Tài liệu hướng dẫn
Tập hợp những câu hỏi hay trong ngành du lịch
Ngày 26/12/09 TP: Hồ
Chí Minh
DZOÃN TIẾN ĐẠT biên soạn
LỜI NÓI ĐẦU
Hướng dẫn du lịch là một ngành nghề đặc thù, hướng dẫn viên không chỉ là "đại sứ văn hoá" mà còn là linh hồn của một tour du lịch. Hành khách tham gia tour ít nhiều đều mong muốn được hướng dẫn viên cập nhật kiến thức trong quá trình đi thăm quan và sẽ đặt ra một số câu hỏi dành cho hướng dẫn viên, nếu hướng dẫn viên không thể trả lời hoặc trả lời không đúng, sẽ bị mất hình tượng. Chính vì vậy Đạt đã tập hợp và biên soạn tài liệu này, bao gồm rất nhiều câu hỏi và câu trả lời, tuy có thể không đáp ứng hết mong muốn của du khách nhưng Đạt hy vọng sẽ giúp được cho những ai làm công tác hướng dẫn du lịch có thêm kiến thức để hoàn thành tốt công việc của mình.
1. Vòi rồng là gì?
Một vùng mây xoáy khổng lồ trên bầu trời xám xịt vươn dài chiếc vòi hút ngoằn
ngoèo xuống mặt đất. Nó có thể xé toang chiếc ô tô tải 10 tấn, bê một toà nhà 5
tầng từ chân lên đến đỉnh núi, và chỉ trong nháy mắt đã ném văng một toa tàu
hoả đi xa khoảng 2 cây số… “Hung thần” đó chính là vòi rồng.
Vòi rồng là hiện tượng một luồng không khí lớn xoáy tròn mở rộng ra từ một đám
mây dông xuống tới mặt đất. Đường kính của vòi rồng có thể thay đổi từ một vài
chục mét đến 2 cây số, trung bình là vào khoảng 50 mét.
Vòi rồng hình thành ở bán cầu bắc thường tạo ra gió xoáy ngược chiều kim đồng
hồ, xung quanh một tâm có áp suất không khí cực kỳ thấp. Ở bán cầu nam, gió
hình thành vòi rồng đi theo chiều kim đồng hồ. Vận tốc gió tối đa có thể tới
120 – 150 km / h.
Phần lớn vòi rồng được hình thành từ một dạng mây dông đặc biệt gọi là mây dông
tích điện. Một đám mây dông tích điện có thể kéo dài trong vài giờ, xoáy tròn
trong vùng có đường kính từ 10 – 16 km, chu du hàng trăm dặm và sinh ra một số
“ống hút” khổng lồ như vậy.
Các nhà khoa học cho rằng vòi rồng được hình thành giữa một vùng có luồng khí
nóng đi lên và một vùng có luồng khí lạnh đi xuống. Bước đầu tiên là quá trình
tương tác giữa những cơn dông hướng lên trên và gió. Cơn dông này là một luồng
khí nóng ẩm, được nâng lên khỏi mặt đất trong quá trình hình thành bão. Sự
tương tác khiến cho tầng khí nóng đi lên xoay tròn trong không trung. Giai đoạn
hai là sự phát triển của dòng khí lạnh di chuyển theo hướng đi xuống mặt đất ở
phía bên kia của cơn bão. Tốc độ dòng khí đi xuống có thể vượt quá 160 km / h.
Vòi rồng loại yếu hơn có thể được tạo ra ngoài biển. Chúng thường xuất hiện
trong các vùng nước nhiệt đới.
Việc đo tốc độ gió của vòi rồng một cách trực tiếp là vô cùng khó khăn, bởi nó
có thể phá huỷ nhiều thứ xuất hiện trên đường đi. Năm 1971, ông Theodore
Fujita, một nhà khí tượng thuộc Đại học
Mỹ là nơi có số lượng vòi rồng trung bình mỗi năm cao nhất thế giới, khoảng 800
cơn.
Trận lốc xoáy vòi rồng tồi tệ nhất ở Mỹ xảy ra ngày 18/03/1925. Cùng một lúc 7
vòi rồng xuất hiện ở 3 bang
Trong thời gian diễn ra vòi rồng, mọi người phải ngay lập tức tìm nơi trú ẩn
trong một tàng hầm hay nơi kín đáo của toà nhà như phòng họp, phòng tắm… Tuyệt
đối tránh trú ẩn trong xe hơi và nhà di động bởi chúng có thể bị thổi bay bất
cứ lúc nào. Không nên ở trong những nhà lớn có mái rộng như thính phòng hay siêu
thì là những nơi dễ bị sụp đổ. Nếu đang ở ngoài đường, bạn nên chui xuống một
cái rãnh hay mương sâu và che đầu cẩn thận để khỏi bị thương do đất đá rơi
xuống
2. Vì sao đường di chuyển của bão lại
tuân theo một quy luật nhất định?
Sau
mỗi lần liên tục nghe báo cáo vị trí trung tâm bão, bạn hãy đánh dấu vị trí của
cơn bão trên bản đồ, bạn sẽ phát hiện ra rằng, tất cả mọi tuyến đường đi của
trung tâm cơn bão, tuy cũng có một số thay đổi, nhưng trên cơ bản vẫn là tuyến
đường có hình parabol và tuyến đường thẳng, bão di chuyển rất có quy luật trên
Trái đất.
Dự báo của đài khí tượng thuỷ văn trên cơ bản là dựa vào quy luật di chuyển của
bão để đưa ra dự báo.
Có hai loại lực khiến cho bão chuyển động, đó là nội lực và ngoại lực. Nội lực
là lực sinh ra trong bản thân bão. Vì bản thân bão là luồng không khí xoáy tròn
ngược với hướng của kim đồng hồ, phương hướng chuyển động của từng chất điểm
trong luồng không khí đã chịu ảnh hưởng của hiện tượng Trái đất tự quay quanh
và phát sinh ra phương hướng lệch. Tác dụng của phương hướng lệch này ở bán cầu
Bắc, làm cho các chất điểm trong luồng không khí có xu hướng chuyển động lệch
về phía bên phải, hơn nữa, vĩ độ ngày càng cao, tác dụng của hướng lệch ngày
càng lợi hại, điều này khiến cho gió bão từ hướng Bắc thổi sang hướng Tây vốn
có nhiều chất điểm trong không khí đã dịch chuyển một lượng sang phía Bắc; gió
bão từ hướng Nam thổi sang hướng Đông vốn có ít chất điểm trong không khí đã
dịch chuyển một lượng sang phía Nam. Như thế, chất lượng của không khí ở phía
Ngoại lức là động lực thúc đẩy cơn bão khi luồng không khí bao quanh cơn bão
vận động trên một qui mô lớn. Vào mùa hạ và mùa thu, trên biển Thái Bình Dương
thường có một luồng không khí áp cao độc lập (thường được gọi là khí áp cao phụ
nhiệt đới), hướng gió ở bốn bề khí áp cao này có mối quan hệ với con đường di
chuyển của bão. Bão sinh ra ở vùng phụ cận phía
Nội lực và ngoại lực kết hợp lại với nhau khiến cho phương hướng di chuyển của
cơn bão thường theo một quy luật nhất định. Nhưng trong quá trình di chuyển của
nó chịu ảnh hưởng rất lớn cuả áp cao phụ nhiệt đới ở biển Thái Bình Dương.
Trong thời kỳ đầu, bão ở mặt Nam của cao áp phụ nhiệt đới, nó thường di chuyển
theo hướng Tây Bắc, một khi đến vùng ven phía Tây của dải khí áp cao phụ nhiệt
đới, sẽ tiến vào phía Tây Bắc của trung tâm áp cao phụ nhiệt đới, lúc này, ngoại
lực mà nó thu được sẽ thay đổi, thúc đẩy nó chuyển sang hướng Đông, cùng kết
hợp với nội lực, khiến cho phương hướng của bão chuyển sang hướng Tây Bắc. Do
cường độ của áp cao phụ nhiệt đới, kéo dài về phía Tây và thu hẹp ở phía Đông,
cùng với tình trạng ngắt quãng khác nhau nên tuyến đường đi của bão cũng không
giống nhau. Nếu dải áp cao phụ nhiệt đới dài ra ở phía Tây đồng thời được tăng
cường, đường đi của bão cũng lệch sang hướng Nam, tiến thẳng sang phía Tây; nếu
dải áp cao phụ nhiệt đới ở phía Bắc của bão lui sang phía Đông hoặc đứt đoạn,
bão có thể di chuyển sang phía Bắc nơi có chỗ đứt gãy hoặc ở phía Tây vùng áp
cao, sau đó chuyển động vòng sang phía Đông Bắc. Nói tóm lại, đường đi của bão
được hình thành theo đường Parabol.
Trong quá trình di chuyển, bão vừa xoay chuyển vừa đi, mà khu vực gió lớn của
nó càng di chuyển càng lớn, khi được hình thành trên vùng biển nhiệt đới, đường
kính của nó rất lớn, đạt khoảng 100.000 mét, sau đó dần dần được phát triển,
khi di chuyển nơi phụ cận 30 độ vĩ Bắc, đường kính tăng gấp 10 lần so với đường
kính ban đầu, sau đó lại tiếp tục di chuyển lên phía trước, lực của bão vì thế
giảm dần, phạm vi của gió cũng giảm xuống, cuối cùng là mất hẳn.
Bình thường bão chỉ đi qua vùng sát biên giới Trung Quốc, sau đó di chuyển sang
Nhật Bản, cho nên nó chỉ ảnh hưởng đến các tỉnh Quảng Đông, Hải Nam, Quảng Tây,
Đài Loan, Phúc Kiến, Triết Giang, Giang Tô và thành phố Thượng Hải. Ở vùng
duyên hải Sơn Đông và bán đảo Liêu Đông cũng có lúc chịu một số ảnh hưởng,
nhưng bão rất ít khi ảnh hưởng đến các tỉnh phiá Bắc và các tỉnh trong nội địa.
Chỉ có khi vùng phụ cận phía Tây của dải cao áp phụ nhiệt đới Thái Bình Dương
đổ vào khu vực Giang Nam Trung Quốc thì bão mới đổ vào vùng duyên hải Đông Nam
và tiến vào vùng nội địa.
Bão được sinh ra trên biển, một cơn bão trưởng thành có sức gió vô cùng lớn,
sức gió từ cấp 12 trở lên có thể bốc đầu ngọn sóng lên mấy chục mét, thổi bay
bất cứ chiếc xe lớn nào có tải trọng lên tới cả vạn tấn.
Sau khi đổ bộ vào đất liền, bão vẫn măc sức phá hoại ở các khu vực ven biển,
đánh bật gốc cây, làm đổ nhà, thổi bay hoa màu. Nhưng một khi đã tiến sâu vào
trong lục địa, chịu ảnh hưởng của lực ma sát với mặt đất, tốc độ gió dần dần bị
giảm nhỏ xuống, cường độ cũng yếu dần. Lúc này nó mới trút một cơn mưa lớn xuống
mặt đất khiến cho núi lở, khắp nơi đầy nước, phá hoại đê kè, đồng ruộng ngập
đầy nước. Có lần sau khi bão đổ bộ vào đất liền, một tỉnh cách xa biển như Hà
Nam, trong vòng mấy ngày liền tỉnh đó phải hứng một lượng mưa như trút xuống
hơn 1000 mm khiến cho cả mấy huyện gặp tình cảnh nhà cửa ngập nước đến đỉnh.
Mắt bão lặng gió
Bão thực chất là một khối không khí quay tròn có phạm vi rất lớn, nó vừa xoay
vừa di chuyển. Tại trung tâm của bão, áp suất khí rất thấp, trong khi không khí
ở xung quanh xoáy rất nhanh quanh tâm, ngược chiều kim đồng hồ…
Không khí ở tầng thấp vừa quay vừa đổ về trung tâm áp suất thấp, tạo ra một tâm
bão hình tròn có đường kính khoảng 40 kilomét, thường được gọi là mắt bão. Do
các dòng khí bên ngoài mắt bão quay tròn rất gấp tạo ra lực ly tâm, khiến không
khí khó mà lọt vào được vùng bên trong. Chính vì thế mắt bão nom như một chiếc
ống đơn độc do một vòng tường bằng mây bao bọc, bên trong nó không khí dường
như không quay và gió cũng rất yếu ớt.
Không khí bên ngoài mắt bão vừa quay vừa tiến về trung tâm có áp suất thấp,
mang theo rất nhiều hơi nước. Do không thâm nhập được vào mắt bão, nó phải bốc
lên xung quanh vùng này, hình thành nên một đám mây cao ngất phình to màu xám
xịt và từ đó đổ xuống những cơn mưa như trút. Trong khi đó tại mắt bão lại xuất
hiện dòng khí đi xuống, nhờ thế ở đây trời quang, mưa tạnh, thậm chí ban đêm
còn nhìn thấy cả những chùm sao lấp lánh trên không.
Mắt bão thường không có mây hoặc rất ít mây nên trên những ảnh chụp từ vệ tinh
xuống, nó được ghi lại như một điểm tròn nhỏ màu đen. Sau khi mắt bão di chuyển
qua rồi, thời tiết rất xấu lặp lại và phát sinh ra mưa to, gió lớn.
Ở trong mắt bão, thường hay có những đàn chim rất Đông bay lượn. Những con chim
biển này đã bị những dòng khí cuốn dạt vào bão và vô tình nhờ vậy mà tìm được
một nơi tránh gió tuyệt với. Có những trường hợp cơn bão di chuyển đã đem theo
những đàn chim như vậy tới những miền rất xa.
Trong mắt bão tuy trời quang gió lặng nhưng sóng biển ở đó thì lại đặc biệt
hung dữ. Đó là vì khí áp tại tâm bão rất thấp so với xung quanh nó. Những thí
nghiệm cho thấy, khi đặt một cốc nước vào trong chiếc chuông thuỷ tinh rồi hút
dần không khí trong chuông ra, lúc không khí đã trở nên rất loãng, áp suất giảm
tới một mức nhất định thì nước trong cốc sôi sục nổi bọt lên tựa chừng đặt lên
bếp mà đun vậy. Cho nên ở những nơi tâm bão đổi bộ lên bờ, sóng biển thường
dâng lên rất cao và gây ra những thiệt hại to lớn.
Vì sao núi Phú Sĩ vươn cao khác thường?
Biểu tượng của đất nước Mặt trời mọc - ngọn núi Phú Sĩ tuyệt mỹ - lâu nay vẫn
khiến các nhà khoa học thắc mắc. Có cái gì đó hơi bí ẩn ở nơi đây: Ngọn núi này
quá to và hoạt động quá mạnh so với vị trí của nó.
Phú Sĩ nằm trên một đới hút chìm, là ranh giới giữa hai mảng thạch quyển. Tại
đây, mảng thạch quyển Philippine chìm xuống bên dưới Nhật Bản. Quá trình này
làm nóng chảy đá, tạo ra rất nhiều túi dung nham nhỏ.
Thông thường, các núi lửa hình thành trong những khu vực như vậy có xu hướng
yên tĩnh (ít khi phun trào) và thường bé nhỏ, đơn giản bởi chúng không nhận
được đủ lượng magma cần thiết để to ra và hoạt động mạnh hơn.
Nhưng ngọn núi Phú Sĩ lại cao bất thường, và tạo ra vật liệu với tốc độ khoảng
10.000 kilomét khối sau 100.000 năm, lớn hơn các núi lửa khác ở điều kiện tương
tự. Thêm nữa, dung nham của nó lại hơi giống với loại được tạo ra ở các dãy núi
giữa đại dương (nơi hai mảng thạch quyển tách rời nhau, để magma ở dưới sâu
phun trào lên).
Người ta đã khám phá ra một vết “rách” trong mảng thạch quyển biển Philippine ở
ngay bên dưới chân núi Phú Sĩ. Từ vết rách này, một lượng lớn manti đã dâng
lên, lấp đầy khoang chứa dung nham của ngọn núi, khiến cho núi lửa cao thêm và
hoạt động mãnh liệt hơn các anh chị em của nó. Vết rách này được tạo ra khi hai
mảng lục địa ở gần đó va vào khoảng 2 triệu năm trước đây.
Vì sao gió thổi lên thường có trận to
trận nhỏ?
Điều
này phải bắt đầu bàn từ sự vận động hỗn loạn của không khí.
Bạn nhất định từng chú ý khói bụi bay tỏa từ ống khói thường bay cuồn cuộn lên
phía trên, giọt sương trong màn sương thường bị thổi bay tứ phía, lá rơi ngoài
góc tường thì thường rơi xuống xoay tròn theo chiều gió. Tất cả những điều này
nói lên sự dịch chuyển của không khí không phải dựa vào phương tuyến thẳng, mà
là sự vận động không theo qui tắc của vòng xoáy lớn nhỏ. Sự vận động không theo
qui tắc này là sự vận động hỗn loạn của không khí.
Khi bắt đầu, sự vận động này hình thành đầu tiên ở nơi tiếp xúc với các vật
trên mặt đất. Do bề mặt Trái đất gồ ghề, không bằng phẳng, tốc độ di chuyển của
các luồng không khí nhỏ khi tiếp xúc với bề mặt Trái đất không những bị giảm
tác dụng ma sát với bề mặt Trái đất dẫn đến tốc độ gió giảm, mà còn có thể phát
sinh những khác biệt dẫn đến sản sinh ra các xoáy tròn không khí lớn nhỏ. Chiếc
lá rơi xuống xoáy tròn ở phía góc tường chính là do luồng không khí trong quá
trình chuyển động bị bức tường kia ngăn lại, đành phải hướng đến phía rìa bức
tường, tạo thành vòng xoáy hình trôn ốc. Cũng giống như thế, gió khi gặp vật
trở ngại như nhà cao tầng, núi đồi, cũng có thể hình thành nên các vòng xoáy
không khí lớn nhỏ. Vòng xoáy không khí còn thường hình thành ở những khu vực mà
mặt đất hấp thụ được nhiệt lượng không đồng đều, sản sinh ra đối lưu cục bộ,
hoặc giữa hai luồng không khí có vận tốc di chuyển không giống nhau hoặc phương
hướng trái ngược nhau. Cho dù vòng xoáy được sinh ra từ nguyên nhân nào thì
chúng vừa tiến lên phía trước vừa xoáy tròn cùng với phương hướng chính của
luồng không khí, trong quá trình tiến lên phía trước vừa quấy nhiễu vừa thay
đổi hình dạng, kết hợp hoặc khuếch tán. Lúc này, đối với chỉnh thể không khí mà
nói, tuy nó vẫn vận động dịch chuyển theo cùng một hướng, nhưng đối với luồng
không khí nhỏ mà nói, thì sự chuyển động của chúng là sự chuyển động theo tuyến
gấp khúc lúc nhanh, lúc chậm không theo một qui tắc nào. Đối với một địa điểm
nhất định, theo sự di chuyển không ngừng của sự qua lại nên rất nhiều vòng xoáy
to nhỏ không giống nhau, hình dạng khác biệt, biểu hiện rất rõ trận thì mạnh
trận thì nhẹ.
Ở những nơi có bề mặt Trái đất gồ ghề, lực ma sát lớn, sự vận động dịch chuyển
mạnh, trận tính của gió cũng lớn. Vì thế, trận tính của gió ở trong đất liền
thường mạnh hơn vùng biển, ở khu vực núi mạnh hơn ở bình nguyên. Ngoài ra, trận
tính của gió còn những mối liên hệ lớn nhỏ với bản thân tốc độ của gió, tốc độ
bình quân càng lớn, trận tính gió càng mạnh, sự sai khác giữa tốc độ gió chớp
mắt với tốc độ gió bình quân ngày càng lớn.
Vì
sao gió thổi lúc mạnh lúc nhẹ?
Gió thổi thường có trận mạnh trận yếu, rất ít khi gió tiến lên phía trước cùng
một tốc độ. Trong bản tin khí tượng, báo cáo sức gió to nhỏ thường cấp 5 - cấp
6,gió cấp 7 , chính là nói rõ đặc tính của gió. Cấp 5, cấp 6 chỉ sức gió bình
thường, tương đương với tốc độ gió bình quân từ 8 -10,7 m / s hoặc 10,8 - 13,8
m / s, trận gió cấp 7 tương đương với tốc độ gió trong nháy mắt từ 13,9 - 17,1
m / s. Theo qui định của đài khí tượng Trung Quốc, khi đo đạc tốc độ gió, thống
nhất sử dụng tốc độ gió bình quân là 2 phút. Có lúc cũng căn cứ vào những yêu
cầu không giống nhau để tính toán tốc độ gió bình quân là 1 phút hoặc 10 phút.
Còn những trận gió có tốc độ gió lớn nhất trong một không gian ngắn thì được
gọi là tốc độ gió chớp mắt.
Vì sao gió ở trên cao thổi mạnh hơn ở dưới thấp?
Chúng ta thường đứng trên lầu cao hoặc trên tháp cao sẽ cảm thấy gió mạnh hơn
trên mặt đất, có thể thấy rằng tốc độ gió mạnh theo độ cao. Lấy thành phố Bắc
Kinh làm ví dụ, khi tốc độ gió ở độ cao 10 mét là 1,1 m / s, ở độ cao 50 mét là
3,6 m / s, ở độ cao 100 mét là 4,4 m / s, ở độ cao 150 mét là 4,9 m / s, nếu
như độ cao càng tăng thì gió càng mạnh hơn, cứ như vậy đến một độ cao nhất định
thì dừng, độ cao này được quyết định bởi điều kiện khí hậu lúc đó.
Gió ở nơi cao thường thổi mạnh hơn gió ở nơi thấp, thế nhưng sự chênh lệch về
tốc độ gió ở nơi cao và tốc độ gió ở nơi thấp phụ thuộc vào tình hình thời
tiết. Vào những ngày nắng dưới ánh sáng Mặt trời chiếu mạnh, đối lưu trong
không khí cũng mạnh, lúc này sự chênh lệch về tốc độ gió ở nơi cao và nơi thấp
là không đáng kể, chính là tốc độ gió ở nơi cao tuy lớn thì tốc độ gió ở nơi
thấp cũng không hề nhỏ. Vào những ngày tiết trời âm u, ánh sáng Mặt trời chiếu
xuống tương đối yếu, đối lưu không khí yếu , lúc này sự chênh lệch tốc độ gió ở
nơi cao và nơi thấp tương đối lớn, chính là tốc độ gió ở nơi thấp tương đối nhỏ
thậm chí không có gió nhưng ở nơi cao gió vẫn tương đối lớn.
Vì sao gió ở nơi cao lại mạnh hơn gió ở nơi thấp? Bởi vì không khí vận động
luôn chịu ảnh hưởng của lực ma sát, luồng không khí trên mặt đất chịu tác dụng
rất lớn của lực ma sát, đặc biệt là những vùng đồi núi không bằng phẳng, không
khí rất dễ hình thành chuyển động xoáy. Cùng với độ cao tăng lên, tác dụng lực
ma sát giảm, tốc độ gió cũng tăng. Cùng ở một khu vực, nhiệt độ không khí gần
mặt đất cũng không giống nhau, có chỗ cao chỗ thấp. Như vậy, mặt nước trên cùng
độ cao thì nhiệt độ không đồng đều, dẫn đến khí áp không đồng đều ( gọi là khí
áp nấc thang), làm cho tốc độ gió mạnh lên.
Gió thổi như thế nào?
Cờ bay trong gió, thuyền buồm chạy băng băng,
mặt nước dập dềnh, sóng vỗ ầm ầm, … Những điều này đều do gió gây ra. Khi vui
vẻ, nó đi chậm rãi từng bước, nhẹ nhàng đu đưa cành liễu, khi nổi giận, nó chạy
nhảy lung tung, làm đổ cây lật nhà. Vậy gió thường thổi như thế nào?
Tục ngữ có câu “nhiệt cực sinh phong”( khi nóng qua sẽ nổi gió), câu nói này
rất có ý nghĩa. Mặt trời chiếu xuống Trái đất, do tính chất bề mặt Trái đất
khác nhau cho nên mức độ chịu nhiệt cũng khác nhau, nhiệt độ không khí các vùng
có nơi cao nơi thấp. Những vùng nhiệt độ cao, không khí phình ra, mật độ không
khí thu hẹp, khí áp thấp; ngược lại,những vùng nhiệt độ thấp, không khí co lại,
mật độ không khí dầy đặc, khí áp tăng cao. Do khí áp giữa hai vùng chênh lệch
nhau nên đã sản sinh ra một lực từ nơi có khí áp cao đến nơi có khí áp thấp,
thường được gọi là lực khí áp nấc thang. Dưới tác dụng của lực khí áp nấc
thang, không khí di chuyển từ nơi có khí áp cao xuống nơi có khí áp thấp, cũng
giống như nước ở sông thường chảy từ chỗ cao đến chỗ thấp, và gió cũng thổi
theo qui luật như vậy.
Sự chênh lệch khí áp giữa hai vùng càng lớn thì luồng không khí di chuyển càng
nhanh, gió cũng thổi mạnh hơn. Khi khí áp chênh lệch không đáng kể thì không
khí di chuyển chậm, sức gió thổi càng không có lực. Nếu như khí áp giữa hai
vùng tương đương, không có sự chênh lệch khí áp thì không khí sẽ không chuyển
động, trời lặng gió.
Sự phân bố khí áp ở các vùng trên Trái đất không những khác biệt nhau mà còn
thay đổi theo thời khắc. Luồng khí áp cao và khí áp thấp nhất khi thì khống chế
vùng đất liền, khi thì di chuyển ra ngoài những đại dương. Khí áp cao hàn lạnh
thường nối tiếp với luồng không khí lạnh di chuyển từ khu vực có vĩ độ cao
xuống khu vực có vĩ độ thấp. Khí áp thấp ở khu vực ôn đới di chuyển từ Tây sang
Đông. Như vậy, phương huớng, độ lớn mạnh của lực khí áp nấc thang giữa các vùng
thay đổi theo từng thời khắc, gió giữa các vùng cũng khi mạnh khi yếu đồng thời
không ngừng thay đổi hướng gió.
Vào mùa đông, do ở đất liền phát tán nhiệt nhanh hơn vùng biển nên nhiệt độ
không khí thấp hơn ở vùng biển, nhưng khí áp lại cao hơn ở vùng biển, khí áp
cao thường cư ngụ ở vùng đất liền, vì thế mùa đông ở Trung Quốc thường có gió
Tây Bắc vừa khô vừa lạnh thổi từ đất liền ra biển. Vào mùa hè thì ngược lại,
dưới ánh sáng Mặt trời cực mạnh, ở vùng đất liền nhiệt độ gia tăng nhanh hơn
vùng biển, nhiệt độ tăng cao khí áp lại thấp hơn vùng biển rất nhiều, vì thế
mùa hè ở Trung Quốc thường có gió mùa Đông Na nóng ấm thổi từ biển Thái Bình
Dương vào phía Đông Trung Quốc. Khu vực Tây Nam Trung Quốc còn có gió mùa Tây
Nam nóng hổi từ Ấn Độ Dương.
Khu vực duyên hải, ban ngày tiết trời trong lành, vùng đất liền chịu nhiệt
nhanh hơn vùng biển, nhiệt độ cao, khí áp thấp hơn vùng biển, gió biển mát mẻ
không ngừng thổi từ biển vào trong đất liền. Ban đêm, đất liền tản nhiệt nhanh
hơn vùng biển, sự phân bố nhiệt độ không khí và khí áp ngược hẳn so với ban
ngày, gió thổi từ đất liền ra ngoài biển. Đây chính là nguyên nhân tại sao vùng
duyên hải thường xuất hiện gió ở thềm lục địa.
Ban ngày vùng núi trời nắng, không khí trong khe núi chịu nhiệt nên nở phình
ra, tập trung dày đặc ở phía trên, trên độ cao giống nhau nhưng khí áp trong
khe núi thường cao hơn trên sườn núi , vì thế gió từ trong khe núi thổi lên
đỉnh núi; nhưng vào ban đêm thì ngược lại, gió từ trên núi thổi xuống khe núi.
Đây là gió núi và gió khe núi.
Từ đó có thể thấy rằng, bất kể gió mùa, gió thềm lục địa hay gió núi, đều cho
thấy bức xạ ánh sáng Mặt trời có thể là động lực cơ bản để gió thổi, còn nguyên
nhân cơ bản chính là sự chênh lệch khí áp giữa hai vùng.[/code
5. Vì sao ở vùng núi có nhiều khoáng sản
kim loại?
Khu công nghiệp
Một điều thực tế là ở đồng bằng có rất ít khoáng sản kim loại. Vì thế, những
nước đồng bằng tuy mạnh về nông nghiệp, nhưng lại thiếu các mỏ quặng đồng, sắt,
kẽm... Bạn có biết vì sao kim loại lại hay xuất hiện ở vùng đồi núi không?
Vùng đối núi là những khu vực bị nhô lên khi vỏ trái đất vận động. Tùy theo sự
nhô lên của vỏ trái đất mà những dung nham nóng chảy (magma) - vốn nằm sâu dưới
lòng đất - có cơ hội nhô lên và hoạt động. Magma chứa một lượng lớn các muối
của axit silic. Ngoài ra, magma còn chứa nhiều kim loại nóng chảy như vàng,
đồng, chì, thiếc, molybden...
Khi magma trào lên đến gần mặt đất, do nhiệt độ giảm, nó nguội đi, rắn thành đá
peridot, đá hoa cương... Những đá rắn này chủ yếu do các muối của axit silic
hợp thành. Còn các nguyên tố kim loại, khi gặp điều kiện nhiệt độ, áp lực thích
hợp, thường phân ly khỏi magma, hình thành quặng khoáng sản kim loại. Các quặng
này xuất hiện tương đối tập trung, hình thành mỏ. Chính vì thế, nguời ta hay
tìm thấy khoáng sản kim loại ở vùng đồi núi.
6. Thực vật có chứa hoóc môn động vật
không?
Năm nọ, lá dâu mất mùa, tằm lại đến tuần tuổi thứ năm, nếu nhịn đói sẽ không
kéo kén được. Có người lượm cỏ xước đem luộc lên, lấy nước phun lên lá dâu cho
tằm ăn. Thật kỳ lạ! tằm kéo kén ngay. Thì ra, thân cây có chứa chất kích thích
lột xác, giống như chất mà côn trùng tự tiết ra.
Chính chất này làm tằm vội vàng "vứt áo bỏ giáp", lột xác hoá nhộng.
Điều này thật khác thường, vì chất kích thích trong động vật và thực vật - hai
ngành lớn trong giới sinh vật - không có liên quan gì với nhau. Chẳng hạn, chất
kích thích trong thực vật như auxin, gibberelin, chất phân bào… không có tác
dụng gì với động vật.
Hiện tượng này lần đầu tiên được biết đến vào năm 1966, một nhà khoa học Nhật
Bản đã phát hiện trong cây thông la hán (Podocarpus chinensis) trồng ở Đài Loan
có hoạt tính của chất kích thích lột xác. Từ đó, người ta mới biết giữa hai
ngành này vẫn có những quan hệ lý thú.
Vậy là các nhà khoa học đã tiến hành chọn lựa rộng rãi trong hơn 200 họ, hơn
1.000 loài cây và tìm ra hơn 100 loại chất kích thích lột xác. Ngày nay, việc
ứng dụng chất kích thích này để tăng sản lượng tơ tằm không còn xa lạ nữa.
Điểm lý thú là chất kích thích lột xác thực vật có ưu điểm hơn chất kích thích
do chính côn trùng tự tiết ra. Ngoài việc phân bố rộng, dễ kiếm, nó lại có hàm
lượng rất cao, có loại cây chứa đến hơn 1 kg/100 kg chất thô. Trong khi từ 500
kg nhộng tằm chỉ lấy được 25 gram chất kích thích lột xác.
Trong thực vật không những có chất làm côn trùng “chóng già”, mà còn có “thuốc
trường sinh bất lão" nữa.
Những năm 70, có một nhà khoa học Tiệp Khắc chuyên nghiên cứu sự biến thái của
côn trùng. Ông đem một giống sâu gọi là hồng xuân từ
Hoá ra, trong một số loại giấy do Mỹ sản xuất có chứa chất kéo dài trạng thái
sâu non hồng xuân. Lần về ngọn, thì thấy thứ cây dùng làm loại giấy này có chứa
chất chống lão hoá như thung dung (Glyptostrobus pensilis), thông, thuỷ tùng,
thông rụng lá (Larix gmelini). Đó là chất este methy, dẫn xuất của axit béo.
Chính nó là chất làm cho côn trùng trường sinh bất lão. Tuy nhiên, thứ chất này
chứa trong thực vật rất ít, phân bố cũng không rộng.
Vì sao thực vật lại có hoóc môn động vật. Có người giải thích rằng đó là nhu
cầu tự vệ của thực vật, bởi vì côn trùng sau khi ăn những cây đó sẽ lột xác sớm
hoặc dẫn tới ngộ độc, bất lợi cho chúng. Nhưng cũng có người cho rằng đây là
nhu cầu sinh sản của bản thân thực vật. Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là các suy
luận.
7. Làm thế nào để biết một hòn đá là
thiên thạch?
Thiên thạch có những vết rỗ rất đặc trưng.
Nếu đặt trước mắt bạn một đống đá và sắt cục, bạn có phân biệt được hòn nào là
thiên thạch, hòn nào là đá hay sắt tự nhiên không? Chẳng khó lắm đâu. Để ý một
chút, bạn sẽ thấy thiên thạch có lớp vỏ mỏng và những rãnh không khí rất đặc
trưng.
Khi bay vào bầu khí quyền, thiên thạch cọ sát với không khí nên bề mặt bị nóng
lên mấy nghìn độ, và chảy thành nước. Sau đó, khi nguội dần, bề mặt nóng chảy
này đóng lại thành một lớp vỏ mỏng gọi là lớp vỏ nóng chảy, thường chỉ dày độ 1
mm, màu nâu hoặc nâu đen.
Trong quá trình lớp vỏ này nguội dần, không khí thổi qua bề mặt nó và để lại
những vết hằn rõ, gọi là các rãnh không khí, trông giống như vết ngón tay để
lại khi ta nắm bột mì. Lớp vỏ nóng chảy và những rãnh không khí là đặc điểm chủ
yếu của thiên thạch. Nếu thấy tảng đá hay cục sắt nào có các đặc điểm kể trên,
thì có thể khẳng định đó là thiên thạch.
Một số thiên thạch rơi xuống đất lâu ngày, bị mưa nắng phong hóa làm bong mất
lớp vỏ cứng. Trường hợp đó, khó nhận ra các rãnh không khí, nhưng đã có cách
khác để nhận ra chúng. Thiên thạch đá trông rất giống đá trên trái đất, nhưng
với cùng thể tích, bạn sẽ thấy nó nặng hơn nhiều. Chúng thường chứa một lượng
sắt nhất định, có từ tính, dùng nam châm thử là biết ngay. Ngoài ra, quan sát
kỹ mặt cắt của thiên thạch đá, bạn sẽ thấy trong đó có rất nhiều hạt tròn nhỏ,
đường kính 1-3 mm. 90% thiên thạch đá đều có những hạt tròn nhỏ như vậy.
Thành phần chủ yếu của thiên thạch đá là sắt và niken, trong đó sắt chiếm
khoảng 90%, niken 4-8%. Lượng niken trong sắt tự nhiên trên trái đất không
nhiều như vậy. Nếu mài nhẵn mặt cắt của thiên thạch sắt rồi dùng axit nitric
bôi vào, sẽ xuất hiện những vết rỗ rất đặc biệt, giống như các ô hoa. Đó là vì
thành phần các chất trong thiên thạch sắt phân bố không đều, chỗ nhiều chỗ ít
niken. Chỗ chứa nhiều niken khó bị axit ăn mòn và ngược lại, tạo nên các đường
vân. Đây cũng là một cách để nhận biết thiên thạch.
8. Vì sao buổi trưa nóng nực không nên
tưới cây?
Mùa hè trời rất nóng, nhất là vào buổi trưa. Nhiệt độ trong đất cũng cao dần
cho đến giữa ngày. Lúc này, nếu tưới nước thì đất đang nóng sẽ hạ nhiệt đột
ngột, trong khi nhiệt độ không khí bên ngoài tương đối cao. Sự thay đổi giật
cục này khiến hoa vốn non yếu sẽ chịu không nổi và chết.
Nước có tỷ nhiệt cao, gấp 4 lần so với tỷ nhiệt không khí. Nghĩa là khi hút và
tỏa nhiệt, nhiệt độ của nước ít chênh lệch, do đó nó luôn thấp hơn nhiệt độ
không khí (chỉ xét các nước nhiệt đới). Nếu tưới nước lúc đất đang nóng sẽ làm
đất lạnh đi rất nhanh.
Vào buổi sáng sớm và chiều tối, vì nhiệt độ không khí tương đối thấp, nên sau
khi tưới, nhiệt độ giữa đất và không khí chênh lệch ít, không gây nguy hiểm làm
chết cây. Nếu trời râm mát thì tưới nước lúc nào cũng được.
Ngoài hoa, nói chung rau và một số loài cây thân thảo khác đều không nên tưới
nước lạnh vào trưa hè. Có khi trong ngày hè nóng nực, buổi trưa bỗng đổ mưa
rào, rau non bị chết ngạt hết cũng là vì lý do trên.
9. Làm thế nào để tranh sơn dầu hết
đen?
Phòng triển lãm trưng bày nhiều bức họa vẽ cảnh tuyết bay, khoác lên vạn vật
một màu trắng sống động. Nhưng sau nhiều năm, màu tuyết xỉn dần, tranh biến
thành cảnh chết. Một nhà hoá học đến triển lãm, dùng bông tẩm hoá chất lau nhẹ
mặt tranh. Cảnh tuyết hiện ra lung linh ngay sau đó.
Nhà hóa học đã dùng dung dịch oxi hoá (nước oxy già - H202) để làm biến mất mầu
đen trên bức tranh. Ông xử lý được "lỗi thời gian" này vì biết màu
tuyết trắng trên bức tranh sơn dầu có thành phần là bột phấn chì (chì II oxit).
Phấn chì thường là màu trắng, nhưng nó có thể tác dụng với khí hydro sunfua
trong không khí tạo thành chì sunfua màu đen.
Tuy nhiên, vì phản ứng xảy ra chậm, đồng thời, lượng khí hydro sunfua trong
không khí ít, nên lượng chì sunfua tạo thành cũng không nhiều. Do vậy màu trắng
trên bức họa chỉ bị sẫm màu mà không đen hẳn. Chỉ cần dùng dung dịch H202 lau
qua bức tranh thì sẽ biến màu đen của chì sunfua thành phấn chì màu trắng.
Hydro sunfua trong không khí xuất hiện khi chúng ta đốt nhiên liệu. Chẳng hạn
trong than đá có từ 1-1,5 % lưu huỳnh, dầu mỏ cũng có lưu huỳnh. Khi đốt cháy
nhiên liệu, lưu huỳnh tác dụng với oxi tạo thành hydro sunfua. Chất này cũng
sinh ra trong quá trình thối rữa của động vật
10. Tại sao nên xếp hồng với lê khi
giấm?
Quả chín thoát ra nhiều khí ethylene.
Kinh nghiệm dân gian cho thấy, khi ngắt những trái hồng xanh về giấm thường rất
lâu chín. Nhưng nếu người ta để vào mấy quả lê hay vài quả hồng chín thì những quả
xanh cũng mau chín hơn hẳn.
Trong mỗi quả xanh đều có một loại axit gây chua, chát. Ví dụ trong hồng có
axit tanin, táo có axit malic, quýt, chanh có axit xitric... Khi quả chín, các
axit này bị phân hủy dần và vị chua, chát sẽ mất đi. Màu quả cũng chuyển từ
xanh qua vàng.
Bình thường, chỉ cần chờ đợi thì quả xanh nào rồi cũng chín, nhưng không phải
ai cũng kiên nhẫn được như vậy. Mặc khác, đến vụ người ta muốn thu hoạch một
lần nhiều quả chín. Vì thế cần có cách làm chúng chín nhanh hơn, đó là nghệ
thuật giấm hoa quả. Trước thế kỷ 20, người ta không hiểu vì sao khi đưa một vài
quả chín vào đám quả xanh thì quá trình chín diễn ra nhanh hơn.
Mọi bí mật được hé mở khi nhà hóa học Svet tìm ra phương pháp sắc ký - tức là
phương pháp xác định thành phần các chất khí. Đo đạc cho thấy quả chín thường
thoát ra khí ethylene. Một số quả như lê, táo chín nhanh hơn các quả hồng, mận.
Chúng cũng giải phóng nhiều ethylene hơn. Loại khí này có cấu trúc phân tử gồm
một nguyên tử carbon và 4 nguyên tử hydro. Nó có tính hoạt động hóa học tương
đối mạnh, xúc tiến hoạt động hô hấp của cây, khiến ôxy dễ lọt qua lớp vỏ vào
quả hơn, và quả cũng chín nhanh hơn. Chính vì vậy, khi xếp mấy quả lê hoặc vài
quả hồng chín vào một rổ hồng xanh thì có thể tiết kiệm được thời gian giấm.
11. Vì sao trong sa mạc có nấm đá ?
Nấm đá ở sa mạc Gioocdani, cao xấp xỉ 8 mét.
Trong sa mạc, thỉnh thoảng bạn sẽ bắt gặp từng hòn nham thạch cô độc nhô lên
như cây nấm đá, có hòn cao đến 10 m. Ngắm cái “bụng” thon và cái “đầu” nặng nề
của nó thật thú vị. Chúng là kiệt tác của nhà điêu khắc nào vậy? Của nhà điêu khắc
vô danh - gió trong sa mạc.
Những khối nham thạch kỳ lạ này là do bị gió cát cọ sát, mài mòn ngày này qua
ngày khác mà nên. Những hạt cát nhỏ bị gió cuốn lên rất cao, trong khi những
hạt cát tương đối thô nặng thì chỉ bay là là gần mặt đất. Trong điều kiện tốc
độ gió bình thường, hầu như toàn bộ sỏi đều tập trung ở tầm cao chưa tới 2 mét.
Có người đã làm một thực nghiệm thú vị ở phần nam Đại sa mạc Takla Makan, thì
thấy khi tốc độ gió là 5,7 m/giây thì có tới 39% sỏi chỉ bay tới độ cao dưới 10
cm, trong đó phần cực lớn hầu như bay sát mặt đất.
Vì vậy khi gió cuốn sỏi cát bay qua, phần dưới tảng nham thạch cô lập bị rất
nhiều hạt sỏi cát không ngừng mài mòn, phá hủy tương đối nhanh. Còn phần trên,
vì gió mang theo tương đối ít sỏi cát nên sự mài mòn diễn ra chậm hơn. Ngày qua
tháng lại, dần hình thành “nấm đá” có phần trên thô lớn, phần dưới nhỏ.
Nếu phần dưới của nham thạch mềm, phần trên cứng chắc thì thậm chí ở chỗ không
bị gió cát mài mòn, chỉ dưới tác dụng phá hoại của các lực tự nhiên khác, nham
thạch cũng sẽ bị tạc thành nấm đá.
12. Vì sao mực xanh đen được ưa
chuộng?
Các loại mực thường dùng có màu đỏ, xanh và xanh đen. Với hai loại mực đỏ và
xanh, chữ viết ra rất nét, nhưng nếu gặp nước, dễ bị nhoè đi. Trong khi đó, mực
xanh đen gặp nước vẫn "vô tư", và rất bền với thời gian. Tại sao lại
như vậy?
Mực đỏ và mực xanh được điều chế bằng cách hoà các phẩm mầu tương ứng vào nước
mà thành. Các loại màu này rất dễ tan khi gặp nước, nên chữ viết hay bị nhoè
đi. Mực xanh đen không bị nhược điểm này là do phương pháp chế tạo ra nó.
Nguyên liệu chế tạo gồm: tanin, axit galic và sắt (2) sunfat. Ngoài ra, trong
mực còn có một ít axit sunfuric, có tác dụng ngăn ngừa sắt (2) sunfat bị oxy
hóa thành sắt (3) sulfat, một ít axit phenic để chống mực bị thối, một ít bột
màu xanh để tạo màu cho mực và ít chất keo để làm cho mực có độ dính.
Sau khi chế tạo, lượng tanin trong mực xanh đen kết hợp với sắt (2) sulfat
thành tanin sắt (2). Khi dùng mực viết chữ trên giấy, dưới tác dụng của ánh
sáng mặt trời và oxy của không khí, tanin sắt (2) biến thành tanin sắt (3).
Tanin sắt (3) sẽ tác dụng với axit galic tạo thành sắt galat. Hợp chất này bám
chặt vào mặt giấy, không bị hơi ẩm làm nhòe chữ, cũng như không bị nhạt màu,
giúp chữ viết bám lâu dài vào mặt giấy. Do đặc điểm này, ngày nay trong các văn
kiện chính thức, người ta thường viết bằng mực xanh đen.
Đương nhiên, vì tanin sắt (2) dễ bị ôxy hóa biến thành tanin sắt (3), mà hợp
chất này lại dễ tác dụng với axit galic tạo kết tủa, nên mực sau khi chế xong
phải được chứa trong bình đậy kín. Nếu không trong đáy mực sẽ có kết tủa sau
một thời gian.
13. Thuỷ tinh có bị ăn mòn không?
Thuỷ tinh được xem là một vật liệu kỳ diệu vì khả năng chống ăn mòn cao. Không
nói đến nước, chứ các loại axit rất mạnh như axit sunfuric, nitric, clohydric,
và cả nước cường toan dùng để hoà tan vàng, thuỷ tinh cũng "chấp"
hết. Có điều, người ta đã lầm khi nghĩ rằng thuỷ tinh không có đối thủ.
Các nhà khoa học từng cho rằng thủy tinh là bình đựng vạn năng, và đã bỏ vào đó
axit flohydric. Không lâu sau, các bình này trở nên mờ đi. Tại sao vậy? Thì ra,
axit flohydic có thể tác dụng với silicat, thành phần chủ yếu của vật liệu làm
bình. Chính nhờ phản ứng này mà người ta tạo được các dấu chia độ, hoa văn,…
trên các bình thuỷ tinh. Axit flohydric tác dụng với silicat theo phản ứng sau:
CaSiO3 + 6 HF = CaF2 + SiF4 + 3 H2O
Do đó, thuỷ tinh bị ăn mòn. Phương pháp khắc, đánh dấu trang trí theo kiểu này
được gọi là phương pháp khắc ăn mòn.
Vì bình thuỷ tinh không đựng được axit flohydric, nên người ta phải tìm một vật
liệu khác, đó là chì. Nguyên tố này trơ đối với axit flohydric. Ngày nay, chất
dẻo được thay thế cho chì để làm bình đựng vì nó khắc phục được tất cả các
nhược điểm trên.
14. Tại sao phòng quan trắc thiên văn
thường có mái tròn?
Đài thiên văn khi đóng cửa sổ.
Thông thường mái nhà nếu không bằng thì cũng nghiêng, chỉ riêng mái các phòng
quan trắc của đài thiên văn thì hình tròn, trông xa giống như một bánh bao lớn.
Phải chăng họ làm dáng cho nó hay chỉ để trông cho lạ mắt?
Không phải vậy, bởi mái tròn có tác dụng riêng của nó. Nhìn từ xa, nóc đài
thiên văn là một nửa hình cầu, nhưng đến gần sẽ thấy trên nóc mái có một rãnh
hở chạy dài từ đỉnh xuống đến mép mái. Bước vào bên trong phòng, rãnh hở đó là
một cửa sổ lớn nhìn lên trời, ống kính thiên văn khổng lồ chĩa lên trời qua cửa
sổ lớn này.
Mái hình tròn của đài thiên văn được thiết kế để chuyên dụng cho kính thiên văn
viễn vọng. Mục tiêu quan trắc của loại kính này nằm rải rác khắp bầu trời. Vì
thế, nếu thiết kế như những mái nhà bình thường thì rất khó điều chỉnh ống kính
về các mục tiêu. Trên trần nhà và xung quanh tường, người ta lắp một số bánh xe
và đường ray chạy bằng điện để điều khiển nóc nhà di chuyển mọi góc độ, rất thuận
tiện cho người sử dụng. Bố trí như vậy, dù ống kính thiên văn hướng về phía
nào, chỉ cần điều khiển nóc nhà chuyển động đưa cửa sổ đến trước ống kính, ánh
sáng sẽ chiếu tới và người quan sát có thể nhìn thấy bất cứ mục tiêu nào trên
bầu trời.
Khi không sử dụng, người ta đóng cửa sổ trên nóc nhà để bảo vệ kính thiên văn
không bị mưa gió. Đương nhiên, không phải tất cả các phòng quan trắc của đài
thiên văn đều thiết kế mái tròn. Một số phòng quan trắc chỉ quan sát bầu trời
hướng Bắc -
15. Vì sao ruồi bay có tiếng, nhưng
bướm lại không?
Bướm đập cánh rất chậm, vì thế không phát ra tiếng kêu.
Khi ruồi muỗi lượn quanh, từ xa, bạn đã nghe thấy tiếng “động cơ” vo vo của
chúng. Nhưng bướm thì dù có ghé sát tai vào bạn cũng không thể nghe được gì cả.
Phải chăng ruồi muỗi có cơ quan "phát thanh" đặc biệt?
Thật ra, tiếng kêu đó chỉ là do dao động do cánh gây ra mà thôi. Để chứng minh
vấn đề này, chúng ta hãy làm thí nghiệm sau: lấy một mảnh tre mỏng rồi khua lên
khua xuống trong không khí. Nếu khua nhẹ, bạn sẽ không nghe thấy gì, nhưng nếu
khua mạnh, sẽ có tiếng vù vù rất rõ.
Âm thanh truyền đến tai ta là do tai cảm nhận được các dao động trong không
khí. Tuy nhiên, ta chỉ có thể nghe được những rung động có tần số từ 20 đến
20.000 lần mỗi giây. Nếu thấp hoặc cao hơn khoảng này chúng ta đều không nghe
thấy. Điều đó giải thích vì sao mảnh tre khua chậm thì im hơi lặng tiếng, nhưng
khi khua nhanh sẽ tạo ra tiếng xé gió vù vù.
Côn trùng khi bay phát ra âm thanh cũng giống như nguyên lý kể trên. Các nhà
khoa học cho biết, mỗi giây, ruồi nhặng vỗ cánh từ 147-220 lần, muỗi là 594
lần, thậm chí có loài còn vỗ 1000 lần, ong mật vỗ 260 lần. Nhưng bướm trắng thì
chỉ lập lờ có... 6 lần, bướm gai 5 lần. Chính vì thế mà chúng bay hoàn toàn yên
lặng.
16. Vì sao chạch lại nhả bọt?
Cá chạch sẽ dùng ruột làm cơ quan hô hấp khi nước thiếu ôxy.
Ở những ao đầm, mương, ngòi có nhiều cá chạch sinh sống, trên mặt nước thường
có nhiều bóng khí. Nếu thả vài chục con chạch trong thùng nước, thì chỉ một lúc
sau bọt đã phủ đầy chẳng còn chừa khoảng trống nào cả. Lũ cá làm sao thế nhỉ?
Thì ra, đó chỉ là do loài chạch trung tiện hơi nhiều mà thôi.
Chạch có thân dài, hơi dẹt, cũng thở bằng mang như các loại cá khác. Nhưng khi
trong nước thiếu dưỡng khí, nếu chỉ thở bằng mang thôi sẽ không cung cấp đủ ôxy
cho cơ thể. Lúc đó, chạch sẽ thò đầu lên khỏi mặt nước, trực tiếp hít thở khí
trời và dùng ruột làm cơ quan hô hấp thay thế mang. Mấu chốt chính là ở đây:
Ruột chạch có cấu tạo khác hẳn so với các loài cá khác.
Nếu như ruột cá bình thường phải cuộn từ 8-10 vòng trong bụng cá, thì ruột
chạch lại nối thẳng từ cổ họng đến hậu môn thành một đường thẳng không gấp khúc
và có thể nhìn thấu qua. Trên thành ruột có nhiều mạch máu nhỏ. Đoạn ruột vừa
thẳng vừa ngắn này có tác dụng tiêu hóa thức ăn, đồng thời còn hô hấp thay thế
mang khi cần thiết.
Khi chạch cảm thấy trong nước hoặc bùn không đủ ôxy, nó sẽ ngoi đầu lên khỏi
mặt nước (mặt bùn), đớp một ngụm khí rồi lại lặn xuống. Không khí được nuốt
xuống ruột, các mạch máu trên thành ruột hấp thụ luôn lượng khí ôxy trong
khoang ruột, chất khí thừa còn lại và lượng khí CO2 do máu thải ra sẽ qua hậu
môn theo hình thức trung tiện, đó chính là những bọt khí xuất hiện trên mặt
nước. Ôxy trong nước càng ít, chạch càng đớp nhiều lần hơn. Khi trong nước hết
ôxy, chạch ngoi lên khoảng 70 lần mỗi giờ để duy trì sự sống.
17. Xoáy nước xuất hiện như thế nào?
Nước sông đang chảy xiết, khi tới trụ cầu thì bị cản, nên phải lùi lại sau.
Nhưng phía sau lại là dòng nước đang cuồn cuộn chảy tới, kéo nó chảy theo. Như
thế, số nước này tiến không được, lùi cũng không xong, đành chạy vòng tròn ở
vùng gần trụ cầu. Vậy là ở đó xuất hiện xoáy nước.
Trên dòng sông, xung quanh các cọc gỗ hay mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước cũng có
thể xuất hiện xoáy. Đó là vì dòng nước sau khi bị các vật cản ngăn lại, nó chỉ
có thể đi vòng ra hai bên. Khi đến mặt sau vật cản, do ở nơi đó nước sông chảy
chậm, ảnh hưởng đến sự chảy qua của dòng nước, thế là nó lao vào số nước đã
ngăn cản sức chảy của nó và khiến chúng chạy vòng.
Ở những chỗ dòng sông lượn vòng, gấp khúc cũng dễ xuất hiện xoáy nước. Do nước
sông có xu hướng chảy theo đường thẳng, vì vậy ở gần mặt trong đoạn vòng, luồng
nước đã “thoát ly” bờ sông để chảy thẳng. Thế nhưng, luồng nước ở phía ngoài
lại ép luồng nước phía trong phải đi vòng qua. Khi luồng nước mặt trong chịu áp
lực của mặt ngoài bị chen bật trở lại thì một phần của nó sẽ chảy bổ sung vào
nơi mất nước, và như vậy đã hình thành xoáy nước.
Nếu chú ý bạn có thể thấy, xoáy nước trên dòng sông đều xuất hiện ở những nơi
tốc độ và phương hướng dòng chảy đột ngột thay đổi.
18. Vì sao ong bắp cày không đốt người trong mùa thu?
Trong một bầy ong, phần lớn là những con ong thợ (ong cái), có khả năng đốt
người.
Ong bắp cày đốt rất đau. Nhưng không phải con nào cũng biết làm việc ấy, mà chỉ
có ong cái thôi. Mùa xuân và mùa hè, lũ ong cái bay ra khỏi tổ, và bạn rất dễ
trở thành mục tiêu của chúng. Nhưng mùa thu, đa phần chúng ở nhà, nhường quyền
hoạt động cho các con đực.
Khi đốt người, ong sử dụng đến một chiếc ngòi nhọn ở phần dưới bụng của chúng.
Phần gốc ngòi gắn liền với tuyến nọc độc. Hễ chiếc ngòi nhọn đó cắm vào đâu là
có nọc độc tràn vào. Bởi vậy khi bị ong đốt, ta có cảm đau buốt.
Ngòi ong chính là vòi đẻ trứng của chúng biến thành. Do đó, chỉ có ong cái mới
có cơ quan này, còn ong đực thì không. Tất cả những con ong thợ đều là ong cái
(tuy chúng không sinh nở được). Trong xã hội loài ong, con cái nhiều hơn con
đực, và các chàng ong rất ít khi bay ra khỏi tổ, nên chúng ta thường chạm trán
loại ong đốt người.
Riêng với ong bắp cày, trong mùa xuân và mùa hè, ong thợ xuất hiện nhiều ở
ngoài tổ. Đến mùa thu, trời lạnh dần, con cái ở tổ chuẩn bị chống rét cho mùa
đông. Cũng vào thời điểm này, ong đực bay đi tìm ong cái để giao phối duy trì
nòi giống. Nên nếu có gặp chúng, bạn sẽ chẳng hề hấn gì cả.
Như vậy, nói ong bắp cày không đốt người vào mùa thu chẳng qua là chỉ những con
ong đực không có khả năng đốt người. Cách đơn giản để phân biệt hai giống là
nhìn màu sắc phần đầu của chúng: ong cái có màu vàng, ong đực là màu trắng.
19. Loài thằn lằn dùng máu để tự vệ
Thằn lằn phrynosoma.
Đối diện với kẻ thù, khi đã ở vào thế tuyệt vọng, loài thằn lằn có sừng
phrynosoma sẽ tự làm tăng áp suất máu lên đầu. Áp suất tăng nhanh khiến các
mạch máu nhỏ xíu tại vùng giác mạc bị đứt: Dòng máu phụt theo các ống dẫn nước mắt,
phun thẳng vào mặt kẻ thù
Cũng giống như những loài thằn lằn bình thường khác, loài thằn lằn có sừng
phrynosoma, thuộc họ lguanidae, sống ở miền tây nước Mỹ, Mexico và các vùng có
khí hậu khô nóng, có khả năng ngụy trang rất tài tình. Khi bị đe dọa, cách
phòng thủ mà chúng ưa thích nhất là đổi màu da để ẩn vào môi trường xung quanh.
Không những thế, chúng còn cố gắng hết sức nằm dán xuống mặt đất, để giảm tối
đa nguy cơ bị kẻ thù phát hiện. Tuy nhiên, khi ngụy trang không còn hiệu quả
đối với những kẻ săn mồi láu cá và lỳ lợm, thằn lằn sẽ chuyển sang phương án
tiếp theo là phát ra những tiếng xì xì đầy đe dọa, đồng thời cố hết sức gồng cơ
thể lên, giương những chiếc gai nhọn về phía kẻ thù.
Chiến thuật này khiến nó trở nên to hơn và khó nuốt hơn. Thế nhưng, trong
trường hợp cả hai phương án trên đều vô hiệu, nó sẽ viện đến phương án cuối
cùng là phun máu. Khi cảm thấy sự nguy hiểm tăng lên tột độ, nó sẽ tự làm tăng
áp suất máu lên khu vực đầu để có thể phun ra theo các ống dẫn nước mắt. Phương
án của kẻ cùng đường này đôi khi rất hiệu quả, vì nó làm kẻ thù phát hoảng mà
bỏ chạy.
20. Âm thanh trong phích nước từ đâu ra?
Ghé sát tai vào phích nước rỗng, bạn sẽ thấy âm thanh o o như tiếng gió lùa.
Phích kín như vậy thì gió ở đâu ra nhỉ. Thực tế, đây chỉ là hiện tượng cộng
hưởng âm thanh bình thường, xảy ra với tất cả các dụng cụ chứa mà thôi.
Trước hết, ta hãy tìm hiểu về hiện tượng cộng hưởng âm:
Sóng âm là sự thay đổi mật độ lúc loãng lúc đặc của không khí, được truyền đi
từ nguồn âm tới mọi hướng với tốc độ nhất định. Số lần biến đổi loãng - đặc
trong một giây gọi là tần số. Khoảng cách giữa hai phần đặc hoặc hai phần loãng
kề nhau gọi là bước sóng. Tần số của âm thanh càng cao, hoặc là bước sóng càng
ngắn thì âm điệu nghe được càng cao.
Nói chung, âm thanh là do vật dao dộng gây ra. Ví như khi đánh trống, do mặt
trống dao động lên xuống nên phát ra âm thanh trong không khí. Những vật thể
khác nhau khi dao động sẽ phát ra những âm thanh không cùng tần số.
Nếu có hai vật thể phát ra âm thanh có tần số giống nhau và nằm ở gần nhau, thì
khi để cho một vật phát âm, vật kia cũng có thể phát âm theo. Hiện tượng này
gọi là cộng hưởng.
Điều thú vị là hầu như không khí (hay cột không khí) trong bất kỳ dụng cụ chứa
nào cũng đều có thể cộng hưởng với các vật phát âm. Đưa một vật phát âm tới gần
miệng một dụng cụ chứa, nếu tần số hoặc bước sóng của nguồn âm phù hợp với tần
số hoặc bước sóng riêng của cột không khí, thì cột không khí sẽ cộng hưởng liền
(tức là nó dao động) và làm âm thanh lớn lên rất nhiều.
Theo các nhà nghiên cứu, chỉ cần bước sóng bằng 4 lần, hoặc 3/4, 4/5… độ dài
cột không khí, thì sau khi truyền vào dụng cụ chứa, nó sẽ gây ra cộng hưởng.
Chiều cao bên trong của phích thường khoảng 30 cm. Từ đó có thể tính được rằng,
khi những âm thanh có bước sóng là 120 cm, hoặc 40 cm, 24 cm… truyền vào phích
thì đều có thể gây ra cộng hưởng.
Xung quanh chúng ta có đủ mọi loại âm thanh to nhỏ. Chúng có thể đồng thời cộng
hưởng với cột không khí trong phích, tạo thành tiếng o o mà khi ghé tai vào ta
sẽ nghe thấy. Do cột không khí ngắn, nên bước sóng của những âm thanh được cộng
hưởng cũng ngắn. Vì vậy, những âm o o phát ra từ một chai nhỏ sẽ nhọn sắc hơn
từ chiếc phích phát ra.
Nếu bình chứa có chỗ hư hỏng khiến cho cột không khí không hoàn chỉnh thì âm
thanh cộng hưởng cũng bị thay đổi. Chính vì thế mà người ta thường thông qua
việc nghe các tiếng o o để kiểm tra xem phích đựng nước có bị hỏng hay không.
21- Vì sao chuông nứt đánh không kêu?
Cái chuông, khi đã bị nứt rồi, thì dù bạn có đánh hết sức bình sinh vẫn chỉ
nghe thấy những âm thanh rè rè mà thôi. Đó là do chỗ bị nứt làm chuông mất đi
sự đối xứng, độ đàn hồi và dao động riêng, chỗ đó không thể cùng ba mặt khác
dao động đồng bộ, tạo ra âm thanh.
Chuông hoạt động theo nguyên lý sau: khi bị ngoại lực đánh vào, dao động của nó
sẽ hướng về hai phía đối nhau từng đôi một. Chẳng hạn, khi bạn gõ vào mặt phải,
thì mặt phải và mặt trái sẽ đồng thời ép vào trong, còn mặt trước và mặt sau
thì dãn ra phía ngoài. Tiếp đó, hai mặt trái phải lại dãn ra phía ngoài, đồng
thời hai mặt trước sau lại ép vào phía trong. Chính do dao động của các mặt
chuông không ngừng đan xen nhau, lúc dãn ra phía ngoài, lúc ép vào phía trong,
mà chuông phát ra được âm thanh du dương rồi yếu dần đi.
Nếu chuông được đúc dày mỏng không đều thì dao động của hai mặt đối xứng sẽ
không hòa nhịp, âm thanh phát ra không những khó nghe mà thời gian ngân vang
cũng ngắn.
22- Các hành tinh trong vũ trụ liệu có
va vào nhau?
Nếu trái đất ở rất gần các hành tinh khác và chúng chuyển động ngược chiều nhau
thì khả năng đụng độ rất dễ xảy ra. Nhưng thực tế, trái đất và các hành tinh
đều ngoan ngoãn quay trên những quỹ đạo nhất định khiến cho chuyện đó là không
thể.
Mặt trăng là thiên thể gần trái đất nhất, cách chúng ta 384.000 km. Khoảng cách
giữa mặt trời và trái đất là 149,6 triệu km (hãy tưởng tượng muốn đi bộ tới quả
cầu lửa này, bạn phải mất hơn 3.400 năm). Các hành tinh khác trong hệ mặt trời
cũng ở rất xa, và bởi chịu sức hút của mặt trời nên chúng đều có một quỹ đạo ổn
định. Do đó chúng không có cơ hội đụng độ với hành tinh xanh.
Các ngôi sao khác trong vũ trụ cách trái đất còn xa hơn nữa. Sao Biling là gần
nhất, cách trái đất 4,22 năm ánh sáng, tức là từ vì tinh tú này tới trái đất,
ánh sáng phải “ì ạch” mất 4 năm 3 tháng.
Trong khoảng không vũ trụ gần hệ mặt trời, trung bình các sao cách nhau khoảng
trên 10 năm ánh sáng. Hơn nữa, chúng đều chuyển động theo một quy luật nhất
định. Mặt trời cũng như tất cả các sao trong dải Ngân Hà đều chuyển động xung
quanh trung tâm hệ theo một quy luật riêng chứ không phải là hỗn loạn. Bởi vậy,
rất ít khả năng các sao trong dải Ngân Hà va chạm nhau.
Theo tính toán của các nhà khoa học, trong hệ Ngân Hà trung bình khoảng một tỷ
tỷ năm mới xảy ra một va chạm giữa các sao. Tuy nhiên, xác suất các sao chổi va
quyệt vào hành tinh thì thường xuyên hơn nhiều.
23- Cách phân biệt một số loại tên lửa
Theo thống kê, hiện trên thế giới có gần 600 loại tên lửa có tính năng, công
dụng khác nhau. Dựa trên sự khác nhau của căn cứ phóng tên lửa và vị trí mục
tiêu tấn công, có thể chia tên lửa thành mấy loại sau.
1. Tên lửa không đối không: Là loại tên lửa được gắn trên máy bay
tiêm kích, tiêm kích ném bom và máy bay trực thăng vũ trang, dùng để tấn công
các mục tiêu bay. Người ta phân loại tên lửa theo tầm bắn gồm tên lửa ngăn chặn
ở cự ly xa (100-200 km), tên lửa ngăn chặn ở cự ly trung bình (40-100 km), tên
lửa đánh chặn ở cự ly gần (8-30 km), tên lửa tấn công hạng nhẹ (5-10 km)...
Phương thức dẫn đường của các loại tên lửa này thường là sử dụng tia hồng
ngoại, radar bán tự động, radar tự động hoàn toàn..., xác suất bắn trúng thường
đạt trên 80%.
2. Tên lửa không đối đất và tên lửa không đối hạm: Là loại vũ khí
trang bị cho máy bay, được trang bị trên các máy bay tác chiến hiện đại, như
máy bay ném bom, máy bay tiêm kích ném bom, máy bay cường kích, máy bay trực
thăng vũ trang và máy bay tuần tra chống ngầm. Loại này được dùng để tấn công
các mục tiêu trên mặt đất, trên mặt biển hoặc tàu ngầm chạy dưới nước.
Bộ phận đầu nổ của các loại tên lửa này đa phần sử dụng thuốc nổ thường, một số
ít cũng sử dụng đầu đạn hạt nhân cỡ nhỏ, tầm bắn từ 6 đến 60 km, lớn nhất có
thể đạt tới 450 km. Phương thức dẫn đường của tên lửa không đối đất khá phong
phú, như: sử dụng tia hồng ngoại, tia lade, sợi quang, vô tuyến truyền hình,
radar sóng milimet và ảnh hồng ngoại.
3. Tên lửa đất đối đất, tên lửa đất đối hạm, tên lửa hạm đối hạm:
Tên lửa đất đối đất được phóng đi từ đất liền, dùng để tấn công các mục tiêu
trên đất liền, như nơi đóng quân, đoàn xe bọc thép, sở chỉ huy mặt đất, trận
địa phòng không, sân bay, kho tàng, nhất là xe tăng... Căn cứ theo tầm bắn, tên
lửa được phân loại thành loại tầm xa (từ 100 km trở lên), tầm trung (30-100
km), tầm gần (4-30 km), sử dụng nhiều phương thức dẫn hướng như bằng tia hồng
ngoại, tia lade, sợi quang và radar bán tự động...
Tên lửa hạm đối hạm được phân loại theo tầm bắn gồm tầm xa (200-500 km), tầm
trung (40-200 km), tầm gần (dưới 40 km). Tên lửa hạm đối hạm áp dụng hai phương
thức là dẫn bằng radar tự động và radar bán tự động. Chúng thường bay với tốc
độ dưới âm thanh, một số ít có tốc độ siêu âm.
4. Tên lửa đối không (bao gồm tên lửa đất đối không và tên lửa hạm đối
không) có thể đánh chặn máy bay và địch tập kích, tên lửa hành trình, tên lửa
không đối đất, đất đối đất trên đường bay. Tầm bắn cũng được chia thành 3 loại
bao gồm: tầm xa (từ 100 km trở lên), tầm trung (30-100 km), tầm thấp, rất thấp
(4-30 km). Phương thức dẫn của loại tên lửa này phần lớn là sử dụng radar bán
tự động, vô tuyến điện, tia hồng ngoại và tia lade...
Nhìn chung, tên lửa loại nào có ưu điểm của loại đó, phát huy được bản lĩnh
riêng trên các chiến trường khác nhau
24- Viên đạn và tiếng nổ, cái gì chạy nhanh
hơn?
Tốc độ viên đạn khi đi ra khỏi nòng súng là 900 mét/giây, âm thanh ở nhiệt độ
bình thường có tốc độ truyền đi là 340 mét /giây. Viên đạn bay nhanh gấp 2 lần
âm thanh, vì vậy, phải chăng là viên đạn bay nhanh hơn?
Không hẳn như thế. Bởi vì trong quá trình bay viên đạn không ngừng ma sát với
không khí, tốc độ của nó ngày càng chậm, còn tốc độ của âm thanh trong không
khí trên một đoạn đường không quá dài thì thay đổi rất ít. Như vậy, muốn biết
cái gì chạy nhanh hơn, ta hãy xem cuộc chạy đua giữa chúng.
Ở giai đoạn thứ nhất, 600 mét sau khi viên đạn rời khỏi nòng súng, tốc độ bay
trung bình của đạn là khoảng 450 mét/giây. Viên đạn bay nhanh hơn âm thanh
nhiều, luôn luôn đi trước. Ở khoảng cách này, nếu nghe thấy tiếng súng thì viên
đạn đã bay qua bạn từ lâu về phía trước rồi.
Giai đoạn thứ hai, trong khoảng từ 600 đến 900 mét, sức cản của không khí đã
làm cho tốc độ của viên đạn giảm đi rất nhiều, âm thanh dần đuổi kịp nó, hai
bên hầu như kề vai nhau chạy tới đích 900 mét.
Giai đoạn thứ ba, từ 900 mét trở đi, viên đạn càng bay càng chậm, âm thanh sẽ
vượt nó. Đến chỗ 1.200 mét thì viên đạn đã mệt tới mức sức cùng lực kiệt, không
thể bay nổi nữa, âm thanh sẽ chạy xa lên phía trước. Lúc này, nếu bạn nghe thấy
tiếng súng và tiếng vèo vèo thì viên đạn còn chưa tới trước mặt bạn.
Kết quả cuộc thi là viên đạn chỉ giành chức quán quân trong phạm vi 900 mét đầu
tiên mà thôi.
25- Mắt thú ăn thịt khác mắt thú ăn cỏ
như thế nào?
Nếu để ý, bạn sẽ nhận thấy một hiện tượng rất thú vị. Với các loài thú ăn thịt
như sư tử, hổ, báo, chó sói…, mắt của chúng đều nằm phía trước phần mặt, còn vị
trí mắt của các loài thú ăn cỏ như trâu, ngựa, dê… lại ở hai bên.
Đây có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Không phải, điều này có liên quan mật
thiết với phương thức sinh sống của chúng.
Các loài ăn thịt trong tự nhiên đều là những kẻ tấn công chủ động, tích cực.
Một khi đã phát hiện thấy con mồi, chúng sẽ nhanh chóng truy đuổi. Trong quá
trình này, chúng không những cần cơ đùi khỏe, một cái miệng rộng với hàm răng
sắc nhọn, mà còn phải dùng đến đôi mắt để quan sát chăm chú mục tiêu, ước lượng
chính xác khoảng cách. Chính vì thế, mắt ở phía trước mặt sẽ tạo thuận lợi cho
quá trình săn đuổi này.
Các loài động vật ăn cỏ lại không giống như vậy. Số phận của chúng là dễ trở
thành mồi ngon cho các loài ăn thịt bất cứ lúc nào. Vì thế, mắt hai bên sẽ tạo
ra tầm nhìn rộng rãi (có con có tầm nhìn tới 360 độ), giúp chúng nhanh chóng
phát hiện ra kẻ địch và chạy trốn.
Vượn và khỉ tuy không hung dữ như các loài thú ăn thịt, nhưng cũng có mắt mọc ở
chính trước mặt. Đó là vì cấu trúc này có lợi cho chúng trong việc xác định
khoảng cách giữa các cành cây. Từ đó, chúng có thể nhanh chóng lẩn tránh kẻ
thù.
Gấu trúc tuy ăn tre, trúc nhưng lại có đôi mắt mọc ở phía trước. Đặc điểm này
là do chúng thừa kế được từ tổ tiên - những động vật chuyên ăn thịt.
26- Chuyện lạ của âm thanh
Khi nhai kẹo giòn, ta nghe thấy những tiếng động inh ỏi trong tai, trong khi
những người ngồi bên cạnh cũng đang nhai thứ kẹo ấy mà lại chẳng phát ra âm
thanh gì rõ rệt. Họ đã dùng mẹo gì để tránh được thứ âm thanh lốp cốp vô duyên
đó?
Nguyên do là, những tiếng động ầm ầm ấy chỉ có tai mình mới nghe thấy thôi, còn
những người ngồi cạnh không nghe thấy được. Xương sọ của chúng ta cũng giống
như hết thảy những vật rắn đàn hồi khác, truyền âm rất tốt. Những tiếng vỡ giòn
tan của kẹo khi truyền qua không khí đến tai thì chỉ còn là những tiếng động
nhẹ. Nhưng cũng tiếng vỡ ấy, nếu truyền đến thần kinh thính giác qua những
xương cứng ở sọ, thì sẽ biến thành tiếng động ầm ầm.
Và đây là một thí nghiệm cùng tính chất như vậy: bạn hãy ngậm một chiếc đồng hồ
quả quýt vào giữa hai hàm răng, rồi lấy ngón tay bịt chặt hai lỗ tai, bạn sẽ
nghe thấy những tiếng động rất mạnh - tiếng tích tắc của đồng hồ đã được tăng
cường lên như thế đấy.
Beethoven, nhạc sĩ thiên tài người Đức, sau khi bị điếc đã dùng một cái gậy để
nghe trong lúc chơi dương cầm: ông chống một đầu gậy vào dương cầm, còn một đầu
kia thì lấy răng cắn lấy. Có rất nhiều người điếc nhưng thính giác bên trong
còn hoàn chỉnh, tới mức họ vẫn có thể nhảy theo điệu nhạc. Đó là nhờ âm truyền tới
thần kinh thính giác qua sàn nhà và xương.
27- Vì sao bốn mùa trong năm không dài
như nhau?
Mỗi mùa trong năm không phải tròn trịa bằng số ngày một năm chia cho 4, mà được
căn theo thời tiết phục vụ nhà nông. Vì thế, nó chẳng liên quan gì đến phép
chia đều.
Mùa xuân bắt đầu từ ngày Xuân phân (23/1) đến Hạ chí (21/6) tức là khoảng 92
ngày 19 giờ. Mùa hè bắt đầu từ Hạ chí đến Thu phân (23/9) dài khoảng 93 ngày 15
giờ. Mùa thu kéo dài từ Thu phân tới Đông chí (22/12) dài khoảng 89 ngày 19
giờ. Mùa đông từ Đông chí tới Xuân phân chỉ dài có 89 ngày. Như vậy mùa hè dài
hơn mùa đông những 4 ngày 15 tiếng.
Vấn đề ngắn dài này hoàn toàn liên quan đến khoảng cách giữa trái đất với mặt
trời ở mỗi thời điểm xa hay gần. Ta biết rằng trái đất quay xung quanh mặt trời
theo quỹ đạo hình bầu dục, mà mặt trời không phải là tâm điểm của hình bầu dục
đó, mà chỉ là một tiêu điểm trong hình bầu dục thôi. Như vậy, khi trái đất quay
trên quỹ đạo, sẽ có lúc nó gần mặt trời hơn, có lúc cách xa hơn.
Mùa hạ, khi trái đất ở xa mặt trời nhất, sức hút của mặt trời đối với nó là yếu
nhất, do đó trái đất quay chậm nhất, và thời gian của mùa hè dài nhất trong một
năm. Ngược lại, mùa đông, khi trái đất ở gần mặt trời nhất, sức hút của mặt
trời tác động lên nó mạnh nhất, do đó trái đất quay nhanh hơn lúc nào hết, và
đó là mùa ngắn nhất trong năm. Tương tự như vậy có thể xét cho mùa xuân và mùa
thu, là hai mùa trung gian.
28- Vì sao chim cánh cụt có thể sống ở
Môi trường cực kỳ khắc nghiệt ở
Để hiểu vì sao, chúng ta phải xem lại “gia phả” của chúng. Trước hết, cánh cụt
là một loài chim bơi ở dưới nước cổ xưa nhất. Có thể nó đã đến đây định cư từ
trước khi châu
Sau nữa, do kết quả tôi luyện trong gió và bão tuyết qua hàng ngàn vạn năm,
lông trên toàn thân của cánh cụt đã biến thành lớp lớp dạng vảy gắn chặt. Với
loại “chăn lông” đặc biệt này, nước biển không những khó thẩm thấu, mà dù cho
nhiệt độ có xuống tới -100 độ C, chim cũng không hề hấn gì. Đồng thời, lớp mỡ dưới
da của nó rất dày, nên càng đảm bảo giữ nhiệt cho cơ thể.
Thêm nữa, châu
29- Động vật trút giận như thế nào?
Ăn miếng trả miếng, đó là phản ứng thường gặp khi xung đột giữa hai con vật xảy
ra. Song có khi, chúng lại đưa ra một số động tác kỳ quặc, chuyển "cục
giận" trong lòng sang kẻ thứ ba chẳng may đứng gần đó.
Sinh vật học gọi hành vi không liên quan đến mục tiêu của động vật là “sự đùn
đẩy trách nhiệm”. Chẳng hạn, ở một vài loài hải âu, khi hai con bị kích thích
tấn công lẫn nhau, một con trong đó sẽ chuyển sang tấn công mục tiêu bên cạnh
mình. Chưa hả giận, nó còn mổ... cỏ một cách rất tức tối.
Chim công ở Australia khi yêu đương hoặc khi tranh đấu sẽ xuất hiện những động
tác chẳng có gì dính dáng, như chải lông, vươn vai, lắc mình, gãi gãi đầu,
ngáp, ngủ gật, lấy thức ăn hay xây tổ. Còn trong những cuộc giao chiến giữa hai
con kanguru, đôi khi, chúng đột ngột dừng lại, "nghỉ một tí", bằng
cách ra vẻ chải chải lông trên người.
Một con mèo đang mải tấn công mồi, đột ngột nó có thể chững lại để... liếm cơ
thể. Một con cá hung hãn đang dọa nạt các loài cá khác cũng có thể bất chợt
dùng miệng để đào cát, hoặc trong lúc tuyệt vọng nó sẽ mở to mồm… Vậy khi bắt
gặp những tình huống này, bạn cũng đừng lấy làm lạ, vì tập tính thay đổi hành
vi có ở hầu hết các loài động vật.
30- Vì sao con hà khoét thủng được cả
đá?
Trên các bãi biển, có những tảng đá lỗ chỗ như tổ ong do hà bám. Chúng làm thế
nào để có thể phá hủy được loại vật chất cứng rắn này, trong khi không hề có
răng? Thì ra, con hà tiết ra một chất dịch có tính axit cao, làm cho đá mềm ra.
Sau đó, chúng dùng chân và vòi làm điểm tựa rồi xoay xoay toàn thân để cho
những gai trên vỏ cứng của chúng cọ xát vào đá và làm đá vỡ vụn. Chúng cứ kiên
nhẫn đào khoét suốt đời và tạo ra các hang động trên đá. Nếu không có đá để đục
lỗ, loài hà này sẽ chết. Các nhà khoa học đã nuôi thử chúng trong các bể nước
không có đá. Mặc dù được cung cấp đầy đủ thức ăn, hà vẫn không lớn được, vỏ
trước bị khép lại, chân co vào và còm cõi đến chết.
Hà đá không chỉ đào hốc trên đá mà còn đục khoét ngay trên vỏ ngoài của các
loài trai, hàu. Trên một vỏ hàu có thể tìm thấy khoảng mươi con hà đá, trông
như những điếu xì gà nằm gọn trong các hốc nhỏ do chúng tạo ra. Hà sống trên đá
lại có hình dạng như quả trứng nhọn đầu. Chúng sinh sôi nảy nở rất nhanh và làm
các công trình xây dựng ở các hải cảng bị đục khoét lỗ chỗ như tổ ong.
Hà đá chỉ chịu thua đá hoa cương. Chính vì vậy mà người ta phải phủ đá hoa
cương lên mặt ngoài các công trình xây dựng ở hải cảng, ở các vùng khai thác
dầu khí ven biển.
31- Vì sao máu của động vật bậc thấp
không có màu đỏ?
Quan niệm rằng cứ máu là đỏ đã ăn sâu vào chúng ta đến mức, ta không nhận ra
rằng còn có những loài máu trong như nước, nhờ nhờ vàng hoặc hơi xanh. Nhưng
nếu để ý, bạn sẽ thấy chỉ có động vật bậc thấp mới có màu máu kỳ lạ như vậy
thôi.
Đó là vì máu người và động vật bậc cao đều có hồng cầu, chứa huyết sắc tố, còn
động vật bậc thấp thì không.
Nếu đưa máu người và động vật bậc cao vào máy ly tâm rồi cho quay thật nhanh,
nó sẽ tách thành 3 phần rõ rệt. Tầng trên cùng có màu vàng, khá trong, được gọi
là huyết tương (chiếm khoảng 55% thể tích chung của máu). Tầng giữa là một lớp
mỏng, màu trắng, gồm các tế bào bạch cầu và một số thành phần khác của máu.
Dưới cùng là các tế bào hồng cầu có màu đỏ tươi (chiếm khoảng 40-50%). Hồng cầu
sở dĩ có màu đỏ là vì trong thành phần của nó có chứa sắt, được gọi là huyết
sắc tố.
Đối với động vật bậc thấp như tôm, cua, chuồn chuồn, nhện… thì khác. Máu của
chúng chỉ có các tế bào trông giống như bạch cầu ở động vật bậc cao, chứ không
chứa các tế bào hồng cầu. Vì thế, máu không có màu đỏ. Một số loài động vật bậc
thấp khác (như giun đất, tằm cát…) cũng có máu đỏ, nhưng là do trong huyết
tương của chúng có chứa huyết sắc tố (chứ không phải do có hồng cầu).
Một số loài côn trùng khác lại có máu màu vàng hoặc màu xanh lục. Đó là bởi
trong huyết tương của chúng có chứa một loại huyết tố có chứa kim loại đồng. Đa
số các loài động vật bậc thấp có máu không màu và trong suốt. Các nhà khoa học
không gọi đó là máu, mà chỉ coi là một dịch thể.
32- Vì sao cá nổi lên chìm xuống dễ dàng?
Dù có là một tay bơi lặn cừ khôi đi nữa, bạn cũng không thể đang từ dưới sâu
vọt lên mặt nước, hoặc ngược lại. Nhưng các loài cá thì có thể. Đó là vì chúng
có chiếc bong bóng trong bụng luôn chứa đầy không khí. Sự thay đổi áp suất của
bong bóng giúp chúng điều chỉnh vị trí dễ dàng.
Không khí được nạp vào bong bóng theo hai con đường: hoặc là cá nổi lên mặt
nước, lấy không khí trực tiếp qua đường khí quản rất nhỏ ở đầu, hoặc chúng lấy
không khí ngay trong nước qua các tế bào đỏ ở mang.
Các loài cá điều chỉnh vị trí trong nước chủ yếu nhờ vào việc làm thay đổi áp
suất không khí trong bong bóng (khi muốn nổi lên, nó nạp đầy không khí vào,
muốn lặn xuống, nó lại nhả ra). Đồng thời với việc này, cá cũng sử dụng các
động tác quẫy đuôi rất mạnh, cộng với việc đớp đầy một lượng nước vào miệng rồi
nhả qua hai mang, tạo thành một lực phản lực đẩy nó bơi lên hoặc lặn xuống rất
nhanh chóng.
Ở từng độ sâu khác nhau, cá điều chỉnh dung lượng không khí trong bong bóng để
cân bằng tỉ trọng của cơ thể với mật độ của nước, nhằm giữ thăng bằng. Tất
nhiên những chiếc vây cũng có tác dụng quan trọng trong động tác giữ thăng bằng
của cá: vây lưng, vây bụng, vây ngực và vây hậu môn giúp cho cá không bị ngả
nghiêng.
33- Vì sao ban ngày không nhìn thấy
sao?
Nếu trái đất không có bầu khí quyển, chúng ta sẽ quan sát được các vì sao rõ
nét cả ngày và đêm.
Trong vũ trụ, tuyệt đại đa số các sao tự phát sáng và phát nhiệt, quanh năm lấp
lánh. Nhưng chỉ vào xẩm tối chúng ta mới trông rõ chúng, đó là vì ban ngày tầng
khí quyển của trái đất đã tán xạ một phần ánh sáng mặt trời...
Lượng ánh sáng đó chiếu sáng bừng không trung, át cả ánh sáng của các vì sao,
khiến chúng ta không thể nhìn thấy chúng. Nhưng nếu trái đất không có bầu khí
quyển, không trung sẽ tối đen, và cho dù ánh mặt trời rất sáng thì chúng ta vẫn
nhìn thấy sao vào ban ngày (hiện tượng này cũng xảy ra khi chúng ta đứng trên
bề mặt mặt trăng. Do không có bầu khí quyển tán xạ ánh sáng, nên tại đây, lúc
nào chúng ta cũng có cơ hội chiêm ngưỡng các vì sao).
Tuy nhiên, ngay cả ở trên trái đất, bạn vẫn có thể trông thấy các vì sao vào
ban ngày, nhờ một chiếc kính viễn vọng. Đó là do hai nguyên nhân: Một là, thành
ống kính viễn vọng đã che khuất khá nhiều ánh sáng mặt trời bị tán xạ trong khí
quyển, tạo ra một “đêm tối nhỏ” trong lòng kính. Hai là, kính viễn vọng có tác
dụng khuyếch đại độ sáng của các vì sao, và chúng hiện ra rất rõ.
Tất nhiên, dùng kính viễn vọng quan sát các sao vào ban ngày có hiệu quả kém
hơn so với ban đêm, vì khi đó, ta khó có thể nhìn thấy những sao mờ nhạt.
34- Tại
sao tàu vũ trụ được phóng theo chiều quay của trái đất?
Đa số các sân bay vũ trụ được đặt gần xích đạo để lợi dụng lực quay của trái
đất.
Các vận động viên muốn nhảy xa phải lấy đà, muốn ném lao cũng lấy đà. Đó là sự
lợi dụng lực quán tính. Lực quán tính đã giúp vận động viên hay cây lao, bay xa
hơn. Khi phóng tên lửa thuận theo hướng quay của trái đất, chính là chúng ta đã
mượn thêm lực quán tính này.
Ai cũng biết trái đất tự quay quanh mình nó theo chiều từ Tây sang Đông. Nhưng
trái đất quay với tốc độ nhanh bao nhiêu, và tên lửa có thể mượn được bao nhiêu
lực tự quay này?
Thực tế, không phải mọi điểm trên trái đất đều quay với tốc độ như nhau. Càng
gần Bắc cực và
Khi tàu vũ trụ phóng lên ở vùng xích đạo, vận tốc của nó sẽ được cộng thêm vận
tốc quay của trái đất (tức là 465 mét/giây). Và do vậy, dù lực phóng ban đầu
của tàu có yếu hơn một chút, nó vẫn dễ dàng thắng được sức hút trái đất. Tuy
nhiên càng lên các vĩ độ cao (gần hai cực hơn), tốc độ quay của trái đất càng
chậm, do đó tên lửa càng ít lợi dụng được lực quay này.
35- Tại sao đại đa số cá có lưng đen,
bụng trắng?
Nếu như phải miêu tả đặc trưng của loài cá, nhiều người sẽ không do dự mà rằng:
cá sống ở trong nước, bơi giỏi, trên thân có vảy, vây… Nhưng loài cá còn có một
đặc điểm quan trọng mà ít được để ý tới, đó chính là màu sắc bên ngoài cơ thể
chúng.
Ngoài một số loài cá nhiệt đới có màu sắc sặc sỡ, đại đa số cá có da ở lưng sẫm
hơn rất nhiều so với phần bụng. Các loài cá nước ngọt như mè, chép, trắm đen…,
đều có phần lưng màu xám đen. Còn lưng của những loài sống ở biển như cá mập,
cá thoi… thì thậm chí đen tuyền. Ngoài ra, bất kể là cá nước ngọt hay là cá
nước mặn, phần bụng hầu như đều là màu trắng hoặc màu xám nhạt.
Tại sao phần bụng và phần lưng của cá lại có sự khác biệt lớn như vậy? Khác
biệt này có ý nghĩa gì với sự sinh tồn của chúng? Nguyên do là cá sinh sống ở
trong nước, khi bơi thường là lưng hướng lên trên, bụng úp xuống dưới. Khi có
ánh sáng mặt trời, từ dưới nước nhìn lên thì mặt nước là một mảng sáng loáng,
rất giống với màu trắng của bụng cá. Do đó, những con cá lớn ở dưới sâu rất khó
phát hiện ra con mồi. Cũng với quy luật như vậy, từ trên nhìn xuống, màu sắc
của nước rất thẫm, gần giống với màu sắc của lưng cá, các loài chim săn mồi khó
có thể nhìn thấy cá bơi trên mặt nước.
Tóm lại, màu sắc lưng thẫm, bụng nhạt của đại đa số các loài cá là kết quả của
sự thích nghi với cuộc sống trong nước, bảo vệ bản thân khỏi bị kẻ địch phát
hiện.
36- Vì sao lá cây súng vua có thể đỡ
được một người?
Nếu bảo rằng có một loài cây mà 1 chiếc lá của nó có thể đỡ được sức nặng của
một người, hẳn bạn sẽ lắc đầu không tin. Nhưng quả thật có một loài cây như
thế. Tên nó là súng vua, sống ở Vân
Súng vua sinh trưởng trong ao hồ. Lá cây súng vua có đường kính trên 2 m, có
khi trên 3 m, nổi trên mặt nước chẳng khác gì chiếc mâm ngọc khổng lồ. Chiếc lá
này có thể chở một người nặng 75 kg mà không chìm. Sức mạnh của nó chính là do
cấu tạo đặc biệt của mặt dưới lá. Nếu lật ngửa lên để quan sát, ta sẽ thấy một
kiểu cấu trúc đặc biệt: gân lá vừa to vừa khỏe, đồng thời xếp như kiểu xương
sườn, rất giống cấu trúc dầm cầu thép, cho nên khả năng chịu lực đặc biệt lớn.
Cây súng vua có nguồn gốc ở
Tháng 8 hàng năm, nụ hoa nhô lên khỏi mặt nước, bắt đầu nở. Bạn hãy tưởng tượng
hình dáng hoa giống hệt với hoa súng thông thường, nhưng được "phóng
đại" lên nhiều lần, chỉ riêng gai lông trên cuống hoa đã to như cái đinh.
Thời gian hoa nở rất ngắn, chỉ trong 2 ngày. Buổi tối ngày thứ nhất, khi mới nở
hoa có màu trắng, tỏa mùi thơm như hoa bạch lan. Sáng ngày thứ hai, cánh hoa
khép lại, chập tối lại nở ra, khi ấy hoa từ màu trắng chuyển dần sang màu hồng
nhạt đến đỏ sẫm.
37- Loài hoa chuyên “đánh” côn trùng
Cây dâu để cho tằm ăn lá mà không than nửa lời. Cây sồi cũng chịu để con người
đốn trong im lặng… Vậy có khi nào thực vật giữ thế chủ động không? Có đấy, cây
hoa tiểu bá sẽ giương nhị đực lên và thẳng cánh “choảng” côn trùng khi cần
thiết.
Hãy quan sát hoa tiểu bá (berberis amurensis) khi nở, nếu bạn lấy đầu bút chì
đụng vào cuống nhị đực của nó, khi ấy, hoa tưởng là côn trùng đến, lập tức
giương bao phấn ra đánh. Giải thích như thế nào về hiện tượng này?
Hoa của cây Berberis có đường kính chỉ khoảng 1-2 cm. Trên mỗi bông có cả nhị
đực và nhụy cái. Ở cuống mỗi cánh hoa đều có một cặp tuyến mật. Khi hoa nở, 6
chiếc nhị đực dính sát vào mặt trong cánh hoa, ở giữa là một nhụy cái. Khi côn
trùng lấy mật, những nhị hoa bị đụng chạm sẽ bật vào giữa như những chiếc roi,
phấn hoa trong túi phấn lúc đó được rắc lên cơ thể côn trùng. Do mỗi bông hoa
có 6 tuyến mật nên trong quá trình làm việc, côn trùng thường bị “quất” liên
tiếp, cho đến khi hút hết mật thì đã khoác một bộ áo phấn hoa mới vui vẻ ra đi.
Tới bông hoa thứ hai, phấn hoa trên cơ thể côn trùng sẽ dính vào vòi nhụy, nhờ
đó việc thụ phấn giữa các bông hoa khác nhau được thực hiện.
Sự vận động nhạy cảm của nhị đực vốn không phải có ác ý, mà là một kiểu thích
ứng để truyền phấn giữa các bông hoa khác nhau. Qua đó, hạt giống cây Berbesis
amurensis có sức sống khá mãnh liệt.
38- Vì sao thân cây hình trụ?
Môn hình học mách bảo chúng ta rằng diện tích của hình tròn lớn hơn bất kỳ hình
nào khác. Do đó, cùng một lượng nhiên liệu như nhau, muốn tạo thành đồ vật có
dung tích lớn nhất hoặc có sức chứa nhiều nhất thì hiển nhiên phải tạo thành
hình tròn là thích hợp hơn cả.
Chẳng có gì lạ khi người ta làm ống khói, ống dẫn nước đều là ống tròn. Trên
thực tế đó là một kiểu bắt chước hiện tượng tự nhiên (phỏng sinh học).
Thứ hai là hình trụ tròn chịu lực tốt nhất. Trọng lượng của tán cây to tròn đều
nhờ vào sự chống giữ của thân cây. Có những loài cây sai trái, đến mùa trên cây
còn treo nặng hàng tạ quả, nếu không có cành thân khỏe chống giữ, làm sao có
thể tồn tại được.
Hơn nữa, thân cây hình trụ tròn còn có lợi cho việc phòng chống tác hại từ bên
ngoài. Nếu hình vuông hoặc hình chữ nhật, thân cây ắt sẽ có các góc cạnh, dễ
làm mồi cho động vật gặm nhấm.
Ngoài ra, cây thân gỗ là cây lâu năm, trong đời nó khó tránh khỏi bị gió bão
tấn công. Do thân cây hình trụ tròn, cho nên dù gió lớn đến từ phía nào cũng dễ
dàng lướt qua bề mặt, chỉ phải chịu một lực nhỏ mà thôi.
Mọi sinh vật đều tiến lên phía trước trên bậc thang tiến hóa. Hình trụ tròn của
thân cây chính là kết quả hoàn hảo của sự thích nghi đó
39- Vì sao cây trên núi thấp hơn cây ở
đồng bằng?
Trên núi cao, cây cối phong phú không kém gì đồng bằng, nhưng để ý bạn sẽ thấy,
nếu không thuộc dạng "còi đẹn" hay "kẹ" thì chúng cũng là
những "chú lùn". Tại sao vậy nhỉ? Thì ra, thừa ánh sáng, thừa gió
nhưng lại thiếu chất đã khiến chúng khó mà phổng phao được.
Một là, do ánh sáng mặt trời gồm 7 mầu thành phần là đỏ, da cam, vàng, lục,
lam, chàm, tím tác động khác nhau đến sự phát triển của cây, trong đó ánh sáng
đỏ ít gây trở ngại nhất, ánh sáng lam tím gây trở ngại nhiều nhất. Sống trong
môi trường không có ánh sáng tím, cây sẽ vươn dài rất nhanh. Trên núi cao, do
không khí loãng, ít bụi, lại tương đối trong suốt nên tia tím và tia ngoại tím
trong ánh sáng mặt trời rất ít bị hấp thụ. Chính chúng đã khống chế sinh trưởng
của cây mạnh hơn ở đồng bằng nhiều.
Hai là, trên núi cao không khí loãng, đất cũng rất mỏng, thậm chí không có lớp
đất màu, vì thế nước và chất dinh dưỡng rất dễ bị rữa trôi. Nhiệt độ về đêm
trên núi lại xuống rất thấp, ban ngày cũng thấp hơn ở đồng bằng nên có ảnh
hưởng nhất định đến sự sinh trưởng của cây.
Ngoài ra, trên núi cao gió thổi cũng mạnh hơn ở đồng bằng làm cho cây phải mọc
nghiêng hoặc nằm rạp xuống. Nếu có dịp đi qua Hoàng Sơn ở An Huy (Trung Quốc),
bạn sẽ thấy những cây tùng Hoàng Sơn nổi tiếng: thân cây rất thấp, uốn ngược
chiều gió như chào đón khách tới thăm vì thế được gọi là “tùng đón khách”. Gió
trên núi đã tạo cho cây tùng có dáng như vậy.
Do tác động tổng hợp của các điều kiện trên, nên cây trên núi cao có dáng thấp
hơn cây ở đồng bằng.
40- Vì sao băng ở
Vốn là vùng Nam cực có một mảng lục địa rất lớn được gọi là “đại lục thứ bảy”
của thế giới, có diện tích khoảng 14 triệu km2. Năng lực giữ nhiệt của lục địa
rất kém, vì thế, nhiệt lượng thu được trong mùa hè bức xạ hết rất nhanh khiến
băng tích lại nhiều. Sông băng trên lục địa từ trên cao di động xuống bốn phía
bị vỡ thành nhiều tảng băng rất lớn ở bên bờ biển, trôi nổi trên đại dương bao
quanh lục địa, tạo nên những vật cản là các núi băng cao lớn.
Ngược lại, Bắc băng dương ở vùng Bắc cực có diện tích rất lớn khoảng 13,1 triệu
km2, nhưng chỉ toàn là nước. Nhiệt dung của nước lớn, có thể hấp thụ tương đối
nhiều nhiệt lượng rồi từ từ toả ra, nên băng ở đây ít hơn ở
Người ta đã tính được rằng diện tích băng che phủ trên toàn trái đất là khoảng
gần 16 triệu km2, mà Nam cực chiếm tới 4/5. Tổng thể tích băng ở
41- Tại sao người ta thích
"đua đòi"?
Trong cuộc sống hàng ngày, khi cách nghĩ và cách làm của ta khác với mọi người,
bao giờ chúng ta cũng tìm cách thay đổi để cho được như người khác, gọi là “đua
đòi”. Tâm lý học gọi hiện tượng đi theo số đông về nhận thức và hành động dưới
sức ép của dư luận là “hiệu ứng theo đàn”.
Năm 1956, nhà tâm lý học Mỹ Arch đã làm một thí nghiệm nổi tiếng: Ông chọn 50
người đến so sánh độ dài của mấy đoạn thẳng. Trên hình vẽ, họ được yêu cầu phân
biệt xem đoạn thẳng ở bảng A bằng đoạn thẳng nào trên bảng B.
Khi trả lời riêng rẽ, 100% nói chính xác là đoạn giữa trên bảng B. Nhưng khi
Arch đưa thêm 7 nhân viên của ông vào cùng nhóm thí nghiệm với từng người, và
họ đều nhất trí đưa ra kết quả sai (đoạn trái ở bảng B), thì đã có tới 32% số
người cũng trả lời sai như vậy.
Rõ ràng, trước ảnh hưởng của tập thể 7 người, người thứ 8 trong nhóm đã vứt bỏ
phán đoán của mình, cũng “đua đòi” và nói đoạn bên trái. Do đó, có thể thấy
“hiệu ứng theo đàn” đã có tác dụng mạnh mẽ đến thế nào đối với từng cá nhân.
Nguyên nhân gì gây ra hiệu ứng này? Tâm lý học đã khái quát thành những điểm
dưới đây:
- Tín nhiệm tập thể: Người ta thường cho rằng phát đoán của đa số bao giờ cũng
đúng hơn của cá nhân, do đó tin tưởng vào tập thể.
- Khuất phục tập thể: Người ta thường thích gần gũi với những người có chung
quan điểm với mình, cho nên để tránh cô lập, khỏi bị tẩy chay, đã phải miễn
cưỡng theo đàn.
- Không khí mơ hồ của hoàn cảnh: Rất nhiều trường hợp, vì sự mơ hồ của hoàn
cảnh, tự mình không dám quả quyết, đành phải dựa vào những người chung quanh,
bắt chước hành vi của họ. Đây là sự theo đàn để tránh lúng túng.
Ngoài ra, trí thông minh, tinh thần và quan điểm riêng của mỗi người đều có thể
gây ra hiệu ứng theo đàn. Nói chung, người có trí thông minh càng cao, tinh
thần càng vững và quan điểm riêng càng mạnh, càng khó hành động mù quáng theo
đàn.
42- Vì sao cá sống dưới băng thường
tụ tập đến các lỗ thủng?
Về mùa đông, nhiệt độ
ở các nước hàn đới xuống rất thấp, thường dưới 0 độ C nên ao hồ sông ngòi đều
bị phủ một lớp băng dày. Trong thời gian này, cá sống dưới đáy hồ rất thích bơi
đến những lỗ thủng của lớp băng và liên tục sủi tăm. Vì sao vậy?
Chúng ta đều biết nước có thể hoà tan một phần ôxy trong không khí. Nói chung
nước ở các ao hồ sông ngòi có thể tự cung cấp ôxy đủ để cá thở.
Khi nước mới đóng băng, lượng oxy hoà tan còn nhiều, cá dồn xuống đáy hồ sống ở
tầng nước ấm áp, lúc này chúng hoạt động rất ít, quá trình thay đổi tế bào diễn
ra chậm hẳn lại. Nhưng lớp băng mỗi ngày một dày, ôxy trong không khí rất khó
hoà tan vào nước. Mặt khác, hàm lượng oxy trong nước giảm dần do bị các loài
tiêu thụ và do quá trình phân huỷ các chất hữu cơ ở đáy hồ. Đồng thời, hàm
lượng carbonic trong nước tăng dần, nếu vượt quá giới hạn sẽ khiến cá không
sống được.
Hiện tượng thiếu oxy xuất hiện trước tiên ở tầng nước sâu, và lan dần lên các
tầng trên. Do khó thở ở tầng đáy hồ, cá phải ngoi lên cao. Nhưng lượng oxy ngày
càng giảm khiến cá hô hấp rất khó khăn, bởi vậy chúng thường tập trung ở xung
quanh những lỗ thủng của lớp băng để thở, thậm chí có con còn nhảy lên miệng
hố.
Một nguyên nhân khác của hiện tượng này là vì cá rất thích ánh sáng. Tầng nước
sâu ở dưới lớp băng thường tối mờ, trong khi ở dưới những lỗ thủng thường có
nhiều ánh sáng mặt trời chiếu xuống.
Để bổ sung ôxy cho hồ nuôi cá, ở các nước hàn đới, về mùa rét người ta phải đục
thủng nhiều lỗ ở lớp băng trên hồ, nhờ thế đàn cá sẽ an toàn sống đến mùa xuân.
Voi và tê giác phần lớn sống ở vùng nhiệt đới, chốc chốc lại xuống nước ngâm
mình, nhưng sau khi lên khỏi mặt nước, chúng thường phun lên cơ thể một thứ bùn
nhão hoặc một lớp khá dày nước bùn loãng, kết quả là người bẩn vẫn hoàn bẩn.
Chúng có dại dột không nhỉ? Không. Kỳ thực, lớp bùn đó sẽ là "tấm
màn" chống muỗi cho voi. Tuy da của voi và tê giác rất dày, nhưng ở giữa
các nếp gấp của da lại có nhiều chỗ là da non mỏng mềm, không thể địch nổi vô
số côn trùng hút máu như muỗi, ruồi càng cua, ruồi trâu. Lũ côn trùng này rất
thích chui vào các nếp gấp của da động vật đẳng nhiệt cỡ lớn như voi và tê
giác, ra sức cắn và châm chích, khiến những con vật to lớn đó vừa đau vừa ngứa.
Hơn nữa, động vật đẳng nhiệt sau khi tắm xong thì mạch máu dưới da nở ra rất to
so với bình thường, rồi bốc mùi tanh hôi hấp dẫn côn trùng hút máu. Voi và tê
giác cũng gặp phải tình trạng đó. Vì vậy, để tránh phiền toái, chúng bôi bùn
nhão và nước bùn loãng để mong lấp kín những vết nhăn trên da, hình thành màng
bảo vệ mình khỏi những kẻ không mời mà đến. Mặt khác, khi vừa lên khỏi mặt
nước, da dẻ còn đang ướt, đắp ngay bùn lên da mới dễ dính
43- Nhảy xuống từ một toa xe đang
chạy, phải làm thế nào?
Nếu ta nhảy về đằng trước khi xe đang chạy, dĩ nhiên là không những không trừ
được vận tốc mà ngược lại, làm tăng nó lên. Lập luận như vậy, ta sẽ suy ra rằng
phải nhảy về phía sau. Bởi vì khi đó, vận tốc nhảy trừ vào vận tốc của xe, nên
khi chạm đất, thân ta sẽ phải chịu lực ít hơn. Nhưng trên thực tế, nhảy như vậy
lại rất nguy hiểm. Tại sao?
Câu trả lời là, dù nhảy về đằng trước hay đằng sau, ta cũng đều có cơ bị ngã,
vì khi chân chạm đất dừng lại rồi thì phần trên của thân người vẫn chuyển động.
Vận tốc của chuyển động này khi nhảy về phía trước quả là có lớn hơn nhảy về
phía sau, nhưng điều quan trọng ở đây là ngã về đằng trước ít nguy hiểm hơn hẳn
ngã về đằng sau.
Khi ngã về phía trước, do chuyển động đã thành thói quen, ta thường bước chân
lên phía trước (nếu xe chuyển động nhanh ta sẽ chạy theo vài bước), và nhờ thế
mà không ngã. Chuyển động đó đã thành thói quen, vì cả đời ta đã thực hiện nó
trong lúc đi (theo quan điểm cơ học, đi chẳng qua là một loạt các động tác ngã
thân người về đằng trước và được đỡ lại nhờ việc bước chân lên phía trước). Còn
khi ngã đằng sau, do không có chuyển động cứu nguy như vậy của chân, nên nguy
hiểm hơn nhiều. Mặt khác, còn một điều quan trọng nữa là, dù bị ngã thì ngã về
đằng trước, nhờ có tay chống, cũng đỡ nguy hiểm hơn ngã về đằng sau.
Tóm lại, nhảy ra khỏi xe về đằng trước ít nguy hiểm hơn là do cấu tạo cơ thể
chúng ta chứ không phải do quán tính. Rõ ràng là đối với những vật vô tri thì
quy luật đó không áp dụng được: Một cái chai ném ra khỏi xe về đằng trước dễ bị
vỡ hơn khi ném về phía sau. Vì vậy, nếu phải nhảy khỏi toa xe vì một lý do nào
đó, bạn nên ném đồ về phía sau, còn chính mình thì phải nhảy về phía trước.
Nếu có kinh nghiệm và bình tĩnh hơn, bạn hãy nhảy lùi: Nhảy về phía sau nhưng
vẫn quay mặt về phía trước.
44- Vì sao một số thực vật rỗng
thân?
Họ hòa thảo là tiến hóa nhất trong giới thực vật, nên hầu hết thân cây đều
rỗng.
Cùng một lượng vật liệu, nếu đúc thành chiếc cột chống to và rỗng thì chịu lực
khỏe hơn nhiều so với chiếc cột đặc nhưng nhỏ. Các loài cây họ hòa thảo như
ngô, lúa nước, lau sậy, tre, nứa… đã áp dụng đúng bí quyết xây dựng này, trở
thành nhóm thực vật tiến hóa cao nhất.
Nếu cắt ngang thân cây, quan sát mặt cắt, có thể thấy cấu tạo chung của thân
cây như sau: Ngoài cùng là một lớp biểu bì, đôi khi phủ lông hoặc gai nhọn. Mặt
trong biểu bì là tầng vỏ, chứa mô vách mỏng và mô chống đỡ vững chắc. Cả tầng
vỏ và biểu bì đều mỏng. Bên trong hai tầng này là trung trụ. Đây là nơi quan
trọng nhất trong thân cây, chứa các bó mạch, vận chuyển nước và thức ăn. Trong
cùng của phần trụ là tủy cây, nơi dự trữ thức ăn.
Các loại cây họ thảo rỗng thân, đó là vì phần tuỷ cây đã sớm bị thoái hóa. Khi
còn non, thân cây vốn đặc, nhưng sau quá trình tiến hóa lâu dài, phần tủy này
tiêu biến theo hướng có lợi cho cây. Mô chống đỡ và bó mạch gỗ trong thân cây
giống như giầm trong kiến trúc bê tông cốt sắt, có nó cây mới đứng thẳng không
đổ. Nếu thân cây được tăng cường mô chống đỡ và bó mạch gỗ, giảm bớt, thậm chí
tiêu biến đi bộ phận tủy cây mềm nhũn, cây sẽ có kết cấu hình ống, như vậy lực
chống đỡ sẽ lớn, lại tiết kiệm được nguyên liệu.
45- Vì sao muỗi thích đốt người mặc
đồ sẫm màu?
Đôi khi bên bàn ăn, bạn bị muỗi đốt chí tử, trong khi nhưng người khác vẫn bình
an vô sự. Có thể bạn cho rằng máu mình "ngọt" hơn, nên chúng thích
tìm đến. Thật ra, đó là vì màu quần áo bạn rất hợp "gu" của chúng.
Khả năng phân biệt màu sắc nằm ở đôi mắt muỗi. Đôi mắt này rất to, chiếm tới ¾
diện tích phần đầu, gồm nhiều mắt nhỏ ghép thành, gọi là “mắt ghép”. Mắt muỗi
không những phân biệt được các vật khác nhau mà còn có thể nhận biết màu sắc và
cường độ ánh sáng mạnh yếu
Đa số các loài muỗi đều thích ánh sáng mờ; tối quá hoặc sáng quá đều không hợp
"gu" của chúng. Khi chúng ta mặc quần áo sẫm màu, ánh phản quang hơi
tối rất hợp với tập tính hoạt động của muỗi. Ngược lại, quần áo màu trắng phản
quang mạnh sẽ xua đuổi muỗi tránh xa. Vì thế, người mặc quần áo sẫm màu dễ bị
đốt nhiều hơn.
Đương nhiên do muỗi có nhiều loài khác nhau nên cường độ ánh sáng ưa thích của
mỗi loài không giống nhau. Ví dụ, phần lớn loài muỗi vằn thích hoạt động ban
ngày, còn các loài muỗi khác thích hoạt động vào lúc sẩm tối hoặc rạng sáng.
Nhưng dù là loài muỗi nào, chúng cũng đều lẩn tránh nơi có cường độ ánh sáng
cao. Ngay cả loài muỗi vằn thích hoạt động ban ngày thì cũng phải sau 3-4 giờ
chiều mới tung hoành.
46- Tại sao nước biển mặn?
Có người nói nước biển mặn vì hòa tan rất nhiều muối. Nhưng đó không phải câu
trả lời, bởi muối ở đâu mà ra? Không lẽ nước sông, nước hồ không có muối hòa
tan mà chỉ có nước biển?
Đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Có hai giả
thuyết:
- Giả thuyết thứ nhất cho rằng ban đầu nước biển cũng ngọt y hệt nước sông,
nước hồ. Sau đó, muối từ trong nham thạch và các lớp đất xói mòn, theo mưa chảy
ra các dòng sông. Rồi các dòng sông đổ về biển cả. Nước biển bốc hơi, trút
xuống thành những cơn mưa. Mưa lại đổ ra các dòng sông... Cứ như vậy, theo thời
gian, muối đã lắng đọng dần xuống biển, khiến biển ngày càng mặn hơn. Theo đó,
dựa vào hàm lượng muối trong nước biển, người ta có thể tính ra tuổi của nó.
- Giả thuyết thứ hai cho rằng, ngay từ đầu nước biển đã mặn như vậy. Lý do là
các nhà khoa học thấy rằng, hàm lượng muối trong nước biển không tăng lên đều
đặn theo tuổi của trái đất. Khi nghiên cứu những lớp đất đá trong các hang động
bị nước biển tràn vào, người ta thấy rằng, hàm lượng muối trong nước biển luôn
thay
đổi, khi lên khi xuống chứ không cố định. Đến nay, người ta vẫn chưa biết tại
sao lại như vậy.
47- Tại sao khi học có lúc tiến bộ
nhanh, có lúc lại chậm ?
Mọi kỹ năng hay kiến thức mà chúng ta có được đều là do trải qua một quá trình
tập luyện lâu dài. Chẳng hạn học ngoại ngữ hay đánh đàn. Nhưng sẽ có lúc bạn sẽ
thấy đầu óc dường như ì ra, mãi chẳng tiến bộ, và cũng có lúc lại "lên
tay” rất nhanh.
Nhiều nhà tâm lý học đã làm thí nghiệm và vẽ đồ thị học tập. Ta hãy xem đồ thị
trên đây, với một số quá trình chính sau.
1. Giai đoạn vọt tiến. Học viên bao giờ cũng tiến bộ rất nhanh, bởi vì
lúc mới đầu ai cũng háo hức, tập trung cao. Mặc khác tiến bộ của kỹ năng chỉ là
từ nông đến sâu, từ dễ đến khó, nên giai đoạn này được nâng cao rất nhanh.
2. Giai đoạn cao nguyên: Thành tích học tập khá bằng phẳng, ở mức cao.
Trong quá trình học, khi đến một giai đoạn nào đó, tuy vẫn cố gắng nhưng bạn
không thấy tiến bộ, thậm chí còn kém đi, gây ra cảm giác chán nản. Hiện tượng
này là thời kỳ quá độ từ bậc thấp sang bậc cao. Mặc khác, động cơ học tập của
bạn giảm xuống, không được hăng hái như lúc đầu, hoặc cũng có thể do phương
pháp không thỏa đáng. Do đó cần phải điều chỉnh lại cho phù hợp, không nên thối
chí, bỏ học.
3. Đột biến: Cuối thời kỳ cao nguyên bao giờ cũng đến thời kỳ nhảy vọt
rõ rệt. Thực tế là học viên sau một thời gian dài mò mẫm thử nghiệm, cuối cùng
đạt đến giai đoạn thành thạo. Đây là kết quả của quá trình tập luyện lâu dài từ
trước.
Như thế, cao nguyên không phải là giới hạn của tiến bộ, chỉ cần "nhấn
ga" một chút, qua ngưỡng này là bạn sẽ đạt đến mức thành thạo. Khi thấy
học hành mệt mỏi, hãy nghỉ ngơi thư giãn một chút. Chỉ cần hăng say và chú
trọng phương pháp khoa học, nhất định bạn sẽ lên đến đỉnh cao.
48- Vì sao ngài tằm đẻ trứng xong
là chết ngay?
Hầu hết các loài sinh vật đều sinh sản và đợi con non cứng cáp rồi mới chết.
