Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!

Dịch trang

Người Đi Tìm Hình Của Nước

Thông Tin Du Lịch Phổ biến

Bảy mươi năm ca khúc Việt Nam

 Chuyên đề: 70 năm ca khúc Việt Nam 

Nền âm nhạc Việt Nam xuất hiện từ rất sớm trải qua những thăng trầm của lịch sử có những lúc nền âm nhạc phát triển đến cao trào, có những lúc bị mờ nhạt tưởng chừng như mất hẳn song cho đến nay nền âm nhạc của nước ta đã có những chuyển biến mới và “70 năm ca khúc Việt Nam” là dấu ấn để ghi nhận lại sự chuyển biến đó.

Sự ra đời của nhạc Mới hay Tân nhạc còn gọi là “nhạc cải cách” là một trong những sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặc, bước phát triển mới trong lịch sử của nền âm nhạc nước nhà. Đây cũng là biểu hiện của lòng yêu nước và tinh thần tự cường dân tộc- nguồn sức mạnh đã tiếp sức cho các nhạc sĩ Việt Nam vượt lên mọi trở ngại để kiên trì theo đuổi ý nguyện xây dựng nền nhạc mới mang linh hồn của dân tộc.

Trong những bước đi ban đầu, nền nhạc mới đã gặp nhiều vấp váp và cả những thất bại khó tránh trên con đường học tập, tiếp thu những cái mới - nhất là trong một cuộc học đầy gian lao không thầy dạy, không người hướng dẫn chỉ đường, vì vậy trong nền âm nhạc của giai đoạn này người ta thấy không ít những bài lai căn, chấp vá, “đầu Ngô mình Sở ”. Song các nhạc sĩ Việt Nam đã nảy sinh một khuynh hướng đối lập về quan điểm sáng tác và mở cuộc vận động tích cực cho sự tìm tòi nhằm xây dựng và phát triển một thể loại âm nhạc mới mang tính dân tộc.

Và “ 70 năm ca khúc Việt Nam” có thể chia làm 3 giai đoạn:

 Giai đoạn I: từ năm 1936 đến trước cách mạng Tháng Tám 1945.

- Giai đoạn II: từ cách mạng Tháng tám 1945 đến 1975.

- Giai đoạn III: từ năm 1975 đến nay.

 

I. GIAI ĐOẠN I: TỪ NĂM 1936 ĐẾN TRƯỚC CMT8 NĂM 1945

Sau khi đưa phong trào sáng tác mới ra công khai, các nhạc sĩ trẻ càng thêm tự tin, không còn lo sợ, lạc lõng. Phong trào sáng tác, trình diễn ca khúc, nhạc phẩm mới của các nhạc sĩ trẻ Việt Nam ngày càng dâng lên sôi nổi.

Phong trào chuyển theo hướng làm thay đổi sở thích của giới trẻ. Trước mối nguy vọng Pháp và trong tinh thần bảo vệ nghệ thuật của dân tộc, một số nhạc sĩ Việt Nam ra tay sáng tác những bản tân nhạc đầu tiên là vào năm 1938. Ở miền Bắc lúc ấy có Thẩm Oánh (định cư tại Hoa kỳ và từ trần năm 1996) , Dương Thiệu Tước (từ trần năm 1998 tại Việt Nam) , Trần Quang Ngọc, Lê Thương (từ trần tại Việt Nam). Trong Nam thì có Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Đăng Hinh. Tháng 3/1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên được chinh phủ bảo hộ Pháp gởi ra Hà Nội để thuyết trình về âm nhạc cải cách nhằm tạo một phong trào mới. Vào tháng 9/1938, báo Ngày Nay đã góp công vào phong trào phổ biến nhạc Mới bằng cách đăng những bài tân nhạc đầu tiên. Từ năm 1938 tới 1942 báo Ngày Nay đã đăng "Bông Cúc Vàng", "Kiếp Hoa" của Nguyễn Văn Tuyên, "Bình Minh", "Đàn Xuân "của Nguyễn Xuân Khoát, "Khúc Yêu Đương" của Thẩm Oánh, "Bản Đàn Xuân" của Lê Thương, "Đám Mây Rừng " của Phạm Đăng Hinh, "Đường Trường" của Trần Quang Ngọc.Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy có đăng bản "Con Thuyền Không Bến " của Đặng Thế Phong. Các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Trần Dư, Vũ Khánh, Phạm Văn Nhượng cùng nhau thành lập nhóm MYOSOTIS. Trong nhóm này có hai xu hướng:


- Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.

- Sáng tác hoàn toàn theo nhạc người Tây phương do Dương Thiệu Tước cầm đầu. Ít lâu sau, một nhóm khác gồm vài nhạc sĩ trẻ đầy nhiệt quyết thành lập nhóm TRICEA gồm Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn. Nhóm này chịu ảnh hưởng nhạc Trung Quốc lúc đầu, về sau phảng phất âm hưởng Âu châu và phải rả sớm. Nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng có các nhạc sĩ Hoàng Quý, Văn Cao, Canh Thân. Nhóm Đồng Vọng do Hoàng Quý điều khiển ra đời chuyên về nhạc hướng đạo lúc đầu và sau đó tích cực đóng góp trong việc phổ biến nhạc Mới. Lê Thương lúc đó giảng dạy tại trường trung học Lê Lợi. Một số tráng sinh hướng đạo có những tên đi vào lịch sử âm nhạc Việt Nam như Canh Thân, Phạm Nguyên, Hoàng Quý đã sáng tác những bài nhạc đáng kể như "Nhớ Quê Hương" (Phạm Ngữ và "Chùa Hương" (Hoàng Quý). Tỉnh Nam Định chứng kiến sự chào đời của hai bài "Đêm Thu" và "Con Thuyền Không Bến" của nhạc sĩ đoản mệnh Đặng Thế Phong. Hai bài nhạc Nhựt "Hà Nhựt Quân Tái Lai " (Bao giờ anh trở lại ) và "Shina No Yoru " (Đêm Trung Hoa) trích trong phim "Đêm Trung Hoa" (Nuit de Chine) đã gợi hứng cho nhạc sĩ Việt Nam thời bấy giờ sáng tác nhạc Việt, tạo thành phong trào "Người Việt hát nhạc Việt ". 1939: thế chiến thứ hai bùng nổ tại Âu Châu. Những bài "Việt Nam Bất Diệt" của Hoàng Gia Linh, "Trên Sông Bạch Đằng" của Hoàng Quý, "Tiếng Gọi Sinh Viên" của Lưu Hữu Phước đã làm sống dậy tinh thần yêu nước của tuổi trẻ.

Tân nhạc trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ đã đóng một vai trò đáng kể và từ đó phát triển rất mạnh. Phong trào tân nhạc đã được đưa lên cao tột đỉnh với Tổng Hội Sinh Viên trong giai đoạn lịch sử 1943-1945. Nhạc sĩ đi liền với Tổng Hội Sinh Viên không ai khác hơn là Lưu Hữu Phước. Những bài hát làm ra đúng thời, đúng lúc và vẫn còn sống mãi trong tim đa số người Việt ngày hôm nay (nhất là những người vào tuổi ngũ tuần trở đi). Những ai đã sống trong thời kháng chiến chống Pháp vẫn còn nhớ những bài gợi lên những giai đoạn lịch sử Việt Nam như "Ải Chi Lăng", "Bạch Đằng Giang", "Hội Nghị Diên Hồng", hay những bài khích động thanh niên như "Tiếng Gọi Sinh Viên" (đổi thành Tiếng Gọi Thanh Niên, và cũng là bài quốc ca của thời Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu). "Lên Đàng" hay với thiếu niên như "Thiếu niên Việt Nam", hay những bài gắn liền với lịch sử như "Kinh Cầu Nguyện", "Hồn Tử Sĩ" (bài mà trong bất cứ chương trình đấu tranh của người Việt di tản vẫn còn dùng để tưởng nhớ các chiến sĩ tử trận) . Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là người đầu tiên sáng tác nhạc ca kịch trong kịch thơ "Tục Lụy" của Khái Hưng và Thế Lữ và tiểu ca kịch "Con Thỏ Ngọc". Nguyễn Đình Thi sáng tác bài "Diệt Phát Xít" thúc đẩy dân chúng nổi lên chống Nhựt Bổn.

Lúc bấy giờ ở tại Sài Gòn, chỉ lẻ tẻ vài hội hoạt động về nhạc cải cách. Hội Nam Kỳ Đức Trí Thể dục mời bà nhạc sĩ dương cầm Louise Nguyễn Văn Tỵ (tên thật là Thái Thị Lang) trình diễn piano với những bài do bà sáng tác. Nhạc sĩ quá cố Võ Đức Thu trình bày nhạc phẩm "Việt Nam Tân Điệu". Từ Bắc tới Nam, nhạc sĩ tân nhạc bắt đầu mọc lên như nấm. Trong giai đoạn 1944 -1945, nhiều bài nhạc tôn giáo như "A Di Đà Phật" của Thẩm Oánh được hát nhân ngày khánh thành trùng tu chùa quán sứ Hà Nội vào cuối năm 1942 hay bài "Sám Hối" và nhiều ca khúc khác của Nguyễn Hữu Ba và Văn Giảng sáng tác tại Huế. Nhạc đoàn Lê Bão Tịnh gồm các nhạc sĩ Hùng Lân, Hải Linh, Tâm Bảo, Thiên Phụng đã sáng tác tập Cung Thánh gồm hàng trăm bài Thánh ca Thiên chúa giáo (1944-1945).

Giai đoạn 1945-1946 đánh dấu cuộc chiến tranh bùng nổ tại Việt Nam vừa sau trận thế chiến thứ hai. Các nhạc sĩ lo sáng tác nhạc chiến đấu như Văn Cao với "Tiến Quân Ca" (trở thành Quốc Ca của chế độ cộng sản miền Bắc từ năm 1945, và được dùng làm Quốc Ca của Việt Nam Xã hội chủ nghĩa từ năm 1976 sau khi thống nhất đất nước), "Chiến Sĩ Việt Nam ", như Đỗ Nhuận với "Nhớ Chiến Khu ", như Phạm Duy với "Chiến Sĩ Vô Danh ", "Xuất Quân", như Lưu Hữu Phước với "Đoàn Quân Ma ", như Phan Huỳnh Điểu với "Giải Phóng Quân ", như Thẩm Oánh với "Việt Nam Phục Quốc ".

Song song vơí những sáng tác chiến đấu, tình cảm vẫn còn rung động trong nguồn hứng qua các bài "Thiên Thai " (Văn Cao), Đêm Đông " (Nguyễn Văn Thương), "Xuân và Tuổi Trẻ " (La Hối), "Mùa Đông Binh Sĩ "

(Phan Huỳnh Điểu), "Dạ Khúc " (Nguyễn Mỹ Ca), Đêm Tàn Bến Ngự " (Dương Thiệu Tước), " Cây Đàn Bỏ Quên " (Phạm Duy), "Mơ Hoa " (Hoàng Giác), "Cô Lái Đò" (Thẩm Oánh), "Suối Mơ " (Văn Cao), "Hẹn Một Ngày

Về " (Lê Hữu Mục), "Đi Chơi Chùa Hương " (Trần Văn Khê/Nguyễn Nhược Pháp).

Sáng tác của các nhạc sĩ mới trong giai đoạn đầu của âm nhạc cải cách cho tới trước khi cách mạng Tháng Tám thành công không thuần nhất. Theo đà chuyển biến về chính trị và xã hội nước ta, nó có nhiều biến chuyển cả về nội dung lẫn nghệ thuật.

Căn cứ vào nội dung, các tác phẩm sáng tác trong giai đoạn này có thể chia làm ba khuynh hướng chính: khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hùng ca yêu nước và khuynh hướng cách mạng.


Khuynh hướng lãng mạn:

1936 – 1939 là thời kì Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tuy chỉ là tạm thời, song do tình hình kinh tế khá hơn trước, nên bọn thực dân ở thuộc địa có phần nới tay hơn trước. Nhiều bộ phận thuộc giai cấp Tư sản và tiểu tư sản lớp trên chưa đi theo cách mạng tưởng có thể phát triển được trong khuôn khổ thự dân. Do đó, trong văn học, các loại văn học không cách mạng, không hiện thực, cụ thể là khuynh hướng văn học lãng mạn có cơ sở tồn tại và phát triển. đi đôi với tình hình văn học nói trên, trong âm nhạc cải cách giai đoan này các ca khúc lãng mạn cũng chiếm địa bộ phận. Tất nhiên cũng như trong văn học, ca khúc lãng mạn trong giai đọan này bao gồm nhiều thể loại và tính chất khác nhau: có ca khúc lãng mạn viễn vong theo kiểu “mơ theo trăng và vơ vẫn cùng mây”, trốn tránh thực tại.

- Có loại ca khúc nhạc nhẹ, có tính chất giải trí – kể cả giải trí rẻ tiền.

- Cũng có loại ca khúc lãng mạn mang nội dung sâu sắc hơn, qua đó tác giả gởi gấm tình yêu quê hương đất nước.

- Lại có những ca khúc lãng mạn mang tính chất lãng mạng đồi trụy, kêu gọi thanh niên đắm chìn trong lốisống gấp. Đối với loại này, tuy chưa thấy bài nào mang tính chất khuy dâm như một số tiểu thuyết cùng loại bắt đầu phát triển từ 1935 và đặt biệt phổ biến ở thời kì 40 – 41 sau này, song nó cũng góp phần làm cho thanh niên xa rời thực tế xã hội để đắm chìm trong tình yêu lãng mạn, ủy mị, chí khí rã rời.

Đa số bài khác bộc lộ tâm trạng chán chường bế tắc của thanh niên chưa tìm ra được lối thoát trong xã hội ngột ngạt thời đó. Chiếm đa số trong thời kì đầu của “âm nhạc cải cách”, ca khúc lãng mạng sẽ vẫn tiếp tục phát triển ở các giai đoạn sau khi nó không còn là thể loại “bao san” như ở buổi ban đầu.

 

Để đánh giá khuynh hướng lãng mạng nói chung, có thể dẫn lời đồng chí Trường Chinh: “những văn nghệ sĩ sống dưới chế độ thực dân phong kiến là những người trí thức bị áp bức, tự mình kiếm sống khá vất vả. Vì vậy trừ một số ít tự nguyện làm “vú em” cho phong kiến và thực dân,còn đại bộ phận nghệ sỹ sớm hiểu sự đau khổ, nhục nhã của nguời dân mất nuớc. Một mặt họ bị hạn chế về quan điểm ,về cách nhận thức sự vật, về tính bấp bênh trong đáu tranh chính trị ,hạn chế về quan điểm, về cách nhận thức sự vật, về tính bấp bênh trong đấu ranh chính trị, nhưng về mặt khác họ giàu lòng yêu nuớc. Ngay trong những quan điểm sai lầm về nghệ thuật một số cũng mốn tìm sự phản kháng, một chỗ đuợc tự do thể hiện lòng ao uớc, niềm hi vọng của mình. Các tầng lớp tu sản và tiểu tư sản trí thức Việt Nam tìm thấy trong chủ nghĩa lãng mạn một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa.


Khuynh hướng hùng ca yêu nước:

Bên cạnh những bài hát thuộc khuynh hướng lãng mạn ngay từ giai đọan đầu của nhạc mới cũng đã xuất hiện những ca khúc mang nội dung khỏe khoắn, trong sáng. Đó chủ yếu là những bài hát viết cho phong trào hướng đạo của phạm văn xung, hoàng quý. Đặc biệt, ngay trong sáng tác công khai, lẻ tẻ đã có một vài nhạc sĩ viết được đôi bài hát hướng về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc rõ nét. Bài hát câu lạc bộ học sinh của lưu hữu phước (1939) là một trong những bài thuộc lọai đó. Tuy vậy những ca khúc này chưa chiếm ưu thế trên diễn đàn của các báo cáo các nhà xuất bản cũng như trong đa số các tầng lớp thị dân như những ca khúc thuộc khuynh hướng lãng mạn nói trên nó mới chỉ được phổ biến chủ yếu trong phong trào hướng đạo sinh hoặc trong một số bạn bè quen thuộc của các tác giả.

Cho tới năm 1940 tình trạng nói trên vẫn còn tiếp diễn xong bên cạnh đó bắt đầu xuất hiện thêm những ca khúc của một số nhạc sĩ đã được tiếp xúc với cách mạng và tham gia họat động trong các tổ chức do đảng lảnh đạo. Những bài này có nội dung yêu nước, cách mạng rõ rệt hơn. Tuy nhiên chúng chưa được phổ biến rộng rãi. Một số bài chủ yếu mới phổ biến trong vòng bí mật, như một số bài của đỗ nhuận (lới cha già, chim than), hoàng quý(khoan hò khoan).

Khuynh hướng này cùng với sự phát triển của tình hình chính trị xã hội trong nước và thế giới càng về sau cho tới cách mạng tháng tám càng phát triển mạng.

Từ 1941, sau khi đại chiến thứ 2 bùng nổ nước pháp bị lôi kéo vào cuộc chiến và chịu nhiều tổn thất nặng nề.chính phủ pê – tanh chủ trương một công cuộc cải cách va phục hưng nước pháp, trong đó lưu ý nhiều hơn tới tổ chức thanh niên. Việc đó có ảnh hưởng tới các nước thuộc địa.

Các hoạt động hướng đạo ở nước ta được đẩy mạnh hơn. Với các hoạt đông này, chính quyền thực dân mong muố cứu gỡ lại tình hình thanh niên ở các thành thị “đang say đắm vào cái đời sinh hoạt ích kỉ, lãng mạn, cái đơi trụy lạc cả về vật chất và tinh thần”, thậm chí “dở sống dở chết” vì chìm đắm trong hố trụy lạc do các nạn tiểu thuyết khiêu dâm gây đã lên đếnđỉnh điểm gây ra. Chính phủ pháp hy vọng “với những công cuộc tổ chức đó, thanh niên ta tập theo kỷ luật, tinh thần đoàn thể và rèn dũa những đức tính tốt như làm, sự điềm đạm, sự táo bạo, sự can đảm, kiên nhẫn….” Họ hi vọng nhờ vậy sẽ có thêm nhiều người lính tốt cung cấp cho cuộc chiến tranh của chúng ở Châu Âu. 

Năm 1940 sau khi Pháp thất trận và đầu hàng đức, nhật ồ ạt kéo vào đông dương. Chúng ra sức tuyên truyền cho chủ nghĩa đại đông á, khu vực thịnh vượng chung để lôi kéo những người ghét Pháp nhưng chưa giác ngộ cách mạng, bóc lột nhân dân ta, phát xít Nhật cũng đã khơi lên phong trào khỏe vì nước. Tất cả những sự kiện đó điều tác động mạnh tới tình hình âm nhạc công khai.

Mặc khác ở thời kì này mặc dù đã rút vào bí mật, nhưng Đảng vẫn bám sát nhân dân lãnh đạo cách mạng. Phong trào cách mạng do đó ngày càng dân cao. Tin tức về các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra và sự khủng bố cực kì mang rợ, tàn bạo cuả thực dâ Pháp đối với những phong rào đó thu lượm được qua báo chí hoặc những thư từ vượt lưới kiểm soát của địch đã kích thích mạnh mẽ lòng yêu nước, câm thù giặc của các thanh niên, học sinh, sinh viên các đô thị.

 

Đó là những yếu tố làm sôi thêm bầu máu nóng của những nhạc sĩ trẻ dù chưa tiếp xúc trực tiếp với cách mạng tìm đến ngày càng nhiều hơn với những đề tài lịch sử để qua đó gửi gấm lòng yêu nước chí thù giặc. Khuynh hướng nhạc yêu nước, trước kia còn mơ hồ bé nhỏ, nay có thêm động lực và thời cơ để phát triển trong vòng kiểm soát của địch đồng thời ngày càng ngã dần sang những nội dung yêu nước tích cực và cách mạng. Những ca khúc với đề tài tình yêu lãng mạng và những âm điệu ủy mị, ướt át trước đây- lúc này tuy vẫn còn rãi rác nhưng đã phải nhường bước trước những xu hướng mới: xu hướng vui sống, lịch sử về xu hướng yêu nước tích cực, cách mạng đang trên đà phát triển.

Nhìn vào số lượng, từ năm 1941 những bài thuộc khuynh hướng này đã nhiều lên rõ rẹt và có chiều vượt qua những bài theo khuynh hướng lãng mạn cũ. Âm nhạc cải cách chuyển sang thời kỳ của những bản hùn ca còn gọi là thời thanh niên và lịch sử. Nó thổi một luồng gió mới vào mọi tâm hồn mệt mõi vì quá lãng mạn và nặng trĩu ưu phiền.

Một trong những dịp náo nhiệt khơi mào cho sự chuyển hướng mạnh mẽ trong sáng tác âm nhạc là kỳ trẩy hội đền Hùng vào 10/03/1941 do tờ Việt báo tổ chức. Đó là một dịp để người dân Việt Nam tỏa lòng ngưỡng mộ đối với tổ tiên, vua Hùng- những người đã có công mở nước. Bản nhạc Đi hội đền Hùng lời ca của Ngyễn Phước Bộ, âm nhạc của Lưu Hữu Phước được in ra 1000 bản để phát không cho những người đi hội đền Hùng năm đó. Và bài Thanh niên ơi của Thẩm Oánh được hàng ngàn lòng ngực ca vang trong cảnh đời hùng vĩ.
Thấy công cụ mà mình sử dụng để mê hoặc thanh niên Việt Nam, đẩy họ vào con đường ăn chơi hưởng lạc, xa rời đấu tranh đang dần bị các nhạc sĩ trẻ Việt Nam giàu lòng yêu nước chuyển thành công cụ tuyên truyền vận động và thúc đẩy thanh niên lên đường đấu trang giải phóng dân tộc, thực dân Pháp đã bắt đầu xiết chặt lưới kiểm duyệt. Năm 1941, lời bài ca Người xưa đâu tá của Lưu Hữu Phước bị cấm, điệp khúc chính của bài Bạch Đằng Giang ( lời của Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước) vượt lưới kiểm duyệt của thực dân. Song Bạch Đằng Giang, ải chi lăng và kinh cầu nguyện (tức người xưa đâu tá) vượt lưới kiểm duyệt của thực dân vẫn lưu hành trong giới thanh niên, sinh viên và gây nên một phong trào sôi nổi.
 

Cuối năm 1941 đầu 1942, tiếng gọi sinh viên của Lưu Hữu Phước bắt đầu lan rộng nhanh chống trong sinh viên và học sinh, rồi được quần chúng tự động gọi tên là tiếng gọi thanh niên. Bài hát đã kích thích mạnh mẽ lòng yêu nước, chí quật khởi của từng lớp thanh niên, học sinh thời bấy giờ. Tổ hội sinh viên- với một lập trường quốc gia cấp tiến và những đoàn viên trẻ tuổi hăng say- là tổ chức đã có nhiều hoạt động có tác động gây tinh thần yêu nước mãnh liệt tron nhân dân, nhất là trong đám học sinh, sinh viên. Đặc biệt chú trọng đến việc dùng tân nhạc tron cuộc đấu tranh chính trị chống Pháp- Nhật, tổng hội sinh viên quảng cáo rầm rộ cho những bản hùng ca của thời kỳ này, trong đó nổi bậc lên những sáng tác của Lưu Hữu Phước.

Nắm lấy phong trào của thanh niên bên ngoài đang sôi nổi, ban thường vụ trung ương Đảng họp vào thàng 2/1943 ra quyết nghị: phái người vào các đoàn hướng đạo, hội thể dục để hoạt động.

Chính qua đó, nhiều nhạc sĩ trẻ tham gia trong các tổ chức hướng đạo và các hoạt động của thanh niên, sinh viên đã chịu ảnh hưởng của cách mạng và sau này họ dễ dàng tự nguyện tham gia hàng ngũ những người chiến sĩ cách mạng đấu tranh giải phóng đất nước khỏi xiềng xích nô lệ. Trong lớp nhạc sĩ đầu tiên ấy có thể kể đến Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao…

Cũng chính vì vậy, từ năm 1943 khuynh hướng nhạc yêu nước ngày càng nở rộ gần như lấn áp hẳn khuynh hướng lãng mạn kể cả những đô thị. Đây là một lực lượng hùng hậu để bổ sung cho dòng âm nhạc cách mạng đã hình thành và hoạt động chủ yếu trong vòng bí mật. Cho tới sau ngày đảo chính nhật 9 tháng 3 năm 1945, đặc biệt là sau cách mạng thánh 8 thành công, dòng âm nhạc này lớn mạnh vượt bật và đè bẹp hoàn toàn dòng nhạc lãng mạn.


Khuynh hướng cách mạng:

Khuynh hướng âm nhạc cách mạng của nước ta ra đời cùng với cuộc hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của chính Đảng của giai cấp công nhân ở nước ta – khi đó là Đảng cộng sản Đông Dương.

Bằng sự nhạy cảm của mình những người cộng sản Việt Nam từ rất sớm đã biết vận dụng cả 2 phương thức sáng tác – đặt lời cho những bài có sẵn và sáng tác những bài ca mới theo phương pháp Âu tây. Các chiến sĩ Cộng Sản Việt Nam đặt lời mới cho những ca khúc cách mạng nước ngoài như: quốc tế ca, thanh niên xích vệ, nhà máy đứng lên mau… của Pháp, Đức. Nhưng khác hẳn việc đặt lời cho ca khúc ngoại quốc trong phong trào hát bài hát ta theo Tây đã nói ở trên, các chiến sĩ Cộng Sản đã làm công việc này với mục đích cổ vũ tinh thần đấu tranh của các chiến sĩ trên mặt trận cũng như nơi lao tù và vận động tham gia hoạt động cách mạng, giành độc lập tự do cho tổ quốc.

Sớm nắm được quy luật phát triển của nghệ thuật âm nhạc nước nhà họ đã nhanh chóng lợi dụng nó làm vũ khí tuyên truyền cho cuộc đấu tranh chống thực dân xâm lược. Từ cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930 một bài hát mới sáng tác theo phương pháp cấu tứ âu tây xuất hiện: cùng nhau đi hồng binh của Đinh Nhu. Bài hát nhanh chóng được phổ biến rộng rãi và có sức lôi cuốn quần chúng xiết chặt hàng ngũ trong các cuộc biểu tình đình công hoặc võ trang cướp chính quyền ngày đó.

Cho tới nay, bài hát nói trên vẫn được xem là sáng tác mới đầu tiên của khuynh hướng âm nhạc cách mạng. Nó mở màn cho những sáng tác cùng loại trong thời kì 1930 – 1931, 1936 – 1937 và những năm 1940 trở về sau của trần Văn Út (Tam Bình) Vương Gia Khương (cờ việt minh), Đỗ Nhuận (viếng mồ liệt sĩ, chiều tù, Quảng Châu công xã) và nhiều nhạc sĩ khác…

Sự lãnh đạo ngầm của Đảng trong các tổ chức hướng đạo và các hoạt động của thanh niên – sinh viên từ năm 1943 trở đi được đẩy mạnh nó góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy những mầm móng sáng tác theo khuynh hướng yêu nước tiến bộ trong nền nhạc mới mau chóng lớn mạnh.

Nhờ đó nhiều nhạc sĩ từng hăng hái sáng tác theo khuynh hướng này về sau đã trở thành những nồng cốt gia nhập đội ngũ nhạc sĩ cách mạng: Lưu Hữu Phước, Văn Cao… đặc biệt cũng trong 1943 đề cương văn hoá của Đảng ra đời lần đầu tiên đường lối và nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện tại và tương lai được vạch ra một cách đầy đủ, rỏ ràng và chính xác. Không chỉ còn là những hành động tự phát của những cá nhân lẻ tẻ như trong những năm trước.

Đề cương văn hoá của Đảng đã chính thức mở màn cho một cuộc phản công có tổ chức của văn hoá Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương chống lại cuộc xâm lược bằng văn hoá của thực dân Pháp.

 

Ánh sáng đường lối của đề cương văn hoá sau này sẽ toả rộng tác dụng trong các tầng lớp văn nghệ sĩ theo cách mạng, giúp họ trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật và âm nhạc cách mạng vừa mang tính dân tộc vừa mang tính hiện đại, phục vụ đông đảo quần chúng theo phương châm dân tộc, khoa học đại chúng.

Từ 1944, khí thế cách mạng ngày càng dâng cao. Một số nghệ sĩ trẻ ở ngoại thành đã bắt liên lạc được với cơ sở cách mạng, trở thành một lực lượng đóng góp tích cực cho cuộc đấu trang sống mái sắp tới bằng thứ vũ khí văn nghệ sắt bén này.

Những bài Tiếng gọi thanh niên của Lưu Hữu Phước cùng với những bài ca cách mạng khác như: Du kích ca của Đỗ Nhuận, Tiến quân ca của Văn Cao, Diệt phát xích của Nguyễn Đình Thi đã trở thành tiếng kèn thôi thúc thanh niên, sinh viên và các tầng lớp nhân dân hăng hái lao vào cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám 1945 bên cạnh hàng trăm bài hát sôi sục khí thế cách mạng của các tác giả khác…

 

Những khuynh hướng khác trong đà tiến triển chung của âm nhạc cải cách các nhạc sĩ ở khắp nơi xuất hiện ngày càng nhiều. Họ sáng tác theo cảm hứng của mình và đồng thời chịu ảng hưởng của thời cuộc và các trào lưu chính từ bên ngoài dội tới. Đề tài nói chung vì vậy ở mỗi người cũng rất đa dạng. Khi thì những đề tài tình yêu mang tính chất lãng mạn. Khi là những bài hát về đề tài thanh niên, lịch sử hoặc chiến đấu.

