CÂU LẠC BỘ HƯỚNG DẪN VIÊN
ĐỒNG HÀNH VIỆT
TÀI
LIỆU TUYẾN ĐIỂM
PHÚ YÊN – BÌNH
ĐỊNH
LỜI NÓI ĐẦU
TTài liệu được biên soạn
bởi Dzoãn Tiến Đạt năm 2024, chỉnh sửa thêm năm 202, chủ yếu là tuyến điểm Phú Yên – Bình Định và tài
liệu này được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các thành viên trong CLB HDV Đồng
Hành Việt và các ACE cùng các bạn HDV phục vụ cho công tác thuyết minh du lịch.
Tài liệu tham khảo:
-
Sách Phú Yên Đất Và Người Tác
giả: Trần Huyền Ân
-
Sách Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ ca dao Phú Yên Tác giả: Nguyễn Đình Chúc
-
Đèo Cả Nguồn:
UBND tỉnh Phú Yên
-
Núi Đá Bia Nguồn:
báo Phú Yên
-
Sách Cẩm Nang Du Lịch Bình Định Nguồn:
UBND tỉnh Bình Định
-
Vũng Rô huyền thoại, ngày ấy và bây giờ Nguồn: Báo điện tử Hải Quân Việt
Nam
-
Tháp Nghinh Phong Nguồn:
Đại Học Thuỷ Lợi
-
Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những anh hùng Nguồn:
Tiền Phong Marathon 2024
làm nên phép lạ.
-
Bài viết về Tây Sơn (vua
Quang Trung)
Nguồn:Lương Ninh 2000,
-
Chương X – Cuộc khủng
hoảng suy vong của chế độ phong kiến và phong trào nông dân Tây Sơn, Lịch sử
Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Chính trị Quốc gia, Tr. 291-297.
-
Cẩm Nang Du Lịch Bình
Định Tác giả: Sở Du Lịch tỉnh Bình Định
-
Đầm Thị Nại Nguồng: Cổng thông tin điện tử
UBND Bình Định
Bảo Tàng Quang Trung Nguồn:
Bảo Tàng Quang Trung
Chùa Thập Tháp Nguồn:
Cổng thông tin điện tử
thị xã An Nhơn
Ngoài những thông tin từ các đầu sách nêu
trên Đạt cỏn sử dụng một số tài liệu từ internet, trong quá trình biên soạn
chắc chắn có những sai sót rất mong các ACE và các bạn khi xem tài liệu phản
hồi về cho Đạt để Đạt bổ sung khắc phục
Đạt mở CLB HDV Đồng Hành Việt (http://tourguidegroupdonghanhviet.blogspot.com) từ năm 2006
đến nay CLB vẫn còn hoạt động với mục đích hỗ trợ, giúp đỡ, đào tạo sinh viên
du lịch trở thành Hướng Dẫn Viên chuyên nghiệp, CLB hoàn toàn phi lợi nhuận và
là tâm huyết của Đạt. Với Đạt CLB là tâm huyết của Đạt xây dựng bao năm qua còn
tài liệu tuyến điểm do Đạt biên soạn là những “đứa con tinh thần”. Do Đạt nhận
thấy ACE HDV và sinh viên thiếu nguồn tài liệu phục vụ cho công tác thuyết minh
du lịch, cũng như tài liệu để giảng dạy nên Đạt đã thực hiện tài liệu này, hy
vọng sẽ giúp đỡ được cho các ACE và các bạn.
Ngoài tài liệu này, Đạt cũng đã biên soạn
nhiều tài liệu khác, như:
-
Tài
liệu city tour Sài Gòn
-
Tài
liệu tuyến điểm Bà Rịa – Vũng Tàu – Côn Đảo
-
Tài
liệu tuyến điểm Lâm Đồng – Đà Lạt
-
Tài liệu tuyến điểm Khánh Hoà – Nha Trang
-
Tài liệu tuyến điểm Bình Thuận – Ninh Thuận
Nếu ACE và bạn nào muốn Đạt chia sẻ tài
liệu hãy add zalo 0903 97 68 33 của Đạt
để Đạt gởi qua. Tài liệu chỉ để tham khảo, nếu các ACE và các bạn cảm thấy tài
liệu có sai sót hoặc còn thiếu thông tin, xin phản hồi với Đạt ngay nhé.
Xin cảm ơn
BẢNG KM ĐƯỜNG
BỘ VÀ THỜI GIAN
STT |
TUYẾN
ĐƯỜNG |
Số
KM |
THỜI
GIAN |
01 |
TP.Hồ Chí Minh – biển
Đại Lãnh |
479km |
7h7p |
02 |
TP.Hồ Chí Minh – Quy
Nhơn, Bình Định |
600km |
9h29p |
02 |
Biển Đại Lãnh – đèo Cả |
9,4km |
14p |
02 |
Biển Đại Lãnh – Hải
Đăng Mũi Điện (Hải Đăng Đại Lãnh) |
20
Km |
40
phút |
03 |
Hải Đăng Đại Lãnh –
Tháp Nhạn |
33
Km |
60
phút |
04 |
Tháp Nhạn – Bãi Xép –
Gành Ông |
17
Km |
30
phút |
04 |
Bãi Xép Gành Ông - Đầm Ô Loan |
14
Km |
23
phút |
05 |
Đầm Ô Loan – Đèo Cù
Mông |
73km |
1h38p |
06 |
Đầm Ô Loan – TP.Quy
Nhơn |
84
Km |
1h50p |
07 |
Đèo Cù Mông – TP. Quy
Nhơn |
11
Km |
40p |
08 |
Trung tâm TP.Quy Nhơn
– Tháp Đôi |
3,9
Km |
9p |
06 |
Trung tâm TP. Quy Nhơn
– Bến tàu đi Kỳ Co (Nhơn Hải) |
30
Km |
60p |
07 |
Trung tâm TP. Quy Nhơn
– Ghềnh Ráng |
17
Km |
50p |
08 |
Trung tâm TP Quy Nhơn
– Bảo Tàng Quang Trung |
50
Km |
1h30p |
09 |
Trung tâm TP. Quy Nhơn
– Bến tàu đi Hòn Khô (Nhơn Hải) |
30
Km |
60p |
10 |
Trung tâm TP. Quy Nhơn
– KDL Hầm Hô |
50
Km |
1h30p |
11 |
TT TP. Quy Nhơn – chùa
Thập Tháp |
29,3km |
41p |
12 |
TT TP.Quy Nhơn - Tháp
Cánh Tiên, Nhơn Hậu, An Nhơn |
28,4km |
42p |
13 |
TT TP.Quy Nhơn – Tháp
Bánh Ít |
18,5km |
27p |
14 |
TT TP.Quy Nhơn – Gành Ráng |
7,8km |
18p |
15 |
Kỳ Co – Eo Gió |
6 Km |
20p |
16 |
Eo Gió – Tịnh Xá Ngọc
Hoà |
800m |
11p |
17 |
Tịnh xá Ngọc Hoà – Đồi
Cát Phương Mai |
9km |
30p |
18 |
Đồi Cát Phương Mai –
TP.Quy Nhơn |
11
Km |
40p |
19 |
TP.Quy Nhơn – Chùa Thập
Tháp |
32
Km |
60p |
20 |
TP. Quy Nhơn – Gành Đá
Dĩa |
80
Km |
2h |
21 |
TP.Quy Nhơn – Cây Cầu
Gỗ Ông Cọp |
85
km |
2h |
22 |
Cây Cầu Gỗ Ông Cọp –
Gành Đá Dĩa |
10
km |
22p |
23 |
Gành Đá Dĩa – Nhà thờ
Mằng Lăng |
11km |
40p |
24 |
Gành Đá Dĩa – KS Royal
Khanh Phú Yên |
38
km |
60p |
25 |
Ks Royal Khanh – Tháp
Nghinh Phong |
4 km |
10p |
26 |
Tháp Nghinh Phong – Cây
Cầu Gỗ Ông Cọp |
35Km |
60p |
27 |
TP. Tuy Hoà – Chùa Đá
Trắng |
35
Km |
60
phút |
28 |
TP. Tuy Hoà – Địa đạo
Gò Thì Thùng |
40km |
1h10p |
29 |
TP.Tuy Hoà - Bến Nước
Buôn Chơ |
60
Km |
1h45p |
30 |
Ks Royal Khanh – Hải
Đăng Mũi Điện |
42
Km |
45p |
31 |
Hải Đăng Mũi Điện - NH Thắng Lợi – Nha Trang |
110
km |
3h |
32 |
TP.Nha Trang – Cường 2
– Phan Rang |
100
Km |
3h |
33 |
Phan Rang – Mũi Né |
130
Km |
3h50p |
34 |
Mũi Né – TP.Hồ Chí
Minh |
198km |
3h15p |
BIỂN ĐẠI LÃNH NHA TRANG
Cách thành phố Nha Trang khoảng 80km là bãi
biển Đại Lãnh, vùng biển cả mênh mông, xanh biếc, lấp lánh ánh mặt trời. Được
tạo nên bởi bãi cát trắng mịn màng tinh khiết, biển Đại Lãnh có độ thoải lớn và
làn nước trong xanh có thể nhìn rõ tận đáy. Quanh bờ biển, những hàng phi lao
xanh biếc chạy dài.
Địa danh Đại Lãnh nằm kề ranh giới giữa hai
tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng 80 km và cách thị xã
Tuy Hòa khoảng 30 km.
Từ thị xã Tuy Hòa đi vào, vượt qua đèo Cả,
một con đèo lớn là địa giới của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên với 12 km đường
đèo quanh co, du khách sẽ thấy hiện ra ngay dưới chân mình một bãi biển khá
rộng, dài với nước biển xanh biếc, lấp lánh ánh mặt trời, thuyền bè tấp nập qua
lại.
Bãi tắm Đại Lãnh được cấu tạo thuần khiết bởi
một thứ cát trắng mịn, nước biển trong xanh nhìn rõ tận đáy, lại có độ thoải
lớn, có thể bơi lội xa bờ. Kế đó lại có ngay một nguồn nước ngọt chảy ra, hòa
vào biển cả, quanh năm không cạn. Từ Đại Lãnh, du khách có thể đi thuyền máy
thăm làng chài ở Khải Lương, Đầm Môn là dải đất liền phía cực đông của Việt
Nam, hay cảng Vũng Rô kề ngay phía bắc, một địa danh nổi tiếng đã từng là bến
cảng bí mật của những “con tàu không số” chở vũ khí, đạn dược từ miền Bắc vào
miền Nam, tiếp viện cho chiến trường khu 5 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
Phong cảnh Đại Lãnh từ xưa đã được liệt vào
hàng những danh thắng của đất nước. Năm 1836, vua Minh Mạng cho thợ chạm hình
phong cảnh Đại Lãnh vào một trong chín chiếc đỉnh đồng (Cửu Đỉnh) lớn trang trí
trước sân Thế Miếu – Huế. Năm 1853, dưới triều vua Tự Đức, Đại Lãnh có tên
trong từ điển quốc gia do triều đình biên soạn.
Dù bạn vào Nam hay ra Bắc, bạn đều có thể đi
qua ngọn đèo Cả hùng vĩ, nơi có địa danh Đại Lãnh nổi tiếng với những dải cát
trắng mịn, những cơn sóng vỗ rì rào của biển cả, những làng chài tấp nập và
những phong cảnh sơn thủy hữu tình.
Vẻ đẹp hoang sơ hữu tình của bãi biển Đại
Lãnh Nha Trang. Ai đã một lần đến nơi đây đều khẳng định “Đại Lãnh có thể lọt
top những bãi biển đẹp nhất thế giới với vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã, sơn thủy
hữu tình”. Với rừng dương xanh ôm lấy bờ cát mịn màng, dải sóng trắng nhẹ nhàng
lăn trên mặt biển xanh, bãi biển Đại Lãnh là một trong những bãi biển đẹp nhất
của miền Trung và cả nước.
Đại Lãnh vốn được coi là điểm du lịch lý
tưởng, bởi bãi tắm nên thơ này nằm ngay cạnh quốc lộ 1A, có ga hành khách trên
tuyến đường sắt Bắc Nam. Nhưng nay, ở đây chỉ có vài chòi rơm, mấy gian nhà cấp
4 làm quán ăn, đáng kể nhất là tòa nhà xây dở dang, bị bỏ hoang. Phong cảnh tại
bãi biển Đại Lãnh rất đẹp nhờ thiên nhiên ban tặng một bãi biển cát trắng chảy
dài, có độ thoải lớn nên có thể bơi ra xa. Nước biển xanh biếc trong thấy tận
đáy, bãi biển hoang sơ sạch sẽ, kế bên đó là một nguồn nước ngọt chảy ra biển
quanh năm không cạn.
Được chắn bởi đèo Cả phía Bắc, đèo Cổ Mã án
ngữ phía Nam và đảo Hòn Nưa như một pháo đài Đông Bắc, biển Đại Lãnh như một
vịnh nhỏ kín gió luôn êm sóng ngay cả những ngày biển động. Nếu đi từ Nha
Trang, khi xe đến đèo Cổ Mả, phong cảnh bãi biển Đại Lãnh hiện ra như một bức
tranh sơn thủy tuyệt đẹp. Đó là những thảm rừng trải dài xanh ngắt, mặt biển
bao la màu ngọc biếc, dải cát trắng phau hình vòng cung, dài hơn 1 cây số từ
chân đèo Cổ Mã đến mũi Hòn Gion. Nước biển Đại Lãnh xanh biếc, lấp loáng ánh
mặt trời. Xa xa, những chiếc thuyền đánh cá đậu san sát, những hình ảnh đẹp như
một tấm thảm lụa.
Khác với bãi tắm Nha Trang, bãi tắm Đại Lãnh
cạn, ra xa bờ hàng chục mét, nước vẫn chỉ ngấp nghé ngang ngực. Sau khi bơi
lội, vùng vẫy thỏa thuê, bạn lên bờ, nghỉ ngơi trên những chiếc ghế bố trong
lều, trên bãi biển, dưới bóng những cây phi lao cổ thụ. Cũng rất thú vị khi nằm
dài trên tấm thảm lá dương, thanh thản ngắm những đám mây trắng lững lờ ẩn hiện
qua những tán lá rậm rạp. Theo yêu cầu của khách, dân chài đem đến đủ loại hải
sản tươi ngon như mực, cá, tôm, cua, ghẹ, ốc…., Quý Khách sẽ tha hồ chọn. Những
bếp lửa được nhóm ngay dưới những gốc phi lao cổ thụ kín gió và 15 phút sau,
Quý Khách có thể thưởng thức những món ăn đậm đà hương vị biển.
KHU DU LỊCH ĐẠI LÃNH
Địa chỉ: Thôn Đông Nam, Xã Đại Lãnh, Huyện
Vạn Ninh, Nha Trang - Tỉnh Khánh Hòa
Điện thoại:
- Khu Du Lịch: 0258.3842117 - 3842777
- Nhà Hàng Dai Lanh Rest Stop: 0258.3842 842
- 0258.3949 949
Hotline:
- 0345 634 239
- 0345 624 879
Email: info@dailanh.com.vn - Website:
www.dailanh.com.vn
Facebook: Dai Lanh Beach
Đèo Cả - cung đường hùng vĩ và tuyệt đẹp tại Phú Yên
Phú Yên không chỉ được biết đến là một địa
điểm du lịch hấp dẫn với nhiều bãi biển tuyệt đẹp, những công trình kiến trúc
độc đáo mà còn là một nơi có khung cảnh thiên nhiên hữu tình và những đường đèo
hùng vĩ điển hình là Đèo Cả.
Đèo Cả hiện đang là cung đường mà rất nhiều phượt thủ yêu thích. Con đèo này
được xem là một trong những con đèo lớn nhất tại Việt Nam và sở hữu vẻ đẹp hùng
vĩ nhưng không kém phần hiểm trở. Đến với nơi đây du khách sẽ có thể hòa mình
vào thiên nhiên tươi mát và trút bỏ hết những âu lo thường ngày.
1. Sơ lược về Đèo Cả
Đèo Cả là một con đèo thuộc một trong số các nhánh núi của dãy Trường Sơn. Con
đèo này là cung đường bắt nguồn từ địa phận của tỉnh Khánh Hòa đến thành phố
Tuy Hòa của Phú Yên. Cung đường này có chiều cao khoảng 33m và chiều dài là
khoảng 12km với những khúc đường khá ngoằn ngoèo và hiểm trở.
Hiện nay việc băng qua con đèo này đã trở nên
đơn giản hơn rất nhiều nhờ một hệ thống hầm thông qua đèo đã được xây dựng và
đưa vào sử dụng. Hầm thông đèo này được tạo nên từ những vòm bê tông cốt thép
rất chắc chắn và có hệ thống đèn, hệ thống điện thông gió cực kỳ hiện đại và
hoạt động rất tốt trong hầm.
Không chỉ được xem là một cung đường đèo hiểm
trở bật nhất tại miền trung của Việt Nam, Đèo Cả Phú Yên còn là một
trong số ít những đường đèo sát biển mang đến vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa hữu tình.
Đây là cung đường yêu thích của rất nhiều phượt thủ và là điểm đến du lịch được
nhiều du khách đến tham quan.
2. Câu chuyện lịch sử về Đèo Cả
Đèo Cả không chỉ là một cung đường du lịch tuyệt đẹp và hùng vĩ mà còn là một
con đèo gắn liền với những câu chuyện lịch sử hào hùng. Từ thế kỷ XV, nơi đây
đã được vua Lê Thánh Tông dựng nên một Núi Đá Bia uy nghiêm, sừng sững để làm
cột mốc phân chia ranh giới giữa hai nước là Việt - Chăm.
Con đèo này từng là nơi diễn ra những cuộc
giao tranh cực kỳ sôi nổi giữa Nguyễn Ánh với anh em Nhạc - Lữ - Huệ và cuộc
chiến giữa quân Đại Việt và quân Chiêm Thành. Nhờ sự hiểm trợ của Đèo Cả
mà quân Chiêm Thành đã chiến thắng và khiến cho quân Đại Việt không thể tiến
vào Nam.
Hơn thế nữa, trong cuộc chiến tranh chống
thực dân Pháp nơi đây đã diễn cuộc đấu tranh quyết chiến của mặt trận Việt Minh
để chống lại thực phân Pháp, bảo vệ đất nước vào năm 1947. Trải qua nhiều biến
động của lịch sử, con đèo này vẫn giữ được vẻ đẹp hùng vĩ vốn có của mình.
Khí hậu tại Đèo Cả rất thuận lợi, mát
mẻ nên cây cối tại nơi đây phát triển rất tốt. Cũng nhờ vào điều này mà hệ
thống thực vật ở nơi đây rất phong phú, đa dạng và tạo nên một mảng xanh tươi
mát. Hơn thế nữa nơi đây còn có rất nhiều loại gỗ quý và là nơi mà rất nhiều
loài động vật trú ẩn như: gấu ngựa, tê tê, gấu ngựa, trĩ sao, nhím,...
Khi nhìn từ trên cao và nhìn lại những cung
đường đèo mà mình từng đi qua thì du khách sẽ có thể nhìn thấy những đoạn đường
gấp khúc, uốn lượn cực kỳ hùng vĩ và độc đáo. Du khách đến với nơi đây sẽ có
thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp hùng vĩ, tựa như một bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp.
Đèo Cả sở hữu một vẻ đẹp độc đáo với một bên là biển xanh mênh mông, thơ mộng và
một bên chính là núi rừng xanh tươi, hùng vĩ. Tất cả những yếu tố này tạo nên
một khung cảnh yên bình, đẹp mắt và cực kỳ hữu tình. Bất kỳ du khách nào khi đi
qua cung đường đèo này đều muốn dừng chân để chiêm ngưỡng và không khỏi xao
xuyến trước vẻ đẹp hoang sơ của chốn này.
Nếu là một người thích biển thì khi đến Phú
Yên đặc biệt là khi phượt Đèo Cả thì du khách không thể bỏ qua bãi
Môn. Đây là bãi biển nằm giữa hai ngọn núi cao sừng sững, tạo nên một hình
cánh cung cực kỳ khổng lồ và hùng vĩ.
Cảnh sắc của bãi môn được rất nhiều du khách
khen ngợi vì có một bãi cát trắng mịn trải dài, uốn lượn theo vẻ đẹp của làn
nước biển trong xanh, mát lành. Khu vực bãi Môn không có người sinh sống và
chưa đưa vào khai thác du lịch nhiều nên vẫn còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ vốn
có.
Được xem là một trong những nét độc đáo nhất
mà Đèo Cả sở hữu, núi Đá Bia thời xưa chính ngọn núi mà vua Lê Thánh Tông đã cho
quân lính khắc lên chữ Cương Vực Đại Việt - lãnh thổ Việt Nam và coi đó
như là một cột mốc ranh giới giữa hai đất nước là Đại Việt và Chiêm Thành.
NÚI ĐÁ BIA
Núi Đá Bia là ngọn núi cao nhất trong khối
núi Đại Lãnh thuộc dãy Đèo Cả, có độ cao 706m so với mặt nước biển, là dấu chấm
của dãy Trường Sơn hùng vĩ nhô ra biển Đông. Điểm độc đáo là trên đỉnh có tảng
đá to, cao tới 76m.Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, núi Đá Bia là
căn cứ cách mạng quan trọng, bên dưới phía đông là bến Vũng Rô huyền thoại nơi
cập bến những con tàu Không số. Người dân địa phương coi núi Đá Bia là một
trong những biểu tượng nổi tiếng của đất Phú Yên. Tháng 9/2008, Bộ VHTTDL ban hành
quyết định công nhận thắng cảnh độc nhất vô nhị này là thắng cảnh cấp quốc gia.
Núi thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, ngoại thị Đông Hòa. Trước năm 2000, muốn
leo lên đỉnh núi Đá Bia không dễ; cả một khối núi toàn đá, cây cối rậm rạp, dây
leo chằng chịt, rồi khe suối, hang động rất nguy hiểm.
Pho huyền thoại hấp dẫn
Núi Đá Bia còn có tên là Thạch Bi Sơn, ông bà ta gọi là
Thiên Nam đệ nhất trụ (trời Nam chỉ có một). Theo hình dáng hòn đá trên đỉnh
núi, người Chăm gọi là núi Cùi Bắp, người Pháp gọi Ngón Tay Chúa và dân địa
phương gọi núi Ông Bia. Mỗi tên gọi khác nhau gắn liền với những pho huyền
thoại ly kỳ và hấp dẫn.
Tương truyền vào mùa xuân năm Tân Mão (1471), vua Lê Thánh
Tông khi thân chinh cầm quân đi mở mang bờ cõi, dừng chân tại núi Đá Bia, ông
cho quân leo lên đỉnh núi ghi rõ cương vực Đại Việt (lãnh thổ Việt Nam) trên
hòn đá và kể từ đó gọi là núi Đá Bia.
Bao đời nay núi Đá Bia là niềm cảm hứng của các tao nhân
mặc khách qua nơi này. Gần 70 năm khi có mặt trong đoàn quân Nam tiến, thi sĩ
Hữu Loan để lại bài thơ “Đèo Cả” và được chọn là một trong 20 bài thơ hay nhất
của thế kỷ XX. Những ngày trời quang mây tạnh, đứng cách xa từ 50-70km
vẫn nhìn thấy hòn Đá Bia mây phủ. Núi Đá Bia rất linh thiêng, biểu trưng cho
sức mạnh của con người và vùng đất Phú Yên.
Nơi bồng lai, tiên cảnh
Năm 2001, đường lên đỉnh núi Đá Bia được khảo sát và xây
dựng, điểm xuất phát dưới chân núi phía tây, bên quốc lộ 1. Con đường rất độc
đáo, với chiều dài 2,5km, có 3 cầu thang bằng bê tông cốt thép, có cầu thang
cao dốc 450; toàn tuyến có 2.071 cấp đi, đôi khi các bậc đi được tạo bằng việc
đục, đắp vữa xi măng trên các triền đá nghiêng.Trên đường leo lên đỉnh núi Đá
Bia nhìn xuống những đoàn xe ra Bắc vào Nam chỉ bằng hạt đậu nối đuôi nhau như
kiến bò, thỉnh thoảng chim bìm bịp gọi nhau kêu hối hả, dễ làm ta giật mình.
Lâu lâu, đoàn tàu bắc - nam chạy dưới chân núi âm vang dồn dập làm náo động cả
cánh rừng. Cây cối, dây leo đôi khi phủ kín cả lối đi, hai bên đường là thảm
thực vật xanh tốt. Những cây đác ven đường trĩu quả, cây thông thẳng đứng hiên
ngang bên sườn núi; nhiều hang động hai bên đường có hình thù rất kỳ thú, chưa
in dấu chân người. Đôi khi ta bắt gặp con chim diều hâu sải cánh chao nghiêng
bên sườn núi như đang tìm kiếm sự linh thiêng, bí ẩn của núi rừng.
Với 10 lần nghỉ, thời gian khoảng 2 giờ 30 phút, tất cả các
thành viên đoàn leo núi đều lên được đỉnh núi. Hôm đó là một ngày chủ nhật đẹp
trời, có nhiều đoàn cùng tham gia leo núi, phần đông là học sinh, sinh viên.
Nhìn những gương mặt tươi trẻ, đôi má ửng hồng, mồ hôi nhễ nhại, tôi cảm nhận
tương lai không xa, nơi đây sẽ là điểm du lịch hấp dẫn của Phú Yên.
Đứng trên đỉnh núi Đá Bia - điểm ngắm lý tưởng ở TX Đông
Hòa, nhìn về hướng đông là vịnh Vũng Rô xinh đẹp, những con tàu xa khơi trở về
dập dềnh trên mặt nước trong xanh. Chếch về bên trái là ngọn hải đăng Mũi Điện,
điểm cực đông trên đất liền của Tổ quốc, xa hơn là biển Đông mênh mông như dát
bạc. Nhìn về hướng nam là vịnh Vân Phong của tỉnh Khánh Hòa, bờ cát cong như
chiếc lá đa khổng lồ. Quay người về hướng tây - bắc là cánh đồng lúa Tuy Hòa
bát ngát được ôm ấp bởi núi đồi trùng điệp, thấp thoáng những mái ngói đỏ tươi,
tất cả chìm trong màu xanh mạ non.
Ngẩng lên là trời cao lồng lộng xanh thăm thẳm, đôi khi có
những cụm mây trôi qua ta có cảm giác đưa tay với được; bên cạnh là “cổng trời”
gió thổi vi vu, gió mang hơi nước biển tràn về dưới ánh nắng mặt trời có cảm
giác như sương lam chiều se se lạnh. Bên dưới chân núi là con sông Bàn Thạch
uốn lượn xuôi dòng ra biển Đông, xa hơn là TX Đông Hòa như vườn hoa xuân đa
sắc, đang lớn lên từng ngày.
Lúc đi xuống thì nhẹ hơn khi leo lên,
nhưng phải cẩn thận, dễ trượt chân vì lúc này đã thấm mệt. Kinh nghiệm là nên
đi vào mùa khô, đi theo đoàn để động viên, hỗ trợ lẫn nhau; đồ ăn, giày dép,
quần áo cần gọn gàng, mang theo cây gậy nhẹ, dài 1,5m để chống đỡ; nhờ một hai
người địa phương trợ giúp, mang các vật dụng chung cho toàn đoàn. Thời gian lên
xuống, ăn uống, nghỉ ngơi, ngắm cảnh, chụp hình chí ít cũng phải 5 đến 6 giờ.
Tạm biệt núi Đá Bia khi hoàng hôn buông
xuống còn để sót lại những tia nắng vàng sau dãy núi phía tây, hồn ta lắng
đọng, thế là mình đã được đặt chân trên đỉnh núi, được sờ tay lên hòn Đá Bia
linh thiêng và hùng vĩ. Được biết mai đây, dự án Khu đô thị và du lịch văn hóa,
sinh thái nghỉ dưỡng Biển Hồ - Đá Bia của Tổng công ty CP Xuất nhập khẩu Xây
dựng Việt Nam có nội dung mở đường cáp treo lên đỉnh núi Đá Bia. Đây là ước mơ
của bao người để được lên đỉnh núi.
Tuy nhiên, nếu có thể, hãy cùng nhau leo
lên đỉnh núi Đá Bia, bạn mới thấy toại nguyện hành trình du lịch TX Đông Hòa,
nơi đón ánh bình minh đầu tiên trên đất liền của Tổ quốc bên bờ biển Đông.
Núi Đá Bia là danh lam thắng cảnh cấp
quốc gia. Hàng năm, Tỉnh đoàn và Sở VHTTDL Phú Yên tổ chức cuộc thi chinh phục
đỉnh núi Đá Bia vào ngày 27/3 (Ngày Thể thao Việt Nam), thu hút đông đảo người
dân tham gia, nhất là các bạn trẻ. Họ tới đây để khám phá, chinh phục đỉnh cao
này.
Tham khảo thêm: Núi Đá Bia
Qua khỏi cua Đá Đen trên đèo Cả
phía tỉnh Khánh Hòa, khách lữ hành dễ nhận ra Bên phía tay phải có Núi Đá Bia
hay còn được gọi là Thạch Bia Sơn cao 65m rộng 27m; núi cao 706m, bởi trên đỉnh
núi có một tảng đá rất lớn. Theo một tư liệu của Pháp (được ông Võ Liệu dịch,
đăng trên tạp chí Giáo Dục Phổ Thông số 44, năm 1962), núi Đá Bia còn có một
tên gọi khác lý thú do người Pháp đặt: “Ngón tay của Chúa”. Núi Đá Bia là một
trong số nhiều đỉnh cao của quần sơn Đại Lãnh, nằm ở phía bắc Đèo Cả. Cái làm
cho ngọn núi này trở thành linh sơn (núi thiêng) chính là một khối đá cao lớn,
cách xa cả chục kilomet vẫn nhìn rõ, nhô cao trên đỉnh núi như một chiếc sừng
tê giác khổng lồ. Theo sử cũ thì vào năm 1471, vua Lê Thánh Tông trong lần cử
binh Nam tiến đánh Chăm Pa đã qua đây. Trước cảnh núi non hùng vĩ trùng điệp
nhà vua đã cho dừng binh. Thấy tảng đá kỳ lạ nằm trên đỉnh núi như thế nhà vua
đã chú ý. Sau khi chiến thắng Chăm Pa vua quyết định lấy đèo Cả làm giới tuyến
tự nhiên giữa Đại Việt và Chăm Pa và để ghi nhận sự kiện này, vua đã cho người
tìm đường lên tận đỉnh núi khắc vào một mặt của tảng đá một dòng chữ Hán như
sau:
“Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong
An Nam quá thử, tướng chu binh chiết”
Có nghĩa là: Chiêm Thành qua
đây, quân thua nước mất. An Nam
qua đây, tướng chết binh tan. Đây như một lời thề không xâm phạm lẫn nhau của
vua Lê Thánh Tông. Sau đó núi này được đặt tên là Thạch Bi Sơn. Ngày nay do
thời gian tàn phá những chữ chạm khi xưa đã không còn nữa nhưng Thạch Bi Sơn
vẫn sừng sững như thách đố thời gian và làm một điểm nhấn cho không gian dưới
chân đèo Cả. Đến gần, tùy theo góc nhìn mà chiếc sừng tê giác khổng lồ này có
những hình dạng rất khác nhau: một tấm bia đá khổng lồ, một con sư tử nằm xuôi
theo sườn dốc, một thầy tu đang ngồi thiền hoặc một nhà sư đang xuống núi.
Người Phú Yên còn gọi khối đá là chiếc
Linga vĩ đại của tỉnh Phú Yên (Linga: cột đá thiêng hình sinh thực khí của
giống đực, biểu tượng của thần Siva theo tín ngưỡng Chămpa). Không ít lần Đá
Bia bị sét đánh làm cho màu đá càng trắng ra chứ không đổ.
Đã từ nhiều đời nay, người Phú Yên chỉ
cần nhìn Đá Bia là có thể dự báo đúng thời tiết: nếu mây phủ Đá Bia thì chắc
chắn trời sẽ mưa. Sườn bắc của khối núi Đèo Cả là sườn hứng mưa, đặc biệt vào
mùa chính của gió đông bắc (tập trung từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau). Vào mùa
này trung bình cứ 3 ngày thì có đến 2 ngày mưa. Vùng núi Đồng Cọ thuộc xã Hòa
Xuân Nam ,
huyện Tuy Hòa có kiểu mưa địa hình rất đặc biệt: đang nắng có thể mưa to ngay
được, có khi mưa rách lá chuối đầu làng, nhưng cuối làng vẫn khô ráo. Người địa
phương gọi kiểu mưa đặc biệt này là "Mưa Đồng Cọ".
Khi có mưa Đồng Cọ ắt có gió Tu Bông. Tu Bông - tên chữ là Tụ Phong (họng gió)
- là một địa điểm phía nam Đèo Cả thuộc huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa, đối diện với
Đồng Cọ qua một khe núi sâu. Sau khi trút mưa ở Đồng Cọ, gió đông bắc bị ép vào
khe núi này, thoát ra Tu Bông thành một loại gió tố rất mạnh. Cây cối Tu Bông
có thân cong như cánh cung. Khách bộ hành có thể bị gió xô xuống ruộng.
Chế độ thời tiết lắm mưa nhiều mây đã làm cho khu rừng đặc dụng Bắc Đèo Cả có
một hệ thực vật rất đặc biệt. Ngày trước, đây là vùng cung cấp trầm hương và kỳ
nam nổi tiếng. Hiện nay vẫn còn một tập đoàn cây quý như cẩm, thị, sao, chò,
dầu, kiền kiền, đặc biệt là cây đát và tuế lá dừa. Cây đát có hạt rất đặc biệt:
khi bóc vỏ, hạt đát cho một cùi trắng trong, dẻo, không thể thiếu trong món chè
trái cây nổi tiếng ở Nha Trang.
Tuế lá dừa là một loại cây cảnh đẹp, có
thể cao đến 6 mét, mọc dày trên sườn núi, nhất là phía Bắc Đèo Cả. Ngoài ra lau
núi cuối năm nở hoa trắng xóa. Trong gió lạnh, những trảng bông lau dập dờn như
làn sóng, tạo ra hình ảnh nên thơ của Đèo Cả suốt cả trăm năm qua.
Thực ra tên Đèo Cả mới có từ thời Pháp
thuộc, khi quốc lộ 1A được mở. Trước đó, đường thiên lý Bắc Nam là một tuyến
đường núi nhỏ hẹp, hiểm trở, khó đi, nằm về phía tây đường Đèo Cả bây giờ, được
gọi là đường Gia Long. Khối núi Đại Lãnh hiểm trở đã góp phần làm dừng bước
chân nam tiến của Vua Lê Thánh Tông năm 1471. Nhà vua phải lập một tiểu vương
quốc ở vùng đất Phú Yên bây giờ gọi tên là nước Hoa Anh, làm vùng đệm giữa Đại
Việt và Chiêm Thành để tránh đụng độ quân sự trực tiếp giữa hai nước. Nhưng trên
thực tế, quân đội Chiêm Thành do thông thạo những tuyến đường mòn xuyên qua
khối núi Đại Lãnh, đã không ít lần đột nhập cướp phá nước Hoa Anh.
Năm 1653, tuân lệnh chúa Nguyễn Phúc Tần,
Cai cơ Hùng Lộc tấn quân đến tận Phan Rang, thâu tóm vùng đất Khánh Hòa này vào
xứ Đàng Trong, chấm dứt vai trò biên giới của vùng núi Đại Lãnh suốt 182 năm
không dứt tiếng gươm khua ngựa hí.
Hơn 100 năm sau, địa thế chiến lược của
vùng núi Đại Lãnh đã thu hút nhiều cuộc hành quân và giao chiến đẫm máu giữa
hai nhà Nguyễn (Tây Sơn và Nguyễn Ánh) trong hơn 3 thập niên nội chiến
(1771-1802).
Tháng 1 năm 1947, chỉ 24 ngày sau lệnh toàn quốc kháng chiến, Đèo Cả trở thành
chiến trường xung yếu, nơi trung đoàn 80 bộ đội địa phương kịch chiến với giặc
Pháp, mở đầu cho hàng loạt trận đánh ác liệt trong suốt cuộc trường kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này của quân dân Phú Yên và Khánh
Hòa. Từ tháng 11-1964 đến tháng 2-1965, 4 chuyến tàu không số chở vũ khí chi
viện cho miền Nam đã cập bến Vũng Rô - một vùng biển nước sâu, kín đáo và đẹp
như tranh vẽ nằm ngay dưới chân Đèo Cả.
Từng mét vuông ở vùng núi Đèo Cả như
nhuộm đỏ máu trong suốt nửa thiên niên kỷ không ngớt giao tranh của lịch sử
dựng nước và giữ nước.
Ngày nay, với phong cảnh non xanh nước
biếc, Đèo Cả - Vũng Rô - Đá Bia đã trở thành vùng du lịch nổi tiếng trên còn
đường thiên lý Bắc Nam. Như thuở nào, Đèo Cả vẫn mù sương như muốn dấu lịch sử
bi hùng dưới sắc xanh của tuế là dừa. Tuy nhiên, trong tiếng gào rít của gió Tu
Bông, dường như vẫn âm vang lời thơ hào hùng của Hữu Loan những ngày đầu kháng
chiến chống Pháp 1946:
"Đèo Cả! Đèo Cả!
Núi cao ngất
Mây trời ai lao sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá Bia mù sương…"
Huyền thoại tàu không số Vũng Rô, nơi những
anh hùng làm nên phép lạ
TPO - Hơn 200 tấn vũ khí từ miền Bắc chi
viện chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên cập bến Vũng Rô, vượt qua hành
trình gian nan vào sâu trong lòng địch, những chiến sỹ trên chuyến tàu không số
năm xưa đã biến điều không thể thành có thể, viết nên câu chuyện huyền thoại và
mốc son đầy tự hào trong lịch sử dân tộc.
Đài tưởng niệm tàu không số Vũng Rô tại khu Di tích lịch
sử Vũng Rô
“Điều ngỡ chỉ có trong tưởng tượng đang
hiển hiện trước mặt. Như trong thần thoại, con tàu tựa có phép lạ từ xứ sở xa
xăm nào đó bỗng dưng xuất hiện. Nó mang theo nhiều hòm, nhiều bó với những súng
những đạn... Người Phú Yên đã thực sự đang cầm khẩu súng trên tay mà vẫn chưa
dám tin đó là thật”.
Đọc những dòng trong tiểu thuyết Sóng chìm của
nhà văn lão thành Đình Kính, cảm giác của tôi cũng tương tự người dân làng Cát
khi chứng kiến tàu không số cập bến Vũng Rô, sau đó dấy lên câu hỏi, làm cách
nào mà các chiến sỹ năm ấy có thể tạo ra “phép lạ”?. Mặc dù Sóng
chìm mô tả rất chi tiết, nhưng chính nhà văn Đình Kính cũng nói “tiểu
thuyết là văn chương”, và “không chỉ là tiểu thuyết phản ảnh”. Vì vậy, tôi vẫn
muốn đi tìm câu trả lời, tại chính Vũng Rô.
Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán
triều Nguyễn, Vũng Rô trước kia
được gọi là đầm Ô Rô, rộng 10 dặm, trong có đảo Trụ (tức Hòn Nưa), được che chở
bởi núi Bàn, “với thế núi cao vút, phía Tây từ Đại Lãnh đến, kéo dài vài mươi
dặm, phía Bắc tiếp núi Thạch Bi (núi Đá Bia), phía Đông gối lên bờ biển, lại
uốn quanh vào trong che kín vũng biển Vân Phong, thuyền buôn thường đậu ở đó để
tránh gió”.
Khi người Pháp tới Việt Nam, họ sớm nhận ra vị trí chiến
lược của Vũng Rô. Thời Pháp thuộc, công sứ Bình Thuận Etienne Aymonier trong
cuốn Notes sur l'Annam viết rằng “Vũng Rô là nơi trú ẩn tốt và an
toàn nhất trong tất cả các mùa” và “có vị trí chiến lược quan trọng vì nằm ở
phía nam đèo Cả”, ngoài ra, còn có “một ngôi làng của người An Nam cuối Vũng
Rô, nơi có nguồn nước ngọt rất tốt”.
Vũng Rô phía
đằng xa nhìn từ hướng Mũi Điện
Xung quanh khu vực bãi Chùa ở Vũng Rô,
nơi tiếp nhận những lô vũ khí từ các chuyến tàu không số
Nhiều thập kỷ sau, chính "ngôi làng
An Nam" đó, ngay trong lòng địch, là cơ sở vững chắc của cách mạng. Và
Vũng Rô trở thành "nơi trú ẩn" của những chuyến tàu không số, mang
theo vũ khí và tình cảm nhân dân miền Bắc dành cho chiến trường miền Nam.
Năm 1961, trong quá trình xây dựng con đường vận chuyển
vũ khí trên biển Đông, tức đường Hồ Chí
Minh trên biển, nhằm tiếp viện cho chiến trường Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên, đoàn cán bộ Hải quân do đồng chí Huỳnh Kim và Phan Võ dẫn đầu đã vào
Khu V nghiên cứu địa hình, chọn điểm mở bến. Và vịnh Vũng Rô là nơi được lựa
chọn. Theo đánh giá, Vũng Rô có diện tích đủ lớn (hơn 16km2), độ sâu trung bình
từ 14 - 19m, có thể tiếp nhận tàu có tải trọng trên 5.000 tấn. Thêm nữa, có
nhiều bãi bốc dỡ và các dãy núi bao quanh thuận lợi cho việc trú ngụ và cất
giấu vũ khí.
Nhưng địch cũng nhận thức được tầm quan trọng của Vũng
Rô, vậy nên bố trí đông đảo quân lực phòng giữ, từ bốt trên đỉnh đèo Cả đến hạm
đội, duyên đoàn ngoài khơi và trạm ra đa ở đỉnh Chóp Chài. Tuy nhiên, thách
thức cũng chính là cơ hội. Theo Đại tá cựu chiến binh Đặng Phi Thưởng, Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND), nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh Phú Yên, chính vì “khu vực này là vùng cấm và được kiểm soát nên địch sơ
hở, mất cảnh giác, ta lợi dụng thời khắc ban đêm đưa tàu chở vũ khí vào bến an
toàn”.
Tháng 10/1964, Trung ương giao Tỉnh ủy Phú Yên chuẩn bị
mở bến tiếp nhận vũ khí. Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên khi ấy là đồng chí Trần Suyền
trực tiếp lãnh đạo tổ chức bến. Ngày 16/11/1964, Tàu 41 thuộc đoàn 125 chở hơn
60 tấn vũ khí, thuốc men do thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh, một người con của Phú
Yên, và chính trị viên Trần Hoàng Chiếu chỉ huy rời cảng Hải Phòng. Tàu ngụy
trang thành tàu đánh cá, với một số cá, mực được cung cấp bởi Nhà máy Cá hộp Hạ
Long, trong khi lưới trùm lên các khẩu súng 12 ly 7 để khi cần thiết có thể sẵn
sàng chiến đấu.
Tàu 41 thuộc đoàn 125 với 3 lần cập bến
Vũng Rô, mang theo hàng trăm tấn vũ khí chi viện
Anh hùng LLVTND, Trung tá Hồ Đắc Thạnh
(trái) và Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên Trần Suyền (phải). (Ảnh tại khu Di tích lịch
sử Vũng Rô).
“Lúc đi ngang qua vùng biển Đà Nẵng, máy
bay trinh sát của địch phát hiện, nghi ngờ, báo vào bờ. Hai tàu tuần tiễu của
địch lao ra kèm song song và chĩa thẳng nòng pháo về phía Tàu 41. Nhờ ngụy
trang tốt, lúc đó Tàu 41 mang biển hiệu 412 treo cờ nước ngoài, cho nên tàu
địch bỏ mục tiêu chạy vào bờ. Đúng như kế hoạch, 23 giờ 50 phút ngày
28/11/1964, Tàu 41 cập bến Vũng Rô. Phút gặp gỡ giữa cán bộ, thủy thủ tàu và
lực lượng của ta có mặt tại bến vô cùng xúc động và tràn ngập niềm vui sướng”,
Trung tá cựu chiến binh Hồ Đắc Thạnh, Anh hùng LLVTND, nhớ lại.
Đây chính là khoảnh khắc mà nhà văn Đình Kính mô tả là
“như trong thần thoại” khi con tàu “tựa có phép lạ bỗng dưng xuất hiện”. Những
chiến sỹ kiên trung, với tình yêu nước, lý tưởng cách mạng và sự gan dạ, mưu
trí đã biến điều không thể thành có thể, đưa con tàu vượt qua hải trình gian
nan cập bến thành công, chính ở nơi mà địch tự tin luôn trong tầm kiểm soát.
Ngay khi tàu cập bến, Ban chỉ huy bến huy động hơn 1.000
cán bộ, đảng viên, dân công, du kích, thanh niên xung phong khẩn trương bốc dỡ
hàng hóa. Trên sông Bàn Thạch, thuyền câu ngụy trang chở vũ khí ngược lên Hòa
Mỹ, Hòa Thịnh để dân công đưa hàng vượt dốc Mõ vào Khánh Hòa và lên chiến
trường Tây Nguyên.
Câu nói của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về
đường Hồ Chí Minh trên biển được khắc vào cột đá tại khu Di tích lịch sử
Vũng Rô, trên đường ra nhà tưởng niệm và
bến tàu bãi Chùa
Những dòng tri ân các anh hùng trên
những đoàn tàu không số của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Ông Ngô Văn Định, nguyên chiến sĩ Đại đội
K60 bảo vệ bến Vũng Rô, cho biết: "bà con tập trung ở bến từ chiều nhưng
không biết nhiệm vụ gì. Đến khi nghe nói tàu chở vũ khí miền Bắc chi viện cho
chiến trường Khu V, chúng tôi mừng đến nghẹn ngào”, ông Định kể. “Những khẩu
súng, thùng đạn được bọc kỹ bằng nhiều bọc nhựa, rất nặng. Tôi ôm khẩu súng
được bao nhựa bọc kín, cảm nhận hơi ấm của hậu phương miền Bắc gửi vào mà thấy
thiêng liêng, trào dâng hạnh phúc khó tả”.
Người chiến sĩ Đại đội K60 bảo vệ bến Vũng Rô năm xưa còn
cho biết, “đường Vũng Rô lúc bấy giờ là đường rừng, đèo dốc, dây gai chằng
chịt, thú rừng, cọp có thể nhào ra bất cứ lúc nào, nên chuyện huy động kịp thời
nhân lực tiếp nhận hàng trăm tấn vũ khí, chuyển vũ khí đến nơi cất giấu, tiếp
tục chuyển lên căn cứ, bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ, nhanh gọn và tuyệt đối
an toàn thực sự không đơn giản”.
Đến đêm 25/12/1964, chuyến tàu thứ hai cũng tới nơi, cùng
vũ khí còn có ba tấn gạo tặng đơn vị ở bến Vũng Rô đang thiếu lương thực. Rồi
ngày 1/2/1965, chuyến tàu thứ ba lần nữa cập bến an toàn đúng vào dịp Tết Ất
Tỵ. Như vậy, chưa đầy hai tháng, Tàu 41 do thuyền
trưởng Hồ Đắc Thạnh và Chính trị viên Trần Hoàng Chiếu chỉ huy đã
ba lần cập bến thành công, chi viện hàng trăm tấn vũ khí, thuốc men, đạn dược
cho chiến trường Khu V và Tây Nguyên.
Nhà
tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ hy sinh ở Vũng Rô
Tháng 2/1965, Bộ Tư lệnh Hải quân giao
nhiệm vụ cho tàu C143 do Thuyền trưởng Lê Văn Thêm, chính trị viên Phan Bá Bảng
phụ trách vận chuyển 60 tấn vũ khí vào Lộ Diêu (Bình Định). Do tình hình cập
bến Bình Định khó khăn nên chuyển sang cập bến Vũng Rô vào 23h ngày 15/2. Sau 4
giờ, hàng được bốc dỡ hết, tàu quay ra nhưng phát hiện tời neo bị hỏng. Không
còn cách nào khác, các chiến sỹ buộc phải sửa, đồng thời lấy cành lá ngụy trang
cho tàu.
Thật không may, thời gian này máy bay tải thương Mỹ liên
tục bay qua nhằm vận chuyển thương binh từ chiến trường Dương Liễu - đèo Nhông
(Bình Định). Chúng bất ngờ phát hiện “mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía tây
Vũng Rô”. Chúng thả bom xăng, bắn rocket thiêu rụi lớp ngụy trang, trước khi
điều động số lượng lớn máy bay, tàu chiến cùng bộ binh trên đèo Cả kéo xuống
vây ráp.
Bên ta, các thủy tàu cùng bộ đội, dân quân du kích anh
dũng chống trả. “Bằng bất cứ giá nào cũng không để địch cướp tàu”, đêm 17/2,
quân ta quyết định phá hủy tàu C143, mang theo bí mật của “đường Hồ Chí Minh
trên biển”.
Mặt
biển bình lặng này từng là nơi các chiến sỹ và dân quân du kích của ta chiến
đấu, tạo nên trận Vũng Rô đầy bi tráng tháng 2/1965
|
Nơi tàu C143 bị đánh đắm ở khu vực bãi Chùa, Vũng Rô. |
Bây giờ trên bến
Vũng Rô, dưới chân nhà tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ hy sinh ở Vũng Rô, nhìn
ra Bãi Chùa vẫn còn dấu tích nơi tàu C143 bị đánh đắm. Vũng Rô trở thành Di
tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia năm 1997. 14 năm sau bia Di tích bến Vũng Rô,
Đài tưởng niệm Vũng Rô hoàn thành, khắc ghi mốc son đầy tự hào trong lịch sử
dân tộc.
Theo chú Phạm Văn Sơn, bảo vệ khu Di tích lịch sử Vũng
Rô, mỗi tháng có hàng chục ngàn lượt khách ghé nơi đây để tỏ lòng thành kính
trước các anh hùng liệt sỹ. Dưới những tán cây, họ được nghe và tưởng nhớ lại
năm tháng hào hùng không thể nào quên, với những chiến sỹ không ngại gian khó,
sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những tán cây ở khu di tích cũng có một câu chuyện thú vị
để kể. Chú Sơn vẫn còn nhớ trận bão lịch sử quét qua Phú Yên và các tỉnh miền
Trung năm 1993, để lại khung cảnh điêu tàn hoang phế. “Nhà cửa, mãi tôn bay hết
cả”, chú nói với PV báo Tiền Phong, “và tôi thấy ngổn ngang cây cối, những
hàng dừa, phi lao, bàng nghiêng ngả. Kỳ lạ là không cây nào gẫy gục. Khi dựng
lại, chúng tiếp tục vươn mình và sống khỏe đến tận bây giờ”.
Trong một sự liên tưởng, đó như minh chứng cho tinh thần
bất khuất, không tiếc máu xương của nhân dân Phú Yên. Dù sống trong lòng địch,
bị đàn áp, khủng bố vẫn rực cháy tình yêu nước, một lòng hướng về cách mạng và
đứng lên đập tan xiềng xích ngụy quyền. Giờ đây, họ lại chung tay phát huy tiềm
năng của vùng biển huyền thoại, tạo nên “phép lạ” trong kinh tế và vững bước
tiến vào tương lai.
Nhà trưng bày các hình ảnh, hiện vật của
các chuyến tàu không số cập bến Vũng Rô, cùng danh sách các cán bộ. thủy thủ
tàu và những liệt sỹ tham gia vận chuyển, bảo vệ các chuyến tàu không số
Tham khảo thêm về Vũng Rô
Vũng Rô - Huyền thoại ngày ấy, bây giờ
Từ đỉnh Đèo Cả, trên huyết mạch giao thông xuyên Việt
nhìn xuống phía Đông là vịnh Vũng Rô nằm giữa dãy núi hình vòng cung. Vũng Rô
thuộc xã Hòa Xuân Nam (thị xã Đông Hòa), bây giờ là một khu kinh tế năng động
của Phú Yên. Bức tranh thiên nhiên nhìn từ đỉnh đèo Cả là một sự tương phản
tuyệt vời. Một bên vách núi dựng đứng, hiểm trở. Một bên là vịnh biển trong
xanh, tàu bè ra khơi vào lộng, những làng chài hiền hòa bên sóng nước.
Những lồng bè nuôi
tôm hùm trên biển mang lại thu nhập cao cho người dân
Nơi ấy có một thời lửa đạn gắn liền với huyền thoại những
con tàu không số vận chuyển vũ khí theo Đường Hồ Chí Minh trên biển vào bến
Vũng Rô chi viện cho chiến trường Nam Trung Bộ. Và trong thời bình, diện mạo
kinh tế - xã hội vùng đất này đổi mới, phát triển, với nhiều kỳ vọng mới trên
chặng đường phía trước. Sức sống mới ở Vũng Rô - Đèo Cả đang căng tràn trên con
đường phát triển, mở ra một vùng đất bình yên, ấm no và hạnh phúc.
Vũng Rô là một vịnh biển, là ranh giới tự nhiên trên biển
giữa Phú Yên với Khánh Hòa. Trong những điểm đến của chuyến tàu không số có
Vũng Rô - một địa danh đã đi vào trang sử hào hùng của dân tộc, niềm tự hào của
quân và dân Phú Yên. Trong nắng mùa Xuân, vùng biển Vũng Rô lung linh như bức
tranh thủy mặc khổng lồ soi mình dưới làn nước. Vịnh Vũng Rô là vùng vịnh biển
xinh đẹp trải dài trong diện tích khoảng 16,4km2 và được bao bọc bởi 3 dãy núi
cao hùng vĩ giữa biển trời gồm Đèo Cả (ở hướng Bắc), Đá Bia (ở hướng Đông), Hòn
Bà (ở hướng Tây) và được đảo Hòn Nưa ở hướng Nam che chắn.
Vùng biển Vũng Rô được che chắn bởi các dãy núi, nên
không có sóng lớn, gió mạnh nào tràn vào. Cả một vùng nước bao la chỉ có những
con sóng nhỏ lăn tăn vờn đuổi nhau. Với nước sâu và êm sóng, Vũng Rô rất thuận
tiện cho các tàu cập bến ăn hàng, trả hàng và tránh bão. Vì có vị trí địa lý
đặc biệt ẩn khuất dưới chân đèo Cả của biển Phú Yên, vịnh Vũng Rô từng được
chọn là điểm cập bến cho nhiều chuyến liên tiếp của “Đoàn tàu không số” chi
viện cho chiến trường miền Nam chống Mỹ, cứu nước, làm nên “Sự kiện Vũng Rô”
năm 1965.
Vịnh Vũng Rô không chỉ được biết đến là di tích lịch sử
huyền thoại trong kháng chiến, đây còn là “miền đất hứa” cho du khách thích yên
tĩnh, khám phá, trải nghiệm những điều mới lạ. Là kiệt tác của thiên nhiên, hội
tụ đầy đủ vẻ đẹp của núi rừng, biển đảo, thác đá, vũng vịnh với màu nước trong
xanh như ngọc bích, những gành đá trầm tích nối tiếp nhau nhô ra vịnh, bãi cát
trắng mịn màng hòa quyện vào nhau như một bức tranh nên thơ, kỳ vĩ ngay trong
lòng xứ Nẫu, chốn bồng lai tiên cảnh này mang vẻ đẹp hoang sơ, quyến rũ, làm mê
lòng biết bao du khách.
Cảnh sắc nơi đây vừa hùng vĩ, lại vừa trữ tình, nên thơ.
