CÂU LẠC BỘ HƯỚNG DẪN VIÊN
ĐỒNG HÀNH VIỆT
Bài thuyết minh tuyến miền Tây
(Tiền Giang – Đồng Tháp – An
Giang – Cần Thơ – Sóc Trăng – Kiên Giang)
Tại sao vùng này có tên là đồng bằng sông Cửu Long?
Theo giả thuyết: sông này có tên là sông Cửu Long vì : Sông này bắt nguồn từ Tây Tạng (cao hơn 5000m so với mực nước biển); chảy qua Trung Quốc, Lào, Campuchia và đổ vào Nam Bộ. Sông có tên khác là MêKông (dài 4220km) phiên âm từ tiếng Lào là Mè Khoỏng, nghĩa là “sông Mẹ”. Khi chảy qua lãnh thổ Việt Nam theo 9 cửa (9 đầu rồng): trong đó chảy vào sông Tiền là 6 cửa (cửa Tiểu; Cửa Đại; Cửa Ba Lai; Cửa Hàm Luông, Cửa Cổ Chiên; Cửa Cung Hầu); sông Hậu 3 cửa (Cửa Định An, Thanh Đề Và Bát Xác). Nên gọi là Cửu Long. Đây là vùng đất hình thành do sự bồi đắp của Sông Mê Kông đây cũng là vùng châu thổ lớn nhất nước.
Đồng Bằng sông Cửu Long ngày nay thuộc vương quốc Phù
Nam ngày xưa, vương quốc Phù Nam có một phần lãnh địa thuộc đồng bằng sông Cửu
Long vào đầu công nguyên.
Phù Nam là vương quốc rất hùng mạnh và thời kỳ cường
thịnh nhất của vương quốc này khỏang từ thế kỷ thứ III -> thế kỷ V bắt đầu
triều đại Phạm Sự Nan khoảng từ năm 205 đến 255. Vương quốc Phù Nam phát triển
chính trên địa bàn vùng hạ lưu và châu thổ sông Cửu Long.
Phù Nam là tên gọi theo cách phát âm Founan của người
Trung Hoa, vị vua đầu tiên của người Phù Nam được biết đến đầu tiên trong lịch
sử là Hỗn Điền. Theo truyền thuyết vị vua nay rất tôn sùng các vị thần BaLaMôn.
Một hôm ông nằm mơ thấy các vị thần BaLaMôn trao cho mình một cây cung và
truyền lệnh xuất dương trên một thương thuyền lớn. Sáng hôm sau ngài vào đền
thờ làm lễ và thấy cây cung ở dưới gốc cây, bèn dong bườm ra biển, gió thần đưa
thuyền đến vùng đất tại đây có một nữ vương tên Liễu Diệp, trẻ, khỏe, không
khác gì con trai nổi danh trong các cuộc chinh phục các quốc gia láng giềng. Vị
nữ quân thấy thuyền lạ liền xua quân ra định đánh cướp nhưng bị Hỗn Điền bắn
một phát tên thần xuyên thủng mạng thuyền đến tận chỗ Liểu Vương đứng, trúng
một tên quân. Liễu Diệp hoảng sợ xin hàng phục. Sau đó họ lấy nhau rồi cai trị
xứ sở nay lập nên vương quốc Phù Nam .
Trong thời kỳ hưng thịnh họ khống chế nền thương
nghiệp hàng hóa cả miền Đông Nam A và tự xưng là “Phù Nam Đại Vương “. Sử liệu
còn ghi lại mối quan hệ ngọai giao và thương mại giữa Phù Nam với Trung Hoa, Ấn
Độ. Nhờ tài nguyên phong phú và nhờ vào vị trí trung gian trên con đường hàng
hải Ấn –Trung mà Óc Eo được coi là thành phố cảng của Phù Nam đã sớm trở thành
một thị trấn quốc tế .
Giai đọan cuối của lịch sử Phù Nam trùng hợp với sự
phát triển của Chân lạp. Mâu thuẩn giữa hai thế lực này dẫn đến sự sụp đỗ của
vương quốc Phù Nam vào thế kỷ thứ 6 (theo tài liệu cổ Trung Hoa, vương quốc Phù
Nam bị Chân lạp xâm chiếm vào khoảng năm 550 nhưng vẫn còn chống giữ đến năm
627). Sau khi bị Chăm Pa xâm chiếm Phù Nam chia làm hai quốc gia Lục Chân Lạp
và Thủy Chân Lạp (một phần thuộc ĐBSCL). Thủy Chân Lạp nằm gần bờ biển, vùng
ĐBSCL; Lục Chân Lạp thuộc vùng đất cao chính là Campuchia ngày nay .
Từ thế kỷ 7 đến TK10 vùng đất này bị nhấn chìm trong
lũ lụt, chỉ còn vài gò đất nổi lên. Từ khoảng TK 10-17 người Việt, Khmer đến
định cư vì thế nơi đây hình thành nên nhóm dân tộc chính là người Kinh, Khmer,
Chăm, Hoa với nền văn hóa đa dạng. Đồng thời trong thời gian này các tôn giáo
được truyền bá và phát triển như đạo phật, đạo Hồi, đạo Thiên Chúa …
Năm 1808 vùng đồng bằng sông Cửu Long, được người
Pháp chia như sau :
-Trấn Định Tường: gồm Phủ Kiến An, 3 huyện Kiến Đăng,
Kiến Hưng và Kiến Hòa .
-Trấn Hà Tiên: gồm các địa danh còn lại trong vùng .
-Năm 1832, Pháp phân Nam Kỳ ra làm lục tỉnh: Biên
Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Đến thời điểm này vùng
ĐBSCL có 4 tỉnh là: Định Tường (Tiền giang) An Giang , Vĩnh Long và Hà Tiên
(Cần Thơ , Hà Tiên , Cà Mau) .
-Năm 1862, Pháp chiếm 3 tỉnh Đông Nam Bộ ( Biên Hòa,
Gia Định, Vĩnh Tường )
-Năm 1867, Nam Kỳ Lục Tỉnh được chia làm 20 tỉnh.
Trong đó ĐBSCL có 14 tỉnh: Bạc Liêu, Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Trà Vinh,
Bến Tre, Gò Công, Mỹ Tho, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá, Tân
An .
-Từ 1955 –>1975 ĐB sông MêKông chia làm 17 tỉnh:
Kiên Giang, Sa Đéc, Ba Xuyên (Bạc Liêu ), Vĩnh Bình, Kiến Tường, Chương Thiện,
Phong Dinh, Vĩnh Long, Kiến Hòa, Châu Đốc, Định Tường, Bạc Liêu, Gò Công, An
Giang, Long An, Long Xuyên, Kiến Phong .
-Năm 1975 đến 1990 ĐBSCL có 9 tỉnh, Hậu Giang, Tiền
Giang, An Giang, Long An, Bến Tre, Kiên Giang, Cửu Long, Đồng Tháp, Minh Hải.
-Năm 1991 tỉnh Cửu Long tách thành Trà Vinh và Vĩnh
Long.
-Năm 1992 Hậu Giang tách thành Cần Thơ và SócTrăng.
-Nắm 1997 Minh Hải tách thành Cà Mau và Bạc Liêu.
-Hiện nay vùng ĐBSCL có 13 tỉnh thành: Tiền Giang,
Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Tp Cần
thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Hậu Giang.
-Diện tích ĐBSCL: 40.000km2 chiếm khoảng 1/8 cả nước
-Dân số 19.5 triệu dân (2003) chiếm khoảng 1/4 dân số
cả nước
2-Vị trí địa lí-khí hậu-đất đai
sông ngòi:
2.1-Vị trí địa lí:
• Đông nam giáp biển Đông.
• Đông bắc giáp đông nam bộ.
• Tây bắc giáp campuchia.
• Phía tây giáp Vịnh Thái Lan.
• Độcao trung bình thấp: từ 0 – 2m.
2.2-Khí hậu đất đai biển:
Khí hậu phù hợp cho sự phát triển của thực vật. Nhiệt
độ trung bình hàng năm khoảng 260C .
Có ngày cao khoảng 330C.
Đất phù sa, diện tích khoảng 1.800.000ha, đất phù sa
là do sông Hậu và sông Tiền bồi đắp.
Ngoài ra còn có đất ven sông pha màu hơi đỏ, đất mặn đất phèn, đất than bùn.
Rừng nước mặn ven biển chiếm diện tích 30.000ha. Đứng thứ 3 trên thế giới với
những cây nổi tiếng như : cây mằm đen, cây đước, cây vẹt, cây đà, sú, bàn…
2.3-Sông ngòi:
Đây là vùng có hệ thống sông ngòi khá chằng chịt.
Đồng thời nó cũng là yếu tố giúp cho vùng phát triển kinh tế nông nghiệp. Hệ
thống sông ngòi chính của ĐBSCL là sông Hậu và sông Tiền là hai nhánh của sông
Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (Trung Quốc).
Lịch Sử Hình Thành Nền Văn Minh
Miệt Vườn ở Tiền Giang
Tiền Giang có những tiếp cận với nền văn hóa Ấn Độ,
Khơ Me, Trung Quốc qua người Hoa, Hồi giáo qua người Chăm. Tất cả đều được liên
kết một cách phong phú trong nền văn hóa Việt Nam.
Ngay từ thế kỉ 18, phố chợ Mỹ Tho đã là nơi buôn bán
nổi tiếng, ghe thuyền ở các ngã sông, biển đến đậu đông đúc làm thành một đô
hội rất phồn hoa huyên náo.
Mỹ Tho là tỉnh lỵ của tỉnh Tiền Giang hình thành vào
năm 1679. Ngày nay còn dấu vết một khu thương mại cổ nằm trên đường Nguyễn
Huỳnh Đức, thuộc phường 2 và phường 8. Hồi ấy gọi là Mỹ Tho đại phố. Năm 1791,
đại phố này được xây dựng lại.
Đây là khu phố do chính người Việt người Hoa Minh
Hương, cánh Dương Ngạn Địch lập nên. Mỹ Tho Đại phố là một trong ba trung tâm
thương mại lớn nhất Nam Bộ vào giữa thế kỷ 17 và Mỹ Tho Đại Phố, Nông Nại Đại
Phố (Cù Lao Phố ngày nay ở Biên Hòa) và Hà Tiên.
Vào 3 thế kỷ trước, Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu
Cảnh dẫn quân từ Nam Vinh (Phnôm Pênh ngày nay) ghé qua cù lao Cây Sao và sau
đó, trên đường về đất Đồng Nai, khi qua Rạch Gầm (sách cũ gọi là Sầm Khê) thuộc
huyện Kiến Đăng, đất Mỹ Tho xưa thì bị bạo bệnh, trút hơi thở cuối cùng. Tên
Rạch Gầm là do xưa kia cọp rất nhiều cọp thường hay kêu gầm nên một thời được
gọi là Rạch Cọp Gầm, về sau người ta bỏ tiếng cọp, còn gọi là Rạch Gầm. Đây là
nơi nổi tiếng với những trận đánh ác liệt trong kháng chiến chống Pháp thời nhà
Nguyễn và chiến thắng của Tây Sơn đập tan đoàn quân xâm lược Xiêm thời chúa
Nguyễn.
Ba sông chính chảy qua Tiền Giang: sông Tiền, Gò
Công, Bảo Định đã bồi đắp phù sa, biến đất đai vùng này trở nên phì nhiêu. Giữa
sông Tiền lộng gió, nổi lên một hòn đảo nhỏ, có tên Cù Lao Thới Sơn, cây ăn
trái xum xuê. Là miệt vườn nổi tiếng của xứ sở cây trái Nam Bộ và sản vật trà
mật ong thanh nhiệt thật thơm ngon.
Nằm ở đoạn sông Tiền, giáp ranh giữa ba tỉnh Tiền
Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, chợ nổi Cái Bè sầm uất từ lâu là điểm mưu sinh quen
thuộc của người dân vùng sông nước Cửu Long. Hàng ngày có khoảng 400 thuyền lớn
chở đầy hàng hoá neo hai bên bờ chờ thương lái. Trên sông, hàng trăm thuyền nhỏ
xuôi ngược như mắc cửi, buôn bán rộn ràng.
Vùng sông nước này củng là điểm du lịch hấp dẫn Du
lịch Tiền Giang tham gia du lịch Du lịch miệt vườn, hay Du lịch vào mùa nước
nổi. Tiền Giang còn có nhiều địa điểm lý thú như: Chùa Vĩnh Tràng, Trại rắn
Đồng Tâm, và cả Khu du lịch sinh thái Thới Sơn.
Vùng đất của hai nhánh sông và gần biển này có nhiều
món ngon mà hiếm nơi nào có được như: Sam biển Gò Công, Cá bống dừa, Bánh giá
chợ Giồng, Hủ tiếu Mỹ Tho, Bún gỏi già Mỹ Tho, Chuối quét dừa , …
Tiền Giang cũng có những lễ hội đặc trưng như: Hội
Vàm Láng, Hội tứ kiệt.
===============================
Đôi nét về tỉnh tiền giang
Diện tích : 2367 Km2
Dân số : 1.649.300 người (2002)
Mật độ : 727 người/Km2
Tỉnh lỵ : Thành phố Mỹ Tho cách TP.Hồ Chí Minh 71 km
theo quốc lộ 1A
Có một thị xã và 7 huyện
+Một thị xã : GÒ CÔNG
+Bảy huyện : Cái Bè , Cai Lậy , Châu Thành , Chợ Gạo
, Gò Công Đông , Gò Công Tây , Tân Phước
Dân tộc : Kinh , Hoa….
_ Là phần đất của hai tỉnh Mỹ Tho và Gò Công cũ
_ Phía bắc giáp Long An
_ Phía tây giáp Đồng Tháp
_ Phía đông giáp với cửa Soài Rạp và biển Đông
_ Phía nam giáp Bến Tre
Khí hậu Tiền Giang có hai mùa rõ rệt , đó là mùa mưa
và mùa khô . Nhiệt độ trung bình là 27 độ C , lượng mưa trung bình là 2300 mm/
năm
Các sông chính là sông Tiền , sông Gò Công , sông Bảo
Định và một mang lưới kênh đào thuận lợi cho giao thông đường thủy . Từ Tiền
Giang có thể đi TP. Hồ Chí Minh hoặc Phnôm Pênh bằng đường sông .Đường bộ chính
là quốc lộ 1A chạy xuyên qua cac tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long
Là tỉnh đồng bằng , địa hình Tiền Giang chia thành ba
vung rõ rệt là vùng cây trái ven sông Tiền ,vùng Đồng Tháp Mười và vùng ven
biển Gò Công . Tiền Giang có 32 km bờ biển , hàng năm đánh bắt rất nhiều cá và
hải sản , đất đai phì nhiêu , là một trong những vựa lúa lớn của Đồng Bằng Sông
Cửu Long . Là nơi hội tụ đủ loại sản vật và hoa trái nổi tiếng như : mận hồng
đào Trung Lương , vú sữa Vĩnh Kim , xoài cát , cam sành , ổi xá lị Cái Bè…Có hệ
thống khách sạn , nhà hàng đầy đủ tiện nghi và nhiều món ăn dặc sản của miệt
vườn sông nước Cửu Long
Truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc Nam Bộ , là một
trong những cái nôi của ca nhạc cải lương nổi tiếng , nơi diễn ra các sự kiện
lịch sử Rạch Gầm – Xoài Mút , Ap Bắc… quê hương của các anh hùng Trương Định ,
Thủ Khoa Huân . Có nhiều tôn giáo như Nho giáo , Phật giáo , Công giáo …
Bên cạnh những di tích tôn giáo như đền chùa , đình
miếu , nhà thờ , còn giữ được nhiều di tích lịch sử , đó là các di chỉ Oc Eo ,
chiến lũy ,pháo đài …Có nhiều danh lam thắng cảnh như Cù lao Thới Sơn , trại
rắn Đồng Tâm tạo nên bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên , đời sống vật chất và
văn hóa đặc trưng của Nam Bộ
Rạch Gầm – Xòai Mút
Khu di tích được khánh thành năm 2005 để kỉ niệm 220
năm chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút 20.1.1785 – 20.1.2005
Khu di tích thuộc địa phận ấp Đông , xã Kim Sơn,
huyện Châu Thành, Tiền Giang ,rộng gần 2 ha, hơn một nửa diện tích để xây dựng
các nhà trưng bày .
Trận thủy chiến diễn ra trên sông Tiền ( sông Mỹ Tho
) nay thuộc địa phận bốn xã là Kim Sơn , Thới Sơn , Song Thuận , Bình Đức của
huyện Châu Thành cách Thành phố Mỹ Tho 7km. Tại đây Nguyễn Huệ đã chỉ huy đội
quân từ Quy Nhơn vào Mỹ Tho. Đêm 19 rạng 20.1.1785 đã nhấn chìm hàng trăm chiến
thuyền của giặc , tiêu diệt hàng van quân Xiêm và hàng ngàn tàn quân của Nguyễn
Anh.
Để kỉ niệm chiến thắng vang dội đó, tại khu di tích
Rạch Gầm – Xoài Mút đã xay dựng tượng đài chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút .
Tượng đài cao 8 m , nặng 20 tấn bằng đồng màu với ba nhân vật : ở giữa là vị
anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ tay đang vuốt gươm , bên trái là hình ảnh người
nông dân Định Tường chèo thuyền hỗ trợ chiến đấu còn bên phải là hình ảnh võ
công Tây Sơn giương cung bắn vào kẻ thù. Dưới chân nhóm tượng đái này là một
loại hình kiến trúc dạng đền . Bên ngoài đền co dải phù điêu bằng đồng màu nặng
6 tấn phác họa lên từ hình ảnh con người và chim lạc được cách điệu từ mặt
trống đồng. Cổng và tường rào của khu di tích có hình ảnh những chiến thuyền
gợi cho ta có cảm giác mình đang chứng kiến cảnh thủy chiến diễn ra nơi đây
Tiếp theo du khach sẽ được tham quan nhà trưng bày số
1. Ở đây trưng bày rất nhiều hiện vật như súng thần công là hiện vật phục chế
còn các hiện vật khác là nguyên bản . Trong nhà trưng bày có dải tranh ghép gốm
màu với 1440 viên gạch ghép lại với nhau được nung ở nhiệt độ 1100 độ C . Dải
tranh ghép cao 1.8m , với diện tích 57 m2 .Nội dung gồm 4 chương nói về quá
trình khẩn hoang , lập ấp , trận thủy chiến , khúc khải hoàn. Ngoài ra còn có
mang phù điêu với diện tích 13 m2 phác hoa lên từ hình ảnh chim muông và cây
trái của vùng quê sông nước Tiền Giang.
Ngoài ra ở đây còn có ngôi nhà cỏ Nam Bộ cất theo
kiểu ba gian và hai chái . Ngôi nhà có diện tích 225 m2 , có 48 cây cột trong
đó có 24 cây cột tròn và 24 cây cột vuông biểu tượng cho mẹ tròn con vuông . Ở
giữa nhà có bàn thờ tổ tiên , phía trước có bộ ghế trường kỉ làm cho ta liên
tưởng đến phong tục ăn coi nồi ngồi coi hướng . Ngày xưa những người lớn tuổi
có thể ngồi ở đây uống trà và trò chuyện ; đặc biệt con dâu và con gái không
được lên nhà trên
======================================
Trại Rắn Đồng Tâm
Nơi
đây cách Thành phố Mỹ Tho 12 km . Trại rắn thuộc địa phận xã Bình Đức huyện
Châu Thành tỉnh Tiền Giang khoảng 3 ha.
Đây là trung tâm nuôi rắn lớn lấy nọc xuất khẩu , kết
hợp trồng nhiều loại cây dược liệu và nghiên cứu chữa bệnh rắn cắn cho nhân dân
vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long . Bên cạnh đó , nơi đây còn là một khu vườn thật
đẹp – tổ ấm cho đủ các loại chim và động vật quý hiếm tại Nam Bộ ,
Trước kia đây là căn cứ quân sự của Mĩ có tên là Đồng
Tâm; ngày xưa người dân thường gọi nay là vành đay trắng. Nơi nay có địa thế
hiểm trở thường diễn ra những trận đánh cá liệt giữa lực lượng cách mạng và
Mỹ-Ngụy. Khu căn cứ rộng 15 hecta. sau năm 1975, được bàn giao về quân khu 9,
một người có tên là Huỳnh Văn Diệp tức trung tá Huỳnh Văn Diệp đã thành lập ra
nơi nuôi rắn lớn nhất mi ền Nam.
Trước đây khi “ ông Tư Được “ còn quản lý thì ông đã
sưu tầm được rất nhiều loại rắn và trăn. Sau khi ông mất thì người khác lên
thay ông số rắn đã giảm dần. Hiện nay ở đây có khoảng 6 loài rắn như : hổ mang
, hổ chúa , mái rầm , lục đầu dồ , rắn nước , rắn bông súng.
Khi ta đi thấy rất nhiều loại rắn được nuôi ở nhiều
môi trường khác nhau; chẳng hạn như tại một hốc cây người ta làm một long sắt
để thả một con rắn vào doing trong môi trường thiên nhiên này để rắn đẻ và ấp
trứng thành con; hoặc có những khu vực được tạo ra những giống sống hoang dã và
trồng rất nhiều cây cối để mà thả rắn vào sống trong môi trường thiên nhiên.
Tới nay quý khách sẽ thấy được loài rắn độc nhất là
rắn hổ chúa. Trước nay, rắn hổ chúa ở nay không nhiều nhưng bay giờ thì rắn hổ
chúa đã được nhân giống ra rất nhiều. Nọc độc của rắn hổ chú khi chạm vào cơ
thể chúng ta thì khoảng 2 phút sau cơ thể ta hoàn toàn bị tê liệt, rắn hổ chúa
có rất nhiều biệt tài là bò dưới nước hoặc leo lên cây.
Ngoài rắn hổ chúa, còn có rắn hổ mang, hổ ngựa, hổ
mèo, hổ đất. Để phân biệt rắn hổ chúa và hổ mang; hổ mang có thân hình nhỏ và
ngắn hơn hổ chúa và khi ngóc đầu lean nó có hình trăng tròn; còn hổ mèo thì
cũng ngóc đầu và phùng mang nhưng không có hình trăng tròn mà có 2 vòng tròn
nên người ta thường gọi rắn mắt kính. Nọc độc rắn hổ mang thì không bằng rắn hổ
chúa. Vì vậy khi nộc độc rắn hổ mang chạm vào cơ thể thì 10-15 phút thì nọc độc
mới lam truyền làm tê liệt cơ thể. Ngoài ra khi bắt mồi không can tiếo xúc trực
tiếp mà có thể phun nọc độc xa 2 m.
Ta thấy rắn đầu có hình tam giác và có khoan trắng và
đen là bò cạp nia
Còn loại có khoan vàng và đen gọi là bò cạp nông.
Còn loại có màu xanh lục như lá cây đó là rắn lục. Có
2 Lọai chính là: rắn lục day khuôn và rắn lục vời.
Giá thịt rắn dao động từ 35 – 40 USD/ kg , thi trường
tiêu thụ ở Châu Á chủ yếu là Đài Loan , Trung Quốc , Hàn Quốc Trại rắn Đồng Tâm
chủ yếu nuôi rắn lấy nọc không phải để tham quan.
Với giá vé 10. 000 đối với khách Việt Nam và 20000
đối với khách nước ngoài , du khách sẽ được vào tham quan trại rắn với các khu
như :
Khu nuôi rắn và trăn ở trong nhà gồm nhiều loài trăn
và rắn khác nhau . Ở đây du khách co thể quấn trăn lên mình va chụp ảnh lưu
niệm
Khu ngoài sân là khu nuôi rắn ở trong khoang bể nuôi
bằng bê tông với rất nhiều loài rắn
Khu phía sau la khu nuôi thú gồm nhiều loài như :
công , khỉ , cá sấu , đà điểu . Đi vao đây du khách có cảm giác như đi trong sở
thú . Và đặc biệt hơn nữa tại đây còn co chu ba ba vang rất quý hiếm nặng
khoảng 30 kg chỉ còn hai con ở Việt Nam
Khu nhà bảo tòan rắn là nơi trưng bày hầu như đầy đủ
các chủng loại rắn và được ngâm trong chất phoocmon nên nhìn chúng sống động
như vẫn còn sống
Tại đây du khách nên mua sắm vài sản phẩm từ rắn để
làm quà cho người thân bởi hàng tốt và giá cả hợp lý: (Giá cả có thể thay đổi
vào thời điểm hiện tại)
Rượu rắn : 40.000đ/chai
Cao trăn : 600.000đ/kg
Cao rắn : 500.000đ/kg
Cao khỉ : 300.000đ/kg
Cobratax : 20.000đ/kg
Rượu rắn lục : 100.000đ/chai
Mật ong : 50.000đ/chai
Mỡ trăn : 12.000đ/lọ
Viên điều trị rắn cắn : 20.000đ/tube
Bột rắn lục : 8000đ/lọ
Bột rắn hổ : 70.000đ/lọ
Bột cù lần : 80000đ/lo
============================
Cù Lao Thới Sơn – Cồn Thới Sơn
Nằm ở hạ lưu sông Tiền, Thới Sơn có diện tích khoảng
1.200 ha. Toàn xã Thới Sơn là một vùng chuyên canh cây ăn trái, quanh năm được
phù sa bồi đắp. Theo anh Huỳnh Văn Phương, Giám đốc Sở Thương mại – Du lịch
Tiền Giang, từ những năm 90 của thế kỷ trước, Tiền Giang đã chủ trương phát
triển du lịch theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để khai thác
hiệu quả tiềm năng sẵn có tại địa phư ơng. Công ty Du lịch Tiền Giang đầu tư
năm tỷ đồng xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng ở các điểm du lịch chính. Các
hộ dân trong khu vực đã đóng góp mặt bằng, nhà cửa và hơn 100 chiếc đò với tổng
trị giá hơn 20 tỷ đồng. Cách tổ chức du lịch theo mô hình này đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của khách, đồng thời huy động được vốn và các tiềm lực khác trong dân.
Phát triển du lịch ở cù lao Thới Sơn góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập
và nâng cao mức sống. Hiện nay, số hộ giàu, khá ở Thới Sơn chiếm tỷ lệ 78%, chỉ
còn 2,7% số hộ nghèo.
Sự hấp dẫn, quyến rũ của Thới Sơn ở chỗ, đến mảnh đất
này, người ta sẽ quên sự ồn ào, bí bức của phố phường. Khách đến Thới Sơn,
xuống đò chèo xuôi theo những con rạch ngoằn ngoèo giữa hai hàng dừa nước rậm
rạp, giữa hàng thủy liễu ven sông luôn nghiêng mình ngả bóng đón chào. Nếu muốn
tản bộ, sẽ theo những con đường đá uốn lượn, băng qua những vườn cây trái xum
xuê. Khách có thể ngồi trong những nhà vườn nhấm nháp tách trà mật ong thơm
ngọt và lắng nghe đàn ca tài tử. Đêm Thới Sơn thật huyền diệu với đầy trăng,
gió, sóng nước mênh mang. Khách có thể đi thuyền trên sông, ngắm trăng lên,
hoặc cùng bạn ngồi đối ẩm trong tiếng ca mượt mà, sâu lắng của thôn nữ.
Những ngôi nhà của 6.000 người dân Thới Sơn vẫn giữ
được nét cổ kính, nguyên sơ. Ðiểm du lịch của nhà ông Tám Cho là một tiêu biểu
về kiểu nhà xưa. Ngôi nhà của ông được xây dựng với hàng cột gỗ căm xe; mỗi mái
nhà có chín cây đòn tay bố trí theo thuật phong thủy: Kiên – Trừ – Mãn – Bình –
Định – Chấp – Phá – Nguy – Thành. Trong nhà, cách bài trí cũng theo phong cách
cổ với chiếc tủ thờ cẩn xà cừ lóng lánh, tràng kỷ chạm trổ tinh vi, cùng với
đôi liễn chạm câu đối sơn son thếp vàng… Chung quanh nhà là vườn hoa cảnh với
nhiều cây bon-sai được trồng tỉa công phuD9ến Thới Sơn, khách được tham quan
cách làm kẹo dừa bằng phương pháp thủ công, mua những đồ mỹ nghệ, đồ dùng sinh
hoạt gia đình làm từ cây dừa. Bên cạnh chương trình du lịch sinh thái, người
dân Thới Sơn còn giới thiệu với khách về văn hóa ẩm thực với các món ăn: cá
nướng, lẩu cá kèo, cá lóc hấp bầu, cá tai tượng chiên xù…
Năm 1995, Thới Sơn đón hơn 40.000 lượt khách, năm
1996 đón khoảng 80.000 lượt khách, năm 1997 đón 120.000 lượt và năm 2001 đón
khoảng 200.000 lượt khách trong đó 65% là khách nước ngoài. Cô Lê Trang, một
người kinh doanh du lịch ở Thới Sơn cho biết, Thới Sơn thu hút được khách là
nhờ chương trình, sản phẩm du lịch sinh thái ngày càng đa dạng, hoàn chỉnh và
cách phục vụ chu đáo. Thới Sơn đang trở thành điểm thu hút khách đến Tiền
Giang.
Theo kế hoạch, từ năm 2002 đến năm 2005, Công ty Du
lịch Tiền Giang tiếp tục đầu tư năm tỷ đồng để xây dựng cù lao Thới Sơn thành
làng du lịch. Khách sẽ có dịp tham quan những làng nghề truyền thống với các
công cụ lao động, thô sơ, được phục chế. Bên cạnh, Thới Sơn mở rộng hơn nữa các
điểm du lịch vệ tinh ở các hộ dân; trồng cây ăn trái nhiều chủng loại, đủ cung
cấp quanh năm cho du khách. Ðồng thời, vận động nhân dân giữ lại các dụng cụ
sinh hoạt bình dị, truyền thống như: bát sành, chén đá, đũa tre, đũa dừa, bình
tích đựng nước trong vỏ dừa… Thới Sơn là làng du lịch xanh đặc trưng của vùng
sông nước Cửu Long với vườn cây, trời nước và tấm lòng hồn hậu, hiếu khách của
người dân Nam Bộ.
Từ bến phà 30-4, chúng tôi lại xuống thuyền đi thăm
cồn Lân và ăn trái cây. Thuyền cập vào một bến nhỏ, anh hướng dẫn viên đưa
chúng tôi len lỏi qua những khu vườn mướt xanh với đủ loại cây: sapoche, nhãn,
chuối, sầu riêng… quả treo lủng lẳng.
Khác với những ngôi nhà vườn nổi tiếng ở Huế, thường
là nhà vườn văn hóa, vườn ở đây là vườn kinh tế. Người dân Nam Bộ gắn bó cả đời
mình với sông nước, vườn cây cũng vậy, nước sông theo các con rạch nhỏ chảy vào
từng khu vườn, từng gốc cây. Người ta trồng cây theo hàng như những ô trên bàn
cờ, dưới các hàng cây là hệ thống mương rạch rộng độ 5m, lan tỏa khắp vườn. Lúc
triều lên nước sông chảy vào vườn khiến du khách có cảm giác cá nhảy lên cả
vườn cây. Lúc triều xuống, nước lại đổ ra sông, lòng mương chỉ còn xâm xấp nước
và một màu phù sa đỏ quánh. Cũng nhờ lớp phù sa này mà cây trái nơi đây quanh
năm cho trái ngọt.
Chúng tôi được mời đến một khu vườn do công ty du
lịch Tiền Giang bỏ vốn đầu tư nâng cấp. Nhiều khách nước ngoài đang ngồi ăn
trái cây ở đó. Mùa nào thức nấy nhưng thông thường chủ vườn sẽ mời khách ăn 6
loại trái cây: thơm, chuối, thanh long, sapôchê, chôm chôm, nhãn. Khách ăn
không hết, chủ vườn bỏ vào trong túi, trao lại cho khách với lời cám ơn và câu
chào: “see you again” rất ngọt ngào.
Chúng tôi được mời ăn trưa trên một cù lao khác cách
cồn Lân khoảng 20 phút đi thuyền, cồn Thới Sơn. Nơi đây có một garden
restaurant rất đẹp. Song cái hấp dẫn tôi nhất lại không ở kết cấu của cái nhà
hàng “thập nhị giác” này mà ở món cá tai tượng chiên xù và những bộ đồ bà ba
trắng, đen của các cô phục vụ. Tiếp viên của nhà hàng mặc đồng phục bà ba
trắng, quần lụa đen nhẹ nhàng đi giữa các hàng ghế, lúc thêm chút mắm, khi gắp
ngọn rau nhút đặc sản vào bát du khách, lúc lại lúng liếng cười duyên khiến thực
khách chưa ăn đã thấy ngon.
-------------------------------------------------
CỒN PHỤNG – ĐẠO DỪA
Chúng tôi vào cù lao Phụng để thăm “Nam quốc Phật tự”
của ông tổ Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam. So với cù lao Rồng, cồn Phụng nhỏ hơn,
nhưng lại được biết đến nhiều hơn bởi nơi này có di tích của Đạo Dừa. Theo lời
thuyết minh của anh hướng dẫn viên, đây là một tôn giáo quái chiêu do Nguyễn
Thành Nam, một con cờ chính trị mắc chứng hoang tưởng tự cao – một dạng của
bệnh tâm thần phân liệt, sáng lập năm 1963. Sinh thời, Nguyễn Thành Nam (sinh
năm 1909) học hành không mấy giỏi giang nhưng được gia đình cho qua Pháp học
theo lối mà ngôn ngữ hiện đại gọi là du học tự túc. Ông ta đã học tập ở nước
Pháp không phải để thành nhân tài mà để thành một “vị thánh”. Sau khi về nước,
Nguyễn Thành Nam tu luyện 10 năm ở Thất Sơn (An Giang). Đến năm 1963 thì tới
miệt Mỹ Tho, leo lên cồn Phụng, xây “Nam quốc Phật tự” và sáng lập ra Đạo Dừa.
Đạo Dừa chủ trương chuyên ăn cùi dừa và uống nước dừa
để tồn tại và hành đạo. Đó là một sự kết hợp của Phật giáo, Thiên Chúa giáo,
rồi Cao Đài… Lúc đông nhất có đến 3.600 tín đồ. Nguyễn Thành Nam còn dụng chữ
Dừa theo biến âm của phương ngữ Nam Bộ nghĩa là Vừa (ví như: Cầu, Dừa, Đủ, Xoài
– tức là Cầu vừa đủ xài) để cho rằng tôn giáo do ông ta sáng lập sẽ làm vừa
lòng tất cả mọi người. Ông ta cho dựng trên cồn Phụng một ngôi chùa, kết hợp
nhiều trường phái kiến trúc khác nhau. Trước chùa cho đúc Cửu đỉnh bằng ximăng
gắn sành sứ (thực ra chỉ có một đỉnh mà thôi), rồi gắn ảnh của mình vào, tự
nhận là người có công thống nhất đất nước, kế vận hưng nghiệp của vua Minh Mạng
(1820 – 1841).
Nguyễn Thành Nam còn cho xây một sân chầu với những
hàng cột vẽ rồng sặc sỡ. Cuối sân có một động nhỏ, nơi “Phật tổ” Nguyễn Thành
Nam đến giảng kinh. Sau động là một tòa sen nằm trong lồng cầu và hai cột xi
măng, ở bai bên tượng trưng cho Sài Gòn và Hà Nội. Hằng ngày, Nguyễn Thành Nam
chui vào quả cầu, ngồi lên tòa sen rồi sai đệ tử kéo lên cao. 12 giờ trưa, ông
ta “nhập thế”, bằng cách ra khỏi lồng đi đến hai bao lơn đặt trên hai cột
ximăng tượng trưng cho Sài Gòn và Hà Nội. Đi từ bên này sang bên kia, Nguyễn
Thành Nam cho rằng ông ta đã thống nhất được tổ quốc.
Ông ta còn cho làm mô hình phi thuyền APOLLO bằng…
tôn, trèo vào trong đó, biểu đệ tử kéo lên… vũ trụ để thỉnh thị thánh chỉ của
Ngọc Hoàng. Lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ ở vào thời kỳ ác liệt, Nguyễn Thành
Nam tổ chức hoạt cảnh hòa bình để mị dân. Ông ta thuê người, chia làm hai phe
mặc áo quần của quân giải phóng và quân đội Sài Gòn rỗi bắn nhau tá hỏa… bằng
súng giả. Đang lúc cuộc chiến căng thẳng, thây người “chết” chất đầy một… sân
chầu thì “Phật tổ” Nguyễn Thành Nam giáng thế bằng cách “hạ thổ” từ tòa sen, để
đến cứu vớt những sinh linh.
Phía trong sân rồng có công trình cửu đỉnh, nếu nhìn
từ trên xuống ta sẽ thấy cửu đỉnh được xây theo lối ngủ hành âm dương. Nếu nhìn
kỷ sẽ thấy một con rồng đứng ở giữa có đuôi hình vuông ; hình vuông tượng trưng
cho tứ tượng, những con rồng còn lại đứng trên bệ có hình tam giác. Hai cây cột
phía sau tượng trưng cho lưỡng nghi đó là âm dương hợp lại. Điểm khác của con
rồng trung tâm là đuôi có được thiết kế phía sau, còn những con xung quanh
thiết kế phía trước. Đây là biểu tượng của rồng đực ; hiện thân của ông Đạo Dừa
và những con rồng cái là những cô gái xung quanh ông đạo Dừa.
Xung quanh Cửu Đỉnh còn có một số hình ảnh như ;
Long, Lân, Quy, Phụng, Mai, Lan, Cúa, Trúc và một số cảnh về Tiên Ong, Bát
Tiên. Ngoài ra còn có hai cái quai nâng hai con rồnglên tượng trưng cho vua
chúa. Cửu Đỉnh được đặt trên thần Kim Quy đang ngậm thanh kiếm thần hướng về
Bến Tre. Ngụ ý là ông Đạo Dừa vừ kết nối với lịch sử với thời vua lê để thần
Kim Quy mang thanh gương về Bến Tre để ông trị vì thiên hạ.
Vậy là chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình. Con
người với những triệu chứng tâm thần đó đã được chế độ cũ bật đèn xanh để mị
dân chúng. Lúc ông còn sống ông đạo dừa muốn khi qua đời hài cốt của ông sẽ
được rải trong Cửu Đỉnh nhưng khi ông qua đời thì những tín đồ đã mang hài cốt
của ông ang táng tại phần mộ của gia đình. Đặc trưng của ngươì theo Đạo Dừa là
mặc áo nâu sẫm và để một búi tóc cao quấn quanh đầu.
Đạo Dừa không có kinh riêng. Mà là tất cả các kinh
của đạo phật, thiên chúa giáo và cao đài. Một năm đạo có 3 ngày lễ vào 3 ngày
rằm lớn, chứ không có ngày lễ nào đặc trưng của đạo giáo
Hiện nay có một số người tu đạo này nhưng tu lại gia
chứ không lập chùa chiền để tu.
Ngoài ra tại đây còn được trưng bày nhiều sản phẩm
thủ công mỹ nghệ làm từ trái dừa . Du khách đến đây tham quan khu sản xuất bánh
kẹo dừa và thưởng thức kẹo dừa .
Chúng ta có thể quan sát được quy trình làm keọ dừa
như sau :
_ Thành phần lam kẹo dừa gồm : 50% dừa ; 25% đường
; 25% mạch nha
_ Và các thành phần phụ như ca cao , đậu phụng , lá
dứa , sầu
==========================================
Chùa Vĩnh Tràng
Du khách đến Mỹ Tho mà không thăm chùa Vĩnh Tràng là
một điều thiếu sót. Đây là ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến
trúc tiêu biểu ở Nam Bộ. Chùa tọa lạc trên mảnh vườn cây ăn trái rộng gần 2
hecta, thuộc làng Mỹ Hóa, nay là xã Mỹ Phong, bên con rạch Bảo Định hiền Hòa
nước ngọt quanh năm.
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, chùa vốn là một thảo am do
ông Tri Huyện Bùi Công Đạt phát nguyện xây cất để di dưỡng tinh thần sau khi về
hưu. Ông thỉnh Hòa thượng Từ Lâm ở cha Bửu Lm về trụ trì. Sau khi ơng Bi Cơng
Đạt qua đời, Hòa thượng Huệ Đăng đã vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự
với tên Vĩnh Tràng, hoàn thành vào mùa hè năm Canh Tuất (1850).
Lúc đầu mang tên là Vĩnh Trường (sư muốn ngôi chùa
mãi mãi trường tồn và vĩnh cửu theo thời gian) nhưng do nhiều ngươì miền Nam
đọc trại đi thành Vĩnh Tràng. Kế vị trụ trì là hoà thượng Thích Thiện Đề. Khi
ngài viên tịch thì ngôi chùa hương khói lạnh tanh. Năm 1890, bổn đạo đến chùa
Sắc Tứ Linh Thứu thỉnh hòa thượng Quảng An-Chánh Hậu về trụ trì. Năm 1895, ngài
đã tồ chức xây lại ngôi chùa. Chùa hư hỏng nặng vì trận bão năm 1905. từ năm
1907->1911, này đã khuyến giáo tín đồ đóng góp công của đại trùng tu ngôi
chùa và mời điêu khắc gia Tài Công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc các
tượng trong chùa. Hòa thượng Chánh Hậu gốc người Minh Hương, sinh năm 1852 tại
làng Điều Hòa tỉnh Định Tường cũ. Năm 1897, ngài quy y thọ giới với hòa thượng
Thích Minh Phước tại chùa Bửu Lâm. Ngài được cử làm thủ thượng tọa chùa sắc tứ
linh thou từ năm 1880, trụ trì chùa vĩnh tràng từ năm 1890 và đã thường xuyên
mở các lớp gia giáo để đào tạo tăng tài. Ngài viên tịch năm 1923. hòa thượng
Tâm Liễu –An Lạc(tức Minh Đàng, thế danh Lê Ngọc Xuyên) kế tục, cho xây cổng
Tam Quan, mặt tiền chánh điện và nhà tổ.
Chùa trải qua bốn lần trùng tu: lần trùng tu thou 1
vào năm 1907, hòa thượng Chánh Hậu đã trùng tu và tôn tạo lại mặt chùa. Mặt
tiền chánh hậu được xây dựng theo lối kiến trúc á, âu; lần trùng tu thứ 2 vào
năm 1930; lần trùng tu thứ 3 là 1990; lần trùng tu thứ tư là 2004. hiện nay
đang được trùng tu lần nữa.
Trước cửa chùa có cổng tam quan rất tráng lệ do tốp
người Huế thực hiện năm 1933 với sự tài trợ về kinh phí của 2 ông Hùynh Trí Phú
và Lý Văn Quang. Cổng giữa làm bằng sắt theo kiểu Pháp; 2 cổng bên làm bằng xi
măng vươn cao như 2 tòa lâu đài cổ, được ghép tòa những mảnh sành sứ tạo nên
những bức tranh với màu sắc hài hòa, minh họa sự tích nhà phật, truyện tích
nhân gian và các đề tài Tứ Quý, Tứ Linh, hoa lá…tầng lầu thượng của cổng Tam
Quan có vòm cửa rộng, bên phải đặc tượng hòa thượng chánh hậu, bên trái đặt
tượng hòa thượng Minh Đàng. Cả 2 tượng này đều đắp bằng xi măng giống như tượng
thật, do điêu khắc gia Nguyễn Phi Hoanh thực hiện.
Mặt tiền chùa vĩnh tràng trang trí theo kiểu kết hợp
đặc điểm kiến trúc cả Á, lẫn Âu. Ơ nay có những hoa văn theo thời phục hưng,
vòm cửa theo kiểu La Mã, bông sắt Ấn Độ, gạch men nhật bản…những câu ngữ Hán
viết theo lối thể chữ truyện cổ kính xen với chữ quốc ngữ viết theo lối chữ
Gô-Tích. Từ xa trông vào du khách có thể hình dung ngôi chùa như đền Ăngkor có
năm tháp. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương thì hòa thượng Minh đàn và
ông quỳnh trí phú từng du học sang xứ chùa tháp nên tiếp thu được cái trong
kiến thức ngôi chùa tên đó, kết hợp với kiến trúc phương tây.
Tượng có nhiều tay nhiều mắt gọi là chuẩn đề bồ tát,
vị này là hiện thân của quan thế âm bồ tát có nhiều tay, nhiều mắt để cứu độ
chúng sinh: nhiều mắt để thấy được nổi khổ của chúng sinh
Trong chùa có chuông đồng một tấn do vua Tự Đức cho
kinh phí đúc, chuông được làm sau năm giáp dần
Ngày Giỗ Đình Vĩnh
Tràng:
18-1 Hòa
Thượng Huệ Đăng
17-3 Hòa
Thượng Pháp Tràng
1-5 Hòa Thượng
Tú Long
21-6 Hòa
Thượng Minh Đàn
30-7 Hòa
Thượng Trà Chánh Hậu.
Ngòai ra, các ngày giỗ ra còn các ngày: thượng quân
(15-1), trung quân(15-7), hạ quân(15->10). Đặc biệt ngày 15-4 Am Lịch còn có
ngày lễ áng sanh của Phật Thích Ca.
Ở chánh điện có các bao lam được chạm trổ công phu,
trong đó có bộ phù điêu Bát Tiên cỡi thú do các nghệ nhân tại địa phương thực
hiện vào khoảng năm 1907 – 1908. Trên bàn thờ có nhiều pho tượng Phật như
A-di-đà, Thích-ca, La-hán và tượng các vị Bồ-tát. Hai bên bàn thờ là tượng chân
dung Hòa thượng Chánh Hậu và người kế pháp là Hòa thượng Minh Đàn. Các Hòa
thượng Huệ Đăng, Chánh Hậu, Minh Đàn đều thuộc Thiền phái Lâm Tế.
Bộ tượng cổ nhất ở chùa Vĩnh Tràng là bộ Tam Tôn
(Di-đà, Quan Âm, Thế Chí) bằng đồng. Tiếc rằng tượng Quan Âm đã bị thất lạc từ
lâu. Sau này Hòa thượng Chánh Hậu phải thuê thợ làm tượng khác bằng gỗ thế vào
cho đủ bộ. Tượng Ngọc Hoàng cũng bằng đồng, to gần bằng người thật, cùng phong
cách với tượng Già Lam, Đạt-ma ở chùa Bửu Lâm. Khác với thông lệ xưa nay, Ngọc
Hoàng ở đây không có Nam Tào, Bắc Đẩu cầm sổ sinh tử đứng hầu hai bên. Thay vào
chỗ đó là Ông Thiện và Ông Ác.
Hai bên tường chánh điện là bàn thờ Thập điện Minh
Vương. Đặc biệt ở đây có bộ Thập bát La-hán là những tác phẩm chạm khắc gỗ độc
đáo mà một số nghệ nhân ở Nam Bộ đã tạc vào năm 1907 theo sự chỉ đạo của Hòa
thượng Chánh Hậu. Bộ tượng này bằng danh mộc, mỗi tượng cao khoảng 0,80m, bề
ngang 0,58m, được đặt hai bên điện Phật gọi là sáu căn : mắt, tai, lưỡi, mũi,
thân và ý; ở ba thời: qu khứ, hiện tại v vị lai. Các tượng La-hán này được tạo
hình cân đối, sinh động, cỡi trên các con thú như trâu, bị, ngựa, lạc đà, hà mã
, tê giác v.v.
Trong khuôn viên chùa Vĩnh Tràng có nhiều chậu cây
cảnh, hòn non bộ được chăm sóc thường xuyên. Dưới bóng cây, tháp Hòa thượng
Chánh Hậu và gia đình được xây dựng bề thế có tường rào bao bọc.
Nhìn chung, vẻ đẹp của chùa Vĩnh Tràng tập trung ở
nghệ thuật tạo hình. Có ý kiến cho rằng có thể xem chùa Vĩnh Tràng là một bản
tổng kết lịch sử mỹ thuật của đất Tiền Giang.
Hiện chùa Vĩnh Tràng l2 nơi đặt văn phòng Ban Trị sự
Tỉnh hội Phật giáo và trường Cơ bản Phật học tỉnh Tiền Giang. Chùa được trở
thành điểm du lịch và hành hương của tỉnh, thu hút du khách và Phật tử hàng
ngày. Tết Tân Dậu (1982) nhà thơ Xuân Thủy đã đến viếng chùa và viết tặng một
bài thơ :
Đức Phật giàu tình thương
Nên chùa tên Vĩnh Tràng
Nhà sư vốn yêu nước
Lòng như sông Tiền Giang
========================================
Đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho xưa
“Ngày xưa, người Pháp mở tuyến đường xe lửa Sài
Gòn-Mỹ Tho với mục tiêu là nối liền tuyến xuyên Việt và ý định kéo dài sang tận
PhnomPenh, Campuchia.” Bác Tân Văn Công, 80 tuổi, làm nghề dạy học tại Mỹ Tho
từ năm 1943, nhớ lại. Lý do mở tuyến xe lửa nầy, theo bác, vì thời đó Mỹ Tho là
đầu mối trung chuyển hàng hóa cho Sài Gòn và Nam Kỳ lục tỉnh, do các tỉnh miệt
dưới như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng… đường bộ gặp trở ngại vì phải qua 2 con
sông Hậu và sông Tiền. Có lẽ cũng vì trở ngại đó mà đường xe lửa chỉ tới Mỹ Tho
và nhà ga chót dừng lại ở đầu đường Trưng Trắc, bên bờ sông Tiền, gần vườn hoa
Lạc Hồng hiện giờ. Hồi đó, ga xe lửa nằm trong dãy nhà ngói xưa, cất theo kiểu
Pháp (chỗ sau nầy là nhà sách) cùng với hệ thống phòng trọ và dịch vụ kéo dài
đến chỗ Bưu điện Mỹ Tho ngày nay.
Nằm cạnh ga xe lửa còn có bến tàu với “3 cầu tàu lục
tỉnh”. Toàn bộ hành khách và hàng hóa từ Sài Gòn đi xe lửa tới Mỹ Tho sẽ xuống
tàu đi lục tỉnh và ngược lại, hành khách và sản vật, cây trái từ lục tỉnh đi
bằng tàu tới Mỹ Tho cũng lên xe lửa rồi đi tiếp về Sài Gòn. Cũng vì vậy mà Mỹ
Tho xưa được xem là “đầu mối trung chuyển.” Vào thời đó ga xe lửa Sài Gòn nằm ở
đầu đường Lê Lai bây giờ, gần khách sạn Saigon New World. Từ Sài Gòn đi Mỹ Tho,
ga thứ nhất gọi là Chợ Lớn Mới, nằm bên hông chợ An Đông. Kế đến là ga Chợ Lớn
trên đường Hùng Vương, gần mấy bồn nước sơn màu đen hiện giờ vẫn còn. Các ga
tiếp theo là Phú Lâm, Cây Mai, Bình Chánh, Gò Đen, Tân An, Tân Hương, Ông Táo,
Tân Hiệp, Trung Lương và Mỹ Tho.
Cũng theo bác Tân Văn Công thì đầu tiên xe lửa chạy
bằng hơi nước. Từ Sài Gòn về Mỹ Tho đường rầy xe lửa chủ yếu nằm phía trái,
thỉnh thoảng có đoạn nằm bên phải của quốc lộ 1 bây giờ, xưa gọi là đường Cái
Quan, lộ Đông Dương, sau đổi lại là quốc lộ 4. Hồi đó ở đoạn Bình Chánh có xảy
ra vụ tai nạn lớn nhất thời bấy giờ, làm thiệt mạng gần 20 người, do chiếc xe
đò Hữu Lợi chạy vào đường rầy khi xe lửa đang băng qua, dù ở 2 đầu đã có rào
cản, khiến báo chí nói cả tháng trời. Đến khoảng thập niên 1930 thì xe lửa
chuyển sang chạy bằng dầu diesel, còn gọi là Autorail. Sự khác biệt của
Autorail là thiết kế đẹp hơn, tốc độ nhanh hơn, tiếng ồn nhiều hơn, toa khách
có cửa sổ nhìn ra bên ngoài, tiếng còi kêu “hoét, hoét”, trong khi xe lửa chạy
bằng hơi nước thì tiếng còi kêu “pin, pin”. Đầu tiên xe lửa chỉ có ghế ngồi
bằng băng gỗ, xếp dọc theo 2 bên thành xe. Tuyến đường xa thì có hạng nhất,
hạng nhì, có phòng riêng, bên trong có 2 tầng và giá vé cũng mắc tiền hơn.
Riêng tuyến Sài Gòn-Mỹ Tho thì chỉ có một hạng thường, do đoạn đường ngắn.
Dù đường Sài Gòn-Mỹ Tho dài chỉ 70 cây số nhưng ngày
xưa đi bằng xe lửa cũng mất chừng 2 tiếng rưỡi. Vì chỉ có một đường rầy duy
nhất nên tới ga chót Mỹ Tho, muốn trở đầu để chạy trở lại Sài Gòn thì xe lửa
phải… thụt lùi chừng 2 cây số từ vườn hoa Lạc Hồng theo đường Lý Thường Kiệt
bây giờ, ra ngoài đồng thì có đường vòng cung. Tại đây đầu xe lửa tách ra khỏi
toa rồi chạy vào một đoạn đường rầy khác để nối vào đuôi toa xe lửa và lại chạy
thụt lùi trở về nhà ga Mỹ Tho để đầu xe lửa quay về hướng Sài Gòn.
Bác Tân Văn Công kể :“Hồi nhỏ, vào những buổi chiều
tôi hay nhảy theo xe lửa chạy ra ngoại ô để trở đầu. Giếng nước Mỹ Tho hiện giờ
chia làm 2 cũng vì hồi đó có đường xe lửa chạy ở giữa.”
Chính xác đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho ngừng hoạt động
vào năm nào thì bác Tân Văn Công nói mình không nhớ rõ lắm. Bác chỉ nhớ “vào
thời ông Diệm, khoảng năm 1959 tôi vẫn còn đi xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho.” Bác Công
kể tiếp :“Nhớ hồi học xong tiểu học và thi vào lớp đệ thất trường Trung học
Nguyễn Đình Chiểu, thầy cho bài luận văn bằng tiếng Pháp và yêu cầu “Trò hãy tả
người nhổ răng dạo trên toa xe lửa” mới thấy ảnh hưởng của xe lửa thời bấy giờ.
Hồi đó Trường Nguyễn Đình Chiểu mỗi năm chỉ tuyển 200 học sinh cho cả vùng lục
tỉnh, còn khó hơn thi đại học bây giờ. Lần đó tôi bị rớt nên phải lên Sài Gòn
học ở trường tư thục Đồng Nai, đường Bùi Thị Xuân và ở nội trú trong trường.
Lúc đó phát xít Nhật đã qua, ban đêm sợ đồng minh ném bom nên hầu hết trường
học trong nội thành đều phải tản cư ra vùng Chợ Lớn. Thường buổi chiều không
biết làm gì, bọn học trò nội trú lấy đá xanh để vào đường rầy cho xe lửa chạy
ngang cán xẹt lửa coi chơi.”
Vì sao ga xe lửa Mỹ Tho xưa lại nổi tiếng trong thời
Pháp thuộc? Theo bác Tân Văn Công, vì đây là ga chót nối với các tuyến thủy bộ
xuống Nam Kỳ lục tỉnh và hồi đó, sau Sài Gòn thì Mỹ Tho là một trong 3 tỉnh lớn
nhất vùng. Có 2 quyển sách viết bằng tiếng Pháp nói về ga xe lửa Mỹ Tho mà bác
Công được đọc. Quyển thứ nhất là của một nhà văn Pháp, từng là lính hải quân,
có qua Đông Dương và đi xe lửa tới Mỹ Tho để đi tàu xuống lục tỉnh, đã mô tả ga
xe lửa Mỹ Tho mang dáng dấp giống như những ga xe lửa bên Pháp. Một quyển sách
khác của tổng bí thư đảng cộng sản Pháp thời đó mà bác Tân Văn Công không nhớ
rõ tên. Vị nầy sau khi sang VN về đã viết quyển Indochinois, chỉ trích chính
sách kỳ thị dân tộc của thực dân Pháp thời bấy giờ. Theo mô tả thì tác giả đã
đi cùng với nhà cách mạng Nguyễn An Ninh xuống ga Mỹ Tho, cùng Nguyễn An Ninh
vào một bungalow (một dạng nhà trọ xưa) để ở nhưng bị từ chối vì nơi đó chỉ
dành cho người Pháp và Âu châu. Chỉ một dân tộc Á châu được vào ở là Nhựt Bổn.
Nhà ga Mỹ Tho xưa kiến trúc theo kiểu Pháp, mái ngói,
vách tường, cửa vòng nguyệt, có chỗ bán vé, chỗ khách ngồi chờ, có cân dùng để
cân hành lý và ai chở nặng thì phải trả nhiều tiền. Ticket xe lửa hồi đó được
làm bằng loại giấy rất dầy và cứng. Sau khi thu tiền, người bán vé đưa ticket
vào máy đục lỗ và phát ra một tiếng kêu rất vui tai. Khi hành khách lên xe,
người soát vé còn bấm ticket một lần nữa. Đường Sài Gòn-Mỹ Tho xưa mỗi ngày có
4-5 chuyến.
Chuyến đầu tiên đi Sài Gòn khởi hành khoảng 4 giờ
sáng, phục vụ công chức nhà ở Mỹ Tho nhưng làm việc ở Sài Gòn. Bác Tân Văn Công
kể có một người quen làm việc tại Mỹ Tho nhưng chiều nào cũng đi chuyến xe lửa
chót lên ga Sài Gòn ở đường Lê Lai. Tại đây có một quán rượu và một người đẹp
mà vị khách nầy thích nên cứ tới ngồi nhâm nhi cho tới sáng rồi đi chuyến xe
lửa sớm nhất trở về Mỹ Tho. Mới hay, dù khoảng cách xa xôi, nhưng giao thông
thuận tiện thì ngày xưa cũng không hề bị cách trở.
=======================================
ANH HÙNG DÂN TỘC
TRƯƠNG ĐỊNH
Trương Định nhân dân còn gọi là Trương Công Định để
tỏ lòng tôn kính. Ông sinh năm 1820 tại xã Tư Cung, huyện Tịnh Sơn, tỉnh Quãng
Ngãi là con quan Trương Cầm-Lãnh binh tỉnh Gia Định
Trương Định thuở nhỏ tướng mạo khôi ngô, thông hiểu
binh thư, võ nghệ. Đặc biệt là bắn rất tài. Thời Triệu Trị 1844, ông theo cha
vào Nam lấy vợ là con gái một hào phú huyện Tân Hoà (nay là Gò Công). khi cha
chết ông ở luôn bên quê vợ.
Năm 1854, Trương Định xuất tiền của chiêu mộ dân
nghèo, lập đồn điền Gia Thuận. Ông được phong chức Quản Cơ.
Khi giặc Pháp đánh thành Gia Định 2/1859, Trương Định
đưa cơ binh gia nhập đội quân của triều đình chống giặc, ông thường đi tiên
phong lập được nhiều chiến công. Một trong những chiến công nổi tiếng là phục
kích giết chết tên Đại úy Barbe, trừng trị nhiều tên tay sai của giặc Pháp,
trong đó có Bá hộ Huy ở Đồng Sơn, tiến công các đồn giặc ở Gia Thạch, Rạch Gầm
và nhiều lần đánh đồn Kỳ Hoà. Tháng 3/1862 quân Pháp rút chạy khỏi Gò Công.
Ngày 5/6/1862, triều đình nhà Nguyễn ký hoà ước Nhâm
Tuất giao 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, hạ lệnh cho Trương Định bãi binh và đi
nhận chức Lãnh Binh ở An Giang. Nhưng theo yêu cầu của nhân dân và các nghĩa sĩ
Trương Định đã khước từ lệnh của triều đình và nhận danh hiệu ” Bình Tây Đại
Nguyên Soái ” do dân phong, tiếp tục lãnh đạo các cuộc chiến đấu chống giặc
Pháp.
Ngày 20/08/1864 do sự phản bội chủ Huỳnh Văn Tấn căn
cứ Trương Định bị bao vây chặt. Trong cuộc chiến đấu không cân sức, Trương Định
bị trọng thương. Không để rơi vào tay giặc, ông đã dùng gươm tự sát để bảo toàn
thanh danh, khí tiết của người anh hùng – khi ấy ông 44 tuổi.
Trương Định là hình ảnh tiêu biểu của nhân dân Gò
Công, của nhân dân Nam Bộ bất khuất kiên quyết chống giặc Pháp xâm lược nửa sau
thế kỷ thứ 19.
Khu di tích gồm lăng mộ và tượng đài Anh hùng dân tộc
Trương Định toạ lạc trong nội ô thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
Ẩm Thực Tiền Giang
Lẩu Mắm: Đây là một trong những món ăn đặc trưng của
văn hóa ẩm thực vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nó thể hiện rất rõ nét tính hoang
dã và hào phóng của vùng đất mới. Không là kho, không là canh, nó nằm giữa hai
món đó.
Hủ tiếu Mỹ Tho – Tỉnh Tiền Giang
Hủ tiếu Mỹ Tho khác hủ tiếu Tàu, hủ tiếu Nam Vang,
phở Bắc, bún bò Huế… ở chỗ không ăn với xà lách, giấm, rau ghém, mà dùng giá
sống, chanh, ớt, nước tương. Ðiều làm nên hương vị riêng khiến cho hủ tiếu Mỹ
Tho trở nên nổi tiếng và nhiều người “bén mùi” kể từ thập niên sáu mươi nhờ sự
hoàn thiện từ khâu chọn hột gạo làm ra cọng bánh tới nồi nước lèo cùng tuyệt kỹ
pha chế của các đầu bếp trứ danh đất Mỹ Tho như: Phánh Ký, Nam Sơn, Tuyền Ký…
cùng các lớp thợ nấu sau này
Bún gỏi già Mỹ Tho – Tiền Giang
Không biết món ăn này xuất xứ từ đâu. Nhưng tôi chưa
thấy trên thành phố này có một nơi nào bán món này cả, cả tên gọi cũng rất khác
biệt. Bún gỏi già… Tôi không thể giải thích được vì sao nó lại có tên như thế.
Mỗi lần về Mỹ Tho là tôi lại chạy ra quán ăn quen thuộc, gọi một món quen
thuộc:” Bún gỏi già”. Chắc các bạn sẽ thắc mắc lắm vì không biết tại sao cái
món bún có cái tên lạ tai lại làm tôi thích thú… Tôi ăn nhiều rồi, nhưng chưa
lần nào thử nấu cả, không phải lười biếng đâu, vì không có bí quyết, tôi sợ
mình sẽ làm hư món khoái khẩu của mình.
Cá bống dừa – Tiền Giang
Cũng như tôm tép có nhiều loại, cá bống cũng thế. Nào
là: bống mú, bống vượng, bống cát, bống trứng, bống nhật, bống sao, bống bọt,
bống xèo, bống nhảy… Trong các loại bống đó, tôi đặc biệt nhớ loài cá bống dừa.
Có lẽ vì vùng quê tôi (thuộc huyện Gò Công Tây – Tiền Giang) chúng sinh sản
nhiều, sống thích hợp với địa thế dừa nước (lá dùng lợp nhà) mọc đầy ven sông
rạch. Bống dừa vảy nhuyễn, miệng rộng, lưng đen, lườn trắng; con to cỡ nửa cổ
tay, hiếm khi lớn hơn.
Mắm còng xứ rẫy Gò Công
Ở Gò Công Tiền Giang, rẫy là tên gọi chung của những
miền đất thấp, ven các kênh rạch, hằng năm thường bị nhiễm mặn trong một thời
gian khá dài. Ðiển hình như các xã cặp theo sông Trà là Ðồng Thạnh, Ðồng Sơn,
Bình Phú, Thành Công của huyện Gò Công Tây hay Bình Ðông, Bình Xuân cặp theo
sông Soài Rạp, Phú Ðông, Phú Tân kẹp giữa hai vàm Cửa Tiểu và Cửa Ðại của huyện
Gò Công Ðông. Miệt này, mỗi năm bà con chỉ có thể canh tác được có 1 vụ lúa
mùa.
Sam biển Gò Công – Tiền Giang
Ngoài các loại cá tôm thiên nhiên ưu đãi, ở vùng biển
xã Vàm Láng, Tân Thành, huyện Gò Công Ðông (Tiền Giang) có đặc sản khá hiếm:
sam biển. Với hình thù lạ mắt: vỏ cứng như mai cua, mình tròn dẹt, đường kính
độ gang tay, tám chân càng nhỏ dưới bụng, phần đầu là mũi nhọn ba cạnh rất linh
hoạt dài cỡ 20 cm. Khoảng từ tháng 10 cho tới tháng 2 âm lịch, sam bắt cặp phối
giống và sau đó sam cái mang bụng đầy trứng nhỏ như hạt tiêu đợi ngày sinh nở.
Gió chướng thổi về, người dân ven biển chúng tôi sáng sớm đi dọc bờ thỉnh
thoảng vẫn bắt được những cặp sam tấp mé.
Chuối quết dừa – Tiền Giang
Kể từ khi xuất hiện trên AT tháng 5.1992 với món ăn
bình dân mà vô cùng hấp dẫn cho cả “mày râu” lẫn “kẹp tóc” là xòai tượng mắm
đường đến nay, tôi cứ mãi bận rộn với những lo toan đời thường mà quên khuấy đi
cái nghiêp… ăn uống vốn dĩ là một trong những “tứ khóai” của thiên hạ, thật là
sai sót biết chừng nào! Hôm qua, nhân dịp về một làng nhỏ hiền hòa nằm bên bờ
sông Tiền lộng gió, chúng tôi có dịp thưởng thức một món ăn hòan tòan “cây nhà
lá vườn” và đậm đà hương vị đồng quê đến nỗi khi lên xe trở về, ai nấy cũng
chắc lưỡi hít hà khen ngon quá xá. Đó là món ăn mà ngọai tôi gọi đơn giản là
chuối quết dừa.
====================================
Những Thông Tin Cần Thiết Cho Quý
Khách Khi Đi Du lịch Tiền Giang
_ TP. HCM đi Mỹ Tho theo quốc lộ 1A , dài 71 km có
thể đi về trong ngày bằng xe gắn máy dễ dàng
_ Khi tới ngã ba Trung Lương du khách nên ghé vào nhà
hàng Trung Lương vì các quán khác tại khu vực này thường đắt hơn và không ngon
bằng
_ Mã điện thoại vùng là 073
_ Đường Trưng Trắc là con đường đầy màu sắc nhất của
Thành phố
_ Bến đò du lịch ở đọan đường 30-4 do công ty độc
quyền tổ chức các
chuyến tham quan không có thuyền tư nhân . Vé tàu đi
lẻ là 40000 đồng
_ Phà Rạch Miễu để qua sông Tiền vào tỉnh Bến Tre .
Ngay bến phà tỉnh Bến tre cũng có trạm bán vé đi tham quan Cồn Phụng.
===================================
Nhà hàng – Khách sạn
Nhà hàng
STT Tên Địa
chỉ
Điện thoại
1 Trung Lương Ngã ba Trung Lương, Tp.Mỹ Tho
073.855441
2 Hướng Dương 81, đường 30/4, phường 1, Tp. Mỹ Tho
073.873602
3 Thới Sơn Xã Thới Sơn, huyện Châu Thành 073.877371
4 Sông Tiền 01, Lãnh Binh Cẩn, phường 1, Tp. Mỹ Tho
073.874567
5 Chương Dương 10, đường 30/4, phường 1, Tp. Mỹ Tho
073.870875
6 Cửu Long 28, đường 30/4, phường 1, Tp. Mỹ Tho
073.872126
7 Quê Hương 03, Lãnh Binh Cẩn, phường 1, Tp.Mỹ Tho
073.872008
8 Ngọc Gia Trang 196A, đường Ấp Bắc, Tp. Mỹ Tho
073.872742
9 Bách Tùng Viên 171B, đường Anh Giác, Tp. Mỹ Tho
073.876000
10 Hồng Phúc 246/8, Ấp Bắc, phường 5, Tp.Mỹ Tho
073.876260
11 Tạ Hiền 79A, Nguyễn Trung Trực, phường 3, Tp. Mỹ
Tho 073.876299
12 Xẻo Mây Khu 2, Thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè
073.923219
13 Hương Bình xã Tân Thành, Gò Công Đông 073.946362
Khách sạn
STT Tên Địa chỉ Điện thoại
1 Sông Tiền 101, Trưng Trắc, phường 1, Tp. Mỹ Tho
073.872009
2 Hướng Dương 33, Trưng Trắc, phường 1, Tp.Mỹ Tho
073.872011
3 Công Đoàn 61, đường 30/4, phường 1, Tp. Mỹ Tho
073.874324
4 Chương Dương 10, đường 30/4, phường 1, Tp. Mỹ Tho
073.870875
5 Mỹ Tho 1 67, đường 30/4, phường 1, Tp. Mỹ Tho
073.872543
6 Rạng Đông 25, đường 30/4, phường 1, Tp. Mỹ Tho
073.874410
7 Hồng Phúc 246/8, Ấp Bắc, phường 5, Tp. Mỹ Tho
073.876260
8 Phúc Thịnh Quốc lộ 60, Tp. Mỹ Tho 073.879703
9 Yến Ngân 347, khu 3, thị trấn Cái bè, huyện Cái Bè
073.824707
10 Bình Phú xã Bình Phú, huyện Cai Lậy 073.816456
11 Hoà Bình 29, Bạch Đằng, Thị xã Gò Công 073.841593
12 Trường Thịnh 36/3, Quốc lộ 1A, xã Trung An, Tp. Mỹ
Tho 073.856158
Những địa chì khác:
1 Quán Đồng Giao - 58A, Nguyễn Trung Trực, phường 3,
Tp. Mỹ Tho 073.883123
2 Quán cơm Chí Thành – 279, Tết Mậu Thân, phường 4,
Tp. Mỹ Tho 073.878428
3 Quán cơm chay Hoà Bình - 10, Lý Công Uẩn, phường 1,
Tp. Mỹ Tho 073.879729
4 Nhà nghỉ Khu Du lịch Thới Sơn - xã Thới Sơn, huyện
Châu Thành 073.877371
5 Nhà nghỉ Khu Du lịch biển Tân Thành - xã Tân Thành,
huyện Gò Công Đông 073.946362
6 Nhà khách UBND tỉnh - 23, đường 30/4, phường 1, Tp.
Mỹ Tho 073.873150
7 Nhà khách Chương Dương - 01, Trương Định, phường 1,
Tp. Mỹ Tho 073.882264
Những điều cần biết khi du lịch
Miền Tây
Khi đến với du khách cần phải nắm bắt kỷ những thông
tin và giá cả nơi đây nếu như khách đi riêng mà không đi theo Tour của công ty
du lịch.
Khi tham gia vào Tour Tiền Giang này ngoài việc tham
quan sông nước miệt vườn, tham quan vườn cây ăn trái, tham quan thắng cảnh
đẹp…quý khách còn có thể mua sắm bất cứ thứ gì khách muốn; vì nơi đây đồ ăn,
hàng hóa rất rẻ nhưng nếu như khách muốn mua “đúng cách” (không bị lầm giá) thì
hãy tham khảo ý kiến các hướng dẫn viên.
Trên chuyến đi với một chiếc máy ảnh du khách có thể
chụp laị những khung cảnh đẹp ở nơi đây, mua những đặc sản nơi đây về cho gia
đình, bạn bè… đó cũng là những món quà đáng quý biết bao.
Chẳng những thế trước khi đến với miền tây du khách
phải tìm hiểu trước các Nhà Hàng-Khách Sạn để du khách có thể nghĩ nghơi ở
những nơi an toàn sạch sẽ không hại đến chính bản thân chúng ta.
Không nên đi dạo một mình vào buổi tối, tránh nơi
đông ngươì để đảm bảo sự an toàn của bạn.
