ghe được trang trí nhiều kiểu dáng khác nhau với đường viền trắng chạy
xung quanh.
Nhìn chung, sự khác biệt về hình dáng, màu sắc, đường nét của các con mắt
thuyền ở từng vùng miền là do thị hiếu thẩm mỹ, trình độ tay nghề của những
người thợ đóng ghe thuyền và phong cách này cũng thường mang tính ổn định. Mắt
ghe thuyền được trang trí lại sau một thời gian sử dụng.
Lời
kết
Ghe xuồng ở Nam Bộ vừa là một loại phương tiện giao vô cùng hữu hiệu, nó gắn bó vô cùng mật thiết với cư dân vùng sông nước, lại vừa là ẩn chứa bên trong những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Mai đây, ở vùng châu thổ này, phương tiện khoa học kỹ thuật có phát triển đến mấy đi nữa, đời sống người dân có khấm khá hơn lên, nhưng chắc rằng vai trò của “người bạn đường” này là không thể thay thế được.
Thuyết
minh về cây dừa nước.
Dừa nước là loài duy nhất trong họ
Cau, sinh sống trong đầm lầy. Loài này sinh trưởng tại miền nam châu Á và Bắc
úc. Hóa thạch của phấn hoa dừa nước đã được xác định niên đại đến 70 triệu năm
về trước.
Thân
cây dừa nước mọc ngang dưới lòng đất, chỉ có lá và cuống hoa mọc lên trên mà
thôi. Vì vậy, nó không được xem như một loại cây gỗ, mặc dù tán lá có thể cao
đến 9 mét. Hoa cái nở rộ thành chùm ở đầu cụm hoa hình cầu, hoa đực màu đỏ hoặc
vàng dạng đuôi sóc trên những nhánh kế sau. Khi hoa đã thụ phấn, những trái nhỏ
ép vào nhau lớn lên thành như một quả bóng đường kính cỡ 25 - 30cm trên mỗi đầu
cuống (quầy dừa). Hạt dừa nước khô già sẽ rơi rụng và phân tán theo thủy triều,
có khi mọc mầm ngay khi trôi nổi.
Dừa nước mọc trong những
vùng sình lầy dọc theo bờ sông, hay vùng ven cửa biển có thủy triều lên xuống,
có nước chảy chậm bồi đắp phù sa dinh dưỡng. Nếu để tự nhiên, dừa nước sẽ phát
tán sinh sôi nảy nở theo sự đưa đẩy của thủy lưu. Dừa nước rất thường gặp dọc
theo bờ biển và các cửa sông đổ vào An Độ Dương và Thái Bình Dương, từ
Bangladesh tới các hải đảo Thái Bình Dương. Loài dừa nước có thể sống còn qua
một thời kì khô ráo ngắn hạn. Dừa nước được coi như một loài thực vật đang có
nguy cơ bị diệt chủng tại Singapore.
Lá dừa nước dược dùng nhiều nhất vào
việc chầm lá để lợp nhà, làm rổ rá, rất. phổ biến ở những vùng Nam Bộ và nhiều
địa phương của các nước lân cận.
Cuống hoa dừa nước (quầy dừa) chưa
nở hoa có thể được trích lỗ hứng nhựa ngọt để làm rượu. Cũng để nhựa ấy tự lên
men thành một loại giấm nguyên chất. Mầm dừa non ăn được, cũng như những cánh
hoa nở có dùng như trà (chè). Cái (thịt) dừa non thì được dùng vào các món giải
khát khác nhau. Người ta cho lợn ăn dừa nước vào mùa khô để thịt heo sẽ ngọt.
Lá dừa nước thật non còn dược dùng để làm giấy vấn thuốc lá.
Khai thác dừa nước là một truyền
thống lâu đời ở Đông Nam Á, khi mà một bộ phận khá lớn cư dân các vùng duyên
hải tây Thái Bình Dương lấy dừa nước làm nguồn thu nhập chính.
Ở nước ta, nông dân ngày nay mới chỉ
sử dụng trái dừa nước để ăn và lá để lợp nhà hay làm củi, không mấy ai biết đến
kĩ thuật rút nhựa dừa nước từ cuống hoa để nấu đường, ủ rượu, làm bia, lên men
giấm, chưng cất cồn và một số loại sản phẩm có giá trị khác trong khi đó lại là
nguồn thu nhập ít có hiệu quả nhất của dừa nước. Sản lượng đường dừa nước trung
bình 20,3 tấn/ha cao hơn so với đường mía (khoảng 5 đến 15 tấn/ha).
Phải đến năm thứ 4 hoặc thứ 5 cây mới
đơm hoa cho trái. Thời gian này sẽ kéo dài đến năm thứ 55 trở lên, nghĩa là mỗi
cây dừa nước có thể khai thác liên tục trên 50 năm. Mỗi ngày 2 lần, người ta
dùng dao sạch cắt bỏ một lát mỏng 2mm trên đầu cuống để nhựa cây chảy ra liên
tục.
Dừa nước là một loại cây có nhiều tác dụng đối với cuộc sống con người. Tuy nhiên, hiện nay do tốc độ đô thị hóa, diện tích dừa nước ngày càng bị thu hẹp và có nguy cơ bị mất dần.
Cây
bần trong văn hoá dân gian Tây Nam bộ
1.
Hình dáng cây bần và giai thoại, cổ tích, ngụ ngôn, ca dao, liên quan đến cây
thuỷ liễu Theo Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Quốc Vượng (chủ biên),
phần được coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng 4000 km2, chủ yếu là vùng đồng
bằng sông Cửu Long, một số đảo (lớn nhất là đảo Phú Quốc) cùng một vài dãy núi
thấp ở phía Tây An Giang, Kiên Giang.
Sông Mê Kông chảy vào vùng đất phương Nam chia ra làm 2 nhánh Tiền Giang và Hậu Giang rồi hoá chín rồng tuôn ra biển. Nằm giữa 2 nhánh sông lớn có đến 4000 kênh rạch với chiều dài tổng cộng khoảng 5700 km. Câu nói, ở xứ này bước ra cửa là gặp sông nước mênh mông, phản ánh đúng thực trạng ấy.
Cây
bần
Vùng
Tây Nam Bộ có độ cao trung bình gần 2 m, là vùng đất phù sa mới. Dọc theo các
kênh rạch vừa đề cập cũng như ở các cửa sông, cửa biển phù sa đặc quánh ngày
đêm bồi đắp cho vùng đất trũng, những cánh đồng ngập sâu dần dần hoá thành
những bãi bồi, cây cối mọc xum xuê. Đi tiên phong trong quá trình “lấn biển” ấy
là đước vẹt. Còn ở ven sông, rạch thì bần, mắm, dừa nước, ô rô, cóc kèn, choại,
ráng ... đua nhau chen chút tạo thành một mảng sinh thái đặc trưng. Trong khuôn
khổ bài viết viết này, chúng tôi xin khảo sát hình ảnh cây bần trong đời sống
thường nhật của bà con nông dân miệt đất Chín Rồng.
Theo Việt
Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, cây bần : Cũng gọi là thuỷ
liễu, loại cây to mọc dựa bờ nước, lá nhiều, nhành yếu, bông trắng, trái tròn
dẹp, có đài dầy, nhọn ở gần cuống, ăn chua và chát (Sonneratia).
Xuất
phát từ cái tên bần đồng âm với sự nghèo túng, bần cùng, mà người Nam bộ
đã đặt câu đố về nó :
Giống
chi toàn là giống đực
Thiếu
tứ bề cam cực chung thân ?
Giống
đực là bởi ở loài cây này, luôn có một phần của rễ mọc ngoi lên mặt đất để hút
dưỡng khí, dân gian gọi là “cặc bần”. Từ đó, người ta cho rằng bần không có
giống ... cái !
Bần
ơi, ơi hỡi cây bần
Lá
xanh bông trắng lại gần không thơm
Hình
dáng của cây bần đã thể hiện khá rõ nét qua câu ca dân dã ấy !
Cây
bần gắn liền với cái tên thuỷ liễu đầy thơ mộng bởi một giai thoại liên quan
đến vua Gia Long trong những ngày gian khó. Dân gian miệt cù lao Bến Tre kể :
Khi chạy lánh Tây Sơn, có lần thuyền chúa Nguyễn lạc vào rạch Ụ, Cái Mít (thuộc
Hàm Luông ngày nay), phải nhờ gia đình ông Trần Văn Hạc, là cai việc trong làng
« bữa cơm ». Tình thế bất ngờ, lại phải “bảo mật”, chúa Nguyễn nói
với gia chủ :
-
Tôi chỉ muốn xin bữa cơm đạm bạc, có gì ăn nấy vì tôi phải đi thật gấp !
Ông
cai Hạc suy nghĩ : nếu làm thịt gà, thịt vịt thì tốn thời giờ. Giết heo lại
càng lâu lắt và lộ bí mật. Đích thân ông Cai vào bếp, giở hũ mắm sống rồi ra
ngoài bãi hái mấy trái bần mới vừa chín cây.
Có
lẽ, đó là lần đầu tiên và cũng là duy nhất Nguyễn Ánh được thưởng thức món ăn
như vậy. Mùa vị vừa chua, vừa chát của bần, mùi vị đặc trưng của mắm và có lẽ
quan trọng nhất là bụng đói cồn cào sau bao ngày chạy loạn, khiến vị vua cảm
thấy thích thú :
-
Trái chi mà ngon vậy ?
Cai
Hạc kính cẩn thưa :
-
Muôn tâu, tên trái ấy nghe dân dã quá, kẻ bề tôi chưa tiện thưa qua ạ !
-
Cứ nói, đừng sợ chi cả !
-
Thưa, trái bần ạ !
Nghe
xong, Nguyễn Ánh cười, bảo :
-
Trong lúc gian truân này ta mới hiểu trái bần thật ngon lành, nó chẳng kém gì
cam quýt, nhãn, hồng
Vừa
nói, vị vua thuở hàn vi liếc mắt nhìn rặng cây bần mọc hoang trung trùng điệp
điệp trước nhà, lá bần xanh mượt gờn gợn thật thơ mộng. Hơn thế, từng chùm bông
bần đung đưa, khoe nhuỵ trắng hồng vương bay theo gió.
Vua
bèn phán :
-
Cây này giống như cây liễu, trong Đường thi, Tống phú. Cây liễu ở Trung Hoa mọc
trên đất cao, cây liễu xứ ta mọc trên bãi bùn, dầm chân trong nước mặn mà lá
vẫn tươi xanh. Từ nay, ta gọi nó là thuỷ liễu, tức cây liễu mọc dưới nước nhé !
Vậy
là, từ đó bần có một loài tên không kém phần vương giả !
Đóm
đeo thuỷ liễu đôi chùm
Biết
ai nhơn đạo chỉ giùm làm ơn.
Ở
hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây (huyện Vàm Cỏ, Long An) có miếu thờ ông Mai Công Hương,
dân gian quen gọi là « miếu Ông Bần Quỳ ». Theo Huỳnh Ngọc Trảng
trong Ngàn năm bia miệng, (Sở Văn hoá và Thông tin Long An, in năm 1984),
thì từ khi Mai Công Hương (người sau đó được triều đình nhà Nguyễn phong làm
« vị quốc tử nghĩa thần ») tử tiết (khi đánh với quân Nặc Thâm, năm
1705) thì tất cả “bần” mọc hai bên bờ sông đều “quỳ” xuống như muốn tỏ phục
hành động nghĩa báo của ông. Có dị bản khác thì cho rằng sau khi Phan Thanh
Giản tuẫn tiết năm 1867, bần ở vùng ngã ba sông Vàm Cỏ và sông Tra hàng loạt
bần quỳ xuống ... chịu tang người trung liệt. Từ đó, dân gian gọi ngả ba này là
Ngã ba Bần Quỳ.
Cũng
theo Huỳnh Ngọc Trảng giải thích thì “hiện tượng bần quỳ là do nước sông xói
mòn làm cây cối ở mé sông ngả nghiêng ...
Tiếp
lời của nhà nghiên cứu , chúng tôi nói thêm một ý : khi nước ngập một phần lớn
của rễ bần, nếu nước chảy mạnh, rễ bần thường ngã qua xuyên lại. Do đó, dân
gian miền quê Cửu Long có một câu đối khá độc đáo về rễ bần như sau :
Nước
chảy cặc bần run bây bẩy
Gió
đưa dái mít giãy tê tê
Trong
lần đi điền dã, chúng tôi may mắn được người dân vùng U Minh, Rạch Gốc, kể cho
nghe Sự Tích Cây Bần, truyện đại khái như sau.
Xưa
kia có một gia đình nông dân rất nghèo khó, áo chẳng được lành, cơm chẳng đủ
no. Chẳng ai biết vợ chồng anh ta tên gì, chỉ dựa vào gia cảnh mà gọi anh là
Bần. Hết cày thuê đến cuốc mướn mà nhà Bần vẫn vẫn không sao có đủ gạo ăn.
Người vợ ngày ngày phải lặn lội tìm thêm trái rừng, lá cây mọc hoang hái về ăn
đỡ dạ.
Năm
ấy, trời lụt, nước dâng cao ghê lắm. Cảnh nghèo như Bần càng thêm khốn khổ. Vợ
chồng Bần biết vậy nên bồng bế nhau đi khỏi xóm, đến vùng đất ở cửa sông để cắm
câu, xúc tép, mong sanh tồn qua cơn thắt ngặt.
Hoa
bần
Nhưng
sức mỏn hơi mòn, Bần đã gục ngã bên bãi đất bồi ven sông. Chồng chết, vợ Bần
than khóc thảm thiết rồi cũng qua đời sau đó không lâu.
