Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!

Dịch trang

Người Đi Tìm Hình Của Nước

Thông Tin Du Lịch Phổ biến

Tài Liệu Tuyến Điểm Phú Yên - Bình Định 2025 (phần 1)

 

CÂU LẠC BỘ HƯỚNG DẪN VIÊN

ĐỒNG HÀNH VIỆT 

 

 

 

TÀI LIỆU TUYẾN ĐIỂM

PHÚ YÊN – BÌNH ĐỊNH

 

                                                                                                   

  

LỜI NÓI ĐẦU

 

TTài liệu được biên soạn bởi Dzoãn Tiến Đạt năm 2024, chỉnh sửa thêm năm 202, chủ yếu là tuyến điểm Phú Yên – Bình Định và tài liệu này được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các thành viên trong CLB HDV Đồng Hành Việt và các ACE cùng các bạn HDV phục vụ cho công tác thuyết minh du lịch.

 

Tài liệu tham khảo:

 

-          Sách Phú Yên Đất Và Người                                                       Tác giả: Trần Huyền Ân

-          Sách Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ ca dao Phú Yên                 Tác giả: Nguyễn Đình Chúc

-          Đèo Cả                                                                                         Nguồn: UBND tỉnh Phú Yên

-          Núi Đá Bia                                                                                   Nguồn: báo Phú Yên

-          Sách Cẩm Nang Du Lịch Bình Định                                           Nguồn: UBND tỉnh Bình Định

-          Vũng Rô huyền thoại, ngày ấy và bây giờ                                  Nguồn: Báo điện tử Hải Quân Việt Nam

-          Tháp Nghinh Phong                                                                    Nguồn: Đại Học Thuỷ Lợi

-          Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng          Nguồn:  Tiền Phong Marathon 2024

làm nên phép lạ.

-          Bài viết về Tây Sơn (vua Quang Trung)                                     Nguồn:Lương Ninh 2000,

-          Chương X – Cuộc khủng hoảng suy vong của chế độ phong kiến và phong trào nông dân Tây Sơn, Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Chính trị Quốc gia, Tr. 291-297.

-          Cẩm Nang Du Lịch Bình Định                                                     Tác giả: Sở Du Lịch tỉnh Bình Định

-          Đầm Thị Nại                                                                                 Nguồng: Cổng thông tin điện tử

                                                                                                                    UBND Bình Định

Bảo Tàng Quang Trung                                                               Nguồn: Bảo Tàng Quang Trung

Chùa Thập Tháp                                                              Nguồn: Cổng thông tin điện tử

                                                                                                                thị xã An Nhơn

 

 

Ngoài những thông tin từ các đầu sách nêu trên Đạt cỏn sử dụng một số tài liệu từ internet, trong quá trình biên soạn chắc chắn có những sai sót rất mong các ACE và các bạn khi xem tài liệu phản hồi về cho Đạt để Đạt bổ sung khắc phục

 

Đạt mở CLB HDV Đồng Hành Việt (http://tourguidegroupdonghanhviet.blogspot.com) từ năm 2006 đến nay CLB vẫn còn hoạt động với mục đích hỗ trợ, giúp đỡ, đào tạo sinh viên du lịch trở thành Hướng Dẫn Viên chuyên nghiệp, CLB hoàn toàn phi lợi nhuận và là tâm huyết của Đạt. Với Đạt CLB là tâm huyết của Đạt xây dựng bao năm qua còn tài liệu tuyến điểm do Đạt biên soạn là những “đứa con tinh thần”. Do Đạt nhận thấy ACE HDV và sinh viên thiếu nguồn tài liệu phục vụ cho công tác thuyết minh du lịch, cũng như tài liệu để giảng dạy nên Đạt đã thực hiện tài liệu này, hy vọng sẽ giúp đỡ được cho các ACE và các bạn.

 

Ngoài tài liệu này, Đạt cũng đã biên soạn nhiều tài liệu khác, như:

-          Tài liệu city tour Sài Gòn

-          Tài liệu tuyến điểm Bà Rịa – Vũng Tàu – Côn Đảo

-          Tài liệu tuyến điểm Lâm Đồng – Đà Lạt

-           Tài liệu tuyến điểm Khánh Hoà – Nha Trang

-           Tài liệu tuyến điểm Bình Thuận – Ninh Thuận

 

Nếu ACE và bạn nào muốn Đạt chia sẻ tài liệu  hãy add zalo 0903 97 68 33 của Đạt để Đạt gởi qua. Tài liệu chỉ để tham khảo, nếu các ACE và các bạn cảm thấy tài liệu có sai sót hoặc còn thiếu thông tin, xin phản hồi với Đạt ngay nhé.

 

Xin cảm ơn

 

 

BẢNG KM ĐƯỜNG BỘ VÀ THỜI GIAN

 

STT

TUYẾN ĐƯỜNG

Số KM

THỜI GIAN

01

TP.Hồ Chí Minh – biển Đại Lãnh

479km

7h7p

02

TP.Hồ Chí Minh – Quy Nhơn, Bình Định

600km

9h29p

02

Biển Đại Lãnh – đèo Cả

9,4km

14p

02

Biển Đại Lãnh – Hải Đăng Mũi Điện (Hải Đăng Đại Lãnh)

20 Km

40 phút

03

Hải Đăng Đại Lãnh – Tháp Nhạn

33 Km

60 phút

04

Tháp Nhạn – Bãi Xép – Gành Ông

17 Km

30 phút

04

Bãi Xép Gành Ông  - Đầm Ô Loan

14 Km

23 phút

05

Đầm Ô Loan – Đèo Cù Mông

73km

1h38p

06

Đầm Ô Loan – TP.Quy Nhơn

84 Km

1h50p

07

Đèo Cù Mông – TP. Quy Nhơn

11 Km

40p

08

Trung tâm TP.Quy Nhơn – Tháp Đôi

3,9 Km

9p

06

Trung tâm TP. Quy Nhơn – Bến tàu đi Kỳ Co (Nhơn Hải)

30 Km

60p

07

Trung tâm TP. Quy Nhơn – Ghềnh Ráng

17 Km

50p

08

Trung tâm TP Quy Nhơn – Bảo Tàng Quang Trung

50 Km

1h30p

09

Trung tâm TP. Quy Nhơn – Bến tàu đi Hòn Khô (Nhơn Hải)

30 Km

60p

10

Trung tâm TP. Quy Nhơn – KDL Hầm Hô

50 Km

1h30p

11

TT TP. Quy Nhơn – chùa Thập Tháp

29,3km

41p

12

TT TP.Quy Nhơn - Tháp Cánh Tiên, Nhơn Hậu, An Nhơn

28,4km

42p

13

TT TP.Quy Nhơn – Tháp Bánh Ít

18,5km

27p

14

TT TP.Quy Nhơn – Gành Ráng

7,8km

18p

 

15

Kỳ Co – Eo Gió

6 Km

20p

16

Eo Gió – Tịnh Xá Ngọc Hoà

800m

11p

17

Tịnh xá Ngọc Hoà – Đồi Cát Phương Mai

9km

30p

18

Đồi Cát Phương Mai – TP.Quy Nhơn

11 Km

40p

19

TP.Quy Nhơn – Chùa Thập Tháp

32 Km

60p

20

TP. Quy Nhơn – Gành Đá Dĩa

80 Km

2h

21

TP.Quy Nhơn – Cây Cầu Gỗ Ông Cọp

85 km

2h

22

Cây Cầu Gỗ Ông Cọp – Gành Đá Dĩa

10 km

22p

23

Gành Đá Dĩa – Nhà thờ Mằng Lăng

11km

40p

24

Gành Đá Dĩa – KS Royal Khanh Phú Yên

38 km

60p

25

Ks Royal Khanh – Tháp Nghinh Phong

4 km

10p

26

Tháp Nghinh Phong – Cây Cầu Gỗ Ông Cọp

35Km

60p

27

TP. Tuy Hoà – Chùa Đá Trắng

35 Km

60 phút

28

TP. Tuy Hoà – Địa đạo Gò Thì Thùng

40km

1h10p

29

TP.Tuy Hoà - Bến Nước Buôn Chơ

60 Km

1h45p

30

Ks Royal Khanh – Hải Đăng Mũi Điện

42 Km

45p

31

Hải Đăng Mũi Điện  - NH Thắng Lợi – Nha Trang

110 km

3h

32

TP.Nha Trang – Cường 2 – Phan Rang

100 Km

3h

33

Phan Rang – Mũi Né

130 Km

3h50p

34

Mũi Né – TP.Hồ Chí Minh

198km

3h15p

 

 

 

 

 

BIỂN ĐẠI LÃNH NHA TRANG

 

Cách thành phố Nha Trang khoảng 80km là bãi biển Đại Lãnh, vùng biển cả mênh mông, xanh biếc, lấp lánh ánh mặt trời. Được tạo nên bởi bãi cát trắng mịn màng tinh khiết, biển Đại Lãnh có độ thoải lớn và làn nước trong xanh có thể nhìn rõ tận đáy. Quanh bờ biển, những hàng phi lao xanh biếc chạy dài.

Địa danh Đại Lãnh nằm kề ranh giới giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng 80 km và cách thị xã Tuy Hòa khoảng 30 km.

Từ thị xã Tuy Hòa đi vào, vượt qua đèo Cả, một con đèo lớn là địa giới của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên với 12 km đường đèo quanh co, du khách sẽ thấy hiện ra ngay dưới chân mình một bãi biển khá rộng, dài với nước biển xanh biếc, lấp lánh ánh mặt trời, thuyền bè tấp nập qua lại.

Bãi tắm Đại Lãnh được cấu tạo thuần khiết bởi một thứ cát trắng mịn, nước biển trong xanh nhìn rõ tận đáy, lại có độ thoải lớn, có thể bơi lội xa bờ. Kế đó lại có ngay một nguồn nước ngọt chảy ra, hòa vào biển cả, quanh năm không cạn. Từ Đại Lãnh, du khách có thể đi thuyền máy thăm làng chài ở Khải Lương, Đầm Môn là dải đất liền phía cực đông của Việt Nam, hay cảng Vũng Rô kề ngay phía bắc, một địa danh nổi tiếng đã từng là bến cảng bí mật của những “con tàu không số” chở vũ khí, đạn dược từ miền Bắc vào miền Nam, tiếp viện cho chiến trường khu 5 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Phong cảnh Đại Lãnh từ xưa đã được liệt vào hàng những danh thắng của đất nước. Năm 1836, vua Minh Mạng cho thợ chạm hình phong cảnh Đại Lãnh vào một trong chín chiếc đỉnh đồng (Cửu Đỉnh) lớn trang trí trước sân Thế Miếu – Huế. Năm 1853, dưới triều vua Tự Đức, Đại Lãnh có tên trong từ điển quốc gia do triều đình biên soạn.

 

Dù bạn vào Nam hay ra Bắc, bạn đều có thể đi qua ngọn đèo Cả hùng vĩ, nơi có địa danh Đại Lãnh nổi tiếng với những dải cát trắng mịn, những cơn sóng vỗ rì rào của biển cả, những làng chài tấp nập và những phong cảnh sơn thủy hữu tình.

Vẻ đẹp hoang sơ hữu tình của bãi biển Đại Lãnh Nha Trang. Ai đã một lần đến nơi đây đều khẳng định “Đại Lãnh có thể lọt top những bãi biển đẹp nhất thế giới với vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã, sơn thủy hữu tình”. Với rừng dương xanh ôm lấy bờ cát mịn màng, dải sóng trắng nhẹ nhàng lăn trên mặt biển xanh, bãi biển Đại Lãnh là một trong những bãi biển đẹp nhất của miền Trung và cả nước.

 

Đại Lãnh vốn được coi là điểm du lịch lý tưởng, bởi bãi tắm nên thơ này nằm ngay cạnh quốc lộ 1A, có ga hành khách trên tuyến đường sắt Bắc Nam. Nhưng nay, ở đây chỉ có vài chòi rơm, mấy gian nhà cấp 4 làm quán ăn, đáng kể nhất là tòa nhà xây dở dang, bị bỏ hoang. Phong cảnh tại bãi biển Đại Lãnh rất đẹp nhờ thiên nhiên ban tặng một bãi biển cát trắng chảy dài, có độ thoải lớn nên có thể bơi ra xa. Nước biển xanh biếc trong thấy tận đáy, bãi biển hoang sơ sạch sẽ, kế bên đó là một nguồn nước ngọt chảy ra biển quanh năm không cạn.

 

Được chắn bởi đèo Cả phía Bắc, đèo Cổ Mã án ngữ phía Nam và đảo Hòn Nưa như một pháo đài Đông Bắc, biển Đại Lãnh như một vịnh nhỏ kín gió luôn êm sóng ngay cả những ngày biển động. Nếu đi từ Nha Trang, khi xe đến đèo Cổ Mả, phong cảnh bãi biển Đại Lãnh hiện ra như một bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp. Đó là những thảm rừng trải dài xanh ngắt, mặt biển bao la màu ngọc biếc, dải cát trắng phau hình vòng cung, dài hơn 1 cây số từ chân đèo Cổ Mã đến mũi Hòn Gion. Nước biển Đại Lãnh xanh biếc, lấp loáng ánh mặt trời. Xa xa, những chiếc thuyền đánh cá đậu san sát, những hình ảnh đẹp như một tấm thảm lụa.

Khác với bãi tắm Nha Trang, bãi tắm Đại Lãnh cạn, ra xa bờ hàng chục mét, nước vẫn chỉ ngấp nghé ngang ngực. Sau khi bơi lội, vùng vẫy thỏa thuê, bạn lên bờ, nghỉ ngơi trên những chiếc ghế bố trong lều, trên bãi biển, dưới bóng những cây phi lao cổ thụ. Cũng rất thú vị khi nằm dài trên tấm thảm lá dương, thanh thản ngắm những đám mây trắng lững lờ ẩn hiện qua những tán lá rậm rạp. Theo yêu cầu của khách, dân chài đem đến đủ loại hải sản tươi ngon như mực, cá, tôm, cua, ghẹ, ốc…., Quý Khách sẽ tha hồ chọn. Những bếp lửa được nhóm ngay dưới những gốc phi lao cổ thụ kín gió và 15 phút sau, Quý Khách có thể thưởng thức những món ăn đậm đà hương vị biển.

 

KHU DU LỊCH ĐẠI LÃNH

Địa chỉ: Thôn Đông Nam, Xã Đại Lãnh, Huyện Vạn Ninh, Nha Trang - Tỉnh Khánh Hòa

Điện thoại:

- Khu Du Lịch: 0258.3842117 - 3842777 

- Nhà Hàng Dai Lanh Rest Stop: 0258.3842 842 - 0258.3949 949

Hotline:

0345 634 239

- 0345 624 879

Email: info@dailanh.com.vn - Website: www.dailanh.com.vn

Facebook: Dai Lanh Beach 

 

 

Đèo Cả - cung đường hùng vĩ và tuyệt đẹp tại Phú Yên

Phú Yên không chỉ được biết đến là một địa điểm du lịch hấp dẫn với nhiều bãi biển tuyệt đẹp, những công trình kiến trúc độc đáo mà còn là một nơi có khung cảnh thiên nhiên hữu tình và những đường đèo hùng vĩ điển hình là Đèo Cả.

 

Đèo Cả hiện đang là cung đường mà rất nhiều phượt thủ yêu thích. Con đèo này được xem là một trong những con đèo lớn nhất tại Việt Nam và sở hữu vẻ đẹp hùng vĩ nhưng không kém phần hiểm trở. Đến với nơi đây du khách sẽ có thể hòa mình vào thiên nhiên tươi mát và trút bỏ hết những âu lo thường ngày.

 

1. Sơ lược về Đèo Cả

Đèo Cả là một con đèo thuộc một trong số các nhánh núi của dãy Trường Sơn. Con đèo này là cung đường bắt nguồn từ địa phận của tỉnh Khánh Hòa đến thành phố Tuy Hòa của Phú Yên. Cung đường này có chiều cao khoảng 33m và chiều dài là khoảng 12km với những khúc đường khá ngoằn ngoèo và hiểm trở.

Hiện nay việc băng qua con đèo này đã trở nên đơn giản hơn rất nhiều nhờ một hệ thống hầm thông qua đèo đã được xây dựng và đưa vào sử dụng. Hầm thông đèo này được tạo nên từ những vòm bê tông cốt thép rất chắc chắn và có hệ thống đèn, hệ thống điện thông gió cực kỳ hiện đại và hoạt động rất tốt trong hầm.

Không chỉ được xem là một cung đường đèo hiểm trở bật nhất tại miền trung của Việt Nam, Đèo Cả Phú Yên còn là một trong số ít những đường đèo sát biển mang đến vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa hữu tình. Đây là cung đường yêu thích của rất nhiều phượt thủ và là điểm đến du lịch được nhiều du khách đến tham quan.

2. Câu chuyện lịch sử về Đèo Cả

Đèo Cả không chỉ là một cung đường du lịch tuyệt đẹp và hùng vĩ mà còn là một con đèo gắn liền với những câu chuyện lịch sử hào hùng. Từ thế kỷ XV, nơi đây đã được vua Lê Thánh Tông dựng nên một Núi Đá Bia uy nghiêm, sừng sững để làm cột mốc phân chia ranh giới giữa hai nước là Việt - Chăm.

Con đèo này từng là nơi diễn ra những cuộc giao tranh cực kỳ sôi nổi giữa Nguyễn Ánh với anh em Nhạc - Lữ - Huệ và cuộc chiến giữa quân Đại Việt và quân Chiêm Thành. Nhờ sự hiểm trợ của Đèo Cả mà quân Chiêm Thành đã chiến thắng và khiến cho quân Đại Việt không thể tiến vào Nam.

 

Hơn thế nữa, trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp nơi đây đã diễn cuộc đấu tranh quyết chiến của mặt trận Việt Minh để chống lại thực phân Pháp, bảo vệ đất nước vào năm 1947. Trải qua nhiều biến động của lịch sử, con đèo này vẫn giữ được vẻ đẹp hùng vĩ vốn có của mình.

Khí hậu tại Đèo Cả rất thuận lợi, mát mẻ nên cây cối tại nơi đây phát triển rất tốt. Cũng nhờ vào điều này mà hệ thống thực vật ở nơi đây rất phong phú, đa dạng và tạo nên một mảng xanh tươi mát. Hơn thế nữa nơi đây còn có rất nhiều loại gỗ quý và là nơi mà rất nhiều loài động vật trú ẩn như: gấu ngựa, tê tê, gấu ngựa, trĩ sao, nhím,...

Khi nhìn từ trên cao và nhìn lại những cung đường đèo mà mình từng đi qua thì du khách sẽ có thể nhìn thấy những đoạn đường gấp khúc, uốn lượn cực kỳ hùng vĩ và độc đáo. Du khách đến với nơi đây sẽ có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp hùng vĩ, tựa như một bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp.

Đèo Cả sở hữu một vẻ đẹp độc đáo với một bên là biển xanh mênh mông, thơ mộng và một bên chính là núi rừng xanh tươi, hùng vĩ. Tất cả những yếu tố này tạo nên một khung cảnh yên bình, đẹp mắt và cực kỳ hữu tình. Bất kỳ du khách nào khi đi qua cung đường đèo này đều muốn dừng chân để chiêm ngưỡng và không khỏi xao xuyến trước vẻ đẹp hoang sơ của chốn này.

Nếu là một người thích biển thì khi đến Phú Yên đặc biệt là khi phượt Đèo Cả thì du khách không thể bỏ qua bãi Môn. Đây là bãi biển nằm giữa hai ngọn núi cao sừng sững, tạo nên một hình cánh cung cực kỳ khổng lồ và hùng vĩ.

Cảnh sắc của bãi môn được rất nhiều du khách khen ngợi vì có một bãi cát trắng mịn trải dài, uốn lượn theo vẻ đẹp của làn nước biển trong xanh, mát lành. Khu vực bãi Môn không có người sinh sống và chưa đưa vào khai thác du lịch nhiều nên vẫn còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ vốn có.

Được xem là một trong những nét độc đáo nhất mà Đèo Cả sở hữu, núi Đá Bia thời xưa chính ngọn núi mà vua Lê Thánh Tông đã cho quân lính khắc lên chữ Cương Vực Đại Việt - lãnh thổ Việt Nam và coi đó như là một cột mốc ranh giới giữa hai đất nước là Đại Việt và Chiêm Thành.

 

 

NÚI ĐÁ BIA

 

Núi Đá Bia là ngọn núi cao nhất trong khối núi Đại Lãnh thuộc dãy Đèo Cả, có độ cao 706m so với mặt nước biển, là dấu chấm của dãy Trường Sơn hùng vĩ nhô ra biển Đông. Điểm độc đáo là trên đỉnh có tảng đá to, cao tới 76m.Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, núi Đá Bia là căn cứ cách mạng quan trọng, bên dưới phía đông là bến Vũng Rô huyền thoại nơi cập bến những con tàu Không số. Người dân địa phương coi núi Đá Bia là một trong những biểu tượng nổi tiếng của đất Phú Yên. Tháng 9/2008, Bộ VHTTDL ban hành quyết định công nhận thắng cảnh độc nhất vô nhị này là thắng cảnh cấp quốc gia. Núi thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, ngoại thị Đông Hòa. Trước năm 2000, muốn leo lên đỉnh núi Đá Bia không dễ; cả một khối núi toàn đá, cây cối rậm rạp, dây leo chằng chịt, rồi khe suối, hang động rất nguy hiểm.

Pho huyền thoại hấp dẫn

Núi Đá Bia còn có tên là Thạch Bi Sơn, ông bà ta gọi là Thiên Nam đệ nhất trụ (trời Nam chỉ có một). Theo hình dáng hòn đá trên đỉnh núi, người Chăm gọi là núi Cùi Bắp, người Pháp gọi Ngón Tay Chúa và dân địa phương gọi núi Ông Bia. Mỗi tên gọi khác nhau gắn liền với những pho huyền thoại ly kỳ và hấp dẫn.

Tương truyền vào mùa xuân năm Tân Mão (1471), vua Lê Thánh Tông khi thân chinh cầm quân đi mở mang bờ cõi, dừng chân tại núi Đá Bia, ông cho quân leo lên đỉnh núi ghi rõ cương vực Đại Việt (lãnh thổ Việt Nam) trên hòn đá và kể từ đó gọi là núi Đá Bia.

Bao đời nay núi Đá Bia là niềm cảm hứng của các tao nhân mặc khách qua nơi này. Gần 70 năm khi có mặt trong đoàn quân Nam tiến, thi sĩ Hữu Loan để lại bài thơ “Đèo Cả” và được chọn là một trong 20 bài thơ hay nhất của thế kỷ XX. Những ngày trời quang mây tạnh, đứng cách xa từ 50-70km vẫn nhìn thấy hòn Đá Bia mây phủ. Núi Đá Bia rất linh thiêng, biểu trưng cho sức mạnh của con người và vùng đất Phú Yên.

Nơi bồng lai, tiên cảnh

Năm 2001, đường lên đỉnh núi Đá Bia được khảo sát và xây dựng, điểm xuất phát dưới chân núi phía tây, bên quốc lộ 1. Con đường rất độc đáo, với chiều dài 2,5km, có 3 cầu thang bằng bê tông cốt thép, có cầu thang cao dốc 450; toàn tuyến có 2.071 cấp đi, đôi khi các bậc đi được tạo bằng việc đục, đắp vữa xi măng trên các triền đá nghiêng.Trên đường leo lên đỉnh núi Đá Bia nhìn xuống những đoàn xe ra Bắc vào Nam chỉ bằng hạt đậu nối đuôi nhau như kiến bò, thỉnh thoảng chim bìm bịp gọi nhau kêu hối hả, dễ làm ta giật mình. Lâu lâu, đoàn tàu bắc - nam chạy dưới chân núi âm vang dồn dập làm náo động cả cánh rừng. Cây cối, dây leo đôi khi phủ kín cả lối đi, hai bên đường là thảm thực vật xanh tốt. Những cây đác ven đường trĩu quả, cây thông thẳng đứng hiên ngang bên sườn núi; nhiều hang động hai bên đường có hình thù rất kỳ thú, chưa in dấu chân người. Đôi khi ta bắt gặp con chim diều hâu sải cánh chao nghiêng bên sườn núi như đang tìm kiếm sự linh thiêng, bí ẩn của núi rừng.

Với 10 lần nghỉ, thời gian khoảng 2 giờ 30 phút, tất cả các thành viên đoàn leo núi đều lên được đỉnh núi. Hôm đó là một ngày chủ nhật đẹp trời, có nhiều đoàn cùng tham gia leo núi, phần đông là học sinh, sinh viên. Nhìn những gương mặt tươi trẻ, đôi má ửng hồng, mồ hôi nhễ nhại, tôi cảm nhận tương lai không xa, nơi đây sẽ là điểm du lịch hấp dẫn của Phú Yên.

Đứng trên đỉnh núi Đá Bia - điểm ngắm lý tưởng ở TX Đông Hòa, nhìn về hướng đông là vịnh Vũng Rô xinh đẹp, những con tàu xa khơi trở về dập dềnh trên mặt nước trong xanh. Chếch về bên trái là ngọn hải đăng Mũi Điện, điểm cực đông trên đất liền của Tổ quốc, xa hơn là biển Đông mênh mông như dát bạc. Nhìn về hướng nam là vịnh Vân Phong của tỉnh Khánh Hòa, bờ cát cong như chiếc lá đa khổng lồ. Quay người về hướng tây - bắc là cánh đồng lúa Tuy Hòa bát ngát được ôm ấp bởi núi đồi trùng điệp, thấp thoáng những mái ngói đỏ tươi, tất cả chìm trong màu xanh mạ non.

Ngẩng lên là trời cao lồng lộng xanh thăm thẳm, đôi khi có những cụm mây trôi qua ta có cảm giác đưa tay với được; bên cạnh là “cổng trời” gió thổi vi vu, gió mang hơi nước biển tràn về dưới ánh nắng mặt trời có cảm giác như sương lam chiều se se lạnh. Bên dưới chân núi là con sông Bàn Thạch uốn lượn xuôi dòng ra biển Đông, xa hơn là TX Đông Hòa như vườn hoa xuân đa sắc, đang lớn lên từng ngày.

Lúc đi xuống thì nhẹ hơn khi leo lên, nhưng phải cẩn thận, dễ trượt chân vì lúc này đã thấm mệt. Kinh nghiệm là nên đi vào mùa khô, đi theo đoàn để động viên, hỗ trợ lẫn nhau; đồ ăn, giày dép, quần áo cần gọn gàng, mang theo cây gậy nhẹ, dài 1,5m để chống đỡ; nhờ một hai người địa phương trợ giúp, mang các vật dụng chung cho toàn đoàn. Thời gian lên xuống, ăn uống, nghỉ ngơi, ngắm cảnh, chụp hình chí ít cũng phải 5 đến 6 giờ.

Tạm biệt núi Đá Bia khi hoàng hôn buông xuống còn để sót lại những tia nắng vàng sau dãy núi phía tây, hồn ta lắng đọng, thế là mình đã được đặt chân trên đỉnh núi, được sờ tay lên hòn Đá Bia linh thiêng và hùng vĩ. Được biết mai đây, dự án Khu đô thị và du lịch văn hóa, sinh thái nghỉ dưỡng Biển Hồ - Đá Bia của Tổng công ty CP Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam có nội dung mở đường cáp treo lên đỉnh núi Đá Bia. Đây là ước mơ của bao người để được lên đỉnh núi.

Tuy nhiên, nếu có thể, hãy cùng nhau leo lên đỉnh núi Đá Bia, bạn mới thấy toại nguyện hành trình du lịch TX Đông Hòa, nơi đón ánh bình minh đầu tiên trên đất liền của Tổ quốc bên bờ biển Đông.

Núi Đá Bia là danh lam thắng cảnh cấp quốc gia. Hàng năm, Tỉnh đoàn và Sở VHTTDL Phú Yên tổ chức cuộc thi chinh phục đỉnh núi Đá Bia vào ngày 27/3 (Ngày Thể thao Việt Nam), thu hút đông đảo người dân tham gia, nhất là các bạn trẻ. Họ tới đây để khám phá, chinh phục đỉnh cao này.

 

Tham khảo thêm:   Núi Đá Bia

Qua khỏi cua Đá Đen trên đèo Cả phía tỉnh Khánh Hòa, khách lữ hành dễ nhận ra Bên phía tay phải có Núi Đá Bia hay còn được gọi là Thạch Bia Sơn cao 65m rộng 27m; núi cao 706m, bởi trên đỉnh núi có một tảng đá rất lớn. Theo một tư liệu của Pháp (được ông Võ Liệu dịch, đăng trên tạp chí Giáo Dục Phổ Thông số 44, năm 1962), núi Đá Bia còn có một tên gọi khác lý thú do người Pháp đặt: “Ngón tay của Chúa”. Núi Đá Bia là một trong số nhiều đỉnh cao của quần sơn Đại Lãnh, nằm ở phía bắc Đèo Cả. Cái làm cho ngọn núi này trở thành linh sơn (núi thiêng) chính là một khối đá cao lớn, cách xa cả chục kilomet vẫn nhìn rõ, nhô cao trên đỉnh núi như một chiếc sừng tê giác khổng lồ. Theo sử cũ thì vào năm 1471, vua Lê Thánh Tông trong lần cử binh Nam tiến đánh Chăm Pa đã qua đây. Trước cảnh núi non hùng vĩ trùng điệp nhà vua đã cho dừng binh. Thấy tảng đá kỳ lạ nằm trên đỉnh núi như thế nhà vua đã chú ý. Sau khi chiến thắng Chăm Pa vua quyết định lấy đèo Cả làm giới tuyến tự nhiên giữa Đại Việt và Chăm Pa và để ghi nhận sự kiện này, vua đã cho người tìm đường lên tận đỉnh núi khắc vào một mặt của tảng đá một dòng chữ Hán như sau:

“Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong
An Nam quá thử, tướng chu binh chiết”

Có nghĩa là: Chiêm Thành qua đây, quân thua nước mất. An Nam qua đây, tướng chết binh tan. Đây như một lời thề không xâm phạm lẫn nhau của vua Lê Thánh Tông. Sau đó núi này được đặt tên là Thạch Bi Sơn. Ngày nay do thời gian tàn phá những chữ chạm khi xưa đã không còn nữa nhưng Thạch Bi Sơn vẫn sừng sững như thách đố thời gian và làm một điểm nhấn cho không gian dưới chân đèo Cả. Đến gần, tùy theo góc nhìn mà chiếc sừng tê giác khổng lồ này có những hình dạng rất khác nhau: một tấm bia đá khổng lồ, một con sư tử nằm xuôi theo sườn dốc, một thầy tu đang ngồi thiền hoặc một nhà sư đang xuống núi.

Người Phú Yên còn gọi khối đá là chiếc Linga vĩ đại của tỉnh Phú Yên (Linga: cột đá thiêng hình sinh thực khí của giống đực, biểu tượng của thần Siva theo tín ngưỡng Chămpa). Không ít lần Đá Bia bị sét đánh làm cho màu đá càng trắng ra chứ không đổ.

Đã từ nhiều đời nay, người Phú Yên chỉ cần nhìn Đá Bia là có thể dự báo đúng thời tiết: nếu mây phủ Đá Bia thì chắc chắn trời sẽ mưa. Sườn bắc của khối núi Đèo Cả là sườn hứng mưa, đặc biệt vào mùa chính của gió đông bắc (tập trung từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau). Vào mùa này trung bình cứ 3 ngày thì có đến 2 ngày mưa. Vùng núi Đồng Cọ thuộc xã Hòa Xuân Nam, huyện Tuy Hòa có kiểu mưa địa hình rất đặc biệt: đang nắng có thể mưa to ngay được, có khi mưa rách lá chuối đầu làng, nhưng cuối làng vẫn khô ráo. Người địa phương gọi kiểu mưa đặc biệt này là "Mưa Đồng Cọ".


Khi có mưa Đồng Cọ ắt có gió Tu Bông. Tu Bông - tên chữ là Tụ Phong (họng gió) - là một địa điểm phía nam Đèo Cả thuộc huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa, đối diện với Đồng Cọ qua một khe núi sâu. Sau khi trút mưa ở Đồng Cọ, gió đông bắc bị ép vào khe núi này, thoát ra Tu Bông thành một loại gió tố rất mạnh. Cây cối Tu Bông có thân cong như cánh cung. Khách bộ hành có thể bị gió xô xuống ruộng.

Chế độ thời tiết lắm mưa nhiều mây đã làm cho khu rừng đặc dụng Bắc Đèo Cả có một hệ thực vật rất đặc biệt. Ngày trước, đây là vùng cung cấp trầm hương và kỳ nam nổi tiếng. Hiện nay vẫn còn một tập đoàn cây quý như cẩm, thị, sao, chò, dầu, kiền kiền, đặc biệt là cây đát và tuế lá dừa. Cây đát có hạt rất đặc biệt: khi bóc vỏ, hạt đát cho một cùi trắng trong, dẻo, không thể thiếu trong món chè trái cây nổi tiếng ở Nha Trang.

Tuế lá dừa là một loại cây cảnh đẹp, có thể cao đến 6 mét, mọc dày trên sườn núi, nhất là phía Bắc Đèo Cả. Ngoài ra lau núi cuối năm nở hoa trắng xóa. Trong gió lạnh, những trảng bông lau dập dờn như làn sóng, tạo ra hình ảnh nên thơ của Đèo Cả suốt cả trăm năm qua.

Thực ra tên Đèo Cả mới có từ thời Pháp thuộc, khi quốc lộ 1A được mở. Trước đó, đường thiên lý Bắc Nam là một tuyến đường núi nhỏ hẹp, hiểm trở, khó đi, nằm về phía tây đường Đèo Cả bây giờ, được gọi là đường Gia Long. Khối núi Đại Lãnh hiểm trở đã góp phần làm dừng bước chân nam tiến của Vua Lê Thánh Tông năm 1471. Nhà vua phải lập một tiểu vương quốc ở vùng đất Phú Yên bây giờ gọi tên là nước Hoa Anh, làm vùng đệm giữa Đại Việt và Chiêm Thành để tránh đụng độ quân sự trực tiếp giữa hai nước. Nhưng trên thực tế, quân đội Chiêm Thành do thông thạo những tuyến đường mòn xuyên qua khối núi Đại Lãnh, đã không ít lần đột nhập cướp phá nước Hoa Anh.

Năm 1653, tuân lệnh chúa Nguyễn Phúc Tần, Cai cơ Hùng Lộc tấn quân đến tận Phan Rang, thâu tóm vùng đất Khánh Hòa này vào xứ Đàng Trong, chấm dứt vai trò biên giới của vùng núi Đại Lãnh suốt 182 năm không dứt tiếng gươm khua ngựa hí.

Hơn 100 năm sau, địa thế chiến lược của vùng núi Đại Lãnh đã thu hút nhiều cuộc hành quân và giao chiến đẫm máu giữa hai nhà Nguyễn (Tây Sơn và Nguyễn Ánh) trong hơn 3 thập niên nội chiến (1771-1802).
Tháng 1 năm 1947, chỉ 24 ngày sau lệnh toàn quốc kháng chiến, Đèo Cả trở thành chiến trường xung yếu, nơi trung đoàn 80 bộ đội địa phương kịch chiến với giặc Pháp, mở đầu cho hàng loạt trận đánh ác liệt trong suốt cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này của quân dân Phú Yên và Khánh Hòa. Từ tháng 11-1964 đến tháng 2-1965, 4 chuyến tàu không số chở vũ khí chi viện cho miền Nam đã cập bến Vũng Rô - một vùng biển nước sâu, kín đáo và đẹp như tranh vẽ nằm ngay dưới chân Đèo Cả.

Từng mét vuông ở vùng núi Đèo Cả như nhuộm đỏ máu trong suốt nửa thiên niên kỷ không ngớt giao tranh của lịch sử dựng nước và giữ nước.

Ngày nay, với phong cảnh non xanh nước biếc, Đèo Cả - Vũng Rô - Đá Bia đã trở thành vùng du lịch nổi tiếng trên còn đường thiên lý Bắc Nam. Như thuở nào, Đèo Cả vẫn mù sương như muốn dấu lịch sử bi hùng dưới sắc xanh của tuế là dừa. Tuy nhiên, trong tiếng gào rít của gió Tu Bông, dường như vẫn âm vang lời thơ hào hùng của Hữu Loan những ngày đầu kháng chiến chống Pháp 1946:

"Đèo Cả! Đèo Cả!
Núi cao ngất
Mây trời ai lao sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá Bia mù sương…"

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ

TPO - Hơn 200 tấn vũ khí từ miền Bắc chi viện chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên cập bến Vũng Rô, vượt qua hành trình gian nan vào sâu trong lòng địch, những chiến sỹ trên chuyến tàu không số năm xưa đã biến điều không thể thành có thể, viết nên câu chuyện huyền thoại và mốc son đầy tự hào trong lịch sử dân tộc.  

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 1

Đài tưởng niệm tàu không số Vũng Rô tại khu Di tích lịch sử Vũng Rô

 

“Điều ngỡ chỉ có trong tưởng tượng đang hiển hiện trước mặt. Như trong thần thoại, con tàu tựa có phép lạ từ xứ sở xa xăm nào đó bỗng dưng xuất hiện. Nó mang theo nhiều hòm, nhiều bó với những súng những đạn... Người Phú Yên đã thực sự đang cầm khẩu súng trên tay mà vẫn chưa dám tin đó là thật”.

Đọc những dòng trong tiểu thuyết Sóng chìm của nhà văn lão thành Đình Kính, cảm giác của tôi cũng tương tự người dân làng Cát khi chứng kiến tàu không số cập bến Vũng Rô, sau đó dấy lên câu hỏi, làm cách nào mà các chiến sỹ năm ấy có thể tạo ra “phép lạ”?. Mặc dù Sóng chìm mô tả rất chi tiết, nhưng chính nhà văn Đình Kính cũng nói “tiểu thuyết là văn chương”, và “không chỉ là tiểu thuyết phản ảnh”. Vì vậy, tôi vẫn muốn đi tìm câu trả lời, tại chính Vũng Rô.

Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Vũng Rô trước kia được gọi là đầm Ô Rô, rộng 10 dặm, trong có đảo Trụ (tức Hòn Nưa), được che chở bởi núi Bàn, “với thế núi cao vút, phía Tây từ Đại Lãnh đến, kéo dài vài mươi dặm, phía Bắc tiếp núi Thạch Bi (núi Đá Bia), phía Đông gối lên bờ biển, lại uốn quanh vào trong che kín vũng biển Vân Phong, thuyền buôn thường đậu ở đó để tránh gió”.

Khi người Pháp tới Việt Nam, họ sớm nhận ra vị trí chiến lược của Vũng Rô. Thời Pháp thuộc, công sứ Bình Thuận Etienne Aymonier trong cuốn Notes sur l'Annam viết rằng “Vũng Rô là nơi trú ẩn tốt và an toàn nhất trong tất cả các mùa” và “có vị trí chiến lược quan trọng vì nằm ở phía nam đèo Cả”, ngoài ra, còn có “một ngôi làng của người An Nam cuối Vũng Rô, nơi có nguồn nước ngọt rất tốt”.

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 2

Vũng Rô phía đằng xa nhìn từ hướng Mũi Điện

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 3

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 4

Xung quanh khu vực bãi Chùa ở Vũng Rô, nơi tiếp nhận những lô vũ khí từ các chuyến tàu không số

 

Nhiều thập kỷ sau, chính "ngôi làng An Nam" đó, ngay trong lòng địch, là cơ sở vững chắc của cách mạng. Và Vũng Rô trở thành "nơi trú ẩn" của những chuyến tàu không số, mang theo vũ khí và tình cảm nhân dân miền Bắc dành cho chiến trường miền Nam.

Năm 1961, trong quá trình xây dựng con đường vận chuyển vũ khí trên biển Đông, tức đường Hồ Chí Minh trên biển, nhằm tiếp viện cho chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, đoàn cán bộ Hải quân do đồng chí Huỳnh Kim và Phan Võ dẫn đầu đã vào Khu V nghiên cứu địa hình, chọn điểm mở bến. Và vịnh Vũng Rô là nơi được lựa chọn. Theo đánh giá, Vũng Rô có diện tích đủ lớn (hơn 16km2), độ sâu trung bình từ 14 - 19m, có thể tiếp nhận tàu có tải trọng trên 5.000 tấn. Thêm nữa, có nhiều bãi bốc dỡ và các dãy núi bao quanh thuận lợi cho việc trú ngụ và cất giấu vũ khí.

Nhưng địch cũng nhận thức được tầm quan trọng của Vũng Rô, vậy nên bố trí đông đảo quân lực phòng giữ, từ bốt trên đỉnh đèo Cả đến hạm đội, duyên đoàn ngoài khơi và trạm ra đa ở đỉnh Chóp Chài. Tuy nhiên, thách thức cũng chính là cơ hội. Theo Đại tá cựu chiến binh Đặng Phi Thưởng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND), nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên, chính vì “khu vực này là vùng cấm và được kiểm soát nên địch sơ hở, mất cảnh giác, ta lợi dụng thời khắc ban đêm đưa tàu chở vũ khí vào bến an toàn”.

Tháng 10/1964, Trung ương giao Tỉnh ủy Phú Yên chuẩn bị mở bến tiếp nhận vũ khí. Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên khi ấy là đồng chí Trần Suyền trực tiếp lãnh đạo tổ chức bến. Ngày 16/11/1964, Tàu 41 thuộc đoàn 125 chở hơn 60 tấn vũ khí, thuốc men do thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh, một người con của Phú Yên, và chính trị viên Trần Hoàng Chiếu chỉ huy rời cảng Hải Phòng. Tàu ngụy trang thành tàu đánh cá, với một số cá, mực được cung cấp bởi Nhà máy Cá hộp Hạ Long, trong khi lưới trùm lên các khẩu súng 12 ly 7 để khi cần thiết có thể sẵn sàng chiến đấu.

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 5

Tàu 41 thuộc đoàn 125 với 3 lần cập bến Vũng Rô, mang theo hàng trăm tấn vũ khí chi viện

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 6

Anh hùng LLVTND, Trung tá Hồ Đắc Thạnh (trái) và Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên Trần Suyền (phải). (Ảnh tại khu Di tích lịch sử Vũng Rô).

 

“Lúc đi ngang qua vùng biển Đà Nẵng, máy bay trinh sát của địch phát hiện, nghi ngờ, báo vào bờ. Hai tàu tuần tiễu của địch lao ra kèm song song và chĩa thẳng nòng pháo về phía Tàu 41. Nhờ ngụy trang tốt, lúc đó Tàu 41 mang biển hiệu 412 treo cờ nước ngoài, cho nên tàu địch bỏ mục tiêu chạy vào bờ. Đúng như kế hoạch, 23 giờ 50 phút ngày 28/11/1964, Tàu 41 cập bến Vũng Rô. Phút gặp gỡ giữa cán bộ, thủy thủ tàu và lực lượng của ta có mặt tại bến vô cùng xúc động và tràn ngập niềm vui sướng”, Trung tá cựu chiến binh Hồ Đắc Thạnh, Anh hùng LLVTND, nhớ lại.

Đây chính là khoảnh khắc mà nhà văn Đình Kính mô tả là “như trong thần thoại” khi con tàu “tựa có phép lạ bỗng dưng xuất hiện”. Những chiến sỹ kiên trung, với tình yêu nước, lý tưởng cách mạng và sự gan dạ, mưu trí đã biến điều không thể thành có thể, đưa con tàu vượt qua hải trình gian nan cập bến thành công, chính ở nơi mà địch tự tin luôn trong tầm kiểm soát.

Ngay khi tàu cập bến, Ban chỉ huy bến huy động hơn 1.000 cán bộ, đảng viên, dân công, du kích, thanh niên xung phong khẩn trương bốc dỡ hàng hóa. Trên sông Bàn Thạch, thuyền câu ngụy trang chở vũ khí ngược lên Hòa Mỹ, Hòa Thịnh để dân công đưa hàng vượt dốc Mõ vào Khánh Hòa và lên chiến trường Tây Nguyên.

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 7

Câu nói của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về đường Hồ Chí Minh trên biển được khắc vào cột đá tại khu Di tích lịch sử

Vũng Rô, trên đường ra nhà tưởng niệm và bến tàu bãi Chùa

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 8

Những dòng tri ân các anh hùng trên những đoàn tàu không số của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt

 

Ông Ngô Văn Định, nguyên chiến sĩ Đại đội K60 bảo vệ bến Vũng Rô, cho biết: "bà con tập trung ở bến từ chiều nhưng không biết nhiệm vụ gì. Đến khi nghe nói tàu chở vũ khí miền Bắc chi viện cho chiến trường Khu V, chúng tôi mừng đến nghẹn ngào”, ông Định kể. “Những khẩu súng, thùng đạn được bọc kỹ bằng nhiều bọc nhựa, rất nặng. Tôi ôm khẩu súng được bao nhựa bọc kín, cảm nhận hơi ấm của hậu phương miền Bắc gửi vào mà thấy thiêng liêng, trào dâng hạnh phúc khó tả”.

Người chiến sĩ Đại đội K60 bảo vệ bến Vũng Rô năm xưa còn cho biết, “đường Vũng Rô lúc bấy giờ là đường rừng, đèo dốc, dây gai chằng chịt, thú rừng, cọp có thể nhào ra bất cứ lúc nào, nên chuyện huy động kịp thời nhân lực tiếp nhận hàng trăm tấn vũ khí, chuyển vũ khí đến nơi cất giấu, tiếp tục chuyển lên căn cứ, bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ, nhanh gọn và tuyệt đối an toàn thực sự không đơn giản”.

Đến đêm 25/12/1964, chuyến tàu thứ hai cũng tới nơi, cùng vũ khí còn có ba tấn gạo tặng đơn vị ở bến Vũng Rô đang thiếu lương thực. Rồi ngày 1/2/1965, chuyến tàu thứ ba lần nữa cập bến an toàn đúng vào dịp Tết Ất Tỵ. Như vậy, chưa đầy hai tháng, Tàu 41 do thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh và Chính trị viên Trần Hoàng Chiếu chỉ huy đã ba lần cập bến thành công, chi viện hàng trăm tấn vũ khí, thuốc men, đạn dược cho chiến trường Khu V và Tây Nguyên.

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 9

Nhà tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ hy sinh ở Vũng Rô

 

Tháng 2/1965, Bộ Tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ cho tàu C143 do Thuyền trưởng Lê Văn Thêm, chính trị viên Phan Bá Bảng phụ trách vận chuyển 60 tấn vũ khí vào Lộ Diêu (Bình Định). Do tình hình cập bến Bình Định khó khăn nên chuyển sang cập bến Vũng Rô vào 23h ngày 15/2. Sau 4 giờ, hàng được bốc dỡ hết, tàu quay ra nhưng phát hiện tời neo bị hỏng. Không còn cách nào khác, các chiến sỹ buộc phải sửa, đồng thời lấy cành lá ngụy trang cho tàu.

Thật không may, thời gian này máy bay tải thương Mỹ liên tục bay qua nhằm vận chuyển thương binh từ chiến trường Dương Liễu - đèo Nhông (Bình Định). Chúng bất ngờ phát hiện “mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía tây Vũng Rô”. Chúng thả bom xăng, bắn rocket thiêu rụi lớp ngụy trang, trước khi điều động số lượng lớn máy bay, tàu chiến cùng bộ binh trên đèo Cả kéo xuống vây ráp.

Bên ta, các thủy tàu cùng bộ đội, dân quân du kích anh dũng chống trả. “Bằng bất cứ giá nào cũng không để địch cướp tàu”, đêm 17/2, quân ta quyết định phá hủy tàu C143, mang theo bí mật của “đường Hồ Chí Minh trên biển”.

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 10

Mặt biển bình lặng này từng là nơi các chiến sỹ và dân quân du kích của ta chiến đấu, tạo nên trận Vũng Rô đầy bi tráng tháng 2/1965

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 11

                                                               Nơi tàu C143 bị đánh đắm ở khu vực bãi Chùa, Vũng Rô.

 Bây giờ trên bến Vũng Rô, dưới chân nhà tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ hy sinh ở Vũng Rô, nhìn ra Bãi Chùa vẫn còn dấu tích nơi tàu C143 bị đánh đắm. Vũng Rô trở thành Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia năm 1997. 14 năm sau bia Di tích bến Vũng Rô, Đài tưởng niệm Vũng Rô hoàn thành, khắc ghi mốc son đầy tự hào trong lịch sử dân tộc.

Theo chú Phạm Văn Sơn, bảo vệ khu Di tích lịch sử Vũng Rô, mỗi tháng có hàng chục ngàn lượt khách ghé nơi đây để tỏ lòng thành kính trước các anh hùng liệt sỹ. Dưới những tán cây, họ được nghe và tưởng nhớ lại năm tháng hào hùng không thể nào quên, với những chiến sỹ không ngại gian khó, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Những tán cây ở khu di tích cũng có một câu chuyện thú vị để kể. Chú Sơn vẫn còn nhớ trận bão lịch sử quét qua Phú Yên và các tỉnh miền Trung năm 1993, để lại khung cảnh điêu tàn hoang phế. “Nhà cửa, mãi tôn bay hết cả”, chú nói với PV báo Tiền Phong, “và tôi thấy ngổn ngang cây cối, những hàng dừa, phi lao, bàng nghiêng ngả. Kỳ lạ là không cây nào gẫy gục. Khi dựng lại, chúng tiếp tục vươn mình và sống khỏe đến tận bây giờ”.

Trong một sự liên tưởng, đó như minh chứng cho tinh thần bất khuất, không tiếc máu xương của nhân dân Phú Yên. Dù sống trong lòng địch, bị đàn áp, khủng bố vẫn rực cháy tình yêu nước, một lòng hướng về cách mạng và đứng lên đập tan xiềng xích ngụy quyền. Giờ đây, họ lại chung tay phát huy tiềm năng của vùng biển huyền thoại, tạo nên “phép lạ” trong kinh tế và vững bước tiến vào tương lai.

 

Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng làm nên phép lạ ảnh 13

Nhà trưng bày các hình ảnh, hiện vật của các chuyến tàu không số cập bến Vũng Rô, cùng danh sách các cán bộ. thủy thủ tàu và những liệt sỹ tham gia vận chuyển, bảo vệ các chuyến tàu không số

 

 

Tham khảo thêm về Vũng Rô

 

Vũng Rô - Huyền thoại ngày ấy, bây giờ

Từ đỉnh Đèo Cả, trên huyết mạch giao thông xuyên Việt nhìn xuống phía Đông là vịnh Vũng Rô nằm giữa dãy núi hình vòng cung. Vũng Rô thuộc xã Hòa Xuân Nam (thị xã Đông Hòa), bây giờ là một khu kinh tế năng động của Phú Yên. Bức tranh thiên nhiên nhìn từ đỉnh đèo Cả là một sự tương phản tuyệt vời. Một bên vách núi dựng đứng, hiểm trở. Một bên là vịnh biển trong xanh, tàu bè ra khơi vào lộng, những làng chài hiền hòa bên sóng nước.

 

Những lồng bè nuôi tôm hùm trên biển mang lại thu nhập cao cho người dân

 

Nơi ấy có một thời lửa đạn gắn liền với huyền thoại những con tàu không số vận chuyển vũ khí theo Đường Hồ Chí Minh trên biển vào bến Vũng Rô chi viện cho chiến trường Nam Trung Bộ. Và trong thời bình, diện mạo kinh tế - xã hội vùng đất này đổi mới, phát triển, với nhiều kỳ vọng mới trên chặng đường phía trước. Sức sống mới ở Vũng Rô - Đèo Cả đang căng tràn trên con đường phát triển, mở ra một vùng đất bình yên, ấm no và hạnh phúc.

Vũng Rô là một vịnh biển, là ranh giới tự nhiên trên biển giữa Phú Yên với Khánh Hòa. Trong những điểm đến của chuyến tàu không số có Vũng Rô - một địa danh đã đi vào trang sử hào hùng của dân tộc, niềm tự hào của quân và dân Phú Yên. Trong nắng mùa Xuân, vùng biển Vũng Rô lung linh như bức tranh thủy mặc khổng lồ soi mình dưới làn nước. Vịnh Vũng Rô là vùng vịnh biển xinh đẹp trải dài trong diện tích khoảng 16,4km2 và được bao bọc bởi 3 dãy núi cao hùng vĩ giữa biển trời gồm Đèo Cả (ở hướng Bắc), Đá Bia (ở hướng Đông), Hòn Bà (ở hướng Tây) và được đảo Hòn Nưa ở hướng Nam che chắn.

Vùng biển Vũng Rô được che chắn bởi các dãy núi, nên không có sóng lớn, gió mạnh nào tràn vào. Cả một vùng nước bao la chỉ có những con sóng nhỏ lăn tăn vờn đuổi nhau. Với nước sâu và êm sóng, Vũng Rô rất thuận tiện cho các tàu cập bến ăn hàng, trả hàng và tránh bão. Vì có vị trí địa lý đặc biệt ẩn khuất dưới chân đèo Cả của biển Phú Yên, vịnh Vũng Rô từng được chọn là điểm cập bến cho nhiều chuyến liên tiếp của “Đoàn tàu không số” chi viện cho chiến trường miền Nam chống Mỹ, cứu nước, làm nên “Sự kiện Vũng Rô” năm 1965.

Vịnh Vũng Rô không chỉ được biết đến là di tích lịch sử huyền thoại trong kháng chiến, đây còn là “miền đất hứa” cho du khách thích yên tĩnh, khám phá, trải nghiệm những điều mới lạ. Là kiệt tác của thiên nhiên, hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của núi rừng, biển đảo, thác đá, vũng vịnh với màu nước trong xanh như ngọc bích, những gành đá trầm tích nối tiếp nhau nhô ra vịnh, bãi cát trắng mịn màng hòa quyện vào nhau như một bức tranh nên thơ, kỳ vĩ ngay trong lòng xứ Nẫu, chốn bồng lai tiên cảnh này mang vẻ đẹp hoang sơ, quyến rũ, làm mê lòng biết bao du khách.