Nhiều loài còn đợi được đến các thế hệ cháu chắt sau lũ lượt ra đời. Thế nhưng,
ngài tằm vừa đẻ trứng xong là chết ngay. Tại sao lại như vậy?
Khi con ngài bay bổng trên bầu trời, ấy là nó đã trải qua một "kiếp"
tằm. Tằm ăn lá, nhả tơ, quấn kén, rồi thành ngài. Khi đó, nó đã ở giai đoạn
cuối cùng của một đời sống sinh vật. Lúc này, miệng của nó đã bị thoái hóa,
không thể ăn được gì nữa.
Trong khi mang trứng, ngài đã dự trữ khá nhiều chất dinh dưỡng cho sứ mệnh cuối
cùng của nó - sứ mệnh truyền giống. Khi đẻ trứng, nó bị kiệt sức rất nhanh. Và
khi quả trứng cuối cùng ra đời, nó lặng lẽ giã từ sự sống. Đó cũng là định mệnh
của họ hàng nhà tằm.
49- Tính tuổi của cây bằng cách
nào?
Trong thiên nhiên có cây to, cây nhỏ, cây sống nghìn năm, cây sống mấy chục
năm. Làm thế nào để biết tuổi của chúng? Phương pháp tin cậy nhất là đếm số
vòng tròn trong thân cây khi cắt ngang. Tuy nhiên, hãy cẩn thận, bạn có thể
nhầm đấy!
Nếu cắt một lát mỏng ngang qua thân cây, dưới kính hiển vi có thể quan sát thấy
từng bó mạch gỗ. Lớp ngoài bó mạch gỗ là phloem, lớp trong là xylem, giữa lớp
phloem và xylem là lớp thượng tầng. Thân cây to lên được là nhờ có lớp thượng tầng
này. Hàng năm nó đều phân chia tế bào, sản sinh ra lớp phloem và xylem mới nên
thân cây cứ mỗi năm lại to dần ra.
Trong điều kiện thời tiết khác nhau, lớp thượng tầng cũng phát triển khác nhau.
Từ mùa xuân đến mùa hè, cây sinh trưởng thuận lợi, nên tế bào thượng tầng phân
chia nhanh, vách tế bào mỏng, xenlulô ít, các ống mạch dẫn nước nhiều. Chất gỗ
tạo ra trong mùa này gọi là gỗ mùa xuân hay gỗ đầu năm. Đến mùa thu - đông,
thời tiết khắc nghiệt hơn, các tế bào thượng tầng phân chia chậm, vách tế bào
dày, xenlulô nhiều, mạch dẫn ít. Chất gỗ tạo ra trong mùa này gọi là gỗ mùa
thu, hay gỗ cuối năm.
Khi cưa ngang thân gỗ, bạn sẽ thấy chất gỗ và màu sắc mỗi vòng khác nhau. Trong
đó, thớ gỗ thô, màu nhạt chính là gỗ xuân; thớ mịn, màu thẫm chính là gỗ thu.
Một vòng tròn gồm màu nhạt và thẫm chính là một vòng tuổi, do cây tạo ra trong
một năm. Vì vậy, dựa vào số vòng này, người ta có thể đoán ra tuổi cây.
Tuy nhiên, không thể dùng công thức này để tính tuổi tất cả các loại cây. Ví dụ
một số cây như cam, quýt, mỗi năm có tới 3 lần sinh trưởng, vì thế số vòng tuổi
được gọi là “vòng tuổi giả”. Tức là, 3 vòng chỉ tương đương với 1 tuổi thôi.
50- Có thật các hành tinh đều ở gần
đường hoàng đạo?
Khi nhìn lên bầu trời, chúng ta thấy mặt trời luôn di chuyển về phía đông.
Đường đi này của nó gọi là đường hoàng đạo. Trên thực tế, đường hoàng đạo là
vòng tròn được tạo ra bởi quỹ đạo mở rộng vô tận của trái đất cắt ngang quả cầu
vũ trụ giả định...
Theo nguyên lý trên, điều khiến các hành tinh "yêu mến" đường hoàng
đạo có liên quan tới quỹ đạo của chúng. Thực tế, quỹ đạo của 9 hành tinh quay
quanh mặt trời tuy đan chéo nhau nhưng chênh lệch không nhiều lắm. Nếu lấy quỹ
đạo của trái đất làm tiêu chuẩn để so sánh thì độ chênh lệch quỹ đạo của các
hành tinh kia như sau (tính từ trong ra ngoài):
- Sao Thủy: 7 độ 0 phút
- Sao Kim: 3 độ 24 phút
- Sao Hỏa: 1 độ 51 phút
- Sao Mộc: 1 độ 18 phút
- Sao Thổ: 2 độ 29 phút
- Sao Thiên Vương: 0 độ 46 phút
- Sao Hải Vương: 1 độ 46 phút
- Sao Diêm Vương: 17 độ 9 phút.
Như vậy, chỉ trừ sao Diêm Vương quá xa, các hành tinh khác chênh nhau nhiều
nhất không quá 8 độ, tức là vị trí của chúng hầu như không cách xa đường hoàng
đạo là mấy.
51- Vì sao trong sa mạc có ốc đảo?
Giữa sa mạc mông mênh cát trắng, không một giọt nước, thỉnh thoảng lại xuất
hiện những ốc đảo xanh tươi với nhiều động thực vật đa dạng. Tại sao ở đây có
nhiều nước như vậy, dù rất ít mưa?
Đa số các ốc đảo đều dựa vào núi cao, hướng ra sa mạc. Vào mùa đông, băng tuyết
đọng lại trên đỉnh núi. Đến mùa hè, băng tan ra, chảy thành sông. Do địa thế
dốc nên nước chảy xiết, mang theo bùn đất, thậm chí cả các tảng đá lớn từ trên
núi. Nhưng khi đến cửa sông, địa thế đột nhiên bằng phẳng, bùn đất lắng đọng
lại hai bên bờ, tích tụ dần thành những khu vực đất đai màu mỡ.
Đa số các dòng nước không đủ mạnh để chảy ra biển, mà chỉ chảy một đoạn rồi
thấm vào đất cát thành
52- Vì sao vẹt, yểng học được tiếng
người?
“Mấy giờ rồi?”, “chào bác!’”, “ăn cơm chưa?”, “tạm biệt”… Có tiếng ai the thé
thốt lên từ góc vườn, nhìn ra, bạn sẽ kinh ngạc khi thấy đó không phải là tiếng
của chủ nhà, mà là tiếng một chú vẹt tinh nghịch. Làm sao nó nói được nhỉ?
Thực ra, đại não của vẹt không phát triển như đại não của người, không có sẵn
điều kiện để biết nói. Những câu phát âm đơn giải của chúng chỉ là một kiểu bắt
chước vô thức, mà phải do người dạy mới hình thành. Trong trạng thái hoang dã,
hiếm thấy con vẹt nào nói được.
Ngôn ngữ là sản phẩm chỉ có trong quá trình phát triển của xã hội loài người.
Ngoài sự cần thiết phải nhờ thanh đới (thông qua cử động nhịp nhàng của họng,
lưỡi, răng, môi) để phát âm, còn cần sự kết hợp từ vựng và quy luật ngôn ngữ
mới có thể biểu đạt tốt những điều nghĩ ra trong óc. Các loài vẹt, yểng có thể
“nói” được những câu đơn giản, chẳng qua là chúng có cái lưỡi vừa nhọn vừa nhỏ,
mềm và đầy thịt, nên chỉ biết lặp lại một chuỗi âm tiết mà người ta dạy cho nó
thôi. Chưa bao giờ người ta thấy chúng nói được những câu phức tạp cả.
Nhìn chung, loài chim sinh ra là có thể phát âm. Khi người ta thường xuyên lấy
vài âm tiết nào đó để gây ảnh hưởng với chúng, lâu ngày chúng sẽ bắt chước
được. Tình huống này gọi là phản xạ nói vô điều kiện. Sau này, mỗi khi gặp
người, do bị kích thích mà sinh ra phản ứng, chúng nhắc lại mấy âm tiết đơn
giản đã học được, đây là phản xạ có điều kiện.
Trong giới động vật, chỉ có loài chim (nhất là những loài biết hót) là có thể
bắt chước âm thanh của đồng loại và tiếng kêu của các động vật khác. Còn học
nói tiếng người chỉ giới hạn ở vài loài biết hót, như vẹt, yểng, khướu.
53- Vì sao trong bụng nhặng xanh có
rất nhiều dòi?
Khi bạn dùng vỉ đập chết một con ruồi nhà, trong bụng nó không có gì. Nhưng khi
đánh một con nhặng xanh thì từ bụng nó thường chui ra rất nhiều dòi. Có người
nói rằng vì nhặng xanh ăn phân, bụng thối rữa nên mới sinh ra nhiều dòi như
vậy...
Có người lại bảo nhặng xanh ăn phải trứng ruồi, và trứng này nở thành dòi trong
bụng chúng. Thực ra, cả hai cách nói này đều sai.
Ruồi nhà và nhặng xanh khác nhau ở chỗ: Ruồi nhà đẻ trứng còn nhặng xanh
"đẻ con". Nói đúng ra, nhặng xanh không đẻ trứng mà đẻ ra ấu trùng:
dòi. Bởi thế, trong bụng một con nhặng mẹ thường có rất nhiều dòi.
Trong thế giới côn trùng, hiện tượng "đẻ con" như nhặng xanh không
phải hiếm. Ví dụ, loài rệp cây ký sinh trên các cây lương thực cũng đẻ ra ấu
trùng. Tuy nhiên, hiện tượng "mang thai" của côn trùng khác hẳn với
các loài động vật có vú. Trứng của động vật có vú rất nhỏ, nhỏ đến mức mắt
thường khó nhìn thấy. Nhưng khi được thụ tinh, trứng này sẽ phát triển thành
phôi, và phôi ngày một lớn dần thành thai non. Còn trứng của côn trùng lớn hơn
rất nhiều, chất dinh dưỡng bên trong đủ nuôi để con non phát triển, không cần
mẹ. Thực tế, hiện tượng "đẻ con" của côn trùng chỉ là giả, và về bản
chất, nó không khác gì đẻ trứng, chỉ khác chăng một đằng là con non nở trong
bụng mẹ, một đằng là nở ở ngoài mà thôi.
54- Các hành tinh trong vũ trụ liệu có
va vào nhau?
Nếu trái đất ở rất gần các hành tinh khác và chúng chuyển động ngược chiều nhau
thì khả năng đụng độ rất dễ xảy ra. Nhưng thực tế, trái đất và các hành tinh
đều ngoan ngoãn quay trên những quỹ đạo nhất định khiến cho chuyện đó là không
thể.
Mặt trăng là thiên thể gần trái đất nhất, cách chúng ta 384.000 km. Khoảng cách
giữa mặt trời và trái đất là 149,6 triệu km (hãy tưởng tượng muốn đi bộ tới quả
cầu lửa này, bạn phải mất hơn 3.400 năm).
Các hành tinh khác trong hệ mặt trời cũng ở rất xa, và bởi chịu sức hút của mặt
trời nên chúng đều có một quỹ đạo ổn định. Do đó chúng không có cơ hội đụng độ
với hành tinh xanh.
Các ngôi sao khác trong vũ trụ cách trái đất còn xa hơn nữa. Sao Biling là gần
nhất, cách trái đất 4,22 năm ánh sáng, tức là từ vì tinh tú này tới trái đất,
ánh sáng phải “ì ạch” mất 4 năm 3 tháng.
Trong khoảng không vũ trụ gần hệ mặt trời, trung bình các sao cách nhau khoảng
trên 10 năm ánh sáng. Hơn nữa, chúng đều chuyển động theo một quy luật nhất
định. Mặt trời cũng như tất cả các sao trong dải Ngân Hà đều chuyển động xung
quanh trung tâm hệ theo một quy luật riêng chứ không phải là hỗn loạn. Bởi vậy,
rất ít khả năng các sao trong dải Ngân Hà va chạm nhau.
Theo tính toán của các nhà khoa học, trong hệ Ngân Hà trung bình khoảng một tỷ
tỷ năm mới xảy ra một va chạm giữa các sao. Tuy nhiên, xác suất các sao chổi va
quyệt vào hành tinh thì thường xuyên hơn nhiều.
55- Trên mặt trăng có thể nhảy cao hơn
trên trái đất bao nhiêu?
Giả sử rằng vận động viên giỏi nhất có thể nhảy qua mức xà 2,42 mét. Con số này
chưa phải là lớn lắm, nhưng chúng ta chỉ có thể tăng kỷ lục lên một chút nữa mà
thôi, vì không thể thắng được lực hút trái đất. Còn nếu như cuộc thi tổ chức
trên mặt trăng, kỷ lục sẽ được lập ra sao?
Định luật lực hấp dẫn giải thích rằng: lực hấp dẫn và khối lượng của hai vật
thể tỷ lệ thuận với nhau. Dựa vào định luật đó, có lẽ bạn sẽ nói rằng: khối
lượng của mặt trăng bằng 1/81 khối lượng trái đất, trọng lượng của một người
trên mặt trăng sẽ giảm đi 81 lần, và nếu trên mặt đất người ấy nhảy được 2,42
mét, thì trên mặt trăng anh ta sẽ lên tới độ cao 200 mét!
Thực tế không phải vậy.
Vừa rồi chúng ta mới chỉ nói đến nửa đầu của định luật hấp dẫn mà chưa nói đến
phần sau, phát biểu rằng: lực hấp dẫn tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách
giữa hai vật thể. Bán kính của mặt trăng chỉ bằng 27% bán kính trái đất, như
vậy rõ ràng là khoảng cách giữa người tới trung tâm mặt trăng ngắn hơn nhiều
khoảng cách tới trung tâm trái đất, trong khi đó trọng lượng của con người lại
tăng một cách tương đối. Bởi vậy khi con người lên mặt trăng, không phải trọng
lượng giảm đi chỉ còn bằng 1/81 so với khi ở trái đất, mà chỉ giảm còn bằng 1/6
thôi.
Từ phép tính tổng hợp gồm khối lượng và bán kính mặt trăng, chiều cao của vận
động viên, ta có đáp số chính xác là: trên trái đất vận động viên nhảy cao tới
2,42 mét thì trên mặt trăng anh ta có thể nhảy cao 9 mét.
56. Vì sao ong chúa sống lâu gấp 10
lần ong thường?
Có thể bạn sẽ nói rằng, ong chúa sống lâu bởi nó to gấp 3, gấp 4 lần những con
ong thợ khác. Hoặc vì nó có nhiệm vụ đẻ trứng và duy trì nòi giống cho cả đàn,
nên không được phép chết non... Tuy nhiên, không hẳn đúng như vậy.
Trong đàn thường có 3 loại ong: Thứ nhất là ong thợ. Đó là những con cái không
có khả năng sinh đẻ. Chúng chiếm số lượng đông nhất trong đàn, và chuyên đảm
nhận những công việc nặng nhọc như xây tổ, kiếm mồi, chăm sóc ong con, chống kẻ
thù. Loại thứ hai là ong đực. Chúng cũng phải kiếm ăn và xây tổ, nhưng ít nặng
nhọc hơn ong thợ. Và thứ ba là ong chúa.
Trong đàn chỉ có ong chúa là có quyền đẻ trứng. Vì thế, nó được nâng niu và bảo
vệ rất cẩn thận. Trong khi các con khác phải bươn trải bên ngoài để kiếm thức
ăn, thì ong chúa chỉ nằm trong tổ, "mưa không tới mặt, nắng không tới
đầu". Nó được cung phụng loại mật hoa ngon nhất. Cho dù cả đàn ong phải
nhịn đói thì ong chúa vẫn no đủ. Cả cuộc đời, ong chúa hầu như không phải chạm
trán với kẻ thù. Có lẽ vì vậy mà ong chúa có thể sống hết tuổi thọ của nó (5-6
năm), trong khi các con ong khác chỉ sống được 6 tháng đến một năm mà thôi.
57. Vì sao mặt trăng đi theo chúng ta?
Trăng thường chiếm khoảng rất nhỏ trong tầm nhìn của ta, nên ta thấy nó chuyển
động chậm.
Những đêm trăng sáng, nếu vừa đi bộ vừa chú ý nhìn trăng, bạn sẽ thấy như chị
Hằng đang đi theo bạn. Không riêng gì mặt trăng, nếu để mắt quan sát các đỉnh
núi xa xa, bạn cũng sẽ có cảm giác tương tự.
Nguyên do là khi ta đi bộ, chúng ta không thể không chú ý tới mọi vật xung
quanh. Nhưng tầm mắt của ta lại có giới hạn. Lúc ta đi về phía trước, mọi vật
gần quanh ta (chiếm khoảng lớn trong tầm nhìn) trôi đi rất nhanh, nhưng những
vật ở xa (chiếm khoảng rất nhỏ trong tầm nhìn) thì trôi đi rất chậm và rất lâu
mới ra khỏi tầm mắt.
Các bạn hãy nhớ lại cảm giác trên xe lửa đi với tốc độ nhanh. Bạn sẽ thấy các
cột điện ở dọc đường trôi qua vùn vụt ngoài cửa sổ, nhưng cây cối, cột điện,
nhà cửa ở phía xa xa thì trôi rất chậm, còn dãy núi ở tận cuối chân trời thì
như dán chặt vào cửa sổ. Hiện tượng này giống hệt như khi mặt trăng, các vì
sao, cây cối, núi cao đi theo bạn. Những vật này cũng chiếm khoảng rất nhỏ
trong tầm nhìn, nên bạn sẽ thấy nó rất lâu. Đặc biệt là mặt trăng, vì là vật to
và sáng nhất trong đêm nên nó nổi bật hơn hẳn các vì sao và vật thể khác. Vì
thế, ta luôn có cảm giác mặt trăng theo sát bước chúng ta.
58. Trí thông minh là gì?
Edison cần tính dung tích một bóng đèn hình quả lê, ông giao nhiệm vụ đó cho
trợ lý Chapton. Hơn một tiếng đồng hồ, Chapton loay hoay mãi với các công thức
dày đặc mà vẫn chưa ra. Edison đi qua, nói: “Có gì phức tạp lắm đâu!” Ông mang
chiếc bóng ra vòi, hứng đầy nước và nói với Chapton: “Anh đổ vào ống đo, xem
dung tích là bao nhiêu. Đó là dung tích của bóng đèn”.
Chapton vỗ trán: “Chà, thật đơn giản, có thế mà mình nghĩ mãi không ra".
Chapton đã tốt nghiệp khoa Toán, Đại học Primton, lại tu nghiệp một năm ở Đức,
còn Edison mới chỉ học 3 tháng tiểu học, sau đó tự học với mẹ mình.
Câu chuyện trên đây giúp chúng ta hiểu đại khái thế nào là “trí thông minh”. Nó
không ngang bằng với trí thức. Rõ ràng Chapton có tri thức chuyên môn cao hơn
Edison nhiều. Ông ta căn cứ vào các công thức toán học để tính dung tích bóng
đèn, nhưng không nghĩ ra được cách đơn giản như Edison. Phản ứng nhạy bén của
Edison phản ánh trí thông minh của ông, được xây dựng trên cơ sở tri thức rộng.
Sự thông minh đó có thể gọi là trí thông minh mạnh.
Vậy trí thông minh là gì?
Các nhà tâm lý học có những quan điểm khác nhau và giải thích khác nhau về vấn
đề này, nhưng đều có chung một nhận định: Trí thông minh không phải là một năng
lực đơn độc, nó là sức mạnh tổng hợp của nhiều loại năng lực. Theo điều tra tâm
lý và quan điểm của các nhà tâm lý học Trung Quốc, trí thông minh chúng ta nói
ở đây bao gồm khả năng quan sát, khả năng của trí nhớ, sức suy nghĩ, óc tưởng
tượng, kỹ năng thực hành và sáng tạo. Trí thông minh chính là sự phối hợp tốt
các năng lực đó để làm thành một kết cấu hữu hiệu.
Kết cấu trí thông minh cũng ví như một chiếc xe đạp. Nó được lắp ghép bởi những
phụ tùng chủ yếu như khung, bánh xe, trục giữa, moayơ, đùi đĩa… Có thể phụ tùng
đều rất tốt, nhưng nếu lắp ghép xộc xệch, xe đi vài hôm sẽ hỏng, thậm chí không
đi nổi. Cho nên xe phải đi ít lâu, được điều chỉnh lại, mới có thể bon bon trên
đường một cách êm ru. Nếu có phụ tùng nào đó bị hỏng, sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ
xe.
Kết cấu của trí thông minh cũng vậy, chúng ta cần làm cho mọi năng lực của
chúng ta đều được phát huy đầy đủ, và nâng cao dần, đồng thời làm cho những
năng lực đó (quan sát, trí nhớ, suy nghĩ, tưởng tượng, thực hành, và sáng tạo)
phối hợp đồng bộ, hoạt động đều.
59. Tại sao không biết đau là đáng sợ?
Bé gái Kinchen sau khi được 6 tháng tuổi bỗng mất cảm giác đau. Khi tiêm, em
không hề khóc. Bị bỏng, em cũng chẳng kêu. Một lần bị gãy tay, phải bó bột,
Kinchen thấy vướng đã tự tháo băng ra, đùa nghịch với cánh tay, làm chỗ gãy
không khớp lại được nữa...
Đau là một loại cảm giác giúp con người phân biệt những kích thích có thể gây
hại cho cơ thể. Ví dụ chạm tay vào lửa, cảm giác đau rát ở da làm người ta rụt
lại, đau bụng báo cho người ta biết dạ dày có vấn đề, đau ngực cho thấy tim
phổi hoặc gì đó không ổn. Bởi thế cảm giác đau có ý nghĩa tâm sinh lý đặc biệt,
giúp con người sinh tồn. Nó có ý nghĩa báo động, giúp cơ thể sớm nhận biết và
đề phòng hiểm nguy. Nếu không có cảm giác ấy, chúng ta có thể gặp những hoàn
cảnh chết người mà không nhận ra được
Hiện tượng mất cảm giác đau thường chỉ xảy ra do một biến động tâm sinh lý đột
ngột nào đó. Rất hiếm khi có trường hợp mất cảm giác đau kéo dài. Tuy vậy, trên
thực tế, nếu tập trung vào một việc nhất định, người ta có thể "quên"
cảm giác đau. Lúc ấy, các tín hiệu cảnh báo sự nguy hiểm trong não bộ tạm thời
nhường chỗ cho các hoạt động khác. Ví dụ, Quan Vũ đã dùng ý chí tập trung vào
việc đánh cờ để Hoa Đà cạo xương tay mà không hề kêu ca gì. Nhưng thường chỉ
sau khi hết tập trung, cảm giác đau lại xuất hiện.
60. Tại sao lợn thích dũi vách và ăn đất sét
Lợn được người nuôi, chẳng có việc gì ngoài ăn rồi ngủ. Nhưng thỉnh thoảng nó
lại không chịu như vậy, mà luôn dũi vách, gặm tường. Chẳng biết nó muốn tìm cái
gì, bởi dũi vách chỉ tổ đau mũi mà gặm tường thì đau răng. Không lẽ lợn "ngu"
thật?
Tất nhiên là lợn không ngốc nghếch như vậy. Tổ tiên của nó sống ở nơi hoang dã,
thường phải dùng mũi ủi đất kiếm ăn. Bởi vậy, mũi lợn rất cứng và răng lợn rất
sắc. Nay bị người thuần hóa từ lâu nhưng nó vẫn chưa bỏ thói quen ủi, dũi xưa
kia. Vì thế, những lúc nhàn rỗi, chợt nghe thấy "tiếng gọi nơi hoang dã",
nó lại dũi tường cho đỡ nhớ
Ngày xưa đi kiếm ăn, lợn thường ăn cả rễ cây và củ dính đất sét. Trong đất sét
có nhiều chất khoáng như phốtpho, canxi, côban, sắt, đồng mà cơ thể nó rất cần.
Sau này được người nuôi, tuy không thiếu thốn gì, nhưng thỉnh thoảng dũi tường
vách thấy miếng đất nào "ngon" là theo thói quen cũ, lợn
"xơi" luôn.
61. Vì sao chúng ta không cảm thấy trái đất chuyển động?
Chúng ta biết được trái đất chuyển động là dựa vào sự thay đổi vị trí của các
ngôi sao.
Mỗi giây, trái đất vượt được chặng đường 30 km quanh mặt trời. Đó là chưa kể
tới việc nó tự quay quanh mình với tốc độ ở đường xích đạo là 465 mét/giây. Vậy
mà có vẻ như trái đất đang đứng yên, trong khi chỉ cần ngồi lên xe, bạn sẽ thấy
xe lao đi nhanh chóng mặt.
Trở lại với một tình huống thường gặp: Khi đi thuyền trên sông, bạn sẽ thấy
thuyền lướt rất nhanh, cây cối và mọi vật hai bên bờ cứ trôi qua vùn vụt. Nhưng
khi đi tàu thủy trên biển rộng, trước mắt là trời biển xanh biếc một màu, chim
hải âu trông xa như một đốm trắng lơ lửng trên không trung, lúc đó, bạn sẽ cảm
thấy tàu thủy đi quá chậm, mặc dù tốc độ của nó hơn hẳn tốc độ thuyền trên sông.
Vấn đề chính là ở chỗ đó.
Khi đi thuyền, cây cối hai bên bờ sông không di chuyển mà chính là thuyền di
chuyển. Nếu cây cối ven bờ lao đi càng nhanh, chứng tỏ tốc độ của thuyền càng
lớn. Nhưng trên biển rộng không có gì làm mốc để ta thấy tàu đang đi nhanh. Bởi
thế bạn thấy nó lướt đi rất chậm, thậm chí có lúc đứng yên.
Trái đất như một chiếc tàu khổng lồ trong không gian. Nếu bên cạnh quỹ đạo của
nó cũng có những vật mốc như cây cối bên bờ sông, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy
trái đất đang chuyển động. Nhưng ở gần trái đất, tiếc thay, lại không có vật gì
làm chuẩn. Chỉ có những vì sao xa tít tắp giúp ta thấy được trái đất thay đổi
vị trí theo ngày, tháng mà thôi. Các vì sao này ở quá xa, nên trong một thời
gian ngắn mấy phút, mấy giây, chúng ta rất khó cảm nhận thấy trái đất đang
chuyển dịch.
Còn về việc trái đất tự quay quanh nó với tốc độ khá nhanh, chúng ta và mọi vật
ở trên đó cũng đang quay với cùng một tốc độ, bởi vậy chúng ta không cảm nhận
được chuyển động này. Nhưng các bạn chớ quên rằng, hàng ngày, chúng ta nhìn
thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao mọc đằng đông và lặn đằng tây, đó chính
là kết quả của việc trái đất tự quay quanh mình nó.
62. Tại sao lúc ngáp lại chảy nước mắt?
Khi ngáp, cơ mặt, lưỡi và họng của chúng ta co mạnh, làm tăng áp lực trong
khoang miệng. Áp lực này ảnh hưởng đến khoang mũi, tạm thời ngăn đường thoát
của nước mắt xuống mũi, do đó nước từ tuyến lệ tràn ngược vào trong mắt, khiến
mắt ta đầm đìa.
Nguồn nước mắt do đâu mà có? Trong khoang mắt, bên trên và dưới mỗi con mắt đều
có một tuyến lệ, chỉ bằng hạt đậu thôi, hình tròn dẹt, có thể sản sinh ra nước
mắt. Tuyến lệ có ống thoát nước chảy vào bề mặt con mắt, giữ cho giác mạc và
kết mạc lúc nào cũng ướt. Nước mắt cũng có thể trào ra để rửa sạch bụi bẩn lọt
vào mắt, đồng thời sát trùng, cho nên nó được coi là một “vệ sĩ”.
Thông thường, tuyến lệ chỉ tiết ra một ít nước mắt. Ban ngày lúc thức, trong
vòng 16 giờ, tuyến lệ tiết ra khoảng 0,5- 0,6 g nước mắt. Khi ngủ mắt nhắm lại,
tuyến lệ coi như ngừng làm việc. Nếu thế, hai con mắt lúc nào cũng đầm đìa nước
ư? Điều kỳ diệu của con người chính là ở chỗ đó, vừa có bộ phận sản xuất lại có
bộ phận tiêu thụ. Ở góc trong mỗi con mắt (y học gọi là nội xế) đều có các lỗ
nhỏ thu thập nước mắt, thông xuống mũi. Nước mắt đi xuống hoà cùng với nước mũi
sẽ chảy ra ngoài.
Khi người ta mệt mỏi hoặc lâu không thở không khí tươi mới, trong cơ thể tích
đọng quá nhiều CO2, kích thích thần kinh phản xạ, nên mới ngáp. Cùng với động
tác này, một khối khí lớn từ miệng trút ra, sinh áp lực trong miệng, ảnh hưởng
đến khoang mũi, tạm thời ngăn đường thoát của nước mắt, do đó nước mắt từ tuyến
lệ tràn vào mắt.
Thực ra, không chỉ có ngáp, mà những động tác làm co cơ mặt khác, ví dụ cười
ngặt nghẽo, hắt hơi, ho, nôn… đều có thể làm chảy nước mắt. Ngoài ra, đôi khi
bụi vào mắt, khói, ánh sáng chói, gió lạnh cũng có thể tạo ra tình huống tương
tự. Cũng vì thế, khi chảy nước mắt bao giờ cũng kèm theo nước mũi chảy dài. Tại
sao vậy, chắc các bạn cũng suy luận được rồi.
63. Vì sao người ngã xuống Biển Chết không chìm?
Bơi lội trong Biển Chết bạn đừng bao giờ lo chết đuối, bởi vì hàm lượng muối
trong nước biển ở đây cao tới 270 phần nghìn. Tỷ trọng nước biển còn lớn hơn cả
tỷ trọng người bạn. Vì thế ta có thể nổi trên biển như một tấm gỗ.
Nhưng tại sao trong khi hàm lượng muối trung bình của nước biển trên tầng mặt
các đại dương chỉ có khoảng 35 phần nghìn, còn hàm lượng muối trong Biển Chết
lại cao đến vậy?
Giở bản đồ ra chúng ta sẽ thấy Biển Chết nằm ở vùng biên giới phía tây của
Jordan, là chiếc hồ thấp nhất thế giới, lọt thỏm trong vùng có địa hình xung
quanh tương đối cao. Thực ra, Biển Chết không phải là biển thực sự mà chỉ là
một cái hồ không có đường ra, với một số con sông không lớn mang nước đổ vào.
Chính đặc điểm này đã quyết định tính chất của nó.
Chung quanh các sông chảy vào Biển Chết phần lớn là sa mạc và nham thạch đá
vôi. Các tầng nham thạch đó có chứa rất nhiều muối khoáng. Vì thế, nước sông
chảy vào Biển Chết đều có hàm lượng muối rất cao. Do biển không có đường ra nên
những khoáng chất này đều bị giữ lại toàn bộ. Đồng thời Jordan lại là vùng hanh
khô, ít mưa. Mặt trời gay gắt không ngừng làm cho nước trong cái “vũng"
kín này bốc hơi rất mạnh.
Trong khi đó, một nguồn nước chính của Biển - sông Jordan - lại bị rút bớt đáng
kể để phục vụ tưới tiêu. Tháng năm qua, hàm lượng muối trong biển ngày càng
nhiều, ngày càng đậm đặc. Kết quả là trong thuỷ vực này, trừ một vài vi khuẩn,
không có sinh vật nào tồn tại được, vì thế nó mới được mang cái tên không lấy
gì đẹp đẽ - Biển chết.
64. Vì sao đêm mùa hè có nhiều sao hơn đêm mùa đông?
Những đêm hè trời quang, nhìn lên bầu trời chúng ta sẽ thấy chi chít các vì sao
và rành rành là nhiều hơn hẳn so với đêm mùa đông. Tại sao vậy? Lý do là mùa hè
chúng ta đứng ở gần trung tâm ngân hà, nơi có nhiều sao nhất, còn mùa đông,
trái đất của chúng ta đứng ở rìa ngân hà, nơi có ít sao hơn.
Trong hệ ngân hà của chúng ta (Milky Way) có khoảng 100 tỷ sao và chủ yếu phân
bố trong một chiếc “bánh tròn”. Phần giữa chiếc bánh này hơi dầy hơn chung
quanh. Ánh sáng đi từ phía mép “bánh” bên này đến phía bên kia phải mất 10 vạn
năm ánh sáng, đi từ mặt trên xuống mặt dưới bánh cũng phải mất 1 vạn năm ánh
sáng.
Mùa hè, chúng ta ở gần trung tâm ngân hà, nên ban đêm thấy nhiều sao hơn. Mùa
đông, chúng ta ở về phía đối diện, nhìn thấy ít sao hơn.
Mặt trời và những hành tinh láng giềng của hệ mặt trời đều nằm trong hệ ngân
hà. Hầu hết những sao mà chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường cũng đều nằm trong
đó. Nếu mặt trời nằm giữa hệ thì dù chúng ta nhìn từ phía nào cũng thấy số
lượng sao trên trời nhiều như nhau. Thế nhưng hệ mặt trời cách trung tâm hệ
ngân hà khoảng 3 vạn năm ánh sáng. Khi chúng ta nhìn về phía trung tâm ngân hà
sẽ thấy ở khu vực đó dày đặc các vì sao. Ngược lại, nếu nhìn về phía đối diện
trung tâm ngân hà sẽ chỉ nhìn thấy một số ít sao trong một phần của hệ.
Trái đất không ngừng quay quanh mặt trời. Về mùa hè trái đất chuyển động đến
khu vực giữa mặt trời và hệ ngân hà gọi là Đới ngân hà. Đới ngân hà là khu vực
chủ yếu của hệ ngân hà, tập trung nhiều sao của hệ. Bầu trời đêm hè chúng ta
nhìn thấy chính là Đới ngân hà dày đặc các vì sao. Về mùa đông và các mùa khác,
khu vực Đới ngân hà nằm về phía trái đất đang ở ban ngày, nên rất khó nhìn
thấy. Còn ở mặt kia của trái đất (vùng đang là đêm) sẽ không thể nhìn thấy nó.
65. Tại sao đứng trên cao nhìn xuống lại thấy chóng mặt?
Đối với cơ thể, đứng từ trên nóc nhà cao tầng nhìn xuống chính là một loại kích
thích bất thường với cường độ mạnh. Nó gây ra phản ứng theo nhiều đường khác
nhau. Người ta cảm thấy chóng mặt chính là do những phản ứng đó.
1. Cảnh tượng từ trên cao khiến ta căng thẳng. Sự căng thẳng này tạo ra hàng
loạt phản xạ thần kinh, nhất là thần kinh giao cảm bỗng hưng phấn làm cho tim
đập nhanh, chân lông dựng lên, lỗ đồng tử giãn ra, chân tay đổ mồ hôi, thở gấp,
quan trọng hơn cả là làm co mạch máu, huyết áp tăng đột ngột. Hiện tượng này
làm cho người ta bị chóng mặt.
2. Lên cao sẽ bị kích thích bởi áp lực không khí và tiếng gió, cùng với kích
thích của thị giác khi nhìn xuống. Những nhân tố này sẽ ảnh hưởng đến cấu trúc
cân bằng trong tai. Điều này làm ta nhất thời mất đi cảm giác thăng bằng, gây
chóng mặt, thậm chí còn có thể nôn mửa, giống như say tàu xe vậy.
3. Tiểu não cũng phụ trách động tác cân bằng. Các kích thích khi tác động mạnh
vào lớp vỏ đại não, “bộ tư lệnh” thần kinh cao cấp nhất của cơ thể người, sẽ
thông qua thị giác, thính giác để tác động vào tiểu não, gây ra hàng loạt hoạt
động điện sinh học, làm nhiễu chức năng tiểu não trong thời gian ngắn, khiến ta
chóng mặt.
Vậy tại sao lên tầng cao mới có hiện tượng này, còn lên núi cao lại không? Vấn
đề rất đơn giản. Vì tầng cao là lên thẳng, tạo ra sự tương phản độ cao rõ rệt
với cảnh vật xung quanh, do đó kích thích mạnh mẽ hơn. Lên núi, dù cho núi cao
gấp nhiều lần toà nhà, nhưng do độ cao của nó thoai thoải, tăng dần, khác biệt
với chung quanh không rõ rệt, đứng ở ngọn núi này vẫn thấy nhiều ngọn núi khác
nhấp nhô, cho nên không tạo ra kích thích mạnh, ít ảnh hưởng đến thần kinh con
người.
Đối với những người ít khi lên tầng cao, trước khi đi lên cần chuẩn bị sẵn sàng
tư tưởng, tốt nhất nên ngắm nhìn phong cảnh ở xa trước, làm cho thị giác, thính
giác và tinh thần quen dần, rồi mới thu gần lại và nhìn thẳng xuống. Như vậy,
ta sẽ không bị chóng mặt.
66. Vì sao một số cây cổ thụ rỗng thân mà vẫn sống?
Đôi khi ta bắt gặp những thân cây cổ thụ cành lá xum xuê, nhưng thân lại
"vườn không nhà trống". Điều gì đã giúp chúng sống thoải mái trong
điều kiện thương tật như vậy. Đó là vì rỗng thân không phải là căn bệnh chết
người của cây.
Thân cây mỗi năm một to ra, chất gỗ ở giữa thân do ngày càng khó được cung cấp
ôxy và chất dinh dưỡng, có thể bị chết dần. Phần lõi cây già trở nên vô tác
dụng. Mô chết này nếu bị vi khuẩn xâm nhập hoặc nước mưa thấm vào lâu ngày sẽ
mục nát, tạo nên lỗ rỗng. Có những loài cây đặc biệt dễ bị rỗng ruột như cây
liễu cổ thụ. Khi đó, cây chỉ mất đi một loại "ruột thừa" mà thôi.
Trong thân cây có hai đường lưu thông vật chất nhộn nhịp. Phần xylem ở lõi gỗ
là tuyến vận chuyển nước và chất vô cơ từ rễ lên. Phần ploem trong lớp vỏ là
tuyến vận chuyển chất hữu cơ tổng hợp được từ trên xuống rễ. Hai tuyến đó gồm
nhiều đường ống. Trên một cây, số ống dẫn này nhiều vô kể, nên nếu chỉ một số
tuyến bị mất đi, việc vận chuyển nước không bị gián đoạn hoàn toàn, do đó cây
già thân rỗng vẫn sinh trưởng như thường.
Tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) có cây táo sống mấy trăm năm, thân cây tuy rỗng tới
mức một người vào trú mưa được mà cây vẫn ra quả!
Thế nhưng, nếu bạn bóc toàn bộ (chứ không phải một phần) vỏ cây cổ thụ rỗng,
cây sẽ chết rất nhanh. Đó là vì toàn bộ con đường vận chuyển chất hữu cơ đã bị
cắt đứt, rễ cây không được cung cấp thức ăn sẽ “chết đói”. Khi rễ chết, cành lá
không được cấp nước sẽ chết theo. Có một vị thuốc đông y thường dùng, gọi là đỗ
trọng. Nếu lấy quá nhiều vỏ cây cùng lúc, kết quả cả thân cây sẽ chết theo.
67. Vì sao chim én bay thấp thì trời mưa?
Vào cuối xuân đầu hạ, khi đi chơi ngoài đồng, nếu thấy chim én bay thành đàn sà
thấp xuống mặt đất thì thường sau đó, trời sẽ mưa. Không lẽ chim én có khả năng
dự báo thời tiết?
Nguyên nhân là trước lúc trở trời, trong không khí có nhiều hơi nước, đọng vào
những bộ cánh mỏng của côn trùng, làm tăng tải trọng, khiến chúng chỉ có thể
bay là là sát mặt đất.
Trong số các côn trùng này có loài lớn như chuồn chuồn, nhưng cũng có các loài
mối, muỗi nhỏ mà chúng ta không nhìn thấy. Ngoài ra vì áp thấp, ngột ngạt, nên
nhiều loài sâu bọ cũng chui lên khỏi mặt đất. Chim én bay xuống thấp chính là
để bắt những côn trùng, sâu bọ này. Cho nên, cứ mỗi khi thấy chim én bay thành
đàn sà xuống, người ta lại nói rằng trời sắp có mưa.
68. Vì sao các dòng sông uốn khúc quanh co?
Vào lúc bắt đầu hình thành dòng chảy, lòng sông thường không phẳng. Những nơi
nước sông chảy qua, vì rất nhiều nguyên nhân, nên tốc độ chảy ở hai bên trái phải
không hoàn toàn bằng nhau.
Nơi này bờ sông lở một chút, nơi kia mất một cái cây, nơi khác nữa có thêm dòng
nước chảy từ bên ngoài vào…
Những hiện tượng đó đều có thể làm cho tốc độ chảy của sông ở một nơi nào đó
nhanh lên hoặc chậm đi. Đồng thời vật chất hai bên bờ cũng khác nhau, có nơi dễ
bị phá vỡ, có nơi lại khá rắn chắc. Tất cả những cái đó đã làm cho lòng sông
trở thành uốn khúc quanh co.
Một khi đã sinh ra khúc quanh, nó sẽ tiếp tục phát triển. Bởi vì hướng dòng
nước là chảy thẳng vào bờ lõm, hơn nữa nước ở tầng trên cũng từ bờ lồi chảy vào
bờ lõm, còn nước ở tầng dưới lại từ bờ lõm chảy ngang về phía bờ lồi làm cho bờ
lõm bị phá hoại mạnh mẽ. Trong khi đó nước ở bờ lồi lại chảy tương đối chậm,
năng lượng yếu. Vì thế ở phía bờ lõm, bùn cát dễ bị cuốn đi, lòng sông tương
đối sâu, bờ sông dốc, trở thành nơi lý tưởng cho các bến cảng.
Dưới tác dụng lâu dài của nước sông, bờ lõm do bị không ngừng phá hoại mà ngày
càng lõm, bờ lồi vì nước chảy chậm, bùn cát không những bị cuốn đi mà ngược lại
còn tích tụ ngày càng nhiều khiến bờ lồi ngày càng lồi thêm. Dòng sông trở nên
quanh co.
Khi đáy sông cao hơn mực nước chảy vào sông, nước sông chủ yếu xâm thực xuống
dưới, còn khi đáy sông thấp hơn thì nước sông chủ yếu xâm thực vào hai bên. kết
quả của sự xâm thực là lòng sông dần rộng thêm ra, dòng sông ngày càng uốn khúc,
điểm bắt đầu và điểm kết thúc của một khúc ngày càng gần, thậm chí cuối cùng bị
xuyên qua. Ở hai đầu của khúc cong cũ, bùn cát tích đọng càng nhiều, làm cho
khúc cong và dòng chảy bị tách rời, cuối cùng hình thành những chiếc hồ hình
cánh cung, hay hồ hình móng ngựa (hồ Tây là một điển hình)
69. Vì sao lá trên ngọn rụng cuối cùng?
Ở miền ôn đới, mỗi khi mùa thu đến, cây thay màu lá từ xanh sang vàng, cuối
cùng trút nốt chiếc áo này, trần trụi đón mùa đông tới. Nếu chú ý một chút, bạn
sẽ thấy lá trên cành chính đổi màu trước tiên, sau đó lan dần đến ngọn cây,
ngọn cành. Rụng lá cũng vậy, rụng ở dưới trước, càng lên trên ngọn, lá càng
rụng chậm.
Có thể bạn sẽ nói, đó là hiện tượng tự nhiên của giới sinh vật, già trước chết
trước. Lá phía dưới ra trước lá đầu cành nên rụng sớm hơn. Đây cũng là một cách
giải thích, nhưng còn có cách hiểu sâu hơn.
Trong quá trình sinh trưởng, mọi cây cối đều vươn tới sự phát triển đầy đủ
nhất, cho nên nó luôn đưa nhiều thức ăn lên ngọn để tăng nhanh sự sinh trưởng.
Ngọn cành do được cung cấp nhiều chất dinh dưỡng nên vươn dài mãi ra, khi ấy lá
cây cũng mọc dần theo, lá cũng lại phát huy tác dụng tạo ra chất dinh dưỡng.
Khi ngọn cây lớn đến một mức độ nhất định, sinh trưởng sẽ chậm dần lại. Lúc này
cây rụng lá là do hai điều kiện: Bên trong, việc cung cấp dinh dưỡng bị hạn chế
và bên ngoài, điều kiện thời tiết thay đổi theo chiều hướng không có lợi, chức
năng tổng hợp thức ăn của lá kém dần, lá không tồn tại được nữa, rơi lả tả.
Nhưng mặc dù vậy, bộ phận ngọn cây vẫn được ưu tiên chăm sóc, thức ăn được cung
cấp nhiều nhất, nên dù cây ngừng đưa thức ăn lên ngọn, nhờ vào lượng dự trữ nó
vẫn sinh tồn thêm một thời gian. Đồng thời trong lúc đó, chất diệp lục trong lá
cây chưa bị phá huỷ, vẫn tổng hợp được một số chất dinh dưỡng. Như vậy, lá trên
ngọn cây sẽ rụng muộn hơn ở các bộ phận khác trên cây.
70. Vì sao khi bứng cây đi phải cắt bớt một phần cành lá?
Khi trồng cây, người ta thường tỉa và cắt bớt một phần cành lá cây giống mới
đem trồng, cá biệt có nơi khi trồng cây lá rộng, còn phải cắt đi một nửa hoặc
2/3 mỗi lá. Đó là do khi bứng, hệ thống rễ ít nhiều đều bị đứt, ảnh hưởng đến
khả năng hút nước của cây.
Sau khi bứng đi, số rễ bị thương không còn khả năng hút nước. Trong khi đó, lá
cây vẫn quang hợp và hô hấp bình thường, mà hoạt động này lại đòi hỏi nhiều
nước. Đặc biệt khi có gió và nắng to, sự thoát hơi mặt lá và cành rất mạnh,
lượng nước mất đi càng lớn.
Nếu bứng cây đem trồng mà không cắt bớt một số cành và lá, công việc giữa bộ rễ
và bộ phận trên mặt đất sẽ không điều hoà, làm cho lượng nước vào cơ thể cây
thì ít, ra thì nhiều, dễ dẫn đến héo khô hoặc hồi phục chậm, cây có thể chết do
mất nước.
Vì vậy, khi bứng cây đem trồng cần phải cắt bớt một số lá và cành vừa phải để
giảm bớt sự thoát hơi nước, đảm bảo cân bằng giữa số nước hút vào và số nước
mất đi, có thế mới nâng cao được tỷ lệ cây sống.
71. Ở đâu ra đỉnh núi bằng?
Dù là khách du lịch hay thuỷ thủ có kinh nghiệm, mỗi khi ngồi tàu thủy qua mũi
Hảo Vọng ở phía nam châu Phi, thường bị "hút hồn" bởi một ngọn núi có
đỉnh phẳng lỳ như mặt bàn, thuộc loại núi cực hiếm trên thế giới.
Ở vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc cũng có loại núi này. Vì sao chúng lại bằng như có
ai gọt đẽo vậy?
Đó là do tầng nham thạch bằng phẳng phát triển mà hình thành. Trên đáy biển,
đáy hồ và vùng đồng bằng rộng từ thời đại Thái viễn cổ, nước chảy đã làm lắng
đọng nhiều tầng đất cát, bùn và đá cuội. Qua bao nhiêu năm tháng, những tầng
đất tơi vụn đó dần dần tích tụ lại, ngày một dày, chắc, để rồi từng bước hoá thành
tầng thạch quyển cứng rắn.
Sau đó vỏ trái đất xảy ra những vận động nhô lên một cách chậm chạp. Các tầng
thạch quyển này từ đáy nước nâng lên tương đối ổn định, nên giữ được trạng thái
bằng phẳng. Rồi trên tầng thạch quyển bằng phẳng đó xuất hiện những sông, suối
lớn nhỏ. Các dòng nước này xói mòn dần theo các rãnh, hình thành những vùng núi
hoặc gò đồi nhấp nhô. Nếu đỉnh của chúng là một tầng thạch quyển cứng rắn, khó
bị xâm thực phá hoại thì sẽ giữ được trạng thái bằng phẳng lâu dài, còn hai bên
dốc đứng như bức tường.
Tuy vậy, một số núi không có các điều kiện trên, nhưng đỉnh của chúng cũng bằng
phẳng, xa trông như một cái bàn vuông. Có cái là do đá bazan nóng chảy từ núi
lửa phun ra che phủ mà thành, có cái là do nham thạch kết tinh từ xa xưa, bị
xâm thực phong hoá lâu dài mà thành.
72. Vì sao một số cây nhiệt đới có rễ khí sinh?
Trên nhiều loại cây ở vùng Đông Nam Á, ta thấy rủ xuống những chiếc rễ lớn dạng
tấm. Đôi khi là những sợi rễ dài, buông lòng thòng như dây thừng trong không
trung hoặc cắm thẳng xuống đất, gọi là rễ khí sinh. Chúng hình thành do sự
thích nghi đặc biệt với không khí nóng ẩm.
Trong môi trường nhiệt đới nắng lắm, mưa nhiều. Cây thoát hơi nước cũng rất
lớn. Chính vì vậy rễ khí sinh là một giải pháp tốt để bổ sung kho dự trữ dịch
lỏng cho cơ thể. Rễ khí sinh không có lông hút và chóp rễ, vì vậy không thể hút
được thức ăn, nhưng bù lại, chúng có thể hút nước trong không khí giúp cây phát
triển.
Mặt khác, với nhiều loại cây có thân to lớn như đa, rễ khí sinh còn có tác dụng
phụ trợ là nâng đỡ. Cũng có loại rễ khí sinh chứa chất diệp lục, có thể quang
hợp tạo ra chất dinh dưỡng.
Ngoài ra trong môi trường ẩm ướt, các cây như dây thường xuân (hedera
sinensis), thạch hộc (dendrobium nobile), điếu lan (chlorophytum capense), thậm
chí đến dây nho cũng mọc ra rễ khí sinh. Hiển nhiên điều đó phải do điều kiện
đặc biệt ẩm ướt mới có
73. Có phải nam thông minh hơn nữ?
Chuyện này quả là khó nói. Về tổng thể, trí thông minh của nam và nữ tương
đương nhau, tuy nhiên, mang các sắc thái khác nhau. Chẳng hạn, phái nam mạnh
hơn trong khả năng tri giác không gian. Do đó, việc tìm hướng, dò đường, họ hơn
hẳn nữ một bậc. Nhưng về khả năng thính giác, phái yếu lại vượt xa.
Vì thế, nữ phân biệt và định vị âm thanh, nhất là khả năng nghe giọng cao, hơn
hẳn nam. Về khả năng ngôn ngữ, nữ cũng phát triển sớm hơn. Do đó, họ đọc, viết,
nói năng và phát âm lưu loát, rõ ràng hơn nam giới, nhưng lại khiêm tốn hơn về
số lượng từ vựng, tính suy diễn và logic. Bài làm văn, nữ thường mô tả chi tiết
và có màu sắc hơn, còn nam thường có ý lạ, bố cục nhiều biến đổi, góc cạnh hơn.
Về mặt tư duy, nam thiên về tư duy logic, trừu tượng, nữ lệch về tư duy hình
tượng cụ thể. Óc tưởng tượng của nam, đa số thuộc quan hệ giữa vật và vật theo
hướng logic, còn trí tưởng tượng của nữ lại lệch về quan hệ giữa người với
người theo hướng hình tượng. Về trí sáng tạo, theo kinh nghiệm, nam có vẻ khá
hơn một chút. Các em nam thích đi sâu nghiên cứu, khả năng suy luận tương đối
mạnh, dễ dàng phản bác, phủ định cái được nêu ra hoặc liên hệ với những cái
khác. Nữ thường bị gò bó trong khuôn khổ cứ theo "tiêu chuẩn" mà làm.
Điều này cũng có thể giải thích tại sao trong số các nhà khoa học và phát minh,
nữ tương đối hiếm hoi.
Sự khác biệt này còn phân theo lứa tuổi. Nghiên cứu cho thấy, trước tuổi đi
học, trí thông minh của hai giới không rõ rệt. Từ tuổi đến trường cho đến tuổi
dậy thì, các cô bé nhanh nhạy hơn hẳn các bạn khác giới. Qua tuổi này, ưu thế
của nữ giảm xuống trong khi trí thông minh của phái mày râu lại tăng lên. Thông
thường sau 20 tuổi, trí thông minh của cả hai giới lại không có biến đổi rõ
theo tuổi nữa.
74. Vì sao mặt trời lặn vào mây thì
đêm sẽ mưa?
Vào lúc xẩm tối, nếu xuất hiện những đám mây đen lớn sát đường chân trời, gió
thổi mạnh, mặt trời dường như lặn vào trong những đám mây ấy, thì thường là đến
nửa đêm trời sẽ mưa.
Để giải thích hiện tượng này, trước hết chúng ta phải biết, vì sao mặt trời lặn
vào trong đám mây. Đó là vì có những đám mây nóng di chuyển qua đường chân trời
phía tây. Hệ mây này có thể là mây tầng cao hoặc mây vũ tầng - chứa nhiều hơi
nước.
Mây vũ tầng tập trung sát đường chân trời phía tây, dưới tác dụng của nhiệt độ,
sẽ lan rộng và di chuyển tới khu vực người quan sát. Vào lúc nửa đêm, mây sẽ
tích tụ lại khi nhiệt độ hạ xuống thấp nhất, lúc đó sẽ có mưa.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp mặt trời lặn vào trong mây, nhưng khi mây tầng
cuộn lên cao, ở phần dưới lộ ra một khoảng trống rỗng. Khi đó, tuy có hiện
tượng mặt trời lặn vào trong mây, nhưng lại không phải điềm báo trời mưa. Chỉ
khi nào những đám mây đen lớn phủ kín sát đường chân trời, thời tiết mới có thể
thay đổi và trời sẽ mưa.
75. Bí quyết leo giàn của cây xanh
Bí, mướp, dưa chuột, dây trường xuân, nho… rất có tài leo trèo. Chỉ cần móc
được vào một thân cây, que củi hay thậm chí cột điện, chúng sẽ thoăn thoắt
"bò lên". Nhưng nếu không có điểm tựa nào, chúng ngả ra rồi đuội dần
và chết. Chúng leo kiểu gì?
Thì ra, trong cơ thể thực vật có một loại chất kích thích sinh trưởng có thể
làm tăng nhanh sự phát triển của tế bào, nhưng khi nồng độ quá cao, nó lại kìm
hãm thực vật sinh trưởng. Vì vậy, sự phân bố nhiều hay ít của chất kích thích
sẽ quyết định tốc độ phát triển của thân nhanh hay chậm. Có lúc bên trái sinh
trưởng nhanh hơn bên phải, có lúc bên phải nhanh hơn, thế là bắt đầu sự phát
triển xoay tròn, khả năng bò leo cũng xuất hiện.
Phương thức leo của mướp, dưa chuột khác với bìm bìm, hublon. Chúng mọc rất
nhiều tay cuốn.
i cây leo này. Ông cọ xát vào tay cuốn, nó tưởng đụng vào một vật như cành cây
hoặc sợi dây, liền cuộn cong lại. Sau mấy phút dây cuốn phát hiện mình bị lừa,
trên thực tế không có gì bám, nó lại vươn thẳng ra.
76. Nói mặt trời mọc ở đằng đông' có
đúng không?
Buổi sáng thức dậy, nhìn về phía đông, bạn sẽ thấy ông mặt trời đỏ ối từ từ mọc
lên. Thế mà có người dám bảo rằng mặt trời không mọc ở phía đông! Không lẽ lại
có chuyện như vậy?
Trước đây, người ta nghĩ trái đất phẳng, bầu trời tròn úp lên. Buổi sáng người
ta thấy rõ ràng là mặt trời mọc lên ở phía đông, và lặn xuống phía tây vào buổi
tối. Mắt người ta quen nhìn thấy thế, nên cũng quen miệng nói vậy thôi. Thực
ra, trái đất hình cầu, quay quanh trục của nó, vì vậy mới có hiện tượng ngày và
đêm. Phần trái đất hướng về phía mặt trời là ngày, phần bị che khuất là đêm.
Khi trái đất quay, góc nghiêng giữa mặt trời và mặt đất cũng lớn dần lên, vì
vậy ta có cảm tưởng mặt trời "mọc" từ thấp lên cao. Cũng bởi vì trái
đất quay về hướng đông, nên ta cũng thấy mặt trời "mọc" lên từ hướng
đông. Đúng ra, chúng ta phải nói "trái đất quay về hướng đông, hướng về
phía mặt trời". Nhưng nói vậy có lẽ dài dòng quá, nên người ta vẫn bảo
"mặt trời mọc ở đằng đông". Tất nhiên, nói vậy là sai khoa học, nhưng
người ta cũng mặc kệ.
77. Vì sao nước suối có thể nhô cao
hơn miệng cốc?
Nếu bạn đổ nước suối vào trong cốc, rồi bỏ nhẹ từng viên sỏi nhỏ vào, nước sẽ
nhô cao lên khỏi miệng mà không tràn ra ngoài, cứ như là cốc được đậy bằng một
nắp vô hình nào đó.
Các phân tử nước trên bề mặt đều hút nhau, giống như một nhóm người tay cầm tay
nhau. Chúng co kéo nhau trên bề mặt, nên những phân tử đơn lẻ không dễ gì bị
tách riêng ra. Đặc tính này còn gọi là sức căng bề mặt. Nhờ đó, chất lỏng nói
chung có thể nhô cao hơn bề mặt cốc
Khi nước lẫn tạp chất, sức căng bề mặt sẽ bị thay đổi. Nếu tạp chất là bọt xà
phòng, sức căng bề mặt sẽ giảm. Ngược lại, nếu lẫn khoáng chất, sức căng bề mặt
sẽ tăng lên. Nói chung, nước suối đều chứa một lượng khoáng chất nhất định, nên
có thể dâng cao hơn mặt cốc khá nhiều, khiến ai cũng nhìn thấy được.
78. Vì sao một hạt quýt mọc lên nhiều
mầm?
Một hạt bình thường chỉ có một phôi, nên chỉ mọc lên một cây. Còn những hạt
chứa nhiều phôi như quýt, ắt sẽ mọc lên nhiều cây. Trong thiên nhiên, hạt đa
phôi như quýt không nhiều. Nguyên nhân đa phôi là sự phân chia của các tế bào
trứng, hoặc của các tế bào đã thụ tinh.
Trong điều kiện thường, quýt chỉ có một phôi được thụ tinh, gọi là phôi hữu
tính. Những phôi còn lại do sự biến dạng của các vách tế bào trứng phát triển
mà hình thành, không qua thụ tinh, gọi là phôi vô tính. Tuy nhiên ở quýt, dù
hữu tính hay vô tính, phôi đều có khả năng nảy mầm và phát triển. Vì lẽ đó, khi
gieo, một hạt quýt nảy lên mấy cây non.
Mặt khác, vì quýt có thể sản sinh được phôi vô tính, cho nên có khi cắt bỏ nhị
đực hoặc bịt kín nhị cái, không cho cây thụ phấn, quýt vẫn có quả và hạt như
thường. Cây chiết cành thường là vô tính, ít biến dị, giữ được đặc tính của cây
mẹ. Ngược lại, cây mọc từ mầm hữu tính dễ bị ảnh hưởng của tác động ngoại cảnh,
có thể là tốt hoặc xấu.
79. Không nghiêng người, đố bạn đứng
dậy khỏi ghế!
Bạn đang ngồi thẳng trên ghế, nếu nửa người phía trên không nghiêng về phía
trước, hoặc hai chân không di động về phía đáy ghế, liệu bạn có thể đứng dậy
được không? Có thể bạn sẽ nói: quá dễ. Nào, mời bạn thử một cái xem sao.
Thế nào? Không đứng dậy được à. Dù cho bạn có dùng hết sức mình cũng uổng công
thôi. Vì sao vậy?
Vốn là khi đang ngồi, trọng tâm thân người ta rơi vào trên mặt ghế, trọng lượng
con người do lực đỡ của mặt ghế cân bằng. Khi đứng dậy thì phần mông của bạn
rời khỏi mặt ghế, lực đỡ trên sẽ mất đi. Thế nhưng trọng lực của thân người đối
với hai chân mà nói thì lại hình thành một mô men lực, mô men lực này luôn làm
người ta ngã xuống ghế. Nếu nghiêng nửa thân người trên về phía trước để cho
đường thẳng đứng qua trọng tâm rơi vào hai bàn chân thì lực chịu đựng của mặt
đất sẽ làm cho trọng lực cân bằng, người mới có thể đứng dậy được. Bình thường
khi đang ngồi trên ghế, muốn đứng vậy chúng ta cũng phải làm như vậy. Chẳng qua
là vì động tác này ta đã làm theo phản xạ một cách vô cùng thành thạo và nhanh
chóng nên bạn không để ý mà thôi.
80. Tập luyện tay trái sẽ thông minh
hơn
Người thuận tay trái nhanh nhẹn hơn hẳn người thuận tay phải. Theo thống kê, 15
em trong đội đấu kiếm Pháp thì có 8 em thuận tay trái. Một thời gian, già nửa
các thành viên trong đội tuyển bóng bàn Trung Quốc không thuận tay phải...
Không những hoạt bát hơn, nếu chịu khó luyện tập tay trái, bạn sẽ thông minh
hơn đấy!
Não bộ chia thành 2 bán cầu: trái và phải. Mỗi bên có chức năng thiên về các
hoạt động ở phía kia của cơ thể. Bán cầu trái chi phối phần lớn hoạt động của
nửa phải cơ thể, có quan hệ đặc biệt với sự phát triển ngôn ngữ, gọi là
"bán cầu ưu thế ngôn ngữ". Ở đây, các xung cảm giác tập hợp ở mức cao
nhất để hình thành tín hiệu ngôn ngữ và khái niệm trừu tượng. Do đó, chức năng
của bán cầu trái thiên về giai đoạn nhận thức lý tính, và hình thành tư duy
trừu tượng.
Bán cầu não phải chi phối nửa bên trái cơ thể. Thông qua sự chỉnh hợp, các xung
cảm giác tạo ra hình ảnh cụ thể về vạn vật, con người, không gian và thời gian.
Do đó, bán cầu phải thiên về giai đoạn nhận thức cảm tính, gọi là "bán cầu
ưu thế không lời".
Bán cầu não trái điều khiển tay phải, bán cầu não phải điều khiển tay trái. Nếu
ta vận động tay (nhất là ngón tay), ta có thể kích thích tế bào não ở khu vực
nhất định, làm cho não phát triển. Điều đó có nghĩa là, nếu người nào thường
dùng tay phải, não trái sẽ phát triển hơn, và ngược lại.
Quá trình từ thị giác tới phản ứng ở người thuận tay phải và tay trái có khác
nhau. Ở người thuận tay phải, đường nối thần kinh có dạng: "bán cầu não
phải - bán cầu não trái - tay phải". Ở người thuận tay trái: "bán cầu
não phải - tay trái". Rõ ràng, thông tin từ thị giác đến động tác ở người
thuận tay trái bớt được một khâu, do đó anh ta phản ứng nhanh hơn.
Người thuận tay phải, mỗi lần dùng tay trái đều cảm thấy ngượng ngịu, thậm chí
không làm nổi việc như cầm đũa chẳng hạn.
Nên rèn luyện tay trái ra sao?
Thực tế, hai bán cầu não vừa có sự phân công, hợp tác, bổ sung, vừa hạn chế và
bù đắp cho nhau. Thông thường, hai bán cầu não hợp tác với nhau cùng hoạt động.
Nhờ vậy, bạn mới có các cử động chính xác. Bạn luyện tập tay trái, không có
nghĩa là để biến mình thành người thuận tay trái, mà chỉ tăng cường hoạt động
phía bên trái, kích thích sự phát triển đồng đều của não bộ.
Bước thứ nhất, bạn có thể co duỗi ngón tay trái, lần lượt từng ngón một. Làm đi
làm lại cho đến khi thành thạo. Bước thứ hai, làm một số việc khéo léo bằng tay
trái, như xâu kim, vẽ tranh. Bước thứ ba, hãy làm bằng tay trái những việc
trước kia chỉ có tay phải mới làm được cho đến khi thành thạo. Hãy kiên trì,
bạn sẽ dần thấy rằng, không những bạn có đôi tay khéo léo, mà cơ thể cũng sẽ
nhanh nhẹn hơn, nghĩ được nhanh hơn. Trí thông minh phát triển rõ rệt!
Sau cùng, thuận tay phải hay thuận tay trái đều do bẩm sinh. Có người coi thuận
tay trái là một tật xấu, ra sức sửa chữa. Điều này rất sai lầm. Các nhà khoa
học đã làm cuộc phỏng vấn ở hai nhóm trẻ em: Nhóm thứ nhất gồm các em thuận tay
trái được "sửa chữa" thành thuận tay phải, và nhóm thứ hai gồm các em
thuận tay trái tự nhiên. Kết quả, nhiều em ở nhóm thứ nhất nói năng không lưu
loát, trí lực phát triển chậm. Nhóm thứ hai ngược lại: Các em trả lời lưu loát
như mọi đứa trẻ bình thường khác. Như vậy, việc cố công sửa chữa cho người
thuận tay trái chỉ có hại.
81. Vì sao ếch đực kêu rất to?
Cũng giống như người, dây thanh của ếch ở trong khoang hầu. Không khí từ phổi
lùa nhanh qua, làm rung dây thanh, phát ra tiếng kêu. Riêng ếch đực còn có đôi
túi kêu ở hai bên hầu. Khi nó kêu, túi hai này phình ra phía ngoài, khiến âm
thanh càng thêm vang dội.
Thanh âm và điệu của các loài ếch không giống nhau. Nếu có kinh nghiệm, bạn có
thể đoán biết loài ếch nào đang kêu dựa vào thanh âm của chúng.
Trong hoàn cảnh nào thì ếch kêu? Khi chúng bị kẻ địch (như rắn) tấn công, ếch kêu
dồn dập. Nếu ta dùng ngón trỏ ấn vào lưng, hoặc cầm chặt hai bên thân, ếch cũng
kêu. Mỗi lần ép, ếch kêu một tiếng. Nhiều con chen chúc nhau một chỗ, thúc vào
nhau, chúng cũng kêu.
Mùa hè, sau cơn mưa, ếch kêu râm ran như giàn đồng ca. Thì ra đó là tiếng gọi
của tình yêu! Con cái nghe thấy tiếng kêu của con đực liền đến gần để giao
phối. Thời kỳ sinh sản liên quan mật thiết với nhiệt độ. Miền nam mùa xuân đến
sớm hơn miền bắc, nên thời kỳ đẻ trứng của ếch ở đây cũng sớm hơn. Chỗ nước
nông, ấm, ánh sáng đầy đủ, là nơi ếch đẻ trứng nhiều nhất.
82. Vì sao cây dại có khả năng chống
bệnh cao?
Cây dại thường sống trên đồng ruộng hoặc ở những nơi đất hoang hoá. Chúng có
thân thấp, cành lá nhỏ, quả bé và chua. Nhìn bề ngoài, chúng có vẻ xấu xí hơn
cây trồng, nhưng các nhà khoa học gây tạo giống lại rất cảm tình với chúng. Lý
do là chúng có khả năng chống bệnh cao hơn hẳn cây trồng.
Đặc tính này cho ta biết cây có khả năng thích nghi với điều kiện ngoại cảnh
bất lợi cho sự sống hay không.Ví dụ, trong cùng một hoàn cảnh, khả năng chống
bệnh đốm lá của cây nho dại cao hơn hẳn so với cây nho trồng: Trong khi phiến
lá cây nho trồng đầy những đốm đen (một dạng nấm) thì lá cây nho dại như nho
gai, nho lông... lại hầu như không có đốm đen. Vì sao vậy? Đơn giản vì cây nho
dại mọc lên không được người quan tâm chăm sóc, lại bị nhiều kẻ thù như gió
tuyết, hạn hán, lụt lội, côn trùng, bệnh dịch,... đe doạ. Vì sự sống còn, chúng
chiến đấu từ đời này qua đời khác, rèn luyện nên tính chống chịu ngoan cường.
Để thích ứng với điều kiện khắc nghiệt bên ngoài, cây đã thay đổi cấu tạo sinh
lý bên trong. Ví dụ, nhiều cây dại trên thân hoặc trên phiến lá của nó có rất
nhiều lông nhỏ, có cây lại có rất nhiều gai, có cây mang độc tố. Tất cả những
hình thức tự vệ này đều giúp cây chống trả kẻ thù tốt hơn. Các nhà khoa học rất
coi trọng ưu điểm đề kháng mạnh của cây dại. Bằng cách lai tạo, họ hy vọng tạo
ra những giống cây trồng mới hoàn thiện, cho thu nhập cao, đồng thời có khả
năng kháng bệnh tốt.
83. Vì sao hoa nở về đêm đều nhạt màu?
Hoa thường nở vào ban ngày, với sắc màu đậm, quyến rũ như hồng, cúc, hướng
dương... Nhưng cũng có loài phải đợi đến lúc hoàng hôn đã tàn, hoặc khi trời
sắp sáng, mới chịu khoe nhan sắc. Trong màn tối sáng bảng lảng, những sắc hoa
trắng vàng nhợt nhạt xem ra càng lả lơi, hấp dẫn với những côn trùng ăn đêm.
Các đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp về đêm là hubơlông, bìm bìm, bầu và mướp. Bìm
bìm thường nở lúc chiều chập chạng, còn bầu và mướp lại lên hương vào lúc bốn,
năm giờ sáng. Không ít loài hoa nở vào giữa đêm như hoa đãi tiêu, hoa đậu ván
hoặc hoa thuốc lá. Đặc điểm chung của hoa đêm là chúng có sắc màu rất nhạt,
thường là trắng hay vàng nhạt, và chúng thường có cánh to hơn hoa nở ban ngày.
Nhà bác họ Darwin là người đầu tiên giải thích được bí mật về sự "nhạt
màu" của hoa đêm. Ông cho rằng, đó là kết quả chọn lọc tự nhiên đối với
sinh vật, diễn ra hàng trăm triệu năm: Ban đêm, dưới ánh sáng rất yếu của trăng
sao, chỉ có các màu trắng hoặc vàng nhạt mới hiện lên tương đối rõ. Nhờ vậy,
côn trùng ăn đêm mới nhìn thấy chúng, và tìm đến giúp cây truyền phấn hoa.
Tuy nhiên, không phải tất cả các loài hoa đêm đều có màu trắng hoặc màu nhạt.
Ví dụ hoa phấn là một ngoại lệ. Chúng nở vào lúc chập tối và có màu tím sặc sỡ.
Màu này tuy khó nhìn, dễ lẫn vào đêm, song thật kỳ lạ, nhiều loài côn trùng tỏ
ra rất nhạy cảm với màu tím.
84. Thực vật thuỷ sinh vì sao không
thối rữa?
Giữa đầm, những cây sen, cây súng ngâm nửa mình dưới nước, kiêu hãnh xoè lá và
chìa hoa lên trời. Trong khi đó, cánh đồng ngô, bông chỉ gặp cơn mưa dai dẳng
vài ngày, đất vũng nước là đã ngắc ngoải rồi chết, lâu dần thối rữa. Cơ chế nào
đã giúp sen?
Rễ cây hút nước và chất khoáng trong đất, nhưng cần phải có đủ không khí nó mới
phát triển bình thường. Nếu rễ bị ngâm lâu trong nước, thiếu không khí nó sẽ
ngừng sinh trưởng, thậm chí chết ngạt. Khi rễ đã chết thì thân cây cũng đổ
theo. Nhưng rễ của cây thuỷ sinh lại khác. Chúng đã thích nghi hoàn hảo với môi
trường "khó thở" này. Đặc điểm rõ nhất là chúng đều có thể hấp thụ
ôxy trong nước, vẫn thở bình thường trong điều kiện ít ôxy.
Trong lớp vỏ rễ cây thuỷ sinh đều có những khoang rỗng tương đối lớn giữa các
tế bào, thông với nhau thành một hệ thống dẫn khí. Đặc biệt, biểu bì rễ cây là
một lớp màng mỏng mờ đục, cho phép lượng ôxy ít ỏi hoà tan trong nước thấm qua
(thẩm thấu), vào trong rễ. Theo các khoang rỗng giữa các tế bào, ôxy được phân
tán đi khắp rễ, cung cấp đầy đủ dưỡng khí cho bộ phận này hô hấp.
Ngoài ra, để thích nghi với môi trường nước, một số thực vật thuỷ sinh còn có
cấu tạo đặc biệt. Ví dụ loài sen. Tuy chúng sống trong bùn, một môi trường rất
yếm khí, hô hấp tự nhiên gặp khó khăn, nhưng trong ngó sen lại có rất nhiều lỗ
to nhỏ khác nhau. Những lỗ này ăn thông với các lỗ trên cuống lá, đồng thời
trong lá lại có nhiều khoang rỗng ăn thông với khí khổng của lá. Vì vậy ngó sen
tuy nằm sâu trong bùn nhưng vẫn sống bình thường nhờ tự do thở qua mặt lá.
Một ví dụ khác là củ ấu, rễ của nó cũng mọc trong bùn, nhưng cuống lá phình to,
hình thành rất nhiều túi khí, chứa đủ khí để cho rễ thở. Hay như bèo ong, dưới
lá có rất nhiều rễ củ. Kỳ thực không phải rễ thật mà là biến dạng của lá, đảm
nhiệm tác dụng của rễ.
Lớp biểu bì của thân thực vật thuỷ sinh cũng có tác dụng như rễ. Lớp cutin (vốn
giữ cho khỏi mất nước ở mặt lá) không phát triển hoặc hoàn toàn không có. Tế
bào lớp vỏ chứa chất diệp lục có khả năng quang hợp, tự tạo chất hữu cơ. Nhờ có
thể hô hấp bình thường, lại có “thức ăn để ăn”, nên thực vật thuỷ sinh có thể
sống lâu dài trong nước mà không bị thối rữa.
85. Mười phân vẹn mười có phải đã là
hay?
Người thanh thoát, thông minh, phóng khoáng, tháo vát, nhạy cảm, chân tình,
khiêm tốn, cẩn thận… tóm lại là thập toàn thập mỹ - liệu có được mọi người
thích gần không? Chưa chắc! Họ thường gây ra cảm giác siêu phàm thoát tục, cao
quá không với tới, đành phải “đứng từ xa mà nhìn” vậy.
Các nhà tâm lý học đã làm thí nghiệm để chứng minh rằng, người thập toàn thập
mỹ chưa hẳn đã được mọi người ưa thích nhất. Điều đó liên quan đến "hiệu
ứng bộc lộ nhược điểm". Thí nghiệm trên 4 vị tiến sĩ như sau: Họ cho 4 vị
này giải một bài tập khó. Vị tiến sĩ A giải xong, ngồi thoải mái nhâm nhi cà
phê. Vị B cũng giải được, nhưng đánh đổ cà phê. Vị C không giải được, vẫn ngồi
uống cà phê. Vị D không giải được và đánh đổ cà phê.
Sau đó, các nhà khoa học nhờ mấy trăm sinh viên bình luận. Kết quả, mức độ yêu
thích của sinh viên dành cho bốn vị tiến sĩ đó được xếp theo thứ tự: B, A, C,
D. Điều này chứng tỏ, thông minh được người ta thích hơn ngu đần. Tuy vậy,
người có năng lực cao, nhưng có khiếm huyết điểm nhỏ được ưa thích hơn người
hoàn thiện. Còn người có năng lực kém, lại phạm khuyết điểm làm người ta ghét
nhất. "Hiệu ứng bộc lộ nhược điểm" cho chúng ta biết: Người ưu tú mọi
mặt, nếu có chút khiếm khuyết nhỏ, sẽ rút ngắn khoảng cách tâm lý với người
khác, khiến họ dễ gần hơn.
Vậy một người bình thường phải như thế nào mới được yêu thích? Theo các nhà tâm
lý, thích một người nào đó có nghĩa là đối phương có sức hấp dẫn với mình.
Người ta sở dĩ cần giao tiếp là để thoả mãn nhu cầu tâm lý của cá nhân. Cho nên
đối tượng càng làm cho ta thoả mãn nhu cầu đó, chúng ta càng yêu thích họ.
Các nhà tâm lý học phương Tây nêu ra thuyết "cường hoá hấp dẫn giao
tiếp". Đại diện cho trường phái này là Bern và Croley. Theo đó, người ta
đều thích những ai mang lại cho họ sự bù đắp nào đó, và ghét kẻ trừng phạt
mình. Những kích thích có tính bù đắp như mỉm cười, khôi hài, tôn trọng, tán
đồng có thể tạo cho người ta cảm giác vui sướng tích cực, tiến tới gây hấp dẫn.
Ngược lại, những kích thích có tính trừng phạt như oán trách, nhiếc móc, lạnh
nhạt,… đều làm cho người ta chán ghét tiêu cực, dẫn đến xa lánh.
86. Có thể một lúc làm hai việc không?
Sử sách chép lại rằng Napoleon nước Pháp, khi soạn thảo “Bộ luật” nhà nước,
cùng một lúc có thể nói đến các điều khoản của luật dân sự, luật hình sự, luật
thương mại. 13 người vội vã ghi tốc ký mà vẫn mướt mồ hôi không theo kịp ông. Lẽ
nào Napoleon lại có 4 bộ não?
Thực ra, ông ta cũng chỉ có một cái đầu và một bộ óc mà thôi. Cái hơn người của
vị hoàng đế này là biết "phân phối chú ý". Nếu xem xiếc, bạn cũng sẽ
thấy người diễn viên phải làm việc này khi vừa dùng chân đu đưa bàn đạp để giữ
thăng bằng, mà cổ vẫn vươn lên giữ cho chồng bát trên đầu khỏi đổ, trong khi
một chân khác lại đá bát tiếp tục chồng cao thêm.
"Phân phối chú ý" là gì: Khi ta chú ý vào một việc, trong đại não sẽ
có một trung tâm hưng phấn, còn xung quanh là một số điểm hưng phấn yếu, khiến
ta có thể chú ý thêm đôi ba việc khác nữa. Muốn thực hiện phân phối chú ý phải
có một điều kiện: trong các hành động phải một hoặc vài hành động đã rất thành
thạo, thậm chí đến mức độ tự động hoá.
Chẳng hạn ở người vừa đánh đàn guitar vừa hát. Những người này phải biết chơi
guitar đến mức độ nhuần nhuyễn. Khi đó, trung tâm hưng phấn sẽ là hát, đánh
guitar chỉ là trung tâm hưng phấn yếu, có nhiệm vụ duy trì mà thôi. Còn người
mới tập guitar, trọng tâm hưng phấn là đánh đàn, vì thế không thể hát được đồng
thời. Với diễn viên xiếc, sự cân bằng trên xe đạp cao và chồng bát trên đầu đã
đạt đến trình độ tự động hoá, vì vậy sức chú ý của diễn viên chỉ còn tập trung
vào việc đá bát lên đầu. Đương nhiên, phân phối chú ý thành thạo được như vậy
quả là một công phu.
Khi trong đại não xuất hiện một trung tâm hưng phấn rất mạnh, các điểm hưng
phấn khác sẽ mất đi. Điều đó có nghĩa là, khi ta lao động trí óc căng thẳng,
lại muốn làm một lúc 2-3 việc, sẽ cực kỳ khó khăn. Có bạn cho rằng vừa nghe
đài, vừa làm bài sẽ rất hiệu quả. Sự thực, như thế chỉ làm phân tán chú ý mà
thôi. Kết quả là học tập sẽ kém hiệu quả.
87. Vì sao cây xấu hổ cụp lá khi có
vật đụng vào?
Cây
xấu hổ còn được gọi là cây trinh nữ. Khi bị đụng nhẹ, nó lập tức thể hiện ngay
sự "e lệ" của mình bằng cách khép những cánh lá lại. Nếu bạn nặng
tay, nó sẽ phản ứng cực kỳ mau lẹ. Chừng 10 giây, tất cả các lá đều cụp xuống.
Điều này có liên quan tới "tác dụng sức căng" của lá xấu hổ. Ở cuối
cuống lá có một mô tế bào mỏng gọi là bọng lá, bên trong chứa đầy nước. Khi bạn
đụng tay vào, lá bị chấn động, nước trong tế bào bọng lá lập tức dồn lên hai
bên phía trên. Thế là phần dưới bọng lá xẹp xuống như quả bóng xì hơi, còn phía
trên lại như quả bóng bơm căng. Điều đó làm cuống lá sụp xuống, khép lại.
Khi một lá khép lại, nó sẽ đưa tín hiệu kích thích lan rộng đến các lá khác,
khiến chúng cũng lần lượt khép lại. Nhưng chỉ ít phút sau, bộ phận dưới bọng lá
lại dần đầy nước, lá lại xoè ra nguyên dạng như cũ.
Đặc tính này rất lợi cho sự sinh trưởng của cây, thích nghi với điều kiện tự
nhiên. Ở phương nam thường gặp những trận mưa bão lớn, cây xấu hổ thu lá lại
khi gặp mưa gió sẽ giúp nó cứu được các lá non
88. Có phải Ngưu-Chức mỗi năm gặp nhau
một lần?
Theo truyền thuyết, hàng năm cứ đến ngày 7/7, Ngưu lang và Chức nữ lại bước qua
cầu Ô Thước, bắc qua sông Ngân để gặp nhau. Không rõ họ đi kiểu gì, chứ thực
tế, với khoảng cách 16,4 năm ánh sáng, dù Ngưu có phóng Spacy đời mới (100
km/h) cũng phải mất 43 tỷ năm mới gặp vợ!
Vào sẩm tối mùa hè, ta nhìn thấy một sao rất sáng trên bầu trời, đó chính là
sao Chức nữ. Bên cạnh có bốn sao nhỏ, nhìn giống bốn chiếc thoi dệt vải. Còn
bên kia sông Ngân (dải ngân hà), về phía đông nam có ngôi sao khác hướng về
phía Chức nữ - đó là Ngưu lang. Bên cạnh còn có hai sao nhỏ.
Khoảng cách giữa Ngưu lang và Chức nữ đến trái đất cũng rất xa. Sao Ngưu lang
cách trái đất 16 năm ánh sáng. Chức nữ còn xa xôi hơn nữa: 23 năm ánh sáng. Vì
ở xa như vậy, nên chúng ta chỉ thấy hai thiên thể này như hai chấm sáng nhỏ
trên bầu trời.
Thực tế, Ngưu lang và Chức nữ là hai tinh cầu lớn hơn cả mặt trời. Thể tích của
Ngưu lang lớn gấp đôi và của Chức nữ gấp... 21 lần mặt trời! Bề mặt Ngưu lang
nóng tới 9.000 độ C (mặt trời: 7.000 độ C) và cường độ ánh sáng mạnh gấp 10 lần
của mặt trời. Chức nữ còn dữ dội hơn nữa, với nhiệt độ bề mặt cao hơn Ngưu Lang
tới 1.000 độ, ta thấy ánh sáng phát ra có màu sáng xanh.
89. Vì sao chó ngủ giấu mõm, mèo ngủ
cài tai?
Tư thế ngủ của chó và mèo hoàn toàn khác nhau. Nếu chó thích dấu mõm xuống dưới
chân trước, thì mèo ta lại bận bịu cài tai xuống chi trước. Điều này có ích gì
với chúng?
Động vật dùng các cơ quan cảm giác như mắt, tai, mũi để nhận biết sự thay đổi
của môi trường xung quanh. Đối với sự thay đổi khác nhau, chúng sinh ra các
phản ứng khác nhau.
Khứu giác của chó vô cùng nhạy cảm. Trong cuộc sống hàng ngày, chó dùng mũi để
phân biệt một số đồ vật, phán đoán tình hình của kẻ địch và phân biệt đường đi.
Đối với nó, cái mũi hay cơ quan khứu giác là đặc biệt quý giá, nên lúc ngủ nó
giấu mõm và mũi để cảnh giới động tĩnh chung quanh, một khi có tình huống gì
đó, dùng ngay mũi để phân biệt hoặc sủa dữ dội để thị uy.
Mèo lại có thính giác đặc biệt nhạy cảm. Hàng ngày, nó dùng tai để nhận biết sự
thay đổi ở môi trường xung quanh. Khi bắt chuột, mèo cần đến đôi tai để thăm dò
nơi ở của con mồi. Đối với nó, tai lại là vật quý giá nhất. Cho nên lúc ngủ, nó
mới giữ tai như “giữ ấn tín” vậy. Tai cài vào chân trước, một mặt gìn giữ tai,
mặt khác tai dán trên mặt đất, khi có âm thanh gì đó, nó có biện pháp hành động
ngay.
Tuy nhiên, lúc thời tiết nắng ấm hay trong môi trường quá quen thuộc, mèo và
chó cũng chẳng cảnh giác cho lắm, chúng ngủ khì trong tư thể duỗi dài thoải mái
như thường.
100. Vì sao cây ôn đới rụng lá mùa
thu, cây nhiệt đới rụng vào đông
Ở miền nhiệt đới, khi thu sang, lá cây vẫn xanh, hoặc chỉ hơi chớm vàng. Nhưng
cùng thời điểm đó ở vùng ôn đới, lá đã rụng rào rào, và chỉ mới chớm đông, cây
đã trơ trụi kiểu "mất áo". Điều gì khiến chúng trút bỏ bộ cánh của
mình sớm như vậy?
Lá cây, ngoài chức năng hô hấp và quang hợp còn thường xuyên để thoát nhiều hơi
nước. Lượng mưa mùa thu ở miền ôn đối tương đối thấp. Vì vậy, nguồn nước dự trữ
trong lòng đất cũng ít đi. Đồng thời thu sang, nhiệt độ dần dần hạ thấp xuống.
Hoạt động hô hấp của rễ vì thế mà yếu đi, cộng với khí hậu khô hanh, khả năng
hạn chế thoát hơi nước mặt lá cũng kém hẳn lại. Trong hoàn cảnh đó, lượng nước
do cây hút giảm nhiều. Vì vậy, nếu cây vẫn giữ nguyên diện tích thoát hơi nước
(chủ yếu là mặt lá) sẽ xảy ra tình trạng "vào ít ra nhiều", vô cùng
bất lợi, thậm chí đe dọa tính mạng của cây. Cuối cùng, do lượng nước ít, mạch
dẫn trong cuống lá không vận chuyển nước đến nữa, lá cây già đi và khô, cuống lá
chỉ bám hờ vào cành. Gió thu thổi tới, lá sẽ trút xuống.
Ở miền nhiệt đới tuy không có mối đe dọa vì giá lạnh, nhưng vẫn có mùa khô và
mùa mưa. Vào tháng 11-12, khí hậu rất khô hanh. Tuy vậy, nhiệt độ lúc này vẫn
khá cao, khiến lá thoát ra rất nhiều hơi nước. Nếu không trút bớt một phần lá,
cây sẽ không thể cung cấp đủ nước cho lá.
Vậy những cây lá xanh bốn mùa như tùng, bách thì sao?
Cây xanh quanh năm vẫn phải rụng lá. Chỉ có điều là tuổi thọ của lá cây tùng
bách dài hơn (sống được từ 3 đến 5 năm). Đến xuân, hè, tùng bách lại ra lá mới.
Số lá già khô rụng, nhưng không rụng hết cùng lúc mà khô héo dần từng bộ phận,
không nhìn kỹ không phát hiện được. Vì thế người ta tưởng chúng không bao giờ
rụng lá.
Vậy tại sao tùng bách lại không bị rụng lá trong tiết mùa đông khô lạnh? Đó là
vì lá của chúng dày và nhỏ hơn các loài cây khác (lá kim). Bề mặt thoát hơi
nước rất nhỏ, đồng thời bên ngoài còn có lớp cutin bảo vệ, vì thế nước khó
thoát hơi. Khả năng thoát hơi nước của loại lá này chỉ bằng một vài phần chục
các loại cây có lá to khác. Cho nên, lá của nó có thể trụ qua mùa đông.
101. Từ đâu trẻ thích thú nhồi bông?
Gần như là sở thích muôn thủa. Đi cửa hàng, trong vô số đồ chơi bắt mắt, sinh
động và kỳ lạ, những con gấu bông, chó bông, thỏ bông... dù bất động, bao giờ
cũng là niềm ước mơ thầm kín của trẻ. Chúng có gì đặc biệt mà quyến rũ các em
đến thế?
Nhà tâm lý học người Mỹ, ông Harry Frederick Harlow đã thí nghiệm về mặt này.
Ông cho chú khỉ con hai người mẹ giả: một mẹ bằng lưới kim loại để trần trụi,
nhưng có thể cho khỉ con bú. Một con khác nhồi bông với lớp vỏ bằng nhung, nhưng
không biết cho ăn. Khỉ con chọn ai? Trong thí nghiệm, ngoài những lúc cần ăn nó
mới đi tìm con mẹ kim loại, còn hầu như mọi lúc mọi nơi nó đều coi chỗ ở của
con mẹ nhồi bông là nhà mình, vì tiếp xúc với thú nhồi bông nó cảm thấy sung
sướng. Nhất là khi khỉ con bị đe dọa, nó ôm lấy con mẹ nhồi bông coi như chỗ
dựa vững chắc cho mình.
"Đói da" và nhu cầu ôm ấp
Thí nghiệm này tuy là trên khỉ, nhưng đối với trẻ em cũng đúng. Nghiên cứu quan
sát cho thấy trẻ em thường thích những vật mềm, ấm hơn là những vật cứng và
lạnh. Tâm lý học còn cho biết, trẻ em nếu lâu ngày không được ôm ấp vuốt ve để
kích thích da, chúng sẽ sinh ra cảm giác “đói da”, gây nên hiện tượng ngứa
ngoáy, ngọ nguậy, cáu gắt, thích đập phá.
Ngày nay, con một ngày càng nhiều, cha mẹ phần lớn đều bận công việc, không thể
chăm sóc chúng suốt ngày, lại càng ít có dịp vui đùa với con cái, do đó rất
nhiều em 5-6 tuổi bị “đói da”. Trong hoàn cảnh đó, thú nhồi bông trở thành
người bạn thân thiết nhất của chúng, vì thông qua tiếp xúc da, các em được thoả
mãn. Đối với những em cô đơn không có bạn, thú nhồi bông giúp các em loại bỏ
được cảm giác này. Các em đặt tên cho thú nhồi bông, chơi với nó và cảm thấy
sung sướng. Hiện nay trên thị trường còn có một xu hướng là thú nhồi bông càng
to càng bán chạy. Tại sao vậy? Lý do rất đơn giản là thú nhồi bông to diện tích
tiếp xúc da càng lớn, càng cảm thấy dễ chịu. Trẻ em có được một con thú nhồi
bông gần bằng mình, sẽ cảm thấy như bạn mình, to hơn nữa lại có cảm giác được
bảo vệ.
Như thế, thói quen ngủ chung với thú nhồi bông chẳng có hại gì, các vị phụ
huynh cũng không nên cấm đoán, chỉ cốt sao giữ cho chúng sạch sẽ là được.
102. Vì sao bình minh và hoàng hôn,
mặt trời trông to hơn?
Mặt trăng quay quanh quỹ đạo của trái đất, trái đất quanh mặt trời. Khoảng cách
giữa trái đất và hai thiên thể này từ sáng đến tối hầu như không thay đổi. Thế
mà có lúc ta thấy mặt trời hoặc mặt trăng to như cái nia, còn lúc khác lại chỉ
bé như quả bưởi. Tại sao vậy?
Lý do là trong những điều kiện nhất định, mắt của con người nhìn mọi vật dễ
sinh ảo giác. Chúng ta hãy xét hai ví dụ:
Khi mặt trời và mặt trăng mới mọc hoặc sắp lặn, phía đường chân trời chỉ có một
góc khoảng không. Gần đó lại là núi đồi, cây cối, nhà cửa hoặc các vật khác.
Mắt chúng ta tự nhiên sẽ so sánh mặt trời hoặc mặt trăng với các vật kể trên,
vì vậy ta có cảm giác chúng như to hẳn ra. Nhưng khi lên tới đỉnh đầu, bầu trời
bao la không có vật gì khác, chúng ta thấy chúng nhỏ hẳn lại.
Mặt khác, khi mặt trời hoặc mặt trăng mới mọc hoặc sắp lặn, bốn phía đều mờ tối
khiến ta có cảm giác chúng sáng hơn (như ví dụ 2, vòng tròn trắng giữa nền
đen). Khi đó, mắt ta sẽ thấy chúng to hơn.
103. Chất nhớt trên mình cá có tác
dụng gì?
Với một con cá trôi hay một chú cá chép đang tràn trề sức lực, thì dù nó ở
trong chậu, bạn cũng phải tốn khá nhiều calo mới bắt được nó. Lớp áo nhờn bao
quanh mình cá đã phát huy phần nào tác dụng lợi hại của mình.
Khi cá còn sống, trên da của nó có một lớp tế bào hình thoi luôn luôn tiết ra
chất nhờn rất trơn. Chất nhờn này bao phủ khắp mình cá giúp chúng bơi lội dễ
dàng trong nước, đồng thời giúp cá không bị các loài động vật ký sinh, vi khuẩn
và các sinh vật nhỏ dưới nước xâm nhập qua da. Chất nhờn cũng giúp cho da cá có
khả năng thẩm thấu bình thường và ngăn các chất bẩn trong nước thấm vào mình,
ảnh hưởng tới sức khoẻ.
Ngoài ra, thứ chất trơn nhẫy này còn có tác dùng kết tụ và lắng trong chất bùn
trong nước, làm cho nước thêm trong, kéo dài tuổi thọ của những loài thường
xuyên phải sống trong môi trường nước đục. Lũ cá sống ở môi trường nước trong,
mỗi khi có nước lũ hoặc mưa to làm đục nước, chất nhờn trên mình chúng có vai
trò như "phèn chua" tự nhiên làm kết lắng bùn bẩn, giữ cho mang cá
sạch sẽ để hô hấp bình thường.
Đến mùa sinh đẻ, da loài cá gai đực tiết ra nhiều chất nhầy kết chặt các cây cỏ
dưới nước thành tổ cho cá gai cái đẻ trứng vào đó. Có một loài cá rô đực còn
thổi ra những bong bóng nhỏ kết hợp với chất nhờn tiết từ da để tạo nên những
bong bóng nổi trên mặt nước, trứng cá cái sẽ dính vào dưới những bong bóng đó.
Sau khi cá chết, do da cá vẫn còn lớp chất nhờn bao bọc ngăn vi khuẩn thâm nhập
nên cá không thối rữa ngay. Chỉ khi nào vi khuẩn phân huỷ hết lớp chất nhờn
trên mình cá (khoảng vài giờ) cá mới ươn và thối rữa.
104. Vì sao chó hay lè lưỡi?
Người có tuyến mồ hôi ở dưới da. Khi trời nóng, mồ hôi thoát ra, bốc hơi, làm
giảm nhiệt độ bề mặt cơ thể. Nhưng chó lại không có tuyến mồ hôi dưới da mà
ở... lưỡi. Bởi vậy, lúc nóng quá, nó chỉ còn cách làm mát nhờ lè dài lưỡi ra,
dẫu không "thẩm mỹ" chút nào!
Mặt khác, việc lè lưỡi thật dài cũng giúp chó phả bớt hơi nóng bên trong, thúc
đẩy sự toả nhiệt của cơ thể. Thực tế, dù không phải là mùa hè, mà ngay cả những
lúc chó chạy nhanh hoặc đánh nhau, cơ thể bị nóng lên, nó cũng lè lưỡi để toả
bớt nhiệt lượng.
105. Vì sao hoa trên núi có màu sắc
sặc sỡ?
Cũng là hoa, nhưng nếu lên các đỉnh núi cao, bạn sẽ thấy chúng rực rỡ, nhiều
màu sắc lạ kỳ. Ngoài điều kiện không khí trên núi trong lành, ít bụi nên màu
hoa "nguyên chất hơn", nhưng còn yếu tố gì nữa mới khiến chúng muôn
màu như thế?
Nguyên do là tia tử ngoại trên núi cao chiếu rất mạnh, làm cho nhiễm sắc thể
của tế bào thực vật bị phá huỷ, gây trở ngại cho sự tổng hợp chất nucleotid,
phá hoại phản ứng trao đổi chất của tế bào, rất bất lợi cho sự sống của cây. Trải
qua quá trình đấu tranh lâu dài với môi trường sống khắc nghiệt đó, cây trên
núi cao đã tạo ra nhiều chất dạng caroten (trong đó có carotin và carotinol) để
chống đỡ, vì hai chất đó hấp thụ nhiều tia tử ngoại, làm cho tế bào dần thích
ứng với môi trường.
Việc tạo ra nhiều chất dạng caroten và antocyan đồng thời cũng khiến màu hoa vô
cùng sặc sỡ, bởi vì các caroten làm cho hoa hiện màu da cam, màu vàng tươi rực
rỡ, còn antocyan làm cho hoa có màu đỏ, lam, tím… Trong hoa có nhiều sắc tố như
vậy, dưới ánh sáng càng trở nên rực rỡ hơn.
106. Mèo rên như thế nào?
Không giống như các tiếng kêu khác của mèo, tiếng rên ư ử được phát ra trong cả
chu trình thở, bao gồm hít vào và thở ra. Còn tiếng meo chỉ được tạo thành khi
chúng thở ra.
Các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra cơ chế chính xác của tiếng rên các loài vật.
Nhưng ý kiến được chấp nhận nhất vẫn là một vùng não mèo truyền tín hiệu tới cơ
thuộc hộp âm thanh, gọi là cơ thanh quản, để điều khiển nó rung lên.
Đồng thời, con vật vừa hít vào thời ra, gửi đi một luồng không khí đi qua dây
thanh quản. Hai hành động này kết hợp với nhau khiến dây thanh quản rung lên,
và tạo nên tiếng rên quen thuộc đối với những người yêu mèo.
107.
Vì sao chó hay nhỏ dãi?
Nước bọt chứa các enzyme tiêu hóa giúp chó (và cả con người) phân hủy thức ăn
dễ dàng hơn. Nước bọt cũng làm ướt cổ họng giúp thức ăn trôi tuột vào trong
bụng.
Nhưng tất cả những điều đó đều diễn ra trong cơ thể. Còn dãi bị chảy ra ngoài
là khi nước bọt quá đầy. Đó chỉ là một cơ chế đơn giản. Một số con chó, chẳng
hạn như chó bun và giống chó lớn tai cụp, có cái mõm quá ngắn nên không thể
chứa hết nước bọt, nên dãi thường xuyên chảy ra.
Chó với lớp da gấp ở quanh miệng, như chó St. Bernards, chó săn, chó baxet cũng
là những kẻ chuyên chảy dãi.
108. Tóc xoăn hay thẳng dễ rối nhất?
Một cuộc hợp tác giữa các bác thợ cắt tóc và các nhà vật lý đã tìm ra câu trả
lời cho vấn đề này. Chính là tóc thẳng, rối nhiều gấp đôi so với tóc xoăn.
150.000 sợi tóc xù xì trên đầu bạn là một hiện tượng hấp dẫn nhưng lại ít được
biết đến trong vật lý học. Nhà nghiên cứu Pháp Jean-Baptiste Masson từ Trường
Bách khoa ở Palaiseau đã thực hiện thí nghiệm thực sự đầu tiên về vấn đề này.
Ông yêu cầu vài bác thợ cắt tóc đếm các cuộn rối trên tóc người vào cuối buổi
chiều, là thời điểm các đám rối dễ phát sinh nhất.
Trong 3 tuần, các bác thợ đã đánh giá 123 người tóc thẳng và 89 người tóc xoăn.
Kết quả là "rõ ràng và đáng ngạc nhiên", nhà vật lý cho biết:
Tóc thẳng có số đám rối (được định nghĩa là những đám tóc không chải được)
nhiều gấp đôi so với tóc xoăn. Con số rối trung bình là 5,3 ở người tóc thẳng
so với chỉ 2,9 ở nhóm còn lại.
Masson muốn biết vì sao lại như vậy, do đó ông đã phát triển một mô hình toán
học để xem các sợi tóc liên kết với nhau như thế nào. Mô hình tính đến hai
thông số cơ bản: khả năng hai sợi tóc chạm nhau và góc mà chúng gặp gỡ.
Mặc dù tóc xoăn có nhiều khả năng chạm với các sợi tóc khác, nhưng Masson phát
hiện tóc thẳng lại có xu hướng góc tiếp xúc giữa các sợi lớn hơn. Chính thông
số thứ hai này là quan trọng nhất trong việc tạo ra các đám rối.
Nghiên cứu của Masson có thể ứng dụng không chỉ trong lĩnh vực làm lược chải.
Một khả năng có thể là thiết kế các sản phẩm giống như khoá dán, ông nói
109. Vì sao tia chớp có hình cành cây ?
Chớp mở đường tìm nơi có điện tích dương mà tới, nên tạo ra đường dích dắc hình
cành cây.
Trong cơn dông mùa hè, bạn có thể thấy từ những đám mây đen lớn nằm sát chân
trời, các tia chớp vạch thành đường ngoằn ngoèo chẽ nhành nom tựa cành cây dốc
ngược phóng xuống đất. Không phải ngẫu nhiên mà tia chớp lại có hình dạng đặc
biệt như vậy!
Phần đáy đám mây trong cơn mưa có mang điện tích âm, còn mặt đất do cảm ứng mà
có điện tích dương. Sự phóng điện giữa hai vật thể khởi đầu bằng một chớp mang
điện tích âm từ đáy đám mây phóng xuống mặt đất để mở đường. Chớp này được gọi
là tia chớp mở đường.
Quá trình đi trước mở đường này thường không mấy khi được thuận lợi. Trước tiên
nó phải đi vào vùng không gian điện tích dương phân bố hỗn loạn phía dưới gầm
đám mây. Những điện tích dương này vốn là điện tích cảm ứng của mặt đất tập
trung với mật độ khá cao trên các vật thể nhọn dưới mặt đất (như đỉnh tháp,
ngọn cây), do tác dụng cùng dấu đẩy nhau mà đi vào lớp không khí hỗn loạn ở tầng
thấp dưới đám mây.
Chớp mở đường luôn tìm đường đi tới những không gian điện tích dương ở kề bên
cạnh. Nếu như cạnh nó có hai hoặc nhiều không gian điện tích dương thì tia chớp
phải phân ra thành nhánh để đi.
Nói chung, chớp dẫn đường đi qua vùng không khí ẩm dễ dàng hơn là vùng không
khí khô. Do trên đường đi, nó phải chọn đường ẩm, tránh đường khô nên để lại
một vệt ngoằn ngoèo gấp khúc từ vùng điện tích dương tới không gian điện tích
dương khác ở thấp hơn. Trên đường đi ấy nó vẫn tiếp tục phân nhánh tạo ra hình
cành cây lộn ngược.
110.
Đâu là chớp thật?
Tuy nhiên, chớp mở đường không tạo ánh sáng mạnh lắm. Khi đầu tia chớp kéo dài
tới gần sát mặt đất thì điện tích dương tập trung ở đỉnh nhọn các vật thể dưới
đất bị điện tích âm của chớp mở đường hút lên, tất cả điện tích dương ùa theo,
đi ngược lại con đường mà chớp mở đường đã mở ra. Tại đấy, chúng trung hoà với
các điện tích âm vốn có trên đường đi mà phát ra ánh sáng chói loà. Đây mới là
ánh chớp chúng ta nhìn thấy. Do đi ngược lại con đường cũ mà chớp mở đường tạo
ra nên nó cũng có dạng hình cành cây treo ngược. Tia chớp này được gọi là sét
đánh ngược.
Khi chớp mở đường đánh tới mặt đất, tại nơi nó đánh vào thường có thể sinh ra
chớp hình cầu mà ta thường gọi là sét hòn. Sét hòn là một quả cầu thể khí mang
điện tích có đường kính từ 10-20 cm. Nó rất nhẹ, có thể bay lơ lửng theo gió,
có thể tự hoá dẹt để lách qua khe cửa vào nhà, sau đó lại khôi phục hình dáng
quả cầu lửa như cũ. Sét hòn thích di chuyển dọc theo dây điện, đường ống nước,
luồng khí nóng… khi di chuyển nó luôn phát ra tiếng xì xì hoặc nổ lép bép. mằu
sắc của sét hòn thường là đỏ, da cam, nhưng đôi khi còn mang màu trắng xanh
hoặc tím đỏ.
111. Vì sao gấu cọ lưng vào cây?
Không phải vì ngứa lưng không chịu nổi mà những chú gấu xám Bắc Mỹ chà mình vào
thân cây. Chúng làm vậy vì muốn... trò chuyện với con khác.
Các nhà nghiên cứu từng đưa ra nhiều giả thuyết vì sao gấu xám Bắc Mỹ thường cọ
mình vào thân cây. Một số người lập luận các con cái làm vậy khi chúng dễ thụ
thai nhất, trong khi giả thuyết khác nói rằng gấu đang gãi ngứa trên lưng, hoặc
cố gắng phủ nhựa cây lên mình để xua đuổi côn trùng.
Tuy nhiên, trong một nghiên cứu mới đây trên những con gấu xám ở bang British
Columbia, kéo dài 2 năm, người ta đã sử dụng các camera số để thu thập dữ liệu
xem những con gấu nào thường cọ lưng vào cây và thời điểm làm việc đó. Gấu
thường cọ lưng vào những cái cây quen thuộc từ đời này qua đời khác, vì thế
việc theo dõi chúng là rất dễ dàng. Các thiết bị vệ tinh cũng giúp lần theo dấu
vết của những con gấu đơn lẻ.
"Các camera cho thấy gấu đực trưởng thành hay cọ lưng vào cây nhất, và
chúng thường di chuyển từ thung lũng này sang thung lũng khác trong các lộ
trình lớn, đánh dấu các cây khi chúng đi, trong khi tìm kiếm những bạn
tình", nhà sinh thái học Owen Nevin từ Đại học Cumbria, Mỹ, người thực
hiện nghiên cứu, cho biết.
Nevin cho rằng bằng cách đánh dấu mùi của mình lên thân cây, gấu đực sẽ biết
những con khác rõ hơn, và có thể giảm các vụ ẩu đả giữa các chàng trong việc
tìm kiếm con cái.
"Những con gấu đực to lớn có thể bị thương nặng hoặc thậm chí tử vong khi
giao chiến với con khác. Nếu một con nhận ra hơi của đối thủ trên một thân cây
trong vùng, nó sẽ biết mình gặp phải một tay khó chơi, và có thể cách tốt nhất
là tránh xa cuộc thách thức nguy hiểm".
Người ta cũng bắt gặp gấu con chà xát lưng vào cây khi một con đực cố gắng tách
chúng ra khỏi mẹ (gấu đực đôi khi giết chết con của một con cái để có cơ hội
giao phối với nó).
Có thể nếu bắt gặp thứ mùi thân thuộc, chúng sẽ được an toàn hơn. Vì những con
có họ hàng thường có mùi tương tự nhau, và chúng cũng ít hung hãn với nhau hơn,
Nevin giải thích.
112. Vì sao người trong ảnh nhìn theo
chúng ta?
Chắc hẳn mọi người đều từng thấy những bức chân dung biết dõi mắt theo khi
chúng ta đi ra xa. Cái đặc tính kỳ lạ đó đã được người ta chú ý từ lâu, và thật
khó giải đáp. Những người yếu bóng vía thậm chí còn bị nó làm cho sợ hết hồn...
Nhưng thực ra bí mật này chỉ là một loại ảo giác của thị giác mà thôi. Toàn bộ
lý do là: con ngươi trên những bức chân dung đó được đặt ở chính giữa mắt. Khi
một người nhìn thẳng vào bạn, bạn sẽ thấy mặt anh ta chính là như vậy, nhưng
khi người đó nhìn đi chỗ khác, bạn sẽ thấy con ngươi và tất cả lòng đen của anh
ta không ở chính giữa mắt mà chuyển dời đôi chút về phía bên.
Khi bạn đi về một phía xa bức chân dung thì hai con mắt của bức chân dung không
hề thay đổi vị trí của chúng, nghĩa là vẫn ở nguyên chính giữa mắt. Và vì ngoài
lý do trên ra, toàn bộ bộ mặt mà bạn tiếp tục trông thấy vẫn ở nguyên vị trí
cũ, cho nên tự nhiên bạn có cảm tưởng rằng hình như bức chân dung quay đầu và
theo dõi mình.
Cũng có thể dựa vào cách ấy để giải thích những đặc điểm tương tự trên một bức
tranh: con ngựa lao thẳng về phía chúng ta, mặc dù chúng ta rời xa bức tranh về
phía nào; một người bao giờ cũng chỉ tay vào chúng ta vì bàn tay đưa về phía
trước của hắn luôn luôn hướng thẳng vào chúng ta...
Hình trên là một ví dụ về trường hợp đó. Những loại tranh này thường được dùng
làm áp phích tuyên truyền cổ động hoặc quảng cáo.
113. Vì sao con chỉ mang họ cha ?
Nếu dựa vào "cơ chế" thụ thai thì trong một tháng, người mẹ chỉ có
thể tạo sinh linh mới trong một ngày, còn người cha có khả năng
"giúp" hàng chục phụ nữ mang bầu. Ấy thế mà, đứa trẻ nào sinh ra cũng
chỉ mang họ cha.
Một người mẹ thắc mắc rằng, con bà sống gắn bó với bên ngoại từ nhỏ, chưa hề về
thăm quê cha một lần, vậy mà trên mọi bản khai lý lịch "theo mẫu quy
định" đều phải ghi quê quán theo cha. Liệu thế có bất bình và coi khinh nữ
giới?
Con người ta ai lại không có họ hàng. Chính vấn đề dòng họ gây ra bao chuyện
tiêu cực ở nông thôn đã thôi thúc Nhà văn Nguyễn Khắc Trường viết lên tác phẩm
đặc sắc Mảnh đất lắm người nhiều ma được chuyển thành phim. Những năm gần đây,
có lẽ nhiều người đã nhận ra sự không công bằng ấy nên nhiều em học sinh đã
mang họ kép gồm cả họ cha và họ mẹ, ví dụ như Lê Nguyễn Kiều Miên, Võ Trần
Thịnh...
Ông Nguyễn Văn, một nghiên cứu sinh học ở nước ngoài, đặt vấn đề "quan
niệm về gia tộc của chúng ta có lỗi thời lắm không?" Ông nêu dẫn chứng,
khi đọc tiểu sử một danh nhân Việt Nam, ta thường thấy nói đến cụ tổ 4 hay 5
đời đến lập nghiệp ở một vùng nào đó lập nên một dòng họ mới. Như vậy, mặc
nhiên chỉ có cụ ấy là cụ tổ duy nhất của vị danh nhân; cũng như khi nói đến gia
phả của một người, chúng ta hay bảo người ấy thuộc họ Nguyễn hay Lê... Làm như
các họ khác không có liên hệ gia tộc gì với đương sự hết. Quan niệm như thế chỉ
vì trọng nam khinh nữ.
Cũng do thời xưa không biết nhiều về vấn đề sinh lý và di truyền nên cho rằng
trong việc sinh đẻ, người cha truyền khí huyết cho người mẹ; người mẹ nhận lấy
nuôi dưỡng thành đứa con "cha sinh, mẹ dưỡng", có nghĩa là khí huyết
đứa con hoàn toàn phụ thuộc vào người cha. Ngày nay, sinh học đã cho chúng ta
biết, người mẹ cũng đóng góp tương đương với người cha trong việc tạo thành con
cái.
Thử đi ngược lên một thế hệ nữa, nếu mẹ của người cha (bà nội) thuộc họ Lê và
mẹ của người mẹ (bà ngoại) thuộc họ Phạm thì ta thấy ngay từ thế hệ ấy có 4 họ
đóng góp vào việc cấu tạo nên huyết thống của người con. Giả sử như cha họ
Nguyễn, người mẹ họ Trần thì người con đó là con cháu của 4 họ: Nguyễn Lê Trần
Phạm, và có bà con với tất cả những người trong 4 họ trên chứ không chỉ bà con
với một dòng họ Nguyễn. Theo cách tính này, cứ tính ngược lên một đời thì số họ
có quan hệ bà con tăng lên gấp 2, 4, 6, 8, 16, 32, 64... Và như vậy, có thể nói
vui, trên một địa bàn cố định, hầu hết mọi người đều có quan hệ bà con với
nhau, trừ những người mới đến nhập cư. Do đó, cách lập gia phả theo một dòng họ
như lâu nay rõ ràng là một khiếm khuyết vì chỉ mới cho ta biết quan hệ huyết
thống trong dòng họ đó mà thôi. Hơn nữa, nó có thể có hại, gây chia rẽ, nếu quá
đề cao một dòng họ này và xem thường những dòng họ khác.
Ý kiến của ông Nguyễn Văn nêu lên đã gợi mở một vấn đề lý thú, nó cung cấp kiến
thức giúp ta thay đổi nếp nghĩ cũ, ít ra cũng giảm bớt sự độc tôn dòng họ của
người cha khi nói đến một con người.
Nhưng mặt khác, nếu bàn đến con người mà chỉ đơn thuần dựa vào cách tính rành
rẽ như toán học, thì cũng chưa hợp lý. Và xét đơn thuần về khoa học di truyền,
các nhà sinh học tuy đã chỉ ra, đứa con sinh thành từ nửa mẹ nửa cha hợp lại
nhưng ai đã dám chắc rằng hai nửa ấy cân bằng trong việc tạo nên tính cách và
thể chất của con. Và như thế, các con số "2, 4 , 8, 16, 32,..." theo
cách tính của ông Nguyễn Văn là chưa hoàn toàn chính xác, nhất là xét về
"chất".
Không ai dám khẳng định phần nửa khí huyết của người cha có ảnh hưởng vượt trội
hơn người mẹ trong việc tạo nên phẩm cách của con hay ngược lại. Nếu dựa vào
"cơ chế" thụ thai thì trong một tháng, chỉ có một ngày người mẹ có
thể tạo sinh linh mới, trong khi đó, người cha có thể khiến hàng chục phụ nữ
"dính chưởng"; như vua Minh Mạng, tương truyền rằng mỗi đêm,
"chấm" 5 bà nên có câu "nhất dạ ngũ giao tam hợp tửu" - một
đêm năm lần ân ái, 3 lần có con - đã có thể khẳng định là hai nửa ấy không cân
bằng nhau.
Bên cạnh đó, mối quan hệ xã hội, nền nếp sinh hoạt theo truyền thống dân tộc
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến phẩm cách một con người. Thông thường, người ta
vẫn trưởng thành từ quê hương bên nội, sống trong vòng tay bên nội, nên xưa nay
đa phần thiên hạ lấy họ nội cũng có cái lý của nó. Tất nhiên, cũng có trường
hợp con lấy theo họ mẹ, khi người mẹ, do một hoàn cảnh nào đó, không muốn cho
con biết cha nó là ai.
Xã hội ngày nay biến động nhiều, nhất là ở thành thị, một người con trưởng
thành không nhất thiết phải gắn kết với bên nội, nên cách ghi "họ
kép" và các bản lý lịch cũng nên thay đổi mục "quê quán" thành
"quê cha" và "quê mẹ" thì đầy đủ và đúng đắn hơn.
Bàn về quan niệm họ tộc không phải để mọi người đeo vào trước cái tên của mình
một chuỗi họ có liên hệ mà để có một cái nhìn rộng rãi hơn về họ hàng thân
thuộc, rồi ý thức rằng thể chất và phẩm cách mỗi chúng ta không chỉ mang huyết
thống dòng họ của bố mà còn là của mẹ, của bà nội, bà ngoại, cố nội, cố
ngoại... nghĩa là có phần đóng góp của nhiều dòng họ khác. Từ đó, những tiêu
cực và hiềm khích ganh tỵ giữa các dòng họ sẽ bị loại trừ và mọi người sẽ giúp
đỡ lẫn nhau không phân biệt dòng họ để toàn xã hội cùng tiến bộ
114. Xe màu gì an toàn nhất?
Màu của chiếc xe bạn đang đi có thể có một tác động to lớn tới khả năng gặp tai
nạn trên đường. Màu trắng là an toàn nhất, tiếp đến là các màu kem, vàng và be.