Khoảng năm 1944- 1945, những đề tài viết về tôn giáo bắt đầu xuất hiện và ngày càng phổ biến nhiều: A di Đà Phật của Thẩm Oánh (1942), Sám hối của Nguyễn Hữu Ba và một số bài Phật nhạc của Nguyễn Hữu Ba và Văn Giảng, một loạt ca khúc giáo đường Thiên Chúa nở rộ với nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh gồm Hùng Lâm, Tâm Bảo, Thiên Phụng, Hải Linh. Nhóm này sáng tác được hàng trăm bài in trong tập Cung thánh những năm 1944- 1945.

Bám sát hơi dân ca, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát cũng cho ra đời một số bài có tính chất đồng dao: con cò, con voi…song nhìn chung, càng ngày gần tới ngày tổng khởi nghĩa 1945 những sáng tác mang nội dung yêu nước kích thích tinh thần dân tộc kêu gọi câm thù, thúc đẩy đấu tranh ngày càng nhiều.

 

II. GIAI ĐOẠN II: TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN 1975

1. Giai đoạn từ 1945 – 1954: Âm nhạc Việt Nam thời kì chống Pháp

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời đem lại niềm phấn khởi cho mọi tầng lớp nhân dân, trong âm nhạc, các nhạc sĩ trẻ cũng lao vào công cuộc sáng tác những bản nhạc hào hùng phấn chấn.

Dòng âm nhạc Cách Mạng nảy sinh từ những năm 30 và họat động trong vòng bí mật nay chính thức ra công khai. Từ đây lịch sử ghi dấu sự lớn mạnh không ngừng của dòng nhạc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên, sau hơn nửa thế kỉ đụng độ với âm nhạc phương tây, các nghệ sĩ và nhạc sĩ từ nhiều khuynh hướng khác nhau đã qui từ về một mối. Nhưng từ tháng 12- 1946, Pháp quay lại xâm lược nước ta, âm nhạc Việt Nam lại bước vào giai đoạn phân hóa mới.

 

Tại các vùng bị tạm chiếm, âm nhạc bị kéo về tình trạng những ngày đầu trước cách mạng, những đề tài lãng mạn, đồi trụy – phản động được sống lại.

Ở các vùng kháng chiến, nội dung đề cương văn hóa 1943 của Đảng ngày càng được phổ biến sâu trong giới văn nghệ sĩ. Những cuộc đấu tranh nội bộ gay gắt chống tư tưởng tự ti, miệt thị và những cách nhìn lệch lạc với nghệ thuật cổ truyền góp phần tẩy rửa nọc độc còn rớt lại của văn hóa thực dân.

 

Từ khoảng năm 1950 – 1951 trở đi, âm nhạc Việt Nam bước vào giai đoạn chuyển mình. Thời kì hồi sinh của âm nhạc cổ truyền và thời kì lột xác của bộ phận “âm nhạc cải cách” theo Cách Mạng chính thức được mở ra.
Chính trong cuộc kháng chiến này, nhờ bám sát cuộc sống chiến đấu và tắm mình trong nguồn nhạc dân gian tươi mát mà xưa kia bứt xa, phương hướng và phương pháp sáng tác của các nhạc sĩ kháng chiến thay đổi hẳn. Từ 1950, đặc biệt là càng về cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, âm nhạc Cách Mạng càng đạt được nhiều thành tựu đáng kể.

Trong lĩnh vực ca khúc, không chỉ ở nội dung mà trong ngôn ngữ nghệ thuật. Những âm điệu lai căn một cách cố ý không có chỗ đứng trong âm nhạc kháng chiến. Số bài còn chịu âm hưởng phương tây rút đi trông thấy nhường chổ cho những ca khúc giàu sắc thái dân tộc. Âm hưởng của âm nhạc dân tộc trong ca khúc kháng chiến đậm đà rõ nét.

Ngoài những thành công của Văn Cao (sông Lô), Lê Yên (bộ đội về làng),… là những điển hình đầu tiên về sự đổi mới khả năng biểu hiện của âm điệu dân tộc với chất hành khúc chiến đấu. Đó cũng là những điển hình đầu tiên về sự Việt hóa thể hành khúc phương Tây và sự kết hợp khá thành công hình thức ca khúc mới với âm điệu dân tộc để tạo ra ngôn ngữ và nhịp sống thời đại trong âm nhạc Việt Nam.

Chín năm kháng chiến thắng lợi đồng thời cũng đánh dấu sự thắng lợi của Mặt trận văn hóa và âm nhạc Việt Nam chống sự tấn công văn hóa của thực dân Pháp và ảnh hưởng di hại của nó.

1954 chấm dứt giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Hòa bình được lập lại nhưng đất nước còn tạm chia cắt hai miền. Những cặn bã của văn hóa thực dân ở các vùng pháp chiếm cũ bị dồn xuống phía Nam. Quá trình phân hóa (bắt đầu từ 1946) để hình thành hai dòng nhạc Cách Mạng và phản cách mạng lúc này chuyển vào cao điểm, của sự đối kháng. 

Cùng với sự đối lập về chế độ xã hội, sự phát triển của hai dòng nhạc chính thống ở mỗi miền càng đi sâu vào sự đối lập về nội dung tư tưởng cũng như về hình thức và thể loại.

Ở miền Bắc, âm nhạc không ngừng bước tiến lên quy mô hiện đại và phát triển một cách nhịp nhàng, cân đối, toàn diện hơn bất kì thời kì nào trong lịch sử âm nhạc nước nhà cho tới lúc đó Âm nhạc miền Bắc ngày càng đi vào chuyên nghiệp và chuyên môn hóa. Các khâu đào tạo, sưu tầm, nghiên cứu được chú trọng, đi vào tổ chức chính qui chặt chẽ, hổ trợ cho sáng tác, biểu hiện vươn lên những thành tựu rữc rỡ. Hàng ngàn bài ca nhạc cổ của các sắc tộc trên đất nước ta được ghi vào các băng từ tính. Hàng trăm bài được xuất bản dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhiều công trình chuyên khảo về âm nhạc dân gian và sân khấu cổ truyền ra đời.
Việc phổ cập âm nhạc truyền thống trong nhân dân, đặc biệt trong các thế hệ trẻ, nhờ đó được đẩy mạnh, nâng cao thêm lòng yêu mến, quý trọng vốn cổ và việc kế thừa trong các sáng tác mới. Các lớp huấn luyện ngắn hạn trong thời kì kháng chiến được thay thế bằng các trường nghệ thuật với chương trình giảng dạy dài hạn toàn diện có hệ thống.
 

Trường âm nhạc Việt Nam (nay là nhạc viện Hà Nội) thành lập 1956, trường nghệ thuật sân khấu (1959) thường xuyên đào tạo diễn viên đủ ngành nghề, đặc biệt là đội ngũ sáng tác âm nhạc căn bản, vững tay nghề, có khả năng viết ca khúc và tác phẩm thanh khí nhạc đủ loại. Truyền thống tiếp thu tinh hoa âm nhạc nước ngoài được phát huy.

Trong thế kỷ này, nhân dân Việt Nam chủ động vươn tới những chân trời xa xôi ngoài biên giới, đón nhận tinh hoa âm nhạc bốn phương. Những học sinh, sinh viên âm nhạc gửi sang các nước bạn kế tục nhau ra đi và trở về với những kiến thức mới, kinh nghiệm hay, góp phần cùng lực lượng đang được đào tạo trong nước hoàn thiện dần nền âm nhạc mới của nước nhà. Ca khúc tiếp tục được mùa, ngày càng nhuần nhị hơn với các chất liệu âm nhạc dân tộc, già dận hơn trong việc khai thác các đề tài của cuộc sống mới. Nhiều nhạc sĩ dần hình thành phong cách riêng.



2. Giai đoạn 1954 – 1975: Âm nhạc Việt Nam thời kì chống Mỹ cứu nước

Hai mươi mốt năm từ 1954 – 1975 đánh dấu sự phát triển với một tốc độ chưa từng thấy của âm nhạc cách mạng Việt Nam trong lịch sử âm nhạc nước nhà cho tới bây giờ.

Trong lúc đó, âm nhạc miền Nam chậm chạp bước theo một hướng khác. Tình hình âm nhạc ở đây hoàn toàn không thuần nhất.

Tân nhạc đi vào con đường nhạc nhẹ hóa với những tác phẩm lai căn.Theo sự phát triển của phong trào và phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên miền Nam, âm nhạc Cách Mạng và yêu nước cũng dần lớn lên.
Năm 1975, chiến dịch hồ chí minh thắng lợi, nhanh như trận gió cuốn. Cách mạng Việt Nam toàn thắng. Các thế lực phản động bị đập tan. Dòng nhạc phản Cách Mạng cùng chung một số phận. Trên đất nước hòa bình thống nhất lại xuất hiện điển quy tụ mới trong nền âm nhạc Việt Nam. Tất cả những truyền thống âm nhạc tốt đẹp của dân tộc lại được khơi dậy mạnh mẽ trên toàn đất nước.

Tiếng trống đồng hùng vĩ cùng tiếng đàn đá cổ xưa lại ngân vang trang trọng trên sân khấu thủ đô và một số địa phương mừng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tròn 35 tuổi. Sự nghiệp xây dựng và phát triển âm nhạc dân tộc, bao gồm hai bộ phận cân đối: nhạc cổ truyền và nhạc Mới, tiếp tục vươn tới đạt những thành tựu mới.

Những tinh hoa âm nhạc cổ truyền dân tộc đựơc giới thiệu với đồng bào trong nước và nhân dân thế giới. Các công tác đào tạo, nghiên cứu lý luận và sáng tác âm nhạc đều có những bước phát triển mới đáng mừng. Nhiều nghệ sĩ ưu tú tham dự các cuộc thi âm nhạc quốc tế đã đem vinh quang về cho đất nước. Một trong những thành công rực rỡ nhất là thành tích vang dội của nghệ sĩ nhân dân Đặng Thái Sơn trong cuộc thi Piano quốc tế tại Ba Lan, làm chấn động dư luận âm nhạc thế giới.

 

III. GIAI ĐOẠN III: 1975 ĐẾN NAY

Dù khó khăn, dù gian nan, dù sao đi nữa, người dân Việt Nam nên chấp nhận Việt Nam là quê hương ngàn đời. Niềm hy vọng nhỏ nhoi chỉ lóe lên và chưa được bừng sáng thì 30 tháng 4, 1975 đã đưa hàng trăm nghìn người ra đi trên đường di tản. Nhạc trẻ là một hiện tượng âm nhạc xuất hiện tiên khởi vào đầu thập niên 60. Nhạc kích động Âu Mỹ bắt đầu xâm nhập thị trường miền Nam vào cuối năm 1959. Giới trẻ, con của các thương gia và giới trưởng giả theo học chương trình Pháp thường nghe các loại nhạc kích động của Mỹ và Pháp.
Phải đợi tới khoảng 1963 - 1965, phong trào nghe nhạc kích động Tây phương bành trướng mạnh qua các buổi tổ chức khiêu vũ tại gia. Các danh ca của Mỹ như Paul Anka, Elvis Presley, The Platters, của Anh quốc như Cliff Richard, The Shadows, The Beatles, The Rolling Stones, của Pháp như Johnny Halliday, Sylvie Vartan, Françoise Hardy, Christophe, Dalida, vv…. là thần tượng của giới thanh niên nam nữ dưới 18 tuổi. Những ban nhạc trẻ kích động mạnh nhưng trên như C.B.C., The Dreamers, The Uptight, The Blue Jets, The Spotlights (sau đổi thành Strawberry Four với Tùng Giang, Đức Huy, Tuấn Ngọc và Billy Shane - cả 4 người này hiện nay ở Mỹ và Billy Shane đã qua đời năm 1998).

Một số ca sĩ Việt thích kèm theo tên ngoại quốc bên cạnh tên Việt như Elvis Phương (hiện ở Hoa Kỳ), Pauline Ngọc (không còn hát n"a và hiện sống bên Đức), Prosper Thắng (sống ở Pháp và từ trần năm 1998), Julie Quang (hiện sống ở Mỹ), Carol Kim ( sống ở Mỹ),vv.. Họ nổi danh với các bản nhạc ngoại quốc hát bằng lời Pháp và Anh. Những hộp đêm Mỹ ngày càng nhiều từ 1968 trở đi càng khuyến khích số người hát nhạc Mỹ nhiều hơn nữa. Trước sự bành trướng mạnh mẽ của nhạc ngoại quốc nổi tiếng, Phạm Duy, Quốc Dũng, Nam Lộc, Tùng Giang, Trường Hải, vv… chuyển sang đặt lời Việt cho nhạc ngoại quốc.

 

Phải đợi tới năm 1971 mới thấy xuất hiện đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ (hiện ở Montreal, Canada), Tùng Giang (ở California, Hoa Kỳ), và Nam Lộc ( làm việc cho một cơ quan thiện nguyện USCC ở Los Angeles, Cali) đảm trách. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở Saigon đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ qua những năm kế tiếp (1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, và 1974 , năm chót trước khi mất Saigon tại vườn sở thú với trên 20.000 khán giả). Những bản nhạc ngoại quốc như "The House of the Rising Sun", "Reviens la Nuit", "Tous les Garçons et les Filles", "Capri, c'est fini", "Bang Bang" , "Besame Mucho", "Only You", "My Prayer", "Be Bop Be Lu La", "Love Story", "Yesterday", "Michelle", etc… là những bài vẫn còn được "ăn khách" trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại hiện nay. 

Loại nhạc trẻ không đóng góp gì vào gia tài của nền Tân nhạc Việt Nam hay chỉ là loại nhạc bắt chước theo người Tây phương, không có gì là sáng tạo cả. Đó là loại nhạc cuồng loạn, ru hồn thế hệ trẻ trong khung cảnh chiến tranh để cho họ tạm quên cảnh tương tàn của đất nước qua những bước nhảy tango, twist, be-bop, valse, pasodoble, rumba, cha cha cha, vv.. Một giai đoạn bị Mỹ hóa, giữa thời kỳ náo loạn. 

Giai đoạn thứ ba của lịch sử Tân nhạc Việt Nam kể từ khi hàng triệu người Việt bỏ xứ ra đi trên đường tạm dừng sau ngày 30 tháng 4/1975 cho tới trước ngưỡng cửa của năm 2000.

Nhạc di tản từ 30 tháng 4/1975. 25 năm lặng lẽ trôi qua. 25 năm đầy biến chuyển trong lịch sử thế giới nói chung và trong lịch sử Việt Nam nói riêng. Chỉ riêng về ngành âm nhạc Việt Nam, nhất là ở hải ngoại, số lượng bài bản tân nhạc, những ca khúc đã thay đổi nhiều đề tài, đã tăng số lượng theo một mức độ ngoài sức tưởng tượng của loài người.

Những năm đầu của thời di tản cho thấy những băng nhựa đủ loại, từ các cuốn băng sao lại băng cũ thời trước 1975, đến các băng được sản xuất tại Âu Mỹ do hàng chục trung tâm băng nhạc.Đến năm 1988 mở màn cho giai đoạn dĩa laser loại compact disc.

Chỉ trong vòng 5 năm (1988-1993) hàng nghìn dĩa laser tràn lan khắp nơi. Loại dĩa laser video phát triển từ 1992 lúc phong trào hát Karaoke khởi xướng mạnh tại Hoa Kỳ và Canada. Nhiều quán cà phê và quán phở, tiệm ăn ở Bắc Mỹ phải trang bị máy karaoke và luôn cả tư nhân cũng thích hát Karaoke vào cuối tuần trong những cuộc họp bạn tại gia. Gần đây hơn, các loại dĩa CDV, và DVD thay thế loại laserdisc làm bành trướng mạnh phong trào Karaoke tại tư gia.

Video về tân nhạc cũng rất thịnh hành, hàng mấy chục trung tâm băng nhạc xuất hiện tại Âu Mỹ và các ca sĩ tự lập các trung tâm sản xuất riêng. Trong phạm vi nhạc di tản, tôi chỉ đề cập tới tân nhạc Việt Nam ở hải ngoại. Tân nhạc Việt Nam ở hải ngoại (1975-2000) Giai đoạn di tản qua 25 năm cho thấy sức mạnh vô cùng mãnh liệt của người Việt trong lĩnh vực sáng tác.

Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người làm văn nghệ lúc nào cũng hăng say tìm nguồn cảm hứng qua những sáng tác âm nhạc. Một số nhạc sĩ ra đi trong đợt di tản đầu tiên gồm có Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Nam Lộc, Song Ngọc, Tô Huyền Vân, Huỳnh Anh. Năm giai đoạn thể hiện lịch sử tiến triển của tân nhạc hải ngoại: 

Nhớ Quê Hương, nhớ Saigon đất nước vừa bị mất, quê hương phải lìa xa. Saigon vừa bị đổi tên. Niềm thất vọng tràn trề dâng cao trong lòng tất cả người dân Việt phải bỏ xứ ra đi trong uất hận, căm tức, tủi nhục. Toán người di tản ra đi đầu tiên đã đến Mỹ vào giữa mùa xuân năm 1975.

Phải đợi tới cuối thu 1975, một số nhạc sĩ có tên tuổi ở Saigon đã ra đi trong đợt đầu và trong số đó có Nam Lộc. Nam Lộc là người đã viết một bản nhạc vào cuối năm 1975 và là bài thành công nhất trong giai đoạn đầu của di tản (1975-1980). Đó là bài "Saigon Ơi ! Vĩnh Biệt ". Saigon , thành phố của bao kỷ niệm, của nhớ nhung, của hàng triệu con tim bị rung động mỗi khi hai chữ Saigon được nhắc đến, là đề tài cho một số nhạc phẩm như "Saigon Ơi! Vĩnh Biệt !" (Nam Lộc , 1975), "Saigon Ơi ! Thôi Đã Hết" (Nam Lộc , 1976), "Saigon Năm Xưa” (Trần Quang Hải, 1985). 

Ngày 9 tháng 5, 1976 tại Los Angeles, California, lễ kỷ niệm một năm xa xứ đã được một số nghệ sĩ Việt tổ chức một chương trình đại nhạc hội đầu tiên giống như ở Saigon cùng lúc với sự chào đời cuốn băng thực hiện lần đầu tại hải ngoại do nữ ca sĩ Thanh Thúy hát với tựa cuốn băng Thanh Thúy 1: Saigon ơi! Vĩnh biệt đánh dấu một biến chuyển mấu chốt trong lĩnh vực tân nhạc di tản và sản xuất băng nhạc tại hải ngoại.

Ở Âu châu tại Paris, phải đợi tới tháng 9,1976 mới thấy sự bùng nổ của chương trình nhạc hội qua sự cố gắng của Lê Lai (đài VOA) từ Hoa Thịnh trốn sang Paris để tổ chức 4 buổi trình diễn tân nhạc, dân ca và ngâm thơ với Khánh Ly, Hoàng Oanh và sự cộng tác của nhạc sĩ Trần Quang Hải .Sự thành công của chương trình thi ca nhạc di tản đầu tiên đã khơi mào cho chương trình thi ca vũ nhạc kịch của đoàn Hoàng Thi Thơ từ Mỹ sang Pháp và Thụy Sĩ trình diễn vào cuối tháng 10,1976. 

Các trung tâm băng nhạc lần lần xuất hiện ở Mỹ và Pháp. Từ 1988 bắt đầu chuyển mình sang phong trào làm dĩa laser. Cả chục nghìn dĩa CD đã được tung ra trên thị trường băng nhạc Việt Nam từ 1987. Nhạc sĩ Phạm Duy là người đầu tiên đưa nhạc Việt vào dĩa CD do Phạm Duy Cường soạn hòa âm và sản xuất với tựa đề "Nhạc Tình Phạm Duy" vào cuối năm 1987. Vào đầu tháng 2, 1988, tại Paris, nhà sản xuất dĩa hát Pháp Playasound đã tung ra thị trường quốc tế dĩa laser đầu tiên về nhạc cổ truyền Việt Nam với Trần Quang Hải và Bạch Yến qua dĩa "Rêves et Réalités/Trần Quang Hải et Bạch Yến" (Giấc Mơ và Sự Thật).

Băng video trở thành một món ăn tinh thần cần thiết cho cộng đồng người Việt hải ngoại. Trung tâm Thúy Nga trở nên một nơi phát hành các chương trình ca nhạc hay nhất từ 1989 trở đi với sự tuyển chọn ca sĩ, phối hợp với kỹ thuật thu hình do một cơ quan chuyên nghiệp Pháp đảm nhận. Phong trào Karaoke lan tràn vào giới nhạc Việt từ 1990.


Nhạc tranh đấu và kháng chiến

Sau ba năm im hơi 1975-1978, sống ẩn dật tại Miami (Florida) bên Mỹ trong khi chờ đợi các con (ban nhạc The Dreamers) còn kẹt lại ở Saigon (sau đó toàn ban nhạc The Dreamers đã được sang Mỹ và hiện định cư tại Midway City, California), trong khi ca sĩ Duy Quang đã nhờ Julie Quang (bây giờ chỉ mang tên Julie thôi sau khi chia tay với Duy Quang) để sang Pháp vào cuối năm 1978, Phạm Duy, người sáng tác nhạc nhiều nhất ở Việt Nam, lại xuất hiện lộ diện qua quyển nhạc "Hát Trên Đường Tạm Dung" (1978). Bản " Đường Tạm Dung" và bản "Nguyên Vẹn Hình Hài" của Phạm Duy đã là ngọn đuốc đốt cháy tạo nguồn hứng sáng tác cho một số nhạc sĩ trẻ để tung ra những nhạc phẩm tả nỗi uất ức oán hờn căm thù đi liền với phong trào phục quốc kháng chiến cùng lúc với sự xuất hiện của Võ Đại Tôn và Hoàng Cơ Minh.

Nguyệt Ánh , một hiện tượng mới trong làng tân nhạc từ 1980 bắt đầu sáng tác nhiều nhạc phẩm phục quốc qua những cuốn băng như "Em nhớ màu cờ", "Dưới Cờ Phục Quốc", … Tên Nguyệt Ánh đi liền với giai đoạn phục quốc, kháng chiến. Việt Dzũng, một nhạc sĩ trẻ, hăng say kháng chiến, nói lên tiếng nói căm hờn qua các bản nhạc đầy ý chí trong hai cuốn băng "Lưu Vong Khúc" và "Kinh Tỵ Nạn" (1981). Trần Quang Hải và Bạch Yến đã sáng tác một số nhạc phẩm đấu tranh , điển hình nhất là "Thương Nhớ Quê Hương" (1978), "Cầu Mong Cho Mau Hòa Bình" (1978), và "Em Về Gi" “ Lửa" ( phổ thơ của Minh Đức Hoài Trinh, 1978) Chí nguyện đoàn hải ngoại phục quốc Việt Nam, với mục đích yểm trợ "chiến dịch người về" đã xuất bản hai cuốn băng "Hát Cho Những Người Về " (1981), và "Rực Lửa Trời Đông" (1983) gồm những ca khúc nung nấu tinh thần kháng chiến ở hải ngoại và quốc nội. Nhiều chủ đề được tung ra qua một số băng nhạc sản xuất từ 1976 - 1980 như "Tháng Tư Buồn", "Sài Gòn Vĩnh Biệt Tình Ta", "Ngày Quốc Hận 30 tháng 4/1975", "Người Di Tản Buồn", "Hát Cho Người Tìm Tự Do", "Quê Hương Bỏ Lại", vv… 

Nhạc tả lại cảnh lao tù Việt Nam Năm 1981, Phạm Duy sáng tác 20 bài lấy tựa là "Ngục Ca" qua lời thơ của ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện trong tập thơ "Tiếng Vọng Từ Đáy Vực" . Hà Thúc Sinh sáng tác trong thời gian học tập cải tạo ở Việt Nam . Sau khi vượt biển , được định cư tại Mỹ, đã xuất bản tập nhạc "Tiếng Hát Tủi Nhục" (1982). Châu Đình An, một nhạc sĩ trẻ , đã đóng góp qua tập nhạc "Những Lời Ca Thép " (1982). Phạm Duy, Lê Uyên Phương, Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, Nguyễn Đức Quang ở Mỹ, Nguyễn Hữu Nghĩa, Phan Ni Tấn, Vy Hùng ở Canada, Trần Quang Hải, Duyên Anh, Ngô Càn Chiếu ở Pháp, Nguyễn Quyết Thắng ở Hòa Lan, Nguyễn Đình Ngoạn ở Đức, Phạm Quang Ngọc, Cung đàn Nguyễn Sỹ Nam, Hoàng Ngọc Tuấn ở Úc châu đã viết nhiều bài ca tranh đấu cũng như những ca khúc phù hợp với phong trào phục quốc. 

Sự phục sinh của nhạc tiền chiến từ năm 1982 trở đi, hiện tượng phục sinh nhạc tiền chiến được phát triển rộng rãi. Những ca sĩ đua nhau sản xuất băng nhạc hát lại những bài hát tiền chiến hay những bài trước 1975. Bạch Yến, Khánh Ly, Lệ Thu, Thanh Thúy, Kim Anh, Minh Hiếu, Thanh Tuyền, Hương Lan, Julie, Huyền Châu, Bích Thuận, Phương Dung, Kim Loan, Duy Quang, Elvis Phương, Thanh Mai, vv…. 

Trong những năm 1983 - 1985 đã phát hành trên 100 cuốn băng nhạc làm sống lại những bài ca tiền chiến như để gợi lại biết bao kỷ niệm của thời quá khứ. Chủ đề phục quốc, kháng chiến nhường bước cho chủ đề tình yêu và kỷ niệm quê hương sau 10 năm lưu vong.

Một số nhạc sĩ như Lam Phương, Đức Huy, Phan Kiên, Duy Quang, Ngô Minh Khánh, Trần Quang Hải, Duyên Anh trong khoảng thời gian 1982-85 đã sáng tác rất nhiều nhạc phẩm ca ngợi tình yêu đôi lứa. "Yêu Em Dài Lâu" (Đức Huy), "Ru Đời Phù Ảo" (Duyên Anh, 1984), "Anh Cần Em" (Trần Quang Hải - Lương Ngọc Châu, 1982). 
Giai đoạn này đánh dấu một chiều hướng mới trong làng nhạc Việt với sự viết lời ngoại quốc (Pháp và Anh) trên nhạc Việt do nhạc sĩ Trần Quang Hải đề xướng và mang nhạc Việt do nhạc sĩ Việt sáng tác vào thị trường quốc tế. 
Hưng ca, nhạc trẻ song ngữ ,phong trào phổ thơ được bành trướng, cũng như sự tái sinh phong trào du ca với Nguyễn & ETH; Ức Quang, Nguyễn Hữu Nghĩa và Phan Ni Tấn. Phong trào Hưng Ca được thành hình vào năm 1985 với tôn chỉ là dùng văn nghệ sân khấu và thanh niên để giữ vững những niềm tin cách mạng dân tộc chống chủ nghĩa và bạo quyền cộng sản. Hai tập nhạc được phát hành: "Hưng Ca 1: Lên Đường "(1985), và "Hưng Ca 2: Hẹn Em Sài Gòn" (1986).

Vấn đề thích nhạc ngoại quốc đã có từ thập niên 60 tại Việt Nam. Mười mấy năm trôi qua ở hải ngoại, giờ đây phong trào thích nhạc ngoại quốc (giống loại nhạc trẻ thời thập niên 70 ở Saigon) lại bành trướng mạnh và được giới trẻ lớn lên ở hải ngoại hưởng ứng nồng nhiệt.

Từ chỗ ưa thích nhạc ngoại quốc đã tạo ra phong trào xuất bản nhạc khiêu vũ và sự phát hiện nhiều vũ trường ở các nơi có đông người Việt sinh sống. Một số mầm non ca sĩ trẻ như Linda Trang Đài, Cinda Thúy, Sơn Tuyền, Thúy Vi, Thái Hiền, Phương Thúy, Lucia Kim Chi, Tryzzie Phương Trinh, Tuệ Châu, Tuấn Anh ở Mỹ, Ngọc Huệ (sang định cư ở Mỹ từ năm 1991), Bảo Khánh, Quỳnh Lân ở Úc châu cùng với Công Thành và Lynn (sang định cư ở Hoa kỳ từ năm 1987).

 

Về sau có Đơn Hồ (nổi tiếng nhất trong năm 1992), Dalena (nữ ca sĩ Mỹ chuyên hát tiếng Việt, nổi tiếng nhất trong hai năm 1991 và 1992),Trịnh Nam Sơn, Thái Tài, Ý Nhi, Ý Lan, Sher'e Thu Thủy, Phi Khanh, Như Mai, Kenny, Mỹ Huyền, Ngọc Bích, Thanh Hà, Quỳnh Như, Mạnh & ETH, Phi Nhung, Thanh Trúc, vv… mang lại cho nền nhạc trẻ một luồng gió mới và tạo nhiều sống động. Từ chỗ ưa thích nhạc ngoại quốc đi tới nhạc song ngữ rất gần. 

Một số nhạc sĩ Việt như Phạm Duy, gần đây hơn có Khúc Lan, Ngọc Huệ, tất cả đều ở Mỹ và dịch lời ca Mỹ và Pháp ra bằng tiếng Việt và các ca sĩ trẻ hát nửa Việt nửa Anh hay Pháp và tạo thành một phong trào nhạc song ngữ từ năm 1987 trở đi.

Trong thời gian 10 năm chót của thế kỷ XX, Phạm Duy đã phổ nhạc thơ Hoàng Cầm, phát hành quyển "Ngàn Lời Ca" (1987). Năm 1991, Phạm Duy thực hiện một loạt ca khúc "Bầy Chim Lìa Xứ", và phần giao hưởng cho "Con & ETH”.

