Cha Cả là khu đất rộng khoảng 2 ngàn thước, gồm một nhà lợp ngói, cột và vách bằng gỗ quý, ở trước có bia đá lớn. Người ta nói đó là mộ phần của Giám mục Bá Đa Lộc, một Giám mục người Pháp đã sang giúp Nguyễn Ánh chống Tây Sơn Nguyễn Huệ và của một số thừa giám. Bá Đa Lộc là tên tiếng Việt được phiên âm từ tiếng Pháp (Pigneau de Behain).
Tuy nhiên, chuyện Lăng Cha Cả còn nhiều điều đáng lưu ý. Những hài cốt tại khu mộ này đã được đại diện từ nước Pháp sang nhận và mang về chôn. Nhưng riêng mộ của Giám mục Bá Đa Lộc, khi khai quật, chỉ thấy cây Thánh giá bằng vàng Tây lớn mà ông đeo khi xưa, chiếc gậy vàng của chức Giám mục, những mề đay của nhà nước Pháp và Việt trao tặng.
Nhà nghiên cứu Lý Nhân Phan Thứ Lang, người Công giáo, lật ngược vấn đề: "Nhiều người nghĩ đó là mộ thật của Đức Giám mục, nhưng tờ Nam Phong Tạp Chí của Phạm Quỳnh, quyển XVI, 92, phát hành tháng 2 năm 1925, có bài: "Bá Đa Lộc: mộ ông... hiện nay ở đâu?" của Vương Gia Bật, chỉ rõ: Lăng Ngọc Hội cách thành phố Nha Trang 8 cây số. Phía trước mộ có một cái miếu nhỏ ở giữa đề chữ Hán: "Bá Đa Lộc chi mộ". Phía sau miếu có khắc cây Thánh giá.
Ngày 13/3/1925, quan Công sứ và Linh mục nhà thờ Bình Can (Nha Trang) ra lệnh cải táng. Bên trong, xương cốt đã mục, hàm còn dính 3 cái răng, có 2 - 3 cái rơi ra ngoài...".
"Như vậy đích là mộ Đức Cha Bá Đa Lộc chôn ở Nha Trang" - Ông Lý Nhân Phan Thứ Lang thành kính - "Theo tôi, ngay sau khi cải táng, hài cốt của Đức Cha đã được đưa về Pháp, ngôi mộ ở khu Lăng Cha Cả tại Sài Gòn chỉ là tượng trưng. Tôi nghĩ, khi Gia Long mới lên ngôi, sợ Tây Sơn có ngày lật ngược thế cờ, nên phải cho dựng lăng ở Gia Định để đánh lạc hướng. Còn việc di dời lăng phục vụ dân sinh là đúng".
8/ Nghĩa Địa Đô Thành (Nghĩa Trang Đô Thành)
Nghĩa địa Đô Thành hay còn gọi là nghĩa địa Chí Hòa vì ngày xưa nghĩa địa này nằm gần kế bên trại giam Chí Hòa và trại lính nhảy dù nên đa số người dân thường hay gọi là vậy, nghĩa địa Đô Thành trên đường Lê Văn Duyệt ngày nay chính là Công viên Lê Thị Riêng.
- Nghĩa địa Đô Thành năm xưa của người Sài Gòn cho tới ngày bị di dời đã trải qua ba biến cố đau lòng.
*Lần thứ nhứt năm Mậu Thân 68 việt cộng phục kích quăng lựa đạn và đặt mìn búa lua xua khu vực này làm chết rất nhiều người dân và sau đó tới bọn chuột cống vì vào xâm lăng Miền Nam và đưa người dân làm bia đở đạn với không biết đường nên đã bị mấy anh Biệt Động Quân với kế bên là trại lính nên đã bị bắn chết như rạ, xác việt cộng nằm chết la liệt cả đường Lê Văn Duyệt, sau biến cố này khi màn đêm buông xuống không ai dám ra đường vào ban đêm vì sợ Ma và lãnh lẽo thời gian này.
*Lần thứ hai rơi vào ngày mất nước đúng 30 tháng 4 năm 1975 đã có rất nhiều anh em Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã không phục trước cộng sản nên đã tử thủ cùng lúc đó là cuộc giao tranh khốc liệt trong vài giờ cuối cùng trước khi Quân Lực phải đầu hàng theo lệnh của ông Dương Văn Minh, lúc này xác việt cộng cũng chết đầy hai bên đường, người dân đã phải hốt xác của việt cộng chôn vào một góc nào đó trong nghĩa địa Đô Thành.
*Lần thứ ba là sư việc đau lòng của người dân sau năm 75, kể từ năm 1976 cho tới năm 1980 đã có rất nhiều chiếc ghe lớn vượt biên đã bị chìm ở các khu vực Nhà Bè, Cần Giờ, Long An.. chết mấy trăm người, sau đó mang về hoàn xác tại nghĩa trang này !
Nghĩa địa Đô Thành (Chí Hòa) rộng 25 hecta, cổng chính hướng ra đường Lê Văn Duyệt, ngày nay là đường Cách mạng tháng 8 thuộc khu Chí Hòa – Hòa Hưng của Saigon, sau 1975 đã được giải tỏa và ngày nay là khu vực Công viên Lê Thị Riêng, quý vị lưu ý bức tượng này đã có từ khá lâu tại nghĩa trang Đô Thành trước biến cố Tết Mậu Thân, chứ không phải được đưa vào đây sau năm 1968 như các tờ báo sau này của cộng sản đưa tin nhé.
Nghĩa địa Ðô Thành (Chí Hoà) bị giải tỏa vào giữa thập niên 1980, nhớ hồi nghĩa địa này dựng tượng ông Phật Ðịa Tạng, bà con kháo nhau linh thiêng lắm, người không đi đưa đám vẫn cứ ghé nghĩa trang thắp nhang cầu xin mọi chuyện hanh thông, sau khi giải tỏa vào năm 1980 tượng Phật này dời về An Dưỡng Ðịa ở Phú Lâm, sau khi được giải tỏa và mở đường thì nhiều câu chuyện ma được thêu dệt nên khiến có người sợ ma không dám mua nhà ở đây suốt một thời gian, chưa kể những nạn cầu cơ, cũng trong thời gian này làn sóng di cư từ miền Bắc vào trong Nam rất là đông sau năm 75, họ bỏ miền Bắc để vào trong Nam và kiếm những vùng đất trống quanh ở khu vực nghĩa trang này và toàn thành phố Sài Gòn nhà cửa cất lên san sát nhau, người sống ở chung với người chết, xét cho cùng, người chết trở về với cát bụi mà cũng không được yên thân, đất đai Sài Gòn chỉ dành cho người đang sống, ngày nay thì Nghĩa Địa này đã trở thành công viên Lê Thị Riêng và xung quanh thì toàn là người Bắc ở vì sau 75 đa số những người Sài Gòn họ đã bỏ nhà cửa để đi hết rồi.
- Những năm sau đó khi có những tin đồn về ma hiện ra v.v... như viết trong bài báo do cộng sản viết :
Câu chuyện… hồn ma bán bánh giò ở công viên Lê Thị Riêng
tamnhin.net/cau-chuyen-hon-ma-ban-banh-gio-o-cong-vien-le...
Bài viết của báo trong nước sau 75
Giải mã:Lạnh người nghe chuyện "hồn ma" bán bánh giò ở công viên Lê Thị Riêng và ố chôn tập thể giữa lòng thành phố với hàng cây xanh mướt mắt, hồ câu cá, khu trò chơi thiếu nhi, … công viên Lê Thị Riêng vốn là trung tâm vui chơi, giải trí quen thuộc của người dân thành phố Hồ Chí Minh, nhưng có lẽ ít ai biết, công viên này xưa kia chính là nghĩa trang Đô Thành, sau đổi tên thành nghĩa trang Chí Hòa - nơi an giấc ngàn thu của những người có chức vụ cao trong quân đội chế độ cũ.
Theo các cao niên cư trú tại đây nhiều năm, thì xưa kia, nghĩa trang Đô Thành vốn là vùng đất linh thiêng bậc nhất. Đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh, hàng loạt nấm mồ không tên mọc lên tại đây, mà đa phần là của lính chết trận không người thân nhận xác, ông Phan Thành Tài, 62 tuổi, ngụ Cư xá Bắc Hải gần công viên Lê Thị Riêng kể lại: “Nghĩa địa mà bị đồn là có ma là chuyện thường, không có ma mới là chuyện lạ. Huống hồ chi trước giải phóng, nghĩa trang Đô Thành còn có cái hố chôn tập thể vô cùng lớn”.
Theo ông Thành Tài, thì sau trận chiến Tết Mậu Thân lịch sử, xác lính chết trận la liệt mà hầu như không có ai đến nhận về. Chính quyền chế độ cũ không biết xử lý làm sao với hàng ngàn xác người đang đến hồi hoại tử, liền cho đào một hố to trong nghĩa địa Đô Thành đổ xác người xuống rồi chôn tập thể.
Dù hố đào rất sâu, nhưng do vận chuyển một số lượng xác khá lớn, nên mùi hôi thối vẫn bốc lên cả mấy ngày liền. Người dân xứ Bắc Hải thuở ấy phải khóa kín cửa nhà, hoặc lánh đi đâu đó chờ mùi tử khí tan bớt đi mới dám trở về, chính vì thế, nên dân vùng này vẫn hay truyền miệng những câu chuyện huyền bí về những âm hồn lính chết trận, bị chôn tập thể nên chẳng siêu sinh, thường xuyên hiện về lởn vởn khóc than.
Các cao niên còn kể lại, nổi tiếng nhất vẫn là chuyện ban đêm, oan hồn hiện hình thành những người bưng thúng bánh chưng, bánh giò đứng trên đường Lê Văn Duyệt. Người âm cứ đứng đó chờ có người mua rồi “dẫn” họ vào trong mộ ngủ qua đêm.
Từ đó, dân Sài Gòn, Chợ Lớn rất sợ mỗi khi phải đi qua nghĩa trang Đô Thành xưa. Sau, phần vì lời đồn các oan hồn oán khóc mỗi đêm ngày càng rầm rộ, phần vì người dân khu Bắc Hải – Hòa Hưng ngày ấy luôn luôn trong tâm trạng bất an nên chính quyền chế độ cũ quyết định đưa một bức tượng Địa tạng vương về đây dựng đài thờ.
Lạ một điều, bức tượng Địa tạng vương được sơn đen từ đầu đến chân, khiến cho khung cảnh nghĩa trang Đô Thành càng thêm mấy phần huyền bí.
Sau 30.4.1975, cư dân thành phố Hồ Chí Minh dần trở nên đông đúc hơn, việc tồn tại một nghĩa trang giữa lòng thành phố quả là bất hợp lý vả lại, cũng cần phải giải tỏa các nghĩa trang gần khu dân cư để lấy đất xây dựng các công trình phúc lợi và góp phần giữ gìn vệ sinh môi trường sống cho người dân.
Nghĩa trang Đô Thành được giải tỏa để xây dựng công viên, lấy tên người chiến sĩ cách mạng Lê Thị Riêng vì thi hài bà cũng được an táng tại nơi đây.
Nhưng lạ một điều là sau khi đã hốt cốt và san bằng toàn bộ khu nghĩa trang mà bức tượng Địa tạng vương màu đen tuyền kia vẫn nằm trơ trọi giữa mảnh đất chơ vơ, điều này lại khiến cho người dân tiếp tục đồn thổi về sự linh thiêng của bức tượng kia.
Cụ Nguyễn Vinh Thân 71 tuổi, ngụ đường Phạm Văn Hai, quận 10, kể lại: “Nghe nói, mới đầu người ta mang đục đến đục bức tượng mang đi, nhưng không hiểu sao đục hoài vẫn không bể được chân đứng. Nên có người bảo dùng xe ủi ủi bể bức tượng. Người ta đồn, sau khi đưa ra ý kiến đó thì ông này bị bệnh luôn. Bởi vậy không ai dám đụng đến bức tượng Địa tạng vương đen nữa”.
Sau này, bức tượng Địa tạng vương màu đen được đem về thờ tại chùa Quan Âm Tu Viện ở quận Phú Nhuận, TP.HCM.
Án mạng kéo theo lời đồn ma ám
Khu vườn cây bạch đàn với nhiều lời đồn ma ám giờ đã trở thành khu vui chơi thiếu nhi đầy màu sắc
Nghĩa trang Đô Thành ngày nay đã trở thành công viên Lê Thị Riêng (thuộc phường 15, quận 10) cây xanh mướt mắt, người đến vui chơi giải trí, tập thể dục thể thao tấp nập từ sáng đến đêm.
Nhưng từ lâu, những tin đồn “ma ám” vẫn khiến người dân có phần e dè với khu công viên rộng lớn này. Bên cạnh đó, từ trước đến nay đã có không ít vụ việc nhìn thấy xác chết trôi trong hồ câu cá tại công viên Lê Thị Riêng.
Gần đây nhất là vào khoảng tháng 2/2013, những người đi tập thể dục sớm đã nhìn thấy một xác chết nổi trên hồ câu cá. Nạn nhân là một người phụ nữ 40 tuổi, không hề có giấy tờ tùy thân. Từ đó, tin đồn về những hồn ma không thể siêu sinh ngày ngày vất vưởng, lẩn khuất ở công viên Lê Thị Riêng ngày càng nhiều hơn.
Bên cạnh đó, cách đây không lâu, khu vui chơi trẻ em sầm uất trong công viên Lê Thị Riêng cũng là một bãi đất um tùm cây bạch đàn. Nơi này không có các tiểu cảnh, ghế ngồi, phía dưới lại là đất thịt, mỗi khi mưa xuống đất trở nên nhầy nhụa khiến không ai lui tới khu vực này.
Đây là điều kiện thuận lợi để cho các thanh niên hút chích rúc vào đây để phê ma túy. Và để đảm bảo bí mật “sào huyệt” của mình, những con nghiện này đã không ít lần giả ma, giả quỷ nhát người dân.
Cách đây 1 năm, cơ quan chức năng quận 10 đã có đợt truy quét lớn nhằm ngăn chạn tệ nạn buôn bán và hút chích ma túy tại hẻm 601 đường Cách mạng tháng 8 và khu vực xung quanh công viên Lê Thị Riêng. Hơn 41 đối tượng mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy đã bị bắt, cũng từ đó, tin đồn ma ám ở khu vực vườn cây bạch đàn bên hông công viên Lê Thị Riêng cũng không còn nữa.
Hơn nữa, trái với lời đồn đại, càng đến đêm công viên Lê Thị Riêng lại càng nhộn nhịp đông đúc hơn. Vườn cây bạch đàn bị đồn có ma đã trở thành khu vui chơi thiếu nhi, cửa hàng ăn uống, lúc nào cũng rộn rã tiếng trẻ thơ.
Một số câu lạc bộ khiêu vũ, trượt pa tin, … đã “đóng đô” tại công viên Lê Thị Riêng từ lâu, khiến ban đêm khu vực này như môt hội chợ xuân rực rỡ ánh đèn, tưng bừng tiếng nhạc, không hề còn dấu tích của một nghĩa trang thâm u rùng rợn, ngày nào.
Sài Gòn Xưa
===========
Liên kết Sài Gòn Xưa : https://www.facebook.com/oldsaigon75
Liên kết Cochinchine - Sài Gòn Xưa : https://www.facebook.com/SaigonOld75/
9/Saigon-những kỷ lục
Continental: Khách sạn cổ nhất TP. HCM
Là một trong năm địa điểm của TP. HCM được công nhận di tích lịch sử, Khách sạn Continental tọa lạc ở góc ngã tư Công trường Quốc tế - Đồng Khởi. Cổng chính hướng ra đường Đồng Khởi gồm hai số 132 - 134. Khách sạn được xây dựng vào năm 1880, do kiến trúc sư người Pháp thiết kế, và mang tên Continental ngay từ những ngày đầu. Sau ngày giải phóng miền Nam, có thời gian khách sạn đổi tên thành Hải Âu. Đến 1989, khi được chỉnh trang, nâng cấp khách sạn đã lấy lại tên cũ. Continental có diện tích tổng thể 3.430m2, cao 3 tầng. Tuy số phòng không lớn, song diện tích mỗi phòng ở đây cũng thuộc vào loại "kỷ lục", có phòng rộng 80m2 với chiều cao 4m. Nơi đây từng đón tiếp Tổng thống Pháp J. Chirac, Thống đốc bang California, người mẫu Kate Mode và nhà văn Mỹ nổi tiếng Gramham Green. Chính tại phòng 214 của khách sạn là nơi cho ra đời tác phẩm "Quiet American".