Vùng vịnh biển này là bức tranh phong cảnh thiên nhiên nguyên sơ tuyệt đẹp,
được tạo nên từ những chất liệu thiên nhiên thân thuộc, có bầu trời, có đất, có
núi, có biển và có cả mây trắng, rừng xanh. Chẳng thế mà Vũng Rô có tên trong
10 vịnh đẹp hàng đầu của Việt Nam và cũng là vịnh biển đẹp nhất Đông Nam Á, với
những bãi tắm nguyên sơ, yên bình như bãi Lách, bãi Mù U, bãi Chùa, bãi Chân
Trâu, bãi Lau, bãi Nhãn, bãi Bàng… khiến bao người say đắm.
Đổi thay ở miền di tích
Thôn Vũng Rô được chính thức thành lập năm 1986, gồm bãi
Mù U, bãi Lách, bãi Ngà, bãi Chùa, bãi Hồ, bãi Hương, bãi Chính, bãi Lau, bãi
Bàng, bãi Nhãn, mũi Yến, mũi Điện và hòn Nưa. Hiện nay, thôn Vũng Rô ngay cạnh
di tích lịch sử tàu không số Vũng Rô có khoảng hơn 400 gia đình ngư dân quần
tụ. Đây là thôn được tập hợp lại từ những cư dân ở nhiều vùng quê khác nhau như
Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa…
Tuy nhiên, “vùng kinh tế mới” lúc bấy giờ đã có người đến
khai khẩn từ năm 1980. Góp lại từ nhiều miền quê, thôn Vũng Rô thật đặc biệt,
đó là nơi giao thoa của nhiều nét văn hóa, tập quán khác nhau. Một điều có lẽ
khá đặc biệt, đó là hơn 400 hộ dân tất cả đều ấm no, khá giả. Trẻ em đến trường
đầy đủ. Các dịch vụ chăm sóc y tế được người dân chú trọng quan tâm.
Thôn Vũng Rô với
những ngôi nhà kiên cố khang trang, đời sống người dân đã đổi thay mạnh mẽ
Vũng Rô rộng 1.640ha mặt nước, độ sâu có thể tiếp nhận
tàu trọng tải trên 5.000 tấn, được các dãy núi cao Đèo Cả, Đá Bia, Hòn Bà che
chắn cả 3 hướng: Bắc, Đông, Tây. Trong vịnh có nhiều bãi nhỏ gồm: bãi Lách, bãi
Mù U, bãi Ngà, bãi Chùa, bãi Chân Trâu, bãi Hồ, bãi Hàng, bãi Nhỏ, bãi Chính,
bãi Bàng, bãi Lau, bãi Nhãn. Các địa danh như Đá Bia - Vũng Rô - Đèo Cả là
những địa danh lịch sử, văn hóa và du lịch tiêu biểu ở tỉnh Phú Yên. Vũng Rô
được xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia ngày 18/6/1997. Năm 2014, Vũng Rô
được Tổ chức kỷ lục Việt Nam xếp hạng là top 10 vùng vịnh đẹp của Việt Nam.
Đời sống làng chài Xuân Hòa Nam dưới chân đèo Cả là làng
biển nổi tiếng với nghề nuôi tôm hùm, một trong những nơi ngư dân nắm được bí
quyết nuôi tôm hùm sớm nhất Nam Trung Bộ. Người dân ở vùng vịnh nước sâu và kín
gió này đổi đời nhanh chóng, đó là nhờ con tôm hùm. Nghề nuôi tôm hùm bằng lồng
bè khởi nguồn tại đây từ năm 1994. Phần vì nước biển trong, môi trường sạch và
tinh khiết cho tỉ lệ tôm sống, tôm trưởng thành và tôm hùm thương phẩm chất
lượng tốt, thành công cao nhất, làng biển Vũng Rô dần trở nên giàu mạnh, người
dân có thêm nhiều nghề dịch vụ và bắt đầu để tâm sức vào làm du lịch, khai thác
thế mạnh, nét đẹp, đời sống bình dị của một làng biển mà trước đây không ai
nghĩ đến.
Ông Trương Văn Hòa, một ngư dân sống lâu đời trong thôn
cho biết: “So với trước kia thì cuộc sống của người dân Vũng Rô hôm nay đã thay
đổi rất nhiều”. Cuộc sống hiện đại, những ngư dân Vũng Rô kiêm luôn cả nghề
hướng dẫn viên đặc biệt. Ngôi làng ven biển này mỗi năm có hàng triệu lượt
khách đến, nhất là dịp lễ hay ngày nghỉ. Họ mê đắm với khung cảnh thiên nhiên
và con người nơi đây. Họ cũng ngất ngây với sự phong phú trong đời sống văn hóa
và những câu chuyện về biển, đảo do chính những ngư dân kể.
Ông Nguyễn Hải Ninh, Chủ tịch UBND xã Hòa Xuân Nam cho
biết: “Đời sống người dân nơi đây trước kia còn nhiều khó khăn, nhưng nay đã có
nhiều đổi mới. Có thể nói, người dân Vũng Rô luôn đoàn kết, chăm chỉ làm ăn,
xây dựng kinh tế và an cư lạc nghiệp trên quê mới. Người dân Vũng Rô hôm nay đã
biết làm dịch vụ, biết được thị hiếu của du khách nên đã cải thiện được đời
sống kinh tế gia đình, vừa làm cho quê hương thêm giàu đẹp trong mắt bạn bè. Từ
ngày cuộc sống phát triển, con em được học hành đàng hoàng hơn. Mỗi người dân
nơi đây đều mang ý chí vượt lên khó khăn làm ăn để vươn khơi bám biển, mang lại
nguồn sống cho chính mình và cho quê hương”.
Vùng biển huyền thoại Vũng Rô đã phát huy hết thế mạnh
của mình về kinh tế biển và du lịch. Nhiều người đã rất vui mừng trước sự đổi
thay ở vùng đất anh hùng này. Vũng Rô - mảnh đất lưu giữ trong lòng đất, lòng
biển, lòng người chiến tích anh hùng của những đoàn tàu không số, với tất cả
truyền thống lịch sử, tiềm năng về thiên nhiên và con người, đang mạnh mẽ hướng
tới tương lai.
Hải đăng Đại Lãnh - nơi bình minh bắt đầu ở Việt Nam
Nhắc đến Phú Yên, mọi người thường
hay nghĩ đến khung cảnh “hoa vàng trên cỏ xanh” thơ mộng trong bộ phim cùng
tên. Tuy nhiên, nơi đây còn có một điểm đến độc đáo mà du khách không thể bỏ
qua khi ghé thăm miền đất này.
Đó là ngọn hải đăng Đại Lãnh (hay còn gọi
là hải đăng Mũi Điện), tọa lạc tại điểm cực Đông của Tổ quốc, nơi đón ánh bình
minh đầu tiên trên đất liền Việt Nam.
Vị
trí: Mũi Điện Phú Yên (mũi Đại Lãnh)
ở Thôn Phước Tân, xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên
Mũi Điện
Phú Yên được bao phủ bởi một màu xanh tươi mát nằm vươn ra biển đón lấy nắng và
gió của tự nhiên. Giới trẻ cực kỳ thích ghé thăm địa điểm này mỗi khi có dịp
khám phá Phú Yên. Đặc biệt đối với những bạn lần đầu đặt chân đấy thì đây còn
là cơ hội tìm hiểu về vùng đất mới. Mũi Điện Phú Yên còn là nơi lý tưởng để cắm
trại qua đêm kết hợp đón những tia nắng bình minh đầu tiên chiếu xuống mặt đất.
Mũi Điện
Phú Yên có núi, có biển, từ xa là ngọn đèn hải đăng đứng sừng sững quay mặt ra
biển, bên dưới chân núi là Bãi Môn được nhiều người yêu thích bởi sự yên tĩnh,
thanh vắng mà bãi biển này mang lại.
Địa điểm này được giới trẻ truyền tai
nhau là nơi “phải đến một lần trong đời”, bởi khoảnh khắc được ngắm nhìn ánh
nắng đầu tiên trên đất liền của Việt Nam sẽ là giây phút không thể nào quên với
bất cứ ai đã được trải qua.
Xúc động, tự hào, và thêm yêu nước là
những cảm xúc tự nhiên chạm tới mỗi người trong khoảnh khắc ấy.
Đường tới Hải đăng Đại Lãnh sẽ đưa bạn
qua những cung đường biển đẹp ngỡ ngàng. Khi đến nơi, chỉ phải tập thể dục một
chút với khoảng 1 cây số đường mòn đi bộ lên núi và leo thêm 100 bậc thang gỗ
trong tháp hải đăng là bạn sẽ được đền đáp xứng đáng với phong cảnh ngoạn mục
nơi đây.
Càng lên cao cảnh vật lại càng hùng vĩ sẽ
khiến bạn phải “mắt chữ A miệng chữ O” vì quá đẹp.
Ngọn hải đăng tại Mũi Điện Phú Yên mang
phong cách kiến trúc Châu Âu vì được người Pháp xây dựng từ năm 1890. Độ cao so
với mực nước biển hơn 110m, hải đăng Mũi Điện Phú Yên không chỉ sở hữu một bầu
không khí trong lành dễ chịu mà còn là nơi để bạn có thể chiêm ngưỡng toàn bộ
khung cảnh mặt trời đỏ rực như hòn lửa đang dần nhô lên khỏi mặt biển.
Từ chân ngọn hải đăng của Mũi Điện Phú
Yên, bạn sẽ phải leo khoảng 100 bậc thang gỗ để lên được đỉnh hải đăng. Từ trên
đỉnh, bạn sẽ dễ dàng mục sở thị nét đẹp cực phẩm của Bãi Môn cùng cảnh núi
rừng, biển xanh mây trắng phủ kín cả xứ Nẫu.
Đứng trên ngọn hải đăng phóng
tầm mắt ra xung quanh, một bên là núi non trùng điệp, một bên là biển rộng mênh
mông, trên đầu mây trắng vời vợi giữa trời xanh thăm thẳm, đúng là bức tranh
tuyệt tác của tạo hóa.
Ẩn sau vẻ đẹp ngỡ ngàng ấy là sự chiến
đấu liên tục không ngừng nghỉ với thiên nhiên. Vì nằm ở vị trí địa lý đặc biệt,
nên hải đăng Đại Lãnh cũng là nơi có khí hậu khắc nghiệt nhất Việt Nam với số
giờ nắng gắt và lượng mưa luôn ở mức cao nhất trển cả nước.
Ý nghĩa đẹp đẽ đó dễ khiến những ai đặt
chân đến nơi đây cảm nhận được bản thân mình rõ hơn, và muốn sống một cuộc đời
đẹp hơn.
PHÚ YÊN ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI
Năm Quý Tỵ 1653
nhân việc quân Chiêm quấy nhiễu, chúa Nguyễn Phước Tần (1648 1687) cử cai cơ
Hùng Lộc đem 3000 quân vượt đèo Cả đánh chiếm đến tận sông Phan Lang (Phan
Rang). Vua Chiêm là Bà Tấm xin hàng. Chúa Nguyễn chia đất thành 2 phủ Thái
Khang và Diên Ninh thuộc tỉnh Khánh Hoà ngày nay và từ đó sông Phan Lang là
biên giới giữa Chiêm Thành và Việt Nam. Thế nhưng trong bản đồ trong Hồng Đức bản
đồ (Bộ quốc gia giáo dục Sài Gòn 1962) thì biên giới giữa Chiêm Thành và Việt
Nam vẫn còn ở núi Thạch Bi, giữa Phú Yên và Khánh Hoà
Năm Quý Dậu 1693 lấy
cớ vua Chiêm là Bà Tranh không chịu tiến cống, chúa Nguyễn Phước Chu (1691 –
1725) sai tổng binh Nguyễn Hữu Kính đánh bắt Bà Tranh đem về Phú Xuân và lập trấn
Thuận Thành sau đổi thành phủ Bình Thuận năm 1697 và nước Chiêm Thành ấy không
còn nữa.
Phú Yên cách Nha
Trang 120km. Có diện tích 5.278 km2. Dân số khoảng 768.972 người (1/4/1999).
Phú Yên có một vị trí rất tốt, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp
Khánh Hòa, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Đaklak và Gia Lai.
Trong đồng bằng duyên hải miền Trung, Phú Yên được xem là vựa lúa lớn vì có diện
tích đất nông nghiệp lớn nhất, 1 năm thu hoạch được rất nhiều. Phú Yên được coi
là vựa lúa là vì địa hình bằng phẳng, thứ 2 đặc biệt là khi người Pháp sang
chúng ta đô hộ và khai thác lúa, gạo, chính sự kiện này cho nên người Pháp đã
thấy là cánh đồng Phú Yên có thể phát triển được và dựa vào con sông Ba người
Pháp đã cho xây một cái đập tên là đập Đoáng Đa, chính đập này đã góp phần giữ
cho nước ở lại trong đập để điều khuyết lượng nước tạo cho lúa thêm trù phú.
Phú Yên có 1 con sông chạy qua đó là sông Ba (còn gọi sông Đà Rằng), cầu Đà Rằng
lớn thứ 3 của đất nước sau cầu Thăng Long và Bắc Mỹ Thuận.
Phú Yên trước đây là một phần của
tỉnh Phú Khánh (Phú Yên – Khánh Hòa) được tách ra từ năm 1989, nhưng cơ sở hạ tầng
thuộc về Khánh Hòa. Vì thế chính phủ đã đầu tư cho Phú Yên 76 triệu USD để phát
triển cơ sở hạ tầng và kinh tế. Các công ty nước ngoài đầu tư vào Phú Yên cũng
được ưu tiên như: công ty lắp ráp điện tử Hàn Quốc và lắp ráp xe motor Yamaha.
Phú Yên có cánh đồng Tuy Hòa với 2000 ha trồng lúa, 5500 ha dừa, 3000 ha điều,
1000 ha cafe, 1000 ha thuốc lá. Phú Yên hiện có những dự án quan trọng như sân
bay dã chiến Đông Tác của quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ được nâng cấp thành sân
bay Tuy Hoà, công trình thủy điện Ong Hinh với công suất 7000 kwh do Nhật Bản
viện trợ. Phú Yên đã từng là đất của vương quốc Chămpa, dấu tích còn sót lại là
tháp Nhạn. Phú Yên có cầu Đà Rằng dài 1080m – dài nhất miền Trung. Từ trên cầu,
bên phải, trên một ngọn đồi cát là tháp Nhạn.
Lịch sử hình thành Phú Yên
Lịch sử hình
thành của tỉnh được đánh dấu từ năm 1597, khi Lương Văn Chánh đưa dân từ các
vùng Thanh - Nghệ và Thuận - Quảng đến khẩn hoang lập ấp, tạo dựng cơ nghiệp ở
vùng đất Trấn Biên. Đến năm 1611, phủ Phú Yên chính thức ra đời. Với một vị trí
chiến lược quan trọng, vào thế kỷ XVIII Phú Yên là nơi đối đầu quyết liệt giữa
nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.
2.1. Lược sử
hình thành và phát triển
Lịch sử hình
thành của tỉnh được đánh dấu từ năm 1597, khi Lương Văn Chánh đưa dân từ các
vùng Thanh - Nghệ và Thuận - Quảng đến khẩn hoang lập ấp, tạo dựng cơ nghiệp ở
vùng đất Trấn Biên. Đến năm 1611, phủ Phú Yên chính thức ra đời. Với một vị trí
chiến lược quan trọng, vào thế kỷ XVIII Phú Yên là nơi đối đầu quyết liệt giữa
nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.
Từ thế kỷ XIX trở
về sau này, trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, Phú Yên đã hưởng ứng
phong trào Cần Vương do Lê Thành Phương lãnh đạo và cuộc khởi nghĩa của Võ Trứ
và Trần Cao Vân, đập tan chiến dịch Atlante của thực dân Pháp, góp phần làm nên
thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân cả nước.
Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, phong trào đồng khởi Hòa Thịnh của Phú Yên, cùng với
nhiều chiến công khác, đã góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất
nước. Ngày 3.11.1975, tỉnh Phú Yên sáp nhập với tỉnh Khánh Hòa thành tỉnh Phú
Khánh. Tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa VIII vào tháng 6.1889, Quốc hội đã
quyết định chia tách tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa như
ngày nay.
2.2. Nhân vật
lịch sử, danh nhân văn hóa
- Lương
Văn Chánh: Lương Văn Chánh là một võ quan nhà Lê và là người có công với
sự nghiệp chiêu tập lưu dân khai khẩn, mở mang và phát triển vùng đất Phú Yên.
Ông sinh khoảng thập niên 40 của thế kỉ thứ XVI, quê ở làng Tào Sơn, xã Ngọc
Lĩnh, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Năm 1558, Lương Văn Chánh đã theo Nguyễn Hoàng
vào Thuận Hoá. Đến năm 1578, Lương Văn Chánh đem quân tiến đến sông Đà Diễn
(hay Đà Rằng) đánh chiếm thành Hồ của Champa. Nhờ chiến công đó, ông được thăng
Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân. Sau đó ông được giao trông coi huyện Tuy
Viễn, trấn An Biên (giờ thuộc tỉnh Bình Định). Năm 1593, lực lượng Lê trung
hưng tiến ra miền Bắc, Lương Văn Chánh đã ra Bắc và cùng Nguyễn Hoàng lập được
nhiều chiến công ở Sơn Nam và Hải Dương trong hai năm 1593 và 1594 và được vua
Lê Thế Tông (niên hiệu Quang Hưng năm thứ nhất) tấn phong Đặc tiến Phụ quốc Thượng
tướng quân cai quản 4 về Thần Vũ, tước Phù Nghĩa hầu. Đến năm 1597, ông Lương
Văn Chánh đang là Tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên, nhận sắc lệnh của chúa Nguyễn
Hoàng đưa chừng 4.000 lưu dân vào khai khẩn vùng đất phía nam của Đại Việt từ
đèo Cù Mông đến đèo Cả (địa bàn tỉnh Phú Yên ngày nay). Ông cùng lưu dân từng
bước khẩn hoang, lập ấp, từng bước tạo nên những làng mạc đầu tiên trên châu thổ
sông Đà Diễn, sông Cái. Ông mất ngày 19.9 năm Tân Hợi (1611) tại thôn Long Phụng,
thuộc xã Hòa Trị ngày nay và được nhân dân an táng, lập đền thờ nhớ ơn và suy
tôn ông là Thành Hoàng. Sau đó không hiểu vì sao sử sách lại viết thiếu
tên ông, khi Đại Nam liệt truyện tiền biên chép tiểu sử Lương
Văn Chánh, có ghi: “sách thực lục bỏ sót tên ông”.Phải đến khi
Nam Bắc phân tranh (1627 - 1672) chấm dứt, vào năm Chính Hoà thứ mười (1689)
chúa Nguyễn mới truy phong cho cho Lương Văn Chánh tước Bảo quốc chi thần (thần
bảo hộ đất nước). Đến năm 1693, ông lại được phong một lần nữa tước Bảo quốc Hộ
dân chi thần (thần bảo hộ đất nước và dân chúng). Sau đó suốt từ 1689 đến 1767,
Chúa Nguyễn đã 5 lần gia phong cho Lương Văn Chánh, tước vị cuối cùng ông nhận
được là Phù Quân công, Thần Bảo Hộ Dân, Hựu Thuận Phong Công, Tỉnh Tiết. Đến
thời Nhà Nguyễn, ông đã được gia phong thêm 6 lần nữa (các năm Minh Mạng thứ ba
(1822), Thiệu Trị năm thứ ba (1843), Tự Đức năm thứ ba (1850), Tự Đức năm thứ
ba mươi ba (1880) Đồng Khánh năm thứ hai (1887), và Duy Tân năm thứ ba (1909).
Tước vị cuối cùng ông được phong là Dực bảo trung hưng thượng đẳng thần.
Để tưởng nhớ người
có công khai hoang vùng đất Phú Yên, hàng năm, nhân dân địa phương tổ chức cúng
tế, chăm lo giữ gìn, tôn tạo khu mộ và đền thờ Lương Văn Chánh. Với tầm vóc của
một di tích lịch sử, Bộ VHTT đã công nhận khu mộ và đền thờ Lương Văn Chánh là
di tích LSVH cấp quốc gia.
Trường THPT đầu
tiên của Phú Yên cũng mang tên ông, đó là Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh.
- Lê
Thành Phương: Lê Thành Phương là danh nhân lịch sử hàng đầu ở tỉnh Phú
Yên. Ông sinh năm 1825 tại làng Mỹ Phú, tổng Xuân Vinh (nay là thôn Mỹ Phú, xã
An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) trong một gia đình Nho học và giàu lòng
yêu nước. Thi đỗ tú tài năm 30 tuổi, ông trở về quê mở trường dạy học. Năm
1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, Lê Thành Phương đã đứng lên
chiêu tập nghĩa quân Phú Yên dựng cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược.
Cuộc khởi nghĩa do Lê Thành Phương tổ chức và lãnh đạo ở Phú Yên là một bộ phận
quan trọng của phong trào Cần Vương toàn quốc, có ảnh hưởng tích cực và mạnh mẽ
đến phong trào Cần Vương ở các tỉnh Nam Trung bộ. Cuộc khởi nghĩa Lê Thành
Phương là trang sử vẻ vang trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm giành độc
lập dân tộc vô cùng anh dũng, hào hùng của nhân dân Phú Yên và mãi mãi là niềm
tự hào của nhân dân Phú Yên. Tháng 2.1887, Lê Thành Phương bị địch bắt. Vào
ngày 20.2.1887 (nhằm ngày 28 tháng Giêng năm Đinh Hợi), vì không dụ dỗ, mua chuộc
được ông, tên Việt gian Trần Bá Lộc đã ra lệnh xử tử Lê Thành Phương cùng nhiều
sĩ phu yêu nước khác tại bến Cây Dừa (thuộc xã An Dân, huyện Tuy An ngày nay).
Ông đã nêu cho tấm gương sáng ngời về ý chí kiên cường bất khuất và tinh thần
anh dũng hy sinh vì dân vì nước. Di tích mộ và đền thờ Lê Thành Phương tại thôn
Mỹ Phú, xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã được nhà nước chính thức công
nhận là di tích LSVH cấp quốc gia vào năm 1997.
Hiện nay, cứ đến
ngày 27 và 28 tháng Giêng hằng năm, huyện Tuy An, chính quyền xã An Hiệp phối hợp
với Sở VH,TT&DL Phú Yên tổ chức lễ tưởng niệm đến vị Thống soái quân vụ đại
thần Lê Thành Phương, người con ưu tú của quê hương Phú Yên. Đây cũng là dịp để
nhân dân khắp nơi trong tỉnh Phú Yên, nhất là huyện Tuy An tụ hội về tham gia
các hoạt động truyền thống, các trò chơi dân gian được tổ chức như: đẩy gậy,
kéo co nam, nữ, đi cà kheo, chạy 3 chân, vừa chạy vừa lắc vòng, vừa hành quân vừa
nấu cơm, thi cờ tướng, cờ người, cắm trại đẹp, thi hát dân ca, hội bài chòi và
liên hoan văn nghệ.
2.3. Di sản
văn hóa
2.3.1. Di
sản văn hóa vật thể
a. Di
tích, bảo tàng
- Phú Yên là
vùng đất có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh thuộc nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều
nền văn hóa khác nhau (văn hóa Champa, văn hóa Việt, văn hóa của các dân tộc
thiểu số ở phía tây của tỉnh). Các di tích và danh lam thắng cảnh được
công nhận là di tích LSVH cấp quốc gia như: Tháp Nhạn (Tuy Hòa), mộ và đền thờ
danh nhân Lương Văn Chánh (Hòa Trị, Phú Hòa); chùa Từ Quang, còn có tên là chùa
Đá Trắng (An Dân, Tuy An), mộ và đền thờ danh nhân Lê Thành Phương (An Hiệp,
Tuy An), di tích lịch sử nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại
Phú Yên (La Hai, Đồng Xuân), di tích lịch sử vụ thảm sát Ngân Sơn - Chí Thạnh
(Tuy An), di tích lịch sử tàu không số trên vùng biển Vũng Rô (Hòa Xuân Nam,
Đông Hòa), di tích lịch sử nơi diễn ra cuộc đồng khởi Hòa Thịnh (Tây Hòa), phế
tích Thành Hồ (Phú Hòa) gắn với sự phát triển của người Chăm ở Phú Yên, di tích
lịch sử thành An Thổ (Tuy An), nơi sinh đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên
của Đảng, địa đạo Gò Thì Thùng, bộ đàn đá và cặp kèn đá Tuy An…
- Bảo tàng tỉnh
Phú Yên được khánh thành vào tháng 02.2012. Công trình Bảo tàng Phú
Yên rộng 3ha trên đường Trần Phú (phường 5, thành phố Tuy Hòa), tổng kinh phí đầu
tư gần 97 tỉ đồng. Hạng mục trưng bày với khối nhà chính cao ba tầng: tầng một
là khu trưng bày và dịch vụ đón khách tham quan, khu kho hiện vật, khu hành
chính; tầng hai là không gian trưng bày, triển lãm; tầng ba là không gian tổ chức
các hoạt động giáo dục của Bảo tàng. Ngoài ra còn có các công trình phụ trợ
khác như: nhà phục vụ giải khát, bãi đậu xe, hệ thống thang nâng, thang cuốn,
thang máy… Phần trưng bày trong nhà của Bảo tàng có 3 chủ đề chính: Lịch
sử Phú Yên xưa, Cách mạng và kháng chiến, Cuộc sống đương đại. Phần trưng
bày ngoài trời thể hiện các mô hình kiến trúc dân gian truyền thống, các di sản
văn hóa vật thể tiêu biểu của địa phương, đồng thời là không gian tổ chức trình
diễn các di sản văn hóa phi vật thể. Trong giai đoạn đầu, Bảo tàng Phú Yên phối
hợp với Câu lạc bộ UNESCO nghiên cứu, sưu tầm cổ vật Phú Yên trưng bày giới thiệu
những hiện vật hiện có tại kho Bảo tàng và một số sưu tập cổ vật. Trong giai đoạn
tới, Sở VH,TT&DL Phú Yên sẽ triển khai thực hiện dự án sưu tầm, mua bổ sung
hiện vật và thiết kế, thi công trưng bày hoàn chỉnh. Đây được kỳ vọng sẽ là địa
chỉ văn hóa thu hút du khách đến tham quan, tìm hiểu lịch sử, văn hóa các dân tộc
trên địa bàn tỉnh.
b. Danh lam
thắng cảnh
Phú Yên còn có
những thắng cảnh nổi tiếng, đã được công nhận là thắng cảnh quốc gia như: đầm Ô
Loan (Tuy An); gành Đá Đĩa (An Ninh Đông, Tuy An)… Những du lịch sinh thái như:
khu du lịch Bãi Môn - Mũi Điện (Đông Hòa), khu du lịch Núi Thơm, làng du lịch
Long Thủy (Tuy Hòa), Hòn Chùa, Bãi Xép, Gành Đá Đĩa (Tuy An); khu nghỉ mát Từ
Nham, Bãi Nồm, Bãi Rạng (Sông Cầu)…
2.3.2.
Văn hóa phi vật thể
a. Phong
tục tập quán
Về phong tục tập
quán của các tộc người Việt, Êđê, Bana, Chăm, Hoa... sống trên vùng đất Phú
Yên, mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán riêng tồn tại từ bao đời nay. Tuy
nhiên nếu so sánh phong tục tập quán của họ với phong tục tập quán của những tộc
người tương tự sinh sống ở các vùng đất khác trên lãnh thổ Việt Nam thì không
có sự khác biệt gì nhiều. Người Việt ở Phú Yên cũng tổ chức đón Tết Nguyên đán
bằng cách dựng cây nêu, cúng giỗ ông bà tổ tiên, thanh toán nợ nần, làm bánh mứt,
mừng tuổi con cháu, thăm hỏi chúc tết lẫn nhau... Ngoài Tết Nguyên đán còn có Tết
Thượng nguyên, còn gọi là Tết Nguyên tiêu (tổ chức vào rằm tháng Giêng âm lịch),
Tết Đoan Ngọ (tổ chức vào ngày 5 tháng 5 âm lịch), Tết Trung nguyên (còn gọi là
lễ Xá tội vong nhân), lễ Vu Lan (tổ chức vào rằm tháng 7), Tết Trung thu (tổ chức
vào rằm tháng 8). Người Việt ở Phú Yên tổ chức các ngày Tết nói trên cũng không
có gì đặc biệt so với nơi khác, duy chỉ Tết Đoan ngọ là tổ chức rất chu đáo.
Vào ngày này, người ta thường cùng gia đình, bạn bè đi chơi, chủ yếu là đến các
bãi biển, tổ chức vui chơi, ăn uống khá thịnh soạn. Các lễ thức khác của đời
người, như sinh đẻ, cưới hỏi, tang ma, cúng giỗ... cũng không có gì khác biệt
so với địa phương khác. Phong tục tập quán của các dân tộc ít người ở Phú Yên
giống như ở những vùng khác, thường chặt chẽ và phức tạp hơn so với người Việt
và được mọi người thực hiện rất nghiêm túc.
b. Lễ hội
Phú Yên cũng nổi
tiếng với những lễ hội lớn hàng năm như: lễ dâng hương đập Đồng Cam (ngày 8
tháng Giêng âm lịch), lễ hội đua thuyền sông Đà Rằng (ngày 7 tháng Giêng âm lịch),
lễ hội đầm Ô Loan (ngày 6 - 7 tháng Giêng âm lịch), lễ hội sông nước Tam Giang
(ngày 5 - 6 tháng Giêng âm lịch), hội đón giao thừa Tết Nguyên Đán, hội hoa
xuân Phú Yên (từ ngày 25 tháng Chạp đến Giao thừa Tết Nguyên đán), lễ hội đền
Lương Văn Chánh (ngày 6 tháng 2 âm lịch), lễ hội đền thờ Lê Thành Phương (ngày
27 - 28 tháng Giêng âm lịch), hội đêm thơ Nguyên tiêu trên Núi Nhạn (đêm rằm
tháng Giêng), hội chùa Ông (ngày 13 tháng Giêng âm lịch), lễ hội Chùa Đá Trắng
(ngày 10 - 11 tháng Giêng âm lịch), hội đua ngựa Gò Thì Thùng (ngày mùng 9
tháng Giêng âm lịch), hội đánh bài chòi vào tháng Giêng âm lịch, lễ hội cầu ngư
vào tháng Giêng đến tháng Tám âm lịch.
c. Làng và
nghề truyền thống
Phú Yên còn nổi
tiếng với những làng và nghề truyền thống như: nghề đóng ghe thuyền Đông Tác
(Tuy Hòa), làng bánh tráng ở làng Hòa Đa (An Mỹ, Tuy An), làng Đông Bình (Hòa
An, Phú Hòa) và Mỹ Lệ (Hòa Bình II, Tây Hòa), làng gốm Quảng Đức (An Thạch, Tuy
An), nghề làm mía đường La Hai (La Hai, Đồng Xuân), làng muối Tuyết Diêm (Xuân
Bình, Sông Cầu), nghề dệt chiếu Cù Du (Phường 7, Tuy Hòa), nghề dệt lụa Ngân
Sơn (Chí Thạnh, Tuy An), nghề chằm nón Phú Diễn (Hòa Đồng, Tây Hòa); làng nghề
đan đát Vinh Ba (Hòa Đồng, Tây Hòa).
d. Ẩm thực
Phú Yên có nhiều
loại hải sản có giá trị như: sò huyết đầm Ô Loan; tôm hùm Sông Cầu; ghẹ đầm Cù
Mông; cá ngừ đại dương (cá bò gù)... Qua bàn tay chế biến khéo léo của người
Phú Yên, những hải sản ấy đã trở thành những đặc sản danh tiếng, mang lại dư vị
khó quên cho những ai từng có dịp thưởng thức. Đứng đầu bảng ẩm thực đất Phú
Yên là các đặc sản đã thành danh như: ghẹ Sông Cầu với các món: ghẹ hấp, ghẹ
rang muối, ghẹ rim me, súp ghẹ; sò huyết đầm Ô Loan (Tuy An) nướng trên than hồng
ăn với muối tiêu chanh. Ô Loan cũng là nơi có loài hàu, được chế biến thành nhiều
món ăn ngon và lạ miệng như: hàu nhúng giấm ăn liền, hàu um chuối cây, nhưng đặc
biệt hơn cả là món cháo hàu nấu với gạo đỏ, cùng với một số gia vị thông thường
nhưng tạo thành một món đặc sản khó quên. Phú Yên cũng là nơi có nghề đánh bắt
cá ngừ đại dương phát triển nhất Việt Nam. Từ đây, món gỏi cá ngừ đại dương đã
vang danh trong và ngoài nước. Ngoài món gỏi, đặc sản cá ngừ đại dương của Phú
Yên còn có các món: mắt cá ngừ chưng cách thủy (món “đèn biển”), gỏi bao tử cá
ngừ, cháo đầu cá… Phú Yên còn có các món gỏi sứa; các loại tôm rằn, tôm hùm,
tôm sú, tôm đất… hấp nước dừa; có mắm ruột cá hấp với cà bát… Người dân sống
trong vùng động cát ven biển thì có món chả dông. Dân vùng chân núi Chóp Chài
thì có món bông giờ xào thịt và đặc biệt là món bông giờ kho cá đồng ăn trong
mùa mưa lũ…
Nhiều món ăn nổi
tiếng gắn liền với những địa danh sinh ra chúng như: cốm nếp Phong Hậu (Tuy
An), bánh tráng Hòa Đa (Tuy An), Hòa An (Tuy Hòa), sò huyết Ô Loan (Tuy An), ghẹ,
ốc nhảy, sò điệp, cá mú Sông Cầu, tôm hùm Vũng Rô... Nói đến văn hóa ẩm thực mà
không nhắc đến nước mắm Sông Cầu, cà phê Tuy Hòa thì không thể cho là đủ. Nước
mắm Sông Cầu, nước mắm Gành Đỏ của Phú Yên cũng là những đặc sản nổi tiếng
trong Nam ngoài Bắc...
(Nguồn:
phuyen.vietccr.vn)
THÀNH PHỐ TUY HÒA PHÚ YÊN:
Đầu năm 2005, Chính phủ đã công nhận Tuy Hòa ( Phú Yên) là
thành phố. Nơi đây vốn là một thị xã duyên hải miền Trung thơ mộng và tỉnh cũng
đang định hướng cho xây dựng thành một đô thị hòa quyện với hình thế sông núi độc
đáo.
Có diện tích là 897km2 với dân số khoảng 259.000 người, thành
phố gồm 14 đơn vị hành chính (10 phường và 4 xã). Tuy Hòa giáp với các huyện
Tuy An, Phú Hòa và Đông Hòa (lần lượt từ bắc tới nam). Tuy Hòa cách Tp.HCM
560km theo QL1A. sân bay của thành phố là sân bay Đông Tác.
Có lẽ duyên hải Việt Nam, chỉ Tuy Hòa có 2 ngọn núi nằm giữa
lòng thành phố, đó là núi Nhạn và Chóp Chài. Hai ngọn núi này đã được xây dựng
thành công viên núi, với các vườn thực vật sưu tập phong phú chủng loại hoa,
cây trên thế giới. Núi Nhạn là ngọn núi thơ nổi tiếng nhất nước. Còn Chóp Chài
thì lừng danh “ Chóp Chài đội mũ/ Mây phủ đá bia …” hiện đặt trung tâm phát
sóng truyền hình Việt Nam và phát thanh Phú Yên.
Bãi biển Tuy Hòa không náo nhiệt như nhiều bãi nơi khác, sau
khi đắm mình vào dòng nước xanh Long Thủy, du khách có thể ngồi vùi chân xuống
cát và “nhâm nhi” một ít rượu gạo Quy Hậu nồng nàn với đặc sản tươi ngon như sò
huyết Ô Loan, cua bể Yến, ốc nhảy sông Cầu, tôm bạc Vũng Rô, cháo hàu Tuy An …
còn nếu muốn đàm đạo nước mây thì hệ thống quán cafe với những công thức chế biến
bí truyền pha nước mắm nhĩ sẽ làm say lòng du khách tại các quán Tùng (Tản Đà),
Cổ Gia Trà (Hùng Vương), Thạch Lâm ( Nguyễn Huệ)… để làm quà sau chuyến phiêu
du, khách có thể mua bánh tráng Hòa Đa, nước mắm Gành Đỏ – An Hòa, cá ngựa Vũng
Lắm, mực khô Phú Câu, “Quy Hậu Tửu” – hàng gia dụng mỹ nghệ dừa độc đáo tại
doanh nghiệp Bình SVC (nơi chế tác chiếc bình gáo dừa kỷ lục Việt Nam) ...
Tp.Tuy Hòa cách
thủ đô Hà Nội 1177 km, du khách có thể dễ dàng đi bằng tàu hỏa, ô tô hoặc máy
bay.
"Xứ Nẫu"- Tại sao có tên gọi thế?
Bạn bè phương xa hay gọi Phú Yên quê tôi là xứ Nẫu. Một lần đồng nghiệp phương
Nam du thuyền trên biển Vũng Rô vui miệng hỏi rằng: "Vì sao quê ông được
gọi là xứ Nẫu. Nẫu có nghĩa là sao?".....
Ba Đà
Rằng tôi toát mồ hôi hột lúng túng như gà mắc tóc định bụng giải thích ấm ớ cho
qua thế nhưng mồm miệng cứ lúng búng lùng bùng như ngậm hột thị bởi chưng quá
bí nói chẳng nên lời. Vậy là đành cất công tìm hiểu một từ phương ngữ đặc trưng
của quê mình và cũng vỡ ra đôi điều. Xung quanh chữ Nẫu dài lắm xin tóm lược
như sau:
....Năm
1558 chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào nhận trọng trách Tổng đốc Thuận Quảng
(Thuận Hóa Quảng Nam) ra sức củng cố cơ nghiệp đất phương Nam theo lời dạy của
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Hoành Sơn nhất vạn đại dung
thân" (Một dải hoành sơn đủ để tạo cơ nghiệp muôn đời). Lúc ấy Thừa Tuyên
(đơn vị hành chính cấp tỉnh) Quảng Nam kéo dài từ nam đèo Hải Vân đến đèo Cù
Mông. Năm 1578 chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên
quan đưa lưu dân (người nghèo không sản nghiệp) khai khẩn vùng đất mới từ nam
đèo Cù Mông đến đèo Cả. Sau 33 năm khai phá vùng đất mới hình thành làng mạc
năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên (trực thuộc Thừa Tuyên Quảng
Nam) gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1629 chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa
Sãi) nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên (đơn vị hành chính cấp tỉnh. Cả
xứ Đàng Trong từ Quảng Bình vào Phú Yên có bảy dinh). Do đặc điểm của vùng đất
mới còn hoang hóa dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn
có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc dưới Thuộc là các đơn vị hành
chính nhỏ hơn như phường nậu man.
Phường
là các làng nghề có quy mô như phường Lụa phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức
quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề người đứng đầu gọi là đầu nậu. Sách Đại
Nam Thực Lục (tiền biên) ghi rõ: "Nậu nguyên nghĩa là làm cỏ ruộng rồi chỉ
làng xóm và sau nữa thành tên một đơn vị hành chính quản lý một nhóm người có
cùng một nghề".
Ví dụ:
"Nậu nguồn" chỉ nhóm người khai thác rừng "Nậu nại" chỉ
nhóm người làm muối "Nậu rổi" chỉ nhóm người bán cá "Nậu
rớ" chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ "Nậu cấy" chỉ
nhóm người đi cấy mướn "Nậu vựa" chỉ nhóm người làm mắm...
Do sự
phát triển của xã hội Đàng Trong năm 1726 chúa Nguyễn Phúc Chú (1697-1738) cử
Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi chức năng của các đơn vị
hành chính. Các đơn vị hành chính như "Thuộc" "Nậu" bị xóa
bỏ. Khái niệm thành tố chung cấp hành chính "Nậu" được biến nghĩa
dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ
nhân xưng ngôi thứ ba. Từ "Nậu" không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt
trong các tổ hợp danh ngữ:
Ví dụ:
- Chiều chiều mây phủ Đá Bia Đá Bia mây phủ chị kia mất chồng Mất chồng như nậu
mất trâu Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bơm. - Tiếc công anh đào ao thả cá
Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu. - Ai về nhắn với nậu nguồn Mít non gởi xuống
cá chuồn gởi lên.
Từ chữ
"Nậu" ban đầu phương ngữ Phú Yên-Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng
ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi.
Ví dụ:
Ông ấy bà ấy được thay bằng: "ổng" "bả". Anh ấy chị ấy được
thay bằng: "ảnh" "chỉ". Và thế là "Nậu" được thay
bằng "NẪU .
NẪU đã
đi vào ca dao Bình Định Phú Yên khá mượt mà chân chất: Thương chi cho uổng công
tình Nẩu về xứ nẩu bỏ mình bơ vơ. Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng
Nam) với "mô tề răng rứa chừ" vượt qua đèo Bình Đê (ranh giới Bình
Định - Quảng Ngãi) được đổi thành "đâu kia sao vậy giờ". Và đặc trưng
ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (Bình Định - Phú Yên) không phân biệt rạch ròi
cách phát âm dấu hỏi và dấu ngã. Đặc biệt bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (Bình
Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu-Phú Yên) các âm dấu ngã đều phát âm thành dấu hỏi.
Riêng đồng bằng Tuy Hòa khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã.
Bởi
vậy "NẨU" hay được phát âm là "Nẫu". Đồng bằng Tuy Hòa trù
phú nhiều nhà giàu trong vùng cho con cái đi học chữ phương xa. Các vị có chữ
nghĩa viết chữ "Nẩu" theo phát âm quen miệng thành chữ
"Nẫu". Một thời cơ cực thành ngữ "buồn nẫu ruột" "trái
cây chín nẫu" (chín úng)... cũng góp phần hóa thân chữ "Nẩu"
thành chữ "Nẫu". Vậy là chữ "Nẫu" theo kiểu phát âm phương
ngữ trở thành từ cửa miệng đi vào thơ ca báo chí.
Đặc
biệt chữ "Nẫu" chết tên với vùng đất Phú Yên khi nhạc sĩ Phan Bá Chức
ký âm bài Trách phận (còn gọi là "Nẫu ca") dân ca Phú Yên theo điệu
Xuân Nữ của dân ca bài chòi Khu V do Nguyễn Hữu Ninh sưu tầm trong dân gian
được thể hiện bởi nghệ sĩ Hoài Linh - Việt kiều gốc Phú Yên. Hồi còn tỉnh chung
Phú Khánh Ba Đà Rằng này làm thư ký giúp việc cho nhà thơ Văn Công (quyền chủ
tịch tỉnh) theo ông về các địa phương thúc giục chuyện nghĩa vụ "lúa lang
lợn lạc" cho tỉnh. Tỉnh quá xa địa phương nào cũng có nhu cầu phát triển
riêng của mình tìm mọi cách giữ lại chút ít để "lo phận mình" tỷ như
xây dựng trụ sở UBND thị xã Tuy Hòa năm 1985 bị quy chụp là cục bộ. Bà con
không buồn phiền gì chuyện đó và bào chữa thật dễ thương: Tỉnh dài huyện rộng
xã to Nẫu lo phận nẫu mình lo phận mình. Còn nếu cán bộ cấp trên về ép việc này
việc nọ thì cũng có câu phản kháng nhẹ nhàng: Nẫu dìa (về) thì mược nẫu dìa
Lăng xăng lít xít nẫu chê nẫu cười. Còn Ba Đà Rằng này tài sơ trí thiển Nẫu nói
gì mược Nẫu (người ta nói gì mặc người ta) cũng bạo gan trao đổi đôi điều về
"Nậu-Nẩu-Nẫu" như một nhàn đàm vui đón xuân. Rất mong các bậc cao
minh vui lòng chỉ giáo để sáng tỏ thêm một từ phương ngữ đặc trưng của Nam
Trung bộ.
Người
Bình Định Phú Yên được gọi là người xứ Nẫu hẳn nhiên vì "đại từ nhân
xưng" "nẫu" (bọn họ người ta...) đã trở nên quá phổ biến với
chất giọng nằng nặng thô ráp nhưng chân thật không lẫn vào đâu được.
Ngôn
ngữ của người xứ Nẫu có nhiều từ nhiều câu rất độc đáo cũng không lẫn vào đâu
được đã trở thành phương ngữ xứ Nẫu. Chẳng hạn "nẫu" "dẫy
ngheng" (vậy nghen) "dẫy á" (vậy đó) "dẫy na"(vậy à?)
"chu cha" (có tính chất cảm thán kiểu như "trời ơi")... Đã
nghe "nẫu" "dẫy ngheng" "dẫy á"... vài lần người
ta có thể nhớ mãi như ngấm vào máu thịt không quên được bởi "nẫu"
"dẫy ngheng" "dẫy á"... có quá nhiều ngữ nghĩa sắc thái tâm
tư tình cảm - đương nhiên tùy theo ngữ cảnh.
Quãng
năm 1997-1998 tôi có về công tác tại một xã ven biển Phù Mỹ (Bình Định). Ở đó
tôi đã chứng kiến một chuyện tình thật đẹp thật cảm động giữa một anh bị khuyết
tật đôi chân với một thôn nữ hiền lành. Thương anh ngày ngày lê lết ở bến cá để
xin cá nhặt cá rơi vãi mỗi khi thuyền về chị chấp nhận về nâng khăn sửa túi cho
anh lại còn phải cáng đáng thêm một bà mẹ chồng đã lọm khọm. Chị nghèo gia đình
anh cũng vậy lại là thân nhân liệt sĩ nên nương tựa vào nhau để sống. Tôi hỏi
lý do tại sao chị lại dũng cảm lấy một người chồng khuyết tật chị ậm ừ giải
thích vài câu rồi thẹn thùng "kết luận": "Dẫy á!".
Cái
câu "dẫy á" của chị tuy chỉ hai từ nhưng trong ngữ cảnh này mới đắt
làm sao. "Dẫy á" đã nói lên được bao điều và tôi không cần hỏi gì
thêm cũng hiểu được tấm lòng của chị.
Gần
đây vào giữa trưa lúc đang thiu thiu ngủ thì chuông điện thoại bàn reo tôi bật dậy. Bực mình nhưng tôi vẫn
phải "A lô...". Đầu dây là một giọng nói đậm chất Nẫu: "Anh Bảy
hé anh Bảy. Ủa không phải na? Cho tui gặp anh Bảy chút coi!". "Dạ đây
không phải nhà anh Bảy có lẽ chị nhầm số". "Ủa lộn số hén? Thâu
(thôi) dẫy ngheng". Rồi cúp máy.
Cái
câu "dẫy ngheng" rất tròn vành rõ chữ lại kéo dài âm "eng"
như một lời xin lỗi mong được thông cảm. Tan giấc nghỉ trưa nhưng tôi cũng
chẳng còn cảm giác bực mình bởi dư vị của hai chữ "dẫy ngheng" cứ
ngọt ngào trong tâm tưởng.
Một
năm đôi ba bận tôi lại về quê - một làng nhỏ ven sông Côn - để cúng giỗ dẫy
mã. Các
anh chị tôi ở quê làm nông là chủ yếu. Nghe tôi kể chuyện phố phường thỉnh
thoảng họ lại "dẫy na?" ngạc nhiên một cách hết sức hồn nhiên. Còn
tôi thì sau mỗi lần như thế lại "dẫy á" để khẳng định lại điều mình
vừa nói vừa kể.
Trong
những lúc trà dư tửu hậu nhiều người xứ Nẫu vẫn đem câu "Yêu không yêu thì
thâu nói dứt phát" (Yêu không yêu thì thôi nói (để) dứt khoát) ra để tếu
táo với nhau rồi tự trào rằng người xứ Nẫu mình có một câu nói hay đáo để.
Sử
chép: Ngày 1 tháng 3 năm Hồng Đức thứ 2 (1471) nước Đại Việt mở đất đến núi
Thạch Bi (Phú Yên). Đến tháng 7 năm 1471 vua Lê cho lập phủ Hoài Nhơn gồm 3
huyện là: Bồng Sơn Phù Ly và Tuy Viễn. Từ đó người Việt bắt đầu tiến vào sinh
sống trên vùng đất Bình Định Phú Yên ngày nay.
535
năm đã trôi qua. Trải qua bao bể dâu biến thiên của lịch sử; trải qua bao cuộc
giao lưu hợp lưu giữa các nền văn hóa cái lắng đọng lại chắt lọc lại chính là
văn hóa và con người xứ Nẫu trong đó có ngôn ngữ xứ Nẫu. Có thể nói ngôn ngữ xứ
Nẫu là tinh hoa của văn hóa xứ Nẫu. Ở Việt Nam các nhà ngôn ngữ học đã chia ra
3 vùng chính: Phương ngữ Bắc Bộ phương ngữ Trung Bộ và phương ngữ Nam Bộ. Trong
phương ngữ Trung Bộ đương nhiên có phương ngữ xứ Nẫu.
Lâu
nay các sách ngôn ngữ học thường giới thiệu tiếng Việt như một thực thể nhất
dạng. Trong thực tế tiếng Việt rất đa dạng và luôn luôn biến đổi với những sắc
thái địa phương khác nhau. Tiếc rằng những sắc thái đó thông thường chỉ được
cảm nhận mà chưa được phân tích lý giải tường tận.
Cũng
vậy đối với phương ngữ xứ Nẫu. Hình như Bình Định Phú Yên đã có khá nhiều bộ
địa chí những công trình văn nghệ dân gian nhưng chưa có (hoặc có nhưng rất ít)
đề cập đến phương ngữ xứ Nẫu với những lý giải phân tích cặn kẽ tận tường.
Văn
hóa Bình Định văn hóa Phú Yên - văn hóa xứ Nẫu - không chỉ thể hiện qua những
tháp Chàm trầm mặc rêu phong qua câu hát bội thô mộc chất phác qua điệu bài
chòi mượt mà sâu lắng qua lời than thân trách phận rền rĩ ai oán... mà còn thể
hiện rõ nét qua ngôn ngữ. Giá như có một công trình nghiên cứu về phương ngữ xứ
Nẫu như Huế đã có phương ngữ xứ Huế thì "chu cha" hay biết bao.
Chuyên đề:
CA DAO – TỤC NGỮ PHÚ YÊN
Ca dao – tục ngữ là những câu nói
truyền miệng có vần có điệu để nói về phong tục tập quán, tình cảm nam nữ hoặc
phản ánh lịch sử, đời sống văn hoá, giải
thích các địa danh, Đạt xin phép giới thiệu một số ca dao tục ngữ của vùng đất
Phú Yên đã sưu tầm được (có đính kèm lời giải thích địa danh)
Nói về địa danh, núi đồi ra tận
biển tạo ra những vũng kính nối tiếp che chắn ngư thuyền đánh bắt hải sản vào
mùa biển động:
Vũng Dông, Vũng Lắm, Vũng Chào
Vũng La, Vũng Sứ vũng nào cũng
thương
Thể hiện tình cảm nam nữ:
Ngó lên Mỹ Thạnh cảnh tiên
Cảnh tiên không thấy, thấy duyên
của mình
Hay:
Muốn về Soi Bún ăn dưa
Sợ e Soi Bún đãi đưa nhiều lời
Giới thiệu thổ sản và ngành nghề truyền thống:
Ngó lên Đất Đỏ nhiều bắp nhiều
khoai
Ngó xuống Đồng Dài nhiều mía nhiều
tranh
Hay:
Vinh Ba đan cót đan gàu
Phú Diễn chằm nón, Xóm Bàu vớt
rong
Nhớ về Ô Loan thương người chiến
sĩ yêu nước Lê Thành Phương chống Pháp:
Ô Loan nước lặng như tờ
Thương người chiến sĩ dựng cờ Cần
Vương
Nơi đây có nhiều đặc sản nổi danh
một thời đã đi vào văn chương:
Lấy chi vui với thu tàn
Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu
Cù Mông:
Tiếng ai than khóc nỉ non
Lấy vợ chú lính trèo hòn Cù Mông
Công tôi gánh gánh gồng gồng
Trở ra theo chồng bảy bị còn ba.
Không đi thì sợ cái nghèo
Có đi thì sợ cái đèo Cù Mông
Không đi thì nhắc thì trông
Có đi thì sợ Cù Mông, Xuân Đài
Cá ngon là cá Cù Mông
Gạo ngon là gạo ở đồng Phú Dương.
Xuân Đài:
Ngó ra ngoài Vịnh Xuân Đài
Thấy hai ông súng nằm đài giữa
truông
Ngó ra ngoài đảnh Xuân Đài
Có hai ông súng nằm dài giữa
truông.
Đèo nào cao bằng đèo Phú Cốc
Dốc nào ngược bằng dốc Xuân Đài
Đèo cao dốc ngược đường dài
Anh còn qua được huống chi vài lạch
sông.
Vịnh Xuân Đài cũng là môi trường
tốt để đánh bắt hải sản khác, đặc biệt là ốc nhảy và nhiều loại cá: cá lá, cá
dò, cá dìa, cá trích… Viết về phong cảnh cửa biển Xuân Đài có thơ của Tam Thai
(1984)
Xuân
Đài bốn mặt núi sông liền
Thắng
cảnh nước non để dấu truyền
Thánh
đế đền xưa nêu thắng tích
Tiên
Châu bến cũ hội thương thuyền
Hai
sông giáp một triều lên xuống
Ba
mặt giành đôi đá ngửa nghiêng
Trùng
diệp dương xanh lồng cát trắng
Rừng
cây nhân tạo giúp thiên nhiên
Sông Cái:
Nước sông Ba chảy ra sông Cái
Anh có vợ rồi de gái làm chi!
Anh về rước vợ mau đi
Kẻo chỉ trở dạ e khi bị đòn.
Phú Xuân
Đồng
bào Xuân Phước, Xuân Quang
Hy
sinh thì chịu, đầu hàng thì không
Xuân
Phước có hồ Phú Xuân
Nhân
dân ba xã vui mừng xiết bao.
Tỉnh Phú Yên có bốn công trình
thuỷ lợi mà hồ chứa nước Phú Xuân là một trong bốn công trình đó. Hồ chứa nước
Phú Xuân ngăn dòng Trà Bương làm thành công trình thuỷ lợi lớn tưới các cánh đồng
thuộc ba xã Xuân Phước, Xuân Quang 2 và Xuân Quang 3.
Đập Đồng Cam
Nước sông Ba chảy qua Thạnh Hội
Thương nhau rồi nỡ vội đi đâu
Để cho Suối Thá âu sầu
Đồng Cam, Dốc Võng đâu đâu cũng
buồn
Về đèo Cả, ca dao địa danh có
câu:
Trèo
lên đèo Cả
Ngó
xuống Vạn Giã, Tu Bông
Biết
rằng cha mẹ đành không
Chàng
chờ, thiếp đợi uổng công hai đàng
Đèo
nào cao bằng đèo Phú Cốc
Dốc
nào ngược bằng dốc Xuân Đài
Đèo
cao dốc ngược đường dài
Anh
còn qua được hống chi và lạch sông
Không
đi thì sợ cái nghèo
Có
đi thì sợ cái đèo Cù Mông
Vũng Rô:
Lập
loè trời chớp Vũng Rô
Mây
che Hòn Yến gió vô Chóp Chài
Vũng Rô thuộc xã Hoà Xuân Nam,
huyện Tuy Hoà. Từ thành phố Tuy Hoà tỉnh lỵ Phú Yên theo hướng Quốc Lộ 1A về
phía nam chừng 30km đến Đèo Cả và rẻ trái, rồi theo đường nhỏ quanh co chừng
hơn cây số là đến nơi. Trên bản đồ thời Pháp ghi là Vũng Rô, còn trong bản đồ Hồng
Đức (tr 158) không thấy ghi Vũng Rô mà chỉ ghi vũng Đồi Mỗi và theo bài Vè thuỷ
trình của Bùi Quang Tung thì vũng Đồi Mồi cách xã Bãi Võ (Đại Lãnh) về phía
nam, có lẽ là vũng Đầm Môn thuộc huyện Vạn Ninh ngày nay. Cũng theo Bùi Quang
Tung trong bài vè trên thì Vũng Rô có tên là Ô Rô
Ô
Rô núi tấn bốn phương
Mịt
mù sơn thuỷ như gương tựa đồ.
