Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!

Dịch trang

Người Đi Tìm Hình Của Nước

Thông Tin Du Lịch Phổ biến

Tài liệu thuyết minh Phú Yên - Bình Định Năm 2025 (Phần 2)

 Thương Thương là một nàng thơ đúng nghĩa của Hàn Mặc Tử. Không gặp mặt, không nghe tiếng. Chỉ là những tưởng tượng. Thế nhưng những sáng tác của chàng về nàng thật diệu kỳ. Về tuổi tác Thương Thương, nhiều tài liệu nói rất khác nhau. Nhưng theo nhà văn Trần Thanh Địch, khi Hàn Mặc Tử viết Quần tiên hội thì Thương Thương khoảng 15 tuổi. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Tuyển, người đã bỏ công tìm hiểu rất kỹ về cuộc đời Hàn Mặc Tử cho biết, Thương Thương sinh ngày 8/10/1924. Như vậy là vào năm 1939, Thương Thương đã 15 tuổi chứ không phải mới 12 tuổi như một số tác giả khác.

Hàn Mặc Tử là một người đa sầu đa cảm. Gặp ai cũng đem lòng thương nhớ. Vì thế có rất nhiều hình bóng giai nhân đã đi vào thơ chàng. Ngoài Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình, Thương Thương là bốn người phụ nữ ảnh hưởng sâu sắc tới thơ Hàn Mặc Tử, trong từng giai đoạn còn có những người phụ nữ khác để lại dấu ấn trong thơ chàng. Đầu tiên là Ngọc Sương. Nàng là chị ruột của Bích Khê, bạn Hàn Mặc Tử, đồng thời là dì ruột của Mộng Cầm. Nguyên khi Mộng Cầm đi lấy chồng, Bích Khê thấy bạn buồn quá bèn tặng tấm hình của hai chị em cho Hàn Mặc Tử và giới thiệu đôi chút về Ngọc Sương. Do đó mà Ngọc Sương cũng đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên Ngọc Sương không hề có mối giao lưu nào với Hàn Mặc Tử dù qua thư từ. Mãi đến khi Bích Khê mất vào năm 1946, Ngọc Sương soạn lại di cảo của em mới biết rõ một số bài thơ Hàn Mặc Tử viết về mình.

Một người nữa là Thanh Huy. Nàng tên thật là Võ Thị Thu Huy, là chị vợ nhà văn Trần Thanh Địch, khi đó đang sinh sống ở Phan Thiết. Cũng như Ngọc Sương, Thanh Huy chỉ làm quen qua thư chứ chưa gặp mặt Hàn Mặc Tử. Đó là lúc chàng đã phát bệnh nặng. Thanh Huy cũng đang tập tành làm thơ, được Bích Khê khuyên nên viết thư động viên Hàn Mặc Tử. Vì thế một hôm Tử đang chán nản buồn phiền thì có bức thư bỏ trong phong bì màu xanh của Thanh Huy gửi đến. Lập tức chàng sáng tác bài Bức thư xanh: "Thanh Huy hỡi nàng chưa là châu báu/Cớ làm sao phước lộc chảy ra thơ/Duyên làm sao cho Trí đến dại khờ/Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ gấm/Ta đã nuốt và hình như đã cắn/Cả lời thơ cho vãi máu nàng ra". Bài thơ viết một cách dữ dội, Thanh Huy đọc và thôi không liên lạc với Tử nữa vì khiếp đảm.

Mỹ Thiện cũng là một nàng thơ để lại dấu ấn mạnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Nàng người gốc Huế, ở cạnh nhà Hàn Mặc Tử tại thành phố Quy Nhơn. Nàng sống với cha và bà mẹ kế xấp xỉ tuổi nàng. Mỹ Thiện rất giỏi âm nhạc dân tộc, nổi tiếng là một cây đàn tỳ bà tài hoa, đặc biệt có thể chơi đủ năm cây đàn tranh, nhị, nguyệt, bầu, tỳ bà. Những đêm khuya, nàng thường dạo đàn tranh réo rắt. Hàn Mặc Tử chưa một lần gặp mặt Mỹ Thiện nhưng chàng bị ám ảnh bởi tiếng đàn. Ở thành phố Quy Nhơn dạo ấy, không chỉ riêng Hàn Mặc Tử mà nhiều chàng trai khác cũng mơ tưởng đến người ngọc. Khi bệnh tình càng nặng, tiếng đàn Mỹ Thiện càng làm cho chàng khó ngủ.

Mỹ Thiện không thoát khỏi hồng nhan bạc phận. Sống với người mẹ kế, nàng thường xuyên chịu đựng những ganh ghét. Một ngày kia nàng đã kết liễu đời mình bằng mười viên thuốc ngủ Véronal. Cái chết của Mỹ Thiện đánh tan mọi ngờ vực của những người ác ý và bà mẹ kế, là nàng đã hoang thai. Các bác sĩ đã công bố nàng vẫn còn là cô gái trinh tiết. Ngay lập tức Hàn Mặc Tử vào buồng đóng cửa lại và bài Cô gái đồng trinh ra đời tức khắc: "Đêm qua trăng vướng trên cành trúc/Cô láng giềng bên chết thiệt rồi/Trinh tiết vẫn còn nguyên vẹn mới/Chưa hề âu yếm ở đầu môi/Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc/Cả một mùa xuân đã hiện hình". Hình bóng Mỹ Thiện từ đó còn trở lại nhiều lần trong thơ chàng. Nguyễn Bá Tín em chàng kể lại: "Cô gái đồng trinh từ đó trở thành một hiện tượng kỳ lạ, một nàng thơ dẫn dắt anh vào những nhớ thương bàng bạc bâng quơ, hoặc hòa nhập vào những lời thơ quằn quại xót xa mà cuộc đời nàng đã đi qua ngắn ngủi"...

Hàn Mặc Tử đã sáng tác được 5 tập thơ, trong đó Lệ Thanh Thi Tập là tập thơ đầu tiên. Trong tập này bài Buồn thu có những câu khá hay: "Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt/Cảnh sắp về đông mắt sẽ vơi". Đây là bài thơ liên quan đến một người phụ nữ: đó là cô Trà. Nàng là người về bên ngoại của Hàn Mặc Tử nhưng không bà con. Chàng đã gặp nàng vào cái thời còn rất trẻ, tính tình khi ấy hết sức nhút nhát. Nàng chờ chàng ngỏ lời nhưng mãi không thấy chàng lên tiếng. Mà con gái Huế thời ấy luôn lấy chồng sớm. Chàng chưa nói được gì thì nàng đã sang sông. Sực tỉnh, chàng làm bài Buồn thu với nhiều tiếc nuối. Đây có thể coi là hình bóng người phụ nữ đầu tiên đi vào thơ chàng...

 

Ai cũng biết Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong. Nhưng ngoài căn bệnh mà người ta cho rằng đã ảnh hưởng đến thơ của Tử, bật ra thành những lời gào thét uất hận, thì trong thơ Tử còn có những hình ảnh thật kỳ dị khó hiểu có thể liên quan đến một nguyên nhân khác. Chính người em ruột của Tử đã đặt vấn đề về một căn bệnh tâm thần mà Tử mắc phải. Có thể như thế được chăng?

Trong thơ Tử có những hình ảnh thật kỳ dị, đôi lúc ma quái rùng rợn. Đến nỗi Hoài Thanh đã phải công nhận là: "Chính như lời Hàn Mặc Tử nói trong bài Thơ điên, vườn thơ của người rộng thinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh".

Quả đúng như thế. Đọc thơ của chàng đôi lúc thấy sởn da gà: "Tôi ngồi dưới bến đợi nường Mơ/Tiếng rú ban đêm rạng bóng mờ!/Tiếng rú lòng tôi xô vỡ sóng/Rung tầng không khí, bạt vi lô/Ai đi lẳng lặng trên làn nước/Với lại ai ngồi khít cạnh tôi?/Mà sao ngậm cứng Thơ đầy miệng/Không nói không rằng nín cả hơi", "Lụa trời ai dệt với ai căng?/Ai thả chim bay đến Quảng Hằng?/Và ai gánh máu đi trên tuyết/Mảnh áo da cừu ngắm nở nang", "Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm/Cho trăng ngập, trăng dồn lên tới ngực/Cho hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức/Rồi bay lên cho tới một hành tinh/Cùng ngả nghiêng lăn lộn với muôn hình/Để gào thét một hơi cho rởn ốc".

Quách Tấn đã nghe Hàn Mặc Tử kể lại những câu chuyện liên quan đến các hình ảnh người gánh máu đi trên tuyết và người ngồi khít cạnh tôi như sau: "Đêm ấy - theo lời Tử kể - vì tiết sắp sang đông nên bãi biển không một bóng người qua lại, mặc dù trời không lạnh và trăng sáng như ban ngày. Đêm tạnh hết sức, tạnh đến nỗi nghe cả tiếng chiêm bao! Cảnh trời thật mênh mông bát ngát. Lòng tôi lại mênh mông bát ngát bằng hai... Thân tôi chìm trong không gian vô tận và hồn tôi chìm trong cõi lòng rộng vô biên. Tôi có một cảm giác ngờm ngợp... Chợt nhìn lên trời thấy bóng trăng đã đứng đầu, và nhìn bên cạnh thấy một bóng người ngồi sát. Liền đó từ trong bóng người ngồi cạnh tôi, bước ra một bóng người thứ hai, đi từ từ ra biển và bước lững thững trên mặt nước... Rồi hai bóng đều biến mất và mặt biển đông lại thành tuyết sáng ngời dưới bóng trăng khuya. Thoạt hiện ra một người, thân vóc nở nang, mình khoác chiếc áo lông, vai khoác hai thùng thiếc đựng đầy nước óng ánh. Người ấy bước đi thì nước trong thùng tung ra và hóa thành huyết đổ lã chã trên tuyết. Người gánh máu đi lần vào bờ... Tôi khiếp quá hét lên thành tiếng, vụt đứng dậy, chạy một mạch về nhà. Vừa đến nhà, mệt quá, té nằm trước thềm, ngút hơi... Từ ấy cảnh tượng kia ám ảnh tôi mãi...". Quách Tấn viết tiếp: "Tử lại nói: Cảnh tượng người gánh máu đi trên tuyết khi trông thấy thì rùng rợn hơn cảnh tượng người ngồi bên cạnh tôi. Song về sau mỗi lần nghĩ lại, cảnh tượng người ngồi bên cạnh lại gây một cảm giác rùng rợn hơn".

Đó là những trạng thái "xuất thần" mà hàng mấy chục năm, tất cả những người nghiên cứu về thơ Hàn Mặc Tử không ai lý giải được nguyên nhân, kể cả Quách Tấn. Người ta chỉ cho rằng nó bật ra từ sự đau khổ nung nấu mà Tử phải gánh chịu mà thôi.

Người em kế của Tử, sau nhiều năm lặng lẽ chiêm nghiệm, đã công bố một kết luận vào năm 1991: "Trong quá trình chung sống bên anh, tôi ghi nhận anh có hiện tượng suy nhược tâm thần, bệnh đó đã được nhiều người bạn tôi, chuyên khoa tâm lý sau này xác nhận là hiện tượng "névrose", một chứng rối loạn thần kinh nào đó, mà con người vẫn còn sáng suốt và rung cảm bén nhạy, vẫn làm chủ được trí óc mình".

Nguyễn Bá Tín cho biết, có một tai nạn đã xảy ra đối với Tử vào lúc nhỏ, có thể ảnh hưởng đến tâm thần chàng về sau. Đó là lúc chàng khoảng 17-18 tuổi, suýt bị chết đuối ở biển Quy Nhơn. Sau khi thoát chết, Tử trở nên hoảng loạn khác thường. Từ đó chàng bỏ luôn thói quen tắm biển, sợ nước, ít hoạt động, hình thể gầy nhỏ đi. Nhiều biểu hiện làm cho gia đình sợ rằng Tử bị tâm thần, nhưng sau đó thấy chàng bình thường, thậm chí còn tập làm thơ nên cũng quên đi nỗi lo lắng.

Tuy nhiên với Tử thì khác. Chàng quả quyết rằng trong cơn nguy biến đó, chàng đã được tận mắt thấy Đức Mẹ hiện ra. Đó là giây phút mà chàng run sợ đến ớn lạnh toàn thân. Sau này Tử đã sáng tác bài Ave Maria: "Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy/Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế/Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ/Giòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ". Chi tiết này càng củng cố cho nhận định của Nguyễn Bá Tín là đúng.

 

Những vần thơ Chế làm ra đã khiến Tử kinh ngạc. Đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác: những bài thơ điên loạn.

Quy Nhơn - Bình Định là vùng đất thiêng. Năm trăm năm trước, vùng đất này là chiến trường đẫm máu. Một vương triều sụp đổ, bao nhiêu chiến binh tử trận. Thành Đồ Bàn ngày nào còn lại một dãy gò sỏi mênh mông với những tháp Chàm đổ nát. Từ xưa, nhiều thi sĩ khi qua đây đã cảm xúc bật ra những vần thơ thống thiết.

Vào những năm 1930 - 1945, Quy Nhơn - Bình Định bỗng trở thành vùng đất cực thịnh của văn chương nghệ thuật. Thật kỳ lạ, nơi đây tập trung toàn những thi sĩ tầm cỡ. Thuở ấy, có cậu học trò nhút nhát thích làm thơ tên là Phan Ngọc Hoan. Đắm mình trong không gian huyền hoặc của cõi Đồ Bàn, Hoan đã đặt cho mình cái tên Chế Lan Viên rồi khóc than người đã khuất bằng tập thơ Điêu tàn với những câu thơ thật lạ lùng: "Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận/Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang/Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận/Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn".

Năm 1936, từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã gặp Chế Lan Viên. Chế tìm đến Tử như tìm đến một ông thầy dạy làm thơ. Thế nhưng những vần thơ của Chế đã khiến Tử kinh ngạc: "Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước/Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn/Hơi người chết tỏa đầy trong gió lướt/Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ xanh non/Trên một nấm mồ tàn ta nhặt được/Khớp xương ma trắng tựa não cân người/Tủy đã cạn nhưng vẫn đầm hơi ướt/Máu tuy khô còn đượm khí tanh hôi". Trước đó, Hàn Mặc Tử đã nghiên cứu rất kỹ về trường phái thơ tượng trưng của Pháp. Chàng mong muốn tạo ra một trường phái thơ cho riêng mình. Giờ đây Chế đã làm lóe lên trong đầu Tử cái mà lâu nay chàng đi tìm nhưng chưa thấy. Trước đó, khi Yến Lan hoàn thành bản thảo tập Giếng loạn, Tử đã mơ hồ nghĩ đến một thứ thơ "không giống ai". Bây giờ đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác: những bài thơ điên loạn. Vì vậy ngay trong ngày Chế Lan Viên và Yến Lan đem bản in đặc biệt của tập Điêu tàn đến cho chàng xem, chàng hồ hởi công bố ngay việc thành lập "Trường thơ loạn".

Từ đó, dưới ngọn cờ của chủ soái Hàn Mặc Tử, các thành viên trong "Trường thơ loạn" say sưa sáng tác. Có những đêm cả bọn đem chăn màn ra bờ biển ở lại suốt đêm để thả hồn theo những vần thơ kỳ dị. Thơ của các thi sĩ "Trường thơ loạn tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy... Tất cả say sưa bước chân vào cái thế giới rùng rợn đó. Nếu Hàn Mặc Tử thích thú với hồn để viết "Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút/Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta/Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/Như mê man chết điếng cả làn da" thì Chế Lan Viên lại khoái... sọ người hơn: "Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ dại/Muốn riết mi trong sức mạnh tay ta/ Để những giọt máu đào còn đọng lại/Theo hồn ta tuôn chảy những lời thơ/Ta muốn cắn mi ra từng mảnh nhỏ/Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô".

Việc nhóm thơ Bình Định cho ra đời "Trường thơ loạn" khiến văn thi hữu khắp nơi bàn tán xôn xao. Nhiều người hoan nghênh nhưng cũng không ít người chê bai. Hoài Thanh kể: "Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo: Hàn Mặc Tử thơ với thẩn gì, toàn nói nhảm ! Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: Thơ gì mà rắc rối thế! Mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc gì, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!". Đặc biệt Xuân Diệu là người ghét cay ghét đắng những vần thơ điên của Tử. Hoài Thanh kể tiếp: "Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mặc Tử khi viết đoạn này: Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: Tôi điên đây! Tôi điên đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống".

Đúng là những vần thơ điên của các thi sĩ này đã gây sốc cho nhiều người. Nhưng thật ra đó chỉ là một cách giải quyết sự bế tắc trong tư tưởng của mình mà thôi. Hàn Mặc Tử đã dẫn dắt các thi sĩ sáng tác khá nhiều những vần thơ kỳ dị cho đến lúc chàng rời bỏ cuộc đời vào năm 1941. Sang năm 1942, đến lượt Bích Khê cũng vĩnh viễn ra đi. "Trường thơ loạn" từ đó tan rã.

Nguyên nhân khởi phát căn bệnh phong của Hàn Mặc Tử được nhiều sách báo dẫn lại như sau: Một hôm từ Sài Gòn ra Phan Thiết thăm Mộng Cầm, chàng được Mộng Cầm dẫn đi dạo chơi lầu ông Hoàng...

Đến lúc chiều tối trở về, băng qua cánh đồng thì gặp cơn mưa giông. Cả hai chạy vào trú trong một căn chòi bên đường. Mưa mỗi lúc một lớn, trời tối đen như mực. Từ trong căn chòi, hai người nhìn ra bên ngoài thấy có những quả cầu lửa màu xanh dưới đất vùn vụt bay lên. Những quả cầu lửa chớp tắt liên tục. Đồng thời lại nghe tiếng rền vang ầm ầm như ai lăn thùng sắt trên đường đá.

Hai người rất hoảng sợ, ngồi ôm nhau run rẩy trong căn chòi. Một lúc trời quang mây tạnh, bước ra khỏi nơi trú mưa thì mới biết mình đang ở cạnh một ngôi mộ ai mới chôn. Trở về Sài Gòn ít hôm, Tử thấy ngứa ngáy khó chịu trong người. Một thời gian thì nổi lên những vết đỏ như đồng xu ở trên lưng, sau lan dần ra khắp người. Căn bệnh phong xuất hiện từ đó.

Những thông tin này đăng tải lên kèm với lời phê phán việc Mộng Cầm bỏ Tử đi lấy chồng trong lúc Tử bị căn bệnh quái ác hành hạ khiến Mộng Cầm hết sức day dứt. Theo quan niệm dân gian trước nay, thì căn bệnh phong phát ra do người ta nhiễm phải hơi dưới ngôi mộ mới bốc lên trong lúc mưa giông. Nhiều người tin điều đó là có thật nên càng trách Mộng Cầm nhiều hơn, rằng nàng đã gián tiếp đưa chàng đến chỗ bệnh tật rồi lại vội vã bỏ ra đi.

Tuy nhiên, ngay từ thời ấy, khoa học đã chứng minh căn bệnh phong do loại vi trùng có tên là Hansen gây ra. Chính khi Hàn Mặc Tử nhập bệnh viện phong Quy Hòa, bệnh viện Quy Nhơn đã làm xét nghiệm cho chàng và tìm ra vi trùng Hansen trong cơ thể chàng.

Nhưng có một điều gây khó hiểu cho nhiều người là việc phát bệnh của Tử lại có những chi tiết trùng hợp với quan niệm dân gian nói trên. Nguyễn Bá Tín cho biết, chính Hàn Mặc Tử đã kể với bà mẹ về chuyện mắc mưa giông trong nghĩa địa: "Mẹ tôi linh cảm có chuyện chẳng lành. Bà vặn hỏi mãi thì anh kể chuyện có hôm cùng người bạn đi chơi Phan Thiết, gần tối băng qua cánh đồng, thì gặp phải cơn mưa giông dữ dội...". Ngay cả Mộng Cầm cũng thừa nhận có chuyện như vậy. Hãy đọc đoạn đối thoại giữa Châu Hải Kỳ và Mộng Cầm trên tạp chí Phổ Thông số ra ngày 15/8/1961:

- "Như vậy xin lỗi bà, bà có đi lầu ông Hoàng và có gặp mưa không?

- "Tôi nhận có đi chơi lầu ông Hoàng với Hàn Mặc Tử, có gặp mưa, có ngồi ở nghĩa địa, nhưng không phải vì đó mà Hàn Mặc Tử bị phong như anh Quách Tấn đã viết. Nếu Hàn Mặc Tử bị phong sao tôi không hề hấn gì cả? Hai người cùng ngồi núp mưa một chỗ kia mà!".

Song song với câu chuyện trên, có một câu chuyện hoang đường khác cũng liên quan đến căn bệnh phong, được truyền tụng trong dân gian thời ấy. Đó là sự báo thù của những người chiến bại ở thành Đồ Bàn khi xưa. Sự báo thù chỉ nhắm vào những thanh niên đẹp trai, học giỏi. Lời đồn đại này làm cho người dân thành phố Quy Nhơn thời ấy luôn sống trong hồi hộp lo âu. Lâu lâu ở thành Quy Nhơn, thấy vắng bóng một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai là mọi người hiểu anh ta vừa phát bệnh phong, phải đi trốn. Lời đồn này đã có từ xa xưa, trở thành một truyền thuyết lưu truyền qua nhiều thế hệ. Người dân Bình Định, đặc biệt là Quy Nhơn, bao giờ cũng nơm nớp lo sợ sự báo thù ghê gớm của một giống người Hời. Và thật thú vị, cũng chính những truyền thuyết này là chất men sáng tạo cho những nhà thơ điên của thành Quy Nhơn. Chế Lan Viên cùng với Yến Lan thường lang thang bên những tháp Chàm đổ nát để tưởng nhớ về những người Hời huyền thoại đó. Trong bài thơ Trên đường về, Chế Lan Viên viết: "Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn/Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi". Hàn Mặc Tử cũng đã từng viết: "Mà vì đâu những tháp Hời kiêu ngạo/Hằng muôn năm sống mãi dưới sương đêm".

Điều đáng tiếc nhất, là Hàn Mặc Tử, một người rất Tây học, nghiên cứu đủ thứ về văn minh phương Tây, từ thi ca cho đến triết học, lại không chịu tin vào Tây y. Chàng cũng bắt chước theo những người ít học khác khi biết mình bị mắc bệnh phong là tìm một nơi hoang vu vắng vẻ để lẩn trốn chính quyền, lẩn trốn người quen rồi chạy chữa bằng những thứ thuốc của các lang băm. Cho đến cuối cùng, khi đã kiệt quệ sức lực thì mới chịu vào bệnh viện. Và vì thế nên mọi chuyện đã trở nên quá muộn màng.

Những năm 1938 - 1939, Tử đau đớn dữ dội bởi bệnh tật, nhưng trước mặt bạn bè chàng cố kìm nén. Chàng chỉ gào thét trong thơ: "Trời hỡi! bao giờ tôi chết đi /Bao giờ tôi hết được yêu vì/Bao giờ mặt nhật tan thành máu/Và khối lòng tôi cứng tợ si", "Tôi vẫn còn đây hay ở đâu/Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu/Sao bông phượng nở trong màu huyết/Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu".

Lúc này, sau một thời gian chữa chạy bằng đông y, chẳng những căn bệnh phong cùi không thuyên giảm chút nào mà ngược lại còn làm thân thể chàng ngày một tiều tụy đi vì những tác dụng phụ của thuốc. Mặt khác, thông tin về việc chàng bị mắc bệnh phong đã đến tai chính quyền địa phương. Do đó, chàng phải liên tục thay đổi chỗ ở để tránh sự truy đuổi gắt gao của Sở Vệ sinh công cộng thành phố Quy Nhơn. Cuối cùng, gia đình tìm thuê cho chàng được một nơi ở khá kín đáo trong khu lao động nghèo nằm bên cồn cát trắng ven biển. Đó là một túp lều tranh mà theo Hoài Thanh kể là rách nát đến độ phải lấy giấy báo và bao thư che những chỗ dột trên mái nhà.

Trong thời kỳ bệnh tật, Tử sáng tác được ba tập thơ là Thơ điên, Xuân như ý và Thượng thanh khí. Nhưng có điều đặc biệt là, những câu thơ của chàng cứ tiến dần đến chỗ rối rắm khó hiểu theo tiến triển bệnh tật. Nhiều câu thơ đọc lên nghe rất hay nhưng độc giả hầu như không ai hiểu tác giả muốn nói gì. Tuy nhiên, theo lời Quách Tấn thì, điều lạ lùng là dù rối rắm khó hiểu như thế nhưng thơ Tử được người đời chuyền tay nhau đọc thuộc lòng, đọc như đọc kinh, không hiểu gì cũng đọc thuộc làu làu. Như thể thơ của chàng lúc đó có một ma lực gì. Hoài Thanh cũng xác nhận điều lạ lùng này: "Trong ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mặc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mặc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mặc Tử đâu phải chuyện dễ. Đã khúc mắc mà lại nhiều: tất cả đến sáu, bảy tập. Họ thuộc hết và chọn những lúc đêm khuya thanh vắng họ sẽ cao giọng, ngâm một mình. Bài thơ đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vị giáo chủ".

Chúng ta biết rằng, lúc Hàn Mặc Tử còn sống, chàng chỉ mới xuất bản được mỗi một tập Gái quê vào năm 1936, khi chàng còn khỏe mạnh và có tiền. Còn phần lớn thơ chàng làm ra trong thời kỳ bệnh tật này thì đến với người yêu thơ qua cách người này cho người khác mượn sổ thơ để chép tay. Thơ của Tử không chỉ làm thích thú những cô cậu học sinh trung học vốn mơ mộng mà còn lan tỏa ra nhiều giới khác. Và thật đáng ngạc nhiên, nó còn lay động đến cả giới tu hành. Có một nữ tu trẻ đẹp chừng mười bảy mười tám tuổi ở ngôi chùa Liên Tôn gần đó, vì ái mộ thơ Tử nên đã không ngần ngại căn bệnh phong cùi gớm ghiếc, ghé vào căn chòi để thăm chàng. Về sau chàng đã đưa ni cô vào trong thơ của mình với những tình cảm khá đặc biệt.

Một điều nữa, không những ma lực có ở trong lời thơ Tử mà còn nằm trong chính con người Tử khi chàng cất giọng đọc thơ. Yến Lan kể: "Nếu ai đã có lần nghe anh ngâm thơ thì mới cảm thấy hết cái cảm giác kỳ lạ lần đầu bắt gặp: nôn nao, nôn nao. Và cộng với lời thơ, gây nên một không khí mông lung. Chúng tôi như bị dồn vào thế giới nào có suối, có đồi, có bóng dáng những cuộc hành hương, và nhạc điệu cung văn, đồng bóng".

Yến Lan, Chế Lan Viên, Hoàng Tùng Ngâm, Trần Kiên Mỹ... là những người bạn thân thiết thường ghé thăm chàng để an ủi chàng, một tâm hồn quá khổ đau lúc này như chàng viết: "Lòng ta sầu thảm hơn mùa lạnh/Hơn hết u buồn của nước mây/Của những tình duyên thương lỡ dở/Của lời rên xiết gió heo may". Bạn bè đã được nghe chàng đọc những vần thơ như chảy ra từ xương tủy. Yến Lan kể tiếp: "Anh đã biến thành những chuỗi dài đau khổ, cao thấp chen nhau như từng tia lửa bùng lên, như mảnh lụa tươi vàng bị xé vụn. Anh đã lấy xác thịt minh họa cho lời thơ. Có khi chúng tôi chảy nước mắt. Còn anh, anh đã thành một người say. Các lần ngâm thơ của anh đều diễn ra như thế vì những bài thơ ấy đều là những bài xót xa nhất. Đặc biệt là hôm anh ngâm bài Thánh nữ đồng trinh Maria. Xáo trộn trong đau thương, còn có nỗi trìu mến hân hoan kỳ lạ".

Hàn Mặc Tử đã đắm mình trong cái không gian vừa đau thương vừa bay bổng đó để làm ra những vần thơ khiến người đời say đắm cho đến lúc chàng phải bước chân vào trại phong Quy Hòa vào ngày 20/9/1940.

Căn bệnh phong không phải là căn bệnh có thể làm chết người một cách nhanh chóng. Đó là căn bệnh chủ yếu làm cho con người bị tàn phế. Một bệnh nhân cùng nhập viện với Tử vào lúc ấy, ở cùng phòng bệnh với Tử tên là Nguyễn Văn Xê vẫn tiếp tục sống thêm 55 năm nữa sau khi Tử qua đời, cho đến năm 1995 mới mất. Có lẽ Tử cũng biết điều đó vì anh rể của Tử hồi đó là y tá trong Bệnh viện Quy Nhơn và Tử cũng là người có trình độ hiểu biết cao. Nhưng Tử vẫn luôn luôn nghĩ về cái chết.

Tử đã đoán trước được cái ngày mình sẽ ra đi. Trong bài Trút linh hồn chàng viết: "Máu đã khô rồi, thơ cũng khô/Tình ta chết yểu tự bao giờ/Từ nay trong gió, trong mây gió/Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ". Đó là một lời tuyên bố chắc chắn. Từ khi viết bài thơ này cho đến lúc Tử ra đi là khoảng thời gian khá xa và Tử mất là vì bệnh kiết lỵ. Thế nhưng chàng vẫn viết: "Ta trút linh hồn giữa lúc đây/Gió sầu vô hạn nuối trong cây/Còn em sao chẳng hay gì cả/Xin để tang anh đến vạn ngày".

Em ở đây là ai? Có lẽ cả Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình lẫn Thương Thương và nhiều hình bóng giai nhân khác. Tất cả những nàng thơ ấy, lúc này đều đã rời xa chàng. Cách đó một thời gian, chàng đã tạm biệt Thương Thương theo lời đề nghị của người anh ruột nàng là Trần Tái Phùng: "Than ơi! Hỡi! Biệt ly chan chứa/Tưởng cùng em vui thú hưởng tiêu dao/Anh sắp đi và hai hàng lệ ứa/Cả đau thương dồn dập xót tâm bào".

Lúc này, nhiều câu thơ Tử làm ra cứ như lời tiên tri về cái chết của mình. Đây không phải là đặc điểm của những bài thơ thuộc Trường thơ loạn như đã nói trước đây. Bởi chẳng hạn trong Điêu tàn, Chế cũng có dùng những từ ngữ để chỉ sự chết chóc nhưng tuyệt nhiên ta không thấy bóng dáng thần chết ở đâu mà chỉ là biểu hiện của triết lý thơ điên loạn mà thôi. Còn một số câu thơ Tử viết về cái chết thì lại khác. Ý thơ rất là "gở". Chẳng hạn Tử viết: "Ta còn trìu mến biết bao người/Vẻ đẹp xa hoa của một thời/Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng/Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi".

Khoảng giữa tháng 9/1940, Tử nhắn Quách Tấn từ Nha Trang ra Quy Nhơn gặp chàng. Lúc này chàng đã được làm xét nghiệm và người ta đã phát hiện ra vi trùng Hansen trong cơ thể chàng.

Tử di ngôn lại cho Quách Tấn lo giữ gìn tài sản văn chương của chàng, sau này chàng chết đi thì tùy theo đó mà xử lý. Rồi chàng nhập bệnh viện phong. Nhập viện để chữa trị căn bệnh phong nhưng chàng coi như mình sắp đi vào cõi chết. Vì sao vậy?

Trong Duyên kỳ ngộ, nhân vật Nàng có nói: "Sao thơ anh nhuộm toàn màu ly biệt/Rên không thôi và nức nở cả ban đêm". Quả đúng như vậy thật. Ly biệt và chết chóc luôn có mặt trong thơ Tử vào thời gian sau này: "Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt/Mộng có thành là mộng ở đầu hôm", "Không ai trang điểm má đào/Cho ta say chết đêm nào đêm nay"... Quách Tấn cho biết, viết thư cho bạn, Tử hay nói về cái chết: "Đó là ngưỡng cửa phải bước qua để đi đến cõi vĩnh hằng". Cũng trong vở kịch thơ độc đáo này, có một đoạn thơ làm cho nhiều người ngạc nhiên vì nó rất giống những gì xảy ra sau này. Đó là khi nhân vật Chàng sắp sửa chia tay nhân vật Nàng, đã thốt ra lời than khóc: "Một mai kia ở bên khe nước ngọc/Với sương sao anh nằm chết như trăng/Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc/Đến hôn anh và rửa vết thương tâm". Theo hồi ức của người bạn đồng bệnh Nguyễn Văn Xê của Tử thì Tử mất vào ngày 11/11/1940 trong cô đơn lặng lẽ, không có bất kỳ một người thân nào bên cạnh. Ngay buổi chiều ngày 11/11/1940, tang lễ được tiến hành một cách đơn giản. Nơi Hàn Mặc Tử yên nghỉ nằm bên cạnh con suối, về mùa mưa nước thường dâng đầy bờ. Điều này y như câu thơ trên mà chàng đã viết trước đó rất lâu.

Chàng đã nằm lại bên "khe nước ngọc" đó cho đến gần 20 năm sau mới được gia đình đưa đi nơi khác. Năm 1959, gia đình Tử cùng với người bạn thân là Quách Tấn tiến hành tìm một mảnh đất khác cho chàng. Sinh thời chàng rất thích cảnh Đèo Son nhưng vì ở đó đang là khu quân sự thuộc chính quyền Sài Gòn nên đành phải tìm đến Gành Ráng. Ngày 13/1/1959, Tử được cải táng về Gành Ráng.

Như vậy là, một đời thơ dữ dội của nhà thơ có số phận lạ kỳ Hàn Mặc Tử đã kết thúc. Chàng đã được thỏa mãn cái ước ao mà ngày nào vị phó soái của Trường thơ loạn Chế Lan Viên từng viết: "Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh/Một vì sao trơ trọi cuối trời xa/Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh/Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo".

 

Trong loạt bài này, chúng tôi đã sử dụng bút danh Hàn Mặc Tử cho nhà thơ. Tuy nhiên cũng xin đưa ra đây vấn đề tranh cãi hai bút danh này cho bạn đọc tham khảo. Vì đây là một cuộc tranh cãi thú vị.

Cho đến nay, những nhà sưu tầm, nghiên cứu, những người quan tâm vẫn phân thành 2 "trường phái" khác nhau: Hàn Mạc Tử và Hàn Mặc Tử. Vì thế các cuốn sách, bài báo in ra cũng chia làm 2 nhóm: nhóm Mặc và nhóm Mạc.

Những "đại biểu tiên phong" cho "trường phái Mạc" có thể kể: Giáo sư Hoàng Như Mai, Giáo sư Văn Tâm, nhà sưu tầm Phạm Xuân Tuyển. Phạm Xuân Tuyển đã làm một bản thống kê những tài liệu sử dụng chữ Mạc như sau: Báo Người Mới trong các số chuyên đề về Tử năm 1941, Trần Thanh Mại trong cuốn sách viết về Tử năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam năm 1942, Phó tiến sĩ Phùng Quý Nhâm trên Kiến Thức Ngày Nay số 47, giáo sư Hà Minh Đức trong Tổng tập Văn học Việt Nam số 27, giáo sư Lê Đình Kỵ trong Thơ Mới - Những bước thăng trầm - 1993, giáo sư Vũ Ngọc Khánh trong tập Thơ tình yêu - 1995, giáo sư Hà Vinh - Khoa tiếng Việt - Đại học Tổng hợp Hà Nội trong Tạp chí Văn Học - 1995, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh - Phó tiến sĩ Trần Đăng Xuyền trong sách Những bài văn hay và khó - 1995...

Còn những người theo "trường phái Mặc" gồm những ai? Có lẽ hai người quan trọng nhất là Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ và Quách Tấn, bạn thân nhà thơ. Nguyễn Bá Tín đã dùng Mặc trong hai cuốn sách quan trọng của mình, cuốn Hàn Mặc Tử anh tôi - 1991 và Hàn Mặc Tử trong riêng tư - 1994. Quách Tấn cũng dùng Mặc trong Bóng ngày qua - 2000. Những người khác có thể kể: Chế Lan Viên trong Tuyển tập Hàn Mặc Tử - 1987, Lữ Huy Nguyên trong Hàn Mặc Tử thơ và đời - 1994, Trần Thị Huyền Trang trong Hàn Mặc Tử hương thơm và mật đắng, Vương Trí Nhàn trong Hàn Mặc Tử - Hôm qua và hôm nay...

Nguyễn Bá Tín cho biết, bút danh Hàn Mặc Tử đã có trước, còn bút danh Hàn Mạc Tử chỉ là bạn bè đặt cho để trêu đùa: "Có nhiều hôm anh ngồi thừ trên chiếc ghế mây, nhìn qua bức mành tre sáo trước cửa, đợi chị Cúc đi ngang qua, trông anh đến thiểu não. Chị Cúc biết điều đó, về sau kể với con gái chị Như Lễ rằng: Nghĩ tội nghiệp anh quá. Bạn bè đến chơi trông thấy anh ngồi buồn bã như kẻ thất tình, nên thường trêu cợt anh là con người sau bức rèm lạnh và gọi đùa anh là Hàn Mạc Tử. Chữ Hàn ở đây có nghĩa là lạnh và chữ Mạc không dấu là bức màn. Hai chữ Hàn Mạc là bức rèm lạnh. Anh chỉ cười, không nói gì, cũng không để ý đến nữa. Mãi về sau khi anh qua đời còn nhiều người vẫn tưởng lầm bút hiệu của anh là Hàn Mạc Tử". Ông Tín cho biết, Tử vốn rất ngưỡng mộ triết gia Mặc Dịch thời Chiến Quốc, nổi tiếng chủ trương thuyết Kiêm ái, nên anh cũng tự nhận thuộc môn phái Mặc Dịch, thương yêu hết mọi người. Chữ Mặc Tử có ý nghĩa là môn đồ Mặc Dịch. Chữ Mạc Tử thì không có ý nghĩa gì. Chữ Hàn Mặc Tử nói lên ý nghĩa một thi sĩ nghèo nàn, nhưng tình thương rộng rãi bao la.