Thảo Cầm Viên, công viên lâu đời nhất TP
Tính đến tháng 3 năm 1998, Thảo Cầm Viên (TCV) đã có 134 năm tuổi. Khởi công xây dựng vào tháng 3/1864, TCV lúc ban đầu là một công viên rộng 12 ha, do Nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp J.B.Louis Pierre sáng lập và làm Giám đốc đầu tiên. Đến năm 1865, nơi đây được mở rộng thêm 8 ha nữa, và là vườn ươm nhiều giống cây du nhập có giá trị kinh tế cao như cao su, cà phê, ca cao, măng cụt, vú sữa, sầu riêng, xà cừ, dầu rái..., đồng thời người Pháp cũng phát triển ở đây một số vườn thú, vì vậy công viên này được đặt tên là Sở Thú. Đến năm 1924, Sở Thú được mở rộng thêm 13 ha. Năm 1956, chính quyền Sài Gòn cho tu sửa, tái thiết lại và năm 1966 đổi tên thành Thảo Cầm Viên. Từ năm 1989, TCV lại được cải tạo, mở rộng và du nhập thêm nhiều giống mới, trồng thêm một số loài cây quý. Bộ sưu tập thú của TCV hiện có đến 600 đầu thú thuộc 120 loài với tổng diện tích chuồng trại lên đến 21.352m2, ngoài ra còn có 1823 cây gỗ thuộc 260 loài và nhiều loại hoa cây kiểng quý. Năm 1990, TCV là thành viên chính thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á, và đây cũng là một trong những công viên khoa học lớn nhất Đông dương.
Đầm Sen, công viên lớn nhất TP
Công viên Đầm Sen với tổng diện tích 54 ha, hiện đang giữ kỷ lục công viên lớn nhất TP. Ban đầu chỉ là một ao rao muống, đến năm 1985, hồ được giao về Cty dịch vụ văn hóa tổng hợp Q.11, rồi sau đó là Cty du lịch Q.11 quản lý và được đầu tư trở thành công viên vui chơi giải trí. Từ năm 90, công viên Đầm Sen đã nổi tiếng với nhiều công trình như Hòn non bộ cao 20m, bảo tàng sinh vật biển, vườn chim và nhiều thú quý hiếm. Năm 96, Đầm Sen đầu tư 10 tỉ đồng xây dựng trò chơi Monoray trên không, công trình Nhạc nước, trò chơi Vượt thác, những trò chơi hiện đại đầu tiên ở TP. Ngoài ra, còn có Nhà Xương Rồng (với 30 loại xương rồng, trong đó có loại giá trị lên đến 30 triệu/cây), Nhà hoa ôn đới (20 loại cây trong nhiệt độ 15-20oC), Vườn Nam Tú Thượng Uyển (tập họp những loại cây kiểng cổ quý giá). Trong năm 98, Đầm Sen sẽ được đầu tư thêm ba khu vui chơi hiện đại nữa: Khu trò chơi cảm giác mạnh; Khu Đầm Sen Water Park; Khu du lịch Bồng Lai... Cả ba công trình này sẽ ra mắt vào Tết Âm lịch con Mèo (1999) sắp tới. Hiện nay, trung bình mỗi ngày Đầm Sen đón 4.000 - 5.000 khách đến vui chơi, ngày lễ, chủ nhật từ 15.000 - 20.000 người.
Nhà máy điện xưa nhất TP. HCM
Nhà máy điện đầu tiên được xây dựng ở Sài Gòn là nhà máy điện Chợ Quán vào năm 1896, địa chỉ tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5. Khởi đầu, nhà máy cung cấp điện công cộng bằng dòng điện ba pha, với công suất chưa tới 120 MW. Máy phát điện chạy bằng hơi nước, có năm lò hơi với 150m2 chứa nước luân lưu. Một máy phát chính công suất 1000 ampères/giờ chuyển động bằng vòng quay để phân phối điện bảo vệ an toàn và kiểm soát dòng điện. Hiện nay nhà máy đã được trang bị hiện đại với bảy máy phát điện, cung ứng phần quan trọng cho lưới điện TP và lưới điện quốc gia.
New World Saigon - Khách sạn lớn nhất TP. HCM
Tọa lạc tại số 76 Lê Lai, Q.1, toàn bộ khuôn viên Khách sạn New World Saigon nằm trên phần đất hình tam giác, tiếp giáp giữa ba con đường: Lê Lai, Phạm Hồng Thái và Nguyễn Thái Học. Chính thức hoạt động từ năm 1995, Khách sạn New World Saigon hiện giữ kỷ lục là khách sạn lớn nhất TP với 14 tầng, 543 phòng, trong đó có 27 suite (phòng gia đình) và 32 văn phòng kinh doanh, đầy đủ những tiện nghi hoàn hảo nhất: phục vụ thức ăn suốt ngày tại phòng, hệ thống an toàn, tivi màu, bàn làm việc, mini bar, điện thoại quốc tế trực tiếp... Ngoài ra, còn có Câu lạc bộ thể thao với hồ bơi, sân tennis, sân luyện golf. Tầng trên cùng là những phòng nghỉ cao cấp mang tên Câu lạc bộ Hoàng gia. Tại đây, ngoài những dịch vụ đặc biệt, khách có thể ngắm toàn bộ cảnh quan TP từ độ cao hơn 70m.
Ngôi đình lâu đời nhất TP
Đó là Đình Thần Chí Hòa tại 475 Đường Cách Mạng Tháng 8, P.13, quận 10. Đây là ngôi Đình dù chưa xác định được chính xác năm xây dựng, nhưng không ít người đều khẳng định Đình phải có gần 300 năm tuổi. Ngôi Đình cổ kính và lâu đời này từng được Vua Tự Đức đời thứ 5 ban sắc phong ngày 29.11 năm Nhân Tý 1852.
Nơi đây, Cụ Võ Trường Toản đã từng dạy học, ông đã đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước, đến nay di bút của ông còn in sâu trên cặp Liễn treo trước chính điện Đình. Phan Xích Long cũng từng mượn Võ ca của Đình để làm nơi dạy võ chống thực dân. Đình Thần Chí Hòa trong thời kỳ chiến tranh cũng là nơi che giấu cán bộ Cách mạng hoạt động bí mật. Ngày 16.2.1997 (Âm lịch) Đình Thần Chí Hòa được Nhà nước CHXHCN Việt Nam công nhận là di tích lịch sử Quốc gia.
Khi mới ra đời Đình Chí Hòa được làm bằng đá và trước khi được vua Tự Đức ban sắc phong đã được xây dựng lại như ngày nay. Tại Thành phố Hồ Chí Minh Đình Thần Chí Hòa được xếp hạng nhất trong tất cả các Đình hiện có và cũng đứng đầu danh sách 10 Đình Chùa cổ và lâu đời nhất của Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Quý Đôn: Ngôi trường cổ nhất
Trường Lê Quý Đôn được xây dựng vào năm 1874 và hoàn tất vào năm 1877. Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ) rồi đổi tên thành Collège Chasseloup Laubat. Sau năm 1954, trường mang tên là Jean Jacques Roussean nhưng vẫn do người Pháp quản lý. Đến 1967, trường được trả lại cho người Việt Nam và trở thành Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Từ 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, trường mang tên PTTH Lê Quý Đôn. Trải qua hơn một thế kỷ (123 năm), kiến trúc ban đầu vẫn được giữ như xưa, gồm bốn dãy nhà cao hai tầng ghép lại có hình chữ "khẩu". Khuôn viên nguyên thủy của trường gồm cả diện tích của hai trường PTCS Lê Quý Đôn và PTTH Lê Quý Đôn, có hai cổng chính: một quay ra đường Nguyễn Thị Minh Khai và một hướng về Võ Văn Tần.
Rất nhiều cựu học sinh của trường đã trở thành những nhân vật nổi tiếng như nhà trí thức yêu nước Cao Triều Phát, học giả Nguyễn An Ninh, giáo sư sử học Trần Văn Giàu, nhà nghiên cứu dân tộc học Vương Hồng Sển và nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn.
Nhà hát cổ nhất thành phố
Đó là Nhà hát (NH) Lớn (70 Đồng Khởi, Q.1).
Bắt đầu khởi công xây dựng năm 1989, với nguyên vật liệu chủ yếu từ Pháp đưa sang, phần trang trí bên trong có hoa văn gần giống như các NH lớn ở Pháp cuối TK 19. Ngày 17.1.1990: công diễn buổi đầu tiên và được gọi là Nhà hát Tây. Tại đây đã từng diễn ra buổi diễn thuyết của đại thi hào người Ấn Độ Rabindranath Tagore vào 1929. Năm 1956 được phục hồi làm trụ sở Hạ nghị viện chế độ cũ. Đến 5.1975 trở thành Nhà hát Lớn TP với 750 chỗ ngồi. Là một trong 8 công trình văn hóa chào mừng 300 năm Sài Gòn - TP. HCM, 12.1997 NH được đầu tư trùng tu sửa chữa với kinh phí 25 tỷ 150 triệu. Toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài của NH sẽ được phục chế y như cũ, bao gồm các phù điêu, tượng thần âm nhạc, hai người đàn bà đỡ cột bằng đá cẩm thạch cao 4m, mái của NH sẽ được lợp bằng thạch bản pha kẽm. Tuy nhiên để bảo đảm yêu cầu là một NH có chất lượng, NH sẽ chỉ còn hơn 600 ghế với một hệ thống âm thanh, ánh sáng được xử lý bằng máy vi tính. Dự kiến việc trùng tu sửa chữa sẽ hoàn thành cuối 1998.
Chợ Rẫy, Bệnh viện lớn nhất TP
Xây dựng năm 1890, khởi đầu bệnh viện có tên là "Nhà thương thành phố Chợ Lớn", đến năm 1919 đổi thành "Nhà thương bản xứ Nam Kỳ". Năm 1938 BV lại đổi tên là "Nhà thương Lalung - Bonnaire". Năm 1957 sau khi sát nhập hai phòng khám Hàm Nghi và Nam Việt, BV đổi tên là Nhà thương Chợ Rẫy. Năm 1971, Nhật xây dựng nơi đây thành một BV mới hiện đại, trên diện tích 53.000m2, đến tháng 6/1974 thì hoàn thành với tên gọi và cấu trúc như hiện nay. Thời Pháp thuộc đây là BV đa khoa có số giường bệnh lớn nhất lúc đó: 647 giường. Hiện nay, đây là BV tuyến TW, cao 11 tầng, 1155 giường với 35 khoa chẩn đoán, điều trị khác nhau. Từ nay đến năm 2000, BV Chợ Rẫy còn được chọn là một trong những trọng điểm đầu tư phát triển thành Trung tâm y tế chuyên sâu phía Nam.
Thư viện lớn nhất
Đó là Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. HCM (trước 1975 có tên là Thư viện Quốc gia). Thư viện khánh thành ngày 23.12.1971 và bắt đầu phục vụ người đọc vào đầu năm 72. Tổng diện tích khuôn viên 7.070m2, tiếp giáp bốn đường: Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Lê Thánh Tôn, Nguyễn Trung Trực, cổng chính số 69 đường Lý Tự Trọng. Thư viện cao 16 tầng, chia làm hai khối gần như phân biệt: Khối thứ nhất là một dãy nhà dài 71m, ngang 23m gồm tầng hầm, tầng trệt, hai lầu và một sân thượng; Khối thứ nhì nằm giữa, vuông vức và vọt lên như một ngọn tháp, có 14 tầng với chiều cao 43m dành làm kho chứa sách báo. Thư viện hiện có 500.000 đầu sách và 300.000 báo, tạp chí các loại. Năm 1997 đã có 294.248 lượt người đến tham khảo 917.834 lượt tài liệu. Ngoài việc phục vụ nhu cầu đọc sách, báo, tham khảo tài liệu... hiện nay, thư viện mở thêm dịch vụ sao chép tư liệu, tài liệu cổ và những sách báo quý hiếm theo yêu cầu độc giả.
Nhà Bảo tàng lâu năm nhất TP
Đó chính là Nhà Bảo tàng Lịch sử Việt Nam nằm trong khuôn viên Thảo Cầm Viên ngày nay. Ngày 24/11/1927, người Pháp cho xây dựng Viện Bảo tàng Blanchard De La Brosse trong khuôn viên Sở Thú theo thiết kế của kiến trúc sư Delaval, với kiểu kiến trúc độc đáo hơi giống tháp cung điện mùa hè Bắc Kinh. Đến năm 1956, chính quyền Sài Gòn đổi tên thành Viện Bảo tàng quốc gia Sài Gòn, trưng bày mỹ thuật của Việt Nam, Chàm, Khmer, Trung Quốc, Nhật Bản và các sắc tộc thiểu số. Năm 1970, bảo tàng được xây dựng mở rộng thêm phần phía sau một dãy nhà hình chữ U do Kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng thiết kế. Năm 1979, Viện bảo tàng lại được đổi tên thành Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và tồn tại đến ngày nay, với 15 phòng trưng bày nhiều hiện vật cổ, phản ánh nền văn hóa của đại gia đình dân tộc VN suốt 4.000 năm dựng nước và giữ nước. Ngoài ra, còn có 6 phòng trưng bày chuyên đề giới thiệu các giai đoạn lịch sử văn hóa ở miền Nam.
Bức tranh đắt giá nhất
Bức tranh đắt giá nhất từ xưa tới nay của TP. HCM (và cũng là của cả nước VN) là tác phẩm sơn mài "Vườn xuân Trung Nam Bắc" của cố họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908-1993). HS Nguyễn Gia Trí là bậc thầy lớn nhất về sơn mài, đã có công đưa "sơn ta" (sơn Phú Thọ) từ một chất liệu làm đồ mỹ nghệ cổ truyền phương Đông trở thành chất liệu hội họa nghệ thuật độc đáo của riêng VN từ những năm 30, gọi là "sơn rửa" hay "sơn mài". "Vườn xuân Trung Nam Bắc" gồm 9 tấm kích thước 2mx5,4m được sáng tác kéo dài từ đầu những năm 1970 đến năm 1990, là tác phẩm lớn cuối cùng của cụ Trí. Năm 1990, UBND TP. HCM đã quyết định mua tác phẩm này với giá 600 triệu đồng, tương đương 100.000 USD vào lúc ấy. Tác phẩm thể hiện sự thống nhất đất nước qua cảnh các phụ nữ 3 miền múa hát vui chơi trong thiên nhiên tươi đẹp đầy hoa lá, được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật thành phố.
Cầu lâu năm nhất TP. Hồ Chí Minh
Cũng có người cho rằng chiếc cầu lâu năm nhất tại TP. HCM phải là cầu Móng (nằm ở quận 1). Tuy nhiên cây cầu này lại không có hồ sơ lưu trữ ở ngành GTCC, nên cũng thật khó xác định độ tuổi. Hiện tại TP. HCM có nhiều người nhất trí khi cho rằng có một cây cầu lâu năm nhất hiện nay, đó là Cầu Sơn.
Cầu Sơn được xây dựng từ cuối thế kỷ 18 dưới thời Nhà Nguyễn. Trước đây vùng này chuyên sống bằng nghề trồng Sơn lấy nhựa cung cấp cho nhu cầu của nhà nước phong kiến đương thời, nên cầu khi được xây dựng cũng mang luôn tên cầu Sơn. Cầu Sơn dài 19m, rộng 11m và mỗi bên lề rộng 0,5m.