Vũng Rô được nhắc đến nhiều sau
ngày Cách Mạng tháng Tám, khi giặc Pháp
tấn công đèo Cả và đổ bộ Vũng Rô, nhất là cuối năm 1946 với bài ký “Đêm Vũng
Rô” của nhà văn Ngọc Cư (tên thật là Đặng Ngọc Cư), trên đặc san văn nghệ “Mùa
đông binh sĩ” ghi lại chuyến đến thăm tiểu đoàn Độc Lập đóng trên Đèo Cả ngăn
chặn giặc Pháp tấn công từ Khánh Hoà. Đêm ấy, người chiến sĩ trong chiếc áo trấn
thủ không đủ ấm, kể với nhà văn về một loại chim trên đỉnh đèo nửa đêm, tiếng
chim kêu như tiếng khóc trẻ thơ.
Bán đảo Vũng Rô dưới chân núi Đá Bia bao gồm Mũi Kê Gà (còn
có tên là mũi Nạy) và mũi Dao, mũi La che kín. Bởi thế trong dân gian có câu:
Đầu
gành mũi Nạy, mũi La
Qua
hai mũi ấy đó là Ô Rô.
Vũng
Ô Rô bốn mùa cũng khuất
Dựa
mặt nồm mặt bấc cũng hay
Sơn
xuyên phong cảnh là đây
Non
cao bia tạc đá xây ngàn trùng
Bán đảo Vũng Rô nơi cao nhất chừng
300m, Vũng Rô ở cực nam Phú Yên. Mặt nước trong xanh, ba bể có núi bao bọc. Khi
có gió bão, tàu thuyền vào ẩn núp bình yên. Vũng Rô còn là nơi thuận tiện cho
ngư dân sinh sống và làm nghề vì quanh năm khí hậu trong lành. Vũng Rô có nhiều
bến bãi cảnh quan lạ mắt, thuận lợi cho đầu tư du lịch sinh thái. Trước đây,
tàu 10 đến 15 tấn ra vào thuận tiện. Hiện nay, cảng Vũng Rô được đầu tư lớn, là
cửa ngõ của khu công nghiệp Hoà Hiệp, tương lai Vũng Rô thành cảng biển hỗn hợp
bao gồm cảng vận chuyển hàng hoá và cảng cá. Vũng Rô rộng 15km2, độ sâu từ 14 –
19m, khu vực xây dựng có thể mở rộng thêm từ 15 đến 20 hecta và có thể liên kết
với cảng Vịnh Vân Phong. Cảng Vũng Rô được đầu tư cơ bản và tiếp nhận được tàu 3.000 tấn, đang tiếp tục phát triển
khai thác các tiểu dự án thuộc khu hậu phương.
Bán đảo Vũng Rô có rất nhiều bãi.
Từ phía đông bắ lần vào, ta thấy các bãi sau đây:
-
Bãi Gốc xã Hoà Tâm (trước thuộc xã Hoà Xuân), ghe thuyền đưa vào đậu
nơi này thì yên ổn hơn.
-
Bãi Tiên là đầu đường vào Vũng Rô, có bãi cát mịn và suối nước ngọt,
ghe thuyền thường ghé vào
lấy nước Bãi Tiên. Diện tích nay
bị thu hẹp bởi con đường Bãi Ngà ngang qua.
-
Bãi Xép ở Phước Giang bên cạnh Rừng Xép thôn Phú Lạc thuộc xã Hoà
Tâm. Khi thuỷ triều cạn,
đường đi trên bãi cát ló các võ
ngao đã cạy ruột (ngao xép).
-
Bãi Môn thuộc địa phận thôn Phú Lạc xã Hoà Tâm, nơi này có trồng
nhiều môn. Bãi Môn cũng là
nơi tàu 41 an toàn tìm bến đậu
trong chuyến về quê hương đầu tiên của thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh. Tương lai
bãi Môn là khu du lịch vì có Suối Tôm, nơi có loại hải sản đặc
biệt của vùng này.
-
Bãi Chính ở Vũng Rô thuộc xã Hoà Xuân Nam. Năm 1964 là địa điểm
tàu 41 đường Hồ Chí Minh
trên biển đã nhập bến lần thứ 3
NÚI ĐÁ BIA -
THẠCH BI SƠN
Sông
Bàn Thạch quanh co uốn khúc
Núi
Đá Bia cao ngút tầng mây
Sông
là núi nọ còn đầy.
Mà
người non nước ngày nay đều rồ
Chiều
chiều mày phủ Đá Bìa
Đá
Bia mày phủ chị kia mất chồng
Núi
Đá Bia tên chữ Thạch Bi Sơn, còn có tên Núi Ông. cao 706m, bởi gần đó có ngọn
núi thấp hơn là Núi Bà cao ngòm, ở dây Đèo Cả doi ra ngoài biển thuộc địa phận
xã Hòa Xuân Nam, nay là huyện Đông Hòa tỉnh Phú Yên Núi Đá Bia nằm ở
1253'50" bắc vĩ độ và 109023'32" đồng kinh độ. Phía đông liền với Núi
Bà (hòn Bà) nằm sát biển, phía tây sát quốc lộ 1A, phía bắc liền với núi Đông
Sơn, chân núi phía nam giáp Vùng Bồ. Núi Đá Bia nằm trong dãy Đại Lãnh, là danh
thăng của quê hương, vì vậy năm Binh Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836) dãy núi Đèo
Cả (Đại Lãnh) được khác vào Tuyên Đình là đình ở vị trí thứ 3 bên phải so với
Cao Đỉnh ở chính giữa, trong hệ thống cửu đình đặt trước sân Thái Miêu ở Hoàng
Thành, Huế và năm Tự Đức thứ 6 (1853) được đưa vào tự điển danh mục những nơi
tôn kính.
Núi
Đá Bia có Chớp Ông cao nhất ở giữa, Đá Bia ở chớp thấp phía tây nam và có bốn
chớp thấp hơn đứng bốn bên là Bà Đệ, Bà Ứng, Bà Hiền, Bà Từ. Dã sử nhà Đường
truyền rằng Cao Biền đánh Lâm ấp, đến núi Đá Bia cắm thần kiếm yểm long mạch và
Đá Bìa là đồng trụ của Mã Viện. Nhưng xét theo truyện Mã Viện thì Mã Viện chưa
từng đến đây. Đó chẳng qua lời của hậu nhân thêu dệt thêm vào. Nhưng sách Thủy
Lục Trình chỉ của Trần Công Hiến có đoạn chép rằng: núi này có một chi chạy đến
biển, chia hai dòng nước, cỏ cây phân rẽ, có một hòn đá lớn đầu quay hướng đông
như hình người. Xưa vua Lê Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành ngang qua đấy, bùi ngùi
than thở rằng: "Từ lúc trời đất sơ khai đã phân ranh giới, kẻ kia (Vua
Chiêm là Trà Toàn 1471) vì nghịch đạo trời, nên phải chịu họa trời", nhân
đó vua khiến chạm chữ lên trên đá làm bia quy định ranh giới giữa hai nước. Ngày
nay nét chữ đã lu mờ, nhưng theo tương truyền thì văn bia có nội dung:
Chiêm
Thành quá thử, binh bại quốc vong.
An
Nam quá thử, tướng tru binh chiết(1)
(Chiêm Thành vượt
qua đây, quân thua nước mất; An Nam vượt qua đây, tướng chết quân tan).
Lại có thuyết truyền
rằng
Dĩ nam Chiêm Thành,
Dĩ bắc dân triều mệnh Việt Nam. Có thuyết lại nói: Bia chỉ chạm hai chữ Hồng Đức
là niên hiệu của vua mà thôi. Ba thuyết trên còn có những tồn nghi như quốc hiệu
Việt Nam đến đời Gia Long mới có, và quốc hiệu An Nam vua Lê Thánh Tôn không
dùng đến.
Sự
việc vua Lê Thánh Tôn có đến Đá Bia hay không, sử chép có khác nhau: Phương
Đình dư địa chí”), tác giả Nguyễn Văn Siêu cũng trích dẫn sách của Lê Quang Định,
Lê Quý Đôn, sau đó đưa ra nhận định: Nay xét trong Lê sử: ngày 1 tháng 3 năm thứ
2 niên hiệu Hồng Đức, bắt chúa Chiêm là Trà Toàn ở thành Đồ Bàn, ngày mồng 2 hạ
chiếu ban sư. Trong bản đồ niên hiệu Hồng Đức chỉ đến huyện Tuy Viễn, dãy núi
Cù Mông trở về nam vẫn còn là đất Chiêm Thành. Những lời tục truyền tưởng không
phải là thực. Ngày nay đi qua núi Đại trông núi ấy sắc núi hơi trắng mà rừng rậm
thú dữ, chân người ít đến, tiếc không làm thế nào tìm được dấu tích.
Việt
Sử Tân biên quyền II, Phạm Văn Sơn lại ghi rằng: .Ngày 29 (tháng 2), quân ta siết
chặt ba vòng vây quanh thành Đồ Bàn. Ở đây, Việt Chiêm kịch chiến, Chiêm bị bại
tới 4 vạn quân, bắt sống tới 3 vạn trong đó có Trà Toàn và cả hoàng gia. Cuộc
chiến tranh nam bắc đến đây chấm dứt. Ngày mồng 1, có chiếu ban sư về kinh, Căn
cứ vào 2 sử liệu trên, vua Lê Thánh Tôn không vượt qua đèo Cù Mông thì làm sao
nói đến chuyện khắc chữ trên núi Đá Bia được. Nhưng một số sử liệu lại nói đến
việc khắc bia, hoặc coi sự kiện như đã có rồi.
Địa
Dư chỉ của Lê Quang Định cũng nói: Vua LêThánh Tôn nam chinh, mở đất đến đây, ở
trên đỉnh núi có sai mài đá khắc chữ ghi việc chia ranh giới với Chiêm Thành.
Nay bia vẫn còn, nhưng chữ bị sứt mẻ không nhận ra được.
Đại
Nam thực lục nhắc đến sự kiện: Năm thứ 6 đời vua Duệ Tôn Hiếu Nghĩa hoàng đế là
năm Tân Mão (1771) núi Thạch Bi ở Phú Yên bị sét đánh, đá đen ở nữa đều hóa ra
trăng cả, xa trông như bia đá dựng đứng, sắc như tro trắng. Chúa sai quan làm lễ
đảo.
Cũng
sự kiện này nhưng Việt sử Tân biên lại chép Núi này ở đông nam phủ Tuy Hòa, năm
Tân Mão đời Trần Duệ Tông (1341-1369) núi bị sét đánh, đá trắng xóa ở xa trông
hình như đá vôi. Vua khiến quan cầu đảo.
Năm
1414 nước Việt Nam bị nhà Minh chinh phục trong 14 năm không thể lo việc khai
thác về miền nam được. Đến khi Lê Lợi khôi phục được nền độc lập thì lo giao hảo
với Chiêm Thành ngay, nhưng quân Chiêm vẫn cứ quấy nhiễu biên giới như trước,
cho nên Lê Thánh Tôn đem binh vào phá thành Đồ Bàn bắt vua là Trà Toàn, chiếm lấy
các xứ Đồ Bàn, Đại Chiêm, chỉ để lại cho người Chiêm những đất ở phía nam Đèo Cả,
nhưng chia thành ba nước để cho họ yếu đi. Đến đó người Việt Nam đã tiêu diệt
thế lực của Chiêm Thành và mở mang quốc cảnh đến tận phía nam tỉnh Phú Yên ngày
nay.
Phủ
Biên Tạp lục, tác giả Lê Quý Đôn, bản dịch của nhà xuất bản Khoa học xã hội có
đoạn: Núi Thạch Bi ở phủ Phú Yên là chỗ tiên triều phân địa giới với Chiêm Thành,
núi đến rất xa, tự đầu nguồn liên lạc đến bờ biển. Núi này cao hơn các núi
khác. Thánh Tôn đánh được Chiêm Thành, lấy đất đặt xứ Quảng Nam, lập dòng dõi vua
Chiêm Thành cũ.
Việt Nam Văn hóa Sử
cương của Đào Duy Anh có chép:
Phong cho đất tự núi
ấy trở xe phía tây, tạc đỉnh núi lập bia làm địa giới, xoay lưng về phía bắc, mặt
về phía nam, lâu ngày dấu chữ đã mòn mất. (tr 121)
Việt Sử Tân biên quyển
II của Phạm Văn Sơn còn chép: Đầu tháng tư, quân nam chinh về tới Nghệ An...
Tháng
sáu, vua hạ chiếu lấy những đất mới của Chiêm làm Thừa tuyên Quảng Nam. Vua còn
cho mài cái đỉnh núi cao nhất, ngoài bờ biển giúp địa giới nước Nam Bàn (Phan
Rang) làm thành cái bia định giới hạn, gọi núi ấy là núi Thạch Bi, nay là dãy
núi giáp giới Phú Yên, Khánh Hòa, chạy dài xuống biển thành mũi Varella.
Những
sử liệu về Đá Bia, Đèo Cả... còn nhiều tồn nghi, cả việc Mã Viện, tướng của nhà
Hán đã trồng cột đồng để phân định ranh giới, từ đó trở ra Bắc là đất quận Nhật
Nam thuộc nhà Hán, trở vào là đất của nước Tây Đồ Di. Vì vậy tên núi trước kia
gọi là Đồng Trụ sơn, đến khi khắc bia lên đá mới đổi tên là Thạch Bi sơn. Còn
việc trồng cột đồng có đến 7 sách Tàu chép, nhưng các nhà nghiên cứu không cho là thật!
Phan Thanh Giản một
lần qua Đá Bia vào khoảng giữa thế kỷ XIX cũng đã nhắc đến đồng trụ qua thơ và Nguyễn
Trường Tộ có bài thơ Quá Bi Sơn ngẫu tác có câu: Nhược di chích trợ thành song
trợ| Địa tác bàn xang, hải tác bôi... (Nếu dời núi Thạch Bi ở cửa biển Tống
Sơn, Thanh Hóa vào hợp với núi Đá Bia ở Phú Yên thành đôi đũa; thì đất sẽ làm
bàn ăn và biển làm chén rượu). Theo
Tam Thai cư sĩ, câu
thi có ý tưởng cao thượng và có ảnh hưởng về phong thủy địa lý... đáng kính phục,
còn bài thi của Phan Thanh Giản cũng như nhiều bài khác, đều do khẩu truyền
không căn cứ xác chứng.
Nhưng
theo sách La Provice de Phu Yen của Laborde, bản dịch có viết: Trong những ngày
trời quang nó hiện ra sừng sững và người ta có thể nhìn thấy nó từ khoảng cách
xa 50km. Người An Nam gọi nó là Đá Bia. Truyền thuyết và ngay cả những người An
Nam nói rằng vua Lê Thánh Tôn, người đã đánh đẩy lùi người Chàm năm 1472 đã khắc
lên đó để kỷ niệm chiến thắng của
ông.
Trong thực tế, chẳng có minh văn nào được viết ra. vả lại khó mà có thể thực hiện
được điều đó vì Đá Bia cao tới 706m có đỉnh hình chiếc còi dựng đứng với chiều cao
tới 30m. Tiếp theo là cuộc khảo sát của Tri phủ Tuy Hòa là ông Nguyễn Văn Thơ
vào năm 1937 có cho người lên đỉnh để tìm kiếm dấu tích, nhưng không thấy gì cả.
Tháng
5 năm 2002, đoàn khảo cổ về Phú Yên, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã lên tận Hòn Đá
(Ông) Bia cao độ 706m để "giải ảo hiện thực về những huyền tích như các câu
thơ ca":
Chứng tích năm
trăm năm, bia đá ghi sâu
tình đất Phú
Giang
sơn muôn vạn thuở, sử vàng chói sáng
cảnh dân Yên
-
Công dày đá tạc ghi
Thánh
Tông lưu quốc sử
Lương
tướng đội biên thùy
Trèo lên 3 tiếng, xuống
núi 2 tiếng, chân già bảy mươi bị vọp bẻ, chỉ để ghi vào quốc sử Việt Nam và
tình sử Phú Yên một dòng:
Đá Bia không phải là
đá ghi bia văn thời Lê Thánh Tông. Vậy Nó là gì?
Từ thế kỷ thứ VIII sử
Tân Đường thư, Chiêm Thành truyện đã ghi: Nó là Lăng già bát bạt đa của Chămpa.
Đây là lối ghi Hán tự của Lingaparvata - Linga thần núi thiêng mà, sau này
(1993) cùng đoàn khảo sát quốc tế, tôi đã nêu ra và được hoàn toàn tán thành ở
hội thảo quốc tế về Đông Nam Á họp ở Italy Hè 2001 (University of Milan). Lời
giải ảo hiện thực núi Đá Bia của chúng tôi: Đấy là biểu tượng Lingaparuata -
Linga - Đấng Đại Sơn thần -tức thần Siva ấn giáo đã được hội nhập vào văn hóa Chămpa
hay là được Chămpa hóa. Hai trái núi thiêng (núi Chúa) hùng vĩ nhất của Phú Yên
là núi Chóp Chài (Nựu Sơn) và núi Đá (Ông) Bia
Dẫu sao, đây cũng là
một huyền thoại đẹp đẽ để tôn vinh tiền nhân từng mở mang bờ cõi. Bởi thế, tại
đền thờ ông Lương Văn Chánh thôn Phụng Nguyên, xã Hòa Trị trước đây đã có câu đối
sau:
Hồng
Đức thiên biên tồn sự nghiệp
Phụng
Tường miếu mạo đối sơn hà.
Tam dịch:
Hồng
Đức bên trời còn sự nghiệp
Phụng
Tường dựng miếu chói non sông.
Và
tại Long Uyên (nay thuộc xã An Dân, huyện Tuy An) năm Tân Tỵ (1881), Bố chánh
Phú Yên Đinh Nho Quang có câu đối ở miếu thờ vua Lê Thánh Tôn:
Giang sơn khai
sáng hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự.
Trở
đậu kinh hương thử địa, anh linh trường đổi Thạch Bi cao.
Tạm dịch:
Non
sông mở cõi năm nào, phụ lão truyền nhau công Hồng Đức.
Lễ
kính hương thơm đất ấy, danh thiêng xứng mãi ngọn Bi Sơn.
Núi
Đá Bia còn có tên gọi Ngón Tay Chúa (Le doigt de Dieu), vì các nhà hàng hải người
Pháp đi ngoài biển trông vào hòn đá trên đỉnh giống hình ngón tay chỉ lên trời,
như là mục tiêu để làm căn cứ cho tàu chạy. Đến cuối thế kỷ XIX, một sĩ quan hải
quân Pháp (Varella) cho xây hải đăng Mũi Điện nằm ở 1092712" kinh độ đông
và 1253'40" vĩ độ bắc, cao hơn mặt nước biển 86m, còn hải đăng cao 110m so
với mặt nước biển. Đây là một trong 45 đèn biển cấp 1 của cả nước, tàu bè xa
khoảng 27 hải lý có thể nhận biết được.
Dân gian còn truyền tại núi Đá Bia
có huyệt Đế vương, vượng khí rất nhiều có thể át cả Trung Quốc, nên Cao Biền đã
tìm cách yểm long huyệt làm cho: Bi sơn sanh thánh chúa, Đà thuỷ xuất hiền thần…
không còn linh nghiệm! Dẫu sao, Đá Bia – Thach Bi sơn còn mang ý nghĩa thiêng
liêng, nó đã “hoá thành văn” thành sử, nhắc nhở niềm tự hào về quá khứ, trong lời
thơ mang tính sử thi mà Đại Nam quốc
sử diễn ca của Lê Ngô Cát, Phạm Đình
Toái đã viết:
Mở
Quảng Nam, đặt trấn Ninh
Để
phong muôn dặm uy linh ai bì
Kỷ
công có núi Đá Bia
Thi
văn các tập Thần Khuê còn truyền
Mũi Điện:
Trời
chớp Mũi Điện, thức dậy mà đi
Trời
chớp Đề-gi nằm nhà mà ngủ
Mũi Điện nằm trên miền núi Hòn Bà thuộc dãy Đại Lãnh, là nơi ăn ra biển
so với bờ biển Việt Nam. Đây là điểm cực đông của Tổ quốc. đến cuối thế kỷ XIX,
một sĩ quan hải quân Pháp phát hiện được sự quan trọng của mũi này nên mũi được
mang tên ông là Cap Varella (Mũi Varella). Mũi Điện nằm ở 109°27’12’
kinh đông và 12°53’40’ vĩ độ bắc, ca hơn mặt nước biển 86m.
Năm
1890 người Pháp xây hải đăng Mũi Điện để hướng dẫn tàu bè từ ngoài khơi nhập
vào bờ và đi lại ven biển quanh khu vực
Vũng Rô. Nhưng rồi sau thế chiến thứ hai, người Pháp thua trận nên bỏ luôn hải
đăng tở thành hoang phế. Năm 1961 chế độ Sài Gòn khôi phục hải đăng, nhưng phía
nam của vùng biển nay là căn cứ nơi mà các con tàu không số tập kết chở vũ khí
từ Bắc vào. Do đó, một thời gian sau máy bay huỷ luôn cả hải đăng. Ngày 3 – 7 –
1997 hải đăng Mũi Điên lại được khôi phục lần nữa là do cơ quan đảm bảo an toàn
hàng hải khu vực 3 đảm nhiệm.
Hải
đăng Mũi Điện (còn gọi là hải đăng Đại Lãnh tỉnh Phú Yên), cao 26,5 so với mặt
đất và cao 110m so với mặt nước biển. Là một trong 45 đèn biển cấp 1 của cả nước.
Riêng phần thiết bị, đèn chinh, đèn phụ, bộ phản quang và các tấm pin năng lượng
mặt trời trị giá hơn 1 tỷ đồng. Muốn lên đỉnh của hải đăng ta phải leo 107 bậc
thang gỗ hình xoắn ốc. Tàu bè từ xa khoảng 27 hải lý có thể nhận biết được Mũi
Điện nhờ ánh sáng trắng chớp nhịp 3 và chu kỳ 15 giây. Hải đăng Mũi Điện đã định
vị cho nhiều tàu bè trong nước và quốc tế.
ĐÈO CẢ
Con chìm hồng bay trên Đèo Cả
Con cả vượt nhảy dưới Vũng Rô
Mất chồng em chẳng có lo
Sợ anh mất vợ nằm có một mình.
Trèo lên Đèo Cả
Ngó xuống Vạn Giã.
Tu Bồng
Biết rằng cha mẹ
dành không
Chàng chờ, thiếp đợi
uống công hai đàng.
Con ngựa tía ăn
quanh Đèo Cả
Vầng nguyệt đêm rằm
bóng ngã về Đông
Chẳng thà giục ngựa
về không
Chớ đừng cướp vợ,
giục chồng người ta
Trèo lên Đèo Cả thấy
mà ông Cao Biền.
Cảm thương anh Vệ
quốc giữ yên nước nhà
Thằng Tây nó muốn
lấn ra
Thây phơi hầm đá,
làm ma không chồng.
Chiều chiều vượn
hú đầu non
Đường qua Đèo Cả lối
mòn dặm quanh
Non xanh xanh, nước
xanh xanh
Nước non trông cảnh
hữu tình xiết bao.
Đèo
Cả nằm trên dãy núi Đại Lãnh có độ cao 512m. Đèo Cả là tên nôm xuất hiện để chỉ
ngọn đèo cao (cả, 1ớn) trong dãy núi lớn
(Đại Lãnh). Đường đèo dài trên 12km có đến 98 vòng cua trong đó có những vòng
cua gấp khúc, nhất là ở đoạn Đá Đen. Đây là một khối đá lớn nhất Đông Nam Á nằm
ở lưng chừng núi trải dài đến tận bờ biển, rất khó khăn khi làm đường quốc lộ
ngang qua đoạn này. Phía núi là những tảng đá có nhiều hình dáng khác nhau, nơi
dựng đứng, có nơi thoai thoải; Phía biển, đường chạy sát bờ, sâu thăm thẳm mới
đến mặt nước. Trên Đèo Cả có trạm Phú Hòa là dịch trạm giao thông liên lạc trên
đường thiên lý giữa các tỉnh. Trạm có từ thời Gia Long. Đường chạy trạm từ trạm
Phú Thịnh (Phú Thanh) nay là thôn Trường Thịnh xã Hòa Vinh vào trạm Phú Hòa dài
23 dặm 75 trượng.
Đèo
Cả được tác giả Roland Dorgeles mô tả trong Surla route mandarine:
"...Những hòn
đá cao quá bắt ngộp, nghiêng mình mà trầm tư mặc tưởng, những cái thác nhỏ trắng
phau, chảy từ cao xuống hố thẳm, những
cây suông đuột lên trời, bốn bên dây leo lá phủ, thật là một cảnh cỏ cây chen
đá lá chen hoa..." (Trần Sĩ dịch).
Trước
cảnh thiên nhiên non nước hùng vĩ, nhiều thơ ca còn mãi với thời gian và Đèo Cả
trên dãy núi Đại Lãnh được chạm vào Tuyên đỉnh trong hệ thống Cửu đỉnh đặt trước
sân Thế Miếu ở Hoàng thành Huế vào năm Bính Thân (1836) thời vua Minh Mạng, 4
năm sau đó lại chuẩn định tế lễ tại núi Đại Lãnh tương đương với tế lễ ở núi Ngự
Bình gồm một trâu và một lợn.
Đèo Cả, có tác giả
nhầm gọi là đèo Cục Kịch. Thực ra, đèo Cục Kịch trên núi Gian Nan, ngăn cách
hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa mà Đại Nam Nhất Thống chí của Sử quán triều Nguyễn
mô tả: ở phía nam phủ có tên nữa là núi Gian Nan, cũng là phân giới cho tỉnh
Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa; vì đường núi hiểm trở nên gọi tên ấy. Triều Nguyễn đầu
lúc trung hưng, đại quân cứu viện Diên Khánh, vua sai Đốc tướng Võ Văn Lượng
đóng đồn ở núi để triệt đường về của quân địch, tức là núi này.
Dưới
chân Đèo Cả có hầm Đèo Cả trong hệ thống đường sắt xuyên Việt bắt đầu xây dựng
từ năm 1928. Tuyến đường sắt Bắc Nam làm lễ nối ray vào ngày 2-9-1938, có Toàn
quyền Decoux và vua Bảo Đại tham dự.
Nơi
nối ray, có tập hồ sơ xây dựng đường sắt cất kỹ vào hầm nhỏ xây bên cạnh rồi
trám lại. Sau năm 1945 vẫn còn nhưng rồi lại bị đào lên tiêu thổ vào những ngày
kháng chiến toàn quốc. Đoạn đường sắt từ Hảo Sơn đi Tu Bông thuộc xã Vạn Long,
huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa có đến 7 tuyến hầm, tổng chiều dài các đoạn hầm
là 2.851m, trong đó tuyến hầm dài nhất là hầm Baboneau còn gọi là hầm Đèo Cả
dài 1.197m. Người Pháp cũng đã lập dự án tuyến đường sắt lên Củng Sơn rồi đi
Tây Nguyên nối kết với Lộc Ninh qua Thủ Dầu Một - Sài Gòn.
Song dự án chưa thực
hiện được. Tương lai trong kế hoạch phát triển kinh tế tiểu vùng, Phú Yên sẽ thực
hiện dự án từ non thế kỷ trước.
Những ngày đầu kháng
chiến, Hữu Loan đã theo đoàn quân Nam tiến vào đây và có thơ về Đèo Cả:
Giặc
từ Vũng Rô
bắn
tới
Giặc
từ trong
tràn
ra
Nhưng
Đèo Cả
vẫn
đứng vững.
Và những vần thơ
lãng mạn kiêu hùng trong những tháng ngày gian khổ nhưng oanh liệt nơi chòi
canh cheo leo, nơi mà:
Ngày
thâu
Vượn
hú
Đêm
canh
gặp
hùm lang thang
Trong kháng chiến chống
Pháp, Đèo Cả được phòng thủ như là nút chặn âm mưu tấn công vùng tự do Liên khu
V, nhưng ngày 13 tháng 1 năm 1947, từ vùng tạm chiếm Khánh Hòa, 2 trung đoàn
tinh nhuệ của Pháp ào ạt tấn công qua Đèo Cả 3 ngày, nhưng không qua được.Chúng
phải đổ bộ vào Bãi Xép phía bắc Vũng Rô đánh vào sau lưng ta. Ngày 18 tháng 1,
Pháp tấn công nam thị xã Tuy Hòa. Cầu Đà Rằng bị phá, chúng lui về Phú Lâm sau
đó chiếm đóng Núi Hiềm đe dọa vùng tự do nam Tuy Hòa. Quân dân Hòa Xuân hơn
ngàn ngày bao vây đánh địch, căt đứt đường Nha Trang - Đèo Cả, ngăn chặn các cuộc
tấn công của địch vào Hòn Hèo, Dốc Mõ gây thiệt hại nặng cho chúng.
Bị
bao vây và thất bại nhiều mặt nên ngày 5 tháng 12 năm 1950, chúng đã tháo chạy
qua Đèo Cả, con đường mà 3 năm trước chúng muốn vượt qua nhưng không được.
Đèo
Cả ngày nay sẽ cùng với Vũng Rô, Đại Lãnh và Đá Bia làm nên cụm thắng cảnh du lịch
sinh thái hấp dẫn khách trong và ngoài nước. Tương lai khu kinh tế mở chẳng
khác Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội trên vùng đất trải dài từ Nam Phú Yên đến Bắc
Khánh Hòa, là cửa ngõ phía đông vùng Tây Nguyên trong chiến lược phát triển
kinh tế các tỉnh Nam Trung Bộ - Tây Nguyên. Dự án hạ tầng Nam thành phố Tuy Hòa
- Vũng Rô đang hoàn thành các thủ tục đầu tư, chuẩn bị xây dựng. Bộ Giao thông
vậntải chuẩn bị đầu tư cho dự án hầm đường bộ Đèo Cả, quy hoạch đường sắt từ
Phú Yên lên Ban Mê Thuột, xây dựng hệ thống
giao thông liên vùng (cả đường bộ, đường sắt, đường hàng không) để phát huy vai
trò của cảng Vũng Rô với Vân Phong tạo ra hành lang phát triển kinh tế của tiểu
vùng. Hình thành trung tâm du lịch Tuy Hòa – Vũng Rô - Đá Bia, liên kết với
trung tâm du lịch nước ngoài.
Sông Tam Giang, đèo
Tam Giang, đập Tam Giang:
Nước
ròng chảy đến Tam Giang
Sầu
đông chín rụng sao chàng bặt tin
Để
em vàng ngọc giữ gìn
Hau
là nhành quế đã vin cành nào
Hoặc:
Nước
ròng chảy đến Tam Giang
Sầu
đông chín rụng sao chàng bặt tin
Nỗi
buồn con nhện đêm đêm
Chầu
rày người bạn chắc quên ta rồi
Về
Tam Giang, Phú Yên có ba địa danh: sông Tam Giang ở huyện Sông Cầu, đập Tam
Giang và đèo Tam Giang cùng ở huyện Tuy An
Sông
Tam Giang dài độ 10 km phát nguyên từ Hòn Kế chảy thẳng ra biển ở Vũng Chào
trong vịnh Xuân Đài. Lòng sông cạn, ghe thuyền muốn ngược dòng sông lên vùng
thượng nguồn, tài nguyên không được phong phú, mùa nước lớn ít thấy ghe thuyền
qua lại. Người ta đắp đập Đá Vải ngang qua sông để cho nước vào đồng Long Bình,
Long Phước. Tương lai có đập Bình Minh, hồ Ông Sim. Lưu vực sông Tam Giang tuy
nhỏ nhưng độ dốc sông khá lớn 1,6% lượng nước hằng năm 0,13 tỷ m3. Do với vị
trí của Phú Yên nằm ở sườn phía đông của dãy Trường Sơn, có đồng bằng trũng thấp
liền kề núi cao, sông ngắn và dốc. Về mùa mưa lượng nước lớn thường ngập hầu hết
các vùng dân cư. Ngược lại vào mùa nắng, đất khô cằn, khả năng giữ nước kép nên
hầu hết lượng nước cạn kiệt.
Khách
từ thị trấn Sông Cầu vào chừng 2km là tới chân đèo, hai bên dân cư đông đúc,
phía tây đỉnh đèo là nghĩa trang liệt sĩ.
Đập
Tam Giang chắn ngang qua sông Cái, phía hữu ngạn thuộc xã An Thạch, tả ngạn là
thôn Bình Hoà, xã An Ninh và An Dân. Trước 1945, cứ mỗi mùa nước cạn, dân đến
vùng núi phía thượng nguồn chặt cây về làm cừ đóng ngang sông và đến các triền
núi quanh vùng đốn chà bổi đem về thả ngang sông rồi hốt đất cát đắp thành đập
giữ nước đưa vào ruộng. Mùa lũ lụt, nước dâng cao chảy xiết, trôi cây cừ và chà
bổi ra biển… Năm khác lại như thế và chính quyền địa phương xây dựng đập bằng
xi măng dài khoảng tám trăm mét. Thuyền muốn qua đập phải chờ mùa nước lớn. Đập
không quy mô đồ sộ như đập Đồng Cam, nhưng cũng đủ nước tười cho các cánh đồng
trong vùng.
Dân
vùng khác, không có đập nước nên không làm được thêm vụ, do đó mùa gặt rủ nhau
đến nơi có hai vụ để gặt thuê lấy lúa công. Do đó nhiều chàng trai và nhiều cô
gái thương yêu nhau thành vợ chông và bao cảnh chia ly sầu tủi được thể hiện
vào lời ca tiếng hát.
Những làng nghề truyền thống ở Phú Yên
Phú
Yên có truyền thống văn hóa hơn 400 năm từ khi khai hoang lập làng, các làng
nghề sản xuất phục vụ đời sống nhân dân địa phương vì thế có lịch sử và giá trị
vô cùng sâu sắc. Tính đến hiện nay vẫn còn rất nhiều làng nghề truyền thống hoạt
động trên địa bàn tỉnh Phú Yên, thu hút nhiều du khách từ khắp nơi đến tìm hiểu,
nghiên cứu. Xin giới thiệu các làng nghề truyền thống của Phú Yên để mọi người cùng tìm hiểu.
1. Làng gốm
Trường Thịnh
Làng gốm Trường
Thịnh thuộc thôn 5, thị trấn Hòa Vinh, huyện Đông Hòa, Phú Yên có truyền thống
sản xuất các đồ gốm dân dụng phục vụ nhu cầu của bà con địa phương và các vùng
lân cận. Sản phẩm chủ yếu làm từ đất sét, được nung ở nhiệt độ cao nên có màu đỏ
au, sáng sủa. Hiện nay làng gồm Trường Thịnh có khoảng 34 hộ sản xuất với hơn
100 lao động lành nghề. Mùa sản xuất gốm đạt năng suất cao nhất là từ tháng 2 đến
tháng 8 hàng năm, là mùa nắng nhiều, dễ dàng phơi gốm, bền chắc, màu đẹp. Những
tháng còn lại là mùa mưa, thời tiết không phù hợp cho các công đoạn của làm gốm.
Du
khách tự tay tạo ra sản phẩm của mình. Ảnh: Sưu tầm
Các sản phẩm gốm
nổi bật của làng gốm Trường Thịnh như: ấm đun nước, bộng giếng, lu đất, ống
khói, chậu hoa,… Du khách tham quan làng nghề gốm Trường Thịnh có trải nghiệm tự
tay làm một sản phẩm từ đất sét dưới sự hướng dẫn của nghệ nhân địa phương, sản
phẩm là kỷ niệm đáng nhớ khi ghé thăm làng gốm Trường Thịnh.
2. Làng đan
lát Vinh Ba
Cả đường làng
ngõ hẻm của Vinh Ba trồng rất nhiều tre, nguồn nguyên liệu chính để làm ra các
sản phẩm như bồ, thúng, nia, sàng, giỏ tre, vỉ bánh tráng,… Đó là điểm đặc
trưng của làng đan lát Vinh Ba ở xã Hòa Đồng, huyện Tây Hòa, Phú Yên. Hầu hết mọi
người trong làng đều làm việc từ đàn ông chẻ tre, chuốt sợi, đàn bà đan lát,
thanh niên chặt tre, uốn nắn đến trẻ em tham gia sắp xếp các vật dụng trong tiếng
cười nói hoan hỉ, quây quần bên nhau.
Đan
lát thủ công bằng tay ở Vinh Ba. Ảnh: Sưu tầm
Hiện nay làng đan lát Vinh Ba có
hơn 300 lao động đang giữ nghề. Nếu như trước kia chỉ sản xuất các vật dụng phục
vụ nhu cầu của bà con địa phương thì bây giờ đã thêm nhiều sản phẩm thủ công mỹ
nghệ phục vụ sự kiện, du lịch như lẵng hoa, giỏ hoa, túi xách,…
3. Làng bánh
tráng Hòa Đa
Làng nghề bánh
tráng Hòa Đa ở xã An Mỹ, huyện Tuy An, Phú Yên, nằm cách Tuy Hòa khoảng 15 km về
hướng bắc. Đây là một làng nghề nổi tiếng ở Phú Yên và khu vực miền Trung, với
300 hộ sản xuất. Bánh tráng sử dụng nguồn nguyên liệu chính là gạo Tuy Hòa, xay
thành bột, trộn với mè và phơi khoảng một ngày là dùng được. Bánh tráng Hòa Đa
dùng ngon nhất là cuốn thịt heo, cá ồ, bánh hỏi, xuất hiện nhiều trong hầu hết
các bữa ăn của gia đình.
Thử
thách tráng bánh tại làng Hòa Đa của du khách. Ảnh: VTV
Bánh tráng Hòa
Đa còn sử dụng thêm các nguyên liệu khác như nước cốt dừa, hành củ, dừa nạo,… để
tạo nên mùi vị đặc biệt. Những ai xa quê thường đem theo nhiều ràng bánh tráng
để ăn. Chỉ cần nướng lên hoặc nhúng nước, cuốn với rau sống, cá nướng hoặc hấp,
thịt heo là có cả một bữa ăn thịnh soạn, no nê. Vào những ngày lễ Tết, bánh
tráng Hòa Đa trở thành món quà biếu ý nghĩa dành cho nhau, cùng vui xuân đón Tết
sung túc, đong đầy.
4. Làng nước
mắm Gành Đỏ
Vùng biển Gành Đỏ
thuộc phường Xuân Đài, thị xã Sông Cầu vốn nổi tiếng bao đời nay bởi nghề sản
xuất nước mắm truyền thống. Nguồn nguyên liệu chính là cá cơm dồi dào do lượng
thủy sinh vật nhiều, cung cấp thức ăn cho cá nên cá cơm khi đánh bắt chất lượng.
Có hơn 15 cơ sở sản xuất nước mắm và các thương hiệu nổi tiếng như Ông Già, Bà
Mười, Tân Lập, Bà Bảy,…
Các
công đoạn ủ nước mắm nguyên chất. Ảnh: Sưu tầm
Nước mắm Gành Đỏ
có mùi vị đặc trưng riêng không lẫn vào đâu được. Cá cơm và muối Tuyết Diêm sản
xuất ở Sông Cầu được đem ủ và cho ra các loại nước mắm ngon, từ loại mắm nhĩ đặc
biệt đến loại 1, loại 2, giá từ 70 – 120.000 đồng/lít là ăn ngon rồi. Nước mắm
thơm lừng, nghe mùi là thèm đồ ăn. Dọc con đường Quốc lộ 1A đoạn qua Gành Đỏ có
nhiều cửa hàng bán nước mắm để du khách gần xa mua về làm quà. Du khách có thể
tham quan các cơ sở làm nước mắm, tìm hiểu cách người dân làm ra loại nước chấm
thơm ngon.
5. Làng rượu
Quán Đế
Rượu Quán Đế là
thương hiệu rượu nổi tiếng của tỉnh Phú Yên, được sản xuất tại làng rượu Bình
Thạnh Nam, xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu. Gạo hạt nhỏ được chọn làm nguyên liệu
chính, lên men và sử dụng nguồn nước tinh khiết của địa phương tạo nên loại rượu
trắng thơm ngon từng giọt.
Làng
rượu Quán Đế có thương hiệu uy tín. Ảnh: Thị xã Sông Cầu – Phú Yên
Có khoảng hơn 30
hộ sản xuất trong làng nghề rượu, sản phẩm được đóng chai, có thương hiệu được
bày bán ở các cửa hàng đặc sản trong tỉnh. Những ai đi bắc vào nam thường mang
theo trong mình một chai rượu để tiếp khách hoặc làm quà, trang trọng, đậm
tình.
6. Làng chiếu
cói Phú Tân
Nghề dệt chiếu
cói ở Phú Tân, xã An Cư, huyện Tuy An có lịch sử hàng trăm năm với 249 hộ gia
đình tương đương 600 lao động sản xuất. Sử dụng nguồn cói trồng từ cánh đồng
25ha ở địa phương, các sản phẩm chiếu dệt được bán phục vụ đời sống nhân dân địa
phương và các tỉnh vùng Tây Nguyên. Tổng thu nhập bình quân hằng năm của làng
nghề dệt chiếu là khoảng 5,3 tỉ đồng.
Làng
dệt chiếu Phú Tân nhuộm màu cói. Ảnh: Sưu tầm
Cói được thu hoạch
đem về phơi khô rồi nhuộm màu sau đó phơi lần nữa. Tiếp theo là công đoạn dệt
chiếu với thủ công do 2 người dệt 1 tấm, khoảng 30 phút là xong 1 cái. Ngày nay
nhiều gia đình trong làng nghề dệt chiếu Phú Tân đã mua các máy dệt chiếu hiện
đại, tăng năng suất chiếu dệt ra, giảm sức người vất vả, tăng thu nhập kinh tế
gia đình. Làng nghề Phú Tân là một trong những làng nghề truyền thống tiêu biểu
ở Phú Yên thu hút nhiều khách tham quan, trải nghiệm.
7. Làng thúng
chai Phú Mỹ
Phú Yên sở hữu
hơn 189 Km đường bờ biển, biển gắn liền với hoạt động mưu sinh của hầu hết bà
con nhân dân. Trong đó nghề sản xuất phương tiện đi biển như làm thúng chai được
cả làng Phú Mỹ, xã An Dân, huyện Tuy An gìn giữ và phát triển từ bao đời nay. Sản
phẩm thúng chai làng Phú Mỹ có đường kính từ 2 – 2,5 m, được làm tinh xảo và chắc
chắn, đảm bảo an toàn cho những chuyến đi trên biển.
Du
khách tham quan làng thúng chai Phú Mỹ. Ảnh: Thời Báo Việt Nam
Làng nghề thúng
chai Phú Mỹ có 40 hộ đan thúng với hơn 120 lao động, thu nhập bình quân từ 3,5
– 4, 5 triệu đồng/tháng. Để có 1 chiếc thuyền thúng chai phải trải qua nhiều
công đoạn sản xuất và có nhiều người phụ trách mảng khác nhau như: thợ vót nan,
thợ lận, thợ nức vành, thợ trét dầu, thợ gia công phân bò, …. Những chiếc thúng
chai Phú Mỹ không chỉ phục vụ nhu cầu đi lại của ngư dân trong nước mà đã xuất
khẩu ra nước ngoài hàng trăm chiếc mỗi năm, đem lại nguồn thu nhập ổn định cho
làng nghề. Đến với làng Phú Mỹ du khách sẽ được theo dõi quá trình làm ra 1 chiếc
thúng chai hoàn hảo, được nghe thuyết minh chính xác về các công động sản xuất,
cũng như lợi ích của chiếc thúng chai đối với cuộc sống bao đời nay.
8. Làng chổi
đót Mỹ Thành
Làng nghề làm chổi
đót Mỹ Thành, xã Hòa Thắng, huyện Phú Hòa có khoảng 1.000 lao động địa phương.
Để có một sản phẩm hoàn chỉnh người làm chối đót phải trải qua 6 công đoạn: tướt
đót, lăn con, bó cổ, bó cán, bện và gom thành phẩm. Trong đó công đoạn bó cổ,
bó cán là khó nhất, đòi hỏi phải làm thật tỉ mỉ để ra sản phẩm tròn, đều và đẹp,
quyết định chất lượng sản phẩm.
Làng
làm chổi đót Mỹ Thành cung cấp chổi lớn cho thị trường. Ảnh: Vietnamnet
Chổi đót là vật
dụng không thể thiếu của mỗi gia đình, vì vậy nghề làm chổi đót cho đầu ra rất
tốt, thu nhập bình quân mỗi tháng 3 – 5 triệu đồng. Cả làng nghề chổi đót Mỹ
Thành sản xuất trung bình 100.000 cây chổi đót/tháng, giá bán ở thị trường
15.000 – 25.000 đồng/cây tùy vào độ dày mỏng khác nhau. Tham quan làng nghề
truyền thống Mỹ Thành, du khách tự tay làm ra một sản phẩm và sử dụng thực tế để
cảm nhận được sự khéo léo của người nghệ nhân làng nghề.
9. Phường Lụa –
Ngân Sơn
Lãnh
Phường Lụa
Sắn
Ngân Sơn
Nếp
Vườn Trầu
Cau
chợ Đèo
Nhất
gái La Hai
Nhì
trai Phường Lụa
Tiến
đồn ở phủ Tuy Hoà
Có
cây sắn nước ở làng Ngân Sơn
Củ
tròn cây nhỏ lá đơn
Ăn
ngon chất sống lại thông dụng nhiều
Phường
Lụa là vùng đất thuộc thôn Ngân Sơn, xã An Thạch hiện nay là thị trấn Chí Thạnh.
Nghề dệt lụa có từ miền Bắc, cư dân các tỉnh Thanh, Nghệ, Bình, Trị vào lập
nghiệp sinh sống, họ sản xuất để dùng, sản phẩm làm ra vừa bền vừa đẹp nên mọi
giới ưa chuộng, do đó nghề dệt lụa ngày càng trở nên phát đạt.
Nghề đệt lụa đòi hỏi sự khéo léo và sự kiên
nhẫn rất nhiều. trải qua một thời gian khá dài trong lịch sử mở nước, tỉnh Phú
Yến cũng chỉ có 2 địa phương làm nghề này
Muốn dệt lụa trước hết phải có tơ, tơ do tằm
nhả ra thành kén, muốn có kén thì phải trồng dâu để nuôi tằm. Phường Lụa ở trên
bờ sông Cái, những soi đất do phù sa bồi lên thích hợp cho việc trồng dâu.
Khi tằm cho kén,
người ta bỏ kén vào thùng ươm, lấy từng sợi tơ của mỗi cái kén, xa quay vấn vào
trục, nhiều trục kéo thành những sợi canh cho khổ lụa. Cánh đưa tơ vào go trên
khung dệt va cách dệt rất phức tạp, công phu hơn dệt vải nhiều. Khung dệt có 2
tầng, tầng dưới dành cho người thợ ngồi dệt, tầng trên cho người thợ ngồi kéo
các sợi chỉ canh theo bông hoa, giống vật
tứ linh hoặc các chữ Phước Thọ… khi người thợ dệt, dệt xong một canh theo bông
hoa, theo giống vật tứ linh hoặc các chữ Phước, Thọ… Các hình theo kiểu mẫu hiện
lên trên nền lụa sinh động như thật, màu sắc tươi thắm, hài hoà, rõ nét.
Khi sợi canh được
căng, người ta quét hồ rồi đưa lên khu dệt vào go. Dệt lụa lãnh dùng đến 5 chân
guốc đạp 1 thoi, dệt gấm áo rộng dùng đến 8 chân guốc đạp, 4 thoi, 4 màu. Dệt
lãnh các thứ mỗi ngày chỉ dệt chiều dài hơn một mét, dệt gấm áo rộng mỗi ngày dệt
được chừng 0,8 mét.
Vua Bảo Đại và
Hoàng Hậu mặc gấm dệt ở Phường Lụa, nhà vua lệnh truyền xuất kho đóng cho ông
Xuân một khung dệt, đồng thời ban tặng tấm biển “Hoàng hậu ân tứ” treo trước
khung dệt. Khung dệt này chỉ dùng dệt gấm cho nhà vua, không được dùng dệt gấm
cho khách hàng.
Nhà vua còn
phong cho ông Xuân tước cửu phẩm và một huy chương vàng. Huy chương của ông để
lại cho con ông là ông Tôn. Vào năm 1947, kinh tế gia đình sa sút, ông đành đem
bảo vật của thân phụ bán lấy tiền tiêu, giá trị bằng 5 chỉ vàng y.
Qua những năm đất
nước chiến tranh, việc trồng dâu nuôi tằm khó khăn. Hơn nữa, hàng ngoại nhập bắt
đầu đè bẹp hàng tiểu thủ công nghiệp. Lãnh lụa dệt ra bán không bù vào số công.
Con cháu cũng không thừa kế tổ nghiệp, bao nhiêu dụng cụ đều hư nát hoặc thiêu
huỷ. Những di vật ấy không còn tồn tại.
Ngân Sơn còn thổ
sản vừa nhiều, vừa ngon, lại vừa thông dụng là củ sắn nước. Sắn nước củ tròn bằng
cái chén, cái tô, thân cây nhỏ chỉ bẳng chiếc đũa, cao độ 0,5 mét. Nếu để thân
cây lâu ngày, từ đọt thân cây nức dài leo quấn lên chái, ra trái cho hột. Chính
những hột này người ta phơi khô để dành làm giống ươm trồng vụ sau. Đất trồng sắn
thường là ven triền núi. Những đám thổ cho đến cuối tháng 6 đầu tháng 7 âm lịch
khi mà những cơn mưa đầu mùa ướt đất.
Người ta đánh luống, vu rò gieo hạt, mỗi hạt cách nhau 0,2 đến 0,3 mét tuỳ đất
tốt xấu, bởi sắn nước mỗi hạt chỉ lên một cây cho một củ.
Nhiều nơi trồng
sắn nước trong huyện, trong tỉnh, nhưng vỏ dày ít nước nhiều xơ kém chất ngọt
hơn sắn nước Ngân Sơn. Hằng năm tháng 11âm lịch dân thu hoạch và bán khắp nơi.
Phú Yên: Độc
đáo nghệ thuật đàn đá thu hút khách du lịch
Hiện nay, tại
điểm du lịch Gành Đá Đĩa, Tháp Nhạn, khách du lịch không chỉ chiêm ngưỡng vẻ đẹp
thiên nhiên, công trình kiến trúc cổ mà còn được thưởng thức tiếng đàn đá du
dương ngọt ngào, khiến du khách ấn tượng thích thú. Đây là một sản phẩm du lịch
mới của tỉnh Phú Yên để thu hút khách du lịch đến với vùng đất này.
Biển
diễn nghệ thuật đàn đá gây ấn tượng đối với du khách.
Tại Di tích quốc
gia đặc biệt Gành Đá Đĩa, ngoài ấn tượng vẻ đẹp của thiên nhiên ban tặng, du
khách bất ngờ thích thú với màn trình diễn nghệ thuật đàn đá tại không gian văn
hóa Hồn Xưa của anh Nguyễn Minh Nghiệp (SN 1978), trú tại thị trấn Chí Thạnh,
huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Chia sẻ với
chúng tôi, anh Nguyễn Minh Nghiệp tâm sự: Xuất phát từ niềm đam mê với những
viên đá vô tri vô giác nhưng lại có thể tạo ra được những âm thanh ngân vang, từ
năm 2013, tôi dày công tìm kiếm, sưu tầm tại các vùng núi cao huyện Tuy An để tạo
nên các bộ đàn đá với đầy đủ các nốt nhạc. Các bộ đá tìm kiếm sau khi đem về
nhà, tôi chế tác thêm để các viên đá tạo nên những âm thanh trong trẻo nhất. Đầu
năm 2017, tôi hình thành ý tưởng đưa bộ đàn đá vào các điểm du lịch nổi tiếng của
Phú Yên để du khách trải nghiệm. Sau đó, tiếp tục đào tạo, hướng dẫn cho các bạn
trẻ có thể sử dụng thành thạo và biểu diễn đàn đá phục vụ du khách.
Những
viên đá vô tri vô giác nhưng lại tạo ra âm thanh ngân vang
Hiện nay, tại
không gian văn hóa Hồn Xưa nằm trong Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa, các
bạn trẻ không chỉ biểu diễn theo giai điệu của những bài hát “Cô gái vót
chông”, “Tiếng đàn Ta lư”, “Sông Đăkrông mùa xuân về” mà còn phối hợp với ban
nhạc hiện đại để tạo nên những bản hòa tấu hấp dẫn, ấn tượng, tạo thêm nhiều
cung bậc cảm xúc cho du khách.
Đến tham quan
Gành Đá Đĩa, chị Lê Thị Hải Yến (du khách tỉnh Bình Định) vui vẻ cho biết: Gia
đình tôi vô cùng ấn tượng với màn trình diễn đàn đá của các bạn trẻ nơi đây. Mỗi
một viên đá tại vùng đất Phú Yên có thể ngân lên những nốt nhạc trầm bổng. Theo
tôi, đàn đá cần được đưa vào biểu diễn tại các điểm di tích, du lịch nhiều hơn,
bởi sẽ làm cho du khách thêm nhiều ấn tượng và cảm xúc về bộ đàn đá độc đáo
này.
Ngoài Di tích quốc
gia đặc biệt Gành Đá Đĩa, bộ nhạc đàn đá còn được biểu diễn tại Di tích quốc
gia đặc biệt Tháp Nhạn ở thành phố Tuy Hòa. Những âm thanh trong trẻo, du dương
ngân lên trong không gian trầm mặc, cổ kính của tháp Chăm làm cho những trải
nghiệm của du khách thêm sâu lắng, mới mẻ với niềm say mê thích thú. Giai điệu
của đàn đá xoay quanh các bài hát về vùng đất Phú Yên và các bài hát trong bộ
phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” giúp du khách hiểu thêm những giá trị đặc
sắc riêng biệt của vùng đất Phú Yên.
Du
khách thích thú khi thưởng thức tiếng nhạc du dương từ bộ đàn đá Tuy An.
Nói về bộ đàn đá
đang thu hút khách du lịch, bà Nguyễn Thị Hồng Thái - Giám đốc Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Phú Yên cho biết: Khoảng năm 1990 – 1991, khi đang canh
tác, một người dân ở huyện Tuy An phát hiện bộ đàn đá cổ tại núi Một, thuộc
thôn Trung Lương, xã An Nghiệp. Đến năm 1992, người dân đã trao bộ đàn đá cổ
cho Bảo tàng tỉnh Phú Yên. Sau đó, các nhà khảo cổ học xác định, bộ đàn đá kể
trên có niên đại khoảng thế kỷ V trước công nguyên. Đồng thời, Sở chỉ đạo cho Bảo
tàng tỉnh Phú Yên lập hồ sơ trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận bộ
đàn đá cổ này là bảo vật quốc gia. Tuy nhiên, do thiếu tiêu chí về việc chứng
minh chủ thể của bộ đàn đá nên chưa được công nhận.
