Thương Thương là một nàng thơ đúng nghĩa của Hàn Mặc Tử. Không gặp mặt, không nghe tiếng. Chỉ là những tưởng tượng. Thế nhưng những sáng tác của chàng về nàng thật diệu kỳ. Về tuổi tác Thương Thương, nhiều tài liệu nói rất khác nhau. Nhưng theo nhà văn Trần Thanh Địch, khi Hàn Mặc Tử viết Quần tiên hội thì Thương Thương khoảng 15 tuổi. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Tuyển, người đã bỏ công tìm hiểu rất kỹ về cuộc đời Hàn Mặc Tử cho biết, Thương Thương sinh ngày 8/10/1924. Như vậy là vào năm 1939, Thương Thương đã 15 tuổi chứ không phải mới 12 tuổi như một số tác giả khác.
Hàn Mặc Tử là một người đa sầu đa cảm. Gặp ai
cũng đem lòng thương nhớ. Vì thế có rất nhiều hình bóng giai nhân đã đi vào thơ
chàng. Ngoài Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình, Thương Thương là bốn người phụ nữ
ảnh hưởng sâu sắc tới thơ Hàn Mặc Tử, trong từng giai đoạn còn có những người
phụ nữ khác để lại dấu ấn trong thơ chàng. Đầu tiên là Ngọc Sương. Nàng là chị
ruột của Bích Khê, bạn Hàn Mặc Tử, đồng thời là dì ruột của Mộng Cầm. Nguyên
khi Mộng Cầm đi lấy chồng, Bích Khê thấy bạn buồn quá bèn tặng tấm hình của hai
chị em cho Hàn Mặc Tử và giới thiệu đôi chút về Ngọc Sương. Do đó mà Ngọc Sương
cũng đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên Ngọc Sương không hề có mối giao lưu
nào với Hàn Mặc Tử dù qua thư từ. Mãi đến khi Bích Khê mất vào năm 1946, Ngọc
Sương soạn lại di cảo của em mới biết rõ một số bài thơ Hàn Mặc Tử viết về
mình.
Một người nữa là Thanh Huy. Nàng tên thật là
Võ Thị Thu Huy, là chị vợ nhà văn Trần Thanh Địch, khi đó đang sinh sống ở Phan
Thiết. Cũng như Ngọc Sương, Thanh Huy chỉ làm quen qua thư chứ chưa gặp mặt Hàn
Mặc Tử. Đó là lúc chàng đã phát bệnh nặng. Thanh Huy cũng đang tập tành làm
thơ, được Bích Khê khuyên nên viết thư động viên Hàn Mặc Tử. Vì thế một hôm Tử
đang chán nản buồn phiền thì có bức thư bỏ trong phong bì màu xanh của Thanh
Huy gửi đến. Lập tức chàng sáng tác bài Bức thư xanh: "Thanh Huy hỡi nàng
chưa là châu báu/Cớ làm sao phước lộc chảy ra thơ/Duyên làm sao cho Trí đến dại
khờ/Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ gấm/Ta đã nuốt và hình như đã cắn/Cả lời thơ cho
vãi máu nàng ra". Bài thơ viết một cách dữ dội, Thanh Huy đọc và thôi
không liên lạc với Tử nữa vì khiếp đảm.
Mỹ Thiện cũng là một nàng thơ để lại dấu ấn
mạnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Nàng người gốc Huế, ở cạnh nhà Hàn Mặc Tử tại thành
phố Quy Nhơn. Nàng sống với cha và bà mẹ kế xấp xỉ tuổi nàng. Mỹ Thiện rất giỏi
âm nhạc dân tộc, nổi tiếng là một cây đàn tỳ bà tài hoa, đặc biệt có thể chơi
đủ năm cây đàn tranh, nhị, nguyệt, bầu, tỳ bà. Những đêm khuya, nàng thường dạo
đàn tranh réo rắt. Hàn Mặc Tử chưa một lần gặp mặt Mỹ Thiện nhưng chàng bị ám
ảnh bởi tiếng đàn. Ở thành phố Quy Nhơn dạo ấy, không chỉ riêng Hàn Mặc Tử mà
nhiều chàng trai khác cũng mơ tưởng đến người ngọc. Khi bệnh tình càng nặng,
tiếng đàn Mỹ Thiện càng làm cho chàng khó ngủ.
Mỹ Thiện không thoát khỏi hồng nhan bạc phận.
Sống với người mẹ kế, nàng thường xuyên chịu đựng những ganh ghét. Một ngày kia
nàng đã kết liễu đời mình bằng mười viên thuốc ngủ Véronal. Cái chết của Mỹ
Thiện đánh tan mọi ngờ vực của những người ác ý và bà mẹ kế, là nàng đã hoang
thai. Các bác sĩ đã công bố nàng vẫn còn là cô gái trinh tiết. Ngay lập tức Hàn
Mặc Tử vào buồng đóng cửa lại và bài Cô gái đồng trinh ra đời tức khắc:
"Đêm qua trăng vướng trên cành trúc/Cô láng giềng bên chết thiệt rồi/Trinh
tiết vẫn còn nguyên vẹn mới/Chưa hề âu yếm ở đầu môi/Xác cô thơm quá thơm hơn
ngọc/Cả một mùa xuân đã hiện hình". Hình bóng Mỹ Thiện từ đó còn trở lại
nhiều lần trong thơ chàng. Nguyễn Bá Tín em chàng kể lại: "Cô gái đồng
trinh từ đó trở thành một hiện tượng kỳ lạ, một nàng thơ dẫn dắt anh vào những
nhớ thương bàng bạc bâng quơ, hoặc hòa nhập vào những lời thơ quằn quại xót xa
mà cuộc đời nàng đã đi qua ngắn ngủi"...
Hàn Mặc Tử đã sáng tác được 5 tập thơ, trong
đó Lệ Thanh Thi Tập là tập thơ đầu tiên. Trong tập này bài Buồn thu có những
câu khá hay: "Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt/Cảnh sắp về đông mắt sẽ
vơi". Đây là bài thơ liên quan đến một người phụ nữ: đó là cô Trà. Nàng là
người về bên ngoại của Hàn Mặc Tử nhưng không bà con. Chàng đã gặp nàng vào cái
thời còn rất trẻ, tính tình khi ấy hết sức nhút nhát. Nàng chờ chàng ngỏ lời
nhưng mãi không thấy chàng lên tiếng. Mà con gái Huế thời ấy luôn lấy chồng
sớm. Chàng chưa nói được gì thì nàng đã sang sông. Sực tỉnh, chàng làm bài Buồn
thu với nhiều tiếc nuối. Đây có thể coi là hình bóng người phụ nữ đầu tiên đi
vào thơ chàng...
Ai cũng biết Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong. Nhưng
ngoài căn bệnh mà người ta cho rằng đã ảnh hưởng đến thơ của Tử, bật ra thành
những lời gào thét uất hận, thì trong thơ Tử còn có những hình ảnh thật kỳ dị
khó hiểu có thể liên quan đến một nguyên nhân khác. Chính người em ruột của Tử
đã đặt vấn đề về một căn bệnh tâm thần mà Tử mắc phải. Có thể như thế được
chăng?
Trong thơ Tử có những hình ảnh thật kỳ dị,
đôi lúc ma quái rùng rợn. Đến nỗi Hoài Thanh đã phải công nhận là: "Chính
như lời Hàn Mặc Tử nói trong bài Thơ điên, vườn thơ của người rộng thinh không
bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh".
Quả đúng như thế. Đọc thơ của chàng đôi lúc
thấy sởn da gà: "Tôi ngồi dưới bến đợi nường Mơ/Tiếng rú ban đêm rạng bóng
mờ!/Tiếng rú lòng tôi xô vỡ sóng/Rung tầng không khí, bạt vi lô/Ai đi lẳng lặng
trên làn nước/Với lại ai ngồi khít cạnh tôi?/Mà sao ngậm cứng Thơ đầy
miệng/Không nói không rằng nín cả hơi", "Lụa trời ai dệt với ai
căng?/Ai thả chim bay đến Quảng Hằng?/Và ai gánh máu đi trên tuyết/Mảnh áo da
cừu ngắm nở nang", "Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm/Cho trăng
ngập, trăng dồn lên tới ngực/Cho hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức/Rồi bay
lên cho tới một hành tinh/Cùng ngả nghiêng lăn lộn với muôn hình/Để gào thét
một hơi cho rởn ốc".
Quách Tấn đã nghe Hàn Mặc Tử kể lại những câu
chuyện liên quan đến các hình ảnh người gánh máu đi trên tuyết và người ngồi
khít cạnh tôi như sau: "Đêm ấy - theo lời Tử kể - vì tiết sắp sang đông
nên bãi biển không một bóng người qua lại, mặc dù trời không lạnh và trăng sáng
như ban ngày. Đêm tạnh hết sức, tạnh đến nỗi nghe cả tiếng chiêm bao! Cảnh trời
thật mênh mông bát ngát. Lòng tôi lại mênh mông bát ngát bằng hai... Thân tôi
chìm trong không gian vô tận và hồn tôi chìm trong cõi lòng rộng vô biên. Tôi có
một cảm giác ngờm ngợp... Chợt nhìn lên trời thấy bóng trăng đã đứng đầu, và
nhìn bên cạnh thấy một bóng người ngồi sát. Liền đó từ trong bóng người ngồi
cạnh tôi, bước ra một bóng người thứ hai, đi từ từ ra biển và bước lững thững
trên mặt nước... Rồi hai bóng đều biến mất và mặt biển đông lại thành tuyết
sáng ngời dưới bóng trăng khuya. Thoạt hiện ra một người, thân vóc nở nang,
mình khoác chiếc áo lông, vai khoác hai thùng thiếc đựng đầy nước óng ánh.
Người ấy bước đi thì nước trong thùng tung ra và hóa thành huyết đổ lã chã trên
tuyết. Người gánh máu đi lần vào bờ... Tôi khiếp quá hét lên thành tiếng, vụt
đứng dậy, chạy một mạch về nhà. Vừa đến nhà, mệt quá, té nằm trước thềm, ngút
hơi... Từ ấy cảnh tượng kia ám ảnh tôi mãi...". Quách Tấn viết tiếp:
"Tử lại nói: Cảnh tượng người gánh máu đi trên tuyết khi trông thấy thì
rùng rợn hơn cảnh tượng người ngồi bên cạnh tôi. Song về sau mỗi lần nghĩ lại,
cảnh tượng người ngồi bên cạnh lại gây một cảm giác rùng rợn hơn".
Đó là những trạng thái "xuất thần"
mà hàng mấy chục năm, tất cả những người nghiên cứu về thơ Hàn Mặc Tử không ai
lý giải được nguyên nhân, kể cả Quách Tấn. Người ta chỉ cho rằng nó bật ra từ
sự đau khổ nung nấu mà Tử phải gánh chịu mà thôi.
Người em kế của Tử, sau nhiều năm lặng lẽ
chiêm nghiệm, đã công bố một kết luận vào năm 1991: "Trong quá trình chung
sống bên anh, tôi ghi nhận anh có hiện tượng suy nhược tâm thần, bệnh đó đã
được nhiều người bạn tôi, chuyên khoa tâm lý sau này xác nhận là hiện tượng
"névrose", một chứng rối loạn thần kinh nào đó, mà con người vẫn còn
sáng suốt và rung cảm bén nhạy, vẫn làm chủ được trí óc mình".
Nguyễn Bá Tín cho biết, có một tai nạn đã xảy
ra đối với Tử vào lúc nhỏ, có thể ảnh hưởng đến tâm thần chàng về sau. Đó là
lúc chàng khoảng 17-18 tuổi, suýt bị chết đuối ở biển Quy Nhơn. Sau khi thoát
chết, Tử trở nên hoảng loạn khác thường. Từ đó chàng bỏ luôn thói quen tắm
biển, sợ nước, ít hoạt động, hình thể gầy nhỏ đi. Nhiều biểu hiện làm cho gia
đình sợ rằng Tử bị tâm thần, nhưng sau đó thấy chàng bình thường, thậm chí còn
tập làm thơ nên cũng quên đi nỗi lo lắng.
Tuy nhiên với Tử thì khác. Chàng quả quyết
rằng trong cơn nguy biến đó, chàng đã được tận mắt thấy Đức Mẹ hiện ra. Đó là
giây phút mà chàng run sợ đến ớn lạnh toàn thân. Sau này Tử đã sáng tác bài Ave
Maria: "Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy/Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới
thế/Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ/Giòng thao thao bất tuyệt của nguồn
thơ". Chi tiết này càng củng cố cho nhận định của Nguyễn Bá Tín là đúng.
Những vần thơ Chế làm ra đã khiến Tử kinh
ngạc. Đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác: những bài
thơ điên loạn.
Quy Nhơn - Bình Định là vùng đất thiêng. Năm
trăm năm trước, vùng đất này là chiến trường đẫm máu. Một vương triều sụp đổ,
bao nhiêu chiến binh tử trận. Thành Đồ Bàn ngày nào còn lại một dãy gò sỏi mênh
mông với những tháp Chàm đổ nát. Từ xưa, nhiều thi sĩ khi qua đây đã cảm xúc
bật ra những vần thơ thống thiết.
Vào những năm 1930 - 1945, Quy Nhơn - Bình
Định bỗng trở thành vùng đất cực thịnh của văn chương nghệ thuật. Thật kỳ lạ,
nơi đây tập trung toàn những thi sĩ tầm cỡ. Thuở ấy, có cậu học trò nhút nhát
thích làm thơ tên là Phan Ngọc Hoan. Đắm mình trong không gian huyền hoặc của
cõi Đồ Bàn, Hoan đã đặt cho mình cái tên Chế Lan Viên rồi khóc than người đã
khuất bằng tập thơ Điêu tàn với những câu thơ thật lạ lùng: "Đây, chiến
địa nơi đôi bên giao trận/Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang/Máu Chàm cuộn tháng ngày
niềm oán hận/Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn".
Năm 1936, từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn, Hàn
Mặc Tử đã gặp Chế Lan Viên. Chế tìm đến Tử như tìm đến một ông thầy dạy làm
thơ. Thế nhưng những vần thơ của Chế đã khiến Tử kinh ngạc: "Chiều
hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước/Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn/Hơi người chết
tỏa đầy trong gió lướt/Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ xanh non/Trên một nấm mồ
tàn ta nhặt được/Khớp xương ma trắng tựa não cân người/Tủy đã cạn nhưng vẫn đầm
hơi ướt/Máu tuy khô còn đượm khí tanh hôi". Trước đó, Hàn Mặc Tử đã nghiên
cứu rất kỹ về trường phái thơ tượng trưng của Pháp. Chàng mong muốn tạo ra một
trường phái thơ cho riêng mình. Giờ đây Chế đã làm lóe lên trong đầu Tử cái mà
lâu nay chàng đi tìm nhưng chưa thấy. Trước đó, khi Yến Lan hoàn thành bản thảo
tập Giếng loạn, Tử đã mơ hồ nghĩ đến một thứ thơ "không giống ai".
Bây giờ đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác: những
bài thơ điên loạn. Vì vậy ngay trong ngày Chế Lan Viên và Yến Lan đem bản in
đặc biệt của tập Điêu tàn đến cho chàng xem, chàng hồ hởi công bố ngay việc
thành lập "Trường thơ loạn".
Từ đó, dưới ngọn cờ của chủ soái Hàn Mặc Tử,
các thành viên trong "Trường thơ loạn" say sưa sáng tác. Có những đêm
cả bọn đem chăn màn ra bờ biển ở lại suốt đêm để thả hồn theo những vần thơ kỳ
dị. Thơ của các thi sĩ "Trường thơ loạn tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng
ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy... Tất cả say sưa bước chân vào cái thế giới
rùng rợn đó. Nếu Hàn Mặc Tử thích thú với hồn để viết "Ta muốn hồn
trào ra đầu ngọn bút/Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta/Bao nét chữ quay cuồng như
máu vọt/Như mê man chết điếng cả làn da" thì Chế Lan Viên lại
khoái... sọ người hơn: "Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ dại/Muốn riết mi
trong sức mạnh tay ta/ Để những giọt máu đào còn đọng lại/Theo hồn ta tuôn chảy
những lời thơ/Ta muốn cắn mi ra từng mảnh nhỏ/Muốn điên cuồng nuốt cả khối
xương khô".
Việc nhóm thơ Bình Định cho ra đời
"Trường thơ loạn" khiến văn thi hữu khắp nơi bàn tán xôn xao. Nhiều
người hoan nghênh nhưng cũng không ít người chê bai. Hoài Thanh kể: "Tôi
đã nghe người ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo: Hàn Mặc Tử thơ với
thẩn gì, toàn nói nhảm ! Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: Thơ gì mà rắc rối
thế! Mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc gì, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa
mình!". Đặc biệt Xuân Diệu là người ghét cay ghét đắng những vần thơ điên
của Tử. Hoài Thanh kể tiếp: "Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mặc Tử khi
viết đoạn này: Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chân thi sĩ)
với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa
kêu: Tôi điên đây! Tôi điên đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu.
Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống".
Đúng là những vần thơ điên của các thi sĩ này
đã gây sốc cho nhiều người. Nhưng thật ra đó chỉ là một cách giải quyết sự bế
tắc trong tư tưởng của mình mà thôi. Hàn Mặc Tử đã dẫn dắt các thi sĩ sáng tác
khá nhiều những vần thơ kỳ dị cho đến lúc chàng rời bỏ cuộc đời vào năm 1941.
Sang năm 1942, đến lượt Bích Khê cũng vĩnh viễn ra đi. "Trường thơ
loạn" từ đó tan rã.
Nguyên nhân khởi phát căn bệnh phong của Hàn
Mặc Tử được nhiều sách báo dẫn lại như sau: Một hôm từ Sài Gòn ra Phan Thiết
thăm Mộng Cầm, chàng được Mộng Cầm dẫn đi dạo chơi lầu ông Hoàng...
Đến lúc chiều tối trở về, băng qua cánh đồng
thì gặp cơn mưa giông. Cả hai chạy vào trú trong một căn chòi bên đường. Mưa
mỗi lúc một lớn, trời tối đen như mực. Từ trong căn chòi, hai người nhìn ra bên
ngoài thấy có những quả cầu lửa màu xanh dưới đất vùn vụt bay lên. Những quả
cầu lửa chớp tắt liên tục. Đồng thời lại nghe tiếng rền vang ầm ầm như ai lăn
thùng sắt trên đường đá.
Hai người rất hoảng sợ, ngồi ôm nhau run rẩy
trong căn chòi. Một lúc trời quang mây tạnh, bước ra khỏi nơi trú mưa thì mới
biết mình đang ở cạnh một ngôi mộ ai mới chôn. Trở về Sài Gòn ít hôm, Tử thấy
ngứa ngáy khó chịu trong người. Một thời gian thì nổi lên những vết đỏ như đồng
xu ở trên lưng, sau lan dần ra khắp người. Căn bệnh phong xuất hiện từ đó.
Những thông tin này đăng tải lên kèm với lời
phê phán việc Mộng Cầm bỏ Tử đi lấy chồng trong lúc Tử bị căn bệnh quái ác hành
hạ khiến Mộng Cầm hết sức day dứt. Theo quan niệm dân gian trước nay, thì căn
bệnh phong phát ra do người ta nhiễm phải hơi dưới ngôi mộ mới bốc lên trong
lúc mưa giông. Nhiều người tin điều đó là có thật nên càng trách Mộng Cầm nhiều
hơn, rằng nàng đã gián tiếp đưa chàng đến chỗ bệnh tật rồi lại vội vã bỏ ra đi.
Tuy nhiên, ngay từ thời ấy, khoa học đã chứng
minh căn bệnh phong do loại vi trùng có tên là Hansen gây ra. Chính khi Hàn Mặc
Tử nhập bệnh viện phong Quy Hòa, bệnh viện Quy Nhơn đã làm xét nghiệm cho chàng
và tìm ra vi trùng Hansen trong cơ thể chàng.
Nhưng có một điều gây khó hiểu cho nhiều
người là việc phát bệnh của Tử lại có những chi tiết trùng hợp với quan niệm
dân gian nói trên. Nguyễn Bá Tín cho biết, chính Hàn Mặc Tử đã kể với bà mẹ về
chuyện mắc mưa giông trong nghĩa địa: "Mẹ tôi linh cảm có chuyện chẳng
lành. Bà vặn hỏi mãi thì anh kể chuyện có hôm cùng người bạn đi chơi Phan
Thiết, gần tối băng qua cánh đồng, thì gặp phải cơn mưa giông dữ dội...".
Ngay cả Mộng Cầm cũng thừa nhận có chuyện như vậy. Hãy đọc đoạn đối thoại giữa
Châu Hải Kỳ và Mộng Cầm trên tạp chí Phổ Thông số ra ngày 15/8/1961:
- "Như vậy xin lỗi bà, bà có đi lầu ông
Hoàng và có gặp mưa không?
- "Tôi nhận có đi chơi lầu ông Hoàng với
Hàn Mặc Tử, có gặp mưa, có ngồi ở nghĩa địa, nhưng không phải vì đó mà Hàn Mặc
Tử bị phong như anh Quách Tấn đã viết. Nếu Hàn Mặc Tử bị phong sao tôi không hề
hấn gì cả? Hai người cùng ngồi núp mưa một chỗ kia mà!".
Song song với câu chuyện trên, có một câu
chuyện hoang đường khác cũng liên quan đến căn bệnh phong, được truyền tụng
trong dân gian thời ấy. Đó là sự báo thù của những người chiến bại ở thành Đồ
Bàn khi xưa. Sự báo thù chỉ nhắm vào những thanh niên đẹp trai, học giỏi. Lời
đồn đại này làm cho người dân thành phố Quy Nhơn thời ấy luôn sống trong hồi
hộp lo âu. Lâu lâu ở thành Quy Nhơn, thấy vắng bóng một thanh niên khỏe mạnh,
đẹp trai là mọi người hiểu anh ta vừa phát bệnh phong, phải đi trốn. Lời đồn này
đã có từ xa xưa, trở thành một truyền thuyết lưu truyền qua nhiều thế hệ. Người
dân Bình Định, đặc biệt là Quy Nhơn, bao giờ cũng nơm nớp lo sợ sự báo thù ghê
gớm của một giống người Hời. Và thật thú vị, cũng chính những truyền thuyết này
là chất men sáng tạo cho những nhà thơ điên của thành Quy Nhơn. Chế Lan Viên
cùng với Yến Lan thường lang thang bên những tháp Chàm đổ nát để tưởng nhớ về
những người Hời huyền thoại đó. Trong bài thơ Trên đường về, Chế Lan Viên viết:
"Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn/Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau
đi". Hàn Mặc Tử cũng đã từng viết: "Mà vì đâu những tháp Hời kiêu
ngạo/Hằng muôn năm sống mãi dưới sương đêm".
Điều đáng tiếc nhất, là Hàn Mặc Tử, một người
rất Tây học, nghiên cứu đủ thứ về văn minh phương Tây, từ thi ca cho đến triết
học, lại không chịu tin vào Tây y. Chàng cũng bắt chước theo những người ít học
khác khi biết mình bị mắc bệnh phong là tìm một nơi hoang vu vắng vẻ để lẩn
trốn chính quyền, lẩn trốn người quen rồi chạy chữa bằng những thứ thuốc của
các lang băm. Cho đến cuối cùng, khi đã kiệt quệ sức lực thì mới chịu vào bệnh
viện. Và vì thế nên mọi chuyện đã trở nên quá muộn màng.
Những năm 1938 - 1939, Tử đau đớn dữ dội bởi
bệnh tật, nhưng trước mặt bạn bè chàng cố kìm nén. Chàng chỉ gào thét trong
thơ: "Trời hỡi! bao giờ tôi chết đi /Bao giờ tôi hết được yêu vì/Bao giờ
mặt nhật tan thành máu/Và khối lòng tôi cứng tợ si", "Tôi vẫn còn đây
hay ở đâu/Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu/Sao bông phượng nở trong màu huyết/Nhỏ
xuống lòng tôi những giọt châu".
Lúc này, sau một thời gian chữa chạy bằng
đông y, chẳng những căn bệnh phong cùi không thuyên giảm chút nào mà ngược lại
còn làm thân thể chàng ngày một tiều tụy đi vì những tác dụng phụ của thuốc.
Mặt khác, thông tin về việc chàng bị mắc bệnh phong đã đến tai chính quyền địa
phương. Do đó, chàng phải liên tục thay đổi chỗ ở để tránh sự truy đuổi gắt gao
của Sở Vệ sinh công cộng thành phố Quy Nhơn. Cuối cùng, gia đình tìm thuê cho
chàng được một nơi ở khá kín đáo trong khu lao động nghèo nằm bên cồn cát trắng
ven biển. Đó là một túp lều tranh mà theo Hoài Thanh kể là rách nát đến độ phải
lấy giấy báo và bao thư che những chỗ dột trên mái nhà.
Trong thời kỳ bệnh tật, Tử sáng tác được ba
tập thơ là Thơ điên, Xuân như ý và Thượng thanh khí. Nhưng có
điều đặc biệt là, những câu thơ của chàng cứ tiến dần đến chỗ rối rắm khó hiểu
theo tiến triển bệnh tật. Nhiều câu thơ đọc lên nghe rất hay nhưng độc giả hầu
như không ai hiểu tác giả muốn nói gì. Tuy nhiên, theo lời Quách Tấn thì, điều
lạ lùng là dù rối rắm khó hiểu như thế nhưng thơ Tử được người đời chuyền tay
nhau đọc thuộc lòng, đọc như đọc kinh, không hiểu gì cũng đọc thuộc làu làu.
Như thể thơ của chàng lúc đó có một ma lực gì. Hoài Thanh cũng xác nhận điều lạ
lùng này: "Trong ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mặc Tử. Bao nhiêu thơ
Hàn Mặc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mặc Tử đâu
phải chuyện dễ. Đã khúc mắc mà lại nhiều: tất cả đến sáu, bảy tập. Họ thuộc hết
và chọn những lúc đêm khuya thanh vắng họ sẽ cao giọng, ngâm một mình. Bài thơ
đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vị giáo chủ".
Chúng ta biết rằng, lúc Hàn Mặc Tử còn sống,
chàng chỉ mới xuất bản được mỗi một tập Gái quê vào năm 1936, khi
chàng còn khỏe mạnh và có tiền. Còn phần lớn thơ chàng làm ra trong thời kỳ
bệnh tật này thì đến với người yêu thơ qua cách người này cho người khác mượn
sổ thơ để chép tay. Thơ của Tử không chỉ làm thích thú những cô cậu học sinh
trung học vốn mơ mộng mà còn lan tỏa ra nhiều giới khác. Và thật đáng ngạc
nhiên, nó còn lay động đến cả giới tu hành. Có một nữ tu trẻ đẹp chừng mười bảy
mười tám tuổi ở ngôi chùa Liên Tôn gần đó, vì ái mộ thơ Tử nên đã không ngần
ngại căn bệnh phong cùi gớm ghiếc, ghé vào căn chòi để thăm chàng. Về sau chàng
đã đưa ni cô vào trong thơ của mình với những tình cảm khá đặc biệt.
Một điều nữa, không những ma lực có ở trong
lời thơ Tử mà còn nằm trong chính con người Tử khi chàng cất giọng đọc thơ. Yến
Lan kể: "Nếu ai đã có lần nghe anh ngâm thơ thì mới cảm thấy hết cái cảm
giác kỳ lạ lần đầu bắt gặp: nôn nao, nôn nao. Và cộng với lời thơ, gây nên một
không khí mông lung. Chúng tôi như bị dồn vào thế giới nào có suối, có đồi, có
bóng dáng những cuộc hành hương, và nhạc điệu cung văn, đồng bóng".
Yến Lan, Chế Lan Viên, Hoàng Tùng Ngâm, Trần
Kiên Mỹ... là những người bạn thân thiết thường ghé thăm chàng để an ủi chàng,
một tâm hồn quá khổ đau lúc này như chàng viết: "Lòng ta sầu thảm hơn mùa
lạnh/Hơn hết u buồn của nước mây/Của những tình duyên thương lỡ dở/Của lời rên
xiết gió heo may". Bạn bè đã được nghe chàng đọc những vần thơ như chảy ra
từ xương tủy. Yến Lan kể tiếp: "Anh đã biến thành những chuỗi dài đau khổ,
cao thấp chen nhau như từng tia lửa bùng lên, như mảnh lụa tươi vàng bị xé vụn.
Anh đã lấy xác thịt minh họa cho lời thơ. Có khi chúng tôi chảy nước mắt. Còn
anh, anh đã thành một người say. Các lần ngâm thơ của anh đều diễn ra như thế
vì những bài thơ ấy đều là những bài xót xa nhất. Đặc biệt là hôm anh ngâm bài
Thánh nữ đồng trinh Maria. Xáo trộn trong đau thương, còn có nỗi trìu mến hân
hoan kỳ lạ".
Hàn Mặc Tử đã đắm mình trong cái không gian
vừa đau thương vừa bay bổng đó để làm ra những vần thơ khiến người đời say đắm
cho đến lúc chàng phải bước chân vào trại phong Quy Hòa vào ngày 20/9/1940.
Căn bệnh phong không phải là căn bệnh có thể
làm chết người một cách nhanh chóng. Đó là căn bệnh chủ yếu làm cho con người
bị tàn phế. Một bệnh nhân cùng nhập viện với Tử vào lúc ấy, ở cùng phòng bệnh
với Tử tên là Nguyễn Văn Xê vẫn tiếp tục sống thêm 55 năm nữa sau khi Tử qua
đời, cho đến năm 1995 mới mất. Có lẽ Tử cũng biết điều đó vì anh rể của Tử hồi
đó là y tá trong Bệnh viện Quy Nhơn và Tử cũng là người có trình độ hiểu biết
cao. Nhưng Tử vẫn luôn luôn nghĩ về cái chết.
Tử đã đoán trước được cái ngày mình sẽ ra đi.
Trong bài Trút linh hồn chàng viết: "Máu đã khô rồi, thơ cũng khô/Tình ta
chết yểu tự bao giờ/Từ nay trong gió, trong mây gió/Lời thảm thương rền khắp
nẻo mơ". Đó là một lời tuyên bố chắc chắn. Từ khi viết bài thơ này cho đến
lúc Tử ra đi là khoảng thời gian khá xa và Tử mất là vì bệnh kiết lỵ. Thế nhưng
chàng vẫn viết: "Ta trút linh hồn giữa lúc đây/Gió sầu vô hạn nuối trong
cây/Còn em sao chẳng hay gì cả/Xin để tang anh đến vạn ngày".
Em ở đây là ai? Có lẽ cả Hoàng Cúc, Mộng Cầm,
Mai Đình lẫn Thương Thương và nhiều hình bóng giai nhân khác. Tất cả những nàng
thơ ấy, lúc này đều đã rời xa chàng. Cách đó một thời gian, chàng đã tạm biệt
Thương Thương theo lời đề nghị của người anh ruột nàng là Trần Tái Phùng:
"Than ơi! Hỡi! Biệt ly chan chứa/Tưởng cùng em vui thú hưởng tiêu dao/Anh
sắp đi và hai hàng lệ ứa/Cả đau thương dồn dập xót tâm bào".
Lúc này, nhiều câu thơ Tử làm ra cứ như lời
tiên tri về cái chết của mình. Đây không phải là đặc điểm của những bài thơ
thuộc Trường thơ loạn như đã nói trước đây. Bởi chẳng hạn trong Điêu tàn, Chế
cũng có dùng những từ ngữ để chỉ sự chết chóc nhưng tuyệt nhiên ta không thấy
bóng dáng thần chết ở đâu mà chỉ là biểu hiện của triết lý thơ điên loạn mà
thôi. Còn một số câu thơ Tử viết về cái chết thì lại khác. Ý thơ rất là
"gở". Chẳng hạn Tử viết: "Ta còn trìu mến biết bao người/Vẻ đẹp
xa hoa của một thời/Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng/Ôi! Giờ hấp hối sắp chia
phôi".
Khoảng giữa tháng 9/1940, Tử nhắn Quách Tấn
từ Nha Trang ra Quy Nhơn gặp chàng. Lúc này chàng đã được làm xét nghiệm và
người ta đã phát hiện ra vi trùng Hansen trong cơ thể chàng.
Tử di ngôn lại cho Quách Tấn lo giữ gìn tài
sản văn chương của chàng, sau này chàng chết đi thì tùy theo đó mà xử lý. Rồi
chàng nhập bệnh viện phong. Nhập viện để chữa trị căn bệnh phong nhưng chàng
coi như mình sắp đi vào cõi chết. Vì sao vậy?
Trong Duyên kỳ ngộ, nhân vật Nàng có nói:
"Sao thơ anh nhuộm toàn màu ly biệt/Rên không thôi và nức nở cả ban
đêm". Quả đúng như vậy thật. Ly biệt và chết chóc luôn có mặt trong thơ Tử
vào thời gian sau này: "Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt/Mộng có thành
là mộng ở đầu hôm", "Không ai trang điểm má đào/Cho ta say chết đêm
nào đêm nay"... Quách Tấn cho biết, viết thư cho bạn, Tử hay nói về cái
chết: "Đó là ngưỡng cửa phải bước qua để đi đến cõi vĩnh hằng". Cũng
trong vở kịch thơ độc đáo này, có một đoạn thơ làm cho nhiều người ngạc nhiên
vì nó rất giống những gì xảy ra sau này. Đó là khi nhân vật Chàng sắp sửa chia
tay nhân vật Nàng, đã thốt ra lời than khóc: "Một mai kia ở bên khe nước
ngọc/Với sương sao anh nằm chết như trăng/Không tìm thấy nàng tiên mô đến
khóc/Đến hôn anh và rửa vết thương tâm". Theo hồi ức của người bạn đồng
bệnh Nguyễn Văn Xê của Tử thì Tử mất vào ngày 11/11/1940 trong cô đơn lặng lẽ,
không có bất kỳ một người thân nào bên cạnh. Ngay buổi chiều ngày 11/11/1940,
tang lễ được tiến hành một cách đơn giản. Nơi Hàn Mặc Tử yên nghỉ nằm bên cạnh
con suối, về mùa mưa nước thường dâng đầy bờ. Điều này y như câu thơ trên mà
chàng đã viết trước đó rất lâu.
Chàng đã nằm lại bên "khe nước
ngọc" đó cho đến gần 20 năm sau mới được gia đình đưa đi nơi khác. Năm
1959, gia đình Tử cùng với người bạn thân là Quách Tấn tiến hành tìm một mảnh
đất khác cho chàng. Sinh thời chàng rất thích cảnh Đèo Son nhưng vì ở đó đang
là khu quân sự thuộc chính quyền Sài Gòn nên đành phải tìm đến Gành Ráng. Ngày
13/1/1959, Tử được cải táng về Gành Ráng.
Như vậy là, một đời thơ dữ dội của nhà thơ có
số phận lạ kỳ Hàn Mặc Tử đã kết thúc. Chàng đã được thỏa mãn cái ước ao mà ngày
nào vị phó soái của Trường thơ loạn Chế Lan Viên từng viết: "Hãy cho tôi
một tinh cầu giá lạnh/Một vì sao trơ trọi cuối trời xa/Để nơi ấy tháng ngày tôi
lẩn tránh/Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo".
Trong loạt bài này, chúng tôi đã sử dụng bút
danh Hàn Mặc Tử cho nhà thơ. Tuy nhiên cũng xin đưa ra đây vấn đề tranh cãi hai
bút danh này cho bạn đọc tham khảo. Vì đây là một cuộc tranh cãi thú vị.
Cho đến nay, những nhà sưu tầm, nghiên cứu,
những người quan tâm vẫn phân thành 2 "trường phái" khác nhau: Hàn
Mạc Tử và Hàn Mặc Tử. Vì thế các cuốn sách, bài báo in ra cũng chia làm 2 nhóm:
nhóm Mặc và nhóm Mạc.
Những "đại biểu tiên phong" cho
"trường phái Mạc" có thể kể: Giáo sư Hoàng Như Mai, Giáo sư Văn Tâm,
nhà sưu tầm Phạm Xuân Tuyển. Phạm Xuân Tuyển đã làm một bản thống kê những tài
liệu sử dụng chữ Mạc như sau: Báo Người Mới trong các số chuyên đề về Tử năm
1941, Trần Thanh Mại trong cuốn sách viết về Tử năm 1942, Hoài Thanh - Hoài
Chân trong Thi nhân Việt Nam năm 1942, Phó tiến sĩ Phùng Quý Nhâm
trên Kiến Thức Ngày Nay số 47, giáo sư Hà Minh Đức trong Tổng
tập Văn học Việt Nam số 27, giáo sư Lê Đình Kỵ trong Thơ Mới - Những
bước thăng trầm - 1993, giáo sư Vũ Ngọc Khánh trong tập Thơ tình
yêu - 1995, giáo sư Hà Vinh - Khoa tiếng Việt - Đại học Tổng hợp Hà Nội
trong Tạp chí Văn Học - 1995, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh - Phó tiến sĩ Trần
Đăng Xuyền trong sách Những bài văn hay và khó - 1995...
Còn những người theo "trường phái
Mặc" gồm những ai? Có lẽ hai người quan trọng nhất là Nguyễn Bá Tín, em
ruột nhà thơ và Quách Tấn, bạn thân nhà thơ. Nguyễn Bá Tín đã dùng Mặc trong
hai cuốn sách quan trọng của mình, cuốn Hàn Mặc Tử anh tôi - 1991
và Hàn Mặc Tử trong riêng tư - 1994. Quách Tấn cũng dùng Mặc trong
Bóng ngày qua - 2000. Những người khác có thể kể: Chế Lan Viên trong Tuyển
tập Hàn Mặc Tử - 1987, Lữ Huy Nguyên trong Hàn Mặc Tử thơ và
đời - 1994, Trần Thị Huyền Trang trong Hàn Mặc Tử hương thơm và mật
đắng, Vương Trí Nhàn trong Hàn Mặc Tử - Hôm qua và hôm nay...
Nguyễn Bá Tín cho biết, bút danh Hàn Mặc Tử
đã có trước, còn bút danh Hàn Mạc Tử chỉ là bạn bè đặt cho để trêu đùa:
"Có nhiều hôm anh ngồi thừ trên chiếc ghế mây, nhìn qua bức mành tre sáo
trước cửa, đợi chị Cúc đi ngang qua, trông anh đến thiểu não. Chị Cúc biết điều
đó, về sau kể với con gái chị Như Lễ rằng: Nghĩ tội nghiệp anh quá. Bạn bè đến
chơi trông thấy anh ngồi buồn bã như kẻ thất tình, nên thường trêu cợt anh là
con người sau bức rèm lạnh và gọi đùa anh là Hàn Mạc Tử. Chữ Hàn ở đây có nghĩa
là lạnh và chữ Mạc không dấu là bức màn. Hai chữ Hàn Mạc là bức rèm lạnh. Anh
chỉ cười, không nói gì, cũng không để ý đến nữa. Mãi về sau khi anh qua đời còn
nhiều người vẫn tưởng lầm bút hiệu của anh là Hàn Mạc Tử". Ông Tín cho
biết, Tử vốn rất ngưỡng mộ triết gia Mặc Dịch thời Chiến Quốc, nổi tiếng chủ
trương thuyết Kiêm ái, nên anh cũng tự nhận thuộc môn phái Mặc Dịch, thương yêu
hết mọi người. Chữ Mặc Tử có ý nghĩa là môn đồ Mặc Dịch. Chữ Mạc Tử thì không
có ý nghĩa gì. Chữ Hàn Mặc Tử nói lên ý nghĩa một thi sĩ nghèo nàn, nhưng tình
thương rộng rãi bao la.