Hiện cầu Sơn thuộc ranh giới hai phường 25 và 26 quận Bình Thạnh nằm trên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Nhà sách lớn nhất Thành phố
Nhà sách lớn nhất TP hiện nay không nằm ở các quận trung tâm mà lại ở một quận vùng ven - Nhà sách Cây Gõ, 146 Minh Phụng, Q.6. Tiền thân nơi này là rạp hát Cây Gõ, được UBNDTP ra quyết định chuyển giao cho Cty FAHASA đầu tư 1 tỷ đồng sửa chữa và xây dựng lắp đặt các trang thiết bị làm thành Nhà sách Cây Gõ, khai trương vào ngày 5.6.1998 vừa qua. Nhà sách Cây Gõ hiện là nhà sách lớn nhất TP và có thể lớn nhất nước với diện tích gần 1.000m2. Nhà sách có tổng giá trị hàng hóa 6 tỷ đồng gồm 15.000 tên sách quốc văn, 5.000 tên sách ngoại văn và gian hàng sách thiếu nhi, dụng cụ học sinh, đồ chơi trẻ em, quầy văn hóa phẩm (vidéo, cassette, CD, CD-ROM, VCD...), văn phòng phẩm, dịch vụ in tráng ảnh, khu đọc sách và xem vidéo miễn phí... Ngay ngày khai trương, nhà sách đã đạt doanh số kỷ lục - gần 80 triệu đồng. Từ tháng 6 - 8.1998, nhà sách giảm 10% giá đối với các học sinh giỏi khi mua sách giáo khoa, sách tham khảo và 5% khi mua dụng cụ và tập học sinh của FAHASA. Đối với các khách hàng khác, nhà sách giảm 5% giá bằng hiện vật.
An Bình: Bệnh viện cổ nhất
Bệnh viện miễn phí An Bình tọa lạc trên một khu đất rộng 17.361m2 ở đường An Bình, quận 5. Khởi thủy, nơi đây là một ngôi chùa của người Trung Hoa, được xây cất từ năm 1829. Tại đây đã có những hoạt động y tế nhân đạo, khám và điều trị miễn phí cho nhân dân dựa vào nền tảng y học cổ truyền. Do nhu cầu về dịch vụ y tế của nhân dân ngày càng tăng, vào năm 1916 Bệnh viện được chính thức xây dựng. Đến 1945 Bệnh viện đưa vào sử dụng và có tên là Bệnh viện Triều Châu. Sau nhiều lần sửa chữa, nâng cấp, Bệnh viện đã có bộ mặt như ngày nay. Năm 1978, Bệnh viện được công lập hóa trở thành bệnh viện đa khoa với tên gọi An Bình.
Ngày 19.5.1994, Bệnh viện An Bình lại nhận một trách nhiệm mới "chăm sóc sức khỏe cho nhân dân lao động nghèo của Thành phố". Và từ đó đến nay bệnh viện mang tên "Bệnh viện miễn phí An Bình".
Nữ quân nhân cao tuổi nhất
Đó là nữ kiệt miền Đông, bà đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Thị Bi, tên thật là Hồ Thị Hoa. Bà sinh ngày 25.4.1916 tại xã Tân Hiệp, quận Hóc Môn. Tham gia Cách mạng ở tuổi hai mươi, khởi đầu là hoạt động trong Hội Ái Hữu (1936). Cũng năm này, được kết nạp vào Đảng. Cách mạng Tháng Tám 1945, là Đoàn trưởng Ban tiếp tế của quận, thành lập "Ban trừ tà" thuộc Chi đội 12. Năm 1948 là trưởng Ban công tác số 12, đại đội trưởng Đại đội 2804, kiêm tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 935 trực thuộc E 312 Gia Định Hóc Môn với nhiệm vụ chính là trừ gian diệt tề, binh vận, bảo vệ nhân dân. Do có nhiều công lao trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức kinh tế tự túc nuôi quân, 1950 được Bác Hồ tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng I, Huân chương Quân công hạng III. Sau khi tập kết ra miền Bắc 1954, công tác tại Ban đón tiếp đồng bào miền Nam, Cục Cán bộ, Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng. Trước khi nghỉ hưu 1976, là Phó Chủ nhiệm chính trị Bộ Tư lệnh TP. Hồ Chí Minh. Bà là một trong những người thành lập Hội Cựu chiến binh TP, Tổ ghi sử - Bảo tàng phụ nữ Nam bộ, nghĩa trang Tân Xuân. Được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng II, Lao động hạng I, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
NS ưu tú Phùng Há - Nữ nghệ sĩ cao tuổi nhất
Nữ nghệ sĩ Phùng Há sinh năm 1911, hiện là bậc cao niên trong làng nghệ sĩ (87 tuổi). Tên thật là Trương Phụng Hảo, sinh quán tại xã Điều Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang). Năm 23 tuổi (1924), Phụng Hảo trở thành cô đào của Tái Đồng Ban với cái tên Phùng Há. Kể từ thời điểm đó, cô theo các gánh hát thầy Nam Tú, gánh Huỳnh Kỳ, Trần Đắc. Năm 1935, nữ nghệ sĩ hợp tác với nghệ sĩ Năm Phỉ lập đoàn Phi Phụng, rồi một năm sau lại lập tiếp Đoàn Phụng Hảo. Bà từng cộng tác với các nghệ sĩ như Năm Giao, Ba Vân... lập ra nhiều đoàn cải lương khác. Nổi tiếng với nhiều vai diễn trong các vở: "Đêm không ngày", "Đời cô Lựu", "Mộng Hoa Vương", "Mạnh Lệ Quân thoát hài" , "Tô Ánh Nguyệt", "Phụng Nghi Đình", "Giọt máu chung tình".
Không chỉ là một nghệ sĩ ưu tú, bà còn là một nhà hoạt động xã hội (Hội trưởng Hội Ái Hữu). Trước giải phóng, bà từng tham gia lãnh đạo anh em văn nghệ sĩ biểu tình buộc địch phải trả tự do cho nghệ sĩ Năm Châu (1954), hay cùng soạn giả Trần Hữu Trang đấu tranh chống sa thải công nhân Ba Son (1951). Hiện nay, nữ nghệ sĩ tuy cao tuổi nhưng vẫn thuộc Ban Quản Trị chùa Nghệ Sĩ, là nơi lo về đời sống vật chất, tinh thần cho những nghệ sĩ già không nơi nương tựa.
Người có nhiều thơ được phổ nhạc nhất ở TP. HCM
Đó là nhà thơ Dương Xuân Định, sinh năm 1955, hiện đang công tác tại LĐLĐ TP. Hồ Chí Minh. Dương Xuân Định đến với thơ ca từ năm 1967, nhưng phải nói từ năm 1987 đến nay, anh mới thật sự khẳng định mình trong làng thơ của TP. HCM. Khiêm tốn, không ồn ào, những bài thơ của Dương Xuân Định mang đậm chất lãng mạn, hồn nhiên của thời hoa niên. Với anh, một chút nắng hồng, đôi tà áo xanh thiếu nữ, một vầng mây bạc trôi cuối trời xa... cũng trở thành những kỷ niệm ngọt ngào, để rồi một ngày nào đó, tất cả bỗng rạt rào thành những vần thơ thật dễ thương. Cho nên, cũng thật dễ hiểu tại sao có nhiều nhạc sĩ đã phổ nhạc vào thơ anh. Dương Xuân Định đã xuất bản được 3 tập thơ. Và, 52 bài thơ của anh đã được các nhạc sĩ phổ nhạc. Trong đó, có những bài rất nổi tiếng như: Một chút gì để nhớ (nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiên, ca sĩ Thủy Tiên), Chiều vàng (nhạc sĩ Lê Châu, ca sĩ Quỳnh Lan), Giông bão riêng anh (nhạc sĩ Lý Dũng Liêm, ca sĩ Tuấn Phong), Chia xa (nhạc sĩ Lý Dũng Liêm, ca sĩ Tuấn Phong)... Sắp tới, Dương Xuân Định sẽ xuất bản một tập gồm 30 ca khúc được phổ nhạc từ thơ anh.
Đền tưởng niệm liệt sĩ lớn nhất
Đó là Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược nằm trong khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi ở xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, cách trung tâm TP. Hồ Chí Minh 70 cây số về phía Bắc. Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược khởi công xây dựng ngày 19.5.1993 trên một khu đất rộng 7 ha ven sông Sài Gòn, khánh thành ngày 19.12.1995. Kinh phí xây dựng 21 tỷ đồng, một phần do nhân dân TP. HCM và các tỉnh bạn đóng góp. Đền gồm có 5 hạng mục: cổng tam quan, nhà văn bia, tháp 9 tầng, hoa viên và đền chính. Hơn 47.000 liệt sĩ hy sinh trên đất Sài Gòn - Gia Định trong hai cuộc kháng chiến được khắc tên chữ mạ vàng lên bia đá hoa cương đặt trong đền. Các ngày lễ, cán bộ, nhân dân TP đến đền thắp hương tưởng nhớ các liệt sĩ. TP. HCM cũng đã lấy ngày 19.12 hàng năm làm ngày lễ hội tưởng nhớ và tri ân các liệt sĩ SG-GĐ tại Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược - Củ Chi.
Nhà giáo cao niên nhất
Giáo sư Ngô Gia Hy sinh ngày 16.6.1916, tại Tam Sơn, Bắc Ninh. Ông tốt nghiệp trường Đại học Y khoa năm 1948, đã làm việc và giảng dạy tại nhiều trường đại học y dược ở Hà Nội, Sài Gòn. Ông đã từng đảm trách nhiều chức vụ quan trọng như UVBCH Tổng hội Y Dược học Việt nam, Chủ tịch Hội Niệu thận học TP. HCM, Chủ tịch Chi hội Y học dân tộc Việt Nam... Ngoài ra ông còn là thành viên của Hội Niệu học quốc tế. Ông được phong danh hiệu giáo sư năm 1984. Năm nay, ở tuổi ngoài 80, GS, BS Ngô Gia Hy vẫn còn khỏe mạnh và tiếp tục giảng dạy ở Trung tâm bồi dưỡng cán bộ Y tế TP. HCM, là hiệu trưởng trường ĐH dân lập Hùng Vương và là Tổng biên tập của tập san: Thời sự y dược học TP. HCM, phụ bản Y học cho mọi người.
GS, BS Ngô Gia Hy được Nhà nước phong danh hiệu cao quý: Nhà giáo Ưu tú, vì sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. Sắp tới giáo sư sẽ cho xuất bản nhiều tác phẩm nghiên cứu khoa học có giá trị như: "Kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trên cơ sở dịch lý", "Y đức và sinh học", "Toàn tập niệu học".
Trần Tuấn Anh - Cây vợt bóng bàn cao niên nhất
Danh thủ bóng bàn (BB) Trần Tuấn Anh sanh năm 1949, thường trú tại 352 Ter đường Nguyễn Trãi - quận 1 TP. HCM, là cây vợt có tuổi đời lớn nhất. Trần Tuấn Anh là tay vợt có lối đánh cắt bóng xa bàn, sử dụng mặt vợt phản xoáy gai ngửa. Với phong cách thi đấu trầm tĩnh, khuôn mặt lạnh như tiền, anh Tuấn Anh đã làm nhiều danh thủ tên tuổi trong nước dở khóc dở cười. Mặc dù năm nay vừa tròn 49 tuổi, nhưng Tuấn Anh vẫn là cây vợt chủ lực trong đội hình BB Tiền Giang, tranh chức Á quân Giải VĐTQ và Các đội mạnh toàn quốc năm 1996. Tại giải Vô địch toàn quốc (VĐTQ) 98, Tuấn Anh tiếp tục đạt danh hiệu VĐV cấp Kiện tướng và suýt nữa Tuấn Anh được tuyển vào Top 12 cây vợt xuất sắc nhất nước. Nhất là đối với các VĐV trẻ, tính đến nay anh vẫn là "khúc xương khó nuốt". Mấy năm gần đây, anh đã đoạt nhiều giải thưởng lớn như 2 lần Huy chương Vàng đôi nam nữ (cùng Lê Thị Kim Tiếng năm 87 và Lê Ngọc Phương Lan năm 92), Huy chương Bạc đôi nam nữ năm 1997 cùng Nguyễn Bích Ngọc (Hà Nội) , vô địch đồng đội nam giải Cây vợt vàng năm 1988 tại Nhà thi đấu Phan Đình Phùng, cùng Nguyễn Vinh Hiển, Trần Quốc Cường và Vương Hùng Khánh (đội Công an Nhân dân).
Nữ võ sư cao niên nhất
Nữ võ sư Phạm Cô Gia sinh năm 1903 tại xã Tăng Nhơn Phú, huyện Thủ Đức, trong một gia đình ba đời đều theo nghiệp võ. Với lòng say mê võ thuật và một tư chất thông minh, bà được thân phụ cho học võ từ năm lên 9. Sau 5 năm học, bà đã thuần phục nhiều môn Kinh khí và quyền thuật của dòng họ Phạm. Năm 18 tuổi, bà đã được thân phụ cho đứng lớp dạy võ tại võ đường Phạm Tăng Đại. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bà đã từng tham gia vào tiểu đoàn quyết tử thuộc khối vũ trang Biệt động đặc khu SG. Sau khi thân phụ mất bà thành lập võ phái "Phạm gia". Hiện bà sống trong một căn nhà nhỏ sau lưng chợ Nhỏ huyện Thủ Đức. Năm nay bà đã 95 tuổi nhưng giọng nói vẫn sang sảng đầy hào khí với đôi mắt sáng, khuôn mặt phúc hậu và điệu bộ linh hoạt. Hàng này bà vẫn luyện tập khí công để giữ gìn sức khỏe và tiếp tục đào tạo những lớp võ sĩ kế tục cho đất nước.
Sắc Thần Cổ Nhất
Ở mỗi ngôi đình làng đều lưu giữ nhiều bản sắc phong thần bằng giấy, kích thước 1,2m x 0,6m, màu vàng nghệ, có vẽ hình chìm hình rồng cuộn màu bạc, trên viết nội dung sắc phong bằng chữ nho thành nhiều hàng dọc từ phải qua trái, hàng cuối cùng là thời điểm cấp sắc phong cũng viết bằng chữ nho và có dấu vuông màu đỏ đóng chồng lên.
Hiện nay, 285 ngôi đình ở TP.Hồ Chí Minh chỉ còn lưu giữ khoảng hơn 50 sắc phong thần. Trong số sắc phong thần hiện còn lưu giữ được, sắc phong của đình Lý Nhơn (số 170 đường Vân Đồn, phường 6, quận 4) là sắc phong có niên đại xưa nhất: 1825. (Bản sắc phong này hiện đã bị mối mọt làm mất đi 18 chữ nho). Tuy nhiên dựa vào các bản sắc phong cùng loại, nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường đã đọc được nội dung bản sắc phong này. Đó là sắc phong của vua Minh Mạng phong cho cá voi làm Nam Hải cự tộc ngọc lân vì đã có công giúp nước giúp dân, đồng thời giao cho đội Trường Đà (một loại thủy quân) nhiệm vụ thờ cúng thần.
Ngôi miếu đá duy nhất
TP.Hồ Chí Minh có trên 1.000 ngôi miếu. Hầu hết được xây dựng bằng các chất liệu thông thường như: gỗ, ván gạch và mái lợp lá, ngói, tôn. Có một ngôi miếu được xem là “độc nhất vô nhị” là Miếu Thổ Địa ở trước sân đình Long Trường (ấp Phước Hiệp , phường Long Trường, Quận 9). Đây là ngôi miếu duy nhất được xây dựng toàn bằng đá tổ ong, từ vách đến bộ mái. Miếu hình vuông, mỗi cạnh khoảng 1,5m, cao khoảng 1,5m. Niên đại của ngôi miếu khoảng 150 năm. Nội thất của ngôi miếu đã bị mối đùn lên che mất từ lâu. Năm 1994 ban hội hương đình Long Trường đã phải xây thêm một bệ gạch tô ximăng phía trước miếu để làm nơi đặt lễ vật, nhang đèn, đồng thời khắc hai chữ thổ địa bằng hán tự ở mặt trước bệ.