==============================
MUA SẮM TẠI TIỀN GIANG (Giá cả có thể thay đổi vào thời điểm hiện tại)
Mận: 8.000đ/kg
Xoài thái: 20.000đ/kg
Măng cụt: 25.000->40.000đ/kg
Sầu riêng: 12.000->25.000đ/kg
Ổi: 6.000đ/kg
Trái vải: 20.000->35.000đ/kg
Củ ấu: 10.000Đ
Bắp luộc: 2.500/trái
Kẹo đậu phọng: 10.000đ/bịch
Nem (loại nhỏ): 10.000đ/chục
Nem(loại lớn)- đặc biệt: 12.000>20.000đ/chục
Bánh phồng sữa(nhỏ): 10.000đ/chục
Bánh phồng sữa(lớn): 15.000đ/chục
Bánh ít than; 15.000đ
Đồ mỹ nghệ bằng dừa: 10.000->70.000đ
Me: 15.000đ
Rượu rắn lớn: 150.000đ
Thạch dừa, mứt dừ, cốm, kẹo dừa: 15.000đ/bịch
Trà 400g: 50.000đ
Càfê 4000g: 8USD/gói
Cá tai tượng chiên xù: 80.000đ/kg
Cua hấp, rang muối, hấp bia: 250.000đ/kg
Lẩu: 60->80.000đ
Mì : 50.000đ
Tỉnh Đồng Tháp
Tỉnh Đồng Tháp là một trong 3 tỉnh thuộc
khu vực Đồng Tháp Mười
Phía Bắc tỉnh giáp Campuchia
Phía Nam giáp Vĩnh Long
Phía Tây giáp An Giang và Cần Thơ
Phía Đông giáp Long An và Tiền Giang.
Tỉnh có hệ thống sông ngòi, kênh, rạch,
chằng chịt nhiều ao, hồ lớn. Sông chính là sông Tiền (một nhánh của sông Mê
Kông) chảy qua tỉnh với chiều dài 132km. Dọc theo hai bên bờ sông sông Tiền là
hệ thống kênh rạch dọc ngang. Đường liên tỉnh giao lưu thuận tiện với trên
300km đường bộ và một mạng lưới sông rạch thông thương.
Đồng Tháp nằm trong vùng nhiệt đới, khí hậu
chia hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến
tháng 4 năm sau.
Là một tỉnh nông nghiệp, Đồng Tháp sản xuất
nhiều lương thực và các loại nông thủy sản có giá trị xuất khẩu. Đất đai Đồng
Tháp màu mỡ bởi phù sa do hai con sông Tiền và sông Hậu cung cấp hàng năm, xóm
làng trù phú giữa bốn bề cây cối xanh tươi. Vì thế Đồng Tháp được biết đến như
mot vựa lúa của cả nước. Ở đây có giống lúa nổi - một loài lúa mọc tự nhiên từ
tháng 4, tháng 5 đến tháng 10 thu hoạch mà không cần chăm bón. Đồng Tháp cũng
là vùng đầy triển vọng về các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, bông,
thuốc lá, đậu tương và cây ăn trái như xoài Cao Lãnh, nhãn Châu Thành, quít Lai
Vung, bưởi Phong Hòa, chôm chôm, vú sữa có quanh năm.
Ở Đồng Tháp có nhiều tôn giáo như Cao Đài,
Hòa Hảo, Phật giáo và Công giáo. Tính cách người Đồng Tháp mang đậm nét đặc
trưng chung của đồng bằng Nam Bộ: cần cù, hiền lành, phóng khoáng, cởi mở và
giàu lòng mến khách. Vùng đất Đồng Tháp Mười xưa nổi tiếng hoang vu với lắm
bưng, trấp, đìa, bàu với bạt ngàn đưng, lác, năng, sen, súng và lau sậy…
Đây là giang sơn của các loài động vật
hoang dại như rắn, rùa, chuột, ếch, chim muông, cua, cá sấu… Tuy ngày nay con
người đã khai khẩn và cải tạo đất để lập làng, tạo ruộng, những món ăn đặc sản
miền Tây chế biến từ chuột, ếch, chim, tôm, cua, cá đồng … vẫn là những món ăn
nổi tiếng của cả vùng, cùng với bánh phồng tôm Sa Giang, nem Lai Vung, bánh xèo
Mỹ Trà.
Về thăm Đồng Tháp du khách như trở về với
cội nguồn thiên nhiên bởi bầu không khí trong lành, mát mẻ của những cánh đồng
lúa phì nhiêu, đi trên những chiếc xuồng ba lá trên sông rạch để đến với khu di
tích lăng cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, đài liệt sĩ, khu di tích Gò Tháp, di
tích kiến trúc cổ Kiến An Cung, vườn chim thiên nhiên ở Tháp Muời, vườn sếu qúi
hiếm ở Tam Nông, khu căn cứ Xẻo Quýt, làng Hoa Kiểng Tân Qui Đông …
Thị Xã Cao Lãnh
Là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp. Sau ngày
giải phóng đất nước 30-4-1975, tỉnh Đồng Tháp được thành lập và tên Cao Lãnh
được dùng để đặt cho tỉnh lỵ là do danh xưng này rất nổi tiếng và trở thành đặc
trưng của vùng đất này.
Có huyền thoại nói rằng vào năm 1817, hai
vợ chồng ông Đỗ Công Tường, thường gọi là Lãnh, từ miền Trung vào vùng đất này
lập nghiệp. Ông bà đã chọn xã Mỹ Trà làm nơi định cư và lập ra một vườn quýt.
Đến mùa quýt chín, những người đến mua đươc ông bà tiếp đãi niềm nở và những
người bán được đối xử thân thiện… lần lần nơi này trở thành một cái chợ nhỏ.
Chợ này trong ba năm đầu rất tấp nập, thu hút những người buôn bán vì thuận
đường qua lại. Còn ông Đỗ Công Tường vốn thuộc dòng nho gia, tính tình cương trực
nên được những người trong làng cử làm “Câu Đương” (một chức vụ trong ban tề
làng phụ trách việc hoà giải, dàn xếp những vụ xích mích, mâu thuẫn của mọi
người trong dân làng). Ở vùng này người ta nhắc tên ông bà suốt ngày. Vì để tỏ
niềm tôn kính, họ gọi tên là Câu Lãnh, thế rồi trong lúc mọi người đang sống
vui vẻ, chan hoà tình cảm với nhau thì năm 1820, xã Mỹ Trà bị một trận dịch
bệnh hoành hành. Mỗi ngày trong làng đều có người chết, có nhiều gia đình chết
gần hết… Ngày ấy người dân ở đây còn tin tưởng vào thần linh nên cho rằng là
Diêm Vương bắt lính, người nào đến số chết, bị bệnh thì chịu bó tay, không
phương cách gì cứu chữa. Vả lại vào thời ấy thuốc men rất thiếu thốn, người ta
không thể trị được chứng bệnh chết người này nên chỉ còn mong đợi vào sự che
chở của đấng bề trên mà thôi.
Không thể ngồi yên nhìn cảnh đau thương,
ông bà Câu Lãnh liền lập bàn thờ ngoài trời nguyện xin ơn trên cho ông bà chết
thay cho dân làng. Một tuần sau, bà thọ bệnh từ trần. Đang lo tẩm liệm bà thì
hai ngày sau ông cũng qui tiên. Dân làng lo mai táng ông bà xong thì đợt dịch
bệnh cũng chấm dứt, mọi người thoát khỏi móng vuốt của thần chết. Ơn đức của
ông bà được mọi người truyền tụng. Đến năm 1907, nhân dân xã Mỹ Trà cùng nhau
lập miếu thờ và đặt tên chợ gần nơi ông bà định cư là chợ Câu Lãnh. Dần dần tiếng
Câu nói trại thành Cao. Và Cao Lãnh được nhìn nhận như một địa phương từ năm
1914. Năm 1916, có một nhóm người từ Bình Định vào định cư tại Cao Lãnh bị mắc
chứng bệnh khắc phong thổ, uống thuốc hoài không hết. Họ bèn vào miễu cầu
nguyện được ông bà báo mộng bảo lấy nước trong miễu uống. Mọi người làm theo
lời báo mộng ấy và quả nhiên đã khỏi bệnh. Tiếng lành về sự linh thiêng của ông
bà Câu Lãnh lan truyền khắp nơi và nổi tiếng khắp vùng Nam Bộ.
Sau năm 1975, hai tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến
Phong đã sát nhập lại thành tỉnh Đồng Tháp. Nơi đặt văn phòng ủy ban hành chính
tỉnh được gọi là thị xã Cao Lãnh. Thị xã nằm bên bờ sông Cao Lãnh có chiều dài
khoảng 15km, là một đoạn sông Tiền tách ra chảy qua thị xã Cao Lãnh rồi sau đó
lại nhập vào sông Tiền và đổ ra biển Đông. Ngày nay với sự đầu tư hợp lý và
đúng mức của các ban ngành lãnh đạo tỉnh, thị xã Cao Lãnh trở thành trung tâm
kinh tế trọng yếu của vùng Đồng Tháp Mười.
Từ thị xã Cao Lãnh chúng ta có thể đi tham
quan khu di tích Gò Tháp, khu di tích kiến trúc cổ Kiến An Cung, vườn chim sếu
quí hiếm Tam Nông cũng như các vườn cây ăn trái nổi tiếng ở Châu Thành, Lai
Vung, Thạnh Hưng… và ở ngay thị xã Cao Lãnh chúng ta có thể thăm mộ cụ Nguyễn
Sinh Sắc, một người giàu lòng yêu nước và là đấng sinh thành của một nhân vật
ưu tú của dân tộc Việt Nam là chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Khu Di Tích Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc
(1862-1929)
Tháng 8 năm 1975, lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp
đã cho xây lại ngôi mộ cụ khang trang, đẹp đẽ hơn. Trên vòm mộ là hình một cánh
sen úp xuống có chạm trổ 9 đầu rồng mang ý nghĩa tượng trưng cho con Rồng cháu
Tiên, đồng thời bao hàm ý nghĩa là cụ Nguyễn Sinh Sắc sẽ mãi mãi yên nghỉ trong
sự che chở, kính trọng của người dân đồng bằng sông cửu long. Bên cạnh ngôi mộ
là tượng đài cách điệu hình búp sen như tượng trưng cho người con làng sen đã
sống thanh cao và trong sạch. Xung quanh chân tượng đài là hồ nước. Nếu để ý
một chút, quý khách sẽ thấy rằng hình thể của hồ nước rất giống phần diện tích
của tỉnh Đồng Tháp trên bản đồ. Trong khuôn viên khu mộ rộng 1 hécta, còn có
nơi thờ bà Hoàng Thị Loan, người vợ yêu quý của cụ phó bảng và một ngôi nhà sàn
được xây dựng theo đúng kích thước ngôi nhà sàn nơi Bác Hồ đã sống và làm việc
tại Hà Nội.
Vài Nét Về Khu Lưu Niệm Nguyễn Sinh Sắc
Khu lưu niệm Nguyễn Sinh Sắc nằm cạnh chùa
Hòa Long (tức Miễu Trời Xanh ngày xưa) cách trung tâm thị xã Cao Lãnh chừng một
cây số rưỡi, tren đất qua bên phà Cao lãnh.
Toàn khu lưu niệm rộng gần 4 hec ta, chia
làm hai khu vực: khu vực mộ cụ phó bảng, khu vực Nhà Sàn – Ao Cá Bác Hồ. Qua
cổng, du khách gặp ngay nhà khách khang trang phía tay phải. Đây cũng là nơi
làm việc của Ban giám Đốc khu lưu niệm. Trong đó có phòng chiếu phim tài liệu
phục vụ du khách.
Theo lối đi tráng nhựa, một bên là hàng vú
sữa, một bên là hàng dương thẳng tấp, chừng 100m rẽ về phía tay trái đến cổng
tam quan – cổng chính vào khu mộ cụ phó bảng. Khu vực này hình chữ nhật, diện
tích 1hecta. Bao bọc chung quanh là hàng rào xi-măng đơn giản, thanh mảnh như
những hoa văn trang hoàng vẻ đẹp của khuôn viên mà không làm khu mộ cách bức
với vườn ruộng xanh tươi bên ngoài. Khu mộ khởi công xây dựng ngày 22-8-1975,
khánh thành 13-2-1977.
Những công trình chính là: Vòm mộ, hồ Sao,
nhà Kiếng và nhà trưng bày.
Vòm Mộ :
Quay về phía Đông, cao trên 10 thước, là
một cánh hoa sen cách điệu có dáng dấp bàn tay xòe úp xuống, trên là 9 đầu rồng
cách điệu đậm nét dân gian. Vòm mộ tượng trưng cho nhân dân đồng bằng sông Cửu
Long, Đồng Tháp che chở, ấp yêu ngôi mộ phó bảng…
Ngôi mộ giữ vị trí cũ; đầu tiên là ngôi mộ
đất. Sau đó nhân dân đổ núm xi măng. Năm 1954, trước khi tập kết chuyển quân ra
Bắc, các đơn vị bộ đội đã xây ngôi mộ bằng gạch, có trụ xi măng và lan can sắt
bao chung quanh. Bia mộ ghi : “cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy – Nhà chiến sĩ cách
mạng –mất ngày 27-11 năm Kỷ Tỵ (1929). Quân dân chánh Long Châu Sa lập”.
Hiện nay, ngôi mộ được tôn cao lên và ốp đá
hoa cương, núm mộ hình hộp chữ nhật (2m x 1m x 0.9m), màu xám tro, yên vị trên
vòm mộ bằng đá mài màu trắng, hình lục giác không đều mở rộng dần ra hai bên và
phía trước. Phía trong vòm mộ là bệ thờ bằng đá mài. Bên trên có tượng chân
dung cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, lư hương đặt ở phía ngoài núm mộ.
Hồ Sao :
Nằm giữa khu vực, hình ngôi sao năm cánh,
đường kính 30m. Ở giữa hồ sừng sững một đài sen trắng cách điệu ốp đá Italy màu
trắng xám, cao 6,5m tượng trưng cho cuộc đời thanh bạch, trong sáng của cụ phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc, cũng là biểu tượng quê hương Kim Liên _ Đồng Tháp vươn
thẳng giữa lòng tổ quốc Việt Nam.
Nhà Kiếng :
Cách hồ Sao 30m, phía tay phải (trong nhìn
ra). Nhà kiếng hình chữ nhật thể hiện theo kiểu dáng nhà sàn. Ngoài những mảnh
tường thấp và cốt ximăng tô đá rửa, các phòng đều lắp đặt kính 5 ly (nên gọi
nhà Kiếng) .
Nhà kiếng cũng là nhà khách trong những
buổi tiếp tân đông người. Các phòng tại đây đều thoáng rộng, được trưng bày màu
xanh dịu mát. Các hình ảnh chủ yếu giới thiệu về quê hương, thời niên thiếu của
Bác Hồ.
Nhà trưng bày:
Đối diện nhà kiếng qua cột cờ giữa sân, gây
thú vị cho du khách với lối kiến trúc hình bát giác vụt cao hẳn lên so với dãy
nhà hình hộp chữ nhật nối liền với nó.
Phòng trưng bày về cụ Nguyễn Sinh Sắc:
Nằm gọn trong hình bát giác (mỗi cạnh 5m),
nền bằng đá rửa trắng lấm tấm hạt đen. Đai trưng bày màu vàng sậm, viền nâu
trên nền tường xanh lợt với 4 chỗ thông gió chia đều. Vách và nóc cách nhau một
khoảng trống dễ nhận ánh sáng mặt trời cũng như việc bố trí thêm đèn ne-on. Ở
đây du khách nhìn thấy ngay bản tiểu sử tóm tắt của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
lồng trong khung kính bằng gỗ giáng hương, chữ lộng màu trắng nổi lên trên nền
nhung đỏ. Bản tiểu sử đặt trên bệ gỗ tròn thay cho tấm bình phong chia làm hai
lối ra vào.
Theo chiều kim đồng hồ, du khách lần
lượt tham quan các hình ảnh, hiện vật về cuộc đời cụ phó bảng. Có thể nêu 6 chủ
đề chính:
Chủ đê 1: Quê Hương – Thời Niên Thiếu Thưở
Hàn Vi
Chủ đề 2: Đỗ Đạt – Làm Quan
chủ đề 3: Từ Quan – Vào Nam
Chủ đề 4: Cao Lãnh Và Những Năm Cuối Đời
Chủ đề 5: Những Di Vật Của Cụ Phó Bảng
Chủ đề 6: Bảo Vệ Và Xây Dựng Mộ Cụ Phó Bảng
Đến viếng thăm mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc là
chúng ta đã viếng thăm cả gia đình chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã cống hiến cả
cuộc đời của mình cho tổ quốc cho dân tộc.
Cuộc Đời Cụ Nguyễn Sinh Sắc
Theo gia phả họ Nguyễn Sinh ở Kim Liên,
cách đây trên bốn trăm năm, ông Nguyễn Bá Phổ đến và khởi dựng ra dòng họ
Nguyễn ở đây. Đến thế hệ thứ tư, Nguyễn Sinh dần đổi tên Nguyễn Bá ra Nguyễn
Sinh.
Thế hệ thứ năm có ông Nguyễn Sinh Vật dự kỳ
thi hội năm Tân Mão (1651).
Thế hệ thứ sáu, Nguyễn Sinh Trí, năm 17
tuổi dự kỳ thi Hương khoa Quý Sửu (1673) đậu Hiệu sinh (Tú Tài), năm ba mươi tư
tuổi dự kỳ thi Hội khoa Canh Ngọ nhưng chỉ lọt đến Tam trường.
Thế hệ thứ tám Nguyễn Sinh Hải, lập chiến
công to, được vua Lê Cảnh Hưng phong sắc khen thưởng.
Ông nội Bác Hồ là Nguyễn Sinh Nhậm (tức là
Nguyễn Sinh Vượng) thuộc thế hệ thứ mười. Gia đình ông vào loại khá giả ở Làng
Sen. Ông lập gia đình sớm nhưng hiếm con, khi sinh người con trai là Nguyễn
Sinh Trợ (sau nhân dân thường gọi là Nguyễn Sinh Thuyết) thì bà Nhậm mất. Nuôi
con đến tuổi thành niên và lập gia đình riêng cho con, ông mới cưới người vợ kế
là Hà Thị Hy, một cô gái có nhan sắc, thông minh tài hoa ở làng Mậu Tài (làng
Sày) cùng thuộc xã Chung Cự. Bà Hy là con gái ông Hà Văn Cẩn, một người nổi tiếng
về đàn hát, thuộc bậc trung lưu. Nhà ông thường nuôi thầy dạy học cho con cái
nhưng ông lại không màng chuyện thi cử. Bà Hà Thị Hy được cha rất mực yêu quý,
truyền cho tất cả vốn hiểu biết của mình về sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật của
quê hương xứ sở. Bà Hà Thị Hy về làm bạn đời với ông Nguyễn Sinh Nhậm được ít
lâu, cuối năm Nhâm Tuất (1863) sinh con trai, đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc. Cuộc
sống của gia đình rất êm ấm. Nguyễn Sinh Sắc mới ba tuổi thì ông Nguyễn Sinh
Nhậm qua đời, sau đó một năm bà Hà Thị Hy cũng tạ thế. Nguyễn Sinh Sắc mồ côi
cha lẫn mẹ lúc bốn tuổi, phải ở với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh
Trợ.
Gia đình Nguyễn Sinh Trợ lúc này đang sa
sút, gặp nhiều khó khăn, Nguyễn Sinh Sắc không có điều kiện cắp sách tới
trường. Nhưng Nguyễn Sinh Sắc là chú bé thông minh, hiếu học và khát học nên đã
học lỏm được ở bạn bè ít chữ nghĩa. Thường ngày, buổi sáng dắt trâu ra đồng,
khi đi qua cổng nhà thầy đồ Vương Thúc Mậu, bé Sắc thường cột trâu lại dưới gốc
cây tre và đứng nghe thầy đồ giảng bài, có lúc mải mê quên cho trâu ra đồng ăn
cỏ.
Ngày ấy cụ Hoàng Đường, một thầy đồ ở làng
Hoàng Trù được nhân dân tôn kính gọi là cụ Tú, thường đi lại thăm bà con bên
ngoại ở làng Kim Liên và thỉnh thoảng ghé thăm cụ Vương Thúc Mậu, bạn bè cùng
lớp. Những lần đến Kim Liên cụ thường thấy một chú bé ngồi trên lưng trâu chăm
chú đọc sách. Vốn là một thầy đồ quý mến trò, cụ rất có cảm tình với chú bé
hiếu học ấy.
Ngày tết Mậu Dần (1878), khi hầu hết trẻ
con trong làng Kim Liên đang mải mê với các trò chơi tết, cụ Đường lại thấy chú
bé ấy vẫn đọc sách trên lưng trâu, cảnh tượng đó đã gây cho cụ niềm xúc động
sâu sắc. Cụ hỏi tên tuổi và hoàn cảnh cậu bé rồi đến gặp ông Nguyễn Sinh Trợ
xin đưa bé Sắc về nhà mình nuôi dạy. Vì hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn
và tin tưởng ở cụ Đường, nên vợ chồng ông Trợ đồng ý.
Từ đó, Nguyễn Sinh Sắc có đủ điều kiện để
học hành. Nhờ sự chăm sóc dạy dỗ của cụ Đường, và đúng như dự cảm của cụ,
Nguyễn Sinh Sắc học tập tấn tới rất nhanh. Chẳng bao lâu, thiên tư của Nguyễn
Sinh Sắc bộc lộ ngày càng rõ, hứa hẹn một tương lai tươi sáng trên con đường cử
nghiệp. Tiếng tăm học giỏi của Nguyễn Sinh Sắc đồn đại khắp vùng. Hồi đó, ở
làng Kim Liên có Nguyễn Đậu Tài học giỏi nổi tiếng, được nhân dân suy tôn là
“thần đồng”. Lúc này cả vùng Chung Cự thường truyền nhau câu “Sắc, Tài ai kém
ai đâu” để ca tụng hai người học giỏi. Sau hai năm học tập, Nguyễn Sinh Sắc có
thể đàm đạo văn thơ với những học sinh lớp trước.
Cụ Đường thương yêu Nguyễn Sinh Sắc như con
đẻ. Sau hai năm, cảm thấy trình độ mình có hạn, cụ quyết định gửi Nguyễn Sinh
Sắc đến làng Đông Chữ, xã Thịnh Trường (nay là xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc)
cách Hoàng Trù trên 30km để học với thầy đồ Nguyễn Thức Tự, người nổi tiếng
uyên bác và có lòng yêu nước.
Vợ cụ Hoàng Đường quê ở làng Kẻ Sía, xã
Hưng Đạo. Huyện Hưng Nguyên, là con nhà nho Nguyễn Văn Giáp, người đậu bốn khoa
tú tài. Khi cụ Nguyễn Văn Giáp đậu tú tài lần thứ hai cũng là lúc vợ sinh con
gái đầu lòng cho nên đặt tên con là Nguyễn Thị Kép.
Ba năm sau, khi Nguyễn Sinh Sắc đã đến tuổi
thành niên, cô Hoàng Thị Loan, con gái đầu lòng của cụ Đường cũng đã lớn và
ngày càng có cảm tình với cậu con trai thông minh và tốt nết ấy. Cụ Đường quyết
định chọn Nguyễn Sinh Sắc làm con rể của mình. Ý định này của cụ lúc đầu chưa
được cụ bà Nguyễn Thị Kép đồng tình vì không môn đăng hộ đối. Cụ phải kiên trì
bàn bạc, tìm mọi cách thuyết phục. Cụ Nguyễn Văn Giáp là nhà nho tân tiến nên
đã ủng hộ ý định của con rể, khuyên nhủ con gái mình nên yêu thương, đùm bọc lấy
người có tài, có đức gặp phải hoàn cảnh éo le.
Cuối năm 1881, Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị
Loan làm lễ hứa hôn. Hai năm sau (1883) đám cưới được tổ chức tại làng Hoàng
Trù. Ông bà cụ Hoàng Đường đã dựng ngôi nhà tranh ba gian trong vườn nhà mình
để cho đôi vợ chồng mới cưới có chỗ ở riêng.
Năm 1884, vợ chồng ông Nguyễn Sinh Sắc sinh
người con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh (Bạch Liên). Bốn năm sau (1888) sinh
con trai Nguyễn Sinh Khiêm (Tất Đạt). Năm 1890 cậu bé Nguyễn Sinh Cung (Tất
Thành) ra đời. Đồng thời năm đó ông Nguyễn Sinh Sắc trúng tuyển kỳ thi tuyển
sinh của huyện Nam Đàn do Huấn đạo phủ Anh Sơn và Giáo thụ huyện Nam Đàn tổ
chức.
Khoa thi Tân Mão (1891) ông Nguyễn Sinh Sắc
dự thi Hương lần đầu tại trường Nghệ An (Vinh) cùng với Vương Thúc Quý và
Nguyễn Đậu Tài ở làng Kim Liên. Nguyễn Đậu Tài phải bỏ thi về lo tang cha,
Vương thúc quý đậu cử nhân, còn Nguyễn Sinh Sắc chỉ lọt nhị trường, không đủ
điểm vào thi Tam trường.
Ngày mồng 7 tháng 4 năm Quý Tỵ (1893) cụ
Hoàng Đường qua đời. Băn khoăn lớn về việc chưa đỗ đạt để báo hiếu với cụ
Đường, ông Nguyễn Sinh Sắc đã quyết tâm ôn tập, rèn luyện văn chương. Khoa thi
Hương Giáp Ngọ (1894) ông đậu Cử Nhân.
Sau lễ xướng danh kỳ thi Hương khoa Giáp
Ngọ ở trường thi Nghệ An, Tổng đốc An Tĩnh Trần Văn Phác tiếp các Tân Khoa Cử
Nhân ở hành cung. Làm lễ bái mạng và yến tiệc xong, họ ngâm vịnh hát xướng đến
tận khuya. Đúng giờ Ngọ (12 giờ trưa) hôm sau, các huyện, xã đến đón rước các
vị Tân khoa về làm lễ vinh quy.
Ông Nguyễn Sinh Sắc không dự lễ hát xướng
mà về nghỉ tại nhà một người bà con họ Hoàng Nghĩa (bà con bên cụ Đường) ở
Vinh. Rạng sáng hôm sau, ông cắp bộ áo mũ Cử Nhân và chiếc ô đi bộ về làng.
Trong khi đó trên đường từ Vinh về Nam Đàn có các đoàn cờ trống, võng lọng đi
đón rước những người đậu đồng khoa với ông, cùng quê ở Nam Đàn.
Vốn không muốn khoa trương danh vị về làng,
ông Sắc lấy lý do đang chịu tang bố vợ, không tổ chức ăn mừng mà chỉ làm lễ bái
ở nhà thờ, nhà thánh, rồi chuẩn bị ôn luyện để năm sau thi Hội.
Nhiều người tấm tắc khen ngợi, khâm phục về
đức khiêm tốn giản dị của ông, song cũng không thiếu gì người cho rằng ông làm
như vậy là không đúng với nghi thức đón rước Tân khoa.
Giữa năm 1895, lần đầu tiên ông Sắc vào
Kinh đô Huế dự thi hội khoa Ất Vị. Khoa này không đậu, ông xin vào học trường
Quốc Tử Giám. Theo thể lệ của Triều đình hồi đó, muốn vào học trường Quốc Tự
Giám phải có tiêu chuẩn sau đây:
Tôn sinh (con cháu các Tôn thất) do phủ Tôn
nhân giới thiệu.
Ấm sinh (con quan lại cao cấp) ưu tiên loại
2.
Cử nhân đã trúng thi Hội một kỳ.
Ông Nguyễn Sinh Sắc đã trúng thi hội một kỳ
nên được chấp nhận vào học.
Sinh viên trường Quốc Tử Giám hồi đó được
cấp học bổng theo hai hạng. Hạng 1 là hạng ưu tiên, mỗi tháng được 4 quan tiền,
3 phương gạo, 1 phương dầu. Hạng 2, mỗi tháng được 2 quan tiền và 2 phương gạo.
Ông Nguyễn Sinh Sắc được cấp học bổng hạng
2, gia đình lại không có tiền gạo cấp thêm nên không đủ điều kiện kinh tế theo
học. Nhưng với tấm lòng tha thiết học tập, ông đã trở về Hoàng Trù bàn với vợ
giúp mình. Bà Hoàng Thị Loan vui vẻ gửi người con gái đầu lòng ở nhà bà ngoại,
đưa hai con trai Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung cùng chồng vào kinh đô Huế
lao động để giúp chồng ăn học.
Sau hàng tháng trời chạy vạy tìm kiếm, vợ
chồng ông Sắc mới thuê được một gian nhà nhỏ trong Thành Nội.
Giữa đất đế đô, bà Loan phải tự lao động để
nuôi sống mình, con cái và chồng ăn học bằng nghề dệt vải truyền thống. Cuộc
sống gia đình chật vật đến mức ngày tết cũng không may nổi cho con tấm áo mới.
Năm 1898 khoa Mậu Tuất, ông Sắc dự thi hội
lần thứ hai vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình ông ngày càng vất vả, gieo neo.
Thông cảm với cảnh ngộ ấy, ông Đinh Viết Chuyên, một quan nhỏ thuộc bộ hình
trong triều đình Huế đã đưa ông Sắc về mở lớp dạy học trong nhà ông Nguyễn Sĩ
Độ tại làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, Thừa Thiên. Nhờ vậy ông Sắc
có thêm điều kiện nuôi sống mình và hai con, đồng thời có thể ôn tập, tu luyện
văn chương dự thi Hội trong khoa tới.
Hai năm dạy học ở làng Dương Nỗ
(1898-1900), ông Sắc đã để lại hình ảnh đẹp về thầy đồ xứ Nghệ trong mọi tầng
lớp nhân dân Huế, Thừa Thiên.
Tháng Tám năm Canh Tý (1900), khoa thi
Hương mở, ông Nguyễn Sinh Sắc lúc này tuy vẫn là một chân Cử nhân trơn (dân
thường), nhưng vì văn hay, chữ tốt, có tín nhiệm nên phó Chủ khảo trường thi
Thanh Hóa là Tiến Sĩ Trần Đình Phong đã đưa ông Sắc đi làm Đề lại (thư ký) cho
trường thi Thanh Hóa. Cậu Nguyễn Sinh Khiêm được đưa đi cùng để giúp đỡ ông
trong sinh hoạt hàng ngày. Còn cậu Nguyễn Sinh Cung thì trở về Huế sống với mẹ.
Công việc chấm thi ở Thanh Hóa kết thúc,
ông Sắc đưa Nguyễn Sinh Khiêm về thăm bà ngoại là Nguyễn Thị Kép ở Hoàng Trù và
tu sửa phần mộ cho cha ở Kim Liên, mãi tới tết Tân Sửu (1901) vẫn chưa trở lại
Kinh đô Huế.
Thời gian này, ở Huế, bà Hoàng Thị Loan
sinh thêm người con thứ tư. Sinh con trong cảnh túng thiếu, phải nhờ bà con lao
động láng giềng giúp đỡ, bà Loan lấy cảnh ngộ ấy đặt tên cho con là Nguyễn Sinh
Xin (tên chữ là Nguyễn Sinh Nhuận).
Sau khi sinh cậu Xin, bà Loan đau ốm liên
miên. Căn bệnh hiểm nghèo đã làm tim bà ngừng đập đột ngột vào lúc gần trưa
ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901). Bà Hoàng Thị Loan từ giã cõi đời
lúc vừa bước sang tuổi ba mươi ba. Khi bà mất ông Nguyễn Sinh Sắc và hai người
con là Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Sinh Khiêm đang ở quê hương Hoàng Trù, còn ở
Huế, Nguyễn Sinh Cung vừa mười tuổi, Nguyễn Sinh Xin mới được mấy tháng tuổi.
Thi hài bà Loan được bà con láng giềng
trong thành nội đưa qua cống Thành Long, ra khỏi thành nội, vượt sông Hương lên
táng tại chân núi Ba Tầng thuộc dãy núi Ngự Bình - gần nơi Nguyễn Huệ lập thiết
đàn lên ngôi Hoàng Đế ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), rồi hành quân cấp
tốc ra Bắc Hà đại phá 20 vạn quân Thanh trong tết Kỷ Dậu (1789).
Trong căn nhà nhỏ, sau cổng Đông Ba thuộc
khu Thành Nội Huế, Nguyễn Sinh Cung phải bồng bế, nuôi nấng em Nguyễn Sinh Xin
và đón xuân Tân Sửu trong nỗi đau buồn vô hạn vì mất mẹ, vắng cha, vắng anh,
vắng chị.
Giữa tết Tân Sửu, ở Hoàng Trù nhận được tin
đại bất hạnh đó, ông Sắc vô cùng đau đớn, vội vàng trở vào Huế. Cảnh tang
thương đã đè nặng lên người ông Nguyễn Sinh Sắc. Không thể sống trong cảnh gà
trống nuôi con ở đất đế đô, ông Sắc cùng cậu Cung thay nhau bồng bế cậu Xin trở
về Hoàng Trù.
Lúc này cuộc sống gia đình ông khó khăn
chồng chất. Tuổi đời đã gần 40, vợ mất, một tổn thất lớn làm mất thăng bằng
cuộc sống của ông. Cha con không nguồn thu nhập, không kế sinh nhai, tất cả đều
dựa vào cụ Nguyễn Thị Kép. Nhưng tuổi già sức yếu, con gái qua đời đột ngột làm
cụ càng yếu thêm. Vô cùng thương tiếc người vợ hiền, tận tụy trọn đời vì sự
nghiệp của mình, ông Sắc quyết tâm tiếp tục vào kinh đô Huế dự thi hội khoa Tân
Sửu để lập công đền đáp công ơn người vợ hiền.
Được cụ Kép và bà con xóm làng khuyến
khích, giúp đỡ tận tình, ông đã gửi các con lại quê nhà rồi kịp vào Kinh đô Huế
dự thi. Sau hơn hai mươi năm khổ học, tu luyện văn chương, kỳ thi Hội này ông
đậu Phó Bảng.
Một vị đại thần trong triều đình Huế phục
tài học của ông Sắc đã làm câu đối mừng:
Độc quần đại đình văn sở trần cô phi bình
trị quy mô, chân hảo đắc Đông Quảng Xuyên chi học.
Văn
quân sinh nhật ngữ nhập nội tất dĩ ý thành tâm chính quả bất phụ Chu Khảo Đình
sở ngôn.
Dịch nghĩa: đọc văn đại đình khoa của anh
điều trình bày không ngoài quy mô bình trị, thật anh có được tài học như Đông
Quảng Xuyên.
Nghe lời anh nói hàng ngày thấy rõ ý thật
lòng ngay, thật không phụ lời nói của Chu Khảo Đình.
Cử nhân Vương Thúc Quý thay mặt nhân dân
Kim Liên viết bài trướng văn trong đó có đoạn:
“Nguyễn hiền đài sau lần hội chí, trở về
quê Nghệ An, đem theo vợ con dắt díu vào Nam. Bản thân học Quốc Tử Giám, gia
đình trọ trốn kinh Đô. Ngày hai bữa cháo cơm đạm bạc, ăn chẳng bao nhiêu, mà
học nghiệp ngày càng tinh tấn. Ôi, gọi là “Phú” mà đất trắng không, xướng là
“Kim” mà phận nghèo lại túng. Lại nữa, trời độ người thanh, mộng vàng chợt
tỉnh: xưa giao cầm nâng gẫy mà lòng riêng chợt cảm, nay tuổi trung niên đã ôm
mối tình chung, Gân sức rã rời mà vẫn cứ ruổi rong. Ý là, gặp cảnh ngộ thì gắng
chịu đến tận cùng cảnh ngộ. Nhảy, bay đã rõ giống giao long! Mới hay, duyên cớ
đủ thì kiến ong tự đến, văn chương hay lọ phải gượng làm văn. Vậy nên, lửa cháy
nổ vang, phiến gỗ đồng thành cây đàn tiêu vĩ. Đỉnh núi thu ý chực vút xung
thiên, nhành mai lạnh khai đầu hoa nở sớm. Nhị giáp cây trồng lần trước, tam
trường rạng rỡ nghiệp xưa. Gọi mở lòng người về vận thế, văn chương. Thật đáng
chúc mừng, đáng để chúc mừng. Mà công lao của Nho học đối với triều đình làng
nước cũng là ở đây, ở chỗ này đây.
Xin bày tỏ mấy lời thơ vụng, vui cùng người
áo gấm vinh quy”.
Kể từ khoa thi Hội Tân Sửu (1901), những
người đậu Phó bảng bắt đầu được hưởng 2 đặc ân của chính bảng là được vua ban
cờ, biển và cho hưởng lễ vinh quy bái tổ. Vì thế trong lễ xướng danh, ông
Nguyễn Sinh Sắc được vua Thành Thái tặng biển “Ân tứ ninh gia” (Ơn ban cho gia
đình tốt) và cấp phương tiện đưa về tận tỉnh lỵ Vinh.
Tổng đốc An Tĩnh lúc đó là Đào Tấn đã sức
cho lý trưởng các làng thuộc xã Chung Cự huy động nhân dân đưa võng, lọng cờ,
trống lên tỉnh rước ông Phó bảng tân khoa về Kim Liên vinh quy bái tổ.
Hồi đó nghi thức này là một vinh dự rất lớn
đối với các nho sinh thành đạt. Nhưng ông Nguyễn Sinh Sắc chỉ dự lễ đón tiếp
chung do quan Tổng đốc tổ chức rồi không chờ dân làng đến rước, một mình đi bộ
về nhà. Đến cầu Hữu Biệt (cầu Mượu), cách làng Hoàng Trù 4km, ông đã gặp dân
làng xã Chung Cự mang võng, lọng, cờ, trống trên đường xuống Vinh để rước ông
về. Gặp ông giữa đường, nhân dân mừng rỡ liền trương lọng, tung cờ, nổi trống,
đăng võng mời ông Phó bảng nằm lên để cho dân làng được rước lễ vinh quy.
Ông thưa lại: “Tôi đậu chẳng có ích gì cho
bà con làng xóm mà bà con phải đón rước?” Dân làng thưa với quan Phó bảng: “Từ
xưa đến nay làng Kim Liên ta mới có quan đậu đại khoa làm vẻ vang cho làng
nước, xin được rước lễ vinh quy cho thỏa lòng mong ước bấy lâu nay”.
Ông Sắc một mực từ chối nên cuối cùng dân
làng đành phải lặng trống, xếp võng, xếp lọng cùng quan Phó bảng đi bộ trở về.
Theo tập tục địa phương và nguyện vọng bà
con họ Nguyễn Sinh, ông Sắc vinh quy về quê nội Kim Liên.
Lần đậu Cử nhân, ông đã không tổ chức ăn
mừng nay đậu Phó bảng, nhân dân xã Chung Cự trích hai trăm quan tiền quỹ nghĩa
thương và ruộng thánh để ông làm chỗ khao. Lúc đầu ông vẫn từ chối, nhưng vì lệ
làng buộc ông phải nhận. Song ông lấy lý do là đang có tang vợ, không nên tổ
chức ăn mừng. Ông chỉ nhận 10 quan tiền mua trầu, nước mời dân làng, còn lại
ông bàn với hội đồng kỳ mục đem chia cho người nghèo đói trong làng làm vốn.
Ông còn thân hành xuống tận từng xóm hướng dẫn bà con lấy tiền đó mua nguyên vật
liệu về làm nghề thủ công đan thúng mủng, rổ rá… bán lấy tiền sinh sống. Vốn đó
có nơi còn giữ mãi đến năm 1945.
Sau khi vinh quy về làng Kim liên, ông
Nguyễn Sinh Sắc cùng các con sống một cuộc sống thanh bạch, đầm ấm trong ngôi
nhà tranh năm gian do xã Chung Cự và bà con hai họ Nguyễn Sinh, Hoàng Xuân làm
cho.
Triều đình Huế mời ông Sắc đi làm quan,
nhưng ông lấy lý do “bị bệnh ở lại quê quán uống thuốc” để từ chối. Ông viết
lên xà nhà mấy chữ: “Vật dĩ quan gia, vi ngô phong dạng” (đừng lấy phong cách
nhà quan làm phong cách nhà mình) để răn dạy con.
Ông Sắc rất quan tâm đến việc học hành của
con cái. Ông cho con trai đến học với Cử nhân Vương Thúc Quý (là con trai Tú
tài Vương Thúc mậu, lãnh tụ Cần Vương chống Pháp ở núi Chung), bạn thân của ông
và là một trong “tứ hồ” của Nam Đà.
Sau khi đậu Phó bảng, ông Nguyễn Sinh Sắc
còn có điều kiện đàm dạo thời cuộc với Phan Bội Châu và các sĩ phu yêu nước
trong vùng. Năm 1903 nhân dân Võ Liệt, huyện Thanh Chương, một vùng có truyền
thống hiếu học và yêu nước, nghe tin ông Nguyễn Sinh Sắc là người có học vấn
uyên bác, văn hay chữ tốt, có đạo đức trong sáng, liền cử ông Phan Sĩ Mậu (còn
gọi là ông Đồ Cẩm) xuống tận Kim Liên mời ông lên dạy học tại nhà ông Nguyễn
Thế Vấn.
Gần một năm dạy học ở đó, ông đã để lại
hình ảnh đẹp của người thầy giáo, có ảnh hưởng tốt trong học trò, có người kể
rằng: những đêm học trò đến hỏi bài khuya quá không thể về nhà, được ông cho
ngủ cùng giường. Ông thường khuyên học trò đã đi học thì phải chăm học để đi
thi. Nếu đi thi có đỗ thì cũng không nên làm quan, vì làm quan là áp bức, bóc
lột, đè nén dân.
Ông không coi việc học trò thi cử đậu đạt
cao, làm quan to là dấu hiệu vinh hiển của người thầy giáo. Đây là điều khác
biệt giữa thầy đồ nho Nguyễn Sinh Sắc với các thầy đồ nho khác ở trong vùng.
Hai mươi sáu năm sau (1929), nghe tin ông đã tạ thế ở Cao Lãnh, Đồng Tháp, học
sinh ở Thanh Chương làm đôi câu đối để viếng thầy trong đó có một vế như sau:
“nhớ thầy xưa thiếu niên cô khổ, học hành
tài giỏi đậu Hương đậu Hội, nhà chẳng có, quan chẳng làm, nuôi con trưởng thành
một gái hai trai”.
Khoảng năm 1904, sau khi dạy học ở Thanh
Chương một năm, ông chuyển sang dạy học ở nhà Nguyễn Bá Uy thuộc làng Du Đồng,
huyện Đức Thọ. Sau đó ông đi khắp các vùng trong tỉnh gặp các nhân sĩ yêu nước.
Đến làng Đông Thái, quê hương của cụ Phan Đình Phùng; đến làng Trung lễ, quê
hương của Lê Ninh; có vài lần ông đưa cậu Nguyễn Sinh Cung đến làng Trung Cần,
quê hương của Thám hoa Nguyễn Đức Giao; lên núi Thiên Nhẫn, thăm di tích lịch
sử thành Lục Niên, đại bản doanh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, được xây dựng từ năm
1424 chống quân xâm lược nhà Minh; một trí thức nổi tiếng thời Tây Sơn. Có khi
ông ra đến tận huyện Diễn Châu thăm ông Võ Tất Đắc, một tri huyện ở Thanh Hĩa,
cáo quan về ở làng Vạn Phần (nay xã Diễn Vạn), thăm ông Võ Khang Tế ở làng Hậu
Luật (nay là xã Diễn Bình), trước là Tương Tán Quân vụ trong cuộc khởi nghĩa
chống Pháp của cụ Nghè Nguyễn Xuân On về ở tại đây. Ong lên xã Tràng Sơn, huyện
Yên Thành, thăm con cháu Lê Doãn Nhã, một lãnh tụ chống Pháp, ra làng Quỳnh
Đôi, huyện Quỳnh Lưu. Có lần ông ra đến tận huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình,
đàm đạo thời cuộc với các sĩ phu ở ngoài Bắc, trong đó có người con trai lãnh
tụ chống Pháp Nguyễn Quang Bích, là cậu ấm Nguyễn Quang Đoan.
Những nơi ông đến là những nơi có phong
trào đấu tranh chống Pháp sôi nổi và anh dũng. Những người ông kết giao đều là
những người có lòng yêu nước, có chí cứu nước. Trong lúc đàm đạo thời cuộc với
các nhà nho yêu nước, ông Nguyễn Sinh Sắc thường phê phán lối học của các cụ
đương thời là “chi điệp, chi văn” (lối văn trên cành, trên lá), là không thiết
thực. Tại sao cuộc chiến đấu của phong trào khởi nghĩa Phan Đình Phùng, khởi
nghĩa của Nguyễn Xuân On rất sôi động và oanh liệt, nhưng kết cục không thắng
lợi được là đề tài các cụ thường đàm luận. Các cụ thường bàn nhiều đến việc làm
thế nào để giải phóng đất nước, làm sao cho dân khỏi khổ…
Những cuộc đàm luận này đã có ảnh hưởng sâu
sắc tới tư tưởng yêu nước của Nguyễn Sinh Cung, góp phần giúp cậu có nhiều suy
nghĩ về con đường sẽ lựa chọn sau này.
Trong gia đình, Nguyễn Sinh Cung là người
được ông yêu thương, và đặt nhiều hy vọng nhất, đi đâu cũng thường được cho đi
cùng, nhờ vậy mọi việc làm, mọi lời nói, mọi cử chỉ hàng ngày của ông Sắc đều
đã tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu sắc tới cậu.
Thực tế sôi động của nhân dân Nghệ Tĩnh nói
riêng và cả nước nói chung, cùng với nỗi niềm tâm sự của ông Sắc và các sĩ phu
yêu nước thời bấy giờ đã làm cho cậu đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào.
Khi nghe tin bọn thực dân Pháp tuyên truyền ba mục tiêu lớn của cuộc đại cách
mạng tư sản Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”, cậu đã suy nghĩ nhiều và muốn tìm
hiểu bản chất của nó. Cậu thấy thái độ và chính sách của thực dân Pháp diễn ra
ở các vùng mình đã đi qua đều trái hẳn với điều chúng nói. Thực tế đó càng thôi
thúc cậu muốn tiếp xúc với nền văn minh Pháp để khám phá ra sự thật.
Về sau, Người đã nhắc lại những ý nghĩ của
mình trong giai đoạn này: “vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những
từ Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái…” thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp,
tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ ấy”.
Giai đoạn này, ông Nguyễn Sinh Sắc đang hết
sức quan tâm đến vận mệnh của đất nước, nhưng làm thế nào để cứu nước thì ông
vẫn chưa xác định được. Ong không tin hoạt động của những sĩ phu yêu nước lúc
đó là có thể thành công. Tâm trạng này đã thể hiện trong câu đối mừng người bạn
là Nguyễn Tài Tốn đậu cử nhân khoa bính ngọ (1906).
Ngô bối do hòe vi cức viện tiến thân, hiện
tại chỉ khán đàm giáp ất.
Tiên công dĩ đại bút hùng văn minh thế tái
sinh tằng phủ chí canh tân.
Dịch nghĩa:
Bọn ta từ chốn trường thi mà làm nên danh
vọng, thế nhưng bây giờ đây chỉ ngồi bàn thứ tự cao thấp mà thôi.
Các bậc đời trước lấy bút mạnh văn hùng
thức tỉnh đời, ví bằng có sống lại thì cũng khó làm nổi việc canh tân.
Vì thế ông không hành động theo một tổ chức
nào, kể cả phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, bạn chí thân của ông. Đây là
ngã rẽ lối giữa nguyễn sinh sắc và Phan Bội Châu. Hai ông cùng chung tư tưởng
yêu nước và mục đích cứu nước, nhưng làm thế nào để cứu nước thì mỗi người suy
nghĩ và hành động theo một hướng.
Nhờ ảnh hưởng tư tưởng của cha, kết hợp với
sự nhạy cảm về chính trị của bản thân, Nguyễn Sinh Cung, đã biết từ chối con
đường Đông Du ngay từ khi cụ Phan Bội Châu muốn đưa cậu sang Nhật Bản hồi tháng
7 năm 1906.
Vừa đoạn tang mẹ vợ, tháng 5 năm 1906 triều
đình Huế lại đưa giấy về mời ông đi làm quan. Hết lý do từ chối, ông phải giã
từ quê hương, lên đường nhận chức. Thời gian này thực dân Pháp đã đi sâu khai
thác thuộc địa. Để thuận tiện chuyên chở những của cải thu mua, vơ vét, tước
đoạt được ở Lào, ở Nghệ Tĩnh, chúng đã khuẩn trương làm đuờng Vinh – cửa rào,
nối liền đường sắt Hà Nội – Vinh. Việc bị cưỡng bức phải đi phu làm đường Vinh
– cửa rào, trấn ninh là một tai họa khủng khiếp đối với nhân dân Nghệ Tĩnh.
Với nỗi niềm thương dân vô hạn, trước khi
ra đi ông Nguyễn Sinh Sắc chỉ để lại một ít ruộng cho con gái là Nguyễn Thị
Thanh ở nhà cày bừa mà sinh sống, còn nữa ông đem bán ấy tiền giúp cho những
người dân trong làng có người ruột thịt đang phải đi phu. Hành lý của ông
Nguyễn Sinh Sắc khi đi làm quan cũng nhẹ nhàng đơn giản như khi đi dạy học.
Khi chuẩn bị lên đường, có người bà con đến
ngỏ ý xin đi theo để vừa chăm sóc ông, vừa để nương nhờ. Ong đã thàn thật chỉ
bảo: “anh ở nhà mà cày bừa làm ăn, tôi đi chưa chắc đã làm quan, nếu có làm
quan chưa chắc đã làm quan lâu”.
Khi ông sắc cùng hai con đi Huế rồi, nhân
dân trong làng Kim Liên, làng Hoàng Trù và cả xã chung chự nói với nhau: “người
ta đi làm quan để vinh thân, còn ông phó bảng đi làm quan là để che thân”.
Ơ kinh đô Huế hồi đó có lưu truyền một bài
ca thể hiện sự kén chon trong đám quan lại khi được bổ dụng:
“Nhất là bộ lại bộ binh
Nhì thì bộ hộ, bộ hình cũng xong
Thứ ba thì đến bộ công
Nhược bằng bộ lễ lạy ông tôi về”.
Triều đình Huế bố trí cho ông Sắc làm thừa
biện ở bộ lễ, là một chức quan nhỏ.
Bộ lễ trong triều đình Huế những năm đầu
thế kỷ 20 có năm chức năng: lễ nghi, học hành, thiên văn, bói toán và khen
thưởng. Ong được Lê Trinh thựơng thư bộ lễ lúc đó bố trí trong nhóm quan lại
phụ trách việc học hành. Mỗi tháng hai kỳ ông phải đến giảng đường Di Luân
trường Quốc Tử Giám để theo dõi các cuộc bình văn, bình thơ.
Bằng thực tế cuộc sống trong đám quan
trường đương nhiệm, bằng chính thực tế của bản thân mình đang phải chịu đựng
ông chua xót nói với các giám sinh rằng: “quan trường thị nô lệ trung chi nô
lệ, hựu nô lệ” (quan trường là nô lệ trong đám người nô lệ, lại càng nô lệ
hơn).
Đó là thực chất cuộc sống quan trường mà
những người như ông Sắc phải chịu đựng. Ong sắc đã thẳng thắng nói ra. Đây là
kết quả của một quá trình nhận thức suy ngẫm, tổng kết. Tư tưởng tiến bộ của
ông đã phát triển từ thấp lên cao, tất yếu sẽ đến chỗ đối kháng với chế độ
phong kiến và thực dân đương thời. Chán ghét sự giả dối, đồi trụy của đám quan
trường trong triều đình Huế và chán ghét nhân tình thế thái lúc ấy, từ kinh đô
ông đã gửi thư về quê nhà cho cháu Nguyễn Sinh Lý để khuyên răn con cháu giữ lấy
nhân cách:
“…uy thế bất túc thị
xảo hiểm đồ tựa hại!
Giới chi, giới chi!”
Dịch:
Uy thế mạnh không đủ để dựa
Xảo hiểm là tự hại mình!
Răn đấy! Răn đấy!)
Tư tưởng tiến bộ, nhân cách cao thượng của
cha đã để lại những ấn tượng tốt đẹp đậm nét trong con người cậu thiếu niên
Nguyễn Sinh Cung.
Y nguyện muốn tiếp xúc với nền văn minh
Pháp để tìm hiểu bản chất của nó ngày càng thôi thúc cậu. Tháng 5 năm 1906, cậu
được cha đưa vào kinh đô Huế.
Trong khi đa số các nhà nho không muốn cho
con cái vào học trường Pháp – Việt, vì vào đây phải học chữ Phap, bỏ mất chữ
nho là chữ ”thánh hiền”. Trong khi các sĩ phu yêu nước có người cực đoan cho
rằng tiếng Pháp là ngôn ngữ của kẻ thù nên không muốn cho con cái theo học chữ
Tây, chữ Quốc Ngữ. Ong Nguyễn Sinh Sắc lại cho con vào học trường tiểu học Pháp
– Việt Đông Ba và trường quốc học Huế.
Đây là điều kiện tốt nhất để Nguyễn Sinh
Cung không những chứng kiến thực trạng xã hội ở trung tâm đầu não của chế độ
phong kiến triều đình nhà Nguyễn mà trực tiếp tiếp xúc với nền giáo dục Pháp
nói riêng và nền văn minh Pháp nói chung.
Điều quan trọng là cậu đã thấy được là kẻ
miệng nói tự do, bình đẳng, bác ái lại chính là kẻ đè nén, bóc lột, ức hiếp dân
ta đủ điều.
Thực tế này sớm nhân lên trong lòng Nguyễn
Sinh Cung chí căm thù giặc sâu sắc. Thời kỳ học tập ở kinh đô Huế, Nguyễn Sinh
Cung ở chung với ông Nguyễn Sinh Sắc, cho nên mỗi lời nói, mỗi việc làm hàng
ngày của người cha thân yêu có tác động trực tiếp tới suy nghĩ và hành động của
cậu.
Là người rất nghiêm khắc trong việc giáo
dục con cái, ông Sắc vẫn thừa nhận quan điểm “Phụ huynh bất năng cấm ước tử đệ”
(cha mẹ không thể cấm đoán những ước mong của con cái). Ong đã từng bị thực dân
Pháp khiển trách vì “hạnh kiểm của hai con trai ở trường quốc học đã nói trước
mặt thầy giáo cũ những lời bài pháp trong dịp dân chúng biểu tình chống thuế
1908).
Tuy thế, ông vẫn dạy bảo con cái theo suy
nghĩ và cách nhìn của mình.
Tư tưởng tiến bộ và nhân cách cao thượng
hàng ngày của cha cùng những biến đổi lớn lao của xã hội Việt Nam trong những
đầu thế kỷ 20 đã làm cho tư tưởng yêu nước và lòng căm thù giặc của Nguyễn Sinh
Cung phát triển cao độ, thúc giục cậu đi đến những hoạt động cứu nước sôi nổi.
Cậu đã tham gia phong trào chống thuế ở Huế. Chí hướng muốn đi ra nước ngoài để
tìm đường cứu nước bắt đầu hình thành.
Cậu rời trường quốc học Huế, đi vào các
tỉnh Nam để tìm cách đi ra nước ngoài.
Một ngày đầu tháng tư năm kỷ dậu (1909),
ông Nguyễn Sinh Sắc tạm biệt kinh đô Huế lên đường vào tỉnh Bình Định làm giám
khảo thi hương khoa kỷ dậu.
Không muốn để ông Sắc sống ở Huế, nơi có cơ
quan đầu não của triều đình phong kiến nhà Nguyễn và bọn thực dân Pháp ở xứ
Trung Kỳ, mặc dầu công việc tổ chức thi Hương ở Bình Định chưa xong, nhưng ngày
11 tháng tư năm kỷ dậu (29-5-1909) bộ lại đã có văn bản trình lên hội đồng nhà
vua va khâm sứ trung kỳ bổ nhiệm ông Sắc chức tri phủ lĩnh nhiệm tri huyện Bình
Khê. Hội đồng nhà vua và khâm sứ trung kỳ duyệt y.
Huyện Bình khê là một huyện nhỏ miền núi,
nghèo nhất tỉnh Bình Định, nằm dưới chân đèo An Khê, được thành lập năm 1888,
huyện lỵ đóng ở đồng pho. Ơ đây, từ lâu có một số người Pháp cấu kết với các
giáo sĩ ở tòa giám mục Gò Thị (Phước Sơn, Tuy Phước) đến đây chiếm rừng, cướp
đất, gây nên sự chống đối quyết liệt của nhân dân. Trong phong trào đấu tranh
chống thuế vừa qua, Bình Khê là nơi có phong trào đấu tranh của nông dân mạnh
nhất tỉnh Bình Định. Ơ đây cũng là địa bàn hoạt động của nhiều toán cướp. Tình
hình đó đã làm cho một số tri huyện tiền nhiệm mất chức, nhất là khi có sự can
thiệp của hai tên sĩ quan Pháp là Coutelle (cu ten) và Stanger (stăng gơ) chỉ
huy đồn đồng phó. Tháng 5 năm 1909 trong lúc ông Nguyễn Sinh Sắc đang chấm thi
ở Quy Nhơn, hai tên này lợi dụng sự tranh chấp dất đai giữa một số nông dân với
lý trưởng tuần đã làm cho tri huyện Phạm Lê Doãn bị xử phạt 40 roi, truất 6
tháng lương và ghi vào lý lịch, chuyển đi nơi khác.
Ngày 1 tháng 7 năm 1909 ông Sắc đến Bình
Khê nhận chức tri huyện. Đến đây, ông Sắc ít khi có mặt ở huyện đường, mà
thường đi thăm viếng dân chúng xung quanh huyện lỵ đồng phó. Khi đi, ông không
cho lính lệ theo hầu. Có lần ông bỏ huyện đường đi chơi luôn mấy ngày, bị tên
công sứ Quy Nhơn quở trách. Các tù chính trị, nhất là những người bị bắt trong
phong trào chống thuế năm 1908, ông tìm cách thả ra, phu đài tạp dịch để trễ
nải, những vụ tranh chấp đất đai, ruộng nương ít khi xét xử mà khuyên họ tìm
cách tự hòa thuận giải quyết với nhau, hòa hợp làm ăn mà sinh sống. Ông thường
nói: ”nước mất không lo, lo tranh nhau cái bờ”.
Ông Sắc cực kỳ ghét bọn cường hào ác bá ở
địa phương, chúng dựa vào thế lực của người Pháp và bọn cha cố đạo Gia-tô để
bức bách dân chúng. Ông không xét xử các vụ kiện cáo, tranh chấp của bọn này và
đã bị bọn chúng tìm cách hãm hại.
Theo hồ sơ của mật thám Trung Ương thuộc
phủ Toàn quyền Đông Dương, tờ số A37801, toà Khâm sứ Trung Kỳ, thì ngày 17
tháng 1 năm 1910 ông bị triều đình Huế bắt giam vì tội “lạm quyền dẫn tới cái
chết của Tạ Đức Quang”.
Tạ Đức Quang là một tên địa chủ cường hào,
người thân của hai sĩ quan Pháp chỉ huy đồn Đồng Phó, làm đơn tố cáo dân chúng
lên quan huyện Bình Khê. Ông Sắc thụ lý đơn, nhưng không xét xử ngay, mà để lần
lữa ngày tháng trôi qua, y làm đơn kiện thẳng lên tỉnh, ông Sắc nổi giận, bắt y
lên huyện đường đánh roi, rồi tha về. Hai tháng sau y ốm rồi mới chết. Vợ y là
Tân làm đơn kiện lên triều đình Huế.
Ngày 19 tháng 5 năm 1910, Hội Đòng Nhiếp
chính làm xong bản án ông mang số 140, ngày 27 tháng 8 năm 1910 bản án số 140
được triều đình Huế duyệt y. Ông bị kết án đánh 100 trượng, sau đổi thành giáng
4 cấp và bị triệt hồi.
Gần một tháng sau, ngày 23 tháng 9 năm 1910
bộ Hình có tờ trình lên hội đồng nhà vua và khâm sứ Trung Kỳ rằng:
“… Tuy xét ra không có tư tình thù oán gì
khác, nhưng làm như vậy thật là trái phép. Viên tri huyện này là Nguyễn Sinh
Huy (tức Sắc), vốn nên chiếu luật (có trình bày rõ) phải phạt giáng 4 cấp rồi
chuyển đi xa. Nhưng lại xét Tạ Đức Quang bị đánh roi qua hơn hai tháng sau bị
ốm chết chứ không phải bị đánh chết tức thì, tình có thể tha thứ. Xin đội gia
ân đổi làm giáng 4 cấp mà lưu. Truy thu 10 lạng bạc cấp cho gia nhân người chết
lo việc chôn cất.
… Lại xét viên tri huyện này mới ra làm
quan, chưa tường dân chính, xin cho bộ lại tôi cải bổ kinh chức”. Nhưng ông Sắc
không màng đến việc làm quan nữa, được trở về làm dân vốn là ý nguyện của ông,
ra khỏi nhà tù, ông cảm thấy thong dong, không hề vướng bận điều gì, ông không
trở về quê hương Kim Liên, mà đi thẳng vào Nam.
Trước đó một thời gian, trên đường dọc theo
bờ biển, đi vào các tỉnh phía Nam, khi đến Quy Nhơn, Nguyễn Sinh Cung có lên
Bình Khê thăm Cha. Thấy con trai đến Bình Khê, ông Nguyễn Sinh Sắc hỏi con:
- Con đến đây làm gì?
- Con đến đây tìm cha.
Nghe vậy, ông Sắc trìu mến nói với con:
- Nước mất không lo đi tìm, tìm cha phỏng
có ích gì?
Cuộc gặp gỡ đó càng thôi thúc Nguyễn Sinh
Cung ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Sau khi rời khỏi nhà tạm giam tại Huế, trên
đường đi vào Nam ông Nguyễn Sinh Sắc có dừng lại ở Phan Thiết tìm Nguyễn Tất
Thành. Nhưng Nguyễn Tất Thành không còn ở đây nữa. Theo sự chỉ dẫn của gia đình
cụ Nghè Trương Gia Mô, ông đi thẳng vào Sài Gòn đến nhà ông Lê Văn Đạt ở xóm
Rạch Bần (nay là số 185/1 đường Cô Bắc, Tp.Hồ Chí Minh). Tại đây ông đã gặp cụ
Nghè Trương Gia Mô và gặp con trai Nguyễn Tất Thành.
Sáng sớm ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn
Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng, xuống tàu Đô Đốc Latouche Tréville, mở đầu cho
quá trình đi sang phương Tây hoạt động tìm đường cứu nước.
Ông Sắc vào Sài Gòn đến ở chùa Linh Sơn,
hàng ngày đi xem mạch kê đơn thuốc chữa bệnh cho dân ở hiệu thuốc Trường Thọ
Viên và Tam Thiên Đường nằm trên đường Espagne (nay là đường Lê Thánh Tông).
Ông Nguyễn Sinh Sắc là niềm tin yêu thành
kính trong suốt cả quá trình Nguyễn Tất Thành bôn ba hải ngoại tìm đường cứu
nước. Nỗi nhớ cha không bao giờ nguôi. Rời tổ quốc chưa đầy 5 tháng, ngày 31
tháng 10 năm 1911, từ trên đất Pháp, Nguyễn Tất Thành viết lá thư đầu tiên nhờ
người bạn đi tàu thủy mang về Sài Gòn, qua đường Bưu Điện chuyển đến tòa Khâm
Sứ Trung Kỳ để nhờ giao trực tiếp cho ông Nguyễn Sinh Sắc.
Nội dung lá thư Nguyễn Tất Thành gửi Khâm
sứ Trung Kỳ như sau:
“Ngày 31 tháng 10 năm 1911.
Kính gửi Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế.
Tôi ký tên dưới đây, Nguyễn Tất Thành, tức
Sinh Cung, con ông Nguyễn Sinh Huy (tức Sắc),
nguyên Tri huyện Bình Khê.
Cha tôi và tôi xa nhau đã 2 năm. Tôi làm
việc trên tàu Đô Đốc Latouche Tréville chạy đường Hải Phòng – Dunkerque. Tôi
kiếm được số tiền nhỏ là 15 đồng. Tôi muốn gửi cho cha tôi, nhưng tôi không thể
gửi ngân phiếu trực tiếp.
Vì vậy, tôi mạnh dạn xin ông vui lòng
chuyển ngân phiếu này đến tòa Khâm sứ và trao lại cho cha tôi, để sống trong
lúc túng quẫn.
Tôi mong rằng lòng hảo tâm của ông sẽ chấp
nhận lá đơn của một người con muốn làm tròn chữ hiếu đối với cha tôi. Xin gửi
tới ông lời chào thành khẩn sâu sắc.
Tất Thành
Trên tàu Đô Đốc Latouche Tréville”
Lá thư này được Soguy, chánh mật thám Trung
Kỳ sao y bản chính và có chú thích. Số tiền ngân phiếu ghi trong thư trên 15
đồng đã được Văn phòng tòa Khâm sứ trao lại cho ông Nguyễn Sinh Sắc, đã ký nhận
ngày 9-11-1911.
Năm 1912, ông Sắc trở ra Phan Thiết giải
quyết một số việc cần thiết. Giữa đường ông bị bắt, nhưng xét ra không có chứng
cớ cụ thể để buộc tội, nên bọn Pháp phải thả ông ra. Trở lại Sài Gòn, ông trú
ngụ trong các chùa chiền và làm thuốc cứu dân ngóng đợi tin con.
Thời gian này ở tây bán cầu, tại New York,
thủ đô nước Mỹ, nơi có tượng nữ thần Tự Do nổi tiếng, Nguyễn Tất Thành vừa lao
động để sống, vừa chăm chỉ khảo sát, nghiên cứu thực tế xã hội Mỹ để hy vọng
tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Hình ảnh về người cha thân yêu luôn luôn
canh cánh trong lòng. Ngày 15 tháng 12 năm 1912 anh lấy tên là Paul Tất Thành
viết thư gửi về nước hy vọng sẽ liên lạc được với cha.
“New York, ngày 15-12-1912.
Kính gửi ông Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế.
Tôi kính cẩn xin ông giúp đỡ cho một việc
như sau:
Tôi rời xứ sở tháng 7 năm ngoái (1911) để
lại cha già không nơi nương tựa. Tôi thường viết thư cho cha tôi, nhưng chỉ
nhận được 2 lá thư trả lời. Tôi đã gửi cho cha tôi 3 ngân phiếu nhưng cha tôi
trả lời là chỉ nhận được một lần, vì lần ấy ngân phiếu được giao quý ông và quý
ông đã giao tận tay cho cha tôi. Bây giờ tôi không biết cha tôi như thế nào và
ở đâu.
Tôi muốn gửi cho cha tôi một số tiền hàng
tháng, nhưng không biết làm thế nào. Bây giờ tôi hoàn toàn không biết được địa
chỉ của cha tôi, còn tôi theo nghề thủy thủ, luôn thay đổi chịa chỉ, chỉ biết
nhờ quý ông giúp đỡ.
Ôi, tình hình của tôi nóng bỏng, sống xa
cha mẹ, hiếm khi nhận được tin tức, muốn giúp đỡ mà không làm sao được.
Ông Khâm sứ kính mến. Tôi xin ông giúp đỡ
tôi, cho tôi biết tình hình của cha tôi và cho phép tôi gửi đến tòa Khâm sứ
những gì mà tôi muốn gửi cho cha tôi.
Hy vọng lòng tốt của ông không từ chối đơn
của một đứa con muốn làm tròn nghĩa vụ đối với cha mẹ, chỉ có chỗ dựa lòng ông.
Paul Tất Thành
(con Phó bảng. Nguyễn Sinh Sắc)
Hòm thư lưu:số 1 đường Đốc đốc.
Coubet Le Havre, Pháp
Giữa năm 1913, một sự kiện bất ngờ xảy ra
trong đời sống của ông Sắc, Lê Bá Cử nhận ông về làm cai phu đồn điền cao su
Lộc Ninh, thuộc tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Lúc này các nhà tư
sản Pháp đã bỏ tiền ra khai thác vùng đất trù phú ở miền đông Nam Bộ, tạo ra
những đồn điền cao su rộng lớn như những cánh rừng. Đồng bào nghèo đói được
chiêu mộ về đây làm phu. Họ được bố trí ở thành từng khu trong những dãy nhà
lụp xụp, tối tăm. Hàng ngày, họ phải dậy từ bốn giờ sáng, lo cơm nước xong để
đến nơi làm việc trước khi mặt trời lên, đến chiều tối mới được về. Nếu chậm
trễ thì bị đòn roi và phạt tiền. Lương không đủ sống, bệnh sốt rét hoành hành,
thuốc men thiếu thốn, bọn chủ lại quỷ quyệt cho họ tạm ứng lương trước, mà
chúng biết là người phu không bao giờ trả nổi. Bọn chủ đã cột sinh mạng của
người phu đồn điền vào gốc cây cao su. Hàng ngày, ông Sắc cùng với những người
cai phu khác nhận lệnh của chủ đồn điền cắt đặt cho phu làm, rồi đôn đốc, kiểm
tra. Ông Sắc đã được tận mắt chứng kiến cảnh cai phu hoạnh hoẹ, đánh đập phu để
ăn tiền đút lót. Còn bọn chủ đồn điền thu không biết bao nhiêu là lợi nhuận,
sống giàu sang trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của người phu. Thực tế phũ
phàng đó làm cho ông Sắc càng đau lòng. Sống ở đồn điền cao su Lộc Ninh chưa
đầy 6 tháng, không thể tiếp tục công việc được nữa, ông về Sài Gòn để nghe
ngóng tin tức về Nguyễn Tất Thành. Hàng ngày ông lại đi xem mạch, kê đơn chữa
bệnh cho dân, đến bữa ăn thì ăn cơm vỉa hè quanh chợ Bến Thành với bà con lao
động, tối đến về ngủ ở chùa Sắc Tứ Từ An hoặc chùa Linh Sơn và đọc sách nghiên
cứu thêm về đạo Phật.
Một hôm, ông tìm đến nhà ông Bùi Văn Tiêu,
thường gọi là Ba Tiêu. Nhà ở đường Lagarandiére (nay là đường Lý Tự Trong). Ông
Tiêu quê ở Bắc Kỳ, tham gia chống Pháp, bị bắt và bị an trí ở Sài Gòn. Ông mở
tiệm giặt là. Nhà ông là nơi các thủy thủ làm ở các tàu thủy ngoại quốc đến
thường xuyên để chuyển các tin tức, thư từ nước ngoài gửi về.
Thấy ông Sắc đến, ông Tiêu dè dặt báo tin:
Mới đây thôi, cánh thủy thủ ở Châu Âu về có đồn đại về một người phụ bếp người
Việt Nam bị bệnh chết lúc tàu đang chạy dọc bờ biển châu Phi, không biết quê
quán người ấy ở đâu. Nhưng đây chỉ là đồn thôi. Nghe vậy, ông Sắc đứng lặng hồi
lâu rồi cáo từ ra về. Dẫu biết là tin đồn, nhưng ông Sắc vẫn cảm thấy niềm hy
vọng to lớn nhất của mình đã tiêu tan. Ông bần thần như người mất trí, cứ đi
lang thang giữa đường phố Sài Gòn.
Đầu năm 1914, ông Sắc theo Lương Ngọc
Quyến, con trai cụ Cử nhân Lương Văn Can bí mật đi sang Phnôm Pênh, thủ đô
Campuchia để đàm đạo thế sự, tìm kế sách cứu nước với các nhà nho yêu nước,
trong đó có cụ Lương Văn Can đang bị thực dân Pháp đày đi an trí ở đây. Ở nhà
cụ Lương Văn Can được vài hôm, để tránh sự theo dõi của mật thám, ông Sắc
chuyển đến ở chùa Sùng Phước.
Hơn một năm sau, khi ông Sắc đang ẩn náu
trong các chùa chiền ở Phnôm Pênh ngày 3 tháng 3 năm 1915 tại khách sạn The
Carten Pall Mall thủ đô Luân Đôn, Nguyễn Tất Thành lại viết một bức thư ký tên
là Paul Thành, thông qua lãnh sự quán Anh ở Sài Gòn, nhờ Toàn quyền Đông Dương
chuyển đến ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Theo bức thư của Đổng Lý văn phòng phủ Toàn
quyền Đông Dương, Cha F.Fran gửi cho Nguyễn Tất Thành ngày 22 tháng 9 năm 1915
viết, mặc dầu chính quyền đã cố gắng tìm kiếm nhưng vẫn không biết được địa chỉ
của ông Sắc nên bức thư nói trên không chuyển tới ông Sắc được.
