1. Nghi thức ‘khóc trâu’ của người Cơ Tu
Giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ,
đồng bào Cơ Tu sinh sống lâu đời, bền bỉ với thời gian, lưu giữ được nhiều bản
sắc văn hoá quý giá về phong tục, lễ hội, trang phục, âm nhạc, ẩm thực…, trong
đó có nghi thức khóc trâu (nơơi) trong lễ đâm trâu.
Già làng Alăng Avel (85 tuổi), thôn
Tà Làng, xã Bhalêê (Tây Giang, Quảng Nam) kể, khi xưa, mỗi mùa lúa mới, dân
làng thường tổ chức lễ lớn. Người Cơ Tu có phong tục đâm trâu trong các lễ hội
được mùa (Bhuối A ví), lễ hội mừng lúa mới (Cha ha roo Tơmêê), lễ hội nhà Gươl
(Langtơrí).
Vào dịp này, nhà nào cũng chuẩn bị
sẵn một vài món ngon, sau lễ đâm trâu, mang đến nhà Gươl góp, tổ chức ăn uống
linh đình trong suốt một tuần và nghi thức đâm trâu cũng có nhiều luật tục phức
tạp hơn bấy giờ.
Chiều tối của đêm trước ngày đâm
trâu, già làng, người có uy tín trong cộng đồng, sẽ tổ chức cúng trâu tại
sân Gươl. Người Cơ Tu gọi là dục t’trí. Cúng dục t’trí phải có đầu heo, gà luộc
và chai rượu cúng tại xnur và khấn với Yàng rằng mọi việc chuẩn bị xong
xuôi, ngày mai xin Yàng cho dân làng đâm trâu.
Đêm này, cả làng múa hát vui vẻ múa
hát đên khuya còn người già thường thức đến sáng để tế, khóc trâu (nơơi).
Màn tế, khóc trâu thưởng được mở
đầu bằng câu: ”Trâu ơi, giờ trâu đã buộc vào neo, biết gỡ vào đâu…".
Nội dung khóc tế trâu thường nói lên tình cảm, thương tiếc con vật đã suốt đời
gắn bó, phục vụ con người, nay lại làm vật hiến sinh cúng Yàng.
Giữa đêm khuya tĩnh lặng của rừng
núi bao la với vài ngọn lửa le lói cháy giữa sân Gươl, khoảng 5-6 người ngồi
vừa tế, vừa đánh trống ngắt nhịp kèm theo lời ai oán, não nề, không gian lúc
này rất thiêng liêng, u tịch. Nơơi là hình thức tế trâu rất đặc sắc của
văn hoá Cơ Tu…”, các già làng cho rằng, với lời than vãn thắm thiết,
nhiều con trâu có thể hiểu và nghe tiếng khóc, trâu chảy nước mắt theo.
Nghi thức khóc trâu thường được bắt
đầu bằng một người già có vai vế trong làng, có năng khiếu về nói lý, hát lý,
đại diện cho dân làng ra đứng gần bên con trâu mà than khóc trâu với âm điệu
rất tha thiết như: ''Trâu ơi, trâu đừng trách dân làng, đây là nghi lễ
truyền thống bao đời của dân làng hằng năm hiến tế trâu cho trời, đất, tổ tiên
để cầu cho dân làng được bình an, không bị dịch bệnh, thú dữ, hoa màu tươi tốt,
mọi người khoẻ mạnh. Cầu cho linh hồn trâu về cõi trời được an lành. . .''.
Sau nghi thức ''khóc trâu'' tốp đàn
ông, thanh niên, phụ nữ Cơ tu mang trống chiêng, gươm, giáo. . . nhảy múa vòng
quanh trụ Gươl với vũ điệu múa Tung tung- Za zá. Cánh đàn ông múa gươm oai
hùng, phụ nữ thì múa rất uyển chuyển.
Sau cuộc nhảy múa này họ bắt đầu lễ
đâm trâu. Đồng bào Cơ Tu cắt đầu trâu cùng với một hũ rượu cần đặt sát trụ Gươl
để cúng trời, đất, tổ tiên, ông bà hưởng; còn thân trâu thì mổ thịt chia đều
cho từng hộ dân làng. Buổi chiều, cái đầu trâu ấy sau khi già làng khấn vái
xong lễ, họ mang đi làm sạch, nấu rục cho những người có công trong việc tổ
chức lễ hội ăn uống ngày hôm sau.
2. Tiếng trống trong đời sống
người Huế
Từng hồi trống đầy đặn, khoẻ khoắn
vang lên trong không gian tĩnh lặng xứ Huế, hoà cùng tiếng trống, tiếng cồng,
tiếng khánh, len lỏi qua từng mạch thời gian, rồi để lại trong tiềm thức người
dân về ý nghĩa sự tồn sinh. Không biết tự lúc nào, tiếng trống đã ăn sâu vào
nếp nghĩ của người dân xứ Huế nó không thể thiếu trong những bài kinh, kệ nhà
Phật, trong những lễ hội, đình đám và trong đời sống tâm linh của họ.
Trống dùng trong tín ngưỡng có 2 loại là Trống
đại và Trống tiểu (hay trống kinh). Trống đại là trống lớn đánh trong những lúc
như trước khi đánh chuông minh vào đầu đêm hoặc cuối đêm, theo thể thức bài
"Tam luân cửu chuyển", Trống Tiểu là thứ trống nhỏ, dùng đánh trong
những khi tụng kinh bái sám. Thường thì trống được làm từ gỗ mít lâu đời và bịt
da trâu để dễ dàng đạt được âm lượng trầm hùng nhất. Tiếng trống tượng trưng
cho chánh pháp. Chúng sanh nghe trống chánh pháp thì nghiệp chướng tất tiêu trừ
và sẽ được thoát ly luân hồi sanh tử. Tiếng trống không ai, không bi mà có sức
mở, sức giải thoát tự nhiên. Mỗi khi tiếng trống được gióng lên, đánh lên, thì
như đưa con người ta trở về với chánh pháp, với sự an lạc. Những lúc Đức Phật
thuyết pháp, ngài nói rằng ngôn ngữ của mình cũng giống như trống chánh pháp,
có thể thu phục lóng người, đưa hồn họ đạt đến an tịnh, thanh tao. Tiếng trống
chốn thiền môn không những nhắc nhở người ta đừng lạc vào những bản ngã, mà còn
làm rơi rụng đi tính tự kiêu, tự thị, giải phóng sự khổ đau, cô đơn trong cuộc
sống của mỗi con người, tự hỏi một ngày đã qua đã làm được gì đối với chánh
pháp và để đón chào một bình minh, một sức sống mới trong tâm hồn người để
chuẩn bị cho một ngày hành động đầy ý nghĩa tốt đẹp.
Không giống tiếng chuông xoáy sâu
vào hồn người nghe, tiếng trống thúc giục lòng người, tạo ra sự hưng phấn, niềm
vui. Từng tiếng cắc - tang - tùng - rụp - vê liên hồi, tạo thành những chuỗi âm
thanh trầm bổng, mạch lạc nhưng không réo rắt, đinh tai, đưa hồn người lên theo
từng cung bậc, để rồi hòa nhập vào thế giới tự nhiên. Trống còn có ý nghĩa
"đỡ hơi" cho người tán tụng và giúp cho buổi lễ được tăng phần trang
nghiêm, long trọng.
Với "sứ mệnh" như vậy mà
trong những lễ hội, đình đám ở xứ Huế ngày nay, bên cạnh những nhạc cụ như kèn
sona, chiêng, cồng, sáo, bộ gõ... thì trống là nhạc cụ không thể thiếu được.
Trái với tiếng kèn sona, chiêng, cồng, sáo, bộ gõ... thì trống là nhạc cụ không
thể thiếu được. Trái với tiếng kèn nỉ non, tiếng sáo réo rắt, bi ai, thì tiếng
trống tỏ rõ sự sinh tồn của vạn vật và luật sinh tử của con người. Tiếng trống
trầm hùng, mạch lạc, hoà cùng tiếng chiêng, cồng, như nhắc nhở người ta hãy nhớ
đến những người đã khuất nhưng không bi ai, lệ luỵ. Tiếng trống như nói lên
rằng, vạn vật phải tuân theo quy luật luân hồi; ở thế giới này hay thế giới
khác, vạn vật đều tồn tại và cõi âm dương cũng chỉ là hai thái cực không tách
rời.
Trong những lễ hội như Lễ hội cầu
ngư ở Thuận An, lễ hội Thánh Mậu y A Na ở điện Hòn Chén, lễ Phật Đản hàng năm,
hay lễ Vu Lan... tiếng trống vọng lên chúa trời về sự hiện diện của con người
và sự dâng lễ của họ...
Ở chốn làng quê, trong không gian
rộng lớn, những cuộc hoà cồng chiêng, trống như đánh thức thiên nhiên, thôi
thúc sự sinh sôi, nảy nở, cho mùa màng tốt tươi, thóc lúa đầy kho, con cháu đầy
nhà. Người đánh trống thường là người có uy quyền già làng, trưởng thôn, hay
trưởng họ... Điều này phần nào cho thấy tầm quan trọng của tiếng trống đối với
người dân.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử,
tiếng trống đã hằn sâu vào đời sống tâm linh và tinh thần của người dân xứ Huế.
Dù đi ngược hay về xuôi, ở bất cứ ở nơi đâu, ai ai cũng sẽ mãi nhớ đến tiếng
trống trầm hùng, vang vang, trang nghiêm, nổi lên trước giờ đánh chuông U minh
và những tiếng trống rộn ràng, mạnh mẽ, long trọng, trong những ngày lễ hội,
đình đám ở nơi đây.
3.
Các phong tục cần biết khi đến làng
bản của đồng bào các dân tộc
Đồng
bào các dân tộc Lào Cai rất hiếu khách, nhưng khi du khách đến thăm làng, bản
nên chú ý những điều kiêng kỵ và cần biết một vài phong tục, tập quán sinh hoạt
để tiện ứng xử và giao tiếp.
- Khi
đến bản làng
Trên
đường vào nhà người Hà Nhì, khi thấy một cánh cổng chào dựng tạm phía trên buộc
tua tủa những dao gỗ, kiếm gỗ, đầu cánh gà ... đó là lúc rong làng đang tổ chức
lễ cúng xua đuổi tà ma.
Tương tự như vậy hàng năm các nghi
lễ chung cúng thần làng, xua đuổi ma ác của đồng bào Tày, thái, Giáy, Lào, Bố
y, Xá Phó... thường được tổ chức vào tháng 2 hoặc tháng 6, tháng 7 âm lịch. Khi
cúng đồng bào đặt các dấu hiệu kiêng kỵ cấm người lạ vào làng như buộc chùm lá
xanh ở cột cao trên đường vào làng hoặc đan phên mắt cáo, buộc vào đó xương hàm
lợn, trâu, bò. Cả làng không ai đi làm, không cho người lạ vào làng. Nếu người
lạ vô tình gồng gánh, đội nón, che ô, đeo gùi, ba lô... vào làng sẽ bị phạt bằng
cách nộp đủ số lễ vật để làm lại lễ cúng làng. Trường hợp có việc khẩn cấp,
muốn vào làng ngay, khách lạ phải bỏ mũ, ba lô, gồng gánh ... tất cả đồ đạc đều
phải xách tay. Như vậy mới mong được giảm hoặc miễn phạt.
Mỗi làng đồng bào các dân tộc ở Lào
Cai đều có khu rừng cấm, thờ thế lực siêu nhiên. Nơi thờ cúng có thể ở gốc cây
to, hòn đá lớn ở trong rừng. Rừng cấm là khu rừng chung của cả làng. Mọi người
tự nguyện bảo vệ rừng, không ai được tự tiện chặt phá, phóng uế, trai gái không
được phép đến nơi đó tâm tình.
2. Khi vào thăm nhà
Trước khi vào thăm nhà đồng bào các
dân tộc, du khách cần quan sát kỹ, nếu thấy ở trước cửa nhà, ở đầu cầu thang
cắm hoặc treo một cành lá xanh, một cành gai hoặc cắm một tấm phên đan hình mắt
cáo... Đó là những dấu hiệu kiêng cấm, gia đình không muốn người lạ vào nhà.
Nhà người Hà Nhì Đen có hai lớp
cửa, khách xa tới chỉ nên vào cửa thứ nhất. Nếu muốn vào cửa thứ hai thì phải
được gia đình chủ đồng ý.
Nhà người Thái có đầu cầu thang,
phụ nữ chỉ được lên cầu thang có sân phải ( bên trái), không được lên cầu thang
bên phải.
Ở vị trí quan trọng nhất trong nhà
(vách nhà ở gian giữa hoặc góc đầu nhà sàn, là nơi thờ tổ tiên. Trang trí nơi
thờ tổ tiên mỗi dân tộc có khác nhau, nhưng đều chung một quan niệm : Nơi thờ
tổ tiên là chốn linh thiêng nhất . Khách không dược đặt mũ, nón, tư trang và đồ
dùng khác ở nơi đó, không được sờ tay lên các đồ thờ cúng . Khi ngồi không được
quay lưng vào nơi thờ. ở vùng người Thái Đen, phụ nữ không được đến gian đầu
ngồi nhà sàn- nơi thờ tổ tiên.
Bếp lửa vừa là nơi nấu nướng vừa là
nơi tiếp khách của đồng bào các dân tộc, đồng thời là nơi thiêng liêng thờ vua
bếp, thần lửa. Do đó có nhiều kiêng kị liên quan đến bếp lửa, ngồi cạnh bếp lửa
sưởi không đặt chân lên hoặc làm xê địch hòn đá kê làm kiềng , vì theo quan
niện của một số dân tộc thì các hòn đá này là nơi trú ngụ của thần lửa . Khi
đun nấu đồng bào Tày, Thái, Nùng, Giáy, Bố Y, Lào, Lự... đều chú ý đặt quay
ninh, chảo, nồi lên bếp không được để hai quay nồi , chảo theo hương cây xà
ngang (vì đó là hướng nằm của người chết) mà phải đặt theo hướng đòn nóc nhà .
ở vùng đồng bào Mông, Dao, Hà Nhì.... khi đưa củi vào bếp, không đưa ngọn vào
trước, vì quan niện sợ con gái gia chủ sau này sẽ sinh ngược. Khi ngồi gần bếp
, du khách không quay lưng và giẫm chân vào bếp.
Trong ngôi nhà đồng bào các dân tộc
cửa và cây cột chính cũng là vị trí linh thiêng thờ thần cửa, thần cột cái. Vì
vậy không nên ngồi bậu cửa hoặc treo mũ nón và tựa lưng vào cột cái.
Ở vùng người Thái, Tày, Kháng, La
Ha, Phú Lá kiêng không đem lá xanh, cành cây xanh, rau xanh vào cửa chính.
Đồng bào kiêng không huýt sáo ở
trong nhà, vì nó là tín hiệu gọi ma tà, bão giông.
3. Giao tiếp sinh hoạt
Chào hỏi: Khi đến nhà, đi đường,
khách cần chủ động chào hỏi bằng thái độ chân thành, nụ cười thật thà sẽ xoá đi
mặc cảm bất đồng ngôn ngữ. Khi chia tay có thể bắt tay, không cần nói lời tạm
biệt, hẹn gặp lại nhưng luôn nở nụ cười. Không xoa tay lên đầu trẻ em người
Mông, Dao, vì theo quan niện của họ, hồn người trú ngụ ở đầu, người lạ sờ vào ,
hồn hoảng sợ bỏ trốn ,làm cho trrẻ hay bị ốm đau.
Khi ăn uống: Mỗi dân tộc có quan
niện khác nhau về vị trí chỗ ngồi , vì vậy cần lưu ý không ngồi vào một số vị
trí đặc biệt như: ở vùng người Giáy, Dao phía dãy ghế ở gần bàn thờ dành riêng
cho người cao tuổi nhất, khách quý nhát. Đồng bào Mông khi bố mẹ mất, vị trí
đầu bàn (gần bàn thờ) luôn bỏ trống với ý niệm nơi đó giành cho hồn bố mẹ.
Người Thái, Tày, Mường nơi giáp cửa sổ gia chủ đặt hai chén con có ý giành cho
tổ tiên về tiếp khách, khách không ngồi ở vị trí đó.
Trước khi ăn uống cần kiên trì nghe
gia chủ tién hành các nghi lễ mời tổ tiên, chúc tụng các điều tốt lành. Khách
không rót rượu trước, không gắp thức ăn trước, khi dùng xong tuyệt đối không úp
chén, úp bát xuống mâm.
Khi ngủ: Mỗi căn nhà của đồng bào
dân tộc ở Lào Cai đều có chỗ ngủ dành riêng cho khách, nên cần tuân theo sự bố
trí của gia chủ, không nằm để chân về phía bàn thờ. ở một số vùng người Mông,
Dao,Thái, La Ha, Kháng kiêng không mắc màn màu trắng trong nhà.
4.
Cưới hỏi – nghi lễ giàu bản sắc văn
hóa Việt
Dân
gian có câu: "Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà. Trong ba việc ấy thật là khó
thay". Cưới là nghi lễ truyền thống quan trọng nhất của cả đời người,
trong đó có nhiều những lễ nghi không thể bỏ qua, vì vậy việc tổ chức một lễ
cưới dù theo phong cách truyền thống hay hiện đại cũng cần được nghiên cứu hết
sức cẩn trọng.
Cưới
hỏi là một nghi lễ không thể thiếu tại bất kỳ quốc nào trên thế giới. Tùy thuộc
vào phong tục tập quán của mỗi nước, mỗi vùng miền mà ở đó người ta có những
cách tổ chức lễ cưới khác nhau. Chỉ nói riêng ở Việt Nam, trong tổng số 54 dân
tộc anh em, mỗi dân tộc lại có những cách tổ chức lễ cưới theo phong tục riêng
của mình. Cưới hỏi từ lâu đã là một nét văn hóa đẹp, mang đậm bản sắc của Việt
Nam.
Việt Nam với phần đông là người dân
tộc Kinh, lại chia làm hai nhóm theo tôn giáo để có những phong tục tổ chức lễ
cưới khác nhau. Nhìn chung, các lễ cưới dù được tổ chức ở đâu, theo phong tục
nào thì đó cũng là một đại lễ quan trọng của đời người.
Về định nghĩa, lễ cưới hay đám cưới
là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm thông báo rộng rãi về sự chấp nhận
của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân. Với ý nghĩa này, lễ này còn
gọi là lễ thành hôn. Trước đây, người Việt gọi lễ này là lễ rước dâu.
Ngày nay, trong ngôn từ của đời
sống thường ngày, người ta gọi lễ này là lễ cưới (dịch theo tiếng Hán là hôn
lễ). Đây là hình thức liên hoan, mừng hạnh phúc cô dâu, chú rể và hai gia đình.
Đây là nghi lễ được một số xã hội quan tâm và thường chỉ được tổ chức sau khi
đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.
Trong tâm thức người Việt thì lễ
cưới có giá trị cao hơn cả giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Sự quan tâm lớn của
xã hội vào buổi lễ này đôi khi gây sức ép lên những người tổ chức: họ phải đảm
bảo để có thể làm hài lòng nhiều người tham dự.
Trước đây, trong lễ cưới Việt Nam,
những người tham dự thường đem tặng các đồ mừng đám cưới. Quà cưới thường trang
trọng, được bọc giấy điều. Trong đám cưới, ban lễ tân (thường là người thân)
đứng ra nhận quà mừng. Có những đám cưới tổ chức tiệc trà, đơn giản hơn tiệc
cưới thông thường, có ý không yêu cầu người tham dự mang quà mừng.
Còn ngày nay, chỉ với những
bạn bè thân thiết của cô dâu và chú rể mới tặng quà cưới cho hai người và ông
bà bố mẹ với những người thân trong họ hàng, trao quà cưới làm của hồi môn cho
đôi tân giai nhân. Còn lại tất cả khách mời đều mừng bằng phong bì tiền, và đó
là cách đơn giản gọn nhẹ nhất, cũng tiện nhất và hợp ý của người tổ chức.
Lễ cưới đầy đủ bao gồm các lễ sau:
Chạm ngõ:
là nghi thức gặp gỡ hai bên gia đình, dụng ý lần đầu tiên được biết nhau một
cách công khai, chính thức. Từ đó thỏa thuận, tiến tới tác thành, xây dựng cho
hai con. Đồ lễ mang sang nhà gái thường là trầu, cau, rượu, chè.
Lễ ăn hỏi:
nhà trai mang lễ vật sang nhà gái hỏi vợ. Lễ vật đựng trong các tráp phủ vải
điều màu đỏ, thường có trầu, cau, rượu, chè, bánh cốm, bánh xu xê, mứt sen,
xôi, thủ lợn, lợn sữa quay.
(Đồ
lễ ăn hỏi)
Lễ đính hôn: về
mặt ngữ nghĩa lễ đính hôn, hay lễ cầu hôn tương đương lễ ăn hỏi (hỏi vợ) của
người Việt, tuy phương Tây thường thịnh hành phong tục trao nhẫn đính hôn đính
kim cương hoặc đá quý cùng lời cầu hôn.
Lễ vấn danh:
nhằm hỏi tên tuổi (vấn danh), so đôi lứa để xem xét xung, hợp của đôi trai gái
đồng thời nhằm có dữ kiện để chọn ngày giờ tốt cho các nghi thức, thủ tục cưới
hỏi. Lễ vấn danh cũng bao gồm những lễ vật tương tự lễ ăn hỏi tuy có thể ít hơn
và giản dị hơn. Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như đã có chồng (dù chưa
cưới). Hiện nay trong Lễ cưới người Việt lễ vấn danh kết hợp trong lễ ăn hỏi.
Lễ nạp tài:
nhà trai mang sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn,
quần áo và đồ trang sức cho cô dâu. Lễ nạp tài hiện nay trong phong tục lễ cưới
người Việt đã kết hợp một phần vào lễ ăn hỏi (lễ vật ăn hỏi) và một phần vào
trong lễ cưới (trao của hồi môn).
Lễ xin dâu: trước giờ đón dâu, mẹ chú rể hoặc một hai bà cô, bà
dì, họ hàng thân thích (nữ) sang nhà gái để xin được đón dâu. Lễ vật trong lễ
cưới người Việt thường là tráp đựng trầu têm cánh phượng.
Đón dâu:
nhà trai đưa đoàn sang nhà gái đón dâu về, thường đi bằng xe.Lễ vu quy:
diễn ra tại nhà gái, nơi tiễn cô dâu đi lấy chồng.
Lễ thành hôn:
còn gọi là lễ cưới nói chung, tuy vẫn thiên về chỉ lễ cưới chính thức tại nhà
trai.
Lễ tơ hồng:
lễ khấn ông Tơ bà Nguyệt và cao đường (cha mẹ), diễn ra tại nhà trai. Thường
chỉ có người thân thích, sau khi khách mời đã ra về hết.
Lễ hợp cẩn:
Đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu
rượu và một đĩa bánh phu thê (sau này ta đọc thành bánh xu xê). Ông cụ già đứng
lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống, phải cùng cạn chén, cùng
ăn hết cái bánh không chia cho ai, không để thừa. Sau đó mọi người ra ngoài, để
hai vợ chồng cùng tâm sự. Ở một số nhà khá giả, thiên về hoạt động văn hoá, thì
những bạn bè văn chương chữ nghĩa với chàng rể còn mang hoa, thắp đền sáng rực
trong phòng hợp cẩn. Họ cũng ca hát, gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc
gỗ vào nhau. Do đó mà sau có chữ động phòng hoa chúc.
Lễ báo hỉ:
thường là tiệc mặn hoặc ngọt tổ chức sau nghi lễ cưới chính thức tại quê quán
của cô dâu hoặc chú rể, hoặc nơi ở của bố mẹ vợ, bố mẹ chồng, trong trường hợp
quá xa ông bà, cha mẹ không thể xuống dự đám cưới với con cháu được.
Lễ lại mặt:
là lễ do chú rể mang về nhà gái sau ngày cưới từ 2 đến 4 hôm như một lời cảm ơn
bên thông gia.
Lễ cheo:
lễ vật hoặc kinh phí nộp cho làng, xóm có con gái đi lấy chồng, với dụng ý để
xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng. Lễ cheo có thể tiến
hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Hiện nay nhiều nơi đã không
còn giữ phong tục này.
Tuần trăng mật: chỉ những ngày đầu tiên sau hôn lễ. Nhiều cặp vợ
chồng trẻ có điều kiện thường tổ chức đi chơi du lịch tuần trăng mật tới những
địa điểm có phong cảnh hữu tình. Tuần trăng mật cũng là thời điểm nghỉ ngơi cho
cặp vợ chồng trẻ sau những ngày căng thẳng tiến hành hôn lễ.
Ngày
nay, một số lễ được lược bỏ bớt hoặc lồng ghép để tránh sự rườm rà trong tổ
chức, các lễ chính còn giữ lại chủ yếu gồm: Lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới, có
nơi có hoặc bỏ lễ lại mặt và chỉ với những cô dâu chú rể trong gia đình khá
giả, có điều kiện thời gian và công việc cho phép thì mới tổ chức được tuần
trăng mật sau cưới. Và mùa cưới thường được chọn vào dịp cuối năm, bắt đầu từ
tháng 8 âm lịch cho đến sang đầu năm mới, mùa cưới vẫn còn được tổ chức vào dịp
đầu xuân.
Tiệc
cưới cũng có sự thay đổi, thay vì tổ chức ở cả hai nhà và chọn giờ đi rước dâu
thì nay cùng đặt tiệc tổ chức tại một nhà hàng, khách sạn để tiện cho việc tiếp
khách, đơn giản một số thủ tục và hai bên gia đình không phải lo nghĩ về khâu
tổ chức cũng như trang trí nữa vì đã có nhà hàng, khách sạn lo chu tất.
Đó
là đối với các gia đình khá giả ở các thành phố lớn, còn ở các tỉnh lẻ hay vùng
nông thôn, tiệc cưới vẫn giữ nếp xưa: bạn bè được mời đến ăn trầu uống nước tối
hôm trước, hôm sau là ăn cỗ cưới và dự lễ đón dâu, có nơi còn tổ chức nhảy múa,
ca hát rộn ràng, tưng bừng mừng cho lễ cưới.
Dù
tiệc cưới có thay đổi để phù hợp với cuộc sống mới, một số những thủ tục trong
lễ cưới vẫn được giữ và tổ chức trang trọng, đó là lễ trải chiếu, lễ gia tiên,
lễ trao nhẫn cưới, trao của hồi môn, … Người Việt Nam rất coi trọng gia phong
và những lễ nghi truyền thống, người Việt Nam thường quan niệm về cuộc sống yên
vui hạnh phúc, gặp nhiều may mắn là phải theo những lễ nghi truyền thống đó để
có được sự an lành về sau.
5.
Tục “kéo vợ” của người H’Mông
Ở Hà Giang, người H’Mông có dân số
đông nhất, với hơn 190.000 người, phân bố chủ yếu ở các huyện vùng cao phía Bắc
là Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ và hai huyện phía Tây là Xín Mần và
Hoàng Su Phì.
Với dân số đông, sống tương đối tập trung, người H’Mông
ở Hà Giang vẫn giữ được những nét văn hoá truyền thống đặc sắc của mình. Tục
“kéo vợ” mà ta hay gọi là cướp vợ, cướp dâu là nét riêng độc đáo trong hôn nhân
của người H’Mông.
Bao giờ cũng vậy, Xuân về, Tết đến
cũng là dịp để thanh niên nam nữ H’Mông có cơ hội gặp gỡ, tìm hiểu nhau, đó có
thể là các phiên chợ cuối năm, hội hè trong những ngày Tết hay đơn giản chỉ là
những buổi đi lấy củi, địu nước chuẩn bị cho một năm mới... Khi đôi trai gái đã
ưng ý và thề nguyền đi đến hôn nhân thì họ sẽ về thưa chuyện với bố mẹ và dòng
họ. Nếu mọi chuyện suôn sẻ thì nhà trai sẽ mời ông mối sang đánh tiếng dạm hỏi,
rồi tiến tới lễ ăn hỏi (hẹn cưới) và cuối cùng là lễ cưới (đón dâu). Đám cưới
của người H’Mông thường được tổ chức linh đình vào ngày lành tháng tốt, thường
là vào mùa Xuân vì người ta rất kiêng làm đám cưới vào những tháng có sấm sét.
Và người ta cho rằng mùa Xuân là mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở mà con người
không nằm ngoài vòng quay đó. Thế nhưng không phải câu chuyện tình yêu nào cũng
có một cái kết có hậu mà không phải trải qua sóng gió. Trong thực tế có rất
nhiều đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng lại không được một hoặc cả hai bên
cha mẹ đồng ý (chủ yếu là cha mẹ người con gái). Khi cha mẹ đã không đồng ý mà
đôi trái gái tự tìm đến sống với nhau thì không những bị coi là bất hiếu mà
cuộc hôn nhân đó còn không được cộng đồng chấp nhận. Thế nên tục “kéo vợ” có
thể được coi là một giải pháp khá hiệu quả cho những đôi trai gái yêu nhau tha
thiết nhưng lại gặp phải trở ngại từ phía gia đình. Khi đó, đôi trái gái sẽ bàn
cách tiến tới hôn nhân bằng tục “kéo dâu” bằng cách nhờ cậy những ông chú, bà
thím, bà cô, ông cậu, anh em, bạn bè... làm nội ứng, thống nhất kế hoạch “kéo
dâu”, hợp lý hoá cuộc hôn nhân.
Mọi chuyện được tính toán trong bí
mật, gia đình nhà gái không hề hay biết, cô gái vẫn ngày ngày đi nương, lấy
củi, địu nước như thường. Rồi một ngày như đã hẹn... chàng trai xuất hiện. Hai
người đang tâm sự thì bạn bè của chàng trai xuất hiện và giúp chàng trai kéo cô
gái về nhà mình. Cô gái dù biết trước mọi chuyện vẫn cảm thấy bất ngờ, kêu
toáng lên. Không những thế cô gái phải giả vờ kêu cứu, khóc lóc để mọi người
nhà mình biết đến cứu. Người ta cho rằng người con gái bị kéo về làm vợ mà
không khóc lóc, kêu la thì đó là đồ con gái rẻ rúng và hư hỏng, bị gia đình và
làng xóm coi khinh. Khi người nhà gái mang gậy gộc đến cứu cô gái thì các bạn
của chàng trai sẽ xông ra đỡ đòn (theo luật lệ của người H’Mông là đã đi “kéo
vợ” thì nhà trai không được phép đánh lại nhà gái) để chàng trai mang cô gái về
nhà. Sau khi gia đình chàng trai mang gà ra làm lễ quét phép, cô gái mới được
đưa vào nhà. Người H’Mông quan niệm, con gái đã bị người ta dùng gà trống làm
lễ nhập nhà rồi thì có bỏ về bố mẹ đẻ cũng không thể chấp nhận được vì cô ta đã
trở thành người của nhà khác, khi chết cũng là ma nhà khác rồi. Chính vì vậy,
khi biết con gái mình đã bị người ta kéo về làm vợ thì dù có không đồng ý, có
ấm ức thì đa phần nhà gái cũng đành đồng ý. Tuy nhiên, nếu cứ theo thủ tục
thông thường thì khi đi ăn hỏi hai bên có thể thỏa thuận về khoản lễ cưới,
nhưng nếu nhà trai dùng tục “kéo vợ” thì nhà gái sẽ ít khi thông cảm và thường
phạt bằng cách đòi lễ cao hơn bình thường. Khi đã chấp nhận dùng tục “kéo vợ”
thì nhà trai phải xác định ngay là sẽ bị nhà gái phạt. Và khi nhà gái đòi bao
nhiêu thì phải trả bấy nhiêu để tránh sự chê cười của làng xóm. Chính vì những
lệ này mà không phải gia đình nào cũng có thể dùng tục “kéo vợ” cho con trai.
Những gia đình muốn dùng tục “kéo vợ” thường phải là những gia đình, dòng họ
tương đối khá giả thì mới có thể đáp ứng nhu cầu khi nhà gái phạt. Bởi có không
ít gia đình phải mất vài ba năm mới có thể trả hết lệ phạt mà nhà gái đặt ra.
Tục “kéo vợ” còn có thể diễn ra bởi
nhiều lý do như: người con trai thích người con gái nhưng người con gái lại từ
chối; gia đình người con trai dùng quyền thế “cướp vợ” cho con trai... nhưng
những trường hợp này chỉ xảy ra trước kia, dưới thời xã hội phong kiến. Còn
ngày nay, cũng như nhiều dân tộc khác, người H’Mông luôn trọng chế độ hôn nhân
một vợ, một chồng và quan niệm cái đẹp lứa đôi là khỏe mạnh, đạo đức và chăm
chỉ. Hôn nhân là kết quả của tình yêu tự nguyện, các cuộc “kéo vợ” giờ đây chỉ
là sự khẳng định cho tình yêu mãnh liệt, khát vọng về một gia đình hạnh phúc
của trai gái người H’Mông mà thôi. Chính vì vậy, hiểu tục “kéo vợ” của người
H’Mông như ngày này chúng ta vẫn hiểu, là khi người con trai thích một người
con gái, liền rủ bạn bè bắt cóc người đó về làm vợ là rất sai lầm, nghiêng về
khía cạnh bạo lực mà không thấy hết được tính nhân văn sâu sắc trong đó. Chính
vì vậy, có thể nói, người H’Mông có rất nhiều tục lệ với những ràng buộc khắt
khe song bên trong đó đều chứa đựng các yếu tố nhân văn rất tình người, được xử
lý linh hoạt trên cơ sở đoàn kết thương yêu. Đó chính là nhân lõi để giữ gìn sự
gắn bó của cộng đồng và bảo lưu các giá trị văn hóa độc đáo của người H’Mông.
***
Người H'Mông cướp vợ
Tháng giêng, khi những rừng mơ nở trắng, báo hiệu mùa cưới lung linh sắc màu
thổ cẩm rộn lên khắp các bản làng Tây Bắc và Ðông Bắc cũng rộn lên. Người Mông
có tục kéo con gái về làm vợ ( Cuớp vợ ) Khi người con trai quen biết một người
con gái và muốn cô gái đó làm vợ họ sẽ đi kéo cô gái về nhà. Để kéo được cô gái
về nhà, người con trai phải chiêu đãi, mời rượu một số người bạn cùng lứa tuổi
để họ đi kéo giúp. Chàng trai và bạn bè của anh có thể tìm cô gái ở chợ, ở đêm
chơi trăng hay lúc đi làm nương. Khi đã kéo được cô gái về nhà, chàng trai lại
phải mời rượu bạn để cảm ơn. Chàng trai sẽ phải nhờ chị gái của mình (hoặc em
gái) để trông không cho cô gái trốn khỏi nhà mình. Chị gái của chàng trai sẽ có
mặt bên cô gái được kéo về suốt cả ba ngày đêm.
Phong tục chính là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội của con người, được
mọi người công nhận và làm theo. Có những phong tục mang tính cổ hủ, song có
phong tục tô đẹp bản sắc văn hóa người dân Việt Nam
Tục cướp vợ được coi là chế độ lược hôn. Tục này rất phổ biến ở các vùng Tây -
Ðông Bắc. ở vùng Tây Bắc giáp biên giới nước Lào, tục cướp vợ có sắc thái biểu
cảm thật trữ tình. Vào một đêm trăng thanh, chàng trai miền núi vác chiếc thang
tựa cửa nhà người yêu, rồi thổi một điệu kèn môi tình tứ bằng chiếc lá. Âm điệu
du dương khiến lòng cô gái thổn thức, xốn xang. Nàng bắt đầu hé cửa sổ thì
chàng lập tức ghé thang lên, trèo vào và cõng nàng chạy vào rừng. Họ ở bên nhau
3 ngày, rồi trở về nhà bố mẹ vợ, xin phép cưới.
Ở vùng tiếp giáp biên giới Trung Quốc, tục cướp vợ mang tính mạnh mẽ, quyết
liệt hơn. Chàng trai đi chợ, bắt gặp một cô gái xinh đẹp. Chàng liền quay về,
rủ một số bạn trai thân tình, mượn những con ngựa thật khoẻ. Họ hùng dũng ra
chợ, chàng đi sát bên cô gái, bất ngờ bế thốc cô gái lên ngựa rồi phi nước
kiệu. Nếu chàng và nàng đã có tình ý từ trước thì chàng đặt tay trái về phía
cô, cô đặt tay trái lên rồi đạp chân trái của mình lên mô bàn chân cứng cáp của
chàng, theo đà lên ngựa. Họ sống với nhau từ 2 đến 7 ngày. Sau đó, chàng đưa
nàng về nhà vợ hỏi cưới.
Trong khi đó, tục cướp vợ của người Kinh mang tính chất cộng đồng, làng xóm. Cụ
thể, một số làng thuộc huyện Ðông Anh, ngoại thành Hà Nội thường tổ chức tục
cướp vợ rất đặc biệt (ngày nay không còn). Vào dịp lễ xướng, dân làng chọn một
cô gái xinh đẹp, dịu dàng, chăm chỉ và một chàng trai khỏe mạnh, chịu khó. Cô
gái ra làng ở, nằm mộng 7 ngày 7 đêm. Chàng trai nấp dưới bụi khoai nước bờ ao.
Khi lễ hội được diễn ra, cô gái cất tiếng hát:
Tao
có chiếc yếm lưỡi cày
Chẳng để cho mày thì để cho ai.
Tiếng hát vừa dứt chàng trai vọt
lên bờ vác cô gái chạy đi, theo sau là tiếng hò reo, đuổi, ném đất dẻo, bắn
cung bằng thân dâu của dân làng. Nếu chàng đưa cô gái sang bờ bên kia an toàn
thì năm ấy dân làng làm ăn thịnh vượng, được mùa, trẻ em mau lớn. Bằng không
thì ngược lại. Nhìn chung, tục lệ cướp vợ ở mỗi vùng khác nhau, song tựu chung
lại vẫn là phản ánh tâm tư, tình cảm của con người, đồng thời tạo nên nét độc
đáo riêng cho nền văn hóa nước nhà.
6. Giỗ họ - tín ngưỡng
bảo tồn nét truyền thống
Lễ
giỗ họ được tổ chức tại Từ đường. Khi làm lễ, người trưởng họ đứng trước bàn
thờ tổ đọc lịch sử dòng họ và đây là cách nhắc nhở con cháu
nhớ công ơn tổ tiên và để giáo dục truyền thống, gia phong của gia
tộc.
Lễ
giỗ của họ Nguyễn (làng Nam Trang, Trực Nội, Trực Ninh, Nam Định) thường diễn
ra vào dịp rằm Trung thu, từ chiều 14 đến sáng 15 (âm lịch). Theo lời ông
Nguyễn Văn Liễu, Trưởng họ, mọi việc chuẩn bị cho ngày giỗ từ mua sắm đồ
lễ đến chế biến cỗ bàn đều phải chuẩn bị từ trước và hoàn thành trước chiều
ngày 14. Gia đình đến lượt "làm lễ" phải đảm trách việc này.
Cũng theo ông Liễu, chi phí để tổ
chức trong ngày giỗ họ này được lấy từ số tiền đóng góp của con cháu trong dòng
họ (được gọi là quĩ họ), không phân biệt con trai hay con gái, những người đã
lấy vợ, lấy chồng được cho là đã trưởng thành đều có trách nhiệm đóng góp.
"Con cháu đi làm ăn, công tác
ở xa thì không quy định số tiền đóng, mà cho phép tùy tâm nhưng những người này
thường đóng góp nhiều hơn với quan niệm tỏ lòng biết ơn tổ tiên dòng họ đã “phù
hộ” cho mình làm ăn phát đạt, thuận lợi", ông Liễu nói.
Nhiều họ lớn, buổi lễ giỗ họ được
tổ chức rất linh đình.
Trách nhiệm quản lý quỹ họ cũng như
tiến hành tổ chức giỗ đều do trưởng họ chịu trách nhiệm. Các thành viên khác
trong họ sẽ được phân công từng việc cụ thể. Theo phong tục, chiều 14 con cháu
làm lễ cúng gọi là “tế cáo”, mời tổ tiên về, sáng hôm sau là lễ “tế
chính”. Tất cả con cháu xa gần đều được thông báo về dự lễ
Lễ giỗ họ được tổ chức tại Từ
đường, xây trên mảnh đất hương hỏa tổ tiên để lại. Người trưởng
họ sẽ được ở trên mảnh đất đó để trông coi, hương khói. Khi làm lễ, trưởng họ
đứng trước bàn thờ tổ đọc lịch sử dòng họ và đây là cách nhắc nhở con
cháu nhớ đến công ơn tổ tiên và để giáo dục các thế hệ hậu sinh về truyền
thống, gia phong của gia tộc.
Sau khi tiến hành xong hết các nghi
lễ cúng, lễ vật sẽ được “hạ” xuống để tất cả con cháu quây quần cùng ăn, gọi là
“thụ lộc”. Tiếp đến, các trưởng chi sẽ ngồi lại họp bàn về công việc chung của
họ, cụ thể là tổng kết công việc năm trước và lên kế hoạch cho năm sau.
Cũng theo ông Liểu, họ
Nguyễn của ông đã thành lập được quỹ khuyến học, khuyến tài. Mỗi lần giỗ,
họ sẽ trích ra một phần tiền trao thưởng cho các cháu học giỏi, thi đỗ ĐH
để báo cáo với tổ tiên và khuyến khích con cháu tiếp tục phấn đấu. Những gia
đình, cá nhân thành đạt, làm ăn giỏi cũng được biểu dương trong ngày
này; ai trong họ mắc lỗi, có khuyết điểm sẽ được nhắc nhở để
khắc phục, sửa chữa.
Đối với họ Nguyễn làng Nam Trang,
lễ giỗ họ được tổ chức hằng năm nhưng thông thường, cứ ba năm lại làm với quy
mô lớn gọi là lễ Tế Tổ. Khác với những lễ giỗ họ bình thường là những
năm này thường mời đội tế của xã, có quần áo tế chỉnh tề và đội nhạc
để làm lễ. Quy mô của lễ tế Tổ được tổ chức rộng, mời cả đại diện các họ
khác trong làng đến dự.
Ông Nguyễn Văn Tỵ, một thành
viên trong họ Nguyễn, hiện sống và làm việc tại Hà Nội về dự lễ giỗ
họ, vui vẻ cho biết: "Đến ngày giỗ họ, dù bận đến đâu, chúng tôi cũng
cố gắng thu xếp về dự bởi đây là dịp để gặp mặt đông đủ anh em, cháu con
trong họ, được chuyện trò, ôn lại những năm tháng vất vả và thấy mình phải
phấn đấu hơn nữa để làm vẻ vang dòng tộc". Cũng giống như ông
Tỵ, chị Nguyễn Thu Thảo, cho biết mỗi lần được về quê dự ngày giỗ họ, chị
cảm thấy vô cùng ấm cúng.
Cũng là lễ giỗ họ với cùng một ý
nghĩa tưởng nhớ công đức của tổ tiên nhưng cách thức tổ chức của họ Hoàng,
thôn Hạ, Phường Định Công, quận Hoàng Mai (Hà Nội) lại có một số điểm khác.
Là một dòng họ đã cư ngụ lâu đời ở
đây nên số con cháu trong họ tộc của họ Hoàng khá đông đúc. Hiện, chỉ
tính riêng ở Định Công, số nhân khẩu của dòng họ Hoàng đã lên tới con số
gần 400 người với hai nhánh Hoàng Đình và Hoàng Văn. Ngày giỗ Tổ (giỗ họ) của
họ Hoàng là ngày 23/7 (âm lịch).
Ngày giỗ họ của họ Hoàng chỉ giỗ
một người, gọi là giỗ Tổ cô. Theo ghi chép trong gia phả dòng họ này thì đây là
bà Hoàng Thị Trang, cô tổ của họ. Khi còn sống, bà theo vua Lê đi đánh
giặc, khi chết xác bà trôi về làng Mai Động, quận Hai Bà Trưng. Sau đó,
con cháu dòng họ mới đem xác bà về an táng tại Định Công. Hiện, làng
Mai Động cũng lập đền thờ bà, gọi là đền Hai Cây và tổ chức lễ giỗ bà ngày
20/8 (là ngày vớt được xác bà). Còn họ Hoàng thì làm giỗ bà theo ngày mất là
23/7.
Lễ giỗ tổ Cô của họ Hoàng được tổ
chức khá linh đình. Trước ngày giỗ, trưởng họ cho mời tất cả các trưởng
chi đến nhà để họp bàn việc chuẩn bị và cách tổ chức. Phân công “Nhà chứa họ”,
là nhà chịu trách nhiệm chuẩn bị làm cỗ cúng và đón tiếp con cháu trong họ
về dự. Nhà chứa họ sẽ được ứng trước tiền để mua lợn (thường phải 2 đến 3 con)
và gạo nếp để làm lễ.
Còn cơm, canh và các món khác thì
nhà chứa họ phải tự lo liệu. Đến ngày giỗ, con cháu tụ tập tại nhà chứa họ để
mổ lợn và chuẩn bị làm lễ. Sau đó, lễ vật sẽ được đội lên nhà thờ họ để dâng
lên cúng tế. Tuy nhiên, ngoài hai thứ chính là thủ lợn và xôi thì đồ tế lễ còn
rất nhiều loại khác nữa như: tiền vàng, mã, hoa quả...đều phải chuẩn bị từ
trước rất cầu kỳ.
Kết thúc lễ tế, đồ cúng lại được
đem trở lại nhà chứa họ để tất cả con cháu cùng ăn uống. Ngoài phần cỗ để ăn
uống ngay tại chỗ, nhà chứa họ còn phải chuẩn bị lượng thức ăn dư ra để chia
phần cho từng gia đình mang về gọi là “lộc tổ”.
Cho nên, mỗi lần chứa họ thường rất
tốn kém cho gia chủ. Thế nhưng, gia đình nào cũng lấy làm vinh dự, thậm chí còn
tranh nhau được “chứa” vì họ cho rằng, đó là may mắn khi được thay mặt cả họ
làm lễ cúng tổ tiên. Đối với những gia đình kinh tế khá giả, nếu không được
chứa họ mà có lòng thành thì có thể xin với "quan họ" (những người
cao tuổi đứng đầu trong họ) được góp lễ với nhà chứa họ để
dâng cúng Tổ.
Ông Hoàng Văn Thụy (Định Công,
Hoàng Mai, Hà Nội), một chi trưởng trong họ Hoàng cho biết: “Đối với họ chúng
tôi, giỗ họ là dịp tỏ lòng biết ơn, hiếu kính với Tổ họ nên nhà nào có vinh dự
được chứa họ đều cố gắng chuẩn bị đồ lễ và làm cỗ chu đáo hết mức có thể”.
Trong truyền thống văn hóa của
người Việt Nam, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” luôn luôn được đề cao. Thờ cúng tổ
tiên là một hình thức tín ngưỡng thể hiện rõ nét truyền thống ấy.
Đây là một phong tục không
bắt buộc nhưng lại gần như là thứ "luật bất thành vǎn" trong đời sống
tâm linh của người Việt tồn tại qua bao thế hệ. Người Việt Nam coi việc thờ
phụng tổ tiên là thể hiện sự hiếu thuận và lòng biết ơn của con cháu đối với
công ơn các bậc sinh thành. Đối với người Việt, mối quan hệ huyết thống, thân
tộc vô cùng quan trọng. Dù đi xa hay gần, mỗi người đều luôn ý thức về cội
nguồn, tổ tiên, dòng họ của mình.
Theo Giáo sư Vũ Ngọc Khánh,
Viện Văn hóa dân gian Việt Nam, những năm trở lại đây, các phong tục, nghi
lễ văn hóa truyền thống ngày càng được toàn thể xã hội quan tâm, chú trọng.
Nghi lễ gia đình, dòng họ ở một khía cạnh nào đó, cũng chính là một di sản văn
hoá phi vật thể. Nó được lưu giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ cá nhân này
đến cá nhân khác.
Rất cần có phương án gìn giữ, lưu
truyền để các thế hệ người Việt sau này có được cái nhìn đầy đủ về
cội nguồn dân tộc. "Tuy nhiên hiện nay, điều cần nhất là làm sao
đưa ra được những nghi lễ vừa bảo tồn được nét truyền thống, lại vừa phù
hợp với xã hội hiện đại. Cách thức tổ chức cũng cần tiến hành sao cho
vẫn thể hiện được đầy đủ ý nghĩa, mà không quá xa hoa lãng phí", giáo sư
Khánh nói.
7.
Phong tục cúng giỗ của người Việt
Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy
ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ
gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Ðây cũng là dịp gặp mặt
người thân trong gia đình trong dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và
bàn việc người sống giữ gìn gia phong.
Vào dịp đó
người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là trước cúng
sau ăn, cũng là để cho cuộc gặp mặt đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sum họp,
kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Với ý nghĩa "Uống nước nhớ nguồn"
việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục.
* Ngày cúng giỗ
Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật
hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có
nghĩa là ngày kiêng kỵ.
Nguyên ngày trước, "Lễ
giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ"; chiều hôm trước lễ chính kỵ có
"lễ tiên thường" (nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ
vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời bà con
làng xóm ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc
hoặc vì kinh tế hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời
khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Tóm lại, nếu vận
dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ
tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi
sáng.
* Mấy đời tống giỗ
Theo gia lễ: "Ngũ đại mai thần
chủ", hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần
tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới mất mà thế vào thần chủ ông khảo.
Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và tử,
tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời làm giỗ
(cao, tằng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can), cụ (hay cố), ông bà, cha mẹ. Từ
"Cao" trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà nhập
chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ.
* Cúng giỗ người chết yểu
Những người đã đến tuổi thành thân,
thành nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc mới có con gái, chưa có con trai hoặc
có con trai nhưng con trai cũng chết, trở thành phạp tự (không có con trai nối
giòng). Những người đó có cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con
trai anh hoặc anh ruột) được lập làm thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng một
phần hay toàn bộ gia tài của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con
cháu người thừa tự đó tiếp tự.
Những người chưa đến tuổi thành
thân (dưới 16 hoặc dưới 18 tuổi, tuỳ theo tục lệ địa phương) sau khi hết lễ
tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với tiên tổ. Những người đó không có lễ
giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại lệ. Có những gia đình bữa nào cũng xới thêm
một bát cơm, một đôi đũa đặt bên cạnh mâm, coi như người thân còn sống trong
gia đình. Ðiều này không có trong gia lễ nhưng thuộc về tâm linh, niềm tưởng
vọng đối với thân nhân đã khuất.
8. Lễ DÔLTA cũng là lễ
báo hiếu
Tháng tám, tiết thu mát mẻ, ngoài
đồng ríu rít tiếng chim kêu (người Khmer gọi đó là “Satt đôn ta” - chim tổ
tiên). Đôlta là dịp để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông
“chà ta” những người đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
Nếu như lễ Vu Lan của người Kinh
được xem là “mùa báo hiếu” của con cái với đấng sinh thành, thì lễ Đôlta (có
nghĩa là cúng ông bà) của đồng bào dân tộc Khmer cũng có ý nghĩa tương tự. Lễ
Đôlta, họ hàng anh em, con cháu trong gia đình quây quần bên nhau, biếu quà ông
bà, cha mẹ và làm lễ cầu phước cho người quá cố.
Trước đây, lễ Sene Đôlta kéo dài
suốt 2 tuần, nhưng ngày nay, do công việc mua, bán, làm mùa bận rộn... đồng bào
Khmer Nam bộ tổ chức lễ Sene Đôlta chỉ trong ba ngày, nhưng bản sắc văn hóa
truyền thống vẫn được lưu giữ.
Ngày cúng thứ nhất - cúng tiếp đón
Sáng sớm, mọi nhà dọn dẹp lại bàn
thờ Phật, bố trí một giường thờ với mùng, mền, chiếu, gối và bộ quần áo mới để
rước ông bà về dự. Một mâm cơm được bày biện gồm thức ăn với bốn chén, đũa và
rượu, trà, bánh, để nơi giường thờ. Gia chủ mời họ hàng thân tộc đến thắp nhang
đèn cúng bái. Quanh mâm cơm cúng, phụ nữ ngồi xếp chân sang một bên, đàn ông
ngồi chồm hổm, cùng chắp tay lạy và đọc kinh cầu nguyện cho vong hồn những
người thân quá cố về hưởng vật thực.
Sau ba tuần rượu, trà khấn vái, chủ
nhà gắp thức ăn mỗi món một ít, rót một chút rượu và trà cúng lên bốn chén cơm,
xong mang ra đặt ở bốn góc rào chung quanh nhà, mỗi nơi cắm một nén nhang mời
vong hồn ông bà về dự lễ cùng con cháu.
Buổi chiều, mọi người ăn mặc đẹp,
dọn mâm cơm cùng thức ăn mới cúng ông bà, sau đó thắp hương mời vong hồn ông bà
đến chùa nghe nhà sư tụng kinh cầu siêu và thuyết pháp. Buổi tối, các vị A cha
lấy những nắm cơm vắt đựng trên mâm cúng Tam bảo đem ra ngoài để chung quanh
điện Phật cho những vong hồn cô đơn đang đói khát ăn, vì những vị này không có
con cháu đến chùa dâng cúng. Cũng trong thời gian này, các trò chơi dân gian,
chương trình văn nghệ được tổ chức tại sân chùa, thu hút đông đảo bà con đến
vui chơi trong lễ Sene Đôlta.
Ngày cúng thứ hai - được tổ chức ở
chùa
Ngày cúng thứ hai là ngày cúng
chính. Lễ cúng do các sư tụng kinh cầu siêu cho vong hồn ông bà của mọi nhà
trong phum sóc. Sau khi các vị sư độ cơm xong, các phật tử cùng ăn, trao đổi
kinh nghiệm trong công việc đồng áng và vui chơi tại chùa.
Đến chiều, rước vong hồn ông bà về
nhà, cúng mâm cơm và mời vong hồn ông bà ở lại chứng kiến cuộc sống sung túc
của con cháu. Để tỏ lòng mến khách và tình đoàn kết trong cộng đồng phum sóc,
gia chủ mời bạn bè người Kinh và người Hoa tại địa phương đến nhà chung vui
Ngày thứ ba - ngày cúng tiễn
Mỗi nhà làm một mâm cơm cùng thức
ăn và bánh trái ngon, đặt bốn chén cơm với bốn đôi đũa ở bốn góc giường thờ,
mời vài vị sư cùng họ hàng thân tộc trong phum sóc đến nhà tụng kinh cầu siêu
để tiễn đưa vong hồn ông bà và những người thân quá cố.
Chủ nhà gắp thức ăn mỗi thứ một ít
vào chén, xong đổ bốn chén này vào chiếc thuyền làm bằng bẹ chuối, gắn thêm
hình nộm cá sấu và treo cờ hình tam giác, có nơi người ta còn để thêm các gói
đậu, mè, muối, bánh trái... mỗi thứ một gói nhỏ để ông bà có thức ăn dự phòng
và tránh tai nạn xảy ra dọc đường, thắp một nén nhang rồi thả chiếc thuyền này
xuống sông rạch gần nhà để tống tiễn ông bà. Kết thúc ba ngày lễ, chủ nhà thu
xếp mùng, mền, chiếu, gối và bộ đồ mới trên giường thờ cất vào tủ để đón lễ năm
sau.
Với tinh thần đoàn kết giữa 3 dân
tộc anh em, lễ Đôlta không chỉ là ngày lễ của đồng bào dân tộc Khmer mà người
Kinh, Hoa cũng đến chung vui, gắn kết tình làng nghĩa xóm.
9.
Làng văn hóa Cơ Tu – Nơi bảo tồn
nguyên vẹn những giá trị văn hóa các
Làng
văn hóa Cơtu xã Atiêng (Tây Giang, Quảng Nam), là nơi diễn ra nhiều hoạt động
văn hóa thể thao của huyện; trở thành nơi duy nhất lưu giữ và bảo tồn tương đối
nguyên vẹn những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của đồng bào các dân
tộc miền tây Quảng Nam.
Nằm
trên một ngọn núi thấp, diện tích gần 5 hecta nhìn xuống phía dưới là trung tâm
hành chính huyện. Làng văn hoá là quần thể gồm 12 nhà truyền thống của người
Cơtu với 10 nhà sàn, 01 nhà gươl và một nhà dài. Các nhà được bố trí theo hình
bầu dục đối diện với cây neo đâm trâu chính giữa. Nổi bật nhất là ngôi nhà gươl
nằm ở vị trí trung tâm được chạm trổ các hoạt cảnh mang đậm nét văn hóa của
đồng bào dân tộc Cơtu, cùng ảnh của nhiều thế hệ lãnh đạo huyện Tây Giang qua
các thời kỳ được treo trang trọng trên các vách.
Bên
trong nhà hiện đang trưng bày 2 trống đồng cổ của người Cơtu xưa được người dân
tại xã biên giới Axan phát hiện trong lúc đào đất. Cách nhà gươl không xa là
ngôi nhà dài 30m với sức chứa gần 200, được chuyển từ thôn Atu xã Ch’Ơm về,
ngôi nhà có chức năng như là nơi quần tụ của nhiều thế hệ người Cơtu trong cộng
đồng gia tộc xưa. Các nhà sàn còn lại có kiến trúc và kích thước tương đối
giống nhau mô phỏng hình dáng các nhà sàn truyền thống đồng bào dân tộc, đây là
kết quả sự đóng góp công sức của 10 xã trong huyện vào làng văn hóa.
Theo
ông Bling Biên trưởng phòng Văn hóa huyện Tây Giang thì Làng văn hóa ra đời với
mục đích lưu niệm và bảo tồn nguyên vẹn các kiểu kiến trúc nhà ở truyền thống
người Cơtu cùng các giá trị văn hóa của dân tộc này. Từ khi hoàn thành đến nay
đã diễn ra nhiều sự kiện văn hóa lớn của huyện như: Đại hội văn hóa, thể thao
kỷ niệm 5 năm ngày tái lập huyện; gặp mặt các già làng, trưởng bản tiêu biểu;
gặp mặt các văn nghệ sĩ, các cụm trưởng nước bạn Lào.... và mới nhất, tháng tám
vừa qua trong dịp huyện Tây Giang tổ chức ngày hội đoàn kết các dân tộc, tại
Làng văn hóa đã diễn ra hội trại giao lưu của nhân dân 11 xã và lễ đâm trâu, lễ
ăn mừng lúa mới... thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước.
Cuối
năm 2009 dự án nâng cấp phục dựng Làng văn hóa Cơtu giai đoạn II sẽ được lập,
trình phê duyệt để tiếp tục triển khai hoàn chỉnh. Giai đoạn này dự án tập
trung vào các hạng mục như trang trí hoa văn, điêu khắc bên trong các ngôi nhà,
phục dựng nhà mồ, nhà kho, chum, nhà giữ lúa và đưa các nghề truyền thống của
người Cơtu như đan lát, dệt thổ cẩm... cùng các nghệ nhân vào sản xuất trong
Làng. Bên cạnh đó, cũng sẽ đưa đội thông tin văn hóa, đội cồng chiêng Tây Giang
vào hoạt động thường xuyên nhằm phục vụ cho các sự kiện văn hóa, thể thao của
huyện.
Dự
án hoàn thành bên cạnh việc bảo tồn nguyên vẹn các giá trị văn hóa của đồng bào
dân tộc Cơtu sẽ là một mô hình làng tiêu biểu với các giá trị văn hóa vật thể
và phi vật thể phục vụ cho các hoạt động du lịch trong tương lai. Cùng với khu
du lịch BơHôồng (xã Sông Kôn huyện Đông Giang), địa đạo Anông (xã Anông và xã
Bhalêê, huyện Tây Giang) và Nhà truyền thống các dân tộc Nam Giang tại thôn
Crung, xã Cà Dy (đang xây dựng) sẽ hình thành tuyến tham quan chạy dọc theo
tỉnh lộ 604 nối Đà Nẵng với đường Hồ Chí Minh góp phần làm phong phú, đa dạng
hơn tuor du lịch về nguồn thuộc phía Đông của dãy Trường Sơn miền tây Quảng
Nam.
10. Người Mông với tục
"kéo vợ"
Mỗi độ xuân về, khi cành đào tung
hoa, cây ngô trổ mầm, những phiên chợ rộn ràng người mua bán, cũng là lúc thanh
niên nam nữ người Mông có cơ hội tìm hiểu nhau. Đó chính là tục"Kéo
vợ" - một nét văn hóa riêng, độc đáo của người Mông huyện Đồng Văn tỉnh Hà
Giang.
Khi đôi trai gái đã ưng ý và thề nguyền đi đến hôn nhân
thì họ sẽ về báo cáo với bố mẹ và dòng họ. Nếu mọi chuyện suôn sẻ thì nhà trai
sẽ tiến hành mời ông mối sang nhà gái đánh tiếng dạm hỏi, rồi tiến tới lễ ăn
hỏi (hẹn cưới) và cuối cùng là lễ cưới ( đón dâu). Đám cưới của người Mông
thường được tổ chức linh đình vào mùa xuân bởi người ta cho rằng mùa xuân là
mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở mà con người không nằm ngoài quy luật đó của
tạo hóa. Người ta rất kiêng làm đám cưới vào những tháng có sấm sét (mùa
hạ).
Trong thực tế có rất nhiều đôi trai gái yêu
nhau tha thiết nhưng lại không được một hoặc cả hai bên cha mẹ đồng ý (chủ yếu
là cha mẹ người con gái). Khi cha mẹ đã không đồng ý mà đôi trái gái khác tự
tìm đến sống với nhau thì không những bị coi là bất hiếu mà cuộc hôn nhân đó
còn không được cộng đồng chấp nhận. Thế nên tục “kéo vợ” có thể được coi là một
giải pháp khá hiệu quả cho những đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng lại gặp
phải trở ngại từ phía gia đình. Đôi trai gái đó sẽ nhờ cậy những ông chú, bà
thím, bà cô, ông cậu, anh em, bạn bè... làm nội ứng, thống nhất kế hoạch “kéo
dâu”, hợp lý hoá cuộc hôn nhân. Mọi chuyện được tính toán trong bí mật, gia
đình nhà gái không hề hay biết, cô gái vẫn ngày ngày đi nương, lấy củi, địu
nước như thường. Rồi một ngày như đã hẹn... chàng trai xuất hiện. Hai người
đang tâm sự thì bạn bè của chàng trai xuất hiện và giúp chàng trai kéo cô gái
về nhà mình. Cô gái dù biết trước mọi chuyện vẫn cảm thấy bất ngờ, kêu toáng
lên. Không những thế cô gái phải giả vờ kêu cứu, khóc lóc để mọi người nhà mình
biết đến cứu. Người ta cho rằng người con gái bị kéo về làm vợ mà không khóc
lóc, kêu la thì đó là đồ con gái rẻ rúng và hư hỏng, bị gia đình và làng xóm
coi khinh. Khi người nhà gái mang gậy gộc đến cứu cô gái thì các bạn của chàng
trai sẽ xông ra đỡ đòn (theo luật lệ của người Mông là đã đi “kéo vợ” thì nhà
trai không được phép đánh lại nhà gái) để chàng trai mang cô gái về nhà.
Sau khi gia đình chàng trai mang gà ra làm lễ
quét phép, cô gái mới được đưa vào nhà. Người Mông quan niệm: con gái đã bị
người ta dùng gà trống làm lễ nhập nhà rồi thì có bỏ về bố mẹ đẻ cũng không thể
chấp nhận được vì cô ta đã trở thành người của nhà khác, khi chết cũng là ma
nhà khác rồi. Chính vì vậy, khi biết con gái mình đã bị người ta kéo về làm vợ
thì dù có không đồng ý, có ấm ức thì đa phần nhà gái cũng đành đồng ý. Tuy
nhiên, nếu cứ theo thủ tục thông thường thì khi đi ăn hỏi, hai bên có thể thỏa
thuận về khoản lễ cưới nhưng nếu nhà trai dùng tục “kéo vợ” thì nhà gái sẽ ít
khi thông cảm và thường phạt bằng cách đòi lễ cao hơn bình thường.
Khi đã chấp nhận dùng tục “kéo vợ”
thì nhà trai phải xác định ngay là sẽ bị nhà gái phạt. Và khi nhà gái đòi bao
nhiêu thì phải trả bấy nhiêu để tránh sự chê cười của làng xóm. Chính vì những
lệ này mà không phải gia đình nào cũng có thể dùng tục “kéo vợ” cho con trai.
Những gia đình muốn dùng tục “kéo vợ” thường phải là những gia đình, dòng họ
tương đối khá giả thì mới có thể đáp ứng nhu cầu khi nhà gái phạt. Bởi có không
ít gia đình phải mất vài ba năm mới có thể trả hết lệ phạt mà nhà gái đặt ra.
Ngày nay, cũng như nhiều dân tộc
khác, người Mông luôn trọng chế độ hôn nhân một vợ, một chồng và quan niệm cái
đẹp lứa đôi là khỏe mạnh, đạo đức và chăm chỉ. Hôn nhân là kết quả của tình yêu
tự nguyện, các cuộc “kéo vợ” giờ đây chỉ là sự khẳng định cho tình yêu mãnh
liệt, khát vọng về một gia đình hạnh phúc của trai gái người Mông mà thôi.
Có thể nói, người Mông
có rất nhiều tục lệ với những ràng buộc khắt khe, song bên trong đó đều chứa
đựng các yếu tố nhân văn rất tình người, được xử lý linh hoạt trên cơ sở đoàn
kết yêu thương. Nó chính là nhân lõi để giữ gìn sự gắn bó của cộng đồng và bảo
lưu các giá trị văn hóa của họ.
11. Phong tục Tết xưa
Dân tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết
là cách nói tắt hai chữ lễ tiết. Có Tiết Thương Nguyên, Trung Nguyên, Hạ
Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, TrungThu... Ngày tết nêu ở đây tức là nói tắt Lễ
tiết Nguyên Đán (ngày đầu năm).
Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong
tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc
tết, du xuân, mừng thọ... Từ trẻ đến già ai ai cũng biết, không nhắc thì thanh
thiếu niên cũng mua cho được cành hoa bánh pháo, nghèo cũng có chiếc bánh
chưng, chai rượu. Vì vậy xin miễn liệt kê dài dòng, để trao đổi một vài phong
tục đáng được duy trì phát triển.
Tống cựu nghênh tân:
Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa,
sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa,
đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn
thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.
Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con
cháu từ phút giao thừa trở đi không quấy khóc, không nghịch ngợm, cãi cọ nhau,
không nói tục chửi bậy, không vứt rác viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng
không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm
nở dầu lạ dầu quen.
Đối với bà con xóm giềng dù trong
năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì
đều xúy xoá hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai
nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau
ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau
những điều tốt lành.
Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng
tuổi:
Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc
dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khỏe tiến bộ, thành đạt hơn năm cũ. Lộc tự
nhiên đến, đi hai lộc (chỉ là một cành non ở đình chùa, ở chốn tôn nghiêm mang
về nhà), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người "Nhẹ vía" mà mình
thích đến xông nhà. Bạn nào vinh dự được người khác mời đến xông thì nên chú ý,
chớ có sai hẹn sẽ xúi quẩy cả năm đối với gia đình người ta và cả đối với bạn.
Ở thành thị thời trước, sáng mồng một, có một số người nghèo gánh một gánh nước
đến các gia đình giầu có lân cận và chúc họ "Lộc phước dồi dào".
Những người này được thưởng tiền rất hậu. Nhiều người không tin tục xông nhà
nhưng cũng phải dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình
người ta xảy ra chuyện gì không hay đổ tại mình "Nặng vía". Chính vì
vậy, đáng lẽ sáng mồng một đông vui lại hoá ít khách, trừ những nhà đã tự xông
nhà, vì tục xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà, từ người thứ hai trở đi
không tính.
Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc
Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cùng chuẩn bị
một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng
giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích
nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm
tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi
và quan hệ thân thuộc. Chúc Tết nhưng người trong năm cũ gặp rủi ro tai hoạ thì
động viên nhau "Của đi thay người", "Tai qua nạn khỏi",
nghĩa là ngay trong cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Kể cả
đối với người phạm tội vẫn với thái độ nhẹ nhàng, khoan dung. Nhưng, nhìn chung
trong những ngày đầu năm, người ta kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa.
Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều
kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm
thật là đặm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng
tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức ruờm rà,
không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất
thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mời vui lòng, năm mới từ
chối sợ bị giông cả năm.
Quà Tết, lễ Tết:
Bình thường qua lại hỏi thăm nhau
có khi cũng có quà, biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục ta đi lễ Tết vẫn có ý
nghĩa hơn, nhất là đi trước Tết càng quý. Loại trừ động cơ hối lộ quan trên để
cầu danh cầu lợi thì việc biếu quà Tết, tổ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý.
Học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... quà
biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó,
câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: Không có quà, ngại không dám đến. Dân tộc ta tuy
nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình, "Lời chào cao hơn mâm cỗ".
Lễ mừng thọ:
Ở các nước Tây Âu thường mừng thọ
vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ
nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần...
tính theo tuổi mụ. Ngày tết ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con
cháu tụ tập đông vui.
Cũng vào dịp đầu xuân, người có
chức tước khai ẩn, học trò sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh,
thợ thủ công khai công, người buôn bán mở hàng lấy ngày: Sĩ,
Nông, Công, thương "Tứ dân bách nghệ" của dân tộc ta vốn cần cù, ai
cũng muốn năm mới vận hội hành thôn làm ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngày tốt đẹp,
bắt tay lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hội hè đình đám, vui
chơi quá đà. Sau ngày mồng một, dù có mãi vui tết, hoặc còn kế hoạch du xuân,
đón khách, cũng chọn ngày "Khai nghề", "Làm lấy ngày". Nếu
như mồng một là ngày tốt thì chiều mồng một đã bắt đầu. Riêng khai bút thì giao
thừa xong, chọn giờ hoàng đạo bắt đầu không kể mồng một là ngày tốt hay xấu.
Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu nǎm thì cũng tự làm cho gia đình
mình một sản phẩm, dụng vụ gì đó (nguyên vật liệu đã chuẩn bị sẵn). Người buôn
bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người
bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân.
Cờ bạc:
Ngày xưa các gia đình có nề nếp
quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp tết,
nhất là tối 28, 29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì ông bố cho phép
vui chơi, có cả trẻ con người lớn những nhà hàng xóm, những gia đình thân cận
cùng vui. Tam cúc, cơ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm... ai thích
trò nào chơi trò ấy. Đế lế khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé
bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hoá vàng.
12. Tết Trung thu xưa và
nay
Heo may về trên phố, không khí mùa
thu mát mẻ và đâu đây như đã vang lên tiếng trống tùng rinh rinh tưng bừng.
Tiếng trẻ em với câu hát rộn rã quen thuộc “chiếc đèn ông sao , sao năm cánh
tươi màu” vang lên khắp nơi. Vậy là Tết trung thu đã về.
Trung thu là ngày trăng tròn nhất
trong năm, bởi lẽ nó trùng vào ngày thu phân, lúc ấy mặt trời rọi tương đối
thẳng vào mặt trăng nên nó nhận được nhiều ánh sáng hơn cả. Người xưa cho rằng
mọi thứ trong đêm rằm trung thu đều phải sáng. Có lẽ vì thế, đêm trung thu các
loại đèn đều được thắp sáng lung linh.
Tết Trung thu còn được trẻ em mong
ngóng với tên gọi Tết trông trăng. Đây là dịp các bé được bố mẹ ông bà tặng
những đồ chơi dễ thương, những chiếc bánh thơm lừng và những hoa quả đặc trung
của mùa. Có lẽ, trong kí ức tuổi thơ của mỗi người không thể nào quên được
tiếng trống thúc giục tưng bừng, tiếng vui cười rộn rã đêm phá cỗ trông trăng.
Nằm trong vòng quay có tính chu kì của thời gian, bao nhiêu rằm tháng Tám đã đi
qua nhưng mỗi năm, mỗi thời và trong mỗi hoàn cảnh, trẻ em lại được đón trung
thu theo những cách khác nhau
Đã từ rất lâu rồi, cứ đến độ giữa
tháng Tám- thời điểm giữa mùa thu -cũng là lúc trăng tròn và sáng nhất không
chỉ các em nhỏ mà ngay cả người lớn cũng có cái gì đó náo nức lạ thường. Người
lớn không chỉ lo chuẩn bị cho con cái một Tết Trung thu tươm tất, vui vẻ mà
trong lòng mỗi người còn có kí ức tuổi thơ ùa về. Thời kì trước, khi đất nước
còn khó khăn, các đồ chơi cho trẻ chưa bày bán nhiều như bây giờ, những ông bố
khéo léo thường tự tay mình làm đồ chơi cho con trẻ. Đó là những chiếc đèn ông
sao năm cánh dán giấy đỏ, là chiếc mặt nạ bằng bìa bên ngoài vẽ hình nhân vật
các em yêu thích trong các tích truyện, chiếc chong chóng, đèn kéo quân…
Có ai lại chưa một lần cảm giác hồi
hộp khi ngồi ngắm chiếc đèn kéo quân đợi đốt nến để ngắm những hình thù ngộ
nghĩnh chạy chầm chậm. Có khi, mỗi chiếc đèn kéo quân lại chứa một câu chuyện
cổ tích. Các hình chạy đến đâu, các em lại được lắng nghe ông bà kể chuyện đến
đó. Khoảng thời gian ấy thật tĩnh lặng, chỉ còn vầng trăng trên cao cũng đang
ghé mình nghe ngóng. Trong không gian đâu đây thoảng mùi thơm của hạt bưởi bị
đốt. Thường ngày, các hạt bưởi được gom lại, bóc vỏ và phơi khô xiên vào sợi
dây thép. Đêm hôm rằm những chuỗi hạt này đốt lên vừa phát ra những tiếng lách
tách nho nhỏ, vài tia lửa be bé và đặc biệt là mùi thơm đặc trưng của vỏ bưởi.
Mỗi đêm rằm tháng Tám, ngoài những
đồ chơi dễ thương, các em nhỏ còn trông đợi mâm cỗ trông trăng. Thông thường,
mâm cỗ này cũng được chuẩn bị khá cầu kì và tươm tấ bởi bàn tay khéo léo của
các mẹ, các chị. Một chú chó xù làm bằng tép bưởi được gắn hai hạt đậu đen là
mắt, xung quanh có nhiều hoa quả, đặc biệt là những quả hồng chín mọng. Đối với
người Hà Nội, mùa trông trăng tháng Tám cũng là mùa cốm nức hương. Những hạt
cốm mềm dẻo thơm lừng tỏa hương nhè nhẹ làm cho không khí thêm đầm ấm. Đây cũng
là dịp cả nhà quây quần bên nhau, một buổi sum họp gia đình vui vẻ. Người lớn
nghe con trẻ hát múa, vui đùa.
Trẻ con đeo những chiếc mặt nạ ngộ
nghĩnh, gõ trống đợi trăng lên cao. Đến khi vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng
giữa bầu trời thì mâm cỗ được phá. Trong đêm Tết Trung thu, trẻ cũng rất
thích chơi trò rồng rắn. Đi trước là đội múa lân, đội gõ trống, trên tay
các em là những chiếc đèn rực rỡ sắc màu và hình thù. Thêm vào đó là ông địa
vui nhộn với cái bụng tròn, khuôn mặt phúc hậu với nụ cười rạng rỡ. Đoàn múa
lân và các em nhỏ cùng nhau đi đến từng nhà chúc mừng Trung thu vui vẻ, được
các gia đình thưởng kẹo bánh. Sau khi đi hết một vòng, số kẹo bánh này lại được
mọi người mang ra tổ chức liên hoan vui chung. Đêm cứ thế rộn rã cho đến khuya.
Những cái Tết Trung thu giản dị mà đáng nhớ ấy không thể nào phai mờ trong kí
ức mỗi người. Tuổi thơ lớn lên, mỗi năm đến hẹn, rằm tháng tám lại tưng
bừng náo nức tiếng hát, tiếng trống rinh tùng rinh.
Khắp phố phường Hà Nội đã rực lên
những sắc màu trung thu rực rõ: đèn ông sao, đèn cá chép, đèn kéo quân, các
loại bánh nướng, bánh dèo. Ngày nay, cuộc sống hiện đại và đầy đủ nên cái
tết rằm tháng tám cũng có phần khác trước. Các đồ chơi dành cho trẻ cũng
hiện đại hơn có khi không phải là đèn ông sao làm bằng tre giản dị mà là những
chiếc súng phun nước, những cây đèn sáng bằng pin nhân tạo các đồ chơi siêu
nhân, ô tô, máy bay ... Nhận được bất kì đồ chơi nào trẻ cũng đều rất thích
thú, chỉ có điều đôi khi người lớn vô tình đã khiến cho trẻ quên mất những nét
đẹp đón Tết Trung thu cổ truyền.
Tết Trung thu có khi các em được
tặng chiếc vé mới đi xem phim, đi xem biểu diễn ca múa, thậm chí là bữa tiệc
trong một nhà hàng sang trọng nào đó. Trăng vẫn tròn vành vạnh nhưng các
em chẳng được ngắm trăng lên giữa bầu trời cao rộng nữa. Mâm cỗ trung thu có
khi còn bị lãng quên vì cha mẹ bận rộn công việc chỉ kịp mua ít bánh
trung thu có bày bán trong các siêu thị, các túi kẹo đủ màu mà quên mất vài múi
bưởi xếp hình đáng yêu. Liệu tất cả những điều đó có đủ đáp lại niềm háo hức
trông đợi Tết trung thu của các em ? Tết Trung thu năm nay sắp đến, tôi
cứ ước ao những đêm rằm Trung thu xưa: tiếng trồng rộn ràng, chú lân nhảy
múa tưng bừng và ông địa hiền lành múa đón trăng lên….
13. Bản sắc văn hoá các
dân tộc Hà Giang
Hà Giang là mảnh đất hội tụ của đa
dạng nền văn hoá. Đó là mảnh đất của 22 tộc người cư trú và mỗi dân tộc mang
đến cho Hà Giang một nét văn hoá độc đáo riêng.
Người Mông
Người Mông ở Hà Giang có khoảng
194.483 người với 2 nhóm chính là Mông trắng và Mông hoa. Người Mông ở đây nổi
tiếng với truyền thống canh tác nương đá, trồng lúa, ngô và các loại hoa màu
khác. Sản xuất thủ công của đồng bào Mông đạt đến trình độ khá cao như dệt, đan
lát, làm đồ gỗ, rèn đúc...
Trang phục truyền thống của phụ nữ
Mông rất độc đáo. Một bộ nữ phục bao gồm váy, áo cánh, áo xẻ ngực có yếm lửng,
thắt lưng, khăn quấn đầu, xà cạp... Váy thường là hình nón cụt, xếp nếp xoè
rộng, cũng có khi là váy ống, khi mặc xếp ở hai bên hông. Nhà của người Mông
làm bằng đất, có 3 gian, gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên.
Các cửa chính và cửa phụ đều mở về
phía trong. Văn hoá truyền thống người Mông là một kho tàng hết sức phong phú
với những phong tục tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng. Các dòng họ người Mông có
cách thờ cúng tổ tiên không giống nhau. Một số lễ cúng chính như cúng ma cửa
(xia mình), ma lớn mụ (đa trung) với số lượng, nội dung các bài cúng, bài trí,
sắp xếp nơi cúng, nơi ăn uống đa dạng và phức tạp.
Văn học nghệ thuật Mông thể hiện
tâm lý, ý thức của cộng đồng, các vấn đề về tự nhiên, xã hội và lịch sử. Nổi
bật trong đó là những khúc hát về tình yêu, được thể hiện bằng khèn, sáo, đèn
môi, kèn lá. Hoa văn trang trí trên váy là các hình bướm, rắn, hoa, răng bừa,
mắt chim, chân lợn... màu sắc hài hoà. Tất cả là những tài sản vô giá của cộng
đồng người Mông được lưu giữ từ lâu đời.
Người Dao
Người Dao ở Hà Giang có khoảng
95.959 người với các ngành Dao đỏ, Dao tiền, Dao quần trắng, Dao áo dài, Dao lô
giang. Họ sống bằng nông nghiệp nương rẫy, ruộng bậc thang. Người Dao có một số
nghề thủ công mang dấu ấn riêng độc đáo như rèn đúc làm đồ trang sức, thêu in
hoa trên vải bằng sáp ong... Người Dao Hà Giang ở nhà sàn, nhà đất hoặc nửa
sàn, nửa đất. Họ thường ở gần nguồn nước.Trang phục của họ có nhiều yếu tố
truyền thống như hoa văn chỉ màu, các loại khăn, áo, váy quấn của phụ nữ rất đa
dạng.
Văn hoá tín ngưỡng truyền thống của
người Dao rất phức tạp thể hiện quan niệm, ý thức tâm linh cộng đồng. Thờ cúng
và ma thuật là một phương diện chứa đựng màu sắc riêng, có chiều sâu văn hoá,
đó không đơn giản là những hình thức mê tín dị đoan bình thường. Văn nghệ dân
gian Dao rất phong phú bao gồm những thần thoại, truyện cổ, truyện thơ, dân ca,
tục ngữ, câu đố phản ánh trong đó là quan niệm của cộng đổng về vũ trụ, nhân
sinh quan, thế giới quan.
Người Tày Với khoảng 157.757 người sinh sống ở Hà Giang. Họ sống
chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước tại các chân ruộng ở ven núi, sông và trồng
trọt trên nương rẫy. Các nghề thủ công gia đình khá phát triển như đan lát, sản
xuất nông cụ, đóng đồ gỗ, làm đồ gốm... Nghề dệt vải của người Tày khá phát
triển, đặc biệt là các loại chăn, khăn thổ cẩm với hoa văn phong phú được nhiều
người yêu thích. Làng người Tày thường ở chân núi và có từ 20 đến 30 nóc nhà.
Họ ở nhà sàn, lợp gianh hoặc cọ.
Trang phục của họ chủ đạo là màu chàm, nữ chít khăn mỏ quạ, mặc áo năm thân có
thắt lưng, đeo vòng cổ, tay, chân bằng bạc. Văn hoá tín ngưỡng người Tày rất
phong phú với các loại lễ nghi và các bài cúng tế lễ liên quan đến sản xuất,
vòng đời con người, cưới hỏi, tang ma, lễ mừng nhà mới... Văn học dân gian Tày
là một kho tàng về các loại thần thoại, truyện cổ, truyện thơ, dân ca... Dân ca
Tày nói tiếng với các làn điệu "lượn"- đây là một hình thức văn hoá
như hát ví, hát đối đáp ở người Việt.
Người Nùng
Họ sinh sống ở Hà Giang với khoảng 61.312 người. Họ sống chủ yếu bằng nghề
làm ruộng nước với kỹ thuật canh tác, tưới tiêu khá cao. Chăn nuôi gia súc khá
phát triển. Đa dạng về nghề thủ công như rèn, đúc, đan lát, nghề mộc, làm giấy
bản đặc biệt là nghề dệt vải. Người Nùng thường sinh sống ở các thung lũng bên
sườn đồi hoặc ven sông, suối. Trang phục của họ được nhuộm chàm, phụ nữ mặc áo
năm thân, cúc cài nách phải. Nam giới mặc áo cổ đứng xẻ ngực với hàng cúc vải
và 4 túi không nắp. Họ ở nhà sàn khá to, rộng.
Nhà ngoài dành cho nam giới và là
nơi thờ cúng tổ tiên, nữ giới ở nhà trong. Người Nùng không làm giỗ sau khi
chết mà làm sinh nhật (lễ mừng thọ) cho người sống từ 50 tuổi trở lên và cúng
chay cho người chết vào rằm tháng 7 âm lịch. Lễ cưới của người Nùng còn bảo lưu
nhiều tập quán cổ và người cậu bên mẹ có một vai trò rất quan trọng thay mặt
nhà trai đi dạm hỏi và tổ chức các công việc có liên quan đến tục lệ cưới xin.
Văn nghệ dân gian người Nùng nổi tiếng nhất là điệu Sli, là cách hát giao duyên
của thanh niên nam nữ.
Người Giáy
Người Giáy ở Hà Giang có khoảng
61.312 người. Họ sống bằng nguồn chính là nghề trồng lúa nước, ngoài ra còn làm
nương. Hàng năm người Giáy có lễ Roóng poọc để mở đầu việc làm ruộng. Chuồng
trại của họ xa nhà mà lại gần nương rẫy. Nghề thủ công của người Giáy đáng chú
ý là nghề dệt và đồ đan lát từ tre lạt. Trang phục của họ đơn giản, hầu như
không có hoa văn thêu thùa. Nam phục gồm có quần dài chấm gối, xẻ nách phải,
ống tay rộng và chiếc quần ống rộng.
Nữ phục gồm áo dài che kín mông, xẻ
nách phải, ống tay rộng, trên cổ tay đắp miếng vải khác màu. Kiến trúc của họ
là nhà sàn, gian thờ ở chính giữa. Bàn thờ có 3 bát hương thờ thần đất, thần
bếp và tổ tiên. Khi trong nhà có người chết phải làm ma, con cháu trong nhà
kiêng ăn thịt, không vui đùa, không ngồi ghế cao, ngủ giường cao. Khi đưa đám
phải đi nhanh như chạy vì "sợ bị cướp xác". Trai gái đến tuổi dựng vợ
gả chồng thường phải làm thủ tục xem lá số, xem mệnh nếu hợp mới được lấy.
Văn nghệ dân gian Giáy rất phong
phú , thơ ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đối của họ nhiều về số lượng và phong phú
về nội dung. Dân ca Giáy có 3 hình thức rất phổ biến là Vươn há lản (hát bên
mâm rượu), Vươn chăng hằm (hát tỏ tình) và Vươn sroỏng răn (hát tiễn đưa).
Người La Chí
Người La Chí duy nhất chỉ có ở Hà
Giang còn có tên gọi khác là Cù Tê, Thổ Đen, Mán Xá. Cộng đồng người La Chí chỉ
có khoảng 10.361 người. Họ rất giỏi canh tác ruộng bậc thang và làm nương với
các loại cây trồng chủ yếu như lúa, ngô, khoai, sắn...nhưng có một điều đặc
biệt là những nương rẫy màu mỡ nhất bao giờ cũng được dùng để trồng bông và cây
chàm.
Làng bản La Chí thường nằm ở trên
các sườn núi cao. Nhà ở loại nửa sàn, nửa đất, phần đất dùng làm bếp và phần
sàn dùng làm nhà ở. Trang phục của họ không cầu kỳ. Đàn ông mặc áo dài nhuộm
chàm, cài khuy cách trái. Phụ nữ chủ yếu mặc quần, bộ nữ phục đáng chú ý có
chếc váy thêu, bên ngoài là chiếc áo dài xẻ ngực không cài cúc, dùng thắt lưng
vải để giữ vạt áo. Người La Chí coi mọi vật đều “có hồn”, trong đó đáng chú ý
là “hồn lúa”.
Trong nhà có nhiều bàn thờ của nam
giới xếp theo thứ tự từ bố đến con trai út, con thứ và con cuối cùng là con
trai cả. Khi có người chết, quan tài được rửa bằng xương gà để chọn đất chôn.
Trong hôn nhân họ có tục lệ “trói” chú rể cùng với bạn bè, bà mối dẫn cô dâu ra
khỏi buồng về nhà chú rể. Văn học nghệ thuật La Chí là những câu chuyện kể,
giải thích nguồn gốc con người, nguồn gốc dân tộc và nguồn gốc mặt trời, cây
lúa. Trong các dịp lễ hội, có nhiều trò chơi vui nhộn như thú ném còn, đánh đu
và đặc biệt là bài hát “Ní ca”, đánh đàn tích, chiêng, trống.
Trên đây chỉ là một phần nhỏ văn
hoá của 6 dân tộc đông dân ở Hà Giang. Họ còn nhiều nét văn hoá rất độc đáo
khác cần tìm hiểu, nghiên cứu và khám phá. Các dân tộc khác chưa kịp nhắc đến
như người Cờ lao, Pu Péo, Lô Lô, Phù Lá, Người Hoa, Pà Thẻn…cũng có đời sống
văn hoá, sinh hoạt riêng khá độc đáo góp phần cùng các dân tộc trên tạo ra một
Hà Giang đa dạng bản sắc văn hoá dân tộc.
14. Síp xí - tết của
người Thái đen Mường Lò, Yên Bái
Ai
đã từng đến Mường Lò (thị xã Nghĩa Lộ), một vùng đất phì nhiêu, trù phú của
vùng Tây Bắc, nơi có cánh đồng bằng phẳng, thẳng cánh cò bay rộng thứ hai khu
vực Tây Bắc, nổi tiếng với “gạo trắng, nước trong”, với đặc sản chè tuyến Shan
cổ thụ, với hương thơm nồng nàn của nếp Tan Tú Lệ. Nơi đây còn là mảnh đất quần
cư của người Thái đen giàu bản sắc, đậm đà phong tục, tập quán.
Mường
Lò - theo các nhà khoa học, đó là mảnh đất quần cư đầu tiên của người Thái đen
khi vào Việt Nam. Đặc biệt hơn, nếu du khách đến Mường Lò vào dịp 13 - 14/7 âm
lịch, hẳn sẽ vô cùng thích thú khi được tham dự vào lễ tết đặc biệt cổ truyền
của người Thái đen, đó là tết Síp Xí cổ truyền.
Các
cụ già nơi đây cũng không nhớ tết Síp Xí có tự bao giờ, chỉ biết rằng hàng năm
bản Thái đều tổ chức Tết Síp Xí một cách trang trọng, đầm ấm, vui tươi. Là tết
lớn nhất của người Thái đen Mường Lò nên ngày 10 -13/7 Âm lịch, các bà, các mẹ,
các chị trong mỗi gia đình đều chuẩn bị lá chuối rừng, gạo nếp, thịt gà, lạc...
để làm món bánh síp xí (pảnh síp xí), một loại bánh quan trọng nhất trong lễ
tết này bánh síp xí của người Thái đen Mường Lò.
Bánh
síp xí 2 loại: một loại là “Pảnh cuổi”, bánh làm bằng gạo nếp nghiền với chuối
tiêu, gói bằng lá chuối xôi chín; loại thứ 2 là “Pảnh cáy”, bánh có nhân làm từ
đỗ xanh và thịt gà băm nhỏ với lạc, cũng được gói bằng lá chuối đồ chín. “Pảnh
síp xí” được gói 2 chiếc trên một tàu lá chuối sau đó xoắn giữa cặp đôi 2 chiếc
vào với nhau, dùng một dây lạt buộc ở đầu. Trong ngày tết Síp Xí, bánh này
ngoài dùng làm lễ vật cúng ma nhà (Co lo hoóng), còn được đồng bào dùng làm quà
biếu bà con anh em trong dòng họ, biếu tặng khách quý và những người dân tộc
khác
Ngoài
việc làm thật nhiều “Pảnh síp xí” để đón tết các thiếu nữ dân tộc Thái ra chợ
lựa chọn mua hoặc tự đi lấy các loại lá cơm màu để về làm xô ngũ sắc dâng cúng
tổ tiên, lễ vật không thể thiếu. Thịt vịt là món ăn chính trong Tết Síp Xí,
theo quan niệm của người dân là tổng kết một vụ mùa, cầu xin cho con trâu được
khỏe mạnh, cây lúa được tốt tươi, người người được hạnh phúc
Do
đó gia đình nào cũng mổ một vài con vịt trong dịp tết để “phá xúi” xua tan đi
những điều đen đủi, không may mắn trong cuộc sống. Rượu, thịt, cá và các món ăn
được đồng bào chuẩn bị khá chu đáo để thiết đãi bạn bè, khách khứa trong dịp
tết này. Cùng với việc chuẩn bị lễ vật để cúng tổ tiên, thì nhà cửa, ngõ xóm,
ruộng vườn cũng được đồng bào sửa sang trang hoàng cho thật sạch đẹp. Các cô
gái tuổi cập kê cũng chuẩn bị lựa chọn cho mình những bộ áo váy cùng dây xà
tích, khăn piêu đẹp nhất để diện trong dịp tết.
Được
chứng kiến và tham dự vào tết Síp Xí của người Thái đen Mường Lò, chúng ta
không chỉ cảm nhận các giá trị văn hóa hết sức đặc sắc qua văn hóa ẩm thực
trong ngày tết của đồng bào mà còn hiểu được những giá trị nhân văn qua các
nghi thức, nghi lễ, phong tục tập quán truyền thống. Bắt đầu bước vào tết Síp
Xí là lễ cúng tổ tiên (co lo hoóng) của gia chủ. Chủ nhà cúng khấn mời tổ tiên,
các ma nhà về dự tết chung vui cùng con cháu. Lễ cúng này được diễn ra ngay tại
gian thờ “co lo hoóng”, bao gồm xôi ngũ sắc, bánh síp xí và một thủ lợn.
Nghi
thức tiếp theo là lễ cúng ruộng “Tam tế ra”. Mâm cúng xôi và thịt gà đặt ngang
đầu ruộng của gia đình. Thầy cúng ngồi trước thửa ruộng cầu xin ma bản, ma
làng, tổ tiên thần thánh về phù hộ và chăm sóc cho cây lúa của gia đình không
bị con sâu, con thú về phá hoại, cho lúa lên nhanh, hạt to, chắc, mẩy. Kết thúc
lễ cúng, lễ vật sẽ được thả xuống ruộng như lời minh chứng về sự cầu xin thành
khẩn của gia đình trong ngày tết.
Con
trâu là con vật quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp của người Thái đen
Mường Lò. Một năm cầy cấy vất vả trong dịp tết Síp Xí đồng bào dân tộc Thái nơi
đây cũng cho trâu được “ăn tết” bằng nghi thức cúng vía cho trâu “Tám khuôn
quai”, cầu xin tổ tiên thần thánh che chở, bảo vệ cho trâu được khỏe mạnh để
giúp đỡ gia đình trong sản xuất nông nghiệp.
Trong
ngày tết Síp Xí, các cháu chắt nội ngoại sống gần nhà, ông bà sẽ mang những cặp
bánh síp xí mới nhất, ngon nhất cùng 1 bộ gan vịt (đó là phần mà đồng bào quan
niệm là ngon nhất và quan trọng nhất) sang nhà ông bà chúc phúc mừng tuổi ông
bà. Đáp lại tình cảm của các cháu, ông bà tặng mỗi cháu 2 cặp bánh síp xí cầu
mong cho các cháu luôn khỏe mạnh, ngoan ngoãn.
Rất
nhiều những món ăn đặc sắc của người Thái đen Mường Lò được người dân thể hiện
trong tết Síp Xí cổ truyền này. Cùng với đó là những nét văn hóa trong sinh
hoạt văn hóa ẩm thực hết sức đặc sắc mà đồng bào còn lưu giữ được như một “gia
sản” văn hóa mà không phải bất cứ dân tộc nào cũng được sở hữu. Sau bữa cơm síp
xí, theo phong tục truyền thống, các nam thanh nữ tú rủ nhau đi chơi hội hang
Thẩm Lé, hội chơi núi hái nêm (quả sim), mọi người đều nô nức vui chơi trong
niềm vui tươi phấn khởi.
Kết
thúc tết Síp Xí cổ truyền là nghi thức cúng then và xòe then (xe then) tại nhà
Mo Then trong bản. Mọi người từ khắp nơi đều tập trung tại đây. Các điệu xòe
then như: xòe gậy, xòe khăn, xòe quạt, xòe hoa... được đồng bào thể hiện trong
suốt đêm hội “xe Then” để múa mừng và mời các thần Then về dự tết và chung vui
cùng trai làng gái bản. Cùng với đàn tính và chùm sắc nhạc rung lên liên hồi
làm cho không khí của ngày hội càng rộn ràng như không có hồi kết.
Tết
Síp Xí người Thái đen Mường Lò tích hợp nhiều giá trị văn hóa dân gian đặc sắc,
hội tụ đầy đủ các yếu tố văn hóa cổ truyền mà người dân nơi đây đã gìn giữ được
từ đời này qua đời khác. Hãy thử một lần đến Mường Lò vào dịp tết Síp Xí (14/7
Âm lịch), chúng ta sẽ cảm nhận được những nét đặc sắc, độc đáo, những giá trị
tinh hoa còn được lưu giữ đến tận ngày nay trong các bản làng của người Thái
đen Mường Lò, Yên Bái.
15. Hà Nội phục dựng lễ
cúng đàn Mông Sơn thí thực
Đàn
lễ Mông Sơn thí thực thể hiện sự hòa nhập, pha trộn tín ngưỡng giữa Phật giáo
và Đạo giáo cũng như tín ngưỡng dân gian Việt Nam, đặc biệt là tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên.
Nằm
trong mùa lễ Vu Lan của Phật giáo, việc cúng Mông Sơn thí thực tại chùa chú
trọng đến việc siêu độ các oan hồn, uổng tử không nơi nương tựa. Tương truyền
việc siêu độ cô hồn phát xuất từ đời nhà Đường - Trung Quốc khi ngài Huyền
Trang trở về sau chuyến Tây Du, lập đàn siêu độ cho tứ sinh đang luân hồi trong
lục đạo. Qua đời Tống, ngài Bất Khinh Tam Tạng chuyên tu Mật Giáo ở Mông Sơn,
tỉnh Tứ Xuyên, quán biết các cô hồn đang vất vưởng, nên có tên gọi là đàn lễ
Mông Sơn thí thực.
Tương
truyền tại Việt Nam, Khoa cúng Phật được tổ Huyền Quang (Tam tổ Trúc Lâm) đặt
ra nhằm thu hút Phật tử, nên Ngài đã tận dụng tối đa những tinh hoa của nghệ
thuật Tuồng và Chèo cũng như các làn điệu dân ca để tạo cho Khoa cúng một màu
sắc nghệ thuật hấp dẫn nhất.
Đàn
lễ Mông Sơn thí thực cũng thể hiện sự hòa nhập, pha trộn tín ngưỡng giữa Phật
giáo và Đạo giáo cùng tín ngưỡng dân gian Việt Nam, đặc biệt là tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên.
Theo
nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Bùi Trọng Hiền thì Lễ Mông Sơn thí thực còn
hấp dẫn bởi âm nhạc với “Dàn nhạc lễ được sắp đặt theo một sơ đồ nghệ thuật có
tính chuyên nghiệp khá cao, một người cầm chuông gõ mõ đóng vai trò giữ nhịp
như nhạc trưởng, các thành viên còn lại chia làm 2 thành phần đối xứng, hát
xướng quăng bắt đầy tính phức hợp. Điều đặc biệt, các thành viên vừa hát xướng
tụng tán lại vừa phải đảm nhiệm các nhạc cụ hỗ trợ, đó là năng lực không dễ gì
rèn luyện”.
Đáng
chú ý nhất trong đàn lễ Mông Sơn thí thực chính là màn phá ngục, đó thực sự là
trò diễn dân gian với tính biểu tượng tôn giáo rất giá trị có sự kết hợp của
diễn xướng dân gian, bí pháp và đạo pháp và sự huyền vi của Phật pháp.
16. Vũ khúc của người
Mông Nà Hẩu, Yên Bái
Nà
Hẩu là xã vùng cao của huyện Văn Yên (tỉnh Yên Bái). Với đa số là đồng bào dân
tộc Mông sinh sống, nơi đây vẫn còn lưu giữ được những giá trị văn hóa độc đáo,
đặc sắc riêng, đặc biệt là các bài dân ca, dân vũ góp phần quan trọng trong đời
sống tinh thần của đồng bào dân tộc Mông.
Dân
ca, dân vũ của người Mông là những bài hát, điệu múa do đồng bào dân tộc Mông
sáng tác, được lưu truyền từ lâu đời và gắn liền với phong tục, với cuộc sống,
với tình yêu quê hương, tình yêu nam nữ của đồng bào dân tộc. Một trong những
điệu dân vũ được người Mông yêu thích, ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người con
dân tộc và được lưu giữ đến ngày nay đó là điệu múa gậy tiền (hay còn là múa
sênh tiền) của người Mông.
Vàng A Phử, người con của dân
tộc Mông, đội trưởng đội văn nghệ của thôn Khe Cạn, xã Nà Hẩu yêu điệu múa Sênh
Tiền từ rất lâu rồi. Từ nhỏ, Phử đã đi xem người già trong bản biểu diễn và đã
say với điệu múa này. Điệu múa này không biết có từ bao giờ, chỉ biết rằng đây
là một điệu cổ truyền của dân tộc đã được các thế hệ đi trước biểu diễn và cứ
truyền lại cho con cháu từ đời này qua đời khác. Điệu múa đã giúp cho mọi người
xích lại gần nhau hơn và đem lại một không khí đầm ấm, vui tươi cho cả làng, cả
bản.
Loại nhạc cụ được sử dụng
trong điệu múa này chỉ là một cây gậy được làm bằng một đoạn trúc hoặc tre có
đường kính từ 5 cm đến 7 cm, dài 1m đến 1,2m và được chia làm 4 khấu trong đó
có 3 khấu được đục lỗ ở giữa để xâu đồng xu vào giữa. Khấu còn lại nằm ở khúc
thứ 2 không đục lỗ để người múa khi biểu diễn cầm vào; trong mỗi một khấu đục
lỗ lại được chia làm 4 dãy đồng xu, mỗi dãy có từ 4 đến 6 đồng xu hợp lại
(trước đây là những đồng xu cổ được sản xuất từ năm 1938 trở về trước nhưng
hiện nay những đồng xu đó không còn nữa thì người Mông sử dụng những miếng nhôm
hoặc lá đồng cắt theo hình tròn để thay thế) và khoảng cách giữa các dãy đồng
xu là từ 5 đến 10 cm.
Ở hai đầu chiếc gậy được buộc
một túm chỉ với các màu xanh, đỏ, tím, vàng... để trang trí cho cây gậy đẹp hơn
khi biểu diễn và 2 chùm dây này chính là điểm nhấn để tạo sự mềm mại và uyển
chuyển cho người múa. Mới nhìn thì ai cũng tưởng cây gậy đơn giản, nhưng để làm
ra nó là cả một quá trình mà người Mông đã chắt chiu cả ước mơ gửi vào trong
đó.
Khi múa, người chơi cầm cây
tiền vừa múa vừa di chuyển với các động tác khéo léo để cây gậy chạm nhẹ vào cơ
thể như tay, chân, vai, bàn chân để cho các đồng xu tạo ra thứ âm thanh vui
nhộn mà kỳ bí.
Múa Sênh tiền thường có từ bốn đến
tám nam, nữ kết hợp; cũng có thể là chỉ có nam múa hoặc nữ múa đôi. Các đôi
trai gái biểu diễn các động tác lên xuống, xoay người nhịp nhàng trong sự cổ vũ
nhiệt tình của bà con dân bản.
Với đôi tay khéo léo của
chàng trai, cô gái những đồng tiền cổ xoay tít làm phát ra tiếng kêu xoèn xoẹt
với cường độ lớn hơn thể hiện niềm phấn khởi và tưng bừng của dân làng. Điệu
múa Sênh Tiền được người Mông biểu diễn chủ yếu vào các ngày lễ, ngày hội văn
hóa dân tộc... đặc biệt là lễ hội Gầu Tào (hay còn gọi là tết của người Mông).
Đây cũng chính là dịp để các chàng trai, cô gái người Mông phô diễn những nét
đẹp văn hoá của dân tộc mình. Và cũng là nơi để trai gái người Mông tìm hiểu
nhau qua các điệu nhảy.
Điều Vàng A Phử mong muốn lúc này
là có nhiều các em nhỏ trong bản say với điệu múa này, Phử sẽ dạy cho các em
trong bản hiểu và biết múa những điệu múa mang đậm bản sắc của dân tộc.Những
giá trị văn hóa, văn nghệ của dân tộc Mông là món ăn tinh thần không thể thiếu
trong đời sống văn hóa của người dân Nà Hẩu. Nét đẹp của Sênh tiền là sự kết
hợp hài hòa, nhịp nhàng giữa các động tác nhảy múa và gậy Sênh tiền. Những nhân
tố này phối hợp và hòa trộn với nhau đã tạo ra một điệu múa độc đáo riêng có
của dân tộc Mông.
Tuy đời sống nơi vùng cao của
dân tộc Mông còn gặp nhiều khó khăn nhưng những điệu dân ca dân vũ mang đậm bản
sắc dân tộc vẫn được người Mông Nà Hẩu, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay đang gìn
giữ, bảo tồn và phát huy để những nét văn hóa tinh tế của đồng bào dân tộc Mông
mãi còn nguyên giá trị.
17. Luật tục người K’ho:
Mồ côi khi cha còn sống
Người già K’ho phải trở về bản quán
ngay sau khi vợ qua đời. Những đứa con bị dứt khỏi vòng tay cha sau ngày mẹ
mất.
Người K’ho ở Tánh Linh (Bình
Thuận) theo chế độ mẫu hệ. Đến tuổi trưởng thành, con gái đi bắt chồng, con
trai khi cưới vợ là theo về ở rể.Ông K’Giá (buôn Tà Lốp, xã La Ngâu, huyện Tánh
Linh) được vợ bắt từ năm 1957. Nhà vợ sắm đủ lễ vật để bắt chồng theo đúng tục
lệ của buôn làng gồm 25 lá khăn, một con trâu biết cày, một con heo hai người
khiêng, một con gà trống và bốn ché rượu cần.
Vợ chết, chồng phải về nhà cũ
Họ có với nhau năm gái và ba trai.
Đến năm 2003, vợ ông qua đời, lúc đó ông đã 72 tuổi. Đứa con út của ông cũng đã
hơn 20 tuổi. Sau lễ mở cửa mả bảy ngày cho vợ, ông K’Giá thu xếp trả lại toàn
bộ tài sản mà hai vợ chồng làm ra trong hơn 40 năm cho bên vợ trước khi về lại
nhà mình. Ông không được đưa bất kỳ đứa con nào đi theo.
Trước lúc ông về lại nhà, hai đứa
cháu gái gọi ông bằng cậu đến nhà vợ ông bày lễ vật xin đón cậu. Lễ vật gồm một
chai rượu trắng, hai trứng gà luộc chín, hai chén cơm và một chén nước. Tất cả
đặt trước bàn thờ trong nhà vợ ông để người ra đi nói vài lời tạ từ với người
đã khuất.
Ông K’Giá nhìn sững sờ lên bàn thờ
trống trơ. Mấy chục năm mải mê nương rẫy, ông chưa đưa vợ về xuôi chụp cho vợ
tấm ảnh. Nước mắt lăn dài trên má người đàn ông đã bao nhiêu năm lăn lộn với
núi rừng để tìm cái ăn nuôi vợ, nuôi con. Ông biết rằng tập tục của buôn làng
như vậy, muốn làm khác cũng không được. Và dù đã cố nén lòng, ông cũng chỉ nói
được một câu: “Thôi bà ở lại, tôi đi đây!”.
Mặt trời đã lên trên đỉnh núi bên
hông nhà. Ông bước ra sân nhưng vẫn cố ngoái lại nhìn ngôi nhà thân thương của
mình. Con cháu ông đứa nào đứa nấy đều nước mắt ngắn dài nhìn theo bước chân
người cha, người ông của mình. Họ đã nhiều lần chứng kiến những cuộc tiễn đưa
theo tập tục người K’ho nhưng khi chuyện đó xảy đến với chính gia đình họ thì
sự đau xót lại quá lớn.
Chị Bờ Đam Thị Hem, sinh năm 1960,
con gái lớn của ông K’Giá, kể: “Ba tôi về nhà bà con ở, tụi tôi thấy thương và
nhớ cha lắm. Tôi thấy tục lệ này có gì đó quá vô lý. Vì vậy mấy ngày sau, tụi
tôi lại đến nhà bà con đưa ông về nhà nuôi, không cho ông ở đó nữa vì ông quá
già rồi, mà nhà bà con tôi cũng nghèo”.
Ông K’Giá về sống với các con ông
được hai năm thì bà Bờ Đam Mẵng (55 tuổi, chồng chết) đưa lễ vật đến nhà bắt
ông K’Giá về làm chồng. Lễ cưới gồm 30 lá khăn, một con heo khoảng 50 kg, một
con gà trống và ba ché rượu cần. Các con ông đều đồng ý cho bà Mẵng bắt cha
mình bởi từ khi mẹ qua đời, họ chỉ lo cho cha cái ăn, cái uống... còn cái buồn,
cái vui thì không lo được.
Chúng tôi đến thăm ông K’Giá vào
một ngày giữa tháng 8. Ông đang ngồi một mình với chiếc kèn bầu dưới cái chòi
đựng lúa của nhà vợ mới là bà Mẵng. Thỉnh thoảng ông đưa kèn lên môi thổi.
Trong cơn mưa chiều của rừng núi âm u, tiếng kèn của ông nghe thật buồn. Ông
nói: “Tôi sống với bà Mẵng không khổ nhưng vẫn nhớ mẹ của con Hem. Già rồi, chỉ
muốn sống sum vầy với con cái. Thế nhưng tục lệ của cha ông thì không thể làm
khác được!”.
Những đứa trẻ mồ côi
Anh Đặng Công Khanh, Phó Chủ tịch
xã La Ngâu, nói: “Nhiều năm công tác tại địa phương này, điều tôi day dứt chính
là nhiều đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ trong khi người cha vẫn còn sống”.
Anh dẫn tôi đến nhà chị K’Thị Mẫm.
Chị ốm yếu và xanh xao, tưởng tuổi ngoài 60. Ít ai ngờ năm nay chị chưa quá 50
tuổi. Năm ngoái chị có đứa em bị bệnh nặng và qua đời. Em rể là Hoàng Văn Thỉnh
(lúc đó mới 22 tuổi) phải trở về với bà con của mình ở tỉnh Lâm Đồng, để lại
cho chị đứa con gái tên Bờ Đam Nhã mới ba tháng tuổi. Vợ chồng chị Mẫm phải
nuôi tám đứa con trong điều kiện nghèo khổ. Nuôi thêm cháu, chị vẫn phải dành
tiền mua sữa cho cháu uống thay sữa mẹ.
“Hồi mẹ của con Bờ Đam Nhã chết,
nhà tui còn một đứa em gái 15 tuổi. Nó không chịu bắt thằng Thỉnh làm chồng nên
thằng Thỉnh phải về nhà ở Lâm Đồng” - chị Mẫm nói. Nhìn ngôi nhà tềnh toàng,
rách nát của vợ chồng chị Mẫm, đồng thời nghe kể là hằng ngày cháu Bờ Đam Nhã
dù mới bảy tuổi nhưng vẫn vào rừng bẻ măng phụ vào bữa ăn của gia đình, tôi
không khỏi chạnh lòng. Trường hợp của cháu Bờ Đam Nhã chỉ là một trong nhiều
trường hợp mồ côi mẹ ở xã La Ngâu không được quyền ở với cha.
Cần một sự đổi thay
Anh Hà Văn Dinh - Chủ tịch UBND xã
này cho biết: Hiện nay tại xã có bảy trường hợp vợ chết. Trong đó, năm người
phải bỏ con lại để về ở với bà con của mình. “Tôi không dám cho tập tục người
K’ho của mình khi vợ chết, chồng phải trở về nhà cũ để ở là lạc hậu. Nhưng nếu
vì tập tục này mà để cho các cháu mồ côi cha trong khi cha vẫn còn sống là
không công bằng” - anh Dinh nói. Cũng theo anh thì đời sống mẫu hệ của người
dân K’ho ở đây hiện đang có những thay đổi. Ngày càng có nhiều người không theo
tập tục cũ. Đa phần người K’ho đều muốn khi người vợ chết, người chồng vẫn được
phép ở lại với con cái.
Anh Nguyễn Văn Thiểu, người K’ho,
Bí thư chi bộ thôn Tà Cụ, thị trấn Lạc Tánh, huyện Tánh Linh, cho biết: Tại
thôn Tà Cụ, chủ yếu là đồng bào K’ho sinh sống rất hòa thuận. Họ đều theo tập
tục bắt chồng và người chồng phải trở về với bà con của mình mỗi khi người vợ
chết. Anh nhận thấy tập tục này không còn phù hợp với cuộc sống hiện nay, vì
vậy đã vận động bà con không nên theo nữa. Nhiều người nghe anh, thôi về nhà bà
con để ở mỗi khi vợ chết.
Anh Mang Sơn (sinh năm 1975) là một
thí dụ điển hình. Tháng 3-2008, vợ anh qua đời, bỏ lại cho anh bốn đứa con. Đứa
lớn 12 tuổi và đứa nhỏ mới tám tháng tuổi. Theo lời khuyên của anh Thiểu, anh
Mang Sơn không về nhà theo tập tục, vẫn ở lại nuôi con. Sau đó, có một chị dân
tộc ở xã kế bên đến ngỏ ý bắt anh làm chồng. Vậy là anh Sơn phải để các con lại
cho bà ngoại nuôi. Nhà ngoại nghèo vẫn chấp nhận nuôi bốn đứa cháu. Cả bốn cháu
đều lớn lên trong sự nghèo khổ của ngoại.Thấy thương hoàn cảnh của bà cháu, anh
Thiểu đề nghị Ủy ban thị trấn cấp cho các con anh Sơn một căn nhà tình thương.
Qua công tác nắm tình hình ở cơ sở, Hội phụ nữ Công an huyện Tánh Linh phát
hiện hoàn cảnh các con anh Sơn. Dù Hội phụ nữ Công an huyện chỉ có năm chị
nhưng mỗi tháng mỗi chị đều trích tiền lương 20.000 đồng cấp cho các cháu 10 kg
gạo, một hộp sữa, 1 kg đường cát. Việc tặng quà đó vẫn được thực hiện đúng, đủ
hơn một năm nay. Đây cũng chính là những tấm lòng đáng trân trọng khi biết các
chị chưa hẳn khá giả nhưng vẫn dành dụm để chia sẻ cho nhau những khó khăn
trong cuộc sống cộng đồng.
Thay đổi một tập tục là điều không
dễ dàng. Nhưng hủ tục đã đẩy những đứa trẻ thơ ngây vào cảnh mồ côi cả cha lẫn
mẹ ngay sau khi mẹ mất. Việc cải tiến phong tục là cần thiết để những đứa trẻ
kia được lớn lên trong tình yêu thương, chăm sóc của cha, để những người già
không phải trở nên bơ vơ khi vợ qua đời, khi mà con cái họ còn đề huề và có khả
năng lẫn mong muốn được phụng dưỡng...
18. "Củi hứa hôn" và
phong tục cưới hỏi của người Giẻ
Dọc
hai bên đường Hồ Chí Minh lịch sử, đoạn qua huyện Đắc Glây (Kon Tum), chúng ta
dễ nhận thấy rất nhiều gia đình có những đống củi được cắt bằng nhau, xếp ngay
ngắn ở đầu nhà, hoặc trước sân và được che chắn cẩn thận. Đấy là "củi hứa
hôn" của các cô gái dân tộc Giẻ.
Để tìm hiểu rõ hơn về những đống củi này, chúng tôi đã
tìm gặp một số già làng hiểu biết về phong tục, tập quán của người Giẻ. Theo
phong tục, khi cô gái đã đến tuổi cập kê, đã nhận lời một chàng trai nào đó mà
mình ưng ý (sắp lấy chồng), các cô gái thường lên rừng tìm những thân cây chất
liệu tốt, đượm than, suôn và thẳng (tốt nhất là thân cây dẻ) đốn bằng nhau,
phơi khô và cõng về nhà để chuẩn bị "ngày lành tháng tốt" cõng đến
nhà trai. Số lượng củi thường là 100 bó, chiều dài 1 mét và đường kính bó củi từ
40 đến 50cm. Phía nhà trai cũng tích cực chuẩn bị thịt chuột, thịt chim phơi
hoặc sấy khô (nguyên cả con) để tiếp đón nhà gái khi cõng củi đến cho mình. Số
lượng chuột và chim tùy theo từng gia đình, nhưng thường thì cỡ 60 đến 70 con.
Trong thời gian đôi trai gái tìm
hiểu nhau, một người có uy tín trong làng, không có họ hàng với hai gia đình
chuẩn bị lễ vật đứng ra làm mai mối. Lễ vật bao gồm: Một hũ rượu nhỏ, hai chiếc
cần (ống hút) để uống đem đến nhà trai hoặc nhà gái do người mai mối chọn
(thường thì nhà chàng trai) và gọi người con gái đến cùng uống rượu. Sau khi
đôi trẻ đã uống, cha mẹ của chàng trai sau đó là người mai mối cùng uống rượu
chung vui. Cũng trong thời gian uống rượu và trò chuyện, người mai mối trình
bày nội dung của buổi uống rượu hôm đó. Khi hũ rượu đã được uống cạn, cũng là
lúc đôi trai gái thành vợ thành chồng. Và, tất nhiên đêm về đôi trai gái được
phép ngủ chung. Tuy là vợ chồng của nhau, được ngủ chung trong chiếc buồng nhỏ
dành cho họ, nhưng trong thời gian một năm ngủ chung ấy, người con gái không
được phép có bầu. Nếu vi phạm quy định, người con gái mang thai khi chưa đủ một
năm chung sống, đôi trai gái ấy phải chịu "hình phạt" của làng, sẽ bị
đuổi ra xa cách làng hơn 2km, tự làm lều để ở và cũng không được ai quan tâm
thăm hỏi đến họ. Nếu ai đến đó sẽ bị lây và mang theo tật xấu về làng...
Kể từ ngày đôi trai gái bị đuổi,
nếu trong làng có ai bị đau ốm, bệnh tật hoặc do sơ ý gây nên tai nạn, gãy
chân, gãy tay hoặc mất mát của cải v.v. gia đình nạn nhân và cả làng đổ lỗi cho
đôi trai gái ấy. Tất nhiên họ phải bồi thường thiệt hại do họ gây nên là một
con trâu, ít nhất cũng phải một con lợn hơn 50kg... do họ đã vi phạm luật của
"thần nước", "thần đất", "thần lúa" nên bà con
trong làng bị "thần" phạt.
Và cũng kể từ khi bị đuổi khỏi làng
sống cách ly với bà con, cho đến khi con họ sinh ra được trên ba tháng mới được
làm lễ "Tạ lỗi" và quay về chung sống với dân làng. Lễ vật bao gồm
lương thực, thực phẩm phục vụ buổi lễ, kèm theo hai con lợn. Một con dùng để
bồi thường uy tín cho già làng, giết thịt cho những người cao tuổi trong làng
ăn. Một con dùng cho dân làng ăn mừng "đứa con mới" của đôi trai gái.
Trở lại chuyện về những bó củi
"Hứa hôn" của người con gái. Trong thời gian một năm đến ngủ chung ở
nhà chồng, cô gái thường lên rừng cõng củi về cho gia đình chàng trai. Thỉnh
thoảng, tự tay mình giã gạo mang đến cho "người yêu". Những người
trong gia đình cô gái cũng giúp cô cõng củi về nhà tập kết và che chắn cẩn
thận. Đến một ngày được xem là "ngày lành tháng tốt", nhà gái cử
người đến báo với nhà trai và tập trung họ hàng cõng củi đến nhà trai (chỉ cho
phép cõng trong một ngày). Nếu gia đình nhà trai đã đi lên nương rẫy, đích thị
chàng trai phải lên nương tìm gọi bằng được họ hàng về để tiếp đón nhà gái.
Không chỉ cõng củi cho gia đình chồng, mà nhà gái phải cõng cho anh chị ruột
của chồng, là những người đã xây dựng gia đình ra ở riêng mỗi người 20 đến 30
bó củi. Đáp lại tình cảm của họ hàng nhà gái, gia đình chàng trai cũng tập
trung anh em lại, giã gạo, thổi cơm mời những người cõng củi ở lại "dự
tiệc". Ngoài ra, mỗi người tham gia cõng củi, đều được nhà trai
"tặng" một bộ áo quần, ít nhất cũng được một cái Kà Tu. Riêng anh em
ruột của cô gái thì nhất thiết phải đủ mỗi người một bộ.
Sau ngày nhà gái đã cõng củi đến
nhà trai, gia đình chàng trai chuẩn bị làm cơm mời nhà gái đến "dự
tiệc", để cảm ơn nhà gái đã cõng củi cho gia đình. Khi đến mời gia đình
nhà gái dùng cơm, phải mang theo lễ vật là những chú chuột, chú chim đã được
sấy khô chuẩn bị từ những ngày trước. Số lượng từ 60 đến 70 con tùy thuộc vào
nhà trai. Sau hôm cõng củi và lễ mời cơm ấy, họ hàng hai bên mới chính thức trở
hành "sui gia", tiếp tục đi lại thăm hỏi nhau theo phong tục của
người Việt Nam.
19. Lễ ăn cơm mới của người Xá
Phó
Trong ngày làm lễ cơm mới, người
nhiều tuổi nhất trong nhà sẽ ra nương một mình để gặt một vài cụm lúa mới về
cúng tổ tiên. Người đó phải dựng một ngôi sàn nhỏ trên nương, bày ba chén rượu,
ba đôi đũa, một hòn đá, một quả trứng gà luộc, một nắm cơm và ba sợi chỉ trắng,
rồi khấn thần lúa.
Sau đó, dùng chỉ buộc vào ba cây lúa để không cho hồn
lúa bay đi, rồi mới dùng một nhíp nhỏ ngắt 6 khóm lúa mới ở cạnh đó. Việc cắt
lúa được thực hiện từ tây sang đông. Người Xá Phó quan niệm rằng, khi gặt mà
hướng về phía mặt trời mọc thì thóc lúa sẽ được nhiều. Khi gặt, vừa nhanh, vừa
phải nhìn chăm chăm vào khóm lúa đang gặt để tránh chim chuột biết đến tranh
cướp hết. Người gặt sẽ bày đủ sáu khóm lúa vừa gặt được dưới chân bàn thờ, rồi
bóc quả trứng luộc để xem. Nếu như lòng trắng quả trứng tròn vo, mịn màng thì
năm đó mùa màng thất bát. Vì thế, trước khi ra về, kết thúc nghi lễ của ngày
đầu tiên, người gặt sẽ cắm một cái ta leo để cấm người lạ.
Ngày thứ hai, cả vợ lẫn chồng chủ
nhà cùng đi gặt. Theo phong tục, họ vẫn không được nói gì và mỗi người gặt đủ
15 bó lúa để cúng như hôm trước.
Ngày thứ ba, việc gặt lúa vẫn được
tiến hành trong im lặng, dẫu lần này cả gia đình cùng tham gia. Mãi đến khi,
lúa gặt đã cơ bản xong, chủ nhà bỏ cái ta leo đi thì mọi người mới được nói
chuyện bình thường.
Sau những nghi lễ bắt buộc của mùa
gặt mới, gia chủ chờ đến một ngày tốt mới làm lễ ăn cơm mới chính thức. Lễ gồm
ba mâm cơm: mâm thờ mẹ (hoặc bà nội), gồm các loại thịt thú rừng sấy khô, hoa
chuối đồ, củ gừng, củ khoai sọ và tám bát rượu to, nhỏ. Hai mâm thờ bố (hoặc
ông nội) có các món tương tự, chỉ có điều, cơm cũ và không phải là tám bát rượu
mà chỉ có một bát to và một bát nhỏ. Khi cúng, thầy mo cúng mâm bố trước, cúng
mâm mẹ sau. Lúc này, bà chủ nhà hoặc vợ của các người anh em chồng phải ngồi
túc trực bên mâm. Lễ cúng xong, phụ nữ được ăn cơm trước và ăn ở mâm có cơm
mới.
Bà chủ nhà sẽ gói một gói cơm mới
và một bát rượu to cho chồng, rồi đem thêm cơm mới cùng các thức ăn ngon cúng ở
mâm mẹ chia cho các thành viên nam giới ngồi bên mâm cúng bố. Nhiều người trong
bản cùng kéo đến ăn cơm mới và múa hát cùng gia chủ.
Lúc này, lễ ăn cơm mới của người Xá
Phó mới được coi là kết thúc.
20. Hà Nội mùa Tết Vu
lan
Tháng bảy Âm lịch về, chút hương
sắc đầu thu đã rây rây khắp phố. Đây cũng là dịp người ta hướng về miền tâm
linh nhiều hơn, có nhiều người còn gọi đây là thời điểm mùa ăn chay trong năm.
Bởi lẽ, ai ai cũng biết rằng rằm tháng bảy là Tết Vu lan, dịp để con cháu tưởng
nhớ đến cha mẹ, ông bà tổ tiên
Nơi chùa chiền thanh tịnh những
ngày này đông người đến nhang khói hơn, cái ồn ã lắng dần đâu đó. Bởi lẽ, người
người đang hướng về lễ Vu lan- một dịp để tỏ lòng biết ơn thành kính đối với
các bậc sinh thành.
Chuyện xưa kể rằng Bồ Tát Mục
Kiều Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp Ngạ Quỷ. Từ đó mới có
ngày Vu lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói
chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước. Không biết đã mấy trăm mấy
ngàn năm đã trôi qua, người Việt từ nông thôn đến thành thị đều rất coi trọng ý
nghĩa của ngày lễ đặc biệt này.
Lễ Vu lan, đi qua hàng Mã tấp nập
người người chen chân mua vàng mã, quần áo, mũ mão thần linh về để hóa vàng gọi
là tấm lòng thành kính tưởng nhớ đền người đã khuất. Ta có thể bắt gặp trong
con hẻm nhỏ, cô gánh gàng rong với các thức quà vặt như bỏng chè lam…Những thứ
lễ không thể thiếu dùng trong ngày lễ vu lan. Ai nấy chẳng khỏi ngậm ngùi “trần
sao âm vậy” với mong muốn người thân đã quá cố khỏi tủi thân.
Tiếng văn tế thập loại chúng sinh
văng vẳng trong chùa càng khiến lòng người bổi hồi tưởng nhớ đến những người đã
khuất. "Lòng nào lòng chẳng thiết tha, Cõi dương còn thế
nữa là cői âm" . Tháng bảy lên chùa, nếu vào ngày rằm thì thật khó
chen chân bởi ai ai cũng muốn tìm chỗ đặt mâm lễ của mình. Vào ngày này, người
ta không đến chùa xin công danh lợi lộc mà cầu mong sự bình yên hạnh phúc và
may mắn. Lên chùa để tâm hồn được thanh tịnh, nhớ về cha mẹ và mong cầu cho
người thân quá cố được siêu thoát, mát mẻ chốn suối vàng. Đó chẳng phải là cách
bày tỏ sự tưởng nhớ và biết ơn với người đã nhắm mắt hay sao ? Mâm lễ có thể
rất giản dị, chỉ là dăm ngọn nến, thẻ hương, bỏng gạo, chè lam, bánh kẹo…Dường
như, đây cũng là một dịp đặc biệt để người dù thường ngày có bận bịu đến bao
nhiêu với những toan tính cuộc sống mưu sinh cũng sắp xếp thời gian đến chùa.
Lễ Vu lan còn là dịp để đại gia
đình sum vầy, quây quần cho mâm cơm cúng gia tiên. Thông thường thì các gia
đình làm lễ vào giờ Ngọ, mâm lễ cho gia tiên tùy theo điều kiện từng gia đình,
làm cơm hay cúng đồ cúng thông thường, ngoài ra chuẩn bị vàng mã, quần
áo, đồ dùng cho gia tiên. Hương tàn sẽ tiến hành hóa vàng. Gia đình có bền vững
và hạnh phúc mới mong ăn nên làm ra. Con người có tấm lòng thành kính với tổ
tiên mới được phù hộ may mắn khỏe mạnh và không bị các vong hồn quấy nhiễu. Từ
những suy nghĩ ấy, mà có một ngày lễ mang ý nghĩa thật đẹp.
Dịp Tết Vu lan, ngay cả những người
con đang xa nhà, cũng cúi đầu nhớ về hình ảnh mẹ còn đang đợi mình bên bậc cửa,
nhớ ngày thơ bé được mẹ chăm sóc, nâng niu. Khi cái tâm hướng về quá khứ, về
cõi thanh tịnh trong kí ức, lại thấy những bữa cơm chay mà mẹ thường làm cho cả
nhà vào dịp này. Có phải, ăn chay để thấy tâm hồn mình được bình an hơn ? Không
ít người lên xin bữa cơm chùa đạm bạc như muốn thưởng cảm giác thanh tịnh yên
tĩnh từ trong lòng mình. Chẳng biết họ có mong cầu có được chút giao hòa tâm linh
với tổ tiên.
Xã hội Việt Nam từ ngàn xưa đã coi
trọng con người biết hiếu thảo và nếp sống ấy mặc nhiên đã hình thành nền đạo
đức hàng đầu trong đời sống của dân tộc. Ngày Tết Vu lan là phong tục đẹp trong
truyền thống của người Việt. Tuy vậy cũng không thể từ đó mà suy diễn ra những
ý nghĩa mê tín không đúng với bản chất tốt đẹp của ngày lễ này. Nói như vậy
không có nghĩa lễ vu lan chỉ hạn hẹp báo hiếu đối với người đã khuất núi. Đây
là dịp để nghĩ đến cha mẹ ta còn đang sống giữa đời, vẫn ngày đêm lo lắng cho
ta mà có lúc ta vô tình chẳng quan tâm. Người Việt chưa có ngày dành riêng cho
bố, cho mẹ thì đây chăng phải là một cơ hội để các con tỏ lòng thành kính
với công ơn dưỡng dục của các đấng sinh thành. Đức Phật dạy: "Công ơn
cha mẹ sâu dầy vô tận. Dù vai phải cõng cha, vai trái cõng mẹ mà đi hàng trăm
nghìn kiếp, người con vẫn không thể nào đền đáp nổi công ơn ấy!" .
Bởi vậy nên ngày lễ Vu lan - tuy chỉ một chút thôi nhưng cũng là lúc chúng ta
thể hiện lòng báo hiếu đối với cha mẹ.
Giữa chốn thị thành ồn ã, con người
tưởng như chỉ còn biết cuốn vào những guồng quay đến chóng mặt của cuộc sống,
thật cảm động biết bao khi những ngày lễ này vẫn còn tồn tại, được mọi người
trân trọng và nhớ đến. Hà Thành vốn là mảnh đất lưu giữ nhiều nét đẹp văn
hóa truyền thống, chính vì thế ngày lễ Vu lan được người dân coi trọng và gìn
giữ. Vu lan còn gợi cho chúng ta ý nghĩa thâm trầm về sự giải thoát, và sự chỉ
dẫn cho chúng ta con đường tự do thênh thang trong từng bước đi, hơi thở hướng
thiện.
Trai gái chọn hoa hồng để nói
chuyện tình yêu. Còn với lòng kính yêu cha mẹ, ông bà, có bận gì đi chăng nữa
thì cũng dâng một cành lan hay bông sen với hương thơm tinh khiết để tỏ lòng
hiếu kính?
21. Tết Trung Thu và các
phong tục
Tết Trung Thu theo Âm lịch là ngày
rằm tháng 8 hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết
trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người
lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun
nước... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào
ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao,
trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức
múa lân, múa sư tử để các em vui chơi thoả thích. Ở Việt Nam, ngày
tết Trung Thu được diễn tả trong tục: "Ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối
đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Đầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái
hoa quả, nhuộm các màu sắc sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi
nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con
cá coi cũng đẹp".
Múa lân
Theo các nhà khảo cổ học thì Tết
Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ.
Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được
chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước
và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa
trong phủ Chúa.
Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung
Thu, theo học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở
Á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng.
Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối
tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần
dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi
sang một chu kỳ mới.
Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ
và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy
nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách “Thái Bình
hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa Thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao
duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa Thu là mùa của thành hôn.
Việt Nam là một nước nông nghiệp
nên nhân lúc tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật
thảnh thơi”, người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu.
Ý nghĩa tết Trung Thu
Theo phong tục người Việt, vào dịp
Tết Trung Thu, cha mẹ bày cỗ cho các con để mừng Trung Thu, mua và làm đủ thứ
lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn. Cỗ mừng Trung
Thu gồm bánh Trung Thu, kẹo, mía, bưởi và các thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp
để cha mẹ tùy theo khả năng kinh tế gia đình thể hiện tình thương yêu con cái
một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khăng khít thêm.
Cũng trong dịp này người ta mua
bánh Trung Thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn
bè, họ hàng và các ân nhân khác.
Người Trung Hoa thường tổ chức múa
rồng vào dịp Trung Thu, còn người Việt múa sư tử hay múa lân. Con Lân tượng
trưng cho sự may mắn, thịnh vượng và là điềm lành cho mọi nhà... Thời xưa,
người Việt còn tổ chức hát Trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống
quân theo nhịp ba "thình, thùng, thình".
Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em
và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa
màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm
tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu
màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị.
Ngắm trăng (Thưởng nguyệt)
Tết Trung Thu là tết của trẻ em.
Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn
hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh Trung Thu, với
những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời
xưa là ông Tiến sĩ giấy.
Trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn
lồng, đèn ông sao, đèn con giống... sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca
hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm
tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt.
Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người lớn có
cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em.
Bày cỗ
Mâm cỗ Trung Thu thông thường có
trọng tâm là con chó[được làm bằng tép bưởi, được gắn 2 hạt đậu đen làm mắt.
Xung quanh có bày thêm hoa quả và những loại bánh nướng, bánh dẻo thập cẩm hoặc
là loại bánh chay có hình lợn mẹ với đàn lợn con bép múp míp, hoặc hình cá chép
là những hình phổ biến. Hạt bưởi thường được bóc vỏ và được xiên vào những dây
thép, phơi khô từ 2-3 tuần trước khi đến hôm rằm, và đến đêm Trung Thu, những
sợi dây bằng hạt bưởi được đem ra đốt sáng.
Những loại quả, thức ăn đặc trưng
của dịp này là chuối và cốm, quả thị, hồng đỏ và hồng ngâm màu xanh, vài quả na
dai...và bưởi là thứ quả không thể thiếu được. Đến khi trăng lên tới đỉnh đầu
chính là giây phút phá cỗ, mọi người sẽ cùng thưởng thức hương vị của Tết Trung
Thu.
Phong tục trông trăng cũng liên
quan đến sự tích Chú Cuội trên cung trăng, do một hôm Cuội đi vắng, cây đa quý
bị bật gốc bay lên trời, chú Cuội bèn bám vào rễ cây níu kéo lại nhưng không
được và đã bị bay lên cung trăng với cả cây của mình. Nhìn lên mặt trăng, có
thể thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, và trẻ em
tin rằng, đó là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa.
Hát trống quân
Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục
hát trống quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một
sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng
"thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo
vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra.
Cuộc đối đáp trong những buổi hát
trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Trai gái dùng
điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng
tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm
năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể
để hát. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân
đời Hồng Bàng. Tết Trung Thu của người Hoa không có phong tục này.
Múa sư tử (múa lân)
Vào dịp Tết Trung Thu có tục múa Sư tử còn gọi
là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt
lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân
tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này. Người
ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15.
Ðám múa Lân thường gồm có một người
đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp
trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo
nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có
người cầm côn đi hộ vệ đầu lân... Ðám múa Lân đi trước, người lớn trẻ con đi
theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng
tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.
Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân
sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải.
Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Ngoài ý nghĩa vui
chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng
tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ
trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và
nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v.
22. Một số phong tục hay
của các dân tộc thiểu số Việt Nam
Phong tục làm cho sắc thái văn hoá
trở nên đa dạng, phong tục giúp cho ta phân biệt được cộng đồng này, dân tộc
này với cộng đồng kia, dân tộc kia. Sống đúng với phong tục, mới là sống với
truyền thống. Một khi xa lạ với những phong tục của cộng đồng, thì sẽ không
được cộng đồng chấp nhận, sẽ bị xem là trái với văn hoá truyền thống của cộng
đồng.
Phong tục của các dân tộc thiểu số
Việt Nam là cả một đề tài vô tận. Cả 54 dân tộc có biết bao nhiêu là hiện
tượng, sự kiện văn hoá rất đáng quan tâm. Những vẻ đẹp trong những bộ y phục,
trong đồ uống, thức ăn, những cách thức thờ cúng, cách tổ chức ngày sinh nhật,
những nề nếp độc đáo trong các cuộc tang ma, cưới hỏi... là những hiện tượng
mang đậm ý nghĩa văn hoá truyền thống. Vì thế mà có người đã cho rằng, muồn
hiểu biết về văn hoá truyền thống của các cộng đồng phải tìm hiểu qua các phong
tục.
1. Sự tích rượu cần (nhiều dân tộc)
Các dân tộc thiểu số, hầu như nơi nào cũng uống rượu cần. Hiện nay, chúng ta
chưa sưu tầm được hết sự tích rượu cần của các dân tộc, chỉ mới biết người
Mường, người Thái giải thích lý do ra đời của rượu cần như sau:
Một ông cụ có hai người con dâu. Cụ muốn thử xem ai là người thông minh, đức
hạnh. Cụ bảo:
- Bố đi ăn uống đã nhiều, nhưng chưa được ăn con vật gì mà thịt lại nằm trong
xương, cũng chưa được uống loại nước gì chảy ngược cho ngọt ngào, ý vị. Các con
cố tìm cho bố. Được ăn uống những thứ đó, bố mới khoẻ ra được.
Cô dâu cả nghĩ mãi, không hiểu là thức ăn thức uống gì. Cô dâu thứ hai cũng bí,
hỏi chỗ này chỗ khác cũng không ai biết thức ăn ấy ra sao. Chị buồn rầu ra suối
ngồi nghĩ. Bỗng chị nhìn thấy con ốc bên bờ suối. Thôi phải rồi! Con ốc, ruột
trong mềm, vỏ ngoài cứng, thế chẳng phải thịt nằm trong xương hay sao? Bên bờ
suối, lại có ai đã cắm một cái vòi chuyền cho nước chảy ngược lên máng. Muốn
nước chảy ngược cũng phải làm như vậy. Chị liền bắt một mớ ốc về nấu canh, múc
một bầu nước, vót cái cần cắm vào bầu. Cứ để nước lã như thế thì sẽ chẳng có
mùi vị gì, chị bỏ vào bầu vài nắm lá thuốc trong rừng. Đưa về nhà thì ông cụ
đang đi vắng. Chị dấu kín các thức đã chuẩn bị, chờ bố về đưa nộp.
Người dâu cả đang nghĩ chưa ra cách, thấy em thu dấu thì bực, liền lén bỏ vào
bình một nắm bã trấu và tấm vụn. Không ngờ như thế lại làm cho bình nước thêm
chất - Lá, trấu, tấm quện lại, lên men, hoá thành một thứ rượu ngọt. Ông bố ăn
canh ốc rối cầm cần hút. Đúng là nước thân nước thương chảy ngược và canh thịt
nằm trong xương. Ông cụ khen nức khen nở, giao cả cơ nghiệp cho cô em. Và lịch
sử xa xôi của bình rượu cần có từ đó.
2 . Trao vòng cầu hôn (Dân tộc Ê Đê)
Trai gái Ê Đê đã yêu nhau, họ báo cho gia đình biết để sắp xếp lễ đính hôn. Gia
đình bên gái nhờ ông đăm đai (ông cậu) sang nhà trai đặt vấn đề xin cưới, hẹn
ngày gặp và chuẩn bị trao vòng (trôk kôông). Đến ngày hẹn, họ hàng nhà gái đến
nhà trai làm lễ. Hai già làng có uy tín đại diện hai bên bàn bạc. Mỗi bên đại
diện đặt trên chiếu một cái vòng bạc. Khi hoàn toàn đồng ý, họ cầm vòng lên
trao cho đôi nam nữ. Chàng trai và cô gái yêu nhau mỗi người đeo một cái vòng
ấy. Và sau là đến việc tổ chức lễ cưới.
Trường hợp chàng trai bội ước, không làm lễ cưới, thì anh ta phải trả cho cô
gái một khoản phạt bằng hiện vật, và làm cho cô gái một lễ hiến sinh (một con
lợn).
3 . Chiếc khăn piêu (Phụ nữ Thái)
Khăn đội đầu của phụ nữ Thái gọi là khăn piêu, có thể xem là một đặc trưng văn
hoá. Nhìn khăn đội đầu, người ta có thể phân biệt được người đó thuộc dân tộc
nào, thậm chí có thể phân biệt được các ngành khác nhau trong cùng một dân tộc.
Khăn piêu của phụ nữ Thái đen dệt bằng sợi bông nhuộm màu chàm tím sẫm, có độ
dài chừng một sải tay. Mặt khăn piêu gọi là Nả piêu, được thêu bằng những đường
chỉ ngũ sắc, tạo ra những đường dây hoa văn, gọi là dây Sài peng (dây tình).
Các sợi dây tình này, đan xen vào nhau, tạo thành các hình vuông, hình ngôi sao
xéo tám cánh, đối nhau từng đôi một. Hai đầu khăn piêu là vải ngũ sắc, các góc
tết thành sừng, gọi là cút piêu. Cút piêu là những hình tròn như đồng xu quấn
chỉ dày, đậm. Khi đã tìm hiểu nhau rồi, đi đến đính ước, thì khăn piêu trở
thành vật tin. Piêu là quà biếu khi về nhà chồng, là sợi dây tình. Và cũng có
thể là vật dâng cúng trong ngày lễ.
4. Mừng ngày sinh nhật
(Dân tộc Dao)
Một số dân tộc vùng núi xa xôi vẫn có tục tổ chức ngày sinh nhật để mừng... chủ
yếu là mừng người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên). Chẳng hạn như người Dao. Tiếng
Dao gọi là Sèng nhật. Người ta trước hết mừng sinh nhật ông bà, cha mẹ hoặc
người cao tuổi nhất trong nhà, chứ không mừng tràn lan cho tất cả mọi người.
Năm đầu tiên, mời đông khách nhất, gồm họ hàng thân thích, hàng xóm láng giềng.
Trước đó, gia đình chuẩn bị các đồ ăn thức uống. Phải dọn một mâm lên bàn thờ,
mời thầy cúng khấn báo với tổ tiên là ngày này mừng sinh nhật ai, mời tổ tiên
cùng về ăn cỗ. Khách đến dự lần lượt đến chào người được mừng sinh nhật, tặng
quà và chúc những lời tốt đẹp. Những năm tiếp theo, nếu không có điều kiện thì
không mời khách, nhưng vẫn làm cỗ trong gia đình để các cụ được vui.
5. Bát canh rêu đá (Dân tộc Thái)
Trong các ngày lễ lạt, người Thái cũng dùng các món ăn: thịt, cá, nộm và canh
xương hầm măng, hầm đu đủ, nhưng giá trị nhất phải là bát canh rêu đá, tiếng
Thái gọi là Kênh tau.
Người ta cho rằng thơm và ngon nhất là rêu đá ở Mường Lò (Văn Chấn) lại cho
rằng không nơi nào có rêu đá ngon bằng ở suối núi (Nậm Thia), vì nơi đây có câu
chuyện tình đau thương và cảm động. Truyền thuyết kể rằng có đôi trai gái yêu
nhau, song bị bố mẹ ngăn cản. Nàng khóc, nước mắt chảy xuống ướt chín quả đồi,
ướt mười ngọn núi, thành một dòng nước chảy xuyên rừng. Chàng trai nhớ thương
bạn, đã lao đầu xuống dòng nước ấy. Thân thể chàng bị tan ra thành nhiều mảnh
đá. Tóc xanh của người con gái bám vào những mảnh đá ấy, biến thành rêu xanh.
Rêu đá suối Thia là kết quả của thiên tình sử bi thương. Ăn canh rêu đá ấy thì
sẽ đậm đà tình thương nỗi nhớ.
23. Người Triêng với cây đinh tút
Qua bao đời nay, người Triêng vẫn
lưu giữ nhiều vốn văn hóa quý, trong đó có âm nhạc truyền thống và đặc biệt giá
trị của loại sáo đinh tút, làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần.
Người Triêng (một nhóm địa phương thuộc dân tộc
Giẻ-Triêng), nơi có nền văn hóa cổ truyền từ ngàn đời, hội đủ những đặc trưng
của cư dân miền núi. Người Triêng sinh sống chủ yếu ở ba xã La Dêê, Ðắc Pre và
Ðăk Pring thuộc huyện miền núi cao Nam Giang, Quảng Nam.
Mỗi khi tiếng sáo đinh tút thổi lên
hòa cùng tiếng trống và cồng chiêng, âm thanh ấy lan tỏa, bay bổng vào ngõ
ngách, trên các triền núi cao, nơi định cư của người Triêng, tạo nên một không
gian văn hóa huyền ảo...
Già làng Zơrâm Ớt 84 tuổi, dân tộc
Triêng, hiện ở thôn Ðăk tà Vâng, xã La Dêê, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam cho
biết: Ðinh tút được làm từ cây trúc, loại này mọc rất nhiều ở vùng của người
Triêng sinh sống, nhưng không phải cây nào cũng làm được đinh tút đúng kỹ thuật
và cho âm hay. Ðinh tút của người Triêng gồm có sáu ống dài ngắn và lớn nhỏ
khác nhau được làm từ thân cây trúc.
Các ống đinh tút theo thứ tự từ lớn
đến nhỏ và từ dài đến ngắn nhất: Piđu, piđy, chel, chắk, rơn 1, rơn 2. Mỗi cây
đinh tút có một lóng và được giữ nguyên một mắt, đầu rỗng được vót hai bên tạo
cho ống có dáng hình phễu để thổi. Muốn thổi được đinh tút, phải có sức khỏe và
có kỹ thuật. Bộ đinh tút của họ hiện nay so với đinh tút truyền thống thì ống
nhỏ và ngắn hơn, vì vậy có nhiều người biết thổi.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, muốn
thổi đinh tút thì phải có từ tám người trở lên. Trong đó tám nghệ nhân thổi
đinh tút tùy vào sở trường của từng người mà mỗi người phụ trách một ống, còn
lại hai nghệ nhân hòa điệu cồng chiêng. Ðinh tút hay, hay dở là phụ thuộc vào
người tạo ra nó, từ khâu chọn loại trúc đến việc thẩm âm là kinh nghiệm của
nghệ nhân đó.
Ðinh tút là loại nhạc cụ không thể
thiếu trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, trong lao động sản xuất, nhất là vào
dịp mùa xuân. Ngoài ra, trong các dịp lễ hội của cộng đồng như: lễ lập làng, lễ
mừng nhà mới, mừng cưới hỏi... và đặc biệt nó luôn có mặt trong lễ hội Choóc
đăil truyền thống thường gọi là ngày hội đinh tút của người Triêng.Người Triêng
lớn lên trong tiếng đinh tút, tiếng sáo độc đáo này cũng góp phần làm nên những
tình yêu đôi lứa.Già làng Zơrâm Ớt cho biết thêm: Tùy thuộc vào từng bài đinh
tút mà người thổi hòa âm với nhau theo ba hoặc bốn cặp một. Trong quá trình
thổi đinh tút thì cặp đinh tút ngắn và nhỏ nhất sẽ thổi trước, kế đến là cặp
trung, rồi đến cặp dài nhất cùng hòa âm với nhau thành tám điệu, gọi là tám bài
đinh tút tương ứng gồm: Za zá, pê lách, túk chiêng hoong, troong zục, trơn
lăil, zức zăih... hòa cùng những điệu múa tạo nên một dòng chảy không dứt làm
cho hội đinh tút luôn tiếp diễn.Sự chuyển hóa linh hoạt của những bài đinh tút
và sự uyển chuyển của các cô gái Triêng trong bộ trang phục truyền thống đẹp
nhất, với các bài múa và những điệu sáo đinh tút vang lên bên những thung lũng
hẹp, núi rừng vào hội tạo âm thanh giàu cảm xúc, phóng khoáng làm cho tâm hồn
người Triêng luôn được thoải mái, nhẹ nhàng...
Tiếng sáo đinh tút thổi lên, âm
thanh của nó cứ bay bổng, lan tỏa trên các triền núi cao nơi định cư lâu đời
của người Triêng hòa cùng trống, cồng chiêng vào núi rừng đại ngàn tạo nên một
không gian văn hóa huyền ảo, thôi thúc mọi người tạm gác mọi lo toan của cuộc
sống đời thường để cầu mong một năm an lành, hạnh phúc, mưa thuận gió hòa, mùa
màng bội thu và no đủ, mọi người thương yêu và đùm bọc nhau.
Ngoài công việc nương rẫy, những
lúc rảnh rỗi, họ đều dành thời gian để truyền nghề cho lớp trẻ và mọi người đều
thích thú học để thổi loại nhạc cụ độc đáo này. Ðến nay, các xã như: La Dêê,
Ðăl Pre và Ðăk Pring đã hình thành nên nhiều đội đinh tút như: Ðội đinh tút
làng Ðăktà Vâng, Ðăk Chờđây, Ðăk Lôi, Ðăk Hlôil, Ðăk Ôốc, Ðăk Rế...
Nếu có dịp đến các vùng của đồng
bào Triêng sinh sống vào mùa lễ hội, chúng ta vẫn còn nghe tiếng sáo đinh tút
mọi lúc mọi nơi cứ bay bổng ngân nga ăn sâu vào tiềm thức và là thông điệp gửi
gắm những điều tốt lành cho cộng đồng người Triêng. Ðây là dấu hiệu đáng mừng
của cộng đồng này trong việc bảo tồn và phát triển vốn âm nhạc truyền thống
24.
Đạo Mẫu - giá
trị văn hóa tinh thần của người Việt
Dù không phải là mùa lễ hội, song
Phủ Giầy, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, vẫn nhộn nhịp người, xe, nghi ngút khói
hương, rộn ràng tiếng đàn, lời hát. Tín ngưỡng thờ Mẫu quả là sức cuốn hút.
Tín ngưỡng thờ Mẫu hay Đạo Mẫu là một trong những tín
ngưỡng lớn ở Việt Nam. Có thời kỳ loại hình tín ngưỡng này bị cấm vì bị cho là
mê tín, dị đoan, song với những giá trị, tính nhân văn vốn có, Đạo Mẫu đã được
nhìn nhận lại một cách nghiêm túc.
Từ năm 1992 đến nay có thể kể đến 4
cuộc hội thảo lớn về tín ngưỡng thờ Mẫu, qua đó những giá trị văn hoá, tín
ngưỡng trong Đạo Mẫu ngày càng được hiểu rõ hơn.
Mẫu trong Đạo Mẫu là một hình tượng
của người mẹ Việt Nam, hình tượng của một đấng thần linh luôn luôn cứu vớt
chúng sinh thoát khỏi những cơn hiểm nguy trong cuộc sống. Nét đặc trưng trong
tín ngưỡng thờ Mẫu là nghi thức hầu đồng.
Với 36 giá đồng, Mẫu đã hoá thân
vào tất thẩy để giúp cho nhân dân, cầu cho nhân dân vượt qua mọi khó khăn, xây
dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, no ấm, hoà bình hơn. Đặc biệt, Đạo Mẫu luôn ca
ngợi, tôn vinh công đức của những danh nhân, những người có công xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, giúp đỡ nhân dân thoát khỏi những tai ương trong cuộc sống.
Bên cạnh ý nghĩa tín ngưỡng, Đạo
Mẫu còn tích hợp những giá trị văn hoá, nghệ thuật mà ít có tín ngưỡng nào có
được gồm: văn học dân gian, nghệ thuật diễn xướng (hát, múa, nhạc), tạo hình.
Đây cũng là một sinh hoạt văn hoá cộng đồng, thu hút nhiều người, nhất là các
bà, các mẹ tham gia.
Trong quá trình hình thành, phát
triển của Đạo Mẫu có hàng trăm bài văn chầu được dân gian sáng tác. Các bài văn
chầu được ví như những truyền thuyết bằng thơ, thường có hàng trăm câu với nội
dung mô tả cảnh tình, ca ngợi công đức, răn dạy người đời.
Đạo Mẫu sản sinh ra những hình thức
diễn xướng riêng, bắt nguồn từ dân gian, mang sắc thái dân gian độc đáo, không
bị trộn lẫn với bất cứ hình thức diễn xướng nào. Nét đặc trưng của hình thức
diễn xướng này là hát chầu văn. Tự bao đời, dân gian đã sáng tạo nên hàng chục
điệu chầu khác nhau như Bỉ, Miễu, Thống, Phú, Dọc, Cờn, Xá...
Trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu,
Phủ Giầy được coi là một trong những trung tâm lớn. Nhân vật trung tâm được thờ
trong quần thể với gần 20 di tích này là Mẫu Liễu Hạnh - một trong tứ bất tử
của thần điện Việt Nam và là thần chủ của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Lễ hội Phủ Giầy được khôi phục từ
năm 1995 với nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hoá như: rước thỉnh kinh, hoa
trượng hội, thi hát văn, trình diễn các làn điệu dân ca... Vào mùa lễ hội, Phủ
Giầy ngập tràn những điệu chầu.
Ngày thường, Phủ Giầy vẫn nhộn nhịp
người xe, nhang khói đón tiếp những người không có điều kiện dự lễ chính, vừa
xa cơ, lỡ vận hoặc những người muốn thăm quan, tìm hiểu di tích.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một trong
những giá trị văn hoá có sức sống trường tồn, bền vững, có sức hút và đi vào
đời sống văn hoá, tinh thần của người dân Việt Nam. Việc lập hồ sơ đề nghị
UNESCO công nhận Đạo Mẫu, nghi lễ hầu đồng là di sản văn hoá phi vật thể của
nhân loại là xứng đáng và cần thiết./.
25.
Xem ngày kén
giờ
Việc cưới xin, việc làm nhà cửa,
việc vui mừng khai hạ, việc xuất hành đi xa, việc khai trương cửa hàng, cửa
hiệu, việc gieo mạ cấy lúa, việc tế tự, việc thương biểu, việc nhập học, việc
xuất quân, việc an táng... việc gì thường cũng phải xem ngày kén giờ, nhất là
đầu năm mới bắt đầu làm việc gì, hoặc động thổ hoặc xuất hành, hoặc khai bút,
khai ấn... lại cần xem ngày lắm. Đến những việc vụn vặt như cạo đầu xỏ tai cho
trẻ thơ, việc tắm gội, may áo... cũng có người cẩn thận quá trong kén ngày.
Kén thì phải xem đến lịch. Sách
lịch do toà khâm thiên giám soạn ra. Mỗi năm về ngày mồng một tháng chạp, Hoàng
Đế ngự điện khai trào, các quan Khâm thiên giám cung tiến Hiệp Kỷ Lịch, rồi
khâm mạng vua mà ban lịch khắc nơi...... Ban lịch trọng thể nhất là để cho
thiên hạ biết chính xác nhất tiết khí, tháng thiếu tháng đủ, ngày tốt ngày xấu,
để tuân hành được đều nhau.
Đại để ngày nào có nhiều sao cát tinh như thiên đức, nguyệt đức, thiên ân,
thiên hỷ... hoặc là ngày trực khai, trực kiến, trực bình, trực mãn thì là ngày
tốt. Ngày nào có những sao hung tính như sao trùng tang, trùng phục, thiên
hình, nguyệt phá thì là ngày xấu.
Kiêng nhất là ngày sát chủ, ngày thụ tử, việc gì cũng phải tránh. Mỗi tháng có
ba ngày là ngày năm, mười bốn, hai mươi ba, gọi là ngày nguyệt kỵ, việc gì cũng
nên kiêng và nhất là nên kiêng nhập phòng. Trong một năm lại có mười ba ngày
gọi là ngày Dương công kỵ nhật, hết thảy việc gì cũng phải tránh những ngày ấy.
Những ngày ấy là:
Ngày 13 tháng giêng
Ngày 11 tháng hai
Ngày 9 tháng ba
Ngày 7 tháng tư
Ngày 5 tháng năm
Ngày 3 tháng sáu
Ngày 8, 29 tháng bảy
Ngày 27 tháng tám
Ngày 25 tháng chín
Ngày 23 tháng mười
Ngày 21 tháng một
Ngày 19 tháng chạp
Hễ phạm phải ngày ấy thì việc gì
cũng hư hỏng không thành.
Phàm việc lại cần kén ngày hợp mệnh, mà kiêng ngày tuổi.
Ngoại giả lại còn những ngày thập linh, ngày đức hợp là tốt, ngày thập ác đại
bại, ngày tứ lỵ, ngày tứ tuyệt là xấu.
Nói qua mấy việc dân gian cần dùng nên kén nên kỵ.
Cưới xin nên tìm ngày thiên đức, nguyệt đức, kỵ ngày trực phá, trực nguy. Làm
nhà nên tìm ngày thiên ân. Thiên hỷ, kỵ ngày thiên hoả, địa hoả và ngày kim
lâu. Xuất hành nên tìm ngày lộc mã, hoàng đạo, kỵ ngày trức phá, trực bế. An
táng nên tìm ngày thiên hỷ, thiên đức, kỵ ngày tử khí quan phù...
Còn như kén giờ thì việc gì lúc mới bắt đầu như lúc mới xuất hành, lúc mới ra
ngõ đi cưới, lúc mới dựng nhà, lúc hạ huyệt... Thường đều kén lấy giờ hoàng
đạo. Phép tính giờ hoàng đạo phải nhớ bốn câu thơ:
Dần, thân gia tý; mão dậu dần
Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân;
Tỵ, hợi thiên cương tầm ngọ vị
Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân
Lại cần phải nhớ hai câu:
Đạo viễn kỷ thời thông đạt
Lộ dao hà nhật hoàn trình
Lúc đánh giờ trước hết phải biết
ngày gì, rồi dùng hai câu thơ dưới mà bấm theo giờ ở bốn câu thơ trên. Hễ bấm
mà gặp cung nào có chữ "đạo, viễn, thông, đạt, dao hoàn" thì giờ ấy
là giờ hoàng đạo...... Xét phép chọn ngày, từ đời Đường, Ngu, Tam đại đã có.
Song khi bấy giờ thì chỉ tuỳ việc mà chọn ngày: Nội sự dụng nhu, ngoại sự dụng
cương. Nội sự là việc trong như việc tế tự cưới xin... thì dùng những ngày âm
can là các ngày: ất, đinh, kỷ, tân, quý. Ngoại sự là việc ngoài như đánh dẹp,
giao thiệp... thì dùng ngày dương can là các ngày: Giáp, bính, mậu, canh, nhâm.
Dùng như thế chỉ có ý làm các việc êm ái, hoà nhã thì theo về ngày âm, việc
cứng cáp mạnh mẽ thì theo về ngày dương, nghĩa kén lấy ngày có chút ý nghĩa hợp
với nhau mà thôi.
Đến đời sau các nhà âm dương thuật số mỗi ngày mới bày thêm ra ngày tốt, ngày
sao xấu, ngày này nên là việc nọ, ngày kia nên làm việc kia. Hết ngày rồi lại
có giờ sinh, giờ hợp, giờ xung, giờ khắc, động làm việc gì cũng phải xem ngày,
kén giờ, thực là một việc phiền toái quá. Đã đành làm việc gì cũng nên cẩn
thận, mà chọn từng ngày, kén từng giờ mà phí câu nệ khó chịu. Mà xét cho kỹ thì
có ích gì đâu, chẳng qua việc thành hay bại cốt do ở người chớ có quan hệ gì
ngày tốt hay ngày xấu. Nếu cứ chọn ngày giờ mà nên việc thì không cần gì phải
dùng đến sức người nữa hay sao? (Trích "Việt Nam phong tục" Phan
Kế Bính).
26. Hội chùa Trăm Gian và lệ đánh cờ người
Chùa
Trăm Gian, còn gọi chùa Núi, chùa Tiên Lữ, tên chữ là Quảng Nghiêm Tự, thuộc xã
Tiên Phương, huyện Chương Mỹ. Tọa lạc trên núi Sở, ngôi chùa như một bông hoa
nghệ thuật xòe nở lên bầu trời, đón nhận linh khí từ trên cao truyền xuống.
Lễ hội chùa Trăm Gian mở vào ngày 4
tháng Giêng. Suốt năm làm ăn buôn bán, chạy ngược chạy xuôi, bận rộn vất vả,
chỉ có ngày tết, ngày hội người dân nơi đây mới được thư thả thanh nhàn, sống
thật hồn mình. Khi đó gặp nhau là tay bắt mặt mừng, vui vẻ sởi lởi, dẫu có giận
hờn chê trách cũng bỏ qua cho nhau, cùng sống với cái tình cộng đồng làng xã.
Hội mở sớm, nhằm ngày hóa của đức Bồ tát Khai Sơn. Ngài có tên là Nguyễn Bình
An, quê ở làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai. Bấy giờ, vào thời nhà
Trần, ngài đến tu ở chùa Núi Tiên Lữ, nổi tiếng là một vị cao tăng thông tuệ
Phật pháp, được dân sùng tín gọi là pháp sư và được triều đình coi trọng. Tương
truyền ngài có nhiều phép lạ, hú gió gọi mưa, bước chân nhanh như gió. Từ chùa
Tiên Lữ ngài đi mấy bước đã về đến Bối Khê, dấu chân thành những ao hồ như ở
Quán Thánh, Lương Xá, ổ Vực và in trên phiến đá ở trước cửa chùa Bối, đến nay
đều còn. Ngài lấy tương cà ở Bối Khê về Tiên Lữ nấu cơm cho thợ làm chùa ăn.
Niêu cơm nhỏ mà đoàn thợ hàng trăm người ăn mãi không hết, chẳng khác gì niêu
cơm Thạch Sanh.
Năm 95 tuổi, ngày 13 tháng Chạp,
ngài vào khám nhập định, đến mồng 4 tháng Giêng, dân làng thấy có mùi thơm mới
mở ra, thì hương thơm sực nức, hào quang sáng chói, biết là ngài đã hóa, mới
lập bàn thờ. Ngài đã thành Thánh. Đức thánh Bối, tức là Bồ tát Bình Đẳng Hành
Nghĩa, còn gọi là Bồ tát Khai Sơn.
Khám thờ ngài được đặt trên
gian gác lửng, có ván bưng, cửa luôn khép kín, tạo một không gian u tịch, linh
thiêng ở bên trái điện Phật. Những người thành tâm hướng thiện đến cầu sẽ được
ứng nghiệm. Truyền thuyết về ngài đậm màu sắc hoang đường kỳ ảo, nhưng đó là
hình thức nghệ thuật dân gian nhằm tôn vinh một vị cao tăng đã trở nên linh
thiêng trong dân chúng và phản ánh ước mơ tài sức của người bình dân.
Lễ hội chùa Trăm Gian là lễ
hội vùng, gồm các thôn như thôn Nội, thôn Thượng, thôn Phương Khê (đều thuộc xã
Tiên Phương, Chương Mỹ) và thôn Thổ Nghĩa (nay thuộc xã Tân Hòa, Quốc Oai).
Quan anh Bối Khê từ quê hương đức Thánh ngày đại đám cử một đoàn gồm 8 cụ ông,
8 cụ bà, những bậc đạo cao đức trọng, không vướng "bụi", đem pháo
bông sang lễ và giao lưu kết chạ.
27. Hát Chầu Văn Trong Hầu Bóng
Hầu bóng là một phong tục gắn liền
với đời sống tâm linh của người Việt. Đây là một lễ thức đặc trưng mà tiêu biểu
nhất là tín ngưỡng Tứ Phủ. Tín ngưỡng Tứ Phủ là tín ngưỡng đặc thù của người
Việt. Tín ngưỡng này có rất nhiều nghi lễ đầy mầu sắc và là mấu chốt đã tạo ra
nhiều lễ hội rất phong phú, đa dạng đến phức tạp.
Hầu bóng là nghi lễ
nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác ông Đồng bà Cốt . Khi các vị
Thánh đã nhập đồng thì Đồng chính là Thánh hiển linh để phán truyền, ban phúc
cho các tín dân. Để phục vụ cho nghi lễ quan trọng này người ta đã sáng tạo ra
một hình thức lễ nhạc gọi là Hát Vǎn để phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển
thánh.
Hầu Bóng
Hầu bóng còn là một đam mê của các ông bà tin tưởng vào tâm linh sâu đậm của
mình đối với các vi thánh.
Hầu đồng chính là “Sa Man Giáo” từ thời thương cổ của nhiều dân tộc trên
thế giới.
Theo quan niệm dân gian thì người hầu đồng trước hết là người có duyên với đạo
Mẫu (Có căn). Là những người trong phong trào theo nhau đội bát nhang.
Dạng thứ hai là những người có căn cơ qua một lễ Phủ
Dạng thứ ba là những người có cao căn đã mở tứ phủ để hầu đồng hay còn gọi là
lính của ngài
Dạng thứ tư là những người đã mở điện thờ tại gia. Muốn thành ông đồng bà cốt
phải qua hai lễ tôn bát nhang và ra đàn Tứ Phủ. Như vậy hầu đồng thực chất có
thể xem là một hình thức diễn xướng dân gian có đủ yếu tố Lễ nhạc và Vũ Đạo.
Các Nghi Thức Chuẩn Bị Cho Một Buổi Hầu Đồng
Ðiện thờ: Điện thờ chính thờ hệ thống Mẫu Tứ Phủ, Mẫu Thượng
Thiên (Trời) ở giữa, Mẫu Ðịa (Ðất) ở bên phải, Mẫu Thoải (Nước) ở bên trái, Mẫu
Thượng Ngàn (Núi, Rừng). Ở các chùa chiền miếu mạo thường những bức tranh thờ
bà Chúa, đức Thánh Trần, ông Hoàng Ba, Hoàng Bẩy, Tam Phủ, Tứ Phủ theo nghệ
thuật thời thượng Đông Hồ, Hàng Trống hay Sỳnh.
Người hầu đồng trước tiên phải chọn ngày lành tháng tốt để chuẩn bị hầu với thủ
nhang nhà đền, phủ hay điện
Dàn nhạc Hầu Bóng. Dàn nhạc hầu bóng gồm có 1 đàn nguyệt, 1 đàn nhị, 1 sáo, 1
trống lớn, 1 trống nhỏ, 1 cảnh đôi, 1 phách. Tùy từng địa phương, tùy hoàn cảnh
hành lễ mà người ta có thể thêm bớt nhạc cụ này hoặc nhạc cụ khác, nhưng người
ta không thể bớt đi đàn nguyệt, trống nhỏ, cảnh đôi vì đây là những nhạc cụ
nòng cốt, nhạc cụ tính cách của dàn nhạc Hầu Bóng..
Nhân sự cho một buổi hầu đồng: Hai người phụ đồng là người thân hay người trong
hội hoặc trong nhóm và một ban cung văn
Trang phục: Tang phục thích hợp cho từng vị thánh, thần nhập
đồng. Vì vậy người hầu đồng phải chuẩn bị đầy đủ trang phục tùy theo định hầu
mấy giá. Thường thì cần những trang phục sau đây:
- Khăn đỏ phủ diện
- Ít nhất là 5 chiếc áo
dài mầu sắc khác nhau và một quần dài trắng
- Khăn tấu hương và một
ít loại khăn khác
- Thắt đai lưng mầu
- Thẻ ngà, kiềng bạc,
vòng, hoa tai, chuỗi hạt, xuyến, quạt và son phấn
- Tuy nhiên cũng có
trường hợp, người hầu đồng chỉ cần một vuông vải đỏ.
Mầu sắc của trang phục phải phù hợp với mầu sắc của từng phủ. Mầu đỏ Thiên Phủ,
mầu vàng Địa Phủ, mầu xanh Nhạc Phủ và mầu trắng Thoái Phủ.
Lễ vật
Lễ vật trình đồng phải khác với lễ vật hầu bản mệnh hay tiệc khao, được trình
bày trên một kỷ tháp hình chữ nhật kê chính giữa và gồm những thứ sau đây:
Chén đũa bạc, đĩa và cốc pha lê chính giữa là một cái gương trên phủ một chiếc
khăn thêu. Hai bên bục và trước kỷ ( bày bốn mâm lễ Tứ Phủ mỗi mâm có chín quả
trứng, một cái lược, một cái quạt, một đôi guốc, chín vuông vải nhiễu mầu phủ
lên trên (nhiễu hoặc lụa). Mầu phải là ma6`u chính của Tứ Phủ (Xanh, đỏ, trắng
và vàng). Bên cạnh mâm lễ có một cái chung nhỏ , một cái thau nhỏ. Cứ mỗi lễ
phải thay một hình nhân (nôm) và bốn lốt (2). Bên cạnh mâm lễ Tứ phủ là
mâm lễ sơn trang (3), mà bất cứ thứ lễ gì cũng phải chia ra làm 13 phần (4).
Một phần lớn bày ở giữa còn 12 phần nhỏ bày xung quanh. Ngay cạnh đó là một mâm
hài sơn trang (hoặc giống) mầu. Mũi hài có thêu hình chim phượng. Một trăm vàng
thoi (Giấy vàng xếp thành thoi).
Ở dưới bệ, trước bàn thờ bầy đủ các loại mã và một chiếc thuyền rồng hình
cánh phương có 12 hinh nhân chèo thuyền, một đôi ngựa và một đôi voi có đủ yên
cương và hàm thiếc. Những đồ dung mã người ta sẽ hóa (đốt) sau khi lễ.
Ngày ngay lễ vật có thay đổi đôi chút tùy nơi, tuy nhiên vẫn phải giữ căn
bản tối thiểu tùy đồng tiền dâng cúng
Trình Tự Một Buổi Hầu Đồng:
Băt đầu buổi hầu đồng người ta đặt các lễ vật lên hương án. Người hầu đồng để
các dụng cụ lên chiếu đồng, bước lên chiếu đồng, lấy hoa xoa lên mặt, quần áo
rồi vẩy xung quanh để tẩy uế . Cung văn lên giây đàn, dạo nhạc, hát văn cộng
đồng. Ba động tác tiên khởi mà người hầu đồng phải làm là: Chấp tay chờ cho phụ
đồng phủ khăn diên lên đầu trùm cả tay xong thì đưa tay lên trán rồi bước
chân trái lên môt bước, chân phải chụm lên với chân trái, lập lai them hai lần
mới quỳ xuống. Người hầu đồng làm lễ vái dập người, hai tay chống xuống chiếu,
mặt úp sát, vái ba lễ. Sau đó đứng dậy đi dật lùi ba bước về vị trí cũ. Giá đệ
nhất được bắt đầu.
Cũng như giá đầu, khi sang một giá khác, người hầu đồng sau khi thay đổi trang
phục và lễ cụ sẽ bước lên chiếu đồng, cung văn chuẩn bị tấu nhạc. Người hầu
đồng, chit xoa khăn vái, ngồi xếp bằng. Người phụ đồng kính cẩn đưa một chiếc
khăn phủ diện mầu đỏ. Hầu đồng cầm khăn, vái mấy vái rồi phủ lên đầu, hai tay
cầm hai mép khăn phủ ở đầu gối. Một lúc sau đầu hầu đồng lắc lư, đảo đảo rồi
bất ngờ hét lên một tiếng, chỉ ngón trỏ trái lên trời. Đó là dấu hiệu giá quan
lớn đệ nhất nhập đồng.
Một Giá Đồng Có Thể Tiến theo Trình Tự Sau:
a. Thay Lễ phục:
Mỗi vị thánh đều có lễ phục riêng phù họp với danh hiệu của vị đó và mầu sắc
cũng khác biệt tùy từng phủ, từng gốc tích sắc tộc gốc, phẩm hàm cũng như văn
hay võ.
b. Dâng hương hành lễ:
Đây là một nghi thức không thể thiếu được cho bất cứ gía nào. Hầu đồng tay trái
cầm một bó nhang đã đốt sẵn, boc trong mot chiếc khăn có tẩm hương. Tay phải
rút một nén nhang rồi huơ lên bó nhang trong tay làm động tác phù phép mà ngôn
ngữ hầu đồng gọi là khai nông, để xua đuổi tà ma
c. Lễ thánh giáng
Khi hầu đồng có thánh nhập vào thì buông các nén hương đang cầm theo tay chắp ,
nghiêng mình ra hiệu thánh thuộc hạng thứ bậc nào.
Có hai hình thức thánh giáng
- Giáng trùm khăn (hầu tráng mạn) với các giá thánh mẫu. Mẫu chỉ đến chứng giám
rồi đi ngay.
- Giáng mở khăn – với các hang quan trở xuống.
Khi thánh đã nhập, người hầu đồng không còn là người phàm nữa, xuất thần, tự
thôi mien đã giúp cho họ nhảy múa một cách uyển chuyển, nhịp nhàng mà bình
thường họ không làm được. Đó chính là hứng khởi mang tính tâm linh tôn giáo
(Chỉ có ở một số người)
d. Múa đồng
Múa đồng là một hình thức diễn xướng đã được cách điểm hóa, khẳng định sự ứng
nhập của thần linh. Bởi vậy động tác múa khác nhau tùy theo từng vị thánh.
Nhưng chung chung thì thấy có ảnh hưởng của chèo và vũ điệu dân gian.
Mỗi động tác múa trong các giá chầu phản ảnh con người thật của vị thánh giáng
đồng. Khi múa đồng thì ông đồng bà cốt sử dụng một số lễ cụ như kiếm, đao, gậy,
mái chèo, quạt hay cờ…
Trước khi sử dụng lễ cụ, người hầu đồng bắt chéo hai dụng cụ lên trước trán,
sau đó cúi đầu làm lễ. Khi múa xong một giá, người hầu đồng lại bắt chéo hai lễ
cụ trước trán để tạ lễ.
e. Ban Lộc và nghe Văn chầu
Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị
thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh
biểu hiện sự hài long bằng động tácvề gối và thưởng tiền cho cung văn.
Lúc nầy cũng là lúc, thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu
thuốc lá, trầu nước v.v. Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cương (khai
quang) cho thanh sạch.
Lúc nầy những người ngồi dự chung quanh đến gần để cầu xin hoặc nghe thánh phán
truyền. Và đây cũng là lúc thánh phát lộc. Lộc thánh gồm nhiều thứ như: hoa
quả, bánh trái, gương lược, tiền bạc, nén nhang cháy v.v.
f. Thánh thăng
Cuối cùng là dấu hiệu thánh thăng. Người hầu đồng ngồi yên, hai tay bắt chéo
trước tránquạt che lên đỉnh đầu, khẽ rung mình, lúc ấy hai người phụ hầu đồng
cấp tốc phủ khăn diện lên đầu người hầu đồng, cung văn trổi nhạc và hát điệu
thánh xa giá hồi cung
Một giá đồng kết thúc.
28. Thơ ca giao duyên của đồng bào dân tộc Pa Cô
Trên đại ngàn Trường Sơn bao la,
hùng vĩ, đồng bào dân tộc Pa Cô, nhất là thanh niên nữ nữ rất yêu thích thơ ca
giao duyên. Bất cứ ở đâu và lúc nào, hễ có nhu cầu văn nghệ là ở đó thơ ca giao
duyên lại được họ sử dụng với tất cả niềm say mê, hào hứng.
Vì sao đồng bào dân tộc Pa Cô, nhất là tầng lớp thanh niên nam nữ Pa Cô lại
thích thơ ca giao duyên đến như vậy? Phải chăng đó là tiếng nói chung của người
Pa Cô vốn có tâm hồn rất mộc mạc, chân tình nhưng cũng rất nghệ sĩ, hồn nhiên
và thơ mộng?
Người dân Pa Cô sống gắn bó với tự nhiên nên trong thơ ca trữ tình của họ, hình
ảnh thiên nhiên bao giờ cũng rất sống động. Thiên nhiên ở đây đã được cảm hóa
bởi con người, ít nhiều mang sắc thái hoạt động của con người, không còn chỉ là
tự nhiên vì nó đã được gắn liền với cuộc sống lao động thường ngày.
Sau một ngày lao động vất vả nhưng đầy hứng thú trên các triền sông, cánh đồng,
nương rẫy... tối về các cô gái lại làm việc trong nhà với những công việc quen
thuộc như thêu thùa, quay xa, dệt vải... Các chàng trai đã không bỏ lỡ cơ hội
đến để giải bày tâm sự:
"Muốn có em về dệt cửi ở chân cầu thang
Muốn có em như cái chân khung cửi
Muốn có em mặc váy bên bếp lửa ở sàn".
Tùy theo hoàn cảnh mà các chàng trai có cách ứng xử, bày tỏ khác nhau. Có lúc
họ không dừng lại ở những lời bóng gió xa xôi mà tỏ ra mạnh dạn, trực tiếp,
chân thành và nồng nhiệt:
"Anh đây muốn ăn cơm cùng mâm
Ăn cá cùng bát
Ăn chuối cùng nải
Ngắm trăng cùng rừng
Tắm cùng một vực...".
Trai gái Pa Cô không chỉ tìm hiểu nhau qua lao động, qua những cuộc tiếp xúc,
gặp gỡ ở chân cầu thang, trong nhà, ngoài vườn mà ở nhiều nơi, nhiều lúc. Họ hy
vọng gặp được những chàng trai, cô gái mà mình mong mỏi bấy lâu. Họ vừa hát
giao duyên, vừa liếc mắt đưa tình tìm bạn đời chung thủy. Khi chưa tìm được ai
chàng trai có thể than thở, trách móc dễ làm mủi lòng các cô gái:
"Sao em chẳng thương khuôn mặt
anh, đôi mắt anh
Ðôi mắt tròn đen láy, miệng chẳng nói nên lời!".
Nếu cô gái còn hững hờ, chàng trai hát tiếp:
"Hay là em có người yêu, mắt anh soi chẳng thấy em ơi?"
Nhưng có khi lời trách móc, than thở không phải là của các chàng trai mà lại
là của các cô gái:
"Ơi anh! Gối em đã nhồi bông gạo
Em mong ngày âu yếm bên anh
Nhưng càng mong đường tình càng đứt
Càng mong anh càng rứt tâm can
Em phải khóc, nước mắt chảy trong đêm dài vô tận
Nước mắt thấm vào gối
Ðể cho mầm hột bông gạo đâm chồi".
Thanh niên nam, nữ dân tộc Pa Cô
khi yêu nhau, tìm hiểu nhau, nhớ nhung rất nhiều. Sự nhớ nhung đó đôi khi chẳng
trừu tượng, nhút nhát mà rất cụ thể:
"Anh nhớ em mỗi ngày ba bữa
Buổi thứ nhất lúc trâu vừa về
Buổi thứ hai lúc kê nồi thổi cơm chiều
Bữa thứ ba ấy là bữa quay xa chọn sợi
Lòng anh bối rối, tơ tưởng chẳng quên em".
Tình yêu của họ vừa hiện thực, vừa lãng mạn, bay bổng:
"Em đi trước lấy tóc đuôi gà và lược
Anh sẽ bước theo sau lấy sáo với khèn
Ðôi ta trang điểm, khoe tài khoe sắc cùng nhau".
Các bạn trẻ dân tộc Pa Cô rất trân trọng tình yêu và luôn bảo vệ tình yêu của
mình. Ðây là lời nhắn nhủ chân tình và ý nhị của một chàng trai:
"Nếu tóc em cuốn, đừng dùng hai lược
Khi đã có một rồi thì đừng tìm thêm hai em nhé".
Nỗi khát khao của chàng trai là chiếm được trái tim cô gái, người mà chàng trai
luôn trong tâm trạng trộm nhớ thầm yêu. Và, nếu:
"Lấy được em, anh sẽ bạt cả trái núi lau làm ruộng
Sẽ san cả trái đồi cỏ tranh làm bản
Tâm tình ta sẽ phải bện thành đôi".
Ðẹp thay, hạnh phúc đôi lứa của các chàng trai cô gái Pa Cô luôn lớn lên trong
nhịp sống lao động. Nhờ lao động mà có hạnh phúc và nhờ có hạnh phúc mà bài ca
lao động vang lên, kể cả trong những trường hợp:
"Nếu như người yêu tôi phải từ giã trần gian để lên cõi trời
Thì xin hãy lên đó để làm ruộng đợi tôi
Tôi sẽ nhổ mạ ở thế gian này lên cấy trên ruộng ấy
Ðã yêu rồi phải thành lứa thành đôi...".
Rồi còn đó những làn điệu trữ tình với những lời thơ đầy lưu luyến khi tiễn
biệt người yêu:
"Xa người yêu ta chưa được vỗ về
Xa người tình ta chưa được nói hết lời ái ân".
Những lời hát giao duyên thường được trộn lẫn trong những âm thanh của tiếng
đàn, tiếng khèn, tiếng sáo tất cả đều tạo nên một sự hài hòa, có lúc nghe não
nuột, day dứt; có lúc triền miên như lướt thuyền trên sông và trào lên những
đợt sóng xô trên ghềnh thác. Giọng hát giữa đại ngàn Trường Sơn có lúc thanh
cao, mềm mại, có lúc nức nở nghẹn ngào tạo nên những tình cảm nhớ thương quyến
luyến lạ thường.
29.
Y/tố Việt Mường
và Tày Thái trong nền VH dân gian đất Tổ
Việt - Mường và Tày
- Thái là hai nhóm chính của người Việt cổ cư trú ở đất Tổ Phú Thọ. Văn hoá
vùng đất Tổ vì thế mang đậm sắc thái văn hoá Việt – Mường và Tày – Thái. Đoạn sông Hồng chảy qua Phú Thọ
được mang tên theo ngữ hệ Tày – Thái là dòng Nậm Tao, dịch ra tiếng Việt là
sông Thao. “Sông Thao nước đục người đen”, “Ai lên phố Ẻn thì quên đường về”
(ca dao K.C chống Pháp).
Dọc bờ hữu ngạn sông
Thao xa xưa là địa vực cư trú của người Tày Thái cổ. Thời Hùng Vương một bộ tộc
người Tày, họ Ma cư trú ở vùng chân núi Đọi Đèn thuộc huyện Sông Thao. Ông tổ
họ Ma, tên là Ma Khê được Vua Hùng phong làm Lương Tướng. ở Văn Khúc vị Lương
Tướng họ Ma thường hội kiến với Vua Hùng và Nguyễn Tuấn sau được hoá thân thành
thánh Tản Viên, người Mường. Đình làng Văn Khúc thờ Ma Khê có sắc phong ông là
“Phụ Quốc đại thần đại tướng quân Ma Khê” vì tương truyền ông được vua phong
chức quan đầu triều lo bề chính sự thay vua cha khi già yếu và giúp vị Vua trẻ
lúc mới kế vị ngai vàng. Ma Khê lấy người con gái ở chân núi Vi, cạnh Đền Hùng.
Về sau ông chuyển cả bộ tộc sang tả ngạn Sông Thao. Con trai ông là Ma Xuân cho
đắp thành trồng luỹ gọi là Ma Thành, gọi chệch là thành Mè. Ngày nay thị xã Phú
Thọ có chợ Mè và ở Phú An có đền thờ ông là vì vậy. Vào thời loạn lạc 12 xứ
quân cát cứ, cháu chắt Ma Khê là Ma Xuân Trường cầm đầu Ma tộc trấn giữ thành
Mè. Khi thành Hội Hồ (ở làng Văn Khúc) bị thất thủ, tướng quân Kiều Công Thuận
chạy sang Ma Thành cùng với Ma Xuân Trường chống lại Đinh Bộ Lĩnh. Kiều Công
Thuận tử trận. Ma Xuân Trường chạy lên Tuần Quán, Trấn Yên, Yên Bái. Sau mất ở
đấy, được dân làng lập đền thờ và Đinh Bộ Lĩnh vì thán phục uy đức mà truy phong
ông là “Ma tộc thần tướng”. Nay ở làng Trù Mật, thị xã Phú Thọ cũng có đền thờ
Kiều Công Thuận và Ma Xuân Trường. Dòng họ Ma nay cư trú ở thị xã Phú Thọ, Lâm
Thao hậu duệ của bộ tộc ấy hiện có một chi nhánh cư trú ở Việt Trì có gia đình
cụ Ma Văn Thực nguyên chủ nhiệm Liên hiệp hợp tác xã thủ công nghiệp Vĩnh Phú
là thân sinh ca sĩ Ma Thị Bích Việt. Hiếm có dòng họ nào còn lưu giữ được thần
phả, gia phả từ thời Hùng Vương như họ Ma ở Phú Thọ. Họ Ma gốc Tày cũng như
nhiều họ gốc Mường: Đinh, Quách, Bạch, Hà... là những nhóm cư dân Việt Cổ phát
triển lên thành người Kinh.
Các truyền thuyết về Ma
Khê và Tản Viên ở vùng Đất Tổ cũng nói đến sự hội nhập của hai nhóm Việt –
Mường và Tày – Thái ở Phú Thọ. Tản Viên chính là người Mường. Dù Tản Viên đã
được thần thoại hoá đến hoang đường nhưng bóc bỏ lớp huyền thoại ta vẫn tìm được
lõi thật lịch sự ông là con một bà làng Yên Sơn. Bà lấy chồng rồi về sống, sinh
đẻ Tản Viên ở Động Lăng Xương, làng Trung Nghĩa bên bờ sông Đà thuộc Phú Thọ.
Ông được dân gian tôn sùng đắp vẽ thành một thần tượng cộng đồng, vừa là anh
hùng trận mạc vừa là anh hùng văn hoá. Ông đánh giặc tài lại có công chống lại
Thuỷ Tinh biểu tượng của thiên tai lũ lụt. Ông là người anh linh nghĩa cử khước
từ ngôi báu, khuyên vua cha nhường ngôi cho Thục Phán để muôn dân thái bình.
Thục Phán cũng là gốc Tày – Thái quản lĩnh miền rừng núi phía trên nước Lạc
Việt của các Vua Hùng.
Yếu tố Việt – Mường và Tày – Thái
có biểu hiện ở sự pha trộn ngôn ngữ. Ngôn ngữ Tày – Thái gọi tre là pheo,
gọi chim là chóc, gọi chó là má, gọi thật là chăn để đan
xen thành những từ ghép trong tiếng Việt như: tre pheo, chim chóc, chó má, chân
thật. Cũng ghép như vậy với tiếng Mường để có các từ ghép: cá mú, nắng nôi,
v.v...
Ở khu di tích Đền Hùng có 3 quả núi
thiêng, tam sơn cấm địa. Trong đó có núi Nỏn, cạnh núi Nghĩa Lĩnh đặt tên theo
ngữ hệ Tày – Thái: Nỏn là út vì thế quả núi còn tên nôm thuần Việt một âm tiết
là núi Út.
Xoè là điệu múa dân gian của đồng
bào Thái. Người Mường ở các xã sát Sơn La, Nghĩa Lộ xưa cũng hay múa xoè. Phụ
nữ Mường ở các xã đó tuy mặc áo cóm và áo dài kiểu Mường truyền thống nhưng
khuy cài cúc cũng khâu giải ngang, cổ và hai nẹp áo trước ngực cũng thêu như áo
phụ nữ Thái, và đầu vấn khăn piêu theo kiểu Thái. Người Mường ở vùng này cũng
gọi quan đầu Mường của mình là ông quan ngài như người Thái.
Có một họ Hà thờ con cuốc vì truyền
thuyết họ Hà này cùng họ hàng với Thục Đế (họ Thục Phán). Con cuốc là tổ tiên
của Thục Phán (theo tô tem giáo).
Vùng Mường ở Phú Thọ vì thế có pha
trộn văn hoá Tày – Thái ở cận kề.
Tiếng Mường và Tày – Thái đều gọi
ruộng là na hoặc nà. Ở vùng người Việt Phú Thọ cũng nhiều nơi gọi ruộng là na
như ở Tứ Xã (1 xóm) Sơn Vi, Do Nghĩa, Hà Thạch, Thuỵ Vân. Làng Cao Xá có những
khu đồng như: Nà Pheo, Nà Giũa, Nà Đỏ v.v...
Một tấm bia trên Đền Hùng có 50% số
địa danh được ghi là na như Na Hưu, Na Dầu, Na Hoàng v.v... (theo Lê
Tượng Nguyên Trương Ban Quản Lý Đền Hùng).
Vì nước Văn Lang thời các Vua Hùng
là nước của người Lạc Việt (Việt – Mường) nên yếu tố Mường đậm đặc hơn yếu tố
Tày – Thái trong nền văn hoá dân gian vùng Đất Tổ.
Người Việt ở Phú Thọ cũng như ở các
nơi gọi điểm tụ cư là kẻ, chạ, thôn, làng. Trước đây người Mường thường vẫn gọi
điểm tụ cư của mình là động. Triều đình gọi là các động Man. ở
Phú Thọ cũng có các địa danh gọi là động như động Khuất Lão ở
huyện Tam Nông, động Lăng Xương ở Thanh Thuỷ – thị xã Phú Thọ cũng có
thời gọi là Phú An động. Thị trấn Hưng Hoá gọi Hoa Nham động.
Làng Cự Đà (Phù Ninh) thời nhà Lý còn gọi là động Cự Đà, làng Văn Khúc
là động Hoa Khê, v.v...
Người Mường có tục gọi vía lúa.
Những năm mất mùa người ta phải đi gọi vía lúa về làng bản của mình. Người ta
phải làm lễ cúng vía lúa rồi thầy mo hoặc một người hát rang gọi vía lúa, rủ rê
vía lúa về với mình.
Nhiều làng Việt cũng có tục rước
bông lúa thần trong lễ hội làng mình. Người Việt gọi là thần lúa cũng bắt nguồn
từ người Việt – Mường gọi thần lúa và vía lúa. Vì có truyền thuyết Vua Hùng
từng đứng trên núi Nghĩa Lĩnh gọi vía lúa nên ở Đền Hùng xưa cũng thờ hạt lúa
bằng gỗ đóng to như thuyền một cắng.
Nếu như người Mường thuộc Mường Kịt
có bài hát rang gọi vía lúa như sau:
“...Lúa nương thì ở phương xa”
“Lúa nhà thì ở phương gần”
“Về cúng mâm cơm mâm rượu”
“Vui từ cửa từ nhà”
“Sáng ngày mai vui ra đồng
ruộng”...
Thì người Việt ở làng Nam Cường
(huyện Tam Nông) lại có tục múa mo. Có chúa mo đứng chủ trò. Chúa mo có nguồn
gốc từ các ông mo là người hoạt động về tín ngưỡng, tâm linh của các cộng đồng
người Mường. Chúa mo ở Nam Cường hát gọi:
“Trong làng cây muống”
“Làng ta làm ruộng”
“Lúa tốt đề đa”
“Là hú ha ha!”
“Là hú hơ hơ!”
Các lễ hội về mùa màng của người
Việt cũng gần giống như của người Mường: Lễ hạ điền, thượng điền, cơm mới
v.v...
Nhiều làng Mường và Việt ở Phú Thọ
cùng thờ Tản Viên làm Thành Hoàng.
Nếu như nhiều làng Mường thờ dâm
thần như ở Thu Cúc xưa có đình miếu thờ nam thần dâm ở xóm Quẽ, nữ thần dâm ở
Đồng Than thì nhiều làng Việt ở Tam Nông, Lâm Thao, Cẩm Khê cũng có tục
cầu thờ sinh thực khí như thờ nõ nường ở Tứ Xã, Sai Nga. Thờ Kén (30 cặp sinh
thực khí nam) ở làng Dị Nậu v.v...
Nếu như người Mường làm nhà mồ chia
của cho người chết thì người Việt cũng có tục đem theo đồ dùng cho người chết
gọi là đồ tuỳ táng.
Các hình thức cưới xin của người
Việt cũng tương tự người Mường như tục nòm (ăn hỏi) đưa đón dâu, của hồi môn
v.v... Người Việt và người Mường đều có các trò chơi ném còn, cướp phết; từ đu
cọn của người Mường, người Việt đã làm ra đu tiên. Cả hai dân tộc đều hát ví,
hát đúm...
Người Mường Thanh Sơn có tục hát
nàng bung nàng bạn. Những đêm trăng thanh gió mát các nhà mày (đạo diễn)
trải 6 chiếu ra bãi cỏ cho nam thanh nữ tú vào hát đua tài. Có hát các tích
truyện thơ Mường. Chỉ có hát mà chưa có diễn. Có tích nhưng chưa dịch ra trò.
Phải chăng chiếu làng bung, làng bạn là tiền thân chiếu chèo của người Việt ở
Trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
Văn hoá vùng Đất Tổ là sự kế thừa
phát huy văn hoá gốc Lạc Việt (Việt Mường), Tày – Thái và tiếp thu các dòng văn
hoá khác qua hàng ngàn năm giao thoa hội nhập với các vùng khác, các tộc người
khác.
30. Ngày kiêng Hổ của người Dao đỏ Mồ Sì San
những ngày đầu năm
mới hằng năm, người Dao đỏ ở xã Mồ Sì San (huyện Phong Thổ - Lai Châu) lại
tổ chức tục kiêng Hổ. Đây là dịp để dân bản được quần tụ vui chơi, trao
đổi kinh nghiệm làm ăn để có được một năm mới ấm no, hạnh phúc.
Các già bản người Dao
đỏ ở xã Mồ Sì San (huyện Phong Thổ - Lai Châu) nói rằng, từ xa xưa cha ông họ
đã có tục kiêng Hổ vào ngày đầu năm mới, kéo dài trong 3 ngày. Theo quan niệm
của họ, ngày Dần đầu tiên trong tháng giêng âm lịch, hổ sẽ xuất hiện bắt gà,
lợn, trâu bò, gây thiệt hại về người và của. Trong những ngày tục kiêng Hổ, dân
bản không lên nương, không lên rừng, nông cụ được xếp gọn gàng vào một góc nhà
không ai được đụng đến và đặc biệt là không gây ra những tiếng động lớn trong
nhà. Họ cho rằng, nếu làm những việc ấy sẽ gặp điều rủi trong suốt cả năm. Các
cụ già thường ngồi viết chữ mừng năm mới, nam thanh niên tổ chức các trò chơi,
phụ nữ thì may vá, thêu thùa, trẻ em được mặc những trang phục dân tộc đẹp
nhất, mới nhất để vui chơi, giao lưu tìm bạn... Là xã vùng cao biên giới, Mồ Sì
San có 4 bản Séo Hồ Thầu, Mồ Sì San, Tân Séo Phìn, Tô Y Phìn nằm trên độ cao
1700m so với mặt nước biển, cư dân toàn bộ là người Dao đỏ. Tục kiêng Hổ ngày
đầu năm mới là dịp để dân bản được quần tụ vui chơi, trao đổi kinh nghiệm làm
ăn để có được một năm mới ấm no, hạnh phúc./.
31. Ý nghĩa thiêng liêng của bàn thờ vọng
Bàn thờ vọng áp dụng cho con cháu sống xa
quê, hướng vọng về quê, thờ cha mẹ ông bà tổ tiên, hương khói trong những ngày
giỗ, tết.
Ngày xưa, với nền kinh tế nông
nghiệp tự cung, tự cấp, người nông dân suốt đời không rời quê cha đất tổ,
chuyển cư sang làng bên cạnh cũng đã gọi là biệt quán, ly hương, vì vậy bàn thờ
vọng chỉ là hiện tượng cá biệt và tạm thời, chưa thành phong tục phổ biến.
"Vọng bái ", nghĩa
là vái lạy từ xa. Ngày xưa, khi triều đình có những điển lễ lớn, các quan trong
triều tập trung trước sân rồng làm lễ, các quan ở các tỉnh hoặc nơi biên ải,
thiết lập hương án trước sân công đường, thắp hương, nến, hướng về kinh đô quỳ
lạy Thiên tử. Khi nghe tin cha mẹ hoặc ông bà mất, con cháu chưa kịp về quê
chịu tang, cũng thiết lập hương án ngoài sân, hướng về quê làm lễ tương tự. Các
bàn thờ thiết lập như vậy chỉ có tính chất tạm thời, sau đó con cáo quan xin về
cư tang ba năm (xem bài Lễ Cư tang). Các thiện nam tín nữ hàng năm đi trẩy hội
đền thờ Đức Thánh Trần ở Vạn Kiếp, đức Thánh Mẫu ở Đền Sòng v.v... dần dần về
sau, đường sá xa xôi, cách trở, đi lại khó khăn, cũng lập bàn thờ vọng như vậy.
Nơi có nhiều tín đồ tập trung, dần dần hình thành tổ chức. Các thiện nam tín nữ
quyên góp nhau cùng xây dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến bàn thờ
chính xin bát hương về thờ. những đền thờ đó gọi là vọng từ (thí dụ ở số nhà 35
phố Tôn Đức Thắng Hà Nội có "Sùng Sơn vọng từ" nghĩa là Đền thờ vọng
của núi Sòng, thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh).
Bàn thờ vọng ông bà cha mẹ chỉ được
tập trung trong trường hợp sống xa quê. Những người con thứ, bất cứ giàu nghèo,
sang hèn thế nào, nếu ở gần cánh cửa trưởng trên đất tổ phụ lưu lại, thì đến
ngày giỗ, ngày tết, con thứ phải có phận sự hoặc góp lễ, hoặc đưa lễ đến nhà
thờ hay nhà con truởng làm lễ, cho dù cửa trưởng chỉ thuộc hàng cháu, thì chú
hoặc ông chú vẫn phải thờ cúng ông bà tại nhà cửa trưởng. Do đó không có lệ lập
bàn thờ vọng đối cửa thứ ngay ở quê nhà. Nếu cửa trưởng khuyết hoặc xa quê, thì
người con thứ 2 thế trưởng được lập bàn thờ chính, còn bàn thờ ở nhà người anh
cả ở xa quê lại là bàn thờ vọng.
Phong tục rất hay và rất có ý
nghĩa. Bởi lẽ chữ Hiếu đi đôi với chữ Đệ. Khi sống cũng như đã mất, ông bà cha
mẹ bao giờ cũng mong muốn anh chị em sống hòa thuận, một nhà đầm ấm. Thỉnh vong
hồn về cầu cúng lễ bái, mà anh chị em ở gần nhau không sum họp, mỗi người cúng
một nơi, thì đó là mầm mống của sự bất hoà, vong hồn làm sao mà thanh thản
được.
Cách lập bàn thờ
vọng:
Chưa phải là phong tục cổ truyền,
chưa có nghi lễ nhất định, mà chỉ là kinh nghiệm truyền cho nhau khoảng đầu thế
kỷ lại nay tuỳ hoàn cảnh thuận tiện mà vận dụng: Khi bắt đầu lập bàn thờ vọng
phải về quê chính báo cáo gia tiên tại bàn thờ chính. Sau đó xin phép chuyển
một lư hương phụ hoặc mấy nén hương đang cháy giở mang đến bàn thờ vọng rồi
thắp tiếp. Nếu có nhà riêng, tương đối rộng rãi khang trang, thì bàn thờ đặt
hẳn một phòng riêng chuyên để thờ cúng cho tôn nghiêm, hoặc kết hợp đặt ở phòng
khách, nhưng cao hơn chỗ tiếp khách. Nếu đặt bàn thờ gia thần riêng, thì phải
đặt thấp hơn bàn thờ gia thần một ít. Đặt hướng nào? - Hướng về quê chính, để
khi người gia trưởng thắp hương vái lạy thuận hướng vái lạy về quê. Thí dụ
người quê miền Trung sống ở Hà Nội thì đặt bàn thờ vọng phía Nam căn phòng hay
ngoài sân, ngoài hiên. Không nên đặt bàn thờ trong buồng ngủ, trừ trường hợp
nhà chật hẹp quá thì phải chịu. Không nên đặt cạnh chỗ uế tạp, hoặc cạnh lối
đi. Đối với những gia đình ở khu tập thể nhà tầng, nếu câu nệ quá thì không còn
chỗ nào đặt được bàn thờ. Những người sống tập thể, chỉ đặt một lọ cắm hương
đầu giường nằm của mình cũng đủ, miễn là có lòng thành kính, chẳng cần phải câu
nệ hướng nào, cao thấp rộng hẹp ra sao
Tương truyền, khi quân Minh sang
xâm lược kéo đến giết người, cướp của, đốt chùa vô cùng tàn ác, ngài làm ra mưa
máu khiến chúng bị bệnh mà chết rất nhiều, phải rút đi. Sau khi quân Minh kéo
về nước, còn một số ít xin ở lại lập nghiệp tại Mai Lĩnh. Vì thế hằng năm
cứ đến đêm chính hội chùa Trăm Gian (đêm mồng bốn tháng Giêng) dân Mai Lĩnh,
nay thuộc quận Hà Đông lại cử một đoàn người đến lễ trình con rối như một nghi
thức trình diện của quân Minh xưa. Nếu như năm nào không lễ trình thì y như rằng
không bị hỏa hoạn cũng làm ăn thua lỗ.