Chiếc Mõ đình làng lớn nhất
Tại TP.Hồ Chí Minh, trong số khoảng 285 chiếc mõ hiện đang lưu giữ ở các ngôi đình thì chiếc mõ của đình Trường Thọ (ấp Trường Thọ, phường Trường Thọ, quận Thủ Đức) là chiếc mõ lớn nhất và chạm khắc đẹp nhất. Mõ này được làm bằng gỗ mít nài khoét rỗng ruột, dài 2m, đường kính 0,4m đặt trên một giá gỗ cao 1,8m. Trên hai đầu mõ chạm nổi hai đầu rồng. Giá của chiếc mõ có 2 đầu đỡ chạm rồng và 2 chân chạm cặp kỳ lân với kỹ thuật chạm sắc sảo. Dọc theo hai chân giá là cặp câu đối chạm chìm bằng chữ nho, đề cao tiếng mõ vang lên mang lại điều phú quý, tiếng triện đóng mang lại sự khang ninh.
Ngày nay, mõ chỉ còn lại chỗ đứng trong dịp lễ hội kỳ yên của những ngôi đình làng.
Đại lộ Võ Văn Kiệt – Đại lộ dài nhất TP.Hồ Chí Minh
Tên gọi đầu tiên là đại lộ Đông Tây. Trong kỳ họp Hội đồng Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 nă 2010 các đại biểu đã biểu quyết thông qua tờ trình đề xuất lấy tên cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt cho Đại lộ Đông Tây. Ngày 29 tháng 4 năm 2011, đại lộ chính thức gắn tên biển đại lộ Võ Văn Kiệt.
Vị trí: Bắt đầu từ ngã ba Cát Lái giao cắt với xa lộ Hà Nội thuộc quận 2, lần lượt xe đi qua hầm Thủ Thiêm , Quận 1, Quận 4, Quận 5, Quận 6, Quận 8, Quận Bình Tân và kết thúc ngay nút giao cắt với Quốc Lộ 1A thuộc huyện Bình Chánh. Tổng chiều dài toàn tuyến là 21,89 km. Tổng kinh phí trên 13.000 tỷ đồng. Nguồn vốn ODA và nhà thầu từ Nhật Bản. Hiện nay, riêng đoạn từ hầm vượt sông Sài Gòn đến Cát Lái có tên là Mai Chí Thọ.
Giá trị con đường:
- Con đường chiến lược của TP.Hồ Chí Minh. Trong tương lai nút giao Cát Lái của đại lộ này sẽ kết nối với cao tốc TP.HCM – Long Thành. Bên cạnh đó hiện nay nút giao thông Bình Chánh của đại lộ Võ Văn Kiệt đã kết nối với cao tốc TP.HCM – Trung Lương. Như vậy, đại lộ Đông Tây sẽ giúp giao thông từ các tỉnh các tỉnh ĐBSCL, Đông Nam Bộ và các tỉnh Miền Trung, Miền Bắc thông suốt khi đi qua khu vực này, góp phần cho việc phát triển kinh tế của TP.HCM nói riêng và cả vùng Nam Bộ, Nam Trung Bộ nói chung.
- Cửa ngõ chính ra vào khu đô thị mới Thủ Thiêm
- Góp phần làm giãn dân cư đô thị về phía bờ Đông sông Sài Gòn và phía Nam thành phố.
- Góp phần đẩy mạnh sự phát triển khu trung tâm thương mai Thủ Thiêm và giúp nơi này trở thành trung tâm của thành phố Hồ Chí Minh trong tương lai.
- Cải tạo môi trường ven kênh Tàu Hủ vốn rất ô nhiễm trở thành những công viên cây xanh, công trình công cộng góp phần tạo mỹ quan cho thành phố.
- Xoá bỏ hơn 10.000 hộ dân khu nhà ổ chuột dọc hai bên con kênh ô nhiễm dể di dời người dân đến nơi ở tốt hơn, môi trườntg sống văn minh hơn.
- Đập bỏ đi cầu Chà Và và cầu chữ Y để xây dựng mới nhằm nâng cao độ tĩnh không cho đại lộ Võ Văn Kiệt chạy qua dưới cầu và khai thác giao thông đường thuỷ của con kênh Tàu Hủ.
- Báo chí gọi đây là “con đường di sản của THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, dài “300 năm” thời gian, bởi nó chạy theo suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của TP.HCM. Theo Sở Kiến Trúc TP.HCM, con đường kết nối khu đô thị mới Thủ Thiêm hiện đại, trung tâm hành chính văn phòng lâu đời ở Quận 1, tiếp theo là trung tâm buôn bán, kinh doanh mang sắc thái người Hoa ở quận 5 và cuối cùng là vùng cảnh quan sông nước mang đậm dấu ấn ‘trên bến dưới thuyền’ một thời nhộn nhịp kinh doanh sầm uất ở quận 6 và quận 8.
- Theo kế hoạch của UBND TP.HCM thì những công trình kiến trúc cổ dọc tuyến đường sẽ được trùng tu để bảo tồn. Bên cạnh đó, tương lai sẽ phát triển thêm các công trình hiện đại dọc tuyến đại lộ này.
Kênh Bến Nghé – Tàu Hủ ‘dòng kênh lịch sử”
Vị trí: Đây là tuyến kênh liên hoàn kết nối giữa kênh Bến Nghé (từ cầu Khánh Hội đến cầu Chữ Y) và kênh Tàu Hủ (từ cầu Chữ Y đến cầu Lò Gốm) nên gọi là kênh Bến Nghé – Tàu Hủ. Tuyến kênh này là ranh giới giữa các Quận 1, 5, 6 với các quận 4, 8.
Tên gọi Bến Nghé, theo tiếng Kh’mer là Kas Krabei, có nguồn gốc từ thời chúa Nguyễn vào đây kinh lược vùng đất này vào khoảng thế kỷ 17. Vào thời này, địa danh đã được biết như là một vùng đất, tên sông, rạch (đoạn sông Sài Gòn chảy qua trung tâm có tên là Bến Nghé). Về quy mô thì thời chúa Nguyễn hai địa danh Sài Gòn (Prey Nokor) và Bến Nghé (Kas Krabei) có quy mô tương đương nhau, đề là hai nơi được Chúa Nguyễn cho lập đồn thu thuế. Cả Bến Nghé và Sài Gòn đều thuộc Dinh Phiên Trấn, Phủ Gia Định. Có khi nói Đồng Nai – Bến Nghé là chỉ cả vùng Nam Bộ. Trong bài thơ “Chạy Tây” nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu có câu: “ Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây’. Tuy nhên càng về sau này và hiện nay thì địa danh Sài Gòn có quy mô rộng lớn hơn địa danh Bến Nghé và cách gọi Sài Gòn ám chỉ luôn cả Bến Nghé trong đó.
Về ý nghĩa: có 2 giả thuyết về tên gọi này. Một là ý nghĩa tương ứng với tên gọi, tức khu vực bến sông người ta thường cho trâu bò ra tắm, Kas = Kompong là Bến, Krabei là con trâu (theo Bác học Trương Vĩnh Ký). Hai là bến sông có nhiều cá sấu. Người ta nói rằng mũi cá sấu dưới nước nhô lên và từng đàn cá sấu đuổi kêu rống lê giống trâu nghé nên gọi là Bến Nghé (theo sách Phương Đình Dư Địa Chí của cụ Phó Bảng Nguyễn Văn Siêu, hiện nay Ban đường sắt Bắc Nam cũng giới thiệu cho du khách giả thuyết này).
Tên gọi kênh Tàu Hủ theo Gia Định Thành Thống Chí con kênh này vốn là rạch Chợ Lớn bị cạn nên năm 1819 vua Gia Long cho đào rộng thành kênh và đặt là An Thông Hà. Tên gọi Tàu Hủ đã có lâu đời, Tàu Hủ xưa vốn có tên gọi Cổ Hủ hay Củ Hủ vì địa hình uốn cong, lúc phình ra lúc thắt hẹp như củ hủ dừa (các vật có hình dáng phình ra rồi thắt lại đềuu gọi là cổ hũ). Lâu nay, người ta viết cổ hủ là chưa chính xác vì theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, từ ghép này vốn chỉ có cái cổ của cái hũ. Từ cổ hũ hay củ hũ gọi không quen thuộc như tàu hủ nên lâu dần nó có tên là Tàu Hủ.
Kênh Tàu Hủ nằm trong vị trí kinh tế đường thuỷ tiện lợi với các tỉnh miền Tây khi chúa Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái năm 1790. Chính vì vậy sau này trên con kênh Tàu Hủ, ngày xưa từng là nơi đô hội, nhộn nhịp bậc nhất khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn với những chiếc thuyền đậu kín cả dòng kênh.
Những năm đầu 1800, hai bên bến Bình Đông và Bình Tây thuộc kênh Tàu Hủ là nơi neo đậu tàu ghe từ Đồng Bằng Sông Cửu Long lên. Lúc bấy giờ đã xuất hiện nhiều nhà máy xay xát dọc hai bên kênh. Năm 1934, phong trào tổng bãi công sôi nổi ở Nam Bộ đã mở đầu bằng cuộc tổng bãi công cả 12 nhà máy xay, xát dọc theo kênh Tàu Hủ. Đầu năm 1938 lại nổ ra cuộc bãi công của 4.000 thợ trên 350 chiếc thuyền chở gạo, hàng ngàn công nhân ở các nhà máy xay và các công nhân hưởng ứng. Trong hai thời kỳ kháng chiến, quân nhân đã nhiều lần vượt qua kênh Tàu Hủ để tấn công địch ở nhiều vị trí trung tâm thành phố, nhất là vào dịp Tết Mậu Thân (1968).
Bến Bình Đông xưa
Vị trí bến Bình Đông nằm dọc theo kênh Tàu Hủ thuộc phía quận 8. Hiện nay , có đường tên Bình Đông kéo dài từ chỗ gần cầu Nguyễn Tri Phương đến cầu Vĩnh Mậu quận 8.
Ngày xưa Bến Bình Đông là địa danh gắn liền với kênh Tàu Hủ là tuyến đường thuỷ sôi động ‘trên bến dưới thuyền” bậc nhất của Sài Gòn – Chợ Lớn từ thờ Nguyễn cách đây 300 năm. Bến Bình Đông xưa là đoạn từ Trần Văn Kiểu Quận 6 đến Bình Đông thuộc Quận 8 ngày nay.
Giá trị lịch sử kinh tế: Bến Bình Đông là một bộ phận quan trọng của Chợ Lớn được hình thành từ nhóm người Hoa Cù Lao Phố (Biên Hoà) về đây từ năm 1778 trước sự truy sát của nghĩa quân Tây Sơn. Người Hoa vốn giỏi buôn bán kèm theo chính sách phát triển kinh tế của các Chúa Nguyễn, Vua Nguyễn. Nơi đây đã thành trung tâm quan trọng của vựa lúa Nam Kỳ, nơi chứng kiến những giai thoại giao thương thịnh vượng nhất của việc mua bán và xuất khẩu lúa gạo Nam Kỳ. Bởi có sự kết hợp liên hoàn giữa các hệ thống các điểm xay lúa, chành, kho gạo và bến bãi dọc theo hai bờ kênh Tàu Hủ. Những ghe thuyền nông sản từ vùng ĐBSCL tấp nập đổ về đây mua bán trao đổi, trong đó lại nổi tiếng lúa gạo thời Pháp đó là tỉnh Bạc Liêu, có liên quan đến đại gia đình của Công Tử Bạc Liêu.
Giá trị kiến trúc: mang kiến trúc giao thoa Đông Tây, khu vực này do người Hoa làm chủ nhưng thực hiện xây dựng là những nhà thầu Singapore. Kiến trúc theo dạng nhà phố với bề ngang hẹp nhằm tăng số lượng nhà mặt tiền và nhờ đó mau chóng thu hồi vốn xây dựng (nhà ống). Tầng trệt là cơ sở kinh doanh, chành, tầng trên là nhà ở. Tuy nhiên, trang trí lại mang ảnh hưởng phương Tây, các cây cột xây dựng bằng gạch, lan can bằng sắt, giờ chỉ làm bằng thạch cao hoặc vôi. Hiện nay UBND TP.HCM có kế hoạch trùng tu lại một số kiến trúc cổ này.
Giá trị văn hoá trên bến dưới thuyền: Chỉnh khung cảnh giao thương tấp nập nơi đây cũng đã góp phần tạo nên nét văn hoá riêng biệt của nó . Trong ‘Lịch sử khẩn hoang Miền Nam’, nhà văn Sơn Nam cho biết nơi đây đã ra đời và phát triển các kiểu hò đối đáp trên sông và cải lương. Ghe thuyền không chỉ là phương tiện di chuyển mà còn là nhà ở, là nơi sinh sống của người dân. Cuộc sống trên sông, ghe thuyền là nhà, bến bãi là nơi mua bán, những đặc tính này đã tạo ra một nét văn hoá đặc trưng của người miền Nam và miền Tây Nam Bộ chứ không phải chỉ là cảnh quan trên bến dưới thuyền đơn thuần.
Kênh Ruột Ngựa – ‘thế phòng ngự vững chắc cho Sài Gòn’
Vị trí: rạch Ruột Ngựa có đoạn song song với đai lộ Võ Văn Kiệt từ cầu Lò Gốm đến cầu Rạch
Cây. Toàn tuyến rạch là từ cầu Lò Gốm (giao kênh Tàu Hủ) đến qua cầu Mỹ Thuận gần đường Hồ Học Làm ranh giới Quận 8 và Quận Bình Tân.
Tên gọi rạch Ruột Ngựa này có từ năm 1772 , do Nguyễn Cửu Đàm, danh tướng thời chúa Nguyễn đào. Ông vừa là nhà quân sự, vừa là nhà quy hoạch có tầm nhìn chiến lược. Chính ông đã xây Luỹ Bán Bích và đào rạch Ruột Ngựa để tạo thế phòng ngự vững chắc cho Sài Gòn , chính vì vậy không lần nào quân Xiêm xâm phạm được. Theo sách Gia Định Thành Thống Chí của Trịnh Hoài Đức viết:’Nguyên xưa từ rạch Cát ra phía Bắc đến Lò Gốm có một đường nước đọng móng trâu, ghe thuyền đi lại không được… Nguyễn Cửu Đàm cho đào con kênh thẳng như ruột ngựa nên mới đặt tên ấy’.
10/ Chợ Ở Sài Gòn
Chợ Bến Thành
Nguồn gốc và xuất xứ tên gọi
Nguyên thủy, chợ Bến Thành đã có từ trước khi người Pháp xâm chiếm [[Gia Định]]. Ban đầu, vị trí của chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, cạnh một bến sông gần [[thành Gia Định]] (bấy giờ là thành Quy, còn gọi là [[thành Bát Quái]]). Bến này dùng để cho hành khách vãng lai và quân nhân vào thành, vì vậy mới có tên gọi là Bến Thành, và khu chợ cũng có tên gọi là chợ Bến Thành
==Chợ Cũ==
Chợ Bến Thành thời kỳ đầu được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh, được mô tả như là "phố chợ nhà cửa trù mật ở dọc theo bến sông. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ, có thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang chở khách buôn ngoài biển lên. Đầu phố phía Bắc là ngòi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền"<ref> "[[Gia Định thành thông chí]]" - Trịnh Hoài Đức</ref>. Tuy nhiên, sau [[Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi|cuộc nổi loạn]] của [[Lê Văn Khôi]] (1833-1835), thành Quy bị triệt hạ, phố chợ Bến Thành cũng không còn sầm uất như trước.