Hơn bốn năm trời (1911 – 1915) rời tổ quốc
đi sang tận châu Âu, châu Mỹ, châu Phi… Nguyễn Tất Thành không bao giờ dám lãng
quên người cha kính yêu nên đã gửi nhiều lá thư và tiền về cho ông Nguyễn Sinh
Sắc, nhưng ông Sắc chỉ nhận được có một lần.
Cuối năm 1915, ông Sắc rời Phnôm Pênh về Sài Gòn, trước tiên ông đến hiệu giặt
là của ông Ba Tiêu để tìm nghe tin tức mới về Nguyễn Tất Thành, nhưng không có.
Ông lại đi khắp vùng Bà Điểm, Hóc Môn và vùng Bảy núi ở An Giang với nghề làm
thuốc. Với một tấm lòng thương dân, yêu nước, ông đã đến với mọi nhà, từ những
gia đình nghèo làm ruộng đến các điền chủ, quan lại yêu nước chống Pháp. Đến
lúc này, dù tuổi đã cao, nhưng ông Sắc vẫn còn ham học, ông đã đọc thông, viết
thạo chữ quốc ngữ, bằng cách tự học. Ông bắt đầu học chữ Pháp. Ông tìm được
quyển từ vựng Việt – Pháp (Vocabulaire Annamite – Francais) của F.Genibrel gói
vào trong túi mang đi theo, gặp ai biết chữ Pháp thì hỏi.
Đầu năm 1917, tình cờ ông Sắc gặp Lê Quang
Hiển tại nhà Diệp Văn Cương ở quận Gò Vấp, Sài Gòn. Lê Quang Hiển (1872 – 1950)
là điền chủ yêu nước, quê ở Cao Lãnh đã từng ủng hộ nhiều tiền của cho phong
trào Đông Du, được cấp bằng Đề Đốc, Lê Quang Hiển biết tiếng tăm Nguyễn Sinh
Sắc từ ngày ông Sắc làm Thừa biện bộ Lễ ở Huế. Lê Quang Hiển có nhã ý mời ông
Sắc đến thăm viếng quê hương Cao Lãnh, một niềm quê có truyền thống đấu tranh
kiên cường, anh dũng, có nhiều nhà yêu nước nổi tiếng. Về Cao Lãnh, ông Sắc đã đến
thăm viếng miếu Trời Sanh, chùa Linh Sơn, chùa Kim Quang (Lâm Vồ)… giao lưu,
bàn bạc thời cuộc với các nhà yêu nước trong vùng như Lê Chánh Đáng, Lưu Quang
Bật, Nguyễn Quang Diêu… đến xã Hòa An (Cao Lãnh), ông Sắc tìm gặp Trần Bá Lê
(tức Cả Nhì Ngưu) là người có nhiều tiền bạc ủng hộ phong trào Đông Du. Ông Sắc
được Trần Bá Lê mời về ở hẳn trong nhà để dạy học và chăm sóc sức khỏe cho bà
con trong vùng. Nhà Trần Bá Lê thường xuyên có người lui tới, không phù hợp với
sinh hoạt của mình nên ông Sắc muốn tìm nơi ở khác. Trần Bá Lê đã dựng một ngôi
nhà nhỏ trên bờ rạch Cái Tôm để ông Sắc ở. Cả hai ông đều tin tưởng, kỳ vọng
vào lớp trẻ, tự cho mình có bổn phận phải dìu dắt, bồi dưỡng cho họ tiếp nối
phấn đấu trên con đường cứu dân, cứu nước.
Nghe tin ông Nguyễn Sinh Sắc đang trú ngụ ở
Cao Lãnh, Cử nhân Võ Hoành, quê ở Thanh Trì, Hà Đông, một yếu nhân của Đông
Kinh Nghĩa Thục bị thực dân Pháp đày an trí ở Sa Đéc, cũng tìm đến gặp gỡ, bàn
bạc công việc cứu nước.
Cuối năm 1919, ông Sắc về lại Sài Gòn.
Trước tiên ông Sắc ghé vào tiệm giặt là của Ba Tiêu. Thấy ông Sắc đến bất ngờ,
Ba Tiêu mở tủ, lấy từ dưới chồng quần áo ra một tờ báo Nhân Đạo, ở trang nhất
có đăng “ Bản yêu sách của nhân dân An Nam”. Cuối bản yêu sách có đề: “Thay mặt
nhóm người Việt Nam yêu nước – Nguyễn Ái Quốc”.
Ba Tiêu phấn khởi chỉ vào chữ “ Nguyễn Ái
Quốc” rồi nói: Bác có biết người này là ai không?
Ông Sắc sửng sốt, chưa kịp nói gì, Ba Tiêu
giọng tin tưởng nói tiếp: Đó là người mà mấy năm trước có tin đồn là đã chết
trên tàu khi đang chạy dọc bờ biển châu Phi, bây giờ đang hoạt động sôi nổi và
có uy tín lớn ở thủ đô Paris. Ngồi lặng hồi lâu, ông Sắc đứng dậy vỗ vai Ba
Tiêu nói:
- Cảm ơn anh nhiều lắm. Anh cho tôi xem tờ
báo này, nhưng chính anh đã cho tôi cái phao cứu sống tôi như người sắp chết
đuối đã mấy năm nay.
Tạm biệt Ba Tiêu, ông Sắc ung dung cất bước
đi dọc bờ sông Sài Gòn, dòng sông đã chở bao nhiêu tin yêu và kỳ vọng của ông.
Ông Sắc thấy sức lực như được hồi sinh. Ông lao vào hoạt động theo cách của
mình, ông liên lạc với các nhà yêu nước trước đây để cổ vũ, động viên họ làm
sao duy trì được phong trào đấu tranh liên tục để chờ cơ hội thuận lợi khi nào
phe “chống đối” nhà nước Pháp đứng lên đảo chính, thì bên này nhân dân Việt Nam
nổi dậy lật độ ách thống trị của bọn thực dân Pháp.
Nguyễn An Ninh là con của nhà yêu nước
Nguyễn An Khương, quê ở Hóc Môn, Sài Gòn, du học Pháp. Thời kỳ học tập ở Pháp,
Nguyễn An Ninh đã liên lạc với Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái
Quốc. Sau đỗ cử nhân luật, Nguyễn An Ninh đi tìm hiểu một số nước châu Âu, về
nước năm 1922. Sau khi về nước Nguyễn An Ninh ra mắt công chúng ở Sài Gòn bằng
nhiều buổi diễn thuyết chống thực dân Pháp tại hội Khuyến học Nam Kỳ, được quần
chúng hết sức hoan nghênh. Từ khi Nguyễn An Ninh về nước, ông Sắc đã nhiều lần
tiếp xúc bí mật. Nguyễn An Ninh rất quan tâm tới những ý tưởng và hoạt động của
ông Sắc. Thực dân Pháp quan tâm đặc biệt và bố trí cho mật thám theo dõi mối
quan hệ giữa hai người.
Năm 1923, ông Sắc ra Phan Thiết sau hơn
mười năm xa cách. Thời gian ở Phan Thiết, ông Sắc bị ốm phải vào điều trị tại
bệnh viện, nằm số giường 57 N, cũng bị mật thám phát hiện. Ngày 9-11-1923 chúng
đánh bức điện số 22S báo cáo với Khâm sứ Trung Kỳ biết trong thời gian điều trị
tại bệnh viện, ông Sắc vẫn thường xuyên liên lạc với các cựu chính trị phạm
trong vụ nổ bom Hà Nội và các sĩ phu yêu nước quê ở Nghệ Tĩnh bị thực dân Pháp
đày vào đây. Đặc biệt chúng đã nắm được một kế hoạch bí mật của ông Sắc là nếu được
ra viện, ngày 9 tháng tới (tức là ngày 9-12-1923), ông sẽ có mặt tại Thủ Dầu
Một để chuẩn bị vượt biên. Chúng xin Khâm sứ Trung Kỳ cho chỉ thị cụ thể nên
bắt ngay vào lúc vừa xuất phát hay chọn một thời điểm thuận lợi để tóm gọn toàn
bộ.
Một ngày sau, ngày 10-11-1923 Khâm sứ Trung
Kỳ đã đánh bức điện số 861 SG trả lời xác nhận:
“Những tin tức về Nguyễn Sinh Huy tức Sắc (hồ sơ A3760) đều đúng khớp” và chỉ
thị: “Cần theo dõi chặt chẽ”.
Ngày 1 tháng 12 năm 1923 Chánh mật thám
Arnoux gửi cho Sở mật thám Đông Dương báo cáo số 867SG.
Sài Gòn ngày 1-12-1923.
Nguyễn Sinh Huy (tức Sắc) đã đến Sài Gòn
chiều tối ngày 29 tháng 11 năm 1923, ông đến nhà người thợ giặt ủi quần áo quê
ở Bắc Kỳ tên là Bùi Văn Tiêu (tức Ba Tiêu), đường Lagran Diêre. Nhà Ba Tiêu
không có chỗ ngủ nên ông Huy đến ngủ tại nhà người em trai của Ba Tiêu tên là
cậu Tám cùng phố. Sáng 30-11, ông Huy ra đi không biết đi đâu và bao giờ trở
về. Chờ đến 16 giờ ông ta cũng chưa trở lại. Theo Ba Tiêu ông ta tính ở lại Sài
Gòn ít lâu.
Chánh mật thám Arnoux
Cuối năm 1925, Phan Châu Trinh từ Pháp trở
về Tổ quốc, được đông đảo nhân dân Sài Gòn, nhất là tầng lớp nhân dân lao động
và thanh niên nồng nhiệt đón tiếp. Ông Nguyễn Sinh Sắc là người đến gặp Phan
Châu Trinh trước tiên vì nóng lòng muốn biết cụ thể thực tình về Nguyễn Ái
Quốc. Tại số nhà 34 đường pellerin, nơi Huỳnh Đình Điển cho Phan Châu Trinh trú
ngụ, hai ông Phó bảng đồng khoa mang nặng nỗi ưu tư về tương lai của non sông
đất nước cùng dốc bầu tâm sự, sau hai mươi năm xa cách người ở phương Tây, kẻ ở
phương Đông. Nghe Phan Châu Trinh kể một cách tường tận quá trình hoạt động đấu
tranh anh dũng và trưởng thành nhanh chóng vững vàng, sáng suốt của Nguyễn Ái
Quốc ở Pháp với một lòng ngưỡng mộ, tin tưởng, khiến Nguyễn Sinh Sắc cảm động
và rất phấn khởi.
Ngày 24 tháng 3 năm 1926, Phan Châu Trinh
tạ thế ở Sài Gòn. Nhân dân cả nước ta, nhất là tầng lớp thanh niên hết sức xúc
động, thương tiếc, Ông Nguyễn Sinh Sắc đã tỏ lòng thương tiếc và ca ngợi công
lao hoạt động cứu nước của Phan Châu Trinh bằng đôi câu đối viết trên một tấm
vóc đỏ, đến viếng, nội dung như sau:
“Nam quốc dân quyền tiên tổ chức,
Tây phương tịnh độ hậu siêu sinh”.
Nghệ An Phó bảng Nguyễn Sinh Huy bái phúng.
Tạm dịch nghĩa:
“Trước tổ chức dân quyền ở nước Nam
Sau siêu linh tịnh độ ở Phương Tây”.
Thường ngày, Nguyễn Sinh Sắc gần gũi anh em
thanh niên, nhất là những thanh niên có nhiệt tâm yêu nước, đang hăm hở tìm
đường cứu nước. Ông là niềm tin yêu thành kính, là nguồn động viên lớn đối với
họ.
Đồng chí Lê Mạnh Trinh, một cán bộ cách
mạng lão thành kể: “Tôi được gặp cụ Bảng Sắc, khi cụ ấy đã ngoài 60 tuổi, người
xương xương, nước da ngăm ngăm đen, hai gò má cao, với bộ râu không dày, không
thưa. Cụ luôn luôn mặc bộ quần áo bà ba đen. Phong cách con người phong sương
khí cốt. Cụ thường gần gũi với anh em thanh niên. Thường khi cụ đến nhà chúng
tôi ở, chúng tôi thường gọi cụ bằng “Bác”. Một hôm tôi đến hiệu thuốc Phúc Sinh
Đường gặp cụ, cụ hỏi:
- Mày đến đây làm gì?
- Thưa, lâu ngày cháu đến thăm Bác.
- Mày đến đây thăm tao, tao cũng thế này.
Chẳng đến thăm, tao cũng thế này. Chúng mày đang tuổi thanh niên phải học hành
và làm việc. Đến thăm tao có ích gì?
Cụ ít nói, nhưng thanh niên chúng tôi cảm thấy cụ có một tình yêu sâu sắc đối
với mình”.
Vào khoảng tháng 9 năm 1926, trước khi rời
Sài Gòn, bí mật sang Quảng Châu dự lớp Thanh niên cách mạng đồng chí hội, đồng
chí Lê Mạnh Trinh đến chào tạm biệt ông Sắc. Thông qua Lê Mạnh Trinh, ông Sắc
căn dặn người con trai của mình là Nguyễn Ái Quốc: “Cháu ra đi cố gắng. Bác
nghe nói Quốc, đang ở Quảng Châu, Cháu gặp thì nói Bác vẫn khỏe, đừng lo, cứ cố
gắng làm việc… trung với nước tức là hiếu với bác”.
Nghe lời ông Nguyễn Sinh Sắc dặn người con
trai của mình đang ở xa tổ quốc, làm chúng ta nhớ lại lời dặn của Nguyễn Phi
Khanh đối với Nguyễn Trãi cách đây gần sáu trăm năm trước khi qua ải Nam Quan
để sang Yên Kinh, Trung Quốc.
Tháng 8 năm 1927, khi đang ở chùa Linh Sơn,
Sài Gòn, ông Sắc bị ốm nặng, ông có báo tin cho con gái là Nguyễn Thị Thanh,
hiện đang bị thực dân an trí ở Huế vì tội hoạt động chống thực dân Pháp. Cô
Thanh rời Huế, vào Sài Gòn thăm cha. Cô được Phan Trọng Bình đưa đến chùa Linh
Sơn. Thấy cha quá tiều tụy, cô xin rước về Huế để nuôi dưỡng, ông Sắc nói:
“Thân con bị quản thúc, con lo còn chưa xong, làm sao lo cho cha được”. Cô
Thanh khóc lóc năn nỉ mãi. Ông Sắc vẫn không lay chuyển. Sau đó cô Thanh phải
một mình trở lại Huế.
Một ngày đầu tháng 4 năm 1928, Nguyễn Sinh
Sắc đến Cao Lãnh, vào ở nhà ông Hương Chủ Sành được vài tuần, ông dời đến ở nhà
ông Năm Giáo, một nông dân nghèo góa vợ trên bờ rạch Cái Tôm. Từ ngày ông Phó
bảng về ở đây, cảnh gia đình ông Năm Giáo trở nên ấm áp, đôi bạn già sống bên
nhau rất tâm đắc.
Hàng ngày, buổi sáng ông Nguyễn Sinh Sắc đi
bộ ra chợ Cao Lãnh đến hiệu thuốc Hàng An Đường xem mạch, kê đơn, trị bệnh cho
đồng bào. Buổi chiều ông thường ở nhà làm thuốc cao đơn hoàn tán hoặc nhờ người
bơi xuồng đưa đi thăm bệnh hay đi thăm bạn bè đàm đạo việc cứu nước. Phong cách
giản dị, tấm lòng thương dân của ông Sắc đã sớm chinh phục được tình cảm của bà
con quanh vùng.
Việc ông Nguyễn Sinh Sắc trở lại Cao Lãnh
sinh sống và hoạt động yêu nước, mật thám Pháp có báo cáo mật với Thống đốc Nam
Kỳ như sau:
Cảnh sát Đông Dương Nam Kỳ.
Công văn mật số 1416S
Sở mật thám. Sài Gòn, ngày 12-5-1928
Riêng cá nhân và mật
Kính gửi: Ông Thống đốc Nam Kỳ ở Sài Gòn.
Đồng gửi các ông:
- Chánh giám đốc cảnh sát và Tổng mật vụ Hà
Nội.
- Công sứ các tỉnh Vĩnh Long, Rạch Giá, Cần
Thơ và Bến Tre.
- Ủy viên đặc nhiệm chỉ huy các đội lưu
động Vĩnh Long.
Tin do đội trưởng đội lưu động Vĩnh Long
cấp.
Tiếp theo công văn mật số 1142 S ngày
13-4-1928.
Nguyễn Sinh Huy, bố đẻ của Nguỵễn Ái Quốc
hiện ở nhà tên Năm Giáo, làng Hòa An (Cao Lãnh) từ ngày 16-4-1928. Ông ta sống
ẩn náu tại đây, khi có dịp đi làm thầy lang chữa bệnh.
Ở làng Hòa An, có một nhóm chống Pháp,
trung thành với Nguyễn Ái Quốc và có mối liên lạc với Đảng Đỏ ở Quảng Châu.
Trong những người tham gia nhóm này có những tên Lê Chánh Đáng, Hương Chủ Sành,
Hương Trưởng Đê, Phó Hương Quản Đê, Nguyễn Văn Biển (tức Thót) và Trần Kim Ngô
tức Sáu Nhỗng.
Tôi yêu cầu ông ủy viên đặc nhiệm chỉ huy
các đội lưu động theo dõi chặt chẽ bố đẻ của Nguyễn Ái Quốc cũng như người hay
lui tới gặp ông ta.
Chánh mật thám”
Thấy ông hay đi đó đây, có người hỏi: “Thưa
ông, nhà ông ở đâu? Quê ông ở đâu? Ông trả lời: “Nước mất nhà đâu còn! Nước
mất, quê đâu còn?.
Lần theo dấu chân của ông khắp Nam Bộ, ta
thấy những địa phương ông đến thường là nơi có người hoạt động yêu nước tích
cực, có phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Ví như ở chùa Giồng Thành, quận
Tân Châu (An Giang) có Hòa Thượng chủ trì chùa năm 1930 đã trở thành Đảng viên
của chi bộ cộng sản đầu tiên ở đây; ở xã Nhơn Hưng, xã Thái Sơn (Tịnh Biên, An
Giang), năm 1930 có liên chi bộ Đảng mạnh nhất vùng, xã Vĩnh Kim (Mỹ Tho – Tiền
Giang), năm 1940 là quê hương của Nam Kỳ khởi nghĩa.
Hoạt động yêu nước, nghĩa cử thương dân của
ông đã phát huy mạnh mẽ truyền thống đạo lý làm người trong nhân dân, đã gieo
mầm cách mạng cho các địa phương tăng trưởng mau lẹ.
Nhân dân ngày càng yêu thương quý trọng ông
không phải chỉ vì một thầy thuốc giỏi, học rộng, giàu lòng thương người, mà còn
là một nhà yêu nước chân chính.
Mùa nước lũ năm Kỷ Tỵ (1929) vừa hạ, ông
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc lâm bệnh. Nhân dân địa phương hết lòng cứu chữa nhưng
bệnh không thuyên giảm. Đêm 26 rạng ngày 27 tháng 10 âm lịch, ông Sắc nhờ người
đỡ dậy, nói chuyện với các ông Năm Giáo, Lê Chánh Đáng, Hai Thiện và Bảy Mân.
Ông đưa số tiền của mình trên 150 đồng nhờ bà con mua quan tài khâm liệm. Ông
chỉ tay ra sân bảo để quan tài ngoài ấy tế liệm rồi đưa đi chôn.
Sáng ngày 27, ông đưa cho ông Lê Chánh Đáng
một tập thơ chữ Hán bảo nhờ ông cử Hoành đưa cho cô Nguyễn Thị Thanh và tặng
ông Lê Chánh Đáng một toa thuốc bí truyền, rồi ông lịm dần, đến trưa thì trút
hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 63 tuổi.
Chiều hôm đó bà con bên chợ Cao Lãnh đã chở
đến một quan tài loại gỗ tốt, được sơn son đàng hoàng và đồ khâm liệm. Bà con
quanh vùng đều vô cùng thương tiếc, đã đưa hương hoa đến điếu phúng và thay
nhau túc trực bên linh cửu ông.
Ông Năm Giáo, bàn với em là ông Sáu Học:
“Ông Phó bảng có duyên thân với dòng họ mình nên ông bà xui khiến ông về đây ở
với anh. Theo phong tục thì tử đâu táng đó. Ông Phó bảng cũng muốn được chôn
cất ở đây. Anh muốn để ông Phó bảng nằm phần đất của chú gần chùa Hòa Long
(miếu Trời Sanh).
Ông Sáu Học chấp thuận lời anh, lễ an táng
ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được nhân dân xã Hòa An, thị trấn Cao Lãnh cử hành
trọng thể. Các ngày tuần tiết được ông Năm Giáo và bà con làm đúng thủ tục địa
phương.
Dưới thời thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
chiếm miền Nam, biết ông Phó bảng là người yêu nước, thương dân và là thân sinh
của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, bọn chúng và bè lũ tay sai đã dở đủ trò để phá ngôi
mộ ông. Nhưng nhân dân vùng Cao Lãnh đã quyết tâm và khôn khéo bảo vệ được chu
toàn.
Sau khi đất nước sạch bóng quân thù. Tổ
Quốc thống nhất, để giữ trọn tình nghĩa sâu nặng với ông, người đã có công lớn
sinh ra Chủ Tịch Hồ Chí Minh, người gieo mầm cách mạng cho vùng đất Cửu Long,
ngôi mộ ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được xây dựng lại trên vị trí cũ khang
trang, đẹp đẽ. Ngày 18 tháng 2 năm 1977, đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã
long trọng làm lễ khánh thành.
Huyện Lấp Vò: Đi tỉnh lộ 23 đến ngã ba rẻ
trái vào tỉnh lộ 944.
Phà An Hòa: Vào Tp. Long Xuyên của tỉnh An
Giang theo con đường Lý Thái Tổ – Trần Hưng Đạo – Nguyễn Văn Cưng.
Qua cầu Hoàng Diệu: (nằm trên đường Trần
Hưng Đạo)
Qua cầu Trần Hưng Đạo: (hay còn gọi là cầu
Quay)
Qua cầu Chắc Cà Đao:
Qua bến đò Trà Ôn: đến điểm tham quan khu
lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
Nguồn: Sưu
tầm
Tỉnh
An Giang
Khái
Quát Tỉnh An Giang
Diện
tích: 3.424km2
Dân
số:2.049.039 người.
Tỉnh
lị là Thành Phố Long Xuyên.
Gồm
có các huyện: thị xã Châu Đốc, huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Châu Phú, Tịnh
Biên, Tri Tôn, Chợ Mới, Châu Thành, Thoại Sơn.
Dân
tộc gồm có: Việt, Khmer, Chăm và Hoa.
An
Giang là một tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu từ chỗ sông Mê Kông chảy vào nước ta
chia làm đôi.
o
Phía Đông và phía Bắc giáp với Đồng Tháp
o
Phía Đông Nam giáp Cần Thơ
o
Phía Nam và Tây Nam giáp Kiên Giang
o
Phía Tây giáp Campuchia.
Khác
với các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long bên cạnh vùng đồng bằng phù sa An Giang
còn có một miền núi nhỏ dài 30 km, rộng 13km, đó là vùng bảy núi (Thất Sơn) ở
các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn. Phía Tây tỉnh chạy song song với biên giới là
kênh Vĩnh Tế được đào năm 1823 nối từ Châu Đốc tới Hà Tiên. An Giang nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhiệt độ trung bình hàng năm là 270C. Lượng mưa
trung bình là 1400 – 1500mm.
Có
hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng
4 năm sau. Hàng năm An Giang vẫn đón nhận con nước lũ khoảng từ hai tháng rưỡi
đến 5 tháng và hình thành nên vùng nước nổi.
An
Giang là tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng lúa trên 2 triệu tấn. Ngoài cây lúa
còn có trồng bắp, đậu nành và nôi thủy sản nước ngọt như cá tôm …An Giang còn
nổi tiếng với các nghề thủ công truyền thống như lụa Tân Châu, Mắm Châu Đốc…
Đặc biệt là nghề diệt vải thủ công lâu đời của đồng bào Chăm và nghề nuôi cá bè
đặc trưng của vùng sông nước. Thành Phố Long Xuyên nằm trên hữu ngạn sông Hậu,
cách Thành Phố Hồ Chí Minh 189 km được hình thành từ đầu thế kỷ 19.
Là
tỉnh có 17 dân tộc sinh sống, đông nhất là người Việt sau đó là người Khmer,
người Chăm và người Hoa. Mỗi dân tộc đều có một nét sinh hoạt văn hoá các lễ
hội của mình. Người Chăm sống chủ yếu ở hai huyện Tân Châu và Phú Tân có các lễ
hội như lễ Rômađol và lễ Hat gi…Người Khmer sống tập trung ở miền núi thuộc hai
huyện Tịnh Biên và Tri Tôn thường tổ chức lễ hội khá nhộn nhịp và vui tươi sau
các vụ mùa như là đua bò, lễ cúng trăng, đua ghe ngo… Tại An Giang có các tôn
giáo đạo Phật, Cao Đài, Công Giáo, Hồi Giáo và Đạo Hòa Hảo.
Lịch
Sử Địa Giới Hành Chính Tỉnh An Giang
An
Giang (hiện nay) là vùng đất được cấu tạo bởi một địa hình khá kỳ thú: vừa đất
rộng, sông dài với nhiều cồn bãi, cù lao giữa hai sông Tiền và sông Hậu (chiếm
30 % diện tích); vừa là nơi có núi, có rừng, phía bờ tây sông Hậu là vùng bán
sơn địa “cò bay mỏi cánh” (khu tứ giác Long Xuyên, chiếm 69,9% diện tích). Đất
đai phì nhiêu, kinh rạch chằng chịt, khí hậu ôn hòa, cộng với cảnh quan đặc
trưng; mặc nhiên An Giang có sức cuốn hút mạnh đối với những ai quyết chí tạo
dựng cho mình và xã hội một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chính vì lẽ đó mà hiện
nay, diện tích đất tỉnh An Giang là 3.424 km2 thì có đến 92 % là nông thôn; và
nếu dân số đã lên đến trên 2 triệu người thì 83% trong số ấy chuyên sống bằng
nông nghiệp. Trong đó 97% là tộc người Việt, 3% là các dân tộc Hoa, Khmer,
Chăm.
Thời nhà Nguyễn
Năm
Nhâm Thìn (1832), tỉnh An Giang chính thức được thành lập. Diện địa buổi đầu
của tỉnh An Giang tương ứng với huyện Vĩnh An thuộc phủ Tân Thành (lệ vào trấn
Vĩnh Thanh – Vĩnh Long). Theo “Gia Định thành thông chí”, huyện Vĩnh An trước
là tổng, sau đổi làm huyện, lãnh hai tổng Vĩnh Trung và Vĩnh Trinh, gồm 81
thôn, phường. Phía đông giáp huyện Vĩnh Bình (sau thuộc Vĩnh Long), lấy từ ngư
câu ngang với tiểu câu Đồ Bà; rồi đến cửa sông Cái Bồn làm giới hạn; phía tây
giáp phủ Nam Vang (Cao Miên), lấy cửa sông Tiền ngang đến thượng khẩu sông Hậu
xuống đến cửa sông Cái Bồn làm giới hạn; phía Bắc lấy thượng khẩu sông Tiền bao
cả những cù lao Cái Dừng, Bãi Tê, Bãi Tân, Bãi Ngưu, Bãi Long Ẩn, Cai Nga, Tân
Phụng, Vĩnh Tòng, đến bờ phía Nam cửa sông Cái làm giới hạn.
Là
một trong 6 tỉnh của Nam kỳ lục tỉnh, An Giang nằm vắt ngang giữa Nam kỳ, cặp
theo bờ Tây hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang suốt từ biên cương đến biển cả,
bao gồm nhiều cù lao trên sông Tiền và sông Hậu. Có 3 phủ, 8 huyện. “Đông Tây
cách nhau 94 dặm. Nam Bắc cách nhau 150 dặm. Phía đông đến sông Tiền Giang giáp
địa giới huyện Kiến phong, tỉnh Định Tường 48 dặm. Phía Tây đến địa giới 3
huyện Hà Châu, Long Xuyên, và Kiên Giang, tỉnh Hà Tiên 49 dặm. Phía Nam đến
biển 108 dặm. Phía Đông Nam đến địa giới 2 huyện Vĩnh Bình, Tuân Nghĩa, tỉnh
Vĩnh Long 196 dặm. Phía Tây Nam đến địa giới tỉnh Hà Tiên 75 dặm. Phía Đông Bắc
đến địa giới tỉnh Định Tường 26 dặm. Phía tây Bắc đến địa giới Cao Miên 44 dặm.
Từ tỉnh lỵ đến kinh 2.300 dặm”. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí mô tả như vậy,
nhưng không nói rõ khoảng cách tính bằng dặm là đo theo đường thủy hay đường
bộ.
Thời
thuộc Pháp
Thực
dân Pháp xóa bỏ Nam Kỳ lục tỉnh và chia ra nhiều tỉnh (hạt) nhỏ. An Giang bị
chia làm 3 hạt là Châu Đốc, Sa Đéc và Ba Xuyên. Đến khoảng trước năm 1955, An
Giang chia làm 5 tỉnh nhỏ là Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, và Sóc
Trăng. Về vị trí, địa bàn của An Giang bao gồm các hạt hoặc tỉnh vừa kể, cơ bản
là không có gì thay đổi, nhưng trên phương diện hành chính, lúc này địa danh An
Giang không còn.
Thời
Ngô Đình Diệm
Cho
đến năm 1956, do sắc luật số 143/VN ngày 22/10/1956 về việc “Minh Định Địa Giới
Toàn Quốc” (hiểu là từ vĩ tuyến 17 trở vào), Nam Việt chia làm bốn miền Trung
nguyên Trung Phần, Cao nguyên Trung Phần, Đông Nam phần và Tây Nam phần (cũng
gọi một phần Nam Việt cũ). Tỉnh An Giang thuộc “phần” này, và được nhập lại từ
hai tỉnh Long Xuyên v Châu Đốc. Tỉnh lỵ đặt tại châu thành Long Xuyên (nay là
thị xã Long Xuyên). Dân số: 806.337 người; có 9 quận (An Phú, Châu Phú, Châu
Thành, Chợ Mới, Tân Châu, Thốt Nốt, Tịnh Biên, Tri Tôn, Núi Sập), 16 tổng và 92
xã, 503 ấp.
Sau
năm 1964
Sau
khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ 1963, tỉnh An Giang được chia làm hai tỉnh Châu Đốc
và An Giang (phục hồi tỉnh Châu Đốc; tỉnh An Giang như tỉnh Long Xuyên cũ nhưng
giữ tên An Giang). Như vậy tỉnh An Giang lúc bấy giờ nhỏ lại.
Diện
tích chung: 174.394 mẫu 22 mẫu tây (sic). Có 4 quận (Châu Thành, Chợ Mới, Thốt
Nốt và Huệ Đức), 6 tổng, 38 xã, 254 ấp (tại thời điểm 1967).
Sau
năm 1975
Sau
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, do nghị quyết số 245-NQ/TW ngày 20/09/1975
của Bộ chính trị ngày 20/12/1975, tỉnh An Giang được lập lại trên cơ sở hợp
nhất ”tây Long Châu Tiền và Long Châu Hậu (tỉnh An Giang cũ, bao gồm cả Long
Xuyên, Châu Đốc, trừ huyện Thốt Nốt)”. Cụ thể gồm các huyện Châu Thành, Thoại
Sơn, Chợ Mới, Phú Tân, Châu Phú, Phú Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn và hai thị xã
Long Xuyên, Châu Đốc. Lúc này tỉnh An Giang phình to lên gấp đôi so với trước
đó.
Do
quyết định số 300 ngày 23/08/1979 của Hội đồng Bộ trưởng về việc điều chỉnh một
số huyện và thị xã thuộc tỉnh An Giang, huyện Bảy Núi được chia thành hai huyện
lấy tên là huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên, nghĩa là bỏ tên Bảy Núi (mới đặt)
phục hồi lại hai tên gọi cũ như trước. Và ngày 13/11/1991 do quyết định số
373-HĐBT của Hội đồng Bộ Trưởng, huyện Phú Châu (mới đặt) cũng được chia lại
thành 2 huyện là Tân Châu và An Phú như trước.
Sau
năm 1975 An Giang giao phần đất mà ngày trước gọi là Phong Thạnh Thượng lại cho
tỉnh Đồng Tháp. Các tên gọi tỉnh Long Châu Sa, Long Châu Hà, Long Châu Hậu,
Long Châu Tiền…đều bỏ. Cấp tổng bị xoá hẳn; thực ra chính quyền chế độ cũ đã bỏ
cấp này từ lâu, nhưng vẫn sử dụng vai trò của chánh tổng một cách không chính
thức.
Vào
thời kỳ quân quản, sau năm 1975, cấp ấp vẫn được thừa nhận là cấp thấp nhất
trong hệ thống chính quyền (có con dấu tròn, mực đỏ), mãi đến sau này mới bỏ
hẳn (nhưng vẫn xem là cấp ”nhân dân tự quản”).
Sự
Tích Cù Lao Ông Hổ
Ngày
xưa Cù Lao Ông Hổ (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang)
chỉ là một cồn cát nhỏ hoang vu, chưa có người đến. Hổ, báo, rắn rết, chim
muông ngang dọc trên cồn. Lần hồi phù sa đắp cồn cát dài rộng thêm ra. Cho đến
nay đã thành cù lao rộng lớn, chu vi ngót mười cây số, phù sa vẫn tiếp tục đắp
bồi. Dưới cuối cù lao bao giờ cũng có một bãi phù sa mới ùn lại, nhão quánh đỏ
hồng. Dân làng này gọi là bãi lan bồi.
Rồi
không biết từ lúc nào, có những người phương xa âm thầm kéo đến, họ đốn tre kết
bè vượt sông và dừng chân trên cồn đất không tên. Ngày ngày họ đốn cây, phát
hoang lau sậy tạo lập cuộc sống nơi đây. Cuộc đời và thời gian lưu lạc đã dạy
họ không ở đâu làm ăn sinh sống, cấy trồng tốt hơn đất bãi, đất cồn. Một vuông
đất cồn hơn trăm vuông đất núi.
Cồn
đất âm u dần dần quạnh quẽ. Người đến càng đông, rắn rết không còn, thú rừng
lần lượt tìm về Bảy Núi. Đầu cồn đến cuối bãi bấy giờ san sát ruộng lúa, nương
dâu, đồng cói. Người ta đào mương dẫn nước vào cồn, xây cầu, lập vườn cây ăn
quả. Nhà cửa mọc lên đông đúc, có trường dạy chữ Nho, có tiếng thoi dệt lụa và
có tiếng ngâm thơ trong thôn xóm.
Cuộc
sống yên vui bỗng dưng náo động bất ngờ. Không biết từ đâu một con hổ thỉnh
thoảng mò về ngồi lặng phía đầu cồn. Khi người này, khi người khác bắt gặp đang
trong đêm sáng. Dân cồn không sợ. Họ là dòng dõi những người từng trải hiểm
nguy, tinh thông võ nghệ, một con hổ có đáng ngại gì đối với sức lực và tài
năng của họ. Nhưng dù sao cũng phải đánh đuổi nó đi để ngăn ngừa hậu họa có thể
xảy đến cho trẻ nhỏ trong làng. Dân làng qui tụ trai tráng giỏi võ, gan lỳ bàn
mưu đánh hổ. Cả người đứng tuổi cũng đòi được vào đội săn đuổi hổ.
Họ
đào sẵn những đường hào gần nơi con hổ thường ngồi. Tay gậy tay dao sẵn sàng.
Một đêm trăng sáng. Ánh trăng trên cồn bao giờ cũng trong sáng dịu dàng. Đêm
trăng trên cồn man mác hơi nước sương sương. Quá nửa đêm hôm ấy, dưới ánh trăng
ngời sáng, từ dưới bãi con hổ ung dung từng bước lên cồn. Dáng đi khoan thai,
uyển chuyển như thể con người nhàn nhã ngắm trăng. Chờ hổ đến gần, mọi người
hét lớn xông ra khỏi đường huơ gậy, huơ dao đuổi hổ. Không chút hốt hoảng con
hổ nhẹ nhàng nhảy một bước khá xa rồi biến mất sau những lùm cây.
Những
lần sau, cũng vào tuần trăng, trai tráng trong làng lại ra đường hào rình đuổi
hổ. Và cứ thế không biết bao nhiêu lần khi đoàn người xơng ra hổ lại biến mất
trong bóng cây. Điều hết sức ngạc nhiên không một lần nào con hổ chống trả hoặc
hại người. Có lần người ta thử ngồi im trong đường hào xem con hổ làm gì. Nó
lặng lẽ đến bên hai mộ cũ, ngồi im hồi lâu rồi bước nhẹ xuống bãi, biến vào
rặng lau dày sát bên mép nước.
Như
vậy, con hổ đến đây không phải đi kiếm mồi, phá phách xóm làng. Từ lúc phát
hiện con hổ về làng tới lúc này chưa nhà nào bị hổ cắp con chó, con heo. Vậy nó
về làng này phải vì lý do nào khác. Một điều lạ nữa là sao nó không đến nơi nào
trong xóm mà lần nào cũng ngồi bên hai ngôi mộ cũ? Có người ngỡ ngàng rằng nó
muốn moi xác người dưới mộ. Không có lý. Người dưới mộ chết đã nhiều năm rồi da
thịt còn đâu mà hổ định moi. Giống hổ tinh khôn, hầu như không bao giờ nó ăn
mồi thúi. Hoặc là thần hổ? Giả thuyết này có người nghĩ đến, nhưng chưa có cơ
sở đáng tin. Dân cồn này xem xét điều gì quen dựa vào sư thật, ít người nghĩ
theo nếp nghĩ hoang đường. Gần tan cuộc họp, một vị bô lão râu dài cao tuổi
nhất trong làng, lại là người thông hiểu chữ Nho, người thầy dạy chữ trên cồn
từ tốn đứng lên xin nói. Giọng cụ già đĩnh đạc rõ ràng :
-
Thưa các vị, tôi nhớ ra rồi, con hổ này không phải là hổ dữ, cũng không phải hổ
thần. Có vẻ con hổ đã quen lắm với xóm làng này. Bởi nó về đây với phong thái
ung dung, không có vẻ dữ tợn của hổ đói đi kiếm mồi. Lặng lẽ đến, lặng lẽ đi.
Đến lần nào cũng chỉ im lìm ngồi bên hai ngôi mộ cũ. Người dưới mộ là ai? Tôi
nhớ ra rồi – giọng cụ gi phấn chấn – đó là vợ chồng bác thuyền chài mất trong
trận dịch tả mùa hè Ất Mão…
Ai
nấy ngạc nhiên, tất cả chăm chăm nhìn ông lão, chờ nghe chuyện chỉ con hổ lại
dính dáng qua cái chết của bác thuyền chài? Cuộc họp im phăng phắc. Cụ già
nghiêm trang nói tiếp :
Bà
con, các vị nghĩ tiếp với tôi xem có đúng thế này không. Cái nghĩ riêng của một
người không phải lúc nào cũng đúng cả. Tôi nhớ bác Năm Vạn, thuyền chài không
con. Hai ông bà sống với chiếc thuyền nhỏ và ngôi nhà phía trên bãi sậy. Từ lâu
đất cồn này không còn hùm beo, rắn rết. Không hiểu sao, một sáng sớm hai vợ
chồng bác Vạn đang chèo thuyền đánh cá ven cồn, chợt thấy con mèo hì hục dưới
bờ lau. Hình như ai quẳng nó xuống nước – mèo mà xuống nước chỉ có chết đuối
thôi – con mèo cố hết sức tìm cách vào bờ, nhưng rặng lau sạy dy qu dường như
nó kiệt sức, trồi lên hụp xuống mấy lần rồi. Bác thuyền chài bảo vợ: « Thôi
chèo vô vớt giùm nó lên đi bà. Vợ bác thuyền chài do dự: « một lát nó cũng lên
được thôi, thăm cho xong lưới cái đã, để chậm cá lớn đến ăn cá trong lưới của
mình ». Bác Năm Vạn ôn tồn: « Chẳng mất đi đâu. Dù có, cũng chỉ một hai con,
mình nghèo nhiều chứ đâu phải nghèo đôi ba con cá. Vớt giùm con mèo lên đi.
Lòng nào thấy nó lâm nguy đứng nhìn nó chết ». Bà vợ nghe phải, quay mũi thuyền
vào chỗ con mèo sắp chết đuối. Bác Vạn nhanh tay vớt con vật vừa hụp xuống mặt
nước – có lẽ nó vừa cố ngoi lên lần cuối – bác bỏ con vật ướt sũng vào thuyền.
« Ô, hổ con! Nó bị con gì cắn cụt mất khúc đuôi ». Vợ bác thuyền chài hô hoảng.
Bác Vạn mỉm cười : « Cũng chả sao, đem về nuôi cho vui cửa vui nhà ». Vợ bác
thuyền chài trố mắt: « Thôi đi! Ai lại nuôi hổ trong nhà ». Bác Vạn cười to: «
Ở rừng, theo bản năng nòi giống hoang sơ, nó sẽ hung hăng như hổ mẹ, hổ cha.
Mình nuôi nó theo nếp của con người, nó sẽ lành như chó như mèo, bà coi ». Vợ
bác Vạn tỏ vẻ không tin, bác nói thêm với vợ: « Mình xem kìa, nó lạnh run, tội
nghiệp quá! Nó nhìn mình sợ sệt, có dám hầm hè đâu. Con thú nào cũng sợ người
ngay khi nó ngang dọc trong rừng. Nó cắn người là khi nó đói hoặc tự vệ theo
bản năng sợ sệt. Mình không nhớ ngoài quê, người ta nuôi gấu, nuôi voi. Nhà vua
còn nuôi hổ lớn làm trò vui ». Bác thuyền chài lấy giẻ khô buộc chặt cái đuôi
chảy máu và lau nước trên mình con hổ con. Bác vuốt ve con hổ, nó đau đáu nhìn
bác. Bác nhìn vào đôi mắt ngây dại của nó « Đói hả con? Cho mày con cá ». Bác
Vạn cầm con cá bóng mẫy đưa tận mồm con hổ: « Ăn đi. Mẹ mày đâu? Đã bị người ta
giết đi hay đã lạc nơi nào? Tội nghiệp, mới bây lớn mà đã mồ côi. Thôi về ở với
tao, tao nuôi. Lớn khôn đừng hung, đừng ác nghe con ».
Con
vật bé nhỏ nào cũng nể sợ con người – dù nó thuộc giống loài hung dữ – và sẽ bị
chinh phục bởi trí khôn ngoan, lòng dũng cảm và đức độ con người. Hổ con ngoan
ngoãn với vợ chồng bác thuyền chài. Bác cho nó ăn no, nhẹ nhàng dạy dỗ và kịp
thời ngăn chặn thói tật bản năng của nó. Mỗi lần con hổ muốn giở trò đuổi chó
rượt gà, bác Năm Vạn quắc mắt, hét to, lôi nó lại, giơ cao tay, nhưng vỗ nhẹ
vào mõm nó. Hổ con biết sợ nằm im. Có lúc nó hằm hè, bác quất một roi mót thật
đau và trừng phạt không cho ăn đúng buổi. Khi nó ngoan, bác dắt nó xuống sông
tắm mát, cho nó con cá to, hoặc miếng đường mía người ta làm tại đất cồn. Mấy
năm sau con hổ lớn lên, có người bảo xẻ thịt hổ đi, da bán lắm tiền, xương nấu
cao quí lắm. Năm Vạn lắc đầu: « Biết vậy, nhưng nó ngoan ngoãn, giết sao đành.
Vả lại không nên vô cớ giết hại sinh linh. Tôi thường niệm Phật, không nỡ làm
điều này. Nếu có dữ không dạy được, không đợi bà con bảo, tôi cũng ra tay ».
Thình
lình dịch tả lan đến đất cồn. Nhiều người được kịp thời cứu mạng. Chẳng may, vợ
chồng bác Năm Vạn không thoát khỏi cái nạn hiểm nghèo. Bà con chôn cất hai bác
trên gò đất cồn. Con hổ không còn người nuôi, nó vẫn ở trong ngôi nhà của bác
Vạn. Nhớ lời bác Vạn còn sống, không ai làm gì con hổ. Tội nghiệp nó đói – và
sợ nó đói có thể phá phách xóm làng – người này quẳng cho nó con cá, người nọ
ném cho nó miếng xương heo. Con hổ vẫn sống qua ngày trong tình thường của
người cứu mạng nó.
Đột
nhiên một trận giông to xảy đến, mưa gió tầm tã mấy đêm ngày. Dòng sông cuồn
cuộn sóng. Sóng ập cả lên cồn. Ngôi nhà hoang của bác thuyền chài từ lâu không
ai chăm sóc cột kèo ru mục sập đổ ngay trong đêm tối mưa giông. Mấy ngày sau
người ta không thấy con hổ ở đâu, không biết nó trôi dạt nơi nào. Và nhiều năm
qua bà con không còn nhớ con hổ do bác Năm Vạn dưỡng nuôi. Bây giờ lại có hổ về
đây…
Cụ
già, dừng lại, vẻ suy nghĩ, đắn đo, thận trọng:
-
Tôi không thấy mặt con hổ này. Anh em, ai đã gặp nó thử xem có phải con hổ của
bác Năm Vạn không? Tôi tin nếu không phải con hổ của bác thuyền chài thì không
có con hổ nào có hành vi lạ lùng như vậy. Rình mồi sao lại ngồi chỗ trống và
chỉ ngồi bên hai ngôi mộ của vợ chồng bác Vạn mà thôi. Giống hổ biết ơn người.
Tôi từng nghe ở vùng Bảy Núi, có lần bà mụ trong xóm bị hổ cắp đi. Xóm làng xôn
xao, dân làng ó la dậy xóm, ngỡ rằng bà mụ đã bị hổ thịt rồi. Nào ngờ hừng sáng
hôm sau, thấy bà lót tót mò về. Bà con mừng rỡ xúm lại thăm hỏi. Bà vui vẻ cười
: « Chẳng có gì đâu, chẳng là con hổ cái chuyển bụng, hổ đực đến cõng tôi vào
đỡ đẻ cho con kia. Đẻ xong, tôi nói : «Tôi về ». Hổ đực lại cõng tôi đưa tới
đầu làng ». Vậy rồi tới hôm sau, con hổ ấy vác một con heo rừng đến ném ngay
cửa nhà mụ, có lẽ tạ ơn. Đặc tính của hổ là đi kiếm ăn xa, dầu bao xa cũng về
chốn cũ. Rủi có chết dọc đường, phút cuối cùng cũng quay đầu về núi. Con hổ
này, tôi chắc là con mà bác thuyền chài đã cứu, đã nuôi. Trên đời này, ơn nào bằng
ơn cứu mạng, dưỡng nuôi. Con hổ nó nhớ người cứu nó, nuôi dưỡng nó, nhớ hang ổ,
nhớ rừng. Ổ hang của nó là mái nhà bác Vạn, rừng của nó là cồn cát này. Làm sao
nó quên được người ơn và cái nơi nuôi nó sống. Nó về đây là phải. Thôi từ nay
ai thấy nó về cứ để nó yên, đừng xua đuổi. Nó có phá phách, làm hại ai đâu. Nó
biết nghĩa, đáng quí, đáng thương.
Từ
ấy, không ai xua đuổi khi con hổ về làng. Họ coi nó như đứa con hiếu thảo. Và
như thế, mỗi năm đôi lần nó về cồn, ngồi bên mộ của bác thuyền chài.
Bỗng
một hôm dân cồn trông thấy xác con hổ cụt đuôi trôi dạt vào bờ lau phía dưới
cồn. Đúng là con hổ của bác thuyền chài. Hẳn nó vượt sông về thăm chốn cũ gặp
sóng to, đuối sức, không kịp đến bờ. Thương con vật có nghĩa, biết nhớ ơn
người, dân cồn vớt xác nó lên chôn gần ngôi mộ vợ chồng bác Năm Vạn. Họ dựng
lên ngôi miếu nhỏ để thờ, để nhớ bác thuyền chài nhân hậu và con hổ biết nghĩa
biết ơn.
Tiểu
Sử Bác Tôn Đức Thắng
Ông
được sinh ra tại cù lao Ông Hổ, thuộc tỉnh An Giang. Là con trai đầu lòng của
ông bà Tôn Văn Đề. Năm 1906 ông rời bỏ quê hương lên Sài Gòn làm nhiều nghề để
sống như: sửa máy tàu, xe hơi,… Ông thường đến thực tập và làm việc tại công
xưởng Ba Son một cơ sở sửa chữa tàu bè của Pháp. Sau đó ông làm việc trên chiến
hạm Frăng-xơ.
Tháng
12-1918 chính phủ Pháp đưa quân đánh vào vùng biển Đen của Liên Xô. Trong số
lính đó có cả chiến hạm Frăng-xơ nơi bác Tôn làm việc. Và chính bác cùng với
các đồng chí trên tàu đã kéo cờ đỏ lên đỉnh cột cờ của chiến hạm tuyên bố phản
chiến và tỏ thái độ thân thiện với chiến hạm của Hồng quân Liên Xô. Chính vì
thế mà bác bị đuổi về nước.
Sau
khi về nước bác làm việc tại Sài Gòn và được kết nạp vào Việt Nam Thanh Niên
cách mạng đồng chí hội.
Năm
1929 bác bị địch bắt tại chân cầu Kiệu và bị giam gần một năm tại khám lớn Sài
Gòn. Sau đó chúng tuyên án bác 20 năm tù đày đi Côn Đảo.
Mãi
đến cách mạng tháng tám thành công bác và các tù chính trị khác được quân cách
mạng đón về. Năm 1946 ông ra Hà Nội họp quốc hội và gặp được Hồ Chí Minh. Sau
nhiều năm hoạt động cách mạng, đến năm 1969 Hồ Chí Minh qua đời và ông đã lên
làm chủ tịch nước từ năm 1969-1980.
Ngày
30-08-1980 ông qua đời tại Hà Nội, thọ 92 tuổi.
Về
đời tư, ông có duyên tình đặc biệt với bà Đoàn Thị Giàu là em của Đoàn Công Sứ,
người bạn thân của ông tại Pháp. Bác Tôn luôn thích cuộc sống giản dị, ăn những
món ăn quê nhà. Tóm lại Bác mãi mãi là tấm gương sáng cho mọi thế hệ.
Tham
quan An Giang -> đi Châu Đốc
HUYỆN
CHÂU THÀNH: có
thị trấn An Châu (tại đây người Chăm sinh sống rất nhiều)
DÂN
TỘC CHĂM
Hầu
như toàn bộ dân cư người Chăm An Giang là tín đồ Hồi Giáo khác với người Chăm ở
miền Trung số đông theo Bà La Môn giáo hay đạo Ba Ni (tức Hồi Giáo cũ). Thế kỷ
18 người Chăm ở Thuận Hải di cư lên Cam-pu-chia, Thái Lan để chống lại sự đàn
áp của triều đình nhà Nguyễn. Ở Thái Lan, Cam-pu-chia họ lại bị chính quyền
phong kiến đàn áp nặng nề hơn nên phải tìm đến vùng Đồng Bằng sông Cửu Long
sinh sống. Thực hiện chính sách “phên dậu” dùng người dân tộc ít người để che
chở cho các đồn cũ biên phòng. Chính quyền nhà Nguyễn đã định cư người Chăm ở
vùng đất cù lao đối diện với khu đồn trú Châu Đốc (thị xã Châu Đốc) để bảo vệ
vùng nội địa.
Cấu
trúc gia đình và dòng họ người Chăm được thành lập theo phía bên cha. Khác với
người Chăm ở Thuận Hải, người Chăm ở Đồng Bằng sông Cửu Long đặt tên cho con
kèm theo tên cha của đứa bé và đặt tên cho đứa bé gái kèm theo tên mẹ.
Nội
hôn theo dòng cha là đặc điểm cấu trúc hôn nhân của người Chăm ở đồng bằng sông
Cửu Long và khác với cấu trúc ngoại hôn ở người Chăm Thuận Hải. Chế độ đa thê
được luật Hồi Giáo cho phép (tối đa 4 vợ) song thực tế chỉ có người giàu mới
lấy được nhiều vợ. Gia đình một vợ một chồng là cấu trúc gia đình thực tế ở
đồng bằng sông Cửu Long. Tuổi hôn nhân thường từ 18-20 đối với nam và 17-18 đối
với nữ. Hiện tượng hôn nhân hỗn hợp Chăm Việt diễn ra tương đối phổ biến thường
là chồng Chăm vợ Việt người vợ phải cư trú bên chồng và chấp nhận phong tục
luật lệ Hồi giáo. Ở thành phố Hồ Chí Minh có trường hợp chồng Việt vợ Chăm v
sau khi cưới người vợ Chăm về cư trú trong khu người Việt theo phong tục người
Việt. Con trai Chăm (Châu Đốc) đi cưới vợ chứ không phải như ở Thuận Hải con
gái Chăm đi cưới chồng. Tục ở rể còn duy trì người con trai phải về bên nhà vợ
3 năm liền ở thành phố Hồ Chí Minh tục lệ này được rút xuống 3 ngày đêm sau đó
vợ chồng có thể tự do ở bên chồng hoặc bên vợ hoặc ra ở riêng. Trong gia đình người
chồng giữ vai trò chính trong các hoạt động kinh tế, họ làm chài lưới, làm
ruộng, lo nguyên liệu dệt, người đàn bà lo việc bếp núc nhà cửa, trông nom con
cái và dệt vải. Đó là một nghề thiêng liêng của họ hầu như nhà nào cũng có
khung dệt vải. Theo luật Hồi Giáo người con gái không được thừa kế tài sản cha
mẹ nhưng thực tế ở Đồng Bằng sông Cửu Long người con gái vẫn được quyền thừa kế
nhưng phần chia ít hơn của người con trai trong gia đình.
Ngày
thứ sáu hàng tuần mọi người đàn ông và con trai tắm rửa ăn mặc sạch sẽ để đến
giáo đường làm lễ. Sau buổi lễ họ hội họp lại tại một nhà rạp lớn gọi là Palây
để bàn tính công việc chung của cộng đồng. Hiện khu vực An Giang có khoảng
11.000 người, khu vực Thuận Hải có khoảng 42.000 người. Về cơ bản tiếng nói
người Chăm ở hai vùng này giống nhau chỉ khác nhau ở những từ có liên quan đến
tôn giáo, chữ viết. Người Chăm An Giang dùng hệ thống chữ Ả Rập còn người Chăm
Thuận Hải thì dùng hệ thống chữ Chăm cổ (một biến thể của chữ Phạn Cổ). Người
Chăm Châu Đốc rất thích nghệ thuật, kể chuyện cổ tích mang tính chất dân gian
lãng mạn, trữ tình của tình yêu trai gái hoặc mang tính chất đạo Islam. Những
bài vè, bài hát với làn điệu độc đáo…
LỄ
ROYA IDIL ADHA
Cùng
với cộng đồng người Chăm theo đạo Bà La Môn, người Chăm ở An Giang theo đạo hồi
cũng có một hệ thống lễ hội riêng. Lễ Roya Idil Adha tổ chức từ ngày 7-10 tháng
12 hồi lịch, tương đương với các ngày thượng tuần tháng 6 dương lịch được coi
như lễ tết truyền thống, gắn liền với việc hành hương đến thánh địa Mecca. Đây
là dịp để mọi người trở về sum họp với gia đình, thăm hỏi vui chơi cùng bà con
trong làng hay khu vực cùng nhau tiễn năm cũ đón năm mới, trong gia đình phụ nữ
trổ tài nội trợ, nam giới ăn mặc tươm tất đến thánh đường. Vào ngày 10-12 hồi
lịch, các gia đình người Chăm khá giả tổ chức lễ hiến sinh một con bò thay vì
làm lễ một con cừu theo tục lệ. Tục “hiến sinh” vào mùa hành hương để biểu lộ
đức tin tuyệt đối vào thượng đế Allah, khuyên nhủ mọi người thực hiện tốt đức
tin và làm trọn vẹn 5 bổn phận căn bản của mình để được Allah cứu giúp, thịt
của con vật hiến sinh được chia đều cho các gia đình để biểu thị tình tương
thân tương ái. Sau phần hành lễ, các cộng đồng người Chăm tổ chức vui chơi sinh
hoạt văn hóa, thể thao như ca hát, đua ghe, thi đấu bóng đá.
LỄ
HỘI CHUYỂN MÙA
Rica
Nưkar (Rija Nưgar – đọc là Richà Nưn Cằn) là một trong những lễ hội truyền
thống của người Chăm và được tổ chức vào đầu năm. Lễ hội Rica Nưkar còn là một
trong những lễ hội chung cho người Chăm (cả Chăm Bàlamôn và Chăm Bàni) và mang
tính khu vực, toàn vùng. Ngay cái tên của lễ hội đã phần nào nói lên tính chất
rộng và chung của lễ hội: Nưkar có nghĩa là xứ sở, là đất nước… Không chỉ rộng
và chung, cái tên Nưkar, qua nghĩa mang tính địa lý, chừng nào cũng cho thấy
đây là một lễ hội truyền thống xưa mang tính toàn cộng đồng của người Chăm chứ
không thể là một lễ hội mới được nhập vào từ bên ngoài cách đây vài thế kỷ.
Đúng
là chữ Rica có thể là Chà Và hay Java như không ít người Chăm tin và không ít
những nhà nghiên cứu cho là như vậy. Còn những tác giả từ điển Chàm – Việt –
Pháp thì giải thích thuật ngữ Rica (đọc là Rijà) hay Raca (đọc là Raja) là lễ
múa, giải thích thuật ngữ ghép Rica Nưkar hay Rica Nưkar là lễ múa tống ôn đầu
tháng giêng Chăm.
Đúng
là Rica Nưkar là lễ hội đầu năm, là lễ tống ôn, là lễ hội chung cho người Chăm
thuộc cả hai đạo Bà La Môn và Bà Ni, là lễ hội có múa. Thế nhưng thực chất cũng
như nguồn gốc của lễ hội này là gì và như thế nào thì cho đến nay chưa một nhà
khoa học nào đặt thành vấn đề và phân tích vấn đề cho thật sự khoa học. Các tác
giả cuốn “Người Chăm ở Thuận Hải” và cuốn “văn hóa Chăm” đều chỉ dành vẻn vẹn
đúng có một trang để giới thiệu qua lễ hội Rica Nưkar của người Chăm. Các tác
giả của các công trình kể trên đều cho rằng Rica Nưkar là lễ cầu xin Thần Mẹ xứ
sở và các vị thần linh giúp cho người Chăm tránh được những điều xấu xa, xui
xẻo trong năm cũ như ốm đau, hạn hán, sâu bệnh, chuột bọ phá hoại mùa màng… cầu
xin những điều tốt lành như sức khỏe và sự bình yên cho xóm làng và mưa thuận
gió hòa, cây cối tốt tươi… Đúng, chức năng của Rica Nưkar có là như vậy, nhưng
khái quát như vậy thì quá chung, và chính vì vậy nên cũng chưa thật đúng. Rica
Nưcar trước hết là nghi lễ chuyển mùa và có ý nghĩa đối với công việc canh tác
khá đặc trưng của người Chăm ở một vùng đất cũng rất đặc biệt trên đất nước ta.
Rica Nưcar là sản phẩm của vùng đất Ninh Thuận-Bình Thuận và của những người
Chăm sống và làm nông nghiệp ở đây.
Mặc
dù cũng như nhiều vùng khác trên đất Việt Nam là cùng nằm trong vùng khí hậu Á
Châu gió mùa, nhưng một số đặc điểm của địa thế đã khiến cho vùng Ninh
Thuận-Bình Thuận trở thành vùng khô hạn nhất nước ta. Nhìn chung, theo các nhà
khoa học, chính hệ thống gió mùa này đã ấn định 2 mùa rõ rệt tại Việt Nam. Từ
tháng 10 đến tháng 4 (mỗi mùa chỉ kéo dài 2 tháng): mùa xuân (vasanta), mùa hạ
(giusma), mùa mưa (varsa), mùa thu (sharat), mùa đông (hemanta) và mùa lạnh
(sisira).
1.
Trong khi đó lịch của Chăm chỉ có 3 mùa: Păl Kabo (mùa có tiếng sấm đầu tiên
rền buổi đầu năm), từ tháng 1 đến tháng 4 Chăm (tức từ tháng 4 và 5 đến tháng 7
và 8 dương lịch) và là mùa gieo hạt.
2.
Păl Halim Hacan (mùa mưa gió) từ tháng 5 đến tháng 9 Chăm (từ tháng 8 và 9 đến
tháng 12 và 1 dương lịch) và là mùa nước lớn vì lúc này nước lũ từ trên vùng
núi chảy xuống nhiều.
3.
Păl Pinh-Piang (mùa nóng nực, mùa trơ trụi) từ tháng 10 đến tháng 12 (tức từ
tháng 1 và 2 đến tháng 3 và 4 dương lịch) và là mùa gặt hái đã xong, ruộng đất
còn trơ gốc rạ; trời nóng cây cỏ không mọc nổi thậm chí bị cháy xém đi; vì thế
mùa này còn được gọi là mùa nắng.
Như
vậy là, Rica Nưkar của người Chăm là lễ hội của tháng đầu năm, của những ngày
đầu của tháng đầu năm. Rica Nưkar xét về thực chất cũng như nguồn gốc là lễ hội
của cư dân làm nông nghiệp, nghĩa là lễ hội để chuẩn bị đón và bước vào một năm
mới. Ngay tên gọi của mùa đầu tiên trong năm: « Mùa có tiếng sấm đầu năm » đã
phần nào nói lên tính chất nông lịch của lễ Rica Nưkar. Và sau lễ đầu năm này
người Chăm bắt đầu bắt tay vào gieo trồng.
Theo
điều tra của cc nhà khoa học, ở những nơi có ruộng 2 vụ, vụ đầu thường gieo cấy
vào khoảng tháng 2, tháng 3 Chăm lịch (tháng 5 và 6 dương lịch), nghĩa là sau
khi sao Rua xuất hiện vào dịp đầu năm của người Chăm và người Chăm dựa vào sự
xuất hiện của sao Rua để điều chỉnh lịch của mình. Sau lễ hội Rica Nưkar, khắp
nơi, khắp chốn trong vùng cư trú của người Chăm, đất trời, thiên nhiên và con
người như sôi động lên để vào vụ làm ăn, như những câu ca dao của người Chăm mô
tả:
‘Mùa
này rắn rết đầy đàn
Đến
khi gặt lúa, họ hàng rất đông’
Hoặc:
‘Tạo
xe lập chuồng nuôi trâu
Vóc
to, sức mạnh để sau cậy nhờ
Vét
mương, ngăn đập, đắp bờ
Xuyên
rừng băng núi cho nhờ đồng tâm’
Hay:
‘Chờ
cho nước lũ, mưa dầm
Ruộng
cày gieo lúa, đất bần trồng khoai
Trồng
cà, trồng mướp, bí ngô
Tạm
lòng vững dạ, đợi chờ lúa khoai’.
Và,
điều lý thú nữa là, trước lễ Rica Nưkar ít ngày, vào ngày thứ ba tuần đầu tiên
của lịch Chăm (lễ Rica Nưkar thường vào ngày thứ năm thứ sáu đầu tuần) hàng
năm, người Chăm làm lễ Pơh băng yang (lễ khai mương đắp đập) để xin thần linh
chứng giám cho công việc đồng áng trong năm mới. Lễ này được cúng ở các tháp
hoặc các đền thờ.
Mục
đích của Pơh băng yang là xin thần linh cho phép dân làng được phép khai kênh
đắp đập, chuẩn bị cho vụ sản xuất mới và cầu xin cho mưa gió thuận hoà cây cối
mùa màng tươi tốt. Tính chất nông nghiệp của Pơh băng yang có thể được minh họa
bằng một chi tiết của nghi lễ này tại đền thờ nữ thần Pô Nưkar (Pô Nưgar) thôn
Hữu Đức, xã Phước Hiếu, huỵên Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Nghi lễ do ông Hamua
ia (người chuyên làm lễ nghi gắn với nông nghiệp) tiến hành. Lễ vật dâng các
thần linh gồm có một con dê, 5 mm cơm, 1 khay trầu rượu và vật thiêng hay đồ
thờ của đền- cây nõ nường làm bằng gỗ trầm. Trong khi làm lễ, ông thầy Hamua ia
nhảy múa, nhún nhảy với cây nỏ nường thể hiện hệ tính giao-hành động mang tính
phồn thực với ý nghĩa tạo ra mọi sự sống.
Sau
lễ Rica Nưkar (Rija Nưgar), thời tiết bắt đầu chuyển: đã bắt đầu vọng lên tiếng
sấm đầu năm và đã bắt đầu lác đác cĩ những trận mua nhỏ. Những trận mưa đầu năm
ở vùng Ninh-Bình Thụân có ý nghĩa gần giống như những trận « mưa tháng ba là
hoa đất » của ngườii Việt ở các tỉnh miền Bắc. Thế nhưng mọi điều của sự chuyển
mùa với cái mốc cuối cùng là sao Rua hay Tua Rua xuất hiện còn kéo dài cho đến
khi ngôi sao này nở xong. Và khi sao Rua nở xong thì mùa mưa thật sự đến chứ
còn trong khi sao này nở thì cũng gần như câu tục ngữ của người Việt « Tua Rua
mọc: vàng cây, héo lá; Tua Rua lăn: chết cá, chết tôm ». Thông thường, sao Rua
xuất hiện vào trong tháng tư lịch Chăm. Và để đón mùa mưa vào thượng tuần tháng
tư (lịch Chăm), người Chăm tổ chức một nghi lễ nông nghiệp lớn: Yôr Yang nghĩa
là lễ cầu đảo.
Sở
dĩ người Chăm làm lễ Yôr Yang vào đầu tháng 4 vì họ tin rằng vào quãng thời
gian này các sao Tua Rua, sao Cày, và sao Thần nông đã « nở » hết và từ thời
điểm này trở đi có thể cày cấy được rồi. Và nghi lễ cầu mưa này được tổ chức ở
4 địa điểm là tháp Pô Ramê, đền thờ Pô Inư Nưkar, tháp Pô Klong Kirai và tháp
Pô Dầm vào 2 ngày gần cuối của thượng tuần trăng tháng 4, kéo dài từ khoảng
7giờ tối hôm trước đến khoảng 2 giờ chiều ngày hôm sau. Chủ lễ một địa điểm
trên là 1 vị sư cả (Pô sah) cùng với sự tham gia của thầy Coke (ôn kadhar), ông
từ (Chamnưmey), ông bóng (Ông Ing), và bóng (Muk Pajau)…
Như
nhiều nghi lễ được tổ chức tại các đền tháp, lễ Yôr Yang bao giờ cũng bắt đầu
bằng nghi lễ mở cửa các đền tháp rồi đến lễ tẩy uế khu vực đền tháp và sau đấy
là dâng đồ cúng gồm hương, hoa, cam, rượu, chè, xôi, trái cây… Chỉ sau khi làm
xong ba lễ thức ít nhiều mang tính chung mới đến nghi lễ đặc trưng cũng là nghi
lễ quan trọng nhất của Yôr Yang: lễ Pô Yang Apui (tế thần lửa) tại Thang Chuh
Yang Apui (nhà của thần lửa). Chủ trì lễ này cũng vẫn là ông cả sư (Pô Sah).
Ông đọc những lời kinh mang tính chất phù chú từ cuốn sách bằng lá buôn rồi múa
bằng các đạo cụ cầm tay như chiếc vòng, cái ấm đồng và thanh gỗ chạm khắc thành
hình chiếc thuyền rồng. Những lễ vật dâng lên thần lửa, ngoài các đồ ăn thức
uống, còn có một bó củi và một bó cỏ tranh. Trong khi thầy cả sư khấn tế, múa
thì thầy Kadhor tấu hát thánh ca, còn mọi người thì dâng lễ vật khấn vái cầu
xin. Để tiến hành nghi lễ, người ta đốt lửa tại tháp lửa (nơi có kiến trúc này)
hay ở khu đông bắc của đền hoặc tháp (nơi không có tháp lửa). Người Chăm quan
niệm rằng, đốt lửa để khói bay lên tạo thành mây thành mưa.
Sau
lễ cúng tế thần lửa, ở một số nơi, như tại đền thờ Pô Inư Nưkar ở Hữu Đức, ông
thầy Hmu Ia (thầy cúng ở các lễ thức nông nghiệp) làm lễ hạ điền. Ông thầy
Hamua Ia (thầy cúng ở các lễ thức nông nghiệp) làm lễ hạ điền. Ông thầy cúng
Nuk Doa Olăk (bà dâng rượu) đưa một đôi trâu ra ruộng. Tại ruộng, ông Hamua ia
cày ba đường tượng trưng, sau đó bà Muk Doa Olăk đưa cho ông một ít hạt giống
để ông gieo tượng trưng.
Như
vậy là qua phân tích lịch pháp, lịch cây trồng cũng như tính chất của lễ hội
trong bức tranh lễ hội chung của các dân tộc Việt Nam và Đông Nam Á, lễ hội
Rica Nưkar 1 (Rija Nưgar) của người Chăm là lễ tết đầu năm đánh dấu sự chuyển
mùa. Cũng như lễ tết của người Việt Nam và năm mới của người Thái, người Lào,
người Khơmer, người Mianma, ở Đông nam Á, Rica Nưkar của người Chăm không phải
chỉ là lễ hội đầu năm thông thường mà là lễ hội đầu năm nông lịch gắn với quá
trình sản xuất nông nghiệp. Rica Nưkar vừa là tiễn năm cũ đi, đón năm mới tới
và chủ yếu vừa là tống tiễn mùa khô nóng đi đón mùa mưa tới để bắt tay vào công
việc làm ăn mới hay để bước vào một năm làm ăn mới. Tính chất nông nghiệp thật
rõ trong lễ hội Rica Nưkar của người Chăm. Thế nhưng, cách tống tiễn mùa mưa
nóng và đón mùa mưa tới của người Chăm ở Rica nưkar vừa có những yếu tố chung
cho lễ hội năm mới của nhiều dân tộc ở Việt Nam và Đông Nam Á có những sắc thái
rất riêng của người Chăm. Nếu như người Lào, người Khơmer, người Thái, người Mianma
khao khát mong đợi mưa tới bằng lễ té nước vào những ngày đầu năm mới, thì
người Chăm lại có kiểu đón mưa bằng nghi thức mà các nhà khoa học gọi là hình
thức ma thuật ngược nghiã là làm ngược với điều mình đang chờ đợi. Thay vì phải
té nước vào nhau để cầu mưa như ở nhiều lễ hội của nhiều dân tộc khác của Đông
Nam Á, người Chăm lại làm những lễ thức tống tiễn mọi sự không tốt dập tắt đi
những cơn nóng khô của mùa khô đi để dọn đường cho những cơn mưa tới. Cũng là
đón mùa mưa tới để làm ăn, người Chăm đón theo kiểu khá riêng biệt và ít nhiều
hơi lạ.Thế nhưng, ai đã từng sống hay đã từng đến vùng đất Bình Thuận-Ninh
Thuận vùng khô hạn nhất nước ta, thì mới thấy người Chăm khát khao mưa như thế
nào. Vì thế mà cái mong, cái đợi mùa mưa của người Chăm chừng nào đó là mãnh
liệt hơn so với các dân tộc ở Đông Nam Á. Và để thấy điều này, đó là điệu múa
đập lửa trong lễ Rica Nưkar của người Chăm.
Nghề
Nuôi Cá Bè
Chiếc
cá bè đầu tiên xuất hiện ở An Giang năm 1930, nay đã được phát triển thành nghề
nuôi cá bè. Nghề này được du nhập từ Biển Hồ (Campuchia).