Quách Tấn thì kể tỉ mỉ hơn và có phần khác
Nguyễn Bá Tín. Quách Tấn cho biết, khi mới bước vào làng thơ, Tử lấy bút danh
là Minh Duệ Thị. Sau đổi là Phong Trần. Tử nổi tiếng với bút danh Phong Trần
nhờ cuộc xướng họa thơ văn lịch sử với Phan Bội Châu. Khi Quách Tấn quen thân
Tử, Quách Tấn chê bút danh Phong Trần không hợp với Tử. Vì thế Tử đổi qua bút
danh Lệ Thanh. Bút danh này đã gắn chặt với tập thơ Lệ Thanh Thi Tập của Tử.
Nhưng được ít lâu Quách Tấn lại chê. Tử lại đổi qua Hàn Mạc Tử. Quách Tấn lại
chê nữa. Khi đó Tử nổi nóng. Quách Tấn liền gợi ý: "Đã có rèm thì thêm
bóng trăng vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?". Nghe vậy, Tử thêm
"bóng trăng" là dấu á trên đầu chữ a nên chữ Mạc thành ra Mặc. Từ đó
bút danh đổi nghĩa từ kiếp rèm lạnh ra anh chàng bút mực. Bút danh này khiến Tử
rất thích và dùng luôn.
Lời giải thích trên đây nghe cũng thật có lý
nhưng mấy chục năm nay vẫn không thuyết phục được những người theo "trường
phái Mạc", cho nên cuộc tranh cãi này chưa biết bao giờ kết thúc nếu không
tìm được bút tích của chính nhà thơ để chứng minh ai đúng ai sai.
ĐẦM THỊ NẠI
Nằm cách thành phố Quy Nhơn 8km về phía đông
bắc, đầm Thị Nại là đầm lớn nhất Bình Định có hệ sinh thái phong phú với nhiều
loại động thực vật quý và nhiều thắng cảnh đẹp rất hấp dẫn du khách. Đầm Thị
Nại có diện tích trên 5.000ha mặt nước, chạy dài hơn 10 cây số, bề rộng tới gần
bốn cây số. Nơi đây có nguồn tài nguyên quý giá do thiên nhiên ban tặng, và là
nơi ẩn chứa đa dạng về sinh học với hệ sinh thái rừng ngập mặn phong phú: trong
đó thảm cỏ biển có tới 25 loài; hệ động vật có 64 loài phù du, 76 loài cá; có
hàng trăm loài chim, trong đó 23 loài thuộc nhóm chim nước và chim di cư, 10
loại chim rừng.... Trong đầm, ở gần bờ phía tây có một núi nhỏ - trên đó có
ngôi miếu nhỏ do dân chài lập ra để thờ thủy thần - hình dáng núi tựa như một
ngôi tháp cổ, gọi là Tháp Thầy Bói, làm cho cảnh quan đầm thêm sinh động và hấp
dẫn. Mỗi buổi ban mai, những tối trăng tròn chìm ngập trong rừng ngập mặn xanh
tươi, mặt đấm mờ mờ, huyền ảo như chốn thần tiên.
Trong lịch sử, đầm Thị Nại là căn cứ thuỷ
quân của nhà Tây Sơn, nơi diễn ra những trận thuỷ chiến ác liệt giữa nghĩa quân
Tây Sơn với quân Nguyễn Ánh vào đầu thế kỷ XIX (năm 1801).
Nằm về phía đông đầm Thị Nại, như một tấm
bình phong khổng lồ án ngữ phía biển cho thành phố Quy Nhơn là bán đảo Phương
Mai, với hệ thống núi đá trùng điệp và những đồi cát khổng lồ, ăn ra biển chạy
dài khoảng 15km. Phía bắc bán đảo và chếch về phía tây bắc là những bãi biển
tuyệt đẹp chạy dài hàng chục km. Nhìn từ xa, bán đảo Phương Mai như đầu một con
rồng, thân nằm dài về phía bắc đến tận cửa Đề Gi. Tận cùng phía nam của bán đảo
là một lưỡi nhọn hình mũi mác với nhiều hóc đá kỳ thú, hiểm trở, chim yến thường
kéo về làm tổ, dâng tặng cho loài người đặc sản “yến sào" vô cùng bổ
dưỡng, quý hiếm.
Hòa trong vẻ đẹp thiên nhiên của đầm Thị Nại - ban đảo Phương Mai là công trình
cầu đường Quy Nhơn - Nhơn Hội với tổng chiều dài toàn tuyến hơn 7km gồm 5 cầu
ngắn và cầu Thị Nại. Trong đó, nổi bật là cầu Thị Nại có chiểu dài 2.477,3m đây
là cầu vượt biển dài nhất Việt Nam với 54 nhịp nối liền thành phố Quy Nhơn và
khu kinh tế Nhơn Hội. Cầu Thị Nại không chỉ là niềm tự hào của người dân Đất
võ, mà còn là điểm nhấn hấp dẫn biết bao du khách khi đến TP. Quy Nhơn.
Lịch sử Đầm Thị Nại
Người dân xứ võ từ xưa có câu: “Bình Định có
hòn Vọng Phu/ Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh”. Đầm Thị Nại là một thắng cảnh
nổi tiếng của tỉnh Bình Định.
Nằm phía đông bắc TP. Quy Nhơn, rộng 4 km,
trải dài trên 10 km, với diện tích mặt nước hơn 5.000 ha, đầm Thị Nại là một
trong 4 đầm nước mặn lớn nhất ở Bình Định. Đầm là nơi hợp lưu của sông Côn và
sông Hà Thanh, ngăn cách với biển Đông bởi bán đảo Phương Mai. Chỗ thông ra
biển của đầm chính là cảng Quy Nhơn hiện nay. Năm 2006, cầu Thị Nại bắc qua đầm
nối liền bán đảo Phương Mai với TP. Quy Nhơn được khánh thành với chiều dài
2.475 m, tổng cộng 54 nhịp, được xem là một trong những biểu tượng của tỉnh Bình
Định.
Đầm Thị Nại có tên chữ Hán là Hải Hạc đàm
(đầm có nhiều chim hạc biển). Thị Nại là địa danh Chăm, có nguồn gốc từ tiếng
Phạn là CriVinaya, phiên âm Hán Việt là Thị-lị-bì-nại, về sau biến âm thành Thị
Nại. Người Hoa gọi đầm là Tân Châu. Trong quá khứ, đây là một hải cảng nổi
tiếng của vương quốc Chiêm Thành.
Không chỉ mang vẻ đẹp yên bình, thơ mộng, đầm
Thị Nại còn gắn liền với những trận thủy chiến nổi tiếng và số phận của nhiều
triều đại. Nằm ở vị trí quan trọng, là cửa ngõ dẫn vào kinh đô Chiêm Thành và
triều Tây Sơn sau này, đầm Thị Nại trong lịch sử đã chứng kiến nhiều trận đánh
“long trời lở đất”. Chẳng hạn, năm 1284, vua nhà Nguyên sai con là Thoát Hoan
cùng các tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi kéo quân vào cửa Thị Nại đánh Chiêm Thành nhưng
thất bại, phải bỏ chạy theo đường bộ về Nghệ An, bị quân Đại Việt truy đuổi.
Năm 1470, vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm 20 vạn tinh binh đánh tan quân Chiêm
trên cửa Thị Nại, sau đó hạ thành Đồ Bàn. Năm 1799, Nguyễn Ánh cử đại binh đánh
tan quân Tây Sơn trên cửa Thị Nại, chiếm được thành Quy Nhơn; đến năm 1800,
quân Phú Xuân dưới sự chỉ huy của Trần Quang Diệu đánh vào Thị Nại do Võ Văn
Dũng trấn giữ, chiếm lại được thành Quy Nhơn. Năm 1801, Nguyễn Ánh cử đại binh
tiến vào Thị Nại, dùng mưu đánh bại thủy binh của Tây Sơn, thành Quy Nhơn thất
thủ. Đây là trận thủy chiến lớn nhất và sau cùng giữa nhà Tây Sơn và quân
Nguyễn Ánh, được các sử gia nhà Nguyễn sau này ghi nhận là “đệ nhất vũ công”.
Người đời sau xem đây là “trận Xích Bích” của người Việt.
Quách Tấn, tác giả Thơ mới nổi tiếng, đứng
trước cái mênh mang của đầm nước từng chôn vùi bao tang thương dâu bể của lịch
sử, đã viết nên những vần thơ cảm hoài về chiến trường Thị Nại năm xưa: “Thị
Nại xưa kia vũng chiến trường/ Nổi chìm thế sự mấy triều vương…”.
Hiện nay, với tiềm năng đa dạng sinh học
(rừng ngập mặn, thảm cỏ biển với 25 loại, động vật có 64 loài phù du, 76 loài
cá, hơn 33 loài chim), đầm Thị Nại đang được địa phương khai thác để trở thành
một điểm du lịch sinh thái.
Về thành phố biển Quy Nhơn, bạn hãy một lần
đến đầm Thị Nại, thả hồn mình giữa sơn thủy hữu tình, lắng lòng trước bao thăng
trầm của lịch sử, chắc chắn sẽ là những trải nghiệm vô cùng thú vị.
CẦU THỊ NẠI
Giới thiệu cầu
Thị Nại ở Quy Nhơn
Với chiều dài gần
7 km, tổng cộng 54 nhịp, cầu Thị Nại nối liền giữa thành phố Quy Nhơn và Nhơn Hội
– một khu kinh tế sầm uất. Cây cầu này nằm cách thành phố Quy Nhơn khoảng 3km về
phía Đông Nam.
Khởi công năm
2002 và hoàn thành năm 2006, cầu Thị Nại được thiết kế với kỹ thuật hiện đại,
có khả năng chịu được áp lực trọng tải lớn.
Cầu Thị Nại
thành phố Quy Nhơn bao gồm cầu chính vượt đầm Thị Nại, 5 cây cầu nhỏ bắc qua
sông Hà Thanh. Đây là một điểm nhấn độc đáo trong các địa điểm du lịch ở
Quy Nhơn – Bình Định hấp dẫn du khách ghé qua.
Cảnh đẹp cầu Thị
Nại
Nhìn từ trên
cao, cây cầu trăng trắng bắc ngang qua dòng nước xanh biếc, một đầu là đất liền,
còn 1 bên là đảo Phương Mai với phong cảnh đồi cát rộng lớn, hoang sơ nhưng lại
rất trữ tình.
Có lẽ lúc hoàng
hôn buông xuống chính là thời điểm cầu Thị Nại khoác lên mình một vẻ đẹp
lung linh nhất. Những tia nắng cuối ngày hắt xuống nền nước biển tạo nên một
background đẹp đến nao lòng. Cầu Thị Nại Quy Nhơn trông như một dải lụa vắt
ngang qua làn nước trong xanh ở một khoảng không bao la, thoáng đãng.
Không chỉ góp một phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế khu vực
mà cây cầu này còn mang lại giá trị du lịch cho Quy Nhơn. Cũng bởi vì cây cầu
Thị Nại nối liền giữa thành phố Quy Nhơn và bán đảo Phương Mai, phần khác là do
kiến trúc và khung cảnh thơ mộng nên nơi đây cũng nhận được khá nhiều sự chú ý
của các du khách.
Bình Định: Bán đảo Phương Mai với nhiều điểm
đến du lịch hấp dẫn
(TITC) - Bán đảo Phương Mai thuộc phía đông bắc Thành phố Quy Nhơn, vốn
từng là nơi hoang vu trước kia, nhưng giờ đây đang là địa chỉ đầu tư hấp dẫn,
và đang trở thành một điểm đến có sức hút đối với khách du lịch.
Nằm về phía đông
đầm Thị Nại, bán đảo Phương Mai như một tấm bình phong khổng lồ án ngữ phía biển
cho thành phố Quy Nhơn. Bán đảo Phương Mai gồm 3 xã Nhơn Lý, Nhơn Hội, Nhơn Hải
và phường Hải Cảng.
Đây là một vùng
núi thấp có nhiều ngọn nhấp nhô. Cao nhất là đỉnh Núi Đen cao 361m, và một số đỉnh
khác như hòn Mai, Diệp Chữ… Bán đảo Phương Mai được nối với dãy Triều Châu bằng
một dải núi dài chừng 2 km, bề ngang nơi hẹp nhất chỉ độ 500m có tên là Eo Vược.
Tận cùng phía nam của bán đảo trông như một lưỡi nhọn hình mũi mác, có nhiều hốc
đá hiểm trở, nơi chim yến thường kéo về làm tổ. Nơi đây được gọi là Mũi Mác hay
Mũi Yến. Dãy núi phía tây bắc Mũi Mác có một nhánh nhỏ, nhọn sắc như nanh cọp,
được gọi là Gành Hổ. Nằm kẹp giữa hai dải núi này là một động cát, trên có bàu
nước ngọt khá lớn.
Để đến bán đảo
Phương Mai, từ TP. Quy Nhơn, du khách đi qua 5 cây cầu và cầu Thị Nại với tổng
chiều dài 7km. Cầu Thị Nại được coi là cây cầu vượt biển dài thứ hai ở Việt
Nam, với 54 nhịp và dài 2.477,7m nối liền khu kinh tế Nhơn Hội với TP. Quy
Nhơn. Khi giao thông đường bộ nối liền, bán đảo Phương Mai càng trở nên hấp dẫn
với nhiều dự án lớn đầu tư phát triển kinh tế, đô thị và du lịch.
Bán đảo Phương
Mai sở hữu nhiều điểm tham quan du lịch rất đa dạng, độc đáo, có núi, có biển,
có đảo, nhiều bãi tắm hoang sơ trong xanh, cồn cát trải dài, rạn san hô tuyệt đẹp,
những làng chài bình yên, và còn ẩn dấu những di tích kỳ bí.
Bãi biển Nhơn
Lý
Biển Nhơn Lý
(còn gọi là biển Cát Tiến), nổi tiếng với những cảnh thiên nhiên ấn tượng, những
khu rừng thông xanh tốt. Quang cảnh tự nhiên đa dạng dọc theo chiều dài của
bãi, những đụn cát trắng tinh, những bãi cát thoải màu đen bóng huyền ảo, một số
vị trí khác nhau là những núi đá khổng lồ nằm trơ trọi giữa bãi biển, đủ loại
hình thù, màu sắc, nơi có bãi đá cuội độc đáo.
Eo Gió
Eo Gió gần bãi
biển Nhơn Lý, mang trong mình nét đẹp hoang sơ với eo biển xanh. Những dãy núi
đá cao bao quanh với nhiều hình thù lạ mắt, tạo thế uốn cong như muốn ôm trọn
eo biển hút gió tuyệt đẹp. Nét độc đáo cuốn hút của Eo Gió được tạo nên từ đá
và nước. Dưới chân núi là bãi đá Đẻ với những con đường gập ghềnh. Bãi đá được
bào mòn từ nước biển qua năm tháng, nên có nhiều kích thước và hình dạng kì
thú. Bên cạnh đó, ở đây còn có 19 hang yến với những cái tên rất ngộ nghĩnh như
hang Kỳ Co, hang Ba Nghé, hang Dơi, hang Sức Khỏe…
Bãi biển Kỳ
Co
Bãi biển Kỳ Co với
cát trắng tuyệt đẹp giữa hai bờ đá khổng lồ. Nhìn từ trên cao xuống, toàn cảnh
Kỳ Co thật hùng vĩ và tráng lệ. Đến đây, du khách có thể đi bộ dọc theo bãi biển
ngắm khung cảnh nên thơ của trời, biển và đá núi, bơi trong làn nước trong xanh
quyến rũ và đi thuyền.
Trước kia, chỉ
có thể đến Kỳ Co bằng thuyền (được thuê từ các làng Eo Gió, Nhơn Lý, Xương Lý
hoặc Nhơn Hải), nhưng gần đây, có thể đi xe trung chuyển (hoặc đi bộ) theo một
con đường đẹp tuyệt chạy qua các vách đá phía nam Eo Gió, đến tận con dốc cuối
cùng (quãng đường khoảng 6km).
Biển Nhơn Hải
(phía nam bán đảo), nơi du khách khám phá vẻ đẹp thiên nhiên kỳ diệu của các
gành đá cùng những điểm đến hoang sơ hấp dẫn khác như đỉnh núi Cột Cờ, làng
chài nằm sát ngay bãi biển; đặc biệt là một đoạn thành cổ Champa nằm cách bờ
khoảng 200m trải dài thẳng tắp, nhấp nhô trên mặt sóng. Dạo chơi, bắt ốc, cạy
hàu, câu cá… trên dãy thành cổ Champa chỉ nhô lên mặt biển khi thủy triều
xuống là trải nhiệm cực lạ, chỉ có ở Nhơn Hải.
Đảo Hòn Khô
Hòn Khô hấp dẫn
du khách bởi “con đường xuyên biển” dài 500 mét. Ảnh internet
Đảo Hòn Khô (còn
được gọi là cù lao Hòn Khô) nằm ngoài khơi gần bãi biển Nhơn Hải, thu hút sự tò
mò và thích thú của khách du lịch nhờ làn nước sạch, bãi cát trắng mịn, đồng cỏ
xanh và những rạn san hô tuyệt đẹp.
Điểm thú vị là từ
tháng 3 đến tháng 9, du khách đến Hòn Khô (Quy Nhơn) có thể khám phá “con đường
xuyên biển” độc đáo dài hơn 500 mét, nối liền hai dãy núi. Không phải lúc nào
cũng có thể nhìn thấy con đường độc đáo này do mực nước lên xuống tuỳ theo từng
mùa. Con đường xuyên biển chỉ xuất hiện khi thủy triều rút.
Làng chài địa
phương
Bán đảo Phương
Mai là nơi sinh sống của một số làng chài bình yên nằm ở dìa chân núi bên bờ biển
đẹp như làng chài Nhơn Lý, Nhơn Hải… Nơi đây khách du lịch có thể nhìn thấy nhiều
lồng cua lớn, nhiều chiếc thuyền xanh, gặp nhiều ngư dân thân thiện và cởi mở.
Đầm Thị Nại
Với diện tích
trên 5.000ha mặt nước, chạy dài hơn 10 km, chỗ rộng nhất tới gần 4km, đầm Thị Nại
là một trong những đầm nước mặn lớn nhất ở Bình Định.
Đầm Thị Nại hội
tụ dòng chảy của các nhánh sông Kôn, sông Hà Thanh, vẽ lên bức họa thủy mặc hữu
tình hấp dẫn khách du lịch gần xa.
Trong đầm có Cồn
Chim, được ví như lá phổi xanh của Quy Nhơn. Với diện tích rộng gần 1.000 ha, Cồn
Chim có hệ sinh thái đa dạng, gồm hệ sinh thái rừng ngập mặn và thảm cỏ biển có
tới 25 loài, hệ động vật có 64 loài phù du, 76 loài cá, có hàng trăm loài chim,
trong đó 23 loài thuộc nhóm chim nước và chim di cư, 10 loài chim rừng.
Những di tích độc
đáo trên bán đảo
Tịnh xá Ngọc
Hòa
Tịnh xá Ngọc Hòa
với bức tượng đôi Quan Âm cao nhất Việt Nam. Ảnh internet
Gần sườn núi của
Eo Gió là không gian linh thiêng của Tịnh xá Ngọc Hòa, được khánh thành vào
tháng 5 năm 1962. Tòa chánh điện vừa cổ kính vừa hiện đại. Tịnh xá Ngọc Hòa nổi
tiếng với bức tượng đôi Quan Âm cao 18m (cao nhất Việt Nam) với kiến trúc ấn tượng,
nhìn về 2 hướng, một bức hướng về phía nam, tay cầm tràng hạt và kinh sách được
gọi là Quan Thế Âm Khiết Tường, còn một bức hướng về phía biển (hướng bắc), tay
cầm tịnh bình cam lộ được gọi là Quan Thế Âm Nam Hải. Trong khuôn viên tịnh xá
có bảo tháp, nhiều bức tượng như tượng Phật Di Lặc, tượng bốn mặt với nụ cười
bí ẩn, và nhiều cây cổ thụ, cây cảnh.
Chùa Phật Lồi
Chùa ở Hải
Giang, xã Nhơn Hải. Chùa Phật Lồi được tạo dựng từ khi người Hải Giang tình cờ
phát hiện tượng Phật bằng đá từ dưới đất lồi lên trên ruộng canh tác dưới chân
đồi cách nay khoảng 200 năm. Trong chùa hiện thờ một pho tượng bằng đá sa thạch,
cao 80 cm, ngang 46 cm, mang phong cách Chăm muộn, được chế tác dưới dạng một vị
Bồ Tát ngồi trong tư thế thiền định, chân xếp bằng, tay phải lần tràng hạt, tay
trái đặt ngửa trên hai chân, sau lưng có dòng chữ Phạn, dân quen gọi là chữ
bùa.
Ngoài ra, nằm về
phía bắc bán đảo, du khách có thể tham quan Chùa Ông Núi (tọa lạc trên đỉnh Chớp
Vung, huyện Phù Cát), nơi có bức tượng Phật Thích Ca khổng lồ (chiều cao 108m
tính cả bệ tượng, đường kính chân tượng 52m). Từ vị trí ngôi chùa, du khách có
thể ngắm toàn cảnh bán đảo Phương Mai, khu kinh tế Nhơn Hội bên đầm Thị Nại.
Tượng đài Trần
Hưng Đạo tọa lạc phía tây nam của bán đảo, trên đồi Hải Minh với độ cao khoảng
40 mét so với mực nước biển. Công trình được khởi công năm 1972 và hoàn thành
năm 1973. Với chiều cao 16 mét (tính cả đài tượng), tượng đài Trần Hưng Đạo được
tạc với trang phục áo giáp, mũ sắt, trong tư thế đứng trên thuyền rồng chỉ huy
trận Bạch Đằng giang.
Vườn thú FLC
Safari cách đầu cầu Thị Nại (bên Nhơn Hội) khoảng 9km về phía bắc. Với diện
tích 38,5 ha, vườn thú FLC Safari được xây dựng theo mô hình bán hoang dã, là
nơi bảo tồn gần 900 cá thể động vật. Các động vật quý, hiếm được chăm sóc và bảo
tồn trong không gian gần với môi trường tự nhiên. Đây là “Cơ sở bảo tồn đa dạng
sinh học”, nhằm bảo tồn nguồn gen động vật quý, hiếm, mang tới những trải nghiệm
độc đáo cho du khách.
Các đồi cát ở
Phương Mai được cho là lý tưởng để chơi trượt cát bởi chiều cao từ 20m, nơi cao
nhất đến 100 m so với mực nước biển và độ dốc vừa phải. Các đồi cát đẹp chủ yếu
nằm dọc hai bên đường quốc lộ 19B trên bán đảo Phương Mai. Hiện nay khu vực này
còn khá hoang sơ.
Ẩm thực
Đến Phương Mai,
du khách đừng quên thưởng thức nhiều đặc sản hấp dẫn của mảnh đất Bình Định như
cua Huỳnh Đế, chả ram tôm đất, lẩu tôm hùm, nhum biển, bào ngư nướng mỡ hành, ốc
vú nàng, bún chả cá, bánh hỏi lòng heo,…
Khu du lịch
Phương Mai (tỉnh Bình Định) đã được đưa vào danh mục các địa điểm tiềm năng
phát triển khu du lịch quốc gia (ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-TTg
ngày 22/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ). Bán đảo Phương Mai cách trung tâm TP.
Quy Nhơn hơn 10km và cách sân bay Phù Cát khoảng 40km
Đảo Kỳ Co
Đảo Kỳ Co nằm trong chuỗi những điểm đến đáng
trải nghiệm nhất tại vùng đất Quy Nhơn. Vì chưa được khai thác du lịch nhiều
nên đảo Kỳ Co vẫn giữ được những nét đẹp hoang sơ và trong lành hiếm nơi nào có
được.
Giới thiệu đôi nét về Đảo Kỳ Co
Đảo Kỳ Co là bãi tắm thuộc khu vực bán đảo
Phương Mai, xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Bãi tắm nằm cách
trung tâm thành phố 25 km về phía Đông Bắc. Chân núi Phương Mai ôm gọn bãi Kỳ
Co từ đằng sau, tạo thành một đường bờ biển hình vòng cung đầy quyến rũ. Đảo Kỳ
Co được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho rất nhiều lợi thế để trở thành một
trong những điểm du lịch đẹp nhất ở Quy Nhơn.
Nước biển tại bãi Kỳ Co trong vắt, mắt người
nhìn xuống có thể soi được rõ những hạt cát lấp lánh đang len lỏi dưới ngón
chân hay những chú cá con đang bơi lội tung tăng. Mực nước ở đây khá nông nên
người lớn hay trẻ em đều có thể thỏa thích bơi lội, ngâm mình trong làn nước
trong xanh.
Bên cạnh đó, bờ cát trắng mịn màng và bằng
phẳng là nơi lý tưởng để thong thả tản bộ ngắm cảnh, để những con sóng nhẹ
nhàng vỗ về vào đôi bàn chân. Một bên là đồi núi hùng vĩ, một bên là biển rì
rào từng đợt sóng hiền hòa, tạo nên khung cảnh vô cùng nên thơ hữu tình cho Đảo
Kỳ Co.
Chơi gì tại đảo Kỳ Co
Đến với bãi tắm đẹp tựa thiên đường như Kỳ Co
mà không xuống tắm biển thì quả là có lỗi với thiên nhiên nơi đây. Ngoài bờ
biển chính, bạn có thể đến ngâm mình tại những hồ bơi nhỏ, được tạo nên từ
những khe đá giữ nước lại mỗi khi thủy triều lên. Bên cạnh đó, khu hồ bơi nhân
tạo cũng rất thích hợp để vui chơi cho gia đình hoặc nhóm bạn từ 6-7 người.
Những bạn trẻ yêu thích chụp ảnh, check-in có
thể đến thăm quan Cầu Hang Yến - cây cầu gỗ đi dọc eo biển giúp du khách khám
phá hết cảnh thiên nhiên nơi đây. Vé một lượt tham quan là 40.000đ.
Làn nước biển trong vắt của Kỳ Co sẽ giúp du
khách có thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp rực rỡ và huyền ảo của những rặng san
hô dưới đáy biển. Vì thế khi tới đây bạn đừng bỏ lỡ trải nghiệm lặn ngắm san hô
nhé. Giá vé dao động từ 250.000đ - 1.000.000đ/ người, tùy vào loại hình lặn mà
bạn chọn. Kể cả khi bạn không biết bơi, đội ngũ huấn luyện viên sẽ hướng dẫn kĩ
càng và luôn hỗ trợ trong suốt quá trình lặn của bạn.
Ngoài ra, đảo Kỳ Co còn tổ chức các hoạt động
vui chơi mạo hiểm như dù bay, mô tô nước, thuyền phao chuối,...
Di chuyển đến đảo Kỳ Co như thế nào?
Bạn có thể chọn 1 trong 2 cách sau để đến đảo
Kỳ Co:
Vượt cầu Thị Nại, đến Nhơn Lý rồi thuê cano
đi trong khoảng 20 phút để ra bãi tắm. Giá vé cano từ 350.000đ -
420.000đ/người. Đi theo lộ trình này sẽ giúp bạn được trải nghiệm cảm giác dập
dềnh cùng sóng nước và ngắm nhìn khung cảnh của đảo trọn vẹn hơn.
Nếu bạn bị say sóng thì có thể chọn lộ trình
đường bộ: vượt cầu Thị Nại, đến Bãi đỗ xe Khu du lịch Kỳ Co thì đổi xe, lên xe
trung chuyển của khu du lịch để đến bãi tắm Kỳ Co.
EO GIÓ
Nổi tiếng với vẻ đẹp hoang sơ, thơ
mộng, Eo Gió Quy Nhơn là điểm đến mà ai cũng muốn ghé qua ít
nhất một lần khi du lịch Quy Nhơn. Vậy ghé địa điểm này có khung cảnh nào
đẹp, quán ăn nào ngon. Hãy theo dõi bài viết dưới đây để tìm hiểu thông tin chi
tiết về khu du lịch Eo Gió Quy Nhơn.
1. Vẻ đẹp Eo Gió Quy Nhơn khiến ai cũng phải
“xiêu lòng”
Trong những năm gần đây, du lịch Eo Gió Quy
Nhơn được nhiều người biết đến bởi những bức ảnh “triệu like” trên mạng xã hội.
Hình ảnh Eo Gió Quy Nhơn trong mắt khách du lịch bốn phương là vẻ đẹp tuyệt
diệu mà tạo hóa ban tặng.
Địa chỉ: Lý Lương, Nhơn Lý, Quy Nhơn
Giá vé: 25.000 VNĐ/lượt
Địa chỉ Eo Gió Quy Nhơn chỉ cách thành phố
khoảng 20km, rất thuận tiện cho việc di chuyển và tham quan. Sở dĩ địa danh này
được gọi là Eo Gió là do hình dáng địa lý của khu vực này. Nếu đứng từ mỏm đá
trên cao nhìn xuống, du khách sẽ nhìn thấy một eo biển nhỏ được bao bọc bởi hai
dãy núi xung quanh trông như một vòng tay ôm gọn bãi biển xinh đẹp này. Cũng
bởi vậy mà vẻ đẹp ở đây rất hoang sơ, nhưng lại trữ tình, nên thơ. Từ khung
cảnh đến biển, hay làn nước trong xanh, tất cả đều để lại cho du khách những trải
nghiệm đáng nhớ. Ngoài Eo Gió, bạn có thể tham quan thêm Kỳ Co Quy Nhơn – hòn đảo độc đáo, thú vị.
2. Nơi sở hữu khung cảnh hoàng hôn đẹp nhất
Việt Nam
Đã là tín đồ “săn ảnh” hoàng hôn thì bạn nhất
định không được bỏ qua khung cảnh hoàng hôn ở Eo Gió. Chụp ảnh ở Eo Gió Quy
Nhơn có rất nhiều bức ảnh đẹp nhưng ảnh hoàng hôn có lẽ sẽ là ảnh ấn tượng
nhất.
Khi mặt trời lùi dần về phía Tây cũng là lúc
vùng biển nơi đây chuyển sang màu đỏ cam. Không gian lúc này huyền ảo hơn bao
giờ hết, những làn gió biển thổi mát, những con sóng vỗ rì rào. Chẳng vậy mà
cảnh đẹp hoàng hôn nơi eo biển kỳ vĩ này đã làm nên những áng thơ văn vô cùng
hay.
3. Đường đến Eo Gió Quy Nhơn đẹp tuyệt diệu
Đường đi Eo Gió Quy Nhơn mất khoảng 1 tiếng
đồng hồ nên bạn có thể đi ô tô hoặc xe máy đều thuận tiện và dễ di chuyển. Dù
bạn chọn phương tiện nào thì cảnh đẹp hai bên đường chắc chắn cũng sẽ khiến bạn
ngỡ ngàng và cảm thấy rất thú vị.
Từ trung tâm thành phố Quy Nhơn, bạn sẽ đi
theo lộ trình cung đường sau: Quốc lộ 19 → rẽ phải vào đường Võ Nguyên Giáp →
qua cầu Thị Nại → rẽ vào quốc lộ 19B → rẽ phải vào Nhơn Lý → Eo Gió. Đây là
cung đường lý tưởng và thích hợp nhất cho du khách thích khám phá vẻ đẹp tự
nhiên vì phong cách tuyệt đẹp hai bên đường. Khi đi qua cầu Thị Nại, du khách
bốn phương có thể phóng tầm mắt ra xa để chiêm ngưỡng sắc xanh bao la của khu
đầm này. Hay khi băng qua cầu Thị Nại, bạn sẽ lại bất ngờ với những đồi cát trắng
mịn chạy dài hai bên đường. Chưa đến Eo Gió Quy Nhơn mà cảnh đẹp ở đường đi đã
khiến khách du lịch trầm trồ.
4. Nơi có cung đường đi bộ ven biển giữa lưng
chừng núi
Eo Gió Quy Nhơn có gì mà lại khiến các
bạn trẻ mê mẩn, chụp ảnh check-in nhiều đến vậy? Một trong những lý do chính là
cung đường đi bộ ven biển đẹp hút hồn.
Cung đường đi bộ ven biển này nằm trên lưng
chừng dãy núi khiến ai cũng muốn một lần được đến đây và trải nghiệm. Những bậc
thang được dựng với tay vịn màu đỏ gạch, trắng vừa an toàn lại vừa đẹp mắt.
Đồng thời những bậc thang này còn tôn lên những đường nét trập trùng, khúc
khuỷu của tạo hóa đã ban tặng cho Quy Nhơn.
5. Tọa độ check in “ngàn like” với 1001 góc
sống ảo chất lượng
Là một tín đồ đa mê xê dịch và sống ảo, khi
đến Eo Gió Quy Nhơn bạn đừng quên check-in. Nhiều bạn trẻ đùa rằng: “Chỉ cần
đứng im tại Eo Gió thôi là cũng có ảnh đẹp rồi.” Quả thực là vậy, đến Eo Gió có
cả hàng nghìn góc sống ảo mà góc nào cũng có thể tạo ra được bức ảnh đẹp mê
hồn.
Bạn có thể sống ảo với bãi biển trong xanh,
nước biển trong vắt. Hay chụp ảnh cùng hàng nghìn bậc thang với tay vịn
đầy màu sắc. Hay chỉ đơn giản là hướng tầm mắt về phía biển khơi mênh mông. Để
có bức ảnh mong muốn, mọi thứ bạn cần làm chỉ cần đơn giản, mộc mạc và hoang sơ
như chính nét đẹp mà Eo Gió mang lại.
6. Eo Gió Quy Nhơn – điểm ngắm bình minh vô
cùng nên thơ
Muốn đón bình minh đẹp, ngắm khung cảnh thiên
nhiên tuyệt diệu, bạn cần xuất phát từ trung tâm thành phố Quy Nhơn lúc 4h00.
Thời tiết buổi sáng tại Eo Gió mát mẻ, bạn vừa ngắm được bình minh vừa tận
hưởng được không khí trong lành trong những tia nắng sớm mai.
Cùng ngắm bình minh với “người thương” tại Eo
Gió (Ảnh: Sưu tầm)
Tuy phải dậy sớm nhưng cảnh bình minh tại Eo
Gió quả thực xứng đáng. Bởi nơi đây được mệnh danh là một trong những địa điểm
đón bình minh đẹp nhất tại Việt Nam.
7. Thiên đường hải sản tươi rói cho bạn
tha hồ thưởng thức
Các quán ăn Eo Gió Quy Nhơn rất nhiều, nhưng
không thể không kể đến các món ăn về hải sản. Với lợi thế hải sản tươi ngon và
đa dạng cùng cách chế biến mới mẻ, du khách sau khi thưởng thức hải sản Quy Nhơn đều thích thú.
Dưới đây là các quán ăn, nhà hàng hải sản
ngon ở Eo Gió mà bạn có thể ghé đến thưởng thức:
Coco Jambo: Nhà hàng hải sản view biển đẹp nhất Eo Gió. Coco Jambo ở thôn Lý
Hưng, xã Nhơn Lý – địa điểm rất dễ tìm cho du khách. Với gần 10 món hải sản đa
dạng, tươi ngon cùng quán đẹp, chất lượng phục vụ tốt, Coco Jambo được khách
hàng đánh giá rất cao.
Leng Keng Gió: Được mệnh danh là Vua ghẹ Nhơn Lý với
những món ăn hải sản vô cùng tươi ngon và hấp dẫn. Nhà hàng nằm ngay bên cạnh
bãi đỗ xe Eo Gió với các loại hải sản như: cua huỳnh đế, tôm, ghẹ…
Hoa Biển: Nhà hàng này nằm ở thôn Lý Hòa, xã Nhơn Lý, được du khách hài lòng
về chất lượng đồ ăn. Đồ ăn tươi ngon, chế biến cẩn thận và hương vị vô cùng đặc
trưng.
Tịnh Xá Ngọc Hòa – Phước Sa Tự
Chiêm ngưỡng tượng Phật đôi cao nhất Việt Nam
Được biết đến là vùng đất võ với truyền thống
văn hóa lâu đời, tuy nhiên trong những năm gần đây Bình Định đã và đang thực
hiện hóa việc “biến” những tiềm năng du lịch trở thành điểm mạnh du lịch của
tỉnh. Du lịch Bình Định được ví như “kho báu bị ngủ quên” đang từng bước được
các cấp, các ngành, các đơn vị kinh doanh du lịch “khai quật” để khi du khách
“khám phá” đến phải sửng sốt và thán phục bởi quá nhiều điều hấp dẫn ở nơi đây
mà những vùng đất khác không có được. Sự hòa quyện của thiên nhiên, của đất, của
người đã làm nên bản sắc văn hóa du lịch riêng của mảnh đất địa linh nhân kiệt
này.
Sau một mùa hè sôi động với các sự kiện, lễ
hội và lượng khách du lịch đổ về Quy Nhơn Bình Định nói chung và xã đảo Nhơn Lý
nói riêng tăng đột biến so với các năm trước. Vào lúc này, mùa đông cũng đã
đến, các dịch vụ du lịch biển đảo cũng tạm dừng để nhường chỗ cho du lịch tâm
linh, tìm hiểu khám phá các di tích lịch sử “lên ngôi”, và Tịnh Xá Ngọc Hòa
cũng như Phước Sa Tự là điểm đến lý tưởng để du khách viếng thăm Nhơn Lý vào
thời gian này.
Đây là một ngôi chùa thuộc Bãi Bấc, thôn Lý
Lương, xã Nhơn Lý, TP Quy Nhơn, được xây dựng từ năm 1960 bởi Trưởng lão Thích
Giác An. Hiện nay được trụ trì bởi Đại đức Thích Giác Tri. Theo Đại đức Thích
Giác Tri, khoảng năm 2013, người dân địa phương có nguyện vọng muốn ổn định nơi
thờ cúng ông bà và thuận tiện cho con cháu đi lại thăm nom nhân ngày giỗ kỵ,
Tịnh xá đã đề nghị và được Nhà nước cho phép xây dựng Nhà An Bình theo phương
thức Tịnh xá và đồng bào phật tử cùng đóng góp. Theo thiết kế, công trình này
rộng hơn 100 m2, có thể lưu giữ khoảng 8.000 hũ tro cốt, tổng kinh phí đầu tư
ước khoảng 5 tỉ đồng.