Cảnh sắc nơi đây vừa hùng vĩ, lại vừa trữ tình, nên thơ. Vùng vịnh biển này là bức tranh phong cảnh thiên nhiên nguyên sơ tuyệt đẹp, được tạo nên từ những chất liệu thiên nhiên thân thuộc, có bầu trời, có đất, có núi, có biển và có cả mây trắng, rừng xanh. Chẳng thế mà Vũng Rô có tên trong 10 vịnh đẹp hàng đầu của Việt Nam và cũng là vịnh biển đẹp nhất Đông Nam Á, với những bãi tắm nguyên sơ, yên bình như bãi Lách, bãi Mù U, bãi Chùa, bãi Chân Trâu, bãi Lau, bãi Nhãn, bãi Bàng… khiến bao người say đắm.

Đổi thay ở miền di tích

Thôn Vũng Rô được chính thức thành lập năm 1986, gồm bãi Mù U, bãi Lách, bãi Ngà, bãi Chùa, bãi Hồ, bãi Hương, bãi Chính, bãi Lau, bãi Bàng, bãi Nhãn, mũi Yến, mũi Điện và hòn Nưa. Hiện nay, thôn Vũng Rô ngay cạnh di tích lịch sử tàu không số Vũng Rô có khoảng hơn 400 gia đình ngư dân quần tụ. Đây là thôn được tập hợp lại từ những cư dân ở nhiều vùng quê khác nhau như Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa…

Tuy nhiên, “vùng kinh tế mới” lúc bấy giờ đã có người đến khai khẩn từ năm 1980. Góp lại từ nhiều miền quê, thôn Vũng Rô thật đặc biệt, đó là nơi giao thoa của nhiều nét văn hóa, tập quán khác nhau. Một điều có lẽ khá đặc biệt, đó là hơn 400 hộ dân tất cả đều ấm no, khá giả. Trẻ em đến trường đầy đủ. Các dịch vụ chăm sóc y tế được người dân chú trọng quan tâm.

 

Thôn Vũng Rô với những ngôi nhà kiên cố khang trang, đời sống người dân đã đổi thay mạnh mẽ

 

Vũng Rô rộng 1.640ha mặt nước, độ sâu có thể tiếp nhận tàu trọng tải trên 5.000 tấn, được các dãy núi cao Đèo Cả, Đá Bia, Hòn Bà che chắn cả 3 hướng: Bắc, Đông, Tây. Trong vịnh có nhiều bãi nhỏ gồm: bãi Lách, bãi Mù U, bãi Ngà, bãi Chùa, bãi Chân Trâu, bãi Hồ, bãi Hàng, bãi Nhỏ, bãi Chính, bãi Bàng, bãi Lau, bãi Nhãn. Các địa danh như Đá Bia - Vũng Rô - Đèo Cả là những địa danh lịch sử, văn hóa và du lịch tiêu biểu ở tỉnh Phú Yên. Vũng Rô được xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia ngày 18/6/1997. Năm 2014, Vũng Rô được Tổ chức kỷ lục Việt Nam xếp hạng là top 10 vùng vịnh đẹp của Việt Nam.

Đời sống làng chài Xuân Hòa Nam dưới chân đèo Cả là làng biển nổi tiếng với nghề nuôi tôm hùm, một trong những nơi ngư dân nắm được bí quyết nuôi tôm hùm sớm nhất Nam Trung Bộ. Người dân ở vùng vịnh nước sâu và kín gió này đổi đời nhanh chóng, đó là nhờ con tôm hùm. Nghề nuôi tôm hùm bằng lồng bè khởi nguồn tại đây từ năm 1994. Phần vì nước biển trong, môi trường sạch và tinh khiết cho tỉ lệ tôm sống, tôm trưởng thành và tôm hùm thương phẩm chất lượng tốt, thành công cao nhất, làng biển Vũng Rô dần trở nên giàu mạnh, người dân có thêm nhiều nghề dịch vụ và bắt đầu để tâm sức vào làm du lịch, khai thác thế mạnh, nét đẹp, đời sống bình dị của một làng biển mà trước đây không ai nghĩ đến.

Ông Trương Văn Hòa, một ngư dân sống lâu đời trong thôn cho biết: “So với trước kia thì cuộc sống của người dân Vũng Rô hôm nay đã thay đổi rất nhiều”. Cuộc sống hiện đại, những ngư dân Vũng Rô kiêm luôn cả nghề hướng dẫn viên đặc biệt. Ngôi làng ven biển này mỗi năm có hàng triệu lượt khách đến, nhất là dịp lễ hay ngày nghỉ. Họ mê đắm với khung cảnh thiên nhiên và con người nơi đây. Họ cũng ngất ngây với sự phong phú trong đời sống văn hóa và những câu chuyện về biển, đảo do chính những ngư dân kể.

Ông Nguyễn Hải Ninh, Chủ tịch UBND xã Hòa Xuân Nam cho biết: “Đời sống người dân nơi đây trước kia còn nhiều khó khăn, nhưng nay đã có nhiều đổi mới. Có thể nói, người dân Vũng Rô luôn đoàn kết, chăm chỉ làm ăn, xây dựng kinh tế và an cư lạc nghiệp trên quê mới. Người dân Vũng Rô hôm nay đã biết làm dịch vụ, biết được thị hiếu của du khách nên đã cải thiện được đời sống kinh tế gia đình, vừa làm cho quê hương thêm giàu đẹp trong mắt bạn bè. Từ ngày cuộc sống phát triển, con em được học hành đàng hoàng hơn. Mỗi người dân nơi đây đều mang ý chí vượt lên khó khăn làm ăn để vươn khơi bám biển, mang lại nguồn sống cho chính mình và cho quê hương”.

Vùng biển huyền thoại Vũng Rô đã phát huy hết thế mạnh của mình về kinh tế biển và du lịch. Nhiều người đã rất vui mừng trước sự đổi thay ở vùng đất anh hùng này. Vũng Rô - mảnh đất lưu giữ trong lòng đất, lòng biển, lòng người chiến tích anh hùng của những đoàn tàu không số, với tất cả truyền thống lịch sử, tiềm năng về thiên nhiên và con người, đang mạnh mẽ hướng tới tương lai.

 

Hải đăng Đại Lãnh - nơi bình minh bắt đầu ở Việt Nam

 

Nhắc đến Phú Yên, mọi người thường hay nghĩ đến khung cảnh “hoa vàng trên cỏ xanh” thơ mộng trong bộ phim cùng tên. Tuy nhiên, nơi đây còn có một điểm đến độc đáo mà du khách không thể bỏ qua khi ghé thăm miền đất này.  

 

Đó là ngọn hải đăng Đại Lãnh (hay còn gọi là hải đăng Mũi Điện), tọa lạc tại điểm cực Đông của Tổ quốc, nơi đón ánh bình minh đầu tiên trên đất liền Việt Nam.

Vị trí: Mũi Điện Phú Yên (mũi Đại Lãnh) ở Thôn Phước Tân, xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên

Mũi Điện Phú Yên được bao phủ bởi một màu xanh tươi mát nằm vươn ra biển đón lấy nắng và gió của tự nhiên. Giới trẻ cực kỳ thích ghé thăm địa điểm này mỗi khi có dịp khám phá Phú Yên. Đặc biệt đối với những bạn lần đầu đặt chân đấy thì đây còn là cơ hội tìm hiểu về vùng đất mới. Mũi Điện Phú Yên còn là nơi lý tưởng để cắm trại qua đêm kết hợp đón những tia nắng bình minh đầu tiên chiếu xuống mặt đất.

Mũi Điện Phú Yên có núi, có biển, từ xa là ngọn đèn hải đăng đứng sừng sững quay mặt ra biển, bên dưới chân núi là Bãi Môn được nhiều người yêu thích bởi sự yên tĩnh, thanh vắng mà bãi biển này mang lại.

Địa điểm này được giới trẻ truyền tai nhau là nơi “phải đến một lần trong đời”, bởi khoảnh khắc được ngắm nhìn ánh nắng đầu tiên trên đất liền của Việt Nam sẽ là giây phút không thể nào quên với bất cứ ai đã được trải qua.

Xúc động, tự hào, và thêm yêu nước là những cảm xúc tự nhiên chạm tới mỗi người trong khoảnh khắc ấy.

Đường tới Hải đăng Đại Lãnh sẽ đưa bạn qua những cung đường biển đẹp ngỡ ngàng. Khi đến nơi, chỉ phải tập thể dục một chút với khoảng 1 cây số đường mòn đi bộ lên núi và leo thêm 100 bậc thang gỗ trong tháp hải đăng là bạn sẽ được đền đáp xứng đáng với phong cảnh ngoạn mục nơi đây.

Càng lên cao cảnh vật lại càng hùng vĩ sẽ khiến bạn phải “mắt chữ A miệng chữ O” vì quá đẹp.

Ngọn hải đăng tại Mũi Điện Phú Yên mang phong cách kiến trúc Châu Âu vì được người Pháp xây dựng từ năm 1890. Độ cao so với mực nước biển hơn 110m, hải đăng Mũi Điện Phú Yên không chỉ sở hữu một bầu không khí trong lành dễ chịu mà còn là nơi để bạn có thể chiêm ngưỡng toàn bộ khung cảnh mặt trời đỏ rực như hòn lửa đang dần nhô lên khỏi mặt biển. 

Từ chân ngọn hải đăng của Mũi Điện Phú Yên, bạn sẽ phải leo khoảng 100 bậc thang gỗ để lên được đỉnh hải đăng. Từ trên đỉnh, bạn sẽ dễ dàng mục sở thị nét đẹp cực phẩm của Bãi Môn cùng cảnh núi rừng, biển xanh mây trắng phủ kín cả xứ Nẫu.

Đứng trên ngọn hải đăng phóng tầm mắt ra xung quanh, một bên là núi non trùng điệp, một bên là biển rộng mênh mông, trên đầu mây trắng vời vợi giữa trời xanh thăm thẳm, đúng là bức tranh tuyệt tác của tạo hóa.

Ẩn sau vẻ đẹp ngỡ ngàng ấy là sự chiến đấu liên tục không ngừng nghỉ với thiên nhiên. Vì nằm ở vị trí địa lý đặc biệt, nên hải đăng Đại Lãnh cũng là nơi có khí hậu khắc nghiệt nhất Việt Nam với số giờ nắng gắt và lượng mưa luôn ở mức cao nhất trển cả nước.

Ý nghĩa đẹp đẽ đó dễ khiến những ai đặt chân đến nơi đây cảm nhận được bản thân mình rõ hơn, và muốn sống một cuộc đời đẹp hơn.

 

 

 

PHÚ YÊN ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI

 

Năm Quý Tỵ 1653 nhân việc quân Chiêm quấy nhiễu, chúa Nguyễn Phước Tần (1648 1687) cử cai cơ Hùng Lộc đem 3000 quân vượt đèo Cả đánh chiếm đến tận sông Phan Lang (Phan Rang). Vua Chiêm là Bà Tấm xin hàng. Chúa Nguyễn chia đất thành 2 phủ Thái Khang và Diên Ninh thuộc tỉnh Khánh Hoà ngày nay và từ đó sông Phan Lang là biên giới giữa Chiêm Thành và Việt Nam. Thế nhưng trong bản đồ trong Hồng Đức bản đồ (Bộ quốc gia giáo dục Sài Gòn 1962) thì biên giới giữa Chiêm Thành và Việt Nam vẫn còn ở núi Thạch Bi, giữa Phú Yên và Khánh Hoà

Năm Quý Dậu 1693 lấy cớ vua Chiêm là Bà Tranh không chịu tiến cống, chúa Nguyễn Phước Chu (1691 – 1725) sai tổng binh Nguyễn Hữu Kính đánh bắt Bà Tranh đem về Phú Xuân và lập trấn Thuận Thành sau đổi thành phủ Bình Thuận năm 1697 và nước Chiêm Thành ấy không còn nữa.

Phú Yên cách Nha Trang 120km. Có diện tích 5.278 km2. Dân số khoảng 768.972 người (1/4/1999). Phú Yên có một vị trí rất tốt, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp Khánh Hòa, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Đaklak và Gia Lai. Trong đồng bằng duyên hải miền Trung, Phú Yên được xem là vựa lúa lớn vì có diện tích đất nông nghiệp lớn nhất, 1 năm thu hoạch được rất nhiều. Phú Yên được coi là vựa lúa là vì địa hình bằng phẳng, thứ 2 đặc biệt là khi người Pháp sang chúng ta đô hộ và khai thác lúa, gạo, chính sự kiện này cho nên người Pháp đã thấy là cánh đồng Phú Yên có thể phát triển được và dựa vào con sông Ba người Pháp đã cho xây một cái đập tên là đập Đoáng Đa, chính đập này đã góp phần giữ cho nước ở lại trong đập để điều khuyết lượng nước tạo cho lúa thêm trù phú. Phú Yên có 1 con sông chạy qua đó là sông Ba (còn gọi sông Đà Rằng), cầu Đà Rằng lớn thứ 3 của đất nước sau cầu Thăng Long và Bắc Mỹ Thuận.

Phú Yên trước đây là một phần của tỉnh Phú Khánh (Phú Yên – Khánh Hòa) được tách ra từ năm 1989, nhưng cơ sở hạ tầng thuộc về Khánh Hòa. Vì thế chính phủ đã đầu tư cho Phú Yên 76 triệu USD để phát triển cơ sở hạ tầng và kinh tế. Các công ty nước ngoài đầu tư vào Phú Yên cũng được ưu tiên như: công ty lắp ráp điện tử Hàn Quốc và lắp ráp xe motor Yamaha. Phú Yên có cánh đồng Tuy Hòa với 2000 ha trồng lúa, 5500 ha dừa, 3000 ha điều, 1000 ha cafe, 1000 ha thuốc lá. Phú Yên hiện có những dự án quan trọng như sân bay dã chiến Đông Tác của quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ được nâng cấp thành sân bay Tuy Hoà, công trình thủy điện Ong Hinh với công suất 7000 kwh do Nhật Bản viện trợ. Phú Yên đã từng là đất của vương quốc Chămpa, dấu tích còn sót lại là tháp Nhạn. Phú Yên có cầu Đà Rằng dài 1080m – dài nhất miền Trung. Từ trên cầu, bên phải, trên một ngọn đồi cát là tháp Nhạn.

 

Lịch sử hình thành Phú Yên 

Lịch sử hình thành của tỉnh được đánh dấu từ năm 1597, khi Lương Văn Chánh đưa dân từ các vùng Thanh - Nghệ và Thuận - Quảng đến khẩn hoang lập ấp, tạo dựng cơ nghiệp ở vùng đất Trấn Biên. Đến năm 1611, phủ Phú Yên chính thức ra đời. Với một vị trí chiến lược quan trọng, vào thế kỷ XVIII Phú Yên là nơi đối đầu quyết liệt giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.

 

2.1. Lược sử hình thành và phát triển

Lịch sử hình thành của tỉnh được đánh dấu từ năm 1597, khi Lương Văn Chánh đưa dân từ các vùng Thanh - Nghệ và Thuận - Quảng đến khẩn hoang lập ấp, tạo dựng cơ nghiệp ở vùng đất Trấn Biên. Đến năm 1611, phủ Phú Yên chính thức ra đời. Với một vị trí chiến lược quan trọng, vào thế kỷ XVIII Phú Yên là nơi đối đầu quyết liệt giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.

Từ thế kỷ XIX trở về sau này, trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, Phú Yên đã hưởng ứng phong trào Cần Vương do Lê Thành Phương lãnh đạo và cuộc khởi nghĩa của Võ Trứ và Trần Cao Vân, đập tan chiến dịch Atlante của thực dân Pháp, góp phần làm nên thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân cả nước.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phong trào đồng khởi Hòa Thịnh của Phú Yên, cùng với nhiều chiến công khác, đã góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Ngày 3.11.1975, tỉnh Phú Yên sáp nhập với tỉnh Khánh Hòa thành tỉnh Phú Khánh. Tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa VIII vào tháng 6.1889, Quốc hội đã quyết định chia tách tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa như ngày nay.

2.2. Nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa

Lương Văn Chánh: Lương Văn Chánh là một võ quan nhà Lê và là người có công với sự nghiệp chiêu tập lưu dân khai khẩn, mở mang và phát triển vùng đất Phú Yên. Ông sinh khoảng thập niên 40 của thế kỉ thứ XVI, quê ở làng Tào Sơn, xã Ngọc Lĩnh, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Năm 1558, Lương Văn Chánh đã theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá. Đến năm 1578, Lương Văn Chánh đem quân tiến đến sông Đà Diễn (hay Đà Rằng) đánh chiếm thành Hồ của Champa. Nhờ chiến công đó, ông được thăng Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân. Sau đó ông được giao trông coi huyện Tuy Viễn, trấn An Biên (giờ thuộc tỉnh Bình Định). Năm 1593, lực lượng Lê trung hưng tiến ra miền Bắc, Lương Văn Chánh đã ra Bắc và cùng Nguyễn Hoàng lập được nhiều chiến công ở Sơn Nam và Hải Dương trong hai năm 1593 và 1594 và được vua Lê Thế Tông (niên hiệu Quang Hưng năm thứ nhất) tấn phong Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân cai quản 4 về Thần Vũ, tước Phù Nghĩa hầu. Đến năm 1597, ông Lương Văn Chánh đang là Tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên, nhận sắc lệnh của chúa Nguyễn Hoàng đưa chừng 4.000 lưu dân vào khai khẩn vùng đất phía nam của Đại Việt từ đèo Cù Mông đến đèo Cả (địa bàn tỉnh Phú Yên ngày nay). Ông cùng lưu dân từng bước khẩn hoang, lập ấp, từng bước tạo nên những làng mạc đầu tiên trên châu thổ sông Đà Diễn, sông Cái. Ông mất ngày 19.9 năm Tân Hợi (1611) tại thôn Long Phụng, thuộc xã Hòa Trị ngày nay và được nhân dân an táng, lập đền thờ nhớ ơn và suy tôn ông là Thành Hoàng. Sau đó không hiểu vì sao sử sách lại viết thiếu tên ông, khi Đại Nam liệt truyện tiền biên chép tiểu sử Lương Văn Chánh, có ghi: “sách thực lục bỏ sót tên ông”.Phải đến khi Nam Bắc phân tranh (1627 - 1672) chấm dứt, vào năm Chính Hoà thứ mười (1689) chúa Nguyễn mới truy phong cho cho Lương Văn Chánh tước Bảo quốc chi thần (thần bảo hộ đất nước). Đến năm 1693, ông lại được phong một lần nữa tước Bảo quốc Hộ dân chi thần (thần bảo hộ đất nước và dân chúng). Sau đó suốt từ 1689 đến 1767, Chúa Nguyễn đã 5 lần gia phong cho Lương Văn Chánh, tước vị cuối cùng ông nhận được là Phù Quân công, Thần Bảo Hộ Dân, Hựu Thuận Phong Công, Tỉnh Tiết. Đến thời Nhà Nguyễn, ông đã được gia phong thêm 6 lần nữa (các năm Minh Mạng thứ ba (1822), Thiệu Trị năm thứ ba (1843), Tự Đức năm thứ ba (1850), Tự Đức năm thứ ba mươi ba (1880) Đồng Khánh năm thứ hai (1887), và Duy Tân năm thứ ba (1909). Tước vị cuối cùng ông được phong là Dực bảo trung hưng thượng đẳng thần.

Để tưởng nhớ người có công khai hoang vùng đất Phú Yên, hàng năm, nhân dân địa phương tổ chức cúng tế, chăm lo giữ gìn, tôn tạo khu mộ và đền thờ Lương Văn Chánh. Với tầm vóc của một di tích lịch sử, Bộ VHTT đã công nhận khu mộ và đền thờ Lương Văn Chánh là di tích LSVH cấp quốc gia.

Trường THPT đầu tiên của Phú Yên cũng mang tên ông, đó là Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh.

Lê Thành Phương: Lê Thành Phương là danh nhân lịch sử hàng đầu ở tỉnh Phú Yên. Ông sinh năm 1825 tại làng Mỹ Phú, tổng Xuân Vinh (nay là thôn Mỹ Phú, xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) trong một gia đình Nho học và giàu lòng yêu nước. Thi đỗ tú tài năm 30 tuổi, ông trở về quê mở trường dạy học. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, Lê Thành Phương đã đứng lên chiêu tập nghĩa quân Phú Yên dựng cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược. Cuộc khởi nghĩa do Lê Thành Phương tổ chức và lãnh đạo ở Phú Yên là một bộ phận quan trọng của phong trào Cần Vương toàn quốc, có ảnh hưởng tích cực và mạnh mẽ đến phong trào Cần Vương ở các tỉnh Nam Trung bộ. Cuộc khởi nghĩa Lê Thành Phương là trang sử vẻ vang trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc vô cùng anh dũng, hào hùng của nhân dân Phú Yên và mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Phú Yên. Tháng 2.1887, Lê Thành Phương bị địch bắt. Vào ngày 20.2.1887 (nhằm ngày 28 tháng Giêng năm Đinh Hợi), vì không dụ dỗ, mua chuộc được ông, tên Việt gian Trần Bá Lộc đã ra lệnh xử tử Lê Thành Phương cùng nhiều sĩ phu yêu nước khác tại bến Cây Dừa (thuộc xã An Dân, huyện Tuy An ngày nay). Ông đã nêu cho tấm gương sáng ngời về ý chí kiên cường bất khuất và tinh thần anh dũng hy sinh vì dân vì nước. Di tích mộ và đền thờ Lê Thành Phương tại thôn Mỹ Phú, xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã được nhà nước chính thức công nhận là di tích LSVH cấp quốc gia vào năm 1997.

Hiện nay, cứ đến ngày 27 và 28 tháng Giêng hằng năm, huyện Tuy An, chính quyền xã An Hiệp phối hợp với Sở VH,TT&DL Phú Yên tổ chức lễ tưởng niệm đến vị Thống soái quân vụ đại thần Lê Thành Phương, người con ưu tú của quê hương Phú Yên. Đây cũng là dịp để nhân dân khắp nơi trong tỉnh Phú Yên, nhất là huyện Tuy An tụ hội về tham gia các hoạt động truyền thống, các trò chơi dân gian được tổ chức như: đẩy gậy, kéo co nam, nữ, đi cà kheo, chạy 3 chân, vừa chạy vừa lắc vòng, vừa hành quân vừa nấu cơm, thi cờ tướng, cờ người, cắm trại đẹp, thi hát dân ca, hội bài chòi và liên hoan văn nghệ.

2.3. Di sản văn hóa

2.3.1. Di sản văn hóa vật thể

a. Di tích, bảo tàng

- Phú Yên là vùng đất có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh thuộc nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều nền văn hóa khác nhau (văn hóa Champa, văn hóa Việt, văn hóa của các dân tộc thiểu số ở phía tây của tỉnh). Các di tích và danh lam thắng cảnh được công nhận là di tích LSVH cấp quốc gia như: Tháp Nhạn (Tuy Hòa), mộ và đền thờ danh nhân Lương Văn Chánh (Hòa Trị, Phú Hòa); chùa Từ Quang, còn có tên là chùa Đá Trắng (An Dân, Tuy An), mộ và đền thờ danh nhân Lê Thành Phương (An Hiệp, Tuy An), di tích lịch sử nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại Phú Yên (La Hai, Đồng Xuân), di tích lịch sử vụ thảm sát Ngân Sơn - Chí Thạnh (Tuy An), di tích lịch sử tàu không số trên vùng biển Vũng Rô (Hòa Xuân Nam, Đông Hòa), di tích lịch sử nơi diễn ra cuộc đồng khởi Hòa Thịnh (Tây Hòa), phế tích Thành Hồ (Phú Hòa) gắn với sự phát triển của người Chăm ở Phú Yên, di tích lịch sử thành An Thổ (Tuy An), nơi sinh đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng, địa đạo Gò Thì Thùng, bộ đàn đá và cặp kèn đá Tuy An…

- Bảo tàng tỉnh Phú Yên được khánh thành vào tháng 02.2012. Công trình Bảo tàng Phú Yên rộng 3ha trên đường Trần Phú (phường 5, thành phố Tuy Hòa), tổng kinh phí đầu tư gần 97 tỉ đồng. Hạng mục trưng bày với khối nhà chính cao ba tầng: tầng một là khu trưng bày và dịch vụ đón khách tham quan, khu kho hiện vật, khu hành chính; tầng hai là không gian trưng bày, triển lãm; tầng ba là không gian tổ chức các hoạt động giáo dục của Bảo tàng. Ngoài ra còn có các công trình phụ trợ khác như: nhà phục vụ giải khát, bãi đậu xe, hệ thống thang nâng, thang cuốn, thang máy… Phần trưng bày trong nhà của Bảo tàng có 3 chủ đề chính: Lịch sử Phú Yên xưa, Cách mạng và kháng chiến, Cuộc sống đương đại. Phần trưng bày ngoài trời thể hiện các mô hình kiến trúc dân gian truyền thống, các di sản văn hóa vật thể tiêu biểu của địa phương, đồng thời là không gian tổ chức trình diễn các di sản văn hóa phi vật thể. Trong giai đoạn đầu, Bảo tàng Phú Yên phối hợp với Câu lạc bộ UNESCO nghiên cứu, sưu tầm cổ vật Phú Yên trưng bày giới thiệu những hiện vật hiện có tại kho Bảo tàng và một số sưu tập cổ vật. Trong giai đoạn tới, Sở VH,TT&DL Phú Yên sẽ triển khai thực hiện dự án sưu tầm, mua bổ sung hiện vật và thiết kế, thi công trưng bày hoàn chỉnh. Đây được kỳ vọng sẽ là địa chỉ văn hóa thu hút du khách đến tham quan, tìm hiểu lịch sử, văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh.

b. Danh lam thắng cảnh

Phú Yên còn có những thắng cảnh nổi tiếng, đã được công nhận là thắng cảnh quốc gia như: đầm Ô Loan (Tuy An); gành Đá Đĩa (An Ninh Đông, Tuy An)… Những du lịch sinh thái như: khu du lịch Bãi Môn - Mũi Điện (Đông Hòa), khu du lịch Núi Thơm, làng du lịch Long Thủy (Tuy Hòa), Hòn Chùa, Bãi Xép, Gành Đá Đĩa (Tuy An); khu nghỉ mát Từ Nham, Bãi Nồm, Bãi Rạng (Sông Cầu)…

 

 2.3.2. Văn hóa phi vật thể

a. Phong tục tập quán

Về phong tục tập quán của các tộc người Việt, Êđê, Bana, Chăm, Hoa... sống trên vùng đất Phú Yên, mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán riêng tồn tại từ bao đời nay. Tuy nhiên nếu so sánh phong tục tập quán của họ với phong tục tập quán của những tộc người tương tự sinh sống ở các vùng đất khác trên lãnh thổ Việt Nam thì không có sự khác biệt gì nhiều. Người Việt ở Phú Yên cũng tổ chức đón Tết Nguyên đán bằng cách dựng cây nêu, cúng giỗ ông bà tổ tiên, thanh toán nợ nần, làm bánh mứt, mừng tuổi con cháu, thăm hỏi chúc tết lẫn nhau... Ngoài Tết Nguyên đán còn có Tết Thượng nguyên, còn gọi là Tết Nguyên tiêu (tổ chức vào rằm tháng Giêng âm lịch), Tết Đoan Ngọ (tổ chức vào ngày 5 tháng 5 âm lịch), Tết Trung nguyên (còn gọi là lễ Xá tội vong nhân), lễ Vu Lan (tổ chức vào rằm tháng 7), Tết Trung thu (tổ chức vào rằm tháng 8). Người Việt ở Phú Yên tổ chức các ngày Tết nói trên cũng không có gì đặc biệt so với nơi khác, duy chỉ Tết Đoan ngọ là tổ chức rất chu đáo. Vào ngày này, người ta thường cùng gia đình, bạn bè đi chơi, chủ yếu là đến các bãi biển, tổ chức vui chơi, ăn uống khá thịnh soạn. Các lễ thức khác của đời người, như sinh đẻ, cưới hỏi, tang ma, cúng giỗ... cũng không có gì khác biệt so với địa phương khác. Phong tục tập quán của các dân tộc ít người ở Phú Yên giống như ở những vùng khác, thường chặt chẽ và phức tạp hơn so với người Việt và được mọi người thực hiện rất nghiêm túc.

b. Lễ hội

Phú Yên cũng nổi tiếng với những lễ hội lớn hàng năm như: lễ dâng hương đập Đồng Cam (ngày 8 tháng Giêng âm lịch), lễ hội đua thuyền sông Đà Rằng (ngày 7 tháng Giêng âm lịch), lễ hội đầm Ô Loan (ngày 6 - 7 tháng Giêng âm lịch), lễ hội sông nước Tam Giang (ngày 5 - 6 tháng Giêng âm lịch), hội đón giao thừa Tết Nguyên Đán, hội hoa xuân Phú Yên (từ ngày 25 tháng Chạp đến Giao thừa Tết Nguyên đán), lễ hội đền Lương Văn Chánh (ngày 6 tháng 2 âm lịch), lễ hội đền thờ Lê Thành Phương (ngày 27 - 28 tháng Giêng âm lịch), hội đêm thơ Nguyên tiêu trên Núi Nhạn (đêm rằm tháng Giêng), hội chùa Ông (ngày 13 tháng Giêng âm lịch), lễ hội Chùa Đá Trắng (ngày 10 - 11 tháng Giêng âm lịch), hội đua ngựa Gò Thì Thùng (ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch), hội đánh bài chòi vào tháng Giêng âm lịch, lễ hội cầu ngư vào tháng Giêng đến tháng Tám âm lịch.

c. Làng và nghề truyền thống

Phú Yên còn nổi tiếng với những làng và nghề truyền thống như: nghề đóng ghe thuyền Đông Tác (Tuy Hòa), làng bánh tráng ở làng Hòa Đa (An Mỹ, Tuy An), làng Đông Bình (Hòa An, Phú Hòa) và Mỹ Lệ (Hòa Bình II, Tây Hòa), làng gốm Quảng Đức (An Thạch, Tuy An), nghề làm mía đường La Hai (La Hai, Đồng Xuân), làng muối Tuyết Diêm (Xuân Bình, Sông Cầu), nghề dệt chiếu Cù Du (Phường 7, Tuy Hòa), nghề dệt lụa Ngân Sơn (Chí Thạnh, Tuy An), nghề chằm nón Phú Diễn (Hòa Đồng, Tây Hòa); làng nghề đan đát Vinh Ba (Hòa Đồng, Tây Hòa).

d. Ẩm thực

Phú Yên có nhiều loại hải sản có giá trị như: sò huyết đầm Ô Loan; tôm hùm Sông Cầu; ghẹ đầm Cù Mông; cá ngừ đại dương (cá bò gù)... Qua bàn tay chế biến khéo léo của người Phú Yên, những hải sản ấy đã trở thành những đặc sản danh tiếng, mang lại dư vị khó quên cho những ai từng có dịp thưởng thức. Đứng đầu bảng ẩm thực đất Phú Yên là các đặc sản đã thành danh như: ghẹ Sông Cầu với các món: ghẹ hấp, ghẹ rang muối, ghẹ rim me, súp ghẹ; sò huyết đầm Ô Loan (Tuy An) nướng trên than hồng ăn với muối tiêu chanh. Ô Loan cũng là nơi có loài hàu, được chế biến thành nhiều món ăn ngon và lạ miệng như: hàu nhúng giấm ăn liền, hàu um chuối cây, nhưng đặc biệt hơn cả là món cháo hàu nấu với gạo đỏ, cùng với một số gia vị thông thường nhưng tạo thành một món đặc sản khó quên. Phú Yên cũng là nơi có nghề đánh bắt cá ngừ đại dương phát triển nhất Việt Nam. Từ đây, món gỏi cá ngừ đại dương đã vang danh trong và ngoài nước. Ngoài món gỏi, đặc sản cá ngừ đại dương của Phú Yên còn có các món: mắt cá ngừ chưng cách thủy (món “đèn biển”), gỏi bao tử cá ngừ, cháo đầu cá… Phú Yên còn có các món gỏi sứa; các loại tôm rằn, tôm hùm, tôm sú, tôm đất… hấp nước dừa; có mắm ruột cá hấp với cà bát… Người dân sống trong vùng động cát ven biển thì có món chả dông. Dân vùng chân núi Chóp Chài thì có món bông giờ xào thịt và đặc biệt là món bông giờ kho cá đồng ăn trong mùa mưa lũ…   

Nhiều món ăn nổi tiếng gắn liền với những địa danh sinh ra chúng như: cốm nếp Phong Hậu (Tuy An), bánh tráng Hòa Đa (Tuy An), Hòa An (Tuy Hòa), sò huyết Ô Loan (Tuy An), ghẹ, ốc nhảy, sò điệp, cá mú Sông Cầu, tôm hùm Vũng Rô... Nói đến văn hóa ẩm thực mà không nhắc đến nước mắm Sông Cầu, cà phê Tuy Hòa thì không thể cho là đủ. Nước mắm Sông Cầu, nước mắm Gành Đỏ của Phú Yên cũng là những đặc sản nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc...

(Nguồn: phuyen.vietccr.vn)

 

THÀNH PHỐ TUY HÒA PHÚ YÊN:

Đầu năm 2005, Chính phủ đã công nhận Tuy Hòa ( Phú Yên) là thành phố. Nơi đây vốn là một thị xã duyên hải miền Trung thơ mộng và tỉnh cũng đang định hướng cho xây dựng thành một đô thị hòa quyện với hình thế sông núi độc đáo.

Có diện tích là 897km2 với dân số khoảng 259.000 người, thành phố gồm 14 đơn vị hành chính (10 phường và 4 xã). Tuy Hòa giáp với các huyện Tuy An, Phú Hòa và Đông Hòa (lần lượt từ bắc tới nam). Tuy Hòa cách Tp.HCM 560km theo QL1A. sân bay của thành phố là sân bay Đông Tác.
Có lẽ duyên hải Việt Nam, chỉ Tuy Hòa có 2 ngọn núi nằm giữa lòng thành phố, đó là núi Nhạn và Chóp Chài. Hai ngọn núi này đã được xây dựng thành công viên núi, với các vườn thực vật sưu tập phong phú chủng loại hoa, cây trên thế giới. Núi Nhạn là ngọn núi thơ nổi tiếng nhất nước. Còn Chóp Chài thì lừng danh “ Chóp Chài đội mũ/ Mây phủ đá bia …” hiện đặt trung tâm phát sóng truyền hình Việt Nam và phát thanh Phú Yên.

Bãi biển Tuy Hòa không náo nhiệt như nhiều bãi nơi khác, sau khi đắm mình vào dòng nước xanh Long Thủy, du khách có thể ngồi vùi chân xuống cát và “nhâm nhi” một ít rượu gạo Quy Hậu nồng nàn với đặc sản tươi ngon như sò huyết Ô Loan, cua bể Yến, ốc nhảy sông Cầu, tôm bạc Vũng Rô, cháo hàu Tuy An … còn nếu muốn đàm đạo nước mây thì hệ thống quán cafe với những công thức chế biến bí truyền pha nước mắm nhĩ sẽ làm say lòng du khách tại các quán Tùng (Tản Đà), Cổ Gia Trà (Hùng Vương), Thạch Lâm ( Nguyễn Huệ)… để làm quà sau chuyến phiêu du, khách có thể mua bánh tráng Hòa Đa, nước mắm Gành Đỏ – An Hòa, cá ngựa Vũng Lắm, mực khô Phú Câu, “Quy Hậu Tửu” – hàng gia dụng mỹ nghệ dừa độc đáo tại doanh nghiệp Bình SVC (nơi chế tác chiếc bình gáo dừa kỷ lục Việt Nam) ...

Tp.Tuy Hòa cách thủ đô Hà Nội 1177 km, du khách có thể dễ dàng đi bằng tàu hỏa, ô tô hoặc máy bay.

 

"Xứ Nẫu"- Tại sao có tên gọi thế?


Bạn bè phương xa hay gọi Phú Yên quê tôi là xứ Nẫu. Một lần đồng nghiệp phương Nam du thuyền trên biển Vũng Rô vui miệng hỏi rằng: "Vì sao quê ông được gọi là xứ Nẫu. Nẫu có nghĩa là sao?".....

Ba Đà Rằng tôi toát mồ hôi hột lúng túng như gà mắc tóc định bụng giải thích ấm ớ cho qua thế nhưng mồm miệng cứ lúng búng lùng bùng như ngậm hột thị bởi chưng quá bí nói chẳng nên lời. Vậy là đành cất công tìm hiểu một từ phương ngữ đặc trưng của quê mình và cũng vỡ ra đôi điều. Xung quanh chữ Nẫu dài lắm xin tóm lược như sau:

....Năm 1558 chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào nhận trọng trách Tổng đốc Thuận Quảng (Thuận Hóa Quảng Nam) ra sức củng cố cơ nghiệp đất phương Nam theo lời dạy của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Hoành Sơn nhất  vạn đại dung thân" (Một dải hoành sơn đủ để tạo cơ nghiệp muôn đời). Lúc ấy Thừa Tuyên (đơn vị hành chính cấp tỉnh) Quảng Nam kéo dài từ nam đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông. Năm 1578 chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan đưa lưu dân (người nghèo không sản nghiệp) khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả. Sau 33 năm khai phá vùng đất mới hình thành làng mạc năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên (trực thuộc Thừa Tuyên Quảng Nam) gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1629 chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên (đơn vị hành chính cấp tỉnh. Cả xứ Đàng Trong từ Quảng Bình vào Phú Yên có bảy dinh). Do đặc điểm của vùng đất mới còn hoang hóa dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như phường nậu man.

Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề người đứng đầu gọi là đầu nậu. Sách Đại Nam Thực Lục (tiền biên) ghi rõ: "Nậu nguyên nghĩa là làm cỏ ruộng rồi chỉ làng xóm và sau nữa thành tên một đơn vị hành chính quản lý một nhóm người có cùng một nghề".

Ví dụ: "Nậu nguồn" chỉ nhóm người khai thác rừng "Nậu nại" chỉ nhóm người làm muối "Nậu rổi" chỉ nhóm người bán cá "Nậu rớ" chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ "Nậu cấy" chỉ nhóm người đi cấy mướn "Nậu vựa" chỉ nhóm người làm mắm...

Do sự phát triển của xã hội Đàng Trong năm 1726 chúa Nguyễn Phúc Chú (1697-1738) cử Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi chức năng của các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như "Thuộc" "Nậu" bị xóa bỏ. Khái niệm thành tố chung cấp hành chính "Nậu" được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba. Từ "Nậu" không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ:

Ví dụ: - Chiều chiều mây phủ Đá Bia Đá Bia mây phủ chị kia mất chồng Mất chồng như nậu mất trâu Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bơm. - Tiếc công anh đào ao thả cá Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu. - Ai về nhắn với nậu nguồn Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên.

Từ chữ "Nậu" ban đầu phương ngữ Phú Yên-Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi.

Ví dụ: Ông ấy bà ấy được thay bằng: "ổng" "bả". Anh ấy chị ấy được thay bằng: "ảnh" "chỉ". Và thế là "Nậu" được thay bằng "NẪU .

NẪU đã đi vào ca dao Bình Định Phú Yên khá mượt mà chân chất: Thương chi cho uổng công tình Nẩu về xứ nẩu bỏ mình bơ vơ. Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam) với "mô tề răng rứa chừ" vượt qua đèo Bình Đê (ranh giới Bình Định - Quảng Ngãi) được đổi thành "đâu kia sao vậy giờ". Và đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (Bình Định - Phú Yên) không phân biệt rạch ròi cách phát âm dấu hỏi và dấu ngã. Đặc biệt bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (Bình Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu-Phú Yên) các âm dấu ngã đều phát âm thành dấu hỏi. Riêng đồng bằng Tuy Hòa khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã.

Bởi vậy "NẨU" hay được phát âm là "Nẫu". Đồng bằng Tuy Hòa trù phú nhiều nhà giàu trong vùng cho con cái đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ "Nẩu" theo phát âm quen miệng thành chữ "Nẫu". Một thời cơ cực thành ngữ "buồn nẫu ruột" "trái cây chín nẫu" (chín úng)... cũng góp phần hóa thân chữ "Nẩu" thành chữ "Nẫu". Vậy là chữ "Nẫu" theo kiểu phát âm phương ngữ trở thành từ cửa miệng đi vào thơ ca báo chí.

Đặc biệt chữ "Nẫu" chết tên với vùng đất Phú Yên khi nhạc sĩ Phan Bá Chức ký âm bài Trách phận (còn gọi là "Nẫu ca") dân ca Phú Yên theo điệu Xuân Nữ của dân ca bài chòi Khu V do Nguyễn Hữu Ninh sưu tầm trong dân gian được thể hiện bởi nghệ sĩ Hoài Linh - Việt kiều gốc Phú Yên. Hồi còn tỉnh chung Phú Khánh Ba Đà Rằng này làm thư ký giúp việc cho nhà thơ Văn Công (quyền chủ tịch tỉnh) theo ông về các địa phương thúc giục chuyện nghĩa vụ "lúa lang lợn lạc" cho tỉnh. Tỉnh quá xa địa phương nào cũng có nhu cầu phát triển riêng của mình tìm mọi cách giữ lại chút ít để "lo phận mình" tỷ như xây dựng trụ sở UBND thị xã Tuy Hòa năm 1985 bị quy chụp là cục bộ. Bà con không buồn phiền gì chuyện đó và bào chữa thật dễ thương: Tỉnh dài huyện rộng xã to Nẫu lo phận nẫu mình lo phận mình. Còn nếu cán bộ cấp trên về ép việc này việc nọ thì cũng có câu phản kháng nhẹ nhàng: Nẫu dìa (về) thì mược nẫu dìa Lăng xăng lít xít nẫu chê nẫu cười. Còn Ba Đà Rằng này tài sơ trí thiển Nẫu nói gì mược Nẫu (người ta nói gì mặc người ta) cũng bạo gan trao đổi đôi điều về "Nậu-Nẩu-Nẫu" như một nhàn đàm vui đón xuân. Rất mong các bậc cao minh vui lòng chỉ giáo để sáng tỏ thêm một từ phương ngữ đặc trưng của Nam Trung bộ.

Người Bình Định Phú Yên được gọi là người xứ Nẫu hẳn nhiên vì "đại từ nhân xưng" "nẫu" (bọn họ người ta...) đã trở nên quá phổ biến với chất giọng nằng nặng thô ráp nhưng chân thật không lẫn vào đâu được.

Ngôn ngữ của người xứ Nẫu có nhiều từ nhiều câu rất độc đáo cũng không lẫn vào đâu được đã trở thành phương ngữ xứ Nẫu. Chẳng hạn "nẫu" "dẫy ngheng" (vậy nghen) "dẫy á" (vậy đó) "dẫy na"(vậy à?) "chu cha" (có tính chất cảm thán kiểu như "trời ơi")... Đã nghe "nẫu" "dẫy ngheng" "dẫy á"... vài lần người ta có thể nhớ mãi như ngấm vào máu thịt không quên được bởi "nẫu" "dẫy ngheng" "dẫy á"... có quá nhiều ngữ nghĩa sắc thái tâm tư tình cảm - đương nhiên tùy theo ngữ cảnh.

Quãng năm 1997-1998 tôi có về công tác tại một xã ven biển Phù Mỹ (Bình Định). Ở đó tôi đã chứng kiến một chuyện tình thật đẹp thật cảm động giữa một anh bị khuyết tật đôi chân với một thôn nữ hiền lành. Thương anh ngày ngày lê lết ở bến cá để xin cá nhặt cá rơi vãi mỗi khi thuyền về chị chấp nhận về nâng khăn sửa túi cho anh lại còn phải cáng đáng thêm một bà mẹ chồng đã lọm khọm. Chị nghèo gia đình anh cũng vậy lại là thân nhân liệt sĩ nên nương tựa vào nhau để sống. Tôi hỏi lý do tại sao chị lại dũng cảm lấy một người chồng khuyết tật chị ậm ừ giải thích vài câu rồi thẹn thùng "kết luận": "Dẫy á!".

Cái câu "dẫy á" của chị tuy chỉ hai từ nhưng trong ngữ cảnh này mới đắt làm sao. "Dẫy á" đã nói lên được bao điều và tôi không cần hỏi gì thêm cũng hiểu được tấm lòng của chị.

Gần đây vào giữa trưa lúc đang thiu thiu ngủ thì chuông điện thoại bàn reo  tôi bật dậy. Bực mình nhưng tôi vẫn phải "A lô...". Đầu dây là một giọng nói đậm chất Nẫu: "Anh Bảy hé anh Bảy. Ủa không phải na? Cho tui gặp anh Bảy chút coi!". "Dạ đây không phải nhà anh Bảy có lẽ chị nhầm số". "Ủa lộn số hén? Thâu (thôi) dẫy ngheng". Rồi cúp máy.

Cái câu "dẫy ngheng" rất tròn vành rõ chữ lại kéo dài âm "eng" như một lời xin lỗi mong được thông cảm. Tan giấc nghỉ trưa nhưng tôi cũng chẳng còn cảm giác bực mình bởi dư vị của hai chữ "dẫy ngheng" cứ ngọt ngào trong tâm tưởng.

Một năm đôi ba bận tôi lại về quê - một làng nhỏ ven sông Côn - để cúng giỗ dẫy mã.  Các anh chị tôi ở quê làm nông là chủ yếu. Nghe tôi kể chuyện phố phường thỉnh thoảng họ lại "dẫy na?" ngạc nhiên một cách hết sức hồn nhiên. Còn tôi thì sau mỗi lần như thế lại "dẫy á" để khẳng định lại điều mình vừa nói vừa kể.

Trong những lúc trà dư tửu hậu nhiều người xứ Nẫu vẫn đem câu "Yêu không yêu thì thâu nói dứt phát" (Yêu không yêu thì thôi nói (để) dứt khoát) ra để tếu táo với nhau rồi tự trào rằng người xứ Nẫu mình có một câu nói hay đáo để.

Sử chép: Ngày 1 tháng 3 năm Hồng Đức thứ 2 (1471) nước Đại Việt mở đất đến núi Thạch Bi (Phú Yên). Đến tháng 7 năm 1471 vua Lê cho lập phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện là: Bồng Sơn Phù Ly và Tuy Viễn. Từ đó người Việt bắt đầu tiến vào sinh sống trên vùng đất Bình Định Phú Yên ngày nay.

535 năm đã trôi qua. Trải qua bao bể dâu biến thiên của lịch sử; trải qua bao cuộc giao lưu hợp lưu giữa các nền văn hóa cái lắng đọng lại chắt lọc lại chính là văn hóa và con người xứ Nẫu trong đó có ngôn ngữ xứ Nẫu. Có thể nói ngôn ngữ xứ Nẫu là tinh hoa của văn hóa xứ Nẫu. Ở Việt Nam các nhà ngôn ngữ học đã chia ra 3 vùng chính: Phương ngữ Bắc Bộ phương ngữ Trung Bộ và phương ngữ Nam Bộ. Trong phương ngữ Trung Bộ đương nhiên có phương ngữ xứ Nẫu.

Lâu nay các sách ngôn ngữ học thường giới thiệu tiếng Việt như một thực thể nhất dạng. Trong thực tế tiếng Việt rất đa dạng và luôn luôn biến đổi với những sắc thái địa phương khác nhau. Tiếc rằng những sắc thái đó thông thường chỉ được cảm nhận mà chưa được phân tích lý giải tường tận.

Cũng vậy đối với phương ngữ xứ Nẫu. Hình như Bình Định Phú Yên đã có khá nhiều bộ địa chí những công trình văn nghệ dân gian nhưng chưa có (hoặc có nhưng rất ít) đề cập đến phương ngữ xứ Nẫu với những lý giải phân tích cặn kẽ tận tường.

Văn hóa Bình Định văn hóa Phú Yên - văn hóa xứ Nẫu - không chỉ thể hiện qua những tháp Chàm trầm mặc rêu phong qua câu hát bội thô mộc chất phác qua điệu bài chòi mượt mà sâu lắng qua lời than thân trách phận rền rĩ ai oán... mà còn thể hiện rõ nét qua ngôn ngữ. Giá như có một công trình nghiên cứu về phương ngữ xứ Nẫu như Huế đã có phương ngữ xứ Huế thì "chu cha" hay biết bao.

 

Chuyên đề:

CA DAO – TỤC NGỮ PHÚ YÊN

Ca dao – tục ngữ là những câu nói truyền miệng có vần có điệu để nói về phong tục tập quán, tình cảm nam nữ hoặc phản ánh lịch sử, đời sống văn hoá,  giải thích các địa danh, Đạt xin phép giới thiệu một số ca dao tục ngữ của vùng đất Phú Yên đã sưu tầm được (có đính kèm lời giải thích địa danh)

 

Nói về địa danh, núi đồi ra tận biển tạo ra những vũng kính nối tiếp che chắn ngư thuyền đánh bắt hải sản vào mùa biển động:

Vũng Dông, Vũng Lắm, Vũng Chào

Vũng La, Vũng Sứ vũng nào cũng thương

Thể hiện tình cảm nam nữ:

Ngó lên Mỹ Thạnh cảnh tiên

Cảnh tiên không thấy, thấy duyên của mình

Hay:

Muốn về Soi Bún ăn dưa

Sợ e Soi Bún đãi đưa nhiều lời

 

Giới thiệu thổ sản  và ngành nghề truyền thống:

Ngó lên Đất Đỏ nhiều bắp nhiều khoai

Ngó xuống Đồng Dài nhiều mía nhiều tranh

Hay:

Vinh Ba đan cót đan gàu

Phú Diễn chằm nón, Xóm Bàu vớt rong

 

Nhớ về Ô Loan thương người chiến sĩ yêu nước Lê Thành Phương chống Pháp:

Ô Loan nước lặng như tờ

Thương người chiến sĩ dựng cờ Cần Vương

 

Nơi đây có nhiều đặc sản nổi danh một thời đã đi vào văn chương:

Lấy chi vui với thu tàn

Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu

 

Cù Mông:

Tiếng ai than khóc nỉ non

Lấy vợ chú lính trèo hòn Cù Mông

Công tôi gánh gánh gồng gồng

Trở ra theo chồng bảy bị còn ba.

 

Không đi thì sợ cái nghèo

Có đi thì sợ cái đèo Cù Mông

Không đi thì nhắc thì trông

Có đi thì sợ Cù Mông, Xuân Đài

 

Cá ngon là cá Cù Mông

Gạo ngon là gạo ở đồng Phú Dương.

Xuân Đài:

Ngó ra ngoài Vịnh Xuân Đài

Thấy hai ông súng nằm đài giữa truông

 

Ngó ra ngoài đảnh Xuân Đài

Có hai ông súng nằm dài giữa truông.

 

Đèo nào cao bằng đèo Phú Cốc

Dốc nào ngược bằng dốc Xuân Đài

Đèo cao dốc ngược đường dài

Anh còn qua được huống chi vài lạch sông.

Vịnh Xuân Đài cũng là môi trường tốt để đánh bắt hải sản khác, đặc biệt là ốc nhảy và nhiều loại cá: cá lá, cá dò, cá dìa, cá trích… Viết về phong cảnh cửa biển Xuân Đài có thơ của Tam Thai (1984)

 

                                                     Xuân Đài bốn mặt núi sông liền

                                                     Thắng cảnh nước non để dấu truyền

                                                     Thánh đế đền xưa nêu thắng tích

                                                     Tiên Châu bến cũ hội thương thuyền

                                                     Hai sông giáp một triều lên xuống

                                                     Ba mặt giành đôi đá ngửa nghiêng

                                                     Trùng diệp dương xanh lồng cát trắng

                                                     Rừng cây nhân tạo giúp thiên nhiên

 

Sông Cái:

Nước sông Ba chảy ra sông Cái

Anh có vợ rồi de gái làm chi!

Anh về rước vợ mau đi

Kẻo chỉ trở dạ e khi bị đòn.

Phú Xuân

                                                     Đồng bào Xuân Phước, Xuân Quang

                                                     Hy sinh thì chịu, đầu hàng thì không

                                                     Xuân Phước có hồ Phú Xuân

                                                     Nhân dân ba xã vui mừng xiết bao.

 

Tỉnh Phú Yên có bốn công trình thuỷ lợi mà hồ chứa nước Phú Xuân là một trong bốn công trình đó. Hồ chứa nước Phú Xuân ngăn dòng Trà Bương làm thành công trình thuỷ lợi lớn tưới các cánh đồng thuộc ba xã Xuân Phước, Xuân Quang 2 và Xuân Quang 3.

 

Đập Đồng Cam

Nước sông Ba chảy qua Thạnh Hội

Thương nhau rồi nỡ vội đi đâu

Để cho Suối Thá âu sầu

Đồng Cam, Dốc Võng đâu đâu cũng buồn

 

Về đèo Cả, ca dao địa danh có câu:

                                                     Trèo lên đèo Cả

                                                     Ngó xuống Vạn Giã, Tu Bông

                                                     Biết rằng cha mẹ đành không

                                                     Chàng chờ, thiếp đợi uổng công hai đàng

                                                     Đèo nào cao bằng đèo Phú Cốc

                                                     Dốc nào ngược bằng dốc Xuân Đài

                                                     Đèo cao dốc ngược đường dài

                                                     Anh còn qua được hống chi và lạch sông

                                                     Không đi thì sợ cái nghèo

                                                     Có đi thì sợ cái đèo Cù Mông

Vũng Rô:

                                                     Lập loè trời chớp Vũng Rô

                                                     Mây che Hòn Yến gió vô Chóp Chài

 

Vũng Rô thuộc xã Hoà Xuân Nam, huyện Tuy Hoà. Từ thành phố Tuy Hoà tỉnh lỵ Phú Yên theo hướng Quốc Lộ 1A về phía nam chừng 30km đến Đèo Cả và rẻ trái, rồi theo đường nhỏ quanh co chừng hơn cây số là đến nơi. Trên bản đồ thời Pháp ghi là Vũng Rô, còn trong bản đồ Hồng Đức (tr 158) không thấy ghi Vũng Rô mà chỉ ghi vũng Đồi Mỗi và theo bài Vè thuỷ trình của Bùi Quang Tung thì vũng Đồi Mồi cách xã Bãi Võ (Đại Lãnh) về phía nam, có lẽ là vũng Đầm Môn thuộc huyện Vạn Ninh ngày nay. Cũng theo Bùi Quang Tung trong bài vè trên thì Vũng Rô có tên là Ô Rô

                                                     Ô Rô núi tấn bốn phương

                                                     Mịt mù sơn thuỷ như gương tựa đồ.