Bè
cá hình hộp đóng bằng gỗ, nổi trên mặt nước nhờ những chiếc phao bằng thùng
phuy cỡ lớn hay nhỏ tùy theo người nuôi thường có kích thước 12x5x3m, bên trong
bè chia thành từng khoang nuôi các loại cá khác nhau như cá tra, cá ba sa, cá
trắm cỏ, cá phi, cá bông… trên mặt bè là nhà ở của người nuôi cá. Cá được cho
ăn bằng ngũ cốc như cám, tấm, bột bắp, bã đậu và đạm động vật như bột cá. Sau 8
tháng hoặc 10 tháng nuôi, người ta thu hoạch bằng cách nâng bè lên rồi dùng vợt
hay lưới để bắt cá. Trước 1975 đồng bằng sông Cửu Long có 7.000 – 8.000 bè cá,
tỉnh An Giang có 1.500 bè cá tập trung trên sông Hậu vùng Châu Đốc, Châu Phú.
Tới
thị xã Châu Đốc, quốc lộ 91 đi bến đá Núi Sam.
Đến
ngã ba: nếu rẽ trái đi Núi Thất Sơn, Núi Cấm. Đi theo quốc lộ 91 tới thị xã
Châu Đốc và đến bến đá Núi Sam.
Di Tích Núi Sam
Vị
trí: Di
tích núi Sam thuộc xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Đặc
điểm: Núi Sam không chỉ là cảnh đẹp thiên nhiên mà còn gắn liền với nhiều di
tích lịch sử đã khắc sâu vào tâm linh người dân đồng bằng Nam Bộ.
Núi
Sam cách thị xã Châu Đốc 5 km, là ngọn núi đầu tiên của dãy Thất Sơn, núi cao
284m. Núi có hình giống như con Sam nên gọi là núi Sam, núi còn có tên chữ là
Lãnh Học Sơn. Nhưng một số người khác cho rằng: Cách đây hàng triệu năm vùng
đất này bị ngập chìm trong nước biển, khi ấy núi Sam là một hòn đảo, xung quanh
có rất nhiều con Sam sinh sống. Sau quá trình kiến tạo địa chất hàng triệu năm
và nước rút đi, hòn đảo này biến thành núi và gần với đất liền. Từ đó gọi là
núi Sam.
Núi
Sam cùng núi Bảy là những cao điểm án ngữ biên giới Cam-pu-chia lập thành một
hệ thống phòng thủ biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Núi
thấp có nhiều đường mòn, nhiều ngả lên xuống, ít cây cổ thụ. Theo truyền
thuyết, núi có nhiều linh hiển, nên có nhiều chùa thờ Phật đã dựng lên tại đây
gần 2 thế kỷ. Đồng bào khắp nơi hành hương về đây cúng lễ rất đông. Có đến 200
ngôi đền, chùa, am, miếu nằm rải rác ở chân núi, sườn núi và cả trên đỉnh. Trên
đỉnh núi có một pháo đài cũ do Pháp xây dựng.
Đặc
biệt dưới chân núi còn có Lăng Thoại Ngọc Hầu tức Nguyễn Văn Thoại, một tướng
triều Nguyễn có nhiều công đức với nhân dân địa phương trong việc tổ chức đào
các con kênh quan trọng trong tỉnh An Giang: kênh Vĩnh Tế dài 90km nối sông Hậu
đến Hương Thành (Hà Tiên) để đổ ra vịnh Thái Lan; kênh Chỉnh An nối sông Hậu
qua sông Tiền; đắp lộ lớn Châu Đốc – Long Xuyên. Tất cả những công trình quan
trọng ấy đều hoàn tất trước khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ (1858).
Từ
ngã ba thị xã Châu Đốc đến núi Sam chừng Khoảng 3km. Con đường này đã được làm
lại, trải nhựa, gồm hai chiều, ở giữa có bờ cây. Đoạn đường này tuy ngắn song
cứ 1km đường này trị giá hơn 1 tỉ đồng Việt Nam, số tiền này được lấy ra từ quỹ
cúng dường của bá tánh thập phương tại Miếu Bà Chúa Xứ.
Núi
Sam không chỉ là cảnh đẹp thiên nhiên mà còn gắn liền với nhiều di tích lịch sử
đã khắc sâu vào tâm linh người dân đồng bằng Nam Bộ. Nơi đây còn có miếu thờ Bà
Chúa Xứ, chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Hang, vườn Tao Ngộ… Núi Sam là
một khu du lịch nổi tiếng của cả vùng Nam Bộ.
Chùa Tây An
Chùa
Tây An toạ lạc tại ngã ba núi Sam thuộc xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, tỉnh An
Giang, cách thị xã Châu Đốc khoảng 5 km.
Chùa
Tây An mang dáng dấp của những ngôi chùa Ấn Độ, có kiến trúc hài hòa với cảnh
trí thiên nhiên, tạo một vẻ đẹp lộng lẫy.
Chùa
Tây An nằm trong quần thể kiến trúc của Miếu Bà Chúa Xứ. Chùa Tây An do một vị
quan triều Nguyễn đời Minh Mạng (1820) là tổng đốc Nguyễn Nhật An xây dựng theo
lời nguyện của ông khi được triều đình phái đi Cao Miên. Theo lời nguyện này,
nếu ông đi thành công, khi về sẽ dựng ngội chùa thờ Phật tại chân núi Sam. Cất
chùa xong bằng tre, ông thỉnh vị hòa thượng đầu tiên là Nguyễn Văn Giác, pháp
hiệu là Hải Tịnh đến trụ trì. Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), chùa lại thỉnh thêm
một vị hoà thượng nữa tên là Đoàn Minh Huyền, Pháp hiệu là Phap Tạng đến trụ
trì. Vị hòa thượng này ngoài việc tu hành còn có tài làm thuốc trị bệnh cho
nhân nhân rất hiệu quả nên sau khi ông mất, đồng bào đã suy tôn ông là Phật
Thầy Tây An và danh hiệu này vẫn gọi đến ngày nay. Kể từ đời ngài Đoàn Minh
Huyền (Phật Thầy Tây An) trụ trì tới nay đã trải qua 7 đời truyền thừa và đã
được trùng tu nhiều lần.
Đến
năm 1958, hoà thượng Thích Bửu Thọ đứng ra vận động góp tiền xây dựng lại ba
ngôi cổ lầu, mặt chính của chùa và sữa chữa lại ngôi chính điện tạo nét kiến
trúc phương Tây kết hợp với kiến trúc Á Đông.
Chùa
được xây bằng gạch, xi măng và lợp ngói, nguy nga với ba ngôi lầu nóc tròn hình
củ hành theo kiến trúc kiểu Ấn-Hồi, màu sắc rực rỡ nhưng hài hoà, nổi bật trên
vách núi xanh thẩm.
Chánh
điện chùa cao 18m, thờ phật Thích Ca, còn hai bên là lầu chuông và lầu trống.
Trước chùa có 3 vọng cửa: cửa giữa tam quan thờ Phật Quan Am, 2 cửa 2 bên có 2
bảng đề “Tây An cổ tự”, bên trong cửa tam quan là sân chùa có một cột phướn cao
16m. Vòm chánh điện đắp nổi hình rắn hổ mang 7 đầu. Sân chùa có hai tượng bạch
tượng và hắc tượng bằng xi măng lớn như thật: con trắng 6 ngà, con đen 2 ngà,
vai có đắp nổi hai vị thần tiên ngồi bên trên mặt trăng lưỡi liềm. Đặc biệt
tượng hòa thượng Thích Bửu Thọ được tạc ngồi bên bàn viết như người thật. Chùa
theo phái đại thừa, có khoảng 11.270 pho tượng Phật lớn, nhỏ bằng gỗ. Chùa có
nhiều câu đối hoành phi do các nghệ nhân ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX chạm trổ công
phu. Ngày rằm tháng giêng, rằm tháng 7 và tháng 10 âm lịch là ngày nhân dân đến
cúng lễ đông nhất.
Phật Thầy Tây An (1807 – 1856)
Tên
thật của ông là Đoàn Minh Huyền, có người lại cho là Đoàn Văn Huyên. Ông sinh
vào ngày rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807) tại làng Tòng Sơn, thuôc Cái Tàu
Thượng, tỉnh Sa Đéc.
Tục
truyền, bình sanh ông cũng như bao người dân khác, chuyên cần cày cấy, sống
bằng nghề ruộng rẫy. Nhưng đến năm 43 tuổi, ông không màng đến chuyện làm ăn
nữa và hết ngày này sang ngày nọ nói toàn những chuyện hư hư thật thật, lúc
phàm lúc thánh. Do vậy mà người đời cho ông đã hóa rồ, là người khật khùng.
Không
biết vì dân làng khinh bạc hay vì lý do nào khác, năm 1849, ông chèo chiếc
xuồng con ngược theo dòng rạch Cái Tàu Thượng trở ra rạch Xẻo Môn đến làng Kiến
Thạnh (tức làng Long Kiến, thuộc tỉnh Long Xuyên). Bấy giờ, ở đây bệnh thời khí
hoành hành rất dữ. Số người mắc bệnh chết rất nhiều. Các lương y, rồi các vị
pháp sư nổi tiếng cao cường thời ấy đều bó tay trước cơn dịch bệnh khủng khiếp
chưa từng có này. Làng trên xóm dưới kẻ bệnh người chết nhiều không kể xiết…
Trong
cảnh dịch bệnh và tang tóc ấy, bỗng vào một buổi sáng tại đình làng Kiến Thạnh,
ông Từ khi thắp nhang ở bàn thờ thần Thành Hoàng thấy một người ngồi sừng sững
trên đó. Hốt hoảng, ông Từ vụt bỏ chạy và toan la làng thì người đó khoát tay
và gọi ông ta trở lại. Ông Từ định tâm hỏi:
-
Ông là ai mà lại cả gan ngồi trên bàn thờ thần?
Người
ấy đáp:
-
Phật thầy giáng thế cứu đời là ta!
Ông
Từ càng ngạc nhiên hơn và hoàn toàn không tin những gì mà người đàn ông lạ mặt
ấy phán bảo. Ông Từ lại hỏi:
-
Ông tự xưng là Phật Thầy giáng thế cứu đời thế thì dân chúng đang bị ôn dịch
làm hại, ông có phương chi cứu họ?
-
Sao lại không! Đâu, ai đã mắc bệnh ôn dịch thì hãy đem lại đây, ta cứu cho!
Tin
này lan truyền khắp xóm. Kẻ kẻ đều hồ nghi. Lúc đó, người con trai của ông
Hương cả bị bệnh thổ tả trầm trọng không còn cách nào chạy chữa nên người ta đã
thử đem bệnh nhân đến nhờ vị Phật thầy ấy cứu chữa. Tục truyền, bệnh nhân sau
khi uống “thuốc” của Phật thầy thì công hiệu ngay. Thế là khắp làng trên, xóm
dưới, các gia đình có người mắc bệnh ùn ùn đưa người bệnh đến nhờ xin đức Phật
thầy cho “thuốc”.
Khi
có người đến xin thuốc thì Phật thầy hỏi rõ tên họ rồi mới cho. Hễ ai mà thầy
bảo bệnh có thể chữa trị thì mới phát thuốc, còn ngược lại, những bệnh nhân nào
mà thầy cho là đã tới số thì chạy chữa thế nào cũng không thoát khỏi.
Phật
thầy ở nơi đình ba ngày thì dời đến cái cốc của ông Kiến, nơi mà sau này dựng
nên chùa Tây An cổ tự, để tiếp tục trị bệnh, vừa truyền đạo. Số người đến xin
trị bệnh càng ngày càng đông và trong số đó, nhiều người đã trở thành tín đồ
của đạo gọi là Bửu Sơn Kỳ Hương. Cái cốc cũng được chỉnh đốn thành ngôi chùa và
những nghi thức lễ bái, thờ phượng của đạo này cũng dần dần hình thành qui củ.
Càng
ngày, số lượng người sùng tín càng đông. Điều này không những khiến các pháp
sư, các thầy bùa ganh ghét mà chức việc địa phương cũng phải để tâm đến. Mặt
khác, vào khoảng năm 1841, ở Trà Vinh có nhóm người hợp với sư sãi nổi dậy
chống lại quan quân nhà Nguyễn nên sự kiện Phật thầy Tây An trở thành vấn đề
quan trọng mà các quan chức địa phương không thể bỏ qua được. Khi được tin báo
có “gian đạo sĩ” phát trù bệnh, quan tỉnh An Giang sai đội nhì Bồng và Cai Nhứt
Trung xuống tận làng Kiến Thạnh để bắt Đoàn Minh Huyền áp giải về tỉnh.
Tục
truyền, khi giải về tỉnh đường, quan tỉnh vồn vã chỉ bộ ván có trải chiếu bông
mời mọc:
-
Mời chú đạo ngồi.
Ông
đáp:
-
Mời quan lớn ngồi trước. Tôi là chú đạo đâu dám vô lễ.
-
Không sao đâu! Tôi cho phép chú cứ ngồi.
-
Bẩm quan lớn! tôi nói không dám vô lễ là vô lễ với Phật vì tôi là chú đạo đâu
dám ngồi trong lúc Phật nằm.
-
Chú nói mới lạ chứ…
Đức
phật thầy bước lại giở chiếu lên: lộ ra bức tượng Quan Âm mà quan tỉnh đã đặt
bên dưới để lập mưu thử ông đạo này.
Một
hôm nhân ngày rằm, những người coi khám đường dọn cho ông một mâm cơm vừa chay
vừa mặn, đơm sẵn thành tám chén. Họ đặt mâm cơm xuống và hỏi:
-
Hôm nay ông đang ăn chay hay ăn mặn?
-
Tôi ăn chay.
-
Vậy mời ông đạo dùng cơm.
Đáp
lời mời, ông ngồi xuống lần lượt ăn hết ba chén cơm liền một mạch, rồi lại bưng
chén cơm thứ tư ăn tiếp và nói:
-
Các quan cho tôi ăn cơm chay thì tôi phải ráng ăn cho hết.
Các
viên chức ở khám đường có mặt trong vụ này đều kinh ngạc vì đúng bốn chén cơm
mà ông đã ăn là cơm chay, còn bốn chén cơm còn lại đều có để mở heo dưới đáy.
Ăn
xong chén cơm thứ tư, ông nói:
-
Các vị tính lừa tôi ăn mặn rồi thì trói đầu tôi chắc?
-
Ồ! chúng tôi đâu có ý vậy….
-
Thật không? Thế thì các vị chuẩn bị sẵn dây trói để làm gì?
Nói
dứt lời, ông thò tay giở nắp cái quả: trong đó có sợi dây trói để sẵn. Các viên
chức ở khám đường càng kinh ngạc hơn. Tục truyền, từ đó, họ tỏ ra kính phục Đức
Phật Thầy. Quan chủ tỉnh An Giang, làm tờ tâu vụ “gian đạo sĩ” này về triều với
những lời tấu trình dè đặt hơn. Sau đó, theo chiếu chỉ của vua, Đoàn Minh Huyền
phải xuống tóc và thọ giới như các nhà sư với sự chứng minh của vị hòa thượng
sắc tứ. Khi cạo tóc xong, người ta toan cạo hết hàm râu thì ông cản lại:
-
Chiếu chỉ của triều đình dạy xuống tóc chứ đâu có dạy cạo râu mà các vị lại
cạo.
Các
viên quan thi hành chiếu chỉ của triều đình đành phải chịu để lại hàm râu. Có
lẽ đây là nhà sư để râu duy nhất trong lịch sử Phật Giáo! Sau đó, Đoàn Minh
Huyền vào núi Sam lập một ngôi chùa bằng cây lá để tiếp tục truyền đạo. Công
việc hoằng hóa giờ đây lại chú tâm đến việc an cư lạc nghiệp cho bổn đạo: ông
đứng ra tổ chức việc khẩn hoang ở núi Thới Sơn và vùng Láng Linh để lắp hai
trại ruộng. Ông muốn tín đồ phải dùng sức cần lao để sinh sống, nuôi gia đình
mà không dựa vào sự cúng dường của bá tánh.
Tục
truyền, Đoàn Minh Huyên ít ở chánh tức chùa Tây An ở núi Sam, mà thường lui tới
thăm nom và động viên tín đồ hăng hái khẩn hoang và chí thú làm ăn.
Về
việc Đoàn Minh Huyên ít ở Tây An tự có giả thiết cho rằng ngôi chùa ấy, tuy là
do ông lập ra, nhưng công việc quản lý và thực hành nghi lễ đều theo Phật giáo
Phái Lâm Tế do các tăng sĩ của chùa Giác Lâm (Chợ Lớn) cử về đảm nhận. Ông lập
các trại ruộng để truyền đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, một hệ phái có tôn chỉ và nghi
thức thờ phụng đơn giản, không nặng nề “thinh âm sắc tướng”, chuông mõ như Phật
giáo Phái Lâm Tế – một tông phái đang thống quản xứ Nam Kỳ. Tuy nhiên cũng có
giai thoại kể rằng chính Đoàn Minh Huyên đã đích thân cày ruộng. Tục truyền, ở
trại ruộng Thới Sơn, ông có nuôi hai con trâu, đặt tên là Sấm và Sét. Hai con
trâu này chỉ chịu sự điều khiển của ông… Ngoài ông ra không ai có thể mắc chúng
vào ách để cày được. Chính ở đây, Đoàn Minh Huyên đã qui tụ khá đông tín đồ,
đặc biệt hàng đệ tử lớn có anh em ông Đình Tây, ông Đạo Xuyến, ông Đạo Lập ở
Thới Sơn, Đức cố quản Trần Văn Thành ở Láng Linh. Về sau khi thực dân Pháp
chiếm An Giang các trại ruộng là căn cứ kháng chiến quan trọng và các tín đồ Bửu
Sơn Kỳ Hương là lực lượng nòng cốt của các phong trào chống Pháp cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX.
Năm
1856, ông qua đời. Trước khi tịch, ông dặn dò đệ tử sau khi an táng không được
đắp nấm mà phải phả bằng để lấy đất cày cấy trồng trọt. Các đệ tử làm theo lời
ông dặn, tuy nhiên họ xây rào bao quanh giữ lấy di tích của vị tổ khai đạo để
lưu truyền cho các thế hệ sau.
Theo
niềm tin tôn giáo, tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương cho rằng Đức Phật Thầy, sau khi
tịch, vẫn “chuyển kiếp nhập thân vào những phàm nhân để tiếp tục hoằng hóa đạo
pháp và cứu thế độ đời. Đức Phật Trùm, Đức Bổn Sư, Sư Vãi bán khoai là những
trường hợp giáng thế như vậy. Trong thực tế, đây là những môn đồ kế tục việc
xiển dương và truyền bá giáo thuyết Bửu Sơn Kỳ Hương theo phương thức và nội
dung có sửa đổi ít nhiều để phù hợp với thực tế của mỗi giai đoạn lịch sử. Đặt
biệt trong những thập niên mới thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các môn đệ này đã ít
nhiều gắn với công cuộc kháng Pháp lúc công khai lúc dưới các tổ chức Hội kín.
Chính vì vậy, Đức Phật Trùm đã bị thực dân Pháp bắt đày ra hải đảo, Đức Bổn Sư
Ngô Lợi bị giặc ruồng bố và truy nã liên tục và ông sư vãi bán khoai phải giả
dạng làm phụ nữ bán khoai để làm việc đời việc đạo.
Lăng Thoại Ngọc Hầu
Lăng
Thoại Ngọc Hầu thuộc xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Lăng
Thoại Ngọc Hầu là công trình đồ sộ nhất ở núi Sam. Khu lăng mộ có đền thờ ông
Thoại Ngọc Hầu, mộ ông cùng 2 phu nhân được xây dựng thập niên 30 thế kỷ 20.
Thoại
Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại (1761-1829), Ông sinh ngày 25-11-1761;
mất ngày 6-6-1829; người huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam. Ông theo Nguyễn Ánh
từ năm 1777.
Năm
1784, ông theo cha đi sang Vọng Các (Băngkok). Lúc trở về, ông vào quân ngũ,
trải qua nhiều chức vụ và công cán khắp từ Bà Rịa đến Xiêm, Lào, Cao Miên.
Năm
1817, ông được làm trấn thủ Vĩnh Thanh.
Năm
1818, ông quản suất binh lính đào kinh Đông Xuyên. Sau một tháng đã hoàn thành,
được vua ban tên là kinh Thoại Hà (ngang 20 tầm: 1tầm=2,56m, gần 51m; bề dài
tới Giang Thành-Rạch Giá 12.400 tầm), bên bờ Thoại Hà có ngọn Lạp Sơn (núi Sập)
cũng được đặt tên là Thoại Sơn để ghi công lao của ông.
Năm
1822, ông cho dựng bia Thoại Sơn ghi lại sự kiện này ở núi Sập và dựng miếu nhỏ
thờ Sơn Thần.
Năm
1819, ông được lênh chỉ huy dân binh đào kinh Vĩnh Tế. Nhưng năm sau, Tăng Kế ở
Chân Lạp làm loạn, đánh thành Nam Vang. Ông và Nguyễn Văn Trí tiến binh đến Kha
Bôn thì gặp giặc, đánh thắng được quân dịch, và chém được Tăng Kế, từ đó Chân
Lạp mới yên.
Năm
1821, ông lại lãnh ấn bảo hộ Cao Miên, kiêm quản việc quân ở Hà Tiên và Châu
Đốc tới năm 1823 ông lại cùng Thống chế Trần Công Lại coi việc đào kinh Vĩnh Tế
(dài 97 km, rộng khoảng 50m), đến năm 1824 thì hoàn tất. Sau khi hòan tất việc
đào kênh, Thoại Ngọc Hầu cho vẽ bản đồ trình triều đình Huế, được vua khen
ngợi; Vua xét thấy phu nhân của Thoại Ngọc Hầu, họ Châu Vĩnh, nhũ danh Thị Tế
vốn là người có đức độ, tận lực giúp chồng trong công việc nên ban lệnh đặt tên
cho kinh này là “Vĩnh Tế Hà” và cải đổi tên núi Sam ở bờ kênh là “Vĩnh Tế Sơn”.
Để đánh dấu những công trình này, Thoại Ngọc Hầu cho xây dựng bia làm kỷ niệm:
bia Thoại Sơn, Vĩnh Tế Sơn. Đồng thời trước ngày dựng bia, Thoại Ngọc Hầu cho
nhiều ton người đi dọc hai bờ kênh, từ Châu Đốc đến Hà Tiên tìm hài cốt những
dân binh tử nạn mang về cải táng hai bên tả hữu khuôn lăng.
Ngày
làm lễ dựng bia ông tiến hành làm lễ cải táng tập thể các binh dân tử nạn trong
việc đào kinh vào trong khu vực lăng. Ông đích thân đọc bài “Tế Nghĩa Trũng
Văn” để nhớ công lao của những người đã khuất.
Sau
khi đào xong hai năm, bà Châu Thị Tế qua đời, an táng ở triền núi Sam và từ đó
Thoại Ngọc Hầu tiến hành xây khu lăng mộ dự định làm chốn yên nghỉ của mình và
các phu nhân. Tháng 9 năm Minh Mạng thứ 9 (năm 1828) bia Vĩnh Tế Sơn 730 chữ,
được dựng ở trong lòng lăng mộ.
Năm
Minh Mạng thứ 10 (năm 1829), ngày 6 tháng 6 âm lịch. Ông mất, Vua tặng chức Đô
thống và được an táng ở khu lăng mộ này.
Lăng
Thoại Ngọc Hầu là công trình kiến trúc quy mô nằm trên triền núi Sam, cao trên
9 bậc cấp đá ong. Chu vi lăng hình chữ nhật được bao bọc bởi một bức tường dày
1m. Mặt trước là hai cổng vào ở hai bên, chính giữa là tấm bia Thoại Sơn (được
phiên bản hồi đầu thế kỷ XX).
Khi
bước vào khuôn viên lăng, bên phải là 3 ngôi mộ lớn (chính giữa là mộ Thoại
Ngọc Hầu, bên phải là mộ bà Châu Thị Tế (mất 1826), trái là mộ bà Trương Thị
Miệt (mất 1821), bên trái có 14 ngôi mộ được chôn trong một vuông đất. Tương
truyền đây là những ngôi mộ của các đào kép trong phường hát bội Quảng Nam
thường diễn cho Thoại Ngọc Hầu xem lúc còn sống, riêng có hai ngôi mộ trên cùng
thì được tương truyền là của hai người bị chôn sống để đi theo hầu ông. Trong
Long Đình là bản sao bia “Thoại Sơn”. Bia “Vĩnh Tế Sơn”. Trước Long đình là 2
con nai tạc bằng xi măng. Hai cửa lớn vào lăng rộng hình bán nguyệt, kiến trúc
theo lối cổ, liền với bức tường kiên cố dày 1 mét, cao 3 mét. Sau lăng là đền
thờ trên nền đất cao. Sau lưng đền thờ là vách núi tạo thành bức bình phong
kiên cố và hùng vĩ tôn thêm vẻ cổ kính uy nghi. Bên trong lăng là di tượng
Thoại Ngọc Hầu cao khoảng 2 m cùng những án văn chương lộng lẫy và liễn đối,
hoành phi, văn bia, văn tế…gợi lại hình ảnh của nước non một thời oanh liệt.
Lăng
Thoại Ngọc Hầu được hoàn thành vào cuối những năm 20 của thế kỷ 19.
Nói
chung, khu lăng mộ này là một công trình kiến trúc cổ kính, đặc biệt là 2 bài
văn
bia có ý nghĩa hết sức lớn lao và đặc biệt quý hiếm đối với vùng đất mới phương
Nam.
Hằng
năm, ngày 6/6 ÂL nhân dân quanh vùng đến lăng làm lễ tưởng niệm ông.
Kênh Vĩnh Tế
Một
trong những nét đặc trưng của miền Tây Nam Bộ là hệ thống kênh đào, tạo thuận
lợi cho giao thông và tưới tiêu cho cánh đồng là vườn cây. Trong số các con
kênh đào ấy, đặc biệt có con kênh mang tên người phụ nữ vào đầu thế kỷ 19, đó
là kênh Vĩnh Tế, chạy dọc theo biên giới Việt Nam – Campuchia. Khởi công đào
năm 1819 và hoàn thành 1825. Trong 6 năm đào kênh có lúc phải ngưng trệ vì công
việc đào kênh rất vất vả. Có đoạn dễ đào vì nhằm nơi đất ruộng, nhưng có lúc
đất cứng có đá, sát chân núi. Mùa nắng phải ngưng vì thiếu nước cho dân phu. Sử
liệu ghi rằng: “Để cho đoàn kênh được thẳng, ông đã cho đốt đuốc trên những cây
xào dài vào ban đêm. Những cây sào lửa ấy là những cây cọc tiêu dễ nham đường
kênh cho ngay thẳng“ .
Để
đào kênh này, Thoại Ngọc Hầu đã huy động một lực lượng rất lớn, có lúc lên đến
55.000 người. Theo dân gian kể lại khó khăn khi đào con kênh này, dân phu lớp
vì chết vì bệnh, lớp thì trốn về dọc đường bị cá sấu ăn. Có lúc ông quá đau
buồn vì bỏ dở công việc. Thấy vậy, bà Châu Thị Tế một mặt ra sức động viên
chồng, mặt khác khuyến khích những người mẹ, người vợ của các dân phu khích lệ
chồng, con họ theo trong việc đào kênh. Chính vì công sức đóng góp của bà, vua
Minh Mạng đã ban chiếu lấy tên bà đặt cho kênh là Vĩnh Tế. Ngôi làng dưới chân
núi Sam là làng Vĩnh Tế.
Kênh
Vĩnh Tế và kênh Thoại Hà sau khi đào xong đã làm thay đổi hẳn đời sống của
người dân vùng Tứ Giác Long Xuyên. Kênh là phương tiện giao thông thuận lợi,
vừa là hệ thống tưới tiêu, xả phèn cho đồng ruộng. Không chỉ có giá trị về mặt
kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt quân sự. Kênh Vĩnh Tế cũng chính là đường biên
giới bằng nước đã được đóng cọc nhiều lần trong cuộc giao tranh.
Vua
Gia Long còn nhằm mục đích đưa quân từ Hậu Giang ra vịnh Xiêm La thật nhanh để
giữ Kiên Giang và Hà Tiên ngừa quân Xiêm đến thình lình. Kênh Vĩnh Tế là thành
quả to lớn của nhà Nguyễn được ghi lại hình ảnh trên Cao đỉnh – một trong Cửu
Đỉnh danh tiếng của triều Nguyễn.
Miếu Bà Chúa Xứ
Thuộc
ấp Vĩnh Tế 1, thị xã Châu Đốc được lập vào thế kỷ 19, lịch sử của chúa Bà có
hai truyền thuyết: miếu bà do dân xây dựng để cúng bái vì tin vào sự linh
thiêng của bà.
Trong
miếu bà Chúa Xứ có một pho tượng bằng đá Sa Thạch cao gần 2m tạc hình một người
đang trong tư thế nghĩ ngợi trầm tư. Đó là “bà Chúa Xứ” mà theo truyền tụng dân
gian kể lại:
Tượng
bà đã có từ rất lâu đời cách đây khoảng 200 năm bà được dân địa phương phát
hiện và được khiêng từ trên đỉnh núi Sam bởi chín cô gái đong trinh tắm rửa
sạch sẽ (theo lời dạy của Bà). Cũng có ý kiến cho đầu thế kỷ 19 Nguyễn Văn
Thoại lãnh lệnh vua đi bình giặc ở biên giới phía Tây. Phu nhân ông ở nhà lo
lắng ngày đêm khấn nguyện để ông bình yên trở về nếu được vậy bà lập miếu tạ
ơn, vì vùng này vốn là rừng thiêng nước độc lắm dã thú, ai đi khó về. Nguyện
ước đạt được ông đã trở về khi nghe bà bày tỏ ý nguyện, ông rất cảm động và nhớ
lại những nguy hiểm mà ông đã đi qua. Ông liền cho xây dựng miếu để tạ ơn và
thỉnh tượng bà từ trên núi về thờ.
Nhà
khảo cổ học người Pháp Malleret là người đã phát hiện ra di chỉ văn hóa Óc Eo
(vùng Ba Thê núi sập). Năm 1941, sau khi nghiên cứu tượng Bà đã xác định đây là
một pho tượng thần Visnu (một trong ba vị thần BàLaMôn giáo) được tạo vào
khoảng thế kỷ thứ 6 đầu thế kỷ 7 sau công nguyên. Như vậy có thể nói rằng tượng
Bà là một pho tượng đàn ông của người Khmer bỏ bên sườn núi Sam. Người Việt đưa
tượng vào miếu tô điểm lại thành phụ nữ.
Do
ảnh hưởng phật giáo, lão giáo cùng tín ngưỡng thờ mẫu của dân gian mà bà Chúa
Xứ trở thành một dạng như “phật bà Quan Âm” và được tôn thờ thành kính. Có rất
nhiều huyền thoại về sự linh thêng của Bà, trong miếu còn treo hai câu liễng
đối nói về việc ban phúc, giáng hoạ của Bà:
“
Cầu tất ứng, thi tất linh, mộng trung chỉ thị
Xiêm
khả kính, thanh khả mộ, ý ngoại nan lượng”
Miếu
bà Chúa Xứ kiến trúc theo kiểu chữ quốc, có bốn mái hình vuông, nóc lợp bằng
ngói ống màu xanh, nhà để tượng trưng cũng có bốn mái hình vuông, trong miếu
thờ tượng bà chúa được tọa lạc bằng đá xanh có giá trị nghệ thuật cao. Tượng
tạc vào thế kỷ VI theo mô phỏng tượng thần Vitnu thường có ở các nước Lào,
Campuchia, Ấn Độ, Hội Chùa Chúa xứ được tổ chức rất lớn hàng năm vào các ngày
từ 23 đến 26 tháng 4 âm lịch hàng năm. Hàng vạn người đổ về đây dự lễ tắm tượng
bà, lễ dâng hương cầu phúc lành…
Miếu
bà Chúa Xứ lúc đầu khoảng năm 1825 được dựng bằng tre lá sau đó được trùng tu
nhiều đợt để trở thành một kiến trúc của phương đông khá đẹp: mái cong lợp bằng
ngói xanh, tường bằng gỗ quý, chạm trổ công phu. Trên bậc thềm là hai con sư tử
đá ngồi chầu, toà miếu ấy nằm trên vùng đất trũng quay lưng lên đường và dựa
vào chân núi Sam ở hướng đông bắc, toàn cảnh núi Sam cũng góp phần tạo thêm khí
thiêng cho miếu và làm cho không khí ngày hội nơi đây thêm huyền ảo cao khoảng
230m và chu vi chân núi khoảng 300m núi Sam trông giống hình con sam và ngày
xưa từng là hòn đảo nhỏ trên biển (lúc biển còn bao phủ toàn vùng) rất nhiều
sam bám vào đây sinh sôi nên nó có tên chữ học lãnh hơn (nghĩa là núi con sam)
tọa lạc tại làng Vĩnh Tế thị xã Châu Đốc.
Có
người hỏi tượng Bà làm bằng đá gì? Có rất nhiều giả thuyết về điều bí ẩn này,
có tác giả gọi là đá “Sa Thạch”, người khác gọi là đá “Son”, người khác gọi là
đá “Xanh”. Nhưng những tên gọi ấy không kèm được chứng minh nào cả.
Nhưng
theo một nghiên cứu và có kết luận chính xác, tượng bà được tạc bằng một loại
Nham Thạch có tên gọi là Diệp Thạch. Loại Nham Thạch này hình thành từ các hố
đại dương, nên có cấu tạo nhuyễn hạt.
Lễ
Hội Bà Chúa Xứ
Hiện
nay, lễ hội Bà Chúa Xứ là 1 trong 115 lễ hội quốc gia.
Diễn
ra vào ngày 24-4 âm lịch hàng năm, bao gồm các lễ:
Lễ Mộc Dục (lễ tắm bà) diễn ra vào 12h khuya
ngày 23-4, một tấm màn giăng ngang che kín tượng bà và hai phụ nữ được lựa chọn
trước để vào tắm và thay y phục, phía ngoài là hàng trăm người đang quỳ làm lễ
tay mỗi người đều cầm bông huệ trắng, nước tắm cho bà được nấu với quế và hương
hoa sau khi tắm bà xong sẽ được phân phát cho khách trảy hội uống lấy phước đến
nay hiện tượng này không còn nữa. Cũng vậy bộ y phục cũ của bà sẽ được cắt
thành từng mảnh nhỏ phân phát cho mọi người để làm một thứ bùa hộ mệnh quý giá.
Lễ Túc Yết: Ngày 25 tháng 4 âm
lịch 4 giờ chiều lễ thỉnh sắc phong cho bà rước từ lăng Thoại Ngọc Hầu về miếu
Bà. Đoàn người rước được sắp xếp theo thứ tự với nghi trượng nghi vật rình rang
và có đốt pháo múa lân. 12 giờ khuya lễ yết mời bà về dự lễ tiếp theo là lễ xây
chầu (hát bội) với các nghi thức sau: trước hết chánh bái (người chủ trì cuộc
lễ) dâng theo (tượng trưng bằng một đĩa huyết và một ít lông heo), sau đó dâng
hương và rượu rồi đọc văn tế cuối cùng tiếp hai tuần rượu một tuần trà – tiếp
theo chánh bái ca công (đại điện đoàn hát bội) bước vào làm lễ tay cầm nhánh
dương vừa rải nước vừa đọc:
“Nhất
sái thiên thanh
Nhị
sái địa minh
Tam
sái nhân trường
Tứ
sái qủy diệt hình”
Sau
cùng là Lễ Xây Chầu. Ông Chánh Bái
ca công niệm hương rồi nhúng cành dương vào tô nước vừa rải vừa đọc bài bái tế.
Đọc xong ông đánh ba hồi trống và hô to: ca công tiếp giá. Lập tức chiêng trống
nổi lên đoàn hát bội bắt đầu phục vụ.
Lễ Chánh Tế tiến hành lúc 4h sáng
27/4 âl, các nghi thức và vật phẩm cũng giống như túc yết, chiều ngày 27 vào
lúc 6h ban quản trị tổ chức lễ hồi sắc để đưa linh vị trở về lăng miếu, chấm
dứt các nghi thức “vía Bà”.
Miếu
bà Chúa Xứ qua nhiều lần trùng tu ngày nay xứng đáng là một di tích nằm trong
một thắng cảnh mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế hàng ngày không ngớt khách hành
hương trong và ngoài nước lui tới viếng, là niềm tự hào cho dân bản xứ.
Yếu
tố độc đáo ấy còn chi phối toàn bộ suy nghĩ của chúng ta về những truyền thuyết
quanh sự hiện diện của bà.
Lễ
Vía Bà hằng năm thu hút rất đông khách thập phương. Đến với lễ hội họ vừa được
tham dự lễ hội dân gian phong phú để xin cầu tài cầu lộc, gia đình đầm ấm; Tại
đây còn có tục “vay tiền bà” vẫn còn, nên hiện nay mỗi năm tiền khoảng
10tỉ/năm; thì tiền này sẽ được dùng vào việc xây dựng, tôn tạo kiến trúc; hoặc
là mở đường từ thị xã Châu Đốc vào đây. Có người nói đùa: Bà là người phụ nữ
kinh doanh giỏi nhất ở Nam Bộ.
Đồng
thời họ có dịp để du ngoạn, chiêm ngưỡng cảnh trí thiên nhiên ở An Giang.
Diễn
tiến lễ hội: ngày 24 tháng 4 âm lịch đúng 12 giờ khuya tiến hành lam lễ mộc dục
(lễ tắm bà)
Chùa Tam Bửu
Chùa
Tam Bửu do ông Ngô Tư Lợi xây dựng ngày 26.06.1882. ông Ngô Tư Lợi là một sĩ
phu yêu nước của phong trào Cần Vương bị thực dân Pháp truy nã từ Mỹ Tho về Ba
Chúc dựng chùa tu hành để che mắt giặc. Cũng như chùa Phi Lai, chùa Tam Bửu là
tổ đình của đạo Hiếu Nghĩa, nơi đây còn lưu giữ được “Long Đình” vật gia bảo
của đạo còn truyền đến ngày nay, nó rất có giá trị về nghệ thuật.
Vào
cuối tháng 3.1978, khi bọn Pôn Pốt xâm lấn qua biên giới, nhân dân khắp nơi
trong xã thường chạy vào chùa trú ẩn. Ngày 17.04.1978 (ngày rằm tháng 3 âm
lịch) quân Pôn Pốt bắn pháo vào hậu liêu của chùa, một mảnh tường bị sụp đổ,
những người trú ẩn tại đây vừa bị thương vừa bị tường đè tiếng kêu la thảm
thiết, máu loang đầy nền chùa, 40 người chết, 20 người bị thương nằm chồng chất
lên nhau.
Đến
ngày 18.04.1978, quân Pôn Pốt tràn vào chùa Tam Bửu bắt hơn 800 người đem ra
khỏi chùa tước hết đồ đạc, rồi phân ra nam theo nam nữ theo nữ. Nam đưa về
hướng cánh đồng Cầu Sắt- Vĩnh Thông, Giồng ông Tướng, nữ đi về hướng Kinh 5 xã
và các nơi khác. Trong chùa còn lại 4 người già yếu, bệnh tật đi không nổi,
chúng lôi vào nhà khách bắn chết, sau đó đốt chùa.
Riêng
800 người bị bắt dẫn đi chỉ còn 2 người sống sót trở về, còn bao nhiêu bị chúng
giết hết.
Chùa Phi Lai
Chùa
Phi Lai nằm đối diện chùa Tam Bửu, cách núi Tượng 200m về hướng Đông. Chùa được
tín đồ Hiếu Nghĩa dựng nên vào ngày 19.01.1877.
Vào
những ngày quân Pôn Pốt đánh phá ác liệt vào xã Ba Chúc, nhân dân trong vùng
chạy vào chùa Phi Lai để tránh đạn pháo 3 giờ chiều ngày 18.04.1978 (16.03 âm
lịch), quân Pôn Pốt tràn vào chùa Phi Lai và miễu An Định, chúng bắn bừa bãi
tung lựu đạn giết trên 80 người. Những người còn sống sót chạy ra cửa chúng
dùng cây đập đầu hoặc bắn chết trên 100 người nữa, xác nằm ngổn ngang xung
quanh chùa. Riêng ở dưới bàn thờ Phật có 40 người đang ẩn trú. Bọn chúng dùng
lựu đạn ném vào làm chết 39 người. Còn lại một phụ nữ nằm trong góc được sống
sót. Hiện nay hầm còn dấu vết vụ thảm sát ấy.
Sau
ngày 30.04.1978 những người còn sống sót trở về tìm lại thân nhân mình, đã nhìn
thấy nhiều bàn tay máu trên vách tường, hành lang chùa Phi Lai, mà nhiều nhất
là các bàn tay máu của trẻ em. Phía bên tri trong chùa có một vòng máu búng lên
tường cao 4m, bên phải có một đường dài 7m, cao 0.6m. Phía trước chánh điện máu
và nước văng cao 0.2cm. Bà con xã Ba Chúc đã gánh trên 80 đôi nước để dội rửa.
Các
đội chữ thập đỏ lo thu gom xác người chết đốt lấy cốt tốn nhiều ngày mới hết.
Chùa Phi Lai ngày nay còn giữ nguyên các dấu vết tội ác này
Vụ thảm sát của Pôn Pốt trên đất Việt Nam
Có
một địa chỉ ghi dấu những tội ác kinh hoàng của Pôn Pốt tại xã Ba Chúc, huyện
Tri Tôn, tỉnh An Giang. Tại đây vẫn còn một khu nhà mồ tập thể chứa đựng 1.159
bộ xương cốt của những thường dân vô tội bị quân Pôn Pốt tàn sát.
Ngày
kinh hoàng
Cách
biên giới Việt Nam – Campuchia 7 km theo đường chim bay, Ba Chúc là xã có địa
hình bán sơn địa, toạ lạc giữa 2 ngọn núi lớn có tên núi Tượng và núi Dài Lớn
(còn gọi là Ngoạ Long Sơn). “Ngày vui hôm đó cũng là ngày đại tang ở Ba Chúc”.
Dòng
họ của tôi đã bị giặc Pôn Pốt giết hại trên trăm người, riêng gia đình tôi, từ
cha mẹ, chồng con, anh chị em ruột là 37 người…” – Tội ác của nạn diệt chủng bị
bánh xe của quá khứ lăn qua đã hơn 30 năm, nhưng trong câu chuyện kể của bà
Huỳnh Thị Nga, ấp An Định, một trong những nhân chứng sống của nạn diệt chủng,
chúng tôi đọc được sự kinh hoàng đến ám ảnh trong từng giọng nói đứt quãng và
những dòng nước mắt tuôn trào trên gương mặt nhăn nheo của bà.
Những
ngày tháng 4/1978, cùng nhân dân cả nước, nhân dân Ba Chúc long trọng chuẩn bị
làm lễ kỷ niệm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thì cũng là ngày mà bè lũ
Pôn Pốt vô cớ xua quân tấn công vào 8 tỉnh biên giới Tây Nam của Việt Nam,
trong đó có An Giang và Ba Chúc là nơi chúng tập trung đánh phá, giết chóc nặng
nề, tàn ác nhất.
Cao
điểm của cuộc thảm sát bắt đầu từ ngày 15/4/1978, quân Pôn Pốt đã “nã” vào Ba
Chúc mỗi ngày trên 1.000 quả pháo, có lúc lên đến 2.000 quả.
Đại
bộ phận nhân dân xã Ba Chúc được sự giúp đỡ của chính quyền và bộ đội đã được
đưa về nơi an toàn, còn một bộ phận vì lý do nào đó chưa kịp đi và đây chính là
nguyên nhân mà nhiều thường dân đã bị thảm sát.
Sáng
18/4/1978, sau khi chọc thủng tuyến phòng thủ của dân quân du kích xã Ba Chúc
tại núi Tượng, quân Pôn Pốt tràn vào Ba Chúc.
Trong
11 ngày đêm chiếm đóng (18/4 đến 30/4/1978), đám quân diệt chủng đã dìm người
dân Ba Chúc trong biển máu bằng vô số màn giết người dã man chẳng khác gì thời
trung cổ: Bắn người tập thể, cắt cổ, dùng dao, búa, xẻng đập đầu; xé trẻ em làm
hai hoặc nắm hai chân đập đầu vào gốc cây, vách tường, bờ đất hay quẳng lên
không rồi giương lưỡi lê đâm lòi ruột.
Đối
với phụ nữ, chúng bắt lột quần áo, hãm hiếp tập thể, xẻo vú, dùng cây tầm vông,
cọc trâm bầu, cán búa thọc hoặc nhét đá, đất, lá cây vào cửa mình cho đến chết…
Cùng
với việc diệt chủng, đám quân bạo ác triệt để thực hiện khẩu hiệu “Đốt sạch,
phá sạch”. Đi đến đâu, chúng cuớp bóc tài sản đến đó và vận chuyển về bên kia
biên giới. Thứ nào không lấy đi được thì chúng phá huỷ, đốt sạch, từ nhà dân
đến các công trình công cộng. Sau cuộc thảm sát, không một ngôi nhà nào ở Ba
Chúc còn nguyên vẹn.
Nơi
ghi hằn tội ác
Chùa Tam Bửu
Chùa
Tam Bửu do ông Ngô Tư Lợi, một sỹ phu yêu nước của phong trào Cần Vương xây
dựng để tu hành vào năm 1882 nhằm che mắt giặc. Ngày 17/4/1978, quân Pôn Pốt
bắn pháo vào hậu liêu của chùa, làm 40 người bị chết và 20 người bị thương nằm
chất chồng lên nhau.
Một
ngày sau, bè lũ diệt chủng tràn vào bắt hơn 800 người dân đem ra khỏi chùa tàn
sát và chỉ có một người sống sót. Cùng ngày, đối diện chùa Tam Bửu, chùa Phi
Lai được dựng lên vào năm 1877 cũng bị quân diệt chủng tràn vào xả súng, tung
lựu đạn giết chết trên 80 người.
Tội ác của bọn diệt
chủng
Những
người sống sót chạy ra bị chúng dùng cây đập đầu và xả súng khiến hơn 100 người
nữa mất mạng. Riêng dưới bàn thờ Phật có 40 người đang ẩn trốn đã bị chúng tung
lựu đạn làm chết 39 người… Sau ngày 30/4/1978, những người sống sót trở về đã
nhìn thấy phía trước chánh điện, máu người ngập ngụa.
Ngày
18/4/1978, khi quân Pôn Pốt tràn vào, một bộ phận nhân dân Ba Chúc rút chạy
không kịp nên kéo nhau lên núi Tượng ẩn nấp vào các hang đá để tránh sự tàn sát
của kẻ thù. Nhưng qua 11 ngày đêm chiếm đóng, bọn man rợ đã lùng sục và tàn sát
gần hết số bà con trốn trong các hang đá trên núi.
Tại
hang Vồ đá dựng (trước miệng hang có một tảng đá dựng thẳng, muốn vào hang,
người ta phải leo lên tảng đá mới vào được nên gọi là vồ đá dựng), đã xảy ra
câu chuỵên thương tâm: Vào những ngày quân Pôn Pốt chiếm đóng Ba Chúc, có 72
con người kéo lên đây, trong đó có 4 trẻ em.
Do
ở trong hang lâu ngày thiếu ăn, khát nước, ngột ngạt, bệnh hoạn nên các em la
khóc suốt ngày. Ngày 29/4, một tên nữ Pôn Pốt đi do thám và nghe tiếng trẻ em
khóc đã chạy đi báo cáo. Trước nguy cơ bị tàn sát, bà con quyết định hy sinh
tính mạng các cháu để cứu tất cả mọi người.
Tại
hang cây da (trước miệng hang có một cây da lớn) có 17 người lẩn trốn. Bọn Pôn
Pốt lùng sục được đã xả súng bắn chết 14 người, sau đó chúng hãm hiếp một chị
tên Chuột rồi lấy cây đâm vào cửa mình chị cho đến chết.
Tại
hang Ba Lê, có gần 50 người bị thảm sát. Hang này trước không có tên nhưng sau
vụ cha mẹ, vợ con, anh em, dòng họ của anh Nguyễn Văn Lê bị quân Pôn Pốt thảm
sát, chỉ có một mình anh Lê, con thứ 3 trong gia đình sống sót nên sau đó, mọi
người đã gọi là hang Ba Lê.
Tại
Cầu Sắt – Vĩnh Thông (cầu do Pháp xây dựng năm 1920), từ ngày 18/4 đến ngày
30/4/1978, bọn Pôn Pốt đã lùa dân ra đây tàn sát trên 300 người. Tại Giồng Ông
Tướng và khu nhị tỳ nằm dưới chân núi Tượng, đã có trên 100 người bị quân Pôn
Pốt tàn sát…
Những
địa điểm trên là những nơi ghi hằn tội ác man rợ mà bọn diệt chủng Pôn Pốt
Iêng-Xary gây ra trên đất Việt Nam – Một dân tộc, một đất nước luôn đối với
nhân dân Campuchia anh em bằng tình hữu nghị, đoàn kết chiến đấu chống đế quốc
xâm lược.
Bản
cáo trạng ngàn đời
Sau
khi đánh đuổi bè lũ diệt chủng về bên kia biên giới, lúc này, việc gom xác
người chết mới được tiến hành. Hài cốt được gom lại thành từng cụm. Ba Chúc
trước thảm doạ diệt chủng có trên 15.000 dân nhưng sau thảm hoạ thì vắng hoe.
Vì
ám ảnh bởi nạn diệt chủng nên sau khi sơ tán, lúc bình yên đã trở lại, nhiều
người vẫn không dám về. Một năm sau, mảnh đất Ba Chúc vẫn lạnh lẽ…
Nhà mồ Ba Chúc – Bản
cáo trạng ngàn đời
Theo
tài liệu của Uỷ ban Trung ương điều tra tội ác chiến tranh ngày 30/7/1978 đã
cho biết số liệu về tội ác diệt chủng của giặc Pôn Pốt gây ra cho nhân dân Ba
Chúc: 3.157 người bị sát hại. Trên 100 hộ bị giết sạch không người sống sót,
hơn 200 người chết và bị thương, cụt tay chân do đạp nhằm mìn và lựu đạn của
quân Pôn Pốt gài lại.
Họ
Hà trước là một dòng tộc lớn bị giết hại hoàn toàn. Có 2.840 căn nhà bị đốt
cháy hoặc phá hủy, toàn bộ cơ sở vật chất, kho tàng, công trình công cộng bị
tàn phá 100%, 24 chùa am lớn nhỏ của đạo Hiếu Nghĩa bị phá huỷ và hư hại, 4
điểm trường học và một trạm xá bị tàn phá.
Để
giáo dục ý chí căm thù, đề cao cảnh giác, đồng thời tố cáo tội ác của bè lũ
diệt chủng Pôn Pốt cho nhân dân trong nước và thế giới biết đến, năm 1979,
chính quyền tỉnh An Giang đã cho xây dựng khu Chứng tích tội ác giữa chùa Phi
Lai và chùa Tam Bửu trên diện tích 3.000 m2 thuộc ấp An Định.
Khu
chứng tích này gồm 7 hạng mục công trình: Vòng rào, nhà mồ, bia căm thù, nhà
thuỷ tạ, hồ sen, nhà tiếp khách. Trong các công trình trên, nhà mồ là công
trình chính, có hình dạng lục giác, mỗi góc là một trụ cột đỡ mái nóc nhà bằng
hình tượng bàn tay cầm chuôi kiếm đẫm máu giương thẳng thể hiện ý chí căm thù.
Chính
giữa nhà mồ là khung hộp kính tám cạnh bằng nhau, chứa đựng 1.159 xương cốt của
những thường dân vô tội bị giặc Pôn Pốt thảm sát. Hàng năm, vào những ngày giỗ
những người đã chết, nhân dân xã Ba Chúc tập trung tại nhà mồ cúng tế và gọi
đây là Ngày giỗ hội căm thù.
Khu
Nhà mồ Ba Chúc được Nhà nước ta công nhận là Di tích căm thù theo quyết định
của Bộ Văn hóa Thông tin vào ngày 10/7/1980. Vì có nhiều điểm thảm sát nên chỉ
phát bằng công nhận cho 3 điểm tiêu biểu là nhà mồ, chùa Tam Bửu và miếu An
Định (tức chùa Phi Lai).
Khu
Nhà mồ Ba Chúc là bản cáo trạng, là chứng tích tội ác trời không dung, đất
không tha của bọn diệt chủng Pôn Pốt, là một di chúc nhắc nhở mọi người ý thức
cảnh giác và là vành tang chung cho dân tộc Việt Nam và cả những người yêu
chuộng hòa bình trên thế giới.
Du Lịch Cần Thơ
CẦU MỸ THUẬN
Cầu Mỹ Thuận là một cây cầu được xây dựng bắc qua
sông Tiền, nối liền hai tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long. Cầu nằm cách Thành phố Hồ
Chí Minh 125 km về hướng Tây Nam, trên Quốc lộ 1A, là trục giao thông chính của
vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Cầu Mỹ Thuận nối liền giữa hai tỉnh Tiền Giang và
Vĩnh Long. Đầu cầu phía Bắc thuộc xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang; đầu
cầu phía Nam thuộc xã Tân Ngãi, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Vượt qua
sông Tiền nối với tỉnh Tiền Giang.
CẦU CẦN THƠ
Cầu Cần
Thơ là cây cầu bắc qua sông Hậu, nối thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long. Tại
thời điểm hoàn thành (2010), đây là cây cầu dây văngcó nhịp chính dài nhất tại
khu vực Đông Nam Á.
Cầu Cần
Thơ được khởi công xây dựng ngày 25 tháng 9 năm 2004. Ban đầu, công trình được
dự kiến hoàn thành vào ngày 14 tháng 12 năm 2008, tuy nhiên sau sự kiện Sự cố sập
nhịp dẫn cầu Cần Thơ ngày 26 tháng 9 năm 2007, công trình phải dừng thi công để
điều tra tai nạn. Vì vậy tiến độ hoàn thành bị chậm trễ hơn 1 năm. Cuối cùng, cầu
cũng được khánh thành vào lúc 09h00 sáng ngày 24 tháng 4 năm 2010.
Cầu Cần
Thơ có những đặc trưng phổ biến của loại cầu dây văng, cùng môt số đặc điểm
riêng như sau:
Về móng trụ
tháp: là loại cọc khoan nhồi có đường kính 2,50 m nhưng có chiều dài vào loại
dài nhất được thi công ở Việt Nam: 94 m và mỗi cọc có 45 tấn thép với cốt thép
chủ đường kính 38 mm và gần 500 m³ bê tông mác 30 Mpa. Trụ bờ Bắc có 30 cọc và
trụ bờ Nam có 36 cọc. Máy khoan cọc nhồi làm việc theo nguyên tắc tuần hoàn ngược
liên tục dùng dung dịch bentonite có pha polymer khoảng 5%. Ở trụ bờ Bắc thi
công trên bờ nên dùng ống thép đường kính 2,60 m dày 22 mm và dài 12 m làm ống
vách tạm thời (khoan nhồi xong rút lên). Ở trụ bờ Nam thi công dưới nước có độ
sâu 20 m nên phải dùng ống vách chiều dài 42 m cố định (khoan nhồi xong để lại
không rút lên). Chân cọc sau khi đổ bê tông được bơm vữa xi măng bằng bơm áp lực
cao để tăng cường sức chịu tải của cọc.
Bệ trụ tháp bờ
Bắc thi công trên cạn nên làm hố móng và lắp khuôn đúc đổ bê tông thông thường.
Riêng bệ trụ tháp bờ Nam thi công dưới nước nên mặt đáy và vòng vây xung quanh
được đúc sẵn trên bờ và lắp ghép trên đâu cọc thành ván khuôn liền với bệ trụ.
Vòng vây xung quanh có chiều sâu ngập trong nước dưới cao trình mặt đáy bệ để
che chắn bảo vệ đầu cọc. Đây là phương pháp rất hay vừa tiết kiệm chi phí khuôn
đúc, vừa đẩy nhanh tiến độ thi công. Nhưng phải đảm bảo việc định vị các cọc hết
sức chính xác trong quá trình thi công khoan nhồi (đặc biệt là thi công dưới nước
dòng chảy mạnh và mực nước lên xuống do ảnh hưởng của thủy triều), nếu không
chính xác các tấm đáy không lắp ghép được và khó mà bịt kín đáy để thi công cốt
thép trong môi trường khô ráo. Cốt thép thi công bệ trụ có đường kính lớn nhất
tới 52 mm và nối dối đầu bằng đầu nối có ren, thí nghiệm kiểm chứng cho thấy
khi kéo phá hoại cốt thép đứt ở thân chứ không đứt ở mối nối.
Về trụ tháp có
chiều cao tính từ mặt nước là 164,80 m và tính từ mặt cầu là 134,70 m. Trụ có
hình chữ Y ngược và hai chân khép vào để thu hẹp diện tích bệ trụ, hình dạng
này rất đẹp và thanh thoát, không như hình chữ H xoạc cẳng, trụ có biểu tượng
như hai bàn tay chắp lại vái lên trời với tâm linh của người Á Đông.
Kết cấu phần
trên: Nhịp dây văng có chiều dài 550 m giữa hai trụ tháp, có tĩnh không thông
thuyền cao 39 m (với chiều rộng tương ứng 200 m) đảm bảo cho tàu 10.000 DWT qua
lại thường xuyên.
Kết cấu mặt cầu
là dầm hộp bê tông cốt thép đúc tại chỗ mác 50 Mpa, mặt cắt ngang là hình thang
ngược gồm 4 khoang, đáy ở trên có chiều rộng 26,0 m và chiều cao là 2,70 m. Vì
chiều dài nhịp 550 m là khá dài đối với cầu dây văng, nên để giảm bớt tải trọng
của nhịp chính, đoạn giữa của cầu 210 m được kết cấu bằng dầm hộp thép chế tạo
sẵn và lắp ghép với dầm bê tông cốt thép đã được đúc tại chỗ. Chính ở chỗ mối nối
giữa dầm bê tông cốt thép và dầm thép phải thiết kế đặc biệt theo mô hình phần
tử hữu hạn (FEM) để chuyển tiếp ứng suất giữa hai loại vật liệu có độ cứngvà
đàn hồi khác nhau
Hệ dây văng
khác với phương pháp truyền thống là các sợi thép bện thành tao rồi kéo và neo
tùng tao trước khi cố định cả bó cáp dây văng. Ở đây toàn bộ bó cáp dây văng được
chế tạo sẵn trong nhà máy rồi căng kéo và neo trên công trường chứ không phải
kéo từng tao. Tất nhiên thiết bị và công nghệ căng kéo là mới và được áp dụng lần
đầu tiên ở Việt Nam.
Chợ
nổi Cái Răng là chợ nổi chuyên trao đổi, mua bán nông sản, các loại trái cây,
hàng hóa, thực phẩm , ăn uống và là điểm tham quan đặc sắc của quận Cái
Răng,thành phố Cần Thơ.
Nét độc
đáo và đặc điểm chính của chợ nổi Cái Răng là chuyên buôn bán các loại trái
cây, đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thuở xưa, chợ nổi hình thành là
đường bộ và phương tiện lưu thông đường bộ chưa phát triển, trong khi đó nhu cầu
mua bán, trao đổi hàng hóa, người ta tụ tập trên sông và bằng các phương tiện
như xuồng, ghe, tắc ráng.... Ngày nay, dù mạng lưới giao thông đường bộ đã phát
triển rộng khắp nhưng chợ nổi vẫn tồn tại và phát triển ngày một sầm uất hơn.
Chợ
nổi Cái Răng cũng là chợ đầu mối chuyên mua bán sỉ các loại trái cây, nông sản
của vùng. Hàng hóa tập trung ở đây với số lượng lớn. Mỗi mặt hàng đã được phân
loại cho đồng đều về chất lượng, kích cỡ. Nếu như dân địa phương và các vùng
lân cận thường sử dụng các ghe, xuồng trung bình chở các mặt hàng nông sản đến
đây tiêu thụ thì những ghe bầu lớn là của các thương lái thu mua trái cây tỏa
đi khắp nơi, sang tận Campuchia và Trung Quốc. Hòa mình vào không khí nhộn nhịp
của buổi chợ, du khách có thể quan sát, tìm hiểu sinh hoạt của nhiều gia đình
thương hồ với nhiều thế hệ chung sống trên ghe. Có những chiếc ghe như
"căn hộ di động" trên sông nước với những chậu hoa kiểng, các loài vật
nuôi, các tiện nghi đầy đủ như ti-vi màu, đầu dĩa, dàn âm thanh... có cả xe gắn
máy đậu trên ghe.
Chợ
Cái Răng thường họp khá sớm, thường từ lúc mờ sáng và đến khoảng 8, 9 giờ thì
vãn.
Khách tham quan
nên đi vào khoảng 7-8 giờ là tốt vì có thể tham quan đúng vào lúc chợ hoạt động
đông đúc nhất.
Chợ không hoạt
động và hoạt động rất ít vào các ngày Tết Âm Lịch (mồng 1 và mồng 2 Tết, Tết
Đoan Ngọ (mồng 5 tháng Năm âm lịch).
Do nhu cầu của
người đi chợ nên không chỉ có các xuồng trái cây, nông sản phẩm mà còn có nhiều
loại dịch vụ khác: phở, hủ tiếu, cà phê, quán nhậu nổi... Các xuồng dịch vụ
(thường là thuyền nhỏ) len lõi phục vụ khách đi chợ và cả khách tham quan.
Chợ đã nổi từ nửa đêm về sáng
Ta vẫn chìm từ giữa bữa hoàng hôn
Em treo bẹo Cái Răng Ba Láng
Ta thương hồ Vàm Xáng Cần Thơ
Đờn ca
tài tử Nam bộ là một dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã hình thành và phát triển
từ cuối thế kỉ 19, bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân
gian. Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ.
Đờn ca tài tử là nghệ thuật của đàn và ca, do những người bình dân, thanh niên
nam nữ nông thôn Nam Bộ hát ca sau những giờ lao động. Đờn ca tài tử xuất hiện
hơn 100 năm trước, là loại hình diễn tấu có ban nhạc gồm 4 loại là đàn kìm, đàn
cò, đàn tranh và đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau này, có cách tân bằng cách thay
thế độc huyền cầm bằng cây guitar phím lõm. Những người tham gia đờn ca tài tử
phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau. Họ tập trung lại để cùng chia sẻ thú
vui tao nhã nên thường không câu nệ về trang phục.
Loại âm
nhạc này đúng ra là một loại nhạc thính phòng thường trình diễn trong phạm vi
không gian tương đối nhỏ như trong gia đình, tại đám cưới, đám giỗ, sinh nhật,
trong các lễ hội, sau khi thu hoạch mùa vụ, thường được biểu diễn vào những đêm
trăng sáng ở xóm làng.
Nguồn
gốc của nhạc tài tử là ca Huế, pha lẫn âm nhạc từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi. Loại nhạc này mang đậm tính cách giải trí vui chơi chứ không thuộc loại
nhạc lễ.
Ban
nhạc tường dùng năm nhạc cụ, thường gọi là ban ngũ tuyệt gồm đàn tranh, đàn tỳ
bà, đàn kìm, đàn cò, và đàn tam. Phụ họa thêm là tiếng sáo thường là sáo bảy lỗ.
Về
trang phục, những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với
nhau nên thường chỉ mặc các loại thường phục khi tham gia trình diễn. Khi nào
diễn ở đình, miếu hoặc trên sân khấu họ mới mặc các trang phục biểu diễn.
Những
năm gần đây nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch nên các nhóm nhạc tài tử hợp
lại với nhau thành các câu lạc bộ đờn ca tài tử mang tính bán chuyên nghiệp.
Bên cạnh nghề nghiệp chính, họ phục vụ văn nghệ khi có yêu cầu.sinh ra ở cuối
thế kỷ 19 ở phía nam. Nó bắt nguồn từ các NHC, NHC bí danh ng h (một loại nhạc
được phát triển trong thế kỷ 17, dựa trên suy tôn nhạc được sử dụng bởi các tòa
án hoàng gia của các kinh đô cũ của Huế và các tỉnh Nam Trung Bộ), NHC nha cung
Hồ Inh (một hình thức của âm nhạc cung đình Huế) và văn học nổi tiếng.
Một
số người nói rằng từ nghiệp dư có nghĩa là tài tử. Trong thực tế, từ này có
nghĩa là tài năng và ngụ ý rằng những người này không có hiệu quả hoạt động của
đời sống âm nhạc của họ, chỉ để cho vui hoặc những người khác. Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là họ không phải là chuyên gia. Ngược lại, để trở thành một
nghệ sĩ trong ý nghĩa xác thực nhất của từ này, họ phải thực hành trong một thời
gian dài.
Đối
với hình thức âm nhạc, vai trò của các ca sĩ và nhạc sĩ đều bình đẳng. Ca trù
hát và người ca (bài hát truyền thống từ miền Bắc và miền Trung) là phụ nữ,
trong khi đờn ca tài tử bao gồm các ca sĩ nam nữ và họ có vai trò bình đẳng.
Đờn
ca tài tử sử dụng dụng cụ như đàn cò, đàn nguyệt (hai dây đàn luýt), đàn tranh(
đàn tam thập lục),nhịp song lan (hai miếng tre được sử dụng để nhấn write khác
để theo đuổi nhịp điệu) hoặc ta Ghita lõm .
Loại
hình âm nhạc không chỉ ở các lễ hội và các bên mà còn trong thời gian sau thu
hoạch. Ngoài ra, nó có thể được chơi trong bóng mát của cây, con thuyền hoặc
trong đêm trăng sáng.
Văn Hóa
Một số tính cách người Cần Thơ biểu hiện qua ca dao
1.
Người Cần Thơ thanh lịch
Nhắc đến Cần Thơ, người ta không chỉ nghĩ đến những
cánh đồng bát ngát, những dòng sông chở nặng phù sa hay những vườn cây trái
xanh tươi, những sản vật và nguồn lợi từ thiên nhiên, mà còn biết đến với những
con người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau với một tấm lòng nhân hậu, nhân
ái và bao dung. Hai tiếng Cần Thơ đã để lại trong tâm thức của các tác giả dân
gian ấn tượng về một vùng đất trù phú, giàu đẹp, cây lành trái ngọt quanh năm.
Không chỉ nổi tiếng là vùng đất giàu có về sản vật, mà còn là đất nổi tiếng nam
thanh, nữ tú: “Đất Cần Thơ nam thanh nữ tú”
“Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Cần Thơ
Làm
chi nay đợi mai chờ
Linh đinh Phong Mỹ, dật dờ Hòa An”
Ở đây, các tác giả dân gian không chủ đích đề cập
đến sự so sánh “hơn kém” của người Cần Thơ, chỉ muốn nhấn mạnh đến việc ca ngợi
những con người Cần Thơ thanh lịch, trẻ trung, năng động. Công thức “nào…bằng"
xuất hiện trong bài ca dao nhằm ca ngợi nét đẹp chung của những con người vùng
sông nước Cần Thơ.
2. Người
Cần Thơ giàu lòng hiếu khách
Người Cần Thơ rất cởi mở và giàu lòng hiếu khách,
dù gặp người quen hay lạ đều chào hỏi ân cần; khi có khách đến nhà chơi thì mọi
thành viên trong gia đình đều vui vẻ và phấn khởi. Để biểu lộ lòng hiếu khách,
họ thường chuẩn bị một bữa cơm với những món đặc sản kiểu "cây nhà lá vườn",
tuy đơn sơ, giản dị nhưng lại rất chu đáo và trân trọng:“Bắt con cá lóc nướng
trui/Làm mâm rượu trắng đãi người phương xa”. Một bữa cơm dân dã với
cá lóc nướng trui và vài li rượu trắng nhưng tất cả là tấm lòng của người Cần Thơ
đón chào khách đến nhà, đãi khách phương xa bằng tất cả tấm chân tình của gia
chủ, dân dã mà nghĩa tình.
Người Cần Thơ quý trọng tình cảm, vì đó là giá trị
tinh thần cao quý của dân tộc. Người Cần Thơ cũng như người Nam bộ, luôn tìm mọi
cách để thuyết phục "khách phương xa" theo một cung cách khó thể chối
từ: “Đến đây thì ở lại đây/Bao giờ bén rể xanh cây thì về”. Lời
mời thể hiện lòng hiếu khách của người Nam Bộ nói chung, người Cần Thơ nói
riêng. Qua ngữ liệu ca dao, một lần nữa khẳng định phẩm giá của con người vượt
lên trên tiền tài, danh vọng. Họ không chỉ sống thân thiện, gần gũi với những
người xung quanh mà còn có tấm lòng hiếu khách tuyệt vời, họ luôn mở lòng đón
tiếp những "du khách" đến với vùng đất này bằng thái độ vui vẻ, nhiệt
thành và nồng hậu:“Cần Thơ cảnh đẹp, người xinh/Quyện lòng du khách, gợi
tình nước non”
Khi tìm hiểu về tính cách người Cần Thơ ta mới thấy
rõ hơn những tình cảm đáng yêu, đáng trân trọng và tự hào giữa người với người.
Chính tình cảm này giúp cho một vùng đất mới như Cần Thơ thu hút nhiều cư dân của
nhiều địa phương trong cả nước đến sinh cơ lập nghiệp, từ đó tạo nên sự đa dạng
và giao thoa văn hóa các vùng miền, càng làm phong phú hơn các giá trị nhân văn
người Cần Thơ hôm nay.
3. Người
Cần Thơ rộng rãi, hào phóng
Do thiên nhiên ưu đãi nên Cần Thơ có nhiều điều kiện
thuận lợi trong phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Cần Thơ có nhiều
cá tôm, vườn cây ăn trái, ruộng lúa phì nhiêu, màu mỡ. Đây còn là vùng đất
"dễ bề làm ăn", "đất lành chim đậu". Từ điều kiện tự nhiên
như vậy đã nảy sinh tính cách phóng khoáng, rộng rãi và hào phóng của người Cần
Thơ:“Sông sâu nước chảy đá mòn/Của kia ăn hết nghĩa còn ghi xương”. Dù
phải vất vả làm ra đồng tiền nhưng họ vẫn sống đúng nghĩa với lương tâm của
mình. Tình nghĩa là thước đo giá trị của người Cần Thơ:“Thương ai chữ nghĩa
hơn vàng/Chữ nhân coi trọng, chữ sang bình thường”
Nhân nghĩa là quan trọng hàng đầu để mọi người sống
bên nhau bền lâu, họ thích người có tài năng và bản lĩnh thật sự. Rộng rãi, hào
phóng là tính cách khá nổi bật của người Nam bộ nói chung, người Cần Thơ nói
riêng. Tính cách này đã giúp cho tình người thêm xích lại gần nhau, cởi mở và
tương trợ nhau trong quá trình lập nghiệp và định cư.
4. Người
Cần Thơ trọng nghĩa, khinh tài
Người Cần Thơ quý trọng tình nghĩa, từ tình nghĩa
vợ chồng, anh em trong gia đình đến tình làng nghĩa xóm, tình đồng chí, nghĩa đồng
bào. Người Cần Thơ dám nghĩ, dám làm, sống vì tình nghĩa. Trọng nghĩa là tinh
thần của người Nam Bộ nói chung và người Cần Thơ nói riêng. Họ là những con người
nghĩa khí, sẵn sàng xả thân mình để cứu lấy người khác, để làm những việc họ
cho là hợp với đạo lý ở đời, hợp với luân thường đạo lý:“Dấn mình vào đám
chông gai/Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân”
Vốn là những lưu dân đi tìm sự sống trong sự đối mặt
với rất nhiều khó khăn, có khi phải hy sinh cả mạng sống của mình, họ có thể vượt
qua nguy hiểm là nhờ vào sự liên kết, nhờ vào tinh thần "hoạn nạn, sanh tử
bất ly" nên họ càng thấm thía thế nào là tình nghĩa thâm giao, tình bằng hữu.