Theo thiết kế, Nhà An Bình cao khoảng 5,2m
xây bằng đá tổ ong kết hợp vớt bê tông cốt thép, sẽ là đế trụ cho Tượng Quan
Thế Âm Bồ Tát hai mặt. Tượng đôi Phật Bà Quan Âm là kiến trúc nổi bật của Tịnh
xá. Tượng cao gần 30m – và là tượng phật đôi cao nhất Việt Nam. Trong đó, một
tượng hướng về phía Nam (cổng chính tịnh xá), màu vàng, đó là Quan Thế Âm Kiết
Tường và một tượng hướng về phía Bắc, màu bạc đó là Quan Thế Âm Nam Hải.
Theo người dân nơi đây truyền miệng nhau
rằng: tượng Quan Thế Âm Kiết Tường màu vàng, có hướng về núi, tượng trưng cho
rừng vàng; còn tượng Quan Thế Âm Nam Hải màu bạc có hướng nhìn ra biển chính là
thể hiện cho biển bạc. Vì vậy người dân nơi đây tin rằng tượng phật đôi sẽ đem
đến cho vùng đất nơi đây, con người nơi đây có một tương lai phát triển phồn
thịnh và an lành.
Về mỹ thuật, tượng đã chắt lọc được các triết
lý, tạo hình từ Tây Tạng (đôi mắt), từ Ấn Độ (ngọn lửa hủy diệt của thần
Shiva), từ Chăm Pa (bích họa), từ Thủy Chân Lạp, và đặc biệt là một giải phẩu
hình thể mang dáng dấp của người Việt mẫu mực…
Thân tượng làm rỗng, gồm nhiều tầng bậc khác
nhau, hai vị Quan Thế Âm Bồ Tát tọa trên đài sen, đứng quay lưng vào nhau. Bên
trong tượng là 2.000 bức tượng Quan Thế Âm cỡ nhỏ, bằng chất liệu đồng, đá,
composite do các phật tử, các vị sư ở tịnh xá đặc vào đó nhằm gửi gắm thông tin
về tịnh xá để cho đời sau nắm rõ.
Nhiều du khách đến đây không khỏi băn khoăn
về tên gọi tịnh xá, và đặt câu hỏi tại sao không phải là chùa mà lại là tịnh
xá. Nguyên nhân bắt nguồn từ cách gọi của người Ấn Độ Phật giáo nói về các tịnh
thất trong các ngôi chùa, là các công trình kiến trúc nhà cửa theo phong cách
Phật giáo dành cho những người tu hành nghỉ ngơi, cầu nguyện, thiền định. Đó là
một nơi riêng biệt dành cho những ngày ẩn dật ngồi thiền của các thầy tu. Tịnh
xá là nơi có thể đến tham quan sau đó nghỉ lại vài ngày vì đây là nơi yên tĩnh,
khác với chùa có chức năng thực hiện hành lễ thì tịnh xá chú trọng vào việc
tĩnh lặng để nghỉ ngơi, tu tâm.
Với thắng cảnh Eo Gió nằm cạnh bên càng làm
tôn thêm vẻ đồ sộ và uy nghiêm của Tượng đôi Phật Bà Quan Âm, và nơi đây ngày
càng thu hút nhiều lượt khách tham quan du lịch tứ phương.
Nếu du khách muốn nghỉ ngơi tại tịnh xá hoặc
muốn nghe thuyết giảng phật pháp hãy nhờ người dân bản địa hoặc hướng dẫn viên
liên hệ trước. Thời gian mở cửa của tịnh xá hầu như cả ngày, nơi đây hoạt động
gần như một ngôi chùa nên các hoạt động sinh hoạt diễn ra bình thường. Du khách
có thể đến đây nghỉ ngơi, đây là địa điểm lý tưởng để tĩnh tâm, suy nghĩ và
thiền.Thông thường thì tịnh xá không thu vé, tùy tâm mỗi người, tịnh xá cũng
thường tham gia, tổ chức các lễ hội, chung tay góp sức trong các hoạt động từ
thiện xã hội, tham gia mô hình “cơm cháo tình thương” trong địa bàn thành phố
Quy Nhơn nên du khách có thể góp một phần vào quỹ từ thiện.
Phước Sa Tự
Phước là phước duyên hội ngộ giữa nhân gian –
giữa hữu tình và Bồ Tát. Sa là cát là sa thạch là sa bồi ý nhiều như cát hà sa…
Hay còn một ẩn nghĩa khác đó là : Phật là phước lồi lên từ cát (Chùa nhặt được
pho tượng lồi lên trên cát tại xóm Lý Hòa vào năm 1919)
Chùa tọa lạc trên một ngọn đồi nằm giữa đồng
cát ở Đông Bắc bán đảo Phương Mai thuộc làng Xương Lý phủ Tuy Phước, nay là
thôn Xương Lý, xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn. Tục gọi là chùa Phật Lồi. Trụ
trì chùa hiện nay là sư thầy Thích Đồng Tín, đời pháp 43 kệ phái Minh Hải Pháp
Bảo, đệ tử Hòa thượng Thị Dực Liễu Không chùa Thiên Bình, được Giáo hội tỉnh bổ
nhiệm làm trụ trì chùa Phước Sa đầu năm 1999 thể theo nguyện vọng của Ban hộ tự
và Phật tử địa phương.
Về vị trí địa lý : Ngôi chùa ngoảnh mặt về
hướng Nam. Bên phải chùa là Đầm Thi Nại bắt đầu từ Đông Phù Cát trải dài đến
đầu hải cảng Quy Nhơn. Chùa dựa lưng vào hòn núi Cấm cây cối tươi tốt quanh
năm. Bên trái chùa là đại dương sớm chiều rì rào sóng vỗ. Chùa được đặt vào nơi
cảnh trí hữu tình, lại có sự tích khá ly kỳ nên hàng năm hấp dẫn nhiều du khách
đến tham quan cùng phật tử mười phương đến thăm viếng.
Du khách đến con đường dọc bờ kè xã Nhơn Lý,
đi đến cuối đường sẽ gặp một bậc đá, leo lên hơn 60 bậc cấp đá thì tới cổng
chùa. Cổng chùa xây gạch, cao khoảng 4m, biển ngạch để ba chữ hiệu chùa bằng
Quốc ngữ: Chùa Phước Sa. Qua khỏi cổng tới tượng đài Quan Âm sái thủy. Tượng
bằng xi măng cao gần 3m, đứng trên chân đế cao hơn 1m, ở giữa sân, tăng thêm vẻ
mỹ quan cho chùa. Sau lưng tượng đài là chánh điện. Chánh điện là một ngôi nhà
ngang, ngang 10m, dọc 6m, cao từ nền lên tới trần là 8m, xây gạch lợp ngói, hai
mái hai chái, trên nóc đắp lưỡng long tranh châu. Trước chánh điện có hè rộng
2m, cao 5m, trên đúc bằng, trước có chấn thủy, ở giữa chấn thủy đắp ba chữ hiệu
chùa bằng Hán tự: 福 沙 寺 –
Phước Sa Tự.
Bên trong điện, bệ thờ Phật đặt ở gian giữa.
Trên bệ tôn trí bảo tượng Đức Bổn Sư bằng xi măng cao 1m50 kể cả tòa sen. Hai
bên tôn trí hai pho tượng Quan Âm và Di Lặc bằng sành đều cao khoảng 40cm từ
trong cát lồi lên tại xóm Lý Hòa trong thôn vào năm Kỷ Mùi (1919) và một pho
tượng Chuẩn Đề bằng đồng cao khoảng 40cm cũng lồi lên tại gò đất Lý Hòa vào năm
Ất Dậu (1945).
Trước bệ, trên hương án có tượng Di Đà cao
khoảng 2m đứng giữa hai tượng Hộ Pháp đều cao khoảng 70cm. Tất cả đều bằng xi
măng và đều là tượng hàng khá phổ biến trong vài chục năm nay.
Sau Chánh điện là nhà Tổ. Nhà Tổ song song
với Chánh điện, kích thước như Chánh điện, xây gạch lợp ngói, đứng trên một
chân đế cao hơn Chánh điện mấy phân. Bên trong Chánh điện, bàn thờ Tổ được đặt
ở gian giữa. Giữa bàn thờ có long vị Tổ khai sơn là Hòa thượng Như Từ Tâm Đạt:
Trụ trì chùa Thiên Bình ở An Nhơn và long vị Đại đức Thị Niệm Thiện Giai là vị
trụ trì đầu tiên có long vị thờ tại chùa, có bảo tháp trước chùa.
Kể từ khi bảo tượng Bồ tát
Quan Âm xuất hiện ở thôn Xương Lý, đến nay đã 97 năm (1919-2016), chùa Phước Sa
khai sơn đến nay đã 73 năm (1943-2016), trải qua bao dâu biển của cuộc đời mà
bảo tượng vẫn còn đó và chùa ngày càng nguy nga tráng lệ, dân tình nơi đây:
‘phong ngày càng thuần, tục ngày càng mỹ’. Nhờ vào sự tín ngưỡng và tin tưởng
vào sự chở che, phù hộ của phật mà đời sống người dân nơi đây ngày càng phồn
thịnh. Tin lành đồn xa về sự linh thiêng cũng như khung cảnh thanh tịnh như
tranh vẽ của Phước Sa tự mà thu hút lượng khách thập phương đến viếng ngày càng
đông. Du khách đến đây có thể xin tá túc qua đêm tại chùa hoặc cũng có thể ở
chung nhà với một số phật tử nơi đây, để trải nghiệm không gian thanh tịnh,
lắng nghe sự thuyết giảng và khuyên bảo của sư trụ trì, đồng thời ‘xõa’ hết sự
bôn ba nhộn nhịp của cuộc sống hằng ngày, lắng đọng, chìm vào hư không của phật
giáo nơi đây.
Thời gian qua, ngành du lịch tỉnh đã có nhiều
bước chuyển mình mạnh mẽ với nhiều dự án lớn đã và đang đầu tư. Hầu hết các dự
án ít nhiều đều gắn đến các yếu tố lịch sử, tâm linh. Điển hình là dự án Khu du
lịch lịch sử – sinh thái Tâm linh Chùa Linh Phong với tượng phật ngồi cao 69m
cao nhất Việt Nam, khu thiền viện dưới chân chùa ông Núi. Dự án Khu du lịch
Vinpearl Quy Nhơn cũng dự kiến giữ lại và xây dựng mới một ngôi chùa để phục vụ
nhu cầu tín ngưỡng. Bên cạnh đó các di tích lịch sử, tâm linh cũng đang được
chính quyền tỉnh quan tâm tôn tạo, xây dựng mới như Đàn Tế trời đất, Khu tưởng
niệm cụ Nguyễn Sinh Sắc…Đồng thời Quần thể sân golf, resort, biệt thự nghỉ
dưỡng và giải trí cao cấp FLC Quy Nhơn cũng đã đi vào hoạt động, mong rằng các
ngôi chùa hiện hữu ở xã Nhơn Lý mà tiêu biểu là Tịnh xá Ngọc Hòa và Phước Sa Tự
sẽ được tiếp tục trùng tu, tôn tạo để hình thành thêm nhiều điểm đến độc đáo
hơn nữa, trở thành bản sắc riêng của Bình Định, góp phần phát triển ngành du
lịch tỉnh nhà.
Bạn muốn tìm đến một thắng cảnh thiên nhiên
hùng vĩ, một điểm tham quan còn hoang sơ, Mũi Vi Rồng chính là điểm dừng chân
lí tưởng nhất dành cho bạn. Để đến được mũi Vi Rồng bạn phải trải qua một hành
trình đến với thôn Tân Phụng, xã Mỹ Thọ, đi theo hướng Đông Nam, bạn sẽ bắt gặp
một dãi núi đá hùng vĩ có hình dáng rất ấn tượng. Mũi Vi Rồng là quần thể các
vách đá cheo leo vươn mình ra biển và còn có cả một hang động dẫn thẳng ra bãi
biển. Từ đỉnh mũi Vi Rồng bạn có thể ngắm cảnh đại dương bao la, bãi biển Tân
Phụng và những đoàn thuyền đánh cá giữa biển khơi.
Mũi Vi Rồng hùng vĩ và hang động hướng thẳng
ra biển thật huyền bí. (Nguồn: Internet)Từ đỉnh của Mũi Vi Rồng bạn có thể
"view" về bãi biển Tân Phụng. (Nguồn: Internet)
HÒN KHÔ
Hòn Khô Quy Nhơn nổi bật với vẻ đẹp hoang sơ,
bãi cát dài, trắng mịn cùng nước biển xanh trong như ngọc bích. Đây là điểm
dừng chân lý tưởng để du khách khám phá thiên nhiên, tận hưởng không khí trong
lành từ biển cả.
Cùng với Kỳ Co, Eo
Gió, Cù Lao Xanh… thì Hòn Khô Quy Nhơn là một
trong trong những địa điểm đẹp bạn không nên bỏ lỡ khi đi du lịch Quy
Nhơn. Đây là một điểm đến siêu HOT với cảnh đẹp bình yên cùng nhiều trải
nghiệm thú vị, hấp dẫn. Cùng Vinpearl bỏ túi tất tần tật các review Hòn Khô Quy
Nhơn siêu hữu ích.
1. Hòn Khô Quy Nhơn ở đâu, cách trung tâm bao
xa?
Địa chỉ: X. Nhơn Hải, TP. Quy Nhơn, T. Bình Định
Quy Nhơn đang là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng được du khách yêu
thích với cảnh quan thiên nhiên hoang sơ cùng những hoạt động vui chơi, giải
trí hấp dẫn. Khi nhắc đến các cảnh đẹp, địa danh nổi tiếng Quy Nhơn không thể
không nhắc đến Hòn Khô. Nơi đây nằm cách trung tâm Quy Nhơn khoảng 16km, rất
thuận tiện để ghé thăm.
Hòn Khô Quy Nhơn đúng như tên gọi là một hòn đảo không
có gì ngoài những dãy núi đá cheo leo, khô khốc đang cố ngoi ra biển. Trên đảo
Hòn Khô Quy Nhơn toàn là những khối đá lớn được xếp chồng lên nhau tạo nên một
cảnh quan hoang sơ và bình yên đến lạ. Ngoài ra, bãi tắm Hòn Khô khiến du khách
bốn phương ngất ngây bởi nước biển xanh trong như ngọc bích và còn được bao bọc
bởi các rạn san hô muôn màu.
2. Du lịch Hòn Khô mùa nào đẹp?
Hòn Khô là một điểm đến bạn không nên bỏ lỡ
khi có dịp đến Quy Nhơn. Tuy nhiên, du lịch Hòn Khô Quy Nhơn mùa nào đẹp để có
thể chiêm ngưỡng hết vẻ đẹp của hòn đảo này thì không phải ai cũng biết. Cùng
Vinpearl tìm hiểu chi tiết từng mùa tại Hòn Khô và giúp bạn giải đáp du lịch
Hòn Khô mùa nào đẹp nhất.
2.1. Mùa khô (tháng 4 đến tháng 9)
Tháng 4 - tháng 9 là thời điểm mùa khô tại
Quy Nhơn, lúc này trời ít mưa, biển êm ả, biển không bị động và không có bão.
Chính vì vậy, du khách có thể ghé Hòn Khô Quy Nhơn vào khoảng thời gian này để
chuyến vui chơi và khám phá được thuận lợi, trọn vẹn.
2.2. Mùa rong mơ (tháng 5 đến tháng 7)
Ngoài mùa khô từ tháng 4 - tháng 9, bạn có
thể ghé Hòn Khô vào mùa rong mơ từ tháng 5 - tháng 7. Lúc này, Hòn Khô như một
cánh đồng vàng dưới mặt biển trong xanh khiến bất kỳ ai cũng sẽ say lòng.
3. Cách di chuyển đến Cù lao Hòn Khô
Nằm cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng
16km, để di chuyển đến Hòn Khô du khách có thể tham khảo lộ trình đường đi sau:
3.1. Từ trung tâm TP. Quy Nhơn đi làng chài
Nhơn Hải
Để đến được đảo Hòn Khô Quy Nhơn, trước tiên
du khách cần di chuyển đến làng chài Nhơn Hải theo tuyến đường sau: Trung tâm
TP. Quy Nhơn → Cầu Thị Nại → Bán đảo Phương Mai → Rẽ phải chạy dọc theo đồi cát
→ Làng chài Nhơn Hải → Di chuyển khoảng 3km đường dốc hướng ra biển du khách sẽ
nhìn thấy Hòn Khô.
3.2. Từ làng chài Nhơn Hải đi đảo Hòn Khô
Theo kinh nghiệm du lịch Hòn Khô Quy Nhơn, du
khách có thể lựa chọn thuyền thúng hoặc cano để ra đến đảo Hòn Khô Quy Nhơn.
Thời gian di chuyển trên tàu, thuyền khoảng 10 - 15 phút nên rất nhanh thôi bạn
sẽ được ngắm cảnh Hòn Khô tuyệt đẹp.
4. Những trải nghiệm hấp dẫn tại Hòn Khô Quy
Nhơn
Dưới đây là TOP 6 trải nghiệm thú vị bạn
không nên bỏ lỡ nếu có dịp đến Hòn Khô Quy Nhơn:
4.1. Khám phá vẻ đẹp của Hòn Khô
Hòn Khô Quy Nhơn mang vẻ đẹp hoang sơ do chưa
có nhiều sự đầu tư du lịch nghỉ dưỡng nên rất được du khách yêu thích. Hòn Khô
có kết cấu địa chất đặc biệt khi có những hình vòng cung nối tiếp nhau, tựa
lưng vào dãy núi tạo nên cảnh quan hùng vĩ và thơ mộng. Dừng chân tại đây, chắc
chắn du khách sẽ bị xiêu lòng với trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của Hòn Khô.
4.2. Lặn ngắm san hô
Một trải nghiệm bạn không nên bỏ lỡ khi đến
Hòn Khô chính là lặn ngắm san hô. Với những rạn san hô xinh đẹp, nhiều màu sắc,
du khách sẽ có dịp được khám phá thế giới dưới nước lung linh, huyền ảo.
4.3. Bơi lội, tắm biển
Hòn Khô là một trong những bãi biển
Quy Nhơn có màu xanh trong ngọc bích cực đẹp và là địa điểm lý tưởng
đến du khách bơi lội, tắm biển. Với làn nước trong vắt, có thể nhìn xuyên tới
đáy, tắm biển tại Hòn Khô chắc chắn sẽ mang lại cho bạn nhiều trải nghiệm thú
vị.
5. Đi Hòn Khô ăn gì?
Ngoài cảnh đẹp đến nao lòng, Hòn Khô còn níu
chân du khách bốn phương bởi ẩm thực đa dạng, tươi ngon và mang hương vị đặc
trưng của vùng biển. Cùng khám phá những món ăn nhất định bạn nên thử khi đến
Hòn Khô dưới đây:
5.1. Hải sản
Một trong những đặc sản Quy Nhơn tươi
ngon, chất lượng không thể không kể đến hải sản. Bạn có thể thưởng thức cá mú,
cá chình, cá dìa, tôm hùm, ốc… được chế biến thơm ngon, hấp dẫn ở các nhà bè
với giá cả cực kỳ phải chăng.
5.2. Nhum (cầu gai)
Nhum là loại động vật thân tròn có gai màu
đen. rất giàu dinh dưỡng và là đặc sản nổi tiếng của Quy Nhơn. Nhum được chế
biến thành nhiều món ngon khác nhau như nhum nướng mỡ hành, nhum tái chanh… với
hương vị đặc trưng khiến thực khách ăn một lần là nhớ mãi.
5.3. Bánh xèo mực
Bánh xèo mực với vỏ bánh giòn, vàng ruộm cùng
phần nhân mực tươi ngon đã đốn gục trái tim của biết bao du khách. Đến Hòn Khô
nếu không thưởng thức món bánh xèo mực ngoài giòn, trong mềm thấm vị thì quả
thực là đáng tiếc.
CÙ LAO XANH
Cù Lao Xanh hay còn có tên gọi khác là đảo Vân Phi, là một hải đảo gần với vịnh Xuân
Đài, xã Nhơn Châu, TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Cù lao này nằm cách bờ biển
nội thành Quy Nhơn khoảng 24 km về phía tây bắc và bờ biển tỉnh Phú Yên 22 km
về phía tây. Với tổng diện tích gần 365 ha, cù lao được chia thành 3 thôn là
Thôn Tây (trung tâm), Thôn Đông và Thông Trung.
1.Đôi nét về Cù Lao Xanh
Từ xa xa, du khách có thể nhìn thấy một hòn
đảo xanh ngắt giữa biển. Làng chài của ngư dân thì nép mình dưới chân núi, bên
bờ cát trắng trải dài. Trên đỉnh núi là ngọn hải đăng uy nghiêm, sừng sững, nổi
bật giữa biển trời bao la. Chính khung cảnh thanh bình, yên ả đó đã tạo nên một
điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tận hưởng trọn vẹn cảnh sắc thiên nhiên.
2. Đi Cù Lao Xanh vào khi nào
Cù lao nằm giáp ranh giữa Bình Định và Phú
Yên nên hình thái thời tiết cũng tương đồng với 2 tỉnh thành trên. Bạn có thể
ghé thăm nơi đây vào bất kỳ thời điểm nào trong năm, ngoại trừ mùa mưa bão.
Thời gian lý tưởng nhất để đến cù lao là khoảng từ tháng 2 – tháng 6. Lúc này,
thời tiết cực kỳ đẹp, có nắng, biển lặng, nước biển trong xanh thích hợp cho
các hoạt động tắm biển và lặn ngắm san hô.
Ngược lại, bạn không nên đi du lịch từ tháng
10 – tháng giêng năm sau. Đây là thời điểm cù lao chịu ảnh hưởng của gió mùa
đông bắc, mưa nhiều, sóng lớn, biển động. Ngoài ra, tàu thuyền cũng không được
phép ra khơi để lên đảo. Nếu du khách muốn trải nghiệm không khí lễ hội và văn
hóa tín ngưỡng của người dân trên đảo thì có thể đến đây vào tháng 3 âm lịch –
thời điểm diễn ra Lễ hội Cầu Ngư.
3. Cách di chuyển từ TP.Quy Nhơn ra Cù Lao
Xanh
Từ TP. Quy Nhơn, du khách có thể ra Cù Lao
Xanh các bằng loại phương tiện dưới đây:
-
Tàu
gỗ: Mỗi ngày sẽ có 2 chuyến tàu gỗ đi từ cảng Hàm Tử ra đảo Nhơn Châu. Tàu xuất
phát vào 2 khung giờ là 8h và 13h, chuyến ngược lại là 7h và 15h. Giá vé là
30.000 VND, bán tại cảng Hàm Tử. Ngoài ra, du khách còn phải chi thêm 3.000 VND
để thuê đò nhỏ trung chuyển vào đảo.
-
Cano:
Ngoài tàu gỗ, bạn còn có thể chọn cano để di chuyển ra đảo. Đây là phương tiện
giúp bạn tiết kiệm thời gian di chuyển, thường nằm trong tour trọn gói do cư
dân trên đảo kinh doanh. Cano cao tốc chỉ mất khoảng 25 phút để ra đến đảo, giá
vé 200.000 VND/ chiều và 350.000 – 400.000 VND/ 2 chiều. Cano ghép thường hoạt
động trong các khung giờ như 8h – 9h và 14h – 15h.
4. Ăn gì khi đi du lịch trên đảo
Ẩm thực tại Cù Lao Xanh là một hệ thống về
quan điểm truyền thống và thực hành nấu ăn. Nơi đây nổi tiếng với nghệ thuật
chế biến hải sản đơn giản nhưng hương vị lại vô cùng đặc sắc. Đến với cù lao
này, du khách nhất định phải thử các món ăn đặc sản sau đây:
Cua đá: Cua đá là loài cua sống trong các hốc
đá ẩm ướt trên đảo. Thịt cua ngọt thanh, dai béo, càng cua lớn và nhiều gạch.
Cách chế biến phổ biến nhất là hấp bia, nướng than hồng hay cầu kỳ hơn là rang
me.
Ốc biển: Ốc biển tại cù lao còn có tên gọi là ốc mặt trăng, ốc mắt ngọc hay ốc
xà cừ. Đây là loài ốc đặc trưng có thể chế biến thành nhiều món khác nhau như
nướng bơ, hấp gừng, xào xả ớt chấm muối ớt xanh.
Bánh xèo hải sản: Đi du lịch Cù Lao Xanh, bạn sẽ có dịp thưởng thức món bánh
xèo hải sản ngon trứ danh. Nhân bánh xèo thường là các loại hải sản như mực, cá
cơm… Trong đó, bánh xèo cá cơm là món ngon nổi tiếng với hương vị cực kỳ lạ
miệng.
Canh rong biển: Rong biển được đánh bắt từ
biển sẽ được ngư dân nơi đây chế biến thành món canh tươi mát, đậm chất biển
khơi. Hương vị món ăn vô cùng đặc biệt, khác hẳn với canh rong biển của người
Hàn Quốc.
Rượu dứa rừng: Rượu dứa rừng cù lao mang
hương vị ngọt thanh, là đặc sản của vùng đất này. Bên cạnh đó, rượu dứa rừng
còn rất tốt cho sức khỏe, thích hợp để du khách mua về làm quà.
5. Các điểm tham quan du lịch tại Cù Lao Xanh
Là hòn đảo du lịch nổi tiếng của Việt Nam, Cù
Lao Xanh có khá nhiều địa điểm cho du khách tham quan, khám phá. Đi du lịch
tại hòn đảo này, bạn nên ghé thăm các tọa độ sau:
Cột Cờ Thanh Niên: là cột cờ được xây dựng
bởi Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội sinh viên Việt Nam. Công trình được khánh
thành vào ngày 22/08/2015, có ý nghĩa về mặt chủ quyền và là niềm tự hào của
người dân biển đảo. Ngoài ra, đây còn là 1 trong 7 cột cờ Tổ Quốc tiêu biểu được
dựng trên các đảo ở nước ta.
Hải Dăng Plogam Bir: là một trong những địa
điểm thu hút khách du lịch nhất ở Cù Lao Xanh. Ngọn hải đăng này được
xây dựng từ thời Pháp thuộc, có tuổi đời cả trăm năm. Công trình được xây dựng
hoàn toàn bằng đá, sơn màu đen và trắng tạo thành 3 phần nổi bật. Với chiều cao
119 m so với mực nước biển, hải đăng có thể chiếu xa đến tận 50 km.
Bãi Gala: là điểm cắm trại và dã ngoại được
các bạn trẻ cực kỳ yêu thích tại Cù Lao Xanh. Mặt biển êm đềm, trong
xanh bên bờ cát trắng là background check – in “siêu xinh” dành cho bạn. Ngoài
ra, đến đây, bạn còn có thể tham gia vào hoạt động ngắm san hô.
Mũi Hoàng Bằng: là phần nhô ra so với biển
cùng nhiều tảng đá lớn nhỏ khác nhau. Địa điểm này chưa được khai thác nhiều
nên dải biển còn rất sạch. Khung cảnh thiên nhiên hoang sơ biển trời chắc chắn
sẽ mang đến cho bạn những tấm ảnh “sống ảo” cực đẹp.
Chuyên đề:
Triều
đại Tây Sơn và những chính sách cải cách
của vua Quang Trung Nguyễn Huệ
Biên niên các sự kiện thời Tây Sơn:
- 1771: Anh em Tây Sơn nổi dậy
- 1776: Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương
- 1777: Nguyễn Huệ tiêu diệt chúa Nguyễn tại Gia Định
- 1778: Nguyễn Nhạc xưng đế, đặt tên hiệu là Thái Đức
- 1780: Nguyễn Ánh xưng vương tại Gia Định
- 1782: Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi, chạy ra Phú Quốc.
- 1783: Nguyễn Ánh lánh nạn tại Côn Sơn.
- 1785: Nguyễn Huệ đánh bại quân Xiêm tại Rạch Gầm - Xoài Mút.
Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm.
- 1786: Nguyễn Huệ lật đổ chúa Trịnh
- 1787: Nguyễn Ánh trở về lại Long Xuyên
- 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế
- 1789: Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Nguyễn Ánh lấy thành Gia
Định
- 1792: Vua Quang Trung mất - 1793: Nguyễn Nhạc mất
- 1799: Nguyễn Ánh chiếm thành Qui Nhơn
- 1801: Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân
1. Sự thiết lập Vương triều Tây Sơn
Tháng 3-1776, Nguyễn Nhạc tự xưng Tây Sơn Vương, đúc ấn vàng, xây
lại thành Đồ Bàn, phong cho Nguyễn Huệ làm Phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó.
Đầu năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, đổi
thành Đồ Bàn làm thành Hoàng đế, phong cho Nguyễn Huệ làm Long nhượng tướng
quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế. Triều đại Tây Sơn chính thức được thành lập,
nhưng thực chất vẫn còn là bộ tham mưu tối cao của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Năm
1786, sau khi tiến quân ra Bắc, lật đổ chính quyền họ Trịnh, Nguyễn Huệ rút
quân về Nam, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế, quản lý khu đất ở
giữa, chạy dài từ Quảng Nam vào đến cực nam Trung Bộ ngày nay, phong cho Nguyễn
Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Nghệ An, phong
cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, trông coi vùng đất Gia Định. Hoạt động của
Nguyễn Lữ ở Gia Định chỉ thu hẹp trong phạm vi là một viên tướng đồn trú ở
trong thành và chia quân đóng giữ. một số đồn luỹ, không đề ra và thực hiện
được những chính sách kinh tế, chính trị, xã hội nào tích cực của một chính
quyền phong kiến. Thời gian tồn tại của Đông Định Vương chỉ trong vòng hơn một
năm (1786-1787). Năm 1787, Nguyễn ánh từ Xiêm đem quân về đánh Long Xuyên.
Nguyễn Lữ sợ hãi bỏ Gia Định chạy về Biên Hoà, sau lại chạy về Quy Nhơn và bị
bệnh chết. Vùng Gia Định từ tháng 9-1788 lại thuộc về Nguyễn Ánh.
Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc từ sau năm 1786 thỏa mãn với thắng
lợi, không còn ý chí quật khởi, ngồi hưởng lạc "chỉ mong giữ lấy một phủ
Quy Nhơn, tự giáng mình làm Tây chúa", "ham nhàn vui, cầu yên tạm bợ,
không lo đến hậu hoạ". Từ năm 1790 đến 1793, Nguyễn Ánh liên tiếp tấn công
ra Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh và vây thành Quy Nhơn (1793). Nguyễn Nhạc
bất lực phải nhờ quân cứu viện của chính quyền Quang Toàn (Cảnh Thịnh). Các
tướng sĩ của Quang Toàn giải vây Quy Nhơn, đánh bại quân Nguyễn Ánh rồi chiếm
luôn cả thành trì. Nguyễn Nhạc uất lên mà chết, chính quyền của Nguyễn Nhạc đến
đây kết thúc.
2. Triều đại Quang Trung
Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), trước khi đem quân ra Bắc
tiêu diệt quân Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ xưng đế đặt niên hiệu là Quang Trung.
Phạm vi quản lý của triều đại Quang Trung trong những năm 1789-1792 bao gồm
toàn bộ Bắc Hà vào đến đèo Hải Vân. Trên phạm vi đó, triều đại này đã ban hành
nhiều chính sách, biện pháp cải cách tiến bộ.
- Về kinh tế.
Quang Trung ban "chiếu khuyến nông", lệnh cho dân phiêu
tán trở về quê khôi phục ruộng đồng bỏ hoang. Những xã nào chứa chấp kẻ trốn
tránh đều bị trừng phạt. Sau một thời hạn mà ruộng công còn bỏ hoang thì phải
nộp thuế gấp đôi, ruộng tư thì bị sung công... Do đó, chỉ trong vòng 3 năm sau,
nông nghiệp được phục hồi. Năm 1791 "mùa màng trở lại phong đăng, năm phần
mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình.
Đối với công thương nghiệp, Quang Trung khuyến khích đẩy mạnh sản
xuất thủ công nghiệp, mở rộng ngoại thương trên cơ sở phục hồi và phát triển
nông nghiệp. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn đó, ngay từ những ngày đầu của
chính quyền mới, Quang Trung chủ trương phát triển mọi ngành sản xuất nhằm xây
dựng một nền kinh tế phồn vinh, độc lập, tự chủ trong đó có công thương nghiệp.
Chủ trương khuyến khích phát triển công thương nghiệp của Quang
Trung được thể hiện ở sắc lệnh "khoan thư" sức dân. Năm 1789, Quang
Trung bãi bỏ thuế điền cho nhân dân từ sông Gianh ra Bắc, động viên các tầng
lớp nhân dân lao động phấn khởi sản xuất.
Để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá thuận lợi, Quang Trung
cho đúc tiền đồng mới (Quang Trung thông bảo và Quang Trung đại bảo). Đối với
nước ngoài, Quang Trung chủ trương mỏ rộng trao đổi buôn bán, đấu tranh nuộc
nhà Thanh phải mở cửa biên giới để buôn bán với nước ta như ải Bình Nhi, Thuỷ
Khẩu (Cao Bằng), Hoa Sơn (Lạng Sơn), Du Thôn... Đối với thuyền buôn của các
nước tư bản phương Tây, Quang Trung tỏ ra rộng rãi, mong muốn họ tăng cường
quan hệ ngoại thương với Việt Nam, nhờ vậy, tình hình thương nghiệp (nội thương
và ngoại thương) nước ta thời Quang Trung được phục hưng và phát triển. Mô tả
Thăng Long bấy giờ, nhà nho Nguyễn Huy Lượng sống dưới thời Tây Sơn viết:
"Lò Thạch khối khói tuôn nghi ngút, thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm,
lửa đom đóm nhen năm xã gây lò", và "rập rình cuối bãi đuôi nheo,
thuyền thương khách hãy nhen buồm bươm bướm" (Phú Tụng Tây Hồ).
Nền ngoại thương nước ta thời Quang Trung khác hẳn với ngoại
thương thời Vua Lê chúa Trịnh, chúa Nguyễn trước đó. Nó xuất phát từ yêu cầu
nội tại của nền kinh tế và đời sống của nhân dân, từ yêu cầu đẩy mạnh nền kinh
tế hàng hoá. Tư tưởng "thông thương" tiến bộ của Quang Trung đã thể
hiện nhãn quan kinh tế rộng mở phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và
thời đại, "mở cửa ải, thông thuơng buôn bán, khiến cho các hàng hoá không
ngừng đọng để làm lợi cho dân chúng".
- Về chính trị, quốc phòng.
Sau khi đánh bại 30 vạn quân Thanh xâm lược (1789), Vương triều
Quang Trung ra sức xây dựng một chính quyền phong kiến mới tiến bộ với ý thức
quản lý đất nước trên một phạm vi rộng lớn dưới một chính quyền trung ương tập
trung mạnh. Xuất phát từ nhận thức "Trẫm là kẻ áo vải đất Tây Sơn, không
có một tấc đất, tự nghĩ mình tài đức không theo kịp cổ nhân mà đất đai rộng lớn
như thế, nghĩ đến việc cai quản, lo sợ như cầm dây cương mục mà dong sáu
ngựa", nên trong công cuộc xây dựng chính quyền mới, Quang Trung rất chú
trọng "Cầu hiền tài". Đối với những nho sĩ, trí thức, kể cả quan lại
trong chính quyền cũ có tài năng, trí tuệ, có nhiệt tình xây dựng đất nước,
Quang Trung đều cố gắng thuyết phục và sử dụng họ vào bộ máy nhà nước mới, đặt
họ ở những chức vụ cao tương xứng với tài năng của họ. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy
Ích, Nguyễn Thiếp, v.v., là những học giả tiêu biểu trong số nho sĩ này.
Để đáp ứng nhu cầu xây dựng chính quyền mới và đào tạo quan lại
mới, bên cạnh phương thức "tiến cử", "cầu hiền tài" Quang
Trung đã ban hành chính sách "khuyến học", mở rộng chế độ học tập,
thi cử. Trường học được mở rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử
dụng một số đền chùa không cần thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học từ
chương khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh, sinh đồ
ở các triều đại trước phải thi lại. Người nào xếp loại ưu thì mới được công
nhận cho đỗ, hạng liệt phải về học lại, còn hạng sinh đồ 8 quan do bỏ tiền ra
mua trước đó (thời Lê - Trịnh) đều bị đuổi về chịu lao dịch như dân chúng.
Chủ trương phát triển giáo dục, thi cử để đào tạo nhân tài cho đất
nước trong công cuộc phục hưng của chính quyền mới được Quang Trung nói rõ:
"Dựng nước lấy học làm đầu, lấy nhân tài làm gốc. Trước đây bốn phương
nhiều việc phải phòng bị, việc học không được sửa sang, khoa cử bỏ dần, nhân
tài ngày càng thiếu thốn... Trẫm khi vừa mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhà
nho, lưu tâm, mến kẻ sĩ, muốn có người thực tài để dùng cho quốc gia".
Xuất phát từ nhận thức đó ngay từ năm 1789, Quang Trung đã cho mở khoa thi
Hương đầu tiên ở Nghệ An, chọn lấy những người đỗ tú tài hạng ưu cho vào dạy
trường quốc học, hạng thứ cho vào dạy ở trường phủ học. Quang Trung chủ trương
từng bước đưa khoa cử thành một phương thức đào tạo quan chức cho nhà nước
phong kiến mới.
Trên cơ sở tăng cường và củng cố hoạt động của bộ máy nhà nước tập
trung mạnh, chính quyền đã thực hiện được chức năng quan trọng và lớn lao bấy
giờ đối với xã hội là tập hợp được các lực lượng tích cực trong toàn đất nước,
đẩy lùi được cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang, ổn định tình hình chính
trị, xã hội, củng cố được nhà nước quân chủ tập quyền, từng bước phục hưng,
phát triển văn hoá, giáo dục và kinh tế.
Quang Trung chủ trương xây dựng một đội quân hùng mạnh, củng cố
quốc phòng. Quân đội chia làm 5 doanh: trung, tiền, hậu, tả, hữu. Ngoài ra còn
có thêm một số quân hiệu khác như tả bật, hữu bật, kiều thanh, thiên cán. Quân
đội được biên chế theo đạo, cơ, đội. Nhà nước quy định cứ 3 suất đinh tuyển một
lính. Năm 1790, làm sổ hộ tịch để căn cứ vào đó tuyển binh.
Quân đội có các binh chủng: bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, pháo
binh. Vũ khí có nhiều loại, có loại được cải tiến như hỏa hổ (một loại ống phun
lửa), có súng trường, đại bác, giáo mác, cung, tên. Chiến thuyền cũng nhiều
loại, loại lớn chở được cả voi, trang bị từ 50 đến 60 khẩu đại bác, chở được từ
500 đến 700 lính.
Với một lực lượng quân đội mạnh, Quang Trung đã trấn áp được các
thế lực phong kiến phản động, bảo vệ được chính quyền mới và có cơ sở để thực
hiện một chính sách đối ngoại tích cực, kiên quyết bảo vệ độc lập, toàn vẹn
lãnh thổ của quốc gia và nâng cao địa vị của nước ta thời bấy giờ đối với nước
ngoài.