Vũng Rô được nhắc đến nhiều sau ngày Cách Mạng tháng Tám,  khi giặc Pháp tấn công đèo Cả và đổ bộ Vũng Rô, nhất là cuối năm 1946 với bài ký “Đêm Vũng Rô” của nhà văn Ngọc Cư (tên thật là Đặng Ngọc Cư), trên đặc san văn nghệ “Mùa đông binh sĩ” ghi lại chuyến đến thăm tiểu đoàn Độc Lập đóng trên Đèo Cả ngăn chặn giặc Pháp tấn công từ Khánh Hoà. Đêm ấy, người chiến sĩ trong chiếc áo trấn thủ không đủ ấm, kể với nhà văn về một loại chim trên đỉnh đèo nửa đêm, tiếng chim kêu như tiếng khóc trẻ thơ.

Bán đảo Vũng Rô dưới chân núi Đá Bia bao gồm Mũi Kê Gà (còn có tên là mũi Nạy) và mũi Dao, mũi La che kín. Bởi thế trong dân gian có câu:

 

                                                     Đầu gành mũi Nạy, mũi La

                                                     Qua hai mũi ấy đó là Ô Rô.

                                                     Vũng Ô Rô bốn mùa cũng khuất

                                                     Dựa mặt nồm mặt bấc cũng hay

                                                     Sơn xuyên phong cảnh là đây

                                                     Non cao bia tạc đá xây ngàn trùng

 

Bán đảo Vũng Rô nơi cao nhất chừng 300m, Vũng Rô ở cực nam Phú Yên. Mặt nước trong xanh, ba bể có núi bao bọc. Khi có gió bão, tàu thuyền vào ẩn núp bình yên. Vũng Rô còn là nơi thuận tiện cho ngư dân sinh sống và làm nghề vì quanh năm khí hậu trong lành. Vũng Rô có nhiều bến bãi cảnh quan lạ mắt, thuận lợi cho đầu tư du lịch sinh thái. Trước đây, tàu 10 đến 15 tấn ra vào thuận tiện. Hiện nay, cảng Vũng Rô được đầu tư lớn, là cửa ngõ của khu công nghiệp Hoà Hiệp, tương lai Vũng Rô thành cảng biển hỗn hợp bao gồm cảng vận chuyển hàng hoá và cảng cá. Vũng Rô rộng 15km2, độ sâu từ 14 – 19m, khu vực xây dựng có thể mở rộng thêm từ 15 đến 20 hecta và có thể liên kết với cảng Vịnh Vân Phong. Cảng Vũng Rô được đầu tư cơ bản và tiếp nhận  được tàu 3.000 tấn, đang tiếp tục phát triển khai thác các tiểu dự án thuộc khu hậu phương.

Bán đảo Vũng Rô có rất nhiều bãi. Từ phía đông bắ lần vào, ta thấy các bãi sau đây:

-          Bãi Gốc xã Hoà Tâm (trước thuộc xã Hoà Xuân), ghe thuyền đưa vào đậu nơi này thì yên ổn hơn.

-          Bãi Tiên là đầu đường vào Vũng Rô, có bãi cát mịn và suối nước ngọt, ghe thuyền thường ghé vào

lấy nước Bãi Tiên. Diện tích nay bị thu hẹp bởi con đường Bãi Ngà ngang qua.

-          Bãi Xép ở Phước Giang bên cạnh Rừng Xép thôn Phú Lạc thuộc xã Hoà Tâm. Khi thuỷ triều cạn,

đường đi trên bãi cát ló các võ ngao đã cạy ruột (ngao xép).

-          Bãi Môn thuộc địa phận thôn Phú Lạc xã Hoà Tâm, nơi này có trồng nhiều môn. Bãi Môn cũng là

nơi tàu 41 an toàn tìm bến đậu trong chuyến về quê hương đầu tiên của thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh. Tương lai bãi Môn là khu du lịch vì có Suối Tôm, nơi có loại hải sản đặc

biệt của vùng này.

-          Bãi Chính ở Vũng Rô thuộc xã Hoà Xuân Nam. Năm 1964 là địa điểm tàu 41 đường Hồ Chí Minh

trên biển đã nhập bến lần thứ 3

 

NÚI ĐÁ BIA - THẠCH BI SƠN

Sông Bàn Thạch quanh co uốn khúc

Núi Đá Bia cao ngút tầng mây

Sông là núi nọ còn đầy.

Mà người non nước ngày nay đều rồ

Chiều chiều mày phủ Đá Bìa

Đá Bia mày phủ chị kia mất chồng

 

Núi Đá Bia tên chữ Thạch Bi Sơn, còn có tên Núi Ông. cao 706m, bởi gần đó có ngọn núi thấp hơn là Núi Bà cao ngòm, ở dây Đèo Cả doi ra ngoài biển thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, nay là huyện Đông Hòa tỉnh Phú Yên Núi Đá Bia nằm ở 1253'50" bắc vĩ độ và 109023'32" đồng kinh độ. Phía đông liền với Núi Bà (hòn Bà) nằm sát biển, phía tây sát quốc lộ 1A, phía bắc liền với núi Đông Sơn, chân núi phía nam giáp Vùng Bồ. Núi Đá Bia nằm trong dãy Đại Lãnh, là danh thăng của quê hương, vì vậy năm Binh Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836) dãy núi Đèo Cả (Đại Lãnh) được khác vào Tuyên Đình là đình ở vị trí thứ 3 bên phải so với Cao Đỉnh ở chính giữa, trong hệ thống cửu đình đặt trước sân Thái Miêu ở Hoàng Thành, Huế và năm Tự Đức thứ 6 (1853) được đưa vào tự điển danh mục những nơi tôn kính.

Núi Đá Bia có Chớp Ông cao nhất ở giữa, Đá Bia ở chớp thấp phía tây nam và có bốn chớp thấp hơn đứng bốn bên là Bà Đệ, Bà Ứng, Bà Hiền, Bà Từ. Dã sử nhà Đường truyền rằng Cao Biền đánh Lâm ấp, đến núi Đá Bia cắm thần kiếm yểm long mạch và Đá Bìa là đồng trụ của Mã Viện. Nhưng xét theo truyện Mã Viện thì Mã Viện chưa từng đến đây. Đó chẳng qua lời của hậu nhân thêu dệt thêm vào. Nhưng sách Thủy Lục Trình chỉ của Trần Công Hiến có đoạn chép rằng: núi này có một chi chạy đến biển, chia hai dòng nước, cỏ cây phân rẽ, có một hòn đá lớn đầu quay hướng đông như hình người. Xưa vua Lê Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành ngang qua đấy, bùi ngùi than thở rằng: "Từ lúc trời đất sơ khai đã phân ranh giới, kẻ kia (Vua Chiêm là Trà Toàn 1471) vì nghịch đạo trời, nên phải chịu họa trời", nhân đó vua khiến chạm chữ lên trên đá làm bia quy định ranh giới giữa hai nước. Ngày nay nét chữ đã lu mờ, nhưng theo tương truyền thì văn bia có nội dung:

Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong.

An Nam quá thử, tướng tru binh chiết(1)

(Chiêm Thành vượt qua đây, quân thua nước mất; An Nam vượt qua đây, tướng chết quân tan).

Lại có thuyết truyền rằng

Dĩ nam Chiêm Thành, Dĩ bắc dân triều mệnh Việt Nam. Có thuyết lại nói: Bia chỉ chạm hai chữ Hồng Đức là niên hiệu của vua mà thôi. Ba thuyết trên còn có những tồn nghi như quốc hiệu Việt Nam đến đời Gia Long mới có, và quốc hiệu An Nam vua Lê Thánh Tôn không dùng đến.

Sự việc vua Lê Thánh Tôn có đến Đá Bia hay không, sử chép có khác nhau: Phương Đình dư địa chí”), tác giả Nguyễn Văn Siêu cũng trích dẫn sách của Lê Quang Định, Lê Quý Đôn, sau đó đưa ra nhận định: Nay xét trong Lê sử: ngày 1 tháng 3 năm thứ 2 niên hiệu Hồng Đức, bắt chúa Chiêm là Trà Toàn ở thành Đồ Bàn, ngày mồng 2 hạ chiếu ban sư. Trong bản đồ niên hiệu Hồng Đức chỉ đến huyện Tuy Viễn, dãy núi Cù Mông trở về nam vẫn còn là đất Chiêm Thành. Những lời tục truyền tưởng không phải là thực. Ngày nay đi qua núi Đại trông núi ấy sắc núi hơi trắng mà rừng rậm thú dữ, chân người ít đến, tiếc không làm thế nào tìm được dấu tích.

Việt Sử Tân biên quyền II, Phạm Văn Sơn lại ghi rằng: .Ngày 29 (tháng 2), quân ta siết chặt ba vòng vây quanh thành Đồ Bàn. Ở đây, Việt Chiêm kịch chiến, Chiêm bị bại tới 4 vạn quân, bắt sống tới 3 vạn trong đó có Trà Toàn và cả hoàng gia. Cuộc chiến tranh nam bắc đến đây chấm dứt. Ngày mồng 1, có chiếu ban sư về kinh, Căn cứ vào 2 sử liệu trên, vua Lê Thánh Tôn không vượt qua đèo Cù Mông thì làm sao nói đến chuyện khắc chữ trên núi Đá Bia được. Nhưng một số sử liệu lại nói đến việc khắc bia, hoặc coi sự kiện như đã có rồi.

Địa Dư chỉ của Lê Quang Định cũng nói: Vua LêThánh Tôn nam chinh, mở đất đến đây, ở trên đỉnh núi có sai mài đá khắc chữ ghi việc chia ranh giới với Chiêm Thành. Nay bia vẫn còn, nhưng chữ bị sứt mẻ không nhận ra được.

Đại Nam thực lục nhắc đến sự kiện: Năm thứ 6 đời vua Duệ Tôn Hiếu Nghĩa hoàng đế là năm Tân Mão (1771) núi Thạch Bi ở Phú Yên bị sét đánh, đá đen ở nữa đều hóa ra trăng cả, xa trông như bia đá dựng đứng, sắc như tro trắng. Chúa sai quan làm lễ đảo.

Cũng sự kiện này nhưng Việt sử Tân biên lại chép Núi này ở đông nam phủ Tuy Hòa, năm Tân Mão đời Trần Duệ Tông (1341-1369) núi bị sét đánh, đá trắng xóa ở xa trông hình như đá vôi. Vua khiến quan cầu đảo.

Năm 1414 nước Việt Nam bị nhà Minh chinh phục trong 14 năm không thể lo việc khai thác về miền nam được. Đến khi Lê Lợi khôi phục được nền độc lập thì lo giao hảo với Chiêm Thành ngay, nhưng quân Chiêm vẫn cứ quấy nhiễu biên giới như trước, cho nên Lê Thánh Tôn đem binh vào phá thành Đồ Bàn bắt vua là Trà Toàn, chiếm lấy các xứ Đồ Bàn, Đại Chiêm, chỉ để lại cho người Chiêm những đất ở phía nam Đèo Cả, nhưng chia thành ba nước để cho họ yếu đi. Đến đó người Việt Nam đã tiêu diệt thế lực của Chiêm Thành và mở mang quốc cảnh đến tận phía nam tỉnh Phú Yên ngày nay.

Phủ Biên Tạp lục, tác giả Lê Quý Đôn, bản dịch của nhà xuất bản Khoa học xã hội có đoạn: Núi Thạch Bi ở phủ Phú Yên là chỗ tiên triều phân địa giới với Chiêm Thành, núi đến rất xa, tự đầu nguồn liên lạc đến bờ biển. Núi này cao hơn các núi khác. Thánh Tôn đánh được Chiêm Thành, lấy đất đặt xứ Quảng Nam, lập dòng dõi vua Chiêm Thành cũ.

Việt Nam Văn hóa Sử cương của Đào Duy Anh có chép:

Phong cho đất tự núi ấy trở xe phía tây, tạc đỉnh núi lập bia làm địa giới, xoay lưng về phía bắc, mặt về phía nam, lâu ngày dấu chữ đã mòn mất. (tr 121)

Việt Sử Tân biên quyển II của Phạm Văn Sơn còn chép: Đầu tháng tư, quân nam chinh về tới Nghệ An...

Tháng sáu, vua hạ chiếu lấy những đất mới của Chiêm làm Thừa tuyên Quảng Nam. Vua còn cho mài cái đỉnh núi cao nhất, ngoài bờ biển giúp địa giới nước Nam Bàn (Phan Rang) làm thành cái bia định giới hạn, gọi núi ấy là núi Thạch Bi, nay là dãy núi giáp giới Phú Yên, Khánh Hòa, chạy dài xuống biển thành mũi Varella.

Những sử liệu về Đá Bia, Đèo Cả... còn nhiều tồn nghi, cả việc Mã Viện, tướng của nhà Hán đã trồng cột đồng để phân định ranh giới, từ đó trở ra Bắc là đất quận Nhật Nam thuộc nhà Hán, trở vào là đất của nước Tây Đồ Di. Vì vậy tên núi trước kia gọi là Đồng Trụ sơn, đến khi khắc bia lên đá mới đổi tên là Thạch Bi sơn. Còn việc trồng cột đồng có đến 7 sách Tàu chép, nhưng các nhà  nghiên cứu không cho là thật!

Phan Thanh Giản một lần qua Đá Bia vào khoảng giữa thế kỷ XIX cũng đã nhắc đến đồng trụ qua thơ và Nguyễn Trường Tộ có bài thơ Quá Bi Sơn ngẫu tác có câu: Nhược di chích trợ thành song trợ| Địa tác bàn xang, hải tác bôi... (Nếu dời núi Thạch Bi ở cửa biển Tống Sơn, Thanh Hóa vào hợp với núi Đá Bia ở Phú Yên thành đôi đũa; thì đất sẽ làm bàn ăn và biển làm chén rượu). Theo

Tam Thai cư sĩ, câu thi có ý tưởng cao thượng và có ảnh hưởng về phong thủy địa lý... đáng kính phục, còn bài thi của Phan Thanh Giản cũng như nhiều bài khác, đều do khẩu truyền không căn cứ xác chứng.

Nhưng theo sách La Provice de Phu Yen của Laborde, bản dịch có viết: Trong những ngày trời quang nó hiện ra sừng sững và người ta có thể nhìn thấy nó từ khoảng cách xa 50km. Người An Nam gọi nó là Đá Bia. Truyền thuyết và ngay cả những người An Nam nói rằng vua Lê Thánh Tôn, người đã đánh đẩy lùi người Chàm năm 1472 đã khắc lên đó để kỷ niệm chiến thắng của

ông. Trong thực tế, chẳng có minh văn nào được viết ra. vả lại khó mà có thể thực hiện được điều đó vì Đá Bia cao tới 706m có đỉnh hình chiếc còi dựng đứng với chiều cao tới 30m. Tiếp theo là cuộc khảo sát của Tri phủ Tuy Hòa là ông Nguyễn Văn Thơ vào năm 1937 có cho người lên đỉnh để tìm kiếm dấu tích, nhưng không thấy gì cả.

Tháng 5 năm 2002, đoàn khảo cổ về Phú Yên, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã lên tận Hòn Đá (Ông) Bia cao độ 706m để "giải ảo hiện thực về những huyền tích như các câu thơ ca":

Chứng tích năm trăm năm, bia đá ghi sâu

     tình đất Phú

                                                Giang sơn muôn vạn thuở, sử vàng chói sáng

   cảnh dân Yên

- Công dày đá tạc ghi

Thánh Tông lưu quốc sử

Lương tướng đội biên thùy

Trèo lên 3 tiếng, xuống núi 2 tiếng, chân già bảy mươi bị vọp bẻ, chỉ để ghi vào quốc sử Việt Nam và tình sử Phú Yên một dòng:

Đá Bia không phải là đá ghi bia văn thời Lê Thánh Tông. Vậy Nó là gì?

Từ thế kỷ thứ VIII sử Tân Đường thư, Chiêm Thành truyện đã ghi: Nó là Lăng già bát bạt đa của Chămpa. Đây là lối ghi Hán tự của Lingaparvata - Linga thần núi thiêng mà, sau này (1993) cùng đoàn khảo sát quốc tế, tôi đã nêu ra và được hoàn toàn tán thành ở hội thảo quốc tế về Đông Nam Á họp ở Italy Hè 2001 (University of Milan). Lời giải ảo hiện thực núi Đá Bia của chúng tôi: Đấy là biểu tượng Lingaparuata - Linga - Đấng Đại Sơn thần -tức thần Siva ấn giáo đã được hội nhập vào văn hóa Chămpa hay là được Chămpa hóa. Hai trái núi thiêng (núi Chúa) hùng vĩ nhất của Phú Yên là núi Chóp Chài (Nựu Sơn) và núi Đá (Ông) Bia

Dẫu sao, đây cũng là một huyền thoại đẹp đẽ để tôn vinh tiền nhân từng mở mang bờ cõi. Bởi thế, tại đền thờ ông Lương Văn Chánh thôn Phụng Nguyên, xã Hòa Trị trước đây đã có câu đối sau:

Hồng Đức thiên biên tồn sự nghiệp

Phụng Tường miếu mạo đối sơn hà.

Tam dịch:

Hồng Đức bên trời còn sự nghiệp

Phụng Tường dựng miếu chói non sông.

Và tại Long Uyên (nay thuộc xã An Dân, huyện Tuy An) năm Tân Tỵ (1881), Bố chánh Phú Yên Đinh Nho Quang có câu đối ở miếu thờ vua Lê Thánh Tôn:

Giang sơn khai sáng hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự.

Trở đậu kinh hương thử địa, anh linh trường đổi Thạch Bi cao.

Tạm dịch:

Non sông mở cõi năm nào, phụ lão truyền nhau công Hồng Đức.

Lễ kính hương thơm đất ấy, danh thiêng xứng mãi ngọn Bi Sơn.

 

Núi Đá Bia còn có tên gọi Ngón Tay Chúa (Le doigt de Dieu), vì các nhà hàng hải người Pháp đi ngoài biển trông vào hòn đá trên đỉnh giống hình ngón tay chỉ lên trời, như là mục tiêu để làm căn cứ cho tàu chạy. Đến cuối thế kỷ XIX, một sĩ quan hải quân Pháp (Varella) cho xây hải đăng Mũi Điện nằm ở 1092712" kinh độ đông và 1253'40" vĩ độ bắc, cao hơn mặt nước biển 86m, còn hải đăng cao 110m so với mặt nước biển. Đây là một trong 45 đèn biển cấp 1 của cả nước, tàu bè xa khoảng 27 hải lý có thể nhận biết được.

            Dân gian còn truyền tại núi Đá Bia có huyệt Đế vương, vượng khí rất nhiều có thể át cả Trung Quốc, nên Cao Biền đã tìm  cách yểm long huyệt làm cho:  Bi sơn sanh thánh chúa, Đà thuỷ xuất hiền thần… không còn linh nghiệm! Dẫu sao, Đá Bia – Thach Bi sơn còn mang ý nghĩa thiêng liêng, nó đã “hoá thành văn” thành sử, nhắc nhở niềm tự hào về quá khứ, trong lời thơ mang tính sử thi mà  Đại Nam quốc sử diễn ca  của Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái đã viết:

                                                Mở Quảng Nam, đặt trấn Ninh

                                                Để phong muôn dặm uy linh ai bì

                                                Kỷ công có núi Đá Bia

                                                Thi văn các tập Thần Khuê còn truyền

Mũi Điện:

                                                Trời chớp Mũi Điện, thức dậy mà đi

                                                Trời chớp Đề-gi nằm nhà mà ngủ

 

Mũi Điện nằm trên miền núi Hòn Bà thuộc dãy Đại Lãnh, là nơi ăn ra biển so với bờ biển Việt Nam. Đây là điểm cực đông của Tổ quốc. đến cuối thế kỷ XIX, một sĩ quan hải quân Pháp phát hiện được sự quan trọng của mũi này nên mũi được mang tên ông là Cap Varella (Mũi Varella). Mũi Điện nằm ở 109°27’12’ kinh đông và 12°53’40’ vĩ độ bắc, ca hơn mặt nước biển 86m.

            Năm 1890 người Pháp xây hải đăng Mũi Điện để hướng dẫn tàu bè từ ngoài khơi nhập vào bờ và đi lại ven biển  quanh khu vực Vũng Rô. Nhưng rồi sau thế chiến thứ hai, người Pháp thua trận nên bỏ luôn hải đăng tở thành hoang phế. Năm 1961 chế độ Sài Gòn khôi phục hải đăng, nhưng phía nam của vùng biển nay là căn cứ nơi mà các con tàu không số tập kết chở vũ khí từ Bắc vào. Do đó, một thời gian sau máy bay huỷ luôn cả hải đăng. Ngày 3 – 7 – 1997 hải đăng Mũi Điên lại được khôi phục lần nữa là do cơ quan đảm bảo an toàn hàng hải khu vực 3 đảm nhiệm.

            Hải đăng Mũi Điện (còn gọi là hải đăng Đại Lãnh tỉnh Phú Yên), cao 26,5 so với mặt đất và cao 110m so với mặt nước biển. Là một trong 45 đèn biển cấp 1 của cả nước. Riêng phần thiết bị, đèn chinh, đèn phụ, bộ phản quang và các tấm pin năng lượng mặt trời trị giá hơn 1 tỷ đồng. Muốn lên đỉnh của hải đăng ta phải leo 107 bậc thang gỗ hình xoắn ốc. Tàu bè từ xa khoảng 27 hải lý có thể nhận biết được Mũi Điện nhờ ánh sáng trắng chớp nhịp 3 và chu kỳ 15 giây. Hải đăng Mũi Điện đã định vị cho nhiều tàu bè trong nước và quốc tế.

 

ĐÈO CẢ

Con chìm hồng bay trên Đèo Cả

Con cả vượt nhảy dưới Vũng Rô

Mất chồng em chẳng có lo

Sợ anh mất vợ nằm có một mình.

 

Trèo lên Đèo Cả

Ngó xuống Vạn Giã. Tu Bồng

Biết rằng cha mẹ dành không

Chàng chờ, thiếp đợi uống công hai đàng.

 

Con ngựa tía ăn quanh Đèo Cả

Vầng nguyệt đêm rằm bóng ngã về Đông

Chẳng thà giục ngựa về không

Chớ đừng cướp vợ, giục chồng người ta

 

Trèo lên Đèo Cả thấy mà ông Cao Biền.

Cảm thương anh Vệ quốc giữ yên nước nhà

 

Thằng Tây nó muốn lấn ra

Thây phơi hầm đá, làm ma không chồng.

Chiều chiều vượn hú đầu non

Đường qua Đèo Cả lối mòn dặm quanh

Non xanh xanh, nước xanh xanh

Nước non trông cảnh hữu tình xiết bao.

 

Đèo Cả nằm trên dãy núi Đại Lãnh có độ cao 512m. Đèo Cả là tên nôm xuất hiện để chỉ ngọn đèo cao (cả, 1ớn)  trong dãy núi lớn (Đại Lãnh). Đường đèo dài trên 12km có đến 98 vòng cua trong đó có những vòng cua gấp khúc, nhất là ở đoạn Đá Đen. Đây là một khối đá lớn nhất Đông Nam Á nằm ở lưng chừng núi trải dài đến tận bờ biển, rất khó khăn khi làm đường quốc lộ ngang qua đoạn này. Phía núi là những tảng đá có nhiều hình dáng khác nhau, nơi dựng đứng, có nơi thoai thoải; Phía biển, đường chạy sát bờ, sâu thăm thẳm mới đến mặt nước. Trên Đèo Cả có trạm Phú Hòa là dịch trạm giao thông liên lạc trên đường thiên lý giữa các tỉnh. Trạm có từ thời Gia Long. Đường chạy trạm từ trạm Phú Thịnh (Phú Thanh) nay là thôn Trường Thịnh xã Hòa Vinh vào trạm Phú Hòa dài 23 dặm 75 trượng.

Đèo Cả được tác giả Roland Dorgeles mô tả trong Surla route mandarine:

"...Những hòn đá cao quá bắt ngộp, nghiêng mình mà trầm tư mặc tưởng, những cái thác nhỏ trắng phau, chảy từ cao  xuống hố thẳm, những cây suông đuột lên trời, bốn bên dây leo lá phủ, thật là một cảnh cỏ cây chen đá lá chen hoa..." (Trần Sĩ dịch).

Trước cảnh thiên nhiên non nước hùng vĩ, nhiều thơ ca còn mãi với thời gian và Đèo Cả trên dãy núi Đại Lãnh được chạm vào Tuyên đỉnh trong hệ thống Cửu đỉnh đặt trước sân Thế Miếu ở Hoàng thành Huế vào năm Bính Thân (1836) thời vua Minh Mạng, 4 năm sau đó lại chuẩn định tế lễ tại núi Đại Lãnh tương đương với tế lễ ở núi Ngự Bình gồm một trâu và một lợn.

Đèo Cả, có tác giả nhầm gọi là đèo Cục Kịch. Thực ra, đèo Cục Kịch trên núi Gian Nan, ngăn cách hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa mà Đại Nam Nhất Thống chí của Sử quán triều Nguyễn mô tả: ở phía nam phủ có tên nữa là núi Gian Nan, cũng là phân giới cho tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa; vì đường núi hiểm trở nên gọi tên ấy. Triều Nguyễn đầu lúc trung hưng, đại quân cứu viện Diên Khánh, vua sai Đốc tướng Võ Văn Lượng đóng đồn ở núi để triệt đường về của quân địch, tức là núi này.

Dưới chân Đèo Cả có hầm Đèo Cả trong hệ thống đường sắt xuyên Việt bắt đầu xây dựng từ năm 1928. Tuyến đường sắt Bắc Nam làm lễ nối ray vào ngày 2-9-1938, có Toàn quyền Decoux và vua Bảo Đại tham dự.

Nơi nối ray, có tập hồ sơ xây dựng đường sắt cất kỹ vào hầm nhỏ xây bên cạnh rồi trám lại. Sau năm 1945 vẫn còn nhưng rồi lại bị đào lên tiêu thổ vào những ngày kháng chiến toàn quốc. Đoạn đường sắt từ Hảo Sơn đi Tu Bông thuộc xã Vạn Long, huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa có đến 7 tuyến hầm, tổng chiều dài các đoạn hầm là 2.851m, trong đó tuyến hầm dài nhất là hầm Baboneau còn gọi là hầm Đèo Cả dài 1.197m. Người Pháp cũng đã lập dự án tuyến đường sắt lên Củng Sơn rồi đi Tây Nguyên nối kết với Lộc Ninh qua Thủ Dầu Một - Sài Gòn.

Song dự án chưa thực hiện được. Tương lai trong kế hoạch phát triển kinh tế tiểu vùng, Phú Yên sẽ thực hiện dự án từ non thế kỷ trước.

 

Những ngày đầu kháng chiến, Hữu Loan đã theo đoàn quân Nam tiến vào đây và có thơ về Đèo Cả:

Giặc từ Vũng Rô

bắn tới

Giặc từ trong

tràn ra

Nhưng Đèo Cả

vẫn đứng vững.

 

Và những vần thơ lãng mạn kiêu hùng trong những tháng ngày gian khổ nhưng oanh liệt nơi chòi canh cheo leo, nơi mà:

Ngày thâu

Vượn hú

Đêm canh

gặp hùm lang thang

 

Trong kháng chiến chống Pháp, Đèo Cả được phòng thủ như là nút chặn âm mưu tấn công vùng tự do Liên khu V, nhưng ngày 13 tháng 1 năm 1947, từ vùng tạm chiếm Khánh Hòa, 2 trung đoàn tinh nhuệ của Pháp ào ạt tấn công qua Đèo Cả 3 ngày, nhưng không qua được.Chúng phải đổ bộ vào Bãi Xép phía bắc Vũng Rô đánh vào sau lưng ta. Ngày 18 tháng 1, Pháp tấn công nam thị xã Tuy Hòa. Cầu Đà Rằng bị phá, chúng lui về Phú Lâm sau đó chiếm đóng Núi Hiềm đe dọa vùng tự do nam Tuy Hòa. Quân dân Hòa Xuân hơn ngàn ngày bao vây đánh địch, căt đứt đường Nha Trang - Đèo Cả, ngăn chặn các cuộc tấn công của địch vào Hòn Hèo, Dốc Mõ gây thiệt hại nặng cho chúng.

 

Bị bao vây và thất bại nhiều mặt nên ngày 5 tháng 12 năm 1950, chúng đã tháo chạy qua Đèo Cả, con đường mà 3 năm trước chúng muốn vượt qua nhưng không được.

 

Đèo Cả ngày nay sẽ cùng với Vũng Rô, Đại Lãnh và Đá Bia làm nên cụm thắng cảnh du lịch sinh thái hấp dẫn khách trong và ngoài nước. Tương lai khu kinh tế mở chẳng khác Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội trên vùng đất trải dài từ Nam Phú Yên đến Bắc Khánh Hòa, là cửa ngõ phía đông vùng Tây Nguyên trong chiến lược phát triển kinh tế các tỉnh Nam Trung Bộ - Tây Nguyên. Dự án hạ tầng Nam thành phố Tuy Hòa - Vũng Rô đang hoàn thành các thủ tục đầu tư, chuẩn bị xây dựng. Bộ Giao thông vậntải chuẩn bị đầu tư cho dự án hầm đường bộ Đèo Cả, quy hoạch đường sắt từ Phú Yên lên Ban Mê Thuột, xây dựng  hệ thống giao thông liên vùng (cả đường bộ, đường sắt, đường hàng không) để phát huy vai trò của cảng Vũng Rô với Vân Phong tạo ra hành lang phát triển kinh tế của tiểu vùng. Hình thành trung tâm du lịch Tuy Hòa – Vũng Rô - Đá Bia, liên kết với trung tâm du lịch nước ngoài.

 

Sông Tam Giang, đèo Tam Giang, đập Tam Giang:

                                                                

                                                     Nước ròng chảy đến Tam Giang

                                                     Sầu đông chín rụng sao chàng bặt tin

                                                     Để em vàng ngọc giữ gìn

                                                     Hau là nhành quế đã vin cành nào

Hoặc:

                                                     Nước ròng chảy đến Tam Giang

                                                     Sầu đông chín rụng sao chàng bặt tin

                                                     Nỗi buồn con nhện đêm đêm

                                                     Chầu rày người bạn chắc quên ta rồi

 

Về Tam Giang, Phú Yên có ba địa danh: sông Tam Giang ở huyện Sông Cầu, đập Tam Giang và đèo Tam Giang cùng ở huyện Tuy An

Sông Tam Giang dài độ 10 km phát nguyên từ Hòn Kế chảy thẳng ra biển ở Vũng Chào trong vịnh Xuân Đài. Lòng sông cạn, ghe thuyền muốn ngược dòng sông lên vùng thượng nguồn, tài nguyên không được phong phú, mùa nước lớn ít thấy ghe thuyền qua lại. Người ta đắp đập Đá Vải ngang qua sông để cho nước vào đồng Long Bình, Long Phước. Tương lai có đập Bình Minh, hồ Ông Sim. Lưu vực sông Tam Giang tuy nhỏ nhưng độ dốc sông khá lớn 1,6% lượng nước hằng năm 0,13 tỷ m3. Do với vị trí của Phú Yên nằm ở sườn phía đông của dãy Trường Sơn, có đồng bằng trũng thấp liền kề núi cao, sông ngắn và dốc. Về mùa mưa lượng nước lớn thường ngập hầu hết các vùng dân cư. Ngược lại vào mùa nắng, đất khô cằn, khả năng giữ nước kép nên hầu hết lượng nước cạn kiệt.

Khách từ thị trấn Sông Cầu vào chừng 2km là tới chân đèo, hai bên dân cư đông đúc, phía tây đỉnh đèo là nghĩa trang liệt sĩ.

Đập Tam Giang chắn ngang qua sông Cái, phía hữu ngạn thuộc xã An Thạch, tả ngạn là thôn Bình Hoà, xã An Ninh và An Dân. Trước 1945, cứ mỗi mùa nước cạn, dân đến vùng núi phía thượng nguồn chặt cây về làm cừ đóng ngang sông và đến các triền núi quanh vùng đốn chà bổi đem về thả ngang sông rồi hốt đất cát đắp thành đập giữ nước đưa vào ruộng. Mùa lũ lụt, nước dâng cao chảy xiết, trôi cây cừ và chà bổi ra biển… Năm khác lại như thế và chính quyền địa phương xây dựng đập bằng xi măng dài khoảng tám trăm mét. Thuyền muốn qua đập phải chờ mùa nước lớn. Đập không quy mô đồ sộ như đập Đồng Cam, nhưng cũng đủ nước tười cho các cánh đồng trong vùng.

Dân vùng khác, không có đập nước nên không làm được thêm vụ, do đó mùa gặt rủ nhau đến nơi có hai vụ để gặt thuê lấy lúa công. Do đó nhiều chàng trai và nhiều cô gái thương yêu nhau thành vợ chông và bao cảnh chia ly sầu tủi được thể hiện vào lời ca tiếng hát.

 

Những làng nghề truyền thống ở Phú Yên

 

Phú Yên có truyền thống văn hóa hơn 400 năm từ khi khai hoang lập làng, các làng nghề sản xuất phục vụ đời sống nhân dân địa phương vì thế có lịch sử và giá trị vô cùng sâu sắc. Tính đến hiện nay vẫn còn rất nhiều làng nghề truyền thống hoạt động trên địa bàn tỉnh Phú Yên, thu hút nhiều du khách từ khắp nơi đến tìm hiểu, nghiên cứu. Xin giới thiệu các làng nghề truyền thống của Phú Yên  để mọi người cùng tìm hiểu.

 

1. Làng gốm Trường Thịnh

Làng gốm Trường Thịnh thuộc thôn 5, thị trấn Hòa Vinh, huyện Đông Hòa, Phú Yên có truyền thống sản xuất các đồ gốm dân dụng phục vụ nhu cầu của bà con địa phương và các vùng lân cận. Sản phẩm chủ yếu làm từ đất sét, được nung ở nhiệt độ cao nên có màu đỏ au, sáng sủa. Hiện nay làng gồm Trường Thịnh có khoảng 34 hộ sản xuất với hơn 100 lao động lành nghề. Mùa sản xuất gốm đạt năng suất cao nhất là từ tháng 2 đến tháng 8 hàng năm, là mùa nắng nhiều, dễ dàng phơi gốm, bền chắc, màu đẹp. Những tháng còn lại là mùa mưa, thời tiết không phù hợp cho các công đoạn của làm gốm.

lang-gom-phu-yen

Du khách tự tay tạo ra sản phẩm của mình. Ảnh: Sưu tầm

 

Các sản phẩm gốm nổi bật của làng gốm Trường Thịnh như: ấm đun nước, bộng giếng, lu đất, ống khói, chậu hoa,… Du khách tham quan làng nghề gốm Trường Thịnh có trải nghiệm tự tay làm một sản phẩm từ đất sét dưới sự hướng dẫn của nghệ nhân địa phương, sản phẩm là kỷ niệm đáng nhớ khi ghé thăm làng gốm Trường Thịnh.

2. Làng đan lát Vinh Ba

Cả đường làng ngõ hẻm của Vinh Ba trồng rất nhiều tre, nguồn nguyên liệu chính để làm ra các sản phẩm như bồ, thúng, nia, sàng, giỏ tre, vỉ bánh tráng,… Đó là điểm đặc trưng của làng đan lát Vinh Ba ở xã Hòa Đồng, huyện Tây Hòa, Phú Yên. Hầu hết mọi người trong làng đều làm việc từ đàn ông chẻ tre, chuốt sợi, đàn bà đan lát, thanh niên chặt tre, uốn nắn đến trẻ em tham gia sắp xếp các vật dụng trong tiếng cười nói hoan hỉ, quây quần bên nhau.

lang-dat-lat-vinh-ba

Đan lát thủ công bằng tay ở Vinh Ba. Ảnh: Sưu tầm

 

Hiện nay làng đan lát Vinh Ba có hơn 300 lao động đang giữ nghề. Nếu như trước kia chỉ sản xuất các vật dụng phục vụ nhu cầu của bà con địa phương thì bây giờ đã thêm nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ phục vụ sự kiện, du lịch như lẵng hoa, giỏ hoa, túi xách,…

 

3. Làng bánh tráng Hòa Đa

Làng nghề bánh tráng Hòa Đa ở xã An Mỹ, huyện Tuy An, Phú Yên, nằm cách Tuy Hòa khoảng 15 km về hướng bắc. Đây là một làng nghề nổi tiếng ở Phú Yên và khu vực miền Trung, với 300 hộ sản xuất. Bánh tráng sử dụng nguồn nguyên liệu chính là gạo Tuy Hòa, xay thành bột, trộn với mè và phơi khoảng một ngày là dùng được. Bánh tráng Hòa Đa dùng ngon nhất là cuốn thịt heo, cá ồ, bánh hỏi, xuất hiện nhiều trong hầu hết các bữa ăn của gia đình. 

lang-banh-trang-hoa-da

Thử thách tráng bánh tại làng Hòa Đa của du khách. Ảnh: VTV

 

Bánh tráng Hòa Đa còn sử dụng thêm các nguyên liệu khác như nước cốt dừa, hành củ, dừa nạo,… để tạo nên mùi vị đặc biệt. Những ai xa quê thường đem theo nhiều ràng bánh tráng để ăn. Chỉ cần nướng lên hoặc nhúng nước, cuốn với rau sống, cá nướng hoặc hấp, thịt heo là có cả một bữa ăn thịnh soạn, no nê. Vào những ngày lễ Tết, bánh tráng Hòa Đa trở thành món quà biếu ý nghĩa dành cho nhau, cùng vui xuân đón Tết sung túc, đong đầy.

 

4. Làng nước mắm Gành Đỏ

Vùng biển Gành Đỏ thuộc phường Xuân Đài, thị xã Sông Cầu vốn nổi tiếng bao đời nay bởi nghề sản xuất nước mắm truyền thống. Nguồn nguyên liệu chính là cá cơm dồi dào do lượng thủy sinh vật nhiều, cung cấp thức ăn cho cá nên cá cơm khi đánh bắt chất lượng. Có hơn 15 cơ sở sản xuất nước mắm và các thương hiệu nổi tiếng như Ông Già, Bà Mười, Tân Lập, Bà Bảy,…

 

Các công đoạn ủ nước mắm nguyên chất. Ảnh: Sưu tầm

 

Nước mắm Gành Đỏ có mùi vị đặc trưng riêng không lẫn vào đâu được. Cá cơm và muối Tuyết Diêm sản xuất ở Sông Cầu được đem ủ và cho ra các loại nước mắm ngon, từ loại mắm nhĩ đặc biệt đến loại 1, loại 2, giá từ 70 – 120.000 đồng/lít là ăn ngon rồi. Nước mắm thơm lừng, nghe mùi là thèm đồ ăn. Dọc con đường Quốc lộ 1A đoạn qua Gành Đỏ có nhiều cửa hàng bán nước mắm để du khách gần xa mua về làm quà. Du khách có thể tham quan các cơ sở làm nước mắm, tìm hiểu cách người dân làm ra loại nước chấm thơm ngon.

5. Làng rượu Quán Đế

Rượu Quán Đế là thương hiệu rượu nổi tiếng của tỉnh Phú Yên, được sản xuất tại làng rượu Bình Thạnh Nam, xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu. Gạo hạt nhỏ được chọn làm nguyên liệu chính, lên men và sử dụng nguồn nước tinh khiết của địa phương tạo nên loại rượu trắng thơm ngon từng giọt.

 

lang-ruou-quan-de

Làng rượu Quán Đế có thương hiệu uy tín. Ảnh: Thị xã Sông Cầu – Phú Yên

 

Có khoảng hơn 30 hộ sản xuất trong làng nghề rượu, sản phẩm được đóng chai, có thương hiệu được bày bán ở các cửa hàng đặc sản trong tỉnh. Những ai đi bắc vào nam thường mang theo trong mình một chai rượu để tiếp khách hoặc làm quà, trang trọng, đậm tình.

 

6. Làng chiếu cói Phú Tân

Nghề dệt chiếu cói ở Phú Tân, xã An Cư, huyện Tuy An có lịch sử hàng trăm năm với 249 hộ gia đình tương đương 600 lao động sản xuất. Sử dụng nguồn cói trồng từ cánh đồng 25ha ở địa phương, các sản phẩm chiếu dệt được bán phục vụ đời sống nhân dân địa phương và các tỉnh vùng Tây Nguyên. Tổng thu nhập bình quân hằng năm của làng nghề dệt chiếu là khoảng 5,3 tỉ đồng.

 

Làng dệt chiếu Phú Tân nhuộm màu cói. Ảnh: Sưu tầm

Cói được thu hoạch đem về phơi khô rồi nhuộm màu sau đó phơi lần nữa. Tiếp theo là công đoạn dệt chiếu với thủ công do 2 người dệt 1 tấm, khoảng 30 phút là xong 1 cái. Ngày nay nhiều gia đình trong làng nghề dệt chiếu Phú Tân đã mua các máy dệt chiếu hiện đại, tăng năng suất chiếu dệt ra, giảm sức người vất vả, tăng thu nhập kinh tế gia đình. Làng nghề Phú Tân là một trong những làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Phú Yên thu hút nhiều khách tham quan, trải nghiệm.

 

7. Làng thúng chai Phú Mỹ

Phú Yên sở hữu hơn 189 Km đường bờ biển, biển gắn liền với hoạt động mưu sinh của hầu hết bà con nhân dân. Trong đó nghề sản xuất phương tiện đi biển như làm thúng chai được cả làng Phú Mỹ, xã An Dân, huyện Tuy An gìn giữ và phát triển từ bao đời nay. Sản phẩm thúng chai làng Phú Mỹ có đường kính từ 2 – 2,5 m, được làm tinh xảo và chắc chắn, đảm bảo an toàn cho những chuyến đi trên biển.

 

lang-thung-chai-phu-my

Du khách tham quan làng thúng chai Phú Mỹ. Ảnh: Thời Báo Việt Nam

 

Làng nghề thúng chai Phú Mỹ có 40 hộ đan thúng với hơn 120 lao động, thu nhập bình quân từ 3,5 – 4, 5 triệu đồng/tháng. Để có 1 chiếc thuyền thúng chai phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất và có nhiều người phụ trách mảng khác nhau như: thợ vót nan, thợ lận, thợ nức vành, thợ trét dầu, thợ gia công phân bò, …. Những chiếc thúng chai Phú Mỹ không chỉ phục vụ nhu cầu đi lại của ngư dân trong nước mà đã xuất khẩu ra nước ngoài hàng trăm chiếc mỗi năm, đem lại nguồn thu nhập ổn định cho làng nghề. Đến với làng Phú Mỹ du khách sẽ được theo dõi quá trình làm ra 1 chiếc thúng chai hoàn hảo, được nghe thuyết minh chính xác về các công động sản xuất, cũng như lợi ích của chiếc thúng chai đối với cuộc sống bao đời nay.

 

8. Làng chổi đót Mỹ Thành

Làng nghề làm chổi đót Mỹ Thành, xã Hòa Thắng, huyện Phú Hòa có khoảng 1.000 lao động địa phương. Để có một sản phẩm hoàn chỉnh người làm chối đót phải trải qua 6 công đoạn: tướt đót, lăn con, bó cổ, bó cán, bện và gom thành phẩm. Trong đó công đoạn bó cổ, bó cán là khó nhất, đòi hỏi phải làm thật tỉ mỉ để ra sản phẩm tròn, đều và đẹp, quyết định chất lượng sản phẩm.

lang-choi-dot-phu-yen

Làng làm chổi đót Mỹ Thành cung cấp chổi lớn cho thị trường. Ảnh: Vietnamnet

 

Chổi đót là vật dụng không thể thiếu của mỗi gia đình, vì vậy nghề làm chổi đót cho đầu ra rất tốt, thu nhập bình quân mỗi tháng 3 – 5 triệu đồng. Cả làng nghề chổi đót Mỹ Thành sản xuất trung bình 100.000 cây chổi đót/tháng, giá bán ở thị trường 15.000 – 25.000 đồng/cây tùy vào độ dày mỏng khác nhau. Tham quan làng nghề truyền thống Mỹ Thành, du khách tự tay làm ra một sản phẩm và sử dụng thực tế để cảm nhận được sự khéo léo của người nghệ nhân làng nghề.

 

9. Phường Lụa – Ngân Sơn

Lãnh Phường Lụa

Sắn Ngân Sơn

Nếp Vườn Trầu

Cau chợ Đèo

 

Nhất gái La Hai

Nhì trai Phường Lụa

Tiến đồn ở phủ Tuy Hoà

Có cây sắn nước ở làng Ngân Sơn

Củ tròn cây nhỏ lá đơn

Ăn ngon chất sống lại thông dụng nhiều

Phường Lụa là vùng đất thuộc thôn Ngân Sơn, xã An Thạch hiện nay là thị trấn Chí Thạnh. Nghề dệt lụa có từ miền Bắc, cư dân các tỉnh Thanh, Nghệ, Bình, Trị vào lập nghiệp sinh sống, họ sản xuất để dùng, sản phẩm làm ra vừa bền vừa đẹp nên mọi giới ưa chuộng, do đó nghề dệt lụa ngày càng trở nên phát đạt.

     Nghề đệt lụa đòi hỏi sự khéo léo và sự kiên nhẫn rất nhiều. trải qua một thời gian khá dài trong lịch sử mở nước, tỉnh Phú Yến cũng chỉ có 2 địa phương làm nghề này

     Muốn dệt lụa trước hết phải có tơ, tơ do tằm nhả ra thành kén, muốn có kén thì phải trồng dâu để nuôi tằm. Phường Lụa ở trên bờ sông Cái, những soi đất do phù sa bồi lên thích hợp cho việc trồng dâu.

Khi tằm cho kén, người ta bỏ kén vào thùng ươm, lấy từng sợi tơ của mỗi cái kén, xa quay vấn vào trục, nhiều trục kéo thành những sợi canh cho khổ lụa. Cánh đưa tơ vào go trên khung dệt va cách dệt rất phức tạp, công phu hơn dệt vải nhiều. Khung dệt có 2 tầng, tầng dưới dành cho người thợ ngồi dệt, tầng trên cho người thợ ngồi kéo các sợi chỉ  canh theo bông hoa, giống vật tứ linh hoặc các chữ Phước Thọ… khi người thợ dệt, dệt xong một canh theo bông hoa, theo giống vật tứ linh hoặc các chữ Phước, Thọ… Các hình theo kiểu mẫu hiện lên trên nền lụa sinh động như thật, màu sắc tươi thắm, hài hoà, rõ nét.

Khi sợi canh được căng, người ta quét hồ rồi đưa lên khu dệt vào go. Dệt lụa lãnh dùng đến 5 chân guốc đạp 1 thoi, dệt gấm áo rộng dùng đến 8 chân guốc đạp, 4 thoi, 4 màu. Dệt lãnh các thứ mỗi ngày chỉ dệt chiều dài hơn một mét, dệt gấm áo rộng mỗi ngày dệt được chừng 0,8 mét.

Vua Bảo Đại và Hoàng Hậu mặc gấm dệt ở Phường Lụa, nhà vua lệnh truyền xuất kho đóng cho ông Xuân một khung dệt, đồng thời ban tặng tấm biển “Hoàng hậu ân tứ” treo trước khung dệt. Khung dệt này chỉ dùng dệt gấm cho nhà vua, không được dùng dệt gấm cho khách hàng.

Nhà vua còn phong cho ông Xuân tước cửu phẩm và một huy chương vàng. Huy chương của ông để lại cho con ông là ông Tôn. Vào năm 1947, kinh tế gia đình sa sút, ông đành đem bảo vật của thân phụ bán lấy tiền tiêu, giá trị bằng 5 chỉ vàng y.

Qua những năm đất nước chiến tranh, việc trồng dâu nuôi tằm khó khăn. Hơn nữa, hàng ngoại nhập bắt đầu đè bẹp hàng tiểu thủ công nghiệp. Lãnh lụa dệt ra bán không bù vào số công. Con cháu cũng không thừa kế tổ nghiệp, bao nhiêu dụng cụ đều hư nát hoặc thiêu huỷ. Những di vật ấy không còn tồn tại.

Ngân Sơn còn thổ sản vừa nhiều, vừa ngon, lại vừa thông dụng là củ sắn nước. Sắn nước củ tròn bằng cái chén, cái tô, thân cây nhỏ chỉ bẳng chiếc đũa, cao độ 0,5 mét. Nếu để thân cây lâu ngày, từ đọt thân cây nức dài leo quấn lên chái, ra trái cho hột. Chính những hột này người ta phơi khô để dành làm giống ươm trồng vụ sau. Đất trồng sắn thường là ven triền núi. Những đám thổ cho đến cuối tháng 6 đầu tháng 7 âm lịch khi mà những cơn  mưa đầu mùa ướt đất. Người ta đánh luống, vu rò gieo hạt, mỗi hạt cách nhau 0,2 đến 0,3 mét tuỳ đất tốt xấu, bởi sắn nước mỗi hạt chỉ lên một cây cho một củ.

Nhiều nơi trồng sắn nước trong huyện, trong tỉnh, nhưng vỏ dày ít nước nhiều xơ kém chất ngọt hơn sắn nước Ngân Sơn. Hằng năm tháng 11âm lịch dân thu hoạch và bán khắp nơi.

 

Phú Yên: Độc đáo nghệ thuật đàn đá thu hút khách du lịch

Hiện nay, tại điểm du lịch Gành Đá Đĩa, Tháp Nhạn, khách du lịch không chỉ chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên, công trình kiến trúc cổ mà còn được thưởng thức tiếng đàn đá du dương ngọt ngào, khiến du khách ấn tượng thích thú. Đây là một sản phẩm du lịch mới của tỉnh Phú Yên để thu hút khách du lịch đến với vùng đất này.

Phú Yên: Độc đáo nghệ thuật đàn đá thu hút khách du lịch

Biển diễn nghệ thuật đàn đá gây ấn tượng đối với du khách.

 

Tại Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa, ngoài ấn tượng vẻ đẹp của thiên nhiên ban tặng, du khách bất ngờ thích thú với màn trình diễn nghệ thuật đàn đá tại không gian văn hóa Hồn Xưa của anh Nguyễn Minh Nghiệp (SN 1978), trú tại thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.

Chia sẻ với chúng tôi, anh Nguyễn Minh Nghiệp tâm sự: Xuất phát từ niềm đam mê với những viên đá vô tri vô giác nhưng lại có thể tạo ra được những âm thanh ngân vang, từ năm 2013, tôi dày công tìm kiếm, sưu tầm tại các vùng núi cao huyện Tuy An để tạo nên các bộ đàn đá với đầy đủ các nốt nhạc. Các bộ đá tìm kiếm sau khi đem về nhà, tôi chế tác thêm để các viên đá tạo nên những âm thanh trong trẻo nhất. Đầu năm 2017, tôi hình thành ý tưởng đưa bộ đàn đá vào các điểm du lịch nổi tiếng của Phú Yên để du khách trải nghiệm. Sau đó, tiếp tục đào tạo, hướng dẫn cho các bạn trẻ có thể sử dụng thành thạo và biểu diễn đàn đá phục vụ du khách.

 

Phú Yên: Độc đáo nghệ thuật đàn đá thu hút khách du lịch

Những viên đá vô tri vô giác nhưng lại tạo ra âm thanh ngân vang

 

Hiện nay, tại không gian văn hóa Hồn Xưa nằm trong Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa, các bạn trẻ không chỉ biểu diễn theo giai điệu của những bài hát “Cô gái vót chông”, “Tiếng đàn Ta lư”, “Sông Đăkrông mùa xuân về” mà còn phối hợp với ban nhạc hiện đại để tạo nên những bản hòa tấu hấp dẫn, ấn tượng, tạo thêm nhiều cung bậc cảm xúc cho du khách.

Đến tham quan Gành Đá Đĩa, chị Lê Thị Hải Yến (du khách tỉnh Bình Định) vui vẻ cho biết: Gia đình tôi vô cùng ấn tượng với màn trình diễn đàn đá của các bạn trẻ nơi đây. Mỗi một viên đá tại vùng đất Phú Yên có thể ngân lên những nốt nhạc trầm bổng. Theo tôi, đàn đá cần được đưa vào biểu diễn tại các điểm di tích, du lịch nhiều hơn, bởi sẽ làm cho du khách thêm nhiều ấn tượng và cảm xúc về bộ đàn đá độc đáo này.

Ngoài Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa, bộ nhạc đàn đá còn được biểu diễn tại Di tích quốc gia đặc biệt Tháp Nhạn ở thành phố Tuy Hòa. Những âm thanh trong trẻo, du dương ngân lên trong không gian trầm mặc, cổ kính của tháp Chăm làm cho những trải nghiệm của du khách thêm sâu lắng, mới mẻ với niềm say mê thích thú. Giai điệu của đàn đá xoay quanh các bài hát về vùng đất Phú Yên và các bài hát trong bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” giúp du khách hiểu thêm những giá trị đặc sắc riêng biệt của vùng đất Phú Yên.

 

Phú Yên: Độc đáo nghệ thuật đàn đá thu hút khách du lịch

Du khách thích thú khi thưởng thức tiếng nhạc du dương từ bộ đàn đá Tuy An.

 

Nói về bộ đàn đá đang thu hút khách du lịch, bà Nguyễn Thị Hồng Thái - Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên cho biết: Khoảng năm 1990 – 1991, khi đang canh tác, một người dân ở huyện Tuy An phát hiện bộ đàn đá cổ tại núi Một, thuộc thôn Trung Lương, xã An Nghiệp. Đến năm 1992, người dân đã trao bộ đàn đá cổ cho Bảo tàng tỉnh Phú Yên. Sau đó, các nhà khảo cổ học xác định, bộ đàn đá kể trên có niên đại khoảng thế kỷ V trước công nguyên. Đồng thời, Sở chỉ đạo cho Bảo tàng tỉnh Phú Yên lập hồ sơ trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận bộ đàn đá cổ này là bảo vật quốc gia. Tuy nhiên, do thiếu tiêu chí về việc chứng minh chủ thể của bộ đàn đá nên chưa được công nhận.