Lễ hội chùa Trăm Gian thu hút khách
hành hương khắp nơi nơi. Trẩy hội chùa là để lễ Phật, lễ Thánh, du xuân, chơi
núi, kết giao bè bạn và xem các trò dân gian. Từ mồng bốn đến mồng sáu tháng
Giêng có rước kiệu Thánh, thổi cỗ chùa, thi oản chuối, múa rối, đốt pháo, đấu
vật… Nhưng đặc sắc nhất là thi đánh cờ người.
Cuộc cờ bày trên sàn nổi ở hồ bán
nguyệt trước cửa chùa. Người đóng quân được tuyển kỹ lưỡng. Trước hết phải
tuyển chọn được một ông già và một bà già, là người thôn Nội và thôn Thượng
(hai thôn chính thuộc làng Tiên Lữ xưa), tuổi từ 50 trở lên, song toàn,
không có "bụi", vóc dáng đẹp, đóng tướng ông và tướng bà. Các
quân cờ khác đều là trai thanh nữ tú ở thôn Nội và thôn Thượng. Tướng ông mặc
áo gấm, tướng bà mặc áo nhiễu. Quân bên tướng ông là những chàng trai dũng
mãnh, vận bộ đỏ, bên tướng bà là những cô gái đoan trang trong bộ trắng.
Cuộc cờ thu hút kỳ thủ mọi miền.
Danh thủ thiên hạ hoặc xem bảng hội cáo yết ở trong vùng mà tới hoặc nhớ ngày
hội chùa mà sang, đều phải qua tuyển chọn ở cờ bàn rồi mới vào sàn đấu. Đây là
cuộc so tài, đọ trí giữa các kỳ thủ lừng danh trong thiên hạ. Cuộc cờ trở thành
trung tâm lễ hội, được mọi người nao nức, đứng ngồi kín cả vùng đất quanh hồ
hồi hộp, dõi xem từng nước thấp cao. Đây không chỉ đơn thuần là cuộc thi tài
giữa các kỳ thủ, mà còn là một nghi thức linh thiêng trong lễ hội.
Núi Sở - vùng đất thiêng, linh khí
tụ hội, nằm trong một vùng núi non đồi gò biểu tượng các con vật. Núi Sở là con
ngựa, gần đó là các con hổ, con long, con mộc, con hỏa… Chùa Trăm Gian tọa lạc
ở đỉnh cao trên núi Sở, được xem như mang yếu tố dương, còn con hồ bán nguyệt
trước cửa chùa là vùng trũng, thấp được xem như yếu tố âm. Âm dương giao
hòa đối đãi, tạo thế trường tồn và sinh sôi. Nước hồ bốn mùa trong vắt. Nơi
tích thủy cũng là nơi tích phúc, tích đức, tích tài, tích thiện cho dân chúng
trong vùng. Cũng có thể xem con hồ như một tấm gương chiếu lên trời, thu nhận
linh khí từ tầng cao. Nơi đón nhận khí thiêng từ cha trời truyền xuống mẹ đất
cũng là nơi diễn ra cuộc cờ. Hai bên quân cờ, những trai thanh nữ tú trong
trang phục màu đỏ và màu trắng là có ý nghĩa về âm dương ngũ hành. Màu đỏ, màu
của lửa, tượng trưng cho hỏa, còn màu trắng, màu của nước, tượng trưng cho
Thủy. Thủy, Hỏa là hai thành tố quan trọng trong năm thành tố gốc (Ngũ hành -
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Cũng có thể xem hai màu trắng - đỏ là hiện thân của
âm - dương, trong đó màu đỏ dương tính nhưng cũng là màu của trí tuệ, sức mạnh
và đại cát, còn màu trắng mang tính âm, nhưng cũng là màu của sự sống và hạnh
phúc. Bản thân những người đóng vai quân cờ, hai bên nam - nữ đã hàm chứa ý nghĩa
âm dương. Khi đánh cờ, các quân cờ di chuyển trên bàn là biểu hiện sự chuyển
hóa âm dương ngũ hành. Nước cờ càng hay, thế cờ càng biến hóa, cũng có nghĩa là
âm dương ngũ hành chuyển động thuận chiều, thông tỏ. Tiếng trống thúc quân ròn
rã cộng hưởng với tiếng hò reo khích lệ và lời trầm trồ khen ngợi, mách nước
của người xem ở quanh hồ làm nền cho cuộc đấu. Tất cả những âm thanh sôi động
và không khí rạo rực đó, tựa như vũ trụ vận hành ở quanh, hỗ trợ cho thế cuộc
đang diễn ra sôi nổi. Cuộc cờ như một thông điệp, người bình dân gửi tới các
đấng linh thiêng ước nguyện muốn cho trời đất vận hành thận lợi, thế cuộc hanh
thông thịnh đạt, đời sống yên vui phát triển.
Các kỳ thủ vào cuộc đấu, ai cũng
trổ hết tài năng, cố gắng đoạt giải, nhưng không phải để ăn thua. Điều quan
trọng là làm sao có được những nước cờ hay, sáng tạo độc đáo chuyển đổi cả cục
diện. Có như vậy mới thể hiện được ước nguyện của mọi người, mong muốn trời đất
vận hành hanh thông. Bản thân các kỳ thủ, đã khảo qua cờ bàn, vào đến sàn đấu
là đã được may mắn cả năm, còn như có được nước cờ độc thì càng được nhiều phúc
lộc.
Cuộc cờ càng trở nên linh thiêng
hơn vì còn có cả đức Thánh cùng xem. Bên hồ nước có nhà Giá ngự, có trò thì
rước kiệu Thánh ra để Ngài cùng xem, đặng thấy rõ ước nguyện của dân mà làm
theo. Nghi thức này rất hiếm ở lễ hội nơi khác, cho thấy mối quan hệ gần gũi
giữa thần linh với con người - một biểu hiện văn hóa tín ngưỡng cổ của người
Việt và là nét đặc sắc ở lễ hội chùa Trăm Gian.Hội tụ văn hóa Phật giáo và văn
hóa tín ngưỡng bản địa, chùa Trăm Gian còn bảo tồn được những di sản văn hóa
truyền thống cả vật thể và phi vật thể. Ngôi chùa bề thế, có tới trăm gian, với
gần 200 pho tượng theo Thiền phái Đại Thừa và theo tín ngưỡng bản địa, những
mảng nghệ thuật tạo hình bằng đá, bằng gỗ, bằng đất nung… có niên đại trải dài
từ Trần, Lê, Mạc, Tây Sơn đến Nguyễn. Hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng
làng xã - tiêu biểu là lệ đánh cờ người - ở đây là hết sức hiếm quý. Rất tiếc
là những năm gần đây, khi tổ chức lễ hội, địa phương đã không chú ý đến nghi
thức văn hóa này. Đấy không chỉ là những cuộc cờ tỷ thí cao thấp, mà còn bao
nhiêu ý nghĩa, bản sắc dân tộc. Mong sao tới đây, xã Tiên Phương và ngành văn
hóa phục hồi được truyền thống rất đặc sắc, rất bản địa ấy.
32.
Người bên núi”
nổi chiêng
Từ đời này sang đời khác, đồng bào
Pa Kô vẫn lưu giữ bản sắc rất riêng trong cộng đồng các dân tộc anh em trên dải
Trường Sơn, phía tây tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong một lần ngược lên miền cao A -
Lưới, chúng tôi tình cờ được nghe những câu chuyện ly kỳ, “mục sở thị” những
sinh hoạt độc đáo của “người bên núi” - đồng bào Pa Kô.
Và trong ký ức từ người trẻ, đến
những già làng Pa Kô đã sống qua hơn 100 mùa lúa mới là những câu chuyện được
các thế hệ truyền kể về gốc tích của dân tộc mình.
Chuyện cổ tích kể giữa đại
ngàn
Xuất phát từ nguyện vọng của đồng bào
dân tộc Pa Kô muốn được công nhận là một dân tộc riêng, UBND tỉnh Thừa Thiên
Huế giao Ban Dân tộc tỉnh thực hiện đề án “Bổ sung dân tộc Pa Kô vào danh mục
các dân tộc Việt Nam”. Đến thời điểm này, Ban dân tộc vừa hoàn
thành khảo sát đề án, trong đó xác định nguồn gốc, sự ra đời và phát triển,
đồng thời phân biệt dân tộc Pa Kô với một số dân tộc khác sống lân cận. Ban đề án đã tổ chức điều tra, khảo sát
8/12 xã có đồng bào dân tộc Pa Kô (gồm các xã: Hồng Thượng, Đông Sơn, Hồng
Trung, Hồng Vân, Hồng Thủy, Hồng Quảng, Hồng Kim, Hồng Bắc) và 4/5 xã có đồng
bào dân tộc Tà Ôi (gồm: Hồng Thái, A Ngo, A Đớt, Nhâm) thuộc huyện A Lưới
nhằm xác định nguồn gốc, sự ra đời và phát triển của dân tộc Pa Kô. Đồng thời, cuộc khảo sát này cũng làm
rõ sự khác biệt giữa dân tộc Pa Kô với dân tộc Tà Ôi để đề xuất Đảng, Nhà
nước công nhận dân tộc Pa Kô vào danh mục các dân tộc Việt Nam. |
Một trong những người sưu tầm, cũng
như được nghe các già trong bản kể chuyện của bản làng mình, ông Hồ Văn Hạnh
(dân tộc Pa Kô) - Bí thư Đảng ủy xã Hồng Trung kể: “Ngày xưa, lâu lắm rồi,
người Pa Kô làm ăn sinh sống ở một khu vực gần với biển, với ruộng đồng. Nơi
đồng bào sinh sống còn có một đồng bào anh em khác nữa. Qua năm tháng, người Pa
Kô và người anh em “láng giềng” vẫn sinh sống hòa thuận, nhưng rồi xuất hiện
hai người nhà giàu - chủ thể của đất họp bàn để nhường phần đất đang sinh sống
lại cho một trong hai người làm kinh đô - lập quốc.
Một cuộc thi thố đã được thống nhất
giữa hai “người láng giềng” - xây một tòa thành trong vòng một đêm, ai
thua thì phải nhường lại “kinh đô” của mình cho “đối phương” và đi tìm vùng đất
mới. Sau khi đã thống nhất, tối hôm đó, toàn dân làng được điều động để xây
thành.
Người Pa Kô vốn thật thà đã
huy động dân làng xây một bức tường thành kiên cố. Cả đêm đó, toàn dân làng đi
tìm những cây gỗ lớn, những vật dụng chắc chắn nhất để dựng thành, còn “người
láng giềng” thì ngược lại - dựng một bức thành tạm bợ bằng những vật liệu dễ
kiếm, dễ tìm. 6 giờ sáng, khi mặt trời vừa lên, bức thành của người Pa Kô vẫn
chưa được hoàn thành, còn bức thành của “hàng xóm” đã được xây xong, đã dựng cờ
trên nóc.
Theo giao kèo, người Pa Kô phải rời
khỏi vùng đất đang ở. Họ dắt nhau đi về phía tây. Đi mãi, đi mãi, họ tìm đến
dựng nhà sinh sống dưới các chân đồi, dưới các đỉnh núi. Tuy ở miền cao, những
sinh hoạt của đồng bào Pa Kô vẫn gắn với đồng bằng. Họ sống bên những nơi có
nước, có hồ, mua muối ăn của người đồng bằng, mua dụng cụ để dệt áo
mặc”...
Trong không gian thâm u của miền
sơn cước, trong men say của chén rượu cần, rượu Đoác, ông Hồ Văn Hạnh tiếp thêm
một câu chuyện cổ tích khá ly kỳ về sự tích nòi giống, quá trình sinh con đẻ
cái của đồng bào dân tộc mình được các thế hệ xưa truyền lại: “Biết được thời
điểm trên trái đất bị ngập nước, vạn vật trên không sẽ chết hết; người Pa Kô đã
đục những thân cây gỗ đủ sức chứa cho một đến hai người, thả trôi trên biển cả.
Trong thân cây gỗ đó, có chứa các dụng cụ, cây giống để khi nước rút đi, tìm kế
sinh nhai. Hơn một tuần sống trong khúc gỗ, nước cạn, họ chọc khúc gỗ chui ra
tìm đất đai sản xuất.
Quá trình sinh sống, làm ăn rồi
sinh con đẻ cái. Sinh được chục con, 5 trai, 5 gái (ông trời chỉ cho một trong
hai người trong khúc gỗ được sống, nên người được sống phải ghép với một loài
vật khác mới có thể sinh con, con sinh ra chỉ có thể sinh toàn nam, hoặc toàn
nữ), đến khi trưởng thành thì không biết kết hôn với ai. Cha mẹ bày cho con cứ
đi mãi, quanh núi quanh non để tìm bạn đời. Họ đi mãi, đi mãi rồi con trai gặp
được những người con gái muốn tìm và ngược lại. Gặp nhau ở một khu rừng, đủ
đôi, đủ cặp để thành vợ thành chồng, lập nên làng xóm”...
“Tôi là người Pa Kô”
Trong cuộc hành trình này, chúng
tôi may mắn được gặp già làng Quỳnh Át. Ông cùng sống với người em trai (đã
ngoài 90 tuổi) trong một ngôi nhà dài truyền thống của người Pa Kô tại thôn Lê
Triên, xã Hồng Trung, A Lưới. Già Quỳnh Át kể: Già được sinh ra vào mùa lúa
mới, đến nay già không còn nhớ là mình đã sống qua bao mùa lúa mới nữa - còn
với những người lớn tuổi trong làng thì già Quỳnh Át là “báu vật sống” của
người Pa Kô (đã ngoài 100 tuổi) và là biểu tượng của sự hào hoa, giàu có của
người đồng bào.
Vốn là con nhà khá giả, ngày trẻ
già nổi tiếng khắp vùng với tài đánh chiêng giỏi, hát rất hay. Tiếng chiêng già
đánh ngân vang khắp cả núi rừng, tiếng Ântoong Atục (nhạc cụ gồm 3 thanh gỗ,
một ống tre) của già xua đuổi hết những bầy thú dữ. Tiếng khèn Âng Krao, Âng
qoại, Ti reel của già đắm hồn biết bao thiếu nữ...
Dứt ngang câu chuyện kể, già Quỳnh
Át lấy ra chiếc chiêng “biểu diễn”, vừa đánh chiêng vừa múa xoay tròn bên bếp
lửa. Những đứa trẻ, thanh niên, đến những thiếu nữ trên nương nghe tiếng chiêng
của già Quỳnh Át nổi lên bên ngôi nhà dài, họ hội tụ về, cùng chung thêm điệu
nhảy, điệu múa...
Dứt tiếng chiêng, mồ hôi lăn dài
trên trán, già cười móm mém bảo: “Mệt, già mệt lắm nhưng tiếng chiêng, tiếng
khèn là báu vật của núi rừng phải gìn giữ, lâu cũng phải nổi chiêng, nổi khèn
lên để đánh thức bản, làm vui cho bản và để con cháu còn học để biết thổi cái
khèn Âng Krao, Âng qoại... gọi bạn tình nữa chứ”.
Người PaKô trước đây thường sống
trong những nhà dài, trong đó gồm nhiều bếp, nhiều hộ gia đình, thường quây
quanh một sân lớn được dùng cho các sinh hoạt chung (của làng). Họ có lễ hội
Ada - lễ hội ăn mừng lúa mới để tri ân mùa màng, để tạ ơn đất trời, nắng mưa,
dông gió, sông suối, núi rừng, cây cối và cả ma quỷ.
Ở lễ cúng Ada, điều mong mỏi nhất
là mỗi nhà mỗi bếp cũng như cả làng được bình yên, con người được mạnh khỏe,
mùa vụ năm tới bội thu. Người Pa Kô còn có lễ cải táng mồ mả (A riêu ping) được
tổ chức với mục đích đem lại sự bình yên, siêu thoát cho những người đã khuất,
mang lại cho dân làng một cuộc sống ổn định, không ốm đau, bệnh tật.
Để chuẩn bị cho lễ hội, trước đó
một tuần, toàn bộ trai làng được huy động để đưa hài cốt của những người đã
khuất về tập trung ở giữa làng; 3 ngày sau, những hài cốt đó sẽ đưa đi cải
táng. Việc bốc mộ không chỉ riêng lẻ từng gia đình mà được tổ chức bốc theo
làng, dòng họ dưới sự chỉ đạo của già làng. Sau khi hoàn thành việc bốc mộ,
người Pa Kô nổi chiêng, nổi trống lên cùng nhảy múa, ca hát suốt ngày đêm.
Rời miền cao, mang theo những câu
chuyện kể của người anh em trên núi chúng tôi tâm đắc câu nói của già Quỳnh Át:
“Âng là tikuôi Pakôh” (Tôi là người Pa Kô). Từ thế hệ này qua thế hệ khác,
người Pa Kô luôn tự hào mình là một dân tộc, có lối sinh hoạt, ngôn ngữ và bản
sắc văn hóa riêng, là con, là cháu Bác Hồ.
Theo kết quả khảo sát ban đầu, Pa Kô là
dân tộc thiểu số, định cư chủ yếu ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) và huyện
Hướng Hóa (Quảng Trị). Họ sống xen kẽ với người Cơ Tu, Tà Ôi, Vân Kiều và có
nhiều đặc điểm tương đồng với các dân tộc nhóm Môn - Khmer về trang phục, nhà
ở, cách thức canh tác. Với 18.000 người, đồng bào Pa Kô hiện chiếm số dân lớn
nhất trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại Thừa Thiên Huế. Tiếng nói của dân
tộc Pa Kô là một ngôn ngữ độc lập. Về mặt tổ chức xã hội, người Pa Kô
không phân chia ranh giới giữa làng này với làng khác trong khi làng của
người Tà Ôi lại phân chia ranh giới rất rõ ràng. Người Pa Kô xem con voi là
vật quý nhất, thể hiện sự giàu sang trong khi với người Tà Ôi, cái quý nhất
thể hiện sự giàu có lại là những vòng ngọc có màu trắng ngà. Về dòng họ, nếu người Pa Kô phần đông
lấy tên họ mình là Tâng Koal (con chó) thì người Tà Ôi lấy tên họ mình là A
Kê, Pê Kê (con chim). Đàn ông trong gia đình người Tà Ôi đảm đang, nấu ăn rất
giỏi, còn với người Pa Kô thì công việc nấu nướng chỉ dành riêng cho phụ nữ.
Tuy cùng có tập quán ở nhà dài nhưng nhà của người Pa Kô mái xuôi và có vách
ngăn riêng biệt cho từng gia đình trong đại gia đình, còn nhà của người Tà Ôi
lại có mái thẳng đứng và không chia vách ngăn. |
33. Mầu sắc với truyền thống văn hóa dân tộc
Ở mỗi dân tộc việc vận dụng mầu sắc
có tập quán khác nhau. Thí dụ ở các nước phương Tây, mầu đen là mầu tang tóc,
còn ở Việt Nam và các nước phương Đông thì phổ biến màu tang là mầu trắng.
Mầu sắc còn mang đặc trưng sắc thái
của các tầng lớp xã hội khác nhau: Thí dụ mầu vàng là của vua, từ các quan đại
thần cho đến thường dân, cấm không ai được mặc quần áo hoặc xây dựng nhà cửa
màu vàng. Mầu tím là sắc phục của các quan đại thần. Mầu điều, mầu đỏ dành
riêng để tế thần và làm sắc phục cho các cụ thượng thọ. Mầu nâu sòng là của cửa
Thiền dành cho những kẻ quy y Phật tổ, cũng như mầu đen là sắc phục của linh
mục đạo Ky-Tô. Mầu xanh là của những người còn theo đòi Cửa Khổng sân Trình,
của học trò chưa đậu đạt.
Trong bài thơ La-sơn phu-tử Nguyễn
Thiếp gửi Tiến sĩ Nguyễn Khản có câu:
Quân kim bào hốt trung triều sĩ,
Cố ngã lâm tuyền khâm thượng
thanh...
(Có nghĩa là: Nay ngài đã là khanh
tướng trong triều, mà còn nhớ đến bạn học ngày xưa áo vẫn xanh). "Áo vẫn
xanh" tức là chưa hiển đạt, vẫn còn là bộ quần áo của người hàn sĩ. Mầu
đào tức mầu hoa đào là của các nàng ca sĩ, cho nên mới có danh từ "Hát ả
đào".
Mầu đen, mầu nâu là trang phục rẻ
tiền nhất của quần chúng nông dân. Mầu xanh nhập nội từ đất nước Trung hoa sau
giải phóng gọi là xanh công nhân.
Ở Việt Nam, từ xưa tới nay, mầu đỏ,
màu vàng, màu hồng, dùng trong trướng đối chỉ dành để chúc tụng, khao lão, mừng
rỡ, còn trong lễ tang chỉ có thể dùng mầu trắng, mầu xanh, mầu đen, mầu tím...
không hiểu vì sao, gần đây nhan nhản ở các cửa hàng, trướng điếu (lễ tang) cùng
dùng mầu đỏ, mầu vàng rực rỡ, phải chăng các cụ già chết là đáng mừng, không
cần phải an ủi, lưu luyến, nên chẳng cần dùng mầu đen, trắng, xanh, tím như
ngày xưa. Vì thế mới xẩy ra câu chuyện oái oăm: Có người đi mừng ông ban 70
tuổi lại mua một bức trướng điếu mầu đỏ thêu 4 chữ vàng "Tiên cảnh nhàn
du", có khác gì chúc cho bạn mình mau chết để chóng được lên dạo chơi trên
cảnh Bồng Lai. Nguyên "Tiên cảnh nhàn du", (Nghĩa là thanh nhàm dạo
chơi trên cảnh tiên) là để an ủi người mới mất từ nay hết nợ trần gian lên
hưởng cảnh tiên.
34. Chợ Việt Nam - Nét
văn hoá dân tộc Việt
Chợ Việt Nam có lẽ được hình thành
từ thời lập quốc, theo truyền thuyết từ thời Hùng Vương, người Việt đã biết
giao lưu buôn bán với nước ngoài, chợ là nơi trao đổi hàng hóa, sản phẩm giữa
các cộng đồng người khác nhau. Cùng với tiền trình của lịch sử dân tộc, Chợ
Việt Nam còn mang đậm dấu ấn văn hóa.
Chợ là nơi giao
duyên
Người đến chợ không chỉ
để trao đổi các sản phẩm và tìm kiếm những sản phẩm thiết yếu của mình, mà còn
để gặp gỡ, trao đổi thông tin và tình cảm. Nói đến những phiên chợ tình thì
người ta nghĩ ngay tới các phiên chợ của đồng bào các dân tộc miền núi phía
Bắc. Phiên chợ Bắc Hà được coi là một trong 10 phiên chợ hấp dẫn nhất Đông Nam
Á có lẽ cũng vì đặc điểm độc đáo này. Ngay từ khi tỉnh Lào Cai được thành lập
thì chợ Bắc Hà được hình thành tại Châu Bắc Hà. Từ đó đến nay chợ Bắc Hà bao
giờ cũng chỉ họp mỗi tuần một phiên vào ngày Chủ nhật, nó không chỉ đơn thuần
là nơi mua và bán như các chợ khác mà nó còn là nơi giao lưu văn hóa giữa các
dân tộc anh em trong vùng Tây Bắc.
Chợ Bắc Hà là nơi trao
đổi hàng hóa địa phương với hàng hóa ngoài tỉnh, được chia ra các khu chợ nhỏ
mang tính chất đặc trưng như: chợ thổ cẩm, chợ ẩm thực, chợ ngựa, chợ gia cầm,
chợ thực phẩm, chợ chim, chợ rèn đúc… Mỗi khu chợ đều phong phú đa dạng và mang
màu sắc dân tộc địa phương. Nhưng hiện nay hàng hóa được bày bán không chỉ là
hàng hóa địa phương đơn thuần, mà còn có hàng hóa của nhiều nơi khác mà nhiều
nhất vẫn là hàng hóa của Trung Quốc tràn sang. Nhưng điều làm nên vẻ hấp dẫn
của Phiên chợ Bắc Hà không chỉ nằm ở đó, mỗi phiên chợ Bắc Hà còn là nơi giao
lưu gặp gỡ giữa các dân tộc trong vùng. Sau mỗi tuần làm việc, đồng bào dân tộc
lại xuống núi, họ mặc trên mình những bộ váy áo sặc sỡ đủ màu và xem đó như
ngày hội, trai gái coi đó như một lần được gặp gỡ trao duyên. Người già vui vẻ
đi thăm hỏi bạn bè, lớp trẻ có cơ hội để tiếp xúc và làm quen với bạn khác
giới. Điểm đặc biệt là mọi người kết bạn qua tiếng Khèn, tiếng Sáo... Trong đó
có chứa đựng tình cảm mà của họ muốn thổ lộ. Những sắc màu Văn hóa của phiên
chợ Bắc Hà đã tạo nên sự hấp dẫn cũng như sức sống trường tồn của nó.
Bên cạnh chợ Bắc Hà thì
khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam còn hấp dẫn du khách với nhiều phiên
chợ khác mang đặc trưng văn hóa địa phương như: phiên chợ Lượn hay thấy ở vùng
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Nó vốn là phiên hát giao duyên của người dân tộc
Tày, Nùng, Thái, hầu như không buôn bán gì. Đi chợ chủ yếu là để gặp gỡ, trao
duyên, trao tình. Đồng bào các dân tộc Hà Giang thì lại có một phiên chợ gắn
liền với một câu chuyện cổ tích về tình yêu, đó là chợ tình Khâu Vai: Cô
gái và chàng trai thuộc hai tộc khác nhau, do những lời nguyền của dòng tộc, họ
không được bên nhau. Nhưng tình yêu đã cho họ dũng khí, họ đã đến nơi vùng núi
cao này để thề nguyền trọn đời có nhau và cùng chết. Và ngày 23/3 âm lịch hàng
năm đã trở thành Ngày Tình yêu của người H'Mông với phiên chợ hẹn hò duy nhất.
Chợ là nơi mua
may bán rủi
Chợ Việt Nam, ngoài
việc thoả mãn sở thích mua sắm còn là cách để tìm hiểu bản sắc văn hoá bản địa
mỗi vùng, miền, chợ gắn liền với văn hóa tâm linh. Phiên chợ Âm Dương (chợ Âm
Phủ) làng Ó, Võ Giàng, Bắc Ninh, chợ mỗi năm họp một lần vào đêm 4/1 đến rạng
sáng 5/1 âm lịch. Theo huyền sử, nơi đây ngày xưa là chiến trường, có nhiều tử
sĩ. Chợ họp để người trần có cơ hội để trò chuyện, cầu may, cầu phúc… Chợ họp
vào ban đêm nhưng không ai được đốt đèn, hàng hoá chỉ có giấy tiền, vàng mã,
trái cây, trầu cau, hương hoa… Tất cả bày dưới đất lót lá chuối khô. Không mặc
cả, không nói to, không cả đếm tiền… Ngoài ra, nếu ai đi chợ cầu xin gì thì
phải mang theo một con gà đen cúng lễ Thành Hoàng làng Ó. Trong lúc đợi mặt
trời lên, những người đi chợ mời nhau ăn trầu, hát quan họ, uống nước…
Được nhiều người biết
tới hơn phiên chọ ở làng Ó là chợ ở Gôi, Vụ Bản, Nam Định là phiên chợ cầu may
nằm gần Phủ Giày, nơi thờ bà chúa Liễu Hạnh, một trong "tứ bất tử"
thần linh Việt Nam. Chợ Viềng họp phiên duy nhất vào 8/1 âm lịch hàng năm. Chợ
là nơi tập hợp các sản phẩm của những làng nghề truyền thống từ rèn, đúc, chạm,
khắc, thêu, đan… đồ kim loại, đồ gốm sứ, đồ gỗ, đồ thờ cúng của khắp các vùng,
miền trong Nam ngoài Bắc. Ngoài ra đây còn là nơi bán cây cảnh, các giống cây
trái ngon của các vùng. Đặc biệt, phiên chợ này còn bán cả đồ cũ, những thứ
tưởng như không còn dùng được. Ở chợ phiên này có tục người bán không hề
nói thách và người mua cũng không hề mặc cả - một nét đẹp đáng yêu chỉ phiên
chợ này mới có. Hình như sự bán mua ở đây mang nặng một ý thức tâm linh nào đó
- rằng người ta chỉ cần bán hoặc mua được một vật gì đó dù rất nhỏ thì người
bán kẻ mua đều gặp nhiều may mắn tốt lành, và cả đôi bên đều cùng vui vẻ hỉ hả
ra về. Chính vì vậy hội chợ Viềng ngày xưa còn có tên gọi là chợ Cầu May.
Khách thập phương về hội chợ phần
lớn là do nghe danh tiếng của chợ Viềng mà về, nhưng phần đông vẫn là những
người có gốc gác hoặc quê quán ở tỉnh Nam đi làm ăn xa nay nhớ đất Tổ, đất quê
tìm về. Đối với họ về với chợ là về với những nét văn hóa độc đáo của quê hương
cũng như trở về với hồn thiêng của dân tộc.
Chợ mùa nước lên
Chợ Việt Nam - một nét
đẹp văn hoá đặc sắc riêng biệt. Mỗi vùng, mỗi miền mang một nét đẹp đặc trưng.
Nếu như ngoài Bắc với những phiên chợ miền núi mang đặc bản sắc dân tộc vùng
cao thì tới miền Nam, nơi nổi tiếng với những phiên chợ Nổi, những phiên chợ
mùa nước lên với phương tiện và trao đổi hàng hoá trên ghe thuyền.
Chợ nổi là một loại
hình chợ thường xuất hiện tại vùng sông nước được coi là tuyến giao thông
chính. Nơi cả người bán và người mua đều dùng ghe/thuyền làm phương tiện vận
tải và di chuyển. Địa điểm có chợ nổi thường tại các khúc sông không rộng quá
mà cũng không hẹp quá. Khúc sông phải tương đối rộng, không cạn quá mà cũng
không sâu quá. Nếu sông sâu quá, lớn quá thì không thể neo đậu ghe, xuồng một
cách dễ dàng và rất nguy hiểm.
Với 700km bờ biển, 28.000km kênh
rạch (70% chiều dài đường sông của cả nước), từ bao đời nay, nói đến đồng bằng
sông Cửu Long, không thể không nhắc đến chiếc ghe tam bản. Với những cư dân
vùng sông nước, chiếc tam bản không chỉ là phương tiện di chuyển mà còn như một
ngôi nhà di động, cùng họ dãi dầu mưa nắng. Theo năm tháng, một cộng đồng ghe
tam bản dần dần hình thành, tập trung sinh sống, mua bán, trao đổi hàng hoá tại
giao điểm các dòng sông và... chợ nổi, trở thành nét đặc thù của miền Tây Nam
bộ.
Nói đến Chợ nổi người ta không thể
không nhắc tới chợ Nổi Cài Bè và Chợ nổi Cần Thơ. Chợ nổi Cái Bè (Tiền Giang)
là một trong hai chợ nổi nổi tiếng ở miền Tây Nam bộ (chợ nổi Phụng Hiệp - Cần
Thơ và chợ nổi Cái Bè - Tiền Giang), có từ khoảng thế kỷ XVIII. Chợ nằm ở nơi
giáp ranh giữa 3 tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre và Tiền Giang, nơi được hình thành bởi
cù lao Tân Phong, xưa là Cồn Cù, thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ (hợp thành
bởi 6 hòn đảo xinh xắn có tổng diện tích 2.430 ha).
Cũng như bao ngôi chợ Việt, hàng
hoá chợ nổi rất đa dạng, từ thực phẩm tươi sống, đặc sản hoa quả địa phương...
Khác chăng là mỗi quầy hàng có thể di chuyển mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt, khi
tới chợ nổi ta sẽ bắt gặp hình thức tiếp thị hàng hoá khá độc đáo: ai bán loại
gì thì cắm một cái sào trên mũi thuyền và treo sản phẩm mình muốn bán lên cái
sào đó để mời gọi bạn hàng hay còn gọi là "bẹo hàng”. Do vậy, chợ không có
tiếng rao hàng như các chợ trên bờ, mà có rao thì tiếng sóng, tiếng máy nổ của
tàu cũng làm át đi. Đơn vị mua là "thiên", "giạ", ít cũng
là "chục", hàng hoá trao qua đổi lại tung hứng trên các ghe thuyền
với nhau. Chợ nổi thường họp cả ngày, nhưng đông đúc nhất là vào buổi sáng khi
mà khí hậu còn khá mát mẻ. Đến với chợ nổi người ta không chỉ thấy bạt ngàn
những sản vật của vùng sông nước miền Tây mà họ còn được chứng kiến cuộc sống
sinh hoạt, văn hóa của người dân miền Tây: nổi tiếng là phóng khoáng và hiếu
khách.
Theo dọc chiều dài của dải đất hình chữ S, đi tới đâu cũng thấy những điều thú
vị, từ phiên chợ tình trên những vùng núi xa xôi, đến phiên chợ cầu may mỗi năm
chỉ họp có một lần vào dịp đầu xuân, hay những phiên chợ trên sông nước của
miền Châu thổ Đồng bằng sông Cửu Long tất cả cộng hưởng, hòa điệu góp phần tạo
nên bề dày văn hóa và lịch sử của dân tộc. Đây không chỉ là câu chuyện của Chợ
Việt Nam, mà nó câu chuyện về Văn hóa và con người Việt.
35. Con so về nhà mạ, con
rạ về nhà chồng tại sao?
Con so là con sinh đầu lòng, con rạ
là những đứa con sinh sau. Nếu nuôi được cả thì con so là trưởng, con rạ là
thứ. Phong tục này phổ biến ở Bình Trị Thiên và một số địa phương ngoài Bắc,
còn ở Nghệ An, Hà Tĩnh thì trừ trường hợp ở rể, nói chung con gái không được
sinh đẻ ở nhà cha mẹ mình.
Con gái mới lớn lên, mới sinh lần
đầu tiên, trẻ người non dạ, chưa biết đi đứng, ăn uống, tắm giặt, kiêng khem ra
sao, hơn nữa trong người yếu khoẻ ra sao muốn nhờ vả mẹ chồng hoặc chị em nhà
chồng cũng ngần ngại, khó nói hơn với mẹ đẻ và em út mình. Còn những lần sinh
sau đã có kinh nghiệm, có thể tự mình giải quyết được nhiều việc.
Phong tục, "Con so về nhà
mạ" là một phong tục hay nhưng muốn giải quyết được êm đẹp cũng phải có
thu xếp: Gần ngày ở cữ, mẹ chồng hoặc chàng rể sang quê ngoại thưa chuyện
trước, nếu có khó khăn về kinh tế hoặc đường xá xa xôi cách trở cũng cần thảo
luận với nhau về trách nhiệm cho thoả đáng, sau khi mẹ tròn con vuông, cháu
cứng cáp, chàng rể cũng cần sắm một số lễ vật, nhằm ngày tốt sang tạ ơn gia
tiên bên ngoại và ông bà ngoại để xin đón vợ con về. Ông bà ngoại còn cẩn thận
đánh dấu vôi hoặc nhọ nồi ở trán cho cháu và các thứ bùa phép khác để các thứ
tà ma ác quỷ không dám đến quấy rối cháu dọc đường.
Ở Nghệ Tĩnh lại có phong tục ngược
lại: Cho là sinh dữ tử lành, ngoài con dâu ra, không ai được quyền sinh trong
nhà. Con gái về nhà mạ, nếu nhỡ đến kỳ động thai, trở dạ, không kịp trở về nhà
chồng, sợ sinh nở dọc đường thì bố mẹ phải dựng tạm chiếc lều ở góc vườn, hoặc
nếu không kịp, thì ra chuồng trâu mà đẻ.
Thiết nghĩ không cần phân tích, bạn
đọc cũng thấy được phong tục nào hợp tình lý hơn.
Trường hợp đã mồ côi mạ, về nhà mạ thiếu
người chăm nom thì con so cũng về nhà chồng.
36. Đặc sắc rối Tày
Ở
thôn Thẩm Rộc, xã Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên từ 13 đời nay nghề
rối Tày được dòng họ Ma Quang gìn giữ. Dù trải qua nhiều thăng trầm, nhưng may
thay nghề vẫn được truyền đến ngày nay.
Đặc biệt, vẫn còn 33 quân rối
cổ trên 200 năm tuổi. Theo tục lệ dân tộc Tày ở Định Hóa, những quân rối cổ xưa
được xem là “ma” nên phải thờ cúng.Trước lời đề nghị của khách muốn được xem bộ
rối cổ, ông Mai đến gần bàn thờ làm lễ xin phép ông tổ. Những quân rối cổ được
cất cẩn thận trong một chiếc hòm gỗ lớn đã cũ kỹ. 33 quân rối cổ, mỗi quân một
kiểu; có rối mô phỏng người, động vật và đồ vật…
Rối cổ trông khá đơn giản, cách vận hành cho rối hoạt động cũng ít thao tác.
Ông Mai tâm sự “trông như đống củi mục vậy mà vô giá đấy! Từng có đoàn nghiên
cứu ở tận Mỹ sang hỏi mua cả hòm rối cổ với giá trên chục ngàn đô mà chúng tôi
không bán”.Hiện ông Ma Quang Mai đã bước sang tuổi 73, sức khỏe không còn cho
phép ông gánh vác vai trò của người Tộc trưởng Tộc rối Thẩm Rộc nữa.Theo tục
lệ, ông Mai truyền lại chức vị cho con trai mình là Ma Quang Chóng. Năm 1996,
đoàn nghiên cứu của Viện Dân tộc học và hai nhà nghiên cứu người Mỹ tình cờ
phát hiện ra ở Thẩm Rộc từng có múa rối Tày rất đặc sắc. Họ động viên anh Chóng
khôi phục lại phường rối, để không đánh mất đi một nét văn hóa truyền thống độc
đáo của tổ tiên. Gần chục năm nay, anh Chóng đã bỏ nhiều công sức vực dậy
phường rối.
Ban đầu, anh Chóng thuê người dịch sách cổ của các cụ truyền lại để tìm phương
pháp làm rối. Sau đó, bằng sự sáng tạo của tuổi trẻ, anh Chóng tự mình làm ra
những con rối. Những con rối mới đều tinh vi và có thể diễn được nhiều động tác
khó… Phường rối hiện có 14 người, ai cũng mê rối nhưng chỉ riêng anh Chóng làm
được rối để diễn.
Vây quanh bếp lửa tối nay có 6 anh em trong phường rối. Họ quyết định diễn vài
trò cho khách lạ thưởng thức. Sau hồi trống dạo đầu, con rối đi trong cánh gà
ra, từ từ ngồi lên ghế, tay đặt lên cây đàn bầu.
Cả căn nhà yên lặng, tiếng đàn bầu ngân lên, tay con rối nhẹ nhàng gảy điệu
nhạc “Tiếng đàn bầu”. Người xem những tưởng chính con rối đang đàn bản nhạc này
thật sự vì tay nó thể hiện giống quá.
Người nghệ nhân dân gian đã khéo léo xây dựng tiết mục mang đậm bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam.
Anh Ma Đình Sung cho biết: “Nếu biểu diễn thật ở các nơi phải có đủ một bộ rối
chơi năm loại nhạc khí dân tộc gồm: sáo, đàn nhị, trống quân, đàn bầu, đàn
nguyệt”. Nhiều lần anh em có ý kiến bật băng nhạc biểu diễn cho đỡ vất vả,
nhưng anh Chóng bảo “không chơi nhạc sống thì làm sao khán giả biết con rối
diễn giống thật như thế nào”.
Tiết mục tiếp theo diễn ra trong ba phút mà thật sự ấn tượng. Con rối trong vai
người nông dân ngồi nghỉ bên gốc đa làng, tay cầm điếu cày, tay nhồi thuốc; ro…
ro… ro, sau tiếng rít dài, khói từ miệng con rối nhả ra. Con rối hút thuốc lào
là con rối mới nhất anh Chóng vừa hoàn thành và đưa ra biểu diễn. Điểm đặc biệt
của con rối hút thuốc lào ở chỗ miệng nó có thể cử động linh hoạt. Công sức cả
tháng của anh Chóng nay đã thành công. Những trò rối của anh Chóng “gần gũi với
cuộc sống của người nông dân thuần phác nơi miền đất núi rừng Định Hóa”.
Hiện nay, phường rối Thẩm Rộc có trên 20 trò thường xuyên biểu diễn. Bên cạnh
đó, vẫn còn 12 bài giáo (mỗi bài giáo như một câu chuyện, được mô tả bằng những
hoạt cảnh sống động của các con rối). Bài giáo luôn ẩn chứa giá trị giáo dục
sâu sắc. Trong một buổi, người trưởng phường rối thường chọn ra vài bài giáo
biểu diễn để khán giả biết đến lịch sử của múa rối Tày, hiểu về đời sống nghệ
thuật của người xưa…
Các nghệ nhân dân gian minh chứng ngay cho các vị khách bằng màn biểu diễn múa
rối táp cổ xưa. Hai con rối tay cầm chiêng nhảy khắp sân khấu và người diễn đọc
bài giáo của múa táp cổ.
37. Hợp tự
Hợp tự có nghĩa là : rước các tiên
linh các đời vào thờ chung trong cùng một nhà thờ của đại tôn hay của từng tiểu
chi.
Theo phong tục cổ truyền: Năm đời
tống giỗ, hay "Ngũ đại mai thần chủ" (Đến 5 đời thì chôn thần chủ).
Thực chất chỉ có bốn đời, tức là làm giỗ cha mẹ (đời 2), ông bà (đời 3), cụ ông
cụ bà (hay cố 4 đời) và kỵ (hay can 5 đời). Cao hơn kỵ gọi chung là tiên tổ,
thì không cúng giỗ nữa, mà rước chung tất cả thuỷ tổ, tiên tổ các đời vào chung
một nhà thờ mỗi năm tế một lượt. Thần chủ con cúng cha mẹ, đề là Hiền khảo,
Hiền tỷ, đến khi người con trưởng chết, cháu đích tôn cúng ông bà, đối thần chủ
là Hiền tổ khảo, Hiền tổ tỷ, đến lượt cháu trưởng mất, chắt trưởng tiếp tục thờ
cụ là Hiền Tằng tổ khảo (hoặc tỷ), chít (chiu) trưởng thờ kỵ là Hiền Cao tổ
khảo (hoặc tỷ). Sau năm đời thì rước vào nhà thờ tổ rồi chôn thần chủ đó đi.
Trong nhà thờ tổ chỉ để duy nhất có một ngôi thần chủ cao nhất (thuỷ tổ hoặc
tiên tổ bậc cao nhất của nhà thờ chi đó) gọi là "Vĩnh thế thần chủ".
Gộp chung tất cả tiên tổ của nhiều
đời lại để tế chung thay cho từng lễ giỗ, đó là hình thức hợp tự cổ truyền.
Song trong phong tục đó còn có nhiều điều bất tiện: Chỉ con trưởng, cháu
trưởng, chắt trưởng v.v...nối dòng qua nhiều đời mối được thờ ở nhà thờ chính.
Vì vậy con , cháu, chắt những ông con thứ qua nhiều đời phải xây nhiều nhà thờ
lớp con thứ, lớp cháu thứ, lớp chắt thứ v.v...Nếu cứ thế tiếp tục mãi, thì có
nơi số nhà thờ còn nhiều hơn cả số nhà ở của người dương trần. Chính vì lẽ
trên, nên hồi đầu thế kỷ 20 ở nhiều nơi đã có phong trào tiến hành hợp tự vào
các nhà thờ họ: Dầu cửa trưởng hay cửa thứ, sau khi mất, hết vòng tang, đều
được rước linh vị vào thờ ở nhà thờ chung của họ. Linh vị xếp theo thứ tự trên
dưới. Đến ngày giỗ người nào, thì đưa linh vị người đó vào hàng giữa theo thứ
bậc, cúng xong lại xếp vào vị trí cũ. Việc hợp tự như vậy: trước là hợp với tâm
linh, con cái ở dưới chân cha mẹ, cháu chắt về với tổ tiên, tượng trưng sự đoàn
tụ ở cõi âm, sau nữa thuận tiện cho việc chung sức, chung lòng xây dựng nhà
thờ, mua sắm tế khí, quanh năm hương khói, gắn bó thêm mối tình ruột thịt trong
nội thân. Song cũng có những gia đình, kinh tế dồi đào hơn, lại ở cách xa nhà
thờ đi lại bất tiện, nên họ cúng riêng, tiện hơn, không hợp tự. Do đó, ngày nay
nên vận động hợp tự, trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện.
38. Miếng trầu là đầu câu
chuyện
Theo phong tục Việt Nam, miếng trầu
tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm ý nghĩa, giàu nghèo ai cũng có thể
có, vùng nào cũng có. Miếng trầu đi đôi với lời chào, người lịch sự không
"ăn trầu cách mặt" nghĩa là đã tiếp thì tiếp cho khắp.
Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là
"Đầu trò tiếp khách" là
trầu, ngày xưa ai mà chẳng có, hoạ chăng riêng Tú Xương mới "Bác đến chơi
nhà ta với ta"
Quí nhau mời trầu, ghét nhau theo
phép lịch sự cũng mời nhau ăn trầu nhưng "cau sáu bổ ra thành mười".
Đặc biệt "Miếng trầu là đầu
câu chuyện" giao duyên giữa đôi trai gái:
"Lân la điếu thuốc miếng trầu,
đường ăn ở dễ chiều lòng bạn lứa".
- Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh
Duyên em sánh với tình anh tuyệt
vời.
Mời trầu không ăn thì trách móc
nhau:
- Đi đâu cho đổ mồ hôi
Chiếu trải không ngồi trầu để không
ăn.
- Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Khi đã quen hơi bén tiếng, trai gái
cũng mượn miếng trầu để tỏ tình, nhất là các chàng trai nhờ miếng trầu mà tán
tỉnh:
- Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.
- Một thương, hai nhớ, ba sầu
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.
"Có trầu, có vỏ, không
vôi" thì môi không thể nào đỏ được, chẳng khác gì "có chăn, có chiếu
không người nằm chung".
- Cho anh một miếng trầu vàng
Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm.
- Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già.
Miếng trầu không đắt đỏ gì "ba
đồng một mớ trầu cay" nhưng "miếng trầu nên dâu nhà người".
Ngày nay để răng trắng nhiều người không biết ăn trầu nữa, nhất là ở thành phố,
nhưng theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng, sau khi ăn hỏi xong cũng đem cau
trầu cau biếu hàng xóm và bà con nội ngoại. Vì miếng trầu là tục lệ, là tình
cảm nên ăn được hay không cũng chẳng ai chối từ
Thời xưa, ăn trầu còn sợ bị bỏ
"bùa mê", "bùa yêu" nên người ta có thói quen:
- Ăn trầu thì mở trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi.
Các cụ càng già càng nghiện trầu,
nhưng không còn răng nên "đi đâu chỉ những cối cùng chày" (Nguyễn
Khuyến). Cối chày giã trầu làm bằng đồng, chỉ bỏ vừa miếng cau, miếng trầu,
miếng vỏ nhưng trạm trổ rất công phu, ngày nay không còn thấy có trên thị
trường nên các cụ quá phải nhở con cháu nhá hộ.
Vì trầu cau là "đầu trò tiếp
khách" lại là biểu tượng cho sự tôn kính, phổ biến dùng trong các lễ tế
thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng... Nên têm trầu cũng đòi
hỏi phải có mỹ thuật, nhất là lễ cưới có trầu têm cánh phượng có cau vỏ trổ
hoa, "cau già dao sắc" thì ngon. Bày trầu trên đĩa, hạt cau phải sóng
hàng, trầu vào giữa, đĩa trầu bày 5 miếng hoặc 10 miếng, khi đưa mời khách phải
bưng hai tay. Tế gia tiên thì trầu têm, còn tế lễ thiên thần thì phải 3 là trầu
phết một tí vôi trên ngọn lá và 3 quả cau để nguyên
39. . Lễ sêu tết Đoan Ngọ
Ca
dao có câu:
Tháng
Tư đong đậu nấu chè
Ăn
tết Đoan Ngọ trở về tháng Năm...
Chứng
tỏ rằng tết Đoan Ngọ là một tết cũng được sự chú ý của người Việt Nam ta xưa,
nay. Theo sách "Phong thổ ký" thì Đoan nghĩa là mở đầu, Ngọ là giữa
trưa. Đoan Ngọ là bắt đầu lúc giữa trưa. Sở dĩ được gọi như thế vì tháng Năm là
tháng có nắng to, khí dương đang thịnh như mặt trời vào lúc giữa trưa. Tết Đoan
Ngọ ăn vào ngày mồng 5 tháng Năm âm lịch. Cũng như các tết khác, tết Đoan Ngọ
cũng có cúng lễ (lễ đền, miếu, thần linh, tổ tiên và ông bà). Ngoài cúng lễ còn
có nhiều tục lệ như: tục giết sâu bọ, nhuộm móng chân, móng tay, tục đeo bùa
tui, bùa túi, tục tắm nước lá mùi, tục khảo cây lấy quả, tục hái thuốc vào giờ
Ngọ, tục treo ngải cứu để trừ tà, tục đi sêu... Trong tám tục lễ trên, có lẽ
tục người ta chú ý nhất là tục lễ sêu- một tục lệ mang đầy tính nhân văn giữa
người với người, con cháu với ông bà, cha mẹ, người bệnh với thày thuốc, học
trò với thày giáo.
Những
chàng trai đã dạm vợ hoặc hỏi vợ nhưng chưa cưới thường đi sêu bố mẹ vợ nhân
ngày Tết Đoan Ngọ.
Lễ
sêu trong dịp này bao giờ cũng có đậu xanh mới hái vào tháng Tư, gạo nếp của vụ
chiêm. Ngoài ra tháng Năm cũng là mùa ngỗng và mùa chim ngói, cùng với gạo nếp,
đậu xanh, bao giờ cũng có một đôi ngỗng và một, hai chục chim ngói. Kèm thêm là
cân đường cát, trái dưa hấu, nghĩa là toàn những sản phẩm trong mùa.
Chàng
rể đi sêu, lẽ tất nhiên bố mẹ vợ nhận đồ lễ, nhưng bao giờ cũng hoàn lại một
phần, thường chỉ nhận một nửa. Bởi lễ trọng ở lòng thành, chứ không trọng ở chỗ
nhiều ít. Theo tập quán ít ai nhận đồ biếu tết mà không lại quả, nghĩa là để
lại cho người biếu một nửa. Có những trường hợp các chàng rể nài nỉ để bố, mẹ
vợ nhận hết, bố mẹ vợ sẽ nói: "Thầy mẹ đã nhận cả, nhưng đây là thầy mẹ
gửi biếu ông, bà đằng nhà...".
Thật
là lịch sự vậy thay!
Chỉ
những chàng rể chưa cưới vợ mới đi lễ sêu, còn những chàng rể đã cưới vợ rồi
thì hết lễ sêu, nhưng trong dịp tết Đoan Ngọ (hoặc các dịp lễ, tết khác) các
chàng rể dù nghèo vẫn cố chạy món quà nhỏ để biếu bố, mẹ vợ. Lễ biếu này nhiều,
ít tuỳ tâm và không quan trọng bằng lễ sêu.
Các
ông đồ xưa dạy học thường không lấy học phí. Hàng năm vào dịp mồng 5 tháng Năm
các học trò đều có đồ lễ tết thầy. Thúng gạo, đôi ngỗng, phong chè, gói bánh
hoặc túi hoa quả, tuỳ tâm bố mẹ học trò. Những gia đình giàu có thường phong
bao một số tiền. Học trò cũ đã làm nên danh vọng cũng không quên thăm thầy vào
dịp này.
Các
con bệnh được các ông lang chữa khỏi bệnh, mặc dù đã trả tiền thuốc, nhưng cũng
không quên ơn cứu mệnh cho mình, nên trong dịp tết Đoan Ngọ (còn gọi là tết hái
thuốc) cũng mang quà tết thầy lang. Đồ lễ cũng gồm: đậu xanh, gạo nếp, ngỗng,
chim ngói... như đồ lễ học trò tết thầy học.
Thế
đấy, người Việt Nam ta ăn tết Đoan Ngọ để mừng mùa lúa chiêm bội thu, rau, đậu
sai quả, chim, thú nảy nở, ăn mừng kết quả của những ngày lao động chống nắng,
thắng mưa, đem về cái no, cái ấm của mọi nhà.
Cùng
với nhiều tục lệ cổ truyền về tết, những tục lệ này đã bảo tồn được tính chất
đặc biệt của nền văn hoá Việt Nam, xây dựng trên căn bản nhân nghĩa và đạo đức.
Những
tục tết thầy học, tết thầy thuốc tết nhạc phụ, nhạc mẫu, biếu tặng những người
đã tri ân cho mình, chứng tỏ rằng lễ giáo của ta đẹp, giàu tính nhân văn, đáng
được tôn trọng, giữ gìn và phát huy; những ân sâu, nghĩa trọng không bao giờ
chúng ta quên.
Dẫu
qua bao biến đổi về thời cuộc, song tết Đoan Ngọ với tục lễ đi sêu vẫn tồn tại
trong lòng nhân dân với ý nghĩa thiêng liêng, riêng biệt và đặc biệt của người
Việt xưa, nay
40. Lễ đền ơn đáp nghĩa
của người Raglai
Một nét đẹp đã trở thành truyền
thống trong đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên dải đất Việt Nam là lòng
tôn kính, yêu thương và biết ơn sâu sắc ông bà, cha mẹ.
Ăn ở hiếu thảo đối với cha mẹ đã
trở thành đạo lý quan trọng trong đạo làm người. Lễ đền ơn đáp nghĩa cha mẹ của
người Raglai cũng nằm trong quan niệm “Cây có cội, nước có nguồn”, nhưng cách
thể hiện có những nét độc đáo riêng và giữ một vị trí quan trọng trong đời sống
văn hóa tinh thần của họ. Người Raglai coi lễ này không phải là chuyện nội bộ
của một gia đình, mà là việc chung của cả cộng đồng và do đó được xếp vào trong
hệ thống lễ hội chung, như lễ bỏ mả, lễ cưới, lễ ăn cơm mới, lễ cúng Yang...
Đền ơn đáp nghĩa cha mẹ, tiếng
Raglai là “Ea tixâu pilâu dhadha”. Bất cứ người Raglai nào cũng đều cho rằng
công lao của cha mẹ như núi cao, như nước mạch nguồn chảy ra. Và họ tâm niệm sẽ
đền đáp xứng đáng ngay từ khi còn ở chung nhà, chung bếp cho đến khi có vợ, có
chồng ra ở riêng. Nhưng như thế chưa đủ, theo tập tục của người Raglai, việc
đền ơn đáp nghĩa cha mẹ đối với họ phải được nâng lên thành nghi lễ, được họ
tộc và buôn làng chứng kiến, thừa nhận, như thế mới được coi là trọn vẹn. Theo
quan niệm đã có từ lâu đời của người Raglai, điều bất hạnh lớn nhất của con
người là cha mẹ qua đời mà người con chưa kịp làm lễ Ea tixâu pilâu dhadha. Sự
ân hận này nhiều khi ray rứt người con suốt cả đời. Do đó, mỗi người Raglai khi
trưởng thành, ngoài trách nhiệm chăm sóc, kính yêu cha mẹ thường ngày, nếu cảm
thấy cha mẹ có dấu hiệu già yếu (sức khỏe kém, da mặt có nhiều nếp nhăn, tóc
bạc, kém ăn, mất ngủ...) thì phải chuẩn bị lễ vật để tổ chức lễ đền ơn đáp
nghĩa cha mẹ.
Thông thường, lễ vật gồm có thịt
heo, thịt gà, gạo, nếp, rượu cần, một ít trầu cau, thuốc lá... Nhà nhiều của
thì chuẩn bị làm lễ lớn, giết trâu, bò... người nghèo thì tùy theo khả năng
kinh tế của mình mà tổ chức. Vật chất không phải là tiêu chuẩn để đánh giá tấm
lòng hiếu thảo của con đối với mẹ cha, cái chính là thái độ, là tấm lòng của
người con đối với cha mẹ trong quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng. Sự có mặt của
bà con trong buôn làng vừa biểu thị tình cảm quý mến, vừa để chứng kiến việc
thực hiện một tập tục xã hội. Họ mang đến những lời chúc tụng chân thành của
cộng đồng đối với gia đình nói chung và cha mẹ của gia chủ nói riêng. Những gia
đình khá giả, hoặc gặp những năm được mùa, thường tổ chức cuộc lễ này rất lớn
và vui chơi kéo dài hai ba ngày đêm.
Về nghi thức, khi cỗ bàn được bày ở
giữa nhà, thì mẹ cha - đối tượng chính của buổi lễ - được mời ngồi vào vị trí
trung tâm, nơi trên mâm cỗ đặt một đĩa thịt và lòng heo đủ món. Những người
khác gồm bà con, họ hàng, người trong buôn... đều tề tựu đông đủ chung quanh.
Sau khi tiến hành lễ khấn vái các Yang, mời gọi tổ tiên, ông bà và những người
khuất mặt cùng về chứng kiến tấm lòng của con đối với cha mẹ, người con rót một
chum rượu trắng thật đầy kính cẩn mời mẹ cha. Tiếp đó, người con tự tay bưng
đĩa thịt, gắp từng miếng đút cho cha mẹ ăn để tỏ lòng hiếu thảo, trước sự chứng
kiến của cộng đồng. Nếu đĩa thịt được ăn hết, thì đó là một niềm hạnh phúc rất
lớn đối với gia đình người con. Hoặc có thể cha mẹ chỉ ăn vài miếng tượng
trưng, như thế cũng đã đủ là điều vui sướng. Trong không khí hân hoan ấy, chủ
nhà mời bà con, họ hàng cùng chia sẻ niềm vui. Họ vừa ăn uống, vừa trao đổi
những lời chúc tụng tốt đẹp đối với gia đình và những người cao tuổi trong
buôn. Lễ vật còn được dành ra một phần để mẹ cha đưa về cúng ông bà tại nhà
mình và biếu cho một số người thân.
Sau bữa tiệc, đến phần sinh hoạt
văn nghệ, vui chơi. Khi tiếng mã la nổi lên cùng dàn nhạc hòa theo, nam nữ
thanh niên và cả những người lớn tuổi cùng nhau nhảy múa, ca hát. Cuộc vui kéo
dài đến suốt đêm.
Lễ đền ơn đáp nghĩa cha mẹ của
người Raglai nhìn về hình thức có vẻ như rất đơn sơ, mộc mạc, nhưng bên trong
hàm chứa một đạo lý sâu sắc được cả cộng đồng thừa nhận và hưởng ứng nhiệt
thành, đầy tình nghĩa. Truyền thống đạo lý mang đậm tính nhân văn này đã được
các thế hệ người Raglai kế thừa và bảo tồn cho đến ngày nay.
41. Tục Khao lão
Bây giờ đến bậc ăn dưng
nhỉ, Có rượu thì ông chống gậy ra. (Nguyễn Khuyến)
Lên lão cũng phải khao. "Khao lão" không khó khăn như khao vị thứ
đình trung. Lo đủ lệ là được, có mời thì mời phe giáp hay thôn xóm khác đến, vì
lên lão là quyền đương nhiên không phải cầu cạnh.
Những nhà giàu có thường nhân dịp bày tiệc mừng thọ tế lễ, ăn uống linh đình.
Tế sống cha mẹ, có văn chúc thọ với ban tư văn hành lễ trợ tế. Cha mẹ ngồi phía
trong, con trái, gái, dâu, rể, cháu chắt, phân thứ bậc trên dưới đứng hai bên,
nam bên trái, nữ bên phải, làm lễ tế ba tuần rượu, có tấu nhạc trọng thể , vui
vẻ. Tế sống cha mẹ mỗi lần hai lạy, khác tế thần, tế tổ mỗi lần bốn lạy. ở đất
văn vật, bài văn tế chúc thọ thường là cả một công trình bút mực, có khi người
trong vùng nô nức đến xem tế và nghe đọc văn.
Có đám mừng thọ mời bà con họ hàng
làng tổng, tiệc tùng hát xướng hai ba bốn ngày.
"Phú quý sinh lễ nghĩa", có nhiều nhà làm lễ mừng thọ cha mẹ lên lão
70, 80, 90 tuổi...Không phải tục lệ bắt buộc, giàu có bày ra thết đãi mời mọi
người đến chia vui với mình, đồng thời làm vui lòng cha mẹ, tưởng cũng là một
tục hay, có thể khiến cho những kẻ nhẹ tình hiếu thảo, không lo phụng dưỡng cha
mẹ cho được tuổi thọ như người, phải lấy làm suy nghĩ và hổ thẹn
42. Hát trao dâu trong
đám cưới của dân tộc người Giáy
Trong đám cưới người Giáy, trao dâu
là nghi thức quan trọng khi nhà gái đi đưa dâu đến nhà trai và đã đến lúc chuẩn
bị ra về. Các bài hát trao dâu nói lên tình cảm của cha mẹ, anh chị em, họ hàng
đối với cô dâu khi về nhà chồng.
Đám cưới (Cưn láu) là một trong
những ngày hội vui nhất của người Giáy. Họ quan niệm, Cưn láu càng lớn, càng
đông vui thì hạnh phúc của đôi trai gái càng được bền lâu và thiêng liêng hơn.
Và trong các đám cưới người Giáy thường bao giờ cũng có các cuộc hát đối đáp
giữa trai gái của bản làng này với trai gái của bản làng khác đến dự đám cưới.
Các cuộc hát đối đáp này thường được bắt đầu vào chập tối và có khi kéo dài đến
tận ngày hôm sau, đêm hôm sau. Ngoài ra trong các nghi thức lễ cưới đều có kèm
theo các bài hát như hát đón dâu, hát đưa dâu, hát rửa mặt, hát trước mâm trước
rượu, hát đạo lý, hát khuyên răn, hát cám ơn.
Trong đám cưới người Giáy, trao dâu
là nghi thức quan trọng khi nhà gái đi đưa dâu đến nhà trai và đã đến lúc chuẩn
bị ra về. Khi đó, những bài hát trao dâu là không thể thiếu trong nghi thức
này. Nội dung của các bài hát trao dâu nói lên tình cảm của cha mẹ, anh chị em,
họ hàng đối với cô dâu khi về nhà chồng. Đối với những giờ nhà gái ra về khác
nhau, người Giáy đều có những bài hát tương ứng.Ví như trong trường hợp nhà gái
ra về vào giờ sửu thì sẽ hát:
Giờ sửu là giờ con trâu
Bốn chân đỡ bồ thóc
Đó mới là giờ tốt
Con xuất giá theo chồng.
Đó cũng là những lời dặn dò, khuyên
răn cô dâu khi về sống ở gia đình nhà chồng:
Đêm thì nên thức khuya
Sáng thì nên dậy sớm
Hãy dậy trước mọi người.
Người Giáy quan niệm làm dâu là một
việc khó. Chính vì thế, các lời hát trong nghi thức trao dâu thực chất là những
lời tâm sự, dạy bảo chân thành của mọi người đối với cô dâu. Những lời dạy bảo
này sẽ giúp cô dâu ứng xử tốt hơn với họ hàng nhà chồng, nhất là bố mẹ và anh
em của chú rể:
Miếng nạc gắp cho mẹ
Miếng ngon lấy cho cha
Mếng mềm dành cho em.
Hát trao dâu trong đám cưới người
Giáy là một phong tục đẹp, vẫn được duy trì đến ngày nay. Những lời hát cũng
được bổ sung ngày càng phong phú, thiết thực hơn đối với những cô dâu trẻ khi
bước chân về nhà chồng.
43. Chiếc vòng bạc
Thiên tình sử bi
tráng Kham Panh kể rằng xứ Mường Khoòng của người Thái xa xưa do Tù trưởng Kham
Panh đứng đầu là một vùng đất giàu có và màu mỡ. Con gái ở đây đẹp như trăng
rằm còn con trai mạnh như hổ. Làng bản sống như trong hội, như trong xứ sở thần
tiên.
Thế rồi một ngày kia có
chàng thợ bạc, con tộc trưởng Khun Ha ở phía Bắc lần mò đến đất Mường. Chàng
trẻ tuổi, đẹp trai, ăn khôn nói khéo. Tuy nhiên, thế cũng chưa có gì là đặc
biệt với người Mường Khoòng. Duy một thứ chàng có mà đất Mường chưa bao giờ có,
đó là nghề thợ bạc. Chàng ta là một thợ bạc giỏi giang. Chàng đem những vòng
cổ, vòng tay, khuyên tai ra để thu hồn những cô gái đẹp Mường Khoòng. Trong số
đó, có cô con gái yêu của tù trưởng Kham Panh – nàng Mứn. Thế là những nghi kỵ
về người xứ lạ dần tan biến đi như sương mù gặp nắng, như cơn mưa gặp gió.
Chàng trai ngày ngày đánh vòng, gò khuyên tai cho con gái Mường, không bao giờ
hết việc. Con gái tù trưởng Kham Panh đã đem lòng yêu chàng thợ bạc.
Nhưng có ai ngờ đâu đó
là cái bẫy. Chàng trai đã dùng nghề thợ bạc để có cớ lưu lại do thám đất Mường.
Ngày cưới của con gái tù trưởng với chàng thợ bạc cũng chính là ngày khởi đầu
bộ tộc Khun Ha ém đường đưa quân đến thôn tính Mường Khoòng. Thiên tình sử đẹp
đã trở thành khúc ca bi tráng bởi sự thất thủ của Mường Khoòng. Chiếc vòng bạc
trong trường ca Kham Panh như muốn nhắn lại cho đời sau một triết luận: Trong
mọi vẻ đẹp đều ẩn chứa một mối hiểm họa khôn lường.
Trở lại chuyện chiếc
vòng trong đồ nữ trang các dân tộc thiểu số. Phụ nữ miền núi phía Bắc có nhiều
loại vòng: Vòng cổ, vòng tay, vòng chân, vòng vía hay vòng đeo tai. Vòng thường
được làm bằng kim loại. Quý nhất, đắt nhất là vòng bạc, ngoài ra còn có vòng
sắt, vòng đồng (hai loại này thường là vòng vía để giữ hồn, kỵ gió máy, đuổi tà
ma) lại có vòng được làm bằng cườm, xâu hạt thành dây để đeo cổ hoặc tay (ở dân
tộc Dao, Phù Lá, Tày).
Cách đeo vòng ở phụ nữ
dân tộc cũng rất khác nhau. Phụ nữ Tày thường chỉ đeo chiếc vòng bạc vừa đủ để
tạo nên độ sáng lấp lánh trên nền áo chàm. Dân tộc Dao thì khác, ngoài các đồ
trang sức trên ngực áo, nẹp áo, thắt lưng, họ còn đeo nhiều vòng cổ có khi từ
năm đến bảy chiếc tương phản mạnh với trang phục rực rỡ. Với người Dao, đeo
vòng nhiều khi còn là sự khoe giàu khoe có. Số lượng vòng trên cổ còn như để
xác định vị thế của người con gái danh giá. Ở Tây Nguyên còn có
vòng tay cầu hôn. Chưa rõ thủ tục cầu hôn trao vòng như thế nào, nhưng với
con gái Dao khi ra chợ được chàng trai nào đó sấn đến cướp vòng tay thì cũng
được coi như sự ngỏ lời. Người con gái không quyết liệt đòi lại là biểu hiện
nhận lời. Và chàng trai giữ lại chiếc vòng như vật làm tin. Duyên vợ chồng sẽ
dần được khẳng định. Người Thái có cả một trường ca bi thương về chiếc vòng
nhưng phụ nữ cũng chỉ giản dị đeo trên cổ một cái vòng bạc hoặc đồng, hoặc thêm
một cái vòng tay.
Được biết, người Mông
(cụ thể là Mông trắng) đeo nhiều đồ trang sức nhất. Thứ đồ được ưa thích nhất
của họ là vòng cổ với nhiều kích thước to nhỏ, nhiều họa tiết trang trí cầu kỳ
với nhiều chất liệu khác nhau dùng thành từng bộ trong ngày cưới, ngày lễ hội.
Ngày thường họ chỉ đeo vòng vía bằng bạc hoặc đồng hoặc dây mây. Riêng vòng vía
đeo vào thì không cởi bỏ, bởi vòng vía cốt để trừ tà ma, đau ốm. Trẻ em đeo
vòng bạc để kỵ gió máy, giữ sức khỏe.
Ngoài các dân tộc kể trên, phụ nữ
các dân tộc khác cũng đều sử dụng vòng bạc và các kim loại khác để làm đồ trang
sức, mức độ khiêm nhường hơn nhưng nó luôn là đồ nữ trang ưa thích của người
phụ nữ.
Xung quanh chiếc vòng
trang sức là cả một câu chuyện dài gắn liền với vẻ đẹp vĩnh hằng của người phụ
nữ. Cũng bởi thế, nó góp phần để lại trong ký ức nhân gian nhiều chuyện vui
buồn còn tiếp nối.
44.
Tò he - Một nét
văn hóa dân gian
Trong số các trò chơi dân gian, có
lẽ tò he vẫn là một trong những trò chơi còn được hiện hữu đến nay. Mới đây
thôi, tò he còn được chọn là một trong những mặt hàng nghệ thuật truyền thống
tiêu biểu của Việt Nam tham gia trong Chương trình giao lưu văn hóa Việt - Mỹ.
Xưa kia, tò he là sản phẩm mang
nhiều ý nghĩa: chơi, ăn, cúng, lễ… Cái tên “tò he” cũng tồn tại trong dân gian
từ khá lâu, và người làm nghề có ở nhiều nơi, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là làng
Xuân La (xã Phượng Dực, Phú Xuyên - Hà Tây). Theo lời một cụ già trong làng,
nghề nặn tò he có lịch sử hơn 300 năm. Nhưng đến nay, vẫn chưa có thông tin
chính xác về cái tò he này có từ bao giờ?
Ban đầu, người ta gọi tò he là đồ
chơi chim cò: các con công, gà, lợn, cá, trâu, bò… những con vật gần gũi với
đời sống của cư dân nông nghiệp; Nhưng về sau, sản phẩm thường được gắn với một
chiếc kèn ống sậy, đầu kèn có dính kẹo mạch nha, nguyên liệu làm bằng bột gạo
hấp chín, màu sắc tươi rói và có nhiều chủng loại. Kèn có thể phát ra một thứ
âm thanh hấp dẫn, khi thổi lên có tiếng kêu ngắt quãng tò… te… tò… te. Có lẽ vì
thế người ta gọi là “tò te”, sau nói chệch thành “tò he”. Một loại sản phẩm
khác không thuộc loại chim cò mà là các mâm bồng như: nải chuối, đĩa xôi, chân
giò, quả cau, quả hồng, quả oản… để phục vụ cho các bà, các cô đi lễ chùa vào
các ngày rằm, mồng một có màu sắc đẹp. Sản phẩm tương đối giống đồ thực và pha
thêm chút đường có thể ăn được nên trẻ con và người lớn đều thích, thường gọi
là bánh vòng hoặc “con bánh”.
Người nặn tò he có một nguyên tắc
của dòng họ là chỉ truyền cho con trai và con dâu. Nặn tò he có nguồn gốc lâu
đời nhưng do tư liệu chép đã bị cháy nên không tìm ra được ông tổ nghề. Hơn
nữa, trong làng có rất nhiều dòng họ: Ðặng, Nguyễn, Vũ, Lê, Chu, Trịnh... mà họ
nào cũng biết nặn tò he. Vì thế chức danh ông tổ nghề được phong cho dòng họ
nào cũng xứng đáng cả.
Ðể nặn ra tò he chỉ cần những nguyên liệu rất đơn giản, gần gũi với cuộc sống
nông dân. Ðó là những sản phẩm nông nghiệp do chính bàn tay họ làm ra: bột gạo,
phẩm mầu, que tre.
Giai đoạn làm bột là giai đoạn công
phu nhất. Bột được làm từ gạo nếp trộn với gạo tẻ nghiền nhỏ theo tỷ lệ 1 kg
gạo tẻ với 1 lạng gạo nếp. Nhào bột với nước cho đến khi bột nhuyễn, quyện dính
vào nhau, vê thành cục. Cho cục bột vào nồi nước đang sôi để một giờ đồng hồ
đến khi bột nổi, chìm rồi lại nổi thì vớt ra, để nguội bột, và nhuộm màu cho
bột.
Màu sắc dùng để nhuộm bột cũng lấy
từ cây nhà lá vườn: mầu xanh từ lá cây, màu đỏ của gấc, mầu vàng từ nghệ, mầu
đen từ tro bếp, màu tím từ một loại lá của người dân tộc thiểu số... Ðiều đáng
nói ở đây là mầu rất bền, không bị loang ra. Màu nào vẫn giữ nguyên màu đó khi
ta đem trộn lẫn chúng vào nhau.
Tò he -
Lưu giữ nét văn hóa dân gian
Với một hòm hành trang gọn nhẹ, các
nghệ nhân nặn tò he thường xa nhà ít nhất là vài ba ngày, lâu là hàng tháng
trời. Họ rong ruổi trong các phiên chợ quê, trong các ngõ xóm, phố phường để
sống và giữ nghề tổ tiên? Đâu có họ là có đám đông trẻ nhỏ xúm quanh. Chỉ được
xem các nghệ nhân thao tác thôi, cũng đủ thấy mê rồi. Cá biệt, có người mời họ
về nhà đắp những nhân vật trong hòn non bộ, nặn những bộ tam đa, những nhân vật
trong truyền thuyết. Những lần như vậy, họ thường được đón tiếp và trả công khá
hậu hĩnh. Theo các nghệ nhân, nếu một ca gạo chuyển thành bột, qua tay người
nặn, thành sản phẩm bán thu về có giá trị bằng 3 ca gạo. Xưa thế, nay vẫn thế.
Nhiều gia đình làm nghề xây nhà, mua sắm trang thiết bị, dành tiền cho con đi
học, tất cả đều trông vào hòm hàng tò he.
Người làm tò he bây giờ cũng năng
động rất nhiều trước thị hiếu của khách hàng. Nếu như ngày trước các đối tượng
để nặn tò he chủ yếu là các loại cây quả, con giống, hình người là Tôn Ngộ
Không, Trư Bát Giới,.. thì bây giờ tò he phong phú hơn rất nhiều. Với riêng đối
tượng thiếu nhi, họ rất để ý đến những phim hoạt hình mới mà các em được xem.
Nếu “chẳng may” các em yêu cầu được mua những hình mình thích thì chỉ cần nhìn
qua là các nghệ nhân có thể nặn giống được. Và để nắm vững được thời gian cụ
thể của những ngày hội, ngày lễ họ có trong tay cả quyển sách ghi lại các ngày
lễ tết của tất thảy mọi vùng miền trong cả nước. Họ cũng quan tâm cả đến thời
tiết, nhiệt độ… vì đó cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng
cũng như số lượng tò he bán được.
Nghệ nhân cao tuổi nhất trong làng
là cụ Ðặng Văn Tố (81 tuổi). Cụ được phong tặng những danh hiệu:“Nghệ nhân dân
gian”, “Ngôi sao quê lụa” của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam và UBND tỉnh Hà
Tây. Cụ đã vinh dự được mang nghề truyền thống của quê hương đại diện cho Việt
Nam tham gia "Những ngày văn hóa Việt Nam" tại Nhật Bản. Nghề nặn tò
he đã được đông đảo bạn bè quốc tế biết đến. Đó thực sự là những phần thưởng
quý giá dành cho người có nhiều cống hiến trong việc giữ gìn và phát huy làng
nghề truyền thống - nghề làm tò he.
Tìm
hướng đi mới cho nghề làm tò he
Đã có một thời gian, nghề làm tò he
truyền thống này tuởng chừng như bị mai một do không cạnh tranh nổi với nhưng
món đồ chơi nước ngoài. Đặc biệt là đồ chơi Trung Quốc vừa rẻ, bền đẹp lại đa
dạng về mẫu mã, màu sắc. Tuy nhiên, nhờ những chính sách nhằm duy trì và phát
triển các làng nghề truyền thống của Đảng và Chính phủ, làng nghề Xuân La đã và
đang gìn giữ được một loại hình nghệ thuật đặc sắc của văn hoá dân gian.
Song, cũng như nhiều làng nghề
truyền thống khác ở nước ta là đều vướng mắc ở “đầu ra”’ cho sản phẩm. Xuân La
cũng đang vươn mình tìm đến những thị trường rộng lớn hơn. Người ta thích tò he
không giống như sự yêu thích những thứ đồ chơi hiên đại, đắt tiền. Mà thích ở
cái mộc mạc, đậm tính dân tộc của tò he, ở tính thủ công từ những đôi tay khéo
léo. Sở dĩ tò he chưa được quảng bá rộng rãi ra nước ngoài là vì nhược điểm của
chất liệu tạo ra chúng. Bột gạo rất rẻ và dẻo khi nặn nhưng lại không để được
lâu, dễ bị mốc và khô, nứt. Mỗi sản phẩm tò he thông thường chỉ để được từ 3
đến 30 ngày (tuỳ thuộc vào tay nghề của thợ nặn, thời tiết và cách bảo quản).
Gia đình nghệ nhân dân gian Đặng Văn Tố từng đón tiếp rất nhiều đoàn khách
trong và ngoài nước đến tìm hiểu về nghề nặn tò he. Trong số những vị khách ấy,
có không ít người đặt vấn đề đưa tò he ra nước ngoài. Thế nhưng sản phẩm làm
ra, đem đóng hộp mang sang đến nước bạn thì bị khô nứt. Kế hoạch đưa tò he ra
thị trường thế giới đành phải tạm dừng ...vô thời hạn!
Một mặt, người dân Xuân La
vẫn cố gắng duy trì nghề truyền thống của mình. Mặt khác, họ không ngừng thử
nghiệm, tìm kiếm những chất liệu mới. Gia đình bà Diền là gia đình đầu tiên và
duy nhất ở Xuân La thử nặn tò he bằng bột đao. Tò he làm bằng bột đao có thể để
được rất lâu (khoảng 1năm) mà không sợ nứt, mốc. Nhưng nhược điểm là rất khó
nặn và không đẹp bằng tò he làm từ chất liệu bột gạo. Hơn nữa, khi nặn xong
phải đem luộc lại - mất rất nhiều thời gian. Vì vậy, thợ nặn phải làm trước ở
nhà rồi mới đem bán. Chính điều này làm mất đi cái hay của tò he - người mua
được chứng kiến tận mắt bàn tay khéo léo của thợ nặn.
Mong muốn lớn nhất của người dân
Xuân La là có được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng
trong việc định hướng phát triển cho làng nghề. Đặc biệt là sự giúp đỡ của các
nhà khoa học trong việc nghiên cứu, tìm ra chất liệu mới để làm tò he không
những đẹp mà còn bền hơn rất nhiều lần . Có như thế, làng nghề Xuân La mới phát
triển hết nội lực của mình và tò he Việt Nam mới có thể bước chân vào “sân
chơi” lớn hơn.
Tò he là sản phẩm đồ chơi dân gian
độc đáo, vừa mang bản sắc dân tộc, vừa mang tính khoa học. Nó có tầm quan trọng
trong cuộc sống, học tập, vui chơi giải trí và rèn luyện tính thẩm mỹ cho trẻ
em. Những người tạo tác ra nó mặc dù chưa đủ nâng các sản phẩm của mình lên
hàng mỹ nghệ (vì sản phẩm chỉ sử dụng trong khoảng từ 10 đến 30 ngày) nhưng các
sản phẩm ấy đã để lại cho người xem những tình cảm thắm đượm. Ngôn ngữ khối
trong tò he giàu tính biểu cảm, tính nhịp điệu mang nét gợi nhớ. Nó giản dị như
ca dao, là tích tụ của trí tuệ nhân dân qua nhiều đời. Tò he thực sự là món ăn
tinh thần rất gần gũi với người dân Việt Nam.
45.
Nét đẹp văn hóa
của ngày Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây
Tết Chôl Chnăm Thmây mang ý nghĩa
là đón mừng năm mới, mừng thêm một tuổi, tương tự như Tết Nguyên đán của người
Việt, với hy vọng năm mới đến sẽ đem lại những điều may mắn. Ngoài ra, Tết Chôl
Chnăm Thmây còn có ý nghĩa chấm dứt thời kỳ nắng hạn, bước sang thời kỳ có nước
trời dồi dào để chuẩn bị cho vụ mùa tới.
Tết được diễn ra vào giữa tháng 4
dương lịch (tháng 3 âm lịch), không cố định ngày, hàng năm đều do các nhà thiên
văn bói toán ấn định, tính theo vòng quay trái đất quanh mặt trời trong một năm
sẽ định ra được ngày, giờ cụ thể trong năm đó. Năm nay, Tết Chôl Chnăm Thmây
diễn ra trong ba ngày 14, 15, 16 tháng 4 dương lịch (nhằm ngày 20, 21, 22 tháng
3 Âm lịch).
Đi đến những khu vực có đông đồng
bào Khmer sinh sống, chúng ta sẽ bắt gặp không khí náo nhiệt của bà con chuẩn
bị Tết cổ truyền của mình. Nào là chuẩn bị ăn mặc gọn đẹp, nhang, đèn, gạo,
rượu, thịt, làm bánh…để phục vụ cho việc ăn uống, đãi khách và dâng cho nhà
chùa. Mọi người sửa sang bàn thờ Phật, trang hoàng nhà cửa, quét dọn sân nhà,
kết cổng chào…Trong đêm giao thừa, trên bàn thờ có bày sẵn 5 nhánh hoa, 5 đèn
cầy, 5 cây nhang, 5 hạt cốm và nhiều loại trái cây. Cha mẹ, ông bà tập hợp con
cháu lại , ngồi xếp chân về một phía trước bàn thờ tổ tiên, đốt nhang đèn, vái
ba cái để tiễn đưa Têvêđa cũ và rước Têvêđa mới, mong được ban phúc lành. Họ
tin rằng Têvêđa là ông tiên được trời sai xuống chăm sóc dân chúng trong thời
gian
Tết Chôl Chnăm
Thmây diễn ra trong ba ngày:
Ngày thứ nhất gọi là Thngay Chôl
Chnăm Thmây (ngày vào năm mới) (lễ rước “Mâh Sangkran mới”). Lễ này có thể tổ
chức sớm hay muộn trong ngày, miễn là chọn đúng giờ tốt, theo quan niệm của
người Khơme. Mọi người được tắm gội, mặc quần áo đẹp, mang nhang đèn, lễ vật
đến chùa dâng lên các vị sư và được nghe các vị chúc tụng năm mới. Dưới sự điều
hành của ông Acha, mọi người xếp hàng đi vòng quanh chính điện 3 lần để làm lễ
chào mừng năm mới. Đêm lại, nghe các vị sư tụng kinh cầu an năm mới, cầu cho
“Quốc thái dân an” và hưởng được 4 pháp của đức Phật (sống lâu, sắc đẹp, an vui
và sức mạnh), rồi được nghe các vị thuyết pháp về ý nghĩa của lễ Chôl Chnăm
Thmây và sau đó thanh niên nam nữ cùng nhau múa hát trước sân chùa.
Ngày thứ hai gọi là Thngay
Von-boch: mỗi gia đình làm lễ dâng cơm buổi sớm và buổi trưa cho các vị sư sãi.
Theo đạo Phật Tiểu thừa, thì các ngày lễ tín đồ đi chùa lạy Phật có bổn phận
mang cơm và thức ăn dâng cho sư sãi và lắng nghe các vị chúc tụng, cầu an,
thuyết pháp giảng đạo, rồi các thanh niên nam nữ vui chơi trước sân chùa. Buổi
chiều, người ta làm lễ “đắp núi cát” (Puôn phnôm khsach) ngay tại khuôn viên
chùa, để mong gặp được điều lành. Tập tục này cũng bắt nguồn từ một sự tích của
một thợ săn bắn gắn với ma thuật cầu mùa của người xưa.
Ngày thứ ba gọi là Thngay Lơn-săk
(ngày thêm tuổi), mới chính là ngày chánh cũng là ngày cuối tết, tương tự như
hai ngày đầu, sau khi đã dâng cơm sáng cho các vị sư ở chùa, người ta làm lễ
tắm tượng Phật bằng nước có ướp hương thơm, rồi sau đó tắm cho các vị sư cao
niên ở chùa, nhằm rửa sạch hết cái cũ, những bụi bặm của trần thế trong năm cũ,
để bước sang năm mới với một thân thể sạch sẽ và hoàn toàn mới. Tiếp theo đó là
lễ cầu siêu (Băng Skôl), các vị sư được mời đến tháp lưu giữ hài cốt của những
người quá cố để cầu kinh, mong vong linh của họ sớm được siêu thoát. Đến trưa,
mọi người về nhà để làm lễ tắm tượng Phật thờ trong từng gia đình, để tỏ lòng
tưởng nhớ và biết ơn đức Phật, rồi chúc mừng cha mẹ, ông bà, dâng bánh trái để
tạ ơn, đồng thời cũng để rửa những điều không may của năm cũ để sang năm mới
vạn sự như ý. Tết Chôl Chnăm Thmây được kết thúc.
Trong ba ngày hội Chôl Chnăm
Thmây, bà con Khmer còn đi thăm hỏi, mừng tuổi năm mới cho nhau, chúc nhau sức
khỏe, cuộc sống yên vui, phát đạt. Tối đến, người ta đốt pháo thăng thiên, thả
diều, đánh quay lửa... Các cụ già kể chuyện thần thoại, cổ tích cho con cháu.
Gái, trai tham gia các cuộc hát đối đáp aday, hát dùkê, múa rômvông...
46.
Phong tục tập
quán của cư dân xưa ở TP Hồ Chí Minh
Còn quá nhiều điều ta chưa biết
được trong việc đi tìm “chân dung” đích thực của những dòng họ cư dân đã khai
phá đất Nam bộ. Qua việc thờ cúng tổ tiên của nhiều tộc họ sinh sống lâu đời
tại TP. Hồ Chí Minh ta mới phần nào thấu hiểu được bề dày lịch sử của các dòng
họ lưu dân ấy trên bước đường Nam tiến, và càng thấy rằng 300 năm qua là một
chặng đường lịch sử thật quan trọng và vĩ đại mà cư dân Việt đã trải qua đầy
gian nan lao nhọc nhằn để góp phần tạo dựng nên vùng đất Nam Bộ này.
Do bối cảnh xã hội Nam bộ hình
thành đặc thù nên việc thờ cúng tổ tiên của cư dân Việt tại đây ngoài những
dạng chung nhất, còn thấy thể hiện một số hình thức khác lạ so với miền Bắc và
miền Trung như cúng Việc lề, cúng Tổ cô v.v…
Tìm hiểu một số hình thức thờ cúng
tổ tiên của dân Việt tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay càng thấy được sắc thái
tín ngưỡng và văn hóa khá đặc biệt đã hình thành nên từ 300 năm qua nơi vùng
đất này. Chúng tôi xin đề cập khái quát về lễ cúng tảo mộ, lễ giỗ tộc họ, lễ
cúng Việc lề và lễ cúng Tổ cô của một số dòng họ cư dân đã sinh sống lâu đời
tại thành phố này.
1. Lễ cúng tảo mộ
Cũng như người Hoa, người Việt
thường tảo mộ vào tiết Thanh Minh từ khoảng mồng 5 đến 15 tháng 3 âm lịch.
Trong dịp này người ta thăm viếng, cải táng hoặc sửa sang phần mộ của tổ tiên,
thân nhân. Ngoài ra, khá đông người Việt tại thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu đi
tảo mộ vào một số ngày quanh rằm tháng chạp, là thời điểm mà việc đồng áng đã
xong, người nông dân chỉ chờ đón tết. Lúc đó, người ta mới có điều kiện để
“chuẩn bị” cho tổ tiên, thân nhân quá vãng "ăn tết”. Họ giẫy cỏ, cọ rửa,
sơn phết, đắp thêm đất, trồng thêm hoa, thêm cây quanh mộ. Hành động này xuất
phát từ quan niệm cho rằng mộ của người chết cũng quan trọng như cái nhà của
người sống, nó phải được chăm sóc, chuẩn bị để đón tết. Một người có hiếu không
khi nào để cho phần mộ của tổ tiên, ông bà, cha mẹ mình hoang tàn, lạnh lẽo.
Trong dịp tảo mộ, trẻ con cũng được người lớn dẫn theo để nhận biết phần mộ của
tổ tiên.
Sửa sang mộ xong, người ta bày thức
ăn cúng ngay nơi mộ để dâng lên tổ tiên, phần lớn là những món ăn truyền thống
của miền Trung như cá lóc nướng trui, bánh tráng nướng v.v… Không chỉ dừng lại
đó, nhiều dòng họ còn tiếp tục tiến hành nghi thức cúng miếu, chủ yếu là miếu
Ngũ hành. Trước đây, nơi khu mộ của những dòng họ cư trú lâu đời đều có lập
miếu Ngũ hành… Vào dịp tảo mộ, mọi người trong dòng họ đều tề tựu đến miếu Ngũ
hành của gia tộc để cúng. Trong tín ngưỡng dân gian, tùy thuộc vào tính chất
của khu vực cư trú và nghề nghiệp của cư dân mà một trong 6 nguyên lý của ngũ
hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) được "lựa chọn" vận dụng và thể hiện
với mức độ khác nhau, và thông thường, nguyên lý có ưu thế nhất sẽ được cư dân
đồng hóa như một vị thần. Ví dụ, những người làm nghề gốm, do sản phẩm của họ
phải được nung trong lửa nên họ chú ý yếu tố "hoả" nhất trong ngũ
hành, còn với cư dân nông nghiệp tại các huyện ngoại thành như Bình Chánh, Hóc
Môn, Củ Chi… do chủ yếu chỉ làm ruộng, cuộc sống gắn liền với đất đai nên yếu
tố "thổ" trong ngũ hành được đề cao nhất và được đồng hoá thành Thổ
thần. Tại khu mộ tổ tiên của dòng họ Phan (ấp 1, xã Tân Nhựt, thành phố Hồ Chí
Minh) người ta lập miếu Ngũ hành và thực chất nó được cúng kiến dưới ý niệm như
miếu Thổ thần. Họ tin rằng vì Thổ thần là vị thần cai quản khu vực đất đai –
nơi có các ngôi mộ - nên các ngôi mộ của tổ tiên sẽ được đặt dưới sự che chở,
bảo hộ của Thổ thần. Do quan niệm Thổ thần là vị thần hoang dã nên thức cúng
chủ yếu là thịt heo, vịt, mắm sống… Cúng miếu xong, mọi người tập trung lại
cùng dự chung bữa cơm trong thân tộc.
2. Lễ giỗ tộc họ
Như ta đã biết, trên bước đường vào
Nam tìm đất sống nhiều dòng họ đã tụ cư tại đây, dần dà họ lập làng, lập xóm,
xây đình, chùa, miếu, nhà thờ họ, từ đường… Chỉ từ khi làng có đình, họ mới
không còn mặc cảm về thân phận lưu dân của mình nữa; và chỉ từ khi lập được từ
đường, miếu họ thì họ mới yên tâm không còn sợ bị "lạc bổn sai căn",
"mất nguồn mất cội" nữa. Tinh thần gia tộc và tình đồng hương giúp
cho những lưu dân sức mạnh để vượt qua được những gian khó trên bước đường khẩn
hoang.
Với tác động tích cực của các sinh
hoạt cúng giỗ họ tộc, nhiều năm nay tín ngưỡng này đã và đang phát triển trên
diện rộng, nhất là khi đời sống kinh tế xã hội người dân được nâng cao hơn.
Những thế hệ già, trung niên, những người có tinh thần gia tộc nhớ ơn tổ tiên,
có nhiệt tâm đã cùng nhau vận động, khôi phục nếp sinh hoạt cộng đồng dòng họ.
Người ta liên lạc, vận động, tập hợp họ hàng quyến thuộc, đồng hương xây dựng
sửa chữa từ đường, nhà thờ họ, tái lập gia phả, sửa sang mồ mả tổ tiên, thành
lập những Hội đồng gia tộc v.v… Nhiều dòng họ lớn đã mua đất, xây mới các nhà
thờ họ tại thành phố Hồ Chí Minh (ngoài từ đường chính của họ ở các tỉnh miền
Bắc và miền Trung).
Qua nghi thức cúng giỗ của các dòng
họ này có thể biết được địa vị xã hội của các vị tiền hiền khi còn sinh tiền.
Ví dụ lễ cúng giỗ của tổ tiên dòng họ Trần Công là Trần Công Xích được tổ chức
với các nghi thức rất long trọng, vì ông này nguyên là một võ tướng biên trấn
từ thời Nguyễn Hoàng. Sau những cuộc chinh phạt chiến thắng ông đều được lệnh
triều đình Đàng Trong đưa quân, mộ dân, lập làng tại Quảng Nam, được phong chức
Tổng Quản (quan võ kiêm quan văn). Do đó khi cúng tế vị tiền hiền này, ngoài các
nghi thức như cờ xí rợp trời, tế heo sống, trống chiêng cùng ban nhạc lễ, đội
lễ sanh còn có cả tế văn tế võ. Nghi thức tế võ Việt Nam cổ truyền vốn là nghi
thức dành để cúng tế các vị quan Võ tướng.
Nội dung các bài tế khi cúng giỗ tổ
tiên các dòng họ có thể là nguồn tài liệu để nghiên cứu về quá trình di dân
khẩn hoang của lưu dân từ miền Bắc vào đến miền Trung rồi miền Nam.
Các nhà thờ tộc họ tại thành phố Hồ
Chí Minh có thể có quy mô xây dựng to, vừa hoặc nhỏ, có thể về nghi thức cúng
tế có những mức độ khác nhau… nhưng tất cả đều hội tụ một mục đích dùng làm nơi
để những người trong tộc họ liên lạc, gặp gỡ nhau để cúng tế, tưởng nhớ công
đức của tổ tiên, lưu truyền lai lịch tổ tiên và gia phả đồng tộc.
Việc cúng giỗ tổ tiên của các tộc
họ tại thành phố Hồ Chí Minh không chỉ diễn ra tại các từ đường, nhà thờ họ mà
còn được tổ chức tại các tịnh xá, chùa chiền, đó là các cơ sở vốn do một gia
đình hay một nhóm thân tộc lập ra và tự quản lý. Dần dà các tịnh xá hoặc chùa
này được dùng làm nơi thờ cúng cho cả dòng họ. Về sau có thể các cơ sở này trở
thành chùa Phật thuộc hệ thống quản lý của Giáo hội Phật giáo, song do công lao
lập chùa, người ta vẫn dành cho dòng họ một khu vực nơi chính điện để thờ cúng
tổ tiên của dòng họ ấy.
3. Lễ cúng việc
lề
Cúng Việc lề là nghi thức cúng
truyền thống theo việc đã thành lề thói, thành lệ, được hình thành trong quá
trình khai phá, khẩn hoang vùng đất Nam bộ của người Việt. Tín ngưỡng này không
có ở miền Bắc và không rõ ràng ở miền Trung.
Cúng Việc lề khá phức tạp, đa dạng
vì ở Nam bộ, tín ngưỡng này bao hàm nhiều nội dung được đan ghép vào nhau.
Người dân Nam bộ quan niệm về tín ngưỡng này khá rõ ràng, rạch ròi như một công
thức: "Trước hết là cúng Việc lề, sau là sẵn cúng đất, cúng cô hồn, cầu an
cho dòng họ".
Cúng Việc lề là cúng các vị thủy tổ
dòng họ của những lưu dân từ miền Trung đi vào Nam khẩn hoang, lập làng từ vài
thế kỷ trước. Do gốc gác cư dân từ miền Trung nên thức cúng việc lề của họ cũng
là những món ăn truyền thống của miền Trung như thịt phay, cháo nấu ám (cháo
nấu thật nhừ với cá lóc để nguyên cả con)…
Điểm đặc biệt trong nghi thức cúng
Việc lề là người cúng cố tái hiện lại cuộc sống nhọc nhằn, cơ cực của ông bà,
tổ tiên thời xưa đi khẩn hoang ở Nam bộ, như thức cúng chỉ dọn trên đệm bàng
hoặc chiếu trải dưới đất ngoài sân. Chén bằng gáo dừa, đũa làm bằng que tre…
Thức cúng đều là những món ăn mộc mạc, đơn sơ, phản ánh hoàn cảnh sống thiếu
thốn, như cá lóc nướng trui, cháo ám, cá để nguyên vảy, không chặt bỏ kỳ, vi,
đuôi (vì không có dao); rau ráng luộc (rau mọc dại ven sông), mắm sống, cốm nổ
rang v.v…
Cách thức cúng như thế nhằm để con
cháu đời sau hình dung phần nào cuộc dấn thân phiêu bạt tìm đất sống gian nan
của tiền thân, từ đó nhớ ơn tổ tiên và cố gắng sống cho xứng đáng với sự hy
sinh ấy.
Cúng Việc lề còn là dạng "giỗ
hội", là ngày "hiệp kỵ" tổ tiên của một dòng họ, những bậc tiền
bối quá vãng từ 4 đời trở về trước được tổ chức cúng gom chung lại thành giỗ
"Cửu huyền thất tổ". Các bài vị thờ quá 4 đời trong nhà sẽ được con
cháu chuyển về thờ chung nơi miếu họ, từ đường… để rồi đến ngày giỗ của dòng họ
sẽ tổ chức "giỗ hội" chung một lần. Ngày giỗ hội có thể chính là ngày
cúng việc lề, hoặc là ngày mất của vị thủy tổ, hay chọn một ngày trong tháng tảo
mộ (gọi là "lễ chạp"), thường vào tháng chạp âm lịch…
Cúng Việc lề hoàn toàn mang tính
cách riêng tư của từng dòng họ, nên mỗi dòng họ tự quy ước với nhau về ngày
cúng và thức cúng, như là một hình thức ghi "gia phả sống". Xưa kia
do chiến tranh, loạn lạc, bắt bớ, truy nã… nên nhiều gia đình, dòng họ phải
thay tên đổi họ, đốt bỏ gia phả để tránh liên lụy, do đó ngày cúng, thức cúng
được quy định trong cúng việc lề được xem như một “ký hiệu riêng" của
nhiều dòng họ ở Nam bộ . Chính nhờ những "ký hiệu riêng" ấy trong
cúng Việc lề mà người cùng dòng họ có thể nhận biết được nhau trên bước đường
lưu lạc.
Cúng Việc lề còn nhằm cầu an cho
dòng họ, khấn bái ông bà, tổ tiên quá vãng phù hộ con cháu tránh được mọi điều
rủi ro, dịch bệnh, tai ương.
Cúng Việc lề cũng bao hàm cả nghi
thức cúng thí thực. Người ta cúng một mâm cơm để ngoài sân dành cho cô hồn, cho
những vong linh xấu số "xiêu mồ lạc mả", chết khi phiêu bạt, tha
phương trên bước đường khẩn hoang, kiếm sống, không có con cháu cúng kiến, thờ
tự. Trong tâm thức của cư dân Việt, Nam bộ họ không chỉ muốn chia xẻ, an ủi
những vong linh xấu số, xa lạ mà còn tin rằng trong số những linh hồn bơ vơ,
vất vưởng ấy còn có cả họ hàng, thân thích trong gia tộc mình đã chẳng may bỏ
mình chốn rừng thiêng nước độc nào đấy vì đi khẩn hoang, vì tha phương cầu thực
hoặc vì nạn đao binh.
Cúng Việc lề hầu như luôn kèm theo
cúng đất (tức cúng tạ thổ, cúng chủ thổ), là một dạng tín ngưỡng xuất xứ từ tục
cúng "tạ thổ kỳ yên" của cư dân vùng Ngũ Quảng trong quá trình khẩn
hoang ở Nam bộ. Tín ngưỡng "tạ thổ" rất được xem trọng và đã được địa
phương hoá. Do thiên nhiên Nam bộ khi mới khai phá còn quá khắc nghiệt (thú dữ,
rừng thiêng, nước độc, dịch bệnh…), nên người ta cúng đất nhằm ngụ ý mua hay
thuê, hoặc mượn tạm đất của thần linh để gia đình dòng họ được yên ổn làm ăn sinh
sống.
Trong trường hợp tổ tiên dòng họ đi
từ Trung vào Nam bằng tàu ghe thì trong lễ cúng Việc lề người ta lấy thân chuối
làm thành chiếc tàu nhỏ, trên đó đặt thức ăn, được xem như lương thực đi đường
- để đưa tiễn tổ tiên – sau đó chiếc tàu này được thả trôi nơi ngã ba sông
rạch.
Tóm lại, cúng Việc lề là tín ngưỡng
đặc thù của địa phương Nam bộ, được hình thành từ thời khẩn hoan đến nay đã
trên dưới 300 năm. Hiện nay, tại vùng ngoại thành, thành phố Hồ Chí Minh cũng
như các vùng nông thôn Nam bộ, tín ngưỡng này còn được lưu giữ khá đậm nét ở
nhiều dòng họ lớn như một sinh hoạt văn hoá đặc thù có tác dụng gắn kết cộng
đồng, củng cố tình thân gia tộc, dòng họ, bộc lộ sự đồng cảm, lòng nhớ ơn của
con cháu đối với nguồn cội, tổ tiên và công cuộc mở đất của các bậc tiền thân.
4. Cúng lễ tổ cô
Trong quá trình di dân khẩn hoang
vài trăm năm qua, không ít yếu tố văn hoá, tín ngưỡng dân gian của người Việt
Nam Bộ đã có những biến thái so với nội dung và tính chất ban đầu của nó tại
miền Bắc và miền Trung. Một trong những dạng tín ngưỡng dân gian ấy là tín
ngưỡng thờ Tổ cô tại thành phố Hồ Chí Minh đã biến thái so với tín ngưỡng Bà cô
ông mãnh tại miền Bắc và Bà cô ông quận tại miền Trung.
"Môtip" chung tín ngưỡng
Bà cô ông mãnh tại miền Bắc và Bà cô ông quận tại miền Trung và tín ngưỡng
"Tổ cô" tại miền Nam là: người ta thờ những đồng nam, đồng nữ (chưa
lập gia đình, đồng trinh, rất trẻ), chết oan khuất vào giờ thiêng nên hiển linh
như thần thánh, có nhiều huyền thoại. Các hồn này thường biểu hiện hai
"thái độ": thứ nhất là trừng phạt sự lơ là cúng lễ của con cháu bằng
cách "bắt" trẻ con theo về thế giới bên kia; thứ hai là cứu nạn, độ
trì cho trẻ em, người lớn trong dòng họ nếu biết giữ lễ thờ cúng.
Trong thực tế, việc thực hiện các
dạng tín ngưỡng Bà cô ông mãnh tại miền Bắc, Bà cô ông quận tại miền Trung và
tín ngưỡng Tổ cô tại miền Nam còn mang những sắc thái có phần khác biệt.
Tín ngưỡng Bà cô ông mãnh thờ cả
đồng nam lẫn đồng nữ, cách thức thờ cúng còn rất đơn sơ “nơi một kệ thờ thuộc
vị trí thấp dưới gầm hương án của bàn thờ tổ tiên". Còn tín ngưỡng Bà cô
ông quận cũng thờ cả đồng nam lẫn nữ, song việc thờ cúng được nâng cao hơn qua
việc lập am nhỏ trước sân nhà. Tuy nhiên nghi thức cúng lại mang đậm màu sắc
"đồng bóng" thuộc phạm vi tín ngưỡng "Thờ Mẫu và Chư vị".
Trong khi đó, vào tới Nam Bộ, tín ngưỡng Tổ cô chỉ còn thờ "đồng nữ",
nghi thức thờ cúng tổ cô không liên quan gì đến việc Thờ Mẫu và Chư vị mà tín
ngưỡng này đã nâng lên thành một bộ phận của việc Thờ cúng tổ tiên, nơi thờ
được xây dựng riêng, thậm chí thành một loại "Tộc miếu" của những
dòng họ lớn. Các tộc miến này đủ chỗ để hàng trăm thành viên trong gia tộc hàng
năm về dự giỗ họ. Ví dụ tại huyện Bình Chánh ở thành phố Hồ Chí Minh có các tộc
miếu thờ Tổ cô của giòng họ Lại (thờ cô Lại Thị Diệu) ở các xã Vinh Lộc B, Tân
Tạo, Phong Phú…; Tộc miếu thờ Tổ cô của dòng họ Hồ (thờ cô Hồ Thị Hiên, hoặc Hồ
Thị Bông) tại các xã Bình Chánh, Hưng Long, Tân Phú… tại quận Tân Bình tín
ngưỡng Tổ cô cũng được thờ chung với các vị tiền hiền nam trong những ngôi từ
đường, miếu họ lớn như tộc miếu của dòng họ Trương Phú; tộc miếu của dòng họ
Trần Công…
Tóm lại, qua một số hình thức cúng
giỗ tổ tiên của nhiều dòng họ tại thành phố Hồ Chí Minh đã thể hiện một phức
hợp về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Với sự phát triển nhanh việc xây dựng
nhà thờ tộc họ và các hình thức đa dạng về cúng giỗ tổ tiên đã cho thấy đây là
một hiện tượng xã hội đáng chú ý và là nhu cầu thực sự bức bách của người dân.
Nhu cầu này chính đáng hơn nếu nhìn về mặt tâm lý xã hội và đời sống tâm linh
vì trong đó, ý thức về cội nguồn của gia tộc, ý niệm "uống nước nhớ nguồn",
"tri ân tổ tiên" và sự kết gắn thân tộc, tương trợ đùm bọc nhau…
chính là những khía cạnh tích cực của Văn hoá tộc người, xét trên bình diện cổ
truyền lẫn hiện đại.
47. Đồng bào Khơ-me An Giang vui đón Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay
Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay 2009
của đồng bào dân tộc Khơ-me sẽ diễn ra vào các ngày 14, 15 và 16-4. Khắp vùng
Bảy Núi và một số xã của các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú đang chuẩn
bị đón một cái Tết trong niềm vui trúng mùa, được giá.
Ông
Danh Thế Lộc, dân tộc Khơ-me, là nông dân sản xuất và kinh doanh giỏi ở thị
trấn Óc Eo (huyện Thoại Sơn) cho hay, đồng bào dân tộc Khơ-me núi Ba Thê ngày
nay có nhiều thay đổi, từ việc sản xuất đến nâng cao đời sống, nhà cửa, sinh
hoạt và ngay cả chuyện đi lại, học hành của con em đã tốt hơn. Nước xài cho
sinh hoạt hàng ngày luôn đủ đầy, không còn cảnh khó khăn như trước đây. Chùa
Khơ-me Ba Thê cũng được trùng tu lại, trở thành trung tâm sinh hoạt tâm linh
của cộng đồng, đứng đầu là Thượng tọa Chau Chanh.
Tại
các xã Cần Đăng, Hòa Bình Thạnh và Vĩnh Thành (huyện Châu Thành), cuộc sống của
đồng bào dân tộc Khơ-me cũng từng bước vươn lên, thoát nghèo bằng những dự án
vừa và nhỏ của các đoàn thể, với sự hỗ trợ của Ngân hàng Chính sách xã hội và
chính quyền các cấp. Thượng tọa Danh Thiệp, sãi cả chùa Khơ-me Vĩnh Thành, luôn
phấn khởi khi nhìn thấy sự tiến bộ của đồng bào Khơ-me và sinh hoạt cộng đồng
hòa nhập cùng phát triển của các dân tộc anh em. Tụ điểm sinh hoạt văn hóa và
ngôi nhà truyền thống-thư viện trong khuôn viên chùa được bảo quản tốt; đáp ứng
nhu cầu vui chơi và giải trí. "Nhờ tỉnh hỗ trợ kinh phí, huyện hướng dẫn
chuyên môn nhà chùa mới có chỗ nơi đàng hoàng phục vụ đồng bào và xây dựng nếp
sống văn hóa lành mạnh tốt hơn"-Thượng tọa Danh Thiệp khoe. Bên cạnh đó,
hoạt động thể dục thể thao nhất là phong trào bóng chuyền Khơ-me ở Vĩnh Thành
được duy trì và trở thành sinh hoạt nòng cốt của huyện Châu Thành.
Niềm
vui nối tiếp niềm vui khi lúa đông xuân 2008-2009, nông dân dân tộc Khơ-me ở
các huyện Châu Phú, Tri Tôn và Tịnh Biên phấn khởi nhờ trúng mùa, được giá và
cuộc sống phum, sóc ngày càng sung túc. Đạt được kết quả trên, nhờ sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước đối với việc đầu tư, phát triển miền núi, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và vùng đặc biệt khó khăn. Trường trung học phổ thông Dân tộc
nội trú An Giang luôn phát triển và xứng đáng với sự tin cậy của đồng bào. Đại
học An Giang hiện cũng có hàng trăm sinh viên là con em đồng bào Khơ-me theo
học các chuyên ngành, phục vụ đào tạo nguồn nhân lực cho vùng Bảy Núi và cả
tỉnh An Giang. Mới đây, Trường trung cấp Nghề Dân tộc nội trú An Giang cũng
được khởi công xây dựng tại ấp Tô Hạ, xã Núi Tô, huyện Tri Tôn, là niềm phấn
khởi lớn đối với thanh niên và người lao động dân tộc Khơ-me trong tỉnh.
Đón
Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay 2009 của đồng bào dân tộc thiểu số Khơ-me, năm
nay, Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch An Giang phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh An
Giang và UBND huyện Tri Tôn tổ chức "Ngày hội Văn hóa-Thể thao và Du
lịch dân tộc Khơ-me tỉnh An Giang lần VII". Theo ông Hồ Văn Dũng,
Trưởng phòng Văn hóa-Thông tin huyện Tri Tôn, nét mới của ngày hội năm nay là
có thêm phần hội chợ-triển lãm, diễu hành xe ngựa (hình thức phục vụ du lịch)
và đua bò được tổ chức và hoạt động xuyên suốt từ ngày 10 đến 13-4 với sự tham
dự của các huyện có đông đồng bào dân tộc Khơ-me. Đây là dịp gặp gỡ, giao lưu
để bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Khơ-me; đồng thời, giới
thiệu tiềm năng, thế mạnh dịch vụ-du lịch vùng Bảy Núi và tỉnh An Giang.
48. Tết của Người Mông
Dân tộc Mông gồm
nhiều nhóm: Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông
Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán). Hiện nay, trên địa bàn tỉnh ta có khoảng
5.000 đồng bào Mông cư trú tập trung ở miền núi vùng cao thuộc 2 xã Hang Kia,
Pà Cò, huyện Mai Châu. Trong những ngày này, ở 2 xã Hang Kia, Pà Cò, đồng bào
Mông đang nô nức vào ngày hội xuân.
Người Mông có một hệ
lịch riêng, theo nhận định của các nhà nghiên cứu, có lẽ họ tiếp thu cách tính
lịch của dân tộc Di (Trung Quốc). Theo đó, Tết của họ vào khoảng cuối tháng 11,
đầu tháng 12 âm lịch của Âm Dương hợp lịch mà ngày nay chúng ta sử dụng. Tuy
nhiên, ngày nay đa số các vùng người Mông đã ăn Tết Nguyên Đán như người Kinh,
chỉ trừ một bộ phận nhỏ vẫn duy trì song song Tết theo hệ lịch riêng của họ.
Đây được coi là một trong những nét đẹp văn hoá riêng có của đồng bào Mông.
Ngày 25, 26 tháng Chạp,
người Mông bắt đầu nghỉ ngơi, chuẩn bị đón Tết. Khi đó, họ phong tất cả các
công cụ sản xuất lại, ví dụ như các lò rèn phải làm lễ đóng lò, cối xay ngô
tháo ra, dán một tờ giấy bản lên rồi làm lễ với gà, bánh ngô, rượu.
Trước đây, người Mông
không gói bánh chưng. Bây giờ thì có gói, nhưng bánh chưng không nhất thiết có
trong bữa cỗ Tết của họ. Với họ, ba món không thể thiếu là thịt và rượu và bánh
ngô. Trong ngày Tết, nhất thiết mỗi nhà phải có một mâm bánh dầy được làm
từ những hạt gạo nếp nương do chính tay người Mông làm ra. Vào những ngày Tết,
tuỳ thuộc vào mỗi xóm, bản, người Mông lại tổ chức thi giã bánh dầy. Nhà nào
làm được bánh dầy vừa dẻo, vừa thơm, lại đẹp thì sẽ được thưởng. Phần thưởng có
khi chỉ là những tiếng vỗ tay, hoặc chính mâm bánh dầy đó. Nowng quý nhất vẫn
là phần thưởng được mọi người bình bầu là gia đình khéo tay.
Người Mông không đón
giao thừa. Đối với họ, tiếng gà gáy đầu tiên của sáng sớm mùng Một mới là cái
mốc đánh dấu một năm mới bắt đầu. Tối hoặc nửa đêm 30, người ta cúng ma nhà (tổ
tiên) bằng một con lợn sống, một con gà còn sống (và phải là gà trống, mà tốt
nhất là gà trống tơ). Sau đó mới mang lợn và gà ấy đi giết thịt (nhà nào giàu
có thì thịt một con lợn từ 28, 29 để ăn trước). Thịt xong đem cúng một mâm thịt
chín, rồi ăn cơm uống rượu đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên.
Các nhóm Mông có phong
tục hơi khác nhau, nhưng về đại thể đều rất quan trọng lúc cúng ma nhà bằng lợn
và gà sống vào tối 30. Từ mùng 1 trở đi họ mặc quần áo mới, đi hài đi chơi. Ném
papao là một trong những trò chơi ngày Tết mà người Mông rất thích; ngoài ra
còn múa khèn, múa ô, chơi cầu lông gà, hát ống, hát dân ca, đua ngựa, bắn nỏ...
Đặc biệt, nói đến Tết
của người Mông không thể không nói đến một lễ hội gọi là hội Sải Sán hay Gầu
tào (hội cầu phúc). Một gia đình trong làng, nếu hay đau ốm hay chậm có con thì
mùng 2 đi dựng một cây nêu lớn ở bãi cỏ đầu làng. Hội này tiếng là do một gia
đình tổ chức (gia đình đó gọi là chủ nêu) nhưng thật ra đó là một lễ hội của
cộng đồng, thậm chí khi làng này dựng nêu, làng khác cũng đến dự hội. Hội Gầu
tào nhằm tạ ơn tổ tiên về mùa màng, súc vật; cầu cho con cháu đông đàn. Hội có
thể kéo dài 3 ngày nếu 1 năm tổ chức một lần hoặc 9 ngày nếu 3 năm tổ chức một
lần. Đây là lễ hội lớn nhất của người Mông trong năm và nó thể hiện rõ nhất
những đặc trưng văn hoá Mông trong ngày Tết. Trong lễ hội này, sau phần lễ là
hát giao duyên và các trò chơi yêu thích của người Mông như vừa kể trên.
49. Tín ngưỡng phồn thực quanh vùng Đền Hùng
Các di tích thờ Hùng Vương và các
nhân vật thời Hùng có đậm đặc ở vùng Đất Tổ quanh Đền Hùng.
Hàng năm xuân thu nhị kỳ các làng
đều mở hội, xưa gọi là vào đám để làm lễ hội kỷ niệm vị thần do dân làng
thờ cúng. Lễ hội không chỉ đơn thuần kỷ niệm thần mà thông qua đây con người
còn muốn bày tỏ thế giới quan và nhân sinh quan của mình. Do vậy cùng một lúc
các tín ngưỡng dân gian được thể hiện để cầu sự che chở phù hộ cho dân khang
vật thịnh, cuộc sống yên vui, no đủ cho cả cộng đồng và từng thành viên của
làng Chạ. Các lớp tín ngưỡng vật linh, đa thần giáo, ma giáo, tô tem, phồn
thực... thuộc nhiều niên đại xa gần khác nhau trùng lợp lên nhau cùng được thể
hiện trong một hội lễ. Nhưng mục đích cuối cùng của lễ hội đình đám là
cầu mong mùa màng, con người, con của được sinh sôi nảy nở cho đông đàn dài lũ,
ngô lúa đầy cót đầy bồ. Đó chính là tín ngưỡng phồn thực của các cộng đồng cư
dân trồng lúa nước. Trong kho tàng văn hoá dân gian thời Hùng Vương đã để lại
nhiều dấu ấn của tín ngưỡng này. Vật tượng trưng của sự sinh sôi nảy nở chính
là nõ nường, là vật giống nam và nữ. Tên khoa học gọi là Linga và Yoni.
Do vậy quanh đền Hùng có nhiều làng thờ sinh thực khí, biểu tượng chung nhất
cho tín ngưỡng phồn thực. Một làng ở Việt Trì dựng ngôi miếu thờ tượng một bà
banh còn gọi là miếu bà tốc (tốc váy). Miếu này thờ trước con đường
ngập lụt quanh năm, đàn bà con gái lội qua đều phải tốc váy. Thờ bà tốc là thờ
vật giống sinh sôi ra nòi giống. Ở đầu làng Thu Cúc người ta thờ Bà Nàng, tương
truyền là con quan địa phương. Một con người ham muốn tột độ, bắt nhiều con
trai hầu hạ không xuể, phải dùng ngựa đực thay đàn ông nên Bà Nàng bị chết.
Người ta thờ bà là thờ cái dâm, biểu tượng của sự sinh sôi giống nòi.
Cái dâm đã được dân gian thiêng hoá cầu cúng để lấy khước.
Hàng năm họ rước chân nhang ở miếu Bà về làng làm tiệc cầu tế và hội hè linh
đình để mong lấy sự cầu tế linh nghiệm cho mùa màng tốt tươi và con người sinh
sôi đông đúc. Đền miếu làng Tứ Xã không xa Đền Hùng thờ một cái dùi và cái mo
cau khoét lỗ. Nửa đêm 11 tháng giêng ông từ và đôi trai gái làm lễ mật.
Ông Từ cúng nõ nường xong đưa dùi cho nam cầm, mo cau đưa cho nữ giới.
Ông từ hỏi “Cái sự làm sao?” nam nữ chọc dùi vào lỗ mo cau cùng đáp: “Linh tinh
tình phộc”. Sau 3 lần như thế họ cùng dân làng chạy quanh miếu 3 vòng rồi tản
ra rừng trám thực hiện “năm nữ tính giao đích thực”. Cặp thanh nữ tú nào có
chửa vào dịp ấy được làng thưởng hậu hĩnh.
Đình làng ấy thờ các nhân vật thời
Hùng. Khi nhà nước cổ đại ra đời, xã hội chuyển giao từ nữ quyền sang nam
quyền, vị trí người đàn ông được đề cao thì tín ngưỡng phồn thực ở nhiều làng
gần Đền Hùng chỉ thấy thờ vật giống nam. Lễ hội ở làng Dị Nậu có trò cướp kén.
Ba mươi cặp kén là những đoạn tre tròn nhỏ dài hơn gang tay. Người ta cúng lễ
xong tung kén ra sân đình cho dân làng vào cướp với quan niệm cướp được thì
“khước”, may mắn, sẽ sinh trai. Cũng theo quan niệm ấy mà dân gian treo các
đoạn tre, gỗ nhỏ dài gang tay, tượng trưng vật giống nam ở giàn mướp giàn bầu
lấy sinh khí nam cho chúng sai quả hơn.
Làng Phú Lộc phía Bắc Đền Hùng, thờ
Tản Viên và Sơn Quân Thần Hổ ở trên quả đồi rừng Cấm. Lễ mở cửa rừng đầu xuân
với nghi lễ phồn thực được mở ra trong hậu cung đền từ 3 tết. Đến mồng 7 tết
tại đây có tục múa gà phủ: Các cặp nam nữ, nam đóng khố cởi trần, nữ mặc yếm và
váy cộc múa vờn nhau như động tác trống mái phủ nhau ở sân đền. Nửa đêm tách
từng đôi nam nữ tản vào các gốc cây tiếp tục múa vờn nhau. Điệu múa nghi lễ này
vừa mô tả cảnh săn bắt của người sơn cước vừa thể hiện tính phồn thực của
nam nữ giao hoan. Sau nghi lễ này dân làng vững tin một năm mới được mùa
và sẽ có thêm nhiều đinh được sinh ra.
Hát xoan là di sản văn hoá được ra
đời từ thời Hùng vương vì theo truyền thuyết, một lần công chúa theo vua Hùng
tuần du đến Lãi Lèn làng Kim Đức thì trở dạ. Vua Hùng cho vời dân làng đến hát
cho công chúa bớt đau bụng. Để công chúa kịp về quê ở làng Thời Mại sinh đẻ,
người ta vừa khiêng kiệu vừa chạy. Dân làng cũng vừa chạy theo vừa hát. Từ đấy
hàng năm dân Thời Mại, nay là xã Cao Mại huyện Lâm Thao lại mời phường xoan ở
Kim Đức đến hát xoan ở đình Thời Mại. Vì hát vào mùa xuân người ta phải gọi
chệch thành hát xoan để kiêng chạm huý nữ tướng Xuân Nương thời Hai Bà Trưng
được thờ ở nhiều làng Phú Thọ.
Hát xoan là hát thờ trước cửa đình,
là dân ca lễ nghi thường chỉ diễn ra các ngôi đình thờ Vua Hùng và các nhân vật
thời Hùng. Lễ hội hát xoan có 14 quả cách, tức là 14 bài diễn xướng. Quả cách
cuối cùng gọi là “cài hoa - mó cá” tiết mục này diễn ra lúc tàn đêm nhưng
chưa thành ngày. Đó là lúc trời đất còn mù mờ, âm dương lẫn lộn. Đó là khoảnh
khắc thiêng liêng sinh thành “âm dương hợp đức”. Khi ấy lòng đình được dọn
sạch, cửa đóng, tắt hết đền nến chỉ có một ngọn nến cháy trên thượng cung tạo
ra thứ ánh sáng yếu mơ hồ nửa đêm nửa ngày. Các cô đào của phường xoan cùng
trai đình làng sở tại cài tay vào nhau tạo thành những cánh hoa nở. Hành động
này mang ý nghĩa nam nữ tác hợp thì ra hoa kết trái. Diễn xướng này là sự mô
phỏng của phồn thực. Sau cài hoa là múa hát “ mó cá”. Cá là các cô đào của
phường xoan. Trai làng múa dồn bắt “cá” để làm lễ dâng cúng lên vị vua
của làng. Điệu múa cũng tượng trưng cho nghề sông nước chài lưới của cư dân
làng Chạ xưa. Nhưng ý nghĩa sâu xa của diễn xướng này là biểu hiện tín ngưỡng
phồn thực. Thực hiện nghi thức tín ngưỡng ấy để cầu cho sự sinh sôi nảy nở, mùa
màng cùng vật nuôi, cả con người sẽ sinh sôi, phát triển.
Ở quanh Đền Hùng còn thấy đậm đặc
những lễ hội dân gian mà trong phần lễ của hầu hết các lễ hội đều thực hiện tín
nguỡng phồn thực. Vì trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ
nên phồn thực được thể hiện qua cách thờ lễ rất khác nhau ở mỗi làng nhưng với
cùng mục đích cầu chúc cho sự sinh sôi phát triển.
Tìm hiểu tín ngưỡng này sẽ giúp ta
hiểu sâu hơn về nền văn hoá Hùng Vương trên quê hương Đất Tổ và cả nước.
50 Đèn lồng Việt Nam
Những chiếc đèn lồng vốn được xem
là biểu trưng của người Trung Hoa. Tuy nhiên, ngày nay chiếc đèn lồng đã xuất
hiện nhiều nơi và được nhiều quốc gia xem như là một nét đẹp văn hóa.
Đèn lồng trên thế giới
Chiếc đèn lồng của Trung Quốc đã ra đời cách đây hơn 2.000 năm, trở thành nét
văn hóa riêng, huyền bí không nơi nào có được. Người Trung Quốc dùng chiếc đèn
lồng thay cho lời cầu chúc một tương lai tốt đẹp, một cuộc sống đầm ấm, hạnh
phúc. Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự giao lưu văn hóa của các nước, thú
chơi đèn lồng lan rộng khắp thế giới. Với công nghệ tiên tiến, tư duy sáng tạo,
ngày nay người ta đã làm cho đèn lồng ngày càng hiện đại và đẹp hơn.
Tại châu Á, ngoài việc làm đèn lồng để đón năm mới hoặc trưng bày, trang trí
cho lễ Giáng sinh, hằng năm nhiều nơi đã tổ chức những cuộc thi làm đèn lồng
với sự tham gia của nhiều nghệ nhân khắp năm châu. Tại Anh, Mỹ, Canada, Úc, lễ
hội đèn lồng cũng thường xuyên được tổ chức. Đèn lồng được làm từ nhiều thứ vật
liệu truyền thống như gỗ, giấy, nến cho đến các chất liệu hiện đại, sử dụng đèn
điện đổi màu có nhạc hỗ trợ. Hình dáng đèn lồng tại các cuộc thi rất đa dạng từ
con gà, con bướm đến chiếc đĩa bay, xe đua, tháp nghiêng Pizza, nhà hát Opera
House... Sau mỗi lễ hội là cuộc diễu hành qua các đường phố chính hoặc tổ chức
nhảy múa, đốt pháo hoa...
Đèn lồng Hội An
Du khách đến phố cổ Hội An thường bị hút hồn vào sắc màu huyền hoặc, lung linh
của những chiếc đèn lồng giăng kín các ngả đường vào phố cổ. Có một chút gì như
là sự hoài niệm về quá khứ, rất gần mà cũng rất xa, rất thật mà cũng rất mơ hồ.
Dường như không khí của một thương cảng sầm uất đang hiển hiện về, dưới ánh đèn
lồng và dưới bóng những ngôi nhà cổ đầy chất thơ.
Nghe đâu, trước kia, ở Hội An chỉ có một ít gia đình biết làm đèn lồng và họ
cũng chỉ làm trong các dịp lễ Tết, cưới xin... Khi lượng khách du lịch đến Hội
An tăng, nhu cầu mua đèn lồng làm quà kỷ niệm tăng theo. Và thế là hình thành
nghề làm đèn lồng ở phố cổ như ngày nay.
Đèn lồng Hội An có hình thức, màu sắc khá đa dạng thể hiện vẻ tinh tế, tài hoa
của người thợ Việt Nam. Các nghệ nhân ở Hội An đang dần dần xây dựng nên thương
hiệu đèn lồng Việt Nam. Đèn lồng Hội An khá đẹp, nhẹ và quan trọng là có thể
thu gọn lại bằng cách xếp khung theo nếp để mang đi, vì vậy không ít du khách
mua vài chiếc đèn lồng như là sự lưu giữ kỷ niệm về một phố cổ nên thơ, đồng
thời làm quà tặng thật ý nghĩa cho người thân. Đèn lồng Hội An đang đã trở
thành nét văn hóa riêng của phố cổ.
Đèn lồng chất liệu nhựa PP
Đèn lồng chất liệu nhựa PP xuyên sáng, không độc hại, không khung xương và có
hoa văn của Công ty Kỹ Thuật Mới xuất hiện lần đầu tiên trên thị trường vào
khoảng tháng 9/2005 (Tết Trung thu). Đợt “ra quân” đầu tiên này đã đánh bạt đèn
lồng Trung Quốc vốn chiếm lĩnh trên thị trường từ nhiều năm trước.
Đèn lồng chất liệu PP được cấu thành bởi nhiều tấm nhựa phẳng ghép lại, có thể
lắp ghép theo nhiều hình dáng: tròn, oval, ngôi sao, hoa sen, con cá, cà na...
; có thể treo ở bất kỳ nơi đâu: lễ hội, sân vườn, nhà hàng, khách sạn, nhà ở...
và quan trọng là gọn, nhẹ, dễ vận chuyển. Có lẽ vì vậy mà đèn lồng này đang
được nhiều khách hàng trong và ngoài nước quan tâm. Ngoài Canada đã đặt mua
hàng từ tháng 11/2005, khách hàng ở Hồng Kông, Mỹ, New Zealand cũng đến tham
quan và mua mẫu.
Với mong muốn làm cho Tết cổ truyền Việt Nam thêm nhiều màu sắc, phong phú và
sinh động hơn, Công ty Kỹ Thuật Mới đang sản xuất 2 mẫu đèn lồng đặc biệt dành
riêng cho Tết Nguyên đán có in hình hoa mai và câu đối chúc Tết.
Bên cạnh đó, Công ty Kỹ Thuật Mới vừa giới thiệu loại đèn lồng mô phỏng Văn
Miếu Quốc Tử Giám. Theo ông Hà Văn Lô (người thiết kế mẫu đèn lồng này): “Trung
Hoa có văn hóa đèn lồng hơn 2.000 năm, còn ở nước ta gần như còn mờ nhạt. Từ lễ
hội, sân khấu hóa đến các khách sạn, nhà hàng, ở đâu cũng thấy đèn lồng Trung
Quốc, không thấy đèn lồng mang bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đó là điều
làm tôi băn khoăn, day dứt mãi. Phải tìm một biểu tượng gì để khi nhìn vào biết
ngay đó là đèn lồng Việt Nam, không phải của Trung Quốc? Phải sử dụng chất liệu
gì, thiết kế như thế nào để “hợp nhãn”người Việt Nam? May thay, ông Huỳnh Văn
Khánh, Tổng Giám đốc Công ty Kỹ Thuật Mới, cũng có chung trăn trở đó. Sau nhiều
ngày đêm tìm tòi, suy nghĩ, chúng tôi đã chọn hình ảnh Văn Miếu Quốc Tử Giám
làm biểu tượng cho đèn lồng Việt Nam”.
Chiếc đèn lồng Quốc Tử Giám có mẫu mã thanh thoát, đường nét hoa văn tinh tế
làm toát lên vẻ trang nghiêm, cổ kính nhưng không kém phần lung linh huyền ảo.
Sẽ thật đẹp biết bao nếu được treo trang trọng trong các lễ hội lớn, các hội
trường, sân khấu... ! Ông Khánh cho biết đang tiếp tục nghiên cứu làm đèn lồng
có mô hình chợ Bến Thành, chùa Một Cột, tháp Rùa... để làm phong phú thêm cho
đèn lồng Việt Nam.
Bạn hãy thử treo đèn lồng...
Ngày Tết, lễ hội ở nước ta thường ít khi treo đèn lồng, thường chỉ có ở cung
điện vua chúa... Ở nông thôn nước ta, ngày Tết thường treo đèn nhưng là những
loại đèn trái ấu, đèn gương (kính)... Đèn thường gắn trên trụ cây tre, cây đùng
đình, thậm chí trên cây chuối lột vỏ ngoài... Văn hóa ấy giờ phảng phất trên
các kiểu kiến trúc nhà ở đô thị nước ta hiện nay khi ở trước nhà chủ nhân
thường thiết kế hai trụ cổng, phía trên có gắn đèn để thắp sáng khi cần, hoặc
dịp lễ, tết, đám tiệc...
Tết này, nếu thích bạn hãy thử dùng đèn lồng treo trước nhà, sẽ thấy không khí
ngày Xuân ấm áp hẳn lên...
51.
Tục bó vỏ ống
cơm lam của dân tộc Thái
Cơm lam là một món ăn truyền thống
của dân tộc Thái, Tày, Nùng… Ngày nay, ở một số tỉnh: Lai Châu, Cao Bằng, Lạng
Sơn, Bắc Cạn… cơm lam đã trở thành món ăn hấp dẫn khách tham quan, du lịch. Ai
đã từng thưởng thức cơm lam một lần, sẽ không quên vị thơm đậm, dẻo và ngọt của
nó. Đối với dân tộc Thái, cơm lam không chỉ là món ăn truyền thống mà trong ống
cơm lam còn chứa đựng tín ngưỡng, giải thích một hiện tượng của tự nhiên.
Quan niệm cổ xưa của đồng bào dân tộc Thái, thế giới tự nhiên được chia làm 3
phần gồm: cõi trời, trái đất và con người. Trong đó, cõi trời là một thế giới
đặc biệt, chứa đựng quyền lực tối cao, quyết định mọi hoạt động của con người
và mọi sự vật, hiện tượng trên trần gian. Cõi trời còn được gọi là “Mường
Then”, cai quản có 34 vị thần gọi là các Phi Then. Trong đó, 12 Then lớn đảm
nhận việc cai quản và chỉ đạo mọi hoạt động trên trần gian, 22 Then nhỏ là
những vị thần giúp việc Then lớn. Trong 12 Then lớn có 1 Then tên là Then Chất
- Then Chát chuyên theo dõi việc sinh, tử của loài người. Then Chất - Then Chát
giữ sổ lớn gọi là sổ Hương then, trong sổ ghi họ tên, chỗ ở, địa vị xã hội và
tuổi thọ của từng người ở trần gian. Hàng năm Then Chất - Then Chát đem sổ ra
soát niên hạn sống của từng người, nếu ai hết hạn Then Chất - Then Chát sẽ gọi
người đó về Mường Then tiếp tục một cuộc sống mới, chấm dứt sự sống trên trần
gian của họ. Sống ở Mường Then là ước nguyện cuối cùng của người dân tộc Thái,
tuy nhiên không phải bất cứ ai cũng được về Mường Then sinh sống, người Thái
quan niệm rằng có người khi sinh ra mà các Then vô tình không biết do vậy người
đó không có tên trong sổ nhà Then, khi chết đi không được hồi sinh ở cõi Mường
Then, do vậy linh hồn người đó sẽ bơ vơ lạc lõng.
Phụ nữ dân tộc Thái trong những ngày đầu ở cữ thường ăn cơm lam, tất cả vỏ ống
cơm lam không vứt đi mà được bó lại sau đó treo lên cành cây gần nhà, hoặc bìa
rừng cùng ống tre trong có nhau của đứa trẻ mới sinh. Người Thái tin rằng, thực
hiện thủ tục này chính là thông điệp họ gửi cho các Then nhà trời thông báo đã
có 1 đứa trẻ được sinh ra ở trần gian, với mong muốn Then Chất - Then Chát ghi
tên đứa trẻ này vào sổ Hương Then. Đứa trẻ lớn lên và kết thúc cuộc sống trên
trần gian của mình thì Then Chất - Then Chát sẽ gọi người đó về cõi trời và
được hưởng cuộc sống tươi đẹp tại cõi Mường Then.
52. Trâm cài đầu của phụ nữ - một hiện vật giàu tính văn hóa
Trâm cài đầu là một vật dụng quen
thuộc của người phụ nữ ở nhiều dân tộc. Nó vừa là vật dụng để giữ cho tóc gọn
gàng vừa là đồ trang trí.
Nhưng đối với người phụ nữ Thái đen ở Sơn La thì trâm cài đầu còn là một vật
chứng trong lễ “Tẳng cẩu”( lễ búi tóc ngược lên đỉnh đầu khi đã có chồng), một
nghi lễ để lại nhiều dấu ấn không phai mờ trong suốt cả cuộc đời họ.
Lễ “ Tẳng cẩu” được tổ chức tại nhà gái, trước khi làm lễ đón dâu về nhà chồng.
Đây là một nghi lễ được người Thái đen hết sức coi trọng, do đó, dù gia đình
giàu hay nghèo, lễ ‘ Tẳng cẩu” vẫn được chuẩn bị đầy đủ và tổ chức hết sức
trang trọng .
Trước ngày cưới, nhà trai chuẩn bị 1 sải piêu, 1 sải khít ,1 đôi vòng tay bạc,
1 đôi hoa tai bạc, 1 chiếc nhẫn vàng hoặc bạc, 1 trâm cài tóc, 1 chiếc gương
con, 1 chiếc lược sừng và 1 lọn độn tóc đem sang nhà gái tặng cô dâu.
Sáng ngày làm lễ “Tẳng cẩu”, nhà trai cử một đoàn sang nhà gái gồm 3-5 thiếu nữ
trẻ đẹp, 3-5 thiếu phụ khoẻ mạnh, tháo vát, am hiểu sâu sắc phong tục, tập quán
và thông thạo động tác búi tóc ngược cho cô dâu mới. Phía nhà gái cũng có số
người tương ứng, trong đó có 2 thiếu nữ làm phù dâu, thường là bạn thân của cô
dâu.
Lễ “Tẳng cẩu “ được thực hiện theo từng bước rất cụ thể, chặt chẽ và độc đáo.
Trước tiên là phần gội đầu cho cô dâu mới.
Vào một buổi sáng đẹp trời, khi sương đã tan, ánh mặt trời đã trải rạng rỡ trên
khắp núi rừng thì tại “Ta bản’ (bến nước của bản bên bờ suối), hai cô gái phù
dâu sẽ giúp cô dâu xõa tóc và gội đầu bằng “Nặm khảu má” (nước ngâm gạo nếp)
đựng sẵn trong ống tre nứa cùng với nước đun lá bưởi, lá xả, tre ngà, hương
nhu, long não.
Dưới làn nước trong mát của dòng suối, cô dâu thả tóc xuôi dòng để “xák phôm”
(rũ tóc) với ý niệm để nước suối cuốn trôi đi tất cả những gì mòn cũ của ngày
hôm qua để nhẹ nhàng, trong sạch bước qua một cuộc sống mới. Gội xong, cô quay
tròn vồng tóc trên không để mái tóc văng hết nước, chóng khô. Sau đó, cô vấn
tóc quanh đầu rồicùng chúng bạn trở về bản.
Từ chân cầu thang, cô đã được đón rước và bước chậm rãi lên từng bậc thang lên
nhà sàn. Đến ‘ tang chan”(ngoài sàn) cô ngồi vào giữa một hàng ghế mây, hướng
về phía mặt trời mọc. Hai thiếu nữ phù dâu cùng phụ nâng chiếc khay đựng đồ
trang sức do nhà trai mang sang. “ Nai cẩu”, là người được chọn để tẳng cẩu cho
cô dâu đứng ở phía sau lưng cô dâu, nhẹ nhàng chải tóc rồi dùng hai tay vuốt
ngược tóc từ phía sau gáy lên kèm theo lọn tóc độn và búi cuốn chặt lại từ trái
sang phải hoặc ngược lại. Khi búi tóc đã hoàn chỉnh, “ Nai cẩu” khẽ nâng chiếc
trâm bằng bạc xuyên búi tóc để giữ cho cẩu không thể xổ rối tung ra được và
chiếc trâm bạc xinh xắn nổi bật trên nền đen óng mượt của búi tóc của cô dâu
mới.
Lễ “Tẳng cẩu” đã xong, “Nai cẩu” khẽ hát những lời dặn dò yêu thương và chúc
mừng hạnh phúc cho tình yêu đôi lứa.
Mái tóc dài, chải cho mượt
Búi ngược lên thành “ Tẳng cẩu”
Từ nay về sau, người đã có chồng
Nước không đổi dòng, lòng không đổi hướng, con ơi.
Từ đây, chiếc trâm cài đầu gắn bó với người phụ nữ Thái đen như hình với bóng.
Mái tóc được “tẳng cẩu” là dấu hiệu của người phụ nữ đã có chồng, và muốn “
tẳng cẩu’ được phải có cái trâm cài đầu.
Với người phụ nữ dân tộc Lự ở Bình Lư (Tam Đường, Lai Châu) thì chiếc trâm cài
đầu ngoài chức năng là một vật dụng để giữ tóc, mang ý nghĩa làm đẹp, là một bộ
phận của đồ trang sức của phụ nữ, trâm cài đầu còn là lễ vật của gia đình nhà
trai mang sang nhà gái, tặng cô dâu trong ngày cưới. Họ cũng dùng khái niệm
tẳng cẩu để chỉ các búi tóc ngược trên đỉnh đầu của người phụ nữ nhưng hoàn
toàn không có ý nghĩa là dấu hiệu của người phụ nữ đã có chồng như người Thái
đen.Các cô gái ở đây khoảng 14,15 tuổi là bắt đầu tẳng cẩu , bắt đầu dùng trâm
cài đầu. Do tập quấn tóc từ bé nên các em có thể tự quấn tóc được mà không cần
phải ai giúp. Cũng chính vì vậy mà họ không có nghi lễ tẳng cẩu như người Thái
đen. Chiếc trâm cài đầu này thường do bố mẹ sắm cho con gái từ lúc nhỏ hoặc khi
đến tuổi làm đẹp (14,15 tuổi, cũng là lúc các cô gái bắt đầu nhuộm răng đen).
Trâm cài đầu có nhiều chất liệu, có thể là bạc, ngà, xương hoặc gỗ, thậm chí
bằng lông nhím, ngày nay họ thường dùng trâm cài đầu bằng nhôm. Nhà nào khá giả
thì tặng con trâm cài đầu bằng bạc, bằng ngà. Nếu nghèo khó hơn thì tặng con
trâm cài đầu bằng những chất liệu rẻ tiền hơn. Còn trong ngày cưới, chiếc trâm
cài đầu do gia đình nhà trai mang sang tặng cô dâu thường bằng bạc và có một
sợi dây xích nhỏ bằng bạc.Trong ngày cưới, cô dâu sẽ dùng cả hai chiếc trâm cài
đầu (một do bố mẹ tặng lúc nhỏ và một do nhà trai mang tặng). Sau ngày cưới, họ
thường dùng chiếc trâm cài đầu do bố mẹ tặng, còn chiếc kia sang trọng hơn chỉ
thường dùng khi dự đám cưới, hội hè... Những chiếc trâm cài đầu này sẽ theo họ
suốt cả cuộc đời. Người già 80, 90 tuổi, tóc rụng lơ thơ cũng vẫn dùng trâm cài
đầu.
Cũng giống như người Lự, người Lào cũng dùng trâm cài đầu với chức năng và ý
nghĩa như vậy. Tuy nhiên, trâm cài đầu của người Lào ở bản Phiêng Hào, xã Mường
Khoa, huyện Than Uyên, Lai Châu còn có một điểm khác. Thay vì là một đồ dùng
được bố mẹ tặng khi đến tuổi làm đẹp thì các cô gái Lào được tặng trâm cài đầu
từ khi mới 1 tháng tuổi và chiếc trâm này sẽ do ông ngoại tặng cháu gái trong
lễ đầy tháng. Khi đứa trẻ được một tháng tuổi, gia đình thắp hương cúng tổ
tiên, lễ vật có gà, xôi và rượu và làm cơm mời họ hàng, người thân đến dự lễ
đầy tháng của cháu bé và cũng là lễ đặt tên của trẻ. Nếu là bé gái thì trong lễ
đặt tên cho trẻ, ông ngoại thường tặng cháu đồ trang sức như trâm cài tóc, hoa
tai, vòng đeo tay. Nhà nào khá thì tặng cả 3 thứ, nhà nào không có thì tặng
cháu 1, 2 thứ và thường họ tặng trâm cài tóc để sau này khi cháu lớn thì“tẳng
cẩu” (tuy nhiên, với người Lào, tẳng cẩu chỉ có ý nghĩa là búi tóc ngược lên
đỉnh đầu, hoàn toàn mang ý nghĩa làm đẹp của phái nữ chứ không hề có ý nghĩa
như là một dấu hiệu đặc trưng cho người phụ nữ đã có chồng như “tẳng cẩu” của
người Thái đen).
Điểm qua 3 chiếc trâm cài đầu của phụ nữ ba dân tộc Thái, Lào, Lự mới thấy
những giá trị văn hóa tộc người độc đáo và phong phú làm sao. Quả thật, chiếc
trâm cài đầu của phụ nữ các dân tộc - một vật dụng quen thuộc, nhỏ bé, khiêm
nhường nhưng thực sự giầu chất văn hóa.
53.
Nét đặc trưng
của văn hóa Châu Thành
Ở Châu Thành, võ thuật cổ truyền
dân tộc đã xuất hiện từ rất lâu, ngay trong thời chiến tranh đã xuất hiện nhiều
người có võ thuật rất tinh thông như Ba Thăng, Tư Ớ...; Vào những năm 80 của
thế kỷ XX có nhiều đoàn Lân sư nổi tiếng khắp miền Tây nam bộ, thời gian sau do
không được người dân địa phương gìn giữ và lưu truyền từ đời này sang đời khác
nên hiện nay truyển thống này đã bị mai một nhiều.
Hiện nay, tại làng Phú Nghĩa, Phú
Hữu có một lang y nổi tiếng chữa bệnh Trĩ và các bệnh phụ nữ như rong kinh,
huyết trắng...và rất được người dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tin tưởng,
nhiều người từ Huế cũng tìm đến nơi này chữa bệnh.
Làng Phú Nghĩa còn có một đặc sản
mà ít ai biết đến đó là Mắm Nêm. Đây là loại mắm làm từ con cá Cơm, một loại cá
nhỏ bằng đầu đũa ăn cơm, có mày trắng, sau khi mua từ các ghe Đáy ngoài sông
Hậu(Basac còn gọi là sông Cái) người dân sẽ rửa sạch cá (không làm cá) và tiến
hành ủ theo bí quyết riêng của từng nhà từ 2 đến 3 tháng tuỳ vào thời tiết. Mắm
Nêm ngon phải có mùi vị thơm, ngọt dịu; Món này trước đây vốn là một món ăn
không thể thiếu trong bữa cơm của các địa chủ trong vùng. Những nhà giàu có
thường dự trữ từ 5 đến 10 khạp da bò để ăn suốt năm, mắm Nêm được ăn với rau
sống như bông Lục Bình, rau muống đồng, chuối chát, dái mít, lá xoài non, hoa
bí sống, đậu rồng,...; muốn có đặc sản này bạn phải đến nhà dân chơi, nếu thân
và quý bạn họ sẽ tặng cho bạn một keo nhỏ để làm quà.
Nghề làm Đáy là nghề bắt cá trên
sông hay theo tiếng địa phương gọi là Trãi Đáy, người dân sử dụng loại lưới bắt
cá giống như một cái Lú, có miệng rộng, khoảng từ 7 đến 15 mét chiều dài Đáy
chừng 20 đến 30 mét, được thả bắt đầu từ thời gian nước đứng và bắt đầu nước
ròng, cho đến nước gần đứng để nước lớn thì kéo lên, họ kéo từ miệng Đáy trước,
để trách cá đi ngược ra, phía đáy của Đáy được cột kín cẩn thận, sau đó những
gì hứng được sẽ xổ hết vào một ghe nhỏ và sẽ được lựa ra, cá bắt được họ cho
vào trong hầm ghe lớn để gọng, trong ghe có đục một lỗ thông ra ngoài có lưới
che và đảm bảo ghe không chìm bằng lỗ lủng này, trong ghe lớn chia thành nhiều
khoan để chứa các loại cá, tôm tép khác nhau. Ngoài ra họ còn gọng những loại
cá sẽ được bán ngay sau con nước(có người mua ngay sau khi bắt xong) thì được
gọng trong những lồng bằng tre được treo phía ngoài ghe lũng lẳng. Những loại
cá như cá Trạch, cá Rô, cá Lìm Kìm, cá Lưỡi Búa,... được ướm muối phơi khô ngay
trên mui ghe, kỹ thuật ướp muối của họ rất đặt biệt, ruồi và kiến không bao giờ
bu. Những ghe đáy thường nuôi vịt phía sau ghe để vịt ăn những con cá nhỏ. Vịt
nuôi kiểu này lớn nhanh, có người còn nuôi chim, nuôi chó, những con chó này
thường bơi rất giỏi. Thông thường mỗi ghe đều có một cái cầu để chó có thể tự
bơi vào bờ rồi bơi ra ghe và tự leo lên ghe khi nào chúng thích. Ở đây, chim
được nuôi thả tự do, thoải mái bay lượn trên bầu trời, khi nào đói chúng lại
bay về đậu trên sào phơi quần áo trên ghe, cất tiếng kêu để đòi ăn, ăn xong
chúng bay vòng quanh các thùng phuy nơi chúng ngủ hàng đêm. Mỗi ngày họ thường
thả đáy 2 lần tuỳ vào nhật triều mà họ có thể thả đáy lúc sáng hay tối, có khi
họ thả ngay trong đêm khuya, để tránh người đi trên sông đi vào vùng có lưới
nguy hiểm họ thường đốt những chiếc đèn bão trên các thùng phuy, người đi trên
sông khi gặp đèn này phải đi bên ngoài để tránh bị chìm ghe. Ngày nay khi luật
an toàn giao thông đường thuỷ có hiệu lực, giao thông ngày càng đông đúc, chính
quyền tạo điều kiện cho các tàu lớn ra vào cảng Cần Thơ cũng như cảng Cái Cui
thì nghề Đáy cũng dần không còn, vì thế nghề làm mắm Nêm cũng dần mai một.
Người dân chỉ làm một ít để dành ăn trong nhà.
54. Chợ nổi Ngã Bảy nét văn hóa sông nước đặc trưng
Hậu Giang các văn hóa nổi bật như:
văn hóa trao đổi, văn hóa giao tiếp, hò đối đáp, đờn ca tài tử, hát bội và sân
khấu cải lương... Trong đó văn hóa sông nước, nét văn hóa đặc trưng ở chợ nổi
Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang. Chợ họp ở thị xã Ngã Bảy, được hình thành từ 1915, là
chợ nổi trên sông, hàng hoá rất đa dạng, phong phú.
Mênh mông chợ nổi Ngã Bảy. Ở đây
mặt sông mênh mông rẽ về 7 ngả. Từ các ngả, thuyền bè tấp nập tụ về đây. Chợ ở
trên mặt đất có những thứ gì, thì chợ nổi cũng đủ những mặt hàng mà người dân
cần, từ cái kim sợi chỉ cho đến quần áo, thức ăn, rượu thịt... còn các loại
trái cây thì nhiều vô kể. Từ chợ nổi, du khách sẽ được cập bến để lên chợ rắn.
Cái tên chợ rắn Ngã Bảy cũng đã rất quen thuộc với du khách quốc tế. Đến tham
quan chợ rắn, du khách sẽ được mời uống rượu rắn và được xem những màn biểu
diễn múa rắn rất mạo hiểm. Chợ Ngã Bảy quanh năm có rắn, rùa, chim, sóc, kỳ đà
… phục vụ du khách.
55. Góp bàn thêm về tục thờ Mẫu
Vai trò và vị trí của người phụ nữ
trong gia đình, trong cộng đồng và đặc biệt trong truyền thống của dân tộc Việt
Nam luôn xứng đáng được ngợi ca và tôn vinh dù trong bất cứ thời đại nào từ
thời tiền sử cho đến thời kỳ văn minh hiện đại mà chúng ta đang sống.
Dân tộc ta đã từng có những huyền
thoại rất đẹp về người mẹ: Bà Âu Cơ (giống tiên) kết hôn với Lạc Long Quân
(giống rồng) mà sinh ra chỉ một bọc trăm trứng, lại nở ra một trăm người con để
rồi phân đôi, nửa theo cha xuống biển, nửa cùng mẹ lên non, từ đó hình thành
lên các cộng đồng người của dân tộc Việt Nam, sinh cùng một bọc, khởi tự một
nguồn, máu đỏ, da vàng tất cả đều là anh em. Thật là hồn nhiên, thật đẹp đẽ,
tuyệt vời về nguồn gốc của một dân tộc đã được nuôi dưỡng, bồi đắp, lưu truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác liền mạch, để mãi mãi, chúng ta vẫn cứ được tự
hào về dòng dõi tiên rồng của dân tộc Việt Nam và hơn thế nữa, sự tự hào đó
cũng giành trọn cho người mẹ vĩ đại, đã có được một dân tộc trường tồn.
Trải qua hàng nghìn năm của xã hội
thị tộc mẫu hệ, hoàn toàn là vai trò người mẹ, hình ảnh người mẹ là tất cả
trong mỗi thành viên và của cộng đồng từng đơn vị cư trú, cho đến khi hình thái
gia đình một vợ một chồng hình thành và phát triển, thay thế cho hình thái xã
hội thị tộc mẫu hệ thì vai trò của người mẹ vẫn giữ vị trí chủ yếu trong gia
đình, bởi ngoài thiên chức làm vợ, làm mẹ, với sự phân công tự nhiên, người mẹ
vẫn mặc nhiên đảm nhiệm hầu hết các vai trò, về duy trì nòi giống, nuôi dưỡng
các thế hệ kế tục, trao gửi những tâm tư, tình cảm một cách gẫn gũi, thường
xuyên, liên tục, giáo dưỡng để có được những thế hệ mới cho gia đình, cho quê
hương, cho đất nước.
Điều kiện sống của thời kỳ nguyên
thuỷ (thời sơ sử, tiền sử) con người sống dựa chủ yếu vào thiên nhiên, săn bắt
thú rừng và thuỷ, hải sản ở sông suối, hái lượm hạt, quả do núi rừng và thiên
nhiên tạo ra, cho đến khi biết đến nền kinh tế nông nghiệp bao gồm trồng trọt
và chăn nuôi, con người vẫn phải dựa vào thiên nhiên, đời sống chưa thể ổn định
trước sự khắc nghiệt của tự nhiên, sự thất thường của thời tiết, khí hậu đã gây
cho con người muôn vàn khó khăn về cuộc sống. Bất lực trước tự nhiên, con người
đã dần quan sát, rút kinh nghiệm và dần hình thành ý thức hệ về tự nhiên, kèm
theo đó là sự tôn thờ các hiện tượng tự nhiên (tô tam giáo) họ thờ các vị thần
rừng, thần núi, thần sông, thần biển v.v… là những môi trường tự nhiên hoặc đem
cho các cuộc sống no đủ, hoặc cũng lấy đi tất cả của họ những gì phục vụ cho
cuộc sống.
Quan niệm trời là cha, đất là mẹ
cũng xuất phát từ đó, ngửa mặt lên là bầu trời bao la với biết bao những bí ẩn
của thời tiết, khí hậu, dưới chân là mặt đất với muôn vàn loài động vật thực
vật giúp kiếm tìm sự sống và đất chính là mẹ, đất mẹ sinh sôi nảy nở muôn loài,
con người khi sinh ra trưởng thành rồi chết đi lại trở về với đất, đó vừa là
nhận thức, vừa là cách ứng xử của con người với tự nhiên, về mặt triết học, quy
luật âm dương ngũ hành được tổng kết vận dụng, áp dụng sâu rộng để lý giải mọi
hiện tượng của đời sống con người và xã hội. Trong thuyết âm dương ngũ hành,
trời là dương (cực dương), đất là âm (cực âm), trong dương có âm và trong âm có
dương (phép biện chứng), trời đất (âm dương) giao hoà tạo lên muôn loài, muôn
vật. Trong bản thể con người, âm dương điều hoà thì khoẻ mạnh, âm dương lấn
lướt sinh bệnh tật, ốm đau v.v… cùng với tiến trình của nhân loại, ý thức Mẹ đã
thường trực trong từng cá thể từ thời kỳ nguyên thuỷ của xã hội loài người và
ngày nay nó càng được củng cố, mẹ là tất cả, là chỗ dựa cả về vật chất lẫn tinh
thần, tư tưởng tình cảm v.v… và vì vậy ngay từ thuở nguyên sơ con người đã tôn
các hiện tượng thiên nhiên như là Mẹ: mẹ trời, mẹ núi, mẹ sông, mẹ biển
v.v… về mặt ngữ nghĩa Mẹ trở thành Mẫu, mẫu thiên (mẹ trời), mẫu thuỷ (mẹ
nước), mẫu sơn (mẹ núi) vv… rồi tôn các Mẫu là Thánh để rồi từ đó hình thành
nên khái niệm “Tam tòa thánh mẫu” khi mà con người muốn vật chất hoá, cụ thể
hoá những tư duy tình cảm đối với thiên nhiên ngày càng gần gũi hơn với cuộc
sống. Mẫu thiên (mẫu cửu trùng) được dân gian hiểu là bà Huyền thánh mẫu. Mẫu
thượng ngàn là Lâm cung thánh Mẫu. Mẫu thuỷ là Thuỷ cung thánh Mẫu.
Ở cả 3 cõi: Trời, non, nước (từ
thiên nhiên trở thành các đấng siêu nhiên). Tuy vậy, cũng phải có thêm một mẫu
(mẹ) ở cõi trần gian và đến sau này (thế kỷ XVI) hình thành thêm một thánh mẫu
nữa là: Địa cung thánh mẫu - Mẫu Liễu Hạnh. Về Liễu Hạnh (một trong tứ bất tử
trong quan niệm dân gian Việt Nam, hẳn có nhiều công trình nghiên cứu, xin
không nêu ra ở đây), dân gian chọn vào vị trí này thật thoả đáng. Bởi bà là
biểu tượng cho sức sống giải phóng ý thức tự do và lòng nhân đạo. Bà đã trải
qua chức phận làm vợ, làm mẹ, làm chủ gia đình, trưởng một cộng đồng, bà biết
làm thơ, am hiểu đạo lý, biết cầm quân đánh giặc, biết chữa bệnh cứu nhân độ
thế. Ở bà là sự tựu trung những nét đẹp của người mẹ, người chủ, một vị tướng
và vị thánh. Thánh mẫu Liễu Hạnh được dân tôn thờ từ thực thể và trở thành tâm
linh, là vị thánh thứ tư trong tứ bất tử và cũng là vị thánh thứ tư - Mẫu địa
phủ - là chủ cõi đất, cõi trần gian, cõi gần gũi với con người. Và từ đó cũng
hình thành quan niệm về tứ phủ, tứ phủ cộng đồng.
Hiện nay, cách bài trí tại điện Mẫu
(thường ở các ngôi chùa) thượng có 3 toà, được hình tượng hoá, cụ thể hoá là 3
pho tượng với phong cách tượng có tính nữ giới. Chính giữa, mặc áo đỏ là mẫu
Thiên (mẫu cửu trùng), bên trái mẫu thiên là mẫu thượng ngàn (mặc áo xanh) và
bên phải là mẫu thuỷ mặc áo trắng.
Còn Thánh mẫu Liễu Hạnh được thờ ở
đâu? Như đã nêu trên, trong dân gian, mẫu Liễu Hạnh được thờ với tư cách là một
vị thánh bất tử trong bốn vị thánh bất tử ở Việt Nam là: Tản Viên Sơn Thánh,
Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Thánh Mẫu Liễu Hạnh có riêng phủ
thờ rất nổi tiếng như: Phủ Giầy (Nam Định), phủ Tây Hồ (Hà Nội), phủ Sông
(Thanh Hoá), vv… Hoặc có những nơi thờ Tứ phủ cộng đồng, trong đó có 4 cõi:
Trời, đất, nước, non mà dân gian quen hiểu là “Điện”. Điện thờ tứ phủ.
Nếu với cách hiểu như trên, việc
thờ tam toà thánh mẫu hay thờ Tứ Phủ trong dân gian là có nguồn gốc xuất xứ với
những nguyên nhân sâu xa được hình thành và phát triển từ hàng nghìn năm trong
trong quan niệm của con người về vũ trụ quan, nhân sinh quan. Điều đó vừa thể
hiện tư duy, niềm khao khát về mặt tinh thần đối với Mẫu, trước hết là người
sinh ra, nuôi dưỡng, bảo lưu các thế hệ giống nòi, là điểm tựa về mặt vật chất
và tinh thần cho mỗi bản thân, là sự ấp ôm che chở bao la trước mọi sự khó
khăn, và mẹ là tất cả. Trước những hiện tượng siêu nhiên, mọi môi trường
sống dần được gắn với mẹ, từ người mẹ cụ thể đến mẹ siêu trần, mẹ siêu phàm. Mẹ
trong bao quát khái niệm tư duy và được thần tượng hóa trong đời sống con
người, mà việc thờ Mẹ thì cũng tự nhiên và cũng là điều đáng tự hào về tính
nhân văn nói riêng, rất đẹp ở người Việt Nam, mà chẳng nơi nào trên thế giới có
được.
Điều đáng quan tâm hiện nay là các
địa phương, những người làm công tác quản lý nhà nước và quản lý văn hoá ở các
cơ sở nên quan tâm, hướng dẫn, phổ biến những nét đẹp về văn hoá, truyền thống
của dân tộc nói chung, những thần phong mỹ tục của địa phương nói riêng, việc
bài trí, xếp đặt nơi thờ tự chung của cộng đồng cho đúng, phù hợp, không lộn
xộn, cũng không nên gán ghép tất cả là mê tín dị đoan, mà làm mai một đi phong
cách văn hoá truyền thống của dân tộc ta.
56.
Phong tục đón
Tết của người Mường
Tết đến, xuân về, người Mường rất
coi trọng đền thờ Thành Hoàng làng. Việc đầu tiên mà các cụ già trong làng nhắc
con cháu phải làm trước Tết là ra đền để dọn dẹp, lau rửa sạch sẽ đồ thờ cúng.
Giáp Tết, nhà nào cũng tất bật làm bánh dầy, bánh chưng, đóng oản và trang trí
nhà cửa.
Người Mường xưa, không ăn Tết ông Công, ông Táo như
người Việt, vì thế Tết bắt đầu từ ngày 27, 28. Đêm 30, tức ngày "chín cối
tháng ba" theo lịch của người Mường, tất cả con cháu sẽ tụ tập ở đền thờ
để làm lễ "khai sáng". Lễ này được cúng cả bằng lễ chay và bằng lễ
mặn. Lễ chay gồm các loại hoa quả trong vườn, càng nhiều càng tốt, để tổ tiên,
thánh thần phù hộ cho mùa xuân mới nhiều lộc, hoa, trái. Lễ mặn gồm oản, gà,
thịt, bánh dầy, bánh chưng. Trước đây, ngày Tết người Mường chỉ ăn thịt lợn,
thịt gà chứ không có giò, chả, mọc như người Kinh. Đến thời điểm sang canh thì
con cháu tất cả phải ở phía ngoài đền, chỉ có ông Trùm, ông Seo và những người
già trong bản mới được vào đền làm lễ. Sau khi lễ ở đền, mọi người ai về nhà
nấy đón giao thừa. Một thủ tục không thể thiếu trong đêm giao thừa của người
Mường đó là một lễ cúng ngoài trời gồm một con cá diếc và một cái bánh chay.
Sáng ra, lễ này được mang cho con trâu ăn trước, vì họ cũng quan niệm như người
Kinh - "con trâu là đầu cơ nghiệp", cho con trâu ăn trước để con trâu
đi làm.
Với người Mường, việc thờ cúng ngoài trời rất quan
trọng nên trong những ngày Tết nhà ai cũng chuẩn bị cho mỗi thành viên trong
gia đình một cây hương để cúng bản mệnh ngoài trời. Món ăn trong ngày Tết của
người Mường từ xưa đến nay không bao giờ thiếu bánh chưng và bánh dầy để biểu
hiện trời tròn, đất vuông và cũng là để tưởng nhớ đến ông vua của người Mường
là Vua Lang. Gia đình nhà nào thờ cúng bao nhiêu người thì làm bao nhiêu cái
bánh chưng. Trong ba ngày Tết, người ta chỉ tết cha, tết mẹ và tết thầy cúng -
những người quan trọng nhất trong quan niệm của họ.
Trong những ngày Tết, nếu chưa được sự cho phép của
ông Trùm thì không ai được phép ra đồng làm việc. Đến ngày 7 tháng Giêng là
ngày lễ lớn nhất của người Mường, đây là lễ hội "mở mắt cồng, mắt
lệnh", lễ hội "xuống đồng". Từ 5 giờ sáng, người dân trong bản
tập trung tại phủ thờ Thành Hoàng. Theo phong tục của người Mường thì trước khi
mở hội Cồng Chiêng, làng phải có một thủ tục làm mâm lễ trình với các vị Thánh
trong làng. Mâm lễ bắt buộc phải có một con lợn "non 5 già 3" để làm
cỗ vành 3-5-7-9 tính từ trong ra. Mở đầu lễ hội Cồng Chiêng, ông Trùm sẽ có lời
trình báo với dân làng rằng: "Lang co le chao khoan". Sau đó ông Trùm
sẽ đánh ba hồi chiêng đầu, sau đó con chá mới được bước vào phủ để làm lễ, và
tiếng chiêng kết thúc cũng là lúc kết thúc phần lễ ngày hôm đó...
Ngày nay, phong tục lễ của người Mường cũng có nhiều
thay đổi. ở nhiều nơi họ cũng bắt đầu ăn Tết 23 tháng Chạp, cũng mua cá về nhà
để thả, việc thờ cúng cũng gọn nhẹ hơn. Nhiều trò chơi dân gian vẫn được tổ
chức nhưng cũng có thêm các trò chơi hiện đại thu hút nhiều người tham gia.
57.
Phong tục hôn
nhân của người Cần Thơ
Trong tâm lý người Việt, dựng vợ gả
chồng là việc "chung thân đại sự" phải được tổ chức chu đáo, trang
nghiêm với nhiều thủ tục lễ nghi. Trước cách mạng tháng Tám, ở Cần Thơ vẫn tiến
hành hôn nhân theo nghi thức cổ truyền. Cha mẹ vẫn toàn quyền định đoạt hôn
nhân cho con, "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó . "Áo mặc sao qua khỏi đầu”
là tiêu chí định giá sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ.
Tuy nhiên, ở đây không có nạn
tảo hôn, cũng không có chuyện xem thường, bỏ qua mọi ý nguyện chính đáng của
con trong chuyện hạnh phúc trăm năm. Bậc cha mẹ, trước khi định đoạt việc cưới
gả cho con, phải xem xét nhiều mặt: Xem dòng tộc bên trai và bên gái có xứng
đáng, phù hợp sui gia với nhau? (môn đăng hộ đối). Xem tuổi tác của đôi trai
gái có hạp nhau hông? Xem truyền thống gia đình bên gái (nuôi heo chọn nái cưới
gái chọn dòng)... Những việc đó cũng vì lo mệnh hệ đời người của con.
Thủ tục tiến hành hôn nhân, từ sơ
giao cho đến chính thức vợ chồng, có nhiều bước: làm mai đi đến hôn nhân gia
đình hai bên nam nữ quyết định hôn lễ cho hai con. Thủ tục thời phong kiến khi
cưới thường có đủ sáu lễ :
1 - Chạm mặt hay dạm vợ
2 - Vấn danh (hỏi tên tuổi và họ
người vợ)
3 - Nạp cát (đưa lễ cưới)
4 - Thỉnh kỳ (định ngày) để làm lễ
cưới
5 - Nạp tệ (đưa lễ cưới)
6 - Thần nghinh (đón dâu)
Sau này 6 lễ không còn, ở Cần Thơ
chỉ có 3 lễ quan trọng:
1- Lễ dạm mặt (coi mắt)
2 - Lễ hỏi (lễ nói)
3 - Lễ cưới.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám, các
phong tục lễ nghỉ cổ truyền đã được sàng lọc, điều chỉnh, loại bớt những thủ
tục phiền phức rườm rà. Ngày nay, nam nữ thanh niên đã tự tiếp xúc tìm hiểu lẫn
nhau, nên những hôn lễ thông thường chỉ qua 3 bước: coi , mắt, lễ hỏi và lễ
cưới. Những cuộc hôn nhân đơn giản chỉ làm đăng ký kết hôn và lễ cưới.
Trong kháng chiến, thực hiện
"đời sống mới" các đám cưới đổi thành lễ tuyên hôn do cơ quan hoặc
chính quyền địa phương tổ chức. Lễ tuyên hôn là nơi cô dâu chú rể hứa hẹn xây
dựng hạnh phúc lứa đôi gắn liền với hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, công tác gãp
phần cho kháng chiến thành công. Lễ tuyên hôn được tổ chức trang trọng có sự
chứng kiến của chính quyền, tổ chức, thân tộc họ hàng, bạn bè. Với tiệc trà và
văn nghệ vui vẻ chúc mừng đôi tân hôn.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng, việc tổ chức lễ cưới Cần Thơ chỉ có rất ít gia đình làm lễ tuyên hôn như
thời kháng chiến, phần lớn trở lại thủ tục cũ nhưng có cải tiến giản đơn hơn,
tập trung hai lễ chính: lễ nói và lễ cưới. Nhưng các ngành chức năng (văn hóa
thông tin) đang hướng dẫn thực hiện lễ cưới theo "nếp sống văn hóa
mới", với phương châm vui tươi, lành mạnh, tiết kiệm.
58.
Tết Các Dân Tộc
Tết Prơ-Giê-Râm của người Cơ Tu
Vào mùa xuân, lúc
bắt đầu vụ mùa lúa mới, đồng bào các huyện Phước Sơn, Giằng, Hiên ở Quảng Nam
tổ chức ăn Tết Prơ-giê-răm. Đây là ngày lễ lớn nhất trong năm. Nhà nhà đều
trang trí hết sức đẹp đẽ. Các loại ghẻ, cung nỏ, giáo, mác, thanh la, trống,
chiêng được lau chùi cẩn thận. ở nhà Guơi (nhà làng) người ta dựng cột đâm trâu
bằng cây gạo trạm trổ, sơn vẽ đẹp mắt. Nhiều sinh hoạt văn hoá diễn ra tại nhà
Guơi như kể chuyện, nhảy múa, hát dân ca. Con gái được dịp trao đổi tâm tình và
rủ nhau chơi xuân kéo dài cả tháng....
Tết nhảy của người Dao
Người Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày
đầu năm không được làm việc mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn
nhau. Nhà nào nhà ấy đều trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán
lên cột nhà hay trên các vách tường để đón mừng xuân.
Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi
là "Nhiang chằm Ðao" để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết nhảy bắt
đầu trước tết Nguyên Ðán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa,
điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến
hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã...
Tết giọt nước của người Xơ Đăng
Người Xơ Đăng ở Kon Tum ăn tết rất
giản dị và chỉ có hai tết rất giản dị và chỉ có hai tết chính là tết Giọt nước
và tết Lửa. Tết Giọt nước vào khoảng tháng 3 dương lịch. Sau khi mãn mùa, người
Xơ Đăng bắt đầu sửa sang lại các máng nước và tổ chức lễ "cúng máng"
để cầu mong Thần nước (Yang Dak) ban cho dân làng năm mới được mùa, nước non
đầy đủ.
Người trong buôn làng mang choé,
nồi đồng ra tại các máng nước để lấy nước mang về nhà, đồng thời tổ chức ăn
uống, vui chơi suốt mấy ngày liền. Riêng "Lễ cúng máng nước" cho buôn
làng thì được tổ chức tại nhà Rông, do thầy cúng tổ chức vui say, ca hát, nhảy
múa, gái trai được tự do trao đổi tâm tình.
Tết của người Mông (H'Mông)
Người H'Mông ở vùng cao Tây Bắc và
Việt Bắc ăn tết rất thịnh soạn, chẳng kém gì ở miền xuôi. Trong nhà trang hoàng
đủ màu sắc, nhưng màu đỏ là được ưa chuộng nhất. Tết Nguyên đán của người
H'Mông gọi là NaoX-Cha. Ðể chuẩn bị sẵn con lơn béo. Ngoài thịt ra, còn có bánh
bằng bột nếp, bánh chưng ít khi dùng. Tết của người H'Mông thường tổ chức giữa
mùa đông giá rét, trước hay sau Tết dương lịch chỉ có mấy hôm. Ðêm giao thừa
các gia đình thường cử con trai đi "mở nước", tức là đi lấy nước
ngoài sông suối đem về nhà cúng.
59.
Tục ra gà - Một
nét văn hóa ở Chu Hóa
Ở xã Chu Hóa (Lâm Thao, Phú Thọ),
tục ra gà cho các bé trai sinh trong năm có từ thời phong kiến cách đây hàng
trăm năm. Đến khi hòa bình lập lại, đình làng trở thành nhà kho HTX nông
nghiệp, tục ra gà tạm thời bị quên lãng. Song 10 năm trở lại đây, đình làng
được khôi phục, theo đó tục ra gà được coi trọng và trở thành phong tục không
thể thiếu trong những ngày đầu năm mới. Tục ra gà được 2 làng: Làng Thượng và
làng Hạ duy trì và bảo tồn.
Thời
phong kiến, tục ra gà vào ngày mùng 5 tết được tổ chức rất công phu: gia dình
nào sinh được con trai (gọi là Đinh), Sẽ chọn một con gà trống từ 3-4kg (không
chọn gà thiến), trước Tết 4-5 tháng nhốt gà vào lồng, hàng ngày bón cho gà ăn 3
lần/ngày bằng cơm nóng trộn cám gạo loại 1. Đến ngày 5 tết, gia chủ mổ gà, thổi
xôi làm lễ gánh ra đình làng. Lễ cúng bắt đầu từ 1 giờ sáng, lần lượt từng gia
đình nhờ các cụ già thông thạo cúng lễ sau khi cúng xong trời vừa sáng, tổ chức
thi xem con gà nhà ai to đẹp nhất. Mọi người tin rằng gà càng to, đẹp thì đứa
trẻ sẽ khỏe mạnh, hay ăn chóng lớn. Sáng ra, dân làng đến xem rất đông và cùng
nhau hưởng lộc ngay tại đình.
Ngày
nay, các gia đình không tổ chức bón gà được mà chọn con gà trống to cỡ
3,5-4,5kg, cúng xong mang về nhà mời anh em nội tộc đến ăn mừng cho dòng họ có
thêm 1 cháu trai khỏe mạnh. Không chỉ các cháu sinh ra ở 2 làng trên được làm
lễ ra gà mà cả các cháu sống với bố mẹ ở mọi miền của Tổ quốc thì ông bà, họ
hàng ở quê vẫn tiến hành làm lễ ra gà khi có thành viên mới chào đời. Tục ra gà
ở 2 làng Thượng và làng Hạ ở Chu Hóa mang đậm tính chất tín ngưỡng về phong tục
thờ cúng phật ở đình làng của người Việt cổ. Thông qua hình thức này, ngay từ
khi sinh ra, con người đã gắn chặn với tổ tiên, cộng
đồng. Đây là nét đẹp truyền thống văn hóa của một làng quê cần được bảo tồn để
thế hệ con cháu luôn luôn nhớ về cội nguồn, quê hương.
Cùng với tục ra gà, ở Chu Hóa còn
nhiều lễ hội như: Hát đúm, chọi trâu... vẫn chưa được khôi phục.
60. Nguyên-Tắc Cúng, Khấn, Vái, và Lạy
I. Nghi-Thức Cúng Gia-Tiên Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa
quả theo nguyên-tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn
(đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước
rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương)
đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang
trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người
quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những
người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá
cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và
người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu
con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa
của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
II. Định-Nghĩa của Cúng, Khấn, Vái,
và Lạy
a. Cúng Khi có giỗ Tết, gia-chủ bày hoa (bông) quả, nước,
rượu, cỗ-bàn, chén bát, đũa, muỗng (thìa) lên bàn thờ rồi thắp nhang (hương),
thắp đèn, đốt nến (đèn cầy), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu-kính, biết ơn,
và cầu phước-lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình-thường, cúng là
thắp nhang (hương), khấn, lạy,và vái.
b. Khấn (*) Khấn là lời cầu-khẩn lầm-rầm trong miệng khi cúng, tức
là lời nói nhỏ liên-quan đến các chi-tiết về ngày tháng năm, nơi-chốn, mục-đích
buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa.
Sau khi khấn, người ta thường vái vì vái được coi là lời chào kính-cẩn.
Người ta thường nói khấn vái là vậy. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du dùng từ khấn
vái trong câu “Lầm rầm khấn vái nhỏ to,/ Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.”
(câu 95-96)
c. Vái Vái thường được áp-dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp
lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai
bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống
rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi
ngẩng lên. Tùy theo từng trường-hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái (xem phần
sau).
d. Lạy Lạy là hành-động bày tỏ lòng tôn-kính chân-thành với
tất-cả tâm-hồn và thể-xác đối với người trên hay người quá-cố vào bậc trên của
mình. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường
hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang ý-nghĩa khác
nhau.
Thế Lạy Của Đàn Ông Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế
nghiêm, chắp hai tay trước ngực và dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa
hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay
ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và
cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ- phục. Sau đó cất người lên bằng
cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa
về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân
phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như
lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy (xem phần Ý-Nghĩa của Lạy
dưới đây). Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra.
Có thể quì bằng chân phải hay chân
trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều
cần nhớ là khi quì chân nào xuống trước thì khi chuẩn-bị cho thế đứng dậy phải
đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối
chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa-học và vững-vàng.
Sở-dĩ phải quì chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để
giữ thế thăng-bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn-bị đứng lên cũng vậy. Sở-dĩ chân
trái co lên đưa về phía trước được vững-vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn
để làm chuẩn.
Thế lạy phủ-phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa
hai tay chống xuống ngay mặt đất và đồng-thời quì hai đầu gối xuống luôn. Khi
đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay
tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy đã tập-luyện hằng-ngày mỗi
khi cúng Phật. Nếu thỉnh-thoảng quí cụ mới đi lễ chùa, phải cẩn-thận vì không
lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của mấy Thầy thì rất có thể mất thăng-bằng.
Thế Lạy Của Đàn Bà Thế lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai
cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân
trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo
vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để
ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi
đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp
xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai
bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng-thời chắp hai bàn tay lại đưa lên
ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem
phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra
là hoàn tất thế lạy.
Cũng có một số bà lại áp dụng thế
lạy theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay
chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi
đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai
bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm
đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.
Thế lạy của đàn ông có vẻ
hùng-dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển-chuyển
tha-thướt, tượng-trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có điều bất-tiện là khi mặc
âu-phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao-niên còn áp-dụng thế lạy
của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc-Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen
chỉ đứng vái mà thôi.
Thế lạy của đàn ông và đàn bà là
truyền-thống rất có ý-nghĩa của người Việt ta. Nó vừa thành-khẩn vừa
trang-nghiêm trong lúc cúng tổ-tiên. Nếu muốn giữ phong-tục tốt đẹp này, các
bạn nam nữ thanh-niên phải có lòng tự-nguyện. Muốn áp-dụng thế lạy, nhất là thế
lạy của đàn ông, ta phải tập-dượt lâu mới nhuần-nhuyễn được. Nếu đã muốn thì
mọi việc sẽ thành.
III . Ý-Nghĩa của Lạy và Vái
Số lần lạy và vái đều mang một
ý-nghĩa rất đặc-biệt. Sau đây chúng tôi xin trình-bày về ý-nghĩa của vái và
lạy. Đây là phong-tục đặc-biệt của Việt Nam ta mà người Tàu không có tục-lệ
này. Khi cúng, người Tàu chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà thôi.
a. Ý-Nghĩa Của 2 Lạy và 2 Vái Hai lạy dùng để áp-dụng cho người
sống như trong trường-hợp cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng-điếu, nếu là
vai dưới của người quá-cố như em, con cháu, và những người vào hàng con em,
v.v., ta nên lạy 2 lạy.
Nếu vái sau khi đã lạy, người ta
thường vái ba vái. Ý-nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào
kính-cẩn, chứ không có ý-nghĩa nào khác. Nhưng trong trường- hợp người quá-cố
còn để trong quan-tài tại nhà quàn, các người đến phúng- điếu, nếu là vai trên
của người quá-cố như các bậc cao-niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị,
chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá-cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi.
Khi quan-tài đã được hạ-huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá
cố 4 vái.
Theo nguyên lý âm-dương, khi chưa
chôn, người quá-cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này
tượng-trưng cho âm dương nhị khí hòa-hợp trên dương-thế, tức là sự sống. Sau
khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
b. Ý-Nghĩa Của 3 Lạy và 3 Vái Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng-trưng cho
Phật, Pháp, và Tăng (xin xem bài về “Nghĩa Đích Thực của Quy Y Tam Bảo” đã được
phổ biến trước đây và sẽ được nhuận sắc và phổ biến). Phật ở đây là giác, tức
là giác-ngộ, sáng-suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều
chánh-đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong-sạch, thanh-tịnh,
không bợn-nhơ. Đây là nói về nguyên-tắc phải theo. Tuy-nhiên, còn tùy mỗi chùa,
mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.
Trong trường-hợp cúng Phật, khi ta
mặc đồ Âu-phục, nếu cảm thấy khó-khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba
vái trước bàn thờ Phật.
c. Ý-Nghĩa Của 4 Lạy và 4 Vái Bốn lạy để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và
thánh-thần. Bốn lạy tượng-trưng cho tứ-thân phụ-mẫu, bốn phương (đông: thuộc
dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái
Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao-gồm cả cõi âm lẫn
cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm
chỗ trú-ngụ.
Bốn vái dùng để cúng người quá-cố
như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp-dụng thế lạy.
d.Ý-Nghĩa Của 5 Lạy và 5 Vái Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng-trưng
cho ngũ-hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng-trưng cho trung-cung tức
là hành-thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý-kiến cho rằng 5 lạy tượng-trưng cho
bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung-ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay,
trong lễ giỗ Tổ Hùng-Vương, quí-vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ
Hùng-Vương là vị vua khai-sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không
thể áp-dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì-giờ để mỗi người lạy 5
lạy.
IV Kết Luận
Phong tục có được là do thói quen
mà mọi người đã chấp nhận, nhiều khi không giải thích được lý do tại sao lại
như thế mà chỉ biết làm theo cho đúng thôi. Trong mỗi gia đình Việt Nam, dù
theo đạo nào cũng vậy, chúng ta, con dân nước Việt, hãy cố gắng thiết lập một
bàn thờ gia tiên. Có như thế, con cháu ta mới có cơ hội học hỏi cách thiết lập
bàn thờ gia tiên, và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra sao.
Thờ cúng là cách biểu thị lòng nhớ
ơn tổ tiên cũng như lòng thương và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một
truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải duy trì.
Khải-Chính Phạm Kim-Thư
(*) Góp ý thêm của TRANG CHỦ: Lời
khấn vái là lời nói chuyện với người quá cố, do đó lời khấn là tấm lòng của
người còn sống. thì muốn khấn sao cũng được. Tuy nhiên người xưa cũng đã đặt ra
lễ khấn và lời khấn.
Lễ khấn gồm các thủ tục như
sau: (Chỉ nhớ đại khái mong quý vị cao niên dạy dỗ thêm cho để hiệu đính cho
đúng để đời sau dùng)
1. Sau khi mâm cỗ đã đặt xong thì
gia trưởng ăn mặc chỉnh tề (ngày xưa thì khăn đống áo dài) đi ra mở cửa chính.
Ở xứ lạnh thì cũng phải ráng hé cửa chứ không đóng được cửa kín mít.
2. Sau đó phải khấn xin Thành Hoàng
Thổ địa để họ không làm khó dễ Linh về hưởng lễ giỗ.
3. Và sau đây là một đoạn khấn theo
lối xưa:
Duy .....quốc.....Tỉnh/Thị xa....
trang/gia tại... (số nhà). Việt lịch thứ 488..., thử nhật ... (ngày âm lịch)
húy nhật gia phụ/mẫu/Tằng tổ v.v. là Hiển khảo/Tỷ.. (tên) (cho đàn bà thì
là hiển tỷ; với ông nội ngọai thì thêm chữ tổ - hiển tổ khảo/tỷ), Hiếu
tử/nữ/tôn v.v là (Tên) tâm thành kính cáo thành hoàng và thổ thần bản địa, tiền
chủ tiếp dẫn gia phụ mẫu/cô di v.v. (Người được giỗ hôm nay) đồng cung thỉnh
Cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, liệt vị tổ tiên, hiển tổ khảo, hiển tổ tỷ, cô
di tỷ muội, nội ngoại đồng giai lâm, tọa ngự linh sàn chứng giám. Cẩn cáo.
61. Tục thờ cá voi ven biển Nam bộ
Cá voi đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong đời sống tâm linh của cư dân vùng biển Nam Bộ. Vì thế ở hầu
hết các làng ven biển đều có tục thờ cá voi thậm chí, ngay cả những vùng nằm
sâu trong đất liền cũng có lăng thờ loài cá này.
Theo Đại Nam nhất thống chí thì cá
Voi được gọi là Đức Ngư. Cuốn sách này còn ghi rõ “Đức Ngư đầu tròn, nơi trán
có lỗ phun nước ra, sắc đen trơn láng, không có vảy, đuôi có mảng như đuôi tôm,
cá tánh từ thiện hay giải cứu cho người khi qua biển mắc cạn. Đầu niên hiệu
Minh Mạng vua đặt cho tên là Nhân Ngư, đầu niên hiệu Tự Đức đổi lại tên này
(Đức Ngư). Loại cá này trong Nam Hải thì linh, còn ở biển khác thì không linh”.
Nếu như các quốc gia ở phương Tây
coi cá voi là một nguồn lợi lớn có giá trị kinh tế cao, thì các dân tộc ở vùng
Đông Nam Á lại coi cá voi như linh vật, ân nhân cứu mạng của mình. Cá voi là
một Phúc thần của biển cả mà họ luôn tôn kính và được dân gian thành kính gọi
bằng nhiều danh xưng trang trọng như: ông Khơi, ông Lộng, ông Nam Hải...
và được các vua nhà Nguyễn sắc phong là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng
Thần. Cá voi ở vùng Đông Nam Á không hề bị giết hại, thậm chí ý thức bảo vệ cá
voi còn được ngư dân nâng lên gần như là một phong tục một tín ngưỡng mà đa
phần những người làm nghề biển đều phải tuân theo.
Cho đến nay, có rất nhiều truyền
thuyết, giai thoại, truyện kể trong dân gian liên quan đến tục lệ thờ cá ông.
Tục truyền rằng, cá voi là tiền thân của đức quan thế âm Bồ Tát đã có lần hóa
thân để cứu khổ chúng sinh. Ngài hóa thân thành cá voi đi tuần du biển Nam Hải.
Một hôm, trên tòa sen nhìn lướt qua
sóng gió đại dương, ngài không khỏi đau lòng khi thấy muôn vàn sinh linh gặp
cơn phong ba bão táp phải bỏ mình vì giông tố, mà những nạn nhân đáng thương
này chỉ là những ngư dân hiền lành lấy nghề đánh cá để nuôi thân. Trước cảnh
tượng đau lòng đó, Bồ Tát liền cởi chiếc pháp y, xé tan thành từng mảnh nhỏ ném
xuống mặt biển mênh mông.
Mỗi mảnh vụn theo nguyện ý của Bồ
Tát đã biến thành một con cá voi với trách nhiệm cứu nguy đám ngư dân lâm nạn
trước bão tố của Nam Hải đại dương. Kể từ đó, cá voi là ân nhân của đám thuyền
chài sống trên biển cả.
Tuy nhiên, hình vóc cá voi lúc đó
tương đối nhỏ không đủ sức chống chọi với sóng to gió lớn, do vậy đức Quan Thế
Âm liền mượn bộ xương của ông Tượng (voi) trên rừng cho đàn cá, nhờ thế đàn cá
mới đủ sức mạnh chống lại sức mạnh của đại dương. Cũng vì thế, đàn cá mang tên
là cá voi (vì mượn xương voi và cũng vì to lớn như voi).
Với sức vóc to lớn, cá voi mặc sức
vẫy vùng giữa biển cả và đương đầu với sóng to gió lớn, kèm giữ cho thuyền, ghe
được thăng bằng, không bị tan vỡ trong bão tố, lại dìu cho ghe thuyền vào tận
bờ biển. Tuy nhiên do to lớn nên chậm chạp, nhiều trường hợp biết có thuyền
chài lâm nạn nhưng ở quá xa, cá voi cố sức bơi tới cũng không cứu kịp nạn nhân.
Để giúp cho cá voi làm tròn nhiệm vụ cứu nạn của mình, Bồ Tát liền ban cho
chúng phép thâu đường, dù ở bất cứ nơi nào cần đến đều có thể cứu kịp thời.
Một câu chuyện khác lại kể rằng:
vào khoảng năm 1799, trong lúc Nguyễn Ánh bôn tẩu Tây Sơn, tìm đường chạy sang
Xiêm thì gặp cơn bão lớn làm thuyền ông chao đảo. Đúng lúc ấy, có con cá voi
đến nâng thuyền lên và đưa vào bờ nên ông mới thoát nạn. Vì lẽ đó, vào năm
1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long, nhớ ơn cá ông đã cứu giúp mình
nên mới sắc phong cho ông là Nam Hải Đại Tướng Quân.
Cho dù bắt nguồn từ truyền thuyết
nào đi nữa, trong dân gian Nam Bộ, nhất là những ngư dân ven biển thì cá voi
(còn gọi là cá ông) là một động vật linh thiêng thường xuyên cứu giúp những
người gặp nạn trên biển. Ngư dân, mỗi khi ra khơi, nếu gặp chuyện gì bất trắc
thì họ lập tức cầu "ông", mong “ông” đến cứu giúp. Họ cho rằng,
lần nào “ông” cũng đến kịp thời để cứu vớt những người bị tai nạn trên biển
và khi gặp cá “ông” lụy (chết), dân làng biển coi như gặp điều lành, tin
rằng sẽ được phù hộ.
Theo quy ước, người phát hiện “ông”
lụy đầu tiên được xem là người được “ông” tín nhiệm, do đó được vinh hưởng chức
trưởng nam, thay mặt dân làng chịu tang ông trong suốt 100 ngày. Khi phát
hiện “ông” lụy, người ta tìm cách dìu xác “ông” vào bờ, và vạn trưởng huy động
dân làng đưa ông lên bờ để làm lễ an táng. Trường hợp gặp phải xác cá ông quá
lớn thì người ta dùng đăng quàng lại, cử người canh giữ cho đến khi thịt rã hết
mới lấy bộ xương đưa lên lăng thờ.
Thời Nguyễn, còn có quy
định, làng nào bắt gặp cá ông chết thì lý trưởng phải trình lên phủ, huyện
để quan cho lính về khám định, cấp tiền tuất, hương đèn, vải đỏ quấn đủ 7 vòng
và cho khâm liệm, cấp đất xây lăng và ruộng hương hỏa để thờ. Nghi thức tang
chế hoàn toàn dựa vào “Thọ Mai Gia Lễ”, rất long trọng tuy có rút gọn hơn so
với lễ tang người. Sau đó, đủ ba năm thì cải táng, lấy xương xếp vào quách,
khạp đưa vào lăng đã xây sẵn để thờ. Lăng ông có người trông coi, hương khói,
có một hội đồng quản lý lăng.
Ngày lễ cúng ông diễn ra giữa các
nơi không đồng nhất, điều này phụ thuộc vào ngày cá ông lụy. Hễ cá ông lụy vào
ngày nào thì người ta lấy ngày đó làm ngày cúng. Nhưng thông thường, cá ông
thường lụy vào những tháng có biển động, có gió bão nhiều. Vì vậy, ở Bình Đại,
Bến Tre thì lấy ngày 16/6 âm lịch để cúng còn ở Sông Đốc, Cà Mau lấy các ngày
14, 15, 16 tháng 2 âm lịch; Cầu Ngang, Trà Vinh thì cúng vào ngày 10,11,12
tháng 5 âm lịch.
Lễ cũng tổ chức quy mô lớn hay
nhỏ cũng phụ thuộc vào tình hình kinh tế của từng địa phương. Năm nào, địa
phương nào làm ăn khấm khá, đi biển đánh bắt được nhiều cá tôm... thì năm đó
địa phương đó sẽ cúng lớn, còn ngược lại thì cúng nhỏ. Duy có điều, vật phẩm
dùng để cúng trong ngày lễ này thì gần như không có sự khác biệt lớn giữa các
địa phương.
Về cơ bản, nghi thức cúng cá ông
không khác mấy so với nghi thức cúng ở đình làng, gồm nhiều nghi lễ và
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Thông thường thì, lễ hội nghinh ông được
bắt đầu từ lúc rạng sáng. Một đoàn thuyền được chuẩn bị sẵn để ra khơi. Hằng
trăm chiếc tàu đánh cá của ngư dân trong và ngoài tỉnh được trang trí cờ hoa,
neo đậu ken đặc dưới bến sông. Mặc dù vậy, các ghe này đều đậu một cách rất
trật tự, có hàng có lối và trông rất đẹp mắt. Đi đầu là chiếc ghe chính có
trọng tải lớn, chủ lễ trực tiếp rước lư hương lên tàu. Tàu được trang trí rất
công phu, lộng lẫy và lớn nhất. Có khi người ta kết từ ba chiếc tàu lại. Trên
tàu có kết hoa, treo cờ, có bàn hương án và bài vị thủy tướng, có trang bị dàn
nhạc ngũ âm và một số người biết hát múa ăn mặc chỉnh tề, hướng thẳng ra biển.
Ra tới cửa biển, nhiều tàu khác
tiếp tục được nhập vào đoàn diễu hành. Hàng trăm đến hàng ngàn tàu đủ mọi kích
cỡ, công suất, kiểu trang trí tạo ra một khung cảnh đầy màu sắc sống động cả
một vùng cửa biển rộng lớn. Tiếng sóng nước, tiếng động cơ ầm ầm vang xa. Hàng
ngàn người đủ mọi sắc áo đứng ngồi trên boong tàu vẫy cờ hoa lung linh trong
cảnh non nước mây trời xanh ngắt pha lẫn khói tàu lan tỏa trên mặt biển. Trong
khi đó, ở trên bờ, tiếng kèn, tiếng trống, tiếng nhạc nổi lên rộn rã.
Trên đường diễu hành, nếu gặp cá
ông phun nước (ông dọi) thì đoàn tàu quay trở về ngay. Nếu không gặp thì đoàn
tàu tiếp tục ra khơi, khi ra đến địa điểm đã định thì dừng lại. Vị chủ lễ mặc
áo dài đen, chít khăn, chân đi hài, ra lệnh gióng ba hồi trống, rồi làm lễ dâng
hương, dâng rượu, đọc sớ cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, biển nhiều
tôm cá, sau đó làm lễ xin keo rước ông về. Tại lăng sẽ tiếp tục diễn ra các
nghi lễ cúng bái đến tận khuya.
Tiếp theo là lễ cúng tiền hiền, hậu
hiền, có đọc văn tế, có tổ chức học trò lễ dâng hương, và thức cúng làm từ thịt
gia súc, gia cầm là chính. Lễ chánh tế bắt đầu từ 24 h cùng ngày. Thức cúng
thường là một con heo trắng, hai mâm xôi đắp cao, có cả rượu và trà, có học trò
lễ dâng hương và dàn ngũ âm tấu nhạc.
Trong khoảnh khắc này, khoảng cách
giữa thần linh và đời sống dân dã dường như không còn nữa. Tục thờ cá ông của
cư dân Nam bộ là một đạo lý cổ truyền, thấm đượm tính nhân văn của dân tộc. Và
lễ hội nghinh ông chính là dịp để thỏa mãn nhu cầu đền ơn, đáp nghĩa của cư dân
vùng biển đối với đấng cứu nhân độ thế, được con người tôn sùng và biết ơn.
63. Kéo lửa thổi cơm thi - Trò
chơi dân gian đánh thức truyền thốngMụ Thố của người Mường
Những người con của vùng đất Mường
Bi, thời thơ ấu, bố, mế thường kể cho họ nghe về áng mo “Đẻ đất, Đẻ nước”...
được đắm mình vào các ngày hội của bản, của Mường. Họ không bao giờ quên không
khí thành kính đầy ý nghĩa của lễ vía mụ Thố.
Một lễ nghi chỉ được tổ chức cho
người già lúc ốm đau bệnh tật. Gia đình sợ vía của người già đi xa mất, mọi
người tổ chức làm vía cho người già để cầu mong sức khoẻ. Trở về với Mường Bi
hôm nay, một lần nữa tôi được hoà mình vào nghi lễ trang trọng này.
Bao giờ cũng vậy, trước khi tổ chức
lễ vía mụ Thố, mỗi một gia đình người Mường thường nhờ ông Mo chọn ngày lành
tháng tốt để làm vía. Ngày lành tháng tốt đến người con dâu cả trong gia đình
đội nón chống gậy cầm ớp khọ đi xin gạo, xin vải của hàng xóm. Số gia đình
người con dâu vào xin gạo tương ứng với thứ tự ngày hôm đó.
Nếu là ngày mùng 3 cô đi xin gạo
vào 3 nhà, ngày mùng 5 sẽ vào 5 nhà. Lúc này, người con dâu không khác gì ăn
xin, song dù ít nhiều không quan trọng, điều quan trọng hơn cả là sự đùm bọc
thương yêu nhau của xóm giềng đối với người già.
Cùng lúc đó, người con trai
trưởng trong gia đình là chồng cô đi vào rừng tìm cây si mọc ở nơi cao ráo đem
về. Trong nghi lễ này không thể thiếu cành si bởi trong đời sống tâm linh của
đồng bào Mường hình tượng cây si được tôn vinh như một vị thần có sức sống kỳ
diệu.
Và theo quan niệm của đồng
bào, cây si truyền sức sống mạnh mẽ kỳ diệu cho những người cao tuổi để họ luôn
có sức khoẻ không gặp ốm đau bệnh tật sống lâu trăm tuổi.
Đối với người Mường, bữa ăn
thường ngày rất đơn giản, đạm bạc, nhưng bất kỳ ngày lễ, Tết hay nhà có công có
việc, mâm cỗ được chuẩn bị khá tỉ mỉ. Khi những tia nắng cuối ngày khuất
dần sau núi cũng là lúc gia đình tổ chức lễ Mụ Thố.
Ngay trong lễ mụ Thố, điều nhận
thấy đó là công việc bếp núc cỗ bàn hầu hết do người đàn ông đảm nhận. Đây cũng
là thói quen lâu đời của người Mường. Còn người phụ nữ chỉ đảm nhận tiệc chay
trong buổi lễ. Đồ xôi, gói bánh, từ hái rau hay ở vóng trong phụ
giúp.
Nhận được lời mời họ hàng thân
thích, anh em hàng xóm mang theo một gói cơm hoặc một bát gạo, một chai rượu
đến với ý nghĩa để góp lễ mời vía người ốm ăn gọi là làm “cấp”. Cỗ cúng
trong ngày lễ mụ Thố thường được sắp đặt 5 mâm. Trên các mâm cúng đều có xôi,
rượu, vải, tiền đặt lễ, đồ chay. Thế nhưng trong 5 mâm thờ đó, mỗi mâm thời vị
thần khác nhau. Mâm đầu tiên có một cái vai lợn đùi trước, một lá thịt đầu thăm,
đĩa muối và bát nước canh Mâm này dâng lên tổ tiên ông mo. Mâm thứ 2 thờ ông hộ
gốc kéo si, bà hộ lộc kéo sang. Hai vị này ngự ở cửa liền đến Nam Chu nơi đình
chân vua Pán quán vua trời. Mâm thứ 3 thờ ông Kem cầm sổ trạng, mâm thứ tư thờ
vua Pua sang nàng mụ thêm già.
Hai vị này ngự tại vòm si hoa, cành
si thơm, bờm si ngọt. Mâm thứ năm thờ hai Pua sang nàng mụ, vị này cũng ngự tại
vòm si hoa, cành si thơm, bờm si ngọt. Mâm cỗ đặt thứ tự từ ngoài vào trong ở
vị trí trang trọng nhất trên sàn. Bên cạnh các mâm cúng là 1 cái rá đựng cành
si và các vật dụng làm lễ khác như cuốc, nón, quần áo.
Trong đời sống tinh thần của đồng
bào Mường, thầy Mo có vai trò hết sức quan trọng. Ông là nhân vật có quyền năng
thông quan với thế giới thần linh. Vì thế một trong những người không thể thiếu
trong lễ mụ Thố là ông Mo. Khi các mâm cỗ đã sắp đặt đầy đủ, thay mặt cho gia
đình, thầy mo khăn áo chỉnh tề thắp hương rồi khấn.