- Về văn hoá giáo dục.
Quang Trung lập Sùng Chính Viện chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ
Nôm làm tài liệu học tập và giúp vua về mặt văn hoá. Mục đích của Quang Trung
là nhằm đưa chữ Nôm lên thành quốc ngữ chính thức thay cho chữ Hán. Bên cạnh
Nho giáo, Quang Trung vẫn chấp nhận Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Chữ Nôm được
đưa vào khoa cử, trong các kỳ thi quan trường phải ra đề thi bằng chữ Nôm,
người thi đến kỳ tam trường phải làm thơ, phú bằng văn Nôm. Chữ Nôm trở thành
văn tự chính thức của quốc gia dưới triều Quang Trung, một thành quả quan trọng
trong lịch sử đấu tranh và bảo tồn nền văn hoá dân tộc, chống chính sách đồng
hoá của các triều đại phương Bắc đô hộ nước ta. Những chính sách văn hoá, giáo
dục của Quang Trung chứng tỏ ông có hoài bão xây dựng một nền học thuật, giáo dục
đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao ý thức độc lập, tự cường cho nhân dân.
Những cải cách của Quang Trung có nhiều mặt tích cực, thể hiện một
tư tưởng tiến bộ nhằm đưa đất nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau
chiến tranh kéo dài để vươn lên sánh vai cùng các quốc gia phát triển đương
thời, những chính sách cải cách đó đã và sẽ tạo khả năng mở đường, phát triển
của đất nước, của dân tộc.
Tuy nhiên, về mặt thực hiện những chính sách cải cách của Quang
Trung đã gặp nhiều trở ngại, thời gian thực hiện lại quá ngắn ngủi. Ngày 29
tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), Quang Trung - Nguyễn Huệ - người anh hùng của dân
tộc, đột ngột qua đời giữa lúc những cải cách mới được bắt đầu thực hiện. Triều
đại Quang Toản tiếp sau đó bất lực, không còn tiếp tục thực hiện được những cải
cách của Quang Trung và đã bị Nguyễn Ánh lật đổ vào đầu năm 1802.
Thái Đức Hoàng Đế (1778-1793)
1.Triều Tây Sơn (1778-1802)
Anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ, cháu hậu duệ của Trạng nguyên Hồ
Hưng Dật (thế kỷ thứ 10). ông tổ của Tây Sơn ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An,
khoảng nǎm 1653-1657 bị quân của chúa Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài bắt đem về cho
ở ấp Tây Sơn (nay là An Khê, Hoài Nhơn, Bình Định), từ đó đổi thành họ Nguyễn.
Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng sinh ba con trai:
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.
Gia đình ông Phúc làm nghề buôn trầu cau, cuộc sống cũng khá giả.
Anh em Nguyễn Nhạc theo học giáo Hiến. Giáo Hiến vốn là môn khách của Trương
Vǎn Hạnh, ngoại hữu dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777).
Sau Trương Vǎn Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, giáo Hiến sợ phải chạy vào ở ẩn
tại Quy Nhơn, mở trường dạy học ở ấp Yên Thái.
Lúc đó quyền thần Trương Phúc Loan tác oai tác quái, lấn lướt nhà
chúa, lòng người ai cũng cǎm ghét.
Hằng ngày anh em Tây Sơn được giáo Hiến dạy cả vǎn lẫn võ, đồng htời khích lệ
bởi câu sấm:
"Tây khởi nghĩa, Bắc thu công" Nǎm Tân Mão - 1771, anh em Tây Sơn
phất cờ khởi nghĩa với khẩu hiệu chiến lược: "Lật đổ quyền thần Trương
Phúc Loan, phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương". Quân Tây Sơn thường lấy của
những nhà giàu rồi phân phát cho dân nghèo, do đó nhân dân các nơi theo về rất
đông.
Trải qua 8 nǎm chiến đấu gian khổ, nǎm Mậu Tuất - 1778, quân Tây
Sơn đã diệt được chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng dế lập nên Triều đại nhà Tây Sơn, đặt
niên hiệu là Thái Đức, phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân.
Nǎm 1777, chúa Nguyễn Phúc Thuần và Hoàng tôn Dương đều bị chết
trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Chu.
Nǎm 1784, Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm cho hai vạn quân thuỷ và
300 chiến thuyền sang xâm lược nước ta, bị Nguyễn Huệ đánh tan trên đoạn sông
Rạch Gầm - Soài Mút (Định Tường).
Nǎm 1786, Hoàng đế Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem quân ra đánh thành Thuận Hoá
của chúa Trịnh vào tháng 5/1786. Trên đà thắng lợi, với khẩu hiệu "phù Lê
diệt Trịnh", ngày 25/6 Nguyễn Huệ tiến quân ra cố đô Thǎng Long. Nghe tin
Nguyễn Huệ chiếm được thành Thǎng Long, Nguyễn Nhạc sợ không kiềm chế được
Nguyễn Huệ, vội thân hành đem quân bản bộ ra Bắc Hà.
Vua Lê Hiển Tông nghe tin, đem trǎm quân ra ngoài cõi đón vua Tây
Sơn. Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón anh và tạ tội tự chuyên của mình.
Về đến kinh đô, Nguyễn Huệ đưa công chúa Ngọc Hân ra chào vua anh.
Nguyễn Nhạc khen:
- Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam "môn đương hộ
đối" mối nhân duyên thật đẹp!
Sau khi từ Bắc Hà trở về, tháng 4 nǎm Đinh Mùi - 1787, Nguyễn Nhạc
chia vùng đất phía Nam ra làm ba:
- Từ đèo Hải Vân trở ra Bắc thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
- Đất Gia Định thuộc về Đông Định Vương Nguyễn Lữ.
- Nguyễn Nhạc đóng đô ở Qui Nhơn xưng là Trung ương Hoàng đế.
Nǎm 1793, Nguyễn Nhạc mất, làm vua được 15 nǎm.
2. Hoàng đế Quang Trung (1788-1792)
Hoàng đế Quang Trung tên huý là Nguyễn Huệ (tức Hồ Thơm), sinh nǎm
Quý Dậu - 1752. Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm: tóc quǎn, da sần, tiếng nói sang
sảng như chuông, cặp mắt sáng và tinh anh.
Nguyễn Huệ là trụ cột của nghĩa quân Tây Sơn, đã góp nhiều công
lao to lớn, đập tan chúa Nguyễn ở Đàng Trong, được vua Tây Sơn phong cho làm
Long nhương Tướng quân và được trao quyền cầm quân đánh đông dẹp bắc, là vị
tướng có tài hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy, bách chiến bách thắng.
Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lật nhào chúa Trịnh chuyên quyền, tôn
phò nhà Lê.
Sau khi vua Lê Hiển Tông tiếp kiến Nguyễn Huệ ở điện Vạn Thọ, nhà
vua đã phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên suý Dực chính phù vận Uy quốc công. Với
sự sắp xếp khéo léo của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông đã gả công chúa Ngọc
Hân cho Nguyễn Huệ.
Tháng 7/1786, một đêm mưa to gió lớn, kinh đô Thǎng Long ngập hàng
thước nước, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi.
Công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã
nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đǎng quang của Lê
Duy Kỳ. Cả triều đình xao xuyến ngờ vực. Các tôn thất nhà Lê cho rằng Ngọc Hân
cố tình làm lỡ việc lớn của triều đình và bảo sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ,
vội nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua.
Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút
quân về Nam.
Tháng 4/1788. Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô chạy ra ngoài, Bắc bình
vương Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ 2 dẹp loạn. ông đã tổ chức lại hệ
thống cai trị ở Bắc Hà, đưa các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy
ích ra đảm đương công việc.
Sau khi đã lập Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn
Huệ lại rút quân về Phú Xuân.
Cuối nǎm 1788, Lê Chiêu Thống đưa đường cho đội quân xâm lược Mãn Thanh về
chiếm đóng kinh đô Thǎng Long.
Đại tư mã Ngô Vǎn Sở đã bàn với Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích và các
mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn chờ lệnh.
Nghe tin cấp báo, ngay ngày hôm sau, 25 tháng 11 nǎm Mậu Thân
(22/12/1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Chiều ý các tướng và để sáng
tỏ danh nghĩa với cả nước, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 nǎm Mậu Thân (26/12/1788), đại binh của hoàng đế
Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày, tuyển thêm hàng vạn trai
tráng Nghệ An vào nghĩa quân Tây Sơn, nâng quân số lên 10 vạn, với đội tượng
binh 200 voi chiến. Nguyễn Huệ tổ chức 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung
quân. Những binh sĩ mới tuyển ở Nghệ An, chưa quen chiến trận, chưa qua thao
luyện được đặt vào đạo trung quân do chính hoàng đế trực tiếp chỉ huy.
Hoàng đế Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để
khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn
Thanh.
Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung cưỡi voi thúc quân tiến ra Bắc
Hà.
Ngày 20 tháng Chạp nǎm Mậu Thân (15/1/1789), đại quân của Quang
Trung đã ra đến Tam Điệp, Ninh Bình.
Trước khi bước vào chiến dịch, vua Quang Trung nói với quan quân rằng:
- Nay ta tới đây thân đốc việc binh, chiến thư ra sao đã có phương
lược sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào cũng quét sạch giặc Thanh. Song ta
nghĩ: nước Thanh lớn hơn nước ta gấp 10 lần, Thanh bị thua tất hổ thẹn, chắc
phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc
cho trǎm họ, lòng ta không nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ
lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa chiến tranh, việc từ lệnh đó ta giao cho Ngô
Thì Nhậm.
Đúng như dự kiến và lời hứa hẹn của vị tổng chỉ huy, với tài dùng
binh táo bạo, thần tốc, ngày 5 tháng Giêng nǎm Kỷ Dậu - 1789, đội quân bách
chiến bách thắng của hoàng đế Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh,
tiêu biểu là trận Ngọc Hồi - Đống Đa do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, tiến vào
giải phóng Thǎng Long.
Sau chiến thắng Đống Đa, Nguyễn Huệ vội trở lại Phú Xuân để lo
việc diệt Nguyễn Ánh, trao lại binh quyền cho Ngô Vǎn Sở và Ngô Thì Nhậm.
Theo phương lược ngoại giao đã được Quang Trung vạch sẵn, với tài
ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, nước ta đã bình thường được mối bang giao
với nhà Thanh, buộc sứ Thanh phải vào tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn
Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi
của vua Càn Long nhà Thanh.
Nǎm 1792, sau khi gửi thư đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên
cùng một nàng công chúa bắc quốc và xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm
đất đóng đô, vua Quang Trung đã sai đô đốc Vũ Vǎn Dũng làm chánh sứ sang triều
kiến vua Càn Long. Vua Càn Long đã chuẩn tấu gả công chúa khuê các sang đẹp
duyên cùng quốc vương nước Nam và tỉnh Quảng Tây được hứa sẽ nhường cho quốc
vương phò mã đóng đô.
Giữa lúc đoàn sứ bộ đang mừng vui vì sắp hoàn thành sứ mệnh được giao, thì nhận
tin sét đánh: vua Quang Trung đã từ trần. Mọi việc đều bị gác lại. Vũ Vǎn Dũng
đành ôm hận trở về nước.
Một buổi chiều đầu thu nǎm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm
việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng
"huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Khi
tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về triều bàn
việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã
nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua đã cǎn dặn Trần Quang Diệu và các quần thần.
- Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau
ốm, tất không khỏi được. Thái tử (Nguyễn Quang Toản) tư chất hơi cao, nhưng
tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn Ánh) là quốc thù, mà Thái Đức
(Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo
về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao
thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh
ngày nay) để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi
không có chỗ chôn đâu!
Ngày 29 tháng 7 nǎm Nhâm Tý - 1792 vào khoảng 11 giờ đêm, Quang
Trung Nguyễn Huệ từ trần, ở ngôi được 4 nǎm, thọ 41 tuổi. Biết bao dự kiến to
lớn của người anh hùng kiệt xuất của dân tộc chưa thực hiện được!
Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi vua cha.
3. Hoàng đế Cảnh Thịnh (1793-1802)
Vua Quang Trung mất, Nguyễn Quang Toản là con trưởng mới 10 tuổi
lên ngôi vua nǎm Quý Sửu - 1793, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh.
Quang Toản lên ngôi vua, dùng cậu là Bùi Đắc Tuyên làm thái sư
giám quốc trông coi mọi việc trong ngoài. Vì Quang Toản còn nhỏ quá, Bùi Đắc
Tuyên ngày càng chuyên quyền nên trong ngoài đều oán, đại thần trong triều
ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau.
Bọn cận thần gièm pha rằng Trần Quang Diệu oai quyền quá lớn, mưu
đồ cướp ngôi, Quang Toản tin là thật, rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu.
Sau Trần Quang Diệu bị giết.
Nǎm Canh Thân - 1800, Nguyễn Ánh vượt biển ra đánh thành Quy Nhơn,
tướng Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng.
Nǎm Tân Dậu - 1801, Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, Quang Toản chống giữ
không nổi, Phú Xuân bị chiếm, Quang Toản phải chạy ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là
Bảo Hưng.
Ngày 16 tháng 6 nǎm Nhâm Tuất - 1802, Nguyễn Ánh tập trung lực
lượng đánh chiếm Thǎng Long. Không chống đỡ nổi, Cảnh Thịnh cùng em là Quang
Thuỳ bỏ thành chạy theo hướng Bắc, bị bọn thổ hào đất Kinh Bắc bắt được, đóng
cũi đưa về Thǎng Long.
Mùa đông nǎm 1802, Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo tế miếu, trả thù Tây
Sơn cực kỳ tàn bạo, Quang Toản cùng toàn gia cũng như một số tướng lĩnh Tây Sơn
bị hành hình?.
Quang Toản lên ngôi vua nǎm 1793, đến nǎm 1802 thì bị giết ở tuổi
20, ở ngôi được 9 nǎm. Như vậy triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh
Thịnh tồn tại được 24 nǎm (1778-1802).
Nữ tướng Bùi Thị Xuân
[VOV2] - Bùi Thị
Xuân là một nữ tướng thời Tây Sơn. Bà là một trong số những nữ anh hùng kiệt xuất,
với những chiến công hiển hách được lưu truyền trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc.
Đô đốc Bùi Thị
Xuân là người huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
Theo nhà sử học Lê Văn Lan, Đô đốc Bùi Thị Xuân chính là một
trong số những nữ anh hùng kiệt xuất nhất, với những chiến công hiển hách được
lưu truyền trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc: "Ngay từ
thời thiếu nữ, Bùi Thị Xuân đã là người có thiên hướng về võ nghệ và bà đã thực
hiện chí hướng ấy của mình bằng cách rất chăm tập luyện võ nghệ. Thầy dạy võ của
nữ tướng Bùi Thị Xuân chính là vị quan đô thống nổi tiếng thời bấy giờ:
Ngô Mãnh. Với tài năng võ nghệ và với sự luyện rèn thì không lấy làm lạ khi
phong trào Tây Sơn khởi dấy, Bùi Thị Xuân đã nhanh chóng trở thành nữ tướng dưới
cờ của Tây Sơn tam kiệt. Và ngay từ khi cùng chồng là Trần Quang Diệu tham gia
phong trào nghĩa quân Tây Sơn từ năm 1771 thì với tư cách là nữ tướng, Bùi Thị
Xuân còn được nhận thêm 1 danh hiệu nữ tướng nữa ngoài danh hiệu Nữ tướng áo đỏ,
đó là danh hiệu Nữ tướng "Tượng binh".
Cũng theo nhà sử
học Lê Văn Lan, không chỉ dũng cảm, có tài sử dụng song kiếm, cưỡi ngựa bắn
cung khi ra trận, nữ tướng Bùi Thị Xuân còn có biệt tài huấn luyện voi trận. Dưới
quyền Đô đốc Bùi Thị Xuân có 5000 nữ binh và 200 thớt voi. Lực lượng tượng
binh và nghệ thuật đánh trận bằng voi chiến là nét đặc sắc có một không hai của
phong trào Tây Sơn cũng như lịch sử quân sự nước Việt thời đó: "Tài
võ nghệ của Bùi Thị Xuân lúc bấy giờ có chỗ để phô diễn ở việc luyện
rèn và tổ chức nên 1 đội quân đặc biệt của nghĩa quân Tây Sơn, đó là voi chiến
(tượng binh). Tài liệu còn nói rõ đội tượng binh do Bùi Thị Xuân quản lý luyện
rèn rất cẩn thận và tài năng chiến trận, khả năng sung sát cực kỳ lợi hại và đặc
biệt đông đúc với số lượng 100 con voi".
Tài năng của nữ
tướng Bùi Thị Xuân còn thể hiện vào năm 1773, khi chủ tướng Tây Sơn Nguyễn Nhạc
cùng Nguyễn Huệ mở rộng địa bàn đem toàn quân xuống đánh Quy Nhơn thì Bùi Thị
Xuân một mình ở lại trông giữ và bảo vệ Hoàng thành. Về sự kiện này, PGS.TS
Nguyễn Đức Nhuệ thông tin: Có một sự kiện rất quan trọng là năm 1785, Nguyễn
Ánh xin viện trợ từ Thái Lan (tức là Xiêm) 5 vạn quân đã theo chân Nguyễn Ánh về
để chống lại Tây Sơn và Nguyễn Huệ đã bố trí một trận đánh trên sông Rạch Gầm -
Xoài Mút rất nổi tiếng tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm. Trong trận đó nhiều tư liệu
xác minh là bà Bùi Thị Xuân cùng ông Trần Quang Diệu đã phụ trách mũi bộ binh để
tấn công vào quân Chu Tăng, Chu Xương của Xiêm".
Không chỉ giỏi
giang võ nghệ, Bùi Thị Xuân còn thể hiện lòng thương dân khi được cử làm Trấn
Thủ trấn Quảng Nam. Bà mở kho phát chẩn, trừng trị bọn cường hào và giúp cho
dân được an cư lạc nghiệp, nên rất được lòng dân cảm phục. PGS.TS Nguyễn Đức
Nhuệ cho biết: Bùi Thị Xuân được đánh giá là 1 trong 10 nữ tướng, 10 hiện
tượng đặc biệt của phụ nữ Việt Nam thời kỳ bấy giờ. Đối với vị Đô đốc này thì
có lẽ là không có sử sách nào có thể mô tả hết được tinh thần, sự đóng góp, nhiệt
huyết cho phong trào Tây Sơn. Một là bà đã từng được giao giữ chức Trấn thủ Quảng
Nam trong thời điểm dân cư loạn lạc, đói kém, bà đã tổ chức sản xuất, chiêu tập
nhân dân mở mang cày cấy, thành lập xóm làng trở nên một vùng rất an cư, lạc
nghiệp…
Năm 1801 khi Thiếu
phó Trần Quang Diệu đưa đại quân từ Phú Xuân vào vây hãm và đánh hạ thành Quy
Nhơn của chúa Nguyễn Ánh thì nữ tướng Bùi Thị Xuân ở lại kinh thành hộ giá vua
Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Khi Nguyễn Ánh đưa thủy quân vòng qua Quy Nhơn bất
ngờ đánh thẳng vào Phú Xuân, quân Tây Sơn ở đây chống cự không nổi, Bùi Thị
Xuân đã phải đưa vua Cảnh Thịnh chạy thẳng ra Thăng Long. Mùa Xuân năm 1802,
sau một năm củng cố lực lượng, Đô đốc Bùi Thị Xuân đã cùng vua Cảnh Thịnh đưa
quân vào để mưu việc lấy lại Phú Xuân nhưng bất thành.
Đô đốc Bùi Thị
Xuân anh dũng hy sinh khi 45 tuổi. Bà là một vị nữ anh hùng đã xây dựng
nên triều đại Tây Sơn. Hiện nay, tại nhiều thành phố ở nước ta, tên bà được lấy
để đặt tên cho những con đường và các trường học như một cách tỏ lòng tôn kính,
ngưỡng mộ với vị nữ tướng tài ba.
Nguồn:
https://vov2.vov.vn/van-hoa-giai-tri/nu-tuong-bui-thi-xuan-22308.vov2
Đền Thờ Đô Đốc Bùi Thị Xuân – Điểm Đến Du Lịch
Quy Nhơn
Đền
thờ Đô đốc Bùi Thị Xuân được khánh thành tháng 7/2008, để tưởng nhớ công lao của
Đô đốc Bùi Thị Xuân – nữ tướng tài giỏi và có công lớn trong công cuộc dựng nước
và giữ nước của triều đại Tây Sơn. Đền thờ Bùi Thị Xuân là một địa điểm du
lịch tại huyện Tây Sơn, Cách trung tâm Tỉnh Bình Định khoảng 40 km.
Đền thờ được qui
hoạch xây dựng trên khu đất mới có tổng diện tích 5.191 m2, trong đó diện tích
xây dựng 178 m2. công trình được chính thức khởi công từ ngày 20/9/2007. Đền thờ
mang dáng dấp kiến trúc theo kiểu nhà mái lá 3 gian, gian chính giữa để bàn thờ,
trên có tượng đô đốc Bùi Thị Xuân làm bằng gốm dát vàng và 2 gian bên là nơi
dành cho cho đội nhạc lễ và tiếp khách…
Đặc biệt tại đền
thờ Đô Đốc Bùi Thị Xuân còn có Bức bình phong cao 1,8m, rộng 3,5m, được làm từ
đá tự nhiên, tạo nên không gian trang nghiêm, hào hùng. Mặt trước bình phong có
khắc hình Long – Phụng giao duyên, tượng trưng cho vị nữ Đô đốc văn võ song
toàn. Mặt sau bình phong khắc chữ Thọ.
Nữ Đô đốc Bùi
Thị Xuân xinh đẹp, giỏi song kiếm
Sinh trưởng
trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ, nhất là
môn song kiếm. Bùi Thị Xuân càng lớn càng xinh đẹp, ở gần ở xa có, ngày nào
cũng có người đến sân. Nhưng phần đông hễ thấy mặt thì “run như run thần tử thấy
long nhan”, vì trong vẻ đẹp kiều diễm của Bùi Thị Xuân lại có vẻ uy nghiêm.
Chuyện xưa kể: Một
hôm trong vùng núi Thuận Ninh ở trong vùng Tây Sơn ở phía Bắc sông Côn, Bùi Thị
Xuân gặp một tráng sĩ đương đánh mãnh hổ. Tráng sĩ mình đầy máu me, sức đã sắp
đuối. Nữ tướng hét lên một tiếng, rút song kiếm xáp vào cứu tráng sĩ.
Hổ bỏ tráng sĩ,
đánh cùng Bùi Thị Xuân, cuối cùng bị một nhát kiếm nơi vai, gầm lên một tiếng bỏ
chạy. Bùi Thị Xuân trở lại băng bó cho tráng sĩ. Tráng sĩ đó là Trần Quang Diệu.
Sau đó hai người trở thành vợ chồng và cùng giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp. Bùi
Thị Xuân là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư và là một Đô đôc của vương triều
Tây Sơn. Bà quê ở thôn Xuân Huề, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
Trong trận đại
phá quân Thanh năm 1789, bà chỉ huy đội tượng binh của đạo Trung quân của nhà
vua Quang Trung. Bà cũng có tấm lòng thương dân, lúc nhiều phủ huyện ở
trấn Quảng Nam mất mùa, sinh loạn, quan quân địa phương không kiềm chế nổi. Đến
nơi, bà tự mình đi thị sát khắp các hạt, rồi cho mở kho phát chẩn. Thấy viên
quan nào chiếm công vi tư, ăn của hối lộ… bà đều thẳng tay cách chức, chọn người
tài đức lên thay. Ngoài ra, bà còn ra lệnh bãi bỏ các cuộc truy lùng những nhóm
người nổi dậy, và mạnh dạn ra tuyên cáo rằng: Ai vác cày bừa, nông cụ
thì được coi là dân lành..
Sau khi quân Tây
Sơn bị đại bại ở Nhật Lệ và Trấn Ninh, thì đất Thuận Hóa từ Hải Vân đến Linh
Giang thuộc về nhà Nguyễn, ngày 2 tháng 7 năm 1802, Nguyễn Ánh xứng đế, đem vua
tôi nhà Tây Sơn ra báo thù, riêng đối với Bùi Thị Xuân, phải chịu hình phạt khốc
liệt nhất, tuy nhiên Bà vẫn giữ thái độ hiên ngang con nhà tướng khi
bị hành hình.
Người ta còn
truyền rằng khi nghe Bùi Thị Xuân bị bắt, Chúa Nguyễn gằn giọng: Người
có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh? Bà đáp: Nếu
có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà
đặt chân được tới đất Bắc Hà.
Với công đức của
mình, đô đốc Bùi Thị Xuân được đưa vào điện thờ Tây Sơn nơi thờ Hoàng đế Quang
Trung và văn thần võ tướng nhà Tây Sơn tại Bảo tàng Quang Trung.
Danh
tướng nhà Tây Sơn Trần Quang Diệu
Trần Quang Diệu
(1746–1802) là một trong Tây Sơn thất hổ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt
Nam. Ông cùng với vợ là nữ tướng Bùi Thị Xuân đã cố sức chiến đấu để bảo vệ
vương triều này, nhưng không thành công, và cả hai đều bị vua Gia Long xử tội
chết.
1. Quê quán và
họ tên:
Trước đây có hai ý kiến
khác nhau về quê quán của Trần Quang Diệu:
-Một là ở xã Ân Tín,
huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định
-Hai là ở xã Đức Lân,
huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
Sau, nhờ tìm được mộ của
mẹ Trần Quang Diệu ở phía Tây Nam hòn Thổ Sơn (thuộc Ngũ Hành Sơn), cách chân
núi khoảng 30 m trong vườn của ông Trần Xê. Ngôi mộ này được lập vào tháng 3
năm Nhâm Tý (1792), thời chính quyền Tây Sơn quản lý đất Quảng Nam.
Và qua xác minh nhiều
nguồn tư liệu (trong đó có bản phổ ý của dòng họ Trần Quang Diệu), đầu năm 1996
Bảo tàng Đà Nẵng và Hội sử học Đà Nẵng đã ra thông báo rằng:
Trần Quang Diệu, vốn có
tên Trần Văn Đạt [1], người ở làng An Hải (nay thuộc quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng), là con trai của ông Trần Tấn và bà Phan Thị Hy.
2. Sự nghiệp:
2.1 Dưới thời Nguyễn Huệ:
Lúc nhỏ, theo sách “Nhà
Tây Sơn” (tr.48-50), thì Trần Quang Diệu học văn học võ nhiều thầy. Lớn lên,
một lần ông đi săn trên núi Kim Sơn ở Hoài Ân, tình cờ gặp được một ông lão tên
là Diệp Đình Tòng , vì can tội giết chết một viên tri huyện tham ô, mà ông và
vợ con phải trốn vào đây. Trong hơn 20 năm dài ấy, không chịu nổi sơn lam
chướng khí, vợ con ông đều đã lần lượt qua đời.
Ông Tòng là người
thông thạo cả năm món binh khí, đó là: đao, kiếm, côn, thương và cung. Tuy
nhiên, Trần Quang Diệu chỉ học môn đại đao. Năm năm sau, thầy mất. Trần Quang
Diệu băng núi đến Vĩnh Thạnh, rồi nghe tin Nguyễn Nhạc là người có chí lớn (lúc
này Nguyễn Nhạc đang làm chủ sòng bạc ở Kiên Mỹ), nên tìm đến làm quen. Chính
vì mối giao tình này, nên khi Nguyễn Nhạc cùng hai em là Nguyễn Huệ và Nguyễn
Lữ dựng cờ khởi nghĩa, Trần Quang Diệu liền tham gia phong trào Tây Sơn ngay từ
buổi đầu.
Theo lời kể dân gian, thì
một hôm Trần Quang Diệu trên đường từ Hoài Ân vào Kiên Mỹ để gặp Nguyễn Nhạc,
thì bị cọp dữ tấn công. Chống trả được một hồi, ông Diệu vừa bị thương vừa đuối
sức. Bùi Thị Xuân tình cờ đi qua liền xông vào mới cứu được mạng ông. Ít lâu
sau, nhờ Nguyễn Nhạc đứng ra làm chủ hôn, Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân trở
thành vợ chồng, rồi cùng trải bao gian lao dưới ngọn cờ khởi nghĩa Tây Sơn.
Trong chiến thắng Kỷ Dậu
1789, Trần Quang Diệu được biên chế trong đạo trung quân do Nguyễn Huệ chỉ huy.
Sau trận đại thắng này, ông được cử làm đốc trấn Nghệ An, vừa lãnh nhiệm vụ
trấn thủ, vừa lo việc xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô ở đây.
Năm 1792, Ai Lao
(Lào) thiếu cống, vua Quang Trung bèn phong cho đô đốc Trần Quang Diệu làm đại
tổng quản, Lê Trung (có sách chép Lê Văn Trung) làm đại tư lệ cùng xuất quân
tiến sang. Vua Ai Lao chống cự không nổi, đem quân chạy trốn. Quân Tây Sơn tràn
vào thành, thu hết vàng bạc, châu báu, voi ngựa...đem về nước [2].
2.2 Dưới thời
Nguyễn Quang Toản:
Tháng 7 năm Nhâm Tý
(1792), vua Quang Trung đột ngột qua đời. Tuân theo di chiếu, Trần Quang Diệu,
Bùi Đắc Tuyên và Vũ Văn Dũng cùng tôn phò Nguyễn Quang Toản (10 tuổi) lên ngôi,
tức vua Cảnh Thịnh.
Năm 1793, quân chúa
Nguyễn kéo ra bao vây thành Quy Nhơn do Nguyễn Nhạc cai quản. Nhận lời cầu cứu,
vua Quang Toản cử Trần Quang Diệu dẫn quân vào đánh giải vây được.
Sách “Lê quý dật sử” (tr.
110) chép:
Nguyễn Nhạc mở cửa thành
đón tiếp quan quân, phát tiền bạc, quần áo, lương thực. Tướng sĩ của Quang Diệu
cậy công lấn bức, vô lễ. Không bao lâu, Nguyễn Nhạc ôm hận uống thuốc độc chết
[3]. Quang Diệu nhân đó tịch thu vàng bạc trong kho và voi ngự dâng nộp. Quang
Toản sai tướng chia quân chiếm cứ thành Quy Nhơn.
Năm 1795, Trần Quang Diệu
một lần nữa xuất quân chiếm lại Diên Khánh. Khi chiến sự đang giằng co với lợi
thế thuộc về quân Tây Sơn thì có triều biến tại Phú Xuân: không có lệnh vua, Vũ
Văn Dũng, Nguyễn Văn Huấn và Phạm Công Hưng lập mưu giết tướng Ngô Văn Sở và
cha con thái sư Bùi Đắc Tuyên. Hay tin, Trần Quang Diệu vội thu quân về triều,
đóng quân ở mạn Namsông Hương, hướng mặt vào thành Phú Xuân, trong khi Vũ Văn
Dũng đóng ở mạn Bắc sông và muốn đem quân cự lại. Vua Cảnh Thịnh phải cho người
ra khuyên giải, mâu thuẫn giữa hai đại tướng mới được thu xếp ổn thỏa. Kể từ
đó, Trần Quang Diệu làm thái phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiếu bảo, Vũ Văn Dũng
làm đại tư đồ và Nguyễn Văn Danh (hay là Nguyễn Văn Tứ) làm đại tư mã, gọi là
tứ trụ đại thần.
Nhưng chẳng lâu sau, vua
Cảnh Thịnh nghe lời gièm pha rút hết binh quyền của thái phó Quang Diệu. Thấy
thế Tây Sơn đã suy nhược, năm 1799, chúa Nguyễn bèn cử đại binh ra đánh, đến
tháng 5 (âm lịch) thì bao vây thành Quy Nhơn. Khi ấy, Trần Quang Diệu mới được
giao lại binh quyền để cùng Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu. Theo Việt Nam sử lược
thì quân của Vũ Văn Dũng không đánh mà tan. Việc ấy là tội của tướng chỉ huy,
nhưng nhờ có Quang Diệu giấu đi. Cảm ơn ấy, Vũ Văn Dũng kết nghĩa sinh tử với
Trần Quang Diệu. Bấy giờ, có mấy người ganh ghét muốn nhân dịp này mà đổ tội
cho ông bèn tâu với nhà vua. Vua Cảnh Thịnh liền sai người đem mật thư ra bảo
Văn Dũng hãy diệt trừ Quang Diệu. Được Vũ Văn Dũng cho xem thư, thái phó Diệu
tức tốc dẫn quân về triều, nói là để bắt quân phản loạn. Cuối cùng, vua Cảnh
Thịnh phải bắt mấy mật tấu giao cho ông, việc mới yên.
Dẫn quân trở lại Quy
Nhơn, đến tháng giêng năm Canh Thân (1800), thì Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng
cùng tấn công thành. Tướng Nguyễn là Võ Tánh giữ vững không ra đánh. Trần Quang
Diệu sai đắp lũy chung quanh thành, chia quân vây bốn mặt; Vũ Văn Dũng đem thủy
quân ra đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn và đặt pháo để cản ngăn quân cứu viện.
Được tin thành Quy Nhơn bị vây, chúa Nguyễn cử đại quân ra cứu Quy Nhơn, các
tướng Nguyễn phá tan thủy quân Tây Sơn ở Trận Thị Nại. Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa
Thị Nại lên bộ hợp quân với Trần Quang Diệu. Quân Tây Sơn vây thành càng ngặt.
Nhận thấy hai tướng giỏi
nhất và tinh binh Tây Sơn tập trung cả ở Quy Nhơn, Võ Tánh viết thư khuyên chúa
Nguyễn đừng vội lo giải vây, mà hãy ra đánh Phú Xuân trước. Nguyễn Phúc Ánh
nghe theo, đến tháng 5 âm lịch năm 1801, thủy quân Nguyễn ra đánh chiếm được
Phú Xuân.[10] Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng nghe tin Phú Xuân thất thủ, sai
tướng đem quân về cứu, nhưng đến Quảng Nam thì bị chặn lại phải quay về. Trần
Quang Diệu và Vũ Văn Dũng càng dốc quân đánh thành Quy Nhơn. Trong thành hết
lương thực, Võ Tánh đưa thư cho Trần Quang Diệu nói rằng: Phận sự ta làm chủ
tướng, thì đành liều chết ở dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không
nên giết hại. Xong, Võ Tánh chất rơm cỏ dưới lầu Bát Giác tự thiêu, hiệp trấn
Ngô Tòng Châu cũng uống thuốc độc tự tử, thành Quy Nhơn đầu hàng. Trần Quang
Diệu vào thành, sai làm lễ liệm táng cho hai người tử tế, và tha cho tướng sĩ
nhà Nguyễn, không giết một ai. Sau đó, ông chia người đi cứu Phú Xuân và Phú
Yên nhưng đều thất bại.
Quân Tây Sơn chiếm lại
được thành Quy Nhơn nhưng các mặt đều là địch, khó bề chống giữ. Tháng 3 âm
lịch năm 1802, nghe tin vua Cảnh Thịnh và Bùi Thị Xuân đã thua trận ở Trấn Ninh
(tháng giêng năm 1802), Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng bỏ thành, đem binh tượng
đi đường thượng đạo qua Lào ra Nghệ An để hội quân với vua Cảnh Thịnh. Nhưng
khi tới châu Quỳ Hợp, vào được đất Hương Sơn thì nghe thành Nghệ An đã thất
thủ, Trần Quang Diệu và vợ con bèn về huyện Thanh Chương. Lúc này, tướng sĩ đi
theo dần rời bỏ, trốn được mấy hôm thì cả nhà ông đều bị quân đối phương bắt
sống.
2.3 Bị xử chết:
Nguyễn Phúc Ánh, khi này
đã lên ngôi và lấy hiệu Gia Long (1802), chiêu hàng Trần Quang Diệu. Ông đáp:
Trung thần không thờ hai
vua, nay tôi bị bắt thì chỉ có tội chết. Nếu nhà vua mới rộng lượng tha cho,
như trước đây tôi đã tha cho các tướng ở Quy Nhơn thì tôi sẽ về ở nơi thôn dã,
cày ruộng, nộp thuế như người thường dân, chứ nhận chức quan của triều đại mới
thì không phải là trượng phu [4].
Biết không thể
khuất phục được Trần Quang Diệu, vua nhà Nguyễn xử ông tội chết. Về cái chết
của ông, có hai thông tin:
Phạm Khắc Hòe,
nguyên Đổng lý Ngự tiền văn phòng triều Bảo Đại, cho rằng vì ông thờ mẹ già 80
tuổi có hiếu nên vua Gia Long chỉ ra lệnh chém đầu, chứ không hành hình như một
số người khác [5].
GS. Nguyễn Khắc Thuần,
cho rằng ông bị xử lột da sống. Thông tin này được nhiều nhà nghiên cứu đồng
thuận, trong đó có: Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Quách Tấn, Trần Xuân Sinh
[6].
3. Thông tin
thêm:
Chuyện kể rằng Trần Quang
Diệu và Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu) là đôi bạn láng giềng thân thiết.
Sau quê hương loạn lạc, gia đình Trần Quang Diệu bỏ xứ về quê ngoại ở làng Trà
Khê (nay thuộc quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng), còn Nguyễn văn Thoại thì theo
cha mẹ vào sống tại Cù lao Dài trên sông Cổ Chiên (Vĩnh Long).
Khi biết tin nhau
thì hai ông đã ở hai bên chiến tuyến. Vào năm 1801, lúc Nguyễn Văn Thoại mang
quân từ Vạn Tượng (Lào) tiến đánh Phú Xuân, nghe tin Trần Quang Diệu từ Quy
Nhơn cầm binh ra tiếp cứu; vì không muốn đối đầu với bạn, nên ông Thoại giao
binh quyền cho phó tướng của mình là Lưu Phước Tường rồi bỏ vào Gia Định. Vì
vậy, ông bị chúa Nguyễn Phúc Ánh bắt tội là không có lệnh của vua mà tự tiện
về, giáng xuống làm cai đội cai quản đạo Thanh Châu. Năm 1802, trong dịp khen
thưởng những người có công, rất có thể vì chuyện này, mà ông cũng chỉ được nhà
vua phong làm Khâm Sai Thống binh cai cơ sau mới thăng làm chưởng cơ.
Tại cuộc "Hội
thảo khoa học về danh nhân Thoại Ngọc Hầu nhân kỷ niệm 180 năm ngày mất",
được tổ chức tại Châu Đốc (An Giang) vào ngày 25 tháng 7 năm 2009, hành động
“nặng tình bằng hữu” của ông Thoại đã được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao[15].
Bùi
Thụy Đào Nguyên, soạn.