Trong khi đó những màu như xám, xanh lá, đỏ, đen và xanh dương là những màu có
nguy cơ cao.
Bản báo cáo do hiệp hội các tổ chức xe hơi Australia tài trợ đã đánh giá mối
liên quan giữa màu sắc xe hơi và nguy cơ gặp tai nạn thông qua việc phân tích
các cuộc đụng xe diễn ra trong khoảng từ năm 1987 đến 2004.
Giám đốc điều hành của hiệp hội Edmund King phát biểu: "Nghiên cứu này cho
thấy những chiếc xe tải cỡ lớn thường có màu trắng là đúng, bởi các phương tiện
màu trắng có nguy cơ bị tai nạn thấp nhất trong tất cả các màu".
"Ngược lại, những màu sẫm và kém tương phản so với môi trường xung quanh
như xám, xanh lá, đỏ, đen và xanh dương thường gặp nguy cơ cao hơn, đặc biệt là
vào ban ngày. Ban đêm đèn pha của xe dường như giảm tác dụng của màu sơn".
Một nghiên cứu năm 2003 của các nhà khoa học New Zealand cũng tiết lộ các loại
xe màu bạc an toàn nhất.
115. Nghe mp3 thường xuyên có hại ko?
Có !
Khoảng 2/3 số người trẻ tuổi luôn "thủ sẵn" chiếc MP3 trong người và
không hề bận tâm đến những nguy hại mà đôi tai bé bỏng phải chịu đựng vì âm
lượng quá lớn.
Viện Nghiên cứu Hoàng gia Anh dành cho Người điếc (RNID) đã đưa ra cảnh báo này
với những fan hâm mộ MP3 cuồng nhiệt. Riêng tại thị trường Anh, có khoảng 80
triệu chiếc MP3 được tiêu thụ trong một năm.
Viện này cũng cáo buộc sự vô trách nhiệm của các nhà sản xuất khi không in nổi
và rõ ràng cảnh báo trên bao bì sản phẩm.
RNID khuyên những người hâm mộ CNTT nên đầu tư một bộ lọc cho tai nghe của MP3.
Sản phẩm này sẽ làm giảm những tạp âm bên ngoài và khiến cho người dùng không
cần tăng volume mà vẫn có thể nghe rõ.
RNID điều tra 110 người dùng MP3 tại các đô thị lớn như Brighton, Manchester và
Birmingham, thì có tới 72 người nghe với âm lượng lớn hơn 85 đề-xi-ben.
Âm lượng này tương đương với tiếng của một chiếc đồng hồ báo thức ở cự li cực
gần.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết nghe bằng tai nghe ở 85 đề-xi-ben hoặc hơn
trong vòng 1 giờ đồng hồ liên tục sẽ gây hại cho màng nhĩ.
Theo RNID, quá nửa số người trẻ tuổi sử dụng MP3 hơn 1h/ngày và khoảng 1/4 nghe
hơn 21h/tuần.
Tới 58% số người tham gia vào cuộc điều tra nói trên của RNID không ý thức được
những tác hại của máy nghe nhạc đối với tai và 79% chẳng buồn ngó đến hướng dẫn
sử dụng và cảnh báo về mức độ tiếng ồn khi mua một chiếc MP3.
Người phát ngôn của RNID cho biết tháng 9 năm ngoái, cơ quan này đã viết thư
ngỏ gửi đến 55 nhà sản xuất MP3 và điện thoại di động yêu cầu họ in những cảnh
báo về âm lượng cao rõ ràng và dễ gây chú ý với người dùng hơn nữa. Nhưng kết
quả là "chúng tôi nhận được phản hồi của duy nhất 2 công ty".
Brain Lamb, giám đốc điều hành của RNID, phát biểu: "Các nhà sản xuất MP3
có trách nhiệm làm cho khách hàng của họ ý thức được sự nguy hiểm khi nghe với
âm lượng lớn bằng cách in cảnh báo rõ ràng trên bao bì và sản phẩm. Họ cũng cần
chỉ ra sự tương đương giữa âm lượng và đề-xi-ben".
"Thật quá dễ dàng để chuyển âm lượng từ bình thường sang mức độ nguy hiểm,
đặc biệt khi người dùng đang ở nơi đông đúc, ồn ào. Hãy lưu ý, nếu người khác
có thể nghe thấy tiếng nhạc phát ra từ MP3 của bạn khi đứng cách bạn khoảng một
mét, bạn và tai đang "lâm nguy" đấy nhé!".
116. Vì sao bóng bay bơm khí heli chóng
xẹp ?
Bóng bơm khí heli rất chóng xẹp so với bóng thường
Hai quả bóng bay giống hệt nhau, một bơm bằng không khí thường, một bơm bằng
khí heli. Được một lúc, bóng bơm khí heli đã teo lại, dúm dó dần, trong khi quả
kia hầu như vẫn tròn căng cho đến vài ngày sau. Bóng kín như thế, heli thoát đi
đâu?
Heli là loại khí rất nhẹ. Các phân tử của nó được cấu tạo từ các đơn nguyên tử,
nên có kích thước rất nhỏ bé, đường kính chỉ bằng 0,1 nanomét. Nhờ thân hình
"cực mini" này, heli rất dễ dàng khuyếch tán qua màng kim loại nhờ
"vi hành" theo các khe hổng, lỗ rỗng, do vậy người ta thường sử dụng
nó để kiểm tra chất lượng các hệ thống hút bụi trong phòng thí nghiệm và trong
công nghiệp, xem chúng có bị các khe nứt hay không.
Khi bơm heli vào bóng, khí này sẽ nhanh chóng thoát ra ngoài theo các khe, ống
nhỏ xíu trên vỏ bóng bay, làm bóng xẹp đi nhanh chóng.
Trong khi đó, phân tử nitơ và ôxy (hai khí chính trong khí quyển) có đường kính
lớn hơn nhiều nguyên tử heli, nên chúng ít bị khuyếch tán qua vỏ bóng bay.
Một nguyên nhân khác cũng khiến hơi nhanh chóng thoát ra là do cấu tạo của vỏ
bóng. Bóng bay được làm từ chất dẻo, là một tập hợp các sợi polyme đan vào
nhau. Các sợi này không thể sít chặt với nhau, mà còn để chừa các lỗ hổng, hay
các khe, rãnh. Vì thế, ngay ở áp suất thấp, heli vẫn có thể khuyếch tán ra
ngoài như thường.
Khi bóng được bơm căng, các sợi polyme giãn ra, vỏ bóng trở nên mỏng hơn, lỗ
rỗng mở rộng ra, áp lực tăng lên đẩy các phân tử khí chui ra ngoài nhanh hơn,
đi qua "quãng đường" ngắn hơn. Đó là các lý do tại sao khi bóng căng,
quá trình xẹp hơi diễn ra rất nhanh và chậm dần khi kích cỡ quả bóng thu nhỏ
lại.
117. Bóng có thể tự phồng lên?
Tuy nhiên, bạn cũng sẽ nhận thấy quả bóng không hoàn toàn xịt hẳn. Đó là do
ngoài dòng khí đi ra, còn có dòng khí từ bên ngoài đi vào cũng qua các khe rỗng
này. Nếu quả bóng được bơm đầy khí sulphur hexaflourid (có kích thước phân tử
rất lớn, rất khó khuyếch tán ra ngoài) thì chúng sẽ không bị xẹp đi. Đồng thời,
không khí từ ngoài lại đi vào trong quả bóng, khiến nó dần dần tăng lên về kích
cỡ.
Hiện nay, người ta đã chế tạo ra những loại bóng bay làm từ vật liệu không đàn
hồi, không có lỗ rỗng và được phủ màng để giảm sự thoát khí. Mặc dù vẫn có hiện
tượng xẹp hơi, nhưng chắc chắn, thời gian căng tròn của bóng đủ cho trẻ em chơi
đến khi chúng chán trò này.
118. Vì sao gián mất đầu vẫn sống?
Con vật bị nhiều người ghét bỏ này có bản năng sinh tồn cực mạnh. Mất đầu, song
chúng vẫn sống thêm hằng tuần. Các nhà khoa học đã khám phá vì sao chúng làm
được điều đó, còn người thì không.
Nhà sinh lý học và hoá sinh học Joseph Kunkel, từ Đại học Amherst,
Massachusetts (Mỹ), đã nghiên cứu sự phát triển của gián để tìm ra nguyên nhân
sống sót của gián khi mất đầu, và tìm hiểu tại sao con người không thể làm điều
đó.
Đầu tiên, việc mất đầu ở người sẽ dẫn đến kết quả là mất máu và huyết áp giảm
dến mức không thể vận chuyển ôxy và chất dinh dưỡng tới các mô trong cơ thể.
"Người ta mất máu mà chết", Kunkel bình luận.
Ngoài ra, con người thở bằng miệng hoặc mũi và não kiểm soát các chức năng sống
còn này, vì thế khi mất đầu, việc thở cũng ngừng luôn. Hơn nữa, cơ thể người
không thể ăn được nếu không có đầu, đảm bảo một cái chết đói chắc chắn.
Song, gián không bắt buộc phải có huyết áp theo cách của con người. "Chúng
chẳng có mạng lưới mạch máu rộng khắp như của chúng ta - nghĩa là các mạch tí
hon cần áp suất lớn để máu có thể lưu thông. Chúng có một hệ tuần hoàn mở, với
áp suất thấp hơn nhiều".
"Nếu bạn cắt đầu chúng, cái cổ sẽ được liền lại bằng máu cục. Không hề có
sự kiểm soát chảy máu ở đây", Kunkel nói.
Sinh vật này cũng lấy khí trời bằng các lỗ thở, nằm trên các đốt cơ thể. Ngoài
ra, não của gián không kiểm soát quá trình thở này và máu không cần mang ôxy đi
nuôi các nội tạng. Thay vào đó, các lỗ thở hút không khí trực tiếp vào các mô
thông qua một loạt ống nhỏ gọi là khí quản.
Ngoài những yếu tố trên, gián còn là một sinh vật máu lạnh, nghĩa là chúng cần
ít máu hơn nhiều so với hoạt động sống của con người. "Một con côn trùng
có thể sống sót trong hằng tuần với một bữa ăn mà chúng có", Kunkel nói.
Nhà côn trùng học Christopher Tipping tại Đại học Delaware Valley ở Doylestown
đã thí nghiệm cắt đầu hai con gián châu Mỹ, "rất cẩn thận dưới kính hiển
vi", và làm lành vết thương bằng sáp, ngăn cho chúng khỏi chết vì mất
dịch. Kết quả là hai con vật kéo dài tuổi thọ thêm vài tuần trong một cái bình.
"Chúng đứng vững, sờ vào nhau và di chuyển".
Không chỉ cơ thể của chúng sống sót mà không cần đầu, bản thân cái đầu gián
cũng sống sót, vẫy râu vài giờ trước khi mất hết nước. Nếu được tiếp dinh dưỡng
và làm lạnh, nó có thể sống lâu hơn.
119. Tại sao có hiện tượng sởn gai ốc?
Lạnh và sự sợ hãi đã làm cho các cơ bắp nhỏ xíu ẩn dưới lớp lông của chúng ta
co thắt. Khi đó những sợi lông này dựng đứng lên, đồng thời làm cho lớp da bao
quanh chúng nổi lên vô số những nốt nhỏ.
Mọi loài động vật có vú đều có lông bao phủ trên cơ thể để chống lại cái rét.
Khi nhiệt độ bên ngoài hạ xuống, chúng tự động dựng đứng lên. Lớp không khí
giữa lớp lông và lớp da đã tăng dày lên. Chính vì lý do này mà mèo dường như to
hơn khi trời lạnh.
Là con người nên chúng ta có ít lông hơn rất nhiều so với các loài động vật có
vú khác. Chúng ta thay thế lớp lông bằng những bộ quần áo. Nhưng khi gặp lạnh,
những sợi lông trên cơ thể ta cũng dựng đứng lên y như ở động vật, và đó chính
là hiện tượng sởn gai ốc.
120. Tại sao dế thích chọi nhau?
Chọi nhau chính là tập tính không thể tách rời của dế. Tính tình nó cô độc, con
dế đực bao giờ cũng sống một mình trong một cái hang hoặc một khe đất của nó.
Tuy khi giao phối dế đực có cùng sống với một con dế cái, nhưng quyết không bao
giờ chịu chung sống với một con dế đực khác cùng loài. Tính cách cô độc bẩm
sinh này khiến nó không thể dung nạp dế đực làm bạn, nên khi giáp mặt là chọi
nhau ngay.
121. Tại sao mũi chó thường xuyên ướt?
Chó có khứu giác rất nhạy cảm. Cấu tạo mũi chó phức tạp hơn nhiều so với mũi
những loài động vật khác. Bộ phận để phân biệt các mùi vị của nó cũng đặc biệt
lớn.
Trong các loài động vật cấp cao, xoang mũi có nhiều nếp nhăn, bên trên có một
màng nhầy, niêm mạc trên thường xuyên tiết ra chất dịch nhầy làm ướt các tế bào
khứu giác này. Nhờ đó, chúng có thể đưa các loại mùi vị từ thần kinh khứu giác
lên đại não.
Đầu mũi con chó có một tổ chức niêm mạc không lông, phía trên có rất nhiều nốt
nổi lên. Đó là bộ phận chủ yếu của khí quan khứu giác. Trên tổ chức niêm mạc
đầu mũi này thường xuyên tiết ra rất nhiều dịch nhờn để làm ướt mũi, khiến cho
khứu giác của chó đặc biệt nhạy cảm.
122. Vì sao sờ vào kim loại thấy lạnh?
Khi chạm vào một vật bằng kim loại, ta cảm thấy lạnh mặc dù bản thân vật đó
không phải như vậy. Đó chính là bởi kim loại dẫn nhiệt tốt: nhiệt lượng của tay
ta đã truyền sang vật đó.
Nói cách khác, tay ta bị mất nhiệt lượng, và chính kim loại đã tạo cho ta cảm
giác lạnh.
Các vật bằng kim loại có khả năng truyền dẫn nhiệt một cách dễ dàng. Da của tay
ta là nơi nóng nhất, sự di chuyển của nhiệt sẽ diễn ra theo chiều từ tay sang
kim loại. Chính vì thế mà ta có cảm giác bị lạnh đi khi chạm vào kim loại.
Ngược lai, gỗ và vải là những chất dẫn nhiệt kém nên chúng không "hấp
thụ" được nhiệt lượng do tay ta phát ra. Vì thế chúng không tạo cho ta cảm
giác lạnh.
123.
Vì sao không nên nắm tai thỏ?
Hai tai thỏ rất to. Khi bắt thỏ, để cho tiện lợi, người ta thường nắm lấy đôi
tai nó mà không biết rằng tai là nơi non nớt nhất trên mình thỏ. Chúng toàn do
xương sụn tạo nên, không thể gánh vác trọng lượng toàn thân nó được.
Sau khi bị bắt, thỏ rất căng thẳng, sợ hãi, giãy dụa. Nếu ta cầm tai nó xách
lên, nó sẽ dễ bị gãy tai.
Bạn càng không nên cầm 2 chân sau của thỏ, dốc ngược đầu nó xuống. Điều này sẽ
làm cho tuần hoàn máu bị trở ngại, dẫn đến xung huyết não và chết.
Phương pháp đúng đắn nhất khi bắt thỏ là nắm nhẹ bên ngoài da cổ, khe khẽ nâng
nó lên, rồi dùng tay kia đỡ thân sau của nó. Chú ý không nên làm cho da đứt
khỏi thịt để thỏ khỏi bị thương.
124. Nguồn gốc cụm từ "nước mắt cá
sấu" từ đâu?
Các quan sát cho thấy cá sấu và họ hàng gần gũi của nó thực sự nhỏ lệ, kể cả
khi chúng lao vào xé toạc con mồi. Nhưng các nhà khoa học vẫn chưa hiểu rõ vì
sao
Giai thoại về "nước mắt cá sấu" ám chỉ một người bày tỏ sự buồn bã
một cách giả tạo. Nhưng không hẳn cá sấu và họ hàng của nó thể hiện sự thương
tiếc một cách bịp bợm.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Florida, Mỹ, nhận định nước mắt có thể có chức
năng tương tự như nước bọt ở con người, giúp động vật tiêu hóa thức ăn. Tuyến
nước mắt của cá sấu nối liền với khoang mũi và có ý kiến cho rằng nước mắt được
tạo ra từ mắt, chảy vào khoang mũi và trôi xuống cổ họng.
"Quan niệm từ xưa là nước mắt làm trơn ướt thức ăn khi nó được nuốt và
những giọt lệ chúng ta nhìn thấy là một sự sản xuất hơi quá đà", nhà
nghiên cứu Kent Vliet nói.
Một khả năng khác: Nước mắt có thể là kết quả của việc con mồi xuýt xoa và hổn
hển khi ăn. Không khí chui vào mũi có thể đẩy nước mắt rơi ra, Vliet cho biết.
125. Vì sao ong chúa sống lâu gấp 10 lần
ong thường?
Có thể bạn sẽ nói rằng, ong chúa sống lâu bởi nó to gấp 3, gấp 4 lần những con
ong thợ khác. Hoặc vì nó có nhiệm vụ đẻ trứng và duy trì nòi giống cho cả đàn,
nên không được phép chết non... Tuy nhiên, không hẳn đúng như vậy.
Trong đàn thường có 3 loại ong: Thứ nhất là ong thợ. Đó là những con cái không
có khả năng sinh đẻ. Chúng chiếm số lượng đông nhất trong đàn, và chuyên đảm
nhận những công việc nặng nhọc như xây tổ, kiếm mồi, chăm sóc ong con, chống kẻ
thù. Loại thứ hai là ong đực. Chúng cũng phải kiếm ăn và xây tổ, nhưng ít nặng
nhọc hơn ong thợ. Và thứ ba là ong chúa.
Trong đàn chỉ có ong chúa là có quyền đẻ trứng. Vì thế, nó được nâng niu và bảo
vệ rất cẩn thận. Trong khi các con khác phải bươn trải bên ngoài để kiếm thức
ăn, thì ong chúa chỉ nằm trong tổ, "mưa không tới mặt, nắng không tới
đầu". Nó được cung phụng loại mật hoa ngon nhất. Cho dù cả đàn ong phải
nhịn đói thì ong chúa vẫn no đủ. Cả cuộc đời, ong chúa hầu như không phải chạm
trán với kẻ thù. Có lẽ vì vậy mà ong chúa có thể sống hết tuổi thọ của nó (5-6
năm), trong khi các con ong khác chỉ sống được 6 tháng đến một năm mà thôi.
126. Vì sao mặt trăng đi theo chúng ta?
Những đêm trăng sáng, nếu vừa đi bộ vừa chú ý nhìn trăng, bạn sẽ thấy như chị
Hằng đang đi theo bạn. Không riêng gì mặt trăng, nếu để mắt quan sát các đỉnh
núi xa xa, bạn cũng sẽ có cảm giác tương tự.
Nguyên do là khi ta đi bộ, chúng ta không thể không chú ý tới mọi vật xung
quanh. Nhưng tầm mắt của ta lại có giới hạn. Lúc ta đi về phía trước, mọi vật
gần quanh ta (chiếm khoảng lớn trong tầm nhìn) trôi đi rất nhanh, nhưng những
vật ở xa (chiếm khoảng rất nhỏ trong tầm nhìn) thì trôi đi rất chậm và rất lâu
mới ra khỏi tầm mắt.
Các bạn hãy nhớ lại cảm giác trên xe lửa đi với tốc độ nhanh. Bạn sẽ thấy các
cột điện ở dọc đường trôi qua vùn vụt ngoài cửa sổ, nhưng cây cối, cột điện,
nhà cửa ở phía xa xa thì trôi rất chậm, còn dãy núi ở tận cuối chân trời thì
như dán chặt vào cửa sổ. Hiện tượng này giống hệt như khi mặt trăng, các vì
sao, cây cối, núi cao đi theo bạn. Những vật này cũng chiếm khoảng rất nhỏ
trong tầm nhìn, nên bạn sẽ thấy nó rất lâu. Đặc biệt là mặt trăng, vì là vật to
và sáng nhất trong đêm nên nó nổi bật hơn hẳn các vì sao và vật thể khác. Vì
thế, ta luôn có cảm giác mặt trăng theo sát bước chúng ta.
127.
Trí thông minh là gì?
Edison cần tính dung tích một bóng đèn hình quả lê, ông giao nhiệm vụ đó cho
trợ lý Chapton. Hơn một tiếng đồng hồ, Chapton loay hoay mãi với các công thức
dày đặc mà vẫn chưa ra. Edison đi qua, nói: “Có gì phức tạp lắm đâu!” Ông mang
chiếc bóng ra vòi, hứng đầy nước và nói với Chapton: “Anh đổ vào ống đo, xem
dung tích là bao nhiêu. Đó là dung tích của bóng đèn”.
Chapton vỗ trán: “Chà, thật đơn giản, có thế mà mình nghĩ mãi không ra".
Chapton đã tốt nghiệp khoa Toán, Đại học Primton, lại tu nghiệp một năm ở Đức,
còn Edison mới chỉ học 3 tháng tiểu học, sau đó tự học với mẹ mình.
Câu chuyện trên đây giúp chúng ta hiểu đại khái thế nào là “trí thông minh”. Nó
không ngang bằng với trí thức. Rõ ràng Chapton có tri thức chuyên môn cao hơn
Edison nhiều. Ông ta căn cứ vào các công thức toán học để tính dung tích bóng
đèn, nhưng không nghĩ ra được cách đơn giản như Edison. Phản ứng nhạy bén của
Edison phản ánh trí thông minh của ông, được xây dựng trên cơ sở tri thức rộng.
Sự thông minh đó có thể gọi là trí thông minh mạnh.
Vậy trí thông minh là gì?
Các nhà tâm lý học có những quan điểm khác nhau và giải thích khác nhau về vấn
đề này, nhưng đều có chung một nhận định: Trí thông minh không phải là một năng
lực đơn độc, nó là sức mạnh tổng hợp của nhiều loại năng lực. Theo điều tra tâm
lý và quan điểm của các nhà tâm lý học Trung Quốc, trí thông minh chúng ta nói
ở đây bao gồm khả năng quan sát, khả năng của trí nhớ, sức suy nghĩ, óc tưởng
tượng, kỹ năng thực hành và sáng tạo. Trí thông minh chính là sự phối hợp tốt
các năng lực đó để làm thành một kết cấu hữu hiệu.
Kết cấu trí thông minh cũng ví như một chiếc xe đạp. Nó được lắp ghép bởi những
phụ tùng chủ yếu như khung, bánh xe, trục giữa, moayơ, đùi đĩa… Có thể phụ tùng
đều rất tốt, nhưng nếu lắp ghép xộc xệch, xe đi vài hôm sẽ hỏng, thậm chí không
đi nổi. Cho nên xe phải đi ít lâu, được điều chỉnh lại, mới có thể bon bon trên
đường một cách êm ru. Nếu có phụ tùng nào đó bị hỏng, sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ
xe.
Kết cấu của trí thông minh cũng vậy, chúng ta cần làm cho mọi năng lực của
chúng ta đều được phát huy đầy đủ, và nâng cao dần, đồng thời làm cho những
năng lực đó (quan sát, trí nhớ, suy nghĩ, tưởng tượng, thực hành, và sáng tạo)
phối hợp đồng bộ, hoạt động đều.
128.
Tại sao không biết đau là đáng sợ?
Bé gái Kinchen sau khi được 6 tháng tuổi bỗng mất cảm giác đau. Khi tiêm, em
không hề khóc. Bị bỏng, em cũng chẳng kêu. Một lần bị gãy tay, phải bó bột,
Kinchen thấy vướng đã tự tháo băng ra, đùa nghịch với cánh tay, làm chỗ gãy
không khớp lại được nữa...
Đau là một loại cảm giác giúp con người phân biệt những kích thích có thể gây
hại cho cơ thể. Ví dụ chạm tay vào lửa, cảm giác đau rát ở da làm người ta rụt
lại, đau bụng báo cho người ta biết dạ dày có vấn đề, đau ngực cho thấy tim
phổi hoặc gì đó không ổn. Bởi thế cảm giác đau có ý nghĩa tâm sinh lý đặc biệt,
giúp con người sinh tồn. Nó có ý nghĩa báo động, giúp cơ thể sớm nhận biết và
đề phòng hiểm nguy. Nếu không có cảm giác ấy, chúng ta có thể gặp những hoàn cảnh
chết người mà không nhận ra được
Hiện tượng mất cảm giác đau thường chỉ xảy ra do một biến động tâm sinh lý đột
ngột nào đó. Rất hiếm khi có trường hợp mất cảm giác đau kéo dài. Tuy vậy, trên
thực tế, nếu tập trung vào một việc nhất định, người ta có thể "quên"
cảm giác đau. Lúc ấy, các tín hiệu cảnh báo sự nguy hiểm trong não bộ tạm thời
nhường chỗ cho các hoạt động khác. Ví dụ, Quan Vũ đã dùng ý chí tập trung vào
việc đánh cờ để Hoa Đà cạo xương tay mà không hề kêu ca gì. Nhưng thường chỉ
sau khi hết tập trung, cảm giác đau lại xuất hiện.
129.
Tại sao không đến được chân cầu vồng?
Chẳng bao giờ bạn đến được chân trời, cũng như không thể bay tới chân cầu vồng.
Đó là bởi cả hai trường hợp đều cần khoảng cách xa giữa vật thể và người quan
sát mới tạo nên hiệu ứng.
Cầu vồng thực chất gồm nhiều giọt nước hấp thụ ánh sáng theo cách nào đó. Những
giọt nước tròn, trong vắt khúc xạ và phản xạ một vài tia sáng tới người quan
sát. Ánh sáng có bước sóng khác nhau khúc xạ ở những góc khác nhau, vì thế ánh
sáng trắng của mặt trời được phân tách ra thành một dải ánh sáng nhiều màu.
Vì những cảnh tượng rực rỡ này được tạo thành từ ánh sáng và nước, nên đừng hy
vọng tìm kiếm điểm dừng chân của nó. Hiện tượng quang học này phụ thuộc vào
việc bạn phải đứng cách xa các giọt nước, và mặt trời phải ở sau lưng.
130.
Tại sao không thể uống nước biển
Bên cạnh thực tế là nó chẳng hề ngon, thì uống nước mặn còn khiến bạn bị khát
khô họng. Nhưng một số loài vật có thể xử lý được độ mặn trong nước biển.
Chẳng hạn, nếu bạn uống vài ngụm nước biển, cơ thể bạn sẽ cần phải thải ra
nhiều lượng nước hơn so với mức bạn uống, để loại bỏ hết số muối thừa đang
khiến bạn khát hơn cả trước khi uống.
Nước biển có thể được khử để giảm hàm lượng muối xuống tới mức có thể uống
được, nhưng kỹ thuật đòi hỏi rất nhiều công sức và tiền bạc.
Một số loài động vật được ban tặng những cách riêng để xử lý vấn đề muối mặn
trong nước biển. Chẳng hạn, chim hải âu lớn có tuyến muối đặc biệt ở ngay sau
hốc mắt. Tuyến này sẽ thu hết muối trong nước mà chúng uống và thải ra thành
dung dịch qua đầu mỏ của chúng.
131.
Vì sao trong vũ trụ các giọt nước có hình cầu?
Trên trái đất, dù là nước ở trong một cái hồ hay trong một chiếc cốc, lực hấp
dẫn sẽ kéo chất lỏng xuống dưới thành hình dạng của vật chứa nó. Nhưng trong vũ
trụ, ảnh hưởng của hấp dẫn lại khác.
Các vật thể bay trên quỹ đạo cũng bị ảnh hưởng của lực hấp dẫn, nhưng chúng ở
trong trạng thái rơi tự do, chuyển động liên tục sang ngang trong khi rơi về
phía trái đất. Điều này khiến cho chúng trở nên không trọng lượng một cách
tương đối.
Ở đó, sức căng bề mặt biến nước trở thành hình cầu. Các phân tử giống như nam
châm trên bề mặt nước khiến cho bề mặt này ứng xử theo kiểu một lớp da đàn hồi.
Mỗi phân tử được kéo giãn bởi các phân tử xung quanh với sức căng tương đương
nhau. Nhóm các phân tử bị ràng buộc chặt chẽ này tạo nên diện tích nhỏ nhất có
thể - một hình cầu.
132.
Vì sao cá voi hát?
Dường như những bài hát nổi tiếng của cá voi lưng gù không phải để dành cho bạn
tình, mà chỉ là để thăm dò vùng biển xung quanh. Các nhà nghiên cứu vừa phát
hiện thấy khi một gã cá voi lưng gù bơi đến vùng biển mới, nó sẽ thay đổi giai
điệu để phù hợp với âm thanh của những con cá voi khác gần đó.
"Cách giải thích truyền thống về việc cá voi hát là các con đực đang cưa
cẩm con cái, và rằng những cô nàng ấy thực sự đã hưng phấn lên khi nghe được
những bài hát hợp mốt thịnh hành", nhà thần kinh học nhận thức Eduardo
Mercado III từ Đại học bang New York ở Buffalo, cho biết.
Nhưng thực ra, theo Mercado, cá voi lưng gù thay đổi bài hát chỉ để giúp nó
định vị môi trường mới.
Trong nơi ở phức tạp dưới nước của chúng, việc biết những con khác ở đâu chỉ
bằng cách dỏng tai nghe có thể khiến cá voi gặp nhiều khó khăn. Thay vào đó, nó
có thể tăng khả năng định vị các con khác bằng cách học theo những bài hát của
chúng. Bằng việc so sánh âm thanh tới và những ký ức về âm thanh nguyên thuỷ,
cá voi có thể đoán ra khoảng cách mà âm thanh đã đi qua.
"Tương tự, một người chơi bóng chày biết về kích cỡ quả bóng sẽ giúp anh
ta đoán xem thời điểm và vị trí quả bóng sẽ rơi xuống", Mercado nói.
Các nhà khoa học khác cũng đồng tình rằng nguyên nhân khiến cá voi hát vẫn còn
chưa rõ ràng, và bất kỳ gợi ý mới nào cũng được hoan nghênh. Tuy nhiên, phỏng
đoán của Mercado không có bằng chứng trực tiếp, và giả thuyết chúng hát để tìm
bạn đời cũng vậy.
133.
Vì sao cá heo có thể vừa ngủ, vừa... bơi?
Loài cá heo chỉ ngủ với một nửa bộ não và nửa còn lại sẽ điều khiển các hoạt
động với điều minh chứng là trong trạng thái ấy chúng vẫn có thể bơi vòng tròn
theo hướng ngược chiều kim đồng hồ.
Nhiều người cho rằng cá heo bơi như vậy là do tính không đối xứng trong não,
song nhà khoa học Thụy Điển Paul Manger thuộc Trường đại học Stockholm lại cho
rằng loài cá heo ở Bắc bán cầu bơi ngược chiều kim đồng hồ trong khi cá heo ở
Nam bán cầu lại bơi theo hướng ngược lại.
Trong những ngày theo dõi loài cá heo ở Nam Phi, ông và đồng nghiệp còn phát
hiện những con cá heo ở Nam bán cầu đã sử dụng ít nhất 86% thời gian bơi di
chuyển theo chiều kim đồng hồ. Điều này cho thấy phương hướng bơi của chúng có
thể còn tùy thuộc khu vực bán cầu nào và chịu sự chi phối của các lực tác động
của Trái đất.
Một khả năng khác của loài cá heo là trong quá trình nửa tỉnh nửa mê như thế,
những con cá heo trong đàn vẫn có thể bơi theo cùng một hướng để bảo vệ lẫn
nhau vì đây cũng là lúc chúng dễ bị tấn công nhất. Khả năng này - cũng theo các
nhà chuyên môn - có thể do các con cá heo trong đàn đã được huấn luyện trước
hoặc chúng đã được lập trình sẵn bẩm sinh trong gen để cùng bơi theo một hướng
đi của bầy đàn.
134.
Vì sao điểm nóng nhất không phải là xích đạo?
Xích đạo thường được coi là nơi nóng nhất là vì ở vùng này quanh năm có Mặt
trời trên đỉnh đầu. Nhưng hãy xem lại tài liệu thống kê tình hình thời tiết
trên toàn thế giới: Tại vùng xích đạo, nhiệt độ cao nhất rất ít khi vượt quá 35
độ C. Vậy mà tại sa mạc Sahara ở châu Phi, nhiệt độ ban ngày lên tới 55 độ C,
trong khi Sahara cách xa xích đạo tới hàng ngàn dặm.
Tại các vùng sa mạc Ả Rập, nhiệt độ ban ngày cao nhất cũng lên tới 45 – 50 độ
C. Tại vùng sa mạc Trung Á, nhiệt độ cao nhất ban ngày cũng lên đến 48 độ. Sa
mạc Gobi (Mông Cổ) khoảng 45 độ C.
Vùng xích đạo được hấp thụ nhiều nhiệt lượng Mặt trời nhất, vậy tại sao lại
không phải là nơi nóng nhất? Nhìn vào bản đồ thế giới ta thấy, những vùng thuộc
xích đạo phần lớn đều có biển cả như Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương.
135.
Trái đất có từ bao giờ ?
Hệ Mặt trời được hình thành từ đám “tinh vân nguyên thuỷ” có dạng hình đĩa tròn
xoay vòng với nhiệt độ cao tới 2.000 độ C trên vị trí của Trái đất. Tinh vân
này do các nguyên tử, phân tử, hạt chất rắn (bụi vũ trụ), chất khí dạng ion hợp
thành. Theo đà nguội lạnh đi của tinh vân, bụi vũ trụ ở xung quanh. Mặt trời
nguyên thuỷ ngưng tụ thành các khối chất rắn, lắng đọng trên mặt phẳng của đĩa
(xích đạo).
Bụi vũ trụ chủ yếu do vân thạch silicat các hợp chất có chứa sắt v.v… tạo thành.
Thành phần của vân thạch và của Mặt trời giống nhau. Điều đó chứng tỏ bụi vũ
trụ và Mặt trời vốn là từ cùng “tinh vân” hình thành mà ra.
Sau khi các hạt chất rắn lắng đọng vào trong khoảng thời gian 10 triệu – 100
triệu năm, do sự cân bằng giữa sức hút của Mặt trời và lực ly tâm mà hình thành
các hành tinh loại Trái đất chủ yếy do vân thạch tụ tập lại ở vùng gần Mặt
trời. Ở vùng xa Mặt trời thì hình thành các hành tinh kiểu sao Mộc do khi vũ
trụ và các hạt băng tụ tập lại. Về tuổi tác của vân thạch và của Mặt trăng, dựa
vào kết quả các nguyên tố có tính phóng xạ mà chúng chứa như urani, thori… cho
là 4,6 tỷ tuổi. Đó cũng là tuổi tác của hệ Trái đất và hệ Mặt trời.
136. Vì sao khi đổ bộ vào đất liền thì cường độ của bão giảm xuống nhưng
mưa lớn không ngừng?
Bão là vòng tròn khí lớn nhiệt đới xoay tròn dữ dội ở trung tâm khí áp thấp bao
quanh. Sau khi đi vào đất liền, cơn bão chịu ảnh hưởng của ma sát mặt đất không
bằng phẳng, sức gió dần dần giảm xuống, vận tốc khí áp nhanh chóng tăng lên.
Nhưng ở trên cao, bão vẫn thổi bao quanh trung tâm khí áp thấp, luồng không khí
có độ ẩm cao, nhiệt độ cao thổi từ biển vẫn đang lên cao và ngưng kết lại,
không ngừng tạo ra các giọt mưa. Nếu luồng không khí ẩm ướt gặp phải núi cao,
sườn núi đón gió khiến cho bão càng tăng thêm tốc độ và sự ngưng kết, mưa lớn
nơi đây càng thêm dữ dội hơn. Có lúc sau khi bão đổ bộ vào đất liền, “mệt” đến
thực sự không còn muốn hoạt động gì nữa, không những sức gió giảm đi, ngay cả
trung tâm khí áp cũng chuyển động chậm dần thậm chí là thường chỉ dừng lại quẩn
quanh một chỗ, mưa lớn chỉ trút xuống ở cùng một nơi trong mấy ngày mấy đêm
liền. Tình trạng lụt lội đương nhiên là càng thêm trầm trọng. Hiện tượng mưa
đặc biệt lớn ở tỉnh Hà Nam phải hứng chịu như đã từng nói ở trên chính là hiện
tượng được tạo thành bởi trung tâm khí áp thấp sau khi cơn bão đổ vào đất liền
chỉ quẩn quanh ở một chỗ trong mấy ngày liền.
137.
Vì Sao Trên Máy Bay Không Được Mở Điện Thoại Di Động
Một phi công của hãng Air China đã để ý thấy trước khi tới Bắc Kinh, máy bay bị
lệch 30° khỏi đường bay. Khi tìm kiếm nguyên nhân thì xác định được rằng một
hành khách vẫn để điện thoại di động mở.
Một ví dụ khác: Khi một chiếc máy bay của hãng hàng không Alitalia chuẩn bị hạ
cánh ở phi trường Turin thì suýt xảy ra thảm họa: điện thoại di động của một
hành khách đã tắt chế độ bay tự động.
Trong luật giao thông hàng không của Đức có ghi: "cấm sử dụng và mở điện
thoại di động trên máy bay của Đức" với lập luận rằng: "Tính năng của
điện thoại di động là gửi đi những năng lượng điện từ, những năng lượng này có
thể kết nối với các thiết bị của máy bay và gây nhiễu, tạo ra những tình huống
gây nguy hiểm đến tính mạng". Trường hợp vi phạm có thể bị phạt tiền hoặc
phạt tù.
Trên thực tế thì hoàn toàn không đơn giản như vậy. Các nhà khoa học trong các
cuộc thử nghiệm cho tới nay vẫn chưa có những chứng cứ rõ ràng là sóng điện
thoại đi động thực sự gây nhiễu các thiết bị trong khoang lái. Tuy nhiên có một
trường hợp được ghi nhận là sóng điện thoại đi động đã ảnh hưởng đến những dây
cáp sau các vách cabine và làm sai lệch tín hiệu.
138.
Cực quang là hiện tượng như thế nào?
Vào những đêm trời quang mây tạnh, trên vùng trời ở hai cực Trái đất thường
liên tiếp xuất hiện những dải ánh sáng màu hồng, lam, vàng, tím… rực rỡ và biến
ảo khôn lường. Tia này vừa tắt đi, tia khác lại xuất hiện, nhảy múa, lung tinh
đủ màu sắc…
Có lúc chúng chỉ là một tia sáng mong manh, có khi mang hình dẻ quạt, hình ngọn
lửa, rồi lại hoá thành những vòng cung màu lá cây vắt trên nền trời. Đó chính
là cực quang.
Cực quang là một hiện tượng hiếm thấy ở nhiều nơi trên Trái đất. Nhưng ở Alaska
(Mỹ), phần lớn lãnh thổ Canada, hay vùng nằm từ vĩ độ 60 trở lên, đây lại là
một chuyện bình thường. Cực quang thường xuất hiện vào buổi đêm. Có người yếu
bóng vía, nhìn thấy hiện tượng này liền cho là… ngày tận thế sắp đến.
Vào những năm 80 của thế kỷ XIX, người ta khám phá ra rằng từ trường của Trái
đất có liên quan đến hiện tượng kỳ ảo này. Khi electron va vào một vật thể nào
đó, nó có thể tạo ra ánh sáng (điều này cũng tương tự như nguyên lý hoạt động
của màn hình tivi và máy tính). Như vậy, các nhà khoa học cho rằng cực quang có
thể sinh ra khi các dòng hạt mang điện tích trong vũ trụ va chạm với bầu khí
quyển.
Kết quả nghiên cứu khoa học vào các năm 1957 – 1958 cho rằng khi trên Mặt trời
xuất hiện các vết đen, gió Mặt trời tạt vào Trái đất, mang theo một dòng hạt
năng lượng cao gây ra hiện tượng cực quang. Các electron và proton trong dòng
hạt này đi vào bầu khí quyển. Dưới ảnh hưởng của địa từ, chúng bị hút về hai
cực Trái đất. Tại đây, chúng va chạm và kích thích các phần tử khí, làm các
phân tử này phát ra bức xạ điện từ dưới dạng ánh sáng nhìn thấy. Bầu khí quyển
có rất nhiều chất như oxy, nito, heli, hydro, neon… Dưới tác động của dòng hạt
mang điện, ánh sáng do các chất khí khác nhau tạo ra cũng khác nhau, vì thế cực
quang có muôn màu ngàn sắc.
Cực quang khi sẽ xuất hiện mạnh thường đi kèm với những thay đổi trong địa từ
và kéo theo sự giao thoa với sóng vô tuyến, sóng điện thoại… Thời kỳ mạnh, yếu
của cực quang có mối liên quan chặt chẽ tới chu kỳ hoạt động của Mặt trời. Khi
Mặt trời ở đỉnh chu kỳ, (hoạt động mạnh nhất), nó sẽ bức xạ nhiều hơn mức bình
thường. Lúc này dòng hạt mang điện va chạm nhiều hơn với khí quyển, do đó, cực
quang sẽ xuất hiện rất nhiều và kỳ vĩ.
139. Dàn máy tính điện tử đầu tiên trên thế giới được ra đời như thế nào
Năm 1943 trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai. Bộ lục quân Mỹ yêu cầu
trường đại học Pennsylvania và phòng nghiên cứu đạn đạo Aderdeen mỗi ngày phải
cung cấp sáu biểu hoả lực. Với tốc độ máy tính thời đó quả là khó có thể hoàn
thành nhiệm vụ. Người phụ trách công việc đó là Godistein đã đề xuất ý kiến chỉ
có chế tạo ra máy tính điện tử mới có thể giải quyết được vấn đề này.
Qua gần ba năm nghiên cứu chế tạo, chiếc máy tính điện tử đầu tiên đã ra đời
mang tên ANIAC tại trường đại học Pennsylvania. Diện tích gian phòng đặt máy
tính là 170m2, bên trong máy gồm 18.800 bóng điện tử, 70.000 điện trở, 10.000
tụ điện, 1.500 bộ rơ le, tổng trọng lượng máy nặng 30 tấn, lượng điện tiêu hao
170KW với giá thành 480.000 USD.
Máy tính ENIA mỗi giây có thể giải được 5000 phép tính cộng trừ, 340 phép tính
nhân. Tốc độ tính toán như vậy là một điều tuyệt vời ở thời ấy. ENIA chính là
cơ sở, nền tảng cho loại máy tính điện tử hiện đại sau này.
140.
Tại sao tổ ong đều là hình lục giác đều?
Nếu quan sát kỹ càng tổ ong, bạn chắc chắn sẽ rất kinh ngạc khi phát hiện
ra rằng, kết cấu của tổ ong thật là một kỳ tích của tự nhiên, tổ ong là do rất
nhiều lỗ với hình dạng to nhỏ không giống nhau tạo thành, nhìn qua từ bên trên,
chúng là hình lục giác đều, nhưng sắp xếp rất có trật tự. Nhưng nếu nhìn từ bên
trái, chúng lại do rất nhiều hình lăng trụ lục giác đều ghép lại với nhau. Mà
đáy của mỗi hình lăng trụ lục giác đều lại càng làm cho con người ta kinh ngạc.
Nó không phẳng, cũng không phải tròn. Mà là nhọn, là do ba lăng trụ đáy nhọn hoàn
toàn giống nhau hợp thành.
Hình lục giác đều kỳ diệu ở tổ ong từ rất lâu đã thu hút được sự chú ý của con
người, tại sao những chú ong nhỏ bé lại làm tổ mình bằng những hình lục giác
đều nhỉ, mà không phải là hình tam giác đều, tứ giác đều hay là ngũ giác đều?
Hầu hết các vật thể có hình ống tròn, khi mặt trước, mặt sau, bên phải, bên
trái chịu áp lực, bề mặt chịu lực của nó sẽ biến thành hình lục giác. Vì thế
nhìn từ góc độ lực học, hình lục giác là ổn định nhất. Vậy thì, những chú ong
nhỏ khi làm tổ có phải là để tránh áp lực từ bên ngoài và giữa các tổ với nhau
không? Đương nhiên là không phải rồi, bởi vì tổ ong ngay từ ban đầu đã là một
khối gắn liền với nhau rồi.
Đầu thế kỷ thứ XVIII, nhà khoa học người Pháp Malaerqi đã từng đo được góc của
tổ ong, phát hiện ra một quy luật thú vị, đó là mỗi góc của hình lăng trụ là
109 độ 26 phút, mà góc nhọn là 70 độ 32 phút. Hiện tượng này đã gợi lên trong
đầu nhà vật lý học người Pháp Leomiule một gợi ý: hình dáng cố định và đặc biệt
này, phải có tốn ít nhiên liệu nhất không, mà diện tích sử dụng lại là lớn
nhất? Vì thế, ông xin ý kiến nhà toán học người Thụy Sĩ Kenige, sau khi nghiên
cứu tỷ mỷ, Kenige đã chứng thực cho phỏng đoán của ông. Nhưng góc của tổ ong
tính ra lần này là 109 độ 26 phút và 70 độ 34 phút sai hai phân so với góc mà
Leomiule tính ra.
Năm 1734, nhà toán học Anh lại tiến hành tính toán từ đầu, kết quả hoàn toàn
phù hợp với góc của tổ ong. Thì ra, số liệu mà Kenige sử dụng trên biểu bảng
đều đã bị in sai.
Qua vài thế kỷ nghiên cứu kết cấu của tổ ong, con người phát hiện ra kết cấu
này có lợi nhất cho việc tiết kiệm nhiên liệu và tận dụng không gian. Con người
còn tìm ra không ít những vận dụng diệu kỳ của nó. Hiện nay con người đang ứng
dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như kiến trúc, hàng không, vô tuyến điện… Từ
kiến trúc “Tầng hầm kiểu tổ ong” cách âm cách điệu đến thiết kế con tàu con
thoi phóng vào vũ trụ, đều quan hệ mật thiết với kết cấu của tổ ong.
141. Vì sao trong sa mạc có ốc đảo?
Giữa sa mạc mênh mông cát trắng, không một giọt nước, thỉnh thoảng lại thấy
xuất hiện những ốc đảo xanh tươi với nhiều loại động thực vật rất đa dạng. Tại
sao ở đây lại có nhiều nước đến như vậy, dù rất ít mưa?
Đa số các ốc đảo đều dựa vào núi cao, hướng ra sa mạc. Vào mùa Đông, băng tuyết
thường đọng lại trên các đỉnh núi. Đến mùa hè, băng tan ra thành nước, chảy
thành sông. Do địa thế dốc nên nước chảy xiết, mang theo bùn đất, thậm chí có
cả các tảng đá lớn từ trên núi. Nhưng khi đến cửa sông, địa thế đột nhiên bằng
phẳng, bùn đất lắng đọng lại hai bên bờ, tích tụ dần thành những khu vực đất
đai màu mỡ.
Đa số các dòng nước ấy không đủ mạnh để chảy ra biển, mà chỉ chảy một đoạn rồi
thấm vào đất cát thành các mạch nước ngầm. Ở hai vùng bờ sông, gần các mạch
nước ngầm, cây cối mọc lên xanh tươi. Đó chính là các ốc đảo.
142. Sương muối hình thành như thế nào?
Những đêm giá rét, bầu trời đầy trăng sao, không hề có gió lay động những ngọn
lá. Sáng dậy ra ngoài cửa thấy khắp trên các ngọn cỏ, mái nhà, thậm chí là cả ở
dưới mặt viên ngói phủ đầy sương muối trắng muốt. Người ta gọi tiết đó là
“sương giáng”, nghĩa là “sương muối rơi”. Nhưng thật ra, chưa ai thấy sương
muối “rơi” bao giờ…
Giở quyển lịch ra xem thấy hàng năm, vào tầm hạ tuần tháng 10 luôn có một tiết
gọi là “sương giáng”.
Ban ngày, mặt đất nhận được ánh sáng Mặt trời, nhiệt độ tăng cao hơn, làm cho
nước ở đó không ngừng bốc hơi, khiến lớp không khí sát mặt đất lúc nào cũng có
lượng hơi nước nhất định.
Sang cuối thu, trong mùa Đông và đầu mùa Xuân, vào những đêm tiết trời rất giá
rét, nhất là vào những đêm không có mây, gió. Khí lạnh đọng lại sát mặt đất,
khi tiếp xúc với những vật thể có nhiệt độ lạnh dưới 0 độ C thì một phần hơi
nước sẽ bám vào bề mặt vật đó mà ngưng kết thành tinh thể băng nhỏ. Đó chính là
sương muối.
Vì sương muối là hơi nước ở sát mặt đất ngưng kết thành những tinh thể băng nhỏ
nên nó không thể là từ trên trời rơi xuống được. Khi ấy bắt gặp bất cứ nơi nào,
chỉ cần đủ điều kiện là nó ngưng kết lại đó. Do vậy đôi khi chúng ta có thể
phát hiện sương muối đọng ở cả mặt dưới viên ngói hoặc hòn gạch… Có lẽ cái từ
“sương giáng” cũng cần phải sửa lại cho chính xác. Nhưng vì cái tên này đã được
dùng quen, truyền từ bao đời nay, nên để nguyên cũng chẳng sao, miễn là bạn
hiểu chính xác nguyên lý tạo ra nó.
Không phải chỗ nào cũng có
Đối với các vật thể để ngoài trời ban đêm giá rét, mỗi vật lại có điều kiện
ngưng kết sương muối khác nhau. Như đồ sắt chẳng hạn, do ti nhiệt thấp, sau khi
khuyếch tán nhiệt lượng rất dễ trở nên lạnh giá, nên dễ dàng xuất hiện sương
muối.
Gạch ngói do có nhiều lỗ xốp nhỏ, sự cách nhiệt giữa các bộ phận của chúng là
rất tốt nên một khi đã bị lạnh rồi chúng sẽ khó nóng lên bởi nhiệt độ từ chỗ
khác truyền tới. Trong thời tiết giá rét, đó cũng là vật để đọng sương muối. Lá
cỏ cây vì mỏng lại có cả hai mặt cùng tản nhiệt nên cũng dễ làm lạnh, có đủ
điều kiện để xuất hiện sương muối. Đất ruộng chỗ đã cày tơi so với chỗ chưa
được cày cũng vì độ dẫn nhiệt khác nhau mà điều kiện ngưng kết sương muối cũng
khác nhau, vì thế sương muối thường xuất hiện ở những chỗ đã được cày trước rồi
sau đó mới có ở những chỗ chưa được cày.
143. Tiếng hát từ sa mạc do đâu?
Cách đây 1.200 năm, nhiều văn bản của Trung Quốc đã tường thuật về những âm
thanh quái lạ được phát ra từ sa mạc Gobi hoang vắng mênh mông của xứ Mông Cổ.
Sa mạc Đơn Hoàng của Trung Quốc cũng có những âm thanh lạ lùng, khi thì giống
tiếng nhạc, tiếng hát, có lúc lại giống tiếng trống, tiếng sấm…
Đến nay, theo các nhà nghiên cứu, trên thế giới có khoảng 30 sa mạc biết “hát”
ở châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Những tiếng vọng này có nhiều âm điệu khác nhau,
chưa thống kê được loại âm điệu nào có nhiều hơn, vì vậy các nhà nghiên cứu khi
thì gọi là tiếng hát, khi thì gọi là âm vang, tiếng rền… Nhưng nói chung, gọi
là tiếng “hát” thì nhiều hơn. Nhưng điều gì đã tạo nên những tiếng “hát” này?
Từ một thế kỷ nay, các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra nhiều lời giải thích về
hiện tượng “sa mạc phát âm” này. Qua nhiều so sánh nghiên cứu tính chất những
loại cát tại sa mạc phát âm và loại cát tại sa mạc không phát âm, các nhà khoa
học đã đưa ra giả thiết rằng hạt cát là nguyên nhân tạo nên âm thanh. Ngay khi
dẫm chân đi trên bãi biển, bạn có thể nghe được những âm thanh nho nhỏ.
Đặc điểm của những hạt cát sa mạc phát âm:
- Kích thước của chúng đều nhau, bình quân một hạt cát có 0,3 mm đường kính
- Bề mặt của những hạt cát này không hoàn toàn tròn trịa, trơn láng.
- Độ ẩm của cát rất thấp. Nếu độ ẩm lên cao đến một mức nào đó, cát sẽ không
“hát” được nữa.
- Cung bậc âm thanh có tần số từ 50 đến 300 Hz. Vì vậy, người ta có thể nghe
được nhiều loại âm thanh khác nhau như tiếng nhạc, tiếng hát, tiếng trống,
tiếng sấm rền, có khi lại giống như tiếng những binh khí va chạm.
Các loại cát biết hát có tỷ lệ silic lên đến 95%. Các loại cát “câm” có tỷ lệ
50% silic lẫn vào các chất khoáng khác.
Nhiều tác động tạo nên âm thanh của sa mạc
Độ ẩm: Ban đêm cát giữ độ ẩm, kết dính hạt cát này với hạt cát khác. Sự kết
dính này chỉ là tạm thời. Gió nóng thổi xuyên qua các lớp cát phủ làm khô chúng
đi và rung động đồng loạt. Sự kết hợp các dao động trong không khí và trong cát
tạo thành những âm thanh kỳ lạ. Tuỳ loại cát, tuỳ sức gió mà có những loại âm
thanh khác nhau.
Sức gió: Vai trò của gió cũng không kém phần quan trọng. Vận tốc gió phải từ 22
km / giờ trở lên. Ở vận tốc chuẩn này, những hạt cát trong đụn cát bắt đầu bị
rung động và nảy lên hàng loạt. Đến khi gió tăng vận tốc, các hạt cát va chạm
vào nhau mạnh hơn làm thay đổi hình dạng của đụn cát. Khi đụn cát có độ dốc 25
độ theo hướng nghịch với hướng gió thổi, mỗi khi rung động sẽ gây nên hiện
tượng cát lở, tạo ra những âm thanh vang dội.
Trong khi cát lở, tuỳ theo sức gió và kích thước của hạt cát, khối không khí
xen kẽ có thể tăng giảm tạo nên những âm thanh cao thấp trầm bổng khác nhau.
Mặt đất rung động: Nếu khối cát sạt lở là rất lớn, mặt đất sẽ bị rung động, làm
cho âm thanh từ sa mạc thêm vang động, nghe được rất xa và lâu. Có trường hợp
âm thanh vang trong bán kính 10 km và lâu đến 5 phút.
144. Vì sao xương đầu lại có các đường nẻ?
Đúng là trên xương đầu người có các vết nứt ngoằn nghèo. Do một sự va chạm mạnh
nào đó khiến cho xương sọ vỡ ra, những mảnh vỡ bị tách ra theo hình dạng nhất
định, chúng vỡ theo một đường ngoằn nghèo. Thực ra không chỉ có xương đầu người
mới như vậy. Mèo, chó, trâu, ngựa mà xương đầu của các loài động vật đều có
đường nứt nẻ.
Trong chuyên môn, người ta gọi đường nứt nẻ này là các khe nối và các mảnh
xương đầu là bộ khung chủ yếu để bảo vệ đại não. Trẻ con từ khi ở trong bụng mẹ
cho đến khi ra đời, các đường nứt nẻ trên xương đầu của nó không ngừng thay
đổi, co dãn một cách linh hoạt để có thể dễ dàng ra khỏi sinh đạo của người mẹ.
Sau đó, tuỳ theo sự phát triển từng ngày của đại não, xương đầu từng lúc to
dần. Nhờ các đường nứt nẻ ở xương đầu mà việc đó sẽ được tiến triển rất thuận
lợi. Cho nên, các đường nứt nẻ ở trên đầu không phải là do vết thương gây nên
mà chính là hiện tượng tự nhiên. Chỉ có điều là trên đầu bạn có lớp thịt dày
bao bọc, lại có đầu tóc đen che phủ nên không nhìn thấy, sờ thấy các đường nứt
nẻ ấy.
145. Tại sao phụ nữ luôn ẵm con bằng tay trái?
Các nhà tâm lý học đã có được lời giải cho hiện tượng kỳ lạ này. Một nghiên cứu
mới cho thấy, não phải của phữ (quyết định hoạt động của nửa người bên trái)
kiểm soát thông tin về khuôn mặt. Vì thế, khi bế con bên trái, họ sẽ theo dõi được
tình trạng của trẻ tốt hơn.
Brenda Todd và Victoria Bourne, hai nhà tâm lý học tại Đại học Sussex (Anh), đã
tìm hiểu thói quen ẵm trẻ của 32 người thuận tay phải (12 người trong số đó là
đàn ông). Những người này cũng được kiểm tra xem họéd vùng não nào trong việc
đánh giá các khuôn mặt. Khi được yêu cầu giữ một đứa trẻ hay một con búp bê,
trong hai phần ba số trường hợp, người phụ nữ đều ẵm nó ở bên trái. Ở số đàn
ông thì lại không cho thấy sự chênh lệch này.
Các nhà nghiên cứu phát hiện thấy, những người phụ nữ ẵm trẻ bằng tay trái đã
sử dụng não phải trong việc xử lý thông tin về khuôn mặt. Trong khi đó ở nam
giới không hề tồn tại mối liên hệ này.
Các nhà khoa học cho rằng não phải của phụ nữ đã chuyên hoá để nhận biết chỉ những
thay đổi trên khuôn mặt và tình cảm với trẻ nhỏ. Điều đó có nghĩa là, thông tin
trong tầm nhìn bên trái của họ (chẳng hạn như khi phụ nữ ẵm trẻ ở bên trái) sẽ
đi thẳng vào bán cầu não phải. Như vậy, bế trẻ bên tay trái là vị trí tối ưu
giúp người mẹ đánh giá được tình trạng của con mình.
146. Văn hoá phục hưng ở châu Âu được bắt nguồn như thế nào?
Thế kỷ XIV và XV, châu Âu vẫn nằm dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của Giáo hội
Thiên chúa La Mã. Bất kể ai, chỉ cần hoài nghi Thượng đế, chỉ trích Giáo hoàng
hoặc trong tác phẩm có ý trái với “Kinh Thánh”, đều bị coi là “dị đoan”, và bị
bắt và chịu sự tra khảo nhục hình và bị đưa ra toà phán xử bị giam, trục xuất,
bị thiêu. Một số người chống lại chế độ chuyên chế phong kiến vạch trần những
chuyện đen tối trong Giáo hội kể cả một số nhà khoa học tiến bộ thời đó, đều bị
toà án dị đoan kết tội, phải chịu những nhục hình tàn bạo. Rất nhiều cuốn sách
và những công trình tiến bộ đã bị thiêu huỷ, cấm đoán. Sự tiến bộ của xã hội bị
trở ngại nghiêm trọng.
Nhưng cũng thời kỳ này, phương thức sản xuất tư bản cũng đã bắt đầu hình thành
và phát triển, nhất là ở các thành phố Bắc Italia giáp Địa Trung Hải như
Vơ-ni-dơ, Flo-ren-xơ, là những thành phố công nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp và ngân hàng phát triển. Giai cấp tư sản mới nổi, để bảo vệ quyền lợi chính
trị và kinh tế của họ, đã tiến hành đấu tranh với Giáo hội. Các nhà tư tưởng tư
sản chống thần học Thiên chúa giáo, giam cầm lòng người hàng ngàn năm nay, họ
phất cao ngọn cờ “Phục hưng” văn hoá cổ điển, nêu lên tư tưởng “nhân văn” tư
sản.
Đi tiên phong là phong trào văn nghệ “Phục hưng” được một số văn nghệ sỹ theo
chủ nghĩa nhân văn đề xướng ra. Tác phẩm của họ có đặc điểm dân tộc chống phong
kiến, chống thần học. Đan-tê, người được coi là “Đại thi hào đầu tiên của thời
đại mới”. Trong thi phẩm nổi tiếng “Thần khúc”, biểu hiện trào lưu tư tưởng
nhân văn sớm nhất. Ông đã đề xướng rằng “con người” là gốc của thế giới, lên án
Giáo hoàng và các thầy tu. Đan-tê đã bị Giáo hội trục xuất, sống cuộc đời lưu
vong nơi đất khách. Nhưng ông vẫn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi đối với Giáo
hội và Giáo hoàng. Sau Đan-tê còn có rất nhiều nhà thơ, nhà văn đã đứng lên đả
kích sự hủ bại của triều đình Giáo hội và sự sa đoạ của các thầy tu. Dưới sự nỗ
lực của nhiều nhà văn hoá, văn học nghệ thuật cận đại châu Âu đã có một nền
tảng vững chắc.
Trong thời kỳ này, khoa học tự nhiên cận đại cũng ra đời, chủ yếu thể hiện
trong thiên văn học, toán học và cơ học, trong đó thiên văn học mang một ý
nghĩa cạch thời đại.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và phát triển đã thúc đẩy sự tiến bộ cả khoa
học tự nhiên. Khoa học tự nhiên phát triển lại tăng thêm sức mạnh để tấn công
vào hệ thống thần học của đạo Thiên chúa.
Cô-pec-ních là nhà khoa học Ba Lan, khi còn trẻ chịu ảnh hưởng của tư tưởng
nhân văn. Trên cơ sở nghiên cứu nhiều năm về thiên văn học, quan sát các thiên
thể, ông đã viết “Thuyết vận hành các thiên thể”. Trong cuốn sách này, ông nêu
ra “Thuyết mặt trời trung tâm”, phủ định luận điệu trong “Kinh thánh” rằng:
“Thượng Đế đã tạo ra Mặt trời, Mặt trăng, bắt chúng chạy quanh Trái đất”, phủ
định thuyết Trái đất là trung tâm, lay đổ tận gốc vũ trụ quan thần học của
Thiên chúa giáo. Từ đó bắt đầu cuộc cách mạng trong thiên văn học, thay đổi về
căn bản cách nhìn của loài người đối với vũ trụ.
Nửa thế kỷ sau, triết gia người Ý, Brunô vì bảo vệ học thuyết của Cô-pec-nich
đã bị Giáo hội giam vào ngục tối 7 năm trời. Brunô kiên định lòng tin vào học
thuyết đó, từ chối thừa nhận sai lầm, ngày 8-2-1600, ông đã bị toà án dị đoan
tuyên án tử hình và thủ tiêu toàn bộ những tác phẩm của ông.
Sau khi Bruno chết dược 30 năm, tháng 2 năm 1633, Ga-li-lê_nhà khoa học người
Italia lại bị Giáo hội giam vào ngục tối. Ông đã tạo ra kính thiên văn để quan
sát vũ trụ và các thiên thể, và một lần nữa lại phủ định vũ trụ quan thần học.
Ông còn có những phát minh về toán học, vật lý khiến cho nhân loại có nhận thức
hoàn toàn mới về vũ trụ. Ông đã bị Giáo hội kết tội, bắt giam và tra tấn.
Trải qua mấy thế hệ đấu tranh và phải trả giá nặng nề, cuối cùng khoa học tự
nhiên đã thoát ra khỏi thần học, mạnh bước trên con đường tiến bộ.
Từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII đã xảy ra phong trào văn nghệ phục hưng ở nhiều
nước Tây Âu, đó là phong trào văn hoá của giai cấp tư sản, họ đã dùng sức mạnh
không gì lay chuyển nổi, phá vỡ những ràng buộc của sự chuyên chế về văn hoá thời
kỳ Trung cổ, làm tan rã nhanh chóng chế độ phong kiến đồi bại, mở ra một thời
kỳ mới giải phóng tư tưởng, phát triển văn nghệ và khoa học.
147. Tại sao khuy áo của người đàn ông thì ở bên phải còn của đàn bà thì ở
bên trái?
Nếu có hai bộ quần áo với màu sắc và kiểu dáng giống hệt nhau đặt cùng chỗ, vậy
làm sao có thể phân biệt chiếc nào là của nam, chiếc nào là của nữ?
Có lẽ điều mà nhiều người đầu tiên nghĩ đến là cần phải xem quần áo to hay nhỏ
(dài, ngắn, rộng, hẹp) và nếu nghĩ như thế thì chiếc lớn sẽ là của nam, chiếc
nhỏ sẽ là của nữ.
Tất nhiên các cách như thế để phân biệt phục trang của đàn ông và đàn bà thì
cũng có lí lẽ nhất định, song những người trong nghề sẽ dứt khoát chỉ xem vị
trí các khuyết áo. Nếu là áo của đàn ông thì khuyết áo sẽ ở tà áo bên trái, còn
khuy áo ở tà áo bên phải. Còn áo của đàn bà thì ngược lại, khuyết áo sẽ ở bên
phải và khuy áo ở bên trái.
Ở các nước phương Tây các khuy áo đầu tiên đã xuất hiện như những vật trang
sức. Đến khoảng thế kỷ XIII, các chi tiết trang sức ấy mới trở thành những khuy
áo thực sự và có mặt trên trang phục của nam giới cũng như nữ giới.
Theo truyền thuyết thì cánh đàn ông trong các gia đình quý tộc ở thời kỳ Trung
thế kỷ, bên lưng họ phải đeo kiếm, khi khuy áo đính ở bên phải, còn tà áo ở bên
trái không có gì, nếu dùng tay phải thì có thể rút kiếm ra ở bên trái mà không
vướng víu gì. Ngoài ra, ở châu Âu mùa đông rất lạnh, muốn bảo vệ bàn tay phải
cầm kiếm không bị lạnh giá, thì nếu khuyết áo ở bên tay trái, lúc ấy tay phải
sẽ có thể thọc vào trong tà áo để giữ được ấm áp.
Còn chuyện khuyết áo của phụ nữ ở bên phải, đó là do phụ nữ trong xã hội thượng
lưu thời bấy giờ, những khi mặc áo họ phải có đầy tớ gái giúp việc. Để thuận
tiện cho người đầy tớ gái có thể đứng đối diện với chủ mà dùng tay phải để cài
khuy áo, khuy áo tất nhiên phải đính trên tà áo bên trái, còn khuyết áo bên tà
áo phải.
Ngoài ra khi phụ nữ cho con bú, nói chung họ thường dùng tay bên phải khoẻ và
thuận hơn để ôm con, nếu khuy áo ở tà áo bên trái thì dùng tay trái dễ cởi áo
hơn.
Do các mục đích khác nhau trên đã hình thành kiểu bố trí khuy áo ở trên áo của
đàn ông và đàn bà có sự khác biệt một cách mặc định như vậy.
148. Tại sao khi tàu bè hạ thuỷ phải làm lễ đập chai rượu?
Khi có một chiếc tàu mới, người ta thường cử hành một nghi thức hạ thuỷ long
trọng: người chủ trì giơ cao một chai rượu sâm banh, cổ chai được buộc bằng một
sợi dây, sau đó người ấy dùng hết sức để đập chai rượu vào thành tàu cho vỡ để
rượu bắn ra tung toé. Sau đó chiếc tàu mới được từ từ trườn trên đòn trượt để
xuống nước và bắt đầu chuyến đi biển đầu tiên của nó.
Tương truyền nghi thức này có từ thời xa xưa ở phương Tây. Hồi ấy hàng hải là
một nghề cực kỳ nguy hiểm, thường xuyên xảy ra những vụ đắm tàu, người chết. Vì
chưa có vô tuyến điện, cho nên mỗi khi gặp tai nạn. người trên tàu chỉ còn có
thể viết giấy báo nạn, rồi bỏ vào một cái chai, đậy kín lại và ném xuống biển,
để nó trôi đi đâu thì trôi, hy vọng rằng cái chai sẽ trôi qua một chiếc tàu
khác hay dạt vào bờ biển, được người ta nhìn thấy rồi nhờ đó mà sẽ có tàu tới
cứu.
Người phương Tây vốn thích uống rượu sâm bank, vì thế khi ném chai rượu xuống
thường là rượu sâm banh. Trong thời kỳ kỹ thuật hàng hải còn rất lạc hậu, mỗi
khi gặp nạn trên biển người ta rất khó cứu nhau, vì thế các thuyền viên ném
chai rượu sâm banh xuống nước nói rằng mình đã bị tai nạn và có thể tử vong.
Tất nhiên gia đình của các thuyền viên cũng muốn tìm thấy các chai rượu như
thế, cho nên họ mong muốn giải trừ những điều bất hạnh và nỗi lo sợ như vậy,
mỗi khi hạ thuỷ một chiếc tàu mới, người ta đập chai sâm banh vào mũi tàu với
mong muốn con tàu ra đi sẽ được thuận buồm xuôi gió, vạn sự may mắn.
Nhưng vẫn còn một cách giải thích khác nữa.
Tương truyền trong thời cổ xưa người ta cho rằng công việc đi biển là cực kỳ
nguy hiểm, cho nên để tiêu trừ các mối nguy hiểm này, người ta thường trói một
nô lệ vào bên dưới thân tàu mới, để khi con tàu trượt qua thân thể người nô lệ
và máu của người này sẽ thay lời cầu Thượng Đế bảo hộ. Nhưng về sau người Hy
Lạp đã không còn thực hiện tập tục dã man này nữa, vì thế người ta đã dùng rượu
để thay cho máu người nô lệ, như vậy nghi lễ hạ thuỷ con tàu mới vẫn còn giữ
được cho đến ngày nay với động tác đập chai rượu vào thành tàu.
149. Tại sao người Trung Quốc thường dùng số 5 và số 10 để nói lên sự viên
mãn?
Trong tiếng Hán
có nhiều từ ngữ được đặt với hai chữ “ngũ” (năm) và “thập” (mười). Các từ ngữ
này thường nói lên ý nghĩa “toàn bộ” hoặc “viên mãn” (trọn vẹn). Thí dụ:
- “Ngũ vị” (năm mùi vị)
- “Ngũ sắc(năm màu sắc)
- “Ngũ cốc phong đãng” thì nói lên một cách khái quát việc thu hoạch phong phú
tất cả các thứ lương thực dùng cho con người.
- Các dãy núi nổi tiếng nhất trong thiên hạ thì được gọi là “ngũ nhạc”
- Còn năm loại vật chất: kim, mộc, thủy, hoả, thổ được gọi là “ngũ hành”, tức
chỉ nguồn gốc của vạn vật trên trời đất.
Còn các từ dùng chữ “thập” để nói lên sự trọn bộ, toàn vẹn thì gồm có:
- “Thập toàn” (hoàn toàn trọn vẹn”
- “Thập mỹ” (hoàn toàn tốt đẹp)
- “Thập phân mãn ý” (mười phân vừa ý)
- “Thập ác bất xá” (tất cả các điều ác đều không tha)…
Thật ra các sự vật mà các từ ngữ này biểu thị trên thực tế có số lượng vượt xa
hơn “năm” và “mười” nhiều, thế thì tại sao người Trung Quốc thích dùng hai chữ
“ngũ” và “thập” để nói lên sự trọn vẹn đầy đủ? Điều này không thể tách rời khỏi
tập quán của người đời xưa dùng các ngón tay trên hai bàn tay của mình để tính
các con số.
Đời xưa con người sống trong các bộ lạc nguyên thuỷ, xã hội còn chưa có văn tự,
càng chưa có sự hiểu biết về các con số. Muốn tính số, người ta chỉ có thể dùng
các ngón tay trên hai bàn tay để so sánh, sau khi lần lượt so sánh hết các ngón
tay của mình rồi thì không có cách nào đếm thêm được nữa, một bàn tay chỉ có
năm ngón tay, hai bàn tay có tất cả mười ngón, vì thế sau khi đã đếm đến năm và
đến mười rồi thì coi là đã trọn vẹn và đầy đủ nhất. Thí dụ sau khi đi săn trở
về người ta giơ hai bàn tay ra để nói với những người khác rằng mình đã săn
được và mang về bao nhiêu vật săn, mọi người trông thấy thế rất vui mừng và
phấn khởi. Trên thực tế các con vật mà những người đi săn mang về thường có thể
nhiều hơn mười, nhưng họ vẫn chỉ có thể dùng hai bàn tay để biểu thị vì đó là
con số lớn nhất mà người ta có thể biểu đạt.
Như vậy năm và mười tự nhiên trở thành những con số trọn vẹn và đầy đủ.
Về sau văn hoá dần dần phát triển, người ta đã có văn tự và kiến thức về số
học, nhưng tập quán dùng năm và mười để biểu đạt sự trọn vẹn thì vẫn cứ được
lưu truyền từ đời này qua đời khác.
150. Tại sao trên lá cờ Olympic lại có năm vòng tròn?
Đại hội thể dục thể thao long trọng và có quy mô lớn nhất trên thế giới là Thế
vận hội Olympic. Mỗi khi khai mạc Thế vận hội Olympic, trên hội trường bao giờ
cũng phải kéo lên lá cờ Thế vận hội. Vì trên lá cờ này có in năm cái vòng, cho
nên nó cũng được gọi là cờ “năm vòng tròn”.
Lá cờ năm vòng tròn đã được thiết kế năm 1913, theo ý kiến của Chủ tịch Uỷ ban
Olympic Quốc tế, ông Cubectanh. Năm 1914, nó đã được sử dụng lần đầu tiên tại
Đại hội Đại biểu Olympic cử hành ở Paris, nước Pháp. Lá cờ Olympic làm bằng vải
màu trắng không viền, thêu năm vòng tròn với ba vòng bên trên màu xanh, đen,
đỏ, còn hai vòng bên dưới màu vàng và màu lục, lần lượt xếp từ trái sang phải.
Ông Cubectanh đã chọn năm màu này vì đây là màu quốc kỳ của các nước tham gia
cuộc vận động Olympic thời bấy giờ.
Về sau ngời ta lại có một cách giải thích khác về màu sắc của năm cái vòng, cho
rằng năm cái vòng này tượng trưng cho năm lục địa trên thế giới: màu xanh tượng
trưng cho châu Âu, màu vàng tượng trưng cho châu Á, màu đen tượng trưng cho
châu Phi, màu lục tượng trưng cho châu Đại Dương, còn màu đỏ tượng trưng cho
châu Mỹ.
Vì tính rằng người ta có thể có những cách giải thích khác nhau về lá cờ năm
cái vòng, cho nên năm 1979 tờ tạp chí Olympic, Uỷ ban Olympic Quốc tế đã chính
thức nêu rõ rằng dựa theo hiến chương Olympic, ý nghĩa của năm cái vòng này là
tượng trưng cho sự đoàn kết giữa năm lục địa, đồng thời tượng trưng cho tinh
thần thi đua công bằng thẳng thắn và hữu nghị giữa các vận động viên toàn thể
thế giới đến tập trung tại Thế vận hội Olympic.
Bắt đầu Thế vận hội Olympic lần thứ 7, khi khai mạc Thế vận hội Olympic, bao
giờ cũng cử hành nghi thức đại biểu thành phố chủ nhà của Thế vận hội lần này
đem lá cờ Olympic trao cho thị trưởng thành phố tổ chức Thế vận hội Olympic lần
sau. Tiếp đó thành phố này sẽ giữ lá cờ tại phòng chính của toà thị chính, rồi
bốn năm sau sẽ lại cử hành một nghi thức như thế.
151. Chỉ số Đao Giônx do đâu mà có
Những người quan tâm đến thị trường cổ phiếu đều biết tới chỉ số Đao Giônx, gọi
một cách đầy đủ là chỉ số bình quân cổ phiếu công nghiệp Đao Giônx. Nội dung
được công bố là chỉ số bình quân hơn 30 cổ phiếu công nghiệp của thị trường cổ
phiếu New York. Vì các cổ phiếu này là những cổ phiếu nóng được mua bán sôi nổi
nhất trong thị trường cổ phiếu, phản ảnh được xu thế hiện hành trên thị trường
cổ phiếu của nước Mỹ, cho nên chỉ số Đao Giônx đã trở thành tin tức thị trường
mà người ta không thể nào không quan tâm.
Chỉ số Đao Giônx là do Công ty Đao Giônx nhà xuất bản báo chí tài chính của
nước Mỹ, hàng ngày tính toán ra và công bố trên tờ Nhật báo phố Wall. Đao Giônx
là hai họ của hai người Mỹ gộp lại
Một người là
Tracđơ Đao, sinh năm 1851, đã từng là phóng viên biên tập của tờ Nhật báo Phố
Wall, ông này vốn có hứng thú đối với các tin tức kinh tế và tài chính. Trên cơ
sở chuyên tâm nghiên cứu, ông dã phát biểu rất nhiều bài về vấn đề này và trở
thành một phóng viên nổi tiếng của ngành tài chính.
Về sau ông ta làm quen với một người cũng làm về báo là Etuốt Giônx, rồi sau đó
hai người rất ý hợp tâm đầu. Năm 1882, hai người hợp tác thành lập công ty
chuyên công bố các tin tức kinh tế, tức là công ty Đao Giônx, chuyên môn sưu
tầm các tin tức về mặt tài chính và mậu dịch để công bố định kỳ.
Tracdơ Đao về sau trở thành tổng biên tập và người phát hành của tờ Nhật báo
Phố Wall. Ông đã nghiên cứu và dự toán các tin tức kinh tế một cách sâu sắc,
trở thành người đầu tiên dùng các con số thống kê để dự đoán về thị trường cổ
phiếu New York.
Năm 1897, công ty Đao Giônx lựa chọn 30 công ty công nghiệp có tính chất đại
biểu ở cơ sở giao dịch cổ phiếu New York, tính toán chỉ số bình quân trị giá
của các cổ phiếu ấy và đem công bố trên tờ Nhật báo phố Wall. Đó tức là nguồn
gốc chỉ số Đao Giônx, cho đến nay đã tồn tại được hơn 100 năm rồi.
152. Thế giới có bao nhiêu dân tộc?
Trung Quốc có 56 dân tộc. Có người cho rằng Trung Quốc có thể là quốc gia có
nhiều dân tộc nhất thế giới, kỳ thực không phải như thế. Ở châu Á, nếu tính các
quốc gia có hơn 50 dân tộc thì còn có Ấn Độ, Philippin, Indonesia. Nghe nói
Indonesia có 150 dân tộc. Quốc gia có nhiều dân tộc nhất thế giới là Nijenia,
có tới 250 dân tộc lớn nhỏ với hơn 80 triệu người, chiếm 1/8 tổng số dân tộc
trên thế giới.
Nói tóm lại trên thế giới có bao nhiêu dân tộc? Theo những thống kê chưa đầy
đủ, con số chừng 2000.
Số lượng nhân khẩu của các dân tộc trên thế giới khác nhau rất xa. Dân tộc lớn
nhất lên tới nghìn triệu, dân tộc nhỏ nhất chỉ có vài chục người. Bảy dân tộc
có tổng số nhân khẩu lên tới quá 100 triệu người là người Hán, người Inđuxtan,
người Mỹ người Bănggan, người Nga, người Nhật, người Braxin, 60 dân tộc có nhân
khẩu từ 10 triệu, 92 dân tộc có nhân khẩu từ mười vạn đến một triệu. Nhân khẩu
các dân tộc khác không có đủ mười vạn.
Tổng số các dân tộc ở châu Á là trên một nghìn, đại khái chiếm nửa tổng dân số
trên thế giới, châu Á là đại lục có nhiều dân tộc nhất trên thế giới, châu Âu
ước tính có 170 dân tộc, khoảng 20 quốc gia cơ bản chỉ có một dân tộc.
153. Dế có kêu bằng miệng không?
Buổi tối mùa thu, trong lùm cỏ, dưới góc tường thường phát ra tiếng tuýt tuýt
của con dế. Điều thú vị là tiếng kêu này không phải được phát ra từ miệng của
nó, mà thông qua sự ma sát lẫn nhau của đôi cánh của chúng.
Dế trưởng thành đều có hai đôi cánh. Cánh trước tương đối cứng, có tác dụng
phát ra tiếng kêu và bảo vệ cơ thể chúng. Cánh sau mềm có tác dụng bay lượn.
Cánh trước của dế đực thông thường có các loại gân cánh đan xen ngang dọc hoặc
song song, giữa gân cánh hình thành cửa sổ cánh trong suốt. Một đường gân của
hai cánh trước rất to, trở thành cơ quan phát âm của loài dế. Còn phía dưới gân
ngang của cánh phải trước có một loạt mấu răng cưa nổi lên, hình thành âm răng.
Khi dế đực kêu, âm răng của cánh phải trước và gân ngang của cánh trái trước
không ngừng cọ sát vào nhau, lôi kéo sự cộng hưởng của cửa sổ cánh trong suốt,
làm phát ra âm thanh (giống như chiếc cung của đàn violon không ngừng ma sát
vào dây đàn). Khi dế sống ở trong hang, khe gạch, kẽ đá, nhờ tác dụng phóng
thanh của nơi ở, tiếng kêu sẽ càng vang hơn.
154. Âm thanh trong phích nước từ đâu ra?
Ghé sát tai vào phích nước rỗng, bạn sẽ thấy âm thanh o o như là tiếng gió lùa.
Phích kín như vậy thì gió ở đâu ra nhỉ. Thực tế, đây chỉ là hiện tượng cộng
hưởng âm thanh bình thường, xảy ra với tất cả các dụng cụ chứa mà thôi.
Trước hết, ta hãy tìm hiểu hiện tượng cộng hưởng âm:
Sóng âm là sự thay đổi mật độ lúc đặc lúc loãng của không khí, được truyền đi
từ nguồn âm tới mọi hướng với tốc độ nhất định. Số lần biến đổi loãng - đặc
trong một giây gọi là tần số. Khoảng cách giữa hai phần đặc hoặc hai phần loãng
kề nhau gọi là bước sóng. Tần số của âm thanh càng cao, hoặc là bước sóng càng
ngắn thì âm thanh nghe được càng cao.
Nói chung, âm thanh là do vật dao động gây ra. Ví như khi đánh trống, do mặt
trống dao động lên xuống nên phát ra âm thanh trong không khí. Những vật thể
khác nhau khi dao động sẽ phát ra những âm thanh không cùng tần số.
Nếu hai vật thể phát ra âm thanh có cùng tần số và nằm ở gần nhau, thì khi để
cho một vật phát âm, vật kia cũng có thể phát âm theo. Hiện tượng này gọi là
cộng hưởng.
Điều thú vị là hầu như không khí (hay cột không khí) trong bất kì vật chứa nào
cũng đều có thể cộng hưởng với các vật phát âm. Đưa một vật phát âm tới gần
miệng một dụng cụ chứa, nếu tần số hoặc bước sóng của nguồn âm phù hợp với tần
số hoặc bước sóng riêng của cột không khí, thì cột không khí sẽ cộng hưởng ngay
(tức là nó dao động) và làm âm thanh lớn lên rất nhiều.
Theo các nhà nghiên cứu, chỉ cần bước sóng bằng bốn lần, hoặc ¾, 4/5 … độ dài
cột không khí, thì sau khi truyền vào dụng cụ chứa, nó sẽ gây ra cộng hưởng.
Chiều cao bên trong của phích thường khoảng 30 cm. Từ đó có thể tính được rằng,
khi những âm thanh có bước sóng là 120 cm, hoặc 40, 24 cm, …. truyền vào phích
thì đều có thể gây ra cộng hưởng.
Xung
quanh chung ta có đủ loại âm thanh to nhỏ. Chúng có thể đồng thời cộng hưởng
với cột khong khí trong phích tạo thành tiếng o o mà khi ghé tai vào ta sẽ nghe
thấy. Do cột không khí ngắn, nên bước sóng những âm thanh được cộng hưởng cũng
ngắn. Vì vậy, những âm o o phát ra từ một chai nhỏ sẽ nhọn và sắc hơn từ phích
phát ra.
Nếu bình chứa có chỗ hư hỏng khiến cho cột không khí không hoàn chỉnh thì âm
thanh cộng hưởng cũng bị thay đổi. Chính vì thế mà người ta thường thông qua
việc nghe các tiếng o o để kiểm tra xem phích nước có bị hỏng hay không.
155. Tại sao không nên uống nước đun
đi đun lại nhiều lần?
Đó là do trong nước thông thường có chứa các hàm lượng nhỏ nitrat và một số kim
loại nặng như chì, cadimium… Sau khi nước đun nóng trong thời gian dài, do quá
trình thuỷ phân không ngừng bốc hơi, nồng độ nitrat và các kim loại nặng trong
nước sẽ tăng lên. Nước đun sôi có chứa nhiều nitrat khi uống vào trong cơ thể
sẽ bị khử trở lại là muối nitric. Mà muối nitric sẽ làm hỏng công năng vận
chuyển dưỡng khí trong máu, làm cho tim đập nhanh, hô hấp khó khăn, nặng hơn có
thể ảnh hưởng, nguy hiểm đến tính mạng. Đồng thời, các kim loại có trong nước
đó cũng có hại đối với sức khoẻ con người.
Không nên uống nước lã, cũng không nên uống nước nước đun lại nhiều lần, vậy
uống nước tinh khiết hoặc nước cất liệu có vệ sinh không? Thực ra, trong nước
bình thường có chứa các nguyên tố như canxi, magiê… đều là những nguyên tố mà
cơ thể chúng ta cần, canxi chiếm khoảng 1,38% trọng lượng của cơ thể chúng ta,
nó là thành phần chủ yếu cấu tạo nên xương và răng, ngoài ra nó còn có tác dụng
duy trì sự co bóp của cơ tim và thúc đẩy quá trình đông máu… Magiê chiếm khoảng
0,04% trọng lượng cơ thể, trong đó 70% có trong xương, mỗi người một ngày cần
khoảng 0,3 – 0,5 gram magiê. Hai loại nguyên tố này một phần được hấp thụ khi
ta uống nước. Có thể thấy, chỉ uống nước tinh khiết và nước cất chưa chắc đã
tốt nhất.
Như vậy, uống nước như thế nào là thích hợp? Khi đun nước, khi nước trong ấm
đun bắt đầu sôi, như vậy nhiệt độ nước trong ấm đã đạt tới 100 độ C, các loại
vi khuẩn trong nước đã bị tiêu diệt. Nếu như mùi clo trong nước máy hơi nặng có
thể đun thêm 1 - 2 phút nữa. Nước được đun theo cách như vậy dùng để pha trà
hay nấu cơm có thể coi là thích hợp.
156. Hiệu ứng nhà kính là gì?
Mùa đông ở phía Bắc trời buốt giá, cây cỏ khô cằn. Nhưng trong nhà kính lại ấm
áp như mùa xuân, khắp nơi cây cỏ xanh tươi cảnh sắc rất sinh động. Đây là
nguyên nhân gì vậy? Thì ra kính có một đặc điểm đặc thù, nó có thể cho bức xạ
Mặt trời chiếu vào trong phòng kính, lại có thể ngăn ngừa bức xạ nóng trong nhà
kính lọt ra ngoài tạo ra bầu không khí trong nhà kính càng ngày càng ấm áp.
Trên thực tế, Trái đất ngày nay cũng đang trở thành “một nhà kính lớn”.
Trong không khí bao quanh Trái đất ngoài khí Nitơ, Oxi còn có rất nhiều khí
khác như Cacbonic, Mêtan, Clorua, Florua, hyđrocacbon, v.v… Những khí này có
tác dụng tương tự như kính, nó có thể làm cho bức xạ sóng ngắn của Mặt trời
chiếu qua. Như vậy ánh Mặt trời sẽ trực tiếp chiếu xuống mặt đất làm cho nhiệt
độ Trái đất tăng cao. Đồng thời những khí này lại có thể hút bức xạ nóng toả ra
từ mặt đất. Điều này nói lên năng lượng bức xạ vào thì dễ mà toả ra thì khó.
Hiện tượng này rất giống hiện tượng trong nhà kính. Con người đã gọi hiện tượng
này là hiệu ứng nhà kính, khí CO2 đóng vai trò chủ yếu, vai trò của các khí
khác chỉ chiếm khoảng 1/8.
Hiệu ứng nhà kính dẫn đến nhiệt độ Trái đất tăng cao. Tring thời gian từ năm
1850 đến năm 1988, nồng độ Cacbonic trong không khí đã tăng 25%. Thập kỷ 80 của
thế kỷ XX, nhiệt độ bình quân của Trái đất cao hơn 0,6 độ C so với thế kỷ
trước. Nếu nhiệt độ Trái đất tiếp tục tăng cao như hiện nay thì hệ sinh thái
của Trái đất sẽ mất thăng bằng và gây ra thiên tai.
157. Vì sao vận động viên leo núi
không được gào to?
Khi chinh phục các đỉnh núi thấp, bạn có thể hò reo hay thậm chí la ó, cái đó
chẳng ảnh hưởng gì. Nhưng đối với những ngọn núi cao phủ tuyết, hãy coi chừng
vì điều này cực kỳ nguy hiểm. Và nếu chịu khó quan sát, bạn sẽ thấy nói chung
các vận động viên đều chỉ im lặng, cắm cúi leo lên…
Trên núi cao, quanh năm tuyết không ngừng rơi và phủ trắng đỉnh núi. Cứ sau mỗi
lần tuyết rơi, tầng tuyết ở đây lại dày thêm một chút. Tầng tuyết càng dày, áp
lực mà tầng dưới phải chịu càng lớn, tuyết ở tầng dưới do vậy bị nén chặt lại
thành những tảng băng dạng tuyết.
Đồng thời tầng tuyết này cũng giống như một cái chăn phủ lên núi làm cho nhiệt
lượng ở tầng đáy không thoát đi được, vì thế nhiệt độ ở tầng đáy thường cao hơn
nhiệt độ ở tầng trên cùng từ 10 – 20 độ C. Do vậy, một phần băng tuyết ở tầng
đáy đã biến thành nước.
Lớp nước này có tính chất như lớp dầu nhờn, và tầng tuyết dày trở thành “một
đống sắt thép được bôi trơn” nằm nghiêng trên sườn núi, lúc nào cũng có thể trượt
xuống. Nếu một tảng đá lớn lăn qua hoặc một loại chấn động từ đâu truyền tới,
tầng tuyết này sẽ đùng đùng sụt lở toàn bộ xuống và vùi sâu tất cả các vật mà
nó gặp trên đường. Hiện tượng này gọi là tuyết lở.
Khi người ta gào to sẽ phát ra âm thanh có nhiều loại tần số khác nhau, rồi
thông qua không gian truyền tới tầng tuyết làm cho tầng tuyết bị chấn động. Nếu
như có tần số nào đó của âm thanh gần bằng với tần số dao động riêng của tầng
tuyết thì sẽ hình thành cộng hưởng, tầng tuyết có thể vì thế sẽ dao động dữ dội
mà sụt lở xuống. Điều này rất nguy hiểm đối với các vận động viên leo núi. Vì
vậy cấm gào thét to đã trở thành luật của các đội leo núi.
158. Vì sao thỏ màu trắng có mắt đỏ?
Lông của loại thỏ nhà có nhiều màu sắc. Mắt của chúng cũng vậy, cũng sặc sỡ đủ
kiểu và thường là giống với màu lông, như đỏ, xanh da trời, nâu chè, xám, đen,…
Sở dĩ mắt loài thỏ có các loại màu như vậy là do trong cơ thể chúng chứa các
loại sắc tố. Nhưng, thỏ trắng lại là một ngoại lệ.
Thỏ trắng có màu mắt đỏ rực. Vậy phải chăng cơ thể chúng chứa sắc tố màu đỏ?
Thì ra, giống thỏ trắng không có sắc tố, cho nên lông của nó có màu trắng. Ngay
chính nhãn cầu của mắt thỏ cũng không có màu. Cái màu đỏ trong mắt thỏ mà ta
nhìn thấy là màu máu trong nhãn cầu phản ánh ra ngoài, chứ không phải là màu
sắc của nhãn cầu.
159. Vì sao thềm miệng của ếch lúc
phồng lúc bẹp?
Chú ý quan sát những động vật lưỡng cư này, bạn sẽ thấy ngay thềm miệng của nó
phình ra co vào, giống như thể nó vừa chạy một đoạn đường rất dài rồi dừng lại
để thở.
Miệng ếch tuy rất rộng, nhưng ngoài việc đớp mồi ra thì rất ít khi nó mở miệng.
Lỗ mũi của ếch thông với xoang miệng. Khi ếch hít không khí từ mũi vào thì
miệng nó mím chặt, thềm miệng hạ xuống, miệng phình to chứa đầy không khí. Sau
khi khép lỗ mũi bằng van, thềm miệng của nó được nâng lên nhờ cơ gian hàm và cơ
gian móng, đẩy khí qua khe họng vào phổi, cũng giống như khi ta bơm hơi vào quả
bóng. Không khí vào phổi có chứa O2 (ôxy) sẽ tiến hành trao đổi với CO2
(cácboníc) trong máu trong vi huyết quản. Sau đó, sự co bóp của cơ bụng và sự
đàn hồi của thành phổi (làm cho phổi mở rộng trở lại trạng thái ban đầu) sẽ đem
lượng lớn khí CO2 trong phổi ép vào xoang miệng, rồi lại qua lỗ mũi. Như vậy,
thềm miệng cứ không ngừng lúc phồng lúc bẹp, giống như lồng ngực của chúng ta
lúc nâng lên lúc hạ xuống.
Ếch tuy giống người cũng thở bằng phổi, song phổi của ếch còn chưa phát triển,
cấu tạo rất đơn giản, chỉ là một đôi túi khí có vách ngăn ở trong thành nhiều
lỗ tổ ong. Lượng khí trao đổi ở đây cũng rất ít. Nếu ếch chỉ dựa vào lượng khí
mà phổi có được thì không thể nào đáp ứng đủ cho nhu cầu của cuộc sống, nên nó
phải bù đắp bằng sự hô hấp qua da.
Da của ếch thường tiết ra dịch dính, để duy trì trạng thái ẩm ướt giúp cho oxy
trong không khí bên ngoài và cacbonic trong máu trong vi huyết quản ở da của
ếch tiến hành trao đổi, nhằm bổ sung lượng hô hấp. Oxy mà ếch hô hấp qua da
chiếm khoảng trên dưới 40% tổng lượng oxy hô hấp.
160.Thuốc nổ được phát minh như thế
nào?
Thuốc nổ đen là loại thuốc nổ mà con người sử dụng sớm nhất, nó được người
Trung Quốc phát minh từ hơn 1000 năm trước. Tên của thuốc nổ đen có từ đâu ?
Nếu căn cứ vào tên để suy nghĩ thì thuốc nổ đen có lẽ là một loại nguyên liệu
thuốc màu đen có thể nổ phát ra lửa. Nhưng, thuốc nổ sao lại liên quan đến
nguyên liệu thuốc. Điều này phải bắt đầu từ những nhận thức ban đầu của con
người đối với thuốc nổ.
Trong thời kỳ cổ đại, ngay từ rất sớm con người đã lấy quặng nitratkali (diêm
tiêu) và lưu huỳnh để làm những nguyên liệu thuốc quan trọng rồi. Ví dụ như
trong “Thần nông bản thảo kinh” thời Hán quặng nitoratkali được liệt vào vị trí
số sáu trong các loại thuốc thương phẩm, nghe nói nó có thể chữa được hơn 20
loại bệnh, lưu huỳnh được liệt vào vị trí số 3 trong số các loại thuốc trung
phẩm, cũng có thể trị được hơn 10 loại bệnh. Hai loại nguyên liệu thuốc này
chính là những loại nguyên liệu chính để chế tạo thuốc nổ đen. Theo khảo chứng
thì loại thuốc nổ sớm nhất được ra đời từ tay một nhà luyện đơn. Ở thời cổ đại
, để thoả mãn ham muốn trường thọ bất lão của mình, các bậc đế vương phong kiến
đã chỉ định một nhóm thuật sĩ đốt lò để nghiên cứu và điều chế đơn dược. Các
thuật sĩ luyện đơn đã tiến hành các thí nghiệm như phân li, hoà tan, chưng cất,
thăng hoa, đốt… nhiều loại vật chất. Đây có lẽ là hình thức thí nghiệm hoá học
sớm nhất mà con người đã làm. Thuật luyện đơn tuy bắt nguồn từ mơ ước của các
bậc đế vương nhưng hoạt động thực tiến của nó lại có tác dụng thúc đẩy đối với
sự phát triển của khoa học. Một số tác phẩm nổi tiếng của các nhà luyện đơn
đựoc lưu truyền hậu thế đã thể hiện những nhận thức tạo nên vật chất của người
xưa. Thuốc nổ đen chính là một trong những ví dụ điển hình.
Những nhà luyện đơn Trung Quốc đã tiếp xúc với các vật chất như quặng
nitơratkali, lưu huỳnh và than gỗ từ rất sớm và nhận thức được rằng khi chúng
trộn lẫn cọ xát hoặc va đập với nhau thì thường sẽ xảy ra cháy có tính nổ. Nhà
luyện đơn thời Hán là Ngụy Bá Dương đã dùng lưu huỳnh để kiểm nghiệm quặng
nitơratkali là thật hay giả. Qua cọ xát mạnh, nếu đúng là quặng nitơratkali thì
gặp lưu huỳnh nó sẽ cháy rất nhanh. Nhà luyện đơn thời Nam Bắc triều Đào Hoằng
Cảnh cũng chỉ ra chính xác rằng, quặng nitơratkali gặp than gỗ đỏ và nóng sẽ
xảy ra cháy mang tính nổ. Trong những năm đầu của triều Đường trong cuốn sách
“Đan kinh” nhà luyện đơn Tôn Tư Mạo đã viết về cách lấy ba thứ là quặng
nitoratkali, lưu huỳnh và bột than trộn theo tỷ lệ nhất định thành thuốc nổ
đen.Từ đó có thể thấy rằng, lúc đó mọi người đã nắm được đầy đủ về cách chế tạo
và tính chất của thuốc nổ đen.
Trong những năm cuối triều Đường thuốc nổ đen bắt đầu được dùng vào lĩnh vực
quân sự, thành phần và tỷ lệ thuốc nổ cũng chính xác hơn, quặng nitoratkali
75%, bột than 15%, lưu huỳnh 10%. Đến triều Tống, quy mô sản xuất thuốc nổ liên
tục được mở rộng, đất nước còn thành lập các “công thành tác” (xưởng công binh)
trong đó có xưởng chuyên sản xuất thuốc nổ đen – lò luyện thuốc nổ, quy mô từ
mấy tấn đến mấy chục tấn một ngày. Năm thứ tư đời Bắc Tống (Năm 1040 Công
nguyên) trong “võ kinh tổng yếu” do Tăng Công Lượng biên soạn đã viết về cái
tên “thuốc nổ” và tỷ lệ điều chế có liên quan. Trong tỷ lệ điều chế, ngoài
quặng nitoratkali, lưu huỳnh , than ra còn có thêm các vật dễ cháy như axit sunfuric,
nhựa thông, sáp ong, sơn khô…
Khoảng đầu thời kỳ Nam Tống, việc chế tạo thuốc nổ đen được đưa vào trong dân
gian . Khi ăn Tết người dân đã dùng thuốc nổ đen để chế tạo pháo và pháo hoa để
đốt. Phong tục này còn được giữ cho đến ngày nay.
Thuốc nổ đen là một loại chất hỗn hợp: Quặng nitơratkali là chất oxy hoá sinh
ra oxy kích thích cháy, lưu huỳnh và than là những chất có thể cháy, khi cháy
kết hợp với oxy hoá sinh ra các thể khí như S02 , CO2. Nhiệt độ bốc cháy của
lưu huỳnh thấp hơn than làm cho thuốc nổ dễ cháy hơn, đồng thời lưu huỳnh còn
kiêm luôn vai trò làm chất kết dính nữa. Thuốc nổ đen khi cháy có thể sinh ra
một lượng lớn nhiệt và khí lớn, làm cho không khí xung quanh dãn nở nhanh mạnh,
đột ngột tạo ra hiện tượng nổ.
Thuốc nổ là một trong những phát minh lớn của Trung Quốc, sau đó truyền từ
Trung Quốc qua ẤN Độ, rồi xâm nhập vào vùng Ả Rập, rồi lại từ Arập qua các nước
như Tây Ban Nha để xâm nhập vào Châu Âu. Do đó Châu Âu xuất hiện thuốc nổ chậm
hơn Trung Quốc vài trăm năm. Việc phát minh ra thuốc nổ không những chấm dứt
thời kỳ chiến tranh lạnh về mặt quân sự mà còn phát huy được uy lực to lớn
trong việc xây dựng các công trình và trong sản xuất công nghiệp. Do đó, thuốc
nổ đen đựơc coi là mốc quan trọng trong lịch sử hoá học .
161. Làm thế nào để xác định được niên
đại của đồ gốm đã được khai quật?
Ở các nơi khai quật được đồ gốm thường có một ít mảnh gỗ bị than hóa hoặc một
ít tro than gỗ. Ngoài ra trong các ngôi mộ xây bằng vỏ sò thường có vỏ sò, khi
khai quật đồ gốm đồng thời cũng khai quật được một số xương động vật. Các nhà
khảo cổ có kinh nghiệm không chỉ đo và phát hiện lượng cacbon trong tro và các
mảnh gỗ có trong phần mộ mà còn đo hàm lượng các bon ở dạng hợp chất canxi
cácbon trong xương động vật và vỏ sò.
Trong hàm lượng cácbon có các nguyên tử các bon có nguyên tử lượng khác nhau
(các đồng vị các bon 12, 13, 14). Nguyên tử cacbon có khối lượng nguyên tử bằng
14 được gọi là đồng vị phóng xạ C14 . Các bon phóng xạ trải qua thời gian sẽ
dần dần biến thành nguyên tử nitơ. Thời gian để lượng nguyên tử các bon C14 còn
một nửa lượng ban đầu là 5730+40 năm (còn gọi là chu kỳ bán rã hay chu kỳ tán
huỷ). Do vậy chỉ cần đo tính phóng xạ của C14 có trong gỗ, trong vỏ sò khai
quật được, người ta có thể biết được niên đại cụ thể của chúng.
Ví dụ ở Nhật Bản , đồ gốm đào được ở huyện Catagawa có niên đại sớm nhất
9450+40 năm về trước, trước đây, người ta cho rằng dư chỉ ở huyện Shiba có niên
đại 5100+40 năm nhưng tính theo phương pháp đo cacbon phóng xa niên đại của dư
chỉ này là khoảng 1950 năm.
162. Tại sao mặt tiền các kiến trúc cổ
Trung Quốc thường có một đôi sư tử đá?
Trong số các di vật văn hoá thời cổ đại khai quật được ở Trung Quốc, dù là
ngọc, đồ gốm, đồ đất nung, đồ đồng thau, hay các bức vẽ, các bức điêu khắc trên
đá, chúng ta thấy các động vật được thể hiện chỉ có hổ, dê, chim, cá, bò, lợn,
hạc, hươu… Tất nhiên còn có rồng là con vật do con người tưởng tượng ra, nhưng
hình như không có di vật nào có hình sư tử.
Nguyên nhân của việc này rất đơn giản. Trung Quốc thời cổ không có sư tử, người
ta chưa biết đến sư tử, vì thế không thể khắc hoạ hình sư tử trong các tác phẩm
nghệ thuật.
Quê hương của loài sư tử là những vùng nhiệt đới ở châu Phi, ẤN ĐỘ… Sư tử Trung
Quốc chỉ có từ khi Hán Vũ Đế sai Trương Khiên đi sứ Tây Vực, được vua Tây Vực
tặng như một lễ vật quý báu để đưa về Trung Quốc.
Khoảng năm 125 sau Công nguyên, hoàng đế thứ bảy của nhà Đông Hán là Thuận Đế
Lưu Bảo lên ngôi. Quốc vương Sơ Lặc đất Tây Vực sai sử đem tới Lạc Dương tặng
Thuận Đế một cặp sư tử. Vị hoàng đế trẻ tuổi này rất thích nên đã di chiếu lại
rằng: sau khi trẫm băng hà, các khanh hãy dùng cặp sư tử này để canh lăng mộ
cho trẫm. Khi Thuận Đế Lưu Bảo qua đời, vì không có sư tử thật nên người ta
phải nghĩ cách tạc sư tử đá đặt ở trước lăng. Về sau, các quan lớn quyền quý
cũng bắt chước tạc sư tử đá để canh lăng mộ cho người chết.
Tượng sư tử đá có thể uy nghiêm, mạnh mẽ và đầy sức sống, đặc biệt khi được tạc
ở tư thế quỳ, hai chân trước đuổi, hai chân sau gập, ngực ưỡn, bụng thót, bờm
rủ, khắp mình bắp thịt nổi cuồn cuộn - tất cả tập trung thể hiện vẻ dũng mãnh
và sức mạnh của con sư tử. Hình tượng này cũng biểu hiện một cách khái quát thế
giới nội tâm và sự tìm kiếm về tinh thần của người thợ tạc hình sư tử.
Những người thợ khéo tay và thông minh thời cổ Trung Quốc, trong những trường
hợp khác nhau đã tạo ra những con sư tử đá với rất nhiều tư thế. Về sau chức
năng của sư tử đá từ chỗ bảo vệ người chết ở trước các lăng mộ đã chuyển thành
khả năng xua đuổi tà ma, tiêu trừ tai hoạ. Vì thế sư tử lại còn được đặt trước
các công trình kiến trúc tôn giáo như chùa chiền, miếu mạo… Ngoài ra chúng còn
xuất hiện như những hình tượng nghệ thuật trang trí thể hiện sự tốt lành, sinh
động trên các công trình kiến trúc như: cầu, từ đường, cung điện… trong đó nổi
tiếng nhất là có đôi sư tử đá trước Thiên An Môn Bắc Kinh. Thủ pháp điêu khắc
của cặp sư tử đá này theo lối tả thực tương đối, hình tượng tinh vi, uy nghiêm
hùng tráng được nhiều người ưa thích
163. Người nhảy dù rơi như thế nào?
Nhiều người thường nghĩ rằng,khi “rơi như hòn đá” mà không mở dù, thì người sẽ
bay xuống dưới với vận tốc tăng lên mãi, và thời gian của cú nhảy đường dài sẽ
ngắn hơn nhiều. Song, thực tế thì không phải như vậy.
Sức cản của không khí đã không cho vận tốc tăng mãi lên. Vận tốc của người nhảy
dù chỉ tăng lên trong vòng 10 giây đầu tiên, trên quãng đường mấy trăm mét đầu
tiên. Sức cản không khí tăng khi vận tốc tăng, mà lại tăng nhanh đến nỗi chẳng
mấy chốc vận tốc đã không thể tăng hơn được nữa. Chuyển động nhanh dần trở
thành chuyển động đều.
Tính toán cho thấy, sự rơi nhanh dần của người nhảy dù (khi không mở dù) chỉ
kéo dài trong 12 giây đầu tiên hay ít hơn một chút, tuỳ theo trọng lượng của
họ. Trong khoảng 10 giây đó, họ rơi được chừng 400 -500 mét và đạt được vận tốc
khoảng 50 mét/ giây. Và vận tốc này duy trì cho tới khi dù được mở.
Những giọt nước mưa cũng rơi tương tự như thế. Chỉ có khác là thời kỳ rơi đầu
tiên của giọt nước mưa (tức là thời kỳ vận tốc còn tăng) kéo dài chừng một
phút, thậm chí ít hơn nữa.
164. Tại sao trong không trung lại có hiện tượng bị mất
trọng lực?
Vạn
vật trên Trái đất đều chịu sức hút của Trái đất, và được gọi là trọng lực. Độ
lớn của trọng lực giảm dần cùng với sự tăng lên của độ cao. Các tàu vũ trụ
trong lúc bay xung quanh Trái đất hoặc trên quỹ đạo giữ các hành tinh , chúng
thường cách xa quả đất và tinh cầu khác, tự nhiên sẽ ở vào trạng thái mất trọng
lực, đây chính là hiện tượng mất trọng lực. Đương nhiên, mất trọng lực không
phải là tuyện đối ko có trọng lực, chỉ có điều là trọng lực rất ít, cho nên mất
trọng lực còn thường được gọi là trọng lực yếu.
Hiện tượng mất trọng lực chính là một đặc tính vô cùng quan trọng của môi
trường trong vũ trụ.
Trong trạng thái mất trọng lực, cơ thể con người và các vật thể khác sẽ có thể
bay lên dù chỉ cần chịu tác động của một lực rất nhỏ. Lợi dụng hiện tượng này,
người ta có thể tiến hành gia công một số nguyên liệu và nghiên cứu khoa học mà
khó lòng có thể thực hiện được trên mặt đất, ví dụ như sản xuất silíc đơn tinh
thể độ thuần cao, chế tạo hợp kim siêu dẫn và kim loại siêu thuần, và chết tạo
các dược phẩm sinh vật đặc biệt v.v…
Mất trọng lực cũng mang lại những điều kiện thuận lợi cho việc lắp ráp kết cấu
hàng không to lớn (như trạm không gian, trạm điện dùng năng lượng Mặt trời
trong vũ trụ) trong vũ trụ.
Đương nhiên, mất trọng lượng cũng có những tác hại nhất định đối với con người,
chủ yếu là các nhà du hành vũ trụ thường mắc bệnh vận động vũ trụ. Đặc trưng
điển hình của bệnh này là sắc mặt nhợt nhạt, ra mồ hôi lạnh, đau bụng buồn nôn,
còn có lúc nước bọt tiết ra nhiều hơn bình thường, phần bụng phía trên khó
chịu, thèm ngủ, đau đầu, mất cảm giác ngon miệng, có ảo giác bồng bềnh. Bị mất
trọng lực trong thời gian dài còn có thể dẫn đến bệnh loãng xương và bắp thịt
teo lại. Để phòng trừ và giảm thiểu bệnh vận động vũ trụ, đầu tiên phải đẩy
mạnh việc luyện tập của các phi công trên mặt đất, tăng cường thể chất; Ngoài
ra phải coi trọng việc luyện tập thể dục trong vũ trụ , khi chúng ta được xem
các cảnh quay thực tế về hoạt động ở trong không trung, thường thường có thể
thấy, các nhà phi hành vũ trụ đang luyện tập cơ thể trên máy vận động.
165. Tại sao tàu ngầm có thể lặn xuống, nổi
lên?
Những con tàu bình thường chỉ có thể lướt trên mặt biển. Nhưng tàu ngầm vừa có
thể đi trên mặt nước lại vừa có thể lặn sâu xuống biển đi ngầm dưới nước. Ảo
thuật gì ở đây vậy? Bí mật nằm trong hai lớp vỏ của nó.
Bất kỳ vật thể nào ở trong nước, ngoài việc phải chịu tác dụng theo hướng thẳng
đứng xuống dưới, còn phải chịu lực nâng lên của nước. Lực nâng đó chính là sức
đẩy. Khi sức đẩy lớn hơn trọng lực, vật thể sẽ nổi lên mặt nước, khi sức đẩy
nhỏ hơn trọng lực, vật thể chìm xuống. Khi lực đẩy bằng hoặc chênh lệch rất ít
so với trọng lực, vật thể sẽ lơ lửng ở bất kỳ vị trí nào trong nước. Như vậy,
nếu điều chỉnh được độ chênh lệch giữa trọng lực và sức đẩy của tàu ngầm, ta có
thể điều khiển nó chìm xuống hay nổi lên dễ dàng.
Nhưng thân tàu ngầm là cố định ko thay đổi, nên sức đẩy mà nó chịu trong nước
là không thay đổi. Vì vậy, muốn điều chỉnh độ chênh lệch này, chỉ có thể thay
đổi trọng lượng bản thân tàu ngầm.
“Bí mật” trong hai lớp vỏ
Thân tàu ngầm được thiết kế gồm hai lớp vỏ trong và ngoài. Trong khoảng không
giữa hai lớp vỏ này chia thành một số khoang nước. Mỗi khoang nước đều lắp van dẫn
nước vào và van xả nước ra.
Tàu ngầm đang nổi trên mặt nước, muốn lặn xuống chỉ cần mở van dẫn nước để nước
biển nhanh chóng tràn đầy vào các khoang, lúc đó trọng lượng tàu ngầm sẽ tăng
lên. Và khi trọng lượng vượt quá sức đẩy thì tàu sẽ chìm.
Tàu ngầm đang lặn dưới nước, khi muốn nổi lên thì chỉ cần dùng van dẫn nước vào
rồi sau đó dùng không khí nén có áp lực cực lớn phun nước ở trong các khoang
chứa nước qua van xả chảy ra ngoài, lúc đó trọng lượng giảm, sức đẩy của tàu
ngầm lớn hơn trọng lực nên tàu nổi lên khỏi mặt nước.
Nếu tàu ngầm muốn chạy trong khoảng nước giữa mặt biển và đáy biển thì có thể
cho nước vào một phần khoang chứa nước hoặc xả một phần nước ở khoang chứa ra
nhằm điều tiết trọng lượng tàu ngầm, khiến cho trọng lượng bằng hoặc lớn hơn
sức đẩy một chút, lúc đó tàu ngầm có thể đi trong khu vực nước độ nông sâu khác
nhau.
166. Sương muối hình thành như thế
nào?
Những đêm giá rét, bầu trời đầy trăng sao, không hề có gió lay động những ngọn
lá. Sáng dậy ra ngoài cửa thấy khắp trên các ngọn cỏ, mái nhà, thậm chí là cả ở
dưới mặt viên ngói phủ đầy sương muối trắng muốt. Người ta gọi tiết đó là
“sương giáng”, nghĩa là “sương muối rơi”. Nhưng thật ra, chưa ai thấy sương
muối “rơi” bao giờ…
Giở quyển lịch ra xem thấy hàng năm, vào tầm hạ tuần tháng 10 luôn có một tiết
gọi là “sương giáng”.
Ban ngày, mặt đất nhận được ánh sáng Mặt trời, nhiệt độ tăng cao hơn, làm cho
nước ở đó không ngừng bốc hơi, khiến lớp không khí sát mặt đất lúc nào cũng có
lượng hơi nước nhất định.
Sang cuối thu, trong mùa Đông và đầu mùa Xuân, vào những đêm tiết trời rất giá
rét, nhất là vào những đêm không có mây, gió. Khí lạnh đọng lại sát mặt đất,
khi tiếp xúc với những vật thể có nhiệt độ lạnh dưới 0 độ C thì một phần hơi
nước sẽ bám vào bề mặt vật đó mà ngưng kết thành tinh thể băng nhỏ. Đó chính là
sương muối.
Vì sương muối là hơi nước ở sát mặt đất ngưng kết thành những tinh thể băng nhỏ
nên nó không thể là từ trên trời rơi xuống được. Khi ấy bắt gặp bất cứ nơi nào,
chỉ cần đủ điều kiện là nó ngưng kết lại đó. Do vậy đôi khi chúng ta có thể
phát hiện sương muối đọng ở cả mặt dưới viên ngói hoặc hòn gạch… Có lẽ cái từ
“sương giáng” cũng cần phải sửa lại cho chính xác. Nhưng vì cái tên này đã được
dùng quen, truyền từ bao đời nay, nên để nguyên cũng chẳng sao, miễn là bạn
hiểu chính xác nguyên lý tạo ra nó.
Không phải chỗ nào cũng có
Đối với các vật thể để ngoài trời ban đêm giá rét, mỗi vật lại có điều kiện
ngưng kết sương muối khác nhau. Như đồ sắt chẳng hạn, do ti nhiệt thấp, sau khi
khuyếch tán nhiệt lượng rất dễ trở nên lạnh giá, nên dễ dàng xuất hiện sương
muối.