Quách Tấn thì kể tỉ mỉ hơn và có phần khác Nguyễn Bá Tín. Quách Tấn cho biết, khi mới bước vào làng thơ, Tử lấy bút danh là Minh Duệ Thị. Sau đổi là Phong Trần. Tử nổi tiếng với bút danh Phong Trần nhờ cuộc xướng họa thơ văn lịch sử với Phan Bội Châu. Khi Quách Tấn quen thân Tử, Quách Tấn chê bút danh Phong Trần không hợp với Tử. Vì thế Tử đổi qua bút danh Lệ Thanh. Bút danh này đã gắn chặt với tập thơ Lệ Thanh Thi Tập của Tử. Nhưng được ít lâu Quách Tấn lại chê. Tử lại đổi qua Hàn Mạc Tử. Quách Tấn lại chê nữa. Khi đó Tử nổi nóng. Quách Tấn liền gợi ý: "Đã có rèm thì thêm bóng trăng vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?". Nghe vậy, Tử thêm "bóng trăng" là dấu á trên đầu chữ a nên chữ Mạc thành ra Mặc. Từ đó bút danh đổi nghĩa từ kiếp rèm lạnh ra anh chàng bút mực. Bút danh này khiến Tử rất thích và dùng luôn.

Lời giải thích trên đây nghe cũng thật có lý nhưng mấy chục năm nay vẫn không thuyết phục được những người theo "trường phái Mạc", cho nên cuộc tranh cãi này chưa biết bao giờ kết thúc nếu không tìm được bút tích của chính nhà thơ để chứng minh ai đúng ai sai.

 

 

ĐẦM THỊ NẠI

Nằm cách thành phố Quy Nhơn 8km về phía đông bắc, đầm Thị Nại là đầm lớn nhất Bình Định có hệ sinh thái phong phú với nhiều loại động thực vật quý và nhiều thắng cảnh đẹp rất hấp dẫn du khách. Đầm Thị Nại có diện tích trên 5.000ha mặt nước, chạy dài hơn 10 cây số, bề rộng tới gần bốn cây số. Nơi đây có nguồn tài nguyên quý giá do thiên nhiên ban tặng, và là nơi ẩn chứa đa dạng về sinh học với hệ sinh thái rừng ngập mặn phong phú: trong đó thảm cỏ biển có tới 25 loài; hệ động vật có 64 loài phù du, 76 loài cá; có hàng trăm loài chim, trong đó 23 loài thuộc nhóm chim nước và chim di cư, 10 loại chim rừng.... Trong đầm, ở gần bờ phía tây có một núi nhỏ - trên đó có ngôi miếu nhỏ do dân chài lập ra để thờ thủy thần - hình dáng núi tựa như một ngôi tháp cổ, gọi là Tháp Thầy Bói, làm cho cảnh quan đầm thêm sinh động và hấp dẫn. Mỗi buổi ban mai, những tối trăng tròn chìm ngập trong rừng ngập mặn xanh tươi, mặt đấm mờ mờ, huyền ảo như chốn thần tiên.

Trong lịch sử, đầm Thị Nại là căn cứ thuỷ quân của nhà Tây Sơn, nơi diễn ra những trận thuỷ chiến ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn với quân Nguyễn Ánh vào đầu thế kỷ XIX (năm 1801).

Nằm về phía đông đầm Thị Nại, như một tấm bình phong khổng lồ án ngữ phía biển cho thành phố Quy Nhơn là bán đảo Phương Mai, với hệ thống núi đá trùng điệp và những đồi cát khổng lồ, ăn ra biển chạy dài khoảng 15km. Phía bắc bán đảo và chếch về phía tây bắc là những bãi biển tuyệt đẹp chạy dài hàng chục km. Nhìn từ xa, bán đảo Phương Mai như đầu một con rồng, thân nằm dài về phía bắc đến tận cửa Đề Gi. Tận cùng phía nam của bán đảo là một lưỡi nhọn hình mũi mác với nhiều hóc đá kỳ thú, hiểm trở, chim yến thường kéo về làm tổ, dâng tặng cho loài người đặc sản “yến sào" vô cùng bổ dưỡng, quý hiếm.


Hòa trong vẻ đẹp thiên nhiên của đầm Thị Nại - ban đảo Phương Mai là công trình cầu đường Quy Nhơn - Nhơn Hội với tổng chiều dài toàn tuyến hơn 7km gồm 5 cầu ngắn và cầu Thị Nại. Trong đó, nổi bật là cầu Thị Nại có chiểu dài 2.477,3m đây là cầu vượt biển dài nhất Việt Nam với 54 nhịp nối liền thành phố Quy Nhơn và khu kinh tế Nhơn Hội. Cầu Thị Nại không chỉ là niềm tự hào của người dân Đất võ, mà còn là điểm nhấn hấp dẫn biết bao du khách khi đến TP. Quy Nhơn.

 

Lịch sử Đầm Thị Nại

Người dân xứ võ từ xưa có câu: “Bình Định có hòn Vọng Phu/ Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh”. Đầm Thị Nại là một thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Bình Định. 

 

Nằm phía đông bắc TP. Quy Nhơn, rộng 4 km, trải dài trên 10 km, với diện tích mặt nước hơn 5.000 ha, đầm Thị Nại là một trong 4 đầm nước mặn lớn nhất ở Bình Định. Đầm là nơi hợp lưu của sông Côn và sông Hà Thanh, ngăn cách với biển Đông bởi bán đảo Phương Mai. Chỗ thông ra biển của đầm chính là cảng Quy Nhơn hiện nay. Năm 2006, cầu Thị Nại bắc qua đầm nối liền bán đảo Phương Mai với TP. Quy Nhơn được khánh thành với chiều dài 2.475 m, tổng cộng 54 nhịp, được xem là một trong những biểu tượng của tỉnh Bình Định.

 

Đầm Thị Nại có tên chữ Hán là Hải Hạc đàm (đầm có nhiều chim hạc biển). Thị Nại là địa danh Chăm, có nguồn gốc từ tiếng Phạn là CriVinaya, phiên âm Hán Việt là Thị-lị-bì-nại, về sau biến âm thành Thị Nại. Người Hoa gọi đầm là Tân Châu. Trong quá khứ, đây là một hải cảng nổi tiếng của vương quốc Chiêm Thành. 

 

Không chỉ mang vẻ đẹp yên bình, thơ mộng, đầm Thị Nại còn gắn liền với những trận thủy chiến nổi tiếng và số phận của nhiều triều đại. Nằm ở vị trí quan trọng, là cửa ngõ dẫn vào kinh đô Chiêm Thành và triều Tây Sơn sau này, đầm Thị Nại trong lịch sử đã chứng kiến nhiều trận đánh “long trời lở đất”. Chẳng hạn, năm 1284, vua nhà Nguyên sai con là Thoát Hoan cùng các tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi kéo quân vào cửa Thị Nại đánh Chiêm Thành nhưng thất bại, phải bỏ chạy theo đường bộ về Nghệ An, bị quân Đại Việt truy đuổi. Năm 1470, vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm 20 vạn tinh binh đánh tan quân Chiêm trên cửa Thị Nại, sau đó hạ thành Đồ Bàn. Năm 1799, Nguyễn Ánh cử đại binh đánh tan quân Tây Sơn trên cửa Thị Nại, chiếm được thành Quy Nhơn; đến năm 1800, quân Phú Xuân dưới sự chỉ huy của Trần Quang Diệu đánh vào Thị Nại do Võ Văn Dũng trấn giữ, chiếm lại được thành Quy Nhơn. Năm 1801, Nguyễn Ánh cử đại binh tiến vào Thị Nại, dùng mưu đánh bại thủy binh của Tây Sơn, thành Quy Nhơn thất thủ. Đây là trận thủy chiến lớn nhất và sau cùng giữa nhà Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh, được các sử gia nhà Nguyễn sau này ghi nhận là “đệ nhất vũ công”. Người đời sau xem đây là “trận Xích Bích” của người Việt.

Quách Tấn, tác giả Thơ mới nổi tiếng, đứng trước cái mênh mang của đầm nước từng chôn vùi bao tang thương dâu bể của lịch sử, đã viết nên những vần thơ cảm hoài về chiến trường Thị Nại năm xưa: “Thị Nại xưa kia vũng chiến trường/ Nổi chìm thế sự mấy triều vương…”.

 

Hiện nay, với tiềm năng đa dạng sinh học (rừng ngập mặn, thảm cỏ biển với 25 loại, động vật có 64 loài phù du, 76 loài cá, hơn 33 loài chim), đầm Thị Nại đang được địa phương khai thác để trở thành một điểm du lịch sinh thái. 

 

Về thành phố biển Quy Nhơn, bạn hãy một lần đến đầm Thị Nại, thả hồn mình giữa sơn thủy hữu tình, lắng lòng trước bao thăng trầm của lịch sử, chắc chắn sẽ là những trải nghiệm vô cùng thú vị.

 

CẦU THỊ NẠI

Giới thiệu cầu Thị Nại ở Quy Nhơn

Với chiều dài gần 7 km, tổng cộng 54 nhịp, cầu Thị Nại nối liền giữa thành phố Quy Nhơn và Nhơn Hội – một khu kinh tế sầm uất. Cây cầu này nằm cách thành phố Quy Nhơn khoảng 3km về phía Đông Nam.

 

Khởi công năm 2002 và hoàn thành năm 2006, cầu Thị Nại được thiết kế với kỹ thuật hiện đại, có khả năng chịu được áp lực trọng tải lớn.

 

Cầu Thị Nại thành phố Quy Nhơn bao gồm cầu chính vượt đầm Thị Nại, 5 cây cầu nhỏ bắc qua sông Hà Thanh.  Đây là một điểm nhấn độc đáo trong các địa điểm du lịch ở Quy Nhơn – Bình Định hấp dẫn du khách ghé qua.

Cảnh đẹp cầu Thị Nại

Nhìn từ trên cao, cây cầu trăng trắng bắc ngang qua dòng nước xanh biếc, một đầu là đất liền, còn 1 bên là đảo Phương Mai với phong cảnh đồi cát rộng lớn, hoang sơ nhưng lại rất trữ tình.

 

Có lẽ lúc hoàng hôn buông xuống chính là thời điểm cầu Thị Nại khoác lên mình  một vẻ đẹp lung linh nhất. Những tia nắng cuối ngày hắt xuống nền nước biển tạo nên một background đẹp đến nao lòng. Cầu Thị Nại Quy Nhơn trông như một dải lụa vắt ngang qua làn nước trong xanh ở một khoảng không bao la, thoáng đãng.

 

Không chỉ góp một phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế khu vực mà cây cầu này còn mang lại giá trị du lịch cho Quy Nhơn. Cũng bởi vì cây cầu Thị Nại nối liền giữa thành phố Quy Nhơn và bán đảo Phương Mai, phần khác là do kiến trúc và khung cảnh thơ mộng nên nơi đây cũng nhận được khá nhiều sự chú ý của các du khách.

 

Bình Định: Bán đảo Phương Mai với nhiều điểm đến du lịch hấp dẫn

(TITC) - Bán đảo Phương Mai thuộc phía đông bắc Thành phố Quy Nhơn, vốn từng là nơi hoang vu trước kia, nhưng giờ đây đang là địa chỉ đầu tư hấp dẫn, và đang trở thành một điểm đến có sức hút đối với khách du lịch.

Nằm về phía đông đầm Thị Nại, bán đảo Phương Mai như một tấm bình phong khổng lồ án ngữ phía biển cho thành phố Quy Nhơn. Bán đảo Phương Mai gồm 3 xã Nhơn Lý, Nhơn Hội, Nhơn Hải và phường Hải Cảng.

Đây là một vùng núi thấp có nhiều ngọn nhấp nhô. Cao nhất là đỉnh Núi Đen cao 361m, và một số đỉnh khác như hòn Mai, Diệp Chữ… Bán đảo Phương Mai được nối với dãy Triều Châu bằng một dải núi dài chừng 2 km, bề ngang nơi hẹp nhất chỉ độ 500m có tên là Eo Vược. Tận cùng phía nam của bán đảo trông như một lưỡi nhọn hình mũi mác, có nhiều hốc đá hiểm trở, nơi chim yến thường kéo về làm tổ. Nơi đây được gọi là Mũi Mác hay Mũi Yến. Dãy núi phía tây bắc Mũi Mác có một nhánh nhỏ, nhọn sắc như nanh cọp, được gọi là Gành Hổ. Nằm kẹp giữa hai dải núi này là một động cát, trên có bàu nước ngọt khá lớn.

Để đến bán đảo Phương Mai, từ TP. Quy Nhơn, du khách đi qua 5 cây cầu và cầu Thị Nại với tổng chiều dài 7km. Cầu Thị Nại được coi là cây cầu vượt biển dài thứ hai ở Việt Nam, với 54 nhịp và dài 2.477,7m nối liền khu kinh tế Nhơn Hội với TP. Quy Nhơn. Khi giao thông đường bộ nối liền, bán đảo Phương Mai càng trở nên hấp dẫn với nhiều dự án lớn đầu tư phát triển kinh tế, đô thị và du lịch.

Bán đảo Phương Mai sở hữu nhiều điểm tham quan du lịch rất đa dạng, độc đáo, có núi, có biển, có đảo, nhiều bãi tắm hoang sơ trong xanh, cồn cát trải dài, rạn san hô tuyệt đẹp, những làng chài bình yên, và còn ẩn dấu những di tích kỳ bí.

 

Bãi biển Nhơn Lý

Biển Nhơn Lý (còn gọi là biển Cát Tiến), nổi tiếng với những cảnh thiên nhiên ấn tượng, những khu rừng thông xanh tốt. Quang cảnh tự nhiên đa dạng dọc theo chiều dài của bãi, những đụn cát trắng tinh, những bãi cát thoải màu đen bóng huyền ảo, một số vị trí khác nhau là những núi đá khổng lồ nằm trơ trọi giữa bãi biển, đủ loại hình thù, màu sắc, nơi có bãi đá cuội độc đáo.

 

Eo Gió

Eo Gió gần bãi biển Nhơn Lý, mang trong mình nét đẹp hoang sơ với eo biển xanh. Những dãy núi đá cao bao quanh với nhiều hình thù lạ mắt, tạo thế uốn cong như muốn ôm trọn eo biển hút gió tuyệt đẹp. Nét độc đáo cuốn hút của Eo Gió được tạo nên từ đá và nước. Dưới chân núi là bãi đá Đẻ với những con đường gập ghềnh. Bãi đá được bào mòn từ nước biển qua năm tháng, nên có nhiều kích thước và hình dạng kì thú. Bên cạnh đó, ở đây còn có 19 hang yến với những cái tên rất ngộ nghĩnh như hang Kỳ Co, hang Ba Nghé, hang Dơi, hang Sức Khỏe…

 

Bãi biển Kỳ Co

Bãi biển Kỳ Co với cát trắng tuyệt đẹp giữa hai bờ đá khổng lồ. Nhìn từ trên cao xuống, toàn cảnh Kỳ Co thật hùng vĩ và tráng lệ. Đến đây, du khách có thể đi bộ dọc theo bãi biển ngắm khung cảnh nên thơ của trời, biển và đá núi, bơi trong làn nước trong xanh quyến rũ và đi thuyền.

Trước kia, chỉ có thể đến Kỳ Co bằng thuyền (được thuê từ các làng Eo Gió, Nhơn Lý, Xương Lý hoặc Nhơn Hải), nhưng gần đây, có thể đi xe trung chuyển (hoặc đi bộ) theo một con đường đẹp tuyệt chạy qua các vách đá phía nam Eo Gió, đến tận con dốc cuối cùng (quãng đường khoảng 6km).

Biển Nhơn Hải (phía nam bán đảo), nơi du khách khám phá vẻ đẹp thiên nhiên kỳ diệu của các gành đá cùng những điểm đến hoang sơ hấp dẫn khác như đỉnh núi Cột Cờ, làng chài nằm sát ngay bãi biển; đặc biệt là một đoạn thành cổ Champa nằm cách bờ khoảng 200m trải dài thẳng tắp, nhấp nhô trên mặt sóng. Dạo chơi, bắt ốc, cạy hàu, câu cá… trên dãy thành cổ Champa chỉ nhô lên mặt biển khi thủy triều xuống là trải nhiệm cực lạ, chỉ có ở Nhơn Hải.

 

Đảo Hòn Khô

Hòn Khô hấp dẫn du khách bởi “con đường xuyên biển” dài 500 mét. Ảnh internet

Đảo Hòn Khô (còn được gọi là cù lao Hòn Khô) nằm ngoài khơi gần bãi biển Nhơn Hải, thu hút sự tò mò và thích thú của khách du lịch nhờ làn nước sạch, bãi cát trắng mịn, đồng cỏ xanh và những rạn san hô tuyệt đẹp.

Điểm thú vị là từ tháng 3 đến tháng 9, du khách đến Hòn Khô (Quy Nhơn) có thể khám phá “con đường xuyên biển” độc đáo dài hơn 500 mét, nối liền hai dãy núi. Không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy con đường độc đáo này do mực nước lên xuống tuỳ theo từng mùa. Con đường xuyên biển chỉ xuất hiện khi thủy triều rút.

 

Làng chài địa phương

Bán đảo Phương Mai là nơi sinh sống của một số làng chài bình yên nằm ở dìa chân núi bên bờ biển đẹp như làng chài Nhơn Lý, Nhơn Hải… Nơi đây khách du lịch có thể nhìn thấy nhiều lồng cua lớn, nhiều chiếc thuyền xanh, gặp nhiều ngư dân thân thiện và cởi mở.

Đầm Thị Nại

Với diện tích trên 5.000ha mặt nước, chạy dài hơn 10 km, chỗ rộng nhất tới gần 4km, đầm Thị Nại là một trong những đầm nước mặn lớn nhất ở Bình Định.

Đầm Thị Nại hội tụ dòng chảy của các nhánh sông Kôn, sông Hà Thanh, vẽ lên bức họa thủy mặc hữu tình hấp dẫn khách du lịch gần xa.

Trong đầm có Cồn Chim, được ví như lá phổi xanh của Quy Nhơn. Với diện tích rộng gần 1.000 ha, Cồn Chim có hệ sinh thái đa dạng, gồm hệ sinh thái rừng ngập mặn và thảm cỏ biển có tới 25 loài, hệ động vật có 64 loài phù du, 76 loài cá, có hàng trăm loài chim, trong đó 23 loài thuộc nhóm chim nước và chim di cư, 10 loài chim rừng.

Những di tích độc đáo trên bán đảo

 

Tịnh xá Ngọc Hòa

Tịnh xá Ngọc Hòa với bức tượng đôi Quan Âm cao nhất Việt Nam. Ảnh internet

Gần sườn núi của Eo Gió là không gian linh thiêng của Tịnh xá Ngọc Hòa, được khánh thành vào tháng 5 năm 1962. Tòa chánh điện vừa cổ kính vừa hiện đại. Tịnh xá Ngọc Hòa nổi tiếng với bức tượng đôi Quan Âm cao 18m (cao nhất Việt Nam) với kiến trúc ấn tượng, nhìn về 2 hướng, một bức hướng về phía nam, tay cầm tràng hạt và kinh sách được gọi là Quan Thế Âm Khiết Tường, còn một bức hướng về phía biển (hướng bắc), tay cầm tịnh bình cam lộ được gọi là Quan Thế Âm Nam Hải. Trong khuôn viên tịnh xá có bảo tháp, nhiều bức tượng như tượng Phật Di Lặc, tượng bốn mặt với nụ cười bí ẩn, và nhiều cây cổ thụ, cây cảnh.

Chùa Phật Lồi

Chùa ở Hải Giang, xã Nhơn Hải. Chùa Phật Lồi được tạo dựng từ khi người Hải Giang tình cờ phát hiện tượng Phật bằng đá từ dưới đất lồi lên trên ruộng canh tác dưới chân đồi cách nay khoảng 200 năm. Trong chùa hiện thờ một pho tượng bằng đá sa thạch, cao 80 cm, ngang 46 cm, mang phong cách Chăm muộn, được chế tác dưới dạng một vị Bồ Tát ngồi trong tư thế thiền định, chân xếp bằng, tay phải lần tràng hạt, tay trái đặt ngửa trên hai chân, sau lưng có dòng chữ Phạn, dân quen gọi là chữ bùa.

Ngoài ra, nằm về phía bắc bán đảo, du khách có thể tham quan Chùa Ông Núi (tọa lạc trên đỉnh Chớp Vung, huyện Phù Cát), nơi có bức tượng Phật Thích Ca khổng lồ (chiều cao 108m tính cả bệ tượng, đường kính chân tượng 52m). Từ vị trí ngôi chùa, du khách có thể ngắm toàn cảnh bán đảo Phương Mai, khu kinh tế Nhơn Hội bên đầm Thị Nại.

Tượng đài Trần Hưng Đạo tọa lạc phía tây nam của bán đảo, trên đồi Hải Minh với độ cao khoảng 40 mét so với mực nước biển. Công trình được khởi công năm 1972 và hoàn thành năm 1973. Với chiều cao 16 mét (tính cả đài tượng), tượng đài Trần Hưng Đạo được tạc với trang phục áo giáp, mũ sắt, trong tư thế đứng trên thuyền rồng chỉ huy trận Bạch Đằng giang.

Vườn thú FLC Safari cách đầu cầu Thị Nại (bên Nhơn Hội) khoảng 9km về phía bắc. Với diện tích 38,5 ha, vườn thú FLC Safari được xây dựng theo mô hình bán hoang dã, là nơi bảo tồn gần 900 cá thể động vật. Các động vật quý, hiếm được chăm sóc và bảo tồn trong không gian gần với môi trường tự nhiên. Đây là “Cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học”, nhằm bảo tồn nguồn gen động vật quý, hiếm, mang tới những trải nghiệm độc đáo cho du khách.

 

Các đồi cát ở Phương Mai được cho là lý tưởng để chơi trượt cát bởi chiều cao từ 20m, nơi cao nhất đến 100 m so với mực nước biển và độ dốc vừa phải. Các đồi cát đẹp chủ yếu nằm dọc hai bên đường quốc lộ 19B trên bán đảo Phương Mai. Hiện nay khu vực này còn khá hoang sơ.

Ẩm thực

 

Đến Phương Mai, du khách đừng quên thưởng thức nhiều đặc sản hấp dẫn của mảnh đất Bình Định như cua Huỳnh Đế, chả ram tôm đất, lẩu tôm hùm, nhum biển, bào ngư nướng mỡ hành, ốc vú nàng, bún chả cá, bánh hỏi lòng heo,…

Khu du lịch Phương Mai (tỉnh Bình Định) đã được đưa vào danh mục các địa điểm tiềm năng phát triển khu du lịch quốc gia (ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ). Bán đảo Phương Mai cách trung tâm TP. Quy Nhơn hơn 10km và cách sân bay Phù Cát khoảng 40km

 

Đảo Kỳ Co

Đảo Kỳ Co nằm trong chuỗi những điểm đến đáng trải nghiệm nhất tại vùng đất Quy Nhơn. Vì chưa được khai thác du lịch nhiều nên đảo Kỳ Co vẫn giữ được những nét đẹp hoang sơ và trong lành hiếm nơi nào có được.

Giới thiệu đôi nét về Đảo Kỳ Co

Đảo Kỳ Co là bãi tắm thuộc khu vực bán đảo Phương Mai, xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Bãi tắm nằm cách trung tâm thành phố 25 km về phía Đông Bắc. Chân núi Phương Mai ôm gọn bãi Kỳ Co từ đằng sau, tạo thành một đường bờ biển hình vòng cung đầy quyến rũ. Đảo Kỳ Co được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho rất nhiều lợi thế để trở thành một trong những điểm du lịch đẹp nhất ở Quy Nhơn.

 

Nước biển tại bãi Kỳ Co trong vắt, mắt người nhìn xuống có thể soi được rõ những hạt cát lấp lánh đang len lỏi dưới ngón chân hay những chú cá con đang bơi lội tung tăng. Mực nước ở đây khá nông nên người lớn hay trẻ em đều có thể thỏa thích bơi lội, ngâm mình trong làn nước trong xanh.

Bên cạnh đó, bờ cát trắng mịn màng và bằng phẳng là nơi lý tưởng để thong thả tản bộ ngắm cảnh, để những con sóng nhẹ nhàng vỗ về vào đôi bàn chân. Một bên là đồi núi hùng vĩ, một bên là biển rì rào từng đợt sóng hiền hòa, tạo nên khung cảnh vô cùng nên thơ hữu tình cho Đảo Kỳ Co.

Chơi gì tại đảo Kỳ Co

Đến với bãi tắm đẹp tựa thiên đường như Kỳ Co mà không xuống tắm biển thì quả là có lỗi với thiên nhiên nơi đây. Ngoài bờ biển chính, bạn có thể đến ngâm mình tại những hồ bơi nhỏ, được tạo nên từ những khe đá giữ nước lại mỗi khi thủy triều lên. Bên cạnh đó, khu hồ bơi nhân tạo cũng rất thích hợp để vui chơi cho gia đình hoặc nhóm bạn từ 6-7 người.

Những bạn trẻ yêu thích chụp ảnh, check-in có thể đến thăm quan Cầu Hang Yến - cây cầu gỗ đi dọc eo biển giúp du khách khám phá hết cảnh thiên nhiên nơi đây. Vé một lượt tham quan là 40.000đ.

Làn nước biển trong vắt của Kỳ Co sẽ giúp du khách có thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp rực rỡ và huyền ảo của những rặng san hô dưới đáy biển. Vì thế khi tới đây bạn đừng bỏ lỡ trải nghiệm lặn ngắm san hô nhé. Giá vé dao động từ 250.000đ - 1.000.000đ/ người, tùy vào loại hình lặn mà bạn chọn. Kể cả khi bạn không biết bơi, đội ngũ huấn luyện viên sẽ hướng dẫn kĩ càng và luôn hỗ trợ trong suốt quá trình lặn của bạn.

Ngoài ra, đảo Kỳ Co còn tổ chức các hoạt động vui chơi mạo hiểm như dù bay, mô tô nước, thuyền phao chuối,...

Di chuyển đến đảo Kỳ Co như thế nào?

Bạn có thể chọn 1 trong 2 cách sau để đến đảo Kỳ Co:

Vượt cầu Thị Nại, đến Nhơn Lý rồi thuê cano đi trong khoảng 20 phút để ra bãi tắm. Giá vé cano từ 350.000đ - 420.000đ/người. Đi theo lộ trình này sẽ giúp bạn được trải nghiệm cảm giác dập dềnh cùng sóng nước và ngắm nhìn khung cảnh của đảo trọn vẹn hơn.

Nếu bạn bị say sóng thì có thể chọn lộ trình đường bộ: vượt cầu Thị Nại, đến Bãi đỗ xe Khu du lịch Kỳ Co thì đổi xe, lên xe trung chuyển của khu du lịch để đến bãi tắm Kỳ Co.

 

EO GIÓ

Nổi tiếng với vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng, Eo Gió Quy Nhơn là điểm đến mà ai cũng muốn ghé qua ít nhất một lần khi du lịch Quy Nhơn. Vậy ghé địa điểm này có khung cảnh nào đẹp, quán ăn nào ngon. Hãy theo dõi bài viết dưới đây để tìm hiểu thông tin chi tiết về khu du lịch Eo Gió Quy Nhơn.

1. Vẻ đẹp Eo Gió Quy Nhơn khiến ai cũng phải “xiêu lòng”

Trong những năm gần đây, du lịch Eo Gió Quy Nhơn được nhiều người biết đến bởi những bức ảnh “triệu like” trên mạng xã hội. Hình ảnh Eo Gió Quy Nhơn trong mắt khách du lịch bốn phương là vẻ đẹp tuyệt diệu mà tạo hóa ban tặng.

Địa chỉ: Lý Lương, Nhơn Lý, Quy Nhơn

Giá vé: 25.000 VNĐ/lượt

Địa chỉ Eo Gió Quy Nhơn chỉ cách thành phố khoảng 20km, rất thuận tiện cho việc di chuyển và tham quan. Sở dĩ địa danh này được gọi là Eo Gió là do hình dáng địa lý của khu vực này. Nếu đứng từ mỏm đá trên cao nhìn xuống, du khách sẽ nhìn thấy một eo biển nhỏ được bao bọc bởi hai dãy núi xung quanh trông như một vòng tay ôm gọn bãi biển xinh đẹp này. Cũng bởi vậy mà vẻ đẹp ở đây rất hoang sơ, nhưng lại trữ tình, nên thơ. Từ khung cảnh đến biển, hay làn nước trong xanh, tất cả đều để lại cho du khách những trải nghiệm đáng nhớ. Ngoài Eo Gió, bạn có thể tham quan thêm Kỳ Co Quy Nhơn – hòn đảo độc đáo, thú vị.

 

2. Nơi sở hữu khung cảnh hoàng hôn đẹp nhất Việt Nam

Đã là tín đồ “săn ảnh” hoàng hôn thì bạn nhất định không được bỏ qua khung cảnh hoàng hôn ở Eo Gió. Chụp ảnh ở Eo Gió Quy Nhơn có rất nhiều bức ảnh đẹp nhưng ảnh hoàng hôn có lẽ sẽ là ảnh ấn tượng nhất.

 

Khi mặt trời lùi dần về phía Tây cũng là lúc vùng biển nơi đây chuyển sang màu đỏ cam. Không gian lúc này huyền ảo hơn bao giờ hết, những làn gió biển thổi mát, những con sóng vỗ rì rào. Chẳng vậy mà cảnh đẹp hoàng hôn nơi eo biển kỳ vĩ này đã làm nên những áng thơ văn vô cùng hay.

 

3. Đường đến Eo Gió Quy Nhơn đẹp tuyệt diệu

Đường đi Eo Gió Quy Nhơn mất khoảng 1 tiếng đồng hồ nên bạn có thể đi ô tô hoặc xe máy đều thuận tiện và dễ di chuyển. Dù bạn chọn phương tiện nào thì cảnh đẹp hai bên đường chắc chắn cũng sẽ khiến bạn ngỡ ngàng và cảm thấy rất thú vị.

Từ trung tâm thành phố Quy Nhơn, bạn sẽ đi theo lộ trình cung đường sau: Quốc lộ 19 → rẽ phải vào đường Võ Nguyên Giáp → qua cầu Thị Nại → rẽ vào quốc lộ 19B → rẽ phải vào Nhơn Lý → Eo Gió. Đây là cung đường lý tưởng và thích hợp nhất cho du khách thích khám phá vẻ đẹp tự nhiên vì phong cách tuyệt đẹp hai bên đường. Khi đi qua cầu Thị Nại, du khách bốn phương có thể phóng tầm mắt ra xa để chiêm ngưỡng sắc xanh bao la của khu đầm này. Hay khi băng qua cầu Thị Nại, bạn sẽ lại bất ngờ với những đồi cát trắng mịn chạy dài hai bên đường. Chưa đến Eo Gió Quy Nhơn mà cảnh đẹp ở đường đi đã khiến khách du lịch trầm trồ.

 

4. Nơi có cung đường đi bộ ven biển giữa lưng chừng núi

Eo Gió Quy Nhơn có gì mà lại khiến các bạn trẻ mê mẩn, chụp ảnh check-in nhiều đến vậy? Một trong những lý do chính là cung đường đi bộ ven biển đẹp hút hồn.

Cung đường đi bộ ven biển này nằm trên lưng chừng dãy núi khiến ai cũng muốn một lần được đến đây và trải nghiệm. Những bậc thang được dựng với tay vịn màu đỏ gạch, trắng vừa an toàn lại vừa đẹp mắt. Đồng thời những bậc thang này còn tôn lên những đường nét trập trùng, khúc khuỷu của tạo hóa đã ban tặng cho Quy Nhơn.

 

5. Tọa độ check in “ngàn like” với 1001 góc sống ảo chất lượng

Là một tín đồ đa mê xê dịch và sống ảo, khi đến Eo Gió Quy Nhơn bạn đừng quên check-in. Nhiều bạn trẻ đùa rằng: “Chỉ cần đứng im tại Eo Gió thôi là cũng có ảnh đẹp rồi.” Quả thực là vậy, đến Eo Gió có cả hàng nghìn góc sống ảo mà góc nào cũng có thể tạo ra được bức ảnh đẹp mê hồn.

Bạn có thể sống ảo với bãi biển trong xanh, nước biển trong vắt. Hay  chụp ảnh cùng hàng nghìn bậc thang với tay vịn đầy màu sắc. Hay chỉ đơn giản là hướng tầm mắt về phía biển khơi mênh mông. Để có bức ảnh mong muốn, mọi thứ bạn cần làm chỉ cần đơn giản, mộc mạc và hoang sơ như chính nét đẹp mà Eo Gió mang lại.

 

6. Eo Gió Quy Nhơn – điểm ngắm bình minh vô cùng nên thơ

Muốn đón bình minh đẹp, ngắm khung cảnh thiên nhiên tuyệt diệu, bạn cần xuất phát từ trung tâm thành phố Quy Nhơn lúc 4h00. Thời tiết buổi sáng tại Eo Gió mát mẻ, bạn vừa ngắm được bình minh vừa tận hưởng được không khí trong lành trong những tia nắng sớm mai.

Cùng ngắm bình minh với “người thương” tại Eo Gió (Ảnh: Sưu tầm)

Tuy phải dậy sớm nhưng cảnh bình minh tại Eo Gió quả thực xứng đáng. Bởi nơi đây được mệnh danh là một trong những địa điểm đón bình minh đẹp nhất tại Việt Nam.

 

7.  Thiên đường hải sản tươi rói cho bạn tha hồ thưởng thức

Các quán ăn Eo Gió Quy Nhơn rất nhiều, nhưng không thể không kể đến các món ăn về hải sản. Với lợi thế hải sản tươi ngon và đa dạng cùng cách chế biến mới mẻ, du khách sau khi thưởng thức hải sản Quy Nhơn đều thích thú.

Dưới đây là các quán ăn, nhà hàng hải sản ngon ở Eo Gió mà bạn có thể ghé đến thưởng thức:

Coco Jambo: Nhà hàng hải sản view biển đẹp nhất Eo Gió. Coco Jambo ở thôn Lý Hưng, xã Nhơn Lý – địa điểm rất dễ tìm cho du khách. Với gần 10 món hải sản đa dạng, tươi ngon cùng quán đẹp, chất lượng phục vụ tốt, Coco Jambo được khách hàng đánh giá rất cao.

Leng Keng Gió: Được mệnh danh là Vua ghẹ Nhơn Lý với những món ăn hải sản vô cùng tươi ngon và hấp dẫn. Nhà hàng nằm ngay bên cạnh bãi đỗ xe Eo Gió với các loại hải sản như: cua huỳnh đế, tôm, ghẹ…

Hoa Biển: Nhà hàng này nằm ở thôn Lý Hòa, xã Nhơn Lý, được du khách hài lòng về chất lượng đồ ăn. Đồ ăn tươi ngon, chế biến cẩn thận và hương vị vô cùng đặc trưng.

 

 

Tịnh Xá Ngọc Hòa – Phước Sa Tự

Chiêm ngưỡng tượng Phật đôi cao nhất Việt Nam

 

Được biết đến là vùng đất võ với truyền thống văn hóa lâu đời, tuy nhiên trong những năm gần đây Bình Định đã và đang thực hiện hóa việc “biến” những tiềm năng du lịch trở thành điểm mạnh du lịch của tỉnh. Du lịch Bình Định được ví như “kho báu bị ngủ quên” đang từng bước được các cấp, các ngành, các đơn vị kinh doanh du lịch “khai quật” để khi du khách “khám phá” đến phải sửng sốt và thán phục bởi quá nhiều điều hấp dẫn ở nơi đây mà những vùng đất khác không có được. Sự hòa quyện của thiên nhiên, của đất, của người đã làm nên bản sắc văn hóa du lịch riêng của mảnh đất địa linh nhân kiệt này.

Sau một mùa hè sôi động với các sự kiện, lễ hội và lượng khách du lịch đổ về Quy Nhơn Bình Định nói chung và xã đảo Nhơn Lý nói riêng tăng đột biến so với các năm trước. Vào lúc này, mùa đông cũng đã đến, các dịch vụ du lịch biển đảo cũng tạm dừng để nhường chỗ cho du lịch tâm linh, tìm hiểu khám phá các di tích lịch sử “lên ngôi”, và Tịnh Xá Ngọc Hòa cũng như Phước Sa Tự là điểm đến lý tưởng để du khách viếng thăm Nhơn Lý vào thời gian này.

Đây là một ngôi chùa thuộc Bãi Bấc, thôn Lý Lương, xã Nhơn Lý, TP Quy Nhơn, được xây dựng từ năm 1960 bởi Trưởng lão Thích Giác An. Hiện nay được trụ trì bởi Đại đức Thích Giác Tri. Theo Đại đức Thích Giác Tri, khoảng năm 2013, người dân địa phương có nguyện vọng muốn ổn định nơi thờ cúng ông bà và thuận tiện cho con cháu đi lại thăm nom nhân ngày giỗ kỵ, Tịnh xá đã đề nghị và được Nhà nước cho phép xây dựng Nhà An Bình theo phương thức Tịnh xá và đồng bào phật tử cùng đóng góp. Theo thiết kế, công trình này rộng hơn 100 m2, có thể lưu giữ khoảng 8.000 hũ tro cốt, tổng kinh phí đầu tư ước khoảng 5 tỉ đồng.

Theo thiết kế, Nhà An Bình cao khoảng 5,2m xây bằng đá tổ ong kết hợp vớt bê tông cốt thép, sẽ là đế trụ cho Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát hai mặt. Tượng đôi Phật Bà Quan Âm là kiến trúc nổi bật của Tịnh xá. Tượng cao gần 30m – và là tượng phật đôi cao nhất Việt Nam. Trong đó, một tượng hướng về phía Nam (cổng chính tịnh xá), màu vàng, đó là Quan Thế Âm Kiết Tường và một tượng hướng về phía Bắc, màu bạc đó là Quan Thế Âm Nam Hải.

Theo người dân nơi đây truyền miệng nhau rằng: tượng Quan Thế Âm Kiết Tường màu vàng, có hướng về núi, tượng trưng cho rừng vàng; còn tượng Quan Thế Âm Nam Hải màu bạc có hướng nhìn ra biển chính là thể hiện cho biển bạc. Vì vậy người dân nơi đây tin rằng tượng phật đôi sẽ đem đến cho vùng đất nơi đây, con người nơi đây có một tương lai phát triển phồn thịnh và an lành.