Đây như là một nét tiêu biểu trong tình cảm của con người vùng sông nước Cửu
Long – sông nước Cần Thơ: “Nhân nghĩa là chúa muôn đời/Bạc tiền là
khách qua chơi bây giờ”
Người Cần Thơ rất rõ ràng, sống đơn giản, yêu ghét
phân minh. Họ quý trọng nhân nghĩa, khinh thường, coi rẽ cái ác, cái xấu, cái
giả dối, tiêu cực. Nhân nghĩa được đặt lên vị trí hàng đầu, tiền tài là thứ có
nay rồi mất mai, chỉ có tình nghĩa mới trường tồn vĩnh cửu: “Tiền tài
như phấn thổ/Nhân nghĩa tựa thiên kim”
Mỗi câu ca dao là một kinh nghiệm sống thực tế của
con người, đó là những gì mà họ đã tiếp nhận, chọn lọc được trong cuộc sống của
họ. Nhưng không phải trong cuộc sống ai cũng vậy, có người này thì có kẻ khác:
“Đứt dây nên gỗ mới chìm/Người bất nhân bất nghĩa kiếm tìm làm chi”
Những con người sống không có tình nghĩa là những
con người chỉ biết bản thân mình mà không quan tâm đến những người xung quanh,
nên họ không xứng đáng nhận được tình cảm từ những người xung quanh. Ham giàu
sang, danh vọng để làm gì khi sống trong sự hơn thua, ganh ghét nhau, làm cho
lòng người không thể thanh thản được, một khi mình gặp phải khó khăn thì cũng bị
mọi người bên cạnh khinh rẽ, chứ không hề cảm thương: “Khi giàu chẳng
có đỡ ai/Đến khi hoạn nạn chẳng ai đỡ mình”
Những bài ca dao là bức tranh chân thực phản ánh của
cuộc sống và tính cách con người, trong đó có người Cần Thơ. Tính cách “trọng
nghĩa, khinh tài” đã góp phần xây dựng một Cần Thơ nhân ái, hào hiệp, sống có
nghĩa có tình, biết thương yêu và trân trọng những giá trị truyền thống cao quý
của dân tộc.
Ẩm thực
Cần Thơ ngày càng thể hiện sự phong phú, đặc sắc bởi không chỉ giữ nét đặc
trưng sông nước miền Tây mà còn giao thoa với ẩm thực của nhiều nước: Hàn Quốc,
Nhật Bản, Thái Lan… Điều đó mang đến những trải nghiệm thú vị cho du khách đến
với vùng đất "gạo trắng nước trong" này.
* Đặc trưng vùng sông nước
Theo nhận xét của nhiều du khách, ẩm thực Cần Thơ
là sự kết tinh từ các món ăn đặc sản của nhiều địa phương trong khu vực ĐBSCL.
Mỗi món ăn được chế biến theo một cách riêng, nhưng đều có điểm chung là mang
"hơi hướm" của văn hóa ẩm thực miền sông nước. Những món ăn đặc sản Cần
Thơ đều mang một sắc thái hương vị khác nhau, và đều hấp dẫn thực khách.
Ở Cần Thơ, nhắc đến đường Lê Lai (quận Ninh Kiều),
nhiều người đều biết đây là con đường ăn uống với những món ăn giá
"bèo", giới bình dân rất ưa chuộng. Trong đó, món bánh bèo trở thành
thương hiệu với tên gọi quen thuộc suốt hơn 20 năm qua- "bánh bèo Lê
Lai" của cô chủ quán Nguyễn Kim Sương. Nếm qua bánh bèo Lê Lai, thực khách
sẽ cảm nhận được dư vị ẩm thực miền Tây khác biệt so với nhiều vùng miền khác,
nhất là so với cùng một loại bánh- bánh bèo miền Trung. Bí quyết để tạo nên những
chiếc bánh nho nhỏ, xinh xinh, mềm, dẻo thơm, chính là cách làm bột thủ công
cùng các nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên như lá dứa, nước dừa… Việc gia giảm
vị mặn, ngọt rất đặc trưng của miền Tây cũng góp phần làm nên danh tiếng của
bánh bèo Lê Lai. Một đĩa chỉ có vài miếng bánh bèo, ít bánh mì chiên, thịt heo
xắt sợi, bì và nước cốt dừa chan ngập mặt bánh. Tùy theo ý thích, người ăn chan
ít hay nhiều nước mắm và bỏ chút ớt để thêm vị cay nồng. Đơn giản vậy thôi mà
thực khách cứ mải mê gọi hết đĩa này đến đĩa khác và đã thử một lần rồi thì rất
dễ đâm ghiền! Ngoài đặc sản bánh bèo, quán còn có nhiều loại bánh khác như:
bánh mặn, bánh chuối, gỏi cuốn, bún bì, bánh bò, bánh tằm…với mức giá bình dân
từ 4.000 -15.000 đồng/món.
|
Thực khách thưởng thức món Thái ở
Pattaya Taste Restaurant. Ảnh: Kiều Mai |
Cũng giữ nét đặc trưng của ẩm thực miền sông nước,
quán Hồi Đó, đường Trần Bình Trọng, ngoài các món bánh ăn vặt truyền thống
(bánh đúc, bánh lá, bánh bột lọc…) còn có bữa cơm "rặt" Nam Bộ với
các món: cá kho, canh chua, canh rau tập tàng, rau luộc, cà nướng, kho quẹt, ba
khía trộn tỏi ớt… Chị Nguyễn Thị Hồng Đào, chủ quán Hồi Đó, chia sẻ: "Để
các món ăn đúng chất Nam bộ, trước tiên nguyên liệu phải mua từ miền quê, và do
phụ nữ lớn tuổi ở quê nấu". Hồi Đó có khoảng 30 món ăn, từ món chính đến
ăn vặt đều đậm nét chân quê, bình dị giúp du khách thỏa sức thưởng thức để cảm
nhận nét văn hóa ẩm thực đặc sắc của vùng sông nước Cửu Long.
Trong khi đó, thế giới ẩm thực của Quyenn, đường Mậu
Thân, đưa thực khách đến các món đặc sản từ bún: bún nước lèo, bún bì xíu mại,
bún gỏi dà… Hơn 30 năm làm bếp, cô Lê Thị Thu Hòa- đầu bếp tại Quyenn không ngừng
góp nhặt công thức từ các địa phương vùng Tây Nam Bộ để tạo nên hương vị
"đặc sệt" bản địa. Chẳng hạn, bún gỏi dà phải có tép và tương xay.
Tép là một trong thành phần quan trọng của nước súp, tạo nên chất ngọt đặc biệt.
Tương xay trộn với đậu phộng rang, đâm nhuyễn và tỏi phi, hòa với nước súp, tạo
nên hương vị độc đáo của món bún gỏi dà.
Du khách đến đất Cần Thơ khó có thể từ chối trước
sự hấp dẫn của các món ăn dân dã miền sông nước. Và đặc biệt, trong những năm gần
đây, ẩm thực Cần Thơ càng đa dạng, phong phú hơn trước các món ăn đến từ nhiều
nước trên thế giới…
* Đa sắc ẩm thực quốc tế
Cần Thơ
là "thủ đô", trung tâm kinh tế, văn hóa khu vực ĐBSCL, vì vậy, Cần
Thơ cũng là nơi giao thoa với nhiều nền văn hóa ẩm thực quốc tế. Khoảng 2 năm
nay, Cần Thơ rộ lên các món ăn Nhật Bản và Hàn Quốc: mì cay, lẩu băng chuyền,
sushi, kimbap, tteokbokki (bánh gạo), bibimbam (cơm trộn)… Để thưởng thức các
món này, du khách có thể ghé các quán Kichi kichi, King BBQ ở Trung tâm thương
mại Vincom Hùng Vương hoặc các quán trên đường Lý Tự Trọng, Lê Lai, 30 Tháng 4…
Mang phong cách Hàn Quốc, quán Omega 3-6-9, đường
Mạc Đĩnh Chi, phục vụ mì cay và lẩu băng chuyền. So với lẩu băng chuyền Kichi
kichi, mức giá ở đây rẻ hơn, chỉ 149.000 đồng/người, lẩu và nguyên liệu tự chọn
cũng khá phong phú. Chị Trần Thị Diễm Kiều, chủ quán Omega 3-6-9, cho biết nét
đặc sắc các món ăn Hàn là phải đảm bảo độ cay, thơm và sử dụng nhiều loại rau,
nấm tươi. Món bibimbam hấp dẫn bởi sự hài hòa màu sắc: màu đỏ của cà rốt bào sợi,
màu xanh của dưa leo, rau, màu trắng của nấm, màu vàng của trứng hòa với tỏi
phi….Khi ăn chỉ cần trộn đều các thứ, thêm chút tương cay, tạo nên hương vị khá
lạ, đầy hấp dẫn. Với mì cay, sẽ phân chia từng cấp độ (thông thường là 7 độ
cay) để du khách có thể lựa chọn phù hợp với khẩu vị cá nhân. Nếu không thích
các món Hàn đậm vị cay, du khách có thể thưởng thức cháo ếch Singapore ở đường
Xô Viết Nghệ Tĩnh, Đinh Tiên Hoàng. Nét đặc sắc của món ăn này chính là cách chế
biến, nêm nếm gia vị theo đúng hương vị Singapore- hỗn hợp muối, bột nêm, đường,
dầu hào, nước tương, dầu mè, rượu Mai Quế Lộ và Kung Pao- sốt gia vị của người
Hoa.
Gần đây, Cần Thơ có thêm nhà hàng Pattaya Taste
Restaurant, đường Mậu Thân, chuyên phục vụ các món Thái: gà nướng lá dứa, cơm
nướng trái khóm, lẩu Tom Yum, Som Tam (salad làm từ đu đủ)…. Anh Võ Quốc Tuấn-
chủ nhà hàng Pattaya Taste Restaurant, cho biết: "Ẩm thực Thái phải có
hương vị cay nồng, có chút chua, vị béo, có mùi thơm từ gia vị đặc biệt như:
chanh Thái, sả, tỏi, riềng… Các món ăn có sự hòa quyện tinh tế giữa nguyên liệu
với gia vị, thảo dược". Chẳng hạn, món lẩu Tom Yum, nhất định phải có
chanh Thái- loại cây mọc phổ biến ở các vùng biển của Thái, có vị chua, the và
rất thơm; hay Cha Yen- trà Thái đặc trưng với vị thơm nhẹ, thanh mát pha chút
béo của sữa. Hiện Pattaya Taste Restaurant có khoảng 30 món Thái và sắp tới nhà
hàng còn đưa thêm vài món mới như: Khao niew ma muang (xôi xoài), Cà-ri Panang…
tạo thêm sự phong phú. Để nấu các món Thái đúng hương vị, anh Tuấn nhập các
nguyên liệu từ Thái Lan và công thức chế biến các món ăn cũng học từ chính người
Thái bản địa.
Ẩm thực Cần Thơ không chỉ phong phú, sáng tạo
trong việc sử dụng nhiều loại nguyên liệu để chế biến ra những món ăn hấp dẫn
mà còn thể hiện ở sự chan hòa, gắn bó thân thiết với các nền văn hóa ẩm thực
khác trên thế giới. Điều đó góp phần để du lịch Cần Thơ thêm sức hút đối với du
khách.
Các điểm tham quan ở Cần
Thơ
1/Chùa Ông - Di tích lịch sử văn hóa độc đáo của Cần
Thơ
Quá
trình hình thành, phát triển, đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của mỗi
vùng đất đều được lưu giữ qua những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Tại
Cần Thơ, có một di tích lịch sử văn hóa tuổi đời hơn trăm năm, được nhiều thế hệ
giữ gìn trọn vẹn đến nay, là một phần tâm hồn và di sản của người Tây Đô. Đó là
miếu thờ Quan Đế, mà dân gian vẫn quen gọi bằng tên thân thuộc Chùa Ông, tọa lạc
trên đường Hai Bà Trưng, phường Tân An, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ – đối diện Bến
Ninh Kiều.
Theo các tư liệu khắc gỗ hiện có, chùa Ông bắt đầu
xây dựng vào năm 1894, đến năm 1896 hoàn thành, trên diện tích 532m2. Hầu hết
các vật liệu để xây chùa đều được đưa từ Quảng Đông sang. Vừa vào cổng, là bảng
đại tự "Quảng Triệu Hội Quán". Công trình do nhóm người Hoa gốc từ Quảng
Châu và Triệu Khánh lập ra, nên có tên "Quảng Triệu Hội Quán", là nơi
thờ phượng, giao lưu, gặp gỡ đồng hương, giúp nhau làm ăn để an cư lạc nghiệp ở
vùng đất mới. Đây là ngôi chùa hiếm hoi của Cần Thơ nói riêng và cả nước nói
chung còn giữ nguyên trạng cổ kính và giá trị nghệ thuật kiến trúc với những ý
nghĩa tín ngưỡng đặc trưng từ lúc xây dựng đến nay, dù trải qua nhiều năm chiến
tranh, nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Ngôi
chùa có bố cục kiến trúc hình chữ Quốc, mái lợp ngói âm dương. Các đầu kèo,
xuyên trính được chạm khắc họa tiết, hoa văn mang phong cách cổ điển, sơn son
thiếp vàng theo truyền thống nghệ thuật miếu vũ. Các gờ bó mái bằng gốm tráng
men lưu ly xanh biếc lẫn với sắc rêu phủ, tạo nên một vẻ cổ kính. Chùa Ông tiêu
biểu cho lối kiến trúc đền miếu của người Hoa, với đôi lân chầu hai bên cửa
chính gợi ý nghĩa thái bình, thịnh vượng. Bên cạnh các biểu tượng long phụng,
còn có tượng Ông Nhật Bà Nguyệt là điềm báo cát tường, tượng trưng cho âm dương
trong văn hóa Á Đông.
Trên nóc chùa trang trí lưỡng long tranh châu, hai
bên là hình tượng cá hóa long sắp xếp đăng đối. Đây là kiểu thức trang trí khá
phổ biến tại các chùa Hoa ở Nam bộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Ngay bên
dưới là các quần thể tiểu tượng bằng sành sứ nhiều màu sắc, diễn tả cảnh tiên
giới xen lẫn trần thế, thủ pháp tạo hình cũng nửa thực nửa hư. Theo lời kể của
các vị cao tuổi, những mảng trang trí này được đưa từ Quảng Đông sang, thể hiện rõ nghệ thuật gốm thủ công của nghệ nhân
người Hoa đời nhà Thanh.
Chùa Hoa thường không có vườn cây bao quanh như
chùa của người Việt, Khmer, thay vào đó là sân kiểng được vây quanh bởi tường gạch,
hai bên trang trí các mảng phù điêu đắp nổi bằng đất nung đối xứng nhau. Trong
sân đặt hai hàng bát bửu, cách điệu hóa bửu bối của Bát Tiên, từ chiếc giỏ lam
của Lam Thái Hòa, thanh gươm của Lã Đồng Tân cho đến cái lẵng hoa của Hà Tiên
Cô. Từ sân thiên tĩnh vào chính điện, có một dãy ba bàn hương án bằng đá mài,
nơi khách hành hương chuẩn bị lễ vật và thắp nhang trước khi vào chiêm bái.
|
Chùa Ông |
Trên 2
cánh cửa chính của chùa có vẽ hình 2 vị thần trấn môn là Tần Thúc Bảo và Uất
Trì Cung oai dũng trong truyện "Thuyết Đường". Bước vào, trên có tấm
nghi môn "Hiệp Thiên Cung", đưa khách vào chốn thiêng liêng đối với
tín ngưỡng dân gian của người Hoa, nơi thờ các vị thần, các nhân vật hiển thánh
được cộng đồng sùng bái. Bên phải là bàn thờ Phúc Đức Chính Thần, mà người Hoa
quen gọi là "Ông Bổn", tức là Bổn đầu công Trịnh Hòa – người có công
phát triển cộng đồng người Hoa ở hải ngoại, được người Hoa cúng vào ngày 15 tháng
3 âm lịch. Bên trái là bàn thờ Mã tiền tướng quân cùng ngựa Xích Thố của Quan
Công.
Gian giữa
thờ Quan Vân Trường hay còn gọi là Quan Công, nhân vật lịch sử đời Tam Quốc, được
người Hoa kính ngưỡng về lòng trung nghĩa và chí khí anh hùng. Tượng Quan Công
tạc bằng gỗ, mặt đỏ, râu năm chòm, mặc áo bào xanh ngồi trong hổ trướng, hai
bên có hai tướng hầu cận là Châu Xương và Quan Bình, đã trở thành hình tượng bất
hủ trong lòng mến mộ không chỉ của người Hoa. Ngày 24 tháng 6 âm lịch hàng năm
là ngày vía Quan Công với lễ vật là các món chay và hoa quả, nhang đèn. Bên phải
thờ bà Thiên Hậu, một nhân vật hiển thánh được sắc phong vào đời Tống, được người
Hoa tôn sùng là vị thần phò hộ cho những người đi biển, độ trì cho lữ khách tha
hương. Chùa Ông cúng Bà bằng lễ vật heo quay sơn đỏ vào ngày 23 tháng 3 âm lịch
hằng năm. Bên trái của chánh điện, có thờ nhân vật đặc biệt là Đổng Vĩnh Trạng
Nguyên, một thư sinh đời Hậu Hán được ghi tên trong sách "Nhị thập tứ hiếu",
người mà đức hiếu thảo đã làm động lòng trời, sau đỗ đạt thành danh. Bên cạnh
là bàn thờ Tài Bạch tinh quân, dân gian quen gọi là Thần Tài, vị thần mà những
người buôn bán kinh doanh đều mong được Ngài gõ cửa. Lễ vía Tài bạch tinh quân
vào ngày 22 tháng 7 âm lịch hằng năm.
|
Các kiểu thức trang trí ở Chùa Ông |
Đức Phật
duy nhất được phối tự ở chùa Ông là Quan Thế Âm bồ tát, thể hiện sự tín ngưỡng
dân gian về quyền năng cứu khổ, phò nguy và độ trì chúng sinh. Khách thập
phương đến để chiêm bái, cầu phúc. Hình thức cầu phúc thường thấy ở đây là lệ
cúng nhang khoanh. Người ta viết tên của người cầu phúc lên các tấm thẻ bài, bằng
chữ Quốc ngữ hay chữ Hán tùy theo thân chủ rồi gắn vào khoanh nhang.
Để có ánh sáng và thông gió cho nội thất, chùa Ông
được bố trí một khoảng trống trên mái, gọi là thiên tĩnh, tức "giếng trời".
Đây còn là nơi thoát khói cho hàng trăm khoanh nhang tỏa ra suốt ngày đêm. Mái
chùa với hệ thống vì kèo phức tạp được nâng đỡ bởi các cột gỗ tròn sơn màu đỏ,
kê tán đá xanh, tô điểm bằng các đôi liễn đối, các tấm hoành phi. Có thể nói,
nét nổi bật của chùa Ông là nghệ thuật điêu khắc chạm nổi trên những phù điêu
hiện diện khắp nơi, từ các bao lam, hoành phi, liễn đối với nội dung vô cùng
phong phú, rút ra từ các huyền thoại, lịch sử, hoặc được chạm chìm với các đề
tài như mai, lan, cúc, trúc, cá hóa long,… Ngoài nghệ thuật điêu khắc trên gỗ,
các nghệ nhân còn thể hiện tài năng của mình ở nghệ thuật thư pháp: các kiểu chữ
"triện", "thảo" được khắc chạm trên hoành phi, liễn đối,
lư, chuông đồng,… rất đẹp và tinh xảo.
Từ Hội
quán của đồng hương Quảng – Triệu, chùa Ông dần trở thành nơi thể hiện tình
đoàn kết tương trợ giữa đồng bào người Hoa, và giữa người Hoa với các dân tộc
anh em cùng chung sống bên bờ Hậu Giang. Từ đời này sang đời khác, Hội quán vẫn
được những người do cộng đồng bầu cử từ vị hội trưởng đầu tiên của Quảng Triệu
Hội Quán là ông Huỳnh An Thái, cũng chính là người có công hiến đất xây chùa đến
vị hội trưởng hiện nay là ông Quan Sư quản lý điều hành công việc thường ngày của
Hội.
Người dân Cần Thơ có lệ viếng chùa Ông vào phút
giao thừa, thắp nén hương tống tiễn năm cũ, với lòng thành và niềm ước vọng về
một năm mới, mang theo nhiều vận hội tốt đẹp cho bản thân và gia đình. Chùa Ông
còn là điểm thu hút khá dông khách du lịch trong và ngoài nước. Ngôi chùa là
nơi lưu giữ cho đời sau những giá trị mà người đi trước đã tạo nên, và cùng với
các danh thắng khác làm nên vẻ đẹp phong phú của mảnh đất Tây Đô. Chùa Ông đã
được xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia vào ngày 21-6-1993.
2/Làng Cổ
Bình Thủy
Bình Thủy là một làng cổ ở Cần Thơ, nổi danh
"địa linh nhân kiệt" với nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng cùng nhiều
công trình kiến trúc cổ kính. Từ trước đến nay, địa danh Bình Thủy vẫn được giải
thích bằng giai thoại về Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt đi tuần thú và đặt tên cho vùng
đất này, năm 1852. Tuy nhiên, theo những sử liệu mà chúng tôi cất công sưu tầm,
địa danh Bình Thủy đã tồn tại từ trước đó.
Giai thoại về vùng sông nước bình yên
Từ trước đến nay, có nhiều tài liệu giải thích về
tên gọi Bình Thủy (Cần Thơ); trong đó, được nhiều người chọn làm căn cứ là tư
liệu trong cuốn "Cần Thơ xưa" của nhà nghiên cứu Huỳnh Minh. Tựu
trung cách giải thích của các tài liệu đều giống nhau khi cho rằng, làng Bình
Thủy xưa có tên gọi là làng Long Tuyền, trước đó nữa có tên là Bình Hưng, sau đổi
thành Bình Phó. Tác giả Huỳnh Minh kể rằng, thời có tên là Bình Hưng, Bình Phó,
vùng đất này có hoa màu, ruộng đất chưa được khai thác triệt để, dân cư thưa thớt.
Nguồn nước chảy trong lành, trong lưu vực từ cồn Linh đến xã Thới Bình, sông
sâu mà không có sóng to gió lớn. Mãi đời vua Gia Long thứ 15 (năm 1816), long
cuộc trổ ra, làng Long Tuyền ngày càng xinh đẹp, trù phú.
Làng cổ Bình Thủy – Long Tuyền có từ rất
lâu và đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập "Tốp 5 ngôi làng cổ có niên
đại hàng trăm năm nổi tiếng của Việt Nam". Trong ảnh: Đình Bình Thủy được
sắc phong vào năm 1852.
Đến thời
Tự Đức thứ 5 (năm Nhâm Tý 1852), quan Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt ngồi thuyền đi tuần
thú vùng đất Long Tuyền, vừa đến cồn Linh thì gặp phải trận cuồng phong, sóng
to gió lớn khiến ai nấy đều kinh hoàng. Một viên quan tùy tùng sau khi xem địa
cuộc đã bẩm với quan Tuần phủ họ Huỳnh rằng: "Nơi xa xa kia có chỗ yên lặng
cho thuyền đến đó núp gió, ắt an toàn". Quan Tuần phủ thuận lòng, cho cả
đoàn tuần thú vào một vàm rạch và quả nhiên, nước êm như hồ, "xem ra có
long cuộc". Sau khi hỏi dân làng thì quả nhiên nơi đây là một vùng sông nước
bình yên, hoa màu thịnh vượng, dân an cư lạc nghiệp. Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt
khen địa thế như "rồng nằm" và tuyên bố với dân làng rằng: "Nay
ta nhờ theo dòng nước đến đây mà được bình yên vô sự. Vậy ta đặt tên cho chỗ
này là Bình Thủy".
Tác giả
Huỳnh Minh còn thông tin thêm, sau đó cụ Tuần phủ họ Huỳnh đã dâng sớ tâu với
triều đình và vua Tự Đức đã ban sắc phong thần cho đình Bình Thủy cũng trong
năm 1852.
Địa danh Bình Thủy có từ năm 1852?
Căn cứ vào giai thoại và thời gian trên, nhiều người
vẫn mặc định địa danh Bình Thủy ra đời vào năm 1852 và giai thoại về quan Tuần
phủ Huỳnh Mẫn Đạt là cách giải thích ý nghĩa địa danh.
Văn bản xin xây cất chùa Long Quang vào năm
1835.
Tuy
nhiên, căn cứ vào nhiều sử liệu có được, chúng tôi đưa ra 4 lập luận khẳng định
rằng, địa danh Bình Thủy đã có từ trước năm 1852. Đầu tiên, đó là văn bản về việc
xin xây cất chùa Long Quang (Di tích Lịch sử- Văn hóa quốc gia, tọa lạc ở phường
Long Hòa, quận Bình Thủy) hiện còn được lưu giữ tại ngôi chùa này. Theo đó, năm
Minh Mạng thứ 16 (1835), tăng Võ Văn Quyền có đơn xin Tuần phủ An Giang và tri
huyện Vĩnh Định cho xây dựng chùa (lúc bấy giờ tên là Long Trường). Một phần lá
đơn tạm dịch như sau: "Tôi là tăng Võ Văn Quyền, trụ trì chùa Long Trường,
sinh năm Đinh Tỵ 1797, ba mươi chín tuổi, quán làng Bình Thủy, tổng Định Thái,
huyện Vĩnh Định, bẩm rõ cho quan xét soi rằng, do nhân duyên nên vào năm Gia
Long thứ 6 (1807), tôi đầu phục thọ trì giáo pháp với Thiên An Hòa thượng ở
chùa Linh Quang. Đến năm thứ 13 (1814), tôi phát nguyện thế độ. Qua năm thứ 16
(1817) được nhận vào tăng giới. Đến
năm Minh Mạng thứ 5 (1824) tôi trở về bổn quán là làng Bình Thủy tự thân tạo lập
một tòa am nhỏ sùng tu đạo Phật…". Lá đơn được tri huyện Vĩnh Định phê vào
mùng 9 tháng 10, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), và có dấu triện của quan Tuần Phủ
An Giang. Thiết nghĩ, đây là căn cứ khoa học và đủ tin cậy để khẳng định, ngay
từ năm 1835 đã có làng Bình Thủy, thuộc huyện Vĩnh Định.
Căn cứ thứ hai là năm 2005, NXB Tổng hợp Đồng Nai ấn
hành cuốn "Gia Định Tam gia", giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp thơ
văn và tuyển chọn các tác phẩm tiêu biểu của 3 nhân vật nổi tiếng ở Gia Định thời
Nguyễn là Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh và Lê Quang Định, do học giả Hoài Anh
biên dịch, chú giải. Trong cuốn sách này, ở trang 181, có giới thiệu bài thơ
"Bình Thủy quy phàm" của Trịnh Hoài Đức. Bài thơ làm theo thể thất
ngôn bát cú, tạm dịch là "Bình Thủy buồm về". Trong đó, 2 câu kết là:
"Hương gia cận tiếp bồng song hạ
Cổ duệ tà dương chước túc cô"
Tạm dịch là: "Làng quê gần tiếp với cửa bồng.
Mái chèo khua bóng trời chiều, chuốc ly rượu trắng sẵn có". Phải chăng,
"làng quê gần tiếp với cửa bồng" chính là tác giả đang miêu tả vàm rạch
Bình Thủy, hai bên là đình Bình Thủy và Nam Nhã Đường? Điều đáng chú ý là Trịnh
Hoài Đức (1765-1825) làm quan dưới thời Nguyễn. Căn cứ vào năm sinh, năm mất của
học giả họ Trịnh, có thể khẳng định, làng Bình Thủy đã rất nổi tiếng từ trước
năm 1852 khá lâu, ít nhất là trước năm 1825.
Căn cứ thứ 3 cũng từ năm mất của học giả Trịnh
Hoài Đức bởi ông là tác giả của cuốn biên khảo nổi tiếng "Gia Định thành
thông chí". Trong công trình này, ở quyển II- Sơn Xuyên chí, phần trấn
Vĩnh Thanh, sử liệu ghi rõ: "Sông Cần Thơ, ở bờ Tây sông Hậu Giang, rộng 8
tầm, sâu 5 tầm, cách trấn lỵ, về phía Nam 210 dặm rưỡi, ở bờ Tây làm thủ sở đạo
Trấn Giang, phố chợ đông đúc, khách buôn tụ họp… Đến ngã ba, ngách Bắc chuyển
sang Đông 1 dặm rưỡi, đến sông Bình Thủy ra Hậu Giang. Trước nửa dặm, đi về Bắc,
chuyển sang Đông 1 dặm, ra Ô Môn mà đến Hậu Giang… ". Rõ ràng, trong phần
này, khi tác giả miêu tả sông Cần Thơ đã có nhắc đến sông Bình Thủy. Nhiều học
giả cho rằng, công trình "Gia Định thành thông chí" được Trịnh Hoài Đức
viết dưới thời Gia Long (1802-1820). Tuy nhiên, cho dù thời gian nào thì cũng
không thể quá năm 1825 khi ông mất. Vì vậy, căn cứ này cũng cho thấy sự ra đời
sớm hơn năm 1852 của địa danh Bình Thủy.
Cuối
cùng, chúng tôi căn cứ vào việc cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, người con của làng
Bình Thủy- Long Tuyền đỗ Thủ khoa tại khoa thi năm Ất Mùi, đời vua Minh Mạng thứ
16 (năm 1835). Chúng tôi tra cứu trong cuốn "Quốc Triều Hương Khoa Lục"
của cụ Cao Xuân Dục, công trình biên niên các kỳ thi Hương ở nước ta dưới thời
Nguyễn, trong đó có "lý lịch trích ngang" đơn giản của hơn 5.000 người
đậu Cử nhân từ năm 1807-1887. Trong khoa thi năm 1835 tại Trường Gia Định, do
Tuần phủ Khánh- Thuận Hoàng Quốc Điều làm Chủ khảo, Án sát Khánh Hòa Hà Đăng
Khoa làm Phó Chủ khảo, đậu 9 người, trong đó cụ Bùi Hữu Nghĩa đạt giải Nguyên
(Thủ khoa). "Lý lịch" của cụ được vinh danh là: "Bùi Hữu Nghĩa.
Người thôn Bình Thủy, huyện Vĩnh Định. Làm quan tới chức tri huyện…". Như
vậy, từ năm 1835 (thời Minh Mạng thứ 16), địa danh Bình Thủy đã có, chẳng những
vậy còn là địa danh hành chính ở trấn Vĩnh Thanh. Tuy nhiên, căn cứ chỉ mang
tính tham khảo vì cụ Cao Xuân Dục viết sách này sau năm 1852; vì vậy có hai khả
năng: cụ Cao sao chép y "lý lịch" của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa thời điểm
thi 1835 hoặc cụ Cao viết theo đơn vị hành chính lúc đương thời.
Qua những sử liệu trên, có thể thấy rằng, địa danh
Bình Thủy đã có từ trước năm 1852. Tuy nhiên, giai thoại về quan Tuần phủ Huỳnh
Mẫn Đạt được vùng đất này che chở "sóng yên gió lặng" là một câu chuyện
đẹp, thể hiện địa thế, long cuộc của vùng đất Bình Thủy xưa (và cả hôm nay).
Người viết bài này mong muốn nêu ra một số lập luận để làm sáng tỏ hơn về lịch
sử một vùng đất cổ xưa của Cần Thơ và hy vọng được tiếp nhận nhiều ý kiến phản
hồi từ độc giả.
3/Ngôi nhà cổ đẹp Nhất Miền Tây
Cần Thơ
(được mệnh danh là vùng đất Tây Đô) có hơn 70 ngôi nhà cổ mang nhiều giá trị
văn hóa lịch sử. Nhà cổ Bình Thuỷ Nằm ngay trên đường Bùi Hữu
Nghĩa, phường Bình Thủy, ngôi nhà cổ của gia đình họ Dương (xây từ năm 1870), mỗi
năm đón tiếp hàng ngàn lượt khách trong ngoài nước đến tham quan.
Nhà cổ Bình Thuỷ một kiến
trúc độc đáo
mang kiến trúc Pháp, là sự kết hợp giao lưu văn
hóa Đông – Tây, được thể hiện nhiều họa tiết hoa văn đẹp mắt. Hiện nay, hậu duệ
đời thứ sáu họ Dương là ông Dương Minh Hiển cùng gia đình tiếp tục kế thừa và
giữ gìn.
Bước qua rào cổng kiên cố bằng bê tông và sắt theo
kiểu dinh thự Pháp, du khách bắt gặp một cổng phụ nằm thẳng hàng với cổng rào,
chếch về bên trái từ đường, xây dựng theo kiến trúc Á Đông. Hệ thống rui, mè,
xà ngang bằng gỗ, mái lợp ngói ống, gờ bó mái bằng men xanh lục. Trên bờ nóc, đầu
hồi trang trí hoa lá, cá vàng, kỳ lân, người cưỡi trâu, bình hoa... bằng xi
măng.
Ngôi nhà rộng năm gian hai chái. Sân trước rộng
lót gạch Tàu, lối vào nhà xây bốn cầu thang hình cánh cung tao nhã, nối kết nhà
với khoảng sân rộng. Nhà rộng thênh thang với sáu hàng cột gỗ lim đen bóng. Kết
nối giữa hệ thống cột, xà là những chi tiết gỗ màu nâu chạm trổ hết sức tinh
vi. Nhờ hệ thống cửa và cửa sổ thoáng đãng, dù trời nắng chang chang nhưng
trong nhà vẫn rất mát mẻ. Toàn bộ gạch bông hoa hồng đỏ – đen lát nền nhà với
hàng rào sắt đúc bảo vệ khuôn viên đều được đặt và chở từ Pháp sang. Ngôi nhà
được chủ nhân xử lý chống mối và giữ độ lạnh trong nhà rất độc đáo, bằng cách rải
đều dưới nền hơn 10cm muối hột, không dùng xi măng để xây mà dùng keo ô dước,
toàn bộ hệ thống kèo và cột được nối kết không phải bằng đinh mà bằng mộng –
ngoàm; luật đối xứng có âm có dương, có tả có hữu, có trước có sau được gia chủ
đặc biệt chú ý...
Nhà cổ Bình Thủy Cần Thơ
Điều đặc
biệt, dù cách bài trí và nhiều đồ dùng trong nhà cổ mang phong cách Tây Âu,
nhưng nơi trang trọng nhất là gian thờ vẫn theo phương Đông. Sự giao tiếp văn
hóa Đông – Tây khá hài hòa, thể hiện được thẩm mỹ tinh tế của chủ nhân. Đây là
mẫu nhà cổ hiếm hoi còn sót lại khá nguyên vẹn giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu
đời sống sinh hoạt, văn hóa cũng như tiến trình phát triển dưới nhiều tác động
khác nhau lúc giao thời giữa hai thế kỷ của cư dân đồng bằng sông Cửu Long.
Đến nhà
cổ Bình Thủy, du khách còn có thể đàm đạo với gia chủ để hiểu thêm những điều
lý thú khác như vị trí trong bữa ăn của một gia đình xưa như thế nào (con trai
ngồi bên phải, con gái ngồi bên trái và cha mẹ ngồi giữa mặt hướng ra cửa
chính), hòn non bộ vì sao xây trước cửa lớn; làm thế nào để thể hiện được khát
vọng của gia chủ về một giang san thái bình, gia đạo an vui, cốt cách hướng thiện…
Vườn Lan Và Kho cổ vật ở nhà cổ Bình Thuỷ
Nhà cổ
của gia đình họ Dương còn có một tên gọi khác là vườn lan Bình Thủy, bởi hậu duệ
đời thứ năm của ngôi nhà là ông Dương Văn Ngôn có thú chơi hoa kiểng, xương rồng.
Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, ông đã sưu tầm được nhiều giống lan quý rồi
bắt đầu tổ chức các hội chơi lan, kết hợp mở tuyến du lịch đến nhà vào những
năm 1980 để những người cùng sở thích có dịp trao đổi kinh nghiệm, cùng thưởng
thức thú chơi hoa và làm thơ. Trước sân có hòn non bộ, hoa kiểng, bên phải là
vườn lan, góc bên có cây xương rồng Mexico Kim lăng trụ cao khoảng 10m, khoảng
40 năm tuổi, năm 2005 cây ra hoa lần đầu tiên trông rất lạ mắt.
Ngoài ra, trong ngôi nhà còn có một “kho cổ vật”
được gìn giữ qua nhiều đời như hai bộ bàn ghế có xuất xứ từ Vân Nam (Trung Quốc),
mặt bàn bằng đá cẩm thạch vân xanh đường kính 1,5m, dày hơn 6cm; bộ sa–lông kiểu
Pháp đời Louis 15, mặt bằng đá cẩm thạch sắc xanh; chùm đèn bạch đăng; tách
chén nậm trà, rượu đời Minh – Thanh; bình Thượng ngọc men xanh cao 1,2m... Thú
chơi đồ cổ của gia đình họ Dương đất Bình Thủy đã lẫy lừng lục tỉnh từ lâu.
Nghe nói gia chủ đã mua cặp ngà voi châu Phi cao tới 2,2m ở Sài Gòn những năm
1940, cặp ngà này hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng TP. Hồ Chí Minh...
Nhiều đạo diễn, hãng phim đã chọn nhà cổ Bình
Thủy làm phim trường. Hơn chục năm trước, một đoàn phim Pháp đến đây để
quay bộ phim “Người tình” - một bộ phim rất nổi tiếng của đạo diễn Pháp J.
Annaud. Các hãng phim trong nước chọn nơi đây để quay các bộ phim: “Chân trời
nơi ấy”, “Những nẻo đường phù sa”, “Con nhà nghèo”, “Nợ đời”, “Xương rồng Cần
Thơ”... Ngôi nhà cổ – vườn lan Bình Thủy đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp
quốc gia.
4/Vườn Cò Bằng
Lăng
Từ Cần
Thơ, đi theo Quốc Lộ 91, qua khỏi huyện Ô Môn, đến huyện Thốt Nố tkhoảng 60km đến
cầu Bằng Lăng, qua khỏi cầu quẹo trái vào, đường này chỉ có xe 2 bánh đi vào được
thôi, cũng có thể đi bằng đường đò nhưng hôm nay nước cạn nên không đi được,
đoàn chúng tôi gồm 6 người, 3 hướng dẫn (tính luôn cả Đạt), chúng tôi đi bộ khoảng
2km thì tới được vườn cò bằng lăng, đường đi nhỏ phải đi hàng một xuyên qua khu
dân cư, vé cổng là 6.000 đ/người. Quả thật ở đây rất nhiều cò, cò trắng, cò
đen... các chú cò rất dễ thương có tới hàng trăn con, đa số là chúng đậu trên
những bụi tre sum xuê.
Chủ
nhân của khu vườn độc đáo này là một nông dân Nam Bộ chính hiệu, ông Nguyễn Ngọc
Thuyền cho biết, khoảng tháng 1/1983, bỗng dưng một đàn cò ma, loại cò nhỏ,
mình đen, cánh mầu xám trắng tiệp với mầu lá cây đông tới hàng trăm con bay về
đậu kín một góc vườn. Ít lâu sau chúng đột ngột bỏ đi cả đàn, phải đến gần một
năm sau mới thấy chúng quay trở lại và lần này chúng kéo theo đám bạn mới tính
ra đến gần chục loại cò với đủ các kích cỡ và số lượng ước tới cả chục nghìn
con. Lần này chúng định cư luôn tại đây và sinh sôi nảy nở đông hơn.
Khu vườn nay đã rộng 15 công và tất cả những bụi
tre, ô môi trong vườn từ lâu đã là nhà của chúng. Loài cò nhỏ có: cò ngà mỏ
vàng, cò quắm, cò cá mỏ đen - loại có biệt tài bắt cá. Nhìn chung những loài
này chỉ nặng chừng vài trăm gam. Lớn hơn có cò ma, cò rằn, cò xanh, cò ruồi mỏ
vàng - loại cò hay đậu trên lưng trâu bắt ruồi. Phần lớn các loài cò trên tập
trung đông đúc về vườn vào mùa sinh đẻ từ tháng 8 đến tháng giêng âm lịch hằng
năm, riêng cò ma chúng tập chung về vườn làm tổ và đẻ trứng từ tháng hai đến
tháng tư âm lịch. Nhỏ nhất trong họ hàng nhà cò tại đây là các loài: cò ráng
hay còn gọi là cò lửa, lông có mầu đỏ như ráng chiều, cò lép, cò đúm - loại cò
có mầu đen tuyền và điểm trắng ở ức. Ngoài những loại trên với số lượng cá thể
mỗi đàn đông tới hàng nghìn thậm chí hàng chục nghìn con.
Trong
vườn hiện còn có một số loại cò có kích thước lớn hơn: còng cọc đen tuyền chân
vịt, bạc má cũng mầu đen nhưng lớn hơn, còng cọc chân cao mỏ dài. Những loài cò
lớn những năm gần đây bắt đầu xuất hiện và nhập chung bầy đàn như: vạc lông rằn,
diệc móc, diệc lửa... có con nặng tới ba kg. Đặc biệt, một loài chim thuộc hàng
quý hiếm đang bị săn lùng ráo riết để làm thuốc - bìm bịp cũng hiện diện thường
xuyên tại vườn với hai loài: bìm bịp bà và bìm bịp cóc. 6-7h sáng từng đàn cò rời
khỏi những ngọn cây bay trắng cả một vùng tỏa đi khắp nơi và đến chiều khoảng
17-18h chúng lại bay về tổ làm xáo động cả khu vườn.
Sau khi tham quan, nhìn ngắm thoả
thích đến phần ầm thực cũng hấp dẫn không kém, nào là cò xào lăn, cò nấu cháo,
cò rô ti, trứng cò luộc... thịt cò có thể chế biến được 8 - 9 món, giá trung
bình mỗi món thấp nhất 80.000 đ cho 4 người ăn no nê, ngồi trong những
dãy chòi lá đơn sơ được bao quanh những bụi tre già, khung cảnh thật
hoang sơ, huyền diệu, trữ tình. Quả là một đểm tham quan đầy thú vị và đậm nét
miệt vườn.
ĐÌNH BÌNH THUỶ
Đình Bình Thủy tọa lạc tại phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Đình nằm sát với khu cư dân được bao quanh bởi hàng rào tứ giác: Mặt Bắc cách bờ
sông Hậu khoảng 200 m, mặt Đông là bờ con rạch Bình Thủy, còn mặt Nam sát đường
Lê Hồng Phong. Từ trung tâm thành phố Cần Thơ đi theo đường Nguyễn Trãi 5 km là
tới đình Bình Thủy.
Đình được dựng vào năm Giáp Thìn (1844), nguyên thủy thờ Thành hoàng của làng
Bình Hưng, tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Ba Xuyên, tỉnh An Giang. Ban đầu,
nhân dân trong làng lập ngôi đình bằng tre, gỗ, lợp lá để cầu nguyện thần linh
phù hộ cho mưa thuận, gió hoà để giúp bà con luôn được an lành. Năm 1853,
nhân dân địa phương đã cùng nhau cất lại đình. Lần này đình được lợp ngói phía
trước để xây thêm một nhà võ ca (thường dùng để làm Nhà hát bộ, trong đó có một
sân khấu nhỏ, thấp, bằng gỗ để cho các đoàn hát đến biểu diễn cho bà con thưởng
ngoạn). Theo cuốn "Cần Thơ xưa và nay" của tác giả Huỳnh Minh thì
đình này còn thờ Trầm Hương công chúa và Huệ Cơ công chúa nhưng cũng không có sự
tích. Sau này nhân dân còn đưa thêm những người có công với nước vào thờ như:
Đinh Công Tráng, Nguyễn Trung Trực, Bùi Hữu Nghĩa, Võ Huy Tập...Đến năm 1909,
đình Bình Thuỷ được xây lại mới hoàn toàn và năm 1910 thì hoàn thành.
Đình Bình Thủy thuộc loại di tích kiến trúc tôn giáo và công trình nghệ thuật độc
đáo. Nay đình nằm trên khoảnh đất rộng hơn 4000 m². Đình được cất trên một nền
cao ráo và có chiều sâu, nhà trước và nhà sau đều là hình vuông nên chiều nào
cũng có 6 hàng cột, các chân cột đều choãi ra làm cho đình càng thêm vững chắc.
Về trang trí ngoại thất, nhìn trên nóc đình nhà
trước hai mái chồng lên nhau, nhà chánh điện sau 3 mái chồng lên nhau theo kiểu
kiến trúc "thượng lầu hạ hiên". Trên nóc đình có gắn tượng hình người,
hình kỳ lân, hình cá hóa rồng. Nhìn sang bên trái nóc đình có mảng trang trí bằng
xi măng, giữa là quyển thư, bên cạnh đó là giỏ lam đào và bình hoa. Ở bìa mái
ngói dưới cùng có ốp lá xoài màu xanh đen và ống ngói cũng được bịt lại bằng
sành tráng men xanh. Mặt trước nhà là các cột xi măng trang trí các hình hoa lá
đắp nổi thật tinh tế.
Trong đình, các bàn thờ được bố trí như sau: Tại tòa tiền đường có bàn thờ Nghi
Hạ, Nghi Trung đặt ở gian giữa. Nơi nhà vuông nhỏ đặt bàn thờ Nghi Thượng dùng
làm lễ chính của các ngày lễ hội.
Ở tòa chính điện, chính giữa nhà là bàn thờ chính, bên trái sát vách phía ngoài
là bàn thờ Hương chức Tiên Giác, phía trong là bàn thờ Hậu tiền. Đối diện ở sát
vách bên phải là bàn thờ chức sắc Tiên Giác và bàn thờ Tiền Hiền. Sát vách
trong cùng ở gian giữa có bàn thờ Hậu thần, hai bên là hai bàn thờ Hữu Bang và
Tả Bang.
Bên ngoài đình có hai miếu lớn thờ thần Nông và thần Hổ, gần cổng có hai miếu
thờ thần Rừng và thần Khai kênh dẫn nước.
Đình Bình thủy là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật. Tuy được
xây dựng vào đầu thế kỷ XX, nhưng kiến trúc của đình còn giữ được nhiều yếu tố
kiến trúc truyền thống của dân tộc. Đình còn giữ được những mảng chạm, những họa
tiết trang trí gần gũi với nghệ thuật dân tộc. Nghệ thuật chạm khắc gỗ ở nơi
đây hết sức tinh tế và sinh động. Tiềm ẩn dưới mái đình này không chỉ là lịch sử
truyền thống cội nguồn của một làng cổ Nam Bộ mà còn là nơi gìn giữ những giá
trị tinh hoa của văn hóa, văn minh sông nước miệt vườn Cần Thơ nói riêng và miền
Tây Nam Bộ nói chung.
Cùng với những sinh hoạt văn hóa khác, đình Bình Thủy đã tạo nên một bản
sắc riêng của ngôi đình làng ở một vùng đất mới khai phá năm xưa. Nay Đình Bình
Thủy vẫn được giữ gìn, trùng tu và bảo vệ tốt.
6/Làng du lịch
Mỹ Khánh
Theo Quốc
lộ 1A từ Tp. Cần Thơ hướng Sóc Trăng rồi rẽ phải đi thêm chừng 6km, chúng tôi về
tới Làng du lịch Mỹ Khánh (335 lộ Vòng Cung, xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, Tp.
Cần Thơ) để được hòa mình vào một không gian văn hóa đặc trưng của miệt sông nước
Nam Bộ.
Làng Du
lịch Mỹ Khánh nằm giữa chợ nổi Cái Răng và chợ nổi Phong Điền nên du khách còn
có thể đến đây bằng tàu du lịch hay ghe, xuồng ba lá dọc trên sông Hậu để ngắm
nhìn cả một vùng quê sông nước Nam Bộ yên bình, mộc mạc.
Cổng vào làng du lịch Mỹ
Khánh.
Nhà cổ Nam Bộ ở Làng du lịch
Mỹ Khánh.
Những ngôi nhà sàn nhỏ bé, xinh xắn nằm nép
mình dưới vòm lá xanh mát rượi của khu vườn luôn sẵn sàng phục vụ nhu cầu
nghỉ dưỡng của du khách.
Vẻ đẹp miền quê hữu tình,
không khí trong lành, mát mẻ của Làng du lịch Mỹ Khánh.
Không gian thoáng đãng với
những chiếc xuống ba lá phục vụ du khánh.
Làng du
lịch Mỹ Khánh rộng trên 4ha, cây trái xum xuê bốn mùa. Sau chặng đường dài, du
khách sẽ cảm thấy dễ chịu giữa không khí trong lành, mát mẻ. Đi dạo dưới những
bóng cây mát rượi của một khu vườn rộng rãi có nhiều loại hoa kiểng cùng hơn 20
loại cây ăn quả đặc sản của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tâm hồn người như được
mở ra với thiên nhiên, cây cỏ. Đặc biệt, du khách còn được cảm nhận không gian
cổ xưa của ngôi nhà cổ Nam Bộ bằng gỗ trên 100 năm tuổi.
Trong
thời gian lưu lại Làng du lịch Mỹ Khánh, du khách cũng có thể sống thử cho biết
sinh hoạt hàng ngày của gia đình đại điền chủ với hai cách phục vụ: ngắn thì 3
giờ, dài thì 2 ngày 1 đêm. Trong vai một đại điền chủ, du khách được sống trong
căn nhà cổ, mặc trang phục truyền thống; thưởng thức trái cây, uống trà nóng và
nghe máy hát đĩa quay tay. Sau đó, “đại điền chủ” tiếp tục đi thăm ruộng của
mình, thăm những làng nghề truyền thống; ăn cơm; nghe đờn ca tài tử... và được
các “tá điền” đấm bóp, che dù, đứng hầu quạt... Đêm đến, du khách còn có cơ hội
đi chài cá hay du thuyền trên sông. Con tàu bằng gỗ có sức chứa hơn 100 người sẽ
đưa du khách chìm đắm trong lời ca, tiếng nhạc của nghệ thuật đờn ca tài tử hay
những khúc vọng cổ du dương, dìu dặt giữa mênh mông sông nước mang đậm âm hưởng
Nam Bộ truyền thống.
Một chiếc tàu kiểu cổ dùng
đưa du khách đi tham quan làng du lịch.
Du khách nước ngoài tham
quan, nghỉ dưỡng tại Làng du lịch Mỹ Khánh.
Thưởng thức đặc sản Nam Bộ.
Du khách tham quan nhà cổ
Nam Bộ.
Dạo chơi bằng xe ngựa dưới
hàng tre rợp bóng mát.
Thư giãn với trò chơi câu
cá sấu.
Tham quan Làng du lịch bằng
xe điện.
Bể bơi trong xanh nằm giữa
một không gian thanh bình và giản dị của chốn làng quê.
Ông Lê Văn Sang, Giám đốc Công ty TNHH Du lịch sinh thái Mỹ Khánh cho biết,
Làng du lịch Mỹ Khánh sẽ luôn tìm cách mở rộng các khu vui chơi giải trí, đầu
tư thêm các dịch vụ như bơi xuồng, câu cá... để du khách có thể thoải mái lựa
chọn theo nhu cầu của mình. Nơi đây còn phối hợp với các điểm vườn du lịch làm
trạm dừng chân vệ tinh cho tour tham quan sông nước, miệt vườn Nam Bộ. Với các
bạn trẻ, từng tốp hay từng nhóm đều có thể tổ chức các chuyến dã ngoại, cắm trại
ở đây và được tham gia các trò chơi vận động trên sông nước, các trò chơi dân
gian như bắt cá dưới ao, làm nông dân, làm thợ thủ công… Rồi được thưởng thức
các món ăn đặc sản mang hương vị đậm đà khó quên của Nam Bộ như: cá nướng ống
tre, lẩu đồng quê, chuột quay lu… Ngoài ra, Làng du lịch Mỹ Khánh còn có nhiều
loại hình dịch vụ độc đáo như đua heo, đua chó có thưởng, hay dạo chơi bằng xe
ngựa, xe xích lô trên các con đượng rợp bóng mát.
Rời xa phố phường ồn ào, náo nhiệt,
Làng du lịch Mỹ Khánh chính là địa điểm ưa thích với những du khách ưa thích sự
yên tĩnh, thanh bình của chốn làng quê, để mỗi buổi sáng thức dậy được nghe tiếng
hót của chim chóc, tiếng sương đọng đang rơi nhẹ trong từng kẽ lá… Chị Lê Kiều
Hoa, một du khách đến từ Hà Nội chia sẻ: “Tôi đã nghe Làng du lịch Mỹ Khánh từ
lâu rồi nhưng bây giờ mới có dịp đến tham quan. Ở đây tôi được trải nghiệm, được
khám phá những nét văn hoá mới lạ và hấp dẫn về cuộc sống thôn quê Nam Bộ, một
vùng đất mà tôi hằng yêu thích".
7/Thiền Viện Trúc Lâm Phương Nam
Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam được xây dựng trên diện tích gần 4 ha, với
kết cấu lợp ngói, khung cột gỗ lim, chánh điện rộng cùng nhà tổ, nhiều tượng Phật
được làm bằng gỗ Du Sam… Tổng kinh phí xây dựng là 145 tỷ đồng.
Thiền viện
Trúc Lâm Phương Nam được khánh thành ngày 17/5/2014, tại xã Mỹ Khánh, huyện
Phong Điền, TP Cần Thơ.
Đây là ngôi chùa rộng nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Thiền
viện Trúc Lâm Phương Nam do Đại tướng Phạm Văn Trà - nguyên Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng - đề xuất xây dựng và chính Đại tướng cũng là trưởng ban vận
động đóng góp xây dựng Thiền Viện.
Theo Đại tướng Phạm Văn Trà, mục đích xây dựng Thiền Viện xuất phát từ
tâm nguyện mong muốn khôi phục Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử của Phật hoàng Trần
Nhân Tông. Bên cạnh đó, Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam cũng đáp ứng nguyện vọng
của tăng, ni, phật tử và Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo thành phố Cần Thơ mong
muốn có một ngôi chùa để kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa, tâm linh Phật
giáo của Thiền phái Trúc Lâm.
Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam nằm trong khu Di tích lịch sử Lộ Vòng
Cung TP Cần Thơ. Tổng diện tích Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam là hơn 38.000
m2. Ngôi chánh điện, nhà thờ Tổ được xây dựng theo kiến trúc văn hóa Lý -
Trần; Lầu chuông, lầu trống được xây dựng theo tháp chuông Chùa Keo ở Thái
Bình. Đặc biệt, 4 hạng mục trên được làm bằng gỗ lim, khoảng 1.000 khối được nhập
từ Nam Phi.
Riêng tượng
Phật Thích Ca Mâu Ni thờ trong chánh điện được làm bằng đồng, nặng 3,5 tấn; đại
hồng chung nặng 1,5 tấn. Tượng Bồ Tát và các vị tổ sư được tạc bằng gỗ Du Sam
có tuổi thọ 800 năm. Khuôn viên được bài trí cân đối như: Quan Âm điện, Di Lặc
điện (Thủy tạ), Chùa Một Cột, Giảng đường, Khách đường, Trai đường, Thư viện,
phòng Đông y Nam dược... Công trình ước tính tổng kinh phí 145 tỷ đồng từ nguồn
vận động xã hội hóa.
Được sự
tín nhiệm của Hội đồng trị sự TƯ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban Quản trị Thiền
phái Trúc Lâm, Đại đức Thích Bình Tâm được bổ nhiệm Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm
Phương Nam.
Cổng chính vào Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam
Các vị La Hán trước sân Thiền Viện
Hồ Thủy tạ
Biểu tượng Chùa Một Cột cũng xuất hiện trong khuôn viên Thiền Viện Trúc
Lâm Phương Nam
Lầu chuông và lầu trống được làm bằng gỗ Lim, nhập từ Nam Phi
Những ngày cuối tuần, rất đông người dân tới tham quan, vãn cảnh chùa
Những trụ cột ở phần chánh điện được làm bằng gỗ lim Nam Phi
Phần chánh điện của Thiền Viện Trúc Lâm Phương Nam
Các tượng Phật và các vị Tổ sư được làm bằng gỗ Du Sam 800 năm tuổi.
Thiền viện theo phái Trúc Lâm Yên Tử của Phật hoàng Trần Nhân Tông - vị
vua đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống giặc Mông-Nguyên xâm lược. Khi đất
nước thái bình, vua nhường ngôi và đến nơi non cao Yên Tử để tu hành, sáng lập
nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, tạo nên hạt nhân tinh thần cho sự thống nhất tư
tưởng, cố kết lòng dân.
Trên cơ sở
này, các Thiền viện được thành lập khắp 3 miền đất nước Bắc - Trung -
Nam. Hiện nay có trên 58 cơ sở lớn nhỏ thuộc hệ thống Thiền viện Trúc Lâm. Ý
nghĩa nổi bật là Thiền viện Trúc Lâm Hộ Quốc, một danh xưng do đức Pháp chủ
GHPGVN đặt tên, được đệ tử của Thiền sư Thích Thanh Từ là Đại Tướng Phạm Văn
Trà với tâm Phật Trần Nhân Tông, tinh thần Hộ Quốc An Dân, đã phát tâm xây dựng
tại huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang và nay là Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam tại
huyện Phong Điền TP Cần Thơ.
BẢO TÀNG QUÂN KHU 9 – CẦN THƠ
Du lịch bảo tàng được xem như con đường ngắn nhất
trong việc tìm hiểu văn hóa của mỗi địa phương, mỗi dân tộc. Nếu có dịp du
lịch Cần Thơ, bạn đừng quên dành thời gian đến tham quan Bảo tàng quân khu 9 để
hiểu thêm về lịch sử của lực lượng vũ trang miền Tây Nam Bộ. Với các cách
trưng bày sáng tạo rất hấp dẫn và thu hút, thăm bảo tàng quân khu 9 du khách
như quay trở về những năm tháng đấu tranh hào hùng của dân tộc và cảm nhận được
khí phách kiên cường, bất khuất của thế hệ trước.
Bảo tàng quân khu 9 Cần Thơ thuộc loại hình lịch sử
quân sự tọa lạc tại Số 6 đường Hòa Bình, Quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ. Bảo tàng
có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, trưng bày, tuyên truyền giới thiệu
các tài liệu, hiện vật phản ánh quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của
lực lượng vũ trang miền Tây Nam Bộ – Quân khu IX trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quân khu 9 là 1
ở trong 8 quân khu gồm có lãnh thổ và dân số ở các tỉnh: Đồng Tháp, An Giang, Bến
Tre, Tiền Giang, Trà Vinh, Hậu Giang, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau và
TP. Cần Thơ.
Có mặt từ năm 1979, Bảo tàng Quân khu IX Cần Thơ
đã trở thành địa chỉ đỏ ở đồng bằng sông Cửu Long. Bảo tàng hiện đang lưu giữ
hơn hai vạn hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật gốc, quý hiếm, là kỷ vật
thiêng liêng của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long anh hùng. Bảo tàng
như một câu chuyện kể thật sống động về đời sống và tinh thần chiến đấu của người
miền Tây Nam Bộ các thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Thời gian mở cửa của Bảo tàng vào thứ 3, 5, 6
hàng tuần:
Buổi sáng: từ 08 giờ 00 phút đến 11giờ 00
phút.
Buổi chiều: từ 14 giờ 00 phút đến 16
giờ 00 phút.
Riêng ngày thứ bảy, buổi sáng mở cửa từ 8
giờ đến 11 giờ, buổi tối từ 19 giờ đến 21 giờ.
Bảo tàng được thành lập ngày 21/12/1979, trực thuộc
Cục Chính trị Quân khu IX, xếp hạng 2, theo quyết định xếp hạng Bảo tàng Việt
Nam. Nội dung triển lãm gồm có các phần:
Phòng khánh tiết: trưng bày giới thiệu
chân dung, hiện vật của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy quân khu qua các thời kỳ,
đơn vị, cá nhân Anh Hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Bà mẹ Việt Nam anh hùng của
Quân khu IX, về đất nước và con người Đồng bằng sông Cửu Long.
Quân và dân Đồng bằng sông Cửu Long trong kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954).
Quân và dân Quân khu IX trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước (1954 -1975). – Trưng bày chuyên đề: vũ khí thô sơ tự tạo, nghĩa
tình đồng đội.
Trưng bày ngoài trời: trưng bày hiện vật
khối lớn gồm các vũ khí lập công và vũ khí chiến lợi phẩm thu được. Bảo tàng
còn có chi nhánh Bảo tàng Hồ Chí Minh – Quân khu IX.
Ngoài ra, Bảo tàng Quân khu 9 còn có chi nhánh Bảo
tàng Hồ Chí Minh, trưng bày giới thiệu thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tình cảm gắn bó giữa bộ đội và nhân dân Quân khu 9 với Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Các chủ đề trưng bày trong bảo tàng gồm có trưng
bày vũ khí thô sơ tự tạo, các hiện vật có kích cỡ lớn trong đó có cả vũ khí nhờ
nó đã lập công hoặc thu được như các chiến lợi phẩm sau cuộc chiến. Bên cạnh đó
còn có rất nhiều tư liệu đề cao tình đồng đội trong những khoảng thời gian khổ
sở gian khó, cùng đồng tâm cộng khổ và không lo sợ hay chùn bước trước những mất
mát đau thương.
Qua bộ sưu tập được trưng bày tại bảo tàng, du
khách tham quan sẽ nhìn thấy rõ hơn về tinh thần chiến đấu kiên cường, sự gan dạ
cũng như những hy sinh vô giá mà người miền Tây Nam Bộ đã cống hiến cho Tổ quốc.
Cho đến nay, những giá trị này vẫn được trân trọng ghi nhớ, trở thành tài sản
quý giá dành cho các thế hệ sau tiếp tục phát huy lòng yêu tổ quốc của mình bằng
những nỗ lực dựng xây đất nước trong thời bình.
ĐỀN THỜ VUA HÙNG THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng 08 km về
hướng Tây Bắc, Đền thờ Vua Hùng thành phố Cần Thơ tọa lạc tại khu vực 7, phường
Bình Thủy, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Đền thờ Vua Hùng được xây dựng nhằm thể hiện sự
tri ân, tưởng nhớ các Vua Hùng và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ
nước, qua đó giáo dục truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” và tinh thần tự
hào dân tộc cho thế hệ trẻ. Đồng thời cũng là nơi phục vụ nhu cầu thực hành tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu, học tập
của các tầng lớp Nhân dân về lịch sử, văn hóa của dân tộc, đáp ứng nguyện vọng
của Nhân dân thành phố Cần Thơ nói riêng, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nói
chung. Đây là công trình có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là điểm nhấn văn hóa của
thành phố Cần Thơ. Trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc, tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh
thần và tình cảm của các thế hệ người Việt Nam. Chính vì vậy, xuất phát từ Đền
Hùng tại vùng Đất Tổ tỉnh Phú Thọ, theo bước chân của cộng đồng dân tộc Việt,
nơi thờ Vua Hùng đã lan tỏa và có mặt ở nhiều tỉnh Bắc Bộ, Trung Bộ. Sang thế kỷ
XX, tín ngưỡng thờ Vua Hùng đã xuất hiện và phát triển mạnh mẽ ở vùng đất
phương Nam, trong đó có thành phố Cần Thơ.
Tại thành phố Cần Thơ, tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương đã tồn tại trong tâm thức của Nhân dân từ rất lâu. Mỗi dịp Giỗ Tổ Hùng
Vương mùng 10 tháng 3 âm lịch, Lễ dâng hương hướng về ngày Giỗ Tổ Hùng Vương được
tổ chức trang trọng tại Bảo tàng thành phố Cần Thơ và một số ngôi đìnhnhư đình
Bình Thủy (quận Bình Thủy), đình Thuận Hưng (quận Thốt Nốt)...Nhằm đáp ứng yêu
cầu, nguyện vọng của đông đảo Nhân dân thành phố Cần Thơ nói riêng và các tỉnh ở
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói chung được thể hiện tấm lòng với Quốc Tổ, Đền
thờ Vua Hùng thành phố Cần Thơ đã được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thống nhất chủ
trương xây dựng vào năm 2016.
Đền thờ Vua Hùng được Chủ tịch Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV Nguyễn Thị Kim Ngân vận động Công ty Cổ
phần Đầu tư Văn Phú - Invest tài trợ xây dựng. Công trình có diện tích 39.033,7
m2. Tổng thể công trình được thiết kế trên cơ sở ý tưởng cách điệu theo hình
dáng bản đồ Việt Nam. Đền thờ Vua Hùng lấy Đền chính làm biểu tượng trung tâm
nơi xuất phát cội nguồn dân tộc với hình trống đồng cách điệu. Sau đó, nối dẫn
theo trục thần đạo ra cổng chính là nhà bia, nghi môn, nhà điều hành, nhà dịch
vụ, cổng chính. Đối xứng dọc hai bên trục chính gồm một bên là cổng phụ ở đường
Võ Văn Kiệt và một bên là hai hồ nước thể hiện sự khẳng định hai quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Công trình được khởi công xây
dựng vào ngày 18 tháng 6 năm 2019 và được khánh thành vào ngày 06 tháng 4 năm
2022.
Đền chính là hạng mục trung tâm của Đền thờ Vua
Hùng, có tổng diện tích 6.361,72 m2 (bao gồm hồ nước xung quanh), chiều cao
19,5m, công trình sử dụng các chất liệu gồm: tường ốp đá tự nhiên, ốp hoa văn,
nền sử dụng gạch, đá; trang trí không gian thờ cúng và đồ thờ bằng gỗ và đồng.
Sự kết hợp giữa đá và gỗ làm cho công trình trở nên hài hòa với
thiên nhiên và quang cảnh xung quanh đền. Khối hình kiến trúc của Đền chính được
chia ra làm ba phần: phần đế công trình, phần thân công trình và phần cánh công
trình với 18 cánh cung tượng trưng cho 18 đời Vua Hùng, tạo thành hình dáng
cách điệu của chiếc trống đồng Đông Sơn. Các chi tiết hoa văn thời Vua Hùng được
điêu khắc tỉ mỉ trên phần cánh và thân của công trình, mang đậm bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam. Công trình được bao bọc bởi hồ nước, với thiết kế hình tròn
và phần đế vuông mang ý nghĩa “trời tròn đất vuông”, đồng thời có sự kết hợp
văn hóa sông nước miền Tây. Bên trong hồ nước có 54 trụ với đường kính 1m, cao
3m, tượng trưng cho 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam hướng về cội nguồn.
Đền chính gồm hai tầng, tầng 2 là không gian thờ rộng rãi, thông thoáng theo
phong cách Nam Bộ, đồ thờ tự được bài trí mang nét văn hóa truyền thống của dân
tộc Việt. Trung tâm của gian thờ là bàn thờ Quốc Tổ Hùng Vương, hai bên là bàn
thờ Tổ Phụ Lạc Long Quân và Tổ Mẫu Âu Cơ. Kế đến là hai bàn thờ Lạc Hầu và Lạc
Tướng. Bên cạnh đó, gian thờ còn bài trí các linh khí được rước từ Khu di tích
lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ gồm: 18 kilogram đất, 18 lít
nước, chân nhang và các di vật do Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ cung tiến: phiên
bản trống đồng Đền Hùng, bộ bát bửu, bộ lỗ bộ, chuông, trống.
Nhà bia mô phỏng theo lối kiến trúc đình truyền thống
Nam Bộ, mái lợp ngói, cột gỗ, các đầu đao được trang trí hoa văn trên trống đồng.
Nhà bia có diện tích 96,70 m2, chiều cao 9,74 m tính từ nền đến đỉnh mái. Bia
được làm bằng đá hoa cương, khắc nội dung trọng tâm về lịch sử thời đại Hùng
Vương và quá trình xây dựng công trình Đền thờ Vua Hùng.
Nghi môn được tạo dựng bởi các cột bê tông ốp đá vững
chắc đỡ các mái, cao 9m. Hình thức mái mang dáng dấp nhà truyền thống của người
Việt cổ thể hiện họa tiết hoa văn trên trống đồng. Dưới mái nghi môn gắn phiến
đá hình chữ nhật, có hoa văn bao quanh, ở giữa khắc chìm dòng chữ: ĐỀN THỜ VUA
HÙNG. Nghi môn quay về hướng Đông Nam.
Nhà điều hành và nhà dịch vụ: Hai khối nhà được
xây dựng theo kiến trúc nhà trệt, mái dốc của người Việt, tuy nhiên đường nét
được đơn giản hơn và không trang trí mái, tạo cho khối nhà trở nên nhẹ nhàng và
mang dáng dấp hiện đại hơn. Với diện tích xây dựng là 536,36 m2,công năng của
nhà điều hành và nhà dịch vụ là khu vực đón tiếp khách, nơi làm việc của nhân
viên và phát triển hệ thống dịch vụ bán quà lưu niệm, nước giải khát phục vụ
khách tham quan
Cổng Đền thờ Vua Hùng Cổng chính hướng về phía
Đông Nam, nằm ở trục chính của khu đất (trục thần đạo), từ cổng chính đi qua
các hạng mục chính của công trình như nghi môn, nhà bia, Đền chính. Cổng phụ nằm
bên đường Võ Văn Kiệt. Hai cổng có kiến trúc giống nhau, lấy ý tưởng thiết kế từ
hoa văn nhà sàn kiểu mái hình thuyền có trên trống đồng Đông Sơn. Cổng cao 12,2
m, rộng 3,4 m, ngang 18,8 m, được ốp đá xanh sản xuất tại Thanh Hóa, có ba cửa,
một cửa chính lớn và hai cửa nhỏ hai bên. Phía trên chính giữa cổng khắc nổi
dòng chữ: ĐỀN THỜ VUA HÙNG.
Khuôn viên và sân lễ tại Đền thờ Vua Hùng bao bọc
nhiều cây xanh được lãnh đạo Trung ương; lãnh đạo thành phố Cần Thơ qua các thời
kỳ và các sở, ban, ngành của thành phố trồng lưu niệm; đồng thời các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long cũng đã đóng góp, cung tiến các loại cây trồng đặc trưng của
địa phương nhằm thể hiện sự đoàn kết, chung sức đồng lòng của lãnh đạo và Nhân
dân các địa phương trong việc tạo nên môi trường xanh ở nơi thờ tự Quốc Tổ.
Đền thờ Vua Hùng là công trình văn hóa tín ngưỡng
quy mô, trọng điểm của thành phố Cần Thơ, có ý nghĩa rất quan trọng: nơi thờ
các Vua Hùng, tổ tiên của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là địa điểm tham quan, học
tập, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của các tầng lớp Nhân
dân. Đặc biệt, nơi đây là địa điểm tổ chức Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm, đáp ứng
mong mỏi của người dân thành phố Cần Thơ và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Cồn Sơn – Làng du
lịch cộng đồng độc đáo ở Cần Thơ
Sau những
ngày làm việc căng thẳng mệt mỏi, bạn muốn thư giản và đi du lịch Miền
Tây môt chuyến để có trải nghiệm mới về cuộc sống Miền Tây thì Cồn
Sơn Cần Thơ là một điểm đến lý tưởng cho bạn. Nét đẹp hoang sơ của cồn
Sơn được ví như viên ngọc quý giữa phố thị và với loại hình du lịch cộng đồng, cồn
Sơn đã tạo nên bản sắc mới cho ngành du lịch Cần Thơ. Được thiên
nhiên ưu đãi với cây trái xum xuê, cá tôm dồi dào, đến đây du khách có thể hòa
mình với thiên nhiên, tìm hiểu cuộc sống giản dị của người dân Nam Bộ.
Bến tàu du lịch Cồn Sơn
Cồn sơn
là một vùng đất nổi giữa sông Hậu, hay người ta còn gọi là cù lao. Cồn Sơn thuộc
Quận Bình Thủy, Thành Phố Cần Thơ. Theo như bản đồ của Pháp năm 1949-1950
lưu lại, thì Cồn Sơn có tên “cù lao Trà Nóc”; lại có tài liệu gọi là Cồn Linh
vì thời xa xưa, Bình Thủy bị nạn dịch bệnh hoành hành, nhiều xác chết trôi sông
tấp vào, được người dân chôn cất, sau đó xuất hiện nhiều hiện tượng lạ, cho rằng,
những người chết trôi linh ứng nên gọi tên là Cồn Linh. Đến đời vua Tự Đức thứ
5 (1852), quan tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt ngồi thuyền đi tuần trên sông Hậu, vừa đến
Cồn Linh thì gặp trận cuồng phong. Tuần phủ hỏi các bô lão cần nơi tránh nạn
thì được chỉ tìm đến cù lao có “ngọn rạch bình yên, không hề có sóng to gió lớn.