Gạch ngói do có nhiều lỗ xốp nhỏ, sự cách nhiệt giữa các bộ phận của chúng là
rất tốt nên một khi đã bị lạnh rồi chúng sẽ khó nóng lên bởi nhiệt độ từ chỗ
khác truyền tới. Trong thời tiết giá rét, đó cũng là vật để đọng sương muối. Lá
cỏ cây vì mỏng lại có cả hai mặt cùng tản nhiệt nên cũng dễ làm lạnh, có đủ
điều kiện để xuất hiện sương muối. Đất ruộng chỗ đã cày tơi so với chỗ chưa
được cày cũng vì độ dẫn nhiệt khác nhau mà điều kiện ngưng kết sương muối cũng
khác nhau, vì thế sương muối thường xuất hiện ở những chỗ đã được cày trước rồi
sau đó mới có ở những chỗ chưa được cày.
167. Với nhiệt độ cao bao nhiêu thì
gây bỏng?
Mọi người đều biết, bỏng chỉ là loại vết thương cục bộ trên cơ thể con người do
nhiệt độ gây ra. Có nhiều loại vết bỏng, mức độ của các vết thương cũng không
giống nhau. Có ba loại nguyên nhân gây ra bỏng: một là vết bỏng do các chất khí
bốc cháy gây ra; hai là vết bỏng do lửa than cháy; ba là vết bỏng do nước sôi
hoặc một chất lỏng nóng nào đó gây nên.
Trong sinh hoạt hàng ngày người ta hay gặp vết bỏng do nước sôi gây nên. Cũng
là bị thương do bỏng, nhưng có nhữngvết bỏng khi lành thì không để lại dấu vế,
nhưng cũng có loại vết bỏng khi lành lại để lại dấu vết. Điều đó phụ thuộc vào
nhiệt độ của nước và cách chữa chạy sau khi bị bỏng.
Với nhiệt độ nước nhỏ hơn 60 độ C sau khi bị nhiễm da chỉ hơi bị đỏ mà không
gây nên vết phồng. Bị bỏng với nước sôi đến 110 độ C, chỗ vết thương giống như
thịt khi bị đốt. Khi bỏng ở nhiệt độ cao hơn 120 độ C thì chỗ bị bỏng sẽ bị vết
cháy đen. Nói chung, khi bị phồng da hoặc khi bị bỏng nặng sẽ có thể để lại
những vết sẹo trên da. Vì vậy, các bạn phải hết sức cẩn thận với nước sôi hoặc
các loại dầu mỡ khi đang nấu ở bếp.
168. Mắt thú ăn thịt khác mắt thú ăn
cỏ như thế nào?
Nếu để ý, bạn sẽ nhận thấy một hiện tượng rất thú vị. Với các loài thú ăn thịt
như sư tử, hổ, báo, chó sói…, mắt của chúng đều nằm phía trước phần mặt, còn vị
trí mắt của các loài thú ăn cỏ như trâu, ngựa, dê… lại ở hai bên.
Đây có phải là sự trung hợp ngẫu nhiên? Không phải, điều này có liên quan mật
thiết với phương thức sinh sống của chúng.
Các loài ăn thịt trong tự nhiên đều là những kẻ tấn công chủ động, và tích cực.
Một khi đã phát hiện thấy con mồi, chúng sẽ nhanh chóng truy đuổi. Trong quá
trình này, chúng không những cần cơ đùi khoẻ, một cái miệng rộng với hàm răng
sắc nhọn, mà còn phải dùng đến đôi mắt để quan sát chăm chú mục tiêu, ước lượng
chính xác khoảng cách. Chính vì thế, mắt ở phía trước mặt sẽ tạo thuận lợi cho
quá trình săn đuổi này.
Các loài động vật ăn cỏ lại không giống như vậy. Số phận của chúng là dễ trở
thành mồi ngon cho các loài ăn thịt bất cứ lúc nào. Vì thế, mắt hai bên sẽ tạo
ra tầm nhìn rộng rãi (có con tầm nhìn tới 360 độ), giúp chúng nhanh chóng phát
hiện ra kẻ địch và chạy trốn.
Vượn và khỉ tuy không hung dữ như các loài thú ăn thịt, nhưng cũng có mắt mọc ở
chính trước mặt. Đó là vì cấu trúc này có lợi cho chúng trong việc xác định
khoảng cách giữa các cành cây. Từ đó, chúng có thể nhanh chóng lẩn tránh kẻ
thù.
Gấu trúc tuy ăn lá tre, trúc nhưng lại có đôi mắt mọc ở phía trước. Đặc điểm
này là do chúng thừa kế được từ tổ tiên - những động vật chuyên ăn thịt.
169. Vì sao băng ở Nam Cực nhiều hơn ở
Bắc Cực?
Nam cực và Bắc cực đều là hai mỏm tận cùng của Trái đất, ở cùng một vĩ độ giống
nhau, thời gian chiếu và góc độ chiếu của Mặt trời cũng giống nhau, vậy mà
chúng lại khác nhau đến kỳ lạ. Nếu như lớp áo băng Nam cực dầy trung bình
khoảng 1.700 mét, thì ở cực Bắc, lớp vỏ lạnh giá này chỉ dày từ 2 đến 4 mét mà
thôi.
Vốn là vùng Nam cực có một màng lục địa rất lớn gọi là “đại lục thứ bảy” của
thế giới, có diện tích khoảng 14 triệu km2. Năng lượng giữ nhiệt của lục địa
rất kém, vì thế , nhiệt lượng thu được trong mùa hè bức xạ hết rất nhanh khiến
băng tích lại nhiều. Sông băng trên lục địa từ trên cao di động xuống bốn phía
bị vỡ thành nhiều tảng băng rất lớn ở trên bờ biển, trôi nổi trên đại dương bao
quanh lục địa, tạo nên những vật cản là những núi băng cao lớn.
Ngược lại, Bắc băng dương ở vùng Bắc cực có diện tích rất lớn khoảng 13,1 triệu
km2, nhưng chỉ toàn là nước. Nhiệt dung của nước lớn, có thể hấp thụ tương đối
nhiều nhiệt lượng nhưng rồi từ từ toả ra, nên băng ở đây ít hơn ở Nam cực. Hơn
nữa, tuyệt đại bộ phận băng lại tích tụ ở trên đảo Greenland.
Người ta đã tính được rằng diện tích băng che phủ trên toàn Trái đất là khoảng
gần 16 triệu km2, mà Nam cực chiếm tới 4/5. Tổng thể tích băng ở Nam cực ước
khoảng 26 triệu km3, còn ở Bắc cực chỉ bằng gần 1/10 mà thôi. Nếu toàn bộ băng
ở Nam cực tan hết thì mực nước biển trên thế giới sẽ dâng cao khoảng 70 mét.
170. Tại sao khi uống rượu người ta
thích chạm cốc?
Trong các bữa tiệc, yến hội người ta đều thích chạm cốc uống rượu để tăng thêm
không khí vui mừng, long trọng, nhưng chúng ta có biết nghi thức của tập quán
này bắt nguồn từ đâu?
Có người cho rằng tập quán chạm cốc uống rượu bắt đầu có từ thời La Mã cổ đại.
Khi đó để coi trọng sức mạnh, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ. Trước
khi vào cuộc các đấu sỹ thường uống rượu để tỏ lòng tôn trọng và khích lệ lẫn
nhau. Nhưng để đề phòng những kẻ có lòng dạ bất chính cho thuốc độc vào rượu
của đối phương, người ta nghĩ ra cách là trước khi vào đấu, hai đấu sĩ đều đổ
ít rượu trong cốc của mình vào cốc của đối phương, để cho thấy rằng trong việc
uống rượu không có sự gian trá. Trong khi thực hiện động tác này, hai chén rượu
tất nhien phải chạm vào nhau. Về sau nghi thức này dần dần trở thành một nghi
lễ trong các bữa tiệc.
Có quan điểm cho rằng tập quán chạm cốc khi uống rượu có từ thời đại cổ Hy Lạp.
Người Hy Lạp thời cổ đại vốn rất thích uống rượu. Người ta nghĩ rằng trong khi
uống rượu sẽ có rất nhiều bộ phận trong cơ thể con người có thể cùng tham gia
hưởng thụ hoạt động thú vị này. Mũi thì được ngửi mùi thơm của rượu, mắt thì
được ngắm màu sắc của rượu, lưỡi có thể thưởng thức vị ngon của rượu. Nhưng chỉ
hai tai là không được thưởng thức gì cả.
Vậy cho nên người ta đã bổ sung được sự thiếu sót này bằng cách: trước khi uống
rượu ta cho cốc chạm vào nhau, như thế tai sẽ được nghe thấy tiếng những cốc
rượu vang lên khi chạm vào nhau và cũng được hưởng cái lạc thú khi uống rượu.
Sau đó việc chạm cốc khi uống rượu đã trở thành phong tục tập quán.
171. Người ta đã bắt đầu dùng vết ngón tay để phá án từ
bao giờ?
Mùa hè năm 1892, tại một thị trấn nhỏ tên là Naykhơchia ở Ackhanghen đã xảy ra
một vụ giết người cực kỳ tàn ác. Một người đàn bà không có chồng tên là
Phranxixca đến báo cảnh sát rằng hai đứa con của chị ta, đứa trai sáu tuổi và
đứa gái bốn tuổi, đã bị kẻ nào đó dùng đá đập vỡ đầu chết trong nhà.
Theo lời khai của Phranxixca, có một người đàn ông trong thị trấn tên là
Velaxke có lần đã hỏi cưới chị nhưng bị chị cự tuyệt. Người đàn ông này đã doạ
giết hai đứa con của chị. Vào hôm xảy ra án mạng, khi đi về nhà Phranxixca thấy
Velaxke đang vội vã đi từ trong nhà mình ra.
Velaxke lập tức bị cảnh sát bắt giữ. Nhưng anh ta dứt khoát không thừa nhận đã
phạm tội và còn có bằng chứng đáng tin cậy xác nhận rằng lúc sự việc xảy ra đã
không có mặt ở hiện trường.
Viên cảnh sát trưởng đồn Lapulatha tên là Acphalayx cùng một cảnh sát viên khác
tên là Aochitixi xem xét lại hiện trường. Họ kiểm tra căn phòng xảy ra án mạng,
nhưng không tìm thấy một đầu mối nào cả. Chính lúc hai người thất vọng định ra
về thì cảnh sát trưởng nhìn trong dải ánh nắng chiếu trên khung cửa phòng có
vết máu màu nâu in hình một ngón tay.
Khi đó Acphalayx và Aochitixi đang cùng tìm hiểu sự khác nhau của các vết ngón
tay của người. Họ cưa lấy miếng gỗ in dấu ngón tay bằng máu mang về. Qua nghiên
cứu, họ phát hiện thấy đây là một vết ngón tay của con người. Cảnh sát trưởng
đã lấy vết ngón tay của nghi phạm là Velaxke để so sánh, nhưng không đúng. Sau
đó, ông ta lại gọi Phranxixca để kiểm tra, thì xảy ra một điều hết sức không
ngờ là vết ngón tay của Phranxixca lại hoàn toàn khớp với vết ngón tay tìm thấy
ở vết máu đọng trên khung cửa.
Phranxixca hết sức hoảng sợ đành thừa nhận do muốn kết hôn với người tình, mà
người tình lại thấy hai đứa trẻ này đáng ghét, nên đã xảy ra ác tâm tự tay giết
hai đứa con chính mình đẻ ra.
Vụ án
này đã cổ vũ Aochitixi, ông đã đem các kết quả nghiên cứu của mình viết luôn
thành một cuốn sách “Môn học nghiên cứu các vết ngón tay” để xuất bản. Còn cảnh
sát Ackhanghen cũng bắt đầu chính thức dùng vết ngón tay để giám định và phân
biệt nhân thân nhằm mục đích phá các vụ án.
Về sau những phương pháp này được cảnh sát khắp nơi trên thế giới áp dụng một
cách phổ biến để phá các vụ án. Ngành nghiên cứu dấu vân tay phát triển hơn,
người ta nhận thấy dấu vân tay của mọi người không giống nhau.
Hiện nay cảnh sát nhiều quốc gia đã lưu trữ vân tay của một số tội phạm trong
mạng điện tử. Khi điều tra phá án, chỉ cần đem những vết ngón tay lấy được trên
hiện trường so sánh với các vết ngón tay lưu trữ từ trước, thì có thể xác định
được có phải là kẻ có tội nào đã tái phạm hay không?
172. Dàn máy tính điện tử đầu tiên
trên thế giới được ra đời như thế nào ?
Năm 1943 trong thời
kỳ chiến tranh thế giới thứ hai. Bộ lục quân Mỹ yêu cầu trường đại học
Pennsylvania và phòng nghiên cứu đạn đạo Aderdeen mỗi ngày phải cung cấp sáu
biểu hoả lực. Với tốc độ máy tính thời đó quả là khó có thể hoàn thành nhiệm
vụ. Người phụ trách công việc đó là Godistein đã đề xuất ý kiến chỉ có chế tạo
ra máy tính điện tử mới có thể giải quyết được vấn đề này.
Qua gần ba năm nghiên cứu chế tạo, chiếc máy tính điện tử đầu tiên đã ra đời
mang tên ANIAC tại trường đại học Pennsylvania. Diện tích gian phòng đặt máy
tính là 170m2, bên trong máy gồm 18.800 bóng điện tử, 70.000 điện trở, 10.000
tụ điện, 1.500 bộ rơ le, tổng trọng lượng máy nặng 30 tấn, lượng điện tiêu hao
170KW với giá thành 480.000 USD.
Máy tính ENIA mỗi giây có thể giải được 5000 phép tính cộng trừ, 340 phép tính
nhân. Tốc độ tính toán như vậy là một điều tuyệt vời ở thời ấy. ENIA chính là
cơ sở, nền tảng cho loại máy tính điện tử hiện đại sau này.
173. Ông già Noel trong truyền thuyết
là ai?
Ngày 25 tháng Mười Hai mỗi năm là ngày lễ Noel. Hôm ấy ông già Noel sẽ tặng quà
cho các cháu nhỏ, đó là sự việc thích thú nhất đối với các cháu nhỏ trong lễ
Noel.
Ông già Noel trong truyền thuyết là một ông già có dáng vẻ rất nhân từ phúc
hậu. Chiếc mũ đỏ, bộ râu dài trắng như tuyết, trên mình mặc một chiếc áo khoác
có cổ lông màu trắng, lưng thắt chiếc dây lưng bằng da đen, chân đi đôi ủng.
Hàng năm, cứ đến đêm trước Noel, ông già Noel đi trên một chiếc xe trượt tuyết
có các chú hươu kéo từ phương Bắc tới, rồi vào từng nhà qua các ống khói để đem
quà Noel bỏ vào trong bít tất của các cháu nhỏ.
Người ta cho rằng ông già Noel là hoá thân của thánh Nicola ở thành Mila, Thổ
Nhĩ Kỳ.
Khi còn trẻ, thánh Nicola đã dùng những món tiền lớn được bố mẹ để lại mang đi
giúp đỡ người nghèo khổ. Ở quê ông có một cụ già có ba cô con gái, vì gia cảnh
bần hàn không có tiền làm lễ cưới, cho nên cả ba cô đều không thể đi lấy chồng
được. Sau khi biết chuyện này, thánh Nicola lén tới nhà cụ già, leo lên mái
nhà, tới ống khói và ném một túi tiền vàng nhỏ xuống, túi tiền rơi ngay vào
chiếc bít tất dài mà các cô gái treo trên vách bếp lò. Sau khi có được tiền, ba
cô gái đã có thể lấy chồng và có cuộc sống hạnh phúc.
Câu chuyện này đã được lưu truyền và về sau cứ đến lễ Noel, trước khi đi ngủ
các cháu nhỏ không quên đặt bít tất của mình bên cạnh giường để cụ già Noel bỏ
quà vào đó cho mình.
174. Tại sao Australia có tám thủ
tướng?
Australia nằm ở nam bán cầu, là một lục địa rộng lớn giữa Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương. Mãi đến thế kỷ XVIII, nơi này mới được các nhà thám hiểm châu Âu phát
hiện, vì thế cho nên đã có nhiều dân di cư từ các nước châu Âu liên tục kéo đến
lục địa này.
Vì lục điạ này có diện tích hết sức rộng lớn, dân di cư đã tập trung vào một số
điạ phương để khai phá. Họ phát triển nông nghiệp, mở hầm mỏ, mở mang buôn bán,
rồi dần dần hình thành các khu vực hành chính gọi là bang.
Lúc đầu các bang tồn tại độc lập, không có liên quan với nhau và đều có chính
phủ riêng. Nhưng về sau, thực dân Anh tuyên bố nắm chủ quyền Australia, đưa
quân đội đến cai trị sở tại, bắt nộp thuế và giở đủ trò áp bức.
Một thời gian dài dân chúng không còn chịu đựng được nữa, vì thế các bang quyết
định liên hợp lại để đối phó với thực dân Anh và đi đến thành lập một chính phủ
trung ương thống nhất.
Nhưng người Australia lo ngại rằng chính phủ liên hiệp trung ương này có quyền
lực quá lớn, có thể hạn chế quyền độc lập của các bang, gây tổn hại cho lợi ích
của họ. Vì thế họ lại đặt ra một số quy định rằng chính phủ trung ương thống
nhất chỉ quản những việc lớn của toàn cõi Australia, chẳng hạn như tổ chức quân
đội chống ngoại xâm, xây dựng đường sắt và với các công việc ngoại giao… còn
chính phủ bang vẫn tồn tại độc lập, sản xuất nông nghiệp và buôn bán hàng hoá,
mở trường quản lý giáo dục và quản lý y tế tại địa phương. Chính phủ bang được
dân trong bang bầu qua tuyển cử. Việc xây dựng chính quyền trung ương phải
thông qua ý kiến của chính phủ và dân các bang.
Do vậy, Australia có bảy bang, mỗi bang có một chính phủ và thủ tướng riêng của
mình, cộng thêm một thủ tướng trung ương nên toàn quốc có tám thủ tướng. Đó gọi
là thể chế liên bang. Trên thế giới hiện nay có nhiều quốc gia theo thể chế
liên bang như Mỹ, Brazil, New Zealand, Canada…
175. Tại sao xe tăng có thể xông vào
hàng rào điện cao thế?
Lưới điện cao thế là công sự phòng ngự mặt đất rất hữu hiệu, chặn đứng đòn tiến
công của bộ binh. Nhưng xe tăng - khối thép đồ sộ, vật dẫn điện rất tốt - lại
có thể ung dung húc đổ, dứt tung và lướt qua mạng hàng rào cao thế, mở đường
cho bộ binh tiến vào. Xe tăng có gì đặc biệt vậy?
Thực ra, “bản lĩnh” khác thường của xe tăng quyết định bởi đặc tính điện học
của vật dẫn. Vỏ và xích xe tăng đều chế tạo bằng thép, hai dải xích vừa rộng
vừa dài trờ thành điểm tiếp đất rất tốt, như vậy thân xe tăng trở thành khối
vật liệu dẫn điện rỗng ruột. Theo nguyên lý, “lồng kim loại” tĩnh điện trong
vật lý học, thì với một vật thể dẫn điện dạng rỗng có tiếp đất, điện trường bên
ngoài sẽ không gây ảnh hưởng đối với các vật thể trong khoang. Bởi vậy, khi xe
tăng tiếp cận hàng rào điện cao thế, vỏ thép của xe tăng sẽ phát huy tác dụng
“lồng kim loại” rất tốt, làm cho điện trường trong khoang xe giảm thiểu. Điện
trường này yếu tới mức cơ thể người có thể chịu đựng được, vì vậy mà pháo thủ
vẫn bình yên.
Khi xe tăng xô vào hàng rào điện cao thế, bởi điện trở của bản thân xe tăng rất
nhỏ, dòng điện cực mạnh truyền qua vỏ xe tăng, tạo nên những tia lửa điện chói
mắt, nhưng dòng điện này nhanh chóng truyền qua dải xích xe tăng chạy tuột
xuống đất. Còn điện trở của cơ thể người nếu so với điện trở của xe tăng thì
lớn hơn nhiều, nên dòng điện chạy qua cơ thể người ngồi bên trong là rất nhỏ.
Cường độ dòng điện này yếu đến mức cơ thể người không cảm thấy điều gì.
Điều này tương tự như hai mạch điện đấu song song (thân xe tăng và thân người)
mà một mạch trong đó (thân xe tăng) bị đoản mạnh, có dòng điện chạy qua khá
lớn, còn mạch kia (cơ thể người) có trị số dòng điện chạy qua là rất nhỏ.
Tuy nhiên, nếu xe thiết giáp bánh hơi chở quân mà bắt chước xe tăng bánh xích
lao vào hàng rào điện cao thế thì… nguy to.
176. Tại sao trong lễ sinh nhật người
ta phải thổi tắt nến?
Đến ngày sinh nhật của mình, các bạn nhỏ bao giờ cũng thích ngồi quây quần với
bố mẹ, họ hàng và bạn bè, rồi thổi tắt một số lượng nến bằng số tuổi của mình
cắm trên chiếc bánh gatô, đồng thời hát bài hát mừng sinh nhật hạnh phúc. Cuối
cùng chiếc bánh được cắt ra và chia cho mọi người.
Tập tục này đã nảy sinh sớm nhất ở nước Hy Lạp xưa. Trong thời cổ Hy Lạp, người
ta rất sùng bái nữ thần Mặt trăng là Actemix và mỗi năm đều phải kỷ niệm ngày
sinh của bà. Những ngày đó, trên bàn thờ người ta thường bày một cái bánh làm
từ trứng, bột mỳ và mật ong. Trên mặt bánh có cắm rất nhiều nến đốt sáng và
người ta cho rằng ánh sáng của các ngọn nến này tượng trưng cho ánh sáng lung
linh của Mặt trăng và như vậy người ta sẽ bày tỏ được lòng sùng kính của mình
với đối với vị nữ thần Mặt trăng.
Về sau mỗi khi làm lễ sinh nhật cho con mình người Hy Lạp cổ cũng thích bày
trên bàn một chiếc bánh gatô và trên chiếc bánh ấy người ta cũng thắp nhiều
ngọn nến nhỏ. Rồi sau đó lại có thêm động tác thổi tắt các ngọn nến.
Người ta tin rằng trong các ngọn nến được thắp sáng có một sức mạnh thần bí nào
đó và trong khi người được ăn mừng sinh nhật ôm ấp trong lòng ý nguyện của
người ấy sẽ được thực hiện.
Tập tục này được lưu truyền cho tới ngày nay và được phổ biến ở nhiều nước.
177. Ai là thần bảo hộ cho các di tích
cổ?
Thời gian tàn phá tất cả, kể cả những thứ tưởng như vĩnh cửu nhất - đá. Những
bức tượng đá, phù điêu, bia đá… trong các công trình kiến trúc cổ hùng vĩ cũng
cùng chung số phận. Năm này qua năm khác, mưa axit đang dần bào mòn, làm cho
chúng trở nên xấu xí và biến dạng hoàn toàn…
Biện pháp tốt nhất để bảo vệ các di tích loại này là phủ lên chúng một màng
mỏng trong suốt làm thành một lớp áo phòng hộ, nhưng chất liệu nào có thể đảm
nhiệm vai trò đó?
Lớp “áo giáp” silic
Yêu cầu đầu tiên của loại hợp chất này phải có độ ổn định rất cao, có tính kỵ
nước. Bản thân các chất này cũng phải không bị ngấm nước mới giữ được cho các
phù điêu, các công trình kiến trúc không bị nước gây tổn thất, phong hoá.
Các nhà hoá học phát hiện ra các hợp chất hữu cơ chứa silic có đủ các ưu điểm
đó. Những hợp chất này có tính ổn định phi thường. Thí nghiệm cho thấy chúng
chịu được sự lão hoá bởi chất khí, không hề biến đổi sau 18 tháng bị ánh sáng
Mặt trời chiếu vào, không bị dầu máy, dầu thực vật, axit cũng như kiềm ăn mòn.
Ngoài ra, chúng còn có tác dụng ngăn nước và chịu đựng nước rất tốt.
Nếu đem hợp chất hữu cơ chứa silic sơn lên các phù điêu, các tượng đá hay các
công trình kiến trúc một lớp mỏng, các giọt nước rơi trên bề mặt sẽ giống như
giọt nước rơi xuống mình vịt vậy, không hề ngấm vào bên trong. Lớp sơn bằng hợp
chất này sẽ phân cách bầu không khí xung quanh với công trình một cách hữu
hiệu, tránh tác dụng bào mòn các di tích của thiên nhiên. Một điều rất quan
trọng là các hợp chất hữu cơ chứa silic hoàn toàn trong suốt, cho phép giữ
nguyên diện mạo của di tích, vừa có tác dụng bảo hộ di tích, vừa có tác dụng
giúp cho du khách chiêm ngưỡng được các cổ vật đó.
“Chân dung” kẻ phá hoại
Trong tự nhiên luôn tồn tại một lượng nhỏ axit và các tác nhân có hại như lưu
huỳnh dioxide, nitơ oxit… Chúng tàn phá các công trình kiến trúc cổ, nhưng với
một tốc độ rất chậm, có thể tính tới hàng thế kỷ, hàng thiên niên kỷ. Nhưng
cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp ngày nay, sự tăng trưởng
không ngừng các hoạt động giao thông vận tải, các loại khí độc hại này được
thải ra ngày càng nhiều. Chúng kết hợp với hơi nước trong không khí tạo thành
các cơn mưa axit có tính ăn mòn cực lớn. Đây chính là mối đe doạ nghiêm trọng
tớ các công trình kiến trúc cổ bằng đá.
178. Tại sao lại xuất hiện virut máy
tính?
Virut máy tính không giống như virut trong cơ thể người, trên thực tế nó là một
số các trình tự có thể phá hoại hoạt động của máy tính. Nó do một số người nào
đó rất hiểu về các kiến thức máy tính nhưng thiếu đạo đức nghề nghiệp thiết lập
ra. Những người này hoặc là “đùa nghịch” để thể hiện “tài hoa” của mình, hoặc
là xuất phát từ những động cơ nào đó đã tạo ra các chương trình có virut rồi
truyền sang máy tính hoặc lưu giữ trong đĩa mềm. Khi máy tính vận hành các chương
trình này, trên màn hình máy tính sẽ xuất hiện các hình ảnh hay chữ viết không
bình thường, thậm chí có thể làm máy tính ngừng hoạt động hoặc mất đi nhiều số
liệu quan trọng, gây ra những tổn thất không thể ước tính được.
Nơi bắt nguồn của virut máy tính là nước Mỹ. Những năm 60 của thế kỷ 20, một số
nhân viên nghiên cứu khoa học của một công ty nào đó của Mỹ thường chơi “những
trò chơi” do họ tự sáng tạo ra ngoài giờ làm việc; mỗi người tạo ra một chương
trình nhỏ rồi truyền vào và vận hành trong máy tính để chúng đánh lẫn nhau nhằm
huỷ hoại chương trình của những người khác. Những chương trình này trên thực tế
chính là “hình mẫu bước đầu” của virut máy tính.
Virut máy tính đang lan ra khắp toàn cầu với tốc độ truyền rất nhanh vượt ra
ngoài dự tính của con người, đến nay đã phát hiện ra vài trăm loại virut, Trung
Quốc cũng không ngoại lệ. Sau khi phát hiện ra virut máy tính không lâu vào
tháng 04 năm 1984, nó đã lan truyền nhanh chóng và lặng lẽ ra mọi nơi ở Trung
Quốc; các loại virut khá lưu hành có tới không dưới 10 loại, như: virut tiêu
cầu, virut đại ma, virut thứ 6 màu đen, virut Pakistan, virus 2 chấm, virut sát
thủ đĩa từ, virut sinh sôi điên cuồng, virut CIH…
Virut máy tính thường có những đặc điểm dưới đây:
1. Tính phá hoại: Nó có thể sửa đổi chương trình bình thường, khả năng phá hoại
chương trình thông thường vốn có, thậm chí làm cho máy tính đưa ra những chẩn
đoán sai, tổn thất tạo ra thường vượt xa dự tính của con người. Ví dụ, ngày
03-11-1988, hệ thống mạng Internet trong mạng lưới máy tính lớn nhất nước Mỹ đã
bị các virut tấn công khiến cho 6,200 máy loại nhỏ, trạm làm việc đều nhiễm
virut, tổn thất về kinh tế lên tới 92 triệu USD.
2. Tính truyền nhiễm: Các chương trình có virut sẽ khôi phục lại trạng thái
bình thường, khiến cho chúng cũng bị nhiễm virut và không thể hoạt động bình
thường. Nếu bạn dùng đĩa mềm có nhiễm virut, máy tính của bạn sẽ bị các virut
xâm hại. Nếu một đĩa mềm không có virut mà sử dụng vào máy tính có virut thì
đĩa mềm này cũng sẽ bị nhiễm virut. Nếu một số máy tính liên kết với mạng, vậy
chỉ cần một chiếc có virut sẽ truyền sang các máy khác thông qua mạng.
3. Tính ẩn náu: Nó có thể ẩn trốn trong các chương trình vài ngày, vài tuần,
thậm chí là vài tháng, vài năm. Khi có “điều kiện tiếp xúc”, như đến một thời
gian dự định nào đó, một tài liệu đặc biệt sẽ xuất hiện, nó giống như “quả bom
hẹn giờ” gây ra nhiều khó khăn và uy hiếp hơn đối với máy tính.
Vì vậy có thể dễ dàng nhận thấy rằng, virut máy tính là một chương trình có
tính phá hoại, nó truyền và lan ra trong máy tính và giữa các máy tính với
nhau. Con người đã mượn danh từ “virut” trong vi sinh vật để gọi tên nó một
cách hình tượng, nhưng nó không truyền nhiễm sang cho con người.
179. Tại sao khi có gió lại thấy lạnh
hơn?
Chắc hẳn ai cũng biết rằng trời rét mà im gió thì dễ chịu hơn so với lúc có
gió. Nhưng, không phải tất cả mọi người đều biết nguyên nhân của hiện tượng ấy.
Chỉ các sinh vật mới cảm thấy giá buốt khi có gió, còn các vật vô sinh thì
không.
Chẳng hạn, nhiệt kế sẽ không hề tụt xuống khi để nó ra ngoài trời đang có lốc.
Trước hết, sở dĩ ta cảm thấy rét buốt trong những ngày đông có gió là vì nhiệt
từ mặt ta (và nói chung là từ toàn thân) tỏa ra lúc ấy nhiều hơn hẳn lúc trời
im gió. Khi đứng gió, lớp không khí bị thân thể ta làm nóng lên không được thay
thế nhanh bởi lớp không khí mới, còn lạnh. Còn khi gió mạnh, thì trong một
phút, càng có nhiều không khí đến tiếp xúc với da thịt ta và do đó thân thể ta
càng bị lấy đi nhiều nhiệt. Chỉ một điều đó thôi cũng đủ gây ra cảm giác lạnh.
Nhưng, hãy còn một nguyên nhân khác nữa. Da
chúng ta luôn luôn bốc hơi ẩm, ngay cả trong không khí lạnh cũng vậy. Để bốc
hơi cần phải có nhiệt lượng, nhiệt ấy lấy từ cơ thể chúng ta và từ lớp không
khí dính sát vào cơ thể chúng ta. Nếu không khí không lưu thông thì sự bốc hơi
tiến hành rất chậm, bởi vì lớp không khí tiếp xúc với da sẽ rất chóng no hơi
nước (bão hòa). Nhưng nếu không khí lưu thông và lớp khí tiếp xúc với da luôn
luôn đổi mới, thì sự bốc hơi lúc nào cũng tiến hành một cách mạnh mẽ, mà như
vậy cơ thể sẽ tiêu hao rất nhiều nhiệt.
Vậy tác dụng làm lạnh của gió lớn đến mức nào? Điều này phụ thuộc vào vận tốc
của gió và nhiệt độ của không khí. Nói chung, tác dụng ấy vượt xa mức mà mọi
người tưởng. Bạn hãy xem một ví dụ sau để có thể hình dung được nó: Giả sử
nhiệt độ của không khí là +4 độ C, nhưng không hề có gió. Trong điều kiện ấy,
nhiệt độ của da chúng ta là 31 độ C. Nếu bây giờ có một luồng gió nhẹ thổi qua,
vừa đủ lay động lá cờ nhưng chưa đủ làm rung chuyển lá cây (khoảng 2m/giây),
thì nhiệt độ da chúng ta giảm đi 7 độ C. Còn khi gió làm ngọn cờ phấp phới bay
(vận tốc 6m/giây) thì da chúng ta lạnh mất 22 độ C, nhiệt độ của da chỉ xuống
còn 9 độ C!
180. Đảo hình thành như thế nào?
Nằm xa lắc ngoài khơi, một hòn đảo xinh đẹp với cây cối xanh rờn nhưng cô độc
giữa bốn bề nước mênh mông. Cách nó hàng trăm km, một vòng tròn san hô trắng
muốt lằn trên nền đại dương xanh ngắt cũng đang một mình chống chọi với sóng
gió đại dương. Vì sao chúng lẻ loi vậy nhỉ?
Một số đảo vốn là bộ phận của lục địa. Do vỏ Trái đất vận động, giữa chúng và
lục địa xuất hiện dải đất đứt gãy chìm xuống do đó mà thành đảo ngăn cách với
lục địa bằng biển. Các đảo Đài Loan, Hải Nam ở Trung Quốc đều được hình thành
như vậy. Cũng có khi do sông băng tan, mực nước biển dâng lên làm nhấn chìn các
phần lõm ở bên bờ đại lục, chỉ còn lại một số vùng đất cao, đỉnh núi biến thành
đảo.
Ngày nay, người ta còn phát hiện được do chịu tác dụng của lực trường, lục địa
xảy ra những vết đứt gãy rất sâu, rất lớn và các vật chất trong lòng đất tràn
ra theo vết nứt hình thành đáy biển mới, có một số mảnh vỡ từ lục địa phân tách
tạo ra đảo ở cách xa lục địa. Theo nghiên cứu, hòn đảo lớn nhất thế giới Greenland
đã phân tách từ lục địa châu Âu.
Từ núi lửa
Trong biển cũng còn rất nhiều hòn đảo vốn không phải là lục địa, mà là do các
dung nham và vật chất vụn khác từ núi lửa phun ra tích tụ dưới đáy biển tạo
nên. Quần đảo Hawaii ở giữa Thái Bình Dương là một minh chứng điển hình. Chúng
là một dãy núi lửa nhô lên khỏi mặt nước.
Những đảo hình thành theo cách này nếu không có dung nham và các vật chất núi
lửa tiếp tục bồi đắp thì có thể bị sóng biển va đập mà sụt lở cho đến khi mất
hẳn dấu vết trên mặt biển. Tuổi thọ của chúng chỉ kéo dài vài năm thậm chí chỉ
mấy tháng. Nhưng nếu vật chất không ngừng phun ra và tích tụ lại làm cho các
đảo có thể tích tương đối lớn thì chúng có thể tồn tại lâu dài.
Đến san hô
San hô cũng là những người “thợ xây” đảo tích cực. Chúng tụ hợp lại với nhau,
tiết ra chất đá vôi, tạo nên những “cây” san hô không ngừng sinh sôi nảy nở.
Sóng gió có thể làm vỡ một bộ phận của chúng, nhưng những mảnh vụn đó lại lấp
đầy khoảng trống trong “rừng san hô” làm cho chúng càng thêm chắc chắn. Cùng
với xương của các sinh vật khác, chúng tích tụ lại thành những tảng đá ngầm và
hòn đảo mọc đứng thẳng trong biển. Mặc dù diện tích của các đảo san hô không
lớn, độ cao nhô lên mặt biển cũng có hạn, thường chỉ từ vài đến vài chục mét,
nhưng chúng vẫn có thể tồn tại vững vàng giữa đại dương.
San hô cư trú ở vùng nước biển ấm, trong và có hàm lượng muối thích hợp. Chúng
chỉ có thể sống ở những vùng nước nông, độ sâu vài chục mét. Chúng cần bám vào
đáy biển có đá để mọc lên, vì thế rất nhiều đảo san hô được phân bố tại đường
giáp giới với lục địa, như những đảo san hô ở bên bờ Đông Bắc Australia kéo dài
tới hơn 2.000 km. Ở những nơi biển sâu, san hô không thể sinh trưởng, nhưng ở
những nơi tồn tại núi lửa thì chúng có thể lấy núi lửa làm cơ sở, xoay quanh
núi lửa để sinh sôi. Nếu phần giữa của núi lửa chìm xuống nước mà san hô vẫn
tiếp tục sinh sôi hướng lên trên, một đảo san hô có hình vòng tròn mà ở giữa là
nước. Đó chính là các vòng tròn trắng đặc biệt trên biển
181. Tổng thống Mỹ có phải do nhân
dân Mỹ trực tiếp bầu ra hay không?
Chúng ta đọc báo thấy cứ bốn năm một lần, mỗi khi có đợt bầu cử Tổng thống thì
những ứng cử viên thuộc Đảng Dân chủ và Đản Cộng hoà đều phải tới các bang
trong toàn quốc để phát biểu vận động tranh cử, và cuối cùng còn phải có một
cuộc bỏ phiếu tuyển cử trong toàn quốc. Vì thế người ta cho rằng Tổng thống Mỹ
là nhân dân Mỹ trực tiếp bầu ra. Thực ra tình hình lại không phải như thế.
Theo một luật tuyển cử, cử tri Mỹ chỉ trực tiếp bầu ra hai loại người. Một là
nghị viện Quốc hội và hai là những người được gọi là người tuyển cử.
Nhân dân Mỹ bỏ phiếu trực tiếp bầu ra các nghị viên Quốc hội, tức là những
người tổ chức hình thành Quốc hội, Quốc hội này là một cơ cấu hoạt động thường
trực. Điều này có điểm giống như Đại hội Đại biểu Nhân dân của Trung Quốc,
nhưng giữa hai bên có một sự khác nhau về bản chất. Vì Quốc hội và Tổng thống
Mỹ có một mối quan hệ quyền lực song song, chế ước lẫn nhau, còn Đại hội Đại
biểu Nhân dân của Trung Quốc là cơ quan quyền lực tối cao của nhân dân toàn
quốc, chủ tịch quốc gia là do Đại hội Đại biểu Nhân dân của Trung Quốc bầu ra,
hai bên có mối quan hệ cấp trên cấp dưới.
Vì giữa Quốc hội và Tổng thống Mỹ có mối quan hệ đặc thù như vậy, cho nên đã có
một biện pháp khác để tuyển cử Tổng thống, đó tức là chế độ những người tuyển
cử.
Sau khi ứng cử viên hai đảng đã tranh cử xong, các bang dựa theo tỷ lệ nhân
khẩu, tổ chức các cử tri bỏ phiếu bầu ra một số người tuyển cử. Sau đó, những
người tuyển cử này (trong toàn quốc có khoảng hơn bốn trăm người) tổ chức một
đoàn tuyển cử tập trung tới Thủ đô Washington để bỏ phiếu Tổng thống.
Tuy nhiên, những người tuyển cử cũng không bỏ phiếu tuỳ theo ý nguyện bản thân
mình, họ phải dựa theo ý nguyện của cử tri trong bang của mình, trước hết phải
trình bày với cử tri là sẽ bỏ phiếu cho ai, sau đó mới đi Washington.
Nếu như người tuyển cử không muốn dựa theo ý muốn của cử tri để bầu phiếu thì
họ sẽ bị bãi miễn, vì thế phương pháp tuyển cử gián tiếp này mang tính sâu sát
rất cao, cho nên nó cũng gần như là tuyển cử trực tiếp.
Dù là những đại biểu được dân trực tiếp bầu ra, song những người tuyển cử sau
khi lựa chọn xong Tổng thống sẽ hết quyền lực và kết thúc sứ mệnh của họ
Tại sao trong quân đội Mỹ không có quân hàm nguyên soái? Dapan
Trong quân đội Mỹ, quân hàm cao nhất là đại tướng năm sao chứ không có quân hàm
nguyên soái. Trong cuộc Chiến tranh Thế giới II, một số tướng lĩnh có chiến
công cao nhất như Marshal Aixenhao… đến sau chiến tranh cũng chỉ được đại tướng
năm sao. Tại sao vậy?
Vốn là sau khi Chiến tranh Thế giới II kết thúc, ở nước Mỹ người ta cùng đã
từng dự tính phong cho một số tướng lĩnh cao cấp nổi tiếng nhất quân hàm nguyên
soái lục quân, thế nhưng các cơ quan hữu quan lại phát hiện thấy rằng danh từ
nguyên soái (Marshal) lại hoàn toàn giống như tên họ của tham mưu trưởng lục
quân Mỹ Marshal. Nếu được phong hàm nguyên soái thì nguyên soái Marshal gọi
theo tiếng Anh sẽ là Marshal Marshal nghe quá lạ tai.
Các cơ quan hữu quan cảm thấy vấn đề này rất khó khăn để giải quyết, cho nên
sau khi thảo luận nhiều lần đã trình bày với Tổng thống Rudơven. Cuối cùng
người ta thấy tốt nhất là không đặt hàm nguyên soái nữa. Do đó cấp tướng năm
sao đã trở thành quân hàm cao nhất trong quân đội Mỹ. Và những người như
Marshal cũng chỉ được phong quân hàm tướng năm sao.
Trong lịch sử nước Mỹ, đã nhiều người được phong hàm nguyên soái lục quân, đó
là Tổng thống đầu tiên Washington và Phanxing. Sau khi Phanxing qua đời thì
quân hàm nguyên soái không bao giờ được sử dụng nữa.
182. Có phải trẻ con ăn cá sẽ trở
nên ngốc nghếch?
Có một số người già nhìn thấy trẻ con ăn cá thì ngăn cản và nói rằng: “ăn cá sẽ
trở nên ngốc nghếch”. Kỳ thực cách nói này không có khoa học.
Từ xưa đến nay, cá chính là một loại thức ăn quan trọng của con người. Các loại
thức ăn dùng cá không những có vị tươi ngon, dinh dưỡng phong phú, cung cấp hàm
lượng dinh dưỡng nhiều. Nhìn từ tổng thể mà nói, hàm lượng protein trong cá có
thể đạt từ khoảng 15% đến 20%. Sau khi ăn vào trong bụng dễ được cơ thể người
hấp thụ và những thành phần hoá học của cơ bắp con người cho nên có lợi đối với
cơ thể khoẻ mạnh.
Trong cá còn có từ 5 đến 10% lượng mỡ có thể cung cấp năng lượng cho cơ thể.
Ngoài ra cá còn chứa các vật chất: đường vitamin, canxo, photpho… Lấy ví dụ
trong 500g cá hoa vàng, có chứa 81,5 gam protein, 44,5 gam mỡ, 15 gam đường, 5
mg canxi, 15,3 mg photpho, gần 10 mg các loại vitamin. Do vậy có thể thấy rằng:
thành phần dinh dưỡng của cá là rất cao.
Trẻ nhỏ đang ở vào thời kỳ sinh trưởng phát triển, trong thức ăn cần chú ý bổ
sung dinh dưỡng đầy đủ là vô cùng quan trọng, ăn một chút cá là có lợi đối với
cơ thể, không những không làm cho người ta ngốc đi ngược lại còn có thể nâng
cao sự phát triển của bộ não. Bởi vì protein, canxi, photpho, vitamin các loại
đều là vật chất cần thiết cho sự phát triển của bộ não.
Cá được nấu chín rất ngon, nhưng khi ăn nhất định cần nhai kỹ, hơn nữa không
nên ăn quá nhiều nếu không sẽ không tốt cho việc tiêu hoá.
183. Băng phẳng và băng mấp mô, thứ nào
trơn hơn?
Trên sàn nhà đánh thật bóng dễ trơn trượt hơn trên sàn nhà thường. Có lẽ trên
băng cũng giống thế mới phải, nghĩa là băng phẳng phải trơn hơn băng lồi lõm,
mấp mô. Nhưng thực tế lại trái với dự đoán đó.
Nếu có dịp kéo một xe trượt băng chở thật nặng qua mặt băng mấp mô, bạn sẽ thấy
chiếc xe nhẹ hơn đi trên mặt băng phẳng rất nhiều. Mặt băng mấp mô trơn hơn mặt
băng phẳng lỳ! Điều đó được giải thích như sau: Tính trơn của băng không phụ
thuộc vào sự bằng phẳng, mà hoàn toàn do một nguyên nhân khác. Đó là điểm nóng
chảy của băng giảm đi khi tăng áp suất.
Ta hãy phân tích xem có điều gì xảy ra khi trượt băng trên giày trượt hoặc bằng
xe trượt. Đứng trên giày trượt, chúng ta tựa trên một diện tích rất nhỏ, tổng
cộng chỉ độ mấy milimét vuông. Trọng lượng toàn thân ta nén cả trên cái diện
tích bé nhỏ ấy, tạo ra một lực rất lớn. Dưới áp suất lớn, băng tan ở nhiệt độ
thấp. Lúc ấy, giữa đế giày trượt và băng có một lớp nước mỏng. Thế là người
trượt băng đi được.
Và khi chân anh ta vừa di chuyển đến nơi khác, thì lập tức ở đó lại xảy ra hiện
tượng giống như trên, nghĩa là băng dưới chân anh ta biến thành một lớp nước
mỏng. Trong tất cả các vật tồn tại trong thiên nhiên, chỉ một mình băng có tính
chất ấy. Một nhà vật lý Xô Viết đã gọi nó là "vật trơn duy nhất trong
thiên nhiên". Những vật khác tuy bằng phẳng nhưng không trơn.
Bây giờ, ta trở lại vấn đề băng bằng phẳng và băng mấp mô, thứ nào trơn hơn.
Theo lý thuyết, cùng một vật đè nặng lên diện tích càng nhỏ, thì áp suất nó gây
ra càng mạnh. Vậy thì, người trượt băng sẽ tác dụng lên trên đế tựa một áp suất
lớn hơn khi đứng trên băng phẳng lỳ hay khi đứng trên băng mấp mô? Rõ ràng là
khi đứng trên băng mấp mô. Bởi vì ở đây, họ chỉ đè lên một diện tích rất nhỏ
chỗ nhô lên hay lồi ra của mặt băng mà thôi. Mà áp suất trên băng càng lớn, thì
băng tan càng nhanh, và do đó băng càng trơn (nếu đế giày đủ rộng).
Nếu đế hẹp thì những điều giải thích trên không thích hợp nữa. Vì trong trường
hợp đó, đế tựa sẽ khía sâu vào những chỗ băng nhô ra, và lúc này, năng lượng
chuyển động đã bị tiêu hao vào việc khía băng.
184. Tại sao Hitler sử dụng hình
chữ “Vạn” làm biểu tượng cho đảng Quốc Xã?
Trong thời kỳ nước Đức chịu quyền thống trị của Hitler, hình chữ “Vạn” ở đâu
cũng có, nó không những tượng trưng cho nền thống trị chuyên chế phát xít của
nước Đức theo đảng Quốc Xã, mà còn tạo ra những nỗi đau khổ vô tận cho nhân dân
Do Thái, cũng như nhân dân tất cả các nước bị nước Đức Quốc Xã xâm lược.
Chữ “Vạn” còn được gọi là chữ thập ngoặc. Nó đã có lịch sử rất xa xưa. Ngay từ
hơn bốn ngàn năm trước Công nguyên, hình chữ “Vạn” đã xuất hiện. Ở nước Ấn Độ
thời cổ đại, nó biểu hiện hạnh phúc tối cao. Ở Trung Quốc nó đã được lưu hành
hồi Võ Tắc Thiên năm chính quyền, bà đã định âm chữ này là “Vạn”. Trước thời
Hitler, một số người Đức đã từng sử dụng hình tượng trưng cho chữ “Vạn” này
rồi.
Mùa hè năm 1920, Hitler cảm thấy rằng Đảng Quốc Xã cần một biểu tượng tượng
trưng có thể thu phục được lòng người. Sau nhiều suy nghĩ, hắn thiết kế một lá
cờ với một vòng tròn trắng, ở giữa vẽ chữ “Vạn” màu đen và hắn đã cảm thấy hết
sức đắc ý về lá cờ này. Theo cách giải thích của hắn thì mầu đen tượng trưng
cho ý nghĩa xã hội trong cuộc vận động của bọn hắn, mầu trắng tượng trưng cho
tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, còn chữ Vạn thì tượng trưng cho sứ mệnh chiến thắng
của giống người Arian. Thực ra thì Hitler tuyên truyền cho chủ nghĩa chủng tộc
cực đoan, coi người Arian là chủng tộc cao quý nhất. Về sau dưới là cờ chữ
“Vạn”, đảng Quốc Xã đã không ngừng khuếch trương thế lực.
Đến năm 1933, đảng Quốc Xã lên chấp chính, chữ “Vạn” lại trở thành hình tượng
trưng cho nước Đức Quốc Xã, nhưng dưới con mắt của nhân dân thế giới, nó chỉ
tượng trưng cho tội ác mà thôi
185. Tại sao thiếu niên có tính khí
thất thường?
Nếu các cô, các cậu có độ tuổi 15 – 16 hay cáu gắt hoặc hay gây hấn với người
lớn, thì đó cũng là chuyện bình thường mà thôi, bởi vì ở độ tuổi đó, não bộ của
chúng có những thay đổi đặc biệt. Tại thuỳ thái dương, các tế bào não mọc ra
nhanh chóng, làm thay đổi tính khí của con người.
Đó là kết luận của Tiến sĩ Robert McGiver và cộng sự thuộc Đại học Quốc gia San
Diego (Mỹ).
Nhóm nghiên cứu của McGiver đã làm một thử nghiệm như sau: Họ cho mời một nhóm
gồm 20 đứa trẻ trong độ tuổi 11 – 18 và 20 người lớn tới một phòng rộng, rồi
cho những người này xem các bức chân dung khác nhau. Đó là các bức ảnh miêu tả
nhiều trạng thái cảm xúc của con người: giận dữ, hạnh phúc, vô cảm. Sau đó,
những người tham gia thí nghiệm được yêu cầu miêu tả các khuôn mặt trong ảnh.
Kết quả là, những đứa trẻ vị thành niên thường mắc sai lầm khi đưa ra kết luận
về cảm xúc của các khuôn mặt, trong khi người lớn lại nhận xét khá chính xác.
Theo các nhà nghiên cứu, chính sự thất thường về tính khí của trẻ vị thành niên
khiến chúng khó có thể ước đoàn được cảm xúc của người khác.
McGiver cho rằng, toàn bộ sự thất thường này của trẻ vị thành niên có liên quan
đến sự phát triển của các tế bào não ở thuỳ thái dương (một số nhà nghiên cứu
cho rằng, thuỳ thái dương chi phối các hành vi xã hội và ý thức đạo đức của con
người). Khu vực não này bắt đầu phình to ra khi trẻ bước vào lứa tuổi thiếu
niên, từ năm 11 đến năm 18 tuổi. Sau đó, não bộ sẽ được định hình, dẫn tới sự
định hình về tính cách của con người chúng ta.
186. Muỗi có khả năng phân biệt màu
sắc không?
Khả năng phân biệt màu sắc nằm ở đôi mắt của muỗi. Đôi mắt này rất to, nó chiếm
tới ¾ diện tích phần đầu, gồm nhiều mắt nhỏ ghép thành, gọi là “mắt ghép”. Mắt
muỗi không những phân biệt được các vật khác nhau mà còn có thể nhận biết màu
sắc và cường độ ánh sáng mạnh hay yếu.
Đa số các loài muỗi đều thích ánh sáng mờ; tối quá hoặc sáng quá đều không hợp
“gu” của chúng. Khi chúng ta mặc quần áo sẫm màu, ánh phản quang hơi tối rất
hợp với tập tính của muỗi. Ngược lại, quần áo màu trắng phản quang mạnh sẽ xua
đuổi muỗi tránh xa. Vì thế, người mặc quần áo sẫm màu dễ bị đốt nhiều hơn.
Đương nhiên do muỗi có nhiều loài khác nhau nên cường độ ánh sáng ưa thích của
mỗi loài khác nhau là không giống nhau. Ví dụ như phần lớn loài muỗi vằn thích
hoạt động ban ngày, còn các loài muỗi khác lại thích hoạt động vào lúc sẩm tối
hoặc rạng sáng. Nhưng dù là loài muỗi nào, chúng cũng đều lẩn tránh nơi có
cường độ ánh sáng cao. Ngay cả loài muỗi vằn thích hoạt động ban ngày thì cũng phải
sau 3 – 4 giờ chiều mới tung hoành.
187. Tại sao khi đón khách quý phải
bắn 21 phát pháo lễ?
Mỗi khi có vị nguyên thủ quốc gia của nước ngoài đến thăm thì nước chủ nhà bao
giờ cũng tiến hành bắn pháo để tỏ lòng hoan nghênh, việc này trở thành một nghi
lễ thông dụng trong quan hệ quốc tế. Nếu như chúng ta đếm số pháo đại bác bắn
thì đúng là 21 tiếng. Vậy thì nghi lễ bắn đại bác chào khách do đâu mà có?
Hơn 400 năm về trước, ở một số quốc gia châu Âu đã có tập quán bắn đại bác để
đón tiếp khách quý. Nhưng hồi ấy nghi thức này chỉ phổ biến trên các chiến hạm.
Khi chiến hạm của một nước tiến vào cảng của một nước khác thì các khẩu pháo
trên chiến hạm phải bắn cho hết đạn để tỏ rằng mình đến không có ý thù địch.
Xưa kia các chiến hạm có trọng tải nhẹ, số các khẩu pháo lắp trên tàu không thể
nhiều hơn bảy cỗ, hơn nữa chúng đều là loại lắp đạn từ đầu nòng, vì thế việc nổ
pháo rất tốn sức, chỉ có thể nổ từng khẩu và bảy khẩu pháo bắn xong hết thì
cũng không còn gì nữa. Còn trên các pháo đài của bến cảng thì chủ nhà bố trí
rất nhiều cỗ pháo, họ bắn ba phát để trả lời và hoan nghênh. Ba lần bảy là hai
mươi mốt, đó là nguồn gốc của 21 phát đại bác.
Về sau tập quán này đã dần dần biến thành một thông lệ quốc tế, hơn nữa nó
không bị hạn chế ở các trường hợp phải có hải quân tiến nhập cảng của nước khác
thì mới dùng. Trong các ngày lễ mững và các trường hợp đón tiếp khách quý, nghi
lễ này cũng được áp dụng.
Nhưng vẫn có một cách giải thích khác cho rằng nghi thức này bắt đầu từ nước
Anh. Trong hai thế kỷ XVII và XVIII, vương quốc Anh rất hùng mạnh và có nhiều
thuộc địa trên thế giới. Mỗi khi tàu chiến của nước Anh chạy qua hay tiến vào
pháo đài hoặc bến cảng của một nước thuộc địa thì họ yêu cầu đối phương phải nổ
21 phát đại bác để biểu thị lòng tôn kính và thần phục, còn các chiến hạm nước
Anh chỉ bắn có 7 phát để trả lời. Về sau nghi thức này được lan rộng ra các
nước khác trên thế giới, trở thành thông dụng trong những ngày lễ hay khi đón
tiếp nguyên thủ các quốc gia.
188. “Chiến tranh lạnh” là gì?
Sau khi Chiến tranh thế giới II kết thúc, trong tình hình chính trị thế giới đã
xảy ra một sự thay đổi rất lớn: phe tư bản chủ nghĩa phương Tây do các nước Mỹ,
Anh, Pháp đứng đầu và phe xã hội chủ nghĩa phương Đông do Liên Xô cũ đứng đầu,
vì có niềm tin chính trị khác nhau, cho nên có thái độ thù địch với nhau. Nhưng
sức mạnh quân sự của cả hai bên đều hết sức to lớn. Với vài triệu quân và vài
ngàn đầu đạn hạt nhân, nếu đem sức mạnh quân sự này ra sử dụng thì bên nào cũng
có thể tiêu diệt được đối phương đến vài lần, vì thế chẳng có ai dám sử dụng
sức mạnh quân sự để phát động chiến tranh. Tuy nhiên bên nào cũng muốn làm cho
đối phương bị suy yếu, đi tới tan vỡ, cho nên tất cả các thủ đoạn bên ngoài
phạm vi quân sự đều được sử dụng.
Các thủ đoạn này bao gồm: phong toả kinh tế, không để cho các tài liệu kinh tế
quan trọng lọt vào tay đối phương, cản trở sự phát triển kinh tế của đối
phương; tấn công về chính trị, vận dụng mọi công cụ để tuyên truyền để tấn công
vào các điểm yếu của đối phương, đánh vào lòng dân của đối phương; phá hoại,
lật đổ, đào tạo gián điệp tiến hành các hoạt động phá hoại; chạy đua trang bị
quân sự, không ngừng tăng cường các hoạt động quân sự, ra sức phát triển các vũ
khí mũi nhọn, luôn luôn muốn làm cho sức mạnh quân sự của mình hơn được đối
phương.
Tuy cả hai phe đều chưa trực tiếp nổ súng, nhưng thật ra cả hai phe đều đang
nằm trong một trạng thái chiến tranh, chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào.
Thượng nghị sỹ Mỹ Becna Baluc đã mệnh danh trạng thái này là chiến tranh lạnh,
để phân biệt với chiến tranh nóng trong đó có dùng pháo thật và đạn thật.
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Liên Xô cũ tan rã, do đó các nước Đông Âu trải
qua những biến động to lớn, cái gọi là phe phương Đông không còn tồn tại nữa.
Từ đấy trở đi chiến tranh lạnh cũng đã kết thúc.
189. Vò đất sét làm mát nước như thế nào?
Loại vò làm bằng đất sét không nung có khả năng làm cho nước ở bên trong trở
nên mát hơn. Loại vò này rất thông dụng ở các nước Trung Á và có nhiều tên gọi:
ở Tây Ban Nha gọi là "Alicaratxa", ở Ai Cập gọi là
"Gâula"...
Bí mật về tác dụng làm lạnh của những vò này rất đơn giản: nước đựng trong vò
thấm qua thành đất sét ra ngoài và từ từ bốc hơi, khi bốc hơi nó sẽ lấy một
phần nhiệt từ vò và từ nước đựng trong vò.
Tuy nhiên, tác dụng làm lạnh ở đây không lớn lắm. Nó phụ thuộc rất nhiều điều
kiện. Không khí càng nóng, nước thấm ra ngoài bình bốc hơi càng nhanh, càng
nhiều, làm cho nước ở trong vò càng lạnh đi. Sự lạnh đi còn phụ thuộc vào độ ẩm
của không khí xung quanh: nếu không khí có nhiều hơi ẩm thì quá trình bốc hơi
xảy ra rất chậm và nước lạnh đi không nhiều lắm. Ngược lại, trong không khí khô
ráo thì sự bay hơi xảy ra rất nhanh, khiến cho nước lạnh đi rõ rệt. Gió càng
thổi nhanh, quá trình bay hơi càng mạnh và do đó tăng cường tác dụng làm lạnh
(tác dụng của gió cũng có thể thấy khi ta mặc áo ướt trong những ngày nóng bức.
Khi có gió, ta sẽ thấy mát mẻ, dễ chịu).
Sự giảm nhiệt độ trong các vò ướp mát thường không quá 5 độ C. Trong những ngày
nóng bức ở Trung Á, khi nhiệt kế chỉ 33 độ C thì nước ở trong vò thường chỉ 28
độ C. Như vậy, tác dụng làm lạnh của loại vò này chẳng có lợi là bao. Nhưng
loại vò này giữ nước lạnh rất tốt và người ta dùng chúng chủ yếu là nhằm vào
mục đích đó.
Chúng ta có thể thử tính xem nước trong vò "alicaratxa" lạnh đến mức
độ nào. Thí dụ, ta có một vò đựng được 5 lít nước. Giả sử rằng nước ở trong vò
đã bay hơi mất 1/10 lít. Trong những ngày nóng 33 độ C, muốn làm bay hơi 1 lít
nước (1kg) phải mất chừng 580 calo, nước ở trong vò đã bay hơi mất 1/10kg thành
ra cần phải có 58 calo. Nếu như toàn bộ 58 calo này là do nước trong vò cung
cấp thì nhiệt độ nước ở trong vò sẽ giảm đi 58/5, tức là xấp xỉ 12 độ. Nhưng đa
số nhiệt cần thiết cho sự bay hơi lại được lấy từ thành vò; mặt khác, nước ở
trong vò vừa đồng thời lạnh đi lại vừa bị không khí nóng tiếp giáp với thành vò
làm nóng lên. Do đó, nước ở trong vò chỉ lạnh đi chừng nửa con số tìm được ở
trên mà thôi.
Khó mà nói được, ở đâu vò lạnh đi nhiều hơn - để ra ngoài hay trong bóng mát. Ở
ngoài nắng thì nước bay hơi nhanh hơn, nhưng đồng thời nhiệt đi vào trong vò
cũng nhiều hơn. Nhưng chắc chắn nhất là để vò ở trong bóng râm, hơi có gió.
190. Làm thế nào để bảo vệ mình giữa cơn dông?
Trong cơn
dông, đáng sợ nhất không phải là bầu trời đen kịt, gió rít ào ào, sấm giật hay
màn nước táp xiên vào mặt, mà là những cú sét chết người đánh xuống đất. Dưới
đây là lời khuyên của các chuyên gia nếu bạn chỉ có một mình trong cơn dông.
Trên các cánh đồng
Trước tiên, để không bị đe dọa bởi nguy cơ cái cây đổ xuống đúng đầu, bạn hãy
tránh xa các gốc cây, đặc biệt là những cây đứng riêng lẻ. Thực tế là những
ngọn gió mạnh trong suốt cơn mưa khiến cho khả năng che mưa của cây không còn,
nhất là khi trời mưa như trút nước. Sau nữa, với độ cao của nó, cái cây sẽ thu
hút sét . Và vì khung xương của người có điện trở nhỏ hơn gỗ, nên chúng ta sẽ
là một phương tiện tốt hơn cho sét tiếp đất. Khi bạn đứng cách xa cây, thậm chí
khi đứng thẳng, cũng giảm nguy cơ thu hút sét hơn 50 lần.
Thế nhưng nguy hiểm vẫn còn. Người nông dân, với các dụng cụ bằng sắt trên tay,
cũng vô tình biến mình thành mục tiêu của sét. Vì vậy, cách tốt nhất khi gặp
dông tố ở nơi trống trải như cánh đồng là quỳ xuống đất. Dù có hơi bẩn, nhưng
bạn ít có nguy cơ chạm trán Thiên Lôi.
Còn nếu đang bơi
Một tình huống nguy hiểm! Sét không cần đánh trực tiếp lên một người đang bơi
vẫn có thể biến anh ta trở thành nạn nhân. Vì thực tế dòng điện từ trên trời
không biến mất ngay khi nó đánh xuống đất, mà chỉ yếu dần trong môi trường đất.
Bởi vì nước là một chất dẫn điện tốt. Do vậy, khi đánh xuống nước, hoặc xuống
mặt đất ở gần đó, dòng điện sẽ rất dễ dàng chạy tới người. Vì vậy, không nên
bơi khi trời nổi dông.
Trong xe hơi
Chiếc xe là một nơi ẩn nấp an toàn trong cơn dông. Ở đây, nó đóng vai trò tương
tự như một “chiếc lồng Faraday” (tên của nhà khoa học đầu tiên đã chứng minh
rằng việc ẩn mình phía trong một cấu trúc bằng kim loại là biện pháp tốt nhất
để tránh sét). Nếu sét đánh trúng xe thì điện sẽ dẫn truyền trên vỏ xe mà không
xuyên vào phía trong trước khi tiếp xúc với mặt đất. Do vỏ xe bằng kim loại dẫn
điện tốt hơn nhiều so với không khí trong xe, nên dòng điện cực mạnh của sét sẽ
được truyền nhanh chóng xuống mặt đất. Tuy nhiên, trong tình huống này, những
người ngồi trong xe tuyệt đối không được sờ vào máy thu thanh hay bất kỳ một bộ
phận kim loại nào khác của xe. Và nhất là không được bỏ mui.
191. Những chữ Song Hỷ dùng trong đám cưới từ khi nào?
Ở Trung Quốc và một số nước châu Á, nếu trên cửa ra vào hay trên tường nhà nào
có dán chữ Hỷ màu đỏ thì người ta đều biết ngay rằng ở nhà đó vừa có chuyện
vui. Tương truyền rằng việc dán chữ Hỷ trong đám cưới là do nhà chính trị lớn
triều nhà Tống, Vương An Thạch khởi xướng.
Hồi ông còn trẻ lên kinh thành đi thi, được qua một nơi gọi là Gia Mã Trấn, tại
trấn này có một nhà tài chủ họ Mã, trước cửa nhà treo một cây đèn kéo quân, trên
chiếc đèn có viết mấy chữ:
Tẩu mã đăng, đăng mã tẩu, đăng tức mã đình bộ
(Đèn kéo quân, ngựa đèn chạy, đèn tắt ngựa dừng bước)
Cây đèn này đã làm cho người ta hết sức chú ý, Vương An Thạch thấy thế ghi nhớ
trong lòng. Cũng vừa may hôm sau ở trong trường thi Vương An Thạch là người đầu
tiên nộp quyển, quan coi thi thấy ông làm bài nhanh như thế, muốn thử sức làm
câu đối xem sao, bèn chỉ lá cờ thêu hình con hổ bay treo ở trước cửa, ra vế
đối:
Phi hổ kỳ, kỳ hổ phi, quyển hổ tàng thân
(Cờ hổ bay, hổ trên cờ bay, cờ cuốn hổ náu mình)
Vương An Thạch nhớ tới những chữ viết trên cây đèn kéo quân bèn lấy ngay làm vế
đối thứ hai, lập tức đối luôn:
Tẩu mã đăng, đăng mã tẩu, đăng tức mã đình bộ
Quan coi thi thấy Vương An Thạch làm vế đối thứ hai của câu đối cũng thần tốc
như thế cho nên càng khen ngợi nhiều hơn.
Sau khi thi xong, Vương An Thạch lại qua Mã Gia Trấn, ông hỏi thăm thì biết
rằng tài chủ họ Mã vốn có cô con gái yêu chưa lấy chồng. Câu đố trên cây đèn
chính là ông đưa ra để kén rể.
Sau khi biết như thế, Vương An Thạch lại đem vế đối của viên quan giám khảo nêu
ra để đối lại và viết lên giấy đưa cho tài chủ họ Mã xem. Tài chủ họ Mã vui
mừng khôn xiết, lập tức hứa gả con gái cho Vương An Thạch.
Không bao lâu sau Vương An Thạch kết hôn cùng cô con gái của tài chủ họ Mã.
Giữa hôm cô dâu và chú rể làm lễ lạy trời đất thì các sai dịch đến báo tin:
“Vương đại nhân thi đỗ rồi”. Vương An Thạch nghĩ rằng bản thân mình được động
phòng hoa chúc là một điều “hỷ”, tên mình được nêu tên trên bảng vàng lại là
một điều “hỷ” nữa, vì thế ông lấy ngay một tờ giấy đỏ, viết lên đó hai chữ “hỷ”
thành một chữ “Hỷ” do ông mới sáng tạo ra để thay cho hai chữ “hỷ” đơn dán lên
cửa. Vì chữ “Hỷ” này biểu hiện đầy đủ nhất không khí vui mừng trong đám cưới,
cho nên trong các lễ cưới người ta đều dán chữ “Hỷ” đỏ thắm.
192. Tại sao cua lại nhả bọt?
Cua là loài động vật giáp xác sống trong nước, nó giống như cá cũng dùng mang
để thở. Tuy vậy, mang của cua không mọc ở hai bên đầu mà là do rất nhiều miếng
xốp mềm giống như hải miên hợp thành, mọc ở hai bên phía trên của cơ thể, bề
mặt được bao phủ bởi vỏ cứng.
Khi cua sống trong nước, từ phần càng cua và phần chân gốc cua hút nước sạch
vào (ôxy hoà tan trong nước sẽ đi vào trong máu của mao mạch mang), sau khi
chạy qua mang được nhả ra bởi giác quan hai bên miệng cua.
Tuy cua thường sống trong nước nhưng nó lại khác với cá, nó thường xuyên bò lên
đất liền tìm kiếm thức ăn, ngoài ra sau khi rời khỏi nước nó cũng không bị chết
khô. Đấy là do trong mang của cua dự trữ rất nhiều nước, khi rời khỏi nước mà
vẫn như còn ở trong nước vậy. Nó cũng có thể không ngừng thở, hít vào một số
lượng lớn không khí, nhả ra bởi giác quan hai bên miệng. Bởi vì không khí mà nó
hít vào tương đối lớn, hàm lượng nước và không khí trong mang có chứa tương đối
lớn, hàm lượng nước và không khí trong mang có chứa cùng nhả ra đã hình thành
vô số những bọt khí, càng ngày càng nhiều, do vậy phía trước miệng đùn thành
rất nhiều bọt màu trắng.
193. Mắt của trẻ sơ sinh có nhìn thấy được gì?
Cho đến tận bây giờ hãy còn nhiều vấn đề chưa làm rõ được về trẻ sơ sinh mới
chào đời. Mắt trẻ sơ sinh có thể nhìn được bao xa cũng là một trong những vấn
đề đó. Phải chăng đứa trẻ vừa lọt lòng có thể thấy rõ ngay những vật tí xíu như
các bạn. Nhưng néu thử làm thí nghiệm với các loại thiết bị thì có thể biết
nhiều điều rất thú vị. Trước hết, để sống được, trẻ sơ sinh cần phải bú sữa mẹ.
Hãy tưởng tượng xem dáng vẻ của một trẻ sơ sinh được mẹ bế trong lòng đang
ngẩng đầu lên nhìn vào mặt mẹ, mắt của con và mắt của mẹ cách nhau rất gần có
vẻ như khoảng cách đó vừa đúng là khoảng cách mà trẻ sơ sinh có thể nhìn thấy
được. Đó là khoảng cách quan trọng nhất.
Nếu nói là quan trọng thì khuôn mặt của mẹ cũng quan trọng vì đó là cái mà trẻ
sơ sinh nhận biết trước hết. Người ta nói rằng khi người mẹ từ giường của bé
bước ra ngoài phòng và khi trở lại gian phòng, da của trẻ sơ sinh liền xuất
hiện sự khác biệt về nhiệt độ. Qua đó có thể thấy rằng, con mắt của trẻ sơ sinh
có thể nhận ra mẹ thì cũng có thể thấy được các đồ vật.
194. Thế nào là hệ số phân giải của màn hình ?
Hệ số phân giải của màn hình là chỉ trên màn hình có thể hiển thị được bao
nhiêu điểm ảnh. Hệ số phân giải được cấu tạo bởi độ phân giải hiển thị ngang và
độ phân giải hiển thị đứng. Chẳng hạn độ phân giải là 640 x 480 có nghĩa là độ
phân giải ngang là 640 điểm, độ phân giải đứng 480 điểm. Độ phân giải của màn
hình màu thường dùng là 800 x 6000, 1024 x 768, 1280 x 1024. Độ phân giải càng
cao thì điểm ảnh trên màn hình càng nhiều. Ký tự và hình ảnh càng hoàn chỉnh,
rõ nét hơn. Đương nhiên độ phân giải còn chịu ảnh hưởng của cự ly giữ các điểm
sáng nhỏ nhất trên màn hình (cự ly điểm). Cự ly điểm càng nhỏ thì điểm ảnh hiển
thị càng nhiều. Thông thường khi biết được kích thước lớn nhỏ của cự ly điểm
của màn hình là có thể biết được lượng điểm ảnh và độ phân giải màn hình.
195. Tại sao mắt mèo một ngày biến đổi 3 lần?
Đồng tử mắt mèo có thể co lại cực nhỏ để thích nghi với ánh sáng mạnh.
Dân gian Trung Quốc có câu vè về sự giãn nở ngày 3 lần của đồng tử mắt mèo như
sau: “Dần, mão, thân, dậu như hạt táo; Thìn, tỵ, ngọ, mùi như sợi chỉ; Tý, sửu,
tuất, hợi như trăng rằm”. Điều gì khiến cho mắt mèo có năng lực đó?
Thì ra, con ngươi (đồng tử) của mèo rất to, và năng lực co của cơ vòng ở con
ngươi rất khỏe. Ở người, nếu nhìn chăm chú vào mặt trời, con ngươi của mắt sẽ
thu nhỏ lại. Nhưng chúng ta chỉ nhìn được đến một mức độ nhất định mà thôi,
không thể thu nhỏ thêm nữa, vì lâu sẽ cảm thấy nhức mắt. Còn nếu chong mắt lâu
lâu một chút vào nơi tối tăm, ta sẽ cảm thấy chóng mặt.
Nhưng mèo, dưới sự chiếu rọi của ánh sáng không như nhau, lại có thể thích ứng
rất tốt. Dưới ánh sáng rất mạnh vào ban ngày, con ngươi của mèo có thể thu lại
cực nhỏ, giống như một sợi chỉ. Đến đêm khuya trời tối đen, con ngươi có thể mở
to như trăng rằm. Dưới cường độ chiếu sáng vào lúc sáng sớm hoặc nhá nhem tối,
con ngươi sẽ có hình hạt táo.
Như vậy con ngươi của mắt mèo có khả năng co lại rất lớn so với con ngươi trong
mắt người, do đó khả năng phản ứng với ánh sáng cũng nhạy hơn chúng ta. Cho
nên, dù ánh sáng có quá mạnh hoặc quá yếu, mèo vẫn nhìn rõ ràng các đồ vật như
thường.
196. Tiếng nói của người tí hon và khổng lồ trong Guylive
Trong bộ phim "Guylive du ký" của Liên Xô cũ, những người tí hon nói
chuyện bằng âm điệu cao, bởi chỉ có âm điệu cao mới thích hợp với cuống họng
nhỏ của họ, còn người khổng lồ Pêchya thì lại nói bằng giọng thấp. Nhưng khi
quay phim đó thì người lớn lại đóng vai người tí hon và các em nhỏ đóng vai
Pêchya. Vậy làm thế nào để đổi được giọng nói trên phim?
Đạo diễn Pơtusơco cho biết, lúc quay phim các diễn viên vẫn nói giọng bình
thường, còn trong quá trình quay phim, người ta đã thay đổi tông bằng một
phương pháp độc đáo, căn cứ vào đặc điểm vật lý của âm.
Muốn làm cho giọng của những người tí hon cao lên và giọng của Pêchya thấp
xuống, các chuyên gia đã dùng những băng ghi âm chuyển động chậm để ghi lời nói
của các diễn viên đóng vai người tí hon. Ngược lại, họ dùng băng ghi âm chuyển
động nhanh để ghi lời nói của Pêchya. Khi chiếu phim thì cho cuốn phim chạy với
vận tốc bình thường. Kết quả chiếu phim phù hợp với điều mà đạo diễn mong muốn.
Điều này xảy ra là vì khi giọng nói của người tí hon truyền đến tai thính giả,
vì số lần dao động đã nhiều hơn hẳn so với các âm thanh thông thường nên đương
nhiên tông sẽ cao lên. Còn khi giọng nói của Pêchya truyền đến tai thính giả,
vì số lần dao động đã ít hơn âm thanh thông thường rất nhiều, nên tông sẽ thấp
xuống. Tóm lại, trong cuốn phim này, âm điệu của giọng nói của người tí hon cao
hơn người thường một quãng năm, và giọng nói của Pêchya thấp hơn âm điệu thông
thường một quãng năm.
Với âm thanh, "kính lúp thời gian" đã được vận dụng một cách độc đáo
như vậy. Hiện tượng này cũng thường xảy ra khi ta vặn máy hát với vận tốc lớn
hơn hoặc nhỏ hơn vận tốc thông thường.
197. Bức tranh kỳ lạ dưới ánh chớp
Thử hình dung bạn đứng giữa cơn dông trong một thành phố cổ. Dưới ánh chớp bạn
sẽ thấy một quang cảnh kì dị. Phố đang nhộn nhịp dường như hóa đá trong khoảnh
khắc: những con ngựa giữ ở tư thế đang kéo xe, chân giơ lên trong không khí;
các cỗ xe cũng đứng im, trông thấy rõ từng chiếc nan hoa..
Sở dĩ có sự bất động biểu kiến đó là vì tia chớp, cũng như mọi tia lửa điện,
tồn tại trong một khoảng thời gian cực kỳ ngắn ngủi - ngắn đến nỗi không thể đo
được bằng những phương tiện thông thường. Nhưng nhờ những phương pháp gián
tiếp, người ta đã biết được tia chớp tồn tại từ 0,001 đến 0,2 giây (tia chớp
giữa các đám mây thì kéo dài hơn, tới 1,5 giây).
Trong những khoảng thời gian ngắn như thế thì chẳng có gì di chuyển một cách rõ
rệt đối với mắt chúng ta cả. Mỗi nan hoa của bánh xe ở cỗ xe chạy nhanh chỉ kịp
chuyển đi được một phần rất nhỏ của milimét, và đối với mắt thì điều đó cũng
chẳng khác gì bất động hoàn toàn. Ấn tượng càng được tăng cường hơn nữa vì rằng
ảnh được lưu lại trong mắt còn lâu hơn thời gian tồn tại của tia chớp.
198. Vì sao đạn
súng thần công bốc cháy khi đưa lên mặt biển?
Hai nhà hoá học Anh tin rằng họ đã giải mã được một hiện
tượng bí ẩn từ 26 năm nay, trả lời câu hỏi : Tại sao những viên đạn sắt lại
bùng sáng thành những quả cầu lửa lớn, khi được vớt lên từ một con tàu đắm?
“Chúng bắt đầu rực đỏ lên và bạn có thể cảm thấy hơi nóng toả khi chiếc bàn kê
bắt đầu bốc khói”, Bod Child, nay là nhà hoá học tại Các Bảo Tàng và Phòng
trưng bày tự nhiên của xứ Wales ở Cardiff, kể lại.
Hiện tượng kỳ lạ xảy ra năm 1976, khi Child đang bảo quản những đồ vật trục vớt
được từ con tàu HMS Coronation, bị đắm năm 1961. Trong mẻ lưới kéo lên là vài
chục viên đạn súng thần công bằng sắt, bị một lớp vỏ cát cứng như bê tông bao
phủ sau 3 thế kỷ ngủ yên dưới đáy biển. Khi dùng búa đập vỡ lớp áo ngoài này,
Child sửng sốt khi thấy một viên bi sắt đột nhiên nóng lên dữ dội, đến mức hầu
như đã bén lửa sang chiếc bàn gỗ kê bên dưới. Theo phỏng đoán của ông, nhiệt độ
của những quả cầu sắt phải lên tới 300 - 400 độ C.
Nay, khi “hâm nóng” lại hiện tượng này, Child và một nhà hoá học khác, David
Rossinsky, cho hay họ đã biết lý do vì sao. Ông giải thích như sau:
Khi chiếc Coronation chìm nghỉm xuống đáy biển, do bị bao bọc bởi nước biển mặn
và giàu oxy, những quả cầu sắt bị hoen gỉ mãnh liệt. Quá trình này khiến thể
tích khối cầu tăng lên, chúng nở ra, và tỷ trọng giảm xuống (thực tế, những quả
bi sắt được lôi lên mặt nước nhẹ hơn nhiều so với người ta tưởng). Cùng lúc đó,
những quả cầu từ từ chìm vào cát, tương tác với tầng cát đáy biển tạo nên một
lớp áo cứng chắc như xi. Qua nhiều thế kỷ, những vật chất hữu cơ thối rữa ở đó
gần như đã khử các kim loại bị oxy hoá này, chuyển chúng trở lại thành sắt
nguyên chất. Tuy nhiên, điều cần lưu ý ở đây là thể tích khối cầu vẫn giữ không
đổi, nghĩa là những lỗ rỗng (mà trước đó là vị trí của các ion sắt ) vẫn được
giữ nguyên. Khi đưa quả cầu lên mặt biển và đập vỡ lớp áo xi, không khí tràn
vào các lỗ rỗng này, và phản ứng oxy hoá xảy ra tức thì, dữ dội bùng lên thành
ngọn lửa.
Nhà nghiên cứu về quá trình ăn mòn Stephen Fletcher thuộc Đại học Loughborough,
Mỹ, cho rằng hiện tượng này không có gì là bất thường. Khi sắt bị oxy hoá, nó
giải phóng ra năng lượng. Và vì quả cầu sắt có vô số các lỗ rỗng, nên diện tích
tiếp xúc của sắt với oxy là cực kỳ lớn, và quá trình oxy hoá xảy ra cực nhanh,
đến mức có thể xảy ra hiện tượng bốc cháy.
199. Khi máy tính đang làm việc có thể ngắt điện không?
Như mọi người đều biết máy tính phải có điện thì mới hoạt động được, nếu không
có điện tất nhiên là máy tính không thể vận hành. Nhưng thỉnh thoảng xảy ra
tình trạng mất điện. Vì vậy máy tính khi bị ngắt điện thì sẽ bị ảnh hưởng gì?
Khi đang sử dụng máy tính mà bị mất điện thì toàn bộ dữ liệu trong máy sẽ bị
mất nếu chưa copy và sẽ phải làm lại sau khi có điện trở lại. Có những trường
hợp không cho phép máy tính bị ngắt điện vấn đề: đối với những thiết bị máy móc
y tế đang dùng khám và điều trị cho bệnh nhân mà dùng máy tính điều khiển nếu
bị ngắt điện có thể dẫn đến điều trị sai thậm chí dẫn đến tử vong cho người
bệnh; chúng ta sẽ có những tổn thất kinh tế nghiêm trọng nếu ngừng điện của
mạng lưới máy tính trong hệ thống hoạt động tiền tệ, những sự cố lớn sẽ xảy ra
nếu ngừng điện máy tính ở căn cứ quân sự quốc phòng và trung tâm phóng vệ tinh.
Vậy thì làm thế nào để máy tính không bị ngắt điện? Sử dụng nguồn điện không
gián đoạn UPS là một biện pháp tốt.
UPS là một loại thiết bị nguồn điện điện tử. Khi xảy ra tình trạng mất điện
hoặc điện nguồn không ổn định vượt quá phạm vi quy định, thì thiết bị UPS có
thể cung cấp năng lượng ổn định liên tục khiến cho các máy vẫn duy trì hoạt
động bình thường trong một thời gian.
Thiết bị điện nguồn không gián đoạn UPS chủ yếu gồm các bộ phận hoán năng trữ
năng, truyền tải cấu thành. Hiện nay UPS dạng biến hoán tĩnh tại là thông dụng
nhất, tùy thuộc vào khuôn thức công việc mà có thể phân thành các dạng thức dự
bị, dạng thức tại tuyến và dạng hỗn hợp dự bị và tại tuyến.
Với các chủng loại (khác nhau), công suất khác nhau thì dung lượng trữ năng UPS
(cũng khác nhau) và thời gian có thể duy trì cung cấp điện không giống nhau, do
đó nên căn cứ vào tình hình thực tế để chọn lực điện nguồn UPS thích hợp. Hiện
nay ở thành phố có tình trạng cung cấp điện khá ổn định nên thiết bị điện nguồn
UPS được sử dụng rất ít trong các hộ gia đình có sử dụng máy tính
200. Thiếp chúc Tết bắt đầu có từ bao giờ?
Ở Trung Quốc thời xưa, thiếp chúc Tết cũng được gọi là thích, là thiếp, cũng có
khi gọi là môn trạng.
Thiếp xuất hiện sớm nhất dưới triều nhà Tống. Thời đó rất thịnh hành việc hàng
năm gửi thiếp chúc Tết. Tương truyền hoạ sỹ của triều đình Nam Tống là Lý Tung
có vẽ bức “Tuế chiêu đồ” (Bức tranh sáng đầu năm), trên đó vẽ cả nhà chủ nhân
đang đón tiếp khách khứa trong viện, khi đó các gia nhân trong căn nhà bên cạnh
nhận những tờ thiếp giấy đỏ để mừng năm mới. Trên các tờ thiếp màu đỏ ấy người
ta ghi họ tên của mình gửi tới bạn bè để tỏ ý chúc mừng. Vì loại thiếp này là
nhờ người khác mang đi cho nên mới gọi là phi thiếp.
Ngày 25 tháng Mười Hai là tết Noel, tức là ngày chúa Jesus, người sáng lập ra
đạo Cơ Đốc ra đời. Ở nhiều nước châu Âu và châu Mỹ, nơi đạo Cơ Đốc được thịnh
hành, lễ Noel cũng như là ngày Tết đầu năm của các nước châu Á là ngày lễ quan
trọng trong cả năm. Để tiện cho việc chúc mừng, năm 1843, quốc vương Anh đã nhờ
một hoạ sỹ thiết kế tấm thiệp mừng Noel đầu tiên, từ đó về sau bắt đầu từ một
tháng trước ngày Noel người ta đã gửi cho nhau thiếp mừng.
Năm 1911 sau cách mạng Tân Hợi, Trung Quốc tính năm theo Công nguyên, bắt đầu
coi trọng ngày tết Nguyên đán, vì thế cho nên việc ăn mừng năm mới cũng theo
năm mới dương lịch, thiếp chúc mừng năm mới cũng bắt đầu có từ ngày ấy.
201. Đeo nhẫn có phải chỉ vì muốn làm đẹp?
Trên thế giới hiện nay, nhẫn là vật trang sức được lưu hành rộng rãi nhát.
Nhưng ngoài tác dụng trang sức ra, chiếc nhẫn lại có nhiều ý nghĩa tượng trưng
khác.
Trong thời cổ đại Trung Quốc, phi tần của các đế vương lúc bình thường đeo nhẫn
bằng bạc ở tay phải, nhưng đến khi có mang thì lại đeo nhẫn bằng vàng ở tay
trái. Vì chiếc nhẫn ó ý nghĩa cấm kị, cấm giới, cho nên nó mới có tên là “giới
chỉ”.
Ở phương Tây, nói chung người ta cho rằng cái nhẫn bắt đầu có từ thời Ai Cập cổ
đại. Trong thời kỳ này, trên ngón tay của các vương tôn quý tộc đều có đeo nhẫn
dát ngọc quý có hình một con bọ cánh cứng. Theo truyền thuyết thì loại nhẫn này
có tác dụng trừ tà ma, yêu quái, bảo vệ cho người đeo nó.
Sau khi thói quen này được truyền tới châu Âu thì ý nghĩa đầu tiên của việc đeo
nhẫn cũng thay đổi và chiếc nhẫn được gán cho những ý nghĩa tượng trưng khác.
Dưới thời cổ La Mã đã từng có quy định chỉ có các nhân vật quý tộc mới được đeo
nhẫn bằng vàng, còn người dân thường chỉ được đeo nhẫn bằng sắt. Trên các mặt
nhẫn thương có khắc họ tên, thân phận, lời chúc tụng, còn nhận của các nhà quý
tộc lại thường là những con dấu dùng để đóng dấu, ký tên trên các văn kiện.
Đến thời kỳ trung cổ ở châu Âu, giáo hội Cơ Đốc dùng nhẫn để chỉ rõ cấp bậc
trong tôn giáo của nhân viên nhà thờ. Chẳng hạn: Giáo hoàng đeo nhẫn có hình
thánh Pie kéo lưới, chiếc nhẫn cũng dùng làm con dấu để đóng dấu để đóng dấu
trên các văn kiên và sau khi Giáo hoàng chết đi thì phải tiêu huỷ.
Ở các Hồng y Giáo chủ thì ngón giữa của bàn tay phải tượng trưng cho “Thánh
linh” có đeo một chiếc nhẫn bằng ngọc quý. Các giáo chủ, tu viện trưởng đeo
nhẫn bằng thạch anh màu tía, các linh mục đeo nhẫn bằng vàng trên ngón trỏ tượng
trưng cho “Đức Chúa con”.
Ở các nước phương Tây, ngoài việc tượng trưng cho thân phận, địa vị của người
đeo, nhẫn còn có tác dụng chủ yếu nữa là xác định quan hệ hôn nhân. Con trai,
con gái chỉ cần trao đổi những chiếc nhẫn có khắc tên, lời chúc phúc rồi đeo
trên ngón vô danh bàn tay trái (ngón áp út), thế là hai bên gắn bó tâm linh với
nhau đến khi tóc bạc răng long.
Phong tục này đã lưu truyền lâu đời ở châu Âu đến nỗi ngón tay vô danh (ngón áp
út) đã trở thành “ngón tay hôn nhân”.
Bất luận là đám cưới có được cử hành theo nghi thức tôn giáo hay không, nhưng
cho đến nay trong các đám cưới, người châu Âu và châu Mỹ vẫn trao đổi nhẫn cưới
một cách phổ biến coi đó là điều tượng trưng cho hôn nhân.
202. Tại sao người phương Tây kỷ niệm lễ Noel?
Đối với người dân các nước phương Tây, thì lễ Noel cũng như là Tết năm mới của
người Việt Nam. Đó là một ngày quan trọng nhất trong năm, vì ở các nước phương
Tây người ta phần lớn là theo đạo Cơ Đốc do chúa Jesus sáng lập, mà ngày lễ
Noel là ngày chúc mừng chúa Jesus ra đời
Theo truyền thuyết thì vào một đêm mùa đông năm đầu Công nguyên, Jesus đã ra
đời trong một chuồng cừu ở Bethlehem thành Jerusalem và Jesus là do thánh mẫu
Maria chịu linh cảm rồi mang thai sinh ra, cho nên Jesus vốn là con của Thượng
đế giáng lâm xuống dân gian để cứu loài người.
Vì Jesus chủ trương bình đẳng, bác ái, phản đối những kẻ thống trị là chủ nô lệ
thời bấy giờ, cho nên cuối cùng ông đã bị những kẻ thống trị khép vào tội “xưng
vương, mê hoặc dân chúng”, đồng danh câu rút và để cho chết trên giá thập tự.
Để bày tỏ tình cảm, lòng kính trọng, hàng năm các tín đồ đạo Cơ Đốc ở phương
Tây đều cử hành những nghi thức tưởng niệm. Nhưng hồi đầu, ngày các giáo đồ
tưởng niệm Jesus không được nhất trí. Mãi tới năm 354 sau Công nguyên, Giáo hội
Thiên Chúa giáo ở Rôma mới quy định lấy ngày 25 tháng Mười Hai để kỷ niệm ngày
sinh của Jesus. Từ đấy các tín đồ đạo Cơ Đốc sử dụng cùng một phép làm lịch mới
đã có được lễ Noel thống nhất.
Giáo hội Thiên Chúa giáo quy định lễ Noel vào ngày ấy, ngoài việc biểu thị
Jesus giáng sinh cũng là Mặt trời tái sinh. Họ lại còn muốn dựa vào tín ngưỡng
của dân gian để làm tăng thêm sức hấp dẫn của đạo Cơ Đốc. Vì thế cho nên ngay
từ đầu ngày lễ Noel đã có quan hệ mật thiết với sinh hoạt thế tục, trở thành
ngày hội chung cho các tín đồ Cơ Đốc giáo lẫn những người không phải là tín đồ.
Cùng với sự phát triển ảnh hưởng của đạo Cơ Đốc, lễ Noel đã trở thành một ngày
hội vui của nhân dân phương Tây
203. Tại sao người lớn thường tặng tiền mừng tuổi cho trẻ con vào ngày Tết
đầu năm?
Ngày Tết, các em nhỏ thường rất vui vẻ và sung sướng vì được an ngon, mặc đẹp,
lại còn được người lớn cho tiền mừng tuổi (gọi là “áp tuế tiền”).
Ngày xưa ở Trung Quốc đã lưu hành phong tục lúc giao thừa thì cho trẻ con tiền
mừng tuổi (người Việt Nam ta cũng có phong tục này). Người ta làm như thế không
phải là cốt đem lại một sự vui mừng gì cho con trẻ, mà chỉ là giúp cho con trẻ
xua đuổi được tà ma và những điều xấu xa.
Người đời xưa cho rằng trẻ con sống suốt một đời thì khó lòng tránh khỏi phải
chịu vài lần bệnh tật, thậm chỉ còn có thể bị chết yểu. Nhưng do người lớn chưa
nhận thức đúng đắn về bệnh tật, cho rằng trẻ con mắc bệnh tật là do trúng tà.
Vì thế họ cho con trẻ ít tiền để chúng hối lộ tà ma, ác quỷ, nhờ đó mà thoát
khỏi những tổn hại.
Trong đêm giao thừa, sau bữa cơm đoàn tụ, những người lớn đem những món “áp tuế
tiền” gói sẵn trong giấy đỏ phát cho trẻ con đồng thời nói vài câu khuyến
khích, hy vọng chúng sẽ cố gắng học tập, chăm ngoan.
Cũng có khi người ta chờ cho con trẻ ngủ say, mới lén đặt “áp tuế tiền” vào
dưới gối của chúng, để bọn trẻ sẽ cảm thấy ngạc nhiên và niềm vui sướng của
chúng sẽ tăng thêm vào sáng hôm sau. Như vậy có thể thấy rằng việc tặng trẻ con
tiền cũng chỉ nhằm tăng thêm không khí vui vẻ trong ngày Tết.
Ngày nay, việc cho tiền (hay còn gọi là mừng tuổi) con trẻ chỉ kéo là duy trì
phong tục tập quán của đời xưa, nhưng ý nghĩa căn bản của việc này không còn
như trước nữa. Người ta không những chỉ cho tiền con trẻ mà cả những người già
với quan niệm: Cầu chúc sức khoẻ cho con người và cầu mong được may mắn, sung
túc…
204. Đảo hình thành như thế nào?
Nằm xa lắc ngoài khơi, một hòn đảo xinh đẹp với cây cối xanh rờn nhưng cô độc
giữa bốn bề nước mênh mông. Cách nó hàng trăm km, một vòng tròn san hô trắng
muốt lằn trên nền đại dương xanh ngắt cũng đang một mình chống chọi với sóng
gió đại dương. Vì sao chúng lẻ loi vậy nhỉ?
Một số đảo vốn là bộ phận của lục địa. Do vỏ Trái đất vận động, giữa chúng và
lục địa xuất hiện dải đất đứt gãy chìm xuống do đó mà thành đảo ngăn cách với
lục địa bằng biển. Các đảo Đài Loan, Hải Nam ở Trung Quốc đều được hình thành
như vậy. Cũng có khi do sông băng tan, mực nước biển dâng lên làm nhấn chìn các
phần lõm ở bên bờ đại lục, chỉ còn lại một số vùng đất cao, đỉnh núi biến thành
đảo.
Ngày nay, người ta còn phát hiện được do chịu tác dụng của lực trường, lục địa
xảy ra những vết đứt gãy rất sâu, rất lớn và các vật chất trong lòng đất tràn
ra theo vết nứt hình thành đáy biển mới, có một số mảnh vỡ từ lục địa phân tách
tạo ra đảo ở cách xa lục địa. Theo nghiên cứu, hòn đảo lớn nhất thế giới Greenland
đã phân tách từ lục địa châu Âu.
Từ núi lửa
Trong biển cũng còn rất nhiều hòn đảo vốn không phải là lục địa, mà là do các
dung nham và vật chất vụn khác từ núi lửa phun ra tích tụ dưới đáy biển tạo
nên. Quần đảo Hawaii ở giữa Thái Bình Dương là một minh chứng điển hình. Chúng
là một dãy núi lửa nhô lên khỏi mặt nước.
Những đảo hình thành theo cách này nếu không có dung nham và các vật chất núi
lửa tiếp tục bồi đắp thì có thể bị sóng biển va đập mà sụt lở cho đến khi mất
hẳn dấu vết trên mặt biển. Tuổi thọ của chúng chỉ kéo dài vài năm thậm chí chỉ
mấy tháng. Nhưng nếu vật chất không ngừng phun ra và tích tụ lại làm cho các
đảo có thể tích tương đối lớn thì chúng có thể tồn tại lâu dài.
Đến san hô
San hô cũng là những người “thợ xây” đảo tích cực. Chúng tụ hợp lại với nhau,
tiết ra chất đá vôi, tạo nên những “cây” san hô không ngừng sinh sôi nảy nở.
Sóng gió có thể làm vỡ một bộ phận của chúng, nhưng những mảnh vụn đó lại lấp
đầy khoảng trống trong “rừng san hô” làm cho chúng càng thêm chắc chắn. Cùng
với xương của các sinh vật khác, chúng tích tụ lại thành những tảng đá ngầm và
hòn đảo mọc đứng thẳng trong biển. Mặc dù diện tích của các đảo san hô không
lớn, độ cao nhô lên mặt biển cũng có hạn, thường chỉ từ vài đến vài chục mét,
nhưng chúng vẫn có thể tồn tại vững vàng giữa đại dương.
San hô cư trú ở vùng nước biển ấm, trong và có hàm lượng muối thích hợp. Chúng
chỉ có thể sống ở những vùng nước nông, độ sâu vài chục mét. Chúng cần bám vào
đáy biển có đá để mọc lên, vì thế rất nhiều đảo san hô được phân bố tại đường
giáp giới với lục địa, như những đảo san hô ở bên bờ Đông Bắc Australia kéo dài
tới hơn 2.000 km. Ở những nơi biển sâu, san hô không thể sinh trưởng, nhưng ở
những nơi tồn tại núi lửa thì chúng có thể lấy núi lửa làm cơ sở, xoay quanh
núi lửa để sinh sôi. Nếu phần giữa của núi lửa chìm xuống nước mà san hô vẫn
tiếp tục sinh sôi hướng lên trên, một đảo san hô có hình vòng tròn mà ở giữa là
nước. Đó chính là các vòng tròn trắng đặc biệt trên biển.
205. Vũ khí laser hoạt động như thế nào?
Vũ khí laser khi được bắn ra, tuy không có đạn như súng pháo thường nhưng lại
phát ra chùm tia laser năng lượng cao với tốc độ 300.000 km/giây. Năng lượng
này tập trung rất mạnh, khi chiếu vào vật thể kim loại, trong nháy mắt sẽ làm
cho kim loại nóng chảy, bốc hơi, thậm chí biến thành ion.
Tác dụng đó gọi là “hiệu ứng lan chảy nhiệt”. Vũ khí laser phá hoại mục tiêu
chủ yếu nhờ vào hiệu ứng đó. Chùm tia laser gây tác dụng lan chảy càng lớn hơn
đối với cơ thể sống, thậm chí gây tử vong. Cho nên tia laser từng được mệnh
danh là tia chết chóc.
Nếu bạn đưa kính hội tụ ra trước ánh nắng để lấy tiêu điểm sáng. Tiêu điểm này
có thể làm cháy giấy. Vậy mà độ sáng của tia laser còn cao gấp vài trăm triệu,
thậm chí vài tỷ lần so với ánh nắng Mặt trời. Năng lượng của nó dĩ nhiên là rất
lớn. Do đó, người ta đã sử dụng vũ khí tia laser để bắn máy bay, tên lửa của
đối phương. Ngoài ra, khi bắn vào mục tiêu dạng kim loại, tia laser còn sinh ra
tác dụng phá hoại phụ. Đó là dạng ion hình thành dưới nhiệt độ cao của tia
laser khi phát ra khỏi bề mặt kim loại, lực phản tác dụng sẽ gây phụ tải xung
kích trên bề mặt kim loại, làm biến dạng, phá huỷ nhanh chóng vật thể. Đồng
thời dạng ion còn phát ra bức xạ X, làm cho các linh kiện điện tử gần mục tiêu
bị vô hiệu hoá.
Một điều cần phải nói thêm là, chùm tia laser còn làm cho người ta bị mù mắt
hoặc tạm thời không nhìn thấy gì. Đó là vì mắt người giống như một thấu kính
hội tụ, khi bị chùm laser chiếu vào qua hội tụ của thuỷ tinh thể sẽ hình thành
tiêu điểm trong võng mạc, làm cho năng lượng laser càng tập trung hơn. Tổ chức
võng mạc cực mỏng bị hấp thụ năng lượng lớn của tiêu điểm ánh sáng, sẽ nhanh
chóng chuyển thành nhiệt năng làm cháy bỏng võng mạc, dẫn đến mù mắt.
206. Đắng và ngọt có cùng chung “một nhà”?
Khả năng phân biệt vị ngọt và đắng do một loại tế bào gai vị giác đảm nhận. Sự
khác biệt nằm ở loại hoá chất do tế bào này tiết ra.
Các tế bào trên lưới có khả năng cảm nhận bốn vị cơ bản là ngọt, mặn, chua và
đắng, cộng với muối của một số axit. Các nhà khoa học đã nghiên cứu về cơ chế
mà những tế bào này chuyển đổi sự kích thích thành mùi vị.
Nghiên cứu trên chuột cho thấy, có hai “hiệu lệnh” hóa học đặc biệt, một dành
cho vị ngọt và một cho vị đắng, tiết ra từ cùng một gai nằm ở gốc lưỡi. Hóa
chất “thông báo” vị đắng gọi là CCK đã được biết đến từ vài năm nay, hóa chất
thông báo vị ngọt là neuropeptide Y (NPY) cũng nằm chung ở các gai vị giác trên
lưỡi.
Gai vị giác là một chùm gồm 50 đến 100 tế bào, trong đó có một số tế bào được
kết nối với dây thần kinh nối để gửi tín hiệu vị về não. Do đó, những tế bào
không nối với dây thần kinh phải có một cách riêng nào đó để gửi thông điệp .
Lời giải thích chính là các hóa chất “sứ giả” CCK và NPY. CCK có thể “bảo”
những tế bào “hàng xóm” nối với dây thần kinh rằng có vị đắng trên lưỡi , còn
NPY thì báo có vị ngọt.
Trong nghiên cứu, người ta đã phân lập các tế bào gai vị giác từ lưỡi của chuột
và gắn vào chúng các điên cực siêu nhỏ. Sau đó, họ so sánh tín hiệu điện thu
được khi NPY và CCK hoạt động. Kết quả cho thấy,, NPY kích hoạt loại tín hiệu
hoàn toàn khác với CCK, chứng tỏ chúng kích thích những phản ứng vị giác hoàn
toàn khác.
Thật ngạc nhiên khi NPY có phản ứng đối lập với CCK và điều này bảo đảm rằng bộ
não nhận được tín hiệu rõ ràng của từng vị trên lưỡi.
Ngoài ra, khi nhuộm màu các tế bào gai vị giác để xem chúng chứa NPY hay CCK,
người ta nhận thấy một số tế bào chưa cả hai. Khi đó “những tế bào này có thể
giải phóng cả hai peptide trên khi trên lưỡi có vị ngọt hoặc đắng”. Nếu đó là
đắng thì CCK sẽ “cảm nhận” vị đắng, đồng thời kiềm chế vị ngọt, do đó chỉ có
“thông điệp đắng” được tới não.
207. Tại sao các hoàng đế của nước Nga được gọi là Sa hoàng?
Về vấn đề này, đầu tiên phải nói tới nhà độc tài của thành La Mã thời cổ đại
Cesar. Năm 45 trước Công nguyên, Viện Nguyên Lão La Mã đã dựa vào chiến công
của Cesar cũng như quyền thế và tài sản cực lớn của ông ta để tuyên bố Cesar là
nhà độc tài trọn đời. Tuy rằng hồi bấy giờ, La Mã theo thể chế cộng hoà cổ đại,
nhưng quyền lực cá nhân của Cesar đã lên tới đỉnh cao.
Sau khi ông chết đi, tên của ông đã trở thành từ tượng trưng cho kẻ độc tài,
cho kẻ quân chủ chuyên chế, vì thế nhiều tay quân chủ chuyên chế ở các nước
phương Tây đã dùng Cesar làm danh hiệu của mình, để nói lên quyền thế và uy lực
tối cao của mình.
Ngày 16 tháng giêng năm 1547, hoàng đế Ivan Đệ Tứ của nước Nga (cũng gọi là
Ivan Hung Bạo) lên nắm quyền. Tước hàm chính thức của ông là Đại công tước
Moxcva và toàn cõi Nga. Ivan Đệ Tứ đã không thoả mãn với cái tước hiệu Đại công
tước, vì thế lúc đội mũ miện, ông tự xưng là Sa hoàng. Chữ Sa là chuyển âm của
từ La tinh Cesar, tức là ông ta tự coi mình là Cesar và tỏ ý rằng mình sẽ trở
thành độc tài của toàn cõi Nga, xây dựng lại một đế quốc cường thịnh như La Mã
xưa. Từ đó Sa hoàng trở thành danh hiện của các quân vương ở Nga. Còn nước Nga
trở thành “Nước Nga của Sa hoàng”.
Năm 1721, Pitotr Đại Đế đổi danh hiệu là Hoàng đế, nhưng nói chung người ta vẫn
gọi ông là Sa hoàng và có khi dùng cả Sa hoàng lẫn Hoàng đế.
208. Đơn vị thiên văn là gì?
Đơn vị thiên văn là một loại đơn vị dùng để đo khoảng cách trong thiên văn học,
người ta lấy khoảng cách trung bình từ Trái đất đến Mặt trời làm đơn vị đo. Đối
với các thiên thể trong hệ Mặt trời thường dùng đơn vị này. Một đơn vị thiên
văn này bằng 149.600.000 km. Vì khoảng cách giữa các thiên thể là rất lớn, nên
nếu dùng đơn vị đo là km thì các con số sẽ rất khổng lồ, bất tiện. Ngoài ra ánh
sáng từ các vì sao đi đến Trái đất thường đòi hỏi thời gian mấy năm nên việc
dùng đơn vị năm ánh sáng để đo khoảng cách giữa các thiên thể sẽ làm giảm bớt
các phiền phức. Một năm ánh sáng bằng 9.460.000.000.000 km (9,460.1012 km). Có
những nhà thiên văn học lại không dùng năm ánh sáng mà dùng độ ly giác là giây
sai, một giây sai bằng 3.260.000.000.000 km (3,26.1012 km).
Ánh sáng Mặt trời cần 8 phút 19 giây đi từ Mặt trời tới Trái đất, đến sao Thiên
vương cần phải 5 giờ 48 phút. Với khoảng cách này thì năm ánh sáng là một đơn
vị quá lớn.
Khi nghiên cứu các thiên thể trong hệ Mặt trời, các ngôi sao và đám ngôi sao vì
việc dùng đơn vị thiên văn là một việc làm rất thích hợp.
209. Tại sao ngựa ngủ đứng?
Ngựa có đặc tính không giống với những gia súc khác, đó là trong đêm tối, bất
kể lúc nào chúng cũng đều nhắm mắt ngủ đứng. Thói quen này là do di truyền lại
từ tổ tiên ngựa hoang.
Những con ngựa hoang sống ở trên thảo nguyên sa mạc rộng mênh mông, trong thời
xa xưa nó vừa là đối tượng săn bắt của loài người, vừa là một món ăn ngon của
các loài thú dữ. Ngựa không giống như trâu, dê có thể dùng sừng để quyết đấu,
mà biện pháp duy nhất chỉ là bỏ chạy để thoát thân. Cơ thể chúng dài, tứ chi
khoẻ, rất thích nghi với khả năng này. Mặt khác, những động vật ăn thịt như hổ,
báo, chó sói… đa số đều hoạt động về đêm. Vì vậy, những con ngựa hoang không
dám thảnh thơi ngủ trong đêm tối, ngay cả ban ngày chúng cũng chỉ dám đứng ngủ
gật và luôn luôn đề cao cảnh giác.
Ngựa nhà mặc dù không gặp nguy hiểm bởi kẻ thù hoặc do con người gây ra giống
như ngựa hoang, nhưng nó được thuần hoá từ ngựa hoang. Vì vậy, thói quen ngủ
đứng của ngựa hoang vẫn còn được giữ đến ngày nay.
Ngoài ngựa, lừa cũng có thói quen ngủ đứng, bởi vì môi trường sống của tố tiên
chúng gần giống với ngựa hoang.
210. Tại sao khi đặt hai chiếc đồng hồ quả lắc cạnh nhau,
các quả lắc luôn đu đưa ngược chiều?
Bí ẩn mà một nhà thiên văn và phát minh người Hà Lan – Christiaan Huygens - gặp
phải từ thế kỷ XVII. Khi đặt hai chiếc đồng hồ quả lắc cạnh nhau, Huygens phát
hiện các quả lắc luôn đu đưa ngược chiều. Kỳ thực, ông đã gặp may khi chế tạo
chiếc đồng hồ này.
Huygens đã phát minh ra đồng hồ quả lắc vào năm 1657, khi nỗ lực giải quyết vấn
đề xác định kinh độ trên biển. Trong thiết kế của ông luôn có một cặp đồng hồ,
phòng khi nếu một chiếc bị chết hoặc cần phải đem đi lau rửa, chiếc còn lại vẫn
chỉ đúng giờ.
Huygens đã thử nghiệm cặp đồng hồ này trên biển, với hai chiếc được treo cạnh
nhau trong cùng một khung, nhưng ở trong hai hộp riêng biệt. Khi quả lắc của
hai chiếc đồng hồ bắt đầu dao động, Huygens nhận thấy có một hiện tượng kỳ lạ,
mà ông gọi là “sự hài hoà kỳ quặc”: Bất kể hai quả lắc được bắt đầu chuyển động
ở vị trí nào, thì cuối cùng, chúng vẫn luôn luôn đu đưa theo các hướng ngược
chiều nhau (như thể chiếc này là ảnh gương của chiếc kia vậy).
Lý giải cho hiện tượng này, vì chiếc khung nặng nề đã kháng lại tất cả các lực
văng sang hai bên mà các quả lắc sinh ra khi chúng đu đưa. Vì thế, cuối cùng
hai quả lắc được giữ trong trạng thái ổn định mà những dao động đối xứng của
chúng khử lực văng lẫn nhau.
Nếu tỷ lệ khối lượng của mỗi quả lắc so với tổng khối lượng của đồng hồ nhỏ hơn
1 : 120, hai quả lắc có xu hướng đu đưa ngược chiều nhau. Nhưng nếu tỷ lệ này
lớn hơn 1 : 80, thì một hoặc cả hai quả lắc dần dần sẽ dừng lại, vì lực văng
của những quả lắc làm chiếc hộp bao ngoài khá nhẹ này dao động theo, gần giống
như khi chúng ta lắc chiếc hộp đồng hồ vậy.
Hiện tượng này bị bỏ quên bao năm nay, chỉ là vì mãi gần đây, người ta mới quan
tâm đến những vấn đề không chính thống như thế. Và Huygens đã rất may nắm vì
chiếc đồng hồ của ông được tạo ra ở đúng với tỷ lệ để hiện tượng “kỳ lạ” trên
có thể xảy ra.
211. Tại sao nói Bọ chó là nhà vô địch về nhảy cao?
Chân sau của bọ chó vô cùng phát triển, khoảng cách nhảy vọt có thể đạt tới 200
lần độ dài của thân nó. Chúng ta hãy nghiên cứu về bí mật của sức nhảy bật kinh
người của nó nhé.
Hiện nay bọ chó không có cánh, nhưng tổ tiên rất lâu đời của chúng thì lại có
cánh. Tổ tiên của bọ chó là côn trùng có cánh nguyên thuỷ. Chúng vốn ăn các
loại động vật thối rữa ở cạnh các chuồng súc vật và tổ chim. Hiện nay, bọ chó
đã hình thành côn trùng hút máu trên cơ thể nhiều súc vật, chim chóc. Nhưng khi
còn là ấu trùn thì chúng lại kiếm ăn trong rác rưởi, ở trong hoặc bên cạnh như
tổ tiên của chúng ngày trước. Đồ ăn của ấu trùng là chỗ bẩn, vật thối rữa hoặc
phân bố mẹ của chúng.
Thời xa xưa, loài bọ chó có cánh đã trưởng thành, khi nhảy vọt, cơ điều khiển
của cánh chúng rất vững mạnh, có thể từ trên lưng con chó chuyển sang chỗ mặt
bên, nhờ đó mà năng lực nhảy bật được tăng cường. Cơ quan nằm ở ngực có tên gọi
là “cái cung mặt bên” có prôtêin đàn tính rất mạnh giống hệt như dây cao su kéo
căng rồi lại co lại. Nhờ đó, nó có thể phóng ra 97% năng lượng dành dụm được,
sinh ra sức nhảy bật cao 33 cm, xa 30 cm, nói chung có thể coi những con bọ chó
là quán quân về nhảy cao nhảy xa.
212. Thư viện thế giới lớn nhất thế giới ở đâu?
Thư viện Quốc hội Mỹ là thư viện lớn nhất thế giới. Nó được xây dựng ở thủ đô
Washington tại một nơi tao nhã, phong cảnh rất đẹp. Thư viện này được sáng lập
năm 1800. Sau đó nó hai lần bị đốt cháy trong chiến tranh rồi đến 1888 lại được
xây dựng lại và chín năm sau công trình mới được hoàn thành.
Thư viện Quốc hội Mỹ là một công trình kiến trúc cao năm tầng ở trên một hình
vuông diện tích tới 3 vạn m2. Trung tâm của hình vuông ấy là một phòng đọc cực
to hình bát giác, đủ chỗ cho 250 người đọc, bốn chung quanh chia làm phòng đọc
cho nghị viện, phòng đọc báo, phòng hội hoạ và phòng đọc cho người mù. Tổng số
chỗ ngồi là 1500 chỗ.
Đến năm 1939 ở phía Đông thư viện chính lại xây dựng một thư viện phụ sáu tầng.
Ngoài kho sách có thể tàng trữ 10 triệu cuốn, còn có phòng đọc, phòng mục lục…
Số sách mà Thư viện Quốc hội Mỹ lưu trữ thì hết sức phong phú, số lượng có trên
tám mươi triệu sách, hình vẽ và các thứ tư liệu, hơn 33 triệu bản thảo của danh
nhân. Tại đây có cả bài diễn văn nhận thức của Washington, vị Tổng thống thứ
nhất của nước Mỹ và những bài diễn thuyết khi tranh cử của Tổng thống Mỹ qua
các khoá.
Có những cuốn sách cổ xuất bản trước thế kỷ XVI. Lại có những tư liệu hội hoạ
hiện đại đầy đủ nhất của nước Mỹ, những cuộn băng thu gọn những tư liệu ghi âm,
những bản nhạc, những phim điện ảnh và những sách in cho người mù, cũng như những
sách có âm thanh.
Nếu như đem các giá sách trong thư viện xếp liên tiếp với nhau thì sẽ có chiều
dài hơn 500 km. Thư viện Quốc hội Mỹ dùng phương pháp quản lý hiện đại. Giữa
thư viện chính, thư viện phụ và toà nhà lớn của Quốc hội đều có những phương
tiện cơ giới để đưa sách đi, chỉ cần 45 giây là sách có thể được đưa tới tay
độc giả. Tính trung bình cứ 10 giây lại có một cuốn sách hay một bản tư liệu
được đưa tới toà nhà lớn của thư viên và cứ khoảng hai giây lại có một cuốn
sách được nhập vào kho của thư viện từ trên thế giới.
213. Tại sao phụ nữ Ấn Độ thích điểm một nốt ruồi giữa hai hàng lông mày?
Thích làm cho mình đẹp thêm, đó là bản tính của con người. Phụ nữ thì lại càng
như thế. Nhưng ở những nước khác nhau thì cách phụ nữ theo đuổi cái đẹp cũng là
không giống nhau. Chẳng hạn như ở Ấn Độ phụ nữ thích tô một điểm màu đỏ to bằng
hạt đậu ở ngay giữa trán. Người Ấn Độ cho rằng ở giữa hai hàng mi và điểm một
vết như thế thì việc đó tượng trưng cho một niềm vui, cũng là một sự may mắn.
Vì thế họ gọi những vết như thế là “nốt ruồi may mắn”.
Vết to giữa hai con mắt còn cho thấy rõ thân phận của những người phụ nữ Ấn Độ.
Ở Ấn Độ, chỉ những người phụ nữ đã có chồng mới được điểm nốt ruồi may mắn. Vào
đúng ngày lễ thành hôn, chú rể tự tay dùng su xa điểm nốt ruồi may mắn lên trán
cô dâu để biểu thị cô gái đã làm lễ thành hôn.