Phải năm trời không thuận, đất
không lành, người già ốm lắm đau nhiều, hôm nay họ hàng con cháu có lòng đức,
lòng đạo, lòng thảo, lòng nhân, soạn lên mâm vía lễ mụ thố, cầu mong giữ vía
cho người già mạnh khoẻ trở lại, sống xa già lâu cùng con cháu họ hàng”. Sau
khi trình bày lý do xong, ông mo tiếp tục khấn để mời mụ thố về.
Dân gian tương truyền, nhà mụ trú ở
gốc cây si trên trời cao nên thầy mo phải lên trời đi tìm mụ về. Dâng đủ 10
“thông” cơm chay, 10 “thông” cơm rượu. Con cháu ngồi dưới vái lạy mời các thần
và mụ thố. Sau đó, thầy Mo gieo quẻ âm dương. Khi công việc thuận lợi, bà mụ
xuống chứng giám, ông Mo thay mặt bà mụ đội nón tay cầm mảnh vải viết lên sổ
trạng xin được thêm số, thêm phận cho người già đang đau ốm.
Viết sổ trạng xong, người nhà một
sợi dây được buộc vào cành si để tiến hành nghi lễ kéo si, đây là nghi lễ quan
trọng nhất trong buổi lễ này. Trước khi kéo, ông Mo tiếp tục khấn. Con cháu ở
đâu hãy lại đây! Cầm dây kéo cây si dậy. Cho hồn người mạnh mẽ trở lại, để
người sống lâu nghìn năm trăm tuổi. Buổi nào cây si đổ, người mới đổ.
Chỗ nào cây si héo người mới héo.
Con cháu hỡi, con cháu hà, ta cùng kéo cây si dậy! Để cây si mãi chắc gốc bân
cành. Để người sống lâu ngàn năm. Để người sống lâu trăm tuổi. Dậy dậy si hỡi!
Dậy dậy si hà. Lúc này con cháu cùng xúm vào cùng kéo, mỗi nhịp kéo mọi người
lại đồng thanh “ hò....hơ” cho đến khi cây si dựng vưng chắc mới thội.
Cây si được dựng lên vững chắc, ai
nấy trong gia đình cảm thấy trong lòng thư thái. Người già trong nhà thì
cảm thấy yên lòng, yên dạ, tinh thần sảng khoái như được tăng hêm sinh lực. Làm
lễ xong ông Mo tuyên bố kéo si đã lành, xanh lá gốc, lá ngọn con cháu hãy cùng
mời ông bà uống rượu, ăn uống no say. Con cháu bê mâm cơm vía đến cho người già
ăn gọi là ăn lấy vía.
Trong không khí hân hoan của bà con
và gia đình làm lễ, ông Mo cho phép mọi người ăn cơm, uống rượu cần để hưởng
phúc, hưởng lộc của thần linh. Không ồn ào, náo nhiệt như những lễ hội
khác, lễ vía mụ Thố gần gũi với đời sống tâm linh của người Mường. Ngày nay,
nghi lễ này vẫn được tổ chức ở khắp các bản mường khi gia đình nào có người già
yếu.
Được đắm mình vào lễ mụ, tôi càng
hiểu thêm tâm hồn và lẽ sống của đồng bào Mường. Nghi lễ này còn thể hiện sự
gắn kết hoà đồng giữa thiên nhiên và con người. Con người vun đắp cho cuộc
sống, thiên nhiên thêm tươi, thêm đẹp. Thiên nhiên tạo ra môi trường sống trong
lành cho con người.
63. Tùy theo PTTQ của từng địa phương, cuộc thi
kéo lửa thổi cơm có nhiều kiểu thi khác nhau. Cổ Loa là 1 ví dụ về sự khác biệt
này.
Trò thổi cơm thi phản ánh đậm nét
đời sống lao động của cư dân trồng lúa ở Việt Nam. Tùy theo tập quán của từng
địa phương, trò thổi cơm thi được tiến hành ở mỗi nơi một khác, nhưng nó không
chỉ là một trò chơi giải trí trong dịp lễ hội. Sản phẩm đoạt giải của cuộc nấu
cơm thi được coi là vật phẩm quý giá để cúng thần linh.
Tất nhiên, muốn có cơm thì phải có
gạo và phải biết nấu, biết thổi. Dù không khó khăn lắm, nhưng nếu không học
hỏi, tập luyện thì cũng không thể nấu cơm ngon. Do vậy, trò "thổi cơm
thi" đã xuất hiện khá nhiều trong các hội làng ở những vùng có đông cư dân
trồng lúa. Trò thổi cơm thi cũng đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Người thì bảo thổi cơm thi là để có cơm nhanh cho binh sĩ kịp ăn trước khi lên
đường ra trận. Người thì nói thổi cơm thi là một trò vui giải trí trong ngày
hội.
Tuy nhiên, với cách nhìn của nhà
nông, người ta vẫn có thể nói rằng, thổi cơm thi là một trò diễn nhằm thể hiện
lòng quý trọng lúa gạo, trau dồi thao tác chế biến một sản phẩm nông nghiệp
quan trọng bậc nhất do chính tay họ làm ra.
Tùy theo phong tục tập quán của
từng địa phương mà trò thổi cơm thi được tiến hành ở mỗi nơi một khác. Nơi thì
tổ chức giữa sân đình, nơi thì thi thổi trên thuyền ở giữa hồ nước, nơi thì
phải tự kéo lửa, nơi thì vừa kết hợp làm thêm việc khác... Nhưng dù tổ chức ở
đâu và cách thức như thế nào thì cũng phải đảm bảo tiêu chuẩn: nhanh và thật
ngon, bất luận trong hoàn cảnh nào
64.
Người Văn Hán
ăn Tết lại
Xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái
Nguyên có tục ăn tết lại, đây là phong tục lưu truyền lâu năm tại Văn Hán và
cho đến nay, tập tục này vẫn được nhân dân thực hiên đều đặn hàng năm.
Tục ăn Tết lại của người Văn Hán là
một nét văn hóa đẹp bắt nguồn từ câu chuyện lịch sử: Theo Hoàng Lê nhất thống
chí của Ngô Gia Văn Phái, trước khi tiến đánh vào giải phóng Thăng Long, vua
Quang Trung đã mở tiệc khao quân ở đền Tam Điệp. Hôm đó là ngày 30 Tết
(25/1/1789) Kỷ Dậu. Rồi nhà vua bảo kín với các tướng rằng: "Ta với các
ngươi hãy tạm sửa lễ ăn Tết Nguyên Đán trước đã. Hẹn đến năm mới, mồng 7, thì
vào thành Thăng Long, sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lời ta xem có đúng
không?" Nhưng chỉ đến ngày mồng 5 Tết, vua Quang Trung đã tiến quân vào
thành, giải phóng kinh đô.
Trước đó, dân thành Thăng Long đã chuẩn bị ăn Tết với đầy đủ các thứ vật phẩm.
Nhưng do phải chạy giặc Thanh, họ chỉ đem được rất ít, còn bánh chưng, phần lớn
phải vứt xuống ao. Khi kinh thành được giải phóng, họ trở về và thử vớt bánh
lên, thấy vẫn còn thơm ngon. Thì ra, tiết trời lạnh, nước ao lạnh nên bánh
không bị hư hỏng. Dân chúng cảm tạ thần linh đã giúp vua Quang Trung giải phóng
kinh đô, cho họ được mở tiệc ăn Tết tại nhà.
Từ đó, ở nhiều nơi, nhiều nhà giữ lại cách thức ngâm bánh chưng xuống ao, xuống
giếng nước, sau vớt lên "ăn Tết lại". Hoặc tiện hơn là gói đợt bánh
khác để ăn tới tận rằm tháng giêng, có khi tới tận cuối tháng giêng, gọi là tục
"ăn Tết lại".
65.
Tết Nguyên Tiêu
– đêm trăng tròn đầu tiên trong năm
Chỉ còn vài ngày nữa là Tết Nguyên
Tiêu lại đến, đây là một lễ hội rất lớn của người Hoa trên khắp đất nước Việt
Nam cũng như trên toàn thế giới. Theo truyền thuyết thì lễ hội này bắt đầu từ
thời nhà Hán bên Trung Hoa nhưng mãi đến đời nhà Đường mới phổ biến rộng rãi
trong dân gian.
Người Hoa thường gọi ngày Tết
Nguyên Tiêu là ngày đoàn viên, Tết Thượng Nguyên - đêm trăng tròn đầu
tiên trong năm, còn người Việt quen gọi là rằm tháng Giêng. Vào ngày này trên
địa bàn sinh sống của người Hoa (Chợ Lớn, Hội An, Bạc Liêu, Bình Dương...) sẽ
tổ chức hội hoa đăng, múa lân sư rồng và cùng nhiều tiết mục dân gian truyền
thống như đi cà kheo, hát hồ quảng, múa hẩu, biểu diễn võ thuật,.. Trên khắp
mọi nẻo đường và trước mọi cổng nhà người dân sẽ treo đèn lồng đỏ. Cha
mẹ, con cái sẽ đi lễ chùa cầu bình an trong năm mới và quây quần bên nhau ăn
bánh tro tàu - một món ăn truyền thống dành riêng cho ngày này.
Tại thành phố HCM, đèn lồng sẽ được
treo bắt đầu từ đường Nguyễn Trãi đến Lương Nhữ Học, Hải Thượng Lãn Ông, Châu
Văn Liêm, Trang Tử...Du khách có thể đến tham dự Tết Nguyên Tiêu tại Hội quán
Nghĩa An (chùa Ông) trên đường Nguyễn Trãi, chùa ông Bổn (Nhị Phủ Miếu) trên
đường Hải Thượng Lãn Ông và lễ hội đường phố diễn ra trên đường Lê Duẩn, công
viên 30/4 - trước dinh Thống Nhất. Tại Bình Dương có chùa Bà Thiên Hậu, tại Hội
An lễ hội được tổ chức tại hội quán Quảng Đông trên đường Trần Phú và hội quán
Triều Châu trên đường Nguyễn Duy Hiệu.
66.
Báo Bản - Một
phong tục tập quán đẹp vùng chân quê
Xã Yên Từ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh
Bình là xã có phong tục Báo Bản. Thôn Nộn Khê, một trong 6 thôn của xã Yên Từ
là chốn chân quê, nơi giữ gìn lâu đời phong tục đẹp này. Nộn Khê hình thành
làng từ thời Lê-Hồng Đức, cách đây đã hơn 500 năm. Làng có 8 họ chính: Bùi,
Đinh, Phạm, Cao, Mai, Lê, Trần, Nguyễn. Quá trình xây dựng và phát triển, 8 họ
chính trên đã mở ra nhiều chi, hiện nay có đến 26 dòng họ.
Tục lệ Báo Bản hình thành từ lâu và
được phát huy cho đến ngày nay, mà trong thời đổi mới này tục lệ đẹp càng thêm
phong phú, đa dạng. Báo là báo công, báo những việc đã làm trong năm qua, bản
là gốc. Vậy Báo Bản là tổ chức một cuộc lễ hội để nhớ về nguồn gốc, nhớ về tổ
tiên, những người đã có công lao xây dựng làng xóm ngày nay và sự đóng góp của
lớp con cháu sau này. Ngày Báo Bản là ngày hội tụ của con cháu, của tất cả các
dòng họ đang công tác, học tập, lao động từ "bốn phương" về. Nhiều người
từ phía Nam, đông nhất là ở TP.Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh ở phía Bắc, đến ngày
Báo Bản là rủ nhau về quê dự lễ hội. Ca dao về ngày này được lớp lớp cháu con
thuộc lòng:
Dù ai muôn nẻo đó đây
Mười tư tháng Một là ngày hội quê
Dù ăn buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày Báo Bản, ta về quê ta
Đúng ngày 14 tháng Giêng âm lịch, sau Tết, không khí mùa xuân còn đậm nét, làng
tổ chức lễ hội. Đầu tiên là cuộc rước kiệu, những cỗ Bát cống, Long đình được
đặt trên vai các công dân trẻ của làng, trong tiếng trống cái và điệu nhạc du
dương của phường bát âm, kiệu được rước quanh làng rồi trở về đình. Một cụ già
có uy tín, mũ áo chỉnh tề, hướng lên nơi thờ tổ tiên, trong ánh sáng của các
cây nến và hương thơm của những cây nhang trầm, trịnh trọng, dõng dạc đọc bài
văn tế. Bài văn tế được soạn công phu, nói về công ơn của tổ tiên và việc xây
dựng làm xóm trong thời đại mới, những tiến bộ, những thành tích của dân làng,
những nét đẹp trong tình làng nghĩa xóm, trong việc sản xuất và học hành và xin
hứa với người xưa là luôn vun đắp cho cái gốc được muôn đời bền vững.
Sau lễ là tổ chức yến lão, mừng các cụ vào tuổi thọ đáng kính, từ 60 tuổi trở
lên. Các xóm đứng ra cáng đáng việc này. Không tổ chức ăn uống, mà làm lễ dâng
hương, đọc thơ chúc mừng. Cụ Bùi Văn Mược, một cán bộ cấp úy của quân đội, vừa
vào tuổi "xưa nay hiếm", vui vẻ nói với tôi:
- Sống trong chế độ mới, ở nông thôn, môi trường thoáng đãng, con cháu phụng
dưỡng chu đáo, lại được thảnh thơi về tinh thần, nên tuổi thọ của các cụ ở Nộn
Khê khá cao. Đến đầu xuân 1998 này, Nộn Khê có hơn 500 cụ đã qua tuổi 60, hơn
200 cụ từ 70 đến 79 tuổi; 80 cụ từ 80 trở lên. Bà cụ Đinh Thị Vi, thọ đến 102
tuổi, vừa qua đời tháng 4/1998. Năm nay, lễ Báo Bản có 5 ô tô chở đầy con cháu
các nơi về, trong đó có TP.Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Định.
Nộn Khê còn một nét đẹp này: thôn có chùa lại có nhà thờ, bà con theo đạo Phật,
đạo Công giáo và nhiều người không theo đạo nào nhưng tất cả vẫn đoàn kết, giúp
đỡ nhau trong sản xuất, dựng xây, học hành. Làng này, việc trị an được đảm bảo,
nghề phụ phát triển, đan lát, thêu ren, cây cảnh và đặc biệt, việc học hành của
các cháu được mọi người chăm lo.
Qua chuyện trò với bác Bùi Văn Mược và gặp mấy cụ cùng mấy anh cán bộ, tôi được
biết, Nộn Khê có truyền thống về học hành. Thời xưa, Nộn Khê có 53 cử nhân và
tú tài. Sau Cách mạng tháng 8-1945, làng này có một tiến sĩ, 6 phó tiến sĩ, 132
thạc sĩ và cử nhân. Năm 1997, Nộn Khê có 10 học sinh thi đỗ vào các trường đại
học. Đến mấy xóm nhỏ, tôi được các cụ đọc cho nghe một câu đối khá hay:
Bách niên văn vật thanh danh địa
Tứ giáp nay y quan lễ nhạc đình
Đã hàng trăm năm, đất này nổi tiếng là nơi văn vật.
67.
Kỵ nhật
Ngày giỗ cụ kỵ, ông bà, cha mẹ gọi
là ngày kỵ nhật. Chiều hôm trước là cúng tiên thường, hôm sau mới là ngày chính
kỵ. Cái giỗ xa (cụ kỵ ông bà) thì sắm sửa con gà, ván xôi hoặc một vài mâm cỗ,
trước cúng gia tiên, sau con cháu sum họp ăn uống với nhau. Còn về ngày giỗ cha
mẹ thì tục thường làm phong hơn.
Trong khi giỗ, dẫu làm lớn nhỏ thế nào mặc lòng, nhưng tất làm sao phải có bát
cơm úp vào một quả chứng luộc làm đầu. Cỗ bàn thì tuỳ nhà giàu, nghèo mà sử
phong kiệm khác nhau. Nhiều nhà mời bà con khách khứa. Bà con khách khứa người
thì mang chè, cau, rượu, người thì đem vàng hương đến lễ giỗ, rồi mới uống
rượu.
Nhà hào trưởng trong làng, có khi cả làng đến ăn giỗ, nhà ông thầy dạy nhiều
học trò, thì cả học trò đến ăn giỗ, nhà quan trưởng thì thường cả tổng lý phủ
huyện đến lễ giỗ, ăn uống phiền phí lắm.
Có nơi, nhiều hôm cúng tiên thường, bà con đã đến chơi đông, uống rượu xong thì
dở ra bài bạc thuốc phiện, lấy tiếng rằng ở lại chầu chực gia tiên mà bày ra
cuộc vui vẻ. Sáng hôm sau uống một bữa rượu chính kỵ nữa mới tan.
Nhớ kỵ nhật tiền nhân mà cúng cấp cũng là một bụng tốt. Nhưng nguyên ý lúc
người mới chế lễ ra, chẳng qua dùng cách ấy để tỏ lòng nhớ tiền nhân là người
sinh mình, người gây dựng nên cơ nghiệp cho mình, là một ý bất vong bản mà
thôi. Chớ không dùng cách ấy để làm sự vui vẻ làm cách giao thiệp với đời. Kỳ
thủy ta không phải là không hiểu ý ấy, nhưng chắc vì cớ mấy người trước muốn
nhân dịp nhà mình có sẵn cỗ bàn cúng cấp mà muốn hội mặt bà con anh em. Hoặc vì
bà con anh em, cùng người gia hạ, nhớ đến ân tình của ông cha mình, hay là ví
nể mình và đến lễ kỵ, mình có lẽ nào vong tình được mà chẳng khoản đãi. Vì thế
thành tục, rồi nhiều người phải miễn cưỡng mà theo tục, té ra phần nhớ đến tiên
nhân thì ít, mà phần lo về khoản đãi bà con khách khứa thì nhiều.
Đã đành cho rằng có thì mâm cao cỗ đầy, chẳng có thì lưng cơm cái trứng, cũng
đủ tỏ chút lòng thành, nhưng ngặt vì tục đã quen, không cố mà lo được thì người
ta chê là bủn xỉn, mà trong lòng mình cũng áy náy không đành!
Ngày kỵ, là một ngày chung thân chi tang, là ngày thương xót, ngày rầu buồn,
đáng lẽ chỉ nên đóng cửa mà thương nhớ mới phải. Mà dẫu có theo tục dùng cách
cúng tế làm sự kỷ niệm thì làm thế nào cho giản tiện, miễn là tỏ chút lòng với
tổ tiên là đủ, tưởng không nên bày vẽ cho sinh tốn làm gì. Nếu có của mà muốn
họp mặt bà con anh em, khoản đãi khách khứa thì tưởng nên dùng vào những dịp ăn
mừng còn phải hơn.
Xét như tục Âu châu, nhớ ngày huý nhật, con cái chỉ đem bó hoa ra mả là cùng.
Tục Nhật Bản cũng chuộng sự tế tự, nhưng đến ngày huý nhật, con cháu chỉ đem
hương hoa dưng cúng mà thôi.
Xem như tục các nước văn minh ấy, tuy rằng thanh đạm nhưng thực đủ tỏ lòng
thành kính, mà lại giữ được tiền của để dùng vào việc đáng dùng.
69.
Tết Việt và
những tập tục từ ngàn xưa
Tết Nguyên Đán của người Kinh là
một sự kết hợp hài hoà các nghi lễ cúng bái của Phật Giáo Bắc Tông và đạo ông
bà. Tuỳ theo mỗi gia đình và theo thời gian mà các nghi lễ ấy dần thay đổi và
gia giảm ít nhiều nhưng tựu chung thì tất cả đều được tổ chức dựa theo âm lịch.
Sự kiện đầu tiên chính thức báo
hiệu mùa Tết Nguyên Đán bắt đầu là lễ tiễn đưa ông Táo về Trời vào ngày 23
tháng Chạp hàng năm. Ắt nghĩ người Việt ta từ Bắc chí Nam đã không còn lạ lẫm
với hình ảnh ông Táo cưỡi cá chép bay về Trời để chầu Ngọc Hoàng và báo cáo
tình hình năm vừa qua của gia chủ. Do vậy, ngoài bánh thèo lèo và giấy tiền
vàng mã cúng ông Táo thì không thể thiếu đôi cá chép. Sau khi cúng xong, cá
được phóng sanh nhằm góp thêm nét đẹp ngày Tết - nét đẹp của lòng từ bi.
Ngày 24 tiếp theo được xem là lễ
tảo mộ. Vào ngày này, con cháu mua giấy tiền cùng xôi thịt, bánh trái lên cúng
mộ ông bà đồng thời phát quang rẫy cỏ, dọn dẹp khu mộ cho tươm tất và sạch sẽ
trước thềm năm mới.
Ngày 25 là lễ cúng đưa chư thiên về
Trời như thần tài thổ địa, mẹ sanh mẹ độ, đức quan công...Tuỳ theo mỗi nhà, nhà
nào thờ thần nào thì sẽ mua bộ giấy tiền vàng mã tương ứng để cúng.
Tiếp đó, trưa 30, khi mọi công đoạn
dọn dẹp chuẩn bị đón Tết gần như hoàn thành thì đồng thời mỗi nhà phải bày biện
một mâm cơm cho lễ rước. Trước là rước chư thiên về ngự trong năm mới, bao gồm
cả ông Táo, Thần Tài Thổ Địa...sau là rước ông bà về sum họp cùng con cháu đón
giao thừa và lưu lại dương gian trong 3 ngày Tết. Có thể nói, đêm 30, đêm giao
thừa hay còn gọi là đêm trừ tịch là thời khắc chuyển giao thiêng liêng nhất của
Tết Nguyên Đán. Khi ấy, con người bỏ lại sau lưng những buồn vui ngày cũ, hồ hởi
và hy vọng một năm mới đủ đầy sung túc. Đó cũng là tinh thần "tống cựu
nghênh tân" lạc quan trong mùa Tết cổ truyền
Tuần tự sau đó, từ mồng một đến
mồng 10 có các nghi lễ cúng kiến như:
Sáng mồng 1 cúng Trời Phật.
- Mồng 2 cúng người khuất mặt khuất
mày trong cửa trong nhà.
- Mồng 3 cúng ra mắt quan hành quân
hành khiển. Ngoài ra trong cả ba ngày Tết, theo đúng tục lệ thì phải cúng cơm
cửu quyền thất tổ, tức ông bà tổ tiên trong gia đạo, riêng ngày mồng 3, lễ cúng
cơm cũng chính là lễ tiễn đưa ông bà trở lại Trời, chỉ khi dịp giỗ hoặc đến
trưa 30 cuối năm mới lại đón ông bà về.
- Mùng 6 vía Thần Tài
- Mùng 8 cúng Sao Hội Nhị Thập Bát
Tú
- Mùng 9 vía Ngọc Hoàng
- Mùng 10 cúng Thổ Địa Đất Đai và
chính thức khép lại mùa Tết Nguyên Đán.
Có thể nói, phong tục cúng kiến là
một phong tục đẹp không thể thiếu trong ngày Tết. Nó nhắc nhở chúng ta rằng Tết
không của riêng ai mà còn là mối dây gắn kết giữa người với người, giữa con
cháu với tổ tiên, người đang sống cũng như người đã khuất, là sự tương thích
tâm linh giữa con người với tín ngưỡng của họ, bởi một điều đơn giản: cả đất
trời vũ trụ như sống dậy trong thời khắc chuyển giao thiêng liêng, giữa khởi
thủy và tận cùng đó.
69.
Đi tìm lời chúc
đầu năm
Theo tục xưa, những gì xuất hiện
vào đầu năm sẽ ảnh hưởng đến cả năm. Vì vậy, trong những ngày đầu xuân ai cũng
chọn cho mình bộ quần áo "bảnh" nhất, tìm cho được những lời chúc tốt
đẹp nhất để gửi đến những người mình thương yêu, quý trọng. Những lời chúc ấy
tập trung chủ yếu vào tuổi thọ, tiền tài, danh vọng, hạnh phúc... Mỗi lời chúc
thể hiện một ước mơ và đâu là ước mơ đáng để mơ nhất?
Sống lâu trăm tuổi
Sống lâu trăm tuổi là một ước mơ
của người xưa khi tuổi thọ con người chỉ ở khoảng 45 - 50 năm. Ngày nay, nhờ
tiến bộ của khoa học, tuổi thọ con người đang ngày càng tăng.
Theo quan niệm ở Tổ chức Y tế thế
giới (WHO): dưới 65 được xếp vào "lứa" trung niên, từ 65 đến 74 được
gọi là cao tuổi, từ 75 - 90 mới bị gọi là già; còn lão niên phải từ 90 - 120.
Như vậy, có lẽ bài hát "60 năm cuộc đời" của NS Y Vân sẽ phải được
điều chỉnh lại! Tuy nhiên, đa số các cụ khi đã thọ lại phát hiện ra rằng, tuổi
thọ không phải là tất cả. Có ai vui khi thọ đến 100 tuổi trong tư thế...
"ngọa triều"? Như vậy, chất lượng sống tốt mới là "chỉ
tiêu" cần "phấn đấu".Theo giáo sư Hồng Chiêu Quang, chuyên gia
nổi tiếng của Trung Quốc về bệnh tim mạch và sức khỏe người cao tuổi, thì những
sinh hoạt hằng ngày có khả năng làm chất lượng cuộc sống trở nên kém đi, thậm
chí làm người ta đoản thọ. Trong cuốn sách Hãy là bác sĩ của chính mình, giáo
sư Hồng hướng dẫn: Về ăn uống, hằng ngày, uống một ly sữa bò hay hay ly sữa đậu
nành để không thiếu canxi; ăn một lượng chất bột vừa phải từ một đến hai bát
cơm (tùy công việc nặng hay nhẹ), 100g thịt hay 200g cá, hoặc 200g đậu phụ, ăn
500g rau xanh và quả chín, không ăn no.
Lưu ý ăn các chất có màu: đỏ (cà
chua), vàng (cà rốt), xanh (lá chè xanh), trắng (bột yến mạch), đen (nấm mộc
nhĩ) để tăng cường hệ miễn dịch, phòng bệnh. Vận động vừa sức tốt nhất là đi
bộ, mỗi tuần đi bộ khoảng năm lần, mỗi lần độ 3km, khoảng 30 phút. Đi bộ giúp
cơ thể không dự trữ mỡ, máu huyết lưu thông. Nếu lỡ kết tình thâm giao với
thuốc lá và rượu thì nên "nói lời chia tay" càng sớm càng tốt.Như
vậy, lời chúc sống lâu trăm tuổi chưa đủ nên chưa thể là lời chúc hay!
Tiền vô như nước...
Đây là lời chúc rất hình tượng đang
khá phổ biến trong thời buổi thị trường. Thậm chí "cư dân mạng" trong
những lúc nhàn tản còn đem mãnh lực đồng tiền ra làm đề tài để... "phẫu
thuật", lý luận đại loại như: Tiền là tiên là phật/ Là sức bật của lò
xo/ Là thước đo lòng người/ Là tiếng cười tuổi trẻ/ Là sức khỏe tuổi già/ Là
cái đà danh vọng/ Là cái lọng che thân/ Là cán cân công lý...
Chúng tôi đã thử làm một cuộc phỏng
vấn bỏ túi, đối tượng là các chị phụ nữ có cuộc sống khá giả về vấn đề này. Trả
lời câu hỏi: "Người phụ nữ trong gia đình mơ ước điều gì?", đa số các
chị cho rằng nếu được lựa chọn giữa một cuộc sống giản dị bên chồng con và một
cuộc sống giàu có nhưng vò võ một mình thì các chị sẽ chọn ngay cuộc sống giản
dị. Không ai dại gì ôm một đống tiền, nhưng lại đánh mất những thứ thật sự
không mua được bằng tiền.
Thành công, thành đạt
Có lẽ đó là ước mơ của bất kỳ ai
khi bắt đầu... lớn. Vì vậy, lời chúc này luôn được đề cập đến trong mỗi dịp
xuân về. Giáo sư Roger Cole - tác giả cuốn Sứ mệnh yêu thương đã can đảm tự
nhận mình là người có tham vọng thành công, thích được mọi người công nhận. Ông
đã chăm chỉ học tập để tốt nghiệp bác sĩ tại Guy's and King's Colledge
Hospitals - Luân Đôn; sau đó trở thành nghiên cứu sinh tại trường ĐH Y Hoàng
gia Úc (FRACP). Tự mãn khi đã đạt mục tiêu cao nhất của đời mình, nghĩ rằng
không còn gì để phấn đấu nữa, ông rơi vào bế tắc!
Đời thường, vẫn có không ít người
khi leo lên đỉnh vinh quang rồi lại thấy trơ trọi, thấy mất mát, thấy đó không
phải là đích đến. Trong quá trình tìm kiếm vinh quang, họ đã đánh mất nhiều
điều quan trọng đối với bản thân mà không hề hay biết, cho đến khi đã đứng trên
đỉnh, quay đầu nhìn lại mới nhận ra.
Không chỉ bắt mình thành đạt, nhiều
bậc cha mẹ còn mong muốn con mình thành công hơn cả mình. Họ biến con mình
thành "ngựa đua". Các bậc cha, mẹ xin hãy dừng lại một phút trước khi
đăng ký học thêm cho con, để thử hỏi con: "Con có thích học trường này,
lớp nọ không?". Có thể câu trả lời của con trẻ... "lạ tai" lắm.
Thành công, suy cho cùng, có lẽ chỉ
là một chút thỏa mãn nhất thời.
Chúc hạnh phúc
Hạnh phúc là điều ai cũng mong muốn
sở hữu. Người xưa khi nói đến hai chữ hạnh phúc đã ràng buộc trách nhiệm cho
người phụ nữ: "Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm" hoặc "phúc đức
tại mẫu". Theo cách nghĩ ấy, gia đình có được yên ấm hay không là do người
phụ nữ mang lại. Để đem lại hạnh phúc cho gia đình, ngay từ nhỏ người con gái
đã được dạy dỗ những đức tính ngăn nắp, nhường nhịn, bao dung, độ lượng, ứng xử
có văn hóa...
Bác sĩ Trương Trọng Hoàng - Phó
giám đốc Trung tâm Thông tin Giáo dục Sức khỏe TP.HCM cho rằng, người phụ nữ
thời xưa dễ hoàn thành nhiệm vụ hơn phụ nữ ngày nay vì họ không bị stress từ
công việc, toàn tâm toàn ý lo cho chồng, cho con. Phụ nữ ngày nay còn tham gia
công việc xã hội nên nếu dồn hết trách nhiệm vào người phụ nữ là... bất công!
Hạnh phúc phải được "nuôi" từ... hai người. Chúc hạnh phúc như vậy
cũng vẫn cứ thiếu...
Đâu là lời chúc có ý nghĩa?
Bác sĩ Nguyễn Thị Kim Hưng - ĐH Y
khoa Phạm Ngọc Thạch TP.HCM cho rằng, đứa bé khi được sinh ra trong gia đình đủ
cha mẹ là đã có hạnh phúc.
Tuy nhiên, chính người lớn và cuộc
sống xung quanh đã lấy mất hạnh phúc của đứa bé. Những câu như: "Ôi, chiếc
xe SH này đẹp quá", khiến đứa bé nghĩ "Có xe mới là hạnh phúc".
Người mẹ nói: "Con trai người hàng xóm "săn" được học bổng đi
Mỹ". Đứa bé nghĩ: "Có được học bổng đi nước ngoài mới là hạnh
phúc". Rồi lớn thêm một chút, đứa bé lại bị tác động bởi chuyện kiếm tiền,
chuyện thăng quan tiến chức v.v... Người ta đặt điều kiện cho hạnh phúc và đưa
vào suy nghĩ của đứa bé khiến đứa bé biến những điều người ta nói, mục tiêu của
người khác thành của... mình! Cứ như thế, đạt được một mục tiêu là một lần đứa
bé ngày xưa lại thấy hụt hẫng, mất mát.
Cuối cùng thì bạn nghĩ về bản thân
mình như thế nào mới là điều quan trọng. Có sức mạnh tinh thần, có thể sẽ có
tất cả, từ tuổi thọ đến sự an bình trong cuộc sống. Làm sao đạt được điều đó?
Theo bác sĩ Nguyễn Thị Kim Hưng: "Thực phẩm" của tinh thần là ý nghĩ,
được chia làm năm nhóm, xếp theo thứ tự từ xấu đến tốt là: độc hại, lãng phí,
cần thiết, tích cực và hướng thượng.
"Thực phẩm" độc hại là
những suy nghĩ tiêu cực (ghen tuông, thất vọng, giận dữ, mất niềm tin, nghi
ngờ). Và những suy nghĩ lãng phí (ân hận, nuối tiếc quá khứ, lo lắng về tương
lai, trong đầu luôn có câu "giá mà", "nếu", "phải
chi"). Cả hai nhóm "thực phẩm" này cần tránh xa. Nếu không,
chúng sẽ lấy hết... thời gian, cơ hội của chúng ta, bởi có những điều không thể
thay đổi được.
70. Khai bút đầu năm - nét văn hóa đẹp của người Việt
Trong văn hóa và thói quen của
người Việt, mọi người quan niệm rằng, ngày đầu tiên của năm là ngày quan trọng
cho một khởi đầu mới. Những ngày đầu tiên của năm, nếu mọi việc suôn sẻ, ai nấy
vui vẻ thì cả năm sẽ luôn được may mắn. Trong khoảng thời gian ấy, mọi người
thường tranh thủ làm nhiều việc lấy may cho cả năm, trong đó, tục chắp bút (hay
khai bút) đầu năm luôn luôn được nhân dân ta để ý, nhắc nhở nhau thực hiện,
mong cho một năm mới phát tài.
Tục khai bút thường chỉ có
giới học giả trong xã hội mới thực hiện. Tục này xưa có ông đồ, thầy đồ, học
sĩ... ngày nay có học sinh, giới văn sĩ, thi sĩ, người làm nghề viết. Thường
thì sau giao thừa, mọi người sẽ chọn một giờ tốt để làm lễ khai bút. Đây cũng
chỉ là một lễ tượng trưng, gọi là để bắt đầu sự nghiệp, sự học, sự viết cho một
năm mới. Có người chỉ viết lên ngày, tháng đánh dấu việc khai bút, nhưng cũng
có người sáng tác cả một tác phẩm đầu năm cho lúc khởi đầu này. Cũng có người
viết lên những mong muốn cho một năm mới nhiều thuận lợi, học hành được tiến bộ
và tương lai nghề nghiệp rộng mở. Những ông đồ hay Nho sĩ khai bút thường viết
câu đối hoặc một chữ đẹp để treo trong nhà.
Tục khai bút không phải là một nghi
lễ bắt buộc trong ngày Tết, nhưng từ bao lâu nay, nó vẫn được mọi người đề cập
đến nhiều trong cuộc sống, nhất là những ngày đầu năm. Và, không nhất thiết
phải khai bút vào ngay sau giao thừa, mà có thể chọn một ngày hay một giờ thích
hợp nào đó để làm việc này, từ ngày mùng 1 Tết cho đến những ngày sau đó.
Khai bút đại cát - người xưa
thường viết như thế khi đưa những nét chữ đầu tiên của năm, với ý nghĩa là khai
bút để gặp những điều tốt lành, đồng thời thể hiện sự tôn trọng chữ nghĩa, đề
cao sự học. Đây là một tập tục đẹp, một nét văn hóa Tết đáng được nhân dân ta
gìn giữ, phát huy cho đến tận mãi về sau.
80.
Cúng Chạp Mả
Hằng năm, từ đầu tháng Chạp, các
chi, phái tộc ở vùng quê Hòa Phú, Hòa Vang, Đà Nẵng tiến hành dẫy mả, chạp mả.
Đó là dịp con cháu ở xa tìm về nguồn cội...Và mỗi tộc họ đều chọn cho mình một
ngày "chạp" cố định và giữ mãi cho đến ngày nay.
Trước khi chính thức cúng chạp mả
độ vài ngày, những người cao tuổi ở các chi, họ đều hướng dẫn con cháu đi dẫy
mả. Trước khi dẫy, người già đưa mọi người đến ngôi mộ có vai vế cao nhất, thắp
hương khấn vái với thần hoàng bổn xứ và người đã khuất. Theo tập tục tổ tiên
ông bà, hằng năm con cháu dẫy mả để mộ phần được đẹp đẽ hơn, sau đó khấn mời
chư vị về nhà thờ tộc để sum họp và hưởng phẩm vật...Tuy không bắt buộc nhưng
mỗi gia đình trong họ tộc dẫu có bận đến mấy cũng sắp xếp cử người đi dẫy mả
cùng anh em trong họ tộc. Người thì mang theo cuốc bén, người thì đắp lại những
phần mộ bị sụt, khuyết đất, lở đất, người thì dùng liềm phát quang chung quanh
mả. Qua đây, các người già nói con cháu biết vai vế, công trạng, đức tính...
từng người nằm dưới mồ.
Song song với dẫy mả, ông tộc
trưởng cử người đi mua bò, heo trước đó ít ngày. Gặp năm trời nắng tốt, con
cháu đông đủ thì làm bò, gặp năm mưa gió thì làm heo. Khoảng 3 giờ sáng, họ đã
thức dậy nhóm lửa bắc nước làm bò, heo. Mờ sáng, các chị, các mẹ mang theo
gióng, mủng xuống chợ Túy Loan mua hương đèn, hoa trái, các loại rau trái như
sắn mồi, đậu cô ve, khoai tây, cà rốt, mì khô, khoai môn...gánh về nhà xúm nhau
nấu nướng. Ông tộc trưởng còn phân công người dọn bàn thờ, thay nước, tiếp
khách, chuyện trò về mùa màng, mưa nắng, khuyến học... trong tộc họ thời gian
qua.
Đúng 11 giờ, sau khi kiểm tra
"phẩm vật" trên các bàn cúng, ông tộc trưởng bằng lòng cho tiến hành
cúng, các bàn thờ được thắp hương đèn sáng loá, trầm hương nghi ngút. Tuy
nhiên, bàn cúng đặt trước sân là cúng thần hoàng được cúng trước. Sau đó là
nghi lễ cúng ông bà tổ tiên trong nhà. Con cháu vòng tay đứng hai bên, có người
chiết tửu (rót rượu), có người quỳ gối đọc lá sớ viết trên giấy vàng. Ông tộc
trưởng lạy, khấn trước, sau đó tùy theo vai vế mà lần lượt lạy ông bà tổ tiên.
Trong không khí thiêng liêng, ấm áp với hương trầm nghi ngút, hình như tổ tiên,
ông bà đã về sum họp cùng cháu con. Khi hương đã sắp tàn, kết thúc bằng màn
vái, lạy của ông tộc trưởng, nước trà được rót vào chén để ông bà dùng và nhận
phần diêm mễ, vàng mã, áo giấy được mang ra sân đốt.
Trước khi vào tiệc, ông tộc trưởng
cho người mang trên ban thờ xuống một bàn lễ gồm có: 1 chai rượu gạo, một đĩa
trầu cau và các đĩa đựng đầu heo, nọng, 2 miếng thịt tợ (thịt luộc) và mời đại
diện các chi nhánh, nội ngoại nhận lễ. Theo đó, đầu heo kính họ nội, cái nọng
kính họ ngoại, hai miếng thịt tợ kính các chi nhánh. Theo tập tục xưa bày nay
bắt chước, kính đầu heo, nọng là tỏ lòng biết ơn họ nội, ngoại, các chi đã giúp
sức rất lớn để tổ chức chạp mả được thành công tốt đẹp.
Ngoài ra, nhiều làng ở Hòa Vang
hằng năm còn có một buổi đi dẫy mả "Âm linh", nghĩa là dẫy những nấm
mồ vô chủ. Khoảng nửa buổi, làng cũng có cúng Đình, tế Âm linh với chiêng trống
đánh "bru...bru... bằm...bằm...". Gần trưa, các cánh trai tráng, nông
dân đi dẫy mả Âm linh về trước sân đình để rửa tay chân, sau đó vào đình ăn đám
cúng Âm linh, chủ yếu là rượu gạo, xôi, thịt heo, bánh tráng nướng...
81.
Tục xông đất
ngày Tết
Với ngày đầu tiên trong năm còn gọi
là Nguyên Đán, Tết đã có một ý nghĩa dặc biệt trang nghiêm. Vì ngày đó bắt đầu
một năm nên mọi công việc làm trong khoảng 24 tiếng đồng hồ đều có ảnh hưởng
trọn năm. Sự xông đất, xuất hành những cử chỉ đầu tiên, những lời nói đầu năm
là điều mà ai cũng phải cẩn ngôn cẩn trọng. Trong tất cả mọi việc có tục xông
đất được coi là quan trọng hơn hết.
Ngay từ nửa đêm sau lễ giao thừa
đánh dấu một năm đã qua, nhường cho một năm mới tốt đẹp đến, nhà ở được coi như
hoàn toàn đổi mới, người bước chân tới xông đất sẽ là sứ giả do sự may mắn đưa
đến! Do đó, mọi người đã cân nhắc kỹ về nhân phẩm, chức phận, sự giàu sang,
cũng như về tính tình, hạn vận khi mong cầu người đến xông nhà ngày đầu năm là
hệ trọng hơn cả. Chính vì nghĩ đến ảnh hưởng của việc xông đất đên việc làm ăn
cho cả năm, nên các bậc cao niên rất thận trọng đối với người đến đầu tiên
trong ngày Nguyên Đán để long trọng mang lại giúp họ sự tốt lành suốt năm mới.
Mặc dù đã tính toán như vậy, vẫn có người khách bất ngờ độc xuất đến xông đất
trước sự ngạc nhiên của cả gia đình và làm xáo trộn những toan tính không thể
thực hiện được một cách chính xác như ý mong muốn. Tuy nhiên để đề phòng những
sự kiện này xảy đến, trong buổi sáng tinh mơ các cửa ngõ đều đóng chặt và chỉ
mở khi nào người được chọn tới xông đất mà thôi.
Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng năm mười phút chứ không
ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông
suốt. Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được
xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm
tới. Thời xưa chỉ có 2 cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm
quan, người có học chọn người xông đất có tuồi hợp tuổi với chủ nhà. Người xông
đất phải là đàn ông trụ cột trong gia đình. Đối với người dân lao động thì đơn
giản hơn nhiều. Người được chọn xông đất phải khoẻ mạnh, tốt tính, và gia cảnh
khấm khá, hoà thuận...
82.
Mượt mà Then cổ
Trong những nghi thức vừa kỳ ảo,
vừa huyền bí của nghi lễ đan xen với làn điệu Then cổ đã lôi cuốn hàng nghìn
người cùng cộng hưởng trong niềm cảm xúc với tiếng đàn tính và làn điệu Then
mượt mà.
Xuyên suốt trong ngày hội văn hoá
các dân tộc vùng Đông Bắc, những làn điệu Then cổ vẫn thu hút sự quan tâm của
đông đảo khán giả. Vẫn là những làn điệu hát then, đàn tính mượt mà của các
nghệ nhân chuyên nghiệp và nghệ nhân dân dã cho thấy sức sống mãnh liệt của
loại hình nghệ thuật dân tộc này.
Then cổ trong lễ cấp sắc
Gặp lại nghệ nhân Nguyễn Đình Tích của đoàn Bắc Kạn tại liên hoan lần này, nom
ông trẻ hẳn ra, ông vui lắm. Ông Tích cho biết: “Bây giờ, khắp thôn, bản tôi
đều vang lên tiếng đàn tính và điệu hát Then. Chúng tôi tự hào bởi văn hóa của
dân tộc mình được khôi phục”. Trong ngày hội Văn hoá các dân tộc vùng Đông Bắc
được tổ chức tại Bắc Giang lần này, ông Tích mang đến cho người xem một tiết
mục độc đáo: “Suôi Sluông khảm hải” (Tìm người vượt biển). Từ sau Liên hoan
nghệ thuật hát Then, đàn tính lần thứ II tổ chức tại Cao Bằng đến nay, Câu lạc
bộ Then của ông Tích sáng lập đã tăng lên gần 50 thành viên trong đó đã quy tụ
được nhiều thành viên trẻ tuổi và cả các cháu thiếu nhi. Hiện tại, ông Tích đang
có hơn 10 học trò, độ tuổi từ 12 đến 15.
Ở mỗi vùng quê đều có những làn điệu hát Then khác nhau, nhưng nhìn một cách
tổng thể, Then có mấy loại hình thể hiện với những chức năng chính. Đó là Then
Kỳ Yên (cầu an); Then cầu mùa, Then chúc tụng; Then chữa bệnh; Then cấp sắc
(Lẩu Then). Tại hội trại của tỉnh Lạng Sơn, chúng tôi được nghe làn điệu Then
cổ trong nghi lễ cấp sắc của bà Nông Thị Lìm, nghệ nhân then cổ cấp Quốc gia.
Bà Nông Thị Lìm người dân tộc Tày, năm nay đã bước sang tuổi lục tuần nhưng giọng
hát vẫn còn khoẻ và trong như nước suối ngàn. Mỗi khi bà cất tiếng hát là cả
hội trại của xứ Lạng lại chật kín người vây xung quanh. Tới ngày hội văn hoá,
bà mang đến tiết mục múa trầu và nghi lễ thăng sắc (Thăng quan tiến sắc).
Pháp sư đường tăng Hoàng Văn Đoàn là người chủ trì làm lễ phong sắc cho bà bày
tỏ: Bà Lìm hiện tại đang ở cấp 5 lần này được phong thêm 2 cấp được 7 sắc. Từ 5
sắc trở lên là có đủ điều kiện cấp sắc và nhận đệ tử. Hiện tại bà Lìm đã có 6
đệ tử được bà cấp sắc. Lễ vật trong nghi thức cấp sắc gồm có một hũ gạo sống
dùng hương cắm lên trên, một nải chuối và hoa quả, dải then tượng trưng cho con
hạc là lễ vật không thể thiếu bởi nó chứng giám cho người được cấp sắc bay
bổng. Trong số những ông thầy của người dân tộc Tày cũng được phân ra quan văn
và quan võ. Quan văn là có thể viết được sớ bằng chữ nho, bắt buộc phải thông
thạo chữ nho còn quan võ là những người chỉ biết đọc mà không cần phải biết
viết. Ngày nay, những ông thầy văn và thầy võ ấy vẫn giữ một vị trí quan trọng
trong đời sống của đồng bào dân tộc Tày. Nhiệm vụ của các thầy là làm việc từ
thiện, giúp bà con họ hàng trong làng, bản dâng sao giải hạn. Nếu ai có làm
việc sai với đạo lý cũng phải tìm đến các ông thầy, bà thầy chỉnh sửa…
Trong suốt quá trình diễn ra nghi lễ phong sắc, bà Lìm vừa múa vừa hát những
làn điệu Then quyết rũ làm đắm say lòng người tới xem. Bà Lìm trong trang phục
sặc sỡ trước một bàn thờ hoa quả chuẩn bị công phu với khói hương nghi ngút là
màn trình diễn uyển chuyển với những điệu múa và làn điệu Then cổ huyền bí, đầy
mê hoặc diễn ra hơn 1 tiếng đồng hồ, thu hút hàng trăm người xem.
Để tiếng hát then, đàn tính ngân vang
Bà Nông Thị Lìm vốn là nghệ nhân đời thứ 5 của họ Vi. Bà cụ tổ là Vi Thị Sang
đã trở thành người thiên cổ từ hơn 100 năm về trước. Ngày về làm dâu họ Vi, bà
Lìm được ông bố chồng Vi Đoàn Thành truyền lại những làn điệu then mượt mà. Lời
Then vốn là những câu chữ được dân gian chắt lọc, gọt giũa; vừa là những câu
thơ trữ tình, giàu nhạc điệu, vừa là lời khuyên răn, khích lệ; vừa là những kinh
nghiệm về đối nhân xử thế... Cho nên nghe đàn Tính, nghe lời hát Then, người ta
cứ thấy trong đó có một cuộc sống của mình.
Hát then là tài sản chung của đồng bào Tày, Nùng, Thái - ba dân tộc sống chủ
yếu ở vùng núi cao phía Bắc. Đàn tính tẩu - loại nhạc cụ hai dây được làm từ vỏ
cây bầu, có âm thanh trầm ấm - hoà quyện với hát then hiện hữu trong đời sống
như một nét văn hoá đặc trưng không thể thiếu của người dân. Người ta gọi đàn
Tính là đàn Then. Then là từ biến âm của chữ Thiên, (tức trời). Đàn Then là đàn
trời cho các bà bụt (người chuyên sử dụng đàn Then vào việc cúng lễ). Tương
truyền, trong một giấc mơ vàng, họ được ban cho cây đàn trời và dạy cho các bài
hát Then. Do đó, tiếng đàn Tính, lời hát Then mới có sức lôi cuốn kỳ lạ đến như
vậy. Tiếng đàn ngân nga, dìu dặt, đưa tâm hồn cả người già, người trẻ, con gái,
con trai vào trạng thái bồng bềnh, chơi vơi, mơ màng, huyền ảo... ấy là tiếng
đàn Tính và lời hát Then, đã cất lên thì không mắt nào nhắm nổi, không tai nào
có thể làm ngơ.
Thiếu nữ say mê hát then
Bảo tồn Then như thế nào để không mất đi bản sắc mà vẫn phù hợp xã hội hiện đại
đang là vấn để cấp thiết đặt ra. Hiện nay, Then đang tồn tại ở hai dạng chính:
Then cổ (then tâm linh phục vụ việc hành nghề tín ngưỡng) và Then mới (then văn
nghệ có cải biên, sáng tác dựa trên âm hưởng then cổ).
Lâu nay, chúng ta thường tổ chức các cuộc điền dã thu thập tư liệu từ các nghệ
nhân, bảo tồn từ cách lưu giữ tư liệu để nâng cao, phát triển, nhưng lại chưa
đánh giá đúng giá trị của các di sản. Các nhà nghiên cứu văn hoá cho rằng Nghệ
nhân Then phải được coi là đối tượng quan tâm đặc biệt trong chương trình bảo
tồn không gian nghệ thuật hát then, đàn tính. Về bản chất các thầy then là thầy
cúng kiêm nghệ sĩ dân gian. Đây là hai yếu tố tuy hai mà một hòa quyện với nhau
tạo thành một hình ảnh chân thực về nghệ nhân Then, một nét độc đáo mà không
phải dân tộc nào cũng có.
Muốn bảo tồn nghệ nhân trước hết phải tôn trọng nguyên tắc nghề nghiệp. Bên
cạnh đó, muốn bảo tồn Then cổ cần bảo tồn nguyên bản môi trường và không gian
của Then như nó đang tồn tại và diễn ra trong đời sống. Không thể bảo tồn nếu
dẹp bỏ nghề của các ông bà Then bởi họ chính là linh hồn của Then. Vì vậy,
nhiệm vụ của những người làm văn hóa cần phải tôn vinh những người giữ Then, có
sự lựa chọn hạn chế những sắc thái mê tín. Việc tôn vinh gia đình dòng họ có
truyền thống hát Then cũng rất quan trọng...
Nếu như việc bảo tồn Then nghi lễ có phần khó khăn phức tạp vì liên quan tới
chính sách với nghệ nhân và tính chất công việc của họ thì việc bảo tồn phát
huy diễn xướng Then mới có phần đơn giản hơn bởi các đối tượng tham gia đông
đảo, trình diễn ở bất kỳ môi trường diễn xướng nào, truyền dạy với nhiều hình
thức, sáng tác và phóng tác lời hát với những nội dung phong phú. Tuy nhiên,
việc đổi mới và cách tân không có nghĩa là loại bỏ yếu tố nghi lễ, chính yếu tố
nghi lễ mới làm cho con người gắn bó và say mê loại hình nghệ thuật này.
Trong những nghi thức vừa kỳ ảo, vừa huyền bí, nửa thực nửa hư của nghi lễ đan
xen với làn điệu then cổ đã lôi cuốn hàng nghìn người cùng cộng hưởng trong
niềm cảm xúc với tiếng đàn tính và làn điệu Then mượt mà. Có lẽ, ngày hội văn
hoá các dân tộc vùng Đông Bắc năm nay sẽ còn được nhiều người nhắc tới những
làn điệu Then cổ của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao.
Đâu đó trong ký ức người xem vẫn còn vang lên những tiếng đàn tính và lời Then
ngọt ngào: “Trai gái đi, hát cười vang bỗng dừng. Bảo nhau im lặng, bảo nhau
nghe. Có bùa chăng! Dây tính hỡi say mê. Mười hai vía trong người tôi tỉnh dậy…
Bản làng em nở trắng hoa lê. Long lanh nước trong xanh suối reo. Ném trái còn
vui đón xuân sang. Tua ngũ sắc bay qua tay anh, tay nàng...”./.
83.
Tết nhảy - nét
sinh hoạt độc đáo của người Dao đỏ
Khoảng cuối giờ Thìn, đầu giờ Tỵ
ngày mùng một và mùng hai Tết âm lịch hằng năm, lễ hội Tết nhảy - một hình thức
sinh hoạt văn hóa độc đáo của người Dao đỏ - sẽ được tổ chức duy nhất tại nhà
ông trưởng họ bản Tà Phìn, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai.
Ban đầu, một tốp nam thanh niên
"sài cỏ" theo sự hướng dẫn của thầy cả "chái peng pi" tổ
chức 14 điệu nhảy dẫn đường, bắc cầu đưa đón tổ tiên, thần linh về
"ăn" Tết. Để chào bố mẹ, tổ tiên đã khuất, điệu nhảy chỉ được thực hiện
bằng một chân, đầu cúi, ngón tay trỏ giơ cao; Để mời tiên nương, tiểu nữ giáng
trần, điệu nhảy được diễn tả bằng múa cò "pẹ họ", mô phỏng cảnh chim
cò sải cánh bay xa, rồi dáo dác tìm chỗ đậu lại; Điệu nhảy mời thần linh
"ăn" Tết được diễn tả bằng nhịp bước khoan thai và uy lực của loài
hổ... Các điệu múa mang tính hình tượng cao và độc đáo. Không biết có từ bao
giờ, nhưng đêm của những vũ điệu vẫn được người Dao đỏ ở Tà Phìn lưu giữ cho
tới ngày nay, và coi như một sinh hoạt văn hóa không thể thiếu trong những ngày
đất trời vào xuân.
Kết thúc các điệu nhảy mở đường,
đón chào tổ tiên, thần linh, cả dòng họ tiến hành điệu nhảy rước tượng tổ tiên.
Tượng tổ tiên làm bằng gỗ tốt, là tác phẩm điêu khắc độc đáo của người Dao đỏ.
Tượng được chạm khắc đẹp với nét hoa văn trang phục thời cổ xưa, dài khoảng 25
cm, đường kính thân 5 cm, bàn tay phải của tượng có cầm thẻ bài ghi rõ tên ông
tổ.
Ngày thường trong cả năm, tượng
được bọc kín bằng vải trắng. Đến ngày Tết, con cháu rước tượng xuống làm lễ tắm
gội, thay khăn choàng mới. Nước tắm cho tượng cũng làm từ lá thơm qua một quy
trình chưng cất nghiêm ngặt, thể hiện đậm nét văn hóa tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt Nam. Sau lễ tắm gội cho tượng tổ tiên, con cháu tổ chức các
điệu nhảy dâng gà, xôi và lễ vật. Thầy cả và 3 thanh niên tay cầm con gà trống
sống, nhảy theo điệu dâng gà, có động tác rước gà lên đầu, có động tác vác gà
qua hai vai, rồi vừa nhảy múa vừa vặt đầu gà làm thịt... Kết thúc là điệu nhảy
múa cờ.
Tết nhảy của người Dao đỏ ở Tà Phìn
diễn ra từ cuối giờ Thìn đến giờ Dậu (khoảng 5 tiếng đồng hồ) và mang tính tổng
hợp khá đầy đủ các loại hình nghệ thuật dân gian khác của dân tộc Dao đỏ, như
nghệ thuật nhảy múa, âm nhạc, ngôn ngữ ... Trong Tết nhảy, người Dao đỏ còn hát
các điệu hát nói về công lao của đấng tổ tiên, sự tích dòng họ, các sinh hoạt
cấy trồng, dệt vải, săn bắn...
84.
Lễ xin dâu có
những ý nghĩa gì?
Lễ này rất đơn giản: Trước giờ đón
dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bà bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa
một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để
nhà gái sẵn sàng đón tiếp.
Phong tục này có nhiều ý nghĩa
hay:Mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành phần
đưa đón rồi, nhưng để đề phòng mọi sự bất trắc, mọi tin thất thiệt, nên mới
định ra lễ này, biểu hiện sự cẩn trọng trong hôn lễ.
Thời gian này chú rể và cha mẹ chú rể rất bận rộn không thể sang nhà gái, nên
nhờ người đại diện sang báo trước như bộ phận "Tiền trạm".
Để trong trường hợp vạn nhất hoặc do thời tiết, hoặc do trở ngại giao thông,
gần qua giờ quy ước mà đoàn đón dâu chưa đến, nhà gái biết để chủ động làm lễ
gia tiên hoặc phái người sang nhà trai thăm dò.
Trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả
thuận với nhau miễn là bớt lễ này, hoặc nhập lễ xin dâu và đón dâu làm một.
Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau:Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà
gái, đoàn còn chỉnh đốn tư trang, sắp xếp lại ai đi trước, ai đi sau, trong khi
đó một cụ già đi đầu họ cùng với một người đội lễ (một mâm quả trong đựng trầu
cau, rượu... )vào trước,đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn toàn
đoàn vào làm lễ chính thức đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông
thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cùng
ra luôn để đón đoàn nhà trai vào.
85.
Giá thú
Tuổi đính hôn - Con giai con gái độ
mười lăm mới sáu tuổi trở lên, đã là tuần sắp sửa lấy vợ lấy chồng. Hai ba mươi
tuổi mới cưới gọi là muộn. Cũng có nhà cưới cho con từ năm 12, 13 tuổi, có nhà
ước hôn với nhau từ trong thai.
Tục vợ chồng cứ hơn kém nhau một hai tuổi là vừa đôi.
Dạm hỏi - Trước hết kén chọn chỗ nào môn đăng hộ đối, xem đôi
tuổi không sung khắc nhau, mới mượn mối lái. Mối lái nói với cha mẹ người con
gái bằng lòng gả rồi, nhà con trai mới đem cau đem chè đến dạm. Từ đó thì mồng
năm ngày Tết hoặc ngày kỵ nhà gái, người rể phải đưa đồ lễ vật đến mới là trọng
thể. Cách ít lâu thì làm lễ ăn hỏi; nhà trai đem cau chè, lợn xôi đến nhà gái
lễ gia tiên, có nhà dùng cách giản tiện thì chỉ dùng cau, chè, mứt mà thôi. Ở
Quảng Nam thì trong lễ ăn hỏi thường lại thêm đôi hoa tai vàng nữa.
Sêu - Ăn hỏi rồi mới sêu. Sêu thì mùa nào thức ấy, như mùa
vải thì sêu vải, mùa dưa thì sêu dưa...
Có nơi một năm chỉ sêu bốn mùa, tháng ba sêu vải, tháng năm sêu dưa hấu, đường,
mắm, chim, ngỗng, tháng chín sêu hồng, cốm gạo mới, chim ngói, tháng chạp thì
sêu cam, mứt bánh cốm. Đồ sêu nhà gái lấy một nửa còn một nửa trả lại nhà trai
gọi là đồ lại mặt.
Cưới - Sêu trong một năm hoặc nửa năm thì cưới, cũng có khi phải
sêu hai ba năm mới đợc cưới. Nếu không sêu thì xin cưới là thiếu lễ, người ta
chê cười, mà nhà gái không mấy người nghe.
Trao thư, thách cưới - trước khi muốn cưới thì thì đôi bên nhà
giai nhà gái đều quang quẻ cả mới được, nghĩa là người chủ hôn không có tang
chế gì. Cưới thì nhà giai viết thư hỏi xem nhà gái ăn những lễ vật như thế nào.
Nhà gái muốn những thức gì thì viết thư trả lời nhà giai, nhà giai liệu thế lo
được thì mới chọn ngày lành tháng tốt, đính ước ngày cưới với nhà gái. Nếu nhà
gái lấy lễ nặng quá thì nhà giai xin bớt đi ít nhiều. Nhà gái không nghe thì có
khi lại hoãn việc lại. Mà nhà giai bất đắc dĩ lại phải lo thì có khi vì thế mà
hai bên sui gia sinh ra oán ghét nhau..Đồ thách cưới thì đại để: Bao nhiêu lợn
gạo, hoặc ăn bò thì thách bò, bao nhiêu chè, bao nhiêu cau, bao nhiêu rượu,
vòng nhẫn, hoa, hột quần áo, chăn màn, và kèm thêm bao nhiêu bạc...Tuỳ nơi
thành thị, quê mùa, nhà giàu, nhà nghèo, ăn nhiều, ăn ít, nhưng đại khái cũng
trong những khoản ấy.
Đám cưới - Về vùng hương thôn với nhau, cưới thường đi về
đêm. Lúc đi phải chọn giờ hoàng đạo mới đi, và phải có người đàn ông dễ tính ra
đón ngõ trước, khi ra thì reo ầm cả lên rằng gặp giai, để cho mọi việc được dễ
dàng mau mắn. Trong đám cưới có một ông già (kén ông già hiền lành, mà vợ chồng
còn song toàn, lắm con nhiều cháu mới tốt) cầm một bó hương đi trước, rồi đến
các người dẫn lễ, kẻ đội mâm cau, người khiêng lợn rượu... Chú rể thì khăn áo
lịch sự, có một đám thân thích dẫn đi. Khi đến nhà vợ, dàn bày đồ lễ, người chủ
hôn nhà gái khấn lễ gia tiên rồi thì mời rể vào lễ.
Tế tơ hồng - Bày hương án ra sân, dùng lễ xôi, gà, giầu, rượu, tế
tơ hồng, rồi hai vợ chồng đều vào lễ.
Điển tế tơ hồng do chuyện ngày xưa, có một người tên là Vi Cố, một bữa đi chơi
giăng, gặp một ông già đang xe các sợi dây đỏ ở dưới bóng giăng. Hỏi thì ông ấy
nói rằng ta là Nguyệt lão coi việc xe duyên cho vợ chồng nhân gian, ta đã buộc
sợi dây này vào chân người nào thì dù thế nào cũng phải lấy nhau. Vì thế ta cho
việc vợ chồng là có ông nguyệt lão định trước, cho nên thành vợ thành chồng rồi
thì phải tạ ơn ông ấy, và cầu ông ấy phù hộ cho ở được trăm năm với nhau.
Tế tơ hồng rồi thì người rể vào lạy cha mẹ vợ (tục ấy người theo lối văn minh
bây giờ không chịu). Rồi cho họ hàng ăn uống xong mới về.
Đưa dâu - sáng hôm sau thì đưa dâu, nhà trai nhà gái cùng ăn
mừng, làm cỗ bàn, mời bà con khách khứa. Bà con khách khứa mừng nhau thì kể
mừng tiền người mừng chè, cau hoặc là câu đối... Mà thường chỉ mừng bên nhà
giai, chứ không có mấy nơi mừng bên nhà gái, nhưng chỉ mừng cho con gái hoặc
vài vuông nhiễu điều, hoặc may sẵn thành yếm mà thôi.
Đưa dâu, nhà gái cũng kén một ông già cầm bó hương đi trước, rồi bà con họ hàng
dẫn cô dâu đi sau. Đến nhà trai rồi thì một vài bà già dẫn cô dâu vào lạy gia
tiên, rồi đưa đi lễ nhà thờ đôi bên bố chồng mẹ chồng. Đoạn giở về mới lạy bố
mẹ chồng, hoặc còn ông bà chồng cũng lạy. Ông bà cha mẹ chồng, mỗi người mừng
cho một vài đồng bạc hoặc một vài chục.
Họ hàng ăn uống xong thì lấy phần. Phần phải có xôi thịt, bánh trái, giò chả,
cau chuối mới là cỗ cưới
Ở thành phố thì thách cưới thường nặng hơn ở nhà quê, mà không có lệ đi ăn cưới
đêm. Cưới ban ngày rồi đón dâu về luôn. Trong khi cưới và đón dâu, hai ông già
cầm hai cái lư hương ngồi xe che lọng xanh đi trước, rồi các kẻ dẫn lễ khiêng
ché rượu, khiêng quả phù trang. Trước còn đi bộ, ít nay đám thì đi toàn xe.
Lễ bái cũng như cách nhà quê. Ăn xong cũng có phần, phần có những bánh đường
bánh ngọt, lại thêm một cái khăn mặt đỏ để gói phần. Sau lại có bánh dầy bánh
chưng chia biếu những người quen thuộc nữa.
Phương thuật - Trong khi cô dâu đi đường, ăn mặc tốt đẹp e thiên
hạ quở quang, phải cài vài cái kim vào choàng áo, để có độc mồm độc miệng, thì
đã có kim ấy chấn áp đi. Có nơi lại đặt hoả lò giữa cửa cho cô dâu bước qua,
cũng là ý đấy. Cũng có nơi dâu mới đến cửa, mẹ chồng cầm bình vôi tránh đi một
lúc, có nơi dâu mới đến cửa, một người lấy chày cối giã một lúc, tục ấy thì ngộ
quá, không hiểu ý làm sao.
Đóng cửa giăng dây - Trong khi cưới và lúc đưa dâu, lại có tục
đóng cửa, giăng dây. Lúc nhà trai đem lễ đến nhà gái đóng cửa, không cho vào.
Nhà trai phải cho chúng nó dăm ba hào, một đồng bạc thì mới mở cửa. Trong lúc
đi đường thì những kẻ hèn hạ hoặc lấy sợi chỉ đỏ, hoặc mảnh vải, lụa đỏ giăng
ngang giữa đường, đám cưới đi đến, phải nói tử tế và cho chúng vài hào thì
chúng mới cởi dây cho đi. Chỗ thì chúng nó bày hương án, chờ đi đến, đốt một
bánh pháo ăn mừng, chỗ ấy phải đãi họ một vài đồng mới xong. Nếu bủn xỉn mà
không cho chúng nó tiền, thì chúng cắt chỉ cắt dây nói bậy nói bạ, chẳng xứng
đáng cho việc vui mừng, vì vậy đám nào cũng phải cho.
Tục giăng dây này đã có lâu. Về đời huyền tôn, ngời đường thiệu đã dâng biểu
nói rằng: Ngày người đớn đau, những kẻ hèn hạ thường lấy xe ngăn trở đường đi,
đòi cỗ bàn ăn uống. Tục ấy mỗi ngày một thịnh, đến nỗi các đám cưới của nhà
vương công, chúng nó cũng tụ họp đàn lũ, che lấy đường đi, làm cho lôi thôi thì
giờ, để đòi tiền của, thành ra tiền giăng dây nặng hơn tiền cưới, xin cấm hết
đi mới được, xem vậy thì tức là tục giăng dây của ta bây giờ.
Giao duyên - Tối hôm cưới , người chồng lấy trầu trăm (Trầu tế tơ
hồng), trao một nửa cho vợ, rót một chén rượu, mỗi người uống một nửa, gọi là
lễ hợp cẩn. Vợ trải chiếu lạy chồng hai lạy, chồng đáp lại vái một cái. Tục ấy
nhà đại gia mới dùng đến, nhà thường thì không mấy người dùng.
Lại mặt - Cưới được ba hôm, đến hôm thứ tư thì hai vợ chồng làm lễ chè
xôi đem về nhà vợ lạy gia tiên, gọi là lễ lại mặt, chữ gọi là tế hỷ.
Tục Mường - Tục cưới về Mường, Mán rất nực cười. Khi cưới
nhà gái nấu một nồi nước bẩn thỉu, cả nhà khóc lóc, chờ khi họ hàng đưa dâu ra
cửa lấy gạo muối mang theo và rẩy nước bẩn thỉu ấy, hễ ai chạy không mau thì
bẩn cả quần áo.
86.
Tại sao khi mới
đẻ chưa đặt tên chính?
Theo phong tục, một người từ sinh
ra đế khi chết mang rất nhiều tên gọi: Mới lọt lòng thì thằng Cu, thằng Cò, con
Hĩm, thằng Mực, con Cún, thằng Chắt em, con Chắt ả... thường là đặt tên xấu cho
dễ nuôi, đến khi lớn lên thì anh Hai, anh Ba, chị Bảy... lấy vợ lấy chồng thì
anh Nhiêu, anh Đồ, chị Xã...
Có con gọi theo tên con, có cháu
đích tôn gọi theo tên cháu, đến khi chết thì đặt tên hèm gọi là hiệu để cúng,
người có học thì tự đặt tên tự, người có chức tước thì đặt tên thụy, người có
chức tước học vị cao sang thường được xưng tôn theo họ, hay tên địa phương: Cụ
án Mai, Cụ Tam Nguyên Yên Đổ, ông Trạng Trình, ông Tú Vĩ Xuyên, Quan Thám Nam
Sơn... Đó là theo phong tục xưng hô của Trung Quốc. Trong nhiều tên gọi nhưng
chỉ có tên huý là chính: Tên huý là tên đặt khi vào sổ họ, khi vào làng ghi
trong sổ hộ, khi đi học đặt khi vào sổ họ, khi vào làng ghi trong sổ hộ, khi đi
học.
Tại sao
mới đẻ chưa đặt tên chính (tên huý)?
Ngày nay đẻ ra là khai sinh, có thủ
tục quản lý hộ tịch chặt chẽ. Ngày trước mỗi làng xã cũng có hương hộ lo sổ
sách sinh tử, giá thú nhưng không quản lý chặt chẽ, Nhà nước chỉ quan tâm đến
sổ đinh (từ 18 tuổi), sổ điền để thu thuế và bắt lính, bắt phu, vì vậy vào sổ
làng càng muộn càng hay, lớn lên đỡ được vài năm thuế thân, phu phen tạp dịch.
Trong xã hội cũ, tình trạng hữu
sinh vô dưỡng khá phổ biến, ít có gia đình sinh năm đẻ bảy được vuông tròn, vì
vậy qua các tuần cữ mới tạm yên tâm, khi đó mới đặt tên huý.
Các họ mỗi năm tế tổ một lần. Trong
dịp tế tổ, các gia đình có con cháu mới sinh sắm sửa cơi trầu, chai rượu, hương
hoa, lễ vật đến nhà thờ họ yết cáo tiên tổ và vào sổ họ cho các con trai trước
lễ yết cáo, ngày đó mới có tên huý chính thức, được họ hàng công nhận. Trong
khi vào sổ họ phải đối chiếu gia phả để xem có trùng tên các vị tiên tổ hoặc
ông bà chú bác trong nội thân hay không. Nếu có tức là phạm huý thì phải đổi
tên. Không những phải tránh phạm huý tổ tiên bên nội mà còn phải tránh phạm huý
can cụ ông bà ngoại mặc dầu khác họ, tránh phạm huý hiệu của thành hoàng, thánh
mẫu, linh thần từng địa phương. ở nông thôn, các vị có uy vọng trong làng,
trong họ thường được dân chúng biếu trầu rượu và nhờ đặt tên cho con. Người đặt
tên được gia đình đó nhớ ơn suốt đời.
87.
Văn hóa ứng xử
trong bữa ăn của người Tày
Ăn uống là một phần quan trọng
trong các dân tộc, các hoạt động sinh tồn của loài người, ngoài việc nuôi dưỡng
con người, nó còn gắn liền với các hoạt động văn hoá. Mỗi dân tộc, mỗi địa
phương đều có những tập quán ăn uống riêng. Với người Tày tập quán ăn uống của
họ mang đặc tính của cư dân vựng thung lũng và phản ánh đặc trưng văn hoá tộc
người, nhất là khía cạnh ứng xử gia đình trong ăn uống.
Trong bữa ăn hàng ngày của người
Tày thì mâm cơm thường để ở chính giữa nhà, phía trên của bếp sinh hoạt. Về mùa
hè, họ thường để mâm ăn ngay khu vực tiếp khách, cạnh cửa sổ chính. Gia đình
truyền thống của người Tày thường có 6 đến 7 người, gồm có 3 thế hệ (ông bà, bố
mẹ, con cái). Nếu ông bà còn khoẻ, có thể cùng ngồi ăn chung với gia đình thì
người ta sắp đặt vị trí ngồi ăn theo thứ tự từ ông - bà; Cha - mẹ; Con cái, tính
từ phía cửa sổ trở xuống. Nồi cơm đặt phí dưới (hướng bếp). Mâm cơm
làm bằng gỗ hình tròn, trong mâm bày các bát, đĩa thức ăn dùng chung; giữa mâm
để bát nước chấm hoặc một đĩa muối ớt. Một số gia đình để lọ ớt
muối ngâm và một bát ớt nhỏ giành cho người cao tuổi thích ăn cay.
Người Tày ăn cơm bằng đũa, bát ăn cơm riêng và thìa ăn canh riêng. Cơm để trong
nồi, xới bằng một đôi đũa cả (đảm). Những người ngồi quanh nồi thường là
người phụ nữ hoặc con gái để làm nhiệm vụ xới cơm hoặc thêm canh rau. Đó được
coi là trách nhiệm vất vả nhất trong bữa ăn mà người phụ nữ, người nội trợ vẫn
phải đảm nhiệm.
Trong đời sống thường ngày do cuộc
sống có nhiều vất vả mà họ đã rút ra được những câu tục ngữ như các cư dân,
cộng đồng khác. Người Tày có câu: Xẩu quan khỏ, xẩu mở miền (Gần
quan thì khó nhọc, cạnh nồi thịt thì nhọ nhem), có ý nghĩa so sánh giữa
công việc phục vụ quan lại với việc bếp núc, phục vụ bữa ăn. Nếu trong nhà có
người già yếu thì chủ nhà bố trí cho ngồi ăn riêng ở cạnh bếp hoặc tại nơi nằm
nghỉ hàng ngày. Những người già và trẻ đều có thể ngồi ăn uống một cách bình
đẳng, không phân biệt vị trí và nhiệm vụ.
Nhưng nếu trong một gia đình mới
cưới con dâu, cháu dâu thì họ tự nhận thức trách nhiệm của mình trong bữa ăn để
thể hiện là dâu hiền chứ không có quy định bắt buộc. Tuy nhiên, những nề nếp
gia phong theo lối sống Nho giáo từ xưa kia đã thấm sâu vào ý thức của
nhiều gia đình, nhất là những gia đình trung lưu, phú quý hoặc gia
giáo. Vì thế mỗi thành viên trong gia đình tự ý thức được bổn phận cũng như
trách nhiệm của mình trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt, gia đình người Tày,
trước bữa cơm, họ có ý thức chờ đợi nhau, ít khi ăn trước nếu còn thiếu người.
Câu tục ngữ: "thíp tua mạ thả ăn an" (mười con ngựa chờ đợi
một cái yên) hàm nghĩa là đã ngồi quanh mâm thì mười người, còn thiếu
một người thì ăn phải chờ đợi. Điều đó nói lên tính cộng đồng, cộng cảm
trong ăn uống của đồng bào.
Đối với người Tày ở đây, ứng xử
trong ăn uống của mỗi gia đình còn là ý thức về sự nhường nhịn. Họ luôn dành sự
ưu tiên cho người cao tuổi, trẻ nhỏ, người ốm đau, phụ nữ đang ở cữ hay có
mang. Những đối tượng trên được gia đình dành riêng khẩu phần tốt hơn như nấu
cơm riêng, thức ăn riêng. Còn đối với người cao tuổi thì được ăn thức ăn mềm,
ít lượng chất bổ. Người Tày có tục ngữ: "Cầu ké kin khẩu khao, lục slau
kin khẩu xáo, lục báo kin khẩu pay" (người già ăn gạo trắng,
con gái ăn gạo giã dối, con trai ăn xay) để nói lên một đạo lý là giành
phần ngon cho người già. Nếu là ngày bình thường, khi công việc còn bề bộn, bữa
ăn còn đạm bạc thì người ta thường ăn một cách qua quýt cho xong, nhất là đàn
ông khi công việc nào đó còn đang dở dang. Những lúc như vậy, tính cộng cảm
càng lớn lao: Người vợ, người con thường nhường phần cho người chồng, người
cha. Họ chăm lo cho miếng ăn, giấc ngủ của chủ nhà bởi đó là trụ cột mọi mặt
của gia đình. Với người đàn ông, họ thường "có gì ăn nấy",
"không còn gạo thì ăn khoai, ăn sắn", "hết canh rau thì
ăn măng chua, ăn mẻ", còn đàn bà thì hầu như đảm nhận lo toan cái ăn
hàng ngày như là một phận sự. Vì thế vai trò của người phụ nữ trong gia đình
rất quan trọng, bởi họ trực tiếp lo toan cái ăn hàng ngày.
Trong ăn uống của gia đình, người
Tày cũng có những kiêng kỵ, chẳng hạn: Người đẻ kiêng kỵ các loại thịt trâu,
bò, ngựa, cá không vảy, cá chép có ria và các loại thịt thú rừng. Trẻ em kiêng
ăn quả cật gà (mác lừm) vì họ cho rằng ăn quả cật sẽ dốt nát, hay
quên; kiêng ăn chân gà vì nếu ăn vào thì viết chữ sẽ xấu như gà
bới; kiêng ăn móng vì nếu ăn thì không đi qua cầu được; kiêng chan
canh ốc vì sợ tròn như con ốc. Trẻ em và phụ nữ không nói chuyện khi ăn
vì sợ mất vệ sinh và không ý tứ. Trong bữa cơm thường ngày của gia đình người
Tày thì khi sới cơm xong thì phải được đậy vung để giữ cơm nóng. Đôi đũa cả để
trong nồi, quay ra phía sau tuyệt đối không được quay vào mâm hay quay vào phía
người đang ngồi ăn vì như thế sẽ làm cho người ăn bị ngẹn hay đau
bụng. Khi ăn, không ai được gõ đũa hay gõ đũa cả vì như thế là gọi ma….
Mỗi dân tộc đều có những nét văn
hóa ứng xử riêng trong bữa ăn gia đỡnh, là một phong tục tập quán tốt đẹp cần
bảo tồn và phát huy những giá trị đó, như Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)
BCH Trung ương Đảng đó chỉ rõ: “Giữ gìn và phát huy nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
88. Các loại Tết tiết
1. Tết Khai
Hạ
(Mồng bảy tháng giêng)
Người giàu khai hạ, tớ khai bị
Hết rượu cho nên mới ngủ khì
Tết khai hạ có nghĩa là Tết mở đầu
một ngày vui để chào đón một ngày xuân mới. Theo cách bói toán của người xưa
thì tuy tháng đầu năm, ngày mồng một ứng vào gà, mồng Hai: chó, mồng Ba: lợn,
mồng Bốn: dê, mồng Năm: trâu, mồng Sáu: ngựa, mồng bảy: người, mồng Tám: lúa.
Trong tám ngày đầu năm, hễ ngày nào khô ráo, sáng sủa thì giống nào thuộc về
ngày ấy, có năm được tốt. Cho nên, đến ngày mồng bảy thấy trời nắng ráo thì
người ta tin rằng cả năm người được mạnh khoẻ, gặp nhiều may mắn tốt lành Mồng
bảy hạ cây nêu để "bế mạc" tết Nguyên Đán thì người ta mở ngày tết
khai hạ để mong mỏi một năm dài tốt lành, vui vẻ.
2. Tết
Rằm tháng giêng- (Tết Thượng Nguyên)
"Lễ vật quanh năm không bằng
ngày rằm tháng giêng". Đó là ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới. Đó là
tết rằm tháng giêng hay tết Thượng Nguyên. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa vì
ngày rằm tháng giêng còn là ngày vía Phật tổ Adiđà. Thiện nam, tín nữ đi lễ rất
đông.
3. Tết Hàn
Thực- (Mồng ba tháng ba)
Hàn thực có nghĩa là đồ ăn nguội.
Gốc tết này vốn ở Trung Quốc thời Xuân - Thu cổ đại. Tích cũ kể: Vua Văn Công
nhà Tấn khi gặp cảnh long đong hoạn nạn được người hiền sĩ Giới Từ Thôi hết
lòng phù hộ. Khi vua Văn Công đói quá, Giới cắt thịt đùi mình nấu cháo dâng vua
ăn. Trải qua 19 năm trời nay trú Tề, mai náu Sở, một ngày Văn Công lại về làm
vua Tấn. Mọi người có công giúp vua đều được ban thưởng nhưng rủi thay vua lại
quên mất Giới Từ Thôi đang cùng mẹ cày cuốc trong núi Điền Sơn. Khi vua Tấn nhớ
ra, cho người vào tìm, mời mãi Giới không chịu rời núi. Vua bèn cho đốt rừng,
hy vọng Giới sẽ ra, nhưng Giới đã cùng mẹ già chịu chết cháy trong đó. Vua vô
cùng thương xót Giới, cho lập đền thờ trên núi. Và cứ mỗi năm vào ngày mồng ba
tháng ba, ngày giỗ Giới, có nước lại tổ chức cúng ông. Hôm đó, kiêng đốt lửa,
ăn thì dùng đồ nguội đã nấu sẵn từ hôm trước.
Từ thời Thăng Long Đại Việt, nhân
dân ta đã ăn tết này. người ta làm bánh trôi, bánh chay, thay cho đồ nguội,
cúng gia tiên là chính, chứ ít ai biết đến ông Giới Từ Thôi.
4. Tiết
Thanh Minh- (Mồng chín tháng ba)
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.- Nguyễn
Du
Thanh minh có nghĩa trời độ ấy mát
mẻ quang đãng. Ta cũng nhân dịp ấy mà đi thăm mộ những người trong dòng họ đã
mất. Tết thanh minh là lễ tảo mộ. Đi thăm mộ thấy có rậm thì phát quang đất
khuyết thì bồi đắp, rồi về nhà thắp hương cúng gia tiên.
5. Tết
Đoan Ngọ- (Mồng năm tháng năm)
Còn gọi là Tết Đoan Dương cho nên
mới có câu thơ.
Chưa ăn bánh tết Đoan Dương
Áo bông chẳng dám khinh thường cởi
ra.
Theo lịch cũ thì ngày 5 tháng 5 là
ngày hết xuân sang hạ. Đây là khi thời tiết chuyển mùa nên hay có bệnh thời
khí, nhưng cũng là ngày giỗ của Khuất Nguyên - Một thi sĩ Trung Hoa cổ đại, là
một trung thần. Khuất Nguyên khi còn làm quan đã can ngăn Hoài Vương . Hoài
Vương không nghe, ông phẫn chí gieo mình xuống dòng sông Mịch La tự vẫn. Dân
Trung Quốc làm giỗ ông vào ngày 5 tháng 5 và cúng bằng cách ném các loại bánh
bao, bánh ngọt cuốn chỉ ngũ sắc ở ngoài (có ý làm cá khỏi đớp mất) xuống sông.
Ta không mấy ai biết ông Khuất
Nguyên và tích đó, nên cứ gọi tết 5 tháng 5 là tết "giết sâu bọ", vì
như trên đã nói, tiết này là tiết chuyển mùa nên sâu bọ và bệnh tật hay hoành
hành.
Xin kể ra đây mấy cách phòng bệnh
của nhân dân ta: Lấy lá ngón nhuộm các đầu móng tay móng chân (trừ ngón trỏ),
ăn rượu nếp, trứng luộc, cháo chè kê, bánh đa và các loại quả chua chát. Có nơi
người lớn uống rượu xương bồ, trẻ em bôi thuốc hồng hoàng (vào thóp đầu, ngực
và rốn) gọi là để trừ trùng. Một số vùng nông thôn còn lấy lá ngải cứu kết hình
rồng rắn treo ở cửa, lại uống nước các loại lá: ích mẫu, mâm xôi, cối xay, vối
vào giờ ngọ (11-12 giờ trưa). Người mê tín thì kết bùa bằng hình màu hoa sen, quả
khế đeo vào cổ trẻ em. Không ít người lại mang áo vàng đến xin dấu ấn của Phật,
mong ma quỷ bệnh ác đừng quấy rầy.
Tết Đoan Ngọ ở ta vừa có nghĩa là
tết giữa năm, phòng bệnh trừ tà vừa là tết tưởng nhớ tổ tiên.
6. Tết
Trung Nguyên- (Rằm tháng bảy)
Tiết tháng bảy ma dầm sùi sụt
Toát hơi mây lạnh buốt xương khô - Nguyễn
Du
Tết rằm tháng bảy có tên khác là
tết Trung Nguyên , người xưa gọi là ngày "xá tội vong nhân". Do đó
vào ngày ấy, tại các chùa thờ phật thường làm chay chân tế và cầu kinh Vu Lan.
Còn các nhà thì bày cỗ cúng gia tiên, đốt vàng mã và các đồ dùng bằng vàng mã
để người ở âm ty dùng.
7. Tết
Trung Thu- (Rằm tháng tám)
Tết của trẻ con nhưng người lớn
cũng gặp nhau để trà, tửu, ngâm thơ, ngắm trăng gọi là "thưởng
nguyệt". Cổ thưởng nguyệt (trông trăng) có chiếc bánh nướng hình trăng
tròn, bưởi, hồng và nhiều thứ hoa quả khác (có khi còn được tỉa thành hoa và các
hình con giống rất đẹp). Đáng chú ý là các đồ chơi của các em như tiến sĩ giấy,
voi, đèn kéo quân, ngựa hồng, các loại mặt nạ, đèn ông sao .... và tối đến
trước khi phá cỗ là trò chơi múa rồng, múa sư tử, xem đèn kéo quân.
8. Tết
Trùng Cửu- (Mồng chín tháng chín)
Tết này có nguồn gốc ở Trung Quốc,
ra đời vào thời kỳ thịnh hành của đạo Lão. Chuyện xưa kể rằng: có người tên là
Hoàn cảnh muốn học được phép tiên. Học mãi đến ngày cuối cùng thì thầy bảo hãy
may mỗi người một cái túi, hái hoa cúc bỏ vào rồi lên núi ẩn náu. Quả nhiên
ngày hôm ấy, mồng chín tháng chín mưa to, ngập hết cả mặt đất. người chết đuối
rất nhiều, còn gia đình Hoàn cảnh thì vẹn nguyên.
Thời kỳ Lý - Trần, nho sĩ Việt Nam
theo tích đó cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng
Dương. Bây giờ ít có nơi tổ chức tết trùng cửu.
9. Tết
Trùng Thập- (Mồng mười tháng mời)
Tết này các ông thày thuốc thường
làm rất lớn. Theo sách cổ Dược lễ thì vào mồng mười tháng mười, các thầy thuốc
mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời (xuân-hạ-thu-đông) và dùng
thật tốt. ở nông thôn gọi là tết cơm mới, có bánh dày, chè kho, gà luộc dùng
cúng tổ tiên mừng được mùa lúa.
10. Tết ông
Táo- (Tết hai mươi ba tháng chạp)
Tương truyền là ngày ông Táo (Táo
quân, vua bếp) lên chầu trời để tâu việc làm ăn cả xứ của mỗi gia đình với Ngọc
Hoàng. Chuyện cũ kể rằng: Xưa có hai vợ chồng vì nghèo quá phải bỏ nhau. Sau
người vợ lấy được chồng giàu, một hôm đang đốt hàng mã thì thấy một kẻ đến ăn
xin. người vợ nhận ra người ăn xin ấy chính là chồng xưa của mình, thương cảm
bèn đem cho rất nhiều gạo thóc, tiền bạc. Người chồng mới nghi ngờ vợ, vợ ức
quá đâm đầu vào bếp chết. Thương vợ cũ người ăn xin cũng đâm đầu vào lửa chết
theo. Ân hận và đau khổ, người chồng mới cũng nhảy vào bếp lửa đó chết nốt.
Thượng đế nghe chuyện thương cảm ba con người có nghĩa kia, bèn phong họ làm
vua bếp.
Ca dao cổ có câu:
Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà.
Theo tích ấy, vào ngày 23 tháng
chạp, người ta mua hai mũ đàn ông một mũ đàn bà bằng hàng mã cùng một con cá
chép để vua bếp lên chầu trời. Cá chép thường là cá tươi, rất to, khi cúng,
cúng cả con ... Và bây giờ mỗi khi vẽ ông Táo, người ta thường vẽ ông đội mũ
cỡi cá bay trong mây, nhưng rất tiếc lại không có .... quần.
Bởi vậy mới có bài thơ vui:
Hăm ba ông táo dạo chơi xuân
Đội mũ mang hia chẳng mặc quần
Thượng đế hỏi rằng sao chướng vậy
Tâu rằng: Hạ giới nó duy tân.
Trên đây là điểm qua mười một lễ
tết trong năm. Riêng Tết Nguyên Đán
còn gọi là Tết Cả vì to hơn thế.
Các lễ tết trên có nơi tổ chức có
nơi không, với nhiều hình thức nội dung khác nhau. Còn lễ tết Nguyên đán thì
khắp nơi trong cả nước , từ đầu núi đến cuối sông, từ thành thị đến nông thôn,
từ biên cương đến hải đảo đều tổ chức gần giống nhau trong mấy ngày. Chỉ khác
nhau ở mức sang hèn của từng gia đình hay các loại hoa quả, bánh trái, cơm nước
của từng vùng, miền.
Tại Châu Á, vùng bắc Ấn Độ ăn tết
vào tháng tư, Nam Ấn Độ từ tháng ba. ở Lào, năm mới bắt đầu trung tuần tháng tư
dương lịch. ở Cam Pu Chia, năm mới vào tháng tư, có nơi xê dịch qua tháng ba
hay tháng năm. Đặc biệt giao thừa từ năm này qua năm khác, lại vào giữa trưa.
Các nước này thường ăn tết theo Phật lịch vào tháng sinh hay ngày xuất gia của
Phật tổ Thích ca. Chỉ có Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên (những dân
tộc ăn cơm bằng đũa) đón tết Nguyên Đán đúng vào ngày mùng một tháng giêng âm
lịch. Riêng nước ta, thì tết Nguyên đán rất phù hợp với đời sống của người nông
dân. Vì đó là những ngày mùa màng đã kết thúc. Mọi người được rãnh rỗi, nghỉ
ngơi, vui chơi và thăm viếng lẫn nhau, cũng là việc rất cần sau một năm dài lao
động cần cù vất vả.
"Tháng giêng ăn tết ở
nhà"
Tết nguyên đán trước hết là tết của
gia đình. Theo phong tục cổ truyền thì ba ngày tết Việt Nam có ba cuộc gặp gỡ
hết sức thiêng liêng và quan trọng ngay trong một nhà. Trước hết là sự gặp gỡ
của các vị thần linh. Thần linh ở đây không cao xa, không huyền bí như ở các
miếu, các am. Mà toàn các vị thần trong nhà gọi là gia thần. Gia thần gồm có ba
vị:
Thứ nhất là tiên sư hay nghệ sư tức
vị tổ đầu tiên đã dạy nghề mình đang làm. Nghề nào có tổ ấy, sĩ, nông ,công,
thương đều có tổ cả. Kể cả ngành hát tuồng, hát chèo cũng có tổ sư ...
Thứ hai là thổ công, vị thần giữ
đất, trông coi nơi nhà mình đang ở.
Thứ ba là táo quân hay vua bếp đã
chăm sóc, giúp đỡ việc nấu ăn cho mọi người trong gia đình. Táo quân lên chầu
trời vào ngày hai ba tháng chạp. Nhưng tối ba mươi cũng về vui vầy với các gia
thần.
Xem ra mỗi người đều cần có nghề
nghiệp, cần ăn, mặc, và ở thì ba vị gia thần trên đã đảm nhiệm cho tất cả.
Cuộc gặp gỡ thứ hai là của tổ tiên,
ông, bà ... đã khuất (gia tiên)
Tết đến hương hồn họ cũng về sum
họp với con cháu trong gia đình (theo sự tưởng tượng phong phú và tình cảm của
người đời).
Cuộc gặp gỡ thứ ba là của những
người trong nhà. Tức là của một cuộc họp mặt gia đình. Theo tập quán, dầu ai
bất cứ ở đâu, làm bất cứ nghề gì, hàng năm mỗi khi tết đến cũng mong muốn tha
thiết được trở về nhà sum họp gia đình trong ba ngày tết. Mấy ngày tết tiết
trời thường lạnh, đêm lại rất tối nên chẳng ai muốn ra ngoài mà thích nhất là
quây quần dưới bóng hương hoa của gia thần tiên chuyện vãn với người ruột thịt
trong gia đình. Qua ngày Tết Việt Nam là ngày nhớ nhau, ngày hội đoàn tụ, đoàn
viên ấm cúng.
89. Tục “đánh đụng”, “ăn
đụng” ngày Tết
Ở nhiều làng quê của Việt Nam, cứ
vào những ngày Lễ, Tết, người dân lại cùng nhau "ăn đụng", "đánh
đụng". Việc này thường làm với những món thực phẩm chủ yếu và tốn kém
nhiều hơn, nhất là thịt. Thịt lợn, thịt trâu, bò, bê... Và ngày thường có cả
"đụng" thịt chó ...
"Ăn đụng" hay "đánh đụng" có thể hiểu là ăn chung, mấy gia
đình cùng chia nhau một con lợn, hoặc một phần con bò, bê. Thường thì những gia
đình anh em, họ hàng hoặc cũng có khi là những người láng giềng, những gia đình
thân thiết cùng nhau "ăn đụng". Không chỉ những gia đình nghèo mới
"ăn đụng" mà cả những gia đình có khả năng chi trả một khoản lớn cho
ngày Tết cũng làm việc này. Bởi một lẽ, chỉ trong mấy ngày Tết, một gia đình
không thể ăn hết một con lợn, hay một phần con bò.
Việc chuẩn bị "ăn đụng" cũng được chuẩn bị từ trước. Những hộ gia
đình có cùng mong muốn sẽ làm chung với nhau. Họ chọn một con lợn thích hợp,
rồi làm thịt. Sau khi đã làm xong, sạch sẽ, mọi người đem chia đều tất cả các
phần của con lợn ra thành những phần bằng nhau. Mỗi gia đình một phần. Việc
"ăn đụng" như thế này tiện ở chỗ, nhà nào cũng có được những phần
khác nhau của con lợn, không quá nhiều lại rất thích hợp trong việc chế biến
nhiều dạng khác nhau, nhiều món khác nhau cho ngày Tết.
Xưa, cuộc sống của nhân dân còn khó
khăn, cả năm mới có một dịp Tết để nghỉ ngơi, ăn uống và thiết đãi anh em, họ
hàng. Có gia đình nuôi lợn cả một năm chỉ để cuối năm dành "ăn đụng".
Ngày nay việc "ăn đụng" vẫn còn tồn tại ở một số nơi, tuy nhiên không
phổ biến như trước nữa. Đến ngày Tết, hàng hóa nhiều, dịch vụ cũng rất thuận
tiện, người dân muốn mua ăn lúc nào cũng được, ngày Tết cũng không cần phải trữ
nhiều như trước nên không cần thiết phải "ăn đụng".
"Ăn đụng" dù còn phổ biến
hay không, đó cũng vẫn là một nét văn hóa đẹp của dân tộc, đặc biệt là trong
những ngày chuẩn bị cho Tết Nguyên Đán. Những buổi "đánh đụng" hay
"ăn đụng" làm cho không khí Tết thêm phần rộn rã, nhộn nhịp, khắp nơi
đều nghe vang tiếng cười nói, tiếng dao thớt rất vui. Và khi đó Tết cũng ý
nghĩa hơn
90. Họp họ ngày xuân
Dân tộc ta có nhiều phong tục đẹp
trong ngày đầu xuân mới, một trong những nét đẹp ấy, đến nay vẫn được gìn giữ
và thực hiện là tục họp họ đầu xuân.
Đây là một hoạt động để mọi người trong cùng họ tộc gặp gỡ nhau, trao đổi và
nói chuyện về những gì đã trải qua trong năm, về những dự định năm mới. Việc
họp họ thường diễn ra ở nhà trưởng tộc. Các hoạt động diễn ra trong ngày họp họ
gồm có thăm mộ tổ tiên và người thân trong dòng họ; tổ chức ăn uống; họp bàn
những việc cần làm của họ trong năm tới...
Bắt đầu buổi họp họ, thường thì có
sự phân công công việc. Những phụ nữ thường đảm trách việc nấu nướng, làm cỗ.
Người đứng đầu dòng họ sẽ làm việc cúng tế tại nhà thờ họ và tại khu mộ. Khi
mọi việc xong xuôi mọi người mới tổ chức ăn uống trong không khí thân tình.
Sau khi ăn xong, họ sẽ họp bàn các
việc liên quan đến cả dòng họ, gồm có việc xây mộ tổ, lập quỹ chung, quy định
tài chính, phận sự của mỗi người trong dòng họ...
Đây là một nét đẹp đã có từ lâu của
dân tộc, tuy nhiên đã có thời bị lãng quên. Phát huy và duy trì tập tục này là
một điều cần thiết để giữ gìn những bản sắc văn hóa dân tộc.
91. Dòng
họ - nguồn mạch truyền thống
Ở Việt Nam, dòng họ bền vững trong
nếp sống cộng đồng. Lịch sử của một làng có khi từ một gia đình sinh cơ lập
nghiệp. gia đình lớn dần thành chi, thành phái. Tổ họ đồng thời là Thành hoàng,
thành tổ nghề và họ truyền cho con cháu hậu duệ giữ lấy nghiệp lấy nghề, giữ
lấy truyền thống làng xã, tổ phụ.
Bởi thế mối liên kết dòng họ tưởng
như không thành văn, thành luật nhưng vô cùng chặt chẽ, không chỉ một vài đời
con cháu mà nhiều nơi hội đồng gia tộc truyền đời tới vài ba chục thế hệ. Trong
cuốn tộc phả dòng họ Nguyễn Ðình ở Nghệ An, mở đầu trang trọng truyền lại cháu
con: "Muôn vật sinh ra là nhờ có đất trời, con người sinh ra là nhờ có Tổ
tiên. Lòng biết ơn Tiên tổ từ bao đời nay đã là nét cao đẹp trong nhân cách con
người. Biết ơn Tổ tiên, con người có thêm sức mạnh tinh thần để yêu giang san,
xã tắc, có thêm hạnh phúc bền lâu với đời...". Mới hay việc lập đền, thờ
cúng Tổ tiên chứa đựng trong đó tâm thức hướng tới đạo nghĩa làm người ở trong
trời đất.
Mối liên kết tộc họ bằng nhiều cách riêng, tùy tập quán địa phương, những quy
thức của từng họ mà lâu đời trở thành nền nếp, thành tập quán và truyền thống.
Tuy nhiên tính tương đồng mang tính phổ quát. Dòng họ có nhà thờ Tổ. Ngày giỗ,
con cháu thập phương tìm đường về thắp hương, dâng lễ tạ ơn Tiên tổ, trời đất.
Ðây cũng là dịp các chi xa chi gần tìm về nhận họ hàng, phân định trên dưới,
anh em. Những cuộc đoàn tụ như vậy thường diễn ra vào ngày giỗ tổ, hoặc tháng
3, tháng 7 âm lịch, nhằm vào tiết Thanh Kinh hằng năm. Ðó là những dịp gặp gỡ
ấm tình huyết thống và cảm động. Cháu con chung sức xây dựng tôn tạo nhà tờ,
sửa sang phần mộ. Ðây cũng là dịp để họ đương chi phái kiểm điểm lại những việc
cháu con đã làm, những công tích đáng ghi. Theo đó cuốn gia phả, tộc phả có dịp
ghi thêm vào truyền thống của dòng họ mình đời này qua đời khác.
Hằng năm, cứ đến ngày 28 tháng 2 âm lịch tại làng Kim Ðôi tỉnh Bắc Ninh dù ai
đi đâu về đâu cũng nhớ về giỗ Tổ để tự hào về tổ tiên dòng họ. Trong số 25 tiến
sĩ của làng mà bia đá còn ngời ngời nơi Quốc Tử Giám, có tới 18 vị tiến sĩ dòng
họ Nguyễn với 13 đời nối tiếp đỗ đại khoa. Ðặc biệt trong đó có 1 gia đình 5
anh em đỗ tiến sĩ trong 4 khoa thi Ðình liên tiếp. Hiếu học là một bằng chứng
của truyền thống văn hóa dòng họ. Nhưng không chỉ có thế. Trong gia đình, họ
đương nhiều đời truyền lại cháu con nghề truyền thống mà nay thường gọi là nghề
gia truyền. Nghề ươm tơ dệt vải, nghề rèn, nghề mộc, nghề chạm khảm, nghề đúc
đồng, nặn tượng v.v... Khởi thủy của dòng nghề đó là từ một gia đình, một dòng
họ.
Dòng họ trong cuộc sống cộng đồng người Việt mang đậm bản sắc văn hóa. Cây có
gốc có rễ, người có nguồn có cội. Bởi thế mà nhiều người Việt, dù đã sống xa Tổ
quốc nhưng vẫn hướng lòng về xứ sở, về nguồn cội thiêng liêng của mình. Mấy năm
về trước, dòng họ Lý đã đón tiếp hậu duệ một quân vương họ Lý phiêu bạt sang
Hàn Quốc. Tính đến nay đã ngót 9 thế kỷ mà con cháu họ Lý vẫn không nguôi nhớ
về Tổ tiên xa xưa của mình. Nhiều Việt kiều xa nước, chưa có điều kiện về lại
quê hương, đã gửi tiền về cho Hội đồng tộc họ để góp phần mình tu tạo nhà thờ,
phần mộ Tổ tông.
Nhiều người tâm huyết với văn hóa dòng họ đã để công trong nhiều thập kỷ nghiên
cứu, sưu tầm hệ thống những tinh hoa, truyền thống của dòng họ Việt Nam nói
chung cũng như của một số dòng họ đặc sắc trong lịch sử, đóng góp xứng đáng cho
sự phát triển văn hóa dân tộc. Cuốn sách công phu "Tìm hiểu di sản văn hóa
gia đình Việt Nam", hay "Cuộc hành trình trở về cội nguồn"
v.v... Ðặc biệt có những cuốn gia phả như trong "Thiên Nam liệt truyện
Nguyễn Cảnh Thị Hoan Châu ký" chép lại một dòng họ từ giữa thế kỷ 17 lại
nay.
Tại câu lạc bộ UNESCO, thông tin các dòng họ Việt Nam cách đây không lâu đã tổ
chức thành công hội thảo mang tên "Dòng họ với truyền thống văn hóa dân
tộc". Nhiều tham luận có giá trị như một công trình nghiên cứu văn hóa đặc
thù Việt Nam.
Họ Nguyễn, họ Trần, họ Lê, họ Phan, họ Ðặng... trăm họ tạo nên dân tộc. Trăm
ngàn nhà tạo nên làng xã, làm nên Ðất Nước. Nhà có yên thì nước mới vững. Dân
có giàu thì nước mới mạnh. Quan niệm về Dân-Nước, về Làng-Nước quyện vào trong
hình tượng Tổ quốc, Dân tộc. Dân tộc trường tồn trong nguồn mạch văn hóa cộng
đồng. Dòng họ đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu được trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Gìn giữ bản sắc dân tộc, truyền thống cùng với phong tục
tập quán văn minh, tạo nên nếp sống của dân tộc. Tìm về dòng họ, tìm về cội
nguồn chính là tìm về truyền thống tốt đẹp của dân tộc của đất nước mình.
92. Vành tóc người Mông
Hoa - Nét đẹp trong văn hóa Tây Bắc
Tây Bắc từ lâu được du khách khắp
nơi biết đến như là một vùng đất kỳ thú, hấp dẫn với núi cao hùng vĩ, con người
mộc mạc thân thiện cùng những nét đặc sắc hiếm có. Và một trong những điều độc
đáo đó chính là mái tóc cuốn bồng bềnh như mây trời của người phụ nữ Mông Hoa.
So với các dân tộc sống ở Tây Bắc
thì người phụ nữ Mông Hoa thường phục trang hết sức rực rỡ và trên đầu cũng
không bao giờ thiếu một vành tóc quấn to hết sức cầu kì. Mái tóc là niềm tự hào
của họ, nhất là trong những dịp vui lễ hội, chơi xuân, chị em càng trổ tài sự
khéo léo của mình trong việc tết, quấn búi tóc... làm sao có được một mái tóc
thật ấn tượng, để gây sự chú ý của mọi người - nhất là các chàng trai đang tìm
ý trung nhân.
Để có được mái tóc cầu kì như thế,
những bé gái ngay khi còn nhỏ được mẹ chải tóc cho, người mẹ phải dành lại
những sợi tóc rơi của con. Những sợi tóc đó được cất vào một chỗ khi được khá
nhiều sợi tóc rụng cùng với sự lớn dần lên của những cô con gái thì người mẹ
lại đem ra trau chuốt, se lại thành những sợi to bằng nửa chiếc đũa. Lớn dần
lên, các cô gái Mông Hoa đã ý thức được việc làm của người mẹ và biết nhặt
những sợi tóc rụng của mình mỗi khi chải tóc hoặc gội đầu. Khi đến tuổi trưởng
thành các cô gái sẽ mang những sợi tóc rụng giữ được qua bao năm tháng, se tết
thành từng sợi to và làm nên búi tóc độn dài đẹp. Vào những ngày tết cổ truyền,
lễ hội, ngày vui của cộng đồng, họ lấy búi tóc độn cùng với tóc thật và tạo
thành một vành tóc thật to ở trên đầu. Đôi khi ta còn bắt gặp các cô gái làm
duyên cho búi tóc bằng chiếc khăn mùi xoa rực rỡ hay những phụ nữ đã có chổng
quấn một chiếc khăn bằng vải lanh màu đen quanh đầu tạo thành một vành khăn.
Mái tóc ấy không chỉ làm đẹp cho
người phụ nữ trong những buổi chợ phiên mà còn ẩn chứa trong ấy nét văn hóa,
một nếp sống và cả tình mẫu tử thiêng liêng của người mẹ dành cho con.
93. Cách đổi ngày dương
lịch ra ngày can chi
Ngày can chi:Ngày can chi theo chu kỳ 60, độc
lập không lệ thuộc vào năm tháng âm lịch hay năm tháng can chi - (Kể cả tháng
nhuận). Tính ngày can chi chuyển đổi sang âm lịch rất phức tạp vì tháng âm lịch
thiếu đủ từng năm khác nhau, ngược lại tính ngày can chi theo dương lịch đơn
giản hơn.
Cách tính ngày dương lịch ra ngày
can chi: Mỗi
năm dương lịch có 365 ngày, nghĩa là 6 chu kỳ Lục thập hoa giáp cộng thêm 5
ngày lẻ. Năm nhuận có thêm 1 ngày 29-2 tức 366 ngày, thì công thêmn 6 ngày lẻ.
Nếu lấy ngày 1-3 là ngày khởi đầu thì các ngày sau đây trong mọi năm cùng can
chi giống 1-3 : 1/3, 30/4, 39/6, 28/8, 27/10, 26/12, 24/2 năm sau đó. Nếu biết
ngày 1/3 (hay một trong bảy ngày nói trên) là ngày gì, ta dễ dàng tính nhẩm
những ngày bất kỳ trong năm (gần với một trong bảy ngày nói trên).
Nếu muốn tính những ngày 1/3 năm
sau hay năm sau nữa chỉ cần cộng thêm số dư là 5 đối với năm thường (tức là từ
24-28/2) hoặc là 6 đối với năm nhuận (có thêm ngày 29/2).
Thí dụ ngày 1/3 năm 1995 là ngày
Tân Mão, từ đó tính nhẩm 25/2/1996 cũng là ngày Quí Tị, 27/2/1996 là ngày giáp
Ngọ. (1996 có hàng chục đơn vị chia hết cho 4 tức là nǎm nhuận có ngày 29/2).
Ta biết 1/3/1996 là ngày Đinh Dậu
vậy 24/21997 cũng là Đinh Dậu. Chỉ cần cộng thêm 5 ngày. Ta dễ dàng tính ra
1/3/1997 là ngày Nhâm Dần, theo tính nhẩm = Đinh đến Nham hay Dậu đến Dần = 5
ngày.(Xem bài so sánh âm dương lịch ở phần Phụ lục sẽ trình bày năm nào nhuận
dương lịch và nhuận âm lịch. Thí dụ: Theo cách tính trên ngày 1/3/1997 là ngày
Nhâm Dần, ngày 26/12/1997 cũng là ngày Nhâm Dần, vậy ngày1/1/1998 sẽ là ngày
Mậu Thân (sau đó 6 ngày)...
94. Yến lão
"Yến" là tiệc rượu. Nhiều
làng có tục yến lão, hàng năm hay hai ba năm một lần, thết tiệc mừng thọ các
quan lão. Có thể nói đây là một thịnh điển thời thái bình, không phải là một hủ
tục đã gây nên nhiều tệ đoan như tục ngôi thứ hương ẩm. "Sống lâu lên lão
làng", tự nhiên có vinh dự tuổi thọ, không phải tranh dành mới có, chẳng
phải có tiền mà mua được, có quyền thế mà tạo nên được.
Mỗi năm cứ đến dịp làng mở hội hoặc
ngày đại lễ có định kỳ, các quan lão tụ hội ở chùa hay nơi công quán hay một
đương cai, làng đem cờ quạt với phường bát âm đến rước ra đình. Những làng trù
phú thường sắm đủ võng lọng rước lão, lão 100 tuổi đi võng điều che bốn lọng
xanh, lão 90 tuổi đi võng điều hai lọng xanh, lão 80 tuổi vọng xanh (đòn cong)
một lọng, lão 70 võng xanh (đòn ống) một lọng. Trai tráng cầm cờ khiêng võng
đều nón dấu áo nẹp. Đám rước rất trọng thể.
Tại đình làng, nơi giữa thiết lập bàn thờ tiên lão, các quan lão ngồi hai gian
bên theo thứ bậc tuổi, có làng yến cả lão bà thì gian trái lão ông ngồi, gian
bên phải lão bà ngồi.
Tuỳ theo lệ làng, có nơi lão 90 tuổi hoặc lớn hơn nữa ngồi một mình chiếu nhất,
có nơi chưa đến 60 tuổi đã là bậc cao niên nhất, cũng ngồi một mình chiếu nhất.
Tế lão cũng đủ nghi thức như tế thần, ba tuần rượu với văn tế tiên lão, văn
chúc thọ quan lão, có ban tư văn hành lễ, phường bát âm tấu nhạc.
Lúc tế, quan lão ngồi trước những mâm cỗ đặt giữa chiếu, chỉ uống rượu suông
không ăn, là thủ ý trang nhã, trịnh trọng đối với dân làng, ngồi chứng kiến
cuộc lễ diễn hành và chăm chú nghe văn tế, văn chúc thọ. Những mâm cỗ kia sẽ
được mang đến từng nhà biếu các cụ.
Cỗ yến lão thường là rất thịnh hậu cả về phẩm lẫn lượng, có nơi mỗi cỗ hai bánh
dày, hai bánh chưng với những món giò, nem và nhiều thứ bánh khác làm rất công
phu.
Chiếu nhất, một cụ ngồi thì được biếu cả một cỗ gọi là cỗ một, chiếu nhì, hai
cụ ngồi là cỗ đôi thì được biếu mỗi cụ một nửa cỗ, những cỗ dưới là đồng hạng cứ
bốn cụ một cỗ.
Từ ngàn xưa, những khi có việc làng, không hề có bóng phụ nữ nơi đình trung.
Ngày yến, sự hiện diện của các lão bà đem lại cho dân làng một cảm giác đặc
biệt vui vể đầm ấm.
Mỹ tục yến lão là do đạo hiếu mà ra, một đặc tính dân tộc, có ý nghĩa rất trọng
hậu, trẻ vui đạo trẻ, già vui tuổi già, trái ngược hẳn với cái thảm cảnh ở mấy
nước văn minh cường thịnh cứ đến tuổi già là bị liệt vào hạng người vô dụng, ăn
hại xã hội, con cháu ít chăm nom, người đời lạnh nhạt.
Lúc vãn niên, tóc bạc da mồi, với cuộc sống buồn tẻ nơi thôn dã năm tháng trôi,
các cụ hẳn cũng cảm thấy sung sướng đã được cả làng tỏ tình quý trọng, quý
trọng rất mực trong cuộc rước đón những buổi yến ẩm, con cháu các cụ thì được
hãnh diện là gia đình có phúc mới được tuổi thọ, cho nên nhiều nhà, dù ngèo
cũng ráng may sắm cho ông bà đi dự yến.
Cụ thì mũ ni nhung đen, áo vóc đại hồng, cụ thì khăn nhiễu tam giang, giầy văn
hài, cụ thì áo đoạn huyền quần lụa bạch, có những cụ nhà bần hàn, quanh năm
quần nâu áo vải lúc này cũng quần chúc bâu, áo the thâm, áo láng chéo go, dép
mới thay quai... Y phục tuỳ hoàn cảnh mỗi nhà, không có lệ định nào, chỉ trừ
màu vàng của nhà vua, quan dân đều không được mặc.
Trước ngực, dưới vòng dây thao
quàng cổ là túi gấm màu lam, màu huyền đựng trầu, thuốc, cối, chày...
Đám rước quan lão, y phục màu sắc như vậy với võng lọng cờ quạt, vừa gợi cảm.
Những nhà từ mấy đời không hề có ông cha được dự, không khỏi bùi ngùi tiếc
thương người đã khuất, không khỏi thèm muốn ước mong cho gia đình đời nay và
đời sau.
95. Tục thờ Thành hoàng
Người Việt Nam có truyền thống “uống nước nhớ
nguồn”, do vậy hầu hết ở mỗi làng quê hay phố nghề (nơi thị thành) đều lập đình
(hoặc đền, miếu) thờ vị Thành hoàng của làng hay phường hội.
Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập
làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua
thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với
nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ
Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới.
Hàng năm, ngày giỗ Thành hoàng là ngày hội đông vui
nhất của làng, của phố. Trong những ngày hội làng, ngoài việc làm cỗ, ăn uống
còn rất nhiều nghi lễ như diễn lại sự tích về Thành hoàng, tế lễ, rước kiệu hay
các trò vui: đấu võ, chọi gà, thổi cơm thi, bơi chải, đánh đu, đánh cờ người,
hát chèo, diễn tuồng... Không khí vui vẻ cả ngày lẫn đêm (có nơi hai, ba ngày),
từ các lão ông, lão bà đến mỗi cháu bé, và chờ đợi nhất, vui nhất là những trai
gái đương lứa, hội hè đình đám là dịp gặp gỡ, kết bạn, tỏ tình.
Ngày nay, vào ngày giỗ Thành hoàng, người dân nhiều
địa phương đồng thời thờ cúng các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì dân vì nước.
Họ được ghi nhớ công ơn hoặc lưu danh trên bia mộ.
96. Báo bản-Một phong tục
tập quán đẹp vùng chân quê
Xã Yên Từ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh
Bình là xã có phong tục Báo Bản. Thôn Nộn Khê, một trong 6 thôn của xã Yên Từ
là chốn chân quê, nơi giữ gìn lâu đời phong tục đẹp này. Nộn Khê hình thành
làng từ thời Lê-Hồng Đức, cách đây đã hơn 500 năm. Làng có 8 họ chính: Bùi,
Đinh, Phạm, Cao, Mai, Lê, Trần, Nguyễn. Quá trình xây dựng và phát triển, 8 họ
chính trên đã mở ra nhiều chi, hiện nay có đến 26 dòng họ.
Tục lệ Báo Bản hình thành từ lâu và
được phát huy cho đến ngày nay, mà trong thời đổi mới này tục lệ đẹp càng thêm
phong phú, đa dạng. Báo là báo công, báo những việc đã làm trong năm qua, bản
là gốc. Vậy Báo Bản là tổ chức một cuộc lễ hội để nhớ về nguồn gốc, nhớ về tổ
tiên, những người đã có công lao xây dựng làng xóm ngày nay và sự đóng góp của
lớp con cháu sau này. Ngày Báo Bản là ngày hội tụ của con cháu, của tất cả các
dòng họ đang công tác, học tập, lao động từ "bốn phương" về. Nhiều người
từ phía Nam, đông nhất là ở TP.Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh ở phía Bắc, đến ngày
Báo Bản là rủ nhau về quê dự lễ hội. Ca dao về ngày này được lớp lớp cháu con
thuộc lòng:
Dù ai muôn nẻo đó đây
Mười tư tháng Một là ngày hội quê
Dù ăn buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày Báo Bản, ta về quê ta
Đúng ngày 14 tháng Giêng âm lịch, sau Tết, không khí mùa xuân còn đậm nét, làng
tổ chức lễ hội. Đầu tiên là cuộc rước kiệu, những cỗ Bát cống, Long đình được
đặt trên vai các công dân trẻ của làng, trong tiếng trống cái và điệu nhạc du
dương của phường bát âm, kiệu được rước quanh làng rồi trở về đình. Một cụ già
có uy tín, mũ áo chỉnh tề, hướng lên nơi thờ tổ tiên, trong ánh sáng của các
cây nến và hương thơm của những cây nhang trầm, trịnh trọng, dõng dạc đọc bài
văn tế. Bài văn tế được soạn công phu, nói về công ơn của tổ tiên và việc xây
dựng làm xóm trong thời đại mới, những tiến bộ, những thành tích của dân làng,
những nét đẹp trong tình làng nghĩa xóm, trong việc sản xuất và học hành và xin
hứa với người xưa là luôn vun đắp cho cái gốc được muôn đời bền vững.
Sau lễ là tổ chức yến lão, mừng các cụ vào tuổi thọ đáng kính, từ 60 tuổi trở
lên. Các xóm đứng ra cáng đáng việc này. Không tổ chức ăn uống, mà làm lễ dâng
hương, đọc thơ chúc mừng. Cụ Bùi Văn Mược, một cán bộ cấp úy của quân đội, vừa
vào tuổi "xưa nay hiếm", vui vẻ nói với tôi:
- Sống trong chế độ mới, ở nông thôn, môi trường thoáng đãng, con cháu phụng
dưỡng chu đáo, lại được thảnh thơi về tinh thần, nên tuổi thọ của các cụ ở Nộn
Khê khá cao. Đến đầu xuân 1998 này, Nộn Khê có hơn 500 cụ đã qua tuổi 60, hơn
200 cụ từ 70 đến 79 tuổi; 80 cụ từ 80 trở lên. Bà cụ Đinh Thị Vi, thọ đến 102
tuổi, vừa qua đời tháng 4/1998. Năm nay, lễ Báo Bản có 5 ô tô chở đầy con cháu
các nơi về, trong đó có TP.Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Định.
Nộn Khê còn một nét đẹp này: thôn có chùa lại có nhà thờ, bà con theo đạo Phật,
đạo Công giáo và nhiều người không theo đạo nào nhưng tất cả vẫn đoàn kết, giúp
đỡ nhau trong sản xuất, dựng xây, học hành. Làng này, việc trị an được đảm bảo,
nghề phụ phát triển, đan lát, thêu ren, cây cảnh và đặc biệt, việc học hành của
các cháu được mọi người chăm lo.
Qua chuyện trò với bác Bùi Văn Mược và gặp mấy cụ cùng mấy anh cán bộ, tôi được
biết, Nộn Khê có truyền thống về học hành. Thời xưa, Nộn Khê có 53 cử nhân và
tú tài. Sau Cách mạng tháng 8-1945, làng này có một tiến sĩ, 6 phó tiến sĩ, 132
thạc sĩ và cử nhân. Năm 1997, Nộn Khê có 10 học sinh thi đỗ vào các trường đại
học. Đến mấy xóm nhỏ, tôi được các cụ đọc cho nghe một câu đối khá hay:
Bách niên văn vật thanh danh địa
Tứ giáp nay y quan lễ nhạc đìnhĐã hàng trăm năm, đất này nổi tiếng là
nơi văn vật.
97.
Làm lễ yết cáo
tổ tiên xin đặt tên cho con vào sổ họ như thế nào?
Vấn đề này đã có lệ từ xưa, chẳng
có gì mới mẻ. "Họ nào đã có nề nếp sẵn thì cứ theo lệ cũ tiến hành".
Đối với những họ mới phục hồi lại việc họ, chưa vào nền nếp, chúng tôi xin mách
một vài kinh nghiệm:
Yết cáo tổ tiên: Theo lệ cũ chỉ sau
khi đối chiếu gia phả, kiêng kị các trường hợp phạm huý (đặt tên trùng với tên
huý của tổ tiên và thân nhân gần gũi nhất, kể cả nội ngoại) mới chính thức đặt
tên huý cho trẻ sơ sinh, yết cáo tổ tiên và xin vào sổ họ. Ngày nay phải làm
thủ tục khai sinh kịp thời, trường hợp ở xa quê, không kịp về đối chiếu gia
phả, nhỡ trùng tên huý tổ tiên trực hệ, thì tìm cách đổi, hoặc tránh gọi thường
xuyên trong nhà. Lễ yết cáo tổ tiên rất đơn giản, nén hương, cơi trầu, chén
rượu cũng xong, thường kết hợp lễ tế tổ hàng năm mà yết cáo chung tất cả con
cháu trong họ sinh trong năm cùng một lượt. Lễ vào số họ cũng đơn giản, cốt sao
cho gia đình nghèo nhất trong họ cũng không gặp phải điều gì phiền phức.
Vào sổ họ: Thứ tự sổ họ ghi theo năm sinh, ai sinh trước ghi trước, sinh sau
ghi sau. Trường hợp nhiều năm bị phế khoáng nay mới lập lại sổ họ, thì phải
thống kê theo đơn vị hộ gia đình hoàn chỉnh cả họ, sau đó mới lập số tiếp đối
với những trẻ sơ sinh.
Mẫu số: Họ Tên (Tên Huý. Tên thường gọi) con ông bà, thuộc đời thứ mấy, chi thứ
mấy? Con trưởng hay con thứ mấy? Ngày tháng, năm, sinh, ngày vào sổ họ.
Con gái vào sổ họ: Bất cứ trai hay gái, sau khi sinh đều có yết cáo tổ tiên, đã
được tổ tiên phù trì phù hộ, nhưng nhiều họ ngày xưa không vào sổ họ đối với
con gái, cho rằng "Nữ nhân ngoại tộc", con gái là con người ta, lớn
lên đi làm dâu lo cơ nghiệp nhà chồng vì thế không công nhận con gái vào họ.
Tuy vậy, ngay trước Cách mạng Tháng Tám 1945 một số họ đã xoá bỏ điều bất công
đó, con gái cũng có mọi quyền lợi nghĩa vụ như con trai.
Ngày nay, trong phong trào khôi phục việc họ, xin kiến nghị các họ đặc biệt
quan tâm đến con gái và nàng dâu của họ, họ nào coi trọng vai trò phụ nữ, và
coi trọng vai trò người mẹ, người vợ, người cô, người chị, thì họ đó mới vững
mạnh. Cả nước đang ra sức vận động kế hoạch hoá gia đình, con gái cũng như con
trai, vậy nên vận dụng phong tục cũng phải phù hợp với tư duy thời đại.
98. Tục cưới ba miền
Hôn lễ của dân tộc Việt có quy định
chặt chẽ từ trước tới nay. Đám cưới mỗi miền Bắc, Trung, Nam có một
nét đặc trưng riêng biệt, mang đậm phong tục, tập quán riêng của từng
vùng.
Lễ cưới miền Bắc- Nghi lễ cưới ở miền Bắc phải giữ 3 lễ:
Dạm ngõ: là lễ tiếp xúc đầu tiên, chính thức của hai gia đình nhà
trai và nhà gái, được xem là thủ tục cần thiết để "chỗ người
lớn" thưa chuyện với nhau. Sau lễ dạm ngõ, người con gái được xem như có
nơi có chốn, bước đầu tiến tới chuyện hôn nhân.
Lễ ăn hỏi: Gia đình dù giàu hay nghèo cũng không thể thiếu cơi
trầu. Một lễ ăn hỏi của người Hà Nội phải có cốm và hồng. Nếu gia đình
khá giả, ngoài cốm, hồng và trầu cau còn có thêm lợn sữa quay. Ðồ lễ ăn hỏi gắn
liền với đặc sản của các vùng như: bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu,
trầu cau, thuốc lá... Thông thường ăn hỏi gồm có 3 lễ: đàng nội, đàng ngoại,
tại gia.
Lễ cưới: Sau khi ăn hỏi khoảng 10 ngày, lễ cưới được tổ
chức. Ngày xưa, lễ rước dâu có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những
người giàu có, địa vị trong làng xã. Khi đón dâu ra đến đầu làng còn có lễ
chăng dây, muốn đi qua phải đưa một ít tiền. Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước
khi cưới 1 ngày.Ðám cưới bắt đầu bằng thiệp báo hỷ, khi đưa thiệp mời cưới phải
đưa kèm theo chè và hạt sen (lấy từ lễ ăn hỏi). Ðến nay tục này vẫn còn được
giữ lại.
Trong lễ đón dâu, cô dâu chú rể
phải làm lễ gia tiên như một sự tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên. Sau lễ thành
hôn, hai vợ chồng trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên gọi là lễ lại
mặt. Sau đó, bố mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà thông gia vì
trong lễ cưới mẹ cô dâu không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày
thứ hai hoặc thứ tư sau lễ cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ).
Lễ cuới miền Trung
Quy trình tổ chức lễ cưới ở miền
Trung cũng có đủ các bước từ lễ chạm ngõ, hỏi cưới, đến vu quy. Đám cưới miền
Trung thường diễn ra giản đơn, không phô trương nhưng ở mỗi phần cụ thể khá cầu
kỳ với quan niệm "trọng lễ nghi khi (khinh) tài vật".
Trước khi chuẩn bị lễ hỏi, cưới,
người ta thường xem ngày giờ tốt xấu, có khi lên chùa thỉnh ý các cao tăng. Sau
khi chọn được ngày giờ đẹp, hai bên thông gia sẽ báo cho nhau bằng một cuộc
thăm đơn giản. Việc này đôi khi do đôi bạn trẻ thực hiện nhưng phải là hai nhà
có thân tình từ trước.
Ðối với đám hỏi, người miền Trung chỉ xem là buổi gặp mặt giữa hai gia đình và
họ hàng thân thích để giới thiệu đôi bạn trẻ, không tổ chức rầm rộ. Ðám cưới có
các lễ: xin giờ, bái tơ hồng, rước dâu diễn ra ở nhà gái, đón dâu, trình báo
gia tiên ở nhà trai. Người miền Trung không có tục thách cưới. Lễ vật tối thiểu
chỉ gồm: mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. Nếu khá giả, nhà
trai có thể thêm bánh kem, bánh dẻo, không có "lợn quay đi lộng" như
nhiều nơi. Ngoài ra, đám cưới ở miền Trung thường có phù dâu, phù rể và hai đứa
trẻ thường là một trai, một gái tuổi tương đương cầm đèn hay cầm hoa
đi trước.
Khi đưa dâu, thông thường bố mẹ cô
gái không đi cùng mà hôm sau mới sang nhà trai với ý nghĩa xem con
gái ngày đầu về làm dâu có gì phật lòng nhà chồng không. Buổi gặp này, hai bên
thông gia đối đáp những câu khách sáo, nhắn gửi con cái cho nhau, căn dặn con
mình phải thuận thảo với gia đình.
Trong phòng tân hôn phải
có: một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu giao bôi. Ðôi
bạn trẻ phải nhai hết 12 miếng trầu, tượng trưng cho 12 tháng hòa hợp trong một
năm, 12 năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Việc ăn muối, gừng mang
màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng thắm. Rượu giao bôi theo đúng với
lễ giáo phong kiến của Trung Hoa cũ.
Hiện nay, lễ này đã được nhiều gia
đình miền Trung giảm bớt. Khi rước dâu, bố cô gái theo về nhà trai bằng
một chiếc xe khác, tại tiệc đãi sẽ trao đổi với nhà trai. Ba ngày sau lễ cưới,
cô dâu mới được trở về nhà bố mẹ đẻ để thu dọn tư trang, bắt đầu cuộc
sống mới tại nhà chồng.
Tính cầu kỳ của người miền Trung
tại lễ cưới chủ yếu trong cách hành xử. Không ầm ĩ, ồn ào, thái quá trong các
lễ và tiệc cưới. Việc thưa gửi, trình bày của chủ hôn, bố mẹ hai bên rất cầu kỳ
và không bỏ sót.Vị chủ hôn thường là cao niên trong dòng tộc hai bên, thân
thuộc với gia đình, vợ con đầy đủ, không tật bệnh, tuổi không khắc kỵ đôi tân
hôn. Các phù dâu, phù rể là người chưa có chồng, vợ, tính tình vui vẻ nhanh
nhẹn.
Việc bài trí phòng tân hôn phải do một người phụ nữ lớn tuổi, phúc hậu sửa
soạn. Lễ vật rước dâu, nhà trai nhờ một người cao tuổi, đủ vợ chồng con cái,
gia đình hòa thuận kiểm tra. Sau khi lễ xong, cặp nến hồng được người này thổi
tắt. Số người nhà trai đi rước dâu luôn ở số chẵn. Khi đón dâu, nhà trai thường
cử vài người đàn ông trẻ tuổi hoạt bát, đã có vợ con ra đứng đón sẵn để
"lấy hên" cho đôi tân hôn.
Nét riêng trong đám cưới Nam
bộ
Hôn lễ chính cử hành tại bàn thờ tổ
tiên trong gia đình. Bàn thờ phải có đủ "hương đăng hoa quả".Họ
hàng nhà trai đến phải có người làm mai đi đầu. Lễ vật gồm: trái cây, bánh kẹo,
trầu cau. Ngoài ra, phải có cặp đèn (nến) trùng với kích thước của đôi chân đèn
trên bàn thờ. Đây được xem là nét văn hóa, linh thiêng của dân tộc Việt. Ðại
diện nhà trai kính cẩn mời nhà gái uống trà, rượu, và mời ăn trầu. Hai bên bàn
bạc với nhau vài chi tiết, tặng nữ trang, tiền mặt. Khi trưởng tộc nhà gái
tuyên bố: "Xin làm lễ lên đèn" là lúc đôi bạn trẻ chính thức
trở thành vợ chồng.
Lên đèn là nghi lễ quan trọng và
thiêng liêng. Hai ngọn nến to do nhà trai đem đến được đặt trên bàn thờ ông bà.
Người trưởng tộc khui một chai rượu do nhà trai đem đến đứng trước bàn thờ,
giữa cô dâu và chú rể, chờ lửa ở hai ngọn nến cháy đều, ông trưởng tộc trao cho
hai vợ chồng mỗi bên một ngọn để cắm vào chân đèn. Ngọn đèn phải cháy thong
dong, đều đặn, nếu bên cao bên thấp thì sẽ có dư luận chàng rể sợ vợ, cô dâu sẽ
“làm chồng”.
Lễ lên đèn có một sự tôn nghiêm kỳ
lạ với ý nghĩa: lửa là sự sống, niềm lạc quan, nối quá khứ đến hiện tại, mặt
đất lên trời...Chính vì thế, đây là một nghi thức bắt buộc không thể thiếu ở
mọi hôn lễ từ xưa đến nay của người miền Nam.
99.
Lễ khai sinh
đặt tên -1 nét VH độc đáo của người Raglay
Dân tộc Raglay là một trong
26 dân tộc thiểu số tại Bình Thuận, tập trung ở 6 huyện: Bắc Bình, Tuy Phong,
Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân và Tánh Linh. Ở Tuy Phong, người Raglay
cư trú tại 3 xã: xã Phan Dũng, Vĩnh Hảo, Phong Phú. Ở Phan Dũng, người Raglay
cư trú thành từng buôn làng, giống như người Chăm (palei).
Bà con nơi đây
sống chan hòa, cùng nhau làm ăn sinh sống, cùng nhau bảo vệ buôn làng.
Không như một
số dân tộc khác như Kinh, Chăm, người Raglay không để lại một nền văn hóa rực
rỡ, mà chỉ là những lễ nghi liên quan đến tập quán canh tác, chu kỳ đời người.
Về việc thờ cúng, người Raglay ở đây thờ cúng thần linh, tổ tiên, các nghi lễ
cúng bái này diễn ra thường xuyên hằng năm để mong thần linh, tổ tiên phù trợ,
giúp đỡ. Về lễ tết, người Raglay thường tiến hành các nghi lễ khi chọn rẫy,
phát và đốt rẫy, gieo trỉa và thu hoạch lúa. Theo chu kỳ đời người, người
Raglay có các lễ khi sinh nở, ốm đau, cưới xin, ma chay… Ở đây chúng tôi chỉ
xin đề cập đến lễ khai sinh đặt tên của người Raglay ở xã Phan Dũng huyện Tuy
Phong.
Sau khi đứa bé
chào đời, mẹ cha tiến hành nghi lễ Pơl Sa-úp vavruh Payua anãn-cúng bái khai
sinh đặt tên hay còn gọi là lễ ra mắt, trình diện. Với mọi người Raglay đây là
nghi lễ đầu tiên, thường được tiến hành sau khi chào đời nên từ xưa đã có câu
“đẻ tại bếp mẹ xỏ tai, đặt tại sạp cha đặt tên”. Tuy vậy, tùy hoàn cảnh mỗi gia
đình, lễ khai sinh đặt tên có thể lùi lại chậm nhất 15-20 ngày sau khi đứa bé
chào đời. Buổi lễ được tiến hành tại nơi trang trọng nhất trong nhà, gia đình
sửa soạn các loại mâm có chân cao vài mươi phân, mâm có vành quý và mới đặt
cạnh để bày các lễ vật dâng cúng Yàng và trình diện tổ tiên, ông bà, cỗ cúng
thường có cơm và cỗ khau trầu tạ.
Mời dân làng
súc rửa miệng chà răng, ăn vôi tiện đãng ăn trầu trên khau: ba mươi bảy miếng
trầu têm, bốn mươi bảy miếng cau, bày rượu nguyên ché, gà nguyên con. hầu ta
súc rửa miệng chà răng là cách nói hàm ý khiêm tốn vì lễ vật nhỏ mọn, không có
gì quý giá, chỉ đủ để tráng miệng thôi. Tuy nói ba mươi bảy miếng trầu têm, bốn
mươi bảy miếng cau bửa, nhưng thực chất chỉ bày trên khay bảy miếng trầu têm và
bảy miếng cau bửa cùng các lễ vật khác. Cạnh các lễ vật trên, theo tục lệ trong
lễ cúng khai sinh đặt tên, gia đình còn bày biện các mâm lễ vật là những đồ
dùng trong gia đình. Trẻ sơ sinh là con gái thì bày cái dừng, cái sàng, cái
nia… Trẻ sơ sinh là con trai thì bày cái rựa, cái ná và ống tên…
Sau khi khấn
vái, thường trong buổi sáng nếu là con trai, người cha đem cây ná (nỏ) ra sân
bắn về phía mặt trời mọc sáu mũi tên và bắn về phía mặt trời lặn ba mũi tên cho
bay mất hút vào không trung, hàm ý cầu mong cho đứa bé dồi dào sức khỏe, trở
thành chàng trai thông minh lanh lợi, đủ sức vượt qua mọi thử thách, làm ăn no
đủ, thăng tiến trong cuộc sống không gì ngăn cản được.
Lễ vật bày trên
mâm cúng theo tục lệ xưa tuy chỉ là những đồ dùng thô sơ trong sinh hoạt thường
ngày khi xã hội chưa phát triển, nhưng bao hàm ý nghĩa sâu xa là cầu mong cho
con cái khi lớn lên có nhiều sức khỏe, cần mẫn làm ăn, siêng năng lao động, có
trí thông minh, tay chân khéo léo… để tạo dựng cuộc sống ấm no và bảo vệ nương
rẫy xóm làng. Dù xã hội đã phát triển, lễ tục có thể có biến đổi nhưng trước
hết lễ khai sinh đặt tên nhằm tạ ơn Yàng Giùc-Giàng Bà mụ đã phù hộ cho việc
sinh đẻ an toàn. Trong lễ nghi này có lời khấn: Cúng hầu Thần dưới, tạ ơn Thần
trên, rượu rót trong chén nhỏ, đựng lọ bạc quý mời ăn uống, nhấm nháp…Lễ vật
trong lễ khai sinh đặt tên tùy hoàn cảnh gia đình mà sửa soạn đơn giản hoặc
phong phú bằng những hiện vật có sẵn trong nhà trên rẫy, nhưng vật chất dù ít
hay nhiều thì ngoài những người trong họ, gia đình còn mời bà con hàng xóm láng
giềng đến ăn trầu, hút thuốc, chúc mừng đứa bé ra mắt chào đời, cùng chứng kiến
lễ tục Iaq càc Pach hàc tubuai-xem lưỡi gà (trước đây thường nói bói lưỡi gà)
và chung vui cùng gia đình, góp lời bàn tốt đẹp về tương lai một thành viên mới
của gia đình và cộng đồng.
100. Tại sao
phải có phù dâu
Tục lệ xưa cần có phù dâu vì hôn
nhân cưỡng ép, do cha mẹ định đoạt, nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường
thì "Nữ thập tam nam thập lục", con gái mười ba tuổi về nhà chồng đã
biết gì đâu! do đó cô dâu phải có người dẫn dắt. Người dắt cô dâu gọi là phù
dâu.Ngày xưa phù
dâu phải là người cô, người dì hay chị em thân thiết của cô dâu, có khả năng
thuyết phục, bày vẽ cho cô dâu, được cô dâu kính nể, mến phục, được bố mẹ cô
dâu ủy thác. Người phù dâu phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp,
con gái lành mạnh ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề có thể truyền kinh nghiệm
làm dâu, làm mẹ, làm vợ cho em, cho cháu mình. Phù dâu nhiều khi còn phải ở lại
năm bảy ngày sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường
phù dâu cũng trở lại với dâu rể trong lễ lại mặt.
Đám cưới ngày xưa phải có phù đâu,
không định lệ, và cũng không có danh từ "Phù rể". Đám cưới ngày nay,
nhiều nơi có cả phù dâu, phù rể, có đám mời đến năm sáu đôi phù dâu phù rể toàn
là trai thanh, gái lịch, chưa vợ chưa chồng. Có lẽ chủ yếu để cô dâu thêm bạn,
chú rể thêm bầu. Hay phải chăng ngày nay chàng rể bẽn lẽn e thẹn hơn xưa, nên
phải có người dẫn dắt. Hay đám cưới trước thường sinh ra nhiều đám cưới sau nên
phải chăm lo đào tạo những cô dâu, chú rể tương lai.
101.
VSao có tục bán
mở hàng?Bán mở hàng tn cho đắt khách?
Đầu năm ai cũng muốn vận hội hanh
thông, làm ăn suôi sẻ, làm quan có ngày khai ấn, kẻ sĩ có ngày khai bút, nhà
nông có ngày khai canh, làm thợ có ngày khai công, người làm nghề buôn bán có
ngày mở hàng.
Theo tâm lý chung mọi việc khởi đầu
đều khó khăn, mà "Đầu đi thì đuôi lọt!". Riêng trong nghề buôn bán
lại càng bấp bênh, có ngày mua may bán đắt, có ngày ngồi suốt buổi chẳng ai ngó
tới, có tháng lời lãi nhiều, lợi lộc lớn, có tháng thua lỗ mất cả chì lẫn chài,
vì vậy không những chọn ngày mở hàng đầu năm, mà cả đầu tháng, đầu tuần, từng
ngày còn phải để ý đến chuyện mở hàng: mở hàng vào lúc nào ? Bán cho ai
"Nhẹ vía" để cả ngày bán đắt hàng?
Thông thường muốn được đông khách
đến mua thì thái độ người bán hàng phải niềm nở, vồn vã, ân cần, bán nới giá
hơn bình thường để cầu được đông khách và giữ được chữ Tín đứng hàng đầu. Song
có người lại tưởng nhầm bán mở hàng phải bán cho đắt, người mua mặc cả chê đắt
không mua bỏ đi, rốt cuộc ngồi lì suốt buổi không ai hỏi đến, thậm chí còn có
thái độ và ma thuật bỉ ổi cho là tại người mở hàng nặng vía, chửi rủa ngầm và
"Đốt vía" người mở hàng. Người bán hàng như vậy không biết rằng:
chính mình là người nặng vía nhất.
Ngày trước người ta muốn đi chợ sớm để được mau mở hàng có giá rẻ hơn chút ít,
nhưng ngày nay nhiều người ngại mở hàng vì sợ vướng phải hạng người không biết
mình bán hàng nặng vía lại đòi "Đốt vía" người mua mở hàng.
Đến đây ta có thể kết luận được: Bán mở hàng nên bán đắt hơn hay rẻ hơn giá
bình thường?
Chuyện vui: "Mở hàng nhẹ vía" hay "Nợ như Chúa Chổm"
"Nợ như Chúa Chổm". Đó là thành ngữ phổ biến để chỉ người lắm nợ.
Nhưng tại sao Chúa Chổm lại lắm nợ như vậy ? Truyền thuyết kể rằng: "Chổm"
là hàng cùng dân ở miền Thanh Hoá, chẳng có gia tài điền sản hay nghề ngổng gì,
quanh năm chỉ có đánh dậm, mò cua, bắt ốc nuôi thân. "Chổm" tên thật
là gì, quê quán ở đâu, bà con họ hàng thân thích có những ai ? Chẳng ai để ý
đến. Một con người "Tứ như Chúa Chổm" được. Nguyên do: có mấy lần
sáng sớm, Chổm vào một quán nhỏ ăn lót dạ, tự nhiên những hôm dó chủ quán bán
rất đắt hàng. Vì vậy, một đồn mười, mười đồn trăm, các chủ quán ai gặp Chổm,
cũng có nài Chổm vào ăn quà lấy may. Ai được Chổm hôm nào chiếu cố vào ăn thì
hôm ấy đều bán được đắt hàng. Nhưng Chổm làm gì có nhiều tiền để trả, người ta
vui lòng mời Chổm ăn, bao giờ có tiền trả cũng được, mà không có cũng thôi, do
đó trong khắp vùng không ai mắc nợ nhiều bằng Chổm.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi của vua Lê Cung Hoàng, dựng nên nhà Mạc. Đến
nay 1532 Nguyễn Kim khởi nghĩa phò Lê chống Mạc, đi tìm hậu duệ tôn của vua Lê,
tìm được Chổm, mặc dầu khố rách áo ôm, nhưng có khí tướng đế vương (người ta
còn đồn đại rằng: Chổm đi đâu cũng có đám mây che trên đầu, trời đang nắng gắt
cũng trở nên dâm mát...) Chổm được phò lên ngôi vua mở đầu thời Lê Trung Hưng
đóng đô ở Thanh Hoá (tức Tây đô) để chống với nhà Mạc ở Hà Nội (tức Đông đô).
Sau khi lên làm vua, không có điều kiện gần gũi quần chúng như trước, và cũng
không nhớ nợ ai bao nhiêu mà trang trải nợ nần nữa, Chúa Chổm (thực ra là
Vua Chổm) đành phải hạ lệnh đúc thật nhiều tiền, rồi Chổm đi đến đâu rải tiền
ra đến đấy, cho công chúng ai nhanh tay, mạnh bước thì nhặt lấy. Vì thế nên mới
có thành ngữ "Nợ như Chúa Chổm".
102.
Tục chèo thuyền
trên sông Đà, đêm ba mươi Tết
Còn một canh giờ nữa mới đến giao
thừa. Thế mà ông lái đò già râu tóc bạc phơ đã áo the khăn xếp chỉnh tề ra ngồi
ở bến sau đình. Chả là đêm nay làng Khê Thượng, huyện Ba Vì có một tục lệ quan
trọng. Từ bao đời nay, đình làng này cũng như biết bao ngôi đình của xứ đoài
thờ Tản Viên sơn thánh, vị thánh đứng đầu Tứ Bất tử trong tâm linh người Việt.
Rất nhiều làng có lễ hội tế thánh
Tản vào đầu xuân. Riêng làng này ngoài lễ hội tế thánh từ chiều mùng 2 Tết đến
hết mùng 6 tháng Giêng có đấu vật, “chém may” (chém cây chuối tượng trưng chém
kẻ trộm), lại đặc biệt có tục đêm giao thừa làm lễ chèo thuyền trên sông Đà đưa
Công chúa Ngọc Hoa là vợ của Sơn Tinh về thăm Vua cha Hùng Vương ở Nghĩa Lĩnh.
Các cụ kể rằng: Ngọc Hoa là người con rất hiếu thảo, lấy chồng về núi Ba Vì rồi
nhưng Tết nào cũng đòi được về thăm cha mẹ.
Tại sao chỉ riêng làng này có tục lệ ấy? Có lẽ là nếu chiếu thẳng 2 đỉnh núi Ba
Vì và Nghĩa Lĩnh thì đường qua Khê Thượng là ngắn nhất chăng? Nhưng đây chỉ là
lượt Công chúa đi sang Nghĩa Lĩnh thôi! Lượt trở về núi Tản, là ngày mùng tám
tháng Giêng thì nàng lại đi qua làng Trẹo, ở Phong Châu, Phú Thọ. Đến ngày mùng
tám, làng Trẹo mở hội Rước Chúa gái, có cô gái trinh đóng vai Công chúa, có trò
"bách nghệ khôi hài"...
Đã 50 năm qua, từ ngày giặc Pháp đốt phá, làng Khê Thượng không còn đình. Mấy
năm gần đây mới xây lại, không được to đẹp như xưa nhưng vẫn giữ dáng dấp đình
Đoài, mái sụp thấp xuống, các đầu đao cong vểnh lên như một bông hoa loa kèn úp
xuống.
Từ sau ngày hai ba tháng Chạp, ông Táo lên trời, bô lão trong làng đã chọn ra
một người lái đò để đến giao thừa chèo thuyền đưa Công chúa. Phải là người khoẻ
mạnh và có đức hạnh, phải sạch bụi (không có trở) và chay tịnh, được trai tân
là tốt nhất. Năm nay, làng chọn người con trai của ông lái đò già. Trong tâm
linh của dân làng, ai được chọn là vinh dự và tốt phúc, nhưng phải hết sức
nghiêm cẩn vì là việc nhà Thánh. Từ mấy hôm nay, chiếc thuyền gỗ nhà ông được
cọ sạch, đêm nay được trải chiếu hoa và được kết hoa lá, đang đỗ ở bến kia. Anh
con trai hôm nay đã tắm gội bằng nước hạt mùi và mặc quần áo mới, ngoài trùm
chiếc áo nỉ đỏ của làng, lúc này trực sẵn bên mái chèo, hồi hộp chờ đợi. Đêm
hết năm, bốn bề yên tĩnh, các làng xóm xa in bóng lờ mờ, mặt sông Đà phẳng
lặng, lắng tai nghe mới nghe thấy tiếng vỗ bờ róc rách.
Mấy ngày qua, ông lái đò già đã kể lại những truyền thuyết về Sơn Tinh, Thuỷ
Tinh cho con trai nghe và đưa con chèo thuyền về phía thượng lưu, đến những nơi
có di tích. Nào lăng Đồng Luận có Sụ đá là nơi bà mẹ của Nguyễn Tuấn - tên của
Sơn Thánh, đã ngồi đẻ ra ông, nay còn in vết bàn chân; nào động Lăng Xương là
nơi có đền thờ bà, nào Bãi cơm rơi, tục truyền là nơi xưa Nguyễn Tuấn qua sông
đi hái củi, bẻ cơm nắm rơi, những hạt cơm tụ thành doi bãi; nào Ngòi Lạt là nơi
Sơn Tinh cho quân chẻ lạt tươi thả xuống, mọc thành rừng tre gai chặn quân Thuỷ
Tinh...
Đêm nay, anh lái đò trẻ nhìn lên trời, nhìn làng mạc và nhìn dòng sông tưởng
như khí thiêng đang bao trùm cả trời đất. Mấy đêm trước, giữa khuya, bố anh đều
gọi anh dậy, tập chèo, tập lái, tập bát, tập cạy thế nào cho thật êm, thật nhẹ
như ru.
Từ phía điếm canh vọng về 3 tiếng trống: đã canh ba. Từ đình làng, chiêng trống
nổi lên, tiếng tù và ốc, tù và sừng rúc lên êm ru. Tiếng đàn sáo mỗi lúc một
gần. Đám rước cờ quạt và hương án đã tiến ra bến sông. Tiếng những lá cờ đuôi
nheo vẫy phần phật trong gió. Cụ chủ tế và các cụ bô lão làm lễ trước hương án.
Dân làng đứng chật bên bờ sông. Anh lái đò trẻ bỗng thấy mình rét run lên bần
bật. Anh đoán là lúc này Công chúa đã đến bên bờ sông. Cả một vùng trời bỗng có
mùi hương hoa ngây ngất. Chở đò đây là chở hồn vía của Công chúa. Công chúa
tàng hình, mắt người trần không thấy được như lời bố anh đã dặn. Anh đứng chéo
chân trên thuyền, hai tay lăm lăm nắm chặt mái chèo.
Có tiếng gì như tiếng quần áo lụa tơ tằm bay trong gió? Công chúa vốn là người
chăn tằm, dệt cửi mà! Bỗng anh thấy mũi chèo chúi nhẹ một cái. Anh giật mình:
Công chúa bước xuống thuyền. Người lái đò phải có cái linh cảm rất nhạy để bắt
được phút giây này, nếu không sẽ bị Thánh quở phạt. Thế là anh hất nhẹ mái chèo
cho mũi thuyền quay sang ngang. Phải cho thuyền lướt thật êm, không được chòng
chành chút nào, không được nước bắn tung toé.
Tất cả đám rước và dân làng đông nghịt đứng trên bờ nín thở lặng đi một giây
rồi như sực tỉnh nhìn bóng con thuyền lờ mờ lướt nhẹ trên mặt sông loang loáng.
Trống chiêng lại vang lừng và đàn sáo lại réo rắt. Thuyền chèo đi, chèo về ba
lần mới đỗ vào bến bên kia một lát rồi quay về. Tất cả mọi người đều trang
nghiêm hướng vọng về phía Đất Tổ. Mọi người hình dung ra công chúa Ngọc Hoa
đang cưỡi mây cưỡi gió, Vua cha Hùng Vương đang bày tiệc mừng đón người con gái
hiếu thảo. Nàng công chúa quá quyến luyến cha mẹ còn ở lại qua Tết, đến ngày
mùng tám tháng giêng mới chịu quay về núi Tản. Đến ngày ấy thì làng Trẹo ở
Phong Châu, Phú Thọ lại tổ chức lễ Rước Chúa gái để đưa tiễn nàng.
Đêm nay, đêm ba mươi, trời êm gió tạnh, đưa Công chúa qua sông tốt đẹp, cả làng
Khê Thượng vui mừng vì đó là điềm lành báo trước một năm phong đăng hoà cốc.
Một đêm trừ tịch hướng về cội nguồn để đón một năm mới bình yên và hạnh phúc.
103.
"Tông
ngó" - Một tục đẹp của dân tộc tày
"Tông ngó" - tiếng Tày là
kết bạn. Đây là một tục đẹp có từ xa xưa. Con trai, con gái tuổi 18 - 20 trở
lên, có thể cùng dân tộc hay khác dân tộc, biết rõ họ hàng, làng bản của nhau,
thấy cùng sở thích, cùng tính tình thì đều mong muốn được kết bạn với nhau.
Tục "Tông ngó" của người
Tày Văn Chấn - Mường Lò được thể hiện dưới nhiều dạng, như: bạn cùng năm sinh,
có tên giống nhau, cùng nghề nghiệp, ngang hàng nhau ở thôn bản, cùng học với
nhau. Ngoài ra chung nhau về một sở trường nào đó, ví dụ: đàn hát, đan lát, dệt
may. Cũng có thể đồng cảnh đặc biệt như: góa bụa, muộn vợ, muộn chồng, con một
hoặc hiếm con v.v...
Những người kết bạn, họ phải tổ
chức lễ chứng kiến. Họ xin phép cha mẹ hai bên cho họ được chính thức kết bạn.
Lễ đơn giản: gà một con, rượu một chai, gạo nếp một cân, hoa quả tùy ý. Ngày
nay, có thêm ít bánh kẹo để làm bữa ăn cam kết thêm vui.
Đồ lễ được đặt lên nơi thờ tổ tiên.
Gia chủ người kết bạn thắp hương báo cáo với tiên tổ, gia tộc mình về việc con,
cháu trong nhà kết bạn, mong các vị chứng giám và phù hộ. Kết thúc lễ cũng là
từ đây, giữa hai người kết bạn sẽ coi tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em họ hàng
trong nhà, trong gia tộc của nhau cũng như của mình. Họ tham gia mọi công việc,
chia sẻ ngọt bùi với nhau. Kết bạn rồi, nếu người nhiều tuổi hơn sẽ là anh, là
chị.
Ngược lại, người kém tuổi nhận là
em. Tục "Tông ngó" chỉ thực hiện với người cùng giới và chỉ với một
mà thôi. Sau này, một trong hai người có việc tang thì người không có tang phải
thực hiện mọi nghĩa vụ, thủ tục với người quá cố giống như bạn mình (tùy theo
vai vế mà tiến hành), đồng thời chịu tang như con, cháu trong nhà. Mối quan hệ
này duy trì dài lâu. Nhiều cặp kết "Tông ngó" kéo dài đến tận đời
con, đời cháu, đời chắt.
Vì tục "Tông ngó" ý nghĩa
như vậy nên việc chọn để kết bạn khá công phu, thận trọng. Chưa thấy trường hợp
nào đã kết bạn rồi mà bị một trong hai bên phản bội, bị tan vỡ. Thường ngày,
vẫn thấy mọi người đi lại, chơi thân với nhau, thậm chí từng cặp một, nhưng như
thế không có nghĩa là họ đã kết bạn theo tục "Tông ngó". Do đó, không
có gì để họ phải ràng buộc với nhau. Mọi quan hệ chỉ là bình thường mà thôi.
104.
Phong tục ứng
xử
Ứng xử với bản
thân -“Người ta là hoa đất”. Là hoa của
miền đất luôn luôn được coi là “đệ nhất”, “thứ nhất Kinh Kỳ”, người Thăng Long
- Hà Nội tự cảm thấy phải có những ứng xử phải đạo trong đời sống riêng tư cũng
như trong sinh hoạt gia đình và xã hội, để có được lòng tự hào về thuần phong
mỹ tục xứng đáng với lời ca ngợi “người thanh mà tiếng nói cũng thanh” cũng tựa
như “chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu”.
Ý thức nói trên ăn sâu
vào tâm lý cộng đồng, được củng cố bởi dư luận xã hội và thấm thía trong ý thức
của mỗi người. Thăng Long là nơi cư trú của những cư dân từ bốn phương tụ hội:
“Bán anh em xa, mua láng giêng gần”. Họ sinh sống bên nhau với (hoặc phải có)
tình thân thiết, quan tâm, giúp đỡ nhau khi tối lửa tắt đèn. Không là dân cùng
làng, nhưng đã là người “hàng phố”, “hàng phường” với nhau thì vẫn phải sẵn
sàng hòa hợp, giúp đỡ, kẻ đến trước bao dung kẻ đến sau, dù khác gốc quê. Do
vậy, bản thân từng người đều tự thấy phải nâng cao TÍNH CÁCH HÒA HỢP, BAO DUNG,
CỞI MỞ. Đó là nét xử sự đáng quý đầu tiên của người Hà Nội. Những phong tục tập
quán chứa đựng những nhân tố cơ bản của nền văn hiến Thăng Long.
Một cách xử sự khác của cư dân ở đây là tự tin và nghị lực. Cũng bởi chốn Kẻ
Chợ sầm uất vốn là nơi cạnh tranh, đọ sức đua tài dữ dội, phải nghề tinh, tài
cao mới trụ nổi. Vì thế, đằng sau vẻ bề ngoài bình yên của Thăng Long - Hà Nội,
là một cuộc cạnh tranh khá dữ dội, ngặt nghẽo của tài và nghệ tứ chiếng nhưng
khá ngặt nghèo. Cái còn lại, phát triển được chính là cái tiêu biểu, cái tinh
hoa. Những gì xoàng xĩnh, vô bổ, sớm muộn đều bị đào thải. Chi nên hơn bất cứ
nơi nào khác, tại đây con người cần phải có bản lĩnh, tự tin và nghị lực. Đấy
là còn chưa kể rằng, từ thời kỳ Đại La mảnh đất này đã là thành “bách chiến”
nơi cứ dăm bảy chục năm đến một trăm năm lại là chiến địa (nội chiến hoặc chống
ngoại xâm). Ở một nơi như thế, muốn tồn tại, con người phải can trường.
Mặt khác như đã nêu ở các phần phong tục bên trên, người Hà Nội vốn có từ trong
bản chất một nếp sống, nếp cư xử. Nhã nhặn, tôn trọng người đối thoại, chăm
chút cái ăn, cái mặc, lời nói, tiếng nói, quan tâm và trọng thị bạn bè… Lớp
thanh niên cùng trang lứa gọi nhau là anh - tôi (chứ không mày - tao), bậc
trung niên trở lên trong những trường hợp sơ giao thường hay gọi nhau bằng
“ông”, thân thì gọi nhau bằng bác. Phụ nữ, dù người đối thoại có ít tuổi hơn
chút ít cũng gọi nhau là “bà”, “bà chị”, xưng “em” v.v… Tất cả những đức tính
trên là do lối sống có văn hóa mà có.
Đó là cách cư xử đối với bản thân.
Ứng xử với cộng đồng
a) Hơn ai hết, người Hà Nội rất tôn trọng cộng đồng vì họ vốn là người bốn
phương về đây tụ hội. Không đoàn kết, nhường nhịn, đề cao cộng đồng thì khó tồn
tại, với họ những “người hàng phố” sát cánh nhau, cũng thân thiết chẳng khác gì
người “hàng xóm” khi còn ở làng quê.
Trong cuộc sống hàng ngày, họ chia sẻ với nhau nỗi buồn và niềm vui. Hà Nội có
câu: Văn ai tất điếu, nghe tiếng khóc là đến hỏi thăm. Họ giữ hòa khí, cận duyệt
viễn lai, ở gần đẹp lòng, ở xa muốn đến.
Cả phố tránh mất lòng nhau, “chín bỏ làm mười”, giữ gìn cho nhau, đi vắng thì
“gửi nhà nhau”. Mãi về sau này đến tận những năm chống Mỹ 1965 - 1972, đi sơ
tán gửi nhà nhau vẫn là chuyện thường thấy.
Ra quét hè, tiện chổi, quét sang cả cho hè hàng xóm. Bà dặn cháu: Chớ có “Được
lòng ta, xót xa lòng người”. Cha dặn con: “Cái mà mình không muốn, thì đừng làm
cho người”.
Khách đến nhà, không bao giờ cởi trần ra tiếp. Đang để đầu trần thì phải quay
vào nhà trong chít khăn đã, rồi mới ra đón khách. Trong nhà còn vậy, nên khi ra
đường không mặc cẩu thả, đó là ý tôn trọng người thiên hạ. Chỉ có người đang
làm việc nặng là được ở trần. Áo quần không cần quý giá, chỉ cần mặc ngay ngắn,
chỉnh tề. Áo vá không sao nhưng không mặc áo rách. Mặc áo hàng đắt tiền thì
thường ý tứ phủ chiếc áo bình thường hơn ở bên ngoài.
Tất nhiên, không phải ai cũng được như vậy. Vì có một bộ phận chưa thấy thanh
lịch là cần, cho nên chưa tự điều chỉnh mình, chưa rũ bỏ những lề thói thô
phác, dữ dằn. Những người ấy, một là phải đợi thời gian để tự điều chỉnh và hai
là sẽ không được coi là “người Tràng An”.
Cũng có khi “phú quý sinh lễ nghĩa”, một số người Hà Nội sửa đổi, thêm thắt,
bày vẽ nhiều thủ tục đặc biệt trong cưới xin, ma chay, giỗ tết, làm phong tục thành
cầu kỳ, tốn kém tiền của.
b) Một cách ứng xử cũng rất Hà Nội là lòng hiếu khách. Ngày trước, trong những
ngày hội hè lễ tiết thi cử, khách thập phương kéo về Thăng Long - Hà Nội rất
đông. Nhưng họ không bị coi thường mà ngược lại, Thăng Long - Hà Nội đã sắp sẵn
nước nôi, một vò chè vối, một nồi chè tươi được đặt bên hè, chén bát sạch sẽ để
khách các nơi tiện việc giải khát. Tết Trung thu, nhiều nhà bày cỗ xong rồi,
khi vãn cuộc còn mời cả khách đi xem cỗ cùng tham gia phá cỗ. Đây là những dịp
để người Thăng Long - Hà Nội tỏ lòng mến khách và cũng là dịp khách cảm nhận rõ
hơn những nét đáng yêu của người Tràng An thanh lịch. Chẳng thế mà ca dao cổ có
câu:
Nhất cao là núi Ba
Vì
Nhất thanh, nhất
sắc, kinh kỳ Thăng Long.
Kết nghĩa, giao
hiếu
Chúng tôi muốn dành hẳn một phần để nói riêng về một tục lệ rất tốt đẹp và rất
lý thú của người Thăng Long - Hà Nội. Đó là có kết chạ, kết nghĩa, giao hiếu…
giữa những làng phố trong phạm vi một vùng của Hà Nội hoặc giữa một phố, một
làng Hà Nội với một làng của các tỉnh xung quanh. Hiện nay, tục lệ tốt đẹp đó
vẫn được trân trọng giữ gìn và trở thành mối quan hệ truyền thống trong đời
sống văn hóa hiện đại.
Giao hiếu từ nhu cầu đoàn kết bảo vệ xóm làng
Bốn làng Quang Liệt (nay là xã Thanh Liệt), Huỳnh Cung (xã Tam Hiệp), Lê Xá (xã
Hữu Hòa) và Yên Xá (xã Tân Triều) đều ở huyện Thanh Trì ngoại thành Hà Nội đã
cùng là Xa La (thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây bây giờ) phối hợp đặt ra quy
ước giúp đỡ nhau chống trả giặc cướp. Một tấm bia đá hiện đặt ở chùa Xa La còn
ghi tường tận sự việc này.
Giao hiếu do cùng chiến thắng thiên tai
Đó là tình kết nghĩa, giao hảo giữa dân làng Vạn Phúc (huyện Gia Lâm) và dân
làng Nga My (huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây). Tục truyền từ đời nhà Lý nhà Minh
gì đó, kinh đô cũng như các địa phương lân cận hay bị lũ lụt. Vùng sông Nhuệ bị
nặng nhất. Vua mới điều dân làng Vạn Phúc vào Nga My (huyện Thanh Oai, Hà Tây)
đắp đê. Dân Vạn Phúc có sáng kiến gánh bằng đòn ống, sọt tre đầy ắp đất, sắn
bằng mai, nên chóng xong và do đó, kịp ngăn nước lũ công phá vùng Nga My. Từ đó
hai làng kết chạ, coi nhau như anh em, các ngày lễ tết đều cử người qua lại
cúng tế.
Giao hiếu vì Thành hoàng làng là anh chị em hoặc thờ chung một thành
hoàng.
+ Làng Phú Mỹ (xã Mỹ Đình) và làng Kiều Mai, cùng huyện Từ Liêm (?) thờ Quốc
công. Tương truyền đây là hai tướng của Hai Bà Trưng. Hàng năm hai hàng cùng dự
hội làng. Năm trước làng Chạ chị (Phú Mỹ) rước sang làng Chạ em (Kiều Mai). Năm
sau Chạ em rước sang tạ Chạ chị.
+ Ba làng Nam Dư Thượng, Nam Dư Hạ, Thúy Lĩnh vào dịp hội làng lại còn rước bài
vị thánh làng mình sang làng đăng cai. Ví dụ: Thúy Lĩnh có hội thì hai làng Nam
Dư Thượng, Nam Dư Hạ mang phù trang, hương hoa, oản quả, kiệu Long đình có đặt
bát hương thánh làng mình rồi rước đến đình làng Thúy Lĩnh (đang cai). Đến nơi,
bát hương của hai làng đặt vào bên bát hương của vị thành hoàng làng sở tại. Tế
xong chủ khách đều ăn cỗ. Nhiều năm khách làng bên đến ngồi gần 60 chiếu, mỗi
chiếu bầy một mâm cỗ cho 6 người ngồi ăn. Thù tiếp xong, “quan anh”, “quan em”
bịn rịn chia tay.
Về nghi thức kết chạ, giao hiếu thì thường là vào các ngày cúng lễ thành hoàng,
làng này cử một đoàn bô lão sang dự lễ tế ở làng kia. Hoặc những khi làng này
có sự cố gì thì làng kia tới giúp đỡ giải quyết. Tất nhiên là có ăn uống, to
nhỏ là tùy kinh tế từng làng.
Ở ven nội thành thì phải kể tới đền Voi Phục nay thuộc phường Ngọc Khánh, quận
Ba Đình thuộc làng Thủ Lệ. Làng này và các làng Thụy Khuê, Hào Nam kết nghĩa,
vì đều thờ thánh Linh Lang. Lệ mở hội xưa là ngày đầu (10/2) rước kiệu từ Thụy
Khuê về Thủ Lệ. Ngày thứ hai (11/2) rước kiệu từ Thủ Lệ về Hào Nam. Thủ Lệ giữ
lệ thờ cúng. Chính hội 5 năm một lần thì Thủ Lệ làm chủ tế. Vạn Phúc đọc chúc
văn. Còn hội lệ hàng năm Vạn Phúc làm chủ tế. Thủ Lệ đọc chúc văn. Thực ra
không chỉ có 3 làng này mà các địa phương ở các tỉnh lân cận có thờ Linh Lang
cũng cử đoàn về dự chính hội như: Bồng Lai, Chí Trung, Đình Vĩ (Hà Tây), Đình
Bảng (Bắc Ninh), Thọ Vực (Hưng Yên)…
Cũng ở ven thành có một trong tứ trấn của kinh thành là Kim Liên (quận Đống
Đa). Xuất phát từ tình nghĩa giao hiếu, có ba nơi rước kiệu đến Kim Liên khi mở
hội là Quỳnh Lôi, Phương Liệt, Bạch Mai, vì cả 4 làng này đều thờ thánh Cao
Sơn.
Việc kết chạ giao hiếu ở nội thành cũ
Xin được nói kỹ hơn về tục giao hiếu, kết chạ ở những địa phương thuộc phạm vi
kinh thành Thăng Long - Hà Nội cũ. Cho tới thời Pháp thuộc, một số thôn phường
ở nội thành vẫn giữ tục giao hiếu. Qua điều tra hồi cố, tục này diễn ra như
sau: Hàng năm trong dịp lễ lớn nhất, các thôn phường gần nhau, hoặc cùng thờ
một vị thần thì rước lẫn sau nhau, gọi là rước đánh giảI, trước là lễ thần, sau
là giải tọa uống rượu nghe hát, để tỏ tình giao hiếu với nhau. Cũng có nơi mỗi
phường thôn làm chủ một năm, các phường thôn khác rước kiệu thánh về cả làng đó
mà hội tế.
Khi phường này rước sang phường kia, các người đi rước thường làm sẵn một mâm
cơm lịch sự, đựng vào cái quả dỏ, cho người đem sang đám rước, gọi là Cơm quả.
Với những viên chức thì đã có đăng cai sửa năm ba mâm cỗ nấu, gọi là Cơm quan
viên. Khi rước sang đến làng khác, lễ thánh đâu vào đấy thì nghỉ ngơi ăn uống.
Ăn uống xong xuôi, mới vào đình giải tọa nghe hát.
Cỗ bàn khoản đãi phường giao hiếu, hoặc dùng cỗ mặn hoặc dùng cỗ chay. Nhưng
thường dùng cỗ chay nhiều hơn. Mỗi cỗ có một đĩa mía, một đĩa lạc luộc, một đĩa
mứt, một đĩa trám, mơ, nhót, dừa… Trong khi ăn uống, làng sở tại phải cử người
mặc áo thụng ra mời mọc rất là cung kính, mà mời hạng người nào thì phải cử
hạng người ấy, ví như mời hạng bô lão thì cử người bô lão, mời viên chức thì cử
người viên chức… (Theo tư liệu Phan Kế Bính).
Ở nội thành Hà Nội có những thôn sau này giao hiếu với nhau:
- Hai thôn Cổ Thành (phố Trịnh Hoài Đức) và Hẫu Mễ (một đoạn phố Cát Linh) giao
hiếu do cùng thờ một thần Tăng Bảo An Chính Trực (không rõ lai lịch).
- Hai thôn Đức Viên (phố Trần Xuân Soạn) và Hương Viên (khu phố Lò Đúc) giao
hiếu do cùng thờ Chu Văn An.
- Bảy thôn ở cửa sông Tô: Hương Tượng, Giang Nguyên, Hương Bài, Ưu nghĩa, Phúc
Lộc, Phất Lộc… (nay là các phố Mã Mây, Lương Ngọc Quyến, Hàng Mắm, Phất Lộc)
giao hiếu do cùng thờ Nguyễn Trung Ngạn.
- Nguyên Khiết Thượng và Nguyên Khiết Hạ () giao hiếu do cùng thờ Bạch Hoa công
chúa (không rõ lai lịch).
- Thôn Thạch Khối Thượng, Hạ (nay là đoạn cuối đường Yên Phụ và phố Hàng Than)
và Giai Cảnh (nay thuộc các phố Hàng Than và Hòe Nhai) giao hiếu do cùng thờ Uy
Linh Lang.
- Nam Ngư (phố Nam Ngư) và Vĩnh Xương (đầu phố Nguyễn Thái học) cùng thờ một vị
thần (không còn lưu lại tên).
- Xuân Biểu (đầu phố Sơn Tây) cùng Ngọc Hà - Hữu Tiệp giao hiếu do cùng thờ Hắc
Đế.
- Sơ Trang (phố Lò Sũ) và Trang Lâu (giữa phố Nguyễn Hữu Huân) cùng giao hiếu
do thờ cùng một thành hoàng (không còn lưu lại tên).
- Yên Viên (đầu phố Cửa Bắc), Trúc Yên (phố Đặng Dung) và Châu Yên (phố Châu
Long) cùng thờ Quan Công nhưng chỉ có Yên Viên và Trúc Yên giao hiếu.
Đến thời Pháp thuộc, lệ tục có đơn giản hóa, nhất là sau dịp cải lương phong
tục 1927 thì các lễ giao hiếu chỉ có trầu cau oản quả.
Làng thôn vốn là cơ cấu gốc về tổ chức xã hội của người Việt, là một chỉnh thể
kinh tế - xã hội, văn hóa và là cấp hành chính cơ sở của nước. Do tính chất cố
kết cộng đồng cao biểu hiện ở cộng đồng dân cư, cộng đồng lãnh thổ, cộng đồng
kinh tế - văn hóa nên tục lệ kết chạ, kết nghĩa, giao hảo, giao hiếu… khá phổ
biến, có khi là hai làng, khi là 5 làng, có khi là 10 làng, 20 làng… kết chạ từ
rất xa xưa và giữ lệ đến tận nay.
Mỹ tục này cốt lõi là tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau của mỗi làng quên trong
sản xuất, tổ chức đời sống, đấu tranh chống thiên tai, chiến đấu chống ngoại
xâm…
Ngày nay, tục lệ kết chạ, giao hiếu… được phát triển dưới nhiều hình thức khác
nhau.
Có khi là sự kết nghĩa trong mối tình “quân dân cá nước”. Đã có biết bao đơn vị
bộ đội kết nghĩa với những làng xã nơi đóng quân. Các đoàn thể, tổ chức xã hội
như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân… thì kết nghĩa với các đơn vị bộ
đội ở biên giới hay hải đảo xa xôi. Hàng năm, vào dịp Tết Nguyên đán hay những
ngày kỷ niệm lớn của dân tộc… các đơn vị, đoàn thể, làng xóm… ấy đều có tổ chức
thăm viếng lẫn nhau, chu đáo và đầm ấm.
Lại có khi là sự kết nghĩa giữa Hà Nội với các tỉnh thành. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với phong trào kết nghĩa giữa các tỉnh miền Bắc -
hậu phương lớn với các tỉnh miền Nam - tiền tuyến lớn, Hà Nội đã kết nghĩa với
Huế - Sài Gòn. Câu ca nổi tiếng sau đây đã thể hiện tình nghĩa keo sơn ấy:
Hà Nội - Huế - Sài
Gòn
Là cây một gốc, là con một nhà.
Phong trào kết nghĩa còn diễn ra ở
các tỉnh có quan hệ mật thiết về kinh tế, văn hóa, xã hội như Hà Nội kết nghĩa
với Lai Châ
Ngày nay, trong xu thế của thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế khu vực, hình thành tam giác
kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Đó là mối quan hệ phát triển kinh tết
khu vực, vừa là mối giao hảo, kết nghĩa nối tiếp mạch phong tục cổ truyền đẹp
đẽ, những phong tục tập quán chứa đựng các nhân tố cơ bản của nền văn hiến
Thăng Long.
105.
Tục truyền nghề
bốc thuốc và dạy chữ viết Nôm Dao của người Dao
Một trong những phong tục độc đáo
có từ lâu đời của người Dao là truyền dạy chữ viết và nghề bốc thuốc. Đây là
một tục lễ đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Theo phong tục này, hằng năm cứ mỗi
dịp Tết Nguyên đán, trong từng gia đình người Dao lại diễn ra các lễ trao
truyền, cụ thể là việc dạy con cháu học chữ Nôm Dao và đặc biệt là nghi thức
truyền nghề thuốc cho các thế hệ kế tiếp diễn ra tại gia đình các thầy thuốc
trong thôn. Ðây là dịp cộng đồng tôn vinh việc học hành, lễ nghĩa, học nghề và
học cách làm người.
Sáng sớm mồng một Tết, người Dao tổ
chức dạy bảo học chữ cho con trai tuổi từ 12 đến 13 trở lên (người Dao đỏ gọi
là "tu xô hiu", người Dao tuyển gọi là "châu dặt hô đăng" -
nghĩa là mùng một học chữ). Với người Dao, dạy chữ không chỉ đơn giản ở việc
dạy cho con biết đọc biết viết chữ của tộc người mà còn dạy con học biết cái
tình cái lý, không quên gốc rễ tổ tông. Con trai học chữ, con gái học thêu
thùa, khâu vá. Nơi các cô gái ngồi thêu hoa, cũng là điểm hẹn để các chàng trai
đến ném còn và tìm hiểu để kết duyên đôi lứa.
Người Dao đỏ còn có tục chọn ngày
tốt để dạy chữ cho con, thường những ngày từ mồng một Tết đến rằm tháng giêng;
theo quan niệm của bà con thì những ngày này đều là ngày tốt, nhưng chọn ra
ngày hợp với tuổi của con thì việc học hành sẽ tấn tới, học tập thành công. Bên
cạnh việc dạy chữ cho nam thiếu niên, trong dịp Tết, cộng đồng người Dao còn tổ
chức truyền dạy phép thuốc (học nghề thuốc). Người Dao có hệ thống chữ viết và
một di sản sách cổ Nôm Dao rất giá trị, tuy nhiên sách về y học lại rất hiếm.
Bên cạnh đó, người Dao cũng nổi
tiếng về y dược, chữa bệnh cứu người. Người học nghề thuốc theo phải tuân thủ
tuyệt đối các yêu cầu nghiêm ngặt của cha ông truyền lại. Sau khi kết thúc lễ
truyền, người thầy hướng dẫn người học cách lấy cây thuốc và các quy định của
nghề y phải tuyệt đối phải tuân thủ, như: Không được làm việc thất đức, cứu
chữa không đúng bệnh mà mình biết, không lừa người ốm; thuốc quý không được coi
thường; không được phản thầy; cứu người là việc chính, không được lừa dối để
lấy tiền hay lười biếng, dù họ có ở xa, khó khăn vẫn phải chữa trị khi người ta
tìm đến.
106.
Tục ăn trầu
Tục ăn trầu tương truyền có từ thời
Hùng Vương và gắn liền với một chuyện cổ tích nổi tiếng “chuyện trầu cau”.
Miếng trầu gồm 4 thứ nguyên liệu:
cau (vị ngọt), lá trầu không (vị cay), rễ (vị đắng) và vôi
(vị nồng). Ăn trầu thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc đáo của
Việt Nam . Sách xưa ghi rằng “ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm”.
Miếng trầu làm cho người ta gần
gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng trầu nhân lên niềm vui, khách đến chơi nhà được
mời trầu; tiệc cưới có đĩa trầu để chia vui; ngày lễ, tết, ngày hội miếng trầu
với người lạ để làm quen, kết bạn; với người quen miếng trầu là tri ân tri kỷ.
Miếng trầu cũng làm người ta ấm lên trong những ngày đông giá lạnh, làm nguôi
vợi bớt nỗi buồn khi nhà có tang, có buồn được sẻ chia cảm thông bởi họ hàng,
bạn bè, làng xóm. Miếng trầu còn là sự thể hiện lòng thành kính của thế hệ sau
với các thế hệ trước cho nên trên mâm cỗ thờ cúng gia tiên của người Việt bao
giờ cũng có trầu cau.
Sẽ là thiếu nếu nhắc đến trầu mà
không nhắc đến thuốc lào. Đa số nữ giới ăn trầu và miếng trầu là đầu câu
chuyện, còn đàn ông, thuốc lào gắn bó với họ lúc vui, lúc buồn. Có người
ngỡ thuốc lào được sản xuất từ nước Lào, nhưng hoàn toàn không phải thế. Loại
thuốc này chỉ có ở Việt Nam , nó đã đi vào ca dao tục ngữ Việt Nam từ rất xa xưa
“Nhớ ai như nhớ thuốc lào. Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”. Hơn thế
nữa, trong 54 dân tộc anh em, hầu như dân tộc nào cũng biết hút thuốc lào.
Thuốc lào được hút bằng điếu bát
loại thông dụng cho hầu hết các gia đình. Điếu ống dùng trong những gia
đình quyền quý. Để cho tiện dụng khi xa nhà, những người lao động lại hút bằng điếu
cày - loại điếu để hút thuốc trong lúc cày bừa ở đồng ruộng nên gọi là điếu
cày. Cùng với cơi trầu, chiếc điếu và bộ đồ pha trà là những đồ dùng tiếp khách
trong mỗi gia đình.
Trầu xanh, cau trắng, chay hồng,
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với
duyên
107.
Phong tục trọng
người cao tuổi
Một trong những biểu hiện của tình
thương yêu quý trọng con người của dân ta là lòng kính yêu những bậc già cả
tuổi tác.
Tình cảm này có lẽ đã ăn sâu trong
cuộc sống cộng đồng của người Việt từ thuở xa xưa, từ thuở mà người già nhất
trong cộng đồng cũng chính là người đảm đương công việc điều hành cộng đồng,
dựa trên kinh nghiệm sống và uy tín về mọi mặt của bản thân mình. Giao lưu với
văn hoá phương Bắc, ông cha ta có thêm một khái niệm để biểu thị lòng kính yêu
này, đó là coi tuổi thọ là một tước vị trời ban (thiên tước), xét về mặt nào đó
mà nói thì thiên tước có khi còn được coi trọng hơn tước vị của triều đình.
Chúc thọ - Lên lão - Khao lão
Lệ thường cứ 60 tuổi là lên lão; có
nơi 50 tuổi cũng được lên lão. Từ đấy ông lão được miễn mọi công việc, mọi sự
đóng góp, nhân dịp này con cháu trong nhà tổ chức lễ mừng thọ, biện lễ ra đình
tế thần rồi chia phần biếu các chức sắc trong làng, gọi là khao lão.
Qua lệ khao lão, các cụ chính thức gia nhập lớp người vì tuổi tác mà được trọng
vọng trong xóm làng chứ không nhất thiết cần phải là đã từng giữ chức vị gì.
“Sống lâu lên lão làng” là như vậy. Từ đó, nếu các cụ sống tới 80 tuổi thì con
cái tổ chức lễ mừng lớn hơn gọi là lễ mừng thượng thọ.
Yến lão
Nhà nước phong kiến cũng có những
hình thức biểu thị lòng tôn kính tuổi già. Trong lĩnh vực chính trị, có thể nêu
Hội nghị Diên Hồng đời Trần làm thí dụ. Trong sinh hoạt xã hội, đó là lệ yến
lão, một hình thức tôn vinh người già cả, có tác dụng lớn đối với việc đề cao
thuần phong mỹ tục.
Yến lão là tiệc vua ban cho người già trong nước. Hàng năm, theo chỉ dụ của
triều đình, các tỉnh chọn một ngày lành trong mùa xuân, trích công quỹ đặt bữa
tiệc để mừng thọ người già cả trong hàng tỉnh. Ở Hà Nội, ngày trước có lưu
truyền câu ca:
Ung dung gậy trúc chống đi,
Áo chùng chấm gót mũ ni che đầu.
Cụ ơi, cụ sắp đi đâu?
Ra đình yến lão tiệc chầu vua ban!
Cháu ơi, cháu chơi cho ngoan,
Cụ về có gói phần ban chia đều.
Ơn vua ít cũng như nhiều.
Theo Doãn Kế Thiện trong Hà Nội cũ, đình Yến lão ngày trước ở vào quãng đầu
đường Điện Biên Phủ hiện nay. Nơi đó gần Hoàng Thành. Ngày ban yến lão thường
là vào trung tuần tháng hai ta. Các cụ già ở các phủ huyện quanh Hà Nội được
quan sở tại đưa vào điện Kính Thiên làm lễ bái mạng. Vì tuổi già cho nên chỉ
cần đứng bá vai chứ không phải quỳ lạy. Sau đó, quan khâm mạng tuyên đọc sắc
chỉ, nêu bật ý nghĩa “tôn trọng tuổi già” của nhà vua. Tiếp đó, các cụ được đưa
sang đình Yến lão, cứ bốn cụ cùng tuổi ngồi một cỗ, cùng nhau uống rượu trò
chuyện. Tương truyền có nhiều lần, các cụ chỉ uống rượu suông, còn thức ăn, hoa
quả, bánh trái trên mâm cỗ cùng tiền lụa vua ban các cụ chia nhau mang về cho
gia đình con cháu để đều được chung hưởng ơn vua lộc nước.
Cũng như trên cả nước, Hà Nội nay có hội Người cao tuổi. Tổ chức của hội có tới
cấp xã phường. Trên đại thể, các cụ đã và đang là những tấm gương sáng, trong
sạch, thanh cao, yêu nước, yêu dân, để cho lớp trẻ noi theo, xây dựng xã hội
văn minh, gia đình văn hoá.
108. Tục "Juê nuê" trong hôn nhân của người Êđê
1. Juê nuê [1] là một luật
tục cổ truyền, tồn tại đã khá lâu và bền vững trong hôn nhân của người Êđê. Nét
nổi bật trong quy tắc hôn nhân của đồng bào được quy định cho từng trường hợp
với 9 điều luật và được bảo vệ nghiêm ngặt trong hôn nhân truyền thống (từ điều
97 đến điều 103 về luật hôn nhân và gia đình).
Đây là một kiểu tập quán hôn nhân
(quy định cho chị em vợ và anh em chồng) có truyền thống từ xa xưa. Luật tục
quy định rõ “rầm sàn gẫy thì phải thay, giát sàn nát thì phải thế, chết
người này phải nối bằng người khác”. Bởi đồng bào sợ rằng: “gia đình sẽ
tan tác ngoài nương rẫy, dòng họ sẽ kiệt quệ, giống nòi sẽ khô kiệt như những
dòng suối cạn nước, kẻo tuyệt nòi không còn con cháu nữa”, vì vậy, trong
trường hợp chồng chết, người phụ nữ có quyền đòi hỏi nhà chồng phải thế một
người em trai chồng để làm chồng mình. Ngược lại, nếu người vợ chết, chồng
người phụ nữ ấy có thể lấy em gái vợ (em ruột hoặc em họ của vợ) để nối nòi.
Ngoài ra, tục ]uê nuê này còn vượt ra ngoài cả phạm vi kiểu hôn nhân anh em
chồng hoặc chị em vợ (người trong dòng họ vợ hoặc chồng để làm nuê).
Với người Êđê, luôn xem gia đình là một “hrú mđao” (tổ ấm), nơi để cho
ông bà cha mẹ và con cái cùng chia vui, xẻ buồn. Trong đó bố mẹ là nguồn sống,
là hơi ấm, là nơi nương tựa của trẻ. Việc tìm cho những đứa trẻ bất hạnh ấy một
người “kế” [2] để thay thế người qua đời nuôi dạy chúng là điều cần
thiết. Hơn nữa tục Juê nuê không những tìm mẹ (hoặc cha) làm chỗ dựa tinh thần
cho những đứa trẻ bất hạnh, tìm bạn đời cho người còn lại mà người này có nhiệm
vụ thay người xấu số chăm sóc con cái, quản lý tài sản, đất đai (nếu có) và duy
trì gia đình như nó vốn có. Đồng thời, vẫn tiếp tục giữ mối quan hệ thân tình,
bền vững mà hai gia đình đã tạo dựng từ trước đến nay. Trong thực tế, chúng tôi
thấy đa số những người vợ (hoặc chồng) nuê ấy đứng ra thay người đã khuất để
đảm nhiệm vai trò nuê này một cách tự nguyện[3].
Tục ]uê nuê được xem như là một luật tục bình thường, hiển nhiên và được
cộng đồng thực hiện một cách tự nguyện như mọi luật tục khác trong hôn nhân
truyền thống từ bao đời nay. Trường hợp người nuê chênh lệch quá về tuổi tác
thì họ chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa, trường hợp này cũng đã được luật tục
điều chỉnh và quy định rõ ràng: “Nếu người goá đã đứng tuổi mà người thay
thế còn nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu làm vợ (chồng), thì người goá phải có
trách nhiệm nuôi nấng, dạy bảo nuê như một đứa trẻ bình thường khác” (điều
99, điều 100, điều 101 trong luật tục hôn nhân và gia đình). Luật đã quy định
người góa phải “Biết che chở, chờ đợi nuê, đến một lúc nào đó nuê sẽ làm
được nhiệm vụ nối tiếp giống nòi”. Như vậy, tùy theo từng trường hợp, mỗi
một trường hợp khác nhau luật tục có những quy định khác nhau về việc Juê nuê
(trường hợp vợ nuê, chồng nuê quá nhỏ, hoặc người còn lại đã quá già yếu thì
phải tìm một người tương xứng với nuê để thay thế mình làm chồng (hoặc vợ) nuê.
Nếu ai vi phạm những điều đã quy định trên thì coi như đã vi phạm luật tục).
Việc duy trì và bảo vệ gia đình mẫu hệ không chỉ biểu hiện ở tục Juê nuê mà còn
thể hiện trong quan hệ giữa các chị em gái ruột, và con cái của họ nữa. Trong
tộc mẹ, những người phụ nữ luôn luôn xem những đứa con của các chị em gái ruột
hoặc chị em gái họ như con đẻ. Không những thế họ còn nuôi nấng, yêu thương và
chăm sóc nó như chính con đẻ của mình. Những người phụ nữ được sinh ra cùng một
mẹ hoặc một bà không chỉ gọi con mình là con (dam: con trai, con gái: anak
(hoặc mniê điêt)) mà họ gọi cả những đứa con trai con gái của chị em gái mình
cũng là anak (con). Tương tự như vậy, những người đàn ông cũng gọi con trai và
con gái của anh em trai mình là anak. Những đứa con của chị em gái không chỉ
gọi mẹ mình là amí (mẹ) mà còn gọi chị của mẹ mình là amí próng (mẹ lớn), em
gái của mẹ là amí mneh và dì út thường được gọi là amí điêt hoặc amí mda (mẹ
nhỏ, mẹ trẻ). Những đứa trẻ cùng bà ngoại (con của các chị em gái cùng một mẹ)
đều coi nhau như anh em một mẹ. Như vậy, việc người phụ nữ trong dòng họ của vợ
chấp nhận làm vợ nuê không những xuất phát từ tình yêu thương với người góa kia
mà còn có trách nhiệm và tình thương đối với những đứa trẻ bất hạnh. Theo đồng
bào, làm như vậy không những làm “đẹp lòng” Yang mà còn mang lại hạnh
phúc cho những đứa trẻ bất hạnh, cho dòng họ và đây cũng là một trong những quy
định để bảo vệ gia đình mẫu hệ.
2. Trong văn học dân gian Êđê, vấn đề Juê nuê được phản ánh khá phong phú. Điều
này được nghệ nhân dân gian thể hiện rõ nhất trong khan-sử thi (khan Dam Săn,
khan Khinh Jú…), một thể loại văn học có giá trị vô cùng to lớn trong nền văn
hóa dân gian Việt Nam.
Trong sử thi khan Dam Săn, anh hùng Dam Săn và H’Jí là đôi vợ chồng nuê. Phần
đầu của khan Dam Săn, khi bà H’Bia Klu chết, dòng họ bên H’Jí thay thế bà bằng
cháu cho ông Mtao Kla, H’Jí còn nhỏ chưa thực hiện được việc “kế tiếp giống
nòi”, ông Mtao Kla đã chăm sóc H"Jí như những đứa cháu khác, khi người
“vợ nuê” này của ông Mtao Kla thành thiếu nữ thì cũng là lúc ông “mắt đã mờ tóc
bạc, như tàu lá đã héo hon, không mong gì rồi đây ông còn lấy cháu ông được.
Khi nương đã cằn, rẫy đã cỗi, khi cây đã đổ, gỗ đã mục, khi ông đã già”[3] và
ông không còn có thể làm chồng nàng H’Jí được nữa, nên ông đã chọn Dam Săn thay
thế mình làm chồng H’Jí. Việc ông Mtao Kla chăm sóc H’Jí lúc nhỏ tuổi không
những là trách nhiệm của một người chồng đối với người vợ nuê nhỏ tuổi như luật
tục đã quy định, mà còn thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của một người đàn ông
với vai trò là ông, là người thân trong gia đình đối với đứa trẻ đang còn dưới
tuổi vị thành niên.
Như vậy, tục Juê nuê không những tìm lại sự trọn vẹn của gia đình mẫu hệ, tạo
điều kiện cho con trẻ không bị khủng hoảng về tình cảm, tâm lý mà còn bảo vệ
của cải vật chất, bảo vệ gia đình mẫu hệ. Theo họ, có như vậy thì gia đình mới
không bị “đứt dây”, người còn lại “ không bị lẻ đôi đơn chiếc”. Điều
này, nếu xét trên bình diện xã hội học thì luật tục Juê nuê chưa hẳn là một
luật tục lạc hậu, ấu trĩ mà nó mang tính nhân văn rất cao trong việc bảo vệ sự
bền vững trong hôn nhân, đồng thời bảo vệ quyền lợi bên dòng mẹ, cũng có nghĩa
bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ - những người thường phải chịu thiệt thòi
nhiều hơn nam giới trong xã hội.
3. Hiện nay trong hôn nhân của
người Êđê, tục Juê nuê vẫn còn tồn tại và vẫn được bà con áp dụng ở mức độ đậm
nhạt khác nhau. Tuy nhiên, việc chấp nhận làm vợ hoặc chồng nuê đều được thực
hiện một cách tự nguyện, không ép buộc. Có thể nói luật hôn nhân - gia đình nói
chung và tục ]uê nuê nói riêng gắn với sự bảo vệ và duy trì gia đình mẫu hệ,
trong đó cơ chế tâm linh đã chi phối các thành viên trong cộng đồng Êđê gắn bó,
ràng buộc với nhau thông qua hôn nhân. Và sự gắn bó này vẫn dựa trên nguyên tắc
một vợ một chồng, tôn trọng, dân chủ, tự nguyện, yêu thương và bình đẳng.
Chú thích:
[1] Juê nuê (hoặc m]ueâ nuê): mjueâ có nghĩa là nối, nuê: một từ dùng để gọi
người vợ hoặc chồng được thay thế.
[2] Juê nuê đã được quy định theo luật tục và được mọi người chấp nhận, thường
trước khi di quan một ngày, người ta phải thông qua ý kiến này trước dòng họ,
bà con hai họ, còn việc được chấp nhận hay không và sẽ chấp nhận với đối tượng
nào, điều đó lại phụ thuộc vào người goá ấy. Dĩ nhiên người goá phải thật sự
xứng đáng là người vợ, người mẹ (người chồng, người cha) của những đứa trẻ kia
thì dòng họ mới tìm cho một người nuê.
[3] Bản thân tôi đã từng chứng kiến cuộc hôn nhân theo kiểu Juê nuê này (1994).
Người cô út của tôi qua đời lúc 36 tuổi, chị gái của cô út tôi chấp nhận làm vợ
nuê của chú dượng tôi, cả hai người cùng đến với nhau tự nguyện, cô lớn tôi đã
yêu thương hai đứa con của cô út như con ruột, không hề phân biệt đối xử. Hiện
tại họ đã có với nhau một con gái và rất hạnh phúc.
Một trường hợp khác ngay tại xã Eâa Bông, huyện Krông Ana, năm 1998 một cán bộ
y tế chết vợ, anh ta kết hôn với em gái của vợ, cả hai đến với nhau tự nguyện.
Hiện nay, họ đã có thêm hai đứa con và sống rất hạnh phúc cùng với 4 người con
(cả con chung và con riêng).
109.
Thời gian để
tang
Việc để tang ở nước ta chia ra đại
tang và tiểu tang. Về tiểu tang có 4 bậc, đại tang chỉ có 1 bậc. Đại tang và
tiểu tang gồm tất cả 5 bậc, gọi là ngũ phục.
1. Đại tang: để tang 3 năm.
Thời gian để đại tang là 3 năm, nhưng trên thực tế, người ta chỉ để đại tang có
27 tháng. Trong thơ bà Hồ Xuân Hương cũng đã nói tới điều này. Khi ông Phủ Vĩnh
Tường mất, bà làm bài thơ để khóc ông ta trong đó có hai câu nói về việc để
tang: "Hai bảy tháng trời là mấy chốc,/ Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường
ơi!"
Đại tang dành cho con để tang cha mẹ ruột và cha mẹ nuôi, nàng dâu để tang cha
mẹ chồng, vợ để tang chồng, cháu đích tôn thừa trọng (thay cha khi cha mất) để
tang ông bà, và chắt thừa trọng (thay cha và ông khi cha và ông đều mất) để
tang cụ ông cụ bà.
2. Tiểu tang
Theo tục lệ, tiểu tang có nhiều loại với tên khác nhau và thời gian để tiểu
tang cũng khác nhau tùy theo thân sơ.
a. Cơ niên: để tang một năm
Để tang một năm còn gọi là cơ niên. Để tang một năm dành cho cha mẹ để tang cho
con trai, con dâu trưởng, và con gái (chưa đi lấy chồng); chồng để tang cho vợ;
con rể để tang cho cha mẹ vợ; anh em và chị em (chưa đi lấy chồng) kể cả anh
chị em cùng cha khác mẹ để tang cho nhau; em để tang cho chị dâu trưởng; cháu
trai và cháu gái (chưa đi lấy chồng) để tang cho ông bà nội; cháu để tang cho
chú bác ruột và cô ruột (chưa đi lấy chồng); cháu dâu để tang cho ông bà nhà
chồng.
b. Đại công: để tang 9 tháng
Để tang 9 tháng còn gọi là đại công. Để tang 9 tháng dành cho cha mẹ để tang
con gái (đã đi lấy chồng) và con dâu thứ; chị em ruột (đã đi lấy chồng) để tang
cho nhau; anh em con chú con bác ruột để tang cho nhau; chị em con chú con bác
ruột (chưa đi lấy chồng) để tang cho nhau.
c. Tiểu công: để tang 5 tháng
Để tang 5 tháng còn gọi là tiểu công. Để tang 5 tháng dành cho anh chị em cùng
mẹ khác cha để tang cho nhau; chị em con chú con bác ruột (đã đi lấy chồng) để
tang cho nhau; con để tang cho dì ghẻ; cháu để tang cho ông chú, bà bác, và bà
thím; cháu để tang cho bà cô (chưa đi lấy chồng), chú họ, bác họ, thím họ, cô
họ (chưa đi lấy chồng), ông bà ngoại, cậu, và dì ruột; và chắt để tang cho cụ
ông cụ bà bên nội.
d. Ti ma: để tang 3 tháng
Để tang 3 tháng còn gọi là ti ma. Để tang 3 tháng dành cho cha mẹ để tang cho
con rể; con cô con cậu và đôi con dì để tang cho nhau; cháu để tang cho ông chú
họ, ông bác họ, bà cô họ (chưa đi lấy chồng), bà cô (đã đi lấy chồng), và cụ cô
(chưa đi lấy chồng); chắt để tang cho cụ chú cụ bác; và chút để tang cho kỵ ông
kỵ bà bên nội.
Chúng ta nhận thấy một điều nổi bật nhất trong việc để tang của người Việt là
quan niệm "trọng nam khinh nữ," chẳng hạn như thời gian vợ để tang
chồng là 27 tháng, tức là đại tang. Còn chồng để tang vợ chỉ có một năm và được
coi là tiểu tang mà thôi. Một điều đặc biệt nữa là khi người con gái đã đi lấy
chồng thì bị coi là ngoại tộc, đúng với quan niệm “nữ nhân ngoại tộc" và
"dâu là con rể là khách.” Người đàn bà, nếu đã đi lấy chồng, khi mất đi,
được thân nhân để tang một thời hạn ngắn hơn là lúc chết mà chưa có chồng.
Việc để tang của ta đã thể hiện một nền văn minh lâu đời, có tôn ti trật tự, có
phép tắc hẳn hoi, và thân sơ phân biệt rõ ràng.
Việc để tang cần phải học hỏi và được giáo dục mới biết và thực hiện đúng theo
phong tục được. Nhìn vào việc con cái để tang ông bà hay cha mẹ mà người ta
biết được gia đình đó có giáo dục theo nếp Việt hay không.
Để tiện công ăn việc làm và lo cho đời sống hằng ngày, ngày nay đồ tang phục
chỉ được mặc cho đến khi chôn cất thân nhân xong. Sau đó, người ta đeo một cái
băng màu đen ở tay áo trái rộng độ 10 phân đối với đàn ông trong trường hợp đại
tang, và đeo một miếng vải đen nhỏ bằng đầu ngón tay cái ở nẹp áo trước ngực
hay ở trên mũ trong trường hợp tiểu tang. Còn đàn bà, người ta thường vấn khăn
trắng hay cài miếng vải đen ở trước ngực phía trái khi mặc áo dài.
110.
Tín ngưỡng thờ
thần nước của người dân Bắc Ninh
Thờ Thần nước là một trong những
tín ngưỡng cổ xưa của người Việt mà ngày nay vẫn còn thấy rõ nét ở các ngôi
làng cổ Bắc Ninh: Kẻ Diềm (làng Viêm Xá), Kẻ Chóa (thôn Chân Lạc, xã Dũng Liệt)
và hệ thống các đền thờ Bách Noãn ở phía Nam sông Đuống. Theo các nhà nghiên cứu thì Bắc
Ninh là vùng nông nghiệp phát triển sớm vì điều kiện tự nhiên thuận lợi. Thời
trước các kinh đô cổ đều tập trung lâu dài ở vùng này, tiêu biểu là dàn trải
gần hết thời Bắc thuộc. Nông nghiệp lúa nước phát triển thì nước rất cần để tưới
tiêu đồng ruộng nhưng có những năm hạn hán lại liên tiếp xảy ra, mùa màng thất
bát, có những năm lại mưa lũ, đồng ruộng lại ngập úng tất cả đều vì nước. Vì
thế mà người dân nơi đây sớm có tục thờ Thần nước để cầu khấn Thần cho nước
dưới sông hiền hòa không gây lũ lụt, nước trên trời rơi xuống đúng lúc để người
dân có thể canh tác trên đồng được thuận lợi.
Có dịp đến làng Diềm trong tiết
Thanh Minh (mồng 3 tháng 3 âm lịch) chắc hẳn mọi người sẽ có dịp tham dự lễ
cúng nữ thần Giếng và thần cá ở đền Giếng hay còn gọi là đền Cùng. Theo truyền
thuyết thì ngôi đền này được xây từ năm 1642, khi vùng này là rừng núi um tùm,
người dân đến khai phá và dựng nên một ngôi đền, trước cửa đền lại cho đào một
cái giếng lấy nước từ mạch ngầm từ trong núi chảy ra và lấy nước đó để nấu ăn.