Trước khi Pháp đánh chiếm Gia Định, khu vực xung quanh thành Gia Định (bấy giờ là [[Thành Gia Định (1836-1859)|thành Phụng]]) mới chỉ có 100 ngàn dân và chợ Bến Thành là nơi đông đúc nhất. Cạnh khu chợ, dọc theo bờ sông Bến Nghé, các ghe thương thuyền thường đậu chen chúc nhau, tạo thành một thành phố nổi trên mặt nước. Tuy nhiên, khi ấy khu họp chợ trên bến mới chỉ là một dãy nhà trống lợp ngói. Tháng 2 năm 1859, [[Trận thành Gia Định, 1859|Pháp chiếm thành Gia Định]] và hai ngày sau, các binh lính người Việt đã tổ chức [[hỏa công]] thiêu rụi cả thành phố, tất nhiên chợ Bến Thành cũng bị thiêu hủy. Sau khi đã vững chân trên mảnh đất [[Nam Kỳ]], năm 1860, người Pháp đã cho cho xây cất lại chợ Bến Thành ở địa điểm cũ (thời [[Việt Nam Cộng hòa]] là địa điểm Tổng Ngân khố, nay là Trường đào tạo cán bộ ngân hàng trên đường Nguyễn Huệ). Ngôi chợ được xây cất bằng cột gạch, sườn gỗ, và lợp lá. Đến tháng 7 năm 1870, chợ bị cháy mất một gian, phải xây cất lại bằng cột gạch, sườn sắt, lợp bằng ngói, tất cả có năm gian: gian thực phẩm, gian hàng cá, gian hàng thịt, gian hàng ăn uống và gian hàng tạp hóa. Trong năm gian hàng này, chỉ có gian hàng thịt được lợp bằng tôn, nền lót đá xanh.
Thời đó, khu chợ được xây dựng bên bờ phía nam một con kênh, được gọi là Kinh Lớn. Phía trước chợ, dọc bờ kênh là một con đường được người Pháp đặt tên là đường Charner, hay một tên gọi khác là đường Quảng Đông (''Rue de Canton''), bởi đa số người Hoa làm nghề buôn bán ở đây đều là người [[Quảng Đông]]. Phía đối diện bờ kênh là đường Rigault de Genouilly. Do vị trí nằm giao điểm của khu đô thị và hợp lưu của hai tuyến đường thủy là kênh Lớn và rạch Cầu Sấu (nay là đường Hàm Nghi), ghe thuyền có thể cập bến và đổ người lên chợ bất cứ ở phía bên này hay bên kia. Còn người bên đất liền muốn qua chợ thì có thể đi qua những chiếc cầu gỗ xinh xắn, do đó chợ Bến Thành luôn luôn nhộn nhịp.
Vào năm 1887, người Pháp cho lấp con kênh và sát nhập hai con đường lại làm một thành đại lộ Charner. Dân bản xứ gọi nôm là đường Kinh Lấp (nay là Đại lộ Nguyễn Huệ). Khu chợ càng trở nên đông đúc với các cửa hiệu phần nhiều là của [[người Hoa]], người [[Ấn Độ]] và người Pháp. Tuy nhiên, khoảng giữa năm 1911, ngôi chợ trở nên cũ kỹ và lâm vào tình trạng có thể bị sụp đổ. Để tránh tai họa, người ta phải phá chợ, chỉ còn gian hàng thịt, vì mái tôn nhẹ, nên chưa bị phá. Đồng thời, người Pháp cũng lựa chọn một địa điểm để xây cất một khu chợ mới lớn hơn để phục vụ nhu cầu buôn bán sầm uất ngày càng phát triển. Địa điểm được lựa chọn nằm gần ga xe lửa [[Mỹ Tho]] (nay là Bến xe Sài Gòn), tức là địa điểm chợ Bến Thành ngày nay.
==Chợ Mới==
Khu vực xây chợ, vốn là một cái ao sình lầy cũ, gọi là ao Bồ Rệt (''Marais Boresse''), được người Pháp cho lấp đi. Khuôn viên chợ quy hoạch bốn mặt bởi bốn con đường. Mặt tiền là Place Cuniac, tên đặt theo viên Xã Tây (Ủy viên Hội đồng) Cuniac, người đã đề ra công việc lấp ao. Người Việt thì quen gọi đó là ''Bùng binh Chợ Bến Thành'' cho dù tên chính thức đã từng đổi là "Công trường Cộng Hòa", "Công trường Diên Hồng", rồi "Quảng trường Quách Thị Trang". Mặt bắc chợ là Rue d'Espagne, phía đông là rue Viénot, và phía tây là rue Schroeder. Năm 1955 thời [[Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam]], bốn con đường này đổi tên thành đường Lê Thánh Tôn, đường Phan Bội Châu và đường Phan Châu Trinh.
Ngôi chợ mới do hãng thầu Brossard et Maupin<ref>Phụng Nghi. ''Sài-gòn trong mắt tôi''. Westminster, CA: Văn-nghệ. trang 114.</ref> khởi công xây dựng từ năm 1912 đến cuối tháng 3 năm 1914 thì hoàn tất. Lễ ăn mừng chợ khánh thành được báo chí thời đó gọi là "Tân Vương Hội", do được diễn ra trong ba ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914, với [[pháo bông]], xe hoa và hơn 100.000 người tham dự, kể cả từ các tỉnh đổ về.
Khu chợ mới này vẫn mang tên gọi Bến Thành, ngoài ra người dân còn gọi là chợ Mới, để phân biệt chợ Cũ tại điểm cũ, vốn chỉ còn lại gian hàng thịt. Phần còn lại bị phá đi và được người Pháp xây dựng thành cơ quan Ngân khố. Hai con đường bên hông chợ mãi đến năm 1940 còn là bến xe đò miền Đông và miền Tây. Về sau, bến xe này mới được dời đi chỗ khác.
Chợ Bến Thành hoạt động liên tục trong 70 năm. Từ ngày 1 tháng 7 đến 15 tháng 8 năm 1985, chợ Bến Thành được cải tạo và sữa chữa lớn.
* Địa chỉ: Cửa Nam (nằm giữa các đường Phan Bội Châu - Phan Chu Trinh - Lê Thánh Tôn - Công trường Quách Thị Trang) - Phường Bến Thành - Quận 1
* Điện thoại: +84.8.8292096
* Diện tích: 13.056 m²
* Ngành hàng kinh doanh chủ yếu: Quần áo, vải sợi, giầy dép, thời trang, hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm tươi sống, trái cây, hoa tươi.
Chợ kim Biên
Quy mô: chợ có diện tích 2.000m2 với hơn 500 sạp( mỗi sạp rộng không nay 2m2 ) nằm trong khu vực các đường Phan Văn Khỏe-Vạn Tường- Kim Biên-Hải Thượng Lãn Ong. Trong bề ngoài nhỏ bé, có vẻ lụp sụp, tạm bợ, có một tiềm lực kinh tế mạnh,, thu hút khách hàng từ nhiều nơi.
Đặc điểm: nằm trong danh mục chợ đầu mối của thành phố, chợ Kim Biên chuyên kinh doanh các mặt hàng mỹ phẩm, hóa chất, công nghệ phẩm, bách hóa trong đó một phần là hàng nguyên đai, nguyên kiện của nhiều nước như Thái Lan, Trugn Quốc, Singapore…
Ngoài hàng nhập chợ kim Biên cũng là nơi bán sĩ các hàng do các công ty, xí nghiệp trong nước sản xuất như kem đánh răng P/S. Dạ Lan, bột giặt Viso, dầu gọi đầu, xà bông hàng nhựa, giày dép, áo quần, đồ gia dụng khác.
Nhập hàng từ gốc, từ nay các nhà buôn cung cấp cho các chợ khác, vừa bán sĩ lại vừa bán lẻ, hàng dồi dào lối kinh doanh linh động, cung cách phục vụ chu đáo, nên chợ kim biên đã đượcv một lợi thế riêng trong cơ chế thị trường sôi động hiện nay.
Chợ Bình Tây – chợ Lớn
Còn gọi là chợ Lớn mới vì chợ Lớn cũ hư nên thay bằng ngôi chợ này chắc chắn và rộng lớn hơn vào năm 1928.Mặt tiền chợ trông ra đường Tháp Mười nối liền với đường Hậu Giang ra bến xe miền Tây.
Chủ chợ vốn là một người Hoa nghèo nàn, nhưng mưu tính góp vốn làm nghề bán lúa gạo ở lục tỉnh để bán ra nước ngoài. Với nghề này chẳng mấy chốc ông giàu. Thế là nảy ra ý định xây một ngôi chợ cho “ nhà nước Pháp ”với điều kiện ông được xây cất những dãy phố lầu chung quanh chợ để cho thuê, tạo thành khu vực cho người Hoa sinh sống và buôn bán.
Bên trong chợ là pho tượng “ ông chủ chợ ”bằng đồng, mướn đúc tận Trung Quốc.Tượng dựng trên bệ cao, có rồng phun nước dưới chân và kỳ lân chầu; trên ngực đầy huy chương cỡ lớn.
Có thể coi khu vực Chợ Lớn là một Chinatown ở Việt Nam, một trung tâm thương mại lớn như kiểu phố tàu, phố Ấn Độ – những trung tâm buôn bán của người Trung Quốc, người Ấn Độ ở Singapore hiện nay.
Chợ Bà Chiểu nét xưa Sài Thành
Chợ Bà Chiểu là một trong những ngôi chợ bán lẻ lớn và lâu đời nhất TP.HCM. Địa danh có tiếng này còn lưu lại trong ký ức nhiều người đã gắn bó với khu vực quận Bình Thạnh từ xưa. Chợ nằm kề bên Lăng tả quân Lê Văn Duyệt nên người dân vẫn gọi chung khu vực này là Lăng Ông Bà Chiểu. Chợ Bà Chiểu hàng ngày thu hút khá đông lượng người đến mua sắm cũng như tham quan.
Chợ nằm ở vị trí khá đẹp, ngay trung tâm quận Bình Thạnh, chỉ cần năm phút đi xe máy là đã có thể đến được quận nhất. Khuôn viên chợ được bao bọc bởi bốn con đường, mặt tiền chợ hướng ra đường Phan Đăng Lưu với hai làn xe luôn tấp nập, phía trước có khoảng không gian khá rộng, ban đêm người dân trong khu vực bày bán hàng ăn nên nơi đây thường khá đông đúc. Theo tư liệu cũ, chợ Bà Chiểu được xây dựng từ năm 1942, khi mới hình thành tỉnh Gia Định, nằm trên khu đất rộng lớn gần bờ rạch Thị Nghè nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Đến năm 1989, chợ được nâng cấp và sửa chữa lại để theo kịp đà phát triển đô thị.
Theo tư liệu cũ, chợ Bà Chiểu được xây dựng từ năm 1942, khi mới hình thành tỉnh Gia Định, nằm trên khu đất rộng lớn gần bờ rạch Thị Nghè nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Đến năm 1989, chợ được nâng cấp và sửa chữa lại để theo kịp đà phát triển đô thị. Theo thời gian, khu chợ phát triển và trở thành một trong những nơi mua bán các mặt hàng sỉ và lẻ sầm uất nhất nhì thành phố. Với số đông người dân quanh khu vực, chợ Bà Chiểu là lựa chọn đầu tiên khi cần mua sắm.
Đặc biệt, chợ Bà Chiểu có chợ đêm kinh doanh khá nhộn nhịp. Chợ đêm không mở trong nhà lồng mà tập trung ở mặt tiền chợ, chủ yếu bán quần áo, giày dép và các món ăn đêm. Về khuya, chợ đêm trở nên nhộn nhịp hơn hẳn bởi các mặt hàng như hoa, trái cây đổ về từng cần xé tập kết về trước chợ. Tiểu thương nhận hàng từ các xe tải nhỏ chất đầy khu vực. Trong ánh đèn đêm sáng chói, không khí mua bán nhộn nhịp tạo thành đặc trưng thú vị cho chợ Bà Chiểu. Nhiều người khi đã quen thuộc với khung cảnh này, đi xa mới thấy nhớ sự tíu tít bận rộn của chợ Bà Chiểu, nhớ khung cảnh tấp nập kẻ mua người bán. Chợ đêm Bà Chiểu nổi tiếng bán đắt vì vị trí trung tâm, mặt hàng khá đẹp và giá cả bình dân.
Chợ Tân Bình
Chợ Tân Bình thuộc địa phận phường 8, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Chợ có 9 cửa, 4 cửa lớn và 5 cửa nhỏ. Cửa chính nằm trên đường Lý Thường Kiệt, với tổng diện tích 22.800 m², chia làm 4 khu vực với gần 3.000 hộ kinh doanh. Mặt hàng chính ở chợ là quần áo may sẵn và trang phục cưới hỏi.
Lịch sử hình thành & phát triển
Chợ được thành lập vào những năm 1960, vốn là chợ nhỏ trên giữa bốn trục đường Lý Thường Kiệt, Lê Minh Xuân, Tân Tiến và đường Phú Hoà. Chợ trước kia là nơi tập trung hai khu chợ trời ở vùng sân bay Tân Sơn Nhất và Ngã tư Bảy Hiền vào những năm 1977. Lúc đầu, chợ có tên là Nguyễn Văn Thoại.
Sau năm 1975, chợ được nâng cấp và mở rộng để đáp ứng nhu cầu giao lưu buôn bán của người dân địa phương. Giai đoạn từ năm 1982 đến năm 1985, chợ được xây dựng kiên cố, trở thành một trong những trung tâm thương mại lớn của thành phố. Năm 1991, chợ Tân Bình được giao cho ủy ban nhân dân quận Tân Bình trực tiếp quản lý.
Thời gian hoạt động
Chợ mở cửa buôn bán từ 6h00 đến 18h00 mỗi ngày. Các mặt hàng kinh doanh rất đa dạng như vàng bạc đá quý, kim khí điện máy đến lương thực, thực phẩm tươi sống...
Nhưng chủ yếu ở đây là quần áo may sẵn, quần áo cưới các phụ kiện phục vụ cưới hỏi và vải ký. Đặc biệt, chợ nổi tiếng là nơi kinh doanh đồ cưới giá rẻ nhất trên địa bàn thành phố.
Chợ Dân Sinh
Chợ Dân Sinh hay còn gọi là Khu Dân Sinh nằm ngay trung tâm Quận 1, TP.HCM với bốn con đường bao quanh là đường Yersin, Nguyễn Thái Bình, Nguyễn Công Trứ và Ký Con với diện tích đất rộng hơn 5.000m².
Lịch sử hình thành và phát triển
Tiền thân của chợ Dân Sinh là khu ăn chơi cờ bạc khét tiếng Kim Chung. Đến cuối năm 1954, khu Kim Chung đổi tên thành chợ Dân Sinh, chuyên bán đồ quân trang, quân dụng cũ và mới của quân đội Mỹ.
Từ năm 1978 đến năm 1989 là giai đoạn đất nước chưa mở cửa, kinh tế khó khăn, hàng hóa khan hiếm nhưng lại là giai đoạn cực thịnh của chợ Dân Sinh với các loại từ quần áo, vật dụng đồ nghề cũ như phụ tùng xe hơi, xe gắn máy,...
Năm 1990 đến năm 1992, chợ Dân Sinh bắt đầu xuất hiện hàng mới, đến khoảng năm 1997 thì lượng hàng mới hầu như chiếm lĩnh, hàng cũ trở thành hàng souvenir, dành cho khách du lịch, Việt kiều và người ưa hoài niệm sưu tầm hoặc làm quà tặng nhau.
Từ 1992 đến năm 2000, luật doanh nghiệp ra đời tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, xuất nhập khẩu dễ dàng hơn, nhiều cửa hàng kim khí điện máy, trung tâm mua bán, siêu thị xuất hiện..., chợ Dân Sinh từ đó bước vào giai đoạn "thoái trào".Tuy nhiên, một số khách hàng quen thuộc của chợ Dân Sinh, vì ưa cái cảm giác cà kê trả giá nên vẫn thường xuyên lui tới chợ, nói: Đi chợ Dân Sinh bây giờ hơi chạnh lòng bởi cảm giác trống trải. Vào một số thời điểm trong ngày, quả thật người bán đông hơn người mua.