Thời
gian trôi qua, trời hết lụt, cuộc sống trở lại bình thường, mọi người nhớ đến
Bần ra cửa sông tìm thì chẳng còn ai thấy bóng dáng của hai vợ chồng nghèo khổ
ấy nữa. Tìm mãi, họ phát hiện hai cây lạ mà trước nay vùng đất này chưa từng
có. Một loại cây mọc ven sông, to tàn rậm lá, hoa nở tim tím, trái hình tròn
dẹp, ăn vừa chua vừa chát. Họ gọi đó là cây bần. Một loại cây khác mọc gần đấy
cũng cho trái hai màu tím và trắng như bông cây bần nhưng ăn có vị mặn. Người
gọi đó là cây Mắm. Họ tin rằng đấy là hai loại cây do vợ chồng Bần hoá thành,
hai thứ cây này thường mọc gần nhau, chúng có đời sống rất đơn giản mọc trên
vùng đất cằn cỗi hay bùn hoang, giống như tình cảnh của hai vợ chồng chàng trai
nghèo khó ngày trước ...
Trong
những câu chuyện ngụ ngôn ở đồng bằng sông Cửu Long chúng tôi còn gặp hình ảnh
cây bần qua câu chuyện Bần và Đom Đóm. Dân gian kể rằng :
Đom
Đóm tự hào với chút ánh sáng trong bụng, thấy Bần đứng cạnh bờ sông , Đom Đóm
hỏi :
-Thân
ông đen đủi suốt đời chôn chân nơi bãi sình lầy chắc ông buồn lắm ?
Bần
vừa đáp, vừa hỏi lại : Tôi thay người đứng giữ bải bờ cho sông. Còn chú ?
Đom
Đóm trả lời một cách tự đắc :
-Thấy
ông đứng nơi tăm tối, tôi mang ánh sáng đến cho ông .
Bần
nghi ngờ :
-Thứ
ánh sáng của chú có chịu nổi mưa dầm bão táp nơi bải bờ nầy chăng ?
Đom
đóm lớn giọng hơn :
-
Ánh sáng tôi cỏ thể đốt cháy ông.
Vừa
dứt lời con mưa ập đến. Đom Đóm vội nép vào Bần lẫn trốn. Bần độ lượng che cho
nó suốt cơn mưa. Sau đó, Đom Đóm đã hiểu ra mọi chuyện. Một bài học về sự khiêm
tốn được tác giả dân gian gửi đến cho nó.
Cũng
từ ngày ấy, cứ đêm đêm Đom Đóm lại vây quanh rặng Bần trò chuyện thân thiết.
Bần
già đốm đậu sáng ngời
Lỡ
duyên tại bậu trách trời sao nên
Bần
có mặt nơi này khá sớm, bần cũng đã để lại dấu ấn bằng những câu chuyện, những
giai thoại không kém phần thú vị ! Để chứng minh thêm sự phong phú của cây bần
trong đời sống tâm hồn của người bình dân, chúng tôi điểm qua vài nét chính
trong những câu ca dao có hình tượng cây bần.
Xin
được mở đầu bằng một ca câu lịch sử :
Bần
gie đóm đậu sáng ngời
Rạch
Gầm Xoài mút muôn đời oai linh
Câu
ca gắn liền với sự kiện Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ phá tan quân Xiêm xâm
lược nước ta năm 1785.
Bần
cũng xuất hiện trong cung bậc hài hước với chức năng mua vui, để khuây khoả,
cười cợt là chính. Dân gian gắn chuyện coi tướng, coi tuổi người cầm tinh con
khỉ rằng :
Tuổi
thân con khỉ ăn bần
Chuyền
cây hái trái lọt ùm xuống sông.
Cảnh
tượng từng hoang mọc trùng điệp, vượn, khỉ, chuồn chuột ... nhởn nhơ vì “dân
số” của chúng đông hơn cư dân lúc bấy giờ :
Cây
bần gie cây bần ngả cây bần quỳ
Cảm
thương con khỉ đột lấy gì mà ăn.
Cây
bần cũng có mặt trong bài hát tếu táo mà người bình dân chỉ nhằm hát cho có hát
chứ không quan tâm đến nội dung. Hình ảnh ông táo, ông địa, hững nhân vật thần
linh mà theo dân gian cũng rất hay rắn mắt, chọc cười cho đời thêm vui :
Ngó
lên chót vót cây bần,
Thấy
ba ông Địa ở trần nấu cơm
Ông
kia xách dĩa lại đơm
Ông
nọ ứ hự nồi cơm mới vần
Mới
vần mặc kệ mới vần
Bây
giờ đói bụng xúc lần ra ăn.
Trong
ca dao về tình yêu, bắt đầu từ cách thức thăm dò tìm kiếm ý trung nhân, hình
ảnh một chàng trai lém lĩnh không lo việc mình mà lợi dụng bụi bần rậm rạp để
“dòm lén” các cô gái quê đi ngang qua, song hành động đó đã được một ai đó kịp
thời “chộp” được :
Anh
kia trốn bụi bần non
Không
lo chài lưới, lo dòm các cô
Nhưng
không phải lúc nào cũng được như ý đâu :
Chiều
chiều xuống bến ba lần
Bóng
em không thấy thấy bần xơ rơ
Nhiều
cô gái mượn hình ảnh trái bần trôi nổi để ví thân phận của mình :
Thân
em như trái bần trôi
Sóng
dập gió dồi biết tắp vào đâu ?
Motip
“thân em” quen thuộc chúng ta đã gặp khá nhiều trong kho tàng ca dao dân ca
Việt Nam. Nét riêng độc đáo ở đây chính là cách liên tưởng về sự bấp bênh
của một hiện tượng có thật, quen thuộc khắp vùng sông rạch miền Tây, bần chín,
bần rụng, và theo từng cơn sóng nó nổi trôi bồng bềnh theo nước. Thời gian sau,
trái bần rả ra, hột nảy mầm, mọc cây con xanh khắp các bãi đất bùn lầy. Phận
gái ngày xưa, duyên tình cũng éo le, cũng liều nhắm mắt đưa chân mặc tình cho
sóng gió cuộc đời nổi trôi như trái bần chín rụng, vậy thôi !
Ở
cung bậc ngõ lời, ta gặp cảnh tỏ tình thật cảm động :
Cây
bần soi bóng ghe nghèo
Qua
sông gặp gió, em chèo giùm anh
Có
chàng trai đã khéo léo dùng cách nói văn chương để tỏ bày nỗi lòng với người
trong mộng :
Làm
thơ anh dán đọt bần
Dán
cho hai họ Nguyễn Trần gặp nhau
Hai
họ Nguyễn Trần ở câu ca này không phải là điển tích Châu – Trần và nó cũng chỉ
mang ý nghĩa tượng trưng chứ không hoàn toàn chính xác như sự thật ngoài đời
sống.
Nghe
lời thì tạm tin vậy, chứ sự đời chưa biết sẽ về đâu :
Neo
ghe vô dựa gốc bần
Anh
thương em, anh nói vậy chớ biết mình gần đặng không ?
Một
câu hỏi tu từ dành cho cả người trong cuộc hay nhiều người khác nữa, xem ra
thật hàm súc và cũng rất khó tìm ra lời giải cho thoả đáng.
Bần
cũng có mặt trong nỗi nhớ thương chờ đợi của hai người đã trao trọn tình ý cho
nhau :
Bần
gie đom đóm bu quanh
Lập
lòe sáng tối, lòng anh nhớ nàng
Xem
ra ở câu ca này, tác giả dân gian đã sử dụng hình ảnh chơi chữ, vừa miêu tả
cảnh lập loè của đóm đóm lại vừa gợi cho người nghe nhiều cảm xúc của người
trong cuộc. Trí tuệ bình dân sáng hơn cả đom đóm đậu đọt bần gie !
Yêu
nhau ai chẳng muốn gần nhau, mãi mãi bên nhau mới có hạnh phúc viên mãn :
Bần
gie bần ngả bần quỳ
Sống
mà chịu cảnh chia ly thêm buồn
Dù
bất kỳ hoàn cảnh nào cũng quyết không xa nhau :
Phụ
mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem
anh treo tại nhánh bần
Rủi
đứt dây mà rớt xuống,
Anh
cũng lần mò kiếm em.
Nghe
qua ai mà chẳng động lòng với chàng trai chung tình mà cũng không kém phần bạo
gan đó. Họ thề nguyền bên nhau son sắt đến răng long đầu bạc.
Lẻ
đôi em chịu lẻ đôi
Hoa
tàn em cũng đợi, bần trôi em cũng chờ
Khảo
sát những câu ca dao có chứa hình ảnh cây bần chúng tôi gặp được lời ca hết sức
độc đáo, khá hiếm thấy, câu ca thể hiện sự “ghen tuông” trong tình yêu, dân
gian gọi là giành gái hay tranh mèo. Hơn nữa, cách dùng khẩu ngữ cũng rất đáng
chú ý :
Chiều
mai chiều mốt anh cốt cây bần
Chẳng
cho ghe cá đậu gần ghe tôm
Anh
chàng chủ nhân của câu ca xem ra không muốn cho người khác đến gần người con
gái mà anh ta đã để ý. Sắc sảo hơn ở cụm từ “cốt cây bần”. Chữ “cốt” có nghĩa
là đốn cây, chặt cây vốn rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói của người dân quê
Cửu Long sông nước. Cây bần như đã nói trên chỉ toàn ... giống đực ! Cốt
cây bần quả là một lời cảnh báo dư sức nặng dành cho những ai ham trổ mòi
với “ghe” đã có chủ ! Con trai mà bị “cốt cây bần” rồi thì cầm bằng có cũng như
... không ! Ngụ cảnh để nói người quả là thâm thuý và tài tình quá sức vậy !
Cuối
cùng, mọi chuyện cũng sẽ an bài, sự tan vỡ trong tình yêu là điều không ai muốn
nhưng lại khó tránh khỏi.
Họ
bàng hoàng, đau đớn trong tuyệt vọng :
Bướm
bay dưới dạ cây bần,
Làm
sao kết nghĩa Châu Trần với nhau
Nhiều
khi, cô gái thẳng thắn chối từ, dù muối xát gan bàu
Bần
gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi
Anh
với em duyên nợ hết rồi
Đi
tìm chỗ khác đừng ngồi kế em
Nói
mà như tát vào mặt kẻ đáng tội :
Hổng
thương em hổng có cần
Trầm
hương khó kiếm chớ đước, bần thiếu chi
Sự
phỉnh phờ lừa gạt trong tình yêu cũng bị vạch mặt chỉ tên
Bần
gie con hạc đậu cánh xòe
Tưởng
anh vô gá nghĩa, ai dè gạt em
Kẻ
phản bội hãy nhớ lấy lời nguyền sau đây :
Trèo
lên chót vót cây bần
Vái
anh đi cưới vợ, cho sóng thần nhận ghe
Đúng
là lời trực ngôn, ăn ngay nói thẳng của người Nam Bộ, không thể lẫn vào đâu
được.
Khi
tan vỡ duyên tình, người trong cuộc thường tự trách mình, trách người mình yêu,
hay tìm cách lý giải ở một nguyên nhân khác, do môn đăng hộ đối chẳng hạn, như
ngay từ đầu bài viết chúng tôi đã nói dân gian quan niệm “bần” không phải là
hạng giàu sang :
Cảm
thương ô dước, bời lời
Cha
sao mẹ sến, dựa nơi gốc bần
Họ
bào chữa, hay tự an ủi về chuyện duyên kiếp lỡ làng, bình tĩnh hơn, nghĩ kỹ lại
thì ra do chính con người gây ra chứ không phải tại trời cao đất dày nào cả :
Bần
già đốm đậu sáng ngời
Lỡ
duyên tại bậu trách trời sao nên
Cũng
có trường hợp do cha mẹ không thương nên tơ hường đứt đoạn :
Ba
bốn nơi sang cả, phụ mẫu em muốn gả
Em
chấp tay : khoan đã, chưa tới duyên phần
Phụ
mẫu nói em bất tôn giáo hoá
Em
trèo lên cây bần cho kiến nó bu
2
- Bần trong đời sống thường nhật
2.1
- Từ địa danh đến các vật dụng từ bần ...
Trái
bần
Bần
đã đi vào địa danh như Rạch Bần (Cần Thơ), Cây Bần (Bạc Liêu, Sóc Trăng), Ngã
Ba Bần Quỳ (Long An) ...
Bần
là loài cây tạp ít giá trị kinh tế nhưng chức năng giữ đất trước sự xâm lấn của
sóng biển thì thật đáng nể. Bần mọc đến đâu đất dai bền vững đến đó. Có được
điều này vì bộ rễ của nó phát triển khá vững chắc và chiếm một không gian rộng
lớn ...
Câu
thành ngữ “Cặc bần nhét nút chai” quá quen thuộc đối với người dân miền Tây
sông nước. Nội dung của nó liên quan trực tiếp đến rễ của cây bần. Rễ bần có
hai phần phần ẩn dưới đất, phần mọc từ dưới bùn chĩa lên trời để hút dưỡng khí,
lớn hơn ngón tay cái, dân miền Tây Nam Bộ cũng cho nó một tên cũng rất đặc
biệt cặc bần ! Theo Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức – Lê Ngọc
Trục, Khai Trí, Sài Gòn in năm 1970) giải thích, Cặc bần (danh từ, thực
vật) : Rễ cây bần, rễ cứng đuôi nhọn đâm ngược và ngay lên chôm chổm khỏi mặt
đất từ 20 đến 40 cm .
Theo
dân gian, cặc bần còn được chặt nhỏ phơi khô nấu nước uống để chữa một số bệnh
của phụ nữ.
Thân
cây bần to có thể cưa ván, nhưng đây chỉ là ván tạp, không chắc, xài chỉ được
đôi ba năm. Người nghèo dùng ván bần để làm ngựa (một loại phản, kê để ngồi)
xài trong nhà. Người nghèo chết thì chôn hòm bằng ván bần ... Các loại nhánh,
thân ... còn dùng làm củi nấu ăn ...
2.2
- Và các món ăn từ bần
Đơn
giản nhất là hái trái bần ... ăn chơi. Bần chín rụng xuống người ta lượm về
hoặc hái trái chua còn trên cây ăn chơi lúc rãnh rang, vị vừa chua chúa, chát,
lại mằn mặn của muối ...