BẢO TÀNG QUANG
TRUNG
Bảo tàng Quang Trung xây dựng tại làng Kiên
Mỹ, ấp Kiên Thành, phủ Quy Nhơn (nay là Khối I, thị trấn Phú Phong, huyện Tây
Sơn, tỉnh Bình Định) vào ngày 12.12.1977 và khánh thành vào ngày 01.02.1979
nhân kỷ niệm 190 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789 - 1979). Với nhiều
lần trùng tu nâng cấp, từ xây dựng cơ bản, chỉnh lý nội dung trưng bày đến quy
hoạch tổng thể mở rộng không gian phù hợp với từng giai đoạn phát triển của Bảo
tàng. Đến năm 2014, diện tích khuôn viên Bảo tàng được mở rộng gần 18ha bao gồm:
phía Nam đến sát bờ bắc Sông Côn bao cả khu di tích bến Trường Trầu, phía Bắc
mở rộng thêm 2,4ha đến gần di tích Gò Đá Đen. Tất cả hài hòa trong tổng thể
không gian văn hóa Di tích Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt, Tượng đài Hoàng đế Quang
Trung, Nhà biểu diễn nhạc võ Tây Sơn, Nhà Rông văn hóa các dân tộc Tây Nguyên.
Điểm nổi bật của Bảo tàng Quang Trung là xây dựng tại di tích quê hương ba anh
em nhà Tây Sơn còn lưu giữ những yếu tố gốc đó là Vườn nhà cũ, Giếng nước xưa,
Cây Me cổ thụ trên 200 năm tuổi và Lễ hội Đống Đa tạo sự gắn kết giữa Bảo tàng
và Di tích.
Bảo tàng Quang Trung là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc
Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Bình Định, với chức năng nghiên cứu, giáo dục khoa
học lịch sử thông qua các hoạt động chuyên môn nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê,
bảo quản, trưng bày, giới thiệu phục vụ công chúng nhằm bảo tồn, phát huy các
giá trị di sản văn hóa thời Tây Sơn và anh hùng dân tộc Hoàng đế Quang Trung -
Nguyễn Huệ nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ người Việt Nam.
Bảo tàng Quang Trung được xếp hạng II theo Quyết định số 1783/QĐ-CTUBND ngày
18.8.2008 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định. Thực hiện nhiệm vụ chính trị mở cửa
phục vụ khách tham quan 30 ngày/tháng, kể cả các ngày Lễ, Tết, có bán vé thu
phí, lệ phí tham quan và thực hiện chế độ tự chủ một phần kinh phí từ nguồn thu
đơn vị sự nghiệp. Hệ thống trưng bày Bảo tàng theo tiến trình lịch sử của phong
trào Tây Sơn thế kỷ XVIII với các chủ đề: Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam
trước khởi nghĩa Tây Sơn; Nguồn gốc quê hương, gia tộc; Giai đoạn chuẩn bị khởi
nghĩa; Chống các thế lực phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn thống nhất đất nước;
Chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc, trọng tâm là chiến thắng Quân Xiêm và
đại phá quân Thanh; Công cuộc xây dựng đất nước của vương triều Tây Sơn; Vua
Quang Trung trong lòng dân tộc.
Năm 2016 - 2018, Nhà trưng bày Bảo tàng Quang
Trung được đầu tư nâng cấp, mở rộng diện tích trưng bày lên 2.800m2. Hệ thống
trưng bày được bổ sung hoàn chỉnh, với trang thiết bị hiện đại, trưng bày khoa
học và thẩm mỹ, áp dụng các giải pháp thiết kế mỹ thuật trên những chất liệu
mới, hệ thống tranh hoành tráng (với chất liệu sơn dầu), xây dựng chương trình
phần mềm số hóa hiện vật và phòng chiếu phim 3D hiện đại để trình chiếu
phim: “Giai đoạn tụ nghĩa của phong trào Tây Sơn”; “Chiến thắng Rạch Gầm –
Xoài Mút” và “Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa”...,trang bị hệ thống máy tính tra
cứu thông tin quảng bá các di tích, danh thắng của tỉnh…, nhằm đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng cao của du khách. Hàng năm, Bảo tàng
Quang Trung đón tiếp và phục vụ trên 150.000 lượt du khách trong nước và quốc
tế đến tham quan, nghiên cứu và học tập, đặc biệt là Lễ hội Đống Đa có năm lên
đến 30.000 lượt khách về dự hội.
Bảo tàng Quang Trung quản lý các di tích: Khu di tích
quốc gia đặc biệt Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt; Đền thờ Đô đốc Bùi Thị Xuân; Đền
thờ Đại tư đồ Võ Văn Dũng; Đền thờ Song thân Tây Sơn Tam Kiệt tại di tích quê
mẹ các thủ lĩnh Tây Sơn; Khu di tích Đài Kính Thiên; Khu tưởng niệm cụ Nguyễn
Sinh Sắc tại di tích huyện đường Bình Khê; Đền thờ nhà yêu nước Mai Xuân
Thưởng. Ngoài nhiệm vụ chuyên môn, hàng năm Bảo tàng Quang Trung còn tổ chức
nghi thức dâng hoa, dâng hương, tiếp đón các đoàn đại biểu lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, các Bộ, Ban, Ngành Trung ương, lãnh đạo các Tỉnh, Thành phố trong cả nước
đến tham quan, viếng hương tại Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt, đã để lại những dòng
bút tích đầy cảm xúc và tự hào dân tộc. Tổ chức các ngày Lễ giỗ kỵ các danh
nhân, danh tướng của Triều đại Tây Sơn, đặc biệt là Lễ giỗ kỷ niệm Ngày mất
Hoàng đế Quang Trung vào ngày 29 tháng 7 âm lịch hàng năm, để nhân dân và du
khách đến viếng hương thể hiện lòng thành kính, tưởng nhớ và tri ân công lao to
lớn của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và
giữ nước của dân tộc.
Đến với Bảo tàng Quang Trung, du
khách viếng hương tại Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt, tham quan Nhà trưng bày các tư
liệu hiện vật thời Tây Sơn, thưởng thức chương trình biểu diễn nhạc võ cổ
truyền Tây Sơn - Bình Định, đây là nét văn hóa đặc sắc, di sản văn hóa phi vật
thể thời Tây Sơn được Bảo tàng lưu truyền và phát huy giá trị. Đó là nhạc lễ
trống trận Tây Sơn, ra đời từ phong trào Tây Sơn mang khí phách hào hùng của
dân tộc. Bộ trống sử dụng 12 chiếc tượng trưng thập nhị can chi với tiết tấu
chia làm ba hồi: Xuất quân, xung trận hãm thành và khúc khải hoàn mừng chiến
thắng. Đi cùng với nền nhạc trống là phần biểu diễn võ thuật cổ truyền Tây Sơn
– Bình Định gồm các bài võ trong 18 môn binh khí Tây Sơn và diễn tấu cồng
chiêng Tây Nguyên, thể hiện nét văn hóa các đồng bào dân tộc Tây Nguyên
như: Bana, Chăm H’roi, Jarai, Êđê…nơi ba anh em nhà Tây Sơn dựng cờ khởi
nghĩa. Đây là nét văn hóa riêng của Bảo tàng để du khách tham quan, trải nghiệm
và tham quan nhà Rông văn hóa các dân tộc Tây Nguyên.
Để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ
văn hóa ngày càng cao của công chúng, trong thời gian tới Bảo tàng Quang
Trung không ngừng nỗ lực, đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của Bảo tàng gắn với phát triển du lịch, hướng tới mục tiêu phục vụ tốt
nhất cho công chúng. Bảo tàng Quang Trung sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn, đầy ý
nghĩa đối với du khách khi đến Bình Định.
Chuyên đề
NHẠC VÕ TÂY SƠN BÌNH ĐỊNH
Nhạc võ Tây Sơn nét văn hóa độc đáo
Ngoài tài thuần phục ngựa, voi chiến trường
Nàng còn giỏi cả bộ môn
“Đả thập nhị cổ” tiếng đồn xa hơn...
Nhạc võ Tây Sơn
Trong các môn võ cổ truyền chiến đấu chống
giặc ngoại xâm của nhà Tây Sơn còn có một bộ môn riêng rất độc đáo là nhạc võ.
Nhạc võ là phương pháp dùng âm thanh để nâng cao khí thế luyện tập võ nghệ cũng
như tăng cường ý chí chiến đấu của binh sĩ khi lâm trận. Người ta sử dụng một
bộ trống gồm 12 cái, đặt ở những vị trí khác nhau để đánh theo nội dung bài võ
như sau:
Mười hai trống xếp hàng hai
Đôi tay gõ nhịp đường dài hành quân
Mười hai trống xếp ba hàng
Đôi tay gõ nhịp tiến quân công đồn...
Khi biểu diễn nhạc võ, người biểu diễn phải
dùng tất cả các bộ phận tay chân từ cổ tay, nắm tay cho đến cùi chỏ, chân... để
đánh 12 chiếc trống đúng theo nhịp của bài võ. Theo truyền thuyết, 12 chiếc
trống trận ứng với 12 con giáp, hoặc 12 tháng trong một năm. Do vậy, trống có
độ lớn nhỏ khác nhau. Bốn chiếc trống lớn có đường kính mặt trống khoảng 40cm.
Bốn chiếc trống cỡ vừa có đường kính 30cm. Và bốn chiếc trống nhỏ có đường kính
mặt trống 20cm.
Biểu diễn nhạc võ Tây Sơn
Nhờ kỹ thuật bịt da điêu luyện nên độ căng
của trống khác nhau. Do vậy, tiếng trống khi vang lên có âm thanh to nhỏ, trầm
bổng khác nhau. Hòa lẫn với âm thanh của các nhạc khí phụ trợ như đàn nhị, kèn,
chủm chọc (não bạt hay xụp xỏa), tạo thành những âm điệu đặc thù cho từng bài
võ. Khi thì hùng dũng, chỉnh tề; lúc thì khoan thai, êm đềm, vui tươi. Khi hành
quân thì tiếng trống giục giã; khi công thành thì khẩn trương, gấp gáp; hoặc
khi chiến thắng thì phấn chấn, náo nức, reo hò, cổ vũ...
Đặc biệt, nhạc võ Tây Sơn sử dụng trong hành
quân thường có thêm chiếc trống đại (trống cái) và chiêng lớn. Khi đánh hòa âm
với nhạc của 12 chiếc trống tạo nên một bầu không khí hào hùng, nâng cao tinh
thần và thúc giục binh sĩ xông trận.
Theo các nhà nghiên cứu võ học ở Bình Định,
những bậc cao thủ giỏi về nhạc võ có thể sử dụng thêm năm chiếc trống khác nữa.
Một cái đặt gần đầu để dùng đầu đánh. Hai chiếc trống đặt hai bên hông để đánh
bằng hai cùi chỏ. Hai trống còn lại đặt ở phía sau để đánh bằng hai gót chân.
Khi một “cao thủ” đánh nhuần nhuyễn cùng lúc 17 cái trống thì có thể gọi họ là
bậc võ công thượng thừa về nhạc võ của Tây Sơn.
Tương truyền, khi ra trận, người sử dụng nhạc
võ Tây Sơn đã dùng chiếc dùi trống có chiều dài khoảng 30cm. Những chiếc trống
trận được đặt lên xe đẩy. Dùi trống vừa dùng để đánh trống trận vừa làm vũ khí
để tấn công quân địch khi cần. Người sử dụng nhạc võ Tây Sơn khi triển khai một
chiêu thức là có thể đánh được cùng lúc bốn cái trống. Người đánh trống không
bao giờ ngồi mà chỉ đứng, hai tay vừa múa võ vừa đánh trống, có lúc nhanh giống
như cả 12 chiếc trống trận cùng được đánh một lúc. Trong hàng ngũ tướng sĩ Tây
Sơn thời ấy được sử sách lưu truyền về tài nghệ đánh nhạc võ có một vị nữ tướng
dưới trướng Bùi Thị Xuân:
Thị Dần quả thực đa tài
Ngoài tài thuần phục ngựa, voi chiến trường
Nàng còn giỏi cả bộ môn
“Đả thập nhị cổ” tiếng đồn xa hơn...
Ngoài Thị Dần còn có một nữ tướng khác tên là
Châu Thị Đăng, là phu nhân của Trần Văn Kỷ - một danh sĩ dưới thời Tây Sơn Tam
kiệt. Bà nổi tiếng vì có biệt tài dùng sóng kiếm để chém xả vào các mặt trống
bằng đồng, tạo nên từng tràng, từng chuỗi âm thanh rờn rợn, liên hoàn, lúc
khoan, lúc nhặt làm cho kẻ thù kinh hồn khiếp vía.
Đánh nhạc võ 12 trống, 16 trống đã là rất khó, đánh nhạc võ 45 trống thì gần
như chỉ còn trong huyền thoại. Theo ghi chép của người xưa, dàn trống 45 chiếc
bao gồm 5 trống chầu, 24 trống chiến và 16 trống lỡ. Phương pháp đánh theo trận
pháp bát quái, ngũ hành sử dụng bộ pháp tứ hành thủ âm, sử dụng cả hai bàn tay
sấp ngửa, nắm đấm, cổ tay, cùi chỏ... để đánh, đòi hỏi người đánh phải có sức
khỏe, võ thuật cao cường, sự khéo léo nhanh nhẹn, chính xác cả về thủ pháp và
bộ pháp. Tóm lại, đánh được 45 trống cùng lúc theo bài bản đòi hỏi sự khổ luyện
công phu. Vốn cổ độc đáo nhạc võ Tây Sơn 45 trống nay dường như chỉ còn trong
sách sử và huyền thoại của miền đất võ Tây Sơn - Bình Định.
Nghệ sĩ Nguyễn Thị Thuận biểu diễn Nhạc võ
Tây Sơn
Nhạc võ Tây Sơn có 72 bài múa võ đánh trống.
Tuy nhiên, cho đến nay hầu như đã thất truyền gần hết, chỉ còn lại 4 bài được
lưu truyền đến tận ngày nay ở Tây Sơn - Bình Định. Đó là các bài Xuất quân,
Hành quân, Công thành và Khải hoàn được nghệ sĩ Nguyễn Thị Thuận biểu diễn khá
thành công.
Vùng đất võ Tây Sơn Thượng Đạo
Tây Sơn Thượng đạo là vùng đất buổi đầu ba
anh em nhà Tây Sơn chọn làm nơi tụ nghĩa, dấy binh, phất cờ khởi nghĩa. Vì thế
nơi đây không chỉ lưu giữ nhiều dấu tích về đội quân “áo vải cờ đào” và còn là
vùng đất phát tích của nhiều dòng võ cổ truyền nổi tiếng, đặc biệt là những
dòng võ có nguồn gốc từ nhà Tây Sơn.
Vào khoảng giữa thế kỉ 17, lúc thời Trịnh –
Nguyễn phân tranh, Tây Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, gồm cả phần đất phía Tây và phía
Đông đèo An Khê (con đèo dài và hiểm trở nằm giáp ranh giữa hai tỉnh Gia Lai và
Bình Định). Phần đất phía Đông địa hình thoai thoải, gọi là Tây Sơn Hạ đạo, nay
thuộc địa phận huyện Tây Sơn (tỉnh Bình Định). Phần đất phía Tây có địa hình
hiểm trở, núi non trập trùng, gọi là Tây Sơn Thượng đạo, nay thuộc thị xã An
Khê và các huyện Kông Chro, Đăk Pơ, Kbang (tỉnh Gia Lai).
Ngày ấy, từ vùng Tây Sơn Hạ đạo lên vùng Tây
Sơn Thượng đạo chỉ có một con đường độc đạo qua đèo An Khê với đèo cao, vực sâu
vô cùng hiểm trở. Vì thế ba anh em nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và
Nguyễn Lữ đã lựa chọn vùng đất Tây Sơn Thượng đạo làm căn cứ của buổi đầu dựng
nghiệp, chiêu binh luyện võ, gầy dựng quân đội và tổ chức khởi nghĩa để rồi
sau này làm nên chiến thắng lẫy lừng Ngọc Hồi - Đống Đa vào mùa xuân năm Kỷ Dậu
(1789) đánh tan hơn 20 vạn quân Thanh xâm lược.
Ngày nay, tại khu Di tích Quốc gia Tây Sơn
Thượng đạo ở thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, vẫn còn nhiều dấu tích về nhà Tây Sơn
như An Khê Đình, An Khê Trường, An Khê Lũy, Gò Chợ…
Nhắc đến Tây Sơn Thượng đạo là nói đến vùng
đất võ nổi tiếng của Gia Lai, bởi đây là nơi phát tích các dòng võ cổ truyền có
từ thời Tây Sơn vốn được hình thành trong quá trình nhà Tây Sơn chọn vùng đất
này để chiêu binh luyện võ. Sau năm 1975, phong trào võ thuật cổ truyền ở An
Khê phát triển khá mạnh nhờ sự hình thành của nhiều lò võ do các võ sư trong
vùng và cả những võ sư nổi tiếng từ dưới Bình Định lên lập nghiệp tạo dựng
nên. Tiêu biểu như lò võ của võ sư Châu Kim Long, võ sư Đoàn Ngọc Sang, võ
sư Thái Hóa Hưng…
Đất An Khê tuy có nhiều môn phái võ cổ truyền
khác nhau nhưng cơ bản các môn phái này đều có nguồn gốc hoặc có sự ảnh hưởng
lớn từ võ Tây Sơn – Bình Định, dòng võ nổi tiếng của người Việt được hình thành
từ thời Tây Sơn. Vì thế, ngoài các đòn thế, công năng đặc dị riêng thì các môn
phái này cũng có những bài bản chung có gốc gác từ võ Tây Sơn - Bình Định như
các bài: Ngọc trản quyền, Lão mai quyền, Hùng kê quyền, Độc lư thương… Lối đánh
cũng dựa trên nguyên lí cơ bản của dòng võ Tây Sơn – Bình Định đó là “túc bất
li địa” (tức chân không rời đất) nên đòn thế vô cùng vững chắc, hiểm hóc, nhanh
lẹ, công thủ toàn diện, biến hóa khôn lường.
Vào những năm 90 của thế kỉ trước, phong trào
võ cổ truyền của An Khê phát triển mạnh mẽ nhất với nhiều thế hệ võ sư tinh
hoa, ưu tú, có uy tín và ảnh hưởng nhất định đối với làng võ thuật cả nước.
Tiêu biểu có võ sư Đoàn Thọ Sơn (1953-2007), nguyên Phó Chủ tịch Hội Võ thuật
cổ truyền tỉnh Gia Lai. Năm 1998, ông đoạt huy chương vàng nội dung thi quyền
thuật tại giải vô địch võ cổ truyền toàn quốc. Năm 2001, ông cùng các võ sĩ
Thái Văn Nhân, Thái Minh Quang đoạt huy chương bạc toàn quốc, được Ủy ban Thể dục
Thể thao cử đi dự Festival thể thao thiện chí các nước thuộc khu vực sông
Mekong tại Thái Lan. Cũng trong năm này, ông được Liên đoàn Võ thuật cổ truyền
Việt Nam cử đi dự Festival văn hóa thể thao thế giới tổ chức tại Cộng hòa Liên
bang Đức.
Bài “Độc lư thương” có 3 phần, 166 động tác,
thể hiện sự vững chắc liền lạc và kín đáo khi phòng thủ, cũng như thần tốc và
bất ngờ khi tấn công, hài hòa hỗ trợ nhau giữa công và thủ. Bài võ này cùng với
9 bài võ khác trong hệ thống 10 bài võ chuẩn theo quy định của Liên đoàn Võ
thuật cổ truyền Việt Nam hiện được đưa vào giáo trình giảng dạy và tập luyện
chính thống của võ cổ truyền trong và ngoài nước. Và đây cũng là bài võ được
phổ biến rộng rãi trong hệ thống các môn phái thuộc võ cổ truyền Việt Nam, được
dùng để biểu diễn trong các kì thi lên đai, thăng cấp, liên hoan võ thuật cổ
truyền trong nước và quốc tế.
Với truyền thống võ thuật của mình, vùng đất
võ Tây Sơn Thượng đạo xưa và An Khê ngày nay đã đào tạo nên nhiều võ sư, võ sĩ
có tên tuổi trong làng võ cả nước với thành tích thi đấu ấn tượng giành nhiều
huy chương cấp quốc gia như: võ sư Thái Văn Nhân, võ sư Cao Đăng Khoa, võ sư
Lương Văn Hùng, võ sư Hà Nhất Linh, võ sĩ Nguyễn Thị Phúc, võ sĩ Cao Đăng Khoa,
võ sĩ Châu Văn Thừa…
Các võ sư, võ sĩ đất An Khê ngày nay không
chỉ tiếp nối các bậc tiền bối làm rạng danh vùng đất võ Tây Sơn Thượng đạo mà
còn góp phần gìn giữ, truyền bá vốn võ học quý báu của cha ông để lại để từ đó
hun đúc nên tinh thần thần thượng võ của lớp trẻ hôm nay./.
Nguồn thông tin: https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/long-form/vung-dat-vo-tay-son-thuong-dao-357204.html
Tham khảo thêm:
Những đặc điểm nổi bật của môn võ Tây Sơn
Ngày xưa, hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ đã
tiếp thu những tinh hoa của các dòng võ khác nhau để xây dựng nên dòng võ Tây
Sơn với những đặc điểm riêng phù hợp với bản sắc văn hoá người Việt.
Một vài đặc điểm nổi bật của môn võ Tây Sơn:
- Tính truyền thống: Trước đây người dân Bình
Định biết võ để tự vệ. Họ truyền cho nhau trong bàn làng, thôn xóm. Với những
người thân thì cha truyền cho con, chồng truyền lại cho vợ, anh truyền lại cho
em... Nhờ đó mà những bài võ từ thời xa xưa vẫn luôn được lưu truyền. Võ Bình
Định tuy có nhiều môn phái khác nhau, nhưng quy tụ lại vẫn giữ gìn truyền thống
lâu đời của miền đất võ..
- Tính đa dạng và liên hoàn: Võ Tây Sơn -
Bình Định vô cùng đa dạng và phong phú. Bất kể môn phái nào cũng theo một sức
mạnh tổng hợp, dung hòa bốn phương. Được như vậy mới có đủ khả năng thắng địch
thủ. Tính liên hoàn thể hiện rõ nét trong việc sử dụng tất cả 18 ban binh khí,
chia thành 9 loại võ khí dài, 9 loại võ khí ngắn. Dù là bất cứ loại võ khí nào
thì cũng đều không ra ngoài 6 điểm: chém xuống, chém ngang, hất lên, gạt xuống,
lướt qua và đè.
* Sự liên quan giữa võ Tây Sơn và võ Bình
Định
Trước thời kỳ Tây Sơn, ở Bình Định đã có rất
nhiều người giỏi võ. Những người này là tướng sĩ đi theo chúa Nguyễn Hoàng vào
Thuận Hóa để lập nghiệp, một số khác là những người Trung Quốc sang trú ngụ tại
vùng đất Quy Nhơn, An Nhơn. Người Bình Định vốn có truyền thống ưa học võ, học
từ thầy, học bạn, rồi dung hòa tất cả để cải tiến dần. Theo lời cụ Hồ Ngạnh, ba
anh em Tây Sơn đã cùng học võ như mọi người, nhưng nhờ có óc phán đoán, thiên
tư võ thuật và nghiên cứu tinh thâm, họ đã gạn lọc được những tinh hoa của võ
thuật, hệ thống và tạo thành môn phái võ riêng. Sau đó, võ Tây Sơn được phổ
biến trong quân đội. Những người này sau khi nắm được một số chân truyền của
môn phái đã truyền dạy lại cho con cháu, học trò của họ. Lại pha trộn với võ
Bình Định, hoặc được cải cách ít nhiều nhằm tránh sự nhòm ngó của triều Nguyễn.
Cũng theo như cụ Hồ Ngạnh, võ Tây Sơn hay võ Bình Định đều là võ của dân tộc
Việt Nam. Môn phái nào cũng có cái hay, cái thù vị. Tuy nhiên có một vài đặc
điểm khác nhau là môn võ Tây Sơn có cơ sở rõ ràng về võ lý được biến đổi qua
các thế hệ; còn võ Bình Định thì được truyền dạy hơi phần tùy tiện, bị thêm
bớt, sửa đổi bởi những người truyền võ.
- Tính dân tộc: Các đòn thế của võ Tây
Sơn rất hiểm hóc. Ra đòn rất nhanh, biến hóa khôn lường, lấy công giữ thủ song
toàn, lấy thủ làm công, hư thật bất phân, tư thế nghìn nẻo, khéo léo trăm
bề, làm cho đối phương rất khó chống trả. Ông Nguyễn Lữ, em ruột Nguyễn Huệ, đã
làm cho nền võ thuật Việt Nam trở thành một trường phái không kém võ Trung
Quốc. Nguyễn Lữ đã nghiên cứu các thế gà đá nhau để áp dụng vào võ thuật, từ đó
rút ra được lối võ dùng yếu thắng mạnh, dùng nhu thắng cương. Ông cũng nghiên
cứu về các thế đá ào ạt tấn công của những con gà lớn với thế chống đỡ của con
gà nhỏ là thường chui luồn, từ đó tạo ra thế lặn hụp, tránh né, đi đến phản
công.
Nhạc võ Tây Sơn - một di sản
văn hóa độc đáo của Bình Định
Trong các môn võ cổ truyền dành cho chiến đấu chống giặc
ngoại xâm của Triều Tây Sơn còn có một bộ môn riêng mà không một môn phái võ
thuật nào có được, đó chính là “Nhạc võ”. Nhạc võ là phương pháp dùng âm thanh
vào việc nâng cao khí thế luyện tập võ nghệ cũng như tăng cường ý chí chiến đấu
của quân sĩ khi xung trận.
Trong kho tàng võ cổ truyền Việt Nam, Võ Bình Định được
tách thành một hệ phái riêng và rất độc đáo với nhiều tuyệt kỹ vang bóng một
thời. Người đời nay vẫn thường gọi môn phái này là võ Tây Sơn hoặc “Võ Bình
Định”. Trong các môn võ cổ truyền dành cho chiến đấu chống giặc ngoại xâm của
Triều Tây Sơn còn có một bộ môn riêng mà không một môn phái võ thuật nào có
được, đó chính là “Nhạc võ”. Nhạc võ là phương pháp dùng âm thanh vào việc nâng
cao khí thế luyện tập võ nghệ cũng như tăng cường ý chí chiến đấu của quân sĩ
khi xung trận.
Trống trận Tây Sơn là một môn võ đặc biệt, có sự kết hợp
giữa tinh thần thượng võ và âm nhạc cổ truyền. Các nhà nghiên cứu Bình Định coi
đây là một giá trị tinh thần lịch sử. Hiện nay, ở vùng đất Tây Sơn hạ đạo năm
xưa vẫn có người còn giữ được thứ võ công đặc biệt này.
Theo ghi chép của sách sử, bài nhạc võ Tây Sơn 12 chiếc
trống, tượng trưng cho thập nhị địa chi, được chia thành 3 hàng từ lớn đến
nhỏ. 4 trống lớn, đường kính khoảng 40 phân, sau đó là bốn trống 30 phân
rồi 4 trống khoảng 10 phân. Người cử trống dùng hai roi (dùi) trống, dài khoảng
30 phân, đánh bằng cả hai đầu, trên cả mặt trống lẫn tang trống. Một bài trống
trận Tây Sơn gồm 3 hồi; xuất trận, xung trận - công thành, ca khúc khải hoàn và
điều đặc biệt nhất là không hề có hồi lui quân như trống trận các triều đại
khác. Điều này cũng thật dễ hiểu vì trong cuộc đời cầm quân của mình, Quang
Trung chưa một lần phải lùi bước trước kẻ thù. Nếu hồi xuất quân, mở bằng ba
hồi trống đổ dõng dạc, như biểu dương lực lượng, rồi tiếng trống lúc dồn dập,
khi khoan thai như diễn tả cảnh tiến quân nhanh, chậm, rồi tất cả các nhạc khí
khác của dàn nhạc võ bặt đi để dành cho tiếng trống khoan thai, như cái yên
lắng của quân lính lúc bí mật áp sát mục tiêu, chuẩn bị công thành. Khí thế dồn
dập, ấy là lúc hãm thành, nhịp trống nhặt hẳn lên. Kết là khúc khải hoàn vui
tươi, sôi nổi. Điều thú vị là trong hồi này, hội đủ cả 12 tiếng của 12 trống.
Còn theo phân tích của võ sư Nguyễn Thị Thuận (người sử
dụng bài nhạc võ Tây Sơn hay nhất hiện nay ở Bảo tàng Quang Trung – Tây Sơn)
thì khi đánh bài nhạc võ 12 trống, người biểu diễn phải dùng tất cả các bộ phận
tay, chân để đánh 12 chiếc trống đúng theo nhịp của bài nhạc võ. Các bộ phận
đùng để đánh trống là cổ tay, nắm tay cho đến cùi chõ, chân, gót chân ...
Nhờ kỹ thuật bịt da điêu luyện của các nghệ nhân ở đất võ
Tây Sơn - Bình Định nên độ căng của từng chiếc trống sẽ khác nhau. Do vậy, khi
biểu diễn nhạc võ, tiếng trống vang lên những âm thanh to nhỏ, trầm bổng khác
nhau. Hòa lẫn với âm thanh của các nhạc khí phụ trợ như đàn nhị, kèn, chũm chọe
(não bạt hay xụp xỏa), tạo thành những âm điệu đặc thù cho từng bài võ, khi thì
hùng dũng, chỉnh tề; khi thì khoan thai, êm đềm, vui tươi. Khi hành quân ra
trận thì tiếng trống giục giã; khi công thành thì tiếng trống khẩn trương, gấp
gáp. Hoặc khi khải hoàn, chiến thắng trở về thì tiếng trống có những âm sắc như
phấn chấn, náo nức, reo hò, vui mừng ...
Đặc biệt môn nhạc võ Tây Sơn – Bình Định ngày xưa dùng
trong hành quân thường có thêm chiếc trống đại (trống cái) và chiêng lớn. Khi
đánh hòa âm với nhạc của 12 chiếc trống tạo nên một bầu không khí hào hùng,
nâng cao tinh thần cho binh sĩ hăng hái xung trận giết giặc.
Theo các nhà nghiên cứu võ học ở Bình Định, những bậc cao
thủ giỏi về nhạc võ Tây Sơn trước đây có thể sử dụng thêm 5 chiếc trống khác
nữa. Một chiếc trống đặt phía trên đầu để dùng đầu đánh. Hai chiếc trống đặt 2
bên hông để đánh bằng 2 cùi chõ. Hai trống còn lại đặt ở phía sau lưng để đánh
bằng 2 gót chân. Khi một “cao thủ” đánh nhuần nhuyễn cùng lúc 17 cái trống trận
thì có thể coi họ là bậc võ công thượng thừa về nhạc võ Tây Sơn.
Tương truyền, ngày xưa khi nghĩa quân Tây Sơn xung trận,
một cao thủ dưới trướng Nguyễn Huệ đã dùng chiếc dùi trống có chiều dài khoảng
30cm để chơi bài “Nhạc võ” chiến đấu. Những chiếc trống trận thời ấy được đặt
lên xe đẩy. Dùi trống vừa dùng để đánh trống trận vừa làm vũ khí để tấn công
quân địch khi cần. Người sử dụng nhạc võ Tây Sơn khi triển khai một chiêu thức
là phải đánh được cùng lúc 4 cái trống. Người đánh trống không bao giờ ngồi mà
chỉ đứng, 2 tay vừa múa võ vừa đánh trống, có lúc nhanh tựa như cả 12 chiếc
trống trận cùng được đánh một lúc. Trong hàng ngũ tướng sĩ Tây Sơn thời ấy được
sử sách lưu truyền về tài nghệ chơi “nhạc võ” của một vị nữ tướng dưới trướng
nữ tướng Bùi Thị Xuân thông qua câu thơ:
“Thị Dần quả thực đa tài;
Ngoài tài thuần phục ngựa, voi chiến trường;
Nàng còn giỏi cả bộ môn;
“Đả thập nhị cổ” tiếng đồn xa hơn”...
Ngoài “Thị Dần” còn có mỗt nữ cao thủ tên là Châu Thị
Đăng là phu nhân của Trần Văn Kỷ, một danh sĩ dưới thời Tây Sơn Tam kiệt, nổi
tiếng với biệt tài dùng sống kiếm để chém xả vào các mặt trống bằng đồng, tạo
nên từng tràng, từng chuỗi âm thanh rờn rợn, liên hoàn, lúc khoan, lúc nhặt làm
cho kẻ thù thoáng nghe đã kinh hồn khiếp đảm. Khi nghe bà Châu Thị Đăng biểu
diễn ngón nhạc võ độc chiêu này, thời ấy nhiều người tưởng đó là một dàn nhạc
với rất nhiều nhạc công tài hoa cùng diễn tấu.
Tương truyền, bí kíp Nhạc võ Tây Sơn – Bình Định có đến
72 bài múa võ đánh trống. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu như đã bị thất truyền gần
hết, chỉ còn lại 4 bài trong số 72 bài còn lưu truyền ở huyện Tây Sơn - Bình
Định. Đó là các bài “Xuất quân”; “Hành quân”; “Công thành” và “Khải hoàn” được
nghệ sĩ Nguyễn Thị Thuận ở trung tâm văn hóa huyện Tây Sơn biểu diễn khá thành
công. Vào dịp Festival Tây Sơn – Bình Định 2008, các nghệ sĩ “đất võ” sẽ biểu
diễn môn nhạc võ độc đáo./.
CHÙA THẬP THÁP
Chùa Thập Tháp Di Đà tọa lạc ở thôn Vạn
Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo quốc lộ I từ Quy
Nhơn ra Quảng Ngãi, qua khỏi phường Đập Đá, đến cầu Vạn Thuận, có con đường bên
trái khoảng 200m dẫn vào chùa.
Tên chùa “Thập Tháp” là
nguyên trước đây trên khu đồi này có 10 ngôi tháp Chăm, sau bị sụp đổ. Tên “Di
Đà” là danh hiệu đức Phật giáo chủ cõi Cực lạc. Di Đà cũng có nghĩa là lý tánh,
bản giác của chúng sinh. Tập hợp các ý nghĩa trên, tổ đình mang tên Thập Tháp
Di Đà Tự.
Chùa tổ đình Thập Tháp Di
Đà gắn với tên tuổi vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều. Nhiều tư liệu ngày
nay cho biết Ngài họ Tạ, tự là Hoán Bích, người huyện Trình Hương, phủ Triều
Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ngài sinh năm Mậu Tý (1648), năm 19 tuổi
xuất gia ỏ chùa Báo Tự. Năm 1677, Ngài theo thuyền buôn của người Trung Quốc
đến phủ Quy Ninh, nay thuộc tỉnh Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 28
km, dựng thảo am thờ Phật A Di Đà. Năm 1683, chùa đã dùng gạch đá của 10 ngôi
tháp đổ dựng lên ngôi chùa.
Chùa đã trải qua 16 đời
truyền thừa với nhiều vị thiền sư danh tiếng như: Thiền sư Liễu Triệt, Thiền sư
Minh Lý, Thiền sư Phước Huệ … Thiền sư Phước Huệ đã được tôn làm Quốc sư. Ngài
đã được mời vào giảng kinh trong hoàng cung nhà Nguyễn từ đời vua Thành Thái
đến vua Bảo Đại, và giảng dạy Phật pháp ở Phật học đường Trúc Lâm và Tây Thiên
(Huế) từ năm 1935. Từ ngoài vào, đi dọc theo hồ sen đến cổng
chùa, đó là hai trụ biểu vuông cao, trên đặt hai tượng sư tử ngồi uy nghi, nối
một vòng cung, phía trên có gắn hai chữ “Thập Tháp”. Sau cổng là tấm bình
phong, mặt đắp nổi long mã phù đồ đặt trên bệ chân quỳ.
Ngôi chánh điện do Thiền
sư Liễu Triệt cho trùng kiến vào năm 1749. Ngôi chánh điện ngày nay mái thẳng,
lợp ngói âm dương, trên nóc có lưỡng long tranh châu. Phật điện được bài trí
tôn nghiêm, chính giữa thờ tượng Tam Thế Phật, Chuẩn Đề, Ca Diếp, A Nan; khám
thờ Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Địa Tạng đặt hai gian hai bên điện Phật; hai
vách tả hữu đặt tượng Thập Bát La Lán, tượng Thập Điện Minh Vương, Hộ Pháp, Tổ
sư Đạt Ma và Tổ sư Tì Ni Đa Lưu Chi. Hầu hết các tượng thờ đều được tạc vào
thời Thiền sư Minh Lý trụ trì (1871-1889).
Chùa đã được chúa Nguyễn
Phúc Chu ban tấm biển “Sắc Tứ Thập Tháp Di Đà Tự” treo giữa cửa chính ngôi
chánh điện, Hòa thượng Mật Hoằng trùng khắc lại năm 1821. Đại hồng chung (đúc
năm 1893) và trống lớn được đặt ở hai đầu hành lang.
Phía sau chánh điện có
tấm bia ghi bài minh Sắc tứ Thập Tháp Di Đà Tự bi minh do cư sĩ Dương Thanh Tu
biên soạn, Hòa thượng Minh Lý lập năm 1876.
Nhà phương trượng nằm sau
ngôi chánh điện do Quốc sư Phước Huệ cho xây vào năm 1924. Nhà Tổ ở phía Nam,
nối ngôi chánh điện và nhà phương trượng, thờ Tổ khai sơn Nguyên Thiều và chư
vị trụ trì, chư Tăng quá cố và chư Phật tử quá vãng. Đối diện nhà Tổ là giảng
đường, ở đây có bảng gỗ ghi bài “Thập Tháp Tự Chí” do Thị giảng Học sĩ phủ An
Nhơn Võ Khắc Triển soạn năm 1928, ghi lại lịch sử khai sáng, quá trình xây dựng
và truyền thừa của ngôi tổ đình Thập Tháp.
Đặc biệt, Báo Bình Định
cho biết, chùa còn lưu giữ 2.000 bản khắc gỗ dùng in kinh Di Đà sớ sao, Kim
Cang trực sớ, Pháp Hoa khóa chú … Bộ Đại Tạng Kinh do Tổng trấn Hà Tiên Mạc
Thiên Tứ cúng dường còn 1.200 quyển kinh, luật, luận và ngữ lục. Chùa còn lưu
giữ bộ Đại Tạng Kinh Cao Ly và bộ Đại Tạng Kinh Đài Loan.
Vườn tháp Tổ nằm ở phía
Bắc với 20 ngôi tháp cổ kính an trí nhục thân của các vị trụ trì và chư tôn túc
trong chùa. Sau chùa, còn có tháp Bạch Hổ và tháp Hội Đồng
Chùa đã được Bộ Văn hóa
công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Chùa Thập Tháp Di Đà là ngôi
tổ đình danh tiếng vào bậc nhất ở miền Trung.
KHU DU LỊCH SINH THÁI HẦM HÔ
Khu du lịch sinh thái Hầm Hô Rosa Alba tọa
lạc tại xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, cách thành phố Qui Nhơn 50km về phía Tây
Bắc, cách Bảo Tàng Quang Trung 5km. Là một điểm tham quan lý tưởng không thể bỏ
qua của du khách khi đến với quê hương Bình Định, miền đất địa linh nhân kiệt.