Bà Nguyễn Thị Hồng
Thái chia sẻ: Đàn đá Tuy An là một bộ phận quan trọng trong bộ sưu tập đàn đá của
Việt Nam. Đặc biệt, đàn đá Tuy An có tính vượt trội so với các đàn đá khác, bởi
đàn đá Tuy An còn đủ bộ nguyên vẹn và có thang âm hoàn chỉnh nhất từ khi công bố
cho đến thời điểm hiện nay.
Thực tế đã chứng
minh bộ đàn đá Tuy An có khả năng diễn tấu một số bài dân ca, dân nhạc của một
vài tộc người cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, nó còn có thể phối hợp với
các nhạc cụ khác trình diễn những ca khúc hiện đại. Hiện nay, nghệ thuật đàn đá
được đưa vào biểu diễn tại các điểm di tích, du lịch trên địa bàn tỉnh không chỉ
thu hút du khách mà còn phát huy giá trị của đàn đá Tuy An nói riêng, tỉnh Phú
Yên nói chung.
Khám phá Hội Bài Chòi Phú Yên - Trò chơi dân
gian đậm chất văn hóa Việt
Hội Bài Chòi
Phú Yên là một nét văn hóa độc đáo tại mảnh đất hoa vàng cỏ xanh. Loại hình văn
hóa nghệ thuật biểu diễn này được người dân lao động Phú Yên vô cùng yêu thích
bởi tính hài hước, vui nhộn và ý nghĩa của nó. Cùng khám phá và tìm hiểu về về
lễ hội này nhé!
Bài Chòi là
gì?
Bài Chòi là một
trò chơi dân gian lâu đời và là một sản phẩm văn hóa độc đáo của vùng đất Nam
Trung Bộ. Đây vừa là loại hình nghệ thuật diễn xướng mang tính sáng tạo ngẫu hứng
vừa là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với nhân dân lao động. Trò chơi dân
gian vui nhộn, đầy trí tuệ này được ra đời từ nhu cầu liên lạc giữa các chòi
canh trên nương rẫy, ở vùng trung du rồi lan rộng đến các vùng nông thôn và
vùng biển.
Cuối thế kỷ XVI
đầu thế kỷ XVII, để chống lại thú dữ hay phá hoại mùa màng và cuộc sống của người
dân. Người dân trong làng đã dựng những chiếc chòi rất cao ở trong rừng,
và cử trai tráng khoẻ mạnh lên canh giữ, khi thấy thú dữ tới gần thì hô
hò để đuổi chúng đi xa, khi ấy để tránh buồn chán thì các chòi lại hò ca giao
lưu với nhau, từ ấy hát Bài Chòi ra đời…
Lễ hội Bài Chòi
thường được tổ chức thường diễn ra ở sân đình làng hoặc những khoảng đất rộng
và bằng phẳng. Hình thức chơi bài không mang tính sát phạt, ăn thua như ở sòng
bài mà chỉ để giải trí và đối đáp vui xuân. Để chơi Bài Chòi người ta thường dựng
9 đến 11 chòi bằng tre, nứa, lợp tranh như những cái chòi canh rẫy, xếp theo
hình chữ U.
Hội
Bài Chòi Phú Yên luôn được tổ chức và hoạt động sôi nổi đầu mỗi năm
Lễ Hội Bài Chòi Phú Yên
Lễ Hội Bài Chòi
Phú Yên là nét văn hóa độc đáo mà cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về thì lại được diễn
ra vô cùng độc đáo. Hội bài chòi được tổ chức trong không khí vui tươi, rộn rã.
Người đánh bài chòi đầu xuân vừa để vui chơi, giải trí cùng gia đình, bạn bè vừa
để cầu may mắn, rước lộc đầu năm.
Tập tục đánh bài
chòi vào ngày Tết đã là một hoạt động văn hóa cộng đồng đầy giá trị. Thông qua
trò chơi này, bạn sẽ được lắng nghe những câu hát đầy ý nghĩa về quê hương, đất
nước. Trong cuộc chơi, mọi người đều bình đẳng như nhau, không phân biệt giàu
nghèo, trên dưới, ai ai cũng có thể tham gia.
Lời hát Bài
Chòi
Lời hát bài chòi
được lưu truyền trong dân gian từ đời này qua đời khác. Những câu hát vừa phản
ánh tư duy, thẩm mỹ bình dân của cư dân nông nghiệp Trung bộ. Người chơi bài
chòi không chỉ để giải trí mà còn để nghe lối hô hát bài chòi, đậm chất Anh Hiệu,
chị Hiệu. Nhiều du khách đến Hội Bài Chòi Phú Yên chỉ vì mê giọng hát, tài ứng
biến dí dỏm của Anh Hiệu.
Những
người biểu diễn chuyên nghiệp chỉ cần cất tiếng hát thôi là đã khiến bao trái
tim xao xuyến
Cách chơi Bài Chòi Phú Yên
Hội Bài Chòi Phú
Yên mang một nét riêng mà không phải ở hội đánh bài chòi nào cũng có bởi vì thế
mà bạn đừng bỏ lỡ lễ hội này trong hành trình khám phá Phú Yên của
mình. Những người mua thẻ và được ngồi trên các chòi, một số người khác cũng
mua thẻ nhưng họ sẽ ngồi dưới đất để tham gia đánh. Nếu bạn tham gia vào lễ hội
bài chòi ở ở làng Long Thủy, xã An Chấn, huyện Tuy An thì có thể bạn sẽ bắt gặp
cảnh Anh Hiệu và một chân bài nào đó trên chòi đối đáp với nhau. Đặc biệt hơn nữa
là việc dâng tiền thưởng, Anh Hiệu không dâng tiền một cách đơn điệu mà còn biểu
diễn một vài làn điệu cổ như hò quảng, xàng xê hay xuân nữa để gửi những lời
chúc mua may bán đắt, an khang thịnh vượng đến người trúng thưởng.
Sinh hoạt bài
chòi vốn đã trở thành một loại hình văn hóa đặc thù của người dân Phú Yên với
nhu cầu giải trí sau một năm tất bật với mùa màng. Đánh bài chòi không phải để
tính đỏ đen, hơn thua mà là vì món phần thưởng tinh thần của trò chơi này mang
lại. Đó là những tiếng cười khoái chí, thỏa thích và là cơ hội để bạn có thể thử
vận may đầu năm. Bởi vì vậy mà trong quá trình chơi thì Anh Hiệu thường hô hào,
lồng ghép những câu thai có nội dung dí dỏm, mỉa mai… Trong Hội Bài Chòi Phú
Yên, ngoài tính chất giải trí, các câu thai còn có tác dụng giáo dục con người
về đạo đức, nhân cách sống, tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu lứa đôi…
Nếu
bạn chưa biết chơi thì cứ yên tâm đến đây vì luật chơi luôn được phổ biến trước
khi bắt đầu
Lịch sử phát
triển của Hội Bài Chòi Phú Yên
Qua nghiên cứu lịch sử, bài chòi trải
qua 3 giai đoạn phát triển:
Giai đoạn 1
Bài chòi chỉ có
một người hô và người ngồi nghe. Trong suốt trò chơi chỉ có một mình Anh Hiệu vừa
làm động hát vừa hô hào để làm cho trò chơi hấp dẫn hơn. Chơi càng lâu thì những
câu hét càng dài và động tác cũng sẽ phong phú hơn. Người chơi và người xem từng
câu hát và đợi đến lúc ứng với tên con bài. Khi có tiếng mõ vang lên ở chòi nào
thì Anh Hiệu sẽ mang khay tiền đến thưởng cho người chơi ở chòi đó.
Không
chỉ nhân dân lao động mà ngay cả những bạn trẻ cũng ưa thích trò chơi này
Giai đoạn 2
Nếu như trước
kia, trong một câu thai chỉ cần một người đối thoại, chỉ cần một người hô hoặc
một người có thể đóng từ 2 - 3 vai thì nay cần hai, ba người cùng diễn và hô
theo. Nhờ đó mà dáng dấp ca kịch bài chòi đã xuất hiện, tuy nhiên hình thức này
khiến cho tính mâu thuẫn trong mỗi câu ca dao chưa cao, chưa rõ nét.
Dù
gì hay trẻ vẫn được tham gia vào Hội Bài Chòi Phú Yên
Giai đoạn 3
Sân khấu ca kịch
bài chòi hiện đại. Bài chòi lúc này không còn là bài chòi ở sân đình, làng, chợ
mà nó đã phát triển lên sân khấu với ánh đèn, nhiều đào, kép sặc sỡ xiêm y với
những điệu hát khách, hát nam gần như hát Bội. Nhìn chung tiến triển của Hội
Bài Chòi Phú Yên vẫn tuân theo lộ trình phát triển bài chòi Nam Trung Bộ. Tuy
nhiên sự pha tạp này đôi khi đã đánh mất phần nào bản sắc của văn hóa bài chòi
nhưng theo một số nhà nghiên cứu thì đây lại là sự dung nạp tự nhiên trong quá
trình hội nhập và phát triển.
Ngày nay,
Anh Hiệu có vai trò rất quan trọng trong cuộc chơi, thường là người có tài ứng
đối “xuất khẩu thành thơ”, chất giọng khỏe, có tài diễn xuất, biết đặt câu thai
sao cho phù hợp với lá bài một cách thật nhanh, mang ý nghĩa ẩn dụ kín đáo, dí
dỏm. Có thể nói, Anh Hiệu cùng lúc làm ba công việc: biên soạn, đạo diễn và diễn
viên. Và, không phải bất cứ ai cũng có thể đóng vai Anh Hiệu để được khán giả
chấp nhận trong hội đánh Bài Chòi. Ngoài ra, bộ bài hiện đại gồm 27 hoặc 33 thẻ
bài tỳ và 9 đến 11 thẻ bài con đều được làm bằng tre, có vẽ hoặc dán hình mang
ý nghĩa tượng trưng với mỗi câu thai và có tên gọi nôm na là: Nhứt Nọc, Nhì
Nghèo… Bộ bài được chia làm 3 pho: pho văn, pho vạn và pho sách.
Mỗi con bài có một
tên, trừ một số ít tên nôm na, dễ hiểu như Học trò, Dái voi, Bạch huê, Thái tử...
còn phần lớn nghe rất lạ tai như Ba gà, Bát bồng, Ngũ trưa, Nọc thược, Tứ cẳng,
Tam quăng... Tên mỗi con bài đều có hai từ, phần lớn các từ đầu là từ chỉ số đếm,
có khi là thuần Việt như Ba (gà), Bảy (liễu), Chín (gối), có khi là từ Hán Việt
như Tam (quăng), Tứ (cẳng), Lục (chạng)...
Với những giá trị
văn hóa tiêu biểu Hội Bài Chòi Phú Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch đưa quyết định đưa vào làm Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia vào năm 2014.
Hội Bài Chòi Phú
Yên ngày nay còn lưu lại rất nhiều câu ca dao và đóng góp không nhỏ trong kho
tàng văn chương trình dân của nước ta. Chỉ tiếc rằng lễ hội này đang ngày một
mai một dần.
Lễ hội đua ngựa Gò
Thì Thùng - Nét văn hóa đặc sắc của Phú Yên
Nếu bạn yêu
thích văn hóa Việt thì hội đua ngựa Gò Thì Thùng là một lễ hội mà bạn không thể
bỏ qua. Đây là nét văn hóa đặc trưng đậm chất vùng miền, thu hút đông đảo du
khách từ mọi miền tổ quốc đổ về Phú Yên.
Gò Thì Thùng nằm ở đâu?
Gò Thị Thùng là
vừa là điểm tham quan Phú Yên vừa là một di tích lịch sử cấp Quốc gia
nằm cách trung tâm thành phố Tuy Hòa về phía Tây Bắc khoảng 40km.Nơi đây nổi tiếng
với địa hình bằng phẳng và thường xuyên tổ chức các cuộc đua ngựa. Mặc dù là địa
điểm đua ngựa nhưng thực chất Gò Thị Thùng chỉ là một sân vận động với độ cao
400m so với mặt nước biển.
Hội
đua ngựa Gò Thì Thùng luôn thu hút đông đảo du khách đến xem và chiêm ngưỡng
Đôi nét về hội đua ngựa Gò Thì
Thùng
Không biết lễ hội
đua ngựa được bắt đầu từ bao lâu nhưng hằng năm cứ thành thông lệ, người dân và
du khách các nơi lại kéo về nơi đây. Để xem lễ hội đua ngựa được tranh tài tại
đây. Tạo nên ngày lễ hội vô cùng sôi động và náo nhiệt.
Cứ vào mùng 9
tháng Giêng hằng năm thì người dân lại đổ về di tích lịch sử Gò Thì Thùng để
xem đua ngựa truyền thống. Hội đua ngựa Gò Thì Thùng là hoạt động văn hóa đặc sắc
của tỉnh Phú Yên, trên thực tế thì lễ hội này đã trở thành một điểm hẹn văn hóa
bởi nét chân chất, mộc mạc nhưng không kém phần duyên dáng. Nét duyên dáng của
hội đua ngựa Gò Thì Thùng nằm ở tính thiếu chuyên nghiệp cùng những màn đua khó
đỡ khi ngựa một nơi, người một nơi và nhiều tình huống bất ngờ khác trên đường
đua.
Với người dân
Phú Yên, ngày hội đua ngựa truyền thống huyện Tuy An tại Gò Thì Thùng không chỉ
mang ý nghĩa nêu cao tinh thần thượng võ mà còn là một nét văn hóa độc đáo và đặc
sắc của vùng đất Phú Yên.
Tuy
là hội nhỏ nhưng Hội đua ngựa Gò Thì Thùng thực sự có đầu tư về trang phục
cũng như thiết bị bảo hộ cho người chơi
Sức hút của hội
đua ngựa Gò Thì Thùng
Từ một hội đua
nhỏ với phần thắng chỉ là vài xị rượu đế vui vẻ trong ngày tết thì giờ đây hội
đua ngựa đã được nâng cấp lên thành lễ hội truyền thống cấp huyện và thu hút
đông đảo du khách ghé về Phú Yên để xem hội.
Trước khi hội
đua ngựa Gò Thì Thùng bắt đầu thì đã có khoảng hơn 10.000 người từ các nơi khác
cũng như người dân địa phương đổ về di tích này để hòa mình vào không khí vui
tươi của lễ hội. Hàng nghìn khán giả chen chân nhau lắp kín trường đua ngựa. Những
cây gỗ to cao cũng trở thành nơi mà nhiều người đeo đám chen chút để có thể xem
được cuộc đua ngựa. Dù không chuyên nghiệp nhưng lễ hội đua ngựa Gò Thì Thùng
thực sự đã trở thành lễ hội thu hút du khách.
Các
đội thi sẽ mặc màu áo khác nhau qua các vòng thi khác nhau
Hội đua ngựa
Gò Thì Thùng được tổ chức như thế nào?
Để bắt đầu buổi
lễ thú vị này thì 32 chú ngựa đua từ các huyện trong tỉnh Phú Yên phải được
chia làm 8 bảng và đường đua với những màng phi nước đại. Hơn tám giờ sáng thì
Chủ tịch UBND huyện Tuy An sẽ tiến hành khai trống thông báo bắt đầu lễ hội,
đoàn ngựa diễu hành đi quanh sân để chào những khán giả với số lượng lên đến
hàng ngàn người. Các kị sĩ chuẩn bị cho cuộc đua, từ những thanh niên, thiếu
niên 14 tuổi đến những bậc lão thành 60 tuổi đều góp mặt.
Thêm một điều
thú vị nữa là những chú ngựa tham gia đua chủ yếu là ngựa cái… Ngày ngày nhọc
nhằn kéo xe, kéo hàng đã có một ngày trở thành tuấn mã trong mắt khán giả xem hội.
Những người nông dân ngồi trên lưng ngựa bỗng trở thành kỵ sĩ trong tiếng reo
ca của người xem. Nhiều du khách không khỏi bày tỏ sự hào hứng, vui tươi khi
hòa mình vào lễ hội với những tiếng reo ca vui nhộn. Đó không chỉ niềm tự hào của
người dân An Xuân mà còn của tỉnh bởi ngày hội đang ngày càng lớn và trở thành
một sản phẩm văn hoá, du lịch của địa phương.
Có
lúc người cưỡi phải bám theo ngực vì chúng chạy liên tục không chịu dừng
Người
đạt giải nhất sẽ được mọi người tung hô và reo tên
Lễ hội đua ngựa
Gò Thì Thùng là hoạt động văn hóa đặc sắc của tỉnh Phú Yên. Lễ hội này đã trở
thành truyền thống vào mỗi dịp xuân về và Phú Yên cũng là địa phương duy nhất
còn tổ chức hội đua này.
NHÂN VẬT ĐƯỢC PHONG THẦN QUA DI SẢN HÁN NÔM Ở
PHÚ YÊN
Tóm
tắt: Phú Yên hiện có 16 sắc phong thần cho năm nhân vật lịch sử, gồm Lương Văn
Chánh, Chu Văn Tiếp, Mạnh Tuyển, Lê Trung Lập, Lê Văn Hiến. Việc sưu tầm, phiên
dịch và giới thiệu các đạo sắc phong nhân thần này đã góp phần truyền tải đến hậu
thế những thông tin xác thực. Góp phần tìm hiểu về tên tuổi, công lao đóng góp
của các nhân vật lịch sử đối với quê hương đất nước. Đây thực sự là nguồn tư liệu
quý hiểm để bổ sung, hiệu chỉnh thông tin lịch sử và cũng là nguồn tư liệu để
nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân gian của nước ta. Từ khóa: sắc phong, nhân thần,
Phú Yên, di sản Hán Nôm, thần hoàng 1. Các nhân vật lịch sử được triều Nguyễn
ban sắc phong phúc thần là những người có công trạng to lớn đối với đất nước,
làng xã (bổn thổ Thành hoàng, bổn xứ Thành hoàng, Đông Chinh Thành hoàng, Tiền
hiền, Khai canh, Khai khẩn...), đã linh ứng rõ rệt từ lâu, được dân làng sùng
tín phụng thờ. Nhiều trường hợp đã được đưa vào tự điển (điển chế thờ tự của quốc
gia). Phú Yên là một tỉnh nằm vùng duyên hải Nam Trung bộ. Trong lịch sử hình
thành và phát triển từ năm 1611 đến nay, các tầng lớp nhân dân Phú Yên đã có những
đóng góp quan trọng vào tiến trình của lịch sử dân tộc. Nhiều nhân vật ở Phú
Yên đã có những cống hiến nhất định trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội - chính
trị cho Phú Yên và cho các vùng miền khác của đất nước. Công trạng của họ đã được
các triều đại phong kiến ghi nhận trong sử sách, trong các bản sắc phong. Vì vậy,
việc sưu tầm, phiên dịch và giới thiệu các sắc phong nhân thần Phú Yên không chỉ
giúp nắm được những thông tin xác thực về quê quán, sự nghiệp của họ mà còn là
nguồn tư liệu quý hiếm để bổ sung, hiệu chỉnh thông tin lịch sử. Ngoài ra, đây
còn là nguồn tư liệu để nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân gian ở nước ta. 2.
Phú Yên có số lượng các nhân vật được ban sắc phong thần không nhiều, tập trung
vào các đối tượng là những người có công mở mang vùng đất, có công lao lớn đối
với đất nước, hoặc trong công cuộc khai canh, khai cơ ngay tại chính quê hương.
Hiện chúng tôi sưu tầm được 16 sắc phong phúc thần cho năm nhân vật lịch sử được
phong nhân thần ở Phú Yên, cụ thể: Lương Văn Chánh (12 sắc), Chu Văn Tiếp (1 sắc),
Mạnh Tuyển (1 sắc), Lê Trung Lập (1 sắc), Lê Văn Hiến (1 sắc). Nội dung cơ bản
của các đạo sắc là phong tặng các thần hiệu, mỹ tự và cấp bậc xếp hạng phù hợp
(thượng đẳng thần, hạ đẳng thần) tùy theo vị thế và công trạng của thần đối với
làng xã. 2.1.Lương Văn Chánh, một võ quan của chúa Nguyễn thời Lê Trung Hưng,
là người có công với sự nghiệp chiêu tập lưu dân khai khẩn, mở mang và phát triển
vùng đất Phú Yên. Ông sinh khoảng thập niên 40 của thế kỉ thứ XVI. Theo sử liệu
triều Nguyễn, ông là người huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, nguyên quán xã Phụng
(/Phượng) Lịch, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Lúc trước, Lương Văn Chánh làm
quan nhà Hậu Lê, trải đến chức Thiên Võ vệ đô chỉ huy sứ. Đầu năm Mậu Ngọ
(1558), ông theo tướng Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa
Đến
năm Mậu Dần (1578), quân Chiêm Thành kéo đến đánh phá, ông đem quân tiến đến
sông Đà Diễn (tức sông Đà Rằng) đánh chiếm thành Hồ của họ. Nhờ chiến công đó,
ông được thăng Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân. Sau đó ông được giao trông
coi huyện Tuy Viễn, trấn An Biên (nay thuộc tỉnh Bình Định). Năm 1593, Lương
Văn Chánh 2 theo Nguyễn Hoàng ra Bắc và cùng lập được nhiều chiến công ở Sơn
Nam và Hải Dương trong hai năm 1593 và 1594 và được vua Lê Thế Tông niên hiệu
Quang Hưng năm thứ nhất (1578) tấn phong làm Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng
quân cai quản 4 vệ Thần Vũ, tước Phù Nghĩa hầu. Đến năm 1597, Lương Văn Chánh
đang là Tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên, nhận sắc lệnh của chúa Nguyễn Hoàng
đưa chừng 4.000 lưu dân vào khai khẩn vùng đất phía Nam của Đại Việt từ đèo Cù
Mông đến đèo Cả (địa bàn tỉnh Phú Yên ngày nay). Ông cùng lưu dân từng bước khẩn
hoang, lập ấp; từng bước tạo nên những Trị. Nội dung của đạo sắc phong thần
(năm 1886) cho Lương Văn Chánh như sau: Phiên âm: Sắc Tráng du Cộng võ Linh ứng
Hiển hựu Chiêu uy Trác vĩ Trấn Biên Dinh Tham Tướng Lương Phủ Quân Thượng đẳng
thần, hướng lai hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp tặng sắc
lưu tự. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng Dực bảo
Trung hưng Thượng đẳng thần. Nhưng chuẩn hứa Phú Yên tỉnh, Tuy Hòa huyện, Phụng
Tường xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai! Đồng Khánh
nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho Tráng du Cộng võ Linh ứng
Hiển hựu Chiêu uy Trác vĩ Trấn Biên Dinh Tham Tướng Lương Phủ Quân Thượng đẳng
thần, từ trước đến nay bảo vệ cho nước che chở cho dân, linh ứng lâu năm, đã được
ban cấp tặng sắc để thờ. Nay Trẫm cả vâng mệnh lớn, nghĩ đến ơn đức của thần, tặng
thêm mỹ tự là Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần. Vẫn chuẩn cho xã Phụng Tường,
huyện Tuy Hòa phụng thờ. Thần hãy che chở trợ giúp dân ta. 3 Kính thay! Ngày 1
tháng 7 năm Đồng Khánh thứ 3(1886) 2.2. Chu Văn Tiếp, nguyên quán huyện Phù Ly,
Phủ Hoài Nhơn (nay là Phù Mỹ, tỉnh Bình Định), cư ngụ ở Vân Hòa, huyện Đồng
Xuân, tỉnh Phú Yên. Gia đình ông chuyên nghề buôn bán (chủ yếu là buôn ngựa),
nên ông đi nhiều nơi. Nhờ vậy, ông quen biết khá nhiều người mà sau này đều trở
thành vương tướng của nhà Tây Sơn như Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, Võ
Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Võ Đình Tú… Lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền
thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc cùng hai
em là Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cất binh khởi nghĩa. Biết tài Châu Văn Tiếp, Nguyễn
Nhạc có cho người đến mời tham gia, nhưng ông khéo từ chối. Để tạo cho mình một
thế đứng trong việc mưu nghiệp lớn, bốn anh em Châu Văn Tiếp chiêu tập dân quân
đến chiếm giữ núi Trà Lang (Chà Rang) ở Phú Yên. Một lần nữa, Nguyễn Nhạc cử
người đến mời. Châu Văn Tiếp bày tỏ chính kiến của mình. Đó là không muốn thay
ngôi chúa Nguyễn, chỉ muốn tôn phù hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, muốn diệt trừ
những tham quan, những quyền thần. Ý kiến của ông đã được Nguyễn Nhạc đồng ý. Hứa
hẹn vậy, nhưng khi kéo binh đến Quy Nhơn, Châu Văn Tiếp mới hay Nguyễn Nhạc
không theo lời ước. Ông liền rút quân về núi cũ, dựng cờ khởi nghĩa ghi bốn chữ
Lương Sơn Tá Quốc (Quân giỏi ở núi rừng lo giúp nước), để đối đầu với quân Tây
Sơn. Khi ấy, lưu thủ dinh Long Hồ là Tống Phúc Hiệp đang đóng quân ở Vân Phong
(nay là Khánh Hòa), khuyên ông nên qui thuận chúa Nguyễn và ông đã nghe theo.
Liên tục từ năm 1780 cho đến khi bị tử trận ngày 19 tháng 10 năm 1784 trên sông
Mang Thít (thuộc Vĩnh Long), Châu Văn Tiếp luôn là một trong những viên tướng
ưu tú nhất của Nguyễn Ánh trong sứ mạng bình định của nhà Nguyễn. Nhận được tin
ông mất, Nguyễn Phúc Ánh sai lấy ván thuyền ghép thành hòm, dùng nhung phục khấn
liệm, rồi cho chôn tạm Châu Văn Tiếp tại làng An Hội, Cồn Cái Nhum (Tam Bình,
Vĩnh Long). Sau khi thu phục được Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh cho cải táng tại xã
Hắc Lăng, huyện Phước An, thuộc dinh Trấn Biên (nay là xã Tam Phước, huyện Long
Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), là qu Phiên âm: Sắc Vĩnh Long tỉnh Tam Bình quận
Bình Chánh tổng Tân Long hội. Phụng sự khâm sai ngoại tả chưởng doanh Đại đô đốc,
tặng tả vận công thần, đặc tiến tráng vũ tướng quan tả quân đô thống phủ chưởng
phủ sự thái bảo, thụy tráng liệt, phong Lâm Thao Quận công Châu Văn Tiếp tôn thần,
hộ quốc tý dân, nẫm trứ linh ứng. Tứ kim phi thừa cảnh mệnh, miễn niệm thần phủ,
trước phong vi Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng tôn thần. Chuẩn kì phụng sự độ kỉ.
Thần kì tương hữu bảo ngã lê dân. Khâm tai. Bảo Đại thập niên thập nhị nguyện
sơ bát nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho Tôn thần Châu Văn Tiếp, Khâm sai Ngoại tả chưởng
doanh Đại Đô đốc, tặng Tá Vận công thần, đặc tiến Tráng Vũ tướng quân Tả quân
Đô thống phủ Chưởng phủ sự Thái Bảo, thụy Tráng Liệt, phong Lâm Thao Quận công,
được thôn Tân Long Hội, tổng Bình Chánh, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long thờ phụng,
có công giữ nước giúp dân, từ lâu linh ứng rõ rệt. Nên nay vâng theo mệnh lớn,
mãi nhớ ơn Thần, phong làm Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng tôn thần, chuẩn cho thờ
phụng vị thần tài năng và đức độ. Thần hãy che chở dân ta. Hãy kính vâng theo!
Ngày mồng 8 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 10 (1935). Qua nghiên cứu tư liệu Hán Nôm
có đề cập đến nhân vật Châu Văn Tiếp tại tỉnh Vĩnh Long, chúng ta thấy: các vua
triều Nguyễn đánh giá cao công lao của ông đối với công cuộc trung hưng của nhà
Nguyễn. Châu Văn Tiếp là vị tướng tài năng, từng phò tá vua Gia Long qua Vọng
Các (Thái Lan), vào sinh ra tử, lập nhiều chiến công đối với triều Nguyễn nửa
cuối thế kỷ XVIII. Bằng tài năng, đức độ của mình, Châu Văn Tiếp được mọi người
từ vua đến dân đều nhắc nhở, tôn thờ và trọng vọng. Ông là nhân vật lịch sử chiếm
vị trí tuyệt đỉnh trong hàng công thần của triều Nguyễn vào thời trung hưng.
Châu Văn Tiếp không chỉ được các vua triều Nguyễn ca ngợi, tán dương, phong cho
tước hàm cao quý, ông còn được nhân dân các tỉnh Nam bộ tôn thờ, ghi nhớ như một
vị phúc thần. Dù trải qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử, cho đến nay, tại
nơi ông mất và nơi ông được cải táng, nhân dân đã lập đền thờ tôn kính ông như
các vị thần của địa phương. Tại một số tỉnh Nam bộ tên của Châu Văn Tiếp còn được
đặt tên đường phố (thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Di tích đền thờ và mộ
Châu Văn Tiếp tại Hắc Lăng, xã Tam Phước, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
được Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu công nhận là di tích cấp tỉnh.
2.3.Lê Trung Lập sinh năm Giáp Thìn 1844, tại thôn Hội Cư, tổng Hòa Lạc, huyện
Tuy Hòa (nay là thôn Hội Cư, xã Hòa Tân Tây, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên). Lê
Trung Lập xuất thân trong một gia tộc đã qua nhiều đời định cư tại địa phương.
Thời trẻ, ông được học chữ Nho nhưng ông không theo con đường khoa cử, mà lấy
việc khai khẩn mở 5 mang đất đai, phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho những
người nghèo khổ ổn định cuộc sống làm con đường tạo lập cơ nghiệp. Từ khi khởi
nghiệp, Lê Trung Lập phụ giúp Trần Lãng mộ dân khẩn hoang nhiều vùng (thuộc các
tổng Hòa Mỹ và Sơn Lạc). Đến năm Tự Đức thứ 36 (1883), Lê Trung Lập được quan Bố
chính tỉnh Phú Yên cấp bằng Quản mộ. Ông tự xuất tiền nhà, chiêu mộ và tổ chức
dân chúng, tiến hành khai khẩn những vùng đất dọc chân núi phía nam của phủ Tuy
Hòa (nay gọi là dãy đèo Cả). Nhờ uy tín và khả năng quy tụ nhân dân, biện pháp
tổ chức khẩn hoang có hiệu quả của Lê Trung Lập, cùng với chính sách khuyến
khích của nhà nước đương thời, nên việc khẩn hoang được xúc tiến mạnh mẽ. Những
vùng đất hoang vu rừng rậm dần trở thành những khu vực sản xuất hoa màu, những
đồng ruộng trù phú. Về sau, ông được triều Nguyễn cho giữ chức Chánh tổng Hòa Lộc.
Trong thời gian giữ chức vụ Chánh tổng Hòa Lộc, ông đã có những đóng góp vào việc
ổn định đời sống nhân dân, phát triển sản xuất, xây dựng đình miếu và các thiết
chế cộng đồng địa phương đi vào nề nếp. Năm Khải Định thứ 4 (1919), triều đình
phong hàm Chánh bát phẩm văn giai cho Lê Trung Lập. Cùng năm ấy, ngày 14 tháng
7 Kỷ Mão ông qua đời thọ 76 tuổi. Năm Khải Định thứ 9 (1924), ông được triều
đình ban sắc phong là Đại lang chi thần, trật Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng tôn
thần, giao cho thôn Hội Khánh phụng sự. Tại nhà thờ Lê Trung Lập ở thôn Phú
Khánh, xã Hòa Tân Tây hiện đang thờ phụng sắc phong thần cho ông. Nội dung sắc
phong như sau: Phiên âm: Sắc Phú Yên tỉnh, Tuy Hòa phủ, Hội Khánh thôn phụng sự
Khai canh Lê Trung lập đại lang chi thần, hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng. Tứ
kim chính trị, Trẫm tứ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân lễ, long
đăng trật trứ phong vi Đoan túc Dực bảo Trung hưng tôn thần. Chuẩn kỳ phụng sự.
Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai! Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị
thập ngũ nhật. Dịch nghĩa: Sắc ban cho thôn Hội Khánh, phủ Tuy Hòa, tỉnh Phú
Yên phụng sự Khai canh Lê Trung Lập Đại lang chi thần, bảo vệ cho nước che chở
cho dân, linh ứng lâu năm. Nay nhân dịp tứ tuần đại khánh (40 tuổi) của Trẫm,
đã ban bảo chiếu ra ân rộng rãi, lễ lớn nên gia tăng cấp bậc, tặng thêm mỹ tự
là Đoan túc Dực bảo Trung hưng tôn thần. Chuẩn cho phụng thờ, thần hãy che chở
trợ giúp dân ta. Kính thay. Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924). 2.4.Lê
Văn Hiến. Theo gia phả họ Lê làng Tân Mỹ, xã Hòa Phú, huyện Tây Hòa: ông có
công khai phá lập làng Tân Mỹ. Lê Văn Hiến đã cùng với nhân dân nơi đây (chủ yếu
là lực lượng thanh niên) chặt bỏ cây cối, san lấp ao đìa. Ở những nơi nước đọng
lâu ngày, ông cho đào rãnh khơi thông dòng chảy rửa phèn cho đất, san lấp những
vùng 6 trũng. Ở những khu vực cỏ lác mọc dày, ông huy động nhiều người cắt bỏ,
phơi khô đốt, sau đó dùng trâu bò cày đất, san bằng. Ở khu đất dọc sông Ba, ông
cho trồng tre, cỏ lác để chống xói lở. Bằng phương thức khai hoang như vậy,
không bao lâu cả vùng đất dọc sông Ba từ thôn Thạch Bàn đến Mỹ Thạnh được khai
phá, nhân dân các nơi tụ họp về sinh sống định hình xóm ấp và làng Tân Mỹ ra đời.
Sau khi khai hoang lập làng, Lê Văn Hiến còn cho tiến hành xây dựng đình làng,
miếu làng làm nơi thờ tự và duy trì các thiết chế văn hóa tinh thần cho cộng đồng,
đời sống cư dân bước đầu đi vào quy củ. Với những đóng góp lớn lao trong việc
khai khẩn lập làng, Lê Văn Hiến được dân làng bầu làm lý trưởng. Nhưng ông từ
chối, chỉ nhận mình là người góp sức cùng với nhân dân khai phá, định hình làng
xóm. Khi ông mất, nhân dân trong làng tôn là tiền hiền, đưa bài vị vào đình
làng thờ tự. Đến đời vua Bảo Đại thứ 20 (1945), thuận theo sự thỉnh cầu của
nhân dân và chính quyền tỉnh Phú Yên, Lê Văn Hiến được triều đình ban sắc phong
thần, cho phép nhân dân và kỳ hào trong làng thờ cúng với danh vị Dực Bảo Trung
Hưng Linh Phù tôn thần. Đây là đạo sắc phong của vị vua cuối cùng của triều
Nguyễn tìm thấy ở Phú Yên. Lê Văn Hiến là một trong số rất ít vị tiền được
phong vào hàng ngũ nhân thần ở Phú Yên. Ngày nay, sắc thần được cẩn thờ tại
ngôi nhà từ đường của họ Lê tại thôn Tân Mỹ (do cháu đời thứ 9 là Lê Phát Lợi
hương khói). Hình ảnh và nội dung sắc thần như sau: Sắc triều Nguyễn phong Lê
Văn Hiến Là Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù tôn thần Phiên âm: Sắc Phú Yên tỉnh,
Tuy Hòa phủ, Hòa Lạc tổng, Tân Mỹ thôn phụng sự tiền hiền khai khẩn Lê Văn Hiến
chi thần, nẫm trứ linh ứng, hướng lai vị hữu dự phong. Tứ kim phi thừa cảnh mệnh,
miến niệm thần hưu khả gia, trứ phong vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù tôn thần,
chuẩn y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai! Bảo Đại nhị
thập niên ngũ nguyệt thập ngũ nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho thôn Tân Mỹ, tổng Hòa Lạc,
phủ Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên thờ phụng tiền hiền khai khẩn Lê Văn Hiến chi thần,
linh ứng lâu năm, từ trước đến nay chưa được ban tặng sắc phong. Nay Trẫm cả
vâng mệnh lớn, nghĩ đến ơn đức của thần nên phong tặng là Dực Bảo Trung Hưng
Linh Phù tôn thần, vẫn chuẩn cho phụng thờ như cũ. Thần hãy bảo vệ trợ giúp dân
ta. Kính thay! Ngày 15 tháng 5 năm Bảo Đại thứ 20 (1945). 2.5.Mạnh Tuyển thuộc
dòng dõi họ Mạnh từ tỉnh Bình Định di cư vào Phú Yên sinh sống những năm đầu thập
niên 70 thế kỷ XVIII (phong trào Tây Sơn bùng nổ). Cha ông là Mạnh Thế Tài,
tham gia nghĩa quân Tây Sơn lập nhiều công lớn và về sau là trọng 7 thần của
triều đại này. Năm 1802, khi Gia Long lên ngôi, cũng là lúc nh à Tây Sơn suy
vong, sụp đổ, Mạnh Thế Tài lui về sống ẩn dật bằng nghề nông nhằm che giấu thân
phận để tránh họa truy sát của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Đặc biệt, Mạnh Thế Tài
là người thức thời trong việc nhìn nhận vai trò của nhà Tây Sơn đối với lịch sử
dân tộc cũng như nguyên nhân khiến cho triều đại này suy vong. Theo ông, việc
quan trọng của người quân tử là không phải sống với quá khứ vàng son của triều
đại đã qua mà phải vận dụng sở học của mình vào cuộc sống hiện tại để giúp dân,
giúp nước. Tháng 7 năm 1850 (Tự Đức thứ 3), Mạnh Tuyển tham gia ứng thí tại
khoa thi Canh Tuất tổ chức tại trường thi Thừa Thiên. Kỳ thi này, Mạnh Tuyển đậu
tứ trường với học vị cử nhân (khóa thi này, trường thi Thừa Thiên lấy đỗ 48 người).
Năm đó Mạnh Tuyển 30 tuổi, đã lập gia đình. Sau khi đỗ đạt, Mạnh Tuyển được triều
đình Huế bổ nhiệm làm quan ở Bình Định, Bình Thuận. Năm 1870, ông được giao nhiệm
vụ là Phó Quản đạo đạo Quảng Trị. Nhờ tinh thần làm việc mẫn cán và thực hiện tốt
thượng dụ của nhà vua về việc “tiết kiệm, không lạm dụng công khố, cấm bóc lột
dân chúng” nên ông đã duy trì sự ổn định ở Quảng Trị và được triều đình đánh
giá cao. Do vậy, đầu năm 1871, Mạnh Tuyển được thăng chức Quản đạo đạo Hà Tĩnh.
Tại đây, ông tiếp tục phát huy năng lực trong việc thay mặt triều đình chăm lo
dân chúng yên tâm sản xuất, tích trữ binh lương, chuẩn bị đối phó với âm mưu của
thực dân Pháp (đang do thám các tỉnh Bắc kỳ và bắc Trung kỳ), ráo riết thực hiện
mưu đồ mở rộng xâm chiếm cả nước. Tháng 10-1873, nhân việc tên lái buôn J.
Duypuy gây rối ở Bắc kỳ, thực dân Pháp cử Gác-ni-ê đưa quân ra đánh chiếm thành
Hà Nội, sau đó mở rộng chiếm các tỉnh thành Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình. Trước
tình hình đó, vua Tự Đức ra mật dụ: truyền cho quan chức các tỉnh từ Bình Định
đến Thanh Hóa tập hợp binh sỹ luyện tập, tăng cường việc canh phòng ở các nơi
hiểm yếu, sẵn sàng lực lượng chiến đấu (1). Hưởng ứng chỉ dụ của triều đình, Mạnh
Tuyển đã đốc thúc quan lại dưới quyền trong địa bàn Hà Tĩnh củng cố thành trì,
bổ sung quân lính, sẵn sàng đối phó với âm mưu của thực dân Pháp. Đặc biệt, Mạnh
Tuyển là một trong số ít quan lại thực hiện chính sách cầu hiền của triều đình,
dâng tấu tiến cử những người hiền tài có đủ năng lực để giúp vua trị nước. Những
việc này được sử sách triều Nguyễn ghi nhận: “gần đây có một tập xét cử của
quan đạo Hà Tĩnh là Mạnh Tuyển kính đáp thịnh ý cầu tài” (2). Những việc làm
trên đã cho thấy: Mạnh Tuyển là một vị quan luôn quan tâm đến sự an nguy của đất
nước, lấy việc chăm lo cuộc sống của nhân dân làm nhiệm vụ hàng đầu của người
được xem là “phụ mẫu chi dân”. Tháng 2 năm 1874, triều đình Huế ký hiệp ước
Giáp Tuất nhân nhượng cho thực dân Pháp một số quyền lợi về kinh tế, chính trị ở
Bắc kỳ. Phản đối hiệp ước, tú tài Trần Tấn và Đặng Như Mai đã phát động cuộc nổi
dậy ở Nghệ An và Hà Tĩnh “quyết đánh cả triều lẫn Tây”. Ngày 31/5/1874, tỉnh
thành Hà Tĩnh bị lực lượng nổi dậy của Trần Quang Cán, Nguyễn Vĩnh Khang, Nguyễn
Huy Điển đánh chiếm. Quản đạo Mạnh Tuyển, lãnh binh quan Lê Văn Thất bị giết.
Sau đó không lâu, triều đình Huế cử Khâm sai Nguyễn Văn Tường, Tổng thống quân
vụ Lê Bá Thận đem quân dập tắt cuộc nổi dậy. (1) Châu bản triều Tự Đức
1848-1883, Nxb văn học, 2003, tr.172. (2) Đại Nam thực lục chính biên, Tập 32,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, tr. 34. 8 Cái chết của quản đạo Mạnh Tuyển
gây sự tiếc thương trong hàng ngũ quan lại của triều đình Huế lúc bấy giờ. Vua
Tự Đức truyền dụ đưa linh cữu của ông về quê chôn cất và sai cấp tiền tuất, đồng
thời lệnh cho địa phương xây dựng mộ và đền thờ tại làng Thạnh Đức, tổng Xuân
Phong, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Ghi nhận công lao của Mạnh Tuyển đối với
đất nước, tháng 2 năm 1880, vua Tự Đức chuẩn đưa bài vị Mạnh Tuyển vào thờ ở
dãy đông, án thờ thứ nhất của đền Trung Nghĩa tại kinh thành Huế. Đến vua Khải
Định năm thứ 2 (1917), triều Nguyễn ban sắc phong thần cho ông là Dực bảo Trung
hưng Linh phù Tôn thần và lệnh cho thôn Thạnh Đức phải thờ phụng hàng năm. Nội
dung sắc phong ghi rõ: Phiên âm: Sắc Phú Yên tỉnh, Đồng Xuân huyện, Thạnh Đức
thôn phụng sự Mạnh Hầu Tuyển linh ứng chi thần, nẫm trứ linh ứng. Tứ kim phi
ưng, cảnh mệnh miễn niệm thần hưu trứ phong vi Dực Bảo Trung Hưng Linh phù tôn
thần. Chuẩn hứa phụng sự thứ cơ, thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai! Khải
Định nhị niên tam nguyệt thập bát nhật. Dịch nghĩa: Sắc ban cho thôn Thạnh Đức,
huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên được thờ vị thần Mạnh hầu Tuyển linh ứng, thật sự
hiển linh. Nay ta vâng mệnh sáng nghĩ đến công lao của thần nên phong cho ngài
là Dực bảo Trung hưng Linh phù Tôn thần. Chuẩn cho xã ấy được phụng thờ, ngõ hầu
ngài sẽ phù giúp bảo vệ cho dân ta. Kính thay. Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ
2 (1917). 3. Nội dung các sắc phong thần cho các nhân vật ở Phú cho thấy các
nhân thần này là những người đã từng có nhiều công lao to lớn đối với vùng đất
Phú Yên nói riêng và các vùng miền khác trong nước nói chung. Họ là những công
thần có công khai phá, mở mang vùng đất trên phạm vi một tỉnh hoặc một tổng, một
làng hoặc có công đánh giặc. Công lao của họ cũng đã được ghi chép trong các bộ
chính sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện hoặc chỉ
lưu truyền trong dân gian. Sau khi mất, họ được các nhà nước phong kiến ban tặng
phẩm trật, mỹ hiệu, lệnh cho làng xã thờ phụng. Đây là một ứng xử theo đạo lý
“uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, thừa nhận công lao to lớn của tiền nhân
trong việc mở mang bờ cõi, tạo dựng làng xã. Bên cạnh giá trị to lớn về khía cạnh
giáo dục đạo đức, các sắc phong nhân thần ở Phú Yên còn phản ảnh rõ đời sống
tinh thần, tín ngưỡng của người dân vùng này. Nó bổ sung những giá trị sử liệu
về những nhân vật có những cống hiến to lớn đối với vùng đất Phú Yên khi mà
chính sử chưa ghi chép đầy đủ.
Nguồn: ThS. Võ
Thị Ngọc Hoa Trường Đại học Phú Yên, 18. Trần Phú, phường 9, TP. Tuy Hòa
NÚI CHÓP CHÀI PHÚ YÊN:
Nằm ở phía tây Quốc lộ 1A, cách trung tâm thị xã
Tuy Hoà 4 km về phía Bắc (thuộc xã Bình Kiến), Chóp Chài còn có tên là Nựu Sơn.
Chóp Chài cao 391 m, nhưng trông thật đường bệ. Người Tuy Hoà xem núi Chóp Chài
cùng với núi Đá Bia là một cặp đài khí tượng báo hiệu nắng mưa:
“Chóp Chài đội mũ
Mây phủ đá Bia
Ếch nhái kêu lia
Trời mưa như đổ”.
Chóp Chài có những dấu tích huyền thoại như Trai Thuỷ tục danh
là Hang Dơi, hang này rộng khoảng 5m, chiều sâu hun hút. Trong hang có những tảng
đá phẳng lì.
Đông, tây, nam, bắc đều có chùa: Hoà Sơn, Minh Sơn, Khánh
Sơn, Bảo Lâm được xây dựng trên lưng sườn núi, nhìn xuống có “Liên trì dục nguyệt”
(Trăng tắm ao sen) rộng khoảng 1,2 ha.
Nựu Sơn nằm giữa vùng thiên nhiên tuyệt đẹp, gắn với những giá
trị nhân văn, đã đi vào lịch sử ký ức của nhân dân trong vùng, nơi đây sẽ là một
điểm du lịch văn hoá, tham quan, ngắm cảnh lý tưởng.
NÚI NHẠN - SÔNG ĐÀ
Là cụm thắng cảnh đã để lại nhiều ấn tượng với du khách khi đặt
chân đến Phú Yên. Núi Nhạn nằm bên bờ Bắc sông Đà Rằng, thuộc địa phận phường
I, thành phố Tuy Hòa. Núi Nhạn còn có tên gọi khác là “Núi Bảo Tháp” hoặc “Tháp
Dinh”. Đứng ở độ cao 64 m trên đỉnh Núi Nhạn, ta có thể bao quát một vùng non
nước Phú Yên với toàn cảnh thành phố Tuy Hoà, làng hoa Bình Ngọc, núi Đá Bia,
Biển Đông và hai chiếc Cầu đường sắt và đường bộ dài 1.100 m bắt song song qua
sông Đà Rằng. Trên đỉnh Núi Nhạn có Tháp Chàm cổ kính, còn có tên gọi là Tháp
Nhạn được người Chiêm Thành xây dựng vào khoảng thế kỷ 11. Tháp có cấu trúc khối
hình chóp vuông vững chắc cao 25m, gồm tất cả 4 tầng thu nhỏ dần khi lên cao.
Núi Nhạn nằm một góc giữa chỏm cắt của QL1A và nhánh sông
Chùa thuộc phường Bình Nhạn nay gọi là phường I thành phố Tuy Hoà. Núi cao 60
mét so với mặt nước biển, có đường chu vi quanh núi khoảng trên 1 km. Núi Nhạn
có hình thế xoè ra như hình con chim nhạn xoè đôi cánh, với phần đầu là chỗ
giao nhau giữa QL1A và sông Chùa, cổ thon nhỏ lại rồi phình to ra như đôi cánh
chim ở phần đường Tản Đà, vì vậy nên mới có tên gọi này. Cũng có người cho rằng,
ngày xưa núi này như một cù lao nhỏ nằm trong vịnh Tuy Hoà (biển ăn sát đến tận
chân dãy Trường Sơn), là nơi để loài chim nhạn làm tổ, trú ẩn. Sau này, vịnh dần
dần được bồi lấp tạo nên đồng bằng rộng lớn nối liền cù lao Nhạn với đất liền.
Trên núi Nhạn có rất nhiều cây cối rậm rạp, đặc biệt là mai rừng nở vàng vào
mùa xuân và mùa hạ, ở phía đông-nam gần sông Chùa có một trảng sim nhỏ, đến mùa
hoa sim nở tím cả một vùng. Trên núi có nhiều loài chim như nhạn, cò và đặc biệt
là rất nhiều khỉ. Mãi đến năm 1961, khỉ vẫn sống từng đàn trên núi này cho đến
khi chiến tranh ác liệt nổ ra, quân đội Sài Gòn cho đóng đồn và đặt súng đại
bác trên núi ngày đêm bắn phá các vùng căn cứ, yểm trợ cho các cuộc hành quân
nên khỉ đã bỏ về rừng núi đại ngàn, chim chóc cũng di trú nơi khác, cây cối bị
đốn chặt phát quang để phục vụ cho tầm quan sát quân sự.
Trên núi Nhạn có một ngôi tháp do người Chăm xây dựng vào thế kỷ
thứ XII (cũng có tài liệu nói là xây vào thế kỷ XIV). Tháp có bình đồ hình
vuông, mỗi cạnh 10 mét, cao trên 20 mét có đế móng, thân và mái là những gờ gạch
xây nhô ra bên ngoài. Trong tập “Gìn giữ những kiến trúc kiệt tác trong nền văn
hóa Chăm” của nhóm tác giả Lưu Trần Tiêu, Ngô Văn Doanh, Nguyễn Quốc Hùng do
nhà xuất bản Văn hoá dân tộc ấn hành năm 2002 thì tháp có 4 tầng, càng lên cao
càng thu nhỏ lại, nhưng mô hình và cách thức trang trí từ dưới lên đều giống
nhau. Nóc của tháp gồm nhiều lớp xếp, phần chóp được cấu tạo bằng phiến đá
nguyên tảng (đã qua đẽo gọt) có hình búp sen cân đều. Đó là biểu tượng Linga của
người Chăm. Trên đỉnh tháp, bốn mặt đều có bốn cửa sổ giả, tách biệt giữa phần
trên và tầng dưới. Cửa chính ở hướng Đông, phần trên cửa hình vòm, xây cuốn
theo kiểu giật cấp. Những hàng gạch bên trên hơi chồm ra so với hàng gạch dưới.
Càng lên cao thì chồm ra ít hơn cho đến khi khép kín vòm.
So với nhiều tháp khác của người Chăm ở Bình Định, Khánh Hoà,
Phan Rang hay Mỹ Sơn thì ngọn tháp trên núi Nhạn, bên trong không có tượng thờ
cũng như những hoa văn, họa tiết trang trí; duy nhất chỉ thấy những họa tiết
hoa văn hình rồng được chạm khắc biến dạng đi hay cách điệu bằng đá hoa cương đặt
bên ngoài góc tháp.
Bên trong tháp, tường xây thẳng đứng cao vút từ phần đế tháp cho
đến hết phần thân. Phần mái, tường được thu nhỏ dần cho đến đỉnh, tạo thành
hình chóp nón. Trong lòng tháp không có bệ thờ, không có tượng. Từ lâu đời, khoảng
thời Hậu Lê, nhân dân xây một cái am nhỏ phía trước để thờ bà Thượng Đỉnh Chúa
Thiết A Na Diễn Ngọc Phi. Thời chống Pháp am thờ này bị đập phá. Sau này miếu
được xây dựng lại trên nền cũ có đề bốn chữ “Thượng Đỉnh Linh Miếu”.
Về nghệ thuật tạo hình, thân tháp có tạc tượng thần và những
chiếc cột bằng gạch xếp chồng đều nhau thẳng như kẽ chỉ, tạo thành những đường
gờ nhô ra để khi trông vào không có cảm giác nặng nề và đơn điệu của một hình
khối đồ sộ.
Vật liệu xây dựng tháp đều bằng gạch nung với nhiều kích cỡ khác
nhau tuỳ theo vị trí của từng mảng tường, từng tầng tháp và được xếp liền khít,
không thấy mạch hồ song kết dính rất vững chắc. Người ta khó mà biết được kích
cỡ của từng viên gạch, nếu không nhờ vào những nơi bị sứt mẻ, bị ngã đổ. Có nhiều
viên hình chữ nhật kích thước 40 x 20 x 7 cm. Trụ và xà ngang của cửa chính là
khối đá vôi mềm dễ đẽo gọt, đục chạm. Bốn bên mặt ngoài thân tháp có những cột
xây áp vào thân tháp mà mục đích có thể là để gia cố cho tháp được vững chắc. Bắt
đầu cuốn lên mái, ở bốn góc bên ngoài thân tháp (đoạn tiếp giữa thân tháp và
mái) đều được xây nhô ra những trụ hình chóp có kích cỡ rất nhỏ.
Người Pháp gọi núi Nhạn là núi Khỉ (Montagne des Singes) vì
không chỉ trên núi có nhiều khỉ mà chúng còn rất khôn, sống thành bầy đoàn, sẵn
sàng hợp quần chống đỡ lại sự đe doạ từ nhiều phía tới, cũng biết trả thù nếu
có ai đó làm cho một con trong đàn bị thương hay bị bắt. Xưa, phía bên soi Ngọc
Lãng thường trồng bắp, con đầu đàn cho một toán nhỏ canh giữ hai phía đầu cầu
sông Chùa rồi chính nó đích thân đưa cả bầy luồn vào đám bắp bẻ và mang lên
núi. Những khu dân cư sống quanh chân núi Nhạn đều phải cất giữ rất cẩn thận mọi
thức ăn đồ uống, hễ sơ hở là chúng lần vào mang đi mất, chúng hè nhau khiêng cả
nồi hai cơm trèo lên vách núi, lấy cắp hoa quả cúng trên trang thờ…
Mạn đông-nam chân núi Nhạn có ngôi chùa Hàm Long nằm khuất
sau chòm cây cổ thụ, lưng tựa vào vách núi đá lớn dựng đứng, cao ngất như muốn
nhoài ra ôm choàng lấy ngôi chùa như một chiếc quạt khổng lồ xoè rộng. Chùa Hàm
Long sau đổi tên là Kim Long tự và được vua Bảo Đại năm thứ 5 ban sắc tứ.
Dưới chân vách đá, bên cạnh chùa có một cái hang, đường kính chừng
3 mét xuyên vào lòng núi và ăn thông ra bờ sông. Các cụ ngày xưa cho đó là hàm
của con rồng nên mới đặt tên chùa là Hàm Long. Theo truyền thuyết, hơn trăm năm
về trước, cái hang này ăn thông ra bờ sông Chùa. Đã có người thử thả trái bưởi
từ miệng hang, trái bưởi theo đường hầm trôi ra giữa dòng sông và nổi lềnh bềnh
trên mặt nước. Qua thời gian, do lũ lụt, mưa gió làm đất đá chài lấp dần cửa
hang. (Năm 1994, Cty Du Lịch Phú Yên cho mở lại cửa hang để phục vụ khách du lịch,
nhưng công việc bị ngăn lại vì sợ ảnh hưởng đến nền móng của tháp Nhạn đứng bên
trên).