Trong giếng có một đôi cá mà theo các bô lão thì đôi cá này đã sinh sống ở đây
cả trăm năm, dù có lụt lội nước tràn ngập làng cá vẫn không đi và được dân làng
gọi là "Cá Thần". Cứ hàng năm vào tiết Thanh minh người dân trong
làng lại chuẩn bị vật phẩm gồm xôi gà, ngũ quả, hương hoa và chọn ra vài chàng
trai tân đến làm lễ tát giếng, đôi "Cá Thần" được trân trọng vớt lên
thả vào 1 cối đá to (đường kính khoảng 1m) bên cạnh bờ giếng. Trong đền dân
làng tổ chức tế lễ thì phía ngoài bên bờ giếng cũng làm lễ thờ Cá (gọi là ông
Cá).
Cũng là tục thờ Thần nước nhưng
làng Kẻ Chóa và hệ thống các đền thờ Bách Noãn ở phía Nam sông Đuống lại thờ
các con của Lạc Long Quân và Âu Cơ mà thể hiện rõ nét nhất là tục "Cầu
đảo" - cầu mưa mỗi khi hạn hán. Nghi thức tế lễ Thần được tiến hành trong
ba ngày liền, không mưa lại ba ngày tiếp theo. Nếu trời vẫn không mưa thì dân
làng tổ chức "Tắm kiệu" trên sông, người ta sẽ dùng gáo đồng múc nước
dội lên kiệu. Sau lễ tắm kiệu mà trời vẫn không mưa, dân làng lại tổ chức
"Rước bơi" - tổ chức bơi chải. Sau ba ngày rước bơi mà trời vẫn không
mưa thì nhân dân ở đây tổ chức "Rước huyện", tức đồng loạt các làng
ven sông đều tổ chức tế lễ cầu đảo.
Đây là một tín ngưỡng cổ xưa của
người Việt cổ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay tại các ngôi làng cổ ven sông mà
không phải bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam ta có thể tìm thấy. Nó chứng
tỏ một đều là nước Việt đã tồn tại từ rất lâu đời và con người luôn sống gắn bó
với thiên nhiên, đồng ruộng, xóm làng, văn hóa Việt Nam không dễ phôi pha khi
mà đất nước Việt Nam ngày càng phát triển.
111.
Gia phả hoàn
chỉnh có những mục gì?
Gia phả được coi là hoàn chỉnh
trước hết phải là một gia phả được ghi chép rõ ràng, chữ nghĩa chân phương có
ghi rõ tên người sao lục, biên soạn thuộc đời thứ mấy, năm nào, triều vua nào,
căn cứ vào bản nào, tên người tục biên qua các đời cũng có cước chú rõ ràng.
Đầu gia phả có lời tựa ghi được nguồn gốc xuất xứ của thủy tổ có cứ liệu thành
văn hay truyền ngôn.
Mở đầu là thuỷ tổ, lần lượt đến
tiên tổ các đời, nối dòng đến lớp con cháu mới sinh.
Đối với tiền nhân có các mục sau
đây:
Tên: Gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường theo tập
quán địa phương? Thuộc đời thứ mấy?
Con trai thứ mấy của ông nào? Bà nào?
Ngày tháng năm sinh (có người còn ghi được cả giờ sinh).
Ngày, tháng, năm mất? Thọ bao nhiêu tuổi?
Mộ táng tại đâu? (có người ghi được cả nguyên táng, cải táng, di táng tại đâu?
Vào tháng, năm nào?).
Học hành, thi cử, đậu đạt, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi
mất: Thi đậu học vị gì? Khoa nào? Triều vua nào? Nhận chức vị gì? năm nào?
Được ban khen và hưởng tước lộc gì? Sau khi mất được truy phong chức gì? Tước
gì? (Đối với những vị hiển đạt thì mục này rất dài. Ví dụ trong Nghi Tiên
Nguyễn gia thế phả, chỉ riêng Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, mục này đã trên
mười trang)
Vợ: Chánh thất, kế thất, thứ thất...
Họ tên, con gái thứ mấy của ông nào, bà nào? Quê ở đâu? Các mục ngày, tháng,
năm sinh; ngày, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, đều ghi từng người như trên.
Nếu có thi đậu hoặc có chức tước, địa vị, được ban thưởng riêng thì ghi thêm.
Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ thì ghi rõ con bà nào? Con gái thì
cước chú kỹ: Con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi tên họ chồng, năm sinh, con
ông bà nào, quê quán, đậu đạt, chức tước? Sinh con mấy trai mấy gái, tên gì?
(Con gái có cước chú còn con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc
đời sau).
Những gương sáng, những tính cách, hành trạng đặc biệt, hoặc những công đức đối
với làng xã, họ hàng, xóm giềng...
Ngoài những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt
của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn hay, những bài thuốc gia
truyền...đó là những tài sản quý giá mà chúng ta để thất truyền, chưa biết khai
thác.
Những nội dung ghi trên chỉ có tính chất gợi ý với các bậc huynh trưởng các họ,
đang chăm lo công việc phổ biến và tục biên gia phả dành cho con cháu đời sau.
Còn phần trên gia phả hoàn chỉnh hay sơ sài, các cụ còn giành lại cho ta được
bao nhiêu biết bấy nhiêu, ai dám sáng tác thêm? Tuy nhiên, nếu tìm được quốc
sử, hoặc trong gia phả, thần phả khác những tư liệu liên quan thì có thể cước
chú kỹ, giúp đời sau thêm sáng tỏ.
Gia phả là gia bảo có đúng không?
Đúng
và rất đúng với những người có ý thức tôn kính tổ tiên và quý trọng tình cảm họ
hàng gia tộc. Gia phả là lịch sử của một dòng họ, một gia đình lớn. Thiết tưởng
không cần phải nói nhiều về ý nghĩa mà mỗi cuốn gia phả của từng dòng họ đều đã
nói rõ trong từng lời tựa. Đành rằng cái ăn, cái mặc để nuôi sống gia đình và
bản thân là việc hàng đầu. Nhưng có thấy nỗi day dứt của những người có tâm
huyết muốn truyền cho con cháu biết đời cha mình do ai sinh ra, từ đâu đến, tổ
tiên công đức ra sao, ngặt vì gia phả đã mất; có thấy được nỗi niềm của những
người trú ngụ ở phương xa không được cha ông truyền cho biết gốc gác của mình
từ đâu, họ hàng là ai, khi đó mới thấy đầy đủ ý nghĩa của hai chữ "Gia
phả-Gia bảo". Giọt nước rất quý đối với người sống trên sa mạc, còn đối
với người sống ven sông, dễ gì mỗi lần "Uống nước" lại phải "Nhớ
nguồn".
Thời trước họ nào cũng có gia phả, có họ từng nhà còn có gia phả. Nếu vì thuỷ,
hỏa, đạo tặc để mất vàng bạc- của cải gì thì mất, chứ không để mất gia phả.
Ngặt vì gia phả ngày xưa viết bằng chữ Hán, hơn nữa từng chi từng nhà chỉ nối
phần trực hệ của chi mình, nhà mình, thảng hoặc mới có một cuốn gia phả ghi đời
tiếp nối của chi anh, chi em, đến đời hai đời ba là cùng, do đó nếu một chi mất
gia phả thì chi khác không thể bổ cứu. Hiện nay, do mất gia phả nên nhiều họ
tuy cùng ở với nhau trong một địa phương vẫn không biết nhau, không nhận được
quan hệ họ hàng.
Về một ý nghĩa khác, gia phả sở dĩ gọi là gia bảo vì đó là lịch sử của tổ tiên
nhiều đời truyền lại, là điều tổ tiên muốn gửi gắm lại cho đời sau. Bất cứ họ
nào, bất cứ con người nào trong họ, có tài năng lỗi lạc đến đâu, cá nhân cũng
không thể viết được toàn bộ gia phả mà chỉ có kế thừa đời trước và truyền dẫn
đời sau.
Gia phả các họ là các nguồn bổ sung tư liệu rất quý, rất dồi dào cho quốc sử,
nếu các nhà sử học biết khai thác cũng có khả năng từ gia bảo trở thành quốc
bảo.
112. Trò thổi cơm thi
trong lễ hội cổ truyền
Trò thổi cơm thi phản ánh đậm nét
đời sống lao động của cư dân trồng lúa ở Việt Nam. Tùy theo tập quán của từng
địa phương, trò thổi cơm thi được tiến hành ở mỗi nơi một khác, nhưng nó không
chỉ là một trò chơi giải trí trong dịp lễ hội. Sản phẩm đoạt giải của cuộc nấu
cơm thi được coi là vật phẩm quý giá để cúng thần linh.
Tất nhiên, muốn có cơm thì phải có gạo và phải biết nấu, biết thổi. Dù không
khó khăn lắm, nhưng nếu không học hỏi, tập luyện thì cũng không thể nấu cơm
ngon. Do vậy, trò "thổi cơm thi" đã xuất hiện khá nhiều trong các hội
làng ở những vùng có đông cư dân trồng lúa. Trò thổi cơm thi cũng đã được nhìn
nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Người thì bảo thổi cơm thi là để có cơm nhanh
cho binh sĩ kịp ăn trước khi lên đường ra trận. Người thì nói thổi cơm thi là
một trò vui giải trí trong ngày hội.
Tuy nhiên, với cách nhìn của nhà nông, người ta vẫn có thể nói rằng, thổi cơm
thi là một trò diễn nhằm thể hiện lòng quý trọng lúa gạo, trau dồi thao tác chế
biến một sản phẩm nông nghiệp quan trọng bậc nhất do chính tay họ làm ra.
Tùy theo phong tục tập quán của từng địa phương mà trò thổi cơm thi được tiến
hành ở mỗi nơi một khác. Nơi thì tổ chức giữa sân đình, nơi thì thi thổi trên
thuyền ở giữa hồ nước, nơi thì phải tự kéo lửa, nơi thì vừa kết hợp làm thêm
việc khác... Nhưng dù tổ chức ở đâu và cách thức như thế nào thì cũng phải đảm
bảo tiêu chuẩn: nhanh và thật ngon, bất luận trong hoàn cảnh nào.
Hội làng Cảnh Thụy (Yên Dũng, Bắc Giang) mở vào mùa xuân hằng năm có trò thổi
cơm thi rất phong phú, độc đáo. Sau khi tế Thành hoàng, làng tổ chức một cuộc
thổi cơm thi với quy mô rộng lớn để nhiều người tham dự. Trò thi này được thực
hiện theo bốn kiểu sau đây:
Kiểu thứ nhất: Thành viên tham dự là các cô gái chưa chồng trang phục đẹp. Họ
vừa thổi cơm vừa phải bế một đứa trẻ chưa đầy một tuổi và giữ một con cóc không
cho nó nhảy ra khỏi cái vòng tròn có đường kính chừng 1 m. Ðịa điểm dự thi là
khu đất bằng phẳng bên cạnh đình làng, thời gian quy định là cháy hết một nén
hương dài khoảng 40 cm. Các cô gái dự thi đều phải buộc một sợi dây bao ở lưng
để cài vào phía sau dây bao ấy một cái cần câu uốn cong về phía trước mà treo
niêu thổi cơm. Vật dụng kèm theo là một nắm bùi nhùi, hai thanh nứa để kéo lửa,
nhai mía lấy bã làm củi. Mọi người dự thi phải tự mình thực hiện các khâu kéo
lửa, nhóm lửa, thổi cơm, giữ đứa trẻ không khóc, giữ cóc không ra khỏi vòng
trong khoảng thời gian quy định.
Sau khi thẻ hương cháy hết, những ai thổi được niêu cơm chín tới, thơm dẻo, khi
đập vỡ niêu có một lớp cháy vàng ôm lấy chung quanh và trong quá trình thi mà
con không khóc, cóc không nhảy ra khỏi vòng tròn là đoạt giải. Làng sẽ trao
giải thưởng và đem nồi cơm đoạt giải ấy vào đình làm lễ cúng thổ công cùng với
thần nông, thành hoàng.
Kiểu thứ hai: Cũng có phần tương tự như kiểu trước về mặt vật dụng nhưng
người dự thi là những cô gái cải trang thành con trai, trong lúc thi họ không
đứng một chỗ mà phải đi vòng quanh đình theo quy định một số vòng thì cơm phải
chín, phải thơm dẻo. Ở kiểu thứ hai này thời gian phải dài hơn bởi vì vừa đi
vừa thổi thì niêu cơm sẽ đung đưa làm cho lửa khó tập trung vào đáy niêu, vả
lại gió thổi trong lúc vận động cũng giảm bớt độ nóng của lửa. Trong trường hợp
ấy nếu người thi không điều khiển tốt thì rất có thể cơm không chín hoặc chín
không đều. Ði hết số vòng quy định thì dừng lại. Cơm người nào chín, ngon,
không vương vãi quanh nồi thì sẽ được thưởng, được đưa vào đình cúng thần linh
để cầu lộc, cầu may.
Kiểu thứ ba: Những người dự thi, từng đôi một, vừa bơi thuyền trên hồ,
vừa thổi cơm thi. Ðây là kiểu thuyền thúng đan bằng tre, bơi bằng tay, luôn
luôn chồng chềnh, nếu không khéo là lật xuống nước. Từng đôi phân công nhau một
người bơi, một người thổi cơm và bơi hết một số vòng quy định thì phải dừng lại
dù cơm đã chín hay chưa. Người thi cũng phải chuẩn bị dụng cụ đánh lửa, nhóm
lửa và củi để đốt (củi ở đây là những que đóm chứ không phải là bã mía như kiểu
thi thứ nhất). Cơm thi cũng nấu bằng nồi đất, buộc vào một cái cần phía trước
mũi thuyền, đáy nồi chỉ cách mặt nước khoảng 20cm. Kiểu thi này khó hơn hai
kiểu trước vì khoảng cách đốt lửa quá ngắn (20cm). Nếu đốt sát đáy nồi thì cơm
dễ bị cháy nhưng trong ruột vẫn chưa chín nhừ; nếu đốt lửa gần nước mà thuyền
chồng chềnh một tý là tắt luôn. Khi đã tắt thì củi bị ướt rất khó nhóm lại, nếu
nhóm được cũng đã hết thời gian. Trên trường thi lại có giám thị kiểm soát
nghiêm ngặt từ điểm xuất phát đến điểm về đích. Thi thổi cơm trên thuyền đã
khó, lại tổ chức vào buổi tối nên mọi thao tác đều khó khăn. Tuy vậy, do có sự
tập luyện, chuẩn bị chu đáo nên nhiều đôi vẫn giành được giải. Ðó là những
thuyền bơi về đích sớm nhất lại thổi được cơm chín, cơm dẻo.
Kiểu thứ tư: Vừa thi thổi cơm vừa hoạt động văn nghệ. Thành viên dự thi
là 20 cô gái xinh đẹp, chưa chồng được hàng tổng chọn cử. Bước vào cuộc thi, họ
phân thành hai nhóm trong đó một nhóm cải trang thành nam giới. Họ cũng phải
chuẩn bị hai que nứa đánh lửa, bùi nhùi để nhóm, mía để nhai lấy bã làm củi,
niêu thổi cơm bằng đất treo trên cần như kiểu thi thứ nhất nhưng không phải giữ
con, trông cóc. Hai nhóm này vừa khẩn trương thổi cơm, vừa hát đối đáp với nhau
theo kiểu hát giao duyên nam nữ thường thấy trong hội làng. Những người hát
cũng phải hát hay, đúng quy cách, bài bản theo trình tự hát vào đám, hát kết,
hát rã đám. Ban giám thị ngồi cạnh theo dõi lời hát, lượt hát, ghi vào thẻ để
cho điểm. Ngoài những bài hát quen thuộc, họ còn phải ứng khẩu đối đáp nhau
bằng sự sáng tạo của cá nhân. Giải thưởng trao cho nhóm thắng cuộc được căn cứ
vào chất lượng nồi cơm thổi được cùng với số lượng câu hát đối đáp của mỗi nhóm
diễn ra trong cùng một thời gian.
Làng Cao Ðài (thuộc huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh) hằng năm mở hội vào ngày 22
tháng bảy âm lịch để tưởng niệm Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải và công
chúa Phụng Dương (vợ của ngài) đã có công trong việc xây dựng, mở mang làng ấp.
Trong lễ hội có trò thổi cơm thi rất khó nhưng lại cuốn hút được sự quan tâm
của nhiều người. Cuộc thi này chỉ dành riêng cho những cô gái chưa chồng. Ban
chấm thi là các lão nông tri điền có uy tín do làng chọn cử, trong đó có một vị
chủ khảo điều hành chung. Chủ khảo đầu quấn khăn lụa đỏ, áo thụng vàng, quần
dài trắng ra điều khiển cuộc thi bằng những hồi trống dõng dạc, các tốp trai
gái mặc quần áo đẹp hát đối đáp làm nền. Các cô gái dự thi thì đi chân đất, mặc
áo tứ thân, váy lụa đen, yếm trắng, đầu chít khăn màu, lưng thắt dải lụa. Người
thi phải thực hiện tất cả các khâu từ đầu đến cuối nên phải chuẩn bị đầy đủ các
thứ như quang gánh, hũ đựng sẵn nước, bó đóm bằng tre ngâm phơi khô, bùi nhùi
rơm có ủ lửa, bã mía phơi khô, rá vo gạo, đũa bếp để khuấy cơm. Khi nghe trống
lệnh, các cô gái quảy gánh lên vai đi vòng quanh trường thi theo nhịp trống,
vừa đi vừa thực hiện các thao tác thổi cơm. Theo quy định của ban giám khảo thì
gánh trên vai của mỗi người phải thật cân, tay không được giữ đòn gánh mà gánh
vẫn không lệch về bên nào. Ðộng tác đầu tiên là phải lấy gạo, rót nước từ hũ ra
vò và phải giữ cho gạo không rơi một hạt (nếu rơi là bị loại ngay ở vòng đầu vì
đã phạm quy). Tiếp theo là rót nước vào niêu cho vừa, không được rơi một giọt
nào ra ngoài. Sau hai động tác ấy người dự thi phải chuyển hướng quang gánh đưa
bếp từ phía sau ra phía trước để lấy lửa từ mồi rơm ra bùi nhùi, ra đóm mà đốt
vào đáy niêu. Nước bắt đầu sôi thì lấy gạo ở phía sau đổ vào rồi tiếp tục điều
khiển cho đến khi cơm chín. Trong suốt quá trình thổi chỉ được dùng đũa bếp
khuấy cơm ba lần vào những thời điểm quy định chứ không được dùng hơn. Cái khó
trong cuộc thi này là đương sự phải tự mình làm rất nhiều khâu, tất cả đều nằm
trong quang gánh, nằm trên vai, phải thao tác theo bước đi, theo nhịp trống do
người khác điều khiển và phải tuân theo những quy định hết sức nghiêm ngặt của
ban giám khảo.
Vốn là những cô gái đồng quê hằng ngày tiếp xúc với củi đuốc gạo cơm, lại được
sự động viên, cổ vũ của dân làng và đặc biệt là những chàng trai chưa vợ đang
để ý, theo dõi nên nhiều cô vẫn hoàn thành được phận sự của mình, vẫn nhận được
phần thưởng của cộng đồng ban cho bàn tay sáng tạo khéo léo, cho đức tính kiên
nhẫn, cần cù mà kết quả của nó là những niêu cơm thơm dẻo, đảm bảo thời gian.
Làng Ðào Xá (Tam Thanh, Phú Thọ) trong lễ hội cầu xuân (29 tháng giêng âm lịch)
có trò thổi cơm thi thật là độc đáo. Gọi là thổi cơm nhưng chưa có gạo mà chỉ
mới có thóc nên buộc người dự thi phải xay giã, giần sàng từ đầu chí cuối rồi
mới thực hiện được công đoạn chính. Dĩ nhiên là thời gian trong cuộc thi này
phải dài hơn (khoảng 90 phút) và số người cũng phải đông hơn (4 người) vì không
chỉ thổi cơm mà còn phải cướp gà, thịt gà mới hoàn tất công việc.
Sáng 29, sau lễ cáo yết thành hoàng, trai đinh của bốn giáp trong làng bắt tay
vào cuộc thi, mỗi giáp cử 4 người đại diện. Ðịa điểm thi là giữa sân đình, mỗi
giáp dựng riêng một bếp ở góc sân để đun nấu đàng hoàng chứ không treo nồi vào
cần câu hay quảy nồi trên vai vừa đi vừa nấu như các làng trên. Bốn người tham
gia phân công nhau: một người cướp gà, một người kéo lửa, một người gánh nước,
một người giã gạo. Tất cả đều quần áo chỉnh tề buộc khăn đỏ ngang lưng và mang
theo đầy đủ dụng cụ như nồi đất thổi cơm, nồi đồng luộc gà, cối xay lúa, cối
giã gạo, một cái chày, một cái kiềng, một bó củi hay que giang, dao thớt đủ
dùng.
Sau ba hồi trống mở màn cuộc thi, mỗi người khẩn trương thực hiện phần việc của
mình. Người thì lên thềm đình cướp gà, người thì đến giếng gánh nước, người thì
xay giã gạo, người thì kéo lửa từ hai sợi giang. Vấn đề quan trọng để bảo đảm
thắng lợi là cả bốn người phải hoạt động đồng bộ, đều tay, phải tính toán việc
nào làm trước, việc nào làm sau để hợp lý, khỏi lãng phí thời gian và vật dụng.
Chẳng hạn nếu đưa nồi cơm lên thổi đầu tiên thì sẽ rất bất lợi vì đã cháy hết
củi nhưng gạo vẫn chưa xay giã xong. Trong trường hợp này họ có thể đun nước
sôi làm thịt gà sau đó mới nấu cơm. Nhưng nếu chưa bắt được gà thì cũng nhỡ. Do
đó các khâu phải được thực hiện liên hoàn, công việc này phải liên kết với công
việc kia mới có thể dành được kết quả như ý muốn. Phần thưởng của làng sẽ giành
cho giáp nào nấu được nhanh, cơm chín dẻo, gà thơm ngon.
Trong ngày hội đầu năm của làng Ðông Liệt (Nam Thái, Nam Ðàn, Nghệ An) thì có
trò thổi cơm thi theo từng cặp. Sau khi tế Thành hoàng ở đình, làng tổ chức
thổi cơm thi cho trai gái trong làng tham gia. Những người dự thi tự ghép thành
từng đôi - một nam, một nữ - đảm nhiệm một niêu cơm trình làng. Nữ thì trang
phục quần lĩnh, áo mớ ba, nam thì áo dài đen, quần trắng, thắt lưng xanh, đội
khăn xếp. Mỗi đợt thi có chừng 10 đôi. Họ phải chuẩn bị đầy đủ những thứ cần
thiết để khi bước vào trường thi không phải nhờ vả nhau như lúc ở nhà. Niêu cơm
được treo vào một chiếc dóng bằng thép mắc vào cây gậy do chàng trai quảy lủng
lẳng trên vai. Cô gái thì làm nhiệm vụ cầm bó đuốc đỏ lửa đi theo chàng trai để
đốt lửa vào đáy niêu cơm cho đến khi cơm chín. Cuộc thi ở đây không bắt đương
sự phải xay giã gạo, kéo lửa, lấy nước mà những thứ đó đã có sẵn. Tài khéo được
thể hiện qua việc đôi trai gái phải phối hợp chặt chẽ với nhau, phải hiểu ý
nhau, điều tiết cho nhau trong các động tác đun nấu. Vì cái niêu cơm luôn luôn
chuyển động theo nhịp bước của chàng trai nên cô gái cũng phải đi theo đúng nhịp
bước ấy thì ngọn lửa mới kề sát được đáy niêu. Nhưng nếu chàng trai bước không
đều, không nhẹ nhàng thì niêu sẽ lủng lẳng, ngọn lửa không bám được dễ dẫn đến
tình trạng cơm sống hoặc chín không đều hay không kịp thời gian. Rồi khi cơm đã
cạn thì cô gái phải biết bớt lửa kẻo cơm cháy. Bớt lửa nhưng không được phép
rút bớt đóm quăng đi mà phải điều chỉnh bằng cách xoay trở bó đuốc hoặc tiến
lùi bước chân. Việc làm này không dễ và người ta thường hơn thua nhau là ở chỗ
này.
Khi trống lệnh vang lên, các đôi trai gái dự thi lần lượt bước ra sân đình
trình làng. Trống điểm tiếp ba tiếng thì cuộc thi bắt đầu. Từng đôi một đi với
nhau, vừa đi vừa nấu cơm theo nhịp trống khoan thai của người cầm chịch. Bà con
xem hội đứng hai bên sân đình cổ vũ, hò reo, theo dõi từng động tác của con em
mình trong mọi thời điểm. Ðể giúp vui cho ngày hội, làng bố trí một chú làm trò
giữa sân đình. Chú len lách, trêu ghẹo hết đôi này đến đôi nọ cốt làm cho họ
mải vui mà sao nhãng công việc đang phải tiến hành.
Kết quả của cuộc thi là đôi nào nấu chín cơm nhanh nhất, ngon nhất thì sẽ được
ban giám khảo cho điểm cao nhất và làng sẽ tặng giải thưởng cho họ. Hội làng
Cảnh Dương (Quảng Trạch, Quảng Bình) vào dịp Tết Nguyên đán cũng có trò thổi
cơm thi tương tự như làng Đông Liệt. Ở đây, chỉ khác là phải đi lấy nước vo gạo
bằng một cái đĩa nhỏ, lại phải có hai thanh niên khỏe mạnh kéo lửa nên tổng số
từng tốp thi lên đến bốn, năm người. Họ cũng treo niêu vào cần câu dài rồi một
người vác đi, một người đốt lửa vào niêu để nấu cơm cho đến chín. Cả tốp vừa đi
vòng quanh sân vừa hò đối đáp với nhau rất vui vẻ nhưng cũng vừa phải trông coi
một con cóc buộc ở cạnh sân không cho nó nhảy ra ngoài cái vòng vôi đã vạch.
Kết thúc cuộc thi, tốp nào thổi nhanh, thổi ngon, giữ được cóc đúng vị trí thì
sẽ được làng tặng giải thưởng và bà con khen ngợi chúc mừng.
Trò thổi cơm thi trong lễ hội cổ truyền không chỉ là một trò chơi giải trí, thi
tài trong dịp lễ hội mà nó thực sự còn là loại trò diễn mang yếu tố nghi lễ.
Sản phẩm của cuộc nấu cơm thi thường được coi là thức cúng thần linh với ý
nghĩa phẩm vật ấy đã được tạo ra từ những gì quý giá, tinh khiết, trong trắng
nhất, mất nhiều công sức và được cả cộng đồng ủng hộ từ khâu chuẩn bị đến lúc
hoàn thiện sản phẩm biểu trưng cho lòng thành kính của cộng đồng đối với thần
linh.
Trò thổi cơm thi phản ánh đậm nét đời sống lao động của cư dân trồng lúa, ý
thức tôn trọng sản phẩm nông nghiệp là hạt thóc, hạt cơm. Tùy từng địa phương
khác nhau mà trò thổi cơm thi được lồng ghép vào những hình thức biểu hiện độ
khó khăn, phức tạp khác nhau.
Trò thổi cơm thi cũng là yếu tố quan trọng, một tín hiệu riêng để chúng ta có
thể nhận ra nét khác biệt giữa các lễ hội cổ truyền của từng vùng miền.
Thổi cơm thi là một thành tố trong cấu trúc tổng thể lễ hội cổ truyền. Thành tố
này có thể chỉ xuất hiện ở một vài lễ hội diễn ra tại một số vùng miền nhưng nó
đã trở thành một trong những hành động hội thu hút và làm say mê đông đảo dân
chúng. Và như vậy trò thổi cơm thi hội đủ điều kiện để có thể tồn tại mãi mãi
cùng với những lễ hội cổ truyền, cho dù ở một số địa phương, vì nhiều lý do
khác nhau, trò diễn này đến nay vẫn chưa được phục hồi hay không còn dấu vết
trong lễ hội làng, hoặc đã được thay bằng những hình thức khác, vật cúng khác
đồng đẳng với nó như thi bánh dày, thi xôi nén, thi bánh trôi, bánh tẻ, v.v.
113.
Trò chơi dân
gian - nét văn hóa dân tộc giàu bản sắc
Mỗi người chúng ta ai cũng đã từng
là một đứa trẻ và đã từng chơi những trò chơi của trẻ. Những vòng quay của con
quay (chơi cù) hay những bước nhảy lò cò của trò chơi ăn quan... tất cả như một
bức tranh sinh động của cuộc sống. Những điệu nhảy mềm mại, những cánh diều bay
nhè nhẹ trên cao như đưa văn hóa Việt Nam đến khắp năm châu.
Trò chơi trẻ em Việt Nam thường bắt
nguồn từ những bài đồng dao, một thể loại văn vần độc đáo của dân tộc. Đấy là
những bài ca có nhịp điệu đơn giản gieo vần một cách thoải mái, có thể ngắn dài
bất kỳ hoặc lặp đi lặp lại không dứt.
Chơi chọi gà là một trong những thú
chơi được trẻ em thích thú vì không chỉ nó là con vật gần gũi với đời sống của
trẻ mà nó còn mang ý nghĩa như một chiến binh khát vọng chiến thắng:
“Con gà cục tác cục ta/ Hay đỗ đầu
hè hay chạy rông rông/ Má gà thì đỏ hồng hồng/ Cái mỏ thì nhịn, cái mồng thì
tươi/ Cái chân hay đạp hay bơi/ Cái cánh hay vỗ lên trời gió bay”.
Hay bài đồng dao của trò chơi ô ăn
quan: “Hàng trầu hàng cau/ Là hàng con gái/ Hàng bánh hàng trái/ Là hàng bà
già/ Hàng hương hàng hoa/ Là hàng cúng Phật...”. Vì đặc tính của trò chơi rất
đơn giản, chỉ là những hòn sỏi được rải trên nền đất và khi chơi phải đếm từng
hòn sỏi một nên nó là trò chơi hiền lành, không đòi hỏi nhiều lắm vào trí tuệ,
sức lực nhưng lại yêu cầu tính kiên nhẫn nên người chơi chủ yếu là các em gái.
Rồng rắn lên mây là trò chơi gắn
với đồng dao nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn
kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp, có liên quan đến nghi thức cầu mưa
của cư dân nông nghiệp: “Rồng rắn lên mây/ Có cây núc nắc/ Có nhà khiển binh/
Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không...” .
Đồng dao được cấu trúc theo một
lôgic riêng, đôi khi không có nghĩa gì cả, nhưng bằng tư duy liên tưởng, trẻ em
vẫn có thể nhập vào câu hát để dẫn đến những kết cục bất ngờ: cái ngược đời,
cái phi lý, lại có thể chấp nhận vì đấy là bài hát của trẻ em.
“Cây mốt, cây mai, lá trai, lá hến,
con nhện chăng tơ, quả mơ có hạt...” là bài đồng dao mà các cô bé thường hát để
chơi chuyền. Đây là trò chơi chủ yếu dành cho bé gái, dụng cụ là một quả bóng
(có thể được thay bằng một hòn đá hoặc quả ổi xanh) và 10 que tre được vót tròn
(có thể thay bằng đũa).
“Cút ca cút kít/ Làm ít ăn nhiều/
Nằm đâu ngủ đấy/ Nó lấy mất cưa/ Lấy gì mà kéo...” là bài đồng dao của trò chơi
quay (cù) cũng được trẻ em yêu thích. Ta có thể bắt gặp những đứa trẻ túm năm
tụm ba, bỏ quên hết nhọc nhằn của cuộc sống, những bài học khó để cuốn theo
vòng xoáy của những con quay.
Từng vòng, từng vòng xoay tít, vui
thú với những cú đánh lắc bổ nhào trúng quay của đối phương, cuộc sống của
chúng dường như chỉ có vậy. Con quay được tiện hay đẽo bằng gỗ, hình giống quả
ổi; tuỳ theo từng địa phương, dân tộc mà con quay có thể có hoặc không có núm
(còn gọi là tu) ở phía trên. Bên dưới thân quay có “chân” làm bằng gỗ hoặc bằng
đinh hình chóp nón hoặc không có “chân”. Khi chơi, các em quấn dây một vòng
quanh tu, sau đó quấn dần xuống thân. Kẹp đầu dây còn lại có nút thắt vào giữa
hai ngón tay để giữ dây, sau đó vung tay liệng hoặc bổ quay rơi xuống đất. Lúc
này, theo quán tính con quay sẽ quay tít, gần như đứng yên (ngủ), sau đó các em
khác ra bổ quay hoặc cứu quay và xác định người thắng cuộc.
Trò chơi dân gian có nhiều thể loại
phù hợp với các sở thích, cá tính khác nhau của nhiều đối tượng người chơi như
sôi nổi, điềm đạm hay trầm tĩnh. Mỗi trò lại có một quy luật riêng, mang những
sắc thái khác nhau khiến trẻ em chơi suốt ngày mà không thấy chán.
Rồng rắn lên mây, cướp cờ... là trò
chơi nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn kết, tôn
trọng kỷ luật và khả năng đối đáp.
Đẩy gậy lại có nhiều nét tương đồng
và gần gũi với môn thi đấu vật hay chọi trâu của người lớn.
Trò kéo co cũng thể hiện tinh thần
thượng võ, rèn luyện thể lực và sự nhanh nhẹn, khéo léo.
Đánh đáo, chơi chuyền, chơi ô ăn
quan lại rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cá nhân, khả năng tính toán, phán đoán chính
xác. Từ chỗ ganh đua mang tính chất tượng trưng, dần dần các trò chơi trở thành
những cuộc thi tài, thi khéo, các cuộc thi đấu thể thao như bi sắt, nhẩy ngựa,
đá cầu...
Trò chơi dân gian chủ yếu dành cho
trẻ em ở các vùng nông thôn nên cái tên cũng giản đơn, nôm na như tên thằng Tí,
con Na, thằng Ốc, cái Hến vậy: nào là đánh đáo, đánh quay, nào là đi cà kheo,
nổ pháo đất...
Hơn nữa, các trò chơi dân gian Việt
Nam thường giản tiện, không cầu kỳ, tốn kém nên có thể dễ dàng chơi mọi lúc,
mọi nơi, dụng cụ dễ kiếm, dễ làm, chủ yếu lấy từ trong tự nhiên, thậm chí chỉ
là cái gậy, hòn đá, hòn bi chúng có thể nhặt trong vườn, dưới ruộng là có thể
lập được một hội chơi.
Người chơi thường là những trẻ chăn
trâu lê la túm tụm ngoài bãi cỏ, ngoài việc vui đùa, rèn luyện thân thể, còn
thể hiện nỗi khát khao chiến thắng tiềm ẩn trong mỗi đứa trẻ.
PGS.TS Nguyễn Văn Huy, Giám đốc Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam cho rằng: “Cuộc sống đối với trẻ em không thể thiếu
những trò chơi. Trò chơi dân gian không đơn thuần là một trò chơi của trẻ con
mà nó chứa đựng cả một nền văn hóa dân tộc Việt Nam độc đáo và giàu bản sắc.
Trò chơi dân gian không chỉ nâng cánh cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển khả
năng tư duy, sáng tạo, sự khéo léo mà còn giúp các em hiểu về tình bạn, tình
yêu gia đình, quê hương, đất nước. Trẻ em ở một xã hội công nghiệp, chỉ quen
với máy móc và không có khoảng trống để chơi cũng là một thiệt thòi. Thiệt thòi
hơn khi các em không được làm quen và chơi những trò chơi dân gian của thiếu
nhi thuở trước - đang ngày càng bị mai một và quên lãng, không chỉ ở các thành
phố mà còn ở cả các vùng nông thôn, nơi mà đang dần bị đô thị hóa mạnh mẽ. Vì
thế giúp các em hiểu và tìm về cội nguồn với những trò chơi dân gian là một
việc làm cần thiết”.
114. Tục thờ thần chuột
của người Dao Tiền Hòa Bình
"Uống nước nhớ nguồn",
"ăn quả nhớ kẻ trồng cây" là một trong những lề luật của dân tộc Việt
Nam từ ngàn xưa. Người Dao Tiền ở Hòa Bình cũng thế, họ có một tập tục vô cùng
kỳ lạ là thờ chuột, trong làng lập hẳn một ngôi miếu thờ.
Theo những người con của bản Bương,
vùng Đà Bắc, Hòa Bình này thì tổ tiên xa xưa của họ khi đến vùng đất này thường
xuyên phải chịu đói, chịu rét, thức ăn vô cùng khan hiếm còn chuột thì nhiều vô
kể. Cũng chính vì vậy mà thịt chuột trở thành thức ăn chính không thể thiếu
trong mỗi bữa. Sau này khi đã khấm khá người dân trong bản không quên thuở xưa
đói rét nên lập miếu thờ và tôn chuột thành thần. Ngôi miếu được đặt sâu trong
bản, cao ráo và luôn được quét tước sạch sẽ. Đầu năm mới mỗi nhà phải nộp một con
chuột khô, một chai rượu và một cái bánh chưng để tế lễ cúng thần làng. Vào đêm
giao thừa nhà nào cũng tự cúng thần chuột nhưng cứ sang ngày mồng hai tết thì
thầy mo bản phải đến miếu cúng thần chuột, tỏ lòng thành kính cầu thần một năm
mới tốt lành và đừng phá phách mùa màng của dân bản, lâu dần thành lệ, thành
một tín ngưỡng đặc biệt của người dân xứ này.
Vào những ngày làm lễ cơm mới, hội
làng hay cúng tổ tiên trên mâm cơm cũng không bao giờ thiếu thịt chuột khô để
ông bà tổ tiên đừng quên những ngày khốn khó.
115. Lễ đền ơn đáp nghĩa cha mẹ của người Raglai
Một nét đẹp đã trở thành
truyền thống trong đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên dải đất Việt Nam
là lòng tôn kính, yêu thương và biết ơn sâu sắc ông bà, cha mẹ.
Ăn ở hiếu thảo
đối với cha mẹ đã trở thành đạo lý quan trọng trong đạo làm người. Lễ đền ơn
đáp nghĩa cha mẹ của người Raglai cũng nằm trong quan niệm “Cây có cội, nước có
nguồn”, nhưng cách thể hiện có những nét độc đáo riêng và giữ một vị trí quan
trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của họ. Người Raglai coi lễ này không
phải là chuyện nội bộ của một gia đình, mà là việc chung của cả cộng đồng và do
đó được xếp vào trong hệ thống lễ hội chung, như lễ bỏ mả, lễ cưới, lễ ăn cơm
mới, lễ cúng Yang...
Đền ơn đáp
nghĩa cha mẹ, tiếng Raglai là “Ea tixâu pilâu dhadha”. Bất cứ người Raglai nào
cũng đều cho rằng công lao của cha mẹ như núi cao, như nước mạch nguồn chảy ra.
Và họ tâm niệm sẽ đền đáp xứng đáng ngay từ khi còn ở chung nhà, chung bếp cho
đến khi có vợ, có chồng ra ở riêng. Nhưng như thế chưa đủ, theo tập tục của
người Raglai, việc đền ơn đáp nghĩa cha mẹ đối với họ phải được nâng lên thành
nghi lễ, được họ tộc và buôn làng chứng kiến, thừa nhận, như thế mới được coi
là trọn vẹn. Theo quan niệm đã có từ lâu đời của người Raglai, điều bất hạnh
lớn nhất của con người là cha mẹ qua đời mà người con chưa kịp làm lễ Ea tixâu
pilâu dhadha. Sự ân hận này nhiều khi ray rứt người con suốt cả đời. Do đó, mỗi
người Raglai khi trưởng thành, ngoài trách nhiệm chăm sóc, kính yêu cha mẹ
thường ngày, nếu cảm thấy cha mẹ có dấu hiệu già yếu (sức khỏe kém, da mặt có
nhiều nếp nhăn, tóc bạc, kém ăn, mất ngủ...) thì phải chuẩn bị lễ vật để tổ
chức lễ đền ơn đáp nghĩa cha mẹ.
Thông thường,
lễ vật gồm có thịt heo, thịt gà, gạo, nếp, rượu cần, một ít trầu cau, thuốc
lá... Nhà nhiều của thì chuẩn bị làm lễ lớn, giết trâu, bò... người nghèo thì
tùy theo khả năng kinh tế của mình mà tổ chức. Vật chất không phải là tiêu
chuẩn để đánh giá tấm lòng hiếu thảo của con đối với mẹ cha, cái chính là thái
độ, là tấm lòng của người con đối với cha mẹ trong quá trình chăm sóc và nuôi
dưỡng. Sự có mặt của bà con trong buôn làng vừa biểu thị tình cảm quý mến, vừa
để chứng kiến việc thực hiện một tập tục xã hội. Họ mang đến những lời chúc
tụng chân thành của cộng đồng đối với gia đình nói chung và cha mẹ của gia chủ
nói riêng. Những gia đình khá giả, hoặc gặp những năm được mùa, thường tổ chức
cuộc lễ này rất lớn và vui chơi kéo dài hai ba ngày đêm.
Về nghi thức,
khi cỗ bàn được bày ở giữa nhà, thì mẹ cha - đối tượng chính của buổi lễ - được
mời ngồi vào vị trí trung tâm, nơi trên mâm cỗ đặt một đĩa thịt và lòng heo đủ
món. Những người khác gồm bà con, họ hàng, người trong buôn... đều tề tựu đông
đủ chung quanh. Sau khi tiến hành lễ khấn vái các Yang, mời gọi tổ tiên, ông bà
và những người khuất mặt cùng về chứng kiến tấm lòng của con đối với cha mẹ,
người con rót một chum rượu trắng thật đầy kính cẩn mời mẹ cha. Tiếp đó, người
con tự tay bưng đĩa thịt, gắp từng miếng đút cho cha mẹ ăn để tỏ lòng hiếu
thảo, trước sự chứng kiến của cộng đồng. Nếu đĩa thịt được ăn hết, thì đó là một
niềm hạnh phúc rất lớn đối với gia đình người con. Hoặc có thể cha mẹ chỉ ăn
vài miếng tượng trưng, như thế cũng đã đủ là điều vui sướng. Trong không khí
hân hoan ấy, chủ nhà mời bà con, họ hàng cùng chia sẻ niềm vui. Họ vừa ăn uống,
vừa trao đổi những lời chúc tụng tốt đẹp đối với gia đình và những người cao
tuổi trong buôn. Lễ vật còn được dành ra một phần để mẹ cha đưa về cúng ông bà
tại nhà mình và biếu cho một số người thân.
Sau bữa tiệc,
đến phần sinh hoạt văn nghệ, vui chơi. Khi tiếng mã la nổi lên cùng dàn nhạc
hòa theo, nam nữ thanh niên và cả những người lớn tuổi cùng nhau nhảy múa, ca
hát. Cuộc vui kéo dài đến suốt đêm.
Lễ đền ơn đáp
nghĩa cha mẹ của người Raglai nhìn về hình thức có vẻ như rất đơn sơ, mộc mạc,
nhưng bên trong hàm chứa một đạo lý sâu sắc được cả cộng đồng thừa nhận và
hưởng ứng nhiệt thành, đầy tình nghĩa. Truyền thống đạo lý mang đậm tính nhân
văn này đã được các thế hệ người Raglai kế thừa và bảo tồn cho đến ngày nay.
116. Mâm ngũ quả
- Một tục lệ đẹp đẽ đầy nét nhân văn
Ngày Tết, gia đình nào cũng có mâm
ngũ quả dâng lên bàn thờ tổ tiên, ông bà. Mâm ngũ quả bên cành đào, câu đối đỏ,
bức tranh Tết, bánh chưng xanh... tạo nên khung cảnh ấm áp của mỗi gia đình khi
Tết đến xuân về.
Không biết phong tục này có từ bao
giờ, phải chăng vì đất nước ta vốn bốn mùa hoa trái, nhất là vào mùa Xuân hoa
quả càng rộ. Hoa qủa là lộc của thiên nhiên, đất trời. Lộc Xuân càng quý. Dâng
lộc trời, cúng ông bà, tổ tiên trong những ngày đầu Xuân thật là một tục lệ đẹp
đẽ đầy nét nhân văn.
Cứ vào khoảng 28 tháng Chạp âm lịch
thì nhà nhà đều cho bày biện một mâm ngũ quả kèm với nhiều sản vật khác trên
bàn thờ. Mâm ngũ quả thường bày trên một cái mâm bằng gỗ tiện, sơn son, có
chân, gọi là mâm bồng. Nếu không có mâm bòng, có thể bày trên một cái đĩa to,
nhưng phải đặt trên chồng bánh chưng để tạo dáng cao, uy nghiêm, thành kính.
Mâm ngũ quả có 5 loại. Tại sao lại
5? Theo các vị cao niên, am tường về Nho giáo thì xuất xứ của mâm ngũ quả có
liên quan đến quan niệm triết lý Khổng giáo của phương Ðông, thế giới được tạo
nên từ năm bản nguyên - gọi là “ngũ hành”: Kim - Mộc - Thuỷ - Hỏa - Thổ, nghĩa
là 5 yếu tố cấu thành vũ trụ. Còn theo quan niệm của dân gian thì “quả“ (trái
cây) được xem như biểu tượng cho thành quả lao động một năm. Ông cha ta chọn 5
loại trái cây để cúng đêm giao thừa là ngụ ý rằng : Những sản vật này đựơc kết
tinh từ công sức, mồ hôi, nước mắt của con người lao động, kính dâng lên đất
trời, thần thánh trong giờ phút linh thiêng của vũ trụ vạn vật sinh tồn. Tư
tưởng, hình ảnh ấy đã ăn sâu và tâm thức của người Việt Nam bao đời nay.
Ðã gọi là ngũ quả thì nhất thiết
phải là 5 loại quả. Nhưng các vùng, các miền do mùa xuân hoa trái khác nhau,
nên mâm ngũ quả cũng khác nhau như: chuối, bưởi, phật thủ, dưa hấu, cam, quýt,
dừa, na, hồng xiêm, táo...
Mỗi quả mang một ý nghĩa:
Chuối - phật thủ: như bàn tay che
chở.
Bưởi - dưa hấu: căng tròn, mát lành, hứa hẹn năm mới đầy ngọt ngào, may mắn.
Hồng - quýt: rực lên màu sắc mạnh mẽ, tượng trưng cho sự thành đạt.
Ở vùng Thủ Dầu Một, ngày Tết hầu
như nhà nào cũng có mâm lễ: Long - Lân - Quy - Phụng. Kết từ hoa quả - tứ linh
hoàn toàn mang tính hình tượng như hoa quả kết thành “vật thực”, thể hiện lòng
thành của con cháu tưởng nhớ gia tiên, cảm tạ ơn trời, ơn đất.
Mâm ngũ quả trong Nam cũng khác so
với ngoài Bắc. Trên mâm ngũ quả ở ngoài Bắc thường có : Bưởi, đào, quýt, chuối,
hồng. Có khi người ta thay bưởi bằng phật thủ hoặc lựu Mâm ngũ quả trong Nam
vẫn cứ giữ nguyên truyền thống là mãng cầu, sung, dừa xiêm, đu đủ, xoài mà các
bà thường quan niệm sơ đẳng là “cầu - sung - vừa - đủ - xài”.
Một mâm ngũ quả được bày dưới cùng
là một nải chuối to già còn xanh, nải chuối đều, hoặc 2 nải chuối nhỏ ghép bên
nhau như một chiếc bệ cong gồm 2 tầng nâng đỡ hoàn toàn hoa trái khác. Ở đây có
sự phối hợp màu sắc, mâm ngũ quả đẹp là đủ màu sắc rực rỡ. Chính giữa bệ mâm
xanh sẫm, trước đây bày quả phật thủ . Ngày nay ít trồng phật thủ nên thường
thay bằng quả bưởi to, càng to càng đẹp. Bưởi chín vàng, tươi nổi bật trên bệ
chuối màu xanh. Những quả chín đỏ đặt xung quanh, những chỗ khuyết dưới đặt xen
kẽ quýt vàng và táo màu xanh ngọc, còn bao nhiêu lá xanh cố tình để sót lại ở
cuống quả như hoàn thiện những nét trang trí cuối cùng.
Mâm ngũ quả đã làm quang cảnh ngày
Tết và không gian cúng thêm phần ấm áp, rực rỡ mà hài hoà. Nó thể hiện sinh
động ý tưởng triết lý - tín ngưỡng - thẩm mỹ ngày Tết. Tìm hiểu về mâm ngũ quả
cũng là tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử, truyền thống tốt đẹp để chúng ta nhớ
lại ông bà, tổ tiên.
117. Tục lệ cưới xin của dân tộc La Hủ
Mời bạn lên vùng cao phía
Bắc, thăm bà con dân tộc La Hủ thuộc tỉnh Lai Châu. Tục lệ cưới xin ở đây có
nét đẹp riêng. Tháng 11, 12 hàng năm - là dịp Tết của người La Hủ - cũng là mùa
cưới của các đôi trai gái yêu nhau. Chàng trai tìm hiểu cô gái, đã tới độ
"chín muồi", anh có thể tới nhà cô gái ngủ một vài tối. Tục lệ cho
phép anh, chị có thể ngủ chung giường.
Lễ na-nhí, tức
lễ dạm hỏi như vùng xuôi, thường vào buổi tối. Ông "mối" cùng bố mẹ
và anh em nhà trai sang nhà gái để "có lời". Lễ vật là rượu và một
thứ "quà quý" của rừng - ("quà quý" này nhất thiết phải có
thịt sóc rừng). Qua trò chuyện, nhà gái thấy bằng lòng thì hai bên cùng uống
rượu, nhắm thịt sóc.
Sau lễ dạm là
lễ hỏi, hai lễ này cách nhau khoảng bảy, tám ngày. Theo tục lệ, lễ hỏi gồm hai
chai rượu và số con sóc phải là số chẵn chứ không được số lẻ, chừng 6 đến 8
con. Nhà trai phải "tuân theo" số lượng con sóc của nhà gái: 6 hoặc 8
con, vì theo lệ từ xưa, số sóc không được ít hơn 4 nhưng cũng không được nhiều
hơn 8. Người làm mối trong lễ hỏi còn là người "đầu bếp", tự tay làm
thịt sóc, trình bày các món ăn này sao cho ngon để mời nhà gái.
Trong khi ăn
uống vui vẻ hai bên trao đổi về tiền cưới và thời gian ở rể. Ngày xưa, tiền
cưới khá "nặng túi": những 70 đến 80 đồng bạc trắng. Trường hợp nhà
rể nghèo, không có bạc trắng, thì anh phải ở lại làm rể ngay tối hôm đó. Thời
gian ở rể bây giờ rút xuống còn từ 2 đến 4 năm, thời trước từ 8 đến 12 năm.
Nếu lễ ăn hỏi
có số con sóc phải chẵn, thì lễ cưới quy định: đoàn đi đón dâu phải là số lẻ,
trong đó có hai ông "mối" và chàng rể. Khi nhà trai đón dâu đi, ông
"mối" trao tiền cưới cho nhà gái. Trên đường đi, dù có nhớ bố mẹ, cô
dâu cũng không được ngoảnh lại nhìn ngôi nhà cô sinh ra và lớn lên, vì nếu vấp
ngã, e sau này vợ chồng có chuyện cãi cọ không hay.
Rước dâu về đến
nhà, bà mẹ chồng đã đứng đợi ở cửa. Bà lấy một nắm gạo xoa lên lưng con dâu,
ngụ ý "xóa hết cỏ để con dâu không mang cỏ về, trên nương sẽ không có
nhiều cỏ mọc". Lại còn tục lệ: bà mẹ chồng trồng hai cây riềng ở hai bên
cửa vào nhà, rồi buộc sợi chỉ trắng qua hai cây riềng. Lúc vào nhà, cô dâu đi
phía tay trái, chú rể đi phía tay phải, rồi chú rể dùng tay trái, cô dâu dùng
tay phải "cắt" đứt sợi chỉ đó, bước vào nhà. Xong thủ tục này hai họ
cùng nâng chén chúc những câu tốt lành và ăn uống vui vẻ.
Ði thăm đất
nước vào dịp xuân về, các bạn sẽ có được nhiều thú vui, nhiều điều bổ ích.
118. Nghi thức
cưới của người Lô Lô
Cũng giống như các dân tộc khác,
với người Lô Lô, việc cưới hỏi là một sự kiện vô cùng trọng đại. Theo tập quán
cổ truyền, nhà trai phải nhờ bốn người làm mối gồm hai nam, hai nữ, tốt nhất là
được hai cặp vợ chồng song toàn. Chọn được ngày tốt, những người làm mối này
mang hai chai rượu và lễ vật đến dạm hỏi. Nếu nhà gái đồng ý thì làm cỗ và dùng
hai chai rượu đó uống rượu và bàn định ngày cưới. Đồ thách cưới bao gồm gạo
nếp, gạo tẻ, thịt lợn, rượu… để dùng cho tiệc cưới, ngoài ra còn có váy, áo,
vòng tay, vòng cổ cho cô dâu, thậm chí còn thách cả bạc trắng để làm của hồi
môn.
Nhà trai sẽ mang lễ vật đến cho ông
cậu của cô dâu, người này giao lại lễ vật đó cho chủ nhà. Nhà gái làm cỗ cúng
trình tổ tiên và mời bà con họ hàng đến ăn uống vui chung. Cô dâu thường được
khách mời mừng khăn, áo, tiền bạc và các đồ dùng khác. Thường thì nhà trai dẫn
lễ cưới đến vào ngày lễ hôm trước để ngày hôm sau đón dâu sẽ là ngày chẵn với
mong ước đôi trẻ mãi mãi không bị lẻ loi. Lễ dâng cưới diễn ra trong lời ca đón
rể đón dâu mừng hai họ hết sức thân mật. Tối hôm đó nhà gái tổ chức hát thâu đêm
suốt sáng để phúc chúc cho cô dâu chú rể.
Sáng hôm sau, cơm nước xong, chú rể
cùng phù rể vào bái lạy tổ tiên, lễ sống bố mẹ vợ cùng ông cậu và quan khách.
Ông cậu sẽ dắt cháu gái từ trong buồng ra trao cho nhà trai. Cả gia đình nhà
gái đều khóc thể hiện sự quyết luyến với người con gái đi lấy chồng, cô dâu thì
khóc to hơn như lưu luyến không muốn rời xa bố mẹ đẻ của mình. Nhà trai, nhà
gái mỗi bên có một phù dâu dắt tay cô dâu đi ra. Dẫn đầu đoàn dâu là bốn người
làm mối, đi sau là cô dâu cùng phù dâu và họ hàng nhà trai.
Nghi thức đón dâu ở nhà trai cũng
giống như đón rể ở nhà gái. Bốn người làm mối phải uống rượu và hát. Tập quán
của người Lô Lô là khi cô dâu bước chân vào nhà, bố mẹ chồng phải tạm lánh mặt
đi nơi khác vì sợ gặp mặt thì sẽ át vía con dâu, sau này sẽ không khoẻ mạnh.
Đoàn dẫn dâu về nhà trai được một
lúc thì đoàn ông cậu của nhà gái mang của hồi môn sang bao gồm lợn, gà, cái
cuốc, cái cháo, con dao, hòm quần áo của cô dâu cùng rượu, thịt, xôi nếp… với
những nhà giàu thì có cả một con bò. Nhà trai tổ chức linh đình và hát mừng
suốt đêm để chúc cho hạnh phúc của đôi trẻ. Khi tiễn ông cậu về, nhà trai tuỳ
số của hồi môn ít hay nhiều của cô dâu mà đưa lại một số tiền gọi là tiền đi
đường và làm quà.
Sau ba ngày cưới, cô dâu chú rể trở
lại thăm nhà vợ, có thể ở lại nhà gái ít bữa, sau đó sẽ trở về ở hẳn tại nhà
trai.
119.
Nghi thức hôn
lễ của người Chăm An Giang
An Giang có 2.110 hộ người Chăm với
13.700 người luôn sống gắn bó, hoà nhập vào cộng đồng các dân tộc anh em và giữ
gìn bản sắc văn hoá riêng. Xin giới thiệu với bạn đọc nghi thức hôn lễ cổ
truyền của đồng bào Chăm An Giang.
Lễ dứt lời (Pakioh - Po Nuối)
Trước “lễ dứt lời”, bà mai (Maha)
sang nhà gái trao đổi trước. Đúng ngày giờ đã định, nhà trai đến nhà gái. Vị Cả
Chùa tuyên bố: “Hôm nay là lễ Pakioh - Po Nuối cho hai trẻ, tiền đồng là… tiền
chợ là…”. Hai họ dùng tiệc, chi phí bữa tiệc do đôi bên cùng lo. Vài hôm sau,
đàng gái mang sang nhà trai 1 mâm bánh trả lễ, đàng trai trao tượng trưng 1 bao
thư tiền.
Sau đó cứ đến ngày Ro-Ja, chú rể và
bạn bè đến thăm nhà cô dâu vào ban ngày, cô dâu không được ra gặp chú rể nhưng
gia đình bố trí cho nhìn lén. Buổi tối, cô dâu cùng bạn gái qua thăm nhà chú
rể.
Chú rể cũng được sắp xếp để nhìn
lén cô dâu. 3 ngày trước đám cưới, vị Cả Chùa và người nhà trai mang 1 cái
giường qua nhà gái. Vị Cả Chùa cầu nguyện, những người cùng đi dọn phòng cưới.
Tiếng Chăm gọi việc này là đi Thon - Kghe (đi ráp giường). Cũng ngày này, các
phụ nữ bên nhà gái may mùng cho đôi tân hôn.
Đám cưới
Diễn ra trong 3 ngày: ngày nướng
bánh (Âm-Ha), ngày nhóm họ (Pa Thưng – Pa Gú), Ngày lễ lên ghế (lần II và III).
Nhà trai đưa rể sang nhà gái. Khi chú rể bước xuống cầu thang nhà mình, mọi
người hát: “Xin cha mẹ tha thứ, con từ giã cha mẹ”. Khi chú rể bước tới chân
cầu thang nhà gái, các bà đàng gái bưng nước rửa chân cho chú rể trong lúc mọi
người hát vang bài hát có nội dung hân hoan rửa chân, và trải khăn trắng mời
chú rể bước vô nhà.
Tiến hành lễ đính hôn (Ka Pol): Sau
khi một người có uy tín đọc xong đoạn kinh Coran, nội dung nhắn nhủ chú rể tôn
trọng người bạn đời thì cha cô dâu cầm tay chú rể nói: “Tôi gả đứa con gái tên
là…”. Chú rể đáp: “Tôi nhận cưới…”. Khi được đưa vào phòng cô dâu, chú rể sẽ gỡ
cây trâm cài trên tóc vợ, rồi cùng ngồi trên giường lắng nghe vị Cả Chùa cầu
nguyện.
Bữa cơm của đôi tân hôn: Mâm cơm có
1 đĩa cơm, 1 đĩa thức ăn và 4 phụ nữ có gia đình hạnh phúc nói lời chúc mừng và
đôi vợ chồng trẻ sẽ cùng bốc ăn chung.
Lễ động phòng hoa chúc (Sen Thoa): 4 phụ nữ nói trên giăng mùng, trải
chiếu, tiến hành lễ “lượm bạc cắc”. Người ta đặt 1 xô nước trong đó có 10 đồng
bạc cắc. 2 vợ chồng thò 1 bàn tay vào một lượt để mò bạc cắc. Ai lượm số bạc
cắc nhiều hơn thì được có tiếng nói quyết định trong gia đình.
Đám cưới người Chăm An Giang trang
trọng, ấm áp, không xa hoa phù phiếm. Ngày nay có một chút thay đổi trong nghi
lễ: đám cưới chỉ trong 2 ngày; đưa chú rể sang nhà cô dâu vào buổi sáng thay vì
buổi chiều; bỏ lễ “lên ghế lần III”; trang phục cô dâu chú rể được cách tân,
vẫn giữ vẻ đẹp cổ truyền nhưng tiện dụng hơn.
120.
Vợ chồng xưng
hô với nhau thế nào?
Người Việt Nam ta từ nhỏ đến lớn,
đến già nói chuyện với nhau đã quen tai nhưng nếu diễn giải cho người nước
ngoài biểu đạt được đầy đủ sắc thái ngôn ngữ kể thật lý thú.
Thời nay vợ chổng trẻ xưng hô với
nhau "anh anh em em" âu yếm thân thiết biết bao! Dẫu chồng ít hơn dăm
ba tuổi vẫn là anh. Lùi lại bốn mươi năm trước, những gia đình ít nhiều được Âu
hoá, vợ chồng gọi nhau bằng "mình" cũng thể hiện được tình cảm đậm
đà, gọi nhau bằng "cậu, mợ" cũng thanh nhã, nhưng những từ đó còn xa
lạ với nông thôn, một số tân tiến muốn gọi nhưng vẫn còn ngượng ngùng với hàng
xóm, chỉ thầm kín tỏ tình với nhau trong buồng, thỏ thẻ chỉ đủ hai người nghe với
nhau. Cách gọi nhau bằng tên "trống không" cũng là một bước cải tiến
lớn, chứ các cụ ngày xưa, thời trẻ chỉ gọi nhau bằng "bố thằng cu",
"u nó", "mẹ hĩm"... Người mới lấy nhau chưa có con, chồng
chẳng có chức vị gì mà gọi thì làm sao? Bí quá, có cô mới về làm dâu, muốn gọi
chồng đang chơi bên nhà hàng xóm về, chẳng biết xưng hô ra sao bèn ra ngõ gọi
thật to "Ai ơi! Về nhà ăn cơm". Từ "ai" ở đây không phải là
đại từ nghi vấn, hay đại từ phiếm chỉ mà có nghĩa là "chồng tôi ơi".
Còn khi nói chuyện với người khác
thì giới thiệu vợ mình hay chồng mình là "nhà tôi". Từ "nhà
tôi" thật là đậm đà gắn bó, "mình" và "tôi" tuy hai
nhưng một. "Nhà tôi" tức là "chồng tôi" hay "vợ
tôi" chứ không thể nói "vợ anh", "chồng nó" là
"nhà anh nhà nó".
Vợ chồng nói chuyện với nhau thường
hay nói trống không "Này! Ra tôi bảo!" hoặc "nào ai bảo
mình"...
121. Lệ buộc cót, nét văn hóa truyền thống của người NùngMỗi một vùng một dân tộc
đều có nét văn hoá truyền thống riêng, người Nùng Bắc Kạn họ sống xen với các
dân tộc khác. Họ có nét văn hoá riêng rất độc đáo, tạo ra truyền thống tốt đẹp.
Một trong những truyền thống là lệ buộc cót (tiếng Tày, Nùng gọi là lẹ lảm
dảo), là một phần nghi thức trong lễ Kỳ Yên của người Tày, Nùng.
Trong lễ Kỳ Yên
có nghi thức”Pủ lường pủ váng” có nghĩa là (đắp bồ đắp cót). Cót ở đây tượng
trưng cho cót gạo nuôi dưỡng người già, cũng là “cót hộ mệnh” được con cháu bồi
đắp tiếp, cầu cho người già được sống lâu, khoẻ mạnh ”thực túc sức cường”. Ở lệ
buộc cót gồm có: Một cái cót hình trụ tròn, rỗng trên dưới, để ở giữa đựng gạo,
một cái cân tiểu ly mang ý nghĩa trường thọ sống lâu, một ngọn chuối non,
một ngọn dâu tằm non tượng trưng cho sự trẻ trung, tươi tắn. Một cây đèn, một
cây chuối non, một đoạn tre non cả rễ. Tất cả đều thể hiện cho số mệnh sống
lâu, trường tồn. Những ý nghĩa đó đã thể hiện rất rõ ở lời lẽ của Bụt (then).
Trong lễ buộc cót khi Bụt khởi lễ đắp cót hộ mệnh thì các con cháu, họ hàng...
những người trong gia đình sẽ xúc gạo ở cái thúng cạnh đó cho đầy ắp. Có một
người là nam giới khoẻ mạnh, đạo đức tốt phải lên tầng gác buộc cót. Người này
sẽ lấy cái cót tượng trưng ở dậu gạo và ngọn dâu, ngọn chuối non để ở trong cót
đặt lên xà nhà.
Sau lễ buộc
cót, con cháu của người được làm lễ sẽ đem cây chuối non và đoạn tre non có cả
rễ ra vườn trồngcho cây sinh sôi phát triển. Lễ buộc cót đã thể hiện sự kính
trọng, lòng yêu thương và sự quan tâm của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Đây
là hình thức mừng thọ của người dân tộc Nùng. “lễ buộc cót” đã mang đậm đà bản
sắc dân tộc, đã thể hiện truyền thống tốt đẹp của người dân tộc nùng.
122. Tục đeo
vòng vía của người Mông - Lào Cai
Việc trẻ ốm yếu cúng giải hạn hoặc
gửi cửa theo số của nó đều không được thì thầy cúng sẽ xem số và đeo vòng vía
cho trẻ. Nghi lễ đeo vòng vía cho trẻ của người Mông hoa ở Cát Cát tương tự như
nghi lễ đeo vòng vía cho trẻ của nhóm người Mông trắng ở Bảo Phố - Bắc Hà. Nghi
lễ và sự chuẩn bị diễn ra như sau:
Gia đình phải chuẩn bị 3 chiếc vòng
cuốn bằng tre có đường kính 1,5m. Họ dựng ngoài cửa 1 vòng, giữa nhà 1 vòng và
phần giáp bàn thờ 1 vòng. Họ dùng một tấm vải trắng dài 12m đặt lên trên vòng
tre từ cửa chính vào tới bàn thờ. Mâm cúng đặt ở góc phải, phía dưới bàn thờ
bao gồm: 3 đôi đũa, 3 bát cơm, 3 chén rượu, 3 chén nước, 1 con gà luộc, 1 gói
muối. Trên bàn còn có chiêng, kiếm của thầy cúng. Người nhà còn mời, nhờ một
người trung tuổi, con cái khoẻ mạnh đến bế đứa trẻ để tiến hành nghi lễ đeo
vòng vía. Khi thầy cúng bắt đầu việc cúng thì đứa trẻ đứng ở ngoài cửa trên mép
vải đặt từ giữa cửa đến bàn thờ. Đầu tiên, thầy cúng cho mời tổ tiên của gia
đình về chứng kiến việc làm tốt của thầy cúng cho đứa trẻ. Sau đó thầy cúng mời
sư tổ của mình về và xin cho phép mầu để trừ tà diệt ma. Tiếp đó, thầy cúng gõ
một hồi chiêng dồn dập, vừa gõ vừa gọi các âm binh đến. Thầy cúng uống một hớp
rượu sau đó múa xung quanh nhà. Mỗi khi rú lên một tiếng, thầy cúng lại đâm
thẳng kiếm xuống đất, tượng trưng cho việc trừ ma xấu làm hại trẻ. Khi thầy
cúng đi ra cửa và đâm thẳng kiếm ra ngoài tức là ma đã bỏ ra khỏi nhà, khỏi đứa
trẻ.
Người phụ cúng sẽ cho đứa trẻ bước
vào qua vòng tre thứ nhất. Khi đứa trẻ bước vào trong vòng (qua cửa) thầy cúng
bước ra ngoài và chém kiếm xuống đất chỗ đứa trẻ vừa đứng với ý nghĩa là chém
ma xấu. Sau đó, thầy cúng đi vào trước bàn cúng, đặt kiếm xuống bàn và cầm chai
rượu đổ ra tay tung vào đứa trẻ, tượng trưng nước phép vừa trừ ma, vừa rửa hồn
vía đã bị ma xấu làm ô uế. Sau đó, đứa trẻ được người phụ cúng cho bước qua
vòng thứ hai. Thầy cúng ngậm một ngụm rượu phun mạnh vào nơi đứa trẻ vừa đứng.
Tiếp đến, thầy cúng đọc lời dồn hồn vía cho trẻ từ nay vía không được theo ma
xấu. Một tiếng thét của thầy cúng tức là ma đã bỏ chạy và vía đã nhập vào đứa
trẻ. Người phụ cúng hai tay đỡ hai vai trẻ và trẻ nhảy qua vòng tre cuối cùng,
thầy cúng lập tức cầm vòng vía (cổ, tay, tai) đeo ngay cho trẻ với ý nghĩa là
rào vía cho trẻ. Từ nay, hồn vía trẻ sẽ không bỏ đi chơi và ma xấu cũng sẽ
không dám bén mảng đến vì đã có vòng vía là thứ vũ khí để trừ tà diệt ma.
Sau phần làm lễ, thầy cúng, phụ cúng và gia đình cùng ăn cơm, uống rượu bình
thường. Khi ra về, thầy cúng được bắt một con gà trống và một lít rượu.
Vòng vía được đeo suốt đến lúc già.
Trường hợp vòng vía đã đeo tự nhiên rơi hoặc bị mất thì được. Còn nếu người đeo
tự tháo ra thì rất có thể họ sẽ bị ốm trở lại.
123.
Tục mừng nhà
mới
Ngày xưa, người nông dân Việt Nam
quan niệm làm nhà là một trong ba việc lớn của cả cuộc đời. “An cư mới lạc
nghiệp” nghĩa là chỗ ở có yên ổn mới lo được sự nghiệp. Quan niệm ấy đến nay
vẫn gắn bó với người dân Việt Nam. Bởi thế ai ai cũng phấn đấu để có được một
chỗ ở, một cơ ngơi riêng. Nhiều người có khi đến cuối đời mới cố xây được một
ngôi nhà mặc dù sống chẳng được bao lâu nhưng sau này để lại cho con cháu. Có
người khi chết vẫn chưa có chỗ nương thân thì rất khổ tâm.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy nên một phong tục rất phổ biến ở người Việt Nam
là tục mừng nhà mới. Chủ nhân khi làm xong một ngôi nhà mới (thậm chí chỉ sửa
chữa, nâng cấp nhà hay di chuyển đến nơi ở mới) đều sắm một lễ cúng. Hàng xóm,
bạn bè, họ hàng được mời đến uống chén rượu, chén trà mừng cho gia chủ, chúc
cho gia chủ bình yên, làm ăn gặp may, phát đạt.Tục lệ này đến nay vẫn còn khá
phổ biến đối với người Việt Nam.
124.
Phong tục của
dân tộc Dao Tây Bắc-Những điều kỳ lạ
Ở Việt Nam, người Dao có khoảng 45
vạn người, đứng thứ 9 so với các dân tộc trong nước. Cuộc sống của họ do ly
tán, bất ổn định, chủ yếu dựa vào rừng núi cao... nên gặp nhiều khó khăn. Người
Dao thật thà, hiền lành, chất phác và hiếu khách.Đồng bào Dao có nhiều phong tục kỳ
lạ như trong hôn nhân, Nam giới phải ở rể từ hai đến ba năm, có khi ở luôn nhà
vợ (nếu ở luôn nhà vợ thì phải đổi họ bên vợ). Họ còn có tục dùng bạc trắng để
định giá cô dâu, theo nghĩa đen là mua và gả bán, số bạc ấy sau này sẽ là của đôi
vợ chồng trẻ. Ngày cưới, cô dâu trang điểm rất đẹp, đội mũ màu đỏ, có hoa văn;
cổ và tay đeo nhiều vòng bạc. Ngày cưới, đoàn đưa cô dâu, có cả thầy cúng, và
thổi kèn, đánh chiêng, khua trống, rung nhạc. Tới nhà chồng, cô dâu phải qua
nhà tạm, khi được giờ thì mới được vào nhà chồng. Lên tới nhà chồng, cô dâu
phải “rửa tay”, bước qua chậu than hồng và nhiều nghi thức khác... trước sự
chứng kiến của hai họ rồi mới bước qua cửa vào nhà với ý nghĩa là “Từ nay đoạn
tuyệt với con ma họ ngoại và từ nay theo con ma họ nhà nội”. Sau khi vợ chồng
lấy nhau, khi sinh con đầu lòng thì họ đẻ ngay tại buồng ngủ của mình. Ba ngày
đầu, các cửa ra vào đều phải cắm lá kiêng không cho người lạ vào nhà. Gia đình
dân tộc Dao tồn tại bền vững theo chế độ phụ quyền, người con gái không có tên
trong chúc thư, không được thừa kế tài sản của gia đình.
Về cấu trúc nhà ở của người Dao có
ba loại nhà: nhà sàn, nhà đất, nhà nửa sàn nửa đất; nhà ở bằng gỗ, tre, nứa rất
chắc chắn, đơn giản nhưng được kết hợp khéo léo toát lên sự kín đáo, tế nhị của
người Á Đông. Kiểu nhà truyền thống của người Dao quần trắng là nhà sàn, thường
được làm ba gian, cách chắp nối các cấu kiện bằng nguyên liệu rời. Tuy nhiên,
họ không phải dùng đinh trong quá trình lắp ghép nhà ở. Kiểu nhà này chỉ có một
cầu thang lên xuống, cầu thang có số bậc lẻ; trong nhà thường có hai bếp. Nhà người
Dao đỏ làm nửa sàn nửa đất ở lưng chừng đồi. Cách chọn hướng nhà thì cũng như
các dân tộc khác.
Tín ngưỡng của người Dao là tín
ngưỡng đa thần “vạn vật hữu linh” mang dấu ấn của Nho giáo và Đạo giáo chính
thống. Tư tưởng Nho giáo được thể hiện rõ trong cách phân định tôn ti, trật tự,
theo thứ bậc ở mỗi gia đình, mỗi dòng họ. Đồng thời, Đạo giáo ảnh hưởng bao
trùm hầu hết các phong tục tập quán thờ cúng tổ tiên (Bàn Hồ – Bàn Vương), được
thể hiện qua lễ đặt tên cho con trai và cấp sắc cho người làm thầy cúng...
Người Dao quan niệm khi chết thì chỉ chết về thể xác, còn linh hồn mãi mãi bất
diệt “quay về với tiên tổ”.
Về trang phục, so với các dân tộc
khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ được nhiều nét bản sắc của mình với
chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng.
Tộc người Dao đỏ đội khăn đỏ, đeo những bông hoa đỏ trước ngực; Dao quần chẹt
mặc quần ống hẹp bó sát vào chân; Dao quần trắng nổi bật là yếm rất to che kín
cả ngực và bụng, ngày cưới cô dâu mặc quần trắng; Dao làn tuyển mặc áo dài, đội
mũ nhỏ...
Dân tộc Dao có một nền văn hóa rất
phong phú và đậm đà bản sắc thể hiện qua nhiều phong tục, nhiều điệu múa đẹp,
nhiều bài hát hay, kho tàng truyện cổ tích, thần thoại, ngụ ngôn, ca dao, thành
ngữ, chiêm tinh, tướng số, câu đố... Nhưng cũng giống các dân tộc thiểu số khác
chủ yếu tồn tại dưới dạng truyền khẩu, vốn này ngày nay cũng bị mai một, thất
truyền với những lý do khách quan cũng như chủ quan.
125.
Lễ cưới của
người Chăm
Vào ngày cưới, nhà gái cho ông mối
(chano) sang đón rể. Lễ vật đi rước gồm có: Chiếc vòng mà trong lễ hỏi, nhà
trai đã tặng (máongang), gạo, rượu, thịt, ên, áo, chén đồng… khi họ đến đầu
làng, nhà trai phải cho người ra đón và dẫn về nhà.
Người Chăm theo chế độ hôn nhân một
vợ một chồng. Thông thường, con trai và con gái người Chăm thích lấy nhau cùng
làng. Để đến được với nhau, họ phải có một quá trình tìm hiểu hoặc có người làm
mối. Khi hai bên gia đình và con đồng ý thì tiến hành lễ hỏi, sau lễ hỏi 15
ngày, họ tổ chức lễ cưới.
Vào ngày cưới, nhà gái cho ông mối
(chano) sang đón rể. Lễ vật đi rước gồm có: Chiếc vòng mà trong lễ hỏi, nhà
trai đã tặng (máongang), gạo, rượu, thịt, ên, áo, chén đồng… khi họ đến đầu
làng, nhà trai phải cho người ra đón và dẫn về nhà. Sau khi sắp đặt các lễ vật
như trầu cau, rượu cần và 2 chiếc vòng (một nam, một nữ) 1 cái nồi đồng, 1
chiếc kiềng bạc, họ hàng hai bên ngồi xung quanh chứng kiến, chủ nhà khấn ông
bà, tổ tiên về nhận mặt người mới vào nhà và phù trợ cho người đó luôn mạnh
tay, khoẻ chân. Khấn xong, hai bên làm lễ trao vòng, vòng nam khắc 7 dấu, vòng
nữ khắc 3 dấu. Theo phong tục, khi hai người không còn ăn ở với nhau mà chiếc
vòng chưa trả lại thì quan hệ vợ chồng vẫn còn và đương nhiên các thành viên
này không được kết hôn với người khác.
Sau lễ trao vòng, người mẹ chồng
cầm chiếc kiềng bạc đeo vào cổ con dâu và trao cho đôi vợ chồng chiếc nồi đồng.
Đây là những đồ vật gắn với họ suốt đời và phải giữ gìn, bảo quản cẩn thận,
không để người khác mang ra khỏi bếp, không cho ai mượn hoặc không được làm
mất. Xong lễ, hai bên ngồi uống rượu, trò chuyện với nhau, đến lúc trời đã về
khuya, rượu đã ngấm, nhà trai và nhà gái bắt đầu hò đối đáp.
Sáng hôm sau, đoàn người nhà gái
cùng nhà trai về nhà nhà gái để làm lễ ra mắt tổ tiên. Khi đến đầu làng thì cô
gái chạy trốn, ông chano cùng với dân làng đi tìm. Họ đi quanh trong buôn một
lúc rồi cũng bắt được. Lúc này chano lấy sợi dây vải, dài độ sải tay buộc vào
tay cô gái dẫn về nhà, họ đặt cho cô dâu, chú rể cùng ngồi một chiếc chiếu mới
trải ở nhà, hai người đưa tay cầm chung mảnh vải, từ đây người con trai đã
chính thức trở thành thành viên của gia đình nhà gái. Vài tháng hoặc một, hai
năm sau họ mới tổ chức lễ cưới chính thức.
Trong lễ cưới chính thức, cô dâu,
chú rể ngồi bên chén rượu, thầy cúng bốc gạo vãi lên trời gọi Yàng trời, Yàng
đất, Yàng ông bà về chứng kiến ngày hợp thành vợ chồng của đôi trai gái. Cúng
xong, xả heo thịt, đem nấu các món ăn, rượu hút ra, cô dâu chú rể cầm đi mời
khách uống làm phép. Sau đó, cô dâu, chú rể ngồi vào chiếc chiếu trải cạnh chén
rượu để trao rượu cho họ hàng đôi bên. Từ đây, cha mẹ chồng goi cô dâu là
"Nghê", em chồng xưng hô với chị dâu là "Ai". Sau lễ cưới
một ngày gia đình nhà gái tổ chức cho vợ chồng đi bắt cá. Trong ngày đó, nếu vợ
chồng bắt được nhiều cá thì sau này làm ăn gặp nhiều may mắn, giàu có, con cái
khôn ngoan, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc.
Ba ngày sau, hai vợ chồng về lại
nhà trai làm lễ đạp tro nhà chồng. Lúc này nhà trai mổ heo, làm gà, nhắc rượu
mời họ hàng, người thân và những người trong buôn để chung vui, đồng thời tiễn
người con trai về ở nhà vợ. Dịp này nhà trai trao cho vợ chồng của hồi môn./.
126.
Lễ cấp sắc của
dân tộc dao
Cấp sắc là một thủ tục không thể
thiếu của đàn ông Dao. Lễ cấp sắc cũng tương tự như lễ thành đinh của một số
dân tộc khác. Đối với người đàn ông dân tộc Dao được cấp sắc mới được coi là
người đàn ông đã trưởng thành, được làm nghề cúng bái và được giao tiếp với cõi
âm. Lễ cấp sắc có nhiều bậc: 3 đèn, 7đèn và 12 đèn.
Ông thầy trong lễ cấp sắc phải chọn
thầy cao tay, ngày tháng cấp sắc được chọn rất cẩn thận, người được cấp sắc
cũng phải thuần thục các nghi lễ trong các bản sắc. Việc cấp sắc trong gia đình
được tuân thủ từ trên xuống dưới. Buôỉ lễ cấp sắc có thể làm thủ tục cho một
người hoặc vài người cũng được nhưng phải là số lẻ. Người đàn ông có vợ thường
là những người được cấp sắc, tức là để được coi là người đàn ông trưởng thành
bắt buộc phải qua lễ cấp sắc.
Lễ cấp sắc có nhiều bậc, bậc đầu
tiên họ được cấp 3 đèn và 36 binh mã, đây là nghi thức thông thường được diễn
ra trong lễ cấp sắc của người Dao. Bậc 2 họ được cấp 7 đèn và 72 binh mã và
cuối cùng là 12 đèn và 120 binh mã. Nhón Dao Tiểu Bản thường chỉ cấp sắc ở 2
mức độ: 3 đèn và tẩu slai hoặc 7 đèn trở lên ( đối với nhóm Đại Bản) thì người
đàn ông Dao mới trở thành thầy cúng. Thầy cúng có 2 cấp: Sài có là người theo
thầy để giúp và học việc; sài tía là người đã trải qua lễ cấp sắc 3 đèn hoặc 7
đèn.
Việc đầu tiên của lễ cấp sắc là gia
chủ phải làm cơm, rượu cúng báo tổ tiên về việc chuẩn bị và hẹn thời điểm tiến
hành lễ cấp sắc. Sau đó phải nuôi 2 con lợn 1 đực 1 cái chuẩn bị cho việc cúng
bái trong lễ cấp sắc . Ngoài ra phải chuẩn bị lợn, gà, rượu, gạo…để làm cỗ và
vài trăn nghìn tiền mặt để bồi dưỡng thầy. Thường là một lễ cấp sắc 3 đèn thì
cần 3 thầy, 7 đèn thì 7 thầy. Ông thầy cả gọi là chí chẩu sai hoặc cô tàn sai,
các thầy phụ gồm: dần chái, tình mình, pá tạn, tông tàn.
Ngày hành lễ cấp sắc thường được
tiến hành vào những tháng cuối năm. Trước khi hành lễ , người cấp sắc phải
kiêng khem một số thủ tục như: không được nói tục chửi bậy, không được quan hệ
vợ chồng, không được để ý đến phụ nữ…. Thời gian tiến hành lễ cấp sắc 3 đèn kéo
dài từ 1 đến 2 ngày; cấp sắc 7 đèn kéo dài 3 đến 5 ngày.
Các nghi lễ chính trong lễ cấp sắc
gồm lễ trình diện, gia chủ mổ lợn để tế lễ tổ tiên. các thầy cúng phải tẩy uế
xong mới đánh trống mời tổ tiên về dự, sau đó thầy cúng làm lễ khai đàn, nhằm
báo cho tổ tiên biết lý do của buổi lễ. Lễ thụ đèn , người được cấp sắc phải ăn
mặc chỉnh tề ngồi trước bàn thờ, hai tay giữ một cây tre, nứa, ngang vai có đục
và xuyên một thanh ngang dài vừa tầm vai để thày đốt đèn, đặt nến để làm lễ.
Đặc biệt trong lễ cấp sắc là cấp đạo sắc cho người thụ lễ với 10 điều cấm và 10
điều nguyện, tại đạo sắc này tên âm của người thụ lễ được ghi luôn để khi chết
về được với tổ tiên. Quan trọng nhất trong nghi lễ là cấp pháp danh cho người
thụ lễ. Người thụ lễ lấy vạt áo để hứng gạo từ thầy cả và bố đẻ. Sau đó các
thầy sẽ dạy cho người thụ lễ một số điệu múa.
Kết thúc nghi lễ, các thầy múa để
dâng rượu, lễ vật tạ ơn thần linh. Từ đây chàng trai thụ lễ đã được coi như một
người đàn ông trưởng thành hoàn toàn về thể chất cũng như tâm linh.
127.
Tết lạ ở đất
mới Ea Ly
Tết này người Tày tung còn
Ông Hoàng Thái Lân là một trong
những triệu phú người Tày mới ở Tân Sơn (Ea Ly). Ít ai biết rằng cách đây 15
năm, gia đình ông Lân đến Ea Ly chỉ với hai bàn tay trắng và đã trải qua những
năm tháng vật lộn với từng góc rừng để kiếm sống. “Năm nay gia đình tôi ăn Tết
lớn để tạ ơn tổ tiên, kỷ niệm 15 năm rời Cao Bằng vào Phú Yên lập nghiệp”- ông
Hoàng Thái Lân bày tỏ. Các gia đình người Tày ở Ea Ly đang khôi phục nhiều
phong tục, tập quán đẹp vào ngày Tết “để con cháu nhớ về tổ tiên, không mất
gốc”- như lời ông Lân nói.
Mỗi năm ông Lân đều lựa chọn, chuẩn
bị kỹ lưỡng bốn cây mía đẹp nhất để buộc vào bốn góc chân bàn thờ trong ngày
Tết bởi người Tày quan niệm rằng đó là những cái gậy để tổ tiên chống, dìu dắt
con cháu. Ngay từ ngày 27-28 tháng Chạp, các gia đình đã làm thịt heo, gói bánh
chưng dài, làm bỏng, chè lam, bánh khảo… những đặc sản của người Tày trong ngày
Tết. Năm nào cũng vậy, những người con gái đã có chồng của ông Lân đều mang
bánh chưng dài, xôi, hoa quả về nhà bố mẹ cúng lễ tổ tiên vào mùng hai Tết.
Mùng bảy tháng Giêng hàng năm, ông Lân đều tổ chức cho con cái làm lễ “lồng
tồng”, tức hội xuống đồng của người Tày.
Cụ Hoàng Thanh, 84 tuổi, người Tày
cao niên nhất ở Tân Sơn, tỏ ra hết sức phấn chấn khi nói rằng những năm gần đây
người Tày ở Ea Ly đã khôi phục được hội tung còn vào ngày Tết, một trò chơi tìm
bạn, tìm duyên rất hấp dẫn đối với nam nữ thanh niên.
Buôn làng người Nùng vang tiếng sli
Từ năm 1989, ba anh em ông Hứa Văn
Thấy, Hứa Văn Chuyền, Hứa Văn Phong là những người Nùng đầu tiên đến lập nghiệp
ở Ea Ly và giờ đây họ trở thành những gia đình giàu nhất ở Ea Ly. Ông Thấy bày
tỏ: “Bây giờ đời sống ổn định, đang khôi phục lại một số phong tục, lễ hội của
người Nùng để con cháu giữ gìn bản sắc của dân tộc mình”. Ông Chuyền nói rằng
gà thiến sống là món không thể thiếu trong mâm lễ cúng tổ tiên đêm 30 cũng như
trong bữa cơm ngày Tết của người Nùng. Sáng mùng một những người đàn ông Nùng sẽ
mang một đôi gà thiến sống đi lễ bố mẹ vợ.
Ông Hứa Văn Chuyền cho biết năm nay
bà con người Nùng ở Ea Ly sẽ tổ chức các phiên chợ Tết vào những ngày đầu năm
mới tại thôn Tân Lập, nhiều gia đình đã háo hức chuẩn bị các sản vật cho chợ
Tết từ vài tháng nay. Các phiên chợ Tết của người Nùng là hình thức để trưng
bày, giới thiệu những sản vật, người ta có thể trao đổi với nhau mà không thách
giá. Tại những phiên chợ này, người Nùng tổ chức chơi ném còn, cầu lông gà,
chơi quay, múa lượn, sư tử... Trong những dịp này, tiếng sli của người Nùng
vang lên khắp buôn làng. Theo ông Hứa Văn Thấy, trong những ngày đón Tết, vui
xuân, những dịp lễ hội, đám cưới, người Nùng không thể thiếu làn điệu giàu sức
truyền cảm này nên bất cứ ai cũng biết hát vài câu sli. Anh Hứa Văn Vân- con
trai ông Chuyền- nói rằng để chuẩn bị cho những ngày hội mùa xuân, nam nữ trong
thôn vừa làm bánh khảo vừa hát sli.
Tết “Nhiang chằm Dao” ở thung lũng
xanh
Người Dao ở Ea Ly sống quần tụ
trong một thung lũng được bao bọc bởi những quả đồi, họ lấy tên dân tộc mình tự
đặt cho tên làng như để nhắc nhở con cháu không được quên cội nguồn. Ông Bàn
Nguyên Tân, một trong những người Dao đầu tiên đến định cư ở Sông Hinh, nói
rằng từ 20 tháng Chạp người Dao đã chuẩn bị đón Tết với việc làm bánh dợm, bánh
dày, nặn những con heo, gà, hươu, nai… bằng bột gạo. Trong mấy ngày Tết, các
gia đình luân phiên tổ chức tiệc để mời dân làng. Vào tiệc, mọi người hát giao
duyên, diễn lại các điệu múa từ ngàn xưa.
Người Dao chính thức ăn Tết từ đêm
29, rạng sáng 30 tháng Chạp bằng việc bắt đầu Tết nhảy, gọi là “Nhiang chằm
Dao”, là lễ hội để khuyến khích dân làng rèn luyện sức khỏe, võ nghệ theo
truyền thống của các thần thánh Bàn Vương. Vào Tết nhảy, mỗi người phải nhảy
múa hàng chục lượt trong tiếng trống, thanh la giục giã...
128.
Nét đẹp trong
ngày Tết bản làng
Trên mỗi làng quê Việt Nam, có biết
bao điều kỳ lạ và hấp dẫn quanh tục lệ đón xuân. Dù có khác nhau ở từng dân
tộc, song những tục lệ đó đều toát lên ước vọng mong muốn một năm mới nhiều
hạnh phúc và may mắn cho mọi người
Tết là thời khắc thiêng liêng
chuyển giao giữa Cũ và Mới, thời điểm trọng đại nhất trong vòng quay bất tận
của vũ trụ. Việt Nam có 54 dân tộc, và vì vậy cũng có 54 sắc thái, phong vị Tết
khác nhau. Những phong tục đón Tết của người Việt hoặc Kinh - dân tộc lớn nhất
Việt Nam ngày nay đã biến đổi nhiều do tác động từ những thay đổi của cuộc sống
hiện đại.
Nhưng bên cạnh đó, tại những rặng
núi trùng điệp phương Bắc và vùng sông nước chằng chịt kênh rạch của phương
Nam, quê hương ngàn đời của các cộng đồng dân tộc thiểu số H'mông, Thái, Dao,
Mường, Khơ-me…,những đặc thù văn hoá hầu như còn được bảo tồn nguyên vẹn, đa
dạng và độc đáo. Chính các phong tục, tập quán lâu đời trong những ngày lễ, Tết
sẽ có dịp bộc lộ rõ nét, làm say lòng khách phương xa nếu có dịp ghé thăm.
H'mông được coi là cộng đồng dân cư
có cá tính mãnh liệt và phóng khoáng nhất. Họ sống trên các rẻo cao miền núi
phía bắc, đời sống người H'mông gắn liền cùng nương ngô, cây súng kíp. Tết
H'mông rơi vào cuối tháng một, đầu tháng chạp âm lịch. Tết thường kéo dài 12
ngày với nhiều sinh hoạt cộng đồng. Dân tộc H'mông rất ưa chuộng các nghi thức
cúng tế cùng những trò vui. Trong mỗi gia đình, ngày Tết được khởi đầu bằng lễ
hiến sinh gà, lợn vào giữa đêm giao thừa và sáng mồng 1 Tết. Cặp chân gà cúng
đêm giao thừa sẽ cho gia chủ biết trước điều lành dữ sẽ đến trong năm. Sau đó,
các gia đình trong họ tộc thường tổ chức ăn uống tại từng nhà. Trong ngày Tết,
bên cạnh nghi lễ tín ngưỡng còn có nhiều trò chơi dân gian quen thuộc nhưng đầy
tính thượng võ như chơi cù, ném pao, bắn nỏ, đua ngựa, múa khèn, chọi chim họa
mi. Nói đến Tết của người H,mông không thể quên lễ hội Gầu Tào đi chơi ngoài
trời, hay theo tiếng Quan hỏa là hội Sải sán leo – núi. Đây là một trong hai lễ
hội quan trọng nhất với mục đích chính là cầu tự, cầu phúc, cầu sức khoẻ. Hội
tổ chức trên bãi đất bằng rộng rãi, có trồng 1 hoặc 3 cây nêu cao, trên buộc 3
mảnh vải lanh màu đen, trắng và đỏ. Khách xa gần đến hộI đều được gia chủ đón
tiếp thân tình với những bát rượu ngô nồng ấm và các làn điệu khèn tha thiết,
ân tình.
Song thơ mộng nhất trong hội Gầu
tào chính là những đám hát giao duyên của nam nữ thanh niên. Giữa lãng đãng của
mây ngàn xứ núi, bóng áo chàm của các chàng trai quấn quít bên những bộ váy áo
rực rỡ của các cô gái. Họ hát với nhau không chỉ thi thố tài nghệ mà còn để tìm
hiểu nhau với ước mong nên vợ nên chồng sau những đêm hội đầu xuân.
Rời vùng núi đá trập trùng, bạn nên
tìm tới các bản Mường ở độ cao thấp hơn, gần đồng bằng, sông suối. Văn hóa
Mường có nhiều nét gần gũi với văn hóa Việt. Ngày Tết của người Mường cũng
trùng với Tết của người Việt. Có thể cảm nhận được hương vị Tết Mường từ ngày
23 tháng chạp, khi những cô gái mường bắt đầu ngồi gói bánh chưng, bánh ống.
Những ngôi nhà Thần linh của bản Mường được dọn sạch và cạnh đó được trồng một
cây nêu với những hoa nêu kết từ phên đan hình mắt cáo.
Trước giờ giao thừa, những người
con dâu cả của mỗi gia đình phải đi ra suối hoặc ra giếng múc một lọ nước gọi
là "nước rồng”, "nước khú” về để thờ. Các "phường bùa" gồm
từ 5, 7 đến vài chục người bắt đầu đến các gia đình trong làng hát xéc bùa chúc
tục với những lời cầu phúc, cầu tài. Chủ nhà dón nhận lời chúc của phường bùa
bằng thái độ trân trọng và lấy lúa gạo, quà cáp ra tặng lại. Sau hiệu lệnh điểm
giao thừa, các gia đình bất đầu gõ mõ, đánh chiêng, cồng, đánh trống hoặc đâm
đuống (máng để giã lúa), tạo nên nhũng thanh âm rộn ràng kéo dài chừng một khắc
đánh dấu thời điểm năm mới đã đến. Có thể nói, âm hưởng đặc sắc, tiêu biểu nhất
trong những ngày tết Mường chính là âm thanh của các dàn cồng và các phường
bùa. Tiếng cồng ngân vang khắp ngày đêm ở khắp nơi , hòa quện với tiếng hát xéc
bùa vui nhộn, nghe rạo rực lòng người.
Nếu một ngày nào có dịp tới đất
phương Nam, đi sâu vào những miền kênh rạch xanh ngắt cây trái, bạn sẽ có cơ
hội cùng những người Khơ-me chất phác ăn một cái Tết vào một thời điểm thật lạ,
chẳng phải trong tiết trời se lạnh, lất phất mưa xuân của miền Bắc, mà giữa cái
nắng như thiêu của vùng đất miền Nam Trung bộ. Chịu ảnh hưởng của đạo Bà la môn
và Phật giáo tiểu thừa, người khơ- me ăn Tết năm mới hay còn gọi Chuônch năm
Thmây khác hẳn với các dân tộc anh em khác, vào khoảng từ 12 đến 15 tháng 4
dương lịch hàng năm. Trước ngày Tết, mọi con đường, mọi ngôi nhà trong làng
được quét tước sạch sẽ, các cổng chào được dựng lên. Nhiều vùng, người dân
chung nhau tiền mua tre nứa, cất nhà lễ rổn boon ở ngoài đồng. Sáng mồng một
Tết, mọi người tập trung đông tại chùa làng để làm lễ mừng năm mới. Mỗi gia
đình đều có mâm cỗ riêng, có các loại bánh như bánh tét, bánh tổ, bánh ít, bánh
gừng, bánh tai yến, trước để cúng phật sau là cùng thụ hưởng. Trong ba ngày
Tết, đồng bào khơ-me cũng đi mừng tuổi năm mới, chúc nhau sức khỏe, công việc
làm ăn hưng thịnh.
129.
Lễ hội cúng
thần rừng của dân tộc Pu Péo
Nhằm
bảo tồn, phát huy bản sắc các dân tộc Việt Nam và được sự hỗ trợ của Dự án phát
triển dân tộc Pu Péo giai đoạn 2005-2010, ngày 8.7, Ban Dân tộc tỉnh phối hợp
với UBND huyện Đồng Văn, UBND xã Phố Là tổ chức Lễ hội cúng thần rừng tại thôn
Chúng Trải, xã Phố Là (Đồng Văn).
Lễ hội cúng thần rừng của dân tộc Pu Péo có từ lâu đời, tồn tại và phát triển
cùng với nhiều thế hệngười Pu Péo; là sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian,
gắn với đời sống triết lý đa thần của cư dân nông nghiệp như: Thần suối, thần
sông, thần núi, thần rừng, thần cây... đã tạo ra sắc thái văn hóa riêng trong
đời sống cộng đồng. Lễ hội không những có giá trị sâu sắc về tinh thần mà còn
khẳng định vai trò, vị trí của cộng đồng gắn với thiên nhiên. Hòa đồng cùng
thiên nhiên, tôn trọng, bảo vệ thiên nhiên, coi rừng là bạn, gắn bó với rừng,
bảo vệ rừng đã trở thành ý thức chung của cộng đồng người Pu Péo, được thể hiện
ở từng gia đình, làng bản và cũng từ đó rừng sinh thủy phục vụ đời sống, sản
xuất, cải tạo môi sinh và có giá trị trong thực tiễn cộng đồng. Mỗi khu rừng
thiêng được người dân bảo vệ chăm sóc không những mang lại giá trị vật chất,
tinh thần cho cộng đồng làng bản mà còn góp phần bảo vệ, phát triển môi trường
sinh thái chung.
Trong thời gian một ngày, với không khí tưng bừng, đoàn kết của các dân tộc
trong xã, phần lễ đã được các nghệ nhân dân gian dân tộc Pu Péo thực hiện
nghiêm túc, đảm bảo những yêu cầu cơ bản theo phong tục tập quán truyền thống
của Lễ cúng thần rừng. Phần hội được toàn thể nhân dân trong xã tham gia hưởng
ứng sôi nổi. Với những nội dung thi đấu các môn thể thao truyền thống như đẩy
gậy, kéo co, đánh yến, chơi “ào”, nhảy cóc đã thu hút đông đảo bà con các dân
tộc trong xã tham gia. Ngoài ra, còn có chương trình múa hát các làn điệu dân
ca, hát đối đáp, giao duyên được các nghệ nhân dân gian của xã trình bày, thể
hiện được cuộc sống hàng ngày của bà con dân tộc Pu Péo xã Phố Là.
Nhân dịp này,
đồng chí Mai Ngọc Hướng, Phó Ban Dân tộc tỉnh, Trưởng Ban tổ chức Lễ hội cúng
thần rừng và lãnh đạo huyện Đồng Văn đã trao giải thưởng cho các vận động viên
tham gia các môn thi đấu thể thao và các nghệ nhân tham gia Lễ hội.
130.
Lễ thôi sưởi
lửa của người Thái Tây Bắc
Người Thái Tây Bắc có tục các sản
phụ đều sưởi lửa trong thời gian ở cữ. Lửa trong quan niệm của họ sẽ giúp các
sản phụ và trẻ sơ sinh thêm mạnh khỏe, tránh được sự quấy nhiễu của ma quỷ,
đồng thời lửa còn giúp các sản phụ tránh được một số bệnh sau khi sinh nở.
Khi gia đình có người mới sinh, chủ
nhà treo "ta leo" để tránh ma tà và cũng là thông điệp cho tất cả mọi
người. "Ta leo" gồm một tấm phên đan hình mắt cáo, trên đó gài lá cúc
tần - "co nát" và một mẩu củi cháy dở. Những ngày này không cấm người
ngoài họ tộc lên nhà, nhưng những người dữ vía thường giữ ý không lên. Còn lại
khách trước khi lên đều ý tứ nói: "Nha chắp nha pét nớ, e nọi ơi!",
có nghĩa là: "Đừng giống như chú, như bác nhé, bé yêu ơi!”. Người nhà cháu
bé mới sinh lịch lãm trả lời: "Nha chắp nha pét ben đi đò", nghĩa là:
"Được giống như chú như bác càng tốt, càng hay". Nếu sinh con trai,
sản phụ sưởi lửa bảy ngày, sinh con gái sưởi lửa chín ngày, ứng với bảy vía và
chín vía.
Khi đến ngày ra lửa, người mẹ phải
tắm bằng nước lá thơm, gội đầu, thay váy áo mới. Chủ nhà mời bà mo đến cúng.
Trong đời sống tâm linh của người Thái Tây Bắc, bà mo "một nhính" có
vai trò rất quan trọng, được mời trong các lễ cúng cầu xin con cho các đôi vợ
chồng hiếm muộn con - "xên so lụk, cúng vía trâu - "tám khuôn
quái", thôi sưởi lửa - "nhá phay"...
Bởi người Thái Tây Bắc quan niệm,
trên trời có một bà mụ gọi là "Me bẩu" chuyên dùng một khuôn để đúc
người, cũng chính vì vậy trên đầu chỗ nằm của sản phụ bao giờ cũng có một chiếc
bát cổ gọi là "thuổi bẩu" trong đựng tóc rối tượng trưng cho nhau của
người mẹ. Ông nội hoặc đàn ông trong nhà đan một chiếc giỏ tre nhỏ gọi là
"tạy ho" để đánh dấu sự ra đời của đứa trẻ. "Tạy ho" của
con trai có hai cánh, của con gái có cái bật bông. Sau khi cúng, "tạy
ho" của con trai được treo ở gian thờ, của con gái treo ở gian dành riêng
cho phụ nữ. Khi người con gái đi về nhà chồng sẽ đem theo và đến khi qua đời sẽ
đem hỏa thiêu cùng thi thể.
Mâm cơm cúng bao giờ cũng có gà,
trứng, xôi... Đầu tiên, bà mo cúng ở gian thờ tổ tiên - "hỏng hóng",
bên cạnh mâm cúng bao giờ cũng đặt chiếc váy của bà đỡ, người đã đón cháu bé
chào đời. Bà mo thay mặt gia chủ báo cáo với tổ tiên và các thế lực siêu nhiên,
cầu xin cho hai mẹ con mạnh khỏe, sau đó mới cúng ở gian hai mẹ con nằm. Lời
cúng ngoài kể lại quá trình mang nặng đẻ đau thì còn chúc cho đứa trẻ:
"Thằng cu, cái hĩm đều to cao lớn đều/ Người Thái trong bản bảo nhau/ Sau
này bố mẹ, ông bà sẽ được nhờ cậy cháu/ Con cháu trưởng thành lớn
khôn...".
Tiếp đó, bà mo cúng cầu cho bầu sữa
của người mẹ nhiều sữa, không tắc, bà mo lấy kéo cắt hờ trước đầu vú của sản
phụ yểm không cho ma quỷ làm hại, rồi lấy rượu chải xuôi bầu vú cho không tắc
tia sữa, lấy trứng xoa vào bầu vú người mẹ và chấm vào miệng đứa trẻ, cầu mong
cho đứa trẻ hay ăn chóng lớn.
Trứng trong quan niệm của người
Thái tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở và viên mãn. Sau khi bà mo cúng xong,
bà ngoại cắt tóc cho cháu. Sau đó, bà mo buộc chỉ vào cổ người mẹ để giữ vía,
mọi người buộc chỉ cổ tay cho cháu bé, cầu chúc và ban phước. Ông ngoại cháu bé
treo nôi, bà mo còn cúng chiếc nôi cho cháu bé được ngủ ngon, sau đó bà nội đặt
cháu bé vào nôi ru cháu ngủ, mọi người cùng ăn uống vui vẻ.
Trong lễ thôi sưởi lửa này, cháu bé
sẽ được ông bà ngoại đặt tên. Người Thái rất coi trọng bên ngoại, bởi quan niệm
phúc lộc của con cháu là do họ ngoại mà có. Cũng chính vì vậy, trong lễ thôi
sưởi lửa này, người cao tuổi nhất bên ngoại được mời ngồi vị trí trang trọng
nhất, mọi người đều buộc chỉ cổ tay cho cụ, cầu mong cụ mạnh khỏe, trường thọ,
ban phúc cho con cháu.
Mỹ tục này được các thế hệ người
Thái duy trì như một nét đẹp văn hóa. Mỗi thành viên thêm vững tin vào cuộc
sống, kính yêu các bậc sinh thành, để rồi sống tốt hơn, có trách nhiệm hơn.
131.
Một vài tục thờ
cúng của người Thái đen vùng Mường Lò
Trong vườn của gia đình người Thái
đen vùng Mường Lò, thường có một ngôi nhà sàn nhỏ. Đó chính là nhà thờ cha mẹ
của người phụ nữ Thái khi đã lập gia đình.
Tục thờ cha mẹ của phụ nữ Thái
Trong vườn của gia đình người Thái
đen vùng Mường Lò, thường có một ngôi nhà sàn nhỏ. Đó chính là nhà thờ cha mẹ
của người phụ nữ Thái khi đã lập gia đình.
Ngôi nhà sàn này cao khoảng 1m trở
lên, có diện tích khoảng 1,3 -1,4m. Nếu người phụ nữ có anh hoặc em trai thì
làm nhà một mái, nếu không có anh hoặc em trai thì làm nhà 2 mái. Ngôi nhà còn
thờ cả anh (hoặc em trai) và chị (hoặc em gái) nếu chị (hoặc em gái) mất mà
chưa có gia đình.
Người phụ nữ Thái cúng cha mẹ vào ngày giỗ, ngày lễ tết và lúc ốm đau, cầu mong
có được sự phù hộ của cha mẹ.
Lễ cúng thường gồm: đĩa gà luộc,
rau luộc, cá mắm (không được dùng cá tươi), bát cơm trắng, trầu cau và bát đũa
(thờ bao nhiêu người thì sắp bấy nhiêu bộ bát đũa). Hương cúng được cắm vào bát
gạo. Ngày tết thì lễ cúng có thêm đĩa hoa quả trong mâm cúng và hai cây mía
được để hai bên ngôi nhà. Khi cúng, người phụ nữ Thái lấy áo và vòng tay của
mình và áo của những người con gái họ nếu những người con gái này chưa đi lấy
chồng để vào bên cạnh mâm cơm cúng. Những chiếc áo này chính là thể hiện cho
bản thân họ và cháu gái mời bố mẹ, ông bà về ăn cỗ.
Trong trường hợp ngôi nhà bị hỏng
cần phải làm lại thì khi dỡ ra, vật liệu của ngôi nhà được đưa cho một gia đình
khác đốt chứ không được đốt tại gia đình. Khi người phụ nữ Thái mất, ngôi nhà
sẽ được dỡ, đốt theo quan tài của người phụ nữ.
Tục thờ thổ công
Ngôi nhà thờ thổ công của người
Thái đen là nhà đất hoặc nhà sàn thấp đặt ở trước hoặc sau nhà ở. Ngôi nhà này
chỉ làm 1 mái, có diện tích nhỏ vừa đủ để mâm cơm cúng. Trong ngôi nhà đặt một
hòn đá vẽ hình người, tượng trưng cho thổ công. Việc thờ cúng thổ công thể hiện
ý nghĩa tâm linh cầu mong sự phù hộ của thổ công, bảo vệ, ngăn chặn tà ma,
những điều rủi ro, phù hộ độ trì cho đất đai và gia đình gia chủ. Lễ cúng gồm
có: 2 bát cơm, 1 đĩa muối, 5 chén rượu, 5 đôi đũa, 1 đĩa trầu cau, 2 bát nước
canh, 1 bát nước lã, gà hoặc cá.
Khi cúng, gia chủ sẽ mời 2 bậc: chủ
đất (thổ công), ma quỷ và chủ cai quản vật nuôi trong nhà. Lễ cúng được sắp vào
những ngày lễ tết, động thổ, có vật nuôi mới hoặc gia đình có người ốm đau.
132.
Vài nét về
phong tục của dân tộc Dao Tây Bắc
Người Dao thật thà, hiền lành, chất
phác và hiếu khách. Bản chất quý báu đó vẫn là nét chủ đạo, đặc biệt ở các vùng
sâu, vùng xa. Trong cuộc sống thường nhật, họ ít nói nhưng không thù ghét ai.
Do sống phân tán, tiếp giáp với nhiều dân tộc nên họ cũng dễ hòa đồng, tạo điều
kiện cho sự phát triển, tiếp thu cái mới.
Ở Việt Nam, người Dao có
khoảng 45 vạn người, đứng thứ 9 so với các dân tộc trong nước. Cuộc sống của họ
do ly tán, bất ổn định, chủ yếu dựa vào rừng núi cao... nên gặp nhiều khó khăn.
Người Dao thật thà, hiền lành, chất phác và hiếu khách. Bản chất quý báu đó vẫn
là nét chủ đạo, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Trong cuộc sống thường nhật,
họ ít nói nhưng không thù ghét ai. Do sống phân tán, tiếp giáp với nhiều dân
tộc nên họ cũng dễ hòa đồng, tạo điều kiện cho sự phát triển, tiếp thu cái mới.
Về nguồn sống cơ bản, đồng bào Dao
chủ yếu dựa vào các sản phẩm nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp như lúa, ngô,
khoai, sắn; thức ăn chủ yếu là các loại rau, đậu, củ, quả tự trồng. Công cụ sản
xuất còn thô sơ, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu. Người Dao có nghề làm giấy bản,
nhuộm màu đỏ thẫm, vàng chanh hoặc để thô được đem đi bán khắp mọi nơi. Dân tộc
Dao có nhiều bài thuốc nam (thuốc lá) bí truyền chữa được nhiều bệnh nan y bằng
kinh nghiệm bắt mạch, cắt thuốc theo y pháp phương Đông.
Về cấu trúc nhà ở của người Dao đơn
giản nhưng với sự tổ hợp ba phần toát lên sự kín đáo, tế nhị của người Á Đông.
Họ có ba loại nhà: nhà sàn, nhà đất, nhà nửa sàn nửa đất; nhà ở bằng gỗ, tre,
nứa rất chắc chắn. Người Dao lấy địa thế đồi núi để dựng nhà, thường là chỗ
bằng phẳng. Kiểu nhà truyền thống của người Dao quần trắng là nhà sàn, thường
được làm ba gian, cách chắp nối các cấu kiện bằng nguyên liệu rời. Tuy nhiên,
họ không phải dùng đinh trong quá trình lắp ghép nhà ở. Kiểu nhà này chỉ có một
cầu thang lên xuống, cầu thang có số bậc lẻ; trong nhà thường có hai bếp. Nhà
người Dao đỏ làm nửa sàn nửa đất ở lưng chừng đồi. Cách chọn hướng nhà thì cũng
như các dân tộc khác.
Tín ngưỡng của người Dao là tín
ngưỡng đa thần “vạn vật hữu linh” mang dấu ấn của Nho giáo và Đạo giáo chính
thống. Tư tưởng Nho giáo được thể hiện rõ trong cách phân định tôn ti, trật tự,
theo thứ bậc ở mỗi gia đình, mỗi dòng họ. Đồng thời, Đạo giáo ảnh hưởng bao
trùm hầu hết các phong tục tập quán thờ cúng tổ tiên (Bàn Hồ – Bàn Vương), được
thể hiện qua lễ đặt tên cho con trai và cấp sắc cho người làm thầy cúng...
Người Dao quan niệm khi chết thì chỉ chết về thể xác, còn linh hồn mãi mãi bất
diệt “quay về với tiên tổ”.
Hôn nhân nam, nữ tự do tìm hiểu và
tự nguyện kết hôn theo chế độ một vợ một chồng, người cùng họ không được lấy
nhau. Nam giới phải ở rể từ hai đến ba năm, có khi ở luôn nhà vợ (nếu ở luôn
nhà vợ thì phải đổi họ bên vợ). Họ còn có tục dùng bạc trắng để định giá cô
dâu, theo nghĩa đen là mua và gả bán, số bạc ấy sau này sẽ là của đôi vợ chồng
trẻ. Ngày cưới, cô dâu trang điểm rất đẹp, đội mũ màu đỏ, có hoa văn; cổ và tay
đeo nhiều vòng bạc. Ngày cưới, đoàn đưa cô dâu, có cả thầy cúng, và thổi kèn,
đánh chiêng, khua trống, rung nhạc. Tới nhà chồng, cô dâu phải qua nhà tạm, khi
được giờ thì mới được vào nhà chồng. Lên tới nhà chồng, cô dâu phải “rửa tay”,
bước qua chậu than hồng và nhiều nghi thức khác... trước sự chứng kiến của hai
họ rồi mới bước qua cửa vào nhà với ý nghĩa là “Từ nay đoạn tuyệt với con ma họ
ngoại và từ nay theo con ma họ nhà nội”.
Sau khi vợ chồng lấy nhau, khi sinh
con đầu lòng thì họ đẻ ngay tại buồng ngủ của mình. Ba ngày đầu, các cửa ra vào
đều phải cắm lá kiêng không cho người lạ vào nhà. Gia đình dân tộc Dao tồn tại
bền vững theo chế độ phụ quyền, người con gái không có tên trong chúc thư,
không được thừa kế tài sản của gia đình.
Về trang phục, so với các dân tộc
khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ được nhiều nét bản sắc của mình với
chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng.
Tộc người Dao đỏ đội khăn đỏ, đeo những bông hoa đỏ trước ngực; Dao quần chẹt
mặc quần ống hẹp bó sát vào chân; Dao quần trắng nổi bật là yếm rất to che kín
cả ngực và bụng, ngày cưới cô dâu mặc quần trắng; Dao làn tuyển mặc áo dài, đội
mũ nhỏ...
Dân tộc Dao có một nền văn hóa rất
phong phú và đậm đà bản sắc thể hiện qua nhiều phong tục, nhiều điệu múa đẹp,
nhiều bài hát hay, kho tàng truyện cổ tích, thần thoại, ngụ ngôn, ca dao, thành
ngữ, chiêm tinh, tướng số, câu đố... Nhưng cũng giống các dân tộc thiểu số khác
chủ yếu tồn tại dưới dạng truyền khẩu, vốn này ngày nay cũng bị mai một, thất
truyền với những lý do khách quan cũng như chủ quan.
Từ khi có Đảng, cũng như các dân
tộc khác, đồng bào Dao luôn đoàn kết, định canh định cư, phát triển kinh tế,
góp phần xây dựng quê hương và từng bước khôi phục, bảo tồn, phát huy bản sắc
văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
133. Tục xông đất đầu năm
Tục lệ xông đất đã có lâu đời ở
nước ta. Người dân Việt Nam quan niệm ngày mồng Một là ngày đầu của một năm. Họ
cho rằng vào ngày mồng Một, nếu mọi việc xảy ra suôn sẻ, mau mắn thì cả năm
cũng sẽ được tốt lành thuận lợi. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một
năm cũng vì thế mà quan trọng.
Cho nên cứ cuối một năm, mọi người
có ý tìm xem những người nào vui vẻ, linh hoạt, đạo đức, và thành công trong bà
con hay láng giềng để nhờ sang thăm. Tục này gọi là tục xông đất. Người khách
đến xông đất phải đến thăm sáng sớm ngày mùng Một (vì muốn là người khách đầu
tiên), mang theo quà biếu như trái cây, bánh mứt, và tiền lì xì cho trẻ con
trong nhà. Chủ nhà, do đã sắp đặt trước, sẽ tiếp đón niềm nở và nhận những lời
chúc tốt lành.
Người đến xông đất thường chỉ đến
thăm, chúc Tết chừng năm mười phút chứ không ở lại lâu, hầu cho mọi việc trong
năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt. Người đi xông đất xong có niềm
vui vì đã làm được việc phước. Người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng
gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới.
134.
Tục gõ sạp đón
khách của người Thái (Yên Bái)
Gõ sạp đón khách là một nét
sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo của đồng bào Thái vùng phía tây tỉnh Yên
Bái. Gõ sạp tạo bầu không khí sôi động, náo nhiệt khi trong bản, trong mỗi nhà
tổ chức các cuộc vui có đông khách tham dự.
Kiến trúc nhà
sàn của đồng bào Thái mang một nét khá khác biệt với kiến trúc nhà sàn của một
số dân tộc khác ở chỗ: khi đi lên hết cầu thang, nó không chỉ có cửa rẽ vào
lòng nhà, mà nó còn có một lan can - nơi diễn ra cảnh gõ sạp đón khách tới chơi
nhà - nằm dọc theo trái nhà dẫn thẳng xuống khu vực bếp.
Số người tham
gia gõ sạp từ 9 đến 12 người, là nữ trẻ, giỏi văn nghệ. Trong số đó, có một
người điều khiển trống cái và số còn lại mỗi người cầm một đôi ống tre hoặc nứa
cắt bỏ mấu ở hai đầu, đứng thành hàng sát mép ngoài lan can.
Khi khách đã
đến sân nhà, người điều khiển trống cái nổi một hồi trống thật dài. Sau đó đánh
trống dặp để những người cầm ống làm động tác chuẩn bị. Đến khi tiếng trống dặp
chuyển thành những tiếng tùng... cắc... cắc. Rồi lại đảo lại cắc... cắc...
tùng... tùng liên tiếp, biến hóa thì những người cầm ống cũng trỗ ống xuống sàn
nhà, đập hai ống vào nhau, sao cho âm thanh của ống xen kẽ vào âm thanh của
trống. Tiếng trống, tiếng gõ sạp vừa nhanh vừa liên hoàn tạo cho khách đến chơi
có một cảm giác rất hưng phấn và hòa đồng trong cuộc vui.
Khi khách đã
quây quần quanh những mâm cỗ, tiếng gõ sạp sẽ dừng lại. Các cô gái chuyển sang
việc tỏa đi các mâm rót rượu mời khách. Rồi sau đó họ tập trung ở một góc nhà
hát khắp, hát ví đối đáp với khách. Cho đến khi cuộc rượu đã tàn và chuyển sang
màn múa xòe thì những cô gái sẵn sàng lẫn trong vòng xòe cùng với khách. Khi
khách bắt đầu ra về, các cô gái nhanh chóng cầm những chai rượu và những chiếc
chén được chuẩn bị sẵn, tiếp tục đứng ra lan can rót rượu mời khách uống chén rượu
chúc mừng và chia tay với khách. Du khách khi ra về sẽ cảm thấy mình đã có một
cuộc vui thật thú vị trong sự mãn nguyện về tấm lòng nhiệt tình và hiếu khách
của người dân nơi đây.
136. Lễ cưới của
dt M’nông Preh ở Tây Nguyên
Tục tảo mộ
Phong tục thuần tuý Việt Nam trong
dịp Tết là tục tảo mộ cuối năm hay vào những ngày đầu năm mới. Vào những ngày
cuối năm hay đầu năm, các gia đình thường tụ họp ở nghĩa địa để sửa sang, quét
dọn phần mộ của tổ tiên và những thân quyến quá cố. Họ đem hương hoa lễ vật bày
ở mộ và "cung thỉnh" hương hồn những người quá vãng về nhà ăn Tết
cùng con cháu...
Tục tảo mộ Tết này, trước các thời
kỳ chiến tranh vẫn còn được duy trì nhiều nơi ở miền Bắc và nhiều tỉnh ở miền
Trung như ở Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa
v.v... Theo sách "đại Nam thống Chí", nhiều nơi ở miền Bắc nhất là
quanh vùng Hà Nội còn có tục cả họ (nghĩa là tất cả mọi người trong cùng một
gia tộc) tụ họp nhau lại để cùng đi tảo mộ tổ tiên và thân quyến quá cố, vào
những ngày trước Tết... Có nơi thì đi thăm mộ vào những ngày đầu năm. Tục tảo
mộ Tết này được gọi là Lễ Tổ Lạp.
Tục tảo mộ Tết này cho thấy ta khác
với Tàu, vì chính lễ Thanh Minh tảo mộ của Trung Hoa là vào tháng Ba âm lịch,
do đó thơ Kiều mới có câu: "Thanh minh trong tiết tháng Ba/ Lễ là tảo mộ,
hội là đạp thanh..."
136.
Lễ cưới của dân tộc M’nông Preh là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian mang đậm
bản sắc riêng biệt của người M’nông. Phong tục hôn nhân của người M’nông Preh
gồm mấy bước: Lễ ngỏ lời, Lễ dạm hỏi, Lễ cưới.
Khi
chàng trai tìm được cô gái vừa ý, chàng tặng cô gái một cái lược, một chuỗi hạt
hoặc một vòng đeo tay để làm tin. Sau đó, chàng trai về thông báo với bố mẹ và
xin ý kiến. Nếu đồng ý, bố mẹ chàng trai sẽ nhờ ông mối mang lễ vật đến nhà
gái. Lễ vật gồm : một con gà, một con dao và ống măng chua. Khi nhà gái bằng
lòng, ông mối sẽ thay mặt nhà trai bàn bạc với nhà gái về Lễ dạm hỏi.
Đến ngày đã định, nhà trai cử một người già có uy tín cùng một số trai tráng
khỏe mạnh mang lễ vật đến nhà gái. Tùy từng nơi, từng gia đình mà sính lễ khác
nhau. Lễ chính gồm : một con trâu hoặc lợn, một gùi măng chua và da trâu mối,
một ché rượu cần nhỏ. Nhà gái cử một vị cao tuổi nhận lễ vật rồi bày lên chiếc
chiếu hoa ở giữa nhà để cúng Giàng xin làm Lễ dạm hỏi. Xong xuôi hai bên nhà
trai, nhà gái mới tiến hành bàn bạc, chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức đám
cưới.
Lễ cưới sẽ được tổ chức ba ngày liền ở nhà gái. Hôn lễ được mở đầu bằng việc
nhà gái đem biếu nhà trai mỗi người một bát gạo đầy, tượng trưng ý nguyện cầu
mong cuộc sống họ luôn luôn no đủ. Mỗi bát gạo tương đương một ché rượu mà nhà
trai tặng nhà gái. Ông mối sẽ đóng luôn vai trò người làm chủ hôn. Ông dẫn đôi
uyên ương đến bên cột nhà chính. Hai người làm chứng đại diện cho hai họ cầm
chiếc khăn buộc vào cột nhà. Chủ lễ cầm tay đôi vợ chồng trẻ nắm vào chiếc
khăn, ý nói tình cảm hai người đã được buộc chặt, luôn gắn bó bên nhau. Sau đó
chủ lễ dặn dò chú rễ, cô dâu về đạo vợ chồng và trách nhiệm của mỗi người đối
với cha mẹ, gia đình họ hàng.
Tiếp sau đó là người làm chứng, họ xúc cho hai vợ chồng mỗi người ba muỗng cơm
và cũng được đôi vợ chồng phúc đáp lại. Sau nghi thức này, ông mối đưa cần rượu
để hai vợ chồng trẻ uống đầu tiên mở màn cho lễ uống rượu mừng ngày cưới. Những
ché rượu được cột sẵn ở Cột buộc ché rượu theo hàng dọc giữa nhà. Mọi người
cùng uống rượu, ca hát, nhảy múa theo nhịp cồng chiêng rộn rã suốt ngày đêm.
Những người đến dự đám cưới mang theo rượu, thuốc lá, gạo nếp .. góp vào ngày
vui của gia chủ. Lễ cưới còn là dịp để các chàng trai, cô gái tìm hiểu nhau.
Sau lễ cưới còn có lễ rước rể vào ngày hôm sau. Cưới xong đôi vợ chồng trẻ phải
ở trong nhà bảy ngày, không được ra khỏi nhà tránh gặp mặt người lạ. Hết thời
gian kiêng cử, họ trở về nhà trai bảy ngày, sau đó về bên nhà gái ở trọn đời
138. Tăng cẩu"- nét
đẹp trong văn hoá của người Thái đen
Người Thái có nhiều nhóm: Thái đen, Thái
trắng, Man Thanh, Tày Mười, Tày Thanh... với dân số hơn 1 triệu người phân bố ở
nhiều vùng đất nhưng nhiều nhất vẫn là ở vùng Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Hoà
Bình, Nghệ An). Dân tộc Thái có vốn văn học cổ truyền quý báu với kho tàng thần
thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao… có nhiều điệu múa (khắp) độc
đáo: xoè Thái, múa sạp.
Văn hoá của người Thái rất phong
phú thể hiện ở nhiều nghi lễ khác nhau như: cúng trời đất, cúng bản mường, nghi
lễ cầu mùa, đám ma được gọi là lễ tiễn người chết về "mường trời",
người dân tộc Thái ở nhà sàn, riêng người Thái đen làm nhà có hình mai rùa và
được trang trí theo phong tục xưa. Nhưng tục búi tóc (tăng cẩu) lại chỉ phổ
biến ở nhóm người Thái đen. Hôn nhân của người Thái đen là hôn nhân theo kiểu
phụ hệ, nhưng từ trước tới nay, tập người này vẫn duy trì tục ở rể, gửi rể.
Khi chàng trai người Thái đen đến
tuổi lấy vợ (trước đây là 13-14 tuổi), nay mười tám, đôi mươi sẽ tự đi tìm
người con gái mà mình ưng ý hoặc do bố mẹ "nhắm cho". Tiếp đến, nhà
trai nhờ một ông Mối (tiếng Thái gọi là Phòlam) đến nhà cô gái để làm mối. Nếu
được gia đình cô gái ưng ý, chàng trai sẽ bắt đầu cuộc đời ở rể.
Chọn ngày lành, tháng tốt, nhà trai
chuẩn bị cho con trai một số sính lễ để đến ở rể. Lễ vật gồm: một chiếc áo, một
con gà mổ sẵn, một gói cơm, một chai rượu và một cái "Tôống bai" là
cái đựng vía (khoắn) được làm bằng một sợ dây mây một đầu được cuộn xoắn lại
(theo như lời người Thái đen cho biết thì vật này để cho vía chú rể trú ngụ ở
đó). Ông Mối sẽ là người trực tiếp đưa chàng trai đến nhà cô gái. Sau khi kiểm
xong lễ vật, nhà gái để mọi thứ lên bàn thờ để báo cho tổ tiên biết nhà đã có
chàng rể. Trong thời gian ở rể chàng trai được đối xử như một thành viên mới
của gia đình.
Nhưng do phải có thời gian thử
thách nên anh ta phải chăm chỉ, lao động cật lực, cùng ăn với cả gia đình vợ,
chỉ có điều anh ta chưa được ngủ cùng cô gái, mà phải ngủ ở vị trí dành cho
khách (người Thái gọi là khơi). Trong ngôi nhà sàn của người Thái, ngoài các
buồng thông thường, ở hai phía đầu hồi còn có hai phần được sử dụng với từng
mục đích khác nhau, một đầu là khan dùng để làm công việc bếp núc. Đây là phần
đầu hồi ở phía sau, để nước và làm bếp, nơi này thường là chỗ sinh hoạt của phụ
nữ. Khơi (trong tiếng Thái, khơi là rể, lục khơi là con rể) là phần đầu hồi nhà
ở phía trước, phía cầu thang chính lên nhà. Đây là phần dùng để tiếp khách và
nếu gia đình nào có chàng rể đang trong giai đoạn thử thách thì sẽ ngủ ở đây...
Sau thời gian ở rể có thể chỉ 3
tháng hoặc kéo dài cho đến khi chàng rể được nhà cô gái chấp nhận. Để đôi uyên
ương được ngủ chung với nhau thì hai gia đình phải tiến hành làm lễ "tăng
cẩu" (búi tóc), chính thức công nhận họ là vợ chồng. Búi tóc của người phụ
nữ Thái đen từ thời điểm này được coi như là một dấu hiệu thông tin cho mọi
người biết họ đã có chồng. Để làm lễ này, nhà trai lại phải mang tới nhà gái
một số lễ vật. Theo tục lệ, lễ "Tăng cẩu" được thực hiện ở gian gần
bếp, người ta chuẩn bị một chậu nước lá thơm. Đại diện phía nhà trai gội đầu,
chải tóc và búi tóc cho cô dâu. Tóc được búi lên, cuộn lại bằng một dây xà tích
bằng bạc và cài một chiếc trâm bạc giữ cho tóc không bị xổ ra. Trong lúc búi
tóc cho cô gái, đại diện hai nhà cùng uống rượu và hát đối đáp "khắp
toóc". Nội dung của các bài khắp nói lên hoàn cảnh của mỗi nhà và những
lời dặn dò đôi trai gái.
Sau lễ tăng cẩu, chàng trai và cô
gái được ngủ chung với nhau, cũng từ đó cô gái phải luôn búi tóc vừa để làm đẹp
vừa như là một dấu hiệu thông báo cho các chàng trai khác biết họ đã có chồng.
Về nguyên tắc, lễ cưới có thể được tổ chức bất kỳ lúc nào mà hai gia đình muốn,
sau lễ "tăng cẩu".
138.
Tập tục sống và
ăn Tết của người Pu Péo - Hà Giang
Về nhà mới, cúng thần rừng hay Tết
Nguyên đán là những dịp lễ quan trọng nhất trong hệ thống tín ngưỡng của người
Pu Péo. Bánh chưng ngày Tết của họ gói bằng nếp cẩm dành cho năm cũ để xua đi
điềm xấu và bánh chưng trắng đem vận may đến trong năm mới.
Người Pu Péo chỉ có duy nhất ở Hà
Giang, theo số liệu điều tra năm 1999 chỉ có 705 khẩu, phân bố ở ba huyện Ðồng
Văn, Mèo Vạc và Bắc Mê. Dân tộc Pu Péo có số dân đứng thứ 53 trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
Tài liệu xưa nhất đề cập đến người Pu Péo ở Việt Nam là Kiến văn tiểu lục của
Lê Quý Ðôn, viết vào giữa thế kỷ 18, với tên gọi La Quả. Ðến đầu thế kỷ 19,
người Pu Péo được ghi với các tên gọi như: Penti, Pentilôlô, Kaobeo và Pu Péo.
Trên địa bàn tỉnh Hà Giang, mặc dù dân số không đông, nhưng người Pu Péo sống
khá phân tán trên rẻo cao biên giới Việt - Trung.
Song người Pu Péo không giống người Mông sống ở trên núi cao mà chọn những hồn
địa giữa rừng núi để lập làng. Khu vực cư trú của người Pu Péo ở Phố Là, Sủng
Tráng, hay Phú Lũng đều thuộc vùng núi giữa, mang đậm khí hậu Á nhiệt đới.
Với điều kiện tự nhiên như vậy, người Pu Péo có thể vừa làm ruộng nước, vừa tận
dụng được những thế mạnh của rừng trong cuộc sống mưu sinh.
Làm nhà, là một trong những công
việc lớn của đời người. Người Pu Péo quan niệm rằng sự thành bại trong cuộc
sống mỗi gia đình, mỗi cá nhân phụ thuộc rất nhiều vào điền trạch. Chính vì
thế, có rất nhiều tín ngưỡng chung quanh ngôi nhà của họ, từ việc chọn đất đến
quá trình chọn cây, cột và xây cắt, nghi thức vào nhà mới...
Về nhà mới là lễ thức quan trọng nhất trong hệ thống tín ngưỡng liên quan đến
ngôi nhà của người Pu Péo. Bao giờ lễ cũng được tổ chức vào gần sáng, từ khi gà
mới gáy lần thứ nhất.
Trước khi vào nhà mới, thầy cúng phải thắp hương cúng tổ tiên ở nhà cũ (nếu
tách hộ thì phải cúng ở nhà bố mẹ đẻ của chủ nhà) để xin về nhà mới, sau đó
cúng các vị thần linh chung quanh nhà rồi thắp hương ở bếp sưởi, bếp lò và cửa
ra vào.
Tiếp đó thầy cúng và chủ nhà mỗi người đốt một bó đuốc ở bếp sưởi của nhà cũ
rồi cả nhà dẫn nhau đến nhà mới, mang theo một nia gạo, một chiếc nồi, ba ông
đầu rau và một con gà trống.
Ðến nhà mới, thầy cúng vào trước, vung đuốc khắp nhà để đuổi tà ma, rồi ném
đuốc ra ngoài cửa. Tiếp đến chủ nhà dùng bó đuốc nhóm đống lửa ở gian Thoang
Plu cạnh nơi đặt bếp sưởi và đào một hố hình vuông (sâu 20 cm rộng mỗi chiều 50
cm) ở giữa nhà, chiếu thẳng với ban thờ tổ tiên và cắm ba nén hương vào đó.
Tiếp theo là nghi thức lễ giết gà cúng thần bếp. Sau khi cắt tiết, vặt lông và
mổ gà, người ta đổ cả tiết, lông và nước làm lông vào hố bếp.
Lúc này, ông cậu (cậu em mẹ hoặc em vợ chủ nhà) mới lấp hố bếp, lấy ba hòn đá
kê làm ba ông đầu rau và châm lửa vào bếp. Vì tục này mà người Pu Péo gọi các
ông đầu rau nhà mình là Peo Chau (hòn đá của cậu). Sau đó, ông cậu treo một
miếng vải đỏ ở giữa cửa để xua tà ma, vừa làm ông ta vừa nói to những lời chúc
phúc cho gia chủ.
Chỉ sau khi thực hiện xong nghi thức ở bếp thiêng và cửa ra vào mới được nhóm
lửa bếp lò để đun nấu lễ vật cúng ở bàn thờ tổ tiên.
Người Pu Péo thờ đến ba đời (Pệ - đời bố mẹ; Tế ngân - đời ông bà; Tế gạo - đời
các cụ), ứng với mỗi đời là một chiếc hũ (loog ten) đặt trên bàn thờ. Lễ vật
cúng tổ tiên trong ngày vào nhà mới được tính theo số hũ thờ, thường thì mỗi hũ
một con gà, năm nắm cơm nhỏ và một ít thịt. Sau khi cúng và đưa các hũ lên ban
thờ mới, người ta lại phải cúng một lần nữa.
Mọi nghi thức phải hoàn tất vào lúc trời hừng sáng. Ðến khi trời sáng, họ hàng,
làng xóm sẽ sang mừng tân gia, người con gà, người chai rượu hoặc ít tiền chúc
phúc cho gia chủ.
Người Pu Péo sử dụng lịch cổ, mỗi giáp 12 năm (khuộp mai), mỗi năm chia thành
12 tháng, mỗi tháng có 29 hoặc 30 ngày, mỗi ngày có 12 giờ. Cứ ba năm có một
năm nhuận, hoàn toàn giống cách tính lịch âm ngày nay. Vì vậy họ cũng ăn Tết
Nguyên đán như nhiều dân tộc khác.
Trong những ngày Tết, người Pu Péo cũng có tục gói bánh chưng, nhưng có nét độc
đáo riêng; họ gói bánh chưng đen bằng nếp cẩm (mí uột lặng) ăn vào tối 29 Tết
để kết thúc năm cũ, ngụ ý trút bỏ hết vận đen trong năm và bánh chưng trắng (mí
uột lìn) cúng vào tối 30 để mừng năm mới.
Khi bước sang năm mới (qua 12 giờ đêm), nếu ai mở cửa ra ngoài thì khi vào nhà
phải mang quà vào lấy may; quà đó có thể là một bó củi. Sau đó nam nữ đi gánh
nước "nước vàng, nước bạc" để cầu may.
Khi đi mang theo một bó hương và giấy vàng, đến mỏ nước thì đốt hương cầu khấn,
khi lấy đầy nước vào thùng thì bỏ giấy vàng vào thùng và gánh về. Ðó là một
trong những biểu hiện của tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp, cầu cho mưa gió
thuận hòa để có đủ nước cấy trồng. Mặc dù số dân không đông, nhưng người Pu Péo
ở Hà Giang vẫn còn lưu giữ trong ký ức cộng đồng nhiều nghi lễ và cả một kho
tàng văn nghệ dân gian phong phú. Cùng với nghi thức về nhà mới còn lễ cúng
thần rừng vào ngày 6-6 âm lịch hằng năm.
Cũng chính từ nghi lễ này nên khu vực nào có người Pu Péo sinh sống rừng thường
được bảo vệ rất tốt, nhất là khu rừng thiêng: việc bảo vệ rừng để có nước làm
ruộng và có gỗ làm nhà luôn được truyền tụng từ đời này sang đời khác.
139.
Tục Cúng lúa
của người Chăm
Đồng bào Chăm, tỉnh Phú Yên, quan
niệm lúa có hồn nên sau mùa gieo cấy, thu hoạch hay mở kho thóc thường tổ chức
lễ cúng. Nghi thức này bày tỏ lòng biết ơn với núi rừng, ruộng rẫy đã tạo ra
của cải vật chất, đem đến cho con người cuộc sống ấm no.
Khi lúa bắt đầu uốn cần câu, lác
đác chín, khoảng tháng 9 - 10, các cụ cao tuổi hoặc chủ gia đình chọn gặt những
bông lúa trĩu hạt để thiếu nữ trong làng mang về chòi đập, sẩy, đảo khô và giã
làm gạo, chuẩn bị lễ cúng lúa mới.
Lễ hội của đồng bào Chăm Phú Yên. Ảnh:
Báo Biên Phòng.
Nhà nào tổ chức cúng cũng phải mời
cả làng cùng dự, lấy may cho năm sau. Do đó, lần lượt các hộ thay phiên tổ chức
nghi lễ này. Chủ và khách ngồi quây quần bên bếp lửa hồng, ánh sáng soi rõ từng
khuôn mặt háo hức chờ ngày lúa đưa vào kho. Gia đình nào khá giả thì thịt một
con lợn, một con gà cồ và một con gà mái cúng Yàng, dẫn đường cho lúa.
Khi lúa đã chín đều người Chăm cúng
Yàng đất, hồn lúa để tiến hành thu hoạch (cúng thu hoạch). Lễ cúng có một ché
rượu cần, chai rượu trắng. Họ mời buôn làng, chủ yếu là bà con, anh em trong
dòng tộc đến tham dự. Người Chăm ở Phú Yên không cho phép ngũ cốc bị thấm nước,
rơi đổ khi qua sông, suối. Họ cho những điều này là dấu hiệu mất mùa, phải giết
gà, heo, dâng rượu cúng Yàng xin tha tội.
Lúa gặt về được bó lại rồi đem cất
vào chòi ngoài ruộng. Khoảng hai tháng sau, gia chủ bắt một con gà làm thịt
cúng mời hồn lúa từ ruộng về kho (cúng lúa vào kho). Nếu đường vào làng qua
sông, suối thì phải dùng gà luộc chín hoặc trứng cúng, rồi giăng sợi chỉ trắng
làm đường dẫn hồn lúa đi.
Đến tháng Giêng, Hai, sau khi đập
lúa xong, người Chăm lại thịt một con lợn cúng Yàng để mở cửa kho mang đi xay
gạo. Lễ vật là một con gà, chén rượu.
140
Tục làm đèn
trời ở Đồng Minh – Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Xã Đồng Minh huyện Vĩnh Bảo thành
phố Hải Phòng là một địa phương được biết tới với nghề làm đèn trời. Điều đặc
biệt ở đây chính là ở chỗ, từ rất lâu rồi, cả xã cùng làm đèn trời và cả xã
cùng thả đèn trời.
Ngày nay đèn trời được thả ở nhiều
nơi. Người ta thấy loại đèn này trong các lễ hội, các dịp tết, đặc biệt là Tết
Trung thu (Rằm tháng tám âm lịch). Đèn trời cháy sáng bằng sự thông minh, khéo
léo của người và bay cao vào cõi bao la, thinh không của trời như một lời cầu
mong về hạnh phúc, may mắn được tượng hình hoá.
Trong những dịp lễ tết đặc biệt là
Đêm giao thừa tết Nguyên đán và Tết trung thu, Rằm tháng Bảy, hội làng, hội
đình, lễ chùa, mừng thọ, cúng giỗ, khánh thành, lễ kỷ niệm… khắp nhà nhà trong
14 làng của xã Đ ồng M inh đều thả đèn trời, tạo thành một cảnh tượng rất rực
rỡ, đẹp mắt và oai linh mà những người dân ở các xã khác cách đó gần chục cây
số cũng cảm nhận được.
Theo người dân địa phương, đèn trời
được thả để mang theo hết những rủi ro, đau khổ, vận hạn lên trời. Họ thả đèn
trời để tống tiễn hết những điều không may trong cuộc sống, để thêm hy vọng về
một tương lai may mắn và hạnh phúc hơn. Do vậy, những ngày xuân cũng là những
ngày người ta thích thả đèn trời hơn cả, để mong về một năm mới đầy tốt đẹp.Tục
làm và thả đèn trời ở xã Đồng Minh đã có từ nhiều đời, nhưng chính xác là từ
năm nào thì hiện chưa có tài liệu nào khẳng định. Chúng tôi tìm về Đồng Minh
thì được biết, từ thời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xuất hiện tục thả đèn
trời.
Ông Phạm Văn Khôi, đội 6, xã Đồng
Minh là một nghệ nhân nổi tiếng bởi bàn tay làm đèn khéo léo. Người đàn ông 61
tuổi, nước da nâu khoẻ mạnh, đôi mắt sáng tinh tường, vừa thoăn thoắt làm đèn
vừa kể chuyện. Một năm ông Khôi làm trên dưới 200 chiếc đèn trời. Người dân ở
các nơi khác về hỏi mua đèn rất đông, nhưng cũng như mọi người ở xã mình, ông
Khôi làm đèn không vì mục đích kinh tế mà vì vấn đề tâm linh. Các lễ hội lớn
như Hội Đền Hùng (Phú Thọ), Hội Đền Côn Sơn (Hải Dương)… ông Khôi đều mang đèn
đi thả. Được hỏi về cảm giác lúc chứng kiến đèn do chính mình làm bay lên trời,
ông Khôi trả lời ngắn gọn: “Khoái lắm!”
Đèn trời hình trụ, giống một cái chuông lớn, làm từ giấy bản, tre, sợi
thép mảnh và vải để làm bấc đèn. Giấy bản mỏng, loại để viết sớ, kích cỡ 120 x
80 cm, thường là màu trắng. Các tấm giấy được dán vào với nhau bằng hồ bột gạo
hoặc bột dong. Tre làm khung đèn là tre già vì tre già cứng nên dễ vót bé mà
lại nhẹ. Bấc đèn làm bằng những búi vải thô tẩm mỡ lợn hoặc dầu ăn chứ không
dùng dầu hoả để tránh muội bám làm bẩn và nặng đèn. Bấc được buộc vào chính tâm
vòng tròn khung đèn. Lúc thả đèn, một người giữ, một người châm bấc. Sau khi
đốt bấc, cần đợi cho tới khi đèn căng đầy và trọng lượng bằng không mới nhẹ
nhàng thả tay và xoay nhẹ đèn lên.
Đèn trời to nhỏ tuỳ thuộc vào kích
thước đường kính khung đèn, thường dao động từ 70 tới 90 cm. Thời gian làm một
chiếc đèn thì lâu, khoảng gần một tiếng đồng hồ nhưng lúc thả lại rất nhanh,
gặp hôm trời quang đãng đèn sẽ lao lên vun vút. Ngày tết thả đèn trời thì người
ta thường buộc thêm dưới bấc đèn một cây pháo sáng, trông cũng lung linh như
đốt pháo hoa vậy.
Người dân Đồng Minh, cứ từ đời này
qua đời khác, truyền nhau làm đèn trời như truyền một thứ di sản quý báu nhưng
rất mực dân dã. Những người con vùng quê nhiều am khám, đền chùa cổ kính với
những nhà thờ khang trang, cao đẹp này lớn lên trong lòng thành kính đất trời
và có đi muôn phương thì những ấn tượng về chiếc đèn trời cũng không thể nào
phai nhạt trong tâm hồn.
141.
Mở hàng đầu
năm: Phong tục hay mê tín?
Là chủ một cửa hàng bán đồ
mỹ nghệ trên đường La Thành (Hà Nội), anh Hùng, chị Hồng đã cẩn thận nhờ
thầy ở tận Mê Linh (Vĩnh Phúc) xem ngày mở hàng đầu năm mới từ trước ngày ông
Công ông Táo.
Nhiều người tin rằng, ngày đẹp
đầu năm Mậu Tý rơi vào các ngày chẵn như mùng 2, mùng 4, mùng 6. Đặc biệt,
nhiều người cho rằng mùng 10 Tết là ngày cực tốt. Nhưng riêng gia đình anh Hùng
chị Hồng, để cho hợp tuổi, hai vợ chồng quyết định làm theo lời thầy: Mở
hàng đầu năm vào ngày mùng 7 Tết.
Theo lời thầy phán, năm nay là năm
con chuột, con vật nhỏ bé nhưng hết sức khôn ngoan, lanh nhẹn, khéo luồn lách.
Nếu anh chị mở hàng vào đúng ngày hợp với tuổi, chuyện làm ăn sẽ cực
kỳ phát đạt.
Đúng giờ "hoàng đạo", anh
chị bày một mâm cúng trước bàn thờ thần tài. Anh chị cũng kịp nhờ một người bạn
sinh năm Bính Thìn vốn là người xởi lởi, đến cửa hàng vào đúng đầu giờ
Tỵ để mua mở hàng giúp, mong cho 1 năm làm ăn thuận lợi, mọi sự suôn sẻ.
“Công việc buôn bán của chỉ thật sự
bắt đầu từ khoảng đầu tháng 2 Âm lịch. Thế nên, việc xem ngày giờ mở hàng chỉ
là để cho được ngày, lấy may thôi. Sau khi mở hàng xong, cả gia đình lại đóng
cửa hàng, đi chơi xuân tiếp”, anh cười hoan hỉ.
Tuy nhiên với gia đình chị Mậu (Đào
Tấn – Hà Nội), chuyên bỏ mối thịt gà làm sẵn cho các cửa hàng ăn trên phố,
thì mở hàng ngay từ chiều mùng 1 Tết, vì nếu đợi ngày tốt thì chỉ có
mất khách.
Chị cho biết: “Cả gia đình chỉ được
nghỉ chiều tối ngày 30 và buổi sáng mùng 1 để ăn Tết gọi là thôi. Chiều
tối mùng 1, mọi người lại phải làm để chuẩn bị mang hàng đi giao sáng sớm
mùng 2.”
Tuy gấp gáp nhưng chị cũng nhờ được
một người bạn hàng vốn là người "nhẹ vía", mua bán nhanh chóng đến mở
hàng giúp, để chị lấy lộc đầu năm.
“Chỉ cần đừng có dịch cúm gà như
mấy năm trước thì kiểu gì chị cũng không thua lỗ được. Mở hàng đầu năm đúng là
có quan trọng thật, nhưng nếu cứ nhất quyết đến mùng 10 mới mở hàng thì mất hết
mối làm ăn”, chị thật thà.
Phong tục trở thành mê tín?
Giới tiểu thương vẫn truyền miệng
câu: “Anh em chẳng giống, giống người sớm mai”, là để chỉ sự quan trọng
của người mở hàng đầu năm. Đối với một ngày buôn bán đã vậy, với cả năm kinh
doanh, việc xem ngày chọn giờ, mời người xông đất, mở hàng còn được tiến hành
cẩn trọng hơn rất nhiều.
Ngày đi làm đầu năm, các CBNV công
ty chứng khoán S. được yêu cầu đến sớm hơn thường lệ 45 phút để Ban giám đốc
làm lễ khai trương năm mới. Đúng giờ, các nhân viên tề tựu đông đủ thì
cũng là lúc bàn thờ thần tài trong phòng của giám đốc đã nghi ngút khói hương
với đủ loại vật phẩm, nào là tiền vàng, lợn quay, gà luộc, xôi nếp, bia rượu…
chẳng thiếu thứ gì.
Sau một tuần hương, các nhân viên
mang vàng mã đi hóa, dọn dẹp văn phòng, để đón vị khách đến xông đất đầu năm.
Đây là đại diện cho công ty đối tác, đồng thời là bạn thân của giám đốc.
Chị Hoài An, phòng hành chính của
Công ty cho biết: “Đây là cái Tết đầu tiên của công ty, nên giám đốc rất cẩn
thận trong từng nước bước. Thậm chí việc tuyển nhân viên vào làm việc tại đây
cũng rất khắt khe. Giám đốc đặc biệt thích những người tuổi Giáp Tý, bởi cho
rằng, tuổi này hợp với tuổi Bính Thân của ông”.
Sau khi khách đã xông đất, Công ty
đã khai trương đầu năm, giám đốc đi phát tận tay cho mỗi nhân viên 1 tờ mệnh
giá 2 đôla, vốn được coi là đồng tiền may mắn như một lời chúc "đỏ"
cả năm.
Chị Vinh có một kios bán vải ở chợ
Thành Công. Chị được các bạn hàng rỉ tai ngày mùng 7 Tết là ngày Hoàng đạo, mở
hàng, khai trương, xuất hành,… đều tốt cả. Suy đi tính lại, hỏi thêm một vài
nơi, chị cũng quyết định mở hàng vào ngày mùng 7.
Chuẩn bị hương hoa để xin thần Tài
cho cả năm được mua may, bán đắt, chị cũng không quên nhờ một người một người
bà con đứng tuổi đến mở hàng. Nhưng vì cô này đang làm trong công ty Nhà nước,
nên cô đã phải xin nghỉ một buổi sáng để đến mở hàng giúp.
“Cũng có làm gì nhiều nhặn đâu, chỉ
là đến đúng giờ và sờ một lượt vào mấy kiện vải. Nhưng chẳng lẽ cháu mình nhờ
thì lại không giúp. Năm nay hợp tuổi, nhiều người nhờ đến mở hàng quá”, cô nhún
vai.
Xong đâu đấy, cô lại tất bật đến
một cửa hàng khác để mở hàng, kèm theo lời phân trần: “Phải nhanh để còn đến cơ
quan đúng giờ, không khéo bị trừ lương thì lại “dông” cả năm !”
Không biết có cơ sở khoa học nào
chứng minh mở hàng "ngày tốt, người tốt" thì sẽ may mắn cả năm
không?!
142.
Những truyền
thuyết về Tết
Vào dịp tết, mọi người trong nhà
thường quây quần bên bếp luộc bánh chưng và kể cho nhau nghe những truyền
thuyết về Tết Nguyên đán. Hương vị dân gian của các câu chuyện dường như đậm đà
hơn trong không gian thơm tỏa ra từ nồi bánh chưng đang sôi lục bục trên bếp
lửa đỏ hồng... Thói quen cắm hoa trong nhà.
Giáp Tết, mỗi gia đình ở Việt Nam đều mua cánh đào để cắm trong nhà, thậm chí
ngoài Bắc còn gửi theo đường máy bay cành đào cho người thân ở trong Nam. Hoa
đào có loại cánh đơn hay cánh kép, còn màu sắc từ đỏ thắm như hồng đào, bích
đào đến phơn phớt hồng như đào phai hoặc trắng tinh như đào bạch.
Nếu tính đúng thời gian, cành đào được đốt gốc và cắm trong nước sẽ nở đúng vào
ngày mùng một Tết. Đào được ưa chuộng vì nhiều lý do, tùy theo tuổi tác và thẩm
mỹ của mỗi người, tuy nhiên ai cũng thích hoa đào vì vẻ đẹp mảnh mai của cánh
hoa, của những thế đào uốn lượn trên cành...
Một số người cho rằng sắc đỏ rực rỡ của hoa đào mang lại sự giàu sang và may
mắn, có nhiều người cho rằng nó tượng trưng cho hạnh phúc như truyền thuyết về
hai chàng Lưu, Nguyễn vào năm 62 sau công nguyên đời vua Hán Minh Đế vào rừng
hái thuốc và lạc trong cói tiên. Có người thấy ở hoa đào biểu tượng của tình
bạn trung thành như chuyện Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi kết nghĩa anh em ở vườn
đào và giữ trọn lời thề...
Cành đào cắm trong nhà ngày Tết quả là đẹp. Có truyền thuyết kể rằng: Cành đào
được dùng làm bùa đuổi yêu ma chuyên rình mò vào ban đêm. Ngày xưa ở Trung Quốc
có một cây đào rất lớn mọc trên một sườn núi. Cây cao to khổng lồ, tán lá tỏa
rộng mấy trăm dặm. Có hai vị thần cây đầy quyền uy là Thần Đồ và Uất Lũy ngự ở
đó, chuyên chấn trị các loài quỷ và yêu quái. Nhờ vậy, người dân ở đây có thể
sống yên bình, ngủ ngon lành, không sợ bị quấy nhiều trong giấc mơ.
Nhưng cứ đến cuối năm, hai vị thần phải lên thiên đình để tâu trình việc dân
gian với thượng đế. Lo sợ lũ ma quỷ sẽ đến làm hại, người dân ở đấy cắt một
cành đào thần để đặt lên bàn thờ tổ tiên. Một số nhà cẩn thận còn viết tên hai
vị thần hoặc vẽ phác hình hai vị thần lên tấm giấy đỏ để treo lên cành đào, vì
vậy không có ma quỷ nào dám lẩn quất vào nhà. Cách dùng đào để trừ ma quỷ dần
lan rộng ra rồi sang cả Việt Nam.
Từ bao đời này, người dân Việt Nam đã ăn tết trong sự che chở của những cành
đào xuân đầy sức mạnh này.
Người Việt Nam cũng như người Trung Quốc luôn coi hoa cúc là loài hoa thanh cao
vì nó có thể chịu đựng được giá rét và lá của nó không rời khỏi cành sau khi
cây đã chết. Hoa cúc có nhiều loại với nhiều màu sắc khác nhau như vàng, trắng,
đỏ tía, có loại cánh dài và trắng như cúc Bạch trung châm, có loài cánh ong và
vàng như cúc Hoàng long trảo, nhưng cúc đại đóa cánh trắng hoặc màu vàng yến
với bông to như cái bát được nhiều người yêu thích hơn cả. Vào dịp Tết nhiều
gia đình cắm hoa cúc hoặc trồng trong những chậu lớn để đón năm mới.
Phong tục đi hái lộc đêm giao thừa
Ngày xưa, các nàng tiên ở trái đất hay đến một vùng đất lành để vui chơi mỗi
khi cảm thấy nhớ nhà. Các nàng vui đùa nhảy múa, mỗi bước chân hay nhịp tay của
họ chạm đến đâu thì cây cối hoa lá mọc lên xanh tốt ở đó. Những cây này đều
rụng lá vào đêm giao thừa nhưng đến sáng mồng một Tết lại mọc chồi lá mới, xanh
non nẩy lộc...Để có năm mới nhiều hạnh phúc, may mắn, người dân ở vùg đất này
đã hái những cây lá xanh tươi để trước cửa nhà mình vào lúc giao thừa cho đến
sáng ngày mùng một Tết nhưng tốt nhất là hái đúng vào lúc nửa đêm khi năm cũ
qua đi, năm mới đến và chồi lá non bắt đầu mọc. Hái được một cành lộc đang đâm
chồi nảy lộc vào lúc giao thừa, mọi người hy vọng sẽ có một năm mới tràn đầy
hạnh phúc.
Kiêng quét nhà trong mấy ngày Tết
Bắt đầu từ giao thừa, không nhà nào
dùng chổi quét nhà cửa, bởi mọi người tin rằng quét nhà trong mấy ngày Tết là
sẽ quét hết tài lộc trong năm mới. Tục kiêng cữ này bắt nguồn từ một truyền
thuyết bên Trung Quốc.
Chuyện kể rằng ngày xưa có một ông lái buôn khi đi ngang qua hồ Động Đình gặp
một bé gái ăn mặc rách rưới, gầy gò xanh xao. Động lòng trắc ẩn, ông lái buôn
đưa cô bé về nhà làm con nuôi. Từ ngày ấy ông làm ăn vô cùng phát đạt và trở
nên rất giàu có nhưng cũng trở nên ác độc, keo kiệt.
Có một dịp vào Tết, chẳng may làm vỡ một chiếc bình quý, sợ hãi cô bé trốn vào
đống rác sau nhà. Tay lái buôn dùng một chiếc chổi to chọc vào đống rác tìm,
lão hất tung cả đống rác ra sát mép hồ nhưng vẫn không tìm thấy cô bé. Từ đó
tay lái buôn chẳng mấy chốc làm ăn thua lỗ, nghèo khó bởi hắn đã quét thần Tài
ra khỏi.Vì vậy, nhiều nhà đã kiêng không quét rác trong ba ngày Tết và trở
thành một phong tục dân gian vào dịp Tết Nguyên đán.
143. Nếp xưa, Tết Việt
Những phong tục, tập quán tốt đẹp
của ngày Tết Nguyên Đán từ lâu đã trở thành một nhu cầu tâm linh, nhu cầu văn
hoá trong đời sống người Việt. Nét truyền thống từ ngàn xưa đã làm nên một bản
sắc văn hoá Tết Việt Nam.
1. Thờ cúng tổ tiên vốn là tín ngưỡng sâu thẳm nhất
trong tâm thức Việt. Tết cổ truyền Việt Nam trước hết là tết của gia đình, họ
hàng, thân tộc. Đã thành tập quán,"tháng Giêng ăn tết ở nhà",
dù ai ở bất cứ đâu, làm bất cứ nghề gì, hàng năm mỗi dịp năm hết tết đến đều
tha thiết được trở về sum họp gia đình. Theo quan niệm dân gian thì ba ngày tết
có ba cuộc gặp gỡ hết sức quan trọng ngay trong một nhà. Trước hết là cuôc gặp
gỡ với các vị thần linh. Thần linh ở đây không cao xa, huyền bí như ở các đền,
miếu mà là 3 vị gia thần: Tổ sư(tổ nghề), Thổ Công(ông Địa) và Táo
Quân(hay thần Bếp). Cuộc gặp gỡ thứ hai là ông bà, cha mẹ hoặc những người
thân đã quá cố về chung vui với con cháu. Cuộc gặp thứ ba là cuộc họp mặt gia
đình. Như vậy, đối với mọi người dân Việt, Tết là ngày hội đoàn tụ, đoàn viên
thiêng liêng, ấm cúng.
2. Trong mỗi gia đình, bàn thờ tổ tiên có
vai trò, vị trí rất quan trọng. “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn“-
đạo lý ấy của nhân dân ta hầu như đã kết đọng lại trong hình thức tưởng niệm
trên chiếc bàn thờ.
Hoa quả trên bàn thờ là hương sắc
và vẻ đẹp tinh khiết của cảnh vật ngày xuân. Ở Nam bộ có mâm ngũ quả gồm
năm loại trái cây là mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài và sung,
ngụ ý mong năm mới được sung túc hoặc chỉ cầu vừa đủ xài. Người
ta thường chưng cúng những loại trái cây có ý nghĩa, như:
Mận, điều, táo: gạo nếp đầy bồ.
Lê: làm việc gì cũng trơn tru, suông
sẻ như ý.
Lựu: con đàn cháu đống, sung túc.
Đào: học đâu đỗ đó, thăng quan tiến
chức.
Bưởi: người già khoẻ mạnh, sống lâu.
Thơm: gia đình quyền quí, cao sang,
tiếng thơm muôn đời.
Quýt, tắc: tài lộc phát hưng.
Thêm vào đó là quả dưa
hấu, một phát hiện của An Tiêm - nhà khai hoang thời Hùng Vương và cũng là
ông tổ của nghề trồng dưa đỏ. Cúng dưa hấu hàm ý xanh vỏ đỏ lòng, con
người lao động tự lực cánh sinh. Trái dưa chưng trên bàn thờ thường dán mảnh
giấy đỏ viết chữ Phúc (có phước) hoặc chữ Cát (tốt lành) bằng Hán
tự trông rất đẹp mắt. Ngoài ra còn có đĩa trầu, quả cau và bình
vôi, tượng trưng cho tình nghĩa mặn nồng, keo sơn gắn bó.
Thức ăn truyền thống được dâng cúng
trên bàn thờ tổ tiên ngày Tết là bánh chưng, bánh giày, ở miền
Trung có đòn bánh tét. Tục rằng Tiết Liêu - con thứ 18 của vua
Hùng Vương- nằm mộng thấy thần nhân (biểu tượng của trí tuệ siêu việt) dạy cho
cách lấy gạo nếp gói thành bánh; cái hình vuông tượng trưng cho đất,
trong ruột có trân cam mỹ vị, bọc ngoài bằng lá xanh rồi nấu
chín, gọi là bánh chưng; lại lấy nếp nấu chín giã thành bột dẻo trắng
tinh, nặn thành hình tròn, tượng trưng cho trời, gọi là bánh
dàycả hai ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ. Món bánh của Tiết
Liêu được vua chấm đầu bảng trong cuộc thi chọn hiền tài. Nhờ đó, chàng được
vua cha truyền ngôi cho.Và cũng từ đó, bánh chưng bánh dày trở thành
biểu tượng đón xuân không thể thiếu của người dân Việt. Bánh tét cũng là
món ăn truyền thống trong dịp lễ tết hay khi giỗ kị của người dân Trung và Nam
bộ. Cũng được làm từ nếp, đậu xanh, thịt heo như bánh chưng của miền Bắc nhưng
bánh chưng được gói bằng lá dong còn bánh tét được gói bằng lá chuối, bánh
chưng được gói vuông vức còn bánh tét được gói thành những đòn dài - hai đòn
bánh được cột thành một cặp, với mong muốn một năm mới toàn vẹn đủ đầy, gia
đình được sum họp, hạnh phúc.
3. Ngày Tết, dân ta có thú chơi hoa
đào, hoa mai. Đào có một cành chủ, xoè nhiều nhánh như đuôi công hoặc bó
đuốc, búp hoa nhỏ, cánh hồng khoe sắc thắm, là đặc sản của xứ Bắc. Đào mang cốt
cách người quân tử bất khuât. Thời kháng chiến chống Pháp, tại nhà tù Sơn La,
nhà cách mạng Tô Hiệu đã trồng đào ngay trong nhà giam để nhắc mình luôn giữ
khí tiết kiên cường và vững tin vào tương lai tươi đẹp. Cây mai ở miền
Nam có thân cứng, nhánh toả mảnh khảnh, gân guốc, hoa màu vàng nở rộ vào tháng
Chạp và đầu tháng Giêng âm lịch. Mai mang nét tổng hợp giữa cương và nhu, ngoại
diện khắc khổ nhưng nội tâm sâu sắc, lãng mạn. Hoa mai được xem là biểu tượng
của mùa xuân tươi trẻ, rạo rực sức sống.
Điểm xuyết trên những cành đào,
cành mai chưng bày trong nhà ngày tết là những cánh thiệp mừng xuân
(xuân thiếp) với nội dung là những lời ước nguyện cho năm mới như vạn sự như
ý, ngũ phúc lâm môn (năm điều phúc đến nhà), phong đăng hoà cốc
(chúc nhà nông) hoặc nhất bản vạn lợi (chúc nhà buôn); hoặc trên tường,
trên cột treo, dán những liễn đối bằng giấy hồng điều đỏ thắm, viết chữ Nho
bằng mực tàu đen hay kim nhũ vàng óng ánh. Câu đối đã một thời là nét
đẹp trong đời sống văn hoá của người Việt, là một phần hữu cơ của Tết Việt khái
quát trong bộ sáu: "Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; Cây nêu, tràng pháo,
bánh chưng xanh".
4. Tết Nguyên Đán tuy bắt đầu từ mồng một tháng Giêng
nhưng thực ra người Việt, nhất là ở nông thôn, đã sửa soạn Tết ngay từ đầu
tháng Chạp. Người xưa lấy 7 ngày trước và 7 ngày sau (từ 23 tháng Chạp đến mùng
7 tháng Giêng) làm thời gian ăn Tết. Trong không khí tất bật của những
ngày cuối năm, ngưòi ta vẫn không quên phong tục cổ truyền: ngày 23 tháng Chạp
âm lịch đưa ông Táo về Trời. Trong tín ngưỡng dân gian, ông Táo
(còn gọi là Táo Quân hay vua Bếp) là sứ giả nhà Trời chuyên coi
việc bếp núc, củi lửa của trần gian đồng thời xem nhân tình tốt xấu thế nào
trong từng gia đình để hàng năm về Trời báo cáo. Dân ta làm lễ cúng tiễn ông
Táo (còn gọi là tết ông Táo) với niềm hy vọng Ngài sẽ báo cáo cho Ngọc
Hoàng biết những điều tốt đẹp, nhờ đó gia chủ được hưởng thêm nhiều phúc thọ.
Các cụ xưa có câu: "Đói
ngày giỗ cha, no ba ngày tết", quanh năm làm ăn vất vả, mỗi dịp xuân
về tết đến dù có khó khăn đến mấy, gia đình nào cũng cố lo tết chu đáo hơn ngày
thường. Chí ít cũng phải có vài cặp bánh chưng, nồi thịt nấu đông, ít cây giò
chả, thẩu dưa hành, củ kiệu. Sau khi sắm sửa tết xong, người ta có tục đi tảo
mộ, thắp hương khấn mời gia tiên về hưởng tết. Có nơi thay vì đi thăm mộ
trước tết, người ta đợi đầu xuân, sau khi hoá vàng tiễn các cụ mới cùng
nhau đi viếng mộ.
Chiều ba mươi Tết người ta sửa lễ cúng
gia tiên, truy niệm về nguồn cội, tổ tông, rước ông bà về cùng chung vui
với gia đình. Ông bà đây là những người đã khuất, được mời về dùng cơm dâng
cúng với tấm lòng thành kính của con cháu.
5. Tết Nguyên Đán là lễ hội mở đầu cho một năm mới, là tết cả (lễ
hội to nhất) trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam. Tết do chữ tiết
(là thời tiết) nói trại ra; Nguyên là chỗ khởi đầu, là đầu
tiên; Đán là buổi sớm mai, lúc mặt trời mới mọc.
Theo sử Trung Quốc, âm lịch có từ
đời nhà Hạ và lấy tên 12 chi đặt cho 12 tháng. Tháng Dần (tháng đã hết
tuyết ở trung du Hoàng Hà) được chọn làm tháng đầu năm. Ở Việt Nam, vì thời
tiết cũng gần giống như ở Trung Quốc (hai nước chỉ cách nhau có một múi giờ)
nên xưa kia tổ tiên ta cũng lấy kiến Dần làm tháng đầu năm tức tháng Giêng.
Ăn Tết vào đầu tháng Dần là rất hợp
lý vì lúc đó mùa đông vừa qua, tiết lạnh vừa hết, ngày xuân ấm áp tới, hoa cỏ
đua tươi, muôn vật hồi sinh nẩy nở. Tết và Xuân đã hoà quyện vào
nhau. Trong Hán tự, Xuân có nguồn gốc ở từ Xuẩn, nghĩa là
cựa quậy, do đó Xuân có nghĩa là sự sinh sôi, là sức sống. Con
người, cỏ cây, bầu trời, mặt đất đều có chung một sức sống mới trước thềm xuân.
Tết Nguyên Đán bắt đầu từ lúc giao
thừa. Giao thừa là thời khắc thiêng liêng, giao tiếp giữa hai năm cũ mới.
Theo từ nguyên, giao thừa là “giao lại cái cũ, tiếp lấy cái mới”. Dân
gian tin rằng có 12 ông hành khiển điều hành mọi công việc trần gian,
mỗi năm một ông. Hết nhiệm kỳ, ông cũ bàn giao công việc cho ông mới. Cũng vì ý
nghĩa này nên có lễ trừ tịch. Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ
sắp bắt qua năm mới, giữa giờ Hợi ngày 30 (hoặc nếu tháng thiếu thì ngày 29
tháng Chạp) năm trước và giờ Tí ngày mồng một tháng Giêng năm sau. Ý nghĩa của
lễ này là đem bỏ đi hết những điều xấu dở cũ kỹ của năm sắp qua để đón những
cái mới mẻ tốt đẹp của năm mới sắp tới. Lễ trừ tịch thực chất là nghi thức tống
cựu nghinh tân, được cử hành rất trang trọng từ tư gia đến các đình,
chùa. Những năm về trước, trong giờ phút thiêng liêng ấy, chuông trống đánh
vang, pháo nổ râm ran không ngớt. Nhà nhà cỗ bày trước sân gồm hoa quả, đèn
nến, bánh mứt, nước dừa xiêm… Gia chủ khấn vái cầu mong sang năm mới gia quyến
được an khang, phát tài sai lộc.
Cúng giao thừa ở nhà xong, người ta
kéo nhau đi lễ các đình, chùa, đền, miếu... để cầu phúc, cầu may. Trước cửa
đình, cửa chùa thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá xùm xoà,
khách đi lễ có tục mỗi người bẻ một nhánh gọi là hái lộc, với hy vọng
cành lộc sẽ đem lại mọi điều tốt đẹp, may mắn trong năm mới.
Ba ngày Tết người ta đi thăm bà con xóm làng, bạn bè thân thuộc:
"Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy".
Đến thăm mỗi nhà, trước lễ bàn thờ gia tiên, sau rồi chúc tết gia chủ,
nói chuyện, ăn trầu, hút thuốc. Ai cũng vui vẻ, chứa chan hy vọng trước mùa
Xuân. Gặp nhau, người ta đều cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất, gói gọn
trong năm chữ “Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh”.
144.
Nhạc cụ thiêng
của đồng bào Tây Nguyên
Theo phong tục tập quán từ ngàn
xưa, đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thường tổ chức các lễ hội vào
sau vụ thu hoạch. Đó là lễ mừng lúa mới, lễ lên nhà mới…
Vào đầu vụ gieo trồng, họ cũng làm
lễ tìm rẫy mới, lễ cúng bến nước, lễ cầu mưa. Ngoài ra còn những sự kiện bất
thường như lễ tang, lễ cưới...
Ngoài việc cầu xin sự trợ giúp của
thần linh, lễ hội cũng là nơi thể hiện nghệ thuật âm nhạc dân gian dưới hình
thức diễn xướng. Trong các lễ hội, âm nhạc dân gian đảm nhiệm hai chức năng:
tạo không khí thiêng liêng, trang trọng khác thường của ngày lễ, đồng thời là
phương tiện giúp người thầy cúng chuyển tải được những lời cầu khấn đến các
thần linh, nhờ vào các nhạc cụ đặc biệt là dàn cồng chiêng. Vì thế, cồng chiêng
đã trở thành loại nhạc cụ có vị trí quan trọng hàng đầu trong sinh hoạt nghi lễ
và lễ hội truyền thống.
Chiêng là một đặc trưng văn hóa cổ
của đồng bào Tây Nguyên, có mặt ở hầu hết các sinh hoạt văn hóa quan trọng
trong đời người, trong tất cả các nghi lễ lớn và nhỏ của gia đình, của buôn
làng. Chiêng tham gia vào mọi sinh hoạt, nghi lễ với các ý nghĩa khác nhau,
nhằm ứng xử với thế giới bên ngoài con người ở các góc độ khác nhau. Vì thế,
chiêng là nhạc cụ trung tâm của sinh hoạt nghi lễ và lễ hội, là loại nhạc cụ
“thiêng” có vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần, tâm linh của các
dân tộc ở Tây Nguyên.
Chiêng là loại nhạc cụ thuộc bộ gõ
có định âm, nhóm tự thân vang, tức là âm thanh được tạo lên bằng cách tác động
trực tiếp lên nhạc cụ. Chiêng có hình vành khăn, được làm bằng chất liệu hợp
kim mà thành phần chủ yếu là đồng trộn với vài loại kim loại khác như thiếc,
bạc, vàng…
Chiêng ở Tây Nguyên không được sử
dụng từng chiếc đơn lẻ, mà kết nối nhau thành dàn, mỗi dàn từ ba chiếc trở lên,
có hình dáng và kích thước khác nhau, chiếc nhỏ nhất có đường kính khoảng
10-15cm và đường kính chiếc lớn nhất có thể trên 90cm. Trong một dàn chiêng thì
chiêng mẹ là quan trọng nhất.
Có hai loại chiêng thường được sử
dụng ở Tây Nguyên là chiêng có núm, còn gọi là cồng, và chiêng dẹt. Việc sử
dụng chiêng có núm hay chiêng dẹt không chỉ đơn giản do hình thức của chiêng,
mà còn bao hàm nhiều ý nghĩa văn hóa, thẩm mỹ khác nhau.
Tất cả các dân tộc ở Tây Nguyên
không dùng riêng một loại chiêng dẹt hay chiêng có núm, mà luôn kết hợp chúng
nhau, trong đó chiêng có núm - tức là cồng - đánh bè trầm, còn chiêng dẹt thể
hiện giai điệu.
Trong các dịp nghi lễ, các dàn cồng
chiêng không chỉ làm nhiệm vụ điểm nhịp, đi tiết tấu, hoặc giai điệu một bè, mà
còn hòa tấu đa âm. Cồng, chiêng có thể được gõ bằng dùi hoặc đấm bằng tay. Có
người còn áp dụng các kỹ thuật khác như chặn tiếng bằng tay trái, hoặc tạo giai
điệu riêng trên một chiếc chiêng…
Mỗi bài chiêng có nhiều bè, trong
đó, mỗi cá nhân sử dụng một cái chiêng. Bài chiêng quy định bao nhiêu chiêng
thì có bấy nhiêu người sử dụng chiêng. Những người đánh chiêng phải nhớ rất rõ
các tiết tấu của bài chiêng để khi trình diễn thì phối hợp với nhau một cách
hài hòa, tạo nên những âm thanh trầm bổng, hào hùng.
Đồng bào Tây Nguyên có nhiều cách
đánh cồng chiêng rất phong phú: Người Ba Na và người Gia Rai có phương pháp
đánh chỉ điệu (một bài trầm đánh trên vài giai điệu), người Êđê đánh theo cách
thức từng chùm, người M’Nông, người Chu ru, người K’Ho... đều có những cách
đánh khác nhau. Cồng chiêng Tây Nguyên đã được tổ chức UNESCO công nhận là kiệt
tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại vào ngày 25/11/2005.
Trong những năm gần đây, với sự
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, sự xuất hiện ngày càng nhiều nền
văn hóa hiện đại Tây phương cùng với những thay đổi trong nếp sinh hoạt thường
ngày đã làm cho sự quan tâm đến cồng chiêng dần bị phai nhạt. Những nghệ nhân
đánh cồng chiêng tuổi ngày càng lớn mà lực lượng kế thừa thì gần như không đáng
kể, do đó số lượng dàn cồng chiêng đã suy giảm đến mức nghiêm trọng.
Để chống lại nạn chảy máu cồng
chiêng, các tỉnh Tây Nguyên đã có nhiều chính sách cho những gia đình, những
người gìn giữ dàn cồng chiêng, những nghệ nhân đánh chiêng, chỉnh chiêng. Đã có
nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho lớp trẻ học tập kỹ thuật đánh chiêng và chỉnh
chiêng, với sự hướng dẫn của những nghệ nhân có trình độ cao, nhằm góp phần gìn
giữ và phát triển văn hóa cồng chiêng.
Việc Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắc Lắc
tổ chức Festival Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên 2007 - ngày hội của các dân tộc
Tây Nguyên (từ 21 đến 24/11) - một cách bài bản để tôn vinh văn hóa cồng chiêng
là một điều rất đáng mừng. Hình ảnh trên bài báo này phản ánh phần nào không
khí lễ hội ở Buôn Ma Thuột những ngày festival.
145.
Những phong tục
hay của lễ hội Đền Hùng
Hằng năm, nhằm ngày Giỗ Tổ mùng
mười tháng ba, nhân dân từ nhiều nơi tới đây để tưởng niệm các Vua Hùng đã có
công dựng nước. Nhưng không phải ai cũng biết rõ những phong tục xung quanh
việc thờ cúng các Vua Hùng - những hoạt động văn hóa dân gian mà người xưa đã
tạo dựng để minh họa thêm cho tín ngưỡng dân tộc thuộc thời đại các vua Hùng.
Đền Lạn và cỗ thịt gà
Các Vua Hùng hay đi săn ở vùng chân
núi. Sau mỗi lần săn về, Vua Hùng ngồi nghỉ ở đồi Lạn (nay thuộc thôn Thọ Khảo,
xã Phù Ninh). Tùy tòng đem chim ra mổ, lấy lòng quấn với củ kiệu rồi nướng cho
mọi người ăn, còn chim thì để cả con mang về. Đời sau, dân Thọ Khảo lập đền thờ
Vua Hùng trên đồi Lạn, hằng năm tổ chức cúng tế. Lễ vật là gà để cả con (tượng
trưng cho chim săn được) và bộ lòng gà quấn củ kiệu nướng chín. Lễ xong, người
ta chia đều cho dân đinh.
Phong tục này có thể nhằm nhắc lại
chuyện săn bắt của các Vua Hùng, mà cũng có thể là ánh hồi quang của lối săn
bắn tập thể thời công xã nguyên thủy, khi đó muông thú săn được đem chia đều
cho mọi thành viên của bộ lạc.
Làng Cổ Tích với cỗ xôi nhiều màu
Hằng năm, đến ngày Giỗ Tổ, dân làng
Cổ Tích thường đem cúng bánh dày và xôi. Bánh dày liên quan đến câu chuyện về
Lang Liêu mà nhiều người đã biết. Còn xôi thì thật là đặc biệt, ngoài xôi trắng
ra còn có xôi được nhuộm đỏ và màu tím. Việc nhuộm màu xôi nhằm nhắc lại những
giống lúa khác nhau đã được trồng từ thời Hùng Vương. Đó chính là tín ngưỡng
hiến tế bằng những sản phẩm lao động, thể hiện sáng tạo của tổ tiên, cũng là
tín ngưỡng phồn thực cầu sinh sôi nảy nở, phát triển khôn cùng.
Làng Trẹo và tục rước chúa ông, chúa bà
Làng Trẹo (tên chữ là Triệu Phú) có
tục rước rất vui, bắt nguồn từ sự tích Tản Viên đón Ngọc Hoa. Số là sau khi
thắng Thủy Tinh trong việc dẫn nạp đồ lễ cưới, Sơn Tinh- Tản Viên được đón mị
nương Ngọc Hoa về núi Tản (thời đó, con trai vua gọi là quan lang, con gái vua
gọi là mị nương). Nhưng vì Ngọc Hoa nhớ cha mẹ nên chỉ mới đi đến làng Trẹo đã
không chịu đi nữa, nàng ngồi xuống một phiến đá. Sơn Tinh phải vào làng nhờ dân
giúp đỡ. Thế là mọi người kéo ra đón chào Ngọc Hoa. Họ bày các trò vui để Ngọc
Hoa nguôi nỗi nhớ nhà. Người thì múa nhảy, người thì hát hò. Cuối cùng, Ngọc
Hoa bằng lòng lên kiệu và đám rước lại lên đường.
Cho đến năm 1945, đám rước chúa ông, chúa bà diễn ra như sau: đi đầu là những
người giơ cao các bó lúa, rồi tới những người cầm cày, bừa, dao, cuốc. Vừa đi,
họ vừa lúc lắc nông cụ, vừa nói bông lơn. Cuối đám rước là những người đi săn,
đánh cá trên vai lỉnh kỉnh cung tên, lưới, đòng... Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa
nhận ra rằng bên cạnh câu chuyện về một đám cưới giữa hai gia đình tù trưởng
thuộc hai bộ lạc khác nhau, tục rước này còn có thể là ngày hội “trình nghề”
của cư dân nông nghiệp thời cổ sơ vốn chưa có sự tách biệt giữa các nghề trồng
trọt, săn bắt, chài lưới.
Tóm lại, điểm qua một số phong tục
quanh lễ hội khu vực Đền Hùng, ta thấy khu vực này đúng là dải đất cổ còn bảo
lưu nhiều lớp tín ngưỡng nguyên thủy, xứng đáng được coi là cái nôi của toàn
dân tộc Việt.
146.
Tết Việt 500
năm trước
Tết đến xuân về là thời khắc đặc
biệt của dân ta. Ngày nay chúng ta đón Tết cơ bản theo những tục lệ cổ truyền,
có bổ sung những tục lệ mới phù hợp lối sống mới, hoàn cảnh sống mới. Vậy
chuyện đón xuân "cổ truyền" 500 năm trước của dân ta như thế nào?
Văn học thành văn nước ta 500 năm
trước có rất ít tác phẩm mô tả phong tục tập quán. Tuy nhiên, chỉ dựa vào
"Tứ thời khúc vịnh" của Thượng thư Hoàng Sĩ Khải và "Phong thành
xuân sắc" của Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh, những tác giả vùng Kinh Bắc,
ta có thể hình dung ra cảnh đón xuân thời đó khá rõ nét.
Tiết lập xuân, Nhà nước tổ chức
nghi thức đón xuân ở ngoại ô phía đông kinh thành. Dân gian làm tấm thiếp bằng
vải thêu, hoặc giấy vẽ ngũ sắc để treo, dán ở trên cửa sổ. Trên thiếp viết chữ
"Nghi xuân" nghĩa là "hợp với mùa xuân". Ở các làng quê
người ta cưỡi trâu, đánh cho trâu tế lồng lên, hàm ý đuổi khí âm, rước khí
dương trở về.
Trong bữa cỗ ngày Tết và ngày lập
xuân, nhà nào cũng có món nộm, gồm năm thứ cay là: hành, tỏi, hẹ, răm, cải trộn
lẫn nhau, gọi là "Ngũ tân" để ngụ ý đến năm mới, vì tiếng Hán
"tân" là cay đồng âm với "tân" là mới. Rượu thì có loại
rượu tô, rượu bách để trừ khí độc, tăng tuổi thọ.
Sáng ngày mồng một Tết, các nhà còn
đốt cây trúc cho phát ra tiếng nổ ở ngoài sân để xua đuổi tà ma. Về sau người
ta đốt pháo trộn hương liệu thơm để thay cho đốt trúc. Nghề làm pháo ra đời từ
đó.
Ngoài việc treo thiếp "Nghi
xuân" ở cửa sổ, người ta còn trang trí "Bùa đào" ở cửa nhà. Ðó
là hai miếng gỗ đào vẽ tượng hai vị thần Thân Thư, Uất Luật để trấn áp ma quỷ.
Lại có tranh Chung Quỳ, một nhân vật có thật đời Ðường, sau khi chết thường
hiển linh bắt ma quỷ, và tranh gà cũng nhằm mục đích trừ ma quỷ. Chưa yên tâm,
bên trong cửa ra vào người ta còn treo thiếp yểm không cho ma quỷ vào nhà quấy
nhiễu.
Trong những ngày Tết người ta
thường tắm bằng nước đun với hoa và lá đào, sau thay bằng nước đun với thân cây
mùi già, mùi thơm dịu và bền. Với con gái lớn thì vẽ hoa mai năm cánh ở trán để
trang điểm, vừa đài các, vừa là dấu hiệu "phòng không". Việc tắm nước
lá và hoa đào, vẽ hoa mai ở trán cũng còn là biện pháp phòng trừ ma quỷ cho
riêng từng người.
Tục treo tranh Chung Quỳ và tranh
gà ngày Tết kéo theo những làng nghề, làm tranh dân gian, trong đó còn tồn tại
làng tranh Ðông Hồ nổi tiếng. Từ vẽ tranh Tết, các nghệ nhân đã mở rộng đề tài,
tạo nên hàng trăm mẫu tranh mới. Riêng tranh gà cũng có đến hàng chục mẫu khác
nhau. Làng tranh Ðông Hồ lại tìm ra những nguyên liệu đặc biệt để vẽ tranh tạo
nên một dòng tranh dân gian độc đáo, có sức thu hút với cả người nước ngoài, đó
là điều để tranh Ðông Hồ vươn ra thế giới.
Ngày Tết ở kinh thành, triều đình
làm núi đèn bằng lụa ngũ sắc làm nơi vui chơi cho dân. Thời Lý, vua Lý Thái Tổ
thấy việc này tốn kém nên đã từng xuống chiếu bãi bỏ. Người ta cũng trang trí
đường đi bằng các thứ cây hoa tươi để ngắm cảnh ngày Tết. Trò vui phổ biến ở
kinh thành là trò đá cầu. Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh viết: "Trai lanh
lẹn đá cầu vén áo. Gái éo le rủ yếm dôi quần".
Trong cung vua, các bà phi dâng thơ
chúc thọ vua, các quan cũng dâng biểu chúc thọ vua, còn các quan hầu cận nổi
nhạc, thúc trống cho hoa nở và dâng vua rượu quý mừng xuân.
Soi vào lệ cổ, ngày nay ta thấy thú
chơi tranh và cây hoa ngày Tết là còn thịnh hành nhất. Tục đốt pháo cũng đã rất
thịnh hành, tuy nhiên quá trình sản xuất và sử dụng pháo có chiều hướng gây
thương vong cho người ngày một tăng nên nước ta đã cấm sử dụng. Các tỉnh chuyển
sang bắn pháo hoa nơi công cộng.
147.
Tết của người
thiểu số ở Việt Nam
Việt Nam có 54 dân tộc anh em,
trong đó đa phần là các dân tộc thiểu số sinh sống ở các tỉnh trung du, miền
núi. Mỗi dân tộc lại có những phong tục Tết mang đặc trưng riêng...
Tết của Người MôngDân tc Mông gồm nhiều nhóm: Mông Đơ
(Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông
Súa (Mông Mán). Hiện số dân của họ khoảng 558.000 người, cư trú tập trung ở
miền núi vùng cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai
Châu, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An.
Người Mông có một hệ lịch riêng,
theo nhận định của các nhà nghiên cứu, có lẽ họ tiếp thu cách tính lịch của dân
tộc Di (Trung Quốc). Theo đó, Tết của họ vào khoảng cuối tháng 11, đầu tháng 12
âm lịch của Âm Dương hợp lịch mà ngày nay chúng ta sử dụng. Tuy nhiên, ngày nay
đa số các vùng người Mông đã ăn Tết Nguyên Đán như người Kinh, chỉ trừ một bộ
phận nhỏ, chẳng hạn người Mông ở Mộc Châu vẫn duy trì song song Tết theo hệ
lịch riêng của họ.
Ngày 25, 26 tháng Chạp, người Mông
bắt đầu nghỉ ngơi chuẩn bị đón Tết. Khi đó, họ phong tất cả các công cụ sản
xuất lại, ví dụ như các lò rèn phải làm lễ đóng lò, cối xay ngô tháo ra, dán
một tờ giấy bản lên rồi làm lễ với gà, bánh ngô, rượu.
Trước đây người Mông không gói bánh
chưng. Bây giờ thì có gói, nhưng bánh chưng không nhất thiết có trong bữa cỗ
Tết của họ. Với họ, ba món không thể thiếu là thịt và rượu và bánh ngô.
Người Mông không đón giao thừa. Đối
với họ, tiếng gà gáy đầu tiên của sáng sớm mùng Một mới là cái mốc đánh dấu một
năm mới bắt đầu. Tối hoặc nửa đêm 30, người ta cúng ma nhà (tổ tiên) bằng một
con lợn sống, một con gà còn sống (và phải là gà trống, mà tốt nhất là gà trống
tơ). Sau đó mới mang lợn và gà ấy đi giết thịt (nhà nào giàu có thì thịt một
con lợn từ 28, 29 để ăn trước). Thịt xong đem cúng một mâm thịt chín, rồi ăn
cơm uống rượu đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên.
Các nhóm Mông có phong tục hơi khác
nhau nhưng về đại thể đều rất quan trọng lúc cúng ma nhà bằng lợn và gà sống
vào tối 30. Từ mùng 1 trở đi họ mặc quần áo mới, đi hài đi chơi. Ném papao là
một trong những trò chơi ngày Tết mà người Mông rất thích; ngoài ra còn múa
khèn, múa ô, chơi cầu lông gà, hát ống, hát dân ca, đua ngựa, bắn nỏ...
Đặc biệt, nói đến Tết của người
Mông không thể không nói đến một lễ hội gọi là hội Sải Sán hay Gầu tào (hội cầu
phúc). Một gia đình trong làng, nếu hay đau ốm hay chậm có con thì mùng 2 đi
dựng một cây nêu lớn ở bãi cỏ đầu làng. Hội này tiếng là do một gia đình tổ
chức (gia đình đó gọi là chủ nêu) nhưng thật ra đó là một lễ hội của cộng đồng,
thậm chí khi làng này dựng nêu, làng khác cũng đến dự hội. Hội Gầu tào nhằm tạ
ơn tổ tiên về mùa màng, súc vật; cầu cho con cháu đông đàn. Hội có thể kéo dài
3 ngày nếu 1 năm tổ chức một lần hoặc 9 ngày nếu 3 năm tổ chức một lần. Đây là
lễ hội lớn nhất của người Mông trong năm và nó thể hiện rõ nhất những đặc trưng
văn hoá Mông trong ngày Tết. Trong lễ hội này, sau phần lễ là hát giao duyên và
các trò chơi yêu thích của người Mông như vừa kể trên.
Tết của người Thái Người Thái ở VN có khoảng hơn 1 triệu người, chủ yếu
sống ở Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Nghệ An.Đối với người Thái nhiều vùng,
thường 25 tháng Chạp là phiên chợ cuối cùng, lớn nhất trong năm, sau đó là nghỉ
ngơi chơi Tết. Sáng ngày 27 hoặc 28, ông trưởng bản chủ trì tổng vệ sinh cho cả
bản. Tối 29 bắt đầu gói bánh chưng. Người Thái thường gói hai loại bánh chưng
màu đen và màu trắng. Để làm bánh màu đen, họ đốt rơm lên, lấy tro giã lẫn gạo
nếp rồi sàng sẩy sạch muội tro mà vẫn giữ lại màu đen. Nhiều nơi không cho nhân
bánh. Người ta quan niệm hương vị của Tết ở trong bánh chưng chủ yếu thể hiện ở
hương vị của lá dong, và đó cũng là cái chủ yếu để dâng lên tổ tiên (ma nhà).
Sáng 30, các nhà luộc bánh chưng và
thịt lợn. Tối 30 là bữa cơm tất niên, có sự góp mặt của bà con, bạn bè, rồi cả
đêm người ta thức uống rượu, nhang không bao giờ tắt. Sau lễ cúng giao thừa
bằng thịt, bánh, các đồ thổ cẩm, bạc nén..., nhà nào có chiêng hay cồng thì
mang ra gõ tại nhà.
Cũng không thể không nhắc tới phong
tục gọi hồn của người Thái. Vào tối 28, 29 hoặc 30, gia đình người Thái thịt
hai con gà, một để cúng tổ tiên, con còn lại dùng để gọi hồn cho mọi người
trong nhà. Để gọi hồn, thầy cúng lấy của mỗi người một chiếc áo, bó lại một đầu
với nhau, vắt lên vai, tay thầy cầm một thanh củi đang cháy, rồi mang ra đầu
làng gọi hồn hai ba lần, sau đó về chân cầu thang lại gọi một lần nữa. Xong
việc, thầy cúng đích thân buộc một sợi chỉ đen vào tay mỗi thành viên gia đình
để trừ tà, sợi chỉ đó phải để tự đứt, nếu dứt đứt thì chủ nhân dễ bị ốm.Sáng
mùng một người Thái dậy sớm, múc nước luộc bánh chưng cho mỗi người uống một
ít, có lẽ để phòng đau bụng! Các người nữ trong nhà hôm mùng 1 được đem xôi đã
đồ ra quạt ở giữa gian cúng ma nhà (bình thường họ không được "bén
mảng" đến khu vực đó!). Sau đó người ta dọn ra hai hoặc ba mâm cúng, mâm
đặt trên cao là để cúng tổ tiên nhà chồng, còn mâm thấp cúng tổ tiên nhà vợ.
Cúng xong, tất cả con trai trong
lui vào để cho phụ nữ ăn trước, và chỉ như thế mỗi ngày mùng 1 thôi. (Hàng
ngày, phụ nữ ăn cùng hoặc ăn sau đàn ông). Bữa cơm Tết của người Thái có một
món không thể thiếu, đó là cá, với các món nướng, chua, khô... Người Kinh mùng
1 kiêng đến nhà, nhưng người Thái thì mùng 1 đã đi nườm nượp đến nhà nhau chúc
Tết. Họ chỉ kiêng vứt lá dong xuống gậm sàn, kiêng quét nhà vào ngày mùng 1.
Tối ngày mùng 1 họ đã làm lễ tạ. Từ chiều mùng 1, thanh niên bắt đầu đi chơi,
và muốn đi chơi đến bao giờ thì đi, đến làng nào ăn uống ở làng ấy, có khi đi
đến qua cả mùng 10 mới về. Các trò chơi khá náo nhiệt, gồm đánh cầu lông (cầu
lông gà), ném còn; khắc loỏng...
Tết của người Mường Dân tộc Mường hiện còn khoảng gần một triệu người, cư
trú chủ yếu ở Hoà Bình, Hà Tây, Vĩnh Phú, Sơn La, Thanh Hoá; trong đó nhiều
nhất là ở Thanh Hoá (trên 22 vạn người). Họ sống hiền hoà trong các thung lũng
được khép kín bởi những triền núi đá vôi bao quanh. Mường Bi (Hoà Bình) là một
trong những Mường cổ nhất.
Về trình tự và phong tục, có lẽ Tết
của người Mường là gần với Tết của người Kinh nhất. Có một phong tục đặc sắc mà
họ còn lưu giữ được là hát sắc bùa. Đây là một thể loại hát chúc tụng năm mới.
Ngày mùng 1, mùng 2, trẻ con Mường dắt nhau đi hàng đàn, đánh cồng rộn ràng,
miệng hát sắc bùa. Đi qua nhà nào thì nhà ấy mở cửa cho trẻ ít tiền hoặc bánh.
Trong ngày xuân, hội cồng Mường là
hội không thể thiếu.
Đi chơi ngày Tết, người ta mặc
những bộ quần áo đẹp nhất. Phụ nữ Mường Bi, Mường Chậm (Hoà Bình) mặc váy đen,
áo trắng ngắn, cạp váy to dệt hoa văn trang nhã, đầu quấn khăn màu trắng, áo
trắng phủ ra ngoài che một phần cạp váy, lấp ló chiếc yếm dệt hoa văn bên
trong. Ở Mường Thanh Hoá, trang phục đậm đà trầm ấm hơn: khăn chàm thẫm, thêu
hoa, áo cánh đủ màu với hai gam chính là xanh nhạt và vàng nhạt và cạp váy
thường quấn ra ngaòi áo... Cạp váy với những hoa văn, với những mảng màu bị đập
vụn, y phục Mường không có những mảng màu sắc chói chang...
Tết của người Nùng Người Nùng sống xen kẽ với người Tày, ngoài ra họ cũng
rải rác ở một số tỉnh khác, như Bắc Giang... Hiện nay dân số Nùng vào khoảng
gần 900.000 người. Người Nùng có nhiều nhóm, nhưng nhìn chung những nhóm cư trú
xen kẽ người Tày thì phong tục Tết khá gần gũi với người Tày. Một thứ không thể
thiếu được trong mâm lễ cúng tổ tiên đêm 30 cũng như trong bữa cơm Tết của
người Nùng là món thịt gà sống thiến. Con gà này phải nuôi riêng từ trước Tết
vài tháng, cho ăn toàn thóc. Sáng mùng Một, nam giới phải đi lễ bố mẹ vợ một
đôi gà sống thiến. Hai món nữa không thể thiếu đối với Tết Nùng là bánh khảo,
xôi ngũ màu (vàng, trắng, hai sắc của đỏ gấc, đen).
Từ ngày 28 - 29, người Nùng đã nghỉ
ngơi, vệ sinh nhà cửa, cọ rửa đồ nông cụ, dán giấy đỏ cúng hồn các vật dụng lao
động; trước cửa treo câu đối Tết viết bằng chữ Nôm Nùng... Tối 30, mọi người
trong làng chơi tập trung ở một số nhà, sau đó đến khuya thì về đón giao thừa.
Sáng mùng 1, họ có tục mừng tiền cho các thành viên trong gia đình và cho trẻ
con các nhà hàng xóm, bạn bè.
Các trò chơi phổ biến trong ngày
Tết của người Nùng là ném còn, cầu lông gà, hát đối nam nữ, đánh võ cổ truyền,
đánh gậy; trẻ con thì chơi quay, múa sư tử...
Tết của người Tày Người Tày hiện có gần 1,5 triệu người, sống chủ yếu ở
các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Yên
Bái, Lào Cai, Quảng Ninh.
Tết của người Tày bắt đầu vào 30 và
kết thúc (lễ tạ tổ tiên) vào khoảng sáng mùng 3, tuy vậy cũng như nhiều dân
tộc, thường họ chơi dài đến hết cả tháng giêng. Mùng 7 họ ra đồng làm một chút,
mang tính hình thức là chính. Đến ngày 15, họ ăn Tết lại, gần giống như ăn rằm
tháng Giêng của người Việt, nhưng người Tày thì gọi là ăn Tết lại.
Người Tày làm bánh chưng dài. Ngày
27 hay 28, các gia đình đã thịt lợn, gói bánh... Bàn thờ được lau chùi, người
ta buộc bốn cây mía vào bốn góc chân bàn thờ, quan niệm đó là cái gậy để tổ
tiên chống. Tối 30, vừa tiếp bạn bè đến chơi, phụ nữ trong nhà vừa làm bỏng,
chè lam, bánh khảo. Để làm bỏng, người ta phải đồ xôi lên từ mấy ngày trước, để
khô rồi trộn cám vào cho hạt gạo xôi tơi ra, tiếp đó phun ít rượu rồi rang lên,
đến tối hôm tất niên chỉ đem ra nấu với mật, rồi đổ ra khay, cắt miếng... Mọi
sự thăm thú kết thúc trước 12h đêm 30, sau đó ai về nhà nấy. Trẻ con phải thức
trực tuổi cả đêm.
Khác với người Thái, người Tày
kiêng sáng mùng Một có người bất kỳ vào nhà. Họ chọn mời người xông nhà là
người có đạo đức trong bản, người có phúc lớn, kị nhất là người có tang hoặc bị
ma gà ám... Đàn ông Tày mùng Một chơi cha (tức bố mẹ vợ), mùng ba chơi thầy
(thầy cúng). Một số trò chơi cũng được phát động trong Tết mà phổ biến nhất là
tung còn. Ra xuân, người Tày còn có hội lồng tồng (xuống đồng).
Vào dịp Tết, người ta mặc những bộ
quần áo đẹp nhất đi chơi. Màu sắc áo Tày khá trầm. Phụ nữ mặc áo dài màu chàm 5
thân, một thân ngắn, bốn thân dài, ống tay hẹp, thắt lưng cũng màu chàm bỏ mối
ra phía sau lưng, đầu đội khăn vuông chàm, trong có vải quấn tóc màu đen hoặc
chàm, chân đi hài thêu mũi cong hình mỏ gà.
148.
Xên bản - Nét
văn hóa truyền thống của dân tộc Thái
Trong
truyền thống văn hóa của các dân tộc Tây Bắc, cúng giỗ, lễ hội đã trở thành một
phong tục, tập quán truyền từ đời này qua đời khác, trong đó có Xên bản của dân
tộc Thái.
Tiếng
Thái, “Xên” có nghĩa là cúng, rộng hơn là cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa vụ tốt
tươi. Hằng năm, Xên bản được tổ chức vào ngày Bính của tháng 4 (theo lịch 10
ngày của dân tộc Thái gồm: canh, tân, nhâm, quý, giáp, ất, bính, đinh, mậu,
kỷ), năm nay được tổ chức vào ngày 17/4 dương lịch.