Giữa ngút ngàn của
rừng xanh dưới chân dãy Trường Sơn hùng vĩ. Hầm Hô một Danh Thắng thiên nhiên
tuyệt mỹ, một điều kỳ diệu của tạo hóa với khúc sông Trời Lấp, với Hòn Chuông,
Hòn Bóng, với Đá Thành, Bàn Cờ Tiên, Dấu Chân Khổng Lồ và một hệ sinh thái rừng
đa dạng.
Đến với Khu du lịch Hầm Hô Rosa Alba, du khách như được trở về với thiên nhiên
hùng vĩ, được đắm mình trong thế giới Bồng lai tiên cảnh và như được trút bỏ
mọi lo toan của cuộc sống hiện đại.
Trong thời gian qua Khu du lịch sinh thái Hầm
Hô Rosa Alba đã không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng phục vụ. Với đội
ngũ nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp, có kinh nghiệm, với phong cách phục
vụ lịch sự sẽ để lại ấn tượng trong lòng du khách.
Bên
cạnh đó chúng tôi đã đầu tư xây dựng nhiều hạng mục công trình phục vụ du khách
như:
* Nhà nghỉ Hầm
Hô Rosa Alba với tiện nghi đầy đủ, giá cả hợp lý.
* Nhà hàng Hoa
Lộc Vừng với sức chứa hơn 300 khách, cùng với hệ thống nhà hàng hiện có sẽ
đáp ứng mọi nhu cầu của du khách.
* Cùng các dịch
vụ khác như:
Đạp xe trên nước, nhà
sàn,câu cá thư giản, lều bạt nghỉ trong ngày và qua đêm dưới tán cây rừng dọc
theo hai bờ sông, bơi thuyền thể thao, tắm suối trong làn nước mát lạnh của
thiên nhiên ban tặng, câu cá thư giãn, chèo thuyền trên sông Kút, đốt lửa trại,
nghỉ võng dưới tán cây rừng đại ngàn… sẽ đem lại sự sảng khoái cho du khách.
Với phong thái phục
vụ và giá cả hợp lý chắc chắn quý khách sẽ hài lòng khi đến tham quan Khu du
lịch sinh thái Hầm Hô.
CÔNG TY CP DU LỊCH HẦM HÔ ROSA ALBA
Địa chỉ: Thôn Phú Mỹ, Xã Tây Phú, Huyện Tây
Sơn, Tỉnh Bình Định
Văn phòng: 0256.3880.860
Nhà Hàng: 0256.2475.273
Hotline: 0862577077
Email: hamhorosaalbatourist@gmail.com
Chuyên đề
THÁP CHĂM Ở QUY NHƠN – BÌNH ĐỊNH
1/ Tháp Dương Long – Kiệt tác kiến
trúc Chăm Pa hùng vĩ
Tháp Dương
Long, một di sản văn hóa Chăm Pa nổi bật giữa vùng đất võ Bình Định, là một
cụm tháp cổ kính với kiến trúc ấn tượng. Hãy cùng Xanh SM khám phá vẻ đẹp và những
câu chuyện lịch sử thú vị xung quanh di tích này!
Đôi nét về
Tháp Dương Long
Nằm yên bình
trên một ngọn đồi thoai thoải thuộc xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, Tháp Dương Long
không chỉ là một công trình kiến trúc cổ kính mà còn ẩn chứa những giá trị lịch
sử và văn hóa độc đáo. Đây là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích khám phá
vẻ đẹp cổ xưa và tìm hiểu về dấu ấn văn hóa của vùng đất Bình Định.
Quần
thể 3 ngôi tháp Dương Long nổi bật (Ảnh: Sưu tầm internet)
Lịch sử Tháp
Dương Long
Tháp Dương Long được xây dựng vào
cuối thế kỷ 12, thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của văn hóa Chăm Pa. Người Pháp
gọi tháp này là “Tour d’Ivoire” (Tháp Ngà). Cụm tháp này gồm ba tháp: tháp giữa
cao 39 mét, hai tháp bên cao 32 mét.
Hình ảnh tư liệu kiến trúc
Tháp Dương Long (Ảnh: Sưu tầm internet)
Ý nghĩa của
Tháp Dương Long
Cụm tháp này được
xây dựng để thờ các vị thần trong đạo Bàlamôn, bao gồm 3 vị thần tối cao của Ấn
Độ giáo là Vishnu, Brahma, Shiva và các vị vua có công với đất nước. Tháp Dương
Long được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm
1980 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày
23/12/2015.
Kiến trúc
Tháp Dương Long – Nét độc đáo của nghệ thuật Chăm Pa
Tháp Dương Long
là một cụm tháp Chăm gồm ba ngọn tháp được sắp xếp theo hướng Bắc – Nam. Tháp
Nam cao 33m, tháp giữa cao 39m, và tháp Bắc cao 32m. Về quy mô, không có một
ngôi tháp Chăm pa nào có thể so sánh với tháp Dương Long. Tháp Dương Long được
coi là chùa gạch cao nhất ở Đông Nam Á.
Hình ảnh toàn cảnh Tháp
Dương Long với ba ngọn tháp cao vút (Ảnh: Sưu tầm internet)
Tháp giữa (thờ
thần Vishnu) – “Trụ trời” giữa vùng trời xứ Nẫu
Tháp giữa là ngọn
tháp cao và đồ sộ nhất trong quần thể. Tháp có chiều cao 39m, được xây dựng
trên nền hình vuông mỗi cạnh 10m.
Phần thân của
tháp được tạo hình bởi nhiều tầng, mỗi tầng có vòm cửa chính hình mũi giáo và
các cửa giả ở hai bên. Các cửa giả được trang trí bằng những hình nửa tháp nhỏ
và nhiều họa tiết trang trí bằng gạch. Tầng trên cùng của tháp có một bệ thờ đá
và một Lingam đá – biểu tượng cho thần Shiva trong Hindu giáo.
Thân tháp là các mảng tường
gạch kết hợp với các khối đá sa thạnh có trang trí
Tháp Nam (thờ
thần Brahma) – Vẻ đẹp “hoàn mỹ” giữa thời gian
Tháp Nam là tòa
tháp nguyên vẹn nhất trong quần thể. Chân đế của tháp có hình bình đồ vuông, rộng
14m, và phần nhô ra của cửa có chiều cao 0,76m. Tường của tháp được xây theo lối
bẻ góc giật cấp nhô dần về phía cửa, vách tường trơn phẳng không có khung giữa
và các đường gờ. Trên bề mặt của tháp có nhiều họa tiết trang trí bằng gạch như
hình người đang ngồi thiền, hoa văn hình cánh sen, quái vật Kala, thủy quái
Makara…
Đỉnh tháp – Hoạ tiết đỉnh
tháp được trang trí hình bông sen (Ảnh: Sưu tầm internet)
Tháp Bắc (thờ
thần Shiva) – “Linh hồn” của Tháp Dương Long
Tháp Bắc cao
32m, là ngôi tháp bị hư hại nhiều nhất trong quần thể. Tuy nhiên, tháp vẫn giữ
được những nét kiến trúc Chăm Pa đặc trưng. Phần thân tháp được chia thành nhiều
tầng, mỗi tầng có cửa chính và cửa giả. Các cửa giả được trang trí bằng những họa
tiết hoa văn bằng gạch.
Mái tháp gồm các gờ bậc gạch
kết hợp với các diềm mái bằng đá sa thạch (Ảnh: Sưu tầm internet)
Tổng thể, Tháp
Dương Long là một công trình kiến trúc Chăm Pa có quy mô lớn và kiến trúc độc
đáo, thể hiện sự tinh tế và tài hoa của người Chăm xưa.
Nguồn: https://www.xanhsm.com/news/thap-duong-long
2/Tháp
Đôi Quy Nhơn: Dấu ấn cổ kính giữa lòng phố biển
Tháp Đôi (tháp Hưng Thạnh) Quy Nhơn là công trình kiến trúc
cổ đặc sắc của người Chăm xưa, mang giá trị lớn về mặt lịch sử, văn hóa, mỹ thuật.
Ngày nay, tháp Đôi là địa điểm du lịch nổi tiếng, thu hút đông đảo du khách khắp
nơi tìm đến tham quan, chiêm ngưỡng kiến trúc, tìm hiểu văn hóa, lịch sử và
check in.
Giới thiệu về tháp Đôi (tháp Hưng Thạnh)
Tháp Đôi có tên gọi
khác là tháp Hưng Thạnh, tọa lạc tại đường Trần Hưng Đạo, phường Đống Đa,
TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo tài liệu còn lưu giữ tại Ban quản lý Di
tích Tháp Đôi thì ngọn tháp này có niên đại từ cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ
XIII. So với những tháp Chăm khác còn tồn tại trên đất Bình Định, tháp Đôi có vị
trí gần biển nhất, cách bờ biển chỉ tầm 4km về phía Đông Nam.
Công
trình tháp Hưng Thạnh Quy Nhơn gồm hai tháp. Ngọn tháp có kiến trúc độc đáo, là
công trình tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc Chămpa trên đất Bình Định. Năm
1980, tháp Đôi Hưng Thạnh được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích Kiến
trúc Nghệ thuật.
Tháp Đôi Hưng Thạnh Quy Nhơn có gì đặc biệt?
Nghệ thuật kiến trúc
độc đáo
Tháp Đôi được xây dựng theo cấu trúc độc đáo. Cả hai tháp
thuộc tháp Đôi đều có phần cửa chính quay về hướng Nam, được xây bằng gạch
nung. Các khối gạch xếp khít vào nhau và được kết dính với nhau bằng một chất kết
dính đặc biệt. Đây được xem là một kỹ thuật xây dựng độc đáo của người Chăm mà
đến nay vẫn chưa giải mã được.
Tháp Hưng Thạnh có cấu trúc gồm ba phần chính bao gồm chân
tháp, thân tháp và đỉnh tháp. Các hình trang trí ở những góc tháp được chạm khắc
tinh xảo, sinh động như hình tạp chủng đầu voi mình sư tử, tượng chim thần
Garuda, hình người ngồi 6 hoặc 8 tay bằng đá. Bên trong tháp lớn thờ linh vật
Linga và Yoni được biểu thị thông qua hình tượng chiếc cối và chày giã gạo.
·
Tháp lớn: Cao khoảng 25m, được tạo dáng khá cân đối. Phần thân và phần
mái được trang trí với những đường diềm hơi thắt lại tinh tế, khéo léo. Hai bên
là hoa văn để đối xứng kết hợp với hình vũ nữ vòng quanh diềm mái vô cùng sống
động, đẹp mắt. Ở giữa phần ngăn cách mái và thân tháp là hình tu sĩ ngồi thiền,
hai bên có voi châu đối xứng. Các hình trang trí được chạm khắc khéo léo, tinh
tế, thể hiện đậm bản sắc văn hóa, tín ngưỡng của người Chămpa.
·
Tháp nhỏ: Tháp nhỏ cao 23m có cấu trúc tương tự tháp lớn. Điểm
khác so với tháp lớn là phần diềm mái không trang trí bằng hình vũ nữ mà thay
vào đó là hình một đàn hươu 13 con với nhiều dáng vẻ khác nhau trông vô cùng
tinh nghịch.
Tháp
Đôi Quy Nhơn là công trình kiến trúc cổ đẹp, độc đáo (Ảnh: Sưu tầm)
Nơi phát hiện nhiều cổ vật quý giá
Các hiện vật còn lại trong tháp Đôi Hưng Thạnh không nhiều,
đa số không còn nguyên vẹn nhưng đều là những cổ vật quý giá. Đây là những sản
phẩm điêu khắc độc đáo, tinh tế, thể hiện sống động đời sống văn hóa, tinh thần
độc đáo của người Chăm xưa.
Voi và thần
điểu là các sản phẩm điêu khắc còn lại ở tháp Đôi. Các hiện vật phát hiện có
mang phù điêu vũ nữ đang múa, phù điêu rồng, trụ có văn bia 3 mặt hay đầu bò
Nandin. Các hiện vật đã được thông báo trên tạp chí chuyên ngành và hiện nay được
đưa về trưng bày ở Bảo tàng Bình Định.
Dấu ấn của văn hóa Chăm cổ bên trong tháp Hưng Thạnh (Ảnh:
Sưu tầm)
Nơi lan tỏa giá trị văn hóa tinh thần to lớn
Tháp Đôi Hưng Thạnh là địa điểm du lịch Quy Nhơn nổi
tiếng, thu hút đông đảo du khách đến tham quan, tìm hiểu về lối kiến trúc độc
đáo của người Chăm Pa. Qua đó, hiểu hơn về đời sống tinh thần, văn hóa và lịch
sử vùng đất Chăm xưa.
Đến với tháp Hưng Thạnh, du khách còn được xem những điệu
múa của các cô gái Chăm trong trang phục truyền thống được phục dựng lại để phục
vụ du khách. Điều này giúp lan tỏa những giá trị văn hóa tinh thần to lớn, mang
dấu ấn của nền văn hóa Chăm Pa xưa rực rỡ.
Điệu múa Chăm truyền thống bên tháp Đôi (Ảnh: Sưu tầm)
Ghé thăm tháp Đôi Quy Nhơn Bình Định để
chiêm ngưỡng công trình nghệ thuật kiến trúc độc đáo, chắc hẳn sẽ làm nhiều người
trầm trồ trước bàn tay tài hoa, khéo léo của người Chăm xưa. Sự khắc nghiệt của
thời gian khiến tháp Hưng Thạnh không còn nguyên vẹn như thuở ban đầu nhưng vẫn
giữ được vẻ đẹp cổ kính, ấn tượng. Nơi đây sẽ đem lại cho du khách nhiều cảm
xúc về dấu tích của một vương triều đã mất và nhiều suy ngẫm về dâu bể cuộc đời.
Nguồn: https://vinpearl.com/vi/thap-doi-quy-nhon
3/
Tháp Cánh Tiên – tháp cổ nhất Bình Định
Đến thăm miền đất võ Bình Định, ngoài những địa điểm du lịch
nổi tiếng, những bãi biển đẹp nao lòng, còn có những di sản văn hóa độc đáo
không chỉ lôi cuốn các nhà nghiên cứu, mà còn hấp dẫn mọi du khách. Một trong
những di sản văn hóa đó là hệ thống tháp Chăm nằm rải rác trên địa bàn tỉnh
Bình Định. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, những tháp Chăm vẫn sừng sững
giữa trời; là chứng tích còn sót lại của vương quốc Champa xưa trên mảnh đất
Bình Định ngày nay. Trong đó, độc đáo và đẹp nhất là tháp Cánh Tiên.
Tháp Cánh Tiên với lối kiến trúc mang đậm tính nghệ thuật
Champa. Ảnh: Nguyên Thanh
Bình Định là một trong những vùng đất của vương quốc Champa
xưa. Do đó, nơi đây còn lại nhiều di tích của người Champa, trong đó, phải kể đến
nhiều tháp cổ. Hiện nay, Bình Định còn 7 cụm với 13 tháp Chăm, gồm các cụm tháp
Bánh Ít, Dương Long, Tháp Đôi, Cánh Tiên, Phú Lốc, Thủ Thiện và Bình Lâm. Các sử
liệu còn ghi lại cho thấy, thành Đồ Bàn (thành Vijaya) - kinh đô của vương quốc
Champa trong 5 thế kỷ, từ năm 999 đến năm 1471, hiện nằm trên địa phận xã Nhơn
Hậu, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Công trình đáng chú ý nhất trong khu vực
thành Đồ Bàn còn lại nguyên vẹn đến ngày nay là tháp Cánh Tiên.
Tháp Cánh Tiên còn có tên gọi khác là tháp Đồng, tháp Con
Gái, nằm cách thành phố Quy Nhơn 27km theo hướng Tây Bắc, là một trong những
tháp còn lại nguyên vẹn tại Bình Định. Không giống như những khu đền tháp khác,
tháp Cánh Tiên chỉ có duy nhất một tháp, được xây dựng trên một quả đồi thấp
thuộc địa bàn thôn Nam An, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Xưa kia, nơi đặt tháp
Cánh Tiên là vị trí trung tâm của thành Đồ Bàn. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi
lại rằng: “An Nam cổ tháp ở thôn Nam An, huyện Tường Vân, trong thành Đồ Bàn, tục
gọi là tháp Cánh Tiên. Từ vai tháp trở lên, 4 phía đều giống như cánh tiên bay
lên nên gọi tên ấy”. Còn theo người dân trong vùng, nhìn từ xa, những phiến đá
trang trí các tường phía trên ngọn tháp vươn ra như những cánh tiên nên gọi là
tháp Cánh Tiên.
Tháp Cánh Tiên là đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc và điêu
khắc Chăm-pa. Đó cũng là một trong những tháp Chăm điển hình cho phong cách kiến
trúc Bình Định. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, cùng với tháp Phú Lốc, quần
thể tháp Bánh Ít, tháp Cánh Tiên ở Bình Định được xây dựng trong khoảng thời
gian từ cuối thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XII. Đây là thời kỳ Champa xây dựng nhiều
công trình kiến trúc lớn với lối kiến trúc mới mẻ. Kiến trúc tháp Cánh Tiên
mang đậm tính nghệ thuật, thể hiện tài năng và trí sáng tạo của nghệ nhân
Champa xưa. Tháp được xây bề thế, có bề mặt vuông, nổi trên mặt đất, cao khoảng
20m. Nếu ở các tháp khác chỉ trang trí giản lược, thì tháp Cánh Tiên lại khác
biệt ở sự cầu kỳ, tinh tế trong trang trí.
4 mặt quanh tháp đều có các trụ cột ốp tường, nhô ra hài
hòa với tổng thể kiến trúc. Khác với các tháp Chăm khác, phần phía ngoài của
góc tường dưới gốc thân tháp đều được ốp bằng đá chạm khắc tinh tế hoa dây xoắn,
toát lên vẻ đẹp vừa vững chắc, bề thế nhưng cũng không kém phần trang nhã thanh
thoát.
Tháp được thiết kế 4 cửa vòm nhọn hình mũi giáo cao vút lên
theo 4 hướng, xếp chồng 4 lớp, trang trí hoa văn thảo mộc cầu kỳ, tinh xảo. Tuy
nhiên, chỉ có một cửa chính mở về hướng Đông thông vào trong lòng tháp, 3 cửa
còn lại đều là cửa giả. Tháp Cánh Tiên có 4 tầng, tầng nào cũng có 4 tháp góc
trang trí, mỗi góc lại có một tầng tháp giả nhỏ, tạo dáng lá thuôn dần lên phía
trên tạo cảm giác như những chú chim đang bay. Có lẽ, bởi dáng vẻ này mà tháp
được người đời tưởng tượng, gắn với hình tượng thần tiên mà đặt tên cho tháp là
Cánh Tiên.
Các diềm mái của tháp cũng được làm bằng đá, khắc những hoa
văn độc đáo nhô ra làm bộ đỡ các tháp góc ở phía trên. Những tảng đá chạm khắc
hình đuôi phụng gắn trên các tầng tháp giả và hình Makara, một thủy quái trong
thần thoại Ấn Độ với vòi dài, nanh nhọn trang trí ở các góc đầu tường đã tạo
cho tháp Cánh Tiên một vẻ đẹp huyền bí.
Dãi dầu qua năm tháng, tháp Cánh Tiên vẫn sừng sững giữa trời
xanh, là ngôi tháp có giá trị về nhiều mặt và có thể được coi là tháp đẹp nhất
và cổ nhất ở Bình Định. Năm 1982, tháp Cánh Tiên đã được công nhận là Di tích
kiến trúc nghệ thuật Chăm.
Có cơ hội ghé thăm thị xã An Nhơn của miền đất võ, dừng
chân tham quan thành cổ Đồ Bàn, chùa Thập Tháp (ngôi cổ tự lâu đời nhất ở Bình
Định), bến My Lăng từng đi vào thơ Yến Lan, du khách đừng quên ghé thăm di tích
tháp Cánh Tiên để chiêm ngưỡng kiến trúc tháp và lưu lại những khoảnh khắc đáng
nhớ bằng những bộ ảnh đẹp. Điều đó chắc chắn sẽ mang lại cảm xúc thích thú
trong hành trình khám phá của du khách trên mảnh đất Bình Định.
Nguồn:https://www.bienphong.com.vn/canh-tien-thap-cham-co-nhat-binh-dinh-post336986.html
4/ Tháp
Bánh Ít - di tích kiến trúc Chăm đặc sắc hút du khách
Tháp Bánh Ít là địa điểm du lịch hấp dẫn cho những ai yêu
thích khám phá văn hóa và lịch sử của người Chăm. Đây là cụm tháp cổ Chăm Pa, nằm
trên ngọn đồi ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Trong số các điểm du lịch Bình Định nổi tiếng, tháp
Bánh Ít là địa danh mà bất cứ du khách nào cũng nên ghé thăm ít nhất một
lần. Đây là di tích kiến trúc Chăm độc đáo, còn được biết đến với nhiều tên gọi
khác nhau như Tháp Bạc, Tháp Thiện Mẫu, Tháp Thị Thiện, Thổ Sơn Cổ Tháp…
Tháp Bánh Ít là một trong những di tích kiến trúc Chăm Pa cổ
kính và độc đáo, nằm cách thành phố Quy Nhơn khoảng 20km về phía Tây Bắc. Địa
danh này được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII bởi người
Chăm, với tên gọi ban đầu là tháp Bạc hay Yang Mtian.
Tên gọi tháp Bánh Ít xuất phát từ hình dáng của tháp, giống
như những chiếc bánh ít - món ăn truyền thống của người dân Bình Định. Tháp còn
có tên khác là tháp Cầu Bà Di, do nằm gần cầu Bà Di là một cây cầu cổ có từ thời
Pháp thuộc.
Tháp Bánh Ít là một cụm tháp gồm 4 ngôi tháp khác nhau, với
tháp chính cao nhất là 22m. Đây là nơi thờ cúng các vị thần Hindu, như Shiva,
Vishnu, Ganesha và tổ chức các nghi lễ tôn giáo của người Chăm.
Tháp được công nhận là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc
gia vào năm 1982, được đưa vào danh sách 1.001 công trình kiến trúc phải đến
trong cuộc đời của nhóm tác giả người Anh. Từ thành phố Quy Nhơn, bạn
có thể đi xe máy, xe ô tô hoặc xe buýt để đến tháp.
Hình ảnh tháp Bánh Ít ở Bình Định thu hút du khách tham
quan (Ảnh: Sưu tầm)
Phong cách thiết kế độc đáo của tháp Chăm Bánh Ít
Tháp Bánh Ít là một kiệt tác của nghệ thuật kiến trúc Chăm,
được xây dựng từ gạch đất nung và đá. Tháp có sự kết hợp giữa phong cách Mỹ Sơn
A1 và Bình Định tạo nên nét độc đáo và đặc trưng.
Công trình kiến trúc này được trang trí bằng nhiều hoa văn
và tượng điêu khắc, thể hiện các hình ảnh và ý nghĩa của Ấn Độ giáo. Tháp Bánh
Ít Quy Nhơn chắc chắn là biểu tượng của sự bền bỉ và sáng tạo của người Chăm mặc
cho những hư hại bởi thời gian cùng nhiều thăng trầm lịch sử.
Giới thiệu về tháp Bánh Ít Bình Định - công trình kiến trúc
với phong cách thiết kế độc đáo và đặc sắc (Ảnh: Sưu tầm)
Khám phá kiến trúc đậm dấu ấn Chăm
Quần thể tháp Bánh Ít gồm bốn tòa tháp khác nhau, phục vụ
cho các mục đích tôn giáo và văn hóa của người Chăm. Quần thể này có tên gọi lần
lượt là tháp chính (Kalan), tháp cổng (Gopura), tháp hỏa (Kosagrha) và tháp bia
(Posah). Theo những di tích còn sót lại, các nhà nghiên cứu ước tính rằng có
nhiều công trình kiến trúc khác nữa ở đây, hình thành một trung tâm tôn giáo đa
dạng với nhiều kiểu dáng kiến trúc khác nhau.
Tháp Cổng (Gopura)
Tháp cổng (Gopura) là tháp nhỏ nhất, có hình vuông, mái
tháp hình bông hoa thể hiện sự đón tiếp và hướng dẫn các tín đồ vào nơi thờ
cúng. Tháp Cổng đứng ở phía Đông, dưới chân đồi, nhỏ hơn tháp Chính về kích thước
và độ tinh xảo, nhưng trông rất mạnh mẽ và vững vàng.
Tháp làm bằng gạch, cao 13m, nằm trên nền vuông mỗi cạnh
7m. Vòm cổng như một mũi lao chọc thẳng vào trời. Tháp có hai cửa đối diện nhau
theo hướng Đông – Tây, thẳng hàng với cửa tháp Chính trên đỉnh đồi. Trên các mặt
tường của tháp có trang trí các họa tiết hoa văn và các cửa giả hình mũi lao nhọn.
Tháp Cổng của tháp Bánh Ít ở Bình Định (Ảnh: Sưu tầm)
Tháp Bia (Posah)
Tháp Bia (Posah) cao hơn 10m, hình vuông, cách tháp Cổng
22m về phía Nam. Tháp có bốn cửa đối xứng ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc.
Mái tháp độc đáo, khác biệt với các tháp Chàm khác, đó là sự
thu hẹp dần theo chiều cao. Mỗi tầng mái có một hàng bầu lọ cong ở hai đầu, như
những quả bầu rượu nằm sát nhau, nên tháp còn được gọi là Tháp Bầu Rượu. Tháp
Bia là nơi lưu giữ bia ký ghi lại công lao của các vị vua và thần linh được tôn
sùng ở đây. Tuy nhiên, các tâm bia tại tòa tháp này hiện nay đã mất.
Tháp Bia trong quần thể tháp Bánh Ít ở Quy Nhơn (Ảnh: Sưu tầm)
Tháp Chính (Kalan)
Tháp Chính (Kalan) là tòa tháp lớn nhất trên đỉnh đồi và có
chiều cao đến 29,6m. Tháp có bình đồ vuông, mỗi cạnh 12m với một cửa chính hướng
Đông và ba cửa giả.
Cửa chính của tháp nổi bật với vòm hình mũi giáo, trang trí
phù điêu Kala ở giữa. Diềm mái vòm khắc hình khỉ thần HaNuMan đang nhảy múa.
Các cửa giả nhỏ hơn có phù điêu Gajasimha trên diềm mái. Tháp Hỏa nằm cạnh tháp
Chính, phía tây tháp Bia, cao 10m, dài 12m, rộng 5m và tường dày 1,4m. Tháp có
vai trò như nhà kho chứa các đồ tế của người Champa xưa.
Tháp Chính thuộc di tích tháp Bánh Ít (Ảnh: Sưu tầm)
Tháp Hỏa (Kosagrha)
Tháp Hỏa
(Kosagrha) được xây dựng theo hình chữ nhật, khác với các tháp vuông khác. Tòa
tháp cao 10m, dài 12m và rộng 5m. Đây là nơi lưu trữ và sắp xếp các đồ tế lễ
trước khi đưa vào Tháp Chính, để cúng bái các vị vua và thần linh của người
Champa cổ.
Tháp Hỏa - Tòa tháp hình chữ nhật duy nhất trong quần thể
tháp Bạc (Ảnh: Sưu tầm)
Ngắm nhìn bức tượng Shiva đặt bên trong tháp Bánh Ít
Tháp Chính là nơi thờ tượng thần Shiva cao 1,54m, rộng
1,06m, dày 0,56m. Bức tượng đã được phục chế lại vào năm 2013 theo bản gốc đang
trưng bày ở bảo tàng Guimet (Pháp). Tượng là tác phẩm điêu khắc Chăm Pa cổ nhất
ở Bình Định mang phong cách Chánh lộ của thế kỷ XI.
Tượng Shiva đặt bên trong tháp Bánh Ít (Ảnh: Sưu tầm)
Chiêm
ngưỡng các bức phù điêu đẹp mắt
Quần thể
tháp Bánh Ít khoe sắc với nhiều tượng, phù điêu uốn lượn, phản ánh văn hóa Chăm
của thời kỳ này. Các linh vật thực và thần thoại như voi, hổ, Garuđa cũng được
khắc nhiều trên quần thể tháp Bánh Ít.
Phù điêu hình khỉ thần Hanuman đang múa được tạc trên diềm
mái vòm (Ảnh: Sưu tầm)
5/ Tháp Phú Lốc
Tháp Phú
Lốc
Đi dọc trên đường
Quốc lộ số 1, cách thành phố Quy Nhơn 35km về phía Bắc, ngang qua địa phận thôn
Châu Thành phường Nhơn Thành có thể nhìn thấy rõ. Từ trước tới nay nhân dân vẫn
thường gọi tháp là Thốc Lốc, Phốc Lốc, Phú Lốc, Phú Lộc mà không hiểu nghĩa của
những tên tháp này. Trong các thư tịch cổ, tên tháp còn được chép là Phước Lộc.
Người Pháp, trong các công trình nghiên cứu của họ gọi là Tour d’Or (Tháp
Vàng). Phân tích phong cách kiến trúc, các nhà chuyên môn đoán định rằng tháp
có niên đại tương đương với tháp Cánh Tiên, có nghĩa là cũng được xây dựng vào
đầu thế kỷ XII. Quy mô tháp không lớn. Bình đồ tháp hình vuông mỗi chiều đo được
9,7m. Toàn tháp cao khoảng 15m, nhưng vì được xây dựng trên đồi cao nên trông
có vẻ ngạo nghễ.
So với tháp Cánh
Tiên, trang trí trên tháp Phú Lốc có phần đơn giản hơn. Các cột đá ốp xung
quanh thân tháp thẳng trơn. Giống như mọi tháp Champa, Phú Lốc cũng có ba cửa
giả và một cửa chính hướng về phía Đông. Vòm cửa hình lưỡi mác vút lên cao tới
6m. phần trang trí chủ yếu được thể hiện trên các cửa giả. Bao quanh phần trên
mỗi vòm của là các phù điêu trang trí. Cửa giả có tới ba tầng, nhỏ dần về phía
trên, tạo thành một hình khối giống như 3 lưỡi mác nhọn xếp nối nhau vút lên
sát diềm mái.
Mái tháp có ba tầng,
ngăn cách với phần thân bởi một diềm đá để trơn không trang trí. Tầng mái không
còn được nguyên vẹn, được tạo dáng thu nhỏ dần trên phía trên với các tường được
chạm khắc. Hình dáng lớp mái nhà là hình ảnh thu nhỏ của tháp chính nhưng các
hàng cột ốp dọc có hoa văn xoắn kết dài. Các cửa trên mái tháp trông giống như
những khám thờ, bao quanh phia trên vòm cửa nhọn được trang trí hoa văn lá lật
xoắn đối xứng.
Tháp đứng trên đồi cao trông có vẻ
trơ trọi, đìu hiu, nhưng lên tới chân tháp, phóng tầm mắt ra bốn hướng thì thấy
cảnh trí xung quanh thật kỳ vĩ. Tại đây có thể nhìn thấy cả vùng đồng bằng rộng
lớn của thị xã An Nhơn và huyện Phù Cát.
Cũng trên địa phận của phường Nhơn
Thành, cách tháp Phú Lốc không xa, trên một quả đồi phía bắc thôn Châu Thành hiện
còn phế tích một tòa tháp khác. Dấu tích còn lại là nền móng của ba khối tháp
đã bị sập đổ. Gạch, đá đổ xuống chất thành gò. Trong đống phế tích hoang tàn
còn tìm thấy những mảnh đá chạm khắc, trang trí các điểm góc và đặc biệt là một
phù điêu bằng đá tạo dáng khá đẹp, có lẻ là chỏm nóc.
Khi nói về tháp Phú Lốc, sách đại Nam nhất thống chí có chép: “Phú Lốc có tháp
cổ ở hai thôn Châu Thành và Phú Thành, huyện Phù Cát”. Theo đó, tháp ở Nhơn
Thành chính là tháp Thốc Lốc hiện nay, còn tháp Nhơn Thành là phế tích quần thể
kiến trúc tháp ở thôn Châu Thành.
Tháp được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật năm
1995.
6/ Tháp Bình Lâm
Tháp Bình Lâm
là một trong những ngôi tháp Chăm cổ nổi bật nhất tại Bình Định, mang trong
mình nét đẹp của nghệ thuật và kiến trúc Chăm Pa từ thế kỷ X. Mỗi chi tiết chạm
khắc trên tháp đều kể về một phần của văn hóa Chăm rực rỡ, là điểm đến không thể
bỏ lỡ cho những ai yêu thích khám phá lịch sử và kiến trúc cổ.
Tháp Bình Lâm -
một trong những di tích Champa cổ kính tại Bình Định, là điểm đến đầy sức hút
cho những ai yêu thích lịch sử và kiến trúc cổ. Nằm cách tháp Bánh Ít khoảng
7km, tháp Bình Lâm tọa lạc giữa một khu dân cư yên bình nên rất dễ dàng tiếp cận.
Tháp
Bình Lâm là một trong những di tíc Champa cổ kính nhất.
Điểm đặc biệt của
tháp Bình Lâm chính là dáng vẻ cân đối, được đánh giá là một trong những ngôi
tháp đẹp nhất còn sót lại của người Chăm tại Bình Định. Với vị trí nằm trên nền
đất bằng phẳng, tháp Bình Lâm không chỉ thu hút bởi vẻ đẹp kiến trúc mà còn bởi
sự gần gũi với thiên nhiên, bao quanh là những cánh đồng xanh mướt.
Tên "Bình
Lâm" gắn liền với quá trình khai phá và chinh phục vùng đất mà ngôi tháp tọa
lạc. "Bình Lâm" nghĩa là khai phá rừng, biểu trưng cho hành trình
khám phá và chinh phục khu vực rừng rậm xung quanh vùng này. Mặc dù trong ghi
chép trong Đại Nam nhất thống chí, tháp Bình Lâm trước đây được gọi là “tháp
Tranh Trúc”. Tuy nhiên, người dẫn vẫn quen gọi ngôi tháp tráng lệ này là Bình
Lâm.
Nơi
đây sừng sững giữa khu dẫn cư yên bình.
Lịch sử hình
thành Tháp Bình Lâm
Tháp Bình Lâm là
minh chứng sống động cho lịch sử văn hóa rực rỡ của vương quốc Champa. Được xây
dựng vào cuối thế kỷ X và đầu thế kỷ XI, tháp Bình Lâm mang đậm dấu ấn của sự
chuyển giao giữa hai phong cách kiến trúc nổi bật: từ phong cách Mỹ Sơn A1 sang
phong cách Bình Định. Điều này khiến tháp trở thành một công trình kiến trúc có
giá trị đặc biệt trong lịch sử kiến trúc Champa.
Tháp Bình Lâm từng
nằm trong khu vực thành Bình Lâm, vốn là kinh đô tạm thời của vương triều
Champa. Đây là nơi các vị vua Champa đã chọn làm trung tâm tạm thời khi di chuyển
từ Quảng Nam vào Bình Định, trước khi xây dựng kinh đô chính thức tại thành Đồ
Bàn. Sau khi Đồ Bàn hoàn thành, tháp Bình Lâm đã dần mất đi vị thế trung tâm
chính trị và hành chính, trở thành một di tích lưu giữ những giá trị văn hóa và
tín ngưỡng độc đáo.
Không chỉ là một
công trình kiến trúc, tháp Bình Lâm còn là chứng nhân của những biến cố lịch sử
quan trọng. Tháp từng chứng kiến những trận chiến ác liệt giữa quân Champa và
quân xâm lược Mông - Nguyên vào thế kỷ XIII cũng như những năm tháng khói lửa của
cuộc chiến tranh Việt Nam sau này.
Với vẻ đẹp cổ kính và ý nghĩa lịch
sử sâu sắc, tháp Bình Lâm vẫn sừng sững như một biểu tượng văn hóa và tín ngưỡng,
khơi dậy những ký ức về quá khứ huy hoàng của vương triều Chăm Pa.
Đây
chính là biểu tượng văn hóa và tín ngưỡng quý giá của Champa. Ảnh: Quy Nhơn
Hotel
Kiến trúc độc
đáo của Tháp Bình Lâm
Tháp Bình Lâm là
một trong những công trình kiến trúc Champa độc đáo, nổi bật với vẻ cân đối và
hài hòa. Với chiều cao khoảng 20 mét, tháp mang hình dáng vuông vắn ở phần đáy
khi mỗi cạnh dài khoảng 10 mét.
Kiến
trúc phần mái đầy nổi bật của tháp Bình Lâm.
Như bao tháp
Chăm khác, tháp Bình Lâm vẫn giữ lối thiết kế chia tầng tinh tế, thu nhỏ dần
khi lên đến đỉnh. Phần thân tháp được xây dựng bằng gạch ốp, không có hoa văn
phức tạp, tạo nên nét riêng biệt so với nhiều tháp Champa khác. Cửa chính của
tháp mở về phía Đông, trong khi ba cửa giả quay về các hướng Tây, Nam và Bắc.
Từng
chi tiết được thiết kế chi tiết, tỉ mỉ và đầy công phu. Ảnh: Báo Du lịch
Phần mái tháp Bình Lâm được thiết kế
với bốn tầng nhỏ dần về phía trên, mỗi tầng như một phiên bản thu nhỏ của tháp
chính. Các tầng mái được trang trí bởi những hoa văn cánh sen cách điệu, uốn lượn
liên hoàn tạo nên vẻ đẹp tinh tế và trang nhã.
Dù một số chi tiết
nhỏ ở bốn góc mái đã không còn nhưng những dấu tích về nghệ thuật điêu khắc
trên mặt tường, như bức phù điêu chim thần Garuda ở phía Tây vẫn còn hiện diện
rõ ràng đến ngày nay.
Ngày
nay, một số chi tiết đã được phục chế.
Kiến trúc của
tháp Bình Lâm còn đặc biệt ở hệ thống các cột ốp bao quanh tháp, không chỉ đóng
vai trò nâng đỡ mà còn là yếu tố trang trí quan trọng. Khác biệt với nhiều tháp
Champa khác, các cột ốp của tháp không được phủ kín hoa văn mà giữ vẻ đơn giản,
tạo ra sự cân đối trong tổng thể kiến trúc. Mỗi chi tiết của tháp Bình Lâm, từ
cửa chính, cửa giả, đến các tầng mái, đều thể hiện sự tài hoa của những người
thợ điêu khắc Champa, mang lại cho tháp một vẻ đẹp đầy cổ kính và huyền bí.
Nghệ thuật và
điêu khắc Chăm tại Tháp Bình Lâm
Nghệ thuật và
điêu khắc Champa tại tháp Bình Lâm là minh chứng tuyệt vời cho sự tài hoa của
những nghệ nhân xưa, thể hiện qua từng chi tiết trang trí và cấu trúc kiến
trúc. Các họa tiết, môtíp hoa văn trên tháp được khắc trực tiếp lên gạch với những
hình ảnh tinh xảo như các tháp trang trí góc, những tòa lâu đài trên cửa giả
hay hoa văn chuỗi hạt uốn lượn mềm mại.