Tháp được chạm khắc khá hài hoà, đường nét tinh xảo, mềm mại là
bậc thầy của nghệ thuật kiến trúc thời bấy giờ và mãi mãi sau này. Ngọn tháp
này tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc độc đáo của người Chăm, vừa mang vẻ đẹp
hoành tráng vừa toát lên vẻ thanh thoát nhẹ nhàng tô điểm cho thành phố Tuy Hoà
vẻ nên thơ.
Chung quanh việc xây dựng ngọn tháp trên núi Nhạn, có nhiều truyền
thuyết khá thú vị: thuở ấy có ông Lương Phù Già (tức Lương Văn Chánh) giao
tranh với quân Chiêm Thành. Chiến trường diễn ra ở phần đất thành phố Tuy Hoà
ngày nay. Quân của ông Phù Già đóng ở núi Nựu (Nựu Sơn), quân Chiêm đóng ở núi
Nhạn để cố thủ. Giao tranh lâu ngày nhưng không phân thắng bại. Để tránh đổ máu
gây tang tóc cho lương dân, hai bên giao ước với nhau sẽ cùng xây tháp, tháp của
bên nào xây to hơn, nhanh hơn là bên đó thắng, bên kia phải rút quân khỏi phần
đất Phú Yên. Địa điểm được hai bên lựa chọn là quân Chăm trên núi Nhạn, quân
ông Phù Già trên núi Cổ Rùa, một phần nhô ra của núi Nựu.
Quân ông Phù Già cho quân lính chặt tre, chẻ thành sợi mỏng
và đan thành những tấm như tấm phên, phất giấy, bôi sơn rồi ghép lại vào các rường
cây thành ngôi tháp cao to đến trăm trượng, phải ngửa mặt mới trông thấy đỉnh,
từ đầu chân tháp bên này ngó qua bên kia con người chỉ bằng hột bắp (!?). Quân
Chăm dốc toàn sức lực ngày đêm xây đắp cho đến khi sắp hoàn thành thì ngọn tháp
của ông Phù Gìa đã hoàn thành, sừng sững một góc trời rất hoành tráng. Quân
Chăm đành phải chấp nhận thua cuộc. Để tránh những hậu hoạ có thể xảy ra (như
dùng ngôi tháp làm nơi cố thủ), ông Phù Già thách thức Chiêm Thành đốt tháp.
Tháp bên nào cháy trước thì bên đó thắng cuộc và bên kia phải rút binh ra cách
xa phần đất ước hẹn trước đây 300 dặm (!?). Quân Chăm y hẹn, cho quân sĩ mang
cây khô, bổi chà chất quanh tháp tầng tầng lớp lớp rồi nổi lửa đốt. Cột lửa bên
núi Nhạn cao ngất trời, cháy từ ngày này qua tháng khác nhưng tháp vẫn cứ đứng
vững như trụ đồng, trong khi đó tháp của ông Phù Già chỉ cháy một đêm, sáng ra
tháp biến mất. Lương Văn Chánh mang đại quân đến chân núi Nhạn buộc quân Chăm
phải thực hiện điều đã ấn định, quân Chăm đành phải rút quân qua khỏi bên kia
đèo Cả.
Ngày nay, cụm thắng cảnh “Núi Nhạn – Sông Đà“ đã trở thành biểu
tượng của Phú Yên và Tháp Nhạn đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là Di
tích Kiến trúc - Nghệ thuật cấp Quốc gia.
Hàng năm vào dịp lễ, Tết, trên núi Nhạn có tổ chức nhiều hoạt
động văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí ….. Đặc biệt vào rằm tháng Giêng Âm lịch
hàng năm, nơi đây diễn ra đêm thơ Nguyên tiêu thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và
du khách gần xa.
TRUYỀN THUYẾT:
Về quá trình hình thành núi, truyền thuyết kể rằng, thuở xa
xưa đất Tuy Hoà là một vùng đầm lầy trũng thấp, là nơi cư trú của nhiều loài
thuỷ sinh và mãnh thú hung dữ. Đời sống của người dân luôn bị đe doạ. Và để tạo
nên một cảnh sống mới, an toàn hơn về mọi mặt, một ngày kia người khổng lồ do
Trời sai xuống gánh núi lấp đầy vùng trũng và lấn ra phía biển Đông. Thiên sứ
khổng lồ kia miệt mài gánh đất và núi, làm rơi vãi từng cụm nhỏ ở núi Miếu (Hoà
Quang) và gành Đá (Hoà Thắng)… và chẳng bao lâu thì lấp đầy cả cánh đồng Tuy
Hoà bây giờ. Đến lượt bắt đầu lấn biển, vị thiên sứ kia gắng làm cho xong để sớm
trở về trời nên đã gánh núi nặng gấp hai ba lần, đến nỗi khi gần tới biển, chiếc
đòn gánh gãy đôi làm rơi xuống hai cụm núi là núi Nhạn và Chóp Chài. Đòn gánh
gãy đồng nghĩa với công việc “xẻ núi lấp sông” không thể tiếp tục được nữa và
thiên sứ khổng lồ nọ đành ngậm ngùi quay về Trời, chưa tạo được những cụm núi
chắn sóng ngoài mạn biển xa. Câu chuyện huyền thoại này được truyền tụng từ khá
lâu và có nhiều chi tiết khác nhau, nhưng nội dung chính là hai hòn núi Chóp
Chài và núi Nhạn là do người khổng lồ làm gãy đòn gánh mà rơi xuống.
Trên núi Nhạn có rất nhiều cây cối rậm rạp, đặc biệt là mai rừng
nở vàng vào mùa xuân và mùa hạ, ở phía Đông-Nam gần sông Chùa có một trảng sim
nhỏ, đến mùa hoa sim nở tím cả một vùng. Trên núi có nhiều loài chim như nhạn,
cò và đặc biệt là rất nhiều khỉ. Mãi đến năm 1961, khỉ vẫn sống từng đàn trên
núi này cho đến khi chiến tranh ác liệt nổ ra, quân đội Sài Gòn cho đóng đồn và
đặt súng đại bác trên núi ngày đêm bắn phá các vùng căn cứ, yểm trợ cho các cuộc
hành quân nên khỉ đã bỏ về rừng núi đại ngàn, chim chóc cũng di trú nơi khác,
cây cối bị đốn chặt phát quang để phục vụ cho tầm quan sát quân sự.
Đứng ở độ cao 64 m trên đỉnh núi Nhạn, du khách có thể bao
quát một vùng non nước Phú Yên với toàn cảnh thành phố Tuy Hoà, làng hoa Bình
Ngọc, núi Đá Bia, biển Đông và hai chiếc Cầu đường sắt và đường bộ dài 1.100 m
bắt song song qua sông Đà Rằng. Trên đỉnh núi Nhạn có Tháp Chàm cổ kính, còn có
tên gọi là Tháp Nhạn được người Chiêm Thành xây dựng.
Mạn Đông-Nam chân núi Nhạn có ngôi chùa Hàm Long nằm khuất
sau chòm cây cổ thụ, lưng tựa vào vách núi đá lớn dựng đứng, cao ngất như muốn
nhoài ra ôm choàng lấy ngôi chùa như một chiếc quạt khổng lồ xoè rộng. Chùa Hàm
Long sau đổi tên là Kim Long tự và được vua Bảo Đại năm thứ 5 ban sắc tứ. Dưới
chân vách đá, bên cạnh chùa có một cái hang, đường kính chừng 3 mét xuyên vào
lòng núi và ăn thông ra bờ sông. Các cụ ngày xưa cho đó là hàm của con rồng nên
mới đặt tên chùa là Hàm Long.
Theo truyền thuyết, hơn trăm năm về trước, cái hang này ăn
thông ra bờ sông Chùa. Đã có người thử thả trái bưởi từ miệng hang, trái bưởi
theo đường hầm trôi ra giữa dòng sông và nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Qua thời
gian, do lũ lụt, mưa gió làm đất đá chài lấp dần cửa hang.
Ngày nay, cụm thắng cảnh “Núi Nhạn – Sông Đà“ đã trở thành biểu
tượng của Phú Yên và Tháp Nhạn đã được công nhận là Di tích Kiến trúc - Nghệ
thuật cấp Quốc gia. Hàng năm vào dịp lễ, Tết, trên núi Nhạn có tổ chức nhiều hoạt
động văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí ….. Đặc biệt vào rằm tháng Giêng Âm lịch
hàng năm, nơi đây diễn ra đêm thơ Nguyên tiêu thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và
du khách gần xa.
Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội khi dừng chân bên núi Nhạn đã
không tiếc lời ca ngợi vẻ đẹp của Tuy Hoà và con người Phú Yên:
Nửa thế kỷ rồi qua Phú Yên
Sông Đà núi Nhạn nước non tiên
Bài thơ tương thức tình tương ngộ
Trọng nghĩa tư giao quý bạn hiền
Còn ông Huỳnh Khinh, thi sĩ của quê hương núi Nhạn sông Đà đã có
thơ khi trở lại quê hương sau những ngày khói lửa chiến tranh
Lên chơi núi Nhạn buổi tà dương
Phong cảnh nhìn xem đẹp lạ thường
Trước mặt mây hồng vờn biển bạc
Sau lưng gác tía gợn tia vàng.
Bãi Xép – Ghềnh Ông
Chắc hẳn những ai đã từng xem bộ phim “Tôi thấy
hoa vàng trên cỏ xanh” đều ước rằng mình có thể được chiêm ngưỡng cảnh sắc ấy
ít nhất một lần trong đời. Sẽ thật uổng phí nếu bạn đi du lịch Phú Yên mà không
đến Bãi Xép - Ghềnh Ông - địa điểm xuất hiện ở những phân cảnh đẹp nhất trong bộ
phim nổi tiếng của đạo diễn Victor Vũ.
Giới thiệu chung về Bãi Xép - Ghềnh Ông
Bãi Xép - Ghềnh Ông tọa lạc tại xã An Chấn, huyện Tuy An,
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Địa điểm này chưa được chú trọng khai thác du
lịch nhiều nên vẫn còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ hiếm có. Bãi Xép có chiều dài
500m với 2 bãi đá đen hai bên đầu bãi biển. Nơi đây sở hữu cảnh quan thiên
nhiên đặc sắc với những bãi cát vàng óng ánh chảy dài ra mép sóng. Các tảng đá
đen nhô ra ngoài biển và rừng phi lao rộng lớn xanh mát ngày đêm rì rào cùng
sóng biển.
Ngay cạnh bãi Xép, Ghềnh Ông là một thảo nguyên rộng lớn xanh
mướt màu cỏ non điểm thêm những rặng xương rồng mọc trên đồi. Đứng ở trên đây,
tất cả khung cảnh thiên nhiên sống động, hấp dẫn như được hút hết vào tầm mắt của
bạn.
Thăm quan, vui chơi tại Bãi Xép - Ghềnh Ông
Đến với Bãi Xép - Ghềnh Ông, đầu tiên bạn có thể thoải mái chụp
ảnh, thả diều, lang thang trên Ghềnh Ông. Khi đã thấm mệt, muốn đắm mình trong
làn nước xanh mát bạn sẽ xuống Ghềnh để vào Bãi Xép. Được đặt chân lên những
bãi cát mềm mịn, nô đùa cùng những con sóng nối đuôi nhau xô vào bờ, bạn như được
trút bỏ hết mọi ưu tư phiền muộn.
Bên cạnh đó, nơi đây cũng là địa điểm chụp ảnh cưới tuyệt đẹp
được rất nhiều cặp đôi lựa chọn. Để chuyến đi được trọn vẹn hơn, bạn cũng đừng
nên bỏ qua những đặc sản hấp dẫn của miền đất này như cháo hàu, lẩu mực, cá ngừ,...
Từ tháng 2 đến tháng 8 hàng năm là thời điểm lý tưởng nhất để
vi vu đến đây. Lúc này, thời tiết là vào mùa khô nên việc đi lại và vui chơi
thuận tiện hơn rất nhiều. Bạn nên lưu ý rằng phải chuẩn bị sẵn sàng áo và kem
chống nắng khi du lịch Phú Yên nữa nhé!
Ngoài ra, trong các tour du lịch Quy
Nhơn hiện nay cũng kết hợp tham quan các điểm ở Phú Yên. Vì thế,
bạn nên tham khảo thêm để có thể đi được nhiều nơi hơn và cuộc hành trình đến dải
đất Nam Trung Bộ thành công hơn nữa.
Di chuyển từ trung tâm đến Bãi Xép - Ghềnh Ông
Khoảng cách từ trung tâm thành phố Tuy Hòa đến Bãi Xép - Ghềnh
Ông là 13km. Bạn có thể đến đây bằng taxi hay xe máy đều được, sẽ mất khoảng 20
- 25 phút để di chuyển.
Cung đường nhanh nhất để đến những điểm vui chơi này là chạy
thẳng trên đường Lê Duẩn sẽ đến Tuy An. Tuyến đường này được lát phẳng lì, dọc
hai bên đường là những rặng dương xanh mọc nối tiếp nhau vô cùng đẹp. Chỉ đi
trên con đường này thôi cũng sẽ tạo cho bạn cảm giác rất thư thái và mát mẻ.
Tháp Nghinh Phong công trình độc đáo tại Phú
Yên
Theo TS Phạm Trung Lương (Viện Nghiên cứu phát
triển du lịch), Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa mang trong mình giá trị rất
lớn, quý giá, đa dạng và đặc sắc. Việc Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch
di tích này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển ngành Du lịch Phú
Yên.
Đồng chí Đào Mỹ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh bày tỏ sự
vui mừng khi Phó Thủ tướng phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch Di tích quốc gia đặc biệt
Gành Đá Đĩa. Bởi trước đó, tỉnh cũng có chủ trương đầu tư dự án quy hoạch, tu bổ,
tôn tạo di tích quốc gia đặc biệt này nhằm phát huy hiệu quả tiềm năng, giá trị,
bảo vệ hiệu quả di tích.
Nhiệm vụ quy hoạch Di tích quốc gia đặc biệt Gành
Đá Đĩa được Chính phủ yêu cầu thực hiện trong 24 tháng, tỉnh sẽ chỉ đạo các cơ
quan, đơn vị, địa phương triển khai, hoàn thành sớm để phát huy giá trị di
tích, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
“Gành Đá Đĩa là thắng cảnh có giá trị đặc biệt của
tỉnh và Việt Nam, là nơi lý tưởng để người dân, du khách đến tham quan thưởng
lãm. Thời gian qua, di tích này vẫn chưa được đầu tư tương xứng với tiềm năng
và lợi thế; giá trị của di tích chưa được phát huy hiệu quả so với sự ưu đãi mà
thiên nhiên ban tặng cho Phú Yên.
Bởi vậy, nhiệm vụ quy hoạch lần này được Chính phủ
phê duyệt là rất quan trọng, ý nghĩa, tỉnh sẽ chỉ đạo thực hiện khẩn trương”,
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đào Mỹ nói.
Phú Yên đã cho xây dựng
tháp Nghinh Phong tại vị trí tuyệt đẹp của thành phố Tuy Hòa và khánh thành vào
đợt 30.04.2022. Tên của tháp có nghĩa là “đón gió” với nhiều gửi gắm trong
thiết kế. Tháp Nghinh Phong mang dáng dấp đặc trưng đã thành thương hiệu của
Gành Đá Đĩa. Tòa tháp đôi Nghinh Phong cao hơn 25 m tại TP Tuy Hòa hiện nay đã
thành điểm tham quan được nhiều người lui tới
Tòa tháp
gây ấn tượng với điểm nhấn được tạo hình Ghềnh Đá Đĩa, lõi bằng bê tông cốt
thép, bên ngoài ốp đá granite. Về đêm, nơi này được chiếu sáng với công nghệ
Bobine Tesia, 3D mapping và laze cường độ cao tạo nên vũ điệu ánh sáng đa sắc
màu.
Lấy cảm hứng từ truyền thuyết "Con Rồng
Cháu Tiên", toà tháp đôi bên cao, bên thấp tượng trưng Lạc Long Quân và Âu
Cơ. Dưới chân mỗi toà tháp là 50 khối đá xếp chồng lên nhau, tượng trưng cho
"trăm trứng trăm con" phải tách nhau theo cha mẹ lên rừng xuống biển.
Giữa hai cột tháp là một khe gió trang trí các hình ảnh về vùng đất "hoa
vàng trên cỏ xanh".
Điều đặc biệt của tháp Nghinh Phong là khoảng
trống giữa hai toà tháp chỉ đủ cho hai người đứng, mỗi khi có gió thổi qua khe
hở sẽ tạo ra âm thanh như bản nhạc từ thiên nhiên và nó là độc nhất dành cho
người thưởng thức.
Tháp Nghinh Phong thuộc dự án không gian công
cộng ven biển, nút giao thông đường Nguyễn Hữu Thọ - Độc Lập (TP Tuy Hòa).
Ngoài tháp đôi, khu vực quảng trường Nghinh Phong còn có các hạng mục khác như
hệ thống kè bảo vệ, công viên, đường đi dạo lát đá granite... với tổng diện
tích hơn 7.000 m2.
Là một trong những người tham gia công trình
với tư cách chủ nhiệm, anh Đỗ Văn Tình (cựu sinh viên khóa 38C Khoa Công trình
Trường Đại học Thủy lợi) luôn khiêm tốn khi nói về địa điểm du lịch mới này.
Hiện nay, ở vai trò Phó Viện trưởng Viện Đào tạo và Khoa học ứng dụng miền
Trung, anh Đỗ Xuân Tình luôn muốn mang nhiều hơn nữa những công trình thủy đặc
trưng vào các ngành kinh tế dịch vụ, góp phần phát triển đời sống vật chất và
tinh thần cho người dân.
Nếu có dịp chơi ở Phú Yên, hãy dành thời gian
tận tưởng bản nhạc của gió tại tháp Nghinh Phong và ngắm công trình do con
người Thủy Lợi góp phần sáng tạo.
CÂY CẦU GỖ ÔNG CỌP
Cầu Ông Cọp (huyện Tuy An) dài 800 m thường
hư hỏng vào mùa mưa bão, được người dân địa phương góp tiền dựng lại để thuận
tiện cho đi lại.
Cầu gỗ Ông Cọp, huyện Tuy An nằm cách quốc
lộ 1 chưa đến trăm mét, đoạn gần dốc Vườn Xoài bắc qua sông Bình Bá (còn gọi là
sông Phú Ngân). Cầu nối các thôn phía bắc xã An Ninh Tây, huyện Tuy An với phường
Xuân Đài, thị xã Sông Cầu. Người dân địa phương đi qua cầu này rút ngắn khoảng
cách khoảng 10 km so với di chuyển từ huyện Tuy An qua thị xã Sông Cầu, hoặc đi
TP Quy Nhơn (Bình Định).
Tuy nhiên, cứ đến mùa mưa bão, cầu lại đổ sập.
Mội số cá nhân đã tự bỏ chi phí để mua nguyên vật liệu để dựng lại cầu, phục vụ
nhu cầu đi lại cho dân địa phương.
Cầu bắt đầu được xây dựng từ năm 1998 với tổng
chi phí hơn một tỷ đồng, do ông Nguyễn Phước Thọ (TP Nha Trang, Khánh Hòa) tự bỏ
tiền đầu tư. Sau này có nhiều người cùng góp vốn và quản lý. Cầu dài khoảng 800
m, rộng 2 m (nơi rộng nhất khoảng 2,3 m) và trụ cao 8-10 m. Những ngày này,
trên cầu có hơn 18 công nhân thi công.
Ông Nguyễn Phúc, một công nhân, cho biết hầu
hết các công đoạn như dựng trụ, xây dàn, lót ván, đóng đinh... đều làm thủ
công. "Để đẩy nhanh tiến độ, suốt 4 tuần qua, chúng tôi tranh thủ làm luôn
ca trưa", ông Phúc nói, cho biết thời tiết thuận lợi, việc dựng lại cầu chỉ
mất 20-30 ngày.
Công nhân dùng que sào cắm xuống đáy sông để
đo chiều dài trụ cầu phù hợp, tránh tình trạng mất cân bằng khiến cầu bị
nghiêng sau khi hoàn thành. Mỗi năm đến mùa mưa, nước lũ chảy xiết thường đánh
sập cầu. Việc đo đạc được thực hiện kỹ lưỡng sẽ giúp công nhân làm cầu trở nên
chắc chắn hơn.
Để thi công trụ cầu, thợ phải dầm mình dưới
nước nhiều giờ. "Trong thời tiết lạnh như thế này, việc ngâm mình dưới nước
liên tục khiến cơ thể mau mất sức. Do đó chúng tôi phải luân phiên mỗi buổi
thay hai người để làm công việc này", nam công nhân cho biết.
Một đoạn tại cầu gỗ Ông Cọp thành hình. Phần
ván cầu làm từ thân cây phi lao, bạch đàn; thành cầu làm bằng thân tre già. Cầu
chỉ thiết kế để xe máy và người đi bộ sử dụng.
Cây cầu hiện phục vụ nhu cầu đi lại cho
hàng nghìn hộ dân ở khu vực lân cận. Ngoài ra, khu vực này cũng là điểm thu hút
nhiều du khách đến tham quan, chụp ảnh lưu niệm.
Ghềnh Đá Đĩa: ngắm nhìn hoàng hôn thơ mộng tại Phú
Yên
Ghềnh Đá Đĩa là địa điểm du lịch ở Phú Yên thuộc địa phận của thôn Phú Hạnh, xã An Ninh
Đông, huyện Tuy An. Nơi đây cách thành phố Tuy Hòa khoảng 40km, gây ấn tượng với
những khối đá đen được thiên nhiên sắp xếp rất trật tự nằm bên bờ biển trong
xanh, nhìn từ xa trông rất giống một chiếc đĩa khổng lồ.
Mới đây,
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã phê duyệt nhiệm vụ lập
Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Di tích quốc gia đặc biệt
Gành Đá Đĩa trở thành điểm tham quan hấp dẫn của cả nước.
Việc này sẽ giúp phát huy những giá trị độc đáo của
gành Đá Đĩa, thúc đẩy phát triển du lịch Phú Yên.
Bức ảnh “bản đồ Việt Nam”
chụp từ Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa. Ảnh: HUỲNH LÊ VIỄN DUY
Gành
Đá Đĩa được hình thành bởi những cột đá màu đen tuyền, hình lục giác, xếp chồng
lên nhau như những chồng đĩa khổng lồ. Các vỉa đá nứt theo mạch dọc, mạch vòng,
tạo thành những cột thẳng đứng hoặc nghiêng ở ngay bên biển đã tạo nên sự độc
đáo, hấp dẫn của danh thắng này.
Giá trị địa chất độc đáo riêng có
Theo
kết quả nghiên cứu địa chất, đá ở gành Đá Đĩa là loại đá bazan được hình thành
do hoạt động phun trào của núi lửa cách nay hàng triệu năm.
Nham
thạch phun ra từ miệng núi lửa chảy tràn ra biển, gặp nước biển lạnh bất ngờ bị
đông cứng lại, đồng thời xảy ra hiện tượng ứng lực tạo nên sự rạn nứt toàn bộ
khối nham thạch theo mạch dọc, xiên ngang thành những cột đá đứng liền khít
nhau nửa chìm dưới nước nửa nổi trên bờ, tạo nên một gành Đá Đĩa có một không
hai của Việt Nam và số ít gành đá tương tự trên thế giới.
Gành
Đá Đĩa (thuộc xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, cách trung tâm TP Tuy Hòa khoảng
40km về phía bắc) rộng khoảng 50m và trải dài hơn 200m (đang phát lộ thêm nhiều
diện tích), là một danh thắng thiên nhiên kỳ thú về cảnh quan, độc đáo về địa
chất ở Việt Nam.
Từ
trên cao, du khách sẽ nhìn thấy gành đá nhoài ra biển, càng ở phía gần mép nước,
những khối đá đen tuyền càng đều, trên bề mặt phiến đá thỉnh thoảng có nhiều lỗ
nhỏ do bị tác động bởi nước biển. Nhiều người ví đây như những ô cấu trúc của tổ
ong, và cả khu vực là một tổ ong khổng lồ, vô cùng kỳ vĩ.
Đặc
biệt, thắng cảnh gành Đá Đĩa, được nhiều nghệ sĩ nhiếp ảnh trong nước tìm đến
sáng tác. Trong đó, nghệ sĩ nhiếp ảnh Huỳnh Lê Viễn Duy, hội viên Hội Văn học
Nghệ thuật Phú Yên, hội viên Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam đã ghi lại một bức
“để đời” của gành Đá Đĩa, với hình chữ S giống như bản đồ Việt Nam.
Di
tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa không chỉ có giá trị về địa chất mà ở đây
còn mang nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử… “Gành Đá Đĩa là điểm du lịch trọng
điểm, độc đáo của Phú Yên. Hầu như khách du lịch đến Phú Yên đều phải một lần đến
tham quan danh thắng này”, ông Cao Hồng Nguyên, Trưởng phòng Quản lý du lịch (Sở
VH-TT&DL) cho biết.
Quy hoạch điểm đến du lịch hấp dẫn cả nước
Quyết
định phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi Di tích quốc
gia đặc biệt Gành Đá Đĩa do Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký ngày 4/12 nêu cụ thể
các nội dung phải thực hiện; đồng thời giao UBND tỉnh - cơ quan quản lý lập quy
hoạch và Sở VH-TT&DL Phú Yên - chủ đầu tư, thực hiện nhiệm vụ này trong
vòng 24 tháng, kể từ ngày ký.
Theo
đó, phạm vi nghiên cứu lập quy hoạch gần 809ha (không bao gồm diện tích khoanh
vùng bảo vệ của Di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa).
Đối
tượng nghiên cứu lập quy hoạch bao gồm toàn bộ Di tích quốc gia đặc biệt Gành
Đá Đĩa và không gian cảnh quan thiên nhiên, môi trường - sinh thái xung
quanh.
Mục
tiêu lập quy hoạch nhằm nhận diện đầy đủ giá trị và bảo tồn các giá trị đặc sắc
về địa chất của danh thắng gành Đá Đĩa; bảo vệ tài nguyên mặt nước, đa dạng
sinh học, địa chất, địa mạo và di sản văn hóa của cộng đồng trong khu vực; hoàn
thiện hệ thống hồ sơ, dữ liệu làm cơ sở chuyển đổi số và tự động hóa trong quản
lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
Việc
lập quy hoạch nhằm phát huy giá trị danh thắng gành Đá Đĩa, trở thành điểm tham
quan du lịch hấp dẫn của tỉnh Phú Yên, vùng Nam Trung Bộ và cả nước; kết nối với
các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh khác tại địa phương, hình
thành chuỗi sản phẩm du lịch, kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và nâng cao ý thức, trách nhiệm của
cộng đồng trong việc bảo tồn các giá trị độc đáo của danh thắng và di sản văn
hóa truyền thống khu vực. Đồng thời, quy hoạch sẽ xác định ranh giới bảo vệ di
tích làm cơ sở pháp lý để quản lý, bảo vệ; là cơ sở pháp lý thu hút nguồn lực đầu
tư.
CHÙA ĐÁ TRẮNG
Chùa sắc tứ Từ Quang được xây dựng từ năm 1797
(năm Đinh Tỵ) nằm trên một triền đồi toàn đá trắng nên còn được gọi là chùa Bạch
Thạch (Đá Trắng) thuộc thôn Cần Lương, xã An Dân, huyện Tuy An, cách trung tâm
thành phố Tuy Hoà khoảng 35 km về phía Bắc, cách Quốc lộ 1A khoảng 500 m. Chùa ở
độ cao gần 100 m so với mặt nước biển. Lưng chùa hướng về phía Bắc dựa vào dãy
núi Xuân Đài. Mặt trước chùa hướng về phía Nam, nhìn ra con sông Cái (sông Ngân
Sơn) và sông Nhân Mỹ. Đứng ở sân chùa nhìn bao quát một vùng sông, núi xanh biếc
thật tuyệt vời.
Tổng diện tích đất chùa khoảng 5.000 m2. Phía Tây là nơi xây
dựng tháp thờ các vị hoà thượng khai sáng và trụ trì ở chùa Từ Quang. Khởi thuỷ
là Hoà Thượng Pháp Chuyên tự Luật Truyền hiệu Diệu Nghiêm phái Lâm Tế đời thứ
36. Xung quanh chùa là vườn xoài rất nổi tiếng, đã đi vào thơ ca Phú Yên như là
một sản phẩm rất đặc biệt “Xoài đá trắng, Sắn phường Lụa”. Dưới triều đình nhà
Nguyễn, hàng năm đến vụ xoài người ta thu hoạch chuyển về kinh dâng Vua, nên
xoài Đá trắng có tên là “Xoài Ngự” “Xoài Tiến” và được mang hiệu là “Bạch Thạch
Yêm Ba”.
Chùa Đá Trắng được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là Di
tích lịch sử – văn hoá cấp Quốc gia năm 1997.
Về mặt bề thế vào thời kỳ đó, chùa Từ Quang được xếp vào loại lớn
nhất trong tỉnh. Và năm Thành Thái được vua ban sắc tứ cho ngôi chùa này. Sau
nhiều lần trùng tu, chùa Từ Quang đẹp hơn, uy nghiêm tráng lệ hơn. Chùa Từ
Quang, phía bắc tựa vào dãy núi Xuân Đài, những cụm đỏ màu trắng nhấp nhô ẩn hiện
trong những chùm cây um tùm càng làm tăng thêm vẻ cổ kính thâm nghiêm.
Ba mặt còn lại là triền núi thoai thoải đổ về hướng đụng với
những bụi nhỏ, cỏ xanh tạo cảm giác cho du khách thập phương như đang đứng ngắm
một thảo nguyên thu nhỏ trong những bức danh họa cổ điển lúc trời quang mây tạnh
nắng hanh nhẹ. Còn phía nam, trước mặt chùa là con sông cái Ngân Sơn – Phú Mỹ
bao bọc tựa một dải lụa bạc trong nắng ban mai. Những buổi chiều ánh sáng phản
chiếu mặt nước biếc dòng sông và dãy núi đá trắng trong khoảnh khắc trời mây
sông núi liền một màu trông rất thơ mộng.
Cách thờ phụng hậu tổ, về hình thức cũng giống như các chùa
khác. Nhưng về nét huy hoàng có phần trội hơn với màu sắc hài hoà khiến cho
khách cảm thấy như được chìm đắm trong ánh đạo vàng vô biên và mầu nhiệm. Vườn
chùa có 8 ngôi tháp xây dựng trên khu đất rộng ở phía tây ngôi chùa. Trong số
đó có một ngôi thật đồ sộ, những ngôi khác nhỏ hơn. Duy có điều bia mộ của ngôi
tháp bị rêu phong xói mòn không còn được vững chắc.
Riêng ngôi tháp của Đại sư Thiện Tu vừa tịch được xây theo kiểu
mẫu những mộ tháp của phái Đại thừa, đặc trưng của Campuchia, TháiLan; dáng
tháp có nhiều vòng tròn lớn nhỏ chồng lên nhau trông như những vầng hào quang của
phật.
Ngôi chùa từ Quang có Đại hồng chung nặng 330 cân, do hoà thượng
Pháp Ngữ ra Huế đúc vào năm Duy Tân thứ chín.
ĐỊA ĐẠO GÒ THÌ THÙNG
Địa đạo Gò Thì Thùng là một kỳ tích của quân và dân Phú Yên
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được công nhận Di tích lịch sử văn
hóa cấp quốc gia
Kỷ niệm 79 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, sáng 3/2, tại
di tích lịch sử địa đạo Gò Thì Thùng, xã An Xuân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã
diễn ra lễ đón nhận bằng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia địa dạo Gò Thì
Thùng và khai mạc Hội thi đua ngựa truyền thống.
Được khởi công xây dựng vào ngày 10/5/1964 và hoàn tất vào tháng
8/1965, địa đạo Gò Thì Thùng có chiều dài gần 2km và 10km giao thông hào, tạo
thành một mặt trận kiên cố, là cơ sở vững chắc cho bộ đội ta và dân quân du
kích địa phương bố phòng đánh địch, đánh tan nhiều cuộc hành quân của địch
trong chiến tranh cục bộ, làm nên những chiến công vang dội vào mùa khô năm
1966.
Tuy nhiên, để phát huy các giá trị lịch sử văn hóa của di
tích địa đạo Gò Thì Thùng hiện còn rất nhiều việc phải làm. Hiện tại, giao
thông đi lại ở địa đạo còn rất khó khăn, cuộc sống của người dân tuy có được cải
thiện nhưng còn ở mức thấp, nguồn kinh phí đầu tư, tôn tạo địa đạo còn hạn chế…
đang là những trăn trở của địa phương. Tỉnh Phú Yên đang có kế hoạch xây dựng
di tích Gò Thì Thùng trở thành điểm đến trong chương trình hướng tới kỷ niệm
400 năm Phú Yên và Năm du lịch quốc gia 2011, đồng thời nâng cấp lễ hội đua ngựa
truyền thống Gò Thì Thùng lên tầm tỉnh và khu vực.
Ông Lê Kim Anh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên cho biết: UBND
tỉnh đang tập trung đầu tư để di tích này trở thành di sản của quốc gia và là
điểm đến của nhân dân trong và ngoài nước. Hiện nay, tỉnh cũng đã có đầu tư để
nâng cấp đàn ngựa và sẽ tập trung để quảng bá hoạt động này đến với cả nước,
coi như một điểm đến, một hoạt động trong chương trình kỷ niệm 400 năm Phú Yên
và Năm du lịch quốc gia 2011./.
THÁC H’LY
Thác H’ly, nằm trên thượng nguồn sông Hinh, thuộc buôn Kít,
xã Sông Hinh, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, nơi tiếp giáp với tỉnh Đắk Lắk.
Khu vực này bao gồm nhiều con suối nhỏ, nằm phía Đông Nam dãy Trường Sơn. Từ thị
trấn Hai Riêng huyện Sông Hinh đến buôn Kít khoảng 15 cây số đường chim bay, du
khách sẽ thấy một dòng sông nhỏ nằm vắt ngang qua núi tạo thành một cái thác
sâu khoảng 20 mét, gọi là thác H’Ly.
Nước từ trên cao, đổ xuống tung bọt trắng xóa trước khi đổ ra
hồ thủy điện Sông Hinh, rồi xuôi dòng nhập vào sông Ba. Chung quanh thác, là những
cây rừng già cao vút, với những chùm phong lan tỏa hương thơm dìu dịu. Du khách
có thể lần theo những bậc đá đen, xuống lòng thác ngâm mình trong dòng nước mát
lạnh và trong vắt vào mùa hè. Thác H’ly, không chỉ có cảnh quan đẹp, nó còn gắn
liền với một chuyện tình lãng mạn. Theo các già làng ở Sông Hinh kể lại, thì
thác H’Ly là cả một thiên tình sử diễm lệ của đôi trai gái yêu nhau, mà không
bao giờ được gần nhau.
Truyền thuyết
Từ thuở xa xưa, trên vùng đất tươi tốt Sông Hinh và Ma Đrắk,
có hai bộ tộc thường xảy ra mâu thuẫn. Người dân hai bộ tộc, luôn mơ ước được sống
trong cảnh thanh bình thịnh vượng, cùng nhau hưởng cảnh ấm no hạnh phú. Niềm mơ
ước này, tưởng có thể trở thành sự thật, khi chàng trai của vị tù trưởng bộ tộc
này, đem lòng yêu thương cô con gái cưng của vị tù trưởng bộ tộc kia. Chàng
trai được mô tả, là con người thông minh, tuấn tú và cô gái kia là một thiếu nữ
đang tuổi mười tám đôi mươi, cực kỳ xinh đẹp, đến nỗi chim công chim trĩ cũng
phải hờn ghen. Nàng đi đến đâu, cũng có hàng đàn bướm sắc màu sặc sỡ bay theo,
những bông hoa rừng đẹp nhất, cũng phải nghiêng đài hoa cúi chào, lay động tỏa
hương thơm ngào ngạt. Nàng tên H’Ly. Nàng H’Ly còn khéo tay dệt những tấm vải đẹp
nhất, nướng những con thú rừng ngon nhất, đức hạnh vẹn toàn…Mối tình của chàng
trai, không bao lâu sau đó, được nàng đáp lại khi nghe tiếng đàn réo rắt như mời
như gọi, đến da diết trong những đêm trăng sáng và ngay cả khi tối trời. Hai
người thường hò hẹn nhau ngay trên bờ sông Hinh, nơi có cánh rừng đại ngàn, có
con sông nước trong xanh với làn hương của muôn loài hoa tỏa bay thơm ngát. Họ
thề ước cùng nhau sống trọn kiếp người trong hạnh phúc lứa đôi và không quên
làm cầu nối, để xóa tan đi những hận thù của hai vị tù trưởng là cha của chàng
và nàng, mang lại cuộc sống ấm no cho hai bộ tộc.
Tuy nhiên, những tâm nguyện tốt đẹp của hai người, đã trở
thành tro than, khi hai bên, lại sử dụng binh lính để giải quyết những bất hoà.
Vị tù trưởng gọi con trai là người yêu của H’Ly đến, phán rằng: “Con hãy đem
quân lính tinh nhuệ nhất giữ vững bờ cõi và chớ để họ lấn sang”. Vâng lệnh cha,
chàng thanh niên mang quân ra đi, nhưng trong lòng mong sao cho hai bên đừng
đánh nhau. Chàng vỗ về và phủ dụ binh lính dưới quyền, rằng ta cứ giữ vững
cương vực của mình là hoàn thành nghĩa vụ, chớ có liều lĩnh hoài phí mạng sống
các người.
Quân của chàng án ngữ dọc địa giới của hai bộ tộc, canh phòng
cẩn mật khiến cho quân của bộ tộc kia không thể tấn công nổi. Tuy nhiên sự canh
phòng, án ngữ quá lâu, nên trong lòng binh sĩ bắt đầu lơi lỏng, cẩu thả trong
việc canh giữ. Nhiều đêm, họ còn gảy đàn, uống rượu ca hát dưới ánh lửa rập rờn.
Đối phương chỉ chờ có vậy và phát lệnh tấn công. Hàng hàng quân lính của đối
phương ào lên như bão như thác, khiến quân lính của chàng không kịp trở tay và
chàng đã bỏ mạng trong trận giáp chiến đó. Đầu chàng được mang về cho vị tù trưởng
xử tội.
Đoàn quân chiến thắng ca khúc khải hoàn. Vị tù rưởng rất hài
lòng với chiến công của binh sĩ dưới quyền và mở tiệc khao quân thật lớn, đồng
thời, mang thủ cấp của chàng trai là người chỉ huy của đối phương bêu lên ngọn
giáo. Vừa mới nhìn thấy đó là đầu của người yêu mình, H’Ly ngã lăn ra bất tỉnh
và ngã bệnh. Vị tù trưởng, cho mời các thầy lang giỏi nhất trong lãnh địa của
mình đến chữa trị cho con gái yêu, nhưng tất thảy đều vô hiệu. Càng ngày, nàng
H’Ly càng vàng võ. Và cho tới một hôm nọ, nàng bỏ nhà ra đi, tới nơi dòng sông
ngồi than khóc cho số phận. Nước mắt nàng làm cho cây rừng chung quanh khô lá,
những bông hoa thôi nở, chim chóc ngừng hót… Nước mắt nàng biến thành con suối,
thành dòng sông và cuộn trào tuôn đi, xói bờ đá cứng thành thác sâu, nước đổ
réo rắt như oán như than, sụt sùi tung bọt trắng ngầu cả một quãng sông dài.
Nàng than khóc mãi, rồi gục chết bên bờ sông. Sau này, cận thần tìm thấy xác
nàng đã hóa thành phiến đá đen, phía trên bậc thác. Các đời sau này, nhớ lại mối
tình bi thảm đó, bèn lấy tên nàng đặt tên cho thác là thác H’Ly.
Một số già làng khác thì kể rằng: Chàng trai và cô gái yêu nhau
nhưng hai vị tù trưởng ra sức cấm cản. Duyên không thành, chàng trai bỏ lên núi
Ngok Linh, còn nàng thì ra bờ suối, nơi hai người đã từng thề ước than khóc. Nước
mắt nàng chảy thành suối thành sông, xói mòn cả vỉa đá biến thành vực thành
thác rồi gục chết tại chỗ. Thương cảm mối tình chung thủy của nàng với người
yêu, dân làng đặt tên thác là thác H’Ly.
BẾN NƯỚC BUÔN CHƠ
Bến nước Buôn Chơ thuộc xã Krông Pa, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú
Yên, nằm sát bên bờ sông Cà Lúi, một nhánh nhỏ của thượng nguồn sông Ba. Quanh
năm sông Cà Lúi nước trong leo lẻo, đứng trên bờ có thể nhìn thấy rõ ràng khuôn
mặt mình dưới làn nước trong vắt. Người dân buôn Chơ đều lấy nước từ con sông
này dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Đứng trên cao nhìn xuống, thấp thoáng trong
những cánh rừng thưa, mỗi sáng mỗi chiều trai gái trong buôn mang gùi nước ra bến
sông, rực rỡ trong những tấm áo màu trong nắng vàng cao nguyên, toả tràn lên những
tán lá rừng xanh ngắt…
Bên bến nước Buôn Chơ có đó một tảng đá to, bằng phẳng trên phiến
đá ấy có in sâu vết lõm hình bộ xương của con lươn khổng lồ. Bên cạnh đó là tảng
đá khác cũng to lớn và phẳng phiu như vậy, in hình một dấu chân người khổng lồ.
Theo truyền thuyết, đó là dấu chân Y Rít, người đã tìm ra nguồn nước.
Truyền thuyết về dấu chân Y Rít
Tương truyền, thuở xưa dân làng sống rất khó khăn vì thiếu nước.
Mùa mưa, họ đắp bờ ngăn suối để giữ nước nhưng đến mùa khô, nước bị con rắn thần
hút hết, chỉ còn trơ lại lớp sỏi cát khô khốc. Dân trong các buôn lại lại thất
thểu đào bới, vét từng bụm nước đục ngầu bám đầy rong rêu trong các hang hốc.
Có nhiều năm phải chặt những đoạn dây rừng, dùng ống bương hứng lấy chút nước
ít ỏi để khỏi phải chết khát.Y Rít là chàng trai thông minh, quả cảm luôn ray rứt
với đời sống cơ cực của dân làng.
Trước cảnh tình cơ cực của người dân, Y Rít quyết tâm lên đường
đi tìm nguồn nước. Chàng đi từ núi cao xuống lũng sâu, từ trảng tranh xơ xác
này tới đồi núi chập chùng nọ. Đói chàng hái lá rừng ăn tạm, khát chàng chặt những
dây leo chằng chịt tìm chút nước cho đôi môi khỏi bị nứt nẻ. Chàng đi và đi
mãi. Hết ngày này sang ngày khác. Ngày đi đêm nghỉ, ròng rã nhiều tháng liền.
Cho tới một ngày kia chàng mệt lả vì đói và khát, nằm gục bên
gốc cây già, thiếp đi. Trong cơn mê, chàng bỗng nhìn thấy một khối lửa đỏ rực từ
trời cao bay xuống. Và từ trong quả cầu lửa rực rỡ kia, Giàng bước ra, khoan
thai đến trước mặt chàng nói: “Hỡi chàng trai quả cảm của Giàng, con hãy bước
tiếp đi về phía mặt trời, cho tới khi nào nghe thấy tiếng chim hót rộn ràng, tiếng
muôn thú hoan ca thì dừng lại. Đàn bướm đủ sắc màu sẽ đưa con tìm đến nơi con cần
tìm”. Nói vừa dứt câu, Giàng khoan thai bước vào trong quả cầu lửa và bay lên
trời cao. Y Rít bừng tỉnh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy một cao nguyên bao la,
cây cỏ xanh rì. Tuyệt nhiên không còn nghe và thấy điều gì khác hơn. Y Rít quơ
vội những nắm lá rừng trước mặt mình cho vào miệng nhai ngấu nghiến rồi vội vã
bước thấp bước cao về phía mặt trời với thể xác sắp suy kiệt.
Cuối cùng chàng tìm thấy một dòng sông nước trong vắt cùng với
đàn bướm đủ màu sắc bay lượn chung quanh. Y Rít từ trên bờ cao lao xuống dòng
nước trong, đắm mình trong đó nghe các đường gân, thớ thịt như đang từ từ dãn
ra. Bỗng có một con lươn to hơn con voi rừng, dài hơn những sợi dây mây, xé nước
lao tới đâm bổ vào người chàng. Y Rít nhoài người né sang bên với nỗi bàng
hoàng khôn tả xiết. Con lươn quay đầu lại, ngược dòng nước lao tiếp vào tấn
công chàng. Y Rít nhún người phóng lên bờ cát. Con lươn lao theo quấn chặt chân
chàng giữ lại, cố xé toạc bàn chân chàng. Y Rít dùng hết bình sinh uẩy con lươn
văng ra khỏi chân. Nhưng nó đâu dễ chịu thua. Cuộc chiến dằng dai bất phân thắng
bại, kéo dài mãi đến ngày thứ bảy thì cả hai bên gần như kiệt sức. Nhưng Y Rít
với sự sống còn của bộ tộc mình quyết tâm không để con lươn kia giết chết chàng
trước khi bộ tộc biết được nguồn nước. Và hình như con lươn kia cũng linh cảm
được rằng, nếu không giết chết được chàng trai trẻ kia thì vĩnh viễn giang sơn
của mình sẽ bị loài người chiếm giữ. Điều này đồng nghĩa với đất sống của nó
không còn nữa. Cả hai đều cảm nhận được điều hệ trọng này nên ra sức lần cuối
cùng, quyết quật chết kẻ thù. Chàng Y Rít đứng trên tảng đá thủ thế chờ con
lươn lao tới, và nó đã lao tới với tất cả sức lực còn lại. Y Rít dẫm mạnh chân
xuống tảng đá, tóm được đuôi con lươn, nắm chặt và nhấc bổng lên quay nhiều
vòng trên không. Con lươn rời khỏi làn nước trong, hình như không còn sức lực
như bình thường, nhẹ hẫng. Y Rít nghiến răng, bám chặt chân trên đá và quật mạnh
con lươn xuống tảng đá kề bên rồi nằm lịm đi. Chàng nằm ngất không biết bao
lâu…
Trong khi đó dân làng đang chờ đợi tin vui của Y Rít tìm ra
nguồn nước. Nhưng ngày này qua tháng nọ, bóng dáng chàng vẫn biệt tăm trên cao
nguyên bao la và núi rừng hùng vĩ. Không thể chờ đợi lâu hơn nữa, các trai làng
chia nhau đi tìm chàng, bởi Y Rít đối với họ là cuộc sống, là niềm tin, là sức
mạn. Toán trai làng khăn gói tỏa đi các hướng và một ngày kia họ tìm thấy xác
chàng trên tảng đá, bên cạnh là xác con lươn khổng lồ trên dòng sông nước cứ vô
tình trôi. Họ bàng hoàng nhìn cảnh tượng bày ra trước mắt như thể đó không thể
là sự thật. Nỗi đau khổ chen lần niềm vui sướng trào lên. Y Rít quả cảm đã hiến
dâng thân xác cho Giàng để dành lấy sự sống cho cả bộ tộc.
Ngoài ra còn có dị bản khác như:
Sau khi Y Rít quật chết con lươn khổng lồ, chàng lịm đi không
biết bao nhiêu ngày tháng. Khi tỉnh dậy, chàng nghe văng vẳng bên tai: “Con hãy
vốc nước rửa mặt, hái ngọn rau rừng bên bờ sông nhai và uống nước sông này sẽ
mau chóng phục hồi sức lực. Con hãy mau làm đi để còn kịp về báo tin vui cho
dân làng. Y Rít mở mắt ra nhưng không thấy một ai ngoài mình chàng và xác con
lươn nằm bất động trên tảng đá kề bên. Chàng làm đúng theo lời dặn và vội vã
lên đường trở về buôn làng cũ báo tin chiến thắng, tìm ra nguồn nước cho cuộc sống
dân làng.
Dân làng trong bộ tộc mừng vui khôn xiết, liền mổ trâu bò,
mang ra những ché rượu ngon nhất, nổi lửa nhảy múa suốt mấy ngày liền trước khi
lên đường đến nơi định cư mới. Cả bộ tộc coi chàng như vị cứu tinh, như một
Giàng giáng thế để mang lại sự sống cho họ bởi sau này, những cánh đồng cỏ bao
la sẽ dần dần thay thế bằng những cánh đồng trồng bắp lúa tươi tốt. Khi cả bộ tộc
đến nơi thì xác con lươn không còn nữa, chỉ thấy vết lõm in hình bộ xương lươn
khổng lồ, tảng đá kế bên là bàn chân lõm sâu của Y Rít.
Một dị bản khác kể rằng, Y Rít là con của một vị tù trưởng,
18 tuổi chàng đã cao lớn, sức vóc hơn người; đặc biệt với sức mạnh phi thường của
mình, không những tiếng tăm vang xa tới các bộ tộc khác mà còn khống chế được tất
cả mọi loài thú dữ. Mỗi khi chàng đi săn, không một con thú nào có thể thoát được.
Ngoài sức mạnh và tài nghệ bẩm sinh, Y Rít còn là chàng trai thông minh, có
lòng nhân hậu, luôn yêu thương đùm bọc tất cả mọi người trong bộ tộc, khoan
dung đối với các kẻ thù hiếu chiến của các bộ tộc khác…Cuộc hành trình tìm ra
nguồn nước của Y Rít cũng được kể như trên, nhưng điểm khác biệt sau khi giết
chết con lươn, Y Rít đưa dân làng đến lập làng mới ven sông Ba rồi lặng lẽ bỏ
đi, chỉ để lại dấu chân rất to in trên tảng đá cạnh tảng đá hình bộ xương con
lươn khổng lồ.
Ngày nay, tảng đá in hình dấu chân Y Rít đã trở
thành biểu tượng linh thiêng của dân làng. Mỗi khi gặp những trắc trở tình
duyên, chuyện làm ăn… người dân buôn Chơ đều đến bến nước, đặt bàn tay lên bàn
chân khổng lồ của chàng Y Rít cầu nguyện và được giúp đỡ.
ĐẦM Ô LOAN
Đầm Ô Loan thuộc địa phận huyện Tuy An, có diện tích toàn mặt
nước là 1.570ha, cách thành phố Tuy Hoà về phía bắc 20 km. Nước trong đầm thuộc
loại nước lợ (nước xà hai) do đầm ăn thông ra biển bằng cửa Lễ Thịnh, đưa nước
mặn vào đầm mỗi khi thuỷ triều lên; đầm cũng nhận nước ngọt từ sông Cái và các
con suối nhỏ chung quanh đổ vào. Do thế đất đồi là đất sỏi nhớt nên mùa mưa làm
xói lở, kéo theo lượng phù sa khá lớn bồi lắng lòng đầm. Do vậy, lòng đầm chỗ
sâu nhất khoảng 6 mét, chỗ cạn, thường là ven bờ, khoảng trên 1 mét. Riêng phía
trên cửa Lễ Thịnh thuộc địa phận An Hải mực nước sâu tới 10 mét.
Tuy vậy, khi đứng trên đỉnh đèo Quán Cau, du khách phóng tầm
nhìn bao quát khắp cả vùng thì đầm Ô Loan như một mặt hồ rộng yên ả được bao bọc
bởi những dãy đồi thấp thoai thoải với những ruộng mía xanh ngắt…Nhìn từ phía
nam, đầm Ô Loan giống như chim phượng hoàng đang xoải cánh, còn trên bản đồ Ô
Loan giống con thiên nga đang thong thả bay trên bầu trời cao xanh thăm thẳm.
Cũng từ đỉnh đèo Quán Cau nhìn xuống, khi tầm mắt chạm vào núi Từ
Bi có một doi đất chảy ra đầm Ô Loan, thì lại thấy đầm trông giống như con chim
hạc vừa giang đôi cánh rộng vừa vục đầu xuống đầm uống nước. Núi Từ Bi là một
nhánh nhỏ của đèo Quán Cau, có con suối cùng tên Từ Bi, bắt nguồn từ hòn Chồng.
Suối chảy ngoằn ngoèo qua các khe núi rồi đổ ra đầm, tạo nên cảnh quan thơ mộng.
Từ mạn Tây Bắc chạy ra tới An Ninh Đông là bãi cát vàng óng, có
rừng phi lao chạy dài theo men bờ nước, xưa kia là nơi trú ẩn của các loài chim
thú như le le, chàng bè, bồ nông, cò, diệc và nhiều nhất là vịt nước. Chúng
sinh sống thành từng đàn, bắt cá dưới lòng đầm.
Khi đứng ngắm mặt đầm buổi bình minh, du khách dễ có những tưởng
tượng, rằng các dãy đồi phía Đông-Nam như hình dáng con chim khổng lồ đang chuẩn
bị cất cánh bay lên trời cao lộng gió và nắng. Nhưng khi hoàng hôn buông xuống,
lại thấy cánh chim xoải rộng như đang xoè đậu bên cạnh mặt hồ lăn tăn gợn sóng…
Đây không phải là ảo giác mà chỉ vì quanh đầm có những ghềnh đá nhô xa ra ngoài
đầm tạo thành những mỏm mới thoạt nhìn có nhiều hình dạng khác nhau tuỳ theo
nhãn quan và tâm trạng mỗi người trong từng thời điểm khác nhau: như mỏm Cây
Sanh có lúc như cánh chim vươn cao, lúc nhìn như tà áo lụa xanh bay lất phất
trong nắng sớm. Có lẽ chính bởi thế núi đồi, vị trí của đầm nên nhiều tao nhân
mặc khách đã không tiếc lời ngợi ca qua nhạc họa thơ văn, mà tiêu biểu là nhà
thơ Xuân Diệu khi đứng nhìn mặt đầm đã thốt lên: “Mặt đầm, đôi cánh chim Loan mở”.
Còn trước đó khá lâu, thi sĩ Tản Đà đã ghé ngang qua đây và thốt lên rằng: “Lấy
chi vui với thu tàn; Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu”. Dung dị và mộc mạc
hơn, trong dân gian còn lưu truyền câu ca dao đánh dấu một giai đoạn lịch sử
hào hùng của nhân dân Phú Yên và riêng của Lê Thành Phương, người anh hùng của
quê hương đã ngẩng cao đầu trước lưỡi gươm kẻ thù:
“Ô Loan nước lặng như tờ
Thương người chiến sĩ dựng cờ Cần Vương
Trải bao gối đất nằm sương
Một lòng vì nước nêu gương anh hùng.”