Bà Nguyễn Thị Hồng Thái chia sẻ: Đàn đá Tuy An là một bộ phận quan trọng trong bộ sưu tập đàn đá của Việt Nam. Đặc biệt, đàn đá Tuy An có tính vượt trội so với các đàn đá khác, bởi đàn đá Tuy An còn đủ bộ nguyên vẹn và có thang âm hoàn chỉnh nhất từ khi công bố cho đến thời điểm hiện nay.

Thực tế đã chứng minh bộ đàn đá Tuy An có khả năng diễn tấu một số bài dân ca, dân nhạc của một vài tộc người cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, nó còn có thể phối hợp với các nhạc cụ khác trình diễn những ca khúc hiện đại. Hiện nay, nghệ thuật đàn đá được đưa vào biểu diễn tại các điểm di tích, du lịch trên địa bàn tỉnh không chỉ thu hút du khách mà còn phát huy giá trị của đàn đá Tuy An nói riêng, tỉnh Phú Yên nói chung.

 

Khám phá Hội Bài Chòi Phú Yên - Trò chơi dân gian đậm chất văn hóa Việt

Hội Bài Chòi Phú Yên là một nét văn hóa độc đáo tại mảnh đất hoa vàng cỏ xanh. Loại hình văn hóa nghệ thuật biểu diễn này được người dân lao động Phú Yên vô cùng yêu thích bởi tính hài hước, vui nhộn và ý nghĩa của nó. Cùng khám phá và tìm hiểu về về lễ hội này nhé!

Bài Chòi là gì?

Bài Chòi là một trò chơi dân gian lâu đời và là một sản phẩm văn hóa độc đáo của vùng đất Nam Trung Bộ. Đây vừa là loại hình nghệ thuật diễn xướng mang tính sáng tạo ngẫu hứng vừa là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với nhân dân lao động. Trò chơi dân gian vui nhộn, đầy trí tuệ này được ra đời từ nhu cầu liên lạc giữa các chòi canh trên nương rẫy, ở vùng trung du rồi lan rộng đến các vùng nông thôn và vùng biển.

Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, để chống lại thú dữ hay phá hoại mùa màng và cuộc sống của người dân. Người dân trong làng đã dựng những chiếc chòi rất cao ở trong rừng,  và cử trai tráng khoẻ mạnh lên canh giữ, khi thấy thú dữ tới  gần thì hô hò để đuổi chúng đi xa, khi ấy để tránh buồn chán thì các chòi lại hò ca giao lưu với nhau, từ ấy hát Bài Chòi ra đời…

Lễ hội Bài Chòi thường được tổ chức thường diễn ra ở sân đình làng hoặc những khoảng đất rộng và bằng phẳng. Hình thức chơi bài không mang tính sát phạt, ăn thua như ở sòng bài mà chỉ để giải trí và đối đáp vui xuân. Để chơi Bài Chòi người ta thường dựng 9 đến 11 chòi bằng tre, nứa, lợp tranh như những cái chòi canh rẫy, xếp theo hình chữ U.

 

Khám phá Hội Bài Chòi Phú Yên - Trò chơi dân gian đậm chất văn hóa Việt 2

Hội Bài Chòi Phú Yên luôn được tổ chức và hoạt động sôi nổi đầu mỗi năm

 

Lễ Hội Bài Chòi Phú Yên

Lễ Hội Bài Chòi Phú Yên là nét văn hóa độc đáo mà cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về thì lại được diễn ra vô cùng độc đáo. Hội bài chòi được tổ chức trong không khí vui tươi, rộn rã. Người đánh bài chòi đầu xuân vừa để vui chơi, giải trí cùng gia đình, bạn bè vừa để cầu may mắn, rước lộc đầu năm.

Tập tục đánh bài chòi vào ngày Tết đã là một hoạt động văn hóa cộng đồng đầy giá trị. Thông qua trò chơi này, bạn sẽ được lắng nghe những câu hát đầy ý nghĩa về quê hương, đất nước. Trong cuộc chơi, mọi người đều bình đẳng như nhau, không phân biệt giàu nghèo, trên dưới, ai ai cũng có thể tham gia.

Lời hát Bài Chòi

Lời hát bài chòi được lưu truyền trong dân gian từ đời này qua đời khác. Những câu hát vừa phản ánh tư duy, thẩm mỹ bình dân của cư dân nông nghiệp Trung bộ. Người chơi bài chòi không chỉ để giải trí mà còn để nghe lối hô hát bài chòi, đậm chất Anh Hiệu, chị Hiệu. Nhiều du khách đến Hội Bài Chòi Phú Yên chỉ vì mê giọng hát, tài ứng biến dí dỏm của Anh Hiệu.

Khám phá Hội Bài Chòi Phú Yên - Trò chơi dân gian đậm chất văn hóa Việt 3

Những người biểu diễn chuyên nghiệp chỉ cần cất tiếng hát thôi là đã khiến bao trái tim xao xuyến

 

Cách chơi Bài Chòi Phú Yên

Hội Bài Chòi Phú Yên mang một nét riêng mà không phải ở hội đánh bài chòi nào cũng có bởi vì thế mà bạn đừng bỏ lỡ lễ hội này trong hành trình khám phá Phú Yên của mình. Những người mua thẻ và được ngồi trên các chòi, một số người khác cũng mua thẻ nhưng họ sẽ ngồi dưới đất để tham gia đánh. Nếu bạn tham gia vào lễ hội bài chòi ở ở làng Long Thủy, xã An Chấn, huyện Tuy An thì có thể bạn sẽ bắt gặp cảnh Anh Hiệu và một chân bài nào đó trên chòi đối đáp với nhau. Đặc biệt hơn nữa là việc dâng tiền thưởng, Anh Hiệu không dâng tiền một cách đơn điệu mà còn biểu diễn một vài làn điệu cổ như hò quảng, xàng xê hay xuân nữa để gửi những lời chúc mua may bán đắt, an khang thịnh vượng đến người trúng thưởng.

Sinh hoạt bài chòi vốn đã trở thành một loại hình văn hóa đặc thù của người dân Phú Yên với nhu cầu giải trí sau một năm tất bật với mùa màng. Đánh bài chòi không phải để tính đỏ đen, hơn thua mà là vì món phần thưởng tinh thần của trò chơi này mang lại. Đó là những tiếng cười khoái chí, thỏa thích và là cơ hội để bạn có thể thử vận may đầu năm. Bởi vì vậy mà trong quá trình chơi thì Anh Hiệu thường hô hào, lồng ghép những câu thai có nội dung dí dỏm, mỉa mai… Trong Hội Bài Chòi Phú Yên, ngoài tính chất giải trí, các câu thai còn có tác dụng giáo dục con người về đạo đức, nhân cách sống, tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu lứa đôi…

Khám phá Hội Bài Chòi Phú Yên - Trò chơi dân gian đậm chất văn hóa Việt 4

Nếu bạn chưa biết chơi thì cứ yên tâm đến đây vì luật chơi luôn được phổ biến trước khi bắt đầu

 

Lịch sử phát triển của Hội Bài Chòi Phú Yên

Qua nghiên cứu lịch sử, bài chòi trải qua 3 giai đoạn phát triển:

Giai đoạn 1

Bài chòi chỉ có một người hô và người ngồi nghe. Trong suốt trò chơi chỉ có một mình Anh Hiệu vừa làm động hát vừa hô hào để làm cho trò chơi hấp dẫn hơn. Chơi càng lâu thì những câu hét càng dài và động tác cũng sẽ phong phú hơn. Người chơi và người xem từng câu hát và đợi đến lúc ứng với tên con bài. Khi có tiếng mõ vang lên ở chòi nào thì Anh Hiệu sẽ mang khay tiền đến thưởng cho người chơi ở chòi đó.

 

Khám phá Hội Bài Chòi Phú Yên - Trò chơi dân gian đậm chất văn hóa Việt 5

Không chỉ nhân dân lao động mà ngay cả những bạn trẻ cũng ưa thích trò chơi này

 

Giai đoạn 2

Nếu như trước kia, trong một câu thai chỉ cần một người đối thoại, chỉ cần một người hô hoặc một người có thể đóng từ 2 - 3 vai thì nay cần hai, ba người cùng diễn và hô theo. Nhờ đó mà dáng dấp ca kịch bài chòi đã xuất hiện, tuy nhiên hình thức này khiến cho tính mâu thuẫn trong mỗi câu ca dao chưa cao, chưa rõ nét.

Khám phá Hội Bài Chòi Phú Yên - Trò chơi dân gian đậm chất văn hóa Việt 6

Dù gì hay trẻ vẫn được tham gia vào Hội Bài Chòi Phú Yên

Giai đoạn 3

Sân khấu ca kịch bài chòi hiện đại. Bài chòi lúc này không còn là bài chòi ở sân đình, làng, chợ mà nó đã phát triển lên sân khấu với ánh đèn, nhiều đào, kép sặc sỡ xiêm y với những điệu hát khách, hát nam gần như hát Bội. Nhìn chung tiến triển của Hội Bài Chòi Phú Yên vẫn tuân theo lộ trình phát triển bài chòi Nam Trung Bộ. Tuy nhiên sự pha tạp này đôi khi đã đánh mất phần nào bản sắc của văn hóa bài chòi nhưng theo một số nhà nghiên cứu thì đây lại là sự dung nạp tự nhiên trong quá trình hội nhập và phát triển.

Ngày nay,  Anh Hiệu có vai trò rất quan trọng trong cuộc chơi, thường là người có tài ứng đối “xuất khẩu thành thơ”, chất giọng khỏe, có tài diễn xuất, biết đặt câu thai sao cho phù hợp với lá bài một cách thật nhanh, mang ý nghĩa ẩn dụ kín đáo, dí dỏm. Có thể nói, Anh Hiệu cùng lúc làm ba công việc: biên soạn, đạo diễn và diễn viên. Và, không phải bất cứ ai cũng có thể đóng vai Anh Hiệu để được khán giả chấp nhận trong hội đánh Bài Chòi. Ngoài ra, bộ bài hiện đại gồm 27 hoặc 33 thẻ bài tỳ và 9 đến 11 thẻ bài con đều được làm bằng tre, có vẽ hoặc dán hình mang ý nghĩa tượng trưng với mỗi câu thai và có tên gọi nôm na là: Nhứt Nọc, Nhì Nghèo… Bộ bài được chia làm 3 pho: pho văn, pho vạn và pho sách.

Mỗi con bài có một tên, trừ một số ít tên nôm na, dễ hiểu như Học trò, Dái voi, Bạch huê, Thái tử... còn phần lớn nghe rất lạ tai như Ba gà, Bát bồng, Ngũ trưa, Nọc thược, Tứ cẳng, Tam quăng... Tên mỗi con bài đều có hai từ, phần lớn các từ đầu là từ chỉ số đếm, có khi là thuần Việt như Ba (gà), Bảy (liễu), Chín (gối), có khi là từ Hán Việt như Tam (quăng), Tứ (cẳng), Lục (chạng)...

Với những giá trị văn hóa tiêu biểu Hội Bài Chòi Phú Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa quyết định đưa vào làm Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2014.

Hội Bài Chòi Phú Yên ngày nay còn lưu lại rất nhiều câu ca dao và đóng góp không nhỏ trong kho tàng văn chương trình dân của nước ta. Chỉ tiếc rằng lễ hội này đang ngày một mai một dần.

 

Nguồn: https://mia.vn/cam-nang-du-lich/kham-pha-hoi-bai-choi-phu-yen-tro-choi-dan-gian-dam-chat-van-hoa-viet-1938.

 

Lễ hội đua ngựa Gò Thì Thùng - Nét văn hóa đặc sắc của Phú Yên

Nếu bạn yêu thích văn hóa Việt thì hội đua ngựa Gò Thì Thùng là một lễ hội mà bạn không thể bỏ qua. Đây là nét văn hóa đặc trưng đậm chất vùng miền, thu hút đông đảo du khách từ mọi miền tổ quốc đổ về Phú Yên.

 

Gò Thì Thùng nằm ở đâu?

Gò Thị Thùng là vừa là điểm tham quan Phú Yên vừa là một di tích lịch sử cấp Quốc gia nằm cách trung tâm thành phố Tuy Hòa về phía Tây Bắc khoảng 40km.Nơi đây nổi tiếng với địa hình bằng phẳng và thường xuyên tổ chức các cuộc đua ngựa. Mặc dù là địa điểm đua ngựa nhưng thực chất Gò Thị Thùng chỉ là một sân vận động với độ cao 400m so với mặt nước biển. 

 

Lễ hội đua ngựa Gò Thì Thùng - Nét văn hóa đặc sắc của Phú Yên 2

Hội đua ngựa Gò Thì Thùng luôn thu hút đông đảo du khách đến xem và chiêm ngưỡng

Đôi nét về hội đua ngựa Gò Thì Thùng

Không biết lễ hội đua ngựa được bắt đầu từ bao lâu nhưng hằng năm cứ thành thông lệ, người dân và du khách các nơi lại kéo về nơi đây. Để xem lễ hội đua ngựa được tranh tài tại đây. Tạo nên ngày lễ hội vô cùng sôi động và náo nhiệt.

Cứ vào mùng 9 tháng Giêng hằng năm thì người dân lại đổ về di tích lịch sử Gò Thì Thùng để xem đua ngựa truyền thống. Hội đua ngựa Gò Thì Thùng là hoạt động văn hóa đặc sắc của tỉnh Phú Yên, trên thực tế thì lễ hội này đã trở thành một điểm hẹn văn hóa bởi nét chân chất, mộc mạc nhưng không kém phần duyên dáng. Nét duyên dáng của hội đua ngựa Gò Thì Thùng nằm ở tính thiếu chuyên nghiệp cùng những màn đua khó đỡ khi ngựa một nơi, người một nơi và nhiều tình huống bất ngờ khác trên đường đua.

Với người dân Phú Yên, ngày hội đua ngựa truyền thống huyện Tuy An tại Gò Thì Thùng không chỉ mang ý nghĩa nêu cao tinh thần thượng võ mà còn là một nét văn hóa độc đáo và đặc sắc của vùng đất Phú Yên.

 

Lễ hội đua ngựa Gò Thì Thùng - Nét văn hóa đặc sắc của Phú Yên 3

Tuy là hội nhỏ nhưng Hội đua ngựa Gò Thì Thùng thực sự có đầu tư về trang phục cũng như thiết bị bảo hộ cho người chơi

 

Sức hút của hội đua ngựa Gò Thì Thùng

Từ một hội đua nhỏ với phần thắng chỉ là vài xị rượu đế vui vẻ trong ngày tết thì giờ đây hội đua ngựa đã được nâng cấp lên thành lễ hội truyền thống cấp huyện và thu hút đông đảo du khách ghé về Phú Yên để xem hội.

Trước khi hội đua ngựa Gò Thì Thùng bắt đầu thì đã có khoảng hơn 10.000 người từ các nơi khác cũng như người dân địa phương đổ về di tích này để hòa mình vào không khí vui tươi của lễ hội. Hàng nghìn khán giả chen chân nhau lắp kín trường đua ngựa. Những cây gỗ to cao cũng trở thành nơi mà nhiều người đeo đám chen chút để có thể xem được cuộc đua ngựa. Dù không chuyên nghiệp nhưng lễ hội đua ngựa Gò Thì Thùng thực sự đã trở thành lễ hội thu hút du khách.

 

Lễ hội đua ngựa Gò Thì Thùng - Nét văn hóa đặc sắc của Phú Yên 4

Các đội thi sẽ mặc màu áo khác nhau qua các vòng thi khác nhau

 

Hội đua ngựa Gò Thì Thùng được tổ chức như thế nào?

Để bắt đầu buổi lễ thú vị này thì 32 chú ngựa đua từ các huyện trong tỉnh Phú Yên phải được chia làm 8 bảng và đường đua với những màng phi nước đại. Hơn tám giờ sáng thì Chủ tịch UBND huyện Tuy An sẽ tiến hành khai trống thông báo bắt đầu lễ hội, đoàn ngựa diễu hành đi quanh sân để chào những khán giả với số lượng lên đến hàng ngàn người. Các kị sĩ chuẩn bị cho cuộc đua, từ những thanh niên, thiếu niên 14 tuổi đến những bậc lão thành 60 tuổi đều góp mặt.

Thêm một điều thú vị nữa là những chú ngựa tham gia đua chủ yếu là ngựa cái… Ngày ngày nhọc nhằn kéo xe, kéo hàng đã có một ngày trở thành tuấn mã trong mắt khán giả xem hội. Những người nông dân ngồi trên lưng ngựa bỗng trở thành kỵ sĩ trong tiếng reo ca của người xem. Nhiều du khách không khỏi bày tỏ sự hào hứng, vui tươi khi hòa mình vào lễ hội với những tiếng reo ca vui nhộn. Đó không chỉ niềm tự hào của người dân An Xuân mà còn của tỉnh bởi ngày hội đang ngày càng lớn và trở thành một sản phẩm văn hoá, du lịch của địa phương.

 

Lễ hội đua ngựa Gò Thì Thùng - Nét văn hóa đặc sắc của Phú Yên 5

Có lúc người cưỡi phải bám theo ngực vì chúng chạy liên tục không chịu dừng

 

Lễ hội đua ngựa Gò Thì Thùng - Nét văn hóa đặc sắc của Phú Yên 6

Người đạt giải nhất sẽ được mọi người tung hô và reo tên

 

Lễ hội đua ngựa Gò Thì Thùng là hoạt động văn hóa đặc sắc của tỉnh Phú Yên. Lễ hội này đã trở thành truyền thống vào mỗi dịp xuân về và Phú Yên cũng là địa phương duy nhất còn tổ chức hội đua này. 

 

 

NHÂN VẬT ĐƯỢC PHONG THẦN QUA DI SẢN HÁN NÔM Ở PHÚ YÊN

 

Tóm tắt: Phú Yên hiện có 16 sắc phong thần cho năm nhân vật lịch sử, gồm Lương Văn Chánh, Chu Văn Tiếp, Mạnh Tuyển, Lê Trung Lập, Lê Văn Hiến. Việc sưu tầm, phiên dịch và giới thiệu các đạo sắc phong nhân thần này đã góp phần truyền tải đến hậu thế những thông tin xác thực. Góp phần tìm hiểu về tên tuổi, công lao đóng góp của các nhân vật lịch sử đối với quê hương đất nước. Đây thực sự là nguồn tư liệu quý hiểm để bổ sung, hiệu chỉnh thông tin lịch sử và cũng là nguồn tư liệu để nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân gian của nước ta. Từ khóa: sắc phong, nhân thần, Phú Yên, di sản Hán Nôm, thần hoàng 1. Các nhân vật lịch sử được triều Nguyễn ban sắc phong phúc thần là những người có công trạng to lớn đối với đất nước, làng xã (bổn thổ Thành hoàng, bổn xứ Thành hoàng, Đông Chinh Thành hoàng, Tiền hiền, Khai canh, Khai khẩn...), đã linh ứng rõ rệt từ lâu, được dân làng sùng tín phụng thờ. Nhiều trường hợp đã được đưa vào tự điển (điển chế thờ tự của quốc gia). Phú Yên là một tỉnh nằm vùng duyên hải Nam Trung bộ. Trong lịch sử hình thành và phát triển từ năm 1611 đến nay, các tầng lớp nhân dân Phú Yên đã có những đóng góp quan trọng vào tiến trình của lịch sử dân tộc. Nhiều nhân vật ở Phú Yên đã có những cống hiến nhất định trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội - chính trị cho Phú Yên và cho các vùng miền khác của đất nước. Công trạng của họ đã được các triều đại phong kiến ghi nhận trong sử sách, trong các bản sắc phong. Vì vậy, việc sưu tầm, phiên dịch và giới thiệu các sắc phong nhân thần Phú Yên không chỉ giúp nắm được những thông tin xác thực về quê quán, sự nghiệp của họ mà còn là nguồn tư liệu quý hiếm để bổ sung, hiệu chỉnh thông tin lịch sử. Ngoài ra, đây còn là nguồn tư liệu để nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân gian ở nước ta. 2. Phú Yên có số lượng các nhân vật được ban sắc phong thần không nhiều, tập trung vào các đối tượng là những người có công mở mang vùng đất, có công lao lớn đối với đất nước, hoặc trong công cuộc khai canh, khai cơ ngay tại chính quê hương. Hiện chúng tôi sưu tầm được 16 sắc phong phúc thần cho năm nhân vật lịch sử được phong nhân thần ở Phú Yên, cụ thể: Lương Văn Chánh (12 sắc), Chu Văn Tiếp (1 sắc), Mạnh Tuyển (1 sắc), Lê Trung Lập (1 sắc), Lê Văn Hiến (1 sắc). Nội dung cơ bản của các đạo sắc là phong tặng các thần hiệu, mỹ tự và cấp bậc xếp hạng phù hợp (thượng đẳng thần, hạ đẳng thần) tùy theo vị thế và công trạng của thần đối với làng xã. 2.1.Lương Văn Chánh, một võ quan của chúa Nguyễn thời Lê Trung Hưng, là người có công với sự nghiệp chiêu tập lưu dân khai khẩn, mở mang và phát triển vùng đất Phú Yên. Ông sinh khoảng thập niên 40 của thế kỉ thứ XVI. Theo sử liệu triều Nguyễn, ông là người huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, nguyên quán xã Phụng (/Phượng) Lịch, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Lúc trước, Lương Văn Chánh làm quan nhà Hậu Lê, trải đến chức Thiên Võ vệ đô chỉ huy sứ. Đầu năm Mậu Ngọ (1558), ông theo tướng Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa

 

Đến năm Mậu Dần (1578), quân Chiêm Thành kéo đến đánh phá, ông đem quân tiến đến sông Đà Diễn (tức sông Đà Rằng) đánh chiếm thành Hồ của họ. Nhờ chiến công đó, ông được thăng Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân. Sau đó ông được giao trông coi huyện Tuy Viễn, trấn An Biên (nay thuộc tỉnh Bình Định). Năm 1593, Lương Văn Chánh 2 theo Nguyễn Hoàng ra Bắc và cùng lập được nhiều chiến công ở Sơn Nam và Hải Dương trong hai năm 1593 và 1594 và được vua Lê Thế Tông niên hiệu Quang Hưng năm thứ nhất (1578) tấn phong làm Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân cai quản 4 vệ Thần Vũ, tước Phù Nghĩa hầu. Đến năm 1597, Lương Văn Chánh đang là Tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên, nhận sắc lệnh của chúa Nguyễn Hoàng đưa chừng 4.000 lưu dân vào khai khẩn vùng đất phía Nam của Đại Việt từ đèo Cù Mông đến đèo Cả (địa bàn tỉnh Phú Yên ngày nay). Ông cùng lưu dân từng bước khẩn hoang, lập ấp; từng bước tạo nên những Trị. Nội dung của đạo sắc phong thần (năm 1886) cho Lương Văn Chánh như sau: Phiên âm: Sắc Tráng du Cộng võ Linh ứng Hiển hựu Chiêu uy Trác vĩ Trấn Biên Dinh Tham Tướng Lương Phủ Quân Thượng đẳng thần, hướng lai hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp tặng sắc lưu tự. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần. Nhưng chuẩn hứa Phú Yên tỉnh, Tuy Hòa huyện, Phụng Tường xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai! Đồng Khánh nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho Tráng du Cộng võ Linh ứng Hiển hựu Chiêu uy Trác vĩ Trấn Biên Dinh Tham Tướng Lương Phủ Quân Thượng đẳng thần, từ trước đến nay bảo vệ cho nước che chở cho dân, linh ứng lâu năm, đã được ban cấp tặng sắc để thờ. Nay Trẫm cả vâng mệnh lớn, nghĩ đến ơn đức của thần, tặng thêm mỹ tự là Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần. Vẫn chuẩn cho xã Phụng Tường, huyện Tuy Hòa phụng thờ. Thần hãy che chở trợ giúp dân ta. 3 Kính thay! Ngày 1 tháng 7 năm Đồng Khánh thứ 3(1886) 2.2. Chu Văn Tiếp, nguyên quán huyện Phù Ly, Phủ Hoài Nhơn (nay là Phù Mỹ, tỉnh Bình Định), cư ngụ ở Vân Hòa, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Gia đình ông chuyên nghề buôn bán (chủ yếu là buôn ngựa), nên ông đi nhiều nơi. Nhờ vậy, ông quen biết khá nhiều người mà sau này đều trở thành vương tướng của nhà Tây Sơn như Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Võ Đình Tú… Lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc cùng hai em là Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cất binh khởi nghĩa. Biết tài Châu Văn Tiếp, Nguyễn Nhạc có cho người đến mời tham gia, nhưng ông khéo từ chối. Để tạo cho mình một thế đứng trong việc mưu nghiệp lớn, bốn anh em Châu Văn Tiếp chiêu tập dân quân đến chiếm giữ núi Trà Lang (Chà Rang) ở Phú Yên. Một lần nữa, Nguyễn Nhạc cử người đến mời. Châu Văn Tiếp bày tỏ chính kiến của mình. Đó là không muốn thay ngôi chúa Nguyễn, chỉ muốn tôn phù hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, muốn diệt trừ những tham quan, những quyền thần. Ý kiến của ông đã được Nguyễn Nhạc đồng ý. Hứa hẹn vậy, nhưng khi kéo binh đến Quy Nhơn, Châu Văn Tiếp mới hay Nguyễn Nhạc không theo lời ước. Ông liền rút quân về núi cũ, dựng cờ khởi nghĩa ghi bốn chữ Lương Sơn Tá Quốc (Quân giỏi ở núi rừng lo giúp nước), để đối đầu với quân Tây Sơn. Khi ấy, lưu thủ dinh Long Hồ là Tống Phúc Hiệp đang đóng quân ở Vân Phong (nay là Khánh Hòa), khuyên ông nên qui thuận chúa Nguyễn và ông đã nghe theo. Liên tục từ năm 1780 cho đến khi bị tử trận ngày 19 tháng 10 năm 1784 trên sông Mang Thít (thuộc Vĩnh Long), Châu Văn Tiếp luôn là một trong những viên tướng ưu tú nhất của Nguyễn Ánh trong sứ mạng bình định của nhà Nguyễn. Nhận được tin ông mất, Nguyễn Phúc Ánh sai lấy ván thuyền ghép thành hòm, dùng nhung phục khấn liệm, rồi cho chôn tạm Châu Văn Tiếp tại làng An Hội, Cồn Cái Nhum (Tam Bình, Vĩnh Long). Sau khi thu phục được Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh cho cải táng tại xã Hắc Lăng, huyện Phước An, thuộc dinh Trấn Biên (nay là xã Tam Phước, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), là qu Phiên âm: Sắc Vĩnh Long tỉnh Tam Bình quận Bình Chánh tổng Tân Long hội. Phụng sự khâm sai ngoại tả chưởng doanh Đại đô đốc, tặng tả vận công thần, đặc tiến tráng vũ tướng quan tả quân đô thống phủ chưởng phủ sự thái bảo, thụy tráng liệt, phong Lâm Thao Quận công Châu Văn Tiếp tôn thần, hộ quốc tý dân, nẫm trứ linh ứng. Tứ kim phi thừa cảnh mệnh, miễn niệm thần phủ, trước phong vi Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng tôn thần. Chuẩn kì phụng sự độ kỉ. Thần kì tương hữu bảo ngã lê dân. Khâm tai. Bảo Đại thập niên thập nhị nguyện sơ bát nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho Tôn thần Châu Văn Tiếp, Khâm sai Ngoại tả chưởng doanh Đại Đô đốc, tặng Tá Vận công thần, đặc tiến Tráng Vũ tướng quân Tả quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự Thái Bảo, thụy Tráng Liệt, phong Lâm Thao Quận công, được thôn Tân Long Hội, tổng Bình Chánh, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long thờ phụng, có công giữ nước giúp dân, từ lâu linh ứng rõ rệt. Nên nay vâng theo mệnh lớn, mãi nhớ ơn Thần, phong làm Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng tôn thần, chuẩn cho thờ phụng vị thần tài năng và đức độ. Thần hãy che chở dân ta. Hãy kính vâng theo! Ngày mồng 8 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 10 (1935). Qua nghiên cứu tư liệu Hán Nôm có đề cập đến nhân vật Châu Văn Tiếp tại tỉnh Vĩnh Long, chúng ta thấy: các vua triều Nguyễn đánh giá cao công lao của ông đối với công cuộc trung hưng của nhà Nguyễn. Châu Văn Tiếp là vị tướng tài năng, từng phò tá vua Gia Long qua Vọng Các (Thái Lan), vào sinh ra tử, lập nhiều chiến công đối với triều Nguyễn nửa cuối thế kỷ XVIII. Bằng tài năng, đức độ của mình, Châu Văn Tiếp được mọi người từ vua đến dân đều nhắc nhở, tôn thờ và trọng vọng. Ông là nhân vật lịch sử chiếm vị trí tuyệt đỉnh trong hàng công thần của triều Nguyễn vào thời trung hưng. Châu Văn Tiếp không chỉ được các vua triều Nguyễn ca ngợi, tán dương, phong cho tước hàm cao quý, ông còn được nhân dân các tỉnh Nam bộ tôn thờ, ghi nhớ như một vị phúc thần. Dù trải qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử, cho đến nay, tại nơi ông mất và nơi ông được cải táng, nhân dân đã lập đền thờ tôn kính ông như các vị thần của địa phương. Tại một số tỉnh Nam bộ tên của Châu Văn Tiếp còn được đặt tên đường phố (thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Di tích đền thờ và mộ Châu Văn Tiếp tại Hắc Lăng, xã Tam Phước, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu được Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu công nhận là di tích cấp tỉnh. 2.3.Lê Trung Lập sinh năm Giáp Thìn 1844, tại thôn Hội Cư, tổng Hòa Lạc, huyện Tuy Hòa (nay là thôn Hội Cư, xã Hòa Tân Tây, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên). Lê Trung Lập xuất thân trong một gia tộc đã qua nhiều đời định cư tại địa phương. Thời trẻ, ông được học chữ Nho nhưng ông không theo con đường khoa cử, mà lấy việc khai khẩn mở 5 mang đất đai, phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho những người nghèo khổ ổn định cuộc sống làm con đường tạo lập cơ nghiệp. Từ khi khởi nghiệp, Lê Trung Lập phụ giúp Trần Lãng mộ dân khẩn hoang nhiều vùng (thuộc các tổng Hòa Mỹ và Sơn Lạc). Đến năm Tự Đức thứ 36 (1883), Lê Trung Lập được quan Bố chính tỉnh Phú Yên cấp bằng Quản mộ. Ông tự xuất tiền nhà, chiêu mộ và tổ chức dân chúng, tiến hành khai khẩn những vùng đất dọc chân núi phía nam của phủ Tuy Hòa (nay gọi là dãy đèo Cả). Nhờ uy tín và khả năng quy tụ nhân dân, biện pháp tổ chức khẩn hoang có hiệu quả của Lê Trung Lập, cùng với chính sách khuyến khích của nhà nước đương thời, nên việc khẩn hoang được xúc tiến mạnh mẽ. Những vùng đất hoang vu rừng rậm dần trở thành những khu vực sản xuất hoa màu, những đồng ruộng trù phú. Về sau, ông được triều Nguyễn cho giữ chức Chánh tổng Hòa Lộc. Trong thời gian giữ chức vụ Chánh tổng Hòa Lộc, ông đã có những đóng góp vào việc ổn định đời sống nhân dân, phát triển sản xuất, xây dựng đình miếu và các thiết chế cộng đồng địa phương đi vào nề nếp. Năm Khải Định thứ 4 (1919), triều đình phong hàm Chánh bát phẩm văn giai cho Lê Trung Lập. Cùng năm ấy, ngày 14 tháng 7 Kỷ Mão ông qua đời thọ 76 tuổi. Năm Khải Định thứ 9 (1924), ông được triều đình ban sắc phong là Đại lang chi thần, trật Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng tôn thần, giao cho thôn Hội Khánh phụng sự. Tại nhà thờ Lê Trung Lập ở thôn Phú Khánh, xã Hòa Tân Tây hiện đang thờ phụng sắc phong thần cho ông. Nội dung sắc phong như sau: Phiên âm: Sắc Phú Yên tỉnh, Tuy Hòa phủ, Hội Khánh thôn phụng sự Khai canh Lê Trung lập đại lang chi thần, hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng. Tứ kim chính trị, Trẫm tứ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân lễ, long đăng trật trứ phong vi Đoan túc Dực bảo Trung hưng tôn thần. Chuẩn kỳ phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai! Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật. Dịch nghĩa: Sắc ban cho thôn Hội Khánh, phủ Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên phụng sự Khai canh Lê Trung Lập Đại lang chi thần, bảo vệ cho nước che chở cho dân, linh ứng lâu năm. Nay nhân dịp tứ tuần đại khánh (40 tuổi) của Trẫm, đã ban bảo chiếu ra ân rộng rãi, lễ lớn nên gia tăng cấp bậc, tặng thêm mỹ tự là Đoan túc Dực bảo Trung hưng tôn thần. Chuẩn cho phụng thờ, thần hãy che chở trợ giúp dân ta. Kính thay. Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924). 2.4.Lê Văn Hiến. Theo gia phả họ Lê làng Tân Mỹ, xã Hòa Phú, huyện Tây Hòa: ông có công khai phá lập làng Tân Mỹ. Lê Văn Hiến đã cùng với nhân dân nơi đây (chủ yếu là lực lượng thanh niên) chặt bỏ cây cối, san lấp ao đìa. Ở những nơi nước đọng lâu ngày, ông cho đào rãnh khơi thông dòng chảy rửa phèn cho đất, san lấp những vùng 6 trũng. Ở những khu vực cỏ lác mọc dày, ông huy động nhiều người cắt bỏ, phơi khô đốt, sau đó dùng trâu bò cày đất, san bằng. Ở khu đất dọc sông Ba, ông cho trồng tre, cỏ lác để chống xói lở. Bằng phương thức khai hoang như vậy, không bao lâu cả vùng đất dọc sông Ba từ thôn Thạch Bàn đến Mỹ Thạnh được khai phá, nhân dân các nơi tụ họp về sinh sống định hình xóm ấp và làng Tân Mỹ ra đời. Sau khi khai hoang lập làng, Lê Văn Hiến còn cho tiến hành xây dựng đình làng, miếu làng làm nơi thờ tự và duy trì các thiết chế văn hóa tinh thần cho cộng đồng, đời sống cư dân bước đầu đi vào quy củ. Với những đóng góp lớn lao trong việc khai khẩn lập làng, Lê Văn Hiến được dân làng bầu làm lý trưởng. Nhưng ông từ chối, chỉ nhận mình là người góp sức cùng với nhân dân khai phá, định hình làng xóm. Khi ông mất, nhân dân trong làng tôn là tiền hiền, đưa bài vị vào đình làng thờ tự. Đến đời vua Bảo Đại thứ 20 (1945), thuận theo sự thỉnh cầu của nhân dân và chính quyền tỉnh Phú Yên, Lê Văn Hiến được triều đình ban sắc phong thần, cho phép nhân dân và kỳ hào trong làng thờ cúng với danh vị Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù tôn thần. Đây là đạo sắc phong của vị vua cuối cùng của triều Nguyễn tìm thấy ở Phú Yên. Lê Văn Hiến là một trong số rất ít vị tiền được phong vào hàng ngũ nhân thần ở Phú Yên. Ngày nay, sắc thần được cẩn thờ tại ngôi nhà từ đường của họ Lê tại thôn Tân Mỹ (do cháu đời thứ 9 là Lê Phát Lợi hương khói). Hình ảnh và nội dung sắc thần như sau: Sắc triều Nguyễn phong Lê Văn Hiến Là Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù tôn thần Phiên âm: Sắc Phú Yên tỉnh, Tuy Hòa phủ, Hòa Lạc tổng, Tân Mỹ thôn phụng sự tiền hiền khai khẩn Lê Văn Hiến chi thần, nẫm trứ linh ứng, hướng lai vị hữu dự phong. Tứ kim phi thừa cảnh mệnh, miến niệm thần hưu khả gia, trứ phong vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù tôn thần, chuẩn y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai! Bảo Đại nhị thập niên ngũ nguyệt thập ngũ nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho thôn Tân Mỹ, tổng Hòa Lạc, phủ Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên thờ phụng tiền hiền khai khẩn Lê Văn Hiến chi thần, linh ứng lâu năm, từ trước đến nay chưa được ban tặng sắc phong. Nay Trẫm cả vâng mệnh lớn, nghĩ đến ơn đức của thần nên phong tặng là Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù tôn thần, vẫn chuẩn cho phụng thờ như cũ. Thần hãy bảo vệ trợ giúp dân ta. Kính thay! Ngày 15 tháng 5 năm Bảo Đại thứ 20 (1945). 2.5.Mạnh Tuyển thuộc dòng dõi họ Mạnh từ tỉnh Bình Định di cư vào Phú Yên sinh sống những năm đầu thập niên 70 thế kỷ XVIII (phong trào Tây Sơn bùng nổ). Cha ông là Mạnh Thế Tài, tham gia nghĩa quân Tây Sơn lập nhiều công lớn và về sau là trọng 7 thần của triều đại này. Năm 1802, khi Gia Long lên ngôi, cũng là lúc nh à Tây Sơn suy vong, sụp đổ, Mạnh Thế Tài lui về sống ẩn dật bằng nghề nông nhằm che giấu thân phận để tránh họa truy sát của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Đặc biệt, Mạnh Thế Tài là người thức thời trong việc nhìn nhận vai trò của nhà Tây Sơn đối với lịch sử dân tộc cũng như nguyên nhân khiến cho triều đại này suy vong. Theo ông, việc quan trọng của người quân tử là không phải sống với quá khứ vàng son của triều đại đã qua mà phải vận dụng sở học của mình vào cuộc sống hiện tại để giúp dân, giúp nước. Tháng 7 năm 1850 (Tự Đức thứ 3), Mạnh Tuyển tham gia ứng thí tại khoa thi Canh Tuất tổ chức tại trường thi Thừa Thiên. Kỳ thi này, Mạnh Tuyển đậu tứ trường với học vị cử nhân (khóa thi này, trường thi Thừa Thiên lấy đỗ 48 người). Năm đó Mạnh Tuyển 30 tuổi, đã lập gia đình. Sau khi đỗ đạt, Mạnh Tuyển được triều đình Huế bổ nhiệm làm quan ở Bình Định, Bình Thuận. Năm 1870, ông được giao nhiệm vụ là Phó Quản đạo đạo Quảng Trị. Nhờ tinh thần làm việc mẫn cán và thực hiện tốt thượng dụ của nhà vua về việc “tiết kiệm, không lạm dụng công khố, cấm bóc lột dân chúng” nên ông đã duy trì sự ổn định ở Quảng Trị và được triều đình đánh giá cao. Do vậy, đầu năm 1871, Mạnh Tuyển được thăng chức Quản đạo đạo Hà Tĩnh. Tại đây, ông tiếp tục phát huy năng lực trong việc thay mặt triều đình chăm lo dân chúng yên tâm sản xuất, tích trữ binh lương, chuẩn bị đối phó với âm mưu của thực dân Pháp (đang do thám các tỉnh Bắc kỳ và bắc Trung kỳ), ráo riết thực hiện mưu đồ mở rộng xâm chiếm cả nước. Tháng 10-1873, nhân việc tên lái buôn J. Duypuy gây rối ở Bắc kỳ, thực dân Pháp cử Gác-ni-ê đưa quân ra đánh chiếm thành Hà Nội, sau đó mở rộng chiếm các tỉnh thành Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình. Trước tình hình đó, vua Tự Đức ra mật dụ: truyền cho quan chức các tỉnh từ Bình Định đến Thanh Hóa tập hợp binh sỹ luyện tập, tăng cường việc canh phòng ở các nơi hiểm yếu, sẵn sàng lực lượng chiến đấu (1). Hưởng ứng chỉ dụ của triều đình, Mạnh Tuyển đã đốc thúc quan lại dưới quyền trong địa bàn Hà Tĩnh củng cố thành trì, bổ sung quân lính, sẵn sàng đối phó với âm mưu của thực dân Pháp. Đặc biệt, Mạnh Tuyển là một trong số ít quan lại thực hiện chính sách cầu hiền của triều đình, dâng tấu tiến cử những người hiền tài có đủ năng lực để giúp vua trị nước. Những việc này được sử sách triều Nguyễn ghi nhận: “gần đây có một tập xét cử của quan đạo Hà Tĩnh là Mạnh Tuyển kính đáp thịnh ý cầu tài” (2). Những việc làm trên đã cho thấy: Mạnh Tuyển là một vị quan luôn quan tâm đến sự an nguy của đất nước, lấy việc chăm lo cuộc sống của nhân dân làm nhiệm vụ hàng đầu của người được xem là “phụ mẫu chi dân”. Tháng 2 năm 1874, triều đình Huế ký hiệp ước Giáp Tuất nhân nhượng cho thực dân Pháp một số quyền lợi về kinh tế, chính trị ở Bắc kỳ. Phản đối hiệp ước, tú tài Trần Tấn và Đặng Như Mai đã phát động cuộc nổi dậy ở Nghệ An và Hà Tĩnh “quyết đánh cả triều lẫn Tây”. Ngày 31/5/1874, tỉnh thành Hà Tĩnh bị lực lượng nổi dậy của Trần Quang Cán, Nguyễn Vĩnh Khang, Nguyễn Huy Điển đánh chiếm. Quản đạo Mạnh Tuyển, lãnh binh quan Lê Văn Thất bị giết. Sau đó không lâu, triều đình Huế cử Khâm sai Nguyễn Văn Tường, Tổng thống quân vụ Lê Bá Thận đem quân dập tắt cuộc nổi dậy. (1) Châu bản triều Tự Đức 1848-1883, Nxb văn học, 2003, tr.172. (2) Đại Nam thực lục chính biên, Tập 32, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, tr. 34. 8 Cái chết của quản đạo Mạnh Tuyển gây sự tiếc thương trong hàng ngũ quan lại của triều đình Huế lúc bấy giờ. Vua Tự Đức truyền dụ đưa linh cữu của ông về quê chôn cất và sai cấp tiền tuất, đồng thời lệnh cho địa phương xây dựng mộ và đền thờ tại làng Thạnh Đức, tổng Xuân Phong, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Ghi nhận công lao của Mạnh Tuyển đối với đất nước, tháng 2 năm 1880, vua Tự Đức chuẩn đưa bài vị Mạnh Tuyển vào thờ ở dãy đông, án thờ thứ nhất của đền Trung Nghĩa tại kinh thành Huế. Đến vua Khải Định năm thứ 2 (1917), triều Nguyễn ban sắc phong thần cho ông là Dực bảo Trung hưng Linh phù Tôn thần và lệnh cho thôn Thạnh Đức phải thờ phụng hàng năm. Nội dung sắc phong ghi rõ: Phiên âm: Sắc Phú Yên tỉnh, Đồng Xuân huyện, Thạnh Đức thôn phụng sự Mạnh Hầu Tuyển linh ứng chi thần, nẫm trứ linh ứng. Tứ kim phi ưng, cảnh mệnh miễn niệm thần hưu trứ phong vi Dực Bảo Trung Hưng Linh phù tôn thần. Chuẩn hứa phụng sự thứ cơ, thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai! Khải Định nhị niên tam nguyệt thập bát nhật. Dịch nghĩa: Sắc ban cho thôn Thạnh Đức, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên được thờ vị thần Mạnh hầu Tuyển linh ứng, thật sự hiển linh. Nay ta vâng mệnh sáng nghĩ đến công lao của thần nên phong cho ngài là Dực bảo Trung hưng Linh phù Tôn thần. Chuẩn cho xã ấy được phụng thờ, ngõ hầu ngài sẽ phù giúp bảo vệ cho dân ta. Kính thay. Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 2 (1917). 3. Nội dung các sắc phong thần cho các nhân vật ở Phú cho thấy các nhân thần này là những người đã từng có nhiều công lao to lớn đối với vùng đất Phú Yên nói riêng và các vùng miền khác trong nước nói chung. Họ là những công thần có công khai phá, mở mang vùng đất trên phạm vi một tỉnh hoặc một tổng, một làng hoặc có công đánh giặc. Công lao của họ cũng đã được ghi chép trong các bộ chính sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện hoặc chỉ lưu truyền trong dân gian. Sau khi mất, họ được các nhà nước phong kiến ban tặng phẩm trật, mỹ hiệu, lệnh cho làng xã thờ phụng. Đây là một ứng xử theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, thừa nhận công lao to lớn của tiền nhân trong việc mở mang bờ cõi, tạo dựng làng xã. Bên cạnh giá trị to lớn về khía cạnh giáo dục đạo đức, các sắc phong nhân thần ở Phú Yên còn phản ảnh rõ đời sống tinh thần, tín ngưỡng của người dân vùng này. Nó bổ sung những giá trị sử liệu về những nhân vật có những cống hiến to lớn đối với vùng đất Phú Yên khi mà chính sử chưa ghi chép đầy đủ.

Nguồn: ThS. Võ Thị Ngọc Hoa Trường Đại học Phú Yên, 18. Trần Phú, phường 9, TP. Tuy Hòa

 

 

NÚI CHÓP CHÀI PHÚ YÊN:

 

Nằm ở phía tây Quốc lộ 1A, cách trung tâm thị xã Tuy Hoà 4 km về phía Bắc (thuộc xã Bình Kiến), Chóp Chài còn có tên là Nựu Sơn. Chóp Chài cao 391 m, nhưng trông thật đường bệ. Người Tuy Hoà xem núi Chóp Chài cùng với núi Đá Bia là một cặp đài khí tượng báo hiệu nắng mưa:


“Chóp Chài đội mũ
Mây phủ đá Bia
Ếch nhái kêu lia
Trời mưa như đổ”.


Chóp Chài có những dấu tích huyền thoại như Trai Thuỷ tục danh là Hang Dơi, hang này rộng khoảng 5m, chiều sâu hun hút. Trong hang có những tảng đá phẳng lì.

Đông, tây, nam, bắc đều có chùa: Hoà Sơn, Minh Sơn, Khánh Sơn, Bảo Lâm được xây dựng trên lưng sườn núi, nhìn xuống có “Liên trì dục nguyệt” (Trăng tắm ao sen) rộng khoảng 1,2 ha.
Nựu Sơn nằm giữa vùng thiên nhiên tuyệt đẹp, gắn với những giá trị nhân văn, đã đi vào lịch sử ký ức của nhân dân trong vùng, nơi đây sẽ là một điểm du lịch văn hoá, tham quan, ngắm cảnh lý tưởng.

 

 

NÚI NHẠN - SÔNG ĐÀ


Là cụm thắng cảnh đã để lại nhiều ấn tượng với du khách khi đặt chân đến Phú Yên. Núi Nhạn nằm bên bờ Bắc sông Đà Rằng, thuộc địa phận phường I, thành phố Tuy Hòa. Núi Nhạn còn có tên gọi khác là “Núi Bảo Tháp” hoặc “Tháp Dinh”. Đứng ở độ cao 64 m trên đỉnh Núi Nhạn, ta có thể bao quát một vùng non nước Phú Yên với toàn cảnh thành phố Tuy Hoà, làng hoa Bình Ngọc, núi Đá Bia, Biển Đông và hai chiếc Cầu đường sắt và đường bộ dài 1.100 m bắt song song qua sông Đà Rằng. Trên đỉnh Núi Nhạn có Tháp Chàm cổ kính, còn có tên gọi là Tháp Nhạn được người Chiêm Thành xây dựng vào khoảng thế kỷ 11. Tháp có cấu trúc khối hình chóp vuông vững chắc cao 25m, gồm tất cả 4 tầng thu nhỏ dần khi lên cao.

Núi Nhạn nằm một góc giữa chỏm cắt của QL1A và nhánh sông Chùa thuộc phường Bình Nhạn nay gọi là phường I thành phố Tuy Hoà. Núi cao 60 mét so với mặt nước biển, có đường chu vi quanh núi khoảng trên 1 km. Núi Nhạn có hình thế xoè ra như hình con chim nhạn xoè đôi cánh, với phần đầu là chỗ giao nhau giữa QL1A và sông Chùa, cổ thon nhỏ lại rồi phình to ra như đôi cánh chim ở phần đường Tản Đà, vì vậy nên mới có tên gọi này. Cũng có người cho rằng, ngày xưa núi này như một cù lao nhỏ nằm trong vịnh Tuy Hoà (biển ăn sát đến tận chân dãy Trường Sơn), là nơi để loài chim nhạn làm tổ, trú ẩn. Sau này, vịnh dần dần được bồi lấp tạo nên đồng bằng rộng lớn nối liền cù lao Nhạn với đất liền. Trên núi Nhạn có rất nhiều cây cối rậm rạp, đặc biệt là mai rừng nở vàng vào mùa xuân và mùa hạ, ở phía đông-nam gần sông Chùa có một trảng sim nhỏ, đến mùa hoa sim nở tím cả một vùng. Trên núi có nhiều loài chim như nhạn, cò và đặc biệt là rất nhiều khỉ. Mãi đến năm 1961, khỉ vẫn sống từng đàn trên núi này cho đến khi chiến tranh ác liệt nổ ra, quân đội Sài Gòn cho đóng đồn và đặt súng đại bác trên núi ngày đêm bắn phá các vùng căn cứ, yểm trợ cho các cuộc hành quân nên khỉ đã bỏ về rừng núi đại ngàn, chim chóc cũng di trú nơi khác, cây cối bị đốn chặt phát quang để phục vụ cho tầm quan sát quân sự.


Trên núi Nhạn có một ngôi tháp do người Chăm xây dựng vào thế kỷ thứ XII (cũng có tài liệu nói là xây vào thế kỷ XIV). Tháp có bình đồ hình vuông, mỗi cạnh 10 mét, cao trên 20 mét có đế móng, thân và mái là những gờ gạch xây nhô ra bên ngoài. Trong tập “Gìn giữ những kiến trúc kiệt tác trong nền văn hóa Chăm” của nhóm tác giả Lưu Trần Tiêu, Ngô Văn Doanh, Nguyễn Quốc Hùng do nhà xuất bản Văn hoá dân tộc ấn hành năm 2002 thì tháp có 4 tầng, càng lên cao càng thu nhỏ lại, nhưng mô hình và cách thức trang trí từ dưới lên đều giống nhau. Nóc của tháp gồm nhiều lớp xếp, phần chóp được cấu tạo bằng phiến đá nguyên tảng (đã qua đẽo gọt) có hình búp sen cân đều. Đó là biểu tượng Linga của người Chăm. Trên đỉnh tháp, bốn mặt đều có bốn cửa sổ giả, tách biệt giữa phần trên và tầng dưới. Cửa chính ở hướng Đông, phần trên cửa hình vòm, xây cuốn theo kiểu giật cấp. Những hàng gạch bên trên hơi chồm ra so với hàng gạch dưới. Càng lên cao thì chồm ra ít hơn cho đến khi khép kín vòm.


So với nhiều tháp khác của người Chăm ở Bình Định, Khánh Hoà, Phan Rang hay Mỹ Sơn thì ngọn tháp trên núi Nhạn, bên trong không có tượng thờ cũng như những hoa văn, họa tiết trang trí; duy nhất chỉ thấy những họa tiết hoa văn hình rồng được chạm khắc biến dạng đi hay cách điệu bằng đá hoa cương đặt bên ngoài góc tháp.


Bên trong tháp, tường xây thẳng đứng cao vút từ phần đế tháp cho đến hết phần thân. Phần mái, tường được thu nhỏ dần cho đến đỉnh, tạo thành hình chóp nón. Trong lòng tháp không có bệ thờ, không có tượng. Từ lâu đời, khoảng thời Hậu Lê, nhân dân xây một cái am nhỏ phía trước để thờ bà Thượng Đỉnh Chúa Thiết A Na Diễn Ngọc Phi. Thời chống Pháp am thờ này bị đập phá. Sau này miếu được xây dựng lại trên nền cũ có đề bốn chữ “Thượng Đỉnh Linh Miếu”.

Về nghệ thuật tạo hình, thân tháp có tạc tượng thần và những chiếc cột bằng gạch xếp chồng đều nhau thẳng như kẽ chỉ, tạo thành những đường gờ nhô ra để khi trông vào không có cảm giác nặng nề và đơn điệu của một hình khối đồ sộ.


Vật liệu xây dựng tháp đều bằng gạch nung với nhiều kích cỡ khác nhau tuỳ theo vị trí của từng mảng tường, từng tầng tháp và được xếp liền khít, không thấy mạch hồ song kết dính rất vững chắc. Người ta khó mà biết được kích cỡ của từng viên gạch, nếu không nhờ vào những nơi bị sứt mẻ, bị ngã đổ. Có nhiều viên hình chữ nhật kích thước 40 x 20 x 7 cm. Trụ và xà ngang của cửa chính là khối đá vôi mềm dễ đẽo gọt, đục chạm. Bốn bên mặt ngoài thân tháp có những cột xây áp vào thân tháp mà mục đích có thể là để gia cố cho tháp được vững chắc. Bắt đầu cuốn lên mái, ở bốn góc bên ngoài thân tháp (đoạn tiếp giữa thân tháp và mái) đều được xây nhô ra những trụ hình chóp có kích cỡ rất nhỏ.


Người Pháp gọi núi Nhạn là núi Khỉ (Montagne des Singes) vì không chỉ trên núi có nhiều khỉ mà chúng còn rất khôn, sống thành bầy đoàn, sẵn sàng hợp quần chống đỡ lại sự đe doạ từ nhiều phía tới, cũng biết trả thù nếu có ai đó làm cho một con trong đàn bị thương hay bị bắt. Xưa, phía bên soi Ngọc Lãng thường trồng bắp, con đầu đàn cho một toán nhỏ canh giữ hai phía đầu cầu sông Chùa rồi chính nó đích thân đưa cả bầy luồn vào đám bắp bẻ và mang lên núi. Những khu dân cư sống quanh chân núi Nhạn đều phải cất giữ rất cẩn thận mọi thức ăn đồ uống, hễ sơ hở là chúng lần vào mang đi mất, chúng hè nhau khiêng cả nồi hai cơm trèo lên vách núi, lấy cắp hoa quả cúng trên trang thờ…

Mạn đông-nam chân núi Nhạn có ngôi chùa Hàm Long nằm khuất sau chòm cây cổ thụ, lưng tựa vào vách núi đá lớn dựng đứng, cao ngất như muốn nhoài ra ôm choàng lấy ngôi chùa như một chiếc quạt khổng lồ xoè rộng. Chùa Hàm Long sau đổi tên là Kim Long tự và được vua Bảo Đại năm thứ 5 ban sắc tứ.