Như
ở phần giai thoại lý giải tên thuỷ liễu chúng tôi đã nói đến món mắm sống với
bần được mang đãi cả vua. Ca dao có câu :
Muốn
ăn mắm sặc bần chua
Chờ
mùa nước nổi ăn cho đã thèm
Mắm
sống (mắm cá sặc, cá rô, cá chốt, cá trê vàng ...), giở ra, xắt chuối chát, kèm
ít rau rừng như lá cách, cơm nguội, đọt sộp, lá lụa, vài trái ớt hiểm xanh ...
thêm trái bần chua nữa, ăn cớm với cơm nóng thì quả thật sướng đến ... đã đời.
Cơm hết nồi cũng chưa thấy no, chưa muốn nghỉ !
Khi
ăn cơm, người ta có thể dầm bần chín với cá kho, mắm kho, để chấm rau sống,
hoặc chấm ngay bằng gỏi bông bần. Bông bần được hái về bóp với dấm chua, làm
gỏi ...
Trong
số các món ăn mà bần góp mặt, cầu kỳ nhất có lẽ là canh chua bần và đọt bần xào
chuột.
Canh
chua bần thì ngon nhất là nấu với cá bống sao. Đồ bổi (rau) để nấu canh chua
bần cá bống sao thì không thể thiếu cọng môn (có thể là thân loại môn trồng lấy
củ, hoặc thân môn ngọt, chỉ để ăn cọng) và ngò gai.
Cọng
môn cắt về, tước sạch vỏ bọc bên ngoài, xắt thành hình thoi. Ngò gai xắt sợi,
cá bống sao làm sạch để ráo nước. Bắc nước sôi cho trái bần chín vào nấu rã,
dùng rổ lược vớt bỏ hột. Nêm nếm vừa chua, đổ bổi vào nấu. Sau đó, cho cá bống
vào để vài phút rắc ngò gai và ít cọng bông bần lên trên tô canh, ăn ngay khi
canh nóng ... nếu để lâu thịt cá sẽ nát và mất ngon. Nước chầm là muối, ớt chín
dầm nát và bọt ngọt, đường cát ...
Mùi
chua của bần, mùi ngọt của cá, cọng màu xanh của môn, ngò , sắc tím lẫn trắng
của bông bần gợi nên tình quê đậm đà sâu nặng ...
Ở
món chuột đồng xào đọt bần, thì chuột cơm ngoài đồng ruộng béo tròn (ngon nhất
là chuột no lúa mùa từ tháng mười đến tháng chạp hàng năm), đào hang bắt chúng
về làm sạch, để ráo nước, rồi đem bằm thật nhuyễn. Hái đọt bần non rửa sạch, để
ráo nước xắt sơ qua. Bắc chảo lên bếp cho nóng, phi tỏi mỡ cho thịt chuột đã
băm nhuyễn vào xào cho thịt chín đều thịt có màu trắng đục, rồi tiếp tục cho
đọt bần vào. Khi đọt bần đã chín, cho chút gia vị bột ngọt, đường, nước mắm, ớt
bằm nhỏ, trộn đều cho thấm. Nhắc xuống ăn nóng, chấm với nước mắm tỏi, ớt ...
Vị
chua chua, chan chát của đọt bần, trộn lẫn cùng vị béo ngọt của thịt chuột làm
thành món ăn độc đáo miền quê.
Để
kết thúc phần khảo sát về hình ảnh cây bần trong đời sống người Tây Nam Bộ,
chúng tôi tìm hiểu được thông tin rằng : cuối thập niên đầu của thế kỷ XX, có
bà Tư Cúc ở Trà Vinh đã chế biến được mứt bần, kẹo bần. Bần chín được tán
nhuyễn thành bột, dùng lửa nhỏ để sên, thêm muối, ớt, bột ngọt và cho vào keo
để dự trữ những tháng trái mùa, dùng mứt bần để uống với nước trà tráng miệng
sau bữa cơm ... Cơ sở sản xuất này đã xuất khẩu hàng nghìn hủ sản phẩm mứt bần,
bột bần, sang Đức và các nước Châu Âu ... thu về bộn bàng ngoại tệ ...
3.
Kết luận
Bần
là loài cây mọc hoang. Song so với nhiều loài cây tạp khác, bần lại ảnh hưởng
khá sâu rộng trong đời sông người bình dân. Từ tên gọi của nó, người dân đã
chơi chữ chỉ cảnh nghèo khó của cư dân ngày đầu mở cõi :
Khoanh
tay lo nghèo
Là
trái bần ổi !
Lời
bài vè về cây trái ấy như còn vang vọng đâu đây !
Hơn
thế, bần lại có mặt trong các địa danh, các giai thoại liên quan đến vùng đất
và con người vùng này. Bần cũng trở thành đề tài cho những lời ca điệu hát dân
gian. Người bình dân khéo léo gửi gắm tâm sự, nỗi niềm, thậm chí là khát vọng
chinh phục thiên nhiên qua những câu chuyện đầy tính nhân văn mà chúng tôi đã
điểm qua trong bài viết.
Vùng
đất phương Nam này thêm vững chải, ngày càng tiến ra khơi xa, đời
sống văn hoá người bình dân Cửu Long thêm phong phú, đa dạng có phần đóng góp
từ hình ảnh cây Bần quen thuộc ./.
ĐỜN
CA TÀI TỬ NAM BỘ
(Cinet-DSTG) – Tổ chức Khoa học,
Giáo dục và Văn hóa của Liên hiệp quốc Unesco đã công nhận Nghệ thuật Đờn ca
tài tử Nam Bộ của Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
tại phiên họp Uỷ ban liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể lần
thứ 8 diễn ra tại thành phố Baku, nước Cộng hoà Azerbaijan.
Theo tài liệu lịch sử ghi lại
thì Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật có nguồn gốc từ nhạc cung đình Huế.
Trong đó chữ tài tử có nghĩa là người chơi nhạc có tài, có năng khiếu, có hiểu
biết về nhạc cổ.
Đờn ca tài tử được du nhập vào miền
Nam từ cuối thế kỷ XIX do ba nhạc sư gốc Trung Bộ là Nguyễn Quang Đại ( Ba Đợi
– Nhạc quan triều đình nhà Nguyễn), Trần Quang Quờn ( thầy ký Quờn) và Lê Tài
Khị (biệt danh
Nhạc Khị) sáng tạo nên. Đầu tiên ba nhạc sư sáng tạo nghệ thuật này chỉ để phục
vụ việc giải trí nghe chơi với nhau trong một cộng đồng nhỏ. Sau đó, nghệ thuật
này ngày càng lan rộng và thu hút thêm nhiều đối tượng khác tham gia hơn. Ban
đầu chỉ có đờn, về sau này mới xuất hiện thêm hình thức ca dần dần gọi thành
đờn ca.
Đờn ca tài tử có thể hiểu theo
nghĩa: Tài tử là tài năng, những bậc thầy tham gia trình diễn. Cũng có một số ý
kiến cho rằng tài tử có nghĩa là nghiệp dư, nghĩa là hoạt động âm nhạc này chỉ
để cho vui nhưng trên thực tế để trở thành một nghệ sĩ đờn ca thực sự, các nghệ
sĩ đờn ca phải có một quá trình học hỏi khá dài và nghiêm túc.
Đờn ca tài tử Nam Bộ hình thành vào
cuối thế kỷ 19 khi Các nhạc sư, nhạc quan của triều Nguyễn theo phong trào Cần
Vương vào Nam đã đem theo truyền thống ca Huế vào vùng Nam Bộ. Trên đường đi,
các nhạc sư dừng chân ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, từ đó tiếng đờn cùng
với giọng ca xứ Huế mang thêm chút hương vị xứ Quảng. Khi vào đến miền Nam thì
tiếng đờn miền Trung đã thay đổi tiếp tục, một số bài bản tuy cùng tên nhưng
nét nhạc đã khác xa so với ban đầu.
Bản chất phóng khoáng của con người
và nếp sống tại miền Nam khiến cho các bài bản không y khuôn bản gốc. Người
đàn, người ca cũng không muốn giữ nguyên như thầy đã dạy mà luôn có đôi nét
thêm thắt, thay đổi, tô điểm, khiến những bài bản đậm đà thấm thía hơn. Mặt
khác do lòng luôn luôn nhớ thương cội nguồn nên các điệu của đờn ca tài tử đều
phảng phất nỗi buồn và được người mộ điệu ưa thích.
Những năm cuối thế kỷ 19, đờn ca
còn giữ nguyên gốc chủ yếu được phục vụ tại các lễ hội địa phương ở Nam Bộ. Các
ban nhạc lễ lúc đó thường gồm các nhạc cụ gõ và dây kéo vĩ. Do nhu cầu phục vụ
cho các tang lễ về khuya, nhạc lễ cần phải chơi với âm lượng nhỏ theo yêu cầu
của gia chủ. Từ đó các ban nhạc lễ được tổ chức một cách gọn nhẹ hơn và bắt đầu
dùng song lang thay cho trống để giữ tiết tấu, cũng như bỏ bớt nhạc cụ dây kéo
để chỉ còn đàn cò. Những ban nhạc nhỏ gọn như vậy được gọi là nhóm đờn cây. Kể từ
năm 1885 các nhóm đờn cây này được gọi là ban đờn ca tài tử để có thể phân biệt
với các ban nhạc lễ và nhạc hát bội đang thịnh hành song song.
Đến đầu thế kỷ 20, đờn ca tài tử
trở thành một phong trào ca nhạc phổ thông tại miền Nam, nhất là tại các địa
phương như Bạc Liêu, Vĩnh Long, Long An, Mỹ Tho, Sài Gòn…
Bởi là một dòng nhạc có xuất phát
từ cung đình do đó cách biểu diễn đờn ca tài tử khá đặc biệt và đòi hỏi người
nghệ sĩ phải có tài năng, trình độ thực sự. Tại Việt Nam có 3 loại hình nghệ
thuật có xuất xứ từ nhạc cung đình đó là Nhã nhạc Huế, Ca trù và Đờn ca tài tử.
Nhưng khác với 2 loại hình Nhã nhạc và Ca trù người hát chính thường là nữ,
trong nghệ thuật đờn ca thì nam và nữ có vai trò bình đẳng, người đàn và người
hát có vị trí tương đương nhau.
Dàn nhạc của đờn ca tài tử có nhiều
nhạc cụ hơn dàn nhạc của Ca trù và ca Huế. Trước đây, dàn nhạc đờn ca tài tử sử
dụng các loại nhạc cụ gồm đàn kim, đàn cò, đàn tranh song lang, ống tiêu.
Khoảng từ năm 1920, lục huyền cầm ( đàn ghi ta ), hạ uy cầm và violon cũng được
thêm vào trong dàn nhạc.
Cũng bởi lý do xuất phát từ cung
đình do đó đờn ca xưa kia chủ yếu được biểu diễn trong các tư gia hoặc phục vụ
1 số ít khán giả. Tuy nhiên theo thời gian và sức hấp dẫn của dòng nhạc này mà
ngày nay đờn ca đã được sân khấu hóa để biểu diễn phục vụ công chúng.
Khi biểu diễn nhạc tài tử, các nghệ
sĩ thường chú trọng đến sự kết hợp của nhạc cụ có âm sắc khác nhau, ít thấy có
sự kết hợp giữa các nhạc cụ cùng âm sắc. Thường thấy nhất là song tấu đàn kim
và đàn tranh, là sự kết hợp giữa tiếng tơ và tiếng sắt, mà theo các chuyên gia
thì được gọi là sắt cầm hảo hiệp. Cũng có khi là tam tấu đàn kim – tranh – cò,
kim – tranh – độc huyền, tranh – cò – độc huyền mà giới chuyên gia gọi là
tam chi liên hoàn pháp. Nếu một ban nhạc tài tử có 3 nhạc công và 1 ca sĩ thì
được gọi là ban tứ tuyệt, nếu có 4 nhạc công và 1 ca sĩ thì được gọi là ban ngũ
nguyệt.
Vì đờn ca tài tử đặc biệt ở chỗ
thường được biểu diễn ngẫu hứng, dựa trên bản nhạc gốc truyền thống, người hát
cải biên đi theo cách riêng của mình. Sự khác biệt này khiến cho người nghe
luôn cảm thấy mới lạ dù nghe cùng một bài..
Phần hay nhất trong tài tử là ở
phần rao của người đàn và nói lối của người ca. Người đàn dùng rao - người ca
dùng lối nói – để lên dây đàn và gợi cảm hứng cho bạn diễn, tạo không khí cho
dàn tấu. Ngoài ra khi trình diễn các nghệ sĩ có thể dùng tiếng đàn của mình để
“ đối đáp” hoặc “thách thức” với người đồng diễn. Đây cũng là điểm tạo sự mới
lạ, hấp dẫn, cuốn hút của loại hình nghệ thuật dân tộc này.
Đờn ca tài tử có một số lượng bài
bản rất phong phú và đa dạng. Ngoài việc sử dụng một số bài bản trong nhạc lễ,
còn có các bài từ ca Huế, dân ca miền Trung, miền Nam, và một số lượng lớn do
các nghệ nhân bậc thầy sáng tác và cải biên.