Nếu như sau khi kết hôn rồi mà người phụ nữ nào còn chưa điểm nốt ruồi may mắn
này thì họ sẽ bị các bậc cha mẹ, cô chú và họ hàng thân thuộc chỉ trích, cho
rằng họ cố ý lừa dối chồng mình, thậm chí những người khác còn có thể hoài nghi
không biết chồng của người đàn bà này có còn sống không?
Tất nhiên, những người vợ chưa cưới và đàn bà goá chồng thì không được điểm nốt
ruồi may mắn.
Tuy nhiên, theo đà phát triển và sự tiến bộ của xã hội ngày nay thì phạm vi của
những người phụ nữ được điểm nốt ruồi may mắn cũng đã được mở rộng. Một số trẻ
nhỏ và các cô gái chưa chồng cũng điểm nốt ruồi may mắn.
Hơn nữa, người ta lại còn đòi hỏi hình trạng và màu sắc của nốt ruồi may mắn
phải phù hợp với từng khuôn mặt, từng kiểu tóc và cả phục trang nữa. Như thế có
thể nói rằng những khuôn mặt, kiểu tóc và phục trang khác nhau đòi hỏi phải có
những nốt ruồi may mắn khác nhau và loại nốt ruồi may mắn này có tác dụng trang
sức.
Lại còn có một số người làm bố làm mẹ ở Ấn Độ điểm cho con cái một nốt ruồi đen
ở giữa hai hàng mi. Điều này có nguyên nhân là gì vậy? Vốn là những người bố
người mẹ này lo lắng nếu như con cái họ khoẻ mạnh và thông minh thì dễ dàng bị
ma quỷ để ý và có khả năng gặp những điều bất hạnh, thậm chí có thể bị chết yểu.
Nếu như điểm thêm cho con cái một nốt ruồi đen ở giữa hai con mắt như thế thì
sẽ làm cho chúng nó bớt vẻ đáng yêu và như thế cũng giúp cho chúng đỡ gặp phải
những điều bất hạnh. Rõ ràng các trường hợp điểm nốt ruồi này nhằm mục đích
tránh và tiêu trừ tai hoạ.
214. Có hay không động cơ vĩnh cửu?
Một số nhà phát minh nghiệp dư thường cố công đi tìm thứ động cơ vĩnh cửu, và
đồ án của họ quy về một điều như sau: nối động cơ điện với dyamo bằng dây cua
roa, rồi lấy dây điện nối từ dyamo tới động cơ…
Nếu làm cho dyamo chuyển động trước thì điện do nó sản xuất ra sẽ truyền tới
động cơ điện và làm cho động cơ điện chuyển động, thế nhưng năng lượng do động
cơ điện sản xuất ra sẽ qua dây cua roa truyền tới trục dyamo làm cho dyamo
chuyển động. Thế là, nhà phát minh cho rằng hai cái máy đó sẽ vận chuyển lẫn
nhau, và chuyển động cứ tiếp tục mãi mãi, cho đến khi cả hai máy đều mòn mới
thôi.
Với các nhà phát minh thì ý nghĩa đó quả là rất hấp dẫn, nhưng trên thực tế cho
thấy rõ ràng trong điều kiện ấy, cả hai máy đều không làm việc được.
Hãy cứ cho rằng hiệu suất của mỗi máy đều là 100% đi nữa, chúng ta cũng chỉ có
thể làm cho chúng chuyển động vĩnh viễn theo phương pháp nói trên trong điều
kiện hoàn toàn không có ma sát. Hai cái máy nối với nhau như trên (theo ngôn
ngữ của các kỹ sư thì gọi là “máy liên hợp”) về thực chất là một cái máy, phải
tự mình làm cho mình chuyển động. Trong trường hợp không có ma sát, máy liên
hợp mới có thể chuyển động vĩnh viễn được giống như bất kỳ một ròng rọc nào đó,
nhưng sự chuyển động này hẳng có ích lợi gì hết: bởi vì, hễ bạn bắt loại “động
cơ” này thực hiện một công bên ngoài là lập tức nó dừng lại ngay. Cho nên, ở
đây chỉ có thể nói đến “chuyển động vĩnh cửu” chứ không có “động cơ vĩnh cửu”.
Còn khi có ma sát thì máy liên hợp hoàn toàn không chuyển động được.
Điều kỳ lạ là, những người bị lôi cuốn vào ý nghĩ đó lại không nghĩ tới việc
thực hiện ý nghĩ theo một cách đơn giản hơn: nối hai ròng rọc nào đó với nhau
bằng dây cua roa rồi quay một ròng rọc. Dựa theo logic của việc nối các máy móc
vừa nói ở trên, chúng ta cũng cần hy vọng rằng ròng rọc thứ nhất làm quay ròng
rọc thứ hai, rồi cái thứ hai sẽ lại làm quay cái thứ nhất. Cũng có thể dùng một
ròng rọc thôi: khi ta quay nó thì phần bên phải sẽ làm quay phần bên trải của
nó, rồi sự chuyển động của phần bên trái sẽ duy trì chuyển động của phần bên
phải… Sự vô nghĩa trong hai trường hợp sau này quá rõ rệt, nên chẳng ai thích
những đồ án tương tự như thế nữa. Xét cho cùng, cả ba “động cơ vĩnh cửu” ở trên
đều xuất phát từ cùng một ý nghĩ sai lầm.
215. Tại sao hoa Tulip có tên gọi là Uất Kim Hương?
Hoa Tulip có vẻ đẹp sang trọng và lịch sự, hoa nổi hình kim hoặc hình chén,
bông to và rất đẹp, hoa bọc sáu cánh, chia làm ra hai hàng trong ngoài; hoa có
nhiều màu sắc khác nhau và hương thơm ngào ngạt, bên ngoài hoa giống như hoa
sen, lại giống hoa Mẫu đơn. Trong thế giới các loài hoa chắc không có loài hoa
nào so bì được với màu sắc kỳ diệu của hoa Tulip.
Hoa Tulip là hình ảnh tượng trưng cho đất nước Hà Lan. Ngoài ra nó còn được
trồng nhiều ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hungari và Iran.
Thật ra quê hương của hoa Tulip là ở cao nguyên Tây Tạng của Trung Quốc, nó
được gọi là hoa Uất Kim Hương, ở đó đến nay vẫn sinh trưởng không ít loài hoa
Uất Kim Hương hoang dã. Hơn 2000 năm về trước, Uất Kim Hương được truyền đến từ
vùng Trung Á và được trồng ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tương truyền, vào thế kỷ XVI, một vị
sứ giả người Áo tại Thổ Nhĩ Kỳ nhìn thấy hoa Uất Kim Hương có sắc màu diễm lệ,
bèn lấy một số cây mang về Virana và từ trong cung đình Virana một người thợ
vườn Hà Lan lại lấy mang về Hà Lan.
Hoa Uất Kim Hương đẹp và có màu sắc diễm lệ, tao nhã và quý phái. Sau khi người
Hà Lan phát hiện và say mê trước vẻ đẹp của chúng, hoa Uất Kim Hương đã rất
được yêu thích và ưa chuộng và nó được nổi tiếng trên khắp đất nước Hà Lan với
tên gọi Tulip. Hoa Tulip trở thành loại hoa có giá trị rất cao. Có chuyện ở một
đường phố Amutstan, vào thời hoa đắt nhất, giá ba cây hoa Tulip bằng một căn
phòng đẹp!
Hiện nay, đất nước Hà Lam đã trở thành nước xuất khẩu hoa Tulip lớn nhất trên
thế giới, nó được xuất tới những 125 quốc gia trên thế giới.
216. Một mét dài bao nhiêu?
Một mét bằng năm viên gạch lát sàn… Một em nhỏ cũng có thể dễ dàng thực hiện
phép tính “hiển nhiên” này. Còn bạn, có thể bạn sẽ ngạc nhiên mà trả lời rằng
“1 mét thì bằng 1 mét chứ sao?”. Nhưng đó vẫn chưa phải là lời giải đáp chính
xác!
Khi nghiên cứu bản chất của ánh sáng, các nhà vật lý phát hiện được rằng ánh
sáng là một dạng chuyển động sóng. Ánh sáng có màu sắc khác nhau thì bước sóng
cũng khác nhau, hơn nữa bước sóng là cực kỳ ổn định. Dùng bước sóng làm chuẩn
độ dài có những ưu việt không gì sánh nổi. Vì vậy tại Hội nghị Cân đo Quốc tế
khoá 11 tháng 10 năm 1960, người ta chính thức quy định đồ dài tiêu chuẩn của
một mét bằng 1.650.763,73 lần bước sóng của sóng màu da cam do Kripton 86 phát ra
trong môi trường chân không.
Đơn vị mét qua các thời kỳ
Thời cổ đại các nước đều có đơn vị độ dài riêng của mình mà các triều đại thì
lại thường thay đổi. Những cái thước thay đổi nhiều đã gây không ít khó khăn
cho việc chế tạo máy móc chính xác.
Sau cuộc cách mạng công nghệ thế kỷ XVIII, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh
chóng đã buộc các nhà khoa học phải tìm bằng được một tiêu chuẩn độ dài thống
nhất quốc tế, có thể duy trì được trong một thời gian dài không thay đổi. Các
nhà khoa học thời đó cho rằng độ lớn của Trái đất là không thay đổi. Năm 1970,
giới khoa học Pháp đã đo đường kinh tuyến từ xích đạo của Trái đất, nêu ra
chuẩn độ dài là một phần mười triệu đoạn đường kinh tuyến từ xích đạo qua Paris
đến Bắc Cực và gọi đó là “1 mét”. Căn cứ vào độ dài đó người ta dùng platin chế
tạo ra chiếc thước dài 1 mét chuẩn đầu tiên.
Năm 1889, Hội nghị Cân đo Quốc tế đã chính thức thông qua “chuẩn gốc quốc tế”
của mét. Đó là thanh hợp kim platin – iridi tiết diện hình chữ X, có độ dài
bằng một phần bốn mươi triệu đường kinh tuyến của Trái đất. Bản “gốc” này được
cất giữ tại Viện Cân đo Quốc tế ở Paris. Các bản sao mét tiêu chuẩn do các nước
làm lại phải được định kỳ đưa đến Paris để đối chiếu thước mét tiêu chuẩn.
Chưa hoàn hảo
Sử dụng một thời gian, các nhà khoa học lại nhận thấy chiếc thước mét ở Paris
vẫn còn nhiều nhược điểm:
Thứ nhất, nó không cố định. Để giữ được độ chính xác suốt năm phải để nó ở
trong phòng có nhiệt độ không đổi, không cho ánh sáng Mặt trời trực tiếp chiếu
vào. Nếu áp suất bên ngoài thay đổi 1013 bar thì nó có thể co giãn 2 phần vạn
milimet.
Thứ hai, hợp kim platin – iridi cũng không tránh khỏi hiện tượng nóng giãn,
lạnh co. Do vậy, thước không đáp ứng được việc đo lường rất nhiều chi tiết đòi
hỏi chính xác cao như hiện nay. Chẳng hạn linh kiện của máy dẫn đường tàu vũ
trụ, nếu chỉ sai một milimet cũng đủ làm cho hành trình “sai ngàn dặm”. Cuối
cùng, thước dù chế tạo bằng kim loại nhưng dần dần cũng không tránh khỏi bị ăn
mòn, hư hỏng. Nếu chuẩn gốc quốc tế bị hư hỏng thì không thể chế tạo bằng kim
loại nhưng dần dần cũng không tránh khỏi bị ăn mòn, hư hỏng. Nếu chuẩn gốc quốc
tế bị hư hỏng thì không thể chế tạo được những thước khác hoàn toàn giống như
cũ. Do vậy, các nhà khoa học đã chuyển sang một dạng đơn vị có thể “bất biến”
hơn. Đó là bước sóng ánh sáng.
Vì sao phải có đơn vị độ dài chặt chẽ và thống nhất như vậy? Xin lấy một ví dụ,
trong nhà máy, một chiếc máy phức tạp có không dưới mấy ngàn chi tiết, muốn đem
hàng ngàn chi tiết đó lắp thành một chiếc máy để nó hoạt động bình thường thì
khi chế tạo và kiểm nghiệm phải sử dụng các dụng cụ đo đảm bảo độ chính xác của
các chi tiết. Nếu như không có một đơn vị đo độ dài một cách thống nhất, thì
không có cách gì hoàn thành được công việc đó.
Tiến bộ của khoa học không bao giờ có giới hạn, việc nâng cao độ chính xác của
đơn vị đo độ dài sẽ còn tiếp tục.
217. Thói quen ngoáy tai tốt hay xấu?
Rất nhiều bạn nhỏ có thói quen ngoáy tai, có bạn thậm chí còn dùng que diêm
hoặc các đồ vậy vừa nhỏ vừa cứng khác, thò vào trong tai, ngoáy lấy ngoáy để,
móc cho bằng hết ráy tai ra mới cảm thấy thoải mái được. Thực ra, ráy tai không
có hại gì đối với sức khoẻ của con người, có lúc còn có tác dụng bảo vệ tai nữa
đấy.
Nói đến ráy tai, thì nên hiểu nó được sinh ra như thế nào. Ai cũng biết, trong
da của người có rất nhiều tuyến bã nhờn, thường tiết ra chất có tính dầu, cho
nên trong đường tai cũng có tuyến bã nhờn, cũng sẽ tiết ra chất có tính dầu.
Loại chất này có thể đem những thứ bẩn lọt vào trong tai hoặc là những mảnh tế
bào chết ở trong tai bị rơi ra dính lại với nhau, kết thành từng cục từng cục,
tạo thành ráy tai.
Những ghét bẩn trên người có thể bị kị bỏ hết thông qua việc tắm rửa, nhưng lỗ
tai con người vừa nhỏ lại vừa sâu, không dễ gì mà rửa được, dần dần ngày càng
tích càng nhiều. Nói như vậy, ngoáy ráy tai cũng giống như tắm rửa, một việc
không thể thiếu, thực ra lại không phải như vậy. Vì những khi bình thường, ráy
tai tích lại nhiều rồi sẽ tự rơi ra, ví dụ như thường ngày chúng ta ăn cơm hoặc
nói chuyện, miệng của chúng ta sẽ đóng mở liên tục, xương cằm kéo theo tai
chuyển động liên tục, sẽ từ từ giũ hết ráy tai ở trong tai ra.
Số lượng vừa phải ráy tai ở trong tai, có khi còn đem đến những điều tốt không
ngờ. Ví dụ, ngẫu nhiên có một con bọ chui vào tai, nếu như để cho nó tiến nhanh
vào đến tai giữa, có thể làm tổn hại đến màng nhĩ, một khi màng nhĩ bị rách, còn
có thể dẫn đến viêm tai giữa, làm cho thính lực giảm sút. Nhưng trong tai có
ráy tai lại có thể phòng ngừa được tình huống ngoài ý muốn này. Vì ráy tai vốn
có vị đắng đặc biệt, con bọ gặp phải sẽ tự động chui ra khỏi tai.
Sự nguy hại lớn nhất mà việc ngoáy tai gây ra là nó rất dễ làm tổn thương tai
của chúng ta. Vì da ở trong tai con người rất mềm, hễ sơ suất một chút là sẽ
chạm vào làm rách, dễ làm cho tai nhiễm các loại vi khuẩn gây bệnh, sưng tấy
chảy mủ. Tuy nhiên, nếu như đâm thủng màng nhĩ thì vấn đề lại càng nghiêm trọng
hơn.
Do đó các chuyên gia nói rằng, ngoáy tai không phải là một thói quen tốt. Có
lúc, ráy tai thực sự tích lại quá nhiều sẽ gây cho bạn cảm giác ngứa ngày khó
chịu, tốt nhất là bạn nên dùng bông ngoáy tai, tuyệt đối không được dùng que
nhọn và cứng để ngoáy tai.
218. Vì sao tuổi càng cao càng sợ lạnh?
Vào mùa thu, trong khi thanh niên vẫn mặc áo mỏng, thì
những người có tuổi lại sớm phải mặc áo len, áo ấm rồi. Đến mùa đông, người có
tuổi càng sợ lạnh hơn, mà trên thực tế, con người tuổi càng cao thì lại càng sợ
lạnh.
Vì sao tuổi càng cao lại càng sợ lạnh? Con người đến khi về già, khả năng trao
đổi chất so với thanh niên trung niên có sự hạ thấp rõ rệt, khả năng sinh sản
nhiệt của cơ thể cũng giảm sút. Ngoài ra, hoạt động thân thể của người già cũng
chậm, cùng với sự sút kém của việc tổ chức công năng của các khí quan của trung
khu điều tiết nhiệt độ của não cũng giảm sút, khi gặp lúc thời tiết thay đổi
không kịp thời có phản ứng điều chỉnh nhiệt độ, nên nhiệt độ của người già
tương đối thấp. Có người từng tiến hành trắc nghiệm về sự hạ thấp nhiệt độ của
1025 người già tuổi từ 60 đến 90 tuổi, kết quả thấy nhiệt độ ở người già hơn
những người thành niên 0,3 độ C. Chính là vì sự trao đổi chất của cơ thể người
già suy yếu đi, nhiệt lượng sinh ra ít đi và công năng của trung khu điều chỉnh
nhiệt độ suy giảm, nên khi thời tiết hơi thay đổi một chút là cơ thể khó có thể
thích nghi được, cho nên họ cảm thấy sợ lạnh. Tuổi càng cao, khả năng thích nghi
càng giảm, thì càng sợ lạnh.
Vì thế, việc phòng lạnh giữ ấm của người già là rất quan trọng. Khi thời tiết
có luồng không khí lạnh sắp đến, thì những người già nên kịp thời mặc thêm quần
áo ấm.
219. Tại sao quần áo bị co rút?
Thông thường, trước khi dệt vải, người ta kéo thẳng sợi vải ra bằng các quá
trình giống như chải len. Do vậy, các sợi vải luôn tìm cách trở lại trạng thái
tự nhiên của chúng…
Vải bị co rút có nguồn gốc từ các loại sợi tự nhiên, đặc biệt là bông, len và
lanh. Sợi của chúng là những chuỗi polymer dài hoặc sự kết hợp của các phân tử
khổng lồ. Ở trạng thái tự nhiên, các chuỗi này được cuộn lại hoặc xếp nếp. Khi
chuẩn bị để dệt vải, bước đầu tiên người ta thường kéo thẳng sợi vải ra. Tuy
vậy, các sợi vải luôn tìm cách trở lại trạng thái tự nhiên.
Song, khi chuyển từ trạng thái này sang trạng thái kia đỏi hỏi phải vượt qua
một rào chắn năng lượng. Nhiệt độ cao trong máy giặt sẽ cung cấp cho sợi vải
năng lượng cho phép chúng biến đổi trạng thái, khiến các chuỗi polimer dài cuộn
ngược trở lại.
Sợi tổng hợp rất ít bị co rút vì polymer của chúng có thể được thiết kế theo ý
muốn của những người sản xuất và chúng ở trạng thái duỗi thẳng
220. Tại sao vàng lại quý giá?
Từ thời cổ xưa, vàng được xem là một biểu tượng của quyền lực và của cải. Trong
nhiều xã hội, vàng được xem là một chất thần kỳ có khả năng che chở con người
tránh được bệnh tật và tà ma. Vào thời xưa, những tượng thần và các ngôi đền
được trang trí bằng vàng. Vàng có gì đặc biệt đến nỗi nó luôn luôn quý giá vậy
?
Vàng là một nguyên tố kim loại . Số nguyên tử là 79. Khối lượng nguyên tử là
197.2. Tính quý giá của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước tiên là tính hiếm
có của nó, kế đến là tính tiện dụng, rồi đến tính thẩm mỹ, sau cùng là tính ít
bị phản ứng hoá học đối với không khí và nước.
Vàng được dùng trong công nghiệp vì nó không bị xỉn màu, gia công được, gần như
khong thể huỷ hoại, bền , có tính phản chiếu và dẫn điện. Khoảng 10% sản lượng
vàng hàng năm được sử dụng cho các quy trình công nghiệp.
Vàng được tính bằng đơn vị trong ounce (31,1 gam). Một ounce có thể kéo thành
một sợi dài 80km.
Những lớp mạ vàng dày 0,000024mm được dùng để tản nhiệt từ các ống thải khí của
động cơ phản lực.
Phi thuyền không gian được bảo vệ chống lại các tia phóng xạ nhờ một lớp vàng
mỏng. Vàng dẫn điện tốt và không bị xỉn màu nên nó được sử dụng rộng rãi trong
các máy vi tính và các vật dụng tiêu thụ điện.
Vàng pha với dầu được dùng để vẽ hoa văn trên các đồ sứ và thuỷ tinh. Vàng cũng
được dùng trong việc chế tạo ngói lợp nhà vì có tính phản quang tốt.
Vàng được chỉ định làm thuốc trị cho nhiều loại bệnh như ung thư và viêm khớp,
nó cũng được sử dụng rộng rãi trong ngành nha. Vàng cũng được sử dụng cho mục
đích trang trí. Ta có thể thấy nhiều tác phẩm bằng vàng được sáng tạo từ nhiều
nền văn minh lớn của thời xa xưa.
minh lớn của thời xa xưa. Đồ trang sức được làm bằng vàng gồm : nhẫn, bông tai,
vòng cổ, vòng đeo tay, dây chuyền, v.v... thậm chí vàng được sử dụng để trang
trí trên bút máy, bật lửa, ly tách, v.v... Đồ trang sức bằng vàng được chế tạo
theo 4 tiêu chuẩn : 22,18,14 và 9 cara. Vàng 18 cara là 18 phần vàng ròng trên
24 phần vàng, nghĩa là 18 cara tương đương với 75 % vàng ròng. Vàng 24 cara thì
quá mềm đối với hầu hết các công dụng.
Đồng tiền vàng đầu tiên do vua Croesus xứ Lydia phát hành vào thế kỷ thứ 6
trước công nguyên. Ngày nay, vàng vẫn giữ một vai trò quan trọng trong hệ thống
tiền tệ quốc tế.
221. Cây cối sống qua mùa đông lạnh
giá như thế nào?
Trong tự nhiên có rất nhiều hiện tượng vô cùng kỳ lạ, khiến con người phải dày
công nghiên cứu. Chẳng hạn như, cũng một loại thực vật mọc trên mặt đất, tại
sao có loại sợ lạnh, có loại lại không? Kỳ lạ nhất là các loại cây như cây
thông, cây nhựa ruồi, mặc dù vào mùa đông đóng băng lạnh giá, nó vẫn mọc thẳng
và xanh tươi, chống đỡ mọi cái lạnh giá của mùa đông.
Thực ra không chỉ có các loại thực vật khác nhau có sức chịu lạnh khác nhau, mà
khả năng chống rét vào mùa đông và mùa hè cũng khác nhau. Cây lê ở phương Bắc
vẫn vượt qua mùa đông ở nhiệt độ - 20 đến – 30 độ C một cách bình an, nhưng vào
mùa xuân lại không chống cự nổi cái rét nhỏ. Lá kim của cây thông có thể chịu
được cái lạnh – 30 độ C vào mùa đông, nhưng vào mùa hè nếu con người hạ nhiệt
độ xuống – 8 độ C nó sẽ bị chết lạnh.
Nguyên nhân nào đã khiến cây cối vào mùa đông lại có thể kháng lạnh được như
vậy? Đây rõ ràng là một câu hỏi thú vị.
Một số học giả nước ngoài đầu tiên đã nói rằng, điều này có lẽ giống với những
động vật máu nóng, bản thân cây cối cũng có thể sản sinh ra nhiệt lượng, đồng
thời còn được tăng thêm các tổ chức vỏ cây có khả năng dẫn nhiệt để bảo vệ. Sau
này, một số nhà khoa học khác lại nói rằng, chủ yếu do các tổ chức của cây cối
vào mùa đông chứa ít nước, nên khi ở nhiệt độ âm cũng không dễ gì làm cho tế
bào đóng băng và chết. Nhưng sự giải thích này đều khó khiến mọi người hài
lòng, bởi vì ngày nay con người đã biết rõ rằng, bản thân cây không thể sản
sinh ra nhiệt lượng và tổ chức cây dưới nhiệt độ âm cũng không thể đóng băng. Ở
phương Bắc, cành cây liễu, lá kim cây thông vào mùa đông cũng đóng băng như
những miếng kính bị vỡ đó sao? Vậy mà nó vẫn sống được.
Vậy bí mật ở đây là gì?
Thực ra “bản lĩnh” này của cây được tạo ra từ rất sớm. Để thích ứng với những
thay đổi của môi trường xung quanh, hàng năm cây cối đều dùng phương pháp kỳ
diệu là “chìm vào giấc ngủ” để đối phó với cái giá rét của mùa đông.
Chúng ta biết rằng, cây cối muốn sinh trưởng phải tiêu hao chất dinh dưỡng. Mùa
xuân và mùa hè, cây sinh trưởng nhanh, chất dinh dưỡng tiêu hao nhiều hơn so
với tích luỹ, vì vậy sức kháng lạnh cũng giảm. Nhưng đến mùa thu, tình hình lại
ngược lại, lúc này nhiệt độ ban ngày cao. Mặt trời chiếu mạnh, quá trình quang
hợp của lá diễn ra nhanh, còn ban đêm nhiệt độ thấp, cây cối sinh trưởng chậm,
chất dinh dưỡng tiêu hao ít, tích lũy nhiều nên cây ngày càng “béo”, cành non
biến thành chất gỗ, cây cũng dần dần có khả năng chịu lạnh.
Song đừng nghĩ trên bề mặt cây mùa đông ở vào trạng thái ngừng hoạt động, thực
ra sự biến đổi bên trong nó rất lớn. Tinh bột tích luỹ vào mùa thu lúc này
chuyển hoá thành đường, thậm chí có loại tinh bột lại chuyển hoá thành chất
béo, đây đều là những vật chất phòng lạnh, nó có thể bảo vệ tế bào không dễ bị
chết lạnh. Nếu cắt các tổ chức thành những miếng mỏng rồi đặt dưới kính hiển vi
quan sát, bạn sẽ còn phát hiện những hiện tượng thú vị. Thông thường các tế bào
liền nhau từng cặp, lúc này sợi gắn kết tế bào đều bị đứt, hơn nữa vách tế bào
và chất nguyên sinh cũng bị tách rời, giống như từng chiếc ống. Những sự thay
đổi nhỏ bé mà mắt thường không nhìn thấy được này có tác dụng rất lớn trong
việc nâng cao khả năng kháng lạnh của thực vật. Khi các tổ chức đóng băng, nó
có thể tránh cho các bộ phận quan trọng nhất trong tế bào. Chất nguyên sinh bị
đóng băng giữa các tế bào và gặp phải những nguy hiểm do bị tổn thương.
Có thể thấy, việc “chìm vào giấc ngủ” và vượt qua mùa đông của cây cối tương
quan mật thiết với nhau. Mùa đông, cây ngủ càng sâu thì càng chịu được nhiệt độ
thấp, càng có sức kháng lạnh. Ngược lại, giống như cây chanh sinh trưởng quanh
năm mà không được nghỉ ngơi thì sức kháng lạnh sẽ kém, cho dù là khí hậu ở
Thượng Hải thì nó cũng không thể sống qua mùa đông.
222. Tại sao người phương Tây thích cử
hành hôn lễ ở nhà thờ?
Tại các quốc gia châu Âu và châu Mỹ, người dân phần nhiều là tin theo đạo Cơ
Đốc, các giáo quy của đạo Cơ Đốc đã có tác dụng cực kỳ quan trọng đối với đời
sống của người dân.
Đạo Cơ Đốc quy định rằng: “Khi các tín đồ kết hôn, hôn lễ nhất định phải được
cử hành ở nhà thờ và do mục sư hay cố đạo chủ trì”. Chỉ sau khi đã thông qua
một loạt các nghi thức do giáo hội quy định thì các đôi trai gái mới có thể
chính thức trở thành vợ chồng.
Do những khác nhau về giáo phái và địa phương, nghi thức hôn lễ ở nhà thờ cũng
có phần khác nhau, nhưng cơ bản là như nhau.
Hai bên nam nữ đầu tiên phải đăng ký kết hôn tại nhà thờ gần nơi họ ở, ngoài ra
phải có hai người làm chứng. Đến ngày cử hành hôn lễ, chú rể và phù rể đứng
trước bàn thờ chờ cô dâu. Cô dâu thì tiến vịn tay bố (nếu bố đã qua đời thì anh
hay chú, bác có thể thay) trong tiếng nhạc của bản nhạc hôn lễ tiến hành khúc,
phía trước có phù dâu, phía sau có các đứa trẻ theo hầu, từ từ tiến vào bàn
thờ.
Tiếp sau đó nghi thức hôn lễ bắt đầu, mục sư hay cố đạo chủ trì hôn lễ phát
biểu rồi hỏi hai bên nam nữ. Trong khi cô dâu, chú rể đọc lời thề, chú rể tặng
cô dâu một chiếc nhẫn, sau đó mục sư ban phước lành và chúc mừng cô dâu chú rể,
những người khác hát lên lời ca chúc mừng. Cuối cùng chú rể và cô dâu cùng với
những người thân thiết nhất và chủ lễ đi vào gian phía sau bàn thờ ký tên vào
sổ đăng ký, sau đó cô dâu dựa vào tay chú rể từ từ đi ra khỏi nhà thờ trong
tiếng nhạc vui mừng. Đến lúc đó bạn bè, người thân đứng ở cửa nhà thờ tung hoa
giấy vào cô dâu chú rể, chúc cho họ được hạnh phúc bền lâu và đến đây thì hôn
lễ kết thúc.
Tuy rằng ở phương Tây cũng có những đám cưới lập dị như hôn lễ tổ chức trên
không trung, hôn lễ trên mặt nước, nhưng phần lớn dân chúng vẫn thích cử hành
hôn lễ trong nhà thờ và có thể lưu giữ trong ký ức những thời khắc đẹp nhất
trong cuộc đời của mình
223. Tại sao ngày đầu năm gọi là “Nguyên đán”?
Hiện nay, ở Trung Quốc ngày mồng một tháng Giêng dương lịch hàng năm được gọi
là ngày “Nguyên đán” (Ở Việt Nam, Nguyên đán là ngày mồng một tháng Giêng âm
lịch). Trong tiếng Hán, chữ “nguyên” nghĩa là bắt đầu, tức là thứ nhất, còn chữ
“đán” nghĩa là một ngày hoặc buổi sáng. Hai chữ này được ghép lại với nhau thì
dùng để chỉ ngày đầu tiên trong một năm.
Thời gian Trái đất xoay quanh Mặt trời được một vòng theo phương pháp làm lịch
gọi là một năm. Song sự vần chuyển của Trái đất quanh Mặt trời không có điểm
đầu và điểm cuối cố định, vì thế điểm đầu và điểm cuối của một năm là do con
người quy định. Do đó phương pháp làm lịch không thống nhất.
Ở Trung Quốc, theo truyền thuyết thì cái tên gọi “Nguyên đán” có nguồn gốc từ
một vị hoàng đế trong Tam hoàng Ngũ đế có tên là Chuyên Húc. Chuyên Húc lấy
tháng Giêng nông lịch là Nguyên và ngày mồng một là Đán.
Về sau có những triều đại lại thay đổi nhật ký của ngày Nguyên đán. Chẳng hạn
nhà Hạ và nhà Thương lấy ngày mồng một tháng Mười Hai là Nguyên đán. Nhà Chu
lấy ngày mồng một tháng Mười Một làm Nguyên đán, nhưng đến đời Hán Vũ Đế lại
lấy ngày mồng một tháng Giêng là Nguyên đán, rồi từ đó đến nay trải qua các
thời đại, nhật kỳ của ngày Nguyên đán không còn thay đổi nữa.
Từ sau cách mạng Tân Hợi, người Trung Quốc chuyển sang dùng Công lịch và ngày
Nguyên đán âm lịch được đổi tên là Xuân tiết (ngày Tết xuân), còn ngày mồng một
tháng Giêng của lịch mới thì được gọi là Tân niên (ngày năm mới).
Năm 1949, Hội nghị Toàn thể khoá I Hội nghị Nhân dân Chính trị Hiệp thương
Trung Quốc đã thông qua việc sử dụng “cách ghi năm theo Công nguyên” và chính
thức quy định ngày mồng một tháng Giêng Công lịch là ngày Nguyên đán.
Ngày nay, nhiều quốc gia áp dụng Công lịch đều lấy ngày mồng một tháng Giêng
làm Nguyên đán. Nhưng vẫn có một số quốc gia và dân tộc, do phương pháp làm
lịch dựa theo tín ngưỡng tôn giáo, phong tục tập quán, khí hậu các mùa… không
đồng nhất, cho nên nhật ký ngày Nguyên đán của mỗi nước được định ra không như
nhau. Ví dụ người Ai Cập lấy ngày nước sông Nil bắt đầu dâng lên làm ngày
Nguyên đán.
224. Cờ Tướng Trung Quốc đã ra đời như
thế nào?
Cờ Tướng là một hoạt động tương đối phổ cập. Cờ Tướng đã có một lịch sử hết sức
lâu đời, đại khái nó bắt nguồn từ trước đây hơn hai nghìn năm. Cuối thời kỳ
Chiến Quốc, trong tập thơ cổ trứ danh Sở Từ có viết về cờ Tướng. Thời bấy giờ
đã thịnh hành một cách chơi gọi là “Lục bác”, mỗi bên có thể đi sáu quân cờ.
Đồng thời ở đời Chiến Quốc, các nước chư hầu tách rời nhau và tranh đoạt đất
đai của nhau, chiến tranh diễn ra hết năm này qua năm khác. Tình hình xã hội
như thế cũng tạo điều kiện cho cờ Tướng ra đời. Mà trên bàn cờ “Sở giang” (sông
nước Sở) và “Hán giới” (biên giới nước Hán) đã có nguồn gốc từ thế kỳ thứ II
trước Công nguyên. Đó là do Lưu Bang và Hạng Vũ chống lại ách thống trị của nhà
Tần, đi tới thành lập hai nước Sở và Hán.
Đời xưa Cờ Tướng đã được quảng đại nhân dân ham thích. Cách bố cục của Cờ Tướng
cũng không ngừng được cải tiến. Đến đời nhà Đường, cách đi các quân cờ này cũng
giống như ngày nay.
Cờ Tướng ngày nay đã được định hình vào cuối
thời kỳ Bắc Tống và đầu thời kỳ Nam Tống. Nếu suy đoán theo trước tác của những
người như Tư Mã Quang, thì dưới triều Bắc Tống đã lưu hành ba loại cờ Tướng,
Tốt, bàn cờ chiều ngang và chiều dọc. Đến đời Nam Tống thì thêm con sông ngăn
bàn cờ làm đối, và loại cờ Tướng này được lưu hành rộng rãi trong dân gian.
Cuốn “Sự lâm quảng ký” của đời Tống có ghi bản “Tượng kỳ phổ” (sách ghi các ván
Cờ Tướng) sớm nhất mà hiện nay chúng ta còn có thể xem được.
Sang đến đời nhà Minh, con Tướng ở một bên được đổi thành con Sư. Từ đấy cờ
Tướng Trung Quốc đã được định hình và không thay đổi nữa.
Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, cờ Tướng được đưa vào các hạng mục
thi đấu thể dục thể thao. Để phân biệt với cờ Vua quốc tế, cờ Tướng truyền
thống được gọi là “Trung Quốc tượng kỳ” (Cờ Voi Trung Quốc).
225. Tại sao tặng “cúp” cho người đoạt
giải quán quân?
Truyền
thuyết kể rằng: Ngày 8 tháng 3 năm 978, vua nước Anh, Eduot đến Khơphu để thăm
em là Aitlaytơ trong một nghi thức nghiêm trang, long trọng. Nhà vua Eduot đang
ngồi trên lưng ngựa thì có một người dâng rượu, ngài định uống cạn thì bị một
tay thích khách ở sau lưng đâm cho một mũi dao. Nhà vua đã chết vì một âm mưu
ám muội ở tuổi 15.
Sau khi Eduot chết đi, Aitlaytơ kế thừa ngôi báu. Tuy rằng vẫn còn chưa có ai
chứng thực được rằng Aitlaytơ có can dự vụ mưu giết anh mình hay không, song
tấn thảm kịch này đã để lại cho người ta những ý nghĩa răn dạy sâu sắc.
Từ đó về sau, mỗi khi người Anh tổ chức những tiệc rượu đã nảy sinh một nghi
thức mới. Chủ nhân dùng hai tay cầm một vại rượu có hai tai, còn những người
khách thì dùng hai tay nhận lấy một vại rượu ấy và luân lưu cùng uống. Người
nào đến lượt uống thì đứng vào giữa, những người khác đều đứng vây quanh chung
quanh để đề phòng có kẻ mưu sát từ sau lưng. Vại rượu lớn luân chuyển giữa các
tân khách đứng thành như thế này, đã trở thành “vại rượu tình yêu” tượng trưng
cho tình hữu nghị và tin tưởng, và được coi là một lễ vật quý báu mà chủ nhân
tặng cho người khách được tôn quý nhất.
Người Anh vốn say mê các hoạt động thể dục thể thao. Sau khi kết thúc các cuộc
tranh tài, thì sẽ có một bữa tiệc chúc mừng người thắng cuộc. Và trong buổi lễ
người ta thường tặng “vại rượu tình yêu” cho người giành thắng lợi. Về sau việc
này dần dần diễn biến thành một tục lệ. Bất luận là cá nhân hay đoàn thể, chỉ
cần chiến thắng trong thi đấu, thì sẽ được tặng “vại rượu tình yêu”. Cúp thể
thao bắt nguồn từ chính bình “vại rượu tình yêu” đó. Nó biểu thị cho sự hoan
nghênh, ái mộ và chúc mừng đối với kẻ chiến thắng.
226. Cờ Vây do ai phát minh?
Cờ Vây ra đời ở Trung Quốc là một cách chơi cờ cao siêu khôn lường, có hàng
ngàn vạn cách biến hoá, cho nên được gọi là loại hình thể thao trí tuệ. Môn cờ
này không những phát triển ở ba nước láng giềng của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc, mà còn được truyền tới một số nước châu Âu.
Ai đã phát minh ra cờ Vây? Sách thế bản thời Chiến Quốc viết “Đế Nghiêu tạo ra
cờ Vây, Đơn Chu giỏi chơi cờ Vây”.
Đế Nghiêu là một trong ngũ đế của thời cổ đại xa xưa ở Trung Quốc. Truyền
thuyết kể rằng ông đã sáng tạo ra cờ Vây, còn Đơn Chu giỏi chơi cờ Vây. Song
các chuyên gia nhận thấy rằng, một hoạt động thể thao có trình độ trí tuệ cao
như cờ Vây thì không thể do một người nào sáng tạo ra vào một ngày nào đó được.
Nó phải trải qua một thời kỳ phát triển rất dài, phải được những con người của
nhiều thời địa gia công qua thời gian thì mới dần dần được hoàn thiện.
Nói chung, các chuyên gia nghiên cứu cho rằng: cờ Vây là sản phẩm của học
thuyết âm dương thời cổ đại, hai mươi con cờ đen và trắng tượng trưng cho hai
cấp Âm - Dương. Thời gian nó được sản sinh phải là thời kỳ thượng cổ, khi con
người đời xưa còn kết những sợi dây để ghi lại sự việc, vì các điểm tuyến và
vòng trên bàn cờ Vây đại biểu cho việc tết các sợi dây.
Đế Nghiêu chẳng qua là người đầu tiên sửa đổi cờ Vây, hoàn thiện cờ Vây ở bước
sơ bộ. Đến đời Ban Canh nhà Thương thì cờ Vây cổ xưa trở thành một cao trào, vì
thời bấy giờ con người đã bắt đầu có cuộc sống định cư, sản xuất nông nghiệp và
phát triển, nền văn minh cổ đại đã được nâng cao, nhờ đó đã tạo ra được của cải
vật chất để cho hoạt động của cờ Vây được phát triển.
Những phát hiện khảo cổ lại cho thấy rằng từ xa xưa bàn cờ Vây đã có 12 tuyến
dọc và ngang. Chiếc bàn cờ bằng sứ màu xanh đời nhà Tuỳ, khai quật được ở An
Dương tỉnh Hà Nam – Trung Quốc có 19 tuyến dẫn, cũng giống như kiểu bàn cờ mà
chúng ta dùng ngày nay. Các bàn cờ nhà Đường được khai quật thì có nhiều loại:
15 tuyến, 17 tuyến, 19 tuyến, loại thông dụng nhất có 19 tuyến. Trong lịch sử,
số lượng những văn bản cổ về cờ Vây tìm thấy mỗi ngày một tăng thêm, chứng tỏ
sự phát triển của hoạt động cờ Vây
227. Tại sao ở nước Anh và một số nước
khác xe đi bên trái đường?
Ở Trung Quốc và rất nhiều nước trên thế giới, bất kể ô tô, xe đạp hay người đi
bộ cũng phải theo đúng quy tắc giao thông hiện hành là đi theo bên phải đường.
Nhưng ở nước Anh và một số nước khác thì trái ngược hẳn, mọi phương tiện giao
thông cũng như người đi bộ phải đi bên trái đường. Vì sao vậy?
Thật ra tập quán này của nước Anh và một số nước khác cũng có nguyên nhân lịch
sử của nó. Từ thế kỷ XIV và XV, hồi nước Anh và một số nước khác còn chưa có ô
tô và xe đạp, người ta đi lại bằng ngựa hoặc đi bộ.
Các hiệp sỹ, các nhà quý tộc giàu có khi đi đường thường đeo kiếm bên mình.
Thông thường, người ta đều dùng thuận tay phải nên kiếm được đeo bên trái thân
mình để khi cần có thể tiện tay rút kiếm ra được ngay. Còn khi bị kẻ địch tấn
công từ phía trước mặt thì bên trái đường sẽ tiện cho việc đỡ đòn và tấn công
kẻ địch hơn. Hãy thử tưởng tượng, nếu bị một kẻ thuận tay phải tấn công từ
trước mặt thì đòn tấn công sẽ nhằm vào bên trái người bị tấn công, nên người ta
phải né sang phải để tránh đòn. Vì lý do đó mà ở Anh và ở một số nước mấy trăm
năm nay người ta đều đi bên trái đường.
Về sau súng được phát minh. Khi dùng súng nhằm vào đối phương người ta thường
lấy tay trái đỡ súng, tay phải đặt vào cò súng. Trong trường hợp này, đi bên
phải đường dễ chống kẻ địch từ phía trước tiến tới trước hơn. Vì lý do này mà ở
các quốc gia phát triển muộn hơn như Mỹ có quy định đi bên phải đường.
Trên thế giới phân biệt hai luật giao thông quy định đi bên phải và đi bên trái
đường. Đa số các nước, bắt đầu từ nước Mỹ, Trung Quốc… đều quy định đi bên phải
đường, còn lại là các nước đi bên trái đường như Anh, Nhật Bản…
228. Làm thế nào để xác định tuổi của
cây?
Tại những vùng có khí hậu có tính biến hoá rõ ràng về mùa vụ, ở trong bộ mộc
chất thứ sinh trong cây thực vật họ mộc bản sống lâu năm, mỗi năm đều hình
thành đường viền hoa văn có biên giới rõ ràng, gọi là vòng đời, cũng có tên là
vòng sinh trưởng hay tầng sinh trưởng, là căn cứ để xác định tuổi của cây.
Sự hình thành của bộ thứ sinh mộc chất, là kết quả của hoạt động hình thành
tầng mà hoạt động của tầng hình thành lại chịu ảnh hưởng của khí hậu có tính
mùa vụ, đặc biệt là ở những vùng ôn đới và nhiệt đới có thời tiết khô, ẩm. Ví
dụ như ở vùng ôn đới, từ mùa xuân đến mùa hạ, khí hậu lúc này rất thích nghi
cho sự phát triển của cây cối, tế bào của tầng hình thành phân biệt rất nhanh
chóng, sinh trưởng mau chóng, hình thành tế bào bộ mộc chất, rỗng xốp vách
mỏng, sợi tơ ít, ống dẫn chuyên chở thuỷ phân rất nhiều, gọi là gỗ mùa xuân.
Đến mùa thu, hoạt động của tế bào bộ mộc chết, chặt chẽ vách dày, tơ sợi nhiều,
ống dẫn ít, gọi là gỗ mùa thu hoặc là gỗ muộn.
Chất gỗ mùa xuân xốp mềm, màu hơi nhạt, chất gỗ mùa thu chắc chắn, màu sắc đậm
hơn. Gỗ xuân và gỗ thu, ôm nhau thành một vòng tròn, đấy chính là “vòng đời”
vòng của một năm tuổi của cây gỗ. Cứ mỗi một năm là một vòng, đếm bao nhiêu
vòng là biết ngay tuổi của chúng là bao nhiêu.
Không phải tất cả các cây gỗ đều có vòng đời, như thực vật lá đơn chẳng hạn, vì
không hình thành tầng, nên không có vòng đời. Ở các vùng nhiệt đới do mùa vụ
không đủ nên tế bào sản sinh của tầng hình thành rất nhỏ, nên vòng đời thường
không rõ ràng, có lúc có nơi do địa tầng hoạt động dữ dội. Tầng hình thành khác
đi, mỗi năm có thể sinh ra mấy vòng đời, đây gọi là vòng đời giả, như cam quýt,
mỗi năm có thể sinh ra ba vòng đời, có những khi do khí hậu đột biến, chịu ảnh
hưởng của sâu hại, cũng có thêm các vòng đời giả. Vậy thì nếu cứ tính vòng đời
mà ra tuổi của cây thì phải trừ đi các vòng đời giả và thế là chúng ta chỉ có
được một con số gần đúng về tuổi của cây.
229. Làm thế nào rễ cây biết nơi cần
bò đến?
Rễ cây tránh vật cản tạo ra hình thù ngoằn ngoèo trong lòng đất
Các nhà khoa học đã khám phá ra lý do khiến rễ cây tìm thấy đường đi trong bóng
tối để mọc xuyên qua lòng đất.
"Chìa khoá của vấn đề là ở lớp lông xoăn trên rễ cây", thành viên
nhóm nghiên cứu Liam Dolan từ Trung tâm John Innes ở Anh, tiết lộ. "Chúng
tôi đã xác định được một cơ chế kiểm soát tăng trưởng cho phép những sợi lông
này tìm thấy đường đi và mọc dài ra khi đường đi đó không có vật cản".
Những chiếc rễ cây tìm đường đi trong đất tương tự như cách một người dò dẫm
trong bóng tối. Nếu chúng bắt gặp vài vật cản, chúng sẽ đi vòng quanh cho đến
khi chạm tới điểm có thể tiếp tục lớn.
Rễ cây làm được điều này thông qua một chu trình hoá học tự gia cố. Một protein
ở đầu chóp của mỗi sợi lông trên rễ (có tên là RHD2) sẽ tạo ra các rễ tự do,
kích thích sự hấp thu canxi từ đất. Canxi này, ngược lại kích thích hoạt động
của RHD2, tiếp tục chu trình.
Chu trình chỉ dừng khi các lông rễ gặp một vật cản, và không hấp thu được canxi
nữa. Khi đó, rễ cây bắt đầu mọc theo hướng khác.
"Cơ chế đặc biệt này tạo cho thực vật khả năng linh hoạt trong việc khám
phá môi trường phức tạp và có thể chiếm lĩnh ngay cả những vùng đất khắc nghiệt
nhất", Dolan nói.
230. Lượng phóng xạ trong thuốc lá là
bao nhiêu?
Hàng ngày, chúng ta hút thuốc mà không hề biết rằng chúng chứa rất nhiều chất
phóng xạ có hại cho sức khỏe. Các nhà khoa học hiện đang đưa ra các lý giải
khác về nguyên nhân những cái chết ung thư của những người hút thuốc lá...
"Nhiều nhà khoa học tin rằng những cái chết vì ung thư của những người hút
thuốc là do hàm lượng phóng xạ của lá cây thuốc lá, chứ không phải do nicotin
hay hắc ín", Constantin Papastefanou - một nhà khoa học từ Đại học Aristotle
ở Thessaloniki ở Hy Lạp nói.
Ông đã đo hàm lượng phóng xạ từ radi và poloni trong cây thuốc lá trên khắp đất
nước và tính toán hàm lượng phóng xạ trung bình mà một người nhận được khi hút
30 điếu thuốc mỗi ngày. Ông phát hiện thấy cây thuốc lá tự nhiên đã chứa 251
microsieverts phóng xạ một năm, so với 0,199 microsieverts phóng xạ xezi-137 từ
các lá cây sống tại vùng thảm họa của Nga.
Mặc dù hàm lượng phóng xạ từ hút thuốc chỉ bằng 10% so với hàm lượng trung bình
mà con người nhận được từ tất cả các nguồn tự nhiên, song Papastefanou nhận
định nguy cơ đó đang gia tăng.
Vì vậy những người hút thuốc lá, hãy hạn chế và dần bỏ thói quen hút thuốc lá,
nếu như không muốn hàng ngày đưa một lượng phóng xạ không nhỏ vào cơ thể của
mình.
231. Tại sao dưới triều nhà Thanh, đàn
ông đều để bím tóc?
Qua phim ảnh, chúng ta thường thấy đàn ông dưới triều nhà Thanh không để một
sợi tóc nào từ trán lên tới đỉnh đầu, nhưng đằng sau lại có bím tóc bện rủ dài
xuống dưới lưng.
Chúng ta biết rằng vương triều nhà Thanh là do người Mãn sáng lập. Dân tộc Mãn
vốn có tên là Nữ Chân. Ngay từ thế kỷ XII, họ đã lập ra nhà Kim ở phương Bắc.
Đàn ông để bím tóc là tập quán có từ thời nhà Kim.
Năm 1664, người Mãn vượt Sơn Hải Quan, đánh chiếm Bắc Kinh, bắt đầu xây dựng
chính quyền thống trị toàn cõi Trung Quốc, tức là vương triều nhà Thanh. Nhưng
so với dân tộc Hán thì người Mãn chỉ là một dân tộc thiểu số sống trên đất
Trung Quốc, trong lịch sử đã bị người Hán thống trị.
Giai cấp thống trị Mãn Thanh biết rằng để xây dựng quyền thống trị tuyệt đối
của dân tộc người Mãn trên toàn cõi Trung Quốc mênh mông, làm cho tất cả người
Hán đều phải thần phục dân tộc Mãn, mà chỉ hoàn toàn dựa vào việc thành lập một
cơ cấu chính quyền các cấp thì chưa đủ. Vì thế triều đình nhà Thanh đã ban bố
một loạt các chính sách kỳ thị dân tộc để xác lập từ trong tâm lý ý thức về
quyền uy của dân tộc Mãn, và trong các chính sách này đã có lệnh cắt tóc.
Lệnh cắt tóc tức là cưỡng bức tất cả những người đàn ông thuộc dân tộc Hán phải
bắt chước tập quán của dân tộc Mãn, là cắt hết tóc từ trán lên đỉnh đầu, nhưng
để cho tóc đằng sau đầu mọc dài ra rồi tết thành bím. Nếu trái lệnh sẽ xử tử.
Hồi ấy trong dân gian có câu: “Không để tóc mất đầu, để đầu mất tóc”. Lúc áp
dụng chính sách này, người Hán phản kháng dữ dội nhưng đều bị trấn áp. Mãi tới
cách mạng Tân Hợi năm 1911 sau khi nhà Thanh sụp đổ, lối để tóc này không còn
nữa.
232. Trà đạo của Nhật Bản đã bắt nguồn
và phát triển như thế nào?
Người Nhật Bản rất thích uống nước trà, hơn nữa họ còn đòi hỏi phải có hoàn
cảnh thích đáng để uống nước trà, mà cũng lại còn đòi hỏi cả về cách pha trà
cũng như mời trà. Thông qua việc uống nước trà, con người ta đạt tới cảm giác
thanh tịnh và thư giãn. Đó tức là trà đạo của Nhật Bản.
Thật ra tập quán uống nước trà của người Nhật Bản đã được bắt nguồn từ Trung
Quốc, trà đạo đã được du nhập vào Nhật Bản bởi các học sinh và các nhà sư đến
từ Trung Quốc lưu học tại đây trong hơn một nghìn năm.
Năm 1191 sau Công nguyên, một hoà thượng Nhật Bản là Vinh Tây kết thúc thời kỳ
lưu học tại triều đình nhà Đường, đã trở về Nhật Bản mang theo rất nhiều hạt
chè. Sau khi về tới quê hương, ông tích cực khuyến khích việc trồng những cây
chè, đồng thời còn viết một cuốn sách nhan đề là “Ngật trà dưỡng sinh ký” (bài
ký uống trà dưỡng sinh), tuyên truyền tác dụng tốt đẹp của nước trà như: làm
cho tinh thần phấn chấn, làm sáng mắt, giúp ăn ngon miệng. Về sau việc uống
nước trà đã dần dần lan rộng ra từ tầng lớp quý tộc xuống tới đại chúng bình
dân, một vị cao tăng của Thiền Tông là Thôn Điền Chu Quang là người đầu tiên
đưa ra phương pháp pha trà của Thiền Tông.
Sau khi Thôn Điền qua đời, thương nhân tham thiền là Vũ Dạ Trị Âu cũng cố hết
sức khai quật các đồ gốm Tín Lạc, là những đồ pha trà mộc mạc có vẻ đẹp thuần
phác của Nhật Bản, điều này cũng làm cho trà đạo có được một bước phát triển
mới.
Cuối cùng Thiên Lợi Hữu - người được tôn vinh là thiên tài về trà đạo - đã học
tập thiền sư Vinh Tây và thu thập toàn bộ tài liệu tổng kết bao quát được tinh
thần trà đạo là “Thanh tịnh hoà túc” với ý nghĩa là “khốc ái hoà bình, thanh
tâm an tịnh” (hết sức yêu hoà bình, lòng thanh thản yên tĩnh), ngoài ra lại còn
yêu cầu các dụng cụ pha và uống trà đạo phải có vẻ đẹp hợp với những người uống
trà. Nghệ thuật trà đạo của Thiên Lợi Hữu đã mở đầu thời kỳ cực thịnh của trà
đạo trong lịch sử Nhật Bản.
Trong những năm gần đây, trà đạo ở Nhật Bản đang diễn biến thành những hội uống
trà kiểu đại chúng và trở thành một sinh hoạt văn hoá xã giao lấy ẩm thực làm
trung tâm.
233. Trên thế giới có bao nhiêu loài
thực vật Thực vật và động vật, loài nào nhiều hơn?
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta nhìn thấy biết bao nhiêu loài thực vật và
động vật xung quanh mình. Rất có thể bạn đã từng đặt câu hỏi: Trên trái đất bao
la, rộng lớn này, có bao nhiêu loài thực vật, bao nhiêu loài động vật? Loài nào
nhiều hơn?
Chúng ta đều biết, ngay từ thời nguyên thuỷ, tổ tiên chúng ta không chỉ tiếp
xúc, tìm hiểu về thế giới tự nhiên, mà còn biết cách chế tạo ra nguyên liệu,
thực phẩm phục vụ cho cuộc sống của mình từ các loài động, thực vật như: Gỗ làm
nhà; vỏ cây da thú làm quần áo; động vật, thực vật làm thực phẩm... Để nâng cao
nhận thức và hiểu biết về thế giới động, thực vật trước hết chúng ta phải học
cách phân biệt những loài động, thực vật khác nhau, từ đó hiểu được hàm nghĩa
của "loài" đồng thời thấy được sự đa dạng của động, thực vật về mặt
số lượng.
Sở dĩ có sự khác biệt giữa các loài sinh vật là do chúng có những đặc trưng
khác nhau về môi trường sống, hình thái cấu tạo hoạt động sinh lý... Chẳng hạn,
các loài sinh vật khác nhau không thể giao cấu để duy trì nòi giống cho loài
của mình. Chính nhờ đặc điểm có thể coi là tiêu chuẩn này mà các nhà sinh vật
học có thể tiến hành phân loại rõ ràng, chi tiết các loài từ vô số sinh vật tồn
tại, sinh trưởng và phát triển trên thế giới và còn có thể xác đinh số lượng
các loài sinh vật lớn.
Đến nay, con người đã nhận biết và gọi tên được hơn 1.400.000 loài sinh vật
trên thế giới. Nhưng trong những khu rừng nhiệt đới hay trong lòng đại dương
bao la vẫn còn nhiều loài sinh vật mà con người chưa từng biết về chúng. Theo
ước tính của các nhà khoa học, trên trái đất có khoảng 10 triệu loài sinh vật.
Cũng có con số thống kê lên đến 30.000.000 loài. Từ đó có thể thấy rằng, hiểu
biết của loài người chúng ta về thế giới sinh vật phong phú này còn rất khiêm
tốn.
Trong số 1 .400.000 loài sinh vật đã được con người nhận biết có khoảng hơn
300.000 loài thực vật, hơn 1.000.000 loài động vật. Trong đó thực vật có hoa
khoảng hơn 200.000 loài, chiếm 2/3 số loài thực vật đã biết. Trong động vật,
côn trùng có khoảng 780.000 loài, chiếm 3/4 đến 4/5 số loài động vật đã biết.
Đại đa số thực vật là thực vật hạt kín có khả năng nở hoa kết trái. Còn
trong.thế giới động vật, những loài côn trùng bé nhỏ lại chiếm ưu thế. Điều thú
vị hơn nữa là trong lịch sử tiến hoá và phát triển của động vật và thực vật,
thực vật nở hoa và côn trùng lại có rất nhiều đặc điểm tiến hoá đồng thời với
nhau, hỗ trợ phát triển lẫn nhau. Từ đó khiến cho động vật và thực vật song
song phát triển ngày càng phồn thịnh.
234. Tại sao trận Oateclo trở thành
điều tượng trưng cho thất bại trong cuộc đời con người?
Ngày 20 tháng sáu năm 1815 tại ngoại ô Thành phố Oateclo cách thủ đo Brucxen
nước Bỉ 23 km về phía nam, liên quân chống Pháp đã phát động một cuộc tiến công
mãnh liệt vào quân đội Pháp do Napoleon chỉ huy.
Thật là một trận chiến long trời lở đất, trước sự tấn công ồ ạt của liên quân,
quân đội Pháp đã tan vỡ không còn một mảnh giáp, thống soái Napoleon chỉ còn
cách giẫm chân thở dài rồi bỏ quân đội mà chạy thục mạng.
Napoleon xuất thân từ một gia đình quý tộc đã sa sút trên đảo Coóc. Năm 1793,
ông 24 tuổi, bắt đầu xuất đầu lộ diện. Trong hơn mười năm trời, ông đánh Đông
dẹp Bắc, không trận nào là không chiến thắng, không những chỉ xưng hùng trên
đại lục châu Âu mà còn chinh phục được Ai Cập cùng nhiều vùng đất ở Địa Trung
Hải, làm cho vô số vương công phải cúi đầu xưng thần, và nhiều quốc gia nhỏ
biến thành phiên thuộc của nước Pháp.
Dù cho các nước mạnh ở châu Âu không can tâm chịu thất bại, liên tục tổ chức
nhiều nhóm đồng minh chống Pháp, nhưng trước một tay thiện chiến như Napoleon,
họ hầu như không tìm ra được một đòn nào đáng kể.
Năm 1804, Napoleon xưng làm hoàng đế, đội vương miện do chính tay giáo hoàng
đặt lên đầu. Có thể nói rằng mọi thứ vinh quang trong cuộc đời một con người
Napoleon đều đã được tận hưởng. Người ta từng gọi Napoleon là đứa con yêu của Thượng
đế, vị Thần Chiến tranh.
Nhưng từ năm 1808 về sau, cuộc đời Napoleon bắt đầu xuống dốc. Trên chiến
trường ông bị thất bại nhiều lần. Dù cho năm 1814, liên quân chống Pháp đã xông
vào Paris, bắt Napoleon phải thoái vị, nhưng ông vẫn còn sáng tạo được một kỳ
tích của kẻ thất bại. Ông bỏ chạy khỏi nơi đi đày là đảo Enbơ và lại đội vương
miện.
Song xu thế thất bại đã không có cách nào xoay chuyển được nữa rồi, cuối cùng
ông đã đặt cược tất cả vào trận Oateclo. Đối với Napoleon mà nói thì chiến dịch
này có tính chất quyết định. Sau đó ông ta không còn có cơ hội chỉnh đồn binh
mã để có thể lại tiếp tục làm mưa làm gió, vì thế chiến dịch Oateclo thường
được dùng để tượng trưng cho thất bại trong cuộc đời con người.
235. Tại sao cấu tạo về hình thái tế bào ở
các bộ phận của thực vật khác nhau?
Chúng ta đều biết đại đa số các loài thực vật đều có phần lá xanh vươn cành
phát triển trong không trung, phần thân cây chính và phần rễ cây ăn sâu vào
lòng đất, nhưng bạn đã bao giờ thực sự quan sát tỉ mỉ cấu tạo bên trong của
thực vật chưa?
Thực vật cũng như động vật đều cấu tạo từ các tế bào. Chúng ta cùng quan sát và
tìm hiểu cấu tạo bên trong của một cây xanh. Trước tiên hãy ngắt lấy 1 chiếc lá
cây (ví dụ lá của cây trinh nữ), dùng chiếc díp nhỏ kẹp lấy phần sống lá, từ từ
tước nhẹ một lớp màng mỏng gần như trong suốt ở lớp trên cùng của lá, đấy chính
là phần biểu bì của lá. Quan sát dưới kính hiển vi, chúng ta có thể thấy rằng
lớp biểu bì mỏng gần như trong suốt của lá này được cấu tạo từ vô vàn những tế
bào dạng bản với những hình dạng khác nhau, chúng gắn kết lại với nhau theo thể
xen kẽ, sắp xếp rất chặt chẽ và tập hợp lại thành một thể khá bền chặt. Sau khi
được bóc tách, lớp biểu bì sẽ để lộ một lớp thịt lá xanh. Quan sát dưới kính
hiển vi ta thấy những tế bào tạo thành thịt lá này đều có hình vuông, có chỗ
sắp xếp rất chặt chẽ nhưng có chỗ lại sắp xếp rời rạc.
Tiếp theo chúng ta cùng tìm hiểu về cấu tạo bên trong của thân cây. Kết cấu
quan trọng trong thân cây là phần chất gỗ và libe. Bên trong thân cây có cấu
tạo tiếp dẫn, nó bao gồm ống dẫn mạch và ống lọc. Ống dẫn mạch nằm ở phần chất
gỗ, nó là những sợi ống dài từ vài cm đến 100 cm, không đều nhau, nối tiếp nhau
từ rễ cây đến các phần nhánh cây, cuối cùng là lá cây. Trong ống có các hoa văn
hình xoắn ốc hoặc hình tròn. Ống lọc cũng là một ống thông suốt trên dưới nối
tiếp nhau, giữa các tế bào của ống lọc có các lỗ lọc thông nhau, các lỗ lọc này
nằm trên các tấm lọc. Trong thực tế, các tấm lọc này chính là những tế bào ống lọc
cấu tạo theo kiểu liên kết.
Cuối cùng, chúng ta cùng quan sát cấu tạo của rễ cây. Cấu tạo của rễ cây cũng
tương tự như cấu tạo chủ yếu của thân cây. Nhưng rễ cây có một loại tế bào đặc
biệt, tế bào lông của rễ. Nó phân bố trên lớp ngoài cùng của rễ cây, tế bào này
phát triển trong đất và hình thành nên lớp lông của rễ. Khi quan sát cấu tạo và
hình thái của các tế bào này, chắc chắn bạn sẽ đưa ra những câu hỏi: Tại sao
hình thái kết cấu của các tế bào ở các bộ phận khác nhau lại không giống nhau?
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu bản thân con người chúng ta trước. Mắt giúp chúng ta
có thể tiếp xúc với ánh sáng, có thể nhìn thấy rõ các vật thể; Tai giúp chúng
ta thu nhận được sóng âm thanh, nghe rõ âm thanh; Miệng giúp chúng ta có thể ăn
các loại thức ăn. Do có 2 hàm răng rất chắc và cứng, chúng ta có thể nhai nhỏ,
nghiền nát những thức ăn !ớn... Thực vật cũng giống như con người chúng ta vậy,
các tế bào có kết cấu hình thái khác nhau ở các bộ phận khác nhau sẽ có tác
dụng không giống nhau. Tế bào biểu bì có kết cấu rất chặt chẽ vì chúng có nhiệm
vụ ngăn chặn sự xâm nhập của các vi khuẩn bên ngoài. Nó trong suốt, không màu
để ánh nắng mặt trời có thể dễ dàng xuyên qua nó, chiếu vào phần tế bào thịt lá
ở bên trong. Tế bào thịt lá sở dĩ có màu xanh là do trong đó có chứa chất diệp
lục gọi là lục thể. Đây chính là.bộ phận chịu trách nhiệm quang hợp cho cây. Do
đó, kết cấu của tế bào thịt lá có liên quan đến việc quang hợp tạo dinh dưỡng
cho thực vật. Cấu tạo của ống dẫn có tác dụng dẫn nước mà phần rễ cây hấp thụ
được từ lòng đất lên đến thân, cành và lá cây. Nó cũng giống như đường ống dẫn
nước trong ngôi nhà của chúng ta vậy. Cấu tạo của ống lọc có tác dụng đưa những
chất dinh dưỡng mà lá cây tạo ra truyền đến thân và rễ cây. Cấu tạo đặc biệt
của tế bào lông ở rễ cây có tác dụng phát triển rộng thêm diện tích tiếp xúc
của nó với đất để rễ cây dễ dàng hấp thụ nước và khoáng chất dinh dưỡng hơn.
Như vậy bạn đã thấy: Sự khác nhau về hình thái và cấu tạo của các tế bào ở các
bộ phận khác nhau liên quan chặt chẽ với vai trò của các bộ phận đó. Thực ra,
tất cả các loài thực vật dù là thực vật bậc thấp hay cao đều bắt đầu từ 1 tế
bào. Nó không ngừng phân tách, từ 1 - 2, từ 2 - 4... khi phân tách đến giới hạn
nhất định, nó sẽ biến thành một dạng lớn hơn gọi là mô. Sau đó, một phần trong
những mô này tiếp tục phân tách, tiếp tục phát triển từ nhỏ đến lớn, và chúng
bắt đầu "phân công" nhiệm vụ: Có tế bào làm nhiệm vụ bảo vệ (tế bào
biểu bì), có tế bào làm nhiệm vụ truyền chất dinh dưỡng như tế bào tổ chức dẫn
chuyển... quá trình này gọi là quá trình phân hoá. Cuối cùng, các tế bào này
hình thành nên một loài thực vật hoàn chỉnh có rễ, thân và lá.
236. Hội chữ thập đỏ là một tổ chức
như thế nào?
Hội chữ thập đỏ là tổ chức cứu trợ tình nguyện quốc tế. Người sáng lập của nó
là ông Henri Dunant người Thuỵ Sỹ trong thời kỳ chiến tranh thế giới II.
Năm 1859, Italia và Pháp liên kết phát động chiến tranh chống Áo. Quân ba nước
chiến đấu hết sức ác liệt ở vùng Xonphenrino. Trận đấu chỉ kéo dài 15 giờ,
nhưng số người chết và bị thương lên tới hai mươi tư vạn người. Ông Henri
Dunant nhìn nhiều người chết không được chôn cất, người bị thương không được
cứu giúp rất đau lòng. Vì thế ông đã bàn với Giáo hội tổ chức một đội tình
nguyện nhận trách nhiệm chăm nom những người bị thương. Sau khi chiến tranh kết
thúc, tại Giơnevơ, ông Henri Dunant đã kêu gọi các nước trên thế giới thành lập
một đội cứu trợ tình nguyện. Lời kêu gọi đó được nguyên thủ các nước lớn ủng hộ
nhiệt tình.
Ngày 22 tháng 8 năm 1864, tại Giơnevơ, đã triệu tập một hội nghị quốc tế, chính
thức ký kết công ước về Hội chữ thập đỏ quốc tế. Ngày đó trở thành ngày khai
sinh Hội chữ thập đỏ quốc tế. Để tỏ lòng tôn trọng đối với nước chủ nhà Thuỵ Sỹ
và cá nhân ông Henri Dunant, đại biểu hội nghị đã nhất trí lấy quốc kỳ Thuỵ Sỹ
làm biểu tượng của hội, đổi màu nền thành trắng, ở giữa có một chữ thập đỏ. Màu
đỏ biểu thị việc phục vụ các nạn nhân bị đổ máu, còn màu trắng biểu thị sự bình
an.
Hội chữ thập đỏ quốc tế do ông Dunant sáng lập đến nay đã có hơn 130 năm lịch
sử. Nhiệm vụ của hội đã từ công tác ban đầu là cứu giúp trong thời chiến tranh,
phát triển lên và gồm cả việc cứu tế thiên tai trong thời bình, cứu tế xã hội,
phúc lợi xã hội, truyền máu cấp cứu và hộ lý. Hiện nay trên thế giới đã có hơn
120 quốc gia thành lập Hội chữ thập đỏ quốc tế. Riêng các nước theo đạo Hồi lấy
vầng trăng lưỡi liềm màu đỏ thay cho chữ thập đỏ.
237. Trên thế giới có bao nhiêu thứ
tiếng?
Hiện nay trên thế giới có khoảng sáu tỉ con người, chia nhau sống trên năm lục
địa và phân ra khoảng hai trăm quốc gia. Phần lớn các con người không chỉ khác
nhau về phong tục tập quán mà còn dùng những ngôn ngữ khác nhau.
Theo bản điều tra báo cáo của UNESCO Liên Hiệp Quốc thì trên thế giới có hai
nghìn bảy trăm năm mươi thứ tiếng. Nhưng một số nhà xã hội học ở Nga và Đức lại
nói rằng trên thế giới có năm nghìn sáu trăm năm mươi mốt thứ tiếng. Nói chung
trên thế giới có hai nghìn đến ba nghìn thứ tiếng.
Nhưng trong các thứ tiếng phong phú này, thì có trên một nghìn bốn trăm thứ
tiếng hoặc không được công nhận là thứ tiếng độc lập, hoặc sắp bị tiêu vong. Có
khoảng hai mươi thứ tiếng hầu như ngày nay không còn ai biết nói nữa, ba phần
tư các thứ tiếng trên thế giới còn chưa có chữ viết. Chỉ có khoảng 500 thứ
tiếng đã được người ta nghiên cứu tương đối đầy đủ.
Trên thế giới có khoảng mười ba thứ tiếng mà số người sử dụng lên tới trên năm
mươi triệu. Trong số đó tiếng Hàn, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga đều
có trên một trăm triệu người trên thế giới sử dụng. Tiếng Pháp tuy có số người
sử dụng không tới một trăm triệu nhưng lại có đến 26 quốc gia lấy tiếng Pháp
làm ngôn ngữ chính thức. Camơrun là một nước nhỏ ở miền Tây châu Phi, nghe nói
nước này có trên một nghìn thứ tiếng. Trên thế giới thứ tiếng có số người sử
dụng ít nhất là Oat, chỉ có 50 người nói.
Lại có một thứ tiếng nhân tạo đó là Quốc tế ngữ. Quốc tế ngữ là một thứ tiếng
bổ trợ trên thế giới. Các nước trên thế giới đều có người biết sử dụng.
238. Tại sao giải thưởng Nobel trở
thành giải thưởng cao quý nhất trên thế giới?
Giải thưởng Nobel đã được đặt ra theo di chúc và với di sản của nhà hoá học
người Thuỵ Điển tên là Nobel. Từ khi giải này được trao vào đầu năm 1901, bao
giờ nó cũng được coi là giải thưởng đem lại vinh dự cao nhất cho các nhà khoa
học trên thế giới. Giải Nobel có thể trở thành giải thưởng đem lại vinh dự cao
nhất trên thế giới chủ yếu là do mấy nguyên nhân chính sau đây:
- Đầu tiên là món tiền của giải thưởng này nằm ở mức cao nhất được cấp định kỳ,
tính trong số các giải thưởng về học thuật và hoà bình. Các món tiền thưởng này
được lấy ra trong một phần di sản của Nobel. Di sản này gồm khoảng chín triệu
hai trăm nghìn đô la. Mỗi năm lấy ra khoảng hai mươi vạn đô la tiền lãi để dùng
làm phần lớn.
- Hai là các giải Nobel được chia ra làm năm hạng mục vật lý, hoá học, sinh học
hay y học, văn học và sự nghiệp hoà bình, đều dùng để thưởng cho các nhân vật
có cống hiến cao nhất trong năm ấy về các lĩnh vực nói trên.
Danh sách các nhân vật được thưởng phải thông qua các chuyên gia về các bộ môn
thuộc viện khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển. Viện nghiên cứu Calalinxca Thuỵ Điển,
Viện Văn học Thuỵ Điển và Quốc hội Na Uy xác định, sau khi sưu tầm rất nhiều tư
liệu và cân nhắc nhiều lần. Trong gần một trăm năm nay, sau khi giải Nobel đã
được đặt ra, một số được giải thực đã có những cống hiến vĩ đại và độc đáo đối
với nhan loại trong lĩnh vực của mình.
Chẳng hạn, năm 1901, Rơnghen là người đầu tiên được giải về vật lý đã phát hiện
quang tuyến X là những tia giúp cho có thể nhìn xuyên các vật và cho đến nay
vẫn còn được ứng dụng rộng rãi trong cả y học và khoa học.
Lại như bà Quyri được giải hoà bình năm 1911 đã phát hiện nguyên tố hoá học có
tính phóng xạ Rađiom
Lại như giải thưởng văn học năm 1964 được dành cho tác giả người Pháp Sactrơ.
Các sáng tác của ông có tư tưởng phong phú tràn ngập tinh thần tự do và đi tìm
chân lý, có ảnh hưởng rất sâu xa đến thời đại của chúng ta.
Người trên thế giới ngày càng thừa nhận uy tín, tính khoa học và nghiêm túc của
giải Nobel. Vì thế giải Nobel đã trở thành điều tượng trưng cho vinh dự tối cao
và cũng là điều khích lẹ tối cao đối với người thành công.
239. Tại sao phải tặng vòng nguyệt quế
cho người chiến thắng?
Ở các quốc gia phương Tây đời xưa, để chào mừng tướng sĩ khải hoàn hoặc người
chiến thắng, người ta tặng cho họ vòng đội đầu tết bằng nhành nguyệt quế. Ngày
nay không còn gặp thấy cách làm như thế nữa rồi, nhưng vòng nguyệt quế vẫn còn
tượng trưng cho thắng lợi và vinh dự tối cao.
Việc tặng vòng nguyệt quế cho người chiến thắng bắt nguồn từ câu chuyện sau dây
trong thần thoại Hy Lạp.
Một hôm thần mặt trời Apolon trông thấy Thần Ái tình Cupidon dang nghịch cung
tên bèn nói :
- Mày làm gì được với các vũ khí đánh nhau này? Trả cho người lớn đi thôi !
Cupidon bực tức nói:
- Tôi dùng tên bắn anh cho mà xem.
Cupidon có hai loại mũi tên. Một loại bằng vàng, bắn trúng ai thì ngọn lửa ái
tình sẽ cháy lên trong tim người ấy, một loại khác bằng chì, bắn trúng ai thì
người ấy sẽ từ chối ái tình. Cupidon bèn dùng mũi tên bằng vàng bắn trúng tim
Apolon, rồi lại dùng mũi tên bằng chì bắn trúng tim nữ thần sông Daphne. Thế là
trong lòng Apolon lập tức cháy bùng lên một tình yêu say đắm mãnh liệt đối với
Daphne, nhưng Daphne không yêu Apolon một chút nào cả. Nàng bỏ chạy như bay để
trốn sự theo đuổi của Apolon, Apolon đuổi kịp Daphne ở bờ sông, Daphne hoảng sợ
cầu cứu cha là thần Dớt : "Hãy làm cho đất nứt ra, nuốt chửng lấy con, hoặc
biến thân hình con thành...".
Nàng vừa nói xong thì biến ngay thành cây nguyệt quế, đầu nàng biến thành những
cái lá, hai tay hiến thành cành cây. Apolon đau đớn ôm lấy cây nguyệt quế,
thống thiết kêu lên: "Nàng đã không muốn làm vợ ta thì hãy làm cái cây của
ta vậy! Trên đầu ta, trên cây thụ cầm của ta, trên cái túi đựng tên của ta sẽ
vĩnh viễn cắm những cành lá của nàng. Ta sẽ để cho các đại tướng đội vòng
nguyệt quế của nàng giữa những tiếng reo khải hoàn. Nàng sẽ mãi mãi trẻ đẹp, lá
của nàng sẽ mãi mãi không bao giờ rơi rụng..."
Thế là tập quán tặng vòng nguyệt quế cho người chiến thắng đã nảy sinh từ đấy.
240. Ở Nam Cực và Bắc Cực có thực vật
không?
Chúng ta đều biết Nam Cực và Bắc Cực là xứ sở của băng tuyết lạnh giá. Vùng
trung tâm của 2 cực này khí hậu càng lạnh hơn. Ở đây mùa hạ rất ngắn; đa phần
thời gian của 1 năm là mùa đông (khoảng hơn 8 tháng), quanh năm suốt tháng nước
ở đây đóng băng và không thể tan ra được. Vậy theo bạn ở một vùng quanh năm
băng tuyết, đại hàn như thế liệu có sự tồn tại của thực vật không
Đầu tiên, chúng ta cần phải tìm hiểu rõ Nam
Cực là vùng nào? Theo sự phân bố về địa lý, từ vĩ độ 66.5 của Nam bán cầu trở
xuống theo hướng Nam được gọi là Nam Cực; từ vĩ độ 66.5 của Bắc bán cầu trở lên
theo hướng Nam được gọi là Nam Cực; từ vĩ độ 66.5 của Bắc bán cầu trở lên theo
hướng Bắc gọi là Bắc Cực. Nam Cực là một vùng lục địa lớn, thường được gọi là
châu Nam Cực. Toàn bộ vùng đất này thường xuyên bị bao vây che phủ bởi một lớp
băng tuyết dày. Trung tâm của Bắc Cực cũng là một vùng băng tuyết. Trên thực tế
nó là một tầng băng lớn rất dày nổi trên mặt biển, mọi người thường gọi đại
dương này là Bắc Băng Dương. Những vùng lục địa bao quanh Bắc Băng Dương thuộc
Bắc Cực gồm: Phía bắc nước Nga, phía bắc Canada, phía bắc Phần Lan, phía bắc Na
Uy... và còn bao gồm rất nhiều những hòn đảo ven biển lớn khác.
Hẳn bạn đã từng nhìn thấy gấu Bắc Cực, Tuần dương và các hoạt động của chúng
trên những hòn đảo lạnh giá này trên tivi. Ngoài những động vật ăn thịt ra, ở
đó còn có các loài động vật ăn cỏ và ăn các loại hoa quả khác. Điều đó cho thấy
mặc dù thời tiết khí hậu vùng này cực kỳ khắc nghiệt, nhưng vẫn tồn tại sự sinh
trưởng của thực vật, bởi nếu không thì những loài động vật ăn thịt làm sao có
thể tồn tại và duy trì nòi giống ở đây? Để chúng ta biết rõ hơn, theo nghiên
cứu và báo cáo của các nhà khoa học, ở những vùng trung tâm của 2 cực này, còn
có địa y và rêu. Ví dụ như trên hòn đảo Xindi người ta phát hiện ra sự tồn tại
của hơn 500 loài địa y, trên hòn đảo Green Land phát hiện ra sự sống của 300
loài địa y và 600 loài rêu. Ở vùng giáp giới còn có rất nhiều loài thực vật bậc
cao như cây tiên nữ, hoa anh túc... Ngoài ra còn có không ít những loài thực
vật bậc cao như cây tiên nữ, hoa anh túc... Ngoài ra còn có không ít những loài
thực vật quí hiếm có thể làm thuốc chữa bệnh, làm thức ăn cho gia súc...
Như vậy, nếu trước kia bạn còn hoài nghi không hiểu Nam Cực và Bắc Cực có những
loài thực vật nào tồn tại không thì đến đây chúng tôi đã giúp bạn giải đáp được
những câu hỏi của mình: Nam - Bắc Cực không những có thực vật mà còn có rất
nhiều loài thực vật sinh sống. Nếu có cơ hội, bạn có thể đến đó một chuyến,
chắc chắn bạn sẽ hiểu kỹ hơn.
241. Giấy và nghề in được phát minh
như thế nào?
Thời cổ đại, trước khi phát hiện ra giấy và nghề in, tổ tiên chúng ta đã phải
dùng những thanh tre, thanh gỗ để ghi chép lại và truyền bá văn hoá tri thức
cho mọi người.
Vào thời Tây Hán, Trung Quốc đã bắt đầu phát minh ra giấy. Vì phương pháp sản
xuất còn thô sơ, giấy hồi đó vẫn chưa được dùng để viết sách.
Đến thời Đông Hán, nhà phát minh Sái Luân, trên cơ sở của giấy Tây Hán, vào năm
105, đã cải tiến nghề làm giấy. Ông dùng vỏ cây, dây đay, vải rách… để làm
nguyên liệu sản xuất giấy. Loại giấy này trong các sách cổ gọi là “Giấy Sài
hầu”.
Sau khi giấy được phát minh và sử dụng rộng rãi, dần dần thay thế cho các thanh
tre, thanh gỗ và các tấm vải để dùng viết sách. Nhưng thời đó, vẫn chưa phát
minh ra nghề in. Một cuốn sách muốn trở thành nhiều cuốn khác phải tốn rất
nhiều công sức, thời gian, ảnh hưởng đến việc phổ cập và truyền bá văn hoá. Tổ
tiên ta đã tích cực tìm cách, mày mò sáng tạo, cuối cùng đã hoàn thành công
trình truyền bá văn hoá - nghề in đã được phát minh.
Khởi nguồn của nghề in, trước hết phải nói đến là các con dấu và bia khắc. Con
dấu là các hình và chữ khắc trên ngọc, gỗ hoặc đá. Chúng xuất hiện sớm nhất vào
thời Xuân thu Chiến quốc. Theo “Sử Ký”, sau khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung
Quốc, muốn chiến công của mình được lưu lại muôn đời, ông đã cho khắc vào bia
đá ở nhiều nơi. Năm 175, theo đề nghị của nhà học giả Sái Ung, Hoàng đế đã sai
khắc “Ngũ kinh” của đạo Nho vào bia đá, để các học sinh viết theo. Hai trăm năm
sau, có người đã phát minh ra phương pháp “vỗ” vào bia đá, tạo ra ấn phẩm đầu
tiên trên thế giới.
Việc sử dụng con dấu và đá khắc lâu dài đã tạo điều kiện cho nghề in ra đời. Tổ
tiên ta khi sử dụng con dấu, vẫn phải bôi lên mặt con dấu một lớp bùn in mỏng,
gọi là “phong nê” (phủ bùn). Từ sự gợi ý của con dấu, người ta khắc những trang
sách lên tấm gỗ giống như khắc những con dấu, rồi đem in. Bản in cổ nhất theo
cách này còn lưu lại đến bây giờ là cuốn “Kinh Kim Cương” vào năm Hàm Thông thứ
9 đời nhà Đường, tức năm 868.
Phát minh in bằng bản khắc đã đưa nghề in tiến bộ thêm một bước lớn, nhưng việc
in một cuốn sách vẫn mất quá nhiều thời gian, và cần phải cải tiến. Trải qua
rất nhiều cố gắng của nhiều người, đến đời Tống, Tất Thăng đã phát minh ra lối
in chữ rời. Ông đã lấy keo đất làm thành các phôi theo cùng một quy cách. Mỗi
đầu khắc chữ ngược, bỏ vào lò nung cho cứng lại, thế là thành các chữ rời (bằng
sứ). Chữ rời được xếp thành bảng, dùng một khung ván bằng sắt, trước hết quét
lên ván sắt một lớp sáp và nhựa thông, sau đó nhặt một chữ rời xếp vào trong
khung. Xếp đầy một khung làm thành một bản. Sau đó hơ lên lửa, sáp và nhựa
thông sẽ chảy ra, người ta lại lấy mặt ván phẳng ép lên, sáp và nhựa thông đông
cứng lại, chữ rời sẽ bám chặt vào ván sắt, lúc này chúng ta có thể quét mực đặt
giấy, lăn ép để in. Phát minh này sau đó đã được cải tiến lên với các chữ rời
bằng đồng, bằng chì…
Nghề in của Trung Quốc phát minh đã góp phần đẩy mạnh sự phát triển văn hoá
trên toàn thế giới. Ngày nay, nghề in càng hoàn thiện cùng với trình độ khoa
học hiện đại.
242. Tần Thuỷ Hoàng đốt sách chôn nhà nho là chuyện như
thế nào?
Năm 213 trước Công nguyên, Tần Thuỷ Hoàng ban yếu trong cung điện của thành Hàm
Dương cho các quận thần. Sau ba tuần rượu, viên quan phó xạ Chu Thanh Thần đứng
dậy nói lên lời chúc rượu, ca ngợi Tần Thuỷ Hoàng đã đem các nước chư hầu vốn
dĩ tách rời nhau chuyển thành các quận huyện, làm cho thiên hạ thái bình, công
lao ấy của Tần Thuỷ Hoàng thật là bất hủ.
Nhưng học sỹ Thuần Vu Việt đứng dậy công kích chế độ quận huyện. Hơn nữa ông ta
còn yêu cầu dựa vào thể chế của đời xưa cắt đất phong hầu cho các đệ tử.
Lúc bấy giờ thừa tướng Lý Tư đứng lên bác bỏ các luận điểm của Thuần Vu Việt,
rồi lại mượn vấn đề này để nói rộng ra rằng những kẻ đọc sách chỉ quen luận bàn
Thi Thư, dùng những chuyện đời xưa để bài bác công việc ngày nay, gây mê cảm,
làm hỗn loạn lòng người, vì thế nhất định phải đem họ ra mà trừng trị thật
nghiêm mới được.
Tần Thuỷ Hoàng nghe nói như thế, đã xuất phát từ nhu cầu phải tăng cường chuyên
chế, thống trị và đàn áp tư tưởng, tiếp thu kiến nghị của thừa tướng Lý Tư, ra
lệnh đốt hết các sách sử không thuộc về nước Tần cùng tất cả các sách Thi Thư
đang tàng trữ trong dân gian, kể cả các trước tác của Bách Gia Chư Tử. Hoàng đế
lại quyết định từ nay về sau, hễ kẻ nào còn dám bàn luận về Thi Thư thì sẽ bị
chặt đầu, kẻ nào dùng các chuyện cổ xưa để bài bác việc đời nay thì sẽ bị chém
cả nhà.
Vì thế cho nên vô số các điển tích văn hoá đã bị đốt ra thành tro. Sau khi đốt
sách đến năm thứ hai, các nho sinh càng thêm bất mãn. Ở sau lưng hoàng đế, họ
mắng chửi Tần Thuỷ Hoàng là tham nắm quyền thế, tàn bạo thành tính. Sau khi
nhận được những tin cáo giác mật, Tần Thuỷ Hoàng lập tức phái người đi điều
tra, bắt giữ các nho sinh trong thành Hàm Dương để thẩm vấn. Vì các nho sinh
này tố cáo lẫn nhau, cho nên Tần Thuỷ Hoàng lên cơn thịnh nộ, đã đem tất cả 460
nhà nho có liên can đến vụ này chôn sống hết.
tức là sự kiện “Phân thư thanh nho” (đốt sách và chôn nhà nho) đã được ghi
trong lịch sử.
Việc Tần Thuỷ Hoàng đốt sách và chôn nhà nho đã kìm hãm các tư tưởng chống đối,
nhưng đồng thời việc này cũng đã huỷ diệt nền văn hoá lịch sử. Về sau, tuy rằng
hoàng đế này có được nghe những lời ca tụng, nhưng trong mỗi lời ca ngợi đều có
hàm ý báo trước sự diệt vong cuối cùng
243. Thành Vaticăng nằm ở đâu?
Góc Tây Bắc thàn Rôm nước Ý có một ngọn đồi gọi là Va-ti-căng. Trên ngọn đồi có
một nhà thờ lớn nhất thế giới, gọi là nhà thờ Xanh Pi-tơ, quanh đó có một số
cung điện to đẹp đàng hoàng, người ta gọi là cung giáo hoàng. Ngọn đồi
Va-ti-căng nhỏ bé đó lại là một quốc gia có chủ quyền độc lập hẳn hoi. Tên
chính thức của đất nước này là “Thành quốc Va-ti-căng”. Lãnh thổ chỉ vẻn vẹn có
0,44 km2, chỉ bằng cố cung của Trung Quốc. Dân số cũng chỉ hơn 1.000 người…
Nhưng có đủ cả bưu điện, phát thanh, truyền hình, ngân hàng và một đội quân
thường trực gồm 100 vệ sỹ người Thuỵ Sỹ, giáp trụ nghiêm chỉnh. Nước này cũng
thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới. Mặc dù vậy, nhà vua,
tức giáo hoàng La Mã của thành Va-ti-căng vẫn than thở: “Thời thế đổi thay, nay
không còn như xưa nữa”.
Tại sao vậy? Năm 754, Quốc vương của vương quốc Lông-bac-đi chiếm cứ phía Bắc
I-ta-lia là A-xtôn-phơ (Astolfe) đem quân đánh xuống phía Nam, tấn công vào
La-vi-ni-um, trung tâm thống trị của đế quốc La Mã tại Ý, bao vây thành Rôm,
nơi ở của Giáo hoàng. Giáo hoàng Xtê-phan II đã phải cầu cứu vua Pháp là
Pê-panh giải cứu thành Rôm.
Năm 754, Pê-panh đánh bại người Lông-bac-đi, giải vây cho thành Rôm. Pê- panh
dâng tặng Đức Giáo hoàng miền Trung nước Ý dành được trong chiến tranh, bao gồm
vùng La-vi-ni-um và vùng phụ cận thành Rôm. Từ đó Giáo hoàng lập nên một nước
của Giáo hoàng ở miền Trung nước Ý, thành Rôm trở thành thủ đô của nước Giáo
hoàng.
Từ năm 926 trở đi, nước Giáo hoàng trở thành một bộ phận của đế quốc La Mã thần
thánh. Năm 1198 Anh-nô-xăng III đăng quang lên chức Giáo hoàng, ông nêu cao
quyền lực của Giáo hoàng, ép vua các nước châu Âu phải cúi đầu nghe lệnh. Quyền
lực của Giáo hoàng đạt đến đỉnh cao.
Cuối thế kỷ XVIII, quân đội Na-pô-lê-ông quét ngang châu Âu, chiếm Rôm, Giáo
hoàng Pi-e VI bị mất quyền lực thế tục, chịu mất lãnh thổ của nước Giáo hoàng.
Nước Giáo hoàng thành lập nước Cộng hoà Rôm. Mặc dù nước Giáo hoàng sau này
được phục hồi, nhưng không còn được như xưa nữa.
Phong trào thống nhất nước Ý sôi nổi năm 1870, nhân dân Ý tấn công vào nước
Giáo hoàng và nước Giáo hoàng sáp nhập vào vương quốc I-ta-lia. Tên nước Giáo
hoàng không còn nữa.
Năm 1929, Mut-xô-li-ni tên đầu sỏ phát xít Ý muốn được sự ủng hộ của Giáo
hoàng, đã ký với Giáo hoàng một hiệp định: Italy công nhận Va-ti-căng là quốc
gia có chủ quyền của Giáo hoàng. Giáo hoàng công nhận sự diệt vong của nước
Giáo hoàng. Italy tách Va-ti-căng ra khỏi thành Rôm, để Giáo hoàng lập nên một
trong một nước, đó là “thành Va-ti-căng” (Toà thánh Va-ti-căng).
244. Làm cách nào để phân biệt thực
vật và động vật?
Một câu hỏi rất đơn giản, phải không? Chắc hẳn mỗi chúng ta đều có thể phân
biệt đâu là động vật và đâu là thực vật. Nhưng nếu xét về góc độ khoa học, bạn
sẽ hiểu sâu sắc hơn. Chữ "Thực" trong "Thực vật" biểu thị ý
nghĩa là một cây đứng yên không di động; trong khi "Động" trong
"Động vật" lại biểu thị ý nghĩa là những sinh vật có khả năng vận
động, di chuyển. Nhưng trong thế giới tự nhiên lại có những loài thực vật
"biết đi" hay những loài động vật "bất động", chẳng hạn:
Mọi người đều biết san hô dưới đáy biển, một loài động vật mà trước kia mọi
người đã từng lầm tưởng rằng đó là những cây san hô; hay những thực vật rong
rêu cấu tạo từ những đơn bào, có thể "tung tăng" dưới nước, thậm chí chúng
còn có 2 lông roi như tảo y, có thể di chuyển trong nước với tốc độ rất nhanh.
Từ đây chúng ta có thể thấy rằng: Dùng khái niệm "bất động" hay
"chuyên động" để phân biệt giữa động vật và thực vật là không chính
xác. Vậy chúng ta phân biệt hai loài trên bằng cách nào đây?
Đầu tiên, hãy xem xét đơn vị cơ bản cấu tạo nên động vật và thực vật. Ngay từ
những tế bào, chúng đã có những điểm khác nhau rất rõ ràng. Ở tế bào thực vật
thông thường có một lớp ngoài dày, cứng, khiến cho tế bào có được một hình thái
cố định cơ bản như: hình chuỳ, hình viên gạch, hình cầu, hình ống... Nhưng ở tế
bào của động vật lại không có lớp ngoài như thực vật mà nó chỉ có một lớp màng
mỏng và mềm bao quanh lớp vật chất bên trong của tế bào. Có một loài động vật
đơn bào gọi là trùng biến hình. Với cơ thể đơn bào rất mềm của mình, loài trùng
biến hình này có thể phình to ra để nuốt những hạt thức ăn nhỏ li ti xung
quanh.
Thực vật và động vật còn có thể phân biệt với nhau nhờ đặc điểm có hoặc không
có thể diệp lục. Đây cũng là một 1 điểm khác biệt khá đặc trưng. Đa số tế bào
sống của bất kỳ loài thực vật màu xanh nào cũng có chứa thể diệp lục, đó chính
là "kho dinh dưỡng" cho các tế bào của thực vật. Dưới ánh Mặt Trời,
nó quang hợp hút khí Cacbonnic trong không khí và hấp thụ nước để tạo
"lương thực" cho bản thân, nguồn "lương thực" này là các
chất hữu cơ phức tạp hoặc đơn giản như tinh bột, dầu, prôtêin, đường... Những
chất hữu cơ này cũng là nguồn gốc cơ bản của thức ăn cho động vật. Trong tế bào
động vật không có kho chứa dinh dưỡng có thể tự tổng hợp thành thức ăn như ở
thể diệp lục của thực vật. Do vậy, các nhà sinh học thường đặt cho loài thực
vật màu xanh cái tên gọi "sinh vật tự dưỡng", bởi chúng có khả năng
tự nuôi dưỡng bản thân. Còn đối với động vật, họ gọi là "sinh vật di
dưỡng", tức là phải dựa vào những cái tồn tại bên ngoài chúng để nuôi
dưỡng bản thân
245. Vì sao tại nước Anh lại nổ ra
cuộc chiến tranh Hoa hồng?
Vào tháng 8 năm 1453, ở Luân Đôn nước Anh, bỗng lan truyền một tin giật gân:
Quốc vương Hen-ri VI bị bệnh tâm thần.
Nghe được tin này, gia tộc Giooc (York) với chiếc gia huy là bông hồng đỏ biết
được tin này hết sức vui mừng. Họ cho rằng gia tộc Lan-ca-xtơ (Lancaster) với
chiếc gia huy là bông hồng đỏ, khống chế triều đình đã lâu, đồi bại hết sức,
cuộc chiến Anh – Pháp trăm năm bị thất bại về phía nước Anh, khiến cho người
Anh phải nhục nhã. Bây giờ Quốc vương Hen-ri VI bị bệnh, ăn nói lung tung, hành
động bừa bãi không quản lý được công việc nhà nước. Đây chính là dịp tốt để họ
giành lại ngôi vua. Công tước xứ Giooc là Ri-sơt tích cực hoạt động ngay. Quý
tộc miền Nam ủng hộ gia tộc Giooc, các trưởng giả tư sản hoá cũng rất vui mừng,
họ hy vọng công tước Giooc có thể thay thế Hen-ri VI, xây dựng chính quyền bảo
vệ quyền lợi của họ.
Gia tộc Lan-ca-xtơ chủ yếu đại biểu quyền lợi cho những quý tộc miền Bắc. Vùng
này là vùng phong kiến lạc hậu. Trước tình hình như vậy họ cũng rất lo lắng.
Tay chân thân cận nhất của Quốc vương là Công tước Xa-mai-xai-thơ ra lệnh cho
thủ hạ bí mật theo dõi hoạt động của gia tộc Giooc.
Vì “Nước không thể một ngày không vua”, nghị viện triệu tập cuộc họp cùng nhau
cử Ri-sơt lên làm “Hộ quốc công”. Ri-sơt lên nắm quyền lực, để quét sạch mọi
trở ngại ông đã cho bỏ tù công tước Xa-mai-xai-thơ vì tội danh: “Làm thất thủ
Nooc-măng-đi và tham ô của công”. Nhưng chẳng bao lâu, tháng 12 năm 1454,
Hen-ri VI bỗng nhiên khỏi bệnh. Ông nắm lại chính quyền và bãi chức Hộ quốc
công của Ri-sơt. Tiếp đó là phục chức cho Xa-mai-xai-thơ; mặt khác, theo ý kiến
của hoàng hậu Mac-ga-ret, tìm biện pháp đề phòng sự thoái vị của người anh họ
Ri-sơt.
Ri-sơt rất tức giận vội quay về phương Nam. Năm sau ông đã đề nghị thủ tiêu
Công tước Xa-mai-xai-thơ tại Kent để loại trừ kẻ xấu bên cạnh Vua. Nhưng Hen-ri
VI không đồng ý và chỉ trích ông về hành vi phản nghịch. Như vậy là cuộc chiến
tranh 30 năm đã được châm ngòi. Cuộc chiến tranh giữa các quý tộc phong kiến
giành ngôi báu này được gọi là “Chiến tranh hoa hồng”.
Tháng 5 năm đó, Ri-sơt giương cao ngọn cờ có gia huy dòng học mình là Bông hồng
trắng, dẫn đại quân tiến đánh Vua Hen-ri VI. Hai bên nghênh chiến tại Xanh
An-be, kết quả của trận này là quân Lan-cat-xtơ đại bại, Công tước
Xa-mai-xai-thơ bị giết, vua Hen-ri VI bị bắt làm tù binh. Quân Giooc thừa thắng
tiến về Luân Đôn, Ri-sơt lại làm Hộ quốc công, kiểm soát triều chính nước Anh.
Hoàng hậu Mac-ga-ret là công chúa nước Pháp đã cùng con trai mình lãnh đạo quân
Lan-cat-xtơ tiếp tục chiến đấu với quân Giooc. Tháng 12 năm 1460, trong trận
Vec-phen-đơ đã đánh bại quân Giooc, bắt sống Ri-sơt và đem xử tử bêu đầu trước
công chúng.
Cuộc chiến hoa hồng vẫn tiếp tục với mục đích trả thù và chiếm lĩnh ngôi báu
giữa các thế hệ liên tiếp của hai dòng họ Giooc và Lan-cat-xtơ. Cuộc chiến kéo
dài 30 năm mới kết thúc với thắng lợi thuộc về Hen-ri Tu-phơn tức vua Hen-ri
VII.
246. Tại sao bệnh dịch hạch lại trở
thành đại hoạ của nhân loại?
Ngày 24 tháng 3 năm 1345, người ta phát hiện thấy trên bầu trời một hiện tượng
kỳ lạ: Thổ tinh, Mộc tinh, Hoả tinh gặp nhau, chập làm một. Ở châu Âu trong đêm
dài trung cổ đầy mê tín, hiện tượng thiên văn lạ này khiến cho mọi người kinh
sợ. Các nhà chiêm tinh hốt hoảng nói rằng: “Đây là một triệu chứng xấu nhân
loại sẽ bị quỷ thần trừng phạt”. Thật không may, các nhà chiêm tinh lại nói
đúng, một nạn lớn đã đến, nhân loại gặp phải một đại hoạ chưa từng có trong
lịch sử.
Ngay từ năm 1333, ở châu Á cách xa châu Âu đã sinh ra một thứ bệnh do chuột lây
truyền, thứ bệnh đáng sợ này theo con đường thương mại truyền đến Ấn Độ và một
số nước khác, đồng thời nó cũng hoành hành ở vùng Mê-do-pô-ta-mia (Lưỡng Hà) và
Ai Cập. Đến năm 1347, nó xâm nhập vào châu Âu một cách mạnh mẽ không có biện
pháp nào ngăn chặn được đến tận đảo Xi-xin, Italy, và miền Nam nước Pháp, Hà
Lan, Đức, Ba Lan rồi đổ bộ sang Anh. Các nước không biết đối phó với bệnh này
ra sao, các thầy thuốc đều bó tay, không phương cứu chữa.
Bệnh dịch hạch hoành hành ở đại lục châu Âu khiến cho nước Anh rất kinh sợ. Họ
may mắn được hòn đảo Ang-lê là phòng tuyến bảo vệ. Chắc tử thần không đến được
đây. Nào ngờ khoa học chưa phát triển, chưa tìm ra một biện pháp phòng ngừa
dịch bênh, cho nên cuối cùng dịch hạch vẫn đổ bộ sang Anh.
Người nhiễm bệnh dịch hạch, toàn thân cảm thấy đau đớn, tiếp đến là bị sốt cao,
trên tay và mặt xuất hiện những chấm đen. Người châu Âu khi phát hiện thấy nhà
ai có người mắc bệnh này, cả nhà sẽ bị đuổi đi, nhà bị đốt sạch. Nhưng dịch
bệnh vẫn lan rộng, nhà này đốt lại đến nhà kia đốt.
Bệnh dịch hạch tấn công Luân Đôn đã làm chết hơn mười vạn người. Sự lan truyền
bệnh dịch hạch này đã tấn công mạnh mẽ các thành phố Tây Âu, những thành phố
phồn vinh bỗng chốc trở nên suy tàn, hoang vắng.
Những thấy thuốc của các nước đã phải đấu tranh với căn bệnh này. Họ đã cách ly
người bệnh, dùng tất cả các loại thuốc chữa trị các triệu chứng bệnh. Nhiều bác
sĩ đã phải hy sinh tính mạng.
Bệnh dịch hạch đã giết hại nhiều người, nhưng qua cuộc chiến đấu này, người ta
đã biết nhiều phương pháp phòng chống hữu hiệu. Chính phủ các nước đưa ra các
pháp lệnh ngăn chặn dịch hạch lan truyền. Thành Vơ-ni-dơ của Italy ban bố lệnh
cấm mọi nhà buôn đã nhiễm bệnh hoặc nghi là nhiễm bệnh đều không được vào
thành. Có những nơi quy định thuỷ thủ phải sống ở nơi thoáng khí và đầy ánh
nắng 30 ngày, rồi mới được vào thành phố của họ. Có nơi đặt trạm kiểm dịch như
ngoài cảng như Mac-xây chẳng hạn. Để quản lý nguồn nước, người ta đặt ra một
chức quan chuyên trông coi kiểm soát nguồn nước. Người ta trao trọng trách cho
nhưng người làm công tác y tế.
Nhờ cố gắng đó, bệnh dịch hạch đã được ngăn chặn lại. Những năm 1353, 1362,
1364 tuy vẫn có dịch ở châu Âu, nhưng tác hại không lớn lắm.
Dịch hạch ở châu Âu vào thế kỷ XIV, đã khiến chi nhiều thành phố trở nên hoang
vắng, ảnh hưởng đến nền kinh tế, làm chết hàng triệu người. Nhưng sau cuộc
chiến đấu với tử thần dịch hạch đã khiến cho ngành y tế tiến bộ và phát triển
mạnh mẽ.
247. Tại sao một số loài thực vật lại
có thể phát quang?
Trong thế giới tự nhiên bao la và phong phú
có rất nhiều những câu đố rất khó hiểu mà khi giải thích rồi trở thành một cách
lý giải rất kì thú. Ngoài hiện tượng Mặt Trời, Mặt Trăng, sao, ánh điện, vật
chất cháy có thể phát quangra, mọi người thường bàn luận về hiện tượng phát
quang mà không phải ai cũng có thể giải thích được. Đó là hiện tượng thân cây
phát quang, sinh vật dưới biển phát quang, côn trùng phát quang, loài cá phát
quang... Những hiện tượng này đều thu hútsự chú ý của mọi người.
Nói chung, những thực vật có thể phát quang mạnh chủ yếu là một số thực vật bậc
thấp, thuộc họ vi khuẩn như vi khuẩn nhỏ, nấm; thực vật thuộc họ tảo như các
loại tảo biển. Các loại vật chất như chất diệp lục có trong tế bào màu xanh thì
độ phát quang cần phải được đo bằng hệ thống máy móc mới kiểm nghiệm được, mắt
thường của chúng ta không thể thấy được độ phát quang của chúng. Bình thường,
chúng ta có thể bắt gặp hiện tượng những cây gỗ hay đoạn gỗ bị mục trong đêm
tối lại phát ra những tia sáng yếu ớt màu trắng xanh. Hiện tượng phát quang này
thường gặp nhất ở mùa mưa, ẩm thấp. Mùa khô chúng ta ít gặp hiện tượng này.
Ở những thôn làng của thành phố Đơn Dương, Giang Tô, Trung Quốc, vào ban đêm,
rất nhiều người đã nhìn thấy hiện tượng như cây liễu ở ven ruộng nước phát ra
ánh sáng xanh lấp lánh. Lúc đầu nhiều người cảm thấy kì lạ, thần bí, không thể
giải thích được. Sau này, các nhà khoa học nghiên cứu và kết luận rằng: Những
thân cây chết đã bị một loại nấm làm cho thân gỗ mục nát kí sinh trên môi
trường sống giả. Lông tơ của loài nấm này xâm nhập lên toàn bộ thớ gỗ của thân
cây và bài tiết ra một số enzime có thể phân giải gỗ. Những enzime này có thể
chuyển hoá những chất xơ trong thân cây thành nấm, loài nấm này có thể hấp thụ
những chất dinh dưỡng của những tiểu phân tử như đường, phênon, tế bào, nấm kí
sinh trên môi trường sống giả sau khi hấp thụ được những "thức ăn"
này chúng sẽ sinh trưởng và phát triển đồng thời tích luỹ những chất có thể
phát quang. Những vật chất này dưới tác dụng của các enzime phát quang sẽ tiến
hành ôxy hoá sinh vật, chuyển hoá những chất hoá học thành quang năng. Do vậy,
chúng ta có thể nhìn thấy loài thực vật này phát quang.
Những thuyền viên hay chiến sĩ hải quân có thời gian công tác dài ngày trên
biên, vào những đêm trăng thanh gió mát thường nhìn thấy những ánh sánh lấp
lánh màu xanh hoặc màu trắng sữa trên mặt biển, mọi người thường gọi đây là
hiện tượng "ngư hoả". Đây không phải là hiện tượng vật lý thông
thường của những ngọn núi lửa dưới đáy biển mà là do sự tập trung của một lượng
lớn những loài tảo biển, nấm và những sinh vật phù du khác trên mặt biển tạo
thành những sinh vật phát quang tương đối lớn.
Ánh sáng của sinh vật phát quang là một loại tia sáng lạnh có tần số cao, tỷ lệ
thay đổi quang năng của chúng trên 90%. Thành phần phổ sóng của loài sinh vật
phát quang này rất nhẹ, phù hợp với mắt thường. Các kiến trúc sư bằng việc
nghiên cứu và mô phỏng loài sinh vật phát quang này đã sáng chế ra các loại
bóng đèn trang trí nội thất rất đẹp.
248. Tứ đại mỹ nhân thời cổ Trung Quốc là
những ai?
Lịch sử Trung Quốc có bốn người đẹp làm khuynh đảo đời sống chính trị được
người đời truyền tụng có sắc đẹp khác thường gọi là Tứ đại mỹ nhân.
Theo trình tự thời gian, người đầu tiên là nàng Tây Thi cuối thời Xuân Thu. Tây
Thi vốn là một cô gái giặt lụa Trữ La (phía Nam Chư Kị tỉnh Chiết Giang ngày
nay) ở nước Việt. Năm 494 trước Công nguyên, nước Việt bị nước Ngô đánh bại,
Việt vương là Câu Tiễn dâng Tây Thi cho Ngô vương Phù Sai. Nàng trở thành một
phi tử được Phù Sai rất sủng ái. Năm 473 trước Công nguyên, nước Việt diệt lại
nước Ngô, truyền thuyết kể lại rằng Tây Thi đã theo quan đại phu Phạm Lãi của
nước Việt bỏ vào Tây Hồ.
Đại mỹ nhân thứ hai là Vương Chiêu Quân thời Tây Hán, tên Tường. Nàng vốn là
một cung nữ của Hán Nguyên Đế. Năm 33 trước Công Nguyên, chúa Thiền Vu Hồ Hán
Tà của thị tộc Hung Nô xin hoà thân với triều đình nhà Hán. Chiêu Quân tự
nguyện xin đi xa lấy chúa Hung Nô và được phong là Ninh Hồ Yên Hung. Trong hơn
sáu mươi năm Vương Chiêu Quân đi hoà thân, Hung Nô và triều đình nhà Hán đối xử
với nhau rất hoà mục. Vương Chiêu Quân là người đã cống hiến rất nhiều cho an
ninh quốc gia và quan hệ hoà mục giữa hai dân tộc.
Đại mỹ nhân thứ ba là Điêu Thuyền, một nhân vật trong bộ tiểu thuyết cổ điển
trứ danh Tam Quốc Diễn Nghĩa. Nàng sống dưới đời Hán Hiến Đế (190 – 220 sau
Công Nguyên). Điêu Thuyền là ca kỹ trong phủ quan tư đồ Vương Doãn (chức quan
quản lý ruộng đất và nhân khẩu trong nước). Vì thái sư Đổng Trác chuyên quyền
hoành hành tàn bạo, Điêu Thuyền muốn góp phần diệt trừ Đổng Trác đã tự nguyện
hiến thân giúp Vương Doãn, dùng kế liên hoàn ly gián được quan hệ giữa Đổng
Trác và con nuôi của hắn là đại tướng Lã Bố. Cuối cùng Điêu Thuyền đã mượn được
tay Lã Bố giết Đổng Trác.
Đại mỹ nhân thứ tư là Dương Ngọc Hoàn đời Đường. Năm 745 sau Công nguyên, nàng
được Đường Huyền Tông phong làm quý phi. Dương Ngọc Hoàn thực ra không quan tâm
gì đến chuyện chính trị trong triều đình, nhưng vì nàng được Đường Huyền Tông
hết sức yêu quý, cho nên không những chị và em gái nàng được phong làm phu
nhân, mà đến người anh em con chú con bác của nàng là Dương Quốc Trung cũng có
thể thao túng việc triều chính. Năm 775 sau Công nguyên, An Lộc Sơn dấy binh
làm loạn với danh nghĩa diệt trừ Dương Quốc Trung. Sau khi Dương Quốc Trung bị
giết, Dương Ngọc Hoàn cũng bị treo cổ.
249. Tại sao hiện nay không tìm thấy
lăng mộ các hoàng đế triều Nguyễn ở Trung Quốc?
Trong thời cổ Trung Quốc, sau khi các hoàng đế chết đi, hầu như bao giờ cũng
xây lăng mộ. Chẳng hạn như lăng của Tần Thuỷ Hoàng ở Lâm Đồng tỉnh Thiểm Tây,
lăng các hoàng đế nhà Hán ở thành phố Hàm Dương, Mậu Lăng ở huyện Hương Bình,
Kiền Lăng ở huyện Kiền, Thập Tam Lăng của nhà Minh ở Bắc Kinh, Thanh Đông Lăng
ở huyện Tuân Hoá tỉnh Hà Bắc.
Các lăng mộ này được xây dựng cực kỳ tráng lệ, chẳng khác gì những cung điện
nằm sâu dưới lòng đất, tất cả đều có giá trị lịch sử và giá trị văn hoá cao,
hấp dẫn rất nhiều nhà nghiên cứu văn hoá và lịch sử, cũng như các du khách
trong và ngoài nước.
Nhưng cho đến nay, người ta vẫn chưa phát hiện được lăng mộ của các vị hoàng đế
triều đại nhà Nguyên. Đó là vì các hoàng đế đời nhà Nguyên đều là người Mông
Cổ, mà các quý tộc Mông Cổ có tập quán chôn sâu, không xây mộ.
Theo lời Diệp Tử Kỳ đời nhà Minh trong cuốn “Thảo Mộc Tử”, các hoàng đế đời
Nguyên, sau khi băng hà nhất luật không dùng quan quách, mà chỉ dùng hai đoạn
gỗ trò đục rỗng làm quan tài để đặt thi thể vào rồi đào hố thật sâu mà chôn
xuống. Sau khi hố được lấp đầy, họ dùng ngựa dẫm phẳng, đặt quân phong toả, và
chờ khi có bên trên mọc đầy, không còn nhận ra dấu vết thu quân. Do đó người
đời sau khó phát hiện nơi chôn thi thể của các hoàng đế triều Nguyên.
Tuy nhiên có lẽ ai cũng thắc mắc. Tại sao ở Y Kim Hoắc Lạc Kỳ bên Mông Cổ lại
có một cái lăng Thành Cát Tư Hãn rất huy hoàng, nguy nga theo kiểu tường bao
của Mông Cổ? Thật ra lăng này là do Chính phủ Nhân dân Trung ương cấp tiền xây
dựng sau ngày giải phóng, là công trình có tính chất tưởng niệm, còn bên trong
không có thi hài của Thành Cát Tư Hãn
250. Tại sao người phương Tây kị con
số 13?
Trong Kinh Thánh có ghi một câu chuyện như sau: Jesus cùng mười hai tông đồ họp
nhau trong lễ Vượt Qua.
Đến bữa ăn tối Jesus nói: “Trong số các ngươi sẽ có một kẻ bán rẻ ta”. Quả
nhiên trong số các tông đồ có tên Juda tố cáo Jesus với nhà cầm quyền, vì thế
Jesus bị đóng đanh câu rút chết trên thập giá.
Ngồi quanh bàn trong bữa ăn đó đúng là có mười ba người, vì thế người ta mới
cho rằng con số 13 sẽ đem lại điều bất hạnh.
Trong thần thoại Bắc Âu cũng có câu chuyện kể rằng: một hôm trong bữa tiệc trên
thiên đường, có mười hai vị thần đến dự. Bỗng nhiên hung thần Lochi xông đến
làm cho số người dự tiệc tăng lên thành mười ba. Do âm mưu của Lochi, con trai
của vị thần tối cao là Aotinh đại diện cho cái thiện bị trúng tên mà chết, vì
thế người ta cho rằng con số 13 đem lại tai hoạ.
Kết quả là tại các nước Âu Mỹ, người ta rất kỵ con số 13. Trong các rạp chiếu
phim ở những nước này không có số ghế 13, sau các số 12 được đưa lên thành số
14 hoặc là ghi 12B thay cho số 13.
251. Tại sao trong xã hội phong kiến,
ngôi vị vương đế chỉ truyền cho con trai, không truyền cho con gái?
Trong lịch sử Trung Quốc cũng như nước ngoài, ngôi vị đế vương nói chung là do
con trai trưởng kế thừa. Cả đến trong các gia đình thường dân cũng chỉ có nam
giới làm gia trưởng và bao giờ cũng là người bố chiếm địa vị chủ đạo trong gia
đình.