Theo
phong tục của dân tộc Thái, tháng 4 là thời gian gieo mạ lúa mùa (trước đây chỉ
sản xuất một vụ lúa, phụ thuộc rất nhiều vào nước mưa), đầu mùa hè, trời nắng
nhiều nên dân bản tổ chức lễ Xên để cầu mưa. Chuẩn bị cho lễ hội, dân bản cử
đại diện là người nối dõi của dòng họ đầu tiên đến khai phá, xây dựng bản.
Người đại diện bản mời thầy mo về cúng.
Từ sáng
sớm, ở hai lối vào và ra của bản người ta dựng hai cổng tre, cử người canh gác
nghiêm ngặt không cho khách vào bản trong thời gian tế lễ. 8 giờ sáng, thầy mo
bắt đầu làm lễ cúng dưới gốc cây đa cổ thụ trong bản.
Lễ vật
gồm một đầu lợn (phải là lợn đen), hai con gà, một quả trứng, bát gạo, hương,
nến. Thầy mo lấy một bung thóc, một chiếc chài quăng cá, một chiếc búa đặt lên
bàn cúng rồi đọc tục mo (lời cúng) cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu,
xua đuổi tà ma, đem lại sức khỏe, cuộc sống ấm no cho mọi nhà. Sau đó, thầy mo
lấy một đoạn tre, bổ đôi rồi tung lên.
Khi hai
mảnh tre rơi xuống nếu được Xiếng (một úp một ngửa) đó là điềm tốt – lời cầu
khấn đã được Giàng chấp nhận. Lễ cúng kéo dài khoảng 30 phút, sau đó mâm lễ sẽ
đem mời thầy mo, Chảu Xửa (người đại diện cho bà con trong bản, tương đương với
chủ tế). Lễ xong người đại diện mang mâm lễ vật về nhà, lấy một chung rượu cần
mời thầy mo và bà con dân bản cùng ngồi ăn uống vui vẻ. Lễ Xên bản thường kèm
theo hội đánh trống, ném còn, chơi tó má lẹ.
Thanh
niên nam nữ chia hai bên, ai ném còn vào vòng tròn buộc trên ngọn một cây tre
dựng giữa sân sẽ được thưởng một chén rượu. Sau lễ Xên, bà con trong bản ra
đồng cày bừa, xuống mạ, bắt đầu một vụ lúa mới.
Xên bản
là một phong tục còn giữ được những nét văn hóa truyền thống của dân tộc Thái,
tiếc rằng truyền thống này đang dần bị mai một. Đây là một tập tục văn hóa cần
lưu giữ cho muôn đời sau.
149.
Xuân xưa - Tết
nay với những trò chơi dân gian, cổ truyền
Các trò vui chơi ngày Tết của nhân
dân ta xưa được sử gọi là Trăm Trò Chơi (Bách Hí), ngày nay đã chìm vào
bóng đêm của thời gian, nhiều trò vui không còn dấu tích gì trong sử sách và
phong tục nhưng vẫn có những trò vui để lại nhiều dấu vết. Năm hết Tết đến,
chúng ta hãy thử tìm hiểu một số trò chơi ấy theo các thư tịch xưa để gọi là “ôn
cố” chút ít nhân dịp mùa Xuân truyền thống của dân tộc đã về…
Đầu tiên là trò chơi đánh phết.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép việc năm Bính Ngọ (1126): “Tháng Hai, ngày mùng
1, vua ngự điện Thiên An xem các vương hầu đá cầu”. Đá cầu ấy như
thế nào? Hoàng Xuân Hãn đã cho biết rõ hơn trong sách “Lý Thường Kiệt”: “Hai
bên tả hữu dựng hai cửa gỗ gọi là cầu môn cao độ hơn một trượng. Vương hầu dự
chơi chia làm hai phe mặc áo vóc màu sắc khác nhau. Trước thềm bày hai giá cờ,
hễ bên nào được thì cắm vào giá bên ấy một lá cờ. Có khi thì chơi chạy bộ đánh
phết, có khi thì chơi cưỡi ngựa đánh phết. Người ngồi trên ngựa một tay cầm
cương, tay kia cầm gậy dài để đánh quả phết. Đánh phết có nhạc đi kèm. Bắt đầu
chơi thì nhạc nổi lên. Lúc tranh quả phết thì trống đánh rây. Quả phết đến gần
thì trống giục càng mau. Lúc quả phết lọt qua cửa thì gióng lên 3 hồi trống.
Chơi được một hồi lâu, vương hầu lại nghỉ uống rượu, xong lại đánh tiếp”.Các
trò vui lúc ấy, nhân dân ta - nhất là giới trẻ - rất ưa chuộng đó là chọi
gà, đánh đu, và chơi tam cúc. Trước năm 1945, các trò vui này vẫn
thịnh hành ở hầu hết các thôn xã Việt Nam. Chọi gà đã đi vào nghệ thuật dân
gian và là trò vui sôi động vào các dịp đầu năm, hội hè, đình đám. Trò vui chọi
gà này đến thế kỷ 13 đã thành một tục lệ tràn lan trong giới thanh niên đến độ
khi cả nước ta phải thực hiện cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, Trần Hưng Đạo
Vương phải nhắc nhở quân sĩ nên hạn chế bớt, như trong Hịch tướng sĩ: “…Hoặc
lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển…”.
Riêng trò chơi Đánh đu (gồm nhiều
loại như Đu tiên, Đu vân xa, v.v…) là một trò chơi phổ thông được hầu hết trai
gái ưa chuộng. Bởi vậy mới có câu ca dao: Tháng giêng giai tiết ở đầu. Bao
nhiêu mỹ nữ đá cầu, đánh đu. Theo tư liệu và hình ảnh cũ, chúng ta có thể
mô tả như sau: Người ta trồng hai cột gỗ cao song song nhau giữa một bãi đất
trống và ở giữa treo một bàn nhún (để đủ 2 người nam - nữ cùng đứng). Có làng
phải trồng đến hai, ba cây đu trong dịp Tết để đáp ứng yêu cầu vui chơi giải
trí của đôi trai gái. Các nam thanh nữ tú kéo tới rủ nhau lên đánh đu, thường
thường mỗi cặp đu là một nam một nữ mới thêm phần thú vị, như bài thơ của Hồ
Xuân Hương:
“Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Kẻ thì lên đánh kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Đôi hàng chân ngọc duỗi song song
Chơi Xuân ai biết Xuân chăng tá?
Cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không”.
Còn chơi Tam cúc vào dịp Tết là thú
vui giải trí hơn thấp cao chứ không có tính sát phạt như cờ bạc ngày nay.
Thử soát xét các cuộc vui trong dịp
Xuân về trong lịch sử, ta có thể xếp thứ tự theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: Lễ
đua thuyền tổ chức vào đời Lê Hoàn. Mùa Xuân hằng năm, con trai con gái họp
nhau đánh đu ở đất Đà Dương (Châu Hóa)… Đến thế kỷ thứ 15 thì trong dân gian,
cái phong tục cỗ bàn xa xỉ đã lậm lắm rồi nên điều lệ năm Kỷ Dậu (1429) mới có
lệnh: “Người nào du thủ du thực, đánh cờ đánh bạc, thì quan tư và quân dân bắt
đem nộp để trị tội, đánh bạc thì chặt 5 phân ngón tay, đánh cờ vây thì chặt 1
phân ngón tay…”. Và đến năm Ất Tỵ (1665) lại có lệnh nhắc lại lệnh cấm chọi gà,
đánh cờ, đánh bạc…
Xem như vậy, các cuộc vui mùa Xuân
càng ngày càng quá lạm, mặc dù lề thói cổ truyền của dân tộc ta là không phải
vậy. Ngay cả tục uống rượu, trong đại bộ phận nhân dân ta đến đầu triều Nguyễn
vẫn có cái phong thú tao nhã như lời của Phạm Đình Hổ trong “Vũ Trung tùy
bút”: “Khi nào có khách thết rượu thì chỉ dùng cái chén nhỏ bằng đầu
ngón tay cái, mà uống vài chén rồi thôi ngay, nếu người uống quá thì ai cũng
chê là say đắm”.
Một nhà nghiên cứu hiện đại đã có
một ý kiến xác đáng về các hội Xuân của dân tộc: “Đi hội Xuân để vui Xuân,
ngày vui nhàn rỗi, người dân quê thường đi hội Xuân để tham dự hoặc thưởng thức
những trò vui của ngày hội. Và những hội Xuân này, tuy gọi là hội làng nhưng
vẫn hằng lôi cuốn được rất nhiều khách thị thành hàng năm tới xem hội với những
trò vui hấp dẫn và lành mạnh” (theo Toan Ánh, Làng Xóm Việt Nam).
Có lẽ ý kiến ấy là “có lý có tình”
khi chúng ta đang muốn trở về với những mỹ tục truyền thống của dân tộc Việt
Nam.
150.
Làng Cát Cát ở
Sa Pa
Từ trung tâm thị xã Sa Pa đến Cát Cát chỉ 2 km. Đó là bản lâu
đời của người Mông còn lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống như trồng bông,
lanh và dệt vải chế tác đồ trang sức. Đặc biệt nơi đây còn giữ được khá nhiều
phong tục độc đáo mà ở các vùng khác không có, hoặc không còn tồn tại nguyên
gốc.
Qua những khung dệt, người Mông tạo nên những tấm thổ cẩm
nhiều màu sắc và hoa văn mô phỏng cây, lá, hoa, muông thú... Gắn liền với công
đoạn dệt vải bông, vải lanh là khâu nhuộm và in thêu hoa văn, phổ biến là kỹ
thuật nhuộm chàm, nhuộm nước tro thảo mộc và cây lá rừng. Vải nhuộm xong được
đánh bóng bằng cách lăn vải với khúc gỗ tròn trên phiến đá phẳng có bôi sáp
ong.
Ở làng Cát Cát, nghề chế tác đồ trang sức bằng bạc, đồng đã
có từ lâu đời và tạo ra những sản phẩm tinh xảo. Quy trình chế tác bạc gồm
nhiều công đoạn. Trước hết, họ cho bạc vào nồi trên bễ lò đun đến khi nóng chảy
thì rót vào máng. Chờ khi bạc nguội lấy ra dùng búa đập, rèn sao cho thanh bạc
có kích cỡ to, nhỏ, dài, ngắn, vuông, tam giác, tròn, dẹt hay kéo thành sợi.
Tiếp đó, họ giũa cho thật nhẵn và nếu cần trang trí thì dùng đinh để chạm khắc,
tạo hoa văn nổi hoặc chìm rồi mới uốn hình sản phẩm. Cuối cùng là bước đánh
nhẵn, làm trắng và bóng. Sản phẩm chạm bạc ở Cát Cát rất phong phú, tinh tảo
nhất là đồ trang sức của phụ nữ như: vòng cổ, vòng tay, dây xà tích, nhẫn...
Một điều hấp dẫn du khách khi đến Cát Cát là người Mông ở đây
còn giữ được khá nhiều phong tục tập quán độc đáo, chẳng hạn như tục kéo vợ.
Khi người con trai quen biết và đem lòng yêu một cô gái, anh ta sẽ tổ chức làm
cỗ mời bạn bè và nhờ các bạn lập kế hoạch "kéo" cô gái về nhà một
cách bất ngờ, giữ cô trong ba ngày. Sau đó, nếu cô gái đồng ý làm vợ chàng trai
thì sẽ tiến hành lễ cưới chính thức. Nếu cô từ chối thì họ cùng nhau uống bát
rượu kết bạn và mọi việc trở lại bình thường như chưa có điều gì xảy ra. Lễ
cưới người Mông ở Cát Cát thường được tổ chức từ 2 đến 7 ngày.
Kiến trúc nhà cửa người Mông làng Cát Cát còn nhiêu nét cổ:
nhà ba gian lợp ván gỗ pơ mu. Bộ khung nhà có vì kèo ba cột ngang. Các cột đều
được kê trên phiến đá tròn hoặc vuông. Vách được lợp bằng gỗ xẻ, có 3 cửa ra
vào: cửa chính ở gian giữa, 2 cửa phụ ở hai đầu nhà. Cửa chính luôn được đóng
kín, chỉ mở khi có việc lớn như đám cưới, tang ma, cúng ma vào dịp lễ Tết.
Trong nhà có không gian thờ, sàn gác lương thực dự trữ, nơi ngủ, bếp và nơi
tiếp khách.
Làng Cát Cát được hình thành từ giữa thế kỷ 19, các hộ gia
đình cư trú theo phương thức mật tập: dựa vào sườn núi và quây quần bên nhau,
các nóc nhà cách nhau chừng vài chục mét. Họ trồng lúa trên ruộng bậc thang,
trồng ngô trên núi theo phương pháp canh tác thủ công, sản lượng thấp. Phần lớn
nhà cửa đều đơn giản, chỉ có một cái bàn, cái giường và bếp lửa nấu nướng...
Địa chỉ tham khảo để đi Cát Cát:
- Công ty du lịch Lào Cai. 38 Nguyễn Huệ, Lào Cai, ĐT: (020)
830034.
- Chi nhánh công ty du lịch - dịch vụ Đường sắt Hà Nội. 19
Nguyễn Huệ, Lào Cai. ĐT: (020) 830007.
151.
Bản huyền ca
của làng quê Việt
"Đổ bóng xuống mặt trời"
của nhà thơ Trần Anh Thái là một bản trường ca ngợi ca tinh thần văn hoá làng
quê Việt. Bản trường ca đã đoạt giả A của cuộc thi do Tuần báo văn nghệ tổ chức
năm 2000 và giải thưởng 5 năm về văn học của Bộ Quốc Phòng. Mặt trời của văn
hoá làng quê Việt Nam ấy còn mạnh hơn cả “mặt trời thực” trong thiên nhiên. Cái
tên đặc biệt này xác định rõ rệt cho ánh hào quang bất tử của văn hoá làng quê
Việt Nam.
Trong những năm gần đây, thơ ca hiện đại đón nhận nhiều tập thơ có phụ đề là
trường ca, đề cập đến nhiều đề tài trong đời sống, cá biệt có những tập đi vào
cách khoa trương và tụng ca sự mơ hồ không ai hiểu được. Tuy nhiên những tập
thơ đó đơn giản chỉ là kéo dài “Cái tôi tự sự” của tác giả thành mấy chục trang
in. Trường ca là một thể loại rất khó xác định cho dù đã có rất nhiều bản
trường ca tuyệt hay ra đời trong di sản văn hoá của các dân tộc. Theo tôi,
trường ca (nhất là trường ca hiện đại) là sự ngân vang của toàn bộ đời sống vốn
nhiều cung bậc khác nhau, vai trò của tác giả trong đó không chỉ là người lĩnh
xướng đời sống mà còn là người chiêm ngưỡng đời sống. (Tức là ở một ý nghĩa nào
đó tác giả chỉ là “nhân vật phụ” sáng tạo ra bản trường ca). Tôi đọc trường ca:
“Đổ bóng xuống mặt trời” mà luôn phải dừng lại vì ngạc nhiên và xúc động. Đây
là một trường ca dài với chín mươi trang in.
Nhà thơ Trần Anh Thái bắt đầu
trường ca bằng phần “Khởi hoang” với những hình những âm u, mơ hồ. Sự hỗn loạn
của thiên nhiên, sự u mê của muôn loài, nước réo, lửa sôi, những vị thần không
rõ mặt, những tiếng kêu hoảng loạn... Tất cả là những gì ngự trị trái đất trước
khi con người đầu tiên xuất hiện. Nhưng khi “Những người đàn ông mang theo búa
rìu và những con dao rựa” thì ngôi làng - biểu hiện cho tâm hồn người Việt, cho
tinh thần người Việt bắt đầu hiện ra trong ngọn lửa trời nguyên khởi:
Lửa bừng lên ngọn sóng
Lửa tràn cõi lang thang
Lửa dịu ngày cơ nhỡ...
...Lửa đốt phiến đá xanh khắc hình vào đá
(Khởi hoang)
Cõi nguyên sơ hỗn độn ấy thay đổi
tức thì khi con người xuất hiện. Mọi vật, mọi nguồn sống được phân định lại rõ
ràng và tuỳ theo “thiên phận” của mình mà hài hoà vào cuộc sinh tồn. Con người
hiện ra như thể bảo toàn sự sống vốn có trên trái đất và cũng như thể biểu hiện
một sự sống hoàn hoàn hảo nhất. Cái “ngôi làng tinh thần” trải qua “ngày chói
gắt”, “chướng khí”, “sóng gào biển động”, “những đám mây xa xôi” và còn trải
qua cả “bến bờ hư thực”, “người đối mặt vào trời khô khốc”... để tạo ra nền
tảng của tâm hồn con người. Sự bí ẩn của nó sánh ngang với sự bí ẩn trong cuộc
sinh nở của người đàn bà. Trần Anh Thái tin rằng trong cái nỗ lực sống, nỗ lực
thoát khỏi sự hỗn độn mơ hồ, tất cả mọi sự vật đều phải ngân lên bài ca của
mình, ý nghĩa thể loại này và ngay cả tư tưởng của trường ca được lộ ra ở đây.
Điều này là một điều đặc biệt và theo tôi, nó xuất hiện không nhiều trong thơ
ca đương đại của chúng ta, bởi nội dung và hình thức của tác phẩm lại có được
sự hoà nhập với nhau như thế.
Thế giới khởi đầu luôn chứa đầy
trong lòng mình những truyền thuyết, những lời sấm, những lời đồn... Chúng được
sinh ra không phải vì con người ham chuộng những điều kỳ quái hay là run sợ
trước những bí ẩn của thiên nhiên mà là khi “đất” vừa được bước vào một bầu
trời mới, con người học được “Hãy biết im lặng/Hạnh phúc là niềm vui và nỗi đau
đớn vô tận” (Lời truyền một). Tiếng vọng của “Nhịp thời gian biền biệt chảy
trôi” khiến cho cuộc sống phải sinh ra những truyền thuyết, những lời truyền để
lưu giữ ánh lửa của cuộc sống đấy. Và khi “đất” ấy, làng quê ấy được phả đầy
“tiếng vọng”, phả đầy tình yêu quê hưng, đất nước thì “giữa bản hoan ca”:
“Tiếng sáo vút lên vút tự do cất
lên
Những bài hát từ làng vang xa”
(Tiếng vọng)
Từ sự ngân vang của những bài hát
này, trường ca ĐBXMT bắt đầu dựng nên lịch sử tâm hồn của một đứa con nước
Việt, đồng nghĩa với lịch sử tinh thần của làng quê Việt Nam. Tâm hồn ấy tràn
đầy tình yêu, tràn đầy dự cảm về một tương lai mà ở đó mỗi vật chỉ cần sống
“bởi chính nó” đủ tạo nên một bản hoà ca say đắm.
Chương “năm bốn nhăm” được tiếp nối
ngay sau “Tiếng vọng” mang một ý thức rõ rệt của tác giả. Trần Anh Thái chọn
đúng khoảng thời gian tiêu biểu nhất của lịch sử dân tộc để thể hiện tinh thần
của mình. Giai đoạn ấy đã để lại cho hậu thế một trang chói sáng. Nhà thơ dùng
những lời “tâm sự của đất”, “tâm sự của gốc đa già”, lời thầm, tiếng thầm của
nhiều tâm sự khác nhau để nói lên biến chuyển của đời sống cũ sang một đời sống
mới. Đời sống mới ấy đã trao lại cho tác giả một tuổi ấu thơ huy hoàng và tha thiết:
“Cửa nhà tôi mở phía mặt trời
Con gà trống gáy hôm nào cũng muộn
Ngựa đúc chưa xong Thánh Gíng còn nằm ngủ
Đến một ngày bừng thức nhân gian”
Nhà thơ Chế Lan Viên từng thấy “mỗi
chú bé đều nằm mơ ngựa sắt” khi đất nước có ngoại xâm. ở Trần Anh Thái “ngựa
sắt” tượng trưng cho tri thức nâng đôi cánh tâm hồn của con người lên những
vùng trong trẻo. Tuổi thơ kia đã miệt mài dậy sớm hơn cả tiếng gà gáy để học
hỏi, để đúc để rèn con ngựa tri thức ấy với một khát vọng mãnh liệt rằng sẽ
“bừng thức nhân gian”. Con ngựa ấy không chỉ đúc bằng tri thức, sách vở mà còn
được hun đúc bởi “diều bay trong trẻo mắt chiều/Hoa cúc nở bạt ngàn bên vệ
đất”, bởi tất thiên nhiên tạo vật mà tuổi “ấu thơ” của mỗi người đã sống trong
đó.
“Tôi ăn hương vị đầu mùa mắt tôi
trong vắt
Uống cạn tiếng cười náo loạn mảnh trăng non
Chú cuội bao năm rồi vẫn ngồi thổi sáo
Trái đất này chật mắt trẻ con chơi”
Khát vọng “ngựa sắt” là khát vọng có trong mỗi đứa trẻ, mỗi con người. Qua cách
dùng hình tượng này chúng ta thấy văn hoá dân tộc trong trường ca mạnh liệt
dường nào, ký ức của dân tộc qua trái tim của tác giả đã ngời lên ngọn đuốc của
mình.
“Con ngựa sắt tinh thần” đã thức
dậy nhưng không phải để bay đến một vùng xa xôi, huyền bí nào, không phảii để
đưa tác giả lên cao rồi tự ngợi ca “cái tôi” của mình mà là để khám phá và bồi
đắp cho chính cái nôi đã sinh ra nó. Đó chính là ngôi làng. Trường ca được tiếp
nối bởi chương “Đất làng”. Vẫn cùng những hình ảnh ấy, vẫn những gì thân thiết
ấy, mái chùa ấy, con đường ấy, dòng sông ấy, mối tình ấy...nhưng được soi rọi
dưới một luồng sáng khác. Đây là một cách làm “điệp nghĩa” một hình ảnh trong
bài thơ. Các truyền thuyết, huyền thoại từ thời khởi nguyên, từ thời thành lập
làng trải qua những thể nghiệm tinh thần, trải qua đời sống trong trẻo tuổi ấu
thơ, được “thực hoá” bởi nền văn hoá làng:
“Chiếc vương niệm trên cánh đồng cổ
tích
Đã bao phen bỏng rát mặt lư đồng
Chó đá trước sân đình đêm thức
Thương một đời kiếp tượng”
""Thành cánh đồng muôn thưở cỏ ru ca...
Nơi các con tôi bây giờ thả tiếng sáo trong vút tự do
Nơi bao trái tim an toàn cất giữ mọi điều bí mật”
Đọc đến câu thơ này tôi chợt nhớ
đến câu thơ của nhà thơ Tố Hữu trong bài “Từ ấy”: “Từ ấy trong tôi bừng nắng
hạ/Mặt trời chân lý chói qua tim”. Mặt trời chân lý ấy cũng chói qua tim của
nhà thơ Trần Anh Thái? Cái mặt trời của văn hoá làng quê Việt Nam ấy còn mạnh
hơn “mặt trời thực” trong thiên nhiên. Chính thế, nó chiếu rọi lên tâm hồn mỗi
người và ánh sáng của “mặt trời tinh thần” ấy còn lấn át cả ánh sáng trong
thiên nhiên, xác định rõ rệt ánh hào quang bất tử của văn hoá làng quê Việt
Nam.
152.
Những phong tục
trong lễ giao thừa
Lẽ trời đất có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu
ắt phải có kết thúc, bắt đầu hay kết thúc cũng là lúc giao thừa. Theo từ điển
Hán Việt, giao thừa nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên
hằng năm vào lúc chuyển giao năm cũ năm mới có lễ trừ tịch. Trừ tịch là giờ
phút cuối cùng của năm cũ với ý nghĩa đem bỏ những điều xấu của năm cũ sắp qua
để đón những điều tốt đẹp của năm mới. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ
ma quỷ", được cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.
Cúng ai trong lễ giao thừa
Theo truyền tụng, mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân
gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, nên cúng tế để tiễn
ông cũ và đón ông mới. Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời bởi các cụ xưa hình
dung trong phút cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có
quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn
thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các
gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng,
với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà
trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp
quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà
mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ
chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
Sửa lễ giao thừa
Người ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong
xóm cũng như tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một
chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn
nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa
quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm chiếc mũ của Đại Vương hành khiển.
Đến giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu lễ, rồi mọi
người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành khiển phù hộ độ trì
cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng cúng giao thừa nhưng lễ vật là
đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính
như xưa nhưng bàn thờ thì giản tiện hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa
nhà.
Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công,
tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
Tục lệ trong đêm trừ tịch
Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình,
chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản
thân và gia đình. Nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm. Khi đi lễ,
người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn
quanh năm.
Hái lộc: Đi lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có
tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là
"lấy lộc" của Trời đất thần, Phật ban cho. Cành lộc này được mang về
cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin
lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái
trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm vào bình hương bàn thờ nhà mình. Ngọn
lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật phù
hộ cho được phát đạt quanh năm.
Xông nhà: Thường người ta kén một người dễ vía
trong gia đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương
lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và người
này sẽ tự "xông nhà" cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về
cho gia đình. Nếu không có người nhà dễ vía, người ta phải nhờ người khác tốt
vía để sớm ngày mùng 1 đến xông nhà trước khi có khách tới chúc Tết.
153.
Hôn nhân của
người Dao
Dù thấy vợ ngủ,
thậm chí có mang với người đàn ông khác, các ông chồng vẫn không hề tức giận.
Họ bình thản lánh sang nhà hàng xóm. Nam nữ tìm hiểu và có thai trước khi kết
hôn. Đây là phong tục của người Dao ở Phú Thọ.Ở nhiều địa phương trong tỉnh,
người Dao sống xen lẫn với người Mường. Trong thôn xóm có ma chay, cưới xin,
làm nhà... người Mường và Dao đều giúp đỡ nhau, cùng dự liên hoan ăn uống. Tuy
thế gần như không có chuyện trai gái hai dân tộc này lấy nhau vì sự khác biệt
về phong tục tập quán, sắc thái văn hóa.
Khác với người Việt, Mường coi trọng sự trinh tiết của phụ
nữ, người Dao lại coi trọng gia đình, con cái. Những cô gái Dao dồi dào khả
năng sinh đẻ rất được coi trọng. Con riêng của vợ cũng được các anh chồng quý
như con đẻ. Thậm chí, có anh bắt gặp người khác ăn nằm với vợ mình mà không hề
cáu giận. Trả lời về cái mang trong bụng vợ không phải là của mình, anh ta thản
nhiên đáp: “Vợ ta đẻ ra là con của ta thôi”. Gia đình người Dao nói chung đầm
ấm, vợ chồng con cái rất yêu thương nhau, ít thấy có sự to tiếng.
Ở nhiều xóm người Dao tại tỉnh Phú Thọ, vẫn đang có tục “cạy
cửa”. Gia đình nào có con gái trên 15 tuổi đều cho nằm riêng ở một chiếc giường
cạnh cửa ra vào. Đầu giường cô gái để sẵn con dao. Tối tối, anh con trai nào
muốn tìm hiểu thì mở cửa vào giường nằm cạnh cô gái. Nếu ưng, họ sẽ thành một
đôi bạn tình. Nếu không, cô gái quay mặt vào tường không đón tiếp. Anh con trai
nào cố tỏ tình mà không được cô gái chấp nhận thì phải lủi thủi ra về. Nếu giở
trò cưỡng bức, cô gái có quyền chém chết.
Nếu sau một tháng đôi trai gái quan hệ với nhau mà không có
mang thì cô gái sẽ không tiếp bạn tình nữa. Anh chàng sẽ tiếp tục gõ cửa nhà cô
gái khác. Nếu cô gái có mang, già làng, trưởng bản gọi tất cả những người từng
cạy cửa nhà cô gái, mỗi người phải nộp một chai rượu, một con gà để cúng ma.
Anh chàng nào là chủ nhân của chiếc bào thai phải nộp thêm một con lợn cho lễ
cúng. Sau đó, họ mới tiến hành các thủ tục về ăn hỏi, cưới xin. Nếu nhà chàng
trai nghèo, không có tiền cưới xin, cô gái phải đẻ ở nhà bố mẹ mình thì đứa con
phải khai sinh theo họ mẹ. Đứa bé gọi bố mẹ đẻ là anh chị, gọi ông, bà ngoại là
bố mẹ.
Cũng có những xóm đồng bào Dao không còn tồn tại tục cạy cửa
như xóm Hạ Thành, xã Tân Lập, huyện Thanh Sơn. Nam nữ tự do yêu đương và kết
hôn, không quá nặng nề về quan niệm có nhiều hay ít con. Tỷ lệ phát triển dân
số ở đây đạt mức thấp nhất so với nhiều bản đông người Dao quanh vùng.
154.
Tục gánh nước cầu may của
người Việt cổ
Mỗi
khi tết đến, nhà ai trên đất nước Việt Nam chẳng có một điều mong muốn, sang
năm mới mưa thuận, gió hoà, làm ăn may mắn, những điều súi quẩy đi hết, những
điều may mắn về nhà. Thế cho nên, lâu lắm rồi người Việt cổ đã có tục gánh nước
cầu may.
Tục gánh nước cầu may hiện nay ở một số vùng quê Vĩnh Phúc vẫn còn lưu giữ như
ở Bình Xuyên, Phúc Yên, Mê Linh, Lập Thạch, Vĩnh Tường đó là một thông lệ trong
mấy ngày tết ông, bà, cha mẹ nhắc nhở con cháu về việc chuẩn bị ăn tết, đón
mừng năm mới làm sao ở trong nhà không thiếu một thứ gì nhất là “Nước”.
Quan niệm của người Việt cổ trong nông nghiệp là: “Nhất nước, nhì phân, tam
cần, tứ giống”. Nếu trong nhà năm ấy tết mà thiếu nước phải đi gánh thì năm ấy
làm ăn chắc chắn sẽ kém vì mùa màng không đủ nước. Nên không phải một nhà mà cả
làng, cả xã, phải chăm lo gánh nước về cho đủ ba ngày tết.
Gánh nước đủ trong nhà và mọi thứ khác như muối, mắm, gạo… mà đầy đủ thì sẽ
thịnh vượng, phát đạt ngày một thêm ra.
Quan niệm của người Việt cổ nhất là vào lúc giao thừa, nước trong nhà phải tràn
ngập các bể, các chum, các vại, chậu lớn, chậu nhỏ, gạo phải đong đầy các sạp,
các hũ, thức ăn phải dồi dào trong nhà bếp. Không phải chợ không họp, người
không bán hàng vào ngày tết mà là “Cần gì, có nấy”.
Ngày tết không để đi mượn của ai, mà không ai cho mượn ngày tết sợ mất rông cả
năm. Nắm bắt tâm lý này, ở quê tôi sau giờ giao thừa mấy người làm nghề gánh
nước thuê đã tự động gánh đến cho mỗi nhà vài thùng nước đầy với ý rằng: “Đem
tiền của vào nhà như nước cho gia chủ”. Và thêm những câu chúc tụng vui vẻ của
người lao động siêng năng thời này, các gia chủ vui vẻ trả tiền công, và thưởng
rất hậu hĩnh, có gia đình còn mừng tiền, mừng bánh, cho người gánh nước, ý nói
rằng năm sau lại thế.
Có người gánh nước thuê rất được chú ý và mời mọc hẹn hò từ tháng trước đến
gánh nước cho gia chủ, vì cô ấy hoặc bà ấy, gánh nước rất tín nhiệm, vì được
người ấy gánh nước, gia đình, gia chủ ăn nên làm ra, phát tài, phát lộc. Nên
mặc dù bây giờ quê tôi đã có giếng khoan, máy bơm, bể Inox đàng hoàng, ấy vậy
vẫn phải nói trước với mấy cô gái trẻ, đẹp đúng giao thừa gánh cho dăm, ba,
gánh nước để được các cô chúc cho gia chủ sang năm mới “Nhất bản, vạn lợi”
nghĩa là làm một việc mà có vạn cái lợi. Còn các bà hay đi chợ, các cô hàng tạp
hoá, các anh chị làm nghề như mổ lợn, bán hoa … thì cũng nhờ các cô, các cậu
gánh nước vào lúc giao thừa để được chúc: “Sang năm mới mua may bán đắt, một
vốn bốn lời”.
Nghe vậy gia chủ phấn khởi, cười nói hả hê “lì xì” gấp bội. Thế là các cô gánh
nước đem đổ vào bể, vào chum, chảy tràn ra sân, ra ngõ… năm ấy gia chủ làm ăn
nhiều điều phát đạt.
Tục gánh nước cầu may của người Việt cổ là nét đẹp văn hoá, cần được lưu giữ và
phát huy, vì nó là ý nguyện, là điều mong muốn trong ngày xuân đẹp đẽ, xinh
tươi
155.
Nét đẹp dân gian của trò chơi "đố
thai"
Có một làng quê nghèo vẫn duy trì một trò chơi dân gian là “Đố thai”. Đây là
một trò chơi truyền thống được tổ chức hằng năm tại thị trấn Mỹ Xuyên, huyện Mỹ
Xuyên, tỉnh Sóc Trăng vào những ngày lễ lớn như lễ thượng điền, rằm tháng hai,
rằm tháng tám ở đình Thần Hoàng hay Miếu Thần.
Trò chơi “Đố thai” ở Mỹ Xuyên không biết có tự bao giờ. Theo những người già,
trò này phổ biến nhất vào năm 1950. Thời đó một số người đam mê nghệ thuật dân
tộc đã tụ hội tổ chức “Đố thai” như ông Xe (mù), ông Sam, ông Lời, ông Tư Hiếu,
ông Hai Còn, Ba Râu... Trò chơi đố thai trở thành thông lệ hằng năm, đã thành
câu thai đố lưu truyền:
Làng thai đẹp nhất tiền nhân
Xe - Sam - Lời - Hiếu danh gần tiếng xa
Ba Râu ý đẹp sâu xa
Mỗi ông mỗi nét tinh hoa bốn mùa
(Xuất vật dụng = Bộ bài tứ sắc)
“Đố thai” ở Mỹ Xuyên như một thứ ánh sáng riêng, thuần khiết và trong trẻo, có
nhiều thầy thai đã để cả cuộc đời tìm tòi nghiên cứu để cho ra những câu đố
bình dị, mộc mạc hay văn hoa bóng bẩy thể hiện bằng thơ. Tác giả của những bài
thai đố tìm được cảm giác thăng hoa nghệ thuật trong đố thai, thể hiện tấm lòng
gìn giữ văn hóa cổ truyền dân gian.
Một trong số những người đó là ông Trịnh Văn Bé, 67 tuổi, ở ấp Châu Thành, thị
trấn Mỹ Xuyên (Mỹ Xuyên, Sóc Trăng). Ông Bé đã hơn ba mươi năm vui buồn với trò
sáng tác và tổ chức “Đố thai”. Cùng với ông Bé, ở thị trấn Mỹ Xuyên vẫn còn
nhiều người tâm huyết với trò chơi văn hóa dân gian đố thai như cụ Nguyễn Văn
Nhung 76 tuổi, Trịnh Văn Bé, anh Tô Thanh Quang, anh Tô Thái Bình, Ngô Chí
Huỳnh. Riêng nhân dân tại thị trấn, hằng năm sắp đến ngày chơi thai là lại nôn
nao hỏi thăm, chờ đợi. Ông Bé cho biết: Năm nay sẽ tổ chức “Đố thai” tại miễu
Thần Hoàng vào đêm 10-5-2009.
***
Trước cửa miếu thần hoàng hay đình thần trong đêm lễ hội “Đố thai” được tổ chức
trên khu đất rộng. Nơi đó dựng một cái bảng lớn, trên bảng dán nhiều câu đố
(cầu thai). Ban giám khảo (tổng ty) là những người có uy tín địa phương biết
lời giải và chịu trách nhiệm “bảo mật” lời giải. Thầy ra thai ngồi phía trong
che màn, trên bàn chất rất nhiều giải thưởng. Giải thưởng là những món quà cho
những ai đáp đúng lời giải cũng khiêm tốn như một vài gói thuốc, 5-7 gói mì,
vài quyển tập, cây bút... xuất chi từ quỹ chung của miếu, của đình do nhân dân
trong ấp hoặc các thầy thai ủng hộ. Đêm “Đố thai” thật sôi nổi, thường khoảng
200 - 400 người. Người lớn tuổi ngồi uống trà bàn luận. Thanh niên, thiếu nữ,
trẻ em chen lấn để đọc câu đố và trả lời. Những câu thai mở đầu thật khiêm
nhường:
- Kính chào quý vị buổi chơi thai
Chữ nghĩa lời văn thuộc ít bài
Ngặt nỗi cuộc vui đành phải rán
Mong nhờ quý vị giúp sửa sai
(Xuất vật dụng: Tờ Nhựt trình)
Có những câu đố thai nói lên tình quê hương kết quả là địa danh quê nhà:
- Mỗi buổi ban mai một nén hương
Tạ ơn trời đất tạ tông đường
Nguyện cùng chỗ chỗ mùa màng trúng
Kính chúc người người vạn thọ khương
(Xuất công dụng: cầu Thạnh Lợi ở Mỹ Xuyên)
Trong đêm chơi thai, chừng 40 - 50 câu thai viết theo vần điệu, thể lục bát,
song thất lục bát, câu đối... được dán lên bảng, mỗi câu đều có số riêng, bất
kỳ ai cũng có thể tham gia đố thai, không phân biệt địa phương.
Ban giám khảo đọc xong mỗi câu thai thì trống đánh “bùm”. Người giải sai thì
ban giám khảo gõ vào thành trống một tiếng “cốc”, nếu đáp gần đúng thì trống gõ
ba tiếng “tùng, tùng, tùng”... để khuyến khích người đáp cố gắng suy nghĩ thêm,
nhiều lúc thầy thai cũng mớm ý, dẫn dắt người chơi... không khí thật hồi hộp và
ấm áp. Người chơi đáp đúng, ban giám khảo đánh 3 tiếng trống “tùng tùng tùng”,
sau đó gõ thanh la một tiếng “phèng”. Một người trong ban giám khảo gỡ câu thai
trúng xếp lên dĩa, phần thưởng chồng lên trên, trân trọng trao cho người trúng
thưởng.
Để buổi sinh hoạt trong đêm “Đố thai” đông vui, có sinh khí, thường thì ban
giám khảo chia câu đố làm ba loại: dễ, hơi khó và những câu thật hóc búa. Giá
trị giải thưởng cũng tùy theo câu đáp đúng khó hay dễ. Trong mỗi câu thai đều
gợi ý đáp án thuộc dạng nào, ví dụ: về cây gọi là xuất mộc, đồ xài thì gọi xuất
vật dụng, đồ thuộc loại nhà nước gọi là xuất công dụng, cây thuốc gọi là xuất
dược vị, thảo mộc thuộc loại dây bò là xuất thảo thằng, đồ ăn gọi là xuất nhật
thực v.v...
Những buổi diễn ra “Đố thai” không những thu hút đông đảo nhân dân địa phương
mà còn có các cán bộ, công nhân viên, thầy cô giáo, học sinh... tham gia, ủng
hộ. Không khí vui nhộn ngay từ lúc bắt đầu, những thanh thiếu niên không giải
được chạy về nhờ người lớn giải giùm, từ đó gần như huy động nhà nhà đều chơi
thai. Người trả lời đúng vinh dự được trao phần thưởng, riêng người đáp chưa
trúng thì suy nghĩ tiếp để trả lời câu khác vì họ không mất gì cả vì “trúng ăn
trật huề”.
Về câu đố, người ra thai có thể sưu tầm trong sách báo, hoặc tự suy nghĩ ra câu
thai và đáp án tương đối hợp lý.
***
Cụ Năm Nhung ở thị trấn Mỹ Xuyên, một trong những người có công gìn giữ trò
chơi đố thai gần 50 năm qua, cho biết: Tư cách của người chơi thai phải nghĩ
đến: tình - ý - lý - lái. Điều quan trọng là đáp án của thầy ra thai luôn luôn
giữ bí mật, vợ con cũng không được biết.
Trong những đêm hội “Đố thai”, từ người già đến trẻ em đều hòa mình trong đêm
vui truyền thống quê nhà. Trước đây, những năm đến dịp bà con che lều dựng rạp,
cho đêm đố thai thật hoành tráng. Theo cụ Năm Nhung, việc lưu giữ, phát triển,
đào tạo đội ngũ, phát hiện tài năng, khích lệ phát triển người ra câu đối hay,
mới lạ để dòng chảy văn hóa dân gian liên tục, không bị ngắt quãng, đó là điều
trăn trở của cụ. Cụ Năm Nhung tự tay chuyển giao hơn mấy trăm câu đố thai cho
ông Trịnh Văn Bé, với ước mong trò chơi dân gian này phát huy và duy trì ở thị
trấn Mỹ Xuyên, góp phần tôn tạo nền văn hóa dân gian.
Ông Bé khoe rằng đang lưu giữ trên 300 câu đố của người xưa để lại, hơn 200 câu
mượn văn hành vật của ông, 50 câu trong truyện Kiều và hơn 50 câu của các thầy
thai đến giúp vui. Ông Bé nói: Đây là kho báu dân gian mà địa phương chúng tôi
đã có được trên 50 năm qua.
Trong tinh thần “gìn giữ và phát huy vốn quý truyền thống của dân tộc” những
người khởi xướng tổ chức và gìn giữ đố thai không vụ lợi, không tính toán để
trò chơi đố thai nhiều năm qua ở huyện Mỹ Xuyên bền vững, như một nếp văn hóa
lành mạnh tại địa phương.
156. Các Trò Chơi Dân Gian Việt Nam
1 Chơi đu
Trong các ngày hội, các làng thôn thường trồng một vài cây đu ở giữa thửa ruộng
gần đình để trai gái lên đu với nhau. Cây đu được trồng bởi bốn, sáu hay tám
cây tre dài vững chắc để chịu đựng được sức nặng của hai người cùng với lực đẩy
quán tính. Hai cây tre làm cần đu nhỏ vừa tay cầm.
Lên đu có thể là một hay hai người. Càng nhún mạnh, đu càng lên cao, cần đu đưa
lên vun vút, bên nọ sang bên kia. Cần đu lên ngang với ngọn đu là hay nhất,
nhiều khi đu bay ngang ngọn đu một vòng. Nhiều nơi treo giải thưởng ở ngang
ngọn đu để người đu giật giải. Nhún đu cũng là một sinh hoạt giao đãi tình cảm
của trai gái.
2 Kéo co
Tục kéo co ở mỗi nơi có những lối chơi khác nhau, nhưng bao giờ số người chơi
cũng chia làm hai phe, mỗi phe cùng dùng sức mạnh để kéo cho được bên kia ngã
về phía mình. Có khi cả hai bên đều là nam, có khi bên nam, bên nữ. Trong
trường hợp bên nam bên nữ, dân làng thường chọn những trai gái chưa vợ chưa
chồng.
Một cột trụ để ở giữa sân chơi, có dây thừng buộc dài hay dây song, dây tre hoặc
cây tre, thường dài khoảng 20m căng đều ra hai phía, hai bên xúm nhau nắm lấy
dây thừng để kéo. Một vị chức sắc hay bô lão cầm trịch ra hiệu lệnh. Hai bên ra
sức kéo, sao cho cột trụ kéo về bên mình là thắng. Bên ngoài dân làng cổ vũ hai
bên bằng tiếng "dô ta", "cố lên".
Có nơi người ta lấy tay người, sức người trực tiếp kéo co. Hai người đứng đầu
hai bên nắm lấy tay nhau, còn các người sau ôm bụng người trước mà kéo. Ðang
giữa cuộc, một người bên nào bị đứt dây là thua bên kia. Kéo co cũng kéo ba
keo, bên nào thắng liền ba keo là bên ấy được.
3 Ðánh roi múa mộc
Roi bằng tre vót nhẵn và dẻo, đầu bịt vải đỏ, còn mộc đan bằng tre sơn đỏ. Các
đấu thủ đấu tay đôi với nhau: vừa dùng roi để đánh, dùng mộc để đỡ, ai đánh
trúng địch thủ vào chỗ hiểm và đánh trúng nhiều thì thắng, thường đánh trúng
vào vai và sườn mới được nhiều điểm.
Các hội lễ ở miền Bắc thường được tổ chức thi đấu vào những ngày đầu tháng
giêng.
4 Ném cầu
Xã Phú Sơn, Hà Tĩnh cử hành hội mùa xuân tại chùa xã ngày 14 và ngày rằm tháng
giêng. Khi trong chùa đang lễ Phật, ngoài sân trai chưa vợ, gái chưa chồng tụ
họp nhau dự trò chơi ném cầu để "bói" hôn nhân. Hai quả cầu dùng để
ném vào lồng tre là hai quả chanh ngoài có lớp vỏ bện bằng mây bọc quanh: sơn
màu xanh gọi là âm cầu và sơn màu đỏ trắng gọi là dương cầu. Trai và gái chia
làm hai bên, mỗi bên có người cầm đầu. Hai bên hẹn ước với nhau rằng:
"Trong hai nhóm chúng ta, hễ ai đã kết hôn mà ném được quả cầu vào trong
lồng thì chỉ được thưởng; còn cặp nào chưa kết hôn mà ném trúng thì không những
được thưởng mà còn hẹn sẽ cưới nhau. Nếu ai sai lời sẽ có Phật trời chứng
giám". Giao hẹn xong, mấy cặp bắt đầu trò chơi. Trước khi ném cầu, trai
gai lần lượt hát:
Cầu này là cầu thiên duyên
Ðôi ta mà trúng, kết nguyền cùng nhau
Trò vui kéo dài từ sáng đến chiều. Tuy là trò chơi nhưng mỗi lần một cặp trai
gái có tình ý mà cùng ném trúng đều hứa hôn với nhau
5 Tập tầm vông
Bài đồng dao này phổ biến khắp Bắc, Trung, Nam nhại theo âm trống tầm vông /
tâm vinh (gọi theo Nghệ An) tức trống cơm:
Tập
tầm vông
Chị có chồng
Em ở vá
Chị ăn cá,
Em mút xương.
........................
Chị ăn kẹo,
Em ăn cốm
Chị ở Lò Gốm,
Em ở Bến Thành.
Chị trồng hành,
Em trồng hẹ.
Chị nuôi mẹ
Em nuôi cha
Cách chơi hiện nay của trò này là hai nguời chơi ngồi đối mặt nhau, vừa hát vừa
theo nhịp đập lòng bàn tay vào nhau: hoặc đập thẳng, hoặc đập chéo, hoặc một
cao một hạ thấp, hoặc kết hợp nhiều cách khác nhau. Nói chung, cách chơi rất giống
trò Thìa la thìa lảy đây.
6 Nu na nu nống
Nu
na nu nống
Cái cóng nằm trong
Cái ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Bụt ngồi bụt khóc
Con cóc nhảy ra
Ông già ú ụ
Bà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tè he chân rụt
Ðám
trẻ ngồi thành hàng ngang, duỗi hai chân ra trước. Một đứa ngồi đối diện, lấy
tay đập vào từng bàn chân theo nhịp từng từ một của bài hát trên. Dứt bài, từ
"rụt" đúng vào chân em nào thì phải rụt nhanh. Nếu bị tay của cái đập
vào chân thì em đó thua cuộc: ra làm cái ván chơi kế tiếp, hoặc chịu hình phạt
(nhảy lò cò một vòng, trồng chuối...) hay phải đứng ra làm cái cho một trò chơi
khác (bịt mắt bắt dê, ú tìm, cá sấu lên bờ...)
7 Tùm nụ, tùm nịu
Tùm
nụ, tùm nịu
Tay tí, tay tiên
Đồng tiền, chiếc đũa
Hột lúa ba bông
Ăn trộm, ăn cắp trứng gà
Bù xa, bù xít
Con rắn, con rít trên trời
Ai mời mày xuống?
Bỏ ruộng ai coi?
Bỏ voi ai giữ?
Bỏ chữ ai đọc
.................
Ðánh trống nhà rông
Tay nào có?
Tay nào không?
Hổng ông thì bà
Trái mít rụng
...................
Căn
cứ vào hai câu "Tay nào có? Tay nào không?", đây là một trò đố: nắm
một vật vào đó trong một tay và chìa hai nắm tay. Mở tay ra: đúng sai, có
không....biết liền
8 Thả đỉa ba ba
Trò chơi thể hiện việc qua sông, qua bưng, ruộng...ngập nước. Ở dưới nước có
đỉa. Cả nhóm làm sao xuống nước mà đỉa không bắt chước. Trước hết vẽ hai đường
song song cách nhau độ 2m (hay qui định khoảng trống nào đó) giả định là sông
nước. Một em ra giữa vòng vừa hát vừa lấy tay ra đập nhịp vào vai các bạn:
Thả
đỉa / ba ba
Chớ bắt / đàn bà
Tha tội / đàn ông
Cơm trắng / gạo trắng
Gạo thuyền như nước
Ðổ mắm / đổ muối
Ðổ chuối / hạt tiêu
Ðổ niêu / nước chè
Ðổ phải nhà nào
Nhà ấy.... chịu
Từ
"chịu" trúng em nào thì em ấy xuống sông làm "đỉa". Bọn trẻ
đứa chạy đầu này, đứa băng qua sông góc nọ. "Ðỉa" rượt để bắt. Bọn
trẻ lại hát bài hát ghẹo.
Sang sông / về sông / trồng cây / ăn quả / nhả hạt. "Ðỉa" rượt bên
này thì bên kia xuống sông. "Ðỉa" quay lại bên kia thì lũ bên nọ lại
réo lên: "ăn quả / nhả hạt" rồi ào xuống. Chẳng may ai bị "đỉa"
vớ phải thì trở thành "đỉa".
9 Rồng rắn lên mây
Một người đứng ra làm thầy thuốc, những người còn lại sắp hàng một, tay người
sau nắm vạt áo người trước hoặc đặt trên vai của người phía trước. Sau đó tất
cả bắt đầu đi lượn qua lượn lại như con rắn, vừa đi vừa hát:
Rồng rắn lên mây
Có cây lúc lắc
Hỏi thăm thầy thuốc
Có nhà hay không?
Người đóng vai thầy thuốc trả lời:
- Thấy thuốc đi chơi ! (hay đi chợ, đi câu cá , đi vắng nhà... tùy ý mà chế
ra). Đoàn người lại đi và hát tiếp cho đến khi thầy thuốc trả lời:
- Có !
Và bắt đầu đối thoại như sau : Thầy thuốc hỏi:
- Rồng rắn đi đâu?
Người đứng làm đầu của rồng rắn trả lời:
- Rồng rắn đi lấy thuốc để chữa bệnh cho con.
- Con lên mấy ?
- Con lên một
- Thuốc chẳng hay
- Con lên hai.
- Thuốc chẳng hay
Cứ thế cho đến khi:
- Con lên mười.
- Thuốc hay vậy.
Kế đó, thì thầy thuốc đòi hỏi:
+ Xin khúc đầu.
- Những xương cùng xẩu.
+ Xin khúc giữa.
- Những máu cùng me.
+ Xin khúc đuôi.
- Tha hồ mà đuổi.
Lúc đó thầy thuốc phải tìm cách làm sao mà bắt cho được người cuối cùng trong
hàng.
Ngược lại thì người đứng đầu phải dang tay chạy, cố ngăn cản không cho người
thầy thuốc bắt được cái đuôi của mình, trong lúc đó cái đuôi phải chạy và tìm
cách né tránh thầy thuốc. Nếu thầy thuốc bắt được người cuối cùng thì người đó
phải ra thay làm thầy thuốc.
Nếu đang chơi dằng co giữa chừng, mà rồng rắn bị đứt ngang thì tạm ngừng để nối
lại và tiếp tục trò chơi.
Là trò chơi luyện tập sự nhịp nhàng. Giống như trò tập tầm vông, song bài ca
lại là bài vè Con gái hư - chê tật xấu của các cô gái lười:
Thìa la thìa lảy,
Con gái bảy "tài"
Ngồi lê là một,
Dựa cột là hai.
Thày lay là ba
Ăn quả là bốn
Trốn việc là năm
Hay nằm là sáu
Láu táu là bảy
...............
11 Mèo đuổi chuột
Trò chơi gồm từ 7 đến 10 người. Tất cả đứng thành vòng tròn, tay nắm tay, giơ
cao lên qua đầu. Rồi bắt đầu hát.
Mèo đuổi chuột
Mời bạn ra đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột luồn lỗ hổng
Mèo chạy đằng sau
Thế rồi chú chuột lại đóng vai mèo
Co cẳng chạy theo, bác mèo hóa chuột
Một người được chọn làm mèo và một người được chọn làm chuột. Hai người này
đứng vào giữa vòng tròn, quay lưng vào nhau. Khi mọi người hát đến câu cuối thì
chuột bắt đầu chạy, mèo phải chạy đằng sau. Tuy nhiên mèo phải chạy đúng chỗ
chuột đã chạy. Mèo thắng khi mèo bắt được chuột. Rồi hai người đổi vai trò mèo
chuột cho nhau. Trò chơi lại được tiếp tục
12 Ô ăn quan
Vẽ một hình chữ nhật được chia đôi theo chiều dài và ngăn thành 5 hàng dọc cách
khoảng đều nhau, ta có được 10 ô vuông nhỏ. Hai đầu hình chữ nhật được vẽ thành
2 hình vòng cung, đó là 2 ô quan lớn đặc trưng cho mỗi bên, đặt vào đó một viên
sỏi lớn có hình thể và màu sắc khác nhau để dễ phân biệt hai bên, mỗi ô vuông
được đặt 5 viên sỏi nhỏ, mỗi bên có 5 ô.
Hai người hai bên, người thứ nhất đi quan với nắm sỏi trong ô vuông nhỏ tùy vào
người chơi chọn ô, sỏi được rãi đều chung quanh từng viên một trong những ô
vuông cả phần của ô quan lớn, khi đến hòn sỏi cuối cùng ta vẫn bắt lấy ô bên
cạnh và cứ thế tiếp tục đi quan (bỏ những viên sỏi nhỏ vào từng ô liên tục).
Cho đến lúc nào viên sỏi cuối cùng được dừng cách khoảng là một ô trống, như
thế là ta chặp ô trống bắt lấy phần sỏi trong ô bên cạnh để nhặt ra ngoài. Vậy
là những viên sỏi đó đã thuộc về người chơi, và người đối diện mới được bắt
đầu.
Đến lượt đối phương đi quan cũng như người đầu tiên, cả hai thay phiên nhau đi
quan cho đến khi nào nhặt được phần ô quan lớn và lấy được hết phần của đối
phương. Như thế người đối diện đã thua hết quan.
Hết quan tàn dân, thu quân kéo về. Hết ván, bày lại như cũ, ai thiếu phải vay
của bên kia. Tính thắng thua theo nợ các viên sỏi. Quan ăn 10 viên sỏi.
Cách chơi ô ăn quan được nói lên rất đơn giản nhưng người chơi ô ăn quan đã
giỏi thì việc tính toán rất tài tình mà người đối diện phải thua cuộc vì không
còn quan (sỏi) bên phần mình để tiếp tục cuộc chơi
13 Ném còn
Với người Việt cổ xưa, trò chơi này thường dành cho giới nữ, con nhà quý phái,
xưa kia là các mỵ nương, con gái Lạc hầu, Lạc tướng. Đối với các dân tộc Mường,
Tày, H’mông, Thái... ném còn là trò tín ngưỡng hấp dẫn nhất của trai gái trong
dịp hội xuân.
Quả "còn" hình cầu to bằng nắm tay trẻ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi
vải màu, bên trong nhồi thóc và hạt bông (thóc nuôi sống con người, bông cho sợi
dệt vải). Quả còn có các tua vải nhiều màu trang trí và có tác dụng định hướng
trong khi bay. Sân ném còn là bãi đất rộng, ở giữa chôn một cây tre (hoặc vầu)
cao, trên đỉnh có “vòng còn” hình tròn (khung còn), khung còn một mặt dán giấy
đỏ (biểu tượng cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu tượng cho mặt trăng).
Cả mặt giấy là biểu tượng cho sự trinh trắng của người con gái. Người chơi đứng
đối mặt với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt qua vòng còn trên đỉnh cột là
thắng cuộc
Mở đầu cuộc chơi là phần nghi lễ, thầy mo dâng hai quả còn làm lễ giữa trời
đất, cầu cho bản làng yên vui, mùa màng tươi tốt, nhà nhà no ấm. Sau phần nghi
lễ, thầy mo cầm hai quả còn đã được “ban phép” tung lên cho mọi người tranh
cướp, khai cuộc chơi ném còn năm đó. Các quả còn khác của các gia đình lúc này
mới được tung lên như những con chim én.
Trước khi khép hội, thầy mo rạch quả còn thiêng (đã được ban phép) lấy hạt bên
trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày quan niệm hạt
giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm
của những bàn tay nam nữ (âm - dương).
Ném còn làm cho người trong cuộc hào hứng, người đứng ngoài hò reo cổ vũ khiến
không khí cuộc chơi rất
sôi nổi, hấp dẫn. Ném còn là trò chơi không những thu hút nam nữ thanh niên mà
nhiều người lớn tuổi cũng rất thích. Trò vui này mang ý nghĩa phồn thực, cầu
mong giao hoà âm - dương, mùa màng tươi tốt
14 Cờ người
Cờ người là tên gọi cuộc chơi cờ tướng, gồm 32 quân (như cỗ bài tam cúc), mỗi
phe 16 quân (trong mỗi phe có một Tướng. Tướng nam gọi là tướng Ông, trang phục
đen hoặc xanh; tướng nữ còn gọi là tướng Bà, trang phục đỏ).
Chơi cờ tướng là chơi trên bàn cờ. Ba mươi hai quân cờ bằng gỗ, sừng, hay ngà
tiện tròn, đường kính 2cm, dày 1cm. Chơi cờ người cũng vẫn là luật lệ của cờ
tướng. Nhưng quân cờ là người thật, và bàn cờ là sân đất rộng, đủ đường đi nước
bước cho 32 người.
Cuộc đấu cờ người thường được tổ chức trong các hội hè. Ở các hội làng, bàn cờ
là sân đình, sân chùa, hay bãi ruộng khô phẳng gần nơi đình chùa, tức là gần
diễn chùa trường chính của hội. Cuộc đấu cờ người được chuẩn bị chu đáo hàng
tháng trời. Ðịnh được bàn cờ -sân bãi-chỉ mới là việc phụ. Ðầu tiên là việc
tuyển tìm người. Những người được chọn làm quân cờ phải là những trai thanh gái
lịch, con cái của những gia đình có nề nếp được dân làng quý trọng, đồng tình.
Số lượng cần thiết là 16 nam,16 nữ. Trong số này phải chọn ra hai tướng: một
nam, một nữ tướng Ông, tướng Bà. Ngoài ra, không thể thiếu người thứ 33 là tổng
cờ (trọng tài) trực tiếp giúp ban giám khảo theo dõi cuộc đấu. Ba người này
(tổng cờ và hai tướng) là thuộc loaị gia đình khá giả, phong lưu, có thể
"khao quân" khi cần thiết. Chọn xong, tổng cờ họp hai đội nam, nữ
thông báo về trang phục, dặn dò về phong thái trong lúc làm nhiệm vụ "quân
cờ". Quần áo mỗi người tự sắm, song phải thống nhất trong từng phe (quân
đen, quân đỏ) khi ra sân bãi, bàn cờ được tạo ra một màu sắc rực rỡ nhiều màu
dưới trời hội xuân.
Mỗi "quân cờ" có ghế đẩu ngồi có thể có đội nón nếu trời nắng to.
Trước ngực mỗi "quân cờ" có treo tên quân cờ bằng chữ hán. Còn tướng,
trang phục như hình vẽ, hoặc gần như thế, trong quân bài; đó là quân phục cấp
tướng đời xưa, có lọng che. Hai đấu thủ có chỗ ngồi riêng...
Bên cạnh sự náo động của các trò chơi khác như đánh đu đầy tính chất hào hứng
và lãng mạn; hay cuộc chọi gà "ăn thua"; hoặc cuộc đấu vật thiên về
sức mạnh cơ bắp và dũng khí, thì cái đẹp của sân cờ người là sự tinh tế, trầm
tĩnh, có giá trị di dưỡng tinh thần, và như muốn tạo sự cân bằng đối với các
cuộc đua tài ào ạt kia, đồng thời bổ sung và nâng cao giá trị văn hoá truyền
thống của cả lễ hội qua nhiều thế kỷ lưu truyền
15 Chọi gà
Chọi gà (theo cách gọi Bắc) hay đá gà (theo cách gọi miền Nam ) đã trở thành
thú vui dân gian từ nhiều thế kỷ. Vì vậy, chọi gà không chỉ là một mục trong
trò chơi ngày hội, mà còn là một thú vui chơi thông thường của nhiều người ở đô
thị cũng như nông thôn.
Trước cách mạng tháng 8-1945, nhiều "trường gà" đã được thiết lập ở
khắp nơi, thu hút đông đảo khách có máu mê ăn thua cờ bạc. Sách vở xưa cũng
từng bàn về chọi gà và gà chọi. Từ thế kỷ thứ 13, Hưng Ðạo Vương Trần Quốc
Tuấn, trong bài hịch tướng sĩ cũng đã từng cảnh tỉnh những ai đắm mình vào thú
vui này trong lúc "quốc gia hữu sự":"Cựa gà sắc khôn đâm giáp
giặc"...
Ðể có được con gà chọi hay đòi hỏi người phải có công phu và kinh nghiệm, từ
việc chọn giống gà, gây giống, xem tướng gà, nuôi dưỡng, luyện tập v.v... Câu
ngạn ngữ "Gà tại nó, chó tại ta " ý là gà trước hết phải là gà giống,
rồi mới đến kết quả công rèn luyện. Hoặc "chó giống cha, gà giống mẹ"
...
Ở miền Bắc, có những địa phương cung cấp giống gà nổi tiếng như Ðình Bảng, Yên
Phụ (Bắc Ninh), Thổ Hà (Bắc Giang), Tây Phương (Hà Tây), Nghĩa Đô, Nghi Tàm (Hà
Nội). Ở Nam bộ có gà Cao Lãnh (Ðồng Tháp), Bà Ðiểm (TP Hồ Chí Minh), Bà Rịa...
Chọi gà là thú vị dân gian có sức thu hút đông đảo quần chúng rất nhanh, còn
việc chăm sóc, chọn lọc, nuôi dưỡng huấn luyện gà thì lại thuộc về một tầng lớp
người có có điều kiện. Trong chiều sâu tâm tưởng của nhiều người, trò chơi chọi
gà có thể vừa mang tính giải trí, vừa là một hình thức nuôi dưỡng tinh thần
thượng võ, chất keo gắn kết tinh thần cộng đồng đã từng tồn tại trong một thời
gian khá dài trong các hội làng xưa.
16 Nhún đu
Trong các ngày hội, các làng thôn thường trồng một vài cây đu ở giữa thửa ruộng
gần đình để trai gái lên đu với nhau.
Cây đu được trồng bởi bốn, sáu hay tám cây tre dài vững chắc để chịu đựng được
sức nặng của hai người cùng với lực đẩy quán tính. Hai cây tre làm cần đu nhỏ
vừa tay cầm.
Lên đu có thể là một hay hai người. Càng nhún mạnh, đu càng lên cao, cần đu đưa
lên vun vút, bên nọ sang bên kia. Cần đu lên ngang với ngọn đu là hay nhất,
nhiều khi đu bay ngang ngọn đu một vòng.
Nhiều nơi treo giải thưởng ở ngang ngọn đu để người đu giật giải. Nhún đu cũng
là một sinh hoạt giao đãi tình cảm của trai gái.
17 Đấu vật
Đấu vật rất phổ biến ở nhiều hội xuân miền Bắc và miền Trung. Trong hội làng
Mai Ðộng (Hà Nội) có thi vật ở ngay trước bãi đình làng. Các đô vật ở các nơi
kéo về dự giải rất đông. Làng treo giải vật gồm nhất, nhì, ba và nhiều giải
khác.
Trong lúc vật, các đô vật cởi trần và chỉ đóng một cái khố cho kín hạ bộ. Cởi
trần cốt để đôi bên không thể nắm áo, nắm quần nhau gây lợi thế cho mình được.
Khố các đô vật phần nhiều bằng lụa, nhiều màu. Trước khi vào vật, hai đô vật lễ
vọng vào trong đình.
Cuộc thi bắt đầu, các đô vật lên lễ đài. Sau một hồi khua chân múa tay để rình
miếng nhau, họ mới xông vào ôm lấy nhau. Họ lừa nhau, dùng những miếng để vật
ngửa địch thủ. Với miếng võ nằm bò, có tay đô vật nằm lì mặc cho địch thủ đẩy
mình, rồi bất thần họ nhỏm đứng dậy để phản công.
Thường thì giải ba được vật trước, rồi đến giải nhì và sau cùng là giải nhất.
Mỗi một giải vật xong, người chúng giải được làng đốt mựng một bánh pháo.
18 Vật cù
Trò vật cù: trên một khoảng sân, thường có khoảng 14 thanh niên trai tráng chia
hai bên cởi trần, đóng khố, tìm cách lừa nhau để ôm cho được quả bóng bằng củ
chuối gọt nhẵn chạy về bỏ vào chuồng (lỗ nhỏ được đào theo hình vuông hoặc
tròn, gần như là vừa khít với quả cù) đối phương thì là thắng cuộc.
Quả cù được làm từ gốc chuối, đặc biệt thích hợp là gốc chuối hột loại lớn, đào
lên lấy củ. Dùng dao sắc đẽo củ chuối thành hình tròn có đường kính cữ 30cm,
trọng lượng 5 - 7kg là có quả cù đảm bảo yêu cầu. Quả cù phải sạch nhựa và có
độ dẻo cần thiết, bởi nó thường xuyên bị giành giật, quăng ném mạnh dễ vỡ trong
khi chơi. Vì vậy, quả cù sau khi lược đẽo xong, được luộc qua nước sôi, vớt ra
phơi nắng khá kỹ. Lúc này quả cù có màu sẫm và rất dẻo, không bị nứt vỡ khi
chơi. Sân chơi cù thường là những sân cát bên bờ sông hay trong làng, chiều dài
độ 50m, ngang độ 25m. Có ba hình thức chơi cù: cù gôn, cù đẩy và củ nước. Cả ba
lối chơi này đều có chung hình thức tính điểm và bố trí giống nhau, ở hai đầu
sân của mỗi bên là hai chiếc sọt đan bằng nan tre, nứa cao 1,5m, đường kính
50cm (cù gôn, cù nước), hay đào một hố sâu rộng 50 x 50cm (cù đẩy). Bên nào
giành và đưa được cù vào sọt (hay vào hố) của đối phương được một điểm. Để đưa
được quả cù vào đích cũng không phải dễ dàng gì bởi phải giành giật, tranh cướp
quyết liệt, bên nào cũng tìm mọi cách nhằm cản phá đối phương đưa cù vào sọt
(hố) của mình. Hội vật cù vì thế rất sôi nổi, hào hứng, cuốn hút mọi người.
Mỗi cuộc chơi không qui định cụ thể, số người tham gia mỗi bên cũng không hạn
chế. Có khi hội vật cù lên đến đỉnh điểm, đàn ông trai tráng trong làng đều
hăng hái vào cuộc không kể tuổi tác, lúc ấy thường là vào dịp Tết Nguyên đán.
Người tham gia vật cù đều cởi trần đóng khố. Đề phân biệt người của hai đội,
ban tổ chức qui định rnàu sắc của khố hay dải khăn màu vấn trên đầu. Tuy từ xưa
không có một điều luật cụ thể, nhưng trong hội vật cù không hề có lối chơi thô
bạo, ác ý. Rất quyết liệt nhưng cũng rất trong sáng. Kết thúc cuộc chơi, đội
nào có số lần đưa cù vào đích của đối phương nhiều hơn là đội thắng. Giải
thưởng chỉ mang tính tượng trưng, danh dự. Ở hội cù, người các làng xem và cổ
vũ rất đông, hò reo, đánh trống chiêng cuồng nhiệt cổ vũ cho đội nhà và tán
thưởng những đường chạy cù ngoạn mục...
19 Bịt mắt bắt dê
Trẻ con từ 6 đến 15 tuổi hay chơi trò bịt mắt bắt dê. Một người xung phong để
mọi người bịt mắt lại bằng một chiếc khăn để không nhìn thấy, những người còn
lại đứng thành vòng tròn quanh người bị bịt mắt.
Mọi người chạy xung quanh người bị bịt mắt đến khi nào người đó hô “bắt đầu”
hoặc “đứng lại” thì tất cả mọi người phải đứng lại, không được di chuyển nữa.
Lúc này người bị bịt mắt bắt đầu lần đi xung quanh để bắt được ai đó, mọi người
thì cố tránh để không bị bắt và tạo ra nhiều tiếng động để đánh lạc hướng. Đến
khi ai đó bị bắt và người bị bịt mắt đoán đúng tên thì người đó sẽ phải ra “bắt
dê”, nếu đoán sai lại bị bịt mắt lại và làm tiếp.
Có ai đó muốn ra chơi cùng thì phải vào làm luôn, người đang bị bịt mắt lúc này
được ra ngoài hoặc là phải oẳn tù tì xem ai thắng.
20 Kéo cưa lừa xẻ
Hai người ngồi đối diện nhau, cầm chặt tay nhau. Vừa hát vừa kéo tay và đẩy qua
đẩy trông như đang cưa một khúc gỗ ở giữa hai người.
Mỗi lần hát một từ thì lại đẩy hoặc kéo về một lần. Bài hát có thể là:
Kéo
cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Về ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ
Hoặc:
Kéo cưa lừa xẻ
Làm ít ăn nhiều
Nằm đâu ngủ đấy
Nó lấy mất của
Lấy gì mà kéo
21 Kéo cưa lừa xẻ
Hai người ngồi đối diện nhau, cầm chặt tay nhau. Vừa hát vừa kéo tay và đẩy qua
đẩy trông như đang cưa một khúc gỗ ở giữa hai người.
Mỗi lần hát một từ thì lại đẩy hoặc kéo về một lần. Bài hát có thể là:
Kéo
cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Về ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ
Hoặc:
Kéo cưa lừa xẻ
Làm ít ăn nhiều
Nằm đâu ngủ đấy
Nó lấy mất của
Lấy gì mà ké
22 Cướp cầu
Trò tung cầu, cướp cầu là một trò chơi mang tính nghi lễ (hoặc phong tục) mang
tính bắt buộc ở nhiều lễ hội. Tuỳ từng địa phương có quy định, cách chơi hay
tên gọi khác nhau.
Đây cũng là một hoạt động tín ngưỡng trong nghi thức cầu mùa của cư dân nông
nghiệp, tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên.
Quả cầu bằng gỗ tròn, có khi là quả bưởi hay quả dừa (đối với những địa phương
có tục cướp cầu nước). Tuỳ địa phương có cầu to hay nhỏ. Trước khi đưa cầu ra
cướp phải qua nghi lễ trình Thánh.
Sau khi thực hiện xong các nghi thức tế lễ, quả cầu được tung ra sân đình. Hai
nhóm thanh niên đại diện cho hai nhóm cộng đồng, tất cả đều mình trần đóng khố
khác màu. Cuộc tranh cướp diễn ra rất quyết liệt. Bên ngoài trống thúc liên
hồi, tiếng hò reo cổ vũ náo nhiệt cả sân đình. Nhiều người bị trượt chân ngã,
người thì nhanh nhẹn bật lên đón bắt rồi chuyền ngay cho người khác... cuộc
chơi rất sôi động.
Một bên cuớp cầu để ném vào một cái hố đào sẵn bên hướng đông, nhóm bên kia
cướp cầu để ném vào hố hướng tây. Bên nào cướp được cầu và ném vào hố của bên
kia nhiều lần là bên thắng cuộc. Cũng có nơi cầu được ném vào một hố ở giữa sân
đình hay ném vào một cái giỏ không đáy treo trên cây, bên nào ném vào giỏ của
bên kia trước thì bên đó thắng cuộc. Có nơi quy ước bên nào ném vào giỏ của bên
mình trước thì bên đó thắng cuộc.
23 Kéo chữ
Trò chơi kéo chữ phát triển ở vùng Hoa Lư, Tam Điệp (Ninh Bình). Một đội kéo
chữ có 32 con trai dưới 15 tuổi mặc quần xanh, áo trắng có nẹp đỏ, chân quấn xà
cạp, tay cầm gậy dài 1,2m cuốn giấy màu và ở trên đầu gậy có gù sặc sỡ.
Tất cả được chia làm hai dẫy, mỗi dẫy có một người cầm đầu (tổng cờ tiền) và
một người đứng cuối (tổng cờ hậu). Tổng cờ phải chọn những người có mặt mũi
khôi ngô, mặc quần trắng, áo the đầu đội khăn xếp, thắt lưng ba múi, tay cầm cờ
thần vuông.
Vào cuộc kéo chữ, theo tiếng trống của người tiểu cảnh, hai cánh quân dàn ra
dưới sự hướng dẫn của các tổng cờ để xếp thành các chữ khác nhau. Các tổng cờ
vừa dẫn quân vừa múa hát, làm cho không khí rất sôi nổi và náo nhiệt. Đội quân
theo tổng cờ chạy theo hình xoáy ốc với những động tác phức tạp, lần lượt các
chữ được hiện ra (chữ Hán hoặc Nôm) "Thái bình", "Thiên
phúc", "Xuân hoà khả lạc", "Quốc thái dân an"...
24 Đua thuyền
Từ xa xưa ở Việt Nam đã có đua thuyền. Đua thuyền ở nhiều nơi không phải là
trò thi tài mà là hành vi thực hiện một nghi lễ với thuỷ thần, xuất phát từ tục
cầu nước của cư dân nông nghiệp - tín ngưỡng phồn thực.
Có nơi cuộc thi chỉ có hai thuyền (Đào Xá - Phú Thọ), một chải “đực” mang hình
chim ở mũi thuyền, chải kia là “cái” mang hình cá. Hai biểu tượng đối ứng giao
hoà âm - dương (chim trên cao, dương - cá dưới nước, âm); khô - ướt (thuyền và
nước); thuyền trôi, mái chèo khuấy nước nhằm “đánh thức thuỷ thần” và cuộc đua
ấy chỉ thực hiện vào ban đêm, đến dạng sáng thì kết thúc. Cuộc đua thuyền của
cư dân miền biển thì lại mang ý nghĩa cầu ngư. Có địa phương tổ chức đua thuyền
để tưởng niệm các anh hùng giỏi về thủy chiến...
Ngày nay, đua thuyền là một nội dung quan trọng trong chương trình của rất
nhiều lễ hội từ Bắc chí Nam, nhất là các địa phương có sông hồ hoặc gần biển.
Cuộc đua thuyền hiện nay ở nhiều địa phương không đơn thuần là một hoạt động
tín ngưỡng như bưổi ban đầu mà đã trở thành sự kiện thể thao hấp dẫn có quy mô
lớn, thu hút nhiều đối tượng tham gia. Đua thuyền đã có thêm sứ mệnh của cuộc
thi tài và biểu dương sức mạnh tập thể.
25 Chơi chuyền
Trò chơi dành cho con gái. Số người chơi 2-5 người. Đồ chơi gồm có 10 que nhỏ
và một quả tròn nặng (quả cà, quả bòng nhỏ...), ngày nay các em thường chơi
bằng quả bóng tennis.
Cầm quả ở tay phải tung lên không trung và nhặt từng que. Lặp lại cho đến khi
quả rơi xuống đất là mất lượt. Chơi từ bàn 1 (lấy một que một lần tung) bàn 2
(lấy hai que một lần) cho đến 10, vừa nhặt quả chuyền vừa hát những câu thơ phù
hợp với từng bàn. Một mốt, một mai, con trai, con hến,… Đôi tôi, đôi chị… Ba lá
đa, ba lá đề v.v. Hết bàn mười thì chuyền bằng hai tay: chuyền một vòng, hai
vòng hoặc ba vòng... và hát: “Đầu quạ, quá giang, sang sông, trồng cây, ăn quả,
nhả hột…” khoảng 10 lần là hết một bàn chuyền, đi liền mấy ván sau và tính điểm
được thua theo ván.
Khi người chơi không nhanh tay hay nhanh mắt để bắt được bóng và que cùng một
lúc sẽ bị mất lượt, lượt chơi sẽ chuyển sang người bên cạnh.
Chơi chuyền làm người ấm lên và rất vui. Thường trong suốt mùa hè hoặc mùa thu,
các cô gái nhỏ chơi chuyền ở khắp mọi nơi, dưới bóng cây hay ở sân nhà...
26 Đánh khăng (Đánh Căng):
Một trò chơi của trẻ nhỏ. Hai bên đứng đối diện nhau. Một người cầm hai đoạn
tre, một ngắn một dài. Đào một hố nhỏ, dài dưới đất, đặt đoạn tre ngắn lên
miệng hố, lấy thanh tre dài hất đoạn tre ngắn lên cao đánh thật mạnh văng ra
xa. Nếu người đứng đối diện bắt được thanh tre, người đó sẽ được vào chơi thay.
27 Trò leo cầu ùm
Trò này có ở Bình Dương (Vĩnh Tường), Xuân Hoà (Lập Thạch), Đạo Đức (Bình
Xuyên). Cầu ùm là một cây tre gốc được gác lên bờ ao chôn cọc giữ hai bên cho
khỏi lăn, đầu ngọn được đặt trên cọc chéo mà lại leo bằng dây thừng. Khi có
người lên cầu, cầu đung đưa, lủng liểng làm cho cuộc chơi thêm phần khó khăn
hơn, nên càng hào hứng sôi động. ở đầu cầu trên ao có cắm cờ hiệu, người chơi
leo lên cầu tới đầu cầu có cắm cờ, lấy lá cờ về là được cuộc. Phần nhiều những
người dự chơi thường bị ngã "ùm" xuống ao vì thế gọi trò chơi này là
trò leo cầu ùm.
28 Trò chơi tả cáy
Nhiều người làng Sán Dìu ở vùng Thanh Lanh (Bình Xuyên) xưa có trò chơi
"Tả cáy" (có nghĩa là "Đánh gà")
Con gà làm bằng gỗ tiện tròn bằng quả bóng bàn. Có thể có từ 5 đến 10 người
cùng chơi, mỗi người cầm một cái gậy dài hơn một mét bằng tre hoặc bằng gỗ. Đào
một cái lỗ bằng cái bát con ở giữa bãi chơi để "Con gà" dưới lỗ.
Người đứng cái cầm gậy đẩy con gà ra khỏi lỗ. Những người khác dùng gậy hối gà
vào lỗ. Người đứng cái vừa dùng gậy hối và đi vừa phải để ý đỡ đòn kẻo gậy của
người khác đập trượt vào chân mình. Người nào đứng cái giỏi giữ cái lâu nhất
không có gà lọt xuống được coi là thắng cuộc. Khi để "gà" lọt xuống
lỗ thì người "cái" phải làm "con" để người vừa hối gà xuống
lỗ được đứng cái.
29 Đánh quay
Đánh quay là trò chơi dành cho con trai. Chơi thành nhóm từ 2 người trở lên,
nếu đông có thể chia thành nhiều nhóm. Một người cũng có thể chơi quay, nhưng
nếu chơi nhiều người và có nhiều người ở ngoài cổ vũ thì sẽ sôi nổi và hấp dẫn
hơn nhiều.
Đồ chơi là con quay bằng gỗ hay sừng hình nón cụt, có chân bằng sắt. Dùng một
sợi dây, quấn từ dưới lên trên rồi cầm một đầu dây thả thật mạnh cho quay tít.
Con quay của ai quay lâu nhất, người đó được. Có thể dùng một con quay khác bổ
vào con quay đang quay mà nó vẫn quay thì người chủ của con quay đó được nhất.
Đồng dao "hỏi tuổi" về 12 con giáp diễn ra như một hoạt cảnh. Các em
ngồi vòng tròn, mỗi em sẽ là một con vật trong đồng dao, khi được hỏi đến, phải
bắt chước động tác của con vật ấy, đi, bò, hoặc nhảy vòng quanh về chỗ cũ của
mình.
Một em chỉ vào một bạn, hỏi : - Tuổi Tí con chi?
Trả lời : - Tuổi Tí con chuột.
Các em hỏi : - Con chuột nó kêu làm sao?
Trả lời : - Nó kêu chút chít
(đóng vai con chuột, vừa bò vừa kêu chút chít).
Các em nói :
- Chút chít chi mày
Tau chặt khúc đầu
Tau thầu khúc giữa
Tau bửa lấy xương
Làm rường làm cột
Tau lột lấy da
Bỏ sông Ngân Hà
Còn chi chút chít!
Các em hỏi một bạn khác : - Tuổi Sửu con chi?
Trả lời : - Tuổi Sửu con trâu.
Các em hỏi : - Con trâu nó kêu làm sao?
Trả lời : - Nó kêu ngá ngạ.
(đóng vai con trâu, khệnh khạng đi, dương đôi sừng).
Các em nói : - Ngá ngạ chi mày...….
Cứ như thế, hát-nói hỏi, trả lời đóng vai con vật, cho đến con heo, mỗi con
phải có tiếng kêu riêng. Con rồng kêu "rống rộng" con rắn kêu
"rắn rặn" thì thật lạ và …. đúng là con nít !
30 Trò chơi dồng dao chăn trâu xứ Quảng
Trò chơi hát này như sau: một lớp ngồi dưới cầm tay nhau xếp thành vòng tròn,
rối nhiều lớp nữa cũng cầm tay nhau, ngồi chồng lên vai lớp dưới, cùng hô
"dố dậy", tất cả đều đứng lên thành trụ cao, vừa đi vòng tròn, vừa
hát.
Đồng dao này có hai khúc: một khúc thiết thực nói về trẻ chăn trâu với mùa
màng, một khúc kể những vật thường thức ở nông thôn.
Khúc
I:
Đố dậy, đố dậy
Cây gậy bốn phương
Ra đường mạnh mẽ
Bầy trẻ chăn trâu
Bay lâu thẳng cánh
Nó mạnh như sên
Đi trên mặt nước
Đi trước đón rồng
Ông đi có cồng
Bà đi có mõ
Trên trời nghe rõ
Làm gió làm mưa
Làm mùa bát ngoạt
Dố dậy, dố dậy!
Khúc II :
Trời mưa lâm râm
Cây trâm có trái
Con gái có duyên
Đồng tiền có lổ
Bánh tổ thì ngon
Bánh hòn thì béo
Cái kéo thợ may
Cái cày làm ruộng
Cái xuồng đắp bờ
Cái lờ thả cá
Cái ná bắn chim
Cây kim may áo
Cái giáo đi săn
Cái khăn bịt đầu.
Hát
hết khúc này, trở lại đoạn đầu, bắt vào câu "bầy trẻ chăn trâu... "
Cứ như thế mà hát mà quay tít vòng tròn cho đến khi nào cộ đổ.
31 Banh đũa (nẻ)
Banh đũa, ở quê của Bồng Lai gọi là chơi nẻ. Mỗi vùng có mỗi cách chơi
riêng, và số đũa cũng khác nhau có nơi dùng 6 cây, có nơi dùng 10, 12 cây. Ở
chỗ BL thì chơi canh 1 (tức là dồi banh lên bỏ bó đũa xuống, bốc từng cây),
canh 2 ... rồi đến canh 6 (chơi 6 cây). Xong tới:
- Bó, phe địch túm số đũa lại, rồi người chơi phải hốt gọn không để rơi rớt cây
nào.
- Rẻ, dồi banh chia bó đũa làm 2, khi bốc không được đụng vào 1/2 đũa còn lại.
- ......???
- Giã gạo, dộng xuống mặt đất, so le hay rập tùy theo qui ước 2 bên.
- Khẽ, cũng chia đũa làm 2, rồi khẽ hai đầu vào nhau kêu cho ròn.
- Gạt, cũng như khẽ nhưng không được cho ra tiếng động.
(Sau mỗi lần Giã, Khẽ, Gạt đều có kết thúc bằng động đổi nẻ từ tay này sang tay
khác, quên mất tên gọi)
- Chuyền, đôi hay chiếc tùy theo qui ước. Lúc này là vừa chuyền vừa hát bài:
Qua
cầu
Ngắt ngọn rau răm,
Bỏ vô than thuốc,
Sắc đi sắc lại,
Cho đúng bảy phân,
Chuyền qua ba cái,
Chuyền về ba cái,
Sang cái tay,
Sang cái chân,
Bắt con một nhất.
(Bỏ
đũa xuống, bắt từng chiếc, như đi canh một, nhưng không được đụng chạm vào cây
đũa khác ngòai cây đũa đang bắt, vừa bắt vừa hát)
Một bắt một, (cho đến khi hết đũa)
- Nẻ, ôm bó đũa nẻ xuống đất hai đầu 6 cái, 10 cái tùy qui ước.
Xong hết một bàn. Được đi tiếp bàn khác hay không cũng là do qui ước. Có người
chơi hay, làm tiếp luôn mấy bản.
Leo cột lấy cờ
Số
lượng người chơi : Mỗi đội 5 người hoặc 10 người ( tùy theo số lượng người tham
dự )
· Thời gian : 3 phút cho mỗi đội .
· Luật chơi : Sắp 2 đội vào vị trí hàng dọc , đối diện trước cột của mình , khi
nghe còi xuất phát cũng là lúc trọng tài bấm giờ , từng người trong đội theo
thứ tự , người thứ nhất chạy đến leo lên đỉnh cột rút một cây cờ tuột xuống
giao cho trọng tài , cứ thế tiếp tục người thứ 2,3,4,… cho đến lúc trọng tài
báo hết giờ . Tổng cộng đội nào có nhiều cờ nhất đội đó thắng .
· Ghi chú : VĐV nào lấy được cờ nhưng bị rớt trước khi giao cho trọng tài thì
coi như không được tính và phải trở về vị trí xuất phát chờ đến lượt sau , các
VĐV khác chỉ được xuất phát khi VĐV kia đã giao cờ cho trọng tài .
Ném cầu
Xã
Phú Sơn, Hà Tĩnh cử hành hội mùa xuân tại chùa xã ngày 14 và ngày rằm tháng
giêng. Khi trong chùa đang lễ Phật, ngoài sân trai chưa vợ, gái chưa chồng tụ
họp nhau dự trò chơi ném cầu để "bói" hôn nhân. Hai quả cầu dùng để
ném vào lồng tre là hai quả chanh ngoài có lớp vỏ bện bằng mây bọc quanh: sơn
màu xanh gọi là âm cầu và sơn màu đỏ trắng gọi là dương cầu.
Trai và gái chia làm hai bên, mỗi bên có người cầm đầu. Hai bên hẹn ước với
nhau rằng: "Trong hai nhóm chúng ta, hễ ai đã kết hôn mà ném được quả cầu
vào trong lồng thì chỉ được thưởng; còn cặp nào chưa kết hôn mà ném trúng thì
không những được thưởng mà còn hẹn sẽ cưới nhau. Nếu ai sai lời sẽ có Phật trời
chứng giám". Giao hẹn xong, mấy cặp bắt đầu trò chơi. Trước khi ném cầu,
trai gai lần lượt hát:
Cầu này là cầu thiên duyên
Ðôi ta mà trúng, kết nguyền cùng nhau
Trò vui kéo dài từ sáng đến chiều. Tuy là trò chơi nhưng mỗi lần một cặp trai
gái có tình ý mà cùng ném trúng đều hứa hôn với nhau.
đánh roi múa mộc
Roi
bằng tre vót nhẵn và dẻo, đầu bịt vải đỏ, còn mộc đan bằng tre sơn đỏ. Các đấu
thủ đấu tay đôi với nhau: vừa dùng roi để đánh, dùng mộc để đỡ, ai đánh trúng
địch thủ vào chỗ hiểm và đánh trúng nhiều thì thắng, thường đánh trúng vào vai
và sườn mới được nhiều điểm.
Các hội lễ ở miền Bắc thường được tổ chức thi đấu vào những ngày đầu tháng
giêng.
157.
Tín ngưỡng phồn thực Việt nam
Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng
sinh sống bằng nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh
sôi nảy nở. Để làm được hai điều trên, những trí tuệ sắc sảo sẽ tìm các quy
luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây dựng được triết lý âm dương,
còn những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng phồn thực (phồn = nhiều,
thực = nảy nở). Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam được thể hiện ở hai dạng: thờ
cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ và thờ hành vi giao phối, khác biệt với một
số nền văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn, chỉ thờ sinh thực khí của nam mà
thôi.]
Thờ cơ sinh thực khí
Thờ sinh thực khí nam và nữ của đồng bào dân tộc Chăm. Cột hình tròn
(linga-dương) biểu hiện cho nam, hình bệ vuông (yoni-âm) biểu hiện cho nữ.
Thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ) là hình thái đơn
giản của tín ngưỡng phồn thực. Nó phổ biến ở hầu hết các nền văn hóa nông
nghiệp trên thế giới[cần dẫn nguồn]. Nhưng khác với hầu hết các nền văn hóa
khác là chỉ thời sinh thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt Nam thờ sinh thực
khí của nam lẫn nữ. Việc thờ sinh thực khí được tìm thấy ở trên các cột đá có
niên đại hàng ngàn năm trước Công nguyên. Các sinh thực khí còn được thấy rất
nhiều ở thánh địa Mỹ Sơn vẫn còn nguyên dạng đến ngày nay. Ngoài ra nó còn được
đưa vào các lễ hội, lễ hội ở làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh) có tục rước cặp sinh thực
khí bằng gỗ vào ngày 6 tháng giêng[cần dẫn nguồn], sau đó chúng được đốt đi,
lấy tro than chia cho mọi người để lấy may.
Thờ hành vi giao phối
Ngoài việc thờ sinh thực khí, tín ngưỡng Việt Nam còn thờ hành vi giao phối, đó
là một đặc điểm thể hiện việc chú trọng đến các mối quan hệ của văn hóa nông
nghiệp, nó đặc biệt phổ biến ở vùng Đông Nam Á.
Các hình nam nữ đang giao phối được khắc trên mặt trống đồng tìm được ở làng
Đào Thịnh (Yên Bái), có niên đại 500 trước Công nguyên. Ngoài hình tượng người,
cả các loài động vật như cá sấu, gà, cóc,... cũng được khắc trên mặt trống đồng
Hoàng Hạ (Hòa Bình).
Vào dịp hội đền Hùng, vùng đất tổ lưu truyền điệu múa "tùng dí",
thanh niên nam nữ cầm trong tay các vật biểu trưng cho sinh thực khí nam và
nữ[cần dẫn nguồn], cứ mối tiếng trống "tùng" thì họ lại
"dí" hai vật đó lại với nhau. Phong tục "giã cối đón dâu"
cũng là một biểu hiện cho tín ngưỡng phồn thực, chày và cối là biểu tượng cho
sinh thực khí nam và nữ[cần dẫn nguồn]. Ngoài ra một số nơi còn vừa giã cối
(rỗng) vừa hát giao duyên.
Trống đồng - biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực
Vai trò của tín ngưỡng phồn thực lớn tới mức ngay cả chiếc trống đồng, một biểu
tượng sức mạnh của quyền lực, cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn
thực.
* Hình dáng của trống đồng phát triển từ cối giã gạo
* Cách đánh trống theo lối cầm chày dài mà đâm lên mặt trống mô phỏng động tác
giã gạo
* Tâm mặt trống là hình Mặt Trời biểu trưng cho sinh thực khí nam[cần dẫn
nguồn], xung quanh là hình lá có khe rãnh ở giữa biểu trưng cho sinh thực khí
nữ[cần dẫn nguồn]
* Xung quanh mặt trống đồng có gắn tượng cóc, một biểu hiện của tín ngưỡng phồn
thực[cần dẫn nguồn] (xem thêm Con cóc là cậu ông trời)
[sửa] Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Do là một đất nước nông nghiệp nên việc sùng bái tự nhiên là điều đễ hiểu. Điều
đặc biệt của tín ngưỡng Việt Nam là một tín ngưỡng đa thần và âm tính (trọng
tình cảm, trọng nữ giới). Có giả thuyết cho rằng đó là do ảnh hưởng của chế độ
mẫu hệ thời xưa tại Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là
nữ giới, do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực như đã nói ở trên nên các vị
thần đó không phải là các cô gái trẻ đẹp như trong một số tôn giáo, tín ngưỡng
khác mà là các bà mẹ, các Mẫu. (Xem thêm Đạo Mẫu).
Thờ Tam phủ, Tứ phủ
Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh thần: Bà Trời (hay Mẫu Thượng Thiên), Bà
Chúa Thượng (hay Mẫu Thượng Ngàn), Bà Nước (hay Mẫu Thoải). Tứ phủ gồm ba vị
Mẫu trên cộng thêm Mẫu Địa phủ. Các Mẫu cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất
của một xã hội nông nghiệp. Về sau do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên có
thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công và Hà Bá. Thần Mặt Trời là vị thần quan trọng nhất,
có mặt trên tất cả các trống đồng. Việc thờ trời ở Việt Nam có trước ở Trung
Quốc.[cần dẫn nguồn]
Thờ Tứ pháp
Tứ pháp là danh từ để chỉ các bà thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp, đại diện cho các hiện
tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp. Sau này khi Phật
giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ thần này được biến thành Tứ pháp với truyền
thuyết về Man Nương Phật Mẫu. Tứ pháp gồm:
* Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu
* Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu
* Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng
* Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn
Ảnh hưởng của Tứ Pháp ở Việt Nam rất lớn, nhiều lần triều đình nhà Lý phải rước
tượng Pháp Vân về Thăng Long để cầu mưa.
Thờ động vật và thực vật
Khác với văn hóa phương tây là thờ các con vật có sức mạnh như hổ, sư tử, chim
ưng,... tín ngưỡng Việt Nam thờ các con vật hiền lành hơn như trâu, cóc, chim,
rắn, cá sấu,... các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân của một xã
hội nông nghiệp. Người dân còn đẩy các con vật lên thành mức biểu trưng như
Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc "họ Hồng
Bàng" (có nghĩa là một loài chim nước lớn), thuộc giống "Rồng
Tiên". Con rồng lần đầu tiên xuất hiện ở vùng Nam Á, sau đó mới được phổ
biến ở Trung Quốc rồi đến các nước phương tây. Con rồng có đầy đủ đặc tính của
lối tư duy nông nghiệp: tổng hợp của cá sấu, rắn; sinh ra ở dưới nước nhưng lại
có thể bay lên trời mà không cần cánh; có thể vừa phun nước vừa phun lửa. Có
rất nhiều địa danh Việt Nam có tên liên quan đến rồng như Thăng Long, Hàm
Rồng,...
Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,... đôi
khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau,...
Tín ngưỡng sùng bái con người
Ngoài phồn thực, tự nhiên, tín ngưỡng Việt Nam rất coi trọng con người.
Hồn và vía
Người Việt xưa cho rằng con người gồm phần thể xác và phần linh hồn. Một số dân
tộc Đông Nam Á coi linh hồn gồm "hồn" và "vía". Vía được
hình dung như phần trung gian giữa thể xác và hồn[cần dẫn nguồn]. Người Việt
cho rằng người có ba hồn, nam có bảy vía và nữ có chín vía. Ba hồn gồm: Tinh
(sự tinh anh trong nhận thức), Khí (năng lượng làm cho cơ thể hoạt động) và
Thần (thần thái của sự sống). Bảy vía ở đàn ông cai quản hai tai, hai mắt, hai
lỗ mũi và miệng. Chín vía ở nữ giới cai quản bảy thứ như ở nam giới cộng thêm
hai vía nữa. Hai vía này có nhiều cách giải thích. Chúng có thể là núm vú có
vai trò quan trọng trong nuôi con. Tuy nhiên có cách giải thích khác . Người
Việt thường có câu nói nam có "ba hồn bảy vía" còn nữ có "ba hồn
chín vía", cũng là từ các quan niệm trên mà ra.
Hồn và vía dùng thể xác làm nơi trú ngụ, trường hợp hôn mê ở các mức độ khác
nhau được giả thích là vía và hồn rời bỏ thể xác ở các mức độ khác nhau. Nếu
phần thần của hồn mà rời khỏi thể xác thì người đó chết. Khi người chết, hồn
nhẹ hơn sẽ bay sang kiếp khác còn vía nặng hơn sẽ bay là là mặt đất rồi tiêu
tan. Thế nên mới có những câu ngạn ngữ như: "hồn xiêu phách lạc"
(phách tức là vía; ở đây muốn nói trạng thái run sợ, mất chủ động), "sợ
đến mức hồn vía lên mây" ...
Khi chết là hồn đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng
có nhiều sông nước như ở cõi dương gian nên cần phải đi bằng thuyền nên nhiều
nơi chôn người chết trong những chiếc thuyền.
Tổ tiên
Người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm và sớm
nhất, nó gần như trở thành một tôn giáo: Đạo ông bà.
Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn sáng mắt cha ông không thờ.
(Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên)
Người phương tây coi trọng ngày sinh thì người Việt coi trọng ngày mất. Họ cho
rằng người đã mất đi về nơi chín suối. Bàn thờ tổ bao giờ cũng được đặt ở nơi
trang trọng nhất. Ngày xưa khi cúng lễ bao giờ cũng có nước (hoặc rượu) cùng
với những đồ tế lễ khác như vàng mã. Sau khi cúng xong thì đem đốt vàng mã rồi
đổ rượu hoặc nước lên đống tro tàn -- khói bay lên trời, nước hòa với lửa thấm
xuống đất -- theo họ như thế tổ tiên mới nhận được. Hành động đó được cho là sự
hòa quyện Nước-Lửa (âm dương) và Trời-Đất-Nước (tam tài) mang tính triết lý sâu
sắc[cần dẫn nguồn].
Thổ công
Thổ Công là một vị thần được thờ trong gia đình, một dạng của Mẹ Đất, là vị
thần trông coi nhà cửa, định đoạt họa phúc cho một gia đình. Sống ở đâu thì có
Thổ Công ở đó: "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá". Một số giả thuyết
cho rằng Thổ Công là một trong ba vị Táo Quân xuất hiện trong truyện sự tích
Táo Quân (hay Sự tích ba ông đầu rau). Người chồng mới là Thổ Công (trông coi
việc bếp núc, còn gọi là "vua bếp"), người chồng cũ là Thổ Địa (trông
coi việc nhà cửa), người vợ là Thổ Kỳ (trông coi việc mua bán). Tuy nhiên, một
số người cho rằng Thổ Công là vị thần cai quản vùng đất còn Táo Quân chỉ coi
việc bếp núc trong nhà.
Thổ Công được nhiều người tin là vị thần quan trọng nhất trong gia đình. Tổ
tiên có công sinh thành dưỡng dục nên được tôn vinh nhất. Bàn thờ tổ tiên ở
giữa, vị trí quan trọng nhất, bàn thờ Thổ Công ở bên trái, quan trọng thứ hai.
Nhưng khi cúng lễ tổ tiên, người ta đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép
cho tổ tiên về.
Ở Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất (đất phải về với
đất), nhiều nơi còn gọi Ông Địa là Thần Tài (mọi thứ đều từ đất mà ra).
Thành hoàng làng
Ở phạm vi gia đình, người Việt thờ tổ tiên và Thổ Công, ở phạm vi làng xã,
người Việt thờ Thành hoàng. Giống như Thổ công, Thành hoàng cai quản và quyết
định họa phúc của một làng. Không có làng nào ở Việt Nam mà không có Thành
hoàng.
Những người được thờ thường là những người có tên tuổi và địa vị, có công lao
đối với làng đó. Tuy nhiên một số làng còn thờ những người lý lịch không
"hay ho" gì như trẻ con, ăn xin, ăn mày,trộm cắp... nhưng họ chết vào
"giờ thiêng".
Vua tổ
Ở phạm vi quốc gia, người Việt thờ Vua tổ, đó là Vua Hùng. Nơi thờ phụng ở
Phong Châu, Phú Thọ. Ngày giỗ tổ là ngày 10 tháng 3 âm lịch.
Tứ bất tử
Người Việt còn thờ bốn vị thánh bất tử, đó là Tản Viên, Thánh Gióng, Chử
Đồng Tử và Liễu Hạnh.
Tản Viên biểu hiện cho ước vọng chiến thắng thiên tai, lụt lội; Thánh Gióng
biểu hiện cho tinh thần chống giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử biểu hiện cho cuộc sống
phồn vinh về vật chất; Liễu Hạnh biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về tinh thần
của người dân Việt Nam.
158.
Nếp phong tục cổ phác ngày xưa
Trong
những làng xưa chạ cổ cách đây hàng nghìn năm, chúng ta đã quan sát người Việt
cổ qua cách ăn ở, ăn mặc, ăn uống nhiều màu vẻ của họ, chứng tỏ trình độ sinh
hoạt và nhu cầu của xã hội Việt cổ đã phát triển đến một mức nhất định. Phong
tục tập quán của người Việt cổ, thuần phát nhưng không kém phần đa dạng, những
tập tục về sinh đẻ, cưới xin, tang ma, về giao tiếp cộng đồng, cũng cho chúng
ta nhiều hình ảnh sinh động về một đời sống xã hội phong phú, hài hoà.
ĐÁM HỎI, ĐÁM CƯỚI Ở THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG
Qua truyền thuyết dân gian và tư liệu dân tộc học so sánh, ví dụ truyền
thuyết về đám cưới Mị Nương - Sơn Tinh ( quen gọi là Ông Tản, người anh hùng
núi Tản ) con gái và con rể vua Hùng, tư liệu về đám cưới truyền thống của
người Mường v.v... ta có thể hình dung được phần nào đám cưới và những phong
tục cưới xin hàng nghìn năm trước đây; Sơn Tinh và Mị Nương có thể là hình ảnh
của những chú rể và cô dâu ở thời đại Hùng Vương.
Hôn nhân thời ấy đã là chế độ hôn nhân một vợ một chồng đánh dấu sự hình thành
những gia đình cá thể, những lứa đôi gắn bó với nhau một cách ổn định, khác với
những hình thức hôn nhân lỏng lẻo, tùy tiện và chế độ quân hôn hỗn tạp ở thời
nguyên thủy.
Mị Nương, giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, chỉ chọn lấy Sơn Tinh, cũng như trong
những lứa đôi khác ở thời Hùng Vương: Tiên Dung một cô con gái khác của vua
Hùng chỉ lấy chàng trai nghèo Chử Đồng Tử; người con gái họ Lưu, trong truyện
Trầu Cau, chỉ lấy một trong hai anh em Tân và Lang.
Trong những cuộc hôn nhân một chồng một vợ đó, người con gái về nhà chồng : Mị
Nương theo Sơn Tinh về núi Ba Vì ( Tản Viên ). Trái với phong tục chàng rể phải
về ở với gia tộc bên vợ như ở thời kỳ chế độ quyền mẹ ( mẫu quyền ), tục con
gái về nhà chồng đánh dấu sự thắng lợi bước đầu của tổ chức gia đình và xã hội
quyền cha ( phụ quyền ).
Nghi lễ cưới xin đã phát triển đến mức độ đáng kể thể hiện qua một số phong tục
khác có ý nghĩa đặc sắc.
Trước hết đó là tục thách cưới : Khi Sơn Tinh và Thủy Tinh cùng đến xin vua
Hùng gả con cho thì vua Hùng đã thách hai người phải đem nộp " voi chín
ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao... ".
Thời kỳ mẫu hệ không có tục thách cưới. Tục lệ mới phản ánh sự giảm sút trong
thân phận và giá trị người phụ nữ : họ bắt đầu trở thành món hàng để trả giá,
bán mua.
Trong nghi lễ hôn nhân Việt cổ đầu tiên có lễ dạm. Vật phẩm dùng trong lễ này
là gói đất. Sách Lĩnh Nam chích quái chép : Ở thời Hùng Vương " việc hôn
nhân lấy gói đất làm đầu ". Vị trí của đất thật là quan trọng trong đời
sống vật chất và tinh thần của nhiều tộc người cổ đại. Ở người Việt cũng như
nhiều dân tộc như Khmú, Kháng, Mảng, Laha, Xinh - mun... ( vốn có nhiều nét gần
gũi với người Việt ), đất là một vật chất và hình tượng cao quý, thiêng liệng.
Bởi lẽ đất là nguồn sống tuyệt đối của những cư dân nông nghiệp ruộng rẫy; ở
những tộc người mà trình độ phát triển càng cao phải dựa nhiều vào đất. Ý nghĩa
tượng trưng của đất dùng trong nghi lễ hôn nhân cũng là điều tự nhiên. Nhưng
phong tục cưới xin này hình như còn gắn bó với một tục rất cổ khác của người
Việt là tục ăn đất và chế biến đất ăn : Tục này thấy ở người Kháng ( Tây Bắc ),
người Bana ( Tây Nguyên ) cũng như ở người Việt cổ truyền các vùng Thái Bình,
Hà Nam, Hà Tây, Phú Thọ. Đất ăn được hun bằng cỏ tế và cây sim trở thành một
thứ hương liệu được gọi là " ngói " hay " đá non " và được
nhân dân những vùng có tục ăn đất rất ưa thích : người ta mua về làm quà cho
nhau, hay đem ra mời khách như mời nhau điếu thuốc miếng trầu. Ở Vĩnh Phú vùng
đất tổ Hùng Vương còn tục con gái sau khi cưới còn ở lại nhà cha mẹ đẻ một thời
gian và khi về ở hẳn nhà chồng thì bố mẹ cho vừa bò, vừa lúa, vừa nghề làm đất
ăn : gian nhà đất, giếng đất và cả dụng cụ làm " ngói ".
Nếu như trầu cau " miếng trầu là đầu câu chuyện " là lễ vật cổ truyền
không thể thiếu của đám cưới, thì miếng ngói một thứ hương liệu ( đất thơm )
cũng được xem như món quà quý trong lễ dạm, có lẽ đó là giá trị và ý nghĩ thực
tiễn của gói đất đặc biệt mà Lĩnh Nam chích quái đã nói đến.
Ở những vùng núi và trung du hiếm muối ăn thì " Việc hôn nhân lấy gói muối
làm đầu ". Có thễ dễ dàng thấy ý nghĩa vừa tượng trưng vừa thực tiễn của
muối : rất cần cho đời sống, thứ gia vị và thực phẩm này có khi là thứ của hiếm
và quý; nó biểu hiện sự mặn mà đằm thắm rất hợp với tinh thần của hôn nhân.
Sau lễ dạm thì đến ngày lễ cưới. Truyền thuyết và sử sách cổ tả lại đám cưới
của Sơn Tinh - Mị Nương đều đồng nhất lễ hỏi và lễ cưới. Nghi lễ hôn nhân chỉ
gồm có hai bước ( dạm và cưới là một nét độc đáo của phong tục Việt cổ ) khác
với phong tục hôn nhân của các tộc người ở phương Bắc, và điều này còn được bảo
lưu về sau ở nhiều tộc người ở phương nam quanh người Việt cũng ở ngay trong
người Việt : nhiều đám cưới người Mường, người Tây Nguyên, người nông dân Việt
( ở các vùng ít chịu ảnh hưởng lễ giáo phong kiến ) ở thời đại vẫn còn giữ tục lệ
đồng nhất lễ hỏi và lễ cưới.
Sử sách cổ Trung Quốc nhiều lần nhấn mạnh sự khác biệt về chế độ phong tục hôn
nhân giữa người Việt và người Hán đầu công nguyên. Bọn xâm lược thống trị phong
kiến nhà Hán, trong âm mưu đồng hoá người Việt đã từng đặt cả một chức quan coi
về hôn lễ, làm mối gọi là " mối quan ", với ý đồ thủ tiêu phong tục
hôn nhân từ thời Hùng Vương để truyền bá điển lễ hôn nhân phong kiến Hán tộc.
Nghi thức hôn lễ Việt cổ có kèm những trò vui : người dự dám cưới lấy bùn, đất,
hoa quả ném vào chàng rể. Nhiều hội làng cổ truyền vùng Phú Thọ nhắc lại sự
tích tống diễn chàng rể Sơn Tinh trong đám cưới Mị Nương, cũng như nhiều đám
cưới Mường thời cận đại vẫn còn giữ nguyên phong tục cổ kính độc đáo này.
Lĩnh Nam chích quái còn cho biết thêm : trong đám cưới, người ta giết trâu, dê
làm đồ lễ, nấu cơm nếp để cô dâu chú rễ nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành
thân. Tục cùng ăn cơm chung trước khi đôi gái trai chính thức thành vợ chồng,
cũng là một nghi lễ quen thuộc trong nhiều đám cưới Mường và Tây Nguyên thời
cận hiện đại.
Bên cạnh những phong tục hôn nhân đánh dấu bước phát triển lịch sử xã hội theo
hướng quyền cha, vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư của chế độ quyền mẹ. Người phụ nữ
trong các cuộc hôn nhân thời Hùng Vương tỏ ra có một vai trò chủ động : nàng
Tiên Dung chủ động lấy anh chàng họ Chử ; cô con gái họ Lưu chủ động thử thách
và chọn lấy người anh trong cặp anh em Tân, Lang. Sách sử Trung quốc chép Mị
Châu con gái vua Thục chủ động yêu Trọng Thủy. Như vậy là người phụ nữ còn
tương đối tự do phóng khoáng, không chỉ trong hôn nhân mà cả trong việc gái
trai yêu đương. Truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian vùng đất Tổ ( Phú Thọ, Hà
Tây, Bắc Giang ) cho biết có những người phụ nữ Việt cổ đã thụ thai " một
cách thần bí " ( giẫm vào một dấu chân khổng lồ, nhìn thấy cầu vồng, gặp
rắn, rồng... ), khiến cho con cái chỉ biết mẹ mà không biết đến cha. Sử sách
Trung Quốc và Việt Nam cho biết vào đầu Công nguyên nhiều làng chạ Việt cổ vẫn
giữ tục lệ cũ cho gái trai được tự do gắn bó vào mùa thu, vốn là mùa cưới xin,
mùa hồng cốm... Và mãi cho đến đời Trần, ở những gia đình nghèo, trai gái vẫn
tự do lấy nhau : vào những ngày cuối năm, trước tết Nguyên đán, có tục lễ tháo
khoán cho gái trai tự do lấy nhau không cần theo điển lễ phong kiến.
Ở thời Hùng Vương còn có tục con gái lấy chồng rồi lại quay về nhà mẹ đẻ ở một
thời gian, sau vài mùa cau, mùa lúa mới về ở hẳn bên chồng. Truyền thuyết vùng
đất tổ kể rằng Ngọc Hoa con gái vua Hùng ở miền này đi lấy chồng là Sơn Tinh ở
núi Tản Viên, cưới xong nàng lại trở về quê cha, lâu không trở lại núi với
chồng, thành ra Sơn Tinh phải tới đón về; rời quê cha, lòng Ngọc Hoa buồn rười
rượi, nhân dân các làng chạ làm trò vui cho Ngọc Hoa khuây khoả và để tiễn đưa
hai vợ chồng. Đó là nguồn gốc của tục lệ rước Chúa Ông Chúa Bà và trò Bách nghệ
khôi hài ở một số làng quanh vùng núi Hi Cương, nơi có ngôi đền Hùng : hàng năm
khi mở hội " vào đám " nhân dân chọn lấy hai thanh niên gái và trai
đóng vai Ngọc Hoa và Sơn Tinh cho ngồi trên kiệu rước đi, trước kiệu là một
đoàn người ăn mặc sặc sỡ cầm các vật tượng trưng cho gia súc, cờ quạt, lúa,
ngô,... vừa đi vừa nhảy múa làm trò vui. Sử sách cho biết Trưng Trắc và Thi
Sách sau khi lấy nhau vẫn ở riêng mỗi người tại đất bản bộ ( Mê Linh và Chu
Diên ) của mình. Nhiều làng ở Phú Thọ, Hà Tây, Bắc Giang, cho mãi đến trước
Cách Mạng Tháng Tám, vẫn giữ tục lệ con gái lấy chồng rồi quay về nhà cha mẹ đẻ
một thời gian. Ở một số làng thuộc huyện Đan Phượng ( Hà Tây ) các đám cưới cổ
truyền được tiến hành theo những nghi thức khá đặc biệt : Ngay vào ngày cưới,
cô dâu chỉ về nhà chồng ở lại đấy có một đêm rồi sau đấy lại trở về nhà cha mẹ
đẻ. Đêm ở nhà chồng ấy, cô dâu thường có họ hàng hoặc bạn bè của mình ngủ chung
gọi là " ngủ bạn ". Sớm hôm sau, ngay từ gà gáy tinh mơ, cô dâu trở
về nhà mình. Ngày hôm ấy và mấy ngày hôm sau nữa, nhà trai tiếp tục cho người
đi đón cô dâu, và cô dâu cũng chỉ về nhà chồng vào buổi tối, còn ban ngày thì
trở về nhà mình. Sau đấy nhà trai tạm ngừng việc đưa đón và cô dâu ở lại hẳn
bên nhà mẹ. Sau một thời gian, có thể là từ năm ba tháng đến vài ba năm, nhà
trai tổ chức lễ xin về với đầy đủ các nghi thức như dẫn lễ, ăn uống ( có khi
còn to hơn lễ cưới ). Từ đấy, cô dâu về ở hẳn nhà chồng. Đến đây nghi lễ hôn
nhân mới thực sự kết thúc. Sơn Tinh thuở xưa cũng đã tổ chức lễ xin về và sau
đó nhân dân địa phương cử hành cuộc rước tiễn " Chúa Ông Chúa Bà "
Cho đến gần thế kỷ XV, Đại Việt sử ký toàn thư cho biết ở một số nơi " tập
tục cưới gả phần nhiều không theo nghi lễ, có khi lễ cưới xong còn để đến ba
bốn năm mới cho rước dâu ".
Như vậy, phong tục hôn nhân thời Hùng Vương với chế độ một vợ một chồng, con
gái về nhà chồng, với tục thách cưới và lễ tiết đạm và hỏi cưới đồng nhất là
phong tục hôn nhân của xã hội quyền cha, nhưng vẫn còn trộn lẫn vào một số tàn
dư của phong tục hôn nhân ở thời kỳ quyền mẹ. Ở hệ thống phong tục ấy đã thấy
được những biểu hiện sớm về một phong cách dân tộc được kế thừa và bảo lưu lâu
dài về sau trong nhiều dân tộc ở Việt Nam.
ĐÁM MA THỜI HÙNG VƯƠNG
Khi có người lìa đời, tục lệ đầu tiên của người Việt cổ là giã cối. Sách Lĩnh
Nam chích quái ghi rõ : Có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe
tiếng đến cứu. Tiếng chày cối va chạm ở đây coi như những tín hiệu thông tin
cho làng chạ biết. Ở người Mường và ở một số vùng người Việt như Phú Thọ, Hà
Tây, ngoại thành Hà Nội, tục lệ cổ kính này vẫn còn bảo lưu cho mãi đến gần
đây.
Trước khi đem chôn xác chết, một số nghi lễ được cử hành, phản ánh quan niệm và
thái độ của người Việt cổ về cõi chết và cõi sống, sự chết và sự sống. Người ta
cầu cúng, tưởng nhớ, tiếc thương người chết bằng khóc than vỗ về khuyên nhủ,
nhắc nhở người chết về nguồn gốc, bổn phận và cách sống ở thế giới bên kia bằng
những bài hát cầu hồn.
Một nhân vật quan trọng trong lễ tang với vai trò tương tự như thầy mo trong
các đám ma Mường cận hiện đại, hát lên những bài mo cầu hồn, tiễn hồn dưới hình
thức ví von vần vè của sử thi, vừa hát vừa làm những cử chỉ bộ điệu tương ứng
với nội dung bài mo. Nhân vật thầy mo được coi như có khả năng giao tiếp với
thần linh và với linh hồn người chết, đứng ra làm môi giới giữa người sống và
hồn ma, dẫn dắt hồn ma đến nơi đến chốn trong cuộc hành trình về cõi chết, cõi
bên kia.
Sau khi thầy mo đã hát múa cầu hồn, tiễn hồn xong người ta chia của cho người
chết để mang sang thế giới bên kia : đó là những vật quý, đồ trang sức, vũ khí,
công cụ, đồ dùng hằng ngày dưới dạng vật thật hay vật tượng trưng ( làm thu nhỏ
lại, cũng bằng chất liệu và với hình dáng vật thật ). Trong chiếc quan tài ở
ngôi mộ Việt Khê có chôn theo đến 107 hiện vật gồm đồ đồng, đồ đá, đồ gỗ, đồ đan,
vải sơn ( không có đồ gốm ): bình, thạp, thố, đỉnh, khay, chuông, trống đồng,
hộp sơn bằng gỗ, giáo cán dài, dao găm, kiếm và cả một cái bơi chèo bằng gỗ.
Đây ắt hẳn là mộ của một nhân vật quyền quý, giàu sang.
Sau bước chia của đến bước chôn cất thì ở đây phong tục tang ma của người Việt
cổ đã phát triển rất đa dạng phong phú.
Ở đầu thời Hùng Vương đã có tục chôn người dưới huyệt đất : nhiều huyệt đất
được đào công phu thành tầng cấp sâu rộng; đến thiên niên kỷ I trước Công
nguyên phổ biến những huyệt hình hộp chữ nhật như ngày nay. Ở thời đó, cũng có
nơi người ta chôn xác chết trong tiểu gốm ở nghĩa địa sát địa điểm cư trú. Ở
nơi khác xác chết được chôn trong những chiếc quan tài bằng thân cây khoét rỗng
hình thuyền độc mộc ở xa nơi cư trú, như phong tục của người Mường cận đại. Xác
chết có lót hoặc bao chiếu cói đặt nằm giữa quan tài và xung quanh là những của
cải mang theo. Ở nơi khác nữa, có tục hoả táng : người chết được đốt cùng với
thứ mặc và đồ trang sức trên người, sau đó than tro và xương răng cháy vụn được
bỏ vào những đồ đựng lớn và quý như thạp đồng, trống đồng ( lật ngửa ) cùng với
tài sản được chia rồi đem chôn sâu ở nơi xa nơi cư trú, như phong tục người
Thái, người Tày - Nùng cổ cận đại. Cũng có trường hợp vật tuỳ táng được đặt ở
bên ngoài, xung quanh đồ đựng than tro của người chết. Có một vài hình thức
chôn cất khá lạ : chôn người - chủ yếu là trẻ con - trong những đôi nồi lớn úp
miệng; chôn đầu người trong những đồ đựng bằng đồng nhỏ như thạp nhỏ và thố.
Qua hệ thống phong tục tang ma, qua quan niệm và thái độ đối với người chết, sự
chết và cõi chết, có thể thấy được phần nào sự phát triển lịch sử - xã hội và
tình cảm - tư duy. Sự săn sóc, ân cần chu đáo thể hiện qua khóc than, hát mo,
chia của, chôn cất, xuất phát từ tình người là chủ yếu chứ không phải là vì lo
ngại, sợ hãi như ở thời nguyên thủy. Cũng có thể người Việt cổ quan niệm rằng
người chết vẫn còn tiếp tục tham gia vào sinh hoạt của người sống, hoặc làm lợi
hoặc làm hại cho họ bằng những phương tiện thần bí, do đó họ có thể hiện lòng
kính trọng và sự quan tâm săn sóc của mình đối với người thân đã khuất bằng
những nghi lễ chôn cất có tính chất ma thuật nhằm bảo đảm cho mình được nhiều
ảnh hưởng tốt, ngăn ngừa những ảnh hưởng có hại. Chắc chắn là người Việt cổ
quan niệm người chết vẫn rất gần gũi với người sống, hơn nữa họ muốn tạo ra sự
gần gũi đó bằng cách chôn người thân sát địa điểm cư trú, những trường hợp đem
chôn sâu ở xa nơi cư trú không phải là phổ biến. Người sống hi vọng rằng người
thân đã chết sẽ còn lẫn quất đâu đó và phù hộ cho mình.
Qua những nghi thức chôn cất cũng thấy rõ sự phân hoá của cải và địa vị xã hội
được phản ánh qua quy mô và mức độ giàu có chênh lệch rõ ràng giữa các ngôi mộ,
nhất là trong khoảng thiên niên kỷ I : có ngôi mộ chôn theo hơn 100 hiện vật (
có thể là mộ của thủ lĩnh bộ lạc ), có ngôi mộ không có hiện vật nào ( mộ của
người nô lệ ? ).
Sự bảo lưu kế thừa các phong tục chôn cất nhiều màu vẻ của thời Hùng vương ở
những dân tộc khác nhau về sau này, chẳng hạn như bảo lưu hình thức chôn người
dưới huyệt đất hay trong tiểu gốm ở người Việt, hình thức chôn người trong quan
tài bằng thân cây khoét rỗng ở người Mường, hình thức hoả táng ở người Thái,
người Tày - Nùng, cho thấy rằng đó là dấu hiệu của những đặc trưng dân tộc ở
các thành phần cư dân khác nhau thời Hùng Vương cùng sống xen kẽ và hoà hợp
trong thời đại dựng nước.
Từ
khi sanh ra đến khi trưởng thành, " thành đinh ", chắn chắn người
thời Hùng Vương có những phong tục phong phú độc đáo mà chúng ta chưa biết hết.
Tuy nhiên, căn cứ vào Lĩnh Nam chích quái có thể thấy ít nhất là một tục lệ áp
dụng cho trẻ sơ sinh là lót ổ bằng lá chuối cho nằm. Sách nói trên chép : Đẻ
con ra lấy lá chuối lót cho nằm. Đồng bào Mường gần đây vẫn còn giữ tục lệ đẻ
con xong đem đặt lên trên một cái mẹt - tiếng Mường gọi là " cúm " -
lót một tàu lá chuối tươi; bà đỡ hát nựng đứa bé và cử hành một số nghi lễ
tượng trưng thần bí nhằm cầu phúc cho nó rồi mới ẵm dậy.
TRƯỚC NGƯỠNG CỬA TUỔI TRƯỞNG THÀNH : THỬ THÁCH VÀ CÔNG NHẬN
Khi cậu thiếu niên Việt cổ bước vào tuổi lao động có hiệu qủa, và sắp trở nên
một thành viên trẻ trưởng thành của làng chạ, cậu phải trải qua một hệ thống
thủ tục gọi là lễ công nhận, còn gọi là lễ thành đinh hay lễ gia nhập. Đó là
những nghi lễ thử thách, thi tài mà những thanh niên mới vào đời phải trình
diễn trước công chúng, chứng tỏ là đã có tập luyện công phu. Trong các xã hội
quyền cha đã ổn định sau thời Hùng Vương, chỉ đối với con trai đến tuổi 15, 16
hoặc 18, tuỳ nơi, mới cần dự lễ này, và thường là theo cách giản dị, chỉ cần
một thủ tục có tính chất trình diện. Nhưng ở thời Hùng Vương, thời kỳ chế độ
quyền mẹ quá độ sang chế độ quyền cha, những thủ tục của lễ thành đinh khá phức
tạp và áp dụng cho cả gái lẫn trai, bao gồm đủ các tính chất : rèn luyện, thử
thách, kiểm tra, công nhận. Đó là những cuộc thi long trọng để cá nhân biểu
diễn tài sản xuất và chiến đấu, tỏ ra am hiểu tục lệ làng chạ và lịch sử nòi
giống, đồng thời bày tỏ lòng dũng cảm, tài tháo vát, sự mưu trí... Sau đó người
ta xăm mình cho các thanh niên hay thanh niên tự xăm mình làm dấu hiệu chứng
nhận đã thông qua lễ thành đinh. Dấu hiệu được xăm là hình chim hay hình thuồng
luồng, hình rùa hay hình gà, di tích vật tổ xưa của cộng đồng bộ lạc. Trong xã
hội cổ đại nói chung, người ta quan tâm đến việc giáo dục tập luyện cho thế hệ
trẻ mà làng chạ hay bộ lạc có trách nhiệm trực tiếp. Lễ thành đinh có thể được tổ
chức trong khuôn khổ của hội làng mùa thu.
Lễ thành đinh thời Hùng Vương đã để lại tàn dư, biến tướng khá rõ nét trong các
dân tộc ở Việt Nam các thời kỳ về sau. Ở các làng xã người Việt thời cận đại,
trong những ngày hội mùa xuân, hội mùa thu, người ta thường tổ chức những cuộc
thi vật, thi chạy, đánh phết, đua thuyền, thi hát ( hát quan họ, hát trống quân
...) v.v... Ngoài ra còn có thi kéo lửa nấu cơm, thi dệt vải, làm bánh, dọn cỗ,
thi cày, cấy, thi chọi gà, chọi chim v.v... Sự khác nhau ở hội làng người Việt
sau này và lễ thành đinh Việt cổ là ở chỗ ngày xưa người ta tổ chức những cuộc
thi cho những thành viên trẻ của làng chạ phải dự một lần trong đời để được xã
hội công nhận còn sau này thì mở hội cho mọi người cùng dự để củng cố tinh thần
tập thể cộng đồng, nuôi dưỡng truyền thống thượng võ, rèn luyện kỹ năng, khuyến
khích sự tháo vát, nhanh nhẹn, tài trí... và để mua vui cho dân địa phương. Hội
đâm trâu ở các dân tộc Tây Nguyên, hội mùa xuân ở các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc
như hội gầu tào ( Mèo ), hội lồng tồng, hội múa sư tử ( Tày - Nùng ), lễ xiên
cha ( Thái, Xá ) v.v... cũng là những tàn dư của lễ thành đinh cổ xưa.
Tục xăm mình, vốn là một nghi thức của lễ thành đinh, một tập tục phổ biến ở
người Việt cổ, vẫn còn tồn tại trong xã hội Việt Nam trung đại đến thế kỷ thứ
XIII. Thời cận đại ở Lào, ai xâm mình thì được coi là người can đảm, được vào ở
chùa.
KẾT CHẠ ĂN THỀ ĐỜI ĐỜI GẮN BÓ VỚI
NHAU
Giữa các làng chạ với nhau, nhất là đối với các chạ mà sự phát triển
lớn mạnh đã dẫn tới việc tách ra làm hai, chắn chắn là có những phong tục xung
quanh việc hợp tác tương trợ, việc liên kết cộng đồng và tình cảm. Truyền thống
hợp tác tương tợ giữa các thành viên cùng làng chạ hay giữa hai chạ (" chạ
anh, chạ em ") là một truyền thống được gìn giữ lâu dài cho đến sau này.
Giữa hai chạ người ta tổ chức lễ kết nghĩa ăn thề, quy định thành tục lệ những
trách nhiệm, nghĩa vụ giữa các chạ anh, chạ em, làng anh, làng em như sau này
trong tục " đi nước nghĩa " của các làng người Việt vùng Phú Thọ, tục
kết chạ, ăn giải của các làng vùng Bắc Ninh, đời đời giao hiếu gắn bó với nhau.
Trong làng hay giữa các làng, trong các công việc làm ăn, kết bạn có những
phong tục chung quanh việc gặp gỡ, trao đổi, giao thiệp. Người ta mời nhau ăn
trầu: " Miếng trầu là đầu câu chuyện ", người ta trao đổi tặng
phẩm... Gần với tục ăn trầu có tục nhuộm răng cũng là một tập tục cổ còn giữ
lại trong xã hội người Việt đến đầu thế kỷ 20. Trong những ngày hội đón khách
buôn, khách đến thăm, khách hát múa của các làng miền xuôi, miền núi như hội Lim
ở tỉnh Bắc Ninh, hội hoa ban ở Tây Bắc, hội hai, hội lồng tồng ở Việt Bắc...
còn có thể thấy được hình ảnh đậm nhạt của sinh hoạt giao du, vui chơi, hội hè
ở thời Hùng Vương.
159. Có mấy loại con nuôi?
Có
ba loại con nuôi
1. Con nuôi chính thức:gồm hai loại :
- Con lập tự : Gia đình không có con trai, nuôi con anh em ruột hoặc con anh em
chú bác ruột. Có thể nuôi từ bé, hoặc lớn rồi mới nuôi, thậm chí có người đã
thành gia thất, có con rồi mới nhận làm con nuôi. Người con nuôi lập tự đó chịu
trách nhiệm săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ nuôi lúc tuổi già và hương khói tang tế
sau khi mất, nên khi được hưởng quyền thừa kế gia tài hơn cả những người con
gái do chính cha mẹ sinh ra, vì con gái là "con người ta", sau khi gả
chồng lo cơ nghiệp nhà chồng. Con nuôi lập tự được hưởng ruộng hương hoả nếu
cha nuôi là tộc trưởng, được họ hàng chấp nhận là cùng huyết thống nội thân.
Nếu người con nuôi lập tự là con thứ của ông em thì con người con trưởng của
ông em vẫn phải gọi người con nuôi lập tự đó bằng bác (đáng lẽ gọi là chú) .
Khi cha mẹ nuôi chết, tang chế của vợ chồng người lập tự cũng ba năm như cha mẹ
đẻ. Trường hợp cha mẹ chết trước, phải xin phép cha mẹ nuôi mới được về chịu
tang, nhưng không được phép mặc áo khâu gấu, khăn ngang không được để hai giải
bằng nhau. Khi cha mẹ nuôi đã sinh con trai thì thôi quyền lập tự nhưng vẫn là
con nuôi được hưởng quyền thừa kế như các người con khác.
- Con nuôi hạ phóng tử: Có mấy trường hợp:
+ Con hoang thai nuôi từ lúc mới sinh. Có nhà hiếm hoi dặn từ trước, khi sinh
nở thì đón về, sản phụ được bồi dướng một ít tiền và sau đó không được quyền
nhận hay thăm con.
+ Con mồ côi hay con nhà nghèo khó, đem về nuôi là phúc, mặc dầu không hiếm
hoi. Nếu nuôi thực sự từ lúc còn nhỏ cũng được hưởng mọi quyền lợi trong gia
đình. Cha mẹ nuôi cũng có trách nhiệm dựng vợ gả chồng, sống nuôi chết chôn,
cũng được cha mẹ nuôi chia cho một phần gia tài khi ra ở riêng. Trường hợp cha
mẹ nuôi không có con trai cũng có thể lập người con này làm thừa tự, song không
được can dự vào phần hương hoả, tự điền cũng như việc họ, bởi lẽ khác dòng máu,
không được họ chấp nhận. Tang chế đối với cha mẹ nuôi cũng ba năm như cha mẹ
đẻ, đối với anh em nuôi cũng một năm như anh em ruột, nhưng đối với họ hàng bên
bố mẹ nuôi thì không tang. Trừ một trường hợp con nuôi đã mang họ của bố nuôi,
không biết bố đẻ (hoang thai) và đã được họ hàng chấp nhận thì mọi lễ nghi hiếu
hỷ, tang chế đều như người trong họ, song vẫn không được hưởng hương hoả, tự
điền. Nếu bố nuôi là tộc trưởng vẫn không được kế thế tộc trưởng mà vai trò tộc
trưởng thuộc con trai trưởng của chú em.
Theo phong tục một số địa phương "vô nam dụng nữ" thì người con rể
cũng có quyền lợi và nghĩa vụ như con nuôi hạ phóng tử nói trên, nhưng chỉ để
tang bố mẹ vợ một năm, anh em ruột của vợ chín tháng, ngoài ra không để tang
cho ai bên nhà vợ. Lập tự chỉ lập tự cho cháu ngoại, không lập tự cho con rể.
Cháu ngoại cũng không được làm tộc trưởng (như trên).
2. Con nuôi danh nghĩa: Có mấy trường hợp:
§ Nhà hiếm con qua mâý lần tảo sa, tảo lạc, hữu sinh, vô dưỡng, hoặc theo số tử
vi lỗi giờ sinh, xung khắc với cha mẹ nên phải bán làm con nuôi cho dễ nuôi.
Khi sinh nở xong bố đẻ sẵn một chai rượu, cơi trầu đến nhà bố nuôi, làm lễ gia
tiên bên bố nuôi xin cho ghé cửa nương nhờ, sau đó mời bố mẹ nuôi đến nhà xem
mặt đứa trẻ và nhường quyền cho bố nuôi đặt tên cho đứa bé. Sau này khi lớn lên
thì mồng 5 (đoang ngọ) ngày Tết dắt đứa bé đến tết nhà bố mẹ nuôi. Đứa bé cũng
xếp theo vị trí anh em ruột một nhà theo quan hệ lứa tuổi. Sau này lớn lên,
trong huyết thống ba đời anh em cháu cháu không được quyền lấy nhau. Nếu vi
phạm cũng coi như mắc tội loại luân. Chọn Bố mẹ nuôi thì chọn gia đình phúc
hậu, lắm con nhiều cháu, làm ăn thịnh vượng.
§ Do cảm ân đức, nghĩa tình nhận làm con nuôi.
§ Anh em kết nghĩa với nhau thân tình, nhận bố mẹ của anh em cũng như bố mẹ của
mình và ngược lại bố mẹ cũng nhận người anh em kết nghĩa với con mình như con
cái trong nhà.
Trong những trường hợp đó, người Việt thì gọi chung là con nuôi, bố mẹ nuôi
nhưng âm Hán gọi là "nghĩa phụ nghia tử" khác với "nghĩa phụ
tử", tang chế không quy định cho trường hợp "dưỡng phụ dưỡng
tử", nếu có gả con cho nhau thì càng tốt đẹp "thân thượng gia
thân".
3. Con nuôi giả vờ: Vì con khó nuôi, sợ ma ta quấy nhiễu người mẹ
đem con bỏ đường bỏ chợ, nhưng dặn trước người trực sẵn đưa về nuôi, sau vài
giờ hoặc vài ngày đến chuộc nhận làm con nuôi. Đây là cách đánh tráo con đẻ
thành con nuôi, con nuôi là con đẻ để lừa ma. Trường hợp này đành rằng phải
thông cảm y ước trước, nhưng cũng phải chọn người mắn đẻ, con không sài đẹn,
nuôi súc vật mát tay...
Ngoài ba loại con nuôi dương trần nói trên, còn có tục "bán khoán"
con cho thần linh như bán con cho Đức Thánh Trần, Đức thánh Mẫu... Đã là con
thần thánh, có tấu, có sớ, có bùa, có dấu ấn hẳn hỏi thì mà quỷ không dám bén
mảng đến đã đành mà bố mẹ nuôi con cũng phải đặc biệt chú ý: Không cho con ăn
uống những thứ uế tạp, phải mặc đồ sạch sẽ, không được vá chằng vá đụp, không
để con bò lê la, không được chửi rủa xỉ vả con, sợ ngài gọi về trời. Con chỉ
được gọi cha đẻ bằng thầy, bằng cậu... Gọi mẹ bằng mợ, bằng chị, bằng u, bằng
đẻ. Hai từ "Cha, mẹ" chỉ được tôn xưng với thần thánh. Bán cho Đức
Thánh Trần chỉ được xưng họ Trần khi khấn vái, bán cho phật phải xưng Mầu, nhưng
bán cho đức thánh mẫu là Liễu Hạnh không phải đổi họ. Sở dĩ gọi là "bán
khoán" vì chỉ bán thời gian còn nhỏ để dễ nuôi. Đến tuổi 13 tuổi tức hết
tuổi đồng ấu, đến tuổi vào sổ làng xã thì làm lễ xin chuộc về.
Chính thể mới hiện nay công nhận con nuôi cũng có quyền lợi và nghĩa vụ ngang
con đẻ, đó là con nuôi thực sự được chính quyền địa phương công nhận trên cơ sở
thoả thuận giữa người nuôi và người đẻ hoặc giữa người nuôi và thân nhân đỡ đầu
trong trường hợp bố mẹ đẻ không còn.
Đứa bé đếm tuổi thiếu niên cũng được quyền tự nguyện xin làm con nuôi, chọn bố
mẹ nuôi. Bố mẹ nuôi có thể nuôi nhiều con tuỳ theo khả năng, nhưng không thể
nhận làm con nuôi của nhiều gia đình. Tuổi bố mẹ nuôi phải cao hơn tuổi con
nuôi ít nhất 20 tuổi.
160.
Tạo sao những năm gần đây
có ph.trao khôi phục việc họ
Từ
năm 1975 lại đây, từ Bắc chí Nam đều có phong trào khôi phục việc họ, với nội
dung: Diễn dịch, biên soạn, phổ biến gia phả, sửa sang tôn tạo tổ mộ, từ đường
tổ chức tế tự, giỗ tổ hàng năm và gắn bó tình cảm gia tộc hơn trước. Đó là một
phong trào tự phát, chưa có một văn bản chỉ thị nào của cơ quan trung ương địa
phương, hay ngành văn hoá có hướng dẫn khuyễn khích. Vậy nhân tố nào chỉ đạo,
thúc đẩy phong trào lan rộng nhanh như vậy ?
Đây là quy luật phát triến xã hội khách quan .
Trong thời kỳ kháng chiến. Mọi người dân, trên cương vị của mình đều phải dồn
toàn bộ tâm sức vào sự nghiệp bảo vệ Tổ Quốc, mọi người khi đó còn phải lo
những vấn đề bức xúc nhất : Ăn ở, sống chết ... và những việc không thể đình
hoãn được. Sau khi hoà bình, cuộc sống vật chất đã tương đối ổn định thì nhu
cầu về đời sống tinh thần văn hoá lại nổi lên. Việc đi lại, thăm viếng nhau
trong gia đình họ hàng thân thuộc, việc củng cố, gắn bó mối quân hệ gia tộc,
việc thờ phụng tổ tiên, ông bà, cha mẹ từ ngàn xưa đẵ trở thành tâm linh của
mọi người. Đây là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống văn hoá và tư tưởng.
Dưới bất kỳ xã hội nào, dù xu hướng chính trị, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau,
tình cảm gia đình vẫn vậy. Tĩnh gia tộc là khái niệm mở rộng của tình gia đình,
máu thoảng hơn nước lã. Đó là tình cảm tự nhiên mọi người đều thừa nhận .
Vì vậy. Khôi phục việc họ là việc làm hợp với tâm tư của số đông nhân dân, một
người đề xướng được trăm người hưởng ứng. Đó cũng là thuần phong mỹ tục.
161. Lễ vấn danh có ý nghĩa gì?
"Lễ vấn danh" là lễ nhà trai đến nhà gái để hỏi tên
tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ "Chạm ngõ" hay là lễ "Dạm"
(có nơi kiêm cả lễ dạm và hỏi cùng một lúc gọi là lễ dạm hỏi). Truyện Kiều có
câu "Tiện đưa canh thiếp trước cầm làm ghi". "Canh thiếp"
là giấy ghi họ tên, tuổi, quê quán, con ai.
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ở nhiều vùng nông thôn, con gái từ khi sinh đến
khi lấy chồng vẫn chưa đặt tên, nếu như gia đình không cho con gái đi học. Con
gái không cần vào sổ họ, sổ làng, không đi học nên cũng không cần đặt tên vội.
ở trong nhà con gái mới sinh ra được gọi là con Hĩm, con Mực, con Chắt em...
Trong nhà gọi tên gì thì xóm giềng gọi theo tên đó. Đến làm lễ vấn danh, ông
bác hoặc bố mới đặt cho cái tên để ghi trong giấy hôn thú, có khi chính người
mang tên cũng không biết mình mang tên gì trong giấy hôn thú, vì khi về nhà
chồng lại gọi theo tên chồng, khi có con gọi theo tên con, có cháu đích tôn gọi
theo tên cháu. Lễ vấn danh không phải để hỏi tên mà chủ yếu là hỏi tuổi, để hai
họ quyết định đôi nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, tuổi xung khắc thì
thôi.
Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi hay
không, gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu kỹ "Công, dung, ngôn,
hạnh" (thường là các gia đình gia giáo). Chẳng những các chàng trai, trước
khi cưới chưa biết mặt vợ, mà có những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi
dâu cũng không biết mặt con dâu, do đó trong gia đình sau này mới xảy ra nhiều
chuyện oái oăm:
- "Cảm ơn ông bà thương đến, tôi xin đồng ý gả, nhưng xin thưa chuyện
trước: con tôi mồm mép chẳng bằng ai!"
Tưởng như vậy là mình tìm được con dâu hiền hậu, không đanh đá chua ngoa, ai
ngờ cưới về mới biết con dâu sứt môi!. Nhưng đã nhỡ việc, biết tính sao?
Lại có trường hợp đánh tráo: Khi đi hỏi thì cho thằng em nhanh nhẹn và
"sạch mặt" hơn đóng vai chàng rể, đến khi cưới thì lại cưới cho thằng
anh đần độn, xấu xí. "Miếng trầu để dâu nhà người", biết tính sao
đây? Dầu sao cũng mang tiếng một đời chồng.
162. Tại sao nạ dòng không lấy được trai tơ?
Không phải tác giả đặt câu hỏi để giải đáp, mà chính tác giả
thắc mắc mong được giải đáp vì sao có sự bất công đó?
Ngày xưa những người đàn bà goá chồng hay bị chồng bỏ thì chỉ còn cách lấy lẽ
hay lấy kế, mặc dầu còn trẻ, còn xoan cũng ít ai lấy được trai tân (trai tơ).
Những ai là trai chưa vợ mà kết duyên với gái đã có một đời chồng, dù ít tuổi
hơn mình, cũng bị làng trên xã dưới cười chê. Ngược lại có những đức lang quân
đã ngoại tứ tuần, đã hai ba đời vợ vẫn lấy được con gái tơ chỉ bằng tuổi con
mình. Như vậy mà thiên hạ vẫn khen là đẹp đôi vừa lứa.
Những người đàn bà duyên phận hẩm hiu, qúa lứa lỡ thì, ngày xưa chỉ làm vợ lẽ
nàng hầu, thời nay rất khó lấy chồng. Luật hôn nhân phong kiến có nhiều điều
bất công đối với phụ nữ, luật hôn nhân sau Cách mạng đã thực hiện đúng nam nữ
bình quyền, nhưng tập tục dư luận xã hội vẫn còn bất công đối với nữ. Vậy muốn
thực sự giải phóng phụ nữ, phụ nữ phải tự đấu tranh đòi
giải thoát khỏi những mặc cảm vô lý nói trên. Xin kiến nghị các cấp lãnh đạo,
trước hết là cán bộ đoàn thể phụ nữ hướng dẫn dư luận xoá bỏ dần những mặc cảm
bất công nói trên.
163.
Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu?
Trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép, thường là cha
mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Thực ra, trong nhiều gia đình, người cha quyết định
mọi việc, người mẹ chỉ biết tuân theo. Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái
oăm: Ngày con gái vu quy đáng lẽ là ngày vui nhất trong đời nhưng người thì
khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ, từ tấm
bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau; mẹ thương con còn thơ dại, cũng
mủi lòng sụt sùi khóc. Thế là, trong khi hai họ đang vui mừng yến ẩm ở nhà
ngoài thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về. Tan tiệc, nhà trai chẳng tìm thấy
cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám đại loại như vậy người ta rút kinh nghiệm không
nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu, dần dần bắt chước nhau, trở thành tục lệ.
Một vài địa phương, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với lý do con mình đã gả
bán cho người. Tuy rằng trong văn sách có ghi "Giá thú bất luận tài"
nghĩa là không bàn đến tiền tài trong việc cưới hỏi, nhưng không hiểu vì sao
trong ngôn ngữ Việt Nam lại kết hợp "Gả bán" liền nhau.
Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau kết hôn trên cơ sở tình
yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn, vậy thì cha mẹ có nên đến dự
lễ vui của hai con không? Đã có nhiều đám cưới ngày nay bỏ tục kiêng này.
164. Tại sao có tục xin quần áo cũ cho trẻ sơ sinh?
Cách trả lời đơn giản nhất là xin
để lấy "khước" (lấy may). Người mẹ từ khi mới thụ thai đã chú ý xem
trong bà con, họ hàng, làng xóm nhà ai có con cái bụ bẫm, hay ăn chóng lớn, ít
khóc ít quấy, ao ước sắp tới con mình đẻ ra cũng được như thế thì xin một cái
áo, hay cái quần, cái tã cũ của đứa bé về sửa sang lại để dùng cho con mình.
Xuất xứ là do một vài người làm, rồi bắt trước nhau, dần dần là truyền ra thành
phong tục. Nguyên ngày xưa, ta chưa có những thứ vải mỏng mịn bán rộng rãi
trong dân gian, thị trường toàn những vải thô bố lại nhuộm nâu, thô cứng, trẻ
sơ sinh da còn non mặc dễ bị xây xát, hài nhi càng mặc đồ mới càng đau yếu. Nhà
nghèo không sẵn tiền mua đã đành, nhà giàu cũng xin áo cũ cho trẻ sơ sinh là vì
lẽ ấy. Trẻ thì chóng lớn, quần áo thì lâu mới rách, chỉ vài tháng sau đã quá
cỡ, người ta không nỡ phá đi dùng vào việc khác nên cất giữ lại, dành cho em
út. Vì vậy, người cho áo cũng cảm thấy vinh dự được người khác quý mến con mình
và coi đứa bé sắp ra đời cũng có phần hơi hướng của mình.
165. Vai trò tộc trưởng xưa và nay khác nhau thế nào?
Ngày xưa việc họ là cứ vào tộc trưởng. Họ lớn có tộc trưởng
họ lớn; các chi có trưởng chi. Tộc trưởng có quyền lợi, nghĩa vụ rõ ràng. Ruộng
hương hoả và tự điền có nhiều thì lễ to, nhà thờ họ lớn, tế khí đầy đủ và ngược
lại. Khi vào tế lễ, tộc trưởng dầu còn trẻ tuổi vẫn là chủ tế, các ông chú dẫu
cao tuổi vẫn là bồi tế. Nếu nhỏ quá thì một ông chú kế trưởng thay thế, cũng
như ông vua trẻ chưa thành niên có phụ chính đại thần.
Thời nay ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không còn ruộng hương hoả, không còn
chế độ thu tô như trước, quyền lợi của tộc trưởng hoặc người thay tộc trưởng,
đối với tổ tiên và họ hàng cũng tuỳ thuộc vào nhận thức; tâm tư, trình độ hiểu
biết, hoàn cảnh sinh sống của từng người, không có một chế độ quy định nào ràng
buộc. Có nhiều họ, tộc trưởng ngụ cư hoặc không thoát ly công tác ở phương xa
cũng không giao (hoặc không giao được) việc họ cho ai. Trong hoàn cảnh đó, việc
hương khói tế tự tổ tiên và quan hệ họ hàng bị phế khoáng.
Thể theo nguyện vọng, tâm tư, tình cảm "Uống nước nhớ nguồn", ngày
giỗ ngày tết con cháu muốn dâng lên Tổ tiên bát nước, nén hương. Để bổ cứu tình
trạng trên nhiều họ đã có sáng kiến thành lập một hội đồng gồm những người có
uy tín, nhiệt tình trong họ để chăm lo việc họ. Chưa có một văn bản hay có một
tiền lệ nào qui định đó là ban nghi lễ. là hội đồng gia tộc hay hội đồng tộc
biểu...
Trước mắt, họ nào mạnh hay yếu, thành đạt hay suy vi, tình cảm họ hàng gắn bó
hay không, tác động tốt xấu tới phong trào chung, còn tuỳ thuộc vào nhiệt tình,
khả năng tổ chức lãnh đạo của một số cá nhân, đóng vai trò chủ chốt, chứ chưa
có một cơ chế nào bảo đảm sự bền vững lâu dài.Trong thời kỳ kháng chiến con
cháu tản mác, nhiều họ bị phế khoáng không còn cơ sở vật chất để chăm lo từ
đường hương hoả. Từ sau hoà bình, thống nhất đất nước, một số họ được khôi phục
nhưng vì "Duy ý chí", nên phong trào loé lên một thời gian ngắn rồi
lụi dần. Không còn ruộng hương hoả của tổ tiên để lại thì con cháu đóng góp
tiền gửi vào quỹ tích kiệm để lẫy lai hàng năm mà lo hương khói. Nhưng rồi do
trượt giá, một vài yếu tố khách quan nữa tác động, hương khói cũng nguôi dần.
Đó là nỗi lòng trăn trở nhất của những con cháu muốn kế tục sự nghiệp cha ông,
muốn làm cho anh linh tổ tiên, cha ông, muốn cho dòng họ ngày càng thành đạt.
166. Nhập gia vấn húy là gì ?
Theo phép xã giao, trước khi đến thăm một gia đình cần tìm
hiểu tên Huý của ông bà cha mẹ và bản thân tên người mình định đến thăm, để
tránh trong khi nói chuyện hoặc xướng hoạ thơ từ động đến tên huý gia tiên
người ta "Huý" đồng nghĩa với "kỵ" (tức là kiêng kỵ). Ngày
giỗ tức là huý nhật hay kỵ nhật. Tên huý là tên chính nhưng lại là tên kiêng
nói đến, khi giận nhau người ta đè tên huý ra mà chửi. Ông bà, cha mẹ, chú bác
có thể gọi con cháu bằng thằng nọ con kia theo tên huý, kể cả những người cao
tuổi trong làng xóm. Trong ngôn ngữ thông thường có trùng âm cũng phải nói
tránh đi, nếu không sẽ bị coi là hỗn.
Thời nay, giao thiệp rộng rãi, trong quan hệ bạn bề đồng chí gọi tên nhau là
chuyện bình thường. Song về các vùng nông thôn phải tuỳ theo phong tục từng
vùng mà xưng hô, nếu cứ theo họ tên ghi trong địa chỉ thư tín và giấy tờ hành
chính mà gọi thì chưa chắc hẳn các vị cao tuổi đã vui lòng. Trừ những người đã
thoát ly, công tác, còn thông thường người ta vẫn hay gọi nhau bằng tên con
trưởng hoặc tên cháu đích tôn.
Ở miền nam nước ta hay gọi tên theo thứ tự sinh ra trong gia đình, nếu đã ra
ngoài xã hội thì thường gắn tên huý. Ví dị : Ông Bảy Lửa, chị Ba Tịch ...
167.
Lễ lại mặt có ý nghĩa gì
Lễ
lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau ngày cưới (gọi là nhị
hỷ hoặc tứ hỷ) tuỳ theo khoảng cách xa gần và hoàn cảnh cụ thể mà định ngày.
Hai vợ chồng tân hôn trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên ông bà cha
mẹ, đi chào họ hàng thân nhân bên nhà gái sau đó đón bố mẹ và vài thân nhân
sang nhà chú rể. Kể từ buổi đó, mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà chú rể và nhà
thông gia, vì trong lễ cưới, mẹ cô dâu (có nơi cả bố) không đi đưa dâu.
Thành phần chủ khách rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình.
Phỏng theo tục cổ Trung Quốc: nếu trong lễ lại mặt, có cái thủ lợn cắt lỗ tai
tức là ngầm báo với nhà gái rằng nhà trai trả lại, vì con gái ông bà đã mất
trinh (Đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là giấy thám trinh, để xem người con
gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì trên giấy bản sẽ có mấy giọt
máu. Mã Giám Sinh sau khi cưỡng ép phá trinh nàng Kiều xong dùng "Nước vỏ
Lựu", "Máu mào gà" hòng lường gạt làng chơi tưởng nhầm là Kiều
vẫn còn trinh).
Trường hợp hai nhà xa xôi cách trở, ông già bà lão thì nên miễn cho nhau, cô
dâu chú rể nếu bận ông tác cũng nên được miễn thứ. Nếu điều kiện cho phép thì
nên duy trì, vì lễ này mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp:
- Nhắc nhủ con đạo hiếu, biết tạ ơn sinh thành, coi bố mẹ vợ cũng như bố mẹ
mình.
-Thắt chặt và mở rộng mối quan hệ thông gia, họ hàng ngay từ buổi đầu, tình cảm
được nhân đôi.
-Hai gia đình cùng trao đổi rút kinh nghiệm về việc tổ chức hôn lễ và bàn bạc
về trách nhiệm của hai bên bố mẹ trong việc tác thành cuộc sống cho đôi trẻ trong
tương lai.
168. Vì sao có tục đốt vàng mã?
Theo quan niệm của người đời xưa,
người chết cũng cần ăn uống, nhà cửa, quần áo, hút thuốc, ăn trầu, cũng cần
tiền xe, cần tiền đi lại và mọi khoản chi dùng như khi còn sống...
Người chết cũng được chia một phần gia tài. ở Sơn La, Lai Châu, nhiều nơi còn
dựng các nhà mồ, trong nhà mồ cũng có đầy đủ các nồi đồng, mầm gỗ, ấm đất, bát
đĩa, dao rựa, chăn chiếu quần áo, mũ nón...đủ tiện nghi cho một cá nhân. Người
chết cũng được chia cả trâu, lợn, gà, thóc, gạo... Sau ba năm, tang chủ làm lễ
khấn vái và ra mồ xin lại những đồ vật còn dùng được, và súc vật còn sống, kể
cả súc vật vừa mới đẻ ra...
Từ việc cúng tế bằng đồ thật, dần dần mới sinh ra lễ đốt vàng mã, tức là thay
thế bằng các đồ vật làm bằng tre, gỗ, rơm, rạ, đất sét hoặc giấy tượng trưng,
nhưng kích thước thu nhỏ lại để người cõi âm mang đi, nhờ có "Phép thiêng
biến ít thành nhiều". áo quần của người chết mặc khi còn sống, để lại nhà
mồ sau ba năm mục nát, không nỡ dùng vào việc khác, người ta đốt đi dần dần
sinh ra được thay thế bằng quần áo giấy. Vì vậy mới có câu tục ngữ "Đi
theo ma mặc áo giấy".
169. Chiêu hồn nạp táng là
gì?
Trong gia phả các họ rất chú trọng
mục: Mộ táng ở đâu. Trong mục này có một số trường hợp ghi chú: "Chiêu hồn
nạp táng" là gì?
Đó là những ngôi mộ không có tử thi, hài cốt, mộ người chết trận, chết đuối hay
do thú dữ vồ... không tìm được tử thi. Thân nhân làm hình nhân và làm lễ an
táng theo như lễ an táng thông thường.
Được nghe các cụ kể lại rằng: chất liệu làm hình nhân, có địa phương dùng cây
núc nác (còn gọi là sò đo thuyền, mộc hồ điệp, nam hoàng bá, bạch ngọc nhi).
Núc nác là loại gỗ mềm và xốp, dễ tạo hình, chôn dưới đất lâu hoai, lại dễ kiếm
vì mọc ở nhiều nơi. Có địa phương dùng bùn lấy ở giữa dòng sông, có địa phương
dùng mùn đào ở giữa ngã tư đường cái.
Hình nhân được đẽo gọt hoặc nhào nặn thô sơ, có đầu mình chân tay là được (vì
đa số không phải là nghệ nhân). Kích thước của hình nhân khoảng 30-40 cm chiều
dài. Thi hài tượng trưng đó cũng được khâm liệm, đưa vào áo quan làm bằng gỗ
vàng tâm, kích thước nhỏ bé, hoặc đưa vào tiểu sành. Trên hình nhân có phủ lên
linh vị viết trên giấy kim tuyến, nội dung giống như linh vị đặt ở bàn thờ.
Trước khi làm lễ an táng có mời thầy cúng làm bùa ấn phù phép để vong hồn nhập
vào hình nhân.
Lễ an táng và các lễ các lễ khác cũng tiến hành như tang lễ thông thường.
170. Tại sao có lễ cúng cơm
trong 100 ngày?
Gia đình Việt Nam nhà nào cũng vậy,
mỗi ngày có hai bữa cơm là giờ phút đầm ấm nhất. Trong nhà có người về muộn,
mọi người cũng cố chờ về ăn cơm một lúc cho vui vẻ, đầm ấm. Con cháu cầm bát
cơm lên, trước hết mời ông bà, cha mẹ, chờ ông bà, cha mẹ rồi mới bắt đầu mới
dám ăn. Có nơi xới bát cơm lần thứ hai còn mời nữa. Nếu có khách, trước khi
buông bát đũa đứng dậycòn phải xin phép và mời khách tiếp tục xơi cơm. Cuộc
sống gia đình đang vui vẻ, êm đẹp như vậy, vắng mặt trong bữa cơm còn nhắc,
huống chi vĩnh viễn đi xa. Do đó, trước bữa ăn người thân dâng lên bàn thờ một
bát cơm úp, một vài món ăn bình thường, nhà ăn thứ gì cúng thứ đấy, thường là
tinh khiết, không đòi hỏi cầu kỳ, nhà nghèo thì lưng cơm, đĩa muối cũng xong.
Thắp hương xong, dựng đôi đũa vào giữa bát cơm, có rượu thì rót chén rượu. Khấn
vái xong cũng rót chén nước.
Thờ cúng vong linh cũng giống như đang sống, cũng là để thoả nguyện tâm linh,
"Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương".
Nhưng tại sao lại cúng 100 ngày?
- Cũng tuỳ địa phương, có nơi chỉ cúng 49 ngày (tức là lễ chung thất). Theo
thuyết của Phật giáo: qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ở âm
ty(tức 1 tuần, nhưng không phải tuần lễ theo dương lịch); sau 7 tuần vong hồn
đã siêu thoát. Có nơi cúng hết 100 ngày (tức lễ tốt khốc nghĩa là thôi khóc).
Theo giải thích của các cụ ngày xưa thì thời gian này âm hồn vẫn còn phảng phất
luẩn quẩn trong nhà chưa đi xa.
Chúng tôi cho rằng, phong tục này có căn cứ khoa học: Theo thuyết Thần giao
cách cảm, ngoài điện trường vật lý đã được ứng dụng trong thực tiễn, còn có
điện trường sinh học. Những cá thể có cùng tần số cảm ứng trong điện trường
sinh học, mặc dầu ở cách xa nhau rất xa vẫn nhận được những nguồn thông tin của
nhau. Các nhà khoa học đã vận dụng những phát triển đó để giải thích về điềm,
về giấc mơ, về những biểu hiện tâm, sinh lý bất thường khi thân nhân (có thể
cách nhau rất xa về không gian) có cùng tần số điện trường sinh học có sự biến
bất thường. Người ta bảo chết là hết. Nhưng, chết chưa phải là đã hết khi người
chết còn tồn tại trong tâm chí người sống. Sau khi chết, tim ngừng đập, máu
ngừng chảy, thần kinh cảm giác ngừng hoạt động, vỏ não chưa bị huỷ, xung quanh
hiện trường phát từ não vẫn chưa ngừng phát sóng. Lớp đất dày không ngăn được
sóng điện vật lý hay sóng điện sinh học. Cá thể sống có tần số điện trường sinh
học tương ứng vẫn tiếp nhận được tín hiệu, do đó hiện tượng báo mộng chưa hẳn
là vu vơ, không đáng tin. Phải chăng vì lẽ đó mà các cụ cho rằng âm hồn còn
phảng phất, chưa siêu thoát
171. Lấy vợ kén tông, lấy
chồng kén giống có đúng không? có cần thiết không?
Đối với các cụ thì câu hỏi này
thừa, vì "Nòi nào giống ấy","Cây nào quả ấy","Giỏ nhà
ai quai nhà ấy","Con nhà công chẳng giống lông cũng giống cánh",
"Tìm nơi có đức gửi thân", ai chẳng muốn có trai hiền gái đảm, rể
thảo dâu hiền. Thời nay, một số bạn trẻ coi thường cho là phong kiến lạc hậu.
Có những đôi trai gái mới chỉ gặp nhau trên một đoạn đường, đã vội đính ước,
tính chuyện vuông tròn, thậm chí họ đã biết rõ cả "Ngọn nguồn lạch
sông"!!!Đành rằng cũng có trường hợp "Một ngày nên nghĩa, chuyến đò
nên duyên", song thành công là cá biệt, thất bại là phổ biến.
"Tìm tông, tìm họ" không có nghĩa là tìm chốn sang giàu, khinh người
nghèo khó, mà chủ yếu là tìm nơi có gia giáo, có đức độ.
"Cha mẹ hiền lành để đức cho con","Đời cha ăn mặn, đời con khát
nước". Con người sinh ra lớn lên do nhiều yếu tố xã hội chi phối, nhưng
nam nữ thanh niên mới lớn lên, trường đời chưa từng trải, giáo dục gia đình là
yếu tố quan trọng và chủ đạo. Hôn nhân là việc hệ trọng, tác động cả đời, mà
con người rất dễ mù quáng trong tình yêu. Qua tuần trăng mật không phải mọi
việc trong quan hệ vợ chồng đều suôn sẻ. khi có những việc khó khăn, trục trặc
trong cuộc sống, ai cũng muốn tìm điều hay lẽ phải để giải quyết cho thoả đáng.
Lúc đó cần dựa vào "Tông", vào họ hàng, tìm những tình cảm chân thành
và tri thức đúng đắn.
"Môn đăng hộ đối", tức là tìm nơi hai gia đình, hai bên thân thuộc,
có những mặt cân đối phù hợp với nhau, chứ đâu phải bắc bậc leo thang, kẻ khinh
người trọng.
Ngoài ra còn một yếu tố nữa: Tính đến gien di truyền.
Ngày xưa trong một vài hoàn cảnh đặc biệt có ông chồng thoả thuận ngầm với vợ
đi "Xin nòi". Xin lưu ý: những người đàn bà đó không thuộc loại lẳng
lơ đâu - ta cũng chỉ cần biết nói nhỏ với nhau thôi và nhấn mạnh "Hoàn
cảnh đặc biệt"!
172. Con so về nhà mạ, con
rạ về nhà chồng tại sao?
Con so là con sinh đầu lòng, con rạ
là những đứa con sinh sau. Nếu nuôi được cả thì con so là trưởng, con rạ là
thứ. Phong tục này phổ biến ở Bình Trị Thiên và một số địa phương ngoài Bắc,
còn ở Nghệ An, Hà Tĩnh thì trừ trường hợp ở rể, nói chung con gái không được
sinh đẻ ở nhà cha mẹ mình.
Con gái mới lớn lên, mới sinh lần đầu tiên, trẻ người non dạ, chưa biết đi
đứng, ăn uống, tắm giặt, kiêng khem ra sao, hơn nữa trong người yếu khoẻ ra sao
muốn nhờ vả mẹ chồng hoặc chị em nhà chồng cũng ngần ngại, khó nói hơn với mẹ
đẻ và em út mình. Còn những lần sinh sau đã có kinh nghiệm, có thể tự mình giải
quyết được nhiều việc.
Phong tục, "Con so về nhà mạ" là một phong tục hay nhưng muốn giải
quyết được êm đẹp cũng phải có thu xếp: Gần ngày ở cữ, mẹ chồng hoặc chàng rể
sang quê ngoại thưa chuyện trước, nếu có khó khăn về kinh tế hoặc đường xá xa
xôi cách trở cũng cần thảo luận với nhau về trách nhiệm cho thoả đáng, sau khi
mẹ tròn con vuông, cháu cứng cáp, chàng rể cũng cần sắm một số lễ vật, nhằm
ngày tốt sang tạ ơn gia tiên bên ngoại và ông bà ngoại để xin đón vợ con về.
Ông bà ngoại còn cẩn thận đánh dấu vôi hoặc nhọ nồi ở trán cho cháu và các thứ
bùa phép khác để các thứ tà ma ác quỷ không dám đến quấy rối cháu dọc đường.
Ở Nghệ Tĩnh lại có phong tục ngược lại: Cho là sinh dữ tử lành, ngoài con dâu
ra, không ai được quyền sinh trong nhà. Con gái về nhà mạ, nếu nhỡ đến kỳ động
thai, trở dạ, không kịp trở về nhà chồng, sợ sinh nở dọc đường thì bố mẹ phải
dựng tạm chiếc lều ở góc vườn, hoặc nếu không kịp, thì ra chuồng trâu mà đẻ.
Thiết nghĩ không cần phân tích, bạn đọc cũng thấy được phong tục nào hợp tình
lý hơn.
Trường hợp đã mồ côi mạ, về nhà mạ thiếu người chăm nom thì con so cũng về nhà
chồng.
173. Mẹ chồng làm gì khi
con dâu bắt đầu về nhà?
Phong tục ở mỗi địa phương một
khác, trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa hay:
Ngày xưa ở nhiều địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục mẹ chồng ra cất nón cho
con dâu:
Nhà trai đặt sẵn trước ngõ một cái nồi đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một
quan tiền đồng và đựng đầy nước trong. Cô dâu vào đến cổng dùng gáo múc nước
rửa mặt mũi, chân tay, mẹ chồng bước ra cất nón cho con dâu. Con dâu, một tay
cầm lấy quan tiền, một tay vẫn cầm quạt che mặt. Mẹ chồng dắt con dâu vào nhà
đặt quan tiền và cái quạt lên bàn thờ, cúi đầu lễ gia tiên (bốn lạy ba vái theo
tư thế của nữ). Sau đó mẹ chồng dắt cô dâu cầm cả tiền và quạt vào buồng. Trong
buồng đã chuẩn bị sẵn trầu nước hoa quả, giường chiếu mới. Ðôi chiếu trải úp
vào nhau, do một người thân trong họ có tuổi tác, vợ chồng song toàn, con cháu
đông, làm ăn nên nổi, được gia đình mời đến trải chiếu; nếu mẹ chồng có đủ tiêu
chuẩn trên thì mẹ chồng trực tiếp dọn giường trải chiếu, nhưng bố chồng thì
không được. Khi con dâu nghỉ ngơi xong, khăn yếm chỉnh tề mới bưng hộp trầu ra
chào họ. Trường hợp mẹ chồng đã mất thì một bà cô hay bà dì thay thế.
174. Nam nữ thụ thụ bất
thân nghĩa là gì?
Đây là câu nói cửa miệng, quen dùng
chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của nhà nho.
Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái
gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? (Hai
chữ "thụ thụ" trái ngược nghĩa: một chữ "thụ" là trao cho,
một chữ "thụ" là nhận).
Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm trầu, xếp vào cơi trầu, đặt
giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ
tình yêu trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ còn đôi mắt thầm lén
nhìn nhau!
Người châu Âu từ nhỏ đến già, theo phép lịch sự bắt tay nhau, nhảy với nhau là
chuyện thường. Nhưng, người Việt Nam và người á Đông nói chung, nam nữ vô ý
chạm vào da của người khác giới thì coi như có cử chỉ không đứng đắn.
Người đàn ông có thái độ suồng sã sẽ bị đàn bà xa lánh, nhưng không đáng lo
bằng người con gái lẳng lơ, bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho
đáng tấm chồng. Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái.
Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính. Thời phong kiến xưa,
chỉ những người có tư tưởng tân tiến mới cho con gái đi học, và có đi học thì
con trai ngồi riêng con gái ngồi riêng. Trai gái đi cùng nhau, vui chơi cùng
nhau bị bạn bè cùng lứa chế nhạo. Có hội hè đình đám cũng phải phân biệt đàn
ông đứng bên trái, đàn bà đứng bên phải.
Ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường là chuyện bình thường, nhưng
xin các bạn lưu ý, ở nông thôn đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nhà ngoài đã trở
thành nếp rồi. Ngày xưa, phổ biến mọi nơi đều thế, ngày nay lệ đó vẫn còn ở
nhiều vùng, nhiều nhà. Nếu các bạn có dịp về thăm bà con họ hàng ở quê thì tốt
nhất hai vợ chồng nên tránh nằm chung giường kẻo các cụ còn cảm thấy chướng mà
phật ý.
175. Ba cha tám mẹ là những
ai?
Theo "Thọ mai gia lễ":
Ba cha là:
- Thân phụ: Cha sinh ra mình.
- Kế phụ: Sau khi cha chết, mẹ lấy chồng khác, chồng mới của mẹ là kế phụ hay,
bố dượng.
- Dưỡng phụ: Bố nuôi.
Tám mẹ là:
- Đích mẫu: Vợ cả của bố.
- Kế mẫu: Khi còn nhỏ mẹ đã mất, cha lấy vợ khác để nuôi nấng mình.
- Từ mẫu: Mẹ chết từ tấm bé, cha sai người vợ lẽ nuôi mình bú mớm.
- Dưỡng mẫu: Mẹ nuôi, cha mẹ nghèo cho mình để người khác nuôi.
- Xuất mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng bị cha ruồng rẫy.
- Giá mẫu: là mẹ sinh ra mình, nhưng khi cha mất thì đi lấy chồng khác.
- Thứ mẫu: Là mẹ sinh ra mình nhưng là vợ lẽ của cha.
- Nhũ mẫu: Mẹ vú, cho mình bú mớm từ khi còn tấm bé.
Trên đây là định nghĩa theo "Thọ mai gia lễ", chưa nói đến những
người đã lấy vợ lấy chồng thì cha mẹ vợ, cha mẹ chồng cũng như cha mẹ mình. Vậy
thì, còn ba loại nhạc phụ và tám loại nhạc mẫu. Tất cả phải 6 cha,16 mẹ.
176. Tục cúng “Ôn chít” của
người Mông Tây Bắc
Cũng như nhiều dân tộc anh em sinh
sống trên dải đất hình chữ S, đồng bào Mông sinh sống ở vùng cao của phía Bắc
Tổ quốc cũng có những tín ngưỡng riêng của mình. Một trong những tín ngưỡng đặc
sắc và tiêu biểu đó là tục cúng “Ôn chít", có nghĩa là cúng tạ ơn xin lộc
Cúng “Ôn chít” được tổ chức thường xuyên và liên tục mỗi năm một lần vào ngày
mười lăm tháng 9 Âm lịch, sau khi đã thu hoạch lúa xong. Nét độc đáo ở đây là
trong một dòng họ chỉ tập trung tổ chức cúng ở một gia đình, mỗi năm một nhà
bắt đầu từ nhà ông trưởng họ rồi cứ thế theo vai vế cho đến hết lượt rồi lại
quay về nhà trưởng họ.
Lễ vật cúng tế được chủ nhà tổ chức lễ chuẩn bị sẵn sàng trong dòng họ mổ chung
một con trâu, bò hay lợn...). Các gia đình còn lại khi đến nhà tổ chức cúng lễ
ai cũng phải cầm theo trên tay 3 cây trít đá, một mảnh vải dải đỏ nhỏ dài từ 20
đến 30cm được cuốn 3 vòng quanh 3 cây chít. Nếu gia đình nào khá giả thì có thể
mang thêm ít tiền, rượu đến góp lễ. Chờ cho mọi gia đình đến đông đủ thầy cúng
sẽ đi sắp lễ. Cúng “Ôn chít” được tổ chức vào ban ngày từ 8h - 9h sáng ở ngoài trời
ngay sau nhà.
Trong khi cúng mọi người trong dòng họ đứng gọn vào một chỗ theo từng gia đình,
ông trưởng họ tay cầm một đầu sợi chỉ lanh để thầy cúng cầm cuộn chỉ vừa cúng
vừa đi vòng theo chiều kim đồng hồ, cuốn chung quanh tất cả mọi người, cứ như
vậy cho đến hết bài cúng. Thầy cúng lại cúng lại và đi ngược chiều kim đồng hồ
để tháo những vòng chỉ cuộn quanh mọi người trong dòng họ đó ra. Cứ như vậy đủ
3 vòng thì thầy cúng bắt đầu cầm bó chít của các gia đình mang đến bó lại bằng
sợi vải đỏ, cắm chín nén hương lên bó trít và thầy cúng vác bó chít lên vai,
lấy sợi chỉ đỏ vừa cúng vừa cuốn quanh bó chít đủ ba vòng rồi lại cúng và tháo
sợi chỉ đó ra khỏi bó chít.
Khi thầy cúng đã cúng xong ở ngoài trời thì mới các gia đình vào ngồi ở giữa
nhà để tạ ơn thầy. Thầy cúng cần bát nước trên tay hớp một ngụm để xúc miệng
rồi nhổ đi, hớp ngụm thứ hai thầy lẩm bẩm khấn, xong phun lên nóc nhà. Lúc này
lễ cúng đã xong, mọi người nghỉ chuẩn bị bữa cơm tập trung ăn uống,chúc tụng
nhau vui vẻ.
Không mang nặng màu sắc mê tín như nhiều nghi lễ cúng tế của các dân tộc khác,
tục cúng “Ôn chít” thể hiện khát vọng về một cuộc sống ấm no. Nghi lễ này của
người Mông nhằm tạ ơn trời đất, thánh thần đã phù trì giúp đỡ đem lại cho họ
mưa thuận gió hòa, vụ mùa bội thu, thóc gạo đầy nhà vào vụ gặt năm tới, cầu cho
sự bình an của các gia đình, tránh được những tai ương ảnh hưởng đến mọi thành
viên trong dòng họ và cả cộng đồng.
177. Phong tục, lễ hội, tín
ngưỡng của dân tộc hre
Dân tộc Hre cư trú ở các huyện Sơn
Hà, Ba Tơ, Minh Long (Quảng Ngãi) và An Lão (Bình Định). Tiếng Hre thuộc ngôn
ngữ Môn-khme. Người Hre chủ yếu sống bằng nghề làm lúa nước và nương rẫy. Săn
bắn, hái lượm, đánh cá, rèn là những nghề phụ nhưng có ý nghĩa đáng kể. Người
Hre định canh thành từng làng (plây), ở nhà sàn. Trước cách mạng tháng 8 năm
1945, mỗi làng đều có già làng đứng đầu
1. Cưới xin:
Nguyên tắc một vợ một chồng đã được xác lập, dưới chế độ cũ, một số ít người
thuộc tầng lớp trên có hai, ba vợ. Một số người lấy vợ hai do hiếm con. Tập tục
cho phép vợ goá lấy em trai chồng, chồng có thể lấy em gái vợ.
Anh chị em con cô, con cậu, con dì con vợ cả, con vợ hai, con cùng mẹ khác cha
đều không được đặt quan hệ hôn nhân với nhau. Quan hệ luyến ái trái ngược với
phong tục thì bị phạt nặng, loạn luân bị coi là trọng tội. Trong cưới xin cũng
có người mai mối. Hôn nhân của người Hre không mang tính chất mai mối. Hôn nhân
của người Hre không mang tính chất mua bán. Hiện tượng kết hôn với người khác
tộc chưa phổ biến, nhưng đang phát triển dần, nhất là những người xen cư, kế
cận với người Việt, Xơ Đăng, Cor. Tuỳ theo hoàn cảnh thực tế của gia đình mỗi
bên mà chàng rể có thể về nhà vợ hay cô dâu về nhà chồng. Khi vợ chồng sinh con
đầu lòng thì tách khỏi cha mẹ, làm nhà riêng, thành đơn vị kinh tế độc lập.
Đám cưới thường được tổ chức vào dịp cuối năm , lúc rảnh rỗi và no đủ. Bên nào
đón người về (làm dâu hoặc ở rể) thì tổ chức nghi lễ lớn hơn. Họ mở tiệc mặn,
có rượu cần, trò chuyện và ca hát vui vẻ. Gia đình chuẩn bị sẵn một bếp dành
làm nơi ngủ cho đôi vợ chồng mới. Tại đây diễn ra những nghi thức tượng trưng
cho sự gắn bó vợ chồng. Hai người trao cho nhau miếng trầu, bát rượu, quàng
chung một vòng chỉ. Trường hợp đón dâu, nhà trai cử một cô gái đi đón về, nhà
gái cho một cô gái tiễn đưa. Cô dâu về nhà chồng qua cửa mang (cửa thông với
phần trong nhà). Đêm đầu người tiễn đưa ở lại ngủ cạnh nàng dâu (hoặc chú rể).
Sáng hôm sau đôi tân hôn quay trở lại nhà bố mẹ vợ hoặc chồng, rồi họ trở về
nơi cư trú đã định trước.
2. Sinh đẻ:
Gần đây, vợ chồng người Hre có xu hướng thích con trai hơn. Suốt những tháng
mang thai, phụ nữ kiêng cử, cầu cúng nhiều với hy vọng sinh đẻ dể dàng, đứa trẻ
lành lặn, dể nuôi. Người phụ nữ đẻ ngay bên bếp, một vài chị em thân cận và bà
mụ được mời tới cúng và hộ sinh. Đứa bé được cắt rốn, tắm rữa. Họ gói kín nhau
vào mo cau đem để trong hang đá, hoặc dưới gốc cây rừng, hoặc chổ cạnh nhà.
Trong khoản vài chục ngày sau khi đẻ, người mẹ nghỉ việc, kiêng ăn cá niêng,
trứng, ớt, chuối, thịt gà trắng, thịt trâu.
Đứa bé đầy tháng thì làm lễ đặt tên, tránh trùng tên hoặc vần với những người
trong họ hàng. Đồng bào quan niệm ma quỷ có thể làm con họ chết yểu, nên thường
dùng tên xấu xí. Cùng với việc lấy họ như người Việt, người Hre đã tiếp thu từ
“thị” trong tên nữ và từ “văn” trong tên nam. Thường ngày, người lớn không gọi
thẳng tên trẻ con mà dùng đại từ thay thế để xưng hô: con trai là “éo”, con gái
là “yên”, như người việt gọi “thằng cu”, “con gái”.
3. Tang ma:
Người chết bình thường tại nhà thì đặt ở tư thế nằm ngửa trên phần sàn vẫn ngủ
khi sống, rửa mặt bằng nước lã, mặc hai, ba lớp quần áo, rồi quấn chiếu hay đặt
vào hòm. Khi một gia đình có người qua đời thì họ hàng thân thuộc và cả dân
làng đến giúp lo ma chay. Nếu gia đình chưa chuẩn bị hòm thì một nhóm đàn ông
vào rừng kiếm gỗ làm hòm. Những người khác đi lấy gỗ, cỏ tranh, dây làm nhà mồ,
hoặc mổ heo, trâu giúp chủ nhà làm cơm đãi khách. Con vật hiến tế được coi là
dành cho người chết. Người Hre làm hòm bằng thân cây đục rỗng khá công phu, giống
như chiế thuyền độc mộc, có ván thiêng đậy lên trên. Nhà giàu thường để xác
người thân ba, bốn ngày, đâm trâu linh đình. Nhà nghèo thường để sau một ngày
đã đem chôn. Nếu người chết là chủ gia đình thì đưa ra ngoài theo cửa phía đầu
nhà, nếu là thành viên khác trong nhà thì đưa qua cửa bên.
Người Hre quan niệm, ban ngày ở dương gian là ban đêm ở cõi âm, nên có tục đốt
xác ong để dẫn đường khi đưa tang. Tục chia của cho người chết, nhiều loại, có
loại đặt trong hòm như quần áo, cơm , thịt, bạc, trầu, có loại chôn ngoài như
con gà, cái ché, có loại đặt trên mặt đất như dao, bếp, nồi, củi, gùi…
Người Hre không có tục để tang. Sau khi chôn cất, người thân nghỉ việc ruộng
rẫy vài ba ngày, không ca hát, hội hè gì. Năm hôm sau lễ chôn cất, người nhà
đem một con gà nhỏ ra cạnh làng để cúng, tỏ lòng thương tiếc, an ủi, chia sẻ
tình cảm với người chết một lần nữa. Trước khi ăn tết, các nhà có tang trong
năm cùng đem bánh nếp tới mộ than khóc, phát dọn cây con, để lại phần bánh trên
mộ. Từ đó đồng bào chỉ cúng người chết khi có do quẻ bói cho biết là có tổ tiên
quở phạt.
Dân tộc Hre quan niệm người chết trận, chết sinh đẻ, chết bị hổ vồ, sét đánh…là
chết độc (chết dữ), phải chôn riêng một chỗ xa làng. Nếu chết ở ngoài thì không
đem vào nhà. Đồng bào còn có tục làm ma giả đối với trường hợp chết mất xác
hoặc bỏ xác ở phương xa, mục đích là để mai tang những di vật của người xấu số.
4. Tín ngưỡng:
Người Hre nằm ngủ ngang sàn, đầu quay về phía đất thấp, bên trái là đầu nhà
dành cho đàn ông và tiếp khách, phần cuối nhà dành cho phụ nữ và trẻ em.
Người Hre cho rằng lực lượng siêu nhiên gồm nhiều loại thần linh mang tên gọi
khác nhau, có nhiệm vụ cụ thể. Làng ma là sự tưởng tượng của người Hre về cuộc
sống của thế giới bên kia, linh hồn người chết biến thành “ma” và sống ở đó.
Mọi sinh hoạt diễn ra giống như làng người sống nhưng trái ngược lại, như đêm
là ngày, cỏ là lúa…
Người Hre quan niệm mỗi người đàn ông có 7 hồn, đàn bà có 9 hồn, con vật cũng
có hồn. Đồng bào kiêng nhiều linh hồn tàng ẩn ở cây đa, tảng đá, con suối, con
rắn xanh. Đồng bào quan niệm có những thần linh liên quan đến trẻ con, lo sợ ma
quỷ làm hại con cháu, nên thường cho trẻ con đeo trước ngực một cái ngải hộ
thân kỵ ma. Đồng bào rất quan tâm đến những giấc chiêm bao lành hay dữ, những
điềm báo trên giò gà hoặc các dấu hiệu bắt gặp ngẩu nhiên như thấy chim bay,
hắt hơi, vấp chân…từ những điểm đó, có thể tiến hành hay đình hoãn những công
việc đã định.
Tín ngưỡng hồn lúa cùng các lễ thức trong quá trình sản xuất lúa chiếm vị trí
đáng kể, tập trung vào hai giai đoạn của mỗi mùa lúa, khi gieo cấy và khi thu
hoạch, cất lúa vào kho. Vị trí người đàn bà chủ lúa - vợ chủ nhà - là người
quản lý lương thực được coi là có liên hệ thần bí với hồn lúa. Ngày cúng cơm
mới, bà ta lấy lúa từ ruộng rẫy mang về rang, giả gạo, nấu cơm rồi chịu lễ và
một mình ăn cơm nấu trong “nồi thiêng”. Cũng chỉ bà mới được tỉa lúa làm phép,
đem gùi lúa đầu tiên về nhập kho…
Lễ cầu sức khoẻ, cúng ốm đau, cúng theo chu kỳ sản xuất, làm nhà mới, cúng
người chết, cúng đặt tên…đều tiến hành ở gia đình. Có những nghi lễ thu hút
đông đảo dân làng, người quen đến dự, nhất là lễ cúng đâm trâu. Ngoài ra, khi
có nạn dịch đe doạ người và gia súc, hai năm, ba năm một lần, cả làng tổ chức
cúng chung nhằm cầu an, ngăn ngừa bệnh tật. Đây là nghi lễ mang tính chất cộng
đồng.
Trước đây, bọn thực dân đế quốc cố du nhập đạo Tin lành đến vùng Hre nhưng
không được người Hre tiếp nhận. Ảnh hưởng của đạo Phật và Thiên chúa giáo cũng
không thâm nhập vào được dân tộc Hre
178. Phong tục Cưới Hỏi!
Nam nữ thụ thụ bất thân là gì?
Đây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của
nhà nho. Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của
nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau.
Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ tiêm trầu, đặt giữa bàn, khách
tự nhặt lấy mà ăn.
Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình trực tiếp khó mà thực hiện được,
họa chăng chỉ có đôi mắt là thầm lén nhìn nhau!
Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ
đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính.
Mối lái là gì ?
Trong xã hội phong kiến xưa "Nam nữ thụ thụ bất thân" nên hôn nhân
cần phải có môi giới. Nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách.
Trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa
thì trở thành ân nhân suốt đời. Ở xã hội mới, ngày nay vẫn còn có các bà mối,
các bà mối thời nay là người cố vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng hạnh
phúc lâu dài. Các bà mối chính là phương tiện thông tin đại chúng, câu lạc bộ
người độc thân, các công ty dịch vụ....
Lễ vấn danh có ý nghĩa gì ?
Là lễ nhà trai đến nhà gái hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ "Chạm
ngõ" hay là lễ "Dạm".
Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi
không, gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu "Công, dung, ngôn, hạnh".
Chẳng những các chàng trai, trước khi cưới nhiều chàng chưa biết mặt vợ, mà cả
những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết mặt con dâu.
Sự tích tơ hồng
Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên dựa theo tích Vi Cố gặp ông lão trong một đêm
trăng, ngồi kiểm soát hướng về phía mặt trăng, sau lưng có túi đựng dây đỏ. Ông
lão bảo đó là văn thư đựng hôn ước của thiên hạ, còn những sợi dây đỏ để buộc
chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng. Một hôm, Vi Cố vào chợ gặp một
bà lão chột mắt bế một đứa bé gái, ông lão hiện ra bảo cho biết đứa bé gái kia
sẽ là vợ anh, Vi Cố giận, sai đầy tớ tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ đâm
đứa bé giữa đám đông rồi bỏ trốn. Muời bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là
Vương Thái gả con gái cho Vi Cố. Người con gái dung sắc tươi đẹp, giữa lông mày
có dính trang điểm một bông mai vàng. Vương Cố gạn hỏi, vợ mới thưa: thuở còn
bé, bà vú bế vào chợ bị một đứa cuồng tặc đâm. Vi Cố hỏi lại: có phải bà vú bị
chột mắt không? Người vợ bảo: đúng thế. Vi Cố kể lại việc trước, hai vợ chồng
càng quý trọng nhau cho là duyên trời đã định sẵn.
Tục thách cưới
Thách cưới là một lệ tục lạc hậu, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái, có khi làm
cho chàng rể phải bỏ cuộc mà nỗi thiệt thòi lại rơi vào thân phận người con
gái, dẫu sao cũng mang tiếng một đời chồng, dẫu sao cũng làm cho những chàng
trai khác phải ngại, xui nên thân phận hẩm hiu.
Đáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thành thất, là mừng cho cả hai gia đình
nhưng gặp phải ông bác bà cô bên nhà gái khó tính, thách cưới nào là quần áo,
nón dép, nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt, cỗ cưới...nên nhà trai phải bỏ cuộc
hoặc phải chạy ngược chạy xuôi, lo xong việc rồi kéo cày trả nợ, song ngay từ
buổi thành hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ, đó là mầm mống gây
nhiều bất trắc về sau.
Cũng có trường hợp nhà gái túng thiếu không thể tự lực cung cấp cho đủ lệ làng,
đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Cũng có trường hợp bố mẹ cô dâu còn phải
xuất ra gấp năm gấp mười lần, và sau khi thành thân, còn cho con gái, con rể
nhiều thứ, nhưng cũng thách cưới cao để tránh tiếng xì xào, đàm tiếu rằng con
gái mình dở duyên rồi, nên phải cho không.
Hay các gia đình có học thì lại không thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa
văn chương chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con gái mình còn được
"võng anh đi trước, võng nàng theo sau".
Tiền "Cheo"
Tiền "Cheo" là khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai
gái cùng làng xã lấy nhau cũng phải nộp cheo nh*ng có giảm bớt. Xuất xứ của lệ
"nạp cheo" là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc
đường hoặc ở cổng làng. Đầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta
chúc tụng.
Để đáp lễ, đoàn đ*a dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà, đưa tiền biếu tặng.
Dần dần có nhiều người lợi dụng vòi tiền, sách nhiễu, trở thành lệ tục xấu,
triều đình ra lệnh bãi bỏ. Thay thế vào đó, cho phép làng xã được thu tiền
cheo. Khi đã nộp cheo cho làng, tức là đám cưới được công nhận có giấy biên
nhận hẳn hoi.
Ngày xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú.
Khoản tiền cheo này nhiều địa phương dùng cho việc công ích như đào giếng, đắp
đường, lát gạch, xây cổng làng... Đã hơn nửa thế ký, lệ làng này bị bãi bỏ rồi.
Xuất
xứ của lệ "Nạp cheo" là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây
ở dọc đường hoặc ở cổng làng. Đầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ,
người ta chúc tụng, có nơi còn đốt pháo mừng. Để đáp lễ, đoàn đưa dâu cũng đưa
trầu cau ra mời, đưa quà, đưa tiền biếu tặng. Dần đần có những người làm ăn bất
chính, lợi dụng cơ hội cũng chăng dây, vòi tiền, sách nhiễu, trở thành tục lệ
xấu. Vì thói xấu lan dần, gây nhiều cản trở, triều đình phải ra lệnh bãi bỏ.
Thay thế vào đó, cho phép làng xã được thu tiền cheo. Khi đã nạp cheo cho làng,
tức là đám cưới được làng công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi. Ngày xưa, chưa
có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Nạp cheo so với
chăng dây là tiến bộ. Khoản tiền cheo này nhiều địa phương dùng vào việc công
ích như đào giếng, đắp đường, lát gạch, xây cổng làng...Nhưng nhiều nơi chỉ
cung đốn cho lý hương chè chén. Đã hơn nửa thế kỷ, lệ này bị bãi bỏ rồi. Thanh
niên ngày nay chỉ còn thấy bóng dáng của tiền cheo qua ca dao- tục ngữ.
- Nuôi lợn thì phải vớt bèo
Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.
- Cưới vợ không cheo như tiền gieo xuống suối.
- Ông xã đánh trống thình thình
Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo.
- Lấy chồng anh sẽ giúp cho
Giúp em...
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Thật quá cường điệu, Chứ tiền cheo không thể vượt quá tiền cưới.
Trước khi cô dâu về nhà chồng cần những thủ tục gì?
Khi nhà trai bắt đầu đến đón dâu cùng với chú rể đến trước bàn thờ xin tổ tiên
chấp nhận kể từ nay nên vợ nên chồng, phù hộ cho trăm năm duyên ưa phận đẹp,
cầm sắt giao hoà.
Lễ xong, hai người đi mời chào thân nhân, khách khứa, trước hết là những người
bề trên, cao tuổi, khách trước, người nhà sau. Trong khi chào mời, cô dâu phải
giới thiệu cho chàng rể biết mối quan hệ để biết cách xưng hô.
Sau cùng, trước khi bước ra cửa để về nhà chồng là lễ tạ cha mẹ. Cha mẹ ngồi
sẵn một phía ở cửa chính, nếu ông bà nội ngoại còn thượng tại có đến dự thì ông
bà cũng ngồi chung một phía, nhưng ở phía cao hơn.
Thời xưa đôi tân hôn phải lạy hai lạy, ngày nay châm chước, cúi đầu cung kính
xin phép ông bà, cha mẹ. Lúc đó, cha mẹ ban phát cho con gái, con rể một vật gì
đó làm kỷ niệm. có thể là nột cái bút, một gương soi nho nhỏ, một cuốn sách
hoặc một chiếc khăn, chiếc quạt.... Nhà giầu còn cho thêm hoa tai, nhẫn cưới
hoặc quan tiền... (Chú ý, những thứ này nhà trai đã đưa đến hôm lễ nạp tài.
Trong gói quà của bà mẹ cho con gái có cái châm cài tóc, hoặc bảy chiếc kim
đính tóc hoặc kim khâu gói trong khăn vuông).
Đối với ông bà cũng có những động tác tương tự.
Ý nghĩa của lễ xin dâu và thủ tục
Lễ này rất đơn giản, trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là
bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo
trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp.
Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay: mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ
trước về ngày giờ và thành phần đón dâu, song để đề phòng mọi bất trắc nên mới
định ra lễ này để cẩn trọng trong hôn lễ.
Thời gian này chú rể và bố mẹ chú rể rất bận rộn nên không thể sang nhà gái,
nên uỷ thác cho người đại diện sang báo như bộ phận "tiềm trạm".
Trong trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có
thể thoả thuận để miễn lễ nay, hoặc nhập lễ xin dâu và lễ đón dâu vào làm một.
Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau:
Khi đoàn vào đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn chỉnh đốn lại y trang, sắp xếp lại
thứ tự đi trước đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu cùng một người đội lễ
(mâm quả trong đựng trầu cau, rượu) vào trước, đặt lên bàn thờ, thắp hương vái
rồi trở ra dẫn đoàn vào chính thức làm lễ đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất
nhanh.
Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh
trưởng cũng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào.
Mẹ chồng làm gì khi con dâu bắt đầu về nhà?
Phong tục ở mỗi địa phương một khác, trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa hay.
Ngày xưa ở nhiều địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục mẹ chồng ra cất nón cho
con dâu:
Nhà trai đặt sẵn trước ngõ một nồi đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một quan
tiền đồng và đựng đầy nước trong.
Cô dâu vào đến cổng dùng gáo múc nước rửa mặt mũi chân tay, mẹ chồng bước ra
cất nón cho con dâu.
Lễ chạm ngõ (xem mặt, dạm ngõ)
Đây là một lễ nhằm chính thức hóa quan hệ hôn nhân của hai gia đình. Theo số
liệu xã hội học, tần suất thực hiện lễ chạm ngõ ở xã hội ta hiện nay đang có xu
hướng tăng. Như thế, đây là nhu cầu xã hội chứ không phải hành vi hướng cổ có
tính chất chơi trội của một nhóm xã hội nào.
Tuy nhiên, do chưa có sự hiểu biết đầy đủ về lễ này (do người ta ít thực hành
nó trong mấy chục năm qua) nên nhận thức của người dân và thực hành của họ về
lễ này còn chưa đúng. Thậm chí, những người làm công tác quản lý xã hội và văn
hóa cũng chưa có sự am hiểu sâu sắc về lễ này.
Lễ chạm ngõ ngày nay cũng không theo lối xưa, chỉ là buổi gặp gỡ giữa hai gia
đình. Nhà trai xin đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ được tự do
đi lại, tiếp tục quá trình tìm hiểu nhau một cách kỹ càng hơn, trước khi đi đến
quyết định hôn nhân. Buổi lễ này, không cần vai trò hẹn trước của người mối (kể
cả những trường hợp yêu nhau nhờ mai mối), không cần lễ vật rườm rà.
Về bản chất, lễ này chỉ là một ứng xử văn hóa, thông qua đó hai gia đình biết
cụ thể về nhau hơn (về gia cảnh, gia phong), từ đó dẫn tới quyết định tiếp tục
hay không quan hệ hôn nhân của hai gia đình. Lễ vật của lễ chạm ngõ theo truyền
thống rất đơn giản: chỉ có trầu cau.
Xét về mặt chức năng: nếu bỏ qua lễ này mà đi thẳng vào lễ ăn hỏi thì mọi việc
sẽ bị cảm thấy đường đột, ngang tắt, không có khởi đầu. Vì thế, tuy không phải
là một lễ trọng nhưng lại là một lễ không thể thiếu trong tiến trình hôn lễ.
Hơn nữa, lễ này không tốn kém (lễ vật chỉ có trầu cau) mà lại biểu thị được bản
sắc văn hóa dân tộc (văn hoá trầu cau) thì việc bỏ qua lễ này là điều không hợp
lý.
Đối với lễ này, thường người Việt Nam vẫn tiến hành theo khuôn mẫu cổ truyền:
Thành phần tham gia:
- Nhà trai : Bố, mẹ, chú rể, người mối (nếu có).
- Nhà gái : Cả gia đình nhà gái.
Trang phục:
- Trai : complet
- Gái : áo dài
Nếu do điều kiện không có thì mặc những bộ quần áo đẹp nhất mà mình có.
Phương tiện đi lại:
- Ở thành phố : tốt nhất là thuê một chuyến xe con 5 chỗ (vừa đủ 4 người nhà trai
đi) hoặc đi xe máy.
- Ở nông thôn : nếu xa có thể đi bằng xe máy, nếu gần : đi bộ.
Lễ vật của nhà trai: Trầu cau và chè
Nhưng số lượng phải tính chẵn. (Ví dụ : 2 gói chè, hai chục cau).
Đón tiếp ở nhà gái : Dọn dẹp nhà cửa sạch, đẹp. Ăn mặc trang trọng. Khi đoàn
khách nhà trai đến, đón chào niềm nở. Tiếp khách bằng trà (nếu có trà thơm là
tốt nhất). Khi nhà gái đồng ý nhận lễ vật, mang đặt lên bàn thờ thì cuộc lễ coi
như kết thúc. Sau đó hai bên có thể ngồi lại nói chuyện đôi chút.
Lễ ăn hỏi
Có thể nói rằng, lễ ăn hỏi là sự thông báo chính thức về sự hứa giá thú của hai
gia đình, hai họ. Nó đánh dấu một chuyển đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân
: Cô gái được hỏi đã chính thức trở thành vợ chưa cưới của chàng trai đi hỏi.
Ngày nay, về hình thức lễ này vẫn giữ tên là lễ ăn hỏi, nhưng trên thực tế, thì
lễ này bao hàm cả lễ dẫn cưới. (Sự quy giản này phần nào cho chúng ta thấy tính
thích nghi của văn hóa cổ truyền trong xã hội đương đại). Chính vì thế, mô hình
lễ ăn hỏi ngày nay phải phản ánh được sự thay đổi ấy, nói cách khác, trong các
nghi thức ở lễ ăn hỏi ngày nay phải có cả những nghi thức của lễ dẫn cưới.
Mô hình lễ ăn hỏi trong xã hội Việt Nam đương đại như sau:
Về thành phần tham dự
- Nhà trai : Đại diện gia đình, họ hàng, chú rể, một số cô gái chưa chồng đội
mâm quả hay còn gọi là bê tráp (bây giờ có thể là nam thanh niên) vì các cô sợ
"mất duyên", số người bê tráp là số lẻ, 5 hoặc 7 hoặc 9...
- Nhà gái : Bố mẹ, ông bà (nếu còn), anh chị em ruột của cô dâu, cô dâu và một
số bạn bè thân cận. Ở nông thôn có thể có một số cô dì chú bác của cô dâu).
Về lễ vật:
Cau tươi : 1 buồng
Bánh cốm : 200 chiếc
Hạt sen : 2 kg
Chè : 2 kg
Rượu : 2 chai
Thuốc lá : 2 tút
Bánh xu xê (phu thê) : 200 hoặc 20
Phong bì tiền : 2 chiếc
Đó là những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền; tất nhiên, chất l*ợng và số
lượng thêm thì tùy thuộc vào năng lực kinh tế của từng gia đình. Tuy nhiên, số
lượng nhất thiết phải là 2. Về lễ vật cho lễ này, cần phải tránh xu hướng phục
cổ cực đoan (phục hồi tục thách cưới hay thách cưới trá hình) cũng như một cực
đoan khác là : nhà trai không có lễ vật dẫn cưới.
Ý nghĩa của lễ vật dẫn cưới là : thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với
công ơn dưỡng dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách xưa là : nhà trai bỗng dưng
được thêm người, còn nhà gái thì ngược lại, "Con gái là con người
ta". Mặt khác, lễ vật cũng biểu thị được sự quý mến, tôn trọng của nhà
trai đối với cô dâu tương lai.
Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện được thiện ý của nhà trai
: xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí xung quanh hôn sự.
"Tiền mặt" : Đây là vấn đề đang được tranh cãi nhiều : có ý kiến cho
rằng, lễ vật bằng tiền thì quá thô, thậm chí còn có người cho rằng, làm như vật
là xúc phạm đến nhà gái,... có người thì lại cho rằng, vấn đề là ở cách đưa
tiền : làm thế nào để tiền trở thành một lễ vật chứ không phải là một phương
tiện trao đổi, mua bán như chức năng vốn có của nó.
Nếu số tiền đó được đổi thành những đồng tiền mới tinh (như tiền mừng tuổi mà
ông bà, cha mẹ chúng ta thường làm) và được bao bởi một phong bì đẹp màu đỏ, có
in chữ "song hỷ" thì người nhận lễ sẽ không bị mặc cảm là mình đã
nhận tiền theo nghĩa đen nữa.
Rước lễ vật : Tất cả các lễ vật phải được sắp xếp gọn gàng và thẩm mỹ. Và nhất
thiết phải được bày vào quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng đánh bóng, phủ vải
đỏ). Có như thế mới nhấn mạnh được tính biểu trưng của lễ vật. Xưa, người đội
lễ phải khăn áo chỉnh tề, thắt dây lưng đỏ. Nay, các cô gái đội lễ đã có áo dài
đỏ thay thế (trông đẹp hơn) nên không cần phải dùng thắt lưng đỏ nữa. Dù dùng
phương tiện đi lại là : ô tô, xích lô, xe máy, hay đi bộ thì đoàn ăn hỏi cũng
nên dừng lại cách nhà gái khoảng l00m, sắp xếp đội hình, rồi mới đội lễ vào nhà
gái. Đây thực sự là một hình thái văn hóa dân tộc.
Những lễ vật dẫn cưới theo phong tục cổ truyền đều thể hiện được ý nghĩa trên
và ngày nay người Việt Nam vẫn tuân thủ.