Do đặc tính ngôn ngữ và sinh hoạt
riêng của người miền Nam mà nhạc miền Trung được phát triển đặc biệt trong nhạc
tài tử. Một số bài nổi tiếng được nhiều người biết đến như: bài Bình Đán của ca
Huế được phát triển thành Bình Đán Văn trong nhạc tài tử, Lưu Thủy của Huế được
cải biên thành Lưu Thủy Đoàn, Kim Tiền Huế thành Kim Tiền Bản…
Về bài bản của đờn ca tài tử thì có nhiều nhưng đa số các bậc thầy của đờn ca và các chuyên gia cho rằng đờn ca có 20 bài tổ được gọi là “nhị thập huyền tổ bản” thuộc hai điệu Bắc và điệu Nam. Trong 20 bản tổ có 7 bản lễ, 6 bản Bắc, 3 bản Nam và 4 bản Oán. Tương truyền rằng các bài bản này do ông bà Ba Đợi đúc kết và được xem như là những bài căn bản cho những người bắt đầu bước vào nghệ thuật đờn ca tài tử. Từ năm 1945, ông Nguyễn Văn Thịnh thường được gọi là ông Giáo Thịnh – một nhạc sư có uy tín tại Sài Gòn đã đúc kết và phổ biến một hệ thống mới gọi là 72 bài bản cổ nhạc miền Nam được gọi là thất thập nhị huyền công. Theo đó một nghệ nhân sẽ được coi là bậc thầy nếu biết hết 20 bài bản tổ và để đạt được mức cao hơn nghệ nhân đó cần biết hết 72 bài bản cổ miền Nam.
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ của
Việt Nam được Unesco công nhận theo các tiêu chí: Đây là loại hình nghệ thuật
do cộng đồng 21 tỉnh thành miền Nam Việt Nam cùng nhau tạo ra. Đờn ca tài tử là
một phần bản sắc của người dân phía Nam và được trao truyền từ đời này qua đời
khác, được đảm bảo tính tiếp nối liên tục.
Đờn ca tài tử được thực hành theo nhóm, câu lạc bộ và gia
đình, ít khi nhạc công độc tấu, mà thường song tấu, tam tấu, hòa tấu. Dàn
nhạc thường cùng ngồi trên một bộ ván hoặc chiếu để biểu diễn với phong cách
thảnh thơi, lãng đãng, dựa trên khung bài bản cố định gọi là “lòng
bản”. Khán giả có thể cùng tham gia thực hành, bình luận và sáng tạo.
Đờn ca tài tử
được truyền dạy theo hai hình thức: truyền ngón, truyền khẩu trực tiếp tại nhà,
câu lạc bộ, gia đình, dòng họ; truyền ngón, truyền khẩu kết hợp với giáo án,
bài giảng tại một số trường văn hóa nghệ thuật địa phương và quốc gia. Người
học đàn cần ít nhất 3 năm để học những kỹ năng cơ bản như: rao, rung, nhấn,
khảy, búng, phi, vê, láy, day, chớp, chụp…; học chơi độc chiếc, tam tấu, tứ
tấu, ngũ tấu, lục tấu với các nhạc cụ khác nhau. Người học ca (đơn ca,
song ca) học những bài truyền thống, trên cơ sở đó sáng tạo cách nhấn nhá,
luyến láy tinh tế theo nhạc điệu và lời ca của bài gốc.
Người miền Nam
coi Đờn ca tài tử là sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu trong các dịp
lễ hội, tết, giỗ, cưới,sinh nhật, họp mặt. Những người thực hành
Đờn ca tài tử Nam Bộ luôn tôn trọng, quý mến, học hỏi nhau tài nghệ, văn hóa
ứng xử, đạo đức, góp phần gắn kết cộng đồng, xã hội, cùng hướng tới giá trị
“chân, thiện, mỹ”.
Đến nay, Đờn ca
tài tử Nam Bộ vẫn được thực hành ở mọi lúc, mọi nơi: trong lễ hội, ngày giỗ,
cưới, sinh nhật, họp mặt,… Khán giả có thể cùng tham gia thực hành, bình luận
và sáng tạo lời mới. Lễ giỗ Tổ vẫn được duy trì vào ngày 12 tháng 8 Âm lịch
hằng năm. Đối với người phương Nam, Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ là một loại
hình sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu và là di sản văn hóa phi vật
thể quý giá của cộng đồng. Hoạt động văn hóa cộng đồng này đang góp phần phục
vụ du lịch bền vững ở địa phương, duy trì sự đa dạng văn hóa của quốc gia và
quốc tế.
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2012 và được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tháng 12 năm 2013.
Tết
cổ truyền của người Miền Tây có gì đặc biệt?
Năm
hết tết đến, người dân cả nước hân hoan chào đón năm mới với nhiều mong ước và
hy vọng vào một năm an khang thịnh vượng, hạnh phúc đầy nhà. Tết thì chung,
nhưng phong tục ngày tết mỗi vùng miền lại khác. Dù xã hội có phát triển, cuộc
sống có hiện đại đến mấy thì phong tục đón tết truyền thống không bao giờ thay
đổi, đặc biệt là ở miền Tây Nam Bộ.
Tôi
sinh ra và lớn lên tại là con người miền Tây thường được mọi người nhắc đến với
hình ảnh người dân chất phác, thật thà quả đúng như vậy.
Hôm
nay cũng là những ngày sắp tết. Tôi xin tổng hợp một số đặc trưng của quê tôi
để quý du khách gần xa hiểu rõ hơn về phong tục ngày tết của quê hương tôi nhé.
Nhớ
tuốt lá cho mai về kịp tết.
Kẻo
giao thừa thiếu hẳn một mùi hương.
Mai
vàng nở như em về đúng hẹn.
Áo
vàng phơi sáng rỡ cả con đường.
Anh
tuốt lá đợi mai về ngày tết.
Chở
mùa xuân trên mỗi đóa vàng tươi.
Nếu
như miền Bắc có hoa đào đỏ thắm thì miền Nam lại có hoa mai lại không thể thiếu
trong cái tết của người miền Nam.
Người
ta diễn tả đặc trưng này bằng những đóa hoa rực rỡ trên một thân cây trụi lá và
gân guốc; vững chải như sức công phá của thời gian chẳng làm gì được nó.
Không
ai biết cô đã chết, vì hàng năm vào chiều 29 tết, nàng quay lại với chiếc áo
vàng mẹ nhuộm cho trước lúc ra đi, cùng ăn tết với gia đình, cho đến lúc cúng
đưa ông bà, mới chịu ra đi. Mãi cho đến khi cha mẹ mất, người ta không thấy cô
gái áo vàng trở lại nữa; vào những ngày cuối năm trong khu vườn quen thuộc nơi
cô ở, xuất hiện một con chim lông vàng óng ả cất tiếng hót líu lo.
Xóm
làng thương nhớ và tri ân cô bằng cách lập một miếu thờ, hàng ngày hương khói.
Từ lúc ấy, trước ngôi miếu mọc lên một loại cây lá xanh um, nhưng cứ vào những
ngày giáp tết, lá lại rụng trơ cành và như một phép lạ, toàn thân xuất hiện
những nụ bông vàng năm cánh rực rỡ.
Ngoài
ra phía trước nhà của mọi người dân Nam Bộ ngày tết lúc nào cũng có vài chậu
bông thọ tượng chưng cho tuổi thọ, sức khỏe, bông thọ được để lên bàn cúng vào
các ngày như cúng ông táo, rước ông bà, ra mắt ông bà…
Mâm
ngũ quả thường gồm các loại trái như mãng cầu, dừa, đu đủ, sung vì nó tượng
trưng cho “Cầu vừa (dừa) đủ sung”. Nếu không tìm được sung thì có thể chưng
xoài hoặc thơm. Gần đây có phát hiện thêm qủa Dư cũng được trang trí trên mâm
ngũ quả cầu mong được dư dã, sung túc.
Ngoài
ra trên bàn thờ nhà nào cũng đều có cặp dưa hấu đỏ hoặc vàng. Dưa hấu lựa chưng
tết là dưa hấu quả tròn, đẹp , hai quả phải cân xứng nhau.
Mâm
cỗ Tết của miền Nam thường có nhiều đồ nguội do thời tiết nắng nóng. Hầu như
nhà nào cũng có ba món cơ bản là bánh tét, bánh tráng và nồi thịt kho tàu, dưa
cải trong mấy ngày tết. Trong suy nghĩ của người phương Nam, bánh tét tượng
trưng cho sự ấm no từ đời này qua đời khác.
Dù
giàu hay nghèo, người miền Nam cũng không thể thiếu những món ăn ngày tết
truyền thống từ lâu đời.
Món
thịt kho tàu là thịt ba rọi (ba chỉ) thái to khoảng trên bốn phân nấu chung với
một trái dừa xiêm để thịt kho lạt đi, ăn được to miếng. Thịt hầm từ bắp đùi hầm
nhừ với vài vị thuốc Bắc.
Có
thể thêm vào hột vịt luộc gọi là thịt kho hột vịt. Còn có món khổ qua dồn thịt
heo rồi hầm như hầm thịt. Các món truyền thống này chỉ cúng và ăn tới chiều
mồng hai, sáng ngày mồng ba sẽ cũng và ăn món khác phải như gà, cá.
Các
ngày cúng tiêu biểu trong ngày tết:
Giáp
tết, các gia đình sẽ tổ chức đi chạp mộ để tỏ lòng “uống nước nhớ nguồn” với
những người đã khuất.
Chiều
23 tháng chạp đưa ông Táo về trời.
Ngày
30 làm một mâm cơm cúng tổ tiên, gọi là lễ “rước ông bà”. Cho đến khi hết Tết
khói hương trên bàn thờ gia tiên lun nghi ngút và sau đó đến ngày mồng 3 tháng
Giêng thì làm lễ “đưa ông bà”. Trước giao thừa, các gia đình thắp hương mời
hương linh ông bà và tổ tiên và những người thân đã qua đời về ăn cơm, vui Tết
với con cháu (cúng gia tiên). Lễ vật cúng giao thừa ngoài hương hoa quả phẩm
còn có thêm quả dừa, bánh tráng con gà trống luộc.
Mâm
cơm cúng tất niên chiều 30 tết, thường quy tụ đủ mặt mọi người thân trong gia
đình. Theo quan niệm của người Nam Bộ mỗi năm có một ông Hành Khiển coi việc
nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao cho thần kia, nên cúng tế, đốt pháo là
để tiễn đưa ông cũ và đón ông mới.
Đêm
29-30 là lúc vui nhất, mọi người thức đón giao thừa, ăn uống, trò chuyện… rất
huyên náo.
Ba
ngày tết là ba ngày vui chơi, ăn uống, thăm viếng, chúc mừng nhau những điều
mới mẻ, tốt lành. Một tập quán phổ biến là trong những ngày đầu năm, mọi người
đều chỉ nói ra những lời hay, ý đẹp, gặp nhau chào mừng, hy vọng mọi điều như
ý. Bao điều không vui, không vừa lòng năm trước đều bỏ đi.
Nên:
Trước ngày 29 tết tất cả các lu, hủ chứa gạo, chứa nước, muối phải được đổ đầy
để mong một năm đầy đủ. Nhà cửa phải được quét dọn sạch sẽ, ngăn nắp.
Xông
đất
Những
người “nặng vía”, không hợp tuổi với gia chủ đừng nên đến xông đất ngày đầu
năm. Người có tang không nên xông đất nhà người khác để tránh xui xẻo.
Không
quét nhà vào ngày mùng 1
Trước
Tết các gia đình đều quét dọn nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng nên vào ngày Tết không
cần dọn dẹp nữa. Những ngày đầu năm, các gia đình đều kiêng quét nhà bởi theo
quan niệm nếu quét nhà là sẽ hất tài lộc ra khỏi cửa.
Không
đổ rác ngày mùng 1
Phong
tục này xuất phát từ câu chuyện của người Trung Quốc. Truyện kể rằng, ngày xưa
có một người lái buôn được Thủy thần tặng một nàng hầu tên là Như Nguyệt. Kể từ
khi có nàng hầu này về nhà, ông ta bỗng trở nên giàu có. Đến một năm, đúng ngày
mùng Một Tết, Như Nguyệt mắc lỗi, bị ông chủ đánh đập, mắng nhiếc thậm tệ nên
nàng tủi thân, biến vào đống rác. Người lái buôn không biết, mang rác đổ đi. Từ
đấy, ông ta trở lại nghèo khó. Nên người Việt Nam quan niệm nếu đổ rác ngày
mồng Một thì cũng hết tài lộc của gia đình.
Lửa
tượng trưng cho đỏ, cho sự may mắn nên vào những đầu năm, mọi người đều kiêng
kỵ cho lửa người khác.
Không
cho nước đầu năm
Nước
là một trong những nguyên tố khởi nguyên của vũ trụ nên người Việt Nam quan
niệm, nước tượng trưng cho sự sinh sôi ” Tiền vào như nước”. Hình ảnh nước đầy
ăm ắp tượng trưng cho sự may mắn, sinh sôi, mát lành.
Người
Việt Nam thường tránh đi chúc Tết sáng đầu năm vì không muốn xông đất nhà người
khác. Với người Việt Nam người xông đất rất quan trọng, ảnh hưởng đến cả gia
đình trong một năm. Ngày mồng một Tết người Việt Nam thường chỉ đi thăm họ
hàng, người thân.
Không
làm đổ vỡ đồ dùng
Người
Việt Nam quan niệm đổ vỡ đồ dùng trong nhà như bát đĩa, ấm chén, gương trong
ngày đầu năm báo hiệu cho sự chia lìa, đổ vỡ nên rất kiêng kỵ.
Không
mặc quần áo màu đen – trắng
Với
người Việt Nam, màu đen – trắng tượng trưng cho sự tang tóc nên vào ngày Tết
thường tránh mặc quần áo màu đen hoặc trắng. Những ngày Tết, mọi người thường
mặc quần áo nhiều màu sắc, tươi trẻ để mong muốn một năm mới may mắn, vui vẻ.
Không
vay mượn đầu năm
Ngày
đầu năm đều tránh cho vay, đi vay, đòi nợ hay trả nợ. Vì theo quan niệm, nếu đi
vay thì cả năm sẽ túng thiếu cùng quẫn còn cho vay thì tiền bạc phân tán, không
được may mắn, phát đạt.
Ngày
mồng Năm là ngày nguyệt kỵ, người Việt thường không xuất hành đầu năm vào ngày
này. Dân gian có câu “mùng năm, mười bốn, hai ba; đi chơi còn lỗ nữa là đi
buôn”, người Việt tin rằng mùng 5 không thích hợp cho các cuộc du xuân lấy lộc.