Trong đầm còn có những rạng ngầm dưới mặt nước, là nơi để những
con hàu bám vào sinh sống, một loại hải sản ngon, mát bổ. Đầm Ô Loan có nhiều hải
sản sinh sống như tôm, cá, ghẹ, cua huỳnh đế, điệp, cá mú… nhưng ngon và nổi tiếng
nhất vẫn là con sò huyết Ô Loan cơm dày, thịt ngọt và rất thơm, thơm hơn sò huyết
các nơi khác, được du khách trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Trước đây, sò
huyết Ô Loan không chỉ có mặt khắp nơi trong nước mà còn xuất khẩu sang
Singapore, Thái Lan…
Hiện nay, đầm Ô Loan được Bộ VHTT xếp vào di tích danh thắng cấp
quốc gia. Hàng năm, vào ngày mùng 7 tháng Giêng âm lịch, nhân dân sống quanh đầm
tổ chức lễ hội đua ghe truyền thống, thu hút nhiều đội ghe đua ở các địa phương
khác đến tham gia. Trước đó, ngư dân cũng tổ chức cúng thần, cầu ngư, hò bá trạo…Trong
dân gian có nhiều huyền thoại về tên gọi đầm Ô Loan, nhưng gần gũi nhất là câu
chuyện về nàng Loan và chim Ô thước đã được truyền tụng từ đời này sang đời
khác. Theo lời kể của ông Cao Phi Yến một nhân sĩ và là nhà nghiên cứu văn hoá
dân gian kể lại rằng: Ngày xưa, có nàng tiên trên trời rất xinh đẹp tên nàng
Loan, nhưng tính tình hay tinh nghịch. Một ngày nọ nàng Loan mượn con chim Ô
thước bay xuống trần gian dạo chơi khắp nơi mà không hề để ý chim đã mỏi cánh,
đói và khát, nên khi ngang qua Tuy An, chim không còn đủ sức để bay, nên hạ
cánh xuống dãy núi Từ Bi, sau này mượn tên chim Ô thước của nàng Loan ghép
chung với tên nàng, gọi tắt là Ô Loan để đặt tên cho đầm.
Dị bản: Cũng y với câu chuyện này, nhưng chi tiết được thêm
thắt nên câu chuyện có một vài thay đổi: Nàng Loan vốn là tiên nữ trên trời,
nàng thích ngao du sơn thuỷ để nhìn ngắm cảnh đẹp sông nước, núi non. Một ngày
kia, nàng Loan cỡi con chim quạ bay ngang qua đất Phú Yên, thấy trên mỏm Cây
Sanh có một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú đang cuốc đất khẩn hoang trồng
cây lương thực. Nàng cho quạ hạ cánh xuống gần đó và núp trong bụi cây quan
sát. Càng nhìn, lòng nàng càng vương vấn; càng ngắm nàng càng thấy mình không
thể rời xa chàng được nữa. Thế là nàng Loan quyết định ở lại cõi hồng trần, xe
duyên kết tóc với chàng thanh niên nọ, ra sức khai phá đất đai, lập nên đất Tuy
An và sanh con đẻ cái lập thành làng mạc trù phú.
Những truyền thuyết, huyền thoại về một vùng đất
sẽ làm tăng thêm sức hấp dẫn và vẻ đẹp của vùng đất ấy, cho nên quanh đầm Ô
Loan, những truyền thuyết không chỉ dừng lại ở đây, mà con đem cả sự tích Cao
Biền, một sự tích có vẻ hoang đường nhưng được người đân địa phương nhiều thế hệ
kế tiếp nhau mượn cớ tô vẽ nhằm góp phần điểm xuyết cho Ô Loan thêm mỹ miều thơ
mộng hơn.
NHÀ THỜ MẰNG LĂNG
Nằm cách thành phố Tuy Hòa 35km về phía Bắc, nhà thờ Mằng Lăng là
một trong những nhà thờ cổ, được xây dựng vào năm 1892 tại xã An Thạch, huyện
Tuy An, tỉnh Phú Yên. Nơi đây lưu giữ cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt
Nam “Phép giảng tám ngày” của linh mục Alexandre de Rhodes in năm 1651 tại
Roma, Italia.
Hướng dẫn đường đi đến nhà thờ Mằng Lăng
Nhà Thờ Mằng Lăng nằm ở gần sông Cái, cách thành
phố Tuy Hòa khoảng 40 phút lái xe. Nếu bạn di chuyển đến nhà thờ bằng phương tiện
cá nhân, bạn có thể đi theo hướng dẫn sau đây:
Từ đường Hùng Vương (thành phố Tuy Hòa), bạn lái xe về hướng quốc
lộ 1A và chạy thẳng cho đến khi gặp ngã ba QL1A và đường Cầu Lò Gốm thì rẽ phải
vào đường Cầu Lò Gốm, lúc này bạn sẽ thấy bảng chỉ dẫn đến nhà thờ, chỉ cần đi
theo là tới. Đoạn đường này, bạn sẽ đi ngang qua trường mẫu giáo An Thạnh và
quán chè Bà Sau, bạn lưu ý 2 địa điểm này để đi tiện cho việc hỏi đường hoặc dò
đường nhé!
Nhà thờ Mằng Lăng được xây dựng trong khuôn viên 5.000 m2, theo lối
kiến trúc Gothic. Trên đỉnh của nhà thờ là hai tháp chuông hai bên, ở giữa là
thập tự giá, biểu tượng của thánh đường. Mặt tiền là những lối vào hình mái
vòm, các cửa sổ hình búp măng xung quanh phía trên tường bao bọc nhà thờ. Không
chỉ mang phong cách kiến trúc xuất xứ châu Âu, nhà thờ Mằng Lăng còn có những họa
tiết chạm trổ tinh xảo, toát lên chất mộc mạc văn hóa Việt trên những cánh cửa
chính bằng gỗ.
Khuôn viên nhà thờ thoáng mát, rợp cây xanh, trước sân có một khu
hầm nhỏ, được xây dựng khá kỳ công trong lòng một quả đồi giả. Bên trong hầm
lưu giữ cuốn sách "Phép giảng tám ngày" và nhiều bức điêu khắc chạm
trổ kể lại những câu chuyện về Chân Phước Anre Phú Yên(1625-1644), là một trong
những vị quan thầy của giáo lý viên và giới trẻ Công giáo thế giới.
“Phép giảng 8 ngày” là tên của cuốn sách Quốc ngữ đầu tiên với 319
trang, mỗi trang in thành 2 cột, được in song ngữ bằng tiếng Latin (bên trái)
và chữ Quốc ngữ sơ khai (bên phải), do tác giả Alexandre de Rhodes soạn.
Trên cuốn sách vẫn còn rất rõ dòng chữ ghi tên tác giả là Alexandre de Rhodes.
Trải qua thời gian và cải tiến của nhiều thế hệ người dùng, chữ Quốc ngữ đã tồn
tại và phát triển đến ngày nay và trở thành chữ Quốc ngữ chính thức của dân tộc
Việt Nam.
Nhà thờ Mằng Lăng là một trong những nhà thờ cổ,
được xây dựng vào năm 1892 tại xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên
Nhà thờ sơn màu xanh xám giản dị
Những khung cửa hình búp măng kiểu Gothic
Bên trong giáo đường rộng lớn của nhà thờ Mằng
Lăng
Trước sân còn có một khu hầm nhỏ, được xây dựng
khá kỳ công trong lòng một quả đồi giả
Không gian huyền bí bên trong hầm
Dưới hầm có một nơi dành cho giáo dân cầu nguyện
Trên bức tường hầm khắc hình ảnh ghi lại Thầy giảng
Anrê Phú Yên
được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong Á thánh Anre
Phú Yên năm 2000
Các hình ảnh
lưu niệm về Á thánh Anrê Phú Yên
Những hình ảnh về lễ phong Chân Phước Á thánh Anrê Phú Yên
năm 2000
Tóc Á thánh Anrê Phú Yên được lưu giữ trong hầm
Cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên của linh mục Alexandre de
Rhodes được lưu giữ tại nhà thờ
So với nhiều nhà thờ cổ nổi tiếng khác ở Việt Nam, nhà thờ Mằng
Lăng không lớn và thiết kế bên trong cũng đơn giản hơn, nhưng sự cầu kỳ trong
trang trí mỹ thuật là yếu tố ít nhà thờ nào khác sánh bằng. Đối với người Công
giáo Việt Nam, nhà thờ Mằng Lăng là nơi hành hương vào dịp lễ kỷ niệm Chân phước
Anrê Phú Yên và thánh lễ cầu cho giới trẻ Công giáo.
Theo các bậc cao niên trong vùng, tên gọi Mằng Lăng là lấy từ tên
của một loài cây trồng rất nhiều ở vùng này cách đây hàng thế kỷ. Trong nhà thờ
ngày nay còn giữ một bàn gỗ mặt tròn làm bằng gỗ mằng lăng, có đường kính 1,7m.
Tồn tại gần 130 năm, nhà thờ Mằng Lằng như một chứng nhân lịch sử,
một công trình kiến trúc đặc sắc nằm trên mảnh đất “Hoa vàng trên cỏ xanh” nổi
tiếng của Phú Yên với những bãi biển trong xanh và cát trắng mịn màng. Nhà thờ
Mằng Lăng thực sự là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước trong
hành trình du lịch Phú Yên./.
Nguồn: và ảnh: Đặng Kim Phương
https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/tin-tuc/mang-lang-nha-tho-luu-giu-cuon-sach-chu-quoc-ngu-dau-tien-cua-viet-nam-230875.html
Những điểm ăn uống ở gần nhà thờ Mằng Lăng
Nếu đã đến nhà thờ Mằng Lăng tham quan thì hãy lưu lại một số quán
ăn nổi tiếng sau đây nhé bạn:
Quảng Đức Xưa
Địa chỉ: 91 Quốc Lộ 1A, Huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên
Quảng Đức Xưa có không gian yên tĩnh, tràn đầy cây xanh và mang vẻ
đẹp cổ kính. Ở đây chuyên phục vụ các thức uống thơm ngon và những món ăn đặc sản
Phú Yên thơm ngon. Đặc biệt, Quảng Đức Xưa còn trưng bày những chiếc máy may
xưa, cát-xét cổ, cối đá thời xưa,...
Lục Thạch - Gà
và Hải Sản
Địa chỉ: Thôn Phú Hạnh, Huyện Tuy An, Phú Yên
Quán ăn nổi tiếng với những món làm từ mực tươi ngon, đặc biệt có
món mực xào chua ngọt thơm lừng khó lòng dừng đũa. Ngoài ra, quán ăn còn có nhiều
món ốc hợp vị, giá lại phải chăng. Nhiều du khách chia sẻ, một bàn ăn thịnh soạn
bao gồm gà rang sả ớt, lòng gà xào, trái cây và một ấm trà ngon chỉ tốn khoảng
200.000 VNĐ (đây là giá tham khảo, giá cả sẽ thay đổi theo từng thời điểm).
Bánh bèo Cầu
Lò Gốm
Địa chỉ: Cầu Lò Gốm, Xã An Thạch, Huyện Tuy An, Phú Yên
Quán bánh nằm ngay dưới chân cầu Lò Gốm nên rất dễ tìm. Bánh bèo ở
quán dẻo, mềm, không dày, ăn không cũng cực kỳ ngon. Khi ăn, bạn sẽ phết thêm một
lớp dầu hẹ, rải tôm khô và đậu xanh lên, ăn cực kì cuốn. À, món ngon này sẽ được
chấm với nước mắm có hương vị chua ngọt cay rất cuốn hút.
Chè Bà Sáu
Địa chỉ: Xã An Thạch, Huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên
Quán chè Bà Sáu nằm gần nhà thờ Mằng Lăng chuyên bán những món chè
dung dị với vị ngọt vừa phải, ăn vào một muỗng là thanh mát bất chấp ngày nắng.
Giá chè ở đây rất phải chăng chỉ từ 5.000 - 10.000VNĐ/ly (giá sẽ thay đổi tùy
vào thời điểm).
Cháo lòng gần
cầu Ngân Sơn
Địa chỉ: Thị Trấn Chí Thạnh, Huyện Tuy An, Phú Yên
Quán cháo lòng gần cầu Ngân Sơn có lẽ món ăn sáng quen thuộc của
người dân ở địa phương này. Cháo được nấu nhừ, có hương vị đậm đà được ăn cùng
với lòng heo tươi ngon hấp dẫn. Để món ăn thêm phần cuốn hút, bạn có thể cho
thêm nước mắm ớt, bẻ vụn một chút bánh tráng thêm vào cháo giòn giòn.
HUYỆN SÔNG CẦU
Là một trong hai huyện địa đầu phía bắc của tỉnh
Phú Yên, phía bắc giáp huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn của tỉnh Bình Định,
đông giáp biển đông, tây nam giáp huyện Đồng Xuân, nam giáp huyện Tuy An. Huyện
Sông Cầu có diện tích là 187, 3km2 trong đó đa số là đất nông nghiệp và đất
hoang.
Địa hình chủ yếu là đồi núi, vài cánh đồng lúa nằm giữa các ngọn
núi không cao. Bán đảo Xuân Hải (gồm xã Xuân Hải và Xuân Hòa), đầm Cù Mông, vịnh
Xuân Đài. Gồm 1 thị trấn và 9 xã là thị trấn Sông Cầu, xã Xuân Lộc, Xuân Bình,
Xuân Hải, Xuân Hòa, Xuân Cảnh, Xuân Phương, Xuân Thịnh, Xuân Thọ 1, Xuân Thọ 2.
Huyện Sông Cầu được tách ra từ huyện Đồng Xuân, ngay khi Phú
Yên được tách ra từ Phú Khánh. Các tuyến đường chạy qua huyện Sông Cầu là QL1A
nối với huyện Tuy Phước (Bình Định) và huyện Tuy An. QL1D nối với thành phố Quy
Nhơn ( Bình Định).
Vịnh Xuân Đài
Nằm cách Tp. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên khoảng 55km, vịnh Xuân Đài là
một vịnh nhỏ
nằm dưới chân dốc Găng – ranh giới giữa thị xã Sông Cầu và huyện
Tuy An, giáp
với nhau bởi hai xã An Dân <Tuy An> ở phía Bắc và Xuân Thọ
<Sông Cầu> ở phía
Nam, vịnh có diện tích mặt nước 13.045ha, được tạo thành nhờ dãy
núi Cổ Ngựa
chạy dài ra biển chừng 15km tạo nên bán đảo Xuân Thịnh bao bọc lấy
vịnh Xuân
Đài và đầm Cù Mông trông giống như hình cái đầu con Kì Lân. Khi đi
đường bộ lên
đến đỉnh dốc Găng và nằm trên QL.1A, ta có thể nhìn thấy toàn cảnh
của vịnh là
rừng dừa ôm sát bờ vịnh và vòng cung núi men theo khu vực vịnh.
Từ phía Nam đi ra, bắt đầu tại Chí Thạnh đến gần dốc Vườn Xoài
chừng 3km có
con đường đất rẽ trái đi về hướng tây bắc khoảng chừng 1km thì đến
dốc Xuân
Đài. Dốc ngược theo triền núi cao khoảng 500m. Leo lên dốc Xuân
Đài như thể ta
bước từng cấp một lên đỉnh Yen Tử, hai bên có nhiều cây cổ thụ với
tán lá che phủ
cả con đường đi vào một vùng rộng lớn. Đỉnh dốc phía Bắc có vườn
Cam nổi tiếng
thơm ngon, đã từng là vật phẩm tiến vua cùng với Xoài Đá Trắng.
Xuống khỏi dốc,
đi ngược về phía Nam gần 7km thì tới ngã ba Triều Sơn – nơi trước
kia triều đình
nhà Nguyễn có đặt hai khẩu thần công để bảo vệ vịnh Xuân Đài và
cho cả khu vực
này. Dốc Xuâyn Đài án ngữ trên con đường từ Bắc vào Nam, cho nên
muốn ra Bình
Định hay vào Phú Yên đều phải leo lên dốc Xuân Đài mà đi, không có
con đường
nào khác. Dốc cao, hiểm trở, mùa mưa thì trơn trợt do đất sỏi thấm
ướt, mùa nắng
nóng leo lên được tới đỉnh dốc cổ họng khô rốc, mà trên đỉnh thì
không có giếng
nước nào để uống đỡ khát,…
Giá trị văn hóa – lịch sử của vịnh Xuân Đài :
Ngược dòng lịch sử, vịnh Xuân Đài trưoc đây có tên là Bà Đài, một
thời từng là
trung tâm hành chính của tỉnh Phú Yên xưa. Theo sử liệu, “… Vào
năm 1629, thủ
phủ của tỉnh Phú Yên là thành Hội Phú được xây dựng tại cửa Tiên
Châu. Tòa
thành này tồn tại cho đến năm 1836 thì chuyển đến thành An Thổ
cách tòa thành
cũ khoảng 2km về phía Tây. Cuối thế kỉ 19, sau khi thiết lập nền
bảo hộ lên miền
đất Trung kì, Pháp đã đặt tòa Công sứ ngay tại Vũng Lắm vào năm
1887, đồng thời
cũng đặt Sở Thương chánh để kiểm soát việc buôn bán tại đây”
<Tư liệu Bảo tàng
tỉnh Phú Yên>.
Vũng Lắm nằm trong vịnh Xuân Đài cũng từng là thương cảng bậc nhất
của Phú
Yên trong quá khứ, là cửa ngõ thông thương giữa Phú Yên với bên
ngoài. Tại Vũng
Lắm có cộng đồng người Hoa đến định cư vào khoảng cuối thế kỉ 18 –
đầu thế kỉ
19. Công việc doanh thương của họ đã góp phần làm cho Vũng Lắm trở
nên sầm
uất.
Vịnh Xuân Đài là một địa danh gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử
liên quan đến vùng
đất Phú Yên cũng như của cả nước. Trong thời kì giao tranh giữa
nhà Tây Sơn với
nhà Nguyễn, vịnh Xuân Đài đã thành chiến trường với nhiều trận
thủy chiến lớn mà
một trong những lần quân chúa Nguyễn hành quân đến đây còn được
lưu lại trong
thơ cổ :
Duyệt nguyệt chu sư bạc tiểu thành, Bà Đài ngạn
thượng thả hưu binh Dịch
nghĩa :
Trải tháng chu sư đậu ở tiểu thành, lên bờ biển Bà Đài để tạm nghỉ
binh.
Vịnh Xuân Đài cũng là nơi diễn ra hoạt động ngoại giao đầu tiên
giữa VN và Chính
phủ Hoa Kì. “Năm1832, phái đoàn ngoại giao Hoa Kì do Edmund Robert
và George
Thompson mang theo thư của Tổng thống Andrew Jackson đến Vũng Lắm.
Vua
Minh Mạng cử viên Ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn
Phức đến cùng
quan tỉnh Phú Yên lên thuyền thiết tiệc và hỏi ý họ đến đây để làm
gì. Phái đoàn
Hoa Kì cho biết họ đến đây để xin giao hảo thông thương” <Tư
liệu Bảo tàng Phú
Yên>.
Tháng 04-1945, tàu hải quân của quân đội Nhật hoàng tiến vào vịnh
Xuân Đài
đánh chiếm để làm bàn đạp tiến sâu vào đất liền, nhưng đã bị phi
cơ Đồng minh
bắn chìm giữa vịnh. Thân tàu chìm khuất dưới làn nước sâu, chỉ còn
nhô lên cột cờ
tàu và đài quan sát. Cho đến những năm cuối thập niên 80 đầu 90
của thế kỉ trước
vẫn còn các dấu tích này trong vịnh Xuân Đài. Nhưng tiếc thay sau
thời gian đó,
những toán thợ lặn đã đến tháo gỡ toàn bộ thân tàu để lấy sắt thép
bán phế liệu.
Vịnh Xuân Đài – giá trị du lịch :
Từ một điểm có vị trí chiến lược trong lịch sử
của vùng nhưng đã bị lãng quên, giờ
đây vịnh Xuân Đài là một trong những vịnh được các chuyên gia đánh
giá là có
tiềm năng du lịch lớn nhất nhì miền Trung với cảnh sắc hữu tình,
có nhiều đảo, bãi
tắm rất đẹp và hoang sơ. Nơi đây đang được qui hoạch để phát triển
các loại hình
du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao nước, du lịch sinh thái biển.
Sở hữu nhiều vũng biển và bãi tắm đẹp như Vũng
La, Vũng Sứ, Vũng Chào,… và
nhiều đảo, bán đảo, như cù lao Ông Xá, hòn Nhất Tự Sơn, mũi Đá
Mài, mũi Tai
Mã,… vịnh Xuân Đài hợp cùng các danh thắng dọc bờ biển Phú Yên như
gành Đá
Đĩa, đầm Ô Loan, đầm Cù Mông,… tạo nên quần thể phong cảnh – di
tích độc đáo
lôi cuốn bước chân du khách mỗi lần đến “xứ nẫu” của Phú Yên.
Toàn cảnh vịnh Xuân Đài rất nen thơ. Chẳng vì thế mà Tam Thai đã
tức cảnh đề
thơ vịnh phong cảnh Xuân Đài <vào năm 1948> như sau :
Xuân Đài bốn mặt núi sông liền
Thắng cảnh nước non để dấu truyền
Thánh đế đền xưa nêu dấu tích
Tiên Châu chốn cũ hội thương thuyền
Hai sông giáp một triều lên xuống
Ba mặt gành đôi đá ngửa nghiêng
Trùng điệp dương xanh lồng cát trắng Rừng
cây nhân tạo giúp thiên nhiên.
Với ý nghĩa lịch sử lớn lao, vịnh Xuân Đài được Bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch xếp
hạng Di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia tại quyết định số
177/ QĐBVHTTDL
ngày 20-01-2011
Cá Ngựa Sông Cầu
Có cái đầu giống
như con Ngựa và sống dưới biển nên còn gọi là Hải Mã, bộ vây
của nó rất cứng, khi di chuyển
không thể uốn lượn giống như những loài khác.
Vùng nước lợ là môi trường rất
thuận lợi để Cá Ngựa sinh sống, ở VN có rất nhiều
nơi có Cá Ngựa, nhưng nhiều
nhất phải kể đến đó là Nha Trang – Khánh Hòa và
Sông Cầu – Phú Yên, người ta
đánh giá rằng Cá Ngựa Sông Cầu còn tốt hơn cả Cá
Ngựa ở Nha Trang, dĩ nhiên
khi mua thì phải mua Cá Ngựa còn sống và đầy đủ cả
2 mắt, đem về ngâm rượu mới tốt.
Phụ nữ ở những vùng nước lợ,
khi mang thai thường lấy một lọ nước, trong đó có 2
con Cá Ngựa, để dưới giường nằm,
hoặc lấy Cá Ngựa đã chết, sau đó tán ra thành
bột và cầm trên tay, theo
quan niệm Duy Tâm, họ làm như vậy với mục đích mong
muốn “mẹ tròn con vuông”, vì
tỉ lệ sinh nở của loài Cá Ngựa gần như thành công
100% <con đực mang thai
dùm cho con cái trong thời gian sinh nở>.
Về công dụng, loài Cá Ngựa có
rất nhiều công dụng, theo Đỗ Tất Lợi – giáo sư đạt
giải thưởng Hồ Chí Minh về Y
học, đã viết một quyển sách rất hay với tựa đề
“Thuốc và cây thuốc VN”, khoảng
6.000 trang, trong đó có một phần nhỏ nói về
công dụng của Cá Ngựa như bổ
dương, người Trung Quốc sử dụng Cá Ngựa để
điều chế thuốc chữa trị bệnh
liệt dương, theo kinh nghiệm dân gian nên người miền
Trung đã sử dụng Cá Ngựa rất
nhiều, cụ thể là ngâm Cá Ngựa, có nhiều cách
ngâm, nhưng yêu cầu đầu tiên
là Cá Ngựa phải còn sống, bỏ vào bình rượu khoảng
250ml, ngâm từ 5 – 10 ngày, nếu
như ngày nắng thì ngâm 5 ngày, còn ngày mưa
thì ngâm 10 ngày, sau đó mỗi
ngày uống đều đặn khoảng 2, 3 chung trong vòng từ
2 – 3 tháng, có tác dụng
tráng dương rất tốt. Ngoài ra, Cá Ngựa cũng có thể sấy
khô, đem tán bột rồi pha với
rượu và uống, nhưng cách này không tốt bằng cách
ngâm Cá Ngựa còn sống, cũng
có người ngâm Cá Ngựa với Bìm Bịp hay Tắc Kè,
công dụng cũng không thua gì
rượu Amacông trên Tây Nguyên, đặc biệt là Cá
Ngựa ngâm với nấm Nhục Thung
Dung, còn gọi là nấm Mã Tinh, người ta lên miền
núi, bắt những con ngựa thật
khỏe đem về tẩm bổ cho nó như Đông Trùng Hạ
Thảo, sâm Nhung,… đến giai đoạn
xung mãn, người ta đem con ngựa cái để kế bên,
lấy một tấm màn ngăn hai con
lại và không cho chúng giao hợp, con ngựa đực
ngửi thấy mùi con ngựa cái
nhưng lại không đến được, phía dưới của quý con ngựa
người ta để một đống rơm đã
tưới nước, tinh dịch của con ngựa đó thấm vào đám
rơm và mọc lên một loại nấm,
nấm đó gọi là nấm Mã Tinh <ở Sapa bán rất nhiều>.
Chuyên đề
CÁ NGỰA
Cá ngựa là một loài sinh vật thật
độc đáo của thế giới đại dương. Đầu và cổ chúng có hình dạng giống như
loài ngựa nên chúng được gọi là “cá ngựa” hay “hải mã”. Chúng còn có khả năng đổi
màu cơ thể theo môi trường xung quanh, do đó những chú cá ngựa có màu sắc
vô cùng đa dạng. Hãy cùng tìm hiểu những bí mật thú vị về loài sinh vật
này nhé!
1. Bí mật về cá ngựa
Cơ thể cá ngựa thật đặc biệt!
Bạn có biết cá ngựa không hề có vảy
như chúng ta tưởng tượng, mà có xương sống ở bên ngoài cơ thể? Chúng cũng
không có dạ dày và răng. Chính vì vậy, thức ăn đi vào hệ tiêu hóa của chúng rồi
nhanh chóng đi ra. Điều này lí giải vì sao cá ngựa ăn nhiều và ăn liên tục.
Cá ngựa dùng mõm của nó hút sinh vật nhỏ và sinh vật phù du ở gần mình. Một
số loài cá ngựa rất “phàm ăn”, chúng có thể ăn tới 3000 con tôm biển nhỏ mỗi
ngày.
Cá ngựa có thị lực rất tốt. Mắt
chúng có thể hoạt động độc lập với nhau, chẳng hạn một mắt nhìn đằng trước
và một mắt nhìn đằng sau. Điều này rất hữu ích trong việc tìm kiếm thức ăn xung
quanh cũng như quan sát các mối nguy hiểm.
Cá ngựa bơi khá tệ. Chúng di chuyển
bằng cách đập một chiếc vây nhỏ trên lưng liên tục với tốc độ khoảng 35
cái/giây. Vây ngực nhỏ ở phía sau đầu có vai trò như bánh lái cho cá ngựa.
Chiếc đuôi của cá ngựa cũng rất đặc biệt. Nó có khả năng quấn quanh thực vật nhỏ
để giữ cho cá ngựa không bị nước cuốn.
Cá ngựa sinh trưởng như thế
nào?
Không giống các loại cá khác, cá
ngựa là một loài động vật rất “chung thủy”. Chúng chỉ có một bạn tình duy
nhất trọn đời, và cá ngựa đực sẽ chăm sóc cá ngựa con chưa nở.
Cá ngựa đực có chiếc túi trên bụng giống như chuột túi (kangaroo)! Khi giao phối,
con cái đẻ trứng của mình vào túi của con đực, và con đực sẽ phóng tinh
trùng và thụ tinh trứng trong cơ thể của mình. Con đực giữ túi trứng này
cho đến khi trứng nở, con non phát triển đầy đủ rồi mới phóng những con non
ra ngoài môi trường. Quá trình này kéo dài khoảng 45 ngày.
Khi cá ngựa con được sinh ra,
chúng chỉ bé bằng một viên kẹo dẻo. Chúng ngay lập tức tìm những chú cá ngựa
khác, bám đuôi với nhau và bơi thành nhóm nhỏ. Khác với chuột túi, cá ngựa non
một khi được thả ra môi trường, sẽ không bao giờ quay lại chiếc túi của cá
ngựa bố nữa. Chỉ có 1/1000 cá ngựa con sống sót và trưởng thành.
Cá ngựa sống được khoảng từ 1 đến
5 năm, tùy thuộc vào từng giống cá ngựa.
Cá ngựa sống ở đâu?
Cá ngựa có thể được tìm thấy ở hầu
hết các vùng biển nhiệt đới và ôn đới trên thế giới. Tuy nhiên cá ngựa
sinh sống nhiều nhất ở khu vực biển Đông Nam Á, Nam Phi và kênh đào Panama, đặc
biệt ở các thảm cỏ biển, các rạn san hô, và rừng ngập mặn. Hiện nay trên
thế giới đã tìm thấy 54 loài cá ngựa.
Riêng ở Việt Nam có bốn loài cá
ngựa phân bố trên khắp các vùng biển từ Bắc tới Nam.
·
Cá ngự
a gai: ở vịnh Bắc Bộ, Đà Nẵng đến Bà Rịa- Vũng Tàu, Kiên Giang.
·
Cá ngựa
nhật: ở vịnh Bắc Bộ, Khánh Hòa, Bình Thuận.
·
Cá ngựa
đen: ở vịnh Bắc Bộ, Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Bà Rịa- Vũng Tàu), Kiên Giang,
Phú Quốc.
·
Cá ngựa
chấm: ở vịnh Bắc Bộ, Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Bình Thuận).
2. Cá ngựa đang ngày một giảm
đi!
Hiện nay, cá ngựa được xếp vào
danh sách động vật sắp nguy cấp trong Sách đỏ thế giới và nghiêm cấm việc
buôn bán, trao đổi cá ngựa theo Công ước Quốc tế vè buôn bán các loài động thực
vật hoang dã nguy cấp (CITES).[3] Ở Việt Nam, người ta cũng quan sát
thấy lượng cá ngựa giảm đi đáng kể.
3. Tại sao vậy nhỉ?
Cá ngựa bị săn bắt và trao đổi
mua bán ở nhiều nơi. Nhiều phương thuốc truyền thống từ Trung Quốc và Việt
Nam sử dụng cá ngựa để chữa các bệnh xương khớp và sinh lí. Cá ngựa còn bị săn
lùng và đưa vào nuôi trong các bể cá cảnh. Tại đây, chúng chỉ có thể tồn tại
khoảng 6 tuần rồi sau đó bị chết rất nhanh chón
Bên cạnh đó, so với các loài sinh
vật biển khác, cá ngựa còn rất dễ bị tổn thương bởi các chất gây ô nhiễm
hay bị gián đoạn nguồn thức ăn. Chính khả năng bơi lội giới hạn của cá ngựa khiến
cho chúng không có khả ăng thoát ra khỏi khu vực ô nhiễm một cách nhanh
chóng.[5]
Cá ngựa cũng đang mất dần môi trường
sống. Rạn san hô, thảm cỏ biển và đầm lầy ngập mặn là những nơi mà cá ngựa
thường trú ngụ. Những môi trường sống này đang dần bị phá hủy bởi ô nhiễm, các
hoạt động khai phá và biến đổi khí hậu. Các quần thể cá ngựa dễ dàng bị
phân mảnh và đối mặt với nguy cơ biến mất.
NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA LỄ NGHINH ÔNG
Từ lâu, hoạt động
thờ cúng Cá Ông đã trở thành một nét độc đáo trong văn hóa của người dân vùng
biển nói chung và trong đó Lễ Nghinh Ông tại Phú Yên lại được cho là một trong
những nghi thức ấn tượng nhất. Tương truyền rằng Cá Ông là tên gọi tôn kính mà
ngư dân vùng biển đặt cho cá voi – loài cá đã giúp đỡ ngư dân rất nhiều trong
đánh bắt ngoài khơi xa và cả trên đất liền. Nhằm thể hiện lòng biết ơn cũng như
cầu mong những chuyến đi biển lặng gió hòa, quốc thái an dân, ngư dân ra khơi
may mắn, người dân vùng đất trù phú này hằng năm tổ chức Lễ hội Nghinh Ông và
đưa lễ hội này trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống, mang ý nghĩa
cao về nghề nghiệp, đồng thời cũng là dịp để giải trí.
Nghi thức rước
Cá Ông trên biển
Đôi nét về các hoạt động tại lễ
hội
Lễ cầu ngư được tổ chức vào tháng
03 đến tháng 08 Âm lịch, thời điểm mà tiết trời khô ráo, sóng yên biển lặng, là
một dịp hết sức thích hợp để tổ chức các hoạt động ngoài trời. Nằm trong khuôn
khổ của Lễ hội Tôm hùm Sông Cầu, Lễ Nghinh Ông diễn ra với một số hoạt động sau
đây: Mở đầu buổi lễ sẽ là nghi thức Nghinh Ông, hay còn gọi là cúng và rước Cá
Ông về lăng, hòa chung cùng không khí trang nghiêm của nghi thức sẽ là những
giai điệu mang âm hưởng văn hóa dân gian, truyền thống của địa phương. Đặc biệt,
lễ hội lần này có quy mô lớn với sự tham gia của Ban Lãnh đạo Trung ương, Ban
Lãnh đạo tỉnh Phú Yên cùng các lãnh đạo sở, ban, ngành, đoàn thể, và đại diện
lãnh đạo thành phố Tuy Hòa, cùng lãnh đạo các doanh nghiệp, phóng viên cơ quan
báo chí. Đến với Lễ Nghinh Ông lần này, du khách còn được trải nghiệm các hoạt
động vui chơi, giải trí mang đậm nét dân gian của người dân địa phương có thể kể
đến: hát bội, đua thuyền, kéo co, đua thúng chai, bóng chuyền,…
Cuộc thi đua thúng chai tại thôn Hòa Lợi, thị xã Sông Cầu
Giới thiệu Lăng Ông và nghi thức
đón bằng công nhận Di tích Lịch sử – Văn hoá
Phú Yên hiện có 41 Lăng Ông trải
dài từ cực Bắc đến cực Nam của tỉnh, đây cũng chính là nơi người dân tổ chức Lễ
hội cầu ngư hằng năm. Tất cả Lăng Ông đều là công trình mang tính lịch sử với
thiết kế ngôi đình, họa tiết chạm trổ nghệ thuật, tỉ mỉ, đáp ứng nhu cầu bảo
lưu các giá trị văn hóa truyền thống. Chính vì vậy, cũng trong buổi lễ này, Bộ
trưởng Bộ văn hóa, thể thao và du lịch sẽ thực hiện nghi thức chứng nhận Di
tích Lịch sử – Văn hoá cấp tỉnh, thành phố đối với mộ Cá Ông Lăng Tân Thạnh.
Với mong muốn trời yên biển lặng,
lưới nặng khoang đầy, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, Lễ hội Nghinh Ông ngày nay đã
trở thành một nét văn hóa đặc trưng của người dân vùng biển Phú Yên khi gắn liền
với đời sống tâm linh, và thỏa mãn nhu cầu văn hóa của cộng đồng, bảo lưu các
giá trị văn hóa dân tộc, trao quyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, hướng về cội
nguồn và tưởng nhớ đến những người có công khai khẩn vùng đất nhắm phát triển
kinh tế thông qua thu hút du khách. Vì vậy, du khách đừng quên ghé Lễ hội Tôm
hùm Sông Cầu sắp đến để vui chơi và trải nghiệm trọn vẹn lễ hội văn hóa đặc sắc
trên!
TÔM HÙM
Tôm hùm nổi danh như một món quà
quý hiếm giữa lòng đại dương sâu thẳm dành cho những thực khách sành ăn bởi nó
mang đến hương vị ẩm thực đặc biệt và sở hữu nhiều giá trị dinh dưỡng rất có lợi
cho sức khỏe con người. Cùng HDV tìm hiểu Tôm hùm là gì? Giá trị dinh dưỡng
do Tôm hùm đem lại thông qua bài viết dưới đây nhé!
1. Đặc điểm nổi bật của Tôm
hùm
Tôm hùm thuộc họ Nephropidae, là
một nhóm sinh vật biển, thuộc họ động vật giáp xác sống với hơn 30 loài tôm hùm
càng và 45 loài tôm hùm gai từ nhiều vùng biển khác nhau trên thế giới. Có nhiều
giống tôm hùm điển hình như tôm hùm Alaska, tôm hùm Tây Úc, tôm hùm Nam Úc, tôm
hùm Bông,...Tuy nhiên dù thuộc giống nào thì tôm hùm cũng có những đặc điểm
chung như:
·
Tôm
hùm là gì?
Tôm hùm không phải là côn trùng
thay vào đó chúng là loài giáp xác thuộc ngành Arthropoda. Cơ thể của động vật
giáp xác tương tự như cơ thể của côn trùng nhưng chúng khác nhau ở nhiều điểm.
Tôm hùm không có râu và cánh trong khi côn trùng có một cặp râu và cánh. Tôm
hùm thường bao gồm năm cặp chân, mắt kép, hai cặp râu dài và chân để bơi được gắn
vào phần bụng thon dài. Cơ thể của tôm hùm được bao phủ bởi bộ xương ngoài là một
lớp vỏ cứng và cơ thể của chúng được chia thành các phần khác nhau. Tôm hùm chủ
yếu ăn động vật chết và do đó được gọi là động vật ăn xác thối nhưng chúng cũng
ăn cá sống, động vật thân mềm nhỏ và rong biển. Một số loài tôm hùm như tôm hùm
thật và tôm hùm gai có tầm quan trọng thương mại rất lớn.
Tôm hùm có răng bên trong dạ dày
ngay phía sau mắt giúp khuấy thức ăn. Tôm hùm đôi khi được gọi là bọ vì hệ thống
thần kinh của chúng tương tự như kiến và châu chấu. Một số loài cua được gọi
là tôm hùm Spiny Caribbean không có móng vuốt và được bán thương mại để lấy thịt
đuôi của chúng. Tôm hùm có màu xanh lục, xanh lam và một số có nhiều màu và
chúng sẽ chuyển sang màu đỏ khi được nấu chín.
Tôm hùm được xếp vào loại “động vật
thông minh tuyệt vời” cùng với một số loài động vật khác như cá heo. Chúng được
biết đến là loài có tính xã hội và cũng sử dụng các tín hiệu phức tạp để khám
phá môi trường xung quanh. Tôm hùm có khả năng nhận ra những con tôm hùm khác
và người quen, đồng thời cũng có những nghi thức tán tỉnh kéo dài.
·
Tôm
hùm sống ở đâu?
Tôm hùm là loài sinh vật đáy, sống
dưới đáy đại dương. Chúng thích nhiệt độ từ 15-18°C (59-64°F) và độ mặn 20-25
ppt. Tôm hùm Mỹ có thể được tìm thấy ở bờ biển phía đông của Bắc Mỹ, từ
Newfoundland đến Bắc Carolina. Tôm hùm nhỏ (chiều dài mai dưới 3.81cm) rất bí
hiểm, ẩn nấp trong và xung quanh các loại cỏ biển và môi trường sống bằng đá,
nơi cung cấp đủ thức ăn và nơi trú ẩn khỏi những kẻ săn mồi.
Tôm hùm con (1,5″ – 3,5″ chiều
dài mai) thống trị các môi trường sống ven biển và các khu vực ngoài khơi. Họ
thường thể hiện hành vi di cư tối thiểu. Những con tôm hùm trưởng thành lớn
hơn, linh hoạt hơn có thể sống ở vùng nước sâu hơn nhưng quay trở lại vùng nước
nông, ấm hơn theo mùa.
·
Thức
ăn tôm hùm có gì đặc biệt?
Tôm hùm là loài hải sản có họ
hàng gần với côn trùng vì chúng có bộ xương ngoài và có khớp chân giống loài nhện.
Tôm hùm có thị lực kém nên chúng phụ thuộc vào khả năng nếm và ngửi khi di chuyển
dưới đáy đại dương. Cá, tôm, cua ghẹ, cầu gai, giáp xác nhỏ, nhuyễn thể,…ngoài
ra còn ăn các loại thực vật như rong rêu, là những loại thức ăn được tôm hùm
yêu thích.
Sở hữu lượng dinh dưỡng khổng lồ
khi chứa nhiều đồng, đồng thời cũng chứa nhiều dưỡng chất có lợi cho sức khỏe
như kẽm, phốt pho, vitamin B12, magie, vitamin E và axit béo Omega-3. Ước tính
một phần 0.08kg tôm hùm gai cung cấp 200 đến 500 miligam (mg) omega-3 giúp giảm
sự bốc đồng và trầm cảm ở người lớn.
Tôm hùm đặc biệt chứa Cholesterol
nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng không phải tất cả hàm lượng chất béo cho cơ thể.
Trong thịt tôm hùm có chứa chất béo không bão hòa đa có thể giúp giảm mức
cholesterol giúp hạn chế nguy cơ về đột quỵ và các bệnh về tim mạch.
Thiếu hụt selen ở trẻ em cũng là
một yếu tố môi trường có thể dẫn đến rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Đảm
bảo rằng một đứa trẻ tiêu thụ đủ selen có thể giúp giảm nguy cơ mắc chứng ADHD.
Hàm lượng đồng trong tôm hùm cao
nhất trong bất kỳ loại thực phẩm nào. Đồng và sắt tác dụng sẽ tạo ra hồng cầu,
nên khi hấp thụ đủ đồng thì sẽ có lợi cho nhiều người bị thiếu máu. Tôm hùm
cũng là một loại hải sản chứa đựng nguồn selen tốt để giúp cải thiện sức khỏe,
cải thiện tâm trạng và cải thiện chức năng tuyến giáp.
3. Các món ăn ngon từ tôm hùm
Bếp Hoàng Gia sẽ giới thiệu cho
các bạn những món ăn được “biến tấu” hấp dẫn từ tôm hùm:
·
Tôm
hùm hấp bia
- Chuẩn bị nồi hấp size lớn bỏ
vào khoảng 2-3 lon bia, đun sôi.
- Làm sạch tôm hùm rồi cho chúng
vào nồi hấp.
- Trở tôm để tôm chín đều, khoảng
15-20p khi tôm chuyển sang màu đỏ cam, đẹp mắt là tôm chín hẳn, có thể vớt ra để
thưởng thức.
·
Tôm
hùm nướng phô mai
- Làm sạch tôm, cắt ra thành 2 nửa,
thêm một chút muối và tiêu.
- Chuẩn bị bếp than để nướng,
quan sát thấy than lửa đang hồng thì cho than lên nướng.
- Chuẩn bị sẵn 1 bịch phô mai
Mozzarella, đặc biệt dùng trong làm bánh pizza.
- Khi trở tôm nướng được khoảng
10 phút thì rắc phô mai lên trên và tiếp tục nướng thêm khoảng 5p, phô mai tan
chảy thấm vào tôm cũng là lúc tôm chín.
·
Tôm
Hùm cháy tỏi
- Làm sạch tôm và chẻ dọc thân
tôm thành 2 nửa.
- Làm nóng chảo bằng nhiều dầu và
phi 5 củ tỏi lớn, đến khi phi vàng thì vớt ra để riêng.
- Sau khi vớt tỏi đã phi vàng ra
để riêng thì tiếp tục đặt tôm hùm vào chảo (tôm nằm ngập trong dầu ăn), chiên
tôm đến khi chín rồi vớt ra.
- Làm nóng chảo khác, cho 60gr bơ
mặn rồi bỏ tỏi đã phi vàng vào và đảo đều tay, đến khi hỗn hợp đã hòa quyện thì
tắt bếp.
- Cho tôm hùm vào hỗn hợp vào xốc
đều đến khi đều rồi trình bày ra dĩa và thưởng thức.
ĐÈO CÙ MÔNG
Dài 9km l à ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Bình
Định. Theo truyền thuyết thì “Cù” có nghĩa là quái vật, “Cù Mông” có nghĩa là
con rồng nhỏ. Chuyện kể rằng thuở xưa trong khu rừng này có một con rắn sống rất
lâu năm, nó có tâm tu luyện để được hóa kiếp mà tu mãi nó cũng chỉ là một con rắn.
Thất vọng nó đi tìm Phật để hỏi lí do. Trông thấy nó cũng có tâm hướng thiện Phật
bảo nó phải nằm yên một chỗ không được cử động để tịnh tâm. Rắn mừng lắm, nó trở
về và quyết tâm làm theo những gì mà phật đã dạy nó. Cứ thế năm tháng trôi qua
rắn đã nằm yên như thế đã ngàn năm và chắc đã toại nguyện nếu không có một ngày
kia có một tay thợ săn vào rững săn thú đã làm hỏng tâm huyết của con rắn đáng
thương nọ. Chàng thợ săn đó vào rừng đã vài hôm và cảm thấy mệt nên quyết định
tìm một chỗ nào đó để nghỉ mệt. Thấy có cành cổ thụ nằm bên đống lá rừng chàng
bèn ngồi xuống nhóm một đống lửa và định nấu một món gì đó ăn, nhưng chàng có
ngờ đâu khúc cây khô chàng ngồi chính là chỗ con rắn đang nằm khổ công tu luyện,
đống lửa chàng đốt ngày càng cháy lớn, nó táp vào da, thịt con rắn. Rắn quyết
tâm chịu dựng vì không nỡ thấy tâm huyết lâu nay của mình phút chốc bị tiêu hủy,
nhưng cuối cùng rắn cũng không chịu nổi nó phóng mình xuống khe núi, cảm động
cho hoàn cảnh của con rắn, Phật đã hóa nó thành con rồng nhỏ.
Qua đèo Cù Mông, đến ngã ba, rẽ phải vào thành phố Quy Nhơn.
ĐẶC SẢN PHÚ YÊN
1.Sò huyết Đầm Ô Loan
Đặc sản Phú Yên đầu tiên phải kể đến sò huyết đầm Ô Loan nha!
Phải công nhận rằng nếu ăn từng qua món đặc sản Phú Yên này sẽ mãi tương tư bời
thịt sò huyết đầm Ô Loan có vị ngọt bùi tự nhiên, con sò thì to, thịt màu đỏ
tươi mà lại có quanh năm. Sò huyết đầm Ô Loan có nhiều cách chế biến như hấp, nấu
cháu nhưng ngon nhất là nướng hoặc xào me. Nếu có dịp đi du lịch Phú Yên nhớ thử
qua món đặc sản nổi tiếng này nha bạn
Địa chỉ ăn sò huyết đầm Ô Loan ngon nhất Phú Yên
Quán Tuấn - Đầm Ô Loan - Tuy An, Phú Yên
Quán Chúc Xíu - Bạch Đằng, 3, Tuy Hòa, Phú Yên
Quán Hải Sản Cây Phượng - Bạch Đằng, 3, Tuy Hòa, Phú Yên
2. Ghẹ sông Cầu
Đặc sản Phú Yên tiếp theo nhất định phải thử là ghẹ sông Cầu.
Không biết vì sao nhưng ghẹ sông Cầu lại chắt thịt, có vị ngọt thanh tự nhiên
và ngon hơn ghẹ ở vùng khác. Món đặc sản Phú Quốc ngon này thường được rang muối,
nướng mọi, nấu cháo nấu lẩu nhưng theo Cuồng Du Lịch thì ngon nhất là hấp
nha. Chỉ bạn cách phân biệt ghẹ sông Cầu là con nhỏ bằng nắm tay, thân có màu
xanh thẫm riêng càng và yếm có đốm trắng nha.
Địa chỉ ăn ghẹ sông Cầu ngon ở Phú Yên
Quán Bồng Bềnh - Địa chỉ: Cầu Mới Xuân Bình, Sông Cầu, Phú
Yên.
Bè hải sản Út Uyên - Địa chỉ: Bờ Kè Diêm Trường, xã Xuân
Bình, Sông Cầu, Phú Yên
Quán Thằng Bườm - Địa chỉ: Bờ kè cầu Tam Giang (cách 3m),
Sông Cầu, Phú Yên.
3. Dê núi Chóp Dài
Đặc sản Phú Yên không chỉ có hải sản mà còn có thịt dê nữa
nha, mà nổi tiếng nhất là dê núi Chóp Dài. Bạn biết không, núi Chóp Dài còn gọi
là ngọn núi sét đánh vì trên núi có hệ thống phát thanh truyền hình, ra đa quân
sự nên vào mùa mưa thường có sét đánh. Xung quanh núi Chóp Đài nuôi rất nhiều
dê. Và thịt dê núi Chóp Đài đặc biệt thơm ngon hơn nơi khác nên tiếng lành đồn
xa rồi trở thành đặc sản Phú Yên lúc nào không hay. Và món đặc sản Phú Yên này
có nhiều các chế biến ngon như dê hấp cuốn lá mơ, dê nướng lá lốt, cổ dê hấp
bia,…
Địa chỉ ăn dê núi Chóp Dài ngon ở Phú Yên
Dê Chóp Chài – 644 Nguyễn Tất Thành, KP. Phước Hậu 1, Xã Bình
Kiến, Tp.Tuy Hòa
Dê Phương Đông – Thôn Giai Sơn, Xã An Mỹ, H.Tuy An
Dê Tươi 345 – 226 Nguyễn Tất Thành, P. 8, Tp.Tuy Hòa
>>>Xem thêm Chia Sẻ Lịch Trình
Du Lịch Phú Yên 2 Ngày 1 Đêm Tự Túc 1tr5/Người
4. Gà nước mặn
Kể ra chắc nhiều bạn sẽ bất ngờ vì tuy món đặc sản Phú Yên
này tên là gà nước mặn nhưng đó không phải là gà đâu nha mà đó chính là loài cá
bò hòm. Thân cá hòm bò toàn thịt trắng phau lại không tanh mà còn dai thơm như
thịt gà nên gọi thành gà nước mặn. Và món đặc sản Phú Yên này ngon nhất là đem
nướng mọi rồi chấm với muối tiêu chanh bao ngon bao ghiền nha
Địa chỉ ăn gà nước mặn ngon ở Phú Yên
Quán hải sản Năm Sánh - Địa chỉ: 301 – 303 Hùng Vương, P.7,
Tp. Tuy Hòa, Phú Yên
Quán Lâm Hùng - Địa chỉ: Cầu Long Phú, Xã An Cư, Tuy An, Phú
Yên
Quán Thúy Kiều - Địa chỉ: Đầm Ô Loan, Xã An Hải, Tp. Tuy Hòa,
Phú Yên
5. Bánh canh hẹ
Bánh canh hẹ là món ăn sáng bình dân mà bạn dễ dàng bắt gặp ở
nhiều gốc đường tại Phú Yên. Món đặc sản Phú Yên khác với bánh canh nơi khác ở
chỗ sợ bánh canh làm bằng bột gạo, thơm dai mà không bở. Trong bánh canh hẹ Phú
Yên còn có chả cá làm bằng cá cờ, cá thu nên luôn dai ngon kèm với lớp hẹ cắt
khúc càng làm tăng hương vị cho món ăn. Bên cạnh đó nét đặc biệt của món đặc sản
Phú Yên này ở chỗ nước lèo không được ninh từ xương hay thịt heo mà là cá biển
tươi tạo nên vị ngọt thanh đậm đà khó cưỡng.
Địa chỉ ăn bánh canh hẹ ngon nhất Phú Yên
Bánh canh hẹ Thanh Tâm - Địa chỉ: 53 đường Điện Biên Phủ,
P.7, Tuy Hòa, Phú Yên
Bánh canh hẹ Cô Thi - Địa chỉ: 81B Trần Phú, phường 7, Tuy
Hòa, Phú Yên
Bánh canh hẹ xứ Nẫu - Địa chỉ: 222 Trường Chinh, phường 7,
Tuy Hòa, Phú Yên
TOP 10 NHÀ HÀNG PHÚ YÊN NGON
1.Nhà hàng Bò 1 nắng Dì Mai
Địa chỉ: 350 Trần Hưng Đạo, Phường 6, Tuy Hòa, Phú Yên
Hotline: 081 222 3542 - W:balangruoi.com.vn
Có nhiều bạn chưa biết chứ bò 1 nắng cũng là một đặc sản Phú
Yên nổi tiếng và nhà hàng Bò 1 nắng Dì Mai cùng là nhà hàng chuyên thịt bò xin
sò nhất Phú Yên nha. Thiết kế của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này khá đơn giản,
hiện đại và sạch sẽ.
Nhưng cái đặc sắc là món ăn với menu phong phú hơn 40 món
ngon như cơm chiên dưa bò, gỏi bò bóp thấu, lá xách bò xóc mật,… nhưng vedette
của nhà hàng bò 1 nắng Dì Mai chính là món bò nướng tảng nha. Tuy nhiên nhược
điểm duy nhất của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này là hơi nhỏ nên chỉ phù hợp với
các nhóm khách du lịch Phú Yên gia đình hoặc theo đoàn nhỏ thôi.
2. Nhà hàng hải sản Quang Anh
Địa chỉ: Đầm Ô Loan, Cầu, Tuy An, Phú Yên
Hotline: 094 415 78 87 - E: nhahanghaisanquanganh@gmail.com
Phải nói hải sản Phú Yên ngon nhất là ở đầm Ô Loan còn nhà
hàng hải sản ở đầm Ô Loan ngon thì có nhà hàng hải sản Quang Anh. Về thiết kế của
nhà hàng hải sản Phú Yên nổi tiếng này khá đơn giản, như kiểu bè hải sản nhưng
không gian rộng rãi, thoáng mát và sạch sẽ. Nhưng bù lại có những góc check in
cực chill và chỗ đậu xe rộng rãi.
Về món ăn thì như trong tên gọi nhà hàng Phú Yên này chuyên về
hải sản nhưng nổi tiếng nhất là cua. Bởi vậy mà nhà hàng hải sản Quang Anh Phú
Yên còn có biệt danh là vua cua đầm Ô Loan. Món ngon của nhà hàng phải kể đến
cua sốt trứng muối, cua rang me, lẩu riêu cua,… Giá ăn uống tại nhà hàng hải sản
Quang Anh giao động từ 200k – 300k nha
3. Nhà hàng Hàu Sữa Đầm Ô Loan
ĐC:Đầm ô loan, Tuy Hòa, Vietnam
T: 093 487 28 72 – E: Nhahanghausuadamoloan@gmail.com
W:Hausuadamoloan.com
4. Nhà hàng Cơm niêu Năm Ánh
Địa chỉ: 394 ĐL Hùng Vương, Phường7, Tuy Hòa, Phú Yên
Hotline: 093 548 73 77 – E:salecomnieunamanh@gmail.com
Nếu đi du lịch Phú Yên và đã chán với hải sản mà bỗng thèm bữa
cơm nhà thì hãy đến nhà hàng cơm niêu Năm Ánh nha bạn. Đây là nhà hàng cơm niêu
Phú Yên nổi tiếng với không gian hiện đại, sang trọng và rộng rãi. Nhà hàng cơm
niêu Năm Ánh chuyên về các bữa cơm gia đình với các món ăn dân dã quen thuộc của
người dân xứ nẫu như cá bống trứng kho tộ, cá đục đầm Ô Loan, hay mực xào mướp
non, mắt cá ngừ đại dương,… Giá cả ăn uống tại nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này
khá hợp lý, đặc biệt có những set cơm đoàn chỉ 130k/khách thôi
5. Nhà hàng Ẩm Thực 338
Địa chỉ: Số 03 Trần Cao Vân, Phường 4, Tp. Tuy Hòa, Phú Yên
Tel: 0257 3898 338 – E:amthuc338py@gmail.com
Thiết kế hiện đại, sang trọng và lịch sự là những
miêu tả chính xác về nhà hàng Ẩm Thực 338. Nhà hàng Phú Yên này như một tòa biệt
thự 3 tầng xinh đẹp, vừa có không gian ngoài trời và không gian trong nhà cho bạn
lựa chọn. Sức chứa của nhà hàng Ẩm Thực 338 khoảng 200 khách nên ngoài phục vụ
các bữa cơm gia đình còn là địa chỉ quen thuộc của các buổi tụ tập liên hoan của
các nhóm khách du lịch Phú Yên
Menu của nhà hàng Phú Yên này khá đa dạng từ Á sang Âu và cả
đặc sản Phú Yên nữa. Món ăn ngon, trình bày đẹp mắt và giá cả hợp lý là những
dánh giá của thực khách đã dũng bữa tại nhà hàng Ẩm Thực 338 này.