Trang phục : trang phục cho cô dâu (tốt nhất là một bộ áo dài, vừa có thể mặc
trong lễ cưới, vừa có thể mặc ở những dịp lễ hội sau này). Nếu kinh tế nhà trai
khá giả có thể sắm cho cô dâu tương lai một trong những đồ trang sức sau :
xuyến, vòng, hoa tai... Chú rể thì comple, cà vạt.
Tiếp khách : Vì đây là một lễ trọng nên nhà gái phải chuẩn bị chu đáo hơn lễ
chạm mặt. Tuy nhiên, do nội dung chủ yếu của lễ này là sự bàn bạc cụ thể, chính
thức của hai gia đình về việc chuẩn bị lễ cưới, nên nhà gái không bày tiệc mặn
mà chỉ bày tiệc trà. Nghi thức trao nhận lễ vật cũng nên trở thành nghi thức
bắt buộc.
Trách nhiệm của cô dâu : Phải ngồi trong phòng cho đến khi nào chú rể vào đón
hoặc cha mẹ gọi mới được ra. Ra mắt tổ tiên bằng cách thắp hương lên bàn thờ
(đối với những nhà không theo đạo Thiên chúa). Sau đó cô dâu sẽ cầm ấm trà đi từng
bàn để rón nước mời khách.
Nhà gái : sau khi nhận lễ rồi đưa lên bàn thờ thắp hương, nhà gái sẽ lấy ra mỗi
thứ trong đồ lễ ăn hỏi một ít để "lại quả". Lưu ý là đối với cau thì
phải xé chứ không được dùng dao để cắt. Khi nhà trai nhận lại tráp để bê về thì
phải để ngửa, không được úp tráp lại.
Biếu trầu : Xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái dùng các lễ vật nhà trai đã đưa để chia
ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng,... ý nghĩa của
tục này là sự loan báo : Cô gái đã có nơi có chỗ.
Ngày nay, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn không cách xa nhau nhiều về mặt thời gian
nên trong khi biếu trầu người ta thường kết hợp với đưa thiếp mời đến dự cưới.
Có nhiều người phản đối việc duy trì tục này với lý dó là : những quà biếu này
không được sử dụng, gây lãng phí, tốn kém cho nhà trai. Tuy nhiên, tục
"biếu trầu" chỉ áp dụng đối với họ hàng hay một số bạn bè thân thiết,
nếu không thì việc đưa thiếp mời sẽ không có tính biểu trưng.
Lễ cưới
Lễ cưới là đỉnh điểm của cả quy trình tiến tới hôn nhân, là hình thức liên
hoan, báo hỉ mừng cô dâu, chú rể, mừng hai gia đình, có ý nghĩa rất thiêng
liêng. Do đó, cả xưa và nay, mọi người đều rất coi trọng. Đây cũng chính là
nghi lễ được dư luận xã hội quan tâm nhiều hơn cả. Lễ cưới chỉ được tổ chức sau
khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Thủ tục đăng ký
kết hôn rất đơn giản.
Hai người chỉ việc mua 2 mẫu đăng ký tại Uỷ ban Nhân dân phường (xã) (nam 1 tờ
và nữ 1 tờ), điền vào mẫu và mỗi người đều phải lấy chứng nhận của phòng tổ
chức nơi mình công tác. Nếu chưa đi làm, bạn có thể xin xác nhận của ông tổ
trưởng dân phố (xóm). Sau đó, cả hai cùng đến Uỷ ban Nhân dân phường đem theo
hộ khẩu và chứng minh để xin đăng ký. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn sẽ được
trao cho hai người sau đó khoảng 10 ngày.
Trước đây, người ta gọi lễ này là lễ rước dâu. Ngày nay, trong ngôn từ của đời
sống thường ngày, người ta gọi lễ này là lễ cưới (dịch theo tiếng Hán là hôn
lễ). Điều đó chứng tỏ vị trí rất quan trọng của lễ này trong hệ thống hôn lễ. Ý
nghĩa của lễ này là : Công bố sự thành hôn của đôi trai gái, vì thế lễ này còn
gọi là lễ thành hôn.
Trong tâm thức người Việt (từ xưa cho đến ngày nay) thì lễ cưới (chứ không phải
tờ hôn thú) có giá trị pháp lý cao nhất. Tuy nhiên, chính ở lễ này nhiều vấn đề
xã hội "gay cấn" diễn ra, khen chê của dư luận xã hội đều tập trung
vào lễ này. Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi sự khen chê ấy không đồng
nhất, thậm chí còn đối lập nhau. Ví dụ : ngày nay một đám cưới theo nghi thức
cổ truyền có thể vừa được khen, vừa bị chê. Người khen thì cho rằng, thế mới là
đám cưới Việt Nam, thế mới không sợ sự du nhập của văn hoá bên ngoài, nhưng
người chê thì lại nói rằng : thế là rườm rà, lãng phí và luỵ cổ...
Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu, mẹ chú rể sẽ cùng một người thân trong gia đình
đến nhà gái đem cơi trầu, chai rượu để báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, nhà
gái yên tâm chuẩn bị đón tiếp. Trước đây, do có sự gả bán, cưỡng hôn nên trong
hôn lễ dễ có sự cố (chú rể hoặc cô dâu vì không đồng ý tổ chức hôn lễ, tự bỏ
trốn...), nên lễ này nhằm xác định chính xác lần cuối cùng thời gian đón dâu
hoặc xem lại có sự cố, bất trắc gì không. Ngày nay, hôn nhân dựa trên cơ sở của
tình yêu đối lứa, nên những bất trắc rất hiếm, thời gian đã thống nhất trước
thường được đảm bảo.
Rước dâu : Dù đoàn rước dâu của nhà trai có đi bằng phương tiện gì đi chăng nữa
thì trước khi vào nhà giá cũng phải "chấn chỉnh đội hình". Thông
thường, đi đầu là đại diện nhà trai (là người khéo ăn, khéo nói, có vị thế xã
hội). Tiếp đến là bố chú rể, chú rể và bạn bè (ở Việt Nam, mẹ chồng không bao
giờ đi đón con dâu, thậm chí khi cô dâu về đến nhà chồng, mẹ chồng còn phải
trốn một lúc rồi mới ra tiếp khách). Thời nay, đoàn rước dâu cũng không đông
người lắm, chỉ khoảng 20 người vì đông quá nhà gái không đủ chỗ tiếp vả lại còn
phải nhường chỗ ở xe ô tô cho nhà gái đưa dâu. Làm như thế, trước hết để đoàn
nhà trai tránh được sự lộn xộn, lúng túng trong ứng xử (nếu vào nhà gái mà vẫn
không theo thứ tự sắp đặt trước); nhưng điều quan trọng hơn là tạo điều kiện để
nhà gái không bị động, không bị bất ngờ trong nghênh tiếp.
Trước đây, nhà trai báo hiệu cho nhà gái bằng một tràng pháo và khi nào nhà gái
đáp lại bằng một tràng pháo khác thì nhà trai mới được và có một tục khác là
tục chằng dây cũng có tác dụng tương tự. Tục này từng bị phê phán là hủ tục nên
đã bị bãi bỏ từ lâu. Trong tình hình mới hiện nay, "hình thức" của
tục này vẫn tồn tại nhưng "nội dung" lành mạnh, nhẹ nhàng, vui vẻ hơn
: Nhà gái bố trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn, mặc áo đỏ (hay thắt lưng, nơ đỏ)
chăng dây chờ sẵn ở trước nhà gái khoảng độ 20-30m. Khi nhà trai đến, một trong
các em nhỏ chạy về báo cho nhà gái biết. Nhà trai chuẩn bị một ít kẹo để phân
phát cho lũ trẻ chăng dây này (khi đã nhận được kẹo bọn chúng sẽ rút dây để
đoàn nhà trai đi vào nhà gái). Như vậy, tục chăng dây sẽ trở thành một hình
thái văn hóa khác hẳn về chất so với tục lan nhai ngày xưa. Nó sẽ tô điểm thêm bản
sắc văn hoá của người Việt.
Sau khi đã vào nhà gái, nhà trai được mời an tọa. Hai bên giới thiệu nhau, sau
một tuần trà, đại diện nhà trai đứng dậy có vài lời với nhà gái xin chính thức
được rước cô dâu về.
Nhà gái đáp từ : Sau khi được "các cụ" cho phép, chú rể mới được vào
phòng trong để trao hoa cho cô dâu và cùng cô dâu đến trước bàn thời thắp nén
hương rồi ra chào bố mẹ, họ hàng hai bên. Cha mẹ cô dâu dặn dò đôi vợ chồng trẻ
về cách sống, về tình yêu thương, về đạo lý vợ chồng. Vị đại diện nhà trai đáp
lời thay cho chú rể và xin rước dâu lên xe. Nhà gái cùng theo xe hoa về nhà
trai dự tiệc cưới. Trước đây, khi xe hoa (đám rước dâu) về tới cửa, nhà trai
đốt pháo mừng. Nay, không có pháo nữa, người ta phải thế vào đó bằng cách khởi
nhạc sống hoặc mở băng nhạc để tạo không khí vui vẻ, long trọng để nghênh tiếp
cô dâu và nhà gái.
Đầu tiên, cô dâu và chú rể được cha mẹ dẫn đến bàn thờ để thắp hương yết tổ (lễ
gia tiên), rồi chào họ hàng bên chồng. Sau đó là lê tơ hồng, (ngày nay, lễ tơ
hồng không còn là một nghi thức. có tính bắt buộc nữa) tùy từng gia đình, lễ
này có thể làm, có thể không). Tiếp theo, cô dâu được dẫn vào phòng cưới, ngồi
lên chiếc giường cưới do một người được nhà trai chọn sẵn (mắn con) trải chiếu.
Cuối cùng, nhà trai mời nhà gái và tất cả những người tham dự ăn tiệc cưới.
Trước kia, tiệc cưới do gia đình người ta thường thuê chỗ và người nấu tiệc.
Không biết tự bao giờ, nhiều gia đình ở thành phố thường làm "ngược"
tiến trình này : Họ không rước dâu về nhà mà rước thẳng đến phòng cưới (mà thực
chất là phòng tiệc nhà hàng). Sau khi xong việc ở phòng cưới, cô dâu - chú rể
mới về nhà chồng, gia đình nền nếp thì có lễ gia tiên, lễ tơ hồng, trải chiếu,
có một số gia đình coi như đám cưới đã xong!
Về trang phục :
- Chú rể : complet, cài hoa trước ngực.
- Cô dâu : áo cô dâu theo mốt châu Âu, màu trắng hoặc màu kem
Về biểu trưng : Khoảng gần trăm năm qua, dân ta cũng đã cố gắng suy nghĩ - sáng
tạo ra nhiều biểu trưng khác nhau cho lễ cưới (như đôi chim bồ câu, đèn lồng,
trái tim, chữ lồng, mặt hai người hôn nhau,...) nhưng không thể thay thế được
biểu trưng của chữ song hỷ : sở dĩ như vậy là do chúng vừa thiếu tính thẩm mỹ
vừa thiếu tính thông tin (hiểu theo nghĩa ký hiệu học). Cho đến nay, và có lẽ
mãi mãi, biểu trưng song hỷ vẫn là biểu trưng của đám cưới: người không hiểu
chữ Hán nhìn vào chữ này cũng hiểu và cảm nhận được ngay : đám cưới. Cũng phải
khẳng định thêm rằng: chữ song hỷ đã được đúc kết từ hàng ngàn năm, nó đã đạt
đến độ hoàn thiện (cả về ý nghĩa xã hội lẫn tính hoàn mỹ).
Ở đây cũng nên phê phán quan điểm dân tộc hẹp hòi, cho rằng chữ này là của Tàu,
ta phải có biểu trưng của ta, riêng biệt, độc nhất. (Cái gì được du nhập từ bên
ngoài, nhưng đã bắt rễ và sống ở ta thì cái đó đã trở thành truyền thống của ta
rồi).
Về đồ mừng cưới : Xưa, các cụ ta có tục mừng đỡ, nay, người đến dự đám cưới
tặng đôi vợ chồng trẻ cái gì đó cũng là điều hiển nhiên. Vấn đề nổi cộm của
việc mừng cưới hiện nay là : Cấp dưới nịnh, hối lộ cấp trên thông qua phong bì
mừng cưới. Tuy nhiên, số đám cưới của các con quan này không phải là nhiều, vì
thế đây không phải là vấn đề của văn hóa, (những hành vi kiểu này chỉ là nhất
thời, nó sẽ biến đi theo sự thay đổi thời cuộc). Vấn đề đáng quan tâm hơn về
phương diện văn hóa (xây dựng nếp sống) ở đây là : Tặng quà cưới thế nào để
người tặng và người nhận đều giữ được lễ? Quà cưới và tặng quà cưới cần phải
bảo đảm được những nguyên tắc sau :
Trang trọng : muốn vậy, quà phải được bọc giấy điều, dù là tiền cũng phải được
bọc trong phong bì đẹp. Trong đám cưới, cần có ban lễ tân (thường là người
thân) đứng ra nhận quà mừng, hướng dẫn khách và đỡ gói quà cho khách (nếu cồng
kềnh) vào nơi qui định. Cần tránh việc cô dâu - chú rể vừa đi chào mọi người
vừa thu tiền mừng (trông không được đẹp mắt lắm). Nếu không biết được "nhu
cầu sở thích" của cô dâu - chú rể, thì không nên mua đồ mà nên mừng bằng
tiền. Số tiền cũng theo "mặt bằng" chung. Ban tổ chức đám cưới cũng
nên lưu ý một vấn đề khác, tế nhị hơn là: phải tạo điều kiện để những người
không có tiền mừng (ví dụ tầng lớp sinh viên chẳng hạn) vẫn đến mừng đám cưới
được. Nhiều gia đình đã "xử lý" tình huống này rất hay theo cách :
ngoài tiệc mặn, có thêm tiệc trà. Tiệc trà, không có tiền mừng nhưng người tham
dự không bị áy náy như ở tiệc mặn.
Về tiệc cưới : Ngày nay, khi nền kinh tế đã tăng trưởng, các gia đình đã có
những tích lũy nhất định, thì việc cưới to hay nhỏ (nhiều mâm hay ít mâm) không
còn là vấn đề phải bàn cãi nữa. Đặc biệt là ở nông thôn, tính cộng đồng xóm
giềng, làng xã, họ hàng đang còn mạnh thì tiệc cưới là một dịp tốt để củng cố
tính cộng đồng ấy. Vấn đề cần bàn ở đây chỉ là tiệc cưới ở thành phố. ở thành
phố, người ta thường kết hợp tiệc cưới với lễ thành hôn, cho nên nhiều khi cái
"tục" của sự ăn lấn át mất cái "thiêng" của lễ cưới : Người
ta đến ăn, ngồi cùng bàn ăn là những người không quen biết, ăn sao cho đúng giờ,
khi cô dâu - chú rể đến thì rút phong bì ra trao cho họ, khiến người ta cảm
thấy như là sự trả tiền cho bữa ăn.
Chụp hình ngoài trời:
Ở một số thành phố lớn, cô dâu và chú rể thường đến một số địa điểm đẹp ngoài
trời để chụp ảnh làm kỷ niệm. Cảnh đẹp sẽ tôn thêm vẻ đẹp của dâu và chú rể
cùng những ước mong về một cuộc sống tươi đẹp và ngập tràn hạnh phúc. Với cách
chụp hình ngoài trời, cô dâu và chú rể sẽ lưu lại được những bức ảnh có giá trị
cùng với phong cảnh tự nhiên. Phong trào này hiện nay rất phổ biến, được nhiều
người ở thành phố áp dụng. Đây cũng là một cơ hội để bà con họ hàng của cô dâu
chú rể được tận mắt trông thấy những cảnh đẹp và bộ mặt thay đổi của thành phố,
đặc biệt là đối với những người không có nhiều điều kiện "ra tỉnh".
179.
Phong Tục Tập Quán Trong Đám Giỗ
Theo
tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó,
ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ.
Đây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia đình trong dòng họ, họp mặt để
tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong. Vào dịp đó
người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là trước cúng
sau ăn, cũng là để cho cuộc gặp mặt đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sum họp,
kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Với ý nghĩa "Uống nưước nhớ nguồn"
việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục.
Tục bái vật là gì?
Trong phong tục cổ truyền của ta có tục bái vật không?
Quan niệm cổ xưa không riêng ta mà nhiều dân tộc trên thế giới cho rằng mọi
vật do tạo hoá sinh ra đều có linh hồn. Mỗi loại vật, kết cả khoáng vật, thực
vật cũng có cuộc sống riêng của nó. Lúc đó người ta chưa phân biệt thế giới hữu
sinh và vô sinh. Con người chưa thể lý giải nổi những yếu tố thiên nhiên xung
quanh chi phối mình như thế nào nên các vật như hòn đá, thân cây, con vật có
quan hệ mật thiết với họ đều được họ tôn thờ như thần linh. Trong ngôn ngữ
nhiều nước ở châu Âu (như tiếng Pháp) mọi vật trong tạo hoá hữu hình hay vô
hình, cụ thể hay trừu tượng đều mang khái niệm âm dương, đều có giống đực giống
cái.Đó là chứng cứ xuất xứ tục bái vật hiện tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế
giới và một vài dân tộc ở miền núi nước ta.
ở ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu đình, giếng nước, cửa rừng cũng được nhân
dân thờ cúng, coi đó là một biểu tượng, nơi ẩn hiện của một vị thiên thần hoặc
nhân thần nào đó. Người ta "Sợ thần sợ cả cây đa" mà cúng cây đa, đó
không thuộc vào tục bái vật. Cũng như người ta lễ Phật, thờ Chúa, quì trước
tượng Phật, tượng Chúa, Lễ Thần, quì trước long ngai của Thần, những Thần đó có
thần hiệu rõ ràng, chứ không phải lạy khúc gỗ hòn đá như tục bái vật.
Xưa, xa xưa, ta có tục bái vật không? Ngày nay chỉ còn lại vài dấu vết trong
phong tục. Thí dụ, bình vôi là bà chúa trong nhà, chưa ai định danh là bà chúa
gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi.
Khi con dâu về nhà, mẹ chồng tạm lánh ra ngõ cũng mang bình vôi theo, có nghĩa
là tạm lánh nhưng luôn nắm giữ uy quyền. Khi lỡ làm vỡ bình vôi thì đem mảnh
bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vức ở chỗ ô uế.
Gỗ chò là loại gỗ quí, gỗ thiêng chỉ được dùng để xây dựng đình chùa, nhà thờ.
Nhân dân không ai được dùng gỗ chò làm nhà riêng. Ngày xưa trong đám củi theo
lũ cuốn về xuôi, nếu có gỗ chò, các cụ còn mặc áo thụng ra lạy, lạy gốc chứ đã
phải lạy thần đâu!
Còn như tục kiêng vứt chân hương vào thùng rác hoặc chỗ dơ bẩn, kiêng dùng giấy
có chữ Nho vào việc uế tạo người ta cũng thận trọng cất đi, đó là vì ý thức tôn
sùng thần linh, cụ thể là đức Khổng Tử, chứ không phải là sợ hồn của chân hương
hay tờ giấy. Đó không phải là tục bái vật.
Lễ cúng giỗ vào ngày nào?
Lễ cúng giỗ vào đúng ngày mất hay trước ngày mất một ngày? Có người cho rằng
phải cúng vào ngày đang còn sống (tức là trước ngày mất), có người lại cho rằng
"trẻ dôi ra, già rút lại", vậy nên chết trẻ thì cúng giỗ đúng ngày
chết, còn người già thì cúng trước một ngày. Vậy có câu hỏi: "Người trung
niên chết thì cúng vào ngày nào"?
Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ
tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ.
Nguyên ngày trước, "Lễ Giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ": chiều hôm
trước lễ chính kỵ có "Lễ tiên thường" (Nghĩa là nếm trước), con cháu
sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà
phú hữu mời thông gia, bà con làng xóm đến mời ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và
chính kỵ. Dần dần vì khách đông phải chia ra hai lượt; lại có những nhà hàng
xóm mời cả hai vợ chồng nên luân phiên nhau, người đi lễ tiên thường, người đi
lễ chính kỵ, ở nông thôn tuỳ theo thời vụ, muốn "Vừa được buổi cày vừa hay
bữa giỗ", buổi chiều đi làm đồng về, sang hàng xóm ăn giỗ tiện hơn nên có
nơi lễ tiên thường đông hơn là lễ chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì
kinh tế eo hẹp hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời
khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Một vài nhà làm,
những người khác thấy thuận tiện bắt chước, dần dần trở thành tục của địa
phương. Việc cúng ngày sống (tức lễ tiên thường vào chiều hôm trước, nguyên xưa
chỉ cúng vào buổi chiều vì buổi sáng còn phải mua sắm nấu nướng và ra khấn ở mộ
yết cáo với thổ thần, long mạch xin phép cho gia tiên về nhà dự lễ giỗ). Cúng
ngày sống hay cúng ngày chết, hay nói cách khác lễ tiên thường hay lễ chính kỵ,
lễ nào là lễ quan trọng hơn, chẳng qua đó là cách biện hộ cho phong tục từng
nơi.
Kết luận: Nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì
trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính
kỵ) phải cúng buổi sáng kể cả chiều hôm đó mới chết.
Ngày cúng giỗ
Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ
tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ.
Nguyên ngày trước, "Lễ giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ"; chiều hôm
trước lễ chính kỵ có "lễ tiên thường" (nghĩa là nếm trước), con cháu
sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà
phú hữu mời bà con làng xóm ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần
hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản
lược đi, chỉ mời khách một lần những hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ.
Tóm lại, nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước
ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ)
phải cúng buổi sáng.
Mấy đời tống giỗ
Theo gia lễ: "Ngũ đại mai thần chủ", hễ đến năm đời thì lại đem chôn
thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới
mất mà thế vào thần chủ ông khảo.
Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và tử,
tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời làm giỗ
(cao, tằng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can),; cụ (hay cô), ông bà, cha mẹ. Từ
"Cao" trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà nhập
chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ.
Cúng giỗ người chết yểu
Những người đã đến tuổi thành thân, thành nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc
mới có con gái, chưa có con trai hoặc có con trai nhưng con trai cũng chết, trở
thành phạp tự (không có con trai nối giòng). Những người đó có cúng giỗ. Người
lo việc giỗ chạp là người cháu (con trai anh hoặc anh ruột) được lập làm thừa
tự. Người cháu thừa tự được hưởng một phần hay toàn bộ gia tài của người đã
khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con cháu người thừa tự đó tiếp tự.
Những người chưa đến tuổi thành thân (dưới 16 hoặc dưới 18 tuổi, tuỳ theo tục
lệ địa phương) sau khi hết lễ tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với tiên tổ.
Những người đó không có lễ giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại lệ. Có những gia
đình bữa nào cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt bên cạnh mâm, coi như
người thân còn sống trong gia đình. Điều này không có trong gia lễ nhưng thuộc
về tâm linh, niềm tưsởng vọng đối với thân nhân đã khuất.
Cúng giỗ và mừng ngày sinh?
Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên
ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà
cúng giỗ. Đây cũng là dịp thăm người thân trong gia đình, trong chi họ, dòng
họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia
phong. Vào dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì
cũng gọi là "trước cúng sau ăn", có mất đi đâu, cũng là để cho cuộc
họp mặt thêm đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sinh hoạt, kể chuyện tâm tình,
chuyện làm ăn. Mà việc chi phí cũng không dồn lên đầu một ai vì ngoài phần do
hương hoả mà có, mỗi người đều đóng góp bằng tiền mặt hoặc hiện vật, nên mới có
từ "góp giỗ", với ý nghĩa trên- "Uống nước nhớ nguồn"- việc
đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục, nếu như người ta loại bỏ được những
hủ tục có tính chất mê tín dị đoan, nếu như không bị lợi dụng một cơ hội cho
bọn hãnh tiến khoe của bằng mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị, cho những ông tham
nhũng dựa vào chức quyền nhận lễ giỗ hậu hĩ, một thứ đút lót trá hình.
Chính vì thể theo phong tục đó mà nhà nước ta đã giữ gìn việc tổ chức trang
nghiêm ngày giỗ của các vị anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước như
ngày giỗ tổ Hùng Vương, hội đền Kiếp Bạc... Cho nên, theo tôi, giữ gìn tục lệ
đó theo ý nghĩa trong sáng của nó không có gì phải bàn.
Thế còn ngày sinh?
Phương tây có tập quán mừng ngày sinh là chính.
Tôn giáo Đông Tây cũng coi trọng ngày sinh, Phật giáo có ngày "Bụt sinh
Bụt đẻ" (Phật Đản 8-4 Âm Lịch), Ki tô giáo có ngày Chúa giáng sinh (Nô- en
25-12 Dương lịch). Do giao lưu văn hóa, giao tiếp quốc tế, Nhà nước ta đã tiếp
nhận tập quán quốc tế đó nên đã tổ chức trọng thể ngày sinh Bác Hồ, Mừng thọ
các nhà lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước.
Từ khi ra đời, các hội thọ hàng năm thường tổ chức mừng thọ cho các cụ vào
những năm chẵn 70, 75, 80... Một số đoàn thể cũng tổ chức mừng thọ cho hội viên
của mình. Việc tổ chức mừng thọ có tính chất đại trà, không đúng ngày đó không
thể thay thế cho việc mừng thọ đúng ngày sinh, ấm cúng trong gia đình. Cho nên,
tôi nghĩ rằng các gia đình chúng ta nên tổ chức mừng ngày sinh cho mọi thành
viên trong gia đình, đặc biệt lưu ý đến ông bà già là những người đang cảm thấy
cô đơn. Hiện ngay rất nhiều gia đình đã tổ chức mừng ngày sinh con, thường là
hai cháu, nay thêm hai vợ chồng, một năm bốn lần mừng ngày sinh, dư dật thì có
mâm cơm thịnh soạn, tặng phẩm tươm tất, thiếu thốn thì bữa cơm tươi hơn thường
ngày, quà tặng giản đơn. Người còn cha mẹ nếu ở chung thì thêm hai lần ăn mừng
ngày sinh, cũng tùng tiệm như trên. Nếu ở riêng thì đồng quà tấm bánh vừa với
túi tiền tặng cha mẹ, cốt thể hiện tấm lòng ưu ái, tăng thêm sự ấm cúng trong
gia đình, giúp tuổi già đỡ cảm thấy cô đơn. Mừng ngày sinh một cách giản dị như
vậy thiết tưởng cũng không phải cái gì cao xa ngoài tầm tay của những gia đình
còn thiếu thốn. Cũng cần thêm một lý do nữa khiến ta coi trọng ngày sinh là bản
thân người đó được hưởng khi còn sống, dù là một món ăn tươi còn hơn mâm cao cỗ
đầy cúng vái khi sang thế giới bên kia. ở chỗ này có thể nhắc đến một lời chê
bai của người xưa:
Khi sống thì chẳng cho ăn
Đến khi chết xuống làm văn tế ruồi
(Đặng Văn Phủng - Trích "Hà nội mới chủ nhật ", số 119)
Lời bàn thêm của tác giả:
Chúng tôi trích dẫn bài trên của ông Đặng Văn Phủng và có lời bàn thêm sau đây:
Lễ giỗ được xếp vào loại thuần phong mỹ tục của dân tộc ta. Mừng ngày sinh là
phong tục Âu Tây có ý nghĩa hay. Theo phân tích của ông Phủng thì kỷ niệm ngày
sinh hay hơn là giỗ. Ngặt vì mấy ai nhớ đến ngày sinh của bản thân mình. Trước
năm 1945 cũng chưa dễ mấy ai biết chính xác, trừ một số ít con công chức cũ ăn
lương phải có giấy khai sinh chính thức hoặc ai còn may mắn giữ được lá số tử
vi, ngược lại hầu hết các gia đình còn ghi nhớ ngày giỗ của cha mẹ, ông bà. cụ
kỵ. Dầu cho khi cha mẹ còn sống, con cháu đã được tổ chức kỷ niệm ngày sinh,
nhưng nhớ đến ngày ông bà cha mẹ qua đời, mà trên bàn thờ hương tàn khói lạnh
cũng cảm thấy áy náy trong lòng.
Vì vậy ở nước ta, nhà nào tổ chức kỷ niệm ngày sinh càng hay, nhưng chưa có nhà
nào bỏ được lễ giỗ.
180.
Đám cưới ở chùa - Nét văn hóa mớiỞ Huế lần đầu tiên có một đám cưới
ở chùa. Những nghi thức của nhà Phật cùng một đám cưới truyền thống đã tạo nên
một nét văn hóa độc đáo...
Hôn lễ được tổ chức tại điện tam bảo, không có âm nhạc, không có tiếng cười
đùa, chỉ có tiếng kinh cầu đều đều vang lên trong khói hương trầm mặc và sắc y
vàng rực của nhà Phật. Phía trước bàn thờ Phật, chư tăng ngồi thành hai hàng,
cùng tụng kinh niệm Phật khi bắt đầu buổi lễ. Cô dâu, chú rể và gia đình, thân
hữu mặc lễ phục, áo dài tiến vào đứng cạnh nhau theo lối chính giữa điện tam
bảo, chia nhau chỗ ngồi theo đúng qui cách "nam tả nữ hữu" (nhà trai
ngồi bên trái, nhà gái ngồi bên phải).
Khi buổi lễ bắt đầu, cô dâu chú rể được dẫn đến trước bàn thờ tam bảo dâng
hương và quì trước tam bảo để nghe sư thầy chủ lễ dặn dò về đạo vợ chồng, cách
thương yêu những người trong gia đình, cách sống sao cho cuộc sống lứa đôi được
hạnh phúc vững bền.
Trong cách thức hôn lễ thì phần chính là một bài pháp ngắn của thầy chủ lễ
khuyên đôi bạn trẻ sống đúng với chánh pháp và đạo lý ở đời... Nguyện cùng nhau
sống đời sống hằng ngày sao cho xứng đáng với đạo đức, với kỳ vọng của tổ tiên
và nòi giống. Nguyện nương vào nhau, xây dựng cho nhau bằng tình thương, sự tin
cậy, sự hiểu biết và lòng kiên nhẫn. Nguyện thường tự nhắc nhở rằng sự trách
móc hờn giận và lý luận chỉ làm hao tổn hòa khí và không giải quyết được gì,
chỉ có sự hiểu biết và lòng tin cậy mới có thể bồi đắp hạnh phúc. Và nguyện dồn
hết tâm lực và phương tiện để xây dựng cho thế hệ con cháu trong tương lai.
Sau mỗi lời phát nguyện, tiếng chuông chùa lại vang lên như chứng giám cho
những lời hứa của đôi vợ chồng trẻ. Trước tam bảo, hai vợ chồng hứa với nhau,
với các vị chư tăng phật tử và gia đình, họ sẽ yêu thương nhau, yêu thương gia
đình mới của mình. Cùng với đôi vợ chồng trẻ, hai bên gia đình cũng phải hứa
trước tam bảo và các vị chư tăng sẽ cùng đôi bạn trẻ xây dựng hạnh phúc, chỉ
bảo cho dâu rể nên người.
Sau đó, hai vợ chồng trẻ sẽ cùng người thân trong gia đình thả chim và cá phóng
sinh. Buổi lễ trong chính điện vừa xong thì việc sắp xếp, dọn các bàn tiệc cũng
sẵn sàng. Các sư thầy, chư tăng cùng gia đình hai họ và thân hữu vào mâm với
những bàn tiệc bày biện giản dị nhưng bắt mắt không kém nhà hàng và tất cả các
món ăn đều là đồ chay. Hôm đó chúng tôi được ăn món lẩu chay, thay cho bia rượu
là nước ngọt, thay cho những đồ ăn ngậy béo toàn thịt là những món ăn ngon, nhẹ
nhàng hoàn toàn làm từ thực vật…
Lễ cưới ở chùa chính là cầu nối giữa đạo với đời, giữa hạnh nguyện giải thoát
và ước nguyện xây dựng một xã hội tốt đẹp của chư tăng và hàng phật tử tại gia.
181. Đến nơi đẻ ngoài rừng
- uống nước rụng răng
Tôi vẫn quẩn quanh khó hiểu về
những hủ tục ở cái làng này, vì nó có xa trung tâm huyện là bao? Hình như bất
chấp chuyện khoảng cách không gian và thời gian, những hủ tục lạ kỳ này tồn tại
dai dẳng, truyền đời, cuốn xoáy.
Đời sống đi lên, hủ tục vẫn còn
Trên đường đi Nam Trà My, ló đầu ra khỏi đất Trà Đốc của Bắc Trà My một đoạn,
bên trái có chiếc cầu treo dằng dặc, bắc qua xã Trà Bui.
Tôi nhớ đâu cũng gần 10 năm rồi, có lần tôi hỏi ông Đinh Mươk, Chủ tịch huyện
Trà My, rằng làm cách răng mà huyện miền núi nghèo nhất nhì nước như ở đây mà
có lắm cầu treo dây văng tiền tỉ thế, ông cười xòa, tự mình đi xin thôi, tiền
nhà nước, tiền phi chính phủ, làm cầu cho dân đi, đâu vào đấy cả, cốt là đổi
đời cho đồng bào thiểu số vốn quá nhiều cơ cực.
Câu cầu ấy bây giờ đã xỉn màu, hẳn đồng nghĩa với chừng ấy năm, đồng bào bên
Trà Bui có con đường dễ dàng qua lại, bắt nối với thị trấn dưới kia đâu non một
giờ đồng hồ xe máy. Suy luận ấy có lẽ cũng dễ dàng có minh cứ xác thực, ít ra
là chễm chệ góc nhà của gần 100 hộ dân Mơ Nông làng Ông Ka thôn 5 rất nhiều xe
máy được dựng, trên vách gỗ ken dày hình diễn viên Hàn Quốc rồi Đàm Vĩnh Hưng,
Mỹ Tâm, họa với máy hát ti vi điện đóm xập xình.
Nhưng có những chuyện ở đời thường tỉ lệ nghịch một cách đáng sợ, đối trọng ghê
gớm trong hành xử suy tư, mà câu luận giải nó tít tắp mù khơi. Điều đó ám tôi
mãi trong mấy giờ quanh quẩn trong làng, rồi ra về, đành chịu không có cách trả
lời, khi vùng này được xem là nơi có hủ tục nặng nề nhất các huyện cánh nam của
Quảng Nam.
Cách đây 2 năm, tại làng này, ngay cạnh con suối lớn nằm đầu làng, khuấy lên
một thông tin làm sôi các báo: Đẻ ngoài rừng. Rồi cách đây mấy tháng truyền
hình trung ương nhắc lại. "Nó bậy bạ, phải ra rừng đẻ thôi" - Già
làng Hồ Văn Lé đón điếu thuốc, thản nhiên buộc tội. Hồ Thị Diêu quê Trà Leng -
Nam Trà My, trong một lần xuống đây buôn bán, bị tiếng sét ái tình với trai
làng Hồ Văn Cấy. Kết quả cuối cùng là "quả bom nổ chậm" xuất hiện.
Làng họp lại, truy Diêu ai là tác giả của cái bầu, Diêu khai là Cấy. Cấy lắc
đầu, mặt lạnh như đít bom. Diêu bị phạt con heo to 10 gang (10 gang tay nối
vòng- người viết). Không có tiền mua heo, thế là một cái chòi rách được dựng
lên nhờ một người làng tốt bụng giúp, Diêu phải ra rừng đẻ. Không gạo muối
thuốc men. Tốn khá nhiều hơi, lắm lý đủ tình, cán bộ có trách nhiệm từ huyện
mới thuyết phục được già làng cho mẹ con Diêu vào làng. Ông này gật đầu nhưng
lắc liền sau đó, rằng mới 27 ngày chưa đủ tháng, vào bây giờ là con ma nó theo!
Ma đâu không thấy nhưng "con ma nhiễm trùng hậu sản" đã theo con của
Diêu, để rồi sau đó đứa bé lìa đời. Diêu phải quay về làng cũ bởi không chịu
nổi sự kỳ thị của dân làng. Tôi gạn mãi chuyện Diêu với ông Lé, rằng như thế là
ác, là hủ tục lạc hậu, ông vừa trợn mắt vừa cười: "Sợ ma không ? Có từ
thời ông bà rồi. Đẻ là phải ra rừng thôi". Mà cái sự không ngờ ấy, khi
nhân loại đã bước sang thế kỷ 21 rồi, đâu chỉ dừng lại ở đó, mà nó chồng lên,
lắm việc, nối dài, người làng nói về nó lại như một niềm tự hào, tự nhiên, như
cây rừng, như chim chóc.
Không dùng nước ma rừng?
Trước nhà ông Nguyễn Thanh Đoàn, có một ống nước nhỏ xíu nối từ cái máng dẫn
trên suối về. Nước dùng chung cho cả làng. Cách đây 3 năm, một dự án nước sạch
đã được thực hiện, kéo từ đỉnh núi sau làng xuống. Nước chảy tưng bừng nhưng
người làng thì đứng ngó rồi bỏ đi, hè nhau kiếm nguồn nước khác. "Không
dùng ? Sao à, nước rừng ma đấy, uống vào cho rụng răng à ?!".
Đồng bào miền núi xem nguồn nước như vật thiêng. Chính quan niệm này vừa có giá
trị, cứ tạm gọi là giữ gìn môi trường, nhưng nghiệt thay, nó đi kèm những ràng
buộc, mà người đầu tiên phải chịu là phụ nữ. Đi ngược dốc với tôi khi vào làng
là một phụ nữ dáng mệt mỏi, khệ nệ, như gập người trên bóng mình với một can
nước. Chị vừa sinh con. Thằng bé chắc sau này lì lợm lắm, đã hơn 20 ngày mà không
chịu rụng rốn.
Nhưng, khi nào con chưa rụng rốn, chưa được đặt tên, thì lúc đó mẹ không được
dùng nước chung với làng, bởi con ma còn lẩn quẩn trong mẹ và bé, nên chị phải
vượt núi sang suối bên kia, mang nước về. "Làng bắt vậy, mình không biết
đâu". Chị nói tự nhiên như mồ hôi túa ra trên má. Ông Đoàn nói:
"Không kiêng cữ đâu". "Sao có chuyện như vậy?". "Có từ
thời ông bà rồi. Ưng kiêng thì kiêng thôi. Con gái đến kỳ, đến tháng không được
bước lên nhà trên, sang nhà người khác, mang theo đau ốm, bệnh tật đấy".
Ông lại cười xòa, ừ kiêng. Vùng này nằm trong diện di dân thủy điện sông Tranh
2. Đầu năm này, 10 hộ xung phong đi trước vào khu tái định cư mới. Không đất
sản xuất, họ quay về làng cũ. Lệnh từ già làng ban ra: “Không cho về. Về, phải
có quyết định của nhà nước" - ông Lé sít hàm răng lại. "Nhưng họ lấy
gì mà ăn". "Không, phải có quyết định nhà nước". "Có phải
làng sợ họ đem ốm đau , bệnh tật về không?".
Chậm một nhịp, ông nhìn tôi gật "ừ, cữ đấy". Tôi phát hiện ra, lớp
trẻ hơn, nói chuyện này họ mạnh dạn, kể tuốt, thẳng băng, chứ mấy ông già thì
ấp úng. Một cán bộ địa phương giải thích: Mấy ổng sợ người ngoài cho mình là
bảo thủ, lạc hậu, nên giấu! Như ông già Lé, tự kể rằng mình từng lớp tập huấn
này nọ về phát triển sản xuất, thông tỏ đường lối chủ trương nên trên mới cho
làm tổ trưởng sản xuất! Nghịch lý thay.
Nhưng mấy "ông trẻ" cũng không thoát khỏi vòng kim cô, luật tục nó
cứng và chặt hơn nhiều so với ba cái phong quang, thông thoáng bên kia cầu dội
về, nên khi tôi hỏi thằng con ông Đoàn, đâu chừng 20 tuổi "bỏ được
không?". "em không biết". Một đứa khác thì bảo : "Biết,
nhưng không dám, sợ làng lắm". Tức là đã có sự đứt gãy trong quan niệm, có
đồng sàng dị mộng rồi, nhưng đến bao giờ vết nứt kia phải đổ cái ào để thiết
lập một hệ qui chiếu khác mới mẻ hơn?
Nguyễn Thành Hưng, phó chủ tịch xã bảo : "Nặng nhất xã em đấy".
"Không giúp gì được à ?". "Ối trời, nói đứt cả hơi, câu lạc bộ
pháp lý trên huyện về đấy 3 lần rồi, ăn thua gì, họ làm theo ý họ. Có ông là
đảng viên, lão thành cách mạng, nói với lãnh đạo tỉnh, là bên này suối là đất
người Mơ Nông, bên kia là của người Ca Dong, ngày xưa ông bà cắt máu ăn thề
chia đất, không lấn của nhau, giờ cũng vậy, không ai được lung tung qua lại.
Mùa này là mùa tỉa bắp, sẽ là tai họa giáng xuống nếu nhà ai có người chết, vì
nếu nó xảy ra, sẽ không ai đến nhà anh khiêng giúp đi táng, không đi làm rẫy
giúp anh, bởi họ sợ con ma nó nhập vào, làm mất mùa. Đưa ma thì phải làm một
cửa sau, không đưa ra cửa trước, cõng trên lưng mà đi. Khổ lắm, nhưng đành chịu".
Bó tay. Những câu chuyện dài về hành xử nhuốm màu huyền tích, ma thuật, những
hoang mang lo sợ nặng màu bái vật giáo lúc ẩn lúc hiện, vẫn còn đó ở những bản
làng lênh đênh dưới chân Trường Sơn, nhưng nó chỉ ở những nơi tuyệt cốc, hun
hút xa, còn không đã phai nhạt theo năm tháng, nhất là nạn trả đầu man rợ.
Tôi xin phép nói lại những điều này, bởi tôi vẫn quẩn quanh khó hiểu về những
hủ tục ở cái làng này, vì nó có xa trung tâm huyện là bao. Hình như bất chấp
chuyện khoảng cách không gian và thời gian, nó tồn tại dai dẳng, truyền đời,
cuốn xoáy, từ ông già sắp vĩnh biệt cõi trần đến đứa bé mới chào đã phải
"thụ phép", hít thở những rỉ tai, những cái nhìn như đóng đinh từ
những bếp lửa nhà. Làm thế nào? Phải làm gì đây, để xóa bỏ những điều này?...
182. Lễ hội cúng rừng của
người Nùng
Một trong những lễ hội đặc sắc của người Nùng là lễ
hội cúng rừng. Hội được tổ chức hai lần trong năm và ở hai địa điểm khác nhau.
Lần thứ nhất được tổ chức vào ngày 30
tháng Giêng ở khu rừng đầu bản. Địa điểm là một khu rừng cấm giữa hai cánh đồng
hoặc gò bãi. Xưa kia, ngày hội cúng rừng do các già bản đứng ra tổ chức, mời
thầy mo, thầy cúng tiến hành các thủ tục nghi lễ. Ngày nay do trưởng thôn,
trưởng bản đứng ra tổ chức. Lễ cúng rừng được chuẩn bị kỹ càng. Khu rừng cấm
được dọn dẹp sạch sẽ, lập bàn thờ dán giấy đỏ… Lễ vật cúng rừng gồm: Rượu nếp
cẩm, thịt gà, thịt lợn, vàng, hương... Bàn thờ bày lễ vật kết cấu hai tầng: Lễ
vật để mâm trên có một gà trống lông đỏ mào lá, một lợn đực đen tuyền, bảy chén
rượu, một bát nước trắng, một đĩa muối trắng, bảy bát cơm, bảy xâu thịt và có
một bát thịt tổng hợp - đó là bát bảo hộ đất nước, bảy ngựa giấy đen, một ô làm
bằng giấy đen che bình hương được bện bằng cây cỏ và thắp bẩy nén hương. Lễ vật
mâm dưới gồm có một gà trống, một miếng thịt lợn, năm xiên thịt, năm chén rượu,
năm bát cơm, năm ngựa giấy màu và một bát ăn chay. Sau khi chuẩn bị lễ vật chu
đáo, trưởng thôn, bản thay nhau hành lễ, quỳ lạy hai lần 4 phương, mỗi lần 3
lạy - cầu mong mưa thuận, gió hoà, nguồn nước dồi dào, bình yên vô sự. Tiếp đó
mọi người giết lợn, gà làm lễ cúng. Khi hành lễ xong mọi người mới được ra dự
hội và sinh hoạt ẩm thực tại chỗ trong không khí đầm ấm của cộng đồng.
Hội cúng rừng vào ngày mồng 2 tháng Bảy âm lịch tại khu rừng cấm ở cánh đồng
hay ở gò bãi. Thần khu rừng này chỉ có nhiệm vụ bảo vệ cây trồng ở ruộng đồng,
gò bãi. Điểm tiến hành nghi lễ có bàn thờ, lễ vật cũng như ngày cúng 30 tháng
Giêng, ngoài ra còn có một con vịt. Mọi quy trình hành lễ theo như trước. Những
người đi dự hội cúng rừng đều phải đội mũ, chân đi giày hoặc dép, không được ăn
ớt, cơm cháy. Nếu ai không tuân thủ những quy định chung của cộng đồng thì mùa
màng thất bát, đói kém.
Theo quan niệm của người Nùng, rừng là tất cả, rừng tạo nên cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, bình yên cho mọi người. Lễ hội cúng rừng mang ý nghĩa sâu sắc, giáo
dục ý thức cho con người phải gìn giữ, bảo vệ rừng…
183. Dân ca Xoan Ghẹo Nghệ
thuật độc đáo ở vùng đất Tổ
Dân ca Xoan, Ghẹo là một loại hình
nghệ thuật độc đáo ở vùng đất Tổ, gắn liền với lời truyền tụng từ xa xưa rằng:
Vợ Vua Hùng mang thai, tới ngày sinh nở, đau bụng mãi mà không đẻ được. Một hầu
gái tâu rằng: Nên đón nàng Quế Hoa xinh đẹp, múa giỏi, hát hay, về múa hát, có
thể đỡ đau và sinh nở được.
Vợ Vua nghe lời, cho mời Quế Hoa đến. Giọng hát trong vắt như chim hót, suối
ngân, tay múa chân đi dẻo như tơ, mềm như bún, khiến cho vợ Vua quên cả đau
sinh con dễ dàng, Vua Hùng mừng rỡ, hết lời khen ngợi Quế Hoa và truyền cho các
công chúa phải học lấy điệu múa ấy.
Người đứng đầu một phường Xoan (hay họ Xoan) là một ông trùm. Ông trùm là một
người có kinh nghiệm về nghề nghiệp xã giao và viết chữ để hát dẫn một số bài
dài được chép bằng văn tự. Mỗi phường Xoan thường có từ 15 đến 18 người hoặc
đông hơn. Trừ trùm phường, các thành viên khác thường là thanh niên tuổi 16-18.
Nam gọi là kép, nữ gọi là đào, số đào thường đông hơn số kép, chỉ độ 15, 16
tuổi đóng vai giáo trống, giáo pháo. Phường Xoan luyện tập vào trước mùa hội
hè. Mùa hội có khi họ hát đến đôi ba tháng mới về.
Trong những ngày đi hát ở cửa đình, các cô đào vấn khăn, quần láng, áo the,
thắt lưng đen kèm theo bao xanh hay hồng. Các kép đầu quấn khăn lợt hay khăn
xếp, áo the thâm, quần trắng, cổ quấn khăn nhiễu điều.
Hát Xoan thường bắt đầu từ chập tối, sau nghi lễ tế thần được tiến hành ban
ngày. Trong đình có các bô lão, quan viên và dân làng ngồi xem. Phường Xoan múa
hát ở khoang giữa gọi là đình trung.
Mở đầu cho cuộc hát, trùm phường cùng người chủ tế của hội làng năm đó, đứng ra
trước hát chúc như bài khấn nguyện có tính chất nghi thức. Hát chúc xong, một
kép chừng 15, 16 đeo trước ngực một chiếc trống nhỏ đứng ra giữa sân đình làm
trò giáo trống, giáo pháo. Hai lối hát này có vần điệu theo thể thơ bốn chữ.
Người kép trẻ vừa đánh trống giữ nhịp vừa làm động tác vừa hát có phụ họa của
tập thể phía sau. Giáo trống, giáo pháo có nội dung như một lời khấn nguyện cầu
chúc cho mùa màng và sự thịnh vượng của thôn xã.
Sau giáo trống, giáo pháo, chú kép trẻ lui vào nhường chỗ cho bốn cô đào tiến
ra hát thơ nhang. Bốn cô gái đứng xếp hàng trước hương án, hai tay nâng chiếc
quạt xòe tán khuỳnh ra trước mặt vừa hát vừa làm động tác giống như dâng hương.
Bài ca khấn nguyện này có tính chất ngâm ngợi, trang nghiêm.
Trình diễn xong thơ nhang, phường Xoan hát tiếp đóng đám. Ðóng đám theo ngữ
nghĩa là kết thúc hội đám nhưng thực ra đóng đám có nội dung văn học mang mầu
sắc giao duyên trữ tình chỉ kết thúc giai đoạn một trong quá trình diễn xướng.
Giai đoạn hai trong quá trình diễn xướng của hát Xoan là sự trình diễn các quả
cách. Có 14 quả cách: kiểu giang cách, nhâm ngâm cách, tràng mai cách, hạ thời
cách, thu thời cách, tứ dân cách...
Ngôn ngữ trong các quả cách đạt tới trình độ điêu luyện, lời trau chuốt mượt
mà. Hát quả cách được coi như phần hát thờ. Ngày xưa có những cửa đình dành hẳn
một đêm để các phường thay nhau hát cách. Phường nào hát đúng 14 quả cách thì
được giải.
Phần hứng thú và sinh động nhất trong cuộc hát Xoan là trình diễn xướng gồm các
tiết mục: Chơi bợm gái (còn gọi là giao tình), hát bỏ bộ, hát xin hoa, đố chữ,
giải hoa hát đúm.
Trong Xoan, Ghẹo, hát đúm là một hoạt cảnh đối đáp giữa nam và nữ. Ðây cũng là
lối chơi hấp dẫn nhất, say mê nhất cho nên người ta còn gọi phường Xoan là
phường Ðúm.
Giã cả được xem là tiết mục kết thúc quá trình diễn xướng của hát Xoan. Ðây
cũng là cảnh múa hát sôi nổi, nghịch ngợm đầy ắp tiếng cười. Có nơi như ở làng
Cao Mại, "cả" là các cô đào phường Xoan. Các trai làng quây thành
vòng tròn, miệng hát, tay múa đong đưa, dập dềnh tựa hình sóng nước. Hát xong
các câu hát, các cô đào đóng vai Thành hoàng để Thành hoàng ban phúc cho làng.
Sau khi ông chủ tế vào tế, "cả" mới được nhấc khỏi bệ thờ để trở lại
làm người.
Kết thúc quá trình diễn xướng, trùm phường và ông chủ tế bước lên trước hương
án để hát giã, một bài đọc mang nội dung khấn nguyện.
Xoan, Ghẹo là khúc hát trữ tình, tiếng nói tâm hồn, là sự thể hiện con người và
thời đại, có cội nguồn từ thời Vua Hùng. Nó mãi mãi có vị trí xứng đáng trong
nền dân ca dân tộc
184. Con Nghê Là Con Gì ???
Hai linh vật đặc thù của văn hóa
Việt Nam là chim Hạc và con Nghê, thế nhưng trong khoảng hai trăm năm gần đây,
ta thường thấy rồng và lân được dùng trang trí trong các đền chùa, dinh thự
lớn. Như tượng hai con lân trắng ở ngay trước sân chùa Vĩnh Nghiêm, Sài gòn
chẳng hạn. Những ngôi nhà lớn của người Việt ở hải ngoại hay ở trong nước cũng
trang trí bằng tượng con lân. Chim hạc là linh vật từ thời các vua Hùng dựng
nên nước Văn Lang ta, còn con Nghê xuất hiện từ bao giờ? (Phải chăng từ đời Lý,
khi nền văn hóa thuần Việt được phục hồi và phát triển sau một ngàn năm Bắc
thuộc?). Dù là biểu tượng thuần túy Việt Nam nhưng con Nghê lại được ít người
biết đến.
Con Nghê là gì?
Trong đời sống của người dân Việt, hai con thú được coi như những người bạn
thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất là con trâu và con chó. Trâu để cầy
ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ nhà, phòng kẻ gian, phòng thú dữ. Đời
sống thực tế có chó giữ nhà, còn đời sống tinh thần thì sao? Ông cha ta cũng
cần một linh vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ. Chó đá được dựng lên vì
thế. Ở làng quê miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng bao giờ cũng có một con chó
đá để bảo vệ cả làng, trước cổng đình bao giờ cũng có chó đá, và trước cổng nhà
hay ở ngoài đầu hồi, ngoài cửa nhà cũng thường có chó đá ngồi trước canh giữ
cho gia chủ. Những con chó đá này hình dạng thay đổi, cao khoảng từ nửa thước
tới một thước, thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng oai vệ, nhưng có
khi chỉ là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh
giữ. (Truyện cổ cũng thường nhắc đến chó đá, như chuyện “Cậu học trò và con chó
đá”, chuyện “Hai anh em và con chó đá” - Xin đọc: Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,Truyện
cổ nước Nam)
Rồi để bầy trước điện thờ, hay bàn thờ của những nhà giàu có, ở các đình chùa,
đền miếu, chó đá hoá linh. Chó đá được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ, đầu
chó, mặt chó đầy những nét oai nghiêm. Vì linh thiêng như thế, nên được gọi là
con Nghê.
Con Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nghê
được chạm trên cốn (xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài), hay được đạt
trên đầu đao (sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại
đao (mã tấu) nên gọi là đầu đao), như trên cốn đình làng An Hoà (Hà Nam), Phất
Lộc (Thái Bình), cột đình làng Hội Thống (Hà Tĩnh) đầu đao đình làng Phù Lão
(Bắc Giang), làng Trung Cần (Nghệ An), làng Tây Đằng (Sơn Tây)... chẳng hạn.
Thuở nhỏ, vào khoảng đầu thập niên 1950 ở Thái Bình, còn thấy ở nhà cụ Hà Ngọc
Huyền, ông ngoại chúng tôi có chưng tượng con Nghê cao gần một thước ngay lối
vào phòng khách cùng với những bình, những chóe đời Khang Hy nhà Thanh, đời
Minh... Con Nghê này không biết nay đã lưu lạc về đâu?
Vậy con Nghê là một linh vật thuần Việt, được sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm
linh của người Việt. Con Nghê thường được thấy qua các món đồ gốm, mà có thể
được giới thiệu tiêu biểu dưới đây.
Vài hình tượng con Nghê tiêu biểu
Tượng con Nghê: dựa trên nước men, màu men, chất đất ta có thể định rằng đây là
một tác phẩm đời Lý (thế kỷ XI - XII). Con Nghê này cao độ 36cm, bàng đất nung,
phủ men nâu, nét tô đắp cực kỳ tinh xảo, con Nghê trông sống động, oai vệ,
tưởng chừng như có thể phóng lên xua đuổi tà ma ngay tức khắc. Mặt Nghê ngắn.
Mình Nghê thon dài, rất thanh tú. Cổ Nghê đeo dây lục lạc có tua, cổ ngửng thẳng.
Lông trên sống lưng dựng đứng như một hàng kỳ, chạy suốt từ đỉnh đầu xuống đến
đuôi. Chân Nghê thanh nhưng thẳng và mạnh, chân sau ở thế ngồi bắp thịt đùi
trông rắn chắc mạnh mẽ, hai chân trước chống cao, chỗ đầu gối có lông xoắn
cong. Mắt to, miệng lớn, mũi lớn, miệng Nghê hơi hé mở để lộ những răng nanh
nhọn hoắt, như sẵn sàng xua đuổi tà ma. Tai Nghê lớn. Lông Nghê mượt sát vào
mình với những đường khắc, uốn từ sống lưng xuống phía bụng, trông như vằn chó.
Tượng con Nghê đời Lý (Bộ sưu tập Bùi Ngọc Tuấn) Nậm rượu hình con Nghê: chúng
tôi xin đưa ra hình hai nậm rượu hình con Nghê, một mầu nâu, một mầu đen. Nghê
với hình dáng và thế ngồi cũng như mô tả ở trên, tuy rằng các chi tiết không
sắc sảo bằng. Nghê ngồi trên một bầu rượu có dáng trên tròn dưới ống. Mình Nghê
rỗng, trên lưng Nghê có vòi loe để chuyên rượu vào (nắp đậy chỗ này không còn,
nên ta không biết nắp cũng làm bằng đất sét nung hay bằng gỗ hoặc lá cuộn).
Rượu được rót ra từ vòi dài đi từ thân nậm, tựa như cọc với dây xích buộc Nghê.
Hai nậm rượu hình con Nghê đời Lý (Bộ sưu tập Bùi Ngọc Tuấn) Bình trầm hương
hình Nghê: màu men, nước men, chất đất, độ nung của các bình hương này cho thấy
đây là các tác phẩm làm thời Chu Đậu (thế kỷ XVI - XVIII) chứ không phải đồ đời
Lý hay đời Trần. Bình hương gồm hai phần, phần dưới là một hộp nhỏ hình chữ
nhật, đây là chỗ bỏ trầm vào đốt. Phần trên là nắp. Nắp là con Nghê ngồi trên
một mặt phẳng đậy vừa kín phần dưới. Mình Nghê rỗng nên khi đốt trầm khói từ
phần hộp phía dưới, luồn trong mình Nghê rồi bay ra từ miệng Nghê đang hơi khẽ
mở, trông rất oai nghiêm. Vì trầm được đốt trong hộp kín phía dưới mà chỉ có
thể thoát khói ra khỏi miệng Nghê nên cháy rất chậm, vừa toả đủ khói hương để
mang đầy vẻ linh thiêng mà vẫn cháy lâu cả buổi.
Bình trầm hương con Nghê (thời Chu Ðậu, thế Kỷ 16 - 17) Hình trích từ Vietnam
ceramics, A separate tradition, John Guy và John Stevensen, Avery Press 1997
Cũng có một số bát hương làm vào khoảng thế kỷ XIII, XIV với hình chó thay vì
hình nghê. Đây là các bát hương có dạng nửa tô, nửa đĩa, với tượng chó ngồi ở
chính giữa bát hương. Thẻ hương được đặt ngang thành bát, gác lên đầu chó.
Bát hương con Nghê Hình trích từ Vietnam ceramics, A separate tradition, John
Guy và John Stevensen, Avery Press 1997 Loại khác gồm hai phần, phần dưới chắc
cũng dùng để đốt trầm, khói bay luồn trong tượng chó ngồi ở giữa rồi tuôn ra
miệng chó. Khi không đốt trầm, cây hương cũng được đặt gác lên đầu chó.
Phân biệt con Nghê và con Lân
Con Nghê là linh vật đặc biệt của văn hóa Việt Nam, con Lân thuộc văn hóa Trung
Hoa. Về hình dạng, con Lân trông giống sư tử, mà có sừng, chân như chân trâu,
thân hình tròn mập, có vẩy như vẩy rồng, miệng ngậm quả cầu, hay ngồi chống
chân lên quả cầu. Con Nghê có kỳ mà không có sừng, mình thon nhỏ, chân như chân
chó, dáng thanh, trông rõ ràng dáng chó chứ không tròn mập như dáng như sư tử,
đuôi Nghê dài, vắt ngược lên lưng, đuôi Lân ngắn, xòe như cánh chim hay cuộn
tròn như đuôi thỏ.
Bát
hương con Nghê Hình trích từ Vietnam ceramics, A separate tradition, John Guy
và John Stevensen, Avery Press 1997 Một số người lại còn tưởng lầm con Nghê là
con sư tử. Bởi vì chữ “Nghê” (hay “toan nghê”) trong chữ Hán vốn có nghĩa là
con sư tử. Tuy nhiên phải để ý rằng có nhiều chữ Hán-Việt mà nếu ta tra tự điển
Tầu, thì lại có nghĩa khác hẳn, bởi vì ông cha ta rất nhiều khi mượn chữ Hán
nhưng lại đổi nghĩa đi mà dùng (người Pháp khi nghiên cứu về Việt Nam thì lại
thường học chữ Hán của người Tầu, tra cứu sách Tầu viết về Việt Nam - chứ không
tìm hiểu thẳng vào văn hóa Việt - nên nhiều khi sai nghĩa, sai sự việc rất xa.
Người Pháp cũng vì học theo Tầu nên đã sai theo, cũng như từng theo sách Tầu mà
gọi sai nước ta là An Nam, trong khi các văn thư cổ của triều đình Huế thì chỉ
dùng chữ Việt Nam hay Ðại Nam. Trong quyển Chơi chữ, Lãng Nhân đã từng đưa ra
vài ví dụ như: “tử tế” có nghĩa là “tinh mật, kỹ lưỡng” ta lại quen dùng theo
nghĩa hiền hậu; “lịch sự” có nghĩa là “trải đời” ta dùng là “sang trọng”, “trân
trọng” nghĩa là “quý trọng” lại bị đổi là “nghiêm cung, kính trọng”... Trong
cách thức đó, ông cha ta đã không cần để ý đến chữ “Nghê” có nghĩa là con gì
trong chữ Hán, mà cứ lấy đó để đặt tên cho “chó đá hóa linh”.
Nếu ai đã từng nhìn thấy tượng con Nghê thì cũng đều nhận thấy rằng đó là con
chó đang ngồi chứ không phải là con lân hay con sư tử. Vài nhà nghiên cứu đã
không có cơ hội này nên chỉ biết theo sách của người Pháp, tự điển của người
Tầu mà lầm con nghê Việt Nam ra con sư tử hay con lân của Tầu.
Chúng tôi chủ trương rằng nghiên cứu đồ cổ thì phải nhìn thấy tận mắt, tốt hơn
nữa là được cầm trong tay, và được nghe từ tiếng nói dân gian trong thôn làng
xưa rồi suy nghẫm, tra cứu, đối chiếu. Vì thế, ngoài những hình chạm khắc trên
cốn, tượng con nghê trên đầu đao, trên cổng các ngôi đình làng cổ ở miền Bắc,
lời chỉ dẫn của các cụ già, chúng tôi còn dựa sự quan sát của mình trên các
tượng con nghê, các nậm rượu trong bộ sưu tập đồ cổ của riêng mình.
Thời thịnh đạt của con Nghê
Trong những thế kỷ Bắc thuộc, khi người Trung Hoa làm đủ mọi cách để hủy diệt
văn hoá Việt Nam, như tịch thu, hủy diệt và cấm làm trống đồng, bắt người Việt
đổi theo họ Tầu (vì thế những họ cổ Việt Nam như họ Thi (Thi Sách), họ Trưng
(Trưng Trắc)... không còn nữa....), thì không biết ông cha ta có làm hình tượng
chó đá và con Nghê không? Quan sát cách sinh hoạt của người thượng trên các
miền cao nguyên, ta thấy rằng con chó vẫn là con vật rất quan trọng của đời
sống thôn dã. Vậy thì ai có thể quả quyết rằng, chó đá, con Nghê không được
phát sinh từ thời xa xưa? Tuy nhiên chúng tôi cũng chưa có dịp may mắn được
thấy các hình ảnh hay vật tích hình con Nghê của thời đại cổ xưa này. Ước rằng
có người với những phương tiện đầy đủ sẽ làm các việc khai quật nghiên cứu và
tìm ra di tích con Nghê từ thời xa xưa.
Sau khi Ngô Quyền khởi lại thời tự chủ, sau khi Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn tổ chức
lại trật tự trên đất nước ta, nhà Lý, nhà Trần, rồi nhà Lê nối ngôi dựng lại
nền văn hóa thuần Việt rực rỡ, phong phú. Bắt đầu từ Lý Thái Tổ dời kinh đô từ
Hoa Lư về Thăng Long, người Việt bừng lên khí thế dân tộc. Giống như thời Hùng
Vương thuở trước, từ đây cùng văn học, xã hội, chính trị, nghệ thuật tạo hình
của người Việt phát triển rực rỡ, phối hợp bản chất dân tộc với ảnh hưởng Trung
Hoa và Ấn Độ, tạo nên một nền văn hóa thuần Việt, song song và biệt lập với văn
hóa Trung Hoa.
Trong bối cảnh văn hoá rực rỡ ấy, với sự nẩy nở của những nghệ phẩm, tác phẩm
Việt Nam, sự phát triển của kiến trúc đình chùa, sự phát triển của giới quý
tộc, trưởng giả càng đòi hỏi nhiều hơn nữa những phẩm vật tế tự, sinh hoạt và
trưng bày. Khung cảnh và nhu cầu này đưa đến biết bao phát triển của nghệ thuật
tạo hình. Nhu cầu tinh thần, nhu cầu vật chất được đáp ứng bởi bàn tay, khối óc
của các nghệ nhân Việt lúc nào cũng xông xáo sáng tạo. Biết bao kiến trúc, cung
điện, đình chùa mới mái cong thuần túy Việt được dựng lên. Đồ gốm Việt Nam bừng
lên tổng hợp kỹ thuật và sắc men Trung Hoa với dạng thức, nét vẽ, và phong cách
hoàn toàn Việt Nam. Từ đây những bình, ấm, tô, chén đĩa... những món đồ Lý
Trắng, Lý Nâu, Lý Lục, Lý Đen, những món đồ men ngọc, chuyển qua những món men
trắng hoa chàm của đời Trần, đời Lê tuyệt vời, được sản xuất mạnh mẽ; Rồi tiếp
theo đó, sang thế kỷ XIV, XV, XVI là thời của gốm Chu Đậu, thời tuyệt đỉnh của
đồ gốm Việt Nam, với biết bao phẩm vật xuất cảng sang vùng Ba Tư, Nam Dương,
Phi Luật Tân, Nhật Bản...
Bình trầm hương thòi Chu Ðậu, thế kỷ 16, 17 Hình trích từ Vietnam ceramics, A
separate tradition, John Guy và John Stevensen, Avery Press 1997 Dựa trên số
lượng và phẩm tính của những con Nghê trong các viện bảo tàng và bộ sưu tập của
các tư nhân, ta thấy rằng thời thịnh đạt nhất của con Nghê là từ đời Lý cho đến
cuối đời Tây Sơn (thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII). Suốt từ đời Lý, con Nghê được
trọng dụng ở khắp mọi nơi, từ những ngôi nhà dân dã, từ cung đình, cho đến lâu
đài, đình chùa, lăng miếu... Đến cuối đời Lê, loạn Trịnh - Nguyễn phân tranh,
đất nước đi vào 300 năm khói lửa, nhưng không vì thế mà văn hoá Việt điêu tàn,
mà trái lại càng phát triển mạnh thêm về mọi mặt (thơ văn, kiến trúc, khắc gỗ,
gốm sứ...). Trong suốt 8 thế kỷ này, các bình hương trầm, các nậm rượu, và các
tượng hình con Nghê là những món không thể thiếu ở nơi tế tự, ở các nhà trưởng
giả cho đến nhà bình dân.
185. Độc đáo trang phục của người Dao Tiền Bắc Kạn
Người Dao Tiền Bắc Kạn sống rải rác
ở các huyện Ba Bể, Ngân Sơn… là dân tộc có nền văn hoá đặc sắc riêng biệt Trang
phục của người Dao Tiền cầu kì, tinh tế nhưng phù hợp với tập quán và tập quán
lao động sản xuất của mình. Khác với người Dao đỏ hoạ tiết trong trang phục chủ
yếu là màu đỏ thì người Dao Tiền Bắc Kạn màu sắc chủ đạo trong trang phục là
màu chàm và màu trắng rất tinh tế nhưng nhã nhặn, hài hoà.
Người Dao Tiền rất tự hào về trang phục truyền thồng của mình. Đây là dân tộc
luôn mặc các trang phục truyền thống trong các dịp lễ hội, đi chợ, đi nương…Trẻ
em cũng được cha mẹ thêu dệt, may cho những bộ trang phục truyền thống. Trong
ngày hội, ngày chợ chị em phụ nữ Dao Tiền rất duyên dáng, nhã nhặn trong trang
phục truyền thống như những cánh bướm của núi rừng hồn nhiên và trong sáng. Tuy
nhiên các công đoạn để hoàn thành một bộ trang phục của người Dao Tiền rất công
phu và tỉ mỉ. Các bộ trang phục của cả nam và nữ đều được nhuộm chàm và vẽ
trang trí theo phương pháp thủ công đặc biệt.
Tranh thủ những lúc nhàn rỗi phụ nữ Dao ép hạt, bật bông, se sợi, dệt vải, tự
may trang phục cho mình và cho người thân. Người phụ nữ thường đảm nhiệm tất cả
các công đoạn này. Khi lấy được bông họ đun qua nước sôi, ngâm vào nước lạnh
rồi vớt ra đùm thành con. Dụng cụ chủ yếu giúp hoàn thành trang phục là chiếc
khung dệt- vật cần thiết trong mỗi gia đình người Dao. Chỉ với hai thoi sợi
chính, phụ nữ Dao Tiền dệt thành những mảnh vải vuông khoảng 30 đến 40 cm một
chiều. Trang phục của người Dao Tiền chủ yếu thêu trên áo, phần váy họ vẽ sáp
ong. Để tạo hoa văn trước tiên người ta dùng dụng cụ vẽ. Đó là chiếc bút gắn
ngòi đồng nhưng cũng có khi chỉ là những chiếc que tre bẻ thành hình tam giác.
Loại to để tỉa tót hoa lá, loại vừa chuyên vẽ hình vuông, hình tròn chim, ốc.
Sau khi nấu chảy sáp ong họ sẽ nhúng đầu bút vẽ hoa văn lên vải. Vẽ xong đem
tấm vải đó đi nhuộm chàm, khi các công đoạn nhuộm chàm hoàn tất họ đem ngâm vào
nước nóng để sáp tan ra. Những chỗ trước đây có vẽ sáp ong không nhuốm chàm nên
chỉ để lại một màu xanh lơ hài hoà đẹp mắt.
Người Dao rất coi trọng chuyện ăn mặc, ngay cả trẻ nhỏ đã được bố mẹ mặc cho
những trang phục truyền thống, họ thường xuyên truyền lại cho con cháu kĩ thuật
dệt, nhuộm và may vá trang phục truyền thống. Vì kĩ thuật làm được một bộ trang
phục rất cầu kì và trải qua nhiều công đoạn, một bộ trang phục của họ phải mất
khoảng 15 ngày mới may xong. Chính vì vậy, họ luôn có ý thức giữ gìn nét truyền
thống bắt đầu từ những trang phục cầu kì của mình.
Phụ nữ Dao Tiền rất thích trang sức, chủ yếu là các đồng bạc trắng hay kim
loại, vòng bạc trắng được họ dùng để trang trí, đồng thời trong trang phục họ
làm các khuy bạc có đường kính từ 6 đến 7 cm đính nổi bật ở trên áo chàm. Cả bộ
trang sức có khi nặng đến vài ki-lô-gam. Kỹ thuật thêu của người Dao Tiền cũng
khá đặc biệt, không thêu đè lên các sợi vải mà luồn chỉ theo mắt sợi, thêu ở
mặt trái nhưng các hoạ tiết lại nổi lên trên mặt phải của vải. Các họa tiết
thêu chủ yếu là hình sao tám cánh, hình chữ thập ngoặc đơn và ngoặc kép, hình
gà, hình hoa lá .... Màu sắc của hoa văn họ ưa dùng là màu đen và trắng. Một bộ
trang phục hoàn chỉnh của người Dao gồm: Áo, yếm, xà cạp, dây lưng, khăn vấn
đầu, váy dài cùng đồ trang sức vàng bạc ... Duy nhất trong cộng đồng người Dao
chỉ có người Dao Tiền là mặc váy.
Khăn đội đầu của phụ nữ Dao Tiền có màu trắng dài khoảng 1,2m đến 1,5m. Hai đầu
khăn có hai mảng hoa văn hình vuông. Khi đội khăn phụ nữ thường búi tóc ngược
lên đỉnh đầu, hơi hướng về phía trước. Thân áo dài của phụ nữ Dao thường được
hình thành từ hai khổ vải được gấp đôi lại. Hai thân trước để rời, có nẹp từ cổ
áo xuống tới chỗ xẻ tà. Tay áo được khâu theo dạng tay ống, cửa tay được thêu
như ở nẹp ngực. Ở cổ áo, thân sau được đeo một số đồng bạc thường từ 6 đến 12
đồng. Ngoài y phục, người phụ nữ Dao còn ưa dùng đồ trang sức làm cho bộ trang
phục của mình thêm sang trọng như túi trầu đính bạc, hay những miếng bạc được
đính vào ngực áo.
Ngày cưới, cô dâu Dao Tiền mặc áo kép tự làm, đầu đội mũ. Khung mũ được làm
bằng tóc rối phết sáp ong, trên khung được phủ khăn trắng hình chữ nhật, thêu
các hoạ tiết bằng chỉ nhiều màu. Theo quan niệm của người Dao Tiền, khi cô gái
về nhà chồng, ngoài váy, áo tự làm suốt một năm qua, còn có của hồi môn là
những đồ trang sức bằng bạc do cha mẹ mình tặng. Những đồ trang sức này sẽ được
giữ lại như bảo vật của gia đình, dòng họ và sẽ trao lại cho con cháu sau này.
Người Dao Tiền Bắc Kạn luôn có ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc thông qua các
trang phục cầu kì, tinh tế và độc đáo rất riêng không trộn lẫn với bất cứ dân
tộc nào. Đến với các bản nơi người Dao Tiền sinh sống cùng khám phá nét văn hoá
đặc sắc của dân tộc thiểu số vùng cao, du khách còn cảm nhận được sự chân
thành, thẳng thắn, rất đỗi chân thật và mến khách.
186. Tục cưới của người Sán Chí
Hiện
nay, đồng bào dân tộc Sán Chí ở huyện Sơn Động có khoảng 9.710 người, tập trung
nhiều ở các xã: Quế Sơn, Chiên Sơn, Cẩm Đàn. Tục cưới của người Sán Chí rất
sinh động.
Trước kia, nam nữ thanh niên Sán Chí kết hôn rất sớm, nam thường 16-17 tuổi, nữ
từ 14-15 tuổi. Hiện nay, tuổi kết hôn đã thay đổi, nam thường 20-21 tuổi, nữ
18-19 tuổi. Đám cưới của người Sán Chí trải qua các bước sau: Lễ xin lá số -
đặt trầu. Khi đôi trai gái đó tìm hiểu chín muồi, chàng trai về thưa chuyện với
cha mẹ để sang nhà gái "đánh tiếng". Nếu đôi trai gái là người cùng
làng, hai gia đình đó biết nhau thì không phải tìm hiểu gì nhiều. Nhưng nếu cô
gái là người khác làng, trước khi sang "đánh tiếng", bố mẹ chàng trai
phải nhờ một người thân thích xem xét cửa nhà và đức hạnh của con dâu tương
lai. Sau khi bàn bạc trong gia đình, nhà trai cử ông bác hoặc ông cậu sang nhà
gái để thưa chuyện. Đại diện nhà trai trình bày mong muốn và đưa sổ lục mệnh
của gia đình nhà trai trong đó có kẹp 200-500 đồng (việc kẹp tiền vào sổ lục
mệnh có ý nghĩa để cầm vía cho nhà gái). Nếu đồng ý, nhà gái sẽ trao lại cho
đại diện nhà trai sổ lục mệnh trong đó có kẹp tờ lục mệnh sơ lược (họ, tên,
tuổi của cô gái) viết trên giấy đỏ để nhà trai tiến hành xem tuổi cho đôi trai
gái có hợp nhau không. Hôm sau, nếu không thấy nhà gái trả lại trầu, nhà trai
nhờ thầy xem chàng trai và cô gái có hợp mệnh với nhau không. Nếu không hợp
mệnh, nhà trai sẽ chủ động cho người đưa tin sang nhà gái và không định ngày
đặt gánh (ăn hỏi).
Người Sán Chí thường chọn ngày chẵn hàng tháng để tiến hành ăn hỏi và đón dâu
bởi họ quan niệm đó là những ngày tốt cho việc cưới. Nghi thức buổi lễ đặt gánh
ở nhà gái diễn ra khá đơn giản. Mục đích của lễ là bàn bạc và quyết định đồ
sính lễ cho ngày cưới. Lễ cưới được tiến hành sau khi nhà trai chuẩn bị đầy đủ
mọi thứ. Ông mối tới gia đình nhà gái bàn bạc và xin định ngày cưới. Trước hôn
lễ một hôm là ngày dựng rạp, nhà trai đem đủ lễ vật đến nhà gái. Ngày đón dâu,
trước khi sang nhà gái, những lễ vật và trang phục của những người đi đón dâu đều
phải được tập trung lại chính giữa nhà để ông quan lang làm phép để cô dâu chú
rể gặp may mắn. Đoàn đón dâu có 6 người. Hiện nay, số người đi đón dâu có thể
nhiều hơn nhưng nhất thiết phải chẵn bởi quan niệm: đi số lẻ, cô dâu chú rể sẽ
không hợp duyên số, không hạnh phúc. Khi đến nhà gái, nhà trai phải hát để chào
hỏi nhà gái, nhà gái sẽ hát những câu chất vấn về trời đất, về phong tục để
chúc mừng cho gia đình cô dâu. Sau khi hát đối đáp xong, nhà gái mở cửa chào
đón nhà trai vào nhà. Lúc vào nhà, ông mối giao lễ và nhà gái cử người ra nhận
lễ, chàng rể vào nhà làm lễ gia tiên. Ông mối thưa chuyện với nhà gái để đón cô
dâu, hẹn giờ ra cửa. Cô dâu về nhà chồng với trang phục váy, áo chàm mới, lưng
thắt dây bao da, tay cầm ô. Chú rể mặc một chiếc áo the, quần trắng, đội khăn
xếp, khăn chàm dài, tay cầm ô. Cô dâu về đến nhà chồng, ông bác chú rể mời mọi
người trong đoàn đón dâu uống nước và làm lễ cúng tổ tiên. Chiều tối, ông bác
và ông cậu nhà gái sang nhà trai để bàn chuyện và xin phép được đưa cô dâu về
lại mặt (lại lối).
Đám cưới của người Sán Chí ở huyện Sơn Động trải qua nhiều bước và mỗi bước đều
mang những sắc thái văn hóa riêng. Gần đây, đám cưới của người Sán Chí có nhiều
thay đổi, hình thức, tập tục đơn giản hơn.
187. tết bỏ mả của người
Gia Rai
Tết
bỏ mả của người Gia Rai
Tết bỏ mả của đồng bào Gia Rai ở tỉnh Gia Lai cũng tương tự như tết ăn nhà Mả
của đồng bào Ba Na nhưng được tổ chức lớn hơn nhiều. Trong suốt thời kỳ Bỏ Mả,
bà con trong buôn làng kéo nhau đi viếng từng nhà để thưởng thức của ngon vật
lạ. Mỗi khi nghe tiếng thanh la, trống, cồng vang lên ở ngoài nghĩa địa là báo
hiệu lễ Bỏ Mả. Người trong buôn nối đuôi nhau, tay cầm đuốc cháy sáng rực tiến
về nghĩa địa để chia vui cùng người thân thuộc. Mọi người không quên mang theo
rượu, thịt để góp vui cùng gia đình gia chủ trong suốt cuộc lễ. Tùy theo gia
cảnh của từng người mà chủ lễ tổ chức đơn giản hay rườm rà. Gia chủ đứng trước
ngôi mả có cắm cây nêu thường làm bằng cây gạo treo nhiều lá bùa xanh đỏ bay
phấp phới theo chiều gió và đưa tay lên trời lâm râm khấn vái Yàng.
188. sự tích lì xì
Tặng
tiền mừng tuổi vào dịp đầu năm, hay những dịp lễ, là một phong tục phổ biến ở
các nước Đông Á. Phong tục này vốn phổ biến ở Việt Nam từ rất lâu vào dịp Tết
Nguyên Đán, gọi là lì xì.
Vào những ngày Tết người lớn thường tặng cho trẻ con một khoản tiền nho nhỏ, bỏ
trong phong bao màu đỏ in hoa văn rất đẹp thường có ý nghĩa tượng trưng cho may
mắn và tài lộc, gọi là tiền mừng tuổi.
Truyện dân gian Trung Quốc kể lại, ngày xưa ở Đông Hải có một cây đào to, có
rất nhiều yêu quái sống trong bộng cây, nào là hồ ly tinh, chuột tinh, sói già…
Chúng luôn muốn ra ngoài để gây hại, nhưng bình thường luôn có các thần tiên ở
hạ giới canh giữ chúng nên không con nào thoát ra ngoài được. Nhưng hễ tới đêm
giao thừa, tất cả thần tiên đều phải về trời để phân công lại nhiệm vụ, thế là
lũ yêu tinh có cơ hội tự do nhân lúc chuyển giao nhiệm vụ của các vị thần. Nhân
cơ hội đó, có một loại yêu quái gọi là con Tuy thường xuất hiện vào đêm giao
thừa để xoa đầu trẻ con đang ngủ khiến lũ trẻ giật mình, khóc thét lên và sẽ bị
bệnh sốt cao hoặc ngớ ngẩn. Vì thế những gia đình có con nhỏ phải thức cả đêm
để canh không cho con Tuy hại con mình.
Một lần, có mấy vị tiên đi ngang nhà kia, hóa thành những đồng tiền nằm bên chỗ
đứa trẻ. Cha mẹ chúng đem gói những đồng tiền ấy vào vải đỏ. Khi con Tuy đến,
những đồng tiền lóe sáng, nó sợ hãi bỏ chạy. Phép lạ này lan truyền ra, rồi cứ
Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những chiếc túi màu đỏ tặng cho trẻ
con. Tiền đó được gọi là tiền mừng tuổi.
Một truyền thuyết khác kể rằng, tục tặng tiền mừng tuổi bắt nguồn từ hoàng cung
nhà Đường (Trung Quốc). Năm đó, Dương Quý Phi sinh hạ hoàng tử, được tin mừng
vua Đường Huyền Tôn đích thân đến thăm và ban cho Dương Quý Phi một số vàng bạc
gói trong giấy đỏ. Dương Quý Phi coi đó vừa là tiền mừng, vừa là chiếc bùa
Hoàng đế ban tặng con trẻ để trừ tà. Việc này được đồn đại ra ngoài, từ cung
đình lan rộng ra dân gian, nhiều người bắt chước tặng tiền mừng và cũng bắt đầu
coi như tặng món lộc trừ tai họa, mang lại nhiều điều may mắn cho trẻ con.
Theo những nghiên cứu khác, tục mừng tuổi ở Trung Quốc đã có từ đời Tần. Vào
thời gian đó, người ta dùng một sợi chỉ đỏ để xâu tiền thành một xâu theo hình
con rồng hoặc thanh kiếm để ở chân giường hoặc cạnh gối trẻ em. Xâu tiền đó gọi
là tiền Áp Tuế giống như cách gọi của người Trung Quốc ngày nay, có nghĩa là
món tiền mừng cho đứa trẻ, với mong ước đứa trẻ được tiền, được lộc có thể vượt
qua tuổi đó với những điều tốt lành và may mắn.
Xưa kia, ở Trung Quốc, tiền mừng tuổi thường là một vòng đỏ xâu 100 cắc tiền
đồng, biểu hiện cho lời chúc sống lâu trăm tuổi. Ngày nay, tiền mừng tuổi đầu
năm, còn có ý nghĩa tượng trưng cho sức khỏe, may mắn, thành đạt được cho vào
phong bao bằng giấy đỏ hoặc vải nhung đỏ, có những trang trí mang nghĩa cát
tường, hạnh phúc và những câu chúc, an lành, phát đạt như “Hòa gia bình an”,
“Kim ngọc mãn đường”, “Vạn sự như ý”… Vì vậy, tặng tiền Áp Tuế còn được gọi là
tặng Hồng Bao.
Từ lì xì trong tiếng Việt, sử dụng phổ biến ở miền Nam, được cho là có nguồn
gốc từ tiếng Trung Quốc, là cách đọc trại của từ “lợi thị” hoặc “lợi sự” (phát
âm theo giọng Quan Thoại là li shi, theo giọng Quảng Đông là lì xì, lầy xì), có
nghĩa gốc là một món đồ hay món tiền mang đến lợi lộc, vận tốt, vận may. Tặng
lì xì là tặng món tiền thể hiện điều lành và may mắn cho đứa trẻ.
Ở Việt Nam, lì xì vốn chỉ là những đồng tiền xu bỏ trong phong bao giấy hồng
điều, hoặc trang trí vàng son bắt mắt mà người lớn tặng cho trẻ con để chúng có
cái rủng rẻng trong những ngày Tết vì tiếng cười của trẻ con có thể xua đuổi
điều xấu. Vì vậy lì xì cũng có ý nghĩa cầu may, cầu phúc trong năm mới.
Theo tục lệ ở một số địa phương thì người nhỏ tuổi không lì xì người lớn hơn,
vì vừa không đúng ý nghĩa, vừa bị cho là “hỗn”. Tuy nhiên, ngày nay, tục lì xì
đã cởi mở hơn, đặc biệt những người nhỏ tuổi nhưng đã lập gia đình, đã có thu
nhập thì có thể mừng tuổi cho những bậc cao niên như cha mẹ, ông bà, để chúc
tụng may mắn, sức khỏe, bình an.
189. Độc đáo bản Cỏi
Người Dao ở bản Cỏi có tục lệ túm
tóc chọn bạn tình. Khi người con trai qua lễ trưởng thành (thường 13-14 tuổi),
có thể tìm hiểu bằng cách đến nhà con gái và lén... túm tóc cô gái đi ra suối
tự tình. Nếu thành công, chàng trai phải đi ở không công cho nhà gái 3 năm.
Bản Cỏi, xã Xuân Sơn, huyện Thanh Sơn, Phú Thọ nằm tựa lưng vào núi, được bao
quanh bởi suối và núi non hùng vĩ. Cảnh sắc nơi đây đầy mê hoặc, hữu tình như
bức họa sơn thuỷ. Cả bản có 66 hộ dân với khoảng 350 nhân khẩu, chủ yếu là các
dân tộc Dao, Mường... sinh sống nên vẫn giữ được nhiều phong tục độc đáo.
Ăn cơm “gà chín cựa”
Đã lâu không có khách vượt đồi vào thăm, cả bản tiếp chúng tôi thân tình tựa
người nhà. Bữa cơm tối được dọn ra nhanh chóng dưới ánh sáng lù mù của ngọn đèn
thuỷ điện chạy tuốc bin tại nhà ông Lý Phúc Lâm. Chén rượu hoẵng êm nồng đưa
chuyện, món rêu suối được chế biến thành nhiều món thơm lừng, nhưng “hút” khách
nhất là món thịt gà ngọt lừ, vừa giòn vừa mềm, ngon khó tả. Anh bạn cùng đoàn
nhận xét: “Ăn gà bản Cỏi, về xuôi không muốn ăn thịt gà nữa”. Ông trưởng bản
thật thà: “Giống gà chín cựa truyền thuyết Hùng Vương đấy”. Thật không ngờ, ngỡ
rằng gà chín cựa chỉ có trong “sính lễ” thách cưới của vua Hùng với hai chàng
Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, nay lại thấy ở nơi đây.
Túm tóc... chọn bạn tình
Già bản Bàn Văn Tình ngồi góp vui bằng câu chuyện về tục lệ túm tóc chọn bạn
tình của người Dao. Tục rằng, con trai qua lễ trưởng thành (thường 13-14 tuổi),
có thể tìm hiểu bằng cách đến nhà con gái và lén... túm tóc cô gái đi ra suối
tự tình. Túm tóc, tâm sự thành công, chàng trai phải đi ở không công cho nhà
gái 3 năm. Đây là giai đoạn cam go nhất, là cách thử thách tình yêu của chàng
trai. Làm hùng hục như trâu, ăn uống không được ngồi ghế, ngủ không được ngủ
sàn, ngủ giường, mắt nhìn không được thẳng và đặc biệt là kiêng kỵ khoản gần
gũi với con gái. Ai vi phạm thì làng bắt vạ chết. Thử thách sau 3 năm, chàng
trai đem một bình thịt muối chua, lợn 3 con, rượu 3 ché, bánh gạo và 18 đồng
bạc trắng đến nhà gái làm lễ cưới...
Ông Tình bảo, hồi xưa bà nhà ông đẹp lắm. Rất nhiều chàng trai ở bản trên, làng
dưới ngấp nghé. Có chàng lém lỉnh, đến chơi nhà cô gái cầm theo cả bọc lá khoai
chứa đầy nước để... lén dội tắt bếp, cho bố mẹ cô gái đi ngủ sớm; có chàng mạnh
bạo dỡ cả một góc mái tranh lẻn vào nhà khiến ông bố điên tiết vác dao quắm
đuổi chạy váng cả góc bản. Ông đã phải bỏ bao công sức mới “túm tóc” được cô
“hoa hậu bản”.
... Cạy cửa “ngủ thăm”
Theo sự giải thích của người dân nơi đây, "ngủ thăm" có nghĩa là con
trai, con gái đến tuổi trưởng thành đều có thể "cạy cửa ngủ thăm" nhà
nhau. Tuy nhiên, theo phong tục và quy định riêng của người Dao và người Mường
từ bao đời nay, chỉ có con trai người Mường mới được lấy vợ người Dao, còn con
trai người Dao không được lấy gái Mường.
Các cô gái đến tuổi trưởng thành, ban ngày đi làm các công việc đồng áng, tối
đến đốt một ngọn đèn, buông màn sớm và nằm trong đó. Các chàng trai có nhu cầu
tìm hiểu người con gái mình sẽ lấy làm vợ, có thể tìm đến để ngủ thăm. Nếu đèn
trong buồng cô gái còn sáng, nghĩa là chưa có ai đến ngủ thăm, chàng trai phải
tự cạy cửa để vào nhà. Chàng trai có thể nằm xuống bên cạnh cô gái, cô gái sẽ
tắt hoặc vặn nhỏ ngọn đèn. Hai người chỉ trò chuyện, tâm sự mà không được chạm
vào người nhau. Sau một thời gian tìm hiểu, cô gái có quyền quyết định cho
chàng trai đó "ngủ thật" hay không. Nhưng trước khi đi đến "ngủ
thật", cả hai đều phải thưa với bố mẹ để bố mẹ xem có hợp tuổi không. Nếu
hợp tuổi, hai bên gia đình sẽ cho phép đôi bạn trẻ “ngủ thật” với nhau.
Khi thời gian “ngủ thật” bắt đầu, cũng là lúc chàng trai phải đến làm công cho
gia đình cô gái. Cứ ngày đi làm cùng gia đình, tối về ngủ với cô gái mình có ý
định tìm hiểu. Trong thời gian này, chàng trai không được về nhà mình, muốn về
phải được gia đình cô gái cho phép. Nếu cô gái không thích chàng trai nữa thì
cô gái sẽ gói quần áo cùng với một gói cơm nắm cho vào địu và bảo với chàng
trai rằng: "Anh cứ về thôi!", như thế có nghĩa là cô gái đã từ chối.
Hoặc cũng có khi cô gái bảo: "Hôm qua, em nằm mơ thấy ác mộng", đó
cũng là một cách từ chối...
Giữa cuộc sống bộn bề lo toan, vất vả, chút tục lệ xưa cũ ở vùng trung du Phú
Thọ như một nốt lặng làm bản nhạc cuộc sống trở nên thấm hơn, mượt mà hơn.../.
190. Tục cưới hỏi của một
số dân tộc
Tục
cưới hỏi ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Đặc biệt hơn cả là tục cưới hỏi
của đồng bào Ê Đê và La Hủ...
Tục cưới hỏi của đồng bào Ê Đê
Mùa xuân, có dịp lên vùng cao thăm đồng bào Ê Ðê, bạn sẽ cảm nhận được nhiều
điều thú vị. Ví như "lệ" cưới hỏi của trai gái thuộc dân tộc này.
Người Ê Ðê có một cách làm đẹp riêng. Trai gái đến tuổi trăng rằm - 15, 16 tuổi
- phải cà 6 chiếc răng cửa của hàm trên. Ðây là tục lệ bắt buộc, không bạn trẻ
nào có thể chối từ. Một chiếc vòng tay được xem như "giấy chứng nhận",
trao cho bạn trẻ vừa cà răng xong, và từ đó họ có quyền tự do "tìm
hiểu".
Dân tộc này có tục ở rể. Các cô gái phải tự đi kiếm chồng và chịu phí tổn toàn
bộ tiền cưới. Một cô gái đã "nhằm" một chàng trao nào đó, thì nhờ ông
"mối" đem chiếc vòng đồng sang nhà trai để hỏi chồng. Chàng trai thấy
"ưng bụng" thì sờ tay vào chiếc vòng đồng ấy, rồi làm lễ nhận vòng.
Vậy là, sự "ràng buộc" giữa hai nhà đã có sợi dây thân thiết. Ðể tìm
hiểu cô dâu được kỹ càng, nhà trai có thể "đem" cô gái về ở nhà mình.
Tổ chức lễ cưới ở họ nhà gái. Tất nhiên phải có lợn và rượu. Con lợn được mổ để
lấy máu thoa vào chân cô dâu, chú rể, rồi cúng tổ tiên cầu cho hai trẻ được
sống hạnh phúc. Tiếp đó, ông "mối" xúc cho cô, cậu mỗi người hai
miếng cơm và ba chén rượu. Tất cả mọi người có mặt đều ăn một miếng thịt và một
miếng ruột lợn. �"ng trưởng họ cầm chiếc vòng đồng, cô dâu, chú rể sờ tay
vào chiếc vòng đó, "tiết mục" này kết thúc lễ cưới.
Sau ba ngày, đôi bạn trẻ về nhà chồng lấy các thứ tư trang, dụng cụ sản xuất về
nhà gái, để vợ chồng cùng làm ăn. Người Ê Ðê coi ngoại tình là một tội nặng, vì
sự việc không đẹp này gây nên mùa màng bị thất thu cho cả buôn làng. Bởi vậy,
kẻ ngoại tình phải phạt một con lợn trắng, hai cái bát đồng, để làm lễ tế đất.
Tế xong, bắt hai người trích máu ở đầu ngón tay để uống, rồi xuống suối tắm cho
sạch.
Tục lệ cưới xin của dân tộc La Hủ
Mời bạn lên vùng cao phía Bắc, thăm bà con dân tộc La Hủ thuộc tỉnh Lai Châu.
Tục lệ cưới xin ở đây có nét đẹp riêng. Tháng 11, 12 hàng năm - là dịp tết của
người La Hủ - cũng là mùa cưới của các đôi trai gái yêu nhau. Chàng trai tìm
hiểu cô gái, đã tới độ "chín muồi", anh có thể tới nhà cô gái ngủ một
vài tối. Tục lệ cho phép anh, chị có thể ngủ chung giường.
Lễ na-nhí, tức lễ dạm hỏi như vùng xuôi, thường vào buổi tối. �"ng "mối"
cùng bố mẹ và anh em nhà trai sang nhà gái để "có lời". Lễ vật là
rượu và một thứ "quà quý" của rừng - ("quà quý" này nhất
thiết phải có thịt sóc rừng). Qua trò chuyện, nhà gái thấy bằng lòng thì hai
bên cùng uống rượu, nhắm thịt sóc.
Sau lễ dạm là lễ hỏi, hai lễ này cách nhau khoảng bảy, tám ngày. Theo tục lệ,
lễ hỏi gồm hai chai rượu và số con sóc phải là số chẵn chứ không được số lẻ,
chừng 6 đến 8 con. Nhà trai phải "tuân theo" số lượng con sóc của nhà
gái: 6 hoặc 8 con, vì theo lệ từ xưa, số sóc không được ít hơn 4 nhưng cũng
không được nhiều hơn 8. Người làm mối trong lễ hỏi còn là người "đầu
bếp", tự tay làm thịt sóc, trình bày các món ăn này sao cho ngon để mời
nhà gái.
Trong khi ăn uống vui vẻ hai bên trao đổi về tiền cưới và thời gian ở rể. Ngày
xưa, tiền cưới khá "nặng túi": những 70 đến 80 đồng bạc trắng. Trường
hợp nhà rể nghèo, không có bạc trắng, thì anh phải ở lại làm rể ngay tối hôm
đó. Thời gian ở rể bây giờ rút xuống còn từ 2 đến 4 năm, thời trước từ 8 đến 12
năm.
Nếu lễ ăn hỏi có số con sóc phải chẵn, thì lễ cưới quy định: đoàn đi đón dâu
phải là số lẻ, trong đó có hai ông "mối" và chàng rể. Khi nhà trai
đón dâu đi, ông "mối" trao tiền cưới cho nhà gái. Trên đường đi, dù
có nhớ bố mẹ, cô dâu cũng không được ngoảnh lại nhìn ngôi nhà cô sinh ra và lớn
lên, vì nếu vấp ngã, e sau này vợ chồng có chuyện cãi cọ không hay.
Rước dâu về đến nhà, bà mẹ chồng đã đứng đợi ở cửa. Bà lấy một nắm gạo xoa lên
lưng con dâu, ngụ ý "xóa hết cỏ để con dâu không mang cỏ về, trên nương sẽ
không có nhiều cỏ mọc". Lại còn tục lệ: bà mẹ chồng trồng hai cây riềng ở
hai bên cửa vào nhà, rồi buộc sợi chỉ trắng qua hai cây riềng. Lúc vào nhà, cô
dâu đi phía tay trái, chú rể đi phía tay phải, rồi chú rể dùng tay trái, cô dâu
dùng tay phải "cắt" đứt sợi chỉ đó, bước vào nhà. Xong thủ tục này
hai họ cùng nâng chén chúc những câu tốt lành và ăn uống vui vẻ.
191.
Văn hoá hương nhang
Tâm
linh người Việt trong khói hương : Chẳng biết từ bao giờ, người dân Việt Nam
chúng ta xem chuyện thắp hương trên bàn thờ tổ tiên là một nét đẹp văn hoá
truyền thống không thể thiếu trong các dịp giỗ chạp, lễ Tết. Nén hương như một
chiếc cầu nối thiêng liêng giữa cuộc sống hiện hữu của con người với cõi tâm
linh của trời đất. Có thể nói, hương đã len lỏi vào tận cùng ngóc ngách của đời
sống và có một vị trí quan trọng trong cuộc sống của người Việt Nam nói riêng
và của người châu Á nói chung. Ngày cuối năm đi mua sắm các thứ chuẩn bị cho
Tết, không ai không mua vài nén hương về thắp cho ông bà, tổ tiên mình.
Nét đẹp văn hoá
Nói đến nghề làm hương thì phải kể đến dân Dốc Lã (Hưng Yên) vì đây là quê
hương của bà tổ làng nghề. Tục truyền rằng, có một cô gái họ Mai, quê ở Dốc Lã,
lấy chồng người Trung Quốc. Một lần về thăm nhà, thấy bà con làng mình nghèo
khổ, cô liền bày cho họ nghề làm hương, thế là nghề này được phát tán đi khắp
nơi. Sau khi được truyền nghề, qua thời gian cùng sự sáng tạo tinh tế, nghề làm
hương ở Việt Nam ngày một tiến bộ không kém hương của Trung Quốc. Cũng từ đó,
nén hương đã đi vào đời sống văn hoá, tín ngưỡng của người Việt Nam như một nét
đẹp truyền thống, gần gũi và thiêng liêng.
Trong chúng ta, khó ai có thể diễn tả hết sự xúc động khi vào khoảnh khắc giao
hoà trời đất giữa năm mới và năm cũ, cả gia đình quây quần bên nhau, thắp trên
bàn thờ một vài nén hương thơm rồi tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ, những người
thân yêu đã khuất. Sự lẩn khuất của làn khói trắng, mùi thơm nhẹ lan toả làm
cho ta thấy ấm cúng và gắn bó với nhau hơn. Trong tâm thức, mỗi người Việt Nam
chúng ta đều tin rằng: Ở thế giới bên kia, trong một không gian vô định, có
những hình ảnh, những con người vô hình đang hướng về chúng ta, đang ở bên
chúng ta hàng ngày. Và khi ta thắp nén hương lên là ta có thể tâm sự với họ,
sưởi ấm cả thế giới này và cả thế giới vô hình kia nữa.
Chẳng biết tục lệ thắp hương có từ bao giờ và do ai sáng lập. Cả đến vua Trần
Nhân Tông – vị vua duy nhất trong lịch sử đã xuất gia – cũng thừa hưởng và dùng
hương rất nhiều trong mỗi lần đến chùa. Nhiều người Việt xưa có thói quen, khi
đi xa về thường thắp hương trên bàn thờ trước rồi mới nói, làm việc gì đó. Với
những người sắp đi xa lại cũng thắp hương để mong lên đường an toàn, may mắn. Ở
nhiều vùng của Nam Bộ, người ta còn thắp hương cho từng gốc cây, ụ mối, góc nhà
với quan niệm mọi vật đều có đời sống tâm linh của nó. Triết lý nhân sinh thật
đơn giản nhưng lại mang một nội hàm đa dạng, phong phú thường thấy ở người Á
Đông. Ngày nay, hương không chỉ được thắp trong gia đình mà cả những tôn giáo
khác nhau cũng đều có chung nét văn hoá này. Đặc biệt là ở các đền chùa, miếu
mạo, hương là một thứ không thể thiếu.
Ngày Tết đi chùa lễ Phật, hái lộc đầu năm, chúng ta luôn bắt gặp những hình ảnh
rất quen thuộc: Những cụ ông, cụ bà, những nam thanh nữ tú tay cầm hương, miệng
lâm râm khấn vái cầu mong một năm mới an khang, thịnh vượng, phúc lộc thọ khang
ninh... Đây hoàn toàn không phải là hành động mê tín dị đoan, nhưng là một nét
văn hoá đẹp được tồn tại từ rất lâu, đem lại cho người ta một sự thanh thản và
bình yên trong tâm hồn.
Văn hoá hương nhang
Bao giờ cũng vậy, người Việt Nam đã quen chọn số lẻ (1, 3, 5, 7, 9) cho số nén
hương dâng lên. Hoặc có thể người ta cũng đốt cả nắm hương chứ không chọn số
chẵn (2, 4, 6, 8). Theo thói quen là vậy, còn theo lý giải của nhà Phật cho
rằng, số lẻ mang nhiều ý nghĩa linh thiêng hơn.
Có nhiều quan niệm khác nhau về các con số. Số 7 và số 9 được tượng trưng cho
“vía” của con người, khi người ta muốn xin ơn cho cá nhân (nam thất nữ cửu).
Con số 3 thì có nhiều quan niệm khác nhau hơn. Đó có thể là :
- Tam bảo (Phật – Pháp – Tăng),
- Tam giới (Dục giới, Sắc giới
và Vô sắc giới)
- Tam thời (Quá khứ – Hiện tại –
Tương lai)
- Tam vô lậu học (Giới – Định –
Tuệ) của nhà Phật
Bởi
vậy mà ở sân chùa cũng thường có 3 đỉnh hương to. Con số 5 là 5 phương trời
đất, 5 hướng thần linh. Nhưng dù là con số nào đi chăng nữa thì việc thắp hương
cũng chính là dâng tâm mình giữa trần gian đối với những bậc tâm kính, những
người đã khuất. Hương chính là sợi dây vô hình nối liền hai cõi thực hư.
Trong nghi lễ Phật giáo, hương là một trong sáu lễ vật dâng cúng gồm có :
- Hương – Hoa (hương – hoa)
- Đăng – Trà (nến, đèn – trà)
- Quả – Thực (quả – cơm)
Không
chỉ có nhà Phật, mà cả các tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo cũng dùng hương
trong các ngày lễ của mình. Người Thiên Chúa giáo xông hương trong các thánh lễ
của mình: trước bàn thờ, trước cuốn Kinh Thánh, trước mình Thánh, rượu Thánh và
trước cả linh cữu của người đã mất... Nhưng trên tất cả, trong mỗi người dân
Việt Nam đều coi hương là một công cụ đặc biệt quan trọng đối với đời sống hàng
ngày, và đặc biệt là đời sống tâm linh. Ai trong chúng ta cũng đã ít nhiều quen
với việc thắp hương, dâng hương. Cho dù không tin vào thần thánh, vào thế giới
bên kia, nhưng chúng ta đều tin rằng nén hương và hương thơm của nó giúp chúng
ta ấm áp tâm hồn.
Nén hương vòng cháy theo chiều kim đồng hồ như chính vòng xoáy nhân sinh của
cuộc đời, đó là vòng đời của mỗi con người nơi trần thế. Và tất cả chúng ta,
cuối cùng cũng đi đến một mục đích, vươn tới giá trị đích thực của cõi tâm
linh, vươn tới những điều: Chân – Thiện – Mỹ của cuộc đời.
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta, dù thành thị hay nông thôn, mỗi khi Tết
đến, Xuân về đều thắp lên trong nhà mình một nén hương để tỏ lòng thành kính
với ông bà, tổ tiên. Một nén hương cầu chúc hạnh phúc cho mọi người trong gia
đình, để cầu xin bình an trong năm mới và để cho không khí của những ngày đầu
năm thêm ấm áp và tươi vui...
Mùa Xuân là mùa có nhiều hội hè, mùa tảo mộ, thanh minh. Ngày Xuân cũng là thời
gian họp mặt của những người trong gia đình, cùng nhau đi viếng chùa cầu
phúc... Những nén hương được thắp lên và mọi người cảm thấy ấm lòng. Nén hương
lúc này không còn là thứ hàng hoá rẻ tiền nữa mà nó đã trở thành một sản phẩm
tinh thần không thể thiếu của người dân Việt. Cùng với những phong tục truyền
thống khác, nén hương đã góp phần tạo nên và bảo tồn giá trị bản sắc văn hoá
dân tộc Việt Nam.
1. Khói hương trong tâm linh người Việt
Nghi thức dâng hương là tập quán mà hầu như mọi người dân Á châu bất kể lứa
tuổi nào và sống ở nơi đâu đều biết đến. Nén hương đã đi vào đời sống văn hoá,
tín ngưỡng của người Việt Nam như một nét đẹp truyền thống, gần gũi và thiêng
liêng. Dù không mê tín dị đoan, trong tâm thức mọi người Á Châu đều tin rằng
nén hương khi đốt lên, cũng như một nhịp cầu vô hình nối kết hai thế giới hữu
hình và vô hình với nhau. Tuy nhiên về mặt tâm linh, có người vẫn còn hiểu một
cách mơ hồ, nhất là về ý nghĩa dâng hương theo truyền thống của ông bà. Thậm
chí ngày nay có người còn không biết vì sao trong nhà mình có một bàn thờ với
những pho tượng, hình ảnh Chư Phật Bồ Tát, thần thánh hoặc tổ tiên. Phải chăng
có một “ông” Phật sống ở trên bàn thờ?
2. Định nghĩa
Dâng hương là gì? Dâng có nghĩa là đưa lên một cách cung kính, tiếng Anh gọi là
“offering”. Và từ hương có nghĩa là mùi thơm, thông thường là một vật dùng đốt
lên để cúng các đấng thiêng liêng, cũng được gọi là nhang và trầm, tiếng Anh là
“incense”. Từ incense bắt nguồn từ ngôn ngữ Latin, và động từ incendere - có
nghĩa là thắp cháy lên.
3. Sự đặc biệt của nén hương đối với quê hương Việt Nam
Chuyện thắp hương trên bàn thờ tổ tiên là một nét đẹp văn hoá truyền thống
không thể thiếu trong các dịp giỗ chạp, lễ Tết. Ngày cuối năm đi mua sắm các
thứ chuẩn bị cho Tết, không ai không mua vài nén hương về thắp cho ông bà, tổ
tiên mình. Nén hương được thắp lên thì mọi người cảm thấy ấm lòng. Nén hương
lúc này không còn là thứ hàng bình thường, mà nó đã trở thành một sản phẩm tinh
thần không thể thiếu của người dân Việt. Cùng với những phong tục truyền thống
khác, nén hương đã góp phần tạo nên và bảo tồn giá trị bản sắc văn hoá dân tộc
Việt Nam.
Mùi hương là mùi thơm quen thuộc trong nhà hằng triệu triệu người Á châu - là
mùi thơm đặc biệt của ngày đầu năm đi chùa lễ Phật. Chúng ta luôn bắt gặp những
hình ảnh rất quen thuộc: những cụ ông, cụ bà, nam thanh, nữ tú, tay cầm hương
khấn vái cầu mong một năm mới an khang, thịnh vượng, phúc lộc thọ khang ninh...
Đây hoàn toàn không phải là hành động mê tín dị đoan, mà là một nét đẹp văn hoá
được tồn tại từ rất lâu
4. Lược sử về hình thức đốt nhang
Theo lịch sử ghi lại, việc đốt nhang bắt nguồn từ khoảng năm 3700 (cách đây
khoảng 5700 năm), từ nước Ấn Độ. Đến năm 618 AD vào đời nhà Tần mới có một vị
Tăngđem hương trầm qua Trung Quốc, từ đó hình thức đốt nhang được phát triển
mạnh mẽ và hưng thịnh nhất vào đời nhà Minh, sau đó được phổ biến đến khắp các
nước láng giềng. Có thể nói hình thức đốt hương phổ biến nhất ở Nhật Bổn, tại
đây họ lại chế thêm nhiều cách đốt hương; sản phẩm quen thuộc nhất là nén trầm
hình tròn đầu nhọn vào thế kỷ 17, ngày nay vẫn còn dùng. Nhiều tài liệu cho
thấy việc đốt nhang đã có từ thời sơ khai. Trong các đền thờ của vua chúa Ai
Cập (Ancient Egypt) có rất nhiều những hình vẻ hoặc hình chạm trên tường mô tả
nghi thức này.
Ngày nay việc đốt nhang đã trở thành một tập quán trong các ngày lễ hội như Rằm
tháng bảy, lễ Vu Lan, Vía Quán Thế Âm, ngày Tết hái lộc đầu năm, Phật đản, và
những ngày quan trọng trong gia đình như cúng giỗ, đám tang, đám cưới, ăn tân
gia… dùng để cúng những vị như Phật Bà Quán Âm, Đức Mẹ Mary, Ông Bà, Tam Tiên
Ông: Phúc Lộc Thọ, Thổ Địa, Táo Quân, Thần Tài…
5. Lợi ích và tác dụng của nén hương
Từ ngàn xưa, khi mới khám phá ra lửa, con người đã bắt đầu phát hiện ra một
điều lạ lùng, đó là khi ngọn lửa cháy lên sẽ toả ra mùi thơm đặc biệt tuỳ theo
vật liệu dùng để đốt. Người ta đã biết dùng hương đèn để trị bệnh cho thân thể
và cả bệnh tâm lý. Khi đốt hương đèn, khói hương nghi ngút tạo nên không khí
thanh tịnh, ấm áp và trang nghiêm hoặc tạo không khí trong sạch trong những căn
phòng lạnh lẻo của người qua đời hoặc lâm trọng bệnh.
Thông thường, người ta thắp nhang là để khẩn thiết cúi đầu mong tấm lòng thành
kính của mình sẽ quyện theo làn khói thơm hướng về cõi thiêng liêng hoặc xông
lên tận ngai vàng của Đức Chúa Trời hoặc một đấng nào khác. Do vậy trong kinh
Phật mới có bài kệ
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
6. Khi thắp nhang nên thắp mấy nén?
Người Việt Nam đã quen chọn số lẻ (1, 3, 5, 7, 9) lúc thắp nhang, nhưng cũng có
trường hợp người ta đốt cả nắm nhang chứ không chú trọng vào ý nghĩa con số.
Còn theo lý giải của nhà Phật cho rằng, số lẻ mang nhiều ý nghĩa linh thiêng
hơn.
Con số 3 thì có nhiều quan niệm khác nhau : đó có thể là
- Tam bảo (Phật – Pháp – Tăng),
- Tam giới (Dục giới, Sắc giới
và Vô sắc giới)
- Tam thời (Quá khứ – Hiện tại –
Vị lai)
- Tam vô lậu học (Giới – Định –
Tuệ)
Nén
hương, cũng có thêm một ý nghĩa đặc biệt khác nữa, đó là thắp nhang để nhớ đến
sự vô thường. Vô thường là từ Hán-Việt, tức là không vĩnh viễn - tất cả đều giả
tạm, cho nên lúc nén hương tắt cháy thì cũng tượng trưng cho đời người tắt
chắy, ngắn ngủi vô thường như thời gian của nén hương... tàn tro của hương nhắc
nhở chúng ta chớ để thời gian trôi qua, uổng phí tháng ngày.
7. Ý Nghĩa dâng hương trong nhà Phật và các tôn giáo khác
Trong nghi lễ Phật giáo, hương là một trong sáu lễ vật dâng cúng, gồm có: Hương,
Hoa, Đăng, Trà, Quả, Thực (Nhang, Bông, Đèn, Trà, Trái, Thức ăn). Tuy nhiên
nhiều người không rõ về ý nghĩa sâu xa của việc cúng Phật nên bày biện đủ thức
ăn uống như yến tiệc, thật là phí của, phí công mà lại còn làm sai lạc ý nghĩa.
Không lẽ Phật sẽ lên trên bàn thờ mà ăn từng trái táo, uống từng chung trà sao?
Theo quan niệm của Phật giáo, lòng thành thể hiện qua làn khói hương nghi ngút,
không cần cỗ bàn yến tiếc tiệc thịt cá, heo quay linh đình… vì đúng ý nghĩa sự
Cúng Phật thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái tốt, nước trong
là đủ. Phật không phải ở trên bàn thờ, trong những pho tượng, mà là ở trong tâm
của tất cả con người. Ngoài những nén hương dùng ngọn lửa nóng để đốt cháy lên,
chúng ta còn có thể dùng đức tin của mình thắp lên những nén Tâm hương- tức là
hương từ trong tâm. Bởi vậy mới có năm thứ hương dùng để cúng dường chư Phật:
Giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến
hương.
Không chỉ Phật giáo, mà cả các tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo cũng dùng
hương trong các ngày lễ của mình. Người Thiên Chúa giáo xông hương trong các
thánh lễ, trước bàn thờ, trước cuốn Kinh Thánh, mình Thánh, rượu Thánh và cả
linh cửu của người đã mất... Trước thời Chúa Giê-su (Jesus), những hương liệu
như loại trầm frankincense có giá trị hơn cả vàng bạc châu báu. Đó là vì cổ
nhân tin rằng những loài cỏ cây thơm là do chư Thiên ban cho từ trên cao và đã
thấm nhuần hương thơm của Đức Chúa Trời.
Có tài liệu ghi rằng, khi Chúa Giê-su giáng sinh, có ba vị vua đem ba thứ châu
báu quý nhất trong nước thời đó để dâng lên cho ngài - đó là :
- Vàng
- Hương trầm
- Dầu thơm đặc biệt từ rễ cây
Myrrh
Điều
này chứng tỏ hương trầm từ xa xưa vốn đã được xem như một vật quý giá thiêng
liêng. Khói hương hoà vào không khí khiến cho không gian vạn vật xung quanh đều
được thơm ngát, ví như tâm hành “Tuỳ thuận chúng sinh” của các bậc Bồ tát Đại
nhân vậy.
Những tôn giáo khác như Ấn Độ giáo (Hinduism) thì lại dùng hương để thư giản và
tập trung hơi thở lúc ngồi Thiền. Trong khi đó, dạo Phù Thuỷ (Wiccanism) dùng
hương để trở về với sức sống thiên nhiên để cảm thông với các vị nữ thần như
Aphrodite. Trái lại, theo đạo Khổng (Confucianism) thì khói hương tượng trưng
cho Đại Trượng Phu - chỉ bay lên chứ không bao giờ lặn xuống.
Hương không có màu sắc nhưng luôn thơm ngát, như câu “Tự tại trong hành xứ, như
chim giữa hư không, tìm dấu chân không thấy”. Như mùi hương vô sắc phảng phất
thơm lừng, bậc tĩnh lặng sống tự tại giữa đời, đem lại an lạc và lợi ích cho
đời nhưng không lưu lại một dấu tích danh sắc nào trên bia ký. Rời khỏi cuộc
đời, có chăng chỉ là một khoảng không gian ngát hương: mùi hương của loại hương
bay ngược chiều gió!
Ở nhiều vùng thuộc Nam Bộ, người ta còn thắp hương cho từng gốc cây, góc nhà
với quan niệm mọi vật đều có đời sống tâm linh của nó, cũng như là để thần
thánh, hoặc vong/ hương linh hút vàp sức lực để hiển linh.
Một điều chúng ta phải cần ghi nhớ là mỗi lần dâng hương trước bàn thờ: không
những dâng hương bằng tấm lòng thành kính của mình, mà còn phải có chánh niệm,
tiếng Anh gọi concentration (sự tập trung). Nên cắm từng nén hương với hai tay
và cắm cho ngay thẳng, tượng trưng cho tấm lòng ngay thẳng, mặc cho bão táp
phong ba không hền dời đổi, giữ nguyên phong cách của ngừời quân tử tấm lòng
trong sạch để lưu lại tiếng thơm với đời toả khắp nơi
192.
Những phong tục độc đáo của người Dao Đỏ Bắc Kạn
Dân
tộc Dao có bản sắc văn hoá riêng biệt, độc đáo. Dân tộc Dao trên đ ịa bàn tỉnh
Bắc Kạn gồm các nhóm như Dao Tiền, Dao Thanh Y, Dao Đỏ… Trong những năm gần
đây, đồng bào dân tộc Dao Đỏ trên địa bàn tỉnh ta đã thực hiện cuộc vận động
định canh, định cư, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống.
Tuy nhiên họ vẫn giữ được nét truyền thống của dân tộc mình. Những phong tục
tập quán của người Dao Đỏ có rất nhiều, song trước hết phải kể đến nét riêng về
ẩm thực vào những dịp lễ tết đồng bào thường gói nhiều loại bánh, bánh chưng
dài được gói khum, gù ở 2 đầu chứ không giống như bánh chưng dài của người Tày.
Bên cạnh đó bà con cũng chế biến xôi nhiều màu sắc từ một số loại cây rừng và
bột nghệ. Trong các ngày lễ tết các món xương, thịt, lòng lợn, gà được chế biến
thành nhiều món với những loại gia vị khác nhau. Chính vì thế mâm cỗ ngày tết
của dân tộc Dao Đỏ khá phong phú đa dạng nhiều màu sắc. Đồng bào Dao Đỏ có
những điểm rất khác với người Tày và người Kinh là trong dịp lễ tết phụ nữ chỉ
có một việc là gói bánh và đồ xôi, còn những việc chế biến, nấu nướng là do đàn
ông đảm nhiệm.
Cũng giống như nhiều dân tộc khác, đồng bào Dao Đỏ cũng có bàn thờ cúng tổ tiên
nhưng duy nhất chỉ có một bát hương, trong những ngày tết các loại bánh đều
được đưa lên bàn thờ cúng cùng với thịt lợn, gà và rượu…Đồng bào Dao Đỏ có một
kiêng kỵ là ăn xong không được để đũa ngang bát vì họ quan niệm đó là bát
cơmcủa nhà có người chết.
Vào những ngày lễ tết đồng bào dùng các loại rễ cây, thân, lá, một số thảo mộc
làm men ủ rượu. Lương thực dùng để nấu rượu sau khi được trộn men, đem ủ kỹ
trong các chum vại lớn, thời gian ủ kéo dài từ vài tháng đến một năm… Khi chưng
cất rượu bà con dùng chảo gang và chõ gỗ cho nên rượu chưng cất rất thơm ngon,
có hương vị riêng, đậm đà, người ta gọi là rượu men lá, uống vào rất êm, ngọt
làm người uống say lúc nào không biết. Mọi người uống rượu men lá dù say cũng
không bị đau đầu.
Hoạt động văn hoá chủ yếu của thanh niên Dao Đỏ trong dịp tết là đánh yến, đây
là loại trò chơi có từ lâu. Đồng bào Dao Đỏ quy định trong khi chơi đánh yến
đội nào thua thì phải uống rượu, người ở nơi khác đến du xuân nếu muốn về thì
phải đánh thắng nếu thua phải ở lại qua đêm. Đây cũng chính là thể hiện sự mến
khách của người Dao Đỏ Bắc Kạn, nhờ vậy mà nhiều đôi nam nữ nên vợ nên chồng.
Phong tục không thể thiếu của đồng bào Dao Đỏ trong những ngày lễ, tết là họ
chuẩn bị mặc cho mình những bộ trang phục đẹp nhất và trang điểm đẹp nhất để du
xuân. Trang phục của đồng bào rất đẹp, có những đường thêu hoa văn tinh tế thể
hiện được bản sắc riêng của dân tộc Dao Đỏ. Phụ nữ Dao Đỏ có nghề làm dây túi
(Sùi địp). Họ thường tạo hoa văn bằng cách lấy hai miếng ván gỗ khắc thành hoa
nhỏ để kẹp vải, nấu sáp chảy ra, rồi trút vào trong lỗ khắc, sau mới bỏ miếng
vải ra, lấy vải nhúng vào chàm. Vải đã thấm chàm rồi thì đem nấu cho chảy sáp
ra sẽ được hoa văn sặc sỡ rất tinh tế, đẹp và sáng. Kỹ thuật vẽ chàm đó gọi là
vẽ bằng sáp ong. Ngoài ra họ cũng thêu họa tiết trên vải, nhưng không vẽ mẫu
trước và tự tạo theo trí tưởng tượng của mình. Cách tạo họa tiết xem ra đơn
giản nhưng đòi hỏi người phụ nữ phải hết sức kiên nhẫn và khéo léo thì sản phẩm
làm ra mới đẹp và độc đáo.
Nếu là những bộ quần áo thường thì mặc thì người Dao Đỏ cũng không quá chăm
chút nhưng đó là lễ phục thì lại khác. Lễ phục được làm rất cầu kỳ, công phu
với nhiều màu sắc rực rỡ chủ yếu là màu đỏ. Chiếc áo lễ phục được xẻ ngực, nẹp
áo được thêu, cài bằng khuy bạc, hai ngực áo đính nhiều bông len đỏ. Cổ áo phía
sau đính nhiều chuỗi hạt màu. Hai ống quần được thêu hoa văn từ đầu gối trở xuống.
Dây lưng được làm từ mảnh vải dài khoảng hai sải tay. Những bộ lễ phục như thế
thường là tốn rất nhiều thời gian nên người phụ nữ chỉ làm khi rảnh rỗi và các
cô gái đến tuổi cập kê thì phải chuẩn bị cho mình.
Đến với đồng bào người Dao Đỏ Bắc Kạn du khách sẽ bị chinh phục bởi nét văn hoá
độc đáo, tinh tế và tấm lòng mến khách của những người dân bình dị, thẳng thắn
và đầy chân tình.
193.
Hội Pháo đất Ninh Giang
Nếu
bạn có dịp tới thăm Ninh Giang (Hải Dương) vào mùa xuân, ở bất kỳ một thôn xóm
nào tại đây, bạn sẽ được xem hội pháo. Không phải hội pháo với những nét đặc
trưng của Hội pháo Đồng Kỵ hay Hội pháo Bình Đà nổi tiếng một thời mà là hội
pháo đất đã trở thành truyền thống ở Ninh Giang mỗi dịp xuân về.
Pháo ở Ninh Giang không làm bằng giấy màu xanh đỏ với những gam thuốc nổ ghê
người mà chất liệu chính của nó là đất. Tuy nhiên, không phải thứ đất nào cũng
có thể làm được pháo mà phải là thứ đất gan gà, được chọn lọc và làm kỹ cả tuần
lễ trước khi hội pháo diễn ra. Đất này sẽ được người ta giã nhuyễn như bột làm
bánh dầy và khi vào hội, những khối đất vuông vức dẻo quánh ấy sẽ được những cô
gái xinh đẹp nhất của làng gánh đến sân chơi.
Ngày hội pháo diễn ra, cả làng nô nức kéo nhau tới sân chơi và không khí lúc
này đã thật sự đúng nghĩa của một ngày hội làng. Mọi người tới đây, ngoài việc
vui chơi còn để thi thố tài năng làm pháo.
Những người tham gia hội pháo ở đủ mọi lứa tuổi khác nhau nhưng họ đều có một
điểm chung là khéo tay, khỏe mạnh và bình tĩnh. Họ sẽ tham gia thi đấu theo
từng loại pháo, tùy vào trọng lượng của đất. Cái nhỏ nhất bao giờ cũng nặng 10
kg và lớn nhất là 50 kg với hình thù đặc trưng kiểu lá riềng (hình thuyền).
Pháo làm xong giống như một chiếc thuyền con, vành pháo to tròn bằng lốp xe đạp
thồ, bản pháo là phần trong. Tuy nhiên, quyết định sự thắng thua là nghệ thuật
gieo pháo. Người chơi sẽ nâng pháo lên bằng hai tay của mình, giữa tiếng reo
hò, tiếng trống mõ cổ vũ dậy trời. Lúc này người chơi phải thật bình tĩnh, tính
toán chính xác độ cao cũng như độ xoáy để khi gieo pháo, pháo phải rơi sao cho
tất cả vành pháo cùng một lúc tiếp xúc với mặt sân. Bởi nếu không cẩn thận,
pháo quá to, đất lại dẻo mềm, vành pháo sẽ bị rũ xuống.
Nếu pháo ở cao quá, tiếng nổ thì to nhưng sức phá mạnh, vành pháo tung ra sẽ bị
đứt đoạn. Và người thắng phải là người biết tìm điểm cao, thấp tùy theo độ dài
của vành pháo để khi pháo rơi vành pháo tung dài, duỗi thẳng, không bị đứt đoạn
mà lại nằm vắt lên bản pháo với tiếng nổ vừa vang, vừa ấm.
Tuy nhiên, đoạt giải không chỉ nằm ở việc pháo nổ to mà còn tùy thuộc vào tổng
cộng tất cả số đo chiều dài vành pháo. Chính vì thế, thắng lợi sẽ được quyết
định hay không là ngay từ khâu làm đất. Chỉ cần sơ sót một chút, để một hạt sỏi
nhỏ hoặc một sợi tóc lẫn trong đất pháo thì khi pháo nổ sẽ bị đứt đoạn, điểm sẽ
không được tính. Bên cạnh đó, thành công còn quyết định ở cả nghệ thuật làm
pháo và gieo pháo...
Khi kết thúc hội pháo, người đoạt chức vô địch-người được chơi chiếc pháo cuối
cùng, còn gọi là chiếc pháo rút dây-sẽ quyết định độ dài cả dải pháo của đội
mình và đội bạn. Người này thường là phải được chọn lựa rất kỹ ngay từ giải địa
phương và khi ban tổ chức công bố người thắng cuộc, người vô địch sẽ được khoác
lên người một chiếc áo đỏ, được mọi người công kênh, tung hô. Tiếp đó là tất cả
tranh nhau xé chiếc áo đỏ thành từng mảnh, phát cho các cháu nhỏ để lấy phước,
lấy lộc đầu năm mới.
Hội pháo của Ninh Giang trước đây thường được kéo dài trong suốt 3 tháng liền
với phần thưởng là trâu, bò, gạo cuốn hút cả già, trẻ, gái, trai trong hàng
tổng, hàng huyện. Tuy nhiên, đến bây giờ thì nghi lễ đã được rút ngắn lại, chỉ
tổ chức vào các ngày Chủ Nhật sau Tết và phần thưởng cũng không lớn như trước
nữa. Tuy nhiên, với người dân ở Ninh Giang thì mỗi khi mùa xuân đến là tất cả
mọi người lại nô nức chuẩn bị cho hội pháo đất, không phải vì giải thưởng mà vì
sức hấp dẫn của loại hình nghệ thuật truyền thống đã hình thành từ nghìn năm
nay.
Hãy đến Ninh Giang một lần vào dịp đầu xuân để cùng tham gia hội pháo đất với
người dân trong vùng, bạn sẽ thấy được ngay sức hấp dẫn của nó. Đứng trong
tiếng reo hò, theo dõi cuộc chơi, bạn sẽ hiểu vì sao pháo đất-một trò chơi rất
bình dân-lại được duy trì lâu đến như vậy và trở thành trò chơi cổ truyền của
con người Ninh Giang
194.
Tục thờ các vị thần ở Hà Nam
Nằm
ở phía tây nam đồng bằng Bắc bộ, vừa là vùng đồng bằng, vừa là vùng bán sơn
địa, sản xuất nông nghiệp là chính, các cư dân nông nghiệp Hà Nam cho đến nay
vẫn còn lưu giữ trong đời sống văn hoá tinh thần của mình nhiều hình thái tín
ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ. Đậm nét nhất, có thể nói, là tín ngưỡng thờ
Tứ Pháp.
Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp là tín ngưỡng thờ bốn vị thần tự nhiên có ảnh hưởng
quyết định đến đời sống nông nghiệp đang ở tình trạng lệ thuộc hoàn toàn vào
thiên nhiên. Đó là bốn vị: thần Mưa (Pháp Vũ), thần Mây (Pháp Vân), thần Sấm
(Pháp Lôi), thần Chớp (Pháp Điện). Truyền thuyết về việc xuất hiện tục tờ bốn
vị thần này được chép vào sách Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ XIV) với tên Truyện
Man Nương. Truyện kể rằng ở vùng Thuận Thành, Bắc Ninh, có cô gái Man Nương đến
chùa Phúc Nghiêm dốc lòng học đạo. Trụ trì chùa này là một nhà sư người Ấn Độ
tên là Khâu Đà La.
Tình cờ một hôm, do nhà sư vô tình bước chân qua người Man Nương mà nàng có
mang. Nàng xấu hổ bỏ về quê. Đến khi sinh con, nàng mang đứa con gái ấy đến trả
nhà sư. Nhà sư mang đứa con đó gửi vào gốc cây trao cho Man Nương một chiếc gậy
và dặn khi nào hạn hán thì lấy gậy chọc vào đất để lấy nước cứu dân. Khi Man
Nương 80 tuổi, cây đa cổ thụ mang đứa con của bà bị đổ, trôi đến bến sông Dâu.
Bao nhiêu người cũng không kéo nổi cây lên bờ, chỉ có Man Nương động tay vào
thì cây di chuyển. Man Nương cho tạc cây thành 4 pho tượng Phật. Khâu Đà La đặt
tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, mang vào chùa thờ tự. Đứa con bà
gửi gốc cây nay đã hóa đá, rìu chạm vào bị mẻ hết, rước vào điện Phật để thờ
thì tảng đá phát hào quang rực rỡ. Người bốn phương tới đây cầu mưa, không lúc
nào không ứng nghiệm, bèn gọi Man Nương là Phật Mẫu. Ngày mùng 8 tháng 4, Man
Nương tự nhiên hóa, nhân dân lấy đó làm ngày sinh của Phật. Hàng năm tới ngày
này, người bốn phương đến tụ tập ở chùa để vui chơi, tưởng nhớ đến Mẹ Phật.
Thoạt đầu, Tứ Pháp chỉ được thờ trong các chùa ở vùng Luy Lâu. Dần dần, do tính
chất linh ứng của nó mà lan dần ra nhiều vùng quê ở châu thổ Bắc bộ, trong đó
có một số vùng quê ven sông Đáy của tỉnh Hà Nam. Tương truyền, các làng quê
vùng Hà Nam co nghe tiếng Tứ Pháp ở Bắc Ninh linh ứng đã lên đó xin rước chân
nhang để thờ. Từ khi rước Tứ Pháp về thờ thì được mưa thuận gió hòa, mùa màng
tươi tốt. Các nơi thờ Tứ Pháp ở Hà Nam cụ thể như sau:
Thờ Pháp Vân: chùa Quế Lâm (Văn Xá, Kim Bảng), chùa Do Lễ (Liên Sơn, Kim Bảng),
chùa Thôn Bốn (Phù Vân, Kim Bảng), Chùa Tiên (Thanh Lưu, Thanh Liêm).
Thờ Pháp Vũ: Chùa Bà Đanh (Ngọc Sơn, Kim Bảng), Chùa Trinh Sơn (Thanh Hải,
Thanh Liêm).
Thờ Pháp Lôi: Chùa Đặng Xá (Văn Xá, Kim Bảng), Chùa Nứa (Bạch Thượng, Duy
Tiên).
Thờ Pháp Điện: Chùa Bà Bầu (thị xã Phủ Lý).
Các chùa khác như chùa Quyển Sơn (Thi Sơn, Kim Bảng), chùa Thanh Nộn, chùa Phú
Viên, chùa và đình làng Lạt Sơn (x. Thanh Sơn, h. Kim Bảng), chùa Thanh Thôn
(Văn Xá, Kim Bảng) có phối tự thờ Tứ pháp trong thần điện. Tại Hà Nam, Tứ Pháp
đã được gọi bằng những cái tên nôm na thân mật. Dân làng Đanh Xá gọi Pháp Vũ là
bà Đanh (chùa Bà Đanh), dân làng Quế Lâm gọi Pháp Vân là bà Bến (chùa Quế Lâm),
dân thị xã Phủ Lý gọi Pháp Điện là bà Bầu (chùa Bà Bầu)…
Hàng năm cứ vào dịp Tết nguyên đán, rằm tháng Giêng, rằm tháng Bảy, đặc biệt là
ngày mùng 8 tháng 4, dân các địa phương gần xa lại đến chùa mở hội, rước kiệu,
cầu nguyện tấp nập. Vào những năm hạn hán hay mưa gió thất thường, các chùa Bà
Đanh, chùa Bến, chùa Bầu người ra vào cũng lễ rất đông. Từ năm 1990 đến nay,
việc thờ cúng Tứ Pháp ở các địa phương Kim Bảng, Thanh Liêm, thị xã Phủ Lý bắt
đầu có xu hướng gia tăng cả về quy mô lẫn phạm vi lễ thức. Chùa Quế Lâm, chùa
Trịnh Sơn, chùa Bầu đã được tu bổ tôn tạo lại rất khang trang. Dân địa phương
và khách thập phương về cúng lễ cũng ngày một tấp nập hơn.
Xét bản chất sâu xa, tín ngưỡng Tứ Pháp bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu
linh. Đây là một quan niệm tối cổ của con người trong quá trình sống phải đối
mặt với muôn vàn khó khăn do mà thiên nhiên tạo ra. Quan niệm vạn vật đều có
linh hồn, người nguyên thủy nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tượng tự nhiên đều có
một vị thần. Vị thần đó quyết định sự vận hành của vũ trụ, trong đó có đời sống
con người, đặc biệt, đối với một vùng đất nông nghiệp trồng lúa nước.
Quan niệm về thần Mưa, thần Gió hẳn đã ăn sâu vào tâm thức người dân Việt từ xa
xưa, trước khi Phật giáo đặt chân tới mảnh đất này. Đến khi Phật giáo vào Việt
Nam, các nhà sư đã nhìn thấy rõ điều đó và nhận thấy nếu Phật giáo muốn bén rễ
vào mảnh đất này thì phải có sự dung hòa với tín ngưỡng dân gian. Nhận thức ấy
không sai lầm, và đó là nguyên nhân sâu xa của cuộc hôn phối tinh thần giữa một
người con gái bản địa (tượng trưng cho tín ngưỡng dân gian) với một vị chân tu
thông tuệ (tượng trưng cho một tôn giáo lớn). Kết quả của sự giao thoa văn hoá
ấy là hệ thống Tứ Pháp, bốn vị Phật mang đậm tính chất dân gian của người Việt
mà có người gọi không sai là Phật giáo dân gian.
Người phụ nữ Việt Nam, người có công tái tạo một tôn giáo lớn trong những cơ
thể mới mang đậm tính bản địa, rất thiêng liêng, huyền bí mà rất gần gũi với
cuộc sống đời thường của người dân, được tôn làm Mẹ Phật. Đó là sự tôn vinh đối
với người có công tái tạo sinh thành một hình thức tôn giáo mới, tôn giáo của
người dân cầu mong mưa thuận gió hòa, phong đăng hòa cốc, tôn giáo của sự phát
hiện ra sự tương tác mật thiết giữa sự huyền bí của vũ trụ với cuộc sống đời
thường. Đó là triết lý sâu xa của tín ngưỡng thờ Tứ Pháp trong đời sống tâm
linh của người dân Việt.
Tục thờ các vị thần sông nước
Tục thờ các vị thần sông nước có ở các đền Lảnh, Cửa Sông, Lê Chân, Vũ Điện,
đình Đá Tiên Phong, v.v.
Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, thờ thủy thần là một tục thờ có sớm và
phổ biến ở các vùng có địa bàn sông nước. Nghiên cứu truyền thuyết về các vị
thần được thờ trong các đình, đền của Hà Nam, lễ hội, tục thờ các vị thần này
thì thấy dấu vết về tục thờ thủy thần khá đậm nét.
Điểm đầu tiên phải kể đến là đền Cửa Sông (còn gọi là đền Tam Giang, đền Cô Bơ,
đền Mẫu Thoải) ở thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên. Đền này được dựng
ngay trên một gò đất nổi ở ngã ba sông Hồng với sông Lảnh Giang. Lảnh Giang
thực ra là một nhánh của sông Hồng, do quá trình phân dòng mà tạo ra một gò nổi
ở giữa và một nhánh sông chảy vòng qua gò nổi đó. Chính vì thế mà đền còn có
tên là đền Tam Giang. Ngày nay dòng Lảnh Giang đã cạn dần, chỉ còn dấu vết là
một con lạch nhỏ, sông chảy hiền hoà nhưng xưa kia chắc chắn nơi đây nước sông
chảy xiết, và ở ngã ba sông này có những vòng xoáy nước đe doạ thường xuyên đến
mạng sống của người dân. Vì thế mà ngôi đền trên gò nổi trước đây trở nên linh
thiêng, ngày thường có đông người đến lễ. Sau này, do sông đổi dòng, bãi nổi lở
dần, đền bị sạt lở, phải chuyển vào trong.
Nay đền được xây bên cạnh dòng sông Hồng và dấu tích của dòng Lảnh Giang đang
dần cạn. Ngày hội đền trước đây có tục đua thuyền, rước nước là những tục liên
quan mật thiết đến việc thờ cúng thủy thần. Vị thần mà ngôi đền này thờ là Mẫu
Thoải, vị thần đảm trách miền sông nước trong tín ngưỡng Tứ Phủ.
Liên quan mật thiết đến đền Cửa Sông là đền Lảnh Giang, còn được gọi là đền
Chính, đền Quan Lớn Đệ Tam. Đó là đền thờ một trong ba vị đại vương vốn là ba
con rắn được sinh ra từ một cái bọc. Tương truyền, vị đại vương này rất có công
trong việc chống Thục nên được vua Hùng phong là Nhạc Phủ Ngư thượng đẳng thần,
sau được gia phong là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng thái thượng đẳng thần. Từ
xuất xứ của thần sinh ra từ sự hoài thai của thủy thần trong hình hài của một
con rắn, biểu hiện của nước, đến tên hiệu của vị thần này cũng thấy rất rõ bản
chất của thần là một vị thần sông nước. Đó là lớp nghĩa cổ nhất của vị thần này
mà truyền thuyết về một vị tướng của Hùng Vương được thêu dệt sau này cũng không
làm mờ lớp nghĩa ban đầu.
Đền được xây sát phía ngoài chân đê, là nơi mà dân sông nước qua lại có thể dễ
dàng vào cầu nguyện. Hình ảnh của vị thần, một con rắn thần, là hình ảnh phổ
biến về các vị thủy thần ở nhiều vùng sông nước. Lễ hội đền Lảnh Giang, cũng
như đền Cửa Sông, có lễ rước nước, hội đua thuyền, bơi chải. Đó là những nghi
lễ phổ biến của tín ngưỡng thờ thủy thần. Nằm trong vùng một cụm di tích, cách
nhau chỉ 100m mà có tới hai ngôi đền thờ thủy thần, đền Lảnh Giang và đền Cửa
Ông đã thể hiện rất rõ tín ngưỡng thờ thủy thần của người dân địa phương.
Có thể thấy dấu vết của tục thờ thủy thần qua biểu tượng rồng được chạm khắc
xung quanh và trên trán bia Sùng Thiện Diên Linh, trên vách tháp cũng chạm khắc
nhiều mảng rồng ổ. Rồng biểu tượng cho tín ngướng của các cư dân canh tác lúa
nước, ẩn dụ sự cầu mong mưa thuận gió hòa để phát triển sản xuất nông nghiệp.
Trên trán bia chạm hai con rồng đối xứng, chầu vào hàng chữ Đại Việt quốc đương
gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (tháp bia Sùng Thiện Diên Linh – nước
Đại Việt triều vua Lý thứ tư). Rồng còn làm vật trang trí trên gạch đất nung:
thân hình tròn trịa với nhiều khúc uốn lượn, chân dài và nhỏ dần về phía đuôi,
vừa có dáng dấp của một con rắn, vừa có hình thù của cá sấu.
Hình rồng còn thô sơ như vậy là do biểu hiện tín ngưỡng của cư dân Việt viễn cổ
ở đồng bằng sông nước với tục thờ rắn và cá sấu, lấy các loài thủy tộc này làm
vật tổ. Huyền thoại họ Hồng Bàng (giải thích nguồn gốc các tộc người Việt cổ)
kể rằng, ông Lạc Long Quân (vị tổ của người Việt đồng bằng) là một loài rắn hoá
thân mà thành. Rắn và cá sấu theo tín ngưỡng của dân gian được trừu tượng hóa
dần, trở thành hình tượng rồng. Và rồng cũng được các triều đại phong kiến Việt
Nam chọn làm biểu tượng của vương quyền, càng về sau vẻ mạo của nó càng thể
hiện uy quyền phong kiến.
Truyền thuyết về vị thần đình làng Văn Xá (thôn Văn Xá, xã Đức Lý, huyện Lý
Nhân) cũng cho thấy rõ dấu vết của tục thờ thủy thần. Vị thần thành hoàng của
làng thoát thai từ một con rắn, khi con đê vỡ, đã trở lại hình hài rắn, nằm
chắn ngang đoạn đê vỡ, căng mình ra để ngăn nước lũ, bảo vệ xóm làng.
Vị thần thành hoàng của đình Đá Tiên Phong (thôn An Mông, xã Tiên Phong, huyện
Duy Tiên), một nữ tướng của Hai Bà Trưng lúc hóa cũng có rồng mang thuyền vàng
đến đón. Đó là những trầm tích văn hoá sâu xa của tín ngưỡng dân gian nhiều khi
đã bị chìm đi dưới lớp nổi là các truyện kể về lịch sử được chồng chất sau này.
Nhìn vào tục thờ, lễ hội, có thể thấy rõ những biểu hiện của tín ngưỡng này,
tục rước nước, tục đua thuyền… phổ biến trong các lễ hội cổ truyền ở Hà Nam.
Tục thờ Thành hoàng
Tục thờ thành hoàng có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ, sau khi du nhập vào làng xã
Việt Nam đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên
hết sức đa dạng.
Thành hoàng có thể là một vị thiên thần như Phù đổng Thiên vương, một thần núi
như Tản Viên Sơn thần, một vị nhân thần có công với dân với nước như Lý Thường
Kiệt, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tượng... lại có khi là các yêu thần, tà
thần... với nhiều sự tích hết sức lạ lùng, nhiều khi có vẻ vô lý. Tuy nhiên các
thành hoàng được sắc vua phong (trừ những tà thần, yêu thần...) luôn luôn tượng
trưng cho làng xã mà mình cai quản là biểu hiện của lịch sử, của đạo đức, phong
tục, pháp luật cũng như hy vọng sống của cả làng. Thành hoàng có sức toả sáng
vô hình như một quyền uy siêu việt, khiến cho làng quê trở thành một hệ thống
chặt chẽ.
Theo tục lệ xưa, các đời vua thường phong các vị thành hoàng thành ba bậc:
Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, tuỳ theo sự tích và công
trạng của các vị thần đối với nước với dân, với làng xã. Các vị thần cũng được
xét đưa từ thứ vị nọ lên thứ vị kia, nếu trong thời gian cai quản các vị này đã
phù hộ, giúp đỡ được nhiều cho đời sống vật chất và tâm linh của dân chúng.
Việc thăng phong các vị thành hoàng căn cứ vào sớ tâu của làng xã về công trạng
của các vị thần. Sớ này phải nộp về triều đình trong một thời gian quy định.
Mỗi lần thăng phong triều đình đều gửi sắc vua ban rất linh đình và cất nó
trong hòm sắc thờ ở hậu cung đình làng.
Thành hoàng cũng được gọi là phúc thần, tức vị thần ban phúc cho dân làng,
thường mỗi làng thờ một thành hoàng, xong cũng có khi một làng thờ hai, ba hoặc
hai ba làng thờ một vị. Thành hoàng có thể là nam thần hay nữ thần, tuỳ sự tích
mỗi làng.
Đình làng là nơi thờ phụng thành hoàng và trở thành một biểu tượng văn hoá tâm
linh của mỗi người dân quê Việt. Làng nào cũng có đình, có khi mỗi thôn lại có
một đình riêng. Đình để thờ thành hoàng nhưng đồng thời cũng trở thành nơi hội
họp của chức sắc trong làng, hay là nơi sinh hoạt của cộng đồng làng xã. Mọi
hoạt động này đều xảy ra ở đình với sự chứng kiến của thành hoàng.
Trong tâm thức người dân quê Việt, Đức thành hoàng là vị thần tối linh, có thể
bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng
làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhưng thành
hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ nhận được của một
làng qua những cơn chìm nổi.
Có thể cho rằng, thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ
về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất của dân
làng. Cho nên sự thờ phụng thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ
làng xã, lề thói gia phong của làng.
Chính sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp
sống cộng cảm hoà đồng, đất nề quê thói được bảo tồn. Vì lẽ đó, các hương chức
cũng như các gia đình trong làng, mỗi khi muốn mở hội hoặc tổ chức việc gì đều
phải có lễ cúng thành hoàng để xin phép trước. Có lẽ, sự ngưỡng mộ thành hoàng
cũng chẳng kém gì sự ngưỡng mộ tổ tiên.
Ngày nay, lễ hội làng đang phát triển mạnh mẽ và nở rộ ở khắp nơi. Tục thờ cúng
thành hoàng, diễn lại thần tích, rước xách, tế lễ đang được phục hồi, vì có như
vậy mới ghi nhớ được công lao của các vị tiền bối với nước, với làng.
195.
Những kiêng kị trong Dân Gian
Người
Việt Nam có tục kiêng kỵ nhiều điều ,hay có ,dở cũng nhiều và tồn tại trong dân
gian từ rất lâu không dễ thay đổi một sớm một chiều:
Kiêng cưới xin trong ba tháng hè.
Kiêng cử hành hôn lễ khi có đại tang.
Kiêng lấy đàn bà có tội đi trốn.
Trai tơ kiêng lấy đàn bà tái giá.
Kiêng phụ nữ lấy hai chồng cùng một lúc.
Kiêng tráo hôn.
Kiêng mọi sự vào năm cùng tháng tận.
Kiêng đòi nợ đàu ngày ,đầu tháng,đầu năm.
Kiêng động thổ,đào đất,quét nhà,giã gạo đầu năm.
Kiêng nói bậy vào sáng sớm.
Kiêng mặc đồ trắng khi hội họp ,tế tự.
Kiêng dùng đồ đỏ khi có tang.
Kiêng mặc áo chàm sám đen đầu năm mới.
Kiêng mặc đồ sô gai khi vào nhà người khác.
Kiêng hái quả tên cây khi chửa con so.
Kiêng đưa ma khi mang thai.
Kiêng cưới con dâu khi mẹ chồng đang mang thai.
Kiêng người chồng đóng cọc và sát sinh khi vợ đang mang thai.
Kiêng ngưòi ngoài vào khi nhà có người mới sinh.
Kiêng sử dụng đồ của người đã mất.
Kiêng đưa ma người lạ qua làng.
Cha mẹ kiêng đưa con gái về nhà chồng.
Kiêng tôi vôi khi còn trẻ ,tránh bạc đầu quá sớm.
Kiêng khen trẻ sơ sinh.
Trẻ con kiêng đội nón trong nhà,sợ lùn.
Trẻ con kiêng ăn cháy và chân gà,tránh run tay và học dốt.
Kiêng nói con khỉ,con tiều,con hùm,con beo khi buôn bán.
Bán hàng kiêng mặc cả một lời,kém may mắn.
Người bán hàng rong kiêng bước qua đòn gánh.
Kiêng làm chắn gian khi làm nhà.
Kiêng xây ngõ đối diện với ngõ nhà ngưòi khác,sợ độc.
Kiêng làm nhà chắn hướng trước cửa, sợ độc.
Chữa nhà kiêng chữa hẹp hơn trước ,sợ sái.
Kiêng dựng ngược giường chiếu trong nhà.
Kiêng ngồi giữa bậc cửa.
Kiêng gặp gái khi ra ngõ,e bất lợi.
Kiêng úp chén và giốc ngược chai khi uống rượu.
Kiêng ăn đầu vịt và vịn vai khi đánh bạc.
Đánh bài kiêng chia bài trước khi chưa đủ tay.
Đi hát,cầm chầu kiêng đánh trở mặt trống.
Con hổ kiêng gọi là ông ba mươi,con rắn kiêng gọi là con lốt ,con voi kiêng gọi
là ông vâm.
196.
Sự khác và giống nhau giữa Lễ cưới của ba miền ngày nay
Hôn
Lễ có quy định chặt chẽ của dân tộc Việt từ trước tới nay không có gì thay đổi
trên nền tảng cơ bản. Ngày nay, cả 3 miền Bắc Trung Nam vẫn còn lưu truyền, mỗi
nơi có một nét đặc trưng riêng biệt.
Có thể xem là những bài học kinh điển trong các nghi thức Cưới Hỏi:
Hà Nội:
Nghi thức, nghi lễ cưới ở Hà Nội so với các vùng khác có quy định nghiêm ngặt
hơn, nhưng trải qua một thời gian nghi thức đó cũng đã thay đổi theo tiến bộ
của xã hội. Tuy nhiên, dù có thay đổi gì cũng phải giữ 3 lễ:
Chạm ngõ là lễ tiếp xúc đầu tiên, chính thức của hai gia đình nhà
trai và nhà gái. Ngày nay, những gia đình ở Hà Nội vẫn giữ nguyên nếp xưa, lễ
chạm ngõ vẫn được xem là thủ tục cần thiết, để giữa hai gia đình, "chỗ
người lớn" thưa chuyện với nhau. Sau lễ chạm ngõ, người con gái được xem
như có nơi có chốn, bước đầu để tiến tới chuyện hôn nhân.
Sau lễ chạm ngõ là đến lễ ăn hỏi. Dù là tầng lớp nào thì cũng không thể
thiếu được cơi trầu. Một lễ ăn hỏi của người Hà Nội thì không thể thiếu cốm và
hồng. Nếu gia đình khá giả thì ngoài cốm - hồng và trầu cau còn có thêm lợn sữa
quay. Ðồ lễ ăn hỏi gắn liền với đặc sản của vùng đất Hà Thành, gồm có: bánh
cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu, trầu cau, thuốc lá...
Dù lễ vật nhiều, ít nhưng không thể thiếu bánh "su sê", ngày xưa gọi
là bánh "phu thê", một số địa phương gọi chệch ra là bánh "su
sê" là biểu tượng của đôi vợ chồng duyên phận vẹn toàn. Thông thường lễ ăn
hỏi gồm có 3 lễ: lễ đàng nội, lễ đàng ngoại và lễ tại gia. Lễ tại gia thường
được chia ra đưa kèm theo người được mời cưới.
Thời gian sau khi ăn hỏi đến lễ cưới thông thường là dưới 10 ngày. Lễ rước
dâu ngày xưa có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu có
địa vị trong làng xã, khi đón dâu ra đến đầu làng còn có lễ chăng dây, đầu làng
hoặc đầu phố (lễ chăng dây đến đầu thế kỷ XX vẫn còn), muốn đi qua phải đưa một
ít tiền.
Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước ngày cưới 1 ngày (bây giờ thường tổ chức ngay
trong ngày cưới). Sau khi Hà Nội đô thị hóa, dân cư tập trung chủ yếu ở trung
tâm thành phố, là khu vực 36 phố phường thì phong tục cưới xin cũng vì thế thay
đổi do tiếp thu trình độ văn hóa phương Tây.
Ðám cưới bắt đầu xuất hiện thiệp báo hỷ, khi đưa thiệp mời cưới
phải đưa kèm theo chè và hạt sen (lấy từ lễ ăn hỏi). Ðến nay tục này vẫn còn
được giữ lại. Nếu là đám cưới của những gia đình khá giả, phải có quả phù tang
(dùng để đựng đồ lễ, dài từ 80cm đến 1m) do hai người khiêng, đựng trầu cau,
lợn sơn son (tục này vẫn được giữ trước năm 1945).
Sâm banh được mở ra báo hiệu một lễ cưới bắt đầu, rượu sâm banh với bánh sâm ba
là hai thứ không thể thiếu trong lễ cưới của những người phong lưu. Nhưng dù là
người giàu hay nghèo trong đám cưới cũng chỉ dùng tiệc ngọt (không dùng mặn).
Trong khi đón dâu, cô dâu chú rể phải làm lễ gia tiên, lễ này như một sự tưởng
nhớ đến cội nguồn, tổ tiên. Sau lễ thành hôn, hai vợ chồng tân hôn trở về nhà
gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên gọi là lễ lại mặt. Lễ này hiện nay một số
đám cưới bỏ qua, từ sau lễ lại mặt bố mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà thông
gia, vì trong lễ cưới mẹ cô dâu không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành
vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau lễ cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ).
Huế
Quy trình tổ chức lễ cưới ở Huế cũng có đủ các bước thủ tục như các địa phương
khác, từ lễ chạm ngõ, hỏi cưới, đến tân hôn vu quy... Nhìn tổng thể, các đám
cưới Huế thường diễn ra tiết kiệm, giản đơn, không phô trương, nhưng ở mỗi phần
cụ thể khá cầu kỳ, với quan niệm "trọng lễ nghi khi (khinh) tài vật".
Chuẩn bị lễ hỏi, lễ cưới, người Huế thường xem ngày giờ tốt xấu, có khi lên
chùa thỉnh ý các cao tăng. Sau khi chọn ngày giờ, hai bên thông gia sẽ báo cho
nhau bằng một cuộc thăm đơn giản. Việc này cũng đôi khi do đôi bạn trẻ thực
hiện, nhưng phải là hai nhà có thân tình từ trước.
Ðối với đám hỏi, người Huế chỉ xem là buổi gặp mặt giữa hai gia đình và
tông tộc thân thích để giới thiệu đôi bạn trẻ, không tổ chức rầm rộ. Ðám cưới
Huế có các lễ: xin giờ, nghinh hôn, bái tơ hồng, rước dâu diễn ra ở nhà gái, và
đón dâu, trình báo gia tiên ở nhà trai. Người Huế không có tục thách cưới,
lễ vật trong lễ cưới tối thiểu chỉ gồm có mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng,
bánh phu thê. Nếu khá giả, nhà trai có thể thêm bánh kem, bánh dẻo; không có
"lợn quay đi lộng" như nhiều nơi. Ngoài ra, đám cưới ở Huế
luôn có phù dâu, phù rể và hai đứa trẻ rước đèn đi trước. Hai đứa trẻ thường là
1 trai 1 gái, tuổi tương đương cầm lồng đèn hay cầm hoa.
Trong đêm tân hôn, đôi bạn trẻ phải làm lễ giao bôi hợp cẩn. Người Huế
có tập tục để trong phòng hoa chúc một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối,
gừng và rượu giao bôi. Ðôi bạn trẻ phài nhai hết 12 miếng trầu ấy, tượng trưng
cho 12 tháng hòa hợp trong một năm, 12 năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm
lịch. Việc ăn muối ăn gừng mang màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng
thắm. Còn rượu giao bôi thì theo đúng với lễ giáo phong kiến của Trung Hoa cũ.
Khi đưa dâu, thông thường bố mẹ cô gái sẽ không theo xe, mà hôm sau mới sang
nhà trai, với ý nghĩa xem cô con gái ngày đầu về làm dâu có làm điều gì phật
lòng nhà chồng. Buổi gặp này, hai bên thông gia đối đáp những câu khách sáo,
nhắn gửi con cái cho nhau, và căn dặn con mình phải thuận thảo với gia đình bên
vợ hoặc bên chồng. Hiện nay, lễ này đã được nhiều gia đình Huế giảm bớt, bằng
cách khi rước dâu, bố cô gái theo về nhà trai bằng một chiếc xe khác xe hoa, và
tại tiệc đãi sẽ trao đổi với nhà trai. Ba ngày sau lễ cưới, cô dâu mới được trả
lại nhà bố mẹ để thu dọn tư trang về nhà chồng, bắt đầu cuộc sống làm dâu.
Tính cầu kỳ của người Huế tại lễ cưới chủ yếu trong cách hành xử. Không hề có
chuyện ầm ĩ ồn ào thái quá trong các lễ và tiệc cưới. Trao đổi ngôn từ giữa hai
bên thông gia, giữa bà con thân thuộc đều rất thận trọng. Việc thưa gửi, trình
bày của chủ hôn, bố mẹ hai bên đều rất khuôn sáo và không bỏ sót ai.
Ðặc biệt, quan hệ tuổi mạng rất được coi trọng ở đám cưới Huế.
Vị chủ hôn thường là vị cao niên trong dòng tộc hai bên, thân thuộc với gia
đình, vợ con đầy đủ, không tật bệnh, tuổi không khắc kỵ đôi tân hôn. Các phù
dâu phù rể là người chưa có chồng vợ, tính tình vui vẻ nhanh nhẹn. Một số nhân
vật khác cũng được lựa chọn tùy phần nghi lễ phù hợp. Ðơn cử trước ngày cưới
đôi tân hôn có thể đưa nhau đi may áo cưới (nếu gia đình khá giả), thì ngày giờ
đi may phải tốt, chủ tiệm may là người còn cả vợ chồng, nhiều con cái, gia đình
hòa thuận.
Việc bài trí phòng tân hôn phải do một người phụ nữ lớn tuổi, phúc hậu sửa
soạn. Lễ vật rước dâu, nhà trai nhờ một người cao tuổi, đủ vợ chồng con cái,
gia đình hòa thuận kiểm tra. Người này cũng sẽ têm trầu cau, bày cặp nến hồng
trên bàn thờ gia tiên nhà gái. Sau khi lễ xong, cặp nến hồng cũng phải được
người này thổi tắt. Số người nhà trai đi rước dâu luôn ở số chẵn. Trước khi đi
và khi đón dâu về, nhà trai thường cử vài người đàn ông trẻ tuổi hoạt bát, đã
có vợ con ra đứng đón sẵn để "lấy hên" cho đôi tân hôn.
Nam bộ
Hôn lễ chính cử hành tại gia đình. Vì là lễ điều kiện tiên quyết
là trang nghiêm, sạch sẽ. Vị trí buổi lễ là khu vực thờ tổ tiên, trong nhà,
trang trí tùy theo gia đình, phải có đủ "hương đăng hoa quả".
- Họ hàng đàng trai đến, có người làm mai đi đầu. Phẩm vật đưa đến, ngoài trái
cây, bánh kẹo, phải có trầu cau, truyền thống này nay vẫn giữ, nghe đâu có từ
thời Hùng Vương dựng nước. Ðó là nét văn hóa, linh thiêng của dân tộc Việt.
Phải có cặp đèn (nến) thật to, trùng với kích thước của đôi chân đèn trên bàn
thờ.
Ðại diện nhà trai đến, kính cẩn mời đàng gái uống trà, rượu, và mời ăn trầu.
hai bên bàn bạc với nhau vài chi tiết, tặng nữ trang, tiền mặt, không mất thì
giờ vì đã thỏa thuận với nhau từ trước rồi. Xong xuôi, người trưởng tộc của
đàng gái tuyên bố: "Xin làm lễ lên đèn". Hiểu đó là kiểu "ký
tên, đóng dấu" chính thức.
- Lên đèn là nghi lễ quan trọng và thiêng liêng nhất, bắt buộc phải có. Hai
ngọn nến to, do đàng trai đem đến được đặt trên bàn thờ ông bà. Người trưởng
tộc bèn khui một chai rượu, trong số hai chai do đàng trai đem đến. Rồi thì ông
đứng trước bàn thờ ngay chính giữa, cô dâu và chú rể đứng hai bên, im lặng. Hai
ngọn đèn được đốt lên, từ ngọn lửa của cái đèn trứng vịt nhỏ của bàn thờ (hiểu
là lửa hương hỏa). Hai ngọn đèn cháy từ từ, đặt sát nhau vì người làm lễ đang
áp vào hai tay, như khấn vái.
Khi lửa cháy đều ngọn, ông này từ từ giang cánh tay ra trao cho hai người trợ
lý mỗi bên một ngọn để cắm vào chân đèn. Ngọn đèn phải cháy thong dong, đều
đặn, nếu bên cao bên thấp thì sẽ có dư luận chàng rể sợ vợ, cô dâu sẽ lấn hiếp
chồng. Ðề phòng nến tắt, nhiều người đóng cửa sổ thật kỹ, sợ gió tạt hoặc tạm
thời tắt quạt máy.
Ngày nay, đèn chế biến bằng hóa chất, không làm bằng sáp ong như xưa nên dễ tắt
bất ngờ. Trong lúc lên đèn, có sự tôn nghiêm kỳ lạ. Lửa là sự sống, là niềm lạc
quan. Lửa nối quá khứ, nối tổ tiên đến hiện tại. Lửa nối mặt đất lên trời. Lửa
dịp lễ hội ở đình làng, với đèn. Lửa ở ngay cà những Thế vận hội. Lễ lên đèn
theo tôi là lễ quan trọng, bắt buộc phải có ở mọi hôn lễ từ xưa đến nay. Lên
đèn là đủ rồi.
Ý nghĩa lễ hỏi
Lời đính ước kết tóc se tơ của đôi uyên ương
Gia đình hai bên công nhận chàng trai,cô gái là dâu rể trong gia đình
Loan báo chính thức cho người thân, xóm giềng về hôn lễ sắp đến của con gái
Lễ vật
Khay trầu rượu có đủ nhạo và ly
Đôi đèn cầy hình long phụng
Trầu cau theo yêu cầu nhà gái nhưng số lượng phải chẵn
Nữ trang cho cô dâu (đôi bông nhất định phải có, ngoài ra có thể thêm dây
chuyền, vòng, lắc, nhẫn đính hôn...)
Tiền nạp tài (tiền nát)
Một cặp rượu
Một cặp trà song hỉ
Hai hộp bánh
Trái cây
Lợn sữa quay và xôi gấc (không bắt buộc, nếu gia đình khá giả có thể thêm vào)
Bánh xu xê (phu thê)
Đối với người miền Bắc, lễ vật thường là mâm trầu cau, trà mạn, mứt sen, hồng,
thuốc lá bánh cốm hay bánh xu xê và một số tiền mặt. Người miền Trung lễ vật có
thêm bánh quế.
Dẫn lễ
Đến nhà gái gồm vị chủ hôn, bố mẹ và chàng rể tương lai và một số thanh niên
bưng lễ vật (nhà trai bưng bao nhiêu quả, nhà gái có bấy nhiêu người đón quả).
Nếu lễ vật bao gồm cả lợn quay thì người bưng lợn quay sẽ theo sau đoàn người
bưng mâm quả. Sau cùng sẽ là họ hàng hay bạn thân. Thường đoàn nhà trai đến nhà
gái khoảng 10-12 người.
Nghi thức lễ hỏi
Nhà gái đón mâm quả và dâng lễ vật lên bàn thờ. Sau đó bố mẹ cô gái sẽ mời nhà
trai vào nhà. Gia đình nhà gái sẽ đứng bên phải bàn thờ, gia đình nhà trai đứng
bên trái. Nhà gái lần lượt giới thiệu các thành viên trong gia đình, sau đó đến
lượt nhà trai giới thiệu. Kế đến vị chủ hôn ngỏ lời về việc mang lễ vật xin làm
lễ đính hôn cho đôi trẻ. Nhà trai xin phép nhà gái cho cô dâu tương lai ra làm
lễ ra mắt gia tiên với chú rể. Nhận lời, bố mẹ cho gọi con gái ra trình diện
hai họ. Cô dâu tương lai bước ra kính người già trước, sau đó là bố mẹ.
Kế đến là nghi thức lên đèn. Đôi trẻ sẽ đứng trước bàn thờ gia tiên theo thứ tự
nam tả nữ hữu nhưng chỉ có chú rể tương lai làm lễ. Làm lễ xong, chú rể xin
phép đeo nhẫn đính hôn cho cô dâu. Mẹ chồng cũng tặng chút quà nhỏ kỷ niệm và
đeo nữ trang cho cô dâu. Kế đó mẹ chú rể trao cho nhà gái tiền nạp tài.
Chú rể và cô dâu sẽ rót rượu bưng mời bố mẹ và hai họ.
Gia đình hai bên sẽ bàn bạc chọn ngày cử hành hôn lễ cho đôi trẻ.
"Quả" sẽ được chia bớt mỗi thứ một ít cho nhà trai gọi là "lại
quả". Số còn lại mang chia cho bà con hàng xóm để "biếu trầu".
A. NGHI LỄ TẠI HỌ NHÀ GÁI:
Thắp hương bàn thờ
Họ nhà gái mời nhà trai vào nhà, nhà trai cho đặt đồ lễ lên bàn thờ, chú rể phụ
hay những người phụ bưng đồ lễ vật đứng dàn hàng ngang trước mặt các cô dâu phụ
hay các thiếu nữ bên đằng gái cũng đứng hàng ngang đối diện để nhận những mâm
quả lễ vật. Những người này đem lễ vật đặt lên bàn thờ có thứ tự trước bàn thờ
gia tiên.
Nhười chủ hôn nhà trai mở nắp quả, khăn đỏ phủ lễ vật. Ngay sau lời mở đầu buổi
lễ xin phép. Nhà gái cho thắp hương để chú rể và cô dâu cúng lễ gia tiên. Ðèn
nhang phải do bố, anh trai hoặc em trai cô dâu thắp.
Lễ gia tiên
Chú rể vào lễ bàn thờ gia tiên nhà vợ bốn lễ, rồi sau đó cô dâu cũng lễ theo.
Ngày nay cô dâu chú rể cùng lể một lượt theo nghi thức chú rể "bái
gối" và cô dâu ngồi bệt, mỗi lần chú rể bái cô dâu chờ động tác cho nhịp
nhàng.
Lễ mừng
Lễ gia tiên xong hai vợ chồng phải ra lễ mừng cha mẹ vợ. Hai vợ chồng mới lạy
cha mẹ ngay liền trước bàn thờ gia tiên, thường được cha mẹ miễn thủ tục này để
tỏ lòng thương yêu rộng lượng. Ý nghĩa của việc mừng cha mẹ vợ để tạ ơn công
nuôi dưỡng vợ mình, còn cô dâu lễ mừng cũng có ý nghĩa tạ ơn công cha mẹ tác
thành lương duyên giai ngẫu cho mình.
Khi chú rể lễ mừng, Thường cha mẹ cho tiền hoặc vàng , bạc, người phụ rể sẽ
nhận hộ chú rể. Ngày nay tập tục này có nhiều thay đổi trong lễ này, cha mẹ
không cho tiền. Nếu cho tiền thì cho cô dâu trong đêm nhóm họ trước ngày vu
quy, tại buổi lễ có thể người cha vợ quyết định cho lại vợ chồng mới số
"tiền đồng" hay "tiền chợ" mà họ đằng trai trao cho đằng
gái khi trình lễ vật. Bà mẹ vợ cũng nhân dịp này cho con gái một vài món nữ
trang có ngụ ý rằng đây là của riêng con gái do bà mẹ tằn tiện để dành cho chị
được phép dùng trong cơn nguy cấp để hộ thân.
Sau khi chàng rể làm đủ mọi nghi thức rồi, nhà gái mời nhà trai uống nước, ăn
trầu và hai họ chúc tụng cho cô dâu chú rể những điều tốt lành.
Thường nhà gái làm cổ mời nhà trai, ngày nay theo khuôn phép gia đình nền nếp
chú rể và cô dâu không ngồi vào bàn trong tiệc đãi, mà phải đưa nhau đến từng
bàn mời khách khứa đôi bên mà cũng là dịp để nhận biệt rõ những người thân
thuộc.
Họ nhà trai ngồi lại nhà gái cho đến lúc được giờ tốt, giờ hoàng đạo, cụ già
chủ hôn xin với nhà gái cho rước dâu. Cô dâu lúc đó y phục chỉnh tề trang điểm
với đủ đồ nữ trang của mình cùng đồ dẫn cưới trước , đựng trong gương phủ nhiễu
điều.
Họ nhà gái có một số người theo cô dâu, trong đó có cô phụ dâu. Cô phụ dâu được
lựa trong số những thiếu nữ chưa lập gia đình cũng như phụ rể là những người
chưa vợ, đây là dịp giới thiệu những trai gái có thể tiếp nối kết duyên.
B. NGHI LỄ BÊN HỌ ÐẰNG TRAI.
Lễ rước dâu
Cụ già chủ hôn lại dẫn đầu đám rước dâu, đốt nhang (hương) trước khi đám rước
lên đường. Ði theo cụ già cầm hương là hai họ nhà trai nhà gái. Việc câm hương
này, nhiều người giải thích rằng để vị thần chủ về hôn lễ chứng. Nhưng có người
cho rằng là để đốt vía những kẻ xấu mồm xấu miệng quở mắng khi đám cưới đi qua.
Tuỳ theo tục lệ của từng địa phương, có nơi cha mẹ chàng rể không đi mà để chú
rể đi cùng với ông tộc trưởng đảm nhiệm chủ hôn. Ờ miền Bắc và miền Trung khi
đi rước dâu cha mẹ cô dâu cũng không đi, vì để tránh nổi buồn chia cách nên
phải nhờ người thân tộc đi thay mình. Nhưng ở miền Nam do lối suy nghĩ phóng
khoáng hơn nên cả hai gia đình thông gia đều tham dự rước, họ hãnh diện về sự
tồn tại đủ đôi của bậc cha mẹ trong ngày cưới của con.
Cô dâu vào làm lễ gia tiên nhà chồng
Cô dâu lễ mừng cha mẹ chồng cũng như chàng rể đã lễ mừng bố mẹ vợ, nếu ông bà
của chồng còn sống phải lễ mừng ông bà trước khi mừng bố mẹ chồng. Oâng bà cũng
như bố mẹ chồng nhận lễ của cô dâu đều tặng cô dâu món quà, thường là tiền hoặc
đồ nữ trang. Một vài địa phương sau lễ gia tiên ông bà và bố mẹ chồng, cô dâu
chú rể cũng lễ mừng cả chú bác cô dì. Những người này đáp lễ thường có quà tặng
cho đôi vợ chồng mới cưới.
Ý nghĩa lễ cưới
Hai gia đình chính thức kết thông gia
Cô dâu, chú rể trở thành thành viên của gia đình, gia tộc
Lễ vật
Giống như lễ hỏi nhưng số lượng nhiều hơn, mang tính chất long trọng hơn. Ngoài
ra còn có thêm bánh kem. Nhà trai có thể mang qua nhà gái 4, 6, 8 hay 12 quả
còn tùy nhưng số lượng lúc nào cũng phải chẳn.
Dẫn lễ
Trước khi rước dâu, vị chủ hôn bày lên bàn một mâm cơm và đốt ba nén nhang cúng
ông bà. Chú rể cũng xá bàn thờ tổ tiên trước khi qua nhà gái làm lễ.
Đoàn người đi rước dâu thường không quá 20 người. Số người đi rước dâu luôn ở
số chẵn. Đi đầu sẽ là vị chủ hôn hay ông mai, tiếp đó là bố chú rể. Chú rể tay
cầm bó hoa còn rể phụ mang khay rượu. Kế đến sẽ là đoàn bưng quả, họ hàng. Ở
Huế đi đầu đám rước dâu là hai đứa bé một trai một gái trạc tuổi nhau tay cầm
chiếc lồng đèn.
Khi đến trước cửa nhà gái, đoàn người sẽ dừng lại chờ. Nhà trai cử một người
lớn tuổi cùng hai người thân vào xin giờ làm lễ.
Nghi thức xin dâu
Sau khi trao nhận mâm quả, nhà trai được mời vào trong. Hai bên giới thiệu
nhau, nhà trai ngỏ lời trước xin đón cô dâu về nhà. Nhà gái đáp lễ. Chú rể đến
trước bàn thờ gia tiên thắp nhang, sau đó cúi đầu chào cha mẹ vợ. Lúc này một
người thân vén màn đưa cô dâu ra chào hai họ. Chú rể trao bó hoa cho cô dâu.
Sau nghi lễ lên đèn, cha cô dâu thắp nhang khấn gia tiên. Kế đến đôi tân hôn sẽ
trao nhẫn cho nhau. Mẹ chồng cũng đeo cho con dâu bông tai và một số nữ trang
khác. Đôi trẻ cùng bước đến bàn thờ bái lạy gia tiên, rồi rót rượu mời trầu cha
mẹ. Cha mẹ cô dâu căn dặn đôi vợ chồng trẻ vài điều về cuộc sống mới. Khi các
nghi lễ đã cử hành xong, vị chủ hôn đáp lời thay cho chú rể và xin được rước
dâu. Nhà gái sẽ "lại quả" cho nhà trai, trừ trầu cau và rượu .
Nghi thức đón dâu
Cô dâu chú rể cùng làm lễ gia tiên, chào bà con bên chồng. Kế đến đôi tân hôn
làm lễ bái tơ hồng ( lễ này ngày nay rất ít duy trì). Sau đó đôi uyên ương rót
rượu mời ông bà, bố mẹ hai bên. Cử hành xong các nghi lễ, cô dâu được đưa vào
phòng cưới, ngồi lên chiếc giường cưới do một người tốt vía trải sẵn.
Sau lễ thành hôn hai hay bốn ngày, đôi vợ chồng mới mang theo lễ vật (thường là
gà trống thiến, xôi, rượu, trái cây...) để tạ gia tiên gọi là lễ lại mặt.
197.
Một số phong tục hay của các dân tộc thiểu số Việt
Phong
tục làm cho sắc thái văn hoá trở nên đa dạng, phong tục giúp cho ta phân biệt
được cộng đồng này, dân tộc này với cộng đồng kia, dân tộc kiạ Sống đúng với
phong tục, mới là sống với truyền thống. Một khi xa lạ với những phong tục của
cộng đồng, thì sẽ không được cộng đồng chấp nhận, sẽ bị xem là trái với văn hoá
truyền thống của cộng đồng.
Phong tục của các dân tộc thiểu số Việt Nam là cả một đề tài vô tận. Cả 54 dân
tộc có biết bao nhiêu là hiện tượng, sự kiện văn hoá rất đáng quan tâm. Những
vẻ đẹp trong những bộ y phục, trong đồ uống, thức ăn, những cách thức thờ cúng,
cách tổ chức ngày sinh nhật, những nề nếp độc đáo trong các cuộc tang ma, cưới
hỏị.. là những hiện tượng mang đậm ý nghĩa văn hoá truyền thống. Vì thế mà có
người đã cho rằng, muồn hiểu biết về văn hoá truyền thống của các cộng đồng phải
tìm hiểu qua các phong tục.
Chúng ta không có điều kiện đề cập đến tất cả phong tục của các dân tộc thiểu
số Việt Nam, vì vậy, trong số này, Tạp chí Sắc màu Văn hoá xin giới thiệu cùng
bạn đọc một số ít phong tục rải rác, nhìn theo góc độ văn hoá.
1. Sự tích rượu cần (nhiều dân tộc)
Các dân tộc thiểu số, hầu như nơi nào cũng uống rượu cần. Hiện nay, chúng ta
chưa sưu tầm được hết sự tích rượu cần của các dân tộc, chỉ mới biết người
Mường, người Thái giải thích lý do ra đời của rượu cần như sau:
Một ông cụ có hai người con dâụ Cụ muốn thử xem ai là người thông minh, đức
hạnh. Cụ bảo:
- Bố đi ăn uống đã nhiều, nhưng chưa được ăn con vật gì mà thịt lại nằm trong
xương, cũng chưa được uống loại nước gì chảy ngược cho ngọt ngào, ý vị. Các con
cố tìm cho bố. Được ăn uống những thứ đó, bố mới khoẻ ra được.
Cô dâu cả nghĩ mãi, không hiểu là thức ăn thức uống gì. Cô dâu thứ hai cũng bí,
hỏi chỗ này chỗ khác cũng không ai biết thức ăn ấy ra saọ Chị buồn rầu ra suối
ngồi nghĩ. Bỗng chị nhìn thấy con ốc bên bờ suốị Thôi phải rồi! Con ốc, ruột
trong mềm, vỏ ngoài cứng, thế chẳng phải thịt nằm trong xương hay saỏ Bên bờ
suối, lại có ai đã cắm một cái vòi chuyền cho nước chảy ngược lên máng. Muốn
nước chảy ngược cũng phải làm như vậỵ Chị liền bắt một mớ ốc về nấu canh, múc
một bầu nước, vót cái cần cắm vào bầụ Cứ để nước lã như thế thì sẽ chẳng có mùi
vị gì, chị bỏ vào bầu vài nắm lá thuốc trong rừng. Đưa về nhà thì ông cụ đang
đi vắng. Chị dấu kín các thức đã chuẩn bị, chờ bố về đưa nộp.
Người dâu cả đang nghĩ chưa ra cách, thấy em thu dấu thì bực, liền lén bỏ vào
bình một nắm bã trấu và tấm vụn. Không ngờ như thế lại làm cho bình nước thêm
chất - Lá, trấu, tấm quện lại, lên men, hoá thành một thứ rượu ngọt. Ông bố ăn
canh ốc rối cầm cần hút. Đúng là nước thân nước thương chảy ngược và canh thịt
nằm trong xương. Ông cụ khen nức khen nở, giao cả cơ nghiệp cho cô em. Và lịch
sử xa xôi của bình rượu cần có từ đó.
2 . Trao vòng cầu hôn (Dân tộc Ê Đê)
Trai gái Ê Đê đã yêu nhau, họ báo cho gia đình biết để sắp xếp lễ đính hôn.
Gia đình bên gái nhờ ông đăm đai (ông cậu) sang nhà trai đặt vấn đề xin cưới,
hẹn ngày gặp và chuẩn bị trao vòng (trôk kôông). Đến ngày hẹn, họ hàng nhà gái
đến nhà trai làm lễ. Hai già làng có uy tín đại diện hai bên bàn bạc. Mỗi bên
đại diện đặt trên chiếu một cái vòng bạc. Khi hoàn toàn đồng ý, họ cầm vòng lên
trao cho đôi nam nữ. Chàng trai và cô gái yêu nhau mỗi người đeo một cái vòng
ấỵ Và sau là đến việc tổ chức lễ cướị
Trường hợp chàng trai bội ước, không làm lễ cưới, thì anh ta phải trả cho cô
gái một khoản phạt bằng hiện vật, và làm cho cô gái một lễ hiến sinh (một con
lợn).
3 . Chiếc khăn piêu (Phụ nữ Thái)
Khăn đội đầu của phụ nữ Thái gọi là khăn piêu, có thể xem là một đặc trưng văn
hoá. Nhìn khăn đội đầu, người ta có thể phân biệt được người đó thuộc dân tộc
nào, thậm chí có thể phân biệt được các ngành khác nhau trong cùng một dân tộc.
Khăn piêu của phụ nữ Thái đen dệt bằng sợi bông nhuộm màu chàm tím sẫm, có độ
dài chừng một sải taỵ Mặt khăn piêu gọi là Nả piêu, được thêu bằng những đường
chỉ ngũ sắc, tạo ra những đường dây hoa văn, gọi là dây Sài peng (dây tình).
Các sợi dây tình này, đan xen vào nhau, tạo thành các hình vuông, hình ngôi sao
xéo tám cánh, đối nhau từng đôi một. Hai đầu khăn piêu là vải ngũ sắc, các góc
tết thành sừng, gọi là cút piêụ Cút piêu là những hình tròn như đồng xu quấn
chỉ dày, đậm. Khi đã tìm hiểu nhau rồi, đi đến đính ước, thì khăn piêu trở
thành vật tin. Piêu là quà biếu khi về nhà chồng, là sợi dây tình. Và cũng có
thể là vật dâng cúng trong ngày lễ.
4. Mừng ngày sinh nhật-(Dân tộc Dao)
Một số dân tộc vùng núi xa xôi vẫn có tục tổ chức ngày sinh nhật để mừng... chủ
yếu là mừng người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên). Chẳng hạn như người Daọ Tiếng
Dao gọi là Sèng nhật. Người ta trước hết mừng sinh nhật ông bà, cha mẹ hoặc
người cao tuổi nhất trong nhà, chứ không mừng tràn lan cho tất cả mọi ngườị Năm
đầu tiên, mời đông khách nhất, gồm họ hàng thân thích, hàng xóm láng giềng.
Trước đó, gia đình chuẩn bị các đồ ăn thức uống. Phải dọn một mâm lên bàn thờ,
mời thầy cúng khấn báo với tổ tiên là ngày này mừng sinh nhật ai, mời tổ tiên
cùng về ăn cỗ. Khách đến dự lần lượt đến chào người được mừng sinh nhật, tặng
quà và chúc những lời tốt đẹp. Những năm tiếp theo, nếu không có điều kiện thì
không mời khách, nhưng vẫn làm cỗ trong gia đình để các cụ được vuị
5. Bát canh rêu đá (Dân tộc Thái)
Trong các ngày lễ lạt, người Thái cũng dùng các món ăn: thịt, cá, nộm và canh
xương hầm măng, hầm đu đủ, nhưng giá trị nhất phải là bát canh rêu đá, tiếng
Thái gọi là Kênh taụ
Người ta cho rằng thơm và ngon nhất là rêu đá ở Mường Lò (Văn Chấn) lại cho
rằng không nơi nào có rêu đá ngon bằng ở suối núi (Nậm Thia), vì nơi đây có câu
chuyện tình đau thương và cảm động. Truyền thuyết kể rằng có đôi trai gái yêu
nhau, song bị bố mẹ ngăn cản. Nàng khóc, nước mắt chảy xuống ướt chín quả đồi,
ướt mười ngọn núi, thành một dòng nước chảy xuyên rừng. Chàng trai nhớ thương
bạn, đã lao đầu xuống dòng nước ấỵ Thân thể chàng bị tan ra thành nhiều mảnh
đá. Tóc xanh của người con gái bám vào những mảnh đá ấy, biến thành rêu xanh.
Rêu đá suối Thia là kết quả của thiên tình sử bi thương. ăn canh rêu đá ấy thì
sẽ đậm đà tình thương nỗi nhớ.
198.
Tết Việt và những tập tục từ ngàn xưa
Tết
Nguyên Đán của người Kinh là một sự kết hợp hài hoà các nghi lễ cúng bái của
Phật Giáo Bắc Tông và đạo ông bà. Tuỳ theo mỗi gia đình và theo thời gian mà
các nghi lễ ấy dần thay đổi và gia giảm ít nhiều nhưng tựu chung thì tất cả đều
được tổ chức dựa theo âm lịch.
Sự kiện đầu tiên chính thức báo hiệu mùa Tết Nguyên Đán bắt đầu là lễ tiễn đưa
ông Táo về Trời vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm. Ắt nghĩ người Việt ta từ Bắc
chí Nam đã không còn lạ lẫm với hình ảnh ông Táo cưỡi cá chép bay về Trời để
chầu Ngọc Hoàng và báo cáo tình hình năm vừa qua của gia chủ. Do vậy, ngoài
bánh thèo lèo và giấy tiền vàng mã cúng ông Táo thì không thể thiếu đôi cá
chép. Sau khi cúng xong, cá được phóng sanh nhằm góp thêm nét đẹp ngày Tết -
nét đẹp của lòng từ bi.
Ngày 24 tiếp theo được xem là lễ tảo mộ. Vào ngày này, con cháu mua giấy tiền
cùng xôi thịt, bánh trái lên cúng mộ ông bà đồng thời phát quang rẫy cỏ, dọn
dẹp khu mộ cho tươm tất và sạch sẽ trước thềm năm mới.
Ngày 25 là lễ cúng đưa chư thiên về Trời như thần tài thổ địa, mẹ sanh mẹ độ,
đức quan công...Tuỳ theo mỗi nhà, nhà nào thờ thần nào thì sẽ mua bộ giấy tiền
vàng mã tương ứng để cúng.
Tiếp đó, trưa 30, khi mọi công đoạn dọn dẹp chuẩn bị đón Tết gần như hoàn thành
thì đồng thời mỗi nhà phải bày biện một mâm cơm cho lễ rước. Trước là rước chư
thiên về ngự trong năm mới, bao gồm cả ông Táo, Thần Tài Thổ Địa...sau là rước
ông bà về sum họp cùng con cháu đón giao thừa và lưu lại dương gian trong 3
ngày Tết. Có thể nói, đêm 30, đêm giao thừa hay còn gọi là đêm trừ tịch là thời
khắc chuyển giao thiêng liêng nhất của Tết Nguyên Đán.
Khi ấy, con người bỏ lại sau lưng những buồn vui ngày cũ, hồ hởi và hy vọng một
năm mới đủ đầy sung túc. Đó cũng là tinh thần "tống cựu nghênh tân"
lạc quan trong mùa Tết cổ truyền.
Tuần tự sau đó, từ mồng một đến mồng 10 có các nghi lễ cúng kiến như:
- Sáng mồng 1 cúng Trời Phật.
- Mồng 2 cúng người khuất mặt khuất mày trong cửa trong nhà.
- Mồng 3 cúng ra mắt quan hành quân hành khiển. Ngoài ra trong cả ba ngày Tết,
theo đúng tục lệ thì phải cúng cơm cửu quyền thất tổ, tức ông bà tổ tiên trong
gia đạo, riêng ngày mồng 3, lễ cúng cơm cũng chính là lễ tiễn đưa ông bà trở
lại Trời, chỉ khi dịp giỗ hoặc đến trưa 30 cuối năm mới lại đón ông bà về.
- Mùng 6 vía Thần Tài
- Mùng 8 cúng Sao Hội Nhị Thập Bát Tú
- Mùng 9 vía Ngọc Hoàng
- Mùng 10 cúng Thổ Địa Đất Đai và chính thức khép lại mùa Tết Nguyên Đán.
Có thể nói, phong tục cúng kiến là một phong tục đẹp không thể thiếu trong ngày
Tết. Nó nhắc nhở chúng ta rằng Tết không của riêng ai mà còn là mối dây gắn kết
giữa người với người, giữa con cháu với tổ tiên, người đang sống cũng như người
đã khuất, là sự tương thích tâm linh giữa con người với tín ngưỡng của họ, bởi
một điều đơn giản: cả đất trời vũ trụ như sống dậy trong thời khắc chuyển giao
thiêng liêng, giữa khởi thủy và tận cùng đó.
199. Người trong cùng họ có lấy nhau được không?
ở
các nước Âu Mỹ, anh chị em con chú bác ruột vẫn có quyền lấy nhau, qua tác phẩm
"Ơgiêni Grăngđê" ta thấy mối tình giữa hai anh em con chú bác ruột
Grăngđe và Ơgiêni sở dĩ trắc trở là do thói keo kiệt biển lẩn của lão Grăngđê,
chứ tác giả không đả động đến vấn đề chung huyết thống.
Trung Quốc là một nước chịu ảnh hưởng của văn hoá phong kiến nặng hơn ta nhiều,
nhưng anh chị em con cô, cậu ruột, con dì ruột vẫn được lấy nhau. Xem Bảo Thoa,
Bảo Ngọc... trong "Hồng Lâu Mộng" yêu nhau, lấy nhau là chuyện bình thường.
ở nước ta, dưới triều Trần, con cháu nhà vua chỉ được lấy người trong Hoàng tộc
(lấy sang họ khác sợ bị nạn ngoại thích cướp ngôi). Hưng Đạo vương Trần Quốc
Tuấn lấy Thiên Thành công chúa, tức là cô ruột của mình. Vua Trần Thánh Tông
lấy Thiên Cảm Hoàng hậu, tức chị con bác ruột. Vua Trần Minh Tông lấy Lệ Thánh
Hoàng hậu, tức con chú ruột, đều là cháu nội vua Trần Nhân Tông vv...
Còn trong dân gian từ triều Lê về sau, nếu trong họ nội thân cùng quê mà lấy
nhau gọi là hôn thú, họ hàng không chấp nhận. Nếu cùng họ nhưng đã xa đời,
thuộc chi khác nhau hay đã xa quê (gọi là biệt tổ ly tông) thì vẫn lấy nhau
được. Thời xưa, do trọng nam khinh nữ, hoặc thiếu hiểu biết về gien di truyền,
nên anh chị em con cô, cậu ruột coi như khác họ vẫn có quyền làm thông gia với
nhau. Ca dao tục ngữ trong dân gian còn ca ngợi trường hợp cháu cậu mà lấy cháu
cô, coi như "Thóc lúa trong bồ, giống má nhà ta".
Nhưng di truyền học đã khẳng định rằng người có chung huyết thống mà có con với
nhau thì qua nhiều đời dòng giống bị thoái hoá, có trường hợp bị quái thai, vì
vậy anh em họ lấy nhau, kể cả họ nội hay họ ngoại đều không có lợi.
Luật pháp nước ta qui định cùng chung huyết thống ba đời, kể cả bên bố hay bên
mẹ, đều không được lấy nhau
200. Bánh su sê hay bánh phu thê?
Trong
lễ cưới có nhiều lễ vật, nhưng không thể thiếu bánh "Su sê", nguyên
xưa là bánh "Phu thê", một số địa phương nói chệch thành bánh
"Su sê".
Bánh su sê làm bằng bột đường trắng, dừa, đậu xanh và các thứ hương ngũ vị, nặn
hình tròn, bọc bằng hai khuôn hình vuông úp lại với nhau vừa khít, khuôn làm
bằng lá dừa, lá cau hoặc lá dứa, vỏ để nguyên không luộc để giữ màu xanh thắm.
Sở dĩ gọi là bánh phu thê (chồng vợ) vì đó là biểu tượng của đôi vợ chồng phận
đẹp duyên ưa: vuông tròn, trong trắng mềm dẻo, ngọt ngào, thơm tho, xanh thắm,
đồng thời cũng là biểu tượng của đất trời (trời tròn, đất vuông) có âm dương
ngũ hành: Ruột trắng, nhân vàng, hai vỏ xanh úp lại buộc bằng sợi dây hồng.
201.
Tại sao
trong gói quà mẹ cho con gái có trâm hay kim?
Chúng
tôi chưa được biết một tài liệu thành văn nào nói về tục này, có lẽ vì các cụ
nhà nho ngày xưa đã cầm bút là phải viết những lời thanh nhã. Tục này chỉ là
một thứ bí truyền do người mẹ thủ thỉ "tâm sự" ngầm với con gái vào
buổi trước khi về nhà chồng. Thời trước, cô dâu quấn khăn nhiễu trên đầu, có
đính mấy chiếc kim trên khăn là đủ hiểu rồi. Vì không có tài liệu thành văn, vì
có những trường hợp mẹ mất sớm hoặc đám cưới xa quê vắng mẹ, nên nhiều bà mẹ
thời nay (vốn là cô dâu ngày trước) không biết để truyền tiếp cho con gái. Xuất
sứ của tục này là đề phòng tai biến "Phạm phòng". "Phạm
phòng"là gì? Nói thô tục là chết ngay trên bụng vợ ngay khi quan hệ vợ
chồng. Ca dao tục ngữ có câu "nhất phạm phòng, nhì lòng lợn" có nghĩa
là: Được ăn lòng lợn ngon miệng, dẫu chết cũng sướng.
Chàng rể qua mấy ngày đêm lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, bận rộn, vất vả, đêm
tân hôn là đêm xao xuyến, rạo rực nhất, lại thêm mấy chén rượu ngà ngà say, đến
một thời điểm cảm xúc quá đà, nếu người có thể chất và tâm thần suy tổn nhiều
thì lúc xuất tinh, thần kinh từ trạng thái hưng phấn quá độ chuyển thành ức chế
quá độ, dễ bị phạm phòng, nếu người vợ không biết xử lý kịp thời có thể người
chồng chết trên bụng vợ. Hầu như không có trường hợp người phụ nữ bị phạm
phòng.
Trong lúc giao hợp, cửa buồng đóng kín, thân thể loã lồ, lại thêm tâm lý e thẹn
xấu hổ, sợ hãi, nếu người vợ thả người chồng ra, để dương vật thoát ra ngoài,
mất sự điều hoà khí âm khí dương thì khó lòng cứu chữa.
Lúc đó, sẵn có cái trâm cài trên đầu hoặc mấy chiếc kim đính ở vành khăn, người
đàn bà một tay vẫn ôm riết lấy phía dưới lưng chồng một tay lấy chiếc trâm hoặc
kim chích vào phía dưới hố xương chậu, phía trên hậu môn, kích thích đến lúc
nào người chồng tỉnh lại. Người con trai nào có lông ở đít thì giật lông. Nếu
chưa tỉnh thì tiếp tục châm kim, lấy mùi xoa trắng hoặc lấy giấy bản chấm thử,
hễ thấy có máu chảy là chữa được. Trong phòng đôi tân hôn nên để ngọn đèn con
nhằm tạo thêm khoái cảm, mặt khác cũng vì mục đích đó nữa, nhưng vẫn chú ý phải
ôm riết chồng trên bụng. Chúng tôi không đi sâu vào lĩnh vực y dược, song có
phương thuốc được lưu truyền trong dân gian: Cứt chuột và lá hẹ giã nhỏ, người
đàn bà ngậm rồi trúm vào miệng chồng, vì lúc đó người chồng đang nằm sấp rất
khó đổ thuốc.
Trường hợp nhẹ, người đàn ông vẫn còn tỉnh nhưng cơ thể liệt nhược sau khi giao
hợp, gọi là phòng thất, phải uống thuốc bổ dương một thời gian sau mới hồi phục
sức khoẻ.
Còn tại sao lại 7 chiếc kim: Theo quan niệm cổ truyền " Nam thất nữ
cửu" (đàn ông 7 vía, đàn bà 9 vía). Vì để phòng xa , dùng cho con rể nên
bà mẹ vợ chỉ đưa 7 chiếc kim - chứ không phải dùng cho con gái vì con gái không
bị phạm phòng.
Trong hàng vạn trường hợp mới có một trường hợp là phạm phòng, nhưng các bạn
trẻ cũng nên biết trước để khi ngộ sự biết chủ động xử lý. Điều cần thiết là
phải cùng nhau hiểu biết, thông cảm mà phòng ngừa, nhất là trong tuần trăng mật
hoặc vợ chồng cách xa nhau lâu ngày về gặp nhau. Các bạn gái vì e thẹn xấu hổ
nhất thời mà mang lại mối ân hận suốt đời
Giới thiệu thêm phương thuật chữa tai biến phạm phòng:
Khi nam nữ giao hợp với nhau, khoái cảm lên đến cực độ, tinh khí xuất quá
nhiều, có thể chết (chết trên bụng vợ). Khi xảy ra như thế, nhất thiết không
được đẩy rời nhau ra (dù là xấu hổ cũng phải để nguyên như tư thế đang giao
hợp). Nếu đàn ông xuất tinh quá nhiều bị thoát, thì người đàn bà phải chúm
miệng thổi hơi nóng của mình vào miệng chồng, nếu đàn bà bị thoát hết khí, thì
đàn ông cũng làm như vậy, để tống hơi nóng của mình vào miệng vợ. Tống hơi nóng
như vậy mấy chục lần, dương khí sẽ dần trở lại. Trong khoảnh khắc cấp bách
giành giật giữa cái sống và cái chết như vậy, để bảo vệ điều hoà hai khí âm
dương, chẳng những không được hoảng hốt rời khỏi giường, mà không để cho dương
vật thoát ra khỏi âm hộ, nên phải ôm chặt lấy phần nửa mình phía dưới, Người đã
ngất lịm rồi không biết gì nữa, hoàn toàn phải do người sống chủ động ôm riết
lấy, để cho khí không tuyệt hẳn, phải tống khí liên tục cho đến khi sinh khí
của người kia tỉnh lại mới thôi. Cách tống khí: Phải chúm miệng lại, đưa được
khí từ hạ đan điền(1) lên, truyền qua miệng tống khí vào đến yết hầu người kia
theo nhịp thở. Cách này cả trai và gái đều nên biết. Sau khi dương khí đã hồi
phục phải dùng bài "Nhân sâm phụ tử thang"(2). Nếu nhà nghèo không có
nhân sâm, thì cấp tốc dùng 4 lạng hoàng kỳ, 2 lạng đương quy, 5 đồng cân phụ
tử, sắc uống cũng có thể cứu sống được. Trường hợp người đàn ông xuất tinh quá
nhiều khí hết, mà đã nhỡ đẩy ra rồi, thì phải cấp tốc vực ngồi dậy ôm choàng
lấy mà tống khí vào miệng, nếu khí qua miệng khó vào thì dùng ống thông hơi hai
đầu đút vào miệng mà thổi, miễn sao hơi vào được qua cuống họng. Có thể mượn
người đàn bà, con gái mạnh khoẻ khác hà hơi, không nhất thiết phải là người vợ
hoặc người đàn bà vừa giao hợp. Đó là cách lấy người để chữa người, khả năng
sắp chết vẫn cứu sống được.
(1) Hạ đan điền: vùng bụng dưới rốn.
(2) Nhân sâm phụ tử nhang: Phụ tử: 1 đồng cân. Phục linh: 7,5 phân. Nhân sâm: 1
đồng cân. Bạch truật: 1 đồng cân. Bạch thược: 1,5 đồng cân
202.
Trả lời câu hỏi không rõ câu hỏi
Tại
sao kỳ quặc thế? Vì các bạn trẻ muốn hỏi nhưng ngại không đặt thành câu hỏi,
hoặc không biết để mà hỏi vì những vấn đề này thời trước chỉ do người mẹ thầm
với con gái, người đàn ông chỉ thầm hiểu mà không bao giờ nói tới. Đó là những
bí mật trong phòng giữa đôi trai gái. Chúng tôi cũng chỉ xin nói thầm với các
bạn trẻ, xin chớ hiểu lầm là chuyện khiêu dâm, thiết nghĩ vì hạnh phúc đôi lứa,
vì tương lai nòi giống, trước khi thành hôn cần có những kiến thức sơ đẳng:
Tuổi dậy thì từ lứa tuổi nào? Có những biểu hiện gì về tâm sinh lý? " Nữ
thập tam nam thập lục". Theo đánh giá của các cụ ngày xưa, gái mười ba
trai mười sáu đúng tuổi dậy thì. Trong tuổi phát dục đó, cơ thể lớn nhanh như
thổi, chỉ đầu năm đến cuối năm đã biến đổi rất nhiều: má hồng, ngực nở, mông
phát triển, nhú âm mao, nam mọc ria mép, một số thì mặt nổi trứng cá, nữ đã
hành kinh, có tâm lý e thẹn khi tiếp xúc với người khác giới, ánh mắt tế nhị
kín đáo, kể cả tiếp xúc với người thân trong gia đình nhưng khác giới đã bắt
đầu có sự ngăn cách. Cả nam và nữ ở tuổi này đã ham làm dáng. Có trường hợp
tuổi dậy thì đến sớm hơn hoặc muộn hơn vài năm.
Thời xưa, tảo hôn, có cô gái mười ba tuổi đã bắt đầu sinh nở. Nên chú ý, mặc dù
con gái đã có dục tính nhưng giao hợp sớm cơ thể sẽ suy nhược nhanh chóng dẫn
tới hậu quả làm cho nòi giống bị suy thoái.