Kiêng
có tang vào ngày mùng 1
Ngày
mồng Một là ngày vui của tất cả mọi người nên những nhà nào có tang sẽ được cất
khăn tang trong vòng ba ngày, nếu có người mất đúng vào ngày mồng Một thì gia
chủ sẽ không phát khăn tang ngay mà để sang sáng mồng Hai, còn nếu nhà có người
mất vào ngày 30 thì gia chủ thường thực hiện tang lễ trong ngày hôm đó tránh để
sang ngày mồng Một. Những gia đình có tang tránh đi chúc Tết, thăm hỏi người
khác.
Ngày
đầu năm mọi người chỉ nói những điều may mắn, vui vẻ cho cả một năm.
Kiêng
treo tranh xui
Không
treo những bức tranh như đánh ghen, đi kiện, treo những bức tranh tượng trưng
cho sự may mắn, sinh sôi, phát đạt.
Kiêng
mua đồ xui
Dân
gian có câu “Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi”, mua gì đầu năm cũng là một
việc rất quan trọng bởi nó là món hàng đầu tiên gia chủ mang về nhà. Món hàng
mua đầu năm được coi là mua để lấy hên, lấy lộc, bởi “của mua là của được”. Món
hàng này mang nhiều ý nghĩa tâm linh hơn thực dụng. Đầu năm kiêng mua dao,
thớt, chày, cối… Người ta hay mua muối ngay sáng sớm mùng 1 với hàm ý cả năm
đậm đà, ý vị.
Không
tranh cãi, bất hòa
Vào
những ngày Tết, mọi người thường cố giữ hòa khí, không tranh cãi, gắt gỏng dù
có khó chịu đến thế nào. Người lớn tránh quát mắng, trẻ con không khóc lóc để
giữ cho hòa khí một năm luôn vui vẻ, hòa thuận.
Theo
tín ngưỡng dân gian, hai ngày đầu năm là ngày sinh của thủy thần nên cần kiêng
giặt quần áo để không mạo phạm đến thần, dẫn đến gặp xui xẻo. Thực ra, người
xưa chẳng có nhiều quần áo để giặt, và ngày Tết là dịp nghỉ ngơi, tiết trời
lạnh, việc ngừng giặt hai ngày cũng chẳng mấy ảnh hưởng đến họ.
Dù
là loại tủ gì, kể cả tủ quần áo, cũng không nên mở vào ngày mùng 1 Tết, bởi
việc này sẽ làm thất thoát tiền tài và vận may suốt cả năm. Vì thế, người xưa
thường chuẩn bị sẵn quần áo cần mặc, treo ra ngoài trước giao thừa.
Kiêng
ngồi hoặc đứng trước cửa
Việc
đứng hay ngồi trước cửa chính trong dịp năm mới không chỉ vô duyên mà còn được
coi là hành động gây phương hại đến vượng khí gia đình. Luồng khí tốt lành của
năm mới trên đường vào nhà sẽ bị chặn lại, hao tán đi, khiến gia đình đó không
được may mắn, thành công, hạnh phúc.
Giữa
khung cảnh làng quê Nam bộ thanh bình, cả gia đình ngồi quây quần bên những
chiếc hủ, khạp, đựng đầy gạo, thịt cùng làn khói bếp từ nồi bánh tét bốc lên
mang theo cả tâm trạng nao nao với hình ảnh báo hiệu Tết đã về rất gần, làm ai
nhìn thấy hình ảnh này cũng nhớ nhà, nhớ quê da diết.
I. Mở bài: giới thiệu cây dừa
Kìa vườn dừa cây cao cây thấp
Gió quặt quà cành lá xác xơ
Thương anh em vẫn đợi chờ
Không biết từ bao giờ mà cây dừa đã đi vào thơ ca
rất đỗi thân thuộc và trìu mến, cây dừa là một loại cây rất quen thuộc và ý
nghĩa đối với cuộc sống của người dân. Cây dừa gắn bó thủy chung son sắt với
con người.
II. Thân bài:
1. Nơi phân bố
- Trên thế giới: Dừa thường phân bố ở vùng châu Á,
Thái Bình Dương
- Ở Việt Nam: Dừa thường tập trung từ Quãng Ngãi đến
Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Bình Định và Bến Tre.
2. Đặc điểm
a. Cấu tạo
- Thân dừa: Cây dừa cao khỏe, có màu nâu sậm, hình
trụ và có những nốt vằn trên thân.
- Lá: Lá dài, xanh và có nhiều tàu
- Hoa: Trắng và nhỏ
- Quả: Phát triển từ hoa, bên ngoài màu xanh dày,
bên trong có cơm và nước.
- Buồng dừa: Chứa các quả dừa, mỗi buồng thường có
15 quả.
b. Khả năng sinh sống
- Thường sống ở khí hậu nhiệt đới
- Phát triển trên đất pha cát và có khả năng chống
chịu tốt
- Dừa cần độ ẩm cao (70–80%+) để có thể phát triển
một cách tối ưu
- Phát triển trong khô vực khô cằn
3. Phân loại
- Dừa xiêm: Loại dừa này trái thường nhỏ, có màu
xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống.
- Dừa bị: Trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường
được dùng trong chế biến thực phẩm
- Dừa nếp: Trái vàng xanh mơn mởn.
- Dừa lửa: Lá đỏ, quả vàng hồng.
- Dừa dâu: Trái rất nhỏ, thường có màu hơi đỏ.
- Dừa dứa: Trái nhỏ, màu xanh, nước ngọt, vì thơm
mùi dứa nên gọi là dừa dứa.
- Dừa sáp: Cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như
bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp, chỉ có ở vùng Cầu
Kè (Trà Vinh).
4. Công dụng
- Nước dừa: Thường được dùng làm nước uống, kho cá,
nước chấm,….
- Cơm dừa: Làm kẹo, mứt hay làm nước cốt dừa
- Dầu dừa: Nấu ăn, thoa tóc, dưỡng da,….
- Xơ dừa: Dùng làm dây thừng
- Thân dừa: Làm cột nhà, làm cầu bắt qua sông,…
- Hoa dừa: Dùng để trang trí
- Gáo dừa: Dùng để nấu ăn hay vật dụng trong gia
đình,….
- Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm, thuốc sát
trùng để súc miệng hay chữa trị bệnh lỵ.
- Làm đồ mỹ nghệ
- Dừa có thể một số bệnh như: Khản tiếng, lỵ, giải
độc,….
5. Ý nghĩa của cây dừa
- Trong đời sống:
- Trong nghệ thuật:
+ văn học dân gian:
Mài dừa đạp bã cho nhanh
Nấu dầu mà chải tóc anh tóc nàng
Mài dừa dưới ánh trăng vàng
Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh
+ văn thơ hiện đại và cận hiện đại
+ âm nhạc
III. Kết bài
Dừa là một người bạn rất hữu ích với người dân quê
Việt Nam. Dừa rất có ích cho cuộc sống và tinh thần của người dân.
Thuyết
minh về cây dừa mẫu 1
Dừa (Cocos nucifera), là một loài cây trong họ Cau
với các lá đơn xẻ thùy lông chim 1 lần, cuống và gân chính dài 4–6 m các thùy
với gân cấp 2 có thể dài 60–90 cm; lá kèm thường biến thành bẹ dạng lưới ôm lấy
thân; các lá già khi rụng để lại vết sẹo trên thân.
Nguồn gốc và canh tác.
Nguồn gốc của loài thực vật này là chủ đề gây tranh
cãi, trong đó một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc ở khu vực đông nam châu Á
trong khi những người khác cho rằng nó có nguồn gốc ở miền tây bắc Nam Mỹ. Các
mẫu hóa thạch tìm thấy ở New Zealand chỉ ra rằng các loại thực vật nhỏ tương tự
như cây dừa đã mọc ở khu vực này từ khoảng 15 triệu năm trước. Thậm chí những
hóa thạch có niên đại sớm hơn cũng đã được phát hiện tại Rajasthan và
Maharashtra, Ấn Độ. Không phụ thuộc vào nguồn gốc của nó, dừa đã phổ biến khắp
vùng nhiệt đới, có lẽ nhờ có sự trợ giúp của những người đi biển trong nhiều
trường hợp. Quả của nó nhẹ và nổi trên mặt nước và có lẽ đã được phát tán rộng
khắp nhờ các dòng hải lưu: Quả thậm chí được thu nhặt trên biển tới tận Na Uy
cũng còn khả năng nảy mầm được (trong các điều kiện thích hợp). Tại khu vực
quần đảo Hawaii, người ta cho rằng dừa được đưa vào từ Polynesia, lần đầu tiên
do những người đi biển gốc Polynesia đem từ quê hương của họ ở khu vực miền nam
Thái Bình Dương tới đây.
Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng
chống chịu mặn tốt cũng như nó ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và
lượng mưa bình thường (750–2.000 mm hàng năm), điều này giúp nó trở thành loại
cây định cư bên các bờ biển nhiệt đới một cách tương đối dễ dàng. Dừa cần độ ẩm
cao (70–80%+) để có thể phát triển một cách tối ưu nhất, điều này lý giải tại
sao nó rất ít khi được tìm thấy trong các khu vực có độ ẩm thấp (ví dụ khu vực
Địa Trung Hải), thậm chí cả khi các khu vực này có nhiệt độ đủ cao. Nó rất khó
trồng và phát triển trong các khu vực khô cằn.
Hoa của dừa là loại tạp tính (có cả hoa đực lẫn hoa
cái và hoa lưỡng tính), với cả hoa đực và hoa cái trên cùng một cụm hoa. Dừa ra
hoa liên tục với hoa cái tạo ra hạt. Người ta cho rằng dừa là loại cây thụ phấn
chéo là chủ yếu, mặc dù một vài giống lùn lại là tự thụ phấn.
Quả dừa
Quả dừa đang chín trên câyVề mặt thực vật học, dừa
là loại quả khô đơn độc được biết đến như là quả hạch có xơ. Vỏ quả ngoài
thường cứng, nhẵn, nổi rõ 3 gờ, lớp vỏ quả giữa là các sợi xơ gọi là xơ dừa và
bên trong nó là lớp vỏ quả trong hay gáo dừa hoặc sọ dừa, lớp vỏ quả trong hóa
gỗ, khá cứng, có ba lỗ mầm có thể nhìn thấy rất rõ từ phía mặt ngoài khi bóc
hết lớp vỏ ngoài và vỏ giữa (gọi là các mắt dừa). Thông qua một trong các lỗ
này thì rễ mầm sẽ thò ra khi phôi nảy mầm. Bám vào thành phía trong của lớp vỏ
quả trong là vỏ ngoài của hạt với nội nhũ dạng anbumin dày, là lớp cùi thịt,
gọi là cùi dừa, nó có màu trắng và là phần ăn được của hạt.
Khi nhìn từ một đầu, vỏ quả trong và các lỗ mầm
trông giống như mặt của khỉ, từ trong tiếng Bồ Đào Nha để gọi nó là macaco, đôi
khi được viết tắt thành coco, từ đây mà có tên gọi khoa học của dừa. Nucifera
là từ trong tiếng Latinh để chỉ mang theo hột.
Khi quả dừa còn non, nội nhũ bên trong còn mỏng và
mềm và có thể nạo dễ dàng. Nhưng lý do chính để hái dừa vào giai đoạn này là để
lấy nước dừa làm thức uống; những quả to có thể chứa tới 1 lít nước uống bổ
dưỡng. Khi quả đã già và lớp vỏ ngoài chuyển thành màu nâu (khoảng vài tháng
sau) thì nó sẽ rụng từ trên cây xuống. Vào thời điểm đó nội nhũ đã dày và cứng
hơn, trong khi nước dừa sẽ có vị nồng hơn. Khi đó nếu uống nhiều có thể bị tiêu
chảy, chỉ sau khoảng 15 phút.
Vị trí gân chính
Dừa được bổ đôi đúng cách. Để lấy nước của quả dừa
cần loại bỏ lớp vỏ ngoài và lớp xơ dừa sau đó dùng đũa/que chọc vào mắt lớn
nhất của quả rồi đặt ống hút vào. Người ta có thể lấy nước bằng cách chặt bỏ
một phần vỏ ở phần đối diện với cuống dừa để phần vỏ cứng bên trong phơi ra,
sau đó vạt đi phần của lớp vỏ cứng đó và rót nước dừa vào vật chứa (cốc, chén,
bát, v.v.). Ngày nay, người ta còn dùng dao/máy bào bớt đi lớp vỏ bên ngoài làm
gần lộ ra phần vỏ cứng phía đối diện cuống dừa, rồi cũng vạt bỏ đi phần này khi
muốn lấy nước. Do quả dừa có điểm rạn tự nhiên nên có thể bổ quả dừa bằng các
loại dao to, chẳng hạn dao mác, dao phay hay các loại tuốc vít bản bẹt và búa.
Trên quả dừa đã lột bỏ vỏ có 3 lằn gân ứng với 3 mắt, kinh nghiệm cho thấy khi
dùng sống dao hoặc lưỡi dao hơi cùn đập vuông góc vào gân chính (ứng với mắt
lớn nhất - như chỉ bởi mũi tên đỏ trong hình) thì quả dừa sẽ bể đôi dễ dàng,
đường bể thường thẳng và đều. Các nông dân ở Bến Tre thường dùng một loại dao
đặc biệt lưỡi không bén (sắc) lắm gọi là cái rựa để bổ dừa.