Sau cùng ông soạn nhạc phổ thơ "Truyện Kiều" và sẽ hoàn thành trong một thời gian gần đây. Trong vài năm chót đây (từ 1988), một số ca sĩ tân nhạc sống dưới chế độ Cộng Sản đã thoát ra hải ngoại và xin tỵ nạn như Họa Mi ( Pháp, 1988), Ái Vân (Đức, 1990, và sau đó định cư tại Hoa Kỳ), Anh Khoa (Hưng Gia Lợi, 1988), Thái Châu (Gia Nã Đại, 1990), Bích Liên (Đức, 1992), Duy Khánh (Hoa Kỳ, 1991), Duy Trác (Hoa Kỳ, 1992), Nhật Trường (Hoa Kỳ, 1993) đã mang lại cho nhạc Việt ở hải ngoại một luồng gió mới , nhất là trong ngành phát hành băng nhạc và băng video. Một số nữ nhạc sĩ nổi danh ở hải ngoại qua nhiều sáng tác như Nguyệt Ánh, Khúc Lan, Linh Phương, Lê Tín Hương…

Nhạc sĩ Vô Thường tạo một chỗ đứng riêng biệt với tiếng đàn Tây ban cầm tay trái qua hàng trăm CD tự xuất bản tại Hoa Kỳ . Các nhạc sĩ nghiệp dư như bác sĩ Phạm Anh Dũng (Hoa Kỳ), bác sĩ Nguyên Bích (Hoa Kỳ) có viết nhạc , cũng như nhạc sĩ Võ Tá Hân đã phổ nhạc cho gần 200 bài thơ và thực hiện 18 CD với toàn nhạc của anh.

Nhạc thiền đạo được phát triển từ năm 1996 với hai hiện tượng đáng kể: thiền sư Lương Sĩ Hằng và Vô Thượng Sư Thanh Hải và một số nhạc phổ thơ của hai vị này.

Nhạc tại Việt Nam sau 1975 Trong xứ Việt Nam có hai chiều hướng về nhạc: nhạc nhẹ chú trọng về giải trí, hay nói một cách khác là tân nhạc, và nhạc nặng tức là loại nhạc giao hưởng, nhạc trình diễn trong khung cảnh của viện quốc gia âm nhạc. Loại nhạc nhẹ dính liền với nhạc thời trang, nhạc trẻ khơi nguồn từ các nguồn nhạc dân gian, nhạc ngoại quốc kích động. Nó được phát hiện theo hai khuynh hướng:

Khuynh hướng dùng ngôn ngữ âm nhạc cổ điển Âu châu do nhạc sĩ Thanh Tùng đề xướng qua đề tài tình yêu. Có rất nhiều nhạc sĩ trẻ đi theo khuynh hướng này với những tìm tòi và sáng tạo khác nhau như Nguyễn Đình Bảng, Từ Huy, Phú Quang, Duy Thái, Nguyễn Ngọc Thiện, Dương Thụ. 

Khuynh hướng thứ nhì chuyên về âm nhạc dân tộc cổ truyền . Ban nhạc nhẹ của nhà hát Tuổi Trẻ do Đỗ Hồng Quân phụ trách đã đưa các nhạc khí dân tộc, cũng như cách phối âm phối khí, trình diễn, sáng tác theo chiều hướng nhạc dân gian. Các nhạc sĩ Nguyễn Cường, Trần Tiến, Phó Đức Phương, Trương Ngọc Ninh sáng tác theo chiều hướng này.

Nhóm "Những Người Bạn " gồm 8 nhạc sĩ: Trịnh Công Sơn, Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập, Từ Huy,

Nguyễn Ngọc Thiện, Thanh Tùng, Nguyễn Văn Hiên và Vũ Hoàng được chào đời tại Sài Gòn vào ngày 8 tháng 3, 1992 sau khi Trịnh Công Sơn sang Pháp gặp nhóm nghệ sĩ phố (artists on the road/ artistes de rue). 

Tên "Những người bạn " do Trịnh Công Sơn đề nghị với mục đích là sáng tác và trình bày sáng tác mới cho bạn và công chúng nghe. Mỗi tháng, nhóm đều có họp và mỗi người phải giới thiệu ít nhất là một sáng tác mới của mình và nghe lời phê bình của anh em. Nhóm "Những người bạn " sẵn sàng đi giới thiệu những tác phẩm mới và làm thành băng nhạc, video với sự phụ giúp những ca sĩ nổi tiếng như Lệ Thu (sang định cư tại Pháp), Lê Tuấn, Ngọc Sơn, Thế Sơn, Thu Hà, Yến Linh. 

Trong buổi đầu tiên của nhóm này. Trịnh Công Sơn đã trình bày nhạc phẩm mới nhất tên là "Con Mắt Còn Lại" (ý thơ Bùi Gián - Thanh Tùng viết một ca khúc "Lối Cũ Ta Về " trong hoài niệm về người vợ đã mất. Trần Long Ẩn viết tặng mẹ. Hiện tượng này xảy ra vì các ca khúc mới sau 1975 không còn người nghe. Dân chúng ưa nhạc "sến", nhạc "vàng" hay nhạc trước 1975.

Các ca khúc trữ tình trước 1975 xua đuổi các loại nhạc đấu tranh ca tụng Bác và Đảng, và luôn cả nhạc mới sau 1975. Từ năm 1990 trở đi, phong trào tổ chức hát vinh danh các nhạc sĩ lão thành như Nguyễn Văn Thương, Lê Thương, Hoàng Giác, Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, Đoàn Chuẩn, Trần Hoàn, Tô Vũ, Nguyễn Văn Tý hay các nhạc sĩ trẻ hơn như Trịnh Công Sơn được tổ chức tại Hà Nội và Saigon và những ca khúc tiền chiến được hát trở lại. Nhạc sĩ Phạm Tuyên đã chuyển hướng sáng tác qua nhạc trẻ em (nhạc đồng dao) được nhiều thành C & OCIR. 

Giới thiệu một số nhạc sĩ tiêu biểu trong nền âm nhạc Việt Nam 

TRỊNH CÔNG SƠN

 1/Tiểu Sử

       Ông sinh tại cao nguyên Lạc Giao (xã Lạc Giao-hiện nay là phường Thống Nhất, Ban Mê Thuột), tỉnh Đắk Lắk nhưng lúc nhỏ sống ở làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế . Ông lớn lên tại Huế. Lúc nhỏ ông học theo học các trường Lyceè Francais và Provindence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học triết học trường Tây Lyceé J.J Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại đây.

       Ông sáng tác bài Sương đêm và Sao chiều vào năm 17 tuổi.. Nhưng tác phẩm đầu tiên của ông là Ướt mi, được xuất bản An Phú in năm 1959. Từ đó tên tuổi của ông được nhiều người biết đến. Trong những năm sau đó, nhạc của ông được phổ biến và được nhiều ca sĩ trình diễn, đặc biệt là Khánh Ly. Vì lời lẽ trong nhiều bài hát của ông có tính chất phản chiến, nhà cầm quyền miền Nam đã cấm lưu hành vài tác phẩm của ông. Ngay cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vốn đối lập, cũng không tán thành việc ông gọi Chiến tranh Việt Nam là "nội chiến" trong bài Gia tài của mẹ, vì quan điểm của họ cho rằng đây là cuộc chiến tranh chống xâm lược và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, nhiều bài hát của ông lại rất thịnh hành trong công chúng cho đến hôm nay.

Năm 1961 vì bắt buộc phải trốn lính nên ông thi và theo học ngành Tâm lý giáo dục trẻ em tại trường Sư phạm Qui Nhơn. Sau khi tốt nghiệp ông dạy tại 1 trường tiểu học ở Bảo Lộc, Lâm Đồng

       Một số bài hát của Trịnh Công Sơn đã đến với công chúng Nhật Bản năm 1970 như Diễm Xưa (do Khánh Ly biểu diễn bằng cả tiếng Nhật và tiếng Việt), Ca dao Mẹ, Ngủ đi con.

       Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông lên đài truyền thanh Sài Gòn hát bài Nối vòng tay lớn, bài hát nói về ước mơ hòa hợp dân tộc hai miền Nam Bắc mà ông viết từ năm 1968.

Theo BBC, sau khi chiến tranh kết thúc, gia đình ông di tản sang Mỹ và ông đã phải sống 4 năm trong trại cải tạo. Nhưng cũng có những nguồn tin theo tác giả Bùi Đức Lạc thì Trịnh Công Sơn chỉ đi kinh tế mới vài năm chứ không hề có cải tạo hay ông đi học tập 2 năm ở Cồn Tiên. . Một thời gian dài sau 1975, nhạc của ông bị cấm đoán ở tại Việt Nam hay bị một ít người ngấm ngầm tẩy chay ở hải ngoại.

Những năm sau 1975, sau thời gian tập trung lao động, ông làm việc tại Hội Âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh, tạp chí Sóng nhạc. Từ thập niên 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại, và có viết một số bài có nội dung ca ngợi chế độ mới như Thành phố Mùa Xuân, Em ở nông trường em ra biên giới, Huyền thoại Mẹ... Sau đó nhà nước Việt Nam đã nới lỏng quản lý văn nghệ, ông lại tiếp tục đóng góp nhiều bản tình ca có giá trị.

Ông cũng là một diễn viên điện ảnh nghiệp dư, năm 1971 ông thủ vai chính trong phim Đất khổ . Phim hoàn tất năm 1974, nhưng chỉ được chiếu cho công chúng xem 2 lần rồi không được phép trình chiếu ở Miền Nam Việt Nam với lý do “có tính phản chiến” . Sau năm 1975, bộ phim không được trình chiếu tại Việt Nam. Cuối cùng, một bản phim đã về tay nhà thơ Đỗ Trung Quân. Bộ phim được chọn là phim Việt Nam chính trong Liên hoan phim Á Mỹ năm 1996.

       Ông bị bệnh gan, thận và tiểu đường. Ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh tiểu đường lúc 12h45 ngày 1 tháng 4 năm 2001 (tức ngày 8 tháng 3 năm Tân Tỵ). Từ đó hàng năm giới hâm mộ đều lấy ngày này làm ngày tưởng niệm

Suốt đời, Trịnh Công Sơn yêu nhiều nhưng không chính thức kết hôn với ai, và cũng chưa chính thức công nhận con.

Sự nghiệp sáng tác

Bài chi tiết: Nhạc Trịnh và Danh sách tác phẩm Trịnh Công Sơn

Trịnh Công Sơn sáng tác được khoảng hơn 600 ca khúc, những tác phẩm không những mang đậm một phong cách riêng mà còn gửi gắm một triết lý. Ông từng lý giải cho cái sự sáng tác của mình: "Tôi chỉ là 1 tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo..."

Nhạc tình

Tình yêu là đề tài lớn nhất trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Những bản tình ca chiếm đa số trong danh mục nhạc phẩm. Khả năng viết nhạc tình của họ Trịnh tưởng chừng không biết mai một theo năm tháng, theo thời đại: từ 1958 với Ướt mi đã nổi tiếng cho đến thập niên 1990 vẫn có những bản tình ca thấm thía: Như một lời chia tay, Xin trả nợ người...

Nhạc tình của ông đa số là nhạc buồn, thường nói lên tâm trạng buồn chán, cô đơn như trong Sương đêm, Ướt mi, những khúc tình ngầm mang sầu ly biệt như Diễm xưa, Biển nhớ, hay tiếc nuối một cái gì đã qua: Tình xa, Tình sầu, Tình nhớ, Em còn nhớ hay em đã quên, Hoa vàng mấy độ... Ngoài ra còn những bài triết lý tình, mang một bóng dáng ngậm ngùi, lặng lẽ của người tình từng trải: Cỏ xót xa đưa, Gọi tên bốn mùa, Mưa hồng...

Những bài hát này có giai điệu nhẹ nhàng, dễ hát, thường được viết với tiết tấu chậm, thích hợp với điệu Slow, Blues hay Boston. Phần lời được đánh giá cao nhờ đậm chất thơ, bề ngoài trông mộc mạc nhưng rất thâm trầm sâu sắc, đôi khi mang những yếu tố tượng trưng, siêu thực.

Nhạc tình của Trịnh Công Sơn rất phổ biến tại Việt Nam, nhạc sĩ Thanh Tùng từng gọi Trịnh Công Sơn là "người Việt viết tình ca hay nhất thế kỷ".

Nhạc phản chiến

Tên tuổi của Trịnh Công Sơn còn gắn liền với một loại nhạc mang tính chất chống lại chiến tranh, ca ngợi hòa bình mà người ta thường gọi là nhạc phản chiến, sau này tài tử hơn và để tránh nhầm lẫn với những ca khúc phản chiến của tác giả khác, người ta gọi là Ca khúc da vàng.

Theo Bửu Chỉ, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác dạng nhạc này vào khoảng năm 1965- 1966. Năm 1966, ông cho ra đời tập Ca khúc Trịnh Công Sơn, trong đó có manh nha một xu hướng chính trị yếm thế. Đến năm 1967, nhạc Trịnh lên đến đỉnh cao của sự phản chiến bằng tập Ca khúc da vàng. Năm sau, ông cho ra tiếp tập Kinh Việt Nam. Từ năm 1970 tới 1972 ông tự ấn hành được hai tập nhạc phản chiến là Ta phải thấy mặt trời và Phụ khúc da vàng

Nhạc phản chiến của họ Trịnh phần lớn viết bằng điệu Blues, cộng với lời ca chân tình thống thiết, trở nên những bài hát rất cảm động nhưng không hề yếu đuối, bỉ mị. Những bản nhạc này được ông cùng Khánh Ly đem đi hát ở nhiều nơi tại miền Nam, được nhiều người nhất là giới sinh viên nhiệt tình ủng hộ. Đây cũng là loại nhạc làm cho danh tiếng của Trịnh Công Sơn lan ra thế giới: nhờ nhạc phản chiến ông được một Đĩa Vàng (giải thưởng âm nhạc) tại Nhật và có tên trong tự điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde của Pháp

       Nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn được cho là có vai trò không nhỏ trong giai đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam. Cũng vì loại nhạc này mà ông đã bị tẩy chay nhiều lần từ cả hai phe đối địch. Nhưng về phía Trịnh Công Sơn, không thể phủ nhận rằng ông đã trở thành một tên tuổi đặc biệt nhờ vào dòng nhạc này.

       Cho đến nay, sau hơn 30 năm hòa bình, rất nhiều bài hát của ông vẫn còn bị cấm trình diễn tại Việt Nam, dù rất phổ biến (và được Khánh Ly phát hành băng nhạc) tại miền Nam trong thời chiến tranh Việt Nam (như bài Chính chúng ta phải nói hòa bình, Hát trên những xác người, Ta đi dựng cờ, Ta quyết phải sống)

Nhạc khác

       Ngoài các bản nhạc tình và nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn còn để lại những tác phẩm viết về quê hương: Chiều trên quê hương tôi, viết cho trẻ em: Em là hoa hồng nhỏ, Mẹ đi vắng, và cả những bài nhạc đỏ: Huyền thoại mẹ, Em ở nông trường - em ra biên giới, Nối vòng tay lớn, Ánh sáng Mạc Tư Khoa, Chưa mất niềm tin, Huế - Sài Gòn - Hà Nội... Trong đó nổi tiếng hơn cả là các bài "Em là hoa hồng nhỏ" và "Nối vòng tay lớn" - có thể nói rằng không một thanh thiếu niên Việt Nam nào lại không biết đến hai bài hát này. 

Thơ

       Có khá nhiều bài thơ (văn vần không được phổ nhạc) của ông hoặc được cho là của ông hiện đang được truyền tụng trên các diễn đàn.

Hội họa

       Cũng giống như đàn anh Văn Cao, Trịnh Công Sơn để lại khá nhiều tác phẩm hội họa, bút tích.

Một số trong đó hiện còn được lưu giữ và trưng bày tại Hội Ngộ Quán.

Vinh dự

Năm 1972, ông đoạt giải thưởng Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài "Ngủ đi con" (trong Ca khúc da vàng) qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly. Năm 1979, hãng đĩa Nippon Columbia mời Khánh Ly thu băng lần thứ nhì các nhạc phẩm của ông, cũng vào năm này ca khúc "Ngủ đi con" trở thành 1 hit ở Nhật Bản.

Giải thưởng cho Bài hát hay nhất trong phim "Tội lỗi cuối cùng"

Giải Nhất của cuộc thi "Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh" với bài "Em ở nông trường, em ra biên giới"

Giải Nhất cuộc thi "Hai mươi năm sau" với bài "Hai mươi mùa nắng lạ"

Năm 1997 ông đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhạc Sĩ cho một chuỗi bài hát: "Xin trả nợ người", "Sóng về đâu", "Em đi bỏ lại con đường", "Ta đã thấy gì hôm nay"

Trịnh Công Sơn có tên trong tự điển bách khoa Pháp Encyclopédie de tous les pays du monde (Coll. Les Millions)

Đóng góp cho điện ảnh

    * Diễn viên: phim "Đất khổ"    * Viết nhạc và bài hát cho phim:   1. Cánh đồng hoang[37]    * Nhạc và bài hát được sử dụng trong phim   1. Mùa hè chiều thẳng đứng   2. Công chúa teen và ngũ hổ tướng (bài "Để gió cuốn đi")    * Phim về Trịnh: Trịnh Công Sơn - sống và yêu của đạo diễn Lê Dân (Lê Hữu Phước)

 Tham khảo thêm

 

TÁC PHẨM ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG CỦA NHẠC SĨ TRỊNH -CÔNG SƠN


          Các ca khúc Sương đêm-Sao Chiều ,chơi vơi được TCS sáng tác khi ông 17 tuổi (ông sinh năm 1939 )nhưng tác phẩm được công bố đầu tiên là ca khúc "ƯỚT MI " viết vào năm 1958 và mãi sau ông mới nhờ Ca sĩ Thanh Thúy (sinh 1943 ) hát công chúng yêu nhạc mới biết....... ,chúng ta nghe trích đăng từ TCS

       Trong tác phẩm Về một quãng đời Trịnh Công Sơn (của Nguyễn Thanh Ty), nhạc sĩ tâm sự: “Năm đó tôi 17 tuổi, trọ học ở Sài Gòn, đêm nào tôi cũng lò dò đến vũ trường nghe Thanh Thúy hát. Dần dần hình bóng Thanh Thúy đã ăn sâu vào trong tôi lúc nào không biết. Nói yêu Thanh Thúy thì cũng chưa hẳn bởi tôi mặc cảm nghèo và vô danh, trong khi Thanh Thúy là một ca sĩ đang lên, kẻ đón người đưa tấp nập. Biết vậy, nhưng tôi không thể không đêm nào thiếu hình ảnh và tiếng hát của nàng. Có đêm tôi chỉ đủ tiền để mua một ly nước chanh. Đêm đêm tôi thao thức với những khát khao, mơ ước phải làm một cái gì đó để tỏ cho Thanh Thúy biết là tôi đang rất ngưỡng mộ nàng. Cái khát vọng đó đã giúp tôi viết nên bản nhạc Ướt mi đầu tiên trong đời...”.

       Đó là lần ngồi ở nhà hàng Mỹ Cảnh, chàng trai trẻ Trịnh Công Sơn đã viết vào một mảnh giấy nhỏ, đề nghị ca sĩ Thanh Thúy hát bài Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong. Điều chàng bất ngờ là Thanh Thúy đã hát bài này với một cảm xúc thật mãnh liệt, nhớ đến người mẹ bị lao phổi nặng, đang mỏi mòn chờ con trong căn nhà nhỏ ở con hẻm sâu - nàng đã bật khóc. Những giọt nước mắt đọng trên vành mi của người ca sĩ tuổi mới tròn trăng đã gieo vào lòng Trịnh Công Sơn nỗi xúc cảm tràn ngập để chàng viết thành ca khúc Ướt mi.

       “Khi hoàn thành, tôi nắn nót chép lại thật kỹ càng và luôn mang theo bên mình chờ có dịp tặng nàng. Với sự nhút nhát của tuổi trẻ, tôi không dám đưa tặng ngay mà phải chờ khá lâu mới có cơ hội. Một hôm tôi đánh bạo, tìm một chỗ sát sân khấu, dự định khi nàng vừa dứt tiếng hát là tôi sẽ đứng lên đưa luôn. Đã mấy lần định làm vẫn không kịp. Nàng vừa cúi đầu chào khán giả là đã có người chực sẵn rước đi ngay. Cái đêm định mệnh mà tôi quyết tâm an bài đã thành công. Khi cầm bản nhạc trong tay, nghe mấy lời lí nhí của tôi, nàng chỉ thoáng nhìn tôi một chút rồi quay vào hậu trường. Đêm đó, tôi nôn nao không ngủ được... Mãi đến hai tuần sau, khi tôi sắp tuyệt vọng vì mỏi mòn chờ đợi thì một đêm kia, khi bước lên bục diễn, dàn nhạc dạo khúc mở đầu thì nàng ra dấu cho dàn nhạc tạm im tiếng để nàng nói vài lời: “Thưa quý vị ! Đêm nay Thúy sẽ trình bày một tác phẩm rất mới của một nhạc sĩ rất lạ tặng cho Thúy. Đó là nhạc phẩm Ướt mi của tác giả Trịnh Công Sơn. Hy vọng đêm nay sẽ có sự hiện diện của tác giả để Thúy được nói vài lời cám ơn”. Nói xong, nàng quay sang ban nhạc, đưa bản nhạc của tôi cho họ dạo nhạc bắt đầu. Nàng cất tiếng hát: “Ngoài hiên mưa rơi rơi, lòng ai như chơi vơi. Người ơi nước mắt hoen mi rồi. Đừng khóc trong đêm mưa, đừng than trong câu ca.........."Tôi run lên trong lòng vì sung sướng và xúc động…Khi dứt tiếng hát, nàng dừng lại khá lâu, có ý chờ người tặng nhạc. Tôi thu hết can đảm, bước lên và nói: “Xin cám ơn Thanh Thúy đã hát bài nhạc của tôi”. Nàng “A” lên một tiếng ra vẻ bất ngờ rồi nói tiếp: “Thúy rất cám ơn anh đã tặng cho bản nhạc. Thúy muốn nói chuyện riêng với anh được không ?”. Tôi luống cuống gật đầu…Tôi cùng nàng đón taxi về nhà nàng. Nhà nàng ở sâu trong một ngõ hẻm...

       Cũng chính từ ngõ hẻm nhà nàng mà Trịnh Công Sơn làm tiếp bài Thương một người: “Thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi môi... Thương nụ cười và mái tóc buông lơi. Mùa thu úa trên môi, từng đêm qua ngõ tối, bàn chân âm thầm nói. Lặng nghe gió đêm nay, ngại buốt quá đôi vai. Bờ vai như giấy mới, sợ nghiêng hết tình tôi.

       Đó là hai bản nhạc trong “thuở vào đời” của Trịnh Công Sơn và những kỷ niệm thật đẹp với nữ ca sĩ Thanh Thúy.(Trích đăng )

       Và còn tác phẩm cuối cùng của TCS là gì ......?đó là ca khúc "Biển nghìn thu ở lại " chỉ có 6 dòng ,được TCS viết trên giường bệnh 

       Năm 2001, ca khúc Biển nghìn thu ở lại được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ký tặng cs Quang Dũng(TCS mất năm 2001), Quang Dũng đã chọn làm ca khúc chủ đề cho album đầu tay của mình

       Trải qua bao nhiêu năm ,chúng ta nhận thấy rằng ca khúc đầu tiên là ƯỚT MI là ca sĩ Thanh Thúy hát chứ không phải ca sĩ Khánh Ly (lúc đó còn nhỏ 13,14 tuổi;sau này Khánh LY mới thu âm) và ca khúc cuối cùng là "biển nghìn thu ở lại " là Quang Dũng hát (nghe cũng khá ),cũng chưa thấy ca sĩ Khánh ly hát bài này (ai có xin bổ sung ),Ca sĩ Khánh Ly hát hầu như tòan bộ các sáng tác của TCS nhưng giữa sáng tác đầu tiên và cuối cùng thì không phải là chị hát ở những thời gian này. 

Khánh Ly và Trịnh Công Sơn đã gặp nhau như thế nào?

       Năm 1964, tại Đà Lạt, Khánh Ly gặp một người nhạc sĩ nghèo. 

       Anh đến với cô bình thản như cơn mưa dầm của Đà Lạt vào đêm hôm đó. Qua vài câu chuyện, cô và nhạc sĩ trở thành hai người bạn. Người bạn ấy không ai khác, đó là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. 
Rất nhiều lần Trịnh Công Sơn đề nghị Khánh Ly về Sài Gòn đi hát với ông nhưng cô đều từ chối bởi cô yêu Đà Lạt, sự yên tĩnh thanh bình của Đà Lạt đã quyến luyến bước chân cô, không như Sài Gòn vốn đông người và luôn nhộn nhịp. Nhưng nếu tin vào định mệnh thì cuộc gặp gỡ của Khánh Ly và Trịnh Công Sơn tuy bình thản, giản dị là thế song đã trở thành định mệnh của cuộc đời Khánh Ly, là khoảnh khắc lịch sử không riêng của Khánh Ly mà còn của nền âm nhạc nước nhà.

       Bởi định mệnh nên đến năm 1967, như một sự tình cờ, Khánh Ly gặp lại nhạc sĩ Trịnh Công Sơn giữa giòng người đi lại trên đường Lê Thánh Tôn, Sài Gòn, vào một buổi chiều êm ả. Từ một đêm mưa của Đà Lạt đến một buổi chiều trên đường phố Sài Gòn, tất cả đã bắt đầu. Ngay chiều ấy, trên nền gạch đổ nát có một quán lá sơ sài được dựng lên với cái tên là Quán Văn. Ca sĩ Khánh Ly bắt đầu hát với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại đây.

Kể từ năm 1967, Khánh Ly chính thức đi hát với Trịnh Công Sơn. Khánh Ly và Trịnh Công Sơn đã có những buổi trình diễn ngoài trời cho sinh viên tại Quán Văn nằm trên bãi đất rộng sau trường đại học Văn Khoa Saigon. Qua giọng hát khàn đục và quyến rũ của Khánh Ly với những tình khúc và ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn đã làm bàng hoàng ngây ngất cả một thế hệ trẻ vào hai năm cuối của thập niên 60 và tiếp tục như thế ở những năm đầu của thập niên 70, đánh dấu sự thành công tuyệt đỉnh vinh quang của giòng nhạc Trịnh Công Sơn-tiếng hát Khánh Ly. 

       Sau đó, họ tiếp tục trình diễn khắp nơi trên đất nước Việt Nam và nhất là trong sân cỏ trường đại học - nơi Khánh Ly được mệnh danh là "Nữ Hoàng Chân Đất" hay "Nữ Hoàng Sân Cỏ".

Ba lần gặp gỡ đặc biệt với Trịnh Công Sơn của Khánh Ly

Khánh Ly nói mỗi lần gặp nhạc sĩ họ Trịnh đều hạnh phúc và nhiều tình cảm, trong đó có ba lần đáng nhớ nhất với bà.

Khánh Ly song ca với Hồng Nhung, Huyền Trân trong đêm nhạc Trịnh

Khánh Ly có mặt ở Hà Nội sáng 29/3 trong buổi gặp báo chí trước show diễn Đường xa vạn dặm kỷ niệm 15 năm ngày mất Trịnh Công Sơn. Bà chia sẻ mọi năm đến ngày giỗ nhạc sĩ, bà thường không làm gì mà chỉ nhớ trong lòng và cùng lắm là nhắc chồng về ngày đó. Năm nay, Khánh Ly cùng Hồng Nhung, Cẩm Vân - Khắc Triệu, Quang Dũng, ca sĩ nhí Huyền Trân sẽ đại diện các thế hệ hát nhạc Trịnh đứng chung sân khấu tưởng nhớ cố nhạc sĩ.

       Danh ca ôn lại nhiều kỷ niệm. Hỏi bà về những lần hội ngộ không thể quên trong đời với Trịnh Công Sơn, Khánh Ly cho biết lần gặp định mệnh là hồi 1964 trên Đà Lạt, lần thứ hai là ở Pháp năm 1988 và lần thứ ba là năm 2000 - trước khi Trịnh Công Sơn mất. "Mỗi một buổi như vậy trong lòng tôi đều bồi hồi, nhớ mãi. Dĩ nhiên, những buổi gặp không giống nhau nhưng đều quan trọng cả. Nó đánh dấu mỗi một chặng đường mình đi qua, làm cho mình nhớ lại nhiều điều trong suốt thời gian đã sống. Đối với tôi, kỷ niệm nào cũng đáng quý, cứ được gặp Trịnh Công Sơn là vui".

       Năm 1964, định mệnh đưa Khánh Ly gặp Trịnh Công Sơn để rồi nối dài mối duyên âm nhạc đã đi vào lịch sử. Trong cuốn sách Đằng sau nụ cười, bà viết: "Cứ tưởng đời sẽ mãi lêu bêu cho tới ngày cuối, nhưng nếu định mệnh là điều có thật thì điều đó đã đến với tôi một đêm mưa tại Đà Lạt. Dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng tròn, gọng đồi mồi, cặp mắt bồ câu, vầng trán cao, rộng, sống mũi thẳng, nụ cười đẹp tươi với chiếc răng khểnh. Người con trai đó nói với tôi bằng giọng Huế. Dân Đà Lạt đa số nói tiếng Huế nhưng hơi lai, nhưng Sơn là Huế 'chay'. Sơn với hai bàn tay gầy guộc, những ngón tay dài, tài hoa, tháp cho tôi một đôi cánh, xỏ vào chân tôi đôi hài bảy dặm. Cô bé Lọ Lem lột xác. Lột xác để từ một đoạn trường này bước sang một đoạn trường khác".