Hoa màu thịnh vượng, dân lạc nghiệp an”. Tuần phủ ưng lòng đặt tên vùng này là
Bình Thủy, có cù lao Cồn Sơn nằm ngang. Còn theo những người cao niên trên cồn
thì từ trước năm 1930, cù lao này, trước đó có tên gọi Cồn Linh; dần về
sau mọc rất nhiều cây sơn. Cái tên Cồn Sơn được đặt nên bởi lý do thế. Những
cây sơn được khai thác nhựa cây dùng để sơn son thiếp vàng đồ nội thất bằng gỗ.
Nghề truyền thống ban đầu chính là khai thác nhựa cây sơn và làm gỗ. Dần về sau
nghề này trở nên mai một dần. Người dân bắt đầu chuyển sang trồng cây ăn trái
và nuôi bè cá.
Bản đồ du lịch Cồn Sơn
Từ trung
tâm Tp. Cần Thơ bạn đi theo hướng QL 91. Đến bến đò Cô Bắc (phường Bình Thủy,
quận Bình Thủy) thì bắt đò sang Cồn Sơn chỉ mất khoảng 5-10 phút là tới hoặc thuê
tàu Cần Thơ tại bến Ninh Kiều. Nhìn từ xa, Cồn Sơn có vẻ hoang sơ khi
được bao bọc bởi những rặng bần, bốn mặt là sông nước mênh mông.
Đường quê rợp bóng cây xanh
Cồn Sơn
có diện tích khoảng 70 hec ta đất đai màu mỡ, phù sa bồi đắp quanh năm, những
vườn cây xanh mướt. Đặc biệt người dân xứ cồn thật thà, chất phác, dễ mến lại
vô vùng hiếu khách, nhiệt tình mang đến sự gần gũi thân thương làm say lòng bất
kỳ du khách khó tính nào khi đến thăm nơi đây.
Chiếc cầu nhỏ bắc qua con kênh
Cách đất
liền không xa, nhưng Cồn Sơn có không gian hoàn toàn khác biệt. Du khách như bước
vào một thế giới khác, yên tĩnh và trong lành với vẻ đẹp đơn sơ mộc mạc tựa thời
mở cõi.
Chiếc cầu khỉ đặc trưng
sông nước Miền Tây
Điểm thu
hút nhất của du lịch Cồn Sơn Cần Thơ là mô hình du lịch cộng đồng mang đến sự
trải nghiệm mới lạ trên mỗi hành trình khám phá. Du lịch cộng đồng là tất cả hộ
gia đình chung tay lại cùng làm du lịch. Người dân ở đây liên kết với nhau trên
cơ sở tình làng nghĩa xóm.
Phong cảnh thiên nhiên
thanh bình
Mỗi hộ
gia đình có một đặc trưng riêng. Hộ gia đình có vườn trái cây thì đưa ra để du
khách lựa chọn. Hộ nào có bè cá thì đưa khách đến tham quan. Hộ nào có tay nghề
thì hướng dẫn khách làm bánh. Mỗi hộ gia đình đều có một công việc, chức năng
riêng. Tất cả làm nên một tập thể hỗ trợ, bù đắp đầy đủ cho nhau cho du lịch Cồn
Sơn ngày càng phát triển và để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng du khách.
Du khách thích thú khi
được trải nghiệm chèo xuồng
Từ nuôi
bè cá để cung cấp cho các hàng quán, người dân xứ Cồn đã tận dụng chính cơ sở sản
xuất trên sông của mình để biến thành điểm tham quan cho du khách. Làng nuôi cá
Bè nằm ngay cửa ngõ vào Cồn Sơn và hiện được các đoàn khách ghé thăm trước khi
chính thức bước chân lên cồn. Tại đây, ngoài tìm hiểu quy trình chăm sóc, chế
biến… du khách còn được trải nghiệm cho cá ăn. Chỉ cần khách thả một nhúm thức
ăn được chủ bè chuẩn bị sẵn xuống nước, hàng trăm con cá sẽ túm tụm, quẫy nước,
tạo nên cảnh tượng thú vị và đẹp mắt.
Làng cá bè Cồn Sơn
Ở nhà vườn
Song Khánh, du khách lại được hướng dẫn cách “bón cơm” cho cá.. Sang nhà vườn
Công Minh, du khách lại được học cách nổ bỏng, tham quan cách làm mắm và được
trực tiếp chủ nhà… Đặc sản của Cồn Sơn phải kể đến “cá lóc nhảy” nằm ngay trong
một nhà vườn. Để cá có thể biểu diễn, chủ vườn phải hình thành cho chúng phản xạ
với âm thanh, bằng cách chia nhỏ thức ăn hằng ngày, mỗi lần cho ăn là dùng kẻng
gõ. Hoạt động này lặp đi lặp lại nhiều lần, khiến đàn cá hàng nghìn con tung
mình lên không trung như “nhảy” để đớp mồi mỗi khi nghe thấy tiếng động
Xem cá lóc bay ở nhà vườn
Tín Hòa
Đến Cồn
Sơn, du khách sẽ có cảm giác như đi giữa màu xanh bất tận. Màu xanh từ những dải
lục bình, rặng bần ven sông; màu xanh từ những vườn cây ăn trái và vườn rau của
các hộ dân. Tận hưởng những phút giây thư giản tuyệt vời, hít thở bầu không khí
trong lành mát mẻ không ồn áo khói bụi.
Đạp xe đi dạo trên Cồn
Sơn
Đất đai
trên cồn quanh năm phù sa bồi đắp nên rất màu mỡ, cây trái tươi tốt quanh năm,
nơi đây là xứ sở của chôm chôm, vú sữa, dâu Hạ Châu…Mùa có nhiều trái cây chín
nhất là khoảng tháng 3-4-5 Âm lịch. Cái cảm giác được thưởng thức trái cây do
chính tay mình hái ngay tại vườn thật sự tuyệt vời, bạn sẽ cảm nhận được đầy đủ
hương vị thơm ngon, giòn giòn, tươi mát của nó. Và thực sự hối tiếc nếu bạn
không mua ít trái cây về làm quà cho người thân hay bạn bè bới hiếm có dịp mua
được trái cây với chất lượng tuyệt ngon, an toàn không hóa chất cùng giá cả cực
rẻ ngay tại vườn.
Vườn nhãn trĩu quả
Vườn chôm chôm chín đỏ
Du khách tha hồ thưởng
thức trái cây ngay tại vườn
Khi du lịch
Cần Thơ đến thăm Cồn Sơn, du khách còn được cùng gia chủ làm các món bánh nổi
tiếng của người dân miền Tây như: bánh khọt, bánh xèo, bánh kẹp nướng, bánh
in,…
Du khách được cùng gia
chủ làm các món bánh của người dân miền Tây
Bạn có thể
tham gia vào mọi công đoạn từ chuẩn bị nguyên liệu, nhào bột, tự tay chế biến
ra những chiếc bánh thơm ngon, đẹp mắt đậm chất Nam Bộ. Sau khi làm bánh, khách
ngồi chờ vài phút để hấp, luộc rồi thưởng thức. Mỗi mâm bánh mang ra cho khách
có đủ loại, màu sắc, được trình bày đẹp mắt. Bánh miền Tây có điểm chung là chế
biến đơn giản, tận dụng nguyên liệu địa phương và thơm mùi cốt dừa. Bạn sẽ cảm
nhận được cả vị ngọt và mặn, tuỳ từng loại bánh.
Các loại bánh dân gian hấp
dẫn
Ngoài ra
du khách còn được trải nghiệm cuộc sống của nông dân qua các hoạt động: câu cá,
mò cua, bắt ốc, tát mương bắt cá… Sau nhiều giờ lặn ngụp, lấm lem bùn đất,
thành quả thu được là những con cá đồng (cá lóc, rô phi, cá trê…) giãy đành đạch,
khiến không ít người vui sướng. Từ thành quả này, du khách có thể cùng người
dân chế biến tại chỗ với nguyên liệu sẵn có trong vườn, thành những món đồng
quê tuyệt vời như: cá nướng rơm hay bẹ chuối, ốc nướng.
Trở thành người nông dân
tát mương bắt cá
Đến Cồn
Sơn, du khách đừng quên thưởng thức đặc sản địa phương tại nhà vườn của
người dân. Các món ăn được chế biến từ những sản vật ngay tại cồn. Điều đặc biệt
là trong bữa ăn các món ăn là do nhiều hộ tự nguyện mang đến một món ăn mà
mình nấu ngon nhất. Ví như món ếch xào nhà Chính Nhỏ; món cua đồng, cá lóc nướng
trui từ nhà vườn Song Khánh; món lẩu ốc, bồ câu nước dừa từ nhà vườn Năm Công;
món bánh xèo, bánh khọt từ nhà chị Minh, món cá tai tượng từ nhà chị Năm….
Những món ăn dân dã mà hấp
dẫn
Các nhà
vườn làm du lịch sẽ đạp xe đưa những món ăn đặc trưng của họ từ nhà này sang
nhà khác trên con đê dưới tán cây xanh mát để đưa những món ăn đặc trưng của họ
đến mâm cơm cho quý khách. Cứ vậy, “mâm cơm cộng đồng” ngày càng nhiều món, đa
sắc, đa vị cuốn hút khó quên
Các nhà vườn đạp xe đưa
những món ăn đặc trưng tạo thành “mâm cơm cộng đồng”
Sau bữa
ăn, du khách nghỉ ngơi trên những chiếc võng mắc trong vườn , thả hồn theo gió
mây. Vừa đu đưa, vừa lắng nghe chim hót, cũng là một cái thú khó tìm ở chốn phố
thị.
Một điều
đặc biệt ở đây đó chính là bạn có thể tham quan vườn cò, tận mắt nhìn thấy hàng
trăm cò trắng, cò đen bay từng đàn ở đầu Cồn Sơn khi hoàng hôn buông xuống. Còn
gì tuyệt vời hơn khi được ngắm một khung cảnh bình yên và khoảng thời gian nghỉ
ngơi giữa không gian thoáng mát và yên tĩnh của vùng quê Cần Thơ.
THÔNG
TIN DU LỊCH CẦN THƠ
Cần Thơ
gạo trắng nước trong; Ai đi đến đó lòng không muốn về. Câu ca dao như nói lên tất
cả về một miền đất trù phú được thiên nhiên ưu đãi. Đến Cần Thơ bạn sẽ được
thăm quan chợ nổi Cái Răng, các miệt vườn hoa trái quanh năm. Mùa hoa quả nhiều
nhất là mùa hè, bạn có thể đi vào các khu vườn, nếm đủ các loại trái cây của xứ
Nam Bộ. Riêng vào dịp rằm tháng chạp và rằm tháng 4, có 2 lễ hội lớn tại đình
Bình Thủy là lễ Thượng Điền và lễ Hạ Điền. Đây là một trong 3 lễ hội lớn nhất
miền Tây.
Để có một
chuyến đi du lịch Cần Thơ thành công bạn có thể tham khảo qua một số
thông tin dưới đây
Đi Cần Thơ như thế nào
Bạn có
thể đi máy bay hoặc xe khách tới Cần Thơ. Từ sân bay Cần Thơ về trung tâm hoặc
bến Ninh Kiều giá taxi khoảng 200k. Với xe đò từ Sài Gòn bạn có thể chọn các
hãng xe Phương Trang, Kumho Samco, Mai Linh v.v.v. Liên hệ các nhà xe để biết
điểm đón (tại bến xe miền tây, hoặc mua vé tại Lê Hồng Phong, từ đây sẽ có xe
trung chuyển ra bến xe).
Đi lại ở
Cần Thơ bạn có thể đi taxi hoặc thuê xe máy ở khu bến Ninh Kiều, khu tập trung
dân du lịch. Ở đây cũng tiện mua tour du lịch đi các khu sinh
thái, chợ nổi. Hoặc tự đi nếu đi nhóm đông.
Khách sạn ở Cần Thơ
Các bạn
nên đặt phòng khách sạn ở gần bến Ninh Kiều. Khu vực này thuận tiện cho du
lịch, đi lại tiện lợi, các quán ăn cũng nhiều và dễ đi lại. Ở đây có nhiều
khách sạn từ 1 đến 3 sao. Giá cả cũng đa dạng từ 250k – 500k.
Một số khách sạn khác bạn có thể tham khảo
·
Khách
sạn Ninh Kiều 1 ở gần bến Ninh Kiều
·
Nếu
hay đi công tác thì ở KS Happy đường Phạm Ngọc Thạch, giá phòng khoảng
250k/đêm, ở được, sạch sẽ, cách bên Ninh Kiều khoảng 1km. Chú ý là Đường Phạm
Ngọc Thạch có 2 khách sạn: Khách sạn Hạnh Phúc và Khách Sạn Happy, 2 cái này
khác nhau. Khách Sạn Hạnh Phúc là 3 sao nhưng giá cũng được lắm khoảng
600k/đêm.
·
Khách
Sạn Tây Đô (phố Châu Văn Liêm) 450K/đêm cho 2 người có ăn sáng. Chất lượng bình
thường, phòng đã cũ, gần khu trung tâm và bến Ninh Kiều.
·
Nhà
nghỉ Phương Trang (không liên hệ gì với xe Phương Trang), số 5 Hoàng Văn Thụ,
Q. Ninh Kiều. Điện Thoại: 0710.3829.789, DĐ: 0918.574.568. Giá phòng tham khảo,
phòng đơn: 110k phòng quạt máy, 170k phòng máy lạnh / 1 đêm.
·
Thanh
Thủy Hotel nằm ngay trung tâm bến Ninh Kiều, số 68 đường Hai Bà Trưng, hình như
giá khoảng hơn 300k.
Một số khu vực nhà nghỉ giá rẻ cho dân Phượt
·
Khu vực
nằm sau lưng siêu thị Maximark, gần bến xe đường Nguyễn Trãi, bên hông đường nhỏ
kế siêu thị này là một dãy nhà trọ giá mềm 150k/ngày, phòng rộng rãi, nước nôi
đây đủ, gần khu trung tâm.
·
Khu
nhà nghỉ Nam Long (xa trung tâm, nếu có xe máy thì ở khu này cũng được), bên quận
Cái Răng, đường Quang Trung, phòng ở đây rất mới, sạch sẽ, vì mới xây. 2 người
1 phòng 170k/ngày là ở vô tư. Để tìm khu này bạn hỏi đường đi cảng Cái Cui, khu
dân cư này nằm trên đường Quang Trung, quận Cái Răng. Còn nếu bạn đi từ đường bờ
Nam sông Hậu lên thì trước khi vào Thành Phô Cần Thơ là gặp nó
rồi.
Chợ Nổi Cái Răng
Các điểm
thăm quan du lịch chính ở Cần Thơ phải kể đến Chợ Nổi Cái Răng, chợ
này đông vui và náo nhiệt nhất. Cũng vì đó mà khách du lịch đổ về đây khá nhiều.
Ngoài ra bạn cũng có thể đi Chợ nổi Phong Điền, ít khách du lịch về
chợ nổi này. Do đó chợ khá tự nhiên, tuy nhiên nếu đi muộn thì không được thăm
chợ, chợ tan sớm.
Đi chợ
nổi Cái Răng bạn nên đi sớm, xuất phát lúc 6h sáng. Ra đến chợ Cái Răng
mất khoảng 20 – 30p tàu chạy từ bến Ninh Kiều ra chợ. Nên ăn sáng tại
chợ để cảm nhận cái thú của Sông Nước miền Tây, tại đây có các ghe và
thuyền nhỏ bán hủ tíu, mì, cháo, tha hồ cho bạn chọn. Cũng có mấy chỗ
nhà bè cũng bán đồ ăn nhưng lên đó ngồi ăn thì chẳng có hứng thú
gì, đi chợ nổi ngồi ăn trên tàu lắc lư mới thú vị. Ăn xong có thể
mua ít trái cây tráng miệng. Cũng xin nói trước là giá trái cây cũng
không rẻ hơn trên bờ là bao nhiêu. Có khi còn bị chém nếu ko biết trả
giá.
Đi xong
chợ Cái Răng, bạn
có thể nói tàu chở qua Lò làm Hủ Tíu gần đó tham
quan, nhưng đi sớm quá thì người ta chưa làm đâu, vì làm cái này cần
có nắng để phơi. Làm hủ tíu cũng như làm bánh tráng, chỉ khác là
tráng dầy hơn rồi đem cắt sợi. Tham quan không tốn tiền vì đây là lò
hủ tíu địa phương. Khách nước ngoài rất hay được dắt qua đây xem.
Thường
thì xem xong lò hủ tíu thì có thể đi về. Kết thúc chuyến thăm quan
chợ nổi Cái Răng. Nếu thích bạn có thể tiếp tục tham quan các vườn trái
cây. Tuyến này đi sâu vào các con rạch. Vườn cũng không nhiều trái
lắm đâu. Nếu đi đúng mùa trái gì thì có trái đó nhiều thui, Ở đây
mình có thể ngồi ăn trái cây, uống nước, dạo quanh vườn nghe người
nhà vườn thuyết minh cách chăm sóc cây, thu hoạch trái..v.v.. Có nhìu
vườn để tham quan, nhưng mình không nhớ tên, cứ hỏi lái tàu thì họ
sẽ chỉ.
Tham
quan vườn trái cây xong thì có thể quay về. Nếu đi tàu nhỏ (chở 2 – 4
người) thì yêu cầu đi Rạch Nhỏ về. Còn tàu lớn thì miễn bàn nhé,
không đi vào được. Đường này đi về mất gần 1h nhưng được tham quan thêm
sông nước miền Tây, cảnh vật 2 bên sông. Nói chung là đẹp và yên bình.
Đi đường này phải tùy con nước, nước lớn thì đi phà phà, nước nhỏ
thì phải chèo, nước cạn thì nghỉ đi. Nói chung là muốn đi tuyến này
về cũng phải hỏi lái tàu về con nước và thương lượng trả thêm tiền
xăng cho người ta.
Thuê Thuyền đi chợ Nổi
Giá
thuê thuyền riêng đi chợ nổi cũng rẻ khoảng 300k/thuyền. Có thể tham khảo Số điện
thoại thuê: 0913733796, họ sẽ qua khách sạn đón bạn. Tham khảo thêm 1 địa chỉ
thuê thuyền khác nữa, chị Nga số 0918368697.
Mua vé
ghép thuyền lớn, tức là ghép người lại để thuê thuyền lớn. Muốn đi dạng này, bạn
qua cầu Cái Răng, vừa qua cầu rẽ phải liền, chạy cặp bờ sông cho tới khi nào thấy
cái bến thuyền thì tấp vô, ở đây họ có loại thuyền to, có ghế ngồi, có áo phao
mặc đầy đủ.
Một số điểm du lịch khác ở Cần Thơ
·
Khu
du lịch Phù Sa : ra bến Ninh Kiều sẽ có thuyền đưa sang miễn phí,tuy nhiên vé
vào cổng thì 30k, trong đó cũng không có gì, đi cho biết thôi
·
Vườn
cò Bằng Lăng (cách Thành phố Cần Thơ khoảng
40km), coi chừng bị cò ị lên đầu, đi xe máy thì khỏi tốn tiền đò 80k, đi xe hơi
thì phải gửi xe hơi ở ngoài quán cafe, coi chừng bị mất cắp phụ tùng (ốc xe, kiếng)
·
Làng
du lịch Mỹ Khánh (tour thử làm Địa chủ, thích hợp đoàn >5ng, giá dao động
4.500k – 5.000k/ 3 ngày 2 đêm) phục vụ bạn y như địa chủ luôn. Đua heo, cưỡi ngựa
quanh làng. Có bungalow cho thuê, giá dao động từ 250k – 500k /đêm. Hồ
bơi. Thức ăn không ngon và khá đắt.
·
Khu du lịch Phù Sa, buồn thảm hại, cũ kĩ, không
trùng tu, nhưng thích hợp cả gia đình đi nghỉ mát, nhà hàng bên sông đẹp, trại
nuôi cá sấu, rất nhiều cá sấu nhưng cá sấu không to bằng ở Mỹ Khánh.
·
Câu cá ở Trà Nóc hoặc Ô Môn, có 1 cái gần Viện
Lúa cũng được.
·
Bảo tàng Cần Thơ mở cữa sáng 9h, không phục vụ lễ
tết, cuối tuần.
·
Tối đi dọc theo bến Ninh Kiều tản bộ hoặc thuê
xuồng ra giữa dòng xa xa gần sông Hậu ngắm trăng,sao, đẹp và rất lãng mạn.
Món Ngon Cần Thơ
Ẩm thực
Cần Thơ thể hiện rõ chất Nam Bộ, với một số món
ăn ngon như: Bánh Cống, Ốc
nướng tiêu, lẩu mắm. Dưới đây là một số địa chỉ quán ăn ngon ở Cần Thơ.
Bánh xèo Tân Định
Bánh cống Nguyễn Trãi
Bánh mì Hữu Hiệp
Bún nem nướng Thanh Vân
Quán 6 đời 2 vì nghe nói 6 đời 3 là phục vụ các món ăn thủy hải sản tươi sống
Cháo Quãng 22k, gần cầu Cái Răng
Nem Cái Răng 30k/đòn, dọc bên dưới cầu Cái Răng.
Vườn bia Đất Phương Nam
Hủ tiếu gà Tân Ngọc Lan
Tiệm Viễn Hưng: bánh mì xíu mại
Mì Vịt tiềm: Đường Phan Đình Phùng
Phở Oanh
Cháo
Quãng: nằm trên con đường nhỏ dưới gầm cầu Cái Răng, dọc bờ sông Cần Thơ, hướng
từ cầu Cái Răng đến chợ nổi, khoảng gần cầu. Tại đây bạn có thể ăn các món cháo
hoặc mì. Quán nhìn rất bình dân nhưng đông khách.
Các món
ăn Hàng Rong ở Cân Thơ. Các bạn ra góc đường Lý Tự Trọng và đường Trần Hưng Đạo
vào buổi chiều sau 4h, có bán trứng cút lộn chiên bột, ốc chiên bột, hột vịt
lộn chiên bột, rất ngon. Quán bán vỉa hè nhưng đông vô cùng, đi trễ coi chừng
hết.
Bánh Xèo
Bà Mười Xiềm: địa chỉ đi đến Khu công nghiệp Trà Nóc gặp 1 ngã tư, nếu đi hướng
Cần Thơ về Ô Môn thì ở ngã tư ấy rẽ trái, chạy vào cũng khoảng 3-4km (gần chỗ
câu cá câu tôm) thì phía bên tay phải có cái nhà lá là quán của bà.
Quán
Bích Kiều , ở Quận Thốt Nốt, cách cầu Chà Bà khoảng 200m, bán các món ăn chế
biến bằng gà chọi (gà đá).
Món ốc nướng tiêu ngon nhất ở Hoa Sứ, ngoài ra ở đó
còn có món tàu hủ sữa ngon không đâu bằng.
Chiều
tối ăn cháo sò huyết trên đường Lý Tự Trọng.
Phở 116 góc đường 3-2 và Mậu Thân, muốn
sạch sẽ thì qua Cali trung tâm thương mại Cái Khế, ngoài ra còn phở Thủy đường
Phan Đình Phùng.
Ở đường
Phan Đình Phùng buổi sáng còn có bún
măng (chỗ này bán yahourt
cũng rất ngon).
Đường
Nguyễn Việt Hồng (đoạn gần cafe Đôn) buổi chiều có bánh lọt 3k/tô nhưng ăn bảo đảm ngon, có thịt,
da heo đàng hoàng nha.
Lẩu
mắm Dạ Lý : hơi đắt
tí,theo mình thì ăn cũng bình thường, nhưng cơm ở đây thì ngon. Một cái lẩu 4
người ăn khoảng 600k (giá cũ tham khảo). Địa chỉ nằm trên đường 3/2 nhé. (quán
này giờ thấy nhiều người chê, nhưng nếu chưa ăn lần nào thì cứ thử cho biết).
Ngoài
Lẩu Mắm Dạ Lý còn một quán nữa các bạn cũng nên tham khảo qua. Quán nằm trên
đường Trần Việt Châu, gần 42 Trần Việt Châu, quán không có tên, nằm ngay ngã 3,
người ta hay gọi quán cây Sơri. Quán chỉ bán lẩu mắm thôi nhé. không bán các
món khác, cũng chỉ có rượu trắng và chuối hột, khôngs có bia. Lẩu này giá
khoảng 120k (tham khảo giá cũ) gồm có thịt ba chỉ cá kèo, lươn, ốc bươu, cá da
trơn gì đó. Rau thì chỉ có cải xanh, rau muốn, rau đắng, bông súng, kèo nèo
(hơi ít chủng loại).
Bún mắm Cần hơ có 1 quán trên Lý Tự Trọng trong hẻm
nhỏ kế spa Khơ Thị ăn khá ngon, đầu cá ruột cá lóc nhiều tha hồ gặm. Ngoài ra
còn có Bún mắm ngay gần câu lạc bộ hưu trí bán khoảng 1h đến 5h chiều cũng khá
ngon.
Bánh xèo Tân Định,chạy qua
cầu Nguyễn Văn Cừ là thấy nguyên khu bán bánh xèo
Hệ thống quán ăn 6 Đời,có nhiều chỗ
Gà Nam Long : trong khu dân cư Nam Long, bên quận Cái Răng. Hỏi người ta
quán ăn Ngọc Tuyền ở đâu họ chỉ cho, lẩu gà nấu xã ngon tuyệt.
Chiều
tối đi ăn bánh xèo sau đó xuống du thuyền uống cafe ngắm cảnh, đi dọc bến Ninh Kiều ăn mấy ăn món vừa ngon vừa rẻ
Ốc nướng
tiêu ngon nhất là ở quán Chị Tôi, La Cà hoặc Quê Hương.
Ăn Lẩu baba, lẩu rắn thì ghé chân
cầu Hưng Lợi, có quán Cây Gừa, nước lẩu rất ngon, mà giá đặc sản rẻ lắm. Giá
BaBa gần 300k/kg, rẻ và ngon đến mức mình kinh ngạc.
Gà đá
hầm sả ban đầu quán Ngọc
Tuyền bên khu dân cư Nam Long ở gần cầu Cần Thơ bán ngon nhất, đông nhất. Sau
này bên khu Cồn Khương bắt chước bán theo nhưng. Tìm quán Ngọc Tuyền thì đi
đường Nam Sông Hậu (một đoạn chút xíu thôi) sẽ thấy biển khu dân cư Nam Long,
đi qua cái biển 500m thấy sân tenis, rẽ phải đi qua hướng cuối mấy sân đó chỗ
khu đất cỏ mọc sẽ thấy cái quán mái lá lụp xụp.
Du lịch Sóc Trăng
Sóc Trăng là tỉnh ven biển thuộc đồng bằng
sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam.
Vị trí
Sóc Trăng có phần đất liền nằm từ
9°14′-9°56′ vĩ độ bắc và 105°34′-106°18′ kinh độ đông, phía bắc và tây bắc giáp
Hậu Giang, phía nam và tây nam giáp tỉnh Bạc Liêu, phía đông bắc giáp Trà Vinh,
phía đông và đông nam giáp biển 72 km.
Tỉnh lỵ của Sóc Trăng hiện nay là thành phố
Sóc Trăng, cách Thành phố Hồ Chí Minh 231 km.
Đất đai
* Tổng diện tích: 322.330 ha
* Đất ở: 4.725 ha
* Đất nông nghiệp: 263.831 ha
* Đất lâm nghiệp: 9.287 ha
* Đất chuyên dùng: 19.611 ha
* Đất chưa sử dụng: 24.876 ha
Sóc Trăng là vùng đất trẻ, được hình thành
qua nhiều năm lấn biển nên địa hình bao gồm phần đất bằng, xen kẽ là những vùng
trũng và các giồng cát với cao trình phổ biến ở mức 0,5-1,0 m so với mặt biển,
nghiêng từ tây bắc xuống đông nam và có hai tiểu vùng địa hình chính: vùng ven
sông Hậu với độ cao 1,0-1,2 m, bao gồm vùng đất bằng và những giồng cát hình
cánh cung tiếp nối nhau chạy sâu vào giữa tỉnh; vùng trũng phía nam tỉnh với độ
cao 0-0,5 m, thường bị ngập úng dài ngày trong mùa lũ.
Ngoài ra, Sóc Trăng còn có những khu vực
nằm giữa các giồng cát, không hình thành vùng tập trung với độ cao trung bình
0,5-1,0 m.
Sông
Trên địa bàn Sóc Trăng có hai sông lớn là
sông Hậu và sông Mỹ Thanh, đổ ra biển qua cửa Định An, Trần Đề và Mỹ Thanh.
Hành chính
Tỉnh Sóc Trăng trong thời Pháp thuộc là một
phần của tỉnh Bạc Liêu. Năm 1956, dưới thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam, Sóc
Trăng được lập thành tỉnh riêng lấy tên là tỉnh Ba Xuyên, còn tỉnh lỵ có tên là
Khánh Hưng.
Tháng 2/1976, tỉnh mới Hậu Giang được thành
lập từ hai tỉnh Sóc Trăng và Cần Thơ cũ (có tên gọi là Ba Xuyên và Phong Dinh
theo chính quyền Việt Nam Cộng hòa).
Từ 26/12/1991, tỉnh Sóc Trăng được tái lập
từ tỉnh Hậu Giang.
Sóc Trăng có 9 đơn vị hành chính cấp
huyện, bao gồm:
* thành phố Sóc Trăng
* Long Phú
* Cù Lao Dung
* Mỹ Tú
* Thạnh Trị
* Vĩnh Châu
* Ngã Năm
* Kế Sách
* Mỹ Xuyên
Các thành phố và huyện lại được chia làm
105 xã, phường và thị trấn.
Dân cư
Sóc Trăng có diện tích tự nhiên 3.223,3
km². Trên địa bàn tỉnh có 26 dân tộc, chủ yếu là người Kinh, người Khmer và
người Hoa. Sóc Trăng có 350.000 người Khmer, đông nhất trong số các địa phương
có người Khmer sinh sống, chiếm 28,9% dân số toàn tỉnh và chiếm 32,1% tổng số
người Khmer của cả nước.
Nguồn gốc tên gọi
Tên gọi Sóc Trăng do từ Srok Kh’leang của
tiếng Khmer mà ra. Srok tức là “xứ”, “cõi”, Kh’leang là “kho”, “vựa”, “chỗ chứa
bạc”. Srok Kh’leang là xứ có kho chứa bạc của nhà vua. Tiếng Việt phiên âm ra
là “Sốc-Kha-Lang” rồi sau đó thành Sóc Trăng. Dưới triều Minh Mạng, Sóc Trăng
bị đổi là Nguyệt Giang tỉnh (chữ Sóc biến thành chữ Sông, Trăng thành Nguyệt
nên Sóc Trăng biến thành Sông Trăng rồi bị đổi thành Nguyệt Giang).
Văn hóa
* Có nền văn hóa ba dân tộc: Kinh, Hoa,
Khmer với nhiều màu sắc hấp dẫn.
— — — — — — — — — — —
LỊCH SỬ SÓC TRĂNG
Thời các chúa Nguyễn và các vua nhà
Nguyễn.
Cho mãi đến trước 1757, vùng đất Sóc Trăng
vẫn còn thuộc về sự cai quản lỏng lẻo của quốc vương Chân Lạp. Người Khmer khi
ấy gọi miền đất này bằng tên gọi Srok Khleang (có nghĩa là xứ lẫm, xứ kho).
Srok Khléang là một phần quan trọng của đất Bassac (hay còn gọi là Bathắc). Đất
Bassac khi ấy về cơ bản tương ứng với địa phận hai tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu
hiện nay. Tuy có tên gọi và địa phận rõ ràng như vậy, song trên thực tế, vùng
Bassac vẫn cònt rong tình trạng hoang vu, là nơin gự trị của đầm lầy và thú dữ.
Rải rác đây đó vài cụm dân cư thưa thớt.
Năm 1757, do nhu cầu củng cố quyền lực, vua
Chân Lạp lúc bấy giờ là Préah Outey II quyết định cắt đất Bassac dâng tặng chúa
Nguyễn. Đất Sóc Trăng tứ đó chính thức trở thành một bộ phận lãnh thổ của Việt
Nam và được chúa Nguyễn phiên vào châu Đình Viễn, dinh Long Hồ, phủ Gia Định.
Đến thời vua Gia Long, vào năm 1802, châu
Định Viễn trở thành phủ, nhận lãnh bốn huyện là: huyện Vĩnh Bình, huyện Vĩnh
An, huyện Vĩnh Định và huyện Tân An. Sóc Trăng lúc này thuộc về huyen Vĩnh Định
(phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh). Theo Trịnh Hoài Đức, huyện Vĩnh Định có diện
tích khá lớn: phía Đông giáp biển, phía Tây giáp Cao Miên, phía Nam giáp Hà
Tiên, phía Bắc giáp huyện Vĩnh An và huyện Vĩnh Bình, thế nhưng, dân số lại rất
thưa thớt, nên chưa chia ra tổng được. Toàn huyện mới chỉ có 37 thôn, đếm, trong
đó có 7 thôn (thôn Mỹ Phước, thôn Đại Hữu, thôn An Lạc, thôn An Thanh Nhứt,
thôn An Thanh Nhì, thôn Đại Hòa và thôn An Hòa) là thuộc về Sóc Trăng.
Vào năm 1832, vua Minh mạng chia đất Gia
Định thành sáu tỉnh trực thuộc vào thành Gia Định. Theo sự chia đặt mới này,
Sóc Trăng thuộc về địa phận tỉnh An Giang.
Sang năm 1835, nhận thấy dân cư đã phần nào
đông đúc, đất đai khai phá cũng kha khá, các quan lại địa phương đã thỉnh cầu
với vua Minh Mạng xin được lập phủ Ba Xuyên. Vua Minh Mạng phê chuẩn. Phủ Ba
Xuyên vào năm 1835 bao gồm toàn bộ đất Bassac trước đây.
“Khi đầu đặt An Phủ Sứ, đến năm thứ 20
(1839) cho chức An Phủ sứ mà lãnh việc tri phủ. Lại trích địa phận huyện Vĩnh
Định ra làm ba huyện: Phong Nhiêu, Phong Thạnh, Vĩnh Định. Sau đến Phong Nhiêu
làm phủ, kiêm lý hai huyện Phong Thạnh và Vĩnh Định.” (Đại Nam Nhất Thống Chí).
Như vậy, tình An Giang từ năm 1835 gồm có ba phủ: phủ Tuy Biên (Châu Đốc), phủ
Tân Thành (Sa Đéc) và phủ Ba Xuyên (Sóc Trăng).
Năm Tự Đức thứ 3 (1850), triều đình giảm
bớt quan lại, hai huyện: huyện Phong Thạnh và huyện Vĩnh Định được giao cho
“quan phủ kiêm nhiếp”. Phủ Ba Xuyên như vậy vẫn trực thuộc tỉnh An Giang, lãnh
3 huyện, 10 tổng và 83 xã bang (Đại Nam Nhất Thống Chí).
Thời Pháp thuộc (1867 – 1945).
Theo mô tả của Annuaire de la Cochinchine
en 1868, trong những năm đầu khi Pháp mới xâm lược, các đơn vị hành chính ở Sóc
Trăng hầu như không thay đổi. Nghị định ngày 15 tháng 7 năm 1867 của Thống đốc
Nam kỳ chỉ gây nên hai xáo trộn nhỏ tại Sóc Trăng:
- Phủ Ba Xuyên được đổi thành hạt tham biện
(Inspection).
- Trụ sở của hạt được dời từ Đại Ngãi (Vàm
Tấn) về Khánh Hưng (thị xã Sóc Trăng).
Phải đợi đến năm 1876, khi về cơ bản đã
bình định xong đất Nam kỳ, chính quyền thực dân mới tiến hành cải cách hành
chính tai đây. Theo Nghị định ngày 5 tháng 1năm 1876, Pháp bỏ hẳn hệ thống Nam
Kỳ lục tỉnh và chia Nam Kỳ thành bốn khu vực lớn là: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long
và Bassac.
Hạt Sóc Trăng thời kỳ này có diện tích canh
tác vào khoảng 7.618,43 hecta, dân số 55.935 người. Hệ thống hành chính gồm 11
tổng và 144 thôn. Trụ sở của hạt đặt ở Khánh Hưng, nơi có Toà bố, nhà điện tín,
nhà bưu điện và một trường tiểu học.
Vào năm 1899, theo Nghị định 20 tháng 12
năm 1899, chính quyền thực dân bãi bỏ các danh xưng địa hạt hay tòa tham biện,
đổi thành tỉnh. Tỉnh Sóc Trăng từ năm 1900 đến năm 1945 tồn tại với cơ cấu hành
chính địa phương như sau:
- Từ năm 1900 đến 1916: theo các Nghị định
ngày 10 tháng 10 năm 1906 và Nghị định ngày 16 tháng 2 năm 1909 của Thống đốc
Nam Kỳ, tỉnh Sóc Trăng được phân chia làm ba quận: quận Phú Lộc, quận Kế Sách
và quận Ban Long với 11 tổng.
- Từ năm 1916 đến 1929: theo Nghị định ngày
30 tháng 8 năm 1916 của Thống đốc Nam Kỳ, lập thêm quận Châu Thành, thuộc tỉnh
Sóc Trăng. Như vậy trong thời gian này tỉnh Sóc Trăng gồm bốn quận, với 11 tổng
và 81 làng, diện tích canh tác khoảng 212.908 hecta và dân số khoảng 188.458
người. Cũng trong thời kỳ này, theo quyết định của Thống đốc Nam Kỳ, quận Ban
Long được đổi tên thành quận Thạnh Trị (quyết định ngày 1 tháng 3 năm 1926).
- Từ năm 1929 đến năm 1945: quyết nghị ngày
19 tháng 11 năm 1929 đã chính thức chia lại hành chính các quan ở Sóc Trăng. Từ
sau khi quyết nghị này có hiệu lực, nhiều làng nhỏ được sát nhập vào với nhau,
Sóc Trăng từ bốn quận trở thành ba quận là: quận Châu Thành, quận Kế Sách và
quận Long Phú. Các quận này tồn tại cho hết thời Pháp thuộc.
Thời kỳ chính quyền Việt Nam Cộng hòa
Năm 1970, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi
tên tỉnh Sóc Trăng thành tỉnh Ba Xuyên. Tỉnh Ba Xuyên có diện tích 2.833 km²,
dân số vào năm 1970 là 401.379 người và được chia làm tám quận với 50 xã. Tám
quận gồm:
- Quận Hòa Tù: diện tích 193,5 km², dân số
10.218 người.
- Quận Lịch Hội Thượng: diện tích 235 km²,
dân số 33.372 người.
- Quận Long Phú: diện tích 526,7 km², dân
số 58.737 người.
- Quận Mỹ Xuyên: diện tích 376,6 km², dân
số 115.896 người.
- Quận Ngã Năm: diện tích 334 km², dân số
27.244 người.
- Quận Kế sách: diện tích 406 km², dân số
71.947 người.
- Quận Thạnh Trị: diện tích 329 km², dân số
43.718 người.
- Quận Thuận Hoà: diện tích 432,2 km², dân
số 40.247 người.
Thời kỳ từ sau ngày giải phóng năm
1975 đến nay.
Sau ngày miền Nam được giải phóng, cả nước
thống nhất, theo yêu cầu mới của việc quản lý đất nước, nhà nước ta đã quyết
định sáp nhập hai tỉnh: tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Cần Thơ thành tỉnh mới lấy tên
là tỉnh Hậu Giang (kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975). Trụ sở của tỉnh được
đặt tại thành phố Cần Thơ. Tỉnh lỵ Sóc Trăng trước đây thành thị xã trực thuộc
tỉnh.
Bước sang thời kỳ đổi mới, nhằm phát huy
mọi tiềm năng và thế mạnh của các địa phương trong cả nước, theo Quyết định
ngày 2 tháng 12 năm 1991 của Chính phủ, tỉnh Hậu Giang được tách ra thành hai
tỉnh mới là tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Cần Thơ. Tiếp theo đó, Quyết định ngày 19
tháng 6 năm 1993 đã ổn định bộ máy hành chính của Sóc Trăng với 1 thị xã, 6
huyện với tổng số 94 xã, phường, thị trấn. Đó là:
- Thị xã Sóc Trăng: 6 phường.
- Huyện Kế sách: 12 xã và 1 thị trấn.
- Huyện Mỹ Tú: 15 xã và 1 thị trấn.
- Huyện Mỹ Xuyên: 15 xã và 1 thị trấn.
- Huyện Thạnh Trị: 12 xã và 2 thị trấn.
- Huyện Long Phú: 18 xã và 1 thị trấn.
- Huyện Vĩnh Châu: 9 xã và 1 thị trấn.
Hiện tại, Sóc Trăng đang là một trong những
tỉnh sản xuất lương thực trọng điểm ở đồng bằng sông Cửu Long và cũng là một
trong những tỉnh dẫn đầu sản xuất lúa gạo trong cả nước. Với sự ổn định như
hiện nay, trong tương lai, chắc chắn Sóc Trăng sẽ càng phát triển hơn nữa vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
ĐỊA LÝ SÓC TRĂNG
Diện tích: 3.312,3 km2.
Dân số (2006): 1.276.200 người.
Tỉnh lỵ: thành phố Sóc Trăng.
Các huyện: huyện Kế Sách, huyện Mỹ Tú,
huyện Mỹ Xuyên, huyện Thạnh Trị, huyện Long Phú, huyện Vĩnh Châu, huyện Cù Lao
Dung và huyện Ngã Năm.
Dân tộc: Việt (Kinh), Khmer, Hoa, Chăm…
Thành phố Sóc Trăng cách thành phố Hồ Chí
Minh 231 km, cách thành phố Cần Thơ 60 km, Sóc Trăng nằm ở cuối lưu vực sông Mê
Kông, giáp với các tỉnh: tỉnh Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Hậu Giang, tỉnh
Bạc Liêu và biển Đông. Sóc Trăng có 72 km bờ biển, 30.000 hecta bãi bồi, khí
hậu mang tính chất khí hậu đại dương hai mùa: mùa mưa từ giữa tháng 5 đến tháng
11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm từ 260C
đến 280C.
Sóc Trăng là tỉnh nông nghiệp chủ yếu trồng
lúa (chiếm hơn 90% diện tích đất canh tác). Du khách đến đây sẽ thấy một vùng
đất xanh tươi với trái xum xuê trĩu quả như vườn nhãn ven biển Vĩnh Châu, vườn
chôm chôm, sầu riêng, cam, quýt…trên cù lao Dung, cồn Mỹ Phước.
— — — — — — — — — — —
BÁNH PÍA SÓC TRĂNG
Không những có các công trình kiến trúc
Khmer nổi tiếng, Sóc Trăng còn được biết đến bởi những món ăn ngon như cốm dẹp,
xá bấu, bún nước lèo, bánh bía… trong đó, bánh bía là đặc sản không thể thiếu
trong chuyến đi về Sóc Trăng.
Chiếc bánh bía nhìn từ bên ngoài có màu
vàng cam. Xẻ chiếc bánh làm đôi, chiếc bánh như vành trăng bán nguyệt ẩn vào
bên trong là màu đỏ rực của lòng đỏ trứng gà, mùi sầu riêng dậy lên như mời gọi
làm cho chiếc bánh bía trông đã ngon lại càng ngon hơn.
Bánh bía Sóc Trăng không khô cứng như bánh
lột da mà mềm, ngọt đậm. Để bánh pía có được mùi vị, mầu sắc hấp dẫn phải qua
rất nhiều công đoạn. Trước tiên, bột mì được đưa vào máy, trộn nhuyễn với đường
cát trắng trên bếp lửa. Sau đó thêm vào các phụ gia, rồi chia làm hai phần.
Phần bột dai được cán mỏng như bánh tráng, cuốn tròn lại, kéo dài ra làm vỏ
ngoài cùng. Phần bột xốp được xắt thành khối hình vuông, có kích cỡ vừa lòng
bàn tay, được dùng làm vỏ bánh bên trong.
Nhân bánh có nhiều loại, phổ biến nhất là
nhân khoai môn, nhân đậu xanh, sầu riêng. Đậu xanh và khoai môn sau khi hấp
chín được trộn đường, xay nhuyễn, chế thêm mỡ nước tạo nên mùi vị bùi bùi, beo
béo khá hấp dẫn. Mỡ làm nhân được xắt sợi ướp đường cho săn, để nhằm giữ được
lâu. Hột vịt muối đặt giữa nhân, người ta chỉ chọn lấy lòng đỏ.
Do có nguồn gốc từ Trung Hoa được du nhập
vào Việt Nam theo chân các Hoa kiều nên bánh pía cũng có ít nhiều những thay
đổi cho phù hợp với điều kiện bản địa. Ví như Người dân Nam Bộ có đặc tính
thích mùi thơm nặng của sầu riêng do vậy bánh được bổ sung thêm mùi vị của loại
trái cây này và từ đó đã trở thành đặc sản nổi tiếng. Nhắc đến bánh bía Sóc
Trăng ai cũng thích nhất bánh bía đậu xanh sầu riêng. Sầu riêng khi tách hạt
lấy thịt trộn mỡ heo xắt sợi làm nên những mùi vị tuyệt vời của bánh pía Sóc
Trăng.
Sau các bước chuẩn bị đầy công phu, bánh
được đưa vào lò và nướng ở nhiệt độ trung bình khoảng 2700C. Sau từ 5-7 phút,
thợ đứng lò sẽ lấy bánh ra, lật ngược mặt bánh rồi thoa lên một lớp lòng đỏ
trứng và đưa vào lò trở lại. 15 phút sau, khi chiếc bánh chuyển sang màu vàng
ươm, quyện mùi sầu riêng thơm hấp dẫn cũng là lúc chiếc bánh đã được hoàn thành
và chuẩn bị đến tay thực khách.
Bánh bía có hai loại chay và mặn. Ăn bánh
không thể thiếu tách trà thơm. Vị đăng đắng, thanh thanh trong trà giúp bánh đỡ
ngấy. Điều lạ của bánh là ở chỗ không thể ăn một lúc được nhiều nhưng có thể
nếm lai rai không biết ngán. Người Sóc Trăng có thói quen biếu tặng bánh bía
nhân dịp cúng trăng (rằm tháng 8) hoặc lễ Tết như cách bày tỏ tình thân ái.
Người phương xa đến thăm Sóc Trăng bao giờ cũng mua vài phong bánh bía (mỗi
phong bốn cái) làm quà cho người ở nhà, như mang theo hương vị ngọt ngào đậm
đà, chân chất của một vùng quê Nam Bộ. Để rồi cứ mỗi độ lễ hội Oc om boc đến,
trên dòng sông Đinh rộn vang tiếng hò, khắp nơi vang lên điệu lâm thôn thì cũng
là lúc chiếc bánh bía lại quay về với câu chuyện lễ nghĩa, của tình chòm xóm
như câu hát mượt mà, da diết không thể nào quên.
— — — — — — — — — — —
Chùa Sà Lôn (Chùa Chén kiểu)
Đến Sóc Trăng theo các tour du lịch tâm
linh, ngoài viếng các chùa: Dơi, Đất Sét, Klêlang bạn không thể không viếng
chùa Sà Lôn (còn gọi chùa Chén Kiểu) nằm trên Quốc lộ 1A, cách thị xã Sóc Trăng
12km về hướng Tây, hướng từ thị xã Sóc Trăng đi Bạc Liêu.
Nét đặc sắc ở ngôi chùa là sử dụng những
mảnh bát (chén), đĩa sứ ốp lên tường trang trí cho ngôi chùa, bởi vậy chùa còn
được gọi là chùa Chén Kiểu.
Thuở ban đầu chùa được dựng bằng cây và lá
rừng. Trong thời kỳ chiến tranh, ngôi chánh điện bị sập do bom đạn tàn phá.
Chùa được dựng lại năm 1969, đến năm 1980 hoàn thành.
Kỹ thuật ốp sứ độc đáo đã tạo nên vẻ đẹp
riêng rất ấn tượng của ngôi chùa. Tại chùa Sà Lôn còn lưu giữ một bộ sưu tập đồ
gỗ quý hiếm được chạm, khảm rất tinh tế, nhà chùa mua lại trong phần gia sản
của công tử Bạc Liệu năm 1947.
Cột chùa chạm nhiều hoa văn, đường viền độc
đáo. Hai bên cổng ngự, hai con sư tử bằng đá trên bệ cao, hướng ra lộ. Trên
cổng xây ba ngôi tháp, được chạm khắc, đắp nổi biểu trưng cho văn hóa truyền
thống Khmer. Đặc biệt, trong lòng tháp chính giữa lồng một tấm kính, nổi bật
tượng phật ngồi uy nghi, như hiện hữu an lành ở chốn cảnh chùa. Cũng như các
ngôi chùa khác của người Khmer, mái nóc chùa Chén Kiểu có ba nếp, nếp dưới cùng
lớn và nhỏ dần khi vút lên cao. Nếp phía trên có hình tam giác, hai đầu đao mỗi
bên cong nguy nga. Mỗi nếp trang trí nhiều họa tiết và các tượng Khmer mang ước
vọng bình yên, siêu thoát. Mặt sau chính điện là một mảng tường đắp nổi bởi
nhiều mảnh chén kiểu vỡ đẹp mắt và sắc sảo. Bước vào gian thờ chính điện, sẽ
thấy quần thể gồm 20 tượng phật lớn, nhỏ đứng ngồi nhiều tư thế khác nhau. Tất
cả được bố trí hợp lý, không gian tôn nghiêm luôn thơm mùi nhang khói. Theo một
vị sư trụ lâu năm tại đây thì chùa Chén Kiểu trước kia được cất bằng lá, có tên
Khmer là “Sà Lôn”. Chùa được xây cất vào năm 1815 trên nền đất rộng. Thập niên
60, chùa bị bom đạn phá hư hại và được xây lại như hiện trạng ngày nay. Phần
sau chính điện vì thiếu kinh phí nên được các nghệ nhân sử dụng mảnh vỡ chén
kiểu đắp vào. Chùa có tên Chén Kiểu từ đó. Hiện nay ngoài tín đồ phật tử là
đồng bào Kh’mer, chùa Chén Kiểu còn thu hút đông đảo khách du lịch tâm linh từ
khắp mọi miền đổ về hành hương trong những dịp lễ vía Phật. Ngoài thắp hương
cho lòng thanh thản còn được viếng cảnh chùa, xem nghệ thuật điêu khắc của nghệ
nhân Kh’mer Nam bộ.
— — — — — — — — — — —
Khám phá Chùa Khleang – Ngôi cổ tự miền
đất Sóc Trăng
Khleang là một trong những ngôi chùa Khmer
cổ nhất ở Sóc Trăng được xây dựng vào giữa thế kỷ 16. Chùa có bức tượng Phật
ngồi trên đài sen cao 6,8 m đặt ngay ở chính điện. Chùa Khleang đã được công
nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Chùa Khleang là một ngôi chùa cổ ở Sóc
Trăng, có tuổi thọ rất cao, gắn liền với truyền thuyết địa danh Sóc Trăng. Ban
đầu, chùa được xây cất bằng gỗ, lợp lá, rồi dần dần mới xây cất bằng gạch và
lợp ngói, với cách trang trí, đường nét kiến trúc rất đẹp.
Chùa nằm trên một khoảnh đất rộng, không
gian thông thoáng, chung quanh có nhiều cây xanh, tỏa bóng mát xuống khắp mặt
sân, dưới mỗi gốc cây có đặt những băng ghế đá dùng để nghỉ chân, tạo cho du
khách một cảm giác hết sức thoải mái, mát mẻ sau khi tham quan mệt nhọc.
Chùa Khleang được xây cất rất cao so với
mặt đất, với bậc tam cấp và ba vòng rào, tất cả đều bằng xi-măng và rực rỡ mầu
sắc. Vòng rào ngoài lớn rồi nhỏ dần vào trong, khoảng cách giữa các vòng rào
rất rộng, nền chùa chiếm diện tích rất lớn. Trước chùa có xây hai tháp hình bầu
dục nằm ở hai bên, dùng để đựng xương cốt của các vị trụ trì.
Bên trong chính điện có 16 cột bằng gỗ, rất
to, đen mượt, được thếp bằng vàng các hình ảnh nói về cuộc đời đức Phật, về
sinh hoạt Phật pháp. Trên trần và chung quanh đều được trang trí bằng rất nhiều
nét vẽ về hình ảnh của đức Phật, thể hiện được sự hòa hợp giữa kiến trúc và hội
họa.
Nơi chính điện là tượng Phật cao 6,8 m,
phần thân tượng cao 2,7 m được đúc vào năm 1916. Tượng được đặt ngồi trên tòa
sen lộng lẫy với vầng hào quang bằng điện lúc ẩn, lúc hiện, tạo nên sự uy
nghiêm thanh thoát và huyền ảo. Chung quanh tượng Phật lớn và tượng Phật nhỏ có
nhiều tủ kính trưng bày các hiện vật gia dụng của cộng đồng người Khmer xưa như
là một cách bảo tồn và phát huy nét sinh hoạt văn hóa cổ xưa của dân tộc mình.
Bộ mái chùa cũng được xây dựng theo thể
thức tam cấp và mỗi cấp lại có 3 nếp. Nếp giữa lớn hơn nếp phụ ở hai bên và
không có tháp nóc chùa. Chung quanh mái chùa được đắp phù điêu hình chim, thú
cũng như những hình ảnh tượng trưng cho triết lý nhà Phật. Toàn bộ mái chùa là
cả một công trình kiến trúc vĩ đại thể hiện quan niệm, triết lý về Phật, Trời
của người Khmer.
Hằng ngày, chùa Khleang đón rất nhiều du
khách đến tham quan, đặc biệt là du khách nước ngoài. Chùa đã được Bộ Văn hóa –
Thể thao – Du lịch công nhận là Di tích lịch sử, văn hóa quốc gia.
Nét đẹp ở chùa Khleang
Du khách đến Sóc Trăng, ngoài việc nghỉ
ngơi, thư giãn ở Hồ nước ngọt, chiêm ngưỡng chùa Dơi, ghé thăm chùa Đất Sét,
chùa Chén Kiểu… không thể nào không đến chùa Khleang, bởi đến đây du khách sẽ
đuợc chiêm ngưỡng vẻ đẹp uy nghi, lộng lẫy, kiến trúc độc đáo của ngôi chùa ở
đây. Chính vì nét đẹp của lối kiến trúc mà ngôi chùa được Nhà nước công nhận là
Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa tọa lạc tại số 71, đường Mậu Thân, phường 6,
thị xã Sóc Trăng. Vẻ đẹp chính của ngôi chùa là những đường nét, kiến trúc thể hiện
phong cách đặc trưng của người Khơ-me ở Nam Bộ.
Sóc Trăng là nơi tập trung đông đảo cư dân
Khơ- me sinh sống. Đan xen cùng các dân tộc Việt, Hoa anh em. Cuộc sống của cư
dân Khơ-me luôn gắn liền với chùa chiền, vì chùa là nơi để sinh hoạt tín
ngưỡng, sinh hoạt văn hóa của cả cộng đồng, nên khu vực người Khơ-me sinh sống
thường tập trung rất nhiều chùa phục vụ sinh hoạt tinh thần của họ. Do vậy,
ngay từ buổi mở đất, cư dân Khơ-me xây dựng rất nhiều chùa chiền, cho nên ngày
nay Sóc Trăng còn tồn tại rất nhiều ngôi chùa cổ gắn liền với sự sinh sống của cộng
đồng người Khơ- me mà chùa Khleang là một minh chứng.
Chùa Khleang là một ngôi chùa cổ, có tuổi
thọ rất cao, được xây cất vào khoảng 1533, gắn liền với truyền thuyết địa danh
Sóc Trăng. Do lúc đầu cuộc sống còn nhiều khó khăn, các loại vật liệu, phương
tiện chưa phổ biến nên chùa được xây cất bằng gỗ, lợp lá, rồi dần dần mới xây
cất lại bằng gạch và lợp ngói, với cách trang trí, đường nét kiến trúc rất đẹp.
Chùa nằm trên một sở đất rộng, không gian thông thoáng, xung quanh có nhiều cây
xanh, tỏa bóng mát xuống khắp mặt sân, dưới mỗi góc cây có đặt những băng ghế
đá dùng để nghỉ chân, tạo cho du khách một cảm giác hết sức thoải mái, mát mẻ
sau khi tham quan mệt nhọc. Đặc biệt, trong khuôn viên chùa còn có trồng nhiều
cây thốt nốt – loại cây tương tự như cây dừa, loại cây đặc trưng mà người
Khơ-me thích trồng ở khu vực sinh sống của mình. Cổng chùa được trang trí nhiều
hoa văn, họa tiết, màu sắc rực rỡ mang đậm phong cách Khơ-me. Trên cổng còn có
ba ngôi tháp nhỏ, được trang trí đẹp mắt, hòa cùng nền trời xanh tạo nên gần
gũi, liên kết, thành tâm giữa con người và đất trời, là sự giao hòa giữa cõi
nhân duyên và miền cực lạc.
Kiến trúc chính của ngôi chùa là tòa chính điện với lối kiến trúc phức tạp, sâu
sắc thể hiện triết lý phương Đông về nhân sinh thế sự. Chùa được xây cất rất
cao so với mặt đất, với bậc tam cấp và ba vòng rào, tất cả đều bằng xi-măng và
rực rỡ màu sắc. Vòng rào ngoài lớn rồi nhỏ dần vào trong, khoảng cách giữa các
vòng rào rất rộng, nền chùa chiếm diện tích rất lớn. Trước chùa có xây hai tháp
hình bầu dục nằm ở hai bên, dùng để đựng xương cốt của các vị trụ trì.
Bên trong chính điện có khoảng 16 cột bằng
gỗ, rất to, đen mượt, được thếp bằng vàng các hình ảnh nói về cuộc đời đức
Phật, về sinh hoạt Phật pháp. Trên trần và chung quanh được trang trí bằng rất
nhiều nét vẽ về hình ảnh của Đức Phật, thể hiện được sự hòa hợp giữa kiến trúc
và hội họa. Nơi chính điện là tượng Phật rất to, ngồi trên tòa sen lộng lẫy,
xung quanh là những bày trí của các vị sư như hoa lá, cây trái và một vài tượng
Phật nhỏ, vầng hào quang bằng điện lúc ẩn lúc hiện, tạo nên sự uy nghiêm thanh thoát
và huyền ảo.. Ngoài ra, trong chùa còn có một “Sa la” rất lớn, đó là nhà hội
của phật tử và sư sãi. “Sa la” là một nhà sàn bằng gỗ, mặt sàn cách mặt đất
khoảng 01 mét, có một gian rộng rãi để cử hành dâng cơm và tổ chức những sinh
hoạt theo nghi thức cổ truyền.
Bộ mái chùa cũng được xây dựng theo thể
thức tam cấp và mỗi cấp lại có 3 nếp. Nếp giữa lớn hơn nếp phụ ở hai bên và
không có tháp nóc chùa. Xung quanh mái chùa được đắp phù điêu hình chim, thú
cũng như những hình ảnh tượng trưng cho triết lý nhà Phật.
Hằng ngày, chùa Khleang đón rất nhiều du khách đến tham quan, đặc biệt là du
khách nước ngoài, hết thảy đều choáng ngợp trước nét đẹp kiến trúc của ngôi
chùa. Nếu có dịp đến Sóc Trăng, xin bạn hãy nán chút thời gian quý báu đến
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa Khleang để cảm nhận thêm vẻ đẹp muôn màu của cuộc
sống.
— — — — — — — — — — —
Chùa Dơi
Nếu có dịp ghé Sóc Trăng, các bạn nên đến
với Chùa Dơi – một địa chỉ du lịch độc đáo nổi tiếng của vùng này. Nằm cách thị
xã Sóc Trăng 3km về phía Nam, Chùa Dơi mà tiếng Khơ Me gọi là
Serâytécbômabatúp, có nghĩa là do phúc đức tạo nên.
Chùa Dơi ra đời cách đây gần 400 năm (chùa
có tên là chùa Mã Tộc hay chùa Ma Ha Túc). – Chùa nằm cách thị xã Sóc Trăng 2km
là một trong những điểm thu hút nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế. Chùa
Dơi độc đáo bởi hàng ngàn tượng phật, tượng tứ linh (Long, ly, quy, phượng…)
đều nặn từ đất sét cùng với vẻ đẹp kỳ thú do dơi và quạ tạo nên.
Không ai nhớ nổi Chùa này ra đời khi nào và do ai trụ trì đầu tiên. Song điều
đó cũng không phải là sự đặc biệt gì. Nét độc đáo của Chùa này chính là nơi hội
tụ của hằng hà sa số Dơi. Bao bọc quanh chùa là cả một cánh rừng với đủ lại
cây, song nhiều nhất vẫn là Sao và Dầu. Có hàng vạn con Dơi tá túc ở cánh rừng
này. Có những con lớn đến mức sải cánh dài cả mét treo đen kịt trên các nhánh
cây. Cả ngày chúng tớn tác kiếm ăn đâu không rõ, cứ chiều đến, từ khắp nơi hàng
vạn con Dơi lại trở về sân chùa.
Khách du lịch đến thăm Chùa thú nhất là
được ngắm nhìn đàn dơi bay kín cả bầu trời mỗi khi hoàng hôn. Trong cái tĩnh
mịch của ngôi chùa cổ giữa rừng, tiếng vỗ cánh của đàn Dơi có thể làm những ai
yếu bóng vía phải hãi hùng.
Cứ đến mùa mưa (tháng 5, tháng 6) là mùa
sinh sản của Dơi. Hầu hết Dơi ở chùa đều đẻ mỗi lứa mỗi con, song số lượng Dơi
thì không hề tăng thêm mà đang có nguy cơ tụt giảm bởi rất nhiều người đến đây
bắt dơi bằng cách chăng lưới hoặc dùng lồng chụp. Mỗi ngày như thế, đám người
này có thể bắt hàng ngàn con. Thịt dơi cũng là món khoái khẩu của mấy bợm nhậu.
Nghe bảo nó thơm và ngon như thịt gà.
Các vị sư ở đây rất tích cực bảo vệ đám dơi
bởi họ cho rằng cái sự dơi đổ về chùa chính là phúc lành nhà phật cho ngôi chùa
này. Bên sự độc đáo kỳ lạ kia, du khách cũng có thể thoả mãn với nét kiến trúc
của ngôi chùa cổ này trong sự hoà đồng của nền văn hoá Việt – Miên thể hiện ở
điêu khắc Ăng-co với nhiều phù điêu và hoa văn trên làng loạt cột đài nơi chính
điện. Nếu có biện pháp tốt để trùng tu ngôi chùa (hiện đang bị đổ nát khá
nhiều) và bảo vệ được đàn dơi – ngôi chùa này chắc chắn sẽ là một điểm du lịch
kỳ thú của miền sông nước Sóc Trăng.
— — — — — — — — — — —
Chùa Đất Sét
Chùa Đất Sét còn có tên là Bửu Sơn tự nằm ở khóm 1, phường 5, thị
xã Sóc Trăng. Chùa nổi tiếng bởi những vật được tạo hình từ đất sét. Từ tháp Đa
Bảo 13 tầng, tháp Bảo Tòa cao hai mét, đến Lục Long Đăng và nhiều thứ khác đều
làm bằng đất sét, sau đó được phủ ngoài bằng nước sơn, kim nhũ. Chùa Đất Sét là
một công trình kiến trúc độc đáo ở Việt Nam.
Chùa Đất Sét được xây dựng từ rất lâu để
thờ Phật tại gia của dòng họ Ngô. Thuở ban đầu, Chùa được cất bằng các loại cây
bình thường ở địa phương. Trải qua bao năm tháng nên đã bị hư mục khá nhiều và
cũng đã được con cháu trong dòng họ tu sửa nhiều lần theo cấu trúc ban đầu. Mãi
đến năm 1928, ông Ngô Kim Tông đã thực hiện một ý tưởng của mình là dùng chất
liệu đất sét tại chỗ để dựng nên một ngôi chùa và tạc các tượng thờ Phật.
Bằng trí tưởng tượng phong phú, bằng bàn
tay tài hoa khéo léo của mình, ông đã tạo nên tháp Đa Bảo cao 13 tầng, mỗi tầng
có 16 cửa, mỗi cửa có một tượng Phật. Tổng cộng tháp Đa Bảo có 208 cửa, 208 vị
Phật và 156 con rồng đỡ cho 13 tầng tháp. Toàn bộ tháp này cao chừng 4,5 mét.
Kế đó ông tạo Tháp Bỏa Tòa để thờ Phật cao chừng 2 mét, phía trên theo hình bát
giác tượng trưng cho bát quái: Càn – khảm – cấn – chấn – tốn – ly – khôn –
đoài. Trên cùng của tháp là một tòa sen với 1000 cánh, trên mỗi cánh sen có một
tượng phật ngự. Trong chùa có một chùm đèn gọi là Lục Long Đăng với sáu con
rồng quay đầu ra chung quanh, đuôi chụm vào với nhau, phía dưới là một bông sen
để các bóng đèn. Ngoài ra, ông Tông còn tạo hình các danh thú như Kim Lân,
Thanh Sư, Bạch Hổ, Long Mã, Bạch Tượng… có ba cái đỉnh, mỗi cái cao 1,5 mét,
bảy cái lư hương nhỏ. Tìm hiểu kỹ thì được biết toàn chùa có đến 1991 tượng
Phật và tất cả đều hoàn toàn làm bằng đất sét. Sau khi làm xong, tất cả các sản
phẩm bằng đất sét đều được phủ lên bên ngoài bằng nước sơn, kim nhũ và dầu bóng
nên trông giống như làm bằng chất liệu đồng vậy.
Bên cạnh những sản phẩm bằng đất sét, ở
trong chùa còn có những cây đèn cầy (nến) khổng lồ. Sáp để đúc đèn được mua từ
năm 1940, vẫn còn nguyên khối. Sau một tháng, đèn thiệt khô mới dỡ bỏ khuôn và
đem những con rồng bằng đất trang trí xung quanh. Được biết, mỗi cặp đèn lớn
đốt liên tục 70 năm mới hết.
Suốt gần 30 năm, không một giọt sáp nào
chảy ra bên ngoài cả. Cần phải nói thêm là trong chùa hiện nay vẫn còn ba cây
nhang (hương) lớn, mỗi cây nặng 50 kg chưa sử dụng đến. Tất nhiên đều là hương
thật. Có lẽ chùa Đất Sét là một công trình kiến trúc “độc nhất vô nhị” ở Việt
Nam.
— — — — — — — — — — —
Cồn Mỹ Phước
Nếu nói về “Du lịch xanh” ở Sóc Trăng thì
cồn Mỹ Phước, xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách, là một điểm thu hút khá đông du khách
trong và ngoài tỉnh. Nơi đây mang đặc thù của những vùng cây trái chuyên canh ở
các cù lao trên sông Hậu thuộc Sóc Trăng cũng như ĐBSCL.
Đông vui nhất là vào dịp tết Đoan Ngọ (5/5
âm lịch) hàng năm hoặc mùa hè – mùa trái cây chín rộ, mỗi ngày vẫn có hàng
nghìn lượt du khách đổ về các vườn cây trái sum suê trĩu quả.
Cách thị trấn Kế Sách chừng 10 km, muốn tới
cồn Mỹ Phước khách có thể đi bằng cả đường thuỷ và đường bộ thuận tiện. Đất xứ
cồn này từ xưa đã nổi tiếng với cây hồng xiêm, xoài, sầu riêng…, có vườn trồng
tỉa thêm cam quýt. Thu nhập chính của người xứ cồn chủ yếu dựa vào canh tác
vườn cây đặc sản với diện tích trên 300 ha. Bên cạnh đó, các nhà vườn ở Mỹ
Phước đã xây dựng mô hình vườn sinh thái để thu hút du khách; trong đó, nổi bật
là điểm vườn của gia đình ông Tư Việt. Chỉ với 4,5 ha vườn nhãn, nhưng gia đình
ông đã cải tạo, dành chỗ nghỉ ngơi cho khách. Một gian hàng kinh doanh thức ăn
đặc sản miệt vườn cũng được thiết lập với bến đò, nhà vệ sinh khá khang trang…,
thu hút một lượng lớn du khách đến tham quan.
Không riêng gì điểm du lịch của ông Tư
Việt, nhiều nhà vườn khác cũng đã thực hiện mô hình vườn sinh thái. Qua đó, nhà
vườn có thể bán được trái cây và có thêm thu nhập thêm từ các dịch vụ “ăn
theo”. Nhằm phát huy lợi thế này, Công ty du lịch Sóc Trăng cũng đã liên kết
đầu tư vào một số điểm du lịch tại cồn Mỹ Phước để sửa sang lại bến bãi, mở
rộng khu sinh hoạt vườn. Sắp tới, công ty sẽ tổ chức các tuyến du lịch sinh
thái cuối tuần phục vụ du khách trong và ngoài tỉnh.
— — — — — — — — — — —
Chạch lấu nướng mộc (Sóc Trăng)
Chạch lấu phải là cá tươi, bơi khỏe… sau
khi nướng cơ thịt mới dai, chắc. Có nhiều công thức chế biến món chạch lấu
nướng khác nhau, nhưng hơn nhau ở chỗ “bài phụ gia” ướp trước khi nướng. Gọi là
phụ gia nhưng vai trò của nó có tính quyết định.
Ướp sao cho miếng cá không có mùi tanh, kể
cả khi để nguội. Muốn vậy thời gian ướp ít nhất phải 5 phút gia vị mới thấm vào
trong những đường khứa cắt ngang trên thân cá, Tuy thế, món nướng sẽ không
thành công nếu thao tác nướng thiếu một chút “nghệ thuật”. Nướng mà cá không bị
vết khét, cháy. Nhìn cá nướng mà thực khách cứ nghĩ là cá chiên thì đầu bếp mới
thành công.
Thấy con cá nướng muối ớt vàng ươm, tươm
mỡ, lấm tấn màu đỏ ớt…đến trẻ con cũng ăn một cách ngon lành. Sở dĩ mòn này
được đặt tên là chạch lấu nướng muối ớt là vì những đĩa muối ớt đỏ tươi làm món
chấm, chứ cá hoàn toàn không có vị cay, rau răm có vị hơi cay khi cặp với miếng
cá vàng da trắng thịt, chấm một tí muối ớt, dù nhấm tí rượu đế hay một hớp bia
thì cũng phải gật đầu.
Nhưng thực khách phải chịu khó “kiên nhẫn”
nhé vì món nướng này hơi bị lâu đấy.
— — — — — — — — — — —
Nghệ Thuật Kiến Trúc Trang Trí Chùa
KH’MER Nam Bộ
Ngôi chùa Kh’mer Nam bộ là một công trình
kiến trúc – trang trí có nhiều giá trị về mặt thẩm mỹ, là không gian thiêng
liêng nhất tập hợp khả năng kinh tế, chính trị, văn hoá – nghệ thuật. Ngoài
chức năng thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt của đời sống, còn có khả năng đáp
ứng nhu cầu thẩm mỹ cho nhân dân. Ngôi chùa là một tập hợp toàn vẹn nhất của
các yếu tố tạo hình, các yếu tố này kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau trong
một thể thống nhất.