Khi quả còn non thì lớp vỏ rất cứng, nhưng quả dừa
non hiếm khi rụng, ngoại trừ khi bị bệnh như nấm chẳng hạn hoặc do chuột, dơi
... phá hoại. Trong thời gian quả rụng tự nhiên, lớp vỏ trở thành màu nâu và xơ
dừa trở nên mềm và khô hơn, như thế quả sẽ ít bị hư hại khi rụng. Có một vài
trường hợp quả dừa rụng đột ngột và có thể gây thương vong cho người. Đây là
chủ đề của bài báo ấn hành năm 1984 và đã được trao giải Ig Nobel năm 2001. Số
lượng tử vong do dừa rơi được dùng để so sánh với số lượng các vụ tấn công của
cá mập, với kết quả đưa ra là người ta bị chết do dừa rụng nhiều hơn là do bị
cá mập tấn công. Tuy nhiên, chưa có chứng cứ nào cho thấy người ta bị tử vong
theo kiểu này. Tuy nhiên, William Wyatt Gill, một nhà truyền giáo của Hiệp hội
truyền giáo London (LMS) tới Mangaia đã ghi lại một chuyện trong đó Kaiara,
người thiếp yêu của vua Tetui, đã bị chết do một quả dừa non bị rụng. Cây
"tội phạm" này đã bị chặt bỏ ngay lập tức. Điều này xảy ra vào khoảng
năm 1777, cùng thời gian viếng thăm của thuyền trưởng Cook.
Hoa dừaTại một số khu vực trên thế giới, những con
khỉ đã huấn luyện được dùng vào việc hái dừa. Các trường huấn luyện khỉ vẫn tồn
tại ở miền nam Thái Lan. Các cuộc thi được tổ chức hàng năm để tìm ra con khỉ
hái dừa nhanh nhất.
Tại Việt Nam, dừa được trồng nhiều ở nhiều nơi từ
Bắc chí Nam, nhất là các vùng duyên hải. Tỉnh Bến Tre có diện tích trồng dừa
lớn nhất được mệnh danh là "xứ dừa". Cây dừa đã trở thành biếu tượng
tại đây.
Dừa là loại cây dễ trồng ở nước ta. Xu hướng dùng
hàng thủ công mĩ nghệ từ cây dừa ngày càng được ưa chuộng trên thế giới. Các
sản phẩm từ dừa đang có tiềm năng xuất khẩu rất lớn, đem nhiều ngoại tệ về cho
đất nước.
Dừa được trồng rải rác khắp các làng quê Nam Bộ,
nhiều nhất là ở tỉnh Bến Tre, Bình Định. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu của
cây dừa rất lớn, đã hình thành cả công nghệ chế biến: Ngâm tẩm chống mối, tạo
dáng, đánh bóng, phủ lớp nhựa Pư chống thấm lên bề mặt sản phẩm.
Xu hướng dùng hàng thủ công mĩ nghệ từ cây dừa: Giỏ
xách, dĩa, chén, bình, tách, đũa, khay, hộp,… Ở các nước phương Tây ngày càng
được ưa chuộng.
Từ dừa có thể làm vô vàn thứ: cọng dừa tước bỏ lá,
đan giỏ xách, làm chổi; gáo dừa làm than hoạt tính, làm chén, dĩa, tô,…; thân
dừa lão làm đũa, làm cột nhà, vỏ dừa làm dây buộc… Mùa nắng nước dừa là một thứ
giải khát tuyệt chiêu vừa sạch vừa bổ. Cơm dừa già làm nguyên liệu chế biến các
món ăn và thức uống, nấu dầu dừa và chê biến xà phòng. Nước ta chê biến được
nhiều sản phẩm như: bánh dừa, kẹo dừa, các loại mứt dừa và còn nhiều món ăn
truyền thống dân tộc chế biến từ dừa: Bánh tét, chuối nướng,…
Đặc biệt, nước dừa được tạo thành sản phẩm thông qua
quy trình công nghệ sinh học. Nước dừa nuôi nấm men Saccharomyces Fragilis tạo
ra prô-tê-in đơn bào bổ sung nguồn đạm thực vật dùng cho người. Giấm ăn hoặc
các sản phẩm nước uống lên men từ nước dừa như nước giải khát đóng chai, nước
dừa có ga. Nước dừa còn chế biến thành rượu có hương vị đặc trưng. Nước cốt dừa
tạo sữa dừa đóng hộp, sản phẩm chiết từ cơm dừa nạo chế biến sữa đặc có đường,…
Gần đây các nhà khoa học còn dùng vi khuẩn Acetobacter Xylinum tạo ra thạch
dừa.
Thạch dừa là đặc sản ăn vừa dai, vừa giòn, góp phần
tăng cường các chất xơ giúp cơ thể bài tiết, kích thích tiêu hóa, gây cảm giác
khoái khẩu.
Doanh nghiệp Trường Ngân ở Bến Tre đã thành công
trong việc tìm được thị trường riêng cho sản phẩm của mình bằng hàng trăm mặt
hàng gia dụng như: Giỏ xách đi chợ, giỏ đựng hoa (lẵng hoa) và đựng quà cáp, rổ
rá, bình hoa, cùng nhiều chủng loại: Tách, chén, dĩa, khay trà và đồ dùng trang
trí nội thất khác như: Voi khỉ, ngựa, gà,… và các tranh treo tường.
Sản phẩm dừa của Trường Ngân đã có mặt tại một số
cửa hàng lớn ở Đài Loan, Nhật, Mĩ, Ca-na-đa,… từ những dụng cụ bếp núc, đồ gia
dụng: Hộp đựng hành, tỏi, khay đựng trái cây, bộ bàn ghế nhỏ,… đến những dụng
cụ văn phòng: Hộp đựng viết, khay đựng giấy tờ, hộp đựng danh thiếp, kệ đựng
sách báo, kệ đựng đĩa nhạc CD,… Mỗi tháng cơ sở Trường Ngân xuất xưởng ít nhất
là 30 sản phẩm từ cây dừa lão, chào hàng khách nước ngoài thu về một khoản tiền
lớn.
Bài
thuyết minh về cây dừa tham khảo 3
Dừa không chỉ một loại cây ăn quả, cây cảnh mà còn
là loại cây quen thuộc của nhiều làng quê Việt Nam. Cây dừa đã gắn bó với đời
sống của người Việt, và trở thành biểu tượng của làng quê, trong đó phải nói
đến vùng đất dừa Bến Tre.
Có thể nói, bất kì ở vùng quê nào trên đất nước Việt
ta đều thấy thấp thoáng những bóng dừa. Có 2 loại dừa: Dừa cao và dừa lùn. Dừa
lùn thường trồng để làm cảnh, loại dừa cao được phân ra thành các loại dừa như:
Dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa lửa, dừa dâu, dừa dứa, dừa sáp.
Các bộ phận của cây dừa gồm: Thân, lá, hoa, buồng,
trái. Thân dừa cao khoảng 20 – 25 m, trên thân dừa có những đốt như hổ vằn,
thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45 cm. Với những loại dừa cảnh, thân
dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến
lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu, khi già lá sẽ
vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm.
Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày
bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Cây dừa có rất
nhiều quả, quả của chúng kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi
buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ 5 đến 10 trái dừa, có loại trên
20 trái.
Dừa không phải chỉ để ăn quả mà các bộ phận của nó
được dùng vào rất nhiều việc. Nhiều người đã dùng thân dừa để bắc ngang con
mương nhỏ làm cầu. Do thân dừa rất chắc nên người ta đã dùng nó làm cột, làm
kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén
đũa...Bông dừa tươi được dùng làm vật trang trí rất đẹp mắt. Đọt dừa non có thể
làm gỏi, lăn bột, xào.. rất thích hợp với người ăn chay. Có một món ăn đặc biệt
mà nhiều người không biết đó là con sâu sống trên cây dừa( còn gọi là đuông
dừa. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp nên được chế biến thành nhiều
món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng.
Trái dừa luôn được coi là phần giá trị nhất trên cây
dừa. Trái dừa non được cắt ra lấy nước uống, là loại nước giải khát thơm ngon.
Ngoài ra nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu. Phần cùi dừa dùng
để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa,
làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia
súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc
làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ
dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người
bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven
sông. Lá dừa có thể dùng để lợp nhà, làm phên liếp, chằm nón, mà còn là chất
đốt thường dùng để đun nấu phổ biến ở thôn quê, lá dừa khô bó lại làm đuốc để
đi trong đêm tối trời.
Có thể thấy cây dừa không chỉ mang lại cảnh đẹp cho
cuộc sống thêm phần tươi đẹp, cho con người những món ăn thơm ngon bổ dưỡng mà
nó còn có rất nhiều công dụng với đời sống của con người. Cây dừa cũng trở
thành biểu tượng của người dân Việt Nam bởi sự kiên cường bất khuất, giám đối
mặt với mọi gian nan để vươn cao, vươn xa hơn.
“Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gió, có
phải người còn đó, là con gái của Bến Tre…”
Câu hát ngân nga mang đậm hồn quê gợi nhớ về vùng
đất Bến Tre, quê hương của đồng khởi. Nhắc đến Bến Tre, người ta liên tưởng đến
một vùng quê thanh bình với cây lành trái ngọt. Đặc biệt, có một loài cây gắn
bó quanh năm, gắn bó cả cuộc đời với người dân Bến Tre – cây dừa.
Đi khắp Bến Tre, nơi đâu ta cũng gặp bóng râm của
những hàng dừa mát rượi. Hầu như nhà nào cũng trồng dừa. Cây dừa biểu tưởng của
cây trái ở Bến Tre cũng như cây chè của Bảo Lộc, Thái Nguyên, cây cà phê ở Buôn
Mê Thuộc hay cây cọ ở vùng quê sông Thao.
Khác với cây dừa ở các tỉnh khác được mọc ở vùng
đồng bằng, dọc bờ biển hay ven những triền cát trắng, cây dừa Bến Tre mọc dài
trên ba cù lao lớn, cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Vì vậy, cây dừa
Bến Tre quanh năm được phù sa của các nhánh sông Tiền, Hàm Luông, Ba Lai, Cổ
Chiên bồi đắp nên lúc nào cũng xanh tươi đầy sức sống.
Cây dừa Bến Tre có rất nhiều chủng loại. Dừa ta hay
còn gọi là dừa bị trái to, cơm dày, dừa xiêm trái nhỏ nước ngọt và thanh, dừa
lửa có vỏ bên ngoài vàng cháy, dừa dâu trái thon nhỏ dần ở hai đầu như hình
dáng quả dâu. Ngoài ra còn có một số loại khác như: Dừa Tam Quan, dừa cỏ, dừa
dứa, dừa nhiếm, dừa éo… riêng dừa sáp chỉ mọc được ở Trà Vinh và trở thành đặc
sản của vùng đất này.
Có lẽ trong tất cả các loại cây trái ở Việt Nam, cây
dừa là một loại cây cống hiến cả cuộc đời mình cho con người. Không một chi
tiết nào trên thân dừa lại không có chỗ dùng. Rễ dừa dùng để làm chất đốt, có
nơi còn làm thuốc nhuộm. Lá dừa dùng để lợp nhà, gói bánh dừa, tàu dừa chặt
ngắn lá dùng để trang trí nhà rạp, cổng hoa trong những tiệc cưới ở làng quê.
Lá dừa khô được bó lại thành cây làm đuốc soi đường trong những vùng sâu thiếu
thốn ánh đèn phố thị. Sống lá dùng để đan những giỏ hoa giỏ đựng trái cây trông
rất thanh mảnh và trang trọng.
Thân dừa thường dùng để bắc ngang con mương nhỏ làm
cầu. Sau khi bào bỏ lớp vỏ bên ngoài, người ta lấy thân làm cột, làm kèo xây
nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén
đũa...Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa thanh nhã vừa lạ mắt.
Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường
có giá trị thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn
độc đáo. Có thể làm gỏi, lăn bột, xào.. rất thích hợp với người ăn chay. Tuy
nhiên, món này không phải lúc nào cũng có vì mỗi khi đốn một cây dừa, người ta
mới lấy được củ hủ để dùng. Thậm chí ngay cả con sâu sống trên cây dừa (còn gọi
là đuông dừa) cũng là một thứ món ăn ngon. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo
múp míp. Người ta chế biến đuông thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng ở
các quán ăn trong thành phố.
Tuy nhiên, thứ có giá trị nhất vẫn là trái dừa. Trái
dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, giải độc. Ngày
xưa, trong chiến trận, thiếu các phương tiện y tế, người ta còn dùng nước dừa
thay thế cho dịch truyền. Dừa khô có nhiều công dụng hơn nữa. Nước dừa dùng để
kho cá, kho thịt, thắng nước màu, cơm dừa rám dùng để làm mứt, cơm dừa dày được
xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng
làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Gáo dừa được sử dụng
làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa
chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm,
làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc
các bờ kè chống sạt lở ven sông.
Hiện nay, các mặt hàng làm từ cây dừa không chỉ phát triển trong nước mà còn
được mở rộng ra các nước khác trên thế giới. Kẹo dừa Bến Tre được xuất khẩu
nhiều nhất qua trung Quốc.
Đi về Bến Tre, chỉ cần qua khỏi phà Rạch Miễu ta sẽ
đi giữa bạt ngàn màu xanh của dừa. Những buổi trưa oi bức, chỉ cần mắc võng học
bài dưới gốc dừa, bên cạnh bờ ao, hoặc đưa mắt nhìn bầu trời xanh đung đưa qua
kẽ lá, nghe tiếng cá nhảy, đớp mồi dưới ao chúng ta bỗng thấy cuộc đời đẹp biết
bao. Cuộc sống của người dân Bến Tre gắn liền với cây dừa từ bao đời nay. Ngôi
nhà của họ cũng ẩn hiện dưới bóng râm mát rượi của hàng dừa, lúc khát nước uống
trái dừa ngọt lịm … Không biết đã có bao nhà thơ đã dệt nên những vần thơ đẹp
về cây dừa ở Bến Tre. Trong đó bài thơ của nhà thơ Kiên Giang làm em thích thú
nhất:
“Khi yêu yêu lắm dừa ơi
Cả trời cả đất cả người Bến Tre
Bóng dừa râm mát lối quê
Người ơi! Tôi tưởng lối về cung tiên…”
Trong tương lai, cuộc sống ngày một hiện đại hơn. Nhưng những giá trị tinh thần vẫn không bao giờ thay đổi. Cũng như vậy, cây dừa sẽ mãi gắn bó với ngưồi dân Bến Tre như những hạt phù sa mãi mãi gắn liền với các con sông để ngày bồi đắp cho mảnh đất quê hương thêm màu mỡ.