Thật ra trong lịch sử nhân loại, ở thời kỳ thượng cổ cũng đã từng có một giai
đoạn rất dài, trong đó nữ giới chiếm địa vị chúa tể trong xã hội. Đó là thời kỳ
xã hội mẫu hệ. Thời bấy giờ, nhân loại chỉ biết có mẹ mà không biết có bố,
huyết thống cũng chỉ tính theo hệ mẹ, cả đến tài sản cũng kế thừa theo mẹ.
Vì con người thời bấy giờ có những phương thức duy trì sinh hoạt rất lạc hậu,
đời sống chỉ dựa vào hái lượm và nông nghiệp nguyên thuỷ, mà các công việc này
phần lớn là do phụ nữ đảm đang. Cả đến công việc chế biến thực phẩm và các việc
trong nhà cũng đều do phụ nữ gánh vác, vì thế phụ nữ chiếm một địa vị hết sức
quan trọng trong đời sống xã hội thời bấy giờ.
Đến thời kỳ cuối cùng của xã hội nguyên thuỷ, loài người tiến vào thời kỳ đồ
sắt, lúc này sức sản xuất đã phát triển lên rất nhiều. Con người thời bấy giờ
sống không chỉ còn dựa vào việc hái lượm và nông nghiệp nguyên thuỷ nữa, mà
phần quan trọng hơn là dựa vào việc săn bắn, chăn nuôi gia súc và nông nghiệp
cày cấy; các công việc này đòi hỏi phải có dũng khí và sức khoẻ của nam giới.
Năng lực cơ thể của phụ nữ rõ ràng không thể nào bằng nam giới được, vì thế dần
dần nam giới chiếm địa vị của phụ nữ trong đời sống xã hội và nhân loại cũng
tiến vào thời kỳ xã hội thị tộc phụ hệ.
Từ đấy địa vị chi phối của nam giới trong xã hội cứ kéo dài mãi, người ta chỉ
còn biết huyết thống phụ hệ là thuộc dân tộc nào, vương triều nào, gia tộc nào.
Họ cũng lấy theo bố, còn con cái do phụ nữ truyền lại thì được gọi là “bàng
chi”, “bàng hệ”, ảnh hưởng này còn lưu truyền cho tới xã hội có giai cấp.
Theo đà tiến bộ của nền văn minh nhân loại, sự khác nhau về giới giữa nam và nữ
ngày càng ít đi. Ngày nay có một số gia đình còn xuất hiện những người con
trai, con gái lấy họ theo mẹ hoặc mang cả hai họ cha và mẹ
252. Tại sao phụ nữ Ả RẬP hễ ra ngoài
là phải dùng khăn đen che mặt?
Tại một số quốc gia Ả RẬP, mỗi khi ra ngoài phụ nữ đều phải che mặt bằng một
tấm khăn màu đen, mà che thì rất kín, chỉ chừa một lỗ hổng để có thể trông thấy
đường đi. Ngoài ra họ còn phải mặc một cái áo dài màu đen, làm cho người trông
thấy không còn có thể nhận ra dung mạo thực của họ là như thế nào nữa.
Phần lớn các nước Ả RẬP đều nằm trong vùng sa mạc có nắng nóng chiếu dữ dội và
có mưa cát. Nếu vậy thì phụ nữ ở các vùng ấy lẽ ra phải ăn mặc cho thoáng mát
hơn một chút, có như thế thì mới thích hợp với khí hậu nóng bức. Vậy thì tại
sao họ lại làm người lại mà ăn mặc kín đáo như thế?
Vốn là phụ nữ các nước Ả RẬP đều tin theo đạo I-xlam. Họ bị các giáo lý của
I-xlam trói buộc ghê ghớm. Theo các điều ngăn cấm trong giáo lý của người
I-xlam thì toàn thân của người phụ nữ đều là những thứ xấu xa. Nếu một người
nam giới trông thấy mặt của một người đàn bà lạ thì việc này bị coi là một
chuyện chẳng lành. Vì thế phụ nữ dùng khăn đen che mặt là để bảo vệ cho đàn
ông, mà cũng là cách giữ gìn cho chính bản thân người phụ nữ đó.
Một số quốc gia Ả RẬP lại còn có giới quy nghiêm ngặt hơn nữa, con gái đến sáu
tuổi thì phải ở sâu trong nhà. Đến mười tuổi thì toàn thân phải bọc kín, hễ ra
khỏi cửa là phải có khăn che mặt. Hơn nữa lại phải đi trong những ngõ nhỏ và
phải đi thật nhanh. Bao giờ họ cũng phải về nhà trước lúc Mặt trời lặn.
Phần lớn phụ nữ Ả RẬP thường không đi làm. Dù vẫn có một số ít phụ nữ làm việc
trong các cơ quan trực thuộc chính phủ, nhưng khi tiếp xúc với các đồng sự nam
giới họ cũng phải dùng khăn che mặt. Còn một số công việc không thể không do
phụ nữ đảm nhiệm, như nghề tiếp viên hàng không chẳng hạn thì các công việc này
các nước ấy phải mời những cô gái nước ngoài làm.
Tất nhiên, việc phụ nữ ở các nước Ả RẬP dùng khăn che mặt thì cũng có sự khác
nhau tuỳ theo quy định của từng nước. Trong các vùng nông thôn hay khu chăn
nuôi ở một số nước, phụ nữ không những không dùng khăn che mặt mà còn cùng với
nam giới ra đồng hay ra bãi chăn nuôi làm việc. Phụ nữ ở một số địa phương dùng
mũ bện bằng cỏ thay cho khăn che mặt. Lại có những nơi phụ nữ dùng khăn trùm
đầu hay khăn trùm vai để thay cho khăn che mặt.
Ngày nay, phụ nữ ở các nước Ả RẬP cũng chịu ảnh hưởng của trào lưu, tư tưởng
giải phóng phụ nữ như ở các nước khác trên thế giới. Tại những thành phố lớn,
phụ nữ đã bắt đầu bỏ không dùng khăn che mặt và áo dài để ăn vận đúng thời
trang và cùng với nam giới tham gia các hoạt động xã hội.
253. Người Tây Ban Nha đấu bò tót như
thế nào?
Đấu bò tót là hoạt động thi đấu mang tính đặc
trưng truyền thống dân tộc nhất của người Tây Ban Nha. Nếu đã đi du lịch Tây
Ban Nha mà chưa được xem đấu bò tót thì có thể bị coi là một chuyến đi uổng
công.
Các cuộc biểu diễn đấu bò tót thường được tổ chức vào buổi tối. Sau khi đấu sĩ
tiến vào đấu trường trong một nghi thức long trọng thì một con bò khoảng năm
trăm kilôgam; hai cái sừng vừa nhọn vừa dài được đưa vào. Bảy, tám đấu sĩ mặc
những bộ quần áo sát người, thêu kim tuyến chia nhau đứng ở bốn phía con bò, để
tìm hiểu tính nết và các động tác quen thuộc của nó. Trong khi đó họ cũng biểu
diễn các kỹ xảo của mình cho công chúng xem.
Tiếp theo đó trận đấu giữa các kị sĩ và con bò tót bắt đầu. Hai kị sĩ mặc những
trang phục màu bạc, cưỡi hai con tuấn mã mặc áo giáp tiến vào đấu trường. Trong
khoảnh khắc con bò xông thẳng tới con ngựa thì đấu sĩ sẽ mau lẹ cầm ngọn mác
dài đâm vào cái u chắc nịch trên lưng con bò. Ngay sau đó vài người cầm lao mặc
áo giáp, không cưỡi ngựa mà chỉ đứng vào những vị trí và theo thứ tự đã quy
định, phóng rất trúng và sâu cây lao vào cùng một chỗ trên thân con bò.
Sau cùng mới diễn ra trận đấu chính thức giữa đấu sĩ và con bò mộng. Một đấu sĩ
mặc bộ quần áo đẹp thêu kim tuyến và một con bò rất to, rất hung dữ đấu một
trận với nhau. Đấu sĩ không ngừng vung tấm khăn màu đỏ, nhử cho con bò luôn
luôn lao tới húc, rồi chờ đến khi lượng sức lực man rợ của con bò đã hao tổn
cùng kiệt, đấu sỹ mới chọn thời cơ tốt nhất đâm thẳng mũi kiếm sắc vào tim con
bò, chỉ một nhát là đâm chết. Trong tiếng hoan hô của công chúng, đấu sỹ sẽ cắt
tai con bò tót đó ngay tại chỗ để làm kỷ niệm.
Tất nhiên đấu sĩ cùng có khả năng nhất thời có sơ suất, trong lúc đang chờ đợi
thắng lợi thì bị sừng con bò húc chết. Điều đáng sợ này có lẽ lại chính là
nguyên nhân làm cho môn đấu bò tót của Tây Ban Nha nổi tiếng trên toàn thế giới
254. Lễ hội Carnavan do đâu mà có?
Carnavan là lễ hội truyền thống của nhân dân châu Âu và châu Mỹ. Ở một số nước
châu Âu và châu Mỹ, ngoài lễ hội Noel ra, lễ hội Carnavan là náo nhiệt nhất.
Theo truyền thuyết thì lễ Carnavan bắt nguồn từ lễ tế thần Nông nghiệp trong
thời cổ La Mã.
Hồi ấy, mỗi năm trước khi bắt đầu các công việc đồng áng, nông dân muốn tỏ rõ
niềm vui sướng của mình, bao giờ cũng mở hội vui nhộn vài ngày. Về sau trong
các vùng theo đạo Thiên Chúa đã thấy thịnh hành tập tục mừng ngày hết ăn chay,
trong thời gian ăn chay như thế các giáo đồ đều bị cấm không được ăn thịt. Vì
thế, vài ngày trước đợt ăn chay tất cả các nhà đều phải tìm cách chuẩn bị thật
nhiều rượu ngon và các thức ăn ngon để được ăn uống thoải mái một đợt. Rồi dần
dần tập tục này đã diễn biến thành những ngày hội Carnavan ngày nay.
Những nơi đầu tiên hành cử lễ Carnavan là ở một số thành thị ở Italia, về sau
hội này được truyền ra toàn bộ châu Âu, rồi lại được sang cả nước Braxin ở châu
Mỹ.
Hiện nay, ngày tháng cử hành hội Carnavan ở các nước và các vùng khác nhau,
hình thực kỷ niệm cũng muôn hình muôn vẻ, nhưng các hoạt động chủ yếu thường là
điều hành, ăn uống, hội họp và vũ hội hoá trang.
Hiện nay, hội Carnavan ở Braxin là nổi tiếng nhất. Hàng năm cứ đến hạ tuần
tháng hai là diễn ra hội này, kéo dài ba ngày. Trong thời gian ấy các phố lớn,
phố nhỏ của Thành phố đều được trang hoàng, hai bên đường phố dựng lên những
quán và những khán đài tạm cắm rất nhiều cờ và đèn các màu. Dân chúng mặc những
quần lành áo đẹp, trang điểm lộng lẫy, nhảy những điệu samba cuồng nhiệt suốt
ngày đêm.
255. Tại sao người Nhật thích mặc
Kimono?
Hoà Phục (quần áo Nhật Bản) là trang phục truyền thống của người Nhật Bản,
người Nhật gọi nó là Kimono. Ở Nhật Bản, Kimono xuất hiện cho đến nay đã hơn
1000 năm lịch sử. Ngày nay, ở Nhật Bản nam giới trong khi nghỉ ngơi ở nhà cũng
như nữ giới trong các ngày lễ đều thích mặc Kimono. Vì thế Kimono đã trở thành
vật tượng trưng cho dân tộc Nhật Bản.
Thực ra Kimono đã được cải tiến thiết kế dựa theo kiểu quần áo ở Trung Quốc
dưới Triều Tuỳ và Triều Dương.
Trước đây hơn một ngàn năm, khi mà triều đại nhà Đường đưa Trung Quốc ở vào một
thời kỳ phồn thịnh trong lịch sử thì nhân dân hai nước Trung Quốc và Nhật Bản
đã qua lại giao dịch với nhau rất nhiều, nhiều sứ giả của Nhật Bản đã tới Trung
Quốc để học tập rồi đem các tri thức mà họ thụ nhận được trở về Nhật Bản.
Nhân dân Nhật Bản đã căn cứ vào các kiểu quần áo đời nhà Đường rồi kết hợp với
các đặc điểm khí hậu của nước mình để dùng nguyên cả một tấm vải làm thành thứ
Kimono có thân rộng mặc không sát mình, hai tay ngắn, rộng, cổ áo to. Nhật Bản
là một nước có khí hậu ôn hoà, lượng mưa dồi dào, độ ẩm tương đối cao. Vì thế
mùa đông mà mặc Kimono thì ấm. Còn mùa hè mặc lại Kimono thoáng gió và chống
nóng.
Ở Nhật Bản, Kimono của phụ nữ có các kiểu màu hoa văn giúp cho có thể phân biệt
được lứa tuổi và cả tình trạng hôn nhân nữa. Các cô gái chưa có chồng thì
thường mặc áo ngoài có tay rộng, còn các phụ nữ có chồng thì mặc áo ngoài tay
hẹp. Nếu bên trong Kimono mà mặc áo cổ màu đỏ thì người mặc còn con gái. Còn
khi áo trong màu trắng thì người mặc đã có gia đình.
Sau lưng các áo Kimono của phụ nữ Nhật Bản lại còn có thêm một cái túi nhỏ. Cái
túi này biến dạng của dải lưng và cái nút của dải lưng. Dải lưng của một chiếc
Kimono của phụ nữ dài tới vài mét, chất liệu cũng rất cầu kỳ, lại còn thêu thêm
những hình hoa văn rất đẹp. Khi mặc áo người ta cuốn cái dải dây lưng dài này
xung quanh mình, phía sau buộc một cái gối và đai lưng, rồi lại có thêm một cái
đai nhỏ cố định, nom cứ như một cái túi vậy.
256. Tại sao thỏ thích ăn phân của
mình?
Thỏ ăn cỏ, sống chủ yếu ở thảo nguyên. Chúng thích ăn cỏ xanh non và hoa màu,
nhưng đôi khi cũng ăn luôn cả phân của mình thải ra trong đêm.
Thỏ tuy là động vật ăn cỏ, nhưng không giống với bò và dê, dạ dày của chúng rất
nhỏ và không có hiện tượng nhai lại. Ban ngày, sau khi chúng ăn một lượng lớn
cỏ tươi non, thường xuất hiện dinh dưỡng quá thừa, đến tối liền hình thành phân
mềm thải ra ngoài cơ thể. Còn buổi tối do thiếu cỏ, ăn ít, lượng dinh dưỡng
giảm tương đối, phân thải ra vào buổi sáng hôm sau thường cứng.
Vì các chất dinh dưỡng trong phân mềm đã ở trạng thái tiêu hoá một nửa, dễ được
cơ thể hấp thu và sử dụng, do đó thỏ có xu hướng tái sử dụng lại sản phẩm này.
Qua phân tích, sau khi thỏ ăn phân mềm, vitamin B và vitamin K hợp thành dễ
được ruột non hấp thụ, để cung cấp nhu cầu sinh trưởng cho cơ thể. Đồng thời,
nguyên tố khoáng vật trong phân mềm cũng cuộc sống lợi cho công việc thúc đẩy
sự hấp thu của cơ thể thỏ đối với chất dinh dưỡng. Hiện tượng thỏ ăn phân mềm
của mình thải ra là một hiện tượng lợi dụng đầy đủ chất dinh dưỡng. Nhưng thỏ
nhà, khi được nuôi dưỡng nhân tạo, đủ thức ăn, thường không xuất hiện thói ăn
phân của mình nữa.
257. Vì sao thiên nga trong vườn thú
không bay mất?
Trong sở thú, mặt nước hồ trong suốt như gương, từng đôi thiên nga trắng tự do
bơi một cách an nhàn nhởn nhơ, đôi lúc lại vươn dài cổ cao giọng hót, hoặc vẫy
cánh, bước lên bờ để tỉa tót dung nhan. Tại sao chúng không bay đi nhỉ?
Chim bay lượn trong không trung có liên quan đến lực đẩy và lực nâng của sự
chuyển vận không khí. Chim có hai kiểu bay: bay chèo và bay lướt. Bất kể loại
chim nào, khi chúng cất cánh đều phải dựa vào sự lắc lư của cánh.
Trên cánh chim mọc đầy lông ống, hình dạng tương đối lớn, xếp ngay ngắn, gọi là
lông vũ. Lông ống mọc ở cổ tay và bàn tay là lông vũ sơ cấp, còn lông ống mọc ở
phần trước ống tay gọi là lông vũ thứ cấp. Mặt trên và mặt dưới của lông ống
còn có lông nệm. Các lông ống sắp xếp như sau: phiến ngoài của mỗi lông ống phủ
một phần phía trong của lông kế bên. Khi chim nâng cánh, mỗi lông ống đều xoay
quanh trục thân, làm không khí dễ lọt qua khe hở của các phiến lông của lông
vũ. Khi chim đập cánh, lông xoay trở lại, phủ phiến lên nhau, làm thành tấm
rộng cản khí, sản sinh áp lực đối với cánh, đẩy mạnh thân chim hướng lên trên
hoặc hướng về phía trước. Vì vậy, lông vũ ở trên cánh chim là công cụ quan
trọng trong việc bay lượn của chim. Loài chim không có lông vũ như chim không
cánh và đà điểu thì không thể bay được. Một số loài khi thay lông thường có khá
nhiều lông vũ cũng rụng một lúc, lúc này chúng tạm thời mất khả năng bay lượn
vốn có.
Căn cứ vào nguyên lý này, thiên nga hoặc các loài chim khác, sau khi đưa đến
vườn thú, trước tiên phải nhổ lông vũ đi, hoặc cắt xương ngón tay của chim non
hoặc xương khớp của bàn tay, làm cho lông vũ không có chỗ để mọc. Không có lông
vũ, không có sức để vẫy mạnh cánh, thế là chúng không thể bay lên được nữa.
258. Bạn có biết thực vật trường thọ
nhất và đoản thọ nhất trên thế giới không?
Trong thế giới cây cỏ mà chúng ta tiếp xúc, có một số loài đâm chồi nảy lộc vào
mùa xuân, đến mùa thu bắt đầu nở hoa kết trái, sau đó rồi chết khô. Nhưng cũng
có những loài mầm cây phát triển thành cây non, cây non phát triển thành cây to
và cứ thế không ai có thể biết được chính xác tuổi thọ của chúng là bao nhiêu.
Vậy thì loài nào có tuổi thọ cao nhất. loài nào có tuổi thọ ngắn nhất và ngắn
là bao nhiêu?
Theo các nghiên cứu và bằng chứng của các nhà khoa học, loài thực vật hạt có
thể sống lâu nhất là hơn 6000 năm; loài thực vật hạt có tuổi thọ ngắn nhất là 3
tuần.
Ở vùng nhiệt đới, có một loại thực vật gọi là cây long huyết. Loại cây này có
thể sống tới hơn 6000 năm. Các nhà khoa học đã tính tuổi thọ của cây này như
thế nào?
Thực vật có tuổi thọ cao, sau mỗi năm sinh trưởng và phát triển sẽ hình thành
những dấu tích trên thân cây. Chúng ta có thể tính từ phần "già" nhất
của thân gỗ; tìm vết tích trên thân cây, tính toán xem mỗi năm sinh trưởng có
thể tục đo độ phát triển của thân cây hiện tại. Làm như vậy, chúng ta có thể
tính được đại khái tuổi thọ của cây là bao nhiêu.
Ở vùng sa mạc, do không khí nóng, lượng mưa hàng năm rất ít, có lúc chỉ có
sương trong 1 khoảng thời gian rất dài mà không có mưa. Trong môi trưởng sống
như vậy, phần lớn loài thực vật đều không thể tồn tại được, chỉ có một phần rất
ít có thể thích nghi, tồn tại. Hơn nữa do thời tiết khô nóng kéo dài, những
thực vật này phải hoàn thành 1 vòng tuần hoàn sinh trưởng - phát triển - chết
của mình một cách nhanh chóng. Có một số loài chỉ dùng 3 tuần để hoàn thành từ
giai đoạn hạt giống nảy mầm đến giai đoạn nở hoa kết trái. Nó là một số thực
vật thuộc họ cây mù tạc. Sau khi nở hoa kết trái, hạt giống được bảo vệ tốt trong
môi trường khô hạn, mùa mưa của năm thứ 3 đến, hạt nảy mầm sẽ có thể nảy mầm và
phát triển thành cây.
259. Tại sao trên các biển tên cây
trong công viên lại thường ghi chú bằng tiếng la tinh?
Khi vào công viên chơi, chúng ta thưởng nhìn thấy trên mỗi thân cây đều có treo
biển tên của cây đó. Trên biển tên, bên cạnh tên cây được viết bằng thứ tiếng
của nước đó, ở bên dưới còn có một dòng chữ La tinh.
Tên La tinh ấy liệu có đúng là có thể dùng hoặc không dùng cũng được không?
Tuyệt nhiên là không. Việc ghi rõ tên cây bằng tiếng La tinh là một điều kiện
bắt buộc. Lý do là vì: ở những vùng khác nhau (địa phương khác nhau) lại có
những tên gọi khác nhau cho cùng một loại cây. Ví dụ: Quả cà chua, người Trung
Quốc gọi nó là Tây hồng thị, nhưng tiếng Anh là Tomato. Hoặc như củ khoai tây,
người Trung Quốc gọi là Thổ đậu, tiếng Anh lại gọi là Potato. Mặt khác cùng một
loài thực vật nhưng chúng lại có đến mấy tên gọi khác nhau. Ví dụ như loài thực
vật có tên gọi là "ông lão đầu bạc" lại có đến 10 tên gọi khác nhau.
Do tên gọi không thống nhất nên rất dễ gây nên những hiểu lầm giữa khoa học
trong nước và khoa học quốc tế. Đặc biệt là trong lĩnh vực y học, nếu như không
có 1 cái tên thống nhất sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Để thống nhất
tên gọi, các nhà thực vật học đã phải tốn rất nhiều công sức, từng sử dụng rất
nhiều cách gọi tên khác nhau. Song sau này đều được thay thế bởi cách gọi 2
tên. Cách gọi 2 tên do một nhà phân loại thực vật học người Thuỵ Điển nghĩ ra.
Cách gọi này dùng chữ La tinh hoặc từ đã bị La tinh hoá để gọi tên. Từ đầu tiên
là "họ" của cây, từ từ thứ hai là một loại từ thêm, tương đương với
tên của cây. Sau khi đã đặt tên cho cây xong vẫn phải đưa thêm tên của người đã
đặt tên cho nó bằng chữ La tinh, tức là từ thứ 3. Ví dụ như loài cây bạch quả
có tên La tinh là "Ginkgo biloba L". Do chữ La tinh sử dụng tương đối
ít và cũng ít biến đổi. Một chữ La tinh chỉ đại diện cho 1 loài thực vật nên
gọi bằng tên La tinh sẽ tương đối ngắn, chính nguyên nhân này đã khiến cho tên
La tinh thường được dùng để đặt tên cho các loài thực vật một cách phổ biến.
260. Bạn đã gặp thực vật biết bơi
chưa?
Thực vật không tự động di chuyển vi trí của mình như động vật. Đây chính là
những cảm giác trực quan của chúng ta và nếu có loài thực vật "biết
bơi" thì chỉ có thể là những loài thực vật sống trong môi trường nước mà
thôi.
Vậy chúng ta hãy thử quan sát một chút xem loài thực vật dưới nước nào biết
bơi?
Loài lan dạ hương (còn gọi là mắt phượng xanh), loài bèo... là những loài thực
vật sống trôi nổi trên mặt nước mà chúng ta thường gặp. Nếu như muốn bơi thì
chúng chính là những loài thực vật có điều kiện thuận tiện nhất: Nhưng dù thế
nào thì chúng cũng vẫn chỉ là những loài thực vật bất động, chỉ trừ khi có gió
thổi chúng sẽ trôi dạt vào một góc của ao hồ, nơi chúng sống, đây không được
coi là hiện tượng bơi, bởi rễ của chúng không tự động di chuyển được.
Tuy nhiên, vẫn còn có một số loài thực vật nhỏ bé, nhỏ bé đến mức chúng ta
không thể nhìn thấy chúng bằng mắt thường mà phải quan sát chúng dưới kính hiên
vi, liệu chúng có phải là những loài thực vật biết bơi?
Chúng ta chuẩn bị một chiếc vợt rồi vớt sinh vật trôi nổi trong ao hồ mang về
và quan sát chúng dưới kính hiển vi sẽ phát hiện ra rằng có rất nhiều thực vật
biết bơi. Những loài sinh vật di chuyển qua lại trong nước này có phải là thực
vật không? Hãy khẳng định rằng là đúng vì trong cơ thể chúng có chất diệp lục,
đó chính là những loài thực vật thuộc họ tảo như tảo y, tảo trần... Vậy chúng
di chuyển được là nhờ cái gì? Chính là lông mao. Những lông này có thể chuyển
động trong nước và đây mới thực sự là hiện tượng thực vật biết bơi.
261. Tại sao gọi "Giảo cổ
lan" là "nhân sâm phương Nam"?
Nhân sâm là một trong những loài thực vật quý hiếm của vùng Đông Bắc Trung
Quốc. Vì nhân sâm có giá trị y tế rất lại sinh trưởng rất chậm nên giá thành
của nó rất đắt.
Rễ của cây nhân sâm có hình thù hơi giống hình người, chính bởi thế mà loài
thực vậy này có tên là "Nhân sâm". Nhân sâm thường được dùng để bào
chế các loại thuốc bổ. Nguyên nhân của vấn đề này có liên quan đến các thành
phần chứa trong nó. Thành phần phát huy tác dụng chính của nhân sâm là Glucozit
đen. Hiện nay đã được phân chia thành hơn 13 loại Glucozit đen nhân sâm đơn
thể.
Giảo cổ lan là một loài thực vật được phân bố ở khu vực phía Nam của tỉnh Thiểm
Tây và các tỉnh phía Nam sông Trường Giang Trung Quốc. Nó cũng sinh trưởng ở
một số nước khác như: Nhật Bản, Việt Nam, Ấn Độ, Inđônêxia. Loài thực vật này
thường sinh trưởng ở trong rừng hay cạnh các dòng chảy của các con sông, là một
trong số loài thực vật dây leo dạng cỏ của họ bầu bí. Thân cây mềm yếu, có đốt
xoắn, cành lá có từ 3 - 7 lá hình cầu, hoa được sắp xếp theo dạng khối cầu
tròn, quả của nó như một quả cầu nhỏ.
Nhân sâm lại chủ yếu được phân bố ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, thuộc họ ngũ gia
bì, là loài thân cỏ, rễ cây có hình thù thô ráp, mỗi năm chỉ phát triển thêm 1
đốt, loài thực vật này có tên gọi là "Lô đầu" trong vị thuốc đông y,
đoạn dưới của rễ cây có hình dạng như con sợi và chứa thịt (chất dinh dưỡng),
cành cây lá phức, có khoảng 3 - 6 phiến lá sống luân sinh trên ngọn và thân,
hoa được sắp xếp theo hình chiếc ô.
Từ các đặc điểm trên ta có thể rút ra kết luận: Giảo cổ lan và nhân sâm vẫn có
sự khác biệt nhau khá rõ ràng. Vậy tại sao lại gọi giảo cổ lan là "nhân
sâm phương Nam"?
Thực ra lúc đầu Giảo cổ lan không được ví như nhân sâm. Nhưng kết quả nghiên
cứu cho thấy: Trước kia Giảo cổ lan mọc trong núi sâu nên không ai biết, công
dụng làm thuốc của nó cũng không được phát huy. Mấy năm gần đây, việc nghiên
các thành phần chứa trong Giảo cổ lan đã tiến thêm những bước đáng kê. Điều đó
chứng minh rằng trong Giảo cổ lan cũng chứa thành phần glucozit đen quý hiếm
nên Giảo cổ lan có giá trị và công dụng về vị thuốc gần giống như nhân sâm. Hơn
thế nữa Giảo cổ lan chủ yếu phân bố ở miền Nam Trung Quốc và một số nước Đông
Nam Á nên được gọi là "nhân sâm phương Nam".
262. Vì sao tầm nhìn của chim ưng rất
xa?
Từ trên không cao tới 2 – 3 nghìn mét, chim ưng có thể nhìn thấy chính xác một
con chuột đồng hoặc một con chó đang chạy dưới mặt đất. Những con mồi này không
thể nào trốn thoát. Nhờ đâu chim ưng có khả năng đó?
Chim ưng có thị lực tốt như vậy chủ yếu là do trên võng mạc trong mỗi con mắt
của nó đều có hai lỗ hõm ở giữa, so với lỗ hõm ở giữa mắt người thì nhiều hơn
một. Một trong hai lỗ hõm này chuyên nhìn thẳng, lỗ còn lại thì nhìn nghiêng.
Như vậy, phạm vi nhìn của chim ưng rộng hơn rất nhiều. Ngoài ra, mỗi cái ống
trong lỗ hõm giữa mắt của chim ưng cũng có nhiều tế bào nhìn vật hơn mắt người
6 – 7 lần. Cho nên mắt chim ưng không những có thể nhìn xa hơn bất cứ động vật
nào, mà còn nhìn thấy rất rõ ràng.
263. Vì sao vịt không sợ nước mùa
đông?
Đông đến, nước lạnh buốt, thậm chí đóng băng. Thò chân xuống là phải bỏng, nếu
ngâm lâu, nó tím tái như màu cà. Thế mà đàn vịt vẫn ung dung ngang dọc trên hồ.
Chúng có thủ thuật gì mà tài đến vậy?
Quanh năm, quá nửa thời gian vịt sống trong nước. Vì lâu ngày tồn tại trong môi
trường này nên cơ thể vịt đã tiến hoá nhiều điểm để thích nghi, như có nhiều mỡ
trong cơ thể và chúng quanh các nội tạng, phao câu có một đôi tuyến mỡ rất phát
triển, bên ngoài cơ thể phủ một lớp lông vũ dày, khó thấm nước.
Khi từ nước đi lên bờ, vịt quay đầu về phía đuôi rỉa lên tuyến mỡ ở dưới phao
câu, rồi rỉa lên lông, khắp cơ thể, chải sửa các lông tơ bị ướt, rũ hết nước
trên lông, rồi bôi lên đó một lớp mỡ, làm cho lông không bị thấm nước.
Về mùa Đông, nhiệt độ không khí ngoài phòng nhìn chung thấp hơn nhiệt độ nước
hồ một chút, hơn nữa vịt hoạt động bơi lội liên tục, nhờ vậy thân nhiệt tăng
lên, cũng có tác dụng chống rét. Đồng thời, năng lượng mà cơ thể vịt toả ra,
được lớp lông khá dày bao bọc, có khả năng chống mất nhiệt. Vì vậy vịt không sợ
rét.
Thân nhiệt bình thường của vịt là trên dưới 42 độ C. Bản thân vịt cũng có khả
năng điều tiết thân nhiệt. Mức độ trao đổi chất của vịt tương đối cao. Thêm vào
đó, ở các loài chim sống trong nước (vịt hoặc chim) điểm Đông đặc của tuỷ trong
xương sống chân, xương cổ chân, xương bàn chân rất thấp, vì vậy vịt đứng lâu
trong nước đóng băng dịch thể trong chân vẫn lưu thông, bàn chân không bị cóng.
364. Tắc kè hoa đổi màu như thế nào?
Tắc
kè hoa là một loài bò sát nổi tiếng vì khả năng biến màu. Khi môi trường sinh
tồn của chúng như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm có sự thay đổi hay do sợ hãi… tế
bào sắc tố trong da của chúng sẽ có sự dịch chuyển, do đó dẫn đến sự thay đổi
về màu sắc.
Giữa biểu bì và chân bì của tắc kè hoa, có tế bào sắc tố phân tán, chịu sự
khống chế của thần kinh và hoóc môn, thể hiện màu sắc đậm nhạt khác nhau.
và những hạt nhỏ màu nâu đen. Hạt sắc tố có thể di chuyển trong tế bào, khi mở
rộng ra thì da hiện rõ màu sắc khá sẫm. Tế bào sắc tố đen cũng có thể vận động
vươn chân giả ra như côn trùng biến hình khi chân giả co lại, màu sắc cơ thể
nhạt đi. Tế bào sắc tố trắng dưới sự chiếu rọi ánh sáng với cường độ khác nhau,
trên da ánh lên màu xám nâu hoặc màu xanh xám. Tế bào sắc tố vàng có thể làm
cho da biến thành màu vàng hay màu xanh lục. Sự giãn ra và co lại của tế bào
sắc tố hồng có thể điều tiết được mức độ và sự phân bố của màu hồng.
Có người từng làm qua hàng loạt các cuộc thử nghiệm, khi tắc kè hoa bị chiếu
dưới ánh sáng mạnh, màu sắc cơ thể của nó rất nhạt, khi nó ở trong môi trường
tối thì màu sắc cơ thể của nó sẫm lại. Cũng có người cho rằng khi nhiệt độ tăng
cao làm cho các sắc tố thu hẹp lại, màu da trở biến thành màu nhạt. Khi nhiệt
độ hạ thấp, sắc tố da mở rộng ra, màu da thẫm lại, khi khô ráo màu da trở nên
trắng bệch. Ngoài ra, bị sự ảnh hưởng của các chất hóa học cũng có thể làm cho
động vật đổi màu.
365. Vì sao ruồi bay có tiếng, nhưng
bướm lại không?
Khi ruồi muỗi lượn quanh, từ xa, bạn đã nghe thấy tiếng “động cơ” vo vo của
chúng. Nhưng bướm thì dù có ghé sát tai vào bạn cũng không thể nghe được gì cả.
Phải chăng ruồi muỗi có cơ quan “phát thanh” đặc biệt?
Thật ra, tiếng kêu đó chỉ là do dao động do cánh của chúng gây ra mà thôi. Để
chứng minh vấn đề này, chúng ra hãy làm thí nghiệm sau: lấy một mảnh tre mỏng
rồi khua lên khua xuống trong không khí. Nếu khua nhẹ, bạn không nghe thấy gì,
nhưng nếu khua mạnh sẽ tạo ra tiếng vù vù rất rõ rệt.
Âm thanh truyền đến tai ta là do tai cảm nhận được các dao động trong không
khí. Tuy nhiên, ta chỉ có thể nghe được những dao động có tần số từ 20 đến
20.000 lần mỗi giây. Nếu thấp hoặc cao hơn khoảng này chúng ta đều không nghe
thấy. Điều đó giải thích vì sao khi mảnh tre khua chậm thì im hơi lặng tiếng,
nhưng khi khua nhanh sẽ tạo ra tiếng xé gió nghe vù vù.
Côn trùng khi bay phát ra âm thanh cũng giống như nguyên lý kể trên. Các nhà
khoa học cho biết, mỗi giây, ruồi nhặng vỗ cánh từ 147 – 220 lần, muỗi là 594
lần, thậm chí có loài còn vỗ tới 1.000 lần, ong mật vỗ 260 lần. Nhưng bướm
trắng thì chỉ lập lờ có… 6 lần, bướm gai 5 lần. Chính vì thế mà chúng bay hoàn
toàn yên lặng.
366. Vì sao rùa biển mau nước mắt?
Cứ khoảng giữa tháng 6 – 7, rùa biển lại bơi lên bờ, đào một cái hố, đẻ trứng
vào đó rồi phủ cát lên trên. Nhưng lúc đó, người ta thường thấy có hai hàng lệ
ròng ròng từ mắt nó. Có người nói rằng chúng đau đẻ quá, nhưng người khác thì
cho rằng ra chúng làm thế để mặt khỏi khô. Thực tế thì sao?
Rùa biển ăn rong và uống nước biển, mà nồng độ muối trong nước biển cao hơn rất
nhiều so với nồng độ muối trong thể dịch và máu của bất kỳ loài động vật nào.
Vì thế chúng ắt phải có cách để bài tiết số muối quá lớn đó ra khỏi cơ thể chứ?
Thí nghiệm cho thấy, khi người ta lấy một ống dẫn thông qua thực quản của rùa
biển, bơm vào dạ dày một lượng nước biển bằng một nửa thể trọng của nó, sau 3 –
4 giờ, 90% lượng muối vào cơ thể nó đều được thải ra ngoài nhờ nước mắt.
Tuyến thể nằm sau hốc mắt của rùa biển là cơ quan bài tiết ra ngoài lượng muối
thừa trong cơ thể. Các nhà động vật học gọi cơ quan này là “tuyến muối”. Rùa
biển có tuyến muối nên nó mới có thể nuốt những động vật và thực vật ở biển có
hàm lượng muối tương đối cao, cũng như uống nước biển để chống khát.
367. Vì sao chuột thường xuyên gặm
nhấm?
Trong số loài vật gây hại cho người, chuột là kẻ tội to nhất. Không những hòm
tủ, quần áo, lương thực… mà cả những công trình kiến trúc cũng bị chúng làm hư
hại. Phải chăng chúng đã tiêu hoá hết những gì mình cắn nát?
Thực tế không phải chúng thích ăn đồ vật cứng. Hãy nhìn kỹ xung quanh chỗ hòm,
tủ hoặc vật dụng khác bị chuột gặm hỏng thì sẽ thấy ở cạnh đó luôn có một đống
nhỏ hạt vụn. Thì ra, chúng làm thế chỉ là để giảm bớt khó chịu cho đôi răng cửa
của mình.
Răng cửa của các loài động vật nói chung chỉ mọc đến một lúc nào đó thì ngừng
lại, còn ở chuột thì không. Đôi răng cửa ở hàm trên và hàm dưới của nó liên tục
mọc ra, mỗi tuần có thể vài milimét.
Có thể bạn sẽ nghĩ, nếu răng cửa cứ mọc mãi, miệng chuột sẽ không thể ngậm lại
được hay sao? Trên thực tế, tình huống này không bao giờ xảy ra, bởi vì để khắc
phục tình trạng đó, chuột đã nhờ cách gặm nhấm vật cứng để mài bớt độ dài của
răng. Vì vậy, gặm nhấm thực chất là một kiểu thích nghi sinh học của chúng.
Tại sao răng cửa của chuột mọc dài ra mãi? Chất chủ yếu để hình thành răng là
chất răng rắn chắc, ở trong lòng chất răng của mỗi cái răng còn có một xoang
rỗng, gọi là xoang tuỷ răng. Lúc động vật còn non nớt, chân của xoang tuỷ răng
hở để cho máu và thần kinh đi vào, cung cấp dinh dưỡng cho tế bào răng trong
xoang tuỷ. Nhìn chúng các động vật khác sau khi răng trưởng thành chân của
xoang tuỷ răng bịt kín lại, tế bào chất răng không nhận được chất dinh dưỡng
thì ngừng sinh trưởng. Còn chuột và thỏ cái thì xoang tuỷ răng không bị bịt
kín, vì thế răng cửa của chúng mọc suốt đời.
368. Bằng cách nào rắn nuốt con mồi to
gấp nhiều lần đầu nó?
Ở đảo Hải Nam, Trung Quốc, người ta bắt được con rắn cạp nong còn nguyên cả một
con dê nhỏ trong bụng. Con rắn chuông có thể nuốt chửng một con trăn to ngang
ngửa, còn rắn lao có thể tọng vào miệng con chim lớn gấp 10 lần đầu nó… “Ăn
tham chết nghẹn”, vậy rắn có chết nghẹn không?
Không hề. Loài rắn có thể chén được những con mồi to xác hơn nó nhiều lần. Khả
năng này nằm ở cấu tạo miệng của nó.
Miệng của người chỉ có thể mở to đến 30 độ, còn rắn thì mở đến… 130 độ. Nguyên
do là đầu rắn và các xương hữu quan mở khép không giống như các động vật khác.
Cằm rắn (tức hàm dưới) mở rất rộng xuống phía dưới, vì đầu rắn nối với mấy cái
xương ở cằm có thể cử động được, không giống với các loài động vật khác là gắn
chặt với xương đầu, cố định không cử động. Hơn nữa, các xương của bộ hàm đều
khớp động với nhau, không những xương hàm mà xương khấu cái, xương cánh, xương
ngang… đều nối với nhau bằng dây chằng rất đàn hồi, có thể mở rộng ra hai bên,
vì vậy miệng rắn không những có thể mở ra thật to, mà còn mở được ra hai bên
phải trái không bị hạn chế, do vậy rắn có thể nuốt những con mồi to hơn gấp
nhiều lần miệng nó.
Dù cho kiểu miệng của rắn rất khéo, nhưng trước khi nuốt thức ăn, loài bò sát
này còn phải đem con mồi đã bắt gia công một phen. Nó bóp bóp, nặn nặn thành
sợi dài, khi nuốt nhờ răng hình móc câu giúp đưa thức ăn vào họng. Ngực rắn
không có xương mỏ ác xuyên tới xương sườn, nên xương sườn có thể tự do cử động,
vì vậy thức ăn từ hầu xuống họng, vào thẳng nơi da bụng có thể phình to, đồng
thời rắn còn tiết ra rất nhiều nước bọt, thật chẳng khác gì cho thêm lượng lớn
“dầu nhờn” giúp cho thức ăn trôi vào dễ dàng hơn.
369. Tại sao đuôi của rắn chuông kêu
được?
Ở một số vùng ở châu Mỹ, khi nghe thấy âm thanh “Cala – cala”, những người
không có kinh nghiệm lại cứ ngỡ đó là tiếng nước chảy từ những khe suối, nhưng
xung quanh lại chẳng có một con suối nào cả. Té ra, đó là tiếng kêu do một loài
rắn có độc tính cực mạnh vẫy đuôi phát ra.
Đây chính là rắn đuôi kêu, hay rắn chuông. Đại diện ở Việt Nam là rắn lục. Vì
sao cái đuôi của nó có khả năng này?
Để ý một chiếc còi, bạn sẽ thấy nó có một cái vỏ bằng đồng, bên trong là một lớp
màng ngăn cách, hình thành hai bong bóng rỗng. Khi ta dùng sức thổi, do có sự
rung động của không khí nên âm thanh phát ra. Đuôi của rắn chuông cũng có cấu
tạo tương tự, chỉ khác là vỏ ngoài của nó không phải là kim loại, mà là vành
chất sừng. Lớp da chắc chắn này vây thành một cái xoang rỗng, màng sừng trong
xoang ngăn thành hai cái bong bóng. Nhờ có sự di chuyển qua lại của luồng không
khí, nên bong bóng rỗng phát ra âm thanh từng hồi, từng hồi một.
Âm thanh này có ý nghĩa gì nhỉ? Có người cho rằng, rắn bắt chước âm thanh của
tiếng nước chảy trong khe suối là để thu hút những động vật nhỏ đến thăm, đó
cũng là một cách bắt mồi.
370. Cách nào phân biệt rắn độc?
Phân
biệt căn bản nhất giữa hai nhóm rắn độc và không độc là ở chỗ răng độc hay
không. Răng độc khi cắn sẽ để lại vết trên da loài bị cắn.
Răng độc gồm hai loại. Một loại là răng độc hình móc câu, trên có một cái rãnh
thông với nọc độc. Loại rãnh này mọc ở phần trước xương hàm trên của rắn, vạch
miệng nó ra có thể trông thấy.
Một loại răng độc khác là răng ống, cũng mọc ở phía trước xương hàm trên của
con rắn. Đây là một đôi răng nhọn hơi cong và dài, ở giữa có một cái lỗ. Khi
rắn độc cắn người, cơ thịt trên tuyến độc co lại làm cho dịch độc ở trong đó ép
vào đường ống của răng độc, tiêm nọc độc vào thân thể người.
Khi bị rắn cắn có thể căn cứ vào vết răng để phân biệt độc hay không. Nếu là
rắn độc, nhất định phải có một đôi vết của răng độc trên lớp da bị thương có
thể thấy hai cái lỗ rất nhỏ. Còn khi bị rắn không độc cắn thì trên da chỉ có
vết hai hàng răng giống nhau.
371. Vì sao ngỗng trời bay thành hình
mũi tên?
Ngỗng trời là loài chim di cư trú Đông. Mùa thu hằng năm, từ quê hương Siberia,
chúng kết thành đám lớn, bay đến phương Nam ấm áp. Trong hành trình dài, chúng
tổ chức đội hình rất chặt chẽ, xếp hàng thành hình mũi tên hoặc dàn hàng ngang,
vừa bay, vừa không ngừng kêu “cạc, cạc”. Chúng làm gì thế nhỉ?
Thực ra, đây là một tín hiệu của chúng với nhau. Chúng dùng tiếng kêu này để
chăm sóc lẫn nhau, kêu gọi nhau cất cánh bay hay hạ cánh nghỉ ngơi. Tốc độ bay
đường xa của ngỗng trời là rất nhanh, có thể từ 69 đến 90 km / giờ.
Tuy ngỗng trời bay rất nhanh, nhưng thời gian
đi về phương Nam cần khoảng 1 – 2 tháng. Trong cuộc phi hành đường dài, ngoài
việc vẫy cánh, chúng còn biết lợi dụng luồng không khí chuyển vận tăng lên để
bay lượn trong không trung, như vậy sẽ tiết kiệm được sức lực. Khi con ngỗng
bay ở phía trước vỗ cánh tạo ra luồng không khí yếu, con ngỗng phía sau sẽ lợi
dụng xung lực của luồng không khí này mà lượn trên không trung. Như vậy, từng
con nối đuôi nhau, xếp thành đội hình mũi tên hoặc xếp thành hàng ngang ngay
ngắn.
Ngoài ra, sự xếp hàng như trên của ngỗng trời cũng là một biểu hiện của bản
năng hợp quần, có lợi cho việc phòng ngự kẻ địch. Đàn ngỗng trời lúc nào cũng
do con ngỗng già có kinh nghiệm làm “đội trưởng” bay ở phía trước hàng ngũ.
Những con ngỗng non hoặc yếu ớt đều xen vào giữa đội hình. Khi nghỉ ngơi bên
vực nước tìm ăn cỏ, lúc nào cũng có một con ngỗng già có kinh nghiệm giữ vai
trò “lính gác”. Nếu những con ngỗng trời bay đơn lẻ về phương Nam thì sẽ rất dễ
gặp nguy hiểm do bị địch hại ăn thịt.
372. Tại sao cây trong chậu cảnh lại
già và có nhiều tư thế?
Bước vào vườn chậu cây cảnh của vườn thực vật Thượng Hải bạn có thể thấy những
cây già trong chậu cảnh đã sống mấy chục năm, thậm chí là mấy trăm năm, sao lại
có sinh khí bừng bừng như vậy, cành khoẻ, lá xanh, nhiều tư thế đẹp mắt. Tại
sao những cây nhỏ chưa cao đến 1 mét này lại có tuổi lớn như vậy?
Thì ra những cây trong chậu cảnh là một loại cây không phải sinh trưởng từ nhỏ
trong chậu cảnh, đa số tổ tiên của chúng là sinh trưởng ở vùng núi cao hoang
dã, hoặc do con người chặt phá, hoặc do già, ruột rỗng, phần than của phần trên
cây bị chặt đổ hoặc mục nát mà không tồn tại được, nhưng mầm ngủ yên lâu dài
trên phần gốc của cành và phần dưới đất vẫn còn sống, những người làm vườn liền
lợi dụng đặc tính này, đưa những cây không có phong thái đó kết hợp với phần
dưới, khôi phục lại và sửa cắt toàn bộ cành, dùng đất tốt để nuôi dưỡng cho
thích hợp và tiến hành nuôi dưỡng tỉ mỉ. Như vậy, những mầm đã ngủ lâu giờ lại
khôi phục sức sống, dần dần đâm chồi trên cành và ra lá. Sau đó, dùng phương
pháp nhân tạo để uốn vòng hoặc uốn cong những cành non mới ra thành các tư thế
tuyệt đẹp, rồi lại chuyển vào trong chậu cảnh, hình thành nên chậu cảnh có trăm
nghìn tư thế, già dặn, cứng cáp đầy sức sống.
Mọi loài thực vật từ nhỏ đã được trồng ở trong chậu, người ta thường gò cành,
cắt tỉa đều kìm chế sự phát triển của nó, để nó có kiểu dáng đẹp.
Từ hình dáng của cây mà nói, có những cây trồng lâu ngày trong chậu quả thực là
rất nhỏ, nhưng xét về hình thế rắn rỏi của chúng, có thể dễ dàng thấy rằng tuổi
của chúng không nhỏ, thông thường ít nhất cũng sống được vài năm, vài chục năm,
thậm chí vài trăm năm. Đây là truyền thống của Trung Quốc về nghệ thuật làm
vườn và kỹ thuật chăm sóc để khống chế sự phát triển của cây trong chậu.
Có một số cây hoa mai được trồng lâu năm trong chậu, hình thành nên những cành
cây rắn rỏi, ra hoa hàng năm, nhưng không cho chúng phát triển thành cây to,
trong nghệ thuật trồng vườn được gọi là “Thân mai”. Dùng thân mai làm cây cảnh,
còn một nghệ thuật khác nữa là cắt dọc thân mai ra làm hai nửa, đem một nửa đi
trồng trong chậu, nó vẫn có thể ra hoa hàng năm như thường, có vẻ đẹp rất
riêng, trong nghệ thuật làm vườn gọi là “Bổ mai”.
Có thể không ít người hỏi: Cây đã bổ đôi làm sao lại vẫn có thể sống và ra hoa?
Đó là do nguyên nhân gì?
Thực ra, ống libe vận chuyển chất dinh dưỡng trong phần dây chằng, ống dẫn
trong phần chất gỗ vận chuyển chất dinh dưỡng, nếu cắt sạch phần vỏ của cây, sự
vận chuyển chất dinh dưỡng ngừng lại, cây sẽ chết. Nhưng nếu cắt dọc cây làm
hai nửa, thì mỗi nửa đều có đầy đủ các bộ phận rễ, thân, cành, lá. Như vậy thì
chất dinh dưỡng mà lá ở mỗi nửa thân cây tạo ra vẫn có thể được vận chuyển
xuống dưới bằng hệ thống mao mạch trong phần dây chằng, còn nước và muối vô cơ
cũng thông qua các ống dẫn ở phần thân gỗ vận chuyển lên trên, do vậy nên mỗi
nửa cây đều có thể tự sống, ra hoa và sinh trưởng bình thường.
Trong các loài cây cối hoa cỏ, không chỉ thân mai có thể cắt làm hai, mà cây tử
vi, lựu và nhiều loài khác cũng có thể cắt làm hai nửa, vẫn sống bình thường.
Dựa vào nguyên lý này, chúng ta có thể tạo ra nhiều cây cảnh lạ mắt với nhiều
hình dáng độc đáo từ các loại cây cối hoa cỏ khác nữa.
373. Làm thế nào để cho hoa cắm trong
bình có thể tươi được lâu?
Một cành hoa tươi, chỉ cắm được vài ngày thì cành hoa bị rủ đầu xuống, màu sắc
cũng không còn tươi nữa, điều này là do nguyên nhân nào? Nếu bạn lấy cành hoa
lên xem thì sẽ nhìn thấy phần cắm trong nước bị thối rữa, có mùi hôi. Đây là do
vi khuẩn đang gây chuyện, vi khuẩn và vật chất phân giải khác ảnh hưởng tới sức
khoẻ của phần trên của hoa; Có lúc không nhìn thấy cành thối rữa nhưng cành hoa
cũng rũ đầu xuống, đó là do sữa trong cơ thể một số thực vật chảy ra từ miệng
cắt làm tắc ống dẫn chính chỗ miệng cắt, cản trở sự hấp thụ nước, như vậy, cành
hoa không được cung cấp đủ lượng nước cần thiết, cho nên nó mới bị héo rũ.
Tìm ra bí mật thì tốt quá rồi, muốn để cho hoa cắm được lâu, có thể cắt ít
cuống rồi dùng lửa hơ qua cành hoa, làm cho nó bị cácbon hoá cục bộ, như vậy có
thể để phần dưới ngâm trong nước không bị nhiễm vi khuẩn mà bị thối rữa, lại có
thể làm cho sữa của một số thực vật không chảy ra làm tắc nghẽn ống dẫn chính,
làm cho nó luôn nhận được lượng nước cung cấp. Có một số người mua về những
bông hoa đỏ tươi, rồi dùng lửa đốt vào phần gốc đã cắt sau đó cắm vào bình. Qua
cách làm như vậy thì cành hoa có thể cắm được lâu. Trước kia trong dân gian đã
từng lưu truyền một phương pháp là cuống hoa thược dược được đốt trên lửa thì
có thể làm cho nụ hoa nở và giữ được lâu, có lẽ chính là biện pháp này. Phương
pháp này phải chưang đều có tác dụng với tất cả các loại hoa hay không thì còn
phải nghiên cứu.
Trên thị trường hoa hiện nay còn có một loại dung dịch giữ cho hoa tươi, cho
một chút vào trong nước cắm hoa cũng có thể kéo dài thời gian giữ cho hoa được
lâu.
374. Tại sao chủng loại thực vật trên
núi nhiều hơn so với đồng bằng?
Những nhà thực vật học hoặc những người hái thuốc lá luôn thích đi lên núi bởi
vì chủng loại thực vật trên núi nhiều hơn so với đồng bằng. Điều này là tại
sao?
Tất cả những núi cao đều là trùng điệp liền nhau, nơi hang động, khe núi sâu,
địa hình cao thấp không bằng nhau làm cho khí hậu ở những vùng này có sự biến
đổi khá lớn. Ví dụ khí hậu ở chân núi và trên đỉnh núi khác nhau rất xa, mưa và
sương mù trên đỉnh núi nhiều hơn dưới chân núi, ánh nắng Mặt trời cũng nóng
hơn. Do đó, phía trên và dưới chân núi thì chủng loại thực vật cũng có sự khác
nhau, chủng loại khác nhau phân bố ở nơi có độ cao thấp khác nhau.
Nếu bạn có thể đến xem ngọn núi Nga My ở Tứ Xuyên, ngọn núi nằm trên độ cao 500
đến 1500 mét so với mặt nước biển thì có thể nhìn thấy nhiều loại cây gỗ thuộc
họ long lão như cây long não, cây nam, sơn hồ, những cây này thường là những
cây xanh quanh năm do nhiệt độ ở chân núi ấm áp. Trên độ cao 1700 đến 2000 mét
so với mực nước biển, bạn có thể thấy nhiều cây thích, những cây này rụng lá
vào mùa đông, đây là biện pháp chống lại cái lạnh giá rét buốt vào mùa đông của
cây. Ở độ cao trên 2000 mét so với mặt nước biển đến đỉnh núi, tới đâu cũng đều
các loại sam lạnh xanh thẫm, đây là một loại cây có lá hình kim, chúng không sợ
lạnh, mùa đông chúng có thể chịu đựng được mưa tuyết và gió lạnh trên núi cao.
Ở vùng này, tháng 5 và tháng 6 hàng năm có rất nhiều hoa đỗ quyên nhiều hình
dạng nở, màu đỏ tím như ráng mây trải khắp núi.
Theo thống kê, hoa, cỏ, cây trên núi Nga Mi có trên 3000 loại, loại cỏ thuốc có
trên 1000 loại, mà các loại thực vật trên đồng bằng ở dưới núi chỉ không quá
vài trăm loại.
Bởi vì địa hình của đồng bằng bằng phẳng, khí hậu lại như nhau, do đó chủg loại
thực vật ít hơn nhiều. Đã quen với cuộc sống trên núi cao nên các loài sam lạnh
và một số loại hoa đỗ quyên, một số loại thuốc như hoàng liên đã thích ứng với
khí hậu lạnh nên cũng không xuống dưới núi để sống, cho dù có chuyển xuống sống
ở dưới đồng bằng thì nó cũng phát triển không tốt do không thích ứng được với
khí hậu.
Ngoài ra còn có một nguyên nhân nữa là: Chủng loại thực vật ở Trung Quốc nhiều
vô kể, do vào kỷ đệ tứ trong lịch sử địa chất, phía bắc bán cầu bị băng hà bao
phủ, ở những vùng không có núi hoặc ít núi (như châu Âu) đã có rất nhiều thực
vật bị tuyệt chủng; Còn ở Trung Quốc do có nhiều núi, núi đã có tác dụng cản
trở sự đóng băng rất lớn, làm cho nhiều loài thực vật quý được tiếp tục sinh
tồn trong núi như thuỷ sam, ngân hạnh, sam bạc, đỗ trọng, cây quả thơm, ngọc
đồng… nổi tiếng thế giới. Do đó chỉ riêng các loại cây trong giới thực vật ở
Trung Quốc hiện nay có hơn 2000 loại, mà ở toàn châu Âu chỉ có hơn 200 loại.
375. Tại sao thực vật có thể ăn côn
trùng?
Mọi người đều biết, động vật dùng thực vật hoặc động vật khác làm thức ăn cho
mình. Nhưng, tại sao có một số thực vật cũng lấy động vật bé nhỏ nào đó làm
thức ăn cho chúng. Mà chúng lại làm thế nào bắt được côn những động vật nhỏ bé
biết bay, biết trèo, làm thế nào phân huỷ côn trùng thành thức ăn của mình?
Thực chất loài thực vật có thể ăn côn trùng có cảm giác cực kỳ nhạy, đồng thời
có thể hấp thụ lượng lớn chất hữu cơ. Lá của chúng có thể biến hình để bắt côn
trùng, lá có thể tiết ra thể dịch để hoà tan và tiêu hoá những động vật nhỏ bị
bắt.
Thực vật có thể ăn côn trùng có 4 họ với khoảng hơn 400 loại. Trung Quốc có 3
họ với khoảng hơn 30 loài. Chủ yếu có thảm rêu, cây gọng vó, cỏ bắt ruồi, cỏ
trư lung, cỏ nắp ấm, cỏ bắt côn trùng và loại rong sống trong nước. Thực vật
khác nhau thì phương pháp kiếm thức ăn cũng khác nhau, có loài thực vật có lá
giống như cái bình, ví dụ như cỏ trư lung, lá của nó có cuống rất dài, gốc của
cuống là biến thành lá giả rộng mà còn bẹt, phần giữa biến thành dạng cuộn tròn
nhỏ mà dài, phần trên biến thành hình cái bình, bản thân phiến lá lại trở thành
nắp bình. Trên miệng của vật hình cái bình có thể tiết ra một dịch mật, vách
trong hộp thì nhẵn bóng, mà ở phần dưới và phần đáy hộp đầy các tuyến có thể
tiết ra dịch tiêu hoá. Những con côn trùng bị hút vào trong dịch mật ấy, rơi
vào bên cạnh bình, nếu không cẩn thận, sẽ bị rơi vào bên trong bình. Một khi
côn trùng rơi vào trong bình thì nắp bình lập tức đóng lại, do đó những loài
côn trùng bay cũng không có cách nào thoát ra. Những côn trùng rơi vào đáy bình
có chứa đầy dịch tiêu hoá này liền bị tiêu hoá và hấp thụ. Có một số lá của
thực vật có thể tự động xếp lại, như cỏ bắt ruồi. Lá của cỏ bắt ruồi có hình
bầu dục, gân lá ở trong chia thành hai mảnh, giống như hai mảnh vỏ con trai mở
ra. Bình thường lá mở ra, trên mặt lá có rất nhiều tuyến lông nhạy, viền lá có
rất nhiều lông cứng hình răng. Khi côn trùng đậu trên mặt lá, chạm vào tuyến
lông mẫn cảm, lá hình vỏ ngọc trai liền khép lại, lông cứng hình răng ở viền lá
đóng chặt chỗ giao nhau, bọc kín côn trùng ở phía trong, sau đó từ từ cho côn
trùng vào tiêu hoá.
Trên thân cây rong – loài thực vật sống dưới nước và rất mềm mại này có rất
nhiều túi nhỏ, mỗi túi có một cái cửa, quanh từng miệng túi có lông cứng đảo
ngược, côn trùng có thể vào được mà không thể ra ngoài được.
Cây rêu lông mịn rất nhỏ, lá thường phủ trên mặt đất, trên lá màu hồng tím của
nó sinh trưởng rất nhiều tuyến lông dài, tuyến lông thường có thể tiết ra một
loại dịch dính có tính kết dính rất mạnh, hơn nữa còn có vị ngọt và mùi thơm,
loại dịch dính này cho dù bị ánh nắng Mặt trời chiếu vào cũng không bị khô,
kiến và ruồi ngửi thấy mùi hương này khi rơi vào hoặc trèo lên lá của chúng thì
lá của cây lập tức cong lại để cho tuyến lông tụ lại một chỗ bắt lấy côn trùng,
sau 1 đến 2 giờ, côn trùng như kiến liền bị lá tiêu hoá hấp thụ hết. Loại dịch
dính tiết ra này có chức năng tiêu hoá, hơn nữa lá của nó lại có khả năng hấp
thụ, do đó có thể tiêu hoá và hấp thụ hết côn trùng.
Bạn có tin không? Rêu lông mịn còn có khả năng khác. Nếu bạn bỏ một hòn đá nhỏ
hoặc những thứ mà không tiêu hoá được thì tuyến lông của lá không hề động đậy.
Rêu lông mịn và cỏ gọng vó là cùng loại, sinh trưởng ở nơi ẩm ướt, không có ánh
nắng ở cạnh núi hoặc trên mặt đá, nếu bỏ chúng trồng vào trong chậu, bón cho
chúng ít thịt vụn thì chúng lớn rất nhanh. Nhưng miếng thịt không được to quá,
nếu không thì sẽ bị bệnh “Tiêu hoá không tốt” làm lá bị chết.
Quan hệ giữa động vật và thực vật trong tự nhiên rất mật thiết, nhưng lại muôn
màu muôn vẻ, đây là kết quả của sự phát triển lâu dài trong giới tự nhiên.
376. Mùi hôi của động vật có tác dụng
gì?
Trong lịch sử tiến hoá dài mấy tỷ năm của sinh vật, giới động vật không chỉ
phát triển thành hàng vạn chủng loài khác nhau, mà còn hình thành các kết cấu
tổ chức, những khả năng khác nhau. Thải mùi hôi chính là một trong những phương
thức độc đáo trong những khả năng diệu kỳ này.
Côn trùng hình gáo là một ví dụ điển hình. Điểm mạnh của chúng là trong cơ thể
có giấu một tuyến hôi. Khi kẻ thù xuất hiện tuyến hôi lập tức tiết ra chất lỏng
hơi màu vàng, có mùi vô cùng khó chịu, làm cho kẻ địch ngửi thấy phải chạy mất.
Đối với bọ xít, được mệnh danh là “Hoàng hậu hôi”, miệng tuyến hôi của nó nằm ở
bụng bình thường dùng để phòng chống kẻ địch. Khi chúng sinh con thì mùi hôi
này có thể hình thành một “vòng hôi” xung quanh ấu trùng, như một bức tường bảo
vệ con cái khỏi sự xâm hại của kẻ thù.
Chim chào mào (chim đầu rìu) cũng có khả năng tiết ra mùi hôi. Khả năng này
bình thường được giữ kín, nhưng đến lúc sinh đẻ, nhằm giúp cho con cái ra đời
bình an, chim mẹ đã thông qua tuyến hôi ở đuôi tiết ra một dịch lỏng màu nâu
đen có mùi khó ngửi. Trong một khoảng thời gian, tổ chim có mùi khó thở. Dù
rằng có một số động vật chuyên ăn trộm trứng chim, nhưng khi đối mặt với hoàn
cảnh tồi tệ như vậy cũng phải rút lui.
Ở một số loài động vật như chồn hôi, chồn sóc, cáo lông đỏ, mùi hôi không những
có tác dụng tự vệ hiệu quả, mà còn là một biểu hiện cá tính. Tính chất khác
nhau của mùi hôi có thể là yếu tố quyết định để tìm kiếm bạn đời.
377. Vì sao hai bên lườn cá thường hằn
rõ đường bên?
Bên dưới những đợt sóng cuồn cuộn của đại dương có những mỏm đá ngầm rất nguy
hiểm cho tàu bè. Nhưng cá không bao giờ va chạm vào đá ngầm như tàu bè thường
va phải, đó là nhờ cơ quan đường bên ở hai mình cá.
Nếu quan sát kỹ, bạn sẽ thấy hầu hết các con cá đều có một vệt dài như hoa văn
chạy dọc theo hai lườn cá từ đầu tới đuôi. Thông thường, mỗi con cá có một đôi
vạch như vật và gọi là đường bên. Cũng có loại cá có 2 hoặc 3 đôi đường bên
(như cá lưỡi); đặc biệt có loài cá có tới 5 đôi đường biên (như cá lục tuyến).
Đường bên là cơ quan cảm giác quan trọng giúp cá thích nghi với cuộc sống dưới
nước. Nếu không có cơ quan này, chúng khó mà sống được.
Khi gặp đá ngầm, sóng biển va đập vào các mỏm đá ngầm làm thay đổi dòng chảy và
tần số dao động của sóng trước, cơ quan đường bên của cá sẽ kịp thời phát hiện
ra thay đổi này và chuyển đổi hướng bơi rất chính xác để vượt qua vùng biển
hung dữ đó.
Cơ quan đường bên của cá còn cảm nhận được những chấn động nhỏ trong nước mà
tai cá không nghe thấy, điều đó có tác dụng rất quan trọng cho cá trong việc
tìm kiếm mồi. Cá sống trong nước thường ăn các sinh vật nổi trên mặt nước hoặc
tôm cá con. Chuyển động của tôm cá con, dù rất nhẹ nhàng, hoặc gió thổi gợn nhẹ
mặt nước đều được cá sống dưới tầng nước sâu cảm nhận và bơi đến đúng mục tiêu
cần tìm. Các nhà khoa học đã thí nghiệm làm mù mắt của một số loài cá khác nhau
và thấy chúng vẫn bắt được mồi như bình thường, nhưng nếu cắt bỏ đường bên,
chúng sẽ hoàn toàn mất khả năng tìm thức ăn.
Khi bơi, cơ quan đường bên còn giúp cá nhận biết được động tác và hướng bơi của
đồng loại để duy trì sự liên lạc cần thiết. Mỗi khi các ngư dân quây lưới đánh
bắt cá, nếu có một góc lưới quây không kín hoặc lưới có lỗ thủng thì cả đàn cá
trong vòng vây lưới sẽ kéo nhau trốn thoát qua kẽ hở đó.
Cơ quan đường bên còn bù đắp cho thị lực của cá. Cá có mắt như các động vật có
xương sống khác, nhưng cường độ ánh sáng mạnh hay yếu ảnh hưởng rất lớn đến cấu
tạo mắt. Có loài sống ở đáy biển tối mò, mắt cá hầu như không còn tác dụng,
hoặc có loài sống ở vực sâu, hai mắt thoái hoá hoặc tiêu biến hoàn toàn. Khi đó
cơ quan đường bên của chúng lại rất phát triển và phát huy tác dụng lớn trong
việc chạy trốn kẻ thù và tìm bắt mồi.
Sở dĩ cơ quan đường bên của cá có tác dụng như vậy là vì nó có liên quan tới hệ
thần kinh rất hoàn hảo của cá.
378. Vì sao la không đẻ con?
Thông thường, khi cho mẹ ngựa giao phối với bố lừa, đẻ ra la. Nếu đem mẹ lừa
giao phối với bố ngựa, con lai thu được gọi là “lừa la”, là một loại tuấn mã.
Hầu như tất cả chúng đều không có khả năng sinh sản. Nhưng hãn hữu, vẫn có
trường hợp la mẹ tạo ra thế hệ sau. Còn la bố thì không.
Động vật cấp cao đều do trứng thụ tinh phát triển mà có thế hệ con. Tế bào
trứng sinh ra từ buồng trứng của động vật giống cái, tinh trùng được sản sinh
ra từ tinh hoàn của động vật giống đực. Còn la, bất kể là đực hay cái, đều có
hệ sinh dục phát triển không hoàn chỉnh, vì thế chức năng sinh lý có thể chưa
bình thường. Cơ quan sinh dục của những con la đực không thể sản sinh ra loại
hoóc môn động dục, đồng thời không thể sản sinh ra tinh trùng thành thục, vì
thế không thể thụ tinh. Đó là lý do la chỉ có một đời.
Song cũng có một vài trường hợp hiếm hoi la mẹ đẻ. Hơn 1.000 năm trước, trong
sách nông học cổ đại “Tề dân yếu thuật” của Trung Quốc đã có một vài ghi chép
về trường hợp này. Năm 1953 ở thôn Đông Tĩnh, Cam Túc, một con la mẹ giao phối
với một con lừa đực đẻ được một con lừa con. Năm 1954 ở tổng Giao - Đạo, huyện
Hương Lương, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc), một con la mẹ giao phối với một con ngựa
đực, đẻ ra một con la cái.
Sự việc này tuy hiếm gặp, nhưng là để nói rằng một số ít la mẹ vẫn có thể sản
sinh ra các tế bào trứng thành thục có khả năng thụ tinh. Điều đáng nói là đến
giờ vẫn chưa thấy la đực sản sinh ra tinh trùng thành thục.
379. Tại sao tính kháng bệnh của thực vật hoang dã lại rất mạnh?
Chúng ta đã nhìn thấy thực vật hoang dã ở ruộng hoang và đất hoang, không ít
cây trên to dưới nhỏ, cành lá yếu ớt, có một số quả rất nhỏ mà chua. Nhìn bên
ngoài chúng cũng tương đương với thực vật được trồng. Nhưng những người làm
công tác khoa học lại có cảm tình sâu sắc với chúng. Họ xem trọng điểm nào của
thực vật hoang dã? Thực vật hoang dã có một ưu điểm vô cùng quý báu, ưu điểm
này được các nhà thực vật học gọi là “Tính kháng chọi mạnh”. Cái gọi là tính
kháng chọi là chỉ khả năng chống lại những bất lợi trong môi trường sống của
chúng. Trong giới tự nhiên, thực vật đang tồn tại khi gặp phải những điều có
hại cho sự sống của chúng thì chúng luôn muốn tìm cách để chống lại. Trong
những thực vật khác loài, đặc biệt là giữa những loài thực vật được trồng và
những loài thực vật mọc hoang thì khả năng đối kháng được biểu hiện ra không
giống nhau.
Có người đã từng làm một số thử nghiệm, trong cùng một điều kiện, khả năng
kháng bệnh đậu đen giữa nho mọc hoang và cây nho trồng rõ ràng là khác nhau.
Khi lá nho hương hoa hồng được trồng đã đầy vết ban đen của bệnh đậu đen thì
gai nho và lông nho mọc hoang gần như không có vết ban đen. Đây là do nguyên
nhân nào? Đó là vì thực vật mọc hoang từ một hạt mọc thành một cây, từ trước
tới giờ không ai vun trồng và quản lý nhưng lại có rất nhiều kẻ thù tấn công,
như mưa, gió, tuyết lạnh, hạn hán lũ lụt, bệnh tật và sâu hại luôn muốn tìm
cách bóp chết sinh mạng của chúng. Để tiếp tục sinh tồn, bắt đầu từ thời tổ
tiên, từ thế hệ này đến thế hệ khác luôn luôn phải đấu tranh với kẻ thù vô
tình, dần dần hình thành khả năng kháng bệnh cực mạnh để thích ứng với môi
trường chúng thường phải đưa ra nhiều kiểu biến đổi về cấu tạo hình thái bên
ngoài và cơ năng sinh lý bên trong của chính mình để thích ứng. Ví dụ nhiều
loại thực vật mọc hoang hoặc là toàn thân hoặc là lá đầy lông, có loại thì đầy
gai, có loại thì chứa độc. Toàn bộ những thứ này đều giúp cho chúng có thể đấu
tranh tốt hơn để chống lại kẻ thù. Những ưu điểm này của thực vật mọc hoang đã
nói rõ sức sống và sức chiến đấu của chúng đều rất mạnh mẽ. Nhưng những thực
vật trồng thì lại không như vậy, chúng từ nhỏ đến lớn đều được sự chăm sóc,
quan tâm của con người, thiếu sự rèn luyện cho tính đối kháng, một khi nguy
hiểm đến thì không chịu được, thậm chí bị chết.
Những người làm công tác nuôi trồng thực vật cực kỳ coi trọng ưu điểm có tính
kháng cự cực mạnh của thực vật mọc hoang. Họ thường thông qua con đường lai
giữa loại được nuôi trồng và loại mọc hoang để tạo ra những chủng loại tốt và
được nhiều người hoan nghênh, những thực vật có tính kháng cự kém được cải tạo
thành những loại mới có chất lượng tốt và tính kháng cự mạnh. Do đó, tất cả
những loại thực vật mọc hoang trên đất cằn cỗi trên núi không chịu đựng gió
mưa, mà là chúng được lớn lên trong khí hậu khắc nghiệt. Chúng ta phải đặc biệt
coi trọng vốn quý báu của tài nguyên phong phú, lợi dụng triệt để ưu điểm là
tính kháng bệnh mạnh này của chúng, tạo ra giống lai để đưa ra nhiều loại mới,
giúp ích cho nhân loại.
380. Tại sao những loài thực vật sinh trưởng ở bãi biển và đầm lầy đều có
rễ hô hấp?
Chúng ta biết rằng cuộc sống và sự sinh trưởng của thực vật không tách rời khỏi
nước. Không có nước, thực vật dễ úa tàn, thậm chí là chết. Nhưng khi nước trong
đất quá nhiều hoặc ngâm mình trong nước thì không khí trong lỗ hở của đất sẽ bị
nước đẩy ra, làm cho đất trở thành thiếu oxy, cũng sẽ đe doạ đến cuộc sống của
thực vật. Có người đã đo đạc, khi oxy trong đất giảm xuống 10% thì cơ năng bộ
rễ của đại đa số các loài thực vật sẽ có thể bị thoái hoá. Khi giảm xuống 2%
thì hệ rễ phải đối diện với cái chết. Bãi biển và đầm lầy là thuộc về môi
trường sinh thái thiếu oxy, thường xuyên ngập nước.
Nhưng thực vật trong quá trình tiến hoá cũng tạo ra được một loạt chủng loại để
thích ứng sinh trưởng trong môi trường thiếu oxy, được gọi là thực vật đầm lầy
hoặc thực vật bãi biển. Những thực vật này có một đặc điểm chung đó là có bộ rễ
tiến hành hô hấp từ trong đất tới khi lộ dần ra trong không khí, được gọi là rễ
hô hấp. Rễ hô hấp có các lỗ ngoài to lớn, bên trong có các khe hở tế bào rất
phát triển, có thể dự trữ không khí. Đây là tổ chức thông khí rất đặc biệt của
thực vật bãi biển và thực vật đầm lầy, chúng có thể làm cho thực vật đầm lầy và
thực vật bãi biển có thể sinh trưởng trong môi trường thiếu oxy. Đương nhiên,
những bộ rễ hô hấp của các thực vật bãi biển và thực vật đầm lầy khác nhau thì
hình dạng của chúng cũng khác nhau, như dạng quỳ gối, dạng vòng, dạng ngón tay
và dạng gậy.
Có rất nhiều thực vật có rễ hô hấp như các thực vật sinh trưởng ở bãi biển như
cây vẹt thuộc họ vẹt và cây hải điệp thuộc họ cỏ roi ngựa, cây dây biển thuộc
họ dâu biển.
Trung Quốc còn sống sót một loại thực vật đó là Tùng nước, là thực vật đầm lầy
nước ngọt của vùng duyên hải đông nam Trung Quốc, phần gốc của cây mọc lên bộ
rễ hô hấp dạng quỳ gối cao thấp không giống nhau rất độc đáo. Cây Lạc Vũ Sam
còn sót lại có nguồn gốc từ phía đông nam Bắc Mỹ, từ thế kỷ 20 đã du nhập vào
trồng ở Trung Quốc trên vùng mạng lưới hồ ở phía nam, phần gốc của cây cũng giống
như tùng nước, mọc ra bộ rễ hô hấp có dạng quỳ gối đặc biệt.
Ở vùng đầm lầy nước ngọt của khu vực nhiệt đới cũng thường nhìn thấy thực vật
có rễ hô hấp, như cây Tử Đàn dùng làm thuốc ở châu Mỹ, cây Hoàng Ngưu và Hồng
Giao ở Kalimanjaro, gỗ Maomalu ở Nigiêria, cây cọ đằng ở đảo Ilian, cây đằng
hoàng ở Guyana.
Rễ hô hấp của thực vật ngoài dùng để hô hấp ra còn có thể có tác dụng bảo vệ đê
và chống sóng.
381. Lá cây màu đỏ quang hợp bằng cách nào?
Với nhiều người, hễ là thực vật thì hiển nhiên là có lá xanh. Vì lá xanh tức là
có chất diệp lục, nhờ đó chúng mới quang hợp, tạo ra chất hữu cơ để sống chứ!
Ấy thế mà có kẻ lại chơi trội. Như rau dền đỏ, gỗ thích… chẳng hạn. Lá của
chúng đỏ tía lai. Chúng sống bằng gì, khí trời chắc?
Đương nhiên là chúng cũng dùng rễ hút dinh dưỡng và dùng để quang hợp rồi. Tạo
hoá màu mè chút thôi. Bởi vì những lá này tuy màu đỏ, nhưng trong lá vẫn có
chất diệp lục. Còn sở dĩ có màu đỏ là vì nó có chứa chất antocyan màu đỏ. Tỷ lệ
chất này trong lá so với diệp lục nhiều đến nỗi nó át cả màu xanh của diệp lục.
Để chứng minh hiện tượng này, người ta chỉ cần nhúng những chiếc lá đỏ vào nước
nóng, nó sẽ bộc lộ chân tướng ngay lập tức.
Khác với chất diệp lục, antocyan rất dễ bị hoà tan trong nước nóng. Vì vậy, khi
bị luộc, chất antocyan sẽ tan dần và lá cây chuyển từ đỏ thành xanh. Vậy là,
tuy lá cây có màu đỏ, nhưng nó vẫn chứa chất diệp lục như thường.
382. Tại sao có loài thực vật thích ánh sáng Mặt trời, có loại thực vật thì
thích bóng râm?
Không biết các bạn có chú ý đến không, một mặt hướng nam và một mặt hướng bắc
của nhà, sườn phía Nam và sườn phía Bắc của núi cao nhận được lượng ánh sáng
Mặt trời khác nhau. Ánh sáng Mặt trời ở sườn nam được chiếu trực tiếp, hơn nữa
chiếu cả ngày tới tối, do đó thực vật sống trên phần núi này sẽ nhận được nhiều
ánh sáng và nhiệt độ cao; ánh sáng Mặt trời ở sườn bắc được chiếu xiên, những
thực vật sống trên phần núi này sẽ nhận được ít ánh sáng và nhiệt lượng. Ngoài
ra, lượng nước, độ ẩm, nhiệt độ, hướng gió, gió theo mùa và điều kiện hoàn cảnh
khác của hai sườn nam và bắc cũng không hoàn toàn giống nhau.
Do ánh sáng, lượng nước, hướng gió, nhiệt độ khác nhau, làm cho sự sinh trưởng
lâu dầi của thực vật ở sườn nam và sườn bắc cũng có tính cách không giống nhau.
Nói một cách đơn giản, loài thực vật sinh trưởng ở sườn nam thích ánh sáng Mặt
trời, nhà thực vật học gọi đó là thực vật dương sinh như tùng, sam, dương,
liễu, hoè. Loài thực vật sinh trưởng lâu dài ở sườn bắc thì thích bóng râm, do
đó người ta gọi chúng là thực vật âm sinh, như vân sam, lãnh sam, ngọc châm.
Đây là kết quả do thực vật sống lâu dài trong môi trường khác nhau. Tính cách
đặc thù thích dương thích âm này vốn không thể hình thành được trong một thời
gian ngắn. Nhưng cho dù hình thành nên tính cách như thế này hoặc như thế kia
cũng không thể thay đổi một cách tuỳ tiện được. Bởi vì để chúng càng thích hợp
hơn với điều kiện sống ở sườn nam và sườn bắc, trong hình thái phần ngoài và
cấu tạo sinh lý bên trong đều có sự biến đổi. Vậy thì, hình thái bên ngoài và
cấu tạo sinh lý bên trong của thực vật thích dương và thực vật thích âm có sự
khác biệt gì? Sự khác biệt rõ ràng nhất là phần lá. Chất là của thực vật thích
ánh sáng là hơi dày và thô ráp, trên mặt lá có lớp chất sừng hoặc chất sáp có
thể chống chọi với ánh sáng Mặt trời, lỗ khí thường nhỏ và dày, chất diệp lục
tương đối ít nhưng số lượng tương đối nhiều. Đặc trưng cấu tạo lá của thực vật
thích dương có thể đảm bảo cho lá có thể lợi dụng tốt năng lượng Mặt trời dưới
sức chiếu của Mặt trời, trong trường hợp thiếu ánh sáng Mặt trời, cũng có thể
tiến hành tác dụng quang hợp nhất định. Cấu tạo lá của thực vật thích âm và
thực vật thích dương hoàn toàn tương phản nhau, lá thường to mà mỏng, chất sừng
không phát triển, tế bào thân lá và lỗ khí tương đối ít, có khe hở tế bào tương
đối phát triển. Số lượng diệp lục của lá ít hơn một nửa so với thực vật thích
dương, nhưng hình dáng của lá hơi to. Như thế có lợi trong môi trường ẩm ướt,
tối tăm cũng có thể hấp thụ và lợi dụng ánh sáng Mặt trời yếu ớt.
Ảnh hưởng của ánh sáng Mặt trời đối với sự sinh trưởng và phát dục của thực vật
thực ra là rất lớn, do tác dụng của ánh sáng, không chỉ hình thái và sinh lý
phần lá của thực vật thích ánh sáng và thực vật thích bóng râm có sự khác biệt
rõ ràng, mà chính là cùng một loại thực vật, sinh trưởng trong môi trường đầy
ánh sáng Mặt trời và môi trường râm mát thì biến hoá sinh thái của lá cũng rất
lớn. Ví dụ, cây sinh trưởng trên mặt đất trống trải thì tán cây rộng lớn và
phát triển; Sinh trưởng trong rừng rậm thì tán cây nhỏ hẹp và cao chót vót.
Thậm chí có lúc lá trên cùng một cây do nhận được ánh sáng khác nhau mà tính
cách biểu hiện ra của chúng cũng khác nhau, như lá trên ngọn cây hoặc mặt ngoài
cây do nhận được nhiều ánh sáng chiếu, phần lá này liền biểu hiện ra đặc trưng
của lá thích ánh sáng, còn lá phần dưới tán hoặc ở bên trong do thiếu sự chiếu
sáng của ánh sáng, do đó chúng mới biểu hiện ra đặc trưng của lá thích bóng
râm. Ví dụ như cây đinh hương, hoè tây, trên cùng một cây có thể xuất hiện lá
thích ánh sáng và lá thích bóng râm.
Trong thực vật có loài thích ánh sáng, có loài thích bóng râm, chủ yếu được tạo
thành do sự chiếu thẳng và chiếu xiên của ánh sáng Mặt trời, do điều kiện hoàn
cảnh sinh trưởng khác nhau. Nhưng, có thể khẳng định một điểm, bất luận thực
vật có hình dạng như thế nào, nếu không có một tia sáng thì dù cho là thực vật
thích ánh sáng hay thực vật thích bóng râm thì đều không sống được.
383. Vì sao hoa huệ chỉ ngát hương về đêm?
Chỉ đêm xuống hoặc những hôm trời mưa, hoa huệ mới toả hương ngào ngạt. Đó là
do đặc tính nó toả mùi thơm theo độ ẩm không khí.
Với các loài hoa nở ban ngày, khi ánh nắng chiếu xuống, nhiệt độ trên cánh hoa
sẽ tăng lên, khiến tinh dầu thơm trong Với các loài hoa nở ban ngày, khi ánh
nắng chiếu xuống, nhiệt độ trên cánh hoa sẽ tăng lên, khiến tinh dầu thơm trong
cánh hoa thoát ra nhiều.
Hoa huệ thì khác, cấu tạo cánh hoa của nó khá đặc biệt: nếu trời càng nắng to và
hanh khô, bạn sẽ chẳng ngửi thấy mùi gì cả trừ phi gí sát mũi vào bông hoa.
Ngược lại, nếu không khí có độ ẩm càng cao, những lỗ trao đổi khí trên cánh hoa
tự động mở to để tinh dầu thơm thoát ra ngoài. Ban đêm, không còn ánh Mặt trời,
độ ẩm không khí tăng cao hơn ban ngày nhờ vậy hoa huệ bắt đầu mở các túi thơm
của mình. Đêm càng về khuya, mùi hoa càng đậm.
Những hôm trời mưa, độ ẩm không khí cũng cao hơn lúc bình thường, khi đó hoa
cũng rất thơm. Có lẽ vì đa phần chúng ta cảm nhận được mùi thơm của nó về đêm
và lúc trời mưa, nên còn gọi nó là dạ lai hương hoặc vũ lai hương.
384. Tại sao thỉnh thoảng mình hà mã lại “chảy máu”?
Hà mã tuy là động vật cạn, nhưng đại bộ phận thời gian của nó ngâm mình dưới
nước, chỉ thỉnh thoảng mới lên cạn tìm thức ăn mà thôi. Điều kỳ lạ là khi đó,
trên lớp da nhẵn bóng của nó, đôi khi xuất hiện “máu” đỏ, thậm chí có lúc toàn
thân trở nên đỏ thẫm.
Thì ra, da của hà mã rất dày, rất sáng, nhưng không có tuyến mồ hôi – khác với
loài người thông qua việc toát mồ hôi để hạ thấp thân nhiệt và làm cho da ẩm
ướt, mát mẻ. Khi hà mã ngâm trong nước, việc thiếu tuyến mồ hôi không gây ảnh
hưởng gì với nó. Nhưng khi lên cạn, lớp da thiếu nước bị khô đi, và có nguy cơ
nứt ra. Lúc này hà mã phải sử dụng đến biện pháp tự tiết “máu” để làm ướt cơ
thể.
Thực tế chất màu đỏ này không phải là máu mà là một loại thể dịch đặc biệt màu
đỏ, được da tiết ra. Tác dụng của nó giống như sơn bôi lên bề mặt dụng cụ trong
nhà, có thể bảo vệ được da, ngăn chặn sự khô nứt trên cơ thể.
385. Vì sao ếch nuốt mồi lại chớp mắt?
Mỗi lần nuốt mồi, ít nhất ếch phải chớp mắt một lần. Nếu côn trùng mà nó chén
tương đối lớn thì số lần chớp mắt càng nhiều hơn cho đến khi thức ăn nuốt vào
trong mới thôi.
Tại sao vậy? Khi bắt mổi, lưỡi ếch thò ra khỏi miệng và dính chặt vào con vật,
sau đó nó cuộn miếng mồi đưa vào trong và nuốt chửng. Do con mồi không được
nhai nên khi vào đến cổ họng rất khó trôi xuống bụng. Phải có một lực đẩy vào
trong mới làm miếng mồi trượt xuống được và lực đẩy đó là động tác chớp mắt của
ếch.
Phía dưới khoang mắt của ếch không có xương, tròng mắt gần giống hình tròn,
phía ngoài có mí trên và mí dưới cùng lớp màng nháy có thể hoạt động được.
Tròng mắt và cổ họng của chúng chỉ cách nhau một lớp màng nên khi cơ mắt co
lại, mắt hơi nhô vào phía trong họng làm nảy sinh áp lực giúp cổ họng nuốt trôi
thức ăn. Do vậy mới sinh ra hiện tượng chớp mắt khi nuốt mồi của ếch.
386. Côn trùng có mũi và tai hay không?
Mùa xuân là mùa hoa đào nở rộ, trăm hoa đua nở, chim bướm bay lượn, ong hút
mật, rất nhiều côn trùng đang tìm mật truyền phấn trong các bụi hoa quả là một
cảnh tượng đầy tất bật. Ong mật và bướm có thể ngửi thấy mùi thơm của các loại
hoa quả, lẽ nào lại nói là chúng cũng có “mũi”?
Rõ ràng là côn trùng có “mũi”. Nếu bạn bắt các loại côn trùng rồi quan sát tỉ
mỉ một chút, bạn sẽ phát hiện ra trên đầu của chúng đều có hai chiếc râu. Nhưng
râu của mỗi loại côn trùng lại khác nhau: Có loại râu nhỏ và dài, có loại râu
lại có rất nhiều nhánh trông như hai chiếc bàn chải; Có loại râu lại rất ngắn,
bên dưới nhọn, bên trên bành to ra, hai chiếc râu như hai chiếc chuỳ ngắn.
Ngoài ra, ở phía dưới miệng của côn trùng còn có 4 chiếc râu bé và ngắn. Đừng
thấy hình dạng của xúc tua và râu khác hoàn toàn với mũi của động vật bậc cao
mà coi thường chúng, chúng cũng có tác dụng ngửi mùi vị như chiếc mũi. Bởi vì
bề mặt của xúc tua và những chiếc rây có rất nhiều lỗ nhỏ, bên trong các lỗ nhỏ
có chứa các tế bào có thể cảm nhận được mùi vị. Khi côn trùng gặp phải không
khí có mang theo mùi vị, nó sẽ phân biệt được mùi vị nhờ vào cấu tạo đặc biệt
này.
“Chiếc mũi” đặc biệt này vô cùng quan trọng đối với nhiều loại côn trùng. Ngoài
ong mật và bướm ra, còn có rất nhiều côn trùng đều lợi dụng xúc giác để tìm
kiếm thức ăn hay tìm đối tượng giao phối nhằm phát triển đời sau. Loài kiến mà
mọi người quen thuộc có thể dựa vào khứu giác để phân biệt bạn của mình. Nếu
đặt vài con kiến ở tổ này vào trong một tổ kiến khác, do mùi vị của hai bên
khác nhau nên những chú kiến ngoại lai này sẽ bị cắn chết ngay. Do có cơ quan
khứu giác nên côn trùng cũng có thể né tránh các mùi vị mà nó không thích.
Dựa vào đặc tính côn trùng có thể ngửi thấy mùi vị, con người chế tạo ra rất
nhiều dược phẩm có mùi thơm. Trong đó có một số dược phẩm có thể dụ dỗ côn
trùng đến sau đó sẽ bắt và giết chúng; Một số khác có thể xua đuổi côn trùng,
bảo vệ cho con người và vật khỏi bị chúng gây hại, ví dụ như hương đuổi muỗi…
Không chỉ có thể ngửi được mùi vị, côn trùng còn có thể phân biệt âm thanh. Bởi
vì trên cơ thể chúng có một số bộ phận có tác dụng giống như chiếc tai vậy.
“Tai” của côn trùng rất kỳ lạ, hơn nữa chúng lại có vị trí khác nhau. Tai châu
chấu mọc ở hai bên trái phải đốt thứ nhất dưới bụng, mỗi bên một chiếc, mặt
ngoài có vết nứt giống như hình nửa Mặt trăng, có thể nhìn thấy rất dễ. “Tai”
kiến mọc trên hai chiếc râu ở phần đầu, trong đốt thứ hai của mỗi chiếc râu đều
có cơ quan tiếp thu âm thanh. Tai của loài rết lại mọc ở đốt thứ hai của cặp
chi trước. Còn tai của con thiêu thân vừa mọc ở phần ngực vừa mọc ở phần bụng.
Khả năng nghe của côn trùng rất đặc biệt. Khả năng phân biệt tần suất âm thanh
cũng rất tốt. Nếu số lần ngừng lại của âm thanh trong một giây tương đối nhiều
thì tai người sẽ không nghe thấy, chỉ cảm giác như có một luồng âm thanh liên
tục. Nhưng rất nhiều loài côn trùng lại có thể phân biệt rất rõ sự thay đổi tần
suất vài chục lần trong một giây. Không chỉ vậy, các nhà nghiên cứu khoa học đã
phát hiện ra có rất nhiều loài côn trùng có thể nghe thấy siêu thanh, có loài
thậm chí còn có thể nghe thấy siêu thanh rung 200.000 lần/s.
Tai của côn trùng chủ yếu được dùng để tìm “bạn đời”. Chẳng hạn như một con côn
trùng cái đang cô đơn sẽ dễ dàng tìm thấy chỗ ở của một con đực bằng âm thanh
đặc biệt mà nó phát ra để thực hiện các hoạt động giao phối. Tai cũng có tác
dụng rất lớn trong việc bảo vệ bản thân. Giống như rất nhiều con thiêu thân có
thể nghe thấy âm thanh của loài dơi. (Âm thanh này gọi là sóng siêu âm, tai
người không nghe thấy được) giúp cho chúng có thể nhanh chóng rời xa khu vực
nguy hiểm và khỏi bị rơi vào miệng dơi.
387. Có động vật nào một mắt không?
Không có loài nào trong số các động vật có vú, chim, động vật lưỡng cư hoặc bò
sát tự nhiên có một mắt. Những loài cá dẹt như cá bơn được cho là chỉ có một
bên mắt, kỳ thực có hai. Một mắt nhập vào mắt kia, bên trái hoặc bên phải.
Tuy vậy, vẫn có một vài loài độc nhãn trong thế giới động vật không xương sống.
Trong số đó có một số loài “bọ nước” mà thực chất là các loài tôm cua.
Một loài bọ nước một mắt, được đặt một cái tên rất phù hợp là cyclops, là cư
dân quen thuộc ở lớp cặn ao hồ nơi nước tù đọng. Nó có những cái mắt kép, giống
như ở ruồi, nhưng mỗi con chỉ có một con mắt mà thôi.
388. Động vật sa mạc tồn tại như thế nào?
Động vật muốn tồn tại trong sa mạc thì phải có ít nhất hai khả năng. Một là khả
năng đi lại, bởi vì đất cát bất cứ lúc nào cũng có thể chôn vùi chúng; hai là
khả năng trữ nước, vì khi rời khỏi nước thì bất kỳ sinh vật nào cũng chỉ còn
con đường chết.
Về cả hai phương diện trên thì loài thằn lằn có thể coi là một điển hình sống
mãnh liệt: Phần trước tứ chi của chúng mở ra thành màng lớn, chống đỡ cho cơ
thể đi lại thoải mái trên cát. Khi màn đếm buông xuống, lớp sương mù bao phủ,
cơ thể và mắt của thằn lằn liền dùng khả năng tối đa để tập hợp những giọt
sương. Ngoài ra cái lưỡi dài của nó còn có thể liếm sương trước mắt rất linh
hoạt và khéo léo, giống như cái gạt nước trên ôtô vậy.
Về phương thức vận động, rắn lao “nhập gia tuỳ tục” bằng một kiểu di chuyển
không giống ai: Để ngăn chặn bị các hạt cát chôn vùi bất cứ lúc nào, nó cong
người sang trái, phải hết mức để tăng diện tích tiếp xúc với đất cát, và hình
thành nên thói quen vận động nghiêng.
Về khả năng trữ nước, thằn lằn đuôi vểnh có những đặc điểm để thu gom các giọt
nước tối đa. Mỗi khi sương xuống, nó lại bò lên đỉnh cồn cát, quay lưng về phía
có sương từ biển thổi tới, đuôi của nó vểnh lên cao, làm cho thân của nó
nghiêng sang một bên, khi sương mù gặp cơ thể lạnh buốt của con vật thì sẽ
ngưng tụ thành những giọt nước, chạy men theo lưng trượt vào miệng thằn lằn.
Không chỉ dừng lại ở những đặc điểm này, động vật sa mạc mỗi con đều có một
phương pháp tồn tại riêng, chẳng hạn có loài chuyên sống phụ thuộc vào thực
vật. Một số thường ngày giấu mình trong các hang cát, khi mưa sương xuống thì
lập tức bò lên mặt đất, sử dụng toàn thân để hứng sương.
389. Làm thế nào mà loài nhện có thể giăng lưới giữa hai cây có khoảng cách
khá xa?
Khi bạn nhìn thấy giữa những cây hai bên bờ suối hoặc giữa hai góc nhà cách
nhau rất xa có chăng đầy mạng nhện, bạn sẽ nghĩ đến một câu hỏi sau: Nhện không
biết bơi, cũng không biết bay, vậy làm thế nào mà nó có thể chăng chiếc “võng
lưới không trung” này.
Thực ra, các đầu nhỏ trong bụng nhện có vài chiếc “máy dệt”, tơ nhện được nhả
ra từ chính những lỗ nhỏ của chiếc máy dệt này. Thành phần của tơ nhện là
protein, giống với tơ tằm, khi vừa mới nhả ra, tơ này vẫn còn là “nhựa cao su”
dính. Khi nó tiếp xúc với không khí sẽ lập tức trở nên cứng hơn và thành sợi
tơ.
Cũng giống như con người phải đi qua cầu để sang bờ sông bên kia, nếu loài nhện
muốn sang bờ bên kia, nó sẽ bắc một “sợi dây trời” để bò qua.
Việc bắc dây trời rất thú vị. Bắt đầu từ điểm đặt chân, nhện sẽ nhả ra rất
nhiều sợi tơ dài đủ để sang bờ bên kia, thế là những sợi tơ này sẽ bay đi trong
gió, dường như có vài sợi nhỏ trong suốt bay vào không trung, sau đó nó liên
tục dùng chân để sờ vào điểm cố định của tơ nhện.
Bất ngờ nó phát hiện trong đó có một sợi không kéo được, thực ra một đầu sợi tơ
đã được gió thổi sang bên kia, hơn nữa lại dính vào một cành cây hay các vật
khác, thế là dây trời đã được chăng như vậy.
Một cách khác để chăng dây trời là: trước tiên nhện cố định sợi tơ ở một điểm,
rồi tự mình đu theo sợi tơ xuống đất, sau đó các đầu nhỏ ở bụng vừa nhả tơ vừa
đu đến góc nhà đối diện hoặc cành cây, đợi đến khi đã tới đích, nó lại dùng
chân thu các sợi tơ lại, khi thu đến độ dài thích hợp nó sẽ cố định các sợi tơ
về một điểm mới, như vậy dây trời cũng có thể được giăng ra.
Nếu cột nhà lớn hơn một chút, nhện sẽ tạo ra một dây chống trong mạng nhện rồi
quấn đi quấn lại vài vòng tơ. Tiếp theo sẽ giăng thêm một dây chống mới, khi đã
xong xuôi, nhện sẽ giăng mạng giữa hai dây chống to này.
390. Cơ quan cảm giác của hà mã mọc ở đâu?
Quan sát kỹ hình dạng của hà mã bạn sẽ thấy một hiện tượng thú vị, đó chính là
mắt, mũi và tai của nó hầu như đều mọc trên đỉnh đầu, khác với dã thú thông
thường.
Hà mã tuy là động vật cạn, nhưng lại rất thích ngâm mình trong nước, thường đợi
đến đêm khuya mới bò lên bờ kiếm ăn. Để phù hợp với thói quen sống trong nước,
cơ quan cảm giác của nó đã chuyển dần lên trên đỉnh đầu. Bởi vì khi toàn bộ
thân hình to lớn ngâm trong nước, chỉ cần hơi nhô đầu lên, các giác quan sẽ vừa
vặn vượt ra khỏi nước một chút. Như vậy, hà mã vừa có thể ẩn mình rất tốt, vừa
có thể thông qua mắt, mũi, tai để hít thở không khí trong lành, nghe được tiếng
động xung quanh.
Cá sấu, cá trắm đen sống ở dưới nước cũng có điểm tương tự với hà mã về phương
diện này.
391. Con mực bơi như thế nào?
Hẳn bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi nghe nói: Với nhiều sinh vật thì phương pháp
hoang đường “tự túm tóc để nâng mình lên trên” lại chính là cách di chuyển
thông thường của chúng ở trong nước. Mực cũng thế.
Con mực và nói chung, đa số các động vật nhuyễn thể lớp đầu túc đều di chuyển
trong nước theo cách: lấy nước vào lỗ máng qua khe hở bên và cái phễu đặc biệt
ở đằng trước thân, sau đó chúng dùng sức tống tia nước qua cái phễu đó. Như
thế, theo định luật phản tác dụng, chúng nhận được một sức đẩy ngược lại đủ để
thân chúng bơi khá nhanh về phía trước. Ngoài ra con mực còn có thể xoay ống
phễu về một bên hoặc về đằng sau và khi ép mình để đẩy nước ra khỏi phễu thì nó
có thể chuyển động theo bất kỳ hướng nào cũng được.
Chuyển động của con sứa cũng tương tự như thế: nó co các cơ lại để đẩy nước từ
dưới cái thân hình chuông của nó ra và như thế nó bị đẩy về phía ngược lại.
Chuyển động của bọ nước, của các ấu trùng chuồn chuồn và nhiều loại động vật
dưới nước khác cũng theo phương pháp tương tự.
392. Vì sao chuột chũi sợ ánh Mặt trời?
Chuột chũi là loài vật ăn côn trùng sống trong đất. Chúng thường đào hang trong
lớp đất tơi xốp, ẩm ướt và đẻ con ở đó. Chuột chũi con khi đã lớn vẫn sống ở
trong đường hầm đào dưới đất…
Chuột chũi rất ít khi đào hang, làm tổ dưới lớp đất sét hoặc đất cát. Chung
quanh tổ của chúng có đường hầm, 4 bề liền nhau. Do trong hang luôn ẩm ướt nên
giun đất, nhện, rết, sên dễ dàng sinh sôi, trở thành món ăn sẵn sàng cho chuột
chũi.
Chuột chũi lúc nhỏ mắt hãy còn mở rất to, đến khi cơ thể lớn dần lên, mắt bé
đi, cuối cùng thì lặn sâu vào dưới lớp da, thị lực thoái hoá hẳn. Lúc đó nó chỉ
có thể phân biệt rất ít về sự sáng tối. Những đặc điểm cấu tạo này được hình
thành do sự thích nghi sống lâu dài với môi trường thiếu ánh sáng trong lòng
đất.
Vì chuột chũi qua một năm không lên mặt đất, cái chính là không tiếp xúc với
ánh sáng, cho nên không quen với sự chiếu sáng của Mặt trời. Thân nhiệt của
chuột chũi cao hơn thân nhiệt của người 2 - 3 độ C. Trong cơ thể nó không có
cấu tạo thích nghi với sự toả nhiệt, nếu bị ánh sáng Mặt trời chiếu thẳng vào
cơ thể, làm nhiệt độ cơ thể biến đổi lớn, tần số hô hấp của nó sẽ tăng lên. Nếu
bị lộ sáng hơi lâu, nó sẽ rơi vào trạng thái hôn mê nóng, và có thể chết.
393. Chồn sóc bắt nhím kiểu gì?
Nhím là động vật cỡ nhỏ, khắp mình tua tủa dây gai. Khi bị săn đuổi, nó rụt đầu
co chân lại, cuộn tròn mình vào bụng hình thành một quả cầu gai vũ trang, khiến
cho các động vật ăn thịt khác phải tiếc rẻ mà bỏ đi. Chỉ có chồn sóc là ngoại
lệ.
Để đối phó với những chiếc gai nhọn trên mình nhím, chồn sóc sử dụng đến tuyến
hôi trong hậu môn của chúng. Bất cứ lúc nào tuyến này cũng có thể tiết ra một
lượng lớn dịch thối. Loại dịch này có uy lực rất lớn. Khi gặp kẻ địch truy
đuổi, chồn có thể phun dịch vào mặt kẻ địch, ngăn chặn đường tiến công của nó.
Gặp sự tấn công của chồn sóc, theo thói quen, nhím sẽ thu mình lại thành hình
cầu. Khi ấy, chồn sóc sẽ tìm một chút khe hở của khối cầu gai đó, đặt hậu môn
vào và phun dịch thối. Chẳng bao lâu, con nhím bị dịch thối làm cho mê man,
thân thể duỗi thẳng lại… Lúc này chồn sóc có thể ung dung ăn thịt.
394. Chồn Bắc Mỹ diệt rắn chuông như thế nào?
Rắn chuông (rắn đuôi kêu) rất thích ăn thịt chồn. Tuy nhiên, chồn không bao giờ
để bị ăn thịt một cách dễ dàng. Ngược lại, chúng còn tấn công và tiêu diệt hàng
loạt những con rắn độc dài gần 2 mét này. Chồn có vũ khí gì lợi hại như vậy?
năm để quan sát sinh hoạt của loài chồn “spermiphilus variegatus” ở các sa mạc
Bắc Mỹ. Chúng sống trong những hang động sâu dưới lòng đất, vì vậy thường bị
rắn chuông lẻn ào ăn thịt.
Để tự vệ, họ hàng nhà chồn bắt buộc phải tổ chức các cuộc tấn công trả đũa.
Thường khoảng 3 hoặc 4 con chồn quây lại đánh rắn. Một con liên tục tấn công
vào chiếc đuôi khiến kẻ thù phải co lại, không có đà để bổ những chiếc răng cực
độc vào người chồn. Trong khi đó, những con khác cặn trộm từng nhát vào người
rắn.
Khi tấn công, chồn luôn tránh đầu rắn, vì chỉ dính một vết đợp, chúng sẽ bị
chết ngay sau đó vài giây. Trong nhiều cuộc chiến, để giết chết rắn hoặc đuổi
nó ra khỏi địa phận, nhà chồn phải hy sinh tới vài thành viên.
Để tránh thiệt hại, chồn còn tổ chức các cuộc săn lùng quy mô hơn: Chúng mò vào
tận hang ổ của rắn chuông. Trong khi con mẹ vắng mặt, chúng giết chết hàng loạt
con non, hoặc đập vỡ trứng.
Nhưng nói chung, chồn vẫn rất sợ rắn đuôi kêu. Nếu rắn xuất hiện bất ngờ, chồn
thường bỏ chạy tán loạn. Loài rắn ăn thịt chồn lớn nhất dài tới gần 2 mét, có
tên là kim cương (crotalus atrox), vì chúng có màu da như những viên đá. Chúng
có thể nuốt gọn một con chồn non, rồi nằm nghỉ khoảng 2 - 3 ngày để tiêu hoá.
395. Tại sao những nơi mà loài ốc sên bò qua thường để lại một đường chất
nhờn?
Ốc sên là một thành viên trong đại gia tộc động vật thân mềm, khi nó bò, nó
thường dùng chân bám chặt lên các vật thể khác và bò quằn quại hình sóng nhờ
các cơ thịt ở phần chân, vì thế nó có thể bò chậm rãi về phía trước. Trên chân
ốc sên có một tuyến gọi là tuyến chân. Tuyến chân có thể tiết ra một chất dịch
rất dính giúp ốc sên bò đi được, vì vậy những nơi mà nó bò qua đều để lại dấu
vết của chất dịch do tuyến chân tiết ra. Sau khi chất dịch này khô đi, nó sẽ
hình thành nên một đường phát ra ánh sáng lấp lánh.
Khi ngủ đông hoặc ngủ hè, dịch dính được tiết ra từ tuyến chân này sau khi khô
sẽ hình thành một lớp màng mỏng ở miệng vỏ, giúp cho cơ thể đóng chặt lại, đợi
đến khi môi trường bên ngoài thích hợp sẽ thoát ra khỏi lớp màng. Tiêu bản ốc
sên được cất trữ trong phòng lưu giữ tiêu bản do được lớp màng này bảo vệ nên
ốc sên có thể sống nhiều năm mà không chết.
Ngoài ra còn có
một loài ốc sên tương tự nhưng không có vỏ và cũng được gọi là con sên. Những
nơi mà nó bò qua cũng để lại một đường phát ra ánh sáng màu trắng, chỉ có điều
là dịch dính mà sên không vỏ tiết ra có tính chất khác một chút so với dịch
dính mà ốc sên bình thường tiết ra. Vết bò mà ốc sên không vỏ để lại trên giấy
hoặc vải sẽ làm cho chất giấy hoặc vải trở nên cứng hơn, còn vết bò mà ốc sên
thông thường để lại trên giấy hoặc vải lại làm cho giấy hoặc vải bị biến chất.
396. Tại sao nói san hô là động vật?
Mọi người thường cho rằng san hô là đá quý và hình dung nó là một khoáng vật.
Do rất nhiều san hô thiên nhiên chưa được gia công đều có hình cành cây nên từ
xưa đến nay rất nhiều người lại cho rằng san hô là thực vật. Đến thế kỷ XVIII,
còn có người xem tua cảm của san hô là một loài hoa và tự cho rằng đó là phát
hiện lớn. Ngày nay, những người đã từng học động vật học đều biết rằng san hô
là động vật bậc thấp, nó thuộc động vật ruột rỗng chỉ có hai lớp phôi trong và
ngoài, giống như một chiếc túi có hai lớp. Nó có một miệng nhưng không có hậu
môn. Thức ăn được đưa vào từ đây. Xung quanh miệng có mọc nhiều tua cảm, đây
chính là thứ mà người xưa gọi là hoa. Tua cảm có thể bắt thức ăn hoặc khuấy
động để dòng nước chảy vào miệng và xoang tràng, giúp tiêu hoá các sinh vật nhỏ
trong nước, cho nên nó là động vật.
San hô có rất nhiều loài, chúng đều sống rất vững chắc, hơn nữa lại có những
đặc tính chung là sống trong biển nông, đặc biệt là thích sinh trưởng ở những
vùng nước biển ấm có dòng nước chảy nhanh, nhiệt độ cao, và trong sạch. Do phần
lớn san hô đều có thể nảy mầm sinh trưởng, mà những mầm này không thể tách khỏi
thể mẹ. Như vậy cuối cùng sẽ hình thành một quần thể liên kết và chung sống với
nhau, đây chính là nguyên nhân chủ yếu mà san hô có hình cành cây.
Mỗi đơn thể của san hô được gọi là “trùng san hô”. Loài san hô mà chúng ta
thường thấy chính là bộ xương của quần thể sót lại do thịt của trùng san hô này
đã bị thối nát. Có bộ xương rất thô ráp, có thể dùng làm nguyên liệu đốt đá
vôi, đá nhân tạo, loài tốt hơn có thể dùng làm nguyên liệu xây dựng. Loài đá
san hô thường thấy dưới biển phần lớn đều do những bộ xương này chất đống
thành. Có một số bộ xương rất cứng, màu sắc tươi sáng, đặc biệt là loại có màu
đỏ, con người thường mài dũa nó thành các loại đồ trang sức
397. Chim bay trong mưa chịu nước mưa như thế nào?
Chim có một mí mắt cực mỏng gọi là màng nháy, dùng để bảo vệ mắt và bảo vệ cả
khi nó bay trong mưa. Màng nháy này không hoàn toàn trong suốt, vì vậy chim có
thể không nhìn thấy rõ nhưng chúng vẫn phân biệt được sáng tối.
Giống như ở mèo, chó và một số loài động vật khác, màng này có thể nháy qua mắt
rất nhanh để bảo vệ mắt. Nó giúp tránh khỏi sự va chạm khi chim bay qua bụi
rậm. Ở chim săn mồi, như chim ưng chẳng hạn, chúng nhắm mắt lại ngay lập tức
trước khi va chạm với nạn nhân, che mắt lại khi bắt con mồi.
398. Tại sao trong trai, sò có trân châu (ngọc)?
Cái nôi sinh ra hạt trân châu là loài động vật nhuyễn thể như con sò, trai ngọc
biển và trai nước ngọt. Có nhiều người nghĩ trai, sò càng lớn thì hạt trân châu
bên trong chúng càng to. Thực tế thì không phải vậy. Chỉ khi nào có ký sinh
trùng sống ký sinh hoặc có vật bên ngoài xâm nhập vào trong cơ thể những con
sò, con trai thì mới tạo ra được các hạt trân châu.
Thử tách một vỏ trai hoặc là vỏ sò ra thì thấy tầng trong cùng của vỏ có ánh
sáng rực rỡ nhất, nhấp nhánh màu sắc như hạt trân châu, đây được gọi là “tầng
trân châu”, nó là chất trân châu do màng ngoài tiết ra cấu thành.
Khi ký sinh trùng chui vào vỏ sò, vỏ trai cứng, để bảo vệ cơ thể, màng ngoài
của con sò, con trai sẽ nhanh chóng tiết ra chất trân châu bao quanh ký sinh
trùng này. Như vậy, thời gian lâu dần sẽ hình thành ra hạt trân châu.
Có lúc khi một số hạt cát rơi vào trong con sò, con trai làm cho chúng nhất
thời không có cách nào đẩy nó ra được, sau khi chịu nhiều sự kích thích đau đớn
thì chúng đã nhanh chóng từ màng ngoài tiết ra chất trân châu để dần dần bao
vây lấy nó. Thời gian lâu dần, bên ngoài hạt cát được bao bọc bởi chất trân
châu rất dày, và cũng đã biến thành một hạt trân châu tròn vo.
Khoảng 20 – 30 loài động vật nhuyễn thể có thể sản sinh ra hạt trân châu. Hiện
nay, người ta đã xây dựng nơi nuôi trồng nhân tạo, sau khi nuôi lớn một số động
vật nhuyễn thể (chủ yếu là trai ngọc), trong tổ chức kết đế màng ngoài cắm nhân
vào vỏ trai, và trên nhân phủ một tấm màng ngoài nhỏ, qua một thời gian nhất
định thì sẽ sinh ra hạt trân châu nuôi nhân tạo. Trong các khu vực duyên hải và
hồ lục địa ở Trung Quốc đều dùng biện pháp này để nuôi trồng trân châu, ngoài
ra từ nuôi trồng hạt trân châu bình thường đã phát triển mở rộng ra nuôi trồng
hạt màu và hạt hình tượng.
399. Tại sao một cây đa có thể thành rừng?
Cây đa là một loại cây cao to lá xanh quanh năm, to rộng,
thích những vùng nhiệt độ cao mưa nhiều, không khí ẩm ướt, nó phân bố phổ biến
ở những vùng nhiệt đới và á nhiệt đới của Trung Quốc, thường gặp ở những vùng
thấp và ẩm ướt như trong rừng nhiệt đới, bờ biển duyên hải và đồng bằng thấp
hơn so với mặt nước biển. Do quả của cây đa có vị ngọt, chim rất thích ăn, do
hạt rất cứng không thể tiêu hoá được nên theo phân chim gieo vãi khắp nơi, trên
đỉnh tháp cổ, trên tường thành cổ và trên đỉnh những ngôi nhà cổ kính của vùng
nhiệt đới và á nhiệt đới đều có thể nhìn thấy những cây đa nhỏ do chim gieo
hạt. Những cây đa nhỏ được sinh trưởng trên cây lớn của vùng nhiệt đới cũng đa
số là do chim gieo hạt. Hiện tượng kỳ lạ cây mọc trên cây đã trở thành một cảnh
quan lớn của các khu rừng nhiệt đới.
Những cây đa có tuổi thọ cao, sinh trưởng nhanh, hệ thống cành và rễ phụ rất
phát triển. Trên thân chính và cành của nó có rất nhiều lỗ vỏ, tới đâu cũng có
thể sinh ra nhiều rễ khí sinh, rủ xuống dưới giống như những chòm râu dài,
những rễ khí sinh này sau khi sinh trưởng đến mặt đất thì không ngừng to lên và
trở thành rễ cái, rễ cái không phân cành không sinh lá. Chức năng của các rễ
khí sinh của cây đa giống như bộ rễ khác, có tác dụng hút nước và chất dinh
dưỡng, động thời còn chống đỡ những cành cây liên tục vươn rộng ra ngoài, làm
cho tán cây không ngừng to lớn. Theo thống kê, một bộ rễ cái của cây đa già có
thể đạt tới hơn 1.000 cành. Thôn Hoàn thành huyện Tân Hợi tỉnh Quảng Đông có
một cây đa to mọc gần bờ hồ, tán của cây đa rộng tới hơn 6.000 m2, dưới tán cây
có hàng ngàn rễ cái và các rễ phụ, giống như một “khu rừng” rậm rạp. Do “Khu
rừng” này cách biển không xa nên đã trở thành nơi cư trú sớm tối của các loài
chim như hạc và cò lấy cá làm thức ăn, hình thành “Thiên đường của các loài
chim” nổi tiếng.