       Vài năm sau đó, Khánh Ly theo Trịnh Công Sơn lên Sài Gòn đi hát - từ đây "nữ hoàng chân đất" cất cánh và cả hai trở thành hình bóng trong âm nhạc. Năm 1975, Khánh Ly sang Mỹ định cư. Cuộc gặp đặc biệt thứ hai là năm 1988 tại Pháp. Đặc biệt bởi đây là lần đầu tiên họ tái ngộ kể từ khi Khánh Ly sang Mỹ, chứ không phải lần gặp ở Canada vào năm 1997 như nhiều người hay nhắc đến.

Khánh Ly kể bà không nghĩ gặp được nhau, bà đến Paris đi hát theo tour, Trịnh Công Sơn tình cờ cũng ở đó. Vì nhiều lý do, họ không dễ dàng gặp mặt. Thế nhưng, qua điện thoại, Trịnh Công Sơn khóc nói với Khánh Ly: "Anh đi nửa vòng trái đất mà chẳng lẽ anh em mình không gặp được nhau, mà nếu bây giờ không gặp thì bao giờ mới gặp". Nghe thế, Khánh Ly "thây kệ, mặc ai muốn nói gì thì nói" để đi gặp nhạc sĩ. Danh ca kể lúc đó có cả nữ giáo sư người Nhật Michiko và vài người bạn của họ. "Ông uống rượu, tôi uống nước, nói chuyện bình thường vậy thôi".

       Cuộc gặp gỡ đặc biệt thứ ba là năm 2000 - lần cuối cùng Khánh Ly được gặp Trịnh Công Sơn. Danh ca nói cô xin giữ cuộc gặp đó cho riêng mình, chưa thể kể. Ngày 1/4 một năm sau đó, Trịnh Công Sơn qua đời. Trong lần gặp gỡ cuối cùng, bà đã tiên đoán ngày Trịnh Công Sơn đi cũng không còn bao xa. Ngày được báo tin nhạc sĩ qua đời, nữ danh ca bị chấn động lớn nhưng bà sớm lấy lại tinh thần. Là người Công giáo, cũng như nhà Phật, bà tin ai trong đời sống này rồi cũng phải đi, không ai có thể sống đời được. Nếu tin vào giáo lý sẽ thấy lòng nhẹ. Khi biết mỗi người sinh ra đều có sẵn trong số mệnh một cõi đi về thì đi hay ở đều là lẽ vô thường của đời sống.

"Lòng mình đau thì mình biết thôi, vì từ nay mình không còn được nắm tay, ngồi cạnh người đó. Nhưng tôi biết nhiều năm sau này, tôi nhìn Trịnh Công Sơn vẫn trẻ như thế, như lúc ông ấy đi, mới chỉ có sáu mấy tuổi thôi chứ không phải một ông già hom hem", bà nói.

       Khánh Ly bày tỏ muốn giữ những hình ảnh đẹp nhất của người mình yêu thương khi còn sống. Quan niệm "những gì mắt ta không nhìn thấy lòng ta không có đau", bà cố gắng để không nhìn cảnh người thân lúc qua đời. "Tôi không nhìn thấy ông Trịnh Công Sơn nằm trong áo quan. Tôi cũng không chịu nhìn nhà tôi khi người ta kéo khóa túi đựng xác ông ấy". Khi chồng trút hơi thở cuối cùng, Khánh Ly đã quay mặt đi ngay, để giữ lại hình ảnh đẹp nhất của ông khi còn sống. Bà cũng bảo nếu thấy Trịnh Công Sơn nằm trong áo quan, hay nhìn chồng mình bị đưa vào nhà thiêu, có lẽ bà không sống nổi.

Nữ danh ca coi trọng lúc sống hơn lúc chết. Bà tiếc khi lần này về không được gặp nhạc sĩ Thanh Tùng. "Nhưng chảy nước mắt có giả dối quá không, tại sao đợi người ta chết mới khóc lóc. Lúc người ta sống, cho người ta một chút lòng. Mình làm được cái gì cho nhau thì làm đi, đừng có để cho cuộc đời lúc nào cũng ân hận, hối tiếc, tại sao, lẽ ra, không nên".

Cũng bởi thế mà lần trở về này, Khánh Ly mong muốn tìm đến những nhạc sĩ một thời gắn bó để thăm họ trước khi quá muộn. "Mọi điều sẽ đi qua đời sống này, nhưng những bài hát thì còn ở lại, mình phải mang ơn những người đó. Nếu không có nhạc sĩ thì ca sĩ làm sao có bài mà hát, làm sao có nữ hoàng, diva", danh ca khẳng định.

 

Khánh Ly: 'Tôi và Trịnh Công Sơn còn hơn cả tình vợ chồng'  Danh ca chia sẻ, mối quan hệ giữa mình và cố nhạc sĩ như cha và con gái.

Khánh Ly hát tưởng nhớ 15 năm ngày mất của Trịnh Công Sơn

Thanh Mai vui mừng hội ngộ danh ca Khánh Ly

Trở lại Hà Nội tham gia đêm nhạc kỷ niệm 15 năm ngày mất của Trịnh Công Sơn, Khánh Ly không khỏi bồi hồi. Nữ danh ca chia sẻ rằng, khi Trịnh Công Sơn còn sống, mỗi lần xuất hiện trên sân khấu hát nhạc của ông, bà luôn có cảm giác, ông đang ở Sài Gòn hoặc một nơi nào đó chờ đợi mình thông báo xem có hát tốt không, khán giả khán ứng thế nào. Bây giờ, dù ông đã đi xa 15 năm, nhưng bà vẫn có cảm giác đó và còn thấy ấm lòng hơn bởi được chia sẻ tâm trạng với nhiều khán giả.

Trong show Đường xa vạn dặm, diễn ra vào ngày 2/4 tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội, Khánh Ly mừng được hội ngộ với nhiều giọng ca gắn liền với nhạc Trịnh như Hồng Nhung, Cẩm Vân - Khắc Triệu, Ánh Tuyết, Quang Dũng, Huyền Trân... Bà bảo, nhìn vào dàn ca sĩ góp mặt cũng đủ thấy âm nhạc của Trịnh Công Sơn được mọi lứa tuổi, giới tính yêu mến. 

       Nhắc đến Hồng Nhung, 'cô Bống' từng được Trịnh Công Sơn ưu ái vào những năm 90, Khánh Ly giải thích rằng, giữa hai người không bao giờ có sự 'ghen tỵ' với nhau. "Chúng tôi không chia sẻ bằng lời nói, nhưng việc đi diễn chung, hát chung, ngủ chung một phòng, ăn chung một mâm cũng đủ nói lên tất cả sự đồng cảm của chúng tôi dành cho âm nhạc của ông Sơn. Sau tôi, ông Sơn thường đi cùng Thanh Hải để biểu diễn vào thập niên 80. Khi Thanh Hải không hát nữa, ông ấy tìm thấy Hồng Nhung. Tôi có nghe ông Sơn khen ngợi Hồng Nhung và tôi rất mừng bởi Nhung đã làm được điều mà tôi không thể giúp ông ấy. Dù thời điểm đó, tôi chưa biết Hồng Nhung thế nào, nhưng nghe nói về hình ảnh, phong cách, tôi thấy có một phần nào của mình trong Nhung".

Nữ danh ca khiêm tốn tự nhận mình không bằng 'cô Bống' từ ngay lúc khởi đầu nghiệp ca sĩ. Hồng Nhung được đào tạo bài bản qua trường lớp, riêng Khánh Ly thì bắt đầu bằng sự ngẫu nhiên. Bà vẫn nhớ lần đầu tiên gặp mặt Hồng Nhung, cả hai dường như đều thấy thân quen, chứ không hề xa cách như nhiều người vẫn nghĩ. 

       Khi hỏi Khánh Ly có thấy 'tổn thương' không bởi Trịnh Công Sơn từng viết riêng tặng Hồng Nhung một số nhạc phẩm, nữ danh ca cười. Bà nói, làm sao có thể bắt một nhạc sĩ chỉ sáng tác riêng cho một ca sĩ được. "Giới văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ yêu nhiều người lắm, tôi cũng vậy. Người như ông Sơn có thể yêu đến cả 100 người, nhưng đó là tình yêu thiêng liêng, đẹp và không có sự trần tục. Vì yêu như thế, ông ấy mới viết được nhạc. Ông Sơn không phải phù thủy âm nhạc như Phạm Duy, Văn Cao hay nhiều nhạc sĩ khác. Ông Sơn cũng không phải là người quá giỏi nhạc, nhưng ông có những cái mà người khác không có". 

       Vào dịp kỷ niệm ngày mất của nhạc sĩ họ Trịnh, Khánh Ly tâm sự rằng, bà không làm gì cả, có chăng chỉ nói với mọi người xung quanh rằng 'Hôm nay ngày giỗ của ông Trịnh Công Sơn'. "Khi nhớ về một người mà họ có vị trí quan trọng trong đời mình thì tôi nhớ cả đời, chứ không chỉ nhớ một ngày hoặc một giây phút nào đó. Với ông Sơn, tôi không phải đợi đến ngày 1/4 (ngày mất của Trịnh Công Sơn - PV) mới nhớ. Nhớ họ, không nhất thiết tôi phải khóc lóc, than thở, lăn lộn mà nhiều khi sự im lặng mới là tốt nhất. Hãy cứ nghĩ đến nhau trong im lặng".

       Được coi là người tri kỷ với Trịnh Công Sơn, Khánh Ly không thể quên khoảng thời gian vì hoàn cảnh xô đẩy, bà dạt sang Mỹ mà chưa kịp nói lời tạm biệt ông. Bà vẫn nhớ lần đầu tiên bà nói chuyện với Trịnh Công Sơn qua điện thoại. "Hai anh em nói chuyện vui lắm. Tôi hỏi 'Anh khỏe không?', bên kia trả lời 'Mai khỏe không?... vậy mà cũng kéo dài gần cả tiếng đồng hồ. Tôi chỉ nghe giọng nói thôi chỉ để biết rằng ông Sơn vẫn khỏe, còn sức để sáng tác và gặp gỡ bạn bè. Chúng tôi vậy thôi, đâu cần phải hỏi gì khác". 

Năm 1982, sau vài năm cách biệt, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly tình cờ gặp nhau ở Paris. Thời điểm đó, danh ca sang biểu diễn và cố nhạc sĩ cũng vậy. Bà kể rằng, lúc ấy, hai bên cứ nhìn nhau mà khóc. Dù muốn gặp lắm nhưng vì nhiều lý do, cả hai đều không dám. Nhưng khi giọng Trịnh Công Sơn nói qua điện thoại, Khánh Ly đã bất chấp để gặp mặt. "Anh ấy nói rằng: 'Anh đi nửa vòng trái đất mà chẳng lẽ anh em mình không gặp được nhau. Nếu không gặp bây giờ thì bao giờ mới gặp được nữa? Sau đó, tôi và ông Sơn cùng một số người bạn, trong đó có nghệ sĩ người Nhật Michiko cùng ngồi trong quán cafe. Ông Sơn uống rượu vang, tôi uống nước và cứ thế trò chuyện với nhau". 

       Năm 1997, Khánh Ly từng về nước thăm gia đình và giấu kín thông tin vì muốn dành cho Trịnh Công Sơn một sự bất ngờ. Thế nhưng, nhạc sĩ lại biết rõ lịch trình bà xuống sân bay giờ nào, đi cùng ai. Dịp ấy, nữ danh ca và chồng đã có buổi gặp gỡ Trịnh Công Sơn. 

Với riêng Khánh Ly, tình cảm giữa bà và Trịnh Công Sơn rất đặc biệt. "Nó cao lắm, lớn hơn cả tình vợ chồng, chứ không phải đôi lứa bình thường. Nếu là tình cảm giữa người đàn ông và người đàn bà thì xảy ra nhiều chuyện lắm. Nhưng chúng tôi không có gì vì giữa hai người tồn tại tình nghĩa như gia đình, cha con, không ai có thể lên án hoặc xuyên tạc nó được. Đó cũng là lý do tại sao tình cảm của chúng tôi lâu dài như vậy. Nếu tình cảm vợ chồng thì dễ vỡ đổ vì chắc gì vợ chồng ăn đời ở kiếp với nhau. Tình anh em cũng có lúc xích mích, mẹ con cũng có lúc hiểu lầm. Nhưng giữa tôi và ông Sơn không bao giờ có giận hờn. Những người đàn bà yêu ông Sơn nếu có ghen với tôi thì tôi không biết, mà có lẽ họ không dám ghen vì họ biết tôi dữ lắm". 

       Nữ danh ca kể, cách quan tâm giữa bà với cố nhạc sĩ cũng khác thường. Trịnh Công Sơn chỉ lặng lặng theo dõi bà và bà cũng vậy. Nếu gặp chuyện buồn trong tình cảm hay gia đình, bà không chia sẻ với ông. Mỗi lần hai người gặp nhau, họ chỉ đàn hát vui vẻ. Bà quan niệm rằng, nếu hai người biết nỗi khổ của nhau thì cũng đâu có thể giúp đỡ hoặc đưa ra quyết định gì cho cuộc đời nhau. "Ông Sơn rất tế nhị và tôi cho đó là sự tế nhị nhất, khi không xen vào cuộc đời của nhau", bà nói. Không ít lần, cả hai ngồi cạnh nhau cả tiếng đồng hồ nhưng chỉ im lặng, không nói gì. Vậy mà, cả hai vẫn hiểu. 

       Vài năm gần đây, Khánh Ly vướng mâu thuẫn với gia đình Trịnh Công Sơn, trong đó, em gái cố nhạc sĩ - bà Trịnh Vĩnh Trinh từng bức xúc vì nữ danh ca không trả tiền tác quyền khi sử dụng các tác phẩm của anh trai mình. Khánh Ly bày tỏ rằng, nếu tính ra tiền tác quyền thì với bà, bao nhiêu cũng không đủ để trả cho Trịnh Công Sơn. "Tôi không thản nhiên đi trên hoa gấm, nhung lụa vì những điều ông Sơn cho. Tôi vất vả lắm để giữ được nhạc của ông Sơn cho đến bây giờ. Sinh hoạt văn nghệ ở hải ngoại khác với trong nước, nhưng tôi không kể khổ. Khi nhận những gì ông Sơn cho, tôi có trách nhiệm phải bảo vệ nó. Cả đời này tôi mang ơn ông Sơn và đến giờ trả chưa hết, chứ nói gì đến vấn đề tác quyền. Với ông Sơn, chỉ cần tặng một bông hoa thôi ông cũng vui rồi. Ông Sơn không có quan tâm đến tiền đâu".

Nữ danh ca cho biết thêm, chưa bao giờ Trịnh Vĩnh Trinh hay bất cứ người thân nào trong gia đình Trịnh Công Sơn thắc mắc trực tiếp với bà về chuyện trả tiền tác quyền. Bà bảo: "Họ biết những gì tôi làm. Ông Sơn hài lòng về tôi, chấp nhận tôi cho đến cuối đời, điều đó có nghĩa, tôi chưa làm gì sai với ông ấy".

       Hôm nay, 1.4, đúng 15 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Người yêu mến ông ở những bầu trời khác nhau đều nhớ ông, và chắc chắn trong số đó có nữ ca sĩ Khánh Ly.

Lần đầu tiên tôi gặp Khánh Ly ngoài đời là ngày bà về Hà Nội chuẩn bị cho liveshow Gọi tên bốn mùa hồi tháng 5.2015. Chúng tôi có nói chuyện điện thoại với nhau trước liveshow một ngày, bà gọi tôi là em, xưng cô. “Em nói to lên, cô nghe không rõ. À, cô đang rửa ít khoai lang để luộc. Khoai lang, xôi ngô, sở trường của cô đấy”, đó là những từ đầu tiên chúng tôi nói với nhau.

       Tôi và Khánh Ly còn nhiều cái “đầu tiên” khác. Lần gặp gỡ đầu tiên, tôi gặp Khánh Ly ở phòng chờ nhà hát, 1 giờ đồng hồ trước khi “Gọi tên bốn mùa” bắt đầu. Bà ôm tôi, một cái ôm rất chặt, “Em, em đã ăn tối chưa?”.

       Lần đầu tiên tôi đón Khánh Ly ở sân bay là ngày bà về Việt Nam, chuẩn bị cho đêm nhạc Cúi xuống thật gần tại Đà Nẵng, thế nhưng bà đáp máy bay xuống Hà Nội sớm hơn mấy ngày, bà muốn đến thăm con đường mới được gắn biển tên: đường Trịnh Công Sơn.

Tôi vẫn còn nhớ, ngày hôm đó Khánh Ly mặc một bộ đồ màu trắng, chiếc dây buộc tóc cũng màu trắng. Tôi, anh tài xế và ca sĩ Quang Thành - người trợ lý của bà - chậm rãi bước sau, Khánh Ly đi trước, rồi đứng dựa lưng vào một tấm biển tên đường, mắt rạng ngời nhìn về hàng cây bằng lăng đang trổ hoa tím ngắt. “Cô mừng lắm, hạnh phúc lắm. Cô đã được đi trên đường Trịnh Công Sơn ở Huế, ở Sài Gòn, và bây giờ là Hà Nội. Ông Sơn xứng đáng được yêu thương nhiều như thế”. 

       Trịnh Công Sơn và Khánh Ly có phải người tình của nhau không? Nhiều người hỏi, bao nhiêu năm qua, và lần nào về nước, cũng có phóng viên hỏi bà về tình cảm thật sự giữa bà và cố nhạc sĩ tài hoa. Nhẫn nại và nhân hậu, dịu dàng và thân tình, bà lắc đầu: “Giữa tôi và ông Sơn không phải là tình yêu”, “Nói Trịnh Công Sơn yêu tôi thì tội cho ông ấy quá”; “Ông Trịnh Công Sơn tôi xem như người thầy, người anh. Cha tôi cho tôi hình hài, ông Sơn cho tôi cuộc sống và một cái tên đối với đời”, “Tôi biết ông Sơn không yêu ai hết. Ông Sơn chỉ yêu một người là mẹ của ông. Đó là tình yêu duy nhất”…

Tôi vẫn nhớ, tôi từng hỏi Khánh Ly, lần bà về thăm lại Đà Lạt hồi tháng 9.2015, cảm xúc của bà như thế nào khi về lại chốn xưa, nơi bà khởi nghiệp ca hát ở phòng trà Anh Vũ và là nơi định mệnh để lần đầu tiên bà gặp Trịnh Công Sơn.

       Khánh Ly im lặng vài giây rồi nở một nụ cười rất nhẹ: “Đi đâu tôi cũng gặp lại những hình ảnh trong quá khứ. Phong cảnh có thể không còn như xưa, nhưng tôi vẫn mường tượng ra góc này, tôi, ông Sơn và các bạn cùng hát say sưa, nơi kia tôi từng nằm những gốc thông, ngửa mặt nhìn bầu trời đầy háo hức ”.

Khánh Ly sinh ra ở Hà Nội nhưng chỉ ở đó đến năm 9-10 tuổi, ký ức về thành phố này còn mờ nhạt. Đà Lạt thì khác, là tuổi trẻ, là khát vọng, đam mê. Bà say và yêu nhạc của Trịnh Công Sơn đến mức bỏ cả phòng trà Anh Vũ với thu nhập ổn định để theo ông Trịnh Công Sơn về Sài Gòn, hát cho sinh viên nghe, không một đồng thù lao, nhưng đó là những ngày rực rỡ nhất của tuổi thanh xuân.

       Bố tôi bảo, Khánh Ly là người hát nhạc Trịnh Công Sơn hay nhất, riêng nhạc Trịnh, bố tôi chỉ nghe bà hát. Tôi không phải là một người mê đắm nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi cũng tự nhận mình không phải là một người sành nhạc Trịnh để cảm được hết những ẩn ý, những triết lý sâu xa trong mỗi ca khúc của ông.

       Tôi chỉ nhớ, hồi năm 14 tuổi, từng bảo bố tua đi tua lại bài Người già em bé, Huế - Sài Gòn - Hà Nội. Năm 16 tuổi, tôi cùng chúng bạn hát vu vơ Ngẫu nhiên. Năm 20 tuổi, có khi trong cả một buổi sáng, máy nghe nhạc chỉ phát đi phát lại Nhớ mùa thu Hà Nội và đến năm 22 tuổi, vừa nghe Mưa hồng đã thấy nước mắt rơi trong một buổi chiều thấy mình rất cô đơn.

       Giờ này, bên Nam California, Khánh Ly đang làm gì? Tôi đoán nếu không cùng các sơ đi thăm các em nhỏ ở trại trẻ mồ côi, thì ở nhà riêng, chắc bà đang xem cây rau ngót có bị sâu ăn, cây khế đã trổ hoa, vại dưa cà đã lên men. Biết đâu, sớm 1.4, người phụ nữ vừa múc gầu nước từ chiếc giếng khơi trong vườn nhà để khỏa lên đôi mắt đã rưng rưng. Đã 15 năm, ông Trịnh Công Sơn về nơi cát bụi… 

Lần đầu đứng trên sân khấu

       Trước ngày tôi theo mẹ di cư vào nam, thành phố Hà Nội tưng bừng với một hội chợ lớn. Tôi không nhớ rõ là do ai tổ chức, hình như do người Pháp thì phải. Bởi lúc đó, người Hà Nội không gọi là hội chợ mà gọi là Kermesse. Cũng như tất cả các hội chợ ngày nay, với đủ tất cả trò chơi cho trẻ con và người lớn, tôi nhớ một sân khấu nhỏ được dựng lên cho một cuộc thi hát, kiểu tuyển lựa ca sĩ bây giờ.

Lúc đó tôi được 9 tuổi. Mẹ ở xa, bà nội tôi thì hoàn toàn không biết gì về cái gọi là Kermesse bởi bà tôi vốn chân quê, không biết chữ. Làm sao tôi lọt được vào trong, tôi đi với ai, một thằng nhỏ cùng phố tên Đồng, và làm cách nào tôi có thể leo lên sân khấu để... hát. Hôm đó tôi hát bài Thơ ngây. Tôi không biết tác giả là ai vì tôi học lóm từ những cửa hàng trên con phố Hàng Bông những ngày cuối tuần trên đường từ nội trú về nhà bà nội. Tôi chẳng được giải gì cả.

       Sau đó tôi vào Sài Gòn. Một Sài Gòn thật xa lạ đầy quyến rũ với các ly đá nhân si rô xanh, đỏ và tờ giấy một đồng xé làm hai mà vẫn xài được, mỗi nửa gọi là năm cắc. Năm 1956, dượng tôi nhận việc tại Đà Lạt, gia đình chúng tôi ở khu Chi Lăng, trước đó được gọi là Saint Benoit, nơi đó có những biệt thự được xây cất giống hệt nhau. Gia đình tôi ở căn đầu tiên cạnh con đường đất nhỏ đưa đến hồ Chi Lăng.

Lúc đó, tôi không biết đọc tiếng Việt nên không đọc báo nhưng do đâu mà tôi biết được là ở Sài Gòn có một cuộc tuyển lựa ca sĩ nhi đồng và ai là người ghi tên cho tôi, thú thật tôi không nhớ. Song nhiều phần là ở bác tôi, bác Tuất, là chị ruột của mẹ tôi. Bác trai là nhạc sĩ, bác sử dụng trompet hình như trong ban quân nhạc ở Hà Nội. Chị ruột tôi cũng hát, tên chị là Lệ Yến, hai người chị họ con bác Tuất cũng hát...

       Nghĩ lại là nhiều phần tôi đã nhờ gia đình bác Tuất ghi tên cho tôi đi dự cuộc tuyển lựa ca sĩ nhi đồng khoảng cuối năm 1956. Làm thế nào mà một con bé mới 11, 12 tuổi dám làm quen và xin quá giang một xe chở bắp cải về Sài Gòn, tôi nằm ngủ còng queo phía sau với những chiếc bắp cải, rồi từ bến xe tôi tới nhà bác tôi. Ai cho tôi tiền để ăn dọc đường và về tới nhà bác Tuất, tôi không thể nhớ nổi.

Nơi có buổi tuyển lựa hôm đó là rạp Norodom do Đài Pháp Á tổ chức. Tôi ghi danh với tên thật là Lệ Mai. Bài hát tôi chọn là bài Từ giã kinh thành nhưng bị bác. Lý do tôi còn nhỏ quá để hát một bài quá buồn, chỉ dành cho người lớn... Ban giám khảo cho tôi hát bài Ngày trở về của nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi mặc cái quần sọc trắng, cái áo sơ mi ca rô của anh tôi, cắt tóc tém như con trai và tôi hát. Và tôi chiếm hạng nhì sau thần đồng Quốc Thắng.

       Sau buổi hát, bác Tuất gái bắt tôi phải về Đà Lạt ngay, mẹ và dượng tôi đang nổi trận lôi đình với đứa con gái bất trị gan liền tướng quân. Tôi lại ra bến xe rau tìm đúng ông tài xế tốt bụng, nằm co ro sau xe giữa đống hàng hóa cần chuyển từ Sài Gòn về Đà Lạt. 

Ảnh hưởng từ bố

       Không cần phải kể lại, bất cứ ai trong chúng ta cũng biết cách trừng phạt con cái ngày xưa ở Việt Nam. Tôi chui xuống rãnh nước cạnh nhà ngồi khóc. Lúc đó tôi mới khóc, không phải vì đau mà là tủi, tôi nhớ bố tôi, ông đang ở đâu, còn sống hay đã chết như mẹ nói. Ông rất yêu tôi, ông sẽ không bao giờ đánh tôi vì chính ông đã từng ôm tôi và hát. Ông đánh đàn mandoline hát bài Chiều vàng của Nguyễn Văn Khánh, Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong. Bố tôi chưa bao giờ đánh tôi, ông sẽ không bao giờ. Trái tim non dại của tôi không ngớt vang lên tiếng gọi xót xa... Bố ơi... Bố ơi...

Tôi chỉ thần tượng bố tôi, thế cho nên những điệu nhạc, những lời bài hát đã từ lúc nào xuyên vào tim tôi và ở lại đó. Tôi yêu tiếp những gì mà bố tôi đã yêu, trên hết là nhạc, bởi qua nhạc tôi như nhìn lại khuôn mặt của bố mình mà tôi biết rằng trên cõi thế, chẳng bao giờ tôi còn có thể gặp lại ông nữa. Ở một nơi nào đó, chắc bố tôi cũng không nghĩ rằng những bài tình ca ông hát trên bước đường ly loạn đã vô tình trở thành định mệnh. Một định mệnh đẹp đẽ nhưng nghiệt ngã dành cho đứa con gái xấu xí ông yêu thương nhất.

Những tình khúc người ta gọi là Tiền chiến đã gắn liền với tôi trong suốt năm năm trời ở Đà Lạt và sẽ mãi mãi về sau. Tôi vẫn luôn thắc mắc tự hỏi ở thời buổi loạn lạc, nhiễu nhương, thiếu thốn đói khổ, bằng vào những nguyên tố nào, các nhạc sĩ lại có thể gửi lại cho đời sau những tình khúc đẹp đẽ, trong sáng, lãng mạn mà vẫn thánh thiện. Một nét đẹp không hề vương một chút đời thường... 

 

Nhạc Sĩ Anh Bằng

 Khi nhắc đến nhạc sĩ Anh Bằng, thì bất kỳ người yêu nhạc nào cũng biết và yêu mến người nhạc sĩ đại thụ của nền âm nhạc Việt Nam. Ngoài những ca khúc tuyệt tác của dòng nhạc vàng, nhạc trữ tình ông còn viết kịch khi ông trong ban kịch Liên đoàn Công binh lưu diễn từ Quảng Trị vào Bình Định. Những vở kịch nổi tiếng mà ông soạn là Đứa Con Nuôi, Lẽ Sống, Nát Tan và Hoa Tàn Trên Đát Địch. Là một nhạc sĩ đa tài Anh Bằng còn phổ nhạc cho rất nhiều bài thơ để lại cho đời nhiều ca khúc hay nổi tiếng cho đến nay như Anh biết em đi chẳng trở về (thơ Thái Can), Chuyện giàn thiên lý (bài thơ Nhà tôi của Yên Thao), Hoa học trò (thơ Nhất Tuấn), Hồi chuông xóm đạo (thơ Kiên giang), Khúc thụy du (thơ Du Tử Lê), Người Thương Binh (thơ Thái Tú Hạp), Chuyện Hoa Sim (bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan). “Màu tím hoa sim” là một bài thơ rất nổi tiếng của nhà thơ Hữu Loan được sáng tác vào năm 1949 khi người vợ đầu tiên của ông mất, lúc này thi sĩ đang trên đường trên đường đi hành quân, nghe tin dữ ông quá đau lòng và viết nên những khổ thơ bất hữu.

Nhạc sĩ Anh Bằng được biết đến là một nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc vàng trước năm 1975 và nhạc hải ngoại. Ông là một trong ba người trong nhóm nhạc Lê Minh Bằng, đồng thời ông cũng là người sáng lập nên trung tâm Asia. Anh Bằng иổi tiếng là một nhạc sĩ với số lượng sáng tác đồ sộ khoảng 650 tình khúc, trong đó có rất nhiều ca khúc đi vào lòng người. Những sáng tác của ông từng được nhiều ca sĩ thể hiện rất thành côɴԍ như: Tuấn Ngọc, Quang Dũng, Lệ Quyên… Năm 1969, Anh Bằng cùng hai nhạc sĩ Lê Dinh và Minh Kỳ thành lập nhóm Lê Minh Bằng.

Ngoài các hoạt động cùng nhóm Lê Minh Bằng, Anh Bằng còn kinh doanh 2 quán cà phê Làng Văи khá иổi tiếng ở Sài Gòn lúc bấy giờ, đồng thời ông còn là chủ của một côɴԍ ty nhỏ với vài chiếc xe đò lớn chạy tuyến Sài Gòn – Đà Lạt do ông cùng một người em của mình hùm vốn và trông coi quản lí.