Nghệ thuật kiến trúc – trang trí Kh’mer Nam
bộ còn lưu lại cho đến ngày nay tập trung vào hơn 500 ngôi chùa nằm rải rác
khắp các địa phương có người Kh’mer cư trú. Những ngôi chùa cổ kính ẩn hiện
dưới những hàng cây dầu, cây sao xanh tốt. Trong những ngôi chùa kể trên, nhiều
ngôi chùa có niên đại rất sớm như: chùa Âng, chùa Ông Mẹt, chùa Phướng ở Trà
Vinh, chùa Kl’eang ở Sóc Trăng có niên đại khoảng 4 đến 6 trăm năm trở lại đây
(theo lời các sãi cả ở các chùa) và nhiều chùa có niên đại muộn hơn được xây
dựng theo một nguyên tắc nhất định, nhưng tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của
từng Phum mà có sự lớn, nhỏ khác nhau. Ngày nay, hầu hết các ngôi chùa nói trên
đều đã được xây dựng hoặc trùng tu lại. Thật khó mà xác định được một cách
chính xác niên đại xây dựng của từng ngôi chùa. Thông thường mỗi ngôi chùa được
sửa chữa
hoặc xây dựng lại toàn bộ hay từng phần,
trong mỗi thời kỳ khác nhau, gắn liền với sự phát triển của lịch sử xã hội. Từ
đó mà hình dáng, kiểu thức của các ngôi chùa cũng biến đổi. Những vật liệu hiện
đại cũng đã góp phần làm ảnh hưởng nặng nề đến ngôi chùa. Nhưng nói chung,
những nguyên tắc cơ bản vẫn được duy trì và giữ vững tính đặc thù và đặc trưng
của truyền thống dân tộc.
Ỏ mỗi ngôi chùa, chính điện được trải dọc
theo hướng Đông – Tây nằm ở trung tâm của tổng thể chùa. Ở những ngôi chùa này,
việc xây dựng bao giờ cũng phải đúng quy cách, kích thước nhất định như: Chiều
dài bằng hai lần chiều rộng, chiều cao bằng chiều dài, mái và thân là hai phần
bằng nhau. Các diện tích khung cửa, nhà ở và điện thờ cũng phải tuân theo quy
định đó, chóp nóc thường thấy là một tam giác cân, nhọn, chiều đứng dài hơn
1/4. Chùa nào cũng có hành lang (chơn tiên) bao quanh điện. Chính điện có 4 cửa
chính ở hai hướng Đông – Tây cùng bảy hoặc chín cửa sổ ở hướng Nam và Bắc, đó
là những quy tắc cơ bản nhất của kiến trúc chùa Kh’mer. Ở đây, kiến trúc quay
về hướng Đông với quan niệm Phật ngự ở phía Tây nhìn về hướng Đông ban phúc.
Các ngôi chính điện không những mở nhiều cửa sổ mà quanh bốn hướng bao giờ cũng
có những dãy hành lang cao, rộng và thoáng mát.
Kết cấu kiến trúc chính điện là hỗn hợp gỗ,
gạch ngói… hai hàng cột cái bằng gỗ quý cao vượt lên ở giữa tạo nên những bộ
vì, gồm hai kẻ hai bên, tất cả các lực đều được dồn lên nó và áp vào các đầu
cột chốn đặt trên xà ngang nối giữa hai đầu cột cái, tạo thành bộ mái ở giữa
chính điện cao vút. Từ đầu các cột cái, các kề và xà vách nối ra tường xây xung
quanh tạo lớp mái thứ hai và lớp mái thứ ba ra đầu cột hiên, che kín hành lang.
Nhìn những chính điện chùa Kh’mer với bộ mái ba lớp, các góc đầu đao đuôi rồng
cao vút uốn lượn cho ta cảm giác mềm uyển chuyển, tạo thông thoáng nhiều ánh
sáng bên trong chùa.
Nhìn chung, toàn thể các ngôi chùa là những
công trình kiến trúc – trang trí độc đáo, cho đến nay tuy có nhiều thay đổi
nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng mang nặng dấu ấn dân tộc. Những ngôi chùa trên
là nhân chứng chứng minh cho sự biến chuyển đó, nhưng phong cách truyền thống
vẫn là cốt yếu mang tinh thần Kh’mer và triết lý Phật giáo đậm nét. Chính điều
này đã can thiệp vào tất cả các lĩnh vực liên quan đến nghệ thuật tạo hình
khiến cho ngôi chùa với một kiểu thức cơ bản được duy trì không thể mất đi.
Nhìn tổng thể ngôi chính điện của chùa, ta
thấy toàn bộ được quy vào một tam giác cân. Điều này không chỉ áp dụng cho kiến
trúc mà ngay cả điêu khắc – trang trí cũng hầu như tuân thủ theo tiêu chuẩn
này. Người Kh’mer quan niệm hình tam giác là hoàn thiện nhất, ở đó chứa đựng
cái đẹp hoàn mỹ và tuyệt đối. Nghĩa biểu trưng của tam giác tương ứng với nghĩa
biểu trưng của con số 3. Trong đạo Hinđu, thần linh tối thượng cũng hiện hình
thành 3: (Brahma – Vishnu – Siva). Đạo Phật có câu: “Hoàn kết trong tam bảo Treraphona:
(Phật – pháp – tăng) thế giới có ba thành phần: (Bhu – Bhuvas -Swar) thời gian
phân ba Trikala: (Quá khứ – hiện tại – tương lai)”.
Hình tam giác còn gắn liền với ngọn lửa
thiêng của đạo Hinđu, mà đức Phật thay bằng ngọn lửa bên trong, nó đồng thời là
tri thức xuyên suốt, là sự giác ngộ và sự huỷ bỏ cái vỏ bọc bên ngoài… Bởi vậy
con số 3 nói riêng và số lẻ nói chung là số được trân trọng gắn liền với nhà
Phật.
Các cửa sổ và cột chùa là những con số 3 –
5 – 7 – 9. Trên bàn thờ Phật có lọng 3 tầng biểu hiện tam bảo, 5 tầng biểu hiện
5 hoá thân của Phật, 7 tầng là phải qua 7 kíp người mới chết(?), số 9 là số
không gian nhà chùa. Như vậy tổng thể ngôi chùa được quy vào một tam giác cân
như một quy ước có tính tượng trưng triết học.
Lối xử lý kiến trúc mái chùa bằng sự thay
đổi của cấp mái từ trên xuống với những góc 60 độ, 120 độ kết hợp với hàng cột
hiên thanh thoát vuông góc với mặt nền chùa, lại có sự góp mặt của các môtíp
trang trí: (Kẽnnâr, Krũd…) ở mỗi góc chùa và trên đầu cột, trong tư thế một
đường cong với hai tay đỡ mái chùa tạo nên một chuyển động phong phú, thật khoẻ
khoắn, phóng khoáng lại vừa tinh tế và bay bổng vươn lên cao hoà vào trời xanh.
Sức nặng của mái chùa được giảm nhẹ bằng
lối sử lý hai cấp mái, kết hợp với hàng cột hiên thanh mảnh, tam cấp nền chắc
chắn và tĩnh liên hoàn với nhau: Thực – hư – thực. Có thể nói tổng thể kiến
trúc ngôi chùa như một tác phẩm điêu khắc. Với ba phần cơ bản là: mái, cột –
thân chùa – nền, tam cấp là ba phần khối: thực- hư – thực hoặc: đặc – loãng –
đặc, khối: dương – âm và dương.
Những kết cấu đơn giản, bó khuôn trong hình
tam giác làm cho ngôi chùa thêm phần cứng cáp và khoẻ mạnh được kết hợp với
những môtíp trang trí đa dạng và phong phú, tỉ mỉ và tinh tế đã tạo nên một tổ
hợp lớn không tách rời nhau giữa trang trí và kiến trúc. Ở ngôi chùa Kh’mer Nam
Bộ, điêu khắc – trang trí có mặt ở khắp mọi chỗ như xà nhà, trần nhà, góc mái,
cột, diềm mái… hầu như người nghệ nhân Kh’mer không để một chỗ nào trống trong
kiến trúc.Từ đây, giữa kiến trúc và điêu khắc – trang trí có một sự ăn nhập và
được thể hiện ra dưới một quy tắc chung nhất nên tất cả đều ăn nhập với nhau
nhưng không lặp lại, không gây nhàm chán mà mang lại cho người xem một cảm giác
thích thú, mang lại sự thăng hoa của tinh thần bởi màu sắc chói lọi được tô
trên những hình chạm khắc.
Ở kiến trúc, người ta tạo nên bộ mái là
những đường thẳng tắp, các đường thẳng này chồng lên nhau thành nhiều đường
thẳng song song cứng nhắc. Song để khắc phục được điều này, người thợ Kh’mer đã
khéo léo làm nên sự mềm mại, duyên dáng cho bộ mái bằng cách đắp hoặc chạm
những đầu rồng mềm mại, những hoa lá cách điệu, các vây rồng đang giương lên
chạy dọc diềm bờ mái, những chiếc đuôi rắn cong vút, thon dần cao gần 2m uốn
ngược lên trên. Cuối chót chiếc đuôi nào cũng phải lượn thành một khúc nhỏ như
cố tạo nên sự mềm mại, biểu hiện tính chất động của rồng lửng lơ như chiếc mái
chèo. Đó cũng là chiếc chân không móng duy nhất thường thấy và chứng tỏ một
điều là người Kh’mer luôn gắn với nước ở giữa một đồng bằng bát ngát xanh này.
Bờ giải của mái là thân rồng, các vây lưng được cách điệu cao khắc tỉa từng cái
tinh tế cắm sâu đều trên bờ giải phá đi cái thẳng tắp của cả dải, kết hợp với
đầu rồng, đuôi rồng đã tạo nên hình ảnh những chiếc ghe ngo cong vút như đang
bơi giữa vùng sông nước. Chính môtíp này đã làm nên một nét đẹp tạo hình, giúp
cho giải mái của chùa được nhịp nhàng uyển chuyển.
Ngoài ra, có sự cộng hưởng của nhiều chi
tiết trang trí cũng góp phần làm giảm nhẹ sức nặng chung của ngôi chùa. Tất cả
ngôi chùa là một tam giác biến thể vừa tượng trưng triết học lại tinh tế và bay
bổng, sâu lắng trong một suy tư đầy ý vị.
Nguyên tắc này phần nào đã ăn sâu vào tiềm
thức của người Kh’mer và nghệ nhân Kh’mer. Bởi vậy, ngôi chùa qua thời gian
lịch sử với nhiều lần làm mới hoặc sửa chữa vẫn không làm khác biệt với chuẩn
mực cũ.
Các diềm mái, góc giữa hai mái, đầu cột,
chân cột, cánh cứa, mí cửa, xà ngang, dọc và trần nhà v.v… đều được khai thác
năng động bằng những hình ảnh điêu khắc nhưng đều lấy cảm hứng chủ yếu từ cuộc
đời đức Phật và hoa lá mây nước trong đời sống cộng đồng người Kh’mer, tình cảm
chân chất, tay nghề điêu luyện… Bởi vậy tất cả đều hài hoà và không làm mất đi
công năng của chùa.
Kiểu thức này có tính nguyên tắc chặt chẽ
và được coi là truyền thống. Truyền thống và nguyên tắc ấy không phải là một
khoa học cứng nhắc theo kiểu công thức; mà chỉ mang tính ước lệ. Đây chính là
điều kiện để duy trì một ngôi chùa theo nguyên tắc truyền thống đồng thời có
thể phát huy khả năng sáng tạo đặc biệt trong việc xử lý năng động các chi tiết
sao cho các chi tiết này làm tôn vinh vẻ đẹp tổng thể. Ở đây, kiến trúc tạo cơ
hội cho điêu khắc – trang trí phát triển và từ những mối quan hệ mật thiết của kiến
trúc – điêu khắc – trang trí đã giúp cho ngôi chùa Kh’mer Nam Bộ có một chỗ
đứng vững chắc trong lòng nhân dân, trong từng phum, sóc. Từ đây ngôi chùa,
chính nó là một tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ.
Nói chung, kiến trúc chùa Kh’mer là một
loại kiến trúc đơn giản nhưng vững chắc, tạo hiệu quả công năng cao, đồng thời
hầu như tất cả đều biến thành vật liệu để cho trang trí – kiến trúc nở rộ. Từ
đây, tạo nên một mối quan hệ vững chắc giữa kiến trúc và điêu khắc – trang trí,
sự đơn giản hoá của kiến trúc được phối hợp với sự cầu kỳ và vô số những môtíp
trang trí – điêu khắc đã tôn nhau tạo một tổng thể hài hoà nhưng rực rỡ, mềm
mại mà không cứng nhắc.
Nhìn từ góc độ nghệ thuật, ngôi chùa là một
tổng thể nghệ thuật kiến trúc đặc trưng nhất của người Kh’mer. Nhìn từ góc độ
tâm linh, ta thấy ngôi chùa là đỉnh cao của thăng hoa tôn giáo. Cái đẹp hiện ra
trong cái thiêng liêng Phật tính. Làm đẹp cho chùa, nơi thờ Phật là làm cho
lòng mình sung sướng và thanh thản nhất.
Ở đây, nghệ thuật kiến trúc – trang trí của
ngôi chùa phần nào nói lên được tâm tư tình cảm, óc sáng tạo và khiếu năng thẩm
mỹ đặc biệt của người Kh’mer Nam Bộ. Vì vậy có thể nói, ngôi chùa là một sự
điển hình, một sự độc đáo của vùng sông nước tạo nên nét đẹp đặc thù mà chỉ ở
người Kh’mer Nam bộ mới có.
Đôi Nét
Về Kiên Giang
o Có diện tích 6243km2,
o Với dân số: 1.494.433
người.
o Tỉnh lỵ là Thành Phố
Rạch Giá.
o Gồm có các huyện: thị
xã Hà Tiên, Hà Tiên , Hòn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Giòng Riềng, Gò Quao, An
Biên, An Minh, Vĩnh Thuận
o Có Hai Huyện Đảo: Phú
Quốc và Kiên Hải.
o Kiên Giang có dân tộc
Kinh, Khmer và Hoa.
Kiên Giang là một dải
đất nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc, cách Thành Phố Hồ Chí Minh 250km,
Phía Đông và Đông Nam
của tỉnh Kiên Giang giáp với các tỉnh An Giang và Cần Thơ.
Phía Nam Giáp Cà Mau
Phía Bắc giáp Campuchia
với đường biên giới dài 54 km.
Ngoài ra còn cĩ hơn 100
hòn đảo lớn nhỏ ngoài Vịnh. Là một tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, Kiên Giang có
những cánh đồng lúa phì nhiêu, có rừng vàng biển bạc có hải đảo và đồi núi với
nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng về nông sản hải sản, khoáng sản và du
lịch. Nằm ven vịnh Thái Lan, Kiên Giang lưu thông với quốc tế bằng đường biển
rất thuận lợi.
Tỉnh
hiện có 3 sân bay: Rạch Giá, Hà Tiên và Phú Quốc.
Kiên Giang có khí hậu
nhiệt đới gió mùa nhiệt độ trung bình là 270C quanh năm không quá nóng và quá
lạnh, khí hậu có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Lượng mưa trung bình là
2016mm hàng năm. Ở đây không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bo, ánh nắng và nhiệt
lượng dồi dào thuận lợi cho trồng cây và vật nuôi phát triển.
Nghề chính của tỉnh là
nghề nông, nhưng nghề cá cũng rất phát triển.
Biển Kiên Giang cũng có
những bãi tôm và luồng cá rất lớn. Nhiều loại cá ngon như cá thu, chim, nhám,
bạc má, chép, he, thiều. Kiên Giang còn nổi tiếng về làm nước mắm.
Kiên Giang là tỉnh có
đông người Việt sau đó đến người Khmer, Hoa sinh sống. Ở đây có một nền văn hoá
cổ thuộc văn hoá Óc – Eo, với nhiều khu mộ táng cổ đặc biệt là một Yoni và
Linga cùng với nhiều tượng phật quí. Kiên Giang có nhiều địa danh nổi tiếng đi
vào lịch sử là rừng U Minh, Hòn Đất, Hà Tiên, Phú Quốc…
Thiên nhiên đã ưu đãi
dành cho Kiên Giang nhiều thắng cảnh như: thắng cảnh tập trung ở Hà Tiên và Phú
Quốc.
Cụm thắng cảnh Hòn Phụ
tử như một Hạ Long thu nhỏ. Đảo Phú Quốc có diện tích 585 km2 (gần bằng
Singapore); du khách có thể tắm biển, tắm suối, tắm sông, leo núi, vào hang,
lên rừng. Ở đây có nhiều bãi tắm đẹp như Bãi Dùng, Bãi Nhem, Ghềnh Dầu, rạch
Tràm, Rạch Vủm. Ngoài khơi Kiên Giang có 105 hòn đảo lớn nhỏ có thể phát triển
du lịch biển, hải đảo.
Kiên Giang có các di
tích lịch sử, kiến trú: thờ mộ anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở thị xã Rạch
giá, chùa Tam bảo, rừng U minh thượng (căn cứ cách mạng, sân Chim, chùa Tân Hội
lăng Mạc Cửu).
Non nước Hà Tiên, Biển
Trời Phú Quốc. Địa danh Hà Tiên cách Rạch Giá 90km về phía Tây Bắc được đánh
giá là nơi có nhiều cảnh đẹp đứng sau Hạ Long với nhiều núi non hang động, chùa
chiềng, lăng mộ với nhiều hòn đảo gần xa. Ở Kiên Giang có nhiều lễ hội văn hoá
đac biệt của người Khmer hàng năm họ tổ chức các lễ hội theo phong tục tập quán
của người Khmer cung giống như đồng bào Khmer ở các tỉnh Nam Bộ.
Theo
chiều dọc của đất nước thì vị trí địa lý của Hà Tiên là:
§ Phía
Bắc: giáp An Giang, Cần Thơ.
§ Phía
Đông Nam: giáp Sóc Trăng, Bạc Liêu.
§ Phía
Nam: giáp Cà Mau, biển Đông.
§ Phía
Tây Bắc: giáp Campuchia.
§ Phía
Tây Nam: giáp biển Đông và Vịnh Thái Lan.
Là một tỉnh ĐBSCL nằm
ven Vịnh Thái Lan nên lưu thông quốc tế bằng đường biển rất thuận lợi.
Đường biên giới dài
54km cùng với hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ ngoài vịnh cũng giúp tỉnh Kiên Giang phát
triển thuận lợi về mọi mặt, nhưng cũng gặp không ít khó khăn.
Sơ
Lược về Lịch Sử Thị xã Hà Tiên
Hà Tiên, vùng đất được
hàng bao thế hệ lưu dân tôn tạo ở Cực Nam của tổ quốc. Được mệnh danh là “Nam
thiên đệ nhất động” của Miền Nam.
Hà Tiên xưa kia có tên
là Mang Khảm, tục danh Trúc Phiên Thành còn gọi là Đồng Trụ Trấn vốn là nơi
hoang vu.
Thị xã Hà Tiên được
hình thành cách đây 300 năm, nơi đây ngày xưa vốn là thủ phủ của Mạc Cửu
(1655-1935) nằm ở vị trí khá đẹp, hai bên bờ sông hướng ra biển, trên bến dưới
thuyền nhà doanh điền Mạc Cửu, Mạc Cửu sinh 1655 tại quảng Đông Trung Quốc, bất
phục chính sách cai trị của nhà Mảng Thanh, nên cùng gia quyến vượt biển đến
nước Chân Lạp, Mạc Cửu là người tài trí, khéo sử thế nên kết thân được với các
qun Chân Lạp và nhờ tiến cử lên vua. Vua Chân Lạp là Nặc Ong Non tin dùng, Mạc
Cửu giúp vua được nhiều việc nhưng Mạc Cửu muốn hùng cứ một phương nên tâu xin
cho khai khẩn đất Mang Khảm là vùng hoang địa ở phía tây duyên hải thủy chân
lạp vua thuận và phong cho Mạc Cửu chức Óc Nha (tương đương với quan huyện).
Mạc Cửu chiêu tập dân phu lặp đồn điền, mở chợ xây cảng giao thương với các
nước. Mang Khảm bây giờ trở thành một cửa khẩu phồn thịnh và thành mục tiêu xâm
lược của các nước ngoài.
Năm 1674 có bề tôi Năc
Ong Non làm phản, cầu viện Quân Xiêm đánh lại vua. Quân Xiêm tiến đánh Mang
Khảm, Mạc Cửu chống cự không lại cầu viện quân Chân Lạp, viện binh chưa đến
buộc Nặc Ong Non cầu viện chúa Nguyễn quân chúa Nguyễn đánh tan quân Xiêm. Quân
Xiêm rút về đem theo gia quyến của Mạc Cửu cùng của cải chiếm được. Sau đó năm
1706 thừa cơ hội nước Xiêm có nội loạn, Mạc Cửu cùng gia quyến và gia nhân chạy
về Trủng kè thuộc đất Mang Khảm. Ở đây phu nhân hạ sinh Mạc Thiên Tích rồi lần
về đất Mang Khảm để khôi phụ nơi đây.
Năm 1714 Mạc Cửu đến
dâng biểu xin đem bảy xã mình đã lập quy phục nam triều. Chúa Nguyễn phúc Chu
ưng thuận, phong cho Mạc Cửu chức tổng binh và đổi Mang Khảm thành Hà Tiên
trấn. Vì thế Mạc Cửu là người đầu tiên có công khai hoang hình thành vùng đất
Hà Tiên. Con trai ông là Mạc Thiên Tích (1706-1780) cũng là một danh tướng, một
quan tổng binh đại đô đốc, một nhà doanh điền và cũng là một nhà doanh sỹ có
tiếng đã làm rạng rỡ đất phương thành (Hà Tiên ngày nay) và cả khu vực Tây Nam
Bộ nửa sau thế kỷ 18.
Ngày từ thời Mạc Cửu Hà
Tiên là điểm giao lưu buôn bán với nhiều nước ngoài. Trong gia phả cửa dòng họ
Mạc có ghi chép rằng « Ông Mạc Cửu đã chiêu mộ các nước hải ngoại đến buôn bán.
Tàu thuyền đi lại nhộn nhịp, người Việt, người Đường, người Liêu, người Man kéo
đến trú ngụ làm ăn ». như vậy có thể nói từ thuở sơ khai ở Hà Tiên đã hình
thành nên một trung tâm thương mại – du lịch. Dấu tích một thời khai hoang vẫn
còn in rõ nét trên mảnh đất này qua hình ảnh lăng Mạc Cửu được người dân nhớ ơn
công lao mở mang bờ cõi của dòng học Mạc.
Sự
Tích Hà Tiên
Vào cuối thế kỷ thứ
XVIII, một bộ phận dân cư Trung Quốc, đa số là quan quân nhà Minh và gia quyến
của họ, vì không phục tùng sự thống trị của nhà Thanh, đã rời bỏ đất nước di
dân đến các quốc gia Đông Nam Á. Ở Nam Bộ lúc bấy giờ đã tiếp nhận một số nhóm
di dân người Hoa: nhóm do Dương Ngạn Địch vào lập nghiệp ở Mỹ Tho, nhóm Trần
Thượng Xuyên vào Cù lao Phố (Biên Hòa) và nhóm thứ ba do Mạc Cửu cầm đầu đến cư
trú ở Hà Tiên.
Mạc Cửu (1652-1735) vốn
là người xã Lê Quách, huyện Hải Khanh, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông. Năm 1680,
ông dẫn nhóm di dân vượt biển sang Chân Lạp. Ông được nhà vua xứ này trọng dụng
và ban cho chức gọi là Ốc Nha. Về sau, vì có kẻ dèm xiểm, Mạc Cửu lo ngại ở đây
lâu có ngày bị hại, nên đem vàng bạc đút lót cho Hoàng Hậu Chân Lập để nhờ bà
xin vua xứ này cho phép ra khẩn hoang vùng đất Mang Khảm (tức là Hà Tiên sau
này).
Được phép của vua Chân
Lạp, Mạc Cửu dẫn đầu đoàn người vượt biển ra đi. Thuyền từ biển tiến dần vào
của sông và cập bến. Ở đây vùng đất rộng người thưa mở rộng đôi tay đón đoàn
người tha hương đến cư ngụ. Người cũ và kẻ mới đến thân thiện trong cảnh chim
trời cá nước.
Một hôm Mạc Cửu dong
thuyền đi đây đó tìm một cuộc đất tốt để lập nghiệp an cư lâu dài. Chiều xuống,
thuyền Mạc Cửu đến một cửa sông. Núi non cây cảnh thật hữu tình, chim rừng từng
đàn bay về gây tổ, đậu kín cả những tán cây cao nơi bờ sông, triền núi…. Đang
mải ngắm nhìn cảnh sơn thủy đẹp như bức tranh thuỷ mạc, bỗng Mạc Cửu giật mình
khi thấy trên lớp sóng ở cửa sông hiện ra một nàng tiên kiều diễm lả lướt như
bay lượn chập chờn khi mờ khi tỏ…. Mạc Cửu thúc giục bọn chèo thuyền đuổi theo
bóng nàng tiên lúc hiện ra trước mắt lúc biến mất sau làn khói nước nhạt nhòa….
Thuyền chèo đi, đi mãi theo bóng nàng tiên, nhưng trên một khúc sông, nàng tiên
đột nhiên bay bổng lên cao và nhạt dần như tan trong ánh tà dương. Mạc Cửu cho
đây là điềm lành nên chọn vùng đất bên bờ khúc sông này làm nơi định cư cho
mình và do đó, ông đặt tên vùng đất này là Hà Tiên – Nàng tiên của sông nước.
Tục truyền, khi đào
móng xây dựng nhà, Mạc Cửu đào được một số hũ vàng lớn. Ông xuất số vàng này để
dùng vào việc phát triển và xây dựng phố xá, chợ búa, biến nơi đây thành một
trung tâm buôn bán sầm uất. Về sau Mạc Cửu nghe theo lời của mưu sĩ họ Tô, sai
các bộ hạ của mình là Lý Xá, Trương Cầu ra Phú Xuân dâng biểu xưng thần và xin
làm chức Hà Tiên trưởng. Tháng tám năm mậu tý (1708) chúa Nguyễn Phúc Chu chấp
nhận lời cầu xin của Mạc Cửu và phong ông làm tổng binh trấn Hà Tiên và chính
thức đổi tên vùng đất này (bao gồm cả Long Xuyên – Cà Mau) là Hà Tiên trấn.
MỘT
THOÁNG HÀ TIÊN
Có những miền đất đi
qua vẫn còn đọng lại trong ta nhiều ấn tượng khó quên và Hà Tiên là một trong
những nơi như thế. Thuộc miền Tây Nam Bộ, Hà Tiên là một vùng đất được thiên
nhiên ưu đãi có biển, núi, rừng xen giữa đồng bằng phì nhiêu. Hà Tiên – hòn ngọc
quý của tỉnh Kiên Giang với phong cảnh hửu tình. Cảnh Hà Tiên thơ mộng hữu tình
còn được tô điểm những di tích lịch sử, dấu vết một thời Phương Thành oanh
liệt, và văn hiến với Chiêu Anh Các. Đến Hà Tiên, du khách sẽ nhận ra ở đây một
Việt Nam thu nhỏ bởi có núi, rừng, sông, biển của mọi miền đất nước: một ít
hang động của Lạng Sơn, vài ngọn đá chơi vơi ngoài biển như Vịnh Hạ Long, một
ít Thạch Thất Sơn Môn Hương Tích của Ninh Bình, vài cảnh Tây Hồ Hà Nội hay đôi
nét dòng Hương Giang của Huế. Những ai yêu vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên sẽ
bị chinh phục bởi dãy núi Thạch Động, của bãi tắm Mũi Nai, của tiếng chuông
vang vọng từ dãy núi Bình San…
Do có địa thế thuận lợi
với hơn 13,5km biên giới đất liền và 26km biên giới với Campuchia, lại có cửa
khẩu quốc gia nên Hà Tiên có điều kiện tốt để khai thác tối đa các thế mạnh
thương mại, du lịch và nuôi trồng thủy sản. Du lịch biển đảo là lợi thế của Hà
Tiên nằm trong chiến lược phát triển kinh tế biển của tỉnh Kiên Giang. Tuyến du
lịch biển chùa Hang – Hòn Chông – Mũi Nai bằng tàu thuỷ sẽ hấp dẫn du khách với
những dãy núi đá vôi tựa như Vịnh Hạ Long phía Tây Nam.
Nằm sát bên vùng đồng
bằng sông Cửu Long gần như bằng phẳng nhưng Hà Tiên lại có hệ thống cảnh quan
tựa như Vịnh Hạ Long. Thật bất ngờ khi hệ thống đồi núi bao quanh khu vực đồng
bằng thông ra biển đã tạo nên vị thế thuận lợi để xây dựng khu bãi tắm ven biển.
Núi đá Dựng nằm sát biên giới Campuchia, do đá vôi bị xâm lược qua nhiều thế kỷ
nên phía bên trên được tái tạo như một toà lâu đài cổ kính với hàng trăm vọng
gác hàng nghìn gác chuông, trong hang phủ nhiều thạch nhũ, có thạch nhủ dài và
to như những cột đá. Rồi những cây dừa 7 ngọn, 6 ngọn, hay 3 ngọn xuất hiện ở
Hà Tiên. Khai thác tốt những nét độc đáo Hà Tiên sẽ trở thành một trung tâm du
lịch lớn trong tương lai.
Từ năm 1996 trở lại
đây, các khu du lịch Hà Tiên và Kiên Lương hàng năm đón khoảng 800000 du khách
tham quan. Doanh thu ngành du lịch trong giai đoạn này tăng bình qun hàng năm
khoảng 16%. Theo các số liệu thống kêvlượng khách đến Hà Tiên kiên Giang nhiều
hơn các tỉnh An Giang và Cần Thơ. Thưởng ngoạn thắng cảnh tham quan di tích,
nghỉ dưỡng đang là thế mạnh để Hà Tiên thu hút một lượng đáng kể khách du lịch
từ các tỉnh phía Nam và các du khách nước ngoài.
Vài năm gần đây các
doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đổ dồn về đây xây dựng nhà hàng khách sạn và
các khu vui chơi giải trí nhằm phục vụ cho khách du lịch. Bên cạnh đó, Hà Tiên
cũng chú trọng tổ chức các ngày hội truyền thống địa phương và các lễ hội của
các đồng bào dân tộc Khmer.
Nằm sát biên giới với
Campuchia, thị xã Hà Tiên trở thành thương trường một thương trường của một cửa
khẩu cả trên biển và trên đất liền. Ngoài mục đích phục vụ khách du lịch, cửa
khẩu Hà Tiên còn mở ra cơ hội giao thương hàng hoá. Hàng năm có khoảng từ 70000
đến 80000 lượt khách từ Campuchia qua lại cửa khẩu. Tuyến du lịch Hà Tiên –
tỉnh Campốt- thành phố Kép (Campuchia) và ngược lại bằng đường bộ, đường thuỷ
đã đưa vào khai thác, tạo điều kiện đi lại cho du khách 2 nước.
Sau 4 năm thực hiện thí
điểm khu kinh tế cửa khẩu theo quyết định của chính phủ, diện mạo thị xã Hà
Tiên đã thay đổi rõ rệt. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển vượt bậc. Thị x còn
xây dựng kết cấu hạ tầng các khu du lịch và các trung tâm thương mại gắn với
các chính sách thu hút và đầu tư từ mọi thành phần kinh tế. Đời sống vật chất
người dân nhờ đó được cải thiện đáng kể. Đây cũng chính là nền tảng vững chắc
để Hà Tiên khai thác lợi thế phát triển kinh tế xã hội nói chung và du lịch nói
riêng.
Cảnh sắc thiên nhiên
của Hà Tiên đã được người đương thời ca tụng và cũng chính nơi đây xuất hiện
nhóm Tao Đàn Chiêu Anh Các gồm nhiều nhà thơ Việt Nam, cùng hội lại với nhau để
sáng tác, ngâm vịnh, đàm luận do Mạc Thiên Tích lập ra. Tác phẩm được hấp dẫn
hơn cả là “Hà Tiên Thập Vịnh” tả 10 cảnh đẹp của Hà Tiên lồng trong sinh hoạt
của cư dân để tạo ra bức tranh ngư tiều canh mục:
1.
Kim Dự Lan Đào (Đảo Vàng Chắn Sóng ): trong mười cảnh đẹp
của Hà Tiên mà người xưa ghi nhận, Kim Dự Lan Đào được xếp đầu tiên. Đó là hòn
đảo nhỏ ngay cửa biển Hà Tiên được nối với đất liền TK XX, người ta còn gọi Kim
Dự là Pháo Đài, bởi từng có một pháo đài canh giữ cửa biển, bảo vệ thị trấn Hà
Tiên chống giặc ngoại xâm.
Kim
Dự Lan Đào
Kim
là vàng, là kim khí. Dự cũng là dữ (theo Bắc). Chữ Hán có bộ sơn kèm theo dữ là
cùng với. Khi xưa đây là hòn đảo nhỏ. Lan có nghĩa là ngăn chặn lại. Đào là
sóng to, KIM DỰ LAN ĐÀO là hòn đảo vàng ngăn chặn sóng gió.
Xưa
kia, trước hải khẩu trấn Hà Tiên có hòn đảo nhỏ ngăn chặn sóng gió gìn giữ cho
bên trong đất liền được yên ổn. Bốn chữ này cũng ngụ ý rằng Hà Tiên tuy là một
lãnh thổ nhỏ ở vùng biển, Cũng có công che chắn cho giang sơn phía Nam của chúa
Nguyễn.
Dự
là phải rồi, có ý xác định. Kim có một dụng ý, chữ văn hoa có nghĩa là tự hào.
Do chữ « Kim Thành Thang Trì » nghĩa là thành vàng ao sôi biểu tỏ thành trì
kiên cố, hào lũy vững vàng Mạc Thiên tích mệnh danh hòn đảo trước biển Hà Tiên
là Kim Dự, muốn nói đây là một dãy kiên cố, cũng có ý khoe công nghiệp « Kim
Thành Thang Trì » của mình.
Kim
Dự từ thuở đó tới bây giờ còn gọi là pháo đài, vì từ thời Nguyễn đến hồi Pháp
thuc và cả hiện nay vẫn là cứ điểm quân sự có nhịêm vụ biên phòng, trấn giữ cửa
biển. Trên đó có đặt trọng pháo cho nên gọi là pháo đài. Ngày nay trên đỉnh là
toà kiến trúc bề thế được dùng làm khách sạn gọi là nhà khách Pháo Đài.
Du
khách thấy đây là một ngọn đồi đất cao có dáng vẻ hùng vĩ, cảnh quan chung khá
đẹp mắt. Ngọn đồi này dính vào đất liền. Thật ra, ngày xưa ngọn đồi này là một
hòn đảo tách biệt để tin việc lưu thông, người thời trước đã bắt một đường cầu
đá, từ đất liền sang hòn đảo. Người thời sau theo đó đắp thành con đường đất
rộng rãi. Đủ cho xe cộ lưu thông. Bây giờ đã tráng nhựa thành đại lộ. Con đường
này, bắt đầu từ chỗ cuối xóm ngã 3, trước Lạc An Hội Quán, tức chùa Quan Đế,
chạy thẳng đến chân bậc tam cấp bước lên pháo đài. Xóm này nằm 2 bên đường này,
nay còn có tên là xóm cầu đá.
Xóm
cầu đá trở thành khu dân cư, có vườn tược. Việc lấp đất các chỗ bùn lầy được
tiến hành dần và người ta cũng đắp thêm 2 con đường mới nữa cho tiện việc lưu
thông.
Cảnh
vật chỗ này, ngày xưa đã được Mạc Thiên Tích mô tả :
Kim
Dự này là núi chốt than
Xanh
xanh danh trấn cửa Hà Tiên
Ngăn
ngừa nước dữ khôn vùng vẫy
Che
chở dân lành khỏi ngửa nghiêng
Thế
cả vững vàng trên Bắc Hải
Công
cao đồ sộ giữa Nam Thiên
Nước
yên chẳng chút lòng thu động
Rồng
bủa nhơn xa tiếp Bắc xuyên
Một
truyền thuyết được kể : Kim Dự ngày xưa là hòn đảo nổi. Dưới hòn đảo có con
giao long nằm ẩn mình tu đã lâu đời. Thỉnh thoảng có lúc giao long cựa mình,
người ta thấy hòn đảo lay chuyển. Có khi xê dịch ra xa bờ. Chỗ đất nhô hiện nay
có miếu thờ thuỷ thần và miếu thờ cá ông Nam Hải.
2.
Bình San Điệp Thúy (Núi Bình San Xanh Biếc ): có nghĩa là núi
Bình San như tấm bình phong điệp trùng xanh biếc. Núi Bình San là núi Lăng, nơi
Mạc Thiên Tích thường cùng bạn thơ trong Tao Đàn Chiêu Anh Các lên thưởng ngoạn
xướng họa thơ ca
3.
Tiêu Tự Thần Chung (Tiếng Chuông Tiêu Tự ): có nghĩa là tiếng
chuông sớm ở chùa Tiêu, là ngôi chùa Tam Bảo bây giờ. Trước cổng chùa có 2 câu
đối:
“Nhất trần bất nhiễm bồ
đề địa
Vạn thiện đồng qui bát
nhã môn”.
Để tuyên báo nơi đây
không bị nhiễm bụi trần, nhưng tất cả điều thiện đều qui tụ về đây.
4.
Giang Thành Dạ Cổ (Tiếng Trống Đêm Ở Giang Thành ): tức
là nghe tiếng trống canh vang lên đêm đêm ở đồn Giang Thành. Giang Thành ngày
nay không còn thành quách, mà chỉ là một địa danh thuộc Xã Tân Khánh Hòa, huyện
Kiên Lương, cách thị xã Hà Tiên Khỏang 10km theo đường chim bay, chỗ hợp lưu
của knh Vĩnh Tế và sông Giang Thành. Vào thời Minh Mạng, Giang Thành đã từng là
tỉnh lụy của Hà Tiên.
5.
Thạch Động Thốn Vân (Mây Luồn Thạch Động): tức động đá nuốt
mây, miêu tả vẻ đẹp của núi Thạch Động ở phía Tây Bắc Hà Tiên, trên có một khối
đá to, trong có hang động thiên nhiên lộng gió.
6.
Châu Nham Lạc Lộ (Châu Nham Cò Đậu ): có nghĩa là cò đậu núi
Châu Nham. Theo nhà thơ Đông Hồ, Châu Nham là 1 ngọn núi nhỏ ở gần biên giới
Campuchia, cách Thạch Động không xa. Núi có nhiều đá dựng, hiểm trở, có thạch
nhũ lấp lánh nên còn gọi là núi Đá Dựng. Ngày xưa cò về đậu trên núi đá này rất
đông. Nhưng theo nhà sưu khảo Trương Minh Đạt, Châu Nham là cụm núi ở Bãi Ớt.
Nơi có đá tinh quang trong và sáng. Do bên bờ nham có vực sâu nên tôm cá thường
về trú ẩn, chim cò kéo theo tìm mồi trắng cả một vùng.
7.
Đông Hồ Ấn Nguyệt (Đông Hồ Trăng Soi): tức trăng in bóng Đông
Hồ, một hồ nước xanh biếc nối liền dòng sông Giang Thành ra biển. Trong có vàm
sông, ngoài có cửa biển Kim Dự, nằm phía đông thị xã Hà Tiên.
8.
Nam Phố Trừng Ba (Sóng Trong Nam Phố): có nghĩa là Phố Nam
trị sóng, một vịnh nhỏ thuộc Bãi Ớt, xã Dương Hòa, nơi mặt biển thường xuyên
yên tĩnh do các dãy núi chắn quanh. Tàu thuyền qua lại hay vào đây tránh gió.
9.
Lộc Trĩ Thôn Cư (Xóm Dân Ở Lộc Trĩ ): tức khu dân cư
Lộc Trĩ, còn gọi là Mũi Nai, thuộc xã Mỹ Đức. Lộc Trĩ có nghĩa là Mũi Nai. Ra
biển nhìn vào mới thấy mũi núi chỗ ngọn hải đăng giống hình đầu con nai thò mõm
ra biển.
10.
Lư Khê Ngư Bạc (Cảnh Chài Cá Ở Lư Khê): có nghĩa là xóm chài ở
khe Lư. Lư Khê là Rạch Vược, một con rạch nhỏ có nhiều cá vược ở xã Thuận Yên.
Rạch đổ ra biển qua các khe núi tạo thành một bức tranh sơn thủy rất đẹp. Ngày
nay cửa rạch đã bị Quốc lộ 80 chắn ngang.
Phát triển cùng thời là nền văn hoá Trung Hoa mang
nhiều bản sắc đã được phổ biến ở đây cụ thể là qua việc xây dựng nhiều công
trình kiến trúc tôn giáo nhiều chùa chiền với kiến trúc nguy nga hùng vĩ nhưng
đã bị phá gần như hầu hết khi quân Xiêm La tấn công Hà Tiên năm 1771.
Dòng họ Mạc có lịch sử
thăng trầm gắn liền với triều Nguyễn. Khi triều đình nhà Nguyễn thua Tây Sơn,
giang sơn không còn. Mạc Thiên Tích đã nuốt vàng lá tự tử tại Băngcok. Sau này
khi vua Gia Long lên ngôi đã khôi phục lại quan chức cho con cháu dòng họ Mạc.
Vào thế kỉ thứ 19 vào
ngày 2/6/1867, Tỉnh Hà Tiên lọt vào tay thực dân Pháp. Rạch Giá vốn là huyện lỵ
được nâng lên thành tỉnh lỵ, tập trung bộ máy cai trị của giặc.
Đầu thế kỷ 20 Kiên
Giang là một trong những địa phương cơ sở của phong trào Đông Du và Duy Tân.
Truyền thống này là
tiền đề cho sự hình thành và phát triển của đội ngũ phong trào cách mạng bắt
đầu từ tháng 6 năm 1930….
Hà Tiên ngày nay đã
được quy hoạch thành một bãi biển sạch đẹp và “ngăn nắp“ với biển trong xanh và
những bãi cát trắng đang thu hút nhiều khách du lịch đặc biệt là trong mùa lễ
hội Bà Chúa Xứ (khách hành hương hay kết hợp tham dự lễ ở chùa bà rồi tiện đường
đến Hà Tiên).
Hà
Tiên
là 1 thị xã ở phía Tây Bắc của tỉnh Kiên Giang, có 22 km bờ biển và 13,7 km
đường biên giới với Campuchia nên từ lâu đã là điểm giao lưu thương mại giữa 2
nước và một số nước trong khu vực ASEAN. Hà Tiên có những di tích văn hóa được
Nhà nước công nhận, có những thắng cảnh đẹp thu hút nhiều lượt khách tham quan
du lịch quanh năm, là vùng ven biển có ngư trường khai thác rộng và nằm trong
khu tam giác Rạch Giá – Hà Tiên – Phú Quốc, nên có vai trò quan trọng đối với
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Thị
xã Hà Tiên đã được Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lần thứ VII
xác định là một trong 4 vùng trọng điểm của Tỉnh, trong đó 2 ngành kinh tế quan
trọng được tỉnh tập trung phát triển là du lịch và thương mại – dịch vụ.
Thị
xã Hà Tiên bao gồm 4 phường và 3 xã. Cụ thể như sau: phường
Đông Hồ, phường Bình San, phường Pháo Đài, phường Tô Châu, xã Thuận Yên, xã Mỹ
Đức và xã đảo Tiên Hải.
Vị
trí địa lý
Địa giới hành chính của
thị xã Hà Tiên được xác định như sau:
Phía Bắc giáp vương
quốc Campuchia;
Phía Đông giáp huyện
Kiên Lương;
Phía Nam và phía Tây
giáp biển Tây.
Diện tích tự nhiên toàn
thị xã: 8.851,5 ha, trong đó đầm ngập mặn Đông Hồ chiếm 1.047 ha.
Địa
hình
Địa hình đa dạng, gồm:
đồng bằng, núi và núi đá, hang động, biển, đầm, quần đảo, tạo nên cảnh quan thơ
mộng hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước.
Khí
hậu
Nằm trong vùng nhiệt
đới gió mùa cận xích đạo. Khí hậu ở Hà Tiên có những đặc điểm chính như sau:
Số giờ nắng trung bình
từ 6,5 đến 7,5 giờ/ngày. Năng lượng bức xạ trung bình 150 – 160 kcal/c2 năm.
Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27 -> 28 0C, tháng có nhiệt độ trung
bình thấp nhất là tháng 12 và tháng 1 (25 – 26 0C); tháng có nhiệt độ cao nhất
là tháng 4 và tháng 5 (28 ->29 0C). Độ ẩm trung bình 81,9%.
Mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 10, có nhiều năm mùa mưa đến sớm và kết thúc muộn hơn các khu vực khác
của đồng bằng sông Cửu Long. Lượng mưa lớn, trung bình 2.118 mm/năm.
Với điều kiện khí hậu
như vậy đã tạo nên những thuận lợi cơ bản để phát triển ngành đánh bắt, nuôi
trồng, chế biến thủy hải sản, nông nghiệp và du lịch.
Tài
nguyên biển
Thị xã Hà Tiên hai phía
(Tây và Nam) giáp biển, đầm Nước Mặn chia thị xã làm hai khu riêng biệt: phía
Đông Nam của đầm là phường Tô Châu và xã Thuận Yên; phía Tây Bắc của đầm gồm:
phường Đông Hồ, phường Bình San, phường Pháo Đài và xã Mỹ Đức; đặc biệt xã đảo
Tiên Hải (quần đảo Hải Tặc) gồm 15 đảo lớn nhỏ là ngư trường đánh bắt và nuôi
trồng thủy hải sản đầy tiềm năng do thiên nhiên ban tặng cho thị xã Hà Tiên nói
riêng và tỉnh Kiên Giang nói chung.
Tài
nguyên đất
Diện tích tự nhiên của
thị xã 8.851,51 ha, trong đó đất nông nghiệp 4386ha (chiếm 49,55%), nhưng mức
độ phèn mặn cao, nếu ứng dụng khoa học kỹ thuật tốt để nuôi trồng thủy sản để
đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra còn quỹ đất chưa sử dụng là 2.561,89ha.
Tài
nguyên nước
Sông Hậu là nguồn cung
cấp nước mặt chủ yếu cho thị xã Hà Tiên thông qua kênh Rạch Giá – Hà Tiên, kênh
Vĩnh Tế và sông Giang Thành, hàm lượng phù sa trung bình 250g/m3 .
Dân số
Dân số năm 2002 là
39.957 người, mật độ trung bình là 451 người/km2. Dân cư ở tập trung nhiều
trong khu nội ô thị xã.
Khu
Lăng Mộ Dòng Họ Mạc
Núi lăng hay núi Bình
San là nơi an táng hơn 40 ngôi mộ dòng họ Mạc ,xây dựng cách đây trên 300 năm.
Tất cả đều có kiến trúc theo lối Trung Hoa, nền mộ ăn sâu vào vách núi theo
hình bán nguyệt bề mặt chạm khắc hình thù tứ linh.
Lăng được xây dựng vào
năm 1809 theo lệnh của vua Gia Long. Mạc Cửu rất giỏi về phong thuỷ địa lý nên
đã chọn xây ở nơi mà có núi Tô Châu và núi Ngũ Hổ làm nên thế bình Phong, Sông
Giang Thành tạo nên thế Minh Đường tức thuỷ triều qui bên dưới lăng có hai hồ
sen tích nước vừa tạo thế vừa là hồ nước cung cấp nước cho nhân dân ở đây.
Mạc Cửu là người xã Lê
Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Năm 1644,
nhà Thanh thay thế nhà Minh, Mạc Cửu không phục tùng nên cùng gia quyến và đoàn
tùy tùng xuống tàu vượt biển vào Nam đến nước Chân Lạp và được cho làm Ốc Nha,
một chức quan của Chân Lạp thời đó… Một thời gian sau, thấy đất Mang Khảm thuận
lợi nhiều mặt về kinh tế, giao thương, ông bèn xin lui về đó chiêu tập lưu dân,
mở mang đồng ruộng và tiếp đón khách thương hồ đến để mua bán, mở sòng bạc…
Chẳng bao lâu vùng đất này trở nên phồn thịnh và không tránh khỏi giặc cướp,
giặc Xiêm La kéo quân đến xâm lăng. Mạc Cửu thế cô phải qua Xiêm trú ngụ 1 thời
gian. Khi trở lại Hà Tiên, thấy chúa Nguyễn ở Đàng Trong đang mở rộng thế lực
đến tận vùng đồng bằng sông Cửu Long, Mạc Cửu dâng biểu xưng thần và được chúa
Nguyễn Phúc Chu chấp thuận, phong chức Tổng binh trấn Hà Tiên. Mạc Cửu mất năm
1735, được nhà Nguyễn truy tặng Khai trấn thượng trụ quốc, Đại tướng quân Vũ
Nghị Công.
Lăng Mạc Cửu theo kiểu
Tàu, bên trái đắp nổi đầu rồng, bên phải đắp đầu hổ (Tả Thanh Long, Hữu Bạch
Hổ). Đứng tại lăng Mạc Cửu trông xa thấy Đông Hồ, biển Hà Tiên, núi Đại Tô Châu
và Tiểu Tô Châu như hình voi phục. Lên đỉnh núi, du khách có thể nhìn toàn cảnh
Hà Tiên bên dưới.
Mạc Thiên Tích là con
trưởng của Mạc Cửu, tự Sĩ Lân, lúc nhỏ tên là Mạc Tứ. Gia phả nhà họ Mạc ghi
lại rằng vào đêm mùng 7 tháng 3 năm 1706, tại Lũng Cà tự nhiên nước sông bắn
vọt lên trời, lúc ấy xuất hiện tượng vàng cao 7 thước, tỏa sáng cả 1 khúc sông.
Một vị quan trông thấy ngạc nhiên nói với Mạc Cửu: “Đây là điềm có người tài
xuất hiện, thật là phúc đức”. Mạc Cửu liền cho người đưa tượng vàng ấy lên bờ,
nhưng không có cách nào di chuyển được, bèn xây chùa nhỏ bên bờ sông để thờ.
Vào đêm ấy, Mạc Thiên Tích ra đời. Mạc Thiên Tích thông minh, hiểu rộng, văn võ
song toàn. Năm 1735 Mạc Cửu mất, Mạc Thiên Tích kế tục sự nghiệp của cha. Đầu
xuân 1736, được chúa Nguyễn phong Đô đốc trấn Hà Tiên . Thời kỳ ông cai quản,
đất Hà Tiên sung túc, phồn vinh. Phố xá ở trấn lỵ được mở mang, ruộng đất được
khai khẩn tăng cường trồng trọt, tàu thuyền buôn bán tấp nập. Ông cũng đã nhiều
đánh tan bọn cướp biển và giặc Chân Lạp để bảo vệ bờ cõi. Năm 1780, Mạc Thiên
Tích đang ở Xiêm bị Bồ Ông Giao, người Chân Lạp, gièm pha với vua Xiêm Trịnh
Quốc Anh rằng nhà Nguyễn lập kế cho Mạc Thiên Tích và Tôn Thất Xuân vào Xiêm
làm nội ứng, mưu chiếm thành Vọng Các. Vua Xiêm nghe lời giết Tôn Thất Xuân,
bắt trói Mạc Thiên Tích tra khảo. Mạc Thiên Tích tự tử, nhiều người đi theo
cũng bị sát hại.
Trên đỉnh núi còn lưu
lại vết tích của đàn Sơn Xuyên và đàn Xã Tắc. Dưới chân núi có đền thờ dòng họ
Mạc. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, ngôi đền thờ này thờ ba người họ Mạc: Vũ Nghị
Công Mạc Cửu, Quốc lão Mạc Thiên Tích, Chính Lý Hầu Mạc Tử Sanh. Bên hữu thờ
các con cháu dòng họ Mạc, bên tả có bài vị phu nhân Thái Thái mẹ Mạc Cửu, phu
nhân Nguyễn Thị Thủ vợ Mạc Thiên Tích, tiểu thư Mạc Mi Cô. Truyền thuyết kể
rằng, người con gái thứ năm của Mạc Cửu mới sinh ra đã có mái tóc dài một
thước, mới 3 tuổi răng đã mọc đủ, ăn nói rành rẽ nhưng xương sống yếu phải nằm
một chỗ. Cận thần cho đó là điềm xấu, Mạc Cửu liền sai người đi cho chôn sống.
Không lâu sau tin đồn về người con gái xấu số lan xa cùng những truyền thuyết
xoay quanh câu chuyện cô hiển linh. Tục truyền Mạc Mi Cô được phối tự ở bàn thờ
bên tả của đền thờ Mạc công trông ra cổng Tam Quan, những gian thần, người xiểm
nịnh đi qua cổng đều bị cô vật chết. Ai cũng sợ nên vái van xin cô cho xây kín
cổng lại. Đến nay dấu tích vẫn còn. Người đến viếng đền chỉ có thể vào bằng
cổng giữa hay cổng bên mặt.
Đền thờ Mạc Công có
biển đề Trung Nghĩa Từ, dân gian gọi là miếu ông Lịnh vì Mạc Cửu đựơc tôn xưng
là Mạc Lịnh Công. Khởi thuỷ ngôi đền này do Mạc Công Du lập đến năm Thiệu Trị
thứ 6- Năm1846 mới lợp ngói. Từ đó tới nay được tái thiết tu bổ nhiều lần. Di
tích hiện tồn là kiến trúc có giá trị nghệ thuật, trạm trổ tinh vi, sắc
sảo.Trong miếu còn ghi lại những bài thơ Nôm vịnh thập cảnh Hà Tiên, Bản Nhật
Lịnh của tướng Long Hổ Trần Hầu và tranh vẽ đề tài Bát Tiên, ngư tiều canh mục
…..Trước sân có ao sen “Bảo Nguyệt Liên Trì ”, mùa hạ hoa nở toả hương thơm
ngát. Phía ngoài cổng có hai câu đối :
“Nhứt môn trung nghĩa
gia thanh tọng ,
Thất diệp phiên hàn
quốc thân vinh”.
Đền thờ các đạo sắc
truy phong. Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên thì năm 1785 Mạc Cửu bị bệnh qua
đời được chúa Túc Tông phong cho là Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Đại Tướng Quân Vũ
Nghị Công, rồi năm Minh Mạng Thứ 3 (1822) truy phong Mạc Cửu làm Thụ Đức Thuận
Nghĩa và chuẩn cho làng Mỹ Đức ở Hà Tiên thờ phụng như cũ. Năm 1829 Mạc Công Du
vì già yếu về hưu. Năm 1830 Lấy Mạc Công Tài làm Quản Thủ Hà Tiên. Năm Tự Đức
thứ nhất ấn phong cho cháu cố là Mạc Văn Phong làm đội trưởng để thờ cúng Mạc
Thiên Tứ. Gọi là đền thờ họ Mạc, nhưng ngoài đối tượng thờ tự chính như đã nêu
trên, hai gian bên còn phối tự các quan học sĩ và các thuộc tướng của Trấn Hà
Tiên. Nói chung đền thờ này và khu lăng trên núi Bình San là một di tích lịch
sử của xứ Hà Tiên xưa. Ngoài ra thời họ Mạc ở Hà Tiên đạo phật được sùng hưng
do đó ở đây có nhiều ngôi chùa cổ liên quan đến lịch sử vùng đất này như chùa
Tam Bảo, Chùa Phù Dung….
Nguyên dòng họ Mạc ở Hà
Tiên có một thể thức để đặt danh hiệu là dùng 7 chữ :
Thiên-Tử-Công-Hầu-Bá-Tử-Nam để làm chữ đệm tên. Bắt đầu từ Mạc Thiên Tích lót
chữ Thiên, rồi kế tiếp con Mạc Thiên Tích lót chữ Tử như Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử
Dung. Con Tử Hoàng lót chữ Công như Mạc Công Tài, Mạc Công Du. Con Công Du lót
chữ Hầu như Mạc Hầu Hy, Mạc Hầu Diệu. Con Hầu Hy lót chữ Ba như Mạc Bá Bình,
Mạc Bá Thành. Con Bá Thành lót chữ Tử là Mạc Tử Khâm. Mạc Tử Khâm không có con
trai đến đây tuyệt tự. Bảy chữ lót Thiên-Tử-Công-Hầu-Bá-Tử-Nam trong sử gọi là
“Thất diệp phiên hàn”. Bảy lá-thất diệp ứng về tông chi (một cội) họ Mạc. Từ
Mạc Cửu truyền đến Mạc Tử Khâm vừa đúng 7 đời thì chấm dứt. Trong đền thờ có 12
đạo sắc truy phong của vua minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Trong chánh điện bàn
thờ giữa thờ linh vị của Võ Nghị Công Mạc Cửu, quốc lão Mạc Thiên Tích và chính
lý Hầu Mạc Tử Sanh. Bàn thờ bên hữu thờ linh vị các quan thượng đẳng thần. Bàn
thờ bên tỷa có bài vị Thái Thái phu nhân( mẹ của Mạc Cữu), phu nhân Nguyễn Thị
Thu (vợ của Mạc Thiên Tích) và tiểu thư Mạc Mi Cô (tục gọi là cô năm)
Hai gian phải trái có
bài vị thờ các quan học sĩ và các thuộc tướng trấn Hà Tiên. Trên vách mỗi gian
có bia bằng đá đen khắc tên nhửng quân sĩ tử trận.
Tình
– Thơ
Giữa
Mạc Thiên Tích và cô gái giả trai Xứ Quảng
Vào đêm nguyên tiêu năm
Bính Thìn (1736) Mạc Thiên Tích mở Tao Đàn Chiêu Anh Các, có 36 thi nhân tham
gia, gọi là tam thập lục anh kiệt.
Giữa dạ hoa đăng, một
chàng thư sinh nho nhả cất tiếng ngâm 8 câu thơ, sau thi sĩ Đông Hồ dịch nôm :
Đêm xuân hội mở tuần
trăng mới
Đốt hỏa đèn dưa sáng
quả trăng
Áo gấm thanh vân tô
điểm tích
Lòng son đơn quế dải
cung Hằng
Đây Chiêu Anh Các lời
châu ngọc
Kìa quảng Hằng Cung
rạng tuyết băng
Non nước thần tiên mừng
có chủ
Cỏ nhàn mừng tỏ mặt hoa
đăng.
Nghe bài thơ ngâm với
giọng trữ tình, Mạc thiên Tích rất ngạc nhiên. Chàng thư sinh có mặt da hoa
phấn. Trong lúc cao hứng, Mạc Thiên Tích ứng khẩu với lời lẽ như trêu ghẹo.
Bên kia sen nở nhiều
hoa
Người khen hoa đẹp nỏn
nà hơn em.
Trên bờ em đứng em xem
Mọi người sao bỗng
không thèm nhìn hoa.
Chàng thư sinh không
chút ngại ngùng trả lời Mạc Thiên Tích.
Mặt ao sen nở khắp
Trông hoa lẫn bóng
người
Trên bờ ai đứng ngắm
Sao chẳng thấy hoa tươi
?
Hai người kết bạn ngâm
vịnh tâm đắc.
Sau Mạc Thiên Tích mới
rõ chàng thư sinh ấy là gái giả trai, tên là Nguyễn Thị Xuân, gốc Quảng Nam,
theo cha vượt biển vào Hà Tiên buôn bán. Vì đường biển lúc bấy giờ thường có
cướp, Nguyễn Thị Xuân sợ bị hại nên giả trai.
Mạc Thiên Tích cưới
nàng Xuân làm vợ lẽ. Vợ chánh của Mạc Thiên Tích là phu nhân Nguyễn Thị Thủ
ghen. Nhân lúc Mạc Thiên Tích bận việc quân, phu nhân bắt nàng Xuân bỏ vào lu
nhốt. Vào lúc ngộp thở suýt chết, nàng Xuân may mắn được chồng về kịp, cứu
thoát. Nàng xin đi tu, Mạc Thiên Tích cấp am tự cho nàng trên núi để tĩnh tâm
sống hết quãng đời còn lại.
Về sau, một văn nhân
nào đó không rõ tên tuổi đã ghi lại một bài thơ dưới ngôi am tự.
Ngó lên am tự Phù Cừ
Thương cho người ngọc
giã từ lầu son
Về đây nương chốn Thiền
môn
Tay lần chuỗi hạt cho
mòn ngày xanh
Duyên xưa chẳng bận chi
tình
Bụi kia chi để vương
cành hoa sen
Nước trong không rửa
đánh phèn
Cửa thiền thanh tịnh
não phiền sạch không.
Trước khi mất, bà
Nguyễn Thị Xuân đã làm một bài thơ để lại.
Xuất xứ trần nê cảnh
giới tiền
Ưng đương thanh bạch đi
viêm thiên
Xuân thu nùng đạm quần
phương phố
Cao khiết hà như dạ
chiểu liên.
Dịch nôm :
Vương khỏi bùn nhơ
thoát vươn lên
Phỉ lòng trong trắng
giữa thiên nhiên
Xuân thu đậm nhạt bao
hồng tía
Đừng sách Thanh cao với
đoá sen
Chùa
Phù Dung
Là một ngôi chùa nhỏ
nằm dưới chân núi Bình San – Diệp Thuý thuộc địa phận xã Mỹ Đức, huyện Hà Châu,
thị xã Hà Tiên. Chùa này do Mạc Thiên Tích dựng năm Thiệu Trị Thứ 6.
Tục truyền, đây là một
ngôi chùa do Mạc Thiên Tích xây cho bà thứ cơ của ông ta. Khi bà mết, mộ bà
được chôn bên cạnh chùa. Ngôi mộ cổ này được người đời sau gọi là mộ Bà Dì Tự,
Ao sen cũng như ngôi mộ gọi là ao Bà Dì Tự. ” Dì Tự ” là cách gọi tắt cụm “Bà
Dì ở am tự“.
Ngôi chùa này tương
truyền gắn bó cùng với một truyện tình buồn giữa nàng Phù Cừ tên thật là Nguyễn
Thị Xuân và Mạc Thiên Tích con trai Mạc Cửu đang làm tổng trấn Hà Tiên lúc bấy
giờ. Truyện kể rằng :
Dì Tự vốn là cô gái có
tên là Phù Cư, con của một túc nho tên là Nguyễn Nghi. Lớn lên trong thời Nam
Bắc phân tranh, Nguyễn Nghi muốn lánh xa chỗ phân giới, nơi quân Trịnh – Nguyễn
thường giao chiến, nên đi lần vào nam. Nguyễn Nghị cư trú ở Gia Định. Năm 1730,
giặc Sa Tốt Ai Lao và giặc Chân Lạp liên minh tấn công Gia Định, vợ ông bị chết
trên đường chạy loạn. Vốn trước đó, Nguyễn Nghi có nghe đồn đại nhiều về trấn
Hà Tiên, về cảnh trí thiên nhiên cũng như hào kiệt và anh tài của vùng đất này,
do đó, nguyễn nghi quyết dẫn con tìm đến trấn lỵ Phương Thành của trấn Hà Tiên.
Ở Phương Thành một thời
gian, Nguyễn Nghi được Mạc Cửu, Tổng binh rấn Hà Tiên, kết nạp vào hàng nhân
sĩ. Và chẳng bao lâu sau, tài văn chương của Nguyễn Nghi được Mạc Thiên Tích,
con trai của Mạc Cửu thán phục.
Năm 1735 quốc công Mạc
Cửu qua đời triều đình sắc phong cho Mạc Tứ chức Tổng Binh Khâm Sai Đại Đô Đốc
Hà Tiên Trấn đồng thời còn cho con cháu dòng họ Mạc được thừa hưởng 7 đời tập
ấm gọi là Thất Diệp Phiên Hán tức là lấy chữ Thiên Tứ Công Hầu Bá Tử Nam làm
chữ lót và lấy năm chữ trong bộ ngũ hành sinh hoá là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả Thổ
ghép vào chữ tên cuối cùng được ghép dùng bộ ấn ghép vào chữ họ – tức là đổi
tên để phân biệt với những dòng họ Mạc đương thời nhưng không có công đức gì
trong việc khai trấn, vì thế Mạc Tứ Mới đổi tên thành Mạc Thiên Tích và tiếp
tục sự nghệp của cha phát triển đất Hà Tiên. Mạc Thiên Tích kế nghiệp cha đẩy
mạnh việc khẩn hoang, phát triển kinh tế và mậu dịch khiến Hà Tiên trở thành
một đô hội sầm uất. Đặc biệt Mạc Thiên Tích lưu tâm đến việc tu bổ văn nghiệp.
Ông chiêu tập các văn nho khắp nơi lập một hội tao đàn lấy tên là Chiêu Anh Các
để làm nơi tụ hội của các tao nhân mặc khách đàn luận văn võ, trong nội điện là
văn miếu thờ thánh khổng Phu Tử và làm nhà nghĩa học thu nạp các đệ tử ưu tú,
giúp đỡ các thiếu niên hiếu học không còn điều kiện theo đuổi việc học.
Nguyễn Nghi là một
trong các vị học sĩ được chọn giảng sách ở nhà nghĩa học. Vì học vấn uyên thâm
và phẩm cách cao nhã nên ông được các môn sinh trọng vọng, đồng bối quí mến và
được Mạc Thiên Tích mời dự vào việc tham mưu tư lệnh.
Nói về Phù Cừ, khi dời
Gia Định theo cha chạy loạn, nàng phải cải trang thành một chàng trai đề tránh
mọi bất trắc dọc đường và khi về Hà Tiên, để tiện việc giao du với các môn đệ
của cha, theo đòi việc nghiên bút, Phù Cừ ăn mặc theo lối thư sinh. Vốn tư chất
thông minh, Phù Cừ là một trong những học trò xuất sắc của nhà nghĩa học. Do đó
trong đêm hội nguyên tiêu, Phù Cừ đã được Mạc Thiên Tích chú ý và những văn
nhân khác đều hết lời khen ngợi. Nguyễn Nghi hầu như gởi gắm tất cả tình thương
và kỳ vọng vảo đứa con gái duy nhất này. Ông định đôi năm nữa sẽ từ quan và đưa
Phù Cừ về quê ngoại ở Gia Định để ở với bà ngoại và dì của Phù Cừ. Lúc đó Phù
Cừ sẽ cởi bỏ lốt nam trang để sống cuộc sống bình thường như bao thiếu nữ khác.
Nhưng dự định chưa thực hiện được thì Mạc Thiên Tích lệnh cho ông đem “gã thư
sinh ” Phù Cừ vào hầu nghiên bút ở trong dinh của Mạc Thiên Tích. Nguyễn Nghi
gặp cảnh tiến thoái lưỡng nan khó xử này lo lắng không yên. Cuối cùng, Nguyễn
Nghi đành nhờ hai bạn đồng bối thân thiết của ông vào dinh tâu trình việc Phù
Cừ giả trai với Mạc Thiên Tích. Mạc Thiên Tích chẳng những không quở phạt gì mà
trái lại còn ngỏ ý nạp Phù Cừ làm thứ cơ trong phủ.
Sau tiết đoan dương năm
Đinh tỵ (1737) Phù Cừ được tiến vào phủ. Giờ đây, Phù Cừ là thứ cơ của Mạc
Thiên Tích. Nàng sống thanh nhàn ở một lầu Điệp Thúy, dựng trong khu đất biệt
lập, có hồ nước trong veo, trồng loại sen trắng tuyệt đẹp. Đặc biệt càng ngày
Phù Cừ càng được Mạc Thiên Tích sủng ái và điều này khiến Hiếu Túc Nguyễn phu
nhân, vợ chính của Mạc Thiên Tích ghen ghét.
Hiếu Túc Nguyễn phu
nhân là một phụ nữ có chí khí hơn người. Bà đã từng huy động giới phụ nữ viện
quân lương hỗ trợ cho binh lính trong trận chiến thắng chống lại quân Chân Lạp
tấn công Phương Thành năm 1739. chính công lao này bà được chúa Nguyễn ban trí
vật phẩm và phong tước Hiếu Túc nhất phẩm phu nhân. Ở trấn Hà Tiên này, bà là
người có uy quyền thứ hai sau Mạc Thiên Tích.
Hôm nọ, nhân lúc Mạc
Thiên Tích đang chỉ huy cuộc tập trận ở diễn võ trường tại núi Ngũ Hổ, Nguyễn
phu nhân lập kế bắt Phù Cừ nhốt dưới chậu lớn, thường đặt giữa sân lộ thiên để
hứng nước mưa dùng riêng cho việc pha trà, hải sâm, chưng yến và sắc thuốc.
Cuộc tập trận hôm đó ở
bãi sớm hơn dự định vì bỗng nhiên trời đổ mưa dữ dội. Mạc Thiên Tích đội mưa
phi ngựa về dinh. Giao cương ngựa cho thị vệ, Mạc Thiên Tích rảo bước vào
trong. Ông thấy đám gia nhân đang lo hứng nước mưa, song ông chợt nhận ra chiếc
chậu lớn nằm úp giữa sân chưa được lật lên để hứng nước. Mạc Thiên Tích ra lệnh
cho gia nhân lật chiếc bồn ấy để hứng nước. Đám gia nhân có vẻ chần chờ, rồi hè
nhau lật chậu lên. Phù Cừ nằm trong chiếc chậu úp đã ngạt thở, tay chân co
quắp, đầu tóc rũ rượi. Mạc Thiên Tích hiểu ngay mọi chuyện, liền ra lệnh cho
đám thị nữ vực Phù Cừ vào nhà và truyền gọi thầy thuốc đến cứu chữa ngay.
Sau lần gặp nạn đó Phù
Cừ xin Mạc Thiên Tích xây dựng cho mình một ngôi am tự để nương thâm sớm hôm
kinh mõ và nàng cũng xin Mạc Thiên Tích tha tội cho vợ cả – Hiếu Túc phu nhân.
Thấy ái cơ của mình ý đã định, lòng đã quyết như vậy, Mạc Thiên Tích cho lập
một ngôi am tự cho Phù Cừ, cho khắc biển ngoài cổng là Phù Cừ am tự. Mạc Thiên
Tích cho đào một ao nhỏ để trồng loại sen trắng, bứng từ ao trong dinh đem
sang. Chùa Phù Cừ có từ đó. Về sau người đời không hiểu nghĩa của Phù Cừ xa lạ
nên đổi Phù Cừ thành Phù Dung cho hợp với thế thường.
Xưa kia Ngôi Am Tự này
hết sức trang nghiêm và vô cùng kiên cố, cổng thành, đá cáng xây nền, đá dựng
làm cột… rất công phu. Ngôi Am Tự này được đề hiệu là: “Phù Cừ Am Tự” phía sau
Am Điện có xây thêm một toà điện đề Ngọc Hoàng Bửu Điện. Và đây cũng chính là
nơi bà Nguyễn Thị Xuân thường ra đây thắp nhang và tịnh tâm, thỉnh thoảng người
ta thấy Mạc Thiên Tích thường một người một ngựa đứng lặng im ngang sườn đồi
bát giác dõi mắt trông sang toà Ngọc Hoàng mong bắt gặp lại bóng hình người yêu
cho đỡ thương đỡ nhớ.
Chùa Phù Dung ngày nay
được xây lại hoàn toàn. Chánh điện có nhiều tượng phật được bày trí trang
nghiêm. Đặc biệt có tướng phật thích Ca bằng đồng đưa từ Trung Quốc về thờ. Ở
giữa chánh điện là tượng phật Thích Ca, 2 bên là hai đệ tử là A Nan Ca Diếp. Ở đây
có 4 bức phù điêu lớn (mỗi tấm cao 1.3m ngang 2.3m) minh hoạ 4 cảnh Thích Ca
đản sanh, Thích Ca xuất gia, Thích Ca thuyết pháp, và Thích Ca nhập niết bàn,
trong cuộc đời đức phật Thích Ca. Sau chùa cất thêm điện Ngọc Hoàng.
Trong điện Ngọc Hoàng
đặc biệt có 3 pho tượng: Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu được nghệ nhân xưa tạo
hình rất sắc sảo và sau khi dùng thuốc để xử lý các thanh tre hầu chống lại các
loại côn trùng gặm nhấm đem kết lại thành sườn rồi dùng hồ bột và giấy thơm tô
đắp phần hình tượng, sau đó se những sợi chỉ bằng bột thật tinh xảo để tạo nét
hoa văn rồng bướm trên long bào mao diện cuối cùng mới sơn son thiếp vàng lên
để tăng thêm phần rực rỡ.
Ngày nay mặc dù Phù Cừ
Am tự tức chùa Phù Dung ngày nay không còn vẻ nguy nga như tòa điện cách đây
hơn 250 năm nữa nhưng vẫn còn chút gì đó phảng phất vấn vương của người xưa ……
Thắng
Cảnh Chùa Hang
Từ thị xã Rạch Giá theo
quốc lộ 80 qua thị trấn Kiên Lương rẽ đến ngã 3 hòn. Nơi đây rẽ phải đi về Hà
Tiên, còn rẽ trái thì đi về chùa Hang.