Về mỹ thuật, tượng đã chắt lọc được các triết lý, tạo hình từ Tây Tạng (đôi mắt), từ Ấn Độ (ngọn lửa hủy diệt của thần Shiva), từ Chăm Pa (bích họa), từ Thủy Chân Lạp, và đặc biệt là một giải phẩu hình thể mang dáng dấp của người Việt mẫu mực…

Thân tượng làm rỗng, gồm nhiều tầng bậc khác nhau, hai vị Quan Thế Âm Bồ Tát tọa trên đài sen, đứng quay lưng vào nhau. Bên trong tượng là 2.000 bức tượng Quan Thế Âm cỡ nhỏ, bằng chất liệu đồng, đá, composite do các phật tử, các vị sư ở tịnh xá đặc vào đó nhằm gửi gắm thông tin về tịnh xá để cho đời sau nắm rõ.

Nhiều du khách đến đây không khỏi băn khoăn về tên gọi tịnh xá, và đặt câu hỏi tại sao không phải là chùa mà lại là tịnh xá. Nguyên nhân bắt nguồn từ cách gọi của người Ấn Độ Phật giáo nói về các tịnh thất trong các ngôi chùa, là các công trình kiến trúc nhà cửa theo phong cách Phật giáo dành cho những người tu hành nghỉ ngơi, cầu nguyện, thiền định. Đó là một nơi riêng biệt dành cho những ngày ẩn dật ngồi thiền của các thầy tu. Tịnh xá là nơi có thể đến tham quan sau đó nghỉ lại vài ngày vì đây là nơi yên tĩnh, khác với chùa có chức năng thực hiện hành lễ thì tịnh xá chú trọng vào việc tĩnh lặng để nghỉ ngơi, tu tâm.

Với thắng cảnh Eo Gió nằm cạnh bên càng làm tôn thêm vẻ đồ sộ và uy nghiêm của Tượng đôi Phật Bà Quan Âm, và nơi đây ngày càng thu hút nhiều lượt khách tham quan du lịch tứ phương.

Nếu du khách muốn nghỉ ngơi tại tịnh xá hoặc muốn nghe thuyết giảng phật pháp hãy nhờ người dân bản địa hoặc hướng dẫn viên liên hệ trước. Thời gian mở cửa của tịnh xá hầu như cả ngày, nơi đây hoạt động gần như một ngôi chùa nên các hoạt động sinh hoạt diễn ra bình thường. Du khách có thể đến đây nghỉ ngơi, đây là địa điểm lý tưởng để tĩnh tâm, suy nghĩ và thiền.Thông thường thì tịnh xá không thu vé, tùy tâm mỗi người, tịnh xá cũng thường tham gia, tổ chức các lễ hội, chung tay góp sức trong các hoạt động từ thiện xã hội, tham gia mô hình “cơm cháo tình thương” trong địa bàn thành phố Quy Nhơn nên du khách có thể góp một phần vào quỹ từ thiện.

 

Phước Sa Tự

 

Phước là phước duyên hội ngộ giữa nhân gian – giữa hữu tình và Bồ Tát. Sa là cát là sa thạch là sa bồi ý nhiều như cát hà sa… Hay còn một ẩn nghĩa khác đó là : Phật là phước lồi lên từ cát (Chùa nhặt được pho tượng lồi lên trên cát tại xóm Lý Hòa vào năm 1919)

Chùa tọa lạc trên một ngọn đồi nằm giữa đồng cát ở Đông Bắc bán đảo Phương Mai thuộc làng Xương Lý phủ Tuy Phước, nay là thôn Xương Lý, xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn. Tục gọi là chùa Phật Lồi. Trụ trì chùa hiện nay là sư thầy Thích Đồng Tín, đời pháp 43 kệ phái Minh Hải Pháp Bảo, đệ tử Hòa thượng Thị Dực Liễu Không chùa Thiên Bình, được Giáo hội tỉnh bổ nhiệm làm trụ trì chùa Phước Sa đầu năm 1999 thể theo nguyện vọng của Ban hộ tự và Phật tử địa phương.

Về vị trí địa lý : Ngôi chùa ngoảnh mặt về hướng Nam. Bên phải chùa là Đầm Thi Nại bắt đầu từ Đông Phù Cát trải dài đến đầu hải cảng Quy Nhơn. Chùa dựa lưng vào hòn núi Cấm cây cối tươi tốt quanh năm. Bên trái chùa là đại dương sớm chiều rì rào sóng vỗ. Chùa được đặt vào nơi cảnh trí hữu tình, lại có sự tích khá ly kỳ nên hàng năm hấp dẫn nhiều du khách đến tham quan cùng phật tử mười phương đến thăm viếng.

Du khách đến con đường dọc bờ kè xã Nhơn Lý, đi đến cuối đường sẽ gặp một bậc đá, leo lên hơn 60 bậc cấp đá thì tới cổng chùa. Cổng chùa xây gạch, cao khoảng 4m, biển ngạch để ba chữ hiệu chùa bằng Quốc ngữ: Chùa Phước Sa. Qua khỏi cổng tới tượng đài Quan Âm sái thủy. Tượng bằng xi măng cao gần 3m, đứng trên chân đế cao hơn 1m, ở giữa sân, tăng thêm vẻ mỹ quan cho chùa. Sau lưng tượng đài là chánh điện. Chánh điện là một ngôi nhà ngang, ngang 10m, dọc 6m, cao từ nền lên tới trần là 8m, xây gạch lợp ngói, hai mái hai chái, trên nóc đắp lưỡng long tranh châu. Trước chánh điện có hè rộng 2m, cao 5m, trên đúc bằng, trước có chấn thủy, ở giữa chấn thủy đắp ba chữ hiệu chùa bằng Hán tự: – Phước Sa Tự.

Bên trong điện, bệ thờ Phật đặt ở gian giữa. Trên bệ tôn trí bảo tượng Đức Bổn Sư bằng xi măng cao 1m50 kể cả tòa sen. Hai bên tôn trí hai pho tượng Quan Âm và Di Lặc bằng sành đều cao khoảng 40cm từ trong cát lồi lên tại xóm Lý Hòa trong thôn vào năm Kỷ Mùi (1919) và một pho tượng Chuẩn Đề bằng đồng cao khoảng 40cm cũng lồi lên tại gò đất Lý Hòa vào năm Ất Dậu (1945).

Trước bệ, trên hương án có tượng Di Đà cao khoảng 2m đứng giữa hai tượng Hộ Pháp đều cao khoảng 70cm. Tất cả đều bằng xi măng và đều là tượng hàng khá phổ biến trong vài chục năm nay.

Sau Chánh điện là nhà Tổ. Nhà Tổ song song với Chánh điện, kích thước như Chánh điện, xây gạch lợp ngói, đứng trên một chân đế cao hơn Chánh điện mấy phân. Bên trong Chánh điện, bàn thờ Tổ được đặt ở gian giữa. Giữa bàn thờ có long vị Tổ khai sơn là Hòa thượng Như Từ Tâm Đạt: Trụ trì chùa Thiên Bình ở An Nhơn và long vị Đại đức Thị Niệm Thiện Giai là vị trụ trì đầu tiên có long vị thờ tại chùa, có bảo tháp trước chùa.


     Kể từ khi bảo tượng Bồ tát Quan Âm xuất hiện ở thôn Xương Lý, đến nay đã 97 năm (1919-2016), chùa Phước Sa khai sơn đến nay đã 73 năm (1943-2016), trải qua bao dâu biển của cuộc đời mà bảo tượng vẫn còn đó và chùa ngày càng nguy nga tráng lệ, dân tình nơi đây: ‘phong ngày càng thuần, tục ngày càng mỹ’. Nhờ vào sự tín ngưỡng và tin tưởng vào sự chở che, phù hộ của phật mà đời sống người dân nơi đây ngày càng phồn thịnh. Tin lành đồn xa về sự linh thiêng cũng như khung cảnh thanh tịnh như tranh vẽ của Phước Sa tự mà thu hút lượng khách thập phương đến viếng ngày càng đông. Du khách đến đây có thể xin tá túc qua đêm tại chùa hoặc cũng có thể ở chung nhà với một số phật tử nơi đây, để trải nghiệm không gian thanh tịnh, lắng nghe sự thuyết giảng và khuyên bảo của sư trụ trì, đồng thời ‘xõa’ hết sự bôn ba nhộn nhịp của cuộc sống hằng ngày, lắng đọng, chìm vào hư không của phật giáo nơi đây.

Thời gian qua, ngành du lịch tỉnh đã có nhiều bước chuyển mình mạnh mẽ với nhiều dự án lớn đã và đang đầu tư. Hầu hết các dự án ít nhiều đều gắn đến các yếu tố lịch sử, tâm linh. Điển hình là dự án Khu du lịch lịch sử – sinh thái Tâm linh Chùa Linh Phong với tượng phật ngồi cao 69m cao nhất Việt Nam, khu thiền viện dưới chân chùa ông Núi. Dự án Khu du lịch Vinpearl Quy Nhơn cũng dự kiến giữ lại và xây dựng mới một ngôi chùa để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng. Bên cạnh đó các di tích lịch sử, tâm linh cũng đang được chính quyền tỉnh quan tâm tôn tạo, xây dựng mới như Đàn Tế trời đất, Khu tưởng niệm cụ Nguyễn Sinh Sắc…Đồng thời Quần thể sân golf, resort, biệt thự nghỉ dưỡng và giải trí cao cấp FLC Quy Nhơn cũng đã đi vào hoạt động, mong rằng các ngôi chùa hiện hữu ở xã Nhơn Lý mà tiêu biểu là Tịnh xá Ngọc Hòa và Phước Sa Tự sẽ được tiếp tục trùng tu, tôn tạo để hình thành thêm nhiều điểm đến độc đáo hơn nữa, trở thành bản sắc riêng của Bình Định, góp phần phát triển ngành du lịch tỉnh nhà.

 

Mũi Vi Rồng

Bạn muốn tìm đến một thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ, một điểm tham quan còn hoang sơ, Mũi Vi Rồng chính là điểm dừng chân lí tưởng nhất dành cho bạn. Để đến được mũi Vi Rồng bạn phải trải qua một hành trình đến với thôn Tân Phụng, xã Mỹ Thọ, đi theo hướng Đông Nam, bạn sẽ bắt gặp một dãi núi đá hùng vĩ có hình dáng rất ấn tượng. Mũi Vi Rồng là quần thể các vách đá cheo leo vươn mình ra biển và còn có cả một hang động dẫn thẳng ra bãi biển. Từ đỉnh mũi Vi Rồng bạn có thể ngắm cảnh đại dương bao la, bãi biển Tân Phụng và những đoàn thuyền đánh cá giữa biển khơi.

 

Mũi Vi Rồng hùng vĩ và hang động hướng thẳng ra biển thật huyền bí. (Nguồn: Internet)Từ đỉnh của Mũi Vi Rồng bạn có thể "view" về bãi biển Tân Phụng. (Nguồn: Internet)

 

HÒN KHÔ

 

Hòn Khô Quy Nhơn nổi bật với vẻ đẹp hoang sơ, bãi cát dài, trắng mịn cùng nước biển xanh trong như ngọc bích. Đây là điểm dừng chân lý tưởng để du khách khám phá thiên nhiên, tận hưởng không khí trong lành từ biển cả.

 

Cùng với Kỳ Co, Eo Gió, Cù Lao Xanh… thì Hòn Khô Quy Nhơn là một trong trong những địa điểm đẹp bạn không nên bỏ lỡ khi đi du lịch Quy Nhơn. Đây là một điểm đến siêu HOT với cảnh đẹp bình yên cùng nhiều trải nghiệm thú vị, hấp dẫn. Cùng Vinpearl bỏ túi tất tần tật các review Hòn Khô Quy Nhơn siêu hữu ích.

1. Hòn Khô Quy Nhơn ở đâu, cách trung tâm bao xa?

Địa chỉ: X. Nhơn Hải, TP. Quy Nhơn, T. Bình Định

Quy Nhơn đang là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng được du khách yêu thích với cảnh quan thiên nhiên hoang sơ cùng những hoạt động vui chơi, giải trí hấp dẫn. Khi nhắc đến các cảnh đẹp, địa danh nổi tiếng Quy Nhơn không thể không nhắc đến Hòn Khô. Nơi đây nằm cách trung tâm Quy Nhơn khoảng 16km, rất thuận tiện để ghé thăm.

Hòn Khô Quy Nhơn đúng như tên gọi là một hòn đảo không có gì ngoài những dãy núi đá cheo leo, khô khốc đang cố ngoi ra biển. Trên đảo Hòn Khô Quy Nhơn toàn là những khối đá lớn được xếp chồng lên nhau tạo nên một cảnh quan hoang sơ và bình yên đến lạ. Ngoài ra, bãi tắm Hòn Khô khiến du khách bốn phương ngất ngây bởi nước biển xanh trong như ngọc bích và còn được bao bọc bởi các rạn san hô muôn màu. 

2. Du lịch Hòn Khô mùa nào đẹp?

Hòn Khô là một điểm đến bạn không nên bỏ lỡ khi có dịp đến Quy Nhơn. Tuy nhiên, du lịch Hòn Khô Quy Nhơn mùa nào đẹp để có thể chiêm ngưỡng hết vẻ đẹp của hòn đảo này thì không phải ai cũng biết. Cùng Vinpearl tìm hiểu chi tiết từng mùa tại Hòn Khô và giúp bạn giải đáp du lịch Hòn Khô mùa nào đẹp nhất.

2.1. Mùa khô (tháng 4 đến tháng 9)

Tháng 4 - tháng 9 là thời điểm mùa khô tại Quy Nhơn, lúc này trời ít mưa, biển êm ả, biển không bị động và không có bão. Chính vì vậy, du khách có thể ghé Hòn Khô Quy Nhơn vào khoảng thời gian này để chuyến vui chơi và khám phá được thuận lợi, trọn vẹn.

2.2. Mùa rong mơ (tháng 5 đến tháng 7)

Ngoài mùa khô từ tháng 4 - tháng 9, bạn có thể ghé Hòn Khô vào mùa rong mơ từ tháng 5 - tháng 7. Lúc này, Hòn Khô như một cánh đồng vàng dưới mặt biển trong xanh khiến bất kỳ ai cũng sẽ say lòng.

3. Cách di chuyển đến Cù lao Hòn Khô 

Nằm cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 16km, để di chuyển đến Hòn Khô du khách có thể tham khảo lộ trình đường đi sau:

3.1. Từ trung tâm TP. Quy Nhơn đi làng chài Nhơn Hải

Để đến được đảo Hòn Khô Quy Nhơn, trước tiên du khách cần di chuyển đến làng chài Nhơn Hải theo tuyến đường sau: Trung tâm TP. Quy Nhơn → Cầu Thị Nại → Bán đảo Phương Mai → Rẽ phải chạy dọc theo đồi cát → Làng chài Nhơn Hải → Di chuyển khoảng 3km đường dốc hướng ra biển du khách sẽ nhìn thấy Hòn Khô.

3.2. Từ làng chài Nhơn Hải đi đảo Hòn Khô

Theo kinh nghiệm du lịch Hòn Khô Quy Nhơn, du khách có thể lựa chọn thuyền thúng hoặc cano để ra đến đảo Hòn Khô Quy Nhơn. Thời gian di chuyển trên tàu, thuyền khoảng 10 - 15 phút nên rất nhanh thôi bạn sẽ được ngắm cảnh Hòn Khô tuyệt đẹp.

4. Những trải nghiệm hấp dẫn tại Hòn Khô Quy Nhơn

Dưới đây là TOP 6 trải nghiệm thú vị bạn không nên bỏ lỡ nếu có dịp đến Hòn Khô Quy Nhơn:

4.1. Khám phá vẻ đẹp của Hòn Khô

Hòn Khô Quy Nhơn mang vẻ đẹp hoang sơ do chưa có nhiều sự đầu tư du lịch nghỉ dưỡng nên rất được du khách yêu thích. Hòn Khô có kết cấu địa chất đặc biệt khi có những hình vòng cung nối tiếp nhau, tựa lưng vào dãy núi tạo nên cảnh quan hùng vĩ và thơ mộng. Dừng chân tại đây, chắc chắn du khách sẽ bị xiêu lòng với trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của Hòn Khô.

4.2. Lặn ngắm san hô

Một trải nghiệm bạn không nên bỏ lỡ khi đến Hòn Khô chính là lặn ngắm san hô. Với những rạn san hô xinh đẹp, nhiều màu sắc, du khách sẽ có dịp được khám phá thế giới dưới nước lung linh, huyền ảo.

4.3. Bơi lội, tắm biển

Hòn Khô là một trong những bãi biển Quy Nhơn có màu xanh trong ngọc bích cực đẹp và là địa điểm lý tưởng đến du khách bơi lội, tắm biển. Với làn nước trong vắt, có thể nhìn xuyên tới đáy, tắm biển tại Hòn Khô chắc chắn sẽ mang lại cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị.

5. Đi Hòn Khô ăn gì?

Ngoài cảnh đẹp đến nao lòng, Hòn Khô còn níu chân du khách bốn phương bởi ẩm thực đa dạng, tươi ngon và mang hương vị đặc trưng của vùng biển. Cùng khám phá những món ăn nhất định bạn nên thử khi đến Hòn Khô dưới đây:

5.1. Hải sản 

Một trong những đặc sản Quy Nhơn tươi ngon, chất lượng không thể không kể đến hải sản. Bạn có thể thưởng thức cá mú, cá chình, cá dìa, tôm hùm, ốc… được chế biến thơm ngon, hấp dẫn ở các nhà bè với giá cả cực kỳ phải chăng. 

5.2. Nhum (cầu gai)

Nhum là loại động vật thân tròn có gai màu đen. rất giàu dinh dưỡng và là đặc sản nổi tiếng của Quy Nhơn. Nhum được chế biến thành nhiều món ngon khác nhau như nhum nướng mỡ hành, nhum tái chanh… với hương vị đặc trưng khiến thực khách ăn một lần là nhớ mãi.

5.3. Bánh xèo mực

Bánh xèo mực với vỏ bánh giòn, vàng ruộm cùng phần nhân mực tươi ngon đã đốn gục trái tim của biết bao du khách. Đến Hòn Khô nếu không thưởng thức món bánh xèo mực ngoài giòn, trong mềm thấm vị thì quả thực là đáng tiếc. 

 

CÙ LAO XANH

Cù Lao Xanh hay còn có tên gọi khác là đảo Vân Phi, là một hải đảo gần với vịnh Xuân Đài, xã Nhơn Châu, TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Cù lao này nằm cách bờ biển nội thành Quy Nhơn khoảng 24 km về phía tây bắc và bờ biển tỉnh Phú Yên 22 km về phía tây. Với tổng diện tích gần 365 ha, cù lao được chia thành 3 thôn là Thôn Tây (trung tâm), Thôn Đông và Thông Trung.

1.Đôi nét về Cù Lao Xanh

Từ xa xa, du khách có thể nhìn thấy một hòn đảo xanh ngắt giữa biển. Làng chài của ngư dân thì nép mình dưới chân núi, bên bờ cát trắng trải dài. Trên đỉnh núi là ngọn hải đăng uy nghiêm, sừng sững, nổi bật giữa biển trời bao la. Chính khung cảnh thanh bình, yên ả đó đã tạo nên một điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tận hưởng trọn vẹn cảnh sắc thiên nhiên.

2. Đi Cù Lao Xanh vào khi nào

Cù lao nằm giáp ranh giữa Bình Định và Phú Yên nên hình thái thời tiết cũng tương đồng với 2 tỉnh thành trên. Bạn có thể ghé thăm nơi đây vào bất kỳ thời điểm nào trong năm, ngoại trừ mùa mưa bão. Thời gian lý tưởng nhất để đến cù lao là khoảng từ tháng 2 – tháng 6. Lúc này, thời tiết cực kỳ đẹp, có nắng, biển lặng, nước biển trong xanh thích hợp cho các hoạt động tắm biển và lặn ngắm san hô.

Ngược lại, bạn không nên đi du lịch từ tháng 10 – tháng giêng năm sau. Đây là thời điểm cù lao chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, mưa nhiều, sóng lớn, biển động. Ngoài ra, tàu thuyền cũng không được phép ra khơi để lên đảo. Nếu du khách muốn trải nghiệm không khí lễ hội và văn hóa tín ngưỡng của người dân trên đảo thì có thể đến đây vào tháng 3 âm lịch – thời điểm diễn ra Lễ hội Cầu Ngư.

 

3. Cách di chuyển từ TP.Quy Nhơn ra Cù Lao Xanh

Từ TP. Quy Nhơn, du khách có thể ra Cù Lao Xanh các bằng loại phương tiện dưới đây:

-       Tàu gỗ: Mỗi ngày sẽ có 2 chuyến tàu gỗ đi từ cảng Hàm Tử ra đảo Nhơn Châu. Tàu xuất phát vào 2 khung giờ là 8h và 13h, chuyến ngược lại là 7h và 15h. Giá vé là 30.000 VND, bán tại cảng Hàm Tử. Ngoài ra, du khách còn phải chi thêm 3.000 VND để thuê đò nhỏ trung chuyển vào đảo.

-       Cano: Ngoài tàu gỗ, bạn còn có thể chọn cano để di chuyển ra đảo. Đây là phương tiện giúp bạn tiết kiệm thời gian di chuyển, thường nằm trong tour trọn gói do cư dân trên đảo kinh doanh. Cano cao tốc chỉ mất khoảng 25 phút để ra đến đảo, giá vé 200.000 VND/ chiều và 350.000 – 400.000 VND/ 2 chiều. Cano ghép thường hoạt động trong các khung giờ như 8h – 9h và 14h – 15h.

 

4. Ăn gì khi đi du lịch trên đảo

Ẩm thực tại Cù Lao Xanh là một hệ thống về quan điểm truyền thống và thực hành nấu ăn. Nơi đây nổi tiếng với nghệ thuật chế biến hải sản đơn giản nhưng hương vị lại vô cùng đặc sắc. Đến với cù lao này, du khách nhất định phải thử các món ăn đặc sản sau đây:

Cua đá: Cua đá là loài cua sống trong các hốc đá ẩm ướt trên đảo. Thịt cua ngọt thanh, dai béo, càng cua lớn và nhiều gạch. Cách chế biến phổ biến nhất là hấp bia, nướng than hồng hay cầu kỳ hơn là rang me.


Ốc biển: Ốc biển tại cù lao còn có tên gọi là ốc mặt trăng, ốc mắt ngọc hay ốc xà cừ. Đây là loài ốc đặc trưng có thể chế biến thành nhiều món khác nhau như nướng bơ, hấp gừng, xào xả ớt chấm muối ớt xanh.


Bánh xèo hải sản: Đi du lịch Cù Lao Xanh, bạn sẽ có dịp thưởng thức món bánh xèo hải sản ngon trứ danh. Nhân bánh xèo thường là các loại hải sản như mực, cá cơm… Trong đó, bánh xèo cá cơm là món ngon nổi tiếng với hương vị cực kỳ lạ miệng.

Canh rong biển: Rong biển được đánh bắt từ biển sẽ được ngư dân nơi đây chế biến thành món canh tươi mát, đậm chất biển khơi. Hương vị món ăn vô cùng đặc biệt, khác hẳn với canh rong biển của người Hàn Quốc.

Rượu dứa rừng: Rượu dứa rừng cù lao mang hương vị ngọt thanh, là đặc sản của vùng đất này. Bên cạnh đó, rượu dứa rừng còn rất tốt cho sức khỏe, thích hợp để du khách mua về làm quà.

 

5. Các điểm tham quan du lịch tại Cù Lao Xanh

Là hòn đảo du lịch nổi tiếng của Việt Nam, Cù Lao Xanh có khá nhiều địa điểm cho du khách tham quan, khám phá. Đi du lịch tại hòn đảo này, bạn nên ghé thăm các tọa độ sau:

Cột Cờ Thanh Niên: là cột cờ được xây dựng bởi Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội sinh viên Việt Nam. Công trình được khánh thành vào ngày 22/08/2015, có ý nghĩa về mặt chủ quyền và là niềm tự hào của người dân biển đảo. Ngoài ra, đây còn là 1 trong 7 cột cờ Tổ Quốc tiêu biểu được dựng trên các đảo ở nước ta.

 

Hải Dăng Plogam Bir: là một trong những địa điểm thu hút khách du lịch nhất ở Cù Lao Xanh. Ngọn hải đăng này được xây dựng từ thời Pháp thuộc, có tuổi đời cả trăm năm. Công trình được xây dựng hoàn toàn bằng đá, sơn màu đen và trắng tạo thành 3 phần nổi bật. Với chiều cao 119 m so với mực nước biển, hải đăng có thể chiếu xa đến tận 50 km.

Bãi Gala: là điểm cắm trại và dã ngoại được các bạn trẻ cực kỳ yêu thích tại Cù Lao Xanh. Mặt biển êm đềm, trong xanh bên bờ cát trắng là background check – in “siêu xinh” dành cho bạn. Ngoài ra, đến đây, bạn còn có thể tham gia vào hoạt động ngắm san hô.

Mũi Hoàng Bằng: là phần nhô ra so với biển cùng nhiều tảng đá lớn nhỏ khác nhau. Địa điểm này chưa được khai thác nhiều nên dải biển còn rất sạch. Khung cảnh thiên nhiên hoang sơ biển trời chắc chắn sẽ mang đến cho bạn những tấm ảnh “sống ảo” cực đẹp.

 

Chuyên đề:

Triều đại Tây Sơn và những chính sách cải  cách của vua Quang Trung Nguyễn Huệ

 

Biên niên các sự kiện thời Tây Sơn:

- 1771: Anh em Tây Sơn nổi dậy

- 1776: Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương

- 1777: Nguyễn Huệ tiêu diệt chúa Nguyễn tại Gia Định

- 1778: Nguyễn Nhạc xưng đế, đặt tên hiệu là Thái Đức

- 1780: Nguyễn Ánh xưng vương tại Gia Định

- 1782: Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi, chạy ra Phú Quốc.

- 1783: Nguyễn Ánh lánh nạn tại Côn Sơn.

- 1785: Nguyễn Huệ đánh bại quân Xiêm tại Rạch Gầm - Xoài Mút. Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm.

- 1786: Nguyễn Huệ lật đổ chúa Trịnh

- 1787: Nguyễn Ánh trở về lại Long Xuyên

- 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế

- 1789: Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Nguyễn Ánh lấy thành Gia Định

- 1792: Vua Quang Trung mất - 1793: Nguyễn Nhạc mất

- 1799: Nguyễn Ánh chiếm thành Qui Nhơn

- 1801: Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân

1. Sự thiết lập Vương triều Tây Sơn

Tháng 3-1776, Nguyễn Nhạc tự xưng Tây Sơn Vương, đúc ấn vàng, xây lại thành Đồ Bàn, phong cho Nguyễn Huệ làm Phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó. Đầu năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, đổi thành Đồ Bàn làm thành Hoàng đế, phong cho Nguyễn Huệ làm Long nhượng tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế. Triều đại Tây Sơn chính thức được thành lập, nhưng thực chất vẫn còn là bộ tham mưu tối cao của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Năm 1786, sau khi tiến quân ra Bắc, lật đổ chính quyền họ Trịnh, Nguyễn Huệ rút quân về Nam, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế, quản lý khu đất ở giữa, chạy dài từ Quảng Nam vào đến cực nam Trung Bộ ngày nay, phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Nghệ An, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, trông coi vùng đất Gia Định. Hoạt động của Nguyễn Lữ ở Gia Định chỉ thu hẹp trong phạm vi là một viên tướng đồn trú ở trong thành và chia quân đóng giữ. một số đồn luỹ, không đề ra và thực hiện được những chính sách kinh tế, chính trị, xã hội nào tích cực của một chính quyền phong kiến. Thời gian tồn tại của Đông Định Vương chỉ trong vòng hơn một năm (1786-1787). Năm 1787, Nguyễn ánh từ Xiêm đem quân về đánh Long Xuyên. Nguyễn Lữ sợ hãi bỏ Gia Định chạy về Biên Hoà, sau lại chạy về Quy Nhơn và bị bệnh chết. Vùng Gia Định từ tháng 9-1788 lại thuộc về Nguyễn Ánh.

Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc từ sau năm 1786 thỏa mãn với thắng lợi, không còn ý chí quật khởi, ngồi hưởng lạc "chỉ mong giữ lấy một phủ Quy Nhơn, tự giáng mình làm Tây chúa", "ham nhàn vui, cầu yên tạm bợ, không lo đến hậu hoạ". Từ năm 1790 đến 1793, Nguyễn Ánh liên tiếp tấn công ra Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh và vây thành Quy Nhơn (1793). Nguyễn Nhạc bất lực phải nhờ quân cứu viện của chính quyền Quang Toàn (Cảnh Thịnh). Các tướng sĩ của Quang Toàn giải vây Quy Nhơn, đánh bại quân Nguyễn Ánh rồi chiếm luôn cả thành trì. Nguyễn Nhạc uất lên mà chết, chính quyền của Nguyễn Nhạc đến đây kết thúc.

2. Triều đại Quang Trung

Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), trước khi đem quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ xưng đế đặt niên hiệu là Quang Trung. Phạm vi quản lý của triều đại Quang Trung trong những năm 1789-1792 bao gồm toàn bộ Bắc Hà vào đến đèo Hải Vân. Trên phạm vi đó, triều đại này đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp cải cách tiến bộ.

- Về kinh tế.

Quang Trung ban "chiếu khuyến nông", lệnh cho dân phiêu tán trở về quê khôi phục ruộng đồng bỏ hoang. Những xã nào chứa chấp kẻ trốn tránh đều bị trừng phạt. Sau một thời hạn mà ruộng công còn bỏ hoang thì phải nộp thuế gấp đôi, ruộng tư thì bị sung công... Do đó, chỉ trong vòng 3 năm sau, nông nghiệp được phục hồi. Năm 1791 "mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình.

Đối với công thương nghiệp, Quang Trung khuyến khích đẩy mạnh sản xuất thủ công nghiệp, mở rộng ngoại thương trên cơ sở phục hồi và phát triển nông nghiệp. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn đó, ngay từ những ngày đầu của chính quyền mới, Quang Trung chủ trương phát triển mọi ngành sản xuất nhằm xây dựng một nền kinh tế phồn vinh, độc lập, tự chủ trong đó có công thương nghiệp.

Chủ trương khuyến khích phát triển công thương nghiệp của Quang Trung được thể hiện ở sắc lệnh "khoan thư" sức dân. Năm 1789, Quang Trung bãi bỏ thuế điền cho nhân dân từ sông Gianh ra Bắc, động viên các tầng lớp nhân dân lao động phấn khởi sản xuất.

Để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá thuận lợi, Quang Trung cho đúc tiền đồng mới (Quang Trung thông bảo và Quang Trung đại bảo). Đối với nước ngoài, Quang Trung chủ trương mỏ rộng trao đổi buôn bán, đấu tranh nuộc nhà Thanh phải mở cửa biên giới để buôn bán với nước ta như ải Bình Nhi, Thuỷ Khẩu (Cao Bằng), Hoa Sơn (Lạng Sơn), Du Thôn... Đối với thuyền buôn của các nước tư bản phương Tây, Quang Trung tỏ ra rộng rãi, mong muốn họ tăng cường quan hệ ngoại thương với Việt Nam, nhờ vậy, tình hình thương nghiệp (nội thương và ngoại thương) nước ta thời Quang Trung được phục hưng và phát triển. Mô tả Thăng Long bấy giờ, nhà nho Nguyễn Huy Lượng sống dưới thời Tây Sơn viết: "Lò Thạch khối khói tuôn nghi ngút, thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm, lửa đom đóm nhen năm xã gây lò", và "rập rình cuối bãi đuôi nheo, thuyền thương khách hãy nhen buồm bươm bướm" (Phú Tụng Tây Hồ).

Nền ngoại thương nước ta thời Quang Trung khác hẳn với ngoại thương thời Vua Lê chúa Trịnh, chúa Nguyễn trước đó. Nó xuất phát từ yêu cầu nội tại của nền kinh tế và đời sống của nhân dân, từ yêu cầu đẩy mạnh nền kinh tế hàng hoá. Tư tưởng "thông thương" tiến bộ của Quang Trung đã thể hiện nhãn quan kinh tế rộng mở phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại, "mở cửa ải, thông thuơng buôn bán, khiến cho các hàng hoá không ngừng đọng để làm lợi cho dân chúng".

- Về chính trị, quốc phòng.

Sau khi đánh bại 30 vạn quân Thanh xâm lược (1789), Vương triều Quang Trung ra sức xây dựng một chính quyền phong kiến mới tiến bộ với ý thức quản lý đất nước trên một phạm vi rộng lớn dưới một chính quyền trung ương tập trung mạnh. Xuất phát từ nhận thức "Trẫm là kẻ áo vải đất Tây Sơn, không có một tấc đất, tự nghĩ mình tài đức không theo kịp cổ nhân mà đất đai rộng lớn như thế, nghĩ đến việc cai quản, lo sợ như cầm dây cương mục mà dong sáu ngựa", nên trong công cuộc xây dựng chính quyền mới, Quang Trung rất chú trọng "Cầu hiền tài". Đối với những nho sĩ, trí thức, kể cả quan lại trong chính quyền cũ có tài năng, trí tuệ, có nhiệt tình xây dựng đất nước, Quang Trung đều cố gắng thuyết phục và sử dụng họ vào bộ máy nhà nước mới, đặt họ ở những chức vụ cao tương xứng với tài năng của họ. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp, v.v., là những học giả tiêu biểu trong số nho sĩ này.

Để đáp ứng nhu cầu xây dựng chính quyền mới và đào tạo quan lại mới, bên cạnh phương thức "tiến cử", "cầu hiền tài" Quang Trung đã ban hành chính sách "khuyến học", mở rộng chế độ học tập, thi cử. Trường học được mở rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử dụng một số đền chùa không cần thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học từ chương khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh, sinh đồ ở các triều đại trước phải thi lại. Người nào xếp loại ưu thì mới được công nhận cho đỗ, hạng liệt phải về học lại, còn hạng sinh đồ 8 quan do bỏ tiền ra mua trước đó (thời Lê - Trịnh) đều bị đuổi về chịu lao dịch như dân chúng.

Chủ trương phát triển giáo dục, thi cử để đào tạo nhân tài cho đất nước trong công cuộc phục hưng của chính quyền mới được Quang Trung nói rõ: "Dựng nước lấy học làm đầu, lấy nhân tài làm gốc. Trước đây bốn phương nhiều việc phải phòng bị, việc học không được sửa sang, khoa cử bỏ dần, nhân tài ngày càng thiếu thốn... Trẫm khi vừa mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhà nho, lưu tâm, mến kẻ sĩ, muốn có người thực tài để dùng cho quốc gia". Xuất phát từ nhận thức đó ngay từ năm 1789, Quang Trung đã cho mở khoa thi Hương đầu tiên ở Nghệ An, chọn lấy những người đỗ tú tài hạng ưu cho vào dạy trường quốc học, hạng thứ cho vào dạy ở trường phủ học. Quang Trung chủ trương từng bước đưa khoa cử thành một phương thức đào tạo quan chức cho nhà nước phong kiến mới.

Trên cơ sở tăng cường và củng cố hoạt động của bộ máy nhà nước tập trung mạnh, chính quyền đã thực hiện được chức năng quan trọng và lớn lao bấy giờ đối với xã hội là tập hợp được các lực lượng tích cực trong toàn đất nước, đẩy lùi được cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang, ổn định tình hình chính trị, xã hội, củng cố được nhà nước quân chủ tập quyền, từng bước phục hưng, phát triển văn hoá, giáo dục và kinh tế.

Quang Trung chủ trương xây dựng một đội quân hùng mạnh, củng cố quốc phòng. Quân đội chia làm 5 doanh: trung, tiền, hậu, tả, hữu. Ngoài ra còn có thêm một số quân hiệu khác như tả bật, hữu bật, kiều thanh, thiên cán. Quân đội được biên chế theo đạo, cơ, đội. Nhà nước quy định cứ 3 suất đinh tuyển một lính. Năm 1790, làm sổ hộ tịch để căn cứ vào đó tuyển binh.

Quân đội có các binh chủng: bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, pháo binh. Vũ khí có nhiều loại, có loại được cải tiến như hỏa hổ (một loại ống phun lửa), có súng trường, đại bác, giáo mác, cung, tên. Chiến thuyền cũng nhiều loại, loại lớn chở được cả voi, trang bị từ 50 đến 60 khẩu đại bác, chở được từ 500 đến 700 lính.

Với một lực lượng quân đội mạnh, Quang Trung đã trấn áp được các thế lực phong kiến phản động, bảo vệ được chính quyền mới và có cơ sở để thực hiện một chính sách đối ngoại tích cực, kiên quyết bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia và nâng cao địa vị của nước ta thời bấy giờ đối với nước ngoài.

- Về văn hoá giáo dục.

Quang Trung lập Sùng Chính Viện chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm làm tài liệu học tập và giúp vua về mặt văn hoá. Mục đích của Quang Trung là nhằm đưa chữ Nôm lên thành quốc ngữ chính thức thay cho chữ Hán. Bên cạnh Nho giáo, Quang Trung vẫn chấp nhận Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Chữ Nôm được đưa vào khoa cử, trong các kỳ thi quan trường phải ra đề thi bằng chữ Nôm, người thi đến kỳ tam trường phải làm thơ, phú bằng văn Nôm. Chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của quốc gia dưới triều Quang Trung, một thành quả quan trọng trong lịch sử đấu tranh và bảo tồn nền văn hoá dân tộc, chống chính sách đồng hoá của các triều đại phương Bắc đô hộ nước ta. Những chính sách văn hoá, giáo dục của Quang Trung chứng tỏ ông có hoài bão xây dựng một nền học thuật, giáo dục đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao ý thức độc lập, tự cường cho nhân dân.

Những cải cách của Quang Trung có nhiều mặt tích cực, thể hiện một tư tưởng tiến bộ nhằm đưa đất nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau chiến tranh kéo dài để vươn lên sánh vai cùng các quốc gia phát triển đương thời, những chính sách cải cách đó đã và sẽ tạo khả năng mở đường, phát triển của đất nước, của dân tộc.