Những yếu tố này
đều phản ánh rõ nét sự ảnh hưởng từ phong cách kiến trúc Champa thế kỷ X nhưng
đồng thời cũng mang đến những sự đổi mới trong thiết kế, đánh dấu bước chuyển
mình sang phong các Champa Bình Định sau này.
Công
trình này là minh chứng tuyệt vời cho sự tài hoa của các nghệ nhân Champa xưa.
Tháp Bình Lâm nổi
bật với sự tinh tế trong cách sắp đặt và phối hợp giữa các hoa văn trang trí. Đặc
biệt, các vòm cửa giả được khắc họa với hình mũi giáo vươn cao giúp mang lại cảm
giác uy nghi, mạnh mẽ.
Phần thân tháp
thay vì phủ kín các hoa văn phức tạp như những tháp Champa trước đó lại trở nên
đơn giản hơn với các rãnh dọc nhỏ dần, tạo nên sự cân đối và hài hòa.
Phần
thân của tháp được giản lược để tạo sự hài hòa. Ảnh: Bui Cong Truong
Một trong những
đặc trưng đáng chú ý của tháp là hệ thống hoa văn chuỗi hạt uốn lượn liên hoàn
được sắp xếp một cách liên tục từ chân đến đỉnh tháp, tạo nên sự liền mạch
trong thiết kế. Dù đã trải qua nhiều biến đổi của thời gian, nghệ thuật điêu khắc
tại tháp Bình Lâm vẫn giữ được vẻ đẹp hoành tráng, khỏe khoắn, phản ánh một
giai đoạn chuyển tiếp quan trọng trong kiến trúc Chăm Pa.
Năm 1993, tháp
Bình Lâm đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa – kiến trúc nghệ thuật cấp
quốc gia, khẳng định giá trị nghệ thuật độc đáo và ý nghĩa lịch sử của công
trình.
Tháp Bình Lâm
không chỉ là chứng nhân lịch sử mà còn là tác phẩm nghệ thuật vượt thời gian, để
lại dấu ấn đặc biệt trong lòng du khách mỗi khi ghé thăm. Sự tinh tế trong kiến
trúc và nghệ thuật điêu khắc đã khiến tháp trở thành một trong những di sản văn
hóa độc đáo của Bình Định.
7/ Tháp Thủ Thiện
Tháp Thủ Thiện không
phải là một ngọn tháp nổi tiếng, nếu so với tháp Dương Long, tháp Bình Lâm,
tháp Cánh Tiên… Tháp Thủ Thiện phần lớn chỉ được tìm đến bằng sự tình cờ với đa
số khách du lịch trong chuyến hành trình khám phá Tây Sơn.
Tháp Thủ Thiện nằm
rất gần làng võ danh bất hư truyền An Vinh. Để đến được tháp Thủ Thiện, từ Quy
Nhơn đi theo quốc lộ 1A, rẽ trái ở cầu Bà Di ( cách Quy Nhơn 20km), đi thẳng
theo quốc lộ 19, làng Thủ Thiện nằm ở phía bên tay phải, sẽ có biển chỉ dẫn di
tích này cho du khách.
Một
góc ngọn tháp thiêng ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)
Tháp
Thủ Thiện có nét kiến trúc tối giản so với những tháp Chăm ở Bình Định ( Ảnh:
Vân Anh- Vntrip.vn)
Dù Tháp
Thủ Thiện được nhận định là mang kiến trúc tối giản nhất so với những
tháp Chăm khác, những khám phá xung quanh ngôi tháp này chứng minh ý nghĩ lớn
lao của tháp Thủ Thiện với tín ngưỡng của người Chăm trước đây. Tháp không nằm
trên đồi hay chỗ cao mà lại nằm ở một phần đất bằng phẳng, mang dáng vẻ đặc
trưng của tháp Chăm Bình Định với bình đồ hình vuông, đế tháp cao, thắt lại ở
phần eo tháp. Vòm cửa rải rác có hình mũi lao, kết cấu nhọn, dù đã bị hư hại
nhiều, dù trước kia nơi đây là các khám thờ nơi đặt các tượng thần và phù điêu.
Nhiều hiện vật như bia đá hoa cương, tượng , phù điêu được tìm thấy ở đây thể
hiện một giai đoạn cường thịnh của vương triều Vijaya ở Bình Định.
Tháp
Thủ Thiện nhìn từ phía bên trong ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)
Vẻ
đep mê hoặc của mái vòm tháp Thủ Thiện ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)
Vẻ ngoài trầm buồn
của tháp Thủ Thiện lôi cuốn du khách ngay từ cái nhìn đầu
tiên, với màu gạch đỏ dẫu bong tróc cùng tháng năm vẫn tỏa ra nét uy nghiêm vốn
có của tháp Chăm. Người dân địa phương nói rằng, gạch đỏ của người Chăm là loại
gạch tốt nhất, không bao giờ phai mầu, không bao giờ bị nấm mốc rêu phong, do
bí quyết của dân tộc Chăm để lại. Tháp Thủ Thiện vì thế, lại
càng tỏa ra cái dáng vẻ uy thế, bí ẩn, uy nghiêm.
Bước vào phía
bên trong, dẫu không còn nhiều di vật, những trầm tích cổ còn lại mang đến màu
sắc tâm linh uy nghiêm, vòm cao hướng thẳng lên trời, ánh sáng tự nhiên vì thế
vẫn lẩn khuất vào phía bên trong tháp. Trước kia bên trong tháp có 12 tượng đá
bán thân, tất cả đều mang ý nghĩa tôn giáo đặc biệt trong tĩn ngưỡng của người
Chăm, tay các bức tượng chắp trước ngực, xếp theo dáng búp măng.
Dấu
tích Chăm Pa cổ còn lưu lại đến ngày nay ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)
Tháp Thủ Thiện cách
bờ nam sông Kôn chưa đầy 1 km, đến thăm tháp Thủ Thiện vào lúc mặt trời lặn, bạn
sẽ thấy hình ảnh ngôi tháp cổ trầm nghiêm vươn mình trên nền trời, thu mình về
hướng dòng sông hiền hòa chày, tựa như lời thầm thì từ lịch sử vọng lại, cứ du
dương, du dương mãi.
Nếu có dịp đến
với Tây Sơn, đừng bỏ lỡ tháp Thủ Thiện bạn nhé ( Ảnh: Vân Anh- Vntrip.vn)
Và cũng bằng vẻ lặng lẽ như thế, tháp
Thủ Thiện như một vẻ đẹp tiềm ẩn của du lịch Tây Sơn nói
riêng và du lịch Bình Định nói chung đang chờ du khách đến
khám phá.
Tiểu chủng viện
Làng Sông - điểm đến hấp dẫn ở Bình Định
Tiểu chủng viện Làng Sông là một điểm
tham quan nổi tiếng ở huyện Tuy Phước, Bình Định. Đây cũng là điểm đến lý tưởng
cho những du khách yêu thích không gian thanh bình và yên tĩnh.
Tiểu
chủng viện Làng Sông - điểm nhấn độc đáo trong hành trình du lịch Bình Định
Ngoài những điểm
vui chơi ở trung tâm thành phố, du lịch Bình Định còn có nhiều
điểm đến hấp dẫn nằm ở ngoại ô như Tiểu chủng viện Làng Sông. Đến
đây, du khách sẽ được tìm hiểu về văn hóa, lịch sử Công giáo; chiêm ngưỡng kiến
trúc Gothic ấn tượng và thỏa thích check-in sống ảo ở mọi ngóc ngách.
1. Giới thiệu
về Tiểu chủng viện Làng Sông
· Địa
chỉ: thôn Quảng Vân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
· Thời
gian mở cửa tham khảo: 7h - 11h30 và 14h - 17h30 hàng ngày (Trừ những
ngày tĩnh tâm sẽ có thông báo sau)
Tiểu chủng
viện Làng Sông (hay còn gọi là nhà thờ Làng Sông) nằm cách trung tâm
TP. Quy Nhơn khoảng 10km về hướng Đông Bắc. Cái tên Làng Sông
có nghĩa là khu vực nằm giữa vùng sông nước, đồng ruộng xanh mát. Địa chỉ cụ thể
của nhà thờ tọa lạc tại xã Phước Thuận - Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Vào năm 1841 -
1850, Tiểu chủng viện Làng Sông Bình Định chỉ được xây dựng cơ sở ban đầu với
vách phên tre, mái tranh khá thô sơ. Đến năm 1927, nhà thờ mới được dựng lại
trên khu đất lớn hơn với diện tích 2.000 m2. Sau đó, nhà in địa phận Đông Đàng
Trong và tòa giám mục cũng đã được xây dựng.
Lúc bấy giờ,
giám đốc của chủng viện là cha Paul Maheu - một người thông thạo về kỹ thuật in
và được học nghề in ở Hong Kong. Dưới sự điều hành và quản lý của ông, nhà in
Làng Sông đã trở thành một trong 3 trung tâm văn học Quốc ngữ và truyền bá chữ
Quốc ngữ lớn nhất ở Việt Nam thời đó.
Để đến được Tiểu
chủng viện Làng Sông Quy Nhơn, du khách nên di chuyển dọc theo Quốc lộ 19. Trên
đường đi, bạn có thể kết hợp tham quan thêm các địa điểm nổi tiếng khác ở Bình
Định như chùa võ Long Phước, chùa Thiên Hưng và tháp
Bánh Ít.
Nhà
thờ Làng Sông được bao quanh bởi những cánh đồng xanh mướt tạo nên không gian
mát mẻ và yên bình
2. Ý nghĩa của
nhà thờ Làng Sông
Trước đây, nhà
thờ Làng Sông chủ yếu được sử dụng như một tu viện dành cho tiểu chủng sinh đến
tầm đạo và tu dưỡng. Các tu sĩ sau khi hoàn thành đào tạo tại đây sẽ tiếp tục tụ
tập tại đại chủng viện để trở thành linh mục. Vào thời kỳ thịnh vượng nhất, nhà
thờ đã thu hút gần 200 tu sĩ khắp nơi tại các tỉnh Trung Trung bộ về học tập và
sinh sống.
Ngày nay, nhà thờ
không còn hoạt động đào tạo tu sĩ mà đã trở thành một điểm đến tâm linh và tham
quan du lịch. Vào những ngày lễ, tết quan trọng như tết công giáo, người dân địa
phương và du khách lại ghé đến nhà thờ Làng Sông để hành lễ, cầu nguyện hoặc
vãng cảnh và chiêm ngưỡng khu trưng bày nhà in.
Nhà thờ Làng Sông từng
là nơi đào tạo các tu sĩ muốn trở thành linh mục
3. Tiểu chủng
viện Làng Sông Quy Nhơn có gì hấp dẫn?
3.1. Khám phá kiến
trúc Gothic độc đáo
Lịch sử tiểu chủng
viện Làng Sông đã có bề dày hơn 170 năm nhưng vẫn giữ nguyên được nét kiến trúc
Gothic đặc trưng. Khi bước vào khuôn viên của nhà thờ, du khách sẽ thấy ngay
khu nhà nguyện ở vị trí trung tâm. Ngôi nhà gồm có 3 cửa tiền và 16 cửa chính
được chạm trổ tinh xảo, cùng các hàng cột gỗ to lớn và uy nghiêm. Hai bên nhà
nguyện là khu vực làm việc và học tập của các tu sĩ.
Cung thánh là
nơi linh thiêng và trang trọng nhất bên trong thánh đường. Công trình thu hút
du khách bởi những đường nét điêu khắc tinh tế trên bàn thờ chúa và các tượng
nhỏ, phù điêu. Kiến trúc của tiểu chủng viện còn tái hiện sự đối xứng hài hòa của
những khung ô, cổng vòm nhọn, các bông gió trang trí trên tường…
Tiểu
chủng viện Làng Sông sở hữu nét kiến trúc Gothic độc đáo với những mái vòm cao,
tháp nhọn và hoa văn tinh tế.
3.2. Check in
Tiểu chủng viện Làng Sông
Với vẻ đẹp cổ
kính và độc đáo, Tiểu chủng viện Làng Sông còn là một địa điểm check-in lý tưởng
cho những du khách yêu thích phong cách cổ điển. Một số góc chụp ảnh đẹp tại
đây có thể kể đến:
·
Cổng vòm chính: Cổng vòm cao vút với
những đường nét hoa văn tinh xảo là điểm nhấn ấn tượng của Tiểu chủng viện Làng
Sông.
·
Hành lang dài: Dãy hành lang dài với
những mái vòm uốn cong mềm mại là background lý tưởng cho những bức ảnh
"so deep".
·
Bức tượng Đức Mẹ: Check-in tại tượng
Đức Mẹ, du khách còn có thể lấy được toàn cảnh của nhà thờ phía sau, nhìn tựa
như một tòa lâu đài cổ kính.
·
Khuôn viên nhà thờ: Nơi đây có những
hàng cây cổ thụ rợp bóng mát, những thảm cỏ xanh mướt và những bông hoa rực rỡ,
tạo nên một bầu không khí thanh bình và yên tĩnh.
·
Khu vực tường rào bên cạnh nhà thờ: Bạn
có thể bắt trọn khoảnh khắc với những cánh đồng cỏ xanh rì, đẹp mắt.
Khuôn
viên nhà thờ Làng Sông với nhiều cây cổ thụ rợp bóng mát (Ảnh: Sưu tầm)
Khu
vực hành lang dài là góc check-in yêu thích của nhiều du khách khi đến chủng viện
Làng Sông Chỉ cần ngồi ghế đá và tạo dáng đơn giản là du khách đã có ngay một bức
hình sống ảo cực nghệ (Ảnh: Sưu tầm)
Cổng
vào Tiểu chủng viện Làng Sông
3.3. Tham
quan phòng trưng bày nhà in Làng Sông
Phòng trưng bày
nhà in Làng Sông là một điểm đến cực thú vị cho những ai muốn khám phá về lịch
sử và văn hóa in ấn ở Việt Nam. Khi bước vào bên trong, du khách sẽ bị thu hút
bởi không gian cổ kính với hàng trăm tài liệu, sách vở được bảo quản và trưng
bày cẩn thận. Tại đây đang lưu giữ hơn 200 quyển sách cổ, nổi bật nhất phải kể
đến các quyển “Tục Ngữ An Nam”, "Tập đọc", "Tập đánh vần
ABC"...
Điểm đặc biệt của
phòng trưng bày là các tài liệu được sắp xếp theo thứ tự năm xuất bản giúp du
khách có cái nhìn tổng quan về sự phát triển của in ấn qua từng thời kỳ. Những
cuốn sách cổ được bảo quản cẩn thận trong tủ kính kín nên vẫn còn nguyên vẹn và
giữ được giá trị lịch sử to lớn.
Năm 1872, nhà in
Làng Sông được xây dựng nhưng sau đó lại bị phá hủy vào năm 1855. Mãi đến năm
1904, công trình mới được tái thiết và giao cho cha Paul Maheu - người từng học
kỹ thuật in ấn tại Hồng Kông quản lý. Nhà in tiếp tục hoạt động đến năm 1936
thì được di dời về Quy Nhơn.
Không
gian ngăn nắp bên trong phòng trưng bày nhà in Làng Sông (Ảnh: Sưu tầm)
Chùa Thiên Hưng: chốn tâm linh đặc biệt của
người dân xứ Nẫu
Chùa Thiên
Hưng tọa lạc trong khuôn viên xanh mát, yên bình. Hằng năm, nơi đây đã đón tiếp
hàng ngàn lượt du khách đến chiêm bái, hành hương.
Thiên
Hưng Tự là điểm đến yêu thích của du khách thập phương (Ảnh: Sưu tầm)
Chùa Thiên
Hưng là một điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch Bình Định.
Kiến trúc chùa Thiên Hưng là sự kết hợp giữa vẻ đẹp truyền thống Á Đông và kiến
trúc hiện đại. Khi đến với chùa, bạn sẽ cảm nhận được không khí trong lành,
bình yên. Cùng Vinpearl tìm hiểu tất tần tật kinh nghiệm khám phá ngôi chùa
này!
1. Đôi nét về chùa Thiên Hưng
Bình Định
·
Địa chỉ: phố Chánh Thạnh, phường
Nhơn Hưng, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định
Chùa Thiên
Hưng còn có tên gọi khác là chùa “Mục Đồng”, cách trung tâm thành
phố Quy Nhơn khoảng 20km. Chùa Thiên Hưng tọa lạc giữa vùng quê cổ
trong thành Đồ Bàn xưa của Chăm Pa. Bao bọc xung quanh chùa là ruộng đồng, sông
hồ và đường tre ngõ làng thanh bình. Chùa mang vẻ đẹp hoài cổ, bình dị rất
riêng.
Du khách ưu ái gọi
chùa Thiên Hưng là “Phượng Hoàng Cổ Trấn của Việt Nam. Mỗi năm, chùa đều đón rất
nhiều lượt khách du lịch gần xa. Trụ trì chùa Thiên Hưng - Đại đức Thích Đồng
Ngộ là một người am hiểu về phong thủy và luôn tích cực trong công việc hoằng
pháp. Thầy Thích Đồng Ngộ thường xuyên tổ chức các buổi giảng pháp, giúp mọi
người có thể hiểu hơn về tư tưởng của Phật giáo.
Chùa
Thiên Hưng Quy Nhơn mang vẻ đẹp cổ xưa, thoát tục, bình yên đến lạ (Ảnh: Sưu tầm)
2. Tìm hiểu kiến trúc đặc sắc của
Thiên Hưng Tự
Chùa Thiên Hưng
Bình Định nổi bật với sự kết hợp tinh tế giữa phong cách kiến trúc Á Đông pha lẫn
chút hiện đại. Mặc dù không quá lộng lẫy, kiến trúc của chùa vẫn toát lên vẻ
trang trọng và cổ kính khó lẫn giữa "vùng đất võ".
Chùa được Đại đức
Thích Đồng Ngộ chính tay thiết kế và hoàn thiện vào năm 2007. Công trình Thiên
Hưng Tự bao gồm chánh điện 3 tầng, tăng xá 2 tầng, Điện Tây Phương 2 tòa được
xây bằng gỗ, nhà Phương Trượng, Đại Bảo Tháp Thiên Ứng 12 tầng, Khách Đường,
nhà Truyền Thống 2 tầng, La Hán Đài, cùng các khu lưu trú cho khách tăng và phật
tử. Ngoài ra, chùa còn có khu sinh hoạt hậu cần lớn ở phía Đông với tổng cộng
20 công trình đa dạng về kích thước và quy mô.
Chùa
Thiên Hưng mang vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêm rất ấn tượng (Ảnh: Sưu tầm)
3. Tham quan chùa Thiên Hưng có
gì?
3.1. Bình yên trong không gian chùa
Thiên Hưng An Nhơn
Khi đến Thiên
Hưng Tự, bạn sẽ cảm nhận được không khí trong lành, thoáng mát. Trong khuôn
viên, những hàng cây xanh được chăm sóc tỉ mỉ, phủ bóng mát khắp mọi lối đi.
Trước chính điện
của chùa là một hồ nước rộng rất nên thơ. Theo phong thủy, trong chùa có hồ, có
sân, lấy khí tích thủy là một cách nuôi dưỡng vạn vật xung quanh. Vì thế, khuôn
viên chùa lúc nào cũng dồi dào sinh khí. Bạn có thể dạo bước quanh hồ để ngắm
nhìn cảnh vật và thư giãn tâm trí.
Bên cạnh hồ là
vườn Thiên Thanh bày trí nhiều tiểu cảnh đẹp, sinh động, tạo nên một bức tranh
thơ mộng. Khi đi đến giữa vườn Thiên Thanh, du khách sẽ bắt gặp Đài Quan Âm
mang vẻ uy nghiêm được tạc từ đá trắng. Không gian chùa Thiên Hưng mang lại cảm
giác dễ chịu, thư thái cho du khách đến ghé thăm chùa.
Chùa
Thiên Hưng An Nhơn Bình Định thanh bình, thơ mộng (Ảnh: Sưu tầm)
3.2. Chiêm ngưỡng hệ thống tượng
Phật ở tòa chính điện
Tòa chính điện là công trình trung
tâm của chùa Thiên Hưng. Tòa chính điện được xây nhiều tầng với mái ngói đỏ và
có đầu đao hình rồng trông rất uy nghiêm, bề thế. Mỗi tầng đều thờ các vị Bồ
tát và các vị Phật khác nhau. Không gian bên trong được bày trí trang nghiêm với
nhiều phong cách, không bị trùng lặp. Trong điện thờ cao nhất là tượng Đức Phật
Thích Ca ở vị trí trung tâm, rất tôn nghiêm.
Điện thờ
trang nghiêm ở Thiên Hưng Tự (Ảnh: Sưu tầm)
3.3. Tham quan các công trình
tiêu biểu của Thiên Hưng Tự
Bên cạnh tòa chính điện, chùa Thiên
Hưng còn có nhiều công trình kiến trúc tiêu biểu khác để bạn tham quan, chụp ảnh
kỷ niệm.
·
Tháp Thiên Ứng: Công trình điểm nhấn
của chùa Thiên Hưng, đây là tòa bảo tháp 12 tầng, chiều cao khoảng 40m. Đứng
trên tháp Thiên Ứng, du khách có thể quan sát được hầu hết các địa điểm thuộc
thị xã An Nhơn.
·
La Hán Đài: Một tiểu cảnh đậm chất
thiên nhiên, có 18 tượng A La Hán bằng đá sa thạch cao 3 mét nguyên khối bài
trí xung quanh.
Tiểu
cảnh La Hán Đài trong Thiên Hưng Tự thu hút sự chú ý của nhiều du khách (Ảnh:
Sưu tầm)
ẨM THỰC BÌNH ĐỊNH
Độc đáo nước mắm dừa xứ Tam Quan
Ngoài xứ dừa Bến Tre ra thì không nơi nào ở
nước ta có nhiều dừa như ở Tam Quan, Bình Định. Với những người dân xứ dừa thì
sản phẩm nước mắm được chế biến từ dừa đã trở nên quá quen thuộc. Nếu ai lần
đầu tiên được nếm thử món nước mắm này có lẽ cũng dễ bị nhầm tưởng đây là loại
nước mắm đã được chế biến từ cá bởi nhìn nó cũng màu vàng và có vị mặn đặc
trưng.
Theo các bậc cao niên, do ngày xưa giao thông
đi lại khá khó khăn nên quá trình vận chuyển cá mắm từ vùng này sang vùng khác
gặp nhiều khó khăn nên người dân ở xứ dừa đã tự nghiên cứu, mày mò để sản xuất
ra loại nước mắm dừa này nhằm phục vụ cho nhu cầu hàng ngày.
Để làm ra một mẻ nước mắm dừa rất nhọc công
và mất thời gian. Bởi để chế biến được khoảng 2 đến 4 lít mắm dừa phải
mất tầm một ngày với khoảng 20 lít nước dừa già.
Dừa già hái xuống đem chặt vỏ lấy nước rồi
cho vào xoong nấu. Sau khi nước sôi, để lửa riu riu giữ cho độ sôi đều, nhớ là
phải mở vung mở vung. Khi cạn còn khoảng 2 lít thì nước dừa sẽ ngả màu vàng,
lúc ấy cho một ít muối vào vừa đủ mặn, để nguội, rót vào chai là đã có món nước
mắm dừa. Loại nước mắm này cũng có màu vàng, vị mặn và đặt biệt là để lâu mấy
cũng không hư, lại có mùi vị thơm ngon tuyệt vời nên được xem như một món đặc
sản nổi tiếng của xứ dừa.
Ngày nay nước mắm dừa rất ít được chế biến
đại trà mà chỉ được nấu ở một số ít gia đình có truyền thống lâu đời để làm quà
hay đãi khách vào mỗi dịp đặc biệt.
Điều thú vị của nước mắm dừa ở chỗ không chỉ
được dùng làm nước chấm mà nước mắm dừa còn dùng như một loại gia vị đặc biệt
trong các món ăn, nhất là khi nấu các món chay. Chính vì vậy, loại mắm này được
xem như loại nước mắm phù hợp dành cho tất cả mọi người trong chế biến thực
phẩm.
Cái đậm đà của bánh hỏi lòng heo sẽ không
trọn vẹn nếu thiếu nước chấm. Người miền Trung dùng nước chấm hầu như trong tất
cả các bữa ăn. Nước chấm thường là mắm mộc nhĩ, nhìn sóng sánh trong từng giọt
nâu đượm. Chấm vào một miếng, vị mặn còn đọng nơi đầu lưỡi, hương vị quyện
trong vị cay the của ớt thái sợi, chút tỏi giã nhuyễn và một vài giọt nước cốt
chanh trong vắt.
Nhấc đũa, miếng bánh hỏi ngập trong chén nước
chấm đậm đà sẽ khiến bạn ngất ngây bởi cái vị chua ngọt, vị thanh nhẹ nhàng của
từng sợi bánh. Đĩa lòng ăn kèm với bánh phải có đủ tim, gan, phèo non, cật và
thịt ba chỉ. Lòng ngon là phải thật giòn và ngọt. Thịt luộc không được quá khô
để khi ăn, thực khách có thể cảm nhận hết vị bùi béo mọng nước trong từng sớ
thịt.
Người Bình Định thích ăn kết hợp bánh hỏi với
cháo. Cháo thường được nấu loãng với thịt nạc băm và không quên thêm lá hành
xanh và một chút tiêu. Bạn phải húp cháo sột soạt khi còn nghi ngút khói mới
thật đúng điệu bánh hỏi cháo lòng. Bánh hỏi - một món ăn dân dã, chân quê mà
lại hấp dẫn lạ kì. Nếu một lần có dịp đến với miền thượng võ, bạn hãy đừng quên
nhắc tên bánh hỏi…
Bánh hỏi Bình Định - món ngon miền thượng võ
Bình Định không chỉ là một miền đất nổi tiếng
với nhiều môn võ cổ truyền mà còn được nhiều người biết đến với văn hoá ẩm thực
đặc sắc với bởi nhiều món ăn hấp dẫn, trong đó, không không nhắc đến bánh hỏi -
một thức quà rất đỗi quen thuộc, bình dị trong cuộc sống thường ngày. Không
những phổ biến ở các vùng nông thôn, mà bánh hỏi còn được người dân thành phố
rất yêu thích. Trong gia đình, bánh hỏi đùng để ăn thay cơm hay đãi khách vào
mỗi dịp đặc biệt.
Bánh hỏi được làm từ bột gạo, phải là loại
gạo tẻ ngon hoặc gạo thơm. Gạo đem đãi kỹ để loại bỏ hết tạp chất rồi ngâm qua
một đêm bằng nước sạch. Lượng nước phải phù hợp với lượng gạo thì bột xay mới
trắng và mịn. Sau đó, bột sẽ được nhồi và cho vào khuôn bánh hỏi. Khuôn bánh
được làm bằng đồng dạng hình trụ hoặc chữ nhật với khá nhiều lỗ nhỏ. Bánh hỏi
ngon hay không còn phụ thuộc vào đường kính lỗ. Nếu như lỗ quá lớn thì sợi bánh
hỏi sẽ bị lớn và không đẹp. Sau cùng là công đoạn hấp cách thuỷ bánh trong nồi
hấp khoảng 3 phút. Bánh khi đã chín đem vớt ra để nguội, dùng một ít dầu lạc
thoa lên mặt bánh để bánh không khô hay bị dính vào nhau.
Ở các khu chợ quê, bánh hỏi thường được đặt
trong thúng có lót sẵn lá chuối và đậy kín ở trên. Khi ăn, bánh mới được phết
thêm một lớp lá hẹ hoặc lá hành xanh thái nhỏ kèm với hành khô tùy theo sở
thích của mỗi người. Miếng bánh hỏi trắng muốt ăn nóng vừa dẻo vừa dai, lại có
mùi thơm đặc trưng của gạo và hành phi.
Bánh hỏi được người dân Bình Định vô cùng ưa
thích và thường ăn kèm với thịt heo quay hoặc thịt heo luộc. Tại thành phố Quy
Nhơn, bánh hỏi ăn với một bát cháo lòng nóng hổi và lòng heo, đây vốn là một
món điểm tâm phổ biến và được khá nhiều người ưa chuộng.
Tham khảo thêm:
Mười món ngon nổi tiếng đất Tây Sơn
Ngoài món bún chả cá nổi tiếng, Bình Định còn
mê hoặc bao thực khách với hàng loạt món ngon khó cưỡng như gié bò Tây Sơn, bún
tôm Châu Trúc, mắm nhum Mỹ An..
1. Bún chả cá Quy Nhơn
Điểm nhấn thú vị của món bún chả cá Quy Nhơn
là phần chả cá lấy nguyên liệu từ những con cá thu bóng bẩy, mập mạp, thịt ngọt
và phải đem quết sao cho miếng bánh chả trở nên láng mịn, tròn dày vừa phải,
dùng với nước lèo được nấu từ đầu và xương cá thu, trong veo, có ngọt tự nhiên.
2. Mắm nhum Mỹ An
Nhum có nhiều loại, nhưng để muối mắm thì
phải là nhum ta màu đen. Cách chế biến như sau: Cắt bỏ sơ những chiếc gai nhọn
tua tủa xung quanh nhum rồi đem khoét một lỗ ngay miệng nhum, khéo léo lấy thịt
nhum ra cho vào chum sành, rắc thêm một ít muối hạt lên trên, sau đó đem vùi
vào bếp tro hoặc phơi nắng từ 10 đến 15 ngày. Khi mắm nhum đã chín, nhuyễn tan,
sền sệt, có mau đỏ đục, hương thơm nức.
Mắm nhum không được phổ biến như các loại mắm
khác nên du khách khó có thể mua được vì không biết nơi bán.
3. Bún tôm Châu Trúc
Để có được một tô bún tôm Châu Trúc ngon phải
trải qua khá nhiều công đoạn. Đầu tiên là làm bún. Gạo được ngâm với nước cho
mềm rồi mang ra xay, sau đó cho vào túi vải đăng ráo nước, xong đưa vào cối giã
cho thật nhuyễn. Mỗi cối bột là một dặn, người làm bún ép bún từ dặn, bún sẽ
chạy thẳng vào nồi nước luộc. Tôm làm bún phải là chọn những con tôm đất được
bắt từ đầm Châu Trúc, còn nhảy tanh tách, đem bỏ vào cối giã nhuyễn cùng với
một ít muối, ớt...
Khi có người đến ăn, người bán dùng đũa lấy
một ít thịt tôm cho vào bát, cho thêm chút bột ngọt, nước mắm, múc một ít nước
luộc bún đang sôi đổ vào bát khuấy thật đều, sau đó bỏ bún vào, rắc lên mấy
cọng hành ngò, chút tiêu. Món ăn này dọn kèm với bánh tráng mè nướng giòn.
4. Gié bò Tây Sơn
Gié bò là món ăn được chế biến chủ yếu từ
ruột non của bò. Gié bò không phải một món dễ ăn và chỉ có người sành ăn mới
khoái khẩu.
Khi mổ bò, người ta chọn khúc ruột non ngon
nhất, còn tươi, bên trong ruột có chất nhầy trong xanh gọi là gié. Đem xổ lấy
phần gié trong ruột non ra. Cho muối, tiêu, tỏi, hành băm nhỏ vào gié ướp trong
mươi phút cho ngấm đều. Sau đó phi hành thơm trên dầu nóng, cho gié vào xào cho
chín. Đổ nước dừa tươi vào nấu khoảng 15 phút, vớt bọt, để nguội lấy nước
trong.
Ruột non, gan bò cắt thành đoạn hoặc miếng
vuông, ướp với hành, tỏi, tiêu, muối. Phi nóng dầu xào gan và ruột đến khi có
mùi thơm rồi để nguội. Huyết bò luộc chín, cắt cỡ miếng gan. Đem tất cả
các nguyên liệu trên nấu chung với nước gié. Trong lúc nấu cho thêm một ít sả
cây, gừng nướng và tai vị đập dập để khử mùi. Cuối cùng cho lá giang rửa sạch,
vó nát vào để nồi gié có vị chua. Nêm lại gia vị cho vừa ăn là được.
Tô gié nóng hổi, nước màu nâu hơi có chút ánh
xanh ăn kèm bún tươi, rau sống các loại và bánh tráng mè nướng là sự kết hợp
tinh tế của tất cả các loại nguyên liệu làm níu chân biết bao du khách.
5. Bánh hỏi Diêu Trì
Bánh hỏi là đặc sản nức danh của Bình Định,
đặc biệt thịnh và ngon nhất là ở Diêu Trì (Tuy Phước). Món này được chế biến
như sau: Gạo tám thơm vo kỹ, ngâm nước một đêm, vớt để ráo, xay nhuyễn bằng cối
đá. Bột nước cho vào bao vải khô, "đăng" ráo nước. Đem hấp bột để vừa
đủ chín, nhồi và chia bột thành từng khối, mỗi khối chừng nửa ký gọi là
"giảo". Đưa vào khuôn ép thành bánh. Bánh đem hấp vừa đủ chín.
Cháo nấu loãng với huyết ninh với thịt nạc
băm, bên cạnh là đĩa lòng heo. Những thứ này ăn kèm với bánh hỏi, làm cho bánh
hỏi trở nên béo bở, ngon ngọt lạ thường.
6. Nem chợ Huyện
Nem chợ Huyện không mềm như nem của Thủ Đức,
không có vị ngọt như nem Lai Vung, nem An Cựu mà sần sật, dai dai, giòn giòn,
chua chua, ngọt thanh đã miệng. Nem tươi đã rất ngon, đem nướng với than, ăn
kèm với bánh, chả ram, tía tô, rau mùi, rau răm, khế, chuối, dưa leo, nước chấm
(hoặc xì dầu) thêm một vài trái ớt, tép tỏi thì lại càng tuyệt.
7. Bánh xèo Mỹ Cang
Bánh xèo Mỹ Cang ngon nổi tiếng là nhờ tất cả
thành phần được chế biến từ đặc sản địa phương. Bánh xèo được ăn kèm với là
bánh tráng gạo nguyên chất, rau sống các loại, vài lát xoài và dưa leo xắt
mỏng, bên cạnh chén nước mắm vàng ươm hương vị miền biển. Cái ngọt tự nhiên của
tôm tươi, cái giòn của gạo đủ lửa và vị chua, chát của xoài và chuối, tất cả
quyện lại thành một món ăn thơm ngon vô cùng hấp dẫn.
8. Rượu Bàu Đá
Có nồng độ rất cao, hơn 50 độ, rượu Bàu Đá
uống nhanh say nhưng say rồi lại không thấy mệt. Muốn có được rượu ngon, người
nấu cần phải tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt về nguồn nước, men, gạo, dụng cụ
nấu và đặc biệt là kinh nghiệm gia truyền. Khi nấu rượu, cũng không được dùng
nồi nhôm mà dùng nồi đồng, đậy bằng nắp đất nung, cất rượu bằng ống tre. Chưng
phải bằng lửa nhỏ mới vắt cạn hết được tinh chất gạo.
9. Bún song thằn
Sở dĩ có tên gọi là "song thằn" vì
khi làm bún, người ta bắt dây bún từng đôi một. Bún song thằn nổi tiếng với
hương vị thơm ngon, mềm dẻo và có giá trị dinh dưỡng khá cao vì làm từ đậu
xanh.
Cách làm món bún này rất kỳ công. Đậu xanh
được phơi nắng cho thật khô rồi ngâm trong nước lạnh độ một ngày một đêm chờ
cho nở đều mới đem xay.
Đến An Thái, bạn có thể thưởng thức một tô
bún song thằn nấu với lòng gà hay có thể mua một vài ký về làm quà cho bạn bè
và người thân.
10. Cua huỳnh đế
Cua huỳnh đế là đặc sản nổi tiếng của vùng
biển Tam Quan và Ðề Gi (Bình Ðịnh). Cua huỳnh đế có bộ áo giáp cứng và dày, màu
vàng rực như hoàng bào, li ti nhiều gai nhọn xuôi theo thân, que; càng cua to,
cạnh sắc lẻm như dao, khác hẳn với những loại cua khác.
Cua huỳnh đế có nhiều cách chế biến như hấp,
nướng… Đặc biệt, người dân địa phương còn đem loại cua vua này chế biến thành
món um mặn ăn cùng với cơm hay nấu cháo.
Những quán ăn ngon nhất ở Quy Nhơn
Bánh xèo tôm nhảy Gia Vỹ
Bánh xèo từ lâu
đã là một món ăn dân dã có tên trong thực đơn của cả ba miền. Tuy nhiên bánh
xèo tôm nhảy Quy Nhơn không chỉ đặc biệt bởi vỏ bánh giòn rụm mà còn bởi lớp
nhân dày kín tôm đất. Để thưởng thức đúng điệu bánh xèo Quy Nhơn, chắc chắn bạn
phải đến 1 trong những quán ăn ngon ở Quy Nhơn đó là Bánh
xèo tôm nhảy Gia Vỹ.
Để đảm bảo phục
vụ cho nhu cầu khách khá lớn, bánh xèo Gia Vỹ có đến hai chi nhánh ngay tại
thành phố Quy Nhơn. Cơ sở 1 nằm ở 118 Đống Đa và cơ sở 2 tọa lạc tại số 14 Diên
Hồng. Quán đa số trong tình trạng đông khách, tuy nhiên nhân viên lại cực kỳ
thân thiện và luôn đáp ứng tốt yêu cầu của khách. Bạn sẽ không phải chờ quá lâu
để có bánh đâu nhen.
Bánh
xèo tôm nhảy là một đặc sản nổi tiếng ở Quy Nhơn (ảnh: ST)
Dù là tên gọi
“bánh xèo tôm nhảy” nhưng ngoài ra ở đây còn có cả bánh xèo bò. Đặc điểm chung
của hai loại bánh này là nhân đặc kín trên bánh nên nhìn siêu hấp dẫn. Thêm vào
đó là chút giá tươi và hành tây, giúp bạn đỡ ngán hơn khi ăn đồ chiên dầu. Bánh
xèo miền trung thường được ăn với bánh tráng cùng rau sống và xoài chua. Nước
chấm ở bánh xèo Gia Vỹ mới thật sự đặc biệt nhất, thứ quyết định đến 50% độ
ngon của bánh. Quán dùng nước mắm chua ngọt, có pha kèm ớt tỏi đã giã nhuyễn.
Một
mâm bánh xèo sẽ được dọn lên như thế này (ảnh: ST)
Cạnh bánh xèo
tôm nhảy Gia Vỹ còn có vài quán khác đều là những quán ăn ngon ở Quy
Nhơn. Các quán này thường có nhân viên dừng ở đường đứng bắt khách. Các bạn
phải thật cứng và tỉnh táo để chọn đúng quán nhé!
Bún chả cá Ngọc Liên
Đến du lịch
Quy Nhơn mà không nếm thử món bún chả cá thì quả là một thiết sót lớn.
Đây là món ăn bạn có thể tìm ở bất cứ ngõ ngách nào ở thành phố, từ các cửa
hàng bình dân lề đường đến những nhà hàng sang trọng nhưng ngon nhất vẫn phải kể
đến bún cá Ngọc Liên nằm ở 379 Nguyễn Huệ – 1 trong những quán ăn ngon ở
Quy Nhơn khó lòng bỏ qua.