Trai gái giao hợp là thuận theo quy luật điều hoà âm dương nhưng chỉ nên khi
nào cả hai bên đều có khoái cảm mạnh. Người đàn bà thường khoái cảm chậm hơn
đàn ông, các bạn trai nên chú ý kiên trì chờ đợi, kích dục nhẹ nhàng, đừng để
xảy ra tâm lý lo sợ. Một đặc điểm nữa là khoái cảm đàn bà đến chậm hơn nhưng
lâu hơn vậy nên có trường hợp người đàn bà chán nản vì người đàn ông không đáp
ứng được yêu cầu sinh lý, có khi dẫn tới ngoại tình hoặc ly hôn.
Vì hạnh phúc lâu dài, nhiều khi người đàn ông biết tự kiềm chế. Ví dụ trường
hợp vợ chồng xa vắng lâu ngày gặp nhau, gặp phải thời kỳ hành kinh của vợ, có
khi người vợ nể chồng phải chiều theo ý chồng nhưng rất có hại đến vệ sinh phụ
nữ. Trong trường hợp mới sinh nở cũng vậy.
Người đàn bà có thai gần tới kỳ sinh nở thì chẳng những đàn ông mà đàn bà cũng
vậy, phải tự kiềm chế dục cảm, tốt nhất là nên tạm thời dừng lại để bảo vệ cho
sản phụ và thai nhi:
Nam nữ thanh niên chưa lấy vợ lấy chồng, hoặc tình duyên không mãn nguyện
thường có thói thủ dâm để đạt khoái cảm nhất thời nhưng rất hại cho sức khoẻ
lâu dài về sau. Nến biết trước để tránh hậu quả không hay, nhất là đối với nam
giới.
Trước lúc động phòng, cả nam và nữ đều phải sạch sẽ, tâm hồn thư thái, kiêng kỵ
lúc mới lao động nặng nhọc hoặc mới đi xa về chưa kịp nghỉ ngơi.
Coi việc hiểu biết về những kiến thức vệ sinh giao hợp là cần thiết, vợ, chồng
nên nhỏ nhẹ tâm tình, chớ coi đó là chuyện dâm ô.
203. Khi người đàn bà tái giá cần có những thủ tục gì?
Đàn
ông lấy vợ gọi là thú, đàn bà lấy chồng gọi là giá. Có nhiều trường hợp đàn bà
phái tái giá: Một là duyên không ưa, phận không đẹp phái ly hôn; hai là nửa
đường đứt gánh, goá bụa khi tuổi còn xoan...
ở đây chúng tôi không nói đến sự khác biệt giữa luật hôn nhân thời xưa và thời
nay, và những quy định bất công về phụ nữ thời phong kiến mà chỉ nói về phong
tục, trong đó một số phong tục còn duy trì tới nay:
-Cha mẹ chỉ gả bán một lần, lần sau không tham gia cưới hỏi.
-Đàn bà goá, tục gọi là "Nạ dòng" ít có trường hợp lấy được trai tân,
phần lớn làm vợ kế hay vợ lẽ, nói chung là chắp nối tơ duyên, "Rổ rá cạp
lại", nên lễ cưới hỏi chỉ bó hẹp trong phạm vi thân nhân gia đình và vài
bà con xóm giềng.
204. Quan hệ vợ cả vợ lẽ ra sao?
Ngoại
trừ chế độ mẫu hệ, còn như trong chế độ phụ hệ người đàn bà chẳng mấy khi có
chồng cả, chồng lẽ; ngược lại đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường, càng
quyền quí cao sang càng lắm vợ: Minh Mạng có 142 con, "Nhất dạ ngũ giao,
tam hữu dựng" (trong một đêm ngủ với năm bà thì ba bà có thai) còn bao
nhiêu vợ thì không thể thống kê được. Nguyễn Công Trứ 73 tuổi, lấy vợ lẽ thứ
10, đêm tân hôn cảm tác:
"Tân nhân dục vấn: Lang niên kỷ? - Ngũ thập niên tiền nhị thập tam"
(Dịch nghĩa: Nàng muốn hỏi anh: chàng mấy tuổi - Năm mươi năm trước mới hăm ba)
Đạo Thiên chúa chỉ cho phép con chiên một vợ một chồng.
Thông thường vợ cả lấy trước, vợ lẽ lấy sau. Nhưng có trường hợp người con trai
làm ăn xa nhà, tự ý lấy vợ, chưa được cha mẹ và họ hàng chấp nhận, ở quê nhà
cha mẹ đã dạm hỏi sẵn cho một cô vợ khác bắt về cưới. Người vợ do cha mẹ cưới
hỏi, dẫu rằng lấy sau vẫn là vợ cả. Người vợ tự ý chọn, nếu sau này được cha mẹ
chấp thuận, mặc dù con gái con trai đều đã lớn, vẫn phải chịu phận làm em. Con
vợ bé dẫu nhiều tuổi hơn vẫn phải chào đứa con bà cả đang ăm ngửa bằng anh bằng
chị. Trường hợp vợ cả chết sớm, không có con trai thì con trai vợ kế đẻ sau vẫn
là trưởng nam, là đích tôn thừa trọng chứ con trai vợ lẽ vì phận thiếp không
môn đăng hộ đối , không phải do ông bà trực tiếp cưới hỏi nên không đủ quyền kế
vị.
Muốn cho gia đình êm thấm, người chồng phải khéo đối xử để vợ cả đi hỏi vợ lẽ
cho chồng, thì người vợ lẽ và bố mẹ cô ta mới yên tâm.
205. Nên nhìn nhận vấn đề ly hôn như thế nào?
Nhiều
cụ cao tuổi thường phàn nàn: Thời này bọn trẻ yêu nhau quá dễ dàng nên bỏ nhau
cũng dễ. Ngược lại lớp trẻ lại cho rằng: Ngày xưa các cụ chẳng biết yêu đương
là gì, lấy vợ lấy chồng thì sinh con đẻ cháu, chứ mấy ai được hưởng hạnh phúc.
Họ không bỏ nhau chẳng qua do lễ giáo và phong tục xã hội trói buộc. Trai làm
nên năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên chức tiết một chồng. Chỉ có người đàn
bà phải cam chịu thiệt thòi bị giam lỏng chứ đàn ông không ưng vợ này thì lâý
thêm vợ khác, chẳng cần phải ly hôn với vợ cũ.
Tất nhiên trong chế độ cũ cũng như mới, không ai khuyến khích việc ly hôn. Có
những trường hợp quan hệ vợ chồng gặp nhiều trắc trở, nhưng vì nghĩ đến tương
lai của con cháu hoặc vì nguyên cớ này, lý do nọ, họ đành chấp nhận nỗi thiệt
thòi chung sống vì phận sự, mà thiếu tình yêu. Không phải mọi trường hợp ly hôn
đều đáng chê trách. Ngược lại có những vụ án sử ly hôn được coi như trận thắng
giải phóng cho cả hai bên. Ly hôn lại trở thành cơ sở tái tạo hạnh phúc. Vậy ta
không nên có thái độ nhìn nhận quá khắt khe đối với mọi trường hợp ly hôn.
Tuy nhiên, ngày xưa các cụ thường có một câu "Một ngày là nghĩa",
thời nay quan hệ xã hội mới càng thêm tươi đẹp, vậy nên đôi vợ chồng sau khi
chia tay chớ nên coi nhau như thù địch, cho dù duyên không ưa, phận không đẹp,
và nên coi nhau như bạn bè. Bạn bè có thân mà có sơ, vậy nên nhắn những ai sau
này là đối tượng của người vợ hay người chồng đã ly hôn chớ có ghen bóng ghen
gió.
Còn con cái, do tình trạng ly hôn, tái thú, tái giá, nên trong một gia đình có
cả con anh, con tôi, con chúng ta. Chúng nó đối xử với nhau hoà thuận là hiếm,
mâu thuẫn với nhau là phổ biến. Điều đó đòi hỏi người làm cha làm mẹ, làm dì
ghẻ, bố dượng phải thu xếp sao cho công minh, êm thấm mọi bề
206. Dạy con từ thủa bào thai
Tục
ngữ Việt Nam có câu: "Dạy con từ thủa còn thơ - Dạy vợ từ thủa bơ vơ mới
về".
ở đây chúng tôi muốn nêu: Không những dạy con từ thủa còn thơ mà phải dạy con
ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Bởi vì cuộc sống vật chất lẫn tinh thần của
người phụ nữ mang thai ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tinh thần của đứa
trẻ sau này.
Người xưa thường nói: "Đàn bà hiền dịu, thì dễ có con. Thai sản là lẽ tự
nhiên của trời, đất. Người không bệnh thì không cần phải uống thuốc".
Theo y học cổ truyền "...Tâm khí kinh sợ thì con bị điên, thận khí không
đủ thì con hở thóp, tì khí không hoà thì con gầy còm, tâm khí hư kém thì con
nhút nhát. Con là theo khí mẹ, mẹ không cẩn thận sao được! Mẹ chớ uống nhiều
thứ thuốc, uống nhiều rượu, chớ châm cứu xằng xiên, chớ đi đại, tiểu tiện vào
chỗ không thường đi, chớ trèo cao xông pha hiểm trở, chớ gánh vác nặng nhọc,
chớ giao cấu phóng túng, chớ nằm ngủ nhiều, chớ mặc áo quần quá ấm, chớ ăn cơm
quá no. Tinh thần phải chấn tĩnh, không phạm đến thất tình ( mừng quá, giận
quá, đau thương quá, ghen ghét quá, yêu quá, ham muốn quá v.v...). Muốn con sau
này sinh ra thẳng thắn nghiêm trang thì người mẹ nên miệng nói lời ngay thẳng,
làm việc ngay thẳng. Đàn bà rắp tâm làm việc ác thì không sinh đẻ được, người
ta cứ tưởng là tại trời ghét bỏ, biết đâu rằng: Đó chính là do tự mình gây ra.
Vì khí ở gan ruột bị uất kết, ba bộ mạch: tâm, tì, thận đều bị uất nên khó
sinh..." (Theo "Phụ đạo sán nhiên" của Hải Thượng lãn ông).
Vì lẽ đó dân gian có câu: "Cây khô không có lộc, người độc không có
con".
Cần phải giáo dục con từ trong bụng mẹ mà thuật ngữ khoa học gọi là "Thai
giáo". Ngày xưa các bậc tiền bối đã răn dạy người mẹ tương lai (sản phụ)
không được giận dữ, hoảng hốt, không được nghĩ điều xấu, làm việc xấu, nghe
chuyện dở, nhìn cảnh tang thương, cần nói năng, đi đứng khoan thai...
Có mối liên hệ khăng khít giữa thai nhi với sức khoẻ và tâm trạng người mẹ,
giữa thai nhi với thế giới bên ngoài, có những phản ứng "Tiếp nhận"
hoặc "Chối bỏ" của thai nhi trước các tác động của ngoại cảnh.
Theo tài liệu nghiên cứu khoa học: Nhân cách con người được hình thành rất sớm,
ngay từ trước khi ra đời. ý nghĩ, cảm xúc và những nỗi buồn vui của người mẹ
truyền vào đứa con. Nhiều phụ nữ có thai đã biết giữ gìn tình cảm cân bằng do
đó giữ được sức khoẻ cho đứa con. Những nỗi đau của người mẹ phải chịu đựng
trong thời gian thai nghén ảnh hưởng mạnh tới đứa trẻ sơ sinh. Lòng thiết tha
đối với đứa trẻ chưa ra đời là một biện pháp giữ gìn sức khoẻ cho đứa trẻ tốt
nhất, và có ảnh hưởng quyết định tới quan hệ mẹ con sau này"...
207. Tại sao tuổi trong khai sinh, trong văn bằng
không đúng với tuổi thật?
Điều
này cũng gây khá nhiều rắc rối, phức tạp cho các nhà khảo cứu sử học, biên soạn
gia phả. Đã có trường hợp anh em cùng cha cùng mẹ sinh ra mà em nhiều tuổi hơn
anh. Chỉ có lá số tử vi là chính xác nhất, chính xác đến từng giờ, nhưng ít
người còn giữ được lá số tử vi, phần lớn ông bố bà mẹ chỉ nhớ được con mình câm
tinh con gì, qua đó mà tính ra tuổi thực (tuổi mụ).
Như trên đã nói, có ba lý do khai bớt tuổi:
- Để chậm được vài năm khỏi phải đóng thuế thân và đi phu, đi lính.
- Dưới thời Pháp thuộc, để tránh hạn định quá tuổi không được đi học, không
được thi.
- Do việc vào sổ họ chậm gần một năm còn việc vào sổ làng, hàng phe, hàng giáp,
có khi chậm đến năm sáu năm.
Trường hợp nâng tuổi lên cũng có ba lý do nhưng không phổ biến lắm:
- Để nhanh đến tuổi lấy vợ (theo lệ "nữ thập tam, nam thập lục").
Nhiều gia đình muốn cưới con dâu về sớm để có kẻ ăn người làm và để sớm có cháu
nối dõi tông đường.
- Dưới thời Pháp thuộc, các công sở không tuyển người dưới 18 tuổi nên phải
khai tăng tuổi.
- Một số địa phương, có lệ làng cho tăng thêm tuổi để chóng đến tuổi lên lão
mừng thọ.
Mẩu chuyện vui: Sêcuture với Hồ Chí Minh:
Sêcuturê, Tổng thống Ghi Nê sang thăm Việt Nam theo lời mời với tư cách là
khách của Hồ Chủ Tịch. Trong buổi mít tinh tiễn đưa tại Quảng trường Ba Đình Hà
Nội, Sêcuturê hết lời ca ngợi và khâm phục Hồ Chủ Tịch
Ông phát biểu đại ý: Vợ tôi sắp sinh, nếu sinh con trai, tôi sẽ đặt tên con là
Hồ Chí Minh.
Tôi được dự buổi lễ đó, thầm nghĩ: Ông này quả thật rất chân thành và rất cảm
phục Hồ Chí Minh nhưng ông ta chưa hiểu câu "nhập gia vấn huý" của
phong tục nước ta, câu đó có gì khác chửi người ta.
Liền đó Hồ Chủ Tịch trả lời lại rất khôn khéo, tài tình "Bác không có vợ
nên không có con, vậy Bác đề nghị các cháu thanh niên, nếu sắp tới, cháu nào có
con trai thì đặt tên cháu là Sêcuturê!"
Mọi người dự lễ đều vui cười thoải mái, phục tài đối đáp của Bác, vừa được lòng
khách nước ngoài, vừa phù hợp với phong tục nước ta trong hoàn cảnh đó.
208. Xưng hô thế nào cho đúng?
Vấn
đề này thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học, giáo dục học, nhưng dính dáng nhiều đến
phong tục cổ truyền. Mới nghe tưởng đơn giản quá, đứa bé lên ba cũng biết. Quả
vậy, trẻ con vừa học nói đã được cha mẹ, anh chị bày cho cách xưng hô, thế
nhưng đến lớn đến già vẫn còn sai sót. Nhiều khi chỉ vì một sai sót nhỏ trong
các xưng hô mà gây nên thành kiến nặng nề.
Đối với các nước khác châu á, đại từ nhân xưng có 3 ngôi: Người nói, người nghe
và người, vật, sự việc được đề cập đến trong câu nói. Chỉ có sáu từ cơ bản nếu
dịch mộc mạc ra tiếng Việt là: tao, mày, nó, chúng nó, chúng tao, chúng mày.
Ví dụ: "Bố mẹ cháu bảo cháu đưa ba cháu sang thăm hai cụ". Câu này
nếu dịch từ đối ra tiếng nước ngoài thì như sau: "Chúng nó bảo tao đưa nó
sang gặp chúng mày".
ở Việt Nam ta đã quen từ nhỏ, đáng tuổi ông thì gọi là ông, đáng tuổi bác thì
gọi là bác không đươc "mày tao chí tớ", "cá mè một lứa".
Chúng ta nên thông cảm với người nước ngoài học tiếng Việt. Đại từ nhân xưng
tiếng Việt rất đa dạng phong phú nhưng cũng rất phúc tạp, điều khó khăn phức
tạp nhất là, ngay trong đại từ nhân xưng của ta đã mang sắc thái tình cảm, thể
hiện sự yêu thương tức giận, kính trọng, khinh ghét, khách sáo, thân mật...
Trong cách xưng hô của ta có phân biệt tôn ti trật tự rõ ràng. Cháu bé hỏi
rằng: Tại sao ông bảo cháu thưa bẩm, thế mà cháu gọi ông ông lại không thưa bẩm
cháu. Cháu cũng không hiểu sao cha mẹ gọi con thì gọi thằng Giáp con ất được
còn con gọi tên cha mẹ thì không được. Tại sao ông chú già rồi lại còn gọi là
"ông trẻ".
Cách dùng từ để xưng hô của ta còn tuỳ thuộc vào mức độ thân sơ giữa người nói
và người nghe. Ví dụ, thật thân tình bạn bè gọi nhau bằng mày tao, hắn thì quí;
gọi nhau bằng thưa quí anh hoặc bằng ông thì coi như giễu cợt kích bác nhau.
Ngược lại, mới quen biết sơ sơ mà mày tao thì coi như bất lịch sự, đôi khi nghe
bực mình bỏ đi không thèm trả lời. Cụ già và Lão già đồng nghĩa nhưng khi nói
"Tôi hỏi cụ già" thì rất khác "Tôi hỏi lão già". Cũng có
trường hợp "lão" chưa hẳn đã già, mà là cách gọi thân mật.
Nếu có quan hệ họ nội, họ ngoại thì gọi theo quan hệ thân thuộc gắn bó tình
thân thiết hơn; mặc dầu ít tuổi hơn mình nhưng ngang hàng cha mẹ mình thì gọi
bằng chú, bác, cô, dì theo đúng vai vế trong họ. Ngược lại, đối với người đã
lớn tuổi mặc dầu là bậc cháu nhưng để cho khỏi "chướng" nên gọi bằng
anh, ông, bác ông... Coi như gọi thay con, cháu mình, như vậy thanh nhã và lịch
sự hơn.
Thuần tuý quan hệ xã hội, không có quan hệ họ hàng nhưng theo phép xã giao
"trưởng nhất tuế vi huynh, trưởng thập tuế vi phụ" (hơn một tuổi làm anh,
hơn mười tuổi làm cha), tức là tôn lên ngang bằng với cha mà gọi chú, bác. Đây
là phép tôn xưng.
209. Cách xưng hô trong họ
Có
xem sơ đồ gia phả toàn họ mới biết được: Mình thuộc đời thứ mấy, đời trên mình
là những ai, mình thuộc chi nào, nhánh nào, bằng vai với mình trong họ là những
ai? Có sơ đồ gia phải mới phân biệt được thế thứ trong họ mỗi người tự xác định
được quan hệ trong nội tộc mà xưng hô cho đúng, chú ra chú, bác ra bác, anh ra
anh, em ra em v.v.... Xưng hô trong nội tộc khác với xưng hô ngoài xã hội, để
khỏi mang tiếng "Cá mè một lứa". Ngoài xã hội dựa theo tuổi tác và
chức vụ địa vị, trong gia tộc dựa theo thế thứ, nhưng khi giao thiệp với từng
cá nhân cụ thể lại phải kết hợp theo cách xưng hô ngoài xã hội theo quan hệ
tuổi tác. Có thể đúng theo huyết thống thì anh A phải gọi tôi bằng ông chú,
nhưng tôi cũng gọi anh A bằng bác, vì anh A đã là người tuổi cao, gọi bằng cháu
bất tiện và bất lịch sự. Tôi gọi anh A bằng bác đó là gọi thay cho cháu chắt
tôi, mặc dầu tôi ít tuổi hơn anh nhưng về thế thứ ngang với ông nội anh A. Tuy
nhiên nếu ít tuổi quá mà gọi bằng ông cũng bất tiện, có khi phải hạ xuống một
bậc mà gọi bằng chú mới thân mật.
Trong khi chúng tôi biên soạn gia phả có người bà con trong họ thắc mắc: Gia
phả có nhầm lẫn gì giữa các chi trong họ ta hay không? Tại sao anh X. Còn ít
tuổi hơn cháu nội tôi, mà tôi lại phải gọi anh X. bằng ông.
Xin trả lời: đó là hiện tượng phổ biến không có gì đặc biệt. Ngay trong một gia
đình anh cả đã có con, mà chú út chưa ra đời: hiện tượng "Em bú chị dâu,
cháu bú bà" là chuyện bình thường trong xã hội cũ, chỉ mới qua hai đời đã
có sự chênh lệch 1 đời, vậy thì trong họ hàng qua nhiều đời, chênh lệch dăm ba
đời không có gì là lạ.
ở nông thôn còn mối quan hệ giây mơ rễ má chằng chịt qua giữa thông gia, giữa
bà con nội ngoại, nên cách xưng hô lại càng phức tạp, thông thường thì vợ chồng
thống nhất cách xưng hô với ông chú bà bác bên nội bên ngoại như nhau, nhưng
cũng có trường hợp do quan hệ huyết thống thân sơ khác nhau chồng gọi bằng em,
vợ gọi bằng bác hay ngược lại. Nhưng dầu sao "Máu thoảng còn hơn nước
lã", gọi nhau theo quan hệ gia tộc vẫn thân mật hơn gọi theo quan hệ xã
hội.
210. Phải chăng " lời chào cao hơn mâm cỗ
"?
Trong
tiếng Việt từ "chào" thường đi đôi với từ "hỏi" và từ
"mời", cách chào hỏi, chào mời, chào thưa ở mỗi địa phương có một
phong tục khác, lại còn lệ thuộc vào đối tượng được chào và phong cách người
chào.
Đối với các cụ già, khúm núm kính cẩn đứng lại "bẩm cụ ạ" thì cụ có
cảm tình ngay nhưng đối với người lớp trung niên tân tiến mà làm như vậy thì
người ta tưởng chế giễu "Đi qua nghiêng nón không chào" không phải vì
ghét nhau hờ hững với nhau mà vì quá yêu nhau bằng lời nói mà còn bằng khoé mắt
nụ cười, có trường hợp mắt nói rõ hơn miệng.
Chào hỏi đi đôi với nhau, hỏi để chào: "ông khoẻ không?" "ông đi
đâu đấy?" Nhiều khi hỏi bâng quơ, hỏi không cần trả lời, nhưng nếu không
chào hỏi thì ra điều lạnh nhạt khinh người.
Chào mời đi đôi với nhau: Cần phân biệt mời thực sự hay mời để thay lời chào.
Nực cười! Hành khách trên hai chiếc thuyền đi dọc sông, ngược chiều nhau cũng
mời nhau ăn cơm lời mời thuần tuý thay lời chào chứ có ai nhảy sang thuyền kia
mà ăn đâu! lời chào có thức sự cao hơn mâm cỗ không. Có khi không có mâm cỗ,
chỉ chào xuông, e không ổn, nhưng quả thực, mâm cao cỗ đầy mà lời chào nhạt
nhẽo, khinh khi, kiêu kỳ thì mâm cỗ cũng bỏ đi.
Lời chào biểu hiện phong cách con người, biểu hiện nề nếp của gia đình, thuần
phong mỹ tục của điạ phương và của cả dân tộc ta. Song, ở mỗi nơi một khác, mỗi
thời một khác. Ngày xưa chào bằng cách vái lạy; ngày nay chào bằng cách bắt
tay. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong câu hỏi "Ai vái lạy ai".
211. Ai vái lạy ai?
Vái
lạy là phép xã giao thời xưa, không chỉ dùng khi cúng tế mà người sống cũng lạy
nhau..."Đời xưa vua đối với bày tôi, bố vợ đối với chàng rể, người tôn
trưởng với kẻ ti ấu đều phải lạy đáp lễ... Đến đời nhà Tần mới đặt ra lễ
"tôn quân ti thần", nên thiên tử không đáp lạy bày tôi nữa... Ngaỳ
xưa từ quan khanh sĩ trở xuống đều theo cổ lễ mà đáp lễ kẻ ti ấu, nếu kẻ ti ấu
(bề dưới) chối từ, mới dùng lễ túc bái đáp lại. Còn vái là nghi thức lúc đã lễ
xong....Nước ta xưa kia có chốn công đường có lễ tông kiến, kẻ hạ quan cũng vái
bậc trưởng quan... Gần đây những kẻ hiếu sự không biết xét đến cổ điênr lại cho
là lễ của tôn trưởng đối với kẻ ti ấu, còn kẻ ti ấu đối với tôn trưởng không
được vái, chỉ lạy xong là cứ đứng thẳng và lùi ra
Xem
đoạn văn trích dẫn trên ta thấy vái lạy là một phép xã giao, không chỉ vái lạy
người trên mà người trên cũng vái lạy đáp lễ. Từ lạy nhau chuyền sang vái nhau
trong buổi tương kiến, đến nay ta tiếp thu văn hoá Âu Tây vẫn giữ được phép tôn
ti (tôn trưởng ti ấu).
Theo phong tục lễ giáo của ta, bề dưới phải chủ động chào bề trên trước, trẻ
chào già trước, trò chào thầy trước . Nếu bề trên không chào lại người dưới,
thầy không chào lại trò, tức là không đáp lễ, thì cũng bất lịch sự chẳng khác
gì từ chối người khác, làm cho người đưa tay trước ngượng ngùng và bất bình.
Không biết vái, chào lại người khác là đã tự làm mất đi phong cách lịch duyệt
của chính mình.
Chúng tôi xin trích kể lại câu chuyện "Tam nguyên Tổng đốc lạy ông
Nhiêu".
Ông Nhiêu Chuồi người cùng làm ăn mừng lên thọ 80 Cụ Tam Nguyên cũng tới mừng.
Khi làm lễ chúc thọ, cụ Tam cũng như mọi người lễ ông Nhiêu hai lễ rất kính
cẩn. "Ai đời cụ Tam Nguyên Tổng Đốc lại lạy một người dân thường. Ông
Nhiêu vội vàng sụp xuống lạy tạ. Cụ Tam đỡ ông Nhiêu dậy, ôn tồn nói: Ta lễ là
lễ cái thiên tước của ông Nhiêu đấy..."
212. Đạo thầy trò
Quan
hệ thầy trò nói riêng về mặt phong tục cũng cần có một tập sách rêng. Để trả
lời cho những câu hỏi về đạo thầy trò, chúng tôi thiết nghĩ mấy dòng sơ lược
thì chưa thể nào nói cho hết được.
Dân tộc ta vốn tôn sư trọng đạo, dưới chính thể nào cũng vậy. Vai trò thầy giáo
luôn luôn tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, tiên tiến được toàn thể xã hội công
nhận. Nghề giáo vốn là nghề cao quí nhất. Nền giáo dục thời phong kiến cũng như
thời dân chủ đều thống nhất một phương châm "tiên học lễ hậu học văn"
"nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội"... Nhân tài phục vụ xã
hội, điều hành bộ máy Nhà nước đều được "ông thầy", tức là khuôn mẫu,
đào tạo nên, "không thầy đố mày làm nên". Tiêu chuẩn đánh giá kiến
thức đều thống nhất dựa vào chế độ thi cử, có học vị, cấp bậc rõ ràng.
Vì tất cả những lẽ trên, có người đặt vấn đề: Vậy đặt thầy cao hơn cha có quá
đáng không?
Cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng mình, thầy giáo là người truyền thụ kiến thức cho
mình. Sở dĩ hiển đạt, thi thô được tài năng với đời đều nhờ thầy. Ngày xưa, từ
nhỏ đến khi đi thi đậu cử nhân, tiên sĩ thường cũng chỉ học một thầy cùng lắm
là vài ba thầy, chứ không như ngày nay mỗi năm một lớp rồi mỗi môn một thầy.
Ngày xưa có nhiều trường hợp thầy trò cùng lều chóng đi thi nhưng học tài thi
phận , trò đậu thầy hỏng. Có những ông thầy đào tạo được nhiều ông Nghè, ông
Cống nhưng bản thân ông thầỳ lại chẳng đậu đạt gì, chẳng nhận quan tước gì, có
người thi đậu cũng không ra làm quan mà chỉ tiếp tục dạy học. Có những thầy
giáo đạo cao đức trọng được môn sinh nể trọng hơn cha. Thầy Chu Văn An là người
thầy tiêu biểu nhất được liệt thờ ở Văn Miếu.
Ngày xưa, thầy đồ dạy đỗ được một số học sinh đậu đạt cử nhân, tiến sĩ thì tự
nhiên vai vế trong xã hội được nâng lên rõ rệt, quan tỉnh quan huyện cũng phải
kính nể, chẳng những đối với thầy giáo mà cả gia đình thầy. Quang Trung ba lần
mời Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử) ra làm quân sư, chính là để thu phục nhân sĩ
Bắc Hà, vì Nguyễn Thiếp là thầy giáo của nhiều triều thần Lê Trịnh đương thời.
Ngành
giáo dục tuy có chế độ thi hương, thi hội, thi đình rất nghiêm rất chặt, song
rất ít giáo chức rất ít trường công, ở cấp huyện , cấp phủ chỉ có một vài huấn
đạo giáo thụ ăn lương nhà nước, hầu hết là các lớp tư thục. Một nhà khá giả
trong vùng nuôi thầy cho con ăn học , xóm làng chung quanh gửi ôn đến thụ giáo
không phải nộp học phí, chỉ đến ngày mồng 5 tháng 5 ngày Tết... cha mẹ học trò
mới đưa lễ tết đến tết thầy tuỳ tâm. Giàu có thì thúng gạo nếp, bộ quần
áo...Nghèo thì một cơi trầu một be rượu cũng xong.
Môn sinh của một thầy thường tổ chức nhau lại gọi là Hội đồng môn, có trưởng
tràng, giám tràng và một số cán tràng giúp việc trưởng tràng. Con thầy mặc dầu
ít tuổi hơn cũng được gọi là thế huynh. Thầy nào có tiếng dạy giỏi, dạy nghiêm
thì được nhiều sĩ tử đến theo học , Hội đồng môn vận động các gia đình môn sinh
đóng góp tiền của tạo ruộng, tạo trâu bò rồi phân công cày cấy, đến mùa màng
gặt tự gánh về gia đình nhà thầy để gia đình thầy chi dụng. Khi thầy mất lại
dùng rụông đó lo tang ma cho thầy, cho vợ thầy và giỗ tết tế tự về sau.
Học trò để tang thầy cũng ba năm như tang cha mẹ, nhưng không mặc tang phục,
gọi là tâm tang tức là để tang trong lòng.
Cụ Thượng Niên về lễ tang vợ thầy:
Nguyễn Khắc Niên (1889-1954) người Sơn Hoà, Hương Sơn, Hà Tĩnh đậu Đệ nhị giáp
Tiến sĩ (tức Hoàng Giáp) khoa Đinh Mùi 1907 làm Thượng thư bộ Cải lương hương
chính triều Bảo Đại. Nguyễn Khắc Niên là học trò cụ Nguyễn Duy Dư người Sơn
Tiến, một người nổi tiếng hay chữ ở huyện Hương Sơn, đã được hội Tư văn hàng
huyện tôn xưng là "Hương Sơn tứ hổ". Nguyễn Khăc Niên thụ giáo cụ Dư
ở cách nhà mình trên 4 km. Đến kỳ thi Hương hai thầy trò cùng lều chõng đi thi,
học trò đậu cử nhân, được vào Huế thi Hội đậu luôn Hoàng giáp, thầy chỉ đậu Tú
tài. Theo chế độ thi cử thời trước: Cử nhân mới được dự thi Hội, còn Tú tài thì
phải 3 khoa Tú tài mới được thi. Ba năm mới có một khoa, thầy Tú chưa kịp chờ
để thi lại khoa sau thì đã từ trần- 1909. Hơn 30 năm sau, bà Tú Dư mất, lúc đó
Nguyễn Khăc Niên đã lên đến chức Thượng thu trong triều. Nghe tin vợ thầy học
cũ mất, ông đánh xe từ Huế về Hà Tĩnh để phúng viếng. Nhà cách sông và đường
quốc lộ, Tri huyện tiếp điện đã lệnh cho Tổng lý địa phương đem kiệu và võng
lọng ra tận bờ sông đón rước cụ thượng về quê lễ vợ thầy. Nhà ông bà Tú trên đỉnh
đồi Sơn Trại, người trai tráng leo lên cũng cảm thấy mệt, hơn nữa sỏi đá lởm
chởm. Nhưng để tỏ lòng cung kính nhớ ơn thầy, cụ thương Niên đã xuống cáng, đi
chân đất có hai người lính hầu dìu hai bên, lên tận nhà thầy gần đỉnh đồi . Tất
nhiên cụ Thượng thư đã đi chân đất thì từ tuần phủ tri huyện đến tổng lý cũng
phải tháo hia hài cắp nách mà leo lên. Người con trưởng cụ Tú và một số gia nân
khăn áo chỉnh tề đã xếp hàng đứng ở cổng. Mặc dầu chỉ là dân thường ít hơn một
vài tuổi, nhưng con trai cụ Tú cũng được Cụ Thượng Niên vái chào rất cung kính
(vì được coi là thế huynh).
Học trò cũ mà thầy lại mất từ lâu, nay về lễ tang vợ thầy, đây là chuyện thực
mắt thấy tai nghe, kể lại dẫu có lỗi thời, nhưng cũng hy vọng các bạn đọc chắt
lọc được trong phong tục xưa chút hương vị ngọt ngào chăng ?
213. Xuất xứ của tục nhuộm răng và cách nhuộm răng
Tục
nhuộm răng là tục cổ xưa của dân tộc Việt, có từ thời các vua Hùng với tục ăn
trầu. Sứ thần của nước Văn Lang (giao chỉ) trả lời vua nhà Chu (Trung Quốc) vè
tục ăn trầu "Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng
đen...".
Khiếu thẩm mỹ của con người cũng tuỳ thuộc theo đặc điểm dân tộc và tuỳ thuộc
theo thời đại mà thay đổi. Đối với các dân tộc ở châu Phi hay ấn Độ thì da càng
đen càng đẹp. Nước ta ngày nay, chẳng ai nhuộm răng đen nữa, nhưng ngày xưa
"bõ công trang điểm má hồng răng đen". Đến như Phan Kế Bính là một
nhà trí thức tiến bộ đầu thế kỷ, chủ trương cải tạo phong tục còn có nhận xét:
"Đàn ông răng trắng thì chẳng sao, chớ đàn bà nhà tử tế bây giờ mà răng
trắng thì coi khí ngộ một đôi chút. Nhưng lâu dần cũng phải quen mắt, có lẽ
quen mắt rồi thì trắng lại đẹp hơn đen nhiều".
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.
Tục nhuộm răng đã lỗi thời, nhưng xin giới thiệu cách nhuộm răng cổ truyền của
dân tộc ta, để các bạn trẻ được biết: (có thể vận dụng trong ngành mỹ nghệ, kẻ
vẽ, nhuộm các chế phẩm bằng xương bằng ngà voi và nhựa).
Trước hết dùng các cánh kiến tán nhỏ, vắt nước chanh để kín 7 ngày, chờ tối đi
ngủ phết thuốc ấy vào hai mảnh lá dừa hoặc mo cau rồi ấp vào hai hàm răng.
Trong khi nhuộm răng thì phải kiêng nhai. Nhuộm như thế 5, 7 ngày cho răng đỏ
già ra màu cánh gián thi bôi thuốc răng đen. Thuốc răng đen làm bằng phen đen
trộn với cánh kiến, nhuộm 1, 2 miếng là đen kịt lại, đoạn lấy cái sọ dừa để con
dao mà đốt cho chảy nhựa ra, lấy nhựa ấy phết vào răng cho không phải ra được
nữa.
214. Các cô gái cô mái tóc thề trông
thêm duyên dáng.
Tóc thề vốn là một vài sợi tóc ngắn phất phơ hai bên trán và vành tai. Có những
bạn trai nghe nói các cô gái có mái tóc thề, tưởng là các cô đã có người yêu,
nhưng thực tế nào các cô đã thề thốt cùng ai?
Nguyên xưa, các đôi trai gái yêu nhau hoặc có những đôi đã nên vợ nên chồng,
đang mặn nồng đằm thắm bỗng vì một lý do gì đó làm cho tình duyên dang dở, đôi
lứa xa nhau. Họ quyết một lòng, dẫu cho sông cạn đá mòn, năm tháng chờ đợi vẫn
một lòng thuỷ chung. Trước khi lưu luyến chia tay, họ cắt trao cho nhau một mớ
tóc để ầm tin và luôn giữ trong mình như kỷ vật. Mớ tóc đó gọi là tóc thề. Chỗ
tóc bị cắt đó dần mọc lại và dài dần, mái tóc mới mọc đó gọi là tóc thề. Trong
chuyện Kiều có câu:
Tóc thề đã chấm ngang vai
Nào lời non nước, nào lời sắc son.
Có nghĩa là dăm ba năm sau, chỗ tóc bị cắt cụt đã mọc dài chấm ngang vai rồi
vẫn chưa thấy bóng dáng người yêu. Nên nhớ, thời xưa con trai cũng để tóc dài,
cũng búi tóc, và vì vậy cũng có tóc thề.
215. Đạo hiếu là gì?
Hiếu
theo quan niệm thời xưa khác thời nay như thế nào?
Các bạn biết chữ Hán thấy rõ: Chữ "Hiếu" là chữ viết tắt của hai chữ
"Lão" ở trên (lượt bớt phần dưới) và chữ "Tử" ở dưới.
"Hiếu" tức là mối quan hệ cha trên, con dưới; suy rộng ra là đạo
nghĩa của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
Đọc bài "Đạo hiếu" của Nhất Thanh (Tr.331 cuốn "Đất lề quê
thói"- NXB Đồng Tháp) cùng với một số bài nói về lễ Mừng lão,Yến lão, tôi
rất nhất trí và không lặp lại, chỉ xin nói thêm vài lời.
Đạo hiếu xuyên suốt trong mọi phong tục của nhân dân ta, không thể không nói
đến chữ hiếu khi viết về phong tục cổ truyền của ta. Lễ tế, lễ tang, lễ cưới,
kể cả sinh đẻ, xây nhà dựng cửa, hội hè đình đám, việc nước, việc làng, thuần
phong mỹ tục đã đành mà trong số những phong tục đã lỗi thời, ngày nay bị xếp
vào loại đồi phong bại tục, ta cũng chắt lọc được một phần tinh hoa của đạo
hiếu.
"Hiếu" là thiên kinh địa nghĩa, là gốc của mọi đức tính. Ca dao tục
ngữ đã nói nhiều, ngay trong bài học vỡ lòng, trong "Luân lý giáo khoa
thư" các em đã hiểu: "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra"... Những chân lý đó, ai không chấp nhận, song quan
niệm về chữ "Hiếu" ngày nay cũng có phần khác thời xưa.
Tôi không dám lên mặt dạy đời, chỉ xin thuật lại một buổi tranh luận trong nội
bộ gia đình tôi:
Trước hết tôi hỏi" "Hiếu" là gì? Cháu nhanh nhảu trả lời:
"Hiếu" là hiếu với dân, Bác Hồ khuyên" "Trung với nước,
hiếu với dân". Đài báo cũng nhắc luôn: " Hiếu với chân, tức là cán bộ
phải chăm lo cho dân, đừng ăn hôi lộ, đừng hách dịch với dân".
- "Việc hiếu" là gì?
- "Việc hiếu " là việc ... là việc... là việc cán bộ chăm lo cho nhân
dân mà không ăn của đút, không... Đến đây cháu lúng túng. Thằng con út tôi trả
lời thay:
- "Việc hiếu" là việc đưa đám ma, vì hôm trước, đưa đám ma xong, ông
hàng xóm đứng lên cảm ơn thân bằng cố hữu đã giúp gia đình lo xong việc
hiếu....
Đến đây, được chú em tôi phụ hoạ thêm:
- Cháu nói có lý đấy anh ạ! "Việc hiếu" là việc đối với người chết,
cho nên người ta thường nói "Hiếu", "Hỷ", tức là chỉ việc
tang, việc cưới. Nhưng cháu ạ, việc hiếu phải ba năm chứ không phải đưa ma xong
là xong đâu ! Đến như tiến sĩ Lý Trần Quán, một người tận trung tận hiếu cuối
triều Lê, trước khi chết còn viết đôi câu đối "Tam niên chi hiếu dĩ hoàn.
Thập phần chi trung vị tận" (Chữ "Hiếu" 3 năm đã xong, chữ
"Trung" mười phần chưa trọn).
- Hiếu đối với người chết, còn đối với người sống thì sao? "Sự tử như sự
sinh" kia mà?
- ồ, anh muốn biết con anh có hiếu hay không, xin anh hãy ráng chờ sau khi anh
chết sẽ rõ. Ca dao có câu "Khi sống thì chẳng cho ăn. Đến khi chết xuống
làm văn tế ruồi". Thời xưa còn thế nữa là bây giờ. Nhưng anh cũng đừng lo
ruồi ăn hết phần, vì thanh niên ngày nay có biết đọc văn nữa đâu mà tế ruồi.
Đến đây lại chuyển sang mục tranh cãi giữa tôi và chú em về quan niệm chữ
"Hiếu" thời xưa vàc thời nay.
- Thời nay lớp trẻ chẳng biết "Chín chữ cù lao" là cái gì. Công ơn
mang nặng đẻ đau, nuôi con khôn lớn tốn bao nhiêu tâm lực, đến nay chúng nó có
lớn mà chẳng có khôn.
- Tôi phàn nàn - Đã thế còn hỗn láo, bướng bỉnh...
- Đó chẳng qua là cái món nợ đồng lần, mình nuôi con rồi nuôi cháu cũng thế.
Lớp trẻ bây giờ nhiều người nói ngược: "Sinh ra ta, nuôi ta lớn lên, đó là
trách nhiệm của các ông bô bà bô". Có đứa còn trách bố mẹ: "Sao người
ta ăn sung mặc sướng, được chiều chuộng. Bố mình thì "Khắt khe",
"Ky bo' mà còn kể ơn huệ!" - Chú em tôi kể thêm.
Đối với những ông bố bà mẹ có những đứa con như vậy, quả thật là bất hạnh, song
cũng phải khẳng định số người đó rất ít, vả lại khi đến tuổi trưởng thành, được
tiếp thu sự giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội và qua khảo nghiệm thực
tế của cuộc đời, chúng sẽ thay đổi tính tình. Bố mẹ bao giờ cũng sẵn sàng tha
thứ, nước mắt chảy xuôi là lẽ thường tình.
Bàn đến câu ca dao: "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường
con hư", rồi "Trứng khôn hơn vịt"... được dịp, con cả tôi xen
vào:
- Con xin phép cha mẹ và chú, con cãi cha mẹ không phải trăm phần trăm con hư
cả. Nếu cha mẹ nghĩ sai làm sai, con can ngăn thì đó có phải là bất hiếu đâu!
Ông chú gật gù tán thành:
- Cháu nói có lý. Câu "Con cãi cha mẹ trăm phần con hư" chỉ đúng khi
đứa con còn thơ ấu, chứ khi đã trưởng thành có nhiều cô cậu còn khôn hơn cha
mẹ. "Con hơn là nhà có phúc" mà ! Thời đại ngày nay, khoa học kỹ
thuật tiến vùn vụt, tư duy chính trị, kinh tế bây giờ cũng đổi mới mà cánh già
chúng ta thường hay thủ cựu, bảo thủ cố chấp. Âu cũng là mâu thuẫn giữa hai thế
hệ...
- Theo chú, câu tục ngữ "Có con tội sống, không có con tội chết" có
đúng không?
- Đúng thời xưa nhưng không đúng thời nay. Thời xưa có câu "Bất hiếu hữu
tam, vô hậu vi đại" (có 3 điều bất hiếu với cha mẹ, trong đó không có con
là điều nặng nhất). Cha mẹ ông bà tuy đã qua đời nhưng không còn sống trong ta,
nếu ta không có con thì sau khi ta chết, ta cũng làm tiêu tan nốt giòng máu của
bao đời tổ tiên, ông cha lưu lại. Nhưng còn tội sống thì sao ? Có ít người cho
rằng nuôi con chẳng qua chỉ mang thêm tội vạ. Đã vậy sao nhiều người ghét con
lại thương cháu. Có lẽ họ nghĩ rằng chon họ đã không nối được nghiệp cha ông
thì hy vọng cháu mình sẽ nối.
Trong cuốn "Một nghìn lẻ một đêm" một nhà thông thái đã trả lời đám
đông: "Nỗi khổ nhất và dai dẳng nhất trên đời là có đứa con hư".
Nhưng còn một mặt khác, mà là mặt tích cực và phổ biến "Con khôn nở mặt mẹ
cha" "Một con một của", có ai từ. Gặp nhau người ta hỏi thăm
nhau: "Mấy trai máy gái rồi ?", chứ có hỏi: "Mấy của rồi
?"đâu. Còn như câu "Trẻ cậy cha, già cậy con" ngày nay liện còn
đúng không ?
Nhân nhắc đến những gương hiếu kính thời xưa được nhà vua ban biển vàng như
thời vua Lê Huyền Tông cách đây gần ba trăm năm (1663-1671), ban biển đỏ với
bốn chữ vàng "Hiếu hạnh khả phong" như thời vua Hàm Nghi cách đây hơn
một trăm năm (1885-1888) chú em tôi thắc mắc có tính chất gợi ý: "Thời nay
thiếu gì gương hiếu kinh sao từ trung ương đến địa phương chưa thấy có hình
thức khen thưởng biểu dương gì ?. Trong quyển "Nhị thập tứ hiếu" có
Lục Tích người quận Cửu Chân mới 6 tuổi đến nhà họ Viên ăn tiệc xong dấu quả
quýt mang về cho mẹ Quận Cửu Chân là đất Thanh Hoá ngày nay. Lục Tích cũng được
liệt trong số "Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu", sao trong sử
sách ta, không thấy nói đến.
Ông chú vừa dứt lời, cậu con trai thứ của tôi xen ngay :
- Tưởng ai nổi danh, chứ như Lục Tích giấy quýt về cho mẹ cũng đưa vào sử sách,
thì ở nước ta giấy mực đâu mà thống kê cho hết, ở một vùng cũng đến hàng ngày
hàng vận người. Ngay như cháu đây, lúc nhỏ cùng đi ăn giỗ với chú ở nhà thờ họ,
hẳn chí còn nhớ, lúc đó cháu mới bốn, năm tuổi, cháu còn nhớ chú xé sẵn cho
cháu một tài lá chuối trước khi ăn cỗ, thế rồi phần giò, phần nêm, chả, xôi,
hoa quả của cháu, cháu đều gói cả lại mang về phần mẹ, phần em, mặc dầu cháu
rất thèm, cháu hơn hẳn Lục Tích chứ chú!
Nghe con nhắc lại chuyện cũ, vợ tôi nhoẻn miệng cười gật đầu tán thưởng. Tôi
liếc thấy vợ tôi còn rơm rớm nước mắt vì cảm động.
Cậu con thứ của tôi, bỗng quay lại phía chú, đột ngột hỏi:
- Vua ban bằng 'Hiếu hạnh" gì gì đó có đúng đối tượng không chú ? Hay lại
nghe dưới tâu báo lên, chỉ phong cho bọn lắm tiền, khéo nịnh, để được ăn khao
cho to ? Chú ạ, ngày xưa các cụ ngốc lắm" "Đức Đại thánh họ Ngu vua
Thuấn" thì đúng là không khôn: hiếu với cha mẹ đã đành một nhẽ, chứ với mụ
gì ghẻ cay nghiệt như kiểu mẹ con Cám, gặp phải cháu thì ăn đám chứ đừng hòng
"Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt". Đời nhà ai, có người chôn con
nuôi mẹ như Hán Quách Cự mà cũng được "Thơm nghìn muôn thu". Đáng lý
ra triều đình phải ngiêm trị tội giết người, hơn nữa lại là tội giết hại trẻ
con.
Cuối cùng chú em tôi quay sang hỏi tôi:
- Theo ý anh, thế nào là "Có hiếu", thế nào là "Bất hiếu".
Giữa hai đứa con, anh chọn đứa nào, một như cháu đây: Con nhà nghèo, mới 4, 5
tuổi đã biết giành phần ngon về biếu mẹ, một là đưa giàu sang, không đúng ngày
giỗ cha cũng lấy cớ bịa ra ngày giỗ, cỗ bàn linh đình để khoản đãi, cầu cạnh
những kẻ cao sang, lmà ra vẻ người con chí hiếu, trong khi đó thì hắt hủi người
mẹ quê mùa, lam lũ nghèo hèn như trong chuyện "Báo hiếu cha" của
Nguyễn Công Hoan. Thế nào, giữa "Lục Tích nhà ta" mặc dầu có lúc còn
hỗn láo bướng bỉnh và nhân vật "Chủ hãng ô tô con cọp" của Nguyễn
Công Hoan, anh chọn đứa nào?
Dường như để tránh dung dưỡng cho những điều không phải, chú em tôi quay lại,
nhỏ nhẹ bảo cháu:
- Cháu ạ, cháu có thể tranh luận với cha mẹ nhưng phải lễ độ, từ tốn, phải biết
lựa lời, chọn lúc, tuyệt đối không được có thái độ nóng nảy, cáu gắt, hỗn láo,
nhất là khi có khách, khi ra đường, giữa công chúng, hoặc trước mặt vợ con,
đừng để ông bà trên bàn thờ quở mắng bố mẹ cháu rằng không biết dạy con; đừng
để vợ con cháu, em út cháu khinh nhờn bố mẹ cháu, tất nhiên cũng khinh nhờn cả
cháu. Sau này cháu sẽ rõ: có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.
Từ nãy đến giờ nhà tôi chỉ ngồi nghe, bây giờ mới lên tiếng: "Nghe cha
con, chú cháu nhà ông nói thì ai cũng có lý "!
Xin mượn câu đó làm câu kết cho bài này.
216. Quan hệ giữa họ hàng và làng xã như thế nào?
Phục hồi việc họ lợi hay hại?
Phục
hồi việc họ là một cách đúng đắn, vô tư, tức là phát huy được thuần phong mỹ
tục. Nếu cán bộ cơ sở biết khéo léo vận dụng đường lối, loại trừ được 3 chiều
hướng tiêu cực sau đây thì càng có nhiều dòng họ vững mạnh càng có lợi cho
phong trào chung:
• Ngăn ngừa một số phần tử lợi dụng tình cảm họ hàng thân thuộc để kéo bè, kéo
cánh.
• Phục hồi việc họ, đồng thời nhân đó phục hồi luôn cả những thủ tục, mê tín dị
đoan.
• Dựa vào thế có người nhà, người trong họ có chức có quyền để bóp méo luật
pháp, làm ăn sai trái.
Ngoài ra, nếu tổ chức hội hè đình đám không đúng lúc, đúng chỗ gây lãng phí,
nhiều thì giờ và tiền của, ảnh hưởng đến công việc, thời vụ sản xuất, thì nên
khéo léo hướng dẫn hạn chế mặt tiêu cực.
Họ hàng thành đạt thì làng xã phồn vinh .
Trước Cách Mạng Tháng Tám, bộ máy hương lý có quyền điều hành những công việc
về hành chính, pháp lý, trật tự trị an, còn những việc xây dựng nông thôn, chấn
hưng phong hoá như làm đường sá, đào giếng, sửa sang đình chùa, hội hè ... hội
đồng hào mục muốn huy động công sức, tiền của của dân phải dựa vào các họ, nên
mỗi xã, thôn có một Hội đồng tộc biểu bao gồm những người có vai vế trong các
họ. Chỉ những vị đó mới có khả năng vận động con cháu trong các họ ra làng xã
làm những việc công ích.
Phục hồi việc họ, nếu được hướng dẫn đúng đắn sẽ có lợi nhiều mặt đối với phong
trào địa phương:
• Phục hồi luân lý, đạo đức kỷ cương xã hội, xây dựng nếp sống văn minh, gia
đình văn hoá mới.
• Góp phần trong việc giáo dục tư tưởng cha mẹ hiền từ, con trung hiếu, cháu
thảo hiền, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan.
• Vận dụng kinh nghiệm của các họ thời xưa, có đặt binh điền, học điền, tổ chức
lễ họ, hội tương tế. Vận động đặt các giải thưởng cho con cháu trong họ học
khỏi, lên lớp, lên cấp, hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nêu cao ý thức tôn trọng
người già, thương yêu giúp đỡ người cơ nhỡ, ốm đau, tàn tật ...
• Nếu khéo tổ chức, các họ còn có thể có tủ sách, câu lạc bộ văn hoá ...
217. Ruộng hương hỏa có ý nghĩa gì?
"Ruộng
hương hoả " là ruộng dành riêng giao cho tộc trưởng lo việc phụng thờ
hương khói cho cha ông, tổ tiên. Ruộng hương hoả lưu truyền từ đời này sang đời
khác. Ruộng hương hoả không được chia, không được bán. Luật phong kiến cấm bán
ruộng hương hoả. Chừng nào cánh cửa trưởng không còn người nối dõi tông đường
hoặc đi biệt xứ xa quê, họ khuyết tộc trưởng thì người con trưởng hoặc đích tôn
thừa trọng của cánh hai lên thay, tiếp tục hưởng ruộng hương hoả và lo việc giỗ
tết hương khói. Chừng nào toàn bộ con cháu trong họ đều phiêu cư bạt quán ( con
gái không được tính đến ) thì người cuối cùng đang hưởng hương hoả nếu có khó
khăn đặc biệt làm đơn xin bán, lý trưởng nào làm sai luật lệ trên sẽ bị quan xử
phạt, nếu trong họ có người thưa kiện.
Vì có ruộng hương hỏa nên việc tế tự được duy trì bền vững, dù họ lớn hay bé,
thành đạt hay bình thường, dù tộc trưởng giàu hay nghèo, sang hay hèn, già hay
trẻ ( có khi mới chỉ là đứa bé con năm bảy tuổi ), việc tế tự vấn uy nghi đông
đủ.
218. Thọ mai gia lễ là gia lễ nước ta hay Trung
Quốc
"Thọ
mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo Chu Công gia lễ tức gia lễ thời
xưa của Trung Quốc nhưng không rập khuôn theo Tầu. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê
đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén
rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn phổ biến áp dụng,
nhất là tang lễ.
Tác giả của "Thọ mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân (1690-1760) hiệu Thọ Mai
người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, đậu Tiến sĩ năm 1721 (năm thứ 2 triều Bảo
Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
Trong "Thọ mai gia lễ" có trích dẫn một phần của Hồ Thượng thư gia
lễ. Hồ Thượng thư tức Hồ Sỹ Dương (1621-1681) cũng người làng Hoàn Hậu, đậu
tiến sĩ năm 1652 tức năm thứ 4 triều Khánh Đức, Thượng thư bộ Hình, tước Duệ
Quận công.
219. Chúc thư là gì?
"Chúc" là lời dặn dò, phó
thác. "Chúc thư" hay "Di chúc" là lời dặn dò của người chủ
gia đình, người lãnh đạo đất nước trước khi mất. Chúc thư, di chúc viết thành
văn bản có giá trị hành chính, pháp lý. Nếu không biết chữ, hoặc yếu quá không
viết được nữa thì nhờ người khác viết, đọc lại cho nghe rồi ký tên hoặc điểm
chỉ vào dưới. Di chúc của nhà vua thì gọi là di chiếu.
Nội dung chính của chúc thư thường là việc chia gia tài. Nhà có bao nhiêu ruộng
đất, nhà cửa, chia cho con trai con gái, ai được hưởng khoảnh nào, mấy mẫu, mấy
sào ở đâu, còn lại bao nhiêu dành cho mẹ làm của dưỡng lão, giao người nào chăm
nom. Nếu còn bao nhiêu nợ làng, nợ họ cũng giao phó cho con nào phải đòi, phải
trả. Quy định giành bao nhiêu làm ruộng hương hỏa, giao cho con trưởng hoặc
cháu đích tôn. Di chiếu của nhà vua giao cho ai là đại thần có mệnh phò thái tử
lên ngôi. Nếu ngôi thái tử chưa định thì chuyền chỉ cho hoàng tử nào nối
ngôi...
Thời nay, nam nữ bình quyền, nếu cha mất trước đã có mẹ nắm toàn bộ quyền hành.
Thời trước, người mẹ, người vợ sau 3 năm tang chồng nếu muốn tái giá thì đi tay
không, nếu ở lại nuôi con cũng không được nắm toàn quyền, còn phải lệ thuộc các
ông chú, ông bác trong họ. Nếu còn có nợ thì phải trả hết.
Thế nên, có những gia đình giàu có nhưng vô phúc, bạc đức: Cha mẹ nằm xuống anh
em đùn đẩy nhau, chưa lo việc chôn cất, chỉ chăm chú tranh giành tài sản, để
thiên hạ xỉ vả. Vì vậy, khi còn khoẻ, các cụ đã phải lo xa: Chia gia tài trước,
định trách nhiệm sẵn, mua sắm bộ hậu sự (áo quan) có người còn dặn trước cả
việc chôn cất, tang chế, cỗ bàn, đình đám..
Trích di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh:
"...Suốt đời tôi hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ Cách mạng, phục vụ nhân
dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ
tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Sau khi tôi
qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và
tiền bạc của nhân dân..."
Ngày
10-5-1969
Di
chúc của Tam nguyên Yên Đổ:
"Kém hai tuổi xuân đầy chín chục
Số thầy sinh phải lúc dương cùng
Đức thày đã mỏng mòng mong
Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy
Học chẳng có rằng hay chi cả
Cưỡi đầu người kể đã ba phen
Tuổi là tuổi của gia tiên
Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày.
ấy thủa trước ông mày chẳng đỗ
Hoá bây giờ cho bố làm nên
Ơn vua chửa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửng lên thẹn trời
Sống không để tiếng đời ca thán
Chết được về quê quán hương thôn
Mới hay trăm sự vưông tròn
Sống lâu đã trải chết chôn chờ gì?
Đồ khâm niệm chớ nề xấu tốt
Kín chân tay đầu gót thời thôi
Cỗ đừng to lắm con ơi
Hễ
ai chạy lại con mời người ăn Tế đừng có viết văn mà đọc
Trướng
đối đừng gấm vóc làm chi
Minh tinh con cũng bỏ đi
Mời quan đề chủ con thì không nên
Môn sinh chớ bỏ tiền đạt giấy
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi
Khách quen chớ viết thiếp mời
Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu
Chẳng qua nợ để cho người sống
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu
Lại mang cái tiếng to đầu
Khi nay bày biện, khi sau chê bàn
Cờ biến của vua ban ngày trước
Khi đưa thày con rước đầu tiên
Lại thuê một lũ phường kèn
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng
Việc tống táng nhung nhăng qua quýt
Cúng cho thầy một chút rượu hoa
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu"
220. Cư tang là gì ?
Thời
xưa, dẫu làm quan đến chức gì, theo phép nước, hễ cha mẹ mất đều phải về cư
tang 3 năm trừ trường hợp đang bận việc quân nơi biên ải hay đi sứ nước ngoài.
Lệ này không quy định đối với binh lính và nha lại. Nếu ai vì tham quyền cố vị,
giấu diếm không tâu báo để về cư tang, bị đàn hặc vì tội bất hiếu, sẽ bị triều
đình sử phạt biếm truất. Trong thời gian cư tang, lệnh vua không đến cửa.
Ba năm cư tang là ba năm chịu đựng gian khổ, nhẫn nhục, không dự mọi cuộc vui,
không dự lễ cưới, lễ mừng, không uống rượu (ngoài chén rượu cúng cha mẹ), không
nghe nhạc vui, không ngủ với vợ hoặc nàng hầu, trừ trường hợp chưa có con trai
để nối dõi tông đường, ngoài ra ai sinh con trong thời kỳ này cũng bị coi là
bất hiếu. Không được mặc gấm vóc, nhung lụa, không đội mũ đi hia, thường đi
chân không, cùng lắm chỉ đi guốc mộc hoặc giày cỏ.
Dầu làm đến tể tướng trong triều, khi khách đến viếng cha mẹ mình, bất kể sang
hay hèn cũng phải cung kính chào mời và lạy tạ (hai lạy hay ba vái dài). Khi ra
đường, không sinh sự với bắt cứ người nào. ở trong nhà, đối với kể ăn người ở
cũng không được to tiếng.
Ba năm sầu muộn, tự nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với kẻ dưới, cung
kính với khách bạn, để tỏ lòng thành kính với cha mẹ.
Thời nay không còn lệ cư tang, nhất là các cán bộ chủ chốt càng không có điều
kiện nghỉ việc thời gian dài, nhưng biết qua lệ cư tang của ông cha ta ngày
xưa, hậu sinh có thể học được điều gì trong thái độ ứng xử?
221. Vì sao có tục mũ gai đai chuối và chống gậy?
Tục
đội mũ rơm quấn thật to quanh đầu, thắt lưng bằng dây gai, dây chuối ngày nay
đã lỗi thời, nhiều nơi đã bãi bỏ, còn tục chống gậy chỉ áp dụng đối với con
trai tang cha (gậy tre) tang mẹ (gậy vông),vẫn còn ở nhiều địa phương.
Nguyên do: Đời xưa, đường đi lại còn hẹp, có khi còn phải leo núi cao, người
mất dược chôn cất ở nơi xa khu dân cư, trong rừng núi, có nơi chôn ở triền núi
đá có nhiều hang động. Đã có trường hợp, người con vì quá thương xót cha mẹ,
khóc lóc thảm thiết, đến nỗi không kể gì đến sinh mạng của mình, đập đầu vào
vách đá, khi leo núi đi về vì thương cảm quá mất cả thăng bằng ngã lăn xuống
vực. Để tráng tình trạng trùng tang thảm hại đó, người ta mới đặt ra lệ phải
quấn quanh đầu những vật liệu mềm, xốp để nếu va vấp đỡ gây tổn thương và đặt
ra lệ phải chống gậy để đi đứng an toàn hơn. Vật liệu dễ kiếm nhất, giàu nghèo
ai cũng có thể tự liệu được và ở đâu cũng có thể kiếm được để làm chất đệm, đó
là rơm, lá chuối, dây gai, dây đay. Xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của một số
người, dần dần trở thành phong tục phổ biến.
Vì ngày thường đi lao động ở đồng ruộng, núi rừng hoặc đi đứng đều mặc quần áo
gọn bó vào người, đến khi có tang tế phải mặc áo dài rộng, dễ vướng gai góc nên
phải có dây đai, tục đó cũng xuất xứ từ việc tránh nạn trùng tang.
222. Năm hạng tang phục (Ngũ phục) là gì?
Theo
"Thọ mai gia lễ", có năm hạng tang phục tuỳ theo quan hệ huyết thống
và nghĩa tình phân biệt thân sơ:
1.Đại tang: Trảm thôi và tề thôi.
• Quần áo sổ gấu gọi là trảm thôi: Con để tang cha.
• Quần áo không sổ gấu gọi là tề thôi: Con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha
chưa mất.
• Thời hạn: 3 năm, đời sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ đại tường 2
năm, thêm 3 tháng dư ai).
• áo xô, khăn xô có hai giải sau lưng (gọi là khăn ngang).
Nếu cha mẹ đều đã mất thì hai giải bằng nhau, nếu còn mẹ hoặc còn cha thì hai
giải dài ngắn lệch nhau.
• Con trai chống gậy: Tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông, mũ rơm quấn đầu, dây
chuối, dây đai thắt lưng.
Thời nay, nhiều nơi đã bãi bỏ những tang phục này. ở thành phố nhiều nhà dùng
băng đen theo tang chế châu Âu, theo ý chúng tôi, tiện hơn.
• Con trai, con gái, con dâu đều để tang cha mẹ. (Kể cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng
mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ).
• Vợ để tang chồng.
• Nếu con trưởng mất trước thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng đại tang
thay cha.
2. Cơ niên: Để tang một năm. Từ niên cơ trở xuống dùng khăn tròn, vải
trắng, không gậy.
• Cháu nội để tang ông bà nội.
• Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở cùng, nếu
không ở cùng thì không tang; trước có ở cùng sau thôi thì để tang 3 tháng.
• Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị bố rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy
chồng khác (giá mẫu).
• Chồng để tang vợ cả có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.
• Cháu để tang bác trai bác gái, chú, thím và cô ruột.
• Anh chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang một năm, cùng mẹ
khác cha thì tang 5 tháng).
• Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con nuôi nhà
người.
• Chú, bác, thím cô ruột để tang cho cháu ( con anh em ruột).
• Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn).
• Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu tang các con chồng, thứ mẫu tang con mình và con
chồng như nhau đều một năm. Tang con dâu cả cũng một năm.
• Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).
• Rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã láy vợ khác cũng vậy).
• Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con
mình (các họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang).
3. Đại công: để tang 9 tháng.
• Anh chị em con chú con bác ruột để tang cho nhau.
• Cha mẹ để tang con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng.
• Chú, bác thím ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh em
ruột).
• Cháu dâu để tang ông bà của chồng, chú, bác, thím ruột, hoặc cô ruột của
chồng.
• Mẹ để tang con dâu thứ và con gái riêng của chồng.
• Con gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú thím, cô ruột.
4. Tiểu công: Để tang 5 tháng.
• Chắt để tang cụ. (Hoàng tang: Chít khăn vàng)
• Cháu để tang anh chị em ruột của ông nội (ông bà bác, ông chú, bà thím, bà
cô).
• Con để tang vợ lẽ, nàng hầu của cha ( nếu cha giao cho nuôi mình thì để tang
3 năm như mẹ đẻ).
• Cháu để tang đường bá thúc phụ mẫu và đường cô (anh chị em con chú bác ruột
của cha).
• Anh chị em con chú, bác ruột để tang cho vợ của nhau.
• Anh chị em chung mẹ khác cha để tang cho nhau (vợ con của anh chị em ấy thì
không tang).
• Chú bác ruột để tang cho cháu dâu (con dâu của anh em ruột).
• Ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô để tang cho cháu (tức là cháu nội của anh
em ruột).
• Ông bà nội để tang cho vợ cháu đích tôn hoặc cháu gái xuất giá.
• Cháu ngoại để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột của mẹ,
kể cả đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu).
• Cháu dâu để tang cô ruột của chồng.
• Chị dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những người đó
(tức là cháu gọi bằng bác, bằng thím).
5. Ty ma Phục: Tang 3 tháng.
• Chít để tang can (kỵ) nội (ngũ đại : Hồng tang chít khăn đỏ).
• Chắt để tang cụ nhà bác, nhà chú (tằng tổ bá thúc phụ mẫu và tằng tổ cô, tức
là anh em ruột với cụ nội).
• Cháu để tang bà cô đã lấy chồng (chị em ruột với ông nội).
• Cháu để tang cô bá (chị em con chú bác ruột với bố).
• Con để tang bố dượng (nếu trước có ở cùng, sau mới về bên nội).
• Con để tang nàng hầu của cha.
• Con để tang bà vú (cho bú mớm).
• Cháu để tang tộc bá thúc phụ mẫu (anh em cháu chú, cháu bác với cha).
• Chồng để tang vợ lẽ nàng hầu.
• Anh chị em họ nội 5 đời để tang cho nhau.
• Bố mẹ vợ để tang con rể.
• Ông bà ngoại để tang cháu ngoại và cháu dâu ngoại.
• Ông của chồng để tang cháu dâu.
• Cụ để tang cho chắt nội.
• Cháu để tang vợ cậu, chồng cô, chồng dì có cùng ở một nhà.
• Anh chị em con cô ruột và bạn con dì ruột để tang cho nhau.
• Cậu ruột để tang vợ của cháu trai
• Cháu dâu để tang ông bà ngoại của chồng, cậu ruột, dì ruột chồng
• Cháu dâu để tang các ông bà anh chị em ruột với ông nội chồng.
• Chắt dâu để tang cụ nội của chồng.
• Cụ để tang chắt nội trai gái.
• Ông bà để tang các cháu gái của con nhà chú, nhà bác.
Tang bên cha mẹ nuôi:
1. Kỵ bên cha nuôi thì 3 tháng, cụ bên cha nuôi thì 5 tháng, ông bà thì một
năm.
2. Cha mẹ nuôi thì áo bằng gấu, hoặc sổ gấu 3 năm có cả gậy.
3. Từ ông bà trở lên nếu mình thừa trọng cũng sổ gấu 3 năm.
4. Ông bà sinh ra mẹ nuôi thì 5 tháng, còn thì đều không có.
Tang họ nhà mình (Đã là con nuôi người khác, để tang bên họ của mình):
1. Ông bà sinh ra cha thì 9 tháng.
2. Cha mẹ sinh ra mình thì 1 năm có gậy.
3. Bác trai bác gái, chú, thím và cô là anh chị em ruột với cha thì đều 9
tháng. Cô đã giá thì 5 tháng.
4. Anh chị em ruột thì 9 tháng, chị dâu, em dâu thì 3 tháng, chị em đã xuất giá
thì 5 tháng.
5. Ông bà sinh ra mẹ thì 3 tháng.
Xét trong lễ nói rằng: Con gái đã xuất giá thì các tang có giáng,
song đi lấy chồng, hoặc phải chồng rẫy bỏ, hoặc chồng chết, con lại chẳng có,
lại trở về nhà cũng như chưa lấy chồng, tang chẳng có giáng
Nếu đương để tang cha mẹ được một năm mà chồng rẫy bỏ thì phải tang cha mẹ 3
năm, hoặc để tang cha mẹ được 1 năm đã trừ phục đoạn thì chẳng được để lại 3
năm, dù phải chồng dẫy trước, sau mới để tang cha mẹ chưa đủ 1 năm mà chồng mới
gọi về thì chẳng nên về vội phải nên để trọn 3 năm.
Trường phục: có ba loại:
1. Trưởng trường: Từ 16-19 tuổi
2. Trung trường: Từ 12-15 tuổi
3. Hạ trường: Từ 8-11 tuổi
(Đều lấy thứ tự giáng một bậc).
Ví dụ: Giai đã lấy vợ, gái đã lấy chồng, dẫu còn trẻ cũng không thể gọi là
trường được, nhưng vốn mình phải tang 1 năm trưởng trường giáng xuống 9 tháng,
trung trường giáng xuống 7 tháng, hạ trường giáng xuống 5 tháng.
Như vốn tang 9 tháng, trưởng trường giáng 7 tháng, trung trường giáng 5 tháng,
hạ trường giáng 3 tháng, các trường hợp khác đều như thế mà suy.
223. Cha mẹ có để tang con không?
Tang
phục là thể hiện tình nghĩa, có phân biệt thân sơ "Họ đương 3 tháng, láng
giềng 3 ngày", thể hiện lòng thương xót giữa kẻ mất người còn. Vì thế,
chẳng những thân thích mà người ngoài đến phúng viếng cũng nên đeo băng tang.
Theo "Thọ mai gia lễ" thì chẳng những cha mẹ để tang con mà ông bà và
cụ kỵ cũng để tang hàng cháu, hàng chắt.
"Thọ mai gia lễ" quy định như vậy nhưng một số địa phương Bắc bộ quan
niệm "Phụ bất bái tử" (cha không lạy con), Con chết trước cha mẹ là
nghịch cảnh, là bất hiếu, con chưa kịp báo hiếu cha mẹ đã chốn nợ đời, chẳng
những cha mẹ không để tang con mà khi khâm liệm con còn phải quấn trên đầu tử
thi một vòng khăn trắng. Nếu là đàn bà mà tứ thân phụ mẫu còn cả thì phải quấn
đến hai vòng, có nghĩa là ở dưới cõi âm cũng để tang báo hiếu sẵn cho cha mẹ
đang ở trên dương trần.
224.
Tại sao có tục kiêng không để cha mẹ đưa tang con?
Tử
biệt sinh ly, ai không thương xót, nhưng theo quy luật tự nhiên, cha mẹ già yếu
từ trần, con báo hiếu cha, mẹ, đưa tang bố mẹ là chuyện thường tình. Con chết
trước cha mẹ là nghịch cảnh, nhiều trường hợp chết non, gây nhiều nỗi đau
thương cho bố mẹ. Giờ phút hạ huyệt là giờ phút xúc động đến cực điểm, có nhiều
ông bố bà mẹ đã bị ngất lịm đi. Đã có nhiều trường hợp mẹ chết luôn bên huyệt
chôn con. Hơn nữa, ngày xưa, phương tiện và thuốc thang cấp cứu khó khăn, không
cho cha mẹ đưa tang con để vơi bớt nỗi đau buồn và để tránh nạn trùng tang là
đúng. Chẳng những cha mẹ mà các ông già bà cả trong nội thân, sức khoẻ đã tàn
cũng không được dự đưa tang, sợ vướng đến sức khoẻ.
225.
Đám tang trong ngày tết tính liệu ra sao?
Ngày
Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh thông
của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu
riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang
trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng không đi chúc tết, mừng tuổi bà con,
xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình
bất hạnh.
Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 hoặc mùng một Tết thì sao? Trường
hợp này hiếm nhưng không phải không có. Nếu ngày 30 tháng chạp mà gia đình có
thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, nếu để sang năm mới
thì có nhiều điều bất tiện. Đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng một đầu
năm. trường hợp chết đúng ngày mùng một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải
chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng hai làm lễ phát tang.
226.
Lễ cưới đã chuẩn bị sẵn vấp phải lễ tang, tính sao đây?
Đó
là trường hợp "Ưu hỷ trùng phùng". Vui và buồn dồn vào một lúc.
"Sinh hữu hạn, tử vô kỳ", cuộc đời thì có hạn nhưng ai biết trước
chết vào lúc nào. Theo lễ nghi thì khi trong nhà còn tang, trên đầu còn có vành
khăn trắng, nhất là đại tang thì tránh mọi cuộc vui. Nhưng lễ cưới đã chuẩn bị
sẵn, nếu quá câu nệ thì quả gay go cho cả hai gia đình, nhiều trường hợp tình
duyên đôi lứa dở dang, nhất là các gia đình cả đôi bên đều ông già bà cả, có
khi đợi đến bảy, tám năm sau chưa hết tang. Vì vậy tục lệ xưa cũng có khoản
"trừ hao" : "Cưới bôn tang, tức là cưới chạy tang". Khi đó
người chết nằm tạm trên giường, đắp chăn chiếu lại, chưa nhập quan, hoặc gia
đình có thể tự làm thủ tục khâm liệm, nhập quan nhưng chưa làm lễ thành phục.
Theo nghi lễ, nếu chưa thành phục thì trong nhà chưa ai được khóc. Hàng xóm tuy
có biết nhưng gia đình chưa phát tang thì chưa đến viếng, trừ thân nhân ruột
thịt và những người lân cận tối lửa tắt đèn có nhau, coi như người nhà.
Trong khi đó, cả hai gia đình chuẩn bị gấp đám cưới cũng làm đủ lễ đưa dâu, đón
dâu, yết cáo gia tiên, lễ tơ hồng... nhưng lễ vật rất đơn sơ, thành phần giản
lược, bó hẹp trong phạm vi gia đình và một vài thân nhân. Khách, bạn đã mời
cũng miễn, sẽ thông cảm sau. Công việc cưới, gả xong xuôi mới bắt đầu phát tang.
Cô dâu chú rể mới, trở thành thành viên của gia đình, chịu tang chế như mọi con
cháu khác. Nếu hai gia đình thông cảm cho nhau, có thể trong một ngày, từ sáng
đến trưa cưới dâu, chiều tối phát tang cũng xong.
Trường hợp nhà có đám cưới mà hàng xóm lân cận có đám tang thì sao?
Người biết phép lịch và lòng nhân ái không bao giờ cười đùa vui vẻ trước cảnh
buồn thảm của người khác. Gia đình có giáo dục, hiểu biết không bao giờ cho
phép con cháu nô đùa ầm ỹ hoặc mở băng nhạc inh ỏi khi hàng xóm có việc buồn.
Trong trường hợp trên, vẫn tiến hành lễ cưới bình thường nhưng không nên đốt
pháo, mở băng nhạc và ca hát ầm ĩ, tránh tình trạng kẻ khóc người cười. Trường
hợp có quốc tang cũng như vậy.
227.
Người dự đám tang nên như thế nào?
Dù
thân hay sơ, đã đến dự đám tang phải nghiêm túc, biểu lộ lòng thành kính đối
với người đã khuất, tình ưu ái đối với tang quyến. Thật là bất lịch nếu bô bô
cười nói, đùa giỡn trong lúc tang chủ đau buồn.
ở nông thôn, nhiều nơi còn tục lệ cỗ bàn ăn uống linh đình trong đám tang, thực
không hợp tình, hợp cảnh chút nào.
Đành rằng việc ăn uống là không tránh khỏi, nhưng chỉ nên hạn chế trong số
người đến giúp việc và thân nhân ở xa về. Đối với bà con, làng xóm, khách, bạn
thì tang lễ không phải là dịp để "Trả nợ miệng". Có vui vẻ gì trong
lúc tang gia bối rối.
Nếu như chưa bỏ được thủ tục rượu chè đình đám thì trong lễ tang, mọi người
cũng nên tự kiềm chế mình, giúp được việc gì thì tận tình giúp đỡ, không tiện
về nhà ăn cơm thì cũng không nên hạch sách, trách móc. Thói cũ "Ma chê,
cưới trách" có hay ho gì !
Cũng cần lưu ý các bạn trẻ : Khi đi dự đám tang không nên ăn mặc loè loẹt, hở
hang, lố lăng, như vậy rất không hợp cảnh sẽ gây khó chịu cho nhiều người.
228.
Đi đường gặp đám tang nên như thế nào?
Hồi
mới tiếp quản thủ đô (1954) chúng tôi đã chứng kiến nhiều đám tang rất nghiêm
túc, trật tự. Mọi người đi đường đều tự giác tuân thủ kỷ cương xã hội, trật tự
giao thông.
Nếu gặp đám tang ngược chiều, không ai bảo ai, dù vội đến đâu cũng đều xuống
xe, kể cả người đi xe máy, xích lô đều ngả mũ nón, dắt bộ qua đám tang rồi mới
lên xe. Ô tô thì chậm lại, không bóp còi.
Nếu đi cùng chiều, không tiện xuống xe thì đi chậm lại và ngả mũ.
Thân nhân đi tiễn đưa đều tự giác đi có hàng lối, trật tự. Lái xe đám tang ăn
mặc theo lễ phục, tác phong cử chỉ rất nghiêm trang.
229.
Người sắp chết có những dấu hiệu gì báo trước?
Thật
kỳ lạ, xưa nay đã ai chết hai lần đâu mà biết trước rút kinh nghiệm, thế nhưng,
có những cụ cao tuổi có kinh nghiệm "Tri thiên mệnh", biết trước được
ngày mất của mình, mặc dầu ngày hôm trước vẫn khoẻ mạnh, thậm chí có người còn
tính trước được giờ mất, đánh điện cho con cháu xa về. Trong trường hợp đó gia
đình phần nào đã chủ động chuẩn bị tang lễ, nhưng những trường hợp đó rất ít.
Đối với những người già yếu, có những dấu hiệu gì báo trước giờ hấp hối mà ta
có thể quan sát được ?
• Xem thần sắc : chủ yếu xem hai đáy mắt còn tinh anh không hay đã đục mờ.
• Sờ chân tay xem còn nóng hay đã lạnh, người sắp chết thường lạnh từ đầu đến
chân. Có người còn nhận biết mình đã chết đến đâu.
• Mạch rất trầm, có khi người còn sống nhưng không bắt mạch được nữa. Đối với
người suy tim, sờ tưởng như tim đã ngừng đập, nhưng vì đập yếu nên không phát
hiện được.
• Để một ít bông vào lỗ mũi mà bông không còn động đậy tức là đã tắt thở.
Có người đau ốm lâu dài, bỗng nhiên mạnh khoẻ trở lại rất tỉnh táo, nhiều khi
đó là dấu hiệu của ngọn đèn hết dầu loé sáng lên để rồi tắt ngấm. Các cụ già
thường bỏ ăn, hoặc là rất muốn ăn nhưng ăn được rất ít trước khi mất.
Cũng có trường hợp, mệnh đã tuyệt nhưng có lẽ vì nuối tiếc con cháu ở xa chưa
gặp được, hoặc do được bổ xâm hồi dương với hy vọng trong muôn một có thể qua
khỏi hoặc kéo thêm ít giờ để tránh ngày xấu như trùng tang, trùng phục... thì
có thể kéo dài thêm chút ít.
230. Trong những giờ phút thân nhân hấp hối, người
nhà cần làm gì?
-
Dời người sắp mất sang phòng chính tẩm, đầu hướng về phía Đông.
- Hỏi xem có dặn dò trối trăng gì không
- Đặt thuỵ hiệu (tức tên hèm) rồi hỏi người đó có đồng ý không.
- Luôn luôn có người túc trực bên cạnh.
- Người có theo tôn giáo thì làm lễ cầu nguyện theo phép của từng tôn giáo.
- Chuẩn bị mọi thứ để tắm gội (làm lễ mộc dục) và khâm liệm (lễ nhập quan).
231.
Sau khi thân nhân mất, gia đình cần làm những gì?
Chúng
tôi chỉ nêu lên những việc làm đối những trường hợp người già yếu, mất tại nhà,
theo phong tục cổ truyền. Trường hợp mất tại bệnh viện hoặc mất dọc đường, quán
trọ, chết vì tai nạn, gươm súng, xe cộ, rắn độc, thuỷ hoả tai, chưa đúng kỳ
đáng chết... không đủ điều kiện để thực hiện toàn bộ thao tác và nghi lễ, vậy
nên châm chước, tuỳ nghi vận dụng:
1. Lễ mộc dục : (tắm gội)
Lúc tắm gội cho người vừa chết thường vừa để sẵn một con dao nhỏ, một vuông vải
(khăn), một cái lược, một cái thìa, một ít đất ở ông đồ rau, một nối nước ngũ
vị hương và một nồi nước nóng khác. lúc tắm, vây màn cho kiến, tang chủ quỳ
xuống khóc, người hộ việc cũng quỳ rồi cáo từ rằng; "nay xin tắm gội để
sạch bụi trần", xong phục xuống, đứng dậy. Cha thì con trai vào tắm, mẹ
thì con gái vào tắm. Lấy vuông vải dấp vào ngũ vị, lau mặt, lau mình cho sạch
rồi lấy lược chải tóc lấy sợi vải buộc tóc, lấy khăn khác lau hai tay hai chân,
lại lấy dao cắt móng tay móng chân,mặc quần áo cho chỉnh. Móng tay móng chân
gói lại trên để trên, dưới để dưới, để vào trong quan tài; dao, lược thìa và
nước đem đi chôn; rước thi thể đặt lên giường.
2. Sau lễ mộc dục thời gian chưa nhập quan:
Đắp chăn hoặc chiếu, buông màn, đặt một chiêc ghế con phía trên đầu, trên đó
đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng một đôi đũa trên bát cơm và thắp hương.
Có địa phương còn có tục để thêm một con dao trên bụng, (có lẽ để trừ tà ma hay
quỷ nhập tràng).
3. Lễ phạn hàm:
Lễ này theo tục xưa, bỏ gạo và tiền vào miệng tránh tà ma ác quỷ đến cướp đoạt,
để tiễn vong hồn đi đường xa được siêu thoát. Lễ này ngày nay nhiều nơi đã bỏ,
có nơi thay thế bằng may một cái túi, trong túi đựng một ít tiền gạo và một vài
đồ lặt vặt mà khi sống, người đó hay dùng đến.
Theo "Thọ mai gia lễ", lễ này được tiến hành như sau:
Lấy ít gạo nếp xát cho sạch, ba đồng tiền mài cho sáng (nhà giàu thì dùng vàng
hoặc viên ngọc trai).
Tang chủ vào khóc quỳ, người chấp sự cũng quỳ, cáo từ rằng: " nay xin phạn
hàn, phục duy hâm nạp". Người chấp sự lần lượt xướng "Sơ phạn hàm,
tái phạn hàm, tam phạn hàm". Tang chủ ba lần, mỗi lần xúc một ít gạo và
một đồng tiền tra vào mồm bên phải, rồi đến bên trái, cuối cùng vào giữa. Xong,
bóp mồm lại, phủ mặt như cũ.
4. Lễ khâm liệm nhập quan:
Các con vào, con trai bên trái, con gái bên phải. Người chấp sự xướng. Tự lập
(đứng gần vào), cử ai (khóc cả lên), quỳ. Chấp sự cũng quỳ mà cáo từ rằng
"Nay được giờ lành, xin rước nhập quan". "Cẩn cáo" xong lại
xướng: phủ phục (lễ xuống), hưng (dậy), bình thân (đứng thẳng).
Sau đó các con cháu tránh ra hai bên, người giúp việc quay và đều cầm tạ quan
nâng lên để đưa người vào cho êm ái, đặt cho chính giữa quan tài, nếu có hở chỗ
nào cần lấy áo cũ của người vừa mất bổ khuyết cho đầy đủ, rồi gấp dưới lên đầu
trước, bên trái gấp trước, bên phải gấp sau, trên đầu gấp sau cùng, sơn nẹp đóng
lại. Chú ý: Những quần áo của người đang sống, hoặc quần áo mà người đang sống
có mặc chung thì kiêng không được bỏ vào áo quan.
Đồ khâm niệm: nhà giàu dùng vóc nhiễu, tơ, lụa; nhà thường dùng vải trắng may
làm đại liệm (1 mảnh dọc, 5 mảnh ngang) hoặc tiểu liệm (1 mảnh dọc 3 mảnh
ngang). Ngày trước, quy định đại liệm hay tiểu liệm vì khổ vải nhỏ. Ngày nay,
dùng vải khổ rộng, miễn kín chân, tay, đầu, gót là được.
"Tục ta nhiều người tin theo thầy phù thuỷ, trong quan tài thường có mảnh
ván đục sao Bắc Đẩu thất tinh. Trước khi nhập quan thường chọn giờ, tránh tuổi
rồi dùng bùa nọ bùa kia dán ở trong, ngoài quan tài. Có người cho là chết phải
giờ sấu thì bỏ cỗ bài tổ tôm hoặc quyển lịch hoặc tàu lá gồi để trấn át ma
quỷ" (Trích "Việt Nam phong tục"- Phan Kế Bính - tr.31)
Mọi việc xong thì sơn gắn quan tài cho kỹ càng, đặt chính giữa gian giữa, hoặc
nhà còn người tôn hơn thì đặt sang gian cạnh.
5. Lễ thiết linh: (Sau khi nhập quan)
Là lễ thiết lập linh vị, đặt bàn thờ tang.
Khi chưa chôn cất thì lấy lễ thờ người sống mà lễ, nên mỗi lần lạy chỉ lạy hai
lạy, trong linh vị và khăn vấn dùng chữ "Cố phụ", "Cố mẫu"
thay cho "Hiền thảo", "Hiền tỷ".
6. Lễ thành phục:
Tức là con cháu mặc đồ tang để cúng tế và đáp lễ khi khách đến viếng. Trước khi
thành phục, nếu có khách đến thì người chủ tang chưa ra tiếp mà người hộ tang
thay mặt tiếp khách và thông cảm với khách.
Sau lễ thành phục mới chính thức phát tang. Sau đó thân bằng cố hữu, làng xã
mới đến phúng viếng.
232.
Tại sao có thủ tục hú hồn trước khi nhập quan?
Vì
đã có những trường hợp bị choáng, ngất, bất tỉnh nhân sự. Người ta dùng mọi thủ
thuật để kích thích thì hồi tỉnh, trong đó có thuật hú hồn hú vía. Cũng có
trường hợp đã tắt thở, tưởng là đã chết rồi nhưng sau một thời gian bỗng nhiên
sống lại. Do đó với một hy vọng dầu mỏng manh, mặc dầu trong muôn một, người
sống tiếc thương muốn cứu vãn... nên cầm chiếc áo quần của người đã tắt thở,
leo lên mái nhà chỗ cao nhất hú "Ba hồn bảy vía ông" hoặc "Ba
hồn chín vía bà" về nhập xác. Hú ba lần không được thì cũng đành lòng chịu
khâm liệm mà tin rằng như vậy hồn đỡ vất vưởng, biết tìm đường về nhà (Khâm
liệm xong vẫn chưa nỡ đóng chốt áo quan). Đây là một phong tục chủ yếu đẻ thoả
mãn tâm linh
233.
Trường hợp chết đã cứng lạnh, người co rúm không bỏ lọt áo quan thì làm thế
nào?
Theo
kinh nghiệm dân gian: Hơ lửa và nắn dần cho thẳng ra, hoặc dùng cồn, rượu xoa
bóp, nếu vẫn còn cứng lại thì có thuật dùng hai chiếc đũa cả để hai bên mép áo
quan rồi cho thi hài lọt xuống dần, khi thi hài dã lọt vào áo quan rồi thì phải
cắt bỏ những dây buộc chân, buộc tay, buộc vai, buộc mông để người chết có thể
nằm thoải mái.
234.
Người xưa dùng những vật gì lót vào áo quan?
Trong
các ngôi mộ cổ khai quật được, ngoài các đồ trang sức của người chết, phía
trong áo quan thường có lót lá chuối, giấy bản, chè búp, bỏng nếp hoặc khăn vóc
áo nhiễu... Trong quan, ngoài quách, giữa quan và quách đổ cát vàng. Các thứ đó
đều là những chất hút ẩm và ngăn giữ khí hôi hám khỏi bốc ra ngoài, nhất là
thời xưa chết xong chưa mấy ai đã chôn ngay, còn phải sắm đủ lễ vật, tế khí,
còn phải xa gần phúng viếng linh đình, còn phải chọn ngày, chọn đất mới làm lễ
an táng.
235.
Tại sao trước khi khâm liệm nhập quan có tục đưa người chết nằm xuống chiếc
chiếu giải dưới đất?
Theo
Phan Kế Bính :"Lấy nghĩa, người ta bởi đất sinh thì chết lại về với
đất".
Chúng tôi cho rằng tục đó phát sinh từ kinh nghiệm thực tế để dễ thao tác. Vả
chăng, trong cơ thể người chết còn có điện trường sinh học, làm như vậy khả
năng tích điện âm trong cơ thể người chết mới được giải thoát, đó là một phương
thuật phòng xa hiện tượng "Quỷ nhập tràng".
236. Sau lễ thành phục, trước lễ an táng phải làm gì?
Thời
nay đơn giản, để giữ vệ sinh không nên để quá 24 giờ. Thời xưa, có những nhà
giàu sang để năm bảy hôm trong nhà, chờ con cháu về đông đủ, để họ hàng, làng
xã, hàng tổng hàng huyện đến phúng viếng; để dựng rạp trước sân, dựng nhà trạm
dọc đường từ nhà đến mộ để chuẩn bị mọi thứ khí tế và cỗ bàn thết đãi linh
đình; để thày cúng chọn ngày, thày địa lý chọn đất an táng, phân kim lập hướng
hẳn hoi. Có nhà còn sắm đủ trong quan ngoài quách, quàn tạm trong vườn, vài
tháng sau mới làm lễ an táng.
Trong thời gian chưa chôn có "Lễ triêu tịch điện" : Buổi sáng dậy
bưng khăn lược vào linh sàng, các con quỳ khóc ba tiếng rồi quấn màn lên cáo từ
rằng: "Ngày đã sáng rồi xin rước linh bạch ra linh toạ". Sau đó rước
hồn bạch ra đặt vào ỷ, vắt màn, dọn chăn gối, chiều tối lại rước linh bạch vào,
đắp chăn thả chiếu, màn xuống. Thờ như lúc sống, chỉ lạy hai lạy (chỉ sau khi
an táng, làm lễ thành phâng xong mới lạy bốn lạy theo nghi lễ người chết).
Các buổi tối trước khi chưa chôn, có "Lễ chúc thực" (Trồng bó đuốc
trước sân): phường bát âm tấu nhạc, con cháu thay nhau túc trực bên linh cữu,
trong nhà ngoài sân đèn đuốc sáng trưng.
Khi thân bằng cố hữu đến phúng điếu, người chủ tang và người chủ phụ đứng cạnh
linh toạ và ngoảnh mặt về phía khách, hễ khách lạy hai lạy thì chủ lễ tạ lại
một lạy. Khách vái cha mẹ mình ba vái thì vái tạ một vái. Trách nhiệm tiếp
trầu, nước, cỗ bàn thuộc về người hộ tang.
Nếu có người con trai nào đi vắng chưa kịp về thì để mũ, khăn xô và gậy cạnh
hương án.
Trước khi làm lễ chuyển cữu để chuẩn bị phát dẫn thì áo quan vẫn trở đầu vào
trong, coi như lễ người sống, đọc văn cũng chưa dùng chữ "Hiển thảo"
(cha) "Hiển tỷ" (mẹ) mà con dùng chữ "Cố phụ" (cha),
"Cố mẫu" (mẹ)
ở thành phố ngày nay đã có nhà ướp lạnh, ở nông thôn để dăm bảy ngày trong nhà,
phải làm sao cho khỏi nhiễm uế khí ? - Điều quan trọng nhất là người trị tang
phải có kinh nghiệm : áo quan vỏ dày, gỗ tốt, trám thật kín, không để một khe
hở nào. Đáy áo quan lót những chất chống ẩm như lá chuối, giấy bản, than, vôi,
bỏng nếp... Các khe hở của áo quan được bịt kín trước bằng sơn ta, nhựa đường,
dán giấy tráng kim. Nếu để lâu phải có trong quan ngoài quách, giữa quan và
quách đổ cát vàng rang khô nóng. Phủ trên thi hài có các thứ hương vị để khử uế
khí.
Trước ngày an táng còn có thêm tục "Lễ yết cáo tổ tiên", nếu không
đưa được linh cữu, phần lớn các gia đình rước hồn bạch đến nhà thờ họ. Hồn bạch
chỉ được đặt phía trước bàn thờ, để ở dưới, không được đưa lên bàn thờ tổ. Nội
dung: Báo cáo với gia tiên có thân phụ hoặc thân mẫu về chầu tổ. Xong lại rước
hồn bạch về nhà mình, đặt lại trên linh toạ.
237. Những người điều hành công việc trong lễ tang?
Trong
lúc tang gia bối rối không có người chủ đạo điều hành, công việc sẽ rất lúng
túng và phạm nhiều sai sót.
Khi thân nhân sắp từ trần, việc đầu tiên tang gia phải mời được người hộ tang.
Người hộ tang phải là người thân thích gần gũi, có tuổi tác, kinh nghiệm, tháo
vát, có uy tín trong họ. Người hộ tang thay mặt tang chủ điều hành mọi công
việc, đối nội đối ngoại.
Nếu người hộ tang biết cúng lễ thì kiêm luôn, nếu không thì mời người chấp sự,
Người chấp sự lo việc hướng dẫn về mặt nghi lễ từ mộc dục, khâm liệm, thiết
linh, thành phục đến an táng. Thành phần và tế ngu (lễ 3 ngày sau khi chôn).
Người chấp sự thường là người có văn hoá (chữ Hán, chữ Quốc ngữ) nên có thể
kiêm luôn cả việc tư vấn (viết văn cúng tế, bài vị, long triệu, đối, trướng,
cáo phó...).
Người thu lễ: Sau khi thành phục cho đến hết 3 ngày sau khi an táng phải có
người thu lễ. Người đó chuyên túc trực ở nhà ngoài, hễ có khách đến phúng viếng
thì tiếp khách nhận lễ đặt lên bàn thờ, báo cho thân chủ ra bái tạ. Người thu
lễ phải ghi đầy đủ danh sách người đến viếng và số lễ vật, để sau này tang chủ
biết mà tạ ơn. Người thu lễ kiểm tra lễ vật sau khi khách đã cúng lễ xong ra
về. Vì vậy phải chọn người thân tín của tang gia.
Người chấp hiệu: Thông thường các ban hành lễ đã có người chấp hiệu chuyên
trách. Người chấp hiệu là chỉ huy đám phu kiệu đưa quan tài từ nhà ra xe tang
hoặc đại dư (tuy không có xe nhưng khiêng kiệu hay xe gọi là đại dư), điều kiển
việc đi đứng, nâng lên hạ xuống, sang trái sang phải, bằng hiệu lệnh hai thanh
gỗ ngắn cầm tay, cho đến lúc hạ huyệt, tháo giây đòn mà chén rượu, đĩa dầu lạc
đặt trên nắp áo quan không sánh ra ngoài. Người chấp hiệu ngồi trên đại dư ở
phía sau, hoặc đi bộ giật lùi trước quan tài để điều khiển.
Nếu gia đình nào tự thu xếp để con cháu kiêng áo quan thì phải chú ý chọn người
chấp hiệu nhiều kinh nghiệm.
Chủ tang và chủ phụ: Là con trai trưởng và con dâu trưởng. Nếu tang cha mà mẹ
còn sống thì mẹ là chủ phụ. Nếu cháu đích tôn thừa trọng (thay thế cha đã mất,
khi làm lễ tang ông bà) thì cháu đích tôn là chủ tang, các ông chú đứng hai bên
chỉ là bồi tế vợ của người cháu là chủ phụ khi bà chồng và mẹ chồng đã mất, còn
các bà thím chỉ là phụ. Nếu cháu đích tôn còn bé quá, chưa chống gậy lễ tạ được
thì chú thứ hai thay thế, nhưng vẫn phải nhân danh cháu mà bái lễ và bái tạ.
Những tục nghi lễ ngày xưa khá phức tạp, ngày nay đã được cải tiến, một số tục
lệ lạc hậu, lỗi thời đã bị nhiều vùng bãi bỏ, ví dụ tục lăn đường, đuổi tà ma
ác quỷ. Lệ tục chung vận dụng vào từng địa phương, từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau,
ngày xưa đã vậy, huống hồ ngày nay. Có gia đình con đàn cháu lữ, của ăn của để,
sung túc đề huề, có gia đình đơn bạc nghèo nàn nên phải tuỳ nghi châm trước.
238. Lễ an táng tiến hành như thế nào?
Tuỳ
từng địa phương, từng tôn giáo, mỗi nơi nghi lễ phong tục một khác. Thời trước
có thôn ấp cử những người trai tráng trong làng xóm ra khiêng vác chôn cất. Nơi
có hội tư văn, thì hội tư văn đứng ra lo liệu điều hành công việc theo hương
ước định sẵn. Hiện nay ở nông thôn có các hội trợ tang, thành phố thị xã có ban
quản lý nghĩa trang, một số chi hội trọng thọ các phường xã hoạt động, đứng ra
lo liệu chu đáo.
Lễ an táng tiến hành tuỳ theo hoàn cảnh từng nhà, "Giàu làm kép, hẹp làm
đơn". ở đây chỉ nói phần tang gia cần làm gì:
• Khi có người thân mất, tang chủ cần đến báo gấp, để cùng bàn bạc theo quy ước
đã định.
• Thời xưa, tang chủ có khoản tiền thưởng cho người chấp hiệu và những phu
kiệu. Nếu từ khi đưa áo quan lên kiệu, đi đến huyệt mà chén rượu, đĩa dầu lạc
để trên áo quan không sóng sánh ra ngoài thì tang chủ đưa tiền thưởng rất hậu.
• Thân nhân, theo thứ tự nhân sơ quy định, tang phục theo gia lễ, đều xếp hàng
đi theo sau linh cữu. Thời xưa có cái bạt bằng vải trắng che trên đầu gọi là
bạch mạc. Người con trưởng đi trước hoặc kèm sau xe quan tài theo tục "Cha
đưa mẹ đón".
• Hạ huyệt xong, tất cả người đi đưa đều đi vòng quanh mộ một vòng, mỗi người
ném xuống một hòn đất.
• Đắp mộ xong, mọi người đứng vòng quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến
hành lễ thành phần.
• Nghi thức chung như trên, nhiều nơi còn có tục riêng như cầu kinh, yểm bùa,
nhốt con gà, cài cây lá chứa, dựng cây nêu, đóng cửa mả, đốt hình nhân... rắc
vàng khẩu dọc đường, cắm hương ở các mộ xung quanh, mời người qua đường ăn trầu
hút thuốc, đãi người đắp mộ...
239.
Hơi lạnh ở xác chết, cách phòng?
Hơi
lạnh hay âm khí, tà khí có ở xác người chết không?
Chưa ai đo nhiệt độ cụ thể trong thi thể người chết nhưng nhiều người đã công
nhận rằng, theo cảm giác thì người mới chết lạnh hơn nhiều so với nhiệt độ bình
thường của con người cũng như của môi trường xung quanh.
Hiện tượng đó được giải thích như sau: Con người đang ở nhiệt độ bình thường
(37oC), tự nhiên mất nhiệt thì nhiệt độ không chỉ hạ xuống tới hoà đồng với
nhiệt độ môi trường mà còn tụt xuống thấp hơn, sau đó một thời gian nhiệt độ
mới nhích dần lên tới thể ổn định.
Dân gian công nhận hiện tượng hơi lạnh ở nhà người chết mới chết là hiện tượng
có thực, hiện tượng vướng phải hơi lạnh bị ốm cũng là hiện tượng phổ biến, nhất
là đối với những người bị các chứng kinh niên như phong thấp, huyết áp cao, tâm
thần... còn đối với những thanh niên mạnh khoẻ thì không mấy ai bị ảnh hưởng.
Có thuyết cho rằng: Những người đồng khí huyết (con cái với cha mẹ, anh chị em
ruột hoặc gần huyết thống) thì không bị nhiễm hơi lạnh, không có phản ứng gì kể
cả khi ôm ấp thi hài và khâm liệm. Tuy nhiên, để phòng xa, người ta vẫn kiêng
không cho các bậc cao lão, phụ nữ có thai sắp đến ngày sinh hoặc sản phụ hài
nhi đến dự khậm liệm, an táng và cải táng.
Có người hấp thụ phải hơi lạnh thì phản ứng tức thì. Có người trực tiếp khâm
liệm, nhiễm hơi lạnh, bản thân khoẻ mạnh không việc gì, nhưng để phòng ngừa cho
người ở nhà nên khi vaò nhà có người già, ốm yếu, trẻ sơ sinh vẫn phải xông
khói rồi mới vào. Những người hàng xóm xung quanh nhà có tang lễ, nếu có cụ già
trẻ nhỏ ốm yếu thường đặt sẵn ở cửa ra vào một lò than đốt vỏ bưởi và quả bồ
kết để trừ uế khí. Những người nghi bị chó dại cắn, gia đình thường tuyệt đối
cách ly đám tang và nơi nghĩa trang, e rằng vướng phải hơi lạnh chưa kịp chạy
chữa đã phát bệnh.
240.
Tại sao, tại sao và tại sao?
-Tại
sao có tục đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng đôi đũa trên bát cơm, cài
quả trứng vào giữa hai chiếc đũa rồi thắp hương đặt lên trên đầu người chết
suốt trong thời gian chưa nhập quan?
-Tại sao người ta cắm một cái cọc bằng kim loại suốt chân giường người chết?
-Tại sao khi chưa nhập quan, người ta luôn luôn thắp hương nến (nếu không có
nến thì thắp ngọn đèn dầu) cho đến khi hạ huyệt không để tắt hương đèn?
-Tại sao hai bên hương án, phía gần kề áo quan, người ta đặt hai cây chuối con?
-Tại sao có tục dựng bó đuốc to ở giữa sân vào ban đêm trước lễ an táng (nếu để
qua đêm), con cháu và thân nhân túc trực quanh linh cữu (lễ "Chúc
thực" ban đêm, nghĩa là "lễ trồng bó đuốc"?)
-Tại sao có tục kiêng ngăn người nhà không được đứng cạnh thi hài mà khóc,
tránh nhỏ nước mắt vào thi hài?
- Tại sao sau lễ nhập quan phải đốt lỗ hung (lỗ đào ở chính giữa giường người
mới chết nằm khi chưa nhập quan. Chất đốt có thể dùng trấu, than , củi hoặc giẻ
rách...).
-Tại sao lễ tang là việc buồn lại đốt pháo? (Tục này chỉ có ở thành phố đối với
người già).
-Tại sao phải nhốt mèo khi nhà có người mới chết ?
-Tại sao khi người chết trong nhà, người ta phải trèo lên mái nhà dỡ một vài
viên ngói, hoặc lá tranh (đối với nhà bịt nóc và ít cửa)?
Những câu hỏi trên cùng có chung một câu trả lời: Đó là kinh nghiệm dân
gian,dùng phép thuật điều hoà khí âm dương, thu hút tà khí để phòng chống hơi
lạnh và phòng xa hiện tượng "Quỷ nhập tràng". Xuất phát từ kinh
nghiệm, dần dần bắt trước nhau trở thành phong tục.
Dùng khói lửa, ánh sáng mặt trời (đốt hương, nến, đèn, đuốc, than, trấu, dỡ mái
nhà, mở rộng cửa, đào lỗ hung, đốt pháo...) để triệt tiêu hơi lạnh. Dùng bát
cơm, quả trứng, cây chuối... để thu hút hơi lạnh (nếu bổ đôi quả trứng, có
nhiều lòng đỏ đã trở nên xanh thẫm giống như những quả trứng dùng để đánh
gió.). Nhốt mèo để đề phòng mèo nhảy qua xác chết, kiêng khóc nhỏ nước mắt vào
thi hài hoặc cắm cọc kim loại dưới giường người chết, dỡ mái nhà... là những
thuật triệt tiêu luồng điện âm dương hút nhau.
Ngoài ra, những người đến dự lễ tang, nhất dự khâm liệm còn có những thuật khác
để phòng chống hơi lạnh như ngậm gừng sống, uống nước lá nhót, ăn trầu và xông
khói vỏ bưởi, bồ kết trước và sau khi đến lễ tang.
241.
Hiện tượng quỷ nhập tràng
Đó
là hiện tượng xác chết tự nhiên bật dậy. Hiện tượng này rất hiếm nhưng đã xảy
ra, do đó trong phong tục đã có sự kiêng cự để phòng xa, gọi là "Quỉ nhập
tràng" nhưng thực ra không có ma quỷ nào nhập vào xác chết. Nguyên nhân:
Do điện âm tích tụ trong thi thể người mới chết chưa kịp thoát ra hết, gặp phải
luồng điện dương cực mạnh cuốn hút.
Xác chết tự nhiên bật dậy là do sự cuốn hút bởi một ngoại lực có cảm ứng điện
trường. Vì vậy theo quan niệm dân gian, khi trong nhà có người mới chết kiêng
cự nhất là không để cho con mèo bất thần nhảy qua xác chết (người ta phải canh
giữ, phải nhốt mèo lại). Đã có trường hợp, chén rượu hắt văng vào xác chết,
giọt nước mắt có hơi ấm nhỏ vào xác chết cũng tạo thành luồng khí, có thể cuốn
hút xác chết bật dậy nhưng ngã xuống ngay tức thì.
Hiện tượng xác chết đuổi theo người sống: Xác chết không thể bước đi được mà do
hơi nóng của người sống cuốn hút, hoặc trường hợp có luồng không khí đối lưu
cân bằng khi xác chết ở tư thế đứng song song với người sống. Việc dỡ ngói hay
tranh trên mái nhà để ánh sáng mặt trời trực tiếp rọi vào cũng nhằm triệt tiêu
hiện tượng cuốn hút đó.
242.
Lễ ba ngày (lễ tế ngu) tính từ sau khi mất hay sau khi chôn cất?
Tục
này không thống nhất, có nơi tính ba ngày sau khi mất, có nơi tính ba ngày sau
khi chôn. Xét trong điển lễ thì không có "lễ ba ngày" mà chỉ có
"lễ tế ngu" gồm có "sơ ngu", "tái ngu", "tam
ngu". "ngu" nghĩa là "yên", tức là ba lần tế lễ cho
yên hồn phách, theo "Thọ mai gia lễ" thì khi chôn xong, rước linh vị
về đến nhà tế sơ ngu. Làm sơ ngu xong gặp ngày nhu, (tức là ất, kỷ , tân, quí)
làm lế tái ngu, gặp ngày cương (tức là ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm) làm lễ
tam ngu. Phan Kế Bính cũng dẫn giải như trên.
Dần dần về sau người ta giảm lược, kiêm cả ba lễ luôn, chỉ làm lễ tam ngu, vì
thế nên gọi là lễ ba ngày. Vậy là tính ba ngày từ sau khi chôn, theo tục gọi là
lễ mở cửa mả. Ngày đó con cháu ra sửa lại mồ mả, đắp cỏ, khơi rãnh thoát
nước... Ngu là tế ngu, tế chỉ tế người chết, tế thần. Theo phong tục cũ thì ít
khi chết xong chôn ngay, thường còn để năm bảy ngày trong nhà. Khi chưa chôn
làm lễ triêu tịch điện, tức cúng cơm hàng ngày vẫn theo lễ thờ người sống. Vậy
tế ngu phải tính từ sau khi chôn.
Còn có một lập luận khác: Có ba điều không yên khiến phải làm lễ tế ngu:
-Đang sống hoạt động nay mọi hoạt động bỗng nhiên đình chỉ.
-Đang nhìn thấy bóng dáng, khi đã nhập quan không nhìn thấy bóng dáng nữa.
-Đang ở trên dương thế, nay xác về cõi âm, hồn vất vưởng lìa khỏi xác. Âm dương
hoàn toàn cách biệt từ sau lễ thành phần. Sơ ngu, tái ngu, tam ngu là tế để làm
cho yên hồn phách, vậy phải tế sau khi mất, sau khi lễ nhập quan và sau khi lễ
thành phần xong.
Thời này cũng có trường hợp sau khi chết 4-5 ngày còn để trong nhà lạnh chưa
chôn nên không thể làm lễ ba ngày trước lễ an táng.
243.
Làm lễ chung thất (49 ngày) và tốt khốc (100 ngày), có phải chọn ngày không
Theo
"Thọ mai gia lễ", thì cứ đúng ngày quy định trong gia lễ mà làm,
không có sự chuyển dịch tuỳ tiện theo lời thầy lễ hay thầy bói nào cả. Chỉ trừ
ngày làm lễ an táng và ngày làm lễ trừ phục (hết tang) trong gia lễ có ghi chọn
ngày lành. Người ta không ai có thể chọn ngày chết, vậy nên từ xưa tới nay,
hàng năm cứ đến ngày mất thì làm giỗ, dù cho có những năm, ngày đó rất xấu, có
cả trùng phục, trùng tang, sát chủ, quả tú, cô thần.v.v... theo gia lễ: Lễ
chung thất, Tốt khốc, Tiều tường, Đại tường cứ theo đúng ngày mà làm lễ.
Con cháu ở xa nhớ ngày về làm lễ, thân nhân ở chỗ khác sắm sửa lễ đúng ngày tới
dự, chẳng lẽ đến nơi thấy hương lạnh khói tàn, gạt nước mắt lủi thủi ra về hay
sao? người chủ sự báo lại rằng: theo lời thầy lễ đã lễ xong xuôi đâu đấy rồi,
hoặc đợi thêm và ngày nữa, được chăng? Xin lưu ý tang tế theo ngày định sẵn,
thân bằng, cố hữu ai lưu luyến đến thăm viếng, không đợi thiệp mời như lễ mừng,
lễ cưới, không chuỵện "Hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo" (mời thì
đến, không thì thôi).
244.
Bàn thờ ông bà, không gian tâm linh của người Việt
Người
Việt vẫn quan niệm rằng, khi con người chết là chỉ mất đi phần xác, vong hồn
của họ thì vẫn tồn tại, vẫn có thể viếng thăm, phò hộ người thân, cho dù người
sống không nhìn thấy. Cũng vì vậy, việc thờ cúng ông bà là tập tục có từ cổ
xưa. Nhiều người khi được hỏi về đức tin tâm linh vẫn nói là mình theo đạo thờ
ông bà. Đức tin ấy được cụ thể hóa bằng bàn thờ tổ tiên trong mỗi gia đình
Việt, không phân biệt giàu nghèo hay địa vị xã hội.
Dù có sự khác nhau đôi chút về hình thức, nhưng ở cả ba miền, bàn thờ đều được
đặt ở vị trí trung tâm, nơi trang trọng nhất trong mỗi gia đình. Thường thấy ở
miền Bắc, bàn thờ là một giá gỗ được gắn nơi bức tường trung tâm của ngôi nhà
chính, ở tầm cao trên tay với của người lớn, mỗi lần hương khói người ta phải
đặt ghế để đứng lên trong tư thế thành kính. Miền Trung và miền Nam, vị trí ấy
là chiếc tủ thờ bằng gỗ, cao gần tầm đầu người lớn, được chế tác công phu. Ở
những nhà khá giả, tủ thờ được làm bằng gỗ quí, chạm khắc tinh xảo; ở những gia
đình bình dân, chiếc tủ thờ vẫn là vật đẹp nhất trong nhà, thể hiện lòng thành
kính, hiếu thảo của người đang sống với tổ tiên.
Bàn thờ là nơi linh thiêng, thanh khiết, nên ngoài các đồ đạc dùng để tế tự và
trang hoàng, nhất thiết không được để vật dụng gì lên đó. Trung tâm của bàn thờ
là bát nhang, phía sau bát nhang là di ảnh của những người đã khuất. Nếu nhà
khá giả, trước di ảnh còn có đỉnh đồng để đốt trầm vào mỗi dịp cúng kiến, đỉnh
thường được chạm khắc long, lân, mai, trúc. Hai bên bát nhang phía trước là đôi
chân đèn để thắp nến, có ý nghĩa tượng trưng cho đôi vầng nhật nguyệt, cũng để
nói lên người chết nhưng linh hồn của họ thì không tắt. Ở miền Bắc đôi khi thấy
ở vị trí đôi chân đèn là hai ngọn đèn dầu. Tường sau không gian bàn thờ ở nhà
khá giả là hoành phi, liễn đối bằng Hán tự sơn son thếp vàng, có nội dung nói
lên công đức của người đã khuất. Ở gia đình bình dân, đó là tranh thờ, thường
là tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư, cá chép vượt vũ môn hay các chữ
như Phước, Lộc, Thọ (bằng Hán tự). Miền Nam còn thấy phổ biến loại tranh thờ vẽ
trên kiếng với những phong cảnh thanh bình.
Trong việc thờ cúng tổ tiên có hai ngày quan trọng nhất, đó là ngày giỗ và ngày
Tết. Ngày giỗ cúng đúng vào ngày mất (theo âm lịch) của người được thờ tự. Đây
là dịp để con cháu tưởng nhớ, bày tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên. Đây còn là dịp
để gia chủ đáp nghĩa với dòng họ, láng giềng từng chia sẻ buồn vui, bất hạnh
với gia đình mình, nên ngày giỗ thường được tổ chức tiệc tùng khá linh đình. Ở
miền Nam, buổi chiều hôm trước chánh giỗ còn có mâm cúng tiên thường để con
cháu thắp hương vọng bái trước với ông bà.
Ngày Tết cổ truyền của người Việt, ngoài ý nghĩa đưa năm cũ, đón năm mới, còn
là dịp để mọi người “ôn cố, tri tân” và việc cúng kiến ông bà là nghi lễ hàng
đầu. Không khí Tết đến với ngôi nhà Việt bắt đầu từ việc trang hoàng bàn thờ
ông bà. Những vật dụng thờ cúng trên bàn thờ được lau chùi đánh bóng. Mới hơn
ngày thường là thêm lọ độc bình cắm hoa tươi, một cành đào ở Bắc, một cành mai
phổ biến ở Trung và Nam. Ngoài ra, cả hai miền đều có mâm ngũ quả. Miền Bắc
thường thấy có 5 loại quả có 5 màu khác nhau như chuối xanh, bưởi vàng, hồng
đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng trưng cho mong ước: phú (giàu có) - quý (sang
trọng) - thọ (sống lâu) - khang (khỏe mạnh) - ninh (bình yên). Miền Nam, mâm ngũ
quả thường thấy các loại trái mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung. Mâm ngũ quả có
ý nghĩa nói lên lòng mong ước của người dâng cúng để ông bà được “tỏ tường” mà
“phò hộ”. Trên bàn thờ ngày Tết ở miền Nam còn chưng cập dưa hấu, loại dưa
tròn, lớn, trái có dán chữ “thọ” (Hán tự) viết bằng nhũ vàng trên giấy đỏ, nói
lên mong ước cho ông bà cha mẹ còn đang sống được trường thọ; hay chữ “phúc”
cầu phúc cho gia đình dòng họ.
Mâm cúng ngày giỗ hay ngày Tết, cả ngoài Bắc cũng như trong Nam đều không đặt
trực tiếp trên bàn thờ mà đặt trên chiếc bàn thấp hơn kê trước bàn thờ. Trước
khi người chủ trì thờ tự cùng con cháu dâng hương, thường thấy ngoài Bắc còn
đặt lên bàn thờ ba ly nước, trong Nam là hai ly rượu, một ly nước, có ý nghĩa
tượng trưng cho sự thanh khiết của trời đất và tinh hoa của mùa màng. Cũng có
một chút khác nhau giữa hai miền: ngoài Bắc người thờ tự tổ tiên là con trai trưởng,
miền Nam là con trai út.
Đã bao thế kỷ trôi qua, cung cách và quan niệm thờ phụng tổ tiên của người Việt
Nam cũng đã có nhiều thay đổi, nhưng ý nghĩa lớn nhất thì vẫn giữ nguyên. Người
Việt Nam coi việc thờ phụng tổ tiên là một trong những nguyên tắc đạo đức làm
người. Đó là hình thức thể hiện sự hiếu thuận và lòng biết ơn của con cháu đối
với các bậc sinh thành.
245.
Kỳ bí tục táng treo
Nắng
chiều không lọt qua khỏi tán rừng già, chiếu rọi ánh sáng yếu ớt xuống những
bụi le, lồ ô gập ngang dọc như khung cửi đang che chở cho các thi hài hiển hiện
trên mặt đất. Trước mắt chúng tôi là hàng chục cỗ quan tài được đặt trên những
giá gỗ gồm bốn cây cọc, cách mặt đất 0,5-1m...
Giữa chốn thâm u núi rừng của đại ngàn Tây nguyên hùng vĩ, tôi liều mình bước
vào nghĩa địa treo Vai Trang (Kontum). Một cảm giác ớn lạnh chạy qua người.
Đi vào... rừng ma
Chuyện đó đã cách đây mười năm, khi tôi lần đầu thâm nhập “rừng ma” của người
Jẻ ở xã biên giới Đăk Long. Cùng đi có anh cán bộ Huyện đoàn Đăkglei (tỉnh
Kontum) tên Trần Ngọc Từ. Từ xã đến ngã ba Đăk Môn thì đi ngược lên hướng biên
giới Việt - Lào.
Chúng tôi vào nhà trưởng thôn và già làng để đề nghị cho người dẫn đường vào
nghĩa địa treo Vai Trang. Dưới tán rừng nguyên sinh, ở đây cây le và lồ ô nhiều
vô kể, gãy gập ngang ngửa như mắc cửi. Nắng chiều không lọt qua khỏi tán rừng
già, rọi ánh sáng yếu ớt xuống những bụi le, lồ ô dựng đứng như đang che chở cho
các thi hài hiển hiện trên mặt đất. Chúng tôi luồn sâu vào bên trong dưới những
lớp lá dày hơn 20cm, chân tôi bỗng giẫm phải cái gì đó nghe lạ lắm, vạch đám lá
ra bên dưới là mảnh ghè rượu, mấy cái chén ăn cơm, gùi, balô, đèn pin, chai lọ
và hỡi ôi có cả xương người. Hồn vía lên mây định tháo chạy trở ra nhưng vì máu
tò mò nên hai chúng tôi trấn an nhau và... đi tiếp.
Đi vào “rừng ma” làm chúng tôi mất phương hướng, phía dưới là con suối Đăk Long
nước chảy ào ào. Bỗng trước mắt chúng tôi hiện lên hàng chục quan tài được đặt
trên những giá gỗ với bốn cây cọc, cách mặt đất 0,5-1m... một số còn khá mới
chứng tỏ tang gia vừa tổ chức đám ma xong. Ngoài các quan tài bằng gỗ có cả
những quan tài được làm bằng nhôm, vỏ bom bi, thùng xăng gò hàn thành những
quan tài rất đẹp. Phía trên quan tài được lợp mái tôn hoặc cây lồ ô lật sấp
ngửa, xung quanh vứt đầy rẫy những vật dụng mà người chết được “chia phần”, một
số “con ma” còn được chia cả heo, gà sống buộc vào chân cột quan tài. Có nhà
còn chia cả radio, bàn ghế, xe đạp (để ở ngoài) và vàng (đặt trong hòm). Ở
những chiếc quan tài bục ra thấy mờ mờ trong đó những lớp xương.
Táng treo để nhớ đến người
Trở lại Vai Trang lần này, chúng tôi tìm đến già làng A Jáp và Y Môi, cả hai
ông nay đã trên 90 tuổi. Hai già làng kể: ngày xưa một gia đình nọ có hai anh
em trai mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Họ sống nương tựa nhau, yêu thương nhau hết
mực. Khi đến tuổi trưởng thành, người anh làm nghề buôn bán nên nhanh chóng
giàu có. Người em trai chăm chỉ, cần mẫn làm nương rẫy. Chẳng lâu sau cả hai
anh em đều giàu có nhất làng nhưng không biết ai giàu hơn ai. Người anh bèn
nghĩ ra một cách và nói với người em rằng hãy thi tài bằng cách xây một cái nhà
mà vách phải bằng da trâu, ai bọc được da trâu quanh nhà nhiều hơn thì người đó
được coi là giàu hơn.
Đến hẹn, dân làng nổi cồng chiêng và mọi người được mời đến uống rượu để chứng
kiến cuộc thi. Người anh nhanh chóng cắt từng mảng da trâu lớn treo đầy vào cây
lồ ô đã được dựng sẵn. Cậy nhà nhiều trâu, người anh “đập” hết con trâu này tới
con trâu khác với quyết tâm chiến thắng. Còn người em chỉ “đập” một con trâu,
khéo léo dùng dao lột mỏng da trâu kéo căng ra để phủ lên được nhiều. Nhờ biết
cách căng miếng da trâu mà người em đã chiến thắng. Thua cuộc, người anh cay
cú. Hai anh em bất hòa và làng tách ra làm hai. Người em tìm đến một con suối
có nhiều lau lách thì dừng lại lập nên làng Vai Trang ngày nay.
Vai Trang có nghĩa là con suối có nhiều lau lách. Từ đó về sau làng Vai Trang
lấy trồng trọt và chăn nuôi làm nghề chính, sống đoàn kết yêu thương nhau, hòa
thuận với các buôn làng khác bên cạnh. Người em là thủ lĩnh đức độ, tài cao,
hết mực thương yêu, sẻ chia giúp đỡ người dân nghèo mỗi khi gặp khó khăn, hoạn
nạn. Khi ông qua đời, dân làng khóc lóc thảm thiết suốt nhiều ngày mà không nỡ
chôn xuống đất. Họ bèn nghĩ ra cách treo quan tài lên cây để không con gì có
thể ăn được thi thể, ai nhớ có thể ra đó thăm viếng và như thế linh hồn người
thủ lĩnh sẽ ở mãi với dân làng.
Vai Trang ngày mới
Tôi tìm đến nguyên bí thư Đảng ủy xã Đăk Long A Chưng, ông cho biết những người
chết được táng treo gần đây không phải là một già làng hay một thủ lĩnh tài
giỏi, mà đơn giản chỉ là... người giàu. Thực tế những gia đình giàu có mới đủ
tiền mua những cây gỗ quý to bằng mấy vòng ôm, rồi thuê người đục đẽo chạm trổ
hình những con thú lớn và đủ tiền mua mấy con trâu giết thịt để thết đãi cả
làng ăn uống linh đình.
Ông A Chưng nói: “Trước năm 2003 thì vẫn còn nhưng từ đó đến nay bỏ hẳn rồi.
Cán bộ huyện xuống họp với dân làng, phân tích cho bà con hiểu làm như vậy mất
vệ sinh môi trường lắm! Bà con nghe theo nên từ đó đến bây giờ không ai còn dám
chôn treo như ngày xưa nữa!”. Chúng tôi cắt rừng lồ ô rậm rạp đi sâu vào trong
nay đã không tìm được những chiếc quan tài treo lơ lửng mà tôi từng nhìn thấy
cách đây mười năm về trước, chỉ bắt gặp rải rác một số ghè rượu, xoong nồi, dao
rựa... đã bị đập vỡ, bẻ cong bên cạnh dấu tích những quan tài không còn hình
thù.
246.
tục cà răng căng tai
Ba
tập tục lạ của người Vân Kiều Người phụ nữ Vân Kiều này đã được Cà răng, căng
tai theo lệ tục của dân tộc mình. Ảnh: Tiểu Yến Dân tộc Vân Kiều cư trú tập
trung dọc theo vùng núi huyện Minh Hóa và các xã miền núi của huyện Bố Trạch,
huyện Quảng Ninh và huyện Lệ Thủy thuộc phía Tây tỉnh Quảng Bình. Đồng bào có
ba tập tục đặc trưng, đó là tục cà răng, tập tục cưới và tục căng tai. Tập tục
căng tai: Người Vân Kiều sau khi sinh con xong thì làm lễ thổi tai, sau đó tiến
hành xâu lỗ tai cho trẻ. Tùy vào điều kiện kinh tế của từng gia đình mà đồng
bào sắm sửa lễ vật nhiều hay ít, nhưng thông thường phải có rượu, gà, heo.
Chuẩn bị lễ xong, gia đình mời bà mụ đến làm lễ. Bà mụ vừa bụm miệng, vừa lấy
hơi thổi vào tai và cầu khấn mong muốn đứa trẻ lớn lên biết làm nương rẫy, biết
bắt cá, gặp may mắn trong cuộc sống... Sau lễ khoảng 5-6 ngày, cha mẹ sẽ tiến
hành xỏ lỗ tai cho con. Người Vân Kiều quan niệm: nếu không có lỗ tai thì chết
sẽ bị thần linh đuổi đi với loài khỉ. Nếu con đẻ ra ốm yếu, lập tức phải mời bà
mụ đến làm lễ thổi tai, xỏ tai cho con mình. Sau khi lỗ xâu tai đã lành thì
người mẹ mới treo vòng bạc, đồng to hoặc bằng ngà lủng lẳng.Tập tục cà răng: Để
đánh dấu sự trưởng thành của con người, từ tuổi 13, 14, người Vân Kiều thường
tổ chức lễ cà/ cắt răng cho các thành viên trong cộng đồng. Việc cà/ cắt răng
gây nên đau đớn, nhưng có vượt qua thử thách này, con trai, con gái mới được
công nhận trở thành người lớn thực thụ. Lễ cà/ cắt răng được tiến hành vào
những tháng nông nhàn. Trong mỗi bản làng thường có một đến hai người thông
thạo việc cà/ cắt răng. Người được cà/ cắt răng nằm trên chiếu trải giữa nhà.
Giữa hai hàm răng được kẹp bằng một thanh gỗ nhỏ, mềm. Xung quanh có một vài
người giúp giữ tay, chân và động viên an ủi. Dụng cụ để cà/ cắt răng là hòn đá
mài nhặt bên suối và chiếc liềm để làm cỏ nương rẫy hay dao sắc nhỏ, một ít
bông gạo do người cà/ cắt răng chuẩn bị. Cách thức cà từng chiếc răng cửa hàm
trên tới sát lợi cho đến khi 4 hoặc 6 chiếc răng bị rời ra. Người thanh niên bị
cà/ cắt răng xong được súc bằng nước lã và sau đó bôi một ít nhựa cây cho đen
và chắc răng. Sau khi cà/ cắt răng xong, mỗi người được trao một chiếc vòng
bằng đồng có khắc ký hiệu bí mật để đi tìm bạn tình. Cà/ cắt răng là những ngày
vui của trai gái trong bản làng. Hằng tối, họ tập trung nhau lại để ca hát và
đốt nhựa cây Krai để bôi răng. Thiếu nữ xem đây là dịp tỏ tình với bạn trai và
chăm sóc lẫn nhau. Tục cà/ cắt răng của người Vân Kiều trước đây thể hiện ý
thức làm đẹp cho mình. Nếu ai không cà răng sẽ bị dư luận chê cười, bạn bè coi
thường.Tập tục cưới: Cũng như mọi dân tộc khác, do tình trạng phát triển xã hội
trước đây chưa cao, nhận thức về vũ trụ, thế giới con người còn thô sơ nên đời
sống tâm linh cũng bị chi phối bởi bao điều mê tín, hủ tục lạc hậu. Trước đây,
những người đàn ông Vân Kiều muốn cưới vợ thì phải nộp một số lễ vật như trâu,
bò, nếp, chiêng, bạc trắng... So với các gia đình khá giả thì không lớn, nhưng
với những gia đình nghèo khó thì có khi cả đời lam lũ lao động vẫn không thể có
được. Cưới vợ phải nộp một khoản lễ vật lớn như vậy nên nhiều người xem việc
cưới vợ giống như là “mua vợ”. Tập tục cưới xin như vậy gọi là “cưới mượn”. Dân
tộc Vân Kiều còn có tập tục “nối dây”. Về làm dâu nhà chồng, chẳng may chồng
chết thì cô dâu lại trở thành vợ của anh hoặc em chồng. Có gia đình, chị hay em
dâu chồng bị chết, cô vợ phải làm vợ cho 3, 4 anh em của một nhà.Để bảo vệ và
phát triển giống nòi thì tục “cưới mượn” vẫn tiến bộ hơn tục “nối dây”. Tập tục
này đã được xóa bỏ ở nhiều nơi, nhưng tàn dư của nó hiện vẫn còn tồn tại ở một
số bản làng heo hút. Theo quan điểm hôn nhân tiến bộ thì rõ ràng tục “cưới
mượn” và tục “nối dây” là không thể chấp nhận được.Ngày nay, thực hiện cuộc vận
động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư”, những tập
tục lạc hậu như cà răng, nối dây, cưới mượn đang được đồng bào Vân Kiều loại bỏ
dần để tiến tới xây dựng bản làng có nếp sống văn minh, tiến bộ.
Người Cơ-tu đón tết
Người
Cơ-tu ở Quảng Nam có dân số khoảng 42.636 người (năm 2005), sinh sống tập trung
ở 197 buôn, làng thuộc 3 huyện Nam Giang, Đông Giang và Tây Giang thuộc phía
Nam của dãy núi Trường Sơn. Một trong những nét đẹp văn hóa của đồng bào Cơ-tu
là tục thăm viếng họ hàng vào dịp Tết đến xuân về. Sau khi làm lễ Ăn mừng lúa
mới (Cha ha roo tơmêê) và thực hiện nghi lễ Phuôih zơvây ha roo để tạ ơn Thần
Lúa (zơrích tơ pa)- kết thúc mùa rẫy, đồng bào Cơ-tu có thời gian rảnh rỗi để
chăm sóc con heo, con gà; xuống sông, suối đánh bắt cá, ếch hoặc lên rừng hái
rau, măng, đào củ... nhằm chuẩn bị lương thực để mang tặng anh em, họ hàng,
thông gia...Vào dịp Tết Nguyên đán, đồng bào Cơ-tu lấy lúa nếp mới trên nhà kho
(Crrăng) xuống, đem giã để nấu xôi rồi xới ra trong những cái rổ. Sau đó cho
xôi vào trong những tấm lá chuối vuông gói thành những cái bánh hình tam giác
mà đồng bào quen gọi là bánh cuốt (avị cuốt). Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế
gia đình và số lượng anh em, họ hàng đông hay ít mà các gia đình làm bánh, nấu
xôi hoặc chuẩn bị thực phẩm nhiều hay ít. Sau khi đồ xôi và làm bánh xong, đồng
bào bỏ xôi, bánh vào trong gùi, mỗi gùi có khoảng 20-30 gói xôi, 40- 50 cái
bánh cuốt và những gói cá, ếch, thịt heo... rồi mới bắt đầu cuộc hành trình đi
thăm viếng anh em, họ hàng ở các thôn, xã bên cạnh hoặc sang tận nước Lào.
Người Cơ-tu còn có tập tục tặng thịt hoặc những con vật sống dưới nước cho
những người đặc biệt thân thiết với gia đình mình. Đối với con gái và con rể
thường được ba mẹ tặng cho cá và thịt thú rừng gói trong lá. Phía nhà chồng
thường tặng cho cha mẹ cô dâu thịt thú rừng bốn chân. Ngoài ra, cũng có thể
tặng gia súc hoặc các loài thủy sản (lớn hoặc nhỏ) cho cha mẹ, phụ nữ hoặc anh
em họ hàng... Cũng có thể tặng gà sống, ếch, nhộng, ong... cho họ hàng. Con gái
và con rể thường tặng cho cha mẹ (bên vợ hoặc bên chồng) các bình đựng rượu,
tấm choàng, khố, váy hoặc áo Adoót... bằng thổ cẩm do chính tay mình dệt. Thỉnh
thoảng cũng có chàng rể tặng cha mẹ vợ hai loại vật quý là cồng và chiêng. Có
trường hợp chàng rể tặng vòng cổ bằng hạt cườm trắng và cả trang sức bằng hạt
mã não, nanh heo rừng... cho mẹ vợ. Có trường hợp còn mang tặng thóc chưa giã,
bắp chưa nấu cho gia đình mình yêu quý. Theo tục lệ, đồng bào Cơ-tu thường
không mang những vật tặng vào làng... bởi đó là điều kiêng cữ. Đồng bào sợ thần
linh sẽ không bằng lòng mà quở trách. Vì vậy, theo tục lệ truyền thống, khi đến
làng của họ hàng, bà con, người đi thăm thường để những tặng vật ấy ở ngoài bìa
làng, đợi cho đến khi trời vừa chập tối rồi mới nhờ những người trong làng ra
mang những tặng vật vào làng.Cha mẹ thường nhớ nhung, thương con gái phải chăm
lo vất vả bên nhà chồng nên họ thường để dành lương thực, các vật nuôi cho con
gái và con rể. Người Cơ-tu vùng núi Quảng Nam làm nhiều lúa nước và lúa rẫy nên
dự trữ được khá nhiều thóc. Ngoài thóc, bắp, sắn cũng được bà con dự trữ để
tặng họ hàng. Và họ cảm thấy rất hạnh phúc khi được làm công việc đầy ý nghĩa
này... Ngoài tục thăm viếng họ hàng vào dịp Tết Nguyên đán, trong cuộc sống
thường ngày, khi thu hoạch bắp và dưa leo, đồng bào Cơ-tu cũng thường chia cho
những nhà chung quanh mỗi nhà một ít để cùng ăn. Làng nào bị đói thì đến làng
có thóc, có sắn yêu cầu được hỗ trợ cứu đói. Sau đó, họ sẽ lại mang trả lại.
Nếu các làng ở xa nhau thì một năm họ đi thăm nhau một lần. Nếu gần, một năm họ
có thể đi thăm nhau hai hay ba lần. Người Cơ-tu có câu nói: “Nếu ánh sáng mà
chúng tôi thấy không rõ, nó trở nên mờ. Đường không có ai đi, cỏ sẽ mọc đầy”.
Câu nói ngụ ý nhắc nhở phong tục truyền thống nếu không giữ gìn, chúng sẽ mất
đi. Người Cơ-tu rất muốn duy trì tập tục thăm viếng họ hàng để nếu lỡ có chuyện
xấu xảy ra, hai bên sẽ dễ dàng sửa chữa, bỏ qua cho nhau. Thường trong những
khi có chuyện không hay như vậy, đồng bào làm phép bằng cách vảy nước bằng tay
phải. Bên nhà này sang vảy nước sang nhà bên kia. Hội đồng già làng của làng
này qua nhà Gươl của làng kia cùng thực hiện nghi thức vảy nước để đuổi điều
xấu đi và cầu mong cho 2 gia đình, 2 buôn, làng sẽ đoàn kết, ấm no, khỏe
mạnh... và giúp đỡ nhau phát triển giống nòi.
Dặt
dìu tiếng khèn Mông “...Tiếng khèn Mông chênh vênh vách đá, vút lên tha thiết
bồi hồi, đất trời một thoáng chơi vơi...” Âm thanh kỳ diệu rung động cõi lòng,
dẫn dắt người nghe ngược thời gian về với thuở hồng hoang, kỳ vĩ. Tiếng khèn có
lúc mạnh mẽ giàu chất thượng võ, song cũng giàu chất thơ… Trong cuộc đời, ai đã
một lần lên Tây Bắc để được nghe tiếng Khèn Mông. Với người Mông, tiếng Khèn là
sợi dây tâm linh nối người sống và người đã khuất, là “cây cầu” bắc lời tỏ tình
đôi lứa, là những câu chuyện cổ được kể bằng âm thanh. Động tác múa khèn của
người Mông rất phong phú, đa dạng. Người ta thống kê được 33 động tác, tổ hợp
múa khèn như: nhảy đưa chân, nhảy lưới, quay đổi chỗ, quay tại chỗ, quay di
động, vờn khèn, quay cầu, quay gót, chọi gà... Trong môtíp chủ đạo là quay hất
gót tại chỗ và quay hất gót di động trên vòng quay lớn rồi thu hẹp dần theo
hình xoáy ốc. Cây Khèn Mông, được chế tác từ cây trúc ven suối, ven rừng. Khi
thổi, âm thanh phát ra nhiều tầng. Ống lớn nhất và cũng là ngắn nhất với trọng trách
giữ nhịp. Các ống còn lại theo kích thước to nhỏ mà có âm thanh trầm bổng, cao
thấp. Khi tiếng khèn vang lên, người Mông đều dễ nhận diện bởi âm thanh của
khèn gắn với một điệu dân ca nào đó. Âm điệu, tiết tấu chau chuốt được chia cắt
thành câu, thành nhịp. Chính điều này, giọng điệu của khèn đã tạo cơ hội cho
các chàng trai Mông thể hiện cái mạnh, cái đam mê cuồng nhiệt hay nói một cách
khác là lời tỏ tình của mình với các cô gái một cách tự nhiên.Đã có giai thoại
mới về chiếc khèn và tiếng khèn Mông. Chuyện rằng, ở một bản người Mông nọ, có
cô gái miền xuôi rất xinh đẹp lên bản dạy chữ. Cứ mỗi khi cuộc khèn vang lên là
cô có mặt, mê mẩn, say sưa theo tiếng khèn. Người già trong bản bảo, cô giáo mê
tiếng khèn mất rồi, chẳng về xuôi nữa mà gắn bó hẳn với đất, người bản Mông
miền núi cao này. Biết bao cô gái mê mẩn bởi tiếng khèn Mông mà tình nguyện lên
những bản vùng cao dạy chữ. Và cũng biết bao cô gái, chàng trai đã nên vợ nên
chồng nhờ tiếng khèn Mông dặt dìu ấy. Anh Pùa Láo Sềnh, xã Chiềng Khừa, huyện
Mộc Châu, tỉnh Sơn La thổ lộ: Thanh niên Mông chúng tôi 15 tuổi đã biết nghe và
đi theo tiếng gọi của khèn. Con trai tìm, gọi bạn để tâm sự, giao duyên nhất
thiết phải là những âm thanh, giai điệu của khèn do chính mình thổi bay
tới”Nghe và hiểu được khèn, có nghĩa là đã nhập được khát khao, mong ước, niềm
vui, nỗi buồn của những đứa con xứ núi. Tiếng khèn là món ăn tinh thần không
thể thiếu từ bao đời nơi rẻo cao, là róc rách của suối, là hương của núi, là
riếng gió cây rừng, là nỗi lòng người Mông. Sự hòa hợp giữa các làn điệu dân ca
và âm sắc của khèn tạo nên hơi thở, tạo nên phần hồn của đại ngàn. Trên tất cả,
khèn Mông là lời tỏ tình muôn thuở, là nhịp sống mùa xuân bất tận nơi rẻo cao.
Tiếng Khèn thấm vào máu thịt người Mông, thân quen như miếng “mèn mén” (bột ngô
đồ) mẹ mớm từ lúc mới biết ăn dặm. Con trai 13, 15 tuổi đã có cây Khèn trên vai
mỗi khi lên nương, xuống chợ. Âm thanh của Khèn mạnh mẽ như chính cuộc sống
người Mông, bởi nếu không kiên cường mạnh mẽ, người Mông xưa kia chắc khó lòng
đương đầu nổi với sự khắc nghiệt nơi núi cao, đá dựng. Ngày xưa, tổ tiên người
Mông giỏi lắm, rất nhiều chàng trai vừa biết thổi khèn, vừa múa trên những
chiếc cọc dựng sát gần nhau. Ở phía dưới dân làng đốt những đống lửa, ai không
khéo, không giỏi, rơi xuống sẽ bị bỏng. Những chàng trai giỏi nhất luôn là mơ
ước để các cô gái chọn lấy làm chồngDù cuộc sống đã nhiều đổi thay, đâu đó ở
những bản người Mông đã biết đến nhiều loại nhạc cụ hiện đại nhưng người Mông
vẫn không bỏ chiếc khèn của dân tộc mình. Người già vẫn bảo: Tiếng khèn là phần
hồn của người Mông, giữ tiếng khèn là giữ lấy bản sắc dân tộc mình. Con trai
Mông khi lớn lên là phải biết thổi khèn. Thổi khèn hay, múa khèn dẻo luôn nhận
được sự quý mến, nể phục của nhiều người.Anh Pùa A Po, Đội trưởng đội khèn Căng
Tỵ xã Chiềng Khừa, Mộc Châu, Sơn La cho biết: “Đội múa khèn Căng Tỵ có 11 nam
và 11 nữ, trong đó có chín người là đoàn viên. Họ đều là những thanh niên dân
tộc Mông ở cùng bản, vì có chút ít năng khiếu, yêu thích lời ca, tiếng khèn, vì
muốn cho bà con, thanh niên bản mình thêm vui tươi, tin yêu vào cuộc sống, nên
đã tập hợp lại thành đội múa khèn Căng Tỵ, đến nay đã được 4 năm rồi. Tất cả
gia nhập đều trên tinh thần tự nguyện không có lương, không có phụ cấp. Nhưng,
với lòng yêu nghệ thuật, yêu cây khèn nên mọi ngươiời vẫn hăng say luyện tập.
Đến nay, chúng tôi đã biểu diễn được hàng trăm buổi trong và ngoài tỉnh”. Kho
tàng dân nhạc của người Mông có khá nhiều về số lượng và chủng loại, trong đó
có sáo lưỡi gà, đàn môi, kèn lá nhưng khèn vẫn là nhạc cụ nổi bật, chất chứa
nhiều sáng tạo. Khèn không chỉ gắn bó với sinh hoạt, lễ hội, đời sống tâm linh
mà còn là phương tiện đem đến hạnh phúc lứa đôi. Đây mới chính là điều đặc sắc
nhất. Xưa, dân tộc Mông vốn sống du cư. Lịch sử trên những nẻo đường thiên lý
không ít mồ hôi và nước mắt. Và Khèn chính là người bạn làm niềm vui bên kiếp
đời lang bạt, nó âm ỉ, trường tồn để trở thành báu vật truyền lại cho các thế
hệ sau, trở thành một phần văn hóa không thể thiếu của người Mông. Cuộc sống
hiện đại với chiếc đài cát-xét đã phần nào giúp cho thanh niên Mông dễ dàng hơn
trong việc thể hiện tài nghệ của mình. Tuy nhiên, không vì thế mà những nét văn
hóa truyền thống bị mai một đi. Bởi, đã là trai người Mông thì phải biết chơi
thành thạo một thứ nhạc cụ nhất là với cây KhènĐến với tiếng Khèn Mông một
ngày, để nhớ tiếng Khèn Mông một đời
Lễ
hội Chọi trâu Đồ Sơn: Độc đáo một truyền thống Bắt đầu thi đấu. Ảnh: TL “Dù ai
buôn đâu bán đâu, Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về, Dù ai buôn bán trăm
nghề, Mồng chín tháng tám thì về chọi trâu”.Không biết từ bao giờ, câu ca mộc
mạc trên đã trở thành tiếng gọi của quê hương, nhắc nhở người Đồ Sơn nhớ về nơi
“chôn rau cắt rốn”. Nơi có lễ hội truyền thống “độc nhất vô nhị” tại Việt Nam.
Đó là Lễ hội chọi trâu được tổ chức hằng năm tại quận Đồ Sơn, thành phố Hải
Phòng.Lễ hội chọi trâu có nhiều truyền thuyết, mỗi truyền thuyết đều gắn với
một sự tích kỳ bí khác nhau nhưng tất cả đều khẳng định: Hội chọi trâu là mỹ
tục hào hùng mang đậm tính thượng võ, tính táo bạo và lòng quả cảm rất độc đáo
của người Đồ Sơn.Để có những ngày hội náo nức, người dân Đồ Sơn phải chuẩn bị
rất công phu trong khoảng 8 tháng trời. Thông thường, sau Tết Nguyên đán, các
sới chọi đều cử người có nhiều kinh nghiệm đi khắp nơi để mua trâu, có khi họ
phải lặn lội hằng tháng trời vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Thái
Bình, thậm chí lên tận Tuyên Quang, Bắc Cạn... mới tìm được con trâu vừa ý.Qua
nhiều năm lặn lội tìm mua trâu, người Đồ Sơn nhận thấy rằng, những con trâu mua
được ở chợ Gồi (Nam Định), Thủy Nguyên (Hải Phòng), Thanh Hà (Hải Dương) thường
“giật” giải nhiều hơn. Bởi thế, cứ sau Tết âm lịch hằng năm, người Đồ Sơn lại
đổ xô đến những địa phương trên lùng mua trâu.Chọn trâu là một công việc cầu kỳ
và tỷ mỉ, trâu đủ tiêu chuẩn phải là những con trâu đực khỏe mạnh, có khả năng
chống chịu được đòn của đối phương (nghĩa là phải gan lỳ). Thông thường, những
chú trâu da đồng, lông móc, một khoang bốn khoáy, hàm đen, tóc tráp (lông trên
đầu cứng, dày để tránh nắng)... là trâu gan. Trâu phải có ức rộng, cổ tròn dài
và hơi thu nhỏ về phía đầu, lưng càng dày, càng phẳng càng tốt. Háng trâu phải
rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu càng nhọn càng quý. Sừng trâu phải đen như mun,
đầu sừng vênh lên như hai cánh cung, giữa hai sừng có túm tóc hình chóp trên
đỉnh đầu là khoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ. Mặt trâu giống mặt ngựa là
trâu chọi hay...Việc chọn mua trâu đã khó khăn, việc chăm sóc, huấn luyện trâu
càng khó khăn gấp bội. Trâu chọi được nuôi ở chuồng riêng, tách biệt và kín
đáo. Điều đặc biệt là không được để cho trâu chọi trông thấy trâu nhà cốt để
trâu chọi khôi phục bản năng hoang dã, đơn độc của nó. Trường huấn luyện trâu
thường là những bãi đất rộng, có nhiều người đứng xung quanh gõ chiêng trống và
hò hét.Khi huấn luyện, người ta còn phủ cờ đỏ lên đầu trâu, mình trâu để cho
trâu quen dần với không khí của ngày hội. Người huấn luyện còn dạy cho trâu có
những miếng đánh hay, đòn hiểm và độc đáo. Sau khi huấn luyện, trâu nào được
chọn làm trâu chọi sẽ được gọi một cách tôn kính là “ông trâu”. Trâu nào đoạt
giải nhất, được tôn lên thành “cụ trâu”.Mở đầu hội chọi trâu là lễ tế thần Điểm
Tước (vị thuỷ thần, và cũng là Thành hoàng làng của cả vùng Đồ Sơn). Lễ tế thần
ngày hội chọi trâu là lễ lớn nhất trong năm của người Đồ Sơn. Thời gian gần
đây, những thủ tục của phần lễ ngày càng bị xem nhẹ, đơn giản hóa. Tuy nhiên,
phần hội chọi trâu luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ thu hút đông đảo du khách bốn
phương đến cổ vũ.Vào hội, ai cũng náo nức, hồi hộp, chờ đợi... Từ hai phía của
sới chọi, “ông trâu” được dẫn ra có người che lọng và múa cờ hai bên. Khi hai
“ông trâu” cách nhau 20m, người dắt nhanh chóng rút “sẹo” cho trâu rồi khẩn
trương thoát ra ngoài sới chọi. Hai trâu lao vào nhau với tốc độ khủng khiếp,
hai đôi sừng đập vào nhau kêu chan chát... Cứ thế, hai trâu chọi nhau quyết
liệt giữa tiếng hò reo vang dậy của hàng ngàn khán giả. Kết thúc hội chọi trâu
là một cuộc rước giải trâu nhất về đình làm lễ tế thần. Cuộc rước này phải có
tất cả mọi người dân Đồ Sơn (cả chủ trâu thua cuộc) biểu thị sự đoàn kết, vô
tư, cùng đồng lòng mừng ngày vui chung. Trâu nhất hàng tổng được phần thưởng là
một lá cờ vóc hồng thêu hai chữ “Thượng Đẳng” bằng kim tuyến, một bát hương
bằng đá xanh đem theo đám rước trở về.Theo tập tục của địa phương, các trâu
tham gia chọi, dù thắng, dù thua, đều phải giết thịt, dân Đồ Sơn lấy một bát
tiết cùng một ít lông của trâu (mao huyết) để cúng thần, sau đó đổ xuống ao để
tiễn thần... Du khách đến dự lễ hội có thể mua thịt trâu về ăn để cầu may và
chúc phúc...Với những nét văn hóa truyền thống độc đáo vốn có, Lễ hội chọi trâu
Đồ Sơn đã trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo thu hút du khách bốn phương
đến với Hải Phòng.
Chấm phá nét xuân vùng cao Tây Bắc
Xuân
về trên vùng núi cao Tây Bắc, cảnh thiên nhiên và con người như hòa quện, cùng
nhau khoe sắc, thăng hoa, tỏa sáng cùng mùa xuân đất nước. Dưới đây là một vài
hình ảnh ghi lại những nốt nhạc vui ấy. THI KÉO CO TRONG NGÀY HỘI XUÂN Ở MỘC
CHÂU-SƠN LAKéo co là một trò chơi dân gian, vừa thể hiện sức mạnh đoàn kết tập
thể và sự khéo léo, dẻo dai của mỗi cá nhân. Đặc biệt trò chơi cho phép nhiều
người tham gia, nên mỗi khi diễn ra, tiếng cổ vũ, động viên các đội tham gia
rất hào hứng. Khi mãn trò cả người chơi, lẫn người cổ vũ đều hỉ hả, sảng
khoái.THẮNG CỐ TRONG NGÀY HỘI XUÂN Ở DÀO SAN-PHONG THỔ, LAI CHÂU Món thắng cố
rất đặc biệt: Không chỉ bởi tên gọi mà còn bởi các nguyên liệu được làm từ các
bộ phận của ngựa và cách nấu cũng như thưởng thức. Hơn thế, đây là một món ăn
mang đậm nét hương rừng, là sự giao lưu văn hóa cộng đồng, là sự kết nối, gắn
bó con người với nhau. Trong các tác phẩm văn học như: Miền Tây, Vợ chồng A Phủ
của nhà văn Tô Hoài hay Đồng bạc trắng hoa xòe của Nhà văn Ma Văn Kháng… đều
nhắc đến thắng cố. Đây vốn là đặc sản của đồng bào Mông ở miền núi phía Bắc.
Giờ đây, nó đã trở thành món ăn ngon và quen thuộc của nhiều người.KÉO VỢ SAU
PHIÊN CHỢ XUÂN CỦA NGƯỜI DAO Ở VÀNG MA CHẢI, PHONG THỔ, LAI CHÂUTục kéo vợ của
người Dao Đỏ ở Vàng Ma Chải có chừng 40 năm nay và tồn tại đến tận bây giờ. Gọi
là kéo nhưng nhiều đôi đã thỏa thuận với nhau trước. Cô gái tỏ ra chống đối là
để nâng cao giá trị của mình. Có trường hợp chàng trai đi kéo 3-4 lần mới lấy
được vợ. Tục kéo vợ là một nét đẹp rất độc đáo của đồng bào dân tộc. Song ngày
nay cũng có sự thay đổi ít nhiều.ĐIỆU KHÈN TẶNG BẠN TÌNH TRONG NGÀY XUÂN CỦA
MỘT CHÀNG TRAI NGƯỜI MÔNGTrong cuộc đời, ai đã một lần lên Tây Bắc để được nghe
tiếng khèn Mông, để nhớ, để thương, để vấn vương tơ lòng… Âm thanh của cây khèn
làm đắm say nhiều du khách. Với người Mông, tiếng khèn là sợi dây tâm linh nối
người sống và người đã khuất, là “cây cầu” bắc lời tỏ tình đôi lứa, là những
câu chuyện cổ được kể bằng âm thanh. Đến buổi chợ phiên, nhất là phiên chợ đầu
xuân, khèn trên vai song hành cùng người xuống chợ, để rồi khi hương rượu ngô
mềm môi, du khách lảo đảo bước đi vẫn còn nghe giai điệu hoa dã, nguyên khôi
say đắm của núi, của rừng và thấm mãi tình người vùng cao.CẢNH SINH HOẠT CỦA
NGƯỜI LA HA TRÊN SÔNG NẬM MU VÀO TIẾT ĐẦU XUÂN Ở THAN UYÊN, LAI CHÂU Vùng Tây
Bắc đại ngàn, thiên nhiên hùng vĩ, nên việc tắm suối của nhiều dân tộc thiểu số
rất phổ biến. Tuy nhiên, mỗi dân tộc lại có một cách tắm suối khác nhau. Nhưng
nét chung là sự hòa quện của vẻ đẹp hình thể với thiên nhiên. Các thiếu nữ La
Ha cũng vậy. Tục tắm suối để đón xuân còn mang ý nghĩa tâm linh: Tẩy rửa tất cả
âu lo, phiền muộn, lỗi lầm làm thanh sạch về tâm hồn và thể chất, để đón một
năm mới may mắn, hạnh phúc.ĐUA NGỰA Ở BẮC HÀ, LÀO CAICon ngựa đã gắn bó với
người vùng cao không biết từ bao giờ. Ngựa để thồ hàng, để cưỡi khi đường xa và
còn làm món thắng cố độc đáo đầy hương vị núi rừng.Ngựa còn để thi thố tài năng
của những chàng trai Mông, đó cũng là cách họ khoe ngựa tốt, ngựa khỏe và thể
hiện lòng dũng cảm của người cưỡi ngựa.Giờ đây, ở Lào Cai, đua ngựa là một môn
thể thao không thể thiếu trong các lễ hội dân tộc và cũng là nét đẹp rất riêng
của đồng bào vùng cao.
247.
Ý nghĩa ngày Tết Nguyên Đán
Tết
Nguyên Đán là ngày hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến
rộng nhất từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau và là ngày lễ tưng bừng, nhộn nhịp của
cả dân tộc. Từ những thế kỷ trước, từ đời Lý - Trần – Lê, ông cha ta đã cử hành
lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.
Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt
Nam, nó mang đậm nét văn hóa dân tộc sâu sắc và độc đáo, phản ánh tinh thần hòa
điệu giữa con người và thiên nhiên theo chu kỳ vận hành của vũ trụ.
Chữ Nguyên có nghĩa là bắt đầu, chữ đán có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm
của năm mới. Đồng thời, tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người
thân xa gần sum họp, đoàn tụ thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ, tri ân ông
bà tổ tiên.
Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, Tết là do xuất xứ từ
“tiết” (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển
lần lượt các mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, điều đó có ý nghĩa rất đặc biệt đối
với một nước thuần nông như nước ta.
Theo tín ngưỡng dân gian, bắt đầu từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”
người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ các vị thần linh có liên quan
đến nông nghiệp như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước… Người nông dân
cũng không quên ơn các loài vật đã cùng họ sớm hôm vất vả như trâu, bò, gia
súc, gia cầm và các loại cây lương thực, thực phẩm đã nuôi sống họ.
Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, đó là Tết của gia đình, Tết của mọi
nhà. Người Việt Nam có phong tục hằng năm, mỗi khi năm hết, Tết đến dù làm bất
cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả người xa xứ cách hàng ngàn ki-lô-mét vẫn
mong được về sum họp dưới mái ấm gia đình trong ba ngày Tết, được khấn vái dưới
bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà, ngôi mộ, nhìn lại nơi mà một thời bàn chân
bé dại đã tung tăng và mong được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương
nơi chúng ta cất tiếng khóc chào đời. Mấy tiếng “Về quê ăn Tết” không chỉ là
khái niệm đi về, mà đằng sau nó là cả một quá trình hành hương về với cội
nguồn, về nơi chôn nhau cắt rốn. Không thế thì làm sao huỳnh Văn Nghệ có cảm
hứng để lưu truyền cho hậu thế hai câu thơ bất hủ “Từ thuở mang gươm đi mở cõi,
ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.
Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam, ngày Tết xuân là ngày đoàn tụ,
đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau
thành đạo lý chung cho xã hội; tình thầy trò, bè bạn cố tri, ông mai bà mối đã
tác thành cho đôi lứa.. Tết cũng là dịp đúc kết mọi hoạt động liên quan đến một
năm qua, chào đón một năm mới với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng
đồng.
Tết Nguyên Đán là lễ hội truyền thống mang tính toàn dân. Vì vậy vào những ngày
cuối năm, mọi hoạt động đều hướng vào Tết, chuẩn bị cho Tết. Các ngành, các cấp
đều có kế hoạch cho ngày hội đặc biệt này. Từ thương nghiệp đến giao thông vận
tải, văn hóa đến an ninh công cộng, nhất là các ngành dịch vụ thì cứ là “bận
như Tết”. Các công sở, xí nghiệp, trường học cũng đều có kế hoạch tham gia Tết,
đồng thời giải quyết những nhu cầu đặt ra trong nội bộ đơn vị.
Rõ nét nhất là không khí chuẩn bị nhộn nhịp khẩn trương, từ việc mua sắm, may
mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân
ở xa về…
Theo tập tục, đến ngày 23 tháng Chạp là ngày đưa tiễn ông Táo về Trời tâu việc
trần gian thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa, dưới thời phong kiến, từ
triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghỉ lễ từ ngày 23 tháng
Chạp đến ngày khai hạ (từ 7 tháng Giêng).
Ngày nay, trong thời kỳ hiện địa, việc tổ chức nghỉ Tết, vui Tết được quy định
hợp lý, khoa học hơn – Vừa văn minh, lịch sự, không lãng phí thời gian, phù hợp
nếp sống công nghiệp vừa bảo lưu được bản sắc văn hóa dân tộc và ý nghĩa nhân
sinh của ngày Tết thì không có gì thay đổi. Đó cũng là nét đẹp truyền thống văn
hóa dân gian cần được giữ gìn và phát huy.
248.
Tìm hiểu thêm về cái tết....
Tết
Nguyên đán, còn
gọi Tết Ta, Tết Âm Lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết, là dịp lễ
quan trọng nhất trong văn hoá của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh
hưởng văn hóa Trung Quốc khác.
Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch hay Tết Tây, thường rơi vào khoảng cuối
tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch và nói chung kéo dài khoảng 5–6 ngày, tạo
điều kiện cho những thành viên gia đình sinh sống làm ăn ở nơi xa có thể về quê
vui cảnh đoàn viên ít ngày. Nhưng ý nghĩa thiêng liêng nhất của Tết ở chỗ nó là
dịp để người Việt nhớ về cội nguồn, ông bà tổ tiên. Ngày tết đem lại một sự
khởi đầu mới, rũ bỏ những gì không hay đẹp của năm qua nên mọi người đều cố
gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Lòng người nào cũng tràn
đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.
Hai chữ "Nguyên đán" có gốc chữ Hán; "nguyên" có nghĩa là
sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" là buổi sáng sớm. Tết Nguyên đán
được người Trung Quốc ngày nay gọi là Xuân tiết, chữ Tết là từ chữ Tiết), Tân
niên hoặc Nông lịch tân niên
Thời gian cử hành Tết
Ngày đầu năm này cũng gọi là ngày Mồng Một Tết, ngày bắt đầu của một dịp lễ cổ
truyền long trọng nhất trong năm của người Việt. Có những thời điểm trước đây
chuỗi ngày Tết được kéo dài hơn hiện nay, người ta "ăn Tết" (tận
hưởng Tết) đến Mồng Tám, Mồng Chín tháng giêng (tháng một Âm lịch); nói chung
khi nào những công sở, trường học còn nghỉ thì còn Tết. Tết là dịp hội hè vui
chơi sau một năm lao động vất vả, và là dịp để những người tha phương tìm về
sum họp với gia đình, cùng nhau tưởng nhớ đến tổ tiên, cội nguồn. Người Việt
Nam tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho
đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà
cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong
những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn
gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng
nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn
được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài
ngày Tết.
Những nét chính về Tết
Mùa Tết
Từ 23 tháng chạp trở đi là bắt đầu vào thời kỳ rộn ràng của mùa Tết, tính từ
mốc sự kiện "đưa ông Táo về trời" (một nghi thức tiễn đưa thần bếp
lên chầu Ngọc Hoàng báo cáo lại tình hình trong năm của chủ gia) vào ngày này.
Thiên hạ đua nhau nô nức mua sắm các vật dụng, đặc biệt là quần áo và thức ăn
(việc buôn bán mùa Tết thường sẽ chấm dứt từ đúng ngọ ngày 29 hoặc 30 tháng
chạp, từ khi đó lần đầu tiên trong năm, chợ búa trở nên vắng vẻ và các sạp
trống không). Tại những bến xe tấp nập những người tha phương mua vé xe để trở
về quê đoàn tụ cùng gia đình. Không khí lễ mỗi lúc một đầy ngập hơn, người
người ai nấy đều nô nức rộn ràng chuẩn bị đón xuân.
Chợ Tết
Đấy là những chợ có phiên họp chợ vào trước tết từ 25 tháng chạp cho đến 30
tháng chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho
tết nguyên đán, như lá dong để gói bánh chưng, gạo nếp để gói bánh chưng hoặc
nấu xôi, gà trống, các loại trái cây dùng thờ cúng (ngũ quả) để cúng tổ
tiên.... Vì tất cả những người buôn bán hầu như sẽ nghỉ bán hàng trong những
ngày Tết, những ngày đầu năm mới không họp chợ, nên phải mua để dùng cho đến
khi họp chợ trở lại đưa đến mức cầu rất cao. Người Việt có câu "mồng bốn
chợ ma, mồng ba chợ người" nên chợ được họp phiên đầu năm là mồng ba tết
(ngày 3 tháng 01 âm lịch) Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu cầu mua
sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa kiểng, những loại trái cây, đặc biệt là
dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn như mãng cầu, dừa, đu đủ,
xoài v.v. Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước ngọ giao thừa.
Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong
những cái thú đặc biệt.
Hương vị ngày Tết: bốn thức chủ lực "quốc hồn quốc túy"
Khoảng rằm tháng chạp, củ kiệu tươi được bày bán đầy các chợ. Các bà nội trợ
mua về cắt lấy phần củ trắng nõn nà, phơi qua vài nắng cho khô quắt lại rồi cho
vào những ve keo, kế đó cho vào các ve củ kiệu này giấm sôi nấu với đường, xong
đậy kín lại. Vào vài buổi chợ giáp tết họ mua thịt heo mỡ, trứng vịt để chuẫn
bị món dự trữ chủ lực: thịt kho nước dừa; thêm đôi ba xấp bánh tráng, giá để
làm dưa giá nữa là xong. Không ai là người Việt mà không cảm khái thứ hương vị
dân tộc và khó quên ấy: bánh tráng nhúng nước cho mềm, trải ra trên một tay,
cho lên đấy một miếng thịt mỡ, một miếng hột vịt, vài ba củ kiệu, ít dưa giá
rồi cuốn lại, chấm vào tô nước thịt kho dằm miếng ớt. Ngày tết hễ đói bụng, hay
muốn nhậu, ngoài các thứ đều không thể thiếu được "thịt kho, dưa giá, củ
kiệu, bánh tráng"[cần dẫn nguồn]. Phải nhìn thấy chúng, nếm chúng, nuốt
chúng xuống dạ dày mới gọi là thưởng thức được hương xuân trọn vẹn[cần dẫn
nguồn].
Riêng người Bắc, thay vì củ kiệu, một số người dùng củ hành ta với cách làm
cũng tương tự. Ve dưa hành có màu hồng như ngọc, trông rất đẹp và "may
mắn".
Màu của ngày Tết
Chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, màu chủ lực trong ngày Tết vẫn là màu đỏ
theo quan niệm màu đỏ là màu phát tài và may mắn. Ngày Tết của Việt Nam ngập
tràn màu đỏ: câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm
màu đỏ, quyển lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa ánh đỏ
như hồng, mãn đình hồng, hoa đào v.v. Trước đây khi pháo còn được cho phép đốt,
đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ giao thừa
đến rạng sáng Tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết "mồng" mới
thôi.
Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết.
Khái niệm thời gian
Mùa Tết, không ai bảo ai, mọi người đều cùng nhau dẹp bỏ dương lịch và quay trở
sang âm lịch rất tự nhiên, với những khái niệm thời gian trước tết gọi là “hăm”
(ngày 20 tháng chạp âm lịch +): hăm mốt tết, hăm chín tết (nếu rơi vào tháng
chạp thiếu sẽ không có ngày ba mươi tết), sau tết gọi là “mồng”: mồng hai tết,
mồng tám tết... Âm lịch hồi sinh thật kỳ diệu như thể luôn nhắc nhủ mỗi người
Việt Nam về tính dân tộc, cổ truyền của ngày lễ trọng đại, thiêng liêng nhất
này.
Lịch sử
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và
thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng
giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng
chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười
một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên
lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh
loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau.
Đời nhà Đông Chu, Khổng Phu Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng
Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức
tháng mười. Cho đến khi nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng
Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà
vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà,
ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm
sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ tám
mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến
hết ngày mồng Bảy tháng giêng (8 ngày).
Ngày nay, Việt Nam quy định viên chức và công nhân lao động được nghỉ Tết vào
ngày 29 hoặc ngày 30 trước Tết và từ mùng Một đến mùng Ba (tổng cộng 4 ngày).
Việt kiều sinh sống tại Âu Châu hay Bắc Mỹ hoặc chỉ giữ ngày mùng Một hoặc tổ
chức Tết vào ngày cuối tuần gần nhất.
Ngoài ra, người ta thường nói "20 Tết", "15 Tết"... đây chỉ
là nói những ngày ảnh hưởng do những công việc để chuẩn bị đón Tết hay dư âm
còn lại của những ngày Tết.
Nguyên nghĩa của Tết chính là "tiết". Văn hóa Việt – thuộc văn minh
nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia"
thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một
thời khắc "giao thời") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu
của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết
đến là Tết Nguyên Đán.
Ngày nay, cùng với người Hoa, người Việt, các dân tộc khác chịu ảnh hưởng của
văn hoá Trung Hoa như Triều Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, Nepal, Bhutan, H'mông
Trung Quốc cũng tổ chức Tết âm lịch và nghỉ lễ chính thức. Trước đây Nhật Bản
cũng cử hành Tết âm lịch, nhưng từ năm Minh Trị thứ 6 (1873) họ đã chuyển sang
dùng dương lịch cho các ngày lễ tương ứng trong âm lịch.
Tất Niên
Đối với Tết cổ truyền, dịp tất niên là lúc mọi nhà chuẩn bị cho Tết, mua tích
trữ thực phẩm và đồ dùng thiết yếu. Lý do là nhiều hoạt động mua bán sẽ bị
ngưng trệ trong và sau Tết, chừng một vài ngày đến một tuần, do mọi người đều
nghỉ ăn Tết. Nhu cầu mua sắm vào dịp này cũng một phần là vì các nhà thường
chuẩn bị tài chính cho dịp Tết từ năm cũ. Những nhà làm nghề nông cũng tích trữ
vật nuôi hay hoa màu từ trong năm cũ cho dịp Tết.
Bước vào bất cứ nhà nào trong thời điểm cuối năm cũng có thể nhận thấy ngay
không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến
việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa
về... Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng, đông con
cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.
Cúng bái
* Sắp dọn bàn thờ – Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên,
ông bà (hay còn gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn
thờ khác nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã
khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai
bát hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với
nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm "cành vàng lá
ngọc" (một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn
bán lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc
trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt
xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ
mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của
nó), phía trước bát hương để một bát nước trong với ý nghĩa để các cụ rửa chân
tay sạch sẽ về đón tết cung con cháu[cần dẫn nguồn]. Hai cây mía đặt ở hai bên
bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên
trời về hạ giới...
* Cúng ông Táo – theo quan điểm của người Việt thì ông Táo là người ghi chép
tất cả những gì con người làm trong năm và báo cáo với Ngọc Hoàng. Ngoài ra,
ông Táo còn đại diện cho sự ấm no của một gia đình. Ông Táo được cúng vào ngày
23 tháng chạp Âm lịch hàng năm. Lễ cúng ngoài hương, nến, hoa quả, vàng mã còn
có hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà và con cá chép, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt
qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp Ngọc Hoàng.
* Cúng Tất niên: lúc đầu được hiểu như là hoàn tất (công việc) trong năm, tức
cúng các tổ nghề đã phù hộ cho công việc làm ăn, nhưng vì không phải thợ nào
cũng có vị tổ nghề rõ ràng nên dần dà, mọi người đều cúng. Lễ cúng này thường
vào các ngày từ sau 23 đến 29 hoặc 30 Tết.
Giao thừa
* Cúng Giao thừa hay lễ Trừ Tịch: Theo tục lệ cổ truyền thì "giao
thừa" được tổ chức nhằm đón các thiên binh. Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ
giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được
đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Mâm lễ được sắp bày với lòng thành tiễn đưa
người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người mới xuống làm nhiệm vụ cai
quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương
nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng
thành của chủ nhà. Trên chiếc hương án có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai
ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau,
hoa quả, rượu nước và vàng mã. Đôi khi có thêm chiếc mũ của Đại Vương hành
khiển. Lẽ trời đất có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có
kết thúc. Bắt đầu vào lúc giao thừa, và cũng kết thúc vào lúc giao thừa. Theo
Từ điển Hán-Việt của Đào Duy Anh, giao thừa nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy.
Cao đài Từ điển giải nghĩa trừ tịch thì trừ: bỏ đi, bớt ra, cuối năm; tịch: đêm
và Giao thừa thì giao: giao tiếp và thừa: tiếp tục.Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ
hết đi những điều xấu của năm cũ để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến.
Lễ trừ tịch còn là lễ để " khu trừ ma quỷ".
* Sau khi cúng Giao thừa xong, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần cai
quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái) để
xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ở Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và
thờ ở dưới đất. Sau khi cúng xong, xem như Tết thực sự đã đến với gia đình.
* Pháo Tết:
Trước đây, đúng vào phút Giao thừa, mọi người thường đốt pháo Tết. Theo lời
truyền miệng dân gian, pháo được cho nổ vào dịp năm mới để xua đuổi ma quỷ của
năm cũ (vì người xưa đã tin rằng ma quỷ sợ tiếng động lớn) và chào đón năm mới.
Pháo càng dài và lớn, nổ càng lâu, kêu càng to, cháy ra nhiều xác phác pháo và
cháy hết thì càng được cho là điềm lành của năm mới. Tuy nhiên do nguy cơ cháy
nổ, sát thương và ô nhiễm môi trường mà từ ngày 1 tháng 1 năm 1995, pháo Tết đã
bị cấm ở Việt Nam. Nay được thay thế bằng bắn pháo hoa do nhà nước Việt Nam tổ
chức, hiện chỉ ở các thành phố lớn do giá thành còn đắt.
Tân Niên
* Xông đất: (Miền Bắc gọi là "xông đất", nhưng miền Trung dùng
đúng tên cổ tục này là "đạp đất".) Người Việt quan niệm ngày mồng Một
Tết, nếu mọi việc xảy ra suôn sẻ, may mắn thì cả năm cũng sẽ được tốt lành
thuận lợi. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan
trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay
láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm.
Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng năm mười phút chứ không
ở lại lâu, hầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông
suốt. Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được
xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm
tới. Thời xưa chỉ có 2 cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm
quan, người có học chọn người xông đất có tuồi hợp tuổi với chủ nhà. Người xông
đất phải là đàn ông trụ cột trong gia đình. Đối với người dân lao động thì đơn
giản hơn nhiều: Người được chọn xông đất phải khoẻ mạnh, tốt tính, và gia cảnh
khấm khá, hoà thuận.
* Chúc Tết: Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà
tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan
niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổị, bởi vậy ngày mồng Một Tết là
ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ
thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là thêm 1 tuổi).
Lì xì
* Lì xì :người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay
"hồng bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no,
chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng
tiền (là Bát Tiên hoá thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy
nhiễu.
* Xuất hành và hái lộc: "Xuất hành" là đi ra khỏi nhà trong
ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành,
người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý
thần, tài thần, hỉ thần... Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người
Việt còn có tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy
phước. Đó là tục "hái lộc". Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề,
cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các
nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới.
Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có
tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ
nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.
* Thăm viếng họ hàng – để gắn kết tình cảm già đình họ hàng v.v. Lời
chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn
đều thành công...; những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau "tai
qua nạn khỏi" hay "của đi thay người" nghĩa là trong cái họa
cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành
Dọn dẹp, trang trí
Mâm Ngũ Quả
Mâm ngũ quả là một
mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết
Nguyên Đán của người Việt. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của
gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.
Cây nêu
Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy
theo từng điạ phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện
bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời),
giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những
chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau
tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai... Người ta tin rằng những
vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo
hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu...
Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường
về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng
năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được
dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho
tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy
nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được
hạ xuống.
Bớ
lũ quỷ kia, tớ dựng cây nêu ngán chửa?
Hỡi bầy trẻ nọ, bay nghe tiếng pháo mừng không?
Tranh tết
Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư...
có khi là một chữ Nho (chữ Tâm, Phúc, Đức...).
Câu đối tết
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới
những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối
đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay
vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ.
Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:
Thịt
mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Hoa tết
Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí
trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu
xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc
phúc đầu xuân.
Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hơn, màu vàng tượng trưng cho
sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong
kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ
nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi
giống. Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng
có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như
hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ...; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa
hồng, hoa thuỷ tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet...
* Cây quất: Thường được trang trí tại phòng khách, cây quất với lộc xanh mơn
mởn, hoa trắng lốm đốm, quả chín vàng ươm, tròn trịa, sum suê tượng trưng cho
sự sinh sôi, thịnh vượng, tràn đầy, viên mãn kết quả.
Ẩm thực ngày Tết
Thành ngữ Việt Nam có câu "Đói giỗ cha, no ba ngày Tết". Tết đến, dù
nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay giật, xoay xở để có đủ ăn trong ba
ngày Tết. Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người mà nhất
là trẻ em, được ăn uống no nê, không những thức ăn ngon mà lại rất nhiều. Vì
vậy mà người ta đã gọi là "ăn Tết". Ngoài cơm, ngày Tết còn có:
* Bánh truyền thống: bánh chưng, bánh dầy, bánh tét... Đây là các loại bánh đặc
trưng cho phong tục ăn uống ngày Tết ở Việt Nam. Bánh chưng và bánh giầy còn
được gắn với các sự tích cổ của các vua Hùng, tổ tiên của người Việt.
* Cỗ Tết: dịp Tết người Việt thường tổ chức ăn uống lớn, gọi là ăn cỗ. Các món
cỗ trong nhiều gia đình có thể có bóng bì, canh măng, chân giò có nấm hương,
miến nấu lòng gà, xôi gấc, xôi đỗ, thịt gà, thịt đông, món xào, giò lụa, giò
mỡ, nộm, dưa hành muối...
* Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng và để dọn đãi khách. Mứt có rất
nhiều loại như: mứt gừng, mứt bí, mứt cà chua, mứt táo, mứt dừa, mứt quất, mứt
sầu riêng, mứt mít, mứt khoai, mứt hạt sen, mứt chà-là...Kẹo bánh thì đa dạng
hơn như: kẹo thèo lèo, kẹo dừa, kẹo cau, kẹo đậu phụng (kẹo cu-đơ)...Ngoài ra,
Tết còn có hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương, hạt điều, hạt dẻ rang...
Những tập tục, sinh hoạt ngày tết
* Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà
phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này
thường kết thúc vào ngày cuối năm. Đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay
quần áo mới để làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ,
cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hi vọng và
niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.
* Dọn dẹp nhà cửa trước Tết, do tục kiêng cữ quét nhà trong ngày Tết. Theo quan
niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân (xác
pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà sẽ bị rông cả năm.
* Sêu Tết, miền Nam gọi là "đi tết", là nghĩa vụ phải làm trước Tết
của chàng trai sau lễ hỏi và trước lễ cưới. Sau lễ hỏi chàng trai chính thức là
rể chưa cưới và có bổn phận đối với nhà gái. Bổn phận này bao gồm phải có
"sêu tết" và đôi khi có việc đi làm rể. "Sêu" có nghĩa là
mùa nào thức ấy, chàng trai phải mang lễ vật sang biếu bố mẹ vợ chưa cưới.
* Đối với nhiều người Việt, dịp tất niên là dịp trả nợ cũ, xóa bỏ xích mích của
năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẻ hòa thuận hơn.
* Vào ngày 30 Tết, người Hà Nội còn có thói quen đi mua lá mùi già về để tắm
tất niên đón chào năm mới. Đó là loại cây lá và thân ngào ngạt mùi hương rất
thơm, thường có nhiều vào dịp Tết, mùi thơm của cây mùi già luôn gợi nhớ tới
ngày Tết.
* Đầu Xuân, người có chức tước khai ấn; học trò, sĩ phu khai bút; nhà nông khai
canh; người buôn bán mở hàng lấy ngày... Sau ngày mùng Một, dù có mải vui cũng
chọn ngày để "Khai nghề", "Làm lấy ngày". Nếu như mùng Một
tốt thì chiều mùng Một bắt đầu. Riêng khai bút thì Giao thừa xong, chọn giờ
Hoàng đạo không kể mùng Một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai
thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình một sản phẩm, một dụng cụ gì đó.
Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc
dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân.
* Các trò chơi dân gian như, bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương,
hát chèo, đánh đu, thi leo cột mỡ; bài chòi và nhiều loại bài bạc cổ truyền
khác.
* Các lễ hội truyền thống khác như thi đấu cờ người; đua thuyền, đấu vật, đánh
còn, múa lân, múa rồng, thi thả chim bồ câu... tuỳ theo mỗi địa phương các lễ
hội này có thể được tổ chức hay không.
* Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không
được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết thì tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, chắn,
tổ tôm... ai thích trò nào chơi trò ấy. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam
cúc, cất bộ tổ tôm...hoặc đốt luôn hoá vàng.
* Cúng đưa, hạ nêu: Trong những ngày Tết, người Việt quan niệm rằng có sự hiện
diện của Ông Bà tổ tiên nên bàn thờ luôn được thắp hương và cúng cơm mỗi ngày.
Thường thì chiều mồng Ba cúng tiễn đưa Ông Bà, chiều mồng Bảy cúng hạ nêu.
* Đi viếng lễ chùa xin xăm: Không ai biết chắc chắn phong tục này có từ bao giờ
và tại sao nhưng trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi
lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm nhất là vào buổi sáng mồng
một, phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành
và hái lộc. Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo
trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm.
* Đốt pháo:thường hay có trong dịp cúng tất niên hay thời khắc giao thừa ngày
tết cổ truyền. Nay gần như không còn vì pháo đã bị cấm do tính chất nguy hiểm
dễ gây sát thương của nó. Xem thêm Bánh pháo.
Tín ngưỡng
Điềm lành
* Hoa mai: sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn
thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh.
* Chó lạ vào nhà: Tục ngữ "Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì
sang".
* Cây đào: Nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình
dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc.
* Cây quất: Nếu cây có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có
đủ Tứ quý: Quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm.
Kiêng kỵ
Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả
năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người, do đó, người Việt
có một số kiêng kỵ như sau:
Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho
vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải
tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ
cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi
bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia
đình bất hạnh.
Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể
định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, đa số các gia đình kiêng
để sang ngày mùng Một đầu năm. Trường hợp chết đúng ngày mùng Một Tết thì chưa
phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng Hai làm lễ phát tang.
* Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình, vì quan
niệm lửa là đỏ là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng Một Tết thì cả
năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may như làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng
củng, ra đường hay gặp tai bay vạ gió v.v.
* Trong ngày này, người ta kiêng quét nhà vì theo một điển tích của Trung Quốc,
nếu quét nhà thì năm đó gia cảnh sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Khi hốt rác trong
nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất.
* Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay
trả nợ, cho vay.
* Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt... Nếu ăn những
thứ này bào dịp đầu năm hay đầu tháng sẽ xúi quẩy
* Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được đánh vỡ
bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với
gia đình.
* Người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết.
* Ngày mồng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày nguyệt kỵ, người Việt thường tin rằng
ngày này không thích hợp cho xuất hành. (Ca dao: "Mồng năm, mười bốn hăm
ba. Đi chơi cũng lỗ lọ là đi buôn.")
249.
Tục "giỗ sống" của người Nguồn
Người
Nguồn ở Quảng Bình là một dân tộc có khoảng 3,5 vạn người, hiện cư trú ở khắp
các xã Minh Hoá, Tuyên Hoá. Con cái đã lập gia đình riêng thì mỗi lần Tết đến
đều phải làm một mâm cỗ có đủ các thức ăn của ngày Tết, đem đến nhà cha mẹ mình
(cả nội lẫn ngoại) và mời cha mẹ ăn Tết trước vào cuối tháng 11 (âm lịch),
không quá ngày 25 tháng Chạp. Con cái trong gia đình phải thống nhất một cái
lịch "giỗ sống" cho hợp lý, tránh tình trạng chồng chéo lên nhau.
sưu tầm
Trăm năm trước thì chưa gặp
Trăm năm sau biết gặp hay chăng?
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống cho vừa lòng nhau!
250.
Một chút phong tục, nghi lễ của người dân đi biển, kể từ quảng trị mà
vào miền nam
Sau
Tết Âm lịch là những dân bạn biển bắt đầu vào nghề. Nhưng trước đó họ đã chuẩn
bị đồ nghề của họ một cách kỹ càng. Vá lưới, lật đít ghe mà sơn sơn phết
phết... xem lại dàn đồ câu, lưỡi móc có bén hay không... Khi Tết đến, lúc đó là
vừa hết mùa Đông, nhưng biển vẫn còn gào thét ầm âm nơi xa. Ba ngày Tết trôi
qua, không hẹn mà nên mọi ngư dân từ sông Gianh (Quảng Trị) cho đến Rạch Giá,
Kiên Giang đều mong đến ngày làm một buổi lễ long trọng hơn lễ Tết nữa. Người
ta gọi là lễ Cúng Ông, hay nôm na hơn là lễ hát Án. Họ hát bội trên sân đình
thờ Ông. Ông đây là Nam Hải Đại Tướng Quân... nghĩa là Cá Voi lớn... Nhiều
người ngoại quốc, tuy hiểu lờ mờ về buổi lễ này nhưng khi chứng kiến sự thành
tâm của ngư dân với một loài cá lớn hơn Voi, mình mẩy đen bóng lưỡng, con mắt
thật nhỏ nhưng hiền hòa khác xa mắt cá mập lừ đừ sát nhân. Còn trong khi đó
cũng cùng mang danh biển Thái Bình, nước Nhật họ lại săn cá Voi làm thực phẩm
thuộc loại cao cấp nhất trong loại cá cho thịt ngon.
Hát chầu Ông, hay hát Án là một nghi lễ đặc biệt cho ngư dân thuộc miền Nam
Trung Phần, diễn ra trên sân đình hay lăng thờ Ông. Lễ thường diễn vào tháng 2
hoặc tháng 3 âm lịch. Hát cúng Ông (hay hát Án) gồm cả hát lễ và đóng tuồng
tích nếu phường hộ ngư dân nào khá giả, còn nếu nghèo thì chỉ hát lễ mà thôị
Nhiều gánh hát thường đi xe ngựa, xe thồ hay cả chiếc xe đò nhỏ đến những nơi
mà ngư dân phường ngư nghiệp đặt mối từ năm trước. Một buổi lễ hội mà du khách
phương xa khi đến dự, đời đời không bao giờ quên được.Trên xuân đình Xương
Huân, duyên hải Nha Trang, hàng trăm người chen chút ngồi xếp bằng, chồm hổm có
gió Lào thổi từ núi ra, nóng rát cả mặt... Họ đang say mê xem đoàn hát diễn
tuồng tích kéo dài từ 3 ngày qua, từ sáng, đến trưa, rồi sẩm tối. Mệt thì nghỉ,
ăn cơm hay ăn chút cháo cá, rồi ra sân đình xem tiếp ít khi phường này mời được
2 đoàn hát đến trình diễn...
Ngư dân tuyệt đối không bao giờ đụng đến chiếc ghe hay chiếc thuyền mà ra khơi,
nếu không tham dự lễ cúng đình. Ghe lớn thì lễ hậu, có khi do cả một giòng họ
khấn trả lễ... Rồi một đình trưỡng tụ tập tiền lễ này mà mướn đoàn hát làm lễ.
Có khi, trường hợp đặc biệt... Ông lụy... thì cả làng đều phải tiếp người con
trưởng mà hành lễ. Người con trưởng, có nghiã là một ngư dân nào đó thấy Ông
lụy trước hết... Nghèo ba năm, vì phải cư tang không làm việc... Sau đó Ông trả
lại gấp bội phần, đánh chỗ nào thì trúng cá chỗ đó... toàn là cá ngon, đắt
tiền.
Từ bãi biển Đại Lãnh đến Cam Ranh (Khánh Hòa) đã có đến 50 lăng thờ Ông... Đi
càng xuống phương Nam thì có khá nhiều lăng. Lăng của Ông thường là ba gian.
Giữa thờ Ông, bên trái thờ Thiên Y Thánh Mẫu, bên phải thờ bà Vạn Lạch... Phía
sau lăng là nơi mộ táng xương Ngài.
Ngày trước, thời Pháp nền kinh tế mần ăn dễ dàng, thuyền ghe ra khơi là có cá,
không ai dùng mìn nổ, hay thuốc độc đánh cá... nên chỗ nào cũng có cá. Có làng
cúng lễ suốt 7 ngày 7 đêm liên tiếp, hàng quán ăn mọc lên khắp nơi, xe đò xe
kéo nhộn nhịp... Ngày chánh lễ cúng Ông, thường do bô lão chọn xem lịch, đôi
khi còn xin âm dương... nhưng thường thường chọn giờ nước lên (gọi là nước
trào). Thoạt tiên, cả làng ăn mặc tề chỉnh làm lễ rước sắc phong của vua ban từ
miếu về đến lăng, làm lễ xong thì rước sắc từ lăng trở về miếu... nơi này có
ông từ trông coi miếu ngày đêm. Lương tiền có khi từ vua xuất quỹ làng mà trả,
có khi làng mới chưa được vào sổ bộ của triều đình, nên dân làng dóng nhau trả
lương cho ông từ giữ miếu. Làng mới lập làm gì có sắc phong... thôi đành...
mượn làng kế vậy. Mượn thì phải trả lễ, nói nôm na là trả tiền thuê bằng sắc
vậy... Nếu làng kế bên giận... thì rất khó mượn cho kỳ sau, đành làm lễ... trơn
vậy thôi. Có nhiều làng ở xa đường xá, nghĩa là ngăn sông cách núi... thì bàu
đoàn thê tử phải gồng gánh đến trình diễn buổi lễ, người phải khiêng trống,
chiêng, giáo mác, người khiêng rương đựng áo quần sặc sở, phấn son. Người
khiêng gồng gánh nồi cơm, ô nước vv... vv... Hát đình rất cực khổ, nhiều nơi
đình không ra đình, chùa không ra chùa... chỉ có nóc mà ngói bị gió bão từ khơi
thổi mất một khúc, phải giăng màn, ngăn một phần trước cho diễn viên đang múa
hát, dàng sau thì đào đang thoa son điểm phấn thì cơn gió mạnh thổi giựt mất
tấm màn... lòi ra đào đang đứng sượng trân ngó khán giả, còn khán giả thì cười
ngoặt nghẽọ.. có khi gió thổi tốc cả cát biển vào miệng đang hả họng mà hát cho
xong một khúc hát ân tình.
Diễn viên thì đủ mọi hạng người, có người làm nông dân, làm rẫy... bị thất bất
sang bang, nghe rủ cần đào hát ăn cơm miễn phí thì đồng ý liền. Nhưng đi liền
chừng hai năm... thì bị tổ nhập nghiệp không cách chi bỏ nghề được hết rồi có
chồng, có con cũng dẫn theo đoàn hát luôn.
Nhưng khi hát trên một sân đình, có tuồng tích hẳn hoi trước báo oán hậu đoàn
viên có khi được một sự linh thiêng huyền bí nào đó nhập về hát như say ngũ thì
lúc đó dân làng cũng bị hớp hồn luôn, ngó trân trân... chính họ cũng bị ảnh
hưởng bởi bầu không khí huyền hoặc. Nhiều điều không thể giảng theo khoa học
được... như có lần giữa biển khơi, vào trưa nắng gắt... chân trời không có một
chút mây mù gì báo điềm hết, mà bỗng nhiên thiên hồn địa ám, bàn tay xòe ra
cũng không thấy được tất cả đen nghịt, bầu ttrời không có và biển cả cũng không
có luôn, ghe xuồng tự nhiên được lực vô hình nào đó kéo chạy phăng phăng. Trái
tim mọi người như vỡ tung ra... không thở được, phổi bị ép cực mạnh bởi một sức
mạnh khôn tả. Niệm Phật, niệm Chúa... vô ích. Rồi sau đó bỗng nhiên bầu trời
sáng chói chang về trưa ngọ như cũ thì lưới cá nhiều, trĩu nặng vô cùng...
Thuyền công vội vào khoang lấy một loại cũi dầu... đốt cho khói bốc lên cao...
đó là kêu những ghe gần đó đến ăn hàng tiếp... trên khơi sóng nước, ghe xuồng
tấp nập... Mọi người la hét vui cười, cá về... cá về... cám ơn Ông cho, cám ơn
Ông cho... lần sau tụi con... xin cúng lớn cho Ông... Lời hứa luôn luôn được
tôn trọng... vì ngư dân họ đã gặp những giây phút kỳ bí ấy rồi, họ không dám
giỡn mặt với biển cả ngàn trùng. Núi có Sơn Thần, Biển có Long Vương... vào
nghiệp thì phải theo luật pháp của chư vị mới được... không một ai được sai
trái.
251.
Phong tục của dân tộc ca dong quảng ngãi
Ca
Dong là một nhánh của dân tộc Xơ Đăng ở bắc Kon Tum. Ở Quảng Ngãi ngưòi Ca Dong
cư trú chủ yếu ở huyện Sơn Tây, cực tây tỉnh. Người Ca Dong sinh sống chủ yếu
bằng nương rẫy và làm ruộng, làm vườn, săn bắn, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Người Ca Dong có nghề dệt cỗ truyền, các mô típ hoa văn trang trí đẹp. Người Ca
Dong còn nung được quặng cục, quặng cát thành thép thỏi để rèn công cụ sản xuất
và săn bắn. Người Ca Dong ở theo thành từng làng, mỗi làng có một cộng đồng gồm
những người cùng hay không cùng huyết thống, có nhiều nóc nhà. Tất cả chủ nóc
họp thành Hội đồng già làng, đứng đầu là những người có uy tín nhất.
Gia đình Ca Dong là gia đình song hệ (tính theo phía mẹ và phía cha). Đồng bào
không có thuật ngữ riêng để chỉ dòng họ mà đặt phụ âm đầu của tên để phân biệt
dòng họ như (tr, p,…) tên của mỗi người kèm theo một bổ ngữ chỉ giới tính.
Người Ca Dong có quan hệ bình đẳng nam nữ, không phân biệt đối xử con riêng,
con chung, con nuôi, con đẻ; phổ biến tục kết nghĩa anh em.
Quan hệ hôn nhân của người Ca Dong theo nguyên tắc nam nữ tự do tìm hiểu, kết
hôn, tôn trọng tập tục hôn nhân. Hôn nhân theo chế độ cư trú hai bên. Quan hệ
tính giao ước hôn nhân bị cấm ngặt. Tội hủ hoá bị phạt vạ nặng, thậm chí vợ
chồng sinh con năm đầu mới cưới cũng xem như ngoại tình. Chế độ một vợ một
chồng đã bền vững, vợ chồng thường thuận hoà, ít khi bỏ nhau, ít khi có ngoại
tình. Người Ca Dong không chấp nhạn hôn nhân giữa những người cùng huyết thống
trong phạm vi ba đời cả phía cha và phía mẹ. Hai gia đình thông gia với nhau, thường
tiếp tục gã con cái cho nhau. Nguyên tắc hôn nhân lưỡng hợp còn dấu ấn, tục lệ
lấy đôi thịnh hành, nhưng ít khi hai anh em ruột lấy hai chị em ruột mà thường
là em gái của chồng lấy em trai của vợ.
Người sản phụ đến kỳ sinh đẻ phải tự lo lấy mọi việc. Trước đây có tục sản phụ
chẳng may chết trong vòng ba ngày sinh con thì người ta chôn luôn đứa con vì
cho rằng chưa hết ở cử, chẳng may thai bị chết khi chưa đứt rốn thì khôngđược
chôn, phải buộc trên gốc cây nơi hoang vắng.
Người Ca Dong cho rằng người chết vẫn còn có thể quấy phá. Vì vậy, khi người
chết còn để ở nhà, mọi việc ăn uống cúng tế đều phải dành phần cho người chết .
Là cư dân nông nghiệp, tộc người Ca Dông có những lễ thức tín ngưỡng, chủ yếu
là thần mặt trăng (y-cô, y-ca), cầu mong các siêu thần linh phù hộ che chở cho
cuộc sống yên lành, mùa màng tốt tươi. Vị thần lúa gắn liền với những nghi thức
long trọng. Bà chủ nóc là người duy nhất được chăm sóc đến các lễ thức liên
quan đến hồn lúa. Hồn lúa theo quan niệm thường trú ngụ vào một giống lúa xưa
nhất. Giống lúa này được tỉa riêng ở mảnh đất thiêng trên rẫy. Mỗi người trong
gia đình phải tự tay trồng một bui sát bên chòi trước khi dọn rẫy tỉa lúa. Lúa
này được cắt bông đem về trước khi suốt lúa rẫy để dùng vào lễ cơm mới. Sau khi
tỉa lúa xong, lúa giống thừa không được đổ vào kho mà giả thành gạo nấu cơm ăn,
ăn xong nhảy múa cho đói rồi laị ăn cho kỳ hết trong vòng 5, 3 ngày. Ăn không
hết phải đổ bỏ. Khi thu hoạch lễ đưa hồn lúa từ rẫy về nhà kho rất được coi
trọng. Những nơi qua suối đều phải bắc cầu hoặc căng dây chỉ (tượng trưng) cho
hồn lúa đi qua. Ở những ngã ba đường phải cắm cây sống làm dấu chỉ đường cho
hồn lúa. Nhà kho phải bắc cầu cho hồn lúa lên. Chổ nghỉ ngơi của hồn lúa phải
được sửa soạn chu đáo. Người Ca Dong cho rằng hồn luá sợ nước, khi tiến hành
nghi lễ phải để cho lúa không dính nước. Những tổ chức trên được tổ chức theo
chu kỳ làm rẫy hàng năm .
Người Ca Dong cho rằng ngày chẵn là ngày xấu, ngày ma đi; ngày lẻ là ngày tốt,
ngày người đi, nên các lễ thường dược làm vào ngày lẻ, trong ăn uống cũng tôn
trọng số lẻ 1,2,3,5,..và thường chỉ dùng tay phải, còn tay trái dùng để cấu thức
ăn ném cho hồn người chết.
Người Ca Dong cho rằng hạn hán là thần sấm sét lãng quên, phải cầu xin để nhắc
nhở, nếu không kết quả thì phải “chọc tức” để thần mưa xuống. Có nơi đồng bào
nhúng ổ chim sẻ non xuống nước, nhét phân trâu vào tổ ong cho ong không ra
được, kêu điếc tai thần, hoặc bắt cóc trói lại khiêng đi để cho thần sét xót
thương. Thu hoạch xong, đồng bào tổ chức sửa sang máng nước, dựng nêu, làm lễ
cúng ở máng nước, cầu mong một năm mới thịnh vượng hơn. Máng nước tượng trưng
cho cả làng. Cúng máng nước là hình thức cố kết cộng đồng, cả làng góp đồ cúng
đến cúng và ăn chung ở máng nước, rồi về tổ chức ăn ở nhà, Người có uy tín nhất
trong làng đứng ra cúng thần và các siêu linh khác, cầu xin cho dân làng được
khoẻ mạnh, mùa màng tốt tươi, gia súc phát triển. Người ta chăng dây, mắc dây
kiêng, không cho người lạ vào khi lá chưa khô. Tết Cà Dong kéo dài cả tuần.
Trong tết có tục “nhảy co” nhảy múa xung quanh bếp lửa, gần chổ thờ cúng tổ
tiên, tungvãi cơm nếp đun trong ống nứa, chiêng trống nổi lên, họ ca hát, reo
hò, cầu mong sang năm mùa màng tốt tươi, lương thực dư thừa. Trong ngày tết
không được để hết cơm trong nồi - biểu hiện của sự đầy đủ, sung túc.
Cả làng còn giết trâu mở tiệc nhân dịp chiến thắng kẻ thù hay sau nhiều lần
thất thoát, mất mùa, bại trận, dịch bệnh,…để cầu xin sự yên lành may mắn.Cây đa
được người Ca Dong cho là có thần linh trú ngụ, tượng trưng cho sự trường sinh
bất tử. Họ thường lấy lá đa treo vào tóc trên đầu, mong ước được sống vĩnh
hằng.
PHONG
TỤC CỦA DÂN TỘC HRE
Dân tộc Hre cư trú ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long (Quảng Ngãi) và An Lão
(Bình Định). Tiếng Hre thuộc ngôn ngữ Môn-khme. Người Hre chủ yếu sống bằng
nghề làm lúa nước và nương rẫy. Săn bắn, hái lượm, đánh cá, rèn là những nghề
phụ nhưng có ý nghĩa đáng kể. Người Hre định canh thành từng làng (plây), ở nhà
sàn. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, mỗi làng đều có già làng đứng đầu
1. Cưới xin:
Nguyên tắc một vợ một chồng đã được xác lập, dưới chế độ cũ, một số ít người
thuộc tầng lớp trên có hai, ba vợ. Một số người lấy vợ hai do hiếm con. Tập tục
cho phép vợ goá lấy em trai chồng, chồng có thể lấy em gái vợ.
Anh chị em con cô, con cậu, con dì con vợ cả, con vợ hai, con cùng mẹ khác cha
đều không được đặt quan hệ hôn nhân với nhau. Quan hệ luyến ái trái ngược với
phong tục thì bị phạt nặng, loạn luân bị coi là trọng tội. Trong cưới xin cũng
có người mai mối. Hôn nhân của người Hre không mang tính chất mai mối. Hôn nhân
của người Hre không mang tính chất mua bán. Hiện tượng kết hôn với người khác
tộc chưa phổ biến, nhưng đang phát triển dần, nhất là những người xen cư, kế
cận với người Việt, Xơ Đăng, Cor. Tuỳ theo hoàn cảnh thực tế của gia đình mỗi
bên mà chàng rể có thể về nhà vợ hay cô dâu về nhà chồng. Khi vợ chồng sinh con
đầu lòng thì tách khỏi cha mẹ, làm nhà riêng, thành đơn vị kinh tế độc lập.