Tuy nhiên, về mặt thực hiện những chính sách cải cách của Quang Trung đã gặp nhiều trở ngại, thời gian thực hiện lại quá ngắn ngủi. Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), Quang Trung - Nguyễn Huệ - người anh hùng của dân tộc, đột ngột qua đời giữa lúc những cải cách mới được bắt đầu thực hiện. Triều đại Quang Toản tiếp sau đó bất lực, không còn tiếp tục thực hiện được những cải cách của Quang Trung và đã bị Nguyễn Ánh lật đổ vào đầu năm 1802.

 

Thái Đức Hoàng Đế (1778-1793)

1.Triều Tây Sơn (1778-1802)

Anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ, cháu hậu duệ của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật (thế kỷ thứ 10). ông tổ của Tây Sơn ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, khoảng nǎm 1653-1657 bị quân của chúa Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài bắt đem về cho ở ấp Tây Sơn (nay là An Khê, Hoài Nhơn, Bình Định), từ đó đổi thành họ Nguyễn.

Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng sinh ba con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.

Gia đình ông Phúc làm nghề buôn trầu cau, cuộc sống cũng khá giả. Anh em Nguyễn Nhạc theo học giáo Hiến. Giáo Hiến vốn là môn khách của Trương Vǎn Hạnh, ngoại hữu dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777).


Sau Trương Vǎn Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, giáo Hiến sợ phải chạy vào ở ẩn tại Quy Nhơn, mở trường dạy học ở ấp Yên Thái.

Lúc đó quyền thần Trương Phúc Loan tác oai tác quái, lấn lướt nhà chúa, lòng người ai cũng cǎm ghét.
Hằng ngày anh em Tây Sơn được giáo Hiến dạy cả vǎn lẫn võ, đồng htời khích lệ bởi câu sấm:
"Tây khởi nghĩa, Bắc thu công" Nǎm Tân Mão - 1771, anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa với khẩu hiệu chiến lược: "Lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương". Quân Tây Sơn thường lấy của những nhà giàu rồi phân phát cho dân nghèo, do đó nhân dân các nơi theo về rất đông.

Trải qua 8 nǎm chiến đấu gian khổ, nǎm Mậu Tuất - 1778, quân Tây Sơn đã diệt được chúa Nguyễn ở Đàng Trong.

Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng dế lập nên Triều đại nhà Tây Sơn, đặt niên hiệu là Thái Đức, phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân.

Nǎm 1777, chúa Nguyễn Phúc Thuần và Hoàng tôn Dương đều bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Chu.

Nǎm 1784, Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm cho hai vạn quân thuỷ và 300 chiến thuyền sang xâm lược nước ta, bị Nguyễn Huệ đánh tan trên đoạn sông Rạch Gầm - Soài Mút (Định Tường).
Nǎm 1786, Hoàng đế Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem quân ra đánh thành Thuận Hoá của chúa Trịnh vào tháng 5/1786. Trên đà thắng lợi, với khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh", ngày 25/6 Nguyễn Huệ tiến quân ra cố đô Thǎng Long. Nghe tin Nguyễn Huệ chiếm được thành Thǎng Long, Nguyễn Nhạc sợ không kiềm chế được Nguyễn Huệ, vội thân hành đem quân bản bộ ra Bắc Hà.

Vua Lê Hiển Tông nghe tin, đem trǎm quân ra ngoài cõi đón vua Tây Sơn. Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón anh và tạ tội tự chuyên của mình.

Về đến kinh đô, Nguyễn Huệ đưa công chúa Ngọc Hân ra chào vua anh. Nguyễn Nhạc khen:

- Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam "môn đương hộ đối" mối nhân duyên thật đẹp!

Sau khi từ Bắc Hà trở về, tháng 4 nǎm Đinh Mùi - 1787, Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía Nam ra làm ba:

- Từ đèo Hải Vân trở ra Bắc thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.

- Đất Gia Định thuộc về Đông Định Vương Nguyễn Lữ.

- Nguyễn Nhạc đóng đô ở Qui Nhơn xưng là Trung ương Hoàng đế.

Nǎm 1793, Nguyễn Nhạc mất, làm vua được 15 nǎm.

 

2. Hoàng đế Quang Trung (1788-1792)

Hoàng đế Quang Trung tên huý là Nguyễn Huệ (tức Hồ Thơm), sinh nǎm Quý Dậu - 1752. Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm: tóc quǎn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, cặp mắt sáng và tinh anh.

Nguyễn Huệ là trụ cột của nghĩa quân Tây Sơn, đã góp nhiều công lao to lớn, đập tan chúa Nguyễn ở Đàng Trong, được vua Tây Sơn phong cho làm Long nhương Tướng quân và được trao quyền cầm quân đánh đông dẹp bắc, là vị tướng có tài hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy, bách chiến bách thắng.

Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lật nhào chúa Trịnh chuyên quyền, tôn phò nhà Lê.

Sau khi vua Lê Hiển Tông tiếp kiến Nguyễn Huệ ở điện Vạn Thọ, nhà vua đã phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên suý Dực chính phù vận Uy quốc công. Với sự sắp xếp khéo léo của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông đã gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.

Tháng 7/1786, một đêm mưa to gió lớn, kinh đô Thǎng Long ngập hàng thước nước, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi.

Công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đǎng quang của Lê Duy Kỳ. Cả triều đình xao xuyến ngờ vực. Các tôn thất nhà Lê cho rằng Ngọc Hân cố tình làm lỡ việc lớn của triều đình và bảo sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua.

Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam.

Tháng 4/1788. Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô chạy ra ngoài, Bắc bình vương Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ 2 dẹp loạn. ông đã tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích ra đảm đương công việc.

Sau khi đã lập Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân.

Cuối nǎm 1788, Lê Chiêu Thống đưa đường cho đội quân xâm lược Mãn Thanh về chiếm đóng kinh đô Thǎng Long.

Đại tư mã Ngô Vǎn Sở đã bàn với Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn chờ lệnh.

Nghe tin cấp báo, ngay ngày hôm sau, 25 tháng 11 nǎm Mậu Thân (22/12/1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Chiều ý các tướng và để sáng tỏ danh nghĩa với cả nước, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế niên hiệu Quang Trung.

Ngày 29 tháng 11 nǎm Mậu Thân (26/12/1788), đại binh của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày, tuyển thêm hàng vạn trai tráng Nghệ An vào nghĩa quân Tây Sơn, nâng quân số lên 10 vạn, với đội tượng binh 200 voi chiến. Nguyễn Huệ tổ chức 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Những binh sĩ mới tuyển ở Nghệ An, chưa quen chiến trận, chưa qua thao luyện được đặt vào đạo trung quân do chính hoàng đế trực tiếp chỉ huy.

Hoàng đế Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh.

Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung cưỡi voi thúc quân tiến ra Bắc Hà.

Ngày 20 tháng Chạp nǎm Mậu Thân (15/1/1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp, Ninh Bình.


Trước khi bước vào chiến dịch, vua Quang Trung nói với quan quân rằng:

- Nay ta tới đây thân đốc việc binh, chiến thư ra sao đã có phương lược sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào cũng quét sạch giặc Thanh. Song ta nghĩ: nước Thanh lớn hơn nước ta gấp 10 lần, Thanh bị thua tất hổ thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc cho trǎm họ, lòng ta không nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa chiến tranh, việc từ lệnh đó ta giao cho Ngô Thì Nhậm.

Đúng như dự kiến và lời hứa hẹn của vị tổng chỉ huy, với tài dùng binh táo bạo, thần tốc, ngày 5 tháng Giêng nǎm Kỷ Dậu - 1789, đội quân bách chiến bách thắng của hoàng đế Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh, tiêu biểu là trận Ngọc Hồi - Đống Đa do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, tiến vào giải phóng Thǎng Long.

Sau chiến thắng Đống Đa, Nguyễn Huệ vội trở lại Phú Xuân để lo việc diệt Nguyễn Ánh, trao lại binh quyền cho Ngô Vǎn Sở và Ngô Thì Nhậm.

Theo phương lược ngoại giao đã được Quang Trung vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, nước ta đã bình thường được mối bang giao với nhà Thanh, buộc sứ Thanh phải vào tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long nhà Thanh.

Nǎm 1792, sau khi gửi thư đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên cùng một nàng công chúa bắc quốc và xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm đất đóng đô, vua Quang Trung đã sai đô đốc Vũ Vǎn Dũng làm chánh sứ sang triều kiến vua Càn Long. Vua Càn Long đã chuẩn tấu gả công chúa khuê các sang đẹp duyên cùng quốc vương nước Nam và tỉnh Quảng Tây được hứa sẽ nhường cho quốc vương phò mã đóng đô.


Giữa lúc đoàn sứ bộ đang mừng vui vì sắp hoàn thành sứ mệnh được giao, thì nhận tin sét đánh: vua Quang Trung đã từ trần. Mọi việc đều bị gác lại. Vũ Vǎn Dũng đành ôm hận trở về nước.

Một buổi chiều đầu thu nǎm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua đã cǎn dặn Trần Quang Diệu và các quần thần.

- Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử (Nguyễn Quang Toản) tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn Ánh) là quốc thù, mà Thái Đức (Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh ngày nay) để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu!

Ngày 29 tháng 7 nǎm Nhâm Tý - 1792 vào khoảng 11 giờ đêm, Quang Trung Nguyễn Huệ từ trần, ở ngôi được 4 nǎm, thọ 41 tuổi. Biết bao dự kiến to lớn của người anh hùng kiệt xuất của dân tộc chưa thực hiện được!

Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi vua cha.

 

3. Hoàng đế Cảnh Thịnh (1793-1802)

Vua Quang Trung mất, Nguyễn Quang Toản là con trưởng mới 10 tuổi lên ngôi vua nǎm Quý Sửu - 1793, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh.

Quang Toản lên ngôi vua, dùng cậu là Bùi Đắc Tuyên làm thái sư giám quốc trông coi mọi việc trong ngoài. Vì Quang Toản còn nhỏ quá, Bùi Đắc Tuyên ngày càng chuyên quyền nên trong ngoài đều oán, đại thần trong triều ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau.

Bọn cận thần gièm pha rằng Trần Quang Diệu oai quyền quá lớn, mưu đồ cướp ngôi, Quang Toản tin là thật, rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu. Sau Trần Quang Diệu bị giết.

Nǎm Canh Thân - 1800, Nguyễn Ánh vượt biển ra đánh thành Quy Nhơn, tướng Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng.

Nǎm Tân Dậu - 1801, Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, Quang Toản chống giữ không nổi, Phú Xuân bị chiếm, Quang Toản phải chạy ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng.

Ngày 16 tháng 6 nǎm Nhâm Tuất - 1802, Nguyễn Ánh tập trung lực lượng đánh chiếm Thǎng Long. Không chống đỡ nổi, Cảnh Thịnh cùng em là Quang Thuỳ bỏ thành chạy theo hướng Bắc, bị bọn thổ hào đất Kinh Bắc bắt được, đóng cũi đưa về Thǎng Long.

Mùa đông nǎm 1802, Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo tế miếu, trả thù Tây Sơn cực kỳ tàn bạo, Quang Toản cùng toàn gia cũng như một số tướng lĩnh Tây Sơn bị hành hình?.

Quang Toản lên ngôi vua nǎm 1793, đến nǎm 1802 thì bị giết ở tuổi 20, ở ngôi được 9 nǎm. Như vậy triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh Thịnh tồn tại được 24 nǎm (1778-1802).

 

 

Nữ tướng Bùi Thị Xuân

[VOV2] - Bùi Thị Xuân là một nữ tướng thời Tây Sơn. Bà là một trong số những nữ anh hùng kiệt xuất, với những chiến công hiển hách được lưu truyền trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Đô đốc Bùi Thị Xuân là người huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Theo nhà sử học Lê Văn Lan, Đô đốc Bùi Thị Xuân chính là một trong số những nữ anh hùng kiệt xuất nhất, với những chiến công hiển hách được lưu truyền trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc: "Ngay từ thời thiếu nữ, Bùi Thị Xuân đã là người có thiên hướng về võ nghệ và bà đã thực hiện chí hướng ấy của mình bằng cách rất chăm tập luyện võ nghệ. Thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân chính là vị quan đô thống nổi tiếng thời bấy giờ: Ngô Mãnh. Với tài năng võ nghệ và với sự luyện rèn thì không lấy làm lạ khi phong trào Tây Sơn khởi dấy, Bùi Thị Xuân đã nhanh chóng trở thành nữ tướng dưới cờ của Tây Sơn tam kiệt. Và ngay từ khi cùng chồng là Trần Quang Diệu tham gia phong trào nghĩa quân Tây Sơn từ năm 1771 thì với tư cách là nữ tướng, Bùi Thị Xuân còn được nhận thêm 1 danh hiệu nữ tướng nữa ngoài danh hiệu Nữ tướng áo đỏ, đó là danh hiệu Nữ tướng "Tượng binh".

Cũng theo nhà sử học Lê Văn Lan, không chỉ dũng cảm, có tài sử dụng song kiếm, cưỡi ngựa bắn cung khi ra trận, nữ tướng Bùi Thị Xuân còn có biệt tài huấn luyện voi trận. Dưới quyền Đô đốc Bùi Thị Xuân có 5000 nữ binh và 200 thớt voi. Lực lượng tượng binh và nghệ thuật đánh trận bằng voi chiến là nét đặc sắc có một không hai của phong trào Tây Sơn cũng như lịch sử quân sự nước Việt thời đó: "Tài võ nghệ của Bùi Thị Xuân lúc bấy giờ có chỗ để phô diễn ở việc luyện rèn và tổ chức nên 1 đội quân đặc biệt của nghĩa quân Tây Sơn, đó là voi chiến (tượng binh). Tài liệu còn nói rõ đội tượng binh do Bùi Thị Xuân quản lý luyện rèn rất cẩn thận và tài năng chiến trận, khả năng sung sát cực kỳ lợi hại và đặc biệt đông đúc với số lượng 100 con voi".

Tài năng của nữ tướng Bùi Thị Xuân còn thể hiện vào năm 1773, khi chủ tướng Tây Sơn Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ mở rộng địa bàn đem toàn quân xuống đánh Quy Nhơn thì Bùi Thị Xuân một mình ở lại trông giữ và bảo vệ Hoàng thành. Về sự kiện này, PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ thông tin: Có một sự kiện rất quan trọng là năm 1785, Nguyễn Ánh xin viện trợ từ Thái Lan (tức là Xiêm) 5 vạn quân đã theo chân Nguyễn Ánh về để chống lại Tây Sơn và Nguyễn Huệ đã bố trí một trận đánh trên sông Rạch Gầm - Xoài Mút rất nổi tiếng tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm. Trong trận đó nhiều tư liệu xác minh là bà Bùi Thị Xuân cùng ông Trần Quang Diệu đã phụ trách mũi bộ binh để tấn công vào quân Chu Tăng, Chu Xương của Xiêm".

Không chỉ giỏi giang võ nghệ, Bùi Thị Xuân còn thể hiện lòng thương dân khi được cử làm Trấn Thủ trấn Quảng Nam. Bà mở kho phát chẩn, trừng trị bọn cường hào và giúp cho dân được an cư lạc nghiệp, nên rất được lòng dân cảm phục. PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ cho biết: Bùi Thị Xuân được đánh giá là 1 trong 10 nữ tướng, 10 hiện tượng đặc biệt của phụ nữ Việt Nam thời kỳ bấy giờ. Đối với vị Đô đốc này thì có lẽ là không có sử sách nào có thể mô tả hết được tinh thần, sự đóng góp, nhiệt huyết cho phong trào Tây Sơn. Một là bà đã từng được giao giữ chức Trấn thủ Quảng Nam trong thời điểm dân cư loạn lạc, đói kém, bà đã tổ chức sản xuất, chiêu tập nhân dân mở mang cày cấy, thành lập xóm làng trở nên một vùng rất an cư, lạc nghiệp…

Năm 1801 khi Thiếu phó Trần Quang Diệu đưa đại quân từ Phú Xuân vào vây hãm và đánh hạ thành Quy Nhơn của chúa Nguyễn Ánh thì nữ tướng Bùi Thị Xuân ở lại kinh thành hộ giá vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Khi Nguyễn Ánh đưa thủy quân vòng qua Quy Nhơn bất ngờ đánh thẳng vào Phú Xuân, quân Tây Sơn ở đây chống cự không nổi, Bùi Thị Xuân đã phải đưa vua Cảnh Thịnh chạy thẳng ra Thăng Long. Mùa Xuân năm 1802, sau một năm củng cố lực lượng, Đô đốc Bùi Thị Xuân đã cùng vua Cảnh Thịnh đưa quân vào để mưu việc lấy lại Phú Xuân nhưng bất thành.

Đô đốc Bùi Thị Xuân anh dũng hy sinh khi 45 tuổi. Bà là một vị nữ anh hùng đã xây dựng nên triều đại Tây Sơn. Hiện nay, tại nhiều thành phố ở nước ta, tên bà được lấy để đặt tên cho những con đường và các trường học như một cách tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ với vị nữ tướng tài ba.

Nguồn: https://vov2.vov.vn/van-hoa-giai-tri/nu-tuong-bui-thi-xuan-22308.vov2

 

Đền Thờ Đô Đốc Bùi Thị Xuân – Điểm Đến Du Lịch Quy Nhơn

Đền thờ Đô đốc Bùi Thị Xuân được khánh thành tháng 7/2008, để tưởng nhớ công lao của Đô đốc Bùi Thị Xuân – nữ tướng tài giỏi và có công lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước của triều đại Tây Sơn. Đền thờ Bùi Thị Xuân là một địa điểm du lịch tại huyện Tây Sơn, Cách trung tâm Tỉnh Bình Định khoảng 40 km.

 

ĐỀN THỜ ĐÔ ĐỐC BÙI THỊ XUÂN

Đền thờ được qui hoạch xây dựng trên khu đất mới có tổng diện tích 5.191 m2, trong đó diện tích xây dựng 178 m2. công trình được chính thức khởi công từ ngày 20/9/2007. Đền thờ mang dáng dấp kiến trúc theo kiểu nhà mái lá 3 gian, gian chính giữa để bàn thờ, trên có tượng đô đốc Bùi Thị Xuân làm bằng gốm dát vàng và 2 gian bên là nơi dành cho cho đội nhạc lễ và tiếp khách…

 

Đặc biệt tại đền thờ Đô Đốc Bùi Thị Xuân còn có Bức bình phong cao 1,8m, rộng 3,5m, được làm từ đá tự nhiên, tạo nên không gian trang nghiêm, hào hùng. Mặt trước bình phong có khắc hình Long – Phụng giao duyên, tượng trưng cho vị nữ Đô đốc văn võ song toàn. Mặt sau bình phong khắc chữ Thọ.

Nữ Đô đốc Bùi Thị Xuân xinh đẹp, giỏi song kiếm

Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ, nhất là môn song kiếm. Bùi Thị Xuân càng lớn càng xinh đẹp, ở gần ở xa có, ngày nào cũng có người đến sân. Nhưng phần đông hễ thấy mặt thì “run như run thần tử thấy long nhan”, vì trong vẻ đẹp kiều diễm của Bùi Thị Xuân lại có vẻ uy nghiêm.

 

Chuyện xưa kể: Một hôm trong vùng núi Thuận Ninh ở trong vùng Tây Sơn ở phía Bắc sông Côn, Bùi Thị Xuân gặp một tráng sĩ đương đánh mãnh hổ. Tráng sĩ mình đầy máu me, sức đã sắp đuối. Nữ tướng hét lên một tiếng, rút song kiếm xáp vào cứu tráng sĩ.

Hổ bỏ tráng sĩ, đánh cùng Bùi Thị Xuân, cuối cùng bị một nhát kiếm nơi vai, gầm lên một tiếng bỏ chạy. Bùi Thị Xuân trở lại băng bó cho tráng sĩ. Tráng sĩ đó là Trần Quang Diệu. Sau đó hai người trở thành vợ chồng và cùng giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp. Bùi Thị Xuân là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư và là một Đô đôc của vương triều Tây Sơn. Bà quê ở thôn Xuân Huề, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

 

Trong trận đại phá quân Thanh năm 1789, bà chỉ huy đội tượng binh của đạo Trung quân của nhà vua Quang Trung. Bà cũng có tấm lòng thương dân, lúc nhiều phủ huyện ở trấn Quảng Nam mất mùa, sinh loạn, quan quân địa phương không kiềm chế nổi. Đến nơi, bà tự mình đi thị sát khắp các hạt, rồi cho mở kho phát chẩn. Thấy viên quan nào chiếm công vi tư, ăn của hối lộ… bà đều thẳng tay cách chức, chọn người tài đức lên thay. Ngoài ra, bà còn ra lệnh bãi bỏ các cuộc truy lùng những nhóm người nổi dậy, và mạnh dạn ra tuyên cáo rằng: Ai vác cày bừa, nông cụ thì được coi là dân lành..

Sau khi quân Tây Sơn bị đại bại ở Nhật Lệ và Trấn Ninh, thì đất Thuận Hóa từ Hải Vân đến Linh Giang thuộc về nhà Nguyễn, ngày 2 tháng 7 năm 1802, Nguyễn Ánh xứng đế, đem vua tôi nhà Tây Sơn ra báo thù, riêng đối với Bùi Thị Xuân, phải chịu hình phạt khốc liệt nhất, tuy nhiên Bà vẫn giữ thái độ hiên ngang con nhà tướng khi bị hành hình.

Người ta còn truyền rằng khi nghe Bùi Thị Xuân bị bắt, Chúa Nguyễn gằn giọng: Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh? Bà đáp: Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà.

Với công đức của mình, đô đốc Bùi Thị Xuân được đưa vào điện thờ Tây Sơn nơi thờ Hoàng đế Quang Trung và văn thần võ tướng nhà Tây Sơn tại Bảo tàng Quang Trung. 

 

Danh tướng nhà Tây Sơn Trần Quang Diệu

Trần Quang Diệu (1746–1802) là một trong Tây Sơn thất hổ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với vợ là nữ tướng Bùi Thị Xuân đã cố sức chiến đấu để bảo vệ vương triều này, nhưng không thành công, và cả hai đều bị vua Gia Long xử tội chết.

 1. Quê quán và họ tên:

Trước đây có hai ý kiến khác nhau về quê quán của Trần Quang Diệu:

-Một là ở xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định

-Hai là ở xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.

Sau, nhờ tìm được mộ của mẹ Trần Quang Diệu ở phía Tây Nam hòn Thổ Sơn (thuộc Ngũ Hành Sơn), cách chân núi khoảng 30 m trong vườn của ông Trần Xê. Ngôi mộ này được lập vào tháng 3 năm Nhâm Tý (1792), thời chính quyền Tây Sơn quản lý đất Quảng Nam.

Và qua xác minh nhiều nguồn tư liệu (trong đó có bản phổ ý của dòng họ Trần Quang Diệu), đầu năm 1996 Bảo tàng Đà Nẵng và Hội sử học Đà Nẵng đã ra thông báo rằng:

Trần Quang Diệu, vốn có tên Trần Văn Đạt [1], người ở làng An Hải (nay thuộc quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng), là con trai của ông Trần Tấn và bà Phan Thị Hy.

 2. Sự nghiệp:

2.1 Dưới thời Nguyễn Huệ:

Lúc nhỏ, theo sách “Nhà Tây Sơn” (tr.48-50), thì Trần Quang Diệu học văn học võ nhiều thầy. Lớn lên, một lần ông đi săn trên núi Kim Sơn ở Hoài Ân, tình cờ gặp được một ông lão tên là Diệp Đình Tòng , vì can tội giết chết một viên tri huyện tham ô, mà ông và vợ con phải trốn vào đây. Trong hơn 20 năm dài ấy, không chịu nổi sơn lam chướng khí, vợ con ông đều đã lần lượt qua đời.

 Ông Tòng là người thông thạo cả năm món binh khí, đó là: đao, kiếm, côn, thương và cung. Tuy nhiên, Trần Quang Diệu chỉ học môn đại đao. Năm năm sau, thầy mất. Trần Quang Diệu băng núi đến Vĩnh Thạnh, rồi nghe tin Nguyễn Nhạc là người có chí lớn (lúc này Nguyễn Nhạc đang làm chủ sòng bạc ở Kiên Mỹ), nên tìm đến làm quen. Chính vì mối giao tình này, nên khi Nguyễn Nhạc cùng hai em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ dựng cờ khởi nghĩa, Trần Quang Diệu liền tham gia phong trào Tây Sơn ngay từ buổi đầu.

Theo lời kể dân gian, thì một hôm Trần Quang Diệu trên đường từ Hoài Ân vào Kiên Mỹ để gặp Nguyễn Nhạc, thì bị cọp dữ tấn công. Chống trả được một hồi, ông Diệu vừa bị thương vừa đuối sức. Bùi Thị Xuân tình cờ đi qua liền xông vào mới cứu được mạng ông. Ít lâu sau, nhờ Nguyễn Nhạc đứng ra làm chủ hôn, Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân trở thành vợ chồng, rồi cùng trải bao gian lao dưới ngọn cờ khởi nghĩa Tây Sơn.

Trong chiến thắng Kỷ Dậu 1789, Trần Quang Diệu được biên chế trong đạo trung quân do Nguyễn Huệ chỉ huy. Sau trận đại thắng này, ông được cử làm đốc trấn Nghệ An, vừa lãnh nhiệm vụ trấn thủ, vừa lo việc xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô ở đây.

 Năm 1792, Ai Lao (Lào) thiếu cống, vua Quang Trung bèn phong cho đô đốc Trần Quang Diệu làm đại tổng quản, Lê Trung (có sách chép Lê Văn Trung) làm đại tư lệ cùng xuất quân tiến sang. Vua Ai Lao chống cự không nổi, đem quân chạy trốn. Quân Tây Sơn tràn vào thành, thu hết vàng bạc, châu báu, voi ngựa...đem về nước [2].

 2.2 Dưới thời Nguyễn Quang Toản:

Tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột qua đời. Tuân theo di chiếu, Trần Quang Diệu, Bùi Đắc Tuyên và Vũ Văn Dũng cùng tôn phò Nguyễn Quang Toản (10 tuổi) lên ngôi, tức vua Cảnh Thịnh.

Năm 1793, quân chúa Nguyễn kéo ra bao vây thành Quy Nhơn do Nguyễn Nhạc cai quản. Nhận lời cầu cứu, vua Quang Toản cử Trần Quang Diệu dẫn quân vào đánh giải vây được.

Sách “Lê quý dật sử” (tr. 110) chép:

Nguyễn Nhạc mở cửa thành đón tiếp quan quân, phát tiền bạc, quần áo, lương thực. Tướng sĩ của Quang Diệu cậy công lấn bức, vô lễ. Không bao lâu, Nguyễn Nhạc ôm hận uống thuốc độc chết [3]. Quang Diệu nhân đó tịch thu vàng bạc trong kho và voi ngự dâng nộp. Quang Toản sai tướng chia quân chiếm cứ thành Quy Nhơn.

Năm 1795, Trần Quang Diệu một lần nữa xuất quân chiếm lại Diên Khánh. Khi chiến sự đang giằng co với lợi thế thuộc về quân Tây Sơn thì có triều biến tại Phú Xuân: không có lệnh vua, Vũ Văn Dũng, Nguyễn Văn Huấn và Phạm Công Hưng lập mưu giết tướng Ngô Văn Sở và cha con thái sư Bùi Đắc Tuyên. Hay tin, Trần Quang Diệu vội thu quân về triều, đóng quân ở mạn Namsông Hương, hướng mặt vào thành Phú Xuân, trong khi Vũ Văn Dũng đóng ở mạn Bắc sông và muốn đem quân cự lại. Vua Cảnh Thịnh phải cho người ra khuyên giải, mâu thuẫn giữa hai đại tướng mới được thu xếp ổn thỏa. Kể từ đó, Trần Quang Diệu làm thái phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiếu bảo, Vũ Văn Dũng làm đại tư đồ và Nguyễn Văn Danh (hay là Nguyễn Văn Tứ) làm đại tư mã, gọi là tứ trụ đại thần.

Nhưng chẳng lâu sau, vua Cảnh Thịnh nghe lời gièm pha rút hết binh quyền của thái phó Quang Diệu. Thấy thế Tây Sơn đã suy nhược, năm 1799, chúa Nguyễn bèn cử đại binh ra đánh, đến tháng 5 (âm lịch) thì bao vây thành Quy Nhơn. Khi ấy, Trần Quang Diệu mới được giao lại binh quyền để cùng Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu. Theo Việt Nam sử lược thì quân của Vũ Văn Dũng không đánh mà tan. Việc ấy là tội của tướng chỉ huy, nhưng nhờ có Quang Diệu giấu đi. Cảm ơn ấy, Vũ Văn Dũng kết nghĩa sinh tử với Trần Quang Diệu. Bấy giờ, có mấy người ganh ghét muốn nhân dịp này mà đổ tội cho ông bèn tâu với nhà vua. Vua Cảnh Thịnh liền sai người đem mật thư ra bảo Văn Dũng hãy diệt trừ Quang Diệu. Được Vũ Văn Dũng cho xem thư, thái phó Diệu tức tốc dẫn quân về triều, nói là để bắt quân phản loạn. Cuối cùng, vua Cảnh Thịnh phải bắt mấy mật tấu giao cho ông, việc mới yên.

Dẫn quân trở lại Quy Nhơn, đến tháng giêng năm Canh Thân (1800), thì Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng cùng tấn công thành. Tướng Nguyễn là Võ Tánh giữ vững không ra đánh. Trần Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành, chia quân vây bốn mặt; Vũ Văn Dũng đem thủy quân ra đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn và đặt pháo để cản ngăn quân cứu viện. Được tin thành Quy Nhơn bị vây, chúa Nguyễn cử đại quân ra cứu Quy Nhơn, các tướng Nguyễn phá tan thủy quân Tây Sơn ở Trận Thị Nại. Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thị Nại lên bộ hợp quân với Trần Quang Diệu. Quân Tây Sơn vây thành càng ngặt.

Nhận thấy hai tướng giỏi nhất và tinh binh Tây Sơn tập trung cả ở Quy Nhơn, Võ Tánh viết thư khuyên chúa Nguyễn đừng vội lo giải vây, mà hãy ra đánh Phú Xuân trước. Nguyễn Phúc Ánh nghe theo, đến tháng 5 âm lịch năm 1801, thủy quân Nguyễn ra đánh chiếm được Phú Xuân.[10] Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng nghe tin Phú Xuân thất thủ, sai tướng đem quân về cứu, nhưng đến Quảng Nam thì bị chặn lại phải quay về. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng càng dốc quân đánh thành Quy Nhơn. Trong thành hết lương thực, Võ Tánh đưa thư cho Trần Quang Diệu nói rằng: Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành liều chết ở dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại. Xong, Võ Tánh chất rơm cỏ dưới lầu Bát Giác tự thiêu, hiệp trấn Ngô Tòng Châu cũng uống thuốc độc tự tử, thành Quy Nhơn đầu hàng. Trần Quang Diệu vào thành, sai làm lễ liệm táng cho hai người tử tế, và tha cho tướng sĩ nhà Nguyễn, không giết một ai. Sau đó, ông chia người đi cứu Phú Xuân và Phú Yên nhưng đều thất bại.

Quân Tây Sơn chiếm lại được thành Quy Nhơn nhưng các mặt đều là địch, khó bề chống giữ. Tháng 3 âm lịch năm 1802, nghe tin vua Cảnh Thịnh và Bùi Thị Xuân đã thua trận ở Trấn Ninh (tháng giêng năm 1802), Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng bỏ thành, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Lào ra Nghệ An để hội quân với vua Cảnh Thịnh. Nhưng khi tới châu Quỳ Hợp, vào được đất Hương Sơn thì nghe thành Nghệ An đã thất thủ, Trần Quang Diệu và vợ con bèn về huyện Thanh Chương. Lúc này, tướng sĩ đi theo dần rời bỏ, trốn được mấy hôm thì cả nhà ông đều bị quân đối phương bắt sống.

 2.3 Bị xử chết:

Nguyễn Phúc Ánh, khi này đã lên ngôi và lấy hiệu Gia Long (1802), chiêu hàng Trần Quang Diệu. Ông đáp:

Trung thần không thờ hai vua, nay tôi bị bắt thì chỉ có tội chết. Nếu nhà vua mới rộng lượng tha cho, như trước đây tôi đã tha cho các tướng ở Quy Nhơn thì tôi sẽ về ở nơi thôn dã, cày ruộng, nộp thuế như người thường dân, chứ nhận chức quan của triều đại mới thì không phải là trượng phu [4].

 Biết không thể khuất phục được Trần Quang Diệu, vua nhà Nguyễn xử ông tội chết. Về cái chết của ông, có hai thông tin:

 Phạm Khắc Hòe, nguyên Đổng lý Ngự tiền văn phòng triều Bảo Đại, cho rằng vì ông thờ mẹ già 80 tuổi có hiếu nên vua Gia Long chỉ ra lệnh chém đầu, chứ không hành hình như một số người khác [5].

GS. Nguyễn Khắc Thuần, cho rằng ông bị xử lột da sống. Thông tin này được nhiều nhà nghiên cứu đồng thuận, trong đó có: Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Quách Tấn, Trần Xuân Sinh [6].

 3. Thông tin thêm:

Chuyện kể rằng Trần Quang Diệu và Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu) là đôi bạn láng giềng thân thiết. Sau quê hương loạn lạc, gia đình Trần Quang Diệu bỏ xứ về quê ngoại ở làng Trà Khê (nay thuộc quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng), còn Nguyễn văn Thoại thì theo cha mẹ vào sống tại Cù lao Dài trên sông Cổ Chiên (Vĩnh Long).

 Khi biết tin nhau thì hai ông đã ở hai bên chiến tuyến. Vào năm 1801, lúc Nguyễn Văn Thoại mang quân từ Vạn Tượng (Lào) tiến đánh Phú Xuân, nghe tin Trần Quang Diệu từ Quy Nhơn cầm binh ra tiếp cứu; vì không muốn đối đầu với bạn, nên ông Thoại giao binh quyền cho phó tướng của mình là Lưu Phước Tường rồi bỏ vào Gia Định. Vì vậy, ông bị chúa Nguyễn Phúc Ánh bắt tội là không có lệnh của vua mà tự tiện về, giáng xuống làm cai đội cai quản đạo Thanh Châu. Năm 1802, trong dịp khen thưởng những người có công, rất có thể vì chuyện này, mà ông cũng chỉ được nhà vua phong làm Khâm Sai Thống binh cai cơ sau mới thăng làm chưởng cơ.

 Tại cuộc "Hội thảo khoa học về danh nhân Thoại Ngọc Hầu nhân kỷ niệm 180 năm ngày mất", được tổ chức tại Châu Đốc (An Giang) vào ngày 25 tháng 7 năm 2009, hành động “nặng tình bằng hữu” của ông Thoại đã được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao[15].

 

 Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.

   BẢO TÀNG QUANG TRUNG

Bảo tàng Quang Trung xây dựng tại làng Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, phủ Quy Nhơn (nay là Khối I, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) vào ngày 12.12.1977 và khánh thành vào ngày 01.02.1979 nhân kỷ niệm 190 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789 - 1979). Với nhiều lần trùng tu nâng cấp, từ xây dựng cơ bản, chỉnh lý nội dung trưng bày đến quy hoạch tổng thể mở rộng không gian phù hợp với từng giai đoạn phát triển của Bảo tàng. Đến năm 2014, diện tích khuôn viên Bảo tàng được mở rộng gần 18ha bao gồm: phía Nam đến sát bờ bắc Sông Côn bao cả khu di tích bến Trường Trầu, phía Bắc mở rộng thêm 2,4ha đến gần di tích Gò Đá Đen. Tất cả hài hòa trong tổng thể không gian văn hóa Di tích Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt, Tượng đài Hoàng đế Quang Trung, Nhà biểu diễn nhạc võ Tây Sơn, Nhà Rông văn hóa các dân tộc Tây Nguyên. Điểm nổi bật của Bảo tàng Quang Trung là xây dựng tại di tích quê hương ba anh em nhà Tây Sơn còn lưu giữ những yếu tố gốc đó là Vườn nhà cũ, Giếng nước xưa, Cây Me cổ thụ trên 200 năm tuổi và Lễ hội Đống Đa tạo sự gắn kết giữa Bảo tàng và Di tích.

   
    Bảo tàng Quang Trung là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Bình Định, với chức năng nghiên cứu, giáo dục khoa học lịch sử thông qua các hoạt động chuyên môn nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, giới thiệu phục vụ công chúng nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa thời Tây Sơn và anh hùng dân tộc Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ người Việt Nam. Bảo tàng Quang Trung được xếp hạng II theo Quyết định số 1783/QĐ-CTUBND ngày 18.8.2008 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định. Thực hiện nhiệm vụ chính trị mở cửa phục vụ khách tham quan 30 ngày/tháng, kể cả các ngày Lễ, Tết, có bán vé thu phí, lệ phí tham quan và thực hiện chế độ tự chủ một phần kinh phí từ nguồn thu đơn vị sự nghiệp. Hệ thống trưng bày Bảo tàng theo tiến trình lịch sử của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII với các chủ đề: Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam trước khởi nghĩa Tây Sơn; Nguồn gốc quê hương, gia tộc; Giai đoạn chuẩn bị khởi nghĩa; Chống các thế lực phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn thống nhất đất nước; Chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc, trọng tâm là chiến thắng Quân Xiêm và đại phá quân Thanh; Công cuộc xây dựng đất nước của vương triều Tây Sơn; Vua Quang Trung trong lòng dân tộc. 

Năm 2016 - 2018, Nhà trưng bày Bảo tàng Quang Trung được đầu tư nâng cấp, mở rộng diện tích trưng bày lên 2.800m2. Hệ thống trưng bày được bổ sung hoàn chỉnh, với trang thiết bị hiện đại, trưng bày khoa học và thẩm mỹ, áp dụng các giải pháp thiết kế mỹ thuật trên những chất liệu mới, hệ thống tranh hoành tráng (với chất liệu sơn dầu), xây dựng chương trình phần mềm số hóa hiện vật và phòng chiếu phim 3D hiện đại để trình chiếu phim: “Giai đoạn tụ nghĩa của phong trào Tây Sơn”; “Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút” và “Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa”...,trang bị hệ thống máy tính tra cứu thông tin quảng bá các di tích, danh thắng của tỉnh…, nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng cao của du khách. Hàng năm, Bảo tàng Quang Trung đón tiếp và phục vụ trên 150.000 lượt du khách trong nước và quốc tế đến tham quan, nghiên cứu và học tập, đặc biệt là Lễ hội Đống Đa có năm lên đến 30.000 lượt khách về dự hội.