KẸO
DỪA BẾN TRE
Kẹo dừa Bến Tre có nguồn gốc từ
huyện Mỏ Cày. Theo các tư liệu sưu tầm được thì người đầu tiên làm ra kẹo là bà
Nguyễn Thị Ngọc, sinh năm 1914, cư ngụ tại khu phố 1, thị trấn Mỏ Cày. Kẹo dừa
lúc đó có tên là kẹo Mỏ Cày. Vào năm 1970, bà Nguyễn Thị Vinh, sinh năm 1945,
cư ngụ tại thị xã Bến Tre, thay đổi mới cách chế biến kẹo. Bà thành lập cơ sở
sản xuất kẹo dừa Thanh Long, cơ sở đầu tiên ở thị xã Bến Tre, và từ đó tạo ra
tên kẹo dừa Bến Tre.
Tình hình sản xuất và
thị trường tiêu thụ
Nhiều
người cho rằng nghề làm kẹo dừa xuất phát từ Mỏ Cày, điều này không phải là
không có cơ sở. Trước đây người ta gọi thứ kẹo dừa này là kẹo Mỏ Cày. Tuy
nhiên, ai là người làm ra kẹo dừa và đưa nó thành một nghề thì không ai nhớ,
mặc dù nghề này hình thành chưa lâu lắm, vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XX.
Lúc
mới hình thành, nghề làm kẹo dừa chỉ gồm vài ba nhà tại khu vực chân cầu Mỏ Cày
(bây giờ thuộc thị trấn Mỏ Cày). Sau đó nhu cầu ngày càng tăng, nghề làm kẹo
dừa cũng ngày càng phát triển.
Từ
đó đến nay trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, nhưng nhìn chung nghề làm kẹo
dừa vẫn không ngừng phát triển. Khi đất nước thống nhất, thị trường mở rộng ra
cả nước, nghề làm kẹo dừa càng được mở rộng. Từ năm 1991 đến 1992, thị trường
Trung Quốc tiêu thụ mạnh thì nghề làm kẹo dừa có điều kiện phát triển nhảy vọt,
đỉnh cao vào những năm 1995 – 1996. Những năm đó Bến Tre có tới 200 lò kẹo lớn
nhỏ thu hút hàng chục ngàn lao động. Số lượng sản xuất hàng năm lên đến hàng
chục ngàn tấn kẹo với doanh số hàng chục tỉ đồng.
Hiện
tại Bến Tre có 151 cơ sở sản xuất kẹo dừa, gồm 15 công ty, 9 doanh nghiệp tư
nhân, số còn lại là hộ cá thể, có khả năng sản xuất trên 30.000 tấn/năm. Cơ sở
sản xuất tập trung chủ yếu trên địa bàn thị xã Bến Tre, huyện Mỏ Cày và Châu
Thành, giải quyết việc làm cho trên một vạn lao động nghèo với thu nhập từ
700.000 – 1.000.000 đồng/tháng.
Quy
trình làm kẹo dừa đơn giản, nguyên liệu chủ yếu là dừa, đường cát trắng và mạch
nha. Để sản xuất ra 10kg kẹo cần khoảng 20 trái dừa, 3kg đường, 3kg mạch nha.
Quan trọng ở chỗ tất cả các nguyên liệu làm kẹo dừa đều là nguyên liệu tại chỗ
rất phong phú. Nhờ đó mà giá thành kẹo ở Bến Tre không cao, được khách hàng
chấp nhận. Đó cũng là lý do kẹo Thái Lan, kẹo Singapore được đưa vào Việt Nam
nhưng kẹo dừa Bến Tre vẫn giữ được vị trí trên thị trường nội địa.
Nguyên liệu sản xuất
kẹo
Muốn
làm kẹo ngon, khâu chọn nguyên liệu rất quan trọng. Nguyên liệu làm kẹo dừa
gồm: nước cốt dừa, mạch nha, đường (trước kia người ta dùng đường thùng nhưng
ngày nay dùng đường cát). Mạch nha được chắt lọc từ chất đường của hạt nếp khi
được ủ cho lên mầm.
Kẹo
dừa sơ nguyên được chế biến khá đơn giản, không có các lò nấu mạch nha và lò
đường nên đường sử dụng thường là đường hủ (đường tán). Ngày nay cách làm kẹo
dừa cũng không ít thay đổi, yêu cầu nguyên liệu nghiêm khắc hơn và mùi vị phong
phú hơn. Thóc nếp dùng để nấu mạch nha phải là nếp tốt, hạt to chín đều. Ruộng
lúa đó không dùng phân hoá học, thuốc trừ sâu. Thóc nếp để nảy mầm được tưới
bằng nước mưa sạch rồi mới đem nấu lấy mạch nha. Thợ nấu mạch nha phải là thợ
lành nghề điêu luyện. Dừa khô chọn trái “rám vàng” mới vừa hái xuống vì trái
dừa mới bắt đầu khô này có hương vị đặc trưng, nước cốt có độ ngọt thanh. Đường
nấu kẹo phải chọn loại đường tốt, mới, có màu vàng tươi như nghệ, dẻo…
Thông
thường cho một lần sản xuất, các cơ sở sử dụng 14 kg đường cát, 13 kg mạch nha,
28 kg dừa khô
Phân loại kẹo dừa
Lúc
mới ra đời, kẹo dừa chỉ có một loại được sản xuất từ ba nguyên liệu kể trên.
Đến nay, tính về chủng loại có đến gần 10 loại kẹo dừa khác nhau. Sự khác nhau
do hương liệu và phụ gia quy định như kẹo sầu riêng, kẹo dừa đậu phộng, kẹo
sôcôla, kẹo sữa trứng, kẹo dừa dứa,…
Để
kẹo dừa Bến Tre phát triển, ngoài yếu tố kỹ thuật, đổi mới công nghệ, cần phải
tìm được đầu ra với một khối lượng lớn và ổn định.
Cũng
như nhiều nghề truyền thống khác, nghề làm kẹo dừa ở Bến Tre đã đóng góp một
phần không nhỏ trong việc cải thiện đời sống, giải quyết việc làm, đưa nền kinh
tế của tỉnh nhà từng bước đi lên.
Quy trình công nghệ
sản xuất kẹo dừa
Xử lý nguyên liệu
Chọn
dừa khô loại dừa hầu như còn nước dừa bên trong rất ít và hầu như không còn,
cơm dừa phải dầy, có độ béo cao và màu trắng, không lên mọng dừa hay bị “trăng
ăn” – là hiện tượng thối từ bên trong của trái dừa do nước mưa hoặc vi khuẩn
xân nhập vào bên trong trái dừa, sau đó dừa khô được đập bỏ nước.
Lột bỏ vỏ, lấy cơm
dừa, xay nhuyễn
Dụng
cụ xay nhuyễn cơm dừa, chuẩn bị cho quá trình ép lấy nước cốt dừa
Ép
Cho
cơm dừa xay nhuyễn vào một cái bao rồi cho vào máy ép lấy nước cốt dừa
Máy
ép cơm dừa Phần bã sau khi đã ép lấy nước cốt
Phối trộn
Phần
nước cốt dừa sau khi ép ra có thể cho thêm nguyên liệu phụ vào như: sầu riêng,
lá dứa, sôcôla, dâu và nhất thiết phải cho mạch nha vào.
Mục
đích của quá trình thêm các phụ liệu khác nhau là tạo ra nhiều hương vị phong
phú cho sản phẩm.
Sên kẹo
Ngày
xưa, khi làm kẹo dừa, người dân Nam Bộ phải dùng tay khuấy liên tục bên bếp
lửa, nếu không khuấy, phần nước dừa khi sên sẽ đặc lại và gây nên hiện tượng
chết cứng kẹo khi không được trở đều tay. Ngày nay, máy móc đã hỗ trợ trong
khâu này nên đỡ mất sức hơn, nhưng phần giữ lửa cho phần sên kẹo cũng rất công
phu, vì lửa lớn: sên kẹo sẽ khó khăn, lửa nhỏ: kẹo sẽ rất lỏng. Thời gian sên
kẹo khoảng 30 phút.
Nồi
nấu kẹo mềm dùng hơi nước làm nguồn nhiệt để thực hiện quá trình nấu, trộn và
cô đặc hỗn hợp nha kẹo.
–
Thông số hơi làm việc: 6 bar; 165°C.
–
Cơ cấu khuấy trộn có tốc độ khuấy 20-30 vòng/phút. Cánh khuấy có khả năng tháo
rời nhanh chóng để dễ dàng vệ sinh.
–
Cơ cấu quay rót kẹo qua miệng phễu rót trên thân nồi đảm bảo một góc quay 90°.
Đổ
khuôn, làm khô
Khi
phần nước cốt cô đặc và chuyển màu, người ta sẽ cho lên giàn khuôn mà khuôn đã
được bôi trơn một lớp dầu dừa để chống dính.
Tạo hình
Dùng
máy cắt ra làm nhiều phần theo kích thước định sẵn. Tại khâu này, người ta có
thể phối trộn hoặc cho thêm nguyên liệu lần cuối vào để kẹo có nhiều mùi vị
khác nhau như : đậu phộng giã nhuyễn, phối màu xanh là kẹo dừa lá dứa rồi hòa
vào kẹo sầu riêng. Hay cho thanh kẹo nửa màu trắng, nửa màu đen là kẹo dừa sầu
riêng sôcôla…
Gói
kẹo bằng bánh tráng
Phần
cuối cùng là gói kẹo trong một lớp bánh tráng mỏng phía bên ngoài. Bánh tráng
này ăn được và có tác dụng rút ẩm cho kẹo.
Bao gói thành phẩm
Gói
bao bì bằng giấy và cho vào hộp là hoàn tất công đoạn làm kẹo dừa. Hiện nay các
cơ sở sản xuất kẹo dừa đã đầu tư máy bao gói tự động, không còn sử dụng bao gói
tay bằng giấy như trước nữa, điều này giúp tiết kiệm thời gian, thúc đẩy quá
trình sản xuất diễn ra nhanh hơn.
Các
biến đổi trong quá trình sản xuất kẹo dừa
Quá trình sên kẹo
Sự
thay đổi tính chất hóa lý của khối kẹo trong quá trình sên:
–
Sau khi sên khối kẹo đã xốp hơn, vì có xuất hiện các lớp không khí và các ống
mao quản mỏng.
–
Trọng lượng khối kẹo giảm khi tăng thời gian sên (khi tăng thời gian sên đến 7
phút thì trọng lượng khối kẹo giảm từ 1,53 xuống 0,93) nhưng khi quá 7 phút thì
trọng lượng khối kẹo lại tăng vì các mao quản bị phá hủy.
–
Khi hấp thu không khí thì độ ẩm khối kẹo tăng lên 1%. Nhưng nếu thời gian sên
quá 7 phút thì độ ẩm từ từ giảm đến độ ẩm ban đầu.
–
Kẹo làm ra ít dính hơn vì sau khi sên nó có khả năng di chuyển độ ẩm tốt từ
ngoài vào trong.
Quá
trình phối mùi và màu cho kẹo
Khi
khối kẹo được sên trên lò nấu thì các nguyên liệu phụ như màu, hương tự nhiên
và một số phụ liệu khác…cũng được bổ sung vào nồi nhằm trộn đều các nguyên liệu
với nhau để có được sản phẩm đồng nhất. Nếu các chất trộn vào dưới dạng bột rắn
thì phải hòa tan trước ở ngoài với lượng tối thiểu nước hay dầu (chất hòa tan
trong chất béo) để không tạo mầm kết tinh.
Không
nên khuấy nhiều quá vì không khí dễ lẫn vào khối kẹo tạo bọt khí rất khó phá vỡ
làm kẹo thành phẩm có những lỗ hổng trên bề mặt kẹo do không khí tạo ra và mất
giá trị cảm quan.
Quá
trình làm nguội khối kẹo
Khi
tạo hình, muốn cho viên kẹo không bị biến dạng, không hồi đường và giữ được
tính dẻo thì phải được làm nguội nhanh chóng và đúng cách.
Làm bóng
Mục
đích: Bao cho kẹo một lớp mỏng chất béo – sáp không thấm nước bảo vệ kẹo tránh
tác dụng của độ ẩm xung quanh, đồng thời tăng vẻ bóng đẹp cho kẹo.
Gói kẹo bằng bánh
tráng
Bánh tráng dùng trong kẹo dừa là bánh tráng tan, dùng để làm không ướt tay và có tác dụng phụ trợ trong công việc hút ẩm của kẹo dừa. Nếu chỉ gói kẹo dừa bằng giấy thì thời gian bảo quản sẽ ngắn hơn do kẹo dễ bị chảy và mềm khi đặt ở nơi có độ ẩm cao.
MIỀN
NHAN SẮC
"Gà
nào hay bằng gà cao lãnh, gái nào bảnh bằng gái nha mân" “Con gái đẹp thì
xứ nào cũng có, nhưng gái Nha Mân không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết. Chữ
“bảnh” trong câu ca dao“Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân” là nói đến cái “công
dung ngôn hạnh” trong “tam tòng, tứ đức” đấy. Đó cũng là nét đặc trưng của
người con gái Nha Mân, đã nổi tiếng khắp vùng “Nam kỳ Lục tỉnh” thời đó. Ngày
xưa, dù nhà nghèo nhưng ba má luôn dạy cho con gái lễ nghĩa. Làm phận gái sao
cho ngoan hiền, thiệt thà, lời ăn tiếng nói dịu dàng, lễ phép”. Câu nói quen
thuộc khi nói về vẻ đẹp của các cô gái Miền Tây. Nha Mân thuộc tỉnh Đồng Tháp
theo tương truyền có nhiều cô gái đẹp, nhiều lần đến đồng tháp được chiêm
ngưỡng nhiều cô gái nha mân cũng đẹp và duyên dáng. Tuy nhiên những người phụ nữ
nổi tiếng thì lại đến từ vùng Tiền Giang, chẳng hạn như:
1/
Nam Phương hoàng hậu tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, có tên thánh
Marie-Thérèse, sinh ngày 14 tháng 12, 1914 tại huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường
(nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang), xuất thân trong một gia đình Công
giáo giàu có bậc nhất miền Nam thời bấy giờ. Bà là con gái của Nguyễn Hữu Hào,
mẹ là Lê Thị Bính, con gái của Lê Phát Đạt (tục gọi là Huyện Sỹ) ở Nam Kỳ, một
trong bốn người giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ 20.