Dưới chân vách đá, bên cạnh chùa có một cái hang, đường kính chừng 3 mét xuyên vào lòng núi và ăn thông ra bờ sông. Các cụ ngày xưa cho đó là hàm của con rồng nên mới đặt tên chùa là Hàm Long. Theo truyền thuyết, hơn trăm năm về trước, cái hang này ăn thông ra bờ sông Chùa. Đã có người thử thả trái bưởi từ miệng hang, trái bưởi theo đường hầm trôi ra giữa dòng sông và nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Qua thời gian, do lũ lụt, mưa gió làm đất đá chài lấp dần cửa hang. (Năm 1994, Cty Du Lịch Phú Yên cho mở lại cửa hang để phục vụ khách du lịch, nhưng công việc bị ngăn lại vì sợ ảnh hưởng đến nền móng của tháp Nhạn đứng bên trên).


Tháp được chạm khắc khá hài hoà, đường nét tinh xảo, mềm mại là bậc thầy của nghệ thuật kiến trúc thời bấy giờ và mãi mãi sau này. Ngọn tháp này tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc độc đáo của người Chăm, vừa mang vẻ đẹp hoành tráng vừa toát lên vẻ thanh thoát nhẹ nhàng tô điểm cho thành phố Tuy Hoà vẻ nên thơ.


Chung quanh việc xây dựng ngọn tháp trên núi Nhạn, có nhiều truyền thuyết khá thú vị: thuở ấy có ông Lương Phù Già (tức Lương Văn Chánh) giao tranh với quân Chiêm Thành. Chiến trường diễn ra ở phần đất thành phố Tuy Hoà ngày nay. Quân của ông Phù Già đóng ở núi Nựu (Nựu Sơn), quân Chiêm đóng ở núi Nhạn để cố thủ. Giao tranh lâu ngày nhưng không phân thắng bại. Để tránh đổ máu gây tang tóc cho lương dân, hai bên giao ước với nhau sẽ cùng xây tháp, tháp của bên nào xây to hơn, nhanh hơn là bên đó thắng, bên kia phải rút quân khỏi phần đất Phú Yên. Địa điểm được hai bên lựa chọn là quân Chăm trên núi Nhạn, quân ông Phù Già trên núi Cổ Rùa, một phần nhô ra của núi Nựu.

Quân ông Phù Già cho quân lính chặt tre, chẻ thành sợi mỏng và đan thành những tấm như tấm phên, phất giấy, bôi sơn rồi ghép lại vào các rường cây thành ngôi tháp cao to đến trăm trượng, phải ngửa mặt mới trông thấy đỉnh, từ đầu chân tháp bên này ngó qua bên kia con người chỉ bằng hột bắp (!?). Quân Chăm dốc toàn sức lực ngày đêm xây đắp cho đến khi sắp hoàn thành thì ngọn tháp của ông Phù Gìa đã hoàn thành, sừng sững một góc trời rất hoành tráng. Quân Chăm đành phải chấp nhận thua cuộc. Để tránh những hậu hoạ có thể xảy ra (như dùng ngôi tháp làm nơi cố thủ), ông Phù Già thách thức Chiêm Thành đốt tháp. Tháp bên nào cháy trước thì bên đó thắng cuộc và bên kia phải rút binh ra cách xa phần đất ước hẹn trước đây 300 dặm (!?). Quân Chăm y hẹn, cho quân sĩ mang cây khô, bổi chà chất quanh tháp tầng tầng lớp lớp rồi nổi lửa đốt. Cột lửa bên núi Nhạn cao ngất trời, cháy từ ngày này qua tháng khác nhưng tháp vẫn cứ đứng vững như trụ đồng, trong khi đó tháp của ông Phù Già chỉ cháy một đêm, sáng ra tháp biến mất. Lương Văn Chánh mang đại quân đến chân núi Nhạn buộc quân Chăm phải thực hiện điều đã ấn định, quân Chăm đành phải rút quân qua khỏi bên kia đèo Cả.


Ngày nay, cụm thắng cảnh “Núi Nhạn – Sông Đà“ đã trở thành biểu tượng của Phú Yên và Tháp Nhạn đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là Di tích Kiến trúc - Nghệ thuật cấp Quốc gia.

Hàng năm vào dịp lễ, Tết, trên núi Nhạn có tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí ….. Đặc biệt vào rằm tháng Giêng Âm lịch hàng năm, nơi đây diễn ra đêm thơ Nguyên tiêu thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và du khách gần xa.


TRUYỀN THUYẾT:

Về quá trình hình thành núi, truyền thuyết kể rằng, thuở xa xưa đất Tuy Hoà là một vùng đầm lầy trũng thấp, là nơi cư trú của nhiều loài thuỷ sinh và mãnh thú hung dữ. Đời sống của người dân luôn bị đe doạ. Và để tạo nên một cảnh sống mới, an toàn hơn về mọi mặt, một ngày kia người khổng lồ do Trời sai xuống gánh núi lấp đầy vùng trũng và lấn ra phía biển Đông. Thiên sứ khổng lồ kia miệt mài gánh đất và núi, làm rơi vãi từng cụm nhỏ ở núi Miếu (Hoà Quang) và gành Đá (Hoà Thắng)… và chẳng bao lâu thì lấp đầy cả cánh đồng Tuy Hoà bây giờ. Đến lượt bắt đầu lấn biển, vị thiên sứ kia gắng làm cho xong để sớm trở về trời nên đã gánh núi nặng gấp hai ba lần, đến nỗi khi gần tới biển, chiếc đòn gánh gãy đôi làm rơi xuống hai cụm núi là núi Nhạn và Chóp Chài. Đòn gánh gãy đồng nghĩa với công việc “xẻ núi lấp sông” không thể tiếp tục được nữa và thiên sứ khổng lồ nọ đành ngậm ngùi quay về Trời, chưa tạo được những cụm núi chắn sóng ngoài mạn biển xa. Câu chuyện huyền thoại này được truyền tụng từ khá lâu và có nhiều chi tiết khác nhau, nhưng nội dung chính là hai hòn núi Chóp Chài và núi Nhạn là do người khổng lồ làm gãy đòn gánh mà rơi xuống.


Trên núi Nhạn có rất nhiều cây cối rậm rạp, đặc biệt là mai rừng nở vàng vào mùa xuân và mùa hạ, ở phía Đông-Nam gần sông Chùa có một trảng sim nhỏ, đến mùa hoa sim nở tím cả một vùng. Trên núi có nhiều loài chim như nhạn, cò và đặc biệt là rất nhiều khỉ. Mãi đến năm 1961, khỉ vẫn sống từng đàn trên núi này cho đến khi chiến tranh ác liệt nổ ra, quân đội Sài Gòn cho đóng đồn và đặt súng đại bác trên núi ngày đêm bắn phá các vùng căn cứ, yểm trợ cho các cuộc hành quân nên khỉ đã bỏ về rừng núi đại ngàn, chim chóc cũng di trú nơi khác, cây cối bị đốn chặt phát quang để phục vụ cho tầm quan sát quân sự.

Đứng ở độ cao 64 m trên đỉnh núi Nhạn, du khách có thể bao quát một vùng non nước Phú Yên với toàn cảnh thành phố Tuy Hoà, làng hoa Bình Ngọc, núi Đá Bia, biển Đông và hai chiếc Cầu đường sắt và đường bộ dài 1.100 m bắt song song qua sông Đà Rằng. Trên đỉnh núi Nhạn có Tháp Chàm cổ kính, còn có tên gọi là Tháp Nhạn được người Chiêm Thành xây dựng.

Mạn Đông-Nam chân núi Nhạn có ngôi chùa Hàm Long nằm khuất sau chòm cây cổ thụ, lưng tựa vào vách núi đá lớn dựng đứng, cao ngất như muốn nhoài ra ôm choàng lấy ngôi chùa như một chiếc quạt khổng lồ xoè rộng. Chùa Hàm Long sau đổi tên là Kim Long tự và được vua Bảo Đại năm thứ 5 ban sắc tứ. Dưới chân vách đá, bên cạnh chùa có một cái hang, đường kính chừng 3 mét xuyên vào lòng núi và ăn thông ra bờ sông. Các cụ ngày xưa cho đó là hàm của con rồng nên mới đặt tên chùa là Hàm Long.

Theo truyền thuyết, hơn trăm năm về trước, cái hang này ăn thông ra bờ sông Chùa. Đã có người thử thả trái bưởi từ miệng hang, trái bưởi theo đường hầm trôi ra giữa dòng sông và nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Qua thời gian, do lũ lụt, mưa gió làm đất đá chài lấp dần cửa hang.

Ngày nay, cụm thắng cảnh “Núi Nhạn – Sông Đà“ đã trở thành biểu tượng của Phú Yên và Tháp Nhạn đã được công nhận là Di tích Kiến trúc - Nghệ thuật cấp Quốc gia. Hàng năm vào dịp lễ, Tết, trên núi Nhạn có tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí ….. Đặc biệt vào rằm tháng Giêng Âm lịch hàng năm, nơi đây diễn ra đêm thơ Nguyên tiêu thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và du khách gần xa.

Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội khi dừng chân bên núi Nhạn đã không tiếc lời ca ngợi vẻ đẹp của Tuy Hoà và con người Phú Yên:

Nửa thế kỷ rồi qua Phú Yên
Sông Đà núi Nhạn nước non tiên
Bài thơ tương thức tình tương ngộ
Trọng nghĩa tư giao quý bạn hiền


Còn ông Huỳnh Khinh, thi sĩ của quê hương núi Nhạn sông Đà đã có thơ khi trở lại quê hương sau những ngày khói lửa chiến tranh


Lên chơi núi Nhạn buổi tà dương
Phong cảnh nhìn xem đẹp lạ thường
Trước mặt mây hồng vờn biển bạc
Sau lưng gác tía gợn tia vàng.

 

Bãi Xép – Ghềnh Ông

Chắc hẳn những ai đã từng xem bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” đều ước rằng mình có thể được chiêm ngưỡng cảnh sắc ấy ít nhất một lần trong đời. Sẽ thật uổng phí nếu bạn đi du lịch Phú Yên mà không đến Bãi Xép - Ghềnh Ông - địa điểm xuất hiện ở những phân cảnh đẹp nhất trong bộ phim nổi tiếng của đạo diễn Victor Vũ.

Giới thiệu chung về Bãi Xép - Ghềnh Ông

Bãi Xép - Ghềnh Ông tọa lạc tại xã An Chấn, huyện Tuy An, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Địa điểm này chưa được chú trọng khai thác du lịch nhiều nên vẫn còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ hiếm có. Bãi Xép có chiều dài 500m với 2 bãi đá đen hai bên đầu bãi biển. Nơi đây sở hữu cảnh quan thiên nhiên đặc sắc với những bãi cát vàng óng ánh chảy dài ra mép sóng. Các tảng đá đen nhô ra ngoài biển và rừng phi lao rộng lớn xanh mát ngày đêm rì rào cùng sóng biển.

Ngay cạnh bãi Xép, Ghềnh Ông là một thảo nguyên rộng lớn xanh mướt màu cỏ non điểm thêm những rặng xương rồng mọc trên đồi. Đứng ở trên đây, tất cả khung cảnh thiên nhiên sống động, hấp dẫn như được hút hết vào tầm mắt của bạn.

 

Thăm quan, vui chơi tại Bãi Xép - Ghềnh Ông

Đến với Bãi Xép - Ghềnh Ông, đầu tiên bạn có thể thoải mái chụp ảnh, thả diều, lang thang trên Ghềnh Ông. Khi đã thấm mệt, muốn đắm mình trong làn nước xanh mát bạn sẽ xuống Ghềnh để vào Bãi Xép. Được đặt chân lên những bãi cát mềm mịn, nô đùa cùng những con sóng nối đuôi nhau xô vào bờ, bạn như được trút bỏ hết mọi ưu tư phiền muộn.

Bên cạnh đó, nơi đây cũng là địa điểm chụp ảnh cưới tuyệt đẹp được rất nhiều cặp đôi lựa chọn. Để chuyến đi được trọn vẹn hơn, bạn cũng đừng nên bỏ qua những đặc sản hấp dẫn của miền đất này như cháo hàu, lẩu mực, cá ngừ,...

 

Từ tháng 2 đến tháng 8 hàng năm là thời điểm lý tưởng nhất để vi vu đến đây. Lúc này, thời tiết là vào mùa khô nên việc đi lại và vui chơi thuận tiện hơn rất nhiều. Bạn nên lưu ý rằng phải chuẩn bị sẵn sàng áo và kem chống nắng khi du lịch Phú Yên nữa nhé!

Ngoài ra, trong các tour du lịch Quy Nhơn hiện nay cũng kết hợp tham quan các điểm ở Phú Yên. Vì thế, bạn nên tham khảo thêm để có thể đi được nhiều nơi hơn và cuộc hành trình đến dải đất Nam Trung Bộ thành công hơn nữa.

Di chuyển từ trung tâm đến Bãi Xép - Ghềnh Ông

Khoảng cách từ trung tâm thành phố Tuy Hòa đến Bãi Xép - Ghềnh Ông là 13km. Bạn có thể đến đây bằng taxi hay xe máy đều được, sẽ mất khoảng 20 - 25 phút để di chuyển.

Cung đường nhanh nhất để đến những điểm vui chơi này là chạy thẳng trên đường Lê Duẩn sẽ đến Tuy An. Tuyến đường này được lát phẳng lì, dọc hai bên đường là những rặng dương xanh mọc nối tiếp nhau vô cùng đẹp. Chỉ đi trên con đường này thôi cũng sẽ tạo cho bạn cảm giác rất thư thái và mát mẻ.

 

Tháp Nghinh Phong công trình độc đáo tại Phú Yên

Theo TS Phạm Trung Lương (Viện Nghiên cứu phát triển du lịch), Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa mang trong mình giá trị rất lớn, quý giá, đa dạng và đặc sắc. Việc Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch di tích này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển ngành Du lịch Phú Yên. 

Đồng chí Đào Mỹ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh bày tỏ sự vui mừng khi Phó Thủ tướng phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa. Bởi trước đó, tỉnh cũng có chủ trương đầu tư dự án quy hoạch, tu bổ, tôn tạo di tích quốc gia đặc biệt này nhằm phát huy hiệu quả tiềm năng, giá trị, bảo vệ hiệu quả di tích. 

Nhiệm vụ quy hoạch Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa được Chính phủ yêu cầu thực hiện trong 24 tháng, tỉnh sẽ chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương triển khai, hoàn thành sớm để phát huy giá trị di tích, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. 

“Gành Đá Đĩa là thắng cảnh có giá trị đặc biệt của tỉnh và Việt Nam, là nơi lý tưởng để người dân, du khách đến tham quan thưởng lãm. Thời gian qua, di tích này vẫn chưa được đầu tư tương xứng với tiềm năng và lợi thế; giá trị của di tích chưa được phát huy hiệu quả so với sự ưu đãi mà thiên nhiên ban tặng cho Phú Yên. 

Bởi vậy, nhiệm vụ quy hoạch lần này được Chính phủ phê duyệt là rất quan trọng, ý nghĩa, tỉnh sẽ chỉ đạo thực hiện khẩn trương”, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đào Mỹ nói.

 

Phú Yên đã cho xây dựng tháp Nghinh Phong tại vị trí tuyệt đẹp của thành phố Tuy Hòa và khánh thành vào đợt 30.04.2022. Tên của tháp có nghĩa là “đón gió” với nhiều gửi gắm trong thiết kế. Tháp Nghinh Phong mang dáng dấp đặc trưng đã thành thương hiệu của Gành Đá Đĩa. Tòa tháp đôi Nghinh Phong cao hơn 25 m tại TP Tuy Hòa hiện nay đã thành điểm tham quan được nhiều người lui tới

 

tháp Nghinh Phong về đêm 

 

Tòa tháp gây ấn tượng với điểm nhấn được tạo hình Ghềnh Đá Đĩa, lõi bằng bê tông cốt thép, bên ngoài ốp đá granite. Về đêm, nơi này được chiếu sáng với công nghệ Bobine Tesia, 3D mapping và laze cường độ cao tạo nên vũ điệu ánh sáng đa sắc màu.

Lấy cảm hứng từ truyền thuyết "Con Rồng Cháu Tiên", toà tháp đôi bên cao, bên thấp tượng trưng Lạc Long Quân và Âu Cơ. Dưới chân mỗi toà tháp là 50 khối đá xếp chồng lên nhau, tượng trưng cho "trăm trứng trăm con" phải tách nhau theo cha mẹ lên rừng xuống biển. Giữa hai cột tháp là một khe gió trang trí các hình ảnh về vùng đất "hoa vàng trên cỏ xanh".

Điều đặc biệt của tháp Nghinh Phong là khoảng trống giữa hai toà tháp chỉ đủ cho hai người đứng, mỗi khi có gió thổi qua khe hở sẽ tạo ra âm thanh như bản nhạc từ thiên nhiên và nó là độc nhất dành cho người thưởng thức.

Tháp Nghinh Phong thuộc dự án không gian công cộng ven biển, nút giao thông đường Nguyễn Hữu Thọ - Độc Lập (TP Tuy Hòa). Ngoài tháp đôi, khu vực quảng trường Nghinh Phong còn có các hạng mục khác như hệ thống kè bảo vệ, công viên, đường đi dạo lát đá granite... với tổng diện tích hơn 7.000 m2.

Là một trong những người tham gia công trình với tư cách chủ nhiệm, anh Đỗ Văn Tình (cựu sinh viên khóa 38C Khoa Công trình Trường Đại học Thủy lợi) luôn khiêm tốn khi nói về địa điểm du lịch mới này. Hiện nay, ở vai trò Phó Viện trưởng Viện Đào tạo và Khoa học ứng dụng miền Trung, anh Đỗ Xuân Tình luôn muốn mang nhiều hơn nữa những công trình thủy đặc trưng vào các ngành kinh tế dịch vụ, góp phần phát triển đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.

Nếu có dịp chơi ở Phú Yên, hãy dành thời gian tận tưởng bản nhạc của gió tại tháp Nghinh Phong và ngắm công trình do con người Thủy Lợi góp phần sáng tạo.

 

CÂY CẦU GỖ ÔNG CỌP

 

Cầu Ông Cọp (huyện Tuy An) dài 800 m thường hư hỏng vào mùa mưa bão, được người dân địa phương góp tiền dựng lại để thuận tiện cho đi lại.

Cầu gỗ Ông Cọp, huyện Tuy An nằm cách quốc lộ 1 chưa đến trăm mét, đoạn gần dốc Vườn Xoài bắc qua sông Bình Bá (còn gọi là sông Phú Ngân). Cầu nối các thôn phía bắc xã An Ninh Tây, huyện Tuy An với phường Xuân Đài, thị xã Sông Cầu. Người dân địa phương đi qua cầu này rút ngắn khoảng cách khoảng 10 km so với di chuyển từ huyện Tuy An qua thị xã Sông Cầu, hoặc đi TP Quy Nhơn (Bình Định).

Tuy nhiên, cứ đến mùa mưa bão, cầu lại đổ sập. Mội số cá nhân đã tự bỏ chi phí để mua nguyên vật liệu để dựng lại cầu, phục vụ nhu cầu đi lại cho dân địa phương.

Cầu bắt đầu được xây dựng từ năm 1998 với tổng chi phí hơn một tỷ đồng, do ông Nguyễn Phước Thọ (TP Nha Trang, Khánh Hòa) tự bỏ tiền đầu tư. Sau này có nhiều người cùng góp vốn và quản lý. Cầu dài khoảng 800 m, rộng 2 m (nơi rộng nhất khoảng 2,3 m) và trụ cao 8-10 m. Những ngày này, trên cầu có hơn 18 công nhân thi công.

Ông Nguyễn Phúc, một công nhân, cho biết hầu hết các công đoạn như dựng trụ, xây dàn, lót ván, đóng đinh... đều làm thủ công. "Để đẩy nhanh tiến độ, suốt 4 tuần qua, chúng tôi tranh thủ làm luôn ca trưa", ông Phúc nói, cho biết thời tiết thuận lợi, việc dựng lại cầu chỉ mất 20-30 ngày.

Công nhân dùng que sào cắm xuống đáy sông để đo chiều dài trụ cầu phù hợp, tránh tình trạng mất cân bằng khiến cầu bị nghiêng sau khi hoàn thành. Mỗi năm đến mùa mưa, nước lũ chảy xiết thường đánh sập cầu. Việc đo đạc được thực hiện kỹ lưỡng sẽ giúp công nhân làm cầu trở nên chắc chắn hơn.

Để thi công trụ cầu, thợ phải dầm mình dưới nước nhiều giờ. "Trong thời tiết lạnh như thế này, việc ngâm mình dưới nước liên tục khiến cơ thể mau mất sức. Do đó chúng tôi phải luân phiên mỗi buổi thay hai người để làm công việc này", nam công nhân cho biết.

 

Một đoạn tại cầu gỗ Ông Cọp thành hình. Phần ván cầu làm từ thân cây phi lao, bạch đàn; thành cầu làm bằng thân tre già. Cầu chỉ thiết kế để xe máy và người đi bộ sử dụng.

Cây cầu hiện phục vụ nhu cầu đi lại cho hàng nghìn hộ dân ở khu vực lân cận. Ngoài ra, khu vực này cũng là điểm thu hút nhiều du khách đến tham quan, chụp ảnh lưu niệm.

 

Ghềnh Đá Đĩa: ngắm nhìn hoàng hôn thơ mộng tại Phú Yên

 

Ghềnh Đá Đĩa là đa đim du lch Phú Yên thuộc địa phận của thôn Phú Hạnh, xã An Ninh Đông, huyện Tuy An. Nơi đây cách thành phố Tuy Hòa khoảng 40km, gây ấn tượng với những khối đá đen được thiên nhiên sắp xếp rất trật tự nằm bên bờ biển trong xanh, nhìn từ xa trông rất giống một chiếc đĩa khổng lồ.

 

Mới đây, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa trở thành điểm tham quan hấp dẫn của cả nước. Việc này sẽ giúp phát huy những giá trị độc đáo của gành Đá Đĩa, thúc đẩy phát triển du lịch Phú Yên.

anh tin bai

Bức ảnh “bản đồ Việt Nam” chụp từ Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa. Ảnh: HUỲNH LÊ VIỄN DUY

 

Gành Đá Đĩa được hình thành bởi những cột đá màu đen tuyền, hình lục giác, xếp chồng lên nhau như những chồng đĩa khổng lồ. Các vỉa đá nứt theo mạch dọc, mạch vòng, tạo thành những cột thẳng đứng hoặc nghiêng ở ngay bên biển đã tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn của danh thắng này.

 

Giá trị địa chất độc đáo riêng có 

Theo kết quả nghiên cứu địa chất, đá ở gành Đá Đĩa là loại đá bazan được hình thành do hoạt động phun trào của núi lửa cách nay hàng triệu năm. 

Nham thạch phun ra từ miệng núi lửa chảy tràn ra biển, gặp nước biển lạnh bất ngờ bị đông cứng lại, đồng thời xảy ra hiện tượng ứng lực tạo nên sự rạn nứt toàn bộ khối nham thạch theo mạch dọc, xiên ngang thành những cột đá đứng liền khít nhau nửa chìm dưới nước nửa nổi trên bờ, tạo nên một gành Đá Đĩa có một không hai của Việt Nam và số ít gành đá tương tự trên thế giới. 

Gành Đá Đĩa (thuộc xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, cách trung tâm TP Tuy Hòa khoảng 40km về phía bắc) rộng khoảng 50m và trải dài hơn 200m (đang phát lộ thêm nhiều diện tích), là một danh thắng thiên nhiên kỳ thú về cảnh quan, độc đáo về địa chất ở Việt Nam.

 

Từ trên cao, du khách sẽ nhìn thấy gành đá nhoài ra biển, càng ở phía gần mép nước, những khối đá đen tuyền càng đều, trên bề mặt phiến đá thỉnh thoảng có nhiều lỗ nhỏ do bị tác động bởi nước biển. Nhiều người ví đây như những ô cấu trúc của tổ ong, và cả khu vực là một tổ ong khổng lồ, vô cùng kỳ vĩ. 

Đặc biệt, thắng cảnh gành Đá Đĩa, được nhiều nghệ sĩ nhiếp ảnh trong nước tìm đến sáng tác. Trong đó, nghệ sĩ nhiếp ảnh Huỳnh Lê Viễn Duy, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Phú Yên, hội viên Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam đã ghi lại một bức “để đời” của gành Đá Đĩa, với hình chữ S giống như bản đồ Việt Nam. 

Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa không chỉ có giá trị về địa chất mà ở đây còn mang nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử… “Gành Đá Đĩa là điểm du lịch trọng điểm, độc đáo của Phú Yên. Hầu như khách du lịch đến Phú Yên đều phải một lần đến tham quan danh thắng này”, ông Cao Hồng Nguyên, Trưởng phòng Quản lý du lịch (Sở VH-TT&DL) cho biết.

 

Quy hoạch điểm đến du lịch hấp dẫn cả nước

 

Quyết định phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa do Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký ngày 4/12 nêu cụ thể các nội dung phải thực hiện; đồng thời giao UBND tỉnh - cơ quan quản lý lập quy hoạch và Sở VH-TT&DL Phú Yên - chủ đầu tư, thực hiện nhiệm vụ này trong vòng 24 tháng, kể từ ngày ký. 

Theo đó, phạm vi nghiên cứu lập quy hoạch gần 809ha (không bao gồm diện tích khoanh vùng bảo vệ của Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa). 

Đối tượng nghiên cứu lập quy hoạch bao gồm toàn bộ Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa và không gian cảnh quan thiên nhiên, môi trường - sinh thái xung quanh. 

Mục tiêu lập quy hoạch nhằm nhận diện đầy đủ giá trị và bảo tồn các giá trị đặc sắc về địa chất của danh thắng gành Đá Đĩa; bảo vệ tài nguyên mặt nước, đa dạng sinh học, địa chất, địa mạo và di sản văn hóa của cộng đồng trong khu vực; hoàn thiện hệ thống hồ sơ, dữ liệu làm cơ sở chuyển đổi số và tự động hóa trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích. 

Việc lập quy hoạch nhằm phát huy giá trị danh thắng gành Đá Đĩa, trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn của tỉnh Phú Yên, vùng Nam Trung Bộ và cả nước; kết nối với các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh khác tại địa phương, hình thành chuỗi sản phẩm du lịch, kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và nâng cao ý thức, trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo tồn các giá trị độc đáo của danh thắng và di sản văn hóa truyền thống khu vực. Đồng thời, quy hoạch sẽ xác định ranh giới bảo vệ di tích làm cơ sở pháp lý để quản lý, bảo vệ; là cơ sở pháp lý thu hút nguồn lực đầu tư. 

 

CHÙA ĐÁ TRẮNG

Chùa sắc tứ Từ Quang được xây dựng từ năm 1797 (năm Đinh Tỵ) nằm trên một triền đồi toàn đá trắng nên còn được gọi là chùa Bạch Thạch (Đá Trắng) thuộc thôn Cần Lương, xã An Dân, huyện Tuy An, cách trung tâm thành phố Tuy Hoà khoảng 35 km về phía Bắc, cách Quốc lộ 1A khoảng 500 m. Chùa ở độ cao gần 100 m so với mặt nước biển. Lưng chùa hướng về phía Bắc dựa vào dãy núi Xuân Đài. Mặt trước chùa hướng về phía Nam, nhìn ra con sông Cái (sông Ngân Sơn) và sông Nhân Mỹ. Đứng ở sân chùa nhìn bao quát một vùng sông, núi xanh biếc thật tuyệt vời.

Tổng diện tích đất chùa khoảng 5.000 m2. Phía Tây là nơi xây dựng tháp thờ các vị hoà thượng khai sáng và trụ trì ở chùa Từ Quang. Khởi thuỷ là Hoà Thượng Pháp Chuyên tự Luật Truyền hiệu Diệu Nghiêm phái Lâm Tế đời thứ 36. Xung quanh chùa là vườn xoài rất nổi tiếng, đã đi vào thơ ca Phú Yên như là một sản phẩm rất đặc biệt “Xoài đá trắng, Sắn phường Lụa”. Dưới triều đình nhà Nguyễn, hàng năm đến vụ xoài người ta thu hoạch chuyển về kinh dâng Vua, nên xoài Đá trắng có tên là “Xoài Ngự” “Xoài Tiến” và được mang hiệu là “Bạch Thạch Yêm Ba”.

Chùa Đá Trắng được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hoá cấp Quốc gia năm 1997.


Về mặt bề thế vào thời kỳ đó, chùa Từ Quang được xếp vào loại lớn nhất trong tỉnh. Và năm Thành Thái được vua ban sắc tứ cho ngôi chùa này. Sau nhiều lần trùng tu, chùa Từ Quang đẹp hơn, uy nghiêm tráng lệ hơn. Chùa Từ Quang, phía bắc tựa vào dãy núi Xuân Đài, những cụm đỏ màu trắng nhấp nhô ẩn hiện trong những chùm cây um tùm càng làm tăng thêm vẻ cổ kính thâm nghiêm.

Ba mặt còn lại là triền núi thoai thoải đổ về hướng đụng với những bụi nhỏ, cỏ xanh tạo cảm giác cho du khách thập phương như đang đứng ngắm một thảo nguyên thu nhỏ trong những bức danh họa cổ điển lúc trời quang mây tạnh nắng hanh nhẹ. Còn phía nam, trước mặt chùa là con sông cái Ngân Sơn – Phú Mỹ bao bọc tựa một dải lụa bạc trong nắng ban mai. Những buổi chiều ánh sáng phản chiếu mặt nước biếc dòng sông và dãy núi đá trắng trong khoảnh khắc trời mây sông núi liền một màu trông rất thơ mộng.

Cách thờ phụng hậu tổ, về hình thức cũng giống như các chùa khác. Nhưng về nét huy hoàng có phần trội hơn với màu sắc hài hoà khiến cho khách cảm thấy như được chìm đắm trong ánh đạo vàng vô biên và mầu nhiệm. Vườn chùa có 8 ngôi tháp xây dựng trên khu đất rộng ở phía tây ngôi chùa. Trong số đó có một ngôi thật đồ sộ, những ngôi khác nhỏ hơn. Duy có điều bia mộ của ngôi tháp bị rêu phong xói mòn không còn được vững chắc.

Riêng ngôi tháp của Đại sư Thiện Tu vừa tịch được xây theo kiểu mẫu những mộ tháp của phái Đại thừa, đặc trưng của Campuchia, TháiLan; dáng tháp có nhiều vòng tròn lớn nhỏ chồng lên nhau trông như những vầng hào quang của phật.

Ngôi chùa từ Quang có Đại hồng chung nặng 330 cân, do hoà thượng Pháp Ngữ ra Huế đúc vào năm Duy Tân thứ chín.

 

ĐỊA ĐẠO GÒ THÌ THÙNG

Địa đạo Gò Thì Thùng là một kỳ tích của quân và dân Phú Yên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia

Kỷ niệm 79 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, sáng 3/2, tại di tích lịch sử địa đạo Gò Thì Thùng, xã An Xuân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã diễn ra lễ đón nhận bằng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia địa dạo Gò Thì Thùng và khai mạc Hội thi đua ngựa truyền thống.


Được khởi công xây dựng vào ngày 10/5/1964 và hoàn tất vào tháng 8/1965, địa đạo Gò Thì Thùng có chiều dài gần 2km và 10km giao thông hào, tạo thành một mặt trận kiên cố, là cơ sở vững chắc cho bộ đội ta và dân quân du kích địa phương bố phòng đánh địch, đánh tan nhiều cuộc hành quân của địch trong chiến tranh cục bộ, làm nên những chiến công vang dội vào mùa khô năm 1966.

Tuy nhiên, để phát huy các giá trị lịch sử văn hóa của di tích địa đạo Gò Thì Thùng hiện còn rất nhiều việc phải làm. Hiện tại, giao thông đi lại ở địa đạo còn rất khó khăn, cuộc sống của người dân tuy có được cải thiện nhưng còn ở mức thấp, nguồn kinh phí đầu tư, tôn tạo địa đạo còn hạn chế… đang là những trăn trở của địa phương. Tỉnh Phú Yên đang có kế hoạch xây dựng di tích Gò Thì Thùng trở thành điểm đến trong chương trình hướng tới kỷ niệm 400 năm Phú Yên và Năm du lịch quốc gia 2011, đồng thời nâng cấp lễ hội đua ngựa truyền thống Gò Thì Thùng lên tầm tỉnh và khu vực.

Ông Lê Kim Anh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên cho biết: UBND tỉnh đang tập trung đầu tư để di tích này trở thành di sản của quốc gia và là điểm đến của nhân dân trong và ngoài nước. Hiện nay, tỉnh cũng đã có đầu tư để nâng cấp đàn ngựa và sẽ tập trung để quảng bá hoạt động này đến với cả nước, coi như một điểm đến, một hoạt động trong chương trình kỷ niệm 400 năm Phú Yên và Năm du lịch quốc gia 2011./.

 

THÁC H’LY

Thác H’ly, nằm trên thượng nguồn sông Hinh, thuộc buôn Kít, xã Sông Hinh, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, nơi tiếp giáp với tỉnh Đắk Lắk. Khu vực này bao gồm nhiều con suối nhỏ, nằm phía Đông Nam dãy Trường Sơn. Từ thị trấn Hai Riêng huyện Sông Hinh đến buôn Kít khoảng 15 cây số đường chim bay, du khách sẽ thấy một dòng sông nhỏ nằm vắt ngang qua núi tạo thành một cái thác sâu khoảng 20 mét, gọi là thác H’Ly.

Nước từ trên cao, đổ xuống tung bọt trắng xóa trước khi đổ ra hồ thủy điện Sông Hinh, rồi xuôi dòng nhập vào sông Ba. Chung quanh thác, là những cây rừng già cao vút, với những chùm phong lan tỏa hương thơm dìu dịu. Du khách có thể lần theo những bậc đá đen, xuống lòng thác ngâm mình trong dòng nước mát lạnh và trong vắt vào mùa hè. Thác H’ly, không chỉ có cảnh quan đẹp, nó còn gắn liền với một chuyện tình lãng mạn. Theo các già làng ở Sông Hinh kể lại, thì thác H’Ly là cả một thiên tình sử diễm lệ của đôi trai gái yêu nhau, mà không bao giờ được gần nhau.

Truyền thuyết

Từ thuở xa xưa, trên vùng đất tươi tốt Sông Hinh và Ma Đrắk, có hai bộ tộc thường xảy ra mâu thuẫn. Người dân hai bộ tộc, luôn mơ ước được sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng, cùng nhau hưởng cảnh ấm no hạnh phú. Niềm mơ ước này, tưởng có thể trở thành sự thật, khi chàng trai của vị tù trưởng bộ tộc này, đem lòng yêu thương cô con gái cưng của vị tù trưởng bộ tộc kia. Chàng trai được mô tả, là con người thông minh, tuấn tú và cô gái kia là một thiếu nữ đang tuổi mười tám đôi mươi, cực kỳ xinh đẹp, đến nỗi chim công chim trĩ cũng phải hờn ghen. Nàng đi đến đâu, cũng có hàng đàn bướm sắc màu sặc sỡ bay theo, những bông hoa rừng đẹp nhất, cũng phải nghiêng đài hoa cúi chào, lay động tỏa hương thơm ngào ngạt. Nàng tên H’Ly. Nàng H’Ly còn khéo tay dệt những tấm vải đẹp nhất, nướng những con thú rừng ngon nhất, đức hạnh vẹn toàn…Mối tình của chàng trai, không bao lâu sau đó, được nàng đáp lại khi nghe tiếng đàn réo rắt như mời như gọi, đến da diết trong những đêm trăng sáng và ngay cả khi tối trời. Hai người thường hò hẹn nhau ngay trên bờ sông Hinh, nơi có cánh rừng đại ngàn, có con sông nước trong xanh với làn hương của muôn loài hoa tỏa bay thơm ngát. Họ thề ước cùng nhau sống trọn kiếp người trong hạnh phúc lứa đôi và không quên làm cầu nối, để xóa tan đi những hận thù của hai vị tù trưởng là cha của chàng và nàng, mang lại cuộc sống ấm no cho hai bộ tộc.

Tuy nhiên, những tâm nguyện tốt đẹp của hai người, đã trở thành tro than, khi hai bên, lại sử dụng binh lính để giải quyết những bất hoà. Vị tù trưởng gọi con trai là người yêu của H’Ly đến, phán rằng: “Con hãy đem quân lính tinh nhuệ nhất giữ vững bờ cõi và chớ để họ lấn sang”. Vâng lệnh cha, chàng thanh niên mang quân ra đi, nhưng trong lòng mong sao cho hai bên đừng đánh nhau. Chàng vỗ về và phủ dụ binh lính dưới quyền, rằng ta cứ giữ vững cương vực của mình là hoàn thành nghĩa vụ, chớ có liều lĩnh hoài phí mạng sống các người.

Quân của chàng án ngữ dọc địa giới của hai bộ tộc, canh phòng cẩn mật khiến cho quân của bộ tộc kia không thể tấn công nổi. Tuy nhiên sự canh phòng, án ngữ quá lâu, nên trong lòng binh sĩ bắt đầu lơi lỏng, cẩu thả trong việc canh giữ. Nhiều đêm, họ còn gảy đàn, uống rượu ca hát dưới ánh lửa rập rờn. Đối phương chỉ chờ có vậy và phát lệnh tấn công. Hàng hàng quân lính của đối phương ào lên như bão như thác, khiến quân lính của chàng không kịp trở tay và chàng đã bỏ mạng trong trận giáp chiến đó. Đầu chàng được mang về cho vị tù trưởng xử tội.

Đoàn quân chiến thắng ca khúc khải hoàn. Vị tù rưởng rất hài lòng với chiến công của binh sĩ dưới quyền và mở tiệc khao quân thật lớn, đồng thời, mang thủ cấp của chàng trai là người chỉ huy của đối phương bêu lên ngọn giáo. Vừa mới nhìn thấy đó là đầu của người yêu mình, H’Ly ngã lăn ra bất tỉnh và ngã bệnh. Vị tù trưởng, cho mời các thầy lang giỏi nhất trong lãnh địa của mình đến chữa trị cho con gái yêu, nhưng tất thảy đều vô hiệu. Càng ngày, nàng H’Ly càng vàng võ. Và cho tới một hôm nọ, nàng bỏ nhà ra đi, tới nơi dòng sông ngồi than khóc cho số phận. Nước mắt nàng làm cho cây rừng chung quanh khô lá, những bông hoa thôi nở, chim chóc ngừng hót… Nước mắt nàng biến thành con suối, thành dòng sông và cuộn trào tuôn đi, xói bờ đá cứng thành thác sâu, nước đổ réo rắt như oán như than, sụt sùi tung bọt trắng ngầu cả một quãng sông dài. Nàng than khóc mãi, rồi gục chết bên bờ sông. Sau này, cận thần tìm thấy xác nàng đã hóa thành phiến đá đen, phía trên bậc thác. Các đời sau này, nhớ lại mối tình bi thảm đó, bèn lấy tên nàng đặt tên cho thác là thác H’Ly.


Một số già làng khác thì kể rằng: Chàng trai và cô gái yêu nhau nhưng hai vị tù trưởng ra sức cấm cản. Duyên không thành, chàng trai bỏ lên núi Ngok Linh, còn nàng thì ra bờ suối, nơi hai người đã từng thề ước than khóc. Nước mắt nàng chảy thành suối thành sông, xói mòn cả vỉa đá biến thành vực thành thác rồi gục chết tại chỗ. Thương cảm mối tình chung thủy của nàng với người yêu, dân làng đặt tên thác là thác H’Ly.

 

BẾN NƯỚC BUÔN CHƠ

Bến nước Buôn Chơ thuộc xã Krông Pa, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, nằm sát bên bờ sông Cà Lúi, một nhánh nhỏ của thượng nguồn sông Ba. Quanh năm sông Cà Lúi nước trong leo lẻo, đứng trên bờ có thể nhìn thấy rõ ràng khuôn mặt mình dưới làn nước trong vắt. Người dân buôn Chơ đều lấy nước từ con sông này dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Đứng trên cao nhìn xuống, thấp thoáng trong những cánh rừng thưa, mỗi sáng mỗi chiều trai gái trong buôn mang gùi nước ra bến sông, rực rỡ trong những tấm áo màu trong nắng vàng cao nguyên, toả tràn lên những tán lá rừng xanh ngắt…


Bên bến nước Buôn Chơ có đó một tảng đá to, bằng phẳng trên phiến đá ấy có in sâu vết lõm hình bộ xương của con lươn khổng lồ. Bên cạnh đó là tảng đá khác cũng to lớn và phẳng phiu như vậy, in hình một dấu chân người khổng lồ. Theo truyền thuyết, đó là dấu chân Y Rít, người đã tìm ra nguồn nước.
Truyền thuyết về dấu chân Y Rít

Tương truyền, thuở xưa dân làng sống rất khó khăn vì thiếu nước. Mùa mưa, họ đắp bờ ngăn suối để giữ nước nhưng đến mùa khô, nước bị con rắn thần hút hết, chỉ còn trơ lại lớp sỏi cát khô khốc. Dân trong các buôn lại lại thất thểu đào bới, vét từng bụm nước đục ngầu bám đầy rong rêu trong các hang hốc. Có nhiều năm phải chặt những đoạn dây rừng, dùng ống bương hứng lấy chút nước ít ỏi để khỏi phải chết khát.Y Rít là chàng trai thông minh, quả cảm luôn ray rứt với đời sống cơ cực của dân làng.
Trước cảnh tình cơ cực của người dân, Y Rít quyết tâm lên đường đi tìm nguồn nước. Chàng đi từ núi cao xuống lũng sâu, từ trảng tranh xơ xác này tới đồi núi chập chùng nọ. Đói chàng hái lá rừng ăn tạm, khát chàng chặt những dây leo chằng chịt tìm chút nước cho đôi môi khỏi bị nứt nẻ. Chàng đi và đi mãi. Hết ngày này sang ngày khác. Ngày đi đêm nghỉ, ròng rã nhiều tháng liền.

Cho tới một ngày kia chàng mệt lả vì đói và khát, nằm gục bên gốc cây già, thiếp đi. Trong cơn mê, chàng bỗng nhìn thấy một khối lửa đỏ rực từ trời cao bay xuống. Và từ trong quả cầu lửa rực rỡ kia, Giàng bước ra, khoan thai đến trước mặt chàng nói: “Hỡi chàng trai quả cảm của Giàng, con hãy bước tiếp đi về phía mặt trời, cho tới khi nào nghe thấy tiếng chim hót rộn ràng, tiếng muôn thú hoan ca thì dừng lại. Đàn bướm đủ sắc màu sẽ đưa con tìm đến nơi con cần tìm”. Nói vừa dứt câu, Giàng khoan thai bước vào trong quả cầu lửa và bay lên trời cao. Y Rít bừng tỉnh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy một cao nguyên bao la, cây cỏ xanh rì. Tuyệt nhiên không còn nghe và thấy điều gì khác hơn. Y Rít quơ vội những nắm lá rừng trước mặt mình cho vào miệng nhai ngấu nghiến rồi vội vã bước thấp bước cao về phía mặt trời với thể xác sắp suy kiệt.

Cuối cùng chàng tìm thấy một dòng sông nước trong vắt cùng với đàn bướm đủ màu sắc bay lượn chung quanh. Y Rít từ trên bờ cao lao xuống dòng nước trong, đắm mình trong đó nghe các đường gân, thớ thịt như đang từ từ dãn ra. Bỗng có một con lươn to hơn con voi rừng, dài hơn những sợi dây mây, xé nước lao tới đâm bổ vào người chàng. Y Rít nhoài người né sang bên với nỗi bàng hoàng khôn tả xiết. Con lươn quay đầu lại, ngược dòng nước lao tiếp vào tấn công chàng. Y Rít nhún người phóng lên bờ cát. Con lươn lao theo quấn chặt chân chàng giữ lại, cố xé toạc bàn chân chàng. Y Rít dùng hết bình sinh uẩy con lươn văng ra khỏi chân. Nhưng nó đâu dễ chịu thua. Cuộc chiến dằng dai bất phân thắng bại, kéo dài mãi đến ngày thứ bảy thì cả hai bên gần như kiệt sức. Nhưng Y Rít với sự sống còn của bộ tộc mình quyết tâm không để con lươn kia giết chết chàng trước khi bộ tộc biết được nguồn nước. Và hình như con lươn kia cũng linh cảm được rằng, nếu không giết chết được chàng trai trẻ kia thì vĩnh viễn giang sơn của mình sẽ bị loài người chiếm giữ. Điều này đồng nghĩa với đất sống của nó không còn nữa. Cả hai đều cảm nhận được điều hệ trọng này nên ra sức lần cuối cùng, quyết quật chết kẻ thù. Chàng Y Rít đứng trên tảng đá thủ thế chờ con lươn lao tới, và nó đã lao tới với tất cả sức lực còn lại. Y Rít dẫm mạnh chân xuống tảng đá, tóm được đuôi con lươn, nắm chặt và nhấc bổng lên quay nhiều vòng trên không. Con lươn rời khỏi làn nước trong, hình như không còn sức lực như bình thường, nhẹ hẫng. Y Rít nghiến răng, bám chặt chân trên đá và quật mạnh con lươn xuống tảng đá kề bên rồi nằm lịm đi. Chàng nằm ngất không biết bao lâu…

Trong khi đó dân làng đang chờ đợi tin vui của Y Rít tìm ra nguồn nước. Nhưng ngày này qua tháng nọ, bóng dáng chàng vẫn biệt tăm trên cao nguyên bao la và núi rừng hùng vĩ. Không thể chờ đợi lâu hơn nữa, các trai làng chia nhau đi tìm chàng, bởi Y Rít đối với họ là cuộc sống, là niềm tin, là sức mạn. Toán trai làng khăn gói tỏa đi các hướng và một ngày kia họ tìm thấy xác chàng trên tảng đá, bên cạnh là xác con lươn khổng lồ trên dòng sông nước cứ vô tình trôi. Họ bàng hoàng nhìn cảnh tượng bày ra trước mắt như thể đó không thể là sự thật. Nỗi đau khổ chen lần niềm vui sướng trào lên. Y Rít quả cảm đã hiến dâng thân xác cho Giàng để dành lấy sự sống cho cả bộ tộc.

Ngoài ra còn có dị bản khác như:

Sau khi Y Rít quật chết con lươn khổng lồ, chàng lịm đi không biết bao nhiêu ngày tháng. Khi tỉnh dậy, chàng nghe văng vẳng bên tai: “Con hãy vốc nước rửa mặt, hái ngọn rau rừng bên bờ sông nhai và uống nước sông này sẽ mau chóng phục hồi sức lực. Con hãy mau làm đi để còn kịp về báo tin vui cho dân làng. Y Rít mở mắt ra nhưng không thấy một ai ngoài mình chàng và xác con lươn nằm bất động trên tảng đá kề bên. Chàng làm đúng theo lời dặn và vội vã lên đường trở về buôn làng cũ báo tin chiến thắng, tìm ra nguồn nước cho cuộc sống dân làng.

Dân làng trong bộ tộc mừng vui khôn xiết, liền mổ trâu bò, mang ra những ché rượu ngon nhất, nổi lửa nhảy múa suốt mấy ngày liền trước khi lên đường đến nơi định cư mới. Cả bộ tộc coi chàng như vị cứu tinh, như một Giàng giáng thế để mang lại sự sống cho họ bởi sau này, những cánh đồng cỏ bao la sẽ dần dần thay thế bằng những cánh đồng trồng bắp lúa tươi tốt. Khi cả bộ tộc đến nơi thì xác con lươn không còn nữa, chỉ thấy vết lõm in hình bộ xương lươn khổng lồ, tảng đá kế bên là bàn chân lõm sâu của Y Rít.

Một dị bản khác kể rằng, Y Rít là con của một vị tù trưởng, 18 tuổi chàng đã cao lớn, sức vóc hơn người; đặc biệt với sức mạnh phi thường của mình, không những tiếng tăm vang xa tới các bộ tộc khác mà còn khống chế được tất cả mọi loài thú dữ. Mỗi khi chàng đi săn, không một con thú nào có thể thoát được. Ngoài sức mạnh và tài nghệ bẩm sinh, Y Rít còn là chàng trai thông minh, có lòng nhân hậu, luôn yêu thương đùm bọc tất cả mọi người trong bộ tộc, khoan dung đối với các kẻ thù hiếu chiến của các bộ tộc khác…Cuộc hành trình tìm ra nguồn nước của Y Rít cũng được kể như trên, nhưng điểm khác biệt sau khi giết chết con lươn, Y Rít đưa dân làng đến lập làng mới ven sông Ba rồi lặng lẽ bỏ đi, chỉ để lại dấu chân rất to in trên tảng đá cạnh tảng đá hình bộ xương con lươn khổng lồ.

Ngày nay, tảng đá in hình dấu chân Y Rít đã trở thành biểu tượng linh thiêng của dân làng. Mỗi khi gặp những trắc trở tình duyên, chuyện làm ăn… người dân buôn Chơ đều đến bến nước, đặt bàn tay lên bàn chân khổng lồ của chàng Y Rít cầu nguyện và được giúp đỡ.

 

 

ĐẦM Ô LOAN

Đầm Ô Loan thuộc địa phận huyện Tuy An, có diện tích toàn mặt nước là 1.570ha, cách thành phố Tuy Hoà về phía bắc 20 km. Nước trong đầm thuộc loại nước lợ (nước xà hai) do đầm ăn thông ra biển bằng cửa Lễ Thịnh, đưa nước mặn vào đầm mỗi khi thuỷ triều lên; đầm cũng nhận nước ngọt từ sông Cái và các con suối nhỏ chung quanh đổ vào. Do thế đất đồi là đất sỏi nhớt nên mùa mưa làm xói lở, kéo theo lượng phù sa khá lớn bồi lắng lòng đầm. Do vậy, lòng đầm chỗ sâu nhất khoảng 6 mét, chỗ cạn, thường là ven bờ, khoảng trên 1 mét. Riêng phía trên cửa Lễ Thịnh thuộc địa phận An Hải mực nước sâu tới 10 mét.

Tuy vậy, khi đứng trên đỉnh đèo Quán Cau, du khách phóng tầm nhìn bao quát khắp cả vùng thì đầm Ô Loan như một mặt hồ rộng yên ả được bao bọc bởi những dãy đồi thấp thoai thoải với những ruộng mía xanh ngắt…Nhìn từ phía nam, đầm Ô Loan giống như chim phượng hoàng đang xoải cánh, còn trên bản đồ Ô Loan giống con thiên nga đang thong thả bay trên bầu trời cao xanh thăm thẳm.
Cũng từ đỉnh đèo Quán Cau nhìn xuống, khi tầm mắt chạm vào núi Từ Bi có một doi đất chảy ra đầm Ô Loan, thì lại thấy đầm trông giống như con chim hạc vừa giang đôi cánh rộng vừa vục đầu xuống đầm uống nước. Núi Từ Bi là một nhánh nhỏ của đèo Quán Cau, có con suối cùng tên Từ Bi, bắt nguồn từ hòn Chồng. Suối chảy ngoằn ngoèo qua các khe núi rồi đổ ra đầm, tạo nên cảnh quan thơ mộng.
Từ mạn Tây Bắc chạy ra tới An Ninh Đông là bãi cát vàng óng, có rừng phi lao chạy dài theo men bờ nước, xưa kia là nơi trú ẩn của các loài chim thú như le le, chàng bè, bồ nông, cò, diệc và nhiều nhất là vịt nước. Chúng sinh sống thành từng đàn, bắt cá dưới lòng đầm.

Khi đứng ngắm mặt đầm buổi bình minh, du khách dễ có những tưởng tượng, rằng các dãy đồi phía Đông-Nam như hình dáng con chim khổng lồ đang chuẩn bị cất cánh bay lên trời cao lộng gió và nắng. Nhưng khi hoàng hôn buông xuống, lại thấy cánh chim xoải rộng như đang xoè đậu bên cạnh mặt hồ lăn tăn gợn sóng… Đây không phải là ảo giác mà chỉ vì quanh đầm có những ghềnh đá nhô xa ra ngoài đầm tạo thành những mỏm mới thoạt nhìn có nhiều hình dạng khác nhau tuỳ theo nhãn quan và tâm trạng mỗi người trong từng thời điểm khác nhau: như mỏm Cây Sanh có lúc như cánh chim vươn cao, lúc nhìn như tà áo lụa xanh bay lất phất trong nắng sớm. Có lẽ chính bởi thế núi đồi, vị trí của đầm nên nhiều tao nhân mặc khách đã không tiếc lời ngợi ca qua nhạc họa thơ văn, mà tiêu biểu là nhà thơ Xuân Diệu khi đứng nhìn mặt đầm đã thốt lên: “Mặt đầm, đôi cánh chim Loan mở”. Còn trước đó khá lâu, thi sĩ Tản Đà đã ghé ngang qua đây và thốt lên rằng: “Lấy chi vui với thu tàn; Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu”. Dung dị và mộc mạc hơn, trong dân gian còn lưu truyền câu ca dao đánh dấu một giai đoạn lịch sử hào hùng của nhân dân Phú Yên và riêng của Lê Thành Phương, người anh hùng của quê hương đã ngẩng cao đầu trước lưỡi gươm kẻ thù:

 

“Ô Loan nước lặng như tờ
Thương người chiến sĩ dựng cờ Cần Vương
Trải bao gối đất nằm sương
Một lòng vì nước nêu gương anh hùng.”