                 Bảo tàng Quang Trung quản lý các di tích: Khu di tích quốc gia đặc biệt Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt; Đền thờ Đô đốc Bùi Thị Xuân; Đền thờ Đại tư đồ Võ Văn Dũng; Đền thờ Song thân Tây Sơn Tam Kiệt tại di tích quê mẹ các thủ lĩnh Tây Sơn; Khu di tích Đài Kính Thiên; Khu tưởng niệm cụ Nguyễn Sinh Sắc tại di tích huyện đường Bình Khê; Đền thờ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng. Ngoài nhiệm vụ chuyên môn, hàng năm Bảo tàng Quang Trung còn tổ chức nghi thức dâng hoa, dâng hương, tiếp đón các đoàn đại biểu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ, Ban, Ngành Trung ương, lãnh đạo các Tỉnh, Thành phố trong cả nước đến tham quan, viếng hương tại Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt, đã để lại những dòng bút tích đầy cảm xúc và tự hào dân tộc. Tổ chức các ngày Lễ giỗ kỵ các danh nhân, danh tướng của Triều đại Tây Sơn, đặc biệt là Lễ giỗ kỷ niệm Ngày mất Hoàng đế Quang Trung vào ngày 29 tháng 7 âm lịch hàng năm, để nhân dân và du khách đến viếng hương thể hiện lòng thành kính, tưởng nhớ và tri ân công lao to lớn của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.   

   Đến với Bảo tàng Quang Trung, du khách viếng hương tại Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt, tham quan Nhà trưng bày các tư liệu hiện vật thời Tây Sơn, thưởng thức chương trình biểu diễn nhạc võ cổ truyền Tây Sơn - Bình Định, đây là nét văn hóa đặc sắc, di sản văn hóa phi vật thể thời Tây Sơn được Bảo tàng lưu truyền và phát huy giá trị. Đó là nhạc lễ trống trận Tây Sơn, ra đời từ phong trào Tây Sơn mang khí phách hào hùng của dân tộc. Bộ trống sử dụng 12 chiếc tượng trưng thập nhị can chi với tiết tấu chia làm ba hồi: Xuất quân, xung trận hãm thành và khúc khải hoàn mừng chiến thắng. Đi cùng với nền nhạc trống là phần biểu diễn võ thuật cổ truyền Tây Sơn – Bình Định gồm các bài võ trong 18 môn binh khí Tây Sơn và diễn tấu cồng chiêng Tây Nguyên, thể hiện nét văn hóa các đồng bào dân tộc Tây Nguyên như:  Bana, Chăm H’roi, Jarai, Êđê…nơi ba anh em nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa. Đây là nét văn hóa riêng của Bảo tàng để du khách tham quan, trải nghiệm và tham quan nhà Rông văn hóa các dân tộc Tây Nguyên.

    Để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của công chúng, trong thời gian tới Bảo tàng Quang Trung không ngừng nỗ lực, đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Bảo tàng gắn với phát triển du lịch, hướng tới mục tiêu phục vụ tốt nhất cho công chúng. Bảo tàng Quang Trung sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn, đầy ý nghĩa đối với du khách khi đến Bình Định.    

 

Chuyên đề

NHẠC VÕ TÂY SƠN BÌNH ĐỊNH

Nhạc võ Tây Sơn nét văn hóa độc đáo
Ngoài tài thuần phục ngựa, voi chiến trường
Nàng còn giỏi cả bộ môn
“Đả thập nhị cổ” tiếng đồn xa hơn...

 

Nhạc võ Tây SơnNhạc võ Tây Sơn

 

Trong các môn võ cổ truyền chiến đấu chống giặc ngoại xâm của nhà Tây Sơn còn có một bộ môn riêng rất độc đáo là nhạc võ. Nhạc võ là phương pháp dùng âm thanh để nâng cao khí thế luyện tập võ nghệ cũng như tăng cường ý chí chiến đấu của binh sĩ khi lâm trận. Người ta sử dụng một bộ trống gồm 12 cái, đặt ở những vị trí khác nhau để đánh theo nội dung bài võ như sau:

Mười hai trống xếp hàng hai 
Đôi tay gõ nhịp đường dài hành quân 
Mười hai trống xếp ba hàng 
Đôi tay gõ nhịp tiến quân công đồn...

 

Khi biểu diễn nhạc võ, người biểu diễn phải dùng tất cả các bộ phận tay chân từ cổ tay, nắm tay cho đến cùi chỏ, chân... để đánh 12 chiếc trống đúng theo nhịp của bài võ. Theo truyền thuyết, 12 chiếc trống trận ứng với 12 con giáp, hoặc 12 tháng trong một năm. Do vậy, trống có độ lớn nhỏ khác nhau. Bốn chiếc trống lớn có đường kính mặt trống khoảng 40cm. Bốn chiếc trống cỡ vừa có đường kính 30cm. Và bốn chiếc trống nhỏ có đường kính mặt trống 20cm.

 

Biểu diễn nhạc võ Tây Sơn

 

Nhờ kỹ thuật bịt da điêu luyện nên độ căng của trống khác nhau. Do vậy, tiếng trống khi vang lên có âm thanh to nhỏ, trầm bổng khác nhau. Hòa lẫn với âm thanh của các nhạc khí phụ trợ như đàn nhị, kèn, chủm chọc (não bạt hay xụp xỏa), tạo thành những âm điệu đặc thù cho từng bài võ. Khi thì hùng dũng, chỉnh tề; lúc thì khoan thai, êm đềm, vui tươi. Khi hành quân thì tiếng trống giục giã; khi công thành thì khẩn trương, gấp gáp; hoặc khi chiến thắng thì phấn chấn, náo nức, reo hò, cổ vũ...

Đặc biệt, nhạc võ Tây Sơn sử dụng trong hành quân thường có thêm chiếc trống đại (trống cái) và chiêng lớn. Khi đánh hòa âm với nhạc của 12 chiếc trống tạo nên một bầu không khí hào hùng, nâng cao tinh thần và thúc giục binh sĩ xông trận.

Theo các nhà nghiên cứu võ học ở Bình Định, những bậc cao thủ giỏi về nhạc võ có thể sử dụng thêm năm chiếc trống khác nữa. Một cái đặt gần đầu để dùng đầu đánh. Hai chiếc trống đặt hai bên hông để đánh bằng hai cùi chỏ. Hai trống còn lại đặt ở phía sau để đánh bằng hai gót chân. Khi một “cao thủ” đánh nhuần nhuyễn cùng lúc 17 cái trống thì có thể gọi họ là bậc võ công thượng thừa về nhạc võ của Tây Sơn.

Tương truyền, khi ra trận, người sử dụng nhạc võ Tây Sơn đã dùng chiếc dùi trống có chiều dài khoảng 30cm. Những chiếc trống trận được đặt lên xe đẩy. Dùi trống vừa dùng để đánh trống trận vừa làm vũ khí để tấn công quân địch khi cần. Người sử dụng nhạc võ Tây Sơn khi triển khai một chiêu thức là có thể đánh được cùng lúc bốn cái trống. Người đánh trống không bao giờ ngồi mà chỉ đứng, hai tay vừa múa võ vừa đánh trống, có lúc nhanh giống như cả 12 chiếc trống trận cùng được đánh một lúc. Trong hàng ngũ tướng sĩ Tây Sơn thời ấy được sử sách lưu truyền về tài nghệ đánh nhạc võ có một vị nữ tướng dưới trướng Bùi Thị Xuân:

Thị Dần quả thực đa tài
Ngoài tài thuần phục ngựa, voi chiến trường
Nàng còn giỏi cả bộ môn
“Đả thập nhị cổ” tiếng đồn xa hơn...

 

Ngoài Thị Dần còn có một nữ tướng khác tên là Châu Thị Đăng, là phu nhân của Trần Văn Kỷ - một danh sĩ dưới thời Tây Sơn Tam kiệt. Bà nổi tiếng vì có biệt tài dùng sóng kiếm để chém xả vào các mặt trống bằng đồng, tạo nên từng tràng, từng chuỗi âm thanh rờn rợn, liên hoàn, lúc khoan, lúc nhặt làm cho kẻ thù kinh hồn khiếp vía. 


Đánh nhạc võ 12 trống, 16 trống đã là rất khó, đánh nhạc võ 45 trống thì gần như chỉ còn trong huyền thoại. Theo ghi chép của người xưa, dàn trống 45 chiếc bao gồm 5 trống chầu, 24 trống chiến và 16 trống lỡ. Phương pháp đánh theo trận pháp bát quái, ngũ hành sử dụng bộ pháp tứ hành thủ âm, sử dụng cả hai bàn tay sấp ngửa, nắm đấm, cổ tay, cùi chỏ... để đánh, đòi hỏi người đánh phải có sức khỏe, võ thuật cao cường, sự khéo léo nhanh nhẹn, chính xác cả về thủ pháp và bộ pháp. Tóm lại, đánh được 45 trống cùng lúc theo bài bản đòi hỏi sự khổ luyện công phu. Vốn cổ độc đáo nhạc võ Tây Sơn 45 trống nay dường như chỉ còn trong sách sử và huyền thoại của miền đất võ Tây Sơn - Bình Định.

 

Nghệ sĩ Nguyễn Thị Thuận biểu diễn Nhạc võ Tây Sơn

 

Nhạc võ Tây Sơn có 72 bài múa võ đánh trống. Tuy nhiên, cho đến nay hầu như đã thất truyền gần hết, chỉ còn lại 4 bài được lưu truyền đến tận ngày nay ở Tây Sơn - Bình Định. Đó là các bài Xuất quân, Hành quân, Công thành và Khải hoàn được nghệ sĩ Nguyễn Thị Thuận biểu diễn khá thành công.

 

Vùng đất võ Tây Sơn Thượng Đạo

Tây Sơn Thượng đạo là vùng đất buổi đầu ba anh em nhà Tây Sơn chọn làm nơi tụ nghĩa, dấy binh, phất cờ khởi nghĩa. Vì thế nơi đây không chỉ lưu giữ nhiều dấu tích về đội quân “áo vải cờ đào” và còn là vùng đất phát tích của nhiều dòng võ cổ truyền nổi tiếng, đặc biệt là những dòng võ có nguồn gốc từ nhà Tây Sơn.

Vào khoảng giữa thế kỉ 17, lúc thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, Tây Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, gồm cả phần đất phía Tây và phía Đông đèo An Khê (con đèo dài và hiểm trở nằm giáp ranh giữa hai tỉnh Gia Lai và Bình Định). Phần đất phía Đông địa hình thoai thoải, gọi là Tây Sơn Hạ đạo, nay thuộc địa phận huyện Tây Sơn (tỉnh Bình Định). Phần đất phía Tây có địa hình hiểm trở, núi non trập trùng, gọi là Tây Sơn Thượng đạo, nay thuộc thị xã An Khê và các huyện Kông Chro, Đăk Pơ, Kbang (tỉnh Gia Lai).

Ngày ấy, từ vùng Tây Sơn Hạ đạo lên vùng Tây Sơn Thượng đạo chỉ có một con đường độc đạo qua đèo An Khê với đèo cao, vực sâu vô cùng hiểm trở. Vì thế ba anh em nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã lựa chọn vùng đất Tây Sơn Thượng đạo làm căn cứ của buổi đầu dựng nghiệp, chiêu binh luyện võ, gầy dựng quân đội và tổ chức khởi nghĩa để rồi sau này làm nên chiến thắng lẫy lừng Ngọc Hồi - Đống Đa vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) đánh tan hơn 20 vạn quân Thanh xâm lược.

Ngày nay, tại khu Di tích Quốc gia Tây Sơn Thượng đạo ở thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, vẫn còn nhiều dấu tích về nhà Tây Sơn như An Khê Đình, An Khê Trường, An Khê Lũy, Gò Chợ…

Nhắc đến Tây Sơn Thượng đạo là nói đến vùng đất võ nổi tiếng của Gia Lai, bởi đây là nơi phát tích các dòng võ cổ truyền có từ thời Tây Sơn vốn được hình thành trong quá trình nhà Tây Sơn chọn vùng đất này để chiêu binh luyện võ. Sau năm 1975, phong trào võ thuật cổ truyền ở An Khê phát triển khá mạnh nhờ sự hình thành của nhiều lò võ do các võ sư trong vùng và cả những võ sư nổi tiếng từ dưới Bình Định lên lập nghiệp tạo dựng nên. Tiêu biểu như lò võ của võ sư Châu Kim Long, võ sư Đoàn Ngọc Sang, võ sư Thái Hóa Hưng…

Đất An Khê tuy có nhiều môn phái võ cổ truyền khác nhau nhưng cơ bản các môn phái này đều có nguồn gốc hoặc có sự ảnh hưởng lớn từ võ Tây Sơn – Bình Định, dòng võ nổi tiếng của người Việt được hình thành từ thời Tây Sơn. Vì thế, ngoài các đòn thế, công năng đặc dị riêng thì các môn phái này cũng có những bài bản chung có gốc gác từ võ Tây Sơn - Bình Định như các bài: Ngọc trản quyền, Lão mai quyền, Hùng kê quyền, Độc lư thương… Lối đánh cũng dựa trên nguyên lí cơ bản của dòng võ Tây Sơn – Bình Định đó là “túc bất li địa” (tức chân không rời đất) nên đòn thế vô cùng vững chắc, hiểm hóc, nhanh lẹ, công thủ toàn diện, biến hóa khôn lường.

Vào những năm 90 của thế kỉ trước, phong trào võ cổ truyền của An Khê phát triển mạnh mẽ nhất với nhiều thế hệ võ sư tinh hoa, ưu tú, có uy tín và ảnh hưởng nhất định đối với làng võ thuật cả nước. Tiêu biểu có võ sư Đoàn Thọ Sơn (1953-2007), nguyên Phó Chủ tịch Hội Võ thuật cổ truyền tỉnh Gia Lai. Năm 1998, ông đoạt huy chương vàng nội dung thi quyền thuật tại giải vô địch võ cổ truyền toàn quốc. Năm 2001, ông cùng các võ sĩ Thái Văn Nhân, Thái Minh Quang đoạt huy chương bạc toàn quốc, được Ủy ban Thể dục Thể thao cử đi dự Festival thể thao thiện chí các nước thuộc khu vực sông Mekong tại Thái Lan. Cũng trong năm này, ông được Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam cử đi dự Festival văn hóa thể thao thế giới tổ chức tại Cộng hòa Liên bang Đức.

Bài “Độc lư thương” có 3 phần, 166 động tác, thể hiện sự vững chắc liền lạc và kín đáo khi phòng thủ, cũng như thần tốc và bất ngờ khi tấn công, hài hòa hỗ trợ nhau giữa công và thủ. Bài võ này cùng với 9 bài võ khác trong hệ thống 10 bài võ chuẩn theo quy định của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam hiện được đưa vào giáo trình giảng dạy và tập luyện chính thống của võ cổ truyền trong và ngoài nước. Và đây cũng là bài võ được phổ biến rộng rãi trong hệ thống các môn phái thuộc võ cổ truyền Việt Nam, được dùng để biểu diễn trong các kì thi lên đai, thăng cấp, liên hoan võ thuật cổ truyền trong nước và quốc tế.

Với truyền thống võ thuật của mình, vùng đất võ Tây Sơn Thượng đạo xưa và An Khê ngày nay đã đào tạo nên nhiều võ sư, võ sĩ có tên tuổi trong làng võ cả nước với thành tích thi đấu ấn tượng giành nhiều huy chương cấp quốc gia như: võ sư Thái Văn Nhân, võ sư Cao Đăng Khoa, võ sư Lương Văn Hùng, võ sư Hà Nhất Linh, võ sĩ Nguyễn Thị Phúc, võ sĩ Cao Đăng Khoa, võ sĩ Châu Văn Thừa…

Các võ sư, võ sĩ đất An Khê ngày nay không chỉ tiếp nối các bậc tiền bối làm rạng danh vùng đất võ Tây Sơn Thượng đạo mà còn góp phần gìn giữ, truyền bá vốn võ học quý báu của cha ông để lại để từ đó hun đúc nên tinh thần thần thượng võ của lớp trẻ hôm nay./.

 

Nguồn thông tin: https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/long-form/vung-dat-vo-tay-son-thuong-dao-357204.html

 

Tham khảo thêm:

Những đặc điểm nổi bật của môn võ Tây Sơn

Ngày xưa, hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ đã tiếp thu những tinh hoa của các dòng võ khác nhau để xây dựng nên dòng võ Tây Sơn với những đặc điểm riêng phù hợp với bản sắc văn hoá người Việt.

Một vài đặc điểm nổi bật của môn võ Tây Sơn:

- Tính truyền thống: Trước đây người dân Bình Định biết võ để tự vệ. Họ truyền cho nhau trong bàn làng, thôn xóm. Với những người thân thì cha truyền cho con, chồng truyền lại cho vợ, anh truyền lại cho em... Nhờ đó mà những bài võ từ thời xa xưa vẫn luôn được lưu truyền. Võ Bình Định tuy có nhiều môn phái khác nhau, nhưng quy tụ lại vẫn giữ gìn truyền thống lâu đời của miền đất võ..

 

- Tính đa dạng và liên hoàn: Võ Tây Sơn - Bình Định vô cùng đa dạng và phong phú. Bất kể môn phái nào cũng theo một sức mạnh tổng hợp, dung hòa bốn phương. Được như vậy mới có đủ khả năng thắng địch thủ. Tính liên hoàn thể hiện rõ nét trong việc sử dụng tất cả 18 ban binh khí, chia thành 9 loại võ khí dài, 9 loại võ khí ngắn. Dù là bất cứ loại võ khí nào thì cũng đều không ra ngoài 6 điểm: chém xuống, chém ngang, hất lên, gạt xuống, lướt qua và đè. 

* Sự liên quan giữa võ Tây Sơn và võ Bình Định

Trước thời kỳ Tây Sơn, ở Bình Định đã có rất nhiều người giỏi võ. Những người này là tướng sĩ đi theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa để lập nghiệp, một số khác là những người Trung Quốc sang trú ngụ tại vùng đất Quy Nhơn, An Nhơn. Người Bình Định vốn có truyền thống ưa học võ, học từ thầy, học bạn, rồi dung hòa tất cả để cải tiến dần. Theo lời cụ Hồ Ngạnh, ba anh em Tây Sơn đã cùng học võ như mọi người, nhưng nhờ có óc phán đoán, thiên tư võ thuật và nghiên cứu tinh thâm, họ đã gạn lọc được những tinh hoa của võ thuật, hệ thống và tạo thành môn phái võ riêng. Sau đó, võ Tây Sơn được phổ biến trong quân đội. Những người này sau khi nắm được một số chân truyền của môn phái đã truyền dạy lại cho con cháu, học trò của họ. Lại pha trộn với võ Bình Định, hoặc được cải cách ít nhiều nhằm tránh sự nhòm ngó của triều Nguyễn. Cũng theo như cụ Hồ Ngạnh, võ Tây Sơn hay võ Bình Định đều là võ của dân tộc Việt Nam. Môn phái nào cũng có cái hay, cái thù vị. Tuy nhiên có một vài đặc điểm khác nhau là môn võ Tây Sơn có cơ sở rõ ràng về võ lý được biến đổi qua các thế hệ; còn võ Bình Định thì được truyền dạy hơi phần tùy tiện, bị thêm bớt, sửa đổi bởi những người truyền võ.

- Tính dân tộc:  Các đòn thế của võ Tây Sơn rất hiểm hóc. Ra đòn rất nhanh, biến hóa khôn lường, lấy công giữ thủ song toàn, lấy thủ làm công, hư thật bất phân, tư thế nghìn nẻo,  khéo léo trăm bề, làm cho đối phương rất khó chống trả. Ông Nguyễn Lữ, em ruột Nguyễn Huệ, đã làm cho nền võ thuật Việt Nam trở thành một trường phái không kém võ Trung Quốc. Nguyễn Lữ đã nghiên cứu các thế gà đá nhau để áp dụng vào võ thuật, từ đó rút ra được lối võ dùng yếu thắng mạnh, dùng nhu thắng cương. Ông cũng nghiên cứu về các thế đá ào ạt tấn công của những con gà lớn với thế chống đỡ của con gà nhỏ là thường chui luồn, từ đó tạo ra thế lặn hụp, tránh né, đi đến phản công. 

 

Nhạc võ Tây Sơn - một di sản văn hóa độc đáo của Bình Định

 

Trong các môn võ cổ truyền dành cho chiến đấu chống giặc ngoại xâm của Triều Tây Sơn còn có một bộ môn riêng mà không một môn phái võ thuật nào có được, đó chính là “Nhạc võ”. Nhạc võ là phương pháp dùng âm thanh vào việc nâng cao khí thế luyện tập võ nghệ cũng như tăng cường ý chí chiến đấu của quân sĩ khi xung trận.

Trong kho tàng võ cổ truyền Việt Nam, Võ Bình Định được tách thành một hệ phái riêng và rất độc đáo với nhiều tuyệt kỹ vang bóng một thời. Người đời nay vẫn thường gọi môn phái này là võ Tây Sơn hoặc “Võ Bình Định”. Trong các môn võ cổ truyền dành cho chiến đấu chống giặc ngoại xâm của Triều Tây Sơn còn có một bộ môn riêng mà không một môn phái võ thuật nào có được, đó chính là “Nhạc võ”. Nhạc võ là phương pháp dùng âm thanh vào việc nâng cao khí thế luyện tập võ nghệ cũng như tăng cường ý chí chiến đấu của quân sĩ khi xung trận.

Trống trận Tây Sơn là một môn võ đặc biệt, có sự kết hợp giữa tinh thần thượng võ và âm nhạc cổ truyền. Các nhà nghiên cứu Bình Định coi đây là một giá trị tinh thần lịch sử. Hiện nay, ở vùng đất Tây Sơn hạ đạo năm xưa vẫn có người còn giữ được thứ võ công đặc biệt này.

Theo ghi chép của sách sử, bài nhạc võ Tây Sơn 12 chiếc trống, tượng trưng cho thập nhị địa chi, được chia thành 3 hàng từ lớn đến nhỏ. 4 trống lớn, đường kính khoảng 40 phân, sau đó là bốn trống 30 phân rồi 4 trống khoảng 10 phân. Người cử trống dùng hai roi (dùi) trống, dài khoảng 30 phân, đánh bằng cả hai đầu, trên cả mặt trống lẫn tang trống. Một bài trống trận Tây Sơn gồm 3 hồi; xuất trận, xung trận - công thành, ca khúc khải hoàn và điều đặc biệt nhất là không hề có hồi lui quân như trống trận các triều đại khác. Điều này cũng thật dễ hiểu vì trong cuộc đời cầm quân của mình, Quang Trung chưa một lần phải lùi bước trước kẻ thù. Nếu hồi xuất quân, mở bằng ba hồi trống đổ dõng dạc, như biểu dương lực lượng, rồi tiếng trống lúc dồn dập, khi khoan thai như diễn tả cảnh tiến quân nhanh, chậm, rồi tất cả các nhạc khí khác của dàn nhạc võ bặt đi để dành cho tiếng trống khoan thai, như cái yên lắng của quân lính lúc bí mật áp sát mục tiêu, chuẩn bị công thành. Khí thế dồn dập, ấy là lúc hãm thành, nhịp trống nhặt hẳn lên. Kết là khúc khải hoàn vui tươi, sôi nổi. Điều thú vị là trong hồi này, hội đủ cả 12 tiếng của 12 trống.

Còn theo phân tích của võ sư Nguyễn Thị Thuận (người sử dụng bài nhạc võ Tây Sơn hay nhất hiện nay ở Bảo tàng Quang Trung – Tây Sơn) thì khi đánh bài nhạc võ 12 trống, người biểu diễn phải dùng tất cả các bộ phận tay, chân để đánh 12 chiếc trống đúng theo nhịp của bài nhạc võ. Các bộ phận đùng để đánh trống là cổ tay, nắm tay cho đến cùi chõ, chân, gót chân ...

Nhờ kỹ thuật bịt da điêu luyện của các nghệ nhân ở đất võ Tây Sơn - Bình Định nên độ căng của từng chiếc trống sẽ khác nhau. Do vậy, khi biểu diễn nhạc võ, tiếng trống vang lên những âm thanh to nhỏ, trầm bổng khác nhau. Hòa lẫn với âm thanh của các nhạc khí phụ trợ như đàn nhị, kèn, chũm chọe (não bạt hay xụp xỏa), tạo thành những âm điệu đặc thù cho từng bài võ, khi thì hùng dũng, chỉnh tề; khi thì khoan thai, êm đềm, vui tươi. Khi hành quân ra trận thì tiếng trống giục giã; khi công thành thì tiếng trống khẩn trương, gấp gáp. Hoặc khi khải hoàn, chiến thắng trở về thì tiếng trống có những âm sắc như phấn chấn, náo nức, reo hò, vui mừng ...

Đặc biệt môn nhạc võ Tây Sơn – Bình Định ngày xưa dùng trong hành quân thường có thêm chiếc trống đại (trống cái) và chiêng lớn. Khi đánh hòa âm với nhạc của 12 chiếc trống tạo nên một bầu không khí hào hùng, nâng cao tinh thần cho binh sĩ hăng hái xung trận giết giặc.

Theo các nhà nghiên cứu võ học ở Bình Định, những bậc cao thủ giỏi về nhạc võ Tây Sơn trước đây có thể sử dụng thêm 5 chiếc trống khác nữa. Một chiếc trống đặt phía trên đầu để dùng đầu đánh. Hai chiếc trống đặt 2 bên hông để đánh bằng 2 cùi chõ. Hai trống còn lại đặt ở phía sau lưng để đánh bằng 2 gót chân. Khi một “cao thủ” đánh nhuần nhuyễn cùng lúc 17 cái trống trận thì có thể coi họ là bậc võ công thượng thừa về nhạc võ Tây Sơn.

Tương truyền, ngày xưa khi nghĩa quân Tây Sơn xung trận, một cao thủ dưới trướng Nguyễn Huệ đã dùng chiếc dùi trống có chiều dài khoảng 30cm để chơi bài “Nhạc võ” chiến đấu. Những chiếc trống trận thời ấy được đặt lên xe đẩy. Dùi trống vừa dùng để đánh trống trận vừa làm vũ khí để tấn công quân địch khi cần. Người sử dụng nhạc võ Tây Sơn khi triển khai một chiêu thức là phải đánh được cùng lúc 4 cái trống. Người đánh trống không bao giờ ngồi mà chỉ đứng, 2 tay vừa múa võ vừa đánh trống, có lúc nhanh tựa như cả 12 chiếc trống trận cùng được đánh một lúc. Trong hàng ngũ tướng sĩ Tây Sơn thời ấy được sử sách lưu truyền về tài nghệ chơi “nhạc võ” của một vị nữ tướng dưới trướng nữ tướng Bùi Thị Xuân thông qua câu thơ:

“Thị Dần quả thực đa tài;

Ngoài tài thuần phục ngựa, voi chiến trường;

Nàng còn giỏi cả bộ môn;

“Đả thập nhị cổ” tiếng đồn xa hơn”...

Ngoài “Thị Dần” còn có mỗt nữ cao thủ tên là Châu Thị Đăng là phu nhân của Trần Văn Kỷ, một danh sĩ dưới thời Tây Sơn Tam kiệt, nổi tiếng với biệt tài dùng sống kiếm để chém xả vào các mặt trống bằng đồng, tạo nên từng tràng, từng chuỗi âm thanh rờn rợn, liên hoàn, lúc khoan, lúc nhặt làm cho kẻ thù thoáng nghe đã kinh hồn khiếp đảm. Khi nghe bà Châu Thị Đăng biểu diễn ngón nhạc võ độc chiêu này, thời ấy nhiều người tưởng đó là một dàn nhạc với rất nhiều nhạc công tài hoa cùng diễn tấu.

Tương truyền, bí kíp Nhạc võ Tây Sơn – Bình Định có đến 72 bài múa võ đánh trống. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu như đã bị thất truyền gần hết, chỉ còn lại 4 bài trong số 72 bài còn lưu truyền ở huyện Tây Sơn - Bình Định. Đó là các bài “Xuất quân”; “Hành quân”; “Công thành” và “Khải hoàn” được nghệ sĩ Nguyễn Thị Thuận ở trung tâm văn hóa huyện Tây Sơn biểu diễn khá thành công. Vào dịp Festival Tây Sơn – Bình Định 2008, các nghệ sĩ “đất võ” sẽ biểu diễn môn nhạc võ độc đáo./.

 

 

CHÙA THẬP THÁP

Chùa Thập Tháp Di Đà tọa lạc ở thôn Vạn Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo quốc lộ I từ Quy Nhơn ra Quảng Ngãi, qua khỏi phường Đập Đá, đến cầu Vạn Thuận, có con đường bên trái khoảng 200m dẫn vào chùa.

     Tên chùa “Thập Tháp” là nguyên trước đây trên khu đồi này có 10 ngôi tháp Chăm, sau bị sụp đổ. Tên “Di Đà” là danh hiệu đức Phật giáo chủ cõi Cực lạc. Di Đà cũng có nghĩa là lý tánh, bản giác của chúng sinh. Tập hợp các ý nghĩa trên, tổ đình mang tên Thập Tháp Di Đà Tự.

     Chùa tổ đình Thập Tháp Di Đà gắn với tên tuổi vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều. Nhiều tư liệu ngày nay cho biết Ngài họ Tạ, tự là Hoán Bích, người huyện Trình Hương, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ngài sinh năm Mậu Tý (1648), năm 19 tuổi xuất gia ỏ chùa Báo Tự. Năm 1677, Ngài theo thuyền buôn của người Trung Quốc đến phủ Quy Ninh, nay thuộc tỉnh Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 28 km, dựng thảo am thờ Phật A Di Đà. Năm 1683, chùa đã dùng gạch đá của 10 ngôi tháp đổ dựng lên ngôi chùa.

     Chùa đã trải qua 16 đời truyền thừa với nhiều vị thiền sư danh tiếng như: Thiền sư Liễu Triệt, Thiền sư Minh Lý, Thiền sư Phước Huệ … Thiền sư Phước Huệ đã được tôn làm Quốc sư. Ngài đã được mời vào giảng kinh trong hoàng cung nhà Nguyễn từ đời vua Thành Thái đến vua Bảo Đại, và giảng dạy Phật pháp ở Phật học đường Trúc Lâm và Tây Thiên (Huế) từ năm 1935.     Từ ngoài vào, đi dọc theo hồ sen đến cổng chùa, đó là hai trụ biểu vuông cao, trên đặt hai tượng sư tử ngồi uy nghi, nối một vòng cung, phía trên có gắn hai chữ “Thập Tháp”. Sau cổng là tấm bình phong, mặt đắp nổi long mã phù đồ đặt trên bệ chân quỳ.

     Ngôi chánh điện do Thiền sư Liễu Triệt cho trùng kiến vào năm 1749. Ngôi chánh điện ngày nay mái thẳng, lợp ngói âm dương, trên nóc có lưỡng long tranh châu. Phật điện được bài trí tôn nghiêm, chính giữa thờ tượng Tam Thế Phật, Chuẩn Đề, Ca Diếp, A Nan; khám thờ Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Địa Tạng đặt hai gian hai bên điện Phật; hai vách tả hữu đặt tượng Thập Bát La Lán, tượng Thập Điện Minh Vương, Hộ Pháp, Tổ sư Đạt Ma và Tổ sư Tì Ni Đa Lưu Chi. Hầu hết các tượng thờ đều được tạc vào thời Thiền sư Minh Lý trụ trì (1871-1889).

     Chùa đã được chúa Nguyễn Phúc Chu ban tấm biển “Sắc Tứ Thập Tháp Di Đà Tự” treo giữa cửa chính ngôi chánh điện, Hòa thượng Mật Hoằng trùng khắc lại năm 1821. Đại hồng chung (đúc năm 1893) và trống lớn được đặt ở hai đầu hành lang.

     Phía sau chánh điện có tấm bia ghi bài minh Sắc tứ Thập Tháp Di Đà Tự bi minh do cư sĩ Dương Thanh Tu biên soạn, Hòa thượng Minh Lý lập năm 1876.

     Nhà phương trượng nằm sau ngôi chánh điện do Quốc sư Phước Huệ cho xây vào năm 1924. Nhà Tổ ở phía Nam, nối ngôi chánh điện và nhà phương trượng, thờ Tổ khai sơn Nguyên Thiều và chư vị trụ trì, chư Tăng quá cố và chư Phật tử quá vãng. Đối diện nhà Tổ là giảng đường, ở đây có bảng gỗ ghi bài “Thập Tháp Tự Chí” do Thị giảng Học sĩ phủ An Nhơn Võ Khắc Triển soạn năm 1928, ghi lại lịch sử khai sáng, quá trình xây dựng và truyền thừa của ngôi tổ đình Thập Tháp.

     Đặc biệt, Báo Bình Định cho biết, chùa còn lưu giữ 2.000 bản khắc gỗ dùng in kinh Di Đà sớ sao, Kim Cang trực sớ, Pháp Hoa khóa chú … Bộ Đại Tạng Kinh do Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ cúng dường còn 1.200 quyển kinh, luật, luận và ngữ lục. Chùa còn lưu giữ bộ Đại Tạng Kinh Cao Ly và bộ Đại Tạng Kinh Đài Loan.

     Vườn tháp Tổ nằm ở phía Bắc với 20 ngôi tháp cổ kính an trí nhục thân của các vị trụ trì và chư tôn túc trong chùa. Sau chùa, còn có tháp Bạch Hổ và tháp Hội Đồng

     Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Chùa Thập Tháp Di Đà là ngôi tổ đình danh tiếng vào bậc nhất ở miền Trung.

 

KHU DU LỊCH SINH THÁI HẦM HÔ

Khu du lịch sinh thái Hầm Hô Rosa Alba tọa lạc tại xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, cách thành phố Qui Nhơn 50km về phía Tây Bắc, cách Bảo Tàng Quang Trung 5km. Là một điểm tham quan lý tưởng không thể bỏ qua của du khách khi đến với quê hương Bình Định, miền đất địa linh nhân kiệt.

     Giữa ngút ngàn của rừng xanh dưới chân dãy Trường Sơn hùng vĩ. Hầm Hô một Danh Thắng thiên nhiên tuyệt mỹ, một điều kỳ diệu của tạo hóa với khúc sông Trời Lấp, với Hòn Chuông, Hòn Bóng, với Đá Thành, Bàn Cờ Tiên, Dấu Chân Khổng Lồ và một hệ sinh thái rừng đa dạng.
Đến với Khu du lịch Hầm Hô Rosa Alba, du khách như được trở về với thiên nhiên hùng vĩ, được đắm mình trong thế giới Bồng lai tiên cảnh và như được trút bỏ mọi lo toan của cuộc sống hiện đại.

     Trong thời gian qua Khu du lịch sinh thái Hầm Hô Rosa Alba đã không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng phục vụ. Với đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp, có kinh nghiệm, với phong cách phục vụ lịch sự sẽ để lại ấn tượng trong lòng du khách.

             Bên cạnh đó chúng tôi đã đầu tư xây dựng nhiều hạng mục công trình phục vụ du khách như:

     * Nhà nghỉ Hầm Hô Rosa Alba với tiện nghi đầy đủ, giá cả hợp lý.

     * Nhà hàng Hoa Lộc Vừng với sức chứa hơn 300 khách, cùng với hệ thống nhà hàng hiện có sẽ đáp ứng mọi nhu cầu của du khách.

     * Cùng các dịch vụ khác như:

     Đạp xe trên nước, nhà sàn,câu cá thư giản, lều bạt nghỉ trong ngày và qua đêm dưới tán cây rừng dọc theo hai bờ sông, bơi thuyền thể thao, tắm suối trong làn nước mát lạnh của thiên nhiên ban tặng, câu cá thư giãn, chèo thuyền trên sông Kút, đốt lửa trại, nghỉ võng dưới tán cây rừng đại ngàn… sẽ đem lại sự sảng khoái cho du khách.

     Với phong thái phục vụ và giá cả hợp lý chắc chắn quý khách sẽ hài lòng khi đến tham quan Khu du lịch sinh thái Hầm Hô.

CÔNG TY CP DU LỊCH HẦM HÔ ROSA ALBA

Địa chỉ: Thôn Phú Mỹ, Xã Tây Phú, Huyện Tây Sơn, Tỉnh Bình Định

Văn phòng: 0256.3880.860

Nhà Hàng: 0256.2475.273

Hotline: 0862577077

Email: hamhorosaalbatourist@gmail.com

 

Chuyên đề

THÁP CHĂM Ở QUY NHƠN – BÌNH ĐỊNH

 

1/ Tháp Dương Long – Kiệt tác kiến trúc Chăm Pa hùng vĩ

Tháp Dương Long, một di sản văn hóa Chăm Pa nổi bật giữa vùng đất võ Bình Định, là một cụm tháp cổ kính với kiến trúc ấn tượng. Hãy cùng Xanh SM khám phá vẻ đẹp và những câu chuyện lịch sử thú vị xung quanh di tích này!

Đôi nét về Tháp Dương Long

Nằm yên bình trên một ngọn đồi thoai thoải thuộc xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, Tháp Dương Long không chỉ là một công trình kiến trúc cổ kính mà còn ẩn chứa những giá trị lịch sử và văn hóa độc đáo. Đây là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích khám phá vẻ đẹp cổ xưa và tìm hiểu về dấu ấn văn hóa của vùng đất Bình Định.

Quần thể 3 ngôi tháp Dương Long nổi bật (Ảnh: Sưu tầm Internet)Quần thể 3 ngôi tháp Dương Long nổi bật (Ảnh: Sưu tầm internet)

Lịch sử Tháp Dương Long

Tháp Dương Long được xây dựng vào cuối thế kỷ 12, thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của văn hóa Chăm Pa. Người Pháp gọi tháp này là “Tour d’Ivoire” (Tháp Ngà). Cụm tháp này gồm ba tháp: tháp giữa cao 39 mét, hai tháp bên cao 32 mét.