6. Nhà hàng Chúc Xíu
Địa chỉ: 5 Độc Lập, Phường 6, Tuy Hòa, Phú Yên.
Tel: 070 327 9999
Tên gọi Chúc Xíu nhưng không hề xíu chút nào nha bạn. Nhà
hàng Phú Quốc ngon này là tòa nhà 2 tầng, được thiết kế đơn giản hiện đại. Đặc
biệt là có không gian ngoài trời, sảnh chung, phòng lại riêng và cả khu vực sân
thượng nữa. Sức chứa của nhà hàng Chúc Xíu Phú Yên khoảng 250 khách nên phù hợp
cho cả nhóm khách đoàn và khách lẻ luôn.
Về món ăn của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này chuyên về hải sản
tươi sống và cả đặc sản núi rừng luôn nên menu rất đa dạng. Đặc biệt nhà hàng
Chúc Xíu cũng nằm gần biển Tuy Hòa nên luôn mát mẻ, đáng để thử nha bạn
7. Nhà hàng Đại Dương
Địa chỉ: Lô A12 Đại Lộ Hùng Vương, Tuy Hòa, Phú Yên.
Điện thoại: 077.220.2882
– 090.569.4339 - Email: sale@daiduongtuyhoa.com
Phải nói rằng nhà hàng hải sản Đại Dương là một trong nhưng
điểm ăn uống quen thuộc không chi của người dân địa phương mà còn có nhiều
khách du lịch Phú Yên nữa. nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này có thiết kế hiện đại
sang trọng, không gian rộng rãi. Ngoài sảnh chung thi nhà hàng Đại Dương cũng
có phòng riêng, có trang bị sân khấu âm thanh ánh sáng cho các bữa tiệc liên
hoan giao lưu nhóm đoàn nữa nha
Về món ăn thì nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này chuyên về hải sản
tươi sống nha. Trong đó nổi tiếng có tôm hùm xanh, cua đỏ, cá đuối nghệ,…
8. Nhà hàng Làng Chài Phù Đổng
Địa chỉ: 407 Lê Duẩn, Phường 9, TP Tuy Hòa Phú Yên
Hotline: 088 671 08 08 – E: langchaiphudong@gmail.com
Nhà hàng hải sản Làng Chài nằm trên cung đường từ trung tâm đến
2 địa điểm du lịch Phú Yên nổi tiếng là Gành Đá Dĩa và Bãi Xếp nên là điểm dừng
chân ăn uống của nhiều nhóm khách đoàn du lịch Phú Yên. Nhà hàng hải sản Phú
Yên nổi tiếng này có không gian cực kỳ rộng với sức chứa 500 khách. Không gian
nhà hàng lại sang trọng, lịch sự nên phù hợp cho những bữa tiệc liên hoan, gala
dinner đoàn thể. Còn về món ăn thì tất nhiên nhà hàng Làng Chài Phú Yên chuyên
về hải sản tươi sống và những món ăn dân dã đặc sắc của người dân xứ nẫu.
9. Nhà hàng Đông Quảng
Địa chỉ: Số 775 Hùng Vương, Tp. Huy Hòa, Phú Yên
Hotline: 093 439 79 80
Điểm thu hút của nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này chính là
không gian mở, rộng rãi. Toàn bộ nhà hàng Đông Quảng được làm bằng gỗ và mái
ngói mang hơi hướng hoài cổ, tinh tế lại nằm trên một hồ sen tuyệt đẹp. Như đưa
thực khách về lại chốn bình yên thời xưa cũ để thoải mái tận hưởng bữa ăn của
bình.
Bên cạnh đó nhà hàng Phú Yên nổi tiếng này còn phục vụ cơm
gia đình với các món đặc sản 3 miền bắc trung nam. Món ăn khá rẻ chỉ từ 30k/phần,
nêm nếm vừa miệng lại đẹp mắt. Thái độ phục vụ tại nhà hàng Đông Quang Phú Yên
cũng được đánh giá khá chuyên nghiệp và nhanh nhẹn nữa nha bạn.
10. Nhà hàng hải sản sân vườn Canary
Địa chỉ: Mai Xuân Thưởng, Phường 5, Tuy Hòa, Phú Yên
Hotline: 090 197 08 68 – W: seafoodgardencanary.com
Với vị trí nằm ngay trung tâm thành phố Tuy Hòa lại có không
gian rộng rãi nên nhà hàng hải sản Canary là điểm ăn uống quen thuộc của nhiều
nhóm khách du lịch Phú Yên. Nhà hàng hải sản Phú Yên nổi tiếng này được thiết kế
hiện đại, lịch sự với 2 sảnh ngoài, 1 sảnh trong và 5 phòng lạnh riêng với sức
chứa gần 500 khách. Các món ăn tại nhà hàng hải sản Canary Phú Yên chuyên về hải
sản, món ăn được chế biến đa dạng, ngon miệng và đẹp mắt. Nhân viên phục vụ
chuyên nghiệp và nhiệt tình.
11. Nhà hàng sân vườn Hoàng Gia
Địa chỉ: Số 259 Hùng Vương, Phường 9, Tp. Tuy Hòa, Phú Yên
Điện thoại: 0888
666 456
Đây là một nhà hàng Phú Yên nổi tiếng có không gian đẹp, hiện
đại và sang trọng. Nhà hàng sân vườn Hoàng Gia Phú Yên có cả không gian ngoài
trời và không gian trong nhà với sức chứa khoảng 200 khách. Các món ăn tại nhà
hàng Phú Yên nổi tiếng này chuyên về ẩm thực 3 miền từ nguồn nguyên liệu hải sản
tươi sống có sẵn nên món ăn luôn đảm vảo độ tươi ngon. Bên cạnh đó về giá cả và
thái độ phục vụ của nhân viên cũng được đánh giá tốt. Nên nếu bạn đi du lịch
Phú Yên mà chưa biết ăn ở đâu thì nhà hàng sân vườn Hoàng Gia là một gợi ý hay
cho bạn nha.
Phong tục cưới hỏi của người Chăm Phú Yên
Người Chăm Phú Yên có những phong tục
lâu đời như mừng tuổi trưởng thành cho con cháu, cúng bến nước, lễ rước hồn
lúa… Trong đó phải kể đến phong tục lễ cưới xin với những nghi lễ độc đáo.
Bắt chồng
Già làng A Ma Liên ở xã Cà Lúi, huyện
Sơn Hòa cho biết: “Người Chăm theo mẫu hệ, nên đằng gái phải có lễ dạm
ngõ, lễ cưới chồng hay còn gọi là tục bắt chồng. Tùy theo gia đình, có những cô
gái mới 9 - 10 tuổi, cha mẹ đã đi hỏi chồng cho con. Theo luật tục, chàng rể
tương lai lấy sợi chỉ đỏ đến cột tay người con gái làm bằng chứng, để khi trưởng
thành họ sẽ lấy nhau. Bên nào sau này đổi ý phải đền 1 cái nồi bung bằng đồng
hay cái ché túc giá trị bằng 1 con bò đực”.
Lễ dạm hỏi, bên
nhà gái đi từ 3 - 5 người. Khi đi phải mang theo 1 con dao dài hơn 30 cm, cán
làm bằng sừng nai, một chùm lục lạc cỡ bằng cán rựa, hoặc cổ tay, kêu rủng rẻng.
Nếu nhà gái ở buôn làng xa, chờ lúc mặt trời khuất núi mới đi vào buôn, tìm những
gia đình không có bà con ruột thịt với nhà trai để ở trọ. Những người đi lễ hỏi
tới thăm dò già làng trước, sau đó mới đến các gia đình họ hàng, chú bác nhờ họ
thông báo cho gia đình nhà trai biết. Nhà gái chờ đợi kết quả đồng ý hay không
đồng ý từ phía dòng họ, cha mẹ và chàng trai. Nếu thuận lòng, nhà trai nhắc một
ché rượu và đem ra một chiếc cong bằng đồng, bên nhà gái đi hỏi cũng lấy ra một
chiếc cong bằng đồng, móc chung 2 chiếc chỗ tai ché rượu, cùng mời Yàng và các
thần linh sông núi, ông bà tổ tiên chứng kiến, rồi hai bên hẹn ngày cưới và
trao 2 chiếc cong, con dao, lục lạc cho nhà gái.
Ông Ka Sô Thơ -
Phó Chủ tịch UBND xã Sông Hinh, huyện Sông Hinh cho biết: “Phong tục trong tổ
chức đám cưới, trước hết là do nhà trai quy định thời gian, điều kiện vật chất;
phía gái thực hiện lễ vật như trâu, bò, rượu, áo, ênh, khố dệt bằng thổ cẩm… Lễ
cưới của người Chăm Phú Yên thường tổ chức vào mùa Xuân, mùa của lễ hội”.
Theo luật tục, vợ
về dự lễ cưới phía chồng, ra mắt họ hàng nhà trai và bà con buôn làng. Đám cưới
mọi người đến dự đông vui, rượu 5 - 7 ché đặt quanh bếp lửa khách, đồng bào làm
heo, bò ăn mừng. Trên chiếc ghế kpan, nam thanh niên ngồi tấu cồng chiêng, còn
dưới chân nhà sàn, các cô thiếu nữ múa hát nhịp xoang. Gia đình nhà trai cũng
nhắc rượu ché, đập con nú nô (gà trống) cúng Yàng, cầu mong cặp vợ chồng suốt đời
bên nhau như cua với đá, như cá với nước, như cây với đất, luôn mạnh tay khỏe
chân để làm cái rẫy, cất cái nhà, đánh đuổi thú hoang phá hoại hoa màu. Họ ở lại
3 đêm, rồi bắt chồng về ở với mình suốt đời như đã hứa với thần linh.
Diễn
tấu cồng chiêng mừng khách hai họ trong lễ cưới. (Ảnh MH)
Nguy cơ mai một
Ông Sô Doanh
Châu ở xã Xuân Lãnh, huyện Đồng Xuân cho hay: Người Chăm Phú Yên cho phép nam nữ
được quyền "bứt cong", nghĩa là ly hôn. Nhưng nếu là ngoại tình mà
đơn phương đòi ly hôn thì phải đền của từ 3 - 5 con bò, không có bò thì nạp nồi
bảy, nồi bung, ché túc, kiềng bạc… và đập 1 con bò ăn tại chỗ để cho già làng,
Người có uy tín, cùng dân buôn đứng ra giải quyết và chứng kiến.
Nếu người nữ đòi
ly hôn thì tất cả lễ vật cưới hỏi của bên vợ sẽ trừ hết, đồng thời phải giao
nhà trai 1 chiếc ché túc hoặc 1 nồi đồng lớn trị giá bằng 1 con bò đực để thay
thế người vợ và chia của cải do vợ chồng làm ra. Nếu phía nam bỏ vợ thì trả hết
lễ vật cưới xin, đồng thời phải giao cho nhà gái một số của cải như ché, cong đồng,
kiềng bạc… Tất cả của cải hai vợ chồng tạo dựng không được chia mà để lại cho
con cái. Người chồng lúc bấy giờ chỉ còn hai bàn tay trắng về ở với mẹ cha.
Theo luật tục mẫu hệ, sau khi ly hôn, các con đều theo ở với mẹ, chứ không được
theo cha.
Phong tục cưới hỏi
của người Chăm với những nghi lễ độc đáo được tiếp nối qua nhiều thế hệ, mang
giá trị cộng đồng như một lễ hội tình yêu, hạnh phúc. Nhưng đâu đó các buôn
làng có người Chăm sinh sống, họ lo âu, phong tục này nếu không bảo tồn sẽ có
nguy cơ bị mai một.
Theo baophuyen.vn
Phú Yên: Bảo tồn
văn hóa dân tộc Chăm
Trải
qua quá trình lịch sử, đồng bào dân tộc Chăm ở Phú Yên đã sáng tạo và lưu giữ
được nhiều giá trị văn hóa đặc sắc.
Trên địa bàn tỉnh
Phú Yên hiện có hơn 23.000 đồng bào dân tộc Chăm sinh sống cùng các dân tộc anh
em. Trải qua quá trình lịch sử, đồng bào dân tộc Chăm ở Phú Yên đã sáng tạo và
lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa đặc sắc, thể hiện trong: kiến trúc, trang phục,
nghệ thuật, lễ hội, phong tục tập quán và tri thức dân gian…
Hệ thống di sản
văn hóa của đồng bào Chăm ở Phú Yên rất phong phú với các công trình kiến trúc
nghệ thuật đền tháp, thành cổ, bia ký… và nhiều di tích khảo cổ học có giá trị
lịch sử - văn hóa. Trong đó, tiêu biểu nhất là Di tích kiến trúc nghệ thuật
Tháp Nhạn niên đại thế kỷ XI, tại TP Tuy Hòa đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng
là Di tích quốc gia đặc biệt. Tháp Nhạn cùng với các di sản văn hóa của đồng
bào Chăm ở tỉnh Phú Yên đã góp phần làm phong phú kho tàng di sản văn hóa của
dân tộc Việt Nam.
Trong những năm
qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, vùng đồng bào dân tộc Chăm ở tỉnh
Phú Yên không ngừng được đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc
phòng - an ninh. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào không ngừng được
nâng cao. Đồng bào luôn phát huy tinh thần đoàn kết, yêu nước, thực hiện tốt chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; ra sức phát triển kinh tế,
giữ gìn bản sắc văn hóa; xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, cùng nhân dân các
dân tộc trong tỉnh xây dựng, phát triển quê hương Phú Yên ngày càng giàu đẹp.
Đặc biệt, những
ngày này (18 - 21/8), Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào Chăm lần
thứ V năm 2019 tại Phú Yên đang diễn ra với chủ đề "Bảo tồn văn hóa dân tộc
Chăm gắn với phát triển du lịch" do tỉnh phối hợp với Bộ VHTTDL tổ chức đã
thực sự trở thành hoạt động có ý nghĩa chính trị, văn hóa sâu sắc, là nơi để đồng
bào dân tộc Chăm ở các địa phương gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, nâng
cao nhận thức, ý thức trách nhiệm đối với việc gìn giữ văn hóa truyền thống, củng
cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ngày hội cũng là
dịp giới thiệu, tôn vinh và quảng bá các giá trị văn hóa độc đáo, đặc sắc của đồng
bào Chăm trong sự thống nhất mà đa dạng của nền văn hóa Việt Nam với nhân dân cả
nước và bạn bè quốc tế, góp phần tạo sức hút để thúc đẩy phát triển kinh tế du
lịch tại địa phương; góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam.
Ngày hội có sự
tham gia của gần 2.000 nghệ nhân, nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công, vận động viên
quần chúng đến từ 11 tỉnh, thành phố khu vực Nam Bộ và Nam Trung Bộ có đông đồng
bào Chăm sinh sống cũng như lưu giữ nhiều giá trị văn hóa - lịch sử của đồng
bào Chăm: Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tây Ninh, Bình Phước, An
Giang, thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.
Các hoạt động
chính của ngày hội gồm: Thi biểu diễn Liên hoan nghệ thuật quần chúng và trình
diễn, giới thiệu trang phục truyền thống; triển lãm thành tựu phát triển kinh tế
- xã hội vùng đồng bào dân tộc Chăm của các tỉnh,thành tham gia ngày hội và giới
thiệu nghề truyền thống; giới thiệu văn hóa ẩm thực; giới thiệu trích đoạn lễ hội
dân gian; thi các môn thể thao truyền thống.
Độc đáo trang phục Chăm H’roi
Ở Phú Yên hiện nay, mặc dù thế hệ
trẻ người Chăm (nhóm Chăm H’roi) đã có điều kiện tiếp xúc với những trang phục
hiện đại, phổ thông, nhưng trang phục truyền thống vẫn luôn có sức sống bền vững
trong tâm thức cộng đồng.
Bà Lê Thị Như Quỳnh,
Giám đốc Trung tâm Văn hóa và Thông tin huyện Đồng Xuân (Phú Yên) cho biết: “Đồng
bào Chăm ở tỉnh Phú Yên sinh sống tập trung nhiều nhất ở hai huyện miền núi Sơn
Hòa và Đồng Xuân. Với một truyền thống văn hóa được hình thành từ lâu đời,
trong đó có trang phục. Trang phục của người Chăm H’roi mang nét duyên vừa
kín đáo, vừa quyến rũ lạ thường”.
Người Chăm H’roi theo mẫu hệ. Trang
phục truyền thống của người phụ nữ là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa đặc sắc của
dân tộc. Bộ trang phục truyền thống hoàn chỉnh của phụ nữ Chăm gồm áo, chân váy
bsimbay và khăn co đội đầu.
Áo của các cô
gái Chăm mặc trong lễ hội chỉ là tấm vải thô, trắng trơn, dài ngang gối, không
trang trí hoa văn, cổ tròn, tay dài, có hoặc không có khuy cài cúc theo kiểu
chui đầu. Cùng với đó là dây thắt lưng bắt chéo qua vai được trang trí nhiều họa
tiết hoa văn đặc sắc, màu chủ đạo luôn là đỏ tươi và vàng óng. Để tạo nét quyến
rũ, phụ nữ Chăm thường chọn khăn đội đầu để tô thêm sắc thái hài hòa.
Còn đàn ông Chăm
thường mặc quần màu trắng, kết hợp với áo gom màu đen, tay ngắn, xẻ nách hai
bên, có hoặc không có cúc, cột hai dây màu đỏ trước và sau ngực. Từ đường chỉ đỏ
cột vào những sợi dây cườm màu xanh, đỏ, trắng thả xuống gấu áo và mỗi dây cột
một đồng xu.
Nói đến trang phục
truyền thống của đồng bào Chăm, không thể không kể đến nét đặc trưng của bộ
trang phục cưới. Trong ngày cưới, cô dâu được trang điểm lộng lẫy và khoác lên
mình bộ trang phục truyền thống, có màu sắc sặc sỡ và bắt mắt như vàng, hồng, đỏ…
Tóc cô dâu Chăm được cài hoa, trâm cài đầu, tai thì đeo trang sức. Còn chú rể
Chăm thường quấn khăn nhiễu trên đầu, buộc dây ở thắt lưng. Đặc biệt, chú rể
Chăm luôn giắt chiếc lược đồi mồi trên đầu.
Trước nguy cơ biến
mất trang phục truyền thống của một số DTTS, mới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã phê duyệt Đề án Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đề án hướng tới việc, đưa trang phục truyền
thống phổ biến hơn trong cuộc sống của đồng bào các DTTS, nâng cao lòng tự hào,
ý thức bảo tồn và phát huy trang phục truyền thống các dân tộc.
Trên cơ sở đó,
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Đề án trên địa bàn
tỉnh, với các nhiệm vụ trọng tâm như: Tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng, kiểm
kê, lập danh mục bảo tồn, khôi phục và phát huy di sản văn hóa phi vật thể về
trang phục truyền thống của các DTTS; tổ chức tập huấn về phương pháp bảo tồn,
phát huy và kỹ năng truyền dạy bảo tồn trang phục truyền thống tại các huyện có
đồng bào DTTS...
Ông Phan Đình
Phùng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên cho biết: “Để thực hiện hiệu quả Đề án,
các cơ quan, đơn vị liên quan cần triển khai các nhiệm vụ đúng yêu cầu thực tiễn,
có tính trọng tâm, trọng điểm, chất lượng và hiệu quả; đồng thời kết hợp lồng
ghép các nhiệm vụ của kế hoạch với các nhiệm vụ thường xuyên của các địa
phương, đơn vị”.
DỊCH VỤ KHÁCH SẠN – NHÀ HÀNG Ở TUY HOÀ - PHÚ
YÊN
1/ Khách sạn
Coralina Hotel
Địa chỉ: 335 Lê Duẩn, Phường7, Tuy Hòa,
Phú Yên
Email: sales@coralinahotel.com
Hotline: 02573 866 869
Sala Hotel
Độc Lập, Tuy Hòa, Phú Yên, Tuy Hòa, Vietnam
Tel:1900 6406 – E: sale1.thbeach@salahotelgroup.com – W: www.salahotelgroup.com
Khách sạn Sài Gòn Phú Yên
541, Trần Hưng Đạo, P. 6, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 823 775; (84-57) 3 822 999;
(84-57) 3 889 889
Khách sạn Linh
27, Trần Bình Trọng, P. 3, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 824 783; (84-57) 3 600 990
Khách sạn Khánh Hòa
625-627, Đại lộ Hùng Vương, P. 6, Thành phố
Tuy Hòa, T. Phú Yên
+(84-57) 3 848 589
Khách sạn Hoàng Vy
250, Hùng Vương, P. 7, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 843 262
Khách sạn Anh Tuấn
324-326, Hùng Vương, P. 7, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
Khách sạn Hoàng Ngọc
173, Nguyễn Thái Học, P. 5, Thành phố Tuy
Hòa, T. Phú Yên
Kaya Hotel
238, Hùng Vương, P. 7, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 819 999
Khách sạn Như Ý
7, Nguyễn Công Trứ, P. 1, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 827 639
An Phát hotel
35D, Lê Lợi, P. 1, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
Khách sạn Thanh Bình
126, Lê Thánh Tôn, P. 3, Thành phố Tuy Hòa,
T. Phú Yên
+(84-57) 3 823 942
Khách sạn Sun Flower
Ad: 341 Lê Duẩn, Tuy Hòa, Vietnam
Tel: 0257 2202 222 – E: sm@sunflowertuyhoahotel.com – W:sunflowertuyhoahotel.com
Khách sạn Royal Khanhotline: 0886.71.73.79
Address: 68 Nguyễn Huệ, Phường 5, Tp Tuy Hòa,
Tỉnh Phú Yên Việt Nam
Phone: (+84)2573.669.669
Email: info@royalkhanhhotel.com
Website: http://royalkhanhhotel.com
2/ Nhà Hàng
Nhà hàng Phú Anh Tuy Hoa
Add: 123 AB Nguyễn Huệ . P5 , Tuy Hòa,
Vietnam
Tel:037 806 3939
Nhà hàng cơm niêu Năm Ánh
Add: 394 Hùng Vương, Tuy Hòa, Vietnam
T: 093 548 73 77 – E: salecomnieunamanh@gmail.com – W:www.comnieuphuyen.com
Nhà hàng Đại Dương
Điện thoại: 077.220.2882 – 090.569.4339
Email: sale@daiduongtuyhoa.com
Địa chỉ: A12 Hùng Vương – Tuy Hoà – Phú
Yên
Nhà hàng Hoàng Gia
Điện thoại: 0888 666 456
Email:
Địa chỉ: 259 Hùng Vương, Phường 9, Tuy
Hòa, Phú Yên
Nhà hàng cơm niêu Tuy Hoà
Điện thoại: 0905128170
Email: comnieutuyhoa@gmail.com
Địa chỉ: 111 Lê Thành Phương, P 8, TP
Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên
Website: comnieutuyhoa.com
Nhà hàng Làng Chài Phù Đổng
ĐC: 407 Lê Duẩn - Phường 9 - TP Tuy Hòa - Phú
Yên, Tuy Hòa, Vietnam
T: 088 671 08 08
E:langchaiphudong@gmail.com
W: ivoryhotel.com.vn
Nhà hàng Chúc Xíu
ĐC: 5 Độc Lập, Tuy Hòa, Vietnam
T: 070 327 9999
GIỚI THIỆU VỀ QUY NHƠN –
BÌNH ĐỊNH
Đôi nét về đất
nước con người Bình Định
1. Bình Định, một dải đất hẹp ven biển
Trung Trung bộ, rộng gần 6.100km2. Phía Bắc có đèo Bình Đê làm
ranh giới tự nhiên với tỉnh Quảng Ngãi. Đèo Cù Mông hiểm trở ở phía Nam
nối liền với tỉnh Phú Yên. Vượt qua đèo An Khê ở phía Tây, là bước lên đất Gia
Lai và Tây Nguyên bao la. Bờ biển phía Đông khúc khuỷu dài hơn 140 km với nhiều
cửa sông, cồn bãi, đầm vịnh, ghềnh mũi, bán đảo và hải đảo mênh mông sóng vỗ.
Hiện nay tỉnh Bình Định có 3 huyện miền núi
(An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh), 7 huyện đồng bằng (Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ,
Phù Cát, An Nhơn, Tây Sơn, Tuy Phước và TP Quy Nhơn - thành phố loại 2 thuộc
tỉnh). Dân số toàn tỉnh gần 1,5 triệu người, gồm 4 dân tộc anh em Kinh, Bana,
H’re, Chăm và một số ít người Việt gốc Hoa.
2. Xa xưa, từ năm 938-1470, vùng
đất này đã từng là trung tâm của vương quốc Chăm-pa cổ đại với kinh thành Đồ
Bàn hiện còn di tích ở thôn Nam Tân, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, cùng nhiều phế
tích in đậm sắc thái văn hóa nghệ thuật của dân tộc Chăm tạo thành quần thể
kiến trúc chung quanh thành Đồ Bàn như Thành Cha, Tháp Cánh Tiên (An Nhơn),
Thành đá Tà Cơn (Vĩnh Thạnh), Tháp Dương Long (Tây Sơn), Tháp Bánh Ít (Tuy
Phước), tháp Đôi (Quy Nhơn)…
Dưới triều Lê sơ, từ đời vua Lê Thái Tổ (Lê
Lợi, 1428-1433) đất Đại Việt đã mở rộng vào đến Quảng Nam. Năm Hồng Đức
thứ nhất (1471) vua Lê Thánh Tông lấy vùng đất phía Nam Quảng Nam, từ đèo Bình
Đê đến đèo Cù Mông lập phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn
thuộc Thừa Tuyên Quảng Nam. Đây là vùng đất nguyên thủy của Bình Định ngày nay.
Dưới triều hậu Lê (1533 -1789),
Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước loạn lạc, giang sơn bị chia cắt, dân hai miền
Nam - Bắc lâm cảnh nồi da xáo thịt. Một bộ phận dân ở Bắc Trung bộ trở ra là nạn
nhân của vua Lê, chúa Trịnh, ào ạt di cư vào Nam cùng với quân sĩ của chúa Trịnh
hầu hết là tráng đinh trẻ khỏe bị chúa Nguyễn bắt làm tù binh đưa vào khai phá
vùng đất mới phía Nam.
Từ năm Nhâm Dần (1602) đến năm
Nhâm Tuất (1742), các chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Khoát ba
lần đổi tên phủ Hoài Nhơn thành Quy Nhơn, Quy Ninh rồi lại Quy Nhơn vẫn gồm 3
huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn thuộc Thừa tuyên Quảng Nam.
Khoảng đầu thế kỷ XVIII, căm ghét
bọn tham quan ô lại và bọn địa chủ cường hào sách nhiễu dân lành, Võ Văn Doan tục
gọi là chàng Lía, một thanh niên nghèo giỏi võ nghệ đã chiêu mộ nông dân cùng
khổ xây thành đắp lũy ở khu vực Truông Mây - Hóc Sấu (Ân Đức - Hoài Ân), dấy
binh khởi nghĩa chống chúa Nguyễn. Với khẩu hiệu “Lấy của nhà giàu chia cho người
nghèo”, nghĩa quân Võ Văn Doan đã đánh cướp nhiều gia sản của bọn hào phú, răn
đe chúng không được nhũng nhiễu ức hiếp dân nghèo, bao vây tấn công phủ thành
Quy Nhơn ở Châu Thành (nay thuộc xã Nhơn Thành huyện An Nhơn). Chúa Nguyễn phải
huy động nhiều binh mã đàn áp, bao vây triệt hạ căn cứ Truông Mây, đẩy nghĩa
quân lâm vào cảnh thế cô lực kiệt, đành chịu thất bại.
Cuộc khởi nghĩa chàng Lía là khúc
dạo đầu của phong trào nông dân Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII, gây ảnh hưởng khá rộng
trong nhân dân phủ Quy Nhơn lúc bấy giờ, để lại những ấn tượng tốt đẹp trong ký
ức và truyền thuyết dân gian:
Chiều chiều én liệng Truông Mây
Cảm thương chàng Lía bị vây trong
thành.
3. Trong đợt giao tranh Trịnh - Nguyễn những năm 1653- 1657, quân chúa
Nguyễn đánh ra Đàng ngoài chiếm 7 huyện của trấn Nghệ An, bắt nhiều dân đưa vào
khai phá vùng đất mới Đàng trong, trong đó có tổ tiên anh em nhà Tây Sơn vốn
người họ Hồ huyện Hưng Nguyên, vào lập ấp Tây Sơn Nhất ở vùng núi An Khê miền
Tây huyện Tuy Viễn, từ đó họ Hồ đổi thành họ Nguyễn. Đến đời Nguyễn (Hồ) Phi
Phúc dời xuống ấp Kiên Thành (nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn), sinh
được ba người con trai Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.
Thuở nhỏ ba anh em họ Nguyễn theo học thầy
giáo Hiến là môn khách của Trương Văn Hạnh làm quan Nội hữu thời chúa Nguyễn
Phúc Khoát (1765 - 1777). Trương Văn Hạnh bị quyền thần Trương Phúc Loan ganh
ghét giết hại. Giáo Hiến sợ liên lụy phải trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học
tại ấp An Thái huyện Tuy Viễn (nay thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn). An Thái
là vùng đất võ nổi tiếng ở Bình Định, dân gian có câu: “Roi Thuận Truyền, quyền
An Thái”. Hàng ngày được thầy giáo Hiến rèn dạy cả văn lẫn võ, ba anh em họ Nguyễn
lại được thúc giục bởi câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thụ công” (nổi dậy ở miền
Tây, nên đại nghiệp trên đất Bắc). Giáo Hiến thường khích lệ học trò “Là người
đất Tây Sơn, hãy cố lên!”. Trong 3 anh em họ Nguyễn, Nguyễn Huệ (sinh năm 1752)
trí dũng văn võ song toàn, có chí khí hơn cả.
Năm Tân Mão (1771) ba anh em họ Nguyễn trở về
vùng Tây Sơn thượng đạo lập đồn trại, tích trữ lương thực, rèn sắm vũ khí, dụng
cờ khởi nghĩa.
Với mục tiêu hợp lòng dân “Phò Lê diệt
Trịnh”, thống nhất giang sơn, ngọn cờ đại nghĩa của Tây Sơn đã chiêu tập hàng
ngàn nông dân bị cuộc sống dồn nén, xô đẩy đến bước đường cùng phải vùng dậy
chống cường quyền, áp bức, bất công; trọng dụng nhiều hào kiệt hảo hán đã từng
xã thân vì nghĩa lớn, lôi kéo cả những tù trưởng các dân tộc thiểu số vùng Nam
Trường Sơn. Trong đó có những người tài ba, thao lược trong vùng như Đặng Văn
Long, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Lộc, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân….Tiêu biểu trong
số tướng lĩnh của nhà Tây Sơn có nữ tướng Bùi Thị Xuân, con gái cụ Bùi Đắc Chí
người Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn (nay thuộc xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn).
Ở tuổi trăng tròn, Bùi Thị Xuân vừa có nhan
sắc, vừa có sức mạnh, văn hay chữ tốt, thích làm con trai, múa kiếm đi quyền,
muốn như bà Trưng, Bà Triệu cưỡi voi cầm quân dẹp giặc. Đến 15 tuổi, Bùi Thị
Xuân đã điêu luyện võ nghệ. Mộng được như Bà Trưng, Bà Triệu càng nung nấu tâm
hồn, Bùi Thị Xuân mở lò dạy võ, cưỡi ngựa, luyện voi thu hút rất đông con gái
trong vùng.
Ai về Bình Định mà coi,
Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền.
Câu ca đó có lẽ xuất xứ từ sự tích Bùi Thị
Xuân.
Với đức độ và tài năng của cô gái họ Bùi, nhà
Tây Sơn phong Bùi Thị Xuân làm Đô Đốc tướng quân thống lĩnh 5.000 binh mã và
chỉ huy đội voi chiến. Sát cánh cùng Bùi Thị Xuân còn có các cô gái cũng nhan
sắc văn võ song toàn là Trần Thị Lan, Bùi Thị Nhạn, Huỳnh Thị Cúc, Nguyễn Thị
Dung, Võ Thị Huấn hợp thành “Ngũ phụng thư” (5 cô gái đẹp tài hoa). Đội nữ quân
thiện chiến của Bùi Thị Xuân cùng với các đội quân tiên phong khác khi ra Bắc
diệt quân Trịnh, khi vào Nam đánh chúa Nguyễn, diệt quân Xiêm, lúc thần tốc phá
tan 29 vạn quân xâm lược nhà Thanh giữa kinh thành Thăng Long, đâu đâu cũng
bách chiến bách thắng, làm khiếp đảm quân thù.
Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ đem
quân hạ thành Thuận Hóa của quân Trịnh. Một tháng sau, quân Tây Sơn tiến ra cố
đô Thăng Long thực hiện khẩu hiệu “Phò Lê diệt Trịnh”. Sau nhiều chiến thắng
vang dội, uy danh của Nguyễn Huệ thêm lừng lẫy, được vua Lê Hiển Tông (niên
hiệu Cảnh Hưng 1740-1789) chọn làm phò mã và gả công chúa Ngọc Hân, phong là
Bắc Bình Vương lúc 34 tuổi.
Tháng 7 năm Mậu Thân (1788), Hoàng thái hậu
nhà Lê sang cầu viện triều đình Mãn Thanh, tái phục Lê Chiêu Thống. Lê Chiêu
Thống cõng rắn cắn gà nhà, rước quân xâm lược nhà Thanh vào chiếm Thăng Long.
Dựa thế quân Thanh, vua Lê trả thù tàn bạo những người đã theo Tây Sơn.
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ xưng Hoàng đế lấy
niên hiệu Quang Trung thân chinh ra Bắc lần thứ ba. Quân thủy bộ Tây Sơn thần
tốc tiến ra Bắc, đúng như dự kiến và lời hứa hẹn của Quang Trung, ngày 7 tháng
Giêng năm Kỷ Dậu (1789), sau khi quét sạch 29 vạn quân Thanh, đội quân bách
chiến bách thắng của Quang Trung - Nguyễn Huệ đã hân hoan ăn Tết khai hạ tại
kinh đô Thăng Long. Hoa đào làng Nhật Tân vẫn còn đang nở rộ khoe hương sắc
mừng mùa xuân đại thắng, chấm dứt cuộc nội chiến Nam - Bắc triều và nạn Trịnh -
Nguyễn phân tranh, thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối.
Dưới quyền trị vì của triều Quang Trung,
nhiều chính sách về chính trị, kinh tế, xã hội, ngoại giao đã được ban hành khá
độc đáo, mở ra triển vọng mới cho một xã hội năng động hơn. Song chưa được bao
lâu thì ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) Quang Trung bị bệnh hiểm nghèo đột
ngột từ trần lúc 40 tuổi đang đầy tài năng với những dự định lớn lao.
Nguyễn Huệ và Ngọc Hân chỉ sống hạnh phúc
được 6 năm. Quang Trung yêu Ngọc Hân không chỉ vì trẻ đẹp, nết na mà còn vì
trọng tài thơ văn nhạc họa và những kiến thức sâu rộng của nàng về thời cuộc
quốc gia, tình yêu giữa họ càng nồng thắm. Cứ mỗi độ xuân về, người dân Thăng
Long ngắm hoa đào nở lại nhớ đến cành đào Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung áo bào
còn vương thuốc súng đã vội cho ngựa trạm mang cành đào Nhật Tân vào tận kinh
thành Phú Xuân tặng người vợ yêu quý, báo tin đại thắng.
4. Hoàng đế Quang Trung mất, năm Quý Sửu
(1793), Thái tử Nguyễn Quang Toản mới 11 tuổi, con trai đầu của Quang Trung và
Chính cung Hoàng hậu, nối nghiệp vua cha, lấy niên hiệu Cảnh Thịnh (1793-1802).
Đất nước lại rối ren, hoàng tộc nhà Lê chuyên quyền ở phía bắc, chúa Nguyễn
khôi phục lực lượng rập rình rửa hận ở phía Nam.
Năm Kỷ Mùi (1799), chúa Nguyễn Phúc Ánh được
người Pháp tiếp tay từ Gia Định kéo quân vượt biển đánh chiếm phủ thành Quy
Nhơn. Ba mẹ con Ngọc Hân bị bắt, Ngọc Hân uống thuốc độc quyên sinh lúc 29
tuổi, hai con nhỏ bị bức tử. Năm sau, Phúc Ánh đổi phủ Quy Nhơn thành dinh Bình
Định, đổi ấp Tây Sơn thành ấp An Tây nhằm đề cao công cuộc “bình định” đánh đổ
nhà Tây Sơn. Sau khi chiếm được Phú Xuân, ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802)
quân Nguyễn tiến đánh Thăng Long, triều Tây Sơn đến đây tan rã. Nguyễn Phúc Ánh
lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long (1802 - 1819), ra tay trả thù nhà Tây Sơn
cực lỳ tàn bạo và hèn hạ. Hầu hết thân nhân của Quang Trung và những người hiền
tài đã từng phụng sự nhà Tây Sơn đều bị hành hình, hai mẹ con nữ tướng Bùi Thị
Xuân bị bắt cho voi giày, mộ vua Quang Trung táng tại phủ Dương Xuân trong kinh
thành Phú Xuân bị quật lên, thành Hoàng Đế (cổ thành Đồ Bàn) bị triệt phá…
5. Dưới các vương triều nhà Nguyễn, địa
danh Bình Định nhiều lần thay đổi tên gọi: Bình Định Định (1800), Bình Định
trấn (1808), Quy Nhơn trấn (1813), Hoài Nhơn phủ (1831), Bình Định tỉnh (1832).
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng,
chính thức xâm lược nước ta. Nhưng gặp phải sức kháng cự quyết liệt của nhân
dân ta, nên thực dân Pháp phải chuyển vào tiến công Nam bộ. Nhằm thực
hiện ý đồ xâm lược, thực dân Pháp rắp tâm bắt vua Hàm Nghi, một ông vua yêu
nước lên ngôi lúc 13 tuổi để chúng dễ bề xâm lược toàn cõi Việt Nam. Tháng 7
năm Ất Tỵ (1885), kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi được giải thoát lên
vùng núi phía Tây Quảng Trị ra chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu, hào kiệt và nhân
dân giúp vua cứu nước.
Tại Bình Định, hưởng ứng chiếu Cần Vương, từ
giữa tháng 8-1885, dưới sự lãnh đạo của Đào Doãn Địch, nghĩa quân đã nổi dậy ở
Phù Mỹ, Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước, Bình Khê…, cuối tháng 8 chiếm được thành
Bình Định. Đầu tháng 9-1885, quân Pháp chiếm lại thành Bình Định, nhưng nghĩa
quân vẫn làm chủ tình hình toàn tỉnh. Đào Doãn Địch rút quân về Bình Khê phối
hợp với nghĩa quân Mai Xuân Thưởng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài.
Mai Xuân Thưởng sinh năm 1860 tại làng Phú
Lạc, xã Bình Thành, huyện Bình Khê. Đậu cử nhân Hán học khoa thi hương năm Ất
Dậu (1885) lúc 25 tuổi. Cha là Mai Xuân Tín (tức Mai Văn Phẩm) đậu cử nhân Hán
học năm Đinh Mùi (1847), làm quan Bố Chánh Cao Bằng. Mặc dù có học, đỗ đạt cao,
nhưng Mai Xuân Thưởng không ra làm quan mà dấy binh khởi nghĩa hưởng ứng chiếu
Cần Vương cứu nước.
Sau khi Đào Doãn Địch lâm bệnh chết, Mai Xuân
Thưởng liên kết với nghĩa quân Bùi Điền ở Phù Mỹ, Tăng Bạt Hổ ở Hoài Ân thống
nhất lực lượng chống Pháp và triều đình nhà Nguyễn. Dưới quyền thống lĩnh của
Mai Xuân Thưởng, nghĩa quân Cần Vương Bình Định không những làm chủ tình hình
toàn tỉnh mà còn phối hợp chiến đấu với nghĩa quân ở Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh
Hòa, Bình Thuận từ cuối 1885 đến giữa 1886. Đầu năm 1887, gần 7.000 quân Pháp
và Nam Triều đàn áp khốc liệt phong trào Cần Vương ở Bình Định, nhưng nghĩa
quân vẫn ngoan cường chiến đấu trong các trận đánh quyết liệt ở Kim Sơn, Bồng
Sơn, Phù Ly, Bàu Sấu, Thủ Thiện, Đồng Hươu…
Phong trào Cần Vương ở Bình Định là một trong
những cuộc khởi nghĩa lớn của phong trào Cần Vương cả nước những năm 1885 –
1890, là đỉnh cao của phong trào này ở các tỉnh Nam Trung bộ.
Lực lượng chênh lệch quá lớn, trước sức đánh
phá quyết liệt của Pháp và lính Nam Triều cùng những thủ đoạn nham hiểm của bọn
Việt gian tay sai như Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc, nghĩa quân thất thế, Mai Xuân
Thưởng rút quân vào vùng núi Vân Canh giáp Phú Yên, sau đó bị vây bắt. Ngày 7
tháng 6 năm 1887, Mai Xuân Thưởng cùng 12 trợ thủ đắc lực bị chém đầu tại Gò
Chàm, xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn. Lúc đó ông mới 27 tuổi.
Phong trào Cần Vương bị đàn áp thảm khốc,
nhưng các chiến sĩ yêu nước ở Bình Định không sờn chí. Phạm Toản lập căn cứ
trong rừng sâu kéo dài cuộc chiến đấu đến năm 1890. Nguyễn Đa chạy vào An Giang
tiếp tục chống Pháp, Tăng Bạt Hổ qua Xiêm, Trung Quốc, Nga rồi đưa cụ Phan Bội
Châu sang Nhật cổ động phong trào Đông Du (1905-1908), Võ Trứ cùng Trần Cao Vân
xây dựng lực lượng trong nông dân và sư sãi hai tỉnh Bình Định, Phú Yên, phát
động cuộc khởi nghĩa sông Cầu (1895)…
Trước nạn xâm lược của thực dân Pháp, nhiều
người con của quê hương Bình Định trên đất Nam bộ và Huế cũng có
những nghĩa cử cao đẹp. Nguyễn Văn Viện cùng một số người trong hoàng tộc nhà
Nguyễn tổ chức cuộc binh biến tại Huế bắt khâm sứ Pháp phải đầu hàng. Võ Duy
Dương (biệt danh Ngũ Linh Dương, Thiên Hộ Dương), sau khi tham gia bảo vệ thành
Gia Định và cuộc khởi nghĩa Trương Định đã về Đồng Tháp Mười lập căn cứ chống
Pháp. Nguyễn Văn Lịch (tức Nguyễn Trung Trực) người con của Long An chánh quán
Bình Định với chiến công lẫy lừng đốt cháy tàu “Hy vọng” của giặc Pháp. Trước
lúc hy sinh ông đã nói một câu bất hủ: “Bao giờ đất Nam hết cỏ thì
người Nam mới hết đánh Tây”…
Tiếp theo phong trào Cần Vương, những tháng
giữa năm 1908, nhân dân nổi dậy chiếm các phủ, huyện lỵ Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù
Mỹ, Tuy Phước, An Nhơn, Bình Khê… Hơn 3 vạn nông dân bao vây thành Bình Định
quyết liệt chống sưu cao, thuế nặng, đòi trừng trị bọn quan lại tham nhũng, bất
chấp sự đàn áp, khủng bố của nhà cầm quyền. Sau cuộc khởi nghĩa 1885-1887, đây
là cuộc nổi dậy mạnh mẽ, sôi sục trên quy mô toàn tỉnh, thực dân Pháp phải điều
lính lê dương từ Hà Nội, Hải Phòng vào Bình Định đối phó. Cuộc đấu tranh chống
sưu thuế từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi lan đến Bình Định thì ngọn sóng
lại khởi lên mạnh mẽ hơn các nơi khác.
Những năm đầu thế kỷ XX, đồng bào các dân tộc
miền núi đứng lên chống Pháp cướp đất lập đồn điền, chống sưu thuế. Cuộc khởi
nghĩa của đồng bào Ba Na (Vĩnh Thạnh) và H’re (An Lão) kéo dài ngót 30 năm
(1900-1929). Tuy quân Pháp đóng được một số đồn binh ở An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân
Canh nhưng chúng không khuất phục nổi đồng bào các dân tộc, không thể nào kiểm
soát được vùng núi phía Tây Bình Định.
6. Trong xã hội có nhiều thành phần giai
cấp, tầng lớp, tuy địa vị, hoàn cảnh, mức độ giàu nghèo khác nhau, nhưng tâm tư
chung của người Bình Định là cố gắng tần tảo lo cho con em ăn học biết chữ để
làm người có ích cho đời, đó là truyền thống hiếu học, đã sản sinh và nuôi
dưỡng không ít trí thức thông tuệ, tài hoa, thanh bạch.
Dưới các triều đại phong kiến nhà Nguyễn, từ
1802 đến 1918 đã có 246 người Bình Định đậu cử nhân Hán học (1 Hoàng giáp, 5
Tiến sĩ, 3 Phó bảng). Trong đó có những người thành đạt lúc còn rất trẻ như
Nguyễn Văn Hiển (Phù Cát, sinh 1826), cử nhân 20 tuổi, Hoàng giáp 21 tuổi; Lê
Văn Chân (Phù Mỹ, sinh 1817) cử nhân 17 tuổi, tiến sĩ 25 tuổi; Trần Văn Chánh
(Hoài Ân, sinh 1821), thủ khoa cử nhân (giải nguyên) 19 tuổi, tiến sĩ 20 tuổi;
Hồ Sĩ Tạo (An Nhơn, sinh 1869) cử nhân 22 tuổi… Người đậu cử nhân trẻ tuổi nhất
có Văn Vĩ 16 tuổi (sinh 1902), sau đó đi học ở Pháp, (con Văn Vĩnh Thiệu, quê
Phù Cát, đậu cử nhân năm 1906)…
Từ năm 1852 vua Tự Đức mở trường thi Hương
tại thành Bình Định (An Nhơn) chọn cử nhân các tỉnh Nam Trung bộ. Tại trường
thi Bình Định, tính đến năm 1915 (đời vua Khải Định) đã tổ chức 23 kỳ thi
Hương, 192 sĩ tử Bình Định đậu cử nhân, trong đó có 14 thủ khoa (giải nguyên)
và 9 cử nhân nhì (á nguyên). Kỳ thi năm 1852 Bình Định có 11 người đậu trên
tổng số 13 người dự thi trong khu vực, Cao Văn Tuấn (Tuy Phước) đậu thủ khoa.
Kỳ thi năm 1867 đậu 14/18 người, Lê Đăng Đệ thủ khoa, Nguyễn Tạo cử nhân nhì
(đều là người Phù Cát). Kỳ thi năm 1906, Lê Chuân (Hoài Ân) đậu thủ khoa lúc 23
tuổi…
“Học để làm người”, không ít bậc khoa bảng
Bình Định mặc dù đỗ đạt cao, nhưng không màng danh lợi chốn quan trường mà chọn
cuộc sống dân dã nơi bản quán, dạy học, làm thuốc trong cảnh điền viên thanh
bạch. Chính họ là những người hướng dẫn dư luận xã hội, đứng về phía nhân dân
chống cường quyền, áp bức, bất công. Cũng có người làm quan, nhưng cương trực,
khí khái “tâm bất phục, khẩu bất phục” can tội chống đối triều đình, bị giáng
chức, miễn chức như Tuần vũ Lê Văn Chân (Phù Mỹ), Tri phủ Trần Văn Chánh (Hoài
Ân), Tri huyện Trần Đức Tú, Nguyễn Văn Thạch (Tuy Phước), Ngự sử Trần Kinh Vĩ
(Phù Cát), Ngự sử Trần Văn Quang (Hoài Ân, anh ruột Trần Văn Chánh)… Lại có
những si phu hào kiệt tỏ rõ thái độ phản kháng quyết liệt, lãnh đạo nhân dân
đứng lên chống lại giai cấp thống trị và chế độ đương thời, như Mai Xuân
Thưởng, Hồ Sĩ Tạo, lê Chuân…
Tiêu biểu cho giới trí thức Bình Định thời
bấy giờ có Đào Tấn (1845-1907) người làng Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy
Phước, đậu cử nhân năm 1867 lúc 22 tuổi, làm Tổng đốc Nghệ An. Với kiến thức
uyên bác, tài năng đa dạng, Đào Tấn cùng nhiều lớp nghệ sĩ tài danh dòng tuồng
cổ Bình Định đã góp phần xứng đáng đưa nghệ thuật sân khấu tuồng cổ Việt Nam
phát triển lên đỉnh cao, đậm đà bản sắc dân tộc, mang tính xã hội và nhân văn
sâu sắc. Lúc còn ở Nghệ An và Huế, cụ Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng là người bạn tri kỷ tâm đắc với nhà nghệ sĩ tài ba họ Đào.
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được bổ làm Tri
huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn, Bình Định) tháng 5-1909, là một vị quan
nổi tiếng thanh liêm và thương dân. Nguyễn tất Thành vào Bình Định thăm cha, ở
nhà cụ Phạm Ngọc Thọ (thân sinh cố Bác sĩ Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch) tại
Quy Nhơn học thêm tiếng Pháp. Khoảng 7/1910, Nguyễn Tất Thành chia tay cha, rời
Bình Định vào dạy học tại trường Dục Thanh ở Phan Thiết một thời gian ngắn rồi
vào Sài Gòn sang Pháp (1911). Sau này được biết về sự kiện đó, nhân dân và tuổi
trẻ Bình Định rất vinh dự và tự hào vì trước khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường
cứu nước, Bác Hồ kính yêu đã có một thời gian dừng chân ở Bình Định, quê hương
của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn và người anh hùng dân tộc “áo vải cờ đào”
Quang Trung - Nguyễn Huệ.
7. Bên cạnh nghệ thuật tuồng cổ đặc sắc,
Bình Định còn là mảnh đất màu mỡ cho văn hóa dân gian nảy lộc đâm chồi, đơm hoa
kết trái. Ca dao, dân ca, tục ngữ, hò vè, hát lý, hát kết, hát bá trạo, bài
chòi, chuyện cười, hơ-mon… ấm áp tình người, nồng thắm hương vị và cảnh sắc quê
hương xứ dừa. Những lễ hội dân gian như đổ giàn, đua ngựa, bơi thuyền, múa lân,
đâm trâu, đấu võ… bừng bừng khí thế lao động và tinh thần thượng võ. Trong sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian mang tính quần chúng rộng rãi đã đọng lại biết
bao lời hẹn ước, chớm nở biết bao tình yêu đôi lứa.
Bình Định còn là nơi sản sinh và nuôi dưỡng
tâm hồn những nhà thơ, nhà văn tên tuổi đã có những đóng góp xứng đáng vào nền
văn học Việt Nam cận đại và hiện đại như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử…
Từ sau Cách mạng tháng 8/1945, dưới đường lối giáo dục cách mạng của Đảng đã
xuất hiện một lớp trí thức mới “hồng thắm chuyên sâu”, không ít thanh thiếu
niên sinh trưởng trên đất Bình Định được đào tạo trong và ngoài nước, trở thành
những nhà khoa học có học hàm học vị cao, cống hiến trí tuệ, tài năng và sức lực
vào sự nghiệp xây dựng đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong thời đại
mới. Tiêu biểu trong đội ngũ trí thức đó có Phan Phải, Nguyễn Đình Tứ, Đặng
Hữu, Nguyễn Cang…
Với bàn tay và khối óc, trí thông minh và
lòng dũng cảm, trải qua quá trình lao động và chiến đấu lâu dài, các thế hệ
người Bình Định đã xây dựng vùng đất hoang sơ này trở thành trù phú, kinh tế
ngày càng phát triển, xã hội ngày càng đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân không ngừng được cải thiện.
Hơn 5 thế kỷ xây dựng và bảo vệ quê
hương kể từ khi hình thành phủ Hoài Nhơn (1471), vùng đất nguyên thủy của tỉnh
Bình Định ngày nay, kế thừa và phát huy những tinh hoa, truyền thống tốt đẹp
của các thế hệ ông cha qua chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để gây dựng,
phát triển và cải thiện, dân sinh, từng bước đẩy lùi nghèo nàn và lạc hậu, cũng
như trong đấu tranh chống cường quyền, áp bức, bất công và xâm lược, trong bản
sắc chung của dân tộc Việt Nam, lớp lớp người Bình Định đã được giáo dục, rèn
luyện, hun đúc nên những nhân cách, phẩm chất cao quý: Thượng võ, yêu nước,
ghét áp bức bất công, dám xả thân vì nghĩa lớn; hiếu học, thông minh, cần cù,
sáng tạo; nhân hậu thủy chung, trọn nghĩa vẹn tình; đồng tâm hiệp sức, tự lực
tự cường để xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trường tồn…
VỊNH GỀNH RÁNG – TIÊN SA
Nằm ở phía đông nam TP. Quy Nhơn, là tác phẩm
thiên tạo với quần thể sơn thạch chạy sát biến, nơi những dãy đá núi nhấp nhô,
chập trùng tạo thành hang, thành rạng, thành gành, với một bên là những bãi cát
đài trắng mịn và mặt biển xanh màu ngọc bích rì rào sóng vỗ... tất cả tạo nên
một Ghềnh Ráng nguyên sơ, một bức tranh thủy mặc hữu tình kỳ vĩ và thơ mộng.
Men theo con đường đất uốn lượn theo triển
núi, du khách sẽ chiêm ngưỡng những tác phẩm điêu khắc mà tạo hóa đã ban tặng
cho Ghềnh Ráng như bãi tắm độc đáo với vô số viên đá cuội được sóng biển mài
nhẵn như những quả trứng khống lồ, nơi dành riêng cho Nam Phương Hoàng Hậu khi
về đây nghỉ mát tắm biển nên còn gọi là bãi tắm Hoàng Hậu; là đá Vọng Phu được
sóng và gió biển tạc khắc như hình dáng người vợ ngóng chồng; là dãy đá có hình
sư tử dũng mãnh “trợ gan cùng tuế nguyệt” trước sóng gió và thời gian; là bãi
tắm Tiên Sa đẹp nao lòng nhuốm màu huyền thoại.
Bên cạnh sườn đồi là nơi an nghỉ của nhà thơ
Hàn Mặc Tử - một thi sĩ nổi tiếng trong làng thi ca Việt Nam. Từ đây du khách
có thể ngắm bao quát toàn bộ phía đông thành phố Quy Nhơn và xa hơn là bán đảo
Phương Mai với đầm Thị Nại như một bức tranh nhiều cảm xúc.
Ghềng Ráng được vua Bảo Đại chọn là nơi nghỉ
mát cho hoàng gia từ những năm 1927.
Độc đáo “Bút lửa Dzũ Kha”
Đã từ lâu, khi đến tham quan tại khu du lịch
Ghềnh Ráng, TP. Quy Nhơn (Bình Định), du khách thường dừng chân tại lều tranh
trên đồi Thi nhân của nghệ sĩ Dzũ Kha, người dùng “bút lửa” để viết nên những
vần thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử trên gỗ một cách rất độc đáo.
Dzũ Kha tên thật là Trương Vũ Kha, sinh năm
1960, tại huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí
Minh. Năm 23 tuổi, tình cờ anh đọc về cuộc đời, sự nghiệp thơ Hàn Mặc Tử, rồi
bị cuốn hút vào đó một cách lạ kỳ.
Anh bộc bạch: “Khi ấy, trong tôi trào dâng
nỗi xót xa về người thi sĩ tài hoa bạc mệnh ra đi ở tuổi 28 xuân xanh. Đồng
thời với đó là sự khâm phục tài hoa Hàn Mặc Tử, ông xứng đáng là nhà thơ lớn
của Việt Nam”.