Chợ Cũ:
Tôi biết đến Chợ cũ từ một quán ăn vào năm 1969. Đó là quán ăn của người Hoa mang tên Chí Tài trên đường Võ Di Nguy (nay là Hồ Tùng Mậu). Sở dĩ tôi nhớ đời cái tên quán Chí Tài - không phải vì giống tên một danh hài đâu - mà vì hôm đó tôi cũng thấy thần tượng của mình là kịch sĩ kiêm diễn viên điện ảnh La Thoại Tân đang ngồi ăn trong quán cùng một người bạn. Lớn lên, tôi mới vỡ lẽ rằng đây là quán ăn được nhiều người nổi tiếng trong giới văn nghệ và quan quyền đến thưởng thức món cơm tay cầm còn được gọi là cơm thố. Chợ cũ của tôi chỉ là đường Võ Di Nguy có quán ăn Chí Tài này.Khi lớn lên chút nữa, tôi biết Chợ cũ có thêm ngôi chợ ở đường Tôn Thất Đạm, từ đầu đường Hàm Nghi và đụng ngay góc đường Huỳnh Thúc Kháng. Đây là một ngôi chợ dành cho nhà khá giả, khác với chợ Bến Thành, có những mặt hàng chuyên biệt theo “gu” Pháp hay Mỹ - và nhiều nhất là Mỹ. Ngoài những gian hàng bán thịt bò, thịt heo, hải sản cao cấp, cũng có những gian hàng bán đồ Mỹ như xúc xích, đồ hộp, gạo sấy dành riêng cho lính Mỹ, những gói thuốc Salem, Pall Mall, LucKy… nho nhỏ chỉ có bốn điếu một hộp, những gói cà phê bột uống chua lét. Ngôi chợ thành lập lúc nào cũng chẳng ai xác định được, chỉ biết là có từ lâu lắm. Một lão làng “đại ca” đã giải thích hồi xưa nơi đây là khu vực chợ của người Hoa. Khi Tổng thống Ngô Đình Diệm lên chấp chánh liền giải tán chợ này, di chuyển người Hoa vào Chợ Lớn thành lập Chợ Lớn Mới nên khu chợ Tôn Thất Đạm được gọi là Chợ cũ.
Đầu thế kỷ 17, khi người Việt đến lập nghiệp ở phương nam, chợ Bến Thành đầu tiên nằm ven kênh Chợ Vải là một trong vài bến ghe tàu của thành Gia Định, tụ tập hàng trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông thuyền buôn lớn nhỏ nối liền nhau. Theo tư liệu người xưa để lại thì sau khi Pháp chiếm Nam kỳ năm 1859, ngôi chợ này được xây dựng dãy nhà lồng, gọi là Marché de Saigon với năm gian cột gỗ, lợp mái lá nằm sâu trong kênh Chợ Vải, trên đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ) nằm giữa 4 con đường là: Nguyễn Huệ - Hải Triều - Hồ Tùng Mậu - Ngô Đức Kế.
Chợ Bến Thành đầu tiên bên kênh Chợ Vải đi vào lịch sử với tên Chợ cũ khi kênh Chợ Vải bị lấp trở thành đường Charner vào năm 1877. Khu Chợ cũ cũng bị phá đi để xây tòa nhà ngân khố mới thay thế tòa ngân khố cũ trên đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi) và tiếp đến chợ Bến Thành Mới “tân khai thị” vào tháng 3.1914. Những người Hoa dù không còn dựa vào kênh Chợ Vải nhưng đã buôn bán lâu năm nên vẫn quyết chí bám trụ, dời xuống phía dưới để mở một khu vực chợ của họ mang tên Chợ cũ. Không nhà lồng chợ, không bảng tên, chỉ buôn bán trên vỉa hè vậy mà Chợ cũ vẫn sống rất khỏe, hùng cứ cả hai con đường nhỏ Tôn Thất Đạm, Võ Di Nguy (Hồ Tùng Mậu). Những người bán hàng tại đường Hàm Nghi gọi khu này là “chợ chạy” vì thường xuyên bị cảnh sát rượt chạy vô đường Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp, Huỳnh Thúc Kháng… do buôn bán trên vỉa hè, lòng đường như kiểu chợ trời.
11/ 4 đại thương gia 'nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa' giàu thế nào?
Nhiều người nhận định các đại gia này không chỉ giàu nhất Sài Gòn mà còn thuộc vào hàng giàu nhất Đông Dương trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Vào cuối thế kỷ 19, đất Sài Gòn – Chợ Lớn nổi lên bốn vị đại thương gia, trọc phú có gia sản kếch xù, được mệnh danh là “Tứ đại phú hộ”. Tiếng tăm của những đại gia này còn truyền lại đến bây giờ qua câu nói dân gian “Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Hoả”.
Nhất Sỹ - giàu hơn vua Bảo Đại
Nhất Sỹ (sau này được gọi Huyện Sỹ, tên thật Lê Phát Đạt) là người đúng đầu trong tứ đại phú hào giàu nhất Sài Gòn xưa và cũng là ông ngoại của Nam Phương hoàng hậu - vợ của vua Bảo Đại.
Dù xuất thân trong một gia đình không quá giàu có nhưng nhờ năng lực bản thân, Lê Phát Đạt đã nhanh chóng trở thành người giàu có bậc nhất đất Sài Gòn.
Ông được các tu sỹ người Pháp đưa sang Malaysia để học tập. Sau khi ông Sỹ về nước cũng là lúc dân cư bỏ ruộng đất đi tản mát khắp nơi tránh thực dân Pháp nên nhà cửa, đất đai bỏ không. Ông Sỹ chớp cơ hội dùng tiền để dành khi đi du học để mua một số thửa đất có địa thế tốt và thuê người gieo trồng lúa.
Không ngờ năm đó mưa thuận gió hòa, lúa lên xanh tốt nên vụ mùa bội thu, ông Sỹ thu về lượng lớn thóc gạo. Nhận thấy lợi ích từ đầu tư vào ruộng lúa rất lớn, ông Sỹ lập tức đi vay mượn tiền của bạn bè để mua đất khắp khu vực Tân An, Đức Hòa, Đức Huệ. Liên tiếp mấy vụ mùa bội thu giúp ông Sỹ thu về đầy ắp của cải. Nhờ đó, ông trở nên giàu có.
Trong thời kì giàu có bậc nhất, gia đình Huyện Sỹ nắm trong tay toàn bộ vùng đất trù phú ở Gò Công, Long An, Tiền Giang kéo dài đến tận biên giới Campuchia để thuê người canh tác. Ở miền Tây, ruộng đất của Lê Phát Đạt được ví như "cò bay mỏi cánh không hết".
Một điều đáng ca ngợi của gia đình Huyện Sỹ là dù vô cùng giàu có nhưng họ lại không có lối sống xa hoa, tiêu xài hoang phí.
Ông Huyện Sỹ cũng tự nguyện hiến đất và 1/7 tài sản của mình để xây dựng nên nhà thờ Huyện Sỹ (đường Tôn Thất Tùng, Q.1, TP. HCM).
Mức độ giàu có của ông Huyện Sỹ còn được cho là lớn hơn rất nhiều lần so với vua Bảo Đại.
Nhì Phương
Nhì Phương là tên gọi của Đỗ Hữu Phương (1841 - 1914), người gốc Hoa, là con trai đại địa chủ Nam Kỳ thời bấy giờ là Bá Hộ Khiêm. Ngậm thìa vàng ngay từ khi sinh ra, ông Hữu Phương nghiễm nhiên có trong tay cả một cơ ngơi và cùng gia đình cai quản cai quản BĐS của cả một vùng rộng lớn về phía bắc thành phố Sài Gòn.
Nhà ông không những sở hữu đất đai mà còn có cả hàng trăm căи nhà mặt tiền cho thuê. Người ta đồn rằng tiền của ông Phương nhiều đến nỗi mấy đời ăи cũng không hết.
Có lợi thế của một gia đình con buôn nhưng Đỗ Hữu Phương không làm giàu bằng con đường kinh doanh. Ông lựa chọn con đường làm quan.
Năm 1859, khi quân Pháp tiến đánh Gia Định, Đỗ Hữu Phương lui về Bà Điểm, Hóc Môn lánh thân và chờ thời. Năm 1861, ông được nhận làm cộng sự của người Pháp với sự giới thiệu của cai tổng Đỗ Kiến Phước. Sài Gòn Chợ Lớn thời đó chia làm 20 hộ. Đỗ Hữu Phương được chính quyền cho làm hộ trưởng, từ đó lần lượt leo lên nhiều chức vụ khác nhau.
Ông Phương giàu không chỉ được thừa hưởng khối gia sản kếch xù, những cánh đồng bạt ngàn, cửa hàng kinh doanh của bố, mà ông còn có tài tính toán như thần. Mỗi mùa vụ ông đều thu lợi lớn, kết nối với các tiểu thương, xây dựng hệ thống bán buôn riêng biệt.
Thóc lúa trong nhà ông chất thành núi trong nhà. Ngoài ra, người vợ của ông giỏi giang, tháo vát, bán sang tay với giá cao nên ông đã giàu lại càng giàu hơn.
Người ta đồn rằng, nếu 1 người ngồi đếm tiền của nhà ông Phương thì có đến cả đời cũng không hết tiền. Độ giàu có của vợ chồng ông Phương còn được sử cũ kể rằng, gia đình có riêng một đội đếm tiền, hơn chục người được sắp xếp bí mật trong căn phòng phía sau nhà.
Tam Xường
Ông Lý Tường Quan (1842 – 1896), tên thật là Phước Trai, được người đời gọi bởi danh xưng bá hộ Xường - doanh nhân người Hoa được xếp thứ ba trong Tứ đại Phú hộ Sài Gòn.
Theo sử tích ghi lại, cậu bé Tường Quan sớm bộc lộ tài năng hơn người từ khi còn nhỏ. Vốn là người hiếu học, ông nhanh chóng am hiểu nhiều ngôn ngữ; tinh thông cầm kỳ thi hoạ và được đề bạt, đảm nhận nhiều chức vụ trong chính quyền Pháp. Tuy nhiên, sau đó ông nổi chí muốn làm ăn, buôn bán kinh doanh.
Rời bỏ vai công chức, Bá hộ Xường dốc tâm sức vào việc kinh doanh thịt cá xuất khẩu, lương thực, thực phẩm, sau đó mua đất xây cất biệt thự tại vùng Chợ Lớn để cho thuê và bán. Ngoài ra cũng nhờ biết cách đi cửa sau, lấy lòng quan Tây, quan ta, ông giàu lên rất nhanh, nổi tiếng khắp vùng.
Bằng tài năng và sự khôn khéo, chẳng mấy chốc Bá hộ Xường phất lên “như diều gặp gió”. Khi đã có chỗ đứng trên thị trường, ông mở rộng thị phần ở nhiều địa phương khác. Những năm kinh doanh phát đạt, thương hiệu của ông phổ biến đến mức, đôi khi người ta thường nói với nhau: “1 nửa người dân miền Tây mua nhu yếu phẩm có nguồn gốc từ Tường Quan”.
Với lợi nhận từ việc kinh doanh thịt cá, Bá hộ Xường bắt đầu mua đất xây cất biệt thự tại vùng Chợ Lớn để cho thuê và bán, gia sản lại càng kếch xù. Bất động sản của ông chiếm gần như 1 nửa vùng Chợ Lớn, lan rộng sang cả khu vực Gia Định. Hiện tại, khắp Sài Gòn vẫn tồn nhiều kiến trúc khang trang, đồ sộ mang dấu ấn ngài bá hộ Xường.
Tứ Hoả
Tứ Hoả (hay chú Hoả) là danh xưng của ông Hứa Bổn Hỏa (1845 – 1901), người gốc Hoa. Tuy xếp thứ 4 nhưng ông lại là người sở hữu nhiều giai thoại, để lại nhiều dấu ấn nhất so với 3 người người còn lại. Trong đó, phải kể đến cái tâm sáng, luôn hướng đến cộng đồng của ông.
Theo một số ghi chép, chú Hỏa từng có thời gian kiếm sống bằng nghề nhặt phế liệu. Tuy nhiên, nhiều người đồng ý rằng, việc chú Hỏa phất lên không phải như lời đồn do ông mua bán ve chai lượm được chuông đồng hay nhặt được túi vàng trong chiếc ghế cũ,... mà chính nhờ có óc nhìn xa, nhạy bén với thương trường và quyết đoán trong công việc.
Nhận thấy tiềm năng của một khu vực đất đai hoang phế, ông lên kế hoạch san lấp đống ao hồ xung quanh để dựng lên chợ Bến Thành mới. Khi chợ được hoàn thành, ông nghiễm nhiên có trong tay đến 20.000 nền nhà trong khu đất vàng, sau đó biến chúng thành 20.000 ngôi nhà mặt phố rồi cho thuê.
Nhờ thế, ông thành công trong lĩnh vực bất động sản. Chú Hỏa nắm giữ hơn 40% bất động sản Sài Gòn thời đó và sở hữu hơn 30.000 căn nhà ở các vị trí đắc địa nhất Sài Thành, nhiều trong số những căn nhà đó đến nay vẫn còn tồn tại.
Không chỉ làm giàu cho mình, Chú Hỏa còn luôn biết chia sẻ với cộng đồng cũng như giới cầm quyền đương thời qua việc góp phần xây dựng và sau này là hiến tặng hàng loạt công trình phúc lợi xã hội mà chức năng vẫn tồn tại đến tận ngày nay, như: Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn, Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ, Trường THCS Minh Đức (quận 1), Bệnh viện Nguyễn Trãi (quận 5)…
(Theo Tri Thức và Cuộc Sống)
12/Miền Nam từng có một thời kỳ sáng dọi
Ý chí và nhiệt tâm kiến thiết quốc gia của người Việt từng có một giai đoạn sáng chói. Năm 1955, xuất phát điểm của miền Nam cũng gần tương tự miền Bắc. Sau khi Pháp rút, Việt Nam nói chung là một quốc gia nông nghiệp nghèo nàn, công nghiệp gần như bằng không, cùng với nhiều cái “không” khác, từ hệ thống giáo dục, chăm sóc y tế đến quản trị hành chính. Miền Nam đã xây dựng tất cả từ bàn tay trắng theo đúng nghĩa đen.
Chỉ trong 5 năm, từ 1955-1960, miền Nam đã lột xác với công cuộc kiến thiết toàn diện, bằng các chính sách dinh điền, xây dựng thủy nông, lập khu kỹ nghệ, phát triển điện lực, thiết lập hệ thống giao thông, khai thác tài nguyên khoáng sản, xây dựng hệ thống ngân hàng… Đó là “5 năm vàng son” như cách nói của giáo sư Nguyễn Tiến Hưng trong “Khi đồng minh nhảy vào” (cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh 2016). “5 năm vàng son” đã tạo nền tảng cho sự phát triển miền Nam trong 15 năm sau đó.
Trong khi “Kế hoạch Ngũ niên I” (1957-1961) tập trung việc xây dựng canh nông (lập khu dinh điền; thu xếp nơi sinh sống cho đồng bào di cư miền Bắc…), ngư nghiệp, công kỹ nghệ, công chánh, điện lực, khoáng sản…, “Kế hoạch Ngũ niên II” (1962-1966) nhấn mạnh việc gia tăng mức sống người dân và đặc biệt chú trọng đến giáo dục, y tế, xã hội và lao động. Khu kỹ nghệ Biên Hòa được xây trong thời gian này (theo sắc lệnh ký ngày ); tiếp đó là khu kỹ nghệ Phong Dinh (1967). Ngày 1-4-1961, công trình thủy điện Đa Nhim được khởi công; nửa tháng sau, nhà máy xi măng Hà Tiên ra đời… Trong lĩnh vực công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp dệt, đồ hộp, thủy tinh, nhựa dẻo, lắp ráp cơ khí… phát triển rất mạnh. Đến năm 1968, miền Nam đã có 85 hãng dược, sản xuất 2.203 dược phẩm, chiếm 70% thị phần, với nguyên vật liệu chủ yếu trong nước.