Hình ảnh tư liệu kiến trúc Tháp Dương Long (Ảnh: Sưu tầm internet)Hình ảnh tư liệu kiến trúc Tháp Dương Long (Ảnh: Sưu tầm internet)

Ý nghĩa của Tháp Dương Long

Cụm tháp này được xây dựng để thờ các vị thần trong đạo Bàlamôn, bao gồm 3 vị thần tối cao của Ấn Độ giáo là Vishnu, Brahma, Shiva và các vị vua có công với đất nước. Tháp Dương Long được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1980 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015.

 

Kiến trúc Tháp Dương Long – Nét độc đáo của nghệ thuật Chăm Pa

Tháp Dương Long là một cụm tháp Chăm gồm ba ngọn tháp được sắp xếp theo hướng Bắc – Nam. Tháp Nam cao 33m, tháp giữa cao 39m, và tháp Bắc cao 32m. Về quy mô, không có một ngôi tháp Chăm pa nào có thể so sánh với tháp Dương Long. Tháp Dương Long được coi là chùa gạch cao nhất ở Đông Nam Á.

Hình ảnh toàn cảnh Tháp Dương Long với ba ngọn tháp cao vút (Ảnh: Sưu tầm Internet)Hình ảnh toàn cảnh Tháp Dương Long với ba ngọn tháp cao vút (Ảnh: Sưu tầm internet)

Tháp giữa (thờ thần Vishnu) – “Trụ trời” giữa vùng trời xứ Nẫu

Tháp giữa là ngọn tháp cao và đồ sộ nhất trong quần thể. Tháp có chiều cao 39m, được xây dựng trên nền hình vuông mỗi cạnh 10m.

Phần thân của tháp được tạo hình bởi nhiều tầng, mỗi tầng có vòm cửa chính hình mũi giáo và các cửa giả ở hai bên. Các cửa giả được trang trí bằng những hình nửa tháp nhỏ và nhiều họa tiết trang trí bằng gạch. Tầng trên cùng của tháp có một bệ thờ đá và một Lingam đá – biểu tượng cho thần Shiva trong Hindu giáo.

Thân tháp là các mảng tường gạch kết hợp với các khối đá sa thạnh có trang trí (Ảnh: Sưu tầm internet)Thân tháp là các mảng tường gạch kết hợp với các khối đá sa thạnh có trang trí

Tháp Nam (thờ thần Brahma) – Vẻ đẹp “hoàn mỹ” giữa thời gian

Tháp Nam là tòa tháp nguyên vẹn nhất trong quần thể. Chân đế của tháp có hình bình đồ vuông, rộng 14m, và phần nhô ra của cửa có chiều cao 0,76m. Tường của tháp được xây theo lối bẻ góc giật cấp nhô dần về phía cửa, vách tường trơn phẳng không có khung giữa và các đường gờ. Trên bề mặt của tháp có nhiều họa tiết trang trí bằng gạch như hình người đang ngồi thiền, hoa văn hình cánh sen, quái vật Kala, thủy quái Makara…  

Đỉnh tháp - Hoạ tiết đỉnh tháp được trang trí hình bông sen (Ảnh: Sưu tầm Internet)Đỉnh tháp – Hoạ tiết đỉnh tháp được trang trí hình bông sen (Ảnh: Sưu tầm internet)

Tháp Bắc (thờ thần Shiva) – “Linh hồn” của Tháp Dương Long 

Tháp Bắc cao 32m, là ngôi tháp bị hư hại nhiều nhất trong quần thể. Tuy nhiên, tháp vẫn giữ được những nét kiến trúc Chăm Pa đặc trưng. Phần thân tháp được chia thành nhiều tầng, mỗi tầng có cửa chính và cửa giả. Các cửa giả được trang trí bằng những họa tiết hoa văn bằng gạch.

 

Mái tháp gồm các gờ bậc gạch kết hợp với các diềm mái bằng đá sa thạch (Ảnh: Sưu tầm internet)Mái tháp gồm các gờ bậc gạch kết hợp với các diềm mái bằng đá sa thạch (Ảnh: Sưu tầm internet)

 

Tổng thể, Tháp Dương Long là một công trình kiến trúc Chăm Pa có quy mô lớn và kiến trúc độc đáo, thể hiện sự tinh tế và tài hoa của người Chăm xưa.

Nguồn: https://www.xanhsm.com/news/thap-duong-long

 

2/Tháp Đôi Quy Nhơn: Dấu ấn cổ kính giữa lòng phố biển

Tháp Đôi (tháp Hưng Thạnh) Quy Nhơn là công trình kiến trúc cổ đặc sắc của người Chăm xưa, mang giá trị lớn về mặt lịch sử, văn hóa, mỹ thuật. Ngày nay, tháp Đôi là địa điểm du lịch nổi tiếng, thu hút đông đảo du khách khắp nơi tìm đến tham quan, chiêm ngưỡng kiến trúc, tìm hiểu văn hóa, lịch sử và check in.

Giới thiệu về tháp Đôi (tháp Hưng Thạnh)

Tháp Đôi có tên gọi khác là tháp Hưng Thạnh, tọa lạc tại đường Trần Hưng Đạo, phường Đống Đa, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo tài liệu còn lưu giữ tại Ban quản lý Di tích Tháp Đôi thì ngọn tháp này có niên đại từ cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII. So với những tháp Chăm khác còn tồn tại trên đất Bình Định, tháp Đôi có vị trí gần biển nhất, cách bờ biển chỉ tầm 4km về phía Đông Nam. 

Công trình tháp Hưng Thạnh Quy Nhơn gồm hai tháp. Ngọn tháp có kiến trúc độc đáo, là công trình tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc Chămpa trên đất Bình Định. Năm 1980, tháp Đôi Hưng Thạnh được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật. 

Tháp Đôi Hưng Thạnh Quy Nhơn có gì đặc biệt?

 Nghệ thuật kiến trúc độc đáo

Tháp Đôi được xây dựng theo cấu trúc độc đáo. Cả hai tháp thuộc tháp Đôi đều có phần cửa chính quay về hướng Nam, được xây bằng gạch nung. Các khối gạch xếp khít vào nhau và được kết dính với nhau bằng một chất kết dính đặc biệt. Đây được xem là một kỹ thuật xây dựng độc đáo của người Chăm mà đến nay vẫn chưa giải mã được. 

Tháp Hưng Thạnh có cấu trúc gồm ba phần chính bao gồm chân tháp, thân tháp và đỉnh tháp. Các hình trang trí ở những góc tháp được chạm khắc tinh xảo, sinh động như hình tạp chủng đầu voi mình sư tử, tượng chim thần Garuda, hình người ngồi 6 hoặc 8 tay bằng đá. Bên trong tháp lớn thờ linh vật Linga và Yoni được biểu thị thông qua hình tượng chiếc cối và chày giã gạo.

·         Tháp lớn: Cao khoảng 25m, được tạo dáng khá cân đối. Phần thân và phần mái được trang trí với những đường diềm hơi thắt lại tinh tế, khéo léo. Hai bên là hoa văn để đối xứng kết hợp với hình vũ nữ vòng quanh diềm mái vô cùng sống động, đẹp mắt. Ở giữa phần ngăn cách mái và thân tháp là hình tu sĩ ngồi thiền, hai bên có voi châu đối xứng. Các hình trang trí được chạm khắc khéo léo, tinh tế, thể hiện đậm bản sắc văn hóa, tín ngưỡng của người Chămpa.

·         Tháp nhỏ: Tháp nhỏ cao 23m có cấu trúc tương tự tháp lớn. Điểm khác so với tháp lớn là phần diềm mái không trang trí bằng hình vũ nữ mà thay vào đó là hình một đàn hươu 13 con với nhiều dáng vẻ khác nhau trông vô cùng tinh nghịch.


Kiến trúc tháp Đôi Quy NhơnTháp Đôi Quy Nhơn là công trình kiến trúc cổ đẹp, độc đáo (Ảnh: Sưu tầm)

 

Nơi phát hiện nhiều cổ vật quý giá

Các hiện vật còn lại trong tháp Đôi Hưng Thạnh không nhiều, đa số không còn nguyên vẹn nhưng đều là những cổ vật quý giá. Đây là những sản phẩm điêu khắc độc đáo, tinh tế, thể hiện sống động đời sống văn hóa, tinh thần độc đáo của người Chăm xưa. 

Voi và thần điểu là các sản phẩm điêu khắc còn lại ở tháp Đôi. Các hiện vật phát hiện có mang phù điêu vũ nữ đang múa, phù điêu rồng, trụ có văn bia 3 mặt hay đầu bò Nandin. Các hiện vật đã được thông báo trên tạp chí chuyên ngành và hiện nay được đưa về trưng bày ở Bảo tàng Bình Định. 

 

Hiện vật bên trong tháp Hưng Thạnh Quy NhơnDấu ấn của văn hóa Chăm cổ bên trong tháp Hưng Thạnh (Ảnh: Sưu tầm)

 

Nơi lan tỏa giá trị văn hóa tinh thần to lớn

Tháp Đôi Hưng Thạnh là địa điểm du lịch Quy Nhơn nổi tiếng, thu hút đông đảo du khách đến tham quan, tìm hiểu về lối kiến trúc độc đáo của người Chăm Pa. Qua đó, hiểu hơn về đời sống tinh thần, văn hóa và lịch sử vùng đất Chăm xưa. 

Đến với tháp Hưng Thạnh, du khách còn được xem những điệu múa của các cô gái Chăm trong trang phục truyền thống được phục dựng lại để phục vụ du khách. Điều này giúp lan tỏa những giá trị văn hóa tinh thần to lớn, mang dấu ấn của nền văn hóa Chăm Pa xưa rực rỡ. 

Múa Chăm truyền thốngĐiệu múa Chăm truyền thống bên tháp Đôi (Ảnh: Sưu tầm)

 

Ghé thăm tháp Đôi Quy Nhơn Bình Định để chiêm ngưỡng công trình nghệ thuật kiến trúc độc đáo, chắc hẳn sẽ làm nhiều người trầm trồ trước bàn tay tài hoa, khéo léo của người Chăm xưa. Sự khắc nghiệt của thời gian khiến tháp Hưng Thạnh không còn nguyên vẹn như thuở ban đầu nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính, ấn tượng. Nơi đây sẽ đem lại cho du khách nhiều cảm xúc về dấu tích của một vương triều đã mất và nhiều suy ngẫm về dâu bể cuộc đời. 

Nguồn: https://vinpearl.com/vi/thap-doi-quy-nhon

 

3/ Tháp Cánh Tiên – tháp cổ nhất Bình Định

Đến thăm miền đất võ Bình Định, ngoài những địa điểm du lịch nổi tiếng, những bãi biển đẹp nao lòng, còn có những di sản văn hóa độc đáo không chỉ lôi cuốn các nhà nghiên cứu, mà còn hấp dẫn mọi du khách. Một trong những di sản văn hóa đó là hệ thống tháp Chăm nằm rải rác trên địa bàn tỉnh Bình Định. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, những tháp Chăm vẫn sừng sững giữa trời; là chứng tích còn sót lại của vương quốc Champa xưa trên mảnh đất Bình Định ngày nay. Trong đó, độc đáo và đẹp nhất là tháp Cánh Tiên.


thap-canh-tienTháp Cánh Tiên với lối kiến trúc mang đậm tính nghệ thuật Champa. Ảnh: Nguyên Thanh

Bình Định là một trong những vùng đất của vương quốc Champa xưa. Do đó, nơi đây còn lại nhiều di tích của người Champa, trong đó, phải kể đến nhiều tháp cổ. Hiện nay, Bình Định còn 7 cụm với 13 tháp Chăm, gồm các cụm tháp Bánh Ít, Dương Long, Tháp Đôi, Cánh Tiên, Phú Lốc, Thủ Thiện và Bình Lâm. Các sử liệu còn ghi lại cho thấy, thành Đồ Bàn (thành Vijaya) - kinh đô của vương quốc Champa trong 5 thế kỷ, từ năm 999 đến năm 1471, hiện nằm trên địa phận xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Công trình đáng chú ý nhất trong khu vực thành Đồ Bàn còn lại nguyên vẹn đến ngày nay là tháp Cánh Tiên.

Tháp Cánh Tiên còn có tên gọi khác là tháp Đồng, tháp Con Gái, nằm cách thành phố Quy Nhơn 27km theo hướng Tây Bắc, là một trong những tháp còn lại nguyên vẹn tại Bình Định. Không giống như những khu đền tháp khác, tháp Cánh Tiên chỉ có duy nhất một tháp, được xây dựng trên một quả đồi thấp thuộc địa bàn thôn Nam An, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Xưa kia, nơi đặt tháp Cánh Tiên là vị trí trung tâm của thành Đồ Bàn. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi lại rằng: “An Nam cổ tháp ở thôn Nam An, huyện Tường Vân, trong thành Đồ Bàn, tục gọi là tháp Cánh Tiên. Từ vai tháp trở lên, 4 phía đều giống như cánh tiên bay lên nên gọi tên ấy”. Còn theo người dân trong vùng, nhìn từ xa, những phiến đá trang trí các tường phía trên ngọn tháp vươn ra như những cánh tiên nên gọi là tháp Cánh Tiên.

Tháp Cánh Tiên là đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Chăm-pa. Đó cũng là một trong những tháp Chăm điển hình cho phong cách kiến trúc Bình Định. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, cùng với tháp Phú Lốc, quần thể tháp Bánh Ít, tháp Cánh Tiên ở Bình Định được xây dựng trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XII. Đây là thời kỳ Champa xây dựng nhiều công trình kiến trúc lớn với lối kiến trúc mới mẻ. Kiến trúc tháp Cánh Tiên mang đậm tính nghệ thuật, thể hiện tài năng và trí sáng tạo của nghệ nhân Champa xưa. Tháp được xây bề thế, có bề mặt vuông, nổi trên mặt đất, cao khoảng 20m. Nếu ở các tháp khác chỉ trang trí giản lược, thì tháp Cánh Tiên lại khác biệt ở sự cầu kỳ, tinh tế trong trang trí. 

4 mặt quanh tháp đều có các trụ cột ốp tường, nhô ra hài hòa với tổng thể kiến trúc. Khác với các tháp Chăm khác, phần phía ngoài của góc tường dưới gốc thân tháp đều được ốp bằng đá chạm khắc tinh tế hoa dây xoắn, toát lên vẻ đẹp vừa vững chắc, bề thế nhưng cũng không kém phần trang nhã thanh thoát.

Tháp được thiết kế 4 cửa vòm nhọn hình mũi giáo cao vút lên theo 4 hướng, xếp chồng 4 lớp, trang trí hoa văn thảo mộc cầu kỳ, tinh xảo. Tuy nhiên, chỉ có một cửa chính mở về hướng Đông thông vào trong lòng tháp, 3 cửa còn lại đều là cửa giả. Tháp Cánh Tiên có 4 tầng, tầng nào cũng có 4 tháp góc trang trí, mỗi góc lại có một tầng tháp giả nhỏ, tạo dáng lá thuôn dần lên phía trên tạo cảm giác như những chú chim đang bay. Có lẽ, bởi dáng vẻ này mà tháp được người đời tưởng tượng, gắn với hình tượng thần tiên mà đặt tên cho tháp là Cánh Tiên.

Các diềm mái của tháp cũng được làm bằng đá, khắc những hoa văn độc đáo nhô ra làm bộ đỡ các tháp góc ở phía trên. Những tảng đá chạm khắc hình đuôi phụng gắn trên các tầng tháp giả và hình Makara, một thủy quái trong thần thoại Ấn Độ với vòi dài, nanh nhọn trang trí ở các góc đầu tường đã tạo cho tháp Cánh Tiên một vẻ đẹp huyền bí.

Dãi dầu qua năm tháng, tháp Cánh Tiên vẫn sừng sững giữa trời xanh, là ngôi tháp có giá trị về nhiều mặt và có thể được coi là tháp đẹp nhất và cổ nhất ở Bình Định. Năm 1982, tháp Cánh Tiên đã được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật Chăm. 

Có cơ hội ghé thăm thị xã An Nhơn của miền đất võ, dừng chân tham quan thành cổ Đồ Bàn, chùa Thập Tháp (ngôi cổ tự lâu đời nhất ở Bình Định), bến My Lăng từng đi vào thơ Yến Lan, du khách đừng quên ghé thăm di tích tháp Cánh Tiên để chiêm ngưỡng kiến trúc tháp và lưu lại những khoảnh khắc đáng nhớ bằng những bộ ảnh đẹp. Điều đó chắc chắn sẽ mang lại cảm xúc thích thú trong hành trình khám phá của du khách trên mảnh đất Bình Định. 

Nguồn:https://www.bienphong.com.vn/canh-tien-thap-cham-co-nhat-binh-dinh-post336986.html

 

4/ Tháp Bánh Ít - di tích kiến trúc Chăm đặc sắc hút du khách

Tháp Bánh Ít là địa điểm du lịch hấp dẫn cho những ai yêu thích khám phá văn hóa và lịch sử của người Chăm. Đây là cụm tháp cổ Chăm Pa, nằm trên ngọn đồi ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Trong số các điểm du lịch Bình Định nổi tiếng, tháp Bánh Ít là địa danh mà bất cứ du khách nào cũng nên ghé thăm ít nhất một lần. Đây là di tích kiến trúc Chăm độc đáo, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Tháp Bạc, Tháp Thiện Mẫu, Tháp Thị Thiện, Thổ Sơn Cổ Tháp…

Tháp Bánh Ít là một trong những di tích kiến trúc Chăm Pa cổ kính và độc đáo, nằm cách thành phố Quy Nhơn khoảng 20km về phía Tây Bắc. Địa danh này được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII bởi người Chăm, với tên gọi ban đầu là tháp Bạc hay Yang Mtian.

Tên gọi tháp Bánh Ít xuất phát từ hình dáng của tháp, giống như những chiếc bánh ít - món ăn truyền thống của người dân Bình Định. Tháp còn có tên khác là tháp Cầu Bà Di, do nằm gần cầu Bà Di là một cây cầu cổ có từ thời Pháp thuộc.

Tháp Bánh Ít là một cụm tháp gồm 4 ngôi tháp khác nhau, với tháp chính cao nhất là 22m. Đây là nơi thờ cúng các vị thần Hindu, như Shiva, Vishnu, Ganesha và tổ chức các nghi lễ tôn giáo của người Chăm.

Tháp được công nhận là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia vào năm 1982, được đưa vào danh sách 1.001 công trình kiến trúc phải đến trong cuộc đời của nhóm tác giả người Anh. Từ thành phố Quy Nhơn, bạn có thể đi xe máy, xe ô tô hoặc xe buýt để đến tháp.

 

Tháp Bánh Ít thu hút du khách tham quanHình ảnh tháp Bánh Ít ở Bình Định thu hút du khách tham quan (Ảnh: Sưu tầm)

Phong cách thiết kế độc đáo của tháp Chăm Bánh Ít 

Tháp Bánh Ít là một kiệt tác của nghệ thuật kiến trúc Chăm, được xây dựng từ gạch đất nung và đá. Tháp có sự kết hợp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và Bình Định tạo nên nét độc đáo và đặc trưng. 

Công trình kiến trúc này được trang trí bằng nhiều hoa văn và tượng điêu khắc, thể hiện các hình ảnh và ý nghĩa của Ấn Độ giáo. Tháp Bánh Ít Quy Nhơn chắc chắn là biểu tượng của sự bền bỉ và sáng tạo của người Chăm mặc cho những hư hại bởi thời gian cùng nhiều thăng trầm lịch sử.

Giới thiệu về tháp Bánh Ít Bình ĐịnhGiới thiệu về tháp Bánh Ít Bình Định - công trình kiến trúc với phong cách thiết kế độc đáo và đặc sắc  (Ảnh: Sưu tầm)

Khám phá kiến trúc đậm dấu ấn Chăm 

Quần thể tháp Bánh Ít gồm bốn tòa tháp khác nhau, phục vụ cho các mục đích tôn giáo và văn hóa của người Chăm. Quần thể này có tên gọi lần lượt là tháp chính (Kalan), tháp cổng (Gopura), tháp hỏa (Kosagrha) và tháp bia (Posah). Theo những di tích còn sót lại, các nhà nghiên cứu ước tính rằng có nhiều công trình kiến trúc khác nữa ở đây, hình thành một trung tâm tôn giáo đa dạng với nhiều kiểu dáng kiến trúc khác nhau.

Tháp Cổng (Gopura)

Tháp cổng (Gopura) là tháp nhỏ nhất, có hình vuông, mái tháp hình bông hoa thể hiện sự đón tiếp và hướng dẫn các tín đồ vào nơi thờ cúng. Tháp Cổng đứng ở phía Đông, dưới chân đồi, nhỏ hơn tháp Chính về kích thước và độ tinh xảo, nhưng trông rất mạnh mẽ và vững vàng.

Tháp làm bằng gạch, cao 13m, nằm trên nền vuông mỗi cạnh 7m. Vòm cổng như một mũi lao chọc thẳng vào trời. Tháp có hai cửa đối diện nhau theo hướng Đông – Tây, thẳng hàng với cửa tháp Chính trên đỉnh đồi. Trên các mặt tường của tháp có trang trí các họa tiết hoa văn và các cửa giả hình mũi lao nhọn.

 

Tháp Cổng của tháp Bánh ÍtTháp Cổng của tháp Bánh Ít ở Bình Định (Ảnh: Sưu tầm)

Tháp Bia (Posah)

Tháp Bia (Posah) cao hơn 10m, hình vuông, cách tháp Cổng 22m về phía Nam. Tháp có bốn cửa đối xứng ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc.

Mái tháp độc đáo, khác biệt với các tháp Chàm khác, đó là sự thu hẹp dần theo chiều cao. Mỗi tầng mái có một hàng bầu lọ cong ở hai đầu, như những quả bầu rượu nằm sát nhau, nên tháp còn được gọi là Tháp Bầu Rượu. Tháp Bia là nơi lưu giữ bia ký ghi lại công lao của các vị vua và thần linh được tôn sùng ở đây. Tuy nhiên, các tâm bia tại tòa tháp này hiện nay đã mất.

Tháp Bia trong quần thể tháp Bánh ÍtTháp Bia trong quần thể tháp Bánh Ít ở Quy Nhơn (Ảnh: Sưu tầm)

Tháp Chính (Kalan)

Tháp Chính (Kalan) là tòa tháp lớn nhất trên đỉnh đồi và có chiều cao đến 29,6m. Tháp có bình đồ vuông, mỗi cạnh 12m với một cửa chính hướng Đông và ba cửa giả.

Cửa chính của tháp nổi bật với vòm hình mũi giáo, trang trí phù điêu Kala ở giữa. Diềm mái vòm khắc hình khỉ thần HaNuMan đang nhảy múa. Các cửa giả nhỏ hơn có phù điêu Gajasimha trên diềm mái. Tháp Hỏa nằm cạnh tháp Chính, phía tây tháp Bia, cao 10m, dài 12m, rộng 5m và tường dày 1,4m. Tháp có vai trò như nhà kho chứa các đồ tế của người Champa xưa.

Tháp Chính thuộc di tích tháp Bánh ÍtTháp Chính thuộc di tích tháp Bánh Ít (Ảnh: Sưu tầm)

Tháp Hỏa (Kosagrha)

Tháp Hỏa (Kosagrha) được xây dựng theo hình chữ nhật, khác với các tháp vuông khác. Tòa tháp cao 10m, dài 12m và rộng 5m. Đây là nơi lưu trữ và sắp xếp các đồ tế lễ trước khi đưa vào Tháp Chính, để cúng bái các vị vua và thần linh của người Champa cổ.

 

Tháp HỏaTháp Hỏa - Tòa tháp hình chữ nhật duy nhất trong quần thể tháp Bạc (Ảnh: Sưu tầm)

Ngắm nhìn bức tượng Shiva đặt bên trong tháp Bánh Ít

Tháp Chính là nơi thờ tượng thần Shiva cao 1,54m, rộng 1,06m, dày 0,56m. Bức tượng đã được phục chế lại vào năm 2013 theo bản gốc đang trưng bày ở bảo tàng Guimet (Pháp). Tượng là tác phẩm điêu khắc Chăm Pa cổ nhất ở Bình Định mang phong cách Chánh lộ của thế kỷ XI.

 

Tượng ShivaTượng Shiva đặt bên trong tháp Bánh Ít (Ảnh: Sưu tầm)

 

Chiêm ngưỡng các bức phù điêu đẹp mắt 

Quần thể tháp Bánh Ít khoe sắc với nhiều tượng, phù điêu uốn lượn, phản ánh văn hóa Chăm của thời kỳ này. Các linh vật thực và thần thoại như voi, hổ, Garuđa cũng được khắc nhiều trên quần thể tháp Bánh Ít.

 

Phù điêu hình khỉ thần HanumanPhù điêu hình khỉ thần Hanuman đang múa được tạc trên diềm mái vòm (Ảnh: Sưu tầm)

 

5/ Tháp Phú Lốc

Tháp Phú LốcTháp Phú Lốc

Đi dọc trên đường Quốc lộ số 1, cách thành phố Quy Nhơn 35km về phía Bắc, ngang qua địa phận thôn Châu Thành phường Nhơn Thành có thể nhìn thấy rõ. Từ trước tới nay nhân dân vẫn thường gọi tháp là Thốc Lốc, Phốc Lốc, Phú Lốc, Phú Lộc mà không hiểu nghĩa của những tên tháp này. Trong các thư tịch cổ, tên tháp còn được chép là Phước Lộc. Người Pháp, trong các công trình nghiên cứu của họ gọi là Tour d’Or (Tháp Vàng). Phân tích phong cách kiến trúc, các nhà chuyên môn đoán định rằng tháp có niên đại tương đương với tháp Cánh Tiên, có nghĩa là cũng được xây dựng vào đầu thế kỷ XII. Quy mô tháp không lớn. Bình đồ tháp hình vuông mỗi chiều đo được 9,7m. Toàn tháp cao khoảng 15m, nhưng vì được xây dựng trên đồi cao nên trông có vẻ ngạo nghễ.

So với tháp Cánh Tiên, trang trí trên tháp Phú Lốc có phần đơn giản hơn. Các cột đá ốp xung quanh thân tháp thẳng trơn. Giống như mọi tháp Champa, Phú Lốc cũng có ba cửa giả và một cửa chính hướng về phía Đông. Vòm cửa hình lưỡi mác vút lên cao tới 6m. phần trang trí chủ yếu được thể hiện trên các cửa giả. Bao quanh phần trên mỗi vòm của là các phù điêu trang trí. Cửa giả có tới ba tầng, nhỏ dần về phía trên, tạo thành một hình khối giống như 3 lưỡi mác nhọn xếp nối nhau vút lên sát diềm mái.

Mái tháp có ba tầng, ngăn cách với phần thân bởi một diềm đá để trơn không trang trí. Tầng mái không còn được nguyên vẹn, được tạo dáng thu nhỏ dần trên phía trên với các tường được chạm khắc. Hình dáng lớp mái nhà là hình ảnh thu nhỏ của tháp chính nhưng các hàng cột ốp dọc có hoa văn xoắn kết dài. Các cửa trên mái tháp trông giống như những khám thờ, bao quanh phia trên vòm cửa nhọn được trang trí hoa văn lá lật xoắn đối xứng.

Tháp đứng trên đồi cao trông có vẻ trơ trọi, đìu hiu, nhưng lên tới chân tháp, phóng tầm mắt ra bốn hướng thì thấy cảnh trí xung quanh thật kỳ vĩ. Tại đây có thể nhìn thấy cả vùng đồng bằng rộng lớn của thị xã An Nhơn và huyện Phù Cát.

Cũng trên địa phận của phường Nhơn Thành, cách tháp Phú Lốc không xa, trên một quả đồi phía bắc thôn Châu Thành hiện còn phế tích một tòa tháp khác. Dấu tích còn lại là nền móng của ba khối tháp đã bị sập đổ. Gạch, đá đổ xuống chất thành gò. Trong đống phế tích hoang tàn còn tìm thấy những mảnh đá chạm khắc, trang trí các điểm góc và đặc biệt là một phù điêu bằng đá tạo dáng khá đẹp, có lẻ là chỏm nóc.


Khi nói về tháp Phú Lốc, sách đại Nam nhất thống chí có chép: “Phú Lốc có tháp cổ ở hai thôn Châu Thành và Phú Thành, huyện Phù Cát”. Theo đó, tháp ở Nhơn Thành chính là tháp Thốc Lốc hiện nay, còn tháp Nhơn Thành là phế tích quần thể kiến trúc tháp ở thôn Châu Thành.
Tháp được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật năm 1995.

 

6/ Tháp Bình Lâm

Tháp Bình Lâm là một trong những ngôi tháp Chăm cổ nổi bật nhất tại Bình Định, mang trong mình nét đẹp của nghệ thuật và kiến trúc Chăm Pa từ thế kỷ X. Mỗi chi tiết chạm khắc trên tháp đều kể về một phần của văn hóa Chăm rực rỡ, là điểm đến không thể bỏ lỡ cho những ai yêu thích khám phá lịch sử và kiến trúc cổ.

Tháp Bình Lâm - một trong những di tích Champa cổ kính tại Bình Định, là điểm đến đầy sức hút cho những ai yêu thích lịch sử và kiến trúc cổ. Nằm cách tháp Bánh Ít khoảng 7km, tháp Bình Lâm tọa lạc giữa một khu dân cư yên bình nên rất dễ dàng tiếp cận.

 

Khám phá tháp Bình Lâm, di sản văn hóa Champa độc đáo 2

Tháp Bình Lâm là một trong những di tíc Champa cổ kính nhất.

Điểm đặc biệt của tháp Bình Lâm chính là dáng vẻ cân đối, được đánh giá là một trong những ngôi tháp đẹp nhất còn sót lại của người Chăm tại Bình Định. Với vị trí nằm trên nền đất bằng phẳng, tháp Bình Lâm không chỉ thu hút bởi vẻ đẹp kiến trúc mà còn bởi sự gần gũi với thiên nhiên, bao quanh là những cánh đồng xanh mướt.

Tên "Bình Lâm" gắn liền với quá trình khai phá và chinh phục vùng đất mà ngôi tháp tọa lạc. "Bình Lâm" nghĩa là khai phá rừng, biểu trưng cho hành trình khám phá và chinh phục khu vực rừng rậm xung quanh vùng này. Mặc dù trong ghi chép trong Đại Nam nhất thống chí, tháp Bình Lâm trước đây được gọi là “tháp Tranh Trúc”. Tuy nhiên, người dẫn vẫn quen gọi ngôi tháp tráng lệ này là Bình Lâm.

Khám phá tháp Bình Lâm, di sản văn hóa Champa độc đáo 3

Nơi đây sừng sững giữa khu dẫn cư yên bình.

Lịch sử hình thành Tháp Bình Lâm

Tháp Bình Lâm là minh chứng sống động cho lịch sử văn hóa rực rỡ của vương quốc Champa. Được xây dựng vào cuối thế kỷ X và đầu thế kỷ XI, tháp Bình Lâm mang đậm dấu ấn của sự chuyển giao giữa hai phong cách kiến trúc nổi bật: từ phong cách Mỹ Sơn A1 sang phong cách Bình Định. Điều này khiến tháp trở thành một công trình kiến trúc có giá trị đặc biệt trong lịch sử kiến trúc Champa.

Tháp Bình Lâm từng nằm trong khu vực thành Bình Lâm, vốn là kinh đô tạm thời của vương triều Champa. Đây là nơi các vị vua Champa đã chọn làm trung tâm tạm thời khi di chuyển từ Quảng Nam vào Bình Định, trước khi xây dựng kinh đô chính thức tại thành Đồ Bàn. Sau khi Đồ Bàn hoàn thành, tháp Bình Lâm đã dần mất đi vị thế trung tâm chính trị và hành chính, trở thành một di tích lưu giữ những giá trị văn hóa và tín ngưỡng độc đáo.

Không chỉ là một công trình kiến trúc, tháp Bình Lâm còn là chứng nhân của những biến cố lịch sử quan trọng. Tháp từng chứng kiến những trận chiến ác liệt giữa quân Champa và quân xâm lược Mông - Nguyên vào thế kỷ XIII cũng như những năm tháng khói lửa của cuộc chiến tranh Việt Nam sau này.

Với vẻ đẹp cổ kính và ý nghĩa lịch sử sâu sắc, tháp Bình Lâm vẫn sừng sững như một biểu tượng văn hóa và tín ngưỡng, khơi dậy những ký ức về quá khứ huy hoàng của vương triều Chăm Pa.

Khám phá tháp Bình Lâm, di sản văn hóa Champa độc đáo 4

Đây chính là biểu tượng văn hóa và tín ngưỡng quý giá của Champa. Ảnh: Quy Nhơn Hotel

Kiến trúc độc đáo của Tháp Bình Lâm

Tháp Bình Lâm là một trong những công trình kiến trúc Champa độc đáo, nổi bật với vẻ cân đối và hài hòa. Với chiều cao khoảng 20 mét, tháp mang hình dáng vuông vắn ở phần đáy khi mỗi cạnh dài khoảng 10 mét.

 

Khám phá tháp Bình Lâm, di sản văn hóa Champa độc đáo 5

Kiến trúc phần mái đầy nổi bật của tháp Bình Lâm.

 

Như bao tháp Chăm khác, tháp Bình Lâm vẫn giữ lối thiết kế chia tầng tinh tế, thu nhỏ dần khi lên đến đỉnh. Phần thân tháp được xây dựng bằng gạch ốp, không có hoa văn phức tạp, tạo nên nét riêng biệt so với nhiều tháp Champa khác. Cửa chính của tháp mở về phía Đông, trong khi ba cửa giả quay về các hướng Tây, Nam và Bắc.

Khám phá tháp Bình Lâm, di sản văn hóa Champa độc đáo 6

Từng chi tiết được thiết kế chi tiết, tỉ mỉ và đầy công phu. Ảnh: Báo Du lịch

 

Phần mái tháp Bình Lâm được thiết kế với bốn tầng nhỏ dần về phía trên, mỗi tầng như một phiên bản thu nhỏ của tháp chính. Các tầng mái được trang trí bởi những hoa văn cánh sen cách điệu, uốn lượn liên hoàn tạo nên vẻ đẹp tinh tế và trang nhã.

Dù một số chi tiết nhỏ ở bốn góc mái đã không còn nhưng những dấu tích về nghệ thuật điêu khắc trên mặt tường, như bức phù điêu chim thần Garuda ở phía Tây vẫn còn hiện diện rõ ràng đến ngày nay.

Khám phá tháp Bình Lâm, di sản văn hóa Champa độc đáo 7

Ngày nay, một số chi tiết đã được phục chế.

Kiến trúc của tháp Bình Lâm còn đặc biệt ở hệ thống các cột ốp bao quanh tháp, không chỉ đóng vai trò nâng đỡ mà còn là yếu tố trang trí quan trọng. Khác biệt với nhiều tháp Champa khác, các cột ốp của tháp không được phủ kín hoa văn mà giữ vẻ đơn giản, tạo ra sự cân đối trong tổng thể kiến trúc. Mỗi chi tiết của tháp Bình Lâm, từ cửa chính, cửa giả, đến các tầng mái, đều thể hiện sự tài hoa của những người thợ điêu khắc Champa, mang lại cho tháp một vẻ đẹp đầy cổ kính và huyền bí.

Nghệ thuật và điêu khắc Chăm tại Tháp Bình Lâm

Nghệ thuật và điêu khắc Champa tại tháp Bình Lâm là minh chứng tuyệt vời cho sự tài hoa của những nghệ nhân xưa, thể hiện qua từng chi tiết trang trí và cấu trúc kiến trúc. Các họa tiết, môtíp hoa văn trên tháp được khắc trực tiếp lên gạch với những hình ảnh tinh xảo như các tháp trang trí góc, những tòa lâu đài trên cửa giả hay hoa văn chuỗi hạt uốn lượn mềm mại.

Những yếu tố này đều phản ánh rõ nét sự ảnh hưởng từ phong cách kiến trúc Champa thế kỷ X nhưng đồng thời cũng mang đến những sự đổi mới trong thiết kế, đánh dấu bước chuyển mình sang phong các Champa Bình Định sau này.

Khám phá tháp Bình Lâm, di sản văn hóa Champa độc đáo 8

Công trình này là minh chứng tuyệt vời cho sự tài hoa của các nghệ nhân Champa xưa.

Tháp Bình Lâm nổi bật với sự tinh tế trong cách sắp đặt và phối hợp giữa các hoa văn trang trí. Đặc biệt, các vòm cửa giả được khắc họa với hình mũi giáo vươn cao giúp mang lại cảm giác uy nghi, mạnh mẽ.

Phần thân tháp thay vì phủ kín các hoa văn phức tạp như những tháp Champa trước đó lại trở nên đơn giản hơn với các rãnh dọc nhỏ dần, tạo nên sự cân đối và hài hòa.

Khám phá tháp Bình Lâm, di sản văn hóa Champa độc đáo 9

Phần thân của tháp được giản lược để tạo sự hài hòa. Ảnh: Bui Cong Truong

 

Một trong những đặc trưng đáng chú ý của tháp là hệ thống hoa văn chuỗi hạt uốn lượn liên hoàn được sắp xếp một cách liên tục từ chân đến đỉnh tháp, tạo nên sự liền mạch trong thiết kế. Dù đã trải qua nhiều biến đổi của thời gian, nghệ thuật điêu khắc tại tháp Bình Lâm vẫn giữ được vẻ đẹp hoành tráng, khỏe khoắn, phản ánh một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng trong kiến trúc Chăm Pa.

Năm 1993, tháp Bình Lâm đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa – kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, khẳng định giá trị nghệ thuật độc đáo và ý nghĩa lịch sử của công trình.

Tháp Bình Lâm không chỉ là chứng nhân lịch sử mà còn là tác phẩm nghệ thuật vượt thời gian, để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng du khách mỗi khi ghé thăm. Sự tinh tế trong kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc đã khiến tháp trở thành một trong những di sản văn hóa độc đáo của Bình Định.