Quán ở trung tâm
thành phố nên dễ tìm và cũng tiện nếu bạn muốn đi tham quan ngay sau đó. Cũng
vì nằm ngay trung tâm mà quán lúc nào cũng đông khách. Tuy nhiên quán khá rộng
rãi, không gian lại rất thoáng và không hề bị ám mùi cá nhé. Điểm cộng lớn đối
với những quán bán bún cá đấy. Nhân viên lại đáng yêu và thân thiện vô cùng.
Tô
bún đầy ngập chả cá chỉ có giá 25k (ảnh: ST)
Giá cả khá hợp
lý với 25k cho một tô bún chả cá thông thường và 35k đối với
bún sứa. Nước ở đây có vị ngọt thanh đặc trưng bởi nấu với cá. Chả cá thì miễn
bàn về độ ngon. Bởi là vùng biển, nên chả cá rất tươi, dai và ngọt. Lại được
nêm nếm thêm gia vị rất vừa miệng. Một tô bún chả thường có cả hai loại
là chả chiên và chả hấp. Mỗi loại ăn vào hơi khác một tí, nhưng nói chung đều
ngon. Bún cá ở đây ăn cùng với rau thơm và hành tím chua ngọt nhen!
Quán Mẫn – Bánh hỏi cháo lòng
Nhắc đến xứ Nẫu
là phải nhắc đến bánh hỏi cháo lòng. Mà nhắc đến bánh hỏi cháo lòng thì phải nhắc
đến quán Mẫn ở 76 Trần Phú. Đây cũng là một trong những quán ăn ngon ở
Quy Nhơn nổi tiếng nhất. Quán phục vụ hầu hết các món ăn Bình Định,
tuy nhiên nổi tiếng nhất vẫn là bánh hỏi cháo lòng. Chỉ cần khoảng 25 – 30 bạn
đã có một mâm bánh hỏi cháo lòng no nê cực hấp dẫn. Một mâm bánh hoàn chỉnh sẽ
gồm 1 đĩa bánh hỏi được quét dầu hẹ; một ít tim, cật, phèo… được xắt mỏng bỏ
lên trên; ăn kèm là chén cháo huyết nóng hổi và chén mắm nhĩ dằm ớt đặc trưng.
Bữa
sáng no nê với mâm bánh hỏi cháo lòng (ảnh: ST)
Quán Mẫn đặc biệt
chỉ bán buổi sáng, khá đông khách nên nếu ngủ nướng bạn sẽ không có cơ hội thử
món này đâu nhé. Không gian ở đây được đánh giá là sạch sẽ và thoáng mát.
Gié Bò – Nhật
Gia Viên
Món
ăn gié bò nổi tiếng (Ảnh ST)
Ở Quy Nhơn có một
món ăn khá bình dân mang đậm hơi thở của vùng đất này đó là “Gié Bò”. Đây là
món ăn mà bạn có thể thỏa mái thưởng thức đến no căng bụng với nguyên liệu chủ
yếu để làm nên món ăn này là ruột non bò kết hợp với nhiều gia vị. Đây là món
ăn có từ lâu của dân tộc Bana trải qua thời gian người kinh vùng Tây Sơn – Bình
Định thấy hợp khẩu vị và coi nó là đặc sản.
Bún cá cô Phượng – 415 Nguyễn Huệ
Bát
bún thơm ngon với nước dùng thanh ngọt (Ảnh ST)
Khi ghé Quy
Nhơn, bạn đừng quên thưởng thức món ăn ngon nổi tiếng mang tên “Bún Cá” nhé. Bạn
chỉ cần đi theo các con phố sẽ có rất nhiều quán cho bạn chọn nhưng ngon nhất ở
đây phải kể đến bún cá Phượng. Bí quyết để làm nên một tô bún thơm ngon đó
chính là nước dùng, bún và đặc biệt không thể thiếu là chả cá được chế biến từ
cá tươi tẩm ướp gia vị. Nước dùng của bún cũng rất đặc biệt khác với nhiều vùng
thì nơi đây sử dụng nước dùng từ đầu và xương cá làm nên 1 loại nước dùng thơm
ngon và ngọt thanh, khiến các thực khách ăn một lần và mãi không quên.
Bánh bèo 318 Diên Hồng
Bánh bèo thì dễ
kiếm nhưng để nếm vị ngon đúng chuẩn bánh bèo Quy Nhơn thì phải đến 318 Diên Hồng.
Đây là quán vỉa hè và ở gần trường ĐH Quy Nhơn nên không lạ nếu bạn gặp nhiều
sinh viên ăn ở đây. Quán ăn ngon ở Quy Nhơn này chỉ bán từ 2
giờ chiều đến 7 giờ tối. Phù hợp để ăn vặt vào xế chiều.
Bánh ở đây được
bày ra nia tre khá đẹp mắt. Một phần như vậy sẽ gồm 10 chén bánh bèo. Trên mỗi
chén bánh bèo là một bầu trời màu sắc. Thường sẽ có màu đỏ của ruốc tôm, điểm
thêm tí lá hẹ xanh cùng một ít dầu, đậu phộng sẽ được giã nhuyễn rắc lên và
trên cùng là những miếng tóp mỡ và bánh mì nâu xám. Bánh ở đây lớn và dày hơn một
số nơi khác. Mắm chấm là nước mắm pha loãng, người ta sẽ cho thêm một chút ớt,
tỏi và gia vị giúp chén nước chấm càng thêm đậm đà. Cuối cùng, khi ăn bạn sẽ phải
rưới nước mắm đã được pha lên trên.
Bánh
bèo thơm ngon cực rẻ ở Quy Nhơn (ảnh: ST)
Chè nhớ – 157 Ngô Mây
Quá
chè nhớ đặc biệt tại Quy Nhơn (Ảnh ST)
Đây là một trong
những quán chè khá là nổi tiếng ở Quy Nhơn. Nằm ngay gần Đại Học Quy Nhơn, quán
còn có tên gọi khác là “chè sinh viên”. Ngoài chè là món chính của quán thì ở
đây còn có khá nhiều món ăn vặt kèm theo. Nếu bạn là tín đồ của những món ăn vặt
thì đừng quên ghé quán khi đến du lịch nhé.
Đặc Sản Bình Định “nhất định phải thử”
Mắm Nhum Mỹ
An
Đây là một loại đặc
sản Bình Định có một không hai của Bình Đinh. Mắm Nhum được làm từ một
loại quả chỉ có vùng núi Mỹ An Bình Định. Nhum có nhiều loại và có thể chế biến
nhum để ăn kèm cùng ác món nướng, chiên nhưng loại nhum dùng để làm mắm thường
có màu đen. Mắm nhum dễ chế biến tuy nhiên 100kg nhum chỉ chế biến được 2kg
nhum. Cũng chính vì thế mà dù cho có tiền cũng khó có thể mua được món đặc sản
hiếm có này. Mắm nhum rất thơm, ngát ngát đậm chất mùi quả rừng. Mắm Nhum dùng
để chấm kèm với các loại thịt luộc, rau sống thì ngon tuyệt cú mèo.
Bánh Xèo Mỹ
Cang
Đây là một món
ngon đặc sản Quy Nhơn rất đỗi bình dị nhưng được du khách rất yêu thích. Nó được
bày bán ở hầu hết các quán xá vỉa hè ở Bình Định. Bánh xèo được làm được những
nguyên liệu đơn giản như thịt heo băm nhuyễn, hành phi, rau thơm, trứng
và bột gạo. Gaọ sẽ được tuyển chọn những những gạo to chắc mẩy không bị sâu để
tạo độ ngọt của bánh. Gạo sẽ được đem đi xay và nấu bột thành một thứ hỗn hợp dẻo,
đập trứng cho thịt băm và một số loại gia vị vào. Bên cạnh đó đac có một cái chảo
đang được đun nóng. Người nấu sẽ múc từng múc lên chảo để tráng những miếng
bánh, dải thịt băm nhuyễn đã được xào chín lên bên trên bề mặt bánh và guộn đều
tay để bánh to tròn và đẹp. Hoặc có thể là những con tôm tươi ngon. Khi
ăn ăn kèm với rau thơm và nước chấm.
Bánh ít lá
gai
Bánh ít lá gai
là một trong những món đặc sản Bình Định thơm ngon làm nên
danh tiếng cho món ngon Bình Định. Đây là một loại món ăn được chế biến rất cầu
kì và tỉ mỉ. Lá để làm bánh là loại lá gai, sau khi được tuyển chọn những lá to
dầy không bị sâu sẽ được đem phơi khô, nấu nhừ với mật mía, sau khi nước nấu đặc
và nhuyễn thì cho bột nếp vào khuấy đều. Tiếp đến mang đi giã hoặc xay cho nhỏ
để bột gạo, lá gai và mật được hòa quyện vào với nhau.
Bánh
ít lá gai với vị ngon đặc trưng của xứ Nẫu (Ảnh: ST).
Nhân để làm bánh
gồm có đậu tầm, dầu chuối, sợi dừa hoặc có thể dùng dừa khô. Nếu là bánh gai mặn
thì có thêm thịt mỡ, đậu phộng trong nhân. Đưa một miếng bánh vào miệng bạn sẽ
cảm nhận được đổ thơm dẻo của vỏ bánh, béo ngậy ngậy của đậu phộng, thịt mỡ,
mùi thơm của dầu chuối. Tất cả như hòa quyện vào nhau tạo nên một loại bánh ít
lá gai rất thơm ngon. Chỉ với 4.000 – 5.000 đồng bạn đã có thể thưởng thức một
chiếc bánh Ít thơm ngon rồi.
Mực ngào Bình
Định
Mực
ngào cay cay ngọt ngọt là món ăn chơi ưa thích của nhiều người (Ảnh: ST)
Một trong những
món ăn phải kể đến đầu tiên trong dah sách những món đặc sản Bình Định đó chính
là mực ngào. Mực ngào có một hương vị thơm ngon rất riêng thu hút khách du lịch.
Để chế biến được món mực ngào người đầu bếp đã phải rất công phu, tài tình tỉ mỉ
chăm chút cho món ăn. Mực sau khi đươc thu mua từ những cảng hải sản tươi ngon
được đem về sơ chế và chế biến luôn để giữ được độ tươi ngon nguyên vẹn của
mực.
Mực được ướp
cùng tiêu, tỏi, ớt, mắm và một số loại gia vị khác để tạo độ thơm ngon đặc
trưng của mực. Món ăn này có vị cay đặc trưng, thơm thơm của các loại gia vị sẽ
làm bạn thích thú và muốn ăn ngay từ cái nhìn đầu tiên. Gía của một cân mực
ngào giao động từ 200.000 – 400.000 đồng.
Rượu bầu đá
Bình Định
Rượu
Bầu Đá nức tiếng(Ảnh: ST)
Không giống như
các loại rượu gạo thông thường mà chúng ta vẫn biết đến, rượu bầu đá đặc
sản Bình Định được nấu từ gạo lứt và chỉ đạt độ ngon nhất khi sử dụng
nguồn nước tại một làng của tỉnh Bình Định.
Tương truyền vào
thời xưa, loại thức uống này còn được tiến cung cho vua hằng năm nên được xếp hạng
vào loại rượu đặc sản nổi tiếng của cả vùng. Làng Cù Lâm (hay còn gọi là làng
nghề rượu Bầu Đá), huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định là làng nấu rượu thủ công từ
bao đời nay nên vẫn còn giữ được nét đặc trưng nhất của rượu. Rượu Bầu Đá được
đựng trong những chiếc bình sứ tinh xảo và có độ cồn rất cao, lên đến 50 độ nên
người uống không quen sẽ thấy rất nóng và dễ say. Thế nhưng, điểm đặc biệt khiến
người ta yêu thích những vò rượu này chính là cái vị thanh mát đến lạnh người,
chỉ cần uống một ngụm là cả người sẽ thấy khoan khoái, mát lạnh và dễ chịu hơn
hẳn. Bạn có thể tìm mua món đặc sản Quy Nhơn Bình Định này tại làng
nghề nói trên hoặc các cửa hàng đặc sản phân bố khắp tỉnh.
Tré Bình Định
Tré – Cái tên độc
và lạ của một món ăn ở Bình Định. Cũng chính bởi cái tên này mà nó đã thu hút
nhiều thực khách tìm hiểu và thưởng thức món ăn. Món đặc sản Bình Định này thực
ra đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thành Trung Trung bộ thế nhưng nổi tiếng thơm
ngon nhất vẫn là Tré Bình Định, nó mang một hương rất riêng mà chỉ những con
người ở Bình Định mới làm nên được. Tré là một loại món ăn gần giống với các loại
nem bì miền bắc nhưng lại được thay thế bằng nhiều loại nguyên liệu khác nhau
như: tai heo, lỗ mũi heo, da heo hoặc có thể là thịt ba chỉ.
Tré,
một món ăn độc đáo của Bình Định (Ảnh: ST)
các loại nguyên
liệu sau khi được thái nhỏ thành các lát thì sẽ được đem đi ướp cùng các loại
gia vị như tiêu, tỏi, ớt, nước mắm và thính (bột giã nhỏ từ gạo rang). Chờ cho
gia vị hòa quyện vào thịt thì mang đi gói. Tré sẽ được gói bằng lá khế hoặc lá ổi
non, lớp ngoài cùng là lá chuối. Gói sau đem đi bảo quản trong khoảng 2 đến 3
ngày là có thể thưởng thức.
Bánh tráng nước dừa
Khi đến du
lịch Bình Định không thể không nhắc tới món bánh tráng nước dừa.
Đây là một món đặc sản nơi xứ dừa. Công đoạn chế biến bánh không quá cầu kì
nhưng đòi hỏi sự tỉ mỉ, có kinh nghiệm của người tráng bánh. Nguyên liệu của
bánh chủ yếu là Củ Mì ( củ sắn) được sắt nhỏ, xay lấy nước. Cơm dừa được nạo
thành sợi nhỏ, nước dừa và vừng đen. Tất cả đều được đổ chung vào một nồi
lớn, trộn đều cho các gia vị hòa quyện cùng với nhau và được đun nóng. Bên cạnh
đó có một chảo đang được đun nóng. Khi chảo nóng lên người tráng bánh sẽ dùng một
cái gáo làm bằng sọ dừa có cán dài múc từng gáo nước bánh lên chảo và tráng đều.
Tráng bánh phải đều tay để cơm dừa và vừng đen được dàn đều mặt bánh. Bánh phải
tròn mỏng và không bị chỗ dày, chỗ mỏng thì mới là bánh đạt chuẩn. cứ tráng được
mười chiếc bánh thì đem ra phơi. khi ăn bạn cần nướng lên để bánh có độ
phồng và dậy hết mùi thơm của vừng, của nước cốt dừa và cơm dừa. Có thể ăn bánh
thay cơm ăn chỉ thấy no mà không thấy chán.
ẢNH
ST
Bún song
thần
Bún song thần có
chút khác biệt với các loại bún thông thường khác bởi thay vì sợi bún được làm
từ bột gạo hay bột củ mì kéo sợi thì bún song thần lại được làm từ bột đậu
xanh. Bún Song thần đặc sản Bình Định có màu trắng đặc trưng.
Bún được đặt song song bên nhau nên có tên là bún song thần. Món đặc sản
này có giá trị dinh dưỡng cao hơn các loại bún khác. Tuy nhiên giá thành của
bún khá cao bởi 5kg đậu xanh chỉ là được 1kg bún.
Cua Huỳnh Đế
Món món hải sản
ngon nức tiếng ở Bình Định. Cua Huỳnh đếđược xem là vua của các loại cua bởi nó
có mai đỏ vàng như một bộ long bào uy nghi của các nhà vua, hai bên có gai li
ti sắc nhọn, hai chiếc càng to chắc khỏe. Cua thường sống trong những ngách đá
trên biển Bình Định. Cua Huỳnh Đế có thịt thơm, chắc và có thể chế biến
thành nhiều món ăn ngon khác nhau như cua nướng, cua hấp… đều rất thơm ngon.
Cua
huỳnh đế đặc sản Bình Định (Ảnh ST)
Nem chợ huyện
Nói đến nem chua
bạn sẽ nhớ ngay đến quê hương Thanh Hóa tuy nhiên nem chua đặc sản Quy
Nhơn Bình Định mang một hương vị thơm ngon nổi tiếng không kém
nem chua Thanh Hóa. Nem được chế biến một cách cầu kì công phu. Thịt sau
khi được lựa chọn những miếng tươi ngon nhất được mua mang về chế biến. Thịt
heo được sắt thành những miếng dài mỏng, ướp đều gia vị với tiêu, tỏi, ớt tươi,
nước mắn, muối và quan trọng đó là bột thính ( bột được làm từ gạo rang giã nhỏ)
để 15 phút cho gia vị ngấm đều vào những miếng thịt rồi đem ra gói. Nem chợ huyện
ở Bình Định được bọc một lớp lá khế non sau đó quấn quanh là lá chuối. Nem được
gói vuông như một chiếc bánh trưng nhỏ. sau khi gói để để ở một nơi thoáng mát,
chỉ vài ngày sau là có thể ăn được.
Gié bò Tây
Sơn
Đây là một món
ăn khá lạ và độc đáo của Bình Định. Với một vài người đây không phải là một món
dễ ăn. Gié bò là một món ăn được chế khá cầu kì công phu. Sau khi mổ bò người
ta sẽ lấy phần ruột non nhất của bò để làm gié. trong phần đoạn ruột non
nhất của bò có một chất dịch nhầy màu xanh lá cây. Chất nhầy xanh ấy được gọi
là gié. Gie bò sau khi được lấy ra phải được chế biến luôn để lâu sẽ bị
hôi và không dùng được nữa. Gié được đem đi ướp gia vị cùng tiêu, tỏi, ớt, xả,
gừng …để ngấm vị. Phần ruột non, tiết và gan bò được sắt thành những miếng
vuông vức nấu chung với nồi gié bò. Khi ăn bạn sẽ nhìn thấy màu của gié bò xanh
ngát trong bát. Thơm ngon đậm đà. nếu là người lần đầu ăn bạn sẽ thấy không
quen miệng. Tuy nhiên món này là món càng ăn càng nghiền. Ăn kèm với bánh
đa và rau sống thì không còn gì tuyệt vời hơn.
ẢNH
ST
Gỏi cá chích
Cá Chích là loại
cá nước ngọt sống ở các sông hồ ao suối. Cũng bởi Bình Định có nhiều sông hồ
nên đây là môi trường thuận lợi để loài đặc sản này sinh sống. Cá Chích đặc
sản Bình Định có thân hình nhỏ, dài. Cá Chích sau khi được
đánh bắt lên sẽ được làm sạch và chiên giòn. Vì là loài
cá có kích cỡ nhỏ nên khi ăn người ta sẽ kẹp cả con cá đã được
chiên vàng ăn với bánh phở cuốn, kèm rau thơm, dưa chuột. Cá ngọt thịt nên bạn
ăn sẽ không bị chán. Tuy Nhiên nếu bạn là tín đồ gỏi sống bạn có thể được
thưởng thức gỏi cá chích với những thớ thịt đc lọc xương làm sạch.
Một chuyến
du lịch đến Quy Nhơn Bình Định tuyệt vời khôn g chỉ là để thưởng ngoạn những cảnh
đẹp, danh thắng đặc sắc mà còn phải kết hợp với việc thưởng thức nhiều món ăn đặc
trưng. Đừng quên tìm đến các loại đặc sản Bình Định bạn nhé
DỊCH VỤ - KHÁCH SẠN – NHÀ HÀNG Ở QUY NHƠN – BÌNH ĐỊNH
II/ BÌNH ĐỊNH
1/ Khách sạn
KHÁCH SẠN EDEN
60 Mai Xuân Thưởng Phường Lê Hồng Phong,
Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
sales@edenquynhonhotel.com
02566252222
KHÁCH SẠN LAKE VIEW QUY NHƠN
44 Bình Hà Phường Thị Nại, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
sales@lakeviewquynhon.com
(0256) 3891889
- Khách sạn Hoàng Yến 2
04 Phan Chu Trinh Phường Hải Cảng, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
02563894499
Khách sạn Hương Việt
102 Xuân Diệu Phường Hải Cảng, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
0256 6253 333
sales@huongviethotelqn.vn
Khách sạn Sài Gòn – Quy Nhơn
24 Nguyễn Huệ Phường Lê Lợi, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
0256 3829922
sales3@saigonquynhonhotel.com.vn
Khách Sạn Hương Giang
56 Lê Hồng Phong, Phường Lê Lợi, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
khachsan@gmail.com
0256 3821 747
Khách sạn Ngọc Hương
221 Nguyễn Huệ, Phường Trần Phú, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
0961380933
ngochuonghotel@gmail.com
Khách Sạn Ngọc Trung
49 Nguyễn Huệ Phường Trần Phú, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
khachsan@gmail.com
0905631969
Khách Sạn Fleur De Lys Quy Nhơn 4 Sao
16 Nguyễn Huệ Phường Lê Lợi, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
(0256) 3 666 888
sales@fleurdelys.vn
Khách Sạn Quy Nhơn Blue Sea
06 Bùi Tư Toàn Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
quynhonbluesea@gmail.com
Phương Đông Hotel & Apartment
03/21 Ngô Mây Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
(0256) 3747 767
phuongdonghotelqn@gmail.com
Khách Sạn Viet Nam Taste
96 Xuân Diệu Phường Hải Cảng, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
(0256) 364 3333
vietnamtastehotel@gmail.com
Khách sạn kim ngân
71 Trần Anh Tông Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
(0256) 3646.349
kskimngan.td@gmail.com
2/ Nhà Hàng – Quán Ăn
-
Nhà
hàng hải sản Coco Jambo
Địa chỉ: Thôn Lý Hưng, Xã Nhơn Lý, TP. Quy
Nhơn, Bình Định
Hotline: 098 8177 709 - Website: www.cocojambo.vn - Fanpage: Coco Jambo Quy
Nhơn
-
S.Blue
Restaurant & Bar
Địa chỉ: Đường biển Xuân Diệu, TP. Quy Nhơn
Hotline: 0256 3663 888 - Fanpage: S.Blue
Restaurant & Bar
-
Sea
Fire Salt – Anantara Quy Nhon Villas
Địa chỉ: Anantara Quy Nhon Villas, Bãi Dại,
Ghềnh Ráng, TP. Quy Nhơn
Hotline: +84 256 3840 077 - Fanpage: Anantara Quy Nhon Villas
-
Hoàng
Thao Seaview
Địa chỉ: Đường số 4, thôn Lý Hưng, xã Nhơn
Lý, Quy Nhơn, Bình Định
Hotline: 0935361090
Fanpage: Hoàng Thao Seaview – Hải sản Eo Gió,
Quy Nhơn
-
Bếp
Nhà Xứ Nẫu
Địa chỉ: 68 Nam Cao, TP Quy Nhơn
Hotline: 090 560 90 08 - Fanpage: Bếp Nhà Xứ Nẫu
-
Cá
Khói Quy Nhơn
Địa chỉ: 04 Nguyễn Trung Tín, TP. Quy Nhơn
Hotline: 096 377 4377 - Fanpage: Cá Khói
-
Golden
Sand Zone – Hải sản, Nướng & Beer
Địa chỉ: 03 Nguyễn Thiếp, TP. Quy Nhơn
Hotline: 058 928 3456 - Fanpage: Golden Sand Zone –
Hải sản, Nướng & Beer
-
Cơm
ngon Quy Nhơn
Địa chỉ: 57 Nguyễn Thị Định , Quy Nhơn, Việt
Nam
Hotline: 090 535 93
51 – E:comngonquynhon@gmail.com
– W: comngonquynhon.vn
-
Nhà
hàng Mộc Viên
ĐC: 02 Võ Nguyên Giáp, Quy Nhơn, Bình Định,
Quy Nhon, Vietnam
Tel: 0868 012 468 - E: nhahangmocvienquynhon@gmail.com
-
Nhà
hàng Mộc Việt
ĐC: 30 Chương Dương, TP. Quy Nhơn, Bình Định,
Quy Nhon, Vietnam
Tel: 0868 012 468
E:nhahangmocviet@gmail.com
Nhà hàng hải sản Hoa Lư 2
Đc: 16 Trương Văn Của
Tel: 090 199 33 55
Nhà hàng Hương Việt
ĐC: 122 Xuân Diệu, Phường Hải Cảng, Thành phố
Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
Tel: 0256 3894 599 – E: amthuc@gmail.com
Nhà hàng sân bay
ĐC:Xã Cát Tân, Huyện Phù Cát, Tỉnh Bình Định
0834.888.777
nhahangsanbay86@gmail.com
Hải Sản Hướng Dương Quán ( Eo Gió )
ĐC:Hưng Lương Xã Nhơn Lý, Thành phố Quy
Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 091 490 81 33 - E: tourkyco.huongduongquan@gmail.com
Nhà Hàng Ẩm Thực Việt
ĐC:40 Tăng Bạt Hổ Phường Lê Lợi, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0256 6520099 - E: amthucviet.quynhon@gmail.com
Nhà Hàng Quốc Bảo
ĐC: 02 Mai Xuân Thưởng Phường Trần Hưng Đạo,
Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
info@quocbaopalace.vn
T: (0256) 6286 666
Nhà hàng Sinh Thái An Nam
ĐC: Tổ 2, KV2, Quy Hòa Phường Ghềnh Ráng,
Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
0705112379
amthuc@gmail.com
Nhà hàng Thuận Phát – Cơ sở 1
ĐC: Số 105 Hai Bà Trưng, khu phố 5
Phường Bồng Sơn, Thị xã Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 02563761 771- E: Thuanphat2100@gmail.com
Nhà hàng Thanh Thanh
ĐC: Quốc Lộ 19, Khu Vực Phú Xuân, Thị
trấn Phú Phong, Huyện Tây Sơn, Tỉnh Bình Định
T: 02563.88.0407 - E: nhahangthanhthanh.tayson@gmail.com
Nhà hàng Hương Biển
ĐC: Thiện Chánh 1, Phường Tam Quan Bắc, Thị
xã Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0256 366 0169 – E: huongbienhoainhon@gmail.com
Nhà hàng Cine
ĐC: 94 Xuân Diệu Phường Hải Cảng, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 02566521675 - E:amthuc@gmail.com
NHÀ HÀNG HẦM RƯỢU VINDENAU
ĐC: 58 Xuân Diệu, Phường Hải Cảng, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0975028858 – E: vdnthungan@gmail.com
Nhà Hàng Sáu Cao 2
ĐC: 06 Võ Nguyên Giáp, Phường Đống Đa,
Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0256 3792 279 – E: saucao2restaurant@gmail.com
NHÀ HÀNG ANH NHẬT GIA VIÊN
ĐC: 1087 Trần Hưng Đạo, Phường Đống Đa, Thành
phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0256 3794 493 – E:amthuc@gmail.com
CƠM NIÊU HỘI AN - QUY NHƠN
ĐC: Đường Nguyễn Tất Thành (nối dài) Phường
Lý Thường Kiệt, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: 0914035334 – E: comnieuhoianquynhon@yahoo.com
NHÀ HÀNG QUỐC BẢO
ĐC:02 Mai Xuân Thưởng Phường Trần Hưng Đạo,
Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
T: (0256) 6286 666 – E: info@quocbaopalace.vn
Cửa hàng đặc sản
-
Đặc
Sản Ba Miền Vương Gia
Điện thoại: 0972 920 865 - 0989 635 336
Email: dacsanbamienvuonggia@gmail.com
Địa chỉ:12 Ngô Văn Sở, Tp. Quy Nhơn.
-
Đặc sản
Mận Khoa
Địa chỉ: 58 Vũ Bảo, TP. Quy Nhơn
Hotline: 0906.495.991
Email: quabinhdinh.vn@gmail.com
Website: www.quabinhdinh.vn
-
Đặc Sản Quy Nhơn
– Thanh Liêm
Điạ chỉ 1 : 128 Chương Dương –
TP.Qui Nhơn – tỉnh Bình Định
Điện Thoại : 02563821199
Điện Thoại : 02563847818
Email : caothanhliemvn@yahoo.com
-
Siêu
thị đặc sản Phương Nghi
115-117-119
tây sơn, P.ghành ráng, Tp. quy nhơn, Quy Nhon, Vietnam
Hotline: 091 950 78 39
-
Siêu
thị đặc sản Hương Biển
ĐC: 07 Nguyễn Tất Thành – Tel: 0905 568 3335
Land tour đi đảo
1/ Land đi Hòn Khô:
Nhà hàng Hương Biển: Nhà hàng hải sản tại Hòn Khô. Chuyên tour
Hòn Khô - Kì Co - Cù Lao Xanh
ĐC: Hải Bắc - Nhơn Hải, Qui Nhon, Vietnam
Tel: 097 546 62 34
E: xuanhieptran2709@yahoo.com.vn
2/ Land đi đảo Kỳ Co:
Nhà hàng Vương Khang
ĐC: Đường Số 4, Nhơn Lý, Quy Nhon, Vietnam
Tel: 093 255 54 08
W: nhahanghaisanvuongkhang.com
Nhà hàng trên đảo Kỳ Co: 0343034636 Mr Nghiêm
Kỳ Co Travel
Địa chỉ:Việt Nam, Bình Định, Quy Nhơn.
Thôn Lý Lương, Xã Nhơn Lý
Điện thoại:Hotline: 0983 841 842
Email: kycotravel@gmail.com
Website: www.kycotravel.com
My Quy Nhơn
Địa chỉ : Tầng 2 tòa nhà 85/40 Hoàng Văn
Thụ - Phường Quang Trung - Tp Quy Nhơn
Điện thoại: 0822207222
Quán Karaoke ở TP. Quy Nhơn
Karaoke Omely 5 – 07 Nguyễn Tất
Thành
Địa chỉ: 07 Nguyễn Tất Thành, Quy
Nhơn, Bình Định.
Điện thoại: 0256 3521199 –
0903579799
Karaoke Dragon – 07 Lê Duẫn
Địa chỉ: 07 Lê Duẫn, Quy Nhơn,
Bình Định
Điện thoại: 0988855744
Karaoke Dubai – 86 Huỳnh Mẫn Đạt
Địa chỉ: 86 Huỳnh Mẫn Đạt,Quy
Nhơn, Bình Định.
Điện thoại: 0256 6259 797
Karaoke Sky – TTTM An Phú Thịnh
Địa chỉ: lầu 6 trung tâm thương mại
An Phú Thịnh, Quy Nhơn, Bình Định.
Điện thoại: 090 217 11 99
Karaoke Kizz – 120 Nguyễn Thị Định
Địa chỉ: 120 Nguyễn Thị Định, Quy
Nhơn, Bình Định.
Số điện thoại: 0256 3646 643
Queen Karaoke – 96 Ỷ Lan
Địa chỉ: 96 Ỷ Lan, phường Thị Nại,
Quy Nhơn, Bình Định.
Số điện thoại: 093 732 42 09
Massage ở TP. Quy Nhơn
-
Zen spa – 270 Nguyễn Thị Định
-
Chạm Spa – 152 Nguyễn Huệ
-
Yến Vy spa – 18/7 Trần Văn Ơn
-
assage Tân Hoàng Gia 2 – 104 Diên Hồng
-
Hoa Đà Spa – 17 Đoàn Thị Điểm
-
Kimochi
ĐC: 38A Trần Văn Ơn, Quy Nhon, Vietnam
Tel:052 244 5588
Quán nhậu ở TP. Quy Nhơn
-
Quán
ốc Khánh
ĐC: 34
Ngọc Hân Công Chúa, TP.Quy Nhơn
Tel: 0965 259 2 33
-
Quán
Ốc Thuý Kiều
ĐC: 5D Tăng Bạt Hổ, Quy Nhon, Vietnam
Tel:091 782 84 19
-
Quán
ốc 35K
ĐC: 318 Xuân diệu , Phường Trần Phú, Thành
Phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định, Vietnam
ĐT: 098 676 27 32
Email: Ductruc94@gmail.com
-
Quán
ốc Bông
Địa chỉ: 30 Ngọc Hân Công Chúa, P. Trần Phú,
TP. Quy Nhơn, Bình Định
Điện thoại: 0378 136 185
-
Quán
Ốc 94 Mai Xuân Thưởng
Địa chỉ: 94 Mai Xuân Thưởng, P. Lý Thường
Kiệt, TP. Quy Nhơn, Bình Định
-
Ốc
lốc cốc Quy Nhơn
Địa chỉ: 2/3 Phạm Ngọc Thạch, P. Trần Phú,
TP. Quy Nhơn, Bình Định
Điện thoại: 096 794 13 61
Fanpage: Fb.com/100067140188184
MỤC LỤC
Số TT |
TÊN DANH MỤC |
SỐ TRANG |
01 |
Trang bìa |
01 |
02 |
Lời nói đầu |
02 |
03 |
Bảng Km đường bộ + thời gian di chuyển |
03 |
04 |
Biển Đại Lãnh – Khánh Hoà – Khu Du Lịch Đại
Lãnh |
04 – 05 |
05 |
Đèo Cả - cung đường hùng vĩ và tuyệt đẹp
tại Phú Yên |
05 – 06 |
06 |
Núi đá bia, tham khảo thêm về Núi Đá Bia |
06 – 07 |
07 |
Tài liệu tham khảo về Núi Đá Bia |
08 – 09 |
08 |
Huyền
thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên
phép lạ |
08 - 14 |
09 |
Tham
khảo thêm: Vũng Rô huyền thoại ngày ấy và bây giờ |
15 - 17 |
10 |
Phú
Yên đất nước con người, lịch sử hình thành Phú Yên, TP.Tuy Hoà |
18 - 22 |
11 |
Xứ
Nẫu tại sao có tên gọi như thế |
22 – 24 |
12 |
Ca
dao, tục ngữ Phú Yên |
24 – 32 |
13 |
Làng
nghề truyền thống ở Phú Yên |
32 – 38 |
14 |
Phú
Yên độc đáo nghệ thuật đàn đá thu hút khách du lịch |
38 – 39 |
15 |
Khám
phá hội bài chòi Phú Yên – trò chơi dân gian dậm chất văn Hoá
Việt |
29 – 43 |
16 |
Lể
hội đua ngựa Gò Thì Thùng – nét văn hoá đặc sác của Phú Yên |
43 – 45 |
17 |
Nhân
vật được phong thần qua di sản Hán – Nôm ở Phú Yên |
46 – 50 |
18 |
Núi
Chóp Chài – Núi Nhạn sông Đà |
50 – 53 |
19 |
Bãi
Xép – Gành Ông |
53 – 54 |
20 |
Tháp
Nghinh Phong công trình độc đáo tại Phú Yên – cây cầu gỗ Ông
Cọp |
54 – 55 |
21 |
Gềnh
đá dĩa nơingắm nhìn hoàng hôn thơ mộng tại Phú Yên |
56 – 57 |
22 |
Chùa
Đá Trắng – địa đạo Gò Thì Thùng |
57 – 58 |
23 |
Thác
H’Ly |
58 – 59 |
24 |
Bến
nước buôn Chơ |
59 – 61 |
25 |
Đầm
Ô Loan |
61 – 62 |
26 |
Nhà
thờ Mằng Lăng, Những điểm ăn uống gần nhà thờ Mằng Lăng |
62 - 69 |
27 |
Huyện
sông Cầu, Vịnh Xuân Đài |
70 – 71 |
28 |
Cá
ngựa sông Cầu – chuyên đề về Cá Ngựa |
72 – 73 |
29 |
Nguồn
gốc ra đời của lễ Nghinh Ông |
73 – 75 |
30 |
Tôm
hùm, Đèo Cù Mông |
75 – 76 |
31 |
Đặc sản Phú Yên |
76 – 77 |
32 |
Top 10 nhà hàng Phú Yên ngon |
77 – 80 |
33 |
Phong
tục cưới hỏi của người Chăm Phú Yên |
80 – 81 |
34 |
Phú Yên – Bảo tồn văn hoá dân tộc Chăm |
81 – 82 |
35 |
Độc đáo trang phục Chăm H’roi |
82 |
36 |
Dịch vụ Nhà hàng – khách sạn ở Tuy Hoà – Phú Yên |
82 – 83 |
37 |
Giới thiệu về Quy Nhơn – Bình Định |
83 – 89 |
38 |
Vịnh Gành Ráng – Bãi Tiên Sa - Độc đáo bút lửa Dzũ Kha |
89 - 91 |
39 |
Chuyên đề: Hàn Mặc Tử |
91 – 94 |
40 |
Tham khảo: Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ |
94 – 107 |
41 |
Đầm Thị Nại – lịch sử Đầm Thị Nại |
107 – 108 |
42 |
Cầu Thị Nại – bán đảo Phương Mai với nhiểu điểm du lịch hấp dẫn |
108 – 111 |
43 |
Đảo Kỳ Co – Eo Gió |
111 – 113 |
44 |
Tịnh xá Ngọc Hoà – Phước Sa Tự chiêm ngưỡng tượng phật đô cao nhất Việt
Nam |
113 – 115 |
45 |
Mũi Vi Rồng |
115 – 116 |
46 |
Hòn Khô |
116 – 118 |
47 |
Cù Lao Xanh |
118 – 119 |
48 |
Chuyên đề: Triều đại Tây Sơn & những chính sách cải cách của Vua
Quang Trung Nguyễn Huệ |
119 124 |
49 |
Nữ tướng Bùi Thị Xuân – Đền thờ đô đốc Bùi Thị Xuân |
124 – 126 |
50 |
Danh tướng nhà Tây Sơn: Trần Quang Diệu |
126 – 128 |
51 |
Bảo tàng Quang Trung – Nhạc võ Tây Sơn Bình Định |
129 -132 |
52 |
Vùng đất võ Tây Sơn Thượng Đạo |
132 – 133 |
53 |
Tham khảo thêm: những đặc điểm nổi bật của môn võ Tây Sơn |
133 -134 |
54 |
Nhạc võ Tây Sơn – một di sản văn hoá độc đáo của Bình Định |
134 – 135 |
55 |
Chùa Thập Tháp |
135 – 136 |
56 |
Khu DL Sinh Thái Hầm Hô |
136 |
57 |
Chuyên đề: Tháp Chăm ở Bình Định |
136 – 154 |
58 |
Tiểu chủng viện Làng Sông |
154 – 158 |
60 |
Chùa Thiên Hưng – chốn tâm linh đặc biệt của người dân xứ Nẫu |
158 – 164 |
61 |
ẩm thực Bình Định |
161 – 162 |
62 |
Mười món ngon nổi tiếng đất Tây Sơn |
162 – 164 |
63 |
Những quán ăn ngon nhất ở Quy Nhơn |
164 – 167 |
64 |
Đặc sản Bình Định nhất định phải thử |
167 – 173 |
65 |
Dịch vụ khách sạn – nhà hàng Quy Nhơn – Bình Định |
173 – 176 |
66 |
Cửa hàng đặc sản Bình Định |
177 – 178 |
67 |
Quán Karaoke, massage, quán nhậu ở Bình Định |
178 - 179 |