Anh giống như một đệ tử, một tín đồ trung
thành của thơ Hàn Mặc Tử. Có lẽ, Dzũ Kha là người thuộc nhiều thơ Hàn Mặc Tử
nhất Việt Nam. Dzũ Kha đam mê thơ Hàn Mặc Tử và muốn tìm hiểu về cuộc đời, thân
thế sự nghiệp nhà thơ họ Nguyễn (tên thật của Hàn Mặc Tử là Nguyễn Trọng Trí).
Từ đó, anh muốn truyền bá thơ Hàn tới công chúng. Sau khi nghiền ngẫm về cuộc
đời Hàn Mặc Tử, Dzũ Kha mới nghĩ cách gì để lưu giữ thơ Hàn. Nếu vẽ bằng sơn
hay tranh gì đó cũng đều bị bong tróc, nên anh đã nghĩ ra cách dùng “bút lửa” để
viết thơ của ông.
Năm 1982, Dzũ Kha tự làm chiếc “bút lửa” đầu
tiên, sử dụng nghệ thuật thư pháp “bút lửa” để viết thơ Hàn trên các sản phẩm
tranh gỗ thông. “Bút lửa” mà Dzũ Kha sử dụng có ngòi là dây lò xo xoắn được đấu
nối với dòng điện. Khi viết, vẽ, ngòi chạm vào gỗ thông hoặc gỗ mít, xà cừ…
phát ra lửa, bốc khói. Muốn có tác phẩm nghệ thuật đạt độ tinh xảo đòi hỏi nghệ
nhân phải tỉ mỉ, chính xác trong từng chi tiết. Để tạo ra bức tranh thơ hoản
hảo, phải thật khéo léo, tinh tế thì mới có thể thành công, bởi bút lửa dễ gây
cháy sém chất liệu trong quá trình vẽ.
|
“Lều tranh-Nhà lưu niệm thơ Hàn Mặc Tử -
Bút lửa Dzũ Kha” trong khu du lịch Ghềnh Ráng |
Hơn 30 năm qua, Dzũ Kha đã dùng “bút lửa” để
viết thơ Hàn Mặc Tử và những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, châm ngôn hay, ý
nghĩa… trên gỗ tại lều tranh trên đồi Thi nhân. Những bức tranh thư pháp về thơ
Hàn Mặc Tử của Dzũ Kha đã trở thành địa chỉ văn hóa, món quà tinh thần hấp dẫn
nhiều du khách khi đến tham quan tại đây.
Cũng bởi lẽ đó, Dzũ Kha như một hướng dẫn
viên du lịch “bất đắc dĩ” và “độc nhất vô nhị” của đất Quy Nhơn khi ông có thể
nói chuyện hàng giờ về Hàn Mặc Tử với du khách ghé thăm Ghềnh Ráng. Hầu hết du
khách đều bị hút hồn khi được tận mắt chứng kiến nghệ thuật thi pháp bằng bút
lửa, ghi lại những bài thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử do nghệ nhân Dzũ Kha thực
hiện.
|
Chị Nguyễn Hồng Minh, người học trò duy
nhất của Dzũ Kha theo nghề viết, vẽ “bút lửa” từ năm 2007 |
Đam mê thơ Hàn Mặc Tử, Dzũ Kha thực hiện viết
cuốn sách “Hành trình đến với thơ Hàn Mặc Tử” từ năm 2005 với bản thảo đầu tiên
chỉ vỏn vẹn khoảng 100 trang. Sau nhiều năm tháng anh dày công miệt mài chỉnh
sửa, bổ sung nhiều tư liệu và thông tin độc đáo, năm 2017, bản in lần thứ 15
của cuốn “Hành trình đến với thơ Hàn Mặc Tử” – Dzũ Kha sưu tầm và biên soạn
được công ty sách Liên Việt phát hành. Cuốn sách dày 223 trang, giới thiệu
nhiều tác phẩm, bút tích đặc sắc mà rất ít người biết của Hàn Mặc Tử, những đoạn
hồi ký của Nguyễn Bá Tín (em trai Hàn Mặc Tử) về người anh trai thời nhỏ nhiều
ham mê… Bên cạnh đó, phần cuối sách còn có những bản nhạc phẩm được phổ từ thơ
Hàn Mặc Tử, những bức ảnh liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp nhà thơ…
Dzũ Kha như một cuốn “từ điển sống” về cuộc
đời Hàn Mặc Tử. Trước tấm lòng yêu thơ Hàn độc đáo của anh, UBND tỉnh Bình Định
đã chấp thuận ước mong của anh là xây dựng “Nhà lưu niệm thơ Hàn Mặc Tử - Bút
lửa Dzũ Kha” trong khu du lịch Ghềnh Ráng.
HÀN MẠC TỬ
Nói đến Hàn Mạc Tử là nói đến một dòng thơ
lãng mạn, hiện đại của Việt Nam, là người khởi xướng ra trường thơ loạn, trường
thơ điên. Ong tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22/09/1912 tại làng Lệ
Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Ông có duyên với bốn chữ Bình : ông sinh tại Quảng
Bình, làm báo tại Tân Bình, có người yêu tại Bình Thuận và mất tại Bình Định.
Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút
danh của ông. Ong có tài năng làm thơ từ rất sớm. Ong cũng đã từng gặp gỡ Phan
Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ong được Phan Bội Châu giới
thiệu bài thơ “ Thức khuya” của mình lên một tờ báo.
Vào năm 1932 bước vào đời làm việc tại sở đạc
điền Quy Nhơn và vào năm ấy ông có người yêu đầu tiên là Hoàng Thị Kim Cúc,
người gốc Huế. Nhưng vì tính tình nhút nhát nên ông chỉ dám bày tỏ tình cảm của
mình qua bài thơ Hồn Cúc :
“… Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Dám ôm hồn Cúc ở trong sương …”
Nhưng năm 1988 Kim Cúc bị tai nạn giao thông
tại TPHCM, sau đó được đưa về Huế và mất tại đó. Có thể nói đám tang của bà lớn
nhất ở Huế từ trước đến nay vì bà là Phó
ban hướng dẫn TW gia đình Phật tử VN.
Sau này, ông được hội Tây Du giới thiệu đi
học nước ngoài nhưng vì bọn mật thám biết ông có quan hệ mật thiết với cụ Phan
Bội Châu nên đã gạch tên trong danh sách du học. Chính vì vậy ông quyết định
lên Sài Gòn lập nghiệp, năm đó ông được 21 tuổi.
Lên Sài Gòn ông là phóng viên phụ trách trang
thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi
lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan
Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.
Và bài thơ Phan Thiết,Phan Thiết ra đời :
“ …Ta lang thang tìm đến chốn lầu trăng
Lầu Ong Hoàng người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết
Oi trời ơi ! Là Phan Thiết ! Phan Thiết
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi
Ta đến nơi nường ấy vắng lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ
Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận sông hằng
Thơ phép tắc bỗng kên rên thống thiết
Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết!
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư”
Ít lâu sau, ông mắc bệnh phong , một căn bệnh
nan y thời đó. Ong bỏ tất cả quay về Quy Nhơn. Trong thời gian ông ở Quy Nhơn
ông đã cho ra tập thơ Gái Quê. Và Mai Đình là người con gái ở Thanh Hóa, khi
đọc tập thơ Gái Quê đã đem lòng yêu mến ông. Khi Hàn đang bệnh Mai Đình thường
xuyên ra thăm và chăm sóc ông. Nhưng cùng thời gian này ông đang quen Ngọc
Sương, là dì ruột của Mộng Cầm.
“ Ta
đề chữ Ngọc trên tàu chuối
Sương ở bên thềm chảy mãi thôi”
Nhưng hai mối tình này không đi sâu vào lòng
Hàn Mạc Tử như mối tình ông dành cho Mộng Cầm. Khi Hàn mất Mai Đình đau đớn làm
thơ với nội dung muốn chết theo Hàn nhưng vì còn bận khánh chiến, trả nợ với
non nước nên với hên với Hàn rằng :
“Bao giờ tổ quốc toàn thắng
Là lúc tìm anh dưới suối vàng”
Sau này kết thúc kháng chiến Mai Đình đã lập
gia đình với một vị tướng trong QĐNDVN. Người này rất hiểu và trân trọng tình
yêu của Mai Đình với Hàn Mạc Tử.
Vào cuối cuộc đời, bệnh ông ngày càng nặng,
người yêu thì chia xa, ông đau khổ về tinh thần lẫn thể xác. Chính vì thế mà
nhà văn Trần Thanh Địch muốn an ủi bạn mình bằng cách giới thiệu cho Hàn Mạc Tử
một người yêu thơ hàn, nàng tên Thương Thương, người Huế, gọi Trần Thanh Địch
bằng chú. Những bức thư tình Thương Thương
gửi cho Hàn hoàn toàn do Trần Thanh Địch tự phác họa ra. Hàn Mạc Tử cứ
ngỡ mình đang yêu thật sự. Từ đó khoái cảm về mặt tinh thần mà sáng tác ra những
vần thơ nổi tiếng.
“Chiều nay tàn tạ hồn hoa
Nhớ Thương Thương qúa, xót xa tâm bào”
Hàn Mạc Tử sáng tác vở kịch “ Quần Tiên Hội”
có nhân vật chính là Thương Thương trong tưởng tưởng. Khi anh của Thương Thương
phát hiện , tức giận ngăn cấm và vở kịch đã bị bỏ dở nửa chừng. Sau khi Hàn mất
có một người cùng cảnh ngộ như Hàn đã viết tiếp vở kịch này và được giới nghệ
sĩ đồng tình.
Ngày 20/09/1940 bệnh của Hàn Mạc Tử ngày càng
nặng. Ong được đưa vào bệnh viện phong Quy Hoà nhưng sau 52 ngày chữa trị ông
đã qua đời. Khi ông mất không hề có một người thân nào bên cạnh mà chỉ có các y
bác sĩ.
Để tưởng nhớ một nhà thơ lớn của đất nước,
nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và một số văn nghệ sĩ đã dựng đài tưởng niệm ông với
hình tượng một cây viết và quyển sách, đồng thời tại trại phong Quy Hoà vẫn còn
giữ một phòng làm phòng lưu niệm nhà thơ Hàn Mạc Tử.
Cuộc đời của Hàn được biết đến với nhiều mối
tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ
của ông , có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư
từ…
Năm 2004, hãng phim truyền hình TPHCM ( TFS )
đã thực hiện bộ phim Hàn Mạc Tử để kỷ niệm ông. Một số bài thơ nổi tiếng đã
được phổ nhạc vì tính lãng mạn của nó, một số bài được nhiều nhà phê bình đánh
giá là hay và đưa vào sách giáo khoa bậc trung học như bài : Đây thôn Vỹ Dạ hay
Mùa xuân chín.
MÙA XUÂN CHÍN
Trong làn nắng ửng : khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
***
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
***
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
***
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Ao em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà.
Ngoài ra nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có phổ nhạc
bài Hàn Mặc Tử như sau :
HÀN MẠC TỬ
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò”
Đường lên dốc đá nữa đêm trăng tà nhớ câu
chuyện xưa. Lầu Ong Hoàng đó thửơ nào trăng Hàn Mạc Tử đã qua. Anh trăng treo
nghiêng nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng. Tiếng chim kêu đâu thương như nức
nở dưới trời sương. Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngở bước chân người, tìm về giữa
đêm buồn.
Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần
đến. Tình yêu vừa chớm xót thương cho chàng cuộc sống phê nhân. Tiếc thay cho
thân trai, một nửa đời chưa qua hết. Trách thay cho tơ duyên chưa thắm nồng đã
vội tan. Hồn ngất ngây điên cuồng cho trời đất cũng tan thương mà khổ đau
niềm riêng.
Hàn Mạc Tử xuôi về quê cũ dấu thân nơi nhà
hoang. Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc tủi cho nhau mà thôi. Tình đã lỡ xin
một câu hứa kiếp sau ta trọn đôi. Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn
côi.
Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn ghềnh đón chân
chàng đến. Người xưa nào biết chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa. Chốn hoang
liêu tiêu sơ Hàn âm thầm ôm trăng vỡ. Khóc thương thân bơ vơ cho đến một buổi
chiều kia. Trời đất như quay cuồng khi hồn phách vút lên cao. Mạc Tử nay còn
đâu.
Hoàng Cúc :
Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Dám ôm hồn Cúc ở trong sương
Ngọc Sương :
“Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối
Sương ở bên thềm chảy mãi thôi”
Mộng Cầm :
Đi thăm Hàn Mạc Tử ở trại phong Quy Hoà, Hàn
Mạc Tử trốn không gặp, gửi tặng thơ cho Mộng Cầm.
“Chửa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bước em đi
Hồn anh sẽ quyện trong làn gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì”
Thương Thương :
Thương Thương là cháu của Trần Thanh Địch
(bạn thơ, rất thân với Hàn Mạc Tử). Trần Thanh Địch muốn an ủi bạn nên bày
chuyện gửi thư cho Hàn Mạc Tử :Viết rằng Thương Thương rất yêu Hàn Mạc Tử (thực
ra Thương Thương còn nhỏ : 12 tuổi)
Hàn Mạc Tử xúc động viết tặng thơ :
“Chiều nay tàn tạ hồn hoa
Nhớ
thương thương quá, xót xa tâm bào”
Hàn Mạc Tử sáng tác vở kịch “Quần Tiên Hội”
có nhân vật chính là Thương Thương trong tưởng tượng. Sau đó anh của Thương
Thương tức giận ngăn cấm, vở kịch bị bỏ dở nửa chừng. Sau khi Hàn Mạc Tử mất,
có một người cũng cùng cảnh ngộ như Hàn Mạc Tử đã viết tiếp vở kịch này và được
giới nghệ sĩ đồng tình.
Mai Đình :
Giáo viên nữ công một trường tư thục, có cuộc
sống sung túc, tinh thần thoải mái.
“Tối ăn chè bưởi, học đờn ca
Kẻ đến thưa cô, kẻ bẩm bà
Có bữa ngâm thơ quên cả ngủ
Quanh mình vây phủ đầy tiên nga”
Mai Đình yêu Hàn Mạc Tử, khi Hàn Mạc Tử gặp
đau thương, Mai Đình nhiều lần từ Sài Gòn ra Quy Nhơn thămvà an ủi Hàn Mạc Tử.
Ngày Hàn Mạc Tử chết, Mai Đình đau đớn ->
làm thơ , nội dung muốn chết theo Hàn Mạc Tử nhưng vì còn bận tham gia kháng
chiến trả nợ với nước non nên hẹn với chàng :
“Bao giờ tổ quốc ca toàn thắng
Là
lúc tìm anh dưới suối vàng.”
Sau này Mai Đình lập gia đình với một vị
tướng trong QĐNDVN. Người này rất hiểu và trân trọng tình yêu của Mai Đình với
Hàn Mạc Tử.
Mai đình lúc trên 70 tuổi vẫn làm thơ cho Hàn
Mạc Tử :
“Em biết yêu em đã muộn màng
Nỗi
niềm thương nhớ dễ gì an
Ghì
trăng ôm gió tìm hương cũ
Tóc
trắng, tình xanh, mộng chửa tàn”
Tham khảo thêm: Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có cuộc đời và số
phận hết sức lạ kỳ. Trong hơn nửa thế kỷ qua, rất nhiều cuốn sách, bài báo viết
về con người này nhưng dường như vẫn còn nhiều điều không thể nói hết. Nhân dịp
Đài Truyền hình TP.HCM chiếu bộ phim Hàn Mặc Tử, Thanh Niên xin giới thiệu loạt
bài tư liệu về nhà thơ này.
HÀN MẶC TỬ NĂM 12 TUỔI
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh
vào giờ thìn ngày 22/9/1912 tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Lúc còn nhỏ,
chàng đã được người anh đầu là một người rất giỏi thơ Đường luật động viên,
hướng dẫn làm thơ, nhờ thế chàng có thể sáng tác thành thạo thơ Đường từ rất
sớm. Chính những bài thơ này đã dẫn dắt chàng gặp gỡ nhà yêu nước vĩ đại Phan
Bội Châu. Và cuộc gặp gỡ định mệnh đó đã làm thay đổi cả cuộc đời chàng về sau.
Ấy là vào năm 1925, Phan Bội Châu bị thực dân
Pháp bắt ở Trung Quốc và đưa về Việt Nam xét xử. Nhưng dưới áp lực đấu tranh
đòi ân xá của các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như dư luận quốc tế, chúng
phải đưa nhà yêu nước về giam lỏng ở Huế. Từ đó Phan Bội Châu trở thành Ông già
Bến Ngự, sớm tối lấy văn thơ làm vui. Để giao lưu tâm tình với bạn hữu và những
người đồng chí hướng, Phan Bội Châu mở ra Mộng Du thi xã, kêu gọi mọi người gửi
thơ văn đến xướng họa. Lời kêu gọi của nhà yêu nước được hưởng ứng sôi nổi. Thơ
từ các nơi gửi về cho Mộng Du thi xã rất nhiều. Và trong số các bài thơ gửi
đến, Phan Bội Châu đặc biệt tâm đắc với ba bài thơ của Hàn Mặc Tử. Chàng đã gửi
đến ba bài thơ Đường luật có tên là Thức k
huya, Chùa hoang và Gái ở chùa. Đó là vào khoảng năm 1931.
Những bài thơ của chàng đã xoáy đúng tâm
trạng nhà yêu nước. Phan Bội Châu đã họa lại ba bài thơ độc đáo này và cho đăng
tất cả trên Báo Tràng An, một tờ báo có nhiều bạn đọc xuất bản ở Huế với lời đề
dẫn: "Từ khi về nước đến nay, được nghe nhiều về văn thơ quốc âm, song
chưa gặp được bài nào hay đến thế. Hồng Nam nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để
bắt tay nhau cười to một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ".
Việc xướng họa thơ văn với nhà yêu nước Phan
Bội Châu đã làm cho Hàn Mặc Tử, khi đó lấy bút hiệu Phong Trần, nổi tiếng ngay
lập tức. Làng văn xôn xao trước sự xuất hiện đầy ấn tượng của một thi sĩ mới.
Đặc biệt hơn nữa, tác giả còn được Phan Bội Châu tôn xưng là tiên sinh. Tiếp
sau đó, Hàn Mặc Tử ra Huế để tìm thăm Phan Bội Châu. Đây là một việc làm hết
sức nguy hiểm, vì thực dân Pháp sẽ chú ý đến tất cả những ai có mối quan hệ mật
thiết với nhà yêu nước này. Sau cuộc gặp gỡ, Hàn Mặc Tử thường xuyên liên hệ
thư từ với Phan Bội Châu, chàng còn gửi thơ của những người bạn khác ra cho
ông. Mật thám Pháp sau một thời gian theo dõi, cuối cùng đã quyết định gạt tên
chàng ra khỏi danh sách những người được bảo trợ sang Pháp du học. Tiếp đó,
Sogny, Chánh sở mật thám Huế gửi công văn vào Quy Nhơn yêu cầu điều tra về
chàng. Chánh sở mật thám Quy Nhơn là Véran gọi chàng lên tra hỏi nhiều lần làm
cho gia đình hết sức lo lắng. Người anh đầu của chàng phải gửi thư ra Huế nhờ
Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, một người quen thân với gia đình chàng xưa nay, can
thiệp với chính quyền thì chuyện mới êm.
Không được đi du học, cuộc đời Hàn Mặc Tử rẽ
sang một ngả khác. Từ đây, chàng bắt đầu bước chân vào con đường viết báo. Thời
gian này, tình hình kinh tế nói chung rất khó khăn. Nạn thất nghiệp tràn lan.
Chàng làm thêm công việc biên chép các tờ trích lục cũ cho Sở Đạc điền Quy
Nhơn. Nhưng công việc này chỉ đem đến cho chàng một khoản tiền đủ để mua báo,
giấy viết và tem thư gửi bài. Rồi xảy ra cơn bão lớn năm 1934 làm sập căn nhà
của chàng đang ở. Nợ nần ập đến. Hàn Mặc Tử quyết định rời Quy Nhơn, vào Sài Gòn
lập nghiệp bằng con đường làm báo chuyên nghiệp.
Tháng 7 năm 1934, từ Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử
khăn gói lên đường vào Sài Gòn để làm báo theo lời thúc giục, rủ rê của mấy
người bạn thân. Sau một thời gian lang thang chờ việc ở Sài Gòn, chàng được mời
phụ trách trang văn chương cho tờ báo Trong khuê phòng...
Chàng vừa sáng tác, vừa biên tập bài vở, lại
kiêm luôn việc sửa bản in, vì thế thu nhập cũng khá. Nhưng chàng luôn cảm thấy
áy náy vì tờ báo mang tên Trong khuê phòng mà nói chuyện văn chương thì có vẻ
không ổn. Tuy thế, do chủ báo đối xử quá tử tế nên chàng cũng lấy làm vui.
Nhưng có một lần, những người bạn của chàng viết bài gây sự với ai đó, bị công
kích lại. Trên một tờ báo ở Sài Gòn, trong mục "Câu chuyện tầm phào"
có bài viết mỉa mai "những trang nam tử lập nghiệp trong phòng the",
ý nói nhóm làm báo Trong khuê phòng sống nhờ vào việc khai thác "thông tin
khuê phòng", với nhiều câu mỉa mai rất dung tục khiến chàng bị sốc, không
đến tòa soạn nữa. Chủ bút phải cử người tới nhà trọ của chàng lấy bài và an ủi
mãi chàng mới trở lại làm việc.
Ở Sài Gòn ít lâu chàng đã trở nên nổi tiếng.
Nhiều chính khách kính nể và đến làm quen khi biết chàng từng có mối liên hệ
với Phan Bội Châu và bị mật thám Pháp theo dõi. Từ đó chàng quan tâm hơn đến
những thông tin chính trị. Chàng định làm một nhà cách mạng chăng? Từ những
xướng họa với nhà yêu nước Phan Bội Châu, bỏ qua cả cơ hội quan trọng là sang
Pháp du học đến chỗ giao du với các nhân vật chính trị không đơn thuần là những
việc làm ngẫu hứng của một chàng thanh niên trẻ tuổi. Nhà báo De Lachevrotière,
một nghị viên Pháp lai da màu rất thích tìm chàng để nói chuyện. Qua De
Lachevrotière, chàng quen nhiều nhóm chính trị khác nhau. Một số nhóm còn bày
tỏ thái độ chống Pháp. Tuy nhiên, lâu dần chàng cảm thấy chán nản khi nhận ra
những nhóm chính trị này dù hô hào cách mạng nhưng họ chỉ là những con bài của
Pháp mà thôi.
Đầu năm 1935, chàng về Huế, trong một đêm
buồn lang thang trên bến sông Hương, chàng đã làm bài thơ Đêm khuya tự tình với
sông Hương để tặng Phan Bội Châu với nhiều tâm sự ray rứt: "Bây giờ
chỉ có đôi ta/Bao nhiêu tâm sự Hằng Nga biết rồi/Thuở nước non đến hồi non
nước/Sông Hương đành xuôi ngược đông tây/Soi lòng chỉ có đám mây/Đám mây phú
quý những ngày lao đao/Sao mặt sông xanh xao ra dáng/Sao tình sông lai láng
khôn ngăn". Bài thơ được đăng trên báo Công Luận số ra ngày 2/3/1935.
Nhiều câu chữ bộc lộ rất rõ ý hướng của chàng: "Mặc ai khanh tướng
công hầu/Không thèm chung đỉnh, lưng bầu gió trăng/Sao trời đất đãi đằng ra
thế/Sao mưa nguồn chớp bể luôn đêm", "Nhà ai khiêu vũ năm canh/Hơi
men sực nức dưới thành đô xưa/Sao tức tối trôi bừa đi mãi/Chẳng buồn nghe
cô lái thở than/Thuyền em đậu bến Hương giang/Chờ người quân tử lỡ làng tình
duyên". Đêm khuya tự tình với sông Hương mang hơi hướng Trên dòng
Hương giang của Tố Hữu. "Ô hay! Sóng chảy dạt dào/Chiếc thuyền vô
định lạc vào bến mê". Hơi thơ tuy ủy mị hơn nhưng tình thơ cũng là
thế. Hàn Mặc Tử nhìn thế sự bằng con mắt của một người muốn làm một cái gì để
vỡ tung sự đè nén.
Ngoài việc phụ trách trang văn chương cho tờ
Trong khuê phòng, Hàn Mặc Tử còn viết cho khá nhiều báo nên kiếm được nhiều
tiền nhuận bút. Ngoài báo tiếng Việt, chàng còn viết cho một số báo tiếng Pháp
như Impartial, Opinion, La Lutte... Tuy nhiên chàng vẫn luôn thiếu trước hụt
sau. Lãnh nhuận bút được bao nhiêu cũng bị bạn "mượn đỡ" mà không bao
giờ có chuyện trả lại. Thậm chí quần áo cũng để cho bạn bè dùng chung. Mỗi lần
từ Sài Gòn về đến Quy Nhơn chàng chỉ còn chiếc va-ly trống rỗng. Người em kế
của chàng tên Nguyễn Bá Tín kể, có lần vào Sài Gòn thăm anh, chẳng những anh ấy
không có tiền cho về xe mà còn xin tiền của em mình để tiêu nữa.
Hàn Mặc Tử là một người sống rất vì bạn. Thời
kỳ ở Quy Nhơn chưa vào Sài Gòn làm báo, ngôi nhà của chàng là nơi bạn bè tụ tập
đến để chơi đùa, nói chuyện văn chương, chuyện trên trời dưới đất. Nhiều người
ăn tại trong nhà chàng nhiều hơn ở nhà mình. Tuy nhiên có một điều đặc biệt,
chơi hết lòng với bạn nhưng không bao giờ theo bạn chơi bời buông thả. Chàng
nhất quyết không dính vào những thứ như gái, thuốc phiện. Hoàng Trọng Miên, một
người bạn làm báo thân thiết với chàng tiết lộ: "Có cám dỗ anh Trí vào nếp
sống buông thả nhưng tâm hồn anh trinh trắng quá, ngay cả đất Sài Gòn ăn chơi
tội lỗi này cũng không cám dỗ anh sa ngã được".
Mộng Cầm lúc quen Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử quen Mộng Cầm trong thời gian phụ
trách trang văn chương cho tờ Trong Khuê Phòng. Mộng Cầm là cháu gọi Bích Khê
bằng cậu, vì "lây nhiễm tinh thần thơ văn" của ông cậu trẻ tuổi nên
cũng tập tành làm thơ gửi đăng báo. Hàn Mặc Tử đã nhận được một số bài thơ như
thế của Mộng Cầm gửi đến và từ đó làm quen với Mộng Cầm.
Hai mươi năm sau ngày Hàn Mặc Tử mất, vào năm
1961, nhà thơ Nguyễn Vỹ, chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Phổ Thông có tòa soạn
tại Sài Gòn đã cử ông Châu Mộng Kỳ tìm gặp Mộng Cầm để thực hiện bài phỏng vấn
về mối tình Hàn Mặc Tử - Mộng Cầm. Nhờ mối quan hệ đặc biệt, ông Châu Mộng Kỳ
là thầy dạy con riêng của chồng Mộng Cầm, nên bài phỏng vấn mới thực hiện được.
Trước đó nhiều nhà báo đã bị từ chối. Trong bài trả lời phỏng vấn nói trên đăng
ở tạp chí Phổ Thông số 63, ra ngày 15 tháng 8 năm 1961, Mộng Cầm đã phủ nhận
hoàn toàn chuyện tình cảm giữa mình và Hàn Mặc Tử: "Một dịp thứ bảy đi
chơi lầu Ông Hoàng, anh thổ lộ mối tình với tôi. Tôi có trả lời anh: Chắc là
không thể đi đến chỗ trăm năm được, tôi nói trước để anh đừng hy vọng. Anh hỏi
lý do. Tôi viện lẽ tôn giáo khác nhau, nhưng thật ra vì biết Hàn Mặc Tử mang
chứng bệnh hiểm nghèo, không thể sống lâu được, ý tôi muốn một người chồng mạnh
khỏe, tráng kiện... Tuy vậy chúng tôi vẫn giao thiệp thân mật một hai năm như
thế. Trong thời gian này, có nhiều lần, Hàn Mặc Tử năn nỉ tôi dẫn về Quảng Ngãi
thăm nhà và trong nhiều bức thư anh đề cập đến vấn đề hôn nhân. Tôi vẫn trả
lời, nhưng luôn luôn ngụy biện để từ chối: Em thiết nghĩ chúng ta sống như thế
này thanh cao hơn, tôn giáo bất đồng, chữ hiếu bắt buộc em phải nghe lời thân
mẫu em".
Bài phỏng vấn này đăng lên, Nguyễn Vỹ cho
biết Mộng Cầm đã đọc và không có điều chi thắc mắc và ông kết luận "đã
giải đáp dứt khoát một nghi vấn thường bị nhiều người xuyên tạc". Tuy
nhiên với độc giả, bài trả lời phỏng vấn của Mộng Cầm đã gây sốc. Bởi mối tình
Mộng Cầm - Hàn Mặc Tử đã được người đời nâng lên thành huyền thoại. Ngay cả
Ngọc Sương, dì ruột của Mộng Cầm cũng phản đối. Rồi đến Quách Tấn, người đã ủng
hộ việc Mộng Cầm đi lấy chồng khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh nan y cũng giận dữ
trước lời phát biểu này. Quách Tấn viết: "Cuộc tình duyên giữa Hàn Mặc Tử
và Mộng Cầm, tôi biết rõ lắm. Nhưng tôi chỉ nói những gì có thể nói được, nói
những gì có thể giúp cho bạn đọc hiểu thêm tâm hồn Tử, văn chương Tử mà
thôi". Quách Tấn là người đã từng bênh vực việc Mộng Cầm đi lấy chồng làm
cho nhà thơ Bích Khê giận ông mấy ngày. Nhưng ông vô cùng tức giận khi Mộng Cầm
phủ nhận mối tình với Hàn Mặc Tử. Mộng Cầm đã nói thật hay nói dối ? Vì sao
nàng lại phủ nhận mối tình này ? Thật ra, trong thời gian quen biết với Mộng
Cầm, căn bệnh phong của chàng chưa bộc phát. Ngay cả chàng cũng không hề
"cảm thấy", làm sao Mộng Cầm có thể "nhận ra". Rất dễ thấy
rằng đó là những lời nói dối của một người con gái muốn quên quá khứ để bảo vệ
hạnh phúc hiện tại. Một lý do rất thường tình và đáng thông cảm. Mối tình Hàn
Mặc Tử - Mộng Cầm đã được rất nhiều người gần gũi xác nhận. Trần Thanh Mại, một
người bạn của chàng đã công bố những chi tiết của mối tình này trong cuốn sách
Hàn Mặc Tử xuất bản năm 1942. "Ấy là câu chuyện một đôi trai tài gái sắc
yêu nhau, câu chuyện muôn đời ấy mà! Người con trai là Hàn Mặc Tử, người con
gái, ta cứ theo nhà thi sĩ mà gọi là Mộng Cầm đi, mặc cái tên thực của họ. Hai
bên đã thề nguyền cùng nhau những lời mà ta hiểu là thiết tha đằm thắm lắm.
Thường thường thì họ hay gặp nhau ở hai tỉnh: Qui Nhơn và Phan Thiết. Họ đưa
nhau đi chơi bờ bể, họ đi viếng các danh lam thắng cảnh, nhất là lầu Ông Hoàng.
Rồi họ xa nhau. Họ nhớ nhau, và tặng ảnh cho nhau. Họ coi như một cặp vợ chồng
chưa cưới".
Hàn Mặc Tử đã sáng tác nhiều bài thơ đầy nước
mắt về mối tình này. Trong bài Muôn năm sầu thảm, chàng đã kêu tên nàng lên một
cách thảm thiết: "Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm / Nhớ thương còn một nắm
xương thôi". Bài Phan Thiết Phan Thiết, chàng nhắc tới những kỷ niệm xưa
về lầu Ông Hoàng, nơi chàng và Mộng Cầm từng dạo chơi thuở nào: "Ta lang
thang tìm tới chốn lầu Trăng/Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang/Nơi đã
khóc, đã yêu thương da diết/Ôi trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết!/Mà tang
thương còn lại mảnh trăng rơi".
Hoàng Cúc là người liên quan đến bài thơ tình
đẹp nhất trong kho tàng thơ ca Việt Nam: Bài thơ thôn Vỹ. Nàng tên thật là
Hoàng Thị Kim Cúc, sinh ngày 5/12/1913, kém Hàn Mặc Tử 1 tuổi.
Cũng như Hàn Mặc Tử, nàng phải theo gia đình
vào Quy Nhơn sinh sống vì cha nàng là công chức, làm việc tại Quy Nhơn. Năm
1933, Tử vào làm cho Sở Đạc điền Quy Nhơn và quen Hoàng Tùng Ngâm - em thúc bá
của Hoàng Cúc. Hoàng Tùng Ngâm sống trong ngôi nhà nhỏ cạnh nhà Hoàng Cúc, anh
em bè bạn thường tụ tập để chơi đùa, bình phẩm văn thơ. Hoàng Cúc khi đó cũng
đang tập tành viết báo làm thơ với bút hiệu Hoàng Hoa nữ sĩ nên cũng quen biết
Hàn Mặc Tử.
Với bản tính đa tình, Hàn Mặc Tử đã đem lòng
si mê Hoàng Cúc. Chàng đã làm một số bài thơ tặng nàng như bài Vịnh hoa cúc,
Trồng hoa cúc... Một số bài đã đến tay Hoàng Cúc qua Hoàng Tùng Ngâm. Hoàng Cúc
biết rất rõ tình cảm của chàng.
Rồi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo. Sau một
thời gian, chàng về lại Quy Nhơn. Lúc này gia đình chàng đã dời đến cách nhà
Hoàng Cúc chỉ vài căn. Tình xưa dậy sóng trở lại. Giờ đây, chàng đã ít nhiều
bạo dạn hơn trước. Hàn Mặc Tử sáng tác bài Hồn cúc: "Bấy lâu sát ngõ,
chẳng ngăn tường/Không dám sờ tay sợ lấm hương/Xiêm áo đêm nay tề chỉnh
quá/Muốn ôm hồn cúc ở trong sương".
Năm 1936, Hoàng Cúc theo gia đình về Huế sinh
sống. Sau đó, nàng bắt đầu ăn chay trường, trở thành cư sĩ, sống cuộc đời lặng
lẽ bí ẩn. Cũng trong năm đó, Hàn Mặc Tử in tập thơ Gái quê, là tập thơ mới đầu
tiên kể từ khi chàng bỏ làm thơ Đường luật. Chàng mang theo một số tập Gái quê
ra Huế. Và chàng đã gặp lại Hoàng Cúc trong một dịp hội chợ nhưng không dám
tặng thơ cho nàng. Chàng cũng tìm đến Vỹ Dạ - nơi ở của Hoàng Cúc - nhưng chỉ
đứng ngoài cổng một lúc rồi bỏ đi.
Nhiều năm sau đó, giữa hai người không có
liên lạc gì với nhau. Một hôm Hoàng Cúc nghe tin chàng bị bệnh phong, nàng liền
gửi thư cho chàng. Và chàng đã cảm động sáng tác bài Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng
nàng.
Chuyện tình Hoàng Cúc - Hàn Mặc Tử cũng có
những điều gây tranh cãi như trường hợp Mộng Cầm. Bởi Hoàng Cúc đã có lần công
khai phủ nhận chuyện nàng có tình cảm với Hàn Mặc Tử. Đó là vào năm 1969, nhà
thơ Quách Tấn, người bạn thân thiết của Hàn Mặc Tử đã viết một hồi ký lấy tên
là Đôi nét về Hàn Mặc Tử đăng trên tạp chí Văn, trong đó có phần nói đến mối
quan hệ giữa Hoàng Cúc và Hàn Mặc Tử. Quách Tấn cho rằng hai người không thành
duyên nợ là do thân sinh của Hoàng Cúc chê Hàn Mặc Tử không xứng. Hoàng Cúc đã
đọc được hồi ký này và ngày 15/3/1971, nàng gửi thư cho Quách Tấn để "nói
lại cho rõ". Hoàng Cúc đã phản bác một số chi tiết nhỏ mà Quách Tấn nêu ra
và cuối cùng nói về mối quan hệ của mình với Hàn Mặc Tử: "Hồi ấy tuy Tử ở
gần nhà tôi, song Tử và tôi cách xa nhau như hai ngọn núi. Tử thì kín đáo và
bẽn lẽn như con gái, còn tôi thì bí mật và xa lạ như cung trăng! Tuy thế Tử
cũng đã tìm cách để gặp, nhưng vẫn chưa toại nguyện..."
Thế nhưng Quách Tấn kiên quyết bảo vệ lập
trường của mình trong các chi tiết thể hiện việc Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc có yêu
nhau: "Còn về những chi tiết trong cuộc tình duyên của Tử - Cúc, thì nhất
định ký ức tôi không phản tôi, vì không có gì phức tạp khó nhớ. Việc Tử nhờ
người đến dạm là việc có thật. Người ấy là nhà thầu khoán Bùi Xuân Lang ở Quy
Nhơn, vừa thân với Tử, vừa quen với cụ Hoàng Phùng".
Hiểu như thế nào về chuyện này? Theo chúng
tôi, Hoàng Cúc ngày ấy là một thiếu nữ trẻ trung yêu đời, lại ít nhiều có tâm
hồn văn chương thì việc đáp lại những tình cảm của một người như Hàn Mặc Tử là
có thể xảy ra. Nhưng sau này cũng như Mộng Cầm, nàng đã cố gắng chôn chặt những
điều thầm kín riêng tư vào cõi lòng. Là một người xa lánh cuộc đời để tìm đến
cõi thiền, thì những chuyện tình cảm dù có cũng không thể phơi bày cho công
chúng biết. Cho nên việc Hoàng Cúc phủ nhận chuyện có đáp lại tình cảm với Hàn
Mặc Tử là điều dễ hiểu. Nguyễn Bá Tín cho biết tại nhà riêng của Hoàng Cúc, khi
đã quy y, nàng vẫn "dành riêng một căn phòng ngày đêm hương hoa tụng niệm,
tưởng nhớ mối tình bất diệt của anh mà cũng là tình đầu của chị".
Mối tình Hàn Mặc Tử - Hoàng Cúc như là khói
sương bảng lảng. Nàng thực sự là một nàng thơ hơn là một người tình để chàng có
thêm thi hứng mà thôi.
Năm 1936, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn trở lại Quy
Nhơn. Lúc này thân phụ Hoàng Cúc về hưu nên gia đình phải dọn về Huế. Cũng
trong năm đó, chàng bắt đầu phát hiện những dấu hiệu của căn bệnh phong, nhưng
chàng vẫn chưa quan tâm đến nó. Một thời gian rất lâu, căn bệnh mới phát mạnh.
Năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói
trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống
thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh
nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử
rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc.
Chi tiết trên là theo Nguyễn Bá Tín. Còn theo
nhiều tác giả khác thì Hoàng Cúc không gửi ảnh mình mà gửi một tấm bưu ảnh có
mây nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có khóm tre, có cả ánh trăng
hoặc là ánh nắng chiếu xuống. Một thời gian sau, nàng nhận được thư của Hàn Mặc
Tử. Kèm theo bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng, Hàn Mặc Tử viết: "Túc hạ! Có
nhận được bức ảnh bến Vỹ Dạ lúc hừng đông hay là một đêm trăng? Và mấy hàng chữ
của túc hạ gửi thăm, muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người năm xưa, thế là
phúc phận lắm rồi. Mong ơn trên xuống độ cho túc hạ thật đầy và mong rằng một
mùa xuân nào đấy sẽ gặp lại được túc hạ cho phỉ dạ. Thăm túc hạ bình an vui
vẻ".
Đây thôn Vỹ Dạ là bài thơ nhẹ nhàng nhất của
Hàn Mặc Tử trong tập thơ Điên. Bởi lúc này chàng đang trong thời kỳ bệnh tật,
đau đớn điên cuồng cả thể xác lẫn tâm hồn. Thơ của chàng luôn luôn là những gào
thét uất hận, nghẹn ngào. Bài thơ này, Nguyễn Bá Tín cho biết nguyên cái tựa
ban đầu của nó là Ở đây thôn Vỹ Dạ. Nhưng về sau đã được biên tập lại, bỏ đi
chữ Ở. Trong bài thơ, hình ảnh hàng cau được nhiều người khen ngợi, nhưng lại
đem đến thắc mắc cho chính người được tặng thơ là Hoàng Cúc. Nàng đã không hiểu
vì sao Hàn Mặc Tử lại viết câu thơ "Sao anh không về chơi thôn Vỹ/Nhìn
nắng hàng cau nắng mới lên". Thôn Vỹ Dạ, nằm bên kia Đập Đá, cư dân ở đây
phần lớn thuộc tầng lớp thượng lưu. Kế thôn Vỹ Dạ là thôn Nam Phổ, một thôn
bình dân, sống bằng nghề trồng cau. "Mua vôi chợ Quán chợ Cầu. Mua cau Nam
Phổ mua trầu chợ Dinh". Cau Nam Phổ nổi tiếng khắp cả nước. Hằng năm đến
mùa cau, già trẻ gái trai trong làng đều có thể trèo cau, hái cau để bán. Các
cô gái Nam Phổ nổi tiếng trèo cau giỏi. Vì thế có câu "Con gái Nam Phổ ở
lổ trèo cau". Những cô gái khuê các vùng Vỹ Dạ rất sợ bị xếp vào diện câu
ví đó. Và vì thế ít ai chịu trồng cau ở Vỹ Dạ. Như vậy, thì vì sao Hàn Mặc Tử
lại lấy hình ảnh cây cau như là một biểu tượng cho thôn Vỹ Dạ?
Bài thơ cũng tạo ra rất nhiều sự khó hiểu đối
với độc giả trong các chi tiết khác. Chẳng hạn mấy câu thơ "Mơ khách đường
xa, khách đường xa. Áo em trắng quá nhìn không ra" và "Ở đây sương
khói mờ nhân ảnh. Ai biết tình ai có đậm đà?". Có nhiều ý kiến lý giải
khác nhau, trong đó thậm chí có người cho rằng khổ thơ này chỉ những nàng kỹ nữ
sông Hương như trên báo Giáo Viên Nhân Dân số tháng 1/1990. Theo ý kiến một số
người, hình ảnh "áo trắng nhìn không ra" là do Hoàng Cúc mặc chiếc áo
dài màu trắng mà tấm hình cũ quá nên Hàn Mặc Tử không thấy rõ. Còn "sương
khói mờ nhân ảnh" thì Nguyễn Bá Tín cho rằng có thể là Hàn Mặc Tử muốn nói
đến đời sống khói nhang cõi thiền của Hoàng Cúc.
Ngày tháng ra đời của bài thơ cũng gây bàn
cãi. Trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật số ra ngày 7/1/1990, tác giả Đào Quốc Toàn viết:
"Bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ chỉ có thể được viết trong khoảng 1936-1937 chứ
không thể viết vào năm 1939 được, bởi vì bài thơ này được Hàn Mặc Tử tập hợp
lại ở tập Đau thương trong thời gian cuối 1937 đầu 1938. Tập thơ này gồm khoảng
50 bài thơ, lúc đầu lấy tên là Thơ điên".
Đây cũng là vấn đề khó làm sáng tỏ. Hàn Mặc
Tử sáng tác bài thơ này trong thời điểm nào? Nếu căn cứ vào trí nhớ của Hoàng
Cúc thì bài thơ ra đời vào năm 1939. Trong thư gửi cho Quách Tấn vào ngày
15/10/1971, Hoàng Cúc viết: "Vào khoảng hè 1939, Ngâm viết thư về Huế cho
biết Tử mắc bệnh nan y, và khuyên tôi nên viết thư thăm Tử, để an ủi một tâm
hồn đã vô cùng đau khổ. Thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa
bằng cái carte-visite. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái
chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước.
Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe Tử mà không ký tên, rồi nhờ Ngâm
trao lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ...".
Mai Đình thực ra không phải là một nàng thơ,
cũng không phải là một người tình của Hàn Mặc Tử...Đúng nghĩa, nàng là một
người bạn văn chương của chàng. Nàng gặp Hàn Mặc Tử khi chàng đã lâm trọng
bệnh, xa lánh tất cả mọi người để về ẩn mình trong một cái chòi tranh ở Gò Bồi,
cách thành Quy Nhơn khoảng 15 cây số.
Mai Đình xuất thân trong một gia đình khá
giả, nhưng mang trong mình dòng máu lãng mạn, nàng theo tiếng gọi bốn phương
cất bước ra đi. Nhờ có nghề dạy nữ công gia chánh cho những gia đình giàu có
nên Mai Đình kiếm kế sinh nhai khá dễ dàng. Nàng đã đặt chân đến nhiều vùng đất
xa xôi, có khi qua tận Nam Vang. Năm 1937, Mai Đình đến Quy Nhơn. Trước đó nàng
đã nghe danh Hàn Mặc Tử từ lâu. Là một người có cá tính mạnh mẽ, nàng không câu
nệ, tìm cách giáp mặt chàng. Lần đầu tiên, Hàn Mặc Tử vì tự ti bệnh tật nên không
chịu tiếp. Nàng bèn vào Nha Trang, thông qua Quách Tấn để "tiếp cận"
chàng. Trong hồi ký của mình, Quách Tấn nhớ lại: "Gặp tôi, nàng không chút
e lệ, ngồi nói chuyện như người quen biết đã lâu. Phê bình bài thơ Gái quê
xong, nàng tỏ thật nỗi lòng đối với Tử: "Biết Tử mang bệnh ngặt nghèo,
lòng tôi hết sức thương cảm. Tôi mong sao chia sớt được nỗi đau khổ của Tử một
đôi phần". Rồi nàng trách Mộng Cầm sao đành lòng bỏ Tử".
Nàng gửi cho Quách Tấn bài thơ Biết
anh để tặng Hàn Mặc Tử với những câu thơ thật mạnh dạn: "Còn anh em
đã gặp anh đâu!/Chỉ cảm vần thơ có những câu/Âu yếm say sưa đầy cả mộng/Xui
lòng tư tưởng lúc đêm thâu". Đây là bài thơ đầu tiên mở ra một tình bạn
văn chương thú vị giữa hai người. Hàn Mặc Tử nhận được thơ, liền hồi âm nhưng
Mai Đình đã đi khỏi Nha Trang. Chàng buồn rầu sáng tác bài Lưu luyến:
"Chửa gặp nhau mà đã biệt ly/Hồn anh theo dõi bóng em đi/Hồn anh sẽ nhập
trong luồng gió/Lưu luyến bên em chẳng nói gì".
Điều đặc biệt nhất trong mối quan hệ Mai Đình
- Hàn Mặc Tử là nàng đã hành xử rất đúng với tinh thần văn chương: Tứ hải giai
huynh đệ. Theo tài liệu của Trần Thanh Mại thì mùa hè năm 1938, Mai Đình từ
biệt Quy Nhơn để vào Sài Gòn thu xếp công việc. Khi trở ra, Mai Đình đưa Hàn
Mặc Tử một món tiền để lo thuốc thang và nói ý định của mình: sẽ ở lại trong
cái chòi tranh cùng với chàng. Hàn Mặc Tử từ chối nhưng nàng mặc kệ, cứ ở đấy
đi chợ nấu ăn, sắc thuốc cho chàng. Mai Đình không hề ngần ngại bệnh tật cũng như
dư luận người đời.
Hàn Mặc Tử từ chỗ không muốn gặp mặt đến xúc
động trước việc làm của Mai Đình nên đã có nhiều câu thơ tặng
nàng: "Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn/Đêm muộn xuống gieo vào muôn
sóng mắt/Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt/Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!". Ngoài
lo việc cơm nước thuốc thang cho chàng, thời gian còn lại nàng cùng chàng ngâm
thơ vịnh cảnh. Hai tâm hồn thi sĩ sống bềnh bồng với những vần thơ như thế suốt
một thời gian dài. Nhưng số tiền Mai Đình mang theo cũng đã hết. Nàng khuyên
chàng vào Bệnh viện phong Quy Hòa để điều trị, nàng sẽ đi theo và ở luôn trong
ấy để chăm sóc cho chàng. Nhưng Hàn Mặc Tử từ chối. Cuối cùng hai người phải từ
giã nhau. Nàng lại cất bước giang hồ bốn phương. Lâu lâu, chàng lại nhận được
cánh thư của nàng từ phương trời xa nào đó. Trong một lần ngồi buồn, chàng đem
những từ ngữ trong bức thư nàng gửi xếp lại thành bài thơ. Đó là bài Thao thức
với những câu thơ da diết: "Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy/Cho nên
muôn dặm ở ngoài kia/Em đang mong mỏi, em đang nhớ/Bứt rứt lòng em muốn trở
về".
Mối tình thơ kỳ lạ giữa Mai Đình và Hàn Mặc
Tử cùng với việc Mai Đình chăm sóc cho Hàn Mặc Tử được Trần Thanh Mại công bố
vào năm 1942, một năm sau ngày Hàn Mặc Tử mãi mãi ra đi. Nhưng câu chuyện trên
đây không được gia đình Hàn Mặc Tử thừa nhận và Quách Tấn thì cho rằng Trần
Thanh Mại đã hoàn toàn bịa đặt. Tuy nhiên, những tài liệu của Trần Thanh Mại
công bố đã thuyết phục được không ít người. Có người cho rằng, trước đây giữa
nhà thơ Quách Tấn và nhà phê bình Trần Thanh Mại xảy ra vụ kiện bản quyền thơ
Hàn Mặc Tử, liên quan trực tiếp đến cuốn sách Hàn Mặc Tử mà Trần Thanh Mại xuất
bản năm 1942, xuất phát từ mâu thuẫn này mà nhà thơ Quách Tấn đã nói như vậy
chăng?
Thương Thương là một nàng thơ huyền diệu nhất
của Hàn Mặc Tử. Bởi chàng không chỉ đơn thuần làm thơ về nàng như những hình
bóng giai nhân khác. Trong tâm tưởng chàng, Thương Thương không phải là người
của cõi trần.
Trong bài thơ Tiêu sầu, chàng đưa mình bay
lên tận cung trăng để gặp "Hằng Nga Thương Thương", trong vở kịch thơ
Duyên kỳ ngộ và Cẩm châu duyên, Thương Thương là tiên nữ. Chính vì vậy, có một
số tài liệu cho rằng Thương Thương không phải là người có thật mà chỉ là cái
tên mượn. Trần Thị Huyền Trang, cháu nhà thơ Quách Tấn viết trong Hàn Mặc Tử -
hương thơm và mật đắng: "Thương Thương không phải là một nhân vật có thật.
Tất cả mọi chuyện đều do Trần Thanh Địch sắp đặt ra".
Chúng tôi đã trực tiếp gặp nhà văn Trần Thanh
Địch tại tư gia ở đường Nguyễn Đình Chính, quận Phú Nhuận, TP.HCM để tìm hiểu
về nàng thơ này. Trần Thanh Địch là một trong hai người bạn thân nhất của Hàn
Mặc Tử (người kia là nhà thơ Quách Tấn). Thương Thương chính là Trần Thị Thương
Thương, là con của ông Trần Thanh Đạt, anh trai hai nhà văn Trần Thanh Mại và
Trần Thanh Địch. Hàn Mặc Tử cũng là bạn của Trần Tái Phùng, anh ruột Thương
Thương.
Ông Địch cho biết, vào năm 1936, khi Hàn Mặc
Tử ra Huế lần cuối cùng để tặng tập Gái quê cho bạn bè, thì Thương Thương chỉ
mới 12 tuổi, nên Hàn Mặc Tử chẳng hề chú ý đến làm gì. Đến năm 1939, Hàn Mặc Tử
đã trải qua nhiều biến cố đau buồn trong cuộc đời như người anh cả dạy chàng
làm thơ năm nào qua đời, Hoàng Cúc theo gia đình về quê, Mộng Cầm bỏ đi lấy
chồng, bệnh tình chàng ngày một nặng hơn. Lúc này, chàng đã sống ẩn mình, chỉ
biết làm thơ. Làm được bài nào, chàng chép lại để gửi ra Huế cho Trần Thanh Địch
và Trần Tái Phùng đọc.
Lúc này, tiếng tăm của chàng đã nổi như cồn.
Thơ chàng làm ra được học sinh trung học chép tay chuyền nhau đọc thuộc lòng.
Đặc biệt là những nữ sinh, rất thích chép và đọc thơ Hàn Mặc Tử. Trần Thị
Thương Thương bấy giờ đang học Trường Trung học Đồng Khánh, cũng bắt đầu say mê
thơ Hàn Mặc Tử.
Trần Thanh Địch kể, một hôm ông đang ngồi
viết thư cho Hàn Mặc Tử thì Thương Thương đến gần, nói đại ý nếu có gửi thư cho
Hàn Mặc Tử thì xin cho Thương Thương gửi lời thăm. Trần Thanh Địch khuyên
Thương Thương viết một bức thư ngắn gửi kèm cho lịch sự. Thương Thương nghe lời
chú, viết bức thư xã giao, nói đại ý đã đọc thơ của chàng nhiều và rất thích,
nay gửi lời chúc chàng mau bình phục để sáng tác.
Nhận được thư Thương Thương, chàng hồi âm
ngay. Chàng nói rất vui và sẽ có thơ gửi tặng Thương Thương. Quả nhiên chỉ vài
hôm Thương Thương bắt đầu nhận được thơ chàng gửi tặng. Đó là các đoạn trích
hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội. Chàng cũng đặt cho Thương Thương
biệt danh Người lụa bến sông Hương.
Hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội
là những sáng tác độc đáo của Hàn Mặc Tử. Trần Thanh Địch cho biết cứ vài ngày
ông và Trần Tái Phùng lại nhận được một đoạn thơ từ Quy Nhơn gửi ra. Phùng đọc
xong chuyển cho người anh rể vốn là giáo viên Trường Trung học Khải Định. Người
này đem lan truyền trong các học trò của mình. Điều đặc biệt trong Duyên kỳ ngộ
lẫn Quần tiên hội, tên tuổi của Thương Thương và Hàn Mặc Tử được nêu đích danh.
Chẳng hạn trong Duyên kỳ ngộ, chàng viết: "Em là Trần Thương Thương/Anh là
Hàn Mặc Tử/Không phải cách âm dương/Còn có khi hội ngộ".
Thương Thương lập tức nổi tiếng theo. Giới
học sinh ở Huế xôn xao. Trong một thời gian ngắn, chuyện đến tai ông Trần Thanh
Đạt, thân sinh của Thương Thương. Gia đình Thương Thương là gia đình quan lại,
ông nội Thương Thương làm Thừa biện Bộ Binh, ông ngoại làm Thượng thư Bộ Lễ.
Ông Trần Thanh Đạt khi đó cũng đang làm Tham tri Bộ Quốc gia giáo dục, ba năm
sau được thăng Thượng thư Bộ Quốc gia giáo dục. Trong một gia đình như vậy,
việc Thương Thương trở thành một người nổi tiếng kiểu đó khó mà được chấp nhận.
Ông Trần Thanh Đạt đã gọi anh Thương Thương là Trần Tái Phùng đến, yêu cầu tìm
cách làm nguội dư luận. Trần Tái Phùng bèn viết thư gửi Hàn Mặc Tử, đề nghị
chàng thôi sử dụng hình ảnh của Thương Thương trong sáng tác. Tử nhận được thư
và lập tức làm theo đề nghị của bạn. Từ đó, Quần tiên hội mãi mãi bị bỏ dở
dang.