 

7/ Tháp Thủ Thiện

Tháp Thủ Thiện không phải là một ngọn tháp nổi tiếng, nếu so với tháp Dương Long, tháp Bình Lâm, tháp Cánh Tiên… Tháp Thủ Thiện phần lớn chỉ được tìm đến bằng sự tình cờ với đa số khách du lịch trong chuyến hành trình khám phá Tây Sơn.

Tháp Thủ Thiện nằm rất gần làng võ danh bất hư truyền An Vinh. Để đến được tháp Thủ Thiện, từ Quy Nhơn đi theo quốc lộ 1A, rẽ trái ở cầu Bà Di ( cách Quy Nhơn 20km), đi thẳng theo quốc lộ 19, làng Thủ Thiện nằm ở phía bên tay phải, sẽ có biển chỉ dẫn di tích này cho du khách.

tháp Thủ Thiện 2

Một góc ngọn tháp thiêng ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)

tháp Thủ Thiện 3

Tháp Thủ Thiện có nét kiến trúc tối giản so với những tháp Chăm ở Bình Định ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)

 

Dù Tháp Thủ Thiện được nhận định là mang kiến trúc tối giản nhất so với những tháp Chăm khác, những khám phá xung quanh ngôi tháp này chứng minh ý nghĩ lớn lao của tháp Thủ Thiện với tín ngưỡng của người Chăm trước đây. Tháp không nằm trên đồi hay chỗ cao mà lại nằm ở một phần đất bằng phẳng, mang dáng vẻ đặc trưng của tháp Chăm Bình Định với bình đồ hình vuông, đế tháp cao, thắt lại ở phần eo tháp. Vòm cửa rải rác có hình mũi lao, kết cấu nhọn, dù đã bị hư hại nhiều, dù trước kia nơi đây là các khám thờ nơi đặt các tượng thần và phù điêu. Nhiều hiện vật như bia đá hoa cương, tượng , phù điêu được tìm thấy ở đây thể hiện một giai đoạn cường thịnh của vương triều Vijaya ở Bình Định.

tháp Thủ Thiện 5

Tháp Thủ Thiện nhìn từ phía bên trong ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)

tháp Thủ Thiện 6

Vẻ đep mê hoặc của mái vòm tháp Thủ Thiện ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)

 

Vẻ ngoài trầm buồn của tháp Thủ Thiện lôi cuốn du khách ngay từ cái nhìn đầu tiên, với màu gạch đỏ dẫu bong tróc cùng tháng năm vẫn tỏa ra nét uy nghiêm vốn có của tháp Chăm. Người dân địa phương nói rằng, gạch đỏ của người Chăm là loại gạch tốt nhất, không bao giờ phai mầu, không bao giờ bị nấm mốc rêu phong, do bí quyết của dân tộc Chăm để lại. Tháp Thủ Thiện vì thế, lại càng tỏa ra cái dáng vẻ uy thế, bí ẩn, uy nghiêm.

Bước vào phía bên trong, dẫu không còn nhiều di vật, những trầm tích cổ còn lại mang đến màu sắc tâm linh uy nghiêm, vòm cao hướng thẳng lên trời, ánh sáng tự nhiên vì thế vẫn lẩn khuất vào phía bên trong tháp. Trước kia bên trong tháp có 12 tượng đá bán thân, tất cả đều mang ý nghĩa tôn giáo đặc biệt trong tĩn ngưỡng của người Chăm, tay các bức tượng chắp trước ngực, xếp theo dáng búp măng.

tháp Thủ Thiện 7

Dấu tích Chăm Pa cổ còn lưu lại đến ngày nay ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)

Tháp Thủ Thiện cách bờ nam sông Kôn chưa đầy 1 km, đến thăm tháp Thủ Thiện vào lúc mặt trời lặn, bạn sẽ thấy hình ảnh ngôi tháp cổ trầm nghiêm vươn mình trên nền trời, thu mình về hướng dòng sông hiền hòa chày, tựa như lời thầm thì từ lịch sử vọng lại, cứ du dương, du dương mãi.

tháp Thủ Thiện 8

Nếu có dịp đến với Tây Sơn, đừng bỏ lỡ tháp Thủ Thiện bạn nhé ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)

 

Và cũng bằng vẻ lặng lẽ như thế, tháp Thủ Thiện như một vẻ đẹp tiềm ẩn của du lịch Tây Sơn nói riêng và du lịch Bình Định nói chung đang chờ du khách đến khám phá.

 

Tiểu chủng viện Làng Sông - điểm đến hấp dẫn ở Bình Định

 

Tiểu chủng viện Làng Sông là một điểm tham quan nổi tiếng ở huyện Tuy Phước, Bình Định. Đây cũng là điểm đến lý tưởng cho những du khách yêu thích không gian thanh bình và yên tĩnh.

Tiểu chủng viện Làng SôngTiểu chủng viện Làng Sông - điểm nhấn độc đáo trong hành trình du lịch Bình Định

Ngoài những điểm vui chơi ở trung tâm thành phố, du lịch Bình Định còn có nhiều điểm đến hấp dẫn nằm ở ngoại ô như Tiểu chủng viện Làng Sông. Đến đây, du khách sẽ được tìm hiểu về văn hóa, lịch sử Công giáo; chiêm ngưỡng kiến trúc Gothic ấn tượng và thỏa thích check-in sống ảo ở mọi ngóc ngách.

1. Giới thiệu về Tiểu chủng viện Làng Sông 

·       Địa chỉ: thôn Quảng Vân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định

·       Thời gian mở cửa tham khảo: 7h - 11h30 và 14h - 17h30 hàng ngày (Trừ những ngày tĩnh tâm sẽ có thông báo sau)

Tiểu chủng viện Làng Sông (hay còn gọi là nhà thờ Làng Sông) nằm cách trung tâm TP. Quy Nhơn khoảng 10km về hướng Đông Bắc. Cái tên Làng Sông có nghĩa là khu vực nằm giữa vùng sông nước, đồng ruộng xanh mát. Địa chỉ cụ thể của nhà thờ tọa lạc tại xã Phước Thuận - Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Vào năm 1841 - 1850, Tiểu chủng viện Làng Sông Bình Định chỉ được xây dựng cơ sở ban đầu với vách phên tre, mái tranh khá thô sơ. Đến năm 1927, nhà thờ mới được dựng lại trên khu đất lớn hơn với diện tích 2.000 m2. Sau đó, nhà in địa phận Đông Đàng Trong và tòa giám mục cũng đã được xây dựng. 

Lúc bấy giờ, giám đốc của chủng viện là cha Paul Maheu - một người thông thạo về kỹ thuật in và được học nghề in ở Hong Kong. Dưới sự điều hành và quản lý của ông, nhà in Làng Sông đã trở thành một trong 3 trung tâm văn học Quốc ngữ và truyền bá chữ Quốc ngữ lớn nhất ở Việt Nam thời đó. 

Để đến được Tiểu chủng viện Làng Sông Quy Nhơn, du khách nên di chuyển dọc theo Quốc lộ 19. Trên đường đi, bạn có thể kết hợp tham quan thêm các địa điểm nổi tiếng khác ở Bình Định như chùa võ Long Phước, chùa Thiên Hưng và tháp Bánh Ít.

Nhà thờ Làng Sông được bao quanh bởi những cánh đồng xanh mướtNhà thờ Làng Sông được bao quanh bởi những cánh đồng xanh mướt tạo nên không gian mát mẻ và yên bình

2. Ý nghĩa của nhà thờ Làng Sông 

Trước đây, nhà thờ Làng Sông chủ yếu được sử dụng như một tu viện dành cho tiểu chủng sinh đến tầm đạo và tu dưỡng. Các tu sĩ sau khi hoàn thành đào tạo tại đây sẽ tiếp tục tụ tập tại đại chủng viện để trở thành linh mục. Vào thời kỳ thịnh vượng nhất, nhà thờ đã thu hút gần 200 tu sĩ khắp nơi tại các tỉnh Trung Trung bộ về học tập và sinh sống. 

Ngày nay, nhà thờ không còn hoạt động đào tạo tu sĩ mà đã trở thành một điểm đến tâm linh và tham quan du lịch. Vào những ngày lễ, tết quan trọng như tết công giáo, người dân địa phương và du khách lại ghé đến nhà thờ Làng Sông để hành lễ, cầu nguyện hoặc vãng cảnh và chiêm ngưỡng khu trưng bày nhà in. 

Nhà thờ Làng Sông từng là nơi đào tạo các tu sĩ muốn trở thành linh mục Nhà thờ Làng Sông từng là nơi đào tạo các tu sĩ muốn trở thành linh mục

 

3. Tiểu chủng viện Làng Sông Quy Nhơn có gì hấp dẫn? 

3.1. Khám phá kiến trúc Gothic độc đáo 

Lịch sử tiểu chủng viện Làng Sông đã có bề dày hơn 170 năm nhưng vẫn giữ nguyên được nét kiến trúc Gothic đặc trưng. Khi bước vào khuôn viên của nhà thờ, du khách sẽ thấy ngay khu nhà nguyện ở vị trí trung tâm. Ngôi nhà gồm có 3 cửa tiền và 16 cửa chính được chạm trổ tinh xảo, cùng các hàng cột gỗ to lớn và uy nghiêm. Hai bên nhà nguyện là khu vực làm việc và học tập của các tu sĩ. 

Cung thánh là nơi linh thiêng và trang trọng nhất bên trong thánh đường. Công trình thu hút du khách bởi những đường nét điêu khắc tinh tế trên bàn thờ chúa và các tượng nhỏ, phù điêu. Kiến trúc của tiểu chủng viện còn tái hiện sự đối xứng hài hòa của những khung ô, cổng vòm nhọn, các bông gió trang trí trên tường…

Tiểu chủng viện Làng Sông sở hữu nét kiến trúc Gothic độc đáoTiểu chủng viện Làng Sông sở hữu nét kiến trúc Gothic độc đáo với những mái vòm cao, tháp nhọn và hoa văn tinh tế.

3.2. Check in Tiểu chủng viện Làng Sông

Với vẻ đẹp cổ kính và độc đáo, Tiểu chủng viện Làng Sông còn là một địa điểm check-in lý tưởng cho những du khách yêu thích phong cách cổ điển. Một số góc chụp ảnh đẹp tại đây có thể kể đến:

·         Cổng vòm chính: Cổng vòm cao vút với những đường nét hoa văn tinh xảo là điểm nhấn ấn tượng của Tiểu chủng viện Làng Sông.

·         Hành lang dài: Dãy hành lang dài với những mái vòm uốn cong mềm mại là background lý tưởng cho những bức ảnh "so deep".

·         Bức tượng Đức Mẹ: Check-in tại tượng Đức Mẹ, du khách còn có thể lấy được toàn cảnh của nhà thờ phía sau, nhìn tựa như một tòa lâu đài cổ kính. 

·         Khuôn viên nhà thờ: Nơi đây có những hàng cây cổ thụ rợp bóng mát, những thảm cỏ xanh mướt và những bông hoa rực rỡ, tạo nên một bầu không khí thanh bình và yên tĩnh.

·         Khu vực tường rào bên cạnh nhà thờ: Bạn có thể bắt trọn khoảnh khắc với những cánh đồng cỏ xanh rì, đẹp mắt.

Khuôn viên nhà thờ Làng SôngKhuôn viên nhà thờ Làng Sông với nhiều cây cổ thụ rợp bóng mát (Ảnh: Sưu tầm)

Khu vực hành lang dài là góc check-in yêu thích

Khu vực hành lang dài là góc check-in yêu thích của nhiều du khách khi đến chủng viện Làng Sông Chỉ cần ngồi ghế đá và tạo dáng đơn giản là du khách đã có ngay một bức hình sống ảo cực nghệ (Ảnh: Sưu tầm)

 

Cổng vào Tiểu chủng viện Làng Sông

Cổng vào Tiểu chủng viện Làng Sông

3.3. Tham quan phòng trưng bày nhà in Làng Sông 

Phòng trưng bày nhà in Làng Sông là một điểm đến cực thú vị cho những ai muốn khám phá về lịch sử và văn hóa in ấn ở Việt Nam. Khi bước vào bên trong, du khách sẽ bị thu hút bởi không gian cổ kính với hàng trăm tài liệu, sách vở được bảo quản và trưng bày cẩn thận. Tại đây đang lưu giữ hơn 200 quyển sách cổ, nổi bật nhất phải kể đến các quyển “Tục Ngữ An Nam”, "Tập đọc", "Tập đánh vần ABC"...

Điểm đặc biệt của phòng trưng bày là các tài liệu được sắp xếp theo thứ tự năm xuất bản giúp du khách có cái nhìn tổng quan về sự phát triển của in ấn qua từng thời kỳ. Những cuốn sách cổ được bảo quản cẩn thận trong tủ kính kín nên vẫn còn nguyên vẹn và giữ được giá trị lịch sử to lớn.

Năm 1872, nhà in Làng Sông được xây dựng nhưng sau đó lại bị phá hủy vào năm 1855. Mãi đến năm 1904, công trình mới được tái thiết và giao cho cha Paul Maheu - người từng học kỹ thuật in ấn tại Hồng Kông quản lý. Nhà in tiếp tục hoạt động đến năm 1936 thì được di dời về Quy Nhơn. 

Phòng trưng bày nhà in Làng Sông

Không gian ngăn nắp bên trong phòng trưng bày nhà in Làng Sông (Ảnh: Sưu tầm)

 

Chùa Thiên Hưng: chốn tâm linh đặc biệt của người dân xứ Nẫu

Chùa Thiên Hưng tọa lạc trong khuôn viên xanh mát, yên bình. Hằng năm, nơi đây đã đón tiếp hàng ngàn lượt du khách đến chiêm bái, hành hương.

 

Chùa Thiên HưngThiên Hưng Tự là điểm đến yêu thích của du khách thập phương (Ảnh: Sưu tầm)

 

Chùa Thiên Hưng là một điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch Bình Định. Kiến trúc chùa Thiên Hưng là sự kết hợp giữa vẻ đẹp truyền thống Á Đông và kiến trúc hiện đại. Khi đến với chùa, bạn sẽ cảm nhận được không khí trong lành, bình yên. Cùng Vinpearl tìm hiểu tất tần tật kinh nghiệm khám phá ngôi chùa này!

1. Đôi nét về chùa Thiên Hưng Bình Định

·         Địa chỉ: phố Chánh Thạnh, phường Nhơn Hưng, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định

Chùa Thiên Hưng còn có tên gọi khác là chùa “Mục Đồng”, cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 20km. Chùa Thiên Hưng tọa lạc giữa vùng quê cổ trong thành Đồ Bàn xưa của Chăm Pa. Bao bọc xung quanh chùa là ruộng đồng, sông hồ và đường tre ngõ làng thanh bình. Chùa mang vẻ đẹp hoài cổ, bình dị rất riêng. 

Du khách ưu ái gọi chùa Thiên Hưng là “Phượng Hoàng Cổ Trấn của Việt Nam. Mỗi năm, chùa đều đón rất nhiều lượt khách du lịch gần xa. Trụ trì chùa Thiên Hưng - Đại đức Thích Đồng Ngộ là một người am hiểu về phong thủy và luôn tích cực trong công việc hoằng pháp. Thầy Thích Đồng Ngộ thường xuyên tổ chức các buổi giảng pháp, giúp mọi người có thể hiểu hơn về tư tưởng của Phật giáo.

Chùa mang vẻ đẹp cổ xưa, thoát tục, bình yênChùa Thiên Hưng Quy Nhơn mang vẻ đẹp cổ xưa, thoát tục, bình yên đến lạ (Ảnh: Sưu tầm)

 

2. Tìm hiểu kiến trúc đặc sắc của Thiên Hưng Tự 

Chùa Thiên Hưng Bình Định nổi bật với sự kết hợp tinh tế giữa phong cách kiến trúc Á Đông pha lẫn chút hiện đại. Mặc dù không quá lộng lẫy, kiến trúc của chùa vẫn toát lên vẻ trang trọng và cổ kính khó lẫn giữa "vùng đất võ".

Chùa được Đại đức Thích Đồng Ngộ chính tay thiết kế và hoàn thiện vào năm 2007. Công trình Thiên Hưng Tự bao gồm chánh điện 3 tầng, tăng xá 2 tầng, Điện Tây Phương 2 tòa được xây bằng gỗ, nhà Phương Trượng, Đại Bảo Tháp Thiên Ứng 12 tầng, Khách Đường, nhà Truyền Thống 2 tầng, La Hán Đài, cùng các khu lưu trú cho khách tăng và phật tử. Ngoài ra, chùa còn có khu sinh hoạt hậu cần lớn ở phía Đông với tổng cộng 20 công trình đa dạng về kích thước và quy mô.

Chùa có vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêmChùa Thiên Hưng mang vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêm rất ấn tượng (Ảnh: Sưu tầm)

 

3. Tham quan chùa Thiên Hưng có gì?

3.1. Bình yên trong không gian chùa Thiên Hưng An Nhơn 

Khi đến Thiên Hưng Tự, bạn sẽ cảm nhận được không khí trong lành, thoáng mát. Trong khuôn viên, những hàng cây xanh được chăm sóc tỉ mỉ, phủ bóng mát khắp mọi lối đi.

Trước chính điện của chùa là một hồ nước rộng rất nên thơ. Theo phong thủy, trong chùa có hồ, có sân, lấy khí tích thủy là một cách nuôi dưỡng vạn vật xung quanh. Vì thế, khuôn viên chùa lúc nào cũng dồi dào sinh khí. Bạn có thể dạo bước quanh hồ để ngắm nhìn cảnh vật và thư giãn tâm trí. 

Bên cạnh hồ là vườn Thiên Thanh bày trí nhiều tiểu cảnh đẹp, sinh động, tạo nên một bức tranh thơ mộng. Khi đi đến giữa vườn Thiên Thanh, du khách sẽ bắt gặp Đài Quan Âm mang vẻ uy nghiêm được tạc từ đá trắng. Không gian chùa Thiên Hưng mang lại cảm giác dễ chịu, thư thái cho du khách đến ghé thăm chùa.

Chùa Thiên Hưng thanh bình, thơ mộng

Chùa Thiên Hưng An Nhơn Bình Định thanh bình, thơ mộng (Ảnh: Sưu tầm)

 

3.2. Chiêm ngưỡng hệ thống tượng Phật ở tòa chính điện 

Tòa chính điện là công trình trung tâm của chùa Thiên Hưng. Tòa chính điện được xây nhiều tầng với mái ngói đỏ và có đầu đao hình rồng trông rất uy nghiêm, bề thế. Mỗi tầng đều thờ các vị Bồ tát và các vị Phật khác nhau. Không gian bên trong được bày trí trang nghiêm với nhiều phong cách, không bị trùng lặp. Trong điện thờ cao nhất là tượng Đức Phật Thích Ca ở vị trí trung tâm, rất tôn nghiêm.

Điện thờ trang nghiêmĐiện thờ trang nghiêm ở Thiên Hưng Tự (Ảnh: Sưu tầm)

3.3. Tham quan các công trình tiêu biểu của Thiên Hưng Tự 

Bên cạnh tòa chính điện, chùa Thiên Hưng còn có nhiều công trình kiến trúc tiêu biểu khác để bạn tham quan, chụp ảnh kỷ niệm. 

·         Tháp Thiên Ứng: Công trình điểm nhấn của chùa Thiên Hưng, đây là tòa bảo tháp 12 tầng, chiều cao khoảng 40m. Đứng trên tháp Thiên Ứng, du khách có thể quan sát được hầu hết các địa điểm thuộc thị xã An Nhơn. 

·         La Hán Đài: Một tiểu cảnh đậm chất thiên nhiên, có 18 tượng A La Hán bằng đá sa thạch cao 3 mét nguyên khối bài trí xung quanh.

Tiểu cảnh La Hán ĐàiTiểu cảnh La Hán Đài trong Thiên Hưng Tự thu hút sự chú ý của nhiều du khách (Ảnh: Sưu tầm)

 

ẨM THỰC BÌNH ĐỊNH

Độc đáo nước mắm dừa xứ Tam Quan

Ngoài xứ dừa Bến Tre ra thì không nơi nào ở nước ta có nhiều dừa như ở Tam Quan, Bình Định. Với những người dân xứ dừa thì sản phẩm nước mắm được chế biến từ dừa đã trở nên quá quen thuộc. Nếu ai lần đầu tiên được nếm thử món nước mắm này có lẽ cũng dễ bị nhầm tưởng đây là loại nước mắm đã được chế biến từ cá bởi nhìn nó cũng màu vàng và có vị mặn đặc trưng.

Theo các bậc cao niên, do ngày xưa giao thông đi lại khá khó khăn nên quá trình vận chuyển cá mắm từ vùng này sang vùng khác gặp nhiều khó khăn nên người dân ở xứ dừa đã tự nghiên cứu, mày mò để sản xuất ra loại nước mắm dừa này nhằm phục vụ cho nhu cầu hàng ngày.

Để làm ra một mẻ nước mắm dừa rất nhọc công và mất thời gian. Bởi để chế biến được khoảng  2 đến 4 lít mắm dừa phải mất tầm một ngày với khoảng 20 lít nước dừa già. 

Dừa già hái xuống đem chặt vỏ lấy nước rồi cho vào xoong nấu. Sau khi nước sôi, để lửa riu riu giữ cho độ sôi đều, nhớ là phải mở vung mở vung. Khi cạn còn khoảng 2 lít thì nước dừa sẽ ngả màu vàng, lúc ấy cho một ít muối vào vừa đủ mặn, để nguội, rót vào chai là đã có món nước mắm dừa. Loại nước mắm này cũng có màu vàng, vị mặn và đặt biệt là để lâu mấy cũng không hư, lại có mùi vị thơm ngon tuyệt vời nên được xem như một món đặc sản  nổi tiếng của xứ dừa.

Ngày nay nước mắm dừa rất ít được chế biến đại trà mà chỉ được nấu ở một số ít gia đình có truyền thống lâu đời để làm quà hay đãi khách vào mỗi dịp đặc biệt.

Điều thú vị của nước mắm dừa ở chỗ không chỉ được dùng làm nước chấm mà nước mắm dừa còn dùng như một loại gia vị đặc biệt trong các món ăn, nhất là khi nấu các món chay. Chính vì vậy, loại mắm này được xem như loại nước mắm phù hợp dành cho tất cả mọi người trong chế biến thực phẩm.

Cái đậm đà của bánh hỏi lòng heo sẽ không trọn vẹn nếu thiếu nước chấm. Người miền Trung dùng nước chấm hầu như trong tất cả các bữa ăn. Nước chấm thường là mắm mộc nhĩ, nhìn sóng sánh trong từng giọt nâu đượm. Chấm vào một miếng, vị mặn còn đọng nơi đầu lưỡi, hương vị quyện trong vị cay the của ớt thái sợi, chút tỏi giã nhuyễn và một vài giọt nước cốt chanh trong vắt.

Nhấc đũa, miếng bánh hỏi ngập trong chén nước chấm đậm đà sẽ khiến bạn ngất ngây bởi cái vị chua ngọt, vị thanh nhẹ nhàng của từng sợi bánh. Đĩa lòng ăn kèm với bánh phải có đủ tim, gan, phèo non, cật và thịt ba chỉ. Lòng ngon là phải thật giòn và ngọt. Thịt luộc không được quá khô để khi ăn, thực khách có thể cảm nhận hết vị bùi béo mọng nước trong từng sớ thịt.

Người Bình Định thích ăn kết hợp bánh hỏi với cháo. Cháo thường được nấu loãng với thịt nạc băm và không quên thêm lá hành xanh và một chút tiêu. Bạn phải húp cháo sột soạt khi còn nghi ngút khói mới thật đúng điệu bánh hỏi cháo lòng. Bánh hỏi - một món ăn dân dã, chân quê mà lại hấp dẫn lạ kì. Nếu một lần có dịp đến với miền thượng võ, bạn hãy đừng quên nhắc tên bánh hỏi…

 

Bánh hỏi Bình Định - món ngon miền thượng võ

Bình Định không chỉ là một miền đất nổi tiếng với nhiều môn võ cổ truyền mà còn được nhiều người biết đến với văn hoá ẩm thực đặc sắc với bởi nhiều món ăn hấp dẫn, trong đó, không không nhắc đến bánh hỏi - một thức quà rất đỗi quen thuộc, bình dị trong cuộc sống thường ngày. Không những phổ biến ở các vùng nông thôn, mà bánh hỏi còn được người dân thành phố rất yêu thích. Trong gia đình, bánh hỏi đùng để ăn thay cơm hay đãi khách vào mỗi dịp đặc biệt.

 

Bánh hỏi được làm từ bột gạo, phải là loại gạo tẻ ngon hoặc gạo thơm. Gạo đem đãi kỹ để loại bỏ hết tạp chất rồi ngâm qua một đêm bằng nước sạch. Lượng nước phải phù hợp với lượng gạo thì bột xay mới trắng và mịn. Sau đó, bột sẽ được nhồi và cho vào khuôn bánh hỏi. Khuôn bánh được làm bằng đồng dạng hình trụ hoặc chữ nhật với khá nhiều lỗ nhỏ. Bánh hỏi ngon hay không còn phụ thuộc vào đường kính lỗ. Nếu như lỗ quá lớn thì sợi bánh hỏi sẽ bị lớn và không đẹp. Sau cùng là công đoạn hấp cách thuỷ bánh trong nồi hấp khoảng 3 phút. Bánh khi đã chín đem vớt ra để nguội, dùng một ít dầu lạc thoa lên mặt bánh để bánh không khô hay bị dính vào nhau.

Ở các khu chợ quê, bánh hỏi thường được đặt trong thúng có lót sẵn lá chuối và đậy kín ở trên. Khi ăn, bánh mới được phết thêm một lớp lá hẹ hoặc lá hành xanh thái nhỏ kèm với hành khô tùy theo sở thích của mỗi người. Miếng bánh hỏi trắng muốt ăn nóng vừa dẻo vừa dai, lại có mùi thơm đặc trưng của gạo và hành phi.

Bánh hỏi được người dân Bình Định vô cùng ưa thích và thường ăn kèm với thịt heo quay hoặc thịt heo luộc. Tại thành phố Quy Nhơn, bánh hỏi ăn với một bát cháo lòng nóng hổi và lòng heo, đây vốn là một món điểm tâm phổ biến và được khá nhiều người ưa chuộng.

 

Tham khảo thêm:

Mười món ngon nổi tiếng đất Tây Sơn

Ngoài món bún chả cá nổi tiếng, Bình Định còn mê hoặc bao thực khách với hàng loạt món ngon khó cưỡng như gié bò Tây Sơn, bún tôm Châu Trúc, mắm nhum Mỹ An..

1. Bún chả cá Quy Nhơn

Điểm nhấn thú vị của món bún chả cá Quy Nhơn là phần chả cá lấy nguyên liệu từ những con cá thu bóng bẩy, mập mạp, thịt ngọt và phải đem quết sao cho miếng bánh chả trở nên láng mịn, tròn dày vừa phải, dùng với nước lèo được nấu từ đầu và xương cá thu, trong veo, có ngọt tự nhiên.

 

2. Mắm nhum Mỹ An

Nhum có nhiều loại, nhưng để muối mắm thì phải là nhum ta màu đen. Cách chế biến như sau: Cắt bỏ sơ những chiếc gai nhọn tua tủa xung quanh nhum rồi đem khoét một lỗ ngay miệng nhum, khéo léo lấy thịt nhum ra cho vào chum sành, rắc thêm một ít muối hạt lên trên, sau đó đem vùi vào bếp tro hoặc phơi nắng từ 10 đến 15 ngày. Khi mắm nhum đã chín, nhuyễn tan, sền sệt, có mau đỏ đục, hương thơm nức.

Mắm nhum không được phổ biến như các loại mắm khác nên du khách khó có thể mua được vì không biết nơi bán.

 

3. Bún tôm Châu Trúc

Để có được một tô bún tôm Châu Trúc ngon phải trải qua khá nhiều công đoạn. Đầu tiên là làm bún. Gạo được ngâm với nước cho mềm rồi mang ra xay, sau đó cho vào túi vải đăng ráo nước, xong đưa vào cối giã cho thật nhuyễn. Mỗi cối bột là một dặn, người làm bún ép bún từ dặn, bún sẽ chạy thẳng vào nồi nước luộc. Tôm làm bún phải là chọn những con tôm đất được bắt từ đầm Châu Trúc, còn nhảy tanh tách, đem bỏ vào cối giã nhuyễn cùng với một ít muối, ớt...

Khi có người đến ăn, người bán dùng đũa lấy một ít thịt tôm cho vào bát, cho thêm chút bột ngọt, nước mắm, múc một ít nước luộc bún đang sôi đổ vào bát khuấy thật đều, sau đó bỏ bún vào, rắc lên mấy cọng hành ngò, chút tiêu. Món ăn này dọn kèm với bánh tráng mè nướng giòn.

 

4. Gié bò Tây Sơn

Gié bò là món ăn được chế biến chủ yếu từ ruột non của bò. Gié bò không phải một món dễ ăn và chỉ có người sành ăn mới khoái khẩu.

Khi mổ bò, người ta chọn khúc ruột non ngon nhất, còn tươi, bên trong ruột có chất nhầy trong xanh gọi là gié. Đem xổ lấy phần gié trong ruột non ra. Cho muối, tiêu, tỏi, hành băm nhỏ vào gié ướp trong mươi phút cho ngấm đều. Sau đó phi hành thơm trên dầu nóng, cho gié vào xào cho chín. Đổ nước dừa tươi vào nấu khoảng 15 phút, vớt bọt, để nguội lấy nước trong.

Ruột non, gan bò cắt thành đoạn hoặc miếng vuông, ướp với hành, tỏi, tiêu, muối. Phi nóng dầu xào gan và ruột đến khi có mùi thơm rồi để nguội. Huyết bò luộc chín, cắt cỡ miếng gan. Đem  tất cả các nguyên liệu trên nấu chung với nước gié. Trong lúc nấu cho thêm một ít sả cây, gừng nướng và tai vị đập dập để khử mùi. Cuối cùng cho lá giang rửa sạch, vó nát vào để nồi gié có vị chua. Nêm lại gia vị cho vừa ăn là được.

Tô gié nóng hổi, nước màu nâu hơi có chút ánh xanh ăn kèm bún tươi, rau sống các loại và bánh tráng mè nướng là sự kết hợp tinh tế của tất cả các loại nguyên liệu làm níu chân biết bao du khách.

 

5. Bánh hỏi Diêu Trì

Bánh hỏi là đặc sản nức danh của Bình Định, đặc biệt thịnh và ngon nhất là ở Diêu Trì (Tuy Phước). Món này được chế biến như sau: Gạo tám thơm vo kỹ, ngâm nước một đêm, vớt để ráo, xay nhuyễn bằng cối đá. Bột nước cho vào bao vải khô, "đăng" ráo nước. Đem hấp bột để vừa đủ chín, nhồi và chia bột thành từng khối, mỗi khối chừng nửa ký gọi là "giảo". Đưa vào khuôn ép thành bánh. Bánh đem hấp vừa đủ chín.

Cháo nấu loãng với huyết ninh với thịt nạc băm, bên cạnh là đĩa lòng heo. Những thứ này ăn kèm với bánh hỏi, làm cho bánh hỏi trở nên béo bở, ngon ngọt lạ thường.

 

6. Nem chợ Huyện

Nem chợ Huyện không mềm như nem của Thủ Đức, không có vị ngọt như nem Lai Vung, nem An Cựu mà sần sật, dai dai, giòn giòn, chua chua, ngọt thanh đã miệng. Nem tươi đã rất ngon, đem nướng với than, ăn kèm với bánh, chả ram, tía tô, rau mùi, rau răm, khế, chuối, dưa leo, nước chấm (hoặc xì dầu) thêm một vài trái ớt, tép tỏi thì lại càng tuyệt. 

 

7. Bánh xèo Mỹ Cang

Bánh xèo Mỹ Cang ngon nổi tiếng là nhờ tất cả thành phần được chế biến từ đặc sản địa phương. Bánh xèo được ăn kèm với là bánh tráng gạo nguyên chất, rau sống các loại, vài lát xoài và dưa leo xắt mỏng, bên cạnh chén nước mắm vàng ươm hương vị miền biển. Cái ngọt tự nhiên của tôm tươi, cái giòn của gạo đủ lửa và vị chua, chát của xoài và chuối, tất cả quyện lại thành một món ăn thơm ngon vô cùng hấp dẫn.

 

8. Rượu Bàu Đá

Có nồng độ rất cao, hơn 50 độ, rượu Bàu Đá uống nhanh say nhưng say rồi lại không thấy mệt. Muốn có được rượu ngon, người nấu cần phải tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt về nguồn nước, men, gạo, dụng cụ nấu và đặc biệt là kinh nghiệm gia truyền. Khi nấu rượu, cũng không được dùng nồi nhôm mà dùng nồi đồng, đậy bằng nắp đất nung, cất rượu bằng ống tre. Chưng phải bằng lửa nhỏ mới vắt cạn hết được tinh chất gạo.

 

9. Bún song thằn

Sở dĩ có tên gọi là "song thằn" vì khi làm bún, người ta bắt dây bún từng đôi một. Bún song thằn nổi tiếng với hương vị thơm ngon, mềm dẻo và có giá trị dinh dưỡng khá cao vì làm từ đậu xanh.

Cách làm món bún này rất kỳ công. Đậu xanh được phơi nắng cho thật khô rồi ngâm trong nước lạnh độ một ngày một đêm chờ cho nở đều mới đem xay. 

Đến An Thái, bạn có thể thưởng thức một tô bún song thằn nấu với lòng gà hay có thể mua một vài ký về làm quà cho bạn bè và người thân.

 

10. Cua huỳnh đế

Cua huỳnh đế là đặc sản nổi tiếng của vùng biển Tam Quan và Ðề Gi (Bình Ðịnh). Cua huỳnh đế có bộ áo giáp cứng và dày, màu vàng rực như hoàng bào, li ti nhiều gai nhọn xuôi theo thân, que; càng cua to, cạnh sắc lẻm như dao, khác hẳn với những loại cua khác.

Cua huỳnh đế có nhiều cách chế biến như hấp, nướng… Đặc biệt, người dân địa phương còn đem loại cua vua này chế biến thành món um mặn ăn cùng với cơm hay nấu cháo.

 

Những quán ăn ngon nhất ở Quy Nhơn

Bánh xèo tôm nhảy Gia Vỹ

Bánh xèo từ lâu đã là một món ăn dân dã có tên trong thực đơn của cả ba miền. Tuy nhiên bánh xèo tôm nhảy Quy Nhơn không chỉ đặc biệt bởi vỏ bánh giòn rụm mà còn bởi lớp nhân dày kín tôm đất. Để thưởng thức đúng điệu bánh xèo Quy Nhơn, chắc chắn bạn phải đến 1 trong những quán ăn ngon ở Quy Nhơn đó là Bánh xèo tôm nhảy Gia Vỹ.

Để đảm bảo phục vụ cho nhu cầu khách khá lớn, bánh xèo Gia Vỹ có đến hai chi nhánh ngay tại thành phố Quy Nhơn. Cơ sở 1 nằm ở 118 Đống Đa và cơ sở 2 tọa lạc tại số 14 Diên Hồng. Quán đa số trong tình trạng đông khách, tuy nhiên nhân viên lại cực kỳ thân thiện và luôn đáp ứng tốt yêu cầu của khách. Bạn sẽ không phải chờ quá lâu để có bánh đâu nhen.

Bánh xèo tôm nhảy là một đặc sản nổi tiếng ở Quán ăn ngon Quy Nhơn

Bánh xèo tôm nhảy là một đặc sản nổi tiếng ở Quy Nhơn (ảnh: ST)

 

Dù là tên gọi “bánh xèo tôm nhảy” nhưng ngoài ra ở đây còn có cả bánh xèo bò. Đặc điểm chung của hai loại bánh này là nhân đặc kín trên bánh nên nhìn siêu hấp dẫn. Thêm vào đó là chút giá tươi và hành tây, giúp bạn đỡ ngán hơn khi ăn đồ chiên dầu. Bánh xèo miền trung thường được ăn với bánh tráng cùng rau sống và xoài chua. Nước chấm ở bánh xèo Gia Vỹ mới thật sự đặc biệt nhất, thứ quyết định đến 50% độ ngon của bánh. Quán dùng nước mắm chua ngọt, có pha kèm ớt tỏi đã giã nhuyễn. 

Một mâm bánh xèo sẽ được dọn lên như thế này (ảnh: ST)

Một mâm bánh xèo sẽ được dọn lên như thế này (ảnh: ST)

Cạnh bánh xèo tôm nhảy Gia Vỹ còn có vài quán khác đều là những quán ăn ngon ở Quy Nhơn. Các quán này thường có nhân viên dừng ở đường đứng bắt khách. Các bạn phải thật cứng và tỉnh táo để chọn đúng quán nhé!

 

Bún chả cá Ngọc Liên

Đến du lịch Quy Nhơn mà không nếm thử món bún chả cá thì quả là một thiết sót lớn. Đây là món ăn bạn có thể tìm ở bất cứ ngõ ngách nào ở thành phố, từ các cửa hàng bình dân lề đường đến những nhà hàng sang trọng nhưng ngon nhất vẫn phải kể đến bún cá Ngọc Liên nằm ở 379 Nguyễn Huệ – 1 trong những quán ăn ngon ở Quy Nhơn khó lòng bỏ qua.

Quán ở trung tâm thành phố nên dễ tìm và cũng tiện nếu bạn muốn đi tham quan ngay sau đó. Cũng vì nằm ngay trung tâm mà quán lúc nào cũng đông khách. Tuy nhiên quán khá rộng rãi, không gian lại rất thoáng và không hề bị ám mùi cá nhé. Điểm cộng lớn đối với những quán bán bún cá đấy. Nhân viên lại đáng yêu và thân thiện vô cùng.

 

Tô bún đầy ngập chả cá chỉ có giá 25k (ảnh: ST)

Tô bún đầy ngập chả cá chỉ có giá 25k (ảnh: ST)

Giá cả khá hợp lý với 25k cho một tô bún chả cá thông thường và 35k đối với bún sứa. Nước ở đây có vị ngọt thanh đặc trưng bởi nấu với cá. Chả cá thì miễn bàn về độ ngon. Bởi là vùng biển, nên chả cá rất tươi, dai và ngọt. Lại được nêm nếm thêm gia vị  rất vừa miệng. Một tô bún chả thường có cả hai loại là chả chiên và chả hấp. Mỗi loại ăn vào hơi khác một tí, nhưng nói chung đều ngon. Bún cá ở đây ăn cùng với rau thơm và hành tím chua ngọt nhen!