2/
Hoàng Thái Hậu Từ Dụ: Bà tên thật là Phạm Thị Hằng, sinh ngày 19 tháng 5 năm
Canh Ngọ (tức ngày 20 tháng 6 năm 1810) tại giồng Sơn Quy (Gò Rùa), làng Gò
Công, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định (sau thuộc tỉnh Gò Công, nay thuộc Tiền
Giang). Cô bé Phạm Thị Hằng dù sống ở vùng quê nghèo Gò Công nhưng vẫn được học
hành đàng hoàng. Cô nổi tiếng hiếu hạnh, làu thông kinh sử, rất mực hiền thục.
3/ Cùng lúc với ở một nửa phía Bắc của đất nước có một người phụ nữ Tiền Giang
làm vợ Chủ tịch nước, ở miền Nam cũng có “đệ nhất phu nhân” là con gái bên sông
Tiền. Đó là bà Nguyễn Thị Mai Anh - phu nhân Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu.
Bà sinh ra ở Mỹ Tho, lập gia đình với Nguyễn Văn Thiệu năm 1951. Bà là người
phụ nữ xinh đẹp và có học. Bà là người đứng ra xây Bệnh viện Vì Dân (nay là
Bệnh viện Thống Nhất - TP.HCM). Bà hiện đang sống ẩn dật ở Boston – Hoa Kỳ.
4/
Nghệ sĩ nhân dân Phùng Há, bà tên khai sinh là Trương Phụng Hảo, sinh tại làng
Điều Hòa, tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền
Giang). Cha của bà là ông Trương Nhân Trưởng, người làng Phú Lạng, huyện Hạc
Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, còn thân mẫu bà là Lê Thị Mai, người làng
Ðiều Hòa, tỉnh Mỹ Tho
Vì
sao tỉnh Tiền Giang lại được lịch sử “ưu ái” khi có nhiều “hoàng hậu” sinh ra ở
đây? Ta hãy nghe người trong cuộc là vua Bảo Đại nói vì sao ông cưới vợ người
Tiền Giang: “Các vị Tiên đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam.
Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền
Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ,
hình như đức Tiên đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia, Đức Thế Tổ Cao Hoàng đã
được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự
ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam”.
Như
vậy là việc các vị vua triều Nguyễn chọn con gái miền Nam để tiến cung và làm
hoàng hậu là có chủ đích chứ không phải ngẫu nhiên. Mà một khi chọn con gái
miền Nam thì Tiền Giang có lợi thế hơn cả, vì những lý do sau:
1.
Tiền Giang là vùng đất được khai phá sớm nhất Nam bộ. Các lưu dân miền Trung đã
theo dòng sông Tiền đặt chân lên khai phá vùng đất màu mỡ này từ rất sớm. Đô
thị Mỹ Tho hình thành đã 331 năm, trước Sài Gòn những 18 năm. Rồi những người
“Minh Hương” (phản Thanh, phục Minh) chạy nạn ra khỏi Trung Hoa, được chúa
Nguyễn cho về định cư ở vùng Mỹ Tho, góp phần làm cho vùng đất này thêm phát
triển. Nhờ đó mà nơi đây sớm xuất hiện giới điền chủ giàu có, nhiều người cho
con học cao, ra làm quan, gắn bó với triều đình nhà Nguyễn. Vì vậy mà khi cần
tìm gái đẹp để “tiến cung”, con gái Tiền Giang có nhiều cơ hội hơn những nơi
khác.
2.
Sông Tiền nước ngọt quanh năm, đất đai hai bên sông rất màu mỡ, cây lành trái
ngọt, vì vậy mà con gái Tiền Giang “da trắng tóc dài”, nổi tiếng xinh đẹp. Với
những gia đình khá giả, con gái của họ càng có điều kiện để khoe “sắc nước
hương trời”. Các vị vua nhà Nguyễn thường mê sắc đẹp, nên họ bị con gái Tiền
Giang “hớp hồn” cũng là lẽ thường.
3.
Khi Pháp xâm lược Việt Nam, Mỹ Tho trở thành “thủ phủ” của miền Tây Nam bộ khi
tuyến xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho được xây dựng. Các hoạt động chính trị, văn hóa,
kinh tế ở đây đều nhộn nhịp. Nhiều nhân sĩ, nhà hoạt động cách mạng đã dừng
chân ở Tiền Giang như Phan Chu Trinh, Nguyễn Sinh Sắc, Tôn Đức Thắng... Điều đó
đã làm cho Tiền Giang thành nơi nuôi dưỡng, bảo bọc, gắn bó với các nhà cách
mạng. Trong xã hội Sài Gòn trước năm 1975, người Tiền Giang thành công ở Sài
Gòn rất nhiều, từ đó, nhiều cô gái gốc Tiền Giang đã không khó để tiếp cận và
bước lên thành “mệnh phụ phu nhân”.
Một số tính cách người Cần Thơ biểu hiện qua ca dao
1. Người Cần
Thơ thanh lịch
Nhắc
đến Cần Thơ, người ta không chỉ nghĩ đến những cánh đồng bát ngát, những dòng
sông chở nặng phù sa hay những vườn cây trái xanh tươi, những sản vật và nguồn
lợi từ thiên nhiên, mà còn biết đến với những con người luôn luôn sẵn sàng giúp
đỡ lẫn nhau với một tấm lòng nhân hậu, nhân ái và bao dung. Hai tiếng Cần Thơ
đã để lại trong tâm thức của các tác giả dân gian ấn tượng về một vùng đất trù
phú, giàu đẹp, cây lành trái ngọt quanh năm. Không chỉ nổi tiếng là vùng đất
giàu có về sản vật, mà còn là đất nổi tiếng nam thanh, nữ tú: “Đất Cần Thơ
nam thanh nữ tú”
“Gà
nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái
nào bảnh bằng gái Cần Thơ
Làm chi nay
đợi mai chờ
Linh
đinh Phong Mỹ, dật dờ Hòa An”
Ở
đây, các tác giả dân gian không chủ đích đề cập đến sự so sánh “hơn kém” của
người Cần Thơ, chỉ muốn nhấn mạnh đến việc ca ngợi những con người Cần Thơ
thanh lịch, trẻ trung, năng động. Công thức “nào…bằng" xuất hiện trong bài
ca dao nhằm ca ngợi nét đẹp chung của những con người vùng sông nước Cần Thơ.
2. Người Cần Thơ
giàu lòng hiếu khách
Người
Cần Thơ rất cởi mở và giàu lòng hiếu khách, dù gặp người quen hay lạ đều chào
hỏi ân cần; khi có khách đến nhà chơi thì mọi thành viên trong gia đình đều vui
vẻ và phấn khởi. Để biểu lộ lòng hiếu khách, họ thường chuẩn bị một bữa cơm với
những món đặc sản kiểu "cây nhà lá vườn", tuy đơn sơ, giản dị nhưng
lại rất chu đáo và trân trọng:“Bắt con cá lóc nướng trui/Làm mâm rượu trắng
đãi người phương xa”. Một bữa cơm dân dã với cá lóc nướng trui và vài
li rượu trắng nhưng tất cả là tấm lòng của người Cần Thơ đón chào khách đến
nhà, đãi khách phương xa bằng tất cả tấm chân tình của gia chủ, dân dã mà nghĩa
tình.
Người
Cần Thơ quý trọng tình cảm, vì đó là giá trị tinh thần cao quý của dân tộc.
Người Cần Thơ cũng như người Nam bộ, luôn tìm mọi cách để thuyết phục
"khách phương xa" theo một cung cách khó thể chối từ: “Đến
đây thì ở lại đây/Bao giờ bén rể xanh cây thì về”. Lời mời thể hiện
lòng hiếu khách của người Nam Bộ nói chung, người Cần Thơ nói riêng. Qua ngữ
liệu ca dao, một lần nữa khẳng định phẩm giá của con người vượt lên trên tiền
tài, danh vọng. Họ không chỉ sống thân thiện, gần gũi với những người xung quanh
mà còn có tấm lòng hiếu khách tuyệt vời, họ luôn mở lòng đón tiếp những
"du khách" đến với vùng đất này bằng thái độ vui vẻ, nhiệt thành và
nồng hậu:“Cần Thơ cảnh đẹp, người xinh/Quyện lòng du khách, gợi tình nước
non”
Khi
tìm hiểu về tính cách người Cần Thơ ta mới thấy rõ hơn những tình cảm đáng yêu,
đáng trân trọng và tự hào giữa người với người. Chính tình cảm này giúp cho một
vùng đất mới như Cần Thơ thu hút nhiều cư dân của nhiều địa phương trong cả
nước đến sinh cơ lập nghiệp, từ đó tạo nên sự đa dạng và giao thoa văn hóa các
vùng miền, càng làm phong phú hơn các giá trị nhân văn người Cần Thơ hôm nay.
3. Người Cần Thơ
rộng rãi, hào phóng
Do
thiên nhiên ưu đãi nên Cần Thơ có nhiều điều kiện thuận lợi trong phát triển
nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Cần Thơ có nhiều cá tôm, vườn cây ăn trái,
ruộng lúa phì nhiêu, màu mỡ. Đây còn là vùng đất "dễ bề làm ăn",
"đất lành chim đậu". Từ điều kiện tự nhiên như vậy đã nảy sinh tính
cách phóng khoáng, rộng rãi và hào phóng của người Cần Thơ:“Sông sâu nước
chảy đá mòn/Của kia ăn hết nghĩa còn ghi xương”. Dù phải vất vả làm ra
đồng tiền nhưng họ vẫn sống đúng nghĩa với lương tâm của mình. Tình nghĩa là
thước đo giá trị của người Cần Thơ:“Thương ai chữ nghĩa hơn vàng/Chữ nhân
coi trọng, chữ sang bình thường”
Nhân
nghĩa là quan trọng hàng đầu để mọi người sống bên nhau bền lâu, họ thích người
có tài năng và bản lĩnh thật sự. Rộng rãi, hào phóng là tính cách khá nổi bật
của người Nam bộ nói chung, người Cần Thơ nói riêng. Tính cách này đã giúp cho
tình người thêm xích lại gần nhau, cởi mở và tương trợ nhau trong quá trình lập
nghiệp và định cư.
4. Người Cần
Thơ trọng nghĩa, khinh tài
Người
Cần Thơ quý trọng tình nghĩa, từ tình nghĩa vợ chồng, anh em trong gia đình đến
tình làng nghĩa xóm, tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Người Cần Thơ dám nghĩ, dám
làm, sống vì tình nghĩa. Trọng nghĩa là tinh thần của người Nam Bộ nói chung và
người Cần Thơ nói riêng. Họ là những con người nghĩa khí, sẵn sàng xả thân mình
để cứu lấy người khác, để làm những việc họ cho là hợp với đạo lý ở đời, hợp
với luân thường đạo lý:“Dấn mình vào đám chông gai/Kề lưng cõng bạn ra ngoài
thoát thân”
Vốn
là những lưu dân đi tìm sự sống trong sự đối mặt với rất nhiều khó khăn, có khi
phải hy sinh cả mạng sống của mình, họ có thể vượt qua nguy hiểm là nhờ vào sự
liên kết, nhờ vào tinh thần "hoạn nạn, sanh tử bất ly" nên họ càng
thấm thía thế nào là tình nghĩa thâm giao, tình bằng hữu. Đây như là một nét
tiêu biểu trong tình cảm của con người vùng sông nước Cửu Long – sông nước Cần
Thơ: “Nhân nghĩa là chúa muôn đời/Bạc tiền là khách qua chơi bây giờ”
Người
Cần Thơ rất rõ ràng, sống đơn giản, yêu ghét phân minh. Họ quý trọng nhân
nghĩa, khinh thường, coi rẽ cái ác, cái xấu, cái giả dối, tiêu cực. Nhân nghĩa
được đặt lên vị trí hàng đầu, tiền tài là thứ có nay rồi mất mai, chỉ có tình
nghĩa mới trường tồn vĩnh cửu: “Tiền tài như phấn thổ/Nhân nghĩa tựa
thiên kim”
Mỗi
câu ca dao là một kinh nghiệm sống thực tế của con người, đó là những gì mà họ
đã tiếp nhận, chọn lọc được trong cuộc sống của họ. Nhưng không phải trong cuộc
sống ai cũng vậy, có người này thì có kẻ khác: “Đứt dây nên gỗ mới
chìm/Người bất nhân bất nghĩa kiếm tìm làm chi”
Những
con người sống không có tình nghĩa là những con người chỉ biết bản thân mình mà
không quan tâm đến những người xung quanh, nên họ không xứng đáng nhận được
tình cảm từ những người xung quanh. Ham giàu sang, danh vọng để làm gì khi sống
trong sự hơn thua, ganh ghét nhau, làm cho lòng người không thể thanh thản
được, một khi mình gặp phải khó khăn thì cũng bị mọi người bên cạnh khinh rẽ,
chứ không hề cảm thương: “Khi giàu chẳng có đỡ ai/Đến khi hoạn nạn
chẳng ai đỡ mình”
Những
bài ca dao là bức tranh chân thực phản ánh của cuộc sống và tính cách con
người, trong đó có người Cần Thơ. Tính cách “trọng nghĩa, khinh tài” đã góp
phần xây dựng một Cần Thơ nhân ái, hào hiệp, sống có nghĩa có tình, biết thương
yêu và trân trọng những giá trị truyền thống cao quý của dân tộc.