 

Trong đầm còn có những rạng ngầm dưới mặt nước, là nơi để những con hàu bám vào sinh sống, một loại hải sản ngon, mát bổ. Đầm Ô Loan có nhiều hải sản sinh sống như tôm, cá, ghẹ, cua huỳnh đế, điệp, cá mú… nhưng ngon và nổi tiếng nhất vẫn là con sò huyết Ô Loan cơm dày, thịt ngọt và rất thơm, thơm hơn sò huyết các nơi khác, được du khách trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Trước đây, sò huyết Ô Loan không chỉ có mặt khắp nơi trong nước mà còn xuất khẩu sang Singapore, Thái Lan…
Hiện nay, đầm Ô Loan được Bộ VHTT xếp vào di tích danh thắng cấp quốc gia. Hàng năm, vào ngày mùng 7 tháng Giêng âm lịch, nhân dân sống quanh đầm tổ chức lễ hội đua ghe truyền thống, thu hút nhiều đội ghe đua ở các địa phương khác đến tham gia. Trước đó, ngư dân cũng tổ chức cúng thần, cầu ngư, hò bá trạo…Trong dân gian có nhiều huyền thoại về tên gọi đầm Ô Loan, nhưng gần gũi nhất là câu chuyện về nàng Loan và chim Ô thước đã được truyền tụng từ đời này sang đời khác. Theo lời kể của ông Cao Phi Yến một nhân sĩ và là nhà nghiên cứu văn hoá dân gian kể lại rằng: Ngày xưa, có nàng tiên trên trời rất xinh đẹp tên nàng Loan, nhưng tính tình hay tinh nghịch. Một ngày nọ nàng Loan mượn con chim Ô thước bay xuống trần gian dạo chơi khắp nơi mà không hề để ý chim đã mỏi cánh, đói và khát, nên khi ngang qua Tuy An, chim không còn đủ sức để bay, nên hạ cánh xuống dãy núi Từ Bi, sau này mượn tên chim Ô thước của nàng Loan ghép chung với tên nàng, gọi tắt là Ô Loan để đặt tên cho đầm.

Dị bản: Cũng y với câu chuyện này, nhưng chi tiết được thêm thắt nên câu chuyện có một vài thay đổi: Nàng Loan vốn là tiên nữ trên trời, nàng thích ngao du sơn thuỷ để nhìn ngắm cảnh đẹp sông nước, núi non. Một ngày kia, nàng Loan cỡi con chim quạ bay ngang qua đất Phú Yên, thấy trên mỏm Cây Sanh có một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú đang cuốc đất khẩn hoang trồng cây lương thực. Nàng cho quạ hạ cánh xuống gần đó và núp trong bụi cây quan sát. Càng nhìn, lòng nàng càng vương vấn; càng ngắm nàng càng thấy mình không thể rời xa chàng được nữa. Thế là nàng Loan quyết định ở lại cõi hồng trần, xe duyên kết tóc với chàng thanh niên nọ, ra sức khai phá đất đai, lập nên đất Tuy An và sanh con đẻ cái lập thành làng mạc trù phú.

Những truyền thuyết, huyền thoại về một vùng đất sẽ làm tăng thêm sức hấp dẫn và vẻ đẹp của vùng đất ấy, cho nên quanh đầm Ô Loan, những truyền thuyết không chỉ dừng lại ở đây, mà con đem cả sự tích Cao Biền, một sự tích có vẻ hoang đường nhưng được người đân địa phương nhiều thế hệ kế tiếp nhau mượn cớ tô vẽ nhằm góp phần điểm xuyết cho Ô Loan thêm mỹ miều thơ mộng hơn.

 

NHÀ THỜ MẰNG LĂNG

Nằm cách thành phố Tuy Hòa 35km về phía Bắc, nhà thờ Mằng Lăng là một trong những nhà thờ cổ, được xây dựng vào năm 1892 tại xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Nơi đây lưu giữ cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam “Phép giảng tám ngày” của linh mục Alexandre de Rhodes in năm 1651 tại Roma, Italia.

Hướng dẫn đường đi đến nhà thờ Mằng Lăng

Nhà Thờ Mằng Lăng nằm ở gần sông Cái, cách thành phố Tuy Hòa khoảng 40 phút lái xe. Nếu bạn di chuyển đến nhà thờ bằng phương tiện cá nhân, bạn có thể đi theo hướng dẫn sau đây:

Từ đường Hùng Vương (thành phố Tuy Hòa), bạn lái xe về hướng quốc lộ 1A và chạy thẳng cho đến khi gặp ngã ba QL1A và đường Cầu Lò Gốm thì rẽ phải vào đường Cầu Lò Gốm, lúc này bạn sẽ thấy bảng chỉ dẫn đến nhà thờ, chỉ cần đi theo là tới. Đoạn đường này, bạn sẽ đi ngang qua trường mẫu giáo An Thạnh và quán chè Bà Sau, bạn lưu ý 2 địa điểm này để đi tiện cho việc hỏi đường hoặc dò đường nhé!

Nhà thờ Mằng Lăng được xây dựng trong khuôn viên 5.000 m2, theo lối kiến trúc Gothic. Trên đỉnh của nhà thờ là hai tháp chuông hai bên, ở giữa là thập tự giá, biểu tượng của thánh đường. Mặt tiền là những lối vào hình mái vòm, các cửa sổ hình búp măng xung quanh phía trên tường bao bọc nhà thờ. Không chỉ mang phong cách kiến trúc xuất xứ châu Âu, nhà thờ Mằng Lăng còn có những họa tiết chạm trổ tinh xảo, toát lên chất mộc mạc văn hóa Việt trên những cánh cửa chính bằng gỗ.

Khuôn viên nhà thờ thoáng mát, rợp cây xanh, trước sân có một khu hầm nhỏ, được xây dựng khá kỳ công trong lòng một quả đồi giả. Bên trong hầm lưu giữ cuốn sách "Phép giảng tám ngày" và nhiều bức điêu khắc chạm trổ kể lại những câu chuyện về Chân Phước Anre Phú Yên(1625-1644), là một trong những vị quan thầy của giáo lý viên và giới trẻ Công giáo thế giới. 

“Phép giảng 8 ngày” là tên của cuốn sách Quốc ngữ đầu tiên với 319 trang, mỗi trang in thành 2 cột, được in song ngữ bằng tiếng Latin (bên trái) và chữ Quốc ngữ sơ khai (bên phải), do tác giả Alexandre de Rhodes soạn. Trên cuốn sách vẫn còn rất rõ dòng chữ ghi tên tác giả là Alexandre de Rhodes. Trải qua thời gian và cải tiến của nhiều thế hệ người dùng, chữ Quốc ngữ đã tồn tại và phát triển đến ngày nay và trở thành chữ Quốc ngữ chính thức của dân tộc Việt Nam.

 

Nhà thờ Mằng Lăng là một trong những nhà thờ cổ, được xây dựng vào năm 1892 tại xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

 

Nhà thờ sơn màu xanh xám giản dị

 

Những khung cửa hình búp măng kiểu Gothic

 

Bên trong giáo đường rộng lớn của nhà thờ Mằng Lăng

 

Trước sân còn có một khu hầm nhỏ, được xây dựng khá kỳ công trong lòng một quả đồi giả

 

Không gian huyền bí bên trong hầm

 

Dưới hầm có một nơi dành cho giáo dân cầu nguyện

 

Trên bức tường hầm khắc hình ảnh ghi lại Thầy giảng Anrê Phú Yên
được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong Á thánh Anre Phú Yên năm 2000

 

Các hình ảnh lưu niệm về Á thánh Anrê Phú Yên

 

Những hình ảnh về lễ phong Chân Phước Á thánh Anrê Phú Yên năm 2000

 

Tóc Á thánh Anrê Phú Yên được lưu giữ trong hầm

 

Cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên của linh mục Alexandre de Rhodes được lưu giữ tại nhà thờ

So với nhiều nhà thờ cổ nổi tiếng khác ở Việt Nam, nhà thờ Mằng Lăng không lớn và thiết kế bên trong cũng đơn giản hơn, nhưng sự cầu kỳ trong trang trí mỹ thuật là yếu tố ít nhà thờ nào khác sánh bằng. Đối với người Công giáo Việt Nam, nhà thờ Mằng Lăng là nơi hành hương vào dịp lễ kỷ niệm Chân phước Anrê Phú Yên và thánh lễ cầu cho giới trẻ Công giáo.

Theo các bậc cao niên trong vùng, tên gọi Mằng Lăng là lấy từ tên của một loài cây trồng rất nhiều ở vùng này cách đây hàng thế kỷ. Trong nhà thờ ngày nay còn giữ một bàn gỗ mặt tròn làm bằng gỗ mằng lăng, có đường kính 1,7m.

Tồn tại gần 130 năm, nhà thờ Mằng Lằng như một chứng nhân lịch sử, một công trình kiến trúc đặc sắc nằm trên mảnh đất “Hoa vàng trên cỏ xanh” nổi tiếng của Phú Yên với những bãi biển trong xanh và cát trắng mịn màng. Nhà thờ Mằng Lăng thực sự là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước trong hành trình du lịch Phú Yên./.

 

Nguồn: và ảnh: Đặng Kim Phương

https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/tin-tuc/mang-lang-nha-tho-luu-giu-cuon-sach-chu-quoc-ngu-dau-tien-cua-viet-nam-230875.html

 

Những điểm ăn uống ở gần nhà thờ Mằng Lăng

Nếu đã đến nhà thờ Mằng Lăng tham quan thì hãy lưu lại một số quán ăn nổi tiếng sau đây nhé bạn:

Quảng Đức Xưa

Địa chỉ: 91 Quốc Lộ 1A, Huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

Quảng Đức Xưa có không gian yên tĩnh, tràn đầy cây xanh và mang vẻ đẹp cổ kính. Ở đây chuyên phục vụ các thức uống thơm ngon và những món ăn đặc sản Phú Yên thơm ngon. Đặc biệt, Quảng Đức Xưa còn trưng bày những chiếc máy may xưa, cát-xét cổ, cối đá thời xưa,...

 

Lục Thạch - Gà và Hải Sản

Địa chỉ: Thôn Phú Hạnh, Huyện Tuy An, Phú Yên

Quán ăn nổi tiếng với những món làm từ mực tươi ngon, đặc biệt có món mực xào chua ngọt thơm lừng khó lòng dừng đũa. Ngoài ra, quán ăn còn có nhiều món ốc hợp vị, giá lại phải chăng. Nhiều du khách chia sẻ, một bàn ăn thịnh soạn bao gồm gà rang sả ớt, lòng gà xào, trái cây và một ấm trà ngon chỉ tốn khoảng 200.000 VNĐ (đây là giá tham khảo, giá cả sẽ thay đổi theo từng thời điểm).

 

Bánh bèo Cầu Lò Gốm

Địa chỉ: Cầu Lò Gốm, Xã An Thạch, Huyện Tuy An, Phú Yên

Quán bánh nằm ngay dưới chân cầu Lò Gốm nên rất dễ tìm. Bánh bèo ở quán dẻo, mềm, không dày, ăn không cũng cực kỳ ngon. Khi ăn, bạn sẽ phết thêm một lớp dầu hẹ, rải tôm khô và đậu xanh lên, ăn cực kì cuốn. À, món ngon này sẽ được chấm với nước mắm có hương vị chua ngọt cay rất cuốn hút.

 

Chè Bà Sáu

Địa chỉ: Xã An Thạch, Huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

Quán chè Bà Sáu nằm gần nhà thờ Mằng Lăng chuyên bán những món chè dung dị với vị ngọt vừa phải, ăn vào một muỗng là thanh mát bất chấp ngày nắng. Giá chè ở đây rất phải chăng chỉ từ 5.000 - 10.000VNĐ/ly (giá sẽ thay đổi tùy vào thời điểm).

 

Cháo lòng gần cầu Ngân Sơn

Địa chỉ: Thị Trấn Chí Thạnh, Huyện Tuy An, Phú Yên

Quán cháo lòng gần cầu Ngân Sơn có lẽ món ăn sáng quen thuộc của người dân ở địa phương này. Cháo được nấu nhừ, có hương vị đậm đà được ăn cùng với lòng heo tươi ngon hấp dẫn. Để món ăn thêm phần cuốn hút, bạn có thể cho thêm nước mắm ớt, bẻ vụn một chút bánh tráng thêm vào cháo giòn giòn.

 

 

HUYỆN SÔNG CẦU

 

Là một trong hai huyện địa đầu phía bắc của tỉnh Phú Yên, phía bắc giáp huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn của tỉnh Bình Định, đông giáp biển đông, tây nam giáp huyện Đồng Xuân, nam giáp huyện Tuy An. Huyện Sông Cầu có diện tích là 187, 3km2 trong đó đa số là đất nông nghiệp và đất hoang.


Địa hình chủ yếu là đồi núi, vài cánh đồng lúa nằm giữa các ngọn núi không cao. Bán đảo Xuân Hải (gồm xã Xuân Hải và Xuân Hòa), đầm Cù Mông, vịnh Xuân Đài. Gồm 1 thị trấn và 9 xã là thị trấn Sông Cầu, xã Xuân Lộc, Xuân Bình, Xuân Hải, Xuân Hòa, Xuân Cảnh, Xuân Phương, Xuân Thịnh, Xuân Thọ 1, Xuân Thọ 2.

Huyện Sông Cầu được tách ra từ huyện Đồng Xuân, ngay khi Phú Yên được tách ra từ Phú Khánh. Các tuyến đường chạy qua huyện Sông Cầu là QL1A nối với huyện Tuy Phước (Bình Định) và huyện Tuy An. QL1D nối với thành phố Quy Nhơn ( Bình Định).

 

Vịnh Xuân Đài


Nằm cách Tp. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên khoảng 55km, vịnh Xuân Đài là một vịnh nhỏ
nằm dưới chân dốc Găng – ranh giới giữa thị xã Sông Cầu và huyện Tuy An, giáp
với nhau bởi hai xã An Dân <Tuy An> ở phía Bắc và Xuân Thọ <Sông Cầu> ở phía
Nam, vịnh có diện tích mặt nước 13.045ha, được tạo thành nhờ dãy núi Cổ Ngựa
chạy dài ra biển chừng 15km tạo nên bán đảo Xuân Thịnh bao bọc lấy vịnh Xuân
Đài và đầm Cù Mông trông giống như hình cái đầu con Kì Lân. Khi đi đường bộ lên
đến đỉnh dốc Găng và nằm trên QL.1A, ta có thể nhìn thấy toàn cảnh của vịnh là
rừng dừa ôm sát bờ vịnh và vòng cung núi men theo khu vực vịnh.


Từ phía Nam đi ra, bắt đầu tại Chí Thạnh đến gần dốc Vườn Xoài chừng 3km có
con đường đất rẽ trái đi về hướng tây bắc khoảng chừng 1km thì đến dốc Xuân
Đài. Dốc ngược theo triền núi cao khoảng 500m. Leo lên dốc Xuân Đài như thể ta
bước từng cấp một lên đỉnh Yen Tử, hai bên có nhiều cây cổ thụ với tán lá che phủ
cả con đường đi vào một vùng rộng lớn. Đỉnh dốc phía Bắc có vườn Cam nổi tiếng
thơm ngon, đã từng là vật phẩm tiến vua cùng với Xoài Đá Trắng. Xuống khỏi dốc,
đi ngược về phía Nam gần 7km thì tới ngã ba Triều Sơn – nơi trước kia triều đình
nhà Nguyễn có đặt hai khẩu thần công để bảo vệ vịnh Xuân Đài và cho cả khu vực
này. Dốc Xuâyn Đài án ngữ trên con đường từ Bắc vào Nam, cho nên muốn ra Bình
Định hay vào Phú Yên đều phải leo lên dốc Xuân Đài mà đi, không có con đường
nào khác. Dốc cao, hiểm trở, mùa mưa thì trơn trợt do đất sỏi thấm ướt, mùa nắng
nóng leo lên được tới đỉnh dốc cổ họng khô rốc, mà trên đỉnh thì không có giếng
nước nào để uống đỡ khát,…


Giá trị văn hóa – lịch sử của vịnh Xuân Đài :

Ngược dòng lịch sử, vịnh Xuân Đài trưoc đây có tên là Bà Đài, một thời từng là
trung tâm hành chính của tỉnh Phú Yên xưa. Theo sử liệu, “… Vào năm 1629, thủ
phủ của tỉnh Phú Yên là thành Hội Phú được xây dựng tại cửa Tiên Châu. Tòa
thành này tồn tại cho đến năm 1836 thì chuyển đến thành An Thổ cách tòa thành
cũ khoảng 2km về phía Tây. Cuối thế kỉ 19, sau khi thiết lập nền bảo hộ lên miền
đất Trung kì, Pháp đã đặt tòa Công sứ ngay tại Vũng Lắm vào năm 1887, đồng thời
cũng đặt Sở Thương chánh để kiểm soát việc buôn bán tại đây” <Tư liệu Bảo tàng
tỉnh Phú Yên>.


Vũng Lắm nằm trong vịnh Xuân Đài cũng từng là thương cảng bậc nhất của Phú
Yên trong quá khứ, là cửa ngõ thông thương giữa Phú Yên với bên ngoài. Tại Vũng
Lắm có cộng đồng người Hoa đến định cư vào khoảng cuối thế kỉ 18 – đầu thế kỉ
19. Công việc doanh thương của họ đã góp phần làm cho Vũng Lắm trở nên sầm
uất.
Vịnh Xuân Đài là một địa danh gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử liên quan đến vùng
đất Phú Yên cũng như của cả nước. Trong thời kì giao tranh giữa nhà Tây Sơn với
nhà Nguyễn, vịnh Xuân Đài đã thành chiến trường với nhiều trận thủy chiến lớn mà
một trong những lần quân chúa Nguyễn hành quân đến đây còn được lưu lại trong
thơ cổ :

Duyệt nguyệt chu sư bạc tiểu thành, Bà Đài ngạn thượng thả hưu binh Dịch
nghĩa :
Trải tháng chu sư đậu ở tiểu thành, lên bờ biển Bà Đài để tạm nghỉ binh.



Vịnh Xuân Đài cũng là nơi diễn ra hoạt động ngoại giao đầu tiên giữa VN và Chính
phủ Hoa Kì. “Năm1832, phái đoàn ngoại giao Hoa Kì do Edmund Robert và George
Thompson mang theo thư của Tổng thống Andrew Jackson đến Vũng Lắm. Vua
Minh Mạng cử viên Ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn Phức đến cùng
quan tỉnh Phú Yên lên thuyền thiết tiệc và hỏi ý họ đến đây để làm gì. Phái đoàn
Hoa Kì cho biết họ đến đây để xin giao hảo thông thương” <Tư liệu Bảo tàng Phú
Yên>.
Tháng 04-1945, tàu hải quân của quân đội Nhật hoàng tiến vào vịnh Xuân Đài
đánh chiếm để làm bàn đạp tiến sâu vào đất liền, nhưng đã bị phi cơ Đồng minh
bắn chìm giữa vịnh. Thân tàu chìm khuất dưới làn nước sâu, chỉ còn nhô lên cột cờ
tàu và đài quan sát. Cho đến những năm cuối thập niên 80 đầu 90 của thế kỉ trước
vẫn còn các dấu tích này trong vịnh Xuân Đài. Nhưng tiếc thay sau thời gian đó,
những toán thợ lặn đã đến tháo gỡ toàn bộ thân tàu để lấy sắt thép bán phế liệu.


Vịnh Xuân Đài – giá trị du lịch :

Từ một điểm có vị trí chiến lược trong lịch sử của vùng nhưng đã bị lãng quên, giờ
đây vịnh Xuân Đài là một trong những vịnh được các chuyên gia đánh giá là có
tiềm năng du lịch lớn nhất nhì miền Trung với cảnh sắc hữu tình, có nhiều đảo, bãi
tắm rất đẹp và hoang sơ. Nơi đây đang được qui hoạch để phát triển các loại hình
du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao nước, du lịch sinh thái biển.

Sở hữu nhiều vũng biển và bãi tắm đẹp như Vũng La, Vũng Sứ, Vũng Chào,… và
nhiều đảo, bán đảo, như cù lao Ông Xá, hòn Nhất Tự Sơn, mũi Đá Mài, mũi Tai
Mã,… vịnh Xuân Đài hợp cùng các danh thắng dọc bờ biển Phú Yên như gành Đá
Đĩa, đầm Ô Loan, đầm Cù Mông,… tạo nên quần thể phong cảnh – di tích độc đáo
lôi cuốn bước chân du khách mỗi lần đến “xứ nẫu” của Phú Yên.
Toàn cảnh vịnh Xuân Đài rất nen thơ. Chẳng vì thế mà Tam Thai đã tức cảnh đề
thơ vịnh phong cảnh Xuân Đài <vào năm 1948> như sau :

 


Xuân Đài bốn mặt núi sông liền
Thắng cảnh nước non để dấu truyền
Thánh đế đền xưa nêu dấu tích
Tiên Châu chốn cũ hội thương thuyền
Hai sông giáp một triều lên xuống
Ba mặt gành đôi đá ngửa nghiêng
Trùng điệp dương xanh lồng cát trắng Rừng
cây nhân tạo giúp thiên nhiên.


Với ý nghĩa lịch sử lớn lao, vịnh Xuân Đài được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp
hạng Di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia tại quyết định số 177/ QĐBVHTTDL
ngày 20-01-2011

 

 

 

Cá Ngựa Sông Cầu

 

Có cái đầu giống như con Ngựa và sống dưới biển nên còn gọi là Hải Mã, bộ vây
của nó rất cứng, khi di chuyển không thể uốn lượn giống như những loài khác.

Vùng nước lợ là môi trường rất thuận lợi để Cá Ngựa sinh sống, ở VN có rất nhiều

nơi có Cá Ngựa, nhưng nhiều nhất phải kể đến đó là Nha Trang – Khánh Hòa và

Sông Cầu – Phú Yên, người ta đánh giá rằng Cá Ngựa Sông Cầu còn tốt hơn cả Cá

Ngựa ở Nha Trang, dĩ nhiên khi mua thì phải mua Cá Ngựa còn sống và đầy đủ cả

2 mắt, đem về ngâm rượu mới tốt.


Phụ nữ ở những vùng nước lợ, khi mang thai thường lấy một lọ nước, trong đó có 2

con Cá Ngựa, để dưới giường nằm, hoặc lấy Cá Ngựa đã chết, sau đó tán ra thành

bột và cầm trên tay, theo quan niệm Duy Tâm, họ làm như vậy với mục đích mong

muốn “mẹ tròn con vuông”, vì tỉ lệ sinh nở của loài Cá Ngựa gần như thành công

100% <con đực mang thai dùm cho con cái trong thời gian sinh nở>.

Về công dụng, loài Cá Ngựa có rất nhiều công dụng, theo Đỗ Tất Lợi – giáo sư đạt

giải thưởng Hồ Chí Minh về Y học, đã viết một quyển sách rất hay với tựa đề

“Thuốc và cây thuốc VN”, khoảng 6.000 trang, trong đó có một phần nhỏ nói về

công dụng của Cá Ngựa như bổ dương, người Trung Quốc sử dụng Cá Ngựa để

điều chế thuốc chữa trị bệnh liệt dương, theo kinh nghiệm dân gian nên người miền

Trung đã sử dụng Cá Ngựa rất nhiều, cụ thể là ngâm Cá Ngựa, có nhiều cách

ngâm, nhưng yêu cầu đầu tiên là Cá Ngựa phải còn sống, bỏ vào bình rượu khoảng

250ml, ngâm từ 5 – 10 ngày, nếu như ngày nắng thì ngâm 5 ngày, còn ngày mưa

thì ngâm 10 ngày, sau đó mỗi ngày uống đều đặn khoảng 2, 3 chung trong vòng từ

2 – 3 tháng, có tác dụng tráng dương rất tốt. Ngoài ra, Cá Ngựa cũng có thể sấy

khô, đem tán bột rồi pha với rượu và uống, nhưng cách này không tốt bằng cách

ngâm Cá Ngựa còn sống, cũng có người ngâm Cá Ngựa với Bìm Bịp hay Tắc Kè,

công dụng cũng không thua gì rượu Amacông trên Tây Nguyên, đặc biệt là Cá

Ngựa ngâm với nấm Nhục Thung Dung, còn gọi là nấm Mã Tinh, người ta lên miền

núi, bắt những con ngựa thật khỏe đem về tẩm bổ cho nó như Đông Trùng Hạ

Thảo, sâm Nhung,… đến giai đoạn xung mãn, người ta đem con ngựa cái để kế bên,

lấy một tấm màn ngăn hai con lại và không cho chúng giao hợp, con ngựa đực

ngửi thấy mùi con ngựa cái nhưng lại không đến được, phía dưới của quý con ngựa

người ta để một đống rơm đã tưới nước, tinh dịch của con ngựa đó thấm vào đám

rơm và mọc lên một loại nấm, nấm đó gọi là nấm Mã Tinh <ở Sapa bán rất nhiều>.

 

Chuyên đề

CÁ NGỰA

Cá ngựa là một loài sinh vật thật độc đáo của thế giới đại dương. Đầu và cổ chúng có hình dạng giống như loài ngựa nên chúng được gọi là “cá ngựa” hay “hải mã”. Chúng còn có khả năng đổi màu cơ thể theo môi trường xung quanh, do đó những chú cá ngựa có màu sắc vô cùng đa dạng. Hãy cùng tìm hiểu những bí mật thú vị về loài sinh vật này nhé!

1. Bí mật về cá ngựa

Cơ thể cá ngựa thật đặc biệt!

Bạn có biết cá ngựa không hề có vảy như chúng ta tưởng tượng, mà có xương sống ở bên ngoài cơ thể? Chúng cũng không có dạ dày và răng. Chính vì vậy, thức ăn đi vào hệ tiêu hóa của chúng rồi nhanh chóng đi ra. Điều này lí giải vì sao cá ngựa ăn nhiều và ăn liên tục. Cá ngựa dùng mõm của nó hút sinh vật nhỏ và sinh vật phù du ở gần mình. Một số loài cá ngựa rất “phàm ăn”, chúng có thể ăn tới 3000 con tôm biển nhỏ mỗi ngày.

Cá ngựa có thị lực rất tốt. Mắt chúng có thể hoạt động độc lập với nhau, chẳng hạn một mắt nhìn đằng trước và một mắt nhìn đằng sau. Điều này rất hữu ích trong việc tìm kiếm thức ăn xung quanh cũng như quan sát các mối nguy hiểm.

Cá ngựa bơi khá tệ. Chúng di chuyển bằng cách đập một chiếc vây nhỏ trên lưng liên tục với tốc độ khoảng 35 cái/giây. Vây ngực nhỏ ở phía sau đầu có vai trò như bánh lái cho cá ngựa. 
Chiếc đuôi của cá ngựa cũng rất đặc biệt. Nó có khả năng quấn quanh thực vật nhỏ để giữ cho cá ngựa không bị nước cuốn.

Cá ngựa sinh trưởng như thế nào?

Không giống các loại cá khác, cá ngựa là một loài động vật rất “chung thủy”. Chúng chỉ có một bạn tình duy nhất trọn đời, và cá ngựa đực sẽ chăm sóc cá ngựa con chưa nở. 


Cá ngựa đực có chiếc túi trên bụng giống như chuột túi (kangaroo)! Khi giao phối, con cái đẻ trứng của mình vào túi của con đực, và con đực sẽ phóng tinh trùng và thụ tinh trứng trong cơ thể của mình. Con đực giữ túi trứng này cho đến khi trứng nở, con non phát triển đầy đủ rồi mới phóng những con non ra ngoài môi trường. Quá trình này kéo dài khoảng 45 ngày.

Khi cá ngựa con được sinh ra, chúng chỉ bé bằng một viên kẹo dẻo. Chúng ngay lập tức tìm những chú cá ngựa khác, bám đuôi với nhau và bơi thành nhóm nhỏ. Khác với chuột túi, cá ngựa non một khi được thả ra môi trường, sẽ không bao giờ quay lại chiếc túi của cá ngựa bố nữa. Chỉ có 1/1000 cá ngựa con sống sót và trưởng thành.

Cá ngựa sống được khoảng từ 1 đến 5 năm, tùy thuộc vào từng giống cá ngựa.

 

Cá ngựa sống ở đâu?

Cá ngựa có thể được tìm thấy ở hầu hết các vùng biển nhiệt đới và ôn đới trên thế giới. Tuy nhiên cá ngựa sinh sống nhiều nhất ở khu vực biển Đông Nam Á, Nam Phi và kênh đào Panama, đặc biệt ở các thảm cỏ biển, các rạn san hô, và rừng ngập mặn. Hiện nay trên thế giới đã tìm thấy 54 loài cá ngựa.

Riêng ở Việt Nam có bốn loài cá ngựa phân bố trên khắp các vùng biển từ Bắc tới Nam.

·         Cá ngự a gai: ở vịnh Bắc Bộ, Đà Nẵng đến Bà Rịa- Vũng Tàu, Kiên Giang.

·         Cá ngựa nhật: ở vịnh Bắc Bộ, Khánh Hòa, Bình Thuận.

·         Cá ngựa đen: ở vịnh Bắc Bộ, Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Bà Rịa- Vũng Tàu), Kiên Giang, Phú Quốc.

·         Cá ngựa chấm: ở vịnh Bắc Bộ, Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Bình Thuận).

2. Cá ngựa đang ngày một giảm đi!

Hiện nay, cá ngựa được xếp vào danh sách động vật sắp nguy cấp trong Sách đỏ thế giới và nghiêm cấm việc buôn bán, trao đổi cá ngựa theo Công ước Quốc tế vè buôn bán các loài động thực vật hoang dã nguy cấp (CITES).[3] Ở Việt Nam, người ta cũng quan sát thấy lượng cá ngựa giảm đi đáng kể.

3. Tại sao vậy nhỉ?

Cá ngựa bị săn bắt và trao đổi mua bán ở nhiều nơi. Nhiều phương thuốc truyền thống từ Trung Quốc và Việt Nam sử dụng cá ngựa để chữa các bệnh xương khớp và sinh lí. Cá ngựa còn bị săn lùng và đưa vào nuôi trong các bể cá cảnh. Tại đây, chúng chỉ có thể tồn tại khoảng 6 tuần rồi sau đó bị chết rất nhanh chón

Bên cạnh đó, so với các loài sinh vật biển khác, cá ngựa còn rất dễ bị tổn thương bởi các chất gây ô nhiễm hay bị gián đoạn nguồn thức ăn. Chính khả năng bơi lội giới hạn của cá ngựa khiến cho chúng không có khả ăng thoát ra khỏi khu vực ô nhiễm một cách nhanh chóng.[5]

Cá ngựa cũng đang mất dần môi trường sống. Rạn san hô, thảm cỏ biển và đầm lầy ngập mặn là những nơi mà cá ngựa thường trú ngụ. Những môi trường sống này đang dần bị phá hủy bởi ô nhiễm, các hoạt động khai phá và biến đổi khí hậu. Các quần thể cá ngựa dễ dàng bị phân mảnh và đối mặt với nguy cơ biến mất.

 

NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA LỄ NGHINH ÔNG

Từ lâu, hoạt động thờ cúng Cá Ông đã trở thành một nét độc đáo trong văn hóa của người dân vùng biển nói chung và trong đó Lễ Nghinh Ông tại Phú Yên lại được cho là một trong những nghi thức ấn tượng nhất. Tương truyền rằng Cá Ông là tên gọi tôn kính mà ngư dân vùng biển đặt cho cá voi – loài cá đã giúp đỡ ngư dân rất nhiều trong đánh bắt ngoài khơi xa và cả trên đất liền. Nhằm thể hiện lòng biết ơn cũng như cầu mong những chuyến đi biển lặng gió hòa, quốc thái an dân, ngư dân ra khơi may mắn, người dân vùng đất trù phú này hằng năm tổ chức Lễ hội Nghinh Ông và đưa lễ hội này trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống, mang ý nghĩa cao về nghề nghiệp, đồng thời cũng là dịp để giải trí.

 

Nghi thức rước Cá Ông trên biển

 

Đôi nét về các hoạt động tại lễ hội

Lễ cầu ngư được tổ chức vào tháng 03 đến tháng 08 Âm lịch, thời điểm mà tiết trời khô ráo, sóng yên biển lặng, là một dịp hết sức thích hợp để tổ chức các hoạt động ngoài trời. Nằm trong khuôn khổ của Lễ hội Tôm hùm Sông Cầu, Lễ Nghinh Ông diễn ra với một số hoạt động sau đây: Mở đầu buổi lễ sẽ là nghi thức Nghinh Ông, hay còn gọi là cúng và rước Cá Ông về lăng, hòa chung cùng không khí trang nghiêm của nghi thức sẽ là những giai điệu mang âm hưởng văn hóa dân gian, truyền thống của địa phương. Đặc biệt, lễ hội lần này có quy mô lớn với sự tham gia của Ban Lãnh đạo Trung ương, Ban Lãnh đạo tỉnh Phú Yên cùng các lãnh đạo sở, ban, ngành, đoàn thể, và đại diện lãnh đạo thành phố Tuy Hòa, cùng lãnh đạo các doanh nghiệp, phóng viên cơ quan báo chí. Đến với Lễ Nghinh Ông lần này, du khách còn được trải nghiệm các hoạt động vui chơi, giải trí mang đậm nét dân gian của người dân địa phương có thể kể đến: hát bội, đua thuyền, kéo co, đua thúng chai, bóng chuyền,…

 

Cuộc thi đua thúng chai tại thôn Hòa Lợi, thị xã Sông Cầu

 

Giới thiệu Lăng Ông và nghi thức đón bằng công nhận Di tích Lịch sử – Văn hoá

Phú Yên hiện có 41 Lăng Ông trải dài từ cực Bắc đến cực Nam của tỉnh, đây cũng chính là nơi người dân tổ chức Lễ hội cầu ngư hằng năm. Tất cả Lăng Ông đều là công trình mang tính lịch sử với thiết kế ngôi đình, họa tiết chạm trổ nghệ thuật, tỉ mỉ, đáp ứng nhu cầu bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống. Chính vì vậy, cũng trong buổi lễ này, Bộ trưởng Bộ văn hóa, thể thao và du lịch sẽ thực hiện nghi thức chứng nhận Di tích Lịch sử – Văn hoá cấp tỉnh, thành phố đối với mộ Cá Ông Lăng Tân Thạnh.

 

Với mong muốn trời yên biển lặng, lưới nặng khoang đầy, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, Lễ hội Nghinh Ông ngày nay đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng của người dân vùng biển Phú Yên khi gắn liền với đời sống tâm linh, và thỏa mãn nhu cầu văn hóa của cộng đồng, bảo lưu các giá trị văn hóa dân tộc, trao quyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, hướng về cội nguồn và tưởng nhớ đến những người có công khai khẩn vùng đất nhắm phát triển kinh tế thông qua thu hút du khách. Vì vậy, du khách đừng quên ghé Lễ hội Tôm hùm Sông Cầu sắp đến để vui chơi và trải nghiệm trọn vẹn lễ hội văn hóa đặc sắc trên!

 

TÔM HÙM

Tôm hùm nổi danh như một món quà quý hiếm giữa lòng đại dương sâu thẳm dành cho những thực khách sành ăn bởi nó mang đến hương vị ẩm thực đặc biệt và sở hữu nhiều giá trị dinh dưỡng rất có lợi cho sức khỏe con người. Cùng HDV tìm hiểu Tôm hùm là gì? Giá trị dinh dưỡng do Tôm hùm đem lại thông qua bài viết dưới đây nhé!

1. Đặc điểm nổi bật của Tôm hùm

Tôm hùm thuộc họ Nephropidae, là một nhóm sinh vật biển, thuộc họ động vật giáp xác sống với hơn 30 loài tôm hùm càng và 45 loài tôm hùm gai từ nhiều vùng biển khác nhau trên thế giới. Có nhiều giống tôm hùm điển hình như tôm hùm Alaska, tôm hùm Tây Úc, tôm hùm Nam Úc, tôm hùm Bông,...Tuy nhiên dù thuộc giống nào thì tôm hùm cũng có những đặc điểm chung như:

·         Tôm hùm là gì?

Tôm hùm không phải là côn trùng thay vào đó chúng là loài giáp xác thuộc ngành Arthropoda. Cơ thể của động vật giáp xác tương tự như cơ thể của côn trùng nhưng chúng khác nhau ở nhiều điểm. Tôm hùm không có râu và cánh trong khi côn trùng có một cặp râu và cánh. Tôm hùm thường bao gồm năm cặp chân, mắt kép, hai cặp râu dài và chân để bơi được gắn vào phần bụng thon dài. Cơ thể của tôm hùm được bao phủ bởi bộ xương ngoài là một lớp vỏ cứng và cơ thể của chúng được chia thành các phần khác nhau. Tôm hùm chủ yếu ăn động vật chết và do đó được gọi là động vật ăn xác thối nhưng chúng cũng ăn cá sống, động vật thân mềm nhỏ và rong biển. Một số loài tôm hùm như tôm hùm thật và tôm hùm gai có tầm quan trọng thương mại rất lớn.

Tôm hùm có răng bên trong dạ dày ngay phía sau mắt giúp khuấy thức ăn. Tôm hùm đôi khi được gọi là bọ vì hệ thống thần kinh của chúng tương tự như kiến ​​và châu chấu. Một số loài cua được gọi là tôm hùm Spiny Caribbean không có móng vuốt và được bán thương mại để lấy thịt đuôi của chúng. Tôm hùm có màu xanh lục, xanh lam và một số có nhiều màu và chúng sẽ chuyển sang màu đỏ khi được nấu chín.

Tôm hùm được xếp vào loại “động vật thông minh tuyệt vời” cùng với một số loài động vật khác như cá heo. Chúng được biết đến là loài có tính xã hội và cũng sử dụng các tín hiệu phức tạp để khám phá môi trường xung quanh. Tôm hùm có khả năng nhận ra những con tôm hùm khác và người quen, đồng thời cũng có những nghi thức tán tỉnh kéo dài.

·         Tôm hùm sống ở đâu?

Tôm hùm là loài sinh vật đáy, sống dưới đáy đại dương. Chúng thích nhiệt độ từ 15-18°C (59-64°F) và độ mặn 20-25 ppt. Tôm hùm Mỹ có thể được tìm thấy ở bờ biển phía đông của Bắc Mỹ, từ Newfoundland đến Bắc Carolina. Tôm hùm nhỏ (chiều dài mai dưới 3.81cm) rất bí hiểm, ẩn nấp trong và xung quanh các loại cỏ biển và môi trường sống bằng đá, nơi cung cấp đủ thức ăn và nơi trú ẩn khỏi những kẻ săn mồi. 

Tôm hùm con (1,5″ – 3,5″ chiều dài mai) thống trị các môi trường sống ven biển và các khu vực ngoài khơi. Họ thường thể hiện hành vi di cư tối thiểu. Những con tôm hùm trưởng thành lớn hơn, linh hoạt hơn có thể sống ở vùng nước sâu hơn nhưng quay trở lại vùng nước nông, ấm hơn theo mùa.

·         Thức ăn tôm hùm có gì đặc biệt?

Tôm hùm là loài hải sản có họ hàng gần với côn trùng vì chúng có bộ xương ngoài và có khớp chân giống loài nhện. Tôm hùm có thị lực kém nên chúng phụ thuộc vào khả năng nếm và ngửi khi di chuyển dưới đáy đại dương. Cá, tôm, cua ghẹ, cầu gai, giáp xác nhỏ, nhuyễn thể,…ngoài ra còn ăn các loại thực vật như rong rêu, là những loại thức ăn được tôm hùm yêu thích.

Sở hữu lượng dinh dưỡng khổng lồ khi chứa nhiều đồng, đồng thời cũng chứa nhiều dưỡng chất có lợi cho sức khỏe như kẽm, phốt pho, vitamin B12, magie, vitamin E và axit béo Omega-3. Ước tính một phần 0.08kg tôm hùm gai cung cấp 200 đến 500 miligam (mg) omega-3 giúp giảm sự bốc đồng và trầm cảm ở người lớn.

Tôm hùm đặc biệt chứa Cholesterol nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng không phải tất cả hàm lượng chất béo cho cơ thể. Trong thịt tôm hùm có chứa chất béo không bão hòa đa có thể giúp giảm mức cholesterol giúp hạn chế nguy cơ về đột quỵ và các bệnh về tim mạch. 

Thiếu hụt selen ở trẻ em cũng là một yếu tố môi trường có thể dẫn đến rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Đảm bảo rằng một đứa trẻ tiêu thụ đủ selen có thể giúp giảm nguy cơ mắc chứng ADHD.

Hàm lượng đồng trong tôm hùm cao nhất trong bất kỳ loại thực phẩm nào. Đồng và sắt tác dụng sẽ tạo ra hồng cầu, nên khi hấp thụ đủ đồng thì sẽ có lợi cho nhiều người bị thiếu máu. Tôm hùm cũng là một loại hải sản chứa đựng nguồn selen tốt để giúp cải thiện sức khỏe, cải thiện tâm trạng và cải thiện chức năng tuyến giáp. 

3. Các món ăn ngon từ tôm hùm

Bếp Hoàng Gia sẽ giới thiệu cho các bạn những món ăn được “biến tấu” hấp dẫn từ tôm hùm:

·         Tôm hùm hấp bia

- Chuẩn bị nồi hấp size lớn bỏ vào khoảng 2-3 lon bia, đun sôi. 

- Làm sạch tôm hùm rồi cho chúng vào nồi hấp.

- Trở tôm để tôm chín đều, khoảng 15-20p khi tôm chuyển sang màu đỏ cam, đẹp mắt là tôm chín hẳn, có thể vớt ra để thưởng thức. 

·         Tôm hùm nướng phô mai

- Làm sạch tôm, cắt ra thành 2 nửa, thêm một chút muối và tiêu.

- Chuẩn bị bếp than để nướng, quan sát thấy than lửa đang hồng thì cho than lên nướng.

- Chuẩn bị sẵn 1 bịch phô mai Mozzarella, đặc biệt dùng trong làm bánh pizza.

- Khi trở tôm nướng được khoảng 10 phút thì rắc phô mai lên trên và tiếp tục nướng thêm khoảng 5p, phô mai tan chảy thấm vào tôm cũng là lúc tôm chín.

·         Tôm Hùm cháy tỏi

- Làm sạch tôm và chẻ dọc thân tôm thành 2 nửa. 

- Làm nóng chảo bằng nhiều dầu và phi 5 củ tỏi lớn, đến khi phi vàng thì vớt ra để riêng.

- Sau khi vớt tỏi đã phi vàng ra để riêng thì tiếp tục đặt tôm hùm vào chảo (tôm nằm ngập trong dầu ăn), chiên tôm đến khi chín rồi vớt ra.

- Làm nóng chảo khác, cho 60gr bơ mặn rồi bỏ tỏi đã phi vàng vào và đảo đều tay, đến khi hỗn hợp đã hòa quyện thì tắt bếp.

- Cho tôm hùm vào hỗn hợp vào xốc đều đến khi đều rồi trình bày ra dĩa và thưởng thức.

 

ĐÈO CÙ MÔNG

Dài 9km l à ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Bình Định. Theo truyền thuyết thì “Cù” có nghĩa là quái vật, “Cù Mông” có nghĩa là con rồng nhỏ. Chuyện kể rằng thuở xưa trong khu rừng này có một con rắn sống rất lâu năm, nó có tâm tu luyện để được hóa kiếp mà tu mãi nó cũng chỉ là một con rắn. Thất vọng nó đi tìm Phật để hỏi lí do. Trông thấy nó cũng có tâm hướng thiện Phật bảo nó phải nằm yên một chỗ không được cử động để tịnh tâm. Rắn mừng lắm, nó trở về và quyết tâm làm theo những gì mà phật đã dạy nó. Cứ thế năm tháng trôi qua rắn đã nằm yên như thế đã ngàn năm và chắc đã toại nguyện nếu không có một ngày kia có một tay thợ săn vào rững săn thú đã làm hỏng tâm huyết của con rắn đáng thương nọ. Chàng thợ săn đó vào rừng đã vài hôm và cảm thấy mệt nên quyết định tìm một chỗ nào đó để nghỉ mệt. Thấy có cành cổ thụ nằm bên đống lá rừng chàng bèn ngồi xuống nhóm một đống lửa và định nấu một món gì đó ăn, nhưng chàng có ngờ đâu khúc cây khô chàng ngồi chính là chỗ con rắn đang nằm khổ công tu luyện, đống lửa chàng đốt ngày càng cháy lớn, nó táp vào da, thịt con rắn. Rắn quyết tâm chịu dựng vì không nỡ thấy tâm huyết lâu nay của mình phút chốc bị tiêu hủy, nhưng cuối cùng rắn cũng không chịu nổi nó phóng mình xuống khe núi, cảm động cho hoàn cảnh của con rắn, Phật đã hóa nó thành con rồng nhỏ.

Qua đèo Cù Mông, đến ngã ba, rẽ phải vào thành phố Quy Nhơn.

 

 

ĐẶC SẢN PHÚ YÊN

1.Sò huyết Đầm Ô Loan

Đặc sản Phú Yên đầu tiên phải kể đến sò huyết đầm Ô Loan nha! Phải công nhận rằng nếu ăn từng qua món đặc sản Phú Yên này sẽ mãi tương tư bời thịt sò huyết đầm Ô Loan có vị ngọt bùi tự nhiên, con sò thì to, thịt màu đỏ tươi mà lại có quanh năm. Sò huyết đầm Ô Loan có nhiều cách chế biến như hấp, nấu cháu nhưng ngon nhất là nướng hoặc xào me. Nếu có dịp đi du lịch Phú Yên nhớ thử qua món đặc sản nổi tiếng này nha bạn

Địa chỉ ăn sò huyết đầm Ô Loan ngon nhất Phú Yên 

Quán Tuấn - Đầm Ô Loan - Tuy An, Phú Yên

Quán Chúc Xíu - Bạch Đằng, 3, Tuy Hòa, Phú Yên

Quán Hải Sản Cây Phượng - Bạch Đằng, 3, Tuy Hòa, Phú Yên

 

2. Ghẹ sông Cầu

Đặc sản Phú Yên tiếp theo nhất định phải thử là ghẹ sông Cầu. Không biết vì sao nhưng ghẹ sông Cầu lại chắt thịt, có vị ngọt thanh tự nhiên và ngon hơn ghẹ ở vùng khác. Món đặc sản Phú Quốc ngon này thường được rang muối, nướng mọi, nấu cháo nấu lẩu nhưng theo Cuồng Du Lịch  thì ngon nhất là hấp nha. Chỉ bạn cách phân biệt ghẹ sông Cầu là con nhỏ bằng nắm tay, thân có màu xanh thẫm riêng càng và yếm có đốm trắng nha.

Địa chỉ ăn ghẹ sông Cầu ngon ở Phú Yên 

Quán Bồng Bềnh - Địa chỉ: Cầu Mới Xuân Bình, Sông Cầu, Phú Yên.

Bè hải sản Út Uyên - Địa chỉ: Bờ Kè Diêm Trường, xã Xuân Bình, Sông Cầu, Phú Yên

Quán Thằng Bườm - Địa chỉ: Bờ kè cầu Tam Giang (cách 3m), Sông Cầu, Phú Yên.

 

3. Dê núi Chóp Dài

Đặc sản Phú Yên không chỉ có hải sản mà còn có thịt dê nữa nha, mà nổi tiếng nhất là dê núi Chóp Dài. Bạn biết không, núi Chóp Dài còn gọi là ngọn núi sét đánh vì trên núi có hệ thống phát thanh truyền hình, ra đa quân sự nên vào mùa mưa thường có sét đánh. Xung quanh núi Chóp Đài nuôi rất nhiều dê. Và thịt dê núi Chóp Đài đặc biệt thơm ngon hơn nơi khác nên tiếng lành đồn xa rồi trở thành đặc sản Phú Yên lúc nào không hay. Và món đặc sản Phú Yên này có nhiều các chế biến ngon như dê hấp cuốn lá mơ, dê nướng lá lốt, cổ dê hấp bia,…

Địa chỉ ăn dê núi Chóp Dài ngon ở Phú Yên 

Dê Chóp Chài – 644 Nguyễn Tất Thành, KP. Phước Hậu 1, Xã Bình Kiến, Tp.Tuy Hòa

Dê Phương Đông – Thôn Giai Sơn, Xã An Mỹ, H.Tuy An

Dê Tươi 345 – 226 Nguyễn Tất Thành, P. 8, Tp.Tuy Hòa

>>>Xem thêm Chia Sẻ Lịch Trình Du Lịch Phú Yên 2 Ngày 1 Đêm Tự Túc 1tr5/Người

 

4. Gà nước mặn

Kể ra chắc nhiều bạn sẽ bất ngờ vì tuy món đặc sản Phú Yên này tên là gà nước mặn nhưng đó không phải là gà đâu nha mà đó chính là loài cá bò hòm. Thân cá hòm bò toàn thịt trắng phau lại không tanh mà còn dai thơm như thịt gà nên gọi thành gà nước mặn. Và món đặc sản Phú Yên này ngon nhất là đem nướng mọi rồi chấm với muối tiêu chanh bao ngon bao ghiền nha

Địa chỉ ăn gà nước mặn ngon ở Phú Yên 

Quán hải sản Năm Sánh - Địa chỉ: 301 – 303 Hùng Vương, P.7, Tp. Tuy Hòa, Phú Yên

Quán Lâm Hùng - Địa chỉ: Cầu Long Phú, Xã An Cư, Tuy An, Phú Yên

Quán Thúy Kiều - Địa chỉ: Đầm Ô Loan, Xã An Hải, Tp. Tuy Hòa, Phú Yên

 

5. Bánh canh hẹ

Bánh canh hẹ là món ăn sáng bình dân mà bạn dễ dàng bắt gặp ở nhiều gốc đường tại Phú Yên. Món đặc sản Phú Yên khác với bánh canh nơi khác ở chỗ sợ bánh canh làm bằng bột gạo, thơm dai mà không bở. Trong bánh canh hẹ Phú Yên còn có chả cá làm bằng cá cờ, cá thu nên luôn dai ngon kèm với lớp hẹ cắt khúc càng làm tăng hương vị cho món ăn. Bên cạnh đó nét đặc biệt của món đặc sản Phú Yên này ở chỗ nước lèo không được ninh từ xương hay thịt heo mà là cá biển tươi tạo nên vị ngọt thanh đậm đà khó cưỡng.

Địa chỉ ăn bánh canh hẹ ngon nhất Phú Yên 

Bánh canh hẹ Thanh Tâm - Địa chỉ: 53 đường Điện Biên Phủ, P.7, Tuy Hòa, Phú Yên

Bánh canh hẹ Cô Thi - Địa chỉ: 81B Trần Phú, phường 7, Tuy Hòa, Phú Yên

Bánh canh hẹ xứ Nẫu - Địa chỉ: 222 Trường Chinh, phường 7, Tuy Hòa, Phú Yên

 

 

 

TOP 10 NHÀ HÀNG PHÚ YÊN NGON

1.Nhà hàng Bò 1 nắng Dì Mai

Địa chỉ: 350 Trần Hưng Đạo, Phường 6, Tuy Hòa, Phú Yên

Hotline: 081 222 3542 - W:balangruoi.com.vn

Có nhiều bạn chưa biết chứ bò 1 nắng cũng là một đặc sản Phú Yên nổi tiếng và nhà hàng Bò 1 nắng Dì Mai cùng là nhà hàng chuyên thịt bò xin sò nhất Phú Yên nha. Thiết kế của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này khá đơn giản, hiện đại và sạch sẽ. 

Nhưng cái đặc sắc là món ăn với menu phong phú hơn 40 món ngon như cơm chiên dưa bò, gỏi bò bóp thấu, lá xách bò xóc mật,… nhưng vedette của nhà hàng bò 1 nắng Dì Mai chính là món bò nướng tảng nha. Tuy nhiên nhược điểm duy nhất của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này là hơi nhỏ nên chỉ phù hợp với các nhóm khách du lịch Phú Yên gia đình hoặc theo đoàn nhỏ thôi.

 

2. Nhà hàng hải sản Quang Anh

Địa chỉ: Đầm Ô Loan, Cầu, Tuy An, Phú Yên

Hotline: 094 415 78 87 - E: nhahanghaisanquanganh@gmail.com

Phải nói hải sản Phú Yên ngon nhất là ở đầm Ô Loan còn nhà hàng hải sản ở đầm Ô Loan ngon thì có nhà hàng hải sản Quang Anh. Về thiết kế của nhà hàng hải sản Phú Yên nổi tiếng này khá đơn giản, như kiểu bè hải sản nhưng không gian rộng rãi, thoáng mát và sạch sẽ. Nhưng bù lại có những góc check in cực chill và chỗ đậu xe rộng rãi.

Về món ăn thì như trong tên gọi nhà hàng Phú Yên này chuyên về hải sản nhưng nổi tiếng nhất là cua. Bởi vậy mà nhà hàng hải sản Quang Anh Phú Yên còn có biệt danh là vua cua đầm Ô Loan. Món ngon của nhà hàng phải kể đến cua sốt trứng muối, cua rang me, lẩu riêu cua,… Giá ăn uống tại nhà hàng hải sản Quang Anh giao động từ 200k – 300k nha

 

3. Nhà hàng Hàu Sữa Đầm Ô Loan

ĐC:Đầm ô loan, Tuy Hòa, Vietnam

T: 093 487 28 72 – E: Nhahanghausuadamoloan@gmail.com

W:Hausuadamoloan.com

 

4. Nhà hàng Cơm niêu Năm Ánh

Địa chỉ: 394 ĐL Hùng Vương, Phường7, Tuy Hòa, Phú Yên

Hotline: 093 548 73 77 – E:salecomnieunamanh@gmail.com

W:comnieuphuyen.com

Nếu đi du lịch Phú Yên và đã chán với hải sản mà bỗng thèm bữa cơm nhà thì hãy đến nhà hàng cơm niêu Năm Ánh nha bạn. Đây là nhà hàng cơm niêu Phú Yên nổi tiếng với không gian hiện đại, sang trọng và rộng rãi. Nhà hàng cơm niêu Năm Ánh chuyên về các bữa cơm gia đình với các món ăn dân dã quen thuộc của người dân xứ nẫu như cá bống trứng kho tộ, cá đục đầm Ô Loan, hay mực xào mướp non, mắt cá ngừ đại dương,… Giá cả ăn uống tại nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này khá hợp lý, đặc biệt có những set cơm đoàn chỉ 130k/khách thôi

 

5. Nhà hàng Ẩm Thực 338

Địa chỉ: Số 03 Trần Cao Vân, Phường 4, Tp. Tuy Hòa, Phú Yên

Tel: 0257 3898 338 – E:amthuc338py@gmail.com

Thiết kế hiện đại, sang trọng và lịch sự là những miêu tả chính xác về nhà hàng Ẩm Thực 338. Nhà hàng Phú Yên này như một tòa biệt thự 3 tầng xinh đẹp, vừa có không gian ngoài trời và không gian trong nhà cho bạn lựa chọn. Sức chứa của nhà hàng Ẩm Thực 338 khoảng 200 khách nên ngoài phục vụ các bữa cơm gia đình còn là địa chỉ quen thuộc của các buổi tụ tập liên hoan của các nhóm khách du lịch Phú Yên 

Menu của nhà hàng Phú Yên này khá đa dạng từ Á sang Âu và cả đặc sản Phú Yên nữa. Món ăn ngon, trình bày đẹp mắt và giá cả hợp lý là những dánh giá của thực khách đã dũng bữa tại nhà hàng Ẩm Thực 338 này.