Năm 1950, hệ thống giao thông miền Nam gần như chẳng có gì. Sài Gòn và các vùng ven đô vẫn còn nhiều con đường bụi đất mịt mù với những chiếc thổ mộ ngang dọc lọc cọc. Chỉ vài năm sau, xe đò đã có thể chạy bon bon trên đường nhựa về lục tỉnh. Ngày 7-8-1954, hơn một năm trước khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống nền Đệ nhất Cộng hòa, công cuộc tái thiết đường hỏa xa xuyên Việt (Sài Gòn-Đông Hà, 1.223 km) đã hoàn thành, chạy qua các tỉnh dọc bờ biển Trung Phần với các nhánh nối nhiều thành phố lẫn các khu kỹ nghệ (Kỳ Lâm-Nông Sơn; Diên Trì-Qui Nhơn, Tháp Chàm-Đà Lạt; Mường Mán-Phan Thiết…).
Các phương tiện giao thông khác cũng nhanh chóng phát triển. Niêm giám thống kê Việt Nam 1970 cho biết “chiều dài tổng cộng các đường xe là 20.896 cây số”; và theo Bộ Công Chánh, riêng Đô Thành Sài Gòn, có 7.400 xe taxi; 2.440 xích lô máy; 7.500 xích lô đạp; 3.100 xe lam; 464 xe ngựa; 60 xe buýt; và toàn miền Nam có khoảng 1 triệu xe gắn máy đủ loại (dưới 50 cc)… Hệ thống hải cảng và giang cảng phát triển mạnh đặc biệt thời ông Diệm, khi mà các cuộc tấn công của “cộng quân” còn yếu và hạn chế. Trong những năm trước 1963, trung bình hàng năm các giang cảng trên đồng bằng Cửu Long chuyển vận về giang cảng Sài Gòn khoảng 800.000 tấn hàng hóa (lúa gạo, trái cây, than củi, nông thủy sản…).
Trong “Hiện-tình kinh-tế Việt-Nam” (quyển hai; NXB Lửa Thiêng 1972), tác giả Nguyễn Huy (giảng viên Đại học Văn Khoa, Đà Lạt, Vạn Hạnh) cho biết: “Năm 1937, phi trường Tân-Sơn-Nhất chỉ có một đường bay duy nhất bằng đá đỏ, dài 1.500 m chiều Bắc Nam, rồi đến Đệ nhị Thế Chiến mới có thêm đường bay Đông Tây dài 1.300 m… Đến năm 1954, Nha Căn Cứ Hàng Không của chính phủ Việt-Nam phụ trách phần kiến tạo và kiện toàn hệ thống phi trường quốc gia để phục vụ cho hàng không dân sự… Việt-Nam Cộng-Hòa đã kiến tạo được một hệ thống phi trường quá đầy đủ đứng đầu Đông-Nam-Á với tổng số lối 500 phi trường lớn nhỏ; (trong đó có) 8 phi trường quốc tế có đường bay dài trên 2.500 m tiếp nhận được các loại phi cơ DC 28 trở lên” (nđd, trang 72-74). Tân Sơn Nhất trở thành bãi đáp của nhiều hãng hàng không quốc tế, từ Air France, China Airlines (Đài Loan), Pan American World Airways, đến Cathay Pacific Airways… Tháng 10-1951, Công ty Hàng Không Việt Nam được thành lập với 50% vốn Việt Nam và 50% vốn Air France. Phi đội Hàng Không Việt Nam có 22 phi cơ, từ loại nhỏ như Cessna đến loại to như Boeing 727.
Đáng nói nhất của một thời “sáng dội miền Nam” (lấy theo tên một tạp chí nổi tiếng trước 1975) là chính sách giáo dục. Về đầu tư cơ sở giáo dục, năm 1957, Viện Đại học Sài Gòn được thành lập (trước 1954, miền Nam không có đại học; muốn học cử nhân phải ra Hà Nội), với 8 phân khoa (văn khoa, luật khoa, y khoa, dược khoa, nha khoa, khoa học, sư phạm và kiến trúc). Viện Đại học Sài Gòn có hai ký túc xá (đại học xá Minh Mạng cho nam sinh viên và đại học xá Trần Quý Cáp cho nữ). Các vị khoa trưởng không do Bộ giáo dục bổ nhiệm mà được bầu từ các giáo sư hội đồng khoa. Các giáo sư Viện Đại học Sài Gòn đều là những tên tuổi lớn: Cao Văn Chiểu, Trần Quang Đệ, Lê Xuân Khoa, Vũ Văn Mẫu… Ngoài ra còn có Viện Đại học Huế (1957), nơi in bóng linh mục Cao Văn Luận; hoặc Viện Đại học Vạn Hạnh (1965), nơi tập trung những nhà triết học trí tuệ vô song (Thích Minh Châu, Phạm Công Thiện, Trí Hải, Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ…).
Việc “dựng người” được chú trọng từ cấp tiểu học. Trẻ được dạy cách khiêm tốn, trung thực, lễ phép và tôn kính (thậm chí cúi chào một anh học trò học “cao” hơn chỉ một lớp). Chủ trương giáo dục hoàn thiện nhân cách bên cạnh việc dạy chữ có thể thấy rõ ở chính sách giáo dục cộng đồng. Nghị định 2463-GD/PC/NĐ ngày 25-1-1969 của Bộ giáo dục đã yêu cầu “tất cả các trường tiểu học trên toàn quốc” (VNCH), kể từ niên khóa 1969-1970, phải áp dụng chương trình cộng đồng hóa. Trong quyển “Giáo dục cộng đồng” (Bộ giáo dục và Trung tâm học liệu xuất bản 1971), nhóm soạn thảo viết:
“Trường Cộng-đồng vừa giáo-dục học-sinh vừa hướng-dẫn dân-chúng công-cuộc giáo-dục của học-đường chỉ có thể đạt được kết-quả tốt đẹp nếu học-sinh, khi bước chân ra khỏi trường không thấy những điều trái ngược với lời Thầy giảng-dạy. Cho nên việc giáo-dục ở nhà trường phải đi đôi với việc cải-tạo hoàn-cảnh ở bên ngoài… Trường Cộng-đồng hướng-dẫn học-sinh tự tìm tòi, học-hỏi đồng-thời phát-triển tinh-thần học tập-thể và dân-chủ: để tránh lối học từ-chương nhồi sọ, học-sinh trường Cộng-đồng luôn luôn được hướng-dẫn quan-sát địa-phương để tự tìm hiểu những vấn-đề liên-quan đến chủ-điểm giáo-dục” (nđd, trang 25). Ban soạn thảo cũng nhấn mạnh đây là phương pháp giáo dục “đặt trên căn bản 3 nguyên tắc chính: dân tộc, nhân bản và khai phóng”.
Miền Nam trong suốt 1955-1975 chưa bao giờ bình yên. Làng quê lẫn đô thị liên tục xảy ra những vụ “một xe Lambretta ba bánh bị trúng mìn trên hương lộ 10, Long An: 13 hành khách chết, 2 bị thương” (11-3-1965); hoặc “lựu đạn giấu trong ổ bánh mì, nổ tại đường Ngô Quyền, Sài Gòn: 2 quân-nhân Mỹ và 6 người Việt bị thương” (19-3-1965) – như được thuật trong “Việc từng ngày-1965” của Đoàn Thêm. Nhưng khói lửa chiến tranh và những giọt nước mắt “khóc người tiền phương” vẫn không làm mất đi sự tươi đẹp của làng quê, sự lạc quan của dân chúng và sự an bình trong xã hội lẫn gia đình. Điều đó thể hiện trong các sáng tác văn học, thi ca, và âm nhạc. Không chỉ thịnh vượng ở vật chất, con người cũng giàu lòng nhân ái và dạt dào tình yêu quê hương.
“Năm 1960, Đài Loan còn là Formosa, Singapore chưa ra đời, sản xuất chính của Thái Lan chỉ có gạo, những mái nhà ở Đại Hàn toàn màu đỏ vì người dân phơi đầy ớt để làm kim chi” – tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nhắc lại (trong “Khi đồng minh nhảy vào”). Đó là thời điểm mà Mao đang đưa Trung Quốc trở về “thời kỳ đồ đá” bằng kế hoạch “Đại nhảy vọt”. Miền Nam VNCH đã đi trước và tạo khoảng cách rất xa với các nước khu vực. Điều đó cho thấy rằng, việc kiến thiết quốc gia không dễ nhưng không phải quá khó. Kiến thiết quốc gia không dùng sức mạnh của sự tàn phá ngu dốt. Nó dùng năng lượng kết tụ của trí tuệ và sự nhiệt tâm.
Gợi nhớ chút kỷ niệm xưa về hình ảnh của những bồn phun nước Sài Gòn
Mọi người có biết, vị trí của đài phun nước nghệ thuật tại giao lộ Nguyễn Huệ và Lê Lợi ngày nay cũng từng có một đài phun nước nhỏ? Ngày trước, sau khi kênh Kinh Lớn được lấp lại vào trở thành đại lộ Charner, chính quyền đã cho xây dựng một đài phun nước nhỏ tại vị trí vòng xoay Bồn Kèn để tạo mỹ quan.
Trong cuốn “Sài Gòn Năm Xưa” của học giả Vương Hồng Sển đã cho biết – Vốn cái tên ban đầu của bùng binh này là Bồn Kèn, được xây dựng dưới thời Pháp thuộc, nó cũng là vị trí trung tâm thành phố Sài Gòn khi nhìn ghé lên Thương xá TAX – Sau này, được đổi thành bùng binh Cây Liễu bởi vòng xoay lúc nào cũng được phủ kín bởi những cây liễu.
Đến tháng 10/2014, bùng binh cây Liễu bị phá bỏ, bồn nước tại giao lộ Nguyễn Huệ – Lê Lợi cũng bị tháo dỡ để thực hiện cho việc thi công đoạn ngầm của tuyến Metro số 1 (Bến Thành – Suối Tiên).
Hôm nay, Thời Xưa sẽ mang bạn đọc trở về những ngày xưa để ngắm nhìn lại Công trường Lam Sơn với bồn phun nước cùng những sự kiện không thể quên:
Bồn phun nước được xây dựng trên đại lộ Charner, đằng sau là tòa Trụ sở Quốc hội
Đài phun nước được đặt tại vị trí giao của đại lộ Nguyễn Huệ và đường Lê Lợi, phía xa là Tòa Đô Chánh sau này là UBND Thành phố.
Vòng xoay ở Công trường Lam Sơn, vòng xoay giao thông ở Sài Gòn (dưới thời Pháp, chúng muốn xây dựng Sài Gòn trở thành “Paris thu nhỏ” nên mới được gọi là “Paris của Phương Đông”). Hình ảnh của bồn phun nước vào năm 1952
Cuộc biểu tình năm 1955 diễn ra ngay bồn phun nước ở bùng binh đường Bonard – Charner trước kia, bây giờ là Lê Lợi – Nguyễn Huệ (còn gọi là bùng binh Bồn Kèn)
Vào khoảng năm 1920, sau khi kênh Kinh Lớn được lắp lại thành Đại lộ Charner, tại chỗ bồn nước ngay ngã tư này, hồi đó có xây một cái bệ cao hình bát giác.
- Lịch sử bùng binh Bồn Kèn: (bùng binh Cây Liễu) – Hình ảnh thân thuộc gắn bó với người Sài Gòn
Bùng binh Bồn Kèn, hay sau này còn gọi là bùng binh Cây Liễu, nằm chính giữa 2 con đường trung tâm sầm uất ở Sài Gòn, mang tên 2 vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ – Lê Lợi. Đây có thể là một trong những bùng binh đầu tiên của Sài Gòn kể từ khi người Pháp chiếm được Gia Định và xây dựng Sài Gòn thành một thành phố từng được ví như Paris ở phương Đông.
Theo học giả Vương Hồng Sển, bùng binh Bồn Kèn cũng từng được gọi là một cái “bồn binh”, cách đây tròn 100 năm là một bậc hình bát giác, các lính Pháp thường đến đây thổi kèn trỗi nhạc Tây cho người dân thưởng thức, nên được gọi là Bồn binh Bồn Kèn, sau thành “Bùng binh Bồn Kèn”. Trong hình Sài Gòn thập niên 1920 sau đây, ta có thể nhìn thấy cái vòng tròn hình bát giác đó:
Nhiều ý kiến cho rằng Bùng binh xuất phát từ chữ Bồn binh ở chỗ này. Tuy nhiên chữ “bùng binh” không phải là lần đầu xuất hiện từ thời đó, mà đã được người Nam Bộ sử dụng trước đó rất lâu. Năm 1895, Huỳnh Tịnh Của đã định nghĩa từ “bùng binh” trong Đại Nam Quấc âm tự vị là: “khúc sông rộng phình tròn ra”. Nam Kỳ lục tỉnh xưa kia thông thương theo kiểu “trên bến dưới thuyền”, vì vùng này có đặc điểm địa hình tự nhiên có sông ngòi chằng chịt, và ban đầu “bùng binh” dùng để định nghĩa cái chỗ phình ra của sông. Đến sau này, khi người Pháp xây Sài Gòn thì họ đã lấp phần lớn các kênh rạch nhỏ để làm đường, rồi có thể là từ đó cái chữ “bùng binh” được người ta đem lên cạn để xài. Trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức năm 1970 giải nghĩa lại chữ bùng binh là “khu đất rộng nối các trục đường trong thành phố”: bùng binh Ngã Sáu, bùng binh Ngã Bảy… Như vậy “bùng binh” vốn là một từ chỉ sông nước đã được dùng để gọi tên giao lộ của các con đường trên bộ. Từ xưa đến nay, các vòng tròn ở giữa các ngả đường vẫn được người trong Nam gọi là bùng binh. Tuy nhiên thi thoảng, ngay ở giữa Sài Gòn ngày nay, nhiều người lại dùng vòng xoay, vòng xuyến thay cho bùng binh, ngõ thay cho hẻm… làm mất đi tính đa dạng của ngôn ngữ. Trong loạt bài viết sau đây, Chuyện Xưa xin nói về các bùng binh quen thuộc của Sài Gòn đã có từ thời xưa, bắt đầu bằng cái bùng binh nổi tiếng nhất: Bùng binh Bồn Kèn.
Bồn phun nước Công trường Lam Sơn của những năm thập niên 1960
Xuôi ngược những nẻo đường Sài Gòn xưa: Đại lộ mang tên vị phú hào giàu “thứ hai” của Nam Kỳ
Trong thời kỳ đầu quân Pháp đến chiếm đóng Việt Nam, trong dân gian có câu: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định” để nói về bốn người giàu có nhất Nam Kỳ buổi ấy. Căn cứ theo lời tương truyền ấy thì “nhì Phương” chính là ông Tổng đốc Phương (tên thật là Đỗ Hữu Phương, người gốc Minh Hương) – cũng là một trợ thủ đắc lực của quân Pháp. Trước nhà ông có một con rạch chảy qua, trên bờ của con rạch đó chính là con đường gọi là “Phố xếp” và con rạch đó cũng có tên là rạch “Phố xếp”, nhưng sau này được lấp lại tạo thành một đại lộ, đặt tên là đại lộ Tổng đốc Phương. Nhưng đến ngày 14 tháng 8 năm 1975, ngành chức năng đã đổi lại tên là Châu Văn Liêm.
Nhà ông Tổng đốc Phương trên đường Tổng Đốc Phương, nay là đường Châu Văn Liêm.
Những gánh hàng rong được bày bán trên đường Tổng đốc Phương của những năm thập niên 1920. Ngôi nhà giữa hình nằm tại góc ngã tư Đồng Khánh – Tổng Đốc Phương đến nay vẫn còn.