Đám cưới thường được tổ chức vào dịp cuối năm , lúc rảnh rỗi và no đủ. Bên nào
đón người về (làm dâu hoặc ở rể) thì tổ chức nghi lễ lớn hơn. Họ mở tiệc mặn,
có rượu cần, trò chuyện và ca hát vui vẻ. Gia đình chuẩn bị sẵn một bếp dành
làm nơi ngủ cho đôi vợ chồng mới. Tại đây diễn ra những nghi thức tượng trưng
cho sự gắn bó vợ chồng. Hai người trao cho nhau miếng trầu, bát rượu, quàng
chung một vòng chỉ. Trường hợp đón dâu, nhà trai cử một cô gái đi đón về, nhà
gái cho một cô gái tiễn đưa. Cô dâu về nhà chồng qua cửa mang (cửa thông với
phần trong nhà). Đêm đầu người tiễn đưa ở lại ngủ cạnh nàng dâu (hoặc chú rể).
Sáng hôm sau đôi tân hôn quay trở lại nhà bố mẹ vợ hoặc chồng, rồi họ trở về
nơi cư trú đã định trước.
Sinh
đẻ:
Gần đây, vợ chồng người Hre có xu hướng thích con trai hơn. Suốt những tháng
mang thai, phụ nữ kiêng cử, cầu cúng nhiều với hy vọng sinh đẻ dể dàng, đứa trẻ
lành lặn, dể nuôi. Người phụ nữ đẻ ngay bên bếp, một vài chị em thân cận và bà
mụ được mời tới cúng và hộ sinh. Đứa bé được cắt rốn, tắm rữa. Họ gói kín nhau
vào mo cau đem để trong hang đá, hoặc dưới gốc cây rừng, hoặc chổ cạnh nhà.
Trong khoản vài chục ngày sau khi đẻ, người mẹ nghỉ việc, kiêng ăn cá niêng,
trứng, ớt, chuối, thịt gà trắng, thịt trâu.
Đứa bé đầy tháng thì làm lễ đặt tên, tránh trùng tên hoặc vần với những người
trong họ hàng. Đồng bào quan niệm ma quỷ có thể làm con họ chết yểu, nên thường
dùng tên xấu xí. Cùng với việc lấy họ như người Việt, người Hre đã tiếp thu từ
“thị” trong tên nữ và từ “văn” trong tên nam. Thường ngày, người lớn không gọi
thẳng tên trẻ con mà dùng đại từ thay thế để xưng hô: con trai là “éo”, con gái
là “yên”, như người việt gọi “thằng cu”, “con gái”.
.
Tang ma:
Người chết bình thường tại nhà thì đặt ở tư thế nằm ngửa trên phần sàn vẫn ngủ
khi sống, rửa mặt bằng nước lã, mặc hai, ba lớp quần áo, rồi quấn chiếu hay đặt
vào hòm. Khi một gia đình có người qua đời thì họ hàng thân thuộc và cả dân
làng đến giúp lo ma chay. Nếu gia đình chưa chuẩn bị hòm thì một nhóm đàn ông
vào rừng kiếm gỗ làm hòm. Những người khác đi lấy gỗ, cỏ tranh, dây làm nhà mồ,
hoặc mổ heo, trâu giúp chủ nhà làm cơm đãi khách. Con vật hiến tế được coi là
dành cho người chết. Người Hre làm hòm bằng thân cây đục rỗng khá công phu,
giống như chiế thuyền độc mộc, có ván thiêng đậy lên trên. Nhà giàu thường để
xác người thân ba, bốn ngày, đâm trâu linh đình. Nhà nghèo thường để sau một
ngày đã đem chôn. Nếu người chết là chủ gia đình thì đưa ra ngoài theo cửa phía
đầu nhà, nếu là thành viên khác trong nhà thì đưa qua cửa bên.
Người Hre quan niệm, ban ngày ở dương gian là ban đêm ở cõi âm, nên có tục đốt
xác ong để dẫn đường khi đưa tang. Tục chia của cho người chết, nhiều loại, có
loại đặt trong hòm như quần áo, cơm , thịt, bạc, trầu, có loại chôn ngoài như
con gà, cái ché, có loại đặt trên mặt đất như dao, bếp, nồi, củi, gùi…
Người Hre không có tục để tang. Sau khi chôn cất, người thân nghỉ việc ruộng
rẫy vài ba ngày, không ca hát, hội hè gì. Năm hôm sau lễ chôn cất, người nhà
đem một con gà nhỏ ra cạnh làng để cúng, tỏ lòng thương tiếc, an ủi, chia sẻ
tình cảm với người chết một lần nữa. Trước khi ăn tết, các nhà có tang trong
năm cùng đem bánh nếp tới mộ than khóc, phát dọn cây con, để lại phần bánh trên
mộ. Từ đó đồng bào chỉ cúng người chết khi có do quẻ bói cho biết là có tổ tiên
quở phạt.
Dân tộc Hre quan niệm người chết trận, chết sinh đẻ, chết bị hổ vồ, sét đánh…là
chết độc (chết dữ), phải chôn riêng một chỗ xa làng. Nếu chết ở ngoài thì không
đem vào nhà. Đồng bào còn có tục làm ma giả đối với trường hợp chết mất xác
hoặc bỏ xác ở phương xa, mục đích là để mai tang những di vật của người xấu số.
252.
Phong tục của dân tộc cor
Dân
tộc Cor cư trú chủ yếu ở huyện Trà Bồng, một ít ở Sơn Hà và huyện Trà My (Quảng
Nam). Tiếng nói của người Cor thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khme. Sống trên địa
hình rừng núi hiểm trở, người Cor làm nương rẫy là chính. Lúa rẫy, bắp mì, đặc
biệt là trầu không
1. Cưới xin:
Với dân tộc Cor, những người có liên hệ huyết thống gần gũi không được lấy
nhau. Từ một ông tổ sinh ra, nếu đời thứ nhất là anh em trai thì đến đời thứ tư
(có nơi đến đời thứ năm) mới được quan hệ hôn nhân. Nhưng nếu là chị em gái,
hay anh trai em gái hoặc em trai và chị gái thì đến đời thứ ba có thể lấy nhau.
Ai không tuân tục lệ thì bị phạt, phải vào ở riêng trong rừng. Phong tục người
Cor không ngăn cấm lấy vợ thứ nếu vợ chồng hiếm con và được người vợ cả đồng ý.
Hôn nhân với chị em vợ được thừa nhận, với anh em chồng bị hạn ché ở mức người
vợ goá chỉ được lấy em chồng. Anh chị em con cô, con cậu, con dì, con cùng cha
khác mẹ, cùng mẹ khác cha thì cấm hôn nhân. Hai anh em trai có thể lấy hai chị
em gái theo thứ tự anh lấy chị gái, em lấy em gái. Nếu nhà bên A đã có con làm
dâu nhà bên B thì hai ba đời sau nhà bên B mới gả con gái cho nhà bên A. Vợ cư
trú nhà chồng đã định hình, rất ít khi chồng ở rể nhà vợ.
Tục cưới hởi của người Cor có nhiều đặc điểm riêng. Ban đầu nhà trai nhờ mai
mối dẫn con trai mang rượu, trầu cau đến ra mắt nhà gái, nếu được ưng thuận,
cùng định ngày ông mai và chú rể mang trầu rượu đến làm lễ “đẹp nhà gái”. Sau
đó hai nhà chọn ngày cưới.
Chuẩn bị lễ cưới hai nhà sửa sang đường sá sạch sẽ, báo cáo cho già làng biết
để báo cho dân làng. Ngày cưới, họ nhà gái kéo đến nhà ông mai chờ nhà trai đem
trầu cau đến đón. Đêm hôm cưới, hai vợ chồng ngồi chung mâm, vợ chông đặt lên
đầu nhau ít cơm, gọi là bắt vía. Sau đó, cô dâu cùng nhà gái ra về. Hôm sau nhà
trai sang nhà gái, tục lệ hôm trước lại tiếp diễn ở nhà gái. Ngày thứ ba nhà
trai rước dâu về. Ngày thứ tư, nhà trai làm cho đôi tân hôn cái bếp mới và cho
cô dâu làm lễ bắt nồi. Sau đó còn nhiều tục lệ khác nữa, hai người mới thực sự
trở thành vợ chồng.
2.
Sinh đẻ:
Người Cor muốn có con trai hơn con gái, người có thai không được phép đi qua
người già, người lớn tuổi, không đứng bóng người lớn, ít tiếp xúc đàn ông.
Khi sinh đẻ sản phụ có bà mụ giúp. Đẻ xong, sản phụ phải uống nước có nhiều
muối, củ mơ gang, các loại rể cây, dây rừng đắng, uống nước nóng, đốt đá nóng
quấn vải để lên bụng cho bụng nhỏ lại. Nhau được bỏ vào mo cau buộc kín treo
lên cao. Bảy ngày sau, mẹ cho con đặt chân xuống đất, rồi cõng lên lưng, bắt
đầu làm việc hàng ngày. Sau đó làm lễ đặt tên cho con, con đầu gọi là ây – ka
(con trai), mư – ây (con gái), con thứ goi là mơ – oh (con trai), mơ ơh (con
gái). Đặt tên không trùng nhau, lúc nhỏ thường gọi là chệch tên.
Tang
ma:
Khi có người chết, cả làng nghỉ sản xuất, hội hè. Họ hàng thân thích tập trung
lo tang lễ: làm hòm, nhà mồ, mổ heo đãi khách đến viếng. Người viếng mang theo
trầu cau đi lễ. Người chết thường (đau ốm, già …) để hai, ba ngày mới chôn, đưa
hòm ra cửa chính, chân đi trước để không nhìn lại nhà nữa. Con cháu trong nhà
phải chui qua hòm (nếu là cha mẹ). Tục chia của cho người chết, của riêng tư
thì chia ra, phần của người chết phải phá hỏng đi để tránh người khác lấy dùng.
Đầu nhà mồ để chiêng ché, dụng cụ săn bắn (là đàn ông), đuôi để nồi, xoong,
ché, gùi, đồ trang sức (là đàn bà)…Đồng bào quan niệm người già, ốm đau chết sẽ
hoá thành ma lành. Còn chết vì cọp bắt, ngã cây, đâm chém, sét đánh, chết đuối,
chết lúc mang thai hay khi đẻ…thì hoá thành ma dữ. Nếu có người chết vì sinh
dẻ, cả làng giết súc vật cúng rồi chuyển đi chổ khác. Dân tục Cor không có tục
để tang người chết. Con đầu đeo vòng theo số lượng để biết người trong gia đình
chết bao lâu. Chôn xong, với người trẻ ba ngày, người lớn bảy ngày thì cúng mở
cửa mả. Ba năm sau, gia đình mổ lợn làm lễ mãn tang, con cái được lấy vợ lấy
chồng. Người chết được thờ vía: nắm tro bếp đốt với vỏ cây trầm đặt trong một
cái cơi với 1. 2 cái lục lạc móc dây cườm, một cái dao sử (dao cắt cổ gà), vía
đặt ở cái trang nhỏ trong nhà, mỗi lần cúng thì lấy dây cườm rung gọi hồn.
253.
PHONG TỤC CỦA DÂN TỘC VIỆT (KINH) ở quảng ngãi
Người
Việt ở Quảng Ngãi đa số là dân gốc Thanh, Nghệ Tĩnh di cư vào trong các giai
đoạn khác nhau của lịch sử; cư trú chủ yếu ở 6 huyện đồng bằng, các huyện lỵ,
thị xã, các thị trấn, huyện lỵ các huyện miền núi và một số ít sống xen kẽ với
các dân tộc thiểu số các làng, nóc.
Người việt ở Quảng Ngãi thường xây nhà tranh vách đất. Từ năm 1975 xuất hiện
ngày càng nhiều nhà lợp ngói, tường xây. Dưới mái nhà ấy là khoảng không gian
văn hoá bảo lưu các nếp sống, tâm lý cộng đồng được sàng lọc qua bao thế hệ.
Các tập tục của cộng đồng và dân tộc lần lượt diễn ra trong gia đình theo một
chu kỳ sống của mỗi cá nhân, thế ứng xử với gia đình, gia tộc, xóm làng và xã
hội.
Bên cạnh việc duy trì một số tập tục của dân tộc Việt từ miền Bắc, người Việt ở
Quảng Ngãi có một số tập quán riêng như cách xưng hô tên gọi, thứ bậc trong gia
đình, cách nấu nướng các món ăn; đã có phần đơn giản hoá nhiều lễ thức tạo nên
một nếp sống phù hợp với hoàn cảnh của vùng đất mới.
1. Phong tục:
a. Cưới hỏi:
Ngày trước con trai con gái độ 15, 16 tuổi là dựng vợ gả chồng. Có khi 2 gia
đình ước hẹn thông gia lúc con mới sinh, nhưng tệ nạn tảo hôn không thật nhiều.
Trong hôn nhân, ngày trước người ta thường tìm chổ “môn đăng hộ đối”. Hiện nay
việc đó đã biến giảm, duy vẫn còn tục coi người hợp tuổi, coi ngày để làm lễ
hỏi, cưới kiêng kỵ trong nhà có tang. Phía trai chọn người làm “mai dong”, ăn
nói lịch thiệp, gia đình hoà thuận, đến thuyết phục gia đình nhà gái. Nếu được
nhà gái đồng ý thì nhà trai đem trầu cau đến dạm hỏi, gọi là lễ sơ vấn. Tiếp đến
là lễ ăn hỏi. Người cha đằng trai và người mai dong mang trầu cau, trà rượu và
đôi bông tai vàng đến nhà gái làm sính lễ cho cô dâu. Sau đó, chàng rễ thường
về giúp việc cho nhà vợ. Ngày tết, giỗ chạp, chàng rễ phải có mặt ở nhà vợ.
Hai bên gia đình trai gái cùng thoả thuận lễ vật, chọn ngày giờ tốt làm lễ cưới
mong tránh khỏi trắc trở về sau. Trong lễ cưới, họ nhà trai gồm bà con thân
thích, phù rễ và người gánh xiểng (đựng lễ vật) đưa chú rễ đến nhà gái. Số
người luôn là chẵn. Đến ngõ nhà gái, họ nhà gái đốt pháo chào mừng, đón tiếp họ
nhà trai vào nhà. Lễ vật được đặt lên bàn thờ tổ tiên trước sự chứng kiến của
hai họ. Đôi tân hôn lạy trước bàn thờ, kính cáo tổ tiên ông bà bên vợ và trao
nhẫn cưới. Đại diện hai họ nói những lời tốt đẹp cảm ơn nhau, họ nhà trai nhận
dâu, họ nhà gái nhận rễ. Sau đó là tiệc mừng hai họ giữa hai họ với bà con bên
nhà gái. Đúng giờ đã định, họ nhà trai rước dâu, họ nhà gái đưa dâu về nhà
chồng. Số người nhà gái đi đưa dâu thường là bằng số người nhà trai. Phía nhà
trai cũng đón tiếp tương tự. Đôi tân hôn lạy trước bàn thờ kính cáo với tổ tiên
ông bà bên phía chồng. Tiếp đó là lễ tơ hồng, tạ ơn nguyệt lão xe duyên cho vợ
chồng trăm năm hạnh phúc. Xong lễ cưới, chiều hôm đó hoặc ba ngày sau vợ chồng
đưa nhau về nhà bên vợ làm lễ “phản bái” để cảm ơn cha mẹ vợ có công sinh thành
nuôi dạy người con gái và tổ chức lễ cưới.
Ngày trước có nhiều gia đình giàu thách cưới rất phiền phức, làm ảnh hưởng đến
hạnh phúc của đôi trẻ.
Ngày
nay nam, nữ thanh niên đến tuổi trưởng thành tự tìm hiểu nhau, song cha mẹ vẫn
giữ vai trò quan trọng trong việc dựng vợ gả chồng cho con. Khi hai bên đã thoả
thuận thì làm thủ tục đăng ký kết hôn tại chính quyền cơ sở. Tục gánh xiểng
được thay bằng đôi quả đựng lễ vật. Từ đầu năm 1995, theo quy định mới, tục đốt
pháo trong lễ cưới được xoá bỏ để tránh mất trật tự và rủi ro có thể xãy ra.
Trong lễ cưới cũng có sự khác nhau giữa vùng này với vùng khác, tuy nhiên sự
khác nhau không nhiều
b.
Sinh con:
Thông thường vợ chồng thích sinh con trai đầu lòng, con đầu lòng thường sinh ở
nhà cha mẹ vợ (con so nhà mạ, con rạ nhà chồng). Trong mỗi làng thường có bà
“mụ” chuyên giúp cho sản phụ mẹ tròn con vuông.
Theo tín ngưỡng, đứa bé sinh ra, rốn được cắt chôn hoặc giấu cẩn thận, tránh
thấm nước mái hiên để đứa trẻ khỏi bị ghẻ ở đầu hoặc loét mắt. Sản phụ nằm ờ
buồng kín, tránh gió, dưới giường luôn có nồi lửa than, ăn thức ăn khô và mặn.
Đến hôm “đầy cử” (trai bảy ngày, gái chín ngày), sau khi xông muối, xoa nghệ,
người mẹ mới được ra khỏi buồng và một tháng sau mới dần trở lại sinh hoạt bình
thường. Đứa trẻ được tắm rửa sạch, quấn tả lót, thường hơ lửa, đánh dầu kỹ
lưỡng. Đến lúc đầy tháng (gái tụt hai, trai tụt một ngày), cha mẹ cùng xin keo
và đặt tên cho con. Tên con thường thể hiện ước mong của cha mẹ về tương lai
con cái, tránh trùng tên tổ tiên, ông bà và những bà con gần gũi, bên cạnh tên
chính, vì mê tín, có khi đứa bé được đặt tên phụ xấu hơn để quỷ thần quên đi
đứa trẻ, cha mẹ dễ nuôi.
Con tròn một năm tuổi, cha mẹ tổ chức lễ cúng thôi nôi. Trong lễ người ta đặt
các loại bút giấy, gương lược, kim chỉ, bánh kẹo…để khi đứa trẻ cầm vật gì
trước thì ngưòi ta dự đoán tương lai nghề nghiệp của nó.
Những đứa trẻ khó nuôi thường được cha mẹ đem lên chùa xin làm con của Phật,
hoặc đem đến thầy cúng làm con tổ tiên (tục gọi là “khoán”, “bán khoán”), đến
10, 12 tuổi làm lễ chuộc về. Khi người khác ẳm đứa trẻ đi đâu thì bôi lọ nồi
lên trán để tránh điều không hay. Con khóc đêm (dạ đề) thì lấy đồ sắt để ở đầu
giường. Con nấc thì lấy lá trầu dán vào trán…
Ngày nay các phong tục tập quán trong sinh con chỉ còn rất hiếm ở vùng xa xôi
hẻo lánh. Đa phần phụ nữ sinh con tại nhà hộ sinh địa phương hoặc khoa sản bệnh
viện. Các lễ đặt tên con, “thôi nôi” đã giản ước và tiến bộ hơn trước.
c.
Tang ma:
Người hấp hối được đưa ra chánh tẩm, con cái tụ lại xung quanh để nghe lời trăn
trối. Người chết được tắm rữa bằng trầm hương, thay quần áo sạch, đắp tờ giấy
trắng lên mặt. Gia đình lấy ít gạo hoặc lấy ít vàng bỏ vào miệng người chết gọi
là “phạm hàm” (phong tục từ Trung quốc cổ đại). Phạm hàm xong, người chết được
đặt trên chiếu trải dưới đất, sau một lát đưa lên giường. Người thân thuộc
trong nhà đều im lặng, đều niệm Phật khi có tụng kinh (nếu gia chủ theo đạo
Phật), đi chân không, không dùng đồ trang sức, không trang điểm son phấn.
Khâm liệm người chết thì tuỳ giàu nghèo mà dùng vóc nhiễu tơ lụa, hoặc vải
trắng để may đồ đại liệm và tiểu liệm. Đồ tiểu liệm là tấm chăn nhỏ bọc thi
thể. Đồ đại liệm là tấm chăn lớn bọc ngoài, có một đai buộc dọc và 5 đai buộc
ngang. Ngoài ra, còn có bao bàn tay, bàn chân để giữ xương các đốt tay, chân
không rơi vải khi cơ thể người chết tan rữa.
Khâm liệm xong, người ta đặt thi hài vào quan tài, đem để giữa nhà (nếu trong
nhà còn người lớn hơn thì để một bên), đầu quan tài luôn hướng ra ngoài sân.
Trên quan tài đặt 7 ngọn đèn, lư hương, một chén cơm bông và hột gà luộc để
thờ. Trước linh cửu có đặt linh toạ (bàn thờ vong) gồm bài vị, ảnh, đèn cầy,
hồn bạch. Sau đó làm lễ phát tang (lễ thành phục). Thân quyến người chết dâng
lễ lên linh toạ, bịt khăn tang, mặt tang phục, thứ tự xếp hàng lễ bái, luân
phiên túc trực bên linh cửu để cúng và tạ ơn khách đến viếng. Khi quan tài
quàng trong nhà, người ta thường mời phường bát âm xướng nhạc tang tỏ lòng
thương tiếc và đưa hồn người chết về nơi siêu thoát. Ngày chôn cất làm lễ phát
dẫn, thân quyến họ hàng đều đưa tang, gọi là tống tang. Cha mất thì con trai
chống gậy trúc, mẹ mất thì chống gậy vông. Con trai truởng bưng linh toạ đi
lui, mặt nhìn quan tài. Con dâu, con gái lăn ra khóc giữa đường, tỏ lòng hiếu
thảo, vài người thân thích đi bên linh cửu để hộ tang.
Nghi trượng đưa tang gồm có: bức hoành vải trắng ghi 4 chữ “Hổ sơn vân ấm” (cha
mất), “Dĩ lĩnh vân mê” (mẹ mất), nghĩa là “núi Hổ mây áng tối”, “đỉnh Dĩ mây
che mờ”.
Ở Quảng Ngãi, nhiều nơi dùng nghi trượng đối với nam là “công bố”, “trung tín”,
đối với nữ là “công bố”, “trinh thuận”.
Trong đám tang còn có minh tinh ghi thuỵ hiệu người chết, treo vào cành tre như
cây phướng: hương án bày giá hương, độc bình, đồ tam sự, mâm ngũ quả; linh xa
rước hồn bạch hoặc hình ảnh, bài vị, cờ chữ A, cờ công bố bằng vải trắng, tốt,
dài 3m dẫn đường cho linh cửu (quan tài) đặt trong nhà mả, có người rắc giấy
vàng mả dọc đường.
Hiện nay tang lễ đã giản lược bớt. Khi đưa linh cửu người ta thường dùng xe
(thành thị). Ở nông thôn nếu không đi xe, cũng chỉ có bài vị, cờ trống; không
có tục con dâu, con gái lăn ra khóc giữa đường.
Huyện Mộ Đức thầy địa lý xem trước (xưa kia kia có tục xem thế đất để con cháu
phát đạt) và phân kim chọn giờ hạ nguyệt. Quan tài hạ xuống, con cháu, họ hàng
thân thích, mỗi người ném một hòn đất đưa tiễn, nhà sư chờ lấp xong, tụng kinh
xung quanh mộ. Mai táng xong, về nhà làm lễ ngu tế. Ngày thứ nhất sơ ngu, thứ
hai là tái ngu, thứ ba là tam ngu (ngu nghĩa là yên). Chôn được ba ngày thì làm
lễ mở cửa mả; 49 ngày làm tuần chung thất; 100 ngày tế thần tốt khốc (thôi
khóc), thôi cúng 2 buổi, 1 năm làm lễ tiểu đường, bỏ đồ sô gai, gậy…ba năm làm
lễ bỏ đồ tang phục. Sau đó hàng năm cúng giỗ vào ngày trước của ngày chết.
d. Thờ cúng tổ tiên:
Mỗi dòng họ có một nhà thờ, gọi là mễ tộc (Trần tộc, Nguyễn Tộc…). Nếu dòng họ
đã định cư lâu đời, có nhiều chi phái thì ngoài nhà thơ chính ông thuỷ tổ cùng
các đầu chi, các chi còn có nhà thờ riêng. Người cai quản nhà thờ và tế tự là
chi trưởng nam (trưởng tộc). Mỗi gia đình thờ từ ông bà nội đến cha mẹ…
Bàn thờ: đối với nhà giàu thì làm tủ thờ cẩn xà cừ, khảm rồng phượng, nhà bình
thường thì làm bàn thờ đơn giản, nhưng luôn được đặt ở chổ trang trọng, tôn
nghiêm nhất trong nhà. Đồ thờ gồm ảnh (hoặc bài vị), lư hương hoặc bộ đèn, bình
hoa…nhà giàu còn treo hoành phi khắc đại từ kèm đối liễn hai bên ca ngợi công
đức tổ tiên. Đồ thờ là của gia bảo thiêng liêng, con cháu luôn luôn thành kính
giữ gìn, dẫu túng kiệt cũng không bán. Nhà thờ thường có gia phả, ghi chép danh
tánh ngày sanh, tử (có ghi công đức, sự nghiệp của tổ tiên) theo thứ tự thế hệ.
Mỗi dòng họ, chi phái đều có ruộng hưởng hoả dành cho trưởng tộc canh tác lấy
lợi tức cúng tế hàng năm. Dòng họ không có ruộng hương hoả thì mỗi lần cúng tế,
con cháu phải đóng góp gạo, tiền. Nhà thờ hàng năm có tế xuân và tế thu, con
cháu tụ họp để nhận biết ngôi thứ, bà con trong dòng họ. Việc cúng tế không thể
thiếu đĩa muối, chén gạo, chén nước, liễn trầu, quả cau, chén rượu. Mỗi năm có
một ngày “giỗ họ” hoặc “chạp mả”, con cháu coi đây là dịp kính cáo với tổ tiên
, cầu mong được tổ tiên phù hộ. Đây cũng là dịp nhận mặt bà con cùng dòng họ,
kết chặc tình huyết thống, tránh những sai trái trong hôn nhân, tranh chấp giữa
những người cùng họ.
254.
Hôn lễ Hoa xưa và nay
Cũng
như các dân tộc khác, người Hoa quan niệm hôn nhân là chuyện vô cùng hệ trọng
có tính quyết định cả cuộc đời con người nên tất cả các nghi thức hành lễ, nhất
nhất phải tuân theo các nghi thức của ông bà, tổ tiên để lại. Mặt khác, do ảnh
hưởng của lễ giáo phong kiến Trung Hoa nên hôn lễ của người Hoa còn bị ràng
buộc bởi nhiều nghi thức phiền phức khác. Tuy nhiên, do quá trình cộng cư lâu
dài của họ với cư dân bản địa trên mảnh đất Nam bộ trù phú đã có sự giao thoa
trong văn hóa tín ngưỡng, lối sống… Và vì vậy, đám cưới của người Hoa ngày nay
đã đơn giản hóa rất nhiều thủ tục phiền phức, chú trọng đến tình yêu lứa đôi
nhưng không kém phần trọng thể trong việc cử hành hôn lễ.
Mặc dù họ là những lưu dân đã rời bỏ quê hương xứ sở nhưng những giáo lý
Khổng-Mạnh cũng ít nhiều còn nằm sâu trong tư tưởng của họ, nên cuộc sống tha
hương nơi đất khách quê người đã có phần giúp họ cởi mở hơn, nhưng không vì thế
mà không có phần dè dặt, kín đáo. Cụ thể, lúc đầu những người phụ nữ Hoa ít có
dịp ra ngoài, ít được học hành, không được mặc áo tay ngắn khi ra ngoài đường,
suốt ngày bận bịu với chuyện bếp núc, bán buôn. Và vì thế, hôn nhân đôi khi
không phải là điều mà họ tự do lựa chọn. Chủ yếu là do sự quyết định của ông
bà, cha mẹ, thông qua người mai mối. Quan niệm hôn nhân của người Hoa thuở xưa
cũng đòi hỏi có sự "môn đăng hộ đối". Nhà trai mong muốn kiếm được
nàng dâu mà gia đình giàu có để nở mặt nở mày, để tương trợ trong việc kinh
doanh. Nhà gái thì cũng mong kiếm được một tấm chồng cho con mình sao cho xứng
đáng, để gởi tấm thân đài các, cho con có chỗ nương thân suốt đời. Đặc biệt,
nếu chàng rể có địa vị xã hội thì càng tốt, bởi họ là những lưu dân nên cuộc
sống của họ rất cần được che chở, bảo bọc.
Khi một thanh niên người Hoa vừa ý một cô gái nào đó thì anh ta về thưa với cha
mẹ, sau đó cha mẹ sẽ bàn bạc lại với nhau, xem cô gái có ý tứ không, có đảm
đang việc nhà không… rồi sau đó mới quyết định. Và khi cha mẹ thỏa thuận với
nhau rồi mới đem chuyện cưới hỏi bàn với bà con dòng họ. Khi tất cả đều đồng ý
thì cha mẹ của chàng trai mới nhờ bà mai sang nhà gái ngỏ lời dạm hỏi. Bà mai
phải là người "mát tay", gia đình hạnh phúc, hòa thuận. Và quan trọng
là các đám do bà mai làm mối trước kia phải có cuộc sống hòa thuận, làm ăn phát
đạt thì bà mai đó mới được chọn. Nhiệm vụ của bà mai rất quan trọng, phải nói
tốt cho cả hai đàng, thuyết phục bằng mọi cách để hai bên làm thông gia với
nhau. Trong trường hợp này, có khi người con gái không biết mặt người chồng
tương lai của mình. Khi nhà gái đã đồng ý thì bà mai mới về báo lại cho nhà
trai là mọi chuyện tốt đẹp, để nhà trai chuẩn bị lễ vật sang dạm hỏi. Lúc này
nhà gái có quyền thách cưới nhà trai. Song, nhà trai có quyền "trả
giá", những lễ vật và tiền cưới thường được thách là có con số 9 ở sau
cùng. Vì người Hoa quan niệm con số 9 là con số tốt, may mắn, cát tường. Lúc
này, bà mai đóng vai trò trung gian, "hòa giải" để cuối cùng hai bên
đi đến thỏa thuận. Sau đó tiến hành thêm một số nghi lễ cần thiết nữa, rồi sau
đó cử hành hôn lễ. Lễ vật mà nhà trai ra mắt nhà gái thường được để vào thùng,
thúng… khiêng từ nhà trai đến nhà gái.
Trong ngày cưới, gia đình nhà trai chọn giờ tốt để rước dâu, rồi sau đó báo cho
nhà gái biết giờ mà nhà trai đến rước dâu. Khi đi rước dâu, cha mẹ nhà trai
không được đi theo. Mà chỉ có bà mai và họ hàng của nhà trai cùng đi với chú
rể. Vì theo họ, đám cưới là của con, con và dâu ăn đời ở kiếp với nhau, nhiệm
vụ của cha mẹ là tổ chức, nên họ không đi theo, mà chỉ ở nhà dọn dẹp nhà của,
sửa soạn để đón dâu. Ngày xưa, khi cô dâu về nhà chồng thì trên đầu có đội khăn
che màu đỏ, phủ cả mặt, do bà mai cõng hoặc ngồi lên kiệu. Đi đến cổng nhà
trai, cả đoàn phải dừng lại, đợi nhà trai đốt xong tràng pháo chào mừng rồi mới
được vào. Trước cổng có gắn bảng "Tân hôn", hai cột cổng có dán hai
câu liễn đối bằng giấy hồng điều, hoặc bằng vải đỏ, với nội dung chúc phúc,
chúc những điều tốt lành. Hai bên cổng có gắn hai lồng đèn màu đỏ hai đầu hướng
vào nhau như vòm cổng đón chào. Có nơi người ta đặt một cà ràng hoặc một nồi
lửa nhỏ ở ngạch cửa cho cô dâu bước vào để tống khứ mọi điều xui xẻo, đón rước
những điều tốt lành đến với mình. Hoặc người ta đặt hai lu nước ở hai bên cửa,
người trưởng tộc của nhà trai đứng giữa hai lu nước đó, hai tay cầm hai gáo múc
ở hai lu sang qua, sang lại rồi đưa cho hai ông sui mỗi người hớp một miếng.
Ngụ ý, tình cảm chan hòa của hai bên sui gia, thông gia giao hảo, bền chặt suốt
đời. Đến giờ hành lễ, cô dâu và chú rể bái thiên địa, bái gia tiên… rồi quay ra
tiếp khách. Trong những lúc công việc bận rộn, bạn bè của cô dâu, hoặc chú rể
có thể cất giấu một vài vật dụng cần thiết của cô dâu, chú rể như: giày dép,
trang phục hay vật dụng trang sức… để bắt buộc cô dâu chú rể làm những việc
theo ý mình, như: chú rể phải hôn cô dâu trước mặt mọi người, hay chéo tay uống
rượu, chú rể đút thức ăn cho cô dâu bằng miệng… hoặc dẫn bạn bè đi xem phim,
hoặc đãi mọi người ăn sau khi hết tuần trăng mật.
Đặc biệt trong hôn lễ của người Hoa, người ta có mua một cặp gà trống, mái thật
già, một cặp dừa khô để trong nhà, với mong ước đôi tân lang và tân giai nhân
sẽ sống với nhau đến răng long đầu bạc. Hoặc cúng một con gà luộc, chéo cánh,
miệng ngậm cộng hành sống, với quan niệm gia đình thông suốt trong tư tưởng,
không có sự cãi vã nhau, sống êm đềm, hạnh phú, một cặp vịt trắng, cổ có buộc
một sợi chỉ đỏ, cùng vô số liễn đối, cũng màu đỏ dán quanh nhà. Tất cả đều nhằm
hướng tới cuộc sống bình an, hạnh phúc sau này; Chữ "song hỷ" được
cắt thật to, bằng chữ Hán, giấy đỏ, dán giữa nhà. Khi cắt, người ta rất cẩn
thận không để bị đứt lằn ngang nối hai chữ "hỷ", vì sợ bị đứt đoạn,
chia lìa… Và điều bắt buộc phải có đối với đôi vợ chồng mới cưới này là, trong
đêm động phòng phải có tấm vải trắng lót trên giường, để xem cô dâu có còn
trong trắng hay không.
Ngày nay, trước cuộc sống nhộn nhịp của thời kinh tế thị trường, người ta không
có thời gian tổ chức cho đủ lễ, nên một số lễ không cần thiết đã bị giảm bớt,
những hình tượng cát tường cũng như những ý niệm về những điều tốt lành cũng
mai một dần. Hơn nữa, cuộc sống cộng cư lâu đời với các dân tộc Việt, Khmer, mà
trong đó không ít người Hoa kết hôn với người Việt, người Khmer nên có ảnh
hưởng ít nhiều về nghi thức trong hôn lễ giữa ba dân tộc. Những nghi thức rườm
rà dần dần bị loại bỏ, quan niệm "môn đăng hộ đối" cũng không còn
thịnh hành. Nam nữ được tự do yêu đương để đi đến hôn nhân. Đám cưới được tổ
chức giản tiện hơn, phù hợp với kinh tế gia đình và đặc điểm địa phương. Không
câu nệ về hình thức nhưng vẫn đảm bảo được các nghi thức trọng yếu và vẫn giữ
gìn được bản sắc văn hóa Hoa trong sự giao thoa với văn hóa các dân tộc anh em.
(VH-NT)
Lễ
hội Hoa Đăng của người Hán trong dịp Tết năm mới
Lễ hội đèn màu (hoa đăng) có từ thời nhà Tống. Các loại hình hội đèn lúc đầu
diễn ra ở vùng Tự Cống phần lớn do các đền miếu đứng ra tổ chức. Đèn thắp sáng
trong hơn 1.200 đền miếu ở vùng này, đặc biệt trong ngày Tết Nguyên Tiêu cùng
với tục đốt và bắn pháo hoa. Thiện nam, thiện nữ lũ lượt đến chùa quyên dầu hạt
cải, cầu thần ban phúc, đuổi tà, hòa mình vào không khí của lễ hội. Hoạt động
hoa đăng càng trở nên thịnh vượng vào đời Minh, đời Thanh, kiểu dáng các loại
đèn thêm đa dạng về chủng loại và qui mô. Các hội thả đèn như "Đèn trôi
trên sông" "Đèn trẻ chăn trâu" "Đèn Khổng Minh"
"Chợ đèn sư tử" là những hội đèn chính diễn ra trong thời kỳ lịch sử
này. Ở Vùng Tự Cống còn có tập tục "Kính thần bếp" cũng rất thịnh
hành. Cứ vào tối ba mươi Tết, nhà nào nhà nấy đều thắp đèn màu đỏ, ngay ở các
nhà nghèo phía trước cũng có ít nhất một ngọn đèn lồng màu đỏ, nhà bậc trung
thì treo đèn hình vuông hay lục giác, còn nhà giàu có thì treo đèn Sa hình
tròn. Đó là sự tỏ lòng tôn kính đến ông thần bếp. Trong dân gian thịnh hành hai
loại đèn Cung và đèn Sam khung đèn làm từ tre, trúc, phía ngoài bọc lụa tơ tằm
rất đẹp mắt. Đèn Cung và đèn Sa thường treo ở sảnh đường vào đầu cổng các nhà
giàu có được chế tạo cầu kỳ, có cái được khảm, nạm bằng vàng, ngọc, có cái tô
màu, đề thơ hay một đoạn văn. Đèn Sa hình cầu trống, dùng ba ngọn trúc nối vào
làm chân, khi treo đèn thì ba chân tốc ra, còn khi cần rước thì ba chân chụm
lại thành một cán chắc chắn. Cùng chơi với đèn Sa còn có đèn rồng, đèn ông sư
và đèn hoa…
Đèn rồng có nhiều loại, có đèn rồng đại, đèn rồng cỏ, đèn rồng ghế dài. Đèn
rồng đại có tới 14 đốt, mỗi đốt có 1 ngọn nến cháy, khi múa mỗi người điều
khiển một đốt, múa theo hình chữ "chi" hoặc chữ "S". Đèn
rồng đại nặng hơn 10 kg còn đèn rồng cỏ thì được bện bằng cỏ của chính vùng Tự Cống,
có 5 hay 7 người múa v.v…
Múa "đèn ông sư" gồm các gánh múa gia truyền đảm nhận. Vừa múa vừa
trồng cây chuối nhảy qua vòng lửa, leo cột rất hài hước. Còn "Múa đèn trẻ
chăn trâu" thì hóm hỉnh, vui nhộn không chỉ diễn ra vào dịp Tết âm lịch mà
còn cả trong các thời vụ như ngày mùa gặt hái, cấy mạ…
Sau ngày thành lập nước CHND Trung Hoa (năm 1949) hoa đăng nghệ thuật càng phát
triển. Ngày nay, kỹ thuật hiện đại được áp dụng kết hợp với kỹ thuật chế tác
truyền thống tạo nên những tổ đèn màu hùng vĩ có nhiều đề tài dân gian và hiện
đại hấp dẫn, là nguồn thu nhập rất cao của ngành văn hóa dịch vụ ở nhiều nơi
trên đất Trung Quốc.
Tết Quí Mùi 2003 năm nay, hội hoa đăng diễn ra lần thứ hai ở Việt Nam. Trong
khuôn viên của công viên Tuổi Trẻ Hà Nội, 30 tổ đèn (trong đó có 3 tổ hợp đèn
trên mặt nước) đã được giới thiệu rất hấp dẫn với khách các lứa tuổi, đặc biệt
là nam nữ thanh niên và các cháu thiếu nhi.
Dưới đây là vài hình ảnh các tổ đèn của lễ hội hoa đăng Tự Cống, tiêu biểu cho
kỹ thuật làm đèn hội của Trung Quốc trong dịp Tết Nguyên Tiêu
Lễ hội đèn lồng Trung Quốc
Theo truyền thuyết, ở Trung Quốc, đời Hán Vũ Đế, đạo Lão khá phát triển. Lễ
cúng tế chính thường được tổ chức vào ngày trăng tròn của tuần trăng đầu tiên
trong năm (rằm tháng Giêng). Những ngọn đèn, đuốc được đốt cháy đến sáng hôm
sau để cho người dân vui chơi thỏa thích. Nhiều người đã mang theo những ngọn
đèn đã được quây lại bằng vãi (để tránh gió thổi tắt) để soi đường. Đèn lồng
còn mang một ý nghĩa khác: Từ xa xưa, đèn lồng thường được treo trước cổng, cửa
nhà để chiếu sáng.
Ánh sáng dịu của ngọn đèn lồng mang đến cảm giác bình an. Chiếc đèn lồng trở
thành vật rất gần gũi với mọi gia đình. Để tạo nét riêng, nhiều người đã trang
trí chiếc đèn lồng của gia đình mình bằng nhiều hoạ tiết, màu sắc. Dần dần, đèn
lồng trở thành một biểu tượng trong đời sống văn hóa Trung Quốc. Mỗi vùng ở
Trung Quốc đều có kiểu lồng đèn khác nhau. Thường thì bộ khung đèn lồng được
làm bằng tre, nhưng phương Bắc, vùng Shaanxi, người ta dùng cây lúa miến
(sorghum) làm khung, dán giấy đỏ lên. Có nhiều loại kiểu dáng đèn khác nhau
tròn, bầu dục, vuông…Sau, họ còn sáng tạo đèn theo phong cảnh, con vật theo
thiên nhiên.
Ngày nay, hàng năm thường vào vào ngày 15 tháng Giêng Âm lịch, để kết thúc
những ngày nghỉ, hội hè đầu năm (Tết), tại Trung Quốc và những nước có đông
người Hoa sinh sống (Mỹ, Singapore, Malaisia…) đều tổ chức Lễ hội lồng đèn
truyền thống. Năm nay, Lễ hội đèn lồng ở Yuanxiao Jie là lễ hội lớn nhất ở
Trung Quốc được khai mạc vào ngày 15 như thường lệ. TC VHNT giới thiệu một số
đèn lồng được treo trong lễ hội này:
Thiên tình sử có thể trở thành di sản văn hoá phi vật thể thế giới
Được coi là câu chuyện tình ''Romeo và Juliet của phương Đông'', mối tình
truyền thuyết Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài vừa được các học giả và nhiều thiết
chế Trung Quốc đề nghị UNESCO đưa vào danh sách Di sản văn hoá phi vật thể thế
giới tại cuộc họp diễn ra tại Ninh Ba.
Có nguồn gốc từ đời Tấn (265-420), chuyện tình Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài là
một trong những tác phẩm văn học dân gian Trung Hoa cổ đại hay nhất. Chúc Anh
Đài là con gái của một gia đình giàu có. Ham học, cô đã giả trai để theo học
tại một trường dành cho nam sinh. Trong 3 năm học tại trường, cô đã kết bạn và
thầm yêu Lương Sơn Bá, người bạn cùng trường. Tình bạn của Lương - Chúc thật
đẹp và trong sáng khiến Lương chẳng hề biết rằng Chúc là một cô gái thật xinh
đẹp cho đến khi Chúc thôi học vì cha cô đột nhiên bắt cô bỏ học về nhà lấy
chồng. Tâm trạng Chúc rối bời nhưng không còn sự lựa chọn nào khác, buộc phải
nghe lời cha. Khi biết tin, Lượng vội vàng tới nhà Chúc xin cầu hôn, nhưng bị
gia đình cô từ chối và đuổi đi. Quá thất vọng, Lương lâm bệnh rồi chết. Chúc
tan nát cõi lòng và đúng ngày cưới, cô đã trốn nhà tới thăm mộ của Lương. Khi
tới nơi bỗng nhiên trời tối sầm, ngôi mộ của Lương mở ra và Chúc gieo mình vào
đó. Theo truyền thuyết, sau đó cả Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài đều biến thành
bướm và sống bên nhau hạnh phúc.
Theo tư liệu lịch sử, cách đây 1.600 năm, Lương Sơn Bá là huyện lệnh của
Yingxian, Ninh Ba. Lương Sơn Bá qua đời bởi một căn bệnh chết người ở tuổi 21,
nhưng vì là một ông quan quang minh chính trực, tốt bụng nên người đời đã gắn
ông với huyền thoại này. Truyền từ đời này sang đời khác, câu chuyện này được
phổ biến rộng rãi với nhiều hình thức nghệ thuật gồm ca kịch, cắt giấy truyền thống,
âm nhạc. Ở Ninh Ba, văn hoá hôn lễ truyền thống dựa theo câu chuyện này đã thu
hút được sự quan tâm của giới trẻ. (TBDL)
255.
Có ngày tốt hay xấu không?
Viết
về phong tục cổ truyền mà cố tình lảng tránh vấn đề này, ắt không thoả mãn yêu
cầu của số đông bạn đọc, vì lễ cưới, lễ tang, xây nhà dựng cửa, khai trương,
xuất hành... còn nhiều người, nhiều nơi chú trọng ngày lành. Đó là một thực tế.
Ngặt vì có một số người bài bác hẳn, cho là gieo rắc mê tín dị đoan; một số
khác lại quá mê tín, nhất là việc lớn việc nhỏ, việc gì cũng chọn ngày, từ việc
mua con lợn, làm cái chuồng gà, cắt tóc cho con, đi khám bệnh... mọi điều may
rủi đều đổ lỗi cho việc không chọn ngày, chọn giờ. Một số đông khác tuy bản
thân không tin nhưng chiều ý số đông, làm ngơ để cho vợ con đi tìm thầy lễ,
thầy cúng định ngày giờ xét thấy không ảnh hưởng gì nhiều, hơn nữa, để tránh
tình trạng sau này lỡ sẩy ra sự gì không lành lại đổ lỗi cho mình
"Báng". Thế tất một năm, năm mười năm, đối với một người đã đành, đối
với cả nhà, cả chi họ làm sao hoàn toàn không gặp sự rủi ro!. ngày tốt, ngày
xấu về khí hậu thời tiết thì dự báo của cơ quan khí tượng là đáng tin cậy nhất.
Khoa học đã dự báo được hàng trăm năm những hiện tượng thiên nhiên như nhật
thực, nguyệt thực, sao chổi, sao băng... chính xác đến từng giờ phút. Nhưng tác
động của tự nhiên sẽ tạo nên hậu quả xấu đối với từng người, từng việc, từng
vùng ra sao, đó còn là điều bí ẩn. Thời xưa, các bậc trí giả tranh cãi nhiều
vẫn chưa ngã ngũ nên ai tin cứ tin, ai không tin thì tuỳ "Linh tại ngã,
bất linh tại ngã" (cho rằng thiêng cũng đã tự mình ra, cho rằng không
thiêng, cũng tự mình ra), "Vô sư vô sách, quỉ thần bất trách" (không
biết vì không có thầy, không có sách, quỷ thần cũng không trách).
Thực tế, có ngày mọi việc mọi điều đều thành công, nhiều điều may mắn tự nhiên
đưa tới; có ngày vất vả sớm chiều mà chẳng được việc gì, còn gặp tai nạn bất
ngờ. Phép duy vật biện chứng giải thích đó là qui luật tất nhiên và ngẫu nhiên.
Trong tất nhiên có yếu tố ngẫu nhiên, trong ngẫu nhiên cũng có yêú tố tất
nhiên. Lý luận thì như vậy nhưng có bạn đọc cũng muốn biết cụ thể trong tháng
này, ngày nào tốt, ngày nào xấu, ngày nào tốt cho việc làm nhà, cưới vợ, tang
lễ phải tránh giờ nào... Đa số bà con ta vẫn nghĩ "có thờ có thiêng, có
kiêng có lành", nhất là khi điều kiêng đó không ảnh hưởng gì mấy tới công
việc cũng như kinh tế...
Thời xưa, mặc dầu có người tin, có người không tin, toà Khâm thiên giám ban
hành "Hiệp kỷ lịch", mà số người biết chữ Hán khá nhiều nên phần đông
các gia đình cứ dựa vào đó mà tự chọn ngày giờ. Thời nay, rải rác ở các làng
xã, còn sót lại một vài người còn biết chữ Hán nhưng sách vở cũ hầu như không
còn, các gia đình muốn xem ngày giờ để định liệu những công việc lớn đành mất
công tốn của tìm thầy. Khốn nỗi, mỗi thầy phán một cách, chẳng biết tin ai. Đã
có trường hợp, bốn ông bà thông gia vì việc chọn ngày tốt xấu, tuổi hợp tuổi
xung, tranh cãi nhau phải chia tay để lại mối hận tình. Gần đây trên thị trường
xuất hiện cuốn sách viết về cách xem ngày tính giờ. Cũng có tác giả có kiến
thức, có tư liệu, viết rất thận trọng, nhưng ngược lại có người viết rất cẩu
thả, dựa theo thị hiếu thương trường, vô căn cứ với động cơ kiếm tiền bất chính.
Có cuốn sách tốt xấu, thực hư lẫn lộn, không có tên nhà xuất bản, không có tên
tác giả, không ghi xuất xứ của tư liệu... Cùng một ngày, cuốn này, ghi nên xuất
hành, cưới hỏi, cuốn khác ghi kỵ xuất hành, cưới hỏi, làm người xem rất hoang
mang. "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", biết tin vào đâu? Biết tìm
ai mà hỏi?
Để đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi xin trích dẫn một số tư liệu
khoa học và toàn văn bài "Xem ngày kén giờ" của học giả Phan Kế Bính
đăng trong cuốn "Việt Nam phong tục" xuất bản năm 1915, tái bản năm
1990 tại nhà xuất bản thành phố Hồ Chí minh và chúng tôi xin có phần chủ giải
(cũng bằng những câu hỏi). Nhưng trước khi xem nên nhắc lại các bạn: "Khi
gia đình có việc hệ trọng, cần nhiều người tham dự thì càng thận trọng càng
hay, nhưng chớ quá câu nệ nhiều khi nhỡ việc. Mỗi người một thuyết, mỗi thầy
một sách, rối rắm quá, có khi cả tháng không chọn được ngày tốt. Xem như trong
cuốn "Ngọc hạp kỷ yếu" không có một ngày nào hoàn toàn tốt, hoặc hoàn
toàn xấu đối với mọi người, mọi việc, mọi địa phương.
Có ngày tối ngày xấu không?
Có những bạn đọc hỏi: Chúng ta đã từng phê phán và sẽ tiếp tục phê phán mọi
loại thầy bói, mê tín dị đoan, bịp bợm. Nhưng gần đây lại thấy nhiều người bảo:
Khoa học có thể tính toán để biết trước ngày tốt, ngày xấu, thực hư ra sao?
Thầy bói là người hành nghề mê tín, biết nắm tâm lý. "Bắt mạch" đối
tượng (qua nét mặt, lời nói, chi tiết trình bày và những câu thăm dò...). Nhưng
bài viết này không nói về họ mà chỉ điểm qua những điều khoa học dự tính để
biết trước ngày lành, tháng tốt... của mỗi người.
Nhịp sinh học - đặc điểm của sự sống: Nghiên cứu mọi cơ thể sống đều thấy hoạt
động của chúng không phải lúc nào cũng giống lúc nào mà có khi mạnh khi yếu,
khi nhanh khi chậm... Những thay đổi đó nhiều khi xảy ra rất đều đặn và liên
tiếp thành chu kỳ, còn gọi là nhịp sinh học: Có nhịp ngàyđêm, nhịp tháng (liên
quan đến âm lịch) nhịp mùa xuân, hạ, thu, đông... Các nhịp sinh học có tính di
truyền. Pháp hiện ra các nhịp sinh học người ta nhận thấy các quá trình sinh lý
trong cơ thể có thể biến đổi theo thời gian. Sự biến cố đó có tính chất chu kỳ
và tuần hoàn (lặp đi lặp lại khá đều đặn).
Nghiên cứu về sự chết và tỷ lệ chết của con người, thấy có nhiều biến đổi tuỳ
thuộc vào nguyên nhân gây chết. Thí dụ: Vào khoảng 3-4 giờ sáng áp suất máu
thấp nhất, não được cung cấp lượng máu ít nhất nên người bệnh hay bị chết nhất.
Các cơn động kinh thường có giờ. Bệnh nhân hen cũng thườg lên cơn hen về đêm
vào khoảng 2-4 giờ sáng (trùng với thời gian bài tiết cóc- ti-cô-ít ra nước
tiểu xuống tới mức thấp nhất). Cơn hen về đêm nặng hơn cơn hen ban ngày. Những
biến đổi có tính chất chu kỳ hàng năm thì có nguy cơ chết về đau tim cao nhất
là vào tháng giêng đối với một số nước ở bán cầu phía Bắc. Cao điểm hàng năm
của các vụ tự tử ở bang Min-ne-so-ta cũng như ở Pháp là vào tháng 6. Hai nhà
khoa học An-đơ-lô-ơ và Mét đã phân tích 3620 trường hợp tai nạn lao động và
thấy làm ca đêm ít tai nạn hơn làm ca sáng và chiều.
Ngày vận hạn của mỗi người: Trên cơ sở tính toán ảnh hưởng của các yết tố vũ
trụ lên trái đất và bằng phương pháp tâm sinh lý học thực nghiệm, người ta đã
rút ra kết luận là từ khi ra đời, cuộc sống của mỗi người diễn ra phù hợp với
ba chu kỳ riêng biệt: Chu kỳ thể lực: 23 ngày, chu kỳ tình cảm 28 ngày, chu kỳ
chí tuệ 33 ngày. Mỗi chu kỳ gồm hai bán chu kỳ dương và âm. Bán chu kỳ dương
(1/2 số ngày của đầu chu kỳ) được đặc trưng bằng sự tăng cường khả năng lao
động. Còn bán chu kỳ âm (1/2 số ngày cuối chu kỳ)thì các hiện tượng đều ngược
lại. Cả ba chu kỳ trên đều chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm.
Ngày trùng với điểm chuyển tiếp này là ngày xấu nhất của mỗi chu kỳ. Thực tế đã
chứng minh: Đối với chu kỳ tình cảm, vô cớ. Đối với chu kỳ trí tuệ, đó là ngày
đãng trí, khả năng tư duy kém. Đặc biệt đối với chu kỳ thể lực, đó là ngày
thường sảy ra tai nạn lao động. Đối với hai chu kỳ, số ngày chuyển tiếp trùng
nhau chỉ xảy ra một lần trong một năm. Ngày trùng hợp đó của ba chu kỳ là ngày
xấu nhất, có thể coi là ngày "Vận hạn" của mỗi người.
Nếu biết ngày, tháng, năm sinh của mỗi người, nhờ máy tính điện tử có thể dễ
dàng xác định được các chu kỳ, điểm chuyển tiếp và sự trung hợp điểm chuyển
tiếp giữa các chu kỳ.
Công ty giao thông của Nhật Bản Omi Reilvei đã áp dụng thành tựu vào bảo vệ an
toàn giao thông. Họ đã xác định các chu kỳ, các điểm chuyển tiếp giữa các chu
kỳ của từng người lái và báo cho lái xe biết trước những "ngày xấu"
để họ phòng tránh. Nhờ đó số tai nạn giao thông ở Nhật Bản đã giảm đi rất
nhiều, đặc biệt vào đầu năm áp dụng (969-1970) số tai nạn giao thông đã giảm
hản 50%.
Theo Cup-ria-nô-vích (Liên Xô cũ) thì giả thuyết về nhịp tháng của các quá
trình sinh học xác định ba trạng thái của cơ thể, không chỉ áp dụng ở Nhật Bản
mà còn được áp dụng ở nhiều nước Tây Âu vào công tác an toàn, giao thông nói
riêng, an toàn lao động nói chung.
Các vấn đề trên đây không phải là "thầy bói nói mò" mà dựa vào một dữ
kiện thực tế nhất định. Nó cũng phù hợp với nhận thức về mối quan hệ tương tác
giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các quá trình hoạt động chức năng của cơ
thể.
(Bác sĩ Vũ Định- Trích báo "Hà nội mới chủ nhật" số 73)
Vua Trần Minh Tông với việc chọn ngày làm lễ an táng mẹ.
Năm 1332 Thuận thánh Bảo từ Hoàng Thái Hậu mất. Con là Thượng Hoàng Minh Tông
lúc đó đã nhường ngôi cho con là Hiến Tông. Thượng hoàng sai các quan chọn ngày
chôn cất. Có người tâu rẳng: "Chôn năm nay tất hại người tế chủ".
Thượng hoàng hỏi : "Người biết sang năm ta nhất định chết à?". Người
ấy trả lời không biết. Thượng hoàng lại hỏi: "Nếu sang năm trở đi ta chắc
chắn không chết thì hoán việc chôn mẫu hậu cũng được, nếu sang năm ta chết thì
lo xong việc chôn cất mẫu hậu chẳng hơn là chết mà chưa lo được việc đó ư? Lễ
cát, lễ hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc đó thôi, chứ đâu phải câu nệ hoạ
phúc như các nhà âm dương".
Rốt cuộc vẫn cử hành lễ an táng.
256.
Tại sao có Tết Hàn Thực?
Theo
phong tục cổ truyền, ngày mồng 3 tháng 3 tức Tết Hàn Thực, ta làm bánh chay.
Tết này có xuất xứ từ bên Trung Quốc, làm giỗ ông Giới Tử Thôi, một hiền sĩ có
công phò Tần Văn Công, bị chết cháy ở núi Điền Sơn. Cũng như ngày mồng năm
tháng năm tết Đoan Dương cũng xuất xứ từ bên Trung Quốc làm giỗ ông Khuất
Nguyên bị chết trôi ở sông Mịch La. Ngày nay người Trung Quốc đã bỏ lễ đó mà ta
còn giữ mãi.
Đành rằng dân ta theo tục đó nhưng khi cúng chỉ cúng gia tiên nhà mình, chẳng
nhắc gì tới ông Giới Tử Thôi hay Khuất Nguyên nữa.
Ở nước ta có bao nhiêu lương thần, dũng tướng, hiền sĩ có công huân với dân với
nước mà chẳng được kỷ niệm trọng thể bằng hai ông người nước ngoài nói trên.
Ngày 10 tháng 3, sao bao nhiêu đời nay vẫn không chuyển đổi được để mọi nhà,
mọi làng xã làm giỗ tổ Hùng Vương có ý nghĩa hơn không! Thật đúng như câu tục
ngữ "Mồ cha không khóc, khóc tổ mối"!
257.
Tết Đoan Ngọ có những tục gì?
Ở
nước ta, Tết Đoan Ngọ được coi trọng, xếp vào hàng thứ hai sau Tết Nguyên Đán.
Vì vậy các cụ thường nói "Mồng 5 ngày Tết". Học trò tết thầy, còn rể
tết bố mẹ vợ... quanh năm cũng chỉ tập trung vào hai lễ Tết đó.
Tết Đoan Dương còn nhiều tục lưu truyền đến nay; sáng sớm cho trẻ ăn hoa quả,
rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết
sâu bọ. Người lớn thì giết sâu bọ bằng cách uống rượu (hoà ít tam thần đơn)
hoặc ăn rượu nếp. Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt
mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái
đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu. Vì là đoan ngọ nên lễ cúng
gia tiên phải cúng vào giờ ngọ (buổi trưa). Tục hái thuốc mồng năm cũng bắt đầu
từ giờ ngọ, đó là giờ có dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái
được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các
chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn
sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể. Tuy vậy, nhân dân ta quen dùng thảo mộc
chữa các chứng bệnh, biết phân biệt loại có độc, chẳng hạn lá ngón, cà độc
dược, lá sắn... dẫu người nặng đầu óc mê tín cũng chẳng dám hái. Ngược lại, các
cây cỏ chữa bệnh thông thường có tác dụng trừ phong ích khí thì hái nhiều hơn
như ích mẫu, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt,
mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công
anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi...
258.
Chiếc vòng cầu hôn
Để
tỏ lòng mong muốn cầu hôn hay hứa hôn, nhiều dân tộc ở Việt Nam thường có tục
lệ trao vòng. Quý nhất là vòng bằng vàng, hay bằng bạc, rồi mới đến vòng
đồng...
Dân tộc nào còn theo phong tục mẫu hệ thì bên nữ trao vòng, bên nam nhận vòng.
Các dân tộc theo phong tục phụ hệ thì ngược lại, bên trai trao vòng, bên gái
nhận vòng. Nhận vòng là bằng lòng, phải giữ lòng chung thủy. Ngày nay người
Việt (Kinh) quý đồ trang sức bằng vàng nên trao nhẫn thay vòng. Còn nhiều dân
tộc ở miền núi phía bắc hay Tây Nguyên chỉ dùng bạc làm đồ trang sức phổ biến.
Đó là những chiếc vòng cầu hôn mang tính giao duyên.
Theo phong tục mẫu hệ Ê Đê (Đác Lắc) khi người con gái tìm được người con trai
ưng ý thì báo cho bố mẹ biết. Bố mẹ cô gái nhờ người mối lái đưa chiếc vòng
bằng chất liệu nào là tùy gia cảnh để mở đầu cho việc giao thiệp với nhà trai.
Người con trai có khi cũng ngúng nguẩy, vờ không bằng lòng như các cô gái e lệ
thường thể hiện. Vài ba lần khi chàng trai đã đồng ý thì nhà gái sang nhà trai
tổ chức lễ trao vòng. Nhà trai sau lễ trao vòng, cũng trao cho bên nhà gái
chiếc vòng để làm tin cho việc đính ước. Sau đó, nhà trai tổ chức bữa cơm rượu
mời bên nhà gái. Đến hôm cưới, bên nhà gái lại đưa sang nhà trai vòng có kèm đồ
sính lễ và các thứ như trâu, bò, lợn, gà, rượu, quần áo... Nếu nhà gái nghèo
thì chỉ nộp một phần, phần còn lại hai vợ chồng cùng làm nộp dần sau. Lễ cưới
tổ chức hai ngày liền. Ngày đầu, nhà gái đến "đón rể". Khi về bên nhà
vợ, nếu có voi, chú rể được cưỡi voi, không có phải đi bộ. Lễ đón rể có ca múa
nhạc tưng bừng. Đến nhà vợ bên họ nhà gái lấy ba chén rượu và ba chiếc vòng
trao cho chú rể, cậu ruột chú rể và anh ruột chú rể. Nhà trai lại trao ba chén
rượu và ba chiếc vòng lần lượt cho cô dâu, cậu ruột cô dâu và anh ruột cô dâu.
Khi lễ trao vòng ngày cưới đã xong, hai ông cậu đưa rượu cho cô dâu chú rể. Hai
vợ chồng trao chén rượu cho nhau và uống cạn. Có trường hợp, cô gái phải
"ở dâu" vài ba tháng hay vài ba năm như tục "ở rể" của một
số dân tộc phụ hệ. Chú rể Ê Đê đi đâu hay về nhà bố mẹ đẻ cũng e ấp, bịn rịn
xin phép như nàng dâu ở nhà chồng của các dân tộc anh em khác. Những chiếc vòng
cầu hôn là kỷ vật thường được lưu giữ suốt đời, có người khi mất thì trao lại
cho con cháu làm di vật quý.
259.
Uống trà- một tập tục tao nhã
Chẳng
biết từ bao giờ người Việt Nam ta đã coi việc uống trà là một tập tục tao nhã.
Từ nhiều thế kỷ trước đây, ông cha ta đã xem uống trà là thú vui thanh đạm,
tinh tế. Nó có tác dụng di dưỡng tinh thần, kích thích sự gợi mở những suy tư
lắng đọng. Đặc biệt nó còn được sự sủng ái, đón nhận của tầng lớp nho giáo, sĩ
phu, các gia đình quyền quý và tầng lớp trung lưu... lâu dần cách thưởng thức
trà đó đã làm nên một nét vǎn hoá độc đáo.
Nó độc đáo ở chỗ không giống với cách uống trà của một số nước trong khu vực
như Trung Quốc, Nhật Bản... Về kỹ thuật, thao tác, chế biến, và cách thưởng
lãm... người Việt Nam có một phong cách khác biệt bởi phụ thuộc vào những yếu
tố như kinh tế, văn hoá xã hội... mang đặc thù riêng.
Người xưa cho rằng, vào lúc trời đất còn tranh tối tranh sáng (thời điểm âm
dương giao hoà), uống trà sẽ là cách vận động thần khí một cách khôn ngoan nhất
và có lợi cho sức khoẻ nhất. Không khí trong lành của đất trời lúc ban mai sẽ
làm cho cơ thể con người giảm bớt được những căng thẳng, mệt mỏi của một ngày
làm việc. Uống trà vào lúc này là để giữ cho thần khí được sáng suốt minh mẫn,
đây là thời điểm tĩnh lặng để rồi phát tiết ra cá thần thái linh thiêng, do vậy
sẽ có nhiều ý nghĩ khôn ngoan, đúng đắn nảy sinh...
Để có một chén trà ngon, thì bộ đồ pha trà đóng một vai trò rất quan trọng. Mỗi
bộ đồ trà thường có: 1 ấm, 1 lồng, 1 chuyên, 4 chiếc quân, 1 đĩa thành giầm, 1
khay, 1 hoả lò, 2 ấm đun nước bằng đồng tú. Có lẽ người xưa chỉ khuôn lại cho 4
người dùng trà là tối đa, để hạn chế tạp khách làm mất đi cái ý nghĩa linh
thiêng, tĩnh lặng và tao nhã của bữa trà vì đối tượng thưởng lãm phải là người
có tâm hồn đồng điệu, bậc tri kỷ, cố nhân... Thông thường trong một bữa trà
thường sử dụng " nhất tống tam quân" (1 ấm, 3 chén).
Bộ đồ trà đẹp phải đồng bộ, không lai tạp, nếu là bộ đồ về lịch sử thì phải
cùng theo một điển cố.
- Khay: Chân quỳ, gỗ trắc hoặc khay quả đào gỗ mít. Khay không khảm quý hơn
khay có khảm, loại khảm dùng cho việc cúng lễ. Bát tháo bã, thường là loại Bạch
định, hoặc loại bát cổ có vẽ: Xích Bích hay Quần long. Ấm trà tháo bã rồi, chỉ
được súc nước lã cho sạch, không được kỳ cọ mất cao bám trong thành ấm.
- Bình đựng trà: Bằng sứ hoặc đất nung, nút bằng lá chuối khô.
Song chỉ với bộ đồ trà nói trên thì chưa đủ, muốn "thưởng lãm" trà
một cách nghệ thuật, mỗi mùa trong năm người uống trà đều "thửa
riêng" một bộ đồ trà cho mình. Ví như sang đông (Đông ẩm): Chén và tống
dáng khẩu mía, cao thành và khá dầy có thể nằm gọn trong lòng bàn tay. Hạ ẩm:
Chén thấp, choáng, sứ mỏng. Xuân, thu ẩm: Chén hình quả nhót, quý nhất là Bạch
định, nhưng trong chén phải có chữ, thường thì người ta ghi: "Thành Hoá
niên chế", "Khang Hy niên chế". Có loại ấm không có chữ, thường
thì ấm chén thường được vẽ các điển cố có trong lịch sử.
Có lẽ mỗi một phong cách, mỗi một nét đẹp đều có một bí quyết để có thể được
công nhận. Bí quyết pha trà của ông cha ta quy tụ lại gồm 4 điểm: "Nhất
thuỷ, nhì trà, tam pha, tứ ấm".
Thủy: Là một vấn đề quan trọng nhất, tốt nhất là nước mưa, có thể là nước giếng
mà là giếng có đá ong càng tốt, tránh được mùi tanh của bùn. Nhiều người cầu
kỳ, còn đi thu gom những hạt sương đọng trên tàu lá sen, nó được coi là thứ
nước đặc biệt, tinh khiết mà lại có sẵn mùi thơm của sen. Nếu là nước máy thì
phải để một số ngày cho bay hết mùi hoá chất. Nước để pha trà phải đun sôi kỹ.
Có nhà xếp một hàng chum sành, dăm bảy chiếc quanh gốc cau hứng nước mưa dùng
dần.
Trà: Phải là trà chính hiệu, búp nhỏ, săn, sao tẩm đúng quy cách. Người ta cũng
hay dùng trà mạn, là loại trà để lâu đã toả hương, đem ướp sen, sói, thuỷ tiên
hoặc nhài. Nhưng những người được coi là "sành điệu" trong việc uống
trà thì chỉ ưa dùng trà mộc. Phương pháp ướp tẩm rất cầu kỳ, do nhu cầu này mà
trong dân gian đã nảy sinh nhiều người có tay nghề cao được giới yêu trà rất
mến mộ.
Pha: Rót nước sôi tráng ấm cho kỹ, tưới đều nước sôi lên những chiếc chuyên
quân. Tráng ấm xong cho trà vào, rót nước sôi để chừng vài phút, đoạn chắt hết
nước trong ấm ra chuyên. Phải rót hết, muốn uống nữa, rót tiếp nước sôi vào ấm.
Sở dĩ làm vậy là để trà khỏi chín nhừ không mất đi hương vị, lại tránh bị nồng.
Tất cả mọi động tác của người pha trà thuần thục, nhẹ nhàng, chính xác, theo
một chu trình định sẵn như một nghi lễ vậy.
Ấm: Là yếu tố cuối cùng trong công đoạn pha trà. Có rất nhiều loại ấm, thế
nhưng đối với những người "sành" trong việc uống trà thì thứ nhất là
ấm Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, và thứ ba là Mạnh Thân. Đặc biệt hơn nữa
người ta còn có những quy định về màu sắc cho ấm pha trà, muốn thưởng thức trà
thật ngon thì màu ấm phải là màu gan trâu, gan gà, chu sa trong số đó mầu chu
sa là màu quý nhất. Về hình dáng ấm pha trà có những kiểu chính là: Trái lê,
Trái cau, Trái hồng, Bánh xe (quý), Tang trống (quý). Tuỳ từng trường hợp và số
lượng người cùng "thưởng trà" người ta còn chia ra 4 loại ấm được đặt
tên khác nhau: Ngưu ẩm, Quần ẩm, Song ẩm và Độc ẩm.
Quan niệm uống trà của người xưa, ngoài ý nghĩa thưởng lãm nó còn mang một ý
nghĩa nhân văn, ý nghĩa tâm linh, đó là tinh thần trọng Chân, trọng Thực, trọng
cái hay cái Đẹp. Nó thể hiện tâm hồn, tình cảm và nhân cách của con người Việt
Nam chúng ta. Chính vì thế uống trà và thưởng thức trà đối với người Việt Nam
đã trở thành một nghệ thuật, không chỉ là một thú ẩm thực nữa việc uống trà còn
là một nét vǎn hoá rất riêng, rất đẹp trong nền văn hoá Việt Nam.
Từ những cuộc tiếp xúc quan trọng nơi quốc gia đến hội hè đình đám ở làng quê,
ở thành thị và trong từng gia đình khi có khách đều phải mời trà. Nó đã được
diễn ra như một lễ nghi trong đó trà đã giữ vai trò giao lưu giữa các giai tầng
trong xã hội, không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng, đẳng cấp. Chủ đưa mời chén
trà, không bao giờ có người từ chối. Chén trà đã làm con người xích lại gần
nhau. Ngoài ra con người cũng đã sử dụng trà như một phương tiện giao tiếp,
người ta biếu xén, làm quà tặng, lễ lạt trong cầu phúc, chúc phúc, trong cưới
xin, dạm hỏi... Trà cũng đóng vai trò kết thúc trong bữa ăn của mỗi người, mỗi
gia đình. Nói cách khác: Trà là cái mở đầu và cũng là cái kết thúc của một
ngày, để rồi hôm sau lại mở ra một ngày mới: Bình minh số chán trà.
260.
Vợ chồng
Tiếng
gọi - Vợ chồng con nhà sang trọng gọi bằng cậu mợ, thầy thông thầy phán thì gọi
nhau bằng thầy cô, nhà thường gọi nhau bằng anh chị. Có con rồi thì gọi nhau
bằng thầy em, đẻ em, nhà thô tục thì gội nhau bằng bố cu đĩ, có người thì gọi
bố nó, mẹ nó, có người cả hai vợ chồng gọi lẫn nhau bằng nhà ta. ở Quảng Nam
thì vợ chồng là anh, chồng gọi vợ là em. ở nghệ tĩnh vợ chồng gọi nhau là gấy
nhông.
Đạo vợ chồng - Đạo vợ chồng cư sử với nhau, trọng nhất là hai chữ thuận hoà.
Tục có câu rằng" thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn "nghĩa là
có hoà thuận với nhau thì việc có khó đến đâu, cũng làm nên được. Người chồng
lại trọng nhứt là phải giữ nghĩa với vợ, mà vợ thì phải giữ tiết với chồng.
Nghĩa vụ của người vợ - Người vợ trên phải phụng dưỡng cha mẹ chồng, có khi
phải nuôi cả chồng; giữa thì giúp chồng lo lắng công việc kia việc khác, gánh
vác giang sơn cho nhà chồng; dưới thì chăn sóc nuôi con, thế mới gọi là nội
chợ.
Tứ đức - Lại phải đủ cả tứ đức mới gọi là hiền. Tứ đức là : Phụ dung, phụ công,
phụ ngôn, phụ hạnh.
Phụ dung: là dáng người đàn bà, dang phải chính đính hoà nhã, nhưng cũng phải
chải chuốt cho gọn gàng sạch sẽ.
Phụ công là nghề khéo của người đàn bà, nghề khéo thì chẳng qua trong việc vá
may thêu dệt, và biết buôn bán mà thôi, ai giỏi nữa thì biết đủ các việc cầm kỳ
thi hoạ là cùng.
Phụ ngôn là lời ăn tiếng nói của người đàn bà, ăn nói phải khoan thai, dịu
dàng; đừng câu cẩu mà cũng đừng the thé, quí hồ mềm mỏng cho ai cũng dễ nghe.
Phụ hạnh là nết na người đàn bà, nết na thì đến trên kính, dưới nhường, ở trong
nhà chiều chồng thương con, và lấy nết hiền hậu mà ở với anh em họ hàng nhà
chồng. Ra ngoài thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh mà cũng không cay nhiệt
với ai.
Ấy là tứ đức, có đủ chừng ấy mới là đáng khen.
Tam tòng - đàn bà lại có tam tòng nữa. Tam tòng là: tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử.
Nghĩa là khi người đàn bà còn ở nhà thì theo cha mẹ khi đã lấy chồng thì theo
chồng, khi chồng mất thì theo con.
Cho nên tục ta đi lấy chồng thì dù hay, dở, sống, chết thế nào cũng là người
nhà chồng, chỉ nương nhờ về chồng con, chớ không ai được nữa. Cũng vì nghĩa ấy
mà người đàn bà phải hết lòng hết sức lo cho chồng con, tức là lo cho mình.
Nghĩa vụ của người chồng đối với vợ thì chỉ ở cho đúng đắn, biết thương yêu vợ,
biết quý trọng vợ, nhất là có tài trí, khiến cho vợ có được nương nhờ sung
sướng là hơn cả.
Thứ nhì là vợ chồng đồng tâm hiệp lực, kẻ lo việc ngoài, người lo việc trong,
cho việc gia đình chỉnh đốn đâu ra đấy, mà đừng để khổ sở vất vả riêng cho một
mình vợ. Còn người quanh năm chí tối, chỉ trông cậy về vợ thì gọi là người hèn.
Quyền người chồng - Tục ta trong nam khinh nữ, quyền người chồng bao giờ cũng
nặng hơn quyền người vợ. Một là tiền của. Tiền của hai vợ chồng làm ra, hoặc
của ngơươì chồng hay người vợ làm ra, cũng gọi là của chồng cả. Có câu rằng:
"Trai tay không chẳng ăn mày vợ, gái trăm vạn cũng thể nhờ chồng".
Hai là việc giao thiệp. Ta chỉ người đàn ông có quyền giao thiệp với người
ngoài, chớ đàn bà thì không được dự gì đến việc nọ việc kia cả. Cho nên từ
trong họ, đến ngoài làng, cho đến việc tiếp khách, các việc ứng tiếp xã hội,
cũng không việc gì dự đến đàn bà. ta vì tục ấy mà đàn bà ít kiến thức, tựa như
một phần người vô dụng ở đời.
Ba là quyền tự do. Ta chỉ người đàn ông được tự do, nghĩa là muốn chơi bời gì
thì chơi, muốn đi lại đâu thì lại, người vợ không có quyền ngăn cấm được, mà vợ
hơi có điều gì trái gia pháp thì chồng có thể chửi được. Chồng có thể lấy năm
bảy vợ , ma vợ chỉ được phép lấy một chồng.
Có câu rằng: "tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ lấy một
chồng". Đây là nói đại khái , chớ quyền gì chồng vẫn hơn.
Thất xuất - Đàn bà ở với chồng, bảy đều nên phải đuổi gọi là xuất thất:
1-
Không con
2- Dâm vật
3- Không thờ cha mẹ chồng
4- Lắm điều
5- Trộm cắp
6- Ghen tuông
7- Có ác tật.
Đàn
bà lấy chồng trọng nhất là việc nối dõi tông đường, không có con thì chồng phải
lấy vợ khác, cho nên phải bỏ. Dâm tật là một nết hư. Không thoè phụng được cha
mẹ chồng là bất hiếu. Lắm điều thì chua ngoa khó chịu. Trộm cắp thì có ính gian
phi. Ghen tuông thì mất tính hiền hậu. Có ác tật thì không đương nổi việc nhà,
và e truyền nhiễm cho người trong nhà chăng.
Các điều ấy cũng khó dung, cho nên phải đuổi.
Tam bất khả xuất - Trong đó có ba điều không được đuổi:
1- Đàn bà từng để tang ba năm nhà chồng
2- Trước nghèo sau giàu
3- Ở nhà chồng thì được mà về nhà mình thì không có chỗ nào nương tựa.
Đàn bà để tang cha mẹ chồng ba năm là đã giúp chồng trong sự báo hiếu ấy rồi,
ấy cũng là có công với chồng, nếu bỏ thì chẳng những bạc tình, mà lại là người
bất hiếu với cha mẹ nữa. Trước mới lấy ngau thì nghèo, mà sau rồi moei giàu có,
thì là dường sinh lý cũng có nhờ giúp đỡ mới nên. Nếu bỏ đi thì là phụ công.
Đàn bà chỉ nhờ chồng và nhờ cha mẹ được thôi. Nếu cha mẹ người vợ mất rồi mà
đuổi đi thì người ta nương nhờ vào đâu, thế là bất nghĩa, cho nên không đuổi
Cái đạo vợ chồng, cũng là một mối cương thường rất hệ trọng trong ngũ luân. ở
với nhau mà biết thương yêu nhau, quý trọng nhau, thì rất là phải đạo lắm.
Nhưng tục ta trọng nam khinh nữ thì là một tục trái hẳn với cách văn minh.
Sao vậy? Tạo hoá sinh ra có trai thì phải có gái, có người coi việc ngoài thì
phaỏi có người coi việc trong, người cứng gân khoẻ thịt phải làm việc năng nề,
người yếu chân mềm tay thì dã có việc nhẹ nhàng, chẳng qua cũng là giúp nhau
thì mới được công này việc nọ, chớ thiếumột bề nào cũng không được, vậy thì
công việc của đàn bà có kém gì công việc của đàn ông đâu? Vả lại trời sinh ra
người đàn bà cái màu hoa bóng bẩy kia, có thể vui vẻ cho ta những khi bực dọc;
cái giọng oanh thỏ thẻ kia có thể khuây giải cho ta những lúc buồn rầu. Lúc
ruột gan ta nóng nảy bồn chồn, nhờ có đôi mắt thu ba làm cho ta được êm dịu mát
mẻ, khi tinh thần ta lo nghĩ mỏi mệt, nhờ có hai vừng đào kiểm làm cho ta được
khoan khoái thư nhàn. Vậy thì chẳng những là nên thương cái phận người yếu
đuối, mà lại nên kính nên trọng nữa.
Cho nên cứ lấy đạo công bình mà nói thì đáng lẽ quí đàn bà hơn đàn ông mới
phải, chớ nên cày mình khỏe mạnh mà khinh bỉ đàn bà, mà ức chế đàn bà. Tục ngữ
châu Âu có câu rằng : "On ne doit pas battre les femmes même avec des
fleurs", nghĩa là dẫu cái hoa cũng không nên dùng mà đánh đàn bà. Câu ấy
ngẫm la có lý thú lắm.
Tục ta thì phần nhiều áp chế đàn bà quá. Có người coi vợ như kẻ ăn người ở, nào
là bắt sửa túi nâng khăn, nào là bắt cơm dưng nước tiến: nào là bẻ hành bẻ tỏi,
nào là bắt nhặt bắt khoan. Chồng ăn chơi như phá thì không sao, vợ xỉnh ra một
chút đã sinh ra ỏm tỏi, chồng phim chuột như quỉ thì chẳng hề gì, vợ động đi
đâu một lúc đã sinh ra ngờ vực, ấy là điều trái với đạo công bằng.
Tục ta buộc cho đàn bà một chứ trinh mới lại nghiệt nữa. Đã đành rằng trinh
tiết là một nết rất quí ở Á Đông ta, không có thể sao bỏ được, nhưng chữ trinh
với chồng cốt ở trong bụng, chứ giữ gìn từng tí thì tựa như đàn ông quá khắc.
Tục Âu châu, vợ chồng thủ tín với nhau thì thôi, ngoài ra dẫu dắt tay nhẩy đầm
với kẻ khác cũng chẳng sao, dẫu ngồi tiếp chuyện với khách, bắt tay với khách
cũng chẳng sao. Ta thì kỹ kiêng quá : nào ngồi nói chuyện với đàn ông cũng
kiêng, đụng tay nào đàn ông cũng kiêng, đến cả vợ chồng đi với nhau ở ngoài
đường cũng kiêng nốt. Sao mà kỹ kiêng quá thế? Mà người đàn bà đã hư, dẫu kiêng
thế nào cũng hư, thì kiêng có ích gì đâu. Vả lại một bước không dám ra đến
ngoài, một người lạ không dám đáp chuyện, thì sao cho rộng kiến văn mà giúp
chồng nên việc lớn được? Đàn bà con gái nước ta, ít người tài trí anh hùng như
các nước, cũng có lẽ vì câu nệ nghĩa chữ trinh quá nữa.
Đến như trong tội thất xuất, thì lại có mấy điều lạ lùng! ừ, như tội dâm dật,
cứ theo luân lý ta thì không thể nào thứ được Tội bất hiếu, phạm vào đạo luân
thường, tội trộm cắp, phạm phải thói gian phi, các tội ấy thì bỏ đi cũng còn có
lẽ phải. Còn như tội không có con, chẳng qua bởi tại khí huyết, hoặc bởi tại
đâu người đàn bà có làm sao được; lắm điều, ghen tuông thì là thói thường của
đàn bà, có không thể chịu được thì lựa lời uốn nắn dần cũng phải được, sao nỡ
vì một lỗi nhỏ mà tuyệt tình ân nghĩa? Còn tói có ác tật là một sự bất hạnh của
đàn bà chớ nào ai muốn. Nên phải hết lòng thuốc men cho người ta, nếu chữa
không được mà sợ truyền nhiễm thì nên kiếm cách giữ gìn, chớ nỡ nào bỏ người ta
cầu vơ cầu vất. Thế mà bỏ đi thì quá khắc! Tưởng Thánh hiền đời xưa, chắc có vì
một cớ riêng gì nữa chăng?
Tuy vậy, có tội thất xuất, lại có ba điều bất khả xuất, thì lại là một lòng rất
trung hậu.
Nói tóm lại thì đàn ông chớ nên khinh bỉ đàn bà, chớ nên tranh hết quyền đàn
bà, và chớ nên dùng cách áp chế mà ngược đãi đàn bà. Song nghĩa vụ của đàn ông
đối với đàn bà thì như thế, mà nghĩa vụ của đàn bà đối với đàn ông thì cũng
phải kính trọng không phải một lòng một dạ mà lo công việc nhà chồng, phải giữ
gìn cái danh trong sạch để đừng phụ tấm lòng thương yêu của chồng. Chớ nên lấy
nê rằng minh là người của chồng đáng quý đáng mến mà bè nheo làm rầy chồng,
hoặc say đắm đường ăn chơi làm hại của nhà chồng, hoặc mắng chó chửi mèo nói
chồng chẳng ra gì, thấy chồng yêu xỏ chân lỗ mũi, lại không trách chồng là phàm
phu được.
Sách có chữ rằng: "Phu phụ tương kính như tân " nghĩa là vợ chồng
kính trọng nhau như khách. Lại có câu rằng: "Phu phụ hòa nhi hậu gia đạo
thành " nghĩa là vợ chồng có hòa thuận thì mới nên gia đạo. Hai câu ấy đủ
làm gương trong đạo vợ chồng.
261.
Vợ lẽ
Phận
lấy lẽ.- Người giàu có hoặc người hiếm hoi thường có vợ lẽ. Người chịu lấy lẽ
là người một là vì nghèo hèn, hai là vì sa cơ thất thế, ba là vì tham giàu,
tham danh giá, bốn là vì tuổi trẻ goá chồng, chưa có con, phải đi bước nữa thì
mới chịu lấy, chớ con nhà tử tế không mấy người chịu.
Lấy vợ lẽ không mấy người cưới xin như khi lấy vợ cả, chì dùng lễ cưới sơ sài.
đưa ít tiền bạc và nộp cheo cho làng mà thôi.
Người phú quí có khi lấy năm, lấy bảy vợ lẽ, mỗi người có riêng một dinh cơ,
phận ai người nấy. Người bình thường vì hiếm hoi mà lấy hoặc là vợ cả lấy cho,
hoặc là tự mình lấy, nhưng cũng phải nói cho vợ cả bằng lòng mới được. Có khi
vợ cả ghen tuông không cho lấy thì chồng lại lấy dấu mà để ở riêng một nơi.
Đối với chồng.- Vợ lẽ đối với chồng thì trọng về sự nâng khăn sửa túi, hoặc
người thì trọng về sự kế tự, chớ không có trách nhiệm đảm đang công việc nhà
chồng như người vợ cả.
Khi nào người vợ cả hèn yếu, không cáng đáng nổi công kia việc nọ, thì cũng cậy
vợ lẽ nhiều.
Vợ lẽ ở với chồng, cũng nhiều người rất trọng hậu, hết lòng lo cho chồng, biết
chiều chuộng chồng, biết phân trách nhiệm cho vợ cả. Có người chỉ cốt lấy chỗ
nương nhờ, chẳng biết lo lắng cho nhà chồng một tí gì.
Đối với vợ cả. - Vợ lẽ không có quyền bằng người vợ cả, phải phục tùng vợ cả
như là chồng. Được người vợ cả có lượng khoan dung thì coi vợ lẽ như chị em một
nhà. Nếu phải người vợ cả cay nghiệt, thì sai bảo hành hạ như kẻ ăn người ở, vợ
lẽ cũng phải chịu.
Nhiều khi vợ lẽ can cường: không chịu người vợ cả áp chế thì thường sinh ra sự
cãi nhau. Đàn ông thì có người ở công bình, mà phần nhiều thì hay bêng vực vợ
lẽ. Có khi vợ lẽ cậy được thế chồng yêu mà lăng ngược người vợ cả. Có khi vợ lẽ
cậy giàu có của, lo được cho chồng nên danh phận thì lại khinh bỉ vợ cả mà
tranh lấy quyền trên.
Đối với con chồng. - Con chồng gọi vợ lẽ của cha là dì ghẻ, nếu mẹ mất rồi,
phải nương nhờ dì ghẻ, thì người vợ lẽ ấy có quyền làm kế mẫu, coi được con
chồng như con mình, thì con chồng cũng phải coi mình như mẹ đẻ. Nhưng ít được
người hiền hậu, nhiều người không thương đến con chồng.
Tục
vợ lẽ cũng là một tục trái với văn minh đời nay. Vì là làm cho loài người mất
tự do, mất bình đẳng thì là trái với đạo công bằng của tạo hóa, tức là không
hợp cách văn minh. Vả lại vợ cả vợ lẽ, ít người biết lấy cách hòa thuận ở với
nhau, còn phần nhiều thường hay ghen tuông nhau.
Người chồng cũng ít người khéo khu xử, mà cũng rất khó khu xử cho vừa lòng cả
đôi bên. Có câu rằng : "Cai trăm quân không khó bằng cai bốn vó đàn
bà". Vì thế trong nhà hay sinh ra lục đục, chồng ở giữa thật là khó nghĩ,
bênh vợ cả thì vợ lẽ oán. bênh vực vợ lẽ thì vợ cả giận, thành ra gia đình giảm
mất sự vui vẻ. Mà lắm khi người vợ cả ác nghiệt, thì vại giấm chua cũng khá ghê
thay? Hoặc gặp phải người vợ lẽ tai ngược, thì cũng khó chịu! Cầu lấy lớn ra
phận lớn, nhỏ ra phận nhỏ hồ dễ đã được mất người.
Song cứ suy cái tình thế trong phong tục ta thì chưa có thể bỏ được. Ta trọng
nhất là việc thừa tự, nếu người vợ cả không có con mà không lấy vợ lẽ thì không
nghĩ đến việc thừa tự tục cho là bất hiếu. Vả người nước ta, đàn bà thì nhiều
mà lại lắm người nghèo khó vất vả. Có cái tục lấy vợ lẽ cũng giúp được cho
nhiều người có chỗ nương nhờ.
Cứ như thế thì lấy vợ lẽ cũng là phải. Song thiết tưởng có người nên lấy, có
người không nên lấy. Ai mà lượng cái sức mình có thể bao dong được vợ lẽ và đàn
con của vợ lẽ hãy nên lấy, chớ lấy mà để cho người ta khổ sở và để cho đàn con
nheo nhóc thì đừng. Ai mà tin cái tài mình có thể giữ được hòa mục trong gia
đình hãy lấy chớ lấy mà nay tiếng này mai tiếng khác, sinh ra tan cửa nát nhà
thi đừng. Mà lấy thì phải coi người ta là một người vợ khác của mình, chớ đừng
coi là kẻ sai khiến của nhà mình, đừng để cho vợ lẽ đê tiện, mà cũng đừng để
cho vợ cả mất lòng.
Sau nữa là cái đạo vợ lẽ ở với chồng, ở với vợ cả, cũng phải giữ hai chữ kính
thuận mới được. Mình đã chẳng may sa cơ thất thế, phận hẩm duyên hôi, thân cát
đằng đã phải nương đến bóng tùng quân thì đừng có nên cậy nhan sắc, cậy có con,
cậy chồng yêu mà hoành hành với người vợ cả, dẫu ở chung riêng mặc lòng, phải
cho trên thuận dưới hòa thì mới vui vẻ.
Người vợ cả ở với vợ lẽ, nên giữ lấy lượng bao dong chớ đừng giữ thói ghen
tuông mà mang tiếng nhỏ nhen làm bia cho miệng cười.
262.
Cầu tự
Nhà
nào hiếm muộn thì cầu tự. Cầu tự có nhiều cách. Người thì uống thuốc cho bổ khí
huyết, người thì cho tại đất tuyệt đinh, nhờ thần địa lý dịch mả, người thì đi
lễ bái chùa này miếu nọ đê cầu Phật Thánh độ cho có con.
Về tháng giêng, tháng hai, vợ chồng thiên hạ thường dắt dìu nhau vào lễ chùa
Hương Tích (thuộc phủ Mỹ Đức tỉnh Hà Nội) cầu tự. Trong chùa có một hang đá
thạch nhu mọc lổm chổm hai bên, tục gọi là núi Cô, núi Cậu. Các người cầu tự
đem vàng hương oản lễ đến chùa, rồi thì đem quà bánh đến chỗ hang thạch nhũ ấy
coi hòn nào thích mắt. thi xoa tay vào đầu mà khấn: Cậu về ở với vợ không thà
tôi nhá. Ai nhiều con trai rồi muốn có con gái thì sang dãy núi Cô cũng nói như
vậy. Khấn xong lúc trở ra về, ăn thì thêm bát thêm đũa, đi đò thì trả thêm một xuất
tiền cho người lái đò, làm như đã có một người đi theo vậy.
Nếu về nhà mà sau vợ có mang sinh con thì mỗi năm phải đem con về chùa lễ tạ ơn
Phật.
Có người về lễ đền Kiếp Bạc (đền thờ ông Thần Hưng Đạo: thuộc tỉnh Hải Dương)
cầu tự. Hạng người này thì phần nhiều là sinh con khó nuôi, cho là có tiền oan
nghiệp chướng, cho nên đến lễ bái trừ tà thì về sau đẻ con mới nuôi được.
Xét cái tục cầu tự của ta, cũng bởi tin sự quỉ thần mà ra. Tục này từ thượng cổ
đã có, như vua Đế Cốc cầu tự ở đền Cao Môi mà sinh ra ông Hậu Tắc, ông Thúc
Lương Ngột cầu tự ở núi Ni Sơn mà sinh ra Đức Khổng Tử. Nhưng thiết tưởng toàn
là đo bụng tin tưởng mà ra, chớ không có lẽ gì cho đích đáng tin được.
Cứ lấy sự hiển nhiên mà nói thì người không có con hay là đẻ con mà không nuôi
được, hoặc là vì người đàn ông hay đàn bà có tật bệnh gì, hoặc là vì đẻ con ra:
tiên thiên suy nhược khó nuôi, hay là nuôi trái phép vệ sinh thì không nuôi
được.
Còn như người chỉ sinh con gái mà không sinh con trai, cũng bởi có một lẽ riêng
nào đó, quyết không có thần thánh nào chủ trương về việc sinh đẻ con cái gì đâu.
Có người nói rằng: Sự cầu tự cũng nhiều khi linh nghiệm, xem như các người vợ
chồng đã ngoài bốn mươi tuổi chưa có con, đi cầu tự rồi mới có, mà cũng nhiều
khi người con ấy làm nên thế này thế khác, nếu không nghiệm thì sao thế được.
Thiết tưởng sự ấy cũng là một ngẫu nhiên, dẫu chẳng cầu đâu cũng có. Vả lại
muốn sự thường hay nên ở lòng người tin tưởng. Cái bụng người ta đã tin mê ở
điều gì thì lại hay cố sức làm cho điều ấy phải nghiệm, vậy thì lại có một lẽ
chắc được, chớ cũng không phải có chi lạ hết.
Còn như con hay con dở, bởi ở cách dạy dỗ, con thọ, con yểu, bởi ở cách dưỡng
sinh, không nên cho là con trời con phát mà nhàm quá.
263.
Độc đáo lễ cưới của người Mạ ở Lâm Đồng
Lâm
Đồng là một vùng dân cư, dân tộc có nhiều sắc thái phong phú tiêu biểu ở vùng
đất Tây Nguyên. Theo thống kê sơ bộ đến nay, ở Lâm Đồng có trên 20.000 người
sinh sống, tập trung ở lưu vực sông Đạ Đờn, chủ yếu ở: Đức Trọng, Di Linh và
thành phố Đà Lạt.
Người Mạ là cộng đồng người có tính thống nhất tộc người khá rõ rệt về mặt tâm
lý xã hội, mặc dù có nhiều nhóm Mạ khác nhau: Mạ Ngăn, Mạ Tô, Mạ Xốp, Mạ Krung…
Theo những tài liệu nghiên cứu về dân tộc học giữa người Mạ, người K'Ho và
người Mnông vẫn luôn tồn tại những sắc thái rất gần gũi nhau, họ có tiếng nói
chung cùng ngữ hệ Môn - Khơ me, có nhiều phong tục tập quán cơ bản giống nhau.
Cũng như các tộc người ở Tây Nguyên, những yếu tố văn hoá, tinh thần truyền
thống của người Mạ được biểu hiện qua những phong tục, tập quán, văn hoá dân
gian, lễ hội, tiêu biểu là lễ cưới của người Mạ…
Trước đây, hôn lễ của người Mạ biểu hiện khá phức tạp, nhiều hủ tục, sự đòi hỏi
hồi môn quá lớn, đã làm cho nhiều đôi trai gái yêu nhau tha thiết phải chờ đợi
mỏi mòn hoặc phải gạt lệ chia tay, thêm vào đó là nạn ăn uống linh đình trong
nhiều ngày đã làm cho các gia đình hao tốn khá nhiều sức khoẻ và tiền của. Ngày
nay trong quá trình giao lưu văn hoá giữa các vùng, các dân tộc, qua các phương
tiện thông tin đại chúng, sự tác động tích cực của phong trào xây dựng văn hoá
ở các cụm dân cư, xây dựng gia đình văn hoá mới…nên hôn lễ ở các vùng người Mạ
được tiến hành đơn giản nhưng vẫn giữ những nét riêng về nghi thức truyền thống
và sự vui vẻ, đồng cảm, mang đậm sắc thái cộng đồng.
Trong ngày cưới, quan trọng nhất là khi đưa cô dâu về nhà chồng, cô dâu trên
vai mang theo gùi củi với niềm tin sẽ mang sự ấm áp, hạnh phúc đến cho nhà
trai, cùng đi có chú rể cường tráng, tóc giắt lông chim Rling và đông đảo bà
con, bạn bè trong họ hàng nhà gái cũng như dân làng. Khi đến cổng nhà chú rể,
đoàn nhà gái dừng lại, dàn chiêng tấu lên một điệu chiêng vui như muốn nói:
"Họ nhà gái chúng tôi đã tới nhà trai có vui vẻ sẵn sáng đón chúng tôi
chưa?", lúc đó nhà trai cũng vui vẻ trả lời bằng một điệu chiêng nồng
nhiệt không kém, làm cho không khí đầu tiên gặp mặt giữa hai họ hào hứng, thân
tình. Tiếng chiêng chào hỏi dứt, người mẹ chú rể nhanh nhẹn ra đón con dâu và
dắt cô dâu vào nhà, hướng dẫn cô dâu để gùi củi tronggóc bếp của gia đình. Sau
đó bà mẹ ra lại cổng dắt cô dâu, chú rể cùng họ hàng nhà gái vào nhà chào họ
hàng rồi tập trung trước bàn thờ tổ tiên, đại diện nhà trai, già làng khui choé
rượu cần, cắt tiết một con gà để già làng làm lễ cầu giàng, với lời khấn:
"lạy giàng, lạy các thần linh, xin mời các thần về chứng giám và phù hộ
sức khoẻ cho đôi trai gái mới cưới, cho họ có đủ cái ăn, có nhiều sức khoẻ, có
con nối dõi, sống hạnh phúc bên nhau trọn đời". Tiếp đó già làng làm tượng
trưng bôi tiết gà lên bàn thờ, trán cô dâu, chủ rể, vẩy bột nghệ, vậy bột tấm
gạo chúc phúc cho cô dâu, chú rể và mọi người mong ai cũng được hạnh phúc, làm
ăn thịnh vượng. Sau đó, người cậu thay mặt cho bố mẹ chú rể lần lượt đưa cho
chú rể một nắm cơm kèm theo một chén rượu để chú rể uống một nửa rồi lại đưa
cho cô dâu uống một nửa, thay lời hứa hẹn sung sướng cùng hưởng, khó khăn cùng
chia sẻ với sự chứng kiến của đông đảo dân làng, nhất là bà con hai bên nhà
trai, nhà gái, nghi lễ này được lặp lại 6 lần. Phần bắt buộc mà mọi đámcưới phải
thực hiện đó là lễ trao vòng:
"Muốn cho xong việc hôn nhân
Phải làm một lễ trao vòng cho nhau"
Sau lễ trao vòng, đại diện nhà trai trân trọng gửi tặng đại diện nhà gái một
tấm choàng đẹp và nhiều vòng đeo hạt cườm, đồng thời người cậu hướng dẫn để cô
dâu, chú rể quì gối, đối mặt nhau, bố và mẹ chú rể cùng đắp lên người họ một
tấm chăn đẹp, đại diện hai họ nhẹ nhàng đẩy 2 mái đầu cụm nhau 7 lần, tượng
trưng cho tình yêu mãi đẹp và luôn tâm đầu ý hợp.
Kết thúc nghi lễ cưới chính thức, mọi người cùng chúc phúc cho đôi trai gái,
rồi nhà trai trao vòng cho họ nhà gái, mong 2 họ từ nay sẽ có mối quan hệ tốt
đẹp, đoàn kết, thông cảm. Sau phần trao vòng, bà con hai bên nhà trai, nhà gái
cùng khách dự lễ cưới cùng thưởng thức men say của rượu cần, các chàng trai, cô
gái ở hai họ cùng vui chung điệu múa, thể hiện lời ca, trong tiếng kèn, tiếng
chiêng rộn rã, sôi động… Đêm hôm sau, cặp vợ chồng mới cưới ăn ở với nhau và
các cuộc liên hoan, sinh hoạt văn hoá ở buôn làng vẫn tiếp tục trong một vài
ngày tiếp theo.
264.
Rước Chúa gái - Phong tục hôn lễ thời Hùng Vương
Trong
kho tàng những huyền thoại Việt Nam, câu chuyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh hay chuyện
tình Ngọc Hoa đã trở thành quen thuộc với nhiều người, nhiều thế hệ.
Ở đó chẳng những phần nào thấy được thiên nhiên, buổi hồng hoang trong lịch sử
dân tộc với lụt lội, ác thú, núi cao rừng rậm, chiến tranh, giặc dã…và sức mạnh
phi thường của nhân dân chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai, trị thuỷ bảo
vệ mùa màng, cuộc sống; mà ở đó ta còn thấy được cả tục lệ hôn lễ trong thời
đại Hùng Vương.
Trải qua bao đời nay, hình ảnh đám cưới của Sơn tinh và Công chúa Ngọc Hoa vẫn
còn giữ được trong ký ức của nhân dân. Qua thế hệ này đến thế hệ khác, dưới
hình thức hội làng và cúng tế thần linh người ta đã truyền tục và phản ánh hình
ảnh của ký ức đó. Trước khi làm lễ cầu hôn, Sơn Tinh và Thuỷ Tinh phải làm lễ
ra mắt, rồi trổ hết tài năng của mình cho Vua Hùng với tư cách là cha của Ngọc
hoa cùng dân làng xem xét. Sơn Tinh khi thắng cuộc thì được đón Ngọc Hoa về làm
vợ, Thuỷ Tinh thua cuộc thì uất hận đến ngàn đời quyết tâm dâng cao nước gây
lụt lội, nhưng có tài rồi vẫn chưa đủ mà Sơn Tinh và Thuỷ Tinh còn phải có đủ
đồ thách cưới như: “Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, 100 bánh
chưng, 100 bánh dầy”…”Ai đem đến trước mới được mời vào trao duyên cùng công
chúa”, khi được chấp nhận rồi đám cưới mới được tổ chức. Cũng đón dâu và múa
hát cùng nhiều trò vui nhộn.
Khảo sát thực tế lễ hội mùa xuân của một số vùng xung quanh Đền Hùng, chúng ta
sẽ có dịp được thấy một số diễn xướng dân gian khá sinh động. Đó là lễ hội làng
He với trọng tâm là lễ hội rước Chúa Gái. Đó còn là trò diễn bách nghệ khôi hài
của dân làng Vi - Trẹo. Chuyện xưa kể rằng hàng năm vào tháng Chạp, các cụ già
của 2 làng Vi - Trẹo tụ họp tại đình Cả để bàn việc tổ chớc lễ hội mùa xuân và
bàn việc rước Chúa Gái. Chúa Gái được chọn lựa kỹ càng trong đám thanh nữ vừa
độ tuổi trăng tròn (15 – 16 tuổi). Đó là một cô gái chưa chồng xinh đẹp, thuỳ
mị, nết na, nghĩa là nếu theo quan niệm phong kiến phải có đủ cả công, dung,
ngôn, hạnh. Con nhà phong quang không có tang chế, bố là người có chức sắc, dẫu
không là quan trong làng thì cũng phải là người sang trong họ. Trước ngày rước
một tuần dân làng phải đến trang trí nhà Chúa Gái cho thật đẹp đẽ, sang trọng,
chăng đèn, kết hoa trong nhà ngoài sân lộng lẫy. Mọi sinh hoạt của Chúa Gái
được khép kín trong phòng. Tất cả các cô gái khác cùng trong độ tuổi phải phục
vụ. Ngày rước Chúa Gái cũng chính là ngày lễ hội làng He (làng He ngày xưa gồm
2 thôn Vi - trẹo, 2 thôn này thuộc 2 xã Chu Hoá và Hy Cương và hội làng He chính
là hội Đền Hùng ngày nay).
Ngày xưa đã có câu:
“Sơn Tây vui nhất hội chùa Thầy
Vui thì vui thật chẳng tày hội He”
Vì vậy, trong ngày hội rước Chúa Gái, dân làng tổ chức nhiều trò vui như: Săn
lơn, chạy địch, chạy Tùng dí và diễn trò bách nghệ khôi hài…
Hội làng He được được tổ chức thành 2 phần riêng biệt, phần lễ và phần hội.
Phần lễ được tiến hành trọng thể tại ngôi đình làng. Đó là sự biểu đạt phần đời
thường của con dân trước các thiên thần và các nhân thần đã có công dựng nước
và bảo vệ xã tắc. Phần hội được tổ chức vui tươi lành mạnh đó là sự biểu đạt
nhu cẩu thưởng ngoạn của cuộc đời mỗi con người. Tất cả các trò vui được diễn
trong hội làng He chỉ nhằm mục đích sao cho Chúa Gái vui tươi. Vì theo quan
niệm của dân làng nếu Chúa Gái vui cười thật nhiều thì năm ấy cả làng sẽ làm ăn
thuận lợi hơn.
Theo các cụ già trong làng kể lại thì, thực chất cuộc rước Chúa Gái trong hội
làng He được mô phỏng theo tích Tản Viên đón vợ. Vì sau khi Ngọc Hoa đã kết hôn
cùng Sơn Tinh, nàng đã trở về với bố đẻ mà không về ở với chồng, nên Sơn Tinh
dã phải đem lễ lại mặt đến đón vợ về. Vì thương cha nhớ mẹ nên sắp ra khỏi cổng
làng, Công chúa Ngọc Hoa không đi nữa, dân làng phải làm đủ mọi trò vui, trò
bách nghệ khôi hài để nàng vui lòng lên kiệu về với chồng bên quê hương Núi Tản
– sông Đà (Ba Vì – Hà Tây). Ngày nay, khi tìm hiểu toàn bộ diễn trình của các
lễ hội dân gian trong làng xã quanh đất cổ Phong Châu, khảo sát câu chuyện tình
sử giữa công chúa Ngọc Hoa và Tản Viên Sơn Thánh, ta sẽ ghi nhận được dung diên
phong tục hôn nhân thời cổ đại khi các Vua Hùng dựng nước Văn Lang. Đó là tục
hôn nhân một vợ một chồng, và việc kén chọn để “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem
họ..”, đó cũng là tục thách cưới, tục cưới xin có tổ chức trò vui và tục đón
dâu, lại mặt…
Qua tất cả các phong tục hôn nhân thời ấy đã phản ánh rõ nét đời sống, xã hội
thời Hùng Vương là một xã hội phát triển khá cao. Chuyện tình công chúa Ngọc
Hoa đã phản ánh chế độ hôn nhân trong xã hội có gia đình ở giai đoạn phụ quyền,
nghĩa là “Thuyền theo lái, gái theo chồng”. Sự lựa chọn chàng rể và tục thách
cưới dường như là phong túc được bảo lưu ở rất nhiều địa phương thuộc tỉnh Phú
Thọ cho đến ngày nay.
265.
Phong Tục Về Tang Ma
Tang
lễ là những lễ nghi được đặt ra để bày tỏ lòng thương xót và kính thờ người
chết. Người Việt Nam coi tang lễ cha mẹ là quan trọng nhất.
Khi
cha mẹ hấp hối thì phải khiêng ra giữa nhà để tỏ rằng cha mẹ chết một cách
quang minh chính đáng. Lúc này phải đặt tên hiệu, tên thụy, còn gọi là tên cúng
cơm, rồi thưa cho cha mẹ biết để sau này mỗi khi cúng giỗ, nghe con cháu khấn
tên thì cha mẹ về dự lễ. Lại lấy một miếng lụa trắng dài đặt lên mặt, có người
nói đặt lên ngực (1) để hồn người sắp chết nhập vào, rồi kết thành hình người,
gọi là hồn bạch.
Khi tắt thở rồi thì tang chủ (người chủ lễ, thường là con trai trưởng) lấy một
chiếc đũa để ngang hàm, dùng một miếng khăn hoặc một miếng giấy phủ lên mặt để
tránh ma quỷ ám hại.
Xong, khiêng xác đặt xuống đất, rồi lại khiêng lên giường, mong rằng người chết
hấp thụ sinh khí của đất, may ra sống lại.
Phan Kế Bính cho rằng tục này mang ý nghĩa là người ta bởi đất sinh ra thì khi
chết lại về đất (2). Có lẽ Phan Kế Bính đã chịu ảnh hưởng của Đạo Thiên Chúa
chăng ?
Người con cầm cái áo của người chết mới thay, đi đường phía trước trèo lên mái
nhà hú vía ba lần (lễ phục hồn, chiêu hồn) : ba hồn, bảy vía, cha đâu về với
con hoặc ba hồn, chín vía mẹ đâu về với con, tỏ ý mong cha mẹ sống lại. Theo
quan niệm của Đạo giáo thì phách (hay vía) là phần tinh thần của người phải phụ
vào xác mới tồn tại, khi người chết thì tan đi, còn hồn là phần tinh thần không
có xác vẫn tồn tại được.
Hú vía xong tụt xuống bằng lối phía sau. Mang áo vừa được hú vía phủ lên xác.
Dùng nước thơm tắm rửa cho người chết (lễ mộc dục ), chải tóc, cắt móng tay
móng chân, thay quần áo mới. Con trai tắm rửa cho cha, con gái tắm rửa cho mẹ.
Người chết được mặc quần áo sang trọng hay đơn sơ tùy theo nhà giàu hay nghèo,
có chức tước hay không, chết già hay chết trẻ.
Các đồ dùng và nước tắm của lễ mộc dục được đem chôn.
Sau đó làm lễ phạn hàm, hay ngậm hàm. Bỏ một nắm gạo và ba đồng tiền (đồng kẽm,
đồng chinh) vào miệng người chết. Gạo để linh hồn người chết ăn, khỏi phải
thành ma đói ( ngạ quỷ). Tiền dùng để đi đò hay qua cầu sang bên kia thế giới.
Những người lúc sống ăn ở bạc ác thì lúc chết linh hồn phải qua cầu Nại Hà.
Người lương thiện được qua cầu Kim Ngân. Ngày xưa nhà giàu dùng gạo và vàng,
ngọc để làm lễ phạn hàm.
Từ lúc mặc quần áo đẹp cho người chết xong, con cháu không mặc đồ tốt đẹp, chải
chuốt. Ngược lại, càng ăn mặc tiều tụy càng tỏ lòng hiếu thảo.
Tiếp đến là lễ khâm liệm. Khâm liệm là dùng vải bọc xác trước khi đặt vào áo
quan. Xác được chèn đồ bổ khuyết, bọc kín và buộc chặt thành một khối vuông
vức.
Lúc đặt xác vào áo quan ( lễ nhập quan ), lót giấy bản, rắc bỏng hay trà khô để
đề phòng hút nước do xác tiết ra. Nhiều nhà mời thầy phù thủy làm lễ phạt mộc
(chém gỗ). Một tay cầm dao, tay kia cầm bó hương, thầy phù thủy vừa niệm thần
chú, vừa quát tháo, vừa chém vào thành áo quan để trừ ma quỷ còn ẩn nấp trong áo
quan và trong những tấm ván.
Phạt mộc xong, thầy phù thủy bỏ vào trong áo quan một miếng ván đục hình chòm
sao bắc đẩu, gọi là ván thất tinh (bảy ngôi sao). Gia đình nghèo thì chỉ vẽ
chòm sao lên một mảnh giấy.
Ván thất tinh có công dụng gì ?
Theo quan niệm của Đạo giáo thì trên cõi trời có Ngọc Hoàng Thượng Đế và nhiều
vị thần ngự trị. Trong số các vị thần được người đời thờ kính có Nam Tào và Bắc
Đẩu, hai vị thần chuyên ghi chép và kiểm soát sổ sinh, sổ tử của loài người.
Chòm sao bắc đẩu (đại hùng tinh) tượng trưng cho thần Bắc Đẩu. Bỏ tấm ván thất
tinh vào trong quan tài, người ta hi vọng rằng linh hồn người chết sẽ được vị
thần giữ sổ tử che chở.
Người nào chết nhằm giờ xấu thì phải bỏ thêm vào áo quan một cỗ bài tổ tôm,
ngày nay có chỗ dùng bộ bài tây, một quyển lịch tàu hoặc lịch ta.
Tục này mang ý nghĩa gì ?
Chữ bài (hán việt, bộ thủ), nghĩa là trừ bỏ, và chữ lịch (bộ chỉ) nghĩa là trải
qua, vượt qua.
Chết nhằm giờ xấu, người ta dùng bộ bài, quyển lịch để trừ bỏ điều xấu, vượt
qua được mọi khó khăn.
Nhiều nhà còn dán thêm bùa bên trong và bên ngoài áo quan để trừ khử ma quỷ. Có
nhà dùng tàu lá gồi thay cho quyển lịch. Lá gồi trừ được thần trùng (2)(3).
Nhập quan rồi, chèn thêm đồ bổ khuyết, đậy nắp áo quan, gắn sơn, đóng cá hoặc
đóng đinh cho kín.
Linh cữu được khiêng ra đặt giữa nhà, trên nóc bày một bát cơm úp, cắm một
chiếc đũa vót cho sơ ra như gai nhọn (có nơi gọi là chiếc đũa bông), một quả
trứng luộc, ba nén hương.
Bát cơm, quả trứng, có thể là bữa ăn để linh hồn người chết khỏi trở thành ma
đói. Nhưng chiếc đũa có gai nhọn thì chắc chắn không phải là để dùng ăn cơm.
Không ai có thể ăn với một chiếc đũa như thế.
Vậy chiếc đũa gai này mang ý nghĩa gì ?
Chiếc đũa chữ hán việt là khoái (bộ trúc). Chữ khoái (bộ tâm) có nhiều nghĩa :
sướng thích, nhanh chóng, sắc bén, và lính đi bắt giặc cướp.
Cái gai nhọnchữ hán việt là thứ (bộ đao), thứ còn có nghĩa là đâm chết.
Chiếc đũa gai tượng trưng cho một tên lính đi bắt và đâm chết giặc cướp, được
người xưa dùng làm bùa trừ ma quỷ.
Nếu trong gia đình còn người ở bậc cao hơn người chết thì đặt linh cữu ở gian
bên cạnh, đầu quay ra ngoài sân hoặc quay về hướng nam.
Sau vài ba ngày, chờ con cháu ở xa về đông đủ, thì làm lễ thành phục, cũng gọi
là phát tang. Gặp mùa nóng bức hoặc lúc có bệnh dịch thì phát tang sớm hơn. Con
cháu, họ hàng, tùy theo thứ bậc mà mặc đồ tang. Đồ tang của người vắng mặt được
đặt trên linh cữu.
Luật xưa quy định rõ ràng năm hạng quần áo, mũ khăn, cùng thời hạn để tang.
Làm lễ nhập quan rồi nhưng chưa phát tang thì con cháu còn được phép cưới, gọi
là cưới chạy tang.
Nhà nào rộng rãi, giàu sang thì đặt linh sàng (giường của linh hồn người chết)
và linh tọa (bàn thờ linh hồn).
Buổi sáng bưng chậu nước, khăn mặt vào linh sàng, khóc ba tiếng rồi rước hồn
bạch ra linh tọa, lúc đó mới dâng cúng cơm nước. Buổi tối dâng cúng xong, lại
rước hồn bạch vào linh sàng, buông màn đắp chăn rồi mới trở ra. Nhà nghèo thì
treo hồn bạch vào linh tọa, rồi làm lễ dâng cúng. Lễ này gọi là lễ chiêu tịch
điện.
Trong mấy ngày linh cữu còn quàn trong nhà, nhiều gia đình mời phường bát âm
thổi kèn, đánh trống đệm cho con cháu khóc, và mỗi khi có người tới phúng
viếng. Nhà giàu lại còn thuê người khóc mướn cho tăng vẻ thương nhớ, sầu thảm.
Trước hôm đưa ma thì làm lễ thiên cữu (xê dịch linh cữu). Rước linh cữu sang
nhà thờ tổ làm lễ yết tổ rồi đưa trở về chỗ cũ. Có nhà rước hồn bạch đi làm lễ.
Không có nhà thờ tổ thì xoay linh cữu một vòng rồi lại đặt vào chỗ cũ.
Đến ngày phát dẫn (đưa đám), làm lễ khiển diện (tiễn biệt), rồi rước linh cữu
lên đại dư (xe đòn). Có nhà làm lễ cáo thần đạo lộ, xin phép cho đám tang bắt
đầu lên đường.
Bắt đầu cuộc phát dẫn. Tuỳ theo đám ma to hay nhỏ, cách sắp đặt cũng như thứ tự
tuần hành có đôi phần khác nhau.
Đi mở đường là hai phương tướng mặc quần áo đạo sĩ, đeo mặt nạ dữ tợn, cầm gươm
xua đuổi ma quỷ. Có khi phương tướng được làm bằng giấy hoặc vẽ vào tấm mộc,
cho trẻ con vác.
Tiếp theo là thể kì, một bức hoành trắng do hai người khiêng, viết bốn chữ theo
vài công thức có sẵn để đọc lên người lạ cũng có thể biết người chết là đàn ông
hay đàn bà. Thí dụ cha chết thì viết câu Hỗ sơn vân ám (núi Hỗ mây che, theo
điển tích xưa thì núi Hỗ là nơi tưởng nhớ cha). Mẹ chết thì viết câu Dĩ lĩnh
vân mê (núi Dĩ mây mờ, núi Dĩ là nơi ngóng mẹ).
Sau thể kì đến minh tinh làm bằng một tấm lụa hay vóc màu đỏ dùng để ghi chức
tước, họ tên, thụy hiệu người chết. Đây là chỗ để các gia đình danh giá đua
nhau dài dòng minh tinh, đem hết phẩm hàm ra khoe. Nhà nghèo thì dùng giấy điều
buộc lên cành tre cho một đứa bé cầm.
Kế tiếp là hương án bày đồ thờ và thực án bày đồ ăn.
Rồi đến linh xa chở hồn bạch, có phường bát âm đi kèm bên. Một người cầm biển
đan triệu bằng giấy viết hai chữ trung tín hay trinh thuận tuỳ theo người chết
là đàn ông hay đàn bà.
Tiếp theo là cờ công bố dẫn đường cho phu khiêng đại dư.
Nhà giàu thường che linh cữu bằng cái nhà táng trang hoàng lộng lẫy, hoặc một
chiếc thuyền bát nhã bằng giấy nếu người chết là một Phật tử. Có nhà thắp thêm
bảy cây nến xếp thành hình chòm sao bắc đẩu trên nắp linh cữu(1).
Tục ta mong muốn cho người chết được yên nghỉ, cho nên phu khiêng linh cữu, đại
dư phải chú ý đi đứng nhẹ nhàng, ngay ngắn. Nhiều nhà cho đặt một chén nước đầy
trên linh cữu, nếu trong suốt lúc di chuyển, khiêng vác, nước không sánh ra
ngoài thì phu khiêng sẽ được thưởng tiền.
Cha đưa mẹ đón. Đám tang cha, con trai chống gậy tre theo sau quan tài. Đám
tang mẹ, con trai chống gậy vông (ngày xưa gọi là cây đồng) nửa dưới đẽo vuông,
nửa trên vót tròn, đi giật lùi đằng trước quan tài. Con trai nào vắng mặt thì
treo cái gậy của người ấy ở đầu đòn đại dư. Nếu có con trai nào chết trước thì
con trai của người này (hoặc người được ăn lập tự) phải chống gậy thay cha.
Tại sao lại chống gậy vuông đi giật lùi ?
Nhất Thanh giải thích rằng vì cha nghiêm (nghiêm đường, nghiêm phụ) con chỉ
biết lẽo đẽo theo khóc, không dám lên phía trước đón ngăn lại trên đường vĩnh
biệt như đối với mẹ hiền (gia từ, từ mẫu)(4).
Giải thích của Nhất Thanh e rằng dễ gây cho ta cảm tưởng rằng con chỉ sợ cha vì
cha nghiêm, còn mẹ hiền thì con có thể nhờn. Vả lại Nhất Thanh vẫn chưa cho
biết ý nghĩa của cái gậy vuông.
Muốn hiểu được tục này chúng ta phải nhìn lại xã hội phong kiến ngày xưa.
Ai cũng biết rằng Nho giáo rất trọng tôn ti trật tự quân, sư, phụ (vua, thầy
dạy học, cha).
Trong gia đình người cha là trên hết. Cha chết, tất cả con cái thuộc bậc dưới
phải đi sau quan tài của cha.
Còn vai trò của người mẹ thì ra sao ?
Nho giáo trọng đàn ông con trai, miệt thị đàn bà con gái. Nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô (một con trai kể là có, mười con gái kể là không). Cha chết thì
quyền huynh thế phụ người anh được thay quyền cha. Chồng chết thì vợ phải phu
tử tòng tử, nghĩa là mẹ phải theo con trai. Tuy nhiên, chữ hiếu của Nho giáo
lại bắt con trai cũng như con gái phải thờ kính cả cha lẫn mẹ.
Tục lệ tang ma cho người con trai đi giật lùi đằng trước quan tài của mẹ, như
vậy là vừa giữ được lòng kính trọng của chữ hiếu vừa giữ được tinh thần trọng
nam khinh nữ của Nho giáo.
Hai chiếc gậy tre và gậy vông mang ý nghĩa gì ?
Toan Ánh cho rằng chiếc gậy tre tượng trưng cho ngay thẳng, cứng rắn của cha,
gậy vông tượng trưng cho thuần hậu, mềm dẻo của mẹ (3).
Nhưng tại sao lại phải đẽo vuông chiếc gậy vông ?
Người xưa quan niệm rằng trời tròn đất vuông. Quan niệm này được thể hiện rõ
ràng qua sự tích bánh giầy bánh chưng của ta.
Vua Hùng Vương thứ 18 muốn truyền ngôi, cho gọi các con vào chầu. Vua nói:
"Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối năm nay mang trân cam
mỹ vị đến để tiến cúng tiên vương cho ta được tròn đạo hiếu thì sẽ được ta
truyền ngôi".
Lang Liêu nhà nghèo, được thần báo mộng: "Các vật trên trời đất và mọi của
quý của người không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi người khỏe mạnh mà ăn không
bao giờ chán, các vật khác không thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái
hình tròn, cái hình vuông để tượng trưng hình trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở
trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ ".
Lang Liêu làm theo lời thần.
Bánh dâng lên vua, được vua khen vừa ngon vừa có ý nghĩa. Lang Liêu được vua
truyền ngôi.
Từ đó, đến ngày Tết thiên hạ thường làm bánh giầy bánh chưng dâng cúng cha mẹ.
Gậy tre tròn tượng trưng cho trời. Theo thuyết Âm Dương của Nho giáo thì trời
thuộc về dương, chỉ người cha. Gậy vông vuông tượng trưng cho đất. Đất thuộc về
âm, chỉ người mẹ.
Vì vậy cho nên đưa đám cha phải chống gậy tròn, đưa đám mẹ thì chống gậy vuông.
Con gái, con dâu luôn luôn đi đằng sau linh cữu cha mẹ, dưới tấm phương du bằng
vải trắng dùng để che nắng. Khi nào được hiệu lệnh thì con gái trưởng và con
dâu trưởng phải vừa khóc vừa lăn đường cho tăng thêm phần thảm thiết.
Các gia đình theo đạo Phật thường mời nhà sư, bà vãi đến tụng kinh, cầu nguyện
cho linh hồn người chết được siêu sinh tịnh độ. Lúc đưa đám, các bà vãi đội cầu
bát nhã, nhà sư gõ mõ tụng kinh, đi đằng trước linh cữu để dẫn đường linh hồn
sang Tây phương cực lạc.
Dọc đường đám tang có người rắc vàng mã. Người ta tin rằng có nhiều ma quỷ theo
đuổi ám hại linh hồn người chết. Phải rắc vàng mã để tống tiễn chúng mới buông
tha.
Tại huyệt chôn, nhiều nhà làm lễ tế thổ thần nơi đây.
Nhà có chức tước danh vọng còn làm lễ đề chữ , nghĩa là viết nốt chữ chủ còn bỏ
dở. Bộ thần chủ được sửa soạn từ trước nhưng người ta chỉ viết chữ thần và ba
nét ngang của chữ chủ, cố ý để thiếu nét chấm và nét sổ. Hiếu chủ mời một vị
khoa bảng, có chức tước đứng ra làm lễ, cầm bút chấm và sổ cho thành chữ chủ.
Thần chủ viết xong được đặt lên linh xa, rước về thờ tại nhà.
Đợi đúng giờ tốt thì hạ huyệt. Huyệt được thầy địa lí tìm phương nhắm hướng
trước, lúc này chỉ xê xích linh cữu, đặt cho thật đúng.
Lấp mộ xong thì đốt nhà táng, minh tinh, cầu bát nhã, thuyền bát nhã và phương
tướng.
Nếu người chết là Phật tử thì có nhà sư tụng kinh gõ mõ và các bà vãi cầm hương
niệm Phật đi quanh mộ. Mỗi người cầm một hòn đất ném vào mộ, gọi là đi dong
nhan.
Dong nhan nghĩa là gì ? Các học giả không thống nhất ý kiến. Có người hiểu là
tưởng nhớ đến nét mặt người chết, người khác lại hiểu là lấp mặt người chết một
lần cuối(5).
Những ngày tiếp theo, con cháu đem trầu rượu ra thăm mộ, gọi là ấp mộ, ngụ ý
làm cho người nằm dưới mộ bớt lạnh lẽo. Đến ngày thứ ba làm lễ mở cửa mả. Con
cháu đắp lại ngôi mộ, mời thầy phù thủy yểm bùa trừ ma quỷ.
Những gia đình theo Phật giáo, sau đám tang cứ bảy ngày lại làm một tuần chay,
tụng kinh tại nhà hay tại chùa. Đến tuần chay thứ bảy, cũng gọi là cúng 49
ngày, thì ngừng.
Được 100 ngày làm tuần bách nhật, còn gọi là tuần tốt khốc nghĩa là từ nay trở
đi thôi không khóc nữa. Mỗi năm đến ngày mất, con cháu cúng giỗ để tưởng nhớ.
Giỗ đầu gọi là tiểu tường. Năm sau làm lễ đại tường. Sau 27 tháng thì làm lễ
trừ phục, hết hạn để tang. Trong thời hạn tiểu tường và đại tường, đến rằm
tháng bảy tuần trung nguyên người ta hay đốt vàng mã cho người chết dùng, có
khi đốt cả hình nhân, thằng Quýt con Nhài, cho xuống âm phủ hầu hạ người chết.
Khi có người chết oan, bị giết, chết bất đắc kì tử, hoặc chết nhằm giờ xấu thì
phải làm chay để siêu độ vong hồn. Đàn chay thường được tổ chức ngay tại chỗ
người bị chết.
Lễ làm chay dung hợp cả Phật giáo và Đạo giáo. Trên đàn tế bày tượng tam bảo,
tượng tam phủ, hai bên có tranh thập điện, ở giữa có tranh quan thánh. Buổi lễ
do nhà sư hay pháp sư làm chủ lễ. Mục đích của lễ là gọi hồn người chết về, cầu
Phật để xin phổ độ, cầu tam phủ để xin xá tội.
Nhiều làng quê miền Bắc có tục cải táng (bốc mộ), nghĩa là chôn sang khu đất
mới. Lí do là vì sau vài ba năm mộ cũ bị sụt lở, ngập nước, hoặc vì chôn ở nơi
xa con cháu muốn đưa về quê nhà, cũng có khi chỉ vì tin thầy địa lí, phù thủy.
Con cháu làm lễ cáo từ đường rồi khai mộ, mở nắp quan tài. Tất cả xương cốt
được nhặt ra, tẩy rửa bằng nước thơm, lau khô, xếp vào một cái tiểu sành, rồi
chôn sang đất khác. Trước khi chôn làm lễ cúng thổ thần mới.
Người Việt Nam quan niệm rằng sống gửi thác về (sinh kí tử quy). Chết là trở về
với tổ tiên bên kia thế giới. Ai cũng mong muốn cho cha mẹ trở về được thanh
thoát, may mắn.
Người con có hiếu phải thờ cha mẹ đã chết cũng như lúc cha mẹ còn sống, thờ khi
mất như lúc hãy còn (sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn).
Nhưng vì câu nệ vào tục Tàu nên các nghi thức trở thành rườm rà, tốn kém, trọng
hình thức giả tạo.
Ngày nay đám tang được tổ chức gọn gàng. Hồn bạch, thể kì, minh tinh được thay
bằng tấm ảnh chân dung người chết. Linh cữu được chở bằng xe hơi. Nhiều nghi
thức, hủ tục bị xoá bỏ (thương vay khóc mướn, lăn đường, cờ quạt rầm rộ, kèn
trống ầm ỹ). Tục đốt vàng mã vẫn còn, thậm chí còn gia tăng ở một vài nơi. Đua
nhau vén tay áo sô đốt nhà táng giấy, đốt xe hơi, tủ lạnh, giấy tiền đô la...
Thời hạn để tang được rút ngắn. Mồ mả xây đắp cẩn thận, không cần phải cải
táng.
Nhiều gia đình cho thiêu xác, giữ tro để thờ tại chùa.
Tang lễ là những lễ nghi được đặt ra để bày tỏ lòng thương xót và kính thờ
người chết. Người Việt Nam coi tang lễ cha mẹ là quan trọng nhất.
Khi cha mẹ hấp hối thì phải khiêng ra giữa nhà để tỏ rằng cha mẹ chết một cách
quang minh chính đáng. Lúc này phải đặt tên hiệu, tên thụy, còn gọi là tên cúng
cơm, rồi thưa cho cha mẹ biết để sau này mỗi khi cúng giỗ, nghe con cháu khấn
tên thì cha mẹ về dự lễ. Lại lấy một miếng lụa trắng dài đặt lên mặt, có người
nói đặt lên ngực (1) để hồn người sắp chết nhập vào, rồi kết thành hình người,
gọi là hồn bạch.
Khi tắt thở rồi thì tang chủ (người chủ lễ, thường là con trai trưởng) lấy một
chiếc đũa để ngang hàm, dùng một miếng khăn hoặc một miếng giấy phủ lên mặt để
tránh ma quỷ ám hại.
Xong, khiêng xác đặt xuống đất, rồi lại khiêng lên giường, mong rằng người chết
hấp thụ sinh khí của đất, may ra sống lại.
Phan Kế Bính cho rằng tục này mang ý nghĩa là người ta bởi đất sinh ra thì khi
chết lại về đất (2). Có lẽ Phan Kế Bính đã chịu ảnh hưởng của Đạo Thiên Chúa
chăng ?
Người con cầm cái áo của người chết mới thay, đi đường phía trước trèo lên mái
nhà hú vía ba lần (lễ phục hồn, chiêu hồn) : ba hồn, bảy vía, cha đâu về với
con hoặc ba hồn, chín vía mẹ đâu về với con, tỏ ý mong cha mẹ sống lại. Theo
quan niệm của Đạo giáo thì phách (hay vía) là phần tinh thần của người phải phụ
vào xác mới tồn tại, khi người chết thì tan đi, còn hồn là phần tinh thần không
có xác vẫn tồn tại được.
Hú vía xong tụt xuống bằng lối phía sau. Mang áo vừa được hú vía phủ lên xác.
Dùng nước thơm tắm rửa cho người chết (lễ mộc dục ), chải tóc, cắt móng tay
móng chân, thay quần áo mới. Con trai tắm rửa cho cha, con gái tắm rửa cho mẹ.
Người chết được mặc quần áo sang trọng hay đơn sơ tùy theo nhà giàu hay nghèo,
có chức tước hay không, chết già hay chết trẻ.
Các đồ dùng và nước tắm của lễ mộc dục được đem chôn.
Sau đó làm lễ phạn hàm, hay ngậm hàm. Bỏ một nắm gạo và ba đồng tiền (đồng kẽm,
đồng chinh) vào miệng người chết. Gạo để linh hồn người chết ăn, khỏi phải
thành ma đói ( ngạ quỷ). Tiền dùng để đi đò hay qua cầu sang bên kia thế giới.
Những người lúc sống ăn ở bạc ác thì lúc chết linh hồn phải qua cầu Nại Hà.
Người lương thiện được qua cầu Kim Ngân. Ngày xưa nhà giàu dùng gạo và vàng,
ngọc để làm lễ phạn hàm.
Từ lúc mặc quần áo đẹp cho người chết xong, con cháu không mặc đồ tốt đẹp, chải
chuốt. Ngược lại, càng ăn mặc tiều tụy càng tỏ lòng hiếu thảo.
Tiếp đến là lễ khâm liệm. Khâm liệm là dùng vải bọc xác trước khi đặt vào áo
quan. Xác được chèn đồ bổ khuyết, bọc kín và buộc chặt thành một khối vuông
vức.
Lúc đặt xác vào áo quan ( lễ nhập quan ), lót giấy bản, rắc bỏng hay trà khô để
đề phòng hút nước do xác tiết ra. Nhiều nhà mời thầy phù thủy làm lễ phạt mộc
(chém gỗ). Một tay cầm dao, tay kia cầm bó hương, thầy phù thủy vừa niệm thần
chú, vừa quát tháo, vừa chém vào thành áo quan để trừ ma quỷ còn ẩn nấp trong áo
quan và trong những tấm ván.
Phạt mộc xong, thầy phù thủy bỏ vào trong áo quan một miếng ván đục hình chòm
sao bắc đẩu, gọi là ván thất tinh (bảy ngôi sao). Gia đình nghèo thì chỉ vẽ
chòm sao lên một mảnh giấy.
266.
Phong Tục Về Cưới Xin
Luân
lý Việt Nam coi việc thờ phụng tổ tiên là một bổn phận thiêng liêng của con
cháu. Thờ phụng phải được tiếp nối liên tục qua các đời. Vì vậy mỗi người đàn
ông phải sớm lập gia đình để mau có con trai nối dõi, lo việc đèn nhang.
Sớm là bắt đầu từ mấy tuổi ?
Luật lệ ngày xưa không ấn định tuổi được phép lấy vợ lấy chồng. Chúng ta được
biết vài trường hợp trai gái lấy nhau khá sớm :
- Gái thập tam, nam thập lục (gái 13, trai 16),
- Em lấy anh từ thuở mười ba
Đến năm mười tám em đà năm con...
- Cái bống cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng...
Năm 1888, nhà nước bảo hộ Pháp ấn định con gái 14 tuổi, con trai 16 tuổi mới
được làm đám cưới. Tuy không thay đổi là bao so với 13 và 16 tuổi, nhưng ít ra
luật pháp cũng chính thức cấm tục tảo hôn(lấy vợ sớm), không cho phép con trai
dưới 16 tuổi lấy vợ. Tuy bị cấm, nhưng ở nông thôn miền Bắc, hủ tục này còn rơi
rớt đến tận những năm 1940. Một vài cậu bé con nhà giàu, mới lên tám, lên mười
đã được cha mẹ cưới cho một cô vợ lớn gấp hai, ba lần tuổi mình. Thật ra mục
đích của cha mẹ cậu bé là kiếm một người giúp việc không công, chứ chẳng phải
là lo cho con, hay cho ông bà tổ tiên.
Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Con gái không có quyền quyết định. Duyên phận phó
mặc cho may rủi, chọn lựa của cha mẹ.
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Ý muốn của chàng trai cũng phải được cha mẹ chấp nhận thì mọi chuyện mới trôi
chảy êm đẹp.
Ngày xưa, lễ nghi cưới xin của ta bắt chước Tàu. Rất rườm rà, phức tạp.
Theo sách Văn công gia lễ thì cưới xin có 6 lễ chính:
1- Nạp thái : nhà trai đến nhà gái ngỏ ý
2- Vấn danh : nhà trai hỏi tên tuổi cô gái để tính ngày giờ, xem có bị xung
khắc không ?
3- Nạp cát : chọn được ngày tốt, xác nhận với nhà gái
4- Nạp tệ : đưa đồ thách cưới do nhà gái ấn định
5- Thỉnh kỳ : định ngày làm lễ cưới, nộp nữ trang, vải vóc cho nhà gái
6- Nghinh hôn (thân nghinh): lễ rước dâu
Năm 1477 nhà Lê quy định rằng :
Phàm người lấy vợ, trước hết phải mượn người mối đi lại bàn định, rồi sau mới
định lễ cầu thân. Lễ cầu thân xong rồi mới định lễ dẫn cưới. Dẫn cưới xong rồi
mới định ngày đón dâu. Ngày hôm sau chào cha mẹ chồng, ngày thứ ba đến lễ nhà
thờ. Nghi thức tiết mục, phải theo đúng như điều đã ban xuống mà làm. Không
được như trước, nhà trai dẫn lễ cưới rồi để đến 3, 4 năm mới cho đón dâu.
Bắt đầu, nhà trai bắn tin thăm dò. Các nhà quyền quý thường tìm nơi môn đăng hộ
đối (gia đình tương xứng). Sau khi đã được nhà gái đồng ý, nhà trai mới nhờ ông
mai hoặc bà mối mang trầu cau và trà tới xin dạm.
Đẹp như rối, không mối không xong
Vai trò trung gian của ông mai bà mối rất quan trọng.
Lễ dạm tương đương với ba lễ đầu của ngày xưa.
Trầu cau luôn luôn có mặt trong các lễ cưới hỏi của người Việt Nam.
Truyền thuyết kể rằng :
Ngày xưa có hai anh em nhà kia, hơn nhau một tuổi và giống nhau như đúc(có
người kể là hai anh em sinh đôi). Cha mẹ mất sớm. Được 17, 18 tuổi, hai anh em
đến xin trọ học tại nhà một đạo sĩ. Học hành chăm chỉ, tính tình đứng đắn, cả
hai được thầy yêu quý. Thầy có người con gái tuổi trăng tròn, xinh đẹp dịu
hiền. Cô gái đem lòng yêu mến hai anh em.
Ít lâu sau cô xin phép cha lấy người anh làm chồng. Từ ngày lập gia đình, người
anh quấn quýt bên cô vợ trẻ, lơ là với em. Người em cảm thấy lẻ loi. Một hôm
hai anh em cùng lên nương làm việc đồng áng, tối trời mới về. Người em vào nhà
trước. Chị dâu trong buồng chạy ra, tưởng là chồng mình, vội ôm chầm lấy. Người
em lúng túng kêu lên. Hai người cùng ngượng ngùng xấu hổ. Được chứng kiến cảnh
vợ và em ôm nhau, người anh đem lòng nghi ngờ. Từ đó tình anh em lại càng lạnh
nhạt.
Một buổi chiều kia, anh chị đi vắng, người em cảm thấy cô đơn, buồn tủi, quyết
định bỏ nhà ra đi. Chàng đi, đi mãi đến một khu rừng, có con suối chắn ngang.
Màn đêm xuống dần... Mỏi mệt, đói khát, buồn chán, chàng lịm thiếp đi rồi chết.
Xác chàng biến thành một tảng đá.
Vợ chồng người anh về nhà không thấy em. Qua ngày hôm sau vẫn vắng bóng. Người
anh lẳng lặng bỏ nhà đi tìm. Đến khu rừng, cạnh con suối, ngồi tựa lưng vào tảng
đá nghỉ mệt. Thương nhớ em... Chàng thiếp đi, chết giữa đêm khuya, hóa thành
một cây mọc thẳng bên cạnh tảng đá.
Đến lượt người vợ trông chờ mãi không thấy chồng về, cũng lần theo con đường
mòn đến cạnh bờ suối. Đêm đó nàng chết, hóa thành một cây leo, quấn chặt thân
cây cao.
Một hôm vua Hùng Vương đi qua chốn ấy. Nghe dân làng kể chuyện, vua sai người
lấy lá cây leo, hái quả cây cao. Nghiền lá với quả thì thấy một mùi thơm nhẹ
nhàng toát ra. Nhai thử thì thấy vị cay, tê tê đầu lưỡi. Nước tiết ra, nhổ lên
tảng đá thì thấy một màu đỏ thắm hiện lên.
Dân làng đặt tên cây cao là cau, cây leo là trầu, tảng đá là vôi.
Nước ta có tục ăn trầu từ đó.
Trầu cau tượng trưng cho tình nghĩa thủy chung, thắm thiết. Miếng trầu là đầu
câu chuyện, trong cuộc sống hàng ngày, mỗi khi gặp gỡ nhau người ta cũng thường
mời nhau miếng trầu. Ngày nay miếng trầu có thêm tí vỏ, ít thuốc lào, càng làm
tăng thêm hương vị.
Sau lễ dạm đến lễ nạp tệ, hay thách cưới.
Nhà gái đưa ra một danh sách những đồ vật và tiền bạc bắt nhà trai phải
nộp.Thông thường thì cũng phải:
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiế em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau
Chàng trai nói giúp cho lịch sự chứ thật ra là bị bắt buộc. Có khi nhà gái
thách cao, đòi bò, đòi trâu, vòng vàng, xà tích bạc...
Năm 1663 vua Lê Huyền Tông ban điều giáo hóa :
Vợ chồng là gốc luân thường, lấy vợ, gả chồng phải theo lễ nghĩa, không được
suy bì giàu nghèo, đòi nhiều tiền của. Lấy nhau phải phân biệt họ hàng, nòi
giống, không được tham giàu sang mà phối hợp loạn luân thường, không được cẩu
hợp không có sính lễ để đến nỗi gần như giống cầm thú...
Năm 1804 vua Gia Long định lệ :
Trai lấy vợ, gái lấy chồng thì sính lễ phải châm chước. Trong 6 lễ phải tùy sức
nhà trai giàu nghèo, không được bắt ép viết văn khế cầm ruộng...
Bên cạnh thách cưới, nhà trai còn phải nộp cheo cho làng cô gái. Có nộp cheo
mới được làng công nhận chuyện cưới xin.
Xưa kia nước ta không có sổ sách hộ tịch. Khi nhận tiền nộp cheo, làng viết
giấy chứng nhận. Giấy này có giá trị như giấy giá thú ngày nay. Đám cưới nào
không nộp cheo thì cặp vợ chồng đó sẽ bị làng coi như sống lén lút :
Có cưới mà chẳng có cheo
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài
Nộp cheo bằng đồ vật hay tiền bạc. Có làng bắt nộp chiếc mâm đồng, ít chén bát
để dùng cho hội hè đình đám. Có nơi đòi ít gạch để lót lại quãng đường hư hỏng,
hay một ít vật liệu để sửa cái cầu, giếng nước...
Luật xưa quy định :
Bất cứ ở cùng một làng hay làng khác đều cho phép thu cheo một quan tiền cổ và
một vò rượu. Quan viên và binh lính ở xã thôn nhà gái không được viện cớ người
ta lấy chồng làng khác mà đòi tiền cheo quá lạm (1663).
Về tiền cheo thì nhà giàu phải nộp 1 quan 5 tiền, nhà bậc trung nộp 6 tiền, nhà
nghèo nộp 3 tiền (1804).
Tuy luật quy định như vậy nhưng trong thực tế vẫn có sự phân biệt người cùng
làng hay khác làng. Và tiền cheo thường bắt nộp quá mức luật định.
Nhà trai sắm sửa đủ đồ thách cưới thì lảm lễ hỏi , mang tới nộp nhà gái.
Sau lễ hỏi, nhà trai phải năng lui tới thăm hỏi, sêu tết nhà gái. Mùa nào thức
ấy: nhãn, vải, hồng, cốm...trong khi chờ đợi lễ cưới.
Lễ cưới, còn gọi là rước dâu, đón dâu, tên chữ là nghinh hôn, là lễ quan trọng
nhất.
Lễ cưới phải chọn ngày tốt, đón dâu phải lựa giờ tốt. Ngày xưa có tục đón dâu
vào buổi tối. Nhà trai mang trầu cau, rượu, xôi, gà, lợn...đến nhà gái. Dẫn đầu
là một cụ già, không có tang, vợ chồng song toàn, lắm con nhiều cháu. Cụ già
mặc áo thụng xanh, cầm bó hương hay ôm lư trầm. Theo sau là những người đội lễ
vật, tiếp đến chú rể, họ hàng. Ngày xưa chú rể đội nón. Đến đầu thế kỷ 20, chú
rể tân thời bỏ chiếc nón, thay bằng cái ô tây, miệng phì phèo thuốc lá. Ngoài
Bắc, chỉ có cha chú rể đi đón dâu. Trong Nam, cha mẹ chú rể cùng đi.
Trên đường đến nhà gái, nhà trai thường bị những người nghèo và trẻ con tổ chức
bày hương án, chăng giây ngăn cản. Mục đích của đám này là đòi ăn uống, tiền
bạc, họa hoằn mới để mua vui. Muốn cho mọi chuyện được êm đẹp, khỏi bị quấy
phá, chửi rủa tục tằn, làm chậm trễ buổi lễ, nhà trai thường phải chiều ý
chúng.
Khi nhà trai tới đầu ngõ, nhà gái đốt pháo đón mừng. Người chủ hôn hoặc cha chú
rể đứng ra tuyên bố xin đón dâu. Đại diện mẹ chú rể bưng trầu cau đặt trước mặt
nhà gái để xin con dâu.
Nhà gái mời đại diện nhà trai cùng cô dâu chú rể làm lễ cáo gia tiên. Đây cũng
là một dịp để trẻ con bên nhà gái đóng cửa nhà thờ nhõng nhẽo vòi tiền nhà
trai.
Sau đó, nhà trai xin rước dâu. Ngoài Bắc, cha mẹ cô dâu không đưa tiễn con gái
về nhà chồng. Trong Nam, nhà gái cũng kén một cụ già cầm bó hương đi trước,
theo sau là cô dâu và cha mẹ họ hàng, bạn bè đưa tiễn.
Đám rước dâu vẫn do cụ già của nhà trai cầm bó hương dẫn đầu, đằng sau là hai
họ. Đoàn người về tới đầu ngõ thì nhà trai đốt pháo chào mừng.
Trong lúc đi đường, cô dâu ăn mặc đẹp sợ bị thiên hạ quở quang, phải cài vài
cái kim vào choàng áo để trấn áp những câu nói độc mồm độc miệng.
Giữa bậc cửa vào nhà chú rể đặt một hỏa lò than hồng để cô dâu bước qua. Than
hồng sẽ đốt hết những vía xấu đi theo quấy phá cô trên đường về nhà chồng.
Trước khi cô dâu bước vào nhà, mẹ chú rể xách bình vôi lánh mặt một lúc lâu rồi
mới về chào mừng hai họ.
Có ngườì cho rằng bình vôi tượng trưng cho của cải trong nhà. Lại có người cho
rằng bình vôi là một tục bái vật cổ truyền xa xưa của dân ta. Bình vôi là bà
chúa trong nhà, chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho
uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi. Khi làm vỡ bình vôi thì đem mảnh
bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vứt ở chỗ ô uế.
Tại sao bình vôi lại là uy quyền, của cải ?
Chữ vôi (nôm) được viết bằng chữ khôi (hán việt). Khôi chính nghĩa là tro, là
màu xám. Chữ khôi có nhiều từ đồng âm. Trong đó có chữ khôi (bộ quỷ) nghĩa là
đứng đầu và chữ khôi (bộ ngọc) nghĩa là quý báu.
Do đó cái bình vôi của ta được dùng để tượng trưng cho người đứng đầu và của
cải. Bà mẹ chồng giữ bình vôi để bảo vệ uy quyền của mình và của cải của gia
đình. Chiếc bình vôi chỉ là một suy diễn chữ nghĩa của giới bình dân chứ không
mang nội dung thần thánh. Ý kiến cho rằng bình vôi là bà chúa chưa ai định danh
là bà chúa gì và bình vôi là tục bái vật có lẽ đã vượt quá xa khả năng suy diễn
hán nôm của giới bình dân !
Có nơi chờ đám rước dâu về tới đầu ngõ, một người lấy chày giã vào cối đá, đôi
khi giã mạnh đến vỡ cả cối. Tục ấy thì ngộ quá, không hiểu ý làm sao (Phan Kế
Bính).
Giã cối là một tục cổ, có từ thời đại Hùng Vương.
Giã cối cũng là một tục lệ ngày hội.Từng đôi nam nữ cầm chày dài đứng giã cối
tròn.Đó là những chiếc cối rỗng, là một thứ dụng cụ nông nghiệp, đồng thời là
nhạc cụ, và cũng là vật tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Trở thành một tiết
mục trong ngày hội lễ, giã cối(và hát) vừa là hình thức biểu diễn và thưởng
thức văn nghệ vừa là trò chơi và hình thức giao duyên nam nữ, vừa mang ý nghĩa
cầu mong sinh sản thịnh vượng.
Chày cối, theo quan niệm dân gian, là hình giống của nam và nữ. Giã cối, ở một
số nơi, còn có ý nghĩa tượng trưng cho hành động tính giao.
Cô dâu, chú rể cùng lễ tổ ở nhà thờ họ nhà trai, rồi trở về nhà chú rể lễ gia
tiên, chào mừng cha mẹ, họ hàng bên chồng.
Con gái là con người ta
Con dâu mới thật mẹ cha mua về
Từ giờ phút này, cô dâu trở thành một người của gia đình bên chồng.
Có nơi còn làm lễ tơ hồng, cám ơn Nguyệt Lão đã xe duyên cho đôi trẻ.
Tích Nguyệt Lão kể rằng :
Đêm trăng, Vi Cố đi chơi gặp một ông già ngồi đọc sách, tay cầm nắm dây tơ màu
đỏ. Vi Cố chào hỏi, ông già tự xưng là Nguyệt Lão chuyên việc xe duyên cho nhân
gian. Dây tơ đỏ để buộc chân những cặp vợ chồng có tên trong sách. Vi Cố tò mò
muốn biết ai sẽ là vợ tương lai của mình. Nguyệt Lão tra sách, trả lời là đứa
bé gái, con người ăn mày ngoài chợ. Vi Cố tức giận. Hôm sau ra chợ tìm giết đứa
bé. Đứa bé bị Vi Cố chém một nhát trúng đầu, ngất đi. Về sau Vi Cố kết duyên
cùng con gái một vị quan to. Một hôm thấy vết sẹo trên đầu vợ, hỏi ra mới biết
rằng thuở nhỏ nàng bị một người chém giữa chợ, được quan cứu sống, đem về nuôi.
Tối hôm cưới, gọi là tối động phòng, làm lễ hợp cẩn. Hai vợ chồng cùng uống
chung một chén rượu.
Cưới được ba ngày, đến ngày thứ tư thì hai vợ chồng mang xôi chè, trầu rượu về
nhà bố mẹ vợ lễ gia tiên, gọi là lễ lại mặt hay tứ hỉ.
Luật xưa nghiêm cấm cử hành lễ cưới trong lúc gia đình có tang từ một năm trở
lên (tang ông bà, chú bác, cha mẹ). Nhà trai hoặc nhà gái gặp lúc gia đình có
cha mẹ, ông bà hay chú bác đau ốm nặng, thường cho cử hành gấp lễ cưới. Nếu có
người chết, phải làm đám cưới trước khi phát tang.
Cưới vội vã như vậy gọi là cưới chạy tang.
Xã hội Việt Nam đã thay đổi sâu xa. Phần đông trai gái ngày nay lấy nhau ở độ
tuổi từ 20 đến 30. Họ có nhiều dịp gặp gỡ, tìm hiểu nhau trước khi quyết định
làm đám cưới. Cha mẹ được hỏi ý kiến nhưng không còn nắm vai trò quyết định
nữa. Nhờ đó mà hủ tục môn đăng hộ đối không còn nữa. Nghi lễ được tổ chức đơn
giản để đỡ tốn thời gian. Lễ hỏi, lễ cưới chỉ có trầu cau, trà bánh và rượu. Lễ
gia tiên còn được giữ, các lễ khác thường bỏ qua.
Nhiều nơi rước dâu bằng xe hơi.
Ở nước ngoài, các cô dâu Việt Nam thường mặc áo dài thêu rồng vẽ phượng, đầu
đội khăn vành, màu đỏ màu vàng, trong khi ở trong nước các cô lại chuộng chiếc
áo cưới cồng kềnh lết đất của Âu Mỹ.
Chiều tối hai họ cùng tổ chức mời bạn bè ăn uống. Cô dâu thay ba bốn bộ quần
áo, giống như một cuộc trình diễn thời trang.
267. Phong Tục Sinh Đẻ
Chửa
là cửa mả
Chửa con so làm lo láng giềng
Đàn bà Việt Nam ngày xưa hầu như ai cũng lo ngại chuyện mang nặng đẻ đau.
Tại thôn quê, người đàn bà có chửa (có bầu, có mang) phải tự chăm lo sức khỏe.
Ngoài mấy thang thuốc bắc, thuốc nam, chỉ còn biết trông cậy vào những lời
khuyên được truyền từ đờì nay sang đờì nọ.
Nào là:
-Kiêng ăn cua
Cua là loài bò ngang. Ăn cua sẽ bị đẻ ngang.
- Kiêng ăn thịt thỏ
Thỏ có môi trên bị hở. Ăn thịt thỏ thì đứa bé đẻ ra sẽ bị sứt môi.
- Kiêng ăn trai sò ốc hến
Những giống này tiết ra nhiều chất nhờn. Nếu người mẹ ăn trai sò ốc hến thì con
đẻ ra sẽ bị bịnh nhiều dớt dãi.
Nào là:
- Nên ăn trứng gà.
Trứng gà luộc vừa trắng bên ngoài lại hồng bên trong (ta quen gọi lòng đỏ trứng
gà). Người mẹ ăn trứng gà luộc thì con sinh ra sẽ có nước da trắng trẻo, hồng
hào.
Nước da trắng như trứng gà bóc được ưa thích hơn nước da bánh mật.
- Nên ăn đu đủ.
Không biết quả đu đủ có dược tính gì tốt cho bà mẹ hay đứa con không ? Với
trình độ hiểu biết của dân quê ngày xưa chắc sách vở của ngành y, ngành dược
cũng chả gây được sự chú ý, gợi được thắc mắc cho ai cả. Người ta khuyên bà mẹ
ăn nhiều đu đủ chỉ vì một lí do đơn giản là để cho tương lai của đứa con được
no đủ.
Mấy lời khuyên kể trên dễ hiểu, dễ thấy vì chỉ dựa vào tên gọi hoặc bề ngoài
của sự vật, không phải hiểu một cách gián tiếp như nhiều lời khuyên khác. Chẳng
hạn như :
- Nên uống nước dừa.
Cũng như quả đu đủ, quả dừa tốt cho sức khỏe ra sao là điều chưa cần để ý.
Người ta khuyên các bà mẹ tương lai uống nước dừa có lẽ vì lí do khác.
Cây dừa chữ hán là da. Vì vậy cho nên uống nước dừa sẽ tốt cho da.
Chữ nôm dừa được viết bằng chữ dư (dư thừa) của tiếng hán việt. Như vậy thì
nước dừa còn có tác dụng làm cho tương lai đứa bé được sung túc, dư thừa.
Dùng tên súc vật, hoa quả quen thuộc hàng ngày để diễn đạt một lời chúc mừng là
một cách chơi chữ khá phổ biến của ngày xưa. Thí dụ con nai là lộc, con dơi là
phúc, bông hoa là vinh hoa...Người miền Nam ưa thích bày cúng mãng cầu, dừa, đu
đủ, xoài để được cầu vừa đủ xài.
Trong suốt thời gian thai nghén người đàn bà phải đứng ngồi ngay ngắn. Có như
thế sau này con mới trở thành người ngay thẳng. Bà mẹ tương lai tránh nhìn
những cảnh không hay, tránh nghe những chuyện không đứng đắn, không tốt, để cho
con sau này thành người đàng hoàng, tử tế.
Thời gian thai nghén trung bình là chín tháng mười ngày. Quá thời hạn này mà
chưa đẻ thì gọi là chửa trâu. Gặp trường hợp này người chồng phải dùng phương
thuật, dùng mẹo để giúp vợ chóng chuyển bụng đẻ:
- Dắt một con trâu ra giữa sân, lấy dao cắt đứt sợi giây thừng buộc mũi. Trâu
sổng thì con sổ.
Người ta lí luận rằng muốn cho mọi chuyện được nhanh chóng thì phải tìm cách
trừ bỏ những cái làm cho trì trệ, làm cho lâu hoàn tất. Phải trừ bỏ cái lâu đi.
Chữ lâu, tiếng hán việt có nghĩa là cái giây thừng buộc mũi trâu. Vì thế cho
nên chỉ cần cắt sợi giây thừng buộc mũi trâu đi, tức là trừ bỏ cái lâu đi, thì
tất nhiên mọi chuyện sẽ được nhanh chóng. Người đàn bà sẽ mau đẻ.
Không hiểu người xưa có theo dõi, ghi chép chính xác thời gian trâu chửa không
? hay là khoảng thời gian hơn chín tháng mười ngày chỉ là một trùng hợp ngẫu
nhiên ? Rất có thể chỉ vì phương thuật cần đến con trâu nên hai tiếng chửa lâu
ban đầu đã bị đọc trại ra thành chửa trâu !
Đến ngày đẻ...
Đàn ông vượt bể có chúng có bạn
Đàn bà vượt cạn chỉ có một mình
Gặp trường hợp đẻ khó, người chồng phải dùng một vài phương thuật. Tùy hoàn
cảnh gia đình mà chọn phương thuật thích hợp.
Những phương thuật chính thường được đem ra dùng là:
- Viết đầy đủ họ tên một ông quan lớn vào miếng giấy. Đem đốt miếng giấy, hòa
tro vào bát nước. Vừa cho vợ uống nước, vừa đọc câu thần chú đại nhân nhập,
tiểu nhân xuất (người lớn vào, trẻ con ra). Thần linh nghe bùa chú sẽ phù hộ
cho sinh đẻ được dễ dàng.
Không biết chữ thì nhờ người khác viết cũng được.
- Lấy một cái dải rút quần vắt qua bụng vợ. Xin được cái dải rút váy của một
người đàn bà hàng xóm đã từng sinh đẻ dễ dàng mang về vắt qua bụng vợ thì càng
tốt.
Cũng có thể cầm một cái dải rút hay cái thắt lưng (còn gọi là cái ruột tượng
hay cái hầu bao) leo lên vắt qua mái nhà.
Hai hành động này có ý nghĩa gì ?
Vì người miền Bắc phát âm sai, nên chữ dải (dải rút) được coi là đồng âm với
chữ giải hán việt nghĩa là tháo gỡ , cởi, mở.
Vắt dải rút qua bụng vợ, người chồng sẽ tháo gỡ, cởì bụng vợ cho đứa con lọt
lòng chui ra. Vắt dải rút qua mái nhà mang ý nghĩa trang trọng hơn, muốn tháo
gỡ một khó khăn đang xảy ra trong gia đình.
- Người chồng còn có thể giúp vợ đẻ nhanh bằng cách đứng giữa nhà lao chiếc đòn
gánh hoặc cái gậy ra ngoài sân.
Cái gậy, hay cái đòn gánh quen thuộc của dân quê, chữ hán việt là côn. Chữ côn
được dùng để viết chữ nôm con. Vì thế cho nên cái gậy hay chiếc đòn gánh, tượng
trưng cho đứa con, được lao ra ngoài sân để diễn tả hình ảnh đứa con lọt lòng
mẹ, sổ ra.
- Nhà nào có trồng cau thì người chồng có thể leo lên cây cau, ôm cây tụt
xuống.
Phương thuật giản dị, hình ảnh dễ hiểu, thể hiện sự mong muốn đứa bé mau tụt ra
khỏi bụng mẹ.
Còn mấy phương thuật khác được nói đến trong bài thơ ngụ ngôn Đám cưới chuột
của dân gian vùng Liễu Đôì.
Chuột cái đau đẻ, bà đỡ khuyên vợ chồng chuột :
(...)
Đau thì nén chịu con ơi
Qua cơn vượt cạn ấy thời rinh rang
Chú đi tìm bắc cái thang
Leo nhà ba bậc, lăn đàng năm tao
Rồi ra lặn cọc bờ ao
Xong rồì mớì vào liếm láp đồ rau
Cứ y như phép nhiệm mầu
Làm xong là đẻ chẳng đau đớn nào (...)
- Bắc một cái thang rồi leo hoặc luồn qua vài bậc.
Thang nghĩa là trống không ở trong người. Thang cũng có nghĩa là vật rỗng ruột.
Leo thang là tỏ ý mong muốn tạo ra khoảng trống trong người, làm cho vợ rỗng
ruột. Người chồng mong cho vợ đẻ.
- Leo ba bậc nhà.
Cái bậc nhà chữ hán việt là cấp (bộ mịch), cấp cũng có nghĩa là nhanh chóng
(khẩn cấp). Phàm cái gì muốn cho nhanh chóng (chẳng hạn như vợ đẻ) đều gọi là
cấp. Vì thế mà người chồng cứ leo lên leo xuống mấy cái bậc nhà để giúp vợ đẻ
được nhanh chóng.
Cặp vợ chồng nào ở nhà tranh vách đất, nhà không có bậc thềm thì xoay sở ra
sao? Đã có mẹo khác.
- Người chồng ra nằm lăn năm vòng (tao) ngoài đường.
Đường (đường đi, văn thơ còn gọi là đàng) chữ hán việt là lộ (bộ túc). Chữ lộ
này đồng âm với chữ lộ (bộ vũ) nghĩa là lộ ra ngoài cho thấy.
Cũng có thể giải thích rằng chữ đường (tiếng việt)đồng âm với chữ đường (bộ
thổ, hán việt) nghĩa là cái ao hình vuông. Chữ ao lại có nghĩa là lõm xuống.
Như vậy thì lăn đường có ý nghĩa là làm cho đứa bé ra mẳt, chào đời, hay làm
cho bụng bà mẹ lõm xuống. Cả hai nghĩa đều là mong cho người đàn bà đẻ nhanh.
- Nếu gần nhà có cái ao thì người chồng xuống bơi vài vòng.
- Không biết bơi thì múc một bát nước ao đem về cho vợ uống ba ngụm.
- Hoặc đi nhổ một cái cọc cạnh bờ ao. (Nếu không có sẵn cọc thì sai người đóng
trước một cái).
Nhổ cọc bờ ao mang ý nghĩa gì ?
Như đã nói ở đoạn trên, chữ ao nghĩa là lõm xuống.
Đóng cọc là để yểm, ngược lại nhổ cọc đi là để khỏi bị yểm. Đóng cọc bờ ao là
yểm không cho lõm xuống. Người chồng nhổ cọc bờ ao là để cho bụng vợ lõm xuống,
nói khác đi là mong cho vợ đẻ.
Tất cả những phương thuật dùng đến ao đều mang chung một ý nghĩa. Người chồng
bơi dưới ao, cho vợ uống nước ao, nhổ cọc bờ ao, đều mang ý nghĩa làm cho bụng
người đàn bà lõm xuống, tức là đẻ nhanh vậy.
- Liếm ông đồ (đầu) rau, có nơi khuyên nhổ nước bọt vào đít ông đồ rau.
Ngày xưa nhà nào cũng có ông đồ rau (hỏa lò) bằng đất nung. Vợ đẻ khó, chồng có
thể chạy xuống bếp ôm liếm ông đồ rau.
Cái bếp lò, hay hỏa lò ngày xưa là do chữ lô (bộ hoả) mà ra. Chữ lô này đồng âm
với chữ lô (bộ nhục) nghĩa là bày ra. Rốt cuộc ôm ông đồ rau tương đương với
bày vật gì ra. Người cha tương lai muốn khoe con mình chăng ?
Hành động liếm ông đồ rau hoặc nhổ nước bọt vào đít ông đồ rau không biết có
còn mang ý nghĩa gì khác không hay là chỉ muốn bắt chước một cử chỉ hôn má, đét
đít, nựng trẻ con?
Nhà nào sẵn có cối giã gạo thì có thể dùng phương thuật:
- Đóng một cái cọc vào chân cối đá
Tiếng hán việt có chữ ma (bộ thạch) nghĩa là gặp khó khăn, bị đau đớn. Chữ ma
còn có nghĩa là cái cối xay bằng đá. Cái cối đá trong tình huống này trở thành
biểu tượng của khó khăn, đau đớn. Người ta có thể đóng một cái cọc vào chân cối
đá để yểm, để trừ khử những khó khăn, đau đớn.
Làm phương thuật này người đàn bà sẽ sinh đẻ được an toàn, nhanh chóng.
- Treo một thanh củi cháy dở lên xà nhà
Có hai cách giải thích.
Chữ liêu (hay liệu)(bộ hỏa) nghĩa là bó đuốc, là đốt cháy. Chữ liêu (bộ miên)
lại có nghĩa là trống không. Phải chăng ở đây người ta dùng thanh củi cháy dở
(thay cho bó đuốc) để mong cho người đàn bà bụng trống không, mau đẻ ?
Chữ tẫn (bộ thảo) nghĩa là củi cháy còn thừa. Chữ tẫn (bộ nhân) nghĩa là hết
tiệt, hết cữ. Thanh củi cháy dở ở đây biểu hiện sự mong muốn người đàn bà lúc ở
cữ (đẻ) sao cho chóng hết cữ chăng ?
Trịnh Hoài Đức (1765-1825), tác giả Gia Định Thông Chí chép rằng người Đồng Nai
có tục khi sanh con lấy một que củi cháy dở cặp vào đầu một cái cọc đem cắm
ngoài cổng, sinh con trai thì cắm đầu củi cháy trở vào trong nhà, sinh con gái
thì quay đầu trở ra; người ta còn buộc kèm thêm một cây ráy. Toàn thể dấu hiệu
ấy gọi là cái khém, riêng thanh củi cháy dở gọi là cái vỏ lửa.
Tục của người Đồng Nai dường như cũng muốn báo tin rằng người đàn bà đã hết cữ,
đã đẻ xong.
Tục ta kiêng cho ngườì khác đến đẻ nhờ ở nhà mình, kể cả người ruột thịt họ
hàng. Gặp hồì loạn lạc, có ngườì đi tản cư phải dựng lều ngoài cánh đồng để đẻ.
Đáng thương nhất là những người đàn bà chửa phải lao động quần quật đến tận sát
ngày đẻ, đôi khi bất ngờ phải đẻ đường, đẻ rơi.
Mẹ tròn con vuông là niềm vui của mỗì gia đình Việt Nam !
Thật khó mà tưởng tượng được rằng mới cách nay chưa bao lâu, nhiều vùng quê hẻo
lánh của nước ta còn chìm đắm trong những phong tục kì lạ của tín ngưỡng dân
gian, những phương thuật bí hiểm của mê tín dị đoan. Bên cạnh một vài mẹo vặt
vô thưởng vô phạt, có nhiều mẹo nguy hiểm như cho đàn bà đẻ uống nước hòa tro,
uống nước ao !
Hầu hết các phương thuật đều do đám thầy pháp, thầy phù thủy, hay mấy ông đồ
nắm được một ít vốn liếng chữ nho, chữ nôm bày đặt ra. Họ tự do diễn dịch, bóp
méo ý nghĩa của chữ này chữ nọ để mê hoặc đám dân quê nhẹ dạ, cả tin.
268. Ăn uống
Người
Việt Nam từ xưa tới nay lấy cơm làm món chính trong bữa ăn, thức ăn nhiều đến
mấy, ngon đến mấy cũng phải có “3 bát cơm” vào bụng mới được. Gạo tẻ thì nấu
cơm tẻ, gạo nếp thì nấu cơm nếp hoặc xôi thêm các thức ăn khác như xôi đậu, xôi
gấc, xôi lạc, xôi dừa, xôi vò… Chất bột ngoài gạo ra còn có ngô khoai, sắn, các
củ dong, củ từ, củ mài…
Món ăn thì nhiều thứ từ nguồn thực vật, động vật có sẵn từ các vùng miền trong
nước: cây cỏ, cầm thú, cua cá… được chế biến bằng nhiều cách khác nhau. Mức ăn
thông thường cũng kể đến vài chục món. Tuy nhiên nguồn thực phẩm, thực vật vẫn
giữ vai trò chủ lực. Có nhiều phương pháp: luộc, nấu, ninh, tần, om, kho, hấp,
xào, rán, quay, làm nộm, nấu canh, pha chế nước chấm… là những cách thức chế
biến thức ăn mang tính phổ cập, còn nhiều cách dùng gia vị khác nhau: mỡ, nước
mắm, mắm tôm, hoa hồi, hoa huế, nghệ, dừa, mùi, hành, rau răm… liều lượng được
qui định khá chi tiết, chỉ cần thêm bớt gia vị và cách chế biến khác đi một
chút là đã có món ăn khác.
Nước chấm thì có tương, nước mắm chanh ớt, nước mắm gừng, nước mắm chấm tỏi…
mắm tôm, mắm nêm, mắm cái, mắm ruốc, mắm tép…Dưa ít ra cũng có nhiều loại: dưa
cải củ muối xổi, dưa cải nén, kiệu nén, dưa giá, dưa bắp cải, dưa góp…Cà thì có
cà pháo muối xổi , cà bát nén, cà bát ngâm tương, củ cải dầm nước mắm.
Rau muống là món ăn không thể thiếu được của người Việt Nam, đó là một đặc sản.
Ngoài bữa cơm hàng ngày, người việt cũng có nhiều thứ quà bánh ăn thêm hoặc ăn
thay bữa cơm được chế biến bằng các loại bột hoặc một số thực phẩm rau cỏ khác
như: bún riêu, bún ốc, bún thang, bún cá , bún mộc, bún chả….
Phở là một món quà đặc biệt và căn bản. Phở được nấu bằng bánh tráng bột gạo
với thịt và nước dùng mang tên “ngưu nhục phấn” từ Quảng đông đưa sang Việt Nam
cách đây chưa đầy 100 năm. Một nhúm bánh phở, một ít hành hoa thái nhỏ và vài
ngọn rau thơm, mất lát gừng, vài miếng ớt mỏng, vài miếng thịt bò bày lên…Ăn
phở chín như thế là xong chỉ còn phải lấy nước dùng rắc một chút hạt tiêu hay
vắt mấy giọt chanh.
Những món ăn sang cầu kì cũng có nhiều như: giò chả với hàng chục loại khác
nhau: vây, bong, yến sào, long tu, bào ngư, sâm cầm thường xuất hiện trong các
bữa yến tiệc của các nhà giàu có hay trên mâm cỗ trong những ngày lễ tết.
Về bánh mứt có nhiều loại đặc biệt mang hương vị riêng của xứ sở như: bánh đúc,
bánh cuốn, bánh giò, bánh đa, bánh bèo, bánh bỏng, bánh trôi, bánh dẻo, bánh
gai, bánh tro, bánh đậu xanh, bánh xu xê, bánh ít…Về mứt: mứt dừa, mứt sen, mứt
khế, mứt cam, mứt hồng, mứt bí, mứt me…
Chè cũng có nhiều thứ với các nguyên vật liệu và cách chế biến khác nhau đem
lại vị ngon ngọt khác nhau như chè đậu đen, đậu xanh, sen, chè khoai, chè ngô
non, chè kho, chè lam…
Người Việt thường nấu lá vói, nụ vói làm nước uống và cây chè cũng là một loại
cây thổ sản của nước ta. Nước chè tươi, chè khô, chè hạt cũng là thứ đồ uống
khá phổ biến trong dân gian. Cách chế biến “trà thơm” và cách pha chế loại chè
này với những ấm bát chén chuyên dùng đã xuất hiện từ thời Lý-Trần. Rượu là một
thứ đồ uống xuất hiện từ rất sớm, rượu đã sớm đi vào cuộc sống của người dân
đất Việt cổ, uống chút rượu để giãn gân cốt, chống ẩm thấp để vui anh em và
trong một số lễ tiết rất cần có rượu. Có nhiều loại rượu với các cách chung
cất, cách pha chế, cách sử dụng khác nhau: rượu trắng cất bằng gạo nếp; rượu
cẩm cất bằng nếp cẩm; rượu nếp ăn cả cái lẫn nước, rượu thuốc. Rượu trắng ngâm
với các vị thuốc uống để bồi dưỡng sức khỏe hoặc trị bệnh, rượu cần ủ bằng men
lá rừng nổi tiếng nhất là rượu làng Mơ. Những người biết uống rượu thích uống
rượu suôn nếu có đồ nhấm thì chỉ là quả mơ xanh hoặc quả ổi xanh… Có lẽ đó là
những nét đặc trưng trong “ văn hóa rượu” của Vịêt Nam ta.
269.
Tục Ăn Trầu-Nhuộm Răng-Hút Thuốc Lào
1.Tục
ăn trầu cũng đã có từ lâu đời”miếng trầu là đầu câu truyện”;”cơi trầu chai
rượu”là “lễ bạc long thành”trong nhiều nghi thức lễ tiết và giao tiếp.Tục ăn
trầu trở nên phổ biến trong dân gian.Buồn cau, cơi trầu trở thành những thứ
không thể thiếu trong các lễ ăn hỏi, cưới xin, ma chay giỗ tết, giao tiếp bạn
bè trao duyên gởi phận v.v. Nét tài hoa trong cách têm trầu và cung cách mời
trầu đã trở thành một dạng thức nghệ thuật mang dậm màu sắc văn hoá dân tộc.
2.Tục nhuộm răng cũng đã có từ rất lâu đời nhưng hiện nay ít phổ biến. Người
nước ta cả nam lẫn nữ, cả quí tộc, vua quan lẫn bình dân đều nhuộm răng. Nhuộm
răng cũng khá công phu và người nhuộm răng cũng phài chịu nhiều thử thách.
Thường thì thanh thiếu niên nam nữ khoảng từ 13,15 tuổi đều bắt đầu nhuộm răng
và việc nhuộm răng phải tiến hành theo 2 bước: Trước hết là nhuộm màu nền(đỏ
ánh vàng nhạt) sau đó mới nhuộm đen. Thuốc nhuộm đều là chất cay nóng làm phồng
môi rộp lưỡi nên chỉ húp cháo loãng hoặc ăn những thứ chỉ nuốt chứ không cần
nhai trong vòng nữa tháng. Răng đen ngày nay không còn là tiêu chuẩn của vẻ
đẹp, nhưng răng đen một thời đã là hình ảnh tượng trưng cho “ quốc hồn quốc
tuý” như lời hịch cua vua Quang Trung khi xuất quân đánh giặc Mãn Thanh đã nêu
rõ:
“Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng.
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.
3.Hút thuốc lào cũng là một thú tiêu khiển của người Việt. Người ta thỉnh
thoảng cũng hút chơi vài điếu nhưng nếu hút nhiều cũng sinh nghiện đến nỗi có
câu ca:
“Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”.
Ở miền Bắc có nhiều vùng trồng cây thuốc lào nổi tiếng như Tiên Lãng. Lá thuốc
hái về cuộn thành từng bó lớn rồi dung dao thái thành từng sợi nhỏ phơi khô,
sau tẩm theo cách thức riêng rồi ép thành từng bánh thuốc đem bán. Dụng cụ để
hút thuốc lào gọi là điếu, có nhiều loại điếu khác nhau: điếu cày, điếu ống,
điếu bác… Điếu thường được trang trí khảm xà cừ dành cho các quí tộc.
270.
Tục Lệ Trọng Tuổi
Lệ
mừng tuổi: hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán, đứa trẻ nào cũng có niềm vui đó
là đựoc tiền mừng tuổi-số tiền nhỏ được gói trong giấy hồng điều, kèm theo
những lời chúc mừng dặn dò.
Chúc thọ-Lên lão-Khao lão: lệ thường cứ 50 tuổi là lên lão; ở xóm làng thì được
miễn mọi việc, mọi sự đóng góp. Con cháu trong nhà tổ chức lễ mừng thọ, biện lễ
ra đình tế thần rồi chia phần biếu các chức sắc trong làng, gọi là khao lão.
Nếu sống đến 80 tuổi thì thường tổ chức lễ mừng lớn hơn gọi là lễ mừng thượng
thọ…
Tang ma
Gia đình nào có cha mẹ già yếu thì con cháu phải liệu bề chuẩn bị sẵn việc tang
ma. Nếu thấy khó qua khỏi thì phải gạn hỏi những điều trăng trối, dùng nước
trầm hương hay lá thơm lau rửa than thể rồi thay quần áo sạch. Cụ già đến bậc
thượng thọ thì phải cho mặc áo lụa điều; người có chức tước thì mặc triều phục.
Khi vừa qua đời thì người trong nhà phải ghi lại ngày giờ hỏi thầy cúng.
Hú vía (chiêu hồn): người con cầm áo của người vừa qua đời mới thay đi
ra phía trước, trèo lên nóc nhà, gọi tên người chết kèm theo câu “Ba hồn chín
vía ông…(hay bà)… ở đâu thì về với con!”. cứ thế 3 lần, rồi đi vào lối cửa sau,
đem cái áo ấy phủ lên xác người chết, ý mong sống lại.
Phạn hàm: con cháu sẽ lấy một chiếc đũa gài ngang miệng, sau đó lấy một
nhúm gạo, 3 đồng tiền bỏ vào miệng; người giàu thi dùng 3 mảnh vàng với một
nhúm gạo.
Khâm liệm: chia làm tiểu liệm và đại liệm.
Nhập quan: sau khi chọn được giờ lành thì làm lễ nhập quan. Nếu chết vào
giờ xấu thì con cháu thường bỏ vào áo quan cỗ bài tổ tôm, cuốn lịch cũ hay dán bùa
để trừ tà, rồi đậy nắp quan tài, trát sơn gắn cho chặt. Trên nắp quan tài có
đặt bát cơm lèn chặt và quả trứng luộc giữa đôi đũa một đầu gọt xơ bông cắm
thẳng đứng.
Đặt bàn thờ: thường đặt trước linh cữu, phía ngoài có che bằng vải xô.
Trên bàn thờ có bát hương, đèn nến, bài vị; ỷ thờ vắt hồn bạch. Hai bên bàn thờ
có treo câu đối ghi lời thương nhớ cha mẹ của các con…
Thành phục: con cháu trong nhà phải mặc áo tang, đội khăn và mũ tang.
Con trai mặc áo xô gai, đầu đội nùn quấn bẹ chuối, tay chống gậy ( cha gậy tre,
mẹ gậy vông); con dâu và con gái mặc áo xô gai, thắt lưng bằng dây bện bằng bẹ
chuối, xõa tóc, đội mũ mấn; con rể, anh em… mặc áo thụng trắng, đội khăn trắng;
cháu đội khăn trắng; chắt để tang cụ đội khăn màu vàng; chút để tang kỵ thì đội
khăn màu đỏ sậm.
Phúng viếng: sau lễ thành phục, bạn bè thân thích mới đến phúng viếng.
Con cháu đứng hai bên bàn thờ; khách đến viếng làm lễ trước vong linh người quá
cố, con cháu đáp lễ. Khách lễ 2 lạy, con cháu đáp lại một nửa.
Thổi kèn giải: Mỗi khi có khách đến viếng, phường kèn trống tấu lên
những khúc nhạc bi ai, ảo não, xen lẫn tiếng khóc than, kể lể của con cháu.
271.
Những Tục Lệ Về Tết Nguyên Đán
Sửa soạn ngày tết
Vào những ngày giáp tết người ta thường mua gạo nếp, đậu xanh để gói bánh chưng
hay vài vại dưa hành ngay từ đầu tháng Chạp, vì dưa hành cân muối sớm để đến
tết mới kịp ăn. Và người ta cũng lo sắm sửa những phẩm vật cho ngày tết, mua
sẵn gia cầm thả trong vườn, rủ nhau chung đụng để ngày tết rủ nhau mổ lợn…
Người ta sắm sẵn vàng hương để dùng cúng ở trong nhà cũng như dùng để gởi tết,
người ta cũng mua sẵn bánh mứt hoa quả, một phần dành cho gia đình một phần gửi
tết, một phần mang tết đến những người mình chịu ơn như thầy học… và cũng không
thể thiếu những bộ quần áo mới để du xuân.
Trang hoàng nhà cửa
Người ta phải đón xuân trong một khung cảnh sáng sủa, sạch đẹp. Do đó trước
ngày tết, nhà nào cũng lau quét sơn mới cửa nhà, trang hoàng trong nhà để đón
xuân.
Con cháu lau chùi lại các đồ thờ tủ thờ, những đồ đồng được mang đánh bóng. An
thư mâm bàn đều lau rửa lại kỹ lưỡng cùng với tất cả các vật dụng khác kể cả
hoành phi câu đối. Bàn thờ được cắm thêm hoa, các y môn được đem giặt hay thay thế
cái mới. Trên tường, ngoài cổng còn dán những tranh tết như tranh đàn gà mẹ
con, tranh lý ngư vọng nguyệt, tranh hứng dừa…
Gửi tết
Hàng năm gần ngày tết đến, nghĩ đến tổ tiên, con cháu hoặc những người đã ra
riêng, thuộc các ngành thứ, đều phải gởi tết đến nhà trưởng. Gửi tết tức là đem
đồ lễ đến nhà gia trưởng để người gia trưởng cúng tổ tiên trong dịp tết. Thường
đồ lễ bao giờ cũng có vàng hương. Những ngành trực thống phải gởi vàng hoa, còn
những ngành khác dùng vàng hồ hoặc vàng lá. Vàng hoa làm bằng toàn giấy màu
vàng, làm kỹ lưỡng có mặt kính, có trang kim óng ánh, tượng trưng cho vàng
thoi. Vàng hồ gồm một phần ba thỏi vàng ở lớp trên làm bằng giấy bổi vàng và
hai phần ba lớp dưới là những thoi bạc làm bằng giấy bởi trắng có mặt kính
nhưng ít hơn, hoặc có khi không có. Những ngành trực thống ngoài vàng hương ,
còn phải gởi tết thêm bánh mứt, gạo nếp, gà. Con cháu gửi tết để tỏ lòng nhớ ơn
và kính mến tổ tiên. Tục này cũng thắt chặt thêm mối dây liên lạc giữa những người
trong quyến thuộc gần xa.
Biếu tết
Cùng với tục gửi tết nhà trưởng, người ta cũng nghĩ đến việc biếu tết. Đây là
dịp người ta trả ơn những người đã có công với mình:
Học trò biếu tết thầy học,
Con bệnh biếu tết ông lang
Bạn bè biếu tết lẫn nhau
Kẻ dưới biếu bề trên…
Trong việc biếu tết này, quà biếu thường chẳng đáng bao nhiêu nhưng tấm lòng
chân thành là đáng kể.
Cúng gia tiên
Chiều ba mươi tết, người ta sửa soạn cúng gia tiên và sau đó là đèn nhang, nhất
là nhang phải giữ thắp suốt mấy ngày tết. Trong mấy ngày này bàn thờ luôn có sự
hiện diện của tổ tiên. Để giữ cho hương khỏi bị tắt người ta thường dùng hương
vòng hay hương sào. Hương vòng là một cuộn hương thắp được suốt đêm tới sáng,
còn hương sào là một cây hương thật to. Cùng với lễ cúng gia tiên , tất nhiên
phải có cúng thổ công.
Chúc tết
Sáng ngày mùng một, các cụ sau khi đã làm lễ tổ tiên xong, ngồi ở nhà thờ để
con cháu tới lạy mừng chúc tết. Con cháu chúc các cụ một năm mạnh khoẻ bình yên
khang thái. Các cụ cũng chúc lại con cháu những điều tốt đẹp. Trong lúc chúc
tết, con cháu thường dâng một món quà tết như bánh trái, hoặc một món tiền đặt
trong một bao giấy màu hồng. Tiền này gọi là”tiền mở hàng” đem lại may mắn cho
các cụ. Các cụ cũng mở hàng cho con cháu gọi là tiền mừng tuổi. Dù giàu hay
nghèo các cụ cũng mùng tuổi cho con cháu, giàu thì nhiều tiền, nghèo cũng mừng
tuổi tượng trưng vài đồng tiền để con cháu gặp tốt đẹp quanh năm.
***************************
MỤC
LỤC
1. Nghi thức ‘khóc trâu’ của người Cơ Tu
2. Tiếng trống trong đời sống người Huế
3.
Các phong tục cần biết khi đến làng
bản của đồng bào các dân tộc
4.
Cưới hỏi – nghi lễ giàu bản sắc văn
hóa Việt
5.
Tục “kéo vợ” của người H’Mông
6.
Giỗ họ - tín ngưỡng bảo tồn nét truyền
thống
7.
Phong tục cúng giỗ của người Việt
8.
Lễ DÔLTA cũng là lễ báo hiếu
9.
Làng văn hóa Cơ Tu – Nơi bảo tồn
nguyên vẹn những giá trị văn hóa các
10. Người Mông với tục
"kéo vợ"
11. Phong tục Tết xưa
12. Tết Trung thu xưa và
nay
13. Bản sắc văn hoá các
dân tộc Hà Giang
14. Síp xí - tết của
người Thái đen Mường Lò, Yên Bái
15. Hà Nội phục dựng lễ
cúng đàn Mông Sơn thí thực
16. Vũ khúc của người
Mông Nà Hẩu, Yên Bái
17. Luật tục người K’ho:
Mồ côi khi cha còn sống
18. "Củi hứa hôn" và phong tục cưới hỏi của
người Giẻ
19. Lễ ăn cơm mới của người Xá Phó
20. Hà Nội Mùa Tết Vu Lan
21. Tết Trung Thu và các phong tục
22. Một số phong tục hay của các dân tộc thiểu số Việt
Nam
23. Người Triêng với cây đinh tút
24.
Đạo Mẫu - giá trị văn hóa tinh thần
của người Việt
25. Xem ngày kén giờ
26. Hội chùa Trăm Gian và lệ đánh cờ người
27.
Hát Chầu Văn Trong Hầu Bóng
28. Thơ ca giao duyên của đồng bào dân tộc Pa Cô
29.
Yếu tố Việt Mường và Tày Thái trong
nền văn hoá dân gian đất Tổ
30.
Ngày kiêng Hổ của người Dao đỏ Mồ Sì
San
31.
Ý nghĩa thiêng liêng của bàn thờ vọng
32.
Người bên núi” nổi chiêng
33. Mầu sắc với truyền thống văn hóa dân tộc
34. Chợ Việt Nam - Nét văn hoá dân tộc Việt
35.
Con so về nhà mạ, con rạ về nhà chồng
tại sao?
36. Đặc sắc rối Tày
37.
Hợp tự
38. Miếng trầu là đầu câu chuyện
39. Lễ sêu tết Đoan Ngọ
40.
Lễ đền ơn đáp nghĩa của người Raglai
41.
Tục khao lão
42.
Hát trao dâu trong đám cưới của dân
tộc người Giáy
43. Chiếc vòng bạc
44. Tò he - Một nét văn hóa dân gian
45.
Nét đẹp văn hóa của ngày Tết cổ truyền
Chôl Chnăm Thmây
46. Phong tục tập quán của cư dân xưa ở TP Hồ Chí Minh
47.
Đồng bào Khơ-me An Giang vui đón Tết
cổ truyền Chol Chnam Thmay
48. Tết của Người Mông
49. Tín ngưỡng phồn thực quanh vùng Đền Hùng
50. Đèn lồng Việt Nam
51. Tục bó vỏ ống cơm lam của dân tộc Thái
52. Trâm cài đầu của phụ nữ - một hiện vật giàu tính
văn hóa
53. Nét đặc trưng của văn hóa Châu Thành
54. Chợ nổi Ngã Bảy nét văn hóa sông nước đặc trưng
55.
Góp bàn thêm về tục thờ Mẫu
56. Phong tục đón Tết của người Mường
57. Phong tục hôn nhân của người Cần Thơ
58. Tết Các Dân Tộc
59. Tục ra gà - Một nét văn hóa ở Chu Hóa
60. Nguyên-Tắc Cúng, Khấn, Vái, và Lạy
61.
Tục thờ cá voi ven biển Nam bộ
62. Lễ Mụ Thố của người Mường
63. Kéo lửa thổi cơm thi - Trò chơi dân gian đánh thức
truyền thống
64. Người Văn Hán ăn Tết lại
65. Tết Nguyên Tiêu – đêm trăng tròn đầu tiên trong
năm
66. Báo Bản - Một phong tục tập quán đẹp vùng chân quê
67. Kỵ nhật
68. Tết Việt và những tập tục từ ngàn xưa
69.
Đi tìm lời chúc đầu năm
70. Khai bút đầu năm - nét văn hóa đẹp của người Việt
80. Cúng Chạp Mả
81. Tục xông đất ngày Tết
82. Mượt mà Then cổ
83. Tết nhảy - nét sinh hoạt độc đáo của người Dao đỏ
84. Lễ xin dâu có những ý nghĩa gì?
85. Giá thú
86.Tại sao khi mới đẻ chưa đặt tên chính?
87. Văn hóa ứng xử trong bữa ăn của người Tày
88. Các loại Tết tiết
89. Tục “đánh đụng”, “ăn đụng” ngày Tết
90.
Họp họ ngày xuân
91. Dòng họ - nguồn mạch truyền thống
92.
Vành tóc người Mông Hoa - Nét đẹp
trong văn hóa Tây Bắc
93.
Cách đổi ngày dương lịch ra ngày can
chi
94. Yến lão
95. Tục thờ Thành hoàng
96. Báo bản-Một phong tục tập quán đẹp vùng chân quê
97. Làm lễ yết cáo tổ tiên xin đặt tên cho con vào sổ
họ như thế nào?
98. Tục cưới ba miền
99. Lễ khai sinh đặt tên - một nét văn hóa độc đáo của
người Raglay
100. Tại sao phải có phù dâu
101. Vì sao có tục bán mở hàng? Bán mở hàng thế nào
cho đắt khách?
102. Tục chèo thuyền trên sông Đà, đêm ba mươi Tết
103. "Tông ngó" - Một tục đẹp của dân tộc
tày
104. Phong tục ứng xử
105. Tục truyền nghề bốc thuốc và dạy chữ viết Nôm Dao
của người Dao
106.
Tục ăn trầu
107. Phong tục trọng người cao tuổi
108. Tục "Juê nuê" trong hôn nhân của người
Êđê
109.
Thời gian để tang
110.
Tín ngưỡng thờ thần nước của người dân
Bắc Ninh
111. Gia phả hoàn chỉnh có những mục gì?
112. Trò thổi cơm thi trong lễ hội cổ truyền
113. Trò chơi dân gian - nét văn hóa dân tộc giàu bản
sắc
114.
Tục thờ thần chuột của người Dao Tiền
Hòa Bình
115.
Lễ đền ơn đáp nghĩa cha mẹ của người
Raglai
116. Mâm ngũ quả - Một tục lệ đẹp đẽ đầy nét nhân văn
117. Tục lệ cưới xin của dân tộc La Hủ
118. Nghi thức cưới của người Lô Lô
119. Nghi thức hôn lễ của người Chăm An Giang
120.
Vợ chồng xưng hô với nhau thế nào?
121. Lệ buộc cót, nét văn hóa truyền thống của người
Nùng
122. Tục đeo vòng vía của người Mông - Lào Cai
123.
Tục mừng nhà mới
124. Phong tục của dân tộc Dao Tây Bắc-Những điều kỳ
lạ
125.
Lễ cưới của người Chăm
126. Lễ cấp sắc của dân tộc dao
127. Tết lạ ở đất mới Ea Ly
128. Nét đẹp trong ngày Tết bản làng
129.
Lễ hội cúng thần rừng của dân tộc Pu
Péo
130. Lễ thôi sưởi lửa của người Thái Tây Bắc
131. Một vài tục thờ cúng của người Thái đen vùng
Mường Lò
132. Vài nét về phong tục của dân tộc Dao Tây Bắc
133.
Tục xông đất đầu năm
134. Tục gõ sạp đón khách của người Thái (Yên Bái)
135. Tục tảo mộ
136. Lễ cưới của dân tộc M’nông Preh ở Tây Nguyên
137. Tăng cẩu"- nét đẹp trong văn hoá của người
Thái đen
138. Tập tục sống và ăn Tết của người Pu Péo - Hà
Giang
139. Tục Cúng lúa của người Chăm
140.
Tục làm đèn trời ở Đồng Minh – Vĩnh
Bảo - Hải Phòng
141. Mở hàng đầu năm: Phong tục hay mê tín?
142.
Những truyền thuyết về Tết
143. Nếp xưa, Tết Việt
144. Nhạc cụ thiêng của đồng bào Tây Nguyên
145. Những phong tục hay của lễ hội Đền Hùng
146. Tết Việt 500 năm trước
147. Tết của người thiểu số ở Việt Nam
148. Xên bản - Nét văn hóa truyền thống của dân tộc
Thái
149. Xuân xưa - Tết nay với những trò chơi dân gian,
cổ truyền
150.
Làng Cát Cát ở Sa Pa
151. Bản huyền ca của làng quê Việt
152. Những phong tục trong lễ giao thừa
153. Hôn nhân của người Dao
154. Tục gánh nước cầu
may của người Việt cổ
155. Nét đẹp dân gian của
trò chơi "đố thai"!!!
156. Các Trò Chơi Dân
Gian Việt Nam
157. Tín ngưỡng phồn thực
Việt nam
158. Nếp phong tục cổ
phác ngày xưa
159. Có mấy loại con
nuôi?
160. Tạo sao những năm
gần đây có phong trao khôi phục việc họ
161. Lễ vấn danh có ý
nghĩa gì?
162. Tại sao nạ dòng
không lấy được trai tơ?
163. Tại sao mẹ cô dâu
kiêng không đi đưa dâu?
164. Tại sao có tục xin
quần áo cũ cho trẻ sơ sinh?
165. Vai trò tộc trưởng
xưa và nay khác nhau thế nào?
166.
Nhập gia vấn húy là gì ?
167. Lễ lại mặt có ý
nghĩa gì?
168. Vì sao có tục đốt
vàng mã?
169.
Chiêu hồn nạp táng là gì?
170. Tại sao có lễ cúng
cơm trong 100 ngày?
171. Lấy vợ kén tông, lấy
chồng kén giống có đúng không? có cần thiết không?
172. Con so về nhà mạ,
con rạ về nhà chồng tại sao?
173. Mẹ chồng làm gì khi
con dâu bắt đầu về nhà?
174. Nam nữ thụ thụ bất
thân nghĩa là gì?
175. Ba cha tám mẹ là
những ai?
176. Tục cúng “Ôn chít”
của người Mông Tây Bắc
177. Phong tục, lễ hội,
tín ngưỡng của dân tộc hre
178. Phong tục Cưới Hỏi!
179. Phong Tục Tập Quán
Trong Đám Giỗ
180.
Đám cưới ở chùa - Nét văn hóa mới
181. Đến nơi đẻ ngoài
rừng - uống nước rụng răng
182. Lễ hội cúng rừng của
người Nùng
183. Dân ca Xoan Ghẹo
Nghệ thuật độc đáo ở vùng đất Tổ
184. Con Nghê Là Con Gì
???
185. Độc đáo trang phục
của người Dao Tiền Bắc Kạn
186. Tục cưới của người
Sán Chí
187. tết bỏ mả của người
Gia Rai
188. sự tích lì xì
189. Độc đáo bản Cỏi
190. Tục cưới hỏi của một
số dân tộc
191. Văn hoá hương nhang
192. Những phong tục độc
đáo của người Dao Đỏ Bắc Kạn
193. Hội Pháo đất Ninh
Giang
194. Tục thờ các vị thần
ở Hà Nam
195. Những kiêng kị trong
Dân Gian
196. Sự khác và giống
nhau giữa Lễ cưới của ba miền ngày nay
197. Một số phong tục hay
của các dân tộc thiểu số Việt
198. Tết Việt và những
tập tục từ ngàn xưa
199. Người trong cùng họ có lấy nhau
được không?
200.
Bánh su sê hay bánh phu thê?
201.
Tại sao trong gói quà mẹ cho con
gái có trâm hay kim?
202. Trả
lời câu hỏi không rõ câu hỏi
203.
Khi người đàn bà tái giá cần có những thủ tục gì?
204.
Quan hệ vợ cả vợ lẽ ra sao?
205.
Nên nhìn nhận vấn đề ly hôn như thế nào?
206.
Dạy con từ thủa bào thai
207.
Tại sao tuổi trong khai sinh, trong văn bằng không đúng với tuổi thật?
208.
Xưng hô thế nào cho đúng?
209.
Cách xưng hô trong họ
210.
Phải chăng " lời chào cao hơn mâm cỗ "?
211.
Ai vái lạy ai?
212.
Đạo thầy trò
213.
Xuất xứ của tục nhuộm răng và cách nhuộm răng
214.
Tại sao gọi là tóc thề?
215.
Đạo hiếu là gì?
216.
Quan hệ giữa họ hàng và làng xã như thế nào? Phục hồi việc họ lợi hay hại?
217.
Ruộng hương hỏa có ý nghĩa gì?
218.
Thọ mai gia lễ là gia lễ nước ta hay Trung Quốc
219.
Chúc thư là gì?
220.
Cư tang là gì ?
221.
Vì sao có tục mũ gai đai chuối và chống gậy?
222.
Năm hạng tang phục (Ngũ phục) là gì?
223.
Cha mẹ có để tang con không?
224.
Tại sao có tục kiêng không để cha mẹ đưa tang con?
225.
Đám tang trong ngày tết tính liệu ra sao?
226.
Lễ cưới đã chuẩn bị sẵn vấp phải lễ tang, tính sao đây?
227.
Người dự đám tang nên như thế nào?
228.
Đi đường gặp đám tang nên như thế nào?
229.
Người sắp chết có những dấu hiệu gì báo trước?
230.
Trong những giờ phút thân nhân hấp hối, người nhà cần làm gì?
231.
Sau khi thân nhân mất, gia đình cần làm những gì?
232.
Tại sao có thủ tục hú hồn trước khi nhập quan?
233.
Trường hợp chết đã cứng lạnh, người co rúm không bỏ lọt áo quan thì làm thế
nào?
234.
Người xưa dùng những vật gì lót vào áo quan?
235.
Tại sao trước khi khâm liệm nhập quan có tục đưa người chết nằm xuống chiếc
chiếu giải dưới đất?
236.
Sau lễ thành phục, trước lễ an táng phải làm gì?
237.
Những người điều hành công việc trong lễ tang?
238.
Lễ an táng tiến hành như thế nào?
239.
Hơi lạnh ở xác chết, cách phòng?
240.
Tại sao, tại sao và tại sao?
241.
Hiện tượng quỷ nhập tràng
242.
Lễ ba ngày (lễ tế ngu) tính từ sau khi mất hay sau khi chôn cất?
243.
Làm lễ chung thất (49 ngày) và tốt khốc (100 ngày), có phải chọn ngày không
244.
Bàn thờ ông bà, không gian tâm linh của người Việt
245. Kỳ bí tục táng treo
246. tục cà răng căng tai
247. Ý nghĩa ngày Tết
Nguyên Đán
248. Tìm hiểu thêm về cái
tết....
249.
Tục "giỗ sống" của người Nguồn
250. Một chút phong tục,
nghi lễ của người dân đi biển, kể từ quảng trị mà vào miền nam
251. Phong tục của dân
tộc ca dong quảng ngãi
252. Phong tục của dân
tộc cor
253. PHONG TỤC CỦA DÂN
TỘC VIỆT (KINH) ở quảng ngãi
254. Hôn lễ Hoa xưa và
nay
255. Có ngày tốt hay xấu
không?
256. Tại sao có Tết Hàn
Thực?
257. Tết Đoan Ngọ có
những tục gì?
258. Chiếc vòng cầu hôn
259. Uống trà- một tập
tục tao nhã
260. Vợ chồng
261. Vợ lẽ
262. Cầu tự
263. Độc đáo lễ cưới của
người Mạ ở Lâm Đồng
264. Rước Chúa gái -
Phong tục hôn lễ thời Hùng Vương
265. Phong Tục Về Tang Ma
266. Phong Tục Về Cưới
Xin
267. Phong Tục Sinh Đẻ
268. Ăn uống
269. Tục Ăn Trầu-Nhuộm
Răng-Hút Thuốc Lào
270. Tục Lệ Trọng Tuổi
271. Những Tục Lệ Về Tết Nguyên Đán