Ngày 12 tháng 11 năm 2015, cố nghệ sĩ Anh Bằng trút hơi thở cuối cùng tại tư gia ở quận Cam, tiểu bang California, Hoa Kỳ sau 8 năm chống chọi với căи вệин ung thư gan, để lại bao tiếc thương cho giới mộ điệu âm nhạc.

Lời ca khúc “Chuyện Hoa Sim” và sheet nhạc chuẩn nhất

Chuyện hoa sim là một ca khúc buồn kể về chuyện tình ly biệt của người lính chiến và cô vợ ở nhà, ca khúc đượm buồn đã làm nhiều khán thính giả nghe nhạc phải rơi lệ thương tiếc cho một chuyện tình xa cách. Mỗi khi nghe ca sĩ Như Quỳnh cất tiếng hát “Rừng hoa đẹp nhất hoa màu tím….” là lòng tôi như thắt lại. Cảm thương cho số phận cô gái đã tìm được bến đỗ vững trải, thế mà vẫn không được hạnh phúc trọn kiếp cùng người mình yêu thương nơi mà cô gửi gắm tấm thân mỏng manh này. 

Lời ca khúc “Chuyện Hoa Sim”

Rừng hoang đẹp nhất hoa màu tím
Chuyện tình thương nhất chuyện hoa sim
Có người con gái xuân vời vợi
Tóc còn ngăn ngắn chưa đầy búi

Ngày xưa nàng vẫn yêu màu tím
Chiều chiều lên những đồi hoa sim
Đứng nhìn sương tím hoang biền biệt
Nhớ chồng chinh chiến miền xa xăm

[ĐK:]
Ôi lấy chồng chiến binh
Lấy chồng thời chiến chinh, mấy người đi trở lại
Sợ khi mình đi mãi, sợ khi mình không về
Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em nhỏ hậu phương
Mà chết người em gái tôi thương

Đời tôi là chiến binh rừng núi
Thường ngày qua những đồi hoa sim
Thấy cành sim chín thương vô bờ
Tiếc người em gái không còn nữa

Tại sao nàng vẫn yêu màu tím
Màu buồn tan tác phải không em
Để chiều sim tím hoang biền biệt
Để mình tôi khóc chuyện hoa sim.

Sheet nhạc của ca khúc “Chuyện Hoa Sim”

 

Lam Phương – Nhạc sĩ tài hoa nhưng lận đận trong tình duyên và sự nghiệp

 Lam Phương – người nhạc sĩ tài hoa, tiêu biểu của nền tân nhạc Việt Nam, với hơn 200 tác phẩm thuộc nhiều thể loại, nhiều nội dung khác nhau, có thể nói ông đã dùng cả cuộc đời của mình để gắn bó với âm nhạc và quê hương bên cạnh những bài ca về tình yêu đặc sắc khác. Những ca khúc để đời của ông như: Kiếp nghèo, Đèn khuya, Ngày hạnh phúc, Chuyến đò vĩ tuyến, Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Thành phố buồn,.. cho đến ngày nay vẫn được khán thính giả yêu mến và được nhiều ca sĩ trình bày.

Nhạc sĩ Lam Phương tên thật là Lâm Đình Phùng, ông sinh 20/03/1937 tại làng Vĩnh Thanh Vân, quận Châu Thành, tỉnh Rạch Giá ( hiện nay là thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang) trong một gia đình có 6 anh em, và theo cách gọi miền Nam thì Lâm Đình Phùng là anh hai, tức là con trai lớn trong nhà. Cha của Lam Phương là ông Lâm Đình Chất gốc hoa, mẹ là bà Trần Thị Nho, một thôn nữ nghèo. Ông trải qua một tuổi thơ đầy đau buồn và bất hạnh. Nhà nghèo, cha ông không chịu được cảnh cơ cực và phải lòng người phụ nữ khác nên đã đi theo tiếng gọi của tình yêu mới, bỏ lại 6 đứa con thơ dại cho người vợ không nghề nghiệp ổn định chăm nom. Thiếu đi trụ cột của gia đình, mẹ của ông một mình đầu tắt mặt tối, tất tả ngược xui trên sông, lúc làm mướn, khi thì bán buôn để kiếm tiền nuôi bầy con còn thơ dại. Bởi vậy trong tâm trí ông, luôn hiện hữu hình ảnh người mẹ chịu thương chịu khó, luôn gánh vác mọi việc để lo cho các con. Sau này trong một bài phỏng vấn ông từng chia sẻ: “ Tôi thương má tôi lắm! Má tôi mơ ước cái nhà che nắng mưa. Chỉ có vậy mà tôi làm cật lực, làm chết bỏ để có tiền mua nhà cho má”. Người mẹ tảo tần giữa buổi loạn ly vẫn không lo được đầy đủ những bữa no cho các con, nói chi cho con đặt chân đến những ngôi trường Tây trong vùng. Vì vậy, dù rất khát khao được đi học nhưng Lam Phương cùng các em khó lòng được thỏa nguyện. May sao ông được một người dượng phía ngoại là thầy giáo Phan Văn Mỹ từng dạy tại trường Tiểu học Vĩnh Lạc, Rạch Gía đã bảo bọc, lo cho ông đi học để “ đặng biết đọc biết viết với thiên hạ”. Chính nhờ vậy mà ông mới có thể học chữ một cách bài bản.

Năm 10 tuổi, ông được mẹ gửi lên Sài Gòn, nương nhờ ở nhà bác ruột để được tiếp tục đi học và sớm có thể kiếm tiền phụ giúp gia đình, đỡ đần cho mẹ. Ngoài giờ đến trường, ông thường lân la các lớp dạy nhạc để nghe trộm những thanh âm luôn khiến ông bị cuốn hút. Niềm đam mê thực sự với âm nhạc của ông đã khiến một người thầy dạy nhạc thương cảm và đã cho ông được học miễn phí. Không phụ sự chỉ bảo tận tình và sự kỳ vọng của người truyền nghề nhân hậu, Lam Phương tiếp thu rất nhanh, không chỉ chơi đàn điệu nghệ mà còn tập tành sáng tác. Ngoài ra, ông còn may mắn được nhạc sĩ Hoàng Lang và nhạc sĩ Lê Thương chỉ dẫn.

Năm 15 tuổi, ông viết ca khúc đầu tay “Chiều thu ấy” và lấy bút danh là Lam Phương. Bút danh Lam Phương là do ông lấy từ hai chữ trong tên thật của mình là Lâm và Phùng với ý nghĩa “hướng về phương trời màu xanh hy vọng”. Ca khúc được bạn bè tán thưởng, nhưng Lam Phương vẫn chưa biết cách đưa sáng tác của mình ra công chúng. Sau nhiều lần suy nghĩ đắn đo, Lam Phương quyết định vay tiền để in ca khúc “Chiều thu ấy” dưới dạng những tờ nhạc và ông mang đi bán dạo. Nhưng không ai ủng hộ một kẻ còn vô danh, Lam Phương thua lỗ nặng. Không nản chí, ông tiếp tục vay tiền để in những ca khúc mới của mình. Mãi đến năm 1954, ca khúc “Khúc ca ngày mùa” ra đời, lúc này bài hát do ông sáng tác mới thực sự tạo được tiếng vang, giúp Lam Phương thanh toán hết nợ nần. Bài hát “Khúc ca ngày mùa” còn được hầu hết các trường học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long chọn để dạy cho học trò ca múa.

Cũng trong năm 1954, ông nổi danh với bài hát “Kiếp nghèo”. Lần đầu tiên nghe bài “ Kiếp nghèo” của Lam Phương, thế hệ nhạc sĩ đàn em và cũng là học trò của nhạc sĩ Lê Thương đã phải thốt lên trầm trồ “ Người ta chỉ có thể dạy nhau kỹ thuật âm nhạc. Không ai có thể dạy nhau nghệ thuật sáng tác được. Cảm xúc mới là thứ quan trọng nhất để làm nên bản nhạc”. Về hoàn cảnh sáng tác ca khúc “ Kiếp nghèo” nhạc sĩ Lam Phương chia sẻ: “ Tôi viết Kiếp nghèo trong hoàn cảnh hoàn toàn thật của tôi lúc đó. Viết bằng rung động chân thành, và lần đầu tiên tôi viết bài Kiếp nghèo bằng những dòng nước mắt …Lúc đó tôi còn trẻ lắm, khoảng 1954, sau khi tôi bán được bài Trăng thanh bình đầu năm 1953, tôi đã dành được một số tiền, mua một chiếc xe đạp để di chuyển đến trường.  Nhà tôi ở Đakao. Thường thường, muốn về Đakao phải đi qua con đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) con đường Phan Thanh Giản cây cối um tùm. Khoảng ngang trường Gia Long không có một căn nhà nào… Đêm đó tôi chẳng may gặp một trận mưa rất to, không có nơi để trú mưa, đành phải đi dưới mưa để “tìm thú đau thương”. Lúc đó tôi thấy mình thật cô đơn, bé nhỏ và hình như bị đời ruồng rẫy đến vô tình. Tôi đi mãi đến khi về nhà, không kịp thay quần áo, tôi ôm cây đàn và cứ thế viết về kiếp nghèo, về phận bạc của mình”.

Lam Phương mất một tuần để chỉnh sửa lời và giai điệu cho bài hát này trước khi công bố ra công chúng qua nhà xuất bản Tinh hoa miền nam. Trong giai đoạn này ông còn tung ra các ca khúc khác như:  Nhạc Rừng Khuya, Khúc Ca Ngày Mưa, Đoàn người lữ thứ, Nắng Đẹp Miền Nam v.v…

Năm 1958, Lam Phương nhập ngũ. Thời ấy, thanh niên đi quân dịch chỉ có một năm bởi vì nghĩa vụ quân sự trong thời bình. Tại quân trường, ông viết “Bức Tâm Thư”, hô hào thanh niên sốt sắng đi quân dịch. Ngày ra quân ngũ, ông sáng tác thêm 2 bản nhạc nổi tiếng khác là “Tình Anh Lính Chiến” và “Chiều Hành Quân”.

Khi trở về đời sống dân sự, Lam Phương tiếp tục sáng tác và tự xuất bản các tác phẩm của mình. Nhạc của ông có sức phổ biến rộng rãi, là một trong những nhạc sĩ thành công nhất ở miền Nam lúc bấy giờ.

Cũng trong thời gian đó, nhạc sĩ Phạm Duy đang phụ trách trung tâm Quốc Gia Điện Ảnh, nghe tiếng Lam Phương, Phạm Duy gọi ông đến và giới thiệu với đạo diễn Lưu Bạch Đàn để Lam Phương đóng vai chính trong phim “Chân Trời Mới” bên cạnh nữ tài tử Mai Ly và kịch sĩ lão thành Vũ Huân. Ngoài ra ông còn tham gia thêm bộ phim “ Niềm tin mới”.

Khi tên tuổi Lam Phương được hầu hết mọi người biết đến và khi đã có sự nghiệp vững chắc, ông lập gia đình với kịch sĩ – ca sĩ Túy Hồng. Thời gian đó, ông cho ra đời nhiều tác phẩm vui tươi điển hình nhất là ca khúc “Ngày hạnh phúc”. Bài hát được chọn làm nhạc hiệu của Chương Trình Gia Binh thuộc Đài Phát Thanh Quân đội và được người dân hát rất nhiều trong các đám cưới. Cũng từ đó ông đảm trách thêm công việc viết nhạc nền cho ban kịch Sống – Túy Hồng, hàng loạt ca khúc đặc sắc ra đời như: Thu Sầu, Nghẹn Ngào, Trăm Nhớ Ngàn Thương, Phút Cuối, Ngày Buồn v.v…

Khi tình hình chiến sự miền Nam phức tạp, Lam Phương được gọi tái ngũ. Ông trở lại quân doanh và gia nhập Ban Văn Nghệ Bảo An (Địa Phương Quân). Sau khi ban này giải tán, ông chuyển qua ban văn nghệ Hoa Tình Thương. Rồi Hoa Tình Thương sau cũng giải tán và biến thành Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương, nơi Lam Phương cộng tác cho đến ngày Sài Gòn thất thủ.

Trong khoảng thời gian này, Lam Phương sáng tác nhiều thể loại rất phong phú, đặc biệt hầu hết các ca khúc mà ông đưa ra đều được công chúng đón nhận nồng nhiêt, điển hình như: Chờ Người, Tình Bơ Vơ, Duyên Kiếp, Thành Phố Buồn, Tình Chết Theo Mùa Đông v.v… giúp ông trở thành một nhạc sĩ thành công nhất Việt Nam về mặt tài chính.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông và gia đình lên tàu Trường Xuân để di cư sang hải ngoại, nhưng do không chuẩn bị trước nên ông không kịp mang theo tài sản gì. Ông đến định cư tại Virginia, Hoa Kỳ, sau đó lại chuyển về Texas, rồi California.

Công việc đầu tiên ông làm khi sang hải ngoại là lau sàn nhà và cọ cầu tiêu trong hãng Sears! Rồi chuyển sang làm thợ mài, thợ tiện, bus boy. Tuy vậy, nhưng cứ mỗi cuối tuần ông vẫn cố gắng thuê một nhà hàng, biến thành phòng trà ca nhạc để đồng hương có chỗ gặp mặt và để chính ông cùng Túy Hồng đỡ nhớ sân khấu. Nghề này, kiếm tiền không có bao nhiêu mà còn sau một khoảng thời gian ngắn, ông phát hiện ra người bạn đời không còn thủy chung với ông nữa. Ông cay đắng cố gắng hàn gắn nhưng không được. Ông biết rõ cái thế của ông đã mất hẳn từ khi sang hải ngoại, bởi tiền bạc, danh vọng đều chỉ còn là quá khứ. Nỗi đau của cuộc tình tan vỡ trên đất khách đã trở thành nguồn động lực khiến ông sáng tác ra các bản nhạc rất bi thương như: Điên, Mất, Tiếc…, trong đó có một bài nổi tiếng nhất là ca khúc mang tên “Lầm” : “Anh đã lầm đưa em sang đây. Để đêm trường nghe tiếng thở dài. Thà cuộc đời im trong lòng đất…” 

Sau cuộc hôn nhân tan vỡ, Lam Phương rời Hoa Kỳ sang Paris, xin vào làm công việc đóng gói quét dọn cho một tiệm tạp hóa. Cũng tại đây, ông gặp lại ông bà Tô Văn Lai, chủ nhân Trung tâm băng nhạc Thúy Nga, vốn đã quen biết với ông lúc còn ở Sài Gòn từ trước năm 1975. Tuy nhiên lúc ấy Thúy Nga cũng còn quá nghèo, chỉ sang lại những băng cũ mang theo từ Việt Nam, nên không có việc gì cho Lam Phương làm.

Nhạc Sĩ Lam Phương và cô học trò Túy Hồng

Ông lại tiếp tục lầm lũi sống cho qua ngày ở Paris, mãi cho đến khi ông bất ngờ có một tình cảm mới. Một người phụ nữ rất đẹp đã đến với trái tim ông, giúp ông xóa đi những ngày tháng tăm tối vừa qua. Nhờ ngã rẽ ấy, ông lại có cảm hứng sáng tác ra một loạt ca khúc chan hòa niềm vui như: Mùa Thu Yêu Đương, Tình Hồng Paris, Tình Đẹp Như Mơ, và nhất là Bài Tango Cho Em. Tuy nhiên cuộc tình này cũng không đi đến đâu, nên ông viết “Tình vẫn chưa yên’.

Cũng trong thời gian tạm cư ở Paris, ông cho ra đời 3 ca khúc vô cùng nổi tiếng khác mà đến nay nhiều khán thính giả vẫn thích nghe đó là: Cho em quên tuổi ngọc, Em đi rồi, Một mình.

Sang thập niên 1990, Trung tâm Thúy Nga mới tương đối vững vàng ở Paris lẫn Cali sau khi sản xuất thành công một loạt video tuồng cải lương và các chương trình Paris By Night bắt đầu từ năm 1983. Lúc đó, Thúy Nga mới quyết định thực hiện một cuốn Paris By Night chủ đề nhạc Lam Phương.

Trung tâm Thúy Nga, đã thực hiện 4 chương trình vinh danh nhạc sĩ Lam Phương bao gồm:

Paris By Night 22: 40 Năm âm nhạc Lam Phương

Paris By Night 28: Lam Phương 2 – Dòng nhạc tiếp nối – Sacrée Soirée 3

Paris By Night 88: Lam Phương – Đường về quê hương

Paris By Night 102: Nhạc yêu cầu – Tình ca Lam Phương

Trung tâm Asia cũng đã thực hiện 1 chương trình vinh danh nhạc sĩ Lam Phương đó là:

Asia 77: Dòng Nhạc Anh Bằng & Lam Phương (cùng với nhạc sĩ Anh Bằng)

Nhiều ca sĩ cũng đã thực hiện album chủ đề nhạc Lam Phương như: Hương Lan, Bạch Yến, Lưu Hồng, Họa Mi, Ý Lan, Hạ Vy, Ngọc Anh…

Năm 2016, trong chương trình “Âm nhạc 168” trên kênh VOV3 của Đài Tiếng nói Việt Nam, nhạc sĩ Lam Phương đã được giới thiệu cùng với ca khúc nổi tiếng “Thành phố buồn” với những lời lẽ hết sức trân trọng: “Nhạc sĩ Lam Phương: 64 năm tận hiến cho âm nhạc”.

Năm 2018, dự án do ca sĩ hải ngoại Hoàng Hiệp cùng nhóm bạn tại Mỹ khởi xướng mang tên “Lam Phương – The Gift (Món quà)” được giới thiệu tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó có sự góp mặt của ca sĩ Phạm Quỳnh Anh, cô xuất hiện xuyên suốt các tập. Nhạc sĩ Lam Phương cũng có mặt để động viên tinh thần các ca sĩ và ban nhạc trong một vài tập. Dự án này được phát vào tối thứ bảy hàng tuần trên YouTube từ ngày 18 tháng 8.

Năm 2019, cuốn sách  Lam Phương – Trăm nhớ ngàn thương viết về cuộc đời, sự nghiệp của nhạc sĩ Lam Phương, do nhà báo Nguyễn Thanh Nhã chấp bút, qua nguồn tư liệu từ gia đình nhạc sĩ được Phanbook – NXB Phụ Nữ phát hành.

 

Nhạc Sĩ Phạm Duy – Đại Nhạc Sĩ tài hoa của nền tân nhạc Việt Nam

 

Khi nhắc đến những tuyệt phẩm âm nhạc như: Chiều về trên sông, Cỏ hồng, Đường chiều lá rụng, Đường sáo Thiên Thai, Đường em đi…người ta liền nhớ ngay đến người nhạc sĩ đa tài với số lượng ca khúc sáng tác đồ sộ và nhiều ca khúc trường tồn mãi với thời gian – Phạm Duy – Người đã có những đóng góp to lớn cho nền âm nhạc Việt Nam. Ông dành cả cuộc đời cho tình yêu âm nhạc. Phạm Duy là nhạc sĩ, ca sĩ, nhạc công, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam. Ông được xem là một trong những nhạc sĩ lớn và có sức ảnh hưởng nhất của nền tân nhạc nước nhà với số lượng sáng tác đồ sộ và đa dạng về thể loại, nhiều ca khúc của ông trở thành kinh điển và gắn liền với những giọng ca tên tuổi của tân nhạc như Thái Thanh, Lệ Thu, Tuấn Ngọc, Khánh Ly,…

Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn sinh năm 1921 tại Hà Nội trong một gia đình nghệ thuật. Cha ông là nhà văn Phạm Duy Tốn, người được coi như là nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới, đầu thế kỷ XX. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo sư – thạc sĩ, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine. Anh thứ Phạm Duy Nhượng là nhạc sĩ, tác giả ca khúc Tà áo Văn Quân. Một người anh họ của ông là học giả Nguyễn Văn Ngọc, tác giả cuốn Tục ngữ phong dao. Học giả Trần Trọng Kim từng nhận ông làm con nuôi.

Lúc còn nhỏ, Phạm Duy là một cậu bé hiếu động, tinh nghịch tuy nhiên rất đam mê âm nhạc, Ông học và biết cách dùng guitar, mandolin để chơi nhạc Tây Âu, bên cạnh đó ông còn tiếp thu các nhạc điệu dân ca miền Bắc, hay những bài ca Huế như Nam Ai, Nam Bình, Tứ Đại Cảnh…

Phạm Duy học lớp vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học Tiểu học tại trường Hàng Vôi ( nay là trường Nguyễn Du). Ông học không giỏi, tính lại nghịch ngợm nên thường hay bị phạt. Đến năm 1934, khi ông 13 tuổi , ông vào được lớp nhất, lúc bấy giờ ông mới học giỏi dần và trở thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp. Phạm Duy chỉ học bốn năm tiểu học và một năm trung học, nhưng những bài mà ông được học trong sách Quốc văn giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, đã in đậm trong tâm thức của ông trước khi bước vào xã hội, hình thành cho ông quan điểm về “đức độ của con người Việt Nam” mà ông nhấn mạnh rằng “con người ở nông thôn”, chứ không phải ở thành thị.

Năm 1936, sau khi ông thi trượt Trường Bưởi, ông vào học trường Trung học Thăng Long, một trong những trường trọng điểm của thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Tuyên, Phan Anh, Khuất Duy Tiến…những nhân vật có tên tuổi sau này. Trong lớp học cùng ông lúc bấy giờ có Quang Dũng, người sau này trở thành nhà thơ nổi tiếng. Trong một năm học trung học tại trường Thăng Long, ông hấp thụ được nhiều cái hay cái đẹp của nền văn chương Pháp, của Victor Hugo, André Chenier, Alfred de Vigny, Bernadin de Saint Pierrre…

Năm 1937, ông học nghề sắt (nguội, tiện, rèn) tại Trường Bách Nghệ (Trường Kỹ nghệ Thực hành Hà Nội). Học chưa hết một niên khóa thì năm 1938 vì đánh nhau, vi phạm kỷ luật nên ông bị đuổi học.

Năm 1938, ông xin vào làm việc ở Hiệu sửa radio tại phố Hàng Gai, Hà Nội. Cuối năm 1939, thì đi Móng Cái làm việc ở Nhà Máy điện, làm thợ rèn rồi coi lò than, sau đó 5 tháng ôngs bị bệnh nám phổi phải vào nhà thương chữa bệnh.

Giữa năm 1940, nghe lời bè bạn, ông theo học dự thính hội họa tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương do thầy Tô Ngọc Vân giảng dạy, học chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng,… Tuy nhiên, học được một thời gian ông nhận ra mình không có niềm đam mê thật sự đối với hội họa nên học được khoảng một năm ông nghỉ học.

Năm 1941, ông về Hưng Yên sống với mẹ, tại nhà anh trai Phạm Duy Nhượng, anh trai ông đang làm thầy giáo tại đây. Sau được một người anh họ xa tên là Ninh, làm nghề lục sự tại Tòa án đưa ông vào làm thư ký, làm được một thời gian ông cũng bỏ việc. May mắn thay ông được Tuần phủ Lê Đình Trân nhận làm con nuôi, lo việc kèm học cho 2 em nhỏ.Về sau ông Trân được thăng làm Tổng đốc, đi trấn nhậm tỉnh Kiến An, Phạm Duy cũng đi theo cha nuôi của mình.

Năm 1942, ông bắt đầu sáng tác nhạc và cho ra đời tác phẩm đầu tay là “Cô hái mơ“, phổ từ thơ Nguyễn Bính, trong giai đoạn phong trào Tân nhạc bắt đầu nở rộ.

Năm 1943, Phạm Duy được giao cho việc trông coi đồn điền của gia đình Tổng đốc Lê Đình Trân tại Yên Thế, Bắc Giang. Một thời gian sau ông quay về Hà Nội để tham gia Gánh hát Đức Huy đang thành lập. Gánh hát biểu diễn ra mắt tại Hải Phòng rồi Nam tiến, có nhiều lúc biểu diễn ở tận Campuchia. Tuy rằng không gắn bó với nghề nào lâu dài, nhưng việc sống ở nhiều nơi, trải qua nhiều hoàn cảnh sống khác nhau giúp ông cọ sát với cuộc sống thường nhật, tạo nên chất liệu quan trọng giúp ích cho sự nghiệp âm nhạc sau này.

Năm 1944, ông trở thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều (Ngô Nhật Huy). Trong thời gian làm việc ở gánh hát, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông,… và nhạc sĩ Văn Cao, người mà sau này trở thành một người bạn tâm giao trong đời sống lẫn trong âm nhạc.  Ông là người giúp đỡ cho Văn Cao trong việc soạn nhạc và cùng với Văn Cao sáng tác hai nhạc phẩm: Bến Xuân, Suối Mơ.

Khi còn ở gánh hát Đức Huy – Charlot Miều, với giọng hát điêu luyện, đậm chất Việt của mình, ông đã đưa tên tuổi các nhạc sĩ như Đặng Thế Phong, Văn Cao đi khắp đất nước Việt Nam. Trong bài báo Tài Tử Phạm Duy để giới thiệu về ca sĩ Phạm Duy, đăng trên tờ Revue Radio Indochine số 47, ra ngày Tết dương lịch năm 1944, Nguyễn Văn Cổn đã viết:

“… Người thiếu niên này với gương mặt gầy ốm, một cặp mắt hiền từ và mơ màng sau cặp kính trắng, với cách cử chỉ khoan thai và nhã nhặn, đó là Phạm Duy(…) Có lẽ trong tiếng hát của Phạm Duy, chúng ta thấy một cái gì hơi xa xăm, buồn tủi, phải chăng đời của nghệ sĩ như đầy những sự nhớ nhung, thương tiếc, đợi chờ, mà tiếng hát Phạm Duy là tiếng lòng thổn thức (…) Mỗi lần Phạm Duy lên ca hát tại Đài Vô Tuyến là mỗi lần các thính giả xa gần đều lặng yên để thụ hưởng những sự dịu dàng trong trẻo, như thanh điệu êm ái (…) Bài Buồn tàn thu mà Phạm Duy hát lên có lẽ ai cũng nhận thấy sự cảm động của một tâm hồn mong mỏi người xa xôi (…) đưa cái bài Buồn tàn thu tới những tâm hồn mong mỏi (…)

Nhưng nói về nghệ thuật, thì có lẽ Phạm Duy là một tài tử thứ nhất hát những bài âm nhạc cải cách với một giọng hoàn toàn Việt Nam, có nhiều tài tử cứ tưởng lầm rằng họ ca hát những âm nhạc mới, tức là phải có một giọng Âu Mỹ, thật là sai lầm (…) Phạm Duy lại còn là một nghệ sĩ rất có lương tâm nhà nghề trước khi hát, trước khi biểu diễn, Phạm Duy rất chăm chú tập dượt những bài hát (…)”

Trong giai đoạn này, nhạc sĩ Văn Cao ví von gọi Phạm Duy là “kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi khắp chốn”. Ông đã từng hát riêng cho vua Bảo Đại nghe trong chuyến lưu diễn ở Phan Rang.

Giữa năm 1945 Phạm Duy rời gánh hát Đức Huy đến ở nhờ nhà một người bạn tại khu DaKao (Tân Định), Sài Gòn. Ông sinh sống, đi hát tại Sài Gòn rồi tham gia Thanh niên Tiền phong, làm công tác văn nghệ rồi vào đội Võ trang Tuyên truyền. Tháng 10/1945, ông rời Tân Định về Hà Nội.

Đầu năm 1946, ông được huấn luyện quân sự cấp tốc rồi sau đó được đưa vào miền Nam tham gia kháng chiến. Ông được phân công vào chiến khu Bà Rịa – Vũng Tàu làm công tác thông tin, liên lạc và tiếp vận. Đầu Thu năm 1946 ông bị thương nhẹ ở cánh tay nên được phép về Bắc.

Tháng 12.1946, Phạm Duy làm việc tại Đài Phát thanh bí mật ở Hà Đông, sau đó tham gia Đoàn Văn nghệ Giải phóng tại Sơn Tây rồi tiếp tục đi phục vụ văn nghệ ở các tỉnh Phúc Yên, Vĩnh Yên, Việt Trì, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai. Sau ông ở lại Lào Cai, cùng với Văn Cao, Ngọc Bích, làm việc tại phòng trà Quán Biên Thùy (một cơ sở tình báo). Nhưng ít lâu sau ông cùng Ngọc Bích đến Bắc Cạn (qua Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên) khoảng tháng 10/1947, rồi quay lại Thái Nguyên; thời gian này hai ông làm việc cho Cục Chính trị, là cán bộ văn nghệ với cấp bậc đại úy. Cuối 1947 hai ông từ Thái Nguyên qua Bắc Giang, rồi tham gia đoàn văn nghệ do Hoàng Cầm thành lập, lưu diễn tại Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1948. Trong thời kỳ theo kháng chiến, với cây đàn guitar, Phạm Duy tiếp tục đem giọng hát của mình phục vụ anh em chiến sĩ, mà theo Tạ Tỵ nhận xét tiếng hát Phạm Duy lúc này “mang một âm hưởng khác, một nội dung khác, ở đó, Duy không còn là kẻ đứng ngoài hát cho người khác nghe, mà nó chính là tiếng thét oai hùng của một thế hệ thanh niên đã ý thức được vai trò của mình trong lịch sử”

Giai đoạn 1945 – 1946, ở trong vùng kháng chiến,ngoài ca hát, ông còn sáng tác nhiều thể loại hùng ca: Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu.. Bên cạnh đó là những bài nhạc tình đầy lãng mạn như: Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya….