 

6. Nhà hàng Chúc Xíu

Địa chỉ: 5 Độc Lập, Phường 6, Tuy Hòa, Phú Yên.

Tel: 070 327 9999

Tên gọi Chúc Xíu nhưng không hề xíu chút nào nha bạn. Nhà hàng Phú Quốc ngon này là tòa nhà 2 tầng, được thiết kế đơn giản hiện đại. Đặc biệt là có không gian ngoài trời, sảnh chung, phòng lại riêng và cả khu vực sân thượng nữa. Sức chứa của nhà hàng Chúc Xíu Phú Yên khoảng 250 khách nên phù hợp cho cả nhóm khách đoàn và khách lẻ luôn.

Về món ăn của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này chuyên về hải sản tươi sống và cả đặc sản núi rừng luôn nên menu rất đa dạng. Đặc biệt nhà hàng Chúc Xíu cũng nằm gần biển Tuy Hòa nên luôn mát mẻ, đáng để thử nha bạn

 

7. Nhà hàng Đại Dương

Địa chỉ: Lô A12 Đại Lộ Hùng Vương, Tuy Hòa, Phú Yên.

Điện thoại: 077.220.2882 – 090.569.4339 - Email: sale@daiduongtuyhoa.com

Phải nói rằng nhà hàng hải sản Đại Dương là một trong nhưng điểm ăn uống quen thuộc không chi của người dân địa phương mà còn có nhiều khách du lịch Phú Yên nữa. nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này có thiết kế hiện đại sang trọng, không gian rộng rãi. Ngoài sảnh chung thi nhà hàng Đại Dương cũng có phòng riêng, có trang bị sân khấu âm thanh ánh sáng cho các bữa tiệc liên hoan giao lưu nhóm đoàn nữa nha

Về món ăn thì nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này chuyên về hải sản tươi sống nha. Trong đó nổi tiếng có tôm hùm xanh, cua đỏ, cá đuối nghệ,…  

 

8. Nhà hàng Làng Chài Phù Đổng

Địa chỉ: 407 Lê Duẩn, Phường 9, TP Tuy Hòa Phú Yên

Hotline: 088 671 08 08 – E: langchaiphudong@gmail.com

Nhà hàng hải sản Làng Chài nằm trên cung đường từ trung tâm đến 2 địa điểm du lịch Phú Yên nổi tiếng là Gành Đá Dĩa và Bãi Xếp nên là điểm dừng chân ăn uống của nhiều nhóm khách đoàn du lịch Phú Yên. Nhà hàng hải sản Phú Yên nổi tiếng này có không gian cực kỳ rộng với sức chứa 500 khách. Không gian nhà hàng lại sang trọng, lịch sự nên phù hợp cho những bữa tiệc liên hoan, gala dinner đoàn thể. Còn về món ăn thì tất nhiên nhà hàng Làng Chài Phú Yên chuyên về hải sản tươi sống và những món ăn dân dã đặc sắc của người dân xứ nẫu.

 

9. Nhà hàng Đông Quảng

Địa chỉ: Số 775 Hùng Vương, Tp. Huy Hòa, Phú Yên

Hotline: 093 439 79 80

nha-hang-phu-yeni00002

 

Điểm thu hút của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này chính là không gian mở, rộng rãi. Toàn bộ nhà hàng Đông Quảng được làm bằng gỗ và mái ngói mang hơi hướng hoài cổ, tinh tế lại nằm trên một hồ sen tuyệt đẹp. Như đưa thực khách về lại chốn bình yên thời xưa cũ để thoải mái tận hưởng bữa ăn của bình.

Bên cạnh đó nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này còn phục vụ cơm gia đình với các món đặc sản 3 miền bắc trung nam. Món ăn khá rẻ chỉ từ 30k/phần, nêm nếm vừa miệng lại đẹp mắt. Thái độ phục vụ tại nhà hàng Đông Quang Phú Yên cũng được đánh giá khá chuyên nghiệp và nhanh nhẹn nữa nha bạn.

 

10. Nhà hàng hải sản sân vườn Canary

Địa chỉ: Mai Xuân Thưởng, Phường 5, Tuy Hòa, Phú Yên

Hotline: 090 197 08 68 – W: seafoodgardencanary.com

Với vị trí nằm ngay trung tâm thành phố Tuy Hòa lại có không gian rộng rãi nên nhà hàng hải sản Canary là điểm ăn uống quen thuộc của nhiều nhóm khách du lịch Phú Yên. Nhà hàng hải sản Phú Yên nổi tiếng này được thiết kế hiện đại, lịch sự với 2 sảnh ngoài, 1 sảnh trong và 5 phòng lạnh riêng với sức chứa gần 500 khách. Các món ăn tại nhà hàng hải sản Canary Phú Yên chuyên về hải sản, món ăn được chế biến đa dạng, ngon miệng và đẹp mắt. Nhân viên phục vụ chuyên nghiệp và nhiệt tình.

 

11. Nhà hàng sân vườn Hoàng Gia

Địa chỉ: Số 259 Hùng Vương, Phường 9, Tp. Tuy Hòa, Phú Yên

Điện thoại:  0888 666 456

Đây là một nhà hàng Phú Yên nổi tiếng có không gian đẹp, hiện đại và sang trọng. Nhà hàng sân vườn Hoàng Gia Phú Yên có cả không gian ngoài trời và không gian trong nhà với sức chứa khoảng 200 khách. Các món ăn tại nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này chuyên về ẩm thực 3 miền từ nguồn nguyên liệu hải sản tươi sống có sẵn nên món ăn luôn đảm vảo độ tươi ngon. Bên cạnh đó về giá cả và thái độ phục vụ của nhân viên cũng được đánh giá tốt. Nên nếu bạn đi du lịch Phú Yên mà chưa biết ăn ở đâu thì nhà hàng sân vườn Hoàng Gia là một gợi ý hay cho bạn nha.

 

Phong tục cưới hỏi của người Chăm Phú Yên

Người Chăm Phú Yên có những phong tục lâu đời như mừng tuổi trưởng thành cho con cháu, cúng bến nước, lễ rước hồn lúa… Trong đó phải kể đến phong tục lễ cưới xin với những nghi lễ độc đáo.

Bắt chồng

Già làng A Ma Liên ở xã Cà Lúi, huyện Sơn Hòa cho biết: “Người Chăm theo mẫu hệ, nên đằng gái phải có lễ dạm ngõ, lễ cưới chồng hay còn gọi là tục bắt chồng. Tùy theo gia đình, có những cô gái mới 9 - 10 tuổi, cha mẹ đã đi hỏi chồng cho con. Theo luật tục, chàng rể tương lai lấy sợi chỉ đỏ đến cột tay người con gái làm bằng chứng, để khi trưởng thành họ sẽ lấy nhau. Bên nào sau này đổi ý phải đền 1 cái nồi bung bằng đồng hay cái ché túc giá trị bằng 1 con bò đực”.

Lễ dạm hỏi, bên nhà gái đi từ 3 - 5 người. Khi đi phải mang theo 1 con dao dài hơn 30 cm, cán làm bằng sừng nai, một chùm lục lạc cỡ bằng cán rựa, hoặc cổ tay, kêu rủng rẻng. Nếu nhà gái ở buôn làng xa, chờ lúc mặt trời khuất núi mới đi vào buôn, tìm những gia đình không có bà con ruột thịt với nhà trai để ở trọ. Những người đi lễ hỏi tới thăm dò già làng trước, sau đó mới đến các gia đình họ hàng, chú bác nhờ họ thông báo cho gia đình nhà trai biết. Nhà gái chờ đợi kết quả đồng ý hay không đồng ý từ phía dòng họ, cha mẹ và chàng trai. Nếu thuận lòng, nhà trai nhắc một ché rượu và đem ra một chiếc cong bằng đồng, bên nhà gái đi hỏi cũng lấy ra một chiếc cong bằng đồng, móc chung 2 chiếc chỗ tai ché rượu, cùng mời Yàng và các thần linh sông núi, ông bà tổ tiên chứng kiến, rồi hai bên hẹn ngày cưới và trao 2 chiếc cong, con dao, lục lạc cho nhà gái.

Ông Ka Sô Thơ - Phó Chủ tịch UBND xã Sông Hinh, huyện Sông Hinh cho biết: “Phong tục trong tổ chức đám cưới, trước hết là do nhà trai quy định thời gian, điều kiện vật chất; phía gái thực hiện lễ vật như trâu, bò, rượu, áo, ênh, khố dệt bằng thổ cẩm… Lễ cưới của người Chăm Phú Yên thường tổ chức vào mùa Xuân, mùa của lễ hội”.

Theo luật tục, vợ về dự lễ cưới phía chồng, ra mắt họ hàng nhà trai và bà con buôn làng. Đám cưới mọi người đến dự đông vui, rượu 5 - 7 ché đặt quanh bếp lửa khách, đồng bào làm heo, bò ăn mừng. Trên chiếc ghế kpan, nam thanh niên ngồi tấu cồng chiêng, còn dưới chân nhà sàn, các cô thiếu nữ múa hát nhịp xoang. Gia đình nhà trai cũng nhắc rượu ché, đập con nú nô (gà trống) cúng Yàng, cầu mong cặp vợ chồng suốt đời bên nhau như cua với đá, như cá với nước, như cây với đất, luôn mạnh tay khỏe chân để làm cái rẫy, cất cái nhà, đánh đuổi thú hoang phá hoại hoa màu. Họ ở lại 3 đêm, rồi bắt chồng về ở với mình suốt đời như đã hứa với thần linh.

Diễn tấu cồng chiêng mừng khách hai họ trong lễ cưới. (Ảnh MH)Diễn tấu cồng chiêng mừng khách hai họ trong lễ cưới. (Ảnh MH)

Nguy cơ mai một

Ông Sô Doanh Châu ở xã Xuân Lãnh, huyện Đồng Xuân cho hay: Người Chăm Phú Yên cho phép nam nữ được quyền "bứt cong", nghĩa là ly hôn. Nhưng nếu là ngoại tình mà đơn phương đòi ly hôn thì phải đền của từ 3 - 5 con bò, không có bò thì nạp nồi bảy, nồi bung, ché túc, kiềng bạc… và đập 1 con bò ăn tại chỗ để cho già làng, Người có uy tín, cùng dân buôn đứng ra giải quyết và chứng kiến.

Nếu người nữ đòi ly hôn thì tất cả lễ vật cưới hỏi của bên vợ sẽ trừ hết, đồng thời phải giao nhà trai 1 chiếc ché túc hoặc 1 nồi đồng lớn trị giá bằng 1 con bò đực để thay thế người vợ và chia của cải do vợ chồng làm ra. Nếu phía nam bỏ vợ thì trả hết lễ vật cưới xin, đồng thời phải giao cho nhà gái một số của cải như ché, cong đồng, kiềng bạc… Tất cả của cải hai vợ chồng tạo dựng không được chia mà để lại cho con cái. Người chồng lúc bấy giờ chỉ còn hai bàn tay trắng về ở với mẹ cha. Theo luật tục mẫu hệ, sau khi ly hôn, các con đều theo ở với mẹ, chứ không được theo cha.

Phong tục cưới hỏi của người Chăm với những nghi lễ độc đáo được tiếp nối qua nhiều thế hệ, mang giá trị cộng đồng như một lễ hội tình yêu, hạnh phúc. Nhưng đâu đó các buôn làng có người Chăm sinh sống, họ lo âu, phong tục này nếu không bảo tồn sẽ có nguy cơ bị mai một.

Theo baophuyen.vn

Phú Yên: Bảo tồn văn hóa dân tộc Chăm

Trải qua quá trình lịch sử, đồng bào dân tộc Chăm ở Phú Yên đã sáng tạo và lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa đặc sắc.

Trên địa bàn tỉnh Phú Yên hiện có hơn 23.000 đồng bào dân tộc Chăm sinh sống cùng các dân tộc anh em. Trải qua quá trình lịch sử, đồng bào dân tộc Chăm ở Phú Yên đã sáng tạo và lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa đặc sắc, thể hiện trong: kiến trúc, trang phục, nghệ thuật, lễ hội, phong tục tập quán và tri thức dân gian…

Hệ thống di sản văn hóa của đồng bào Chăm ở Phú Yên rất phong phú với các công trình kiến trúc nghệ thuật đền tháp, thành cổ, bia ký… và nhiều di tích khảo cổ học có giá trị lịch sử - văn hóa. Trong đó, tiêu biểu nhất là Di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Nhạn niên đại thế kỷ XI, tại TP Tuy Hòa đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt. Tháp Nhạn cùng với các di sản văn hóa của đồng bào Chăm ở tỉnh Phú Yên đã góp phần làm phong phú kho tàng di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, vùng đồng bào dân tộc Chăm ở tỉnh Phú Yên không ngừng được đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào không ngừng được nâng cao. Đồng bào luôn phát huy tinh thần đoàn kết, yêu nước, thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; ra sức phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa; xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, cùng nhân dân các dân tộc trong tỉnh xây dựng, phát triển quê hương Phú Yên ngày càng giàu đẹp.

Đặc biệt, những ngày này (18 - 21/8), Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào Chăm lần thứ V năm 2019 tại Phú Yên đang diễn ra với chủ đề "Bảo tồn văn hóa dân tộc Chăm gắn với phát triển du lịch" do tỉnh phối hợp với Bộ VHTTDL tổ chức đã thực sự trở thành hoạt động có ý nghĩa chính trị, văn hóa sâu sắc, là nơi để đồng bào dân tộc Chăm ở các địa phương gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm đối với việc gìn giữ văn hóa truyền thống, củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ngày hội cũng là dịp giới thiệu, tôn vinh và quảng bá các giá trị văn hóa độc đáo, đặc sắc của đồng bào Chăm trong sự thống nhất mà đa dạng của nền văn hóa Việt Nam với nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế, góp phần tạo sức hút để thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch tại địa phương; góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam.

Ngày hội có sự tham gia của gần 2.000 nghệ nhân, nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công, vận động viên quần chúng đến từ 11 tỉnh, thành phố khu vực Nam Bộ và Nam Trung Bộ có đông đồng bào Chăm sinh sống cũng như lưu giữ nhiều giá trị văn hóa - lịch sử của đồng bào Chăm: Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tây Ninh, Bình Phước, An Giang, thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.

Các hoạt động chính của ngày hội gồm: Thi biểu diễn Liên hoan nghệ thuật quần chúng và trình diễn, giới thiệu trang phục truyền thống; triển lãm thành tựu phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Chăm của các tỉnh,thành tham gia ngày hội và giới thiệu nghề truyền thống; giới thiệu văn hóa ẩm thực; giới thiệu trích đoạn lễ hội dân gian; thi các môn thể thao truyền thống.

 

Độc đáo trang phục Chăm H’roi

Ở Phú Yên hiện nay, mặc dù thế hệ trẻ người Chăm (nhóm Chăm H’roi) đã có điều kiện tiếp xúc với những trang phục hiện đại, phổ thông, nhưng trang phục truyền thống vẫn luôn có sức sống bền vững trong tâm thức cộng đồng.

Bà Lê Thị Như Quỳnh, Giám đốc Trung tâm Văn hóa và Thông tin huyện Đồng Xuân (Phú Yên) cho biết: “Đồng bào Chăm ở tỉnh Phú Yên sinh sống tập trung nhiều nhất ở hai huyện miền núi Sơn Hòa và Đồng Xuân. Với một truyền thống văn hóa được hình thành từ lâu đời, trong đó có trang phục. Trang phục của người Chăm H’roi mang nét duyên vừa kín đáo, vừa quyến rũ lạ thường”.

Người Chăm H’roi theo mẫu hệ. Trang phục truyền thống của người phụ nữ là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa đặc sắc của dân tộc. Bộ trang phục truyền thống hoàn chỉnh của phụ nữ Chăm gồm áo, chân váy bsimbay và khăn co đội đầu.

Áo của các cô gái Chăm mặc trong lễ hội chỉ là tấm vải thô, trắng trơn, dài ngang gối, không trang trí hoa văn, cổ tròn, tay dài, có hoặc không có khuy cài cúc theo kiểu chui đầu. Cùng với đó là dây thắt lưng bắt chéo qua vai được trang trí nhiều họa tiết hoa văn đặc sắc, màu chủ đạo luôn là đỏ tươi và vàng óng. Để tạo nét quyến rũ, phụ nữ Chăm thường chọn khăn đội đầu để tô thêm sắc thái hài hòa. 

Còn đàn ông Chăm thường mặc quần màu trắng, kết hợp với áo gom màu đen, tay ngắn, xẻ nách hai bên, có hoặc không có cúc, cột hai dây màu đỏ trước và sau ngực. Từ đường chỉ đỏ cột vào những sợi dây cườm màu xanh, đỏ, trắng thả xuống gấu áo và mỗi dây cột một đồng xu.

Nói đến trang phục truyền thống của đồng bào Chăm, không thể không kể đến nét đặc trưng của bộ trang phục cưới. Trong ngày cưới, cô dâu được trang điểm lộng lẫy và khoác lên mình bộ trang phục truyền thống, có màu sắc sặc sỡ và bắt mắt như vàng, hồng, đỏ… Tóc cô dâu Chăm được cài hoa, trâm cài đầu, tai thì đeo trang sức. Còn chú rể Chăm thường quấn khăn nhiễu trên đầu, buộc dây ở thắt lưng. Đặc biệt, chú rể Chăm luôn giắt chiếc lược đồi mồi trên đầu. 

Trước nguy cơ biến mất trang phục truyền thống của một số DTTS, mới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phê duyệt Đề án Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đề án hướng tới việc, đưa trang phục truyền thống phổ biến hơn trong cuộc sống của đồng bào các DTTS, nâng cao lòng tự hào, ý thức bảo tồn và phát huy trang phục truyền thống các dân tộc.

Trên cơ sở đó, UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Đề án trên địa bàn tỉnh, với các nhiệm vụ trọng tâm như: Tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng, kiểm kê, lập danh mục bảo tồn, khôi phục và phát huy di sản văn hóa phi vật thể về trang phục truyền thống của các DTTS; tổ chức tập huấn về phương pháp bảo tồn, phát huy và kỹ năng truyền dạy bảo tồn trang phục truyền thống tại các huyện có đồng bào DTTS...

Ông Phan Đình Phùng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên cho biết: “Để thực hiện hiệu quả Đề án, các cơ quan, đơn vị liên quan cần triển khai các nhiệm vụ đúng yêu cầu thực tiễn, có tính trọng tâm, trọng điểm, chất lượng và hiệu quả; đồng thời kết hợp lồng ghép các nhiệm vụ của kế hoạch với các nhiệm vụ thường xuyên của các địa phương, đơn vị”.

 

DỊCH VỤ KHÁCH SẠN – NHÀ HÀNG Ở TUY HOÀ - PHÚ YÊN

 

1/ Khách sạn

Coralina Hotel

Địa chỉ: 335 Lê Duẩn, Phường7, Tuy Hòa, Phú Yên

Email: sales@coralinahotel.com

Hotline: 02573 866 869

 

Sala Hotel

Độc Lập, Tuy Hòa, Phú Yên, Tuy Hòa, Vietnam

Tel:1900 6406 – E: sale1.thbeach@salahotelgroup.com – W: www.salahotelgroup.com

 


Khách sạn Sài Gòn Phú Yên

541, Trần Hưng Đạo, P. 6, Thành phố Tuy Hòa, T. Phú Yên

+(84-57) 3 823 775; (84-57) 3 822 999; (84-57) 3 889 889

Khách sạn Linh

27, Trần Bình Trọng, P. 3, Thành phố Tuy Hòa, T. Phú Yên

+(84-57) 3 824 783; (84-57) 3 600 990

Khách sạn Khánh Hòa

625-627, Đại lộ Hùng Vương, P. 6, Thành phố Tuy Hòa, T. Phú Yên

+(84-57) 3 848 589

 

Khách sạn Hoàng Vy

250, Hùng Vương, P. 7, Thành phố Tuy Hòa, T. Phú Yên

+(84-57) 3 843 262

Khách sạn Anh Tuấn

324-326, Hùng Vương, P. 7, Thành phố Tuy Hòa, T. Phú Yên

 

Khách sạn Hoàng Ngọc

173, Nguyễn Thái Học, P. 5, Thành phố Tuy Hòa, T. Phú Yên

 

Kaya Hotel

238, Hùng Vương, P. 7, Thành phố Tuy Hòa, T. Phú Yên

+(84-57) 3 819 999

 

Khách sạn Như Ý

7, Nguyễn Công Trứ, P. 1, Thành phố Tuy Hòa, T. Phú Yên

+(84-57) 3 827 639

 

An Phát hotel

35D, Lê Lợi, P. 1, Thành phố Tuy Hòa, T. Phú Yên

 

Khách sạn Thanh Bình

126, Lê Thánh Tôn, P. 3, Thành phố Tuy Hòa, T. Phú Yên

+(84-57) 3 823 942

 

Khách sạn Sun Flower

Ad: 341 Lê Duẩn, Tuy Hòa, Vietnam

Tel: 0257 2202 222 – E: sm@sunflowertuyhoahotel.com – W:sunflowertuyhoahotel.com

 

Khách sạn Royal Khanhotline: 0886.71.73.79

Address: 68 Nguyễn Huệ, Phường 5, Tp Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên Việt Nam

Phone: (+84)2573.669.669

Email: info@royalkhanhhotel.com

Website: http://royalkhanhhotel.com

 

2/ Nhà Hàng

Nhà hàng Phú Anh Tuy Hoa

Add: 123 AB Nguyễn Huệ . P5 , Tuy Hòa, Vietnam

Tel:037 806 3939

 

Nhà hàng cơm niêu Năm Ánh

Add: 394 Hùng Vương, Tuy Hòa, Vietnam

T: 093 548 73 77 – E: salecomnieunamanh@gmail.com – W:www.comnieuphuyen.com

 

Nhà hàng Đại Dương

Điện thoại: 077.220.2882 – 090.569.4339

Email: sale@daiduongtuyhoa.com

Địa chỉ: A12 Hùng Vương – Tuy Hoà – Phú Yên

 

Nhà hàng Hoàng Gia

Điện thoại:  0888 666 456

Email: 

Địa chỉ: 259 Hùng Vương, Phường 9, Tuy Hòa, Phú Yên

 

Nhà hàng cơm niêu Tuy Hoà

Điện thoại: 0905128170

Email: comnieutuyhoa@gmail.com

Địa chỉ: 111 Lê Thành Phương, P 8, TP Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên

Website: comnieutuyhoa.com

 

Nhà hàng Làng Chài Phù Đổng

ĐC: 407 Lê Duẩn - Phường 9 - TP Tuy Hòa - Phú Yên, Tuy Hòa, Vietnam

T: 088 671 08 08

E:langchaiphudong@gmail.com

W: ivoryhotel.com.vn

 

Nhà hàng Chúc Xíu

ĐC: 5 Độc Lập, Tuy Hòa, Vietnam

T: 070 327 9999

 

GIỚI THIỆU VỀ QUY NHƠN – BÌNH ĐỊNH

Đôi nét về đất nước con người Bình Định

1. Bình Định, một dải đất hẹp ven biển Trung Trung bộ, rộng gần 6.100km2. Phía Bắc có đèo Bình Đê làm ranh giới tự nhiên với tỉnh Quảng Ngãi. Đèo Cù Mông hiểm trở ở phía Nam nối liền với tỉnh Phú Yên. Vượt qua đèo An Khê ở phía Tây, là bước lên đất Gia Lai và Tây Nguyên bao la. Bờ biển phía Đông khúc khuỷu dài hơn 140 km với nhiều cửa sông, cồn bãi, đầm vịnh, ghềnh mũi, bán đảo và hải đảo mênh mông sóng vỗ.

Hiện nay tỉnh Bình Định có 3 huyện miền núi (An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh), 7 huyện đồng bằng (Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tây Sơn, Tuy Phước và TP Quy Nhơn - thành phố loại 2 thuộc tỉnh). Dân số toàn tỉnh gần 1,5 triệu người, gồm 4 dân tộc anh em Kinh, Bana, H’re, Chăm và một số ít người Việt gốc Hoa.

 2. Xa xưa, từ năm 938-1470, vùng đất này đã từng là trung tâm của vương quốc Chăm-pa cổ đại với kinh thành Đồ Bàn hiện còn di tích ở thôn Nam Tân, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, cùng nhiều phế tích in đậm sắc thái văn hóa nghệ thuật của dân tộc Chăm tạo thành quần thể kiến trúc chung quanh thành Đồ Bàn như Thành Cha, Tháp Cánh Tiên (An Nhơn), Thành đá Tà Cơn (Vĩnh Thạnh), Tháp Dương Long (Tây Sơn), Tháp Bánh Ít (Tuy Phước), tháp Đôi (Quy Nhơn)…

Dưới triều Lê sơ, từ đời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi, 1428-1433) đất Đại Việt đã mở rộng vào đến Quảng Nam. Năm Hồng Đức thứ nhất (1471) vua Lê Thánh Tông lấy vùng đất phía Nam Quảng Nam, từ đèo Bình Đê đến đèo Cù Mông lập phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn thuộc Thừa Tuyên Quảng Nam. Đây là vùng đất nguyên thủy của Bình Định ngày nay.

 

Dưới triều hậu Lê (1533 -1789), Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước loạn lạc, giang sơn bị chia cắt, dân hai miền Nam - Bắc lâm cảnh nồi da xáo thịt. Một bộ phận dân ở Bắc Trung bộ trở ra là nạn nhân của vua Lê, chúa Trịnh, ào ạt di cư vào Nam cùng với quân sĩ của chúa Trịnh hầu hết là tráng đinh trẻ khỏe bị chúa Nguyễn bắt làm tù binh đưa vào khai phá vùng đất mới phía Nam.

Từ năm Nhâm Dần (1602) đến năm Nhâm Tuất (1742), các chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Khoát ba lần đổi tên phủ Hoài Nhơn thành Quy Nhơn, Quy Ninh rồi lại Quy Nhơn vẫn gồm 3 huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn thuộc Thừa tuyên Quảng Nam.

Khoảng đầu thế kỷ XVIII, căm ghét bọn tham quan ô lại và bọn địa chủ cường hào sách nhiễu dân lành, Võ Văn Doan tục gọi là chàng Lía, một thanh niên nghèo giỏi võ nghệ đã chiêu mộ nông dân cùng khổ xây thành đắp lũy ở khu vực Truông Mây - Hóc Sấu (Ân Đức - Hoài Ân), dấy binh khởi nghĩa chống chúa Nguyễn. Với khẩu hiệu “Lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”, nghĩa quân Võ Văn Doan đã đánh cướp nhiều gia sản của bọn hào phú, răn đe chúng không được nhũng nhiễu ức hiếp dân nghèo, bao vây tấn công phủ thành Quy Nhơn ở Châu Thành (nay thuộc xã Nhơn Thành huyện An Nhơn). Chúa Nguyễn phải huy động nhiều binh mã đàn áp, bao vây triệt hạ căn cứ Truông Mây, đẩy nghĩa quân lâm vào cảnh thế cô lực kiệt, đành chịu thất bại.

Cuộc khởi nghĩa chàng Lía là khúc dạo đầu của phong trào nông dân Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII, gây ảnh hưởng khá rộng trong nhân dân phủ Quy Nhơn lúc bấy giờ, để lại những ấn tượng tốt đẹp trong ký ức và truyền thuyết dân gian:

Chiều chiều én liệng Truông Mây

Cảm thương chàng Lía bị vây trong thành.

3. Trong đợt giao tranh Trịnh - Nguyễn những năm 1653- 1657, quân chúa Nguyễn đánh ra Đàng ngoài chiếm 7 huyện của trấn Nghệ An, bắt nhiều dân đưa vào khai phá vùng đất mới Đàng trong, trong đó có tổ tiên anh em nhà Tây Sơn vốn người họ Hồ huyện Hưng Nguyên, vào lập ấp Tây Sơn Nhất ở vùng núi An Khê miền Tây huyện Tuy Viễn, từ đó họ Hồ đổi thành họ Nguyễn. Đến đời Nguyễn (Hồ) Phi Phúc dời xuống ấp Kiên Thành (nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn), sinh được ba người con trai Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.

Thuở nhỏ ba anh em họ Nguyễn theo học thầy giáo Hiến là môn khách của Trương Văn Hạnh làm quan Nội hữu thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1765 - 1777). Trương Văn Hạnh bị quyền thần Trương Phúc Loan ganh ghét giết hại. Giáo Hiến sợ liên lụy phải trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học tại ấp An Thái huyện Tuy Viễn (nay thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn). An Thái là vùng đất võ nổi tiếng ở Bình Định, dân gian có câu: “Roi Thuận Truyền, quyền An Thái”. Hàng ngày được thầy giáo Hiến rèn dạy cả văn lẫn võ, ba anh em họ Nguyễn lại được thúc giục bởi câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thụ công” (nổi dậy ở miền Tây, nên đại nghiệp trên đất Bắc). Giáo Hiến thường khích lệ học trò “Là người đất Tây Sơn, hãy cố lên!”. Trong 3 anh em họ Nguyễn, Nguyễn Huệ (sinh năm 1752) trí dũng văn võ song toàn, có chí khí hơn cả.

Năm Tân Mão (1771) ba anh em họ Nguyễn trở về vùng Tây Sơn thượng đạo lập đồn trại, tích trữ lương thực, rèn sắm vũ khí, dụng cờ khởi nghĩa.

Với mục tiêu hợp lòng dân “Phò Lê diệt Trịnh”, thống nhất giang sơn, ngọn cờ đại nghĩa của Tây Sơn đã chiêu tập hàng ngàn nông dân bị cuộc sống dồn nén, xô đẩy đến bước đường cùng phải vùng dậy chống cường quyền, áp bức, bất công; trọng dụng nhiều hào kiệt hảo hán đã từng xã thân vì nghĩa lớn, lôi kéo cả những tù trưởng các dân tộc thiểu số vùng Nam Trường Sơn. Trong đó có những người tài ba, thao lược trong vùng như Đặng Văn Long, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Lộc, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân….Tiêu biểu trong số tướng lĩnh của nhà Tây Sơn có nữ tướng Bùi Thị Xuân, con gái cụ Bùi Đắc Chí người Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn (nay thuộc xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn).

Ở tuổi trăng tròn, Bùi Thị Xuân vừa có nhan sắc, vừa có sức mạnh, văn hay chữ tốt, thích làm con trai, múa kiếm đi quyền, muốn như bà Trưng, Bà Triệu cưỡi voi cầm quân dẹp giặc. Đến 15 tuổi, Bùi Thị Xuân đã điêu luyện võ nghệ. Mộng được như Bà Trưng, Bà Triệu càng nung nấu tâm hồn, Bùi Thị Xuân mở lò dạy võ, cưỡi ngựa, luyện voi thu hút rất đông con gái trong vùng.

Ai về Bình Định mà coi,

Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền.

 

Câu ca đó có lẽ xuất xứ từ sự tích Bùi Thị Xuân.

Với đức độ và tài năng của cô gái họ Bùi, nhà Tây Sơn phong Bùi Thị Xuân làm Đô Đốc tướng quân thống lĩnh 5.000 binh mã và chỉ huy đội voi chiến. Sát cánh cùng Bùi Thị Xuân còn có các cô gái cũng nhan sắc văn võ song toàn là Trần Thị Lan, Bùi Thị Nhạn, Huỳnh Thị Cúc, Nguyễn Thị Dung, Võ Thị Huấn hợp thành “Ngũ phụng thư” (5 cô gái đẹp tài hoa). Đội nữ quân thiện chiến của Bùi Thị Xuân cùng với các đội quân tiên phong khác khi ra Bắc diệt quân Trịnh, khi vào Nam đánh chúa Nguyễn, diệt quân Xiêm, lúc thần tốc phá tan 29 vạn quân xâm lược nhà Thanh giữa kinh thành Thăng Long, đâu đâu cũng bách chiến bách thắng, làm khiếp đảm quân thù.

Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ đem quân hạ thành Thuận Hóa của quân Trịnh. Một tháng sau, quân Tây Sơn tiến ra cố đô Thăng Long thực hiện khẩu hiệu “Phò Lê diệt Trịnh”. Sau nhiều chiến thắng vang dội, uy danh của Nguyễn Huệ thêm lừng lẫy, được vua Lê Hiển Tông (niên hiệu Cảnh Hưng 1740-1789) chọn làm phò mã và gả công chúa Ngọc Hân, phong là Bắc Bình Vương lúc 34 tuổi.

Tháng 7 năm Mậu Thân (1788), Hoàng thái hậu nhà Lê sang cầu viện triều đình Mãn Thanh, tái phục Lê Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà, rước quân xâm lược nhà Thanh vào chiếm Thăng Long. Dựa thế quân Thanh, vua Lê trả thù tàn bạo những người đã theo Tây Sơn.

Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ xưng Hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung thân chinh ra Bắc lần thứ ba. Quân thủy bộ Tây Sơn thần tốc tiến ra Bắc, đúng như dự kiến và lời hứa hẹn của Quang Trung, ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), sau khi quét sạch 29 vạn quân Thanh, đội quân bách chiến bách thắng của Quang Trung - Nguyễn Huệ đã hân hoan ăn Tết khai hạ tại kinh đô Thăng Long. Hoa đào làng Nhật Tân vẫn còn đang nở rộ khoe hương sắc mừng mùa xuân đại thắng, chấm dứt cuộc nội chiến Nam - Bắc triều và nạn Trịnh - Nguyễn phân tranh, thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối.

Dưới quyền trị vì của triều Quang Trung, nhiều chính sách về chính trị, kinh tế, xã hội, ngoại giao đã được ban hành khá độc đáo, mở ra triển vọng mới cho một xã hội năng động hơn. Song chưa được bao lâu thì ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) Quang Trung bị bệnh hiểm nghèo đột ngột từ trần lúc 40 tuổi đang đầy tài năng với những dự định lớn lao.

Nguyễn Huệ và Ngọc Hân chỉ sống hạnh phúc được 6 năm. Quang Trung yêu Ngọc Hân không chỉ vì trẻ đẹp, nết na mà còn vì trọng tài thơ văn nhạc họa và những kiến thức sâu rộng của nàng về thời cuộc quốc gia, tình yêu giữa họ càng nồng thắm. Cứ mỗi độ xuân về, người dân Thăng Long ngắm hoa đào nở lại nhớ đến cành đào Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung áo bào còn vương thuốc súng đã vội cho ngựa trạm mang cành đào Nhật Tân vào tận kinh thành Phú Xuân tặng người vợ yêu quý, báo tin đại thắng.

 

4. Hoàng đế Quang Trung mất, năm Quý Sửu (1793), Thái tử Nguyễn Quang Toản mới 11 tuổi, con trai đầu của Quang Trung và Chính cung Hoàng hậu, nối nghiệp vua cha, lấy niên hiệu Cảnh Thịnh (1793-1802). Đất nước lại rối ren, hoàng tộc nhà Lê chuyên quyền ở phía bắc, chúa Nguyễn khôi phục lực lượng rập rình rửa hận ở phía Nam.

Năm Kỷ Mùi (1799), chúa Nguyễn Phúc Ánh được người Pháp tiếp tay từ Gia Định kéo quân vượt biển đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn. Ba mẹ con Ngọc Hân bị bắt, Ngọc Hân uống thuốc độc quyên sinh lúc 29 tuổi, hai con nhỏ bị bức tử. Năm sau, Phúc Ánh đổi phủ Quy Nhơn thành dinh Bình Định, đổi ấp Tây Sơn thành ấp An Tây nhằm đề cao công cuộc “bình định” đánh đổ nhà Tây Sơn. Sau khi chiếm được Phú Xuân, ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802) quân Nguyễn tiến đánh Thăng Long, triều Tây Sơn đến đây tan rã. Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long (1802 - 1819), ra tay trả thù nhà Tây Sơn cực lỳ tàn bạo và hèn hạ. Hầu hết thân nhân của Quang Trung và những người hiền tài đã từng phụng sự nhà Tây Sơn đều bị hành hình, hai mẹ con nữ tướng Bùi Thị Xuân bị bắt cho voi giày, mộ vua Quang Trung táng tại phủ Dương Xuân trong kinh thành Phú Xuân bị quật lên, thành Hoàng Đế (cổ thành Đồ Bàn) bị triệt phá…

 

5. Dưới các vương triều nhà Nguyễn, địa danh Bình Định nhiều lần thay đổi tên gọi: Bình Định Định (1800), Bình Định trấn (1808), Quy Nhơn trấn (1813), Hoài Nhơn phủ (1831), Bình Định tỉnh (1832).

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, chính thức xâm lược nước ta. Nhưng gặp phải sức kháng cự quyết liệt của nhân dân ta, nên thực dân Pháp phải chuyển vào tiến công Nam bộ. Nhằm thực hiện ý đồ xâm lược, thực dân Pháp rắp tâm bắt vua Hàm Nghi, một ông vua yêu nước lên ngôi lúc 13 tuổi để chúng dễ bề xâm lược toàn cõi Việt Nam. Tháng 7 năm Ất Tỵ (1885), kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi được giải thoát lên vùng núi phía Tây Quảng Trị ra chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu, hào kiệt và nhân dân giúp vua cứu nước.

Tại Bình Định, hưởng ứng chiếu Cần Vương, từ giữa tháng 8-1885, dưới sự lãnh đạo của Đào Doãn Địch, nghĩa quân đã nổi dậy ở Phù Mỹ, Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước, Bình Khê…, cuối tháng 8 chiếm được thành Bình Định. Đầu tháng 9-1885, quân Pháp chiếm lại thành Bình Định, nhưng nghĩa quân vẫn làm chủ tình hình toàn tỉnh. Đào Doãn Địch rút quân về Bình Khê phối hợp với nghĩa quân Mai Xuân Thưởng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài.

Mai Xuân Thưởng sinh năm 1860 tại làng Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Bình Khê. Đậu cử nhân Hán học khoa thi hương năm Ất Dậu (1885) lúc 25 tuổi. Cha là Mai Xuân Tín (tức Mai Văn Phẩm) đậu cử nhân Hán học năm Đinh Mùi (1847), làm quan Bố Chánh Cao Bằng. Mặc dù có học, đỗ đạt cao, nhưng Mai Xuân Thưởng không ra làm quan mà dấy binh khởi nghĩa hưởng ứng chiếu Cần Vương cứu nước.

Sau khi Đào Doãn Địch lâm bệnh chết, Mai Xuân Thưởng liên kết với nghĩa quân Bùi Điền ở Phù Mỹ, Tăng Bạt Hổ ở Hoài Ân thống nhất lực lượng chống Pháp và triều đình nhà Nguyễn. Dưới quyền thống lĩnh của Mai Xuân Thưởng, nghĩa quân Cần Vương Bình Định không những làm chủ tình hình toàn tỉnh mà còn phối hợp chiến đấu với nghĩa quân ở Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận từ cuối 1885 đến giữa 1886. Đầu năm 1887, gần 7.000 quân Pháp và Nam Triều đàn áp khốc liệt phong trào Cần Vương ở Bình Định, nhưng nghĩa quân vẫn ngoan cường chiến đấu trong các trận đánh quyết liệt ở Kim Sơn, Bồng Sơn, Phù Ly, Bàu Sấu, Thủ Thiện, Đồng Hươu…

Phong trào Cần Vương ở Bình Định là một trong những cuộc khởi nghĩa lớn của phong trào Cần Vương cả nước những năm 1885 – 1890, là đỉnh cao của phong trào này ở các tỉnh Nam Trung bộ.

Lực lượng chênh lệch quá lớn, trước sức đánh phá quyết liệt của Pháp và lính Nam Triều cùng những thủ đoạn nham hiểm của bọn Việt gian tay sai như Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc, nghĩa quân thất thế, Mai Xuân Thưởng rút quân vào vùng núi Vân Canh giáp Phú Yên, sau đó bị vây bắt. Ngày 7 tháng 6 năm 1887, Mai Xuân Thưởng cùng 12 trợ thủ đắc lực bị chém đầu tại Gò Chàm, xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn. Lúc đó ông mới 27 tuổi.

Phong trào Cần Vương bị đàn áp thảm khốc, nhưng các chiến sĩ yêu nước ở Bình Định không sờn chí. Phạm Toản lập căn cứ trong rừng sâu kéo dài cuộc chiến đấu đến năm 1890. Nguyễn Đa chạy vào An Giang tiếp tục chống Pháp, Tăng Bạt Hổ qua Xiêm, Trung Quốc, Nga rồi đưa cụ Phan Bội Châu sang Nhật cổ động phong trào Đông Du (1905-1908), Võ Trứ cùng Trần Cao Vân xây dựng lực lượng trong nông dân và sư sãi hai tỉnh Bình Định, Phú Yên, phát động cuộc khởi nghĩa sông Cầu (1895)…

Trước nạn xâm lược của thực dân Pháp, nhiều người con của quê hương Bình Định trên đất Nam bộ và Huế cũng có những nghĩa cử cao đẹp. Nguyễn Văn Viện cùng một số người trong hoàng tộc nhà Nguyễn tổ chức cuộc binh biến tại Huế bắt khâm sứ Pháp phải đầu hàng. Võ Duy Dương (biệt danh Ngũ Linh Dương, Thiên Hộ Dương), sau khi tham gia bảo vệ thành Gia Định và cuộc khởi nghĩa Trương Định đã về Đồng Tháp Mười lập căn cứ chống Pháp. Nguyễn Văn Lịch (tức Nguyễn Trung Trực) người con của Long An chánh quán Bình Định với chiến công lẫy lừng đốt cháy tàu “Hy vọng” của giặc Pháp. Trước lúc hy sinh ông đã nói một câu bất hủ: “Bao giờ đất Nam hết cỏ thì người Nam mới hết đánh Tây”…

Tiếp theo phong trào Cần Vương, những tháng giữa năm 1908, nhân dân nổi dậy chiếm các phủ, huyện lỵ Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Tuy Phước, An Nhơn, Bình Khê… Hơn 3 vạn nông dân bao vây thành Bình Định quyết liệt chống sưu cao, thuế nặng, đòi trừng trị bọn quan lại tham nhũng, bất chấp sự đàn áp, khủng bố của nhà cầm quyền. Sau cuộc khởi nghĩa 1885-1887, đây là cuộc nổi dậy mạnh mẽ, sôi sục trên quy mô toàn tỉnh, thực dân Pháp phải điều lính lê dương từ Hà Nội, Hải Phòng vào Bình Định đối phó. Cuộc đấu tranh chống sưu thuế từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi lan đến Bình Định thì ngọn sóng lại khởi lên mạnh mẽ hơn các nơi khác.

Những năm đầu thế kỷ XX, đồng bào các dân tộc miền núi đứng lên chống Pháp cướp đất lập đồn điền, chống sưu thuế. Cuộc khởi nghĩa của đồng bào Ba Na (Vĩnh Thạnh) và H’re (An Lão) kéo dài ngót 30 năm (1900-1929). Tuy quân Pháp đóng được một số đồn binh ở An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh nhưng chúng không khuất phục nổi đồng bào các dân tộc, không thể nào kiểm soát được vùng núi phía Tây Bình Định.

 

6. Trong xã hội có nhiều thành phần giai cấp, tầng lớp, tuy địa vị, hoàn cảnh, mức độ giàu nghèo khác nhau, nhưng tâm tư chung của người Bình Định là cố gắng tần tảo lo cho con em ăn học biết chữ để làm người có ích cho đời, đó là truyền thống hiếu học, đã sản sinh và nuôi dưỡng không ít trí thức thông tuệ, tài hoa, thanh bạch.

Dưới các triều đại phong kiến nhà Nguyễn, từ 1802 đến 1918 đã có 246 người Bình Định đậu cử nhân Hán học (1 Hoàng giáp, 5 Tiến sĩ, 3 Phó bảng). Trong đó có những người thành đạt lúc còn rất trẻ như Nguyễn Văn Hiển (Phù Cát, sinh 1826), cử nhân 20 tuổi, Hoàng giáp 21 tuổi; Lê Văn Chân (Phù Mỹ, sinh 1817) cử nhân 17 tuổi, tiến sĩ 25 tuổi; Trần Văn Chánh (Hoài Ân, sinh 1821), thủ khoa cử nhân (giải nguyên) 19 tuổi, tiến sĩ 20 tuổi; Hồ Sĩ Tạo (An Nhơn, sinh 1869) cử nhân 22 tuổi… Người đậu cử nhân trẻ tuổi nhất có Văn Vĩ 16 tuổi (sinh 1902), sau đó đi học ở Pháp, (con Văn Vĩnh Thiệu, quê Phù Cát, đậu cử nhân năm 1906)…

Từ năm 1852 vua Tự Đức mở trường thi Hương tại thành Bình Định (An Nhơn) chọn cử nhân các tỉnh Nam Trung bộ. Tại trường thi Bình Định, tính đến năm 1915 (đời vua Khải Định) đã tổ chức 23 kỳ thi Hương, 192 sĩ tử Bình Định đậu cử nhân, trong đó có 14 thủ khoa (giải nguyên) và 9 cử nhân nhì (á nguyên). Kỳ thi năm 1852 Bình Định có 11 người đậu trên tổng số 13 người dự thi trong khu vực, Cao Văn Tuấn (Tuy Phước) đậu thủ khoa. Kỳ thi năm 1867 đậu 14/18 người, Lê Đăng Đệ thủ khoa, Nguyễn Tạo cử nhân nhì (đều là người Phù Cát). Kỳ thi năm 1906, Lê Chuân (Hoài Ân) đậu thủ khoa lúc 23 tuổi…

“Học để làm người”, không ít bậc khoa bảng Bình Định mặc dù đỗ đạt cao, nhưng không màng danh lợi chốn quan trường mà chọn cuộc sống dân dã nơi bản quán, dạy học, làm thuốc trong cảnh điền viên thanh bạch. Chính họ là những người hướng dẫn dư luận xã hội, đứng về phía nhân dân chống cường quyền, áp bức, bất công. Cũng có người làm quan, nhưng cương trực, khí khái “tâm bất phục, khẩu bất phục” can tội chống đối triều đình, bị giáng chức, miễn chức như Tuần vũ Lê Văn Chân (Phù Mỹ), Tri phủ Trần Văn Chánh (Hoài Ân), Tri huyện Trần Đức Tú, Nguyễn Văn Thạch (Tuy Phước), Ngự sử Trần Kinh Vĩ (Phù Cát), Ngự sử Trần Văn Quang (Hoài Ân, anh ruột Trần Văn Chánh)… Lại có những si phu hào kiệt tỏ rõ thái độ phản kháng quyết liệt, lãnh đạo nhân dân đứng lên chống lại giai cấp thống trị và chế độ đương thời, như Mai Xuân Thưởng, Hồ Sĩ Tạo, lê Chuân…

Tiêu biểu cho giới trí thức Bình Định thời bấy giờ có Đào Tấn (1845-1907) người làng Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, đậu cử nhân năm 1867 lúc 22 tuổi, làm Tổng đốc Nghệ An. Với kiến thức uyên bác, tài năng đa dạng, Đào Tấn cùng nhiều lớp nghệ sĩ tài danh dòng tuồng cổ Bình Định đã góp phần xứng đáng đưa nghệ thuật sân khấu tuồng cổ Việt Nam phát triển lên đỉnh cao, đậm đà bản sắc dân tộc, mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Lúc còn ở Nghệ An và Huế, cụ Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng là người bạn tri kỷ tâm đắc với nhà nghệ sĩ tài ba họ Đào.

Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được bổ làm Tri huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn, Bình Định) tháng 5-1909, là một vị quan nổi tiếng thanh liêm và thương dân. Nguyễn tất Thành vào Bình Định thăm cha, ở nhà cụ Phạm Ngọc Thọ (thân sinh cố Bác sĩ Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch) tại Quy Nhơn học thêm tiếng Pháp. Khoảng 7/1910, Nguyễn Tất Thành chia tay cha, rời Bình Định vào dạy học tại trường Dục Thanh ở Phan Thiết một thời gian ngắn rồi vào Sài Gòn sang Pháp (1911). Sau này được biết về sự kiện đó, nhân dân và tuổi trẻ Bình Định rất vinh dự và tự hào vì trước khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ kính yêu đã có một thời gian dừng chân ở Bình Định, quê hương của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn và người anh hùng dân tộc “áo vải cờ đào” Quang Trung - Nguyễn Huệ.

 

7. Bên cạnh nghệ thuật tuồng cổ đặc sắc, Bình Định còn là mảnh đất màu mỡ cho văn hóa dân gian nảy lộc đâm chồi, đơm hoa kết trái. Ca dao, dân ca, tục ngữ, hò vè, hát lý, hát kết, hát bá trạo, bài chòi, chuyện cười, hơ-mon… ấm áp tình người, nồng thắm hương vị và cảnh sắc quê hương xứ dừa. Những lễ hội dân gian như đổ giàn, đua ngựa, bơi thuyền, múa lân, đâm trâu, đấu võ… bừng bừng khí thế lao động và tinh thần thượng võ. Trong sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian mang tính quần chúng rộng rãi đã đọng lại biết bao lời hẹn ước, chớm nở biết bao tình yêu đôi lứa.

Bình Định còn là nơi sản sinh và nuôi dưỡng tâm hồn những nhà thơ, nhà văn tên tuổi đã có những đóng góp xứng đáng vào nền văn học Việt Nam cận đại và hiện đại như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử… Từ sau Cách mạng tháng 8/1945, dưới đường lối giáo dục cách mạng của Đảng đã xuất hiện một lớp trí thức mới “hồng thắm chuyên sâu”, không ít thanh thiếu niên sinh trưởng trên đất Bình Định được đào tạo trong và ngoài nước, trở thành những nhà khoa học có học hàm học vị cao, cống hiến trí tuệ, tài năng và sức lực vào sự nghiệp xây dựng đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong thời đại mới. Tiêu biểu trong đội ngũ trí thức đó có Phan Phải, Nguyễn Đình Tứ, Đặng Hữu, Nguyễn Cang…

Với bàn tay và khối óc, trí thông minh và lòng dũng cảm, trải qua quá trình lao động và chiến đấu lâu dài, các thế hệ người Bình Định đã xây dựng vùng đất hoang sơ này trở thành trù phú, kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện.

Hơn 5 thế kỷ xây dựng và bảo vệ  quê hương kể từ khi hình thành phủ Hoài Nhơn (1471), vùng đất nguyên thủy của tỉnh Bình Định ngày nay, kế thừa và phát huy những tinh hoa, truyền thống tốt đẹp của các thế hệ ông cha qua chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để gây dựng, phát triển và cải thiện, dân sinh, từng bước đẩy lùi nghèo nàn và lạc hậu, cũng như trong đấu tranh chống cường quyền, áp bức, bất công và xâm lược, trong bản sắc chung của dân tộc Việt Nam, lớp lớp người Bình Định đã được giáo dục, rèn luyện, hun đúc nên những nhân cách, phẩm chất cao quý: Thượng võ, yêu nước, ghét áp bức bất công, dám xả thân vì nghĩa lớn; hiếu học, thông minh, cần cù, sáng tạo; nhân hậu thủy chung, trọn nghĩa vẹn tình; đồng tâm hiệp sức, tự lực tự cường để xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trường tồn…

 

VỊNH GỀNH RÁNG – TIÊN SA

Nằm ở phía đông nam TP. Quy Nhơn, là tác phẩm thiên tạo với quần thể sơn thạch chạy sát biến, nơi những dãy đá núi nhấp nhô, chập trùng tạo thành hang, thành rạng, thành gành, với một bên là những bãi cát đài trắng mịn và mặt biển xanh màu ngọc bích rì rào sóng vỗ... tất cả tạo nên một Ghềnh Ráng nguyên sơ, một bức tranh thủy mặc hữu tình kỳ vĩ và thơ mộng.

Men theo con đường đất uốn lượn theo triển núi, du khách sẽ chiêm ngưỡng những tác phẩm điêu khắc mà tạo hóa đã ban tặng cho Ghềnh Ráng như bãi tắm độc đáo với vô số viên đá cuội được sóng biển mài nhẵn như những quả trứng khống lồ, nơi dành riêng cho Nam Phương Hoàng Hậu khi về đây nghỉ mát tắm biển nên còn gọi là bãi tắm Hoàng Hậu; là đá Vọng Phu được sóng và gió biển tạc khắc như hình dáng người vợ ngóng chồng; là dãy đá có hình sư tử dũng mãnh “trợ gan cùng tuế nguyệt” trước sóng gió và thời gian; là bãi tắm Tiên Sa đẹp nao lòng nhuốm màu huyền thoại.

Bên cạnh sườn đồi là nơi an nghỉ của nhà thơ Hàn Mặc Tử - một thi sĩ nổi tiếng trong làng thi ca Việt Nam. Từ đây du khách có thể ngắm bao quát toàn bộ phía đông thành phố Quy Nhơn và xa hơn là bán đảo Phương Mai với đầm Thị Nại như một bức tranh nhiều cảm xúc.  

Ghềng Ráng được vua Bảo Đại chọn là nơi nghỉ mát cho hoàng gia từ những năm 1927.

 

Độc đáo “Bút lửa Dzũ Kha”

Đã từ lâu, khi đến tham quan tại khu du lịch Ghềnh Ráng, TP. Quy Nhơn (Bình Định), du khách thường dừng chân tại lều tranh trên đồi Thi nhân của nghệ sĩ Dzũ Kha, người dùng “bút lửa” để viết nên những vần thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử trên gỗ một cách rất độc đáo.

 

Dzũ Kha tên thật là Trương Vũ Kha, sinh năm 1960, tại huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. Năm 23 tuổi, tình cờ anh đọc về cuộc đời, sự nghiệp thơ Hàn Mặc Tử, rồi bị cuốn hút vào đó một cách lạ kỳ.