Những người làm công tác vườn rừng lấy gợi ý từ đặc tính sinh trưởng của cây
đa, đã tài tình tiến hành dẫn, chỉnh hình rễ khí sinh và tán của cây đa làm cho
nó trở thành một cảnh sắc đặc biệt làm xanh hoá sân vườn và là chậu cảnh giàu
đặc sắc của Lĩnh Nam.
Ngoài cây đa ra còn có các loại cây khác như cây cọ thuộc họ cọ, cây quả trần,
cây dâu Công Gô thuộc họ dâu, cây đay gỗ dẻo Sumata thuộc họ đay thân gỗ và các
loại cây đào đia rôn cũng có thể mọc được rễ cái.
400. Cá heo và các loài thú biển uống gì?
Các loài động vật có vú sống ở biển chủ yếu dựa vào lượng nước có trong thực
phẩm mà chúng ăn, chứ không phải uống.Ví dụ thức ăn chủ yếu của cá heo là cá và
các loài tôm. Một tỷ lệ rất lớn mô cơ thể của tôm và cá là nước.
Cá voi có răng thường ăn mực và các loài cá lớn, trong khi cá voi sừng tấm nuốt
một lượng lớn nước biển, chắt lại thức ăn thông qua cấu tạo tấm sừng ở miệng,
một bộ phận giống như một thiết bị lọc nước rất hữu hiệu.
Đối với những loài cá thực sự, chúng hấp thụ nước thông qua bề mặt của cơ thể.
Mang và các lớp mô cho phép chuyển nước vào trong theo cách thẩm thấu. Vì nước
biển có hàm lượng muối cao hơn hàm lượng muối trong cơ thể cá, nên lớp mô bán
thấm này sẽ cho phép nước đi qua mà giữ phần lớn muối ở lại bên ngoài. Sau đó
cá phải dự trữ lượng nước “ngọt” đã xử lý, vì vậy chúng thải rất ít nước tiểu,
dùng rất ít nước cho quá trình dị hoá.
401. Tại sao hai mắt cá thờn bơn cùng mọc ở một bên?
Thờn bơn có tướng mạo kỳ quái so với các loại cá thông thường: mắt của nó không
nằm đối xứng ở hai đầu, mà mọc ở cùng một phía của cơ thể. Thêm vào đó thân của
nó rất dẹt, hai bên cũng không đối xứng, do vậy trước kia có người ngộ nhận
rằng đây là hai con sống dính chặt vào nhau.
Thực ra, cá thờn bơn giống như các loại cá khác đều là sống một mình. Còn hiện
tượng hai mắt mọc cùng một bên là kết quả của quá trình thích nghi lâu dài với
môi trường. Khi trứng thờn bơn nở thành cá nhỏ, hai mắt vẫn mọc đối xứng ở hai
bên đầu. Lúc đó nó khá “sôi nổi”, luôn muốn nổi lên mặt nước để chơi đùa. Tuy
nhiên, sau khoảng 20 ngày, thân dài đến 1 cm, do các bộ phận cơ thể phát triển
không cân bằng, khi bơi cũng dần nghiêng thân sang một bên, vậy là nó bắt đầu
nằm nghiêng và sống hẳn ở đáy biển. Đồng thời, với mắt phía dưới, do sợi dây
mềm dưới mắt không ngừng căng lên, làm cho mắt chuyển động về phía trên, qua
sống lưng tới vị trí song song với con mắt vốn có ở đó. Khi đã đến chỗ thích
hợp, mắt không di chuyển nữa mà cố định lại.
Do thờn bơn sống thời gian dài dưới đáy biển, hai mắt hoàn toàn ở phía trên,
rất có lợi cho nó phát hiện ra kẻ địch và để bắt mồi. Ngoài đôi mắt lạ lùng,
màu sắc da thờn bơn cũng thay đổi rất đặc biệt. Ở phần thân dưới, do hướng
xuống đáy biển trong thời gian dài nên sắc tố cũng tương đối nhạt, còn phần
trên có màu nâu, gần với màu của đất dưới đáy biển, nên vừa tránh được tầm mắt
của kẻ địch, vừa có thể kiếm được thức ăn một cách thuận tiện.
Cá thờn bơn có rất nhiều loại, trong đó có 4 loại lớn. Hai loại có đuôi, nếu
hai mắt nằm bên trái cơ thể gọi là “cá bình”, nằm bên phải gọi là cá bơn.
Hai loại khác còn lại không có đuôi. Vây đuôi và vây lưng liền thành một mảng,
bề ngoài giống như cái lưỡi. Ở nhóm này, nếu mắt đều nằm ở bên trái thân gọi là
“cá tháp hình lưỡi”, nằm ở bên phải gọi là “cá tháp”.
402. Tại sao cá rô có thể trườn trên cỏ hoặc leo cây bắt mồi?
Phần lớn cá sống dưới nước hô hấp được là nhờ bộ mang.
Tách khỏi môi trường nước, mang không hoạt động thì cá chết ngạt. Thế nhưng,
cũng có một số loài cá như lươn, chạch hoặc cá lóc…, thỉnh thoảng rúc sâu dưới
lớp bùn đặc quánh. Riêng cá rô thậm chí có thể phóng được lên cây.
Đấy là tập tính được hình thành tự bao đời nhằm thích nghi với môi trường sống.
Những loài vừa kể ngoài bộ mang để thở dưới nước, còn có thêm cơ quan hô hấp
phụ để thở dưới bùn sâu hoặc thở trên cạn. Tuỳ từng loại, cơ quan hô hấp phụ có
cấu trúc khác nhau và tất nhiên không so sánh được với cơ quan hô hấp chính là
mang. Ở lươn, bộ phận này nằm ở thành khoang miệng và họng, ở chạch là ruột và
lớp da bọc ngoài cơ thể. Nhờ phần hô hấp phụ này, lươn lẫn chạch có thể sống
dưới bùn sâu hàng tháng. Cơ quan hô hấp phụ của cá lóc và cá rô nằm trong
khoang mang. Trong bộ mang của chúng có những mảnh sụn nhỏ chứa nhiều mạch máu
li ti hấp thụ được oxy từ không khí. Nhờ vậy, chúng có thể leo được cả lên cây
mà không hề hấn gì.
403. Cá nóc phình hơi làm gì?
Khi bắt cá nóc lên khoang thuyền, bạn sẽ thấy chúng dần phình to như quả bóng
căng hơi, những con có gai sẽ chìa hết gai ra ngoài giống như con nhím cuộn
tròn.
Vì sao chúng lại làm như vậy? Đó là do cơ thể của cá nóc có một cấu tạo khá đặc
biệt. Đoạn ruột phía trên của cá nóc có một khúc phình rộng để chứa không khí.
Khi bị kẻ địch tấn công, cá nóc sẽ bơi vọt lên mặt nước há miệng hít đầy không
khí vào túi khí trong ruột. Vì vị trí túi khí nằm ở đoạn ruột phía trên và da
bụng chùng hơn da lưng, nên phần đầu cá và bụng cá phình to hơn phần lưng cá.
Cũng do phần bụng chứa nhiều không khí nên bụng cá nổi lên mặt nước, phần lưng
chìm xuống. Túi khí cũng có thể hút và chứa nước, nhưng khi gặp kẻ địch, cá nóc
thường hút khí vào túi này. Sau khi kẻ địch đi xa, nó sẽ từ từ nhả khí để lấy
lại thăng bằng rồi bơi đi.
Hiện tượng phình hơi chính là một giải pháp tự vệ của cá nóc để tránh bị kẻ
địch nuốt chửng hay cắn nát.
404. Cá có bị sét đánh?
Khi bị sét đánh, cá nước ngọt không gặp nguy hiểm nhiều vì nước ngọt không phải
là chất dẫn điện tốt. Nhưng nước biển thì đáng ngại hơn nhiều vì đó là một biển
các ion. Tuy vậy, cá đại dương vẫn an toàn.
Khi sét đánh vào mặt nước, sẽ xuất hiện một dòng điện cao thế ngay tại điểm sét
đánh, nhưng dòng điện này lại tự do di chuyển theo mọi hướng và nó lan toả
nhanh chóng do thể tích khổng lồ của chất dẫn điện - biển cả. Do vậy, tuỳ thuộc
vào quy mô của sét, cường độ dòng điện ở một điểm bất kỳ đều không cao.
Nếu một con cá hoàn toàn ở dưới mặt nước, dòng điện có thể chạy quanh và ở cách
xa điểm sét đánh xuống vài mét, con vật có thể hoàn toàn bình yên vô sự. Nhưng
nếu nó ở quá gần hoặc đang nhô lên mặt nước, tất nhiên nó sẽ bị sét đánh.
405. Tại sao hoa trên cùng một cây bông có màu khác nhau?
Nói chung hoa cây bông thường nở vào buổi sáng, sau khi hoa nở, chúng sẽ thay
đổi thành mấy loại màu sắc. Hoa vừa mới nở thì màu trắng, ít lâu sau biến thành
màu vàng nhạt, buổi chiều có màu hồng phần hoặc hồng, có khi thành màu hoa
hồng.
Đến ngày thứ hai thì thành màu hồng sẫm, có khi thành màu tím, cuối cùng tất cả
các bông hoa biến thành màu nâu rồi rơi khỏi bầu nhuỵ. Lúc đó nhuỵ bắt đầu phát
dục, dần dần nở to ra, rồi biến thành những quả bông.
Hiện tượng những cánh hoa bông đổi màu là do tập tính đặc hữu của cây bông. Bởi
vì trong cánh hoa của chúng có rất nhiều sắc tố, tuỳ theo nhiệt độ thay đổi và
chiếu xạ của Mặt trời, sắc tố cũng phát sinh biến hoá.
Trên cùng một cây bông, các bộ phận của hoa nở ra có trước có sau, bông hoa này
màu trắng, bông kia màu vàng hoặc màu hồng rồi. Cho nên nhìn vào một cây bông
mà lại thấy hình như có mấy loại hoa khác nhau.
406. Ánh sáng đom đóm có từ đâu?
Thử di nát trên đất một con đom đóm phát sáng, bạn sẽ thấy để lại trên mặt đất
là một vệt dài, vẫn tiếp tục nhấp nháy, sau đó mới mờ dần rồi mất hẳn. Như vậy,
ánh sáng do đom đóm phát ra là sản phẩm của một quá trình hoá học, chứ không
phải là một quá trình sinh học như ban đầu chúng ta nghĩ.
Bởi vì, sau khi con côn trùng đã chết mà ánh sáng vẫn còn, thì rõ ràng là con
vật chỉ làm nhiệm vụ liên tục sinh ra loại chất phát sáng mà thôi.
Đom đóm có hai nhóm là đom đóm bay và đom đóm bò dưới đất. Cả hai nhóm này đều
có thể phát ra cùng một thứ ánh sáng lạnh khá đặc biệt, không toả nhiệt như ánh
sáng nhân tạo. Đó là vì trong quá trình phát sáng, hầu như toàn bộ năng lượng
được sinh vật chuyển thành quang năng, chứ không tiêu hao thành nhiệt năng như
ở những nguồn sáng nhân tạo khác.
Ánh sáng của đom đóm được phát ra từ một vài đốt cuối bụng. Ban ngày, các đốt
này chỉ có màu trắng xám, về đêm mới phát ra ánh sáng huyền ảo qua lớp da trong
suốt. Bên trong lớp da bụng là dãy các tế bào phát quang, trong cùng là lớp tế
bào phản quang, có chức năng như mặt gương giúp phản chiếu ánh sáng ra ngoài.
Các tế bào phát quang có chứa hai loại chất là luciferin và luciferaza. Khi
tách rời nhau, chúng chỉ là những hoá chất bình thường, không có khả năng phát
sáng. Nhưng khi ở cạnh nhau, men luciferaza sẽ xúc tác, thúc đẩy quá trình oxy
hoá luciferin (quá trình dùng oxy đốt cháyluciferin). Quá trình oxy hoá này tạo
ra quang năng.
Đom đóm chỉ có thể phát sáng lập loè mà không liên tục, bởi vì chúng tự khống
chế việc cung cấp oxy, sao cho phản ứng phát sáng thực hiện được lâu dài.
407. Bí mật sự hồi sinh của ve sầu
Người Trung Quốc cổ cho rằng ve sầu là con vật biểu tượng của sự hồi sinh do
chu kỳ sống có một không hai của chúng: nằm lặng lẽ dưới mặt đất trong nhiều
năm liền, sau đó trồi lên khỏi mặt đất đi tìm bạn đời giao phối, đẻ trứng rồi…
chết! Ngày nay, người ta vẫn tự hỏi về khả năng kỳ lạ của ve sầu khi chúng luôn
xuất hiện trong thiên nhiên vào một thời điểm chính xác trong năm.
Người ta đào những con nhộng thuộc loài ve sầu Magicicada đã… thọ dưới mặt đất
15 năm. Loài ve sầu này thường chỉ ngoi lên khỏi mặt đất sau 17 năm “tu luyện”.
Khi đưa những con nhộng ve sầu vào một căn phòng được điều khiển khí hậu nhân
tạo. Tại đây những con nhộng được gắn vào bộ rễ của những cây đào (peach) đã
được “điều chỉnh” để có thể ra hoa hai lần mỗi năm. Kết quả những con ve sầu
thoát kiếp nhộng sớm hơn một năm. Loài côn trùng này đã “đếm” thời gian bằng
cách theo dõi những tin hiệu sinh lý của cây.
Cứ vào mùa xuân, khi nhiều loại cây bắt đầu ra hoa, những giọt mật và protein
từ hoa sẽ chảy ra, rơi xuống và thấm vào bộ rễ của cây. Ve sầu ở trong lòng đất
hút lấy thức ăn từ rễ cây và đó chính là lúc chiếc đồng hồ sinh học của loài
côn trùng này được “kích hoạt”. Lúc này ve sầu sẽ hồi sinh, bò lên khỏi lòng
đất và bắt đầu một chu kỳ sống mới…
408. Đâu là bí quyết siêu dính của trai, hàu?
Thành phần quyết định trong chất nhớt của các loài trai, hàu giúp chúng bám
được vào đá, thuyền và các cầu tàu là sắt, các nhà khoa học Mỹ vừa cho biết.
Phát hiện đã mở ra một hướng sử dụng sinh học mới cho thứ kim loại này.
Jonathan Wilker thuộc Đại học Purdue bắt đầu điều tra chất nhớt của những con
trai và hàu sau một chuyến lặn thám hiểm. Họ nhận định trai nước mặn bám lấy
các vật thể bằng những sợi keo tí hon. Trong một công trình mới đây, Wilker và
cộng sự đã xác định sắt là thành phần thiết yếu trong chất dính này.
“Thứ hỗn hợp chúng tôi thu được từ những con trai có độ bền chắc không kém gì
gelatin” – Wilker nói. “Khi bổ sung sắt, các protein của trai liên kết chép với
nhau, hay còn gọi là “bị lưu hoá” và vật liệu trở nên rắn chắc”. Các ion kim
loại có đặc tính sinh học khác dường như không có khả năng liên kết chéo này.
Cho tới nay, các nhà khoa học vẫn biết rằng ion kim loại thường có vai trò gắn
kết các protein và tạo ra sự ổn định cho phức hợp đó, nhưng đây là lần đầu tiên
họ tìm thấy một ion kim loại tham gia trực tiếp vào thành phần của một loại vật
liệu sinh học.
Keo của trai dính được với hầu hết các loại vật liệu, kể cả với Teflon TM -
thường được sử dụng như chất chống dính. Phân tích khả năng đặc biệt này sẽ cho
phép các nhà nghiên cứu tạo ra những chất keo siêu dính khác, cũng như giúp họ
tìm ra biện pháp bảo vệ các con tàu khỏi những vị khách không mời mà đến.
409. Cá Hà Lan nhẹ hơn cá xích đạo?
Chuyện kể rằng có một nhà buôn mua 5.000 tấn cá chép từ Hà Lan, đem xếp lên tàu
rồi chở tới thủ đô Mogadisu của nước Somali gần xích đạo. Đến đó dùng cân lò xo
cân lại, nhà buôn nọ trợn mắt lên vì thấy thiếu mất… 30 tấn cá. Lạ thật, chúng
chạy đi đâu? Không có khả năng mất trộm vì trên đường đi tàu không đỗ ở đâu cả.
Hư hao trong khi bốc xếp cũng không thể lên lớn đến như vậy. Mọi người bàn luận
xôn xao nhưng chẳng ai giải thích được điều bí mật đó. Mãi đến sau này người ta
mới hiểu rõ được vấn đề. Cá chẳng hề bị mất trộm mà cũng không phải bốc xếp gây
tổn hao, đó chỉ là trò đùa của sự tự quay của Trái đất và lực hút của nó.
410. Trọng lượng có thể thay đổi?
Ta biết trọng lượng của một vật là trọng lực tác dụng lên đó, tức là sức hút
của Trái đất đối với vật đó. Nhưng Trái đất tự quay không ngừng sản sinh ra một
loại lực ly tâm do quay. Vì thế trọng lực tác dụng lên vật bằng hợp lực của lực
hút của Trái đất (lực địa tâm) và lực ly tâm đó. Lại vì Trái đất là một hình
elip hơi dẹt, càng gần xích đạo, khoảng cách giữa mặt đất và tâm Trái đất càng
lớn, nên sức hút của địa tâm cũng nhỏ đi một chút. Vì thế trọng lực thực tế của
vật thể phải là lực hút địa tâm trừ đi lực ly tâm do quay theo phương thẳng
đứng. Khi 5.000 tấn cá chép đen, từ Hà Lan ở vĩ độ trung bình của Trái đất vận
chuyển đến Somali ở gần xích đạo tất nhiên là trọng lượng giảm dần, không lạ gì
khi cân lại giảm mất những hơn 30 tấn cá.
Nếu như các vận động viên leo núi mang một hòn đá từ đỉnh núi Chumunglay về đến
Bắc Kinh thì lúc đó nó sẽ trở nên nặng hơn một chút, còn nếu nhờ các nhà du
hành vũ trụ mang nó lên không trung nơi lực hút của Trái đất không còn nữa thì
nó sẽ trở thành không trọng lượng. Ở đây nguyên tắc đều giống nhau.
Nhưng khối lượng thì không.
Thế nhưng, bất kể trọng lượng của vật thay đổi như thế nào thì khối lượng của
chúng vẫn không thay đổi. Chúng ta nên chú ý rằng sự thay đổi trọng lượng của
vật thể chỉ có thể dùng cân lò xo mới thấy được, nếu dùng cân thiên bình hoặc
cân đòn gánh thì sẽ không thể thấy được điều đó.
411. Tại sao cá heo lại có thể bơi nhanh?
Các nhà vật lý đã khám phá ra cách thức giúp cá heo lao đi nhanh hơn: liên tục
lột da. Phát hiện này đã bổ sung vào danh mục những đặc điểm tiến hoá kỳ diệu
hỗ trợ việc bơi trong nước, như thuôn nhọn cơ thể theo dạng khí động học, nhằm
giảm áp lực của nước lên da và giảm ma sát.
Nếu ta quan sát kỹ sẽ thấy lớp da cá heo tróc vảy liên tục, và cứ sau khoảng 2
giờ con vật lại khoác một bộ da hoàn toàn mới. Quá trình này làm giảm đáng kể
hai loại lực cản nói trên và giúp chúng lao đi nhanh hơn. Sự gợn sóng của lớp
da làm giảm lực ma sát. Ngoài ra, những mảng da khi bị lột xuống sẽ phá huỷ các
xoáy nước vốn xuất hiện xung quanh bề mặt cá heo và cản đường bơi của nó.
Nghiên cứu khả năng này của cá heo sẽ mở ra hy vọng sẽ giúp chế tạo các con
thuyền, tàu biển và tàu ngầm có tốc độ cao hơn, sử dụng công nghệ dựa trên các
giải pháp tự nhiên.
412. Cá ngủ thế nào?
Giống như các loài động vật khác, cá cũng cần phải ngủ, nhưng lại không hề nhắm
mắt, đa số chúng chỉ chợp mắt chốc lát mà thôi. Chính vì vậy chúng ta có cảm giác
rằng cá không bao giờ ngủ.
Ở Địa Trung Hải có nhiều loài cá vùi mình trong cát khi ngủ. Đáng nể nhất là
loài cá vẹt, ban đêm tiết chất nhầy thành cái “túi ngủ” để che mắt kẻ thù. Nó
phải mất 30 phút để tạo ra cái “túi ngủ” này và ngần ấy thời gian để ra khỏi
“giường”.
Các loài cá trích, cá bạc má hay cá chảy ngủ thường thành từng đàn có lính canh
dưới đáy biển. Nhiều loài ngủ trong đám rong rêu phía trên mặt nước, số khác
lại nằm im trên cát nhờ tài hoá trang lẫn vào môi trường xung quanh như cá
đuối. Còn loài cá sòng ngủ giữa những hòn cuội nhỏ.
413. Vì sao chim chấp nhận trứng cúc cu gửi nhờ?
Một số loài chim thà để lại những quả trứng mà cúc cu đẻ nhờ vào tổ của chúng,
còn hơn là lỡ vứt đi trứng của chính mình. Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra hành
vi vứt trứng của 18 loài chim Australia và 23 loài ở châu Âu. Trong phần nghiên
cứu tại xứ sở chuột túi, họ đặt những quả trứng nhựa màu xanh dương vào tổ và
quan sát xem lũ chim chủ nhà sẽ hất bỏ hay đập vỡ quả trứng có màu kỳ lạ này.
Ánh sáng và tầm nhìn trong tổ dường như là những nhân tố chính để nó quyết định
có hất bỏ quả trứng ngoại đạo hay không. Những loài chim xây tổ nhỏ, tối, hình
mái vòm hoặc hình cái chén, thì đều chấp nhận quả trứng lạ, nhưng các con chủ
nhà có tổ tràn đầy ánh sáng thì có thể phân biệt giữa các quả trứng, và tỷ lệ
vứt bỏ cao hơn.
Một số loài chim chủ nhà chấp nhận trứng của cúc cu thay vì hứng chịu nguy cơ
vứt con của mình.
Những loài chim nhỏ hơn xây tổ nhỏ khép kín hơn sẽ có lợi thế bảo vệ, vì những
con cúc cu to lớn không thể chui vào tổ của chúng đẻ được. Song điều đó đồng
thời cũng khiến chúng khó nhận ra trứng cúc cu hơn vì tổ tối hơn và chúng không
muốn mắc sai lầm nếu vứt bỏ con của chính mình.
Một số loài chim chủ nhà chấp nhận đứa con rơi của cúc cu vì chi phí để nuôi
dưỡng nó là thấp. Song, những gì chúng tôi tìm thấy là điều đó không quan trọng
chút nào.
Loài chim hồng tước bản địa tuyệt đẹp ở Australia là một ví dụ tốt về một loài
chim không thể phân biệt được đâu là trứng của mình, đâu là trứng cúc cu, vì
thế chúng không hất trứng lạ khỏi tổ. Song, nó cũng là loài vật chủ duy nhất
trên thế giới có thể phân biệt những đưa con giả trong tổ và loại bỏ chúng.
“Dường như chúng thua thiệt trong cuộc chạy đua tiến hoá ở giai đoạn trứng,
song bù lại, chúng lại tiến hoá để có thể nhận ra những đứa con rơi của cúc cu
trong tổ của mình”.
414. Tại sao có một số thực vật lại có độc?
Thực vật khác loài, do kết quả hoạt động sinh lý của chúng không giống nhau,
tạo thành vật chất có tính chất khác nhau tích luỹ trong thân của chúng. Ví dụ
như lá của rau cần, rau chân vịt và rau thơm có mùi vị khác nhau chính là
nguyên nhân này. Những tích luỹ của một số thực vật là vật chất độc, đi vào bên
trong cơ thể con người và gia súc thì có thể phát sinh tác dụng của độc tính,
làm tổn hại đến tổ chức tế bào, dẫn đến trở ngại về cơ năng, bệnh tật hoặc tử
vong, do đó chúng được gọi là thực vật có độc.
Chủng loại và tính chất của vật chất có độc trong thực vật rất phức tạp, ở đây
chỉ nói đến một số loại quan trọng . Nói từ tính chất hoá học, vật chất có độc
của thực vật chủ yếu có : Kiềm thực vật, glucoxit, saponin, protein và những
độc tố khác vẫn chưa rõ. Kiềm thực vật là có hợp chất hữu cơ có chứa nitơ trong
thân thực vật, như kiềm cây thuốc lá chứa trong lá và hạt giống của cây thuốc
lá, độc tố của cây nấm độc chưa trong cây nấm. Glucoxit là sản vật của sự kết
hợp giữ đường và gốc hiđroxit (-OH), như glucoxit khổ hạnh nhân chứa trong hạt
bạch quả và khổ hạnh nhân. Saponin là hợp chất rất phức tạp, sau khi hoà tan
trong nước, lắc một chút là có thể tạo thành bọt, như saponin cù mạch chứa
trong hạt cù mạch. Protein là chỉ vật chất có độc có tính chất protein, như
protein thầu dầu trong hạt giống của thầu dầu, chất ba đậu trong hạt giống ba
đậu. Vật chất có độc không chỉ tính chất khác nhau trong các thân thực vật mà
vị trí phân bố cũng khác nhau, có loại ở những bộ phận khác nhau của cây đều có
độc, có loại ở những bộ phận khác nhau ở cùng một cây thực vật có những vật
chất có độc ở những mức độ khác nhau. Do sự khác nhau về kỹ thuật trồng trọt.
Đất trồng và sự thay đổi về năm, giai đoạn phát dục, vị trí và thời tiết nên
hàm lượng độc tính của thực vật có độc cũng khác nhau.
Gluxit hạnh nhân chứa trong hạt giống của bạch quả và hạnh nhân hoà tan trong
nước có thể sinh axit cyanogen có độc tính rất cao, trẻ em nuốt một lượng nhỏ
thì sẽ mất đi tri giác, trúng độc mà chết. Khoai tây sau khi đưa ra ánh sáng
chuyển sang mầu xanh hoặc nảy mầm, ở phần này sinh ra một loại độc tố có tên là
“ Long quỳ tinh”. Người ăn vào sẽ dẫn đến bị trúng độc, sinh ra các triệu chứng
như nôn, ỉa chảy. Các loại hạt khác như đào nhân, thầu dầu sau khi ăn sẽ bị
trúng độc. Hiểu được những quy tắc này thì có thể phòng chống trúng độc và áp
dụng các biện pháp cứu chữa kịp thời. Có một số thực vật có độc sau khi bỏ độc
tố thì có thể tiếp tục dùng được, nói một cách thông thường, rau dại sau khi ngâm
và rửa qua nước hoặc nấu chín rồi lại ngâm, làm cho hết vị chát và đắng thì có
thể khử hết độc tính; Đương nhiên cũng có một số thực vật như nấm độc thì cho
dù có ngâm rửa, nấu chín như thế nào đều không thể khử được độc tính. Do vậy,
những thức vật không biết thì cần phải tìm hiểu xong mới có thể sử dụng, để
tránh sau khi ăn nhầm rồi bị trúng độc.
Một số thực vật có chứa vật chất có độc, đặc biệt là thuộc những thực vật có
tính kiềm thực vật, có thể dùng để chế tạo ra thuốc. Ví dụ, như lá và rễ của cây
cà dược và cà độc dược có chứa kiềm lương đang và atropin, có độc, có thể làm
cho con người hưng phấn, hôn mê, nhưng khi dùng một lượng nhỏ trong y học lại
trở thành bài thuộc trị bệnh phong thấp, thở dốc, bụng đau quặn; Hoa của cà độc
dược là hoa dương kim mà Đông y cổ đại dùng để làm thuốc gây mê; Khi bị trúng
độc moócphin trong quả thuốc phiện có thể dẫn tới liệt hô hấp, nhưng trong y
học khi sử dụng với liều lượng thích hợp thì lại trở thành bài thuốc dừng đau
nhanh. Do đó hiểu được loại thực vật nào có độc và trong chúng có chứa loại độc
tố nào có ý nghĩa rất quan trọng.
415. Tại sao chim ruồi lại có thể bay lơ lửng?
Không lớn hơn con ong mật, song chú chim ruồi tí hon có thể lơ lửng trên một
bông hoa trong nhiều phút liền, nhờ vào khả năng vỗ cánh nửa giống côn trùng,
nửa giống các loài chim khác.
Chim ruồi có thể xem là dải phân cách giữa một bên là các loại chim (thu được
lực nâng từ việc đập cánh xuống) với các loài côn trùng (bay lên nhờ một nửa
quá trình đập cánh xuống và nửa còn lại từ quá trình vỗ cánh lên.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng công nghệ phức tạp để phân tích chuyển động của
không khí xung quang cánh của chim ruồi và cung cấp thông tin chi tiết về hiện
tượng bay của nó, từng bị giới hạn ở việc phỏng đoán trong suốt nhiều thập kỷ
qua.
Theo đó, chim ruồi nhận 75% lực nâng từ hiện tượng vỗ cánh xuống, 25% còn lại
cung cấp từ quá trình vỗ cánh lên.
Ở tất cả các loài chim, lực nâng có được 100% nhờ vỗ cánh xuống, trong khi tỷ
lệ này ở côn trùng là 50 – 50.
Đây là bằng chứng mạnh mẽ về hiện tượng hội tụ sinh học - những loài không có
họ hàng với nhau tiến hoá những đặc điểm giống nhau để khai thác lợi thế của
chúng.
Các nhà khoa học đã đặt những con chim háu ăn vào một kênh gió được thiết kế
đặc biệt, trang bị một thiết bị laser kết nối với máy tính, làm nhiệm vụ đo sự
chuyển động của các hạt dầu tí hon xoáy tít trong không khí. Thiết bị này cho
phép chụp được những khoảnh khắc rất ngắn trong cử động cánh của chim ruồi,
khoảng 250 micro giây (một micro giây bằng một phần triệu giây).
416. Chúa tể của các loài hoa
Một ngày nào đó, lang thang trong rừng mưa nhiệt đới của Malaysia và Indonesia,
bạn có thể sẽ sửng sốt khi đập vào mắt bạn là một bông hoa chói lọi, khổng lồ
với đường kính tới gần… 1 mét. Đó là Rafflesia, một dạng hoa loa kèn lớn nhất
thế giới. Thậy kỳ lạ, từ “báu vật của tạo hoá” này, có thứ mùi kinh khủng không
ngừng bốc ra – mùi thịt thối.
Dân địa phương do vậy gọi nó là hoa xác chết. Tuy vậy, thứ mùi đó lại có vai
trò sống còn đối với hoa rafflesia, chúng hấp dẫn ruồi nhặng đến làm chức năng
thụ phấn.
Tên đầy đủ của loài hoa này là Rafflesia arnoldi. Hoa mọc ngay trên mặt đất,
đường kính tới 1 mét, màu đỏ chói lọi. Cây Rafflesia là một loại cây ký sinh,
dạng sợi, đường kính thân bé như sợi chỉ. Thật ngược đời, hoa của cây to bao
nhiêu thì thân cây là bé bấy nhiêu.
Rafflesia chui vào các mô rễ của một cây chủ có dạng thân leo và hút chất dinh
dưỡng từ đó. Nó không có lá, không có cuống, không có rễ. Cuối cùng, cái vi thể
ăn bám nhỏ bé đó sẽ tạo ra một cái nướu, to dần lên thành hình một chiếc bắp
cải. Chính cái “bắp cải” này về sau sẽ nở ra bông hoa khổng lồ Rafflesia arnoldi,
mọc ngay trên mặt đất.
Các hạt của cây Rafflesia rất nhỏ, được bọc trong một lớp vỏ cứng. Các nhà khoa
học cho rằng chính các động vật đã truyền hạt này đi xa khi đi lang thang trong
rừng. Hạt giắt vào móng chân của chúng và thế là được tha đi khắp nơi.
Loài Rafflesia đầu tiên và lớn nhất được phát hiện ở đảo Sumatra. Các nhà khoa
học đã lấy tên người phát hiện ra nó, một người châu Âu có tên là Thomas Stamford
Rafflesia, cũng là người đã thành lập nước Singapore ngày nay, đặt cho cây. Từ
đó đến nay, người ta đã đặt tên cho hơn 12 loài Rafflesia khác.
Không phải mọi loài Rafflesia đều có mùi thối rữa của thịt thối. Ở Indonesia
cũng có loài cây này, người dân gọi là bunga patma, có nghĩa là hoa sen.
417. Bí mật của vẻ đẹp công đực là gì?
Các nhà khoa học từ lâu đã biết màu sắc rực rỡ huyền ảo trên đuôi các chàng
công là kết quả của hiện tượng pha màu cấu trúc - sự tương tác giữa ánh sáng
với cấu trúc lông đuôi - chứ không phải bởi chính các sắc tố của nó. Song, mãi
đến nay, cơ chế chính xác của việc tạo màu này mới được khoa học làm sáng tỏ.
Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra những chiếc lông đuôi công đực bằng cả kính hiển
vi quang học và kính hiển vi điện tử quét. Họ xác nhận rằng mỗi chiếc lông có
một gân trung tâm với các gân nhánh nằm về hai bên. Đến lượt mình, các gân này
lại phân chia nhỏ hơn thành những cấu trúc phẳng gọi là lông tơ. Ảnh chụp dưới
dưới kính hiển vi cho thấy, bất kể lông có màu gì, tất cả lông tơ đều có những
tấm rèm phẳng cấu tạo từ nhiều sợi sắc tố (melanin) . Tuy nhiên, số lượng các
sợi melanin và khoảng cách giữa chúng không đồng nhất. Chính sự khác biệt này
là nguyên nhân gây nên màu sắc kỳ ảo của đuôi công.
Khi ánh sáng xuyên qua lông công, những kiểu sắp xếp khác nhau trên tấm rèm sợi
sắc tố đã làm phân tán ánh sáng, tạo ra đủ sắc màu rực rỡ như xanh dương, xanh
lục, vàng và nâu. Mô hình số cũng cho ra kết quả tương tự. Nhóm nghiên cứu đã
đưa ra kết luận, “chiếc lược tạo màu nằm ở trong những chiếc đuôi lông vũ của
công, rất tài tình và khá là đơn giản”.
418. Giới tính của lươn: “Hai trong một”
Ở loài lươn, người ta nhận thấy hiện tượng những con lươn to, dài đều không có
trứng, trong khi đó buồng trứng lại chỉ có mặt trong những con lươn nhỏ hơn, vì
sao lại có chuyện ngược đời vậy nhỉ?
Đó là vì tính đực và cái của giống lươn hoàn toàn khác với các loài cá.
Đa số các loài cá khi mổ ra nếu không có buồng trứng (cái) thì phải có tinh
hoàn (đực), dù là cá nhỏ hay cá lớn. Sự khác biệt giữa giống cái và giống đực ở
các loài cá rất rõ ràng và vĩnh cửu.
Đối với lươn thì khác hẳn. Từ khi trứng lươn nở thành lươn con, con nào cũng có
buồng trứng. Nói một cách khác, tất cả lươn con là lươn cái. Nhưng khi các con
lươn con lớn lên phát dục và đẻ trứng xong, buồng trứng lươn bắt đầu có thay
đổi. Các mô trước đây sản sinh ra tế bào trứng sẽ chuyển hoá thành túi sinh
tinh trùng. Hiện tượng này trong khoa học gọi là “chuyển ngược giới tính”. Vì
nguyên nhân đó nên những con lươn lớn đều là lươn đực.
Lươn cái đều biến thành lươn đực, vậy lấy gì để duy trì nòi giống của chúng?
Xin trả lời: Lươn nhỏ khi mới nở (đều là lươn cái) sau khi trưởng thành chỉ đẻ
trứng một lần rồi biến thành lươn đực. Số lươn đực này sẽ gia phối với số luơn
cái ra đời sau một thế hệ. Xét cả họ nhà lươn thì năm nào cũng có một lứa lươn
đẻ trứng và mỗi năm đều có một thế hệ lươn cái nở từ trứng ra. Nhờ đó nòi giống
lươn mới được duy trì.
Hiếm có nhưng không phải là duy nhất
Ở các động vật khác, hiện tượng thay đổi giới tính rất hiếm xảy ra. Trong giới
động vật tuy cũng có hiện tượng này, nhưng chỉ xảy ra ở cá biệt một vài con
vật.
Trong các loài cá, ngoài lươn có hiện tượng “chuyển ngược giới tính” còn có một
vài loài cá tồn tại cả hai giới tính đực, cái trong một cơ thể như cá thu, cá
bướm. Cơ thể chúng có hai cơ quan sinh dục đực và cái. Loại cá này có thể tự
thụ tinh và đẻ trứng. Ngay cả cá mè, đôi khi người ta cũng thấy có hiện tượng
trong một con cá có cả một buồng trứng nằm trong túi tinh trùng. Hiện tượng
lưỡng tính kiểu này rất phổ biến trong các loài động vật bậc thấp.
419. Vì sao khó đập ruồi?
Bắt một con ruồi đang bay có lẽ là một trong những việc khiến bạn nản lòng
nhất. Các nhà khoa học đã biết vì sao nó lẩn tránh bạn dễ dàng như vậy.
Bí mật của ruồi là : Nó nhảy chứ không chỉ là bay
Trong một nghiên cứu mới, các nhà khoa học đã tập trung tìm hiểu bằng cách nào
não bộ của ruồi thi hành những cử động thoát chết lẹ làng đến vậy, Gwyneth Card
từ Viện Công nghệ California đã lần lượt thả những cái đĩa đen từ các góc khác
nhau, để đè bẹp một chú ruồi. Bà quay phim lại hình ảnh này.
Băng video cho thấy con ruồi nhảy ra xa vật thể đang rơi xuống, bằng cả cân và
cánh. Điều này chứng tỏ não bộ của nó thực hiên một cách trình tự cất cánh liên
quan đến kết nối thần kinh giữa cánh và chân.
Kiểu ra quyết định năng lượng thấp này có thể là ý tưởng hay đổi với những
người đang thiết kế các robot định vệ tự động”, Card nói.
Nghiên cứu sẽ được trình bày tại cuộc họp thường niên của Hiệp hội sinh học
thực nghiệm ở Barcelona, Tây Ban Nha.
420. Tại sao có loại hoa thơm, có loại hoa không thơm?
Thông thường, hoa của đa số các loại thực vật đều có mùi thơm nhưng không phải
tất cả các loài hoa đều có. Tại sao có một số hoa có mùi thơm, một số lại không
có? Trước tiên chúng ta hãy xem xét nguồn gốc của mùi thơm này.
Hoa có mùi thơm là bởi vì bên trong hoa có một nhà máy chế tạo hương thơm - tế
bào dầu. Sản phẩm của nhà máy này chính là dầu hương thơm có mùi thơm, nó có
thể tiết ra liên tục thông qua ống dẫn dầu, hơn nữa còn có thể bốc hơi cùng với
nước ở nhiệt độ thông thường, từ đó biến thành thể khí toả ra hương thơm mê
hoặc người, cho nên còn gọi nó là dầu bốc hơi. Bởi vì dầu bốc hơi có chứa trong
các loài hoa khác nhau nên mùi thơm nó toả ra cũng khác nhau. Chúng ta vốn có
thể ngửi được hương hoa là do các phân tử khí trong dầu bốc hơi thoát ra rồi
bay đến lỗ mũi chúng ta. Nếu dầu thơm bị Mặt trời chiếu vào, nó sẽ bay hơi rất
nhanh, vì vậy mà khi có nhiều ánh sáng Mặt trời, hương hoa càng đậm hơn, hoa
toả ra mùi thơm xa hơn. Ngoài ra trong một số loài hoa tuy có các tế bào dầu
nhưng tế bào của nó trong quá trình đổi mới cũng lại sẽ tiếp tục sản sinh ra
một số dầu thơm khác. Bên trong tế bào của một số hoa còn có thể tạo ra dầu
thơm và chứa một loại dịch thể chứa đường, bản thân thể chứa đường này tuy
không có hương thơm nhưng khi nó bị chất lên men phân giải, nó cũng có thể toả
ra hương thơm.
Tại sao có một số loài hoa lại không thơm? Nói một cách đơn giản như sau, trong
những loài hoa này không có tế bào dầu và cũng không có thể chứa đường. Một nhà
máy không có nguyên liệu thơm chắc chắn sẽ không thể sản xuất ra được những sản
phẩm có mùi thơm. Vì vậy mà có một số loài hoa không thơm.
Tế bào dầu trong hoa không phải đều có mùi thơm, cũng có một số loại có mùi
thối, hơn nữa hoa của một số thực vật rất thối như Xà cô, Mã đâu linh, hoa đại
vương… khi nở đều toả ra mùi thối rất khó ngửi. Đối với những loại hoa này,
không chỉ con người ghét chúng mà ngay cả ong mật và bướm cũng đều phải tránh
xa. Còn loại nhặng lại thấy mùi thối mà sà đến chứ không muốn bỏ đi.
Nói tóm lại, hoa thơm và không thơm quan trọng là ở chỗ trong tế bào có dầu bốc
hơi hay không. Còn mùi thơm và thối lại do các chất khác nhau chứa trong dầu
bốc hơi của các loại thực vật khác nhau nên mùi toả ra cũng khác nhau.
Vậy thì dầu bốc hơi được hình thành trong cơ thể thực vật như thế nào? Ý nghĩa
sinh lý đối với thể thực vật như thế nào? Những câu hỏi này hiện nay giới khoa
học vẫn chưa tìm ra đáp án hoàn chỉnh. Thông thường, mọi người đều cho rằng dầu
bốc hơi chứ trong cơ thể thực vật là sản phẩm cuối cùng do tác dụng trao đổi
của bản thân thể thực vật. Cũng có người nói rằng đó là sản phẩm được bài tiết
ra trong thể thực vật, là chất thải công nghiệp của quá trình sinh lý. Đa số
các nhà khoa học đều cho rằng, dầu bốc hơi được sản sinh ra khi chất diệp lục
đang tiến hành quá trình quang hợp. Khi mới sinh ra, chúng phân bố trên khắp cơ
thể thực vật rồi lớn lên cùng thể thực vật dựa vào đặc tính sinh lý của các
loài thực vật, có loại tập trung trong thân cây và lá như Bạc hà, Rau cần, Hương
thảo…, có loại lại chứa trong thân cây, có loại chứa trong vỏ cây như Nguyệt
quế, Hậu phắc…, có loại chứa ở bộ phận dưới đất như Giang tươi; Có loại chứa
trong quả như Quýt, Hồi hương, Chanh… Thông thường, phần lớn dầu bay hơi đều
chứa trong hoa của thực vật.
Sự tồn tại của dầu thực vật trong thể thực vật trên thực tế cũng có những tác
dụng nhất định của nó. Tác dụng rõ ràng nhất là nó là chất hấp dẫn các loại côn
trùng, giúp truyền phấn hoa để sinh sôi đời sau tốt hơn. Mặt khác, dầu bốc hơi
có thể làm giảm sự bốc hơi của nước hoặc dùng hương thơm để gây độc cho các
thực vật gần nó nhằm mục đích bảo vệ mình.
421. Từ khi nào và vì sao cây mọc lá?
Các nghiên cứu về hoá thạch đã chỉ ra rằng cây cối từ đầu kỷ Devon trở về trước
(cách đây khoảng 360 triệu năm) không được sum suê lá như bây giờ. Đa số thực
vật đều trơ trụi trong một khoảng thời gian kéo dài đến 40 triệu năm.
Tại sao cây cối lại có lá và tại sao quá trình “triển khai” lá này lại kéo dài
đến như thế? Câu trả lời từ rất lâu đã là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận khoa
học. Mới đây, các nhà nghiên cứu thuộc hai trường đại học ở Anh đã đưa ra một
giả thuyết, theo đó, lá chỉ được hình thành khi có sự thay đổi mạnh mẽ về lượng
CO2 trong khí quyển.
CO2 là khí mà cây cối sử dụng để quang hợp. Vào đầu kỷ Devon, Trái đất có quá
nhiều khí này, nhiều đến mức cây chẳng cần hoặc chỉ cần rất ít lỗ khí (nơi
chúng hút CO2 vào và nhả oxy ra). Vì thế, hầu hết cây cối đều không có lá. Cá
biệt, một số thực vật mọc những bộ phận giống như gai vậy.
Không có lỗ khí, nên nếu cây có lá, nhất là lá rộng, chúng sẽ phải chịu nhiệt
độ rất cao của môi trường thời đó.
Nhưng rồi sau đó, lượng nồng độ của khí CO2 trong bầu khí quyển của Trái đất
bắt đầu giảm dần theo thời gian, cuối cùng chỉ còn lại khoảng 10% so với lượng
ban đầu. Do vậy, cây cối buộc phải tiến hoá sao cho có nhiều lỗ khí hơn để hút
đủ CO2, để giữ mát thân. Sự hình thành lá ở thực vật là một cách thức để thích
nghi với môi trường. Nhờ có những chiếc lá chi chít lỗ khí, cây quang hợp được
nhiều hơn và không bị nhiệt độ quá cao làm hại.
422. Vì sao cá voi mắc cạn?
Hiện tượng cả đàn cá lớn giạt vào bờ đã không còn là quá bí ẩn, ít nhất là đối
với các bãi biển thuộc vùng Đông Nam Australia. Một phân tích mới đây dựa trên
những số liệu trong hơn 30 năm đã phát hiện thấy số loài động vật biển có vú bị
giạt lên bờ tăng đột biến cứ sau 10 – 12 năm.
Dường như những đợt “tự tử” hàng loạt này là hậu quả của một hiện tượng thời
tiết có tên gọi là gió Tây vùng. Hiện tượng các loài thú biển mắc cạn hàng loạt
từng được xem là chuyện ngẫu nhiên hoặc nghi ngờ có liên quan đến những biến
động thời tiết lớn như El Nino. Tasmania là một trong những điểm nóng trên thế
giới thường xuyên bắt gặp hiện tượng này. Cá heo, cá nhà táng và cá voi hoa
tiêu là ba loài hay bị mắc cạn nhất trên các bãi cát ở đây.
Các nhà khoa học đã phân tích dữ liệu về những đợt mắc cạn ở Tasmania từ năm
1920 đến năm 2002. Trong những thời kỳ cao điểm nhất, mỗi năm vùng biển này đón
khoảng 10 lần các loài thú biển giạt vào. Còn giai đoạn đỉnh điểm gần đây nhất
– vào năm 1992 – có tới 29 lần. Tìm hiểu dữ liệu ở bang Victoria, thuộc vùng
phía nam đảo lớn Australia, các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy quy luật tương tự.
Họ nhận thấy những đợt mắc cạn này có liên quan tới sự thay đổi nhiệt độ nước
biển bề mặt trong mùa hè và áp suất không khí tại mặt biển ngoài khơi Tasmania
– hai dấu hiệu chỉ thị cho sự đổi chiều di chuyển của các đợt gió Tây vùng băng
qua lục địa Australia.
Cứ khoảng 10 năm, những đợt gió trên sẽ gây ra những trận bão lớn và làm mở
rộng dòng nước lạnh ở vùng cận cực đang di chuyển về phía Bắc tới bờ biển
Tasmania. Nhiều loài cá heo đã nương theo dòng nước này mà đi tới đó bởi ở đó
rất giàu dinh dưỡng. Khi dòng hải lưu lạnh tiến đến gần bờ, cá heo và cá voi
cũng không tránh khỏi giạt vào bờ và bị mắc lại tại đó.
Bên cạnh đó ở chúng còn có một bộ phận có tính chất như nam châm trong não,
kình ngư có thể phát hiện những đường từ vô hình và sử dụng chúng như những
đường ray dẫn lối trong đại dương bao la. Bình thường, những đường từ ấy song
song với biển. Nhưng rối loạn trong tai, giống như một vỉa sắt khổng lồ, khiến
đường ray dẫn lối ấy trở thành đường thẳng góc với bờ biển. Nếu một con cá heo
bất hạnh bơi theo đường ray lạc hướng này, cá sẽ tiến vào bờ biển. Thật vậy,
các nhà khoa học đã chứng minh rằng đa số những bãi biển nơi cá mắc cạn thường
có các đường từ băng qua.
423. Vì sao cua đi ngang?
Hãy úp sấp bàn tay của bạn xuống mặt bàn và tưởng tượng rằng đó là một nửa con
cua. Mu bàn tay là mai cua, các ngón tay của bạn là chân cua. Di chuyển tay về
phía trước. Bây giờ hẳn bạn đã hình dung ra cách cua đi ngang.
Loài cua được bọc trong một bộ xương ngoài có tác dụng bảo vệ chúng trước kẻ
thù. Tuy nhiên, cái giá phải trả là các chân trên của chúng bị hạn chế cử động.
Càng tiến hoá nhiều, xương ngoài của cua càng có tác dụng bảo vệ hơn và chân cử
động càng ít hơn. Trông thì buồn cười thật, nhưng có thế cua mới sống được.
Cụ thể, chân cua gắn vào mình nó, cũng giống như ở con người chúng ta vậy. Song
thật không may cho anh chàng “8 cẳng 2 càng” này là trong khi tay người có rất
nhiều khớp (vai, khuỷu tay, cổ tay và ngón tay) cho phép chúng ta cử động được
thoải mái thì cua lại có rất ít khớp. Và các khớp chân ấy cũng không được linh
hoạt lắm. Chúng chỉ hơi gập lại theo hướng trước – sau.
Để dễ hiểu, bạn cứ hình dung như thế này: Chân cua cũng tương tự như ngón tay
người, chỉ có thể di chuyển dọc mà rất hạn chế theo chiều ngang. Như vậy, cua
đi ngang là do nó đã chấp nhận hy sinh sự linh hoạt của chân, đổi lại được bảo
vệ khỏi kẻ thù.
424. Vì sao loài dúi có hai răng cửa vận động độc lập nhau?
Không hy vọng giành ngôi vị trong các cuộc thi sắc đẹp, nhưng dúi không lông có
đủ đặc điểm để đứng trong hàng ngũ các loài thú kỳ lạ nhất trên thế giới. Loài
gặm nhấm này có những chiếc răng cửa rất lớn, với hai chiếc ở hàm dưới có thể
vận động độc lập với nhau: Sự khác biệt nằm ở trong não của chúng.
Trong khi những người bà con có lông mao của dúi không lông sống theo kiểu cộng
đồng (như ở ong và các loài côn trùng xã hội khác), thì loài vật này lại sống
rất đơn độc. Vẻ ngoài trần trụi với vài cái lông thụ cảm thưa thớt còn sót lại,
đôi tai và mắt nhỏ, đầy nếp nhăn, dúi không lông sống chui lủi trong những
chiếc hang sâu dưới lòng đất. Những đặc điểm này giúp chúng thích nghi với cuộc
sống đào bới và tối tăm. Nhưng chưa hết, điểm kỳ lạ nhất của chúng là những
chiếc răng cửa cực lớn, hai chiếc ở hàm dưới có thể vận động độc lập với nhau,
giúp chúng đào hang và di chuyển các vật.
Trong một nghiên cứu mới, các nhà khoa học Mỹ đã chỉ ra rằng, các vùng não của
dúi không lông có sự biệt hoá tương tự, quyết định đến hoạt động của cặp răng
kỳ dị này. Kenneth Catania và các cộng sự tại Đại học Vanderbilt đã sử dụng các
thiết bị điện tử tí hon để ghi lại hoạt động thần kinh trong não dúi. Họ nhận
thấy gần 1/3 vùng vỏ não chi phối cảm giác xúc giác (somatosensory cortex), là
dành cho việc thu và phát thông tin tới những chiếc răng cửa ngoại cỡ. Trong
khi đó, hai chân trước của dũi không lông chỉ nhận được khoảng 10% không gian
tương ứng trên vỏ não của nó.
Catania cũng thông báo rằng vùng vỏ não chi phối cảm giác xúc giác của dúi
không lông dường như đã lấn át hết vùng vỏ não mới (thông thường có vai trò chi
phối thị giác). Có lẽ vì thế mà tầm nhìn của dúi rất dở, trong khi chúng lại
làm việc khá nhanh nhẹn trong bóng tối. Kết quả này cũng chỉ ra rằng, “đã có sự
sắp xếp lại não bộ ở loài dúi không lông, song song với việc chuyên hoá các cấu
trúc não và những hành vi có liên quan đến đời sống đào bới”.
425. Vì sao người và động vật vùng nhiệt đới lại nhỏ bé?
Do tiếp thu nguồn thức ăn nghèo nàn về protein và vi chất, các nhóm người và
động vật sống trong vùng nhiệt đới ẩm và xích đạo đã thích nghi theo hướng thu
nhỏ tầm vóc lại để tồn tại được trong môi trường bất thuận lợi này.
Theo các nhà địa hoá, trong điều kiện ánh sáng Mặt trời dồi dào như ở vùng xích
đạo, cộng thêm lượng mưa phong phú như trên những vùng nhiệt đới ẩm, đất đai
hai miền này có sự phong hoá mạnh mẽ và trở nên kém phì nhiêu, nghèo về đạm và
lân dễ tiêu. Chất kiềm, nhất là canxi và magie thiếu trầm trọng do mưa nhiều,
đất bị rửa trôi nhanh. Những nguyên tố vi lượng rất cần cho sự sống như iot,
coban… cũng thiếu, nhất là ở miền núi. Từ các yếu tố này, sự kém phát triển của
kích thích cơ thể người và động vật có thể được lý giải như sau:
- Thiếu canxi và magie sẽ gây ra các bệnh về xương. Xương không phát triển
khiến chiều cao hạn chế.
- Thiếu hụt sắt khiến con người mắc bệnh thiếu máu và gầy. Thực vật nhiệt đới
ẩm giàu sắt, song con người không hấp thụ sắt qua việc ăn thực vật mà nguồn sắt
chủ yếu là được cung cấp thông qua động vật (thịt, cá, trứng, sữa…). Tuy nhiên
trong thực tế, thức ăn của người và động vật sống ở vùng này chủ yếu là thực
vật, động vật chỉ chiếm khoảng từ 5% đến 10%.
- Trong điều kiện mưa nhiều, các chất kiềm cần thiết cho cuộc sống của các sinh
vật bị rửa trôi trong khi lại có sự tích luỹ của các nguyên tố khác như sắt,
nhôm, silic… Silic là nguyên tố làm cho lá cây của hai vùng này có màu xanh sẫm
và cứng, sắc, có nhiều xơ và kém giá trị dinh dưỡng mà điển hình là cỏ tranh.
Silic nhiều đến nỗi bên trong các ống tre, nứa ta có thể gặp các tinh thể silic
ngậm nước kết đọng lại như những cục đường. Đây là nguyên nhân giải thích vì
sao những động vật nuôi ở vùng nhiệt đới ẩm và xích đạo cho sản lượng thịt và
sữa thua xa so với các loài động vật ở xứ ôn đới.
Sự kết hợp những yếu tố trên đã khiến các cư dân của vùng nhiệt đới ẩm như Việt
Nam, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Indonesia, Angola, Ghine… đều có vóc dáng
nhỏ bé. Thậm chí ở vùng rừng xích đạo châu Phi có bộ lạc người Pich mê còn được
gọi là bộ lạc của những người “tí hon”. Nam giới ở đây cao không quá 1,3 mét,
còn phụ nữ chỉ cao trung bình khoảng 1 mét.
Tình trạng tương tự như vậy cũng diễn ra đối với động vật. Theo tính toán của
các nhà khoa học, các loại động vật ở vùng nhiệt đời ẩm và xích đạo có kích
thước thua thiệt so với đồng loại của chúng ở vùng ôn đới tới 1,5 mét. Ví dụ,
lài hươu cao cổ sống ở các đồng cỏ ôn đới có chiều cao trung bình là 6 mét
trong khi ở vùng xích đạo chúng chỉ cao có 2,5 mét mà thôi.
426. Vì sao ong mật chết sau khi đốt?
Cũng tự vệ như các sinh vật khác, ong mật tấn công những kẻ lạ mặt xâm phạm
lãnh thổ của chúng. Tuy vậy, chỉ trong trường hợp bất đắc dĩ ong mật mới chống
trả đối phương bằng phương phát đốt, vì khi đó, chúng đồng thời “ký” vào “bản
án tử hình” của chính mình.
Ong mật đốt người bằng chiếc ngòi ở cuối phần bụng. Ngòi ong mật gồm một kim ở
phía cuối lưng và hai kim ở cuối bụng. Các kim đó thông với tuyến nọc độc và
các cơ quan nội tạng trong bụng ong mật. Phần nhọn của kim cuối bụng có mấy
chiếc ngạnh cong. Khi ngòi ong cắm vào da người rồi rút ra, những chiếc ngạnh
cong mắc trong da thịt người kéo cả ngòi và một phần ruột ong tuột ra theo, sau
đó không lâu ong sẽ chết. Bởi thế, trong trường hợp bất đắc dĩ, ong mới đốt người.
Nhưng nếu ong mật đốt vào côn trùng có vỏ cứng, ngòi ong sẽ rút ra được (qua lỗ
thủng trên vỏ côn trùng), nó sẽ thoát chết.
Ong mật không thích màu đen và mùi rượu, hành, tỏi. Bởi vậy bạn muốn an toàn
khi đến gần tổ ong, nhớ kiểm tra xem mình có vừa “ẩm thực” các món khá nặng mùi
trên không và đừng quên mặc quần áo sáng màu.
Ong mật đốt người bằng chiếc ngòi ở cuối phần bụng. Ngòi ong mật gồm một kim ở
phía cuối lưng và hai kim ở cuối bụng. Các kim đó thông với tuyến nọc độc và
các cơ quan nội tạng trong bụng ong mật. Phần nhọn của kim cuối bụng có mấy
chiếc ngạnh cong. Khi ngòi ong cắm vào da người rồi rút ra, những chiếc ngạnh
cong mắc trong da thịt người kéo cả ngòi và một phần ruột ong tuột ra theo, sau
đó không lâu ong sẽ chết. Bởi thế, trong trường hợp bất đắc dĩ, ong mới đốt
người. Nhưng nếu ong mật đốt vào côn trùng có vỏ cứng, ngòi ong sẽ rút ra được
(qua lỗ thủng trên vỏ côn trùng), nó sẽ thoát chết.
Ong mật không thích màu đen và mùi rượu, hành, tỏi. Bởi vậy bạn muốn an toàn
khi đến gần tổ ong, nhớ kiểm tra xem mình có vừa “ẩm thực” các món khá nặng mùi
trên không và đừng quên mặc quần áo sáng màu.
427. Vì sao ruồi muỗi… mất tích trong mùa Đông?
Mùa Đông, giá rét căm căm đã khiến cho ruồi muỗi phải đi tìm nơi trú ẩn, không
còn thấy bóng dáng con nào nữa. Chúng “lánh nạn” đi đâu vậy nhỉ? Thật ra, chúng
không đi đâu xa, mà chỉ bất động ở góc nhà hay xó bếp để bảo tồn năng lượng.
Các loài ruồi sinh sống ở các miền khác nhau sống qua mùa Đông với phương thức
khác nhau. Ở phương Bắc giá rét, đa số ruồi sống qua mùa Đông dưới hình thức
nhộng, nhưng ở phương Nam đỡ rét hơn, một số ruồi sống qua mùa Đông dưới dạng
ấu trùng đã trưởng thành.
Trong mùa Đông, ấu trùng ruồi đã trưởng thành thường đậu yên ở những nơi kín
gió có ánh nắng Mặt trời như dưới mái hiên, khe tường, chuồng súc vật, nhà
xí…chúng không bay và cũng không ăn uống gì. Nhưng chúng không chết bởi lẽ
trước mùa Đông chúng đã dự trữ chất dinh dưỡng dưới dạng mỡ trong cơ thể. Lớp
mỡ này được cơ thể ruồi sử dụng dần cho đến mùa xuân ấm áp chúng mới bay ra và
hoạt động bình thường.
Nhộng do ấu trùng ruồi (dòi ) biến thành. Ở phương Bắc trời rất giá rét nhưng
nhộng vẫn sống an toàn vì chúng có lớp vỏ dày giống như một ngôi nhà giữ nhiệt.
Mặt khác nhộng không sống ngoài trời mà chui rúc trong các đống phân, đống rác
hoặc dưới đất có nhiệt độ ấm hơn ngoài trời. Đợi đến mùa xuân ấm áp, nhộng mới
phát triển thành ruồi đội đất chui lên mà bay đi. Tại vùng này rất ít khi ruồi
sống qua mùa Đông dưới dạng ấu trùng vì khí hậu rất lạnh mà cơ thể ấu trùng
ruồi lại không có lông, chỉ có một lớp vỏ mỏng không chống đỡ được nhiệt độ
lạnh dưới không độ C.
Ở phương Nam, khí hậu ấm áp hơn nên ruồi thường sống qua mùa Đông dưới dạng ấu
trùng. Chúng chui rúc trong các đống phân, rác… đợi đến mùa xuân mới hoá thành
nhộng và sau đó biến thành ruồi.
Muỗi cũng có nhiều loài, mỗi loài có phương thức sống qua mùa Đông khác nhau.
Có loài tồn tại trong mùa Đông dưới dạng trứng, đến mùa xuân mới nở thành ấu
trùng. Có loài sống qua mùa Đông bằng cách lẩn trốn vào những nơi kín gió như
góc nhà, gậm giường, hốc cây… đến mùa xuân mới bay ra đẻ trứng. Cũng có loài
muỗi sống qua mùa Đông dưới dạng bọ gậy, chúng có thể sống dưới đáy hồ đóng
băng, đợi mùa xuân đến mới phát triển và lột xác thành muỗi.
428. Vì sao nhện nước không chìm?
Thật dễ hiểu vì sao nhện nước có thể trôi nổi và lướt đi trên bề mặt ao hồ và
các con suối. Nhưng đến tận giờ, người ta vẫn chưa rõ bằng cách nào loài côn
trùng này không bị chìm, ngay cả trong mưa bão quăng quật hoặc khi nước cuốn.
Khi nghiên cứu dưới kính hiển vi cực mạnh, các nhà khoa học Trung Quốc đã phát
hiện thấy quanh chân của chúng là hàng nghìn sợi lông tí hon, mỗi sợi chỉ dài
khoảng 50 micromet. Các sợi lông này xù ra thành những chùm tơ cực nhỏ, “ bẫy”
không khí vào bên trong và tạo ra lớp đệm ngăn cách chân của nhện với mặt nước,
đống thời làm tăng sức nổi của con vật.
“Tính kỵ nước của lớp bọt khí này có thể đã hỗ trợ chúng đứng vững trên mặt
nước”, Lei Jiang, thuộc Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc ở Bắc Kinh, đồng tác giả
của nghiên cứu , nhận định.
“Các đụng chạm nhẹ hoặc nhiễu loạn có thể phá vỡ cân bằng này. Song, lớp đệm
khí ở chân của nhện nước có thể giúp chúng di chuyển nhanh chóng và lấy lại
thăng bằng trên mặt nước, ngay cả trong mưa bão hoặc các biến động khác”.
Jiang lưu ý rằng những đặc điểm tương tự mà các động vật khác cũng có, như bộ
lông trơn trên cơ thể vịt, đều hoạt động theo cùng một cách. Tuy nhiên, hầu hết
chúng kém hiệu quả hơn.
Nhện nước (Gerris remigis) sống chủ yếu trong các ao, hồ, sông , ngòi, là loài
tiến bộ nhất trong tự nhiên về khả năng cư ngụ trên mặt nước. Hai cặp chân dài
mảnh khảnh giúp chúng nổi và đi lại trên đó dễ dàng như ta đi trên cạn. Chúng
còn có một đôi chân trước nhỏ hơn, sử dụng trong việc bắt mồi.
Đôi chân của chúng có thể tạo ra chỗ trũng tới 4 milimét mà vẫn không phá vỡ
mặt nước, và mang tới 15 lần trọng lượng cơ thể mà không chìm. Khả năng nổi phi
thường này cho phép con vật nhảy tưng tưng trên mặt nước, giống như quả bóng
cao su trên đường, giúp nó dễ dàng tiếp cận với con mồi cực nhanh. Nhện nước có
thể lao vào bữa ăn với tốc độ bằng cả trăm lần chiều dài cơ thể chỉ trong một
giây. Hãy hình dung để có thể làm được như thế, một người cao 1,8 mét sẽ phải
bơi với tốc độ 644 kilomét mỗi giờ!
429. Bí quyết bám dính của côn trùng là gì?
Thế giới tự nhiên luôn tiềm ẩn những bí quyết đôi khi rất giản đơn nhưng lại
rất hiệu quả của các loài sinh vật nhằm thích nghi với các điều kiện của môi
trường sống. Đối với một số loài không thể tự đảm bảo cho mình một cuộc sống
độc lập hoàn toàn, chúng luôn biết tìm cách “nương nhờ” vào một đối tượng khác
một cách hết sức độc đáo. Trong quá trình nghiên cứu tập tính của một số loài
bướm ở Costa Rica và một loài giun biển sống ký sinh, Andrew Parker và Abigail
Ingram thuộc Khoa Động vật học, Đại học Oxford (Anh) đã tìm thấy cách thức mới
cực kỳ hiệu quả để chúng bám dính vào con mồi.
Đối tượng đầu tiên là loài bướm với đôi cánh gần như trong suốt ở Costa Rica có
tên khoa học là Greta oto. Phần lớn thời gian trong chu kỳ sinh trưởng, loài
bướm này sống trong một cái kén treo lơ lửng bên dưới các phiến lá. Ngay từ
giai đoạn còn là sâu, Greta oto luôn tìm một phiến lá rộng rồi tiến hành dệt
một cái tổ kén dính ở mặt dưới lá để làm nơi trú ngụ. Đến thời điểm lột xác, lớp
da của nó tách làm hai rồi nó chui ra khỏi kén và phát triển thành bướm. Nghiên
cứu cấu trúc tổ kén, Parker và Ingram nhận thấy ở phần đầu của cái kén này có
vô số những cái móc nhỏ xíu có khả năng bám chặt vào phiến lá. Độ bám dính của
những cái móc chắc đến mức các nhà khoa học không thể tách được cái kén ra khỏi
phiến lá trừ trường hợp xé rách phần phiến lá có đính tổ kén.
Để tìm hiểu bí quyết của Greta oto, nhóm khoa học đã dùng một máy ảnh kỹ thuật
số ghi lại từng hoạt động của con sâu trong giai đoạn bắt đầu tạo ra những cái
móc ở đầu kén để treo lên những phiến lá. Khi phóng to từng chi tiết trong mỗi
bức ảnh, họ nhận ra phần chóp phía trên của các kén không phải có dạng thon
nhọn mà là hình bán cầu và những cái móc nhỏ xíu phủ bên trên phần chóp đó chĩa
ra nhiều hướng khác nhau. Phần gốc của những cái móc này sau khi xuyên qua lớp
vỏ kén lại đan xen với nhau tạo thành một cấu trúc vững chắc mà theo tính toán
của các nhà khoa học thì có thể đảm bảo đỡ được một trọng lượng nặng gấp 40 lần
cái kén. Đây có thể là một bí quyết giúp lý giải tại sao những cái kén của loài
bướm này chỉ treo lơ lửng trên phiến lá mà có thể chịu được những trận bão cực
mạnh của vùng Trung Mỹ.
Khám phá này của Parker và Ingram ngay lập tức đã được một đơn vị nghiên cứu
của Bộ Quốc Phòng Anh chú ý tới với mong muốn tìm ra một dạng vật liệu có độ
bám dính cao và có thể sử dụng được dưới nước. Loại vật liệu đó sẽ được dùng để
gắn nhiều loại thiết bị nghiên cứu hải dương học ở dưới gầm những con tàu và
chịu được tác động của những dòng hải lưu.
430. Tại sao voi con lại không dùng vòi để bú sữa?
Loài voi đã sống trên Trái đất từ rất lâu. Trước kia, chúng sống ở mọi nơi trên
các châu lục, nhưng ngày nay, chúng chỉ sống ở châu Phi và châu Á. Có thể nói,
loài voi là loài động vật to lớn nhất ở trên cạn. Loài voi châu Phi to lớn hơn
loài voi châu Á về mọi mặt.
Cái vòi là mũi của voi trong quá trình tiến hoá, một bộ phận năng động và giúp
ích rất nhiều cho voi. Cái vòi giúp cho voi ngửi thấy mùi từ rất xa và từ mọi
hướng. Nó dùng vòi đưa thức ăn vào miệng một cách dễ dàng. Vòi voi rất nhạy cảm
với môi trường xung quanh. Nó dùng vòi để gãi và vuốt ve nựng con cái. Dùng vòi
để phun nước làm mát cơ thể và sạch bụi.
Những con voi con biết đi ngay sau khi lọt
lòng mẹ và phải mất 4 – 5 tháng những chú voi con mới sử dụng thành thạo chiếc
vòi của mình. Tuy năng động như vậy, nhưng voi con không dùng vòi của mình để
bú sữa vì chúng không thể bú sữa bằng mũi của mình. Những con voi dùng vòi để
đánh hơi tìm kiếm hơi nước thật xa, thậm chí ngay cả trong lòng đất. Nhờ vào
khả năng tìm nước tuyệt vời đó mà loài voi có thể sống sót qua những cơn hạn
hán. Voi có khứu giác rất nhạy để nhận biết mọi thứ. Loài voi có một trí nhớ tuyệt
vời và điều đó rất hữu dụng khi đó là một con đầu đàn. Con voi đầu đàn rất tinh
khôn và tích luỹ nhiều kinh nghiệm để có thể điều khiển bầy đàn của mình. Nó
phải biết lãnh địa của chúng là ở đâu, nơi nào có thức ăn theo từng mùa trong
năm, cách tránh nguy hiểm… Voi đầu đàn chỉ có thể là một con voi cái vì voi đực
khi trưởng thành lập tức sống riêng bầy và bầy voi chỉ còn lại những con cái và
voi con. Khi một con voi cái qua đời, con của nó sẽ được những con voi cái khác
chăm sóc như con ruột.
431. Tại sao hươu cao cổ có thể đưa máu lên trên đầu?
Hươu cao cổ mang dáng vẻ lịch lãm, duyên dáng với một cái cổ dài, chiếc áo
khoác ngoài đẹp đẽ lốm đốm cùng với những hàng lông mi dài. Mặc dù vậy nét độc
đáo của một con hươu cao cổ lại là quả tim của nó. Nó hoàn thành nhiệm vụ bơm
máu tới bộ não của hươu nằm ở đầu chiếc cổ dài 2,5 mét dù rằng chỉ có 7 đốt
sống cổ như các loài động vật có vú khác. Cuối thế chiến lần thứ hai các nhà y
học Mỹ trong lĩnh vực hàng không đã nghiên cứu quả tim của hươu cao cổ nhằm tìm
ra những giải pháp trước những vấn đề về tuần hoàn máu mà sự gia tăng gia tốc
đã dẫn tới phản ứng của các phi công.
Quả tim của một con hươu cao cổ dài 60cm và nặng tới 12kg! Đó là một chiếc bơm
rất khoẻ, có khả năng duy trì áp lực của máu không hề thay đổi khi máu dồn lên
não cho dù đầu của hươu ở bất cứ tư thế nào. Đó là chuyện bình thường, không có
gì quan trọng. Đúng vậy, khi hươu cúi xuống uống nước thì nó phải hạ thấp đầu
xuống gần tới 5 mét rồi lại ngẩng đầu lên mà không kéo theo bất cứ một sự rối
loạn nào. Còn con người chúng ta thì sao, nếu chỉ cần một thay đổi nhỏ thôi
chúng ta cũng sẽ ngã xuống và ngất xỉu. Nhưng đối với con hươu cao cổ thì nó
vẫn chịu đựng được tốt.
432. Tại sao loài cá ép được gọi là cá quỷ?
Từ nhiều thế kỷ nay, tại các vùng biển mà xưa kia nhà đi biển Simbat thường
xuôi ngược vẫn tồn tại một phương pháp đánh cá vô cùng độc đáo của người
Pashrum là săn cá bằng cá ép. Cá ép được con người yêu mến và tôn vinh như một
vị thần thực sự, truyền thuyết kể rằng những con cá ép luôn bám theo những con
cá lớn như cá mập để hút máu và làm kiệt sức những con cá đó, chính vì vậy mà
cá ép còn có một biệt danh là Cá Quỷ.
Sống ở bờ biển phía Bắc đất nước Kênya, trên một hòn đảo nhỏ hoang vu Kioazu
nằm bên bờ biển Ấn Độ Dương là một bộ tộc chuyên sống bằng nghề đánh bắt cá.
Hiện nay, những thành viên của bộ tộc này vẫn giữ nếp sống và những tập quán mà
cha ông họ từng sống ở đây hàng ngàn năm trước, khi mà những người Ả Rập và Ba
Tư đặt chân đến đây, trong đó có nghề đi biển đánh bắt cá và buôn bán.
Trong những mẻ lưới, những ngư dân ở đây thường hy vọng sẽ bắt được cá đuối hay
cá mập và nếu như bắt được cá kiếm thì càng tốt. Trước kia người Pashrum chỉ
đánh bắt cá bằng cá ép hay còn gọi là cá quỷ, còn ngày nay, họ cũng biết dùng
đến lưới để đánh bắt được nhiều hơn. Trên thân những con cá mập bị đánh bắt
bằng lưới thường có những con cá ép bám vào và những người ngư dân này giữ lấy
chúng để đánh bắt cá một cách độc đáo như cha ông họ cũng đã từng làm trước
đây, việc đánh bắt bằng cá ép hay cá quỷ rất đơn giản, chỉ cần sỏ một sợi chỉ
cước vào phần sụn ở đuôi cá ép là có thể kiểm soát được con vật mà không làm
chúng bị đau. Những người ngư dân rất quý cá quỷ và huyền thoại về loài cá này
được lưu truyền từ bao đời nay. Cá quỷ theo tiếng địa phương là Paza, nó được
xem là một thành viên trong gia đình người Pashrum và họ thường đặt chúng ở
những nơi râm mát trong bồn nước. Trẻ con trên đảo Kioazu đùa giỡn với những
con cá quỷ chẳng khác gì với những con vật nuôi trong nhà. Không chỉ là một con
vật mang lại sự tốt lành mà cá quỷ còn là một con vật rất có ý nghĩa, tất cả
mọi người dân trên đảo đều mong ước rằng một ngày nào đó họ sẽ cùng cá quỷ đánh
bắt được một con cá đuối thật lớn để lấy thịt về nuôi gia đình.
Để thực hiện việc đánh bắt cá bằng cá ép, những người ngư dân mang con cá theo
và neo thuyền tại một vùng biển có nhiều cá lớn, nhất là vùng có nhiều cá đuối
và cá mập. Thông thường trong những lần đánh bắt như thế, người ta dùng hai con
cá quỷ để chúng phát hiện con mồi. Họ thả khoảng 300 mét dây theo cá quỷ và kể
từ đó sợi dây là mối liên hệ duy nhất của họ với con cá quỷ. Họ rất chú ý để
không bị đứt dây làm mất con cá quỷ quý báu. Cuộc tìm kiếm sẽ kéo dài cho đến
khi nào những con cá quỷ tìm thấy con mồi. Những ngư dân chèo thuyền bám theo
hướng di chuyển của con cá quỷ để cho nó đỡ mệt vì phải kéo căng sợi dây. Những
con cá quỷ có cấu tạo rất đặc biệt, trên đầu của nó là một màng giống như một
cái đĩa dẹt nhỏ nên nó có thể bám chặt vào những con cá đuối, cá mập và hút máu
của chúng như những con đỉa. Theo lời kể của những người ngư dân thì đôi khi
những con cá quỷ này lại bám vào mạn thuyền để khỏi phải bơi cho mệt sức.
Khi sợi dây rung lên báo hiệu con cá quỷ đã bám vào con mồi thì những người ngư
dân lặn xuống để xem đó là cá đuối hay cá mập. Tay họ cầm những cây lao nhọn và
sẵn sàng đâm vào con cá to lớn, họ cũng cẩn thận tránh đâm phải những con cá
quỷ của họ đang bám chặt con mồi và hầu hết những cuộc săn bắt bằng cá quỷ đều
thành công như họ mong đợi.
433. Tại sao nói rùa là loài vật già nhất thế giới?
Những con vật già nhất trên thế giới sống trên một vài hòn đảo của Thái Bình
Dương và Ấn Độ Dương. Đó là những con rùa đất khổng lồ mà giờ đây chỉ còn tồn
tại có hai loài, một loài ở Galapagos còn loài kia ở Aldabra nằm cách xa về
phía Tây của bờ biển Tandani khoảng 640 cây số (thuộc Đông Phi). Cách đây hai
trăm năm có những loài rùa tương tự như vậy đã được tìm thấy ở vùng
Mandagascar, Rodriquez và những vùng khác nữa nhưng giờ đây chúng đã bị tiêu
diệt. Những con già nhất trong số rùa này dài tới hơn 1,2 mét. Người ta cho là
tuổi thọ xấp xỉ của chúng là 150 năm. Một con rùa tên là Marion bị bắt vào năm
1766 được đưa lên đảo Maurice cùng với bốn con khác. Năm 1910 Marion bị mù rồi
ngẫu nhiên bị giết chết vào năm 1918. Vậy là nó đã sống trên đảo Maurice được
152 năm, nhưng thực tế tuổi đời của nó phải là 180 năm bởi vì trước khi Marion
được đưa tới đảo thì nó đã có một thân thể to lớn. Một con khác được đưa đến
đảo Sri Lanca và Ceylan vào năm 1797 và nó sống mãi cho tới năm 1910, mai của
nó đo được 1,36 mét. Nhiều kỷ lục khác về tuổi thọ đã được ghi chép cho các
loài rùa khác. Một con rùa gốc từ những đảo Tongas ở cách xa hơn 300 km về phía
Đông của Australia cũng đã trao cho một nhà thám hiểm người Anh J. Cook năm
1777. Nó đã chết ở tuổi 189 vào năm 1966.
Nhưng con rùa quái dị quả thật là loài vật sống lâu nhất. Theo các chuyên gia
nhận định thì những đối thủ trực tiếp nhất của chúng là những chú cá voi lớn có
thể sống được một trăm năm. Người ta cũng khẳng định voi châu Phi cũng có thể
sống được một thế kỷ nhưng cho đến nay những khẳng định này vẫn chưa được chứng
thực. Những con rùa đất khổng lồ chưa phải là loài lớn nhất vì loài rùa luýt,
một loài rùa biển dài tới 2,4 mét, cách đây hàng triệu năm đã có con dài tới 4
mét sống ở châu Mỹ và một con khác đo được 6 mét cũng đã tồn tại ở Ấn Độ.
Hải âu biển cũng là một loài sống rất thọ sau khi được theo dõi bằng phương
pháp đeo vòng cho nó. Con hải âu Leysan làm tổ trên một hòn đảo nhỏ biệt tăm ở
Thái Bình Dương trên thực tế đã sống được tới 42 năm.
434. Tại sao con người lại săn bắt cá voi?
Cá voi là loài động vật khổng lồ to lớn nhất trên Trái đất, nhưng chúng lại là
loài động vật hiền từ của biển cả. Trọng lượng của những con cá voi có thể đạt
tới 150 tấn. Nhưng hiện nay một số loài cá voi đang đứng trước ngưỡng cửa của
sự tuyệt chủng bởi sự săn bắt có quy mô lớn của con người. Trường hợp của những
con cá voi bướu hay cá voi xanh đã phản ánh rất rõ những hậu quả của sự săn bắt
ráo riết: ở châu Nam Cực có rất nhiều loài cá voi lớn sinh sống. Các nhà khoa
học nhận định rằng vào năm 1950 số lượng cá voi ở đây là 100.000 con. Người ta
dùng mọi cách để săn bắt cá voi đến nỗi mà chỉ mười lăm năm sau ở đây chỉ còn
có khoảng ba ngàn con.
Số lượng cá voi hiện nay chỉ còn khoảng chừng 12.000 con. Riêng cá voi xanh chỉ
còn chứng 700 con, một con số khá ít ỏi! Người ta kể rằng, cách đây vài thế kỷ
những người bản xứ ở đảo Mexique của bang California đã tiến hành săn bắt cá
voi một cách tàn nhẫn và rất ly kỳ. Vào tháng giêng khi đàn cá voi tới được bờ
biển bắc thì họ tiếp cận cá voi trên những chiếc xuồng, một người can đảm nhất
trong số này liền nhẩy lên lưng của một con trong đàn và cắm hai mảnh gỗ vào
hai lỗ mũi khiến cho con vật phải chết ngạt.
Từ khi con người phát minh ra những khẩu súng bắn những chiếc lao móc dùng để
săn cá voi thì kỹ nghệ chế biến nó cùng trở nên phát triển. Sau khi bắt được cá
voi người ta bơm không khí vào giữa khoảng da và thịt cá voi để tránh cho cá
voi bị chìm và bị trôi. Những tầu săn cá voi sẽ móc con cá và kéo về xưởng chế
biến. Thịt và mỡ cá voi là nguồn nguyên liệu chủ yếu đầu tiên mà cá voi cung
cấp. Một thời gian dài mỡ cá voi được dùng làm dầu thắp sáng và dùng để sản
xuất ra xà phòng. Trước khi chất dẻo đăng quang đã có một thời tồn tại một thị
trường rất sầm uất kinh doanh những chiếc yếm, những tấm sừng uốn dẻo treo
những bộ hàm trên của cá voi. Những tên gọi đơn giản “cá voi” là những thứ dùng
để giữ cho các áo nịt ngực và áo lót của các bà được chắc chắn. Ngày nay chúng
chỉ để làm chổi quét mà thôi.
Hiện nay đã có những luật cấm săn bắt loài vật đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Những người trước kia sống bằng nghề đánh bắt cá voi nay đã chuyển sang nghề
hướng dẫn viên du lịch, tham quan cá voi trên đại dương. Ở nhiều nước châu Á,
ngư dân gọi cá voi là cá Ông và họ tin rằng cá Ông đã giúp họ rất nhiều khi
hành nghề trên biển, nhất là giúp họ tránh được những tai nạn tàu thuyền trước
những con sóng lớn. Vì vậy khi phát hiện xác cá voi người dân tập trung kéo cá
voi lên bờ và chôn cất cá voi rất chu đáo. Nhiều nơi người ta còn lập đền thờ
và tổ chức cúng lễ cho chúng.
435. Tại sao nói cá voi là một động vật thuộc lớp thú?
Cá voi xanh là loài cá voi to lớn nhất của đại dương với chiều dài là 30 mét và
nặng tới khoảng 150 tấn. Họ hàng của cá voi xanh là các loại cá voi xám, cá voi
trắng, cá voi lưng gù… hay cá nhà táng, cá heo…
Thực ra cá voi là một động vật thuộc lớp thú. Chúng có đầy đủ đặc tính của lớp
thú ở trên cạn như hô hấp bằng phổi, đẻ con và nuôi con bằng sữa. Cách đây 65
triệu năm, khi loài khủng long tuyệt chủng thì những sinh vật khác trên hành
tinh mới sinh sôi nảy nở và chính sự phát triển nhanh chóng này đã dẫn đến tình
trạng khan hiếm thức ăn. Trong điều kiện sống như thế, tổ tiên của loài cá voi
đã phải di chuyển đến vùng ven biển để kiếm ăn và trải qua một thời gian dài
tiến hoá loài cá voi đã thích nghi được với môi trường nước cho đến tận ngày
nay. Khi chuyển từ cuộc sống trên cạn sang sống môi trường nước, cá voi chia
thành hai nhóm: nhóm có răng và nhóm không có răng. Nhóm cá voi không răng
chuyên ăn các sinh vật phù du thì răng của chúng biến hoá hoàn toàn. Còn nhóm
cá voi có răng thì chuyên ăn các loài cá hay nhuyễn thể thì răng của chúng rất
phát triển. Cá voi có thân hình thon dài, da láng trơn và có khả năng chịu lạnh
rất cao. Khả năng bơi của cá voi cũng rất tuyệt với, xương sống cá voi rất mềm dẻo,
uốn lượn dễ dàng trong nước, đuôi cá voi nằm ngang. Phổi của loài cá voi tuy bé
nhưng lại hoạt động rất hiệu quả, chỉ cần vài giây ngoi lên trên mặt nước, cá
voi đã có thể thay đổi 90% không khí trong phổi của chúng. Khả năng lặn sâu
khoảng 2 giờ của cá voi là đặc điểm kỳ diệu của loài sinh vật khổng lồ này.
Trước đây người ta đã đánh bắt được một con cá voi xanh có kích thước chiều dài
là 33,17 mét và nặng tới 190 tấn, chỉ riêng bộ xương của con cá voi đã nặng tới
29 tấn, trái tim nặng 700 kg, gan nặng 980 kg và lưỡi của nó nặng 4,3 tấn.
Trọng lượng của lưỡi không thôi đã bằng trọng lượng của một con voi trên cạn.
Cá voi xanh cũng di cư như những loài cá khác. Bình thường chúng sinh sống ở
vùng cực Bắc lạnh giá, nhưng khi sinh sản chúng lại di cư về phương Nam để sinh
sản trong những vùng nước ấm hơn. Nhờ lớp da dày tới 60 cm mà cá voi có khả
năng chịu lạnh rất cao cũng như tránh được tổn thương khi va chạm.
Thời gian mang thai của cá voi rất dài, khoảng 11 tháng. Khi mới sinh ra cá voi
con đã dài 7 – 8 mét, nặng 3 – 4 tấn. Sau một tháng thì trọng lượng của chúng
đã tăng gấp đôi. Mỗi chú cá voi con cần đến 200 lít sữa mỗi ngày. Sữa cá voi có
rất nhiều dinh dưỡng, trong thành phần sữa cá voi có tới 50% là Protein và chất
béo.
Các nhà khoa học cho rằng tuổi thọ của loài cá voi trong thiên nhiên dài khoảng
50 năm hoặc có thể là lâu hơn nữa. Những con cá voi có khả năng phát ra những
âm thanh trầm bổng mà người ta thường bảo là cá voi đang hát. Những âm thanh
này có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của loài cá voi. Tiếng kêu giúp
chúng tìm bạn, giúp chúng tìm đường hoặc thông báo những nguy hiểm cho đồng
loại khi cần thiết. Cá voi là loài cá thông minh. Nó có thể bắt chước được một
số hành vi của con người.
436. Tại sao nói cá heo là loài cá thông minh?
Tháng Mười năm 1987 cuộc chiến tranh Iran - Irắc đang diễn ra rất gay go. Đúng
lúc đó năm con cá heo, gọi là năm con cá heo mõm dài đã được một đơn vị hải
quân Mỹ thả ở eo biển Ormuz để tham gia vào một chiến dịch gỡ mìn. Con cá heo
lớn (Tursiops trucatus) là con cá heo đã phát hiện được rất nhiều các loại mìn.
Như vậy năm con cá heo đó đã được huấn luyện để làm nhiệm vụ phát hiện những
quả mìn mà người Iran đã thả xuống nhằm gây trở ngại cho những tàu chở dầu hoạt
động ở vùng vịnh Persique.
Đây không phải là lần đầu tiên những con cá heo được sử dụng vào những mục đích
quân sự vì trong cuộc chiến tranh Việt Nam, “con cá heo hàng hải” đã được sử
dụng rồi. Nhưng các nhiệm vụ của chúng đều “tối mật” cho nên người ta không thể
biết được đích xác đó là những nhiệm vụ gì được.
Trái lại, một điều chắc chắn mà ai cũng biết là sự thông minh của những con vật
biển có vú này. Giống như những con dơi, chúng được trời phú cho một cơ quan
định vị bằng sóng âm, cá heo sẽ phát ra các âm thanh, khi gặp một vật cản những
âm thanh đó sẽ phản hồi lại, lúc này bộ nhớ của chúng “đã vẽ” lên được tấm bản
đồ ghi lại những gì mà chúng phát hiện ở xung quanh đấy, đồng thời cũng báo cho
chúng biết tình hình chuyển động của đối tượng.
Để tìm được khoảng cách: Như trường hợp tìm ra những quả mìn thả ở eo biển
Ormuz - người ta cho rằng con cá heo đã sử dụng tới một cái máy thu phát tín
hiệu nằm ở đáy bộ não và nó sẽ ghi lại những sóng âm thanh phát đi và so sánh
với sóng phản hồi.
Nhưng cá heo có thể phát đi các kiểu âm thanh khác nữa: đó là những âm thanh
chúng dùng để thông tin cho nhau biết. Theo đánh giá của các chuyên gia thì kho
từ vựng của cá heo có khoảng 400 tín hiệu phát ra khác nhau.
Cá heo là một loài vật rất thông minh chúng có thể bắt chước và hiểu được những
động tác của con người. Con người đã biết được đặc điểm và khả năng của cá heo
nên đã huấn luyện và sử dụng cá heo vào những mục đích khác nhau như mục đích
quân sự, huấn luyện cá heo làm xiếc…
437. Tại sao mỏ chim lại cong?
Cánh chim chỉ dùng để bay còn đôi cẳng chân cũng ít khi được dùng để cắp thức
ăn. Vậy mỏ chim là một bộ phận để bắt, giữ thức ăn. Mỏ chim khá cứng chắc để
làm tròn được nhiệm vụ này và là vũ khí để tự vệ, chiến đấu đẩy lui những con
vật khác đến xâm lược, đồng thời nó cũng phải tinh tế để đánh bóng bộ lông hay
xây dựng một cái tổ. Mỏ chim thực ra là một cái xương được bọc bởi nhiều lớp
keratin - một chất tạo ra cả lông và móng như tóc và móng tay của con người.
Keratin là một chất sống phát triển liên tục mà mỏ chim không dùng đến. Hàm
trên của mỏ chim được gắn cố định vào xương sọ của đầu chim, hàm dưới của nó
thì chuyển động được.
Hình
dáng mỏ chim cho chúng ta biết về cách sống của nó. Nhiều loài chim ăn thịt có
mỏ ngắn và dày, trong khi những loài chim nuôi sống bằng các loài sâu bọ có mỏ
dài và mảnh giống như hình cái kẹp. Thường các loài chim ăn thịt được trời phú
cho cái mỏ cong cong để xé được thịt con mồi.
Mỏ của loài chim hồng hạc màu hồng lại có hình dạng khá lạ thường, mỏ chim được
phủ một lớp diềm để lọc các thức ăn. Chim hồng hạc ăn thức ăn bằng cách dốc
ngược mỏ của mình lên, phần thức ăn được đưa lên cao, đẩy nước ra ngoài mỏ.
Diềm hàm trên có tác dụng để lọc tảo và tôm, cá…
Mỏ của chim tu căng rất to và cồng kềnh là câu đố khó hiểu đối với các nhà
chuyên gia. Một cái mỏ nhỏ hơn thế đối với nó cũng đủ để bóc được vỏ những hoa
quả để nuôi sống nó rồi. Mỏ con đực lớn hơn của con cái rất nhiều, có lẽ nó
dùng mỏ để quyến rũ con chim cái. Có những loài chim có mỏ như hình cái kéo với
những hàm dài không đều nhau. Sau khi chim từ trên không trung lao xuống nó bay
sát mặt nước, khi mỏ mở ra hàm dưới của nó sẽ rẽ nước. Gặp con cá nào mỏ của nó
lập tức khép lại như một chiếc bàn kẹp.
Con chim cổ thìa hông Trung Mỹ và Nam Mỹ lại sử dụng chiếc mỏ dài hình cái thìa
để dò tìm thức ăn đựng trong bình. Trong lúc nó lắc cái bình đó từ phải sang
trái, xúc giác nhạy của nó sẽ dò tìm con mồi trước khi đớp.
Đối với loài hải âu Funma thì cái mỏ cong của nó thật là lý tưởng để chộp lấy
những con cá da trơn. Hải âu Funma thuộc dòng những loài hải âu nhỏ, mỏ của nó
có những lỗ mũi hình ống. Lỗ mũi của những con chim khác lại mở ở đằng sau mỏ.
438. Những con tàu chìm xuống tới
đâu?
Người ta thường cho rằng các con tàu đắm không chìm xuống đến đáy biển mà lơ
lửng bất động ở một độ sâu nào đó, do ở đây, nước bị nén đặc tới mức không cho
vật chất lọt qua. Các nhà khoa học đã chứng minh điều đó là sai lầm.
Ý nghĩ rằng nước dưới sâu rất đặc cũng có một số căn cứ, bởi vì áp suất của
nước dưới sâu quả thật rất lớn. Ở độ sâu 10 m, nước ép vào vật nhúng trong nó
với một lực 10N trên 1cm2. Ở độ sâu 1.000 mét, lực ép đó là 1.000 N. Đại dương
có những chỗ còn sâu tới mấy cây số (như vũng Marian ở Thái Bình Dương sâu trên
11 km). Qua đó có thể thấy ngay là ở những nơi sâu như thế, nước và những vật
chìm trong nước phải chịu một áp suất vô cùng lớn. Nếu dìm một cái chai rỗng có
đậy chặt nút xuống một nơi khá sâu rồi lại mang nó lên thì bạn sẽ thấy, áp suất
của nước đã đẩy nút chai chạy tọt vào trong và chai chứa đầy nước.
Qua đó, tự nhiên chúng ta sẽ nghĩ rằng có lẽ áp suất lớn như vậy nhất định sẽ
dồn ép nước ở dưới sâu sát lại đến nỗi ngay những vật nặng cũng không thể dìm ở
trong đó được, giống như một quả cân sắt không thể chìm trong thủy ngân vậy.
Nhưng thật ra, những ý nghĩ đại loại như thế hoàn toàn sai lầm. Thí nghiệm cho
biết, cũng giống như tất cả các chất lỏng nói chung, nước rất ít bị nén lại.
Dưới áp suất 10N/cm2, nước chỉ bị nén lại cả thảy 1/22.000 thể tích của nó mà
thôi. Và cứ mỗi lần áp suất tăng lên một lượng như vậy, thì nó cũng chỉ nén
chừng ấy mà thôi.
Nếu muốn nén nước đến mức để sắt không chìm ở trong nó thì cần phải tăng trọng
lượng riêng của nước lên 8 lần. Thế nhưng muốn tăng trọng lượng riêng của nước
dù chỉ lên 2 lần thôi, nghĩa là rút nhỏ thể tích đi một nửa, thì cần phải một
áp suất 110.000 N/cm2 (với giả thuyết rằng dưới áp suất lớn như vậy, nước cũng
vẫn co vì nén như đã nói ở trên). Một áp suất lớn như vậy thì chỉ ở nơi biển
sâu 110 km mới có được!
Từ đó có thể thấy rằng, nước dưới biển sâu hầu như không bị dồn nén lại. Ở nơi
sâu nhất, trọng lượng riêng của nước cũng chỉ có thể tăng được 1.100/22.000,
nghĩa là lớn hơn trọng lượng riêng của nước thường cả thảy là 1/20 hoặc 5%
thôi. Mà điều này dường như không ảnh hưởng tới điều kiện nổi của các vật thể
khác nhau trong đó.
Hơn nữa, những vật rắn nhúng vào trong loại nước như thế cũng phải chịu áp suất
ấy, do đó cũng bị nén lại. Vì vậy không còn một chút nghi ngờ gì nữa, hễ thuyền
đắm là chìm một mạch xuống tận đáy biển. Hay như Gion Meray nói: “Vật nào đã
chìm trong một cốc nước, tất phải chìm xuống tận đáy biển, kể cả nơi sâu nhất”.
439. Tại sao chim bay được?
Con người chúng ta luôn luôn mơ ước được bay trong không trung. Trong nhiều thế
kỷ qua, nhiều phát minh đã phối hợp chế tạo ra những máy móc mô phỏng theo sự
quan sát của con người về các loài chim. Nhưng tất cả các cỗ máy này đều thất
bại vì không có được các cánh như chim để rời khỏi mặt đất. Thân chim hoàn toàn
phù hợp với khả năng bay được của nó, xương chim lại nhẹ nhàng còn đầu chim có
một cấu tạo khoang chứa đầy không khí tạo cho chim giảm được trọng lượng. Sự hô
hấp nhanh đảm bảo cung cấp một lượng ôxy cho những cơ bắp ở lồng ngực chim tác
động đến hoạt động của đôi cánh, có được như vậy thì chúng mới có thể cung cấp
được nhiều năng lượng hơn. Nếu các cơ bắp và các lá phổi của chúng ta cũng hoạt
động như vậy thì chúng ta sẽ mạnh lên hàng chục lần.
Những lông cánh sơ đẳng: - Đó là những chiếc lông lớn ở đầu cánh chim, ở chim
bồ câu là những chiếc lông dài nhất, chúng bảo đảm tạo ra được sức đẩy và hướng
bay cho chim.
Những chiếc lông cánh thứ yếu: - Phần sau cánh chim tạo nên bởi những chiếc
lông này. Những lông cánh thứ yếu lại được bao phủ bởi những lông mình.
Những chiếc lông làm bánh lái: - Chim sử dụng lông dưới để điều khiển đường bay
của chúng cũng như để hãm lại. Khi một con chim bồ câu bay qua bay ngang qua
một vùng nhiều cây cối nó sẽ xoè lông đuôi ra để bay ngoằn nghèo giữa những cây
cối đó. Trên vùng cây thưa, chúng sẽ gập những chiếc lông đuôi lại.
Lông chim và xương chim: Nói cho đúng, mỗi chiếc lông chim là một chiếc ống
trung tâm với hàng trăm những sợi tơ. Những sợi tơ này liên kết lại với nhau
trên các lông cánh nhờ những chiếc móc tạo nên một mặt nhẵn. Trên mình chim là
lông chim và những sợi tơ rời móc lại với nhau trông bù xù có tác dụng chống
rét cho chim.
Những loài chim bay xa nhất cũng là những con có trọng lượng của cơ thể nhẹ
nhất. Xương của cánh một con chim rất nhẹ nên cũng giảm được trọng lượng cơ
thể. Những xương này lại được tăng cường bởi một mạng xương ngang khiến cho độ
cứng chắc của chim càng được tăng cường. Những loại chim lặn chân viền và những
loài chim lặn khác đều có bộ xương đặc nên chúng có thể chìm sâu dưới nước một
cách dễ dàng, những con không có khả năng bay cũng vì thế mà không thể cất cánh
được.
440. Vì sao có động vật ngủ đông,
có động vật không ngủ đông?
Hàng năm cứ vào đầu mùa đông rất nhiều con vật biến mất khỏi mắt chúng ta. Một
số con di cư, một số con khác thì chìm vào giấc ngủ sâu. Các nhà khoa học đặt
tên cho giấc ngủ mùa đông là “sự ngủ đông”. Thế nhưng vẫn có một số loài như:
chuột đồng, chim sẻ… lại đi kiếm ăn khắp nơi như không hề hay biết mùa đông?
Người ta chia động vật làm hai loại: máu lạnh và máu nóng. Loài máu lạnh là
động vật có nhiệt độ thay đổi, là các động vật ngủ đông. Theo như tên gọi, loài
động vật có nhiệt độ thay đổi có đặc tính là thân nhiệt của chúng thay đổi theo
nhiệt độ bên ngoài. Khi nhiệt độ bên ngoài cao, nhiệt độ cơ thể của chúng cũng
cao, các hoạt động sinh lý do đó cũng mạnh và biểu hiện khá sôi động. Vào mùa
thu khi nhiệt độ hạ thấp, các hoạt động sinh lý của chúng yếu dần, thậm chí
không cần hoạt động. Do vậy chúng trốn đi ngủ. Đối với loài gấu thì một sự nghỉ
ngơi kéo dài không tương đương như một trạng thái thực sự của một giấc ngủ lịm
mà nói đúng hơn đó chỉ là sự nghỉ ngơi lười biếng trong mùa đông mà thôi. Suốt
trong thời gian này nói đúng hơn là con vật đã thiu thiu ngủ nhưng không hề
giảm bớt bất cứ một chức năng trọng yếu nào và nó cũng chẳng từ bỏ việc khuấy
động đôi chân, đôi tay của nó để khỏi bị chết cóng hoặc thực hiện cả những việc
làm còn quan trọng hơn đó là đẻ con. Cả con mac-mot cũng vậy, trong trường hợp
nó đang ngủ thực sự, vẫn thỉnh thoảng động đậy cơ thể. Ngược lại con sóc phải
ngủ liên tục không ngừng từ bảy đến tám tháng. Phải nói kỷ lục ngủ thế giới
thuộc về loài sóc bé nhỏ ở châu Á – nó là con sóc túi má ngủ trong bảy tháng
mùa đông cộng với hai tháng hè để sống qua những mùa hạn hán.
Đối với loài vật có nhiệt độ cơ thể không thay đổi, để giữ nhiệt độ cơ thể
không đổi, chúng phải hoạt động liên tục trong mùa đông hoặc di cư đến những
vùng có nhiệt độ ấm áp để trú qua mùa đông, để giảm sự tổn thất nhiệt lượng do
sự lạnh lẽo của mùa đông. Vì vậy có những con vật như chó chẳng hạn, một giống
ở vùng đồng cỏ Bắc Mỹ chỉ ngủ một tuần lễ.
441. Loài vật có thể nhịn ăn bao lâu?
Trong những trường hợp đặc biệt loài vật không thể tìm được thức ăn cho chúng.
Vậy chúng sẽ nhịn đói được bao lâu?
Ta đã biết đến loài rệp giường và hải quỳ. Loài rệp giường nhiều khi để cái
bụng rỗng của chúng tới nửa năm hoặc hơn thế nữa. Nhưng các con của nó, những
ấu trùng rệp (khi sống trong nhà thường gây cho con người ta khó chịu cũng
không kém gì rệp trưởng thành) khi cần thiết, tức là nhà không có ai ở, có thể
nhịn ăn tới một năm rưỡi.
Hải quỳ không giống rệp nhưng cũng có thể nhịn đói lâu được tới ba năm. Người
ta đã nhiều lần thấy được điều đó trong các bể nuôi. Trong trường hợp như vậy
hải quỳ “gầy đi” rất nhanh; trọng lượng giảm xuống tới mười lần. Nhưng chỉ cần
cho nó ăn là lập tức nó tham lam nuốt vội vàng ngay. Chỉ sau mấy ngày là hải
quỳ béo lên rất nhanh, đến mức có thể trông thấy được. Ta khó có thể tin được
là nó có thể nhịn ăn lâu đến như vậy được.
Khi hải quỳ thèm ăn, nó nuốt bất kỳ thứ gì, thậm chí cả những thứ không ăn được
hoặc sẽ hại đối với nó. Một con hải quỳ bị đói có lần đã nuốt cả một cái vỏ
chai lớn. Cái vỏ chai bị nuốt vào bụng nằm ngang chia dạ dày thành hai phần
trên và dưới. Thức ăn ở miệng vào không xuống được phần dưới dạ dày. Người ta
nghĩ rằng hải quỳ sẽ chết. Nhưng nó đã tìm ra lối thoát: ở cái đế đúng chỗ
“bông hoa” biển bám trên đá mở ra một cái họng không răng, một cái mồm mới -
một cái lỗ ở bên hông con hải quỳ. Nhưng chẳng bao lâu sau chung quanh cái lỗ
đó đã mọc lên các xúc tu. Thế là con hải quỳ đó có hai mồm, hai dạ dày.
Khó có loài động vật phàm ăn nào sánh kịp được với loài bét. Chúng hút máu đủ
các loài động vật khác nhau, hút nhiều đến nỗi to phình ra không biết bao nhiêu
mà kể.
Con bét chó sau khi hút máu no nặng hơn lúc nó còn đói tới hai trăm hai mươi
lần. Còn con bét bò trong ba tuần, kể từ khi phát triển từ ấu trùng đến bét
trưởng thành đã tăng đến một vạn lần.
Nhưng cũng rất lạ là sau khi ăn uống phàm phu đến mức độ như vậy mà các con bét
có thể nhịn đói tới hàng năm trời. Để kiểm tra xem chúng có thể không ăn được
bao nhiêu lâu: các nhà bác học đã đem cắt các vòi miệng của nó đi; triệt điều
kiện hút máu. Nhưng con bét bò sau khi qua phẫu thuật đã sống tại phòng thí
nghiệm một năm, hai năm, ba năm… Người ta quên mất đi không buồn chờ thêm bao
giờ chúng mới chết. Nhưng chúng vẫn chưa chịu chết. Vẫn sống sang năm thứ năm,
rồi năm thứ sáu và thứ bảy… Thậm chí còn hơn thế nữa…
Vậy là người ta biết đến tổ tiên nhỏ bé của các chú bét nhỏ phá kỷ lục thế
giới.
442. Loài Khủng long có thật hay
không?
Những con Khủng long sống trên Trái đất cách đây tới hai trăm triệu năm và đã
biến mất khỏi Trái đất của chúng ta khoảng chừng sáu mươi lăm triệu năm.
Con người chỉ xuất hiện sau đó một vài nghìn thế kỷ cho nên cũng chưa bao giờ
có thể tận mắt nhìn thấy một con khủng long sống. Tuy vậy những con thằn lằn to
lớn khủng khiếp vẫn luôn luôn là một phần của trí tưởng tượng của chúng ta nếu
như xét đoán qua hàng nghìn loài sinh vật Rồng sinh sống ở những miền khí hậu
khác nhau và cũng là thế giới về những câu truyện thần thoại, truyền thuyết.
Vậy tại sao loài khủng long này không còn tồn tại nữa? Có rất nhiều giả thuyết.
Một số người cho rằng ngày xưa trên Trái đất đã xảy ra sự lạnh lẽo ghê ghớm,
ngược lại một số khác lại cho rằng sự biến mất của loài khủng long là hậu quả
của sự va chạm giữa Trái đất với một tiểu hành tinh lớn gây ra một đám cháy
khổng lồ trên mặt đất.
Tuy vậy cũng có nhiều thông tin có giá trị của các nhà khoa học cho chúng ta
những hiểu biết nhất định về chúng. Như phát hiện về một mảnh xương sọ của một
con khủng long khổng lồ ăn thịt ở phía Tây Nam Maroc của nhà cổ sinh vật học
Paul Sereno thuộc trường Đại học Chicago. Đây là một hoá thạch của loài khủng
long lớn nhất sống ở châu Phi cách đây chín mươi triệu năm khi ở miền này nằm
rải tác những cây tùng bách và bị chia cắt bởi nhiều dòng sông. Ông đã thông
báo về kích thước bộ xương sọ là 152,4 cm, chiều dài 101,6 cm về con Carcharo
dontosaurus saharicus, loài khủng long có cấu tạo bộ răng ăn thịt ở sa mạc Sahara.
Con này có đầu to bằng hoặc to hơn đầu con Tyranosaurus gần đây được công nhận
là con khủng long chúa tể ăn thịt trên Trái đất thuộc họ thằn lằn rất to lớn và
nguy hiểm sống ở Địa Trung Hải giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. (Khủng
long Carcharo dontosaurus saharicus nặng chừng 8 tấn, dài 13,71 m).
Các nhà khoa học cổ sinh vật học Tây Ban Nha và Pháp thuộc Viện Khoa học tiến
hoá Montfellier đồng thời cũng tìm thấy 300 quả trứng ở tỉnh Lerida của Tây Ban
Nha. Đây là nơi thằn lằn cái thường tìm đến đẻ trứng, một trong những phát hiện
quan trọng nhất tìm thấy trên thế giới nằm trên bờ biển kề liền với đại dương.
Trên một lớp sành rất nông màu đỏ có 19 tổ trứng, mỗi tổ cách nhau khoảng 2,5 m
cách đây khoảng 70 triệu năm. Trong mỗi tổ có từ 1 đến 7 quả trứng chỉ có một
quả còn nguyên vẹn, những quả khác đã vỡ thành nhiều mảnh. Một số quả có dạng
hình cầu kích thước 20 cm. Trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh nhỏ thì
không còn quả trứng nào còn giữ được phôi nữa, theo dòng thời gian phần bên trong
đã bị tiêu tan.
443. Tiếng kêu của loài côn trùng có
bản tình ca và chiến ca không?
Thường thì vào mùa thu, tiếng kêu của côn trùng đực có hai mục đích khác nhau:
một là xác định phạm vi thế lực, hai là dẫn dụ con cái. Tuỳ từng lúc mà tiếng
kêu của chúng có khác nhau. Đứng về phương diện này dế trũi là hết sức điển
hình. Dế trũi có ba loại tiếng kêu, chỉ cần chú ý nghe là có thể phân biệt
được.
Loại tiếng kêu thức nhất của dế trũi là: “ri, ri, ri, tích, tích, tích” liên
tục biểu hiện sự lo lắng. Một số người cho rằng loại tiếng kêu này có nghĩa
chiếm cứ địa bàn. Loại tiếng kêu thứ hai là loại tình ca để quyến rũ con cái.
Khi con cái nghe tiếng kêu và đến thì con đực lập tức đổi giọng thành “tích,
tích, tích”, tiếng kêu biến thành êm ái và quyến rũ. Loại tiếng kêu thứ ba có
tính chiến đấu, đó là loại chiến ca. Khi con trống vào trận, cùng lúc chúng vừa
đánh vừa phát ra tiếng kêu gấp, chói tai, biểu hiện sự nổi giận không nén được.
Ngoài ra tiếng kêu của dế trũi, dài, ngắn, cao, thấp khác nhau tuỳ thuộc nhiệt
độ. Khi nhiệt độ thấp hơn 20 độ C, chúng phát ra tiếng “ri…ri…ri” gấp gáp. Khi
nhiệt độ cao hơn 25 độ C tiếng kêu của chúng sẽ là “ri…tích”. Khi nhiệt độ cao
hơn 30 độ C chúng kêu “ri…tích, ri…tích” không ngừng. Dế mèn và một số loại côn
trùng khác khi nhiệt độ xuống thấp thì tần số tiếng kêu của con được dần dần
thấp dần.
444. Tại sao cú mèo nhìn rõ được mọi
vật trong đêm
Nói chung loài chim không nhìn rõ được trong đêm tối, nên xưa nay người ta cho
rằng chim là loài động vật “mù vào ban đêm”. Điều cần biết là không phải loài
chim nào cũng mù vào ban đêm. Cù nèo, vạc, nhan, vịt trời, cò đêm là các con
vật có thể nhìn rõ trong đêm. Thế tại sao các loài chim này lại có thể nhìn rõ
mọi vật vào ban đêm?
Phần sâu nhất bên trong nhãn cầu của loài chim và các động vật cao cấp khác là
võng mạc, đó là nơi tiếp nhận sự kích thích của ánh sáng. Võng mạc nhận ánh
sáng chiếu vào, sau đó thông qua hệ thần kinh để truyền vào đại não. Trong võng
mạc của các loài vật này có loại tế bào hình kim tiếp nhận thứ ánh sáng yếu.
Nói chung, loài chim mù vào ban đêm như gà, trong võng mạc có nhiều tế bào hình
kim hơn, còn tế bào hình que thì lại ít hơn. Cho nên chúng không nhìn rõ được
vào ban đêm. Các loài chim có thể nhìn rõ trong đêm thì trong võng mạc của mắt
có rất nhiều tế bào hình que. Vào mùa thu, một số loài chim nhỏ bay từ Siberi
nhờ vào ánh sáng yếu của các ngôi sao mà định hướng bay qua biển để đến Nhật
Bản. Có nghĩa là các con chim bay vào ban đêm hoặc nhiều hoặc ít đều có tế bào
hình kim nên chúng có thể tiếp tục bay vào ban ngày được.
Trong mắt loài chim cuốc, loại tế bào hình kim hơi nhiều hơn loại tế bào hình
que một chút, vì vậy loài chim quốc có thể hoạt động vào các đêm có trăng sáng.
445. Hắc tinh tinh và loài khỉ, loài
nào thông minh hơn
Hắc tinh tinh thuộc bộ động vật linh trưởng mà bộ linh trưởng thuộc loại động
vật có vú phát triển cao. Trong bộ linh trưởng lại chia thành bộ khỉ cáo (bao
gồm khỉ cáo, con lười, khỉ đeo kính); bộ khỉ dạng người (bao gồm vượn, tinh
tinh, người)… Trong đó có hắc tinh tinh, tinh tinh lùn, đại tinh tinh thuộc bộ
khỉ dạng người, chúng có đặc tính chủ yếu là không có đuôi và không có bìu cổ.
Trong động vật học chúng thuộc loại vượn tay dài.
Về dáng vẻ, sự thông minh và đặc tính thì những con Hắc tinh tinh là động vật
giống người hơn cả. Những con khỉ to lớn này sống trong các khu rừng châu Phi,
ở đây nguồn thức ăn chủ yếu của chúng hầu hết là hoa quả và lá cây. Nhưng chúng
cũng ăn cả sâu bọ và đã có lúc cả đàn cùng đi săn đã giết chết cả những con
linh dương non hoặc những con khỉ đầu chó nhỏ. Trên mặt đất, tinh tinh có khả
năng đi lại bằng hai chân như người. Có những con tinh tinh đã biết dùng gậy
đập vỡ những quả hạt dẻ để lấy hạt ăn.
Hắc tinh tinh đúng là những con vật thông minh, chúng có khả năng sử dụng những
dụng cụ khá đơn giản. Khi chúng muốn bắt mồi bằng một chiếc gậy chẳng hạn, tinh
tinh chọn những cành cây, tuốt hết lá, bẻ thành một đoạn có chiều dài thích hợp
rồi nhấn sâu vào tổ mối hoặc khi nó muốn đẩy lui sự tấn công của một con báo,
sư tử thì tinh tinh nhặt đá để ném chúng.
Như vậy về trí năng, động vật khỉ dạng người có trí năng tiến gần loài người,
thực tiễn chứng minh trí lực của Hắc tinh tinh rất phát triển. Là động vật tiếp
cận với loài người. Hiện nay có không ít chuyên gia, học giả ra sức nghiên cứu
về sinh thái học của khỉ dạng người. Các chuyên gia Nhật Bản còn đến châu Phi
nghiên cứu khỉ dạng người. Hiện nay, trên thế giới còn nhiều Hắc tinh tinh, chủ
yếu ở châu Phi phân bố ở các nước Ghinê, Uganda, Côngô và Tanzania. Còn số
lượng tinh tinh lùn còn rất ít, chỉ thấy ở miền Nam Côngô. Hắc tinh tinh và
tinh tinh lùn là động vật trọng điểm cần bảo vệ.
Ngoài ra tinh tinh còn sản sinh ở các miền rừng sâu các vùng Gariandan và
Sumandala, còn đại tinh tinh thì ở vùng Côngô và Nigêria.
446. Có phải loài bò bị kích thích khi
nhìn thấy màu đỏ?
Tây Ban Nha là đất nước nổi tiếng trên thế giới về môn đấu bò tót. Ta biết đấu
bò tót là người ta thả bò vào đấu trường, lúc võ sĩ đấu bò giương tấm vải đỏ về
phía trước, trong đấu trường vang dậy tiếng reo hò. Bị kích thích, các chú bò
hung hãn lao vào húc các đấu sĩ. Người võ sĩ vừa tránh vừa vẫy tấm vải đỏ, con
bò càng tức giận và hung hãn lao vào đấu sĩ.
Một nhà động vật học khi xem trận đấu bò sẽ có câu hỏi giả sử người đấu sĩ
không cầm tấm vải đỏ thì tình hình sẽ ra sao? Vì vậy ông đề nghị người đấu sĩ
thay tấm vải đỏ bằng tấm vải màu lam hoặc màu xanh để vẫy trước mặt con bò. Bấy
giờ con bò cũng vẫn tiếp tục giận dữ húc về người võ sĩ như trước. Vì vậy ta có
thể thấy rằng bất kỳ tấm vải có màu gì, chỉ cần vẫy trước con bò, bò cũng xem
đó là vật uy hiếp nó. Thực ra khi thấy tấm vải màu đỏ thì không phải là con bò
mà là chính người xem bị kích động.