Quán Mẫn – Bánh hỏi cháo lòng

Nhắc đến xứ Nẫu là phải nhắc đến bánh hỏi cháo lòng. Mà nhắc đến bánh hỏi cháo lòng thì phải nhắc đến quán Mẫn ở 76 Trần Phú. Đây cũng là một trong những quán ăn ngon ở Quy Nhơn nổi tiếng nhất. Quán phục vụ hầu hết các món ăn Bình Định, tuy nhiên nổi tiếng nhất vẫn là bánh hỏi cháo lòng. Chỉ cần khoảng 25 – 30 bạn đã có một mâm bánh hỏi cháo lòng no nê cực hấp dẫn. Một mâm bánh hoàn chỉnh sẽ gồm 1 đĩa bánh hỏi được quét dầu hẹ; một ít tim, cật, phèo… được xắt mỏng bỏ lên trên; ăn kèm là chén cháo huyết nóng hổi và chén mắm nhĩ dằm ớt đặc trưng.

Bữa sáng no nê với mâm bánh hỏi cháo lòng (ảnh: ST)

Bữa sáng no nê với mâm bánh hỏi cháo lòng (ảnh: ST)

Quán Mẫn đặc biệt chỉ bán buổi sáng, khá đông khách nên nếu ngủ nướng bạn sẽ không có cơ hội thử món này đâu nhé. Không gian ở đây được đánh giá là sạch sẽ và thoáng mát.

Gié Bò – Nhật Gia Viên

Món ăn gié bò nổi tiếng (Ảnh ST)

Món ăn gié bò nổi tiếng (Ảnh ST)

 

Ở Quy Nhơn có một món ăn khá bình dân mang đậm hơi thở của vùng đất này đó là “Gié Bò”. Đây là món ăn mà bạn có thể thỏa mái thưởng thức đến no căng bụng với nguyên liệu chủ yếu để làm nên món ăn này là ruột non bò kết hợp với nhiều gia vị. Đây là món ăn có từ lâu của dân tộc Bana trải qua thời gian người kinh vùng Tây Sơn – Bình Định thấy hợp khẩu vị và coi nó là đặc sản.

 

Bún cá cô Phượng – 415 Nguyễn Huệ

Bát bún thơm ngon với nước dùng thanh ngọt (Ảnh ST)

Bát bún thơm ngon với nước dùng thanh ngọt (Ảnh ST)

 

Khi ghé Quy Nhơn, bạn đừng quên thưởng thức món ăn ngon nổi tiếng mang tên “Bún Cá” nhé. Bạn chỉ cần đi theo các con phố sẽ có rất nhiều quán cho bạn chọn nhưng ngon nhất ở đây phải kể đến bún cá Phượng. Bí quyết để làm nên một tô bún thơm ngon đó chính là nước dùng, bún và đặc biệt không thể thiếu là chả cá được chế biến từ cá tươi tẩm ướp gia vị. Nước dùng của bún cũng rất đặc biệt khác với nhiều vùng thì nơi đây sử dụng nước dùng từ đầu và xương cá làm nên 1 loại nước dùng thơm ngon và ngọt thanh, khiến các thực khách ăn một lần và mãi không quên.

 

Bánh bèo 318 Diên Hồng

Bánh bèo thì dễ kiếm nhưng để nếm vị ngon đúng chuẩn bánh bèo Quy Nhơn thì phải đến 318 Diên Hồng. Đây là quán vỉa hè và ở gần trường ĐH Quy Nhơn nên không lạ nếu bạn gặp nhiều sinh viên ăn ở đây. Quán ăn ngon ở Quy Nhơn này chỉ bán từ 2 giờ chiều đến 7 giờ tối. Phù hợp để ăn vặt vào xế chiều.

Bánh ở đây được bày ra nia tre khá đẹp mắt. Một phần như vậy sẽ gồm 10 chén bánh bèo. Trên mỗi chén bánh bèo là một bầu trời màu sắc. Thường sẽ có màu đỏ của ruốc tôm, điểm thêm tí lá hẹ xanh cùng một ít dầu, đậu phộng sẽ được giã nhuyễn rắc lên và trên cùng là những miếng tóp mỡ và bánh mì nâu xám. Bánh ở đây lớn và dày hơn một số nơi khác. Mắm chấm là nước mắm pha loãng, người ta sẽ cho thêm một chút ớt, tỏi và gia vị giúp chén nước chấm càng thêm đậm đà. Cuối cùng, khi ăn bạn sẽ phải rưới nước mắm đã được pha lên trên.

Bánh bèo thơm ngon cực rẻ ở Quy Nhơn (ảnh: ST)

Bánh bèo thơm ngon cực rẻ ở Quy Nhơn (ảnh: ST)

Chè nhớ – 157 Ngô Mây

Quá chè nhớ đặc biệt tại Quy Nhơn (Ảnh ST)

Quá chè nhớ đặc biệt tại Quy Nhơn (Ảnh ST)

Đây là một trong những quán chè khá là nổi tiếng ở Quy Nhơn. Nằm ngay gần Đại Học Quy Nhơn, quán còn có tên gọi khác là “chè sinh viên”. Ngoài chè là món chính của quán thì ở đây còn có khá nhiều món ăn vặt kèm theo. Nếu bạn là tín đồ của những món ăn vặt thì đừng quên ghé quán khi đến du lịch nhé.

 

Đặc Sản Bình Định “nhất định phải thử”

Mắm Nhum Mỹ An

Đây là một loại đặc sản Bình Định có một không hai của Bình Đinh. Mắm Nhum được làm từ một loại quả chỉ có vùng núi Mỹ An Bình Định. Nhum có nhiều loại và có thể chế biến nhum để ăn kèm cùng ác món nướng, chiên nhưng loại nhum dùng để làm mắm thường có màu đen. Mắm nhum dễ chế biến tuy nhiên 100kg nhum chỉ chế biến được 2kg nhum. Cũng chính vì thế mà dù cho có tiền cũng khó có thể mua được món đặc sản hiếm có này. Mắm nhum rất thơm, ngát ngát đậm chất mùi quả rừng. Mắm Nhum dùng để chấm kèm với các loại thịt luộc,  rau sống thì ngon tuyệt cú mèo.

Mắm Nhum Mỹ An đặc sản bình định làm quà

 

Bánh Xèo Mỹ Cang

Đây là một món ngon đặc sản Quy Nhơn rất đỗi bình dị nhưng được du khách rất yêu thích. Nó được bày bán ở hầu hết các quán xá vỉa hè ở Bình Định. Bánh xèo được làm được những  nguyên liệu đơn giản như thịt heo băm nhuyễn, hành phi, rau thơm, trứng và bột gạo. Gaọ sẽ được tuyển chọn những những gạo to chắc mẩy không bị sâu để tạo độ ngọt của bánh. Gạo sẽ được đem đi xay và nấu bột thành một thứ hỗn hợp dẻo, đập trứng cho thịt băm và một số loại gia vị vào. Bên cạnh đó đac có một cái chảo đang được đun nóng. Người nấu sẽ múc từng múc lên chảo để tráng những miếng bánh, dải thịt băm nhuyễn đã được xào chín lên bên trên bề mặt bánh và guộn đều tay để bánh to tròn và đẹp. Hoặc có thể là những con tôm tươi ngon. Khi  ăn ăn kèm với rau thơm và nước chấm.

Bánh Xèo Mỹ Cang - đặc sản bình định

 

 

Bánh ít lá gai

Bánh ít lá gai là một trong những món đặc sản Bình Định thơm ngon làm nên danh tiếng cho món ngon Bình Định. Đây là một loại món ăn được chế biến rất cầu kì và tỉ mỉ. Lá để làm bánh là loại lá gai, sau khi được tuyển chọn những lá to dầy không bị sâu sẽ được đem phơi khô, nấu nhừ với mật mía, sau khi nước nấu đặc và nhuyễn thì cho bột nếp vào khuấy đều. Tiếp đến mang đi giã hoặc xay cho nhỏ để bột gạo, lá gai và mật được hòa quyện vào với nhau.

bánh ít lá gai đặc sản Bình Định làm quà

Bánh ít lá gai với vị ngon đặc trưng của xứ Nẫu (Ảnh: ST).

 

Nhân để làm bánh gồm có đậu tầm, dầu chuối, sợi dừa hoặc có thể dùng dừa khô. Nếu là bánh gai mặn thì có thêm thịt mỡ, đậu phộng trong nhân. Đưa một miếng bánh vào miệng bạn sẽ cảm nhận được đổ thơm dẻo của vỏ bánh, béo ngậy ngậy của đậu phộng, thịt mỡ, mùi thơm của dầu chuối. Tất cả như hòa quyện vào nhau tạo nên một loại bánh ít lá gai rất thơm ngon. Chỉ với 4.000 – 5.000 đồng bạn đã có thể thưởng thức một chiếc bánh Ít thơm ngon rồi.

Mực ngào Bình Định

mực ngào Bình Định đặc sản Bình Định làm quà

Mực ngào cay cay ngọt ngọt là món ăn chơi ưa thích của nhiều người (Ảnh: ST)

 

Một trong những món ăn phải kể đến đầu tiên trong dah sách những món đặc sản Bình Định đó chính là mực ngào. Mực ngào có một hương vị thơm ngon rất riêng thu hút khách du lịch. Để chế biến được món mực ngào người đầu bếp đã phải rất công phu, tài tình tỉ mỉ chăm chút cho món ăn. Mực sau khi đươc thu mua từ những cảng hải sản tươi ngon được đem về sơ chế và chế biến luôn để giữ được độ tươi ngon nguyên vẹn  của mực.

Mực được  ướp cùng tiêu, tỏi, ớt, mắm và một số loại gia vị khác để tạo độ thơm ngon đặc trưng của mực. Món ăn này có vị cay đặc trưng, thơm thơm của các loại gia vị sẽ làm bạn thích thú và muốn ăn ngay từ cái nhìn đầu tiên. Gía của một cân mực ngào giao động từ  200.000 – 400.000 đồng.

Rượu bầu đá Bình Định

rượu Bầu Đá đặc sản Bình Định làm quà

Rượu Bầu Đá nức tiếng(Ảnh: ST)

Không giống như các loại rượu gạo thông thường mà chúng ta vẫn biết đến, rượu bầu đá đặc sản Bình Định được nấu từ gạo lứt và chỉ đạt độ ngon nhất khi sử dụng nguồn nước tại một làng của tỉnh Bình Định.

Tương truyền vào thời xưa, loại thức uống này còn được tiến cung cho vua hằng năm nên được xếp hạng vào loại rượu đặc sản nổi tiếng của cả vùng. Làng Cù Lâm (hay còn gọi là làng nghề rượu Bầu Đá), huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định là làng nấu rượu thủ công từ bao đời nay nên vẫn còn giữ được nét đặc trưng nhất của rượu. Rượu Bầu Đá được đựng trong những chiếc bình sứ tinh xảo và có độ cồn rất cao, lên đến 50 độ nên người uống không quen sẽ thấy rất nóng và dễ say. Thế nhưng, điểm đặc biệt khiến người ta yêu thích những vò rượu này chính là cái vị thanh mát đến lạnh người, chỉ cần uống một ngụm là cả người sẽ thấy khoan khoái, mát lạnh và dễ chịu hơn hẳn. Bạn có thể tìm mua món đặc sản Quy Nhơn Bình Định này tại làng nghề nói trên hoặc các cửa hàng đặc sản phân bố khắp tỉnh.

 

Tré Bình Định

Tré – Cái tên độc và lạ của một món ăn ở Bình Định. Cũng chính bởi cái tên này mà nó đã thu hút nhiều thực khách tìm hiểu và thưởng thức món ăn. Món đặc sản Bình Định này thực ra đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thành Trung Trung bộ thế nhưng nổi tiếng thơm ngon nhất vẫn là Tré Bình Định, nó mang một hương rất riêng mà chỉ những con người ở Bình Định mới làm nên được. Tré là một loại món ăn gần giống với các loại nem bì miền bắc nhưng lại được thay thế bằng nhiều loại nguyên liệu khác nhau như: tai heo, lỗ mũi heo, da heo hoặc có thể là thịt ba chỉ.

 

tré Bình Định đặc sản Bình Định làm quà

Tré, một món ăn độc đáo của Bình Định (Ảnh: ST)

 

các loại nguyên liệu sau khi được thái nhỏ thành các lát thì sẽ được đem đi ướp cùng các loại gia vị như tiêu, tỏi, ớt, nước mắm và thính (bột giã nhỏ từ gạo rang). Chờ cho gia vị hòa quyện vào thịt thì mang đi gói. Tré sẽ được gói bằng lá khế hoặc lá ổi non, lớp ngoài cùng là lá chuối. Gói sau đem đi bảo quản trong khoảng 2 đến 3 ngày là có thể thưởng thức.

Bánh tráng nước dừa

Khi đến du lịch Bình Định không thể không nhắc tới  món bánh tráng nước dừa. Đây là một món đặc sản nơi xứ dừa. Công đoạn chế biến bánh không quá cầu kì nhưng đòi hỏi sự tỉ mỉ, có kinh nghiệm của người tráng bánh. Nguyên liệu của bánh chủ yếu là Củ Mì ( củ sắn) được sắt nhỏ, xay lấy nước. Cơm dừa được nạo thành sợi nhỏ,  nước dừa và vừng đen. Tất cả đều được đổ chung vào một nồi lớn, trộn đều cho các gia vị hòa quyện cùng với nhau và được đun nóng. Bên cạnh đó có một chảo đang được đun nóng. Khi chảo nóng lên người tráng bánh sẽ dùng một cái gáo làm bằng sọ dừa có cán dài múc từng gáo nước bánh lên chảo và tráng đều. Tráng bánh phải đều tay để cơm dừa và vừng đen được dàn đều mặt bánh. Bánh phải tròn mỏng và không bị chỗ dày, chỗ mỏng thì mới là bánh đạt chuẩn. cứ tráng được mười chiếc  bánh thì đem ra phơi. khi ăn bạn cần nướng lên để bánh có độ phồng và dậy hết mùi thơm của vừng, của nước cốt dừa và cơm dừa. Có thể ăn bánh thay cơm ăn chỉ thấy no mà không thấy chán.

 

Bánh tráng nước dừa ẩm thực Bình Định

ẢNH ST

Bún song  thần

Bún song thần có chút khác biệt với các loại bún thông thường khác bởi thay vì sợi bún được làm từ bột gạo hay bột củ mì kéo sợi thì bún song thần lại được làm từ bột đậu xanh. Bún Song thần đặc sản Bình Định có màu trắng đặc trưng. Bún được đặt song  song bên nhau nên có tên là bún song thần. Món đặc sản này có giá trị dinh dưỡng cao hơn các loại bún khác. Tuy nhiên giá thành của bún khá cao bởi 5kg đậu xanh chỉ là được 1kg bún.

Bát bún Song Thần- đặc sản thơm ngon Bình Định

 

Cua Huỳnh Đế

Món món hải sản ngon nức tiếng ở Bình Định. Cua Huỳnh đếđược xem là vua của các loại cua bởi nó có mai đỏ vàng như một bộ long bào uy nghi của các nhà vua, hai bên có gai li ti sắc nhọn, hai chiếc càng to chắc khỏe. Cua thường sống trong những ngách đá trên biển Bình Định. Cua Huỳnh Đế có thịt thơm, chắc  và có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon khác nhau như cua nướng, cua hấp… đều rất thơm ngon.

Cua huỳnh đế đặc sản Bình Định (Ảnh ST)

Cua huỳnh đế đặc sản Bình Định (Ảnh ST)

Nem chợ huyện

Nói đến nem chua bạn sẽ nhớ ngay đến quê hương Thanh Hóa tuy nhiên nem chua đặc sản Quy Nhơn Bình Định mang một hương vị thơm ngon nổi tiếng không kém  nem chua Thanh Hóa. Nem được chế biến một cách cầu kì công phu. Thịt sau khi được lựa chọn những miếng tươi ngon nhất được mua mang về chế biến. Thịt heo được sắt thành những miếng dài mỏng, ướp đều gia vị với tiêu, tỏi, ớt tươi, nước mắn, muối và quan trọng đó là bột thính ( bột được làm từ gạo rang giã nhỏ) để 15 phút cho gia vị ngấm đều vào những miếng thịt rồi đem ra gói. Nem chợ huyện ở Bình Định được bọc một lớp lá khế non sau đó quấn quanh là lá chuối. Nem được gói vuông như một chiếc bánh trưng nhỏ. sau khi gói để để ở một nơi thoáng mát, chỉ vài ngày sau là có thể ăn được.

Nem chợ huyện Bình Định

 

Gié bò Tây  Sơn

Đây là một món ăn khá lạ và độc đáo của Bình Định. Với một vài người đây không phải là một món dễ ăn. Gié bò là một món ăn được chế khá cầu kì công phu. Sau khi mổ bò người ta sẽ lấy phần ruột non nhất của  bò để làm gié. trong phần đoạn ruột non nhất của bò có một chất dịch nhầy màu xanh lá cây. Chất nhầy xanh ấy được gọi là  gié. Gie bò sau khi được lấy ra phải được chế biến luôn để lâu sẽ bị hôi và không dùng được nữa. Gié được đem đi ướp gia vị cùng tiêu, tỏi, ớt, xả, gừng …để ngấm vị. Phần ruột non, tiết và gan bò được sắt thành những miếng vuông vức nấu chung với nồi gié bò. Khi ăn bạn sẽ nhìn thấy màu của gié bò xanh ngát trong bát. Thơm ngon đậm đà. nếu là người lần đầu ăn bạn sẽ thấy không quen miệng. Tuy nhiên món này là món càng ăn càng nghiền. Ăn kèm  với bánh đa và rau sống thì không  còn gì tuyệt vời hơn.

Gies bò Tây Sơn- món ngon Bình Định

ẢNH ST

Gỏi cá chích

Cá Chích là loại cá nước ngọt sống ở các sông hồ ao suối. Cũng bởi Bình Định có nhiều sông hồ nên đây là môi trường thuận lợi để loài đặc sản này sinh sống. Cá Chích đặc sản Bình Định có thân  hình nhỏ, dài. Cá Chích sau khi được  đánh bắt lên sẽ được làm  sạch  và chiên giòn. Vì  là loài cá có kích cỡ nhỏ nên  khi ăn  người ta sẽ kẹp cả con cá đã được chiên vàng ăn với bánh phở cuốn, kèm rau thơm, dưa chuột. Cá ngọt thịt nên bạn ăn sẽ không bị chán. Tuy Nhiên nếu bạn là tín đồ gỏi sống bạn có thể được  thưởng thức gỏi cá chích với những thớ thịt  đc lọc xương làm sạch.

Gỏi cá Chình Bình Định - đặc sản quy nhơn

 Một chuyến du lịch đến Quy Nhơn Bình Định tuyệt vời khôn g chỉ là để thưởng ngoạn những cảnh đẹp, danh thắng đặc sắc mà còn phải kết hợp với việc thưởng thức nhiều món ăn đặc trưng. Đừng quên tìm đến các loại đặc sản Bình Định bạn nhé

 

DỊCH VỤ - KHÁCH SẠN – NHÀ HÀNG Ở QUY NHƠN – BÌNH ĐỊNH

II/ BÌNH ĐỊNH

1/ Khách sạn

KHÁCH SẠN EDEN

60 Mai Xuân Thưởng Phường Lê Hồng Phong, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 sales@edenquynhonhotel.com

02566252222

 

KHÁCH SẠN LAKE VIEW QUY NHƠN

44 Bình Hà Phường Thị Nại, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 sales@lakeviewquynhon.com

(0256) 3891889

 

- Khách sạn Hoàng Yến 2

04 Phan Chu Trinh Phường Hải Cảng, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 02563894499

 hotel2@hoangyenhotel.com.vn

 

Khách sạn Hương Việt

102 Xuân Diệu Phường Hải Cảng, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 0256 6253 333

 sales@huongviethotelqn.vn

 

Khách sạn Sài Gòn – Quy Nhơn

24 Nguyễn Huệ Phường Lê Lợi, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 0256 3829922

 sales3@saigonquynhonhotel.com.vn

 

Khách Sạn Hương Giang

56 Lê Hồng Phong, Phường Lê Lợi, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 khachsan@gmail.com

0256 3821 747

 

Khách sạn Ngọc Hương

221 Nguyễn Huệ, Phường Trần Phú, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 0961380933

 ngochuonghotel@gmail.com

 

Khách Sạn Ngọc Trung

49 Nguyễn Huệ Phường Trần Phú, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 khachsan@gmail.com

0905631969

 

Khách Sạn Fleur De Lys Quy Nhơn 4 Sao

16 Nguyễn Huệ Phường Lê Lợi, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 (0256) 3 666 888

 sales@fleurdelys.vn

 

Khách Sạn Quy Nhơn Blue Sea

06 Bùi Tư Toàn Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 quynhonbluesea@gmail.com

 

Phương Đông Hotel & Apartment

03/21 Ngô Mây Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 (0256) 3747 767

 phuongdonghotelqn@gmail.com

 

Khách Sạn Viet Nam Taste

96 Xuân Diệu Phường Hải Cảng, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 (0256) 364 3333

 vietnamtastehotel@gmail.com

 

Khách sạn kim ngân

71 Trần Anh Tông Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 (0256) 3646.349

 kskimngan.td@gmail.com

 

2/ Nhà Hàng – Quán Ăn

-          Nhà hàng hải sản Coco Jambo

Địa chỉ: Thôn Lý Hưng, Xã Nhơn Lý, TP. Quy Nhơn, Bình Định

Hotline: 098 8177 709 - Website: www.cocojambo.vn - Fanpage: Coco Jambo Quy Nhơn

 

-          S.Blue Restaurant & Bar

Địa chỉ: Đường biển Xuân Diệu, TP. Quy Nhơn

Hotline: 0256 3663 888 - Fanpage: S.Blue Restaurant & Bar

 

-          Sea Fire Salt – Anantara Quy Nhon Villas

Địa chỉ: Anantara Quy Nhon Villas, Bãi Dại, Ghềnh Ráng, TP. Quy Nhơn 

Hotline: +84 256 3840 077 - Fanpage: Anantara Quy Nhon Villas

 

-          Hoàng Thao Seaview

Địa chỉ: Đường số 4, thôn Lý Hưng, xã Nhơn Lý, Quy Nhơn, Bình Định

 Hotline: 0935361090

 Fanpage: Hoàng Thao Seaview – Hải sản Eo Gió, Quy Nhơn

 

-          Bếp Nhà Xứ Nẫu

Địa chỉ: 68 Nam Cao, TP Quy Nhơn 

Hotline: 090 560 90 08 - Fanpage: Bếp Nhà Xứ Nẫu

 

-          Cá Khói Quy Nhơn

Địa chỉ: 04 Nguyễn Trung Tín, TP. Quy Nhơn

Hotline: 096 377 4377 - Fanpage: Cá Khói

 

-          Golden Sand Zone – Hải sản, Nướng & Beer

Địa chỉ: 03 Nguyễn Thiếp, TP. Quy Nhơn 

Hotline: 058 928 3456 - Fanpage: Golden Sand Zone – Hải sản, Nướng & Beer

 

-          Cơm ngon Quy Nhơn

Địa chỉ: 57 Nguyễn Thị Định , Quy Nhơn, Việt Nam

Hotline: 090 535 93 51 – E:comngonquynhon@gmail.com – W: comngonquynhon.vn

 

-          Nhà hàng Mộc Viên

ĐC: 02 Võ Nguyên Giáp, Quy Nhơn, Bình Định, Quy Nhon, Vietnam

Tel: 0868 012 468 - E: nhahangmocvienquynhon@gmail.com

W: comnieuquynhon.com

 

-          Nhà hàng Mộc Việt

ĐC: 30 Chương Dương, TP. Quy Nhơn, Bình Định, Quy Nhon, Vietnam

Tel: 0868 012 468

E:nhahangmocviet@gmail.com

 

Nhà hàng hải sản Hoa Lư 2

Đc: 16 Trương Văn Của

Tel: 090 199 33 55

 

Nhà hàng Hương Việt

ĐC: 122 Xuân Diệu, Phường Hải Cảng, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

Tel: 0256 3894 599 – E: amthuc@gmail.com

 

Nhà hàng sân bay

ĐC:Xã Cát Tân, Huyện Phù Cát, Tỉnh Bình Định

 0834.888.777

 nhahangsanbay86@gmail.com

 

Hải Sản Hướng Dương Quán ( Eo Gió )

 ĐC:Hưng Lương Xã Nhơn Lý, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

T:  091 490 81 33 -  E: tourkyco.huongduongquan@gmail.com

 

Nhà Hàng Ẩm Thực Việt

 ĐC:40 Tăng Bạt Hổ Phường Lê Lợi, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 T: 0256 6520099 - E: amthucviet.quynhon@gmail.com

 

Nhà Hàng Quốc Bảo

ĐC: 02 Mai Xuân Thưởng Phường Trần Hưng Đạo, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 info@quocbaopalace.vn

T: (0256) 6286 666

 

Nhà hàng Sinh Thái An Nam

ĐC: Tổ 2, KV2, Quy Hòa Phường Ghềnh Ráng, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

 0705112379

 amthuc@gmail.com

 

Nhà hàng Thuận Phát – Cơ sở 1

ĐC: Số 105 Hai Bà Trưng, khu phố 5 Phường Bồng Sơn, Thị xã Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định

T: 02563761 771- E: Thuanphat2100@gmail.com

 

Nhà hàng Thanh Thanh

 ĐC: Quốc Lộ 19, Khu Vực Phú Xuân, Thị trấn Phú Phong, Huyện Tây Sơn, Tỉnh Bình Định

 T: 02563.88.0407 -  E: nhahangthanhthanh.tayson@gmail.com

 

Nhà hàng Hương Biển

ĐC: Thiện Chánh 1, Phường Tam Quan Bắc, Thị xã Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định

T: 0256 366 0169 – E: huongbienhoainhon@gmail.com

 

Nhà hàng Cine

ĐC: 94 Xuân Diệu Phường Hải Cảng, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

T: 02566521675 -  E:amthuc@gmail.com

 

NHÀ HÀNG HẦM RƯỢU VINDENAU

ĐC: 58 Xuân Diệu, Phường Hải Cảng, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

T: 0975028858 – E: vdnthungan@gmail.com

 

Nhà Hàng Sáu Cao 2

ĐC: 06 Võ Nguyên Giáp, Phường Đống Đa, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

T: 0256 3792 279 – E:  saucao2restaurant@gmail.com

 

NHÀ HÀNG ANH NHẬT GIA VIÊN

ĐC: 1087 Trần Hưng Đạo, Phường Đống Đa, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

T: 0256 3794 493 – E:amthuc@gmail.com

 

CƠM NIÊU HỘI AN - QUY NHƠN

ĐC: Đường Nguyễn Tất Thành (nối dài) Phường Lý Thường Kiệt, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

T:  0914035334 – E: comnieuhoianquynhon@yahoo.com

 

NHÀ HÀNG QUỐC BẢO

ĐC:02 Mai Xuân Thưởng Phường Trần Hưng Đạo, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định

T: (0256) 6286 666 – E: info@quocbaopalace.vn

 

Cửa hàng đặc sản

-          Đặc Sản Ba Miền Vương Gia

Điện thoại: 0972 920 865 - 0989 635 336

Email: dacsanbamienvuonggia@gmail.com

Địa chỉ:12 Ngô Văn Sở, Tp. Quy Nhơn.

 

-          Đặc sản Mận Khoa

 Địa chỉ: 58 Vũ Bảo, TP. Quy Nhơn
 Hotline: 0906.495.991
 Email: quabinhdinh.vn@gmail.com
 Website: www.quabinhdinh.vn

 

-          Đặc Sản Quy Nhơn – Thanh Liêm

Điạ chỉ 1 : 128 Chương Dương – TP.Qui Nhơn – tỉnh Bình Định

Điện Thoại : 02563821199

Điện Thoại : 02563847818

Email : caothanhliemvn@yahoo.com

 

-          Siêu thị đặc sản Phương Nghi

115-117-119  tây sơn, P.ghành ráng, Tp. quy nhơn, Quy Nhon, Vietnam

Hotline: 091 950 78 39

 

-          Siêu thị đặc sản Hương Biển

ĐC: 07 Nguyễn Tất Thành – Tel: 0905 568 3335

 

 

Land tour đi đảo

1/ Land đi Hòn Khô:

Nhà hàng Hương Biển: Nhà hàng hải sản tại Hòn Khô. Chuyên tour Hòn Khô - Kì Co - Cù Lao Xanh

ĐC: Hải Bắc - Nhơn Hải, Qui Nhon, Vietnam

Tel: 097 546 62 34

E: xuanhieptran2709@yahoo.com.vn

W:honkhoquynhon.vn

 

2/ Land đi đảo Kỳ Co:

Nhà hàng Vương Khang

ĐC: Đường Số 4, Nhơn Lý, Quy Nhon, Vietnam

Tel: 093 255 54 08

E: dulichvuongkhang@gmail.com

W: nhahanghaisanvuongkhang.com

 

Nhà hàng trên đảo Kỳ Co: 0343034636 Mr Nghiêm

 

Kỳ Co Travel

Địa chỉ:Việt Nam, Bình Định, Quy Nhơn.

Thôn Lý Lương, Xã Nhơn Lý

Điện thoại:Hotline: 0983 841 842

Email: kycotravel@gmail.com

Website: www.kycotravel.com

 

My Quy Nhơn

Địa chỉ : Tầng 2 tòa nhà 85/40 Hoàng Văn Thụ - Phường Quang Trung - Tp Quy Nhơn

Điện thoại: 0822207222

 

 

Quán Karaoke ở TP. Quy Nhơn

Karaoke Omely 5 – 07 Nguyễn Tất Thành

Địa chỉ: 07 Nguyễn Tất Thành, Quy Nhơn, Bình Định.

Điện thoại: 0256 3521199 – 0903579799

 

Karaoke Dragon – 07 Lê Duẫn

Địa chỉ: 07 Lê Duẫn, Quy Nhơn, Bình Định

Điện thoại: 0988855744

 

Karaoke Dubai – 86 Huỳnh Mẫn Đạt

Địa chỉ: 86 Huỳnh Mẫn Đạt,Quy Nhơn, Bình Định.

Điện thoại: 0256 6259 797

 

Karaoke Sky – TTTM An Phú Thịnh

Địa chỉ: lầu 6 trung tâm thương mại An Phú Thịnh, Quy Nhơn, Bình Định.

Điện thoại: 090 217 11 99

 

Karaoke Kizz – 120 Nguyễn Thị Định

Địa chỉ: 120 Nguyễn Thị Định, Quy Nhơn, Bình Định.

Số điện thoại: 0256 3646 643

 

Queen Karaoke – 96 Ỷ Lan

Địa chỉ: 96 Ỷ Lan, phường Thị Nại, Quy Nhơn, Bình Định.

Số điện thoại: 093 732 42 09

 

Massage ở TP. Quy Nhơn

-       Zen spa – 270 Nguyễn Thị Định

-       Chạm Spa – 152 Nguyễn Huệ

-       Yến Vy spa – 18/7 Trần Văn Ơn

-       assage Tân Hoàng Gia 2 – 104 Diên Hồng

-       Hoa Đà Spa – 17 Đoàn Thị Điểm

-       Kimochi

  ĐC: 38A Trần Văn Ơn, Quy Nhon, Vietnam

  Tel:052 244 5588

 

Quán nhậu ở TP. Quy Nhơn

-          Quán ốc Khánh

ĐC:  34 Ngọc Hân Công Chúa, TP.Quy Nhơn

Tel: 0965 259 2 33

 

-          Quán Ốc Thuý Kiều

ĐC: 5D Tăng Bạt Hổ, Quy Nhon, Vietnam

Tel:091 782 84 19

 

-          Quán ốc 35K

ĐC: 318 Xuân diệu , Phường Trần Phú, Thành Phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định, Vietnam

ĐT: 098 676 27 32

Email: Ductruc94@gmail.com

 

-          Quán ốc Bông

Địa chỉ: 30 Ngọc Hân Công Chúa, P. Trần Phú, TP. Quy Nhơn, Bình Định

Điện thoại:  0378 136 185

 

-          Quán Ốc 94 Mai Xuân Thưởng

Địa chỉ: 94 Mai Xuân Thưởng, P. Lý Thường Kiệt, TP. Quy Nhơn, Bình Định

 

-          Ốc lốc cốc Quy Nhơn

Địa chỉ: 2/3 Phạm Ngọc Thạch, P. Trần Phú, TP. Quy Nhơn, Bình Định

Điện thoại: 096 794 13 61

Fanpage: Fb.com/100067140188184

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

Số TT

TÊN DANH MỤC

SỐ TRANG

01

Trang bìa

01

02

Lời nói đầu

02

03

Bảng Km đường bộ + thời gian di chuyển

03

04

Biển Đại Lãnh – Khánh Hoà – Khu Du Lịch Đại Lãnh

04 – 05

05

Đèo Cả - cung đường hùng vĩ và tuyệt đẹp tại Phú Yên

05 – 06

06

Núi đá bia, tham khảo thêm về Núi Đá Bia

06 – 07

07

Tài liệu tham khảo về Núi Đá Bia

08 – 09

08

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm

nên phép lạ

08 - 14

09

Tham khảo thêm: Vũng Rô huyền thoại ngày ấy và bây giờ

15 - 17

10

Phú Yên đất nước con người, lịch sử hình thành Phú Yên, TP.Tuy Hoà

18 - 22

11

Xứ Nẫu tại sao có tên gọi như thế

22 – 24

12

Ca dao, tục ngữ Phú Yên

24 – 32

13

Làng nghề truyền thống ở Phú Yên

32 – 38

14

Phú Yên độc đáo nghệ thuật đàn đá thu hút khách du lịch

38 – 39

15

Khám phá hội bài chòi Phú Yên – trò chơi dân gian dậm chất văn

Hoá Việt

29 – 43

16

Lể hội đua ngựa Gò Thì Thùng – nét văn hoá đặc sác của Phú Yên

43 – 45

17

Nhân vật được phong thần qua di sản Hán – Nôm ở Phú Yên

46 – 50

18

Núi Chóp Chài – Núi Nhạn sông Đà

50 – 53

19

Bãi Xép – Gành Ông

53 – 54

20

Tháp Nghinh Phong công trình độc đáo tại Phú Yên – cây cầu gỗ

Ông Cọp

54 – 55

21

Gềnh đá dĩa nơingắm nhìn hoàng hôn thơ mộng tại Phú Yên

56 – 57

22

Chùa Đá Trắng – địa đạo Gò Thì Thùng

57 – 58

23

Thác H’Ly

58 – 59

24

Bến nước buôn Chơ

59 – 61

25

Đầm Ô Loan

61 – 62

26

Nhà thờ Mằng Lăng, Những điểm ăn uống gần nhà thờ Mằng Lăng

62 - 69

27

Huyện sông Cầu, Vịnh Xuân Đài

70 – 71

28

Cá ngựa sông Cầu – chuyên đề về Cá Ngựa

72 – 73

29

Nguồn gốc ra đời của lễ Nghinh Ông

73 – 75

30

Tôm hùm, Đèo Cù Mông

75 – 76

31

Đặc sản Phú Yên

76 – 77

32

Top 10 nhà hàng Phú Yên ngon

77 – 80

33

Phong tục cưới hỏi của người Chăm Phú Yên

80 – 81

34

Phú Yên – Bảo tồn văn hoá dân tộc Chăm

81 – 82

35

Độc đáo trang phục Chăm H’roi

82

36

Dịch vụ Nhà hàng – khách sạn ở Tuy Hoà – Phú Yên

82 – 83

37

Giới thiệu về Quy Nhơn – Bình Định

83 – 89

38

Vịnh Gành Ráng – Bãi Tiên Sa - Độc đáo bút lửa Dzũ Kha

89 - 91

39

Chuyên đề: Hàn Mặc Tử

91 – 94

40

Tham khảo: Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ

94 – 107

41

Đầm Thị Nại – lịch sử Đầm Thị Nại

107 – 108

42

Cầu Thị Nại – bán đảo Phương Mai với nhiểu điểm du lịch hấp dẫn

108 – 111

43

Đảo Kỳ Co – Eo Gió

111 – 113

44

Tịnh xá Ngọc Hoà – Phước Sa Tự chiêm ngưỡng tượng phật đô cao nhất Việt Nam

113 – 115

45

Mũi Vi Rồng

115 – 116

46

Hòn Khô

116 – 118

47

Cù Lao Xanh

118 – 119

48

Chuyên đề: Triều đại Tây Sơn & những chính sách cải cách của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ

119 124

49

Nữ tướng Bùi Thị Xuân – Đền thờ đô đốc Bùi Thị Xuân

124 – 126

50

Danh tướng nhà Tây Sơn: Trần Quang Diệu

126 – 128

51

Bảo tàng Quang Trung – Nhạc võ Tây Sơn Bình Định

129 -132

52

Vùng đất võ Tây Sơn Thượng Đạo

132 – 133

53

Tham khảo thêm: những đặc điểm nổi bật của môn võ Tây Sơn

133 -134

54

Nhạc võ Tây Sơn – một di sản văn hoá độc đáo của Bình Định

134 – 135

55

Chùa Thập Tháp

135 – 136

56

Khu DL Sinh Thái Hầm Hô

136

57

Chuyên đề: Tháp Chăm ở Bình Định

136 – 154

58

Tiểu chủng viện Làng Sông

154 – 158

60

Chùa Thiên Hưng – chốn tâm linh đặc biệt của người dân xứ Nẫu

158 – 164

61

ẩm thực Bình Định

161 – 162

62

Mười món ngon nổi tiếng đất Tây Sơn

162 – 164

63

Những quán ăn ngon nhất ở Quy Nhơn

164 – 167

64

Đặc sản Bình Định nhất định phải thử

167 – 173

65

Dịch vụ khách sạn – nhà hàng Quy Nhơn – Bình Định

173 – 176

66

Cửa hàng đặc sản Bình Định

177 – 178

67

Quán Karaoke, massage, quán nhậu ở Bình Định

178 - 179