Chùa Hang có từ thế kỷ
18 nằm trong dãy núi hòn chông. Từ ngoài bước vào chánh điện là tượng phật
Thích Ca, tượng Bồ Đề Đạt Ma tượng phật nghìn mắt nghìn tay, tượng Đường Tam
Tạng … Rẽ qua phải chính điện là đường dẫn vào hang. Lần theo con đường mòn tối
ôm hai bên là vách đá ta sẽ bắt gặp trong hang có hai tượng phật tạc theo kểu
Thái Lan do hai vị hoàng tử Chiêu Tuý và Chiêu Xí Xang, con của vua Xiêm đắp
trong lúc Mạc Thiên Tích cho lánh nạn tại đây .
Lần theo vách chùa Hang
ta thấy vỏ hến bám đầy trên vách. Hang này cả ngàn năm trước là một cái hòn chơ
vơ giữa biển lâu dần bị sóng xâm thực bào mòn trên núi đục đẽo thành hang sau
đó được nâng lên rồi phù sa bồi đắp đến nay đã nằm yên trong đất liền
Trước của hang phía Nam
có miếu bà chúa xứ chùa Hang. Đến cuối hang ra ngoài là bãi cát mịn màu mỡ gà,
nước trong xanh nhìn ra xa xa là hòn phụ tử sừng sững mọc lên giữa biển
Rời khỏi hang có một
vách núi nhô ra biển gọi là mũi công chúa Ngọc Du; chuyện kể rằng khi đoàn
thuyền của Nguyễn Anh bị quân Tây sơn truy đuổi chạy đến đây, tướng Tây Sơn
đuổi kịp nhảy lên thuyền của công chúa Ngọc Du thì đồng thời công chúa cũng
gieo mình xuống biển. Sau đó Nguyễn Anh trở lại và lập đàn tế đặt tên là mũi công
chúa Ngọc Du.
Phía Bắc chùa là bọng
nước tròn cở giếng nhỏ sát vách đá lúc nào cũng đầy nước chảy xuống từ khe đá
trên núi được người dân sử dụng tưới cây, tắm giặt.
Phía Đông chùa Hang là
hang Gia Long. Đây là hang động ăn ra biển bị mưa và sóng biển xâm thực tạo
thành, từ cửa hang tiếp giáp ra biển khá xa. Hang tối đen như mực vì thế mà
Nguyễn Anh đã lẫn trốn quân Tây Sơn tại đây trong một thời gian dài. Trên vách đá
có những hình thù kỳ lạ do đá vôi kết hợp với nước mưa tạo thành, đặc biệt là
luôn rĩ nước có nơi nước chảy thành vòi. Tương truyền lúc Nguyễn Anh trốn trong
hang đã lấy nước này cho quân sĩ uống và đặt tên là giếng tiên.
Phật
Di Lạc có pháp thuật rất là cao siêu; ở dâu nghe tiếng kêu
của chúng sinh sự đau khổ thì ông ta sẽ đến giúp; nên ông ta có thể biến ra
muôn hình vạn dạng để cứu giúp.
Theo truyền thuyết về
phật Di Lạc. Bắt nguồn từ Tây Tạng nơi có ngọn Êvares; nơi đây xuất hiện một vị
hòa thượng nhìn rất vô hình tướng lúc thì to con, lúc thì nhỏ con nhưng về sau
không ai nhớ hình dạng của Ông như thế nào; nhưng chỉ nhớ là Ông luôn nở nụ
cười và bụng ông rất to.
Nhiệm vụ của Ông khi
trời nắng Ông cột khúc gỗ và kéo để báo cho mọi người trời sẽ nắng và có hạn
hán.
Trời lụt hay trời mưa
thì Ông sẽ nhúng giày xuống nước để báo cho mọi người là trời sẽ mưa.
Những đứa trẻ gặp bất
hạnh thì Ông sẽ đổ túi vải Như Ý ra trong đó có đồ chơi để để giúp đỡ cho những
đứa bé.
Sau này, hòa thượng Thế
Thử viên tịch; trước khi viên tịch ông luôn nói “di lạc, di lạc, tâm di lạc”.
Lúc đó mọi người mới phát hiện ra đây là vị phật trong tương lai thì sau đó hội
phối thờ theo phật Thế Thử .
Ông này có miệng rất
lớn: miệng lớn để cười mọi việc mà người đời không ai cười được; ví như trên
đời có những việc đau khổ và Ông sẽ nhận những việc đau khổ đó để lại niềm vui
cho chúng ta.
Và lỗ tai ông rất lớn,
lỗ tai của ông là hiện thân của Quán Thế Âm hiện thành, Quán Thế Âm là vị Phật
nghe được mọi tiếng kêu của chúng sinh mà để phổ độ và lúc này tai của ông là
của phật Quán Thế Âm; mọi tiếng kêu trên thế gian này ông sẽ sẵn sàng nghe và
phổ độ.
Bụng của Ông lớn, bụng
lớn thể hiện sự giàu sang và phú quý; muốn con người sống ấm no, hạnh phúc;
bụng Ông rất lớn còn thể hiện sự khoan dung mà người đời ai không thể làm được;
tức là giữ lại cho chúng ta những gì tốt đẹp nhất.
Và trong tương lai kinh
phật dự định khoảng 6000 năm nữa chúng ta chỉ thờ một mình vị phật này thôi vì
nhiệm vụ của những vị phật khác nhau đều quy tựu về vị phật Di Lạc hay còn gọi
là phật Vị Lai.
Hòn
Phụ Tử
Đẹp nhất và nổi tiếng
nhất phải kể đến hòn phụ tử, xưa nay là hình ảnh biểu trưng cho non nước Hà
Tiên thơ mộng quyến rũ. Hòn phụ tử gồm 2 trụ đá, một cao to, một thấp bé nhô
lên từ biển trông như hình tượng cha con quấn quýt nhau dầm mưa dãi nắng từ bao
thế kỷ giữa mặt nước trong xanh
Hòn phụ tử được xem như
là biểu tượng của du lịch Kiên Giang. Theo truyền thuyết Khmer kể lại rằng: Tại
vùng đất này trước kia có rất nhiều cá sấu rất hung dữ mà người xưa thường gọi
là con thuồng luồng. Những con cá sấu này thường quấy phá và làm hại dân làng
nơi đây. Có hai cha con nhà kia muốn cho dân làng có cuộc sống yên vui cho nên
họ đã quyết định giết chết những con cá sấu này. Một hôm hai cha con này cùng
với một người dân làng đã đến núi Tà lơn, Tà Keo để tìm sư học đạo, vị đạo sĩ
đã cho hai cho con này 2 lọ thuốc thần để họ thoa lên người, thuồng luồng sẽ sợ
và không dám cắn họ và họ có thể giết chúng. Hai người đã giết chết 39 con cá
sấu và chỉ còn lại con cá sấu chúa. Họ quyết định tha mạng cho con cá sấu này
và lên thuyền vào bờ nhưng không ngờ con cá sấu này bổng nổi lên phá thuyền,
người con quên rằng thuốc trên người anh đã hết công hiệu liền xông vào chiến
đấu với nó và bị cá sấu cắn đứt đầu . Không kịp thoa thuốc lên người người cha
liền dùng thuốc và nhảy vào miệng con cá sấu, người cha chết và con cá sấu cũng
chết theo. Người dân ở đây đã lấy sự tích này đặt tên cho hòn đào có hình giống
hai cha con tựa vào nhau trong tư thế đứng vững chắc trước sóng gió cuộc đời.
Bên cạnh truyền thuyết
thuồng luồng còn có một truyền thuyết nghe cũng rất hợp logic. Theo người Kiên
Giang thì họ quen gọi là hòn phụ tử nhưng nói đúng là hòn Phu Phụ Tử.
Trên mặt biển nhô lên
hai tảng đá cao, nghiêng nghiêng một chiều, khoảng giữa là tảng đá thấp hơn.
Các tảng đá này được dính liền với nhau. Có người cho rằng tảng đá tảng đá phía
trước là cha tảng đá ở giữa là con và tảng đá sau cùng là mẹ. Vì sao lại gọi
vậy? Điều này rất gắn liền với triết lý Phương Đông và rất là gắn liền với lịch
sử, văn hóa Việt Nam chúng ta. Đất nước ta là ngàn năm Bắc Thuộc; sau là Ngô
Quyền đánh quân Nam Hán; Lê Hoàng đánh quân Tống; sau này là Trần Hưng Đạo 3
lần đánh tan quân Nguyên Mông; rồi Lê Lợi đánh nhà Minh; Quang Trung đánh quân
Thanh và sau này là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nếu có dịp đi Xuyên Việt ở tận
cùng tổ quốc khu vực Hạ Long – Quảnh Ninh (điểm đầu tiên của tổ quốc) và Hàm
Tiên (điểm cuối cùng của tổ quốc); chúng ta có thể được hình tượng mà tạo hóa
đã tạo giống như là Romio và Juliet nhưng ở đó là hình tượng người chồng chia
tay người vợ vì chúng ta bị giặc giã; để rồi chúng ta có một nàng Tô Thị ở Lạng
Sơn; một Hòn Vọng Phu ở Thanh Hóa; chúng ta có một Hòn Vọng Phu ở Nghệ An; một
Hòn Vọng Phu ở Nha Trang. Ở đâu chúng ta cũng có Hòn Vọng Phu cả; vì người
chồng ra chiến trận thì người vợ ở nhà chờ chồng nuôi con cứ như vậy, như vậy
con lớn đến ngày hôm nay khi đất nước hòa bình thì tận cùng tổ quốc họ được sum
vầy ông bà, vợ chồng, con cái. Điều đó thể hiện, đáp lại lòng chung thủy của
người phụ nử; yếu tố này nghe hay hơn hòn phụ tử.
Đồng thời, họ cũng cho
rằng những tảng đá nơi đây có liên quan đến truyền thuyết của núi vọng phu và
nơi kết cục của sự chờ đợi, vợ chồng con cái được gặp nhau nơi tận cùng tổ
quốc. Đây chính là những suy tưởng cao đẹp về sự sum họp gia đình của con người.
Bởi vì theo truyền thuyết về Hòn Vọng Phu: ở ngoài Bắc có núi vọng phu là ngọn
núi cao nhất của Trường Sơn – có nàng Tô Thị trông chồng. Người chồng đi tiếp
xuống phương nam, sống với một bộ lạc ở ngoài thành Óc eo, tức là Vọng Thê
thuộc địa phận núi Sập tỉnh An Giang. Lâu ngày nhớ vợ, anh bèn ra một hòn đảo ở
ngoài biển. Cứ chiều chiều anh dắt con ra mé đảo trông về chốn cũ làng xưa.
Người dân tại nơi đây đã lấy hình ảnh này mà đặt tên cho ngọn núi là núi Vọng
Thê. Và có lẽ trong khi vợ chàng hoá thành tượng vọng phu thì cha con chàng
cũng biến thành hòn phụ tử .
Chùa
Sắc Tứ Tam Bảo
Chùa Tam Bảo tọa lạc
tại số 328, tổ 2, ấp Ao Sen, đường Phương Thành, thị xã Hà Tiên. Chùa có tên
gọi là chùa Tam Bảo được xây dựng từ năm 1730.
Trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang có 2 ngôi chùa Sắc Tứ Tam Bảo một tại Hà Tiên, một tại Rạch giá đều rất
nổi tiếng.
Theo Đại Nam Nhất Thống
Chí: chùa Tam Bảo trước đây thuộc huyện Hà Châu do Mạc Cửu xây dựng cho mẹ là
phu nhân Thái Thái tu hành vào những năm cuối đời. Khi Mạc Cửu lập nên thị trấn
Hà Tiên, mẹ ông là Thái Thái tuổi đã ngoài 80 do nhớ con da diết, bà đã từ Lôi
Châu vượt biển tới (cũng có tài liệu khác cho rằng khi Mạc Cửu đã thành danh
mới đón mẹ từ Trung Quốc sang ở chùa này) Mạc Cửu phụng dưỡng mẹ rất chu đáo,
làm trọn bổn phận của một người con hiếu thảo. Phu nhân vốn tánh mộ phật cho
nên Mạc Cửu đã cho dựng chùa này để cho mẹ thể hiện lòng thành kính và ngày
ngày chiêm bái, một hôm bà đang làm lễ trước phật điện, thì phu nhân đột nhiên
qua đời nay trước bàn thờ Phật. Mạc Cửu theo nghi lễ chôn cất cho mẹ rất trang
trọng, chu đáo và cho xây dựng mộ ở phía hậu viên của chùa. Mạc Cửu khi đó đúc
tượng Di Đà họa theo mẫu thân của mình để thờ. Hiện nay tượng vẫn còn .
Hình tượng ngôi chùa
ngày xưa do Mạc Cửu xây dựng cho mẹ hiện nay không còn mà chỉ còn lại một chút
dấu vết là những bước tường thành xung quanh chùa. Ngoài ra ông còn cho đúc một
đại hồng chuông để khi nghe tiếng chuông mà tưởng nhớ đến thân mẫu của mình.
Tại đây còn có một
truyền thuyết kể lại rằng: Khi xây chùa xong, ngài Mạc Cửu nằm mộng thấy Rồng
Vàng Ngậm Hoa Sen, ứng với việc hoà thượng Huỳnh Long tức Ấn Trừng Thiền Sư,
thuộc dòng Lâm Tế thứ 35, từ Trung Quốc sang Hà Tiên. Khi Mạc Cửu gặp Hoà
Thượng, thì ông không mở cổng chùa mà còn bảo :“làm sao vô được thì vô”, tức
thì hoà thượng liền phi thân bay vào. Từ đó hòa thượng được gọi là Quốc Sư và
là người đầu tiên trụ trì chùa Tam Bảo. Hiện Nay vẫn còn Bảo tháp của Quốc Sư.
Trước đây chùa nằm trên vùng đất ngoài dinh trấn cách dinh trấn khoảng vài cây
số. Năm 1771 chùa bị thiêu hủy và mãi đến năm 1799 thì con cháu Họ Mạc mới xây
dựng lại chùa nằm phía trong dinh trấn, cho nên vòng thành tuy bị phá bỏ nhưng
nhưng vẫn còn lưu lại dấu vết. Chùa Tam Bảo hiện nay là hoàn toàn mới xây lại
do hoà thượng Phước Ân thuộc dòng lâm tế đời thứ 40 vào năm 1930.
Thi sĩ đông Hồ Lâm Tấn
Phác trong bài viết về Hà tiên, Mạc Thị Sử đăng ở tạp chí Nam Phong số 143
tháng 10 năm 1929 có ghi : «Tên chùa gọi là Tiêu Tự, tục gọi là chùa Tam Bảo»
Chùa có khuôn viên khá
rộng. Ở cổng vào có đôi câu đối
Nhất trần bất nhiễm Bồ
đề địa
Vạn thiện đồng qui bát
nhã môn
(Đất Bồ đề không vương
bụi tục
Cửa Bát nhã có sẳn
duyên lành)
Ở sân trước có đặt
tượng Quan Âm lộ thiên dưới bóng cây Bồ đề. Chánh điện đã được trùng tu lại.
Mặt tiền có hai tập câu đối nhưng bên trong lại không có câu nào. Trên bàn thờ
ở tầng trong cùng có tượng đức phật Di Đà bằng đồng đã được thếp vàng cùng với hai
pho tượng quan Am và Thế Chí. Ở tầng dưới có tượng đức phật Thích Ca sơ sinh và
hai pho tượng Thích ca thành đạo. Ngoài ra cũng còn có các pho tượng Hộ Pháp,
địa Tạng, và ông Tiêu. Con có 4 bệ thờ do Thái Lan tặng
Phía sau lưng bàn thờ
phật là gian thờ Tổ. Ở đây có mấy câu liễn được treo trên cột. Chùa Tam Bảo đã
trãi qua mười mấy đời truyền thừa . Vị trụ trì đầu tiên là hòa thượng An` trừng
dòng Lâm Tế thứ 35. Tiếp theo là các Hoà thượng Minh Tâm, Minh Liêm, Minh
Thông, Minh Chơn, Như Đức,Như Khả, Nhứt Huy, Thuần Hạnh,Phước Thành, Phước An,
Phước Quang,Quãng Đức, Vĩnh Đạt, Thiện Giác và thích nử Như Hải. Từ năm 1974
chùa Tam Bảo trở thành ni tự.
Phía sau chùa có ngôi
nhà lầu dùng làm ni thất, kiến trúc hiện đại và khu mộ tháp. Nhà giám trai ở
phía tay phải ngôi chùa gồm 3 gian. Nơi đây cũng có một số câu đối. Câu ở ngoài
cùng ghi
Thiên địa chí công vi
thiện tự nhiên nhân hoạch phúc
Thánh hiền thuỳ huấn tu
thân phương khả dĩ tề gia
(Trời đất rất công,
tích thiện tự nhiên được phúc
thánh hiền vẫn dạy, tu
thân rồi mới tề gia)
Chùa sắc tứ Tam Bảo là
một ngôi chùa cổ, có lịch sử lâu đời trên 200 năm đã được các sách sử nói đến
nên được nhiều người biết tiếng và đến tham quan khi có dịp ghé Hà Tiên
Ý
NGHĨA CỦA NHỮNG PHO TƯỢNG PHẬT:
Phật
Đản Sanh
Trước khi phật sinh ra
và viên tịch chỉ nhắc tới một điều! Khi phật sinh ra bước đi 7 bước thì có bảy
hoa sen; tuyên truyền phật sinh ra từ nách chứ không phải như các cậu bé bình
thường khác; nhưng điều đó chỉ do người ta thần thánh hóa lên; phật cũng như
bao người khác. Khi phật vừa sinh ra thì phật bước 7 bước và hiện thân cho 7
hoa sen; 7 hoa sen thể hiện cho “thất tình” của con người: Tham, Sân, Si, Hỷ,
Nộ, Ai, Ố.
Một tay Ông chỉ lên
trời 1 chỉ dưới đất ông muốn nói “thiên thượng địa hạ di ngã độc tôn” đây là
tiếng của mình dịch theo sách kinh của Trung Quốc; nhưng nghĩa của tiếng Phạn
dịch ra không phải như chúng ta thường hiểu câu nói trên là: “trên trời cao dưới
đất rộng có Ông ta sẽ phổ độ chúng sinh” nếu dịch kinh như vậy là không đúng;
nếu dịch đúng thì phải là: “trên trời cao dưới đất rộng sợ nhất là bản ngã con
người, tự cao tự đại sẽ giết chết chúng ta” điều sợ nhất là bản ngã con người
không tự chủ bản thân.
Phật
Thích Ca Nhập Niết Bàn
Trước khi phật viên
tịch. Đa phần nơi nào có tượng phật Đản Sanh thì sẽ có hình thể ông sang thế
giới vĩnh hằng; đầu thì luôn luôn tựa gối đá để suy nghĩ; vì người ta nói “con
thiếu mẩu, gối trầm đoàn, lả lơi loan phượng” khi phật viên tịch mọi người chất
củi để hỏa thiêu nhưng đốt hoài không cháy; bổng nhiên lửa Tam Mũi đốt cháy
ông. Sau này xác ông biến thành 83.000 hạt xá lợi chia cho các chùa trên thế
giới thờ phụng.
Phật
Bà Quan Thế Am Bồ Tát
Phật Quan Thế Âm Bồ
Tát: phía trên có 3 lá bồ đề tượng trưng cho “Giác Ngộ”; điều này thể hiện cho
thuyết Việt Nam “Thiên Địa Nhân”: Phật Bà Quan Âm sẽ phù hộ cho dân Hà Tiên nói
riêng, Việt Nam nói chung “Thiên Thời Địa Lợi Nhân Hòa”. Đa phần các chùa đều
thờ phật Quan Thế Âm Bồ Tát.
Phật
Thích Ca Mâu Ni
Phía sau cây bồ đề là
tượng Thích Ca Mâu Ni, lúc này ông đã giác ngộ. Trước đây, Phật Thích Ca vào
rừng tu ép xác; sau này được một người chăn dê cho uống sữa dê và cho một hạt
kê lúc này ông đã tỉnh ra, phật do tại tâm chứ không phải nhịn ăn uống là trở
thành phật được.
Ngoài ra phía ngoài của
chùa còn có khu mộ của 16 vị trụ trì. Đây là ngôi chùa cổ của Hà Tiên với lịch
sử hơn 200 năm, gắn liền hình thành với quá trình hình thành thị trấn Hà Tiên
và được nhắc đến nhiều trong các sách sử .
Mạc thiên Tích là con
của Mạc Cửu đã cảm tác 11 bài thơ về cảnh đẹp Hà Tiên, gồm một bài tổng vịnh và
10 bài vịnh thắng cảnh. Trong đó có bài vịnh Cảnh đẹp “Tiêu Tự Thần Chung”
trong đó có câu thơ :
“Chuông gióng chùa Tiêu
tiếng tiếng cao”
Tiêu ở đây có nghĩa là
vắng vẻ. Tự là cảnh chùa. Thần là buổi sáng sớm và chung là tiếng chuông. Tiêu
tự thần chung có nghĩa là tiếng chuông buổi sớm ngân vang cảnh chùa tĩnh mịch.
Và theo một số người giải thích tên chùa gọi là tiêu tự tục gọi là Tam Bảo.
Thạch
Động Thốn Vân
“Qui trổ thần soi thấy
một tà
Chòm mây phiến đá dâu
tiên gia
Hang sâu thăm thẳm mây
ùn lại
Cửa rộng thênh thang
gió thổi qua ……”
Một trong mười cảnh đẹp
của Hà Tiên là Thạch Động mà các nhà thơ thường gọi bằng cái tên giàu hình
tượng là “Thạch Động Thốn Vân” có nghĩa là mây luồn Thạch Động. Sở dĩ động mang
tên như vậy vì một hiện tượng thiên nhiên hết sức thú vị, lúc bình mình nếu ta
nhìn lên đỉnh núi thì sẽ thấy những đám mây trắng như bông bay tỏa quanh núi,
một số chùn xuống vấn vương quanh cửa hang và từ từ chui vào hang 50 m so với
mực nước biển.
Thạch Động là một tảng
đá xanh khổng lồ mọc trơ trọi giữa một vùng đất nằm kề quốc lộ 17 cách thị xã
Hà Tiên khoảng 3 km và cách chợ Hà Tiên 4km về hướng Bắc, đây là khối khổng lồ.
Trước khi vào Thạch Động ta sẽ bắt gặp bia căm thù, ghi lại cuộc thảm sát 130
người dân Việt Nam vô tội của Pôn Pốt năm 1978 và được bộ Văn Hóa công nhận di
tích lịch sử ngày 1/12/1989.
Diện tích của Hang khá
rộng và cùng với thời gian, nước mưa theo tháng năm xâm thực đá len lách chảy
xuống hang hòa tan với chất vôi tạo nên những thạch nhũ độc đáo, khi bước vào
Thạch Động mọi người sẽ thấy một vòm đá lớn rất nhiều thạch nhũ với nhiều hình
dáng màu sắc khác nhau tạo nên rất nhiều sự liên tưởng kỳ thú. Có rất nhiều
truyền thuyết đặt ra nhằm giải thích cho các hình thù thạch nhũ nhưng phổ biến
và giống, ăn khớp với hình dạng hang động hay hơn cả là truyền thuyết về Chàng
Thạch Sanh.
Trước khi bước vào hang
ta sẽ bắt gặp một mỏm đá nhô ra bên trái của hang, trông giống như đầu con chim
đại bàng. Bước vào bên trong là một vòm hang khá rộng với nhiều thạch nhũ mang
những màu sắc khá kỳ bí.
Ngoài ra, trong hang có
đường lên trời, đường xuống địa ngục (thực chất hang này có một lổ thông gió và
một cái giếng thông với biển; nếu như ta bỏ một trái dừa vào giềng thì ta sẽ
tìm thấy chúng ở Hòn Phụ Tử). Bên trong động có thờ Phật, hình Phật Bà…
Truyền
thuyết Thạch Sanh ở Hà Tiên
Ngày xưa, đã lâu lắm
rồi, lúc đất Hà Tiên còn là xứ Mang Khảm với núi rừng hoang vu kéo dài từ đất
liền ra biển. Kẻ có quyền uy cao nhất của xứ sở này không phải là nhà vua mà là
một con chằn tinh ở Thạch Động, một hang núi giữa rừng già thâm u quanh năm
không một tia nắng nào dọi đến. Thường ngày chằn tinh ra khỏi hang đi săn bắt
người ăn thịt. Nhà vua đã huy động quân mã biết bao lần tấn công vào hang ổ để
diệt mối hại cho dân, nhưng không lần nào không chuốc lấy sự thất bại. Trong
một trận chiến nọ, khi nhà vua kéo đám binh tướng thất trận chưa kịp trốn vào
thành, nhà vua bị chằn tinh bắt được. Chằn toan xé xác nhà vua để ăn thịt, thì
vua hốt hoảng đề nghị :
- Chằn ăn thịt ta thì
chỉ no bụng một lần, chi bằng ngươi tha chết cho ta, ta sẽ buộ dân chúng đến
nộp mạng cho ngươi. Hằng năm ngươi có cái ăn mà chẳn phải cất công đi săn đuổi.
Chằn nghe vậy thì bằng
lòng.
Từ đó, theo lệnh vua,
trăm họ trong xứ luân phiên nhau nộp mạng cho chằn ăn thịt. Đã biết bao đời bao
kiếp qua và không ai nhớ nổi là đã có bao nhiêu trai tráng bị chằn ăn tươi nuốt
sống. Trước kia chằn còn sợ quan quân nhà vua, giờ vua đã khiếp nhược, chằn lại
càng hoành hành hơn. Nhiều khi chằn xông vào tận nhà dân, tận cung điện để bắt
người ăn thịt. Dân cứ ru rú trong nhà, cửa đóng then cài, vua quan năm thì mười
họa mới dám ra khỏi thành.
Năm nọ, chiếu theo lệ
thường, đến phiên nhà họ Lý phải nộp mình cho chằn ăn thịt. Người phải chịu
chết là Lý Thông, một gã chuyên nghề buôn rượu. Nhận được lệnh, Lý Thông liền
nghĩ kế gạt Thạch Sanh chàng trai nhà ở Đá Dựng.
Thạch Sanh là một chàng
thanh niên khỏa mạnh mồ côi cả cha lẫn mẹ. Hàng ngày kiếm sống bằng nghề đốn
củi đem ra chợ bán. Lý Thông là một trong những khách hàng thường xuyên của
Thạch Sanh. Hắn cần củi để nấu rượu. Hôm ấy Thạch Sanh gánh củi ra bán cho Lý
Thông như thường lệ. Lý Thông đã định sẵn nên mời Thạch Sanh ở lại ăn cơm.
Trong bữa cơm, Lý Thông và Lý Bà, mẹ hắn dùng lời ngon ngọt khuyên Thạch Sanh
về ở với mình, kết nghĩa anh em với Lý Thông. Thạch Sanh nhận lời. Từ đó Thạch
Sanh lo việc bửa củi, gánh nước giúp mẹ và người anh kết nghĩa.
Chờ đến đêm, đúng hẹn
phải nộp mình cho chằn, Lý Thông vờ sai Thạch Sanh gánh hộ hai vò rượu vào
Thạch Động. Chàng đặt gánh rượu trước cửa hang đá ngồi nghỉ và có ý chờ Lý
Thông. Nhưng chỉ một lát, chằn từ trong Thạch Động thò tay ra nắm lấy vai Thạch
Sanh.
- Chà, thằng này chắc
thịt, đỏ da…khà… khà
Thạch Sanh gạt tay chằn
ra quát :
- Mi là ai, muốn gì ?
Con chằn giơ đôi tay
móng dài bén lẻm ra :
- À, à mày đến nộp mạng
mà còn hỏi cái gì à
Nói dứt lời, hắn vồ lấy
Thạch Sanh. Nhanh như chớp, Thạch Sanh rút chiếc búa giắt ở bên hông chém phập
vào bả vai chằn. Nó rú lên, rung chuyển cả núi rừng, rồi phóng ào ra bổ xuống
người Thạch Sanh như một tản đá rơi từ trên cao xuống. Thạch Sanh vội nhảy phóc
tới trước, chằn vồ hụt bị té sấp. Không bỏ lỡ dịp may này, Thạch Sanh đã sấn
tới chém đứt cổ con chằn dữ…
Thạch Sanh chờ đến tối
vẫn không thấy Lý Thông đến đành quay trở về.
Đêm cuối tháng trời tối
đen như mực. Thạch Sanh dò đường về nhà thì trời đã khuya. Thạch Sanh hắng
giọng gọi cửa :
- Anh Hai ơi, mở cửa
cho em !
Lý Thông bật dậy, hốt
hoảng, Lý Bà mặt không còn chút máu. Bà đến bên bàn thờ lấy nén nhang đốt lên
rồi quay mặt ra cửa vái :
- Thạch Sanh, con sống
khôn thác thiêng, đừng về quấy mẹ và anh…
Thạch Sanh chẳng hiểu
gì, xô cửa bước vào :
- Con đây này !
Lý Thông giật mình bước
lui vào tron. Lý Bà ngã ra bất tỉnh, Thạch Sanh lay chuyển hồi lâu bà mới tỉnh
lại. Thạch Sanh thật thà kể lại đầu đuôi mọi việc đã xảy ra. Nghe Thạch Sanh
giết được chằn tinh, Lý Thông nảy ý gian. Hắn làm ra vẻ lo lắng:
- Sanh à, con chằn tinh
ấy là con vật quí của vua nuôi từ lâu, nay em lại giết nó thì chắc không sao
tránh khỏi tội xử chém…. Thôi còn ít cơm nguội, em ăn đi rồi vào rừng trốn
ngay, kẻo có người biết chuyện thì khốn…. Em mà bị tội thì không khéo anh và mẹ
cũng bị họa lây.
Vốn là một người chất
phát, côi cút ở trong rừng từ thuở nhỏ nên khi nghe Lý Thông nói vậy Thạch Sanh
tin ngay. Chàng trở về núi Đá Dựng náu thân. Sợ ra chỗ đông đúc, có người phát
giác, Thạch Sanh bỏ nghề đốn củi và sắm sửa cung tên để săn bắt tìm lấy cái ăn.
Lý Thông, ngay sáng hôm
đó, vào triều tâu với vua là mình đã giết được chằn tinh. Vua nghe tin cả mừng,
liền sắp đặt yên cương kéo đoàn quân vào Thạch Động xem xét thực hư. Thấy chằn
tinh đầu đã lìa khỏi cổ, vua khen Lý Thông không tiếc lời. Khi về đến hoàng
cung, vua phong cho Lý Thông làm Tể tướng. Vương quốc Mang Khảm từ đó được
hưởng thái bình.
Vua Mang Khảm có một
người con gái duy nhất là công chúa Quỳnh Nga xinh đẹp tuyệt vời. Chiều theo ý
con, nhà vua tổ chức lễ gieo cầu để Quỳnh Nga tự kén chọn ý trung nhân. Buổi lễ
tổ chức ở giữa vườn thượng uyển. Nhưng khi Quỳnh Nga tay cầm quả tú cầu vừa
bước lên đài cao giữa hàng ngàn cặp mắt dân chúng, từ trên không một con đại
bàng sà xuống, buông đôi chân dài gắp công chúa bay vút đi, thoáng một cái đã
mất dạng. Vua, hoàng hậu và triều thần điều hốt hoảng. Vua truyền cho Ly Thông
đuổi bắt đại bàng. Lý Thông bắt đắc dĩ phải đem quân ra đi, song trong bụng nơm
nớp lo sợ vì hơn ai hết hắn biết rõ hắn không đủ tài sức đánh bại con đại bàng
dữ hung dữ này.
Nói về Thạch Sanh sáng
hôm ấy, đang dõi mắt để săn thú thì chàng chợt thấy đại bàng bay qua, chân quắp
một người. Thạch Sanh giương cung bắn một phát tên trúng ngay vào cánh đại
bàng. Con ác điểu bị trúng tên, máu tuôn ra xối xả, nhưng vẫn cố sức quặp công
chúa bay đi…. Tục truyền, máu của đại bàng rơi xuống trên mặt đất thành những
gò, đồi trải dài từ Đá Dựng đến Thạch Động.
Quân lính dò tìm khắp
nơi đã ba ngày rồi mà vẫn không đem về một tin tức nào. Nhà vua truyền lệnh bố
cáo trong khắp thôn làng cầu kẻ tài giỏi đi tìm công chúa. Bố cáo nói rõ rằng
ai cứu được công chúa sẽ được gã công chúa. Vương quốc ai cũng xôn xao vì biến
cố trọng đại này.
Lý Thông đang nôn nóng
vì sợ có kẻ giành mất dịp may có một không hai này thì hắn chợt nhớ đến Thạch
Sanh, người đã tạo nên công tích cho hắn được vinh hoa phú quí mấy năm qua. Hắn
phi ngựa đến núi Đá Dựng để tìm Thạch Sanh. Gặp nhau sau bao năm xa cách, Thạch
Sanh vô cùng xúc động. Sau khi thăm hỏi, chuyện về gia đình, về Lý Bà… Lý Thông
đem chuyện công chúa bị đại bàng bắt cóc kể cho Thạch Sanh nghe và nhờ Thạch
Sanh giúp mình đi tìm công chúa. Thạch Sanh nghe Lý Thông nói bèn thuật lại
chuyện chàng bắn đại bàng cách đây mấy hôm. Thế là Lý Thông cùng Thạch Sanh lần
theo dấu vết máu tìm đến hang của đại bàng. Đó là một tảng đá xanh khổng lồ,
đột ngột nổi lên giữa rừng cây dày đặc, cao đến tận mây. Tảng đá to lớn, mở
toang hoác ra một cửa động lởm chởm và ẩm ước âm u đến rợn người. Người đời sau
gọi hang này là Thạch Động.
Lý Thông nhìn vào trong
hang tối om thăm thẳm không dám bước vào. Thạch Sanh với sự thành thạo của một
người tiều phu dày dạn chỉ một lát đã chặt mấy thắt xong chiếc dóng. Chàng ngồi
vào dóng và bảo Lý Thông dóng mình xuống hang. Từ bên dưới hang sâu đen tối
vọng ra tiếng than khóc đã định hướng cho Thạch Sanh tiến vào. Đại bàng thấy có
bóng người liền đập cánh toan xông ra, nhưng vết thương ở cánh đã làm nó kiệt
sức nên con chim dữ chỉ dấn lên từng bước yếu ớt. Nghe tiếng động, Thạch Sanh
vung búa chém bừa và một trong những nhát búa ấy đã đập vỡ đầu đại bàng.
Công chúa thấy chàng
trai lạ, trên người chỉ mặc độc chiếc khố bằng bẹ chuối khô, liều thân cứu mình
thì rất cảm kích. Sẵn trái tú cầu còn nắm trong tay, công chúa liền đưa nó cho
Thạch Sanh. Thạch Sanh dắt trái tú cầu vào lưng khố, rồi chàng bồng công chúa
đặt vào dóng giật dây ra hiệu cho Lý Thông kéo dóng lên. Nhận ra công chúa, Lý
Thông liền vất dóng đi và vần những khối đá lấp kín miệng hang. Mọi việc đâu
vào đấy, hắn vội cõng công chúa ra về.
Thạch Sanh ở dưới hang
đợi mãi không thấy Lý Thông thả dóng xuống đưa mình lên, lại thấy ánh sáng ở
cửa hang bị bưng lại thì biết Lý Thông đã hại mình. Chẳng còn lối nào khác,
Thạch Sanh đành lần mò sâu trong hang với hy vọng ở phía đó có ngõ ngách nào khác
để lên khỏi hang. Tay vịnh chân trèo dò đường một hồi lâu, bỗng Thạch Sanh nghe
có tiếng khóc se sẽ sau một phiến đá. Chàng vung búa đập vỡ phiến đá làm lộ ra
một ngách nhỏ, trong đó có một chàng trai nhốt trong cái cũi sắt. Thạch Sanh
hỏi ra thì mới biết chàng trai ấy là Thái tử con vua Cần Một chẳng may bị đại
bàng bắt giam ở đây đã non ba năm. Chẳng một phút suy nghĩ, Thạch Sanh đập nát
cái cũi sắt cứu Thái Tử ra. Thái tử tưởng phải giam thân nơi hang tối suốt đời
nay được tháo cũi sổ lồng nên mừng vui khôn xiết. Thái Tử sụp lạy Thạch Sanh
xin kết nghĩa anh em và mời Thạch Sanh về sứ sở của mình chơi để được dịp đền
ơn cứu tử. Thái tử đưa Thạch Sanh theo một ngách nhỏ thông từ Thạch Động về
phía Lộc Trĩ.
Vua Cần Một, sau khi
nghe con thuật lại mọi chuyện thì hàm ơn Thạch Sanh lắm. Nhà vua truyền mở đại
tiêc suốt bảy hôm liền để tỏ lòng trọng đãi ân nhân của con mình. Thái Tử cứ
quấn quýt bên Thạch Sanh không lúc nào rời. Họ đi dạo chơi khắp xứ, đã xem chán
mắt năm cung thất phủ trong hoàng thành. Cái vui ở xú lạ quê người cũng chóng
qua, cái cảnh kẻ hầu người hạ trở nên nhàm chán, đơn điệu… và dần dà. Thạch
Sanh nhớ quê hương da diết. Vua Cần Một và Thái Tử không biết sao cầm được
khách nên làm tiêc tiễn Thạch Sanh. Trong bữa tiệc, nhà vua đem ba mâm vàng
ngọc tặng. Thạch Sanh từ chối không nhận một vật gì và ngỏ lời xin cây đàn treo
trên vách làm kỷ niệm. Vua Cần Một ngạc nhiên :
- Vàng ngọc ta tặng
ngươi đều là thứ quí giá sao ngươi không nhận, lại lấy cây đàn kia?
Được, ta ban cho người
đó, nhưng hãy nhớ rằng chỉ có người lòng dạ thẳng ngay gảy đàn thì đàn mới phát
ra tiếng nhạc kỳ diệu.
Thạch Sanh lại về núi
Đá Dựng sinh sống như cũ. Những lúc rảnh rỗi lấy cây đàn ra ngồi tựa lưng vào
vách đá dạo lên khúc nhạc tiêu dao. Ngày lại tháng qua, Lý Thông tình cờ biết
Thạch Sanh vẫn còn sống. Vốn là kẻ xấu bụng, hắn lấy trộm vàng trong kho nhà
cua đem bỏ ở Đá Dựng để vu cáo cho chàng. Vua Mang Khảm mất một số vàng lớn
liền truyền lệnh truy tìm thủ phạm. Lý Thông sai lính đến Đá Dựng lục soát tìm
được tang vật. Thế là Thạch Sanh bị bắt giải về cung. Vua Mang Khảm ra lệnh
tống giam Thạch Sanh vào ngục tối chờ ngày xét xử. Thạch Sanh không nghĩ là
mình bị ai ám hại mà lại cho rằng số vàng ấy là do Thái Tử con vua Cần Một kín
đáo đem đến giúp mình. Do đó, chàng chẳng lo âu, chàng lấy đàn dựa lưng vào
vách ngục gảy đàn lên khúc nhạc nhặt khoan và cất tiếng hát. Tiếng hát quyện
với tiếng đàn vang lên, len qua các cung điện, réo rắt như tiếng than sầu ai
oán…
Nói về công chúa Quỳnh
Nga, khi thấy Lý Thông lấp miệng hang nhốt ân nhân đã cứu mình khỏi móng vuốt
của đại bàng thì bỗng hóa câm. Việc này đã khiến vua Mang Khảm phãi hoãn việc
gã con gái mình cho Lý Thông để lo việc chạy chữa. Vua cho mời hàng trăm danh
y, nhưng công chúa vẫn không nói được một lời nào. Đêm ấy, công chúa đang nằm
trằn trọc trên lầu thì nàng nghe tiếng đàn từ nhà ngục vọng về.
“…Tích tịch tình tang
Ai đem công chúa dưới
hang trở về…”
Tiếng đàn như có ma lực
làm sống lại ký ức tưởng như không bao giờ có thể phục hồi được của công chúa.
Nàng ra lệnh cho tỳ nữ đưa mình đến bệ kiến phụ vương và một mực xin vua cha
cho gọi người gảy đàn vào cung cho mình gặp mặt.
Thấy đúng là chàng trai
mặc khố đã cứu mình dạo nọ, công chúa liền quì tâu đầy đủ ngọn ngành sự việc đã
xảy ra. Thạch Sanh nghe công chúa nhắc lại chiếc tú cầu liền moi trong lưng khố
lấy quả tú cầu trả lại. Nhìn quả tú cầu, vua Mang Khảm không còn nghi ngờ gì
nữa, bèn truyền lệnh gọi Lý Thông vào để hỏi tội.
Lý Thông mặt không còn
giọt máu cúi xin vua tha tội luôn miệng. Nhưng đang cơn giận dữ, vua hạ lệnh
đem Lý Thông xử chém. Thạch Sanh xin vua tha chết cho Lý Thông để hắn về quê
làm ăn phụng dưỡng mẹ già. Vua nể lời bằng lòng tha chết cho Lý Thông. Hắn chưa
về đến nhà thì bị sét đánh chết.
Vua Mang Khảm gã Quỳnh
Nga cho Thạch Sanh và sau đó truyền ngôi cho chàng.
--------------------------------------------------
Mộ Và
Đền Thờ Nguyễn Trung Trực
Khu di tích mộ và đền
thờ Nguyễn Trung Trực toạ lạc tại số 14 đường Nguyễn Công Trứ Phường Vĩnh Thanh
Vân Thị xã rạch Giá .là di tích lịch sử được nhân dân Kiên Giang gìn giữ hơn
một thế kỷ nay để tưởng nhớ người anh hùng Nguyễn Trung Trực đã lãnh đạo nghĩa
quân kháng chiến chống thực dân Pháp vào cuối thế kỷ 19 .
Nguyễn Trung Trực là vị
anh hùng của dân tộc là tấm gương của nhiều thế hệ yêu nước về lòng quả cảm
liều mình lẽ phải .Hiểu rõ được cuộc đời của vị anh hùng này ta càng thêm kính
trọng và nể phục ông hơn :
Nguyễn Trung Trực còn
có tên là Chơn còn gọi là Năm Lịch ,sinh năm 1839 trong một gia đình làm nghề
đánh cá phủ Tân An tỉnh Gia Định nay thuộc ấp 1 xã Bình Đức huyện Bến Lức Tỉnh
Long An .Cùng với Trương Công Định ,Nguyễn Trung trực tham gia trận đánh bảo vệ
đồn Chí Hoà .Ong Được phân công chỉ huy một nhóm nghĩa quân hoạt động ở Tây An
.Ngày 10/12/1861 nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Trung Trực đã đốt
cháy chiến hạm Esperance của thực dân Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông .Sau đó ông
kéo quân về hoạt động ở vùng Rạch Gía–Phú Quốc .Tại đây ông lãnh đạo nghĩa quân
tấn công Rạch Giá .Giặc Pháp truy kích ,ông rút quân về Phú Quốc .Ong bị giặc
bắt tại đây đưa về giam ở Sài Gòn rồi bị xử tử tại Rạch Giá .Dân chúng thờ ông
ở nhiều nơi .Đình làng Vĩnh Thanh Vân ở thị xã Rạch Giá là một trong những di
tích tiêu biểu .
Đình thờ Nguyễn Trung
Trực vốn là Đình Thờ Cá Ong Voi .Ngày 27/9/1868 khi Nguyễn Trung Trực bị giặc
xử chém ,dân làng Vĩnh Thanh Vân thờ Nguyễn Trung Trực Trong đình và để che mắt
địch ,biển đình vẫn ghi là “Đình Nam Hải Đại Tướng Quân “.Tục truyền ,năm 1909,
trong dịp lễ Kỳ Yên, Quan chức Tây ta đến dự. Tên tham biện người Pháp vốn biết
chữ Hán đã phát hiện ra câu đối trích từ thơ của Huỳnh Mẫn Đạt :
“Hoả hồng Nhựt Tảo oanh
thiên địa
Kiếm bạc Kiên Giang
khấp quỷ thần .”
Liền dùng dùng nổi
giận, cho rằng hương chức vẫn còn nuôi ý chống Pháp. Hương chức làng Vĩnh Thanh
Vân viện lẽ: ông Nguyễn trung với vua với nước, dân thờ ông là thờ chữ Trung . Sau
đó hương chức nhờ Đốc Phủ Tươi và phủ quân tâu bày với Tham Biện để bỏ qua
chuyện này .
Ngoài địa điểm trên
Nguyễn Trung Trực được thờ ở nhiều nơi khác: Tân Điền, Vĩnh Hoà Hiệp, Vĩnh Hoà,
Phú Quốc… Việc tổ chức lễ hội Nguyễn Trung Trực đến cách mạng Tháng Tám mới
công khai và duy trì mãi đến nay. Mặt khác Nguyễn Trung Trực từ lâu là đối
tượng thờ tự quan trọng của các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương.
Ở Phú Quốc có nhiều địa
điểm liên quan đến Nguyễn Trung Trực vẫn còn bảo lưu trong ký ức dân chúng: Hàm
Ninh địa điểm đổ bộ, Cửa Cạn, Ba Trại, Bãi Ông Lang nơi cụ Nguyễn đánh trận
cuối cùng, đặc biệt tại Rạch Tràm là nghĩa trang các nghĩa quân của Nguyễn
Trung Trực và ngôi mộ của bà Quan Lớn Tướng đuợc coi là vợ của Nguyễn Trung
Trưc .
Hàng năm dân chúng tổ
chức lễ cúng trọng thể vào ngày 9 /3 âm lịch. Nói chung các nơi thờ tự Nguyễn
Trung Trực –vùng căn cứ ,chiến trường xưa của cụ ở Phú Quốc là một vùng đất
thiêng ,một địa danh một ngôi mộ và một loạt những tên người đều gắn bó hữu cơ
với cuộc đời và sự nghiệp của người anh hùng dân chài …
Đền thờ Nguyễn Trung
Trực ở Rạch Giá có thể coi là ngôi đền lớn nhất trong các ngôi đền thờ Nguyễn
Trung Trực .Trong đền được bày trí tôn nghiêm và đây là điểm hành hương của rất
đông người họ cho rằng ông Nguyễn rất linh thiêng .
Trước đền thờ ông có
một tương đài được coi là một trong những tượng đẹp nhất Việt Nam có dáng vẻ
oai phong và dũng mãnh .
Lịch
Sử Hình Thành Vùng Đất Phú Quốc-Kiên Giang
Phú Quốc có lịch sử
khai hoang lập ấp khá lâu đời, so với các vùng khác trong lưu vực đồng bằng
sông Cửu Long. Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh chống cướp và giặc xâm lược để bảo
vệ thành quả khẩn hoang trên vùng đất này cũng diễn ra thường xuyên. Lịch sử
Phú Quốc thể hiện đầy đủ nội dung dựng xây, gìn giữ và truyền thống yêu nước
của dân tộc Việt Nam.
I.
THUỞ HOANG SƠ:
Ngày trước Phú Quốc là
hai đảo hoang vắng. Vào những thập niên của thế kỷ XVII, nơi này đã có một số
người Việt Bình Thuận và người Hoa ở Hải Nam thường lui tới để đánh bắt hải sâm
(đồn dột) và bọn cướp biển võ trang lảng vảng nơi này để thừa lúc trấn lột,
cướp bóc. Có thể trong quá trình đó đã có một số rất ít người định cư sinh sống
nơi đây và Phú Quốc được định danh từ đó.
II.
THỜI CHÚA NGUYỄN:
Đến cuối thế kỷ XVII,
Mạc Cửu từ Trung Quốc đến Hà Tiên chiêu mộ dân phiêu lưu ở Phú Quốc và các nơi
thành lập xã thôn. Vùng đất Phú Quốc từ đây bắt đầu có người cai quản.
Năm 1708 Mạc Cửu xáp
nhập Hà Tiên vào Đảng trong Phú Quốc trở thành đơn vị hành chính thuộc lãnh thổ
Việt Nam được cai quản trực tiếp bởi vị Tống trấn họ Mạc. Với chính sách phóng
khoáng nhằm kích thích cư dân từ nơi khác đến, người dân tự do khai khẩn mà
không phải nộp thuế… tiếng tăm Phú Quốc ngày một vang xa, lưu dân đến ở ngày
càng đông. Từ đó, việc khai thác Phú Quốc diễn ra khá khẩn trương. Lưu dân gồm
nhiều thành phần khác nhau đã đến sống và hòa thân với nhau: có người đến do
phiêu bạc giang hồ, có người đến để tránh bão tố và sự truy nã của triều định
phong kiến lân cận. Trong số này đáng kể nhất là những người Việt đến định cư,
khai thác hải sản sinh sống lâu dài.
Cuối thế kỷ XVIII, nhờ
vị trí hẻo lảnh, lại có dân sinh sống với cơ sở kinh tế sinh túc, nên Nguyễn
Anh đã nhiều lần đặt chân đến nơi này trên đường bôn tẩu trốn tránh Tây Sơn
(1782 – 1786).
Năm 1783, Phú Quốc trở
thành bãi chiến trường khi lực lượng Tây sơn kéo ra truy diệt Nguyễn Anh nhưng
ông đã thoát được nhờ Lê Phước Điền hy sinh giả dạng để lừa Tây Sơn.
Trong những lần lui tới
đảo, Nguyễn Anh đã quan tâm bảo vệ củng cố, phát triển Phú Quốc cho đông người
và sung túc. Năm 1785 Nguyễn Anh cầm đầu hạm đội của mình cùng nhân dân trên
đảo đánh tan đoàn thuyền cướp biển Mã Lai, bắt giữ 15 ghe và 80 tên hải khấu.
Để tránh nạn cướp bóc tái diễn, Nguyễn Anh ra đi để lại một số chiếc thuyền và
đội quân hùng mạnh với nhiệm vụ canh giữ và mở mang đảo.
Khi lực lượng Tây Sơn
không còn đủ mạnh trên vùng đất Nam Bộ, Nguyễn Anh đã phần nào nhờ vào mãnh đất
sung thịnh này để tiến hành cuộc phản công chiếm thành Gia Định xây dựng Nguyễn
Triều.
III.
TRIỀU GIA LONG:
Năm 1802 Nguyễn Anh lên
ngôi, lấy hiệu Gia Long. Ông đã không quên ơn đảo, nên dành nhiều ưu ái cho
việc mở mang Phú Quốc, ông cho phép mọi người được tự do khai thác, buôn bán
sinh sống nơi này mà không phải lo sưu thuế, họ chỉ phải tham gia việc canh giữ
an ninh phòng chống bọn cướp, giặc xâm lược mà thôi.
Nhờ vậy, dưới thời Gia
Long, Phú Quốc hết sức phồn thịnh, dân số tăng đông, gồm 13 thôn. Nhiều khoảng
ruộng lúa và vườn cây ăn trái bao phủ rộng khắp. Thuyền buôn các nơi (Chân Lạp,
Hải Nam, Hội An, Biên Hòa …) đến mua bán rất đông. Riêng Phú Quốc có một đội
ngũ thương thuyền mang thổ sản đến tận miền Trung, miền Bắc và liên lạc với cả
bờ biển Trung Hoa. Triều đình lúc bấy giờ đã đặc một bộ phận hành chánh và lực
lượng quân sự riêng để quản lý nơi này.
Tuy nhiên, do xa đất
liền, cư dân làm ăn sung túc, nên Phú Quốc đã phải chịu lắm phen bị tàn phá bởi
bọn hải tặc Mã Lai và quân xâm lược Xiêm La.
IV.
TRIỀU MINH MẠNG – THIỆU TRỊ:
Dưới thời Minh Mạng,
Thiệu Trị, quân Xiêm thường kéo sang đánh phá Phú Quốc. Lực lượng phòng trú ở
đây suy yếu dần. Một phần dân chúng bị mang đi cầm tù ở Xiêm. Nhân đó bọn hải
tặc ra sức tung hòanh, thậm chí chúng còn đặt sào huyệt ở đây. Vì thế dân trên
đảo phải bỏ đi trốn tránh trong đất liền hay vào rừng sâu ẩn náo. Thuyền buôn
các nơi không dám đến vùng này buôn bán nữa, Phú Quốc vì thế bị hoang phế dần
rừng xanh ra sức phủ lại làng xóm phố chợ, làm biến mất dần dấu vết khai phá.
V.
TRIỀU TỰ ĐỨC – THỜI KỲ ĐẦU CHIẾM ĐÓNG:
Dưới triều Tự Đức và
thời kỳ đầu Pháp chiếm đóng nước ta, tình hình trên càng trầm trọng thêm đến
nỗi người ta không còn thấy bóng cư dân trên bờ biển của đảo.
Đến năm 1868, anh hùng
Nguyễn Trung Trực đã chọn Phú Quốc làm căn cứ chống Pháp. Phú Quốc được chứng
kiến những hoạt động chiến đấu cuối cùng của ông trên đảo.
Ngày 21 tháng 6 năm
1868, sau 5 ngày đánh chiếm và làm chủ thị xã Rạch Giá, Nguyễn Trung Trực rút
về Hòn Chông, rồi cũng nghĩa quân vượt biển ra đảo cố thủ.
Trước tiên ông ghé vào
An Thới, rồi đưa nghĩa quân lên đóng dọc Hàm Ninh. Vừa lúc đó lực lượng Pháp
tìm bắt ông cũng ra đến. Tại đây ông dụng kế nghi binh, dụng chiến thuật “Làm
ít hóa nhiều” bằng cách cho nghĩa quân đi vòng vào rừng, rồi đi ra mé biển cứ
như thế, Pháp từ xa nhìn bằng ống nhòm tưởng quân Nguyễn Trung Trực đông nên
không dám đổ bộ, vã lại bờ biển Hàm Ninh quá cạn tàu không thể cập bờ. Từ ngoài
tàu, Pháp bắn vào, nghĩa quân cũng dùng súng tự chế kháng cự, thấy không lay
chuyển, tàu Pháp quay về Hà Tiên cho viện binh thêm. Huỳnh Công tấn cùng lính
mà ta được điều động đã hùng hổ đổ bộ lên bờ Hàm Ninh.
Nghĩa quân Nguyễn Trung
Trực kịp thời đi theo con đường mòn rút về Dương Đông. Sau đó, lợi dụng địa thế
sông nước hiểm trở của sông Cửa Cạn làm căn cứ phòng thủ. Sau 100 ngày hoạt
động, nhiều cuộc đụng độ diễn ra, lương thực cạn dần, lực lượng nghĩa quân lâm
vào cảnh khốn quẩn. Mặc dầu dân trên đảo hết lòng ủng hộ nghĩa quân. Cuối cùng,
trận đánh quyết tử diễn ra từ bãi biển Cửa Cạn đến bãi biển Ông Lang, Nguyễn
Trung Trực sa vào tay giặc.
Bắt được, Pháp hết lời
kêu gọi ông hợp tác, nhưng Nguyễn Trung Trực khẳng khái cự tuyệt. Vì thế, ngày
27 tháng 10 năm 1868 phải mang ông ra hành quyết tại Rạch Giá. Khi Nguyễn Trung
Trực bị bắt và hành quyết thì có thể coi quần đảo Phú Quốc bị đặt dưới quyền
cai trị của Pháp hòan toàn.
Trong giai đoạn này,
nạn cướp biển vẫn còn xảy ra. Cư dân không được yên tâm khi đi từ nơi này đến
nơi kia trên đảo. Ngoài bọn cướp, trâu rừng và rắn độc cũng là mối hiểm họa của
cư dân.
Họ chủ yếu sống bằng
nghề đánh cá, làm nước mắm, đốn cây xẻ ván … thỉnh thoảng các thuyền lớn từ Sài
Gòn hoặc cam pốt đến mang theo gạo muối và chở thổ sản đi.
Cuộc sống dần dần yên
ổn trở lại, nhờ vùng biển được canh giữ cẩn thận, Phú Quốc đã lấy lại sự tin
tưởng , dân di cư đến dần.
Sau khi Pháp chiếm Phú
Quốc một năm (1869) Pháp tiến hành khảo sát tường tận về đảo. Những mỏ huyền và
các vùng đất màu mỡ được quan tâm đặc biệt.
Năm 1874, Phú Quốc được
nâng lên thành Tham Biên. Nhưng sau một năm phải giải thể vì kinh tế không phát
triển đủ để tồn tại.
Khoảng 1890, vài người
Pháp đặc quyền bảo lãnh tù nhân ra đảo làm khổ sai cho sở trồng dừa. Lần hồi
thấy không kết quả do việc chuyên chở xa xôi, tốn kém, không cạnh tranh được
với các nơi khác.
Những năm đầu thế kỷ
XX, Pháp thử nghiệm lập đồn điền cao su, chiêu mộ dân các nôi tới, nhưng cũng
đã không thành công. Trong giai đoạn này đất đai được khai thác quá qui mô.
Diện tích trồng tiêu cũng được mở rộng.
Năm 1920, Ngô Văn Chiêu
được Pháp bổ làm Quận Trưởng quận Phú Quốc. Khi làm việc ở đây, ông thường dùng
cơ bút để cầu tiên: xin đơn thuốc, hỏi thế sự nhằm giải tỏa tinh thần, bỗng
nhiên ông nhận được điềm linh ứng của Cao Đài Tiên Ông và thấy cảnh bồng lai
hiện ra nơi bờ biển phía Tây “xinh đẹp” và yên tĩnh tách rời chốn trần gian …
Ngô Văn Chiêu tự nhận đã được truyền đạo và cùng ban tâm tri lập ra đạo Cao Đài
đạo giáo từ đây đã lan truyền khắp Nam Bộ.
Năm 1932, nhà sư Nguyễn
Kim Muôn (Sư Muôn) đã thử nghiệm cải cách về nếp tu hành, áp dụng đạo Phật
trong tình hình xã hội văn minh. Ông tìm đến Phú Quốc cùng đệ tử dựng lên gần
20 thảo am làm cơ sở cho những ngôi chùa lớn sau này. Sau đó ông về Sài Gòn mở
chiến dịch tuyên truyền cho ra đời khoảng 10 đầu sách, với tham vọng chấn hưng
Phật giáo. Trong giai đoạn này báo chí Sài Gòn nhắc đến ông rất nhiều. Năm
1945, nhân dân tín nhiệm, đưa ông lãnh đạo phong trào Thanh niên tiền phong.
Khi Uy Ban Nhân Dân được thành lập (gồm 7 thành viên) ông được giao làm Ủy
trưởng xã hội, uy tín ông đến với nhân dân rất lớn.
Pháp tái chiếm Phú Quốc
tháng 4 năm 1946, tinh thần ông dao động, hoạt động với tư cách cá nhân, bị
giặc Pháp giam và hành huyết.
Vào cuối năm 1949 đầu
năm 1950, “Mỹ giao cho quân đội Pháp khoảng 20.000 quân chính qui Quốc dân đảng
di tản khi lục địa Trung Hoa thuộc về Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Đám tàn quân
này được một trung đoàn Lê Dương Pháp quản lý, trong khu biệt lập ở phía Nam
Phú Quốc. Họ đã xây dựng ở đây một doanh trại kết cấu bằng tranh tre khá khang
trang. Họ ở đây mãi đến năm 1953 mới di chuyển về Đài Loan. Nhiều người trong
số họ trốn lại ở đảo lập gia đình, làm ăn sinh sống” (Sơn Nam).
Lợi dụng những cơ sở
sẵn có, Pháp cho xây dựng nơi đây thành một nhà tù gọi là “Căn Cây Dừa” để giam
giữ tù binh. Căn này rộng gần 4 hecta chia làm các khu vực A, B, C, D. số tù
binh giam giữ có lúc lên đến 14.000 người. Họ là những người yêu nước và những
người bị Pháp tình nghi tham gia lực lượng chống Pháp “Căn Cây Dừa” bắt đầu
hoạt động vào tháng 6 năm 1953 và chấm dứt tồn tại vào tháng 7 năm 1954, khi tù
binh hai bên được giao trả.
Hơn một năm sau (1956)
chính quyền Sài Gòn sửa sang lại các khu nhà đổ nát của “Căn Cây Dừa” để lập
nên trại “Huấn chính Cây Dừa”. Trại này giam giữ gần 1000 nam nữ chiến sĩ cách
mạng. Đến năm 1957, số tù binh này được đưa ra Côn Đảo và về đất liền, trại này
không còn hoạt động nữa.
Đầu năm 1967, chính
quyền Sài Gòn lại cho xây dựng trại giam tù binh Cộng Sản Việt Nam Phú Quốc tại
thung lũng An Thới cách “Căn Cây Dừa” cũ 2km. Trại này rộng 40 hecta (gấp 10
lần “Căn Cây Dừa”) nằm dọc con đường 46, chia làm 12 khu, nhưng chỉ mới sử dụng
11 khu là đình chiến. Đây là trại giam lớn nhất của chính quyền Sài Gòn ở miền
Nam Việt Nam, giam giữ gần 40.000 tù binh cách mạng và 4.000 người vĩnh viễn
nằm lại tại đây.
Đầu năm 1973, Hiệp định
Paris ký kết, tù binh được trao trả và trại giam tù binh Cộng sản Việt Nam Phú
Quốc cũng không còn nữa.
Đồng bào yêu nước trên
đảo vẫn còn đấu tranh với tinh thần tự lực, tự tiếp tế. Cố gắng liên lạc thông
tin với tổ chức trong đất liền, nhưng rất khó khăn.
VI.
ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT (30/4/1975):
16 giờ ngày 30 tháng 4
năm 1975, cùng với khí thế chung của cả nước, Phú Quốc hoàn toàn được giải
phóng.
Đất nước thống nhất,
Phú Quốc sống trong không khí độc lập, cuộc sống người dân được nâng cao. Nhất
là sau đại hội VI, với cơ chế kinh tế thị trường, hàng hóa được tự do lưu
thông, người dân có cơ hội làm giàu.
Phú Quốc thực sự hòa
nhịp với đất liền, du khách khắp nơi tìm về thăm đảo ngày một đông, rồi đây Phú
Quốc sẽ xứng đáng với tên gọi vốn có của mình “Hòn đảo làm giàu cho Tổ quốc”.
Vị Trí
Địa Lý
Phú Quốc là hòn đảo nằm
phía Tây Nam Việt Nam, thuộc tỉnh Kiên Giang, có dạng hình thoi, nằm theo hướng
Bắc Nam, đỉnh nhọn quay về phía xích đạo, diện tích 567 km2, chiều dài từ Bắc
xuống Nam là 52 km, nơi hẹp nhất là 3 km, nơi rộng nhất là 25 km.
Phú Quốc có diện tích
tương đương với đảo quốc Singapore và là hòn đảo lớn nhất trong các đảo của
Việt Nam.
Đây là nơi duy nhất tại
Việt Nam bạn có thể thưởng thức mặt trời lặn trên đại dương. Đảo Phú Quốc có
tất cả 99 ngọn núi và đồi được các khu rừng nguyên sinh xanh mướt bao phủ, và
nhiều thác và suối chảy rất ngoạn mục. Gió biển mát dịu cùng với các bãi biển
cát trắng ngời tiếp giáp với nước biển xanh trong vắt như pha lê làm cho đảo
Phú Quốc thực sự là một thiên đường.
Hòn đảo xinh đẹp này
nằm cách bờ biển Tây-Nam Việt Nam 65 dặm và thực sự chưa bị xâm hại vì thời
gian và du lịch. Các du khách nói rằng: Việt Nam giống như Thái Lan cách đây 20
năm. Nếu đó là thật thì Phú Quốc giống như Việt Nam cách đây 10 năm.
Nổi danh như một thiên
đàng giải trí vùng nhiệt đới và là nơi của những người yêu ánh nắng, Phú Quốc
có trên 26 đảo nhỏ xinh đẹp nằm rải rác và 150 cây số bãi biển cát trắng ngời
bao quanh đảo, ánh nắng quanh năm, với một nhiệt độ dễ chịu ở 27 độ C.
Đảo Phú Quốc cùng một
số đảo chung quanh hợp thành quần đảo Phú Quốc, nay là huyện Phú Quốc, diện
tích 600 km2 (trong đó có quần đảo Thổ Chu nay là xã Thổ Chu cách thị trấn
Dương Đông 120 km2).
Như tên gọi Phú Quốc đã
ẩn chứa một vẽ đẹp trữ tình, một tiềm năng giàu có. Với dân số toàn huyện trên
60.000 người, mật độ dân số bình quân 95 người/km2, toàn huyện có 8 xã và một
thị trấn Hàm Ninh, Dương Tô, Cửa Cạn, Cửa Dương, An Thới, Bãi Thơm, Gành Dầu,
Thổ Chu, và thị trấn Dương Đông.
Tại thị trấn Dương
Đông, thủ phủ của Phú Quốc được coi là nơi có nhiều cảnh đẹp nổi tiếng như:
Dinh Cậu, Chùa Sùng Hưng, bãi biển Dương Đông và con sông cùng tên thơ mộng …
Dương Đông là trung tâm hành chánh, kinh tế, văn hóa là đầu mối giao thông có
sân bay, cửa sông phục vụ cho việc giao lưu giữa đảo với khắp nơi.
Phú Quốc cách thị xã
Rạch Giá (Kiên Giang) 120km, huyện Hà Tiên 46 km và cách đường lãnh hải
Campuchia – Việt Nam 4,5km. Những ngày đẹp trời đứng trên bờ biển Hàm Ninh nhìn
về phía đông nơi cuối trời Hà Tiên mờ ẩn hiện trong làn khói nước. Địa danh Phú
Quốc từ xưa đã gắn liền với biển Rạch Giá – Hà Tiên trong những tuyến hành
hương du lịch.
Phú Quốc ở vào vị trí
khá hấp dẫn: từ Phú Quốc đi tỉnh Jak (Thái Lan) tàu chạy hai mươi giờ. Theo
đường hàng không, khoảng cách Phú Quốc – TP. HCM tương đương Phú Quốc –
Bangkok, Phú Quốc – Singapore và Phú Quốc – Malaysia gần hơn Phú Quốc đi TP.
HCM.
Cảnh quan thiên nhiên
Phú Quốc đa dạng, với biết bao phong cảnh đẹp, viền quanh đảo là bãi biển, trên
đảo có nhiều núi, có suối, có sông. Nằm sâu trong đảo là những cánh đồng tranh,
vườn cây, những vạt rừng, có nhiều nơi là lung bào, ứng nước.
Núi rừng chiếm phần lớn
diện tích đảo, địa hình cao ở phía Bắc và thấp dần ở phía Nam, chạy dài 99 ngọn
núi, tập trung nhiều nhất ở Bắc Đảo, rãi rác vài ngọn ở phía Nam. Hầu hết các
núi này bên Đông dốc đứng và thoai thỏai bên Tây. Trong đó đáng kể là dãy Hàm
Ninh có đỉnh núi Chùa (605m) cao nhất.
Các sông rạch quan
trọng như sông Dương Đông (15km), Cửa Cạn (28km), rạch Cửa Lấp, rạch Đầm, rạch
Hàm, rạch Tràm, rạch Vẹm … phần lớn đều bắt nguồn từ dãy núi Hàm Ninh và đỗ ra
bờ Tây, chỉ riêng rạch Hàm và rạch Đầm đổ về phía Đông Đảo.
Trùm lên và chen vào
núi non là những cánh rừng rộng lớn (gần 2/3 diện tích đảo), trong đó có một
khu rừng nguyên sinh duy nhất Nam Bộ, gồm 929 loại thực vật khác nhau với nhiều
gỗ quý và dược liệu hiếm, đặc biệt là trầm hương và quế. Trong rừng có nhiều
chim muông và thú quý như: Nai, Trăn, Rắn, Heo rừng, Khỉ …
Biển ở Phú Quốc khá
cạn, chỉ riêng khu vực quần đảo An Thới, ở phía Tây Phú Quốc biển sâu đột ngột,
tàu thuyền lớn ra vào dễ dàng, rất thuận tiện để xây dựng hải cảng lớn.
Các bãi biển Phú Quốc
rất đẹp, nơi cát vàng, nơi cát trắng nước trong thấy đáy, có chỗ nông, chỗ sâu,
khiến trên cao nhìn xuống, nước biển có nơi màu xanh nhạt như ngọc thạch, có
nơi xanh biếc như ngọc bích, bờ biển Phú Quốc cát phẳng chạy dài, chỗ rộng chỗ
hẹp, lại có nơi bị đứt đoạn bởi những mũi, ghềnh đá nhô ra biển, hoặc bởi cây
rừng chạy sát ra mé nước.
Rãi rác ở ngoài khơi
quanh đảo Phú Quốc có nhiều đảo nhỏ, phía Tây Nam cách Phú Quốc 40 hải lý có
đảo Thổ Chu bề ngang 3km, có dân cư, có núi, có rừng gỗ mun, gần đó có hòn Kèo,
hòn Tư, hòn Cao, hòn Nhạn, (nơi chim nhạn bay đến sinh sản) cách Phú Quốc 4 hải
lý có hòn Cao Cát, hòn Dơi … phía Nam có quần đảo An Thới.
Biển Phú Quốc là trung
tâm của một vùng ngư trường phong phú vào loại nhất thế giới với mực, cá thu,
tôm …
Thiên nhiên đã dành cho
Phú Quốc nhiều cảnh đẹp nổi tiếng, bờ biển với những bãi cát trắng phau, những
hàng phi lao rì rào gió thổi, những hang động tuyệt vời.
Khu du lịch Sài Gòn Phú
Quốc chiếm một vị trí nhìn ra biển tuyệt đẹp. Cát trắng và nước trong như thuỷ
tinh ở nơi đó làm cho khu vự này trở thành nơi ở tuyệt hảo cho nhiều loại.
Phú Quốc thực sự là nơi du lịch lý tưởng cho du khách.
Tiền
Hiền của Đảo Phú Quốc
Đảo Phú Quốc ở Vịnh
Thái Lan. Trên đảo có núi lớn cao vọi, chóp núi đều chầu về hướng Bắc. Từ Đông
sang Tây có đến 2000 dặm, từ Nam đến Bắc cách nhau trên 100 dặm. Từ xưa Phú
Quốc nổi tiếng là nơi có nhiều heo rừng, nai, hươu, yến sào, mây, gỗ quí, hải
sâm, quế. Trên núi lại có thứ huyền phách sáng ngời như đồng người ta dùng làm
hộp đựng trầu cau hoặc chén dĩa rất quí. Ngoài ra, còn có loại long diên hương,
nhất là thứ hắc ban hương – ngoài vỏ đen lấm chấm dợn sóng như trầm hương non
có mùi thơm thoang thoảng, không nồng, rất quí !
Tục truyền, ngày xưa có
một người xưng là vua Lối ra lập nghiệp. Nhưng về sau mùa màng thất bát, vua
Lối bỏ đảo trở về đất liền.
Sau đó, có một bà lão
tên là Kiêm Giao, mộ khoảng một trăm người Việt lẫn Khơ-mer đưa ra đảo lập
nghiệp. Thoạt tiên bà cùng nhóm người này khai phá vùng đất ở Cửa Cạn. Thấy đất
phì nhiêu, lại lắm cỏ hoang, bà cho người vào đất liền mua năm chục con trâu chở
ra đảo. Nhờ sức trâu kéo cộng với sự làm lụng cần cù nên mùa màng ở đây ngày
thêm phát triển, cuộc sống càng lúc càng sung túc.
Năm bảy mươi tuổi bà
Kiêm Giao nhuốm bệnh nặng. Bà gọi mọi người lại trối trăng : ” Khi ta chết, bao
nhiêu ruộng đất này đem ra chia đều cho các người. Ta chỉ ao ước một điều là dù
thế nào, các ngươi phải thả bầy trâu cho chúng được tự do. Nếu còn trói cầm
chúng, vong hồn ta không sao nguôi ngoai được dưới suối vàng “.
Sau khi bà qua đời, bầy
trâu được dân trên đảo thả chạy tứ tán trong rừng, vì vậy, đến những thập niên
gần đây ở Phú Quốc có rất nhiều trâu rừng. Nơi chuồng trâu cũ của bà Kiêm Giao
còn dấu tích một cây cột bằng gỗ trai cao chừng một thước rưỡi. Cây cột cứng
như đá.