Giai đoạn 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác những ca khúc mang âm hưởng dân ca, theo ông cho rằng: “Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sĩ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị… Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa”, từ đó cho ra đời thể loại mà ông gọi là “Dân ca mới” gồm những bài hát: Nhớ người thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Nhớ người ra đi, Người lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều…

Nhạc Phạm Duy ở giai đoạn kháng chiến chủ yếu là những bài nhạc hùng, thường mang tính chất lạc quan, vui tươi: Gánh lúa, Đường ra biên ải…, hay ca ngợi kháng chiến, ca ngợi công lao của Hồ Chí Minh như Bên ni bên tê, Ngọn trào quay súng, Đường về quê. Từ năm 1948, Phạm Duy bắt đầu khai thác đề tài về sự gian khổ của cuộc kháng chiến. Đề tài này là chủ đề chính trong những ca khúc như: Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi thành Quê nghèo), Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Mười hai lời ru…, lời bài hát mang tới những câu chuyện, hình ảnh của chốn thôn quê và nỗi gian khổ của người dân quê trong thời chiến tranh.

Không lâu sau, Phạm Duy tham gia Đoàn Văn nghệ Quân đội Liên khu IV, trực thuộc Trung đoàn 304, tại đây ông gặp gỡ và nảy nở tình yêu với ca sĩ Thái Hằng, sau đó họ đính hôn, Phạm Duy cùng một số nghệ sĩ đi phục vụ thực tế tại Nghệ An, Hà Tĩnh  rồi đi Bình – Trị – Thiên (đi đường rừng, đồng bằng và quay về bằng đường biển).

Năm 1949 Phạm Duy quay về Thanh Hóa, ông và Thái Hằng cưới nhau, người chủ trì hôn lễ cho hai vợ chồng là tướng Nguyễn Sơn. Năm 1950, cả 2 vợ chồng ra Việt Bắc (đi qua Hòa Bình, Vĩnh Yên, Thái Nguyên, Bắc Cạn) và tham dự Đại hội Văn hóa Toàn quốc. Sau đó ông và vợ từ bỏ, ra khỏi các đoàn văn nghệ quân đội và quay về lại Thanh Hóa.

Năm 1951, ông đưa vợ và con vào Nam, sinh sống tại Sài Gòn. Cuối năm 1951, ông bị một số nhạc sĩ ghen tị tố cáo là có quan hệ với Việt Minh, nên ông cùng với Lê Thương và Trần Văn Trạch bị bắt giam ở khám Catinat trong 120 ngày.

Năm 1952, ông theo khuynh hướng sáng tác “Tình ca quê hương” và cho ra đời “Tình hoài hương”  tại Sài Gòn: “Sau khi nói lên vinh quang và nhọc nhằn của dân tộc với nhạc kháng chiến, bây giờ tôi đi vào tình tự quê hương..” Ca khúc tiếp theo mà ông sáng tác là Tình ca; hai nhạc phẩm này được đông đảo người dân yêu thích và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương.

Cuối năm 1952, ông sang Pháp học dự thính hai năm về âm nhạc, ở đây ông gặp và chơi thân với Trần Văn Khê, người mà sau này đã trở thành giáo sư dân nhạc nổi tiếng. Trong thời gian du học tại Pháp (1952–1954), ông thai nghén bản trường ca đầu tiên của mình, với ý muốn phản đối việc chia đôi đất nước.

Sau hai năm học xong, ông về Việt Nam thì lúc này đất nước đã bị chia cắt bởi hiệp định Genève. Từ đó, ông ở lại miền Nam tiếp tục sáng tác ca khúc và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long cùng với các ca sĩ như Thái Thanh, Hoài Nam, Hoài Bắc, Hoài Trung tại phòng trà Đêm màu hồng. Lúc này ngoài một số bài mang âm hưởng dân ca, ông tiếp tục đi sâu vào nhạc tình yêu đôi lứa, qua nhiều cung bậc hạnh phúc, đau khổ, nhớ thương: Đừng xa nhau, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Thương tình ca, Kiếp nào có yêu nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Còn gì nữa đâu… Và từ đó đi sâu hơn vào việc khai thác những trạng thái tư tưởng, với những bài hát nói về “Tình yêu – Sự đau khổ – Cái chết”, ba điều quan trọng nhất lúc đó của ônng, những ca khúc của giai đoạn này có thể kể đến Nước mắt rơi, Đường chiều lá rụng, Tạ ơn đời, Một bàn tay. . Cũng trong thời gian này ông tham gia những hoạt động trong ngành sân khấu, thông tin đại chúng như viết nhạc kịch, viết nhạc cho phim đồng thời ông cũng cộng tác với đài Phát thanh.

Năm 1954, Phạm Duy cho ra đời bộ ba ca khúc: Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê, được xây dựng bằng nhạc thuật dân ca trước đây, những bài này phổ biến tại miền Nam và theo Phạm Duy: “nó được các lớp nhạc sĩ trẻ như Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh tức Nhật Trường… hưởng ứng để soạn ra những bài mà họ gọi là dân ca mambo bolero”.

Giai đoạn này ông vẫn tiếp tục với các bài dân ca mới như: Đố ai, Nụ tầm xuân, Ngày trở về, Người về, Tình nghèo… Bên cạnh đó những sáng tác : Thuyền viễn xứ, Viễn du, Hẹn hò nói về sự chia lìa quê hương, chia lìa đôi lứa trong những ngày đất nước Việt Nam sắp sửa chia đôi bởi hiệp định Geneva. Bên cạnh đó còn có những ca khúc lấy cảm hứng từ thiên nhiên: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân thì

Năm 1956, dấy lên vụ ngoại tình giữa ông và ca sĩ Khánh Ngọc là vợ của em vợ ông là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, vụ việc này trở thành một đề tài gây xôn xao và tranh cãi trên các báo chí Sài Gòn và cả Hà Nội. Sau vụ việc đầy tai tiếng trên, ông không còn hợp tác với ban hợp ca Thăng Long nữa. Trong lúc tinh thần suy sụp, ông bước vào mối tình đặc biệt với Alice, con gái của Helen, người tình nhân cũ của ông. Được biết đây là mối tình “giữa hai tâm hồn”, “không đụng chạm thể xác”, được xây dựng trong 10 năm và chính là nguồn cảm hứng lớn để ông sáng tác ra nhiều tác phẩm nhạc tình giá trị như: Chỉ chừng đó thôi, Thương tình ca,….

Sau khi không còn hợp tác với ban Thăng Long, Phạm Duy vào làm việc ở Trung tâm Điện ảnh. Phạm Duy làm đạo diễn bộ phim Hai người mẹ theo lời mời của ông Đỗ Bá Thế – Giám đốc Đông Phương films.Thời gian này ông thường xuyên lui tới quán Chùa (La Pagode) và gặp gỡ Vũ Khắc Khoan, Cung Trầm Tưởng, Võ Đức Diên, Mặc Thu, … Nhờ sự giúp đỡ của Võ Đức Diên và bạn bè ông được đi một chuyến từ Sài Gòn ra vĩ tuyến 17 để hoàn thành nốt trường ca Con đường cái quan ( Hồi ký Phạm Duy, tập III, chương 10).

Đầu thập niên 1960, sau khi VNCH được nhiều quốc gia thân Mỹ công nhận, Phạm Duy cùng với các nghệ sĩ khác được cử đi Philippines, Nhật Bản, Thái Lan để giới thiệu văn nghệ Việt Nam. Và với những kinh nghiệm bang giao, ông thường được góp mặt trong những buổi đón tiếp các phái đoàn văn nghệ nước ngoài, như đoàn vũ trống của Hàn Quốc, đoàn Moral Rearmement của Mỹ… Nhờ vào những cơ hội đó, mà ông có dịp trao đổi tài liệu âm nhạc với các văn nghệ sĩ nước ngoài.

Năm 1963, ông sáng tác bản trường ca Mẹ Việt Nam, đây là trường ca thứ hai sau Con đường cái quan đã hoàn tất trước đó. Hai tác phẩm này được coi là hai sáng tác lớn và thành công không chỉ trong tác phẩm của ông, mà còn trong nền âm nhạc Việt.

Năm 1965, ông tham gia phong trào Du ca và đi nhiều nơi tại miền Nam Việt Nam để phổ biến các ca khúc nói lên thân phận của tuổi trẻ thời đó cùng với những nghệ sĩ khác như: Nguyễn Đức Quang, Giang Châu, Ngô Mạnh Thu,…

Đến năm 1966, với tiếng tăm của mình ông được văn phòng Giáo dục Văn hóa của Bộ Ngoại giao Mỹ mời sang nước này, tại đây ông được vinh dự mời tham quan các đài truyền hình, nhạc hội, đến ở trong gia đình nghệ sĩ The Beers Family, Petersburg. Không những thế, ông còn được đài Channel 13 với Steve Addiss và Bill Crofut, mời tham gia chương trình dân ca của Pete Seeger, nhạc sĩ phản chiến số một của Hoa Kỳ. Bốn năm sau ông trở lại Hoa Kỳ lần nữa để làm cố vấn cho Bộ thông tin Hoa Kỳ để “giải độc dư luận Mỹ”. Tại đây ông mới biết thêm thông tin về vụ Thảm sát Mỹ Lai, để rồi ông cho ra đời ca khúc ”Kể chuyện đi xa”.

Cuối thập niên 1960, các con ông thành lập ban nhạc gia đình “The Dreamers”, ông cùng ban nhạc này đi biểu diễn tại các phòng trà, nhà hàng ở Sài Gòn. Đây cũng là thời gian băng Cassette thịnh hành, giúp ông có được nhiều khoản thu nhập từ tiền bản quyền và trở nên giàu có.

Đầu thập niên 1970 với sự tham gia của các con Duy Quang, Thái Hiền, ông có thêm những bản tình ca nhẹ nhàng lãng mạn thích hợp với tuổi thanh niên, sinh viên như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi, Thà như giọt mưa…. Ngoài việc tự sáng tác nhạc và lời, ông còn phổ thơ người khác thành những tác phẩm được đông đảo mọi người yêu mến, như bài: Ngày xưa Hoàng thịĐưa em tìm động hoa vàng, tập nhạc “Đạo ca” (phổ thơ Phạm Thiên Thư), Thà như giọt mưa, cô Bắc kỳ nho nhỏ, Em hiền như Ma-soeur (phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên), Tiễn em, Mùa thu Paris (phổ thơ Cung Trầm Tưởng)… Bên cạnh đó, ông còn đặt lời Việt cho những ca khúc nước ngoài, nhiều ca khúc do ông đặt lời được coi là thành công như Dạ khúc (Stanchen của Schubert), Mơ mòng (Dreaming của Schumann), Khi xưa ta bé (Bangbang)…

Năm 1973, giai đoạn Phong trào nhạc trẻ đang lên cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh tham dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật. Bản nhạc Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết.

Cuối tháng 4 năm 1975, Phạm Duy cùng vợ và hai con gái di tản qua Hoa Kì, ông cùng gia đình cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California. Thời kỳ này ông vẫn tiếp tục sáng tác, biểu diễn và tổ chức các đêm nhạc về mình.

Phạm Duy bắt đầu giai đoạn sáng tác mới ở Hải Ngoại của mình từ những ngày đầu ở Mỹ. Tác phẩm gần như xuyên suốt thời kỳ này là tổ khúc “ Bầy chim bỏ xứ”, được thai nghén từ năm 1975 và hoàn tất vào năm 1990, gồm 18 khúc nhạc, ẩn dụ về hình ảnh của những người Việt phải rời khỏi đất nước và hy vọng vào tương lai đoàn tụ, qua hành trình ra đi và trở về của đàn chim.

Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký về cuộc đời của mình, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn. Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông phải nhập viện một thời gian dài vì bị cao huyết áp. Sau năm này, ông quyết định thực hiện những chuyến đi về thăm quê hương sau 25 năm xa cách.

Tháng 5 năm 2005, ông chính thức trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, TP. Hồ Chí Minh cùng các con trai của ông là Duy Quang và Duy Cường. Đến tháng 7, lần đầu tiên kể từ năm 1975, 9 bài hát của ông được cấp phép phổ biến. Tuy sức khỏe đã có dấu hiệu giảm sút, nhiều bệnh được phát hiện ra nhưng ông vẫn hoạt động âm nhạc.

Ngày 27/1/2013 người nhạc sĩ đại tài ra đi vĩnh viễn , tang lễ của Phạm Duy được tổ chức tại tư gia ở Lê Đại Hành, phường 3, Quận 11, TP.HCM. Ông yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương.

Với hơn 70 năm sự nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong lịch sử của đất nước, ông được coi là “cây đại thụ” của nền âm nhạc Việt Nam.

 

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh – Một trong “Tứ trụ nhạc vàng” có cuộc đời lận đận nhất.

 

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh còn được biết đến với nghệ danh Nhật Trường với vai trò một ca sĩ, là một trong 4 giọng nam được yêu thích nhất trong giai đoạn trước 1975 và được phong danh hiệu “Tứ trụ nhạc vàng” cùng với Duy Khánh, Hùng Cường và Chế Linh. Dù trong vai trò là ca sĩ hay nhạc sĩ ông đều gặt hái được thành công khi chiếm trọn tình cảm của đông đảo khán giả bởi giọng hát thiên phú và tài năng trong khả năng sáng tác của mình.

Trần Thiện Thanh sinh vào năm 1942 tại Phan Thiết, Bình Thuận. Ngay từ khi còn nhỏ ông đã thích ca hát. Sau này khi đã trở thành ca sĩ với nghệ danh Nhật Trường, ông có chia sẻ câu chuyện về nghệ danh mình chọn: “Hồi nhỏ tôi thích ca hát lắm nhưng bố mẹ tôi không cho. Thế là tôi phải chờ đến ban đêm đợi bố mẹ đi ngủ rồi mới dám hát. Nhiều khi ban ngày thèm hát quá mà phải đợi đến tối, thấy ngày sao dài ghê nên tôi chọn tên Nhật Trường, có nghĩa là … ngày dài.” Mặc dù, bị bố mẹ cấm ca hát nhưng niềm yêu mến, đam mê với âm nhạc, ca hát không bị vùi lấp trong ông.

Năm 1958, ông cùng người vợ đầu là bà Trần Thị Liên vào Sài Gòn học tập, sau khi học xong thì làm giáo viên dạy môn Pháp văn ở một trường trung học. Khoảng đầu thập niên 60, ông đã thành lập ban Tứ ca Nhật Trường gồm ông và các nữ ca sĩ Như Thủy (em gái ông), Vân Quỳnh và Diễm Chi. Với giọng hát trau chuốt, trời phú của mình ông đã chinh phục được giới yêu nhạc Sài Gòn thời bấy giờ. Trong thời gian này, bên cạnh việc đi hát thì ông cũng bắt đầu sáng tác nhạc. Ca sĩ Phương Dung từng chia sẻ trong Show Người kể chuyện tình – đêm chủ đề Một đời để yêu nhau (tái hiện lại những ca khúc và cuộc đời của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh) về những ngày cơ cực của ông thời gian đầu khi mới đặt chân vào Sài Gòn: “Ca sĩ Nhật Trường ở Phan Thiết, dắt vợ vào Sài Gòn để làm ông giáo. Lúc bấy giờ, vợ anh có thai nhưng không có tiền, anh phải đem bài nhạc đầu tay là Chuyến Đi Về Sáng bán cho nhạc sĩ Mạnh Phát”.

 

Theo lời kể của bà Trần Thị Liên sau này, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết ca khúc Qua Xóm Nhỏ khi ông còn đi học ở Phan Thiết, cảm hứng từ một lần ông qua nhà bà chơi lúc hai người mới quen nhau.

Năm 1963, sau khi người con trai đầu là Trần Thiện Anh Chương chào đời, sự nghiệp âm nhạc của Trần Thiện Thanh cũng bắt đầu khởi sắc. Nhờ chăm chỉ làm việc, tích góp, Trần Thiện Thanh không cần phải ở nhà nhà chị nữa, ông đưa vợ con chuyển ra sống riêng ở Hoà Hưng. Ngoài sáng tác âm nhạc, đi hát, đi dạy, Trần Thiện Thanh còn làm công việc xướng ngôn viên cho đài phát thanh. Khoảng năm 1964 – 1965, Trần Thiện Thanh đưa vợ con về nhà cha mẹ ở Phan Thiết, rồi ra Nha Trang theo học một khoá học ngắn chừng vài tháng tại trường Hạ sĩ quan. Sau khi hoàn thành khoá học, ông được phân công về làm việc tại cục tâm lý ᴄhιến thuộc Bộ tổng tham mưu. Kinh tế lúc này đã khá giả, để tiện đi làm, Trần Thiện Thanh mua nhà ở Thị Nghè rồi đón vợ con vào lại Sài Gòn.

Trong 10 năm làm việc, từ 1965 đến tháng 4 năm 1975, Trần Thiện Thanh được bổ nhiệm đến chức Trưởng ban văn nghệ của Đài Phát thanh và Truyền hình Quân Ðội. Ông được giao phụ trách nhiều chương trình phát thanh và truyền hình quan trọng của cục tâm lý chiến như: chương trình phóng sự chiến trường của đài truyền hình Quân Đội, chương trình âm nhạc Tiếng Hát Đôi Mươi trên đài truyền hình Sài Gòn, chương trình nhạc chọn lọc của đài Tiếng Nói Quân Đội…

Do đặc thù của công việc là tâm lý ᴄhιến, những sáng tác của Trần Thiện Thanh trong giai đoạn này cũng chủ yếu viết về lính, về tình yêu và tâm sự của người lính. Ông tâm sự: “Tôi lớn lên vào những ngày tháng khói lửa, tôi nghĩ những khổ đau kiêu hùng của đời lính, sự mất mát của mỗi người trong chiến cuộc là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến tác phẩm của tôi”. 

Một số nhạc phẩm tiêu biểu của thể loại này có thể kể đến như: Người Ở Lại Charlie, Anh Không Chết Đâu Anh, Đồn Vắng Chiều Xuân, Chiều Trên Phá Tam Giang, Biển Mặn, Rừng Lá Thấp, Chuyện Tình Mộng Thường, Tình Thư Của Lính, Mùa Xuân Lá Khô… 

Ngoài sáng tác, Trần Thiện Thanh còn thực hiện các chương trình nhạc cảnh, đóng phim, kịch về lính. Trong nhiều sản phẩm, không chỉ tham gia với vai trò thực hiện chương trình, Trần Thiện Thanh còn trực tiếp đảm nhận nhiều vai diễn, đóng phim, kịch chung với Thanh Lan.
Thập niên 1960, ông thành lập nhóm Tứ ca Nhật Trường với 4 giọng ca chính là Như Thuỷ (em gái Trần Thiện Thanh), Vân Quỳnh, Diễm Chi và Nhật Trường đã tham gia biểu diễn và thu thanh rát nhiều trong các băng nhạc Nhật Trường.

Đầu thập niên 1970, ông còn điều hành trung tâm phát hành tờ nhạc và thu băng mang tên Tiếng Hát Đôi Mươi. Thời gian hoạt động, trung tâm này đã thực hiện và cho ra mắt được 12 băng nhạc mang chủ đề Nhật Trường, đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị nghệ thuật và được nhiều người tìm nghe.

Có thể nói trong Tứ Trụ Nhạc Vàng thì Nhật Trường-Trần Thiện Thanh có sự cân bằng nhất giữa 2 vai trò là ca sĩ, nhạc sĩ, cả 2 lĩnh vực này ông đều thành công vang dội. Nhật Trường có giọng hát rất đặc biệt, như lời thủ thỉ tự tình trong những ca khúc không chỉ là của chính ông sáng tác, mà của cả nhiều nhạc sĩ khác, như Hành Trang Giã Từ, Chuyện Người Đan Áo (Trường Sa), Hoa Biển (Anh Thy), Lời Tình Viết Vội (Giao Tiên), Thư Cho Vợ Hiền (Song Ngọc)… Những ca khúc này Nhật Trường hát thành công đến nỗi cho đến nay vẫn có nhiều người tưởng là của ông sáng tác.

Nói về giọng hát Nhật Trường, tác giả Lê Hữu đã nhận xét: Giọng Nhật Trường không vang lộng, không được gọi là “làn hơi phong phú”. Kỹ thuật ngân, rung cũng không phải là điêu luyện. Giọng ông trầm ấm, nhưng cũng không ấm hơn những giọng nam trầm khác cùng thời khác, nhưng nghe “mềm” hơn và “ngọt” hơn. Ông biết tận dụng cái giọng tốt trời cho ấy và biết cách trau chuốt để làm đẹp thêm giọng hát mình. Nhiều người cho là giọng hát ấy có hơi… điệu. Nói thế không phải là không đúng, và cũng không có gì lạ. Đó là cái điệu… tự nhiên, vì ngay từ cử chỉ, điệu bộ cho đến cung cách nói chuyện của ông cũng đã có một vẻ gì đó điệu đàng. Và khi ông hát, cái điệu rất riêng ấy thể hiện qua kiểu cách nhấn nhá và luyến láy mềm mại, qua chất giọng nồng nàn, tình tứ như là những sự vuốt ve, mơn trớn. Ông hát điệu, nhưng cũng chỉ là làm duyên làm dáng vậy thôi chứ không thái quá như những kiểu rên xiết, nấc nghẹn… hoặc “phô diễn kỹ thuật” vô hồn vô cảm cảm vài thợ hát hiện nay. Nhiều người đã gọi tiếng hát Nhật Trường là “giọng hát truyền cảm”, có nghĩa giọng hát ấy truyền được những rung cảm tới người nghe, hoặc nói cách văn vẻ, chạm được tới trái tim người nghe. Sức “truyền cảm” của giọng hát ấy không phải chỉ do ở “kỹ thuật” của riêng ông mà còn ở cách ông phả hơi thở đầy cảm xúc vào từng lời, từng chữ, từng nốt nhạc. Trượt dốc sau 1975 Sau tháng 4 năm 1975, toàn bộ các sáng tác nhạc của Trần Thiện Thanh bị cấm lưu hành, bản thân ông không chỉ bị cấm hát mà còn bị đưa đi cải tạo do từng làm việc trong quân đội của chính quyền cũ. Sau khi ra khỏi trại cải tạo, Trần Thiện Thanh vượt biên thất bại nên lại bị bắt giam trở lại đến tận năm 1978 mới được thả ra. Thời gian sau đó, do bị cấm hoạt động văn nghệ, Trần Thiện Thanh phải đi hát chui theo đoàn hát của ông bầu Ngọc Giao để mưu sinh tại số làng xã nhỏ dọc miền Trung và miền Tây Nam Bộ.

Trước biến cố 1975 một thời gian thì Nhật Trường Trần Thiện Thanh đã chia tay vợ đầu Trần Thị Liên, sau khi có với bà 6 người con chung. Sau năm 1975, ca sĩ Nhật Trường theo các đoàn hát và có thời gian quen biết, sau đó kết hôn với ca sĩ Kim Dung. Bà Kim Dung cũng chính là ca sĩ Hạnh Dung trước đó từng đi hát trong Biệt đoàn văn nghệ trung ương, là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Lam Phương sáng tác ca khúc nổi tiếng Thành Phố Buồn. Hai người có với nhau 1 người con chung là Trần Thiện Anh Chính.

Năm 1984, dù các sáng tác của Trần Thiện Thanh từ trước năm 1975 vẫn bị cấm đoán nghiêm ngặt, Trần Thiện Thanh đã được phép đi hát trở lại. Ca khúc nổi tiếng nhất của Trần Thiện Thanh ra đời trong giai đoạn này là bài Chiếc Áo Bà Ba. Bắt đầu từ năm 1991, chính quyền trong nước thực hiện các chính sách nới lỏng với văn nghệ. Các ca khúc được đánh giá là “vô hại”, đơn thuần là nhạc tình cảm đã được phép lưu hành trở lại, trong đó có một số nhạc phẩm của Trần Thiện Thanh như: Tình Có Như Không, Chuyện Hẹn Hò, Gặp Nhau Làm Ngơ, Bảy Ngày Đợi Mong, Tình Đầu Tình Cuối… Năm 1993, sau khi chia tay người vợ thứ 2, Trần Thiện Thanh được nữ ký giả Nam Trân bảo lãnh sang Mỹ theo con đường “kết hôn gιả”.

Lận đận trên đất Mỹ Nếu sự nghiệp của Trần Thiện Thanh sau năm 1975 ở trong nước bị xuống dốc không phanh và có phần phũ phàng, thì sau năm 1993 khi đã tới được “miền đất hứa” là nước Mỹ, con đường âm nhạc của ông cũng không suôn sẻ hơn là mấy. Bởi sau khi được Nam Trân bảo lãnh sang Mỹ không bao lâu thì Trần Thiện Thanh xảy ra mâu thuẫn với nữ ký giả. Điều này khiến cho việc nhập tịch của Trần Thiện Thanh không thể thực hiện. Ông đã phải sống trong tình trạng di trú dang dở như vậy suốt hơn 10 năm cho đến khi con trai trưởng là Trần Thiện Anh Chương đủ điều kiện bảo lãnh nhập tịch cho ông.

Mặc dù là một tên tuổi tài danh, nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong làng nhạc Sài Gòn trước 1975 suốt hơn nhiều năm nhưng khi qua đến Mỹ, Trần Thiện Thanh đã không thể hoà nhập tốt với môi trường âm nhạc hải ngoại. Trong một bài viết, MC Nguyễn Ngọc Ngạn đã phần nào hé lộ lý do tại sao tên tuổi Trần Thiện Thanh đã không thể một lần nữa thăng hoa như rất nhiều nghệ sĩ thành danh khác. Thứ nhất là bởi, khi Trần Thiện Thanh đến Mỹ, giai đoạn khởi đầu cực thịnh của âm nhạc hải ngoại suốt thập niên 1980 – đầu thập niên 1990 đã bắt đầu đi vào thoái trào và dần được định hình với một số tên tuổi nổi bật. Thứ hai, tình trạng di trú không hợp pháp của Trần Thiện Thanh khiến ông không thể đi lưu diễn nước ngoài. Thứ ba, khi mới bước chân đến Mỹ, Trần Thiện Thanh dường như vẫn mang trên mình thứ hào quang quá sáng chói của quá khứ và rất kỹ tính trong công việc. Theo chia sẻ của MC Nguyễn Ngọc Ngạn, mặc dù, trung tâm Thuý Nga đã làm việc với Trần Thiện Thanh tận 4 lần khi ông vừa tới Mỹ nhưng vẫn không thể đạt được thoả thuận hợp tác, bởi vì: “Trần Thiện Thanh đòi nhiều điều kiện khó khăn quá. Ngoài tiền tác quyền anh tính quá cao so với các nhạc sĩ khác, anh còn muốn can dự cả vào việc chọn bài bản và mời ca sĩ trình diễn”. Trong khi, thời điểm đó, Thuý Nga là trung tâm ca nhạc duy nhất sản xuất các chương trình băng nhạc chủ đề cho các nhạc sĩ. Trong 3 trung tâm âm nhạc hoạt động sôi nổi ở hải ngoại thời điểm đó là Thuý Nga, Asia và Mây Production. Trần Thiện Thanh đã chọn cộng tác với chương trình Hollywood Night của trung tâm Mây, nhưng đây lại là trung tâm ngưng hoạt động đầu tiên, từ đầu thập niên 2000. Năm 1993, khi vừa đến Mỹ, Trần Thiện Thanh thành lập trung tâm Nhật Trường Productions để thu thanh, thu hình các ca khúc hay nhất của ông. Tuy nhiên, do đầu tư tài chính hạn hẹp, kỹ thuật sản xuất thô sơ, các sản phẩm âm nhạc của Trần Thiện Thanh không thể cạnh tranh với các sản phẩm âm nhạc long lanh, hiện đại khác.

Cũng theo MC Nguyễn Ngọc Ngạn, tính cách nhạc sĩ Trần Thiện Thanh ngoài đời khá lạnh lùng, trầm tư và không mấy thân thiện nên đa phần các nghệ sĩ lớn nhỏ đều ngần ngại, ít dám kết thân dù vẫn ngưỡng mộ tài năng của ông. Nguyên do có lẽ là sự nghiệp trên xứ người không đúng như ý muốn nên ông ít khi mở được lòng với đồng nghiệp. Ngoài ra một lý do nữa là Nhật Trường vẫn rất kỹ tính trong công việc giống như trước năm 1975, điều đó lại phản tác dụng khi ông muốn gầy dựng lại sự nghiệp từ con số 0 trên đất Mỹ. Về đời tư, sau một thời gian tới Mỹ, Trần Thiện Thanh dọn về sống chung với nữ ca sĩ Mỹ Lan. Hai người sống chung chính thức như vợ chồng cho đến khi Trần Thiện Thanh qua đời vào năm 2005 nhưng không làm hôn thú. Cuộc hôn phối này đã đem đến cho Trần Thiện Thanh thêm một người con là Trần Thiện Anh Chí. Theo chia sẻ của nữ ca sĩ Mỹ Lan, dù là một người có lòng tự tôn cao, nhưng trong gia đình, Trần Thiện Thanh là một người chồng tốt, rất yêu thương và lo lắng cho vợ con. Ông có tài nấu ăn rất ngon, và hầu như luôn cáng đáng mọi công việc lớn nhỏ trong nhà thay cho vợ.

Ngày 12 tháng 5 năm 2004, Trần Thiện Thanh chính thức được nhận thẻ xanh thường trú nhân nhưng chỉ vài tháng sau đó, ông đồng thời nhận tin dữ về căn bệnh ung thư phổi đang ẩn trú trong cơ thể. Trước đó, Trần Thiện Thanh nghiện thuốc lá rất nặng, đều đặn mỗi ngày đều hút hết 2 gói thuốc. Đúng 1 năm sau đó, ngày 13 tháng 5 năm 2005, Trần Thiện Thanh qua đời tại nhà riêng ở thành phố Westminster, Quận Cam, California (Hoa Kỳ). Khoảng 1 tháng trước khi mất, Trần Thiện Thanh đột ngột xin được rửa tội theo nghi lễ của đạo Công giáo, vốn trước đó là tín ngưỡng riêng của ca sĩ Mỹ Lan (gia đình Trần Thiện Thanh theo đạo Phật) và được lãnh bí tích hôn phối cùng người vợ đã kề cận bên ông trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Sau khi Trần Thiện Thanh mất, tang lễ của ông được người nhà tổ chức theo cả hai nghi thức Công Giáo và Phật giáo (chủ yếu) theo lời yêu cầu của người con trai lớn là Anh Chương. Phần tro cốt của Trần Thiện Thanh sau khi hoả táng được gia đình đưa về Việt Nam, gửi vào chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc, Lâm Đồng.


Cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ – Thế hệ nhạc sĩ tiên phong của dòng nhạc vàng 


Trong sự nghiệp âm nhạc đồ sộ và đa dạng của của mình, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã để lại cho đời hàng trăm ca khúc nổi tiếng, tiêu biểu nhất là Đường Xưa Lối Cũ, Chuyện Tình Người Trinh Nữ Tên Thi, Tình Sầu Biên Giới, Túp Lều Lý Tưởng, Tình Đêm Liên Hoan… và đặc biệt là các ca khúc viết về quê hương như Tình Ca Trên Lúa, Gạo Trắng Trăng Thanh, Trăng Rụng Xuống Cầu, Rước Tình Về Với Quê Hương, Đưa Em Qua Cánh Đồng Vàng…  Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ xuất hiện và tham gia vào nền âm nhạc miền Nam ngay từ đầu thập niên 1950, và có thể xem ông là một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho dòng nhạc vàng mà chúng ta vẫn còn yêu thích cho đến ngày nay. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ sinh ngày 1 tháng 7 năm 1929 tại làng Bích Khê, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông thuộc dòng họ Hoàng Hữu, là dòng họ khoa bảng lừng lẫy ở đất Quảng Trị, Trung Bộ. Những người khai khoa đầu tiên cho làng Bích Khê và dòng họ Hoàng là Hoàng Hữu Xứng, Hoàng Hữu Bỉnh và Hoàng Hữu Bính đều đậu cử nhân. Hoàng Hữu Bỉnh chính là thân phụ nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và là ông nội của nghệ sĩ violin Hoàng Thi Thao (Hoàng Thi Thao gọi Hoàng Thi Thơ là chú ruột). Tỷ phú Hoàng Kiều hiện nay cũng là một trong những người cháu ruột của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. Nếu tính từ ngài thượng thủy tổ Hoàng Công Hội là đời thứ 1, thì cụ Hoàng Hữu Xứng, Hoàng Hữu Bỉnh là đời thứ 13, Hoàng Hữu Bính và Hoàng Thi Thơ đời 14, các con của Hoàng Thi Thơ cùng với Hoàng Thi Thao, Hoàng Kiều và đời 15. Đời 16 có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan ở Huế. Cố nghệ sĩ Hoàng Thi Thao kể: “Ông nội tôi có 24 người con. Tôi có tới 3 bà nội, và 3 bà cũng là chị em ruột nên rất thương nhau. Thật ra đó là sự cố ý bên phía bà nội tôi là không muốn cho ông nội tôi đi lấy phía ngoài. Như vậy chỉ có 1 dòng thôi, thành ra gần gũi nhau. Nhất là không muốn để lọt tài sản ra ngoài”. Xem bài khác Những giọng hát tiên phong của nhạc vàng bolero Việt Nam Tặng “bông” cho ca sĩ/tài tử có từ khi nào? Vì vậy tất cả anh chị em đều gần gũi và gắn bó với nhau, không phân biệt là con của bà mẹ nào. Ai sinh trước được làm anh, làm chị. Thân phụ Hoàng Thi Thao là người con trai cả và là người con thứ 7 của bà vợ cả trong số 24 người con này. Trước ông là 6 người chị gái. Trong khi đó nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, con của bà vợ út, là người con thứ 22 của cụ Hoàng Hữu Bỉnh. Theo Hoàng Thi Thao cho biết thì “ông chú” Hoàng Thi Thơ đã tự học nhạc từ lúc còn trẻ, sau này ghi danh học hàm thụ với một trường nhạc và bước vào sự nghiệp sáng tác nhạc năm 20 tuổi. Năm 1945, khi đang theo học ở trường Khải Định (nay là trường Quốc Học Huế), ông bỏ học để tham gia đoàn văn nghệ Quảng Trị do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba làm trưởng đoàn. Năm 1946, ông cùng với nhạc sĩ Trần Hoàn gia nhập đoàn tuyên truyền kháng chiến trung bộ do nhà văn Hải Triều phụ trách. Năm 1947, ông là phóng viên và biên tập viên báo Cứu Quốc ở liên khu 4 do Lưu Quý Kỳ làm chủ nhiệm kiêm chủ bút và nhà thơ Chế Lan Viên làm trưởng ban biên tập. Năm 1948 ông quay lại nhà trường để hoàn tất chương trình học phổ thông tại trường Huỳnh Thúc Kháng ở Hà Tĩnh. Tại đây ông gặp và yêu một nữ sinh tên là Tân Nhân – cũng là một ca sĩ đang tham gia đoàn văn công mặt trận Bình Trị Thiên (sau này Tân Nhân trở thành một ca sĩ huyền thoại của dòng nhạc đỏ). Sau khi học xong ở trường Huỳnh Thúc Kháng, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ theo học trường lục quân Trần Quốc Tuấn. Năm 1951, Hoàng Thi Thơ về Huế thăm gia đình người anh ruột (là cha của Hoàng Thi Thao), với mục đích là muốn xin gia đình người anh một số tiền để trở lại vùng kháng chiến (tức Liên Khu Tư ở Thanh Hóa) để sau đó đưa người yêu ra Hà Nội để theo học trường Văn Khoa ở đây. Nhưng khi trở về thì cả gia đình giữ Hoàng Thi Thơ lại và khuyên là không nên trở ra Liên Khu Tư, mặc dù ông rất nôn nóng muốn trở ra với người yêu. Cuối cùng ông cũng xiêu lòng trước những lời khuyên nhủ của những người thân nên quyết định vào Sài Gòn để được an toàn, còn người yêu của ông vẫn ở lại vùng kháng chiến. Kể từ đó coi như hai người chia tay nhau và không còn sự liên hệ chính thức nào nữa. Ca sĩ Tân Nhân Người yêu của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là ca sĩ tên là Trương Tân Nhân, cùng hoạt động với ông trong Đoàn Tuyên Truyền Kháng Chiến Trung Bộ. Sau khi Hoàng Thi Thơ trở về Huế, bà Tân Nhân mới biết là đã mang thai. Người con của hai người tên Lê Khánh Hoài (lấy theo họ của người cha kế), hiện nay là nhà báo có bút danh Châu La Việt. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và người con này đã không thể gặp được nhau cho đến tận năm 1993, tức là sau 40 năm, khi Hoàng Thi Thơ trở về được Việt Nam và cha con trùng phùng. Lê Khánh Hoài cũng được nhạc sĩ đặt tên theo họ cha là Hoàng Hữu Hoài. Trở lại thời kỳ năm 1952, khi nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ dẫn 2 người cháu ruột là Hoàng Thi Thao và Hoàng Kiều vào Sài Gòn. Thời gian đầu, cuộc sống của họ rất chật vật, thiếu thốn. 3 chú cháu chỉ biết trông cậy vào số tiền của thân phụ Hoàng Thi Thao từ Huế gửi vào hàng tháng. Thoạt đầu họ ở trọ tại căn nhà số 47 trên đường Catinat (tức đường Tự Do sau đó và là đường Đồng Khởi hiện nay) của một người quản gia cho một gia đình người Pháp. Lúc đó Hoàng Thi Thao lên 7 tuổi và bị ông chú bắt học đàn violin với một tay đàn violon lừng danh vào thời đó là Tạ Bôn. Hoàng Thi Thao kể: “Ông ấy muốn ép tôi học nhạc khí này. Ông ấy tưởng tôi thông minh lắm, tưởng là tôi có khiếu về nhạc lắm nên nhất định ép học violon cho bằng đựợc”. Sau hơn một năm ở trọ căn nhà trên đường Catinat, ba chú cháu lại tiếp tục cùng nhau ở trọ tại một số nơi khác… Thời kỳ ở trọ trên đường Ký Con vào năm 1953, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã cho ra đời một tác phẩm rất hữu dụng là cuốn sách “Để Sáng Tác Một Bài Nhạc Phổ Thông”, rất nổi tiếng với những phần hướng dẫn về hòa âm, luật sáng tác… Quyển sách dày 500 trang này xuất bản vào năm 1955 và sau đó được tái bản nhiều lần đã trở thành kim chỉ nam cho những người viết nhạc thời bấy giờ, được xem là sách gối đầu giường của các nhạc sĩ nổi tiếng Thanh Sơn, Ngọc Sơn, Thăng Long… Hoàng Thi Thao cho biết nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ rất hiếu học nên giỏi cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp. Ông đã bắt đầu đi dạy học ngay sau khi vào Sài Gòn cho đến tận năm 1965, song song với những họat động văn nghệ. Một chi tiết ít người biết, ông từng là người dạy kèm cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từ năm 1952 trong thời gian ở Huế. Lúc vào Sài Gòn, gia đình Trịnh Công Sơn ngụ trên đường Đặng Trần Côn, và Hoàng Thi Thao thì theo học cùng trường Aurore với 2 em trai của Trịnh Công Sơn là Trịnh Công Hà và Trịnh Công Tịnh. Mặc dù không có liên hệ họ hàng, nhưng hai bên rất thân nhau, thể hiện qua cách xưng hô. Trịnh Công Sơn gọi nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là cậu. Còn Hoàng Thi Thơ gọi thân mẫu Trịnh Công Sơn là chị. Hoàng Thi Thao cho biết ông cũng không thể quên những buổi tối nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, trước khi lập gia đình vào năm 1957, chở ông trên chiếc xe Vespa cũ mèm đến những rạp chiếu bóng ở Sài Gòn và Chợ Lớn như Việt Long, Moderne, Thanh Bình, Cathay… để trình diễn vĩ cầm trong các chương trình phụ diễn tân nhạc vào thời đó. Ngoài ra vào mỗi sáng Chúa Nhật, kể từ khoảng giữa thập niên 1950, “thần đồng vĩ cầm Hoàng Thi Thao” cũng tham gia vào những tiết mục phụ diễn cho chương trình Tuyển Lựa Ca Sĩ do đài phát thanh Sài Gòn tổ chức tại rạp Norodom, tức rạp Thống Nhất sau đó. Cũng trong một cuộc tuyển lựa ca sĩ năm 1954, có một nữ thí sinh tên Thúy Nga, quê quán ở Sơn Tây, mới từ Bắc di cư vào Nam, đã lên sân khấu dự thi với nhạc phẩm Đường Lên Sơn Cước và tự đệm phong cầm một mình, không cần ban nhạc phụ họa. Hình ảnh người thiếu nữ 18 tuổi xinh xắn với mái tóc thề, lại có duyên và hát hay, đàn giỏi đó đã được nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ chú ý tới. Hoàng Thi Thơ và ca sĩ Thúy Nga Chàng nhạc sĩ đa tình tìm cách làm quen với cô ca sĩ trẻ, trong khi đó thì ban đầu Thúy Nga chỉ coi ông như một người anh, và cũng là một người thầy để có thể học hỏi thêm về âm nhạc. Nhưng rồi cuối cùng bà đã xiêu lòng trước những tình cảm Hoàng Thi Thơ dành cho mình và nhận lời cầu hôn. Tiệc thành hôn của cặp nghệ sĩ Hoàng Thi Thơ và Thúy Nga đã diễn ra tại nhà hàng Văn Cảnh vào ngày 10 tháng 10 năm 1957, họ chung sống hạnh phúc cho đến khi nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ qua đời năm 2001. Gia đình nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ – ca sĩ Thúy Nga và các con (từ trái qua) Hoàng Thi Thương, Hoàng Thi Thư, Hoàng Thi Thanh, Hoàng Thi Thi Trong bài viết của nhà báo Trường Kỳ, nghệ sĩ Hoàng Thi Thao có lần nói về cuộc sống về gia đình chú ruột của mình như sau: “Khó có ai chiều chồng như bà Thúy Nga. Biết chồng như vậy cho nên chiều ghê lắm! Rất là quý! Lại còn nhịn nhục ghê lắm. Biết ông Thơ có cái tánh nghệ sĩ, cho nên bà Thúy Nga, cũng là ca sĩ, cho nên hiểu và thông cảm được”. Cố nghệ sĩ Hoàng Thi Thao nói rằng chú của mình là một người có tính rất “bay bướm” và ông cũng nhiều lần phải chứng kiến những trận ghen tuông giữa hai vợ chồng. Tuy nhiên một phần do tính của bà Thúy Nga rất hiền và một phần vì con cái nên kết cuộc mọi việc cũng được giải quyết êm xuôi. Hoàng Thi Thơ và Thúy Nga trên hình bìa dĩa nhựa Sau khi lập gia đình, Hoàng Thi Thơ bước vào một thời kỳ hoạt động văn nghệ hăng hái và có nhiều thành tựu. Trong lĩnh vực sáng tác, ông có nhiều nhạc phẩm đặc sắc được công chúng đón nhận qua giọng hát của nhiều ca sĩ ở Sài Gòn từ thập niên 1950, hát nhiều nhất là chính người vợ Thúy Nga cùng với đôi song ca Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết (nổi tiếng với 2 ca khúc Gạo Trắng Trăng Thanh, Trăng Rụng Xuống Cầu).  Riêng với bài Gạo Trắng Trăng Thanh, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ còn ghi lời đề tặng: “Riêng tặng hai bạn Nguyễn Hữu Thiết – Ngọc Cẩm, đôi giọng Nam Thương đã gieo trên giải đất đầy chim chóc nầy vô vàn âm thanh, đậm lòng như những bát cơm quê hai màu khoai sắn.” Hoàng Thi Thơ là một nhạc sĩ sáng tác rất đa dạng, ông sáng tác nhiều thể loại, từ tình ca, trường ca, nhạc cảnh, mà nổi tiếng nhất là các bài nhạc quê hương, tình tự dân tộc, sau này nữa là nhạc lính. Ngoài sở trường là các bài nhạc tình tự quê hương đã nhắc đến, Hoàng Thi Thơ còn có 2 bài hát theo lối kể chuyện độc đáo là Cô Lái Đò Bến Hạ và Chuyện Tình Người Trinh Nữ Tên Thi. Nhạc trữ tình thì ông có Đường Xưa Lối Cũ, Tà Áo Cưới, nhạc kích động có Túp Lều Lý Tưởng, Xây Nhà Bên Suối, và một loạt bài ca buồn rất được yêu thích là Xe Hoa Một Chiếc, Tango Nhớ, Rong Chơi Cuối Trời Quên Lãng, Mùa Thu Đông Kinh, Nhớ Thành Đô, Mùa Xuân Hoa Đào, nhạc lính có Tôi Nhớ Tên Anh, Tình Đêm Liên Hoan, Cái Trâm Em Cài… Qua những ca khúc quen thuộc đã kể trên, có thể thấy khả năng sáng tác đa dạng của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, thành công với tất cả những thể loại nhạc mang sắc thái hoàn toàn khác biệt. Ngoài việc sáng tác nhạc, nhạc sĩ Hoàng thi Thơ còn là người chuyên tổ chức và dàn dựng sân khấu. Năm 1961, ông thành lập Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm hơn 100 nghệ sĩ tên tuổi và lưu diễn qua nhiều nước Á Châu cũng như nhiều thành phố trên thế giới: Viêng Chăn, Hồng Kông, Ðài Bắc, Tokyo, Bangkok, Singapore, Sénégal, Paris, London… và nhiều nơi ở Hoa Kỳ. Năm 1967, Hoàng Thi Thơ thành lập tiếp Đoàn Văn Nghệ Maxim’s, gồm 70 diễn viên ca-vũ-nhạc-kịch, tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch đặc biệt tại vũ trường – phòng trà Maxim’s do ông quản lý. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ cũng là người duy nhất được chính quyền nhiều lần cử thành lập và dẫn các đoàn văn nghệ Việt Nam sang Châu Âu trình diễn… Chuyến lưu diễn đầu tiên của đoàn văn nghệ Việt Nam với Hoàng Thi Thơ là trưởng đoàn và Lê Thương là phó đoàn đã diễn ra ở Nhật, Đài Loan và Hồng Kông vào năm 1961 với một thành phần nghệ sĩ lên đến cả trăm người thuộc đủ mọi bộ môn như ca, vũ, nhạc, kịch với sự chú trọng đặc biệt vào những tiết mục vũ và hợp xướng. Ông từng nói rằng mục đích của Đoàn Văn Nghệ Việt Nam là “giới thiệu ít nhiều khía cạnh văn nghệ của dân tộc có màu sắc Việt Nam”. Hoạt động của đoàn văn nghệ này đã phải chấm dứt vào cuối năm 1963, sau cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11. Theo bài viết của Trường Kỳ và lời kể của Hoàng Thi Thao, sau thời điểm này thì có thời gian nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ bị Hội Đồng QNCM truy tố về tội chuyển tiền ra ngoại quốc cho tổng thống Ngô Đình Diệm và ông bà Ngô Đình Nhu qua những chuyến lưu diễn của Đoàn Văn Nghệ Việt Nam. Ông phải vào tù Chí Hòa hơn một năm, thông tin này có khá ít người biết. Nguyên nhân là Tổng Nha Ngân Khố tìm ra được những giấy tờ, theo đó ông Diệm và ông Nhu đã cấp phép cho Hoàng Thi Thơ đổi tiền Việt ra Mỹ Kim để dùng vào việc chi tiêu cho đoàn văn nghệ. Sự thật chỉ có vậy, sau đó xét thấy vô tội nên ông được trả tự do. Sau khi nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ ra tù vào năm 1965, hai chú cháu Hoàng Thi Thơ – Hoàng Thi Thao và một số nhạc sĩ khác kết hợp thành một ban nhạc đi làm cho một vũ trường do gia đình khai thác tên Bồng Lai ở tận Qui Nhơn. Đến cuối năm 1965, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ lại được chính phủ mời làm trưởng đoàn văn nghệ và đi trình diễn tại nhiều quốc gia ở Âu Châu và cả Châu Phi. Vào khoảng những năm 1967-1968, sau khi vũ trường Maxim’s ở đầu đường Tự Do được bán cho giám đốc công ty kem đánh răng Hynos là Huỳnh Đạo Nghĩa, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ vẫn tiếp tục cộng tác với phòng trà này và đảm trách khâu tổ chức sân khấu, với chương trình được làm giống như các nhà hàng ca vũ nhạc nổi tiếng ở Paris như Moulin Rouge hoặc Lido. Dưới tài tổ chức và khả năng nghệ thuật của Hòang Thi Thơ, đoàn văn nghệ Maxim’s đã trở thành một nơi quy tụ rất nhiều tài năng thuộc nhiều bộ môn nghệ thuật, nhất là vũ và nhạc kịch. Theo một giao kèo ký với chính phủ Nhật vào năm 1974, đoàn văn nghệ Maxim’s với thành phần nghệ sĩ trên 20 người đã lên đường sang quốc gia này trình diễn vào ngày 10 tháng 3 năm 1975 trong khi miền Nam vẫn đang ở trong cơn biến loạn ngày càng tăng cao. Đó cũng là lần xa rời quê hương của những nghệ sĩ đoàn Maxim’s, vì khi Sài Gòn sụp đổ, họ vẫn đang ở Nhật và sau đó phải lưu lạc trên đất khách quê người. Trước năm 1975, Hoàng Thi Thơ sáng tác trên 500 ca khúc, từ tình ca đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch. Khoảng năm 1972-1973, ông sử dụng thêm bút danh mới là Tôn Nữ Trà Mi và sáng tác một loạt ca khúc mà báo chí thời đó gọi là “đem lại cho làng tân nhạc Việt Nam luồng sinh khí mới và cảm hứng tân kỳ” như Rước Tình Về Với Quê Hương, Việt Nam Ơi Ngày Vui Đã Tới, Ô Kìa Đời Bỗng Dưng Vui, Xây Nhà Bên Suối, Ngày Vui Lý Tưởng… Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và ca sĩ Họa Mi Hoàng Thi Thơ  cũng là người đã nâng đỡ hai ca sĩ Sơn Ca và Họa Mi, đào tạo hai người này trở thành những nữ ca sĩ nổi tiếng. Ngoài ra, trước năm 1975 tại Sài Gòn, ông có thực hiện ba băng nhạc mang tên ông với những giọng ca nổi tiếng: Hoàng Thi Thơ 1: Rước tình về với quê hương Hoàng Thi Thơ 2: Việt Nam như đóa hoa xinh Hoàng Thi Thơ 3: Đưa em qua cánh đồng vàng Sau năm 1975, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ tiếp tục công việc tổ chức các đại nhạc hội tại nhiều nơi trên đất Mỹ cũng như trong việc thu băng hay video. Những năm cuối đời, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ bị bệnh tim và qua đời trong vòng tay gia đình vào ngày 23 tháng 9 năm 2001, được an táng tại Vườn Vĩnh Cửu trong khuôn viên nghĩa trang Peek Family ở Orange County. Đêm hôm trước ông còn nói chuyện rất vui vẻ với vợ cùng các con từ các nơi về thăm ông. Ông nói với vợ là thèm ăn cơm với cá kho và vài món yêu thích. Sáng sớm hôm sau, vợ ông chuẩn bị đi chợ để làm theo ý ông. Trước khi đi, bà còn vào thăm ông. Nhưng gõ cửa thì không thấy trả lời. Đến khi đẩy cửa vào thì biết ông đã êm ái từ giã cõi đời. Đã nhiều năm đã qua đi, nhưng những người yêu mến dòng nhạc của ông vẫn thấy hình ảnh người nhạc sĩ đa tài này hiện diện trong những sáng tác đã trở thành bất tử của ông…

 

 

Cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Trúc Phương – “Ông hoàng” của nhạc bolero

Trong rất nhiều nhạc sĩ đã thành danh từ trước năm 1975, có thể nói rằng nhạc sĩ Trúc Phương là tên tuổi lớn nhất của dòng nhạc vàng với rất nhiều ca khúc nổi tiếng được công chúng yêu mến suốt 60 năm qua, đặc biệt là những bài có giai điệu bolero. Nếu có danh xưng mang tên “ông hoàng của dòng nhạc bolero”, thì bất kỳ ai cũng sẽ công nhận rằng chỉ có duy nhất nhạc sĩ Trúc Phương là người xứng đáng với danh hiệu này. Số lượng ca khúc của nhạc sĩ Trúc Phương được công chúng biết đến là khoảng gần 70 bài, hầu như bài hát nào cũng có một sức sống bền bỉ cho đến ngày hôm nay ở bất cứ nơi nào có người Việt sinh sống. Là một nhạc sĩ tài hoa và tài năng như vậy, nhưng đi đôi với đó là những bất hạnh khi nhạc sĩ Trúc Phương phải trải qua quá nhiều đau thương và khốn khó cho đến tận giờ phút cuối cùng. Là một tên tuổi lớn, nhưng ông lại qua đời khá sớm trong hoàn cảnh rất đặc biệt, nhiều người đã viết về cuộc đời ông, nhưng phần nhiều trong số đó là phóng tác, với những thông tin đã bị những người thân trong gia đình Trúc Phương bác bỏ. Trong bài viết này, chỉ xin chọn lọc lại những thông tin có vẻ tin cậy nhất do chính ông, hoặc là người thân cận của ông kể lại. Nhạc sĩ Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiên Lộc, sinh năm 1933 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Vĩnh Bình (nay là Trà Vinh) ở vùng hạ lưu sông Cửu Long. Cha của Trúc Phương là một nghệ sĩ hát bội, sau chuyển qua hát cải lương, nên Trúc Phương cũng yêu thích nghệ thuật từ nhỏ vì ảnh hướng từ cha. Từ giữa thập niên 1950, ông sinh hoạt văn nghệ với các nghệ sĩ ở ty Thông Tin tỉnh Vĩnh Bình một thời gian ngắn, đến năm 1957 thì lên Sài Gòn tìm đến nhạc sĩ Trịnh Hưng để học về kỹ thuật sáng tác. Nhạc sĩ Trịnh Hưng là một người chuyên sáng tác những ca khúc về đồng quê, và khuynh hướng này đã ảnh hưởng phần nào đến những sáng tác của Trúc Phương trong những năm đầu của sự nghiệp. Xem bài khác Những giọng hát tiên phong của nhạc vàng bolero Việt Nam Tặng “bông” cho ca sĩ/tài tử có từ khi nào? Bài hát đầu tay của nhạc sĩ Trúc Phương là Chiều Làng Em, Tình Thương Mái Lá, mang niềm nhớ nhung của ông về hình ảnh thanh bình ở nơi quê xưa. Ngay sau đó, một bài hát khác viết về thôn quê cũng rất nổi tiếng với giai điệu mambo trong sáng, vui tươi là Tình Thắm Duyên Quê. Ca khúc giai điệu bolero đầu tiên mà nhạc sĩ Trúc Phương sáng tác là Đò Chiều năm 1959, và sau đó là ca khúc được xem là bài bolero kinh điển: Tàu Đêm Năm Cũ, được ông viết vào đầu thập niên 1960 để tặng cho những người lính/sĩ quan phải đi xa nhà vì chính sách hoán đổi công tác của chính quyền thời bấy giờ: Công chức ở miền nam ra miền Trung công tác, và ngược lại. Nhạc của Trúc Phương có phong cách rất riêng biệt khó lẫn với các nhạc sĩ khác. Các bài hát đều có lời ca hoa mỹ, bay bướm nhưng không cao xa, càng nghe người ta càng thấy tràn đầy cảm xúc. Ngoài dòng nhạc tình tự quê hương trong thời gian đầu, thì sau đó hình như Trúc Phương chỉ viết duy nhất nhạc về tình yêu, với những nhớ thương, mong đợi, ưu tư, hy vọng, ly tán, đoàn viên. Đó là những cảm xúc rất thật, gần gũi với cuộc sống và dễ đi vào lòng người. Nhạc sĩ Trúc Phương và vợ Nhạc sĩ Trúc Phương lập gia đình với một phụ nữ ở Bến Tre vào cuối thập niên 1950 và có tổng cộng 6 người con, người con gái đầu tên là Trúc Loan đã kể về cha mình như sau: “Ba tôi viết nhạc và nổi tiếng từ rất sớm nhờ dòng nhạc boléro chậm, trữ tình của ông dễ nhớ, dễ nghe. Ngoài cây đàn guitar thường xuyên bên cạnh, ba tôi còn biết chơi thành thạo các nhạc cụ khác. Hồi còn nhỏ xíu, có lần theo ba đi Đại nhạc hội, ba tôi còn đàn contrabass trong dàn nhạc nữa, lúc đó tôi rất ngạc nhiên vì cây đàn quá to này, ba phải đứng mới cầm được nó… Khi chơi với các con, ba tôi thường lấy cây harmonica “khẩu cầm” ra thổi… Ba gặp má tôi khi bà còn đang đi học. Ba cưới ngay khi má chỉ 16 tuổi. Tôi được sinh ra vào thời điểm ba tôi viết nhạc nhiều nhất. Dù sau đó, tôi còn có thêm 5 đứa em nữa, nhưng ba vẫn luôn cưng tôi nhất nhà. Ba tôi là một người đàn ông rất yêu gia đình, thương vợ thương con. Ông cũng là 1 người con, người cháu rất có hiếu. Ngày xưa, dù nghèo, ở nhà thuê, nhưng ba tôi cũng nuôi bà cố tôi chu đáo. Khi làm có tiền, ba hay mua sắm đồ đạc mang về quê cho bà nội tôi. Ba tôi hiền lành, chân thật, rất lạc quan và tốt bụng. Có lẽ vì vậy nên ai cũng quý mến. Tính ba tôi lại rất nghệ sĩ, không vụ lợi, không tính toán nên không có dư dả. Gánh nặng cơm áo gạo tiền, má tôi phải gánh vác từ lúc ba tôi phải nhập ngũ”. Tuy đã có gia đình từ rất sớm, nhưng với tính tình phóng khoáng của một nhạc sĩ tài hoa, nhạc sĩ Trúc Phương đã xiêu lòng trước nhiều người đẹp, trở thành nguồn cảm xúc bất tận để ông viết nhiều ca khúc nhạc vàng nổi tiếng, trong đó bài Hai Chuyến Tàu Đêm được ông sáng tác khi trên tàu về thăm ở yêu ở tỉnh Bình Tuy (nay là Bình Thuận).