Anh bộc bạch: “Khi ấy, trong tôi trào dâng nỗi xót xa về người thi sĩ tài hoa bạc mệnh ra đi ở tuổi 28 xuân xanh. Đồng thời với đó là sự khâm phục tài hoa Hàn Mặc Tử, ông xứng đáng là nhà thơ lớn của Việt Nam”.

Anh giống như một đệ tử, một tín đồ trung thành của thơ Hàn Mặc Tử. Có lẽ, Dzũ Kha là người thuộc nhiều thơ Hàn Mặc Tử nhất Việt Nam. Dzũ Kha đam mê thơ Hàn Mặc Tử và muốn tìm hiểu về cuộc đời, thân thế sự nghiệp nhà thơ họ Nguyễn (tên thật của Hàn Mặc Tử là Nguyễn Trọng Trí). Từ đó, anh muốn truyền bá thơ Hàn tới công chúng. Sau khi nghiền ngẫm về cuộc đời Hàn Mặc Tử, Dzũ Kha mới nghĩ cách gì để lưu giữ thơ Hàn. Nếu vẽ bằng sơn hay tranh gì đó cũng đều bị bong tróc, nên anh đã nghĩ ra cách dùng “bút lửa” để viết thơ của ông.

Năm 1982, Dzũ Kha tự làm chiếc “bút lửa” đầu tiên, sử dụng nghệ thuật thư pháp “bút lửa” để viết thơ Hàn trên các sản phẩm tranh gỗ thông. “Bút lửa” mà Dzũ Kha sử dụng có ngòi là dây lò xo xoắn được đấu nối với dòng điện. Khi viết, vẽ, ngòi chạm vào gỗ thông hoặc gỗ mít, xà cừ… phát ra lửa, bốc khói. Muốn có tác phẩm nghệ thuật đạt độ tinh xảo đòi hỏi nghệ nhân phải tỉ mỉ, chính xác trong từng chi tiết. Để tạo ra bức tranh thơ hoản hảo, phải thật khéo léo, tinh tế thì mới có thể thành công, bởi bút lửa dễ gây cháy sém chất liệu trong quá trình vẽ.

 

“Lều tranh-Nhà lưu niệm thơ Hàn Mặc Tử - Bút lửa Dzũ Kha” trong khu du lịch Ghềnh Ráng

 

Hơn 30 năm qua, Dzũ Kha đã dùng “bút lửa” để viết thơ Hàn Mặc Tử và những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, châm ngôn hay, ý nghĩa… trên gỗ tại lều tranh trên đồi Thi nhân. Những bức tranh thư pháp về thơ Hàn Mặc Tử của Dzũ Kha đã trở thành địa chỉ văn hóa, món quà tinh thần hấp dẫn nhiều du khách khi đến tham quan tại đây.

Cũng bởi lẽ đó, Dzũ Kha như một hướng dẫn viên du lịch “bất đắc dĩ” và “độc nhất vô nhị” của đất Quy Nhơn khi ông có thể nói chuyện hàng giờ về Hàn Mặc Tử với du khách ghé thăm Ghềnh Ráng. Hầu hết du khách đều bị hút hồn khi được tận mắt chứng kiến nghệ thuật thi pháp bằng bút lửa, ghi lại những bài thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử do nghệ nhân Dzũ Kha thực hiện.

 

Chị Nguyễn Hồng Minh, người học trò duy nhất của Dzũ Kha theo nghề viết, vẽ “bút lửa” từ năm 2007

Đam mê thơ Hàn Mặc Tử, Dzũ Kha thực hiện viết cuốn sách “Hành trình đến với thơ Hàn Mặc Tử” từ năm 2005 với bản thảo đầu tiên chỉ vỏn vẹn khoảng 100 trang. Sau nhiều năm tháng anh dày công miệt mài chỉnh sửa, bổ sung nhiều tư liệu và thông tin độc đáo, năm 2017, bản in lần thứ 15 của cuốn “Hành trình đến với thơ Hàn Mặc Tử” – Dzũ Kha sưu tầm và biên soạn được công ty sách Liên Việt phát hành. Cuốn sách dày 223 trang, giới thiệu nhiều tác phẩm, bút tích đặc sắc mà rất ít người biết của Hàn Mặc Tử, những đoạn hồi ký của Nguyễn Bá Tín (em trai Hàn Mặc Tử) về người anh trai thời nhỏ nhiều ham mê… Bên cạnh đó, phần cuối sách còn có những bản nhạc phẩm được phổ từ thơ Hàn Mặc Tử, những bức ảnh liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp nhà thơ…

Dzũ Kha như một cuốn “từ điển sống” về cuộc đời Hàn Mặc Tử. Trước tấm lòng yêu thơ Hàn độc đáo của anh, UBND tỉnh Bình Định đã chấp thuận ước mong của anh là xây dựng “Nhà lưu niệm thơ Hàn Mặc Tử - Bút lửa Dzũ Kha” trong khu du lịch Ghềnh Ráng.

 

HÀN MẠC TỬ

 

Nói đến Hàn Mạc Tử là nói đến một dòng thơ lãng mạn, hiện đại của Việt Nam, là người khởi xướng ra trường thơ loạn, trường thơ điên. Ong tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22/09/1912 tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Ông có duyên với bốn chữ Bình : ông sinh tại Quảng Bình, làm báo tại Tân Bình, có người yêu tại Bình Thuận và mất tại Bình Định.

Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh của ông. Ong có tài năng làm thơ từ rất sớm. Ong cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ong được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ “ Thức khuya” của mình lên một tờ báo.

Vào năm 1932 bước vào đời làm việc tại sở đạc điền Quy Nhơn và vào năm ấy ông có người yêu đầu tiên là Hoàng Thị Kim Cúc, người gốc Huế. Nhưng vì tính tình nhút nhát nên ông chỉ dám bày tỏ tình cảm của mình qua bài thơ Hồn Cúc :

“… Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá

Dám ôm hồn Cúc ở trong sương …”

Nhưng năm 1988 Kim Cúc bị tai nạn giao thông tại TPHCM, sau đó được đưa về Huế và mất tại đó. Có thể nói đám tang của bà lớn nhất ở Huế từ trước đến nay vì  bà là Phó ban hướng dẫn TW gia đình Phật tử VN.

Sau này, ông được hội Tây Du giới thiệu đi học nước ngoài nhưng vì bọn mật thám biết ông có quan hệ mật thiết với cụ Phan Bội Châu nên đã gạch tên trong danh sách du học. Chính vì vậy ông quyết định lên Sài Gòn lập nghiệp, năm đó ông được 21 tuổi.

Lên Sài Gòn ông là phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.

Và bài thơ Phan Thiết,Phan Thiết ra đời :

“ …Ta lang thang tìm đến chốn lầu trăng

Lầu Ong Hoàng người thiên hạ đồn vang

Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết

Oi trời ơi ! Là Phan Thiết ! Phan Thiết

Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi

Ta đến nơi nường ấy vắng lâu rồi

Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ

Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ

Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng

Ta vãi tung thơ lên tận sông hằng

Thơ phép tắc bỗng kên rên thống thiết

Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết!

Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu

Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư”

Ít lâu sau, ông mắc bệnh phong , một căn bệnh nan y thời đó. Ong bỏ tất cả quay về Quy Nhơn. Trong thời gian ông ở Quy Nhơn ông đã cho ra tập thơ Gái Quê. Và Mai Đình là người con gái ở Thanh Hóa, khi đọc tập thơ Gái Quê đã đem lòng yêu mến ông. Khi Hàn đang bệnh Mai Đình thường xuyên ra thăm và chăm sóc ông. Nhưng cùng thời gian này ông đang quen Ngọc Sương, là dì ruột của Mộng Cầm.

 “ Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối

Sương ở bên thềm chảy mãi thôi”

Nhưng hai mối tình này không đi sâu vào lòng Hàn Mạc Tử như mối tình ông dành cho Mộng Cầm. Khi Hàn mất Mai Đình đau đớn làm thơ với nội dung muốn chết theo Hàn nhưng vì còn bận khánh chiến, trả nợ với non nước nên với hên với Hàn rằng :

“Bao giờ tổ quốc toàn thắng

Là lúc tìm anh dưới suối vàng”

Sau này kết thúc kháng chiến Mai Đình đã lập gia đình với một vị tướng trong QĐNDVN. Người này rất hiểu và trân trọng tình yêu của Mai Đình với Hàn Mạc Tử.

Vào cuối cuộc đời, bệnh ông ngày càng nặng, người yêu thì chia xa, ông đau khổ về tinh thần lẫn thể xác. Chính vì thế mà nhà văn Trần Thanh Địch muốn an ủi bạn mình bằng cách giới thiệu cho Hàn Mạc Tử một người yêu thơ hàn, nàng tên Thương Thương, người Huế, gọi Trần Thanh Địch bằng chú. Những bức thư tình Thương Thương  gửi cho Hàn hoàn toàn do Trần Thanh Địch tự phác họa ra. Hàn Mạc Tử cứ ngỡ mình đang yêu thật sự. Từ đó khoái cảm về mặt tinh thần mà sáng tác ra những vần thơ nổi tiếng.

“Chiều nay tàn tạ hồn hoa

Nhớ Thương Thương qúa, xót xa tâm bào”

Hàn Mạc Tử sáng tác vở kịch “ Quần Tiên Hội” có nhân vật chính là Thương Thương trong tưởng tưởng. Khi anh của Thương Thương phát hiện , tức giận ngăn cấm và vở kịch đã bị bỏ dở nửa chừng. Sau khi Hàn mất có một người cùng cảnh ngộ như Hàn đã viết tiếp vở kịch này và được giới nghệ sĩ đồng tình.

Ngày 20/09/1940 bệnh của Hàn Mạc Tử ngày càng nặng. Ong được đưa vào bệnh viện phong Quy Hoà nhưng sau 52 ngày chữa trị ông đã qua đời. Khi ông mất không hề có một người thân nào bên cạnh mà chỉ có các y bác sĩ.

Để tưởng nhớ một nhà thơ lớn của đất nước, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và một số văn nghệ sĩ đã dựng đài tưởng niệm ông với hình tượng một cây viết và quyển sách, đồng thời tại trại phong Quy Hoà vẫn còn giữ một phòng làm phòng lưu niệm nhà thơ Hàn Mạc Tử.

Cuộc đời của Hàn được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông , có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ…

Năm 2004, hãng phim truyền hình TPHCM ( TFS ) đã thực hiện bộ phim Hàn Mạc Tử để kỷ niệm ông. Một số bài thơ nổi tiếng đã được phổ nhạc vì tính lãng mạn của nó, một số bài được nhiều nhà phê bình đánh giá là hay và đưa vào sách giáo khoa bậc trung học như bài : Đây thôn Vỹ Dạ hay Mùa xuân chín.

MÙA XUÂN CHÍN

Trong làn nắng ửng : khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang

                 ***

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…

 

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây…

                 ***

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang? 

 

    ĐÂY THÔN VỸ DẠ

Sao anh không về chơi thôn Vỹ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

           

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay…

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

            ***

Mơ khách đường xa, khách đường xa,

Ao em trắng quá nhìn không ra…

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

Ai biết tình ai có đậm đà.

Ngoài ra nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có phổ nhạc bài Hàn Mặc Tử như sau :

HÀN MẠC TỬ

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Trăng nằm trên cành liễu đợi chờ

Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò”

Đường lên dốc đá nữa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa. Lầu Ong Hoàng đó thửơ nào trăng Hàn Mạc Tử đã qua. Anh trăng treo nghiêng nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng. Tiếng chim kêu đâu thương như nức nở dưới trời sương. Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngở bước chân người, tìm về giữa đêm buồn.

Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến. Tình yêu vừa chớm xót thương cho chàng cuộc sống phê nhân. Tiếc thay cho thân trai, một nửa đời chưa qua hết. Trách thay cho tơ duyên chưa thắm nồng đã vội tan. Hồn ngất ngây điên cuồng cho trời đất cũng tan thương mà khổ đau niềm  riêng.

Hàn Mạc Tử xuôi về quê cũ dấu thân nơi nhà hoang. Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc tủi cho nhau mà thôi. Tình đã lỡ xin một câu hứa kiếp sau ta trọn đôi. Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.

Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn ghềnh đón chân chàng đến. Người xưa nào biết chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa. Chốn hoang liêu tiêu sơ Hàn âm thầm ôm trăng vỡ. Khóc thương thân bơ vơ cho đến một buổi chiều kia. Trời đất như quay cuồng khi hồn phách vút lên cao. Mạc Tử nay còn đâu.

 

 

Hoàng Cúc :

Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá

Dám ôm hồn Cúc ở trong sương

Ngọc Sương :

“Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối

Sương ở bên thềm chảy mãi thôi”

Mộng Cầm :

Đi thăm Hàn Mạc Tử ở trại phong Quy Hoà, Hàn Mạc Tử trốn không gặp, gửi tặng thơ cho Mộng Cầm.

“Chửa gặp nhau mà đã biệt ly

Hồn anh theo dõi bước em đi

Hồn anh sẽ quyện trong làn gió

Lưu luyến bên em chẳng nói gì”

Thương Thương :

Thương Thương là cháu của Trần Thanh Địch (bạn thơ, rất thân với Hàn Mạc Tử). Trần Thanh Địch muốn an ủi bạn nên bày chuyện gửi thư cho Hàn Mạc Tử :Viết rằng Thương Thương rất yêu Hàn Mạc Tử (thực ra Thương Thương còn nhỏ : 12 tuổi)

Hàn Mạc Tử xúc động viết tặng thơ :

         “Chiều nay tàn tạ hồn hoa

   Nhớ thương thương quá, xót xa tâm bào”

Hàn Mạc Tử sáng tác vở kịch “Quần Tiên Hội” có nhân vật chính là Thương Thương trong tưởng tượng. Sau đó anh của Thương Thương tức giận ngăn cấm, vở kịch bị bỏ dở nửa chừng. Sau khi Hàn Mạc Tử mất, có một người cũng cùng cảnh ngộ như Hàn Mạc Tử đã viết tiếp vở kịch này và được giới nghệ sĩ đồng tình.

Mai Đình :

Giáo viên nữ công một trường tư thục, có cuộc sống sung túc, tinh thần thoải mái.

“Tối ăn chè bưởi, học đờn ca

Kẻ đến thưa cô, kẻ bẩm bà

Có bữa ngâm thơ quên cả ngủ

Quanh mình vây phủ đầy tiên nga”

Mai Đình yêu Hàn Mạc Tử, khi Hàn Mạc Tử gặp đau thương, Mai Đình nhiều lần từ Sài Gòn ra Quy Nhơn thămvà an ủi Hàn Mạc Tử.

Ngày Hàn Mạc Tử chết, Mai Đình đau đớn -> làm thơ , nội dung muốn chết theo Hàn Mạc Tử nhưng vì còn bận tham gia kháng chiến trả nợ với nước non nên hẹn với chàng :

“Bao giờ tổ quốc ca toàn thắng

  Là lúc tìm anh dưới suối vàng.”

Sau này Mai Đình lập gia đình với một vị tướng trong QĐNDVN. Người này rất hiểu và trân trọng tình yêu của Mai Đình với Hàn Mạc Tử.

Mai đình lúc trên 70 tuổi vẫn làm thơ cho Hàn Mạc Tử :

“Em biết yêu em đã muộn màng

  Nỗi niềm thương nhớ dễ gì an

  Ghì trăng ôm gió tìm hương cũ

  Tóc trắng, tình xanh, mộng chửa tàn”

 

Tham khảo thêm: Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ

 

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có cuộc đời và số phận hết sức lạ kỳ. Trong hơn nửa thế kỷ qua, rất nhiều cuốn sách, bài báo viết về con người này nhưng dường như vẫn còn nhiều điều không thể nói hết. Nhân dịp Đài Truyền hình TP.HCM chiếu bộ phim Hàn Mặc Tử, Thanh Niên xin giới thiệu loạt bài tư liệu về nhà thơ này.

 

HÀN MẶC TỬ NĂM 12 TUỔI

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh vào giờ thìn ngày 22/9/1912 tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Lúc còn nhỏ, chàng đã được người anh đầu là một người rất giỏi thơ Đường luật động viên, hướng dẫn làm thơ, nhờ thế chàng có thể sáng tác thành thạo thơ Đường từ rất sớm. Chính những bài thơ này đã dẫn dắt chàng gặp gỡ nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu. Và cuộc gặp gỡ định mệnh đó đã làm thay đổi cả cuộc đời chàng về sau.

Ấy là vào năm 1925, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt ở Trung Quốc và đưa về Việt Nam xét xử. Nhưng dưới áp lực đấu tranh đòi ân xá của các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như dư luận quốc tế, chúng phải đưa nhà yêu nước về giam lỏng ở Huế. Từ đó Phan Bội Châu trở thành Ông già Bến Ngự, sớm tối lấy văn thơ làm vui. Để giao lưu tâm tình với bạn hữu và những người đồng chí hướng, Phan Bội Châu mở ra Mộng Du thi xã, kêu gọi mọi người gửi thơ văn đến xướng họa. Lời kêu gọi của nhà yêu nước được hưởng ứng sôi nổi. Thơ từ các nơi gửi về cho Mộng Du thi xã rất nhiều. Và trong số các bài thơ gửi đến, Phan Bội Châu đặc biệt tâm đắc với ba bài thơ của Hàn Mặc Tử. Chàng đã gửi đến ba bài thơ Đường luật có tên là Thức k     huya, Chùa hoang và Gái ở chùa. Đó là vào khoảng năm 1931.

Những bài thơ của chàng đã xoáy đúng tâm trạng nhà yêu nước. Phan Bội Châu đã họa lại ba bài thơ độc đáo này và cho đăng tất cả trên Báo Tràng An, một tờ báo có nhiều bạn đọc xuất bản ở Huế với lời đề dẫn: "Từ khi về nước đến nay, được nghe nhiều về văn thơ quốc âm, song chưa gặp được bài nào hay đến thế. Hồng Nam nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười to một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ".

Việc xướng họa thơ văn với nhà yêu nước Phan Bội Châu đã làm cho Hàn Mặc Tử, khi đó lấy bút hiệu Phong Trần, nổi tiếng ngay lập tức. Làng văn xôn xao trước sự xuất hiện đầy ấn tượng của một thi sĩ mới. Đặc biệt hơn nữa, tác giả còn được Phan Bội Châu tôn xưng là tiên sinh. Tiếp sau đó, Hàn Mặc Tử ra Huế để tìm thăm Phan Bội Châu. Đây là một việc làm hết sức nguy hiểm, vì thực dân Pháp sẽ chú ý đến tất cả những ai có mối quan hệ mật thiết với nhà yêu nước này. Sau cuộc gặp gỡ, Hàn Mặc Tử thường xuyên liên hệ thư từ với Phan Bội Châu, chàng còn gửi thơ của những người bạn khác ra cho ông. Mật thám Pháp sau một thời gian theo dõi, cuối cùng đã quyết định gạt tên chàng ra khỏi danh sách những người được bảo trợ sang Pháp du học. Tiếp đó, Sogny, Chánh sở mật thám Huế gửi công văn vào Quy Nhơn yêu cầu điều tra về chàng. Chánh sở mật thám Quy Nhơn là Véran gọi chàng lên tra hỏi nhiều lần làm cho gia đình hết sức lo lắng. Người anh đầu của chàng phải gửi thư ra Huế nhờ Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, một người quen thân với gia đình chàng xưa nay, can thiệp với chính quyền thì chuyện mới êm.

Không được đi du học, cuộc đời Hàn Mặc Tử rẽ sang một ngả khác. Từ đây, chàng bắt đầu bước chân vào con đường viết báo. Thời gian này, tình hình kinh tế nói chung rất khó khăn. Nạn thất nghiệp tràn lan. Chàng làm thêm công việc biên chép các tờ trích lục cũ cho Sở Đạc điền Quy Nhơn. Nhưng công việc này chỉ đem đến cho chàng một khoản tiền đủ để mua báo, giấy viết và tem thư gửi bài. Rồi xảy ra cơn bão lớn năm 1934 làm sập căn nhà của chàng đang ở. Nợ nần ập đến. Hàn Mặc Tử quyết định rời Quy Nhơn, vào Sài Gòn lập nghiệp bằng con đường làm báo chuyên nghiệp.

Tháng 7 năm 1934, từ Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử khăn gói lên đường vào Sài Gòn để làm báo theo lời thúc giục, rủ rê của mấy người bạn thân. Sau một thời gian lang thang chờ việc ở Sài Gòn, chàng được mời phụ trách trang văn chương cho tờ báo Trong khuê phòng...

Chàng vừa sáng tác, vừa biên tập bài vở, lại kiêm luôn việc sửa bản in, vì thế thu nhập cũng khá. Nhưng chàng luôn cảm thấy áy náy vì tờ báo mang tên Trong khuê phòng mà nói chuyện văn chương thì có vẻ không ổn. Tuy thế, do chủ báo đối xử quá tử tế nên chàng cũng lấy làm vui. Nhưng có một lần, những người bạn của chàng viết bài gây sự với ai đó, bị công kích lại. Trên một tờ báo ở Sài Gòn, trong mục "Câu chuyện tầm phào" có bài viết mỉa mai "những trang nam tử lập nghiệp trong phòng the", ý nói nhóm làm báo Trong khuê phòng sống nhờ vào việc khai thác "thông tin khuê phòng", với nhiều câu mỉa mai rất dung tục khiến chàng bị sốc, không đến tòa soạn nữa. Chủ bút phải cử người tới nhà trọ của chàng lấy bài và an ủi mãi chàng mới trở lại làm việc.

Ở Sài Gòn ít lâu chàng đã trở nên nổi tiếng. Nhiều chính khách kính nể và đến làm quen khi biết chàng từng có mối liên hệ với Phan Bội Châu và bị mật thám Pháp theo dõi. Từ đó chàng quan tâm hơn đến những thông tin chính trị. Chàng định làm một nhà cách mạng chăng? Từ những xướng họa với nhà yêu nước Phan Bội Châu, bỏ qua cả cơ hội quan trọng là sang Pháp du học đến chỗ giao du với các nhân vật chính trị không đơn thuần là những việc làm ngẫu hứng của một chàng thanh niên trẻ tuổi. Nhà báo De Lachevrotière, một nghị viên Pháp lai da màu rất thích tìm chàng để nói chuyện. Qua De Lachevrotière, chàng quen nhiều nhóm chính trị khác nhau. Một số nhóm còn bày tỏ thái độ chống Pháp. Tuy nhiên, lâu dần chàng cảm thấy chán nản khi nhận ra những nhóm chính trị này dù hô hào cách mạng nhưng họ chỉ là những con bài của Pháp mà thôi.

Đầu năm 1935, chàng về Huế, trong một đêm buồn lang thang trên bến sông Hương, chàng đã làm bài thơ Đêm khuya tự tình với sông Hương để tặng Phan Bội Châu với nhiều tâm sự ray rứt: "Bây giờ chỉ có đôi ta/Bao nhiêu tâm sự Hằng Nga biết rồi/Thuở nước non đến hồi non nước/Sông Hương đành xuôi ngược đông tây/Soi lòng chỉ có đám mây/Đám mây phú quý những ngày lao đao/Sao mặt sông xanh xao ra dáng/Sao tình sông lai láng khôn ngăn". Bài thơ được đăng trên báo Công Luận số ra ngày 2/3/1935. Nhiều câu chữ bộc lộ rất rõ ý hướng của chàng: "Mặc ai khanh tướng công hầu/Không thèm chung đỉnh, lưng bầu gió trăng/Sao trời đất đãi đằng ra thế/Sao mưa nguồn chớp bể luôn đêm", "Nhà ai khiêu vũ năm canh/Hơi men sực nức dưới thành đô xưa/Sao tức tối trôi bừa đi mãi/Chẳng buồn nghe cô lái thở than/Thuyền em đậu bến Hương giang/Chờ người quân tử lỡ làng tình duyên". Đêm khuya tự tình với sông Hương mang hơi hướng Trên dòng Hương giang của Tố Hữu. "Ô hay! Sóng chảy dạt dào/Chiếc thuyền vô định lạc vào bến mê". Hơi thơ tuy ủy mị hơn nhưng tình thơ cũng là thế. Hàn Mặc Tử nhìn thế sự bằng con mắt của một người muốn làm một cái gì để vỡ tung sự đè nén.

Ngoài việc phụ trách trang văn chương cho tờ Trong khuê phòng, Hàn Mặc Tử còn viết cho khá nhiều báo nên kiếm được nhiều tiền nhuận bút. Ngoài báo tiếng Việt, chàng còn viết cho một số báo tiếng Pháp như Impartial, Opinion, La Lutte... Tuy nhiên chàng vẫn luôn thiếu trước hụt sau. Lãnh nhuận bút được bao nhiêu cũng bị bạn "mượn đỡ" mà không bao giờ có chuyện trả lại. Thậm chí quần áo cũng để cho bạn bè dùng chung. Mỗi lần từ Sài Gòn về đến Quy Nhơn chàng chỉ còn chiếc va-ly trống rỗng. Người em kế của chàng tên Nguyễn Bá Tín kể, có lần vào Sài Gòn thăm anh, chẳng những anh ấy không có tiền cho về xe mà còn xin tiền của em mình để tiêu nữa.

Hàn Mặc Tử là một người sống rất vì bạn. Thời kỳ ở Quy Nhơn chưa vào Sài Gòn làm báo, ngôi nhà của chàng là nơi bạn bè tụ tập đến để chơi đùa, nói chuyện văn chương, chuyện trên trời dưới đất. Nhiều người ăn tại trong nhà chàng nhiều hơn ở nhà mình. Tuy nhiên có một điều đặc biệt, chơi hết lòng với bạn nhưng không bao giờ theo bạn chơi bời buông thả. Chàng nhất quyết không dính vào những thứ như gái, thuốc phiện. Hoàng Trọng Miên, một người bạn làm báo thân thiết với chàng tiết lộ: "Có cám dỗ anh Trí vào nếp sống buông thả nhưng tâm hồn anh trinh trắng quá, ngay cả đất Sài Gòn ăn chơi tội lỗi này cũng không cám dỗ anh sa ngã được".

 

Mộng Cầm lúc quen Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử quen Mộng Cầm trong thời gian phụ trách trang văn chương cho tờ Trong Khuê Phòng. Mộng Cầm là cháu gọi Bích Khê bằng cậu, vì "lây nhiễm tinh thần thơ văn" của ông cậu trẻ tuổi nên cũng tập tành làm thơ gửi đăng báo. Hàn Mặc Tử đã nhận được một số bài thơ như thế của Mộng Cầm gửi đến và từ đó làm quen với Mộng Cầm.

Hai mươi năm sau ngày Hàn Mặc Tử mất, vào năm 1961, nhà thơ Nguyễn Vỹ, chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Phổ Thông có tòa soạn tại Sài Gòn đã cử ông Châu Mộng Kỳ tìm gặp Mộng Cầm để thực hiện bài phỏng vấn về mối tình Hàn Mặc Tử - Mộng Cầm. Nhờ mối quan hệ đặc biệt, ông Châu Mộng Kỳ là thầy dạy con riêng của chồng Mộng Cầm, nên bài phỏng vấn mới thực hiện được. Trước đó nhiều nhà báo đã bị từ chối. Trong bài trả lời phỏng vấn nói trên đăng ở tạp chí Phổ Thông số 63, ra ngày 15 tháng 8 năm 1961, Mộng Cầm đã phủ nhận hoàn toàn chuyện tình cảm giữa mình và Hàn Mặc Tử: "Một dịp thứ bảy đi chơi lầu Ông Hoàng, anh thổ lộ mối tình với tôi. Tôi có trả lời anh: Chắc là không thể đi đến chỗ trăm năm được, tôi nói trước để anh đừng hy vọng. Anh hỏi lý do. Tôi viện lẽ tôn giáo khác nhau, nhưng thật ra vì biết Hàn Mặc Tử mang chứng bệnh hiểm nghèo, không thể sống lâu được, ý tôi muốn một người chồng mạnh khỏe, tráng kiện... Tuy vậy chúng tôi vẫn giao thiệp thân mật một hai năm như thế. Trong thời gian này, có nhiều lần, Hàn Mặc Tử năn nỉ tôi dẫn về Quảng Ngãi thăm nhà và trong nhiều bức thư anh đề cập đến vấn đề hôn nhân. Tôi vẫn trả lời, nhưng luôn luôn ngụy biện để từ chối: Em thiết nghĩ chúng ta sống như thế này thanh cao hơn, tôn giáo bất đồng, chữ hiếu bắt buộc em phải nghe lời thân mẫu em".

Bài phỏng vấn này đăng lên, Nguyễn Vỹ cho biết Mộng Cầm đã đọc và không có điều chi thắc mắc và ông kết luận "đã giải đáp dứt khoát một nghi vấn thường bị nhiều người xuyên tạc". Tuy nhiên với độc giả, bài trả lời phỏng vấn của Mộng Cầm đã gây sốc. Bởi mối tình Mộng Cầm - Hàn Mặc Tử đã được người đời nâng lên thành huyền thoại. Ngay cả Ngọc Sương, dì ruột của Mộng Cầm cũng phản đối. Rồi đến Quách Tấn, người đã ủng hộ việc Mộng Cầm đi lấy chồng khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh nan y cũng giận dữ trước lời phát biểu này. Quách Tấn viết: "Cuộc tình duyên giữa Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm, tôi biết rõ lắm. Nhưng tôi chỉ nói những gì có thể nói được, nói những gì có thể giúp cho bạn đọc hiểu thêm tâm hồn Tử, văn chương Tử mà thôi". Quách Tấn là người đã từng bênh vực việc Mộng Cầm đi lấy chồng làm cho nhà thơ Bích Khê giận ông mấy ngày. Nhưng ông vô cùng tức giận khi Mộng Cầm phủ nhận mối tình với Hàn Mặc Tử. Mộng Cầm đã nói thật hay nói dối ? Vì sao nàng lại phủ nhận mối tình này ? Thật ra, trong thời gian quen biết với Mộng Cầm, căn bệnh phong của chàng chưa bộc phát. Ngay cả chàng cũng không hề "cảm thấy", làm sao Mộng Cầm có thể "nhận ra". Rất dễ thấy rằng đó là những lời nói dối của một người con gái muốn quên quá khứ để bảo vệ hạnh phúc hiện tại. Một lý do rất thường tình và đáng thông cảm. Mối tình Hàn Mặc Tử - Mộng Cầm đã được rất nhiều người gần gũi xác nhận. Trần Thanh Mại, một người bạn của chàng đã công bố những chi tiết của mối tình này trong cuốn sách Hàn Mặc Tử xuất bản năm 1942. "Ấy là câu chuyện một đôi trai tài gái sắc yêu nhau, câu chuyện muôn đời ấy mà! Người con trai là Hàn Mặc Tử, người con gái, ta cứ theo nhà thi sĩ mà gọi là Mộng Cầm đi, mặc cái tên thực của họ. Hai bên đã thề nguyền cùng nhau những lời mà ta hiểu là thiết tha đằm thắm lắm. Thường thường thì họ hay gặp nhau ở hai tỉnh: Qui Nhơn và Phan Thiết. Họ đưa nhau đi chơi bờ bể, họ đi viếng các danh lam thắng cảnh, nhất là lầu Ông Hoàng. Rồi họ xa nhau. Họ nhớ nhau, và tặng ảnh cho nhau. Họ coi như một cặp vợ chồng chưa cưới".

Hàn Mặc Tử đã sáng tác nhiều bài thơ đầy nước mắt về mối tình này. Trong bài Muôn năm sầu thảm, chàng đã kêu tên nàng lên một cách thảm thiết: "Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm / Nhớ thương còn một nắm xương thôi". Bài Phan Thiết Phan Thiết, chàng nhắc tới những kỷ niệm xưa về lầu Ông Hoàng, nơi chàng và Mộng Cầm từng dạo chơi thuở nào: "Ta lang thang tìm tới chốn lầu Trăng/Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang/Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết/Ôi trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết!/Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi".

 

Hoàng Cúc là người liên quan đến bài thơ tình đẹp nhất trong kho tàng thơ ca Việt Nam: Bài thơ thôn Vỹ. Nàng tên thật là Hoàng Thị Kim Cúc, sinh ngày 5/12/1913, kém Hàn Mặc Tử 1 tuổi.

Cũng như Hàn Mặc Tử, nàng phải theo gia đình vào Quy Nhơn sinh sống vì cha nàng là công chức, làm việc tại Quy Nhơn. Năm 1933, Tử vào làm cho Sở Đạc điền Quy Nhơn và quen Hoàng Tùng Ngâm - em thúc bá của Hoàng Cúc. Hoàng Tùng Ngâm sống trong ngôi nhà nhỏ cạnh nhà Hoàng Cúc, anh em bè bạn thường tụ tập để chơi đùa, bình phẩm văn thơ. Hoàng Cúc khi đó cũng đang tập tành viết báo làm thơ với bút hiệu Hoàng Hoa nữ sĩ nên cũng quen biết Hàn Mặc Tử.

Với bản tính đa tình, Hàn Mặc Tử đã đem lòng si mê Hoàng Cúc. Chàng đã làm một số bài thơ tặng nàng như bài Vịnh hoa cúc, Trồng hoa cúc... Một số bài đã đến tay Hoàng Cúc qua Hoàng Tùng Ngâm. Hoàng Cúc biết rất rõ tình cảm của chàng.

Rồi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo. Sau một thời gian, chàng về lại Quy Nhơn. Lúc này gia đình chàng đã dời đến cách nhà Hoàng Cúc chỉ vài căn. Tình xưa dậy sóng trở lại. Giờ đây, chàng đã ít nhiều bạo dạn hơn trước. Hàn Mặc Tử sáng tác bài Hồn cúc: "Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường/Không dám sờ tay sợ lấm hương/Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá/Muốn ôm hồn cúc ở trong sương".

Năm 1936, Hoàng Cúc theo gia đình về Huế sinh sống. Sau đó, nàng bắt đầu ăn chay trường, trở thành cư sĩ, sống cuộc đời lặng lẽ bí ẩn. Cũng trong năm đó, Hàn Mặc Tử in tập thơ Gái quê, là tập thơ mới đầu tiên kể từ khi chàng bỏ làm thơ Đường luật. Chàng mang theo một số tập Gái quê ra Huế. Và chàng đã gặp lại Hoàng Cúc trong một dịp hội chợ nhưng không dám tặng thơ cho nàng. Chàng cũng tìm đến Vỹ Dạ - nơi ở của Hoàng Cúc - nhưng chỉ đứng ngoài cổng một lúc rồi bỏ đi.

Nhiều năm sau đó, giữa hai người không có liên lạc gì với nhau. Một hôm Hoàng Cúc nghe tin chàng bị bệnh phong, nàng liền gửi thư cho chàng. Và chàng đã cảm động sáng tác bài Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng nàng.

Chuyện tình Hoàng Cúc - Hàn Mặc Tử cũng có những điều gây tranh cãi như trường hợp Mộng Cầm. Bởi Hoàng Cúc đã có lần công khai phủ nhận chuyện nàng có tình cảm với Hàn Mặc Tử. Đó là vào năm 1969, nhà thơ Quách Tấn, người bạn thân thiết của Hàn Mặc Tử đã viết một hồi ký lấy tên là Đôi nét về Hàn Mặc Tử đăng trên tạp chí Văn, trong đó có phần nói đến mối quan hệ giữa Hoàng Cúc và Hàn Mặc Tử. Quách Tấn cho rằng hai người không thành duyên nợ là do thân sinh của Hoàng Cúc chê Hàn Mặc Tử không xứng. Hoàng Cúc đã đọc được hồi ký này và ngày 15/3/1971, nàng gửi thư cho Quách Tấn để "nói lại cho rõ". Hoàng Cúc đã phản bác một số chi tiết nhỏ mà Quách Tấn nêu ra và cuối cùng nói về mối quan hệ của mình với Hàn Mặc Tử: "Hồi ấy tuy Tử ở gần nhà tôi, song Tử và tôi cách xa nhau như hai ngọn núi. Tử thì kín đáo và bẽn lẽn như con gái, còn tôi thì bí mật và xa lạ như cung trăng! Tuy thế Tử cũng đã tìm cách để gặp, nhưng vẫn chưa toại nguyện..."

Thế nhưng Quách Tấn kiên quyết bảo vệ lập trường của mình trong các chi tiết thể hiện việc Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc có yêu nhau: "Còn về những chi tiết trong cuộc tình duyên của Tử - Cúc, thì nhất định ký ức tôi không phản tôi, vì không có gì phức tạp khó nhớ. Việc Tử nhờ người đến dạm là việc có thật. Người ấy là nhà thầu khoán Bùi Xuân Lang ở Quy Nhơn, vừa thân với Tử, vừa quen với cụ Hoàng Phùng".

Hiểu như thế nào về chuyện này? Theo chúng tôi, Hoàng Cúc ngày ấy là một thiếu nữ trẻ trung yêu đời, lại ít nhiều có tâm hồn văn chương thì việc đáp lại những tình cảm của một người như Hàn Mặc Tử là có thể xảy ra. Nhưng sau này cũng như Mộng Cầm, nàng đã cố gắng chôn chặt những điều thầm kín riêng tư vào cõi lòng. Là một người xa lánh cuộc đời để tìm đến cõi thiền, thì những chuyện tình cảm dù có cũng không thể phơi bày cho công chúng biết. Cho nên việc Hoàng Cúc phủ nhận chuyện có đáp lại tình cảm với Hàn Mặc Tử là điều dễ hiểu. Nguyễn Bá Tín cho biết tại nhà riêng của Hoàng Cúc, khi đã quy y, nàng vẫn "dành riêng một căn phòng ngày đêm hương hoa tụng niệm, tưởng nhớ mối tình bất diệt của anh mà cũng là tình đầu của chị".

Mối tình Hàn Mặc Tử - Hoàng Cúc như là khói sương bảng lảng. Nàng thực sự là một nàng thơ hơn là một người tình để chàng có thêm thi hứng mà thôi.

Năm 1936, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn. Lúc này thân phụ Hoàng Cúc về hưu nên gia đình phải dọn về Huế. Cũng trong năm đó, chàng bắt đầu phát hiện những dấu hiệu của căn bệnh phong, nhưng chàng vẫn chưa quan tâm đến nó. Một thời gian rất lâu, căn bệnh mới phát mạnh.

Năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc.

 

Chi tiết trên là theo Nguyễn Bá Tín. Còn theo nhiều tác giả khác thì Hoàng Cúc không gửi ảnh mình mà gửi một tấm bưu ảnh có mây nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có khóm tre, có cả ánh trăng hoặc là ánh nắng chiếu xuống. Một thời gian sau, nàng nhận được thư của Hàn Mặc Tử. Kèm theo bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng, Hàn Mặc Tử viết: "Túc hạ! Có nhận được bức ảnh bến Vỹ Dạ lúc hừng đông hay là một đêm trăng? Và mấy hàng chữ của túc hạ gửi thăm, muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người năm xưa, thế là phúc phận lắm rồi. Mong ơn trên xuống độ cho túc hạ thật đầy và mong rằng một mùa xuân nào đấy sẽ gặp lại được túc hạ cho phỉ dạ. Thăm túc hạ bình an vui vẻ".

Đây thôn Vỹ Dạ là bài thơ nhẹ nhàng nhất của Hàn Mặc Tử trong tập thơ Điên. Bởi lúc này chàng đang trong thời kỳ bệnh tật, đau đớn điên cuồng cả thể xác lẫn tâm hồn. Thơ của chàng luôn luôn là những gào thét uất hận, nghẹn ngào. Bài thơ này, Nguyễn Bá Tín cho biết nguyên cái tựa ban đầu của nó là Ở đây thôn Vỹ Dạ. Nhưng về sau đã được biên tập lại, bỏ đi chữ Ở. Trong bài thơ, hình ảnh hàng cau được nhiều người khen ngợi, nhưng lại đem đến thắc mắc cho chính người được tặng thơ là Hoàng Cúc. Nàng đã không hiểu vì sao Hàn Mặc Tử lại viết câu thơ "Sao anh không về chơi thôn Vỹ/Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên". Thôn Vỹ Dạ, nằm bên kia Đập Đá, cư dân ở đây phần lớn thuộc tầng lớp thượng lưu. Kế thôn Vỹ Dạ là thôn Nam Phổ, một thôn bình dân, sống bằng nghề trồng cau. "Mua vôi chợ Quán chợ Cầu. Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh". Cau Nam Phổ nổi tiếng khắp cả nước. Hằng năm đến mùa cau, già trẻ gái trai trong làng đều có thể trèo cau, hái cau để bán. Các cô gái Nam Phổ nổi tiếng trèo cau giỏi. Vì thế có câu "Con gái Nam Phổ ở lổ trèo cau". Những cô gái khuê các vùng Vỹ Dạ rất sợ bị xếp vào diện câu ví đó. Và vì thế ít ai chịu trồng cau ở Vỹ Dạ. Như vậy, thì vì sao Hàn Mặc Tử lại lấy hình ảnh cây cau như là một biểu tượng cho thôn Vỹ Dạ?

Bài thơ cũng tạo ra rất nhiều sự khó hiểu đối với độc giả trong các chi tiết khác. Chẳng hạn mấy câu thơ "Mơ khách đường xa, khách đường xa. Áo em trắng quá nhìn không ra" và "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh. Ai biết tình ai có đậm đà?". Có nhiều ý kiến lý giải khác nhau, trong đó thậm chí có người cho rằng khổ thơ này chỉ những nàng kỹ nữ sông Hương như trên báo Giáo Viên Nhân Dân số tháng 1/1990. Theo ý kiến một số người, hình ảnh "áo trắng nhìn không ra" là do Hoàng Cúc mặc chiếc áo dài màu trắng mà tấm hình cũ quá nên Hàn Mặc Tử không thấy rõ. Còn "sương khói mờ nhân ảnh" thì Nguyễn Bá Tín cho rằng có thể là Hàn Mặc Tử muốn nói đến đời sống khói nhang cõi thiền của Hoàng Cúc.

Ngày tháng ra đời của bài thơ cũng gây bàn cãi. Trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật số ra ngày 7/1/1990, tác giả Đào Quốc Toàn viết: "Bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ chỉ có thể được viết trong khoảng 1936-1937 chứ không thể viết vào năm 1939 được, bởi vì bài thơ này được Hàn Mặc Tử tập hợp lại ở tập Đau thương trong thời gian cuối 1937 đầu 1938. Tập thơ này gồm khoảng 50 bài thơ, lúc đầu lấy tên là Thơ điên".

Đây cũng là vấn đề khó làm sáng tỏ. Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ này trong thời điểm nào? Nếu căn cứ vào trí nhớ của Hoàng Cúc thì bài thơ ra đời vào năm 1939. Trong thư gửi cho Quách Tấn vào ngày 15/10/1971, Hoàng Cúc viết: "Vào khoảng hè 1939, Ngâm viết thư về Huế cho biết Tử mắc bệnh nan y, và khuyên tôi nên viết thư thăm Tử, để an ủi một tâm hồn đã vô cùng đau khổ. Thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái carte-visite. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe Tử mà không ký tên, rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ...".

 

Mai Đình thực ra không phải là một nàng thơ, cũng không phải là một người tình của Hàn Mặc Tử...Đúng nghĩa, nàng là một người bạn văn chương của chàng. Nàng gặp Hàn Mặc Tử khi chàng đã lâm trọng bệnh, xa lánh tất cả mọi người để về ẩn mình trong một cái chòi tranh ở Gò Bồi, cách thành Quy Nhơn khoảng 15 cây số.

Mai Đình xuất thân trong một gia đình khá giả, nhưng mang trong mình dòng máu lãng mạn, nàng theo tiếng gọi bốn phương cất bước ra đi. Nhờ có nghề dạy nữ công gia chánh cho những gia đình giàu có nên Mai Đình kiếm kế sinh nhai khá dễ dàng. Nàng đã đặt chân đến nhiều vùng đất xa xôi, có khi qua tận Nam Vang. Năm 1937, Mai Đình đến Quy Nhơn. Trước đó nàng đã nghe danh Hàn Mặc Tử từ lâu. Là một người có cá tính mạnh mẽ, nàng không câu nệ, tìm cách giáp mặt chàng. Lần đầu tiên, Hàn Mặc Tử vì tự ti bệnh tật nên không chịu tiếp. Nàng bèn vào Nha Trang, thông qua Quách Tấn để "tiếp cận" chàng. Trong hồi ký của mình, Quách Tấn nhớ lại: "Gặp tôi, nàng không chút e lệ, ngồi nói chuyện như người quen biết đã lâu. Phê bình bài thơ Gái quê xong, nàng tỏ thật nỗi lòng đối với Tử: "Biết Tử mang bệnh ngặt nghèo, lòng tôi hết sức thương cảm. Tôi mong sao chia sớt được nỗi đau khổ của Tử một đôi phần". Rồi nàng trách Mộng Cầm sao đành lòng bỏ Tử".

Nàng gửi cho Quách Tấn bài thơ Biết anh để tặng Hàn Mặc Tử với những câu thơ thật mạnh dạn: "Còn anh em đã gặp anh đâu!/Chỉ cảm vần thơ có những câu/Âu yếm say sưa đầy cả mộng/Xui lòng tư tưởng lúc đêm thâu". Đây là bài thơ đầu tiên mở ra một tình bạn văn chương thú vị giữa hai người. Hàn Mặc Tử nhận được thơ, liền hồi âm nhưng Mai Đình đã đi khỏi Nha Trang. Chàng buồn rầu sáng tác bài Lưu luyến: "Chửa gặp nhau mà đã biệt ly/Hồn anh theo dõi bóng em đi/Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió/Lưu luyến bên em chẳng nói gì".

Điều đặc biệt nhất trong mối quan hệ Mai Đình - Hàn Mặc Tử là nàng đã hành xử rất đúng với tinh thần văn chương: Tứ hải giai huynh đệ. Theo tài liệu của Trần Thanh Mại thì mùa hè năm 1938, Mai Đình từ biệt Quy Nhơn để vào Sài Gòn thu xếp công việc. Khi trở ra, Mai Đình đưa Hàn Mặc Tử một món tiền để lo thuốc thang và nói ý định của mình: sẽ ở lại trong cái chòi tranh cùng với chàng. Hàn Mặc Tử từ chối nhưng nàng mặc kệ, cứ ở đấy đi chợ nấu ăn, sắc thuốc cho chàng. Mai Đình không hề ngần ngại bệnh tật cũng như dư luận người đời.

Hàn Mặc Tử từ chỗ không muốn gặp mặt đến xúc động trước việc làm của Mai Đình nên đã có nhiều câu thơ tặng nàng: "Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn/Đêm muộn xuống gieo vào muôn sóng mắt/Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt/Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!". Ngoài lo việc cơm nước thuốc thang cho chàng, thời gian còn lại nàng cùng chàng ngâm thơ vịnh cảnh. Hai tâm hồn thi sĩ sống bềnh bồng với những vần thơ như thế suốt một thời gian dài. Nhưng số tiền Mai Đình mang theo cũng đã hết. Nàng khuyên chàng vào Bệnh viện phong Quy Hòa để điều trị, nàng sẽ đi theo và ở luôn trong ấy để chăm sóc cho chàng. Nhưng Hàn Mặc Tử từ chối. Cuối cùng hai người phải từ giã nhau. Nàng lại cất bước giang hồ bốn phương. Lâu lâu, chàng lại nhận được cánh thư của nàng từ phương trời xa nào đó. Trong một lần ngồi buồn, chàng đem những từ ngữ trong bức thư nàng gửi xếp lại thành bài thơ. Đó là bài Thao thức với những câu thơ da diết: "Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy/Cho nên muôn dặm ở ngoài kia/Em đang mong mỏi, em đang nhớ/Bứt rứt lòng em muốn trở về".

Mối tình thơ kỳ lạ giữa Mai Đình và Hàn Mặc Tử cùng với việc Mai Đình chăm sóc cho Hàn Mặc Tử được Trần Thanh Mại công bố vào năm 1942, một năm sau ngày Hàn Mặc Tử mãi mãi ra đi. Nhưng câu chuyện trên đây không được gia đình Hàn Mặc Tử thừa nhận và Quách Tấn thì cho rằng Trần Thanh Mại đã hoàn toàn bịa đặt. Tuy nhiên, những tài liệu của Trần Thanh Mại công bố đã thuyết phục được không ít người. Có người cho rằng, trước đây giữa nhà thơ Quách Tấn và nhà phê bình Trần Thanh Mại xảy ra vụ kiện bản quyền thơ Hàn Mặc Tử, liên quan trực tiếp đến cuốn sách Hàn Mặc Tử mà Trần Thanh Mại xuất bản năm 1942, xuất phát từ mâu thuẫn này mà nhà thơ Quách Tấn đã nói như vậy chăng?

 

Thương Thương là một nàng thơ huyền diệu nhất của Hàn Mặc Tử. Bởi chàng không chỉ đơn thuần làm thơ về nàng như những hình bóng giai nhân khác. Trong tâm tưởng chàng, Thương Thương không phải là người của cõi trần.

Trong bài thơ Tiêu sầu, chàng đưa mình bay lên tận cung trăng để gặp "Hằng Nga Thương Thương", trong vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Cẩm châu duyên, Thương Thương là tiên nữ. Chính vì vậy, có một số tài liệu cho rằng Thương Thương không phải là người có thật mà chỉ là cái tên mượn. Trần Thị Huyền Trang, cháu nhà thơ Quách Tấn viết trong Hàn Mặc Tử - hương thơm và mật đắng: "Thương Thương không phải là một nhân vật có thật. Tất cả mọi chuyện đều do Trần Thanh Địch sắp đặt ra".

Chúng tôi đã trực tiếp gặp nhà văn Trần Thanh Địch tại tư gia ở đường Nguyễn Đình Chính, quận Phú Nhuận, TP.HCM để tìm hiểu về nàng thơ này. Trần Thanh Địch là một trong hai người bạn thân nhất của Hàn Mặc Tử (người kia là nhà thơ Quách Tấn). Thương Thương chính là Trần Thị Thương Thương, là con của ông Trần Thanh Đạt, anh trai hai nhà văn Trần Thanh Mại và Trần Thanh Địch. Hàn Mặc Tử cũng là bạn của Trần Tái Phùng, anh ruột Thương Thương.

Ông Địch cho biết, vào năm 1936, khi Hàn Mặc Tử ra Huế lần cuối cùng để tặng tập Gái quê cho bạn bè, thì Thương Thương chỉ mới 12 tuổi, nên Hàn Mặc Tử chẳng hề chú ý đến làm gì. Đến năm 1939, Hàn Mặc Tử đã trải qua nhiều biến cố đau buồn trong cuộc đời như người anh cả dạy chàng làm thơ năm nào qua đời, Hoàng Cúc theo gia đình về quê, Mộng Cầm bỏ đi lấy chồng, bệnh tình chàng ngày một nặng hơn. Lúc này, chàng đã sống ẩn mình, chỉ biết làm thơ. Làm được bài nào, chàng chép lại để gửi ra Huế cho Trần Thanh Địch và Trần Tái Phùng đọc.

Lúc này, tiếng tăm của chàng đã nổi như cồn. Thơ chàng làm ra được học sinh trung học chép tay chuyền nhau đọc thuộc lòng. Đặc biệt là những nữ sinh, rất thích chép và đọc thơ Hàn Mặc Tử. Trần Thị Thương Thương bấy giờ đang học Trường Trung học Đồng Khánh, cũng bắt đầu say mê thơ Hàn Mặc Tử.

Trần Thanh Địch kể, một hôm ông đang ngồi viết thư cho Hàn Mặc Tử thì Thương Thương đến gần, nói đại ý nếu có gửi thư cho Hàn Mặc Tử thì xin cho Thương Thương gửi lời thăm. Trần Thanh Địch khuyên Thương Thương viết một bức thư ngắn gửi kèm cho lịch sự. Thương Thương nghe lời chú, viết bức thư xã giao, nói đại ý đã đọc thơ của chàng nhiều và rất thích, nay gửi lời chúc chàng mau bình phục để sáng tác.

Nhận được thư Thương Thương, chàng hồi âm ngay. Chàng nói rất vui và sẽ có thơ gửi tặng Thương Thương. Quả nhiên chỉ vài hôm Thương Thương bắt đầu nhận được thơ chàng gửi tặng. Đó là các đoạn trích hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội. Chàng cũng đặt cho Thương Thương biệt danh Người lụa bến sông Hương.

Hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội là những sáng tác độc đáo của Hàn Mặc Tử. Trần Thanh Địch cho biết cứ vài ngày ông và Trần Tái Phùng lại nhận được một đoạn thơ từ Quy Nhơn gửi ra. Phùng đọc xong chuyển cho người anh rể vốn là giáo viên Trường Trung học Khải Định. Người này đem lan truyền trong các học trò của mình. Điều đặc biệt trong Duyên kỳ ngộ lẫn Quần tiên hội, tên tuổi của Thương Thương và Hàn Mặc Tử được nêu đích danh. Chẳng hạn trong Duyên kỳ ngộ, chàng viết: "Em là Trần Thương Thương/Anh là Hàn Mặc Tử/Không phải cách âm dương/Còn có khi hội ngộ".

Thương Thương lập tức nổi tiếng theo. Giới học sinh ở Huế xôn xao. Trong một thời gian ngắn, chuyện đến tai ông Trần Thanh Đạt, thân sinh của Thương Thương. Gia đình Thương Thương là gia đình quan lại, ông nội Thương Thương làm Thừa biện Bộ Binh, ông ngoại làm Thượng thư Bộ Lễ. Ông Trần Thanh Đạt khi đó cũng đang làm Tham tri Bộ Quốc gia giáo dục, ba năm sau được thăng Thượng thư Bộ Quốc gia giáo dục. Trong một gia đình như vậy, việc Thương Thương trở thành một người nổi tiếng kiểu đó khó mà được chấp nhận. Ông Trần Thanh Đạt đã gọi anh Thương Thương là Trần Tái Phùng đến, yêu cầu tìm cách làm nguội dư luận. Trần Tái Phùng bèn viết thư gửi Hàn Mặc Tử, đề nghị chàng thôi sử dụng hình ảnh của Thương Thương trong sáng tác. Tử nhận được thư và lập tức làm theo đề nghị của bạn. Từ đó, Quần tiên hội mãi mãi bị bỏ dở dang.

(còn tiếp)