Mọi người đều biết, ở lớp sâu nhất của nhãn cầu có võng mạc, trên đó có lớp tế
bào hình kim tiếp nhận ánh sáng mạnh. Loại tế bào hình que có nhiều sẽ làm cho
con vật bị mù màu, nói chung ở loài bò thì loại tế bào hình que có nhiều hơn tế
bào hình kim.
447. Vì sao rắn không có tai lại nghe được
tiếng sáo?
Qua điện ảnh và truyền hình ta được biết rằng: ở Ấn Độ thường xuất hiện những
con rắn ngóc đầu, đung đưa theo tiếng sáo của người chủ.
Qua quá trình nghiên cứu, người ta đã phát hiện ra rằng thị giác của rắn rất
kém nhưng lại rất nhạy cảm với những rung động. Mũi rắn có nối với một khí quan
rất đặc thù, nên rắn có khứu giác hết sức nhạy. Đầu lưỡi rắn chẽ ra, rắn có thể
nhanh chóng co giãn đầu lưỡi đưa mùi vị chuyển đến cơ quan cảm giác đặc thù. Vì
vậy, mũi rắn hết sức nhạy cảm với các chấn động. Còn tai của rắn đã bị thoái
hoá và tai ngoài thì hoàn toàn biến mất, tai trong chỉ còn là một mẩu xương, vì
vậy có thể nói là loài rắn không có tai.
Thế tại sao rắn không có thính giác lại có thể nghe được và múa theo tiếng sáo?
Sự thật người làm xiếc rắn, khi thổi sáo thì chân của họ cũng đập nhịp trên mặt
đất. Vì đối với chấn động của nhịp đập của chân người làm xiếc rắn, rắn hết sức
nhạy cảm nên rắn sẽ múa theo tiêt tấu của nhịp đập chân. Vì vậy có thể cho rằng
việc thổi sáo của người làm xiếc rắn chẳng qua chỉ là động tác bề ngoài nhằm
loè tai mắt mọi người, còn nhịp chân mới chính là tín hiệu ngầm mà người làm
xiếc đã truyền cho con rắn để múa.
Có nhiều loại động vật có thể tiến hành những tiết mục hết sức đặc thù là do
giữa người dạy thú và thú có một tín hiệu ngầm riêng biệt nào đó.
448. Tại sao mèo thích thịt hơn?
Chúng ta, đặc biệt là những người nuôi mèo đều biết, những chú mèo bé nhỏ chỉ
thích săn bắt chuột và ăn thịt chuột sống hơn là những đồ ăn ngọt như sôcôla
chẳng hạn. Và các nhà khoa học đã giúp chúng ta hiểu rõ nguyên nhân của hành vi
ăn uống này của loài mèo.
Một cuộc kiểm tra gene của các loài thú thuộc họ mèo cho thấy một khiếm khuyết
đáng kể của một trong những gene có chức năng mã hoá một phần cơ quan nhận cảm
vị ngọt ở mèo. Việc “loại bỏ” tới 247 gặp gene cơ sở trong gene có chức năng mã
hoá protein T1P2 - một trong hai cơ sở protein tạo thành cơ quan cảm nhận vị
ngọt ở động vật có vú – đã khiến loài mèo không thể nhận ra các chất có vị ngọt
như đường và carbohydrates.
Điều đó giải thích sự thờ ơ mà mèo, sư tử, hổ, báo và báo đốm Mỹ đối với đồ
ngọt. Và phát hiện này cũng giải thích tại sao loài mèo để hết tâm trí vào việc
đi săn, Joseph Brand, Giáo sư khoa lý sinh tại Monell Chemical Senses Center,
Philadelphia, US, một trong những tác giả của nghiên cứu cho biết.
Nhìn vào sơ đồ gia hệ của loài mèo cũng có thể cung cấp những manh mối. Brand
cũng đã phát hiện gene đột biến ở loài báo gêpa, hổ và một người bà con họ xa
với mèo – linh cẩu. Do đó, mặc dù rõ ràng tổ tiên của loài thú họ mèo và linh
cẩu sở hữu gene lỗi, Brand không biết tại nhánh nào trong cây tiến hoá của loài
thú họ mèo, gene khiếm khuyết này xuất hiện.
“Mất cơ quan cảm nhận đồ ngọt lại khiến cho các động vật thuộc họ mèo có một
khả năng tìm mồi mà các động vật khác không có - hầu hết các động vật khác, khi
đi săn phải đi theo đàn, nhưng loài mèo hoang có khả năng săn mồi một mình” –
Brand nói với New Scientist
Mồm không phải là nơi duy nhất để loài mèo nếm các vị, chúng còn có khả năng
mếm mùi vị qua bộ máy tiêu hoá và tuyến tuỵ, nhưng tại hai bộ phận này, cơ quan
cảm nhận vị ngọt cũng bị khiếm khuyết.
Nhưng bù lại việc không cảm nhận được vị ngọt, loài mèo lại có rất nhiều cơ
quan cảm nhận axit amin phức tạp. Chúng có những cơn quan cảm nhận mùi vị tinh
vi bởi những kích thích vị giác mà chúng ta không biết được – Brand cho biết.
449. Vì sao mùa xuân và mùa thu lại
thích hợp với việc câu cá?
Ở các thuỷ vực gần bờ biển Nhật Bản có rất nhiều loại cá thích sống ở vùng nước
ấm 16 – 25 độ C
Vào mùa xuân nước ở gần bờ biển ấm dần, các loài cá ưa nước ấm thích điều đó,
trong khoảng từ mùa hè đến mùa thu đối với các loại cá này rõ ràng là thời gian
sống lý tưởng.
Sau khi trời chuyển lạnh, các loài cá như cá đục, cá bơn, cá hoạt, cá hàm tìm
đến vùng biển sâu để tránh lạnh. Sau khi biển ấm trở lại chúng lại tìm quay về
vùng biển cạn. Khi mùa đông lạnh lẽo đến, cá lần hồi đi kiếm ăn ở khắp mọi nơi,
vừa đi vừa tìm kiếm vùng biển ấm thích hợp với cuộc sống của chúng hơn.
Vì các lý do vừa kể trên, đại đa số các loài cá từ mùa xuân đến mùa thu hay bơi
gần bờ, vì đó là lúc đại đa số các loài cá đang đi kiếm ăn nên đi câu thì sẽ
được nhiều cá. Còn nếu muốn câu được nhiều cá đục vào mùa đông, nên đi thuyền
câu ở vùng biển nước sâu. Còn vào lúc trời ấm, tốt nhất nên đi câu gần bờ, vì
thường lúc này, cá thường quay về vùng bờ biển cạn để kiếm ăn và sinh đẻ. Cho
nên khi đi câu thì phải tuỳ tình hình mà dùng các phương pháp khác nhau.
450. Cá ra đời như thế nào và từ bao
giờ?
Ý kiến cho rằng sinh vật sinh ra từ trong lòng biển. Trước đây vài tỷ năm, núi
lửa trên Trái đất phun vật chất lên, trong đó có nước, vùng trời bên trên núi
lửa vì vậy mà hình thành một lớp dày đặc hơi nước.Về sau hơi nước đó từ từ biến
thành mây, che kín bầu trời. Và không bao lâu sau mưa như trút nước xuống mặt
đất. Các vùng trũng chứa nước này, qua năm tháng dần dần hình thành biển lớn.
Nước biển hoà tan khoáng chất trên mặt đất và trở nên mặn.
Thời xa xưa cách đây 3,5 tỷ năm trong biển sinh ra prôtêin, chúng là một số
sinh vật nhỏ. Đó là loại tảo nhờ có hoá thạch mà được biết đến. Từ đó về sau
liền sản sinh ra sinh vật tế bào, xuất hiện ra các động vật nhỏ dạng amíp,
trùng roi…
Đó là chuyện của một tỷ năm trước. Đến khoảng 450 triệu năm trước đây, xuất
hiện loài động vật lớn hơn, 400 triệu năm trước đây, sâu ba lá sinh sôi tràn
lan. Xuất hiện loại mực ẩn náu trong lớp vỏ dài.
Qua hoá thạch mà chúng ta tìm hiểu được, trong thời kỳ kỷ Sulua (kỷ thứ ba của
đại Cổ sinh) trong con đài tiên, san hô, cấp bách hợp biển, động vật xốp nhiều
lỗ, xuất hiện loài ốc. Biển dần dần trở nên sôi động khác trước. Tiếp đến xuất
hiện bò cạp biển dài 2 cm, bắt đầu xuất hiện tổ tiên của loài cá có vẩy và tổ
tiên của cá có xương sống.
451. Có phải sâu róm làm da người bị
viêm?
Sâu róm là ấu trùng có nhiều lông của các loại ngài hoặc bướm cảnh vẩy. Nếu
không cẩn thận chạm vào ấu trùng của ngài độc (như ngài sâu chè) chỗ da bị chạm
sẽ viêm đỏ rất khó chịu. Thực ra làm da người bị viêm chủ yếu không phải do các
lông dài của con sâu róm châm phải là chính là một loại lông mọc ở gốc của các
sợi lông, các sợi lông độc này mắt thường không nhìn thấy được.
Loại lông độc dài khoảng 0,1 mm, ấu trùng hai tuổi bắt đầu mọc lông độc, sau
khi thành nhộng, ở tuổi nằm trong kén trên thân ấu trùng vẫn còn nhiều lông
độc. Sau khi nở thành sâu trưởng thành vẫn còn nhiều lông độc, da người bị chạm
vào các con ngài độc sẽ bị viêm tấy. Trong sâu độc có chứa dung dịch prôtêin
độc. Khi người bị lông độc chích vào da, sẽ đưa chất độc vào cơ thể.
Ngoài ra, các kim bọc ở bụng của con ngài đực cũng có nhiều lông độc che phủ
lên mặt ngoài của đám trứng. Khi ta chạm vào đám trứng, da sẽ bị viêm tấy, ấu
trùng sau khi nở một tuổi đã có mọc lông độc, có thể nói với các loại ngài độc
luôn có lông độc.
Với đại đa số các loại sâu róm, chúng không hề chủ động chích người. Nhưng với
loại sâu róm của ngài ong vàng có kim độc, khi bạn chạm vào nó, nó sẽ chích
bạn, mà chích rất đau. Ngoài ra trên thân loại sâu róm của ngài lá khô có kim
độc, khi cạm phải nó cũng làm cho bạn khốn khổ.
452. Sau khi muỗi hút máu, máu không
bị đông ở khoang miệng của muỗi?
Khoang miệng của muỗi trông như cái kim châm. Trên thực tế, kết cấu của nó vô
cùng phức tạp. Môi dưới khoang miệng con muỗi hình thành cái vỏ bọc bao lấy
phần ngoài của kim, bên trong có môi trên, mảng dưới miệng, vòm họng lớn, vòm
họng nhỏ. Khi muỗi hút máu, trước hết nó dùng vòm họng nhỏ của đầu khoang miệng
chích vào da một cái lỗ nhỏ, rồi hút máu lên như một kiểu máy bơm nước. Dù cho
hút xong máu, ống hút của khoang miệng con muỗi cũng không bị tắc nghẽn. Đó là
vì khi nó hút máy, trong chất lỏng tiết ra từ nguyên nước bọt có chứa một loại
chất ngừa đông máu.
Thường có người cho rằng khi hút máu trên người có nhóm máu A rồi muỗi lại hút
tiếp máu của người có nhóm máu B, máu của hai nhóm khác nhau trộn lẫn có bị
đông hay không? Nhưng không sao cả. Nguyên do là trước hết vì mỗi lần hút máu
muỗi đều hút đến no căng ra, nói chung, nó không đốt người có nhóm máu A rồi
lập tức sang đốt người có nhóm máu B. Hai là khi con người truyền máu thì máu
truyền vào trong huyết quản, còn muỗi đốt máu thì máu đi vào cơ quan tiêu hoá
và tiêu hết dần tại đó. Muỗi hút máu cũng giống như kiểu người ăn cơm vậy. Cho
dù về sau muỗi có hút máu của người có nhóm máu khác thì máu nó hút lần trước
cũng đã tiêu hoá hết rồi. Cho nên chẳng việc gì phải lo lắng cả.
453. Chuồn chuồn thời xa xưa rất lớn
phải không?
Từ những khảo chứng hoá thạch chúng ta được biết, ở đại Cổ sinh cách đây 300
triệu năm, trong giai đoạn Tứ kỷ thạch nham đến kỷ Nhị Điệp (kỷ cuối cùng của
đại Cổ sinh), trên Trái đất có một loại chuồn chuồn rất lớn sinh sống. Cánh
chuồn chuồn, theo phát hiện hoá thạch của kỷ Thạch nham ở Pháp và hoá thạch ở
kỷ Nhị Điệp ở châu Mỹ, đều có độ dài trên 30 cm. Khi hai cánh giương ra, chiều
rộng lớn tới 65 – 70 cm, là một loại chuồn chuồn cỡ lớn.
Trên Trái đất trong thời đại kỷ Thạch nham vẫn chưa có thực vật nở hoa. Lúc bây
giờ đâu đâu cũng là rừng rậm do thực vật dương xỉ to lớn mọc thành cụm rậm rạp
hình thành nên. Bên cạnh đầm lầy, loại chuồn chuồn to lớn bay lượn, cảnh tượng
ấy rất hùng tráng, rực rỡ. Côn trùng trong thời kỳ ấy có một số loại cánh dọc
(châu chấu…) con phù du, tổ tiên của loài sâu kiến và con gián, v.v… vẫn chưa
xuất hiện côn trùng cánh cứng, bươm bướm và ong mật hút nhuỵ hoa. Vả lại, kẻ
thù bên ngoài của côn trùng cũng rất ít, chỉ có côn trùng bay lượn trên không
chưa có chim chóc, chưa có động vật bò sát biết bay. Cho nên đất trời lúc bấy
giờ là thế giới của loại chuồn chuồn to lớn. Nhưng do chuồn chuồn lớn quá mức,
đến cả thân thể của mình cũng không sao kham nổi. Lại thêm lượng đồ ăn phải rất
nhiều, cho nên chúng dần dần bị tuyệt chủng.
454. Ong ký sinh là gì?
Ong ký sinh thuộc bộ cánh mỏng, vòi trứng của chúng rất dài, chúng thường đẻ
trứng vào ấu trùng của các côn trùng, có hại như ấu trùng của bướm trắng, bướm
ngũ sắc, sâu keo, sâu bông… Vì thế ong ký sinh là kẻ thù tự nhiên của các côn
trùng có hại.
Côn trùng có hại có nhiều kẻ thù tự nhiên. Ngoài ong ký sinh còn có chim, chuồn
chuồn, bọ ngựa, cùng các loại bắt côn trùng làm mồi cũng như một số vi sinh
vật, vi khuẩn gây bệnh. Nhưng đối với chúng ta, chỉ có loại ong ký sinh là hết
sức cần thiết.
Có người bắt mấy con ấu trùng của ngài và bướm về nuôi cho lớn, chuẩn bị xem
cách côn trùng nở. Nhưng người ta thấy làm lạ là từ các ấu trùng nở ra không
phải là ngài mà là ong. Nguyên là do ong ký sinh đã đẻ trứng vào các ấu trùng
của bướm và ngài. Ong con nở ra là do các trứng đã trưởng thành sẽ phá vỏ nhộng
và chui ra.
Ngoài ra có người còn bắt mấy con ấu trùng của sâu bông hoặc ấu trùng của sâu
róm, đem nuôi để quan sát sâu nở, thì lại thấy điều rất lạ là chúng đẻ trứng.
Thực ra không phải là trứng sâu bông mà là ong non của loài ong ký sinh bò lên
trên bề mặt chủ thể là ấu trùng của sâu bông, chúng kết thành đám, vì các ong
non của loại ong ký sinh này không lớn hơn 1 mm.
Có không ít loại ong ký sinh đẻ trứng vào ấu trùng của côn trùng và trở nên là
kẻ thù tự nhiên của côn trùng có hại vì đã hạn chế sự sinh đẻ của côn trùng; có
tác dụng hơn hẳn các thuốc diệt trùng.
Các loại ong ký sinh có thể giúp hạn chế sự sinh sản của những loài côn trùng
có hại nghĩa là chúng còn có hiệu quả hơn các thuốc diệt trùng nên có ý nghĩa
lớn trong việc phòng chống các loại côn trùng có hại.
455. Vì sao mỗi tổ ong chỉ có một ong chúa?
Khi mùa đông lạnh lẽo đã qua, mùa xuân đã đến, ong chúa của các loài ong vò vẽ,
ong vằn… tự mình xây một tổ con rồi ở trong đó đẻ trứng, nuôi một số ong con.
Tại giai đoạn này, không kể là việc làm tổ hoặc nuôi dưỡng thế hệ sau, mọi việc
đều do một mình ong chúa hoàn thành.
Cho dù các con ong mà ong chúa sinh ra và nuôi dưỡng có cả ong cái, nhưng ong
chúa đã tiết ra một chất đặc biệt để nhằm chế ngự sự phát dục, về giống cái của
các con ong này, để biến chúng thành ong thợ. Sau khi đời ong non thứ nhất đã
trưởng thành, chúng có thể tiếp nhận được công việc mở rộng tổ, chăm sóc ong
non, ong chúa lại chuyển sang giai đoạn đẻ trứng. Lâu dần tổ ong ngày càng lớn,
ong thợ ngày càng nhiều.
Nên nói rằng tổ ong chỉ có một ong chúa vì cả bầy ong là đời sau của ong chúa.
Nhưng cũng có một số loài ong, trong tổ đồng thời tồn tại vài ong chúa. Các ong
chúa là một nhóm “nữ vương”, tạo thành một đại “gia đình” trong một tổ ong.
Nhưng gia tộc loài ong không cho phép có sự nhầm lẫn, nên ong chúa có tiết ra
một chất đặc biệt để phân biệt với dòng họ khác, còn chất đặc biệt đó là gì thì
cho đến nay người ta vẫn chưa khám phá phát hiện được.
456. Vì sao chuồn chuồn chấm chót đuôi lên mặt nước?
Chuồn chuồn thường hay chấm nhẹ chót đuôi lên mặt nước hồ, ao, rạch nước, có
người cho đó là chuồn chuồn uống nước. Cần biết rằng ở chỗ đầu nhọn của đuôi
chuồn chuồn không có vòi hút thì làm thề nào chúng uống nước được. Nguyên do là
chuồn chuồn vừa bay vừa dùng đầu nhọn ở đuôi phóng trứng của chúng vào trong
nước. Đó là cách đẻ trứng hết sức điển hình ở chuồn chuồn, người ta thường gọi
đó là cách “chạm nước đẻ trứng”.
Nói chung chuồn chuồn liên tục chạm nước đẻ trứng, nhưng cũng có loại chuồn
chuồn vừa di động vừa dừng từng chỗ để đẻ trứng, lại có chuồn chuồn cả con đực
và con cái đều đồng thời chạm nước đẻ trứng. Mặt ngoài của trứng chuồn chuồn có
một lớp màng dính, khi trứng chìm vào nước, trứng sẽ bám vào mặt đất hay cây
cỏ?
Ngoài ra còn có loại chuồn chuồn vừa bay vừa đẻ trứng. Lúc này chuồn chuồn
giống như chiếc máy bay lên thẳng dừng lại một chỗ trong không trung và đẻ
trứng. Cũng có loại đậu trên đất đẻ trứng vào đất bùn hoặc đẻ trứng vào các bộ
phận của cỏ cây. Có loại chuồn chuồn chui hẳn vào nước để đẻ trứng lên cây cỏ
trong nước. Loại chuồn chuồn có thể chui vào nước sâu đến 1 m ở lâu trong nước
đến 49 phút.
457. Tại sao nói Huân Y Thảo là thứ hương liệu quý giá?
Huân Y Thảo là loại thảo mộc sống lâu năm, thân thẳng, phần nhiều cành, cao 40
– 80 cm, toàn thân phủ nhung mao dạng sao, màu xanh xám, lá đối sinh.
Nguồn gốc của Huân Y Thảo là ở sườn núi phía Nam núi Anpơ và bờ biển Bắc Địa
Trung Hải. Khí hậu ở đây thích hợp nhất cho sự trưởng thành của Huân Y Thảo.
Huân Y Thảo được trông ở bất cứ đâu, đất hoang, vườn, trong chậu hoa đều trưởng
thành rất tốt.
Huân Y Thảo sau ba năm trồng, là thời kỳ hoa nở rộ, khoảng bốn tuổi, một cây có
thể vươn xa hơn 1000 hoa tự. Hoa tự hình bông lúa mọc đầy nơi đầu cành, xếp
hàng dạng bánh xe, do 5 – 10 vòng tạo thành. Hoa màu tím nhạt hoặc tím. Hình
hoa nổi dạng dài ống. Cánh hoa có 13 đường gân, mỗi năm nở hoa hai lần. Trong thời
kỳ nở rộ, lượng tinh dầu trong Huân Y Thảo trong những ngày sáng sủa, trong
khoảng ba tiếng giữa trưa, hàm lượng tinh dầu cao nhất. Nên việc hái hoa để cất
tinh dầu phải lựa chọn giờ cho thích hợp.
Dầu Huân Y Thảo là loại hương liệu có giá trị kinh tế tương đối cao. Chúng có
mùi hương ngan ngát và bền lâu, khiến cho tinh thần con người cảm thấy sảng
khoái. Hiện nay nó được sử dụng rộng rãi trong các sản phẩm nước hoa, xà phòng
thơm, dầu xoa bóp, chất làm sạch môi trường.
Tinh dầu Huân Y Thảo có hơn 30 loại vật chất hoá học hữu cơ, trong chúng cũng
có đủ các hương thơm đặc sắc. Cho nên hương thơm toả ra đều rất riêng biệt, dễ
nhận biết.
Hiện nay trên thế giới trồng ba loại Huân Y Thảo trong đó có Huân Y Thảo, Bông
Huân Y Thảo và Tạp Huân Y Thảo. Vì tính thích nghi của Tạp Huân Y Thảo rất tốt
cho nên được trồng nhiều nhất. Nước Pháp là nước sản xuất lượng tinh dầu nhiều
nhất thế giới. Sản lượng hàng năm là trên 1000 tấn, chiếm 90% tổng sản lượng
thế giới, trị giá 1,5 tỷ đôla Mỹ, sau đó đến Nga, Bungari và Bồ Đào Nha.
Trong y dược, tinh dầu Huân Y Thảo có tác dụng chữa nhiều bệnh như: bệnh hồi
hộp thần kinh do yếu tim, đầy hơi chướng khí, đau ung thư.
458. Tại sao hoa Ngu Mỹ Nhân được coi là tuyệt sắc giai nhân?
Ngu Mỹ Nhân là thảo mộc sống 1 – 2 năm, thân thẳng, phân cành tơ nhỏ, thân cao
30 – 90 cm. Lá hỗ sinh, mùa hè nở hoa, hoa bao hình vát tròn, mọc đơn ở ngọn
cành. Trước lúc chưa nở, nụ hoa gục xuống, thân cây gầy yếu như không chịu nổi
sức nặng nên uốn cong, đến khi hoa nở, thân hoa vút đứng thẳng, lúc này hai
nhánh lá dài mềm như lông tự động rụng xuống.
Cánh hoa Ngu Mỹ Nhân thường có bốn cánh, hai lớn hai nhỏ tạo nên một sự đùm bọc
khéo léo và khăng khít, cánh hoa mỏng như sa, dạng nửa trong suốt, mầu sắc diễm
lệ: hồng, tím đỏ, tím sẫm, trắng… chóp cành hoa màu trắng lấp lánh ánh bạc. Trừ
cánh hoa đơn ra còn có giống hoa cánh chồng và có rất nhiều các màu sắc biến
hoá pha trộn, như hoa đỏ viền trắng, hoa trắng viền đỏ…
Thân hoa rất mềm yếu, bông hoa lại hơi to. Chỉ một làn gió nhẹ nó đã đu đưa như
những cánh bướm chập chờn. Mỗi cành chỉ có một hoa và hoa chỉ rực rỡ có hai
ngày nhưng vì cây của nó có rất nhiều cành cho nên có rất nhiều hoa. Nụ hoa Ngu
Mỹ Nhân cúi đầu trông như thiếu nữ cúi đầu trầm tư. Mỗi độ hoa nở thì đúng là
trăm hoa đua sắc đẹp như tiên nữ giáng trần vậy.
Hoa Ngu Mỹ Nhân còn mang các tên khác như: Lệ Xuân Hoa, Lệ Xuân Thảo, Tiên Nữ
Hoa… Người ta đã đem nó để so sánh với Ngu Cơ, người đẹp tuyệt sắc giai nhân
thời cổ với Mẫu Đơn quốc sắc thiên hương. Vì vậy nó mang tên là Ngu Mỹ Nhân.
Nguồn gốc của loài hoa Ngu Mỹ Nhân này là ở vùng bắc ôn đới châu Âu, là cây họ
Anh Túc, hình thái tập tính và quả thực cũng giống với hoa Anh Túc. Trong cơ
thể chúng cũng có “chất sữa”. Nhưng chất sữa của hoa Ngu Mỹ Nhân và chất sữa
của hoa Anh Túc khác nhau, khác nhau ở chỗ là nó không có chất thuốc phiện.
Toàn bộ thân cây có thể làm thuốc, lấy hoa trưng cất hoặc pha trà uống có thể
trị ho, quả của nó có thể dùng để chế thuốc trị tả.
459. Tại sao hoa Tulip có tên gọi là Uất Kim Hương?
Hoa Tulip có vẻ đẹp sang trọng và lịch sự, hoa nổi hình kim hoặc hình chén,
bông to và rất đẹp, hoa bọc sáu cánh, chia làm ra hai hàng trong ngoài; hoa có
nhiều màu sắc khác nhau và hương thơm ngào ngạt, bên ngoài hoa giống như hoa
sen, lại giống hoa Mẫu đơn. Trong thế giới các loài hoa chắc không có loài hoa
nào so bì được với màu sắc kỳ diệu của hoa Tulip.
Hoa Tulip là hình ảnh tượng trưng cho đất nước Hà Lan. Ngoài ra nó còn được
trồng nhiều ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hungari và Iran.
Thật ra quê hương của hoa Tulip là ở cao nguyên Tây Tạng của Trung Quốc, nó
được gọi là hoa Uất Kim Hương, ở đó đến nay vẫn sinh trưởng không ít loài hoa
Uất Kim Hương hoang dã. Hơn 2000 năm về trước, Uất Kim Hương được truyền đến từ
vùng Trung Á và được trồng ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tương truyền, vào thế kỷ XVI, một vị
sứ giả người Áo tại Thổ Nhĩ Kỳ nhìn thấy hoa Uất Kim Hương có sắc màu diễm lệ,
bèn lấy một số cây mang về Virana và từ trong cung đình Virana một người thợ
vườn Hà Lan lại lấy mang về Hà Lan.
Hoa Uất Kim Hương đẹp và có màu sắc diễm lệ, tao nhã và quý phái. Sau khi người
Hà Lan phát hiện và say mê trước vẻ đẹp của chúng, hoa Uất Kim Hương đã rất
được yêu thích và ưa chuộng và nó được nổi tiếng trên khắp đất nước Hà Lan với
tên gọi Tulip. Hoa Tulip trở thành loại hoa có giá trị rất cao. Có chuyện ở một
đường phố Amutstan, vào thời hoa đắt nhất, giá ba cây hoa Tulip bằng một căn
phòng đẹp!
Hiện nay, đất nước Hà Lam đã trở thành nước xuất khẩu hoa Tulip lớn nhất trên
thế giới, nó được xuất tới những 125 quốc gia trên thế giới.
460. Tại sao nói hương hoa có thể trị bệnh?
Dùng hoa và cỏ để phòng bệnh và chữa bệnh, đã ghi nhận vào sách cổ y học, hoa
cỏ được đề cập đến có mấy chục loài nhưng phương pháp lấy hoa làm thuốc thời đó
chủ yếu là uống trong và bôi ngoài. Hiện nay đã phát triển đến bước dùng hương
hoa để đến được hiệu quả nâng cao sức khoẻ và trị bệnh.
Theo nghiên cứu, hương của hoa có thể nâng cao sự tập trung ý tưởng con người,
thúc đẩy hiệu lực công tác. Như hoa Nhài có tác dụng thư giãn, hoa Cúc lại có
cảm giác mát mẻ. Trong phòng ăn nếu được bầy thêm những bông hoa tươi rực rỡ,
thì sẽ giúp cho sự tiết dịch vị, từ đó mà ta ăn ngon miệng hơn.
Tại Liên Xô (cũ), có một công viên “Khoẻ” trứ danh, đấy là khu điều dưỡng đầu
tiên trên thế giới dùng hương hoa tươi để chữa bệnh. Bệnh nhân chỉ cần tản bộ
có định lượng trước đám hoa thơm cỏ dại, hoặc tập thể dục nhẹ nhàng trên các
dụng cụ chuyên dụng bày trước hoa. Hãy ngửi hoa thơm nhiều lần, có thể giảm nhẹ
hoặc chữa khỏi các bệnh tật, bao gồm những bệnh như: tâm phế, chứng hen xuyễn,
cao huyết áp, gan rắn hoá, thần kinh suy nhược v.v… Công viên “Khoẻ” này đã
tiếp nhận hàng trăm vạn lượt người đến thăm và đã được các đoàn đại biểu bác
sĩ, nhà khoa học của nhiều quốc gia khen ngợi.
Người Mỹ thì có bệnh viện tinh thần tư nhân, phương pháp sử dụng tại bệnh viện
này là phương pháp sử dụng là “Liệu pháp nghề vườn”, để người bệnh trồng cây,
trồng cỏ, ngửi hương hoa, ngắm nghía cây xanh. Nó có thể thức tỉnh được những
người có bệnh thần kinh kéo dài đến trạng thái mê muội.
quý trong gia đình. Vì nó có thể chữa bệnh hồi hộp, trướng khí và bệnh đau một
nửa đầu theo chu kỳ.
Nguyên lý chữa được bệnh của hương hoa là ở chỗ: Hương hoa có thể giết chết mầm
gây bệnh (vi khuẩn) có thể biến đổi phản ứng sinh lý và tăng cường khả năng
miễn dịch của cơ thể, để cuối cùng đạt được hiệu quả chữa bệnh và tăng cường
thể lực.
461. Tại sao Trầm Hương là loại cây danh giá?
Trầm Hương là cây kiều mộc xanh quanh năm dòng Thuỵ hương, cũng có tên là “Già
nam hương”, “Kỳ nam hương”, lá da thuộc, dạng trứng hình kim tẽ ra, nhẵn bóng, hoa
mầu trắng, hoa xếp hình dù…
Nguồn gốc của Trầm Hương là ở Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam v.v… và một số vùng
khác nữa, ruột gỗ là một trong những hương liệu đậm đà rất nổi tiếng. Học thuật
Đông y dùng dầu rễ cây có màu cọ đen hoặc cành sau khi gia công thành vị thuốc,
tính ấm, vị đắng, có công hiệu trị giáng khí chỉ đau, chủ trị hen xuyễn, buồn
nôn, đay dạ dày v.v… và nhiều chứng bệnh khác.
Xưa Trầm Hương có nhờ nhập khẩu, giá trị rất đắt. Sau thời Tống, Nguyên, ở Đông
Quản tỉnh Quảng Đông đã xuất hiện một giống Trầm Hương khác gọi là Thổ Trầm
Hương, vì nó chủ yếu sản xuất ở Đông Quản, nên cũng có tên là “Quản hương”.
Người ta trồng cây này dùng để lấy trầm, phương pháp lấy trầm là cưa đi một
đoạn cây thích hợp, chỉ còn để lại mặt cắt của phần rễ, để cho vài năm bắt đầu
khai thác trầm. Khi đục trầm dùng cây đục gỗ dài, chỉ đục thành hoa văn như
răng ngựa, sau đó dùng đất phủ lên, để cây tiếp tục lớn. Mỗi năm vào kỳ thu
đông lại đục trầm một lần, cây càng già, hương càng tốt, hương tốt nhất là ở
các mảnh vụn khi đục. Quản hương từ Quảng Châu xuất khẩu ra nước ngoài qua cảng
Cửu Long (Hồng Kông) nên cảng này có tên là Hương Cảng
Trầm Hương là giống cây nhiệt đới, chỉ có ở một số vùng nhất định. Trầm Hương
sản xuất ở đảo Hải Nam có chất lượng tốt nhất.
Tên Trầm Hương vì đâu mà có? Nếu bỏ Trầm Hương xuống nước thì bị chìm ngay, khi
đốt cháy có mùi thơm nồng nàn, nên có tên này. Sáp gỗ thơm cất thành cao, mầu
đen, thơm ngát, cho vào nước bị chìm, nên gọi là Trầm Hương, có loại nửa nổi
nửa chìm thì gọi là Hương.
Trầm Hương còn có một tên khác là “Ưng mọc” do hoa của nó có hình giống chim
ưng.
462. Tại sao khi mỗi độ thu về thì lá cây xanh lại ngả màu vàng và rơi
rụng?
Xưa nay vẫn cho rằng vì mùa thu khô ráo dẫn đến lá bị mất
nước. Nhưng các nhà khoa học mới đây phát hiện ra rằng: sự biến màu của các lá
cây có quan hệ đến sự biến hoá của các kích thích tố nào đó cùng với sự thay
đổi về vật chất hoá học. Vào đầu mùa thu, kích thích tố tách rời chất A-xít và
các chất khác tích tụ vào lá cây, lá bắt đầu biến màu vàng, lá cây mang diệp
lục tố, nước, đạm, prôtit và các hợp chất hữu dụng về cho cành, cho rễ để rồi
tự mình nhận sự khô héo và diệt vong. Cũng như vậy, tế bào đặc thù của cuống lá
cũng dần dần suy yếu, thế là mỗi khi có mưa, gió, chúng dễ dàng bị đứt lìa.
Các nhà thực vật học cho biết: màu sắc lá mùa thu có lúc nhạt, lúc đậm, nó phụ
thuộc vào lượng mưa và tuyết rơi. Nếu như gặp năm hạn hán, thì sự thay đổi của
lá không lớn lắm, lá sẽ rụng sớm hơn, đó là do chúng muốn giữ nước cho cây,
tích trữ chất dinh dưỡng cho cây, rụng lá có thể là nước cờ “thí tốt giữ xe”
của loài cây. Đấy là một trong những thủ đoạn giữ mình của các loài thực vật và
đấy cũng là một trong những đặc điểm của tạo hoá.
Có một số lá xanh lại biến thành màu đỏ sau khi trời lạnh dần. Người Bắc Kinh
(Trung Quốc) chỉ chờ những ngày thu tới để đến Hương Sơn ngắm lá đỏ, toàn bộ
một vùng núi non trải một màu vàng đỏ rực rỡ.
463. Vào mùa đông
khi rụng lá, cây có tổng hợp các chất hữu cơ không?
Ngoài chim, thú,
người, cá, các loài sinh vật khác khi sống trong điều kiện tự nhiên không thích
hợp, chúng dùng hình thức ngủ hoặc nghỉ để chờ đợi và hạn chế tiêu thụ năng
lượng. Trong khi ngủ chúng thở rất yếu. Lúc bấy giờ, chúng chỉ cần một lượng
rất ít chất dinh dưỡng để duy trì sự sống. Khi đến mùa đông, đối với loài cây
lá rụng, trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt thì cây chỉ cần một ít chất hữu
cơ để tiếp tục tồn tại và sinh trưởng. Vì vậy, cây không cần tổng hợp nhiều
chất hữu cơ vào mùa đông.
Điều đó không có nghĩa là cây cần rất ít chất hữu cơ vào mùa đông và chỉ cần
một lượng nhỏ để đáp ứng cho sự sinh trưởng hàng ngày. Cây không chỉ chuẩn bị
để chịu đựng qua thời kỳ rụng lá vào mùa đông mà còn chuẩn bị cho việc nảy lộc
đâm chồi vào mùa xuân. Đối với loại cây rụng lá, nhu cầu các chất hữu cơ trong
một ngày xuân vượt xa nhu cầu cho cả mùa đông.
Người khác với sinh vật, lúc nào cũng cần tiêu thụ nhiều chất dinh dưỡng, nếu
không như vậy thì sẽ không thể tiếp tục tồn tại được. Khi ngủ người ta cần hô hấp
mạnh như khi thức, hiện tượng này hiếm thấy trong giới sinh vật.
464. Tại sao nói “Cây to rễ sâu”?
Đối với loài thực vật, rễ cây có sâu thì lá mới dày, lá dày thì hoa mới nở rộ.
Rễ của loài thực vật Kiều mộc có thể cắm sâu dưới lòng đất từ 1 – 2 m; cây Bồ
Công Anh sống nơi hoang dã, khi thân cao tới 20 cm thì rễ cây đã cắm sâu xuống
hơn 1 m đất rồi. Rễ cây cổ Linh lăng sống ở sa mạc thì sâu những 12 m. Rễ cây
Bồ Pa-ác-ba ở châu Phi chu xuống đất địa tầng sâu những 30 m.
Rễ của thực vật không những cắm rất sâu mà còn rất rộng nữa. Rễ rất nhiều đồng
thời diện tích bao phủ cũng tương đối lớn. Loại cây Mạch đen sống ở Xibêri có
những 14.000 rễ nhỏ, chiếm 225 m2 đất. Trên các rễ nhỏ còn có mọc hàng 15 tỷ rễ
tu, tính sự tiếp xúc của diện tích rễ tu với đất thì phải đến 400 m2.
Hệ thống rễ của cây gỗ cũng rất vĩ đại. Tổng diện tích của chúng vượt xa so với
diện tích che phủ của lá và cành. Thường là gấp 5 đến 15 lần diện tích che phủ.
Tất cả những rễ to, rễ con, rễ tu đều giống như triệu triệu bàn tay nhỏ, nắm chặt
lấy đất, giữ cho thân cây đứng vững chắc trên mặt đất, đồng thời giữ cho đất
khỏi bị nước cuốn trôi. Ngoài tác dụng giữ vững cây, chúng còn có nhiệm vụ tìm
kiếm, hấp thụ chất dinh dưỡng để nuôi cây.
Rễ của thực vật bị thu hút bởi sức hút của quả đất nên sinh trưởng trong đất
gọi là tính hướng địa, rễ có đặc tính mọc theo hướng nước ẩm gọi là tính hướng
thuỷ. Thực vật hút được thuỷ phần và dinh dưỡng là hoàn toàn nhờ vào các rễ tu
(mao). Chúng không ngừng mở rộng, cắm sâu xuống lòng đất tìm kiếm thức ăn, nước
uống cho cây.
Rễ tu rất bé, dài nhất cũng chỉ 7 – 8 mm, nhưng chúng lại rất nhiều, người ta
tính trên 1 mm2 rễ, đậu Hà Lan có hơn 220 rễ tu. Những chiếc rễ tu này như
những chiếc “máy bơm” nhỏ, không ngừng hút nước và dinh dưỡng từ trong lòng
đất, cung cấp sự sống cho cây, cành, lá, cho hoa và quả.
465. Tổ tiên của thực vật màu xanh là gì?
Thực vật màu xanh xuất hiện sớm nhất trên Trái đất là ai? Các nhà địa chất học
trả lời: là Tảo Lam. Trong lớp nham thạch Trầm tích cổ ở Nam Phi, người ta đã
phát hiện hoá thạch của một loài Tảo Lam, qua trắc địa đã có cách đây 3 – 4 tỷ
năm. Hình dáng của Tảo Lam cổ gần giống với Tảo Lam thời nay, vậy chứng minh
rằng: ngay từ thời đó trên hành tinh chúng ta đã có mầm mống của sự sống.
Sự xuất hiện của Tảo Lam, là một bước nhảy vọt vĩ đại trong lịch sử tiến hoá
của thực vật. Vì trong Tảo Lam có chứa Diệp lục tố, vừa có thể tạo ra dinh
dưỡng vừa có thể tiến hành sinh sản một cách độc lập. Thế giới sinh vật trên
Trái đất chúng ta ngày nay phong phú và đa dạng đều nhờ vào sự tiến hoá phát
triển không ngừng từ hàng ngàn triệu năm của loài Tảo bậc thấp mới có được.
Tảo Lam phân bố rộng rãi trong thế giới tự nhiên, là loài thực vật thuỷ sinh có
sức sinh sản mạnh mẽ trong nước ngọt hay trong biển cả. Trên nham thạch và thân
các loài thực vật đâu đâu cũng có dấu vết của loài Tảo, ngay cả nơi có tuyết
băng giá, trong suối nước nóng sôi sùng sục, chúng đều có thể sinh tồn.
Năm 1881, ở bờ biển đảo Scôtlen có một thuỷ thủ nhìn thấy trên một đám tuyết
đóng thành miếng, chỉ trong mấy giờ đồng hồ đã biến thành nhiều chấm tuyết nhỏ
màu đỏ dày đặc, thì ra đó là “Trò chơi” của Tảo Lam. Vì trong Tảo Lam có hồng
sắc tố nó có thể tuỳ theo điều kiện quang tuyến khác nhau mà có tên là Hồng
Hải, vì chúng bao hàm một lượng lớn hồng sắc tố, nên nó đã “nhuộm” màu đỏ cả
nước biển.
Tảo Lam là loài thực vật chịu được nhiệt độ cao, có giống Tảo Lam có thể sinh
sôi nảy nở trong những suối nước khoáng có nhiệt độ lên đến 89 độ C. Vì loài
Tảo Lam có kết cấu đặc thù, các vật chất trong tế bào của chúng có điểm ngưng
đọng có thể cao hơn 89 độ C.
Chủng loại loài Tảo Lam có rất nhiều, ước tính có chừng 2000 loài, lượng đạm
(Nitơ) cô đọng trong Tảo Lam có thể lợi dụng các đạm tố trôi nổi trong không
trung hợp thành các hoá hợp vật đạm tố và không ngừng giải phóng ra càng nhiều
hơn. Nếu như để đạm cô đọng của Tảo Lam vào trong ruộng lúa để chúng mặc sức
sinh sôi nảy nở, thông qua tác dụng ngưng đọng đạm tố, là có thể khiến cho cây
lúa từ chỗ không thể hấp thụ được trực tiếp đạm trong không khí đến chỗ có thể
hấp thu được nguồn phân đạm, vậy là trong ruộng lúa đã xuất hiện một “nhà máy
phân đạm thiên nhiên”.
466. Ô nhiễm mùi là gì?
Mùi hôi là mùi mà ai ngửi cũng cảm thấy khó chịu, mùi hôi từ sông ngòi, nguồn
nước dưới đất toả ra, mùi phát ra từ các nhà vệ sinh công cộng trong thành phố
và các đống rác ở ngoại ô, đều là mùi hôi khó ngửi khó chịu. Sự ô nhiễm do mùi
hôi này dẫn đến được gọi là ô nhiễm mùi.
Mùi hôi ở dạng khí có rất nhiều, nhưng thường gặp nhất là sẽ phát ra khi
Hiđrosunfua của trứng gà thối, hợp chất của mùi hành tỏi thối và rau hỏng, cộng
thêm mùi nhựa đường, còn có xuất hiện hợp chất Indolơ. Rất nhiều khí hôi đều có
hại cho sức khoẻ của con người, các khí độc như hơi nhựa đường, hyđrocacbon,
khí ethalin, acrolein có tính độc rất lớn. Các chất này sau khi xâm nhập vào
khí quyển, cho dù nồng độ thấp cũng làm cho người ta cảm thấy buồn nôn.
Mùi hôi rất có hại cho sức khoẻ. Nếu con người ngửi thấy mùi này sẽ xuất hiện
những hiện tượng như đau đầu, buồn nôn, chán ăn,… Sự ô nhiễm mùi còn ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hệ hô hấp, hệ tuần hoàn, hệ tiêu hoá và hệ thần kinh của con
người. Nếu con người sống một thời gian dài trong môi trường bị ô nhiệm, sẽ ảnh
hưởng đến bộ phận khứu giác của con người.
Lúc này, khứu giác của con người đã phải thích ứng với môi trường ô nhiễm, tuy
mùi hôi vẫn tồn tại nhưng lại không ngửi thấy (do khứu giác không còn độ nhanh
nhạy). Hệ thần kinh não bị kích thích bởi mùi hôi này, nếu trong thời gian dài
thì sẽ bị tổn thương, ảnh hưởng đến chức năng điều tiết hưng phấn và ức chế của
vỏ đại não.
Ở nước ngoài, mùi hôi đã dẫn đến ô nhiễm môi sinh. Ở thành phố Soanxi của Nhật
Bản năm 1961 đã từng xảy ra 3 lần ô nhiễm môi sinh do mùi hôi. Trong đó một lần
xảy ra vào ban đêm, khi đó người dân ở đây đang ngủ rất say, một nhà máy nhân
cơ hội trời tối đã đổ dầu phế thải có chứa lưu huỳnh và cồn, khi gặp gió, theo
gió thổi tới nó có thể lan rộng trong phạm vi 20 km. Mùi hơi nồng nặc đã làm
rất nhiều người tỉnh giấc, họ cảm thấy ghê và bắt đầu nôn, không ít người đã
cảm thấy đau mắt, đau đầu, sức khoẻ cơ thể bị tổn hại rất lớn.
Hiện nay, mọi người đã nhận thức được mùi hôi là một sự ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng. Các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu làm thế nào để ngăn ngừa
tình trạng ô nhiễm này. Đối với sự ô nhiễm mùi của ngành công nghiệp hiện nay
có thể tiến hành xử lý áp dụng kỹ thuật như oxy hoá, trung hoà, hút thấm,… như
vậy thì có thể hoàn toàn xử lý được mùi hôi. Các cây thực vật đều có thể hấp
thu lượng lớn chất khí chứa mùi hôi này, do đó tiến hành trồng cây xanh với quy
mô lớn có thể làm cho môi trường trong sạch hơn và ngăn chặn sự ô nhiễm mùi.
467. Nhiệt độ toàn cầu nóng lên có ảnh hưởng gì tới môi trường nhân loại?
Sự thay đổi khí hậu trên Trái đất có liên quan rất mật thiết tới cuộc sống của
con người. Thông qua sự quan sát và nghiên cứu khí hậu toàn cầu các nhà khoa
học đã phát hiện ra hơn 100 năm trở lại đây, nhiệt độ bình quân toàn cầu tăng
cao 0,5 đến 0,6 độ C và có xu thế tiếp tục tăng. Sự phát hiện này gây chú ý
rộng rãi cho con người. Năm 1989 Chương trình kế hoạch môi trường Liên Hợp Quốc
còn đưa ra vấn đề “Nhiệt độ toàn cầu tăng lên” liệt vào chủ đề chính trong ngày
“Môi trường thế giới năm đó”.
Tại sao khí hậu toàn cầu lại nóng lên? Nhân tố làm thay đổi khí hậu rất phức
tạp, nhưng có thể chia làm 2 nhân tố con người và nhân tố tự nhiên.
Nhân tố tự nhiên có:
- Hoạt động của Mặt trời bao gồm: vết đen Mặt trời, tia lửa Mặt trời, vệt sáng…
- Của dải băng hà và sự thay đổi của luồng khí lạnh, luồng khí ấm, núi lửa…
- Nguyên nhân của vũ trụ như sự thay đổi tốc độ xoay chuyển của Trái đất.
Nhân tố con người:
- Chỉ các hoạt động không hợp lí của nhân loại, Ví dụ: Theo đà phát triển của
công nghiệp các nhiên liệu đốt như: than, dầu, khí thiên nhiên trong nhà máy đã
làm cho hàm lượng cacbonic trong không khí tăng nhanh. Sự tàn phá rừng và thảo
nguyên của con người làm cho khí cacbonic tăng cao và lượng oxy mà rừng và thảo
nguyên tạo ra ít đi rất nhiều. Khí cacbonic càng ngày càng tăng là trở ngại
ngăn không cho nhiệt độ giảm xuống.
- Hàm lượng cacbonic trong tầng khí quyển tăng mạnh sẽ gây ra hiệu ứng nhà
kính. Kết quả ánh Mặt trời có thể chiếu xuống Trái đất trong khi nhiệt độ giảm
xuống và nhiệt độ trên Trái đất càng ngày càng nóng lên.
Hiện nay, mỗi năm lượng khí cacbonic trên Trái đất tăng với tốc độ 0,7 ppm. Từ
đây chúng ta có thể tính được đến thập kỷ 30 của thế kỷ XXI, nhiệt độ bình quân
trên Trái đất sẽ tăng từ 1,5 đến 4,5 độ C so với hiện nay. Lúc đó nước biển sẽ
trở nên rất nóng, mặt nước biển sẽ tăng 0,2 đến 0,4 mét cộng thêm dải băng hà
tan ra, mực nước biển sẽ càng tăng cao, có khả năng các vùng ven biển sẽ bị
lụt, làm cho môi trường tự nhiên và hệ sinh thái bị phá hoại, mọi thiên tai như
bão, mưa rào, sóng thần, sức nóng,… sẽ liên tiếp xảy ra và đem lại tổn thất
không thể lường trước được cho các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp,
chăn nuôi và đánh bắt cũng như cuộc sống của toàn nhân loại. Có người coi đó là
“Thiên tai của chiến tranh hạt nhân”.
468. Vòi rồng là gì?
Một vùng mây xoáy khổng lồ trên bầu trời xám xịt vươn dài chiếc vòi hút ngoằn
ngoèo xuống mặt đất. Nó có thể xé toang chiếc ô tô tải 10 tấn, bê một toà nhà 5
tầng từ chân lên đến đỉnh núi, và chỉ trong nháy mắt đã ném văng một toa tàu
hoả đi xa khoảng 2 cây số… “Hung thần” đó chính là vòi rồng.
Vòi rồng là hiện tượng một luồng không khí lớn xoáy tròn mở rộng ra từ một đám
mây dông xuống tới mặt đất. Đường kính của vòi rồng có thể thay đổi từ một vài
chục mét đến 2 cây số, trung bình là vào khoảng 50 mét.
Vòi rồng hình thành ở bán cầu bắc thường tạo ra gió xoáy ngược chiều kim đồng
hồ, xung quanh một tâm có áp suất không khí cực kỳ thấp. Ở bán cầu nam, gió
hình thành vòi rồng đi theo chiều kim đồng hồ. Vận tốc gió tối đa có thể tới
120 – 150 km / h.
Phần lớn vòi rồng được hình thành từ một dạng mây dông đặc biệt gọi là mây dông
tích điện. Một đám mây dông tích điện có thể kéo dài trong vài giờ, xoáy tròn
trong vùng có đường kính từ 10 – 16 km, chu du hàng trăm dặm và sinh ra một số
“ống hút” khổng lồ như vậy.
Các nhà khoa học cho rằng vòi rồng được hình thành giữa một vùng có luồng khí
nóng đi lên và một vùng có luồng khí lạnh đi xuống. Bước đầu tiên là quá trình
tương tác giữa những cơn dông hướng lên trên và gió. Cơn dông này là một luồng
khí nóng ẩm, được nâng lên khỏi mặt đất trong quá trình hình thành bão. Sự
tương tác khiến cho tầng khí nóng đi lên xoay tròn trong không trung. Giai đoạn
hai là sự phát triển của dòng khí lạnh di chuyển theo hướng đi xuống mặt đất ở
phía bên kia của cơn bão. Tốc độ dòng khí đi xuống có thể vượt quá 160 km / h.
Vòi rồng loại yếu hơn có thể được tạo ra ngoài biển. Chúng thường xuất hiện
trong các vùng nước nhiệt đới.
Việc đo tốc độ gió của vòi rồng một cách trực tiếp là vô cùng khó khăn, bởi nó
có thể phá huỷ nhiều thứ xuất hiện trên đường đi. Năm 1971, ông Theodore
Fujita, một nhà khí tượng thuộc Đại học Chicago đã chế tạo ra một hệ thống phân
biệt cấp độ của vòi rồng dựa trên việc đo tác hại của nó đối với những công
trình nhân tạo. Thiết bị được gọi là cân F. Độ mạnh của vòi rồng tăng dần từ F0
– F5. Vòi rồng yếu nhất (F0) có thể phá huỷ ống khói và các biển hiệu, trong
khi ở cấp mạnh nhất (F5) chúng có thể thổi bay những căn nhà khỏi móng.
Mỹ là nơi có số lượng vòi rồng trung bình mỗi năm cao nhất thế giới, khoảng 800
cơn. Australia xếp thứ hai. Vòi rồng cũng xảy ra ở nhiều nước như Trung Quốc,
Nga, Ấn Độ, Anh và Đức.
Trận lốc xoáy vòi rồng tồi tệ nhất ở Mỹ xảy ra ngày 18/03/1925. Cùng một lúc 7
vòi rồng xuất hiện ở 3 bang Illinois, Misrousi, Indiana làm 740 người thiệt
mạng và phá huỷ nhiều cấu trúc hạ tầng. Một thảm hoạ vòi rồng khác cũng đáng
nhớ không kém xảy ra vào ngày 03/04/1974, nó là tập hợp của 148 vòi rồng nhỏ,
giết chết 315 người từ bắc Alabama đến bang Ochio.
Trong thời gian diễn ra vòi rồng, mọi người phải ngay lập tức tìm nơi trú ẩn
trong một tàng hầm hay nơi kín đáo của toà nhà như phòng họp, phòng tắm… Tuyệt
đối tránh trú ẩn trong xe hơi và nhà di động bởi chúng có thể bị thổi bay bất
cứ lúc nào. Không nên ở trong những nhà lớn có mái rộng như thính phòng hay
siêu thì là những nơi dễ bị sụp đổ. Nếu đang ở ngoài đường, bạn nên chui xuống
một cái rãnh hay mương sâu và che đầu cẩn thận để khỏi bị thương do đất đá rơi
xuống.
469. Vì sao đường di chuyển của bão lại tuân theo một quy luật nhất định?
Sau mỗi lần liên tục nghe báo cáo vị trí trung tâm bão, bạn hãy đánh dấu vị trí
của cơn bão trên bản đồ, bạn sẽ phát hiện ra rằng, tất cả mọi tuyến đường đi
của trung tâm cơn bão, tuy cũng có một số thay đổi, nhưng trên cơ bản vẫn là
tuyến đường có hình parabol và tuyến đường thẳng, bão di chuyển rất có quy luật
trên Trái đất.
Dự báo của đài khí tượng thuỷ văn trên cơ bản là dựa vào quy luật di chuyển của
bão để đưa ra dự báo.
Có hai loại lực khiến cho bão chuyển động, đó là nội lực và ngoại lực. Nội lực
là lực sinh ra trong bản thân bão. Vì bản thân bão là luồng không khí xoáy tròn
ngược với hướng của kim đồng hồ, phương hướng chuyển động của từng chất điểm
trong luồng không khí đã chịu ảnh hưởng của hiện tượng Trái đất tự quay quanh
và phát sinh ra phương hướng lệch. Tác dụng của phương hướng lệch này ở bán cầu
Bắc, làm cho các chất điểm trong luồng không khí có xu hướng chuyển động lệch
về phía bên phải, hơn nữa, vĩ độ ngày càng cao, tác dụng của hướng lệch ngày
càng lợi hại, điều này khiến cho gió bão từ hướng Bắc thổi sang hướng Tây vốn
có nhiều chất điểm trong không khí đã dịch chuyển một lượng sang phía Bắc; gió
bão từ hướng Nam thổi sang hướng Đông vốn có ít chất điểm trong không khí đã
dịch chuyển một lượng sang phía Nam. Như thế, chất lượng của không khí ở phía
Nam cơn bão lớn hơn ở phía Bắc, bão có trọng lượng tịnh dịch chuyển hướng Bắc.
Trọng lượng tịnh này có thể quy vào nội lực chủ yếu trong đường di chuyển của
cơn bão. Tiếp theo, không khí trong khu vực bão là không khí bay lên cao. Không
khí trên cao dưới tác dụng của lực Coriorit (tác dụng chuyển động theo phương
lệch của Trái đất), có xu hướng chuyển động sang hướng Tây, đây cũng có thể quy
vào nội lực của bão. Tác dụng tổng hợp của hai loại nội lực này khiến cho bão
có xu hướng chuyển động hướng Bắc lệch Tây.
Ngoại lức là động lực thúc đẩy cơn bão khi luồng không khí bao quanh cơn bão
vận động trên một qui mô lớn. Vào mùa hạ và mùa thu, trên biển Thái Bình Dương
thường có một luồng không khí áp cao độc lập (thường được gọi là khí áp cao phụ
nhiệt đới), hướng gió ở bốn bề khí áp cao này có mối quan hệ với con đường di
chuyển của bão. Bão sinh ra ở vùng phụ cận phía Nam của khí áp cao Thái Bình
Dương, ở đó có gió Đông thổi thế là cơn bão thịnh hành hướng về phía Tây.
Nội lực và ngoại lực kết hợp lại với nhau khiến cho phương hướng di chuyển của
cơn bão thường theo một quy luật nhất định. Nhưng trong quá trình di chuyển của
nó chịu ảnh hưởng rất lớn cuả áp cao phụ nhiệt đới ở biển Thái Bình Dương.
Trong thời kỳ đầu, bão ở mặt Nam của cao áp phụ nhiệt đới, nó thường di chuyển
theo hướng Tây Bắc, một khi đến vùng ven phía Tây của dải khí áp cao phụ nhiệt
đới, sẽ tiến vào phía Tây Bắc của trung tâm áp cao phụ nhiệt đới, lúc này,
ngoại lực mà nó thu được sẽ thay đổi, thúc đẩy nó chuyển sang hướng Đông, cùng
kết hợp với nội lực, khiến cho phương hướng của bão chuyển sang hướng Tây Bắc.
Do cường độ của áp cao phụ nhiệt đới, kéo dài về phía Tây và thu hẹp ở phía
Đông, cùng với tình trạng ngắt quãng khác nhau nên tuyến đường đi của bão cũng
không giống nhau. Nếu dải áp cao phụ nhiệt đới dài ra ở phía Tây đồng thời được
tăng cường, đường đi của bão cũng lệch sang hướng Nam, tiến thẳng sang phía
Tây; nếu dải áp cao phụ nhiệt đới ở phía Bắc của bão lui sang phía Đông hoặc
đứt đoạn, bão có thể di chuyển sang phía Bắc nơi có chỗ đứt gãy hoặc ở phía Tây
vùng áp cao, sau đó chuyển động vòng sang phía Đông Bắc. Nói tóm lại, đường đi
của bão được hình thành theo đường Parabol.
Trong quá trình di chuyển, bão vừa xoay chuyển vừa đi, mà khu vực gió lớn của
nó càng di chuyển càng lớn, khi được hình thành trên vùng biển nhiệt đới, đường
kính của nó rất lớn, đạt khoảng 100.000 mét, sau đó dần dần được phát triển,
khi di chuyển nơi phụ cận 30 độ vĩ Bắc, đường kính tăng gấp 10 lần so với đường
kính ban đầu, sau đó lại tiếp tục di chuyển lên phía trước, lực của bão vì thế
giảm dần, phạm vi của gió cũng giảm xuống, cuối cùng là mất hẳn.
Bình thường bão chỉ đi qua vùng sát biên giới Trung Quốc, sau đó di chuyển sang
Nhật Bản, cho nên nó chỉ ảnh hưởng đến các tỉnh Quảng Đông, Hải Nam, Quảng Tây,
Đài Loan, Phúc Kiến, Triết Giang, Giang Tô và thành phố Thượng Hải. Ở vùng
duyên hải Sơn Đông và bán đảo Liêu Đông cũng có lúc chịu một số ảnh hưởng,
nhưng bão rất ít khi ảnh hưởng đến các tỉnh phiá Bắc và các tỉnh trong nội địa.
Chỉ có khi vùng phụ cận phía Tây của dải cao áp phụ nhiệt đới Thái Bình Dương
đổ vào khu vực Giang Nam Trung Quốc thì bão mới đổ vào vùng duyên hải Đông Nam
và tiến vào vùng nội địa.
Bão được sinh ra trên biển, một cơn bão trưởng thành có sức gió vô cùng lớn,
sức gió từ cấp 12 trở lên có thể bốc đầu ngọn sóng lên mấy chục mét, thổi bay
bất cứ chiếc xe lớn nào có tải trọng lên tới cả vạn tấn.
Sau khi đổ bộ vào đất liền, bão vẫn măc sức phá hoại ở các khu vực ven biển,
đánh bật gốc cây, làm đổ nhà, thổi bay hoa màu. Nhưng một khi đã tiến sâu vào
trong lục địa, chịu ảnh hưởng của lực ma sát với mặt đất, tốc độ gió dần dần bị
giảm nhỏ xuống, cường độ cũng yếu dần. Lúc này nó mới trút một cơn mưa lớn xuống
mặt đất khiến cho núi lở, khắp nơi đầy nước, phá hoại đê kè, đồng ruộng ngập
đầy nước. Có lần sau khi bão đổ bộ vào đất liền, một tỉnh cách xa biển như Hà
Nam, trong vòng mấy ngày liền tỉnh đó phải hứng một lượng mưa như trút xuống
hơn 1000 mm khiến cho cả mấy huyện gặp tình cảnh nhà cửa ngập nước đến đỉnh.
470. Mắt bão lặng gió
Bão thực chất là một khối không khí quay tròn có phạm vi rất lớn, nó vừa xoay
vừa di chuyển. Tại trung tâm của bão, áp suất khí rất thấp, trong khi không khí
ở xung quanh xoáy rất nhanh quanh tâm, ngược chiều kim đồng hồ…
Không khí ở tầng thấp vừa quay vừa đổ về trung tâm áp suất thấp, tạo ra một tâm
bão hình tròn có đường kính khoảng 40 kilomét, thường được gọi là mắt bão. Do
các dòng khí bên ngoài mắt bão quay tròn rất gấp tạo ra lực ly tâm, khiến không
khí khó mà lọt vào được vùng bên trong. Chính vì thế mắt bão nom như một chiếc
ống đơn độc do một vòng tường bằng mây bao bọc, bên trong nó không khí dường
như không quay và gió cũng rất yếu ớt.
Không khí bên ngoài mắt bão vừa quay vừa tiến về trung tâm có áp suất thấp,
mang theo rất nhiều hơi nước. Do không thâm nhập được vào mắt bão, nó phải bốc
lên xung quanh vùng này, hình thành nên một đám mây cao ngất phình to màu xám
xịt và từ đó đổ xuống những cơn mưa như trút. Trong khi đó tại mắt bão lại xuất
hiện dòng khí đi xuống, nhờ thế ở đây trời quang, mưa tạnh, thậm chí ban đêm
còn nhìn thấy cả những chùm sao lấp lánh trên không.
Mắt bão thường không có mây hoặc rất ít mây nên trên những ảnh chụp từ vệ tinh
xuống, nó được ghi lại như một điểm tròn nhỏ màu đen. Sau khi mắt bão di chuyển
qua rồi, thời tiết rất xấu lặp lại và phát sinh ra mưa to, gió lớn.
Ở trong mắt bão, thường hay có những đàn chim rất Đông bay lượn. Những con chim
biển này đã bị những dòng khí cuốn dạt vào bão và vô tình nhờ vậy mà tìm được
một nơi tránh gió tuyệt với. Có những trường hợp cơn bão di chuyển đã đem theo
những đàn chim như vậy tới những miền rất xa.
Trong mắt bão tuy trời quang gió lặng nhưng sóng biển ở đó thì lại đặc biệt
hung dữ. Đó là vì khí áp tại tâm bão rất thấp so với xung quanh nó. Những thí
nghiệm cho thấy, khi đặt một cốc nước vào trong chiếc chuông thuỷ tinh rồi hút
dần không khí trong chuông ra, lúc không khí đã trở nên rất loãng, áp suất giảm
tới một mức nhất định thì nước trong cốc sôi sục nổi bọt lên tựa chừng đặt lên
bếp mà đun vậy. Cho nên ở những nơi tâm bão đổi bộ lên bờ, sóng biển thường
dâng lên rất cao và gây ra những thiệt hại to lớn.
471. Vì sao núi Phú Sĩ vươn cao khác thường?
Biểu tượng của đất nước Mặt trời mọc - ngọn núi Phú Sĩ tuyệt mỹ - lâu nay vẫn
khiến các nhà khoa học thắc mắc. Có cái gì đó hơi bí ẩn ở nơi đây: Ngọn núi này
quá to và hoạt động quá mạnh so với vị trí của nó.
Phú Sĩ nằm trên một đới hút chìm, là ranh giới giữa hai mảng thạch quyển. Tại
đây, mảng thạch quyển Philippine chìm xuống bên dưới Nhật Bản. Quá trình này
làm nóng chảy đá, tạo ra rất nhiều túi dung nham nhỏ.
Thông thường, các núi lửa hình thành trong những khu vực như vậy có xu hướng
yên tĩnh (ít khi phun trào) và thường bé nhỏ, đơn giản bởi chúng không nhận
được đủ lượng magma cần thiết để to ra và hoạt động mạnh hơn.
Nhưng ngọn núi Phú Sĩ lại cao bất thường, và tạo ra vật liệu với tốc độ khoảng
10.000 kilomét khối sau 100.000 năm, lớn hơn các núi lửa khác ở điều kiện tương
tự. Thêm nữa, dung nham của nó lại hơi giống với loại được tạo ra ở các dãy núi
giữa đại dương (nơi hai mảng thạch quyển tách rời nhau, để magma ở dưới sâu
phun trào lên).
Người ta đã khám phá ra một vết “rách” trong mảng thạch quyển biển Philippine ở
ngay bên dưới chân núi Phú Sĩ. Từ vết rách này, một lượng lớn manti đã dâng
lên, lấp đầy khoang chứa dung nham của ngọn núi, khiến cho núi lửa cao thêm và
hoạt động mãnh liệt hơn các anh chị em của nó. Vết rách này được tạo ra khi hai
mảng lục địa ở gần đó va vào khoảng 2 triệu năm trước đây.
472. Vì sao gió thổi lên thường có trận to trận nhỏ?
Điều này phải bắt đầu bàn từ sự vận động hỗn loạn của không khí.
Bạn nhất định từng chú ý khói bụi bay tỏa từ ống khói thường bay cuồn cuộn lên
phía trên, giọt sương trong màn sương thường bị thổi bay tứ phía, lá rơi ngoài
góc tường thì thường rơi xuống xoay tròn theo chiều gió. Tất cả những điều này
nói lên sự dịch chuyển của không khí không phải dựa vào phương tuyến thẳng, mà
là sự vận động không theo qui tắc của vòng xoáy lớn nhỏ. Sự vận động không theo
qui tắc này là sự vận động hỗn loạn của không khí.
Khi bắt đầu, sự vận động này hình thành đầu tiên ở nơi tiếp xúc với các vật
trên mặt đất. Do bề mặt Trái đất gồ ghề, không bằng phẳng, tốc độ di chuyển của
các luồng không khí nhỏ khi tiếp xúc với bề mặt Trái đất không những bị giảm
tác dụng ma sát với bề mặt Trái đất dẫn đến tốc độ gió giảm, mà còn có thể phát
sinh những khác biệt dẫn đến sản sinh ra các xoáy tròn không khí lớn nhỏ. Chiếc
lá rơi xuống xoáy tròn ở phía góc tường chính là do luồng không khí trong quá
trình chuyển động bị bức tường kia ngăn lại, đành phải hướng đến phía rìa bức
tường, tạo thành vòng xoáy hình trôn ốc. Cũng giống như thế, gió khi gặp vật
trở ngại như nhà cao tầng, núi đồi, cũng có thể hình thành nên các vòng xoáy
không khí lớn nhỏ. Vòng xoáy không khí còn thường hình thành ở những khu vực mà
mặt đất hấp thụ được nhiệt lượng không đồng đều, sản sinh ra đối lưu cục bộ,
hoặc giữa hai luồng không khí có vận tốc di chuyển không giống nhau hoặc phương
hướng trái ngược nhau. Cho dù vòng xoáy được sinh ra từ nguyên nhân nào thì
chúng vừa tiến lên phía trước vừa xoáy tròn cùng với phương hướng chính của
luồng không khí, trong quá trình tiến lên phía trước vừa quấy nhiễu vừa thay
đổi hình dạng, kết hợp hoặc khuếch tán. Lúc này, đối với chỉnh thể không khí mà
nói, tuy nó vẫn vận động dịch chuyển theo cùng một hướng, nhưng đối với luồng
không khí nhỏ mà nói, thì sự chuyển động của chúng là sự chuyển động theo tuyến
gấp khúc lúc nhanh, lúc chậm không theo một qui tắc nào. Đối với một địa điểm
nhất định, theo sự di chuyển không ngừng của sự qua lại nên rất nhiều vòng xoáy
to nhỏ không giống nhau, hình dạng khác biệt, biểu hiện rất rõ trận thì mạnh
trận thì nhẹ.
Ở những nơi có bề mặt Trái đất gồ ghề, lực ma sát lớn, sự vận động dịch chuyển
mạnh, trận tính của gió cũng lớn. Vì thế, trận tính của gió ở trong đất liền
thường mạnh hơn vùng biển, ở khu vực núi mạnh hơn ở bình nguyên. Ngoài ra, trận
tính của gió còn những mối liên hệ lớn nhỏ với bản thân tốc độ của gió, tốc độ
bình quân càng lớn, trận tính gió càng mạnh, sự sai khác giữa tốc độ gió chớp
mắt với tốc độ gió bình quân ngày càng lớn.
473. Vì sao gió thổi lúc mạnh lúc nhẹ?
Gió thổi thường có trận mạnh trận yếu, rất ít khi gió tiến lên phía trước cùng
một tốc độ. Trong bản tin khí tượng, báo cáo sức gió to nhỏ thường cấp 5 - cấp
6,gió cấp 7 , chính là nói rõ đặc tính của gió. Cấp 5, cấp 6 chỉ sức gió bình
thường, tương đương với tốc độ gió bình quân từ 8 -10,7 m / s hoặc 10,8 - 13,8
m / s, trận gió cấp 7 tương đương với tốc độ gió trong nháy mắt từ 13,9 - 17,1
m / s. Theo qui định của đài khí tượng Trung Quốc, khi đo đạc tốc độ gió, thống
nhất sử dụng tốc độ gió bình quân là 2 phút. Có lúc cũng căn cứ vào những yêu
cầu không giống nhau để tính toán tốc độ gió bình quân là 1 phút hoặc 10 phút.
Còn những trận gió có tốc độ gió lớn nhất trong một không gian ngắn thì được
gọi là tốc độ gió chớp mắt.
474. Vì sao gió ở trên cao thổi mạnh hơn ở dưới thấp?
Chúng ta thường đứng trên lầu cao hoặc trên tháp cao sẽ cảm thấy gió mạnh hơn
trên mặt đất, có thể thấy rằng tốc độ gió mạnh theo độ cao. Lấy thành phố Bắc
Kinh làm ví dụ, khi tốc độ gió ở độ cao 10 mét là 1,1 m / s, ở độ cao 50 mét là
3,6 m / s, ở độ cao 100 mét là 4,4 m / s, ở độ cao 150 mét là 4,9 m / s, nếu
như độ cao càng tăng thì gió càng mạnh hơn, cứ như vậy đến một độ cao nhất định
thì dừng, độ cao này được quyết định bởi điều kiện khí hậu lúc đó.
Gió ở nơi cao thường thổi mạnh hơn gió ở nơi thấp, thế nhưng sự chênh lệch về
tốc độ gió ở nơi cao và tốc độ gió ở nơi thấp phụ thuộc vào tình hình thời
tiết. Vào những ngày nắng dưới ánh sáng Mặt trời chiếu mạnh, đối lưu trong
không khí cũng mạnh, lúc này sự chênh lệch về tốc độ gió ở nơi cao và nơi thấp
là không đáng kể, chính là tốc độ gió ở nơi cao tuy lớn thì tốc độ gió ở nơi
thấp cũng không hề nhỏ. Vào những ngày tiết trời âm u, ánh sáng Mặt trời chiếu
xuống tương đối yếu, đối lưu không khí yếu , lúc này sự chênh lệch tốc độ gió ở
nơi cao và nơi thấp tương đối lớn, chính là tốc độ gió ở nơi thấp tương đối nhỏ
thậm chí không có gió nhưng ở nơi cao gió vẫn tương đối lớn.
Vì sao gió ở nơi cao lại mạnh hơn gió ở nơi thấp? Bởi vì không khí vận động
luôn chịu ảnh hưởng của lực ma sát, luồng không khí trên mặt đất chịu tác dụng
rất lớn của lực ma sát, đặc biệt là những vùng đồi núi không bằng phẳng, không
khí rất dễ hình thành chuyển động xoáy. Cùng với độ cao tăng lên, tác dụng lực
ma sát giảm, tốc độ gió cũng tăng. Cùng ở một khu vực, nhiệt độ không khí gần
mặt đất cũng không giống nhau, có chỗ cao chỗ thấp. Như vậy, mặt nước trên cùng
độ cao thì nhiệt độ không đồng đều, dẫn đến khí áp không đồng đều ( gọi là khí
áp nấc thang), làm cho tốc độ gió mạnh lên.
475. Gió thổi như thế nào?
Cờ bay trong gió, thuyền buồm chạy băng băng, mặt nước dập dềnh, sóng vỗ ầm ầm,
… Những điều này đều do gió gây ra. Khi vui vẻ, nó đi chậm rãi từng bước, nhẹ
nhàng đu đưa cành liễu, khi nổi giận, nó chạy nhảy lung tung, làm đổ cây lật
nhà. Vậy gió thường thổi như thế nào?
Tục ngữ có câu “nhiệt cực sinh phong”( khi nóng qua sẽ nổi gió), câu nói này
rất có ý nghĩa. Mặt trời chiếu xuống Trái đất, do tính chất bề mặt Trái đất
khác nhau cho nên mức độ chịu nhiệt cũng khác nhau, nhiệt độ không khí các vùng
có nơi cao nơi thấp. Những vùng nhiệt độ cao, không khí phình ra, mật độ không
khí thu hẹp, khí áp thấp; ngược lại,những vùng nhiệt độ thấp, không khí co lại,
mật độ không khí dầy đặc, khí áp tăng cao. Do khí áp giữa hai vùng chênh lệch
nhau nên đã sản sinh ra một lực từ nơi có khí áp cao đến nơi có khí áp thấp,
thường được gọi là lực khí áp nấc thang. Dưới tác dụng của lực khí áp nấc
thang, không khí di chuyển từ nơi có khí áp cao xuống nơi có khí áp thấp, cũng
giống như nước ở sông thường chảy từ chỗ cao đến chỗ thấp, và gió cũng thổi
theo qui luật như vậy.
Sự chênh lệch khí áp giữa hai vùng càng lớn thì luồng không khí di chuyển càng
nhanh, gió cũng thổi mạnh hơn. Khi khí áp chênh lệch không đáng kể thì không
khí di chuyển chậm, sức gió thổi càng không có lực. Nếu như khí áp giữa hai
vùng tương đương, không có sự chênh lệch khí áp thì không khí sẽ không chuyển
động, trời lặng gió.
Sự phân bố khí áp ở các vùng trên Trái đất không những khác biệt nhau mà còn
thay đổi theo thời khắc. Luồng khí áp cao và khí áp thấp nhất khi thì khống chế
vùng đất liền, khi thì di chuyển ra ngoài những đại dương. Khí áp cao hàn lạnh
thường nối tiếp với luồng không khí lạnh di chuyển từ khu vực có vĩ độ cao
xuống khu vực có vĩ độ thấp. Khí áp thấp ở khu vực ôn đới di chuyển từ Tây sang
Đông. Như vậy, phương huớng, độ lớn mạnh của lực khí áp nấc thang giữa các vùng
thay đổi theo từng thời khắc, gió giữa các vùng cũng khi mạnh khi yếu đồng thời
không ngừng thay đổi hướng gió.
Vào mùa đông, do ở đất liền phát tán nhiệt nhanh hơn vùng biển nên nhiệt độ
không khí thấp hơn ở vùng biển, nhưng khí áp lại cao hơn ở vùng biển, khí áp
cao thường cư ngụ ở vùng đất liền, vì thế mùa đông ở Trung Quốc thường có gió
Tây Bắc vừa khô vừa lạnh thổi từ đất liền ra biển. Vào mùa hè thì ngược lại,
dưới ánh sáng Mặt trời cực mạnh, ở vùng đất liền nhiệt độ gia tăng nhanh hơn
vùng biển, nhiệt độ tăng cao khí áp lại thấp hơn vùng biển rất nhiều, vì thế
mùa hè ở Trung Quốc thường có gió mùa Đông Na nóng ấm thổi từ biển Thái Bình
Dương vào phía Đông Trung Quốc. Khu vực Tây Nam Trung Quốc còn có gió mùa Tây
Nam nóng hổi từ Ấn Độ Dương.
Khu vực duyên hải, ban ngày tiết trời trong lành, vùng đất liền chịu nhiệt
nhanh hơn vùng biển, nhiệt độ cao, khí áp thấp hơn vùng biển, gió biển mát mẻ
không ngừng thổi từ biển vào trong đất liền. Ban đêm, đất liền tản nhiệt nhanh
hơn vùng biển, sự phân bố nhiệt độ không khí và khí áp ngược hẳn so với ban
ngày, gió thổi từ đất liền ra ngoài biển. Đây chính là nguyên nhân tại sao vùng
duyên hải thường xuất hiện gió ở thềm lục địa.
Ban ngày vùng núi trời nắng, không khí trong khe núi chịu nhiệt nên nở phình
ra, tập trung dày đặc ở phía trên, trên độ cao giống nhau nhưng khí áp trong
khe núi thường cao hơn trên sườn núi , vì thế gió từ trong khe núi thổi lên
đỉnh núi; nhưng vào ban đêm thì ngược lại, gió từ trên núi thổi xuống khe núi.
Đây là gió núi và gió khe núi.
Từ đó có thể thấy rằng, bất kể gió mùa, gió thềm lục địa hay gió núi, đều cho
thấy bức xạ ánh sáng Mặt trời có thể là động lực cơ bản để gió thổi, còn nguyên
nhân cơ bản chính là sự chênh lệch khí áp giữa hai vùng.
10 Danh Tướng vĩ đại của mọi thơì đại - 2008
1. Alexander đại đế(384-322):
người chinh phục vĩ đại nhất suốt lịch sử của Hi Lạp cổ. Những chiến công của
ông được đánh giá cao không phải vì sự tàn phá mà là nó làm cho văn hoá Hi Lạp
được lưu truyền khắp nơi, đạt đến đỉnh cao nhất trong lịch sử Văn minh nhân
loại.
2. Hanibal Barca (247-183)(Tunesia)( nhưng thật ra là Hispania vì lúc đó nó là một cả mà thôi). Vị
tướng huyền thoại này với lực lượng ít và yếu hơn hẳn đế chế Rome nhưng đã tiến
hành những cuộc hành quân vô tiền khoáng hậu từ Cathegne( Tây Ban Nha ngày nay)
đánh thẳng vào Rome, với những chiến thắng vang dội làm suy yếu tận gốc rễ đế
chế La Mã , mặc dù sau này Rome phản công và đã phải dùng đến chính sách lược
của Hanniban là cho quân đánh thẳng đến Cathegne khiến cho Hanniban thua trận
phải tự sát nhưng từ đấy đế quốc La Mã suy tàn không còn gượng dậy được nữa.
3. Julius Cesar(100-44) tổng
tài của đế chế La Mã, người chinh phục gần như toàn bộ Châu Âu thời bấy giờ,
chiếm sang cả Ai Cập và Babylon, rất nổi tiếng với bản báo cáo chiến thắng gửi
Nguyên lão viện khi ông được cử chinh phục Babylon : VENI, VEDI, VICI( đã đến,
đã nhìn thấy , đã thắng).... bộc lộ sự kiêu căng của một người tài năng chiến
thắng.
Đó là 3 danh tướng tiêu biểu cho thời Cổ.
4. Thành Cát Tư Hãn (1162-1227)
nhà chinh phục vĩ đại nhất của nhân loại, mở ra đế quốc Nguyên Môn chưa từng có
trong lịch sử , thiên hạ anh hùng cổ kim không ai sánh bằng. Những cuộc chinh
phạt của Thành Cát Tư Hãn có sự tàn phá nặng nề với các nền Văn Minh khác, thậm
chí là xoá xổ " Vó ngựa Mông cổ đi đến đâu, nơi đó cây cỏ cũng không mọc
được ".
5. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
(1228-1300) vị danh tướng anh hùng dân tộc Việt Nam đã đánh bại đạo
quân thiện chiến vô địch của con cháu Thành Cát Tư Hãn. Sau chiến thắng 1288,
đế chế Mông Cổ bắt đầu suy yếu và tan rã trên phạm vi toàn thế giới. Hoàng gia
Anh đã tặng đức Thánh danh hiệu Người đánh bại đế chế Mông Cổ.
Đó là hai danh tướng nổi bật và tiêu biểu cho thời trung cổ.
6. Oliver Cromwell(1599-1658)
là danh tướng nước Anh, lừng danh trong lịch sử với đội quân sừon sắt đã đánh
bại quân đội của hoàng gia Stewart , chém đầu Charles I ( 1649), sau trở thành
Bảo Hộ Công, tổng tài của Anh quốc.
7. Napoleon Bonaparte(1769-1821)
hoàng đế Pháp vĩ đại chinh phục gấn hết Châu Âu, danh tướng vĩ đại nhất thế
giới thế kỷ 19. Những cuộc chinh phục cũng như nghệ thuật chiến tranh của ông
đã đi vào lịch sử chiến tranh của nhân loại.
8. Mikhaiin Cutudop(1745-1813)
danh tướng Nga , đã đánh bại Napoleon chẳn đứng cuộc xâm lăng của Napoleon vào
Nga(1812) , sau đó lãnh đạo liên quân các nước Áo Phổ tiến đánh Paris lật đổ
hoàn toàn sự thống trị của Napoleon. Ở Nga ông được xem như anh hùng dân tộ.
Cùng với Suvurop, ông được lịch sử vinh danh là bậc thầy của nghệ thuật hành
quân vượt núi.
Đó là 3 danh tướng tiêu biểu cho thời cận đại.
9. Geogry Zukop(1896- 1974)
nguyên soái Nga, người đánh bại Phát xít Đức , trong chiến tranh vệ quốc đã có
những trận đánh chiến thắng huyền thoại.
10. Võ Nguyên Giáp(1911-....)
đại tướng tổng tư lệnh quân đội Việt Nam, viện Hàn Lâm hoàng gia Anh vinh danh
ông là người đánh đổ hai chế độ thực dân cũ và mới, bậc thầy của chiến tranh du
kích.
Đó là 2 vị danh tướng tiêu biểu cho chiến tranh hiện đại
Trong 10 vị tướng soái trên, chỉ có Cromwell và Cutudop nhận được 70% số phiếu
bầu, còn 8 vị lại đều nhận được 100%.
Tướng Giáp xếp thứ 40/100 danh tướng của nhân loại ?
Cách đây hơn chục năm, có một ấn phẩm dịch của sách nước ngoài, nhà xuất
bản có ấn phẩm ấy bị phê bình. Cuốn sách đưa tin Việt Nam có 2 trong số 10 danh
tướng giỏi nhất thế giới. Người bảo có, kẻ bảo không có nguồn chính thức gì về
cuốn sách đó. Thế nhưng nếu có thì cũng chẳng có gì là ghê gớm!
Ở phương Tây, xuất bản tư nhân tự do muốn tung ra cái gì cũng được, có nhiều
chuyện giật gân tung ra để kiếm tiền. Các vị tướng tài, có thể nhà xuất bản này
đưa ra với tiêu chí này, nhà xuất bản khác lại đưa danh sách khác với những
tiêu chí khác. Vì vậy, không nên theo thói quen ở ta, khi đọc một điều gì ở một
cuốn sách Anh hoặc Pháp... đã vội coi ngay là ý chung của dân Anh hoặc dân
Pháp. Nhưng mặt khác, cũng phải công nhận là những sách phương Tây có tính
nghiên cứu ít nhiều đều thận trọng.
Với tinh thần ấy, tôi vừa trân trọng vừa thận trọng khi đọc cuốn sách Mỹ: 100
nhà quân sự - một cách xếp hạng những nhà quân sự có ảnh hưởng nhất của các
thời đại (NXB Citadel Press-NewYork 2002). Tác giả là trung tá M. Lanning đã
từng chiến đấu ở Việt Nam và là tác giả của 12 cuốn sách quân sự. Tiêu chuẩn
của ông đề ra cho sự lựa chọn và xếp hạng ấy là: không nhất thiết phải là quân
nhân chuyên nghiệp, hoặc có chiến công vang lừng, mà là người có những quyết
định quân sự có ảnh hưởng lâu dài tốt hay xấu đến đất nước mình, đến cả một
vùng hay toàn thế giới. Diện lựa chọn bao gồm cả thế giới trong 25 thế kỷ,
không phân biệt đó là anh hùng dân tộc hay bạo chúa, tội phạm chiến tranh.
5 vị đầu bảng là: Washington, Napoléon, đại đế Alexander, Thành Cát Tư Hãn và
Caesar. 4 vị sau thì dễ được ý kiến chung công nhận với sự giải thích của tác
giả: Hoàng đế Pháp Napoléon (bộ dân luật ảnh hưởng đến cả châu Âu - gián tiếp
khiến cho các quốc gia Đức và Ý hình thành, ảnh hưởng về tổ chức quân đội,
chiến lược tác chiến trên thế giới, gieo rắc tư tưởng tự do); Đại đế Hy Lạp
Alexander (thế kỷ 3, 4 trước công nguyên, có tài thao lược và tổ chức, dũng cảm
xây dựng một đế chế bao gồm cả Đông Tây trong hệ thống văn minh Hy Lạp, canh
tân nghệ thuật quân sự); Thành Cát Tư Hãn (thế kỷ 13 - đế chế Á - Âu, từ Ba Lan
đến Triều Tiên, cả Trung Quốc lẫn Nam Nga, tài dùng binh, gieo khiếp sợ, là
người làm chiến thuật nhưng cũng giỏi cai trị); Hoàng đế La Mã Caesar (thế kỷ I
trước Công nguyên - Đế chế La Mã tồn tại 5 thế kỷ, ảnh hưởng văn hóa La Mã, bộ
luật La Mã, tổ chức hành chính các thành thị, tổ chức quân đội).
Xếp Washington số 1 có thỏa đáng không? Chắc chưa hẳn được sự đồng tình của tất
cả mọi người. Tác giả giải thích: nếu so với những chiến công huy hoàng của
Napoléon, Alexander, Thành Cát Tư Hãn và Caesar cùng rất nhiều tướng khác thì
ông thua xa, nhưng sau nhiều lần lao đao, ông đã thắng trận Yorktown (1781),
quyết định thắng lợi của Cách mạng Mỹ chống Anh, với những hậu quả làm thay đổi
bộ mặt trái đất: Nước Mỹ ra đời, trong hai nhiệm kỳ tổng thống (ông từ chối
nhiệm kỳ 3), ông đã đặt nền nếp cho một nền dân chủ vẫn còn là mẫu mực cho đến
nay. Ông đã kết hợp quân sự, chính trị đối nội đối ngoại để giành thắng lợi
cuối cùng. Không có ông, không có Hoa Kỳ, quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất đến
thế giới hôm nay
Tướng Võ Nguyên Giáp được xếp thứ 40/100, sau Tôn Tử (thứ 23), trước Mao Trạch
Đông (thứ 48), Togo (thứ 69), Jukov (thứ 70), Lâm Bưu (thứ 76), Fidel Castro
(thứ 82), Tito (thứ 84), Kim Nhật Thành (thứ 86), Tưởng Giới Thạch (thứ 89)...
Tác giả giải thích: Tướng Giáp là bậc thầy về đánh du kích. Chiến lược trường
kỳ của ông có ảnh hưởng đến các dân tộc đấu tranh cho độc lập. Những thắng lợi
của ông tác động đến những quyết định chính trị, quân sự ngày nay ở nhiều nước,
đặc biệt ở Hoa Kỳ để tránh một "cuộc chiến tranh Việt Nam" lần thứ
hai.
Liên quan đến Chiến tranh thế giới lần thứ II, Mỹ có Eisenhower (thứ 18), Mac
Arthur (thứ 80), Marshall (thứ 16). Phía Nga có Konev, Jukov (thứ 70) (không có
Stalin); phía Anh có Mongomery; phía Pháp không có ai, vắng cả De Gaulle,
Leclerc; phía Nhật có đô đốc Yamamoto; phía Đức có Hitler (thứ 16) và Rommel
(thứ 79)...
Tuy không trực tiếp chỉ huy trận nào, Hitler xếp thứ 16 vì là Tổng tư lệnh quân
đội hùng mạnh ghê gớm, gây ra Chiến tranh thế giới thứ II, làm chết bao nhiêu
triệu người, ảnh hưởng lâu dài đến bộ mặt thế giới: Đức bị chia cắt, Liên Xô
nổi lên và Chiến tranh lạnh, các đế quốc Anh và Pháp lao đao để rồi tan rã, Hoa
Kỳ từ bỏ chính sách cô lập và trở thành siêu cường số 1. Thống soái Đức Rommel,
nổi tiếng về canh tân nghệ thuật tấn công bằng xe tăng (đánh thọc chớp nhoáng,
tiến sâu, mở rộng thắng lợi không cần đợi hậu quân. Ông đi tiên phong chiếm
nước Pháp, cầm cự thắng lợi một giai đoạn dài ở Bắc Phi chống Anh, về sau bị
Hitler bắt uống thuốc độc tự tử. Là nhà binh chuyên nghiệp, ông có nhân cách
nên được cả phe Đồng minh kính trọng.
Trên đây là bản tóm lược sự lựa chọn 100 nhà lãnh đạo quân sự và sự đánh giá
của trung tá Lanning, người từng "nếm đòn" tướng Giáp ở Việt Nam. Dĩ
nhiên, đó chỉ là quan điểm cá nhân của ông để ta tham khảo.
DANH SÁCH 100 DANH TƯỚNG LỪNG DANH THẾ GIỚI
1. George Washington (American general)
2.
Napoleon I (French emperor)
3. Alexander the Great (Macedonian conqueror)
4. Genghis Khan (Mongol conqueror)
5. Julius Caesar (Roman emperor)
6. Gustavus Adolphus (Swedish king)
7. Francisco Pizarro (Spanish conqueror)
8. Charlemagne (Charles the Great) (Frankish king)
9. Hernado Cortes (Spanish conqueror)
10. Cyrus the Great (Persian king)
11.
12. Simon Bolivar (South American liberator)
13. William the Conqueror (English king)
14. Adolf Hitler (German dictator)
15. Attila the Hun (Hun conqueror)
16. George Catlett Marshall (American general)
17. Peter the Great (Russian czar)
18. Dwight David Eisenhower (American general)
19. Oliver Cromwell (English general)
20. Douglas MacArthur (American general)
21. Karl von Clausewitz (Prussian general)
22. Arthur Wellesley (First Duke of
23. Sun Tzu (= Tôn Tử, nổi tiê´ng vơí Tôn Tử binh pháp(Chinese writer)
24. Hermann-Maurice, Comte de Saxe (French marshal)
25. Tamerlane (Tartar conqueror)
26. Antoine Henri Jomini (French general)
27. Eugene of Savoy (Austrian marshal)
28. Fernandez Gonzalo de Cordoba (Spanish general)
29. Sebastien Le Pestre de Vauban (French marshal)
30. Hannibal (Carthaginian general)
31. John Churchill (Duke of Marlborough)(English general)
32. Winfield Scott (American general)
33. Ulysses Simpson Grant (American general)
34. Scipio Africanus (Roman general)
35. Horatio Nelson (British admiral)
36. John Frederick Charles Fuller (British general)
37. Henri de La Tour d’Auvergne de Turenne (French marshal)
38. Alfred Thayer Mahan (American admiral)
39. Helmuth Karl Bernhard
Von Moltke (Prussian marshal)
40. Võ Nguyên Giap (Vietnamese general)
41. John Joseph Pershing (American general)
42. Maurice of Nassau (Dutch general)
43. Joan of Arc (French Heroine)
44. Alan Francis Broke (Alanbrooke) (British marshal)
45. Jean Baptiste Vacquette de Gribeauval (French general)
46. Omar Nelson Bradley (American general)
47. Ralph Abercromby (British general)
48. Mao Zedong (Mao Trạch Đông) (Chinese revolutionary)
49. H. Normal Schwarzkopf (American general)
50. Alexander Vasilevich Suvorov (Russian marshal)
51. Louis Alexandre Berthier (French marshal)
52. Jose de San Martin (South American revolutionary)
53. Giuseppe Garibaldi (Italian general)
54. Ivan Stepanovich Konev (Soviet marshal)
55. Suleiman I (Turkish sultan)
56. Colin Campbell (British marshal)
57. Samuel (Sam) Houston (Texan general)
58. Richard I (the Lion-Hearted) (English king)
59. Shaka (Zulu king)
60. Robert Edward Lee (Confederate general)
61. Chester William Nimitz (American admiral)
62. Gebhard Leberecht von Blucher (Prussian marshal)
63. Bernard Law Montgomery (British marshal)
64. Carl Gustav Emil von Mannerheim (Finnish marshal)
65. H.H. (Hap) Arnold (American
general)
66. Mustafa Kemal (Ataturk) (Turkish general)
67. John Arbuhnot Fisher (British admiral)
68. Heihachiro
69. Moshe Dayan (Isaeli general)
70. Georgi Konstantinovich Zhukov (Soviet marshal)
71. Ferdinand Foch (French marshal)
72. Edward I (English king)
73. Selim I (Turkish sultan)
74. Giulio Douhet (Italian general)
75. Heinz Guderian (German general)
76. Lin Piao ( hay Lin Biao= Lâm Bưu) (Chinese marshal)
77. Isoroku Yamamoto (Japanese admiral)
78. Harold Rupert Alexander (British marshal)
79. Erwin Rommel (German marshal)
80. Lennat Torstensson (Swedish marshal)
81. Saddam Hussein (Iraqi marshal)
82. Fidel Castro (Cuban revolutionary)
83. Horatio Herbert Kitchener (British marshal)
84. Tito (Yugoslav marshal)
85. Karl Doenitz (German admiral)
86. Kim Il Sung (Korean dictator)
87. David Glasgow Farragut (American admiral)
88. Garnet Joseph Wolseley (British marshal)
89. Chiang Kai-shek (= Tưởng Giơí Thạch) (Chinese nationalist)
90. Frederick Sleigh Roberts (British marshal)
91. Saladin (Muslim sultan)
92. George Dewey (American admiral)
93. Louis II de Bourbon, Prince de Conde (French general)
94. Kurt Student (German general)
95. George S. Patton (American general)
96. Michel Ney (French marshal)
97. Charles XII (Swedish king)
98. Thomas Cochrane (British admiral)
99. Johan Tserclaes von Tilly (Flemish mercenary)
100. Edmund Henry H. Allenby (British marshal)
Tiểu Sử George Washington
George Washington (22 tháng 2 năm 1732 – 14 tháng 12 năm 1799) là tổng thống
đầu tiên của Hoa Kỳ, được xem là cha đẻ của nước Mỹ và là người lãnh đạo cuộc
đấu tranh cách mạng giành độc lập Mỹ nổi bật ít vì tài năng lỗi lạc mà vì
phương pháp giải quyết vấn đề sáng suốt và thận trọng.
Ông đã góp phần đoàn kết thành một thể thống nhất các yếu tố khác nhau lập nên
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Quốc hội Hoa Kỳ đã nhất trí tuyên bố về ông 5 ngày sau
khi mất là: "Đứng đầu trong chiến tranh, đứng đầu trong hòa bình và đứng
đầu trong trái tim của nhân dân".
Tiểu sử
Năm 1789, Washington lại được cử ra lần nữa để lãnh đạo đất nước, lần này với
cương vị là Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên và được tái cử năm 1793. Trong 8 năm
đứng trên cương vị này, ông cố gắng vạch đường lối chính sách của chính phủ
mới. Bị công kích quyết liệt bởi một số phần tử đối lập, như trong vấn đề quan
hệ của Hoa Kỳ với nền cộng hòa đầu tiên Pháp, ông giữ vững nhiệm vụ của mình
một cách tận tâm, chu đáo. Cuối cùng, ông rút lui khỏi chính trường năm 1797 và
về sống ở quê nhà tại Mount Vernon, nơi ông qua đời ngày 14 tháng 12 năm 1799,
hưởng thọ 67 tuổi. Ông đã để lại một số bút ký, tiểu luận và nhiều bài diễn
văn.
George Washington, vị tổng thống đầu
tiên của nước Mỹ, và cũng của thế giới, dĩ nhiên, từ lâu, đã trở thành một
tượng đài, một huyền thoại. Chân dung của ông trên núi Rushmore, và trên đồng
một dollar, đã quá quen thuộc với người dân Mỹ cũng như toàn thế giới. Ngày kỷ
niệm sinh nhật của ông tại nước Mỹ là một lễ hội không thua gì ngày Quốc khánh.
Và dĩ nhiên, sách vở viết về ông đã nhiều đến không kể xiết.
Nhưng không phải vì thế mà người ta không còn gì để viết về ông nữa.
Năm 2004, Joseph J. Ellis, giáo sư sử học tại Đại học Mount Holyoke, từng đoạt
giải Pulitzer 2001 với cuốn Founding Brothers: the Revolutionary Generation
(“Những huynh đệ lập quốc: Thế hệ cách mạng”), đã tung ra cuốn His Excellency:
George Washington và lập tức nó leo lên hàng bestseller trên toàn nước Mỹ. Điều
này có thể hiểu là, dân Mỹ vẫn yêu mến Washington hoặc vẫn thích đọc sách sử.
Nhưng giải thích như thế vẫn chưa đủ, vì thứ nhất, sách nghiên cứu lịch sử
thường khô khan, nhất là khi đó là tác phẩm của một sử gia, thường được viết để
trao đổi trong giới chuyên môn, nên đầy những thuật ngữ và tranh luận, khó lòng
thu hút được đại chúng. Thứ nhì, nếu tác phẩm không có gì mới hơn những tác
phẩm đi trước, chắc chắn nó sẽ không thuyết phục được giới chuyên môn, nhà xuất
bản, những cây bút điểm sách trên báo chí, và sau cùng là công chúng. Nên tác
phẩm này bán chạy chắc chắn là nhờ một số yếu tố khác.
Joseph Ellis không tập trung vào công trạng trong chiến tranh, vai trò trong
chính trường hay vị trí trong lịch sử của Washington, mà ông chú trọng mổ xẻ sự
hình thành con người và tính cách của Washington, những phẩm chất giúp ông hoàn
tất được nhiệm vụ do lịch sử giao cho, khi trên thế giới chưa hề có tiền lệ nào
về công việc tổng thống dân cử và xây dựng chế độ cộng hòa.
J. Ellis đã bóc dần những lớp vỏ huyền thoại và dựng lại hình ảnh Washington,
từ một sĩ quan trẻ may mắn sống sót qua bao trận chiến một cách kỳ lạ, một điền
chủ Mỹ tiêu xài hàng hóa Anh nhiều đến độ ngập trong nợ nần vì các thương gia
Anh ăn lãi quá cao (một yếu tố khiến ông bực bội với đế quốc Anh), rồi trở
thành một tướng lãnh thua nhiều hơn thắng, và một vị tổng thống luôn phải vượt
lên trên những xung đột giữa các phe phái trong chính quyền của mình.
Bạn đọc có thể tìm thấy nhiều điều mới mẻ trong pho tiểu sử này:
Ông ủng hộ nền độc lập Mỹ không phải do hiểu biết về tự do và tư tưởng cộng hòa
như những nhân vật lập quốc khác, vốn có học vấn cao hơn ông, mà ông xuất phát
từ những lý do hết sức thực tế: quyền lợi kinh tế, quyền kiểm soát lãnh thổ và
tài nguyên, cho dân Mỹ thay vì cho đế quốc Anh.
Tuy có tính cách năng động tiến công, nhưng sau cùng ông đã theo đuổi chiến
lược du kích, tránh né đụng độ nếu không chắc thắng. Với ông, phải tồn tại
trước rồi mới mong thắng lợi.
Ông rất trăn trở về vấn đề nô lệ (trước thế hệ của A. Lincoln gần một thế kỷ)
vì tuy ông là chủ nô, nhưng lại chỉ huy một đạo quân hỗn hợp chủng tộc. Ưu tư
của ông về vấn đề này vừa mang tính đạo đức vừa mang yếu tố kinh tế (vì sở hữu
nô lệ trong trang trại của ông không hề đem lại lợi nhuận nhiều như người ta
tưởng). Và trong di chúc ông đã quyết định giải phóng cho các nô lệ của mình.
Ông thường xem đỉnh cao sự nghiệp của mình là cuộc chiến giành độc lập chứ
không phải việc làm tổng thống. Ông rất ngần ngại khi phải đảm nhận chức vụ
này, không chỉ một mà tới hai lần, nhưng rồi chính ông đã định hình những nét
cơ bản cho tổng thống chế của Mỹ. Các phe phái chống đối nhau trong Quốc hội
luôn thấy ông là người duy nhất có thể kết hợp họ lại với nhau.
Ông cũng buồn phiền vì không bảo vệ được người Da Đỏ, những đồng minh của ông
từ thời còn là một sĩ quan trẻ, nhưng nỗ lực của ông thất bại vì đã xảy ra quá
sớm so với thời đại.
Thành công của Cách mạng Mỹ phần nào là nhờ có sự xuất hiện của những con người
xuất chúng (Benjamin Franklin, Alexander Hamilton, John Adams, Thomas
Jefferson, James Madison, v.v…), tất cả đều giỏi hơn
Joseph Ellis viết tác phẩm này dựa chủ yếu vào tài liệu đầu tay hay tài liệu sơ
cấp (firsthand documents - những văn phẩm được làm ra không phải vì mục đích
ghi lại lịch sử: như thư từ, công văn, nhật ký, biên bản…) thay vì những tài
liệu thứ cấp (secondary documents - những công trình nghiên cứu sử học). Điều
này khiến tác phẩm của ông có tính thuyết phục cao. Ông cũng đúc kết ý kiến của
các sử gia đi trước ông về đề tài này. Phần chú thích rất chi tiết của ông, tuy
có thể khiến bạn đọc nhàm chán, nhưng đã cho thấy tính nghiêm túc và khoa học
của công trình này.
J. Ellis cũng cho thấy
Giai đoạn lịch sử nào cũng có nhiều vấn đề để suy nghĩ, và danh nhân nào cũng
đem lại cho chúng ta nhiều bài học, nhất là những nhân vật có những bước phát
triển bình thường với những nỗ lực cá nhân bình thường, khiến chúng ta cảm thấy
gần gũi và có thể dễ dàng học tập theo họ, hơn là những lớp vỏ huyền thoại mà
người đời sau, vì nhiều dụng ý, đã tô vẽ thêm chung quanh nhân vật ấy. Có lẽ đó
là điều Joseph Ellis muốn nói với độc giả.
Tiểu Sử Napoleon Bonaparte
Napoléon
Bonaparte (15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821) là vị tướng của Cách mạng
Pháp và là người cai trị nước Pháp với tư cách là Đệ nhất Tổng tài (Premier
Consul) của Cộng hòa Pháp từ 11 tháng 11 năm 1799 đến 18 tháng 5 năm 1804, sau
đó là Hoàng đế Pháp (Empereur des Français) và vua Ý với tên Napoléon I từ 18
tháng 5 năm 1804 đến 6 tháng 4 năm 1814, và tiếp tục từ 20 tháng 3 đến 22 tháng
6 năm 1815. Ông được biết đến như một trong những nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại
nhất thế giới.
Napoléon được biết đến không chỉ qua những đóng góp về mặt quân sự mà cả qua Bộ
luật Dân sự Pháp (còn được gọi là "bộ luật Napoléon"). Ông lên ngôi
năm 1804, nhưng đã bắt đầu cuộc chiến tranh Napoléon vào năm 1803.Từ năm
1804-1812, quân đội của ông đã đi khắp châu Âu từ Bồ Đào Nha ở mạn Tây đến tận
Nga ở biên giới mạn Đông.
Tiểu Sử
Napoléon Bonaparte sinh năm 1769 tại Ajaccio, thuộc đảo Corsica, với tên là
Napoleone di Buonaparte (viết theo phương ngữ đảo Corsica là Nabolione hay
Nabulione) trong một gia đình quý tộc sa sút. Về sau ông lấy tên là Napoléon
Bonaparte cho có vẻ Pháp hơn. Napoléon từ nhỏ đã thể hiện tính cách cứng rắn và
có tinh thần dũng cảm cũng như mưu trí. Cha ông phát hiện thấy tích cách đó của
Napoléon nên đã cho ông sang Pháp học tại trường quân sự ở Brienne-le-Château.
Khi đó cậu bé Napoléon hay bị bạn bè trêu chọc vì cậu nói tiếng Pháp không được
nhanh và chuẩn như những người bạn khác. Nhưng cậu đã chứng tỏ mình và là học
sinh rất nổi trội, đặc biệt là với môn Toán học và Lịch sử. Lúc đầu ông muốn học
về hải quân nhưng do ý muốn của mẹ, ông quyết định học ngành pháo binh, chính
đây là cái nôi đầu tiên tạo ra một vị chỉ huy lục quân tài giỏi cho nước Pháp.
Bất hạnh đến với gia đình Napoléon khi ông vào học được bốn tháng thì cha ông
qua đời. Tại trường quân sự, Napoléon đã thể hiện rõ tài năng của mình. Với
thành tích học tập ưu tú, ông được giới thiệu vào học tại Trường Quân sự Hoàng
gia Pháp tại
Sự nghiệp
Con đường vinh quang
Ngày 14 tháng 7 năm 1789, Cách mạng tư sản Pháp bùng nổ lật đổ chế độ quân chủ,
Napoléon đã tham gia tích cực vào Câu lạc bộ Jacobin, lúc này ông mang quân hàm
trung úy. Để tránh thế lực thân Anh tại đảo
Napoléon và Quân đoàn Lê Dương do ông thành lậpNhưng không bao lâu cuộc đảo
chính tháng Nóng (tháng Thermidor) diễn ra, phái Jacobin bị lật đổ. Do từng là
người ủng hộ phái Jacobin, ông bị điều tra trong mấy tháng và chính quyền mới
không trọng dụng ông.
Năm 1795, sau một thời gian không được trọng dụng, vận may lại đến với
Napoléon. Do quân bảo hoàng tiến hành bạo loạn tại
Năm 1796 các nước Anh, Nga, Áo liên kết với nhau tập trung tấn công nước Pháp.
Chính phủ Pháp phái 4 đạo quân tiến đánh. Napoléon được bổ nhiệm làm tư lệnh
đạo quân thứ 4 tiến đánh nước Ý để kiềm chế quân Áo. Chỉ trong một thời gian
ngắn, ông đã đánh tan tác quân Áo tại Ý và tiến quân vào bản thổ nước Áo tới
sát kinh đô Wien làm Áo phải ký hiệp định đình chiến. Đoàn quân chiến thắng của
Napoléon trở về
Để triệt để đánh bại nuớc Anh, năm 1798, chính phủ Pháp quyết định đánh Ai Cập
để ngăn quân Anh tiến sang Ấn Độ. Napoléon được cử làm tư lệnh quân Đông chinh,
đã nhanh chóng đánh chiếm Ai Cập. Napoléon đã mang theo hơn 35000 quân, trong
đó có nhiều chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực, bao gồm cả các nhà toán học như
Monge, Joseph Fourier, Laplace, Berthollet.
Quân Pháp đại thắng quân Mameluk Ai Cập trong trận Kim Tự Tháp nhưng thất bại
trong việc đánh chiếm Pháo đài Akko (hay Acre) của người Thổ, được sự trợ chiến
của Hạm đội Anh do Đô đốc Sydney Smith chỉ huy. Trong khi đó tại châu Âu tình
hình lại chuyển biến theo chiều hướng xấu cho nước Pháp, quân Pháp bị đánh bại
trên chiến trường, các vùng đất tại Ý đều bị mất. Napoléon quyết định trở về
Pháp.
Tại đây, được sự ủng hộ của dân chúng và quân đội, ngày 9 tháng 11 năm 1799,
Napoléon làm cuộc chính biến, trở thành chấp chính quan cao nhất của nước Pháp,
với danh vị Đệ nhất Tổng tài (Premier Consul). Đó là cuộc chính biến tháng
Sương mù (tháng Brumaire).
Năm 1800, Napoléon thân chinh cầm quân vượt dãy Alps đánh vào Ý, quân Áo tại Ý
bị Napoléon đánh tan tác, tại trận Marengo, quân đội Áo bị đánh bại hoàn toàn.
Sau những thất bại nặng nề, liên quân Anh, Áo, Nga phải ký Hòa ước Amiens, công
nhận những vùng đất mà Napoléon chiếm được thuộc về nước Pháp. Anh còn phải trả
lại cho Pháp những thuộc địa bị mất trong thời gian chiến tranh.
Napoléon đã nhanh chóng đánh bại những kẻ thù của nước Pháp. Tháng 1 năm 1804,
cảnh sát Pháp phá vỡ một âm mưu của phe bảo hoàng ám sát ông. Ông quyết định
tái lập chế độ quân chủ, với lý lẽ rằng phe Bourbon sẽ không thể trở về nếu sự
kế vị của họ Bonapart được hiến định. Đại lễ đăng quang của ông được tổ chức
tại Nhà thờ Đức Bà Paris ngày 2 tháng 12 năm 1804. Thay vì để Giáo hoàng Pius
VII đặt vương miện lên đầu mình, Napoléon đã giật chiếc vương miện từ tay Giáo
hoàng để tự đội lên đầu, ngầm ý không hoàn toàn chịu phục uy quyền của Tòa
thánh. Ông trở thành Hoàng đế Napoléon I, và phong bà Joséphine làm Hoàng hậu.
Tiếp đó, ngày 26 tháng 5 năm 1805, tại nhà thờ thành phố Milano, Napoléon tự
phong làm vua nước Ý và vua xứ Lombardy.
Uy chấn châu Âu
Mỗi đơn vị có quân phục khác nhauNăm 1806, Anh không cam chịu thất bại đã thành
lập một liên minh chống Pháp mới nhưng liên quân đã bị quân đội Pháp do
Napoléon chỉ huy đánh bại tại Austerlitz, thừa thắng ông chiếm kinh đô của Áo
là Wien, xóa bỏ Đế quốc La Mã Thần thánh, hoàng đế Franz I của Áo phải gả công
chúa Marie Louise cho Napoléon để cầu hòa.
Kế tiếp ông đánh bại nước Phổ trong trận Jena-Auerstedt ngày 14 tháng 10 năm
1806, chiếm Berlin, làm Nga và Phổ phải ký hiệp ước cầu hòa, Napoléon được cử
làm "bảo hộ của liên bang sông Rhein" tại Đức, đồng thời ông còn mang
danh hiệu vua của Ý.
Napoléon đã phong người em mình là Louis Bonaparte làm vua Hà Lan, người anh
Joseph Bonaparte được phong làm vua của Napoli. Trong thời gian này ông ra lệnh
phong tỏa kinh tế đối với nước Anh. Năm 1808, Bồ Đào Nha vi phạm Hệ thống Phong
tỏa Lục địa của Napoléon, ông đưa quân vào trừng phạt nước này, nhân cơ hội
thôn tính luôn Tây Ban Nha.
Chiến dịch nước Nga
Nhận thấy Nga vẫn còn giao thương với Anh, năm 1812 Napoléon chỉ huy quân tiến
đánh nước Nga, có nhiều số liệu khác nhau, khoảng từ 442.000 - 650.000 quân.
Phía Nga đã gấp rút xây dựng được một đạo quân đông đảo khoảng 700.000 -
750.000 người nhưng trang bị tương đối thiếu thốn, chỉ khoảng 450.000 quân
chính quy được trang bị súng, số còn lại là dân quân và kỵ binh Cossacks. Quân
Pháp mau chóng chiếm được Moskva sau trận Borodino nhưng chỉ là một ngôi thành
trống vắng, quân Nga đã rút lui để bảo toàn lực lượng, và thường xuyên tập kích
quân Pháp. Napoléon dự định liên kết với một số nhóm nông dân chống đối nhưng
không thành. Cuối cùng Napoléon buộc phải hạ lệnh rút quân khỏi Nga. Trên đường
rút quân, quân Pháp bị quân Nga truy kích quyết liệt nên bị thiệt hại nặng nề.
Khi ra khỏi lãnh thổ nuớc Nga, trong tay Napoléon chỉ còn 127.000 quân (nhưng
do phải rải quân dọc đường để bảo đảm liên lạc nên con số thực tế chỉ khoảng 30.000).
Sau khi quân Pháp thất bại, trên toàn châu Âu các nước đã liên kết với nhau để
chống lại Napoléon. Không khí chống Pháp nổi lên khắp nơi, năm 1814, liên quân
Anh, Nga, Áo, Phổ, Thụy Điển và quân Pháp đánh nhau dữ dội trong trận Liên quốc
gia tại Leipzig quân đội chư hầu đã làm phản, quay mũi súng bắn lại quân Pháp.
Quân Pháp bại trận thiệt hơn 30.000 quân. Quân Pháp tuy thất bại nhưng Napoléon
thêm một lần nữa chứng tỏ tài năng quân sự, dùng 50.000 quân của mình đánh bại
80.000 trong 230.000 quân liên minh. Các tướng lãnh châu Âu thấy rõ ràng không
thắng được Napoléon về quân sự nên dùng chính trị đánh bại ông ta. Liên quân đã
tấn công chiếm thủ đô
Vương triều 100 ngày và kết cuộc
Một buổi tối tháng 3 năm 1815 Napoléon từ đảo Elba bí mật trở về Lyon. Triều
đình Bourbon phái nhiều quân đoàn đến đánh nhưng hết quân đoàn này đến quân
đoàn khác hô to "Hoàng đế vạn tuế" rồi chạy theo Napoléon. Napoléon
không tốn một viên đạn để trở lại ngôi vị hoàng đế Pháp. Tin tức Napoléon quay
trở về khiến các nước châu Âu hốt hoảng, họ vội vàng liên minh với nhau kéo
quân từ bốn phương tám hướng đổ về nước Pháp. Napoléon chỉ huy quân Pháp đánh
bại nhiều cánh của liên quân tại Bỉ.
Trận Waterloo
Tháng 6 năm 1815, trong trận Waterloo, quân Pháp bại trận trước liên quân Anh,
Hà Lan và Phổ, Napoléon buồn bã kéo quân trở về Paris, lần thứ hai ông bị buộc
thoái vị và đày ra đảo Saint-Helena trên Đại Tây Dương, nơi đây ông sống đến
cuối đời (ông đã bị đầu độc bởi người thân cận của ông bằng thuỷ ngân[cần dẫn
nguồn] mà thời bấy giờ người ta dùng để giết chết những con chuột). Vị hoàng đế
Pháp một thời uy chấn châu Âu mất ngày 5 tháng 5 năm 1821, hưởng thọ 52 tuổi. Trước
lúc trút hơi thở cuối cùng, ông đã nói:'Nước Pháp...Quân đội...Tiến lên.
Đến năm 1840 chính phủ Pháp đưa di hài ông trở về
Một tài liệu khác gần đây nói rằng ông bị chết do ung thư dạ dày, chứ không
phải là bị đầu độc