Có một điều đặc biệt, là hầu hết những ca khúc buồn nhất của nhạc sĩ Trúc Phương như là Thói Đời, Buồn Trong Kỷ Niệm… đều được ông sáng tác khi đang tràn ngập hạnh phúc, cũng như ở đỉnh cao của sự nghiệp cả về tiếng tăm lẫn tài chính. Những cảnh đời buồn bã đó trong bài hát chỉ đến với ông vào thời gian sau này, như là một lời tiên tri định mệnh của số phận. Sau này, trong lần ghi hình hiếm hoi trong những năm cuối đời, ông cho biết: “Bài Buồn Trong Kỷ Niệm được tôi sáng tác trong lúc vô cùng hạnh phúc, bởi lúc đó mới lấy vợ có đứa con đầu tiên, lúc đó đứa con gái mới có 2 tháng mấy, 3 tháng. Tôi đang ngụp lặn trong hạnh phúc. Còn việc tôi viết bài đó thì không hiểu vì sao tôi viết. Tôi nghĩ là sau này, cái bài đó tiên tri cho mối tình của tôi. Tức là nó báo cho tôi rằng sẽ có một cái ngày mà tôi nhìn về kỷ niệm, về cái nỗi buồn kia. Thật ra thì lúc đó tôi rất hạnh phúc. Tôi cảm ơn các tác phẩm, đã cho tôi những ngày biết trước cuộc đời tôi như thế, mà phần lớn tác phẩm đều có như thế, ngoài “Buồn Trong Kỷ Niệm” ra, còn một số tác phẩm khác” 

Tổng số lượng sáng tác được công chúng biết đến của nhạc sĩ Trúc Phương là gần 70 bài, nhiều bài phổ biến trong suốt thập niên 1960 và cho đến tận hiện nay. Bài hát cuối cùng của ông là Xin Cảm Ơn Đời, được viết vào tháng 3 năm 1995 khi ông được đón nhận những tình cảm thân ái mà đồng nghiệp trong và ngoài nước gửi đến vì biết được hoàn cảnh bi đát của ông vào những năm cuối đời. Bài hát này cũng như là lời tâm tình, uẩn khúc mà ông muốn gửi lại cho đời lần sau chót. Cuối thập niên 1960, nhạc sĩ Trúc Phương từng mở lớp nhạc ở số 33/230, đường Gia Long, Gò Vấp gọi là “Trúc Phương Tự Lực”, đào tạo được một số ca sĩ như Thy Lệ Dung, Thy Lệ Huyền, Chinh Thông nhưng không có ca sĩ nào nổi tiếng. Nhắc đến nhạc sĩ Trúc Phương, ai cũng nhớ đến giọng hát Thanh Thúy. Cho dù nữ ca sĩ này đã trở thành một trong những ca sĩ nổi tiếng nhất Sài Gòn ngay từ lúc cuối thập niên 1950 khi chưa gặp Trúc Phương, sang đến đầu thập niên 1960, nhạc Trúc Phương và tiếng hát Thanh Thúy đã trở thành sự kết hợp có thể xem là thành công nhất của thể loại nhạc vàng. Trong một bài tưởng niệm nhạc sĩ Trúc Phương đăng trên báo Thế Giới Nghệ Sĩ, ca sĩ Thanh Thúy viết: “Anh và tôi không hẹn, nhưng đã gặp nhau trên con đường sống cho kiếp tằm. Anh trút tâm sự qua cung đàn, còn tôi qua tiếng hát. Trong khoảng thập niên 60, tên tuổi anh và tôi như đã gắn liền với nhau: nhạc Trúc Phương, tiếng hát Thanh Thúy. Như một định mệnh, tôi vào đời ca hát đúng vào thời điểm anh say mê sáng tác, và tình cờ trở thành vị sứ giả đem tâm sự anh đến mọi người, những người không nhiều thì ít cùng mang một tâm sự với anh. Tâm sự về tuổi thơ mộng, về tình yêu dịu dàng của đôi lứa (dù trong bối cảnh đau thương của đất nước), về chuyện tình dở dang, về cuộc đời…” 

Về bút danh là Trúc Phương, một người cháu họ bên vợ của nhạc sĩ kể lại rằng sau khi có những sáng tác đầu tay là Chiều Làng Em, Đò Chiều… thì chàng nhạc sĩ trẻ mang tên Trần Thiên Lộc vẫn chưa lấy bút danh Trúc Phương. Lúc đó ông có một người anh họ bên ngoại đặt tên cho 10 người con đều có tên lót là Trúc, trong đó có người con gái tên Trần Trúc Phương đã mất lúc 1 tuổi. Có lẽ vì thích tên này, hoặc vì một lý do nào đó khác mà Trần Thiên Lộc xin phép người anh để lấy tên Trúc Phương để làm bút danh sáng tác cho mình. Sau này khi có gia đình, ông cũng đặt tên cho cả 6 người con có tên lót là Trúc. Sau năm 1975, nhạc sĩ Trúc Phương ở lại Sài Gòn. Năm 1976 ông cố gắng vượt biển bất thành và bị tịch thu căn nhà riêng ở số 301 Lý Thường Kiệt, Quận 11. Sau thời gian đó là bắt đầu những tháng ngày buồn thảm của vị nhạc sĩ tài hoa này cho đến tận lúc lìa đời. Sau khi bị tù vì vượt biển 2 lần nữa đều không thành công, ông bị lâm vào hoàn cảnh gia đình ly tán và chia tay với vợ vào khoảng năm 1979. Ra tù, sống không nhà cửa, không giấy tờ tuỳ thân. Hoàn cảnh lúc đó được chính nhạc sĩ Trúc Phương kể lại trong một cuộc phỏng vấn như sau: “Sau những biến cố của cuộc đời, tôi phải sống một thời gian kiểu rày đây đây mai đó, bèo dạt mây trôi. Nếu đói thì không đói ngày nào, nhưng mà nói no thì chưa được ngày nào gọi là no. Tôi không có mái nhà, lúc đó thì chuyện vợ con cũng tan nát rồi. Tôi sống nhờ nhà bạn bè. Nhưng mà khốn nỗi bạn bè cũng có hoàn cảnh bi đát, khổ sở. Không ai đùm bọc ai được. Thêm nữa, bạn bè không dám chứa tôi trong nhà, bởi vì tôi không có giấy tờ tùy thân, chẳng có thứ gì trong người cả… Tôi nghĩ ra một cách, là tìm nơi nào có khách vãng lai để chui vào ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ. Ban ngày thì lê la trong thành phố, đến đêm phải ra xa cảng (Bến xe Miền Tây), thuê một chiếc chiếu, thế chân 1 đồng. Ngủ đến sáng, xếp chiếu trả cho người ta, lấy tiền thế chân về. Một năm tôi ngủ ở xa cảng đến 9 tháng như vậy. Hôm nào có tiền đi xe lam, tôi ra sớm, chừng 5 giờ chiều có mặt ngoài đó thì còn có chỗ lịch sự, tương đối vệ sinh để trải chiếu nằm. Hôm nào ra trễ, chỗ tốt, sạch, vệ sinh… bị người ta giành hết rồi, tôi phải trải chiếu gần chỗ người ta đi tiểu, nhưng mà cũng đành chịu”. Không chịu nổi được cảnh sống như vậy ở Sài Gòn, nhạc sĩ Trúc Phương lưu lạc về Trà Vinh để sống với mẹ, sau đó đi Vĩnh Long và vài nơi khác. 

Giữa năm 1985, ông được nhận vào công tác tại Hội Văn nghệ Cửu Long và được cấp một căn phòng tại số 6 Hưng Ðạo Vương, thị xã Vĩnh Long để ở. Ít lâu sau, ông trở về sống ở Sài Gòn nhờ sự giúp đỡ của bạn bè. Từ thập niên 1990, nhà báo Trần Quốc Bảo, ca sĩ Thanh Thúy ở hải ngoại đã phối hợp cùng các nhạc sĩ trong nước đã vận động, quyên góp tiền từ hải ngoại để gửi về giúp đỡ cho nhạc sĩ Trúc Phương. Một trong những người bạn thân cận với nhạc sĩ Trúc Phương trong những năm cuối đời là nhạc sĩ Thanh Sơn đã xác nhận hoàn cảnh bi đát của Trúc Phương trong một bức thư gửi cho ca sĩ Thanh Thúy như sau: “Vợ có chồng khác, anh Phương sống lay lắt với 2 người con trai, bữa đói bữa lưng chứ chưa được bữa no”. Bức thư của nhạc sĩ Thanh Sơn gửi Thanh Thúy nói về hoàn cảnh của nhạc sĩ Trúc Phương Vào những năm tháng cuối đời, nhạc sĩ Trúc Phương bị suyễn nặng với căn bệnh phổi hành hạ và qua đời ngày 18 tháng 9 năm 1995, được an táng tại nghĩa trang Lái Thiêu. Sau khi mai táng xong nhạc sĩ Trúc Phương ngày 21/9/1995, ngày hôm sau đó, nhạc sĩ Thanh Sơn viết một bức thư ngỏ để gửi đến các trung tâm băng nhạc và ca sĩ ở hải ngoại, cùng những người đã hát nhiều nhạc của Trúc Phương rồi thành danh nhưng không trả tiền tác quyền cho nhạc sĩ. Dưới bức thư này có chữ ký của các nhạc sĩ ở trong nước là Thanh Sơn, Bảo Thu, Quốc Dũng, Hoàng Trang, Ngọc Sơn trước 75, Mặc Thế Nhân. Xin chép lại nguyên văn bức thư này sau đây: Kính gửi Quý trung tâm băng nhạc, Quý anh chị em a nhạc sĩ ở Hoa Kỳ. Nhạc sĩ Trúc Phương đã từ trần lúc 9 giờ 45 phút ngày 18 tháng 9 năm 1995 tại bệnh viện An Bình. Gia đình và một số bạn hữu đã hoàn tất việc mai táng tại nghĩa trang Lái Thiêu, ngày 21/9/1995. Trước sự ra đi lặng lẽ và hết sức đau buồn của một nhạc sĩ tài hoa, trong hoàn cảnh thiếu thốn trầm trọng, chúng tôi: một số nhạc sĩ sáng tác bạn bè cũ của nhạc sĩ Trúc Phương, viết vài giòng chữ này kính gởi đến quý Trung tâm băng nhạc và anh chị em ca nhạc sĩ trên đất Mỹ, dù có xử dụng hay không xử dụng đến 65 bài hát của nhạc sĩ Trúc Phương, xin hãy nhỏ chút tình thương bằng tấm lòng giúp đỡ tùy hảo tâm của quý vị, để gia đình và bạn bè xây mộ theo ước nguyện, lời trăn trối sau cùng của nhạc sĩ Trúc Phương. Chúng tôi trân trọng gởi lời cám ơn đến quý vị và kính chúc nhiều sức khỏe, công việc làm ăn được thịnh vượng.

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Văn Cao

Văn Cao, tên thật là Nguyễn Văn Cao, là một huyền thoại của âm nhạc Việt Nam. Sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray, Hải Phòng, ông xuất thân trong một gia đình viên chức, nhưng định hướng sự nghiệp của mình từ thời thơ ấu.

Thuở nhỏ, Văn Cao bắt đầu học tân nhạc tại trường Saint Josef sau khi tốt nghiệp tiểu học Bonnal. Đó là nơi ông nảy mầm niềm đam mê âm nhạc. Cuối những năm 30, tân nhạc Việt Nam bắt đầu nở rộ, và Hải Phòng, nơi Văn Cao lớn lên, trở thành tổ chức nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý, và nhiều tài năng khác. Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý, cùng với Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận, và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay của mình, "Buồn tàn thu," khi mới 16 tuổi. Điều này chỉ là khởi đầu cho một loạt các ca khúc lãng mạn khác mà ông đã viết, như "Bến Xuân," "Suối Mơ," "Thiên Thai," "Chương Tri," và tất cả đều trở nên phổ biến.

Năm 1940, Văn Cao thực hiện một chuyến đi vào miền Nam và tại Huế, ông viết "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế," được coi là bài thơ đầu tay của ông. Năm 1942, ông rời Hải Phòng và đến Hà Nội, thuê căn gác số 171 phố Mongrant và theo học tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Tại đây, Văn Cao vẫn tiếp tục sáng tác thơ và viết truyện, đồng thời tham gia vào triển lãm tranh sơn dầu. Tác phẩm "Cuộc khiêu vũ những người tự tử" của ông gây chấn động dư luận và được đánh giá cao.

Cuối năm 1944, Văn Cao gặp lại Vũ Quý, một Việt Minh, và được thuyết phục tham gia vào Việt Minh. Nhiệm vụ đầu tiên của ông trong tình cách mạng này là sáng tác một bài hành khúc. Và trong căn gác nhỏ tại số 171 phố Mongrant, ông sáng tác "Tiến quân ca," một bản nhạc quyền lực. Bài hát này được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập vào tháng 11 năm 1944. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh chính thức duyệt "Tiến quân ca" làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Văn Cao tiếp tục tham gia hoạt động trong đội Trừ gian của Việt Minh và đảm nhận việc in ấn cho cơ quan Phan Chu Trinh, in sách báo, và truyền đơn.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Văn Cao làm phóng viên và trình bày cho báo Lao Động. Năm 1946, ông được gửi vào mặt trận Nam Bộ cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền. Đây là một trong những bước quan trọng đánh dấu sự đóng góp của ông trong cuộc chiến tranh.

Năm 1949, Văn Cao tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Ủy viên Chấp hành. Thời kỳ này, ông tiếp tục sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như "Làng tôi" (1947), "Ngày mùa" (1948), "Tiến về Hà Nội" (1949) và đặc biệt là "Trường ca Sông Lô" vào năm 1947.

Văn Cao không chỉ là một nhạc sĩ tài năng mà còn là một người nghệ sĩ đa tài, thử sức trên nhiều lĩnh vực như truyện, thơ, và tranh vẽ. Tuy ông không sáng tác nhiều ca khúc so với một số nhạc sĩ khác, nhưng mỗi tác phẩm của ông đều nổi tiếng với tính lãng mạn và giá trị nghệ thuật sâu sắc. Văn Cao đã để lại một di sản âm nhạc vĩ đại với những bản nhạc như "Bến Xuân," "Suối Mơ," "Thiên Thai," và đặc biệt "Tiến quân ca," quốc ca của Việt Nam. Đồng thời, ông cũng viết các bản nhạc hùng ca như "Gò Đống Đa," "Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang," "Tiến về Hà Nội," "Thăng Long hành khúc," và "Trường ca Sông Lô," góp phần quan trọng vào di sản âm nhạc kháng chiến của Việt Nam.

Văn Cao, với tâm hồn tráng cao và tình yêu sâu sắc dành cho quê hương và dân tộc, xứng đáng là một tượng đài của nền âm nhạc Việt Nam và niềm tự hào của quê hương và nhân dân, với những giai điệu vẫn vươn lên trong lòng mọi người qua thời gian.

Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên

Cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên – Một đời sáng tác tình ca 2020/09/25 0 Dòng nhạc trữ tình Việt Nam từ thập niên 1960 trở về sau đã có sự xuất hiện của nhiều nhạc sĩ mới cùng những tác phẩm đã trở thành bất tử. Đại diện cho thế hệ này là 5 nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Lê Uyên Phương, và trẻ nhất là Ngô Thuỵ Miên. 5 nhạc sĩ này cùng sáng tác thể loại tình ca, nhưng mỗi người đều sở hữu những cá tính âm nhạc riêng biệt, nếu so với trước đó và cả sau này thì đều không ai trùng lặp với ai. Trong số 5 nhạc sĩ thì có 2 nhạc sĩ hiếm hoi đã dành cả cuộc đời chỉ để sáng tác những bài tình ca lãng mạn, đó là Từ Công Phụng và Ngô Thuỵ Miên. Trả lời câu hỏi tại sao không viết về những đề tài khác ngoài tình ca, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên cho biết: “Từ bao nhiêu năm nay tôi chỉ viết tình ca vì thấy thích hợp với con người, với cá tính của mình, và cũng vì tình yêu mãi mãi vẫn là một đề tài muôn thuở cho người nghệ sĩ sáng tác. Các chủ đề Tình Yêu, Thân Phận, và Quê Hương đã được khai triển rộng rãi trong nhiều thập niên vừa qua với bao nhiêu tác giả và tác phẩm. Được biết đến như một người viết tình ca (đôi lứa) cũng đã là quá đủ cho tôi rồi”. Những sáng tác tiêu biểu nhất của nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên đã quen thuộc với nhiều thế hệ khán giả yêu nhạc, có thể kể đến là Niệm Khúc Cuối, Bản Tình Cuối, Chiều Nay Không Có Em, Áo Lụa Hà Đông, Giọt Nước Mắt Ngà, Từ Giọng Hát Em, Mắt Biếc, Giáng Ngọc, Tuổi 13, Mùa Thu Cho Em… Đây cũng có thể xem là những bài nhạc trữ tình hay nhất của âm nhạc Việt Nam.

Sau năm 1975, nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên vẫn sáng tác không ngừng để cho ra mắt những ca khúc nổi tiếng Bản Tình Ca Cho Em, Riêng Một Góc Trời, Dốc Mơ… Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên tên thật là Ngô Quang Bình, sinh ngày 26/9/1948 tại Hải Phòng, là người con thứ hai trong một gia đình có 7 anh chị em. Ông lớn lên trong môi trường sách vở và thơ văn, do gia đình ông có mở một nhà sách tên Thanh Bình ở thành phố Hải Phòng, và sau này ở trên đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) khi di vào đến Sài Gòn. Tại đây, ông theo học trường Trung học Nguyễn Trãi, sau đó là Trường Đại học Khoa học Sài Gòn (nay là trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên). Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã từng nói về những nơi mà ông đã từng gắn bó một thời như sau: “Tôi sinh ra ở Hải Phòng miền Bắc Việt Nam, nhưng đã lớn lên tại Sài Gòn, đã được nuôi dưỡng bởi cái tánh khí bình dị, cái tinh thần mộc mạc của miền Nam, đã có cả một thời mơ mộng, cả một tuổi trẻ với bao mộng ước đầu đời, khát khao…”

Trong thập niên 1960, Ngô Thụy Miên có theo học vĩ cầm với Giáo sư Đỗ Thế Phiệt, học nhạc lý với Giáo sư Hùng Lân tại Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Trong thời gian học tại đây, ông được quen biết với Đoàn Thanh Vân (con gái của tài tử nổi tiếng Sài Gòn là Đoàn Châu Mậu), và hai người đã có một mối tình sâu đậm. Những tình khúc bất hủ của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phần nhiều là được viết cho cuộc tình này. Ngô Thụy Miên đã bắt đầu sáng tác từ năm 1963 khi mới 15 tuổi với bút danh là Đông Quân, nhưng đến 2 năm sau đó thì tên tuổi của ông mới được công chúng biết đến qua tình khúc Chiều Nay Không Có Em.

Năm 1969, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên cho xuất bản tập nhạc “Tình khúc Đông Quân” gồm một số ca khúc tiêu biểu như: Giáng Ngọc, Gọi Nắng (sau đổi tên thành Giọt Nắng Hồng), Mùa Thu Này Cho Em (sau đổi tên thành Mùa thu cho em), Dấu Vết Tình Yêu (sau đổi tên thành Dấu Tình Sầu)… “Tình khúc Đông Quân” được in ronéo và phát hành tại Sài Gòn. Năm 1974, Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên bắt tay vào thực hiện băng nhạc đầu tay mang tên “Tình Ca Ngô Thụy Miên” với 17 ca khúc được sáng tác từ năm 1965 – 1972. Bài hát đầu tiên được hoàn tất trong năm 1965 là Chiều Nay Không Có Em và bài cuối cùng được viết trong năm 1972 là Mắt Biếc.

Cho đến nay, nhiều người vẫn xem đây là băng nhạc hay nhất của nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên, đồng thời cũng là một trong những băng nhạc hay nhất của dòng nhạc trữ tình với sự góp mặt của những ca sĩ thượng thặng như Khánh Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan, Duy Quang,… Một mảng sáng tác đáng lưu ý và cũng rất được đón nhận trong số các tình khúc Ngô Thuỵ Miên, đó là nhạc phổ thơ của thi sĩ Nguyên Sa. Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên cho biết: “Tôi đến với thơ Nguyên Sa, không từ một chọn lựa, mà vì tôi đã nhìn thấy mình trong thơ của ông, đã nghe những rung động thầm kín nhất của tuổi trẻ mình được ông tạo lên bằng những lời thơ ngọt ngào tình tứ, tươi mát. Cũng như bao nhiêu anh em thanh niên sinh viên học sinh của thập niên 60, tôi yêu và thuộc không ít thơ của ông”. Từ yêu thích và thuộc thơ, nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên bắt đầu phổ nhạc cho thơ Nguyên Sa và cho ra đời những ca khúc bất hủ như là Áo Lụa Hà Đông, Paris Có Gì Lạ Không Em, và Tuổi 13. Ngoài sáng tác âm nhạc, nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên còn là một công chức. Từ năm 1970 đến 1975, ông làm kiểm soát viên không lưu tại phi trường Tân Sơn Nhất. Cũng khoảng thời gian đó, ông là Trưởng ban nhạc Luân Phiên tại Đài phát thanh Quân đội.

Năm 1973, nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên đính hôn với cô bạn gái lâu năm Đoàn Thanh Vân, người đã cùng ông trải qua nhiều thăng trầm với những sự hợp tan. Đám cưới dự định sẽ được tổ chức sau khi Đoàn Thanh Vân tốt nghiệp đại học. Tuy nhiên dự định chưa thành thì xảy ra biến cố 1975, Đoàn Thanh Vân theo gia đình đi di tản, còn Ngô Thuỵ Miên ở lại Sài Gòn. Niềm thương nhớ người yêu đã ở bên kia bờ đại dương đã trở thành nguồn cảm xúc để ông viết: Em nhé khi nào chợt nhớ mùa xuân Nhớ lá thư xanh và chuyện tình hồng Nhớ nắng hanh vàng nhuộm áo Hà Đông Anh ở nơi này vẫn luôn chờ mong… Đó là lời ca trong tình khúc duy nhất mà Ngô Thuỵ Miên viết tại Sài Gòn sau năm 1975 mang tên Em Còn Nhớ Mùa Xuân, với lời khẳng định: Anh ở nơi này vẫn luôn chờ mong…

Ông đã từng nói về quan điểm của mình về tình yêu như sau: “Tình yêu đối với tôi dù sung sướng hay khổ đau cũng là một điều rất thiêng liêng. Yêu không có nghĩa là phải chiếm hữu cho riêng mình, yêu là cho tận cùng, là chấp nhận hết những buồn vui, khổ hận để mang lại hạnh phúc cho người yêu. Yêu cũng là tha thứ cho những vấp ngã của người và của chính mình. Đó chính là cái nét riêng biệt của tình ca Ngô Thụy Miên”.

Đến năm 1978, Ngô Thụy Miên sang được đến Pulau Bidong – Mã Lai và ở đây 6 tháng trước khi được bảo lãnh cho sang Montréal (Canada) vào tháng 4 năm 1979. Khi đó, Đoàn Thanh Vân từ San Diego – Mỹ, được tin người yêu đã đến được Canada, cô đã bay sang gặp người yêu và cùng nhau nối lại cuộc tình dang dở hơn 10 năm vì thời cuộc. Họ kết hôn ngay trong năm 1979 và cả hai sống tại San Diego, sau đó là Orange County.

Vợ chồng nhạc sĩ Ngô Thụy Miên Năm 1980, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên bắt đầu đi làm về ngành điện toán cho trường UCLA (Los Angeles), đúng với chuyên ngành và ông đã được đào tạo và làm việc từ trước năm 1975. Vợ chồng nhạc sĩ sang định cư tại Seattle (Washington) và ông đã cho ra đời sáng tác đầu tiên tại hải ngoại của mình là Bản Tình Ca Cho Em sau một thời gian dài không viết nhạc. Những ca khúc quen thuộc khác cũng được Ngô Thụy Miên sáng tác trong thời gian này là Nắng Paris Nắng Sàigòn, Giấc Mơ, Mùa Thu Xa Em, Tháng Giêng và Anh, Dốc Mơ… Thời gian sau đó, vợ chồng Ngô Thụy Miên – Đoàn Thanh Vân chuyển đến định cư ở nơi có khá ít người Việt sinh sống là thành phố Olympia, tiểu bang Washington, là một thành phố hiền hòa, cùng nhau sống hạnh phúc trong một nếp sống bình yên và khá kín tiếng cho đến nay.

Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên từng nói về sự nghiệp sáng tác âm nhạc của mình như sau: “Tôi đến với âm nhạc như một sự tự nhiên, không hề có tham vọng gì. Những sáng tác của tôi đều được cẩn trọng, chăm sóc từ lời ca đến ý nhạc. Những năm tháng học nhạc cổ điển Tây phương đã giúp tôi rất nhiều trong việc sáng tạo, chọn lựa cũng như trau chuốt, làm đẹp câu nhạc. Đã có những bài tôi để cả năm trời chỉ để viết đi, viết lại những giai điệu mà mình chưa vừa ý! Nói về lời ca, thì có lẽ nhờ trưởng thành giữa văn thơ và sách vở tôi đã được đọc rất nhiều. Đọc nhiều nó thấm vào người lúc nào không biết. Rồi khi trái tim rung động thì lời ca tự nhiên sẽ đến”. Ngoài ra, ông cũng từng nói một câu đại ý rằng: “Tôi không viết nhạc để sống, nhưng sống để viết nhạc”. Có lẽ vì chỉ sáng tác dành cho những cảm xúc thật của mình, không phải lo lắng nhiều đến sinh kế, không phải viết theo đơn đặt hàng, không chịu sự hối thúc của một ai nên các bài hát của ông không có sự dễ dãi, mang được một nét lãng mạn đặc trưng, luôn dạt dào cảm xúc, là những tác phẩm để đời được nhiều thế hệ yêu thích

Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên và nỗi buồn trong ca khúc Bài Tình Ca Cho Em: “Một lần gặp gỡ đã là bao thương nhớ…” Nhạc tình ca của Ngô Thụy Miên luôn có đầy đủ những cung bậc hạnh phúc lẫn thương đau, nhạc... “Bản Tình Cuối” của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên – Tình yêu vĩnh cửu và trọn vẹn thủy chung Bản Tình Cuối là một trong số 17 Miên Tình Khúc được nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên sáng tác và...

Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên và tuyệt phẩm “Niệm Khúc Cuối”: Dù sao đi nữa xin vẫn yêu em Khi dấn thân vào địa hạt âm nhạc, mỗi nhạc sĩ sẽ tìm cho mình một con đường riêng để..., Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên và mối tình ray rứt trong ca khúc Mắt Biếc – “Dĩ vãng như bao cung tơ…” Sự nghiệp âm nhạc của nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên trải dài từ trước đến sau năm 1975, từ Việt..., Ca khúc “Tình Khúc Mùa Xuân” của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên – “Tình yêu đó cho em, tháng năm trên từng phím Xuân lay…” Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên là một trong những nhạc sĩ hiếm hoi đứng ngoài những trào lưu, thị hiếu..., Mối tình đầu tinh khôi trong ca khúc “Tuổi Mười Ba” của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên (thơ Nguyên Sa) – “Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc…” Nhắc đến danh ca Thái Thanh có thể kể ra một loạt ca khúc bất hủ gắn liền với tên...

Người đẹp không tuổi của làng nhạc hải ngoại vào thập niên 1980-1990 Ca sĩ Nhật Hạ nổi tiếng trong làng nhạc hải ngoại từ giữa thập niên 1980 với giọng hát quyến rũ truyền cảm với các bài nhạc trữ tình, nhạc new wave, và đặc biệt là cô còn sở hữu nét đẹp không tuổi làm say lòng người. Nhật Hạ có khuôn mặt đẹp sắc sảo, đôi mắt to hình chiếc lá, vào độ tuổi đôi mươi cô đã từng bước vào nghề làm người mẫu chuyên nghiệp cho các công ty Mỹ. Rời Việt Nam từ năm 18 tuổi, khi ở trại tị nạn Thái Lan, ca sĩ Nhật Hạ – với tên thật là tên thật là Vũ Thị Ngọc Liên – đã tình cờ được trình diễn nhạc tiếng Anh với một ban nhạc Thái Lan, và khi sang Mỹ được đúng 2 ngày, cô đã được chủ một phòng trà ở San Jose mời ký hợp đồng để ca hát hàng đêm. Năm 1985, Nhật Hạ ra mắt băng nhạc đầu tiên mang tên là Mơ Ai. Sau đó cô hợp tác với nhiều trung tâm băng nhạc nổi tiếng ở hải ngoại là Asia, Thúy Nga, Giáng Ngọc, Mây… trở lại một trong những ca sĩ trẻ được yêu thích nhất thời đó với dòng nhạc New Wave, nhạc ngoại lời Việt và cả nhạc trữ tình. Xem bài khác Những giọng hát tiên phong của nhạc vàng bolero Việt Nam Tặng “bông” cho ca sĩ/tài tử có từ khi nào? Nhật Hạ cũng là một trong những nữ ca sĩ xuất hiện đầu tiên trong các Asia Video của trung tâm Asia, với 2 cuốn video số 1 và số 2. Sau đó không lâu, từ một dịp tình cờ, Nhật Hạ trở thành người mẫu chuyên nghiệp, xuất hiện trên các mẩu quảng cáo cho các nhãn hiệu lừng danh của thế giới, từng nhiều lần bước chân trên sàn catwalk. Sự nghiệp người mẫu của Nhật Hạ kéo dài hơn 10 năm thì kết thúc với lý do là cô bận rộn với việc ca hát và đi lưu diễn xa quá nhiều. Hơn nữa Nhật Hạ cũng cho biết rằng cô thích làm việc với cộng đồng người Việt hơn, còn nghề người mẫu chủ yếu là làm việc với người Mỹ. Đầu thập niên 1990, Nhật Hạ lập ra một trung tâm ban nhạc riêng mang tên Nhật Hạ Production, với lý do là cô muốn tự sáng tạo những thứ mình muốn, tự chọn những bài hát mình yêu thích. Nhật Hạ cũng nói rằng người bạn văn nghệ thân thiết nhất của cô là cố ca sĩ Ngọc Lan, hai người hợp nhau cả về âm nhạc lẫn lối sống bên ngoài. Nhật Hạ cùng với Tuấn Ngọc và Ngọc Lan Đang ở thời kỳ vàng son của sự nghiệp thì Nhật Hạ bất ngờ tạm ngừng hát vào khoảng giữa thập niên 1990. Sau hơn 10 năm vắng bóng trên sân khấu để tập trung cho việc kinh doanh nhà hàng, spa, studio… đến năm 2007 Nhật Hạ đã trở lại ca hát với sự ủng hộ của chồng cùng với khán giả hâm mộ. Ca sĩ Nhật Hạ và chồng là nhạc sĩ Huỳnh Thái Bình.