Bưu điện đầu tiên của Chợ Lớn, sau khi Chợ mới Bình Tây xây xong năm 1930 thì Bưu điện Chợ Lớn dời vào chỗ Chợ cũ còn nơi này được sửa chữa và dùng làm Sở Thuế trực thu (Contributions Directes) và sau đó là trụ sở Ty Thuế vụ quận 6, quận 7 và quận 8 thời trước năm 1975. Còn sau năm 1975 thì vị trí ngày nay là tòa nhà Ngân hàng Sài Gòn Công Thương SAIGONBANK. Ảnh chụp của những năm 1920 – 1929.
Chợ Cá phía trước Chợ Cũ, nằm ngay giữa đường Tổng Đốc Phương (nay là đường Châu Văn Liêm). Đây là hai trong số các ngôi chợ xưa nhất của Chợ Lớn, trước khi có Chợ Bình Tây tức Chợ Mới.
Tòa nhà trong hình chính là Bưu điện đầu tiên của Chợ Lớn, nằm tại góc đường Hồng Bàng – Châu Văn Liêm ngày nay. Chỗ chốt có người canh giữ, vị trí hai cây barie là nhà ga xe lửa Saigon – Mỹ Tho. Con đường có xe ngựa đang đi là đường Thuận Kiều. Ảnh chụp năm 1929.
Đường Tổng Đốc Phương, nay là Châu Văn Liêm, bên trái là năm 1950 – bên phải là năm 1968.
Người dân dạo chơi trên trục đường chính của Chợ Lớn, nơi ngã tư Đồng Khánh – Tổng Đốc Phương (nay là giao lộ Châu Văn Liêm – Trần Hưng Đạo). Ảnh chụp tháng 3 năm 1950.
Vòng xoay giao lộ Khổng Tử – Tổng Đốc Phương (ngã 5 Chợ Lớn)
Ảnh chụp vòng xoay giao lộ Khổng Tử – Tổng Đốc Phương năm 1950. Nay là vòng xoay Hải Thượng Lãn Ông – Châu Văn Liêm, với tượng Phan Đình Phùng phía trước Bưu Điện Quận 5
.
Ngã
tư Đồng Khánh – Tổng Đốc Phương của năm 1965. Ở mép bên phải ảnh là một chút
của mặt tiền rạp ciné CASINO Chợ Lớn.
Đường
Tổng Đốc Phương của những năm thập niên 1960
Ngã
tư Đồng Khánh – Tổng Đốc Phương
Ngã
tư Đồng Khánh – Tổng Đốc Phương năm 1961
Rạp hát ĐẠI QUANG đường Tổng Đốc Phương (nay
là Châu văn Liêm) năm 1961
Rạp
hát CASINO tại ngã tư Đồng Khánh – Tổng Đốc Phương năm 1961. Xe đạp lớn đang từ
Đồng Khánh rẽ vào Tổng Đốc Phương, các xe khác đang đi theo chiều của đường
Đồng Khánh.
Bản
đồ CHOLON 1966 có ghi chú thêm tên các cây cầu. Cầu Bình Tây nằm tại chỗ vòng
tròn màu vàng. Hình vuông đỏ có số 183 là Chợ mới Bình Tây do ông Quách Đàm bỏ
tiền xây dựng. Ô vuông lớn trên bản đồ có cạnh là 1 km, mỗi vạch trên cạnh ô
vuông tương ứng 100 m trên thực địa.
Phía trước là vòng xoay ngã năm Khổng Tử với
tượng đài Phan Đình Phùng ghi nhận năm 1966 – 1967. Đằng sau đó chính là Bưu
điện Chợ Lớn
Góc
Hồng Bàng – Châu văn Liêm bị ngập nước trong đợt mưa năm 1967
Rạp hát & Khách sạn Thủ Đô trên đường
Tổng Đốc Phương năm 1967
Chợ
Lớn năm 1967
Xa
phía trước là ngã tư Nguyễn Trãi – Tổng Đốc Phương. Rạp Đại Quang nằm trong dãy
nhà bên trái. Rạp Lê Ngọc nằm cạnh ngã tư này, nhìn thấy trong bóng tối phía
sau cây cổ thụ phía bên phải.
Chiếc
xe tăng di chuyển trực tiếp trên đường lớn, bên phải là rạp Đại Quang
Rạp
Đại Quang ở số 63 – 65 đường Tổng đốc Phương. Năm 1967, rạp chiếu phim đang
giới thiệu bộ “Thù nhà em phải trả”.
Một
đoạn đường Tổng Đốc Phương được ghi lại năm 1968-1974, nay là đường Châu Văn
Liêm
Đường
Tổng Đốc Phương năm 1968
Một
góc chụp khác năm 1974. Dòng xe hướng về Bưu Điện Quận 5
Canberra
Hotel (Thanh Tuong Hotel) trên đường Tổng Đốc Phương, nơi tạm trú dành cho quân
nhân Úc. Ngày nay là Khách sạn Trường Thành.
Giao
lộ Hồng Bàng – Tổng Đốc Phương
Một
chiếc xe tang đang dừng ở góc đường Hồng Bàng-Tổng Đốc Phương
Không
ảnh một phần Khu vực Quận 5, Chợ Lớn năm 1968. Góc trên bên phải là Nhà thờ Cha
Tam, nằm trên đường Học Lạc và ngay cuối đường Đồng Khánh.
Quân
đội Nam Việt Nam trên đường phố Sài Gòn trong Chiến tranh Việt Nam ngày 10
tháng 5 năm 1968
Hình
trắng đen thì chụp cận cãnh rạp Đại Quang đường Tổng Đốc Phương và đặt máy nằm
ngang nên thấy cãnh vật theo chiều ngang nhiều hơn (như tấm pa-nô quãng cáo
phim),thấy được chiếc ghế bố xếp đặt sau nòng pháo của xe tăng.
Hình
màu chụp cùng chỗ với hình trên
Những
hình ảnh góp nhặt của ngã tư Đồng Khánh-Tổng Đốc Phương năm 1968
Một
trong những cửa hàng nằm ngày góc ngã tư
Tượng
Phan Đình Phùng phía trước Bưu Điện Chợ Lớn năm 1970 và những tòa nhà trên
đường Khổng Tử (góc Tổng Đốc Phương-Khổng Tử)
Đường
Tổng đốc Phương năm 1970
Bên phải là rạp hát và khách sạn Thủ Đô, góc
ngã tư Tổng Đốc Phương – Lão Tử
Mảng tường cao phía bên trái là mặt sau của
Khách sạn Phương Hoàng nằm ngay góc ngã tư Đồng Khánh và đường Tổng đốc Phương.
Ngã
tư Đồng Khánh – Tổng Đốc Phương năm 1973, nay là ngã tư Trần Hưng Đạo B – Châu
Văn Liêm
Trong phiên họp thường lệ của Hội đồng đô
thành sáng ngày 18-2-1974, các nghị viên đã nhất trí cao khi Hoàng Sa và Trường
Sa được dùng để thay tên hai con đường trong Chợ Lớn. Đại lộ Tổng Đốc Phương
được đổi tên là Hoàng Sa và đường Thuận Kiều được đổi tên là Trường Sa.
Ngã tư Tổng Đốc Phương – Đồng Khánh
Xe điện đang chạy trên đường Châu văn Liêm
(đường Tổng đốc Phương ngày xưa) và sắp quẹo phải ra đường Trần Hưng Đạo.
Góc chụp từ khách sạn Trường Thành(Châu văn
Liêm Q5) về hướng Thuận Kiều. Chính giữa là tượng đài Chiến sĩ Vô danh. Bên góc
trái là khu vực ga xe lửa Mỹ Tho ngày xưa và Thủy cục Chợ Lớn với những bồn
thủy áp. Bên phải có tòa nhà cổ lúc đó là ty Thuế vụ Quận 6. 7,8
Một con phố nhỏ nằm ở góc ngã tư Đồng Khánh –
Tổng đốc Phương.
Ngay vị trí con phố này, ngày nay có tiệm mắt
kính THẾ GIỚI và nhà hàng Ái Huê
Góc
phố Đồng Khánh-Tổng Đốc Phương
Ngã
tư Hồng Bàng-Tổng Đốc Phương (nay là Hùng Vương – Châu Văn Liêm). Đi về bên
phải là đến Bưu điện Chợ Lớn. Đường bên trái là Thuận Kiều, góc dưới trái là
khu ga xe lửa Saigon-Mỹ Tho ngày xưa
Đường
Tổng đốc Phương
Ngã
tư Đồng Khánh-Tổng Đốc Phương, nay là ngã tư Trần Hưng Đạo B-Châu Văn Liêm
Ngã tư Đồng Khánh – Tổng Đốc Phương ngày nay (Trần Hưng Đạo B và Châu văn Liêm)
LY KỲ ba vụ án chấn động Saigon xưa – Kỳ 1: Vụ án ʙắт cóc con trai nghệ sĩ Kim Cương.
Những ngày sau giải phóng, Sài Gòn có rất nhiều вăиɢ инóм sử dụng νũ кнí иɢυу нιểм gây ra hàng loạt vụ cướᴘ của ɢιếт người, ʙắт çóç тốиɢ тιềи gây hoang mang dư luận. Mở đầu là vụ ʙắт çóç con nghệ sĩ Kim Cương vào cuối tháng 6-1977.
Nghệ sĩ Kim Cương có tên họ đầy đủ là Nguyễn Thị Kim Cương, sinh ngày 25 tháng 1 năm 1937, quê gốc Sài Gòn. Bà là con gái đầu lòng của nghệ sĩ Bảy Nam và ông bầu Cương, chủ gánh hát Đại Phước Cương tiếng tăm, quy tụ nhiều đào hát tên tuổi thời bấy giờ.
Cái tên “Kim Cương” xuất phát từ câu chuyện mẹ bà trong một bữa tiệc đã ăn đúng con hàu ngậm viên ngọc trai trắng sáng trong bụng, và ông bầu Cương đã quyết định đặt như vậy nếu đứa bé sinh ra là con gái.
Ngày 26-6-1977, rời nhà hát sau ca diễn, nghệ sĩ Kim Cương không biết bị Nguyễn Thanh Tân, đối tượng cầm đầu một băng cướᴘ иɢυу нιểм nhất Sài Gòn lúc bấy giờ bám theo về căn nhà trên đường Hoàng Diệu (quận Phú Nhuận). Sau đó, bọn cướᴘ tìm ra được nơi gửi bé Trần Trọng Gia Vinh (hay còn gọi là TaRo, 5 tuổi, con trai nghệ sĩ Kim Cương) là nhà trẻ Vườn Hồng (đường Trương Công Định, quận 3).
Nguyễn Thanh Tân móc ѕúиɢ υу нιếρ hai cô giáo
để ʙắт çóç bé Taro
Đồng bọn của Tân ôm bé TaRo ra ngoài
Ngày 26-11-1977, Tân
cùng đàn em đem theo ѕúиɢ xông vào nhà trẻ khống chế đưa bé TaRo lên xe 67 tẩu
thoát. Sau đó, bọn chúng tự xưng là người của tổ chức Hải Phong, yêu cầu nghệ
sĩ Kim Cương giao 100 lượng vàng để cнuộc coɴ trai. Tân giấu thư vào cây
cột điện trên đường và ghế đá tại một vườn hoa rồi báo cho gia đình nghệ sĩ Kim
Cương đến lấy để liên lạc.
Nhận được tin báo,
Đại úy Võ Tấn Thành (hay còn gọi là Hai Thành) – Đội trưởng “Săn Bắt cướᴘ” đã
báo cáo lãnh đạo. Trong cuộc họp ngày 27-11-1977, lãnh đạo công an yêu cầu bằng
mọi giá phải đưa bé TaRo về nhà an toàn. Đội SBC do ông Thành làm chỉ huy đã tung
nhiều trinh ѕáт tinh nhuệ lần theo mọi đầu mối nhưng suốt 2 ngày không phát
hiện ra dấu vết nào.
Trong cuộc gọi tiếp
theo, Tân đã hạ tiền cнuộc xuống còn 20 lượng vàng và được gia đình nghệ sĩ Kim
Cương chấp nhận. Sau đó, Tân yêu cầu nghệ sĩ Kim Cương lái xe qua Cát Lái sẽ
thấy mật thư ở cây cột điện thứ 4, vợ chồng nghệ sĩ Kim Cương được hướng dẫn lái
xe đi Thủ Đức, về Bình Triệu rồi về lại quận 1 nhằm cắt đuôi nếu có cảnh ѕáт
theo dõi. Đến ngã ba Trương Minh Ký – Trương Định, hai đàn em của Tân thấy
không ai theo dõi nên bám theo ôtô của nghệ sĩ Kim Cương.
Nguyễn Thanh Tân cùng đồng bọn áp ѕáт xe của
vợ chồng nghệ sĩ Kim Cương lấy vàng
Nguyễn Thanh Tân cùng đồng bọn áp ѕáт xe của
vợ chồng nghệ sĩ Kim Cương lấy vàng
Chúng áp ѕáт giao
chiếc áo bé TaRo làm tin để nhận vàng nhưng không thả bé trai mà rú ga phóng
mất dạng. Các trinh ѕáт không dám đeo bám vì lo ngại sự an nguy của bé trai nếu
băng ʙắт çóç phát hiện sự việc.
Vài ngày sau, nghệ sĩ
Kim Cương nhận điện thoại của nhóm Tân kêu vợ chồng bà đến Bưu điện thành phố
trước nhà thờ Đức Bà để đón con. Sau đó Tân và đàn em dắt bé TaRo đến gần điểm
hẹn để giao lại cháu bé. Nhiều trinh ѕáт mật phục, giăng bẫy bắt nhóm này nhưng
khi đến nơi họ chỉ thấy bé TaRo đứng khóc trước Bưu điện thành phố.
Bọn ʙắт çóç bỏ TaRo tại khu vực Bưu điện
thành phố
Trở về nhà, bé TaRo kể lại khi bị ʙắт çóç được ở tại một ngôi nhà có nhiều rơm, rạ. Trước cửa nhà có một ống khói to và trong bữa ăn có một bà già và nhiều cậu bạn với các tên gọi như “Bé Sáu”, “Đức Mập”, Cậu Tư, Chú Sáu…
Tuy nhiên, thông tin về các cuộc trao đổi giữa gia đình nghệ sĩ Kim Cương với nhóm cướᴘ đều được phía gia đình вị нạι giấu kín, nhóm тộι ρнạм lại rất tinh vi khi dùng ám hiệu, mật mã sơ đồ như hoạt động тìин вáσ, dùng điện thoại tự động giấu số… nên quá trình điều tra của đội тʀọɴԍ áɴ gặp bế tắc. Giữa lúc đó, vụ тʀọɴԍ áɴ ѕáт нạι vợ chồng nghệ sĩ Thanh Nga иổ ra, gây chấn động giới nghệ sĩ và dư luận. Tất cả lực lượng tinh nhuệ nhất đã được huy động vào cuộc cнιếɴ đấu mới, đầy cam go.
Những câu chuyện bí ẩn đằng sau tên gọi Ngã Tư Hàng Sanh – Nút thắt giao thông quan trọng của Sài Gòn trước năm 1975
Ngã Tư Hàng Xanh ngày nay hay trước đây gọi là Ngã Ba Hàng Sanh trước đây, sau này do nhiều nhầm lẫn giữa cách phát âm “sanh” và “xanh” nên không hiểu tư khi nào tên gọi Ngã Tư Hàng Sanh bị chuyển thành Ngã Tư Hàng Xanh và được coi là cái tên chính thức thay thế cái tên cũ.
Trước những năm 1945 khu vực này trồng nhiều cây sanh loại cây lớn cùng họ với cây si cây đa. Trên tuyến đường Bạch Đằng cây sanh được trồng dọc hai bên đường nên ngày xưa đường được gọi là đường Hàng Sanh còn Ngã Tư Hàng Sanh cũng bắt nguồn từ đó.
Đến khoảng những năm
thập niên 40 thì hàng cây Sanh ven đường vẫn còn tồn tại. Cho đến năm 1960 Bản
Đồ Đô Thành Sài Gòn cũng ghi đoạn đường Bạch Đằng ngày nay tên là đường Hàng
Sanh nên sự sai lệch từ “Hàng Sanh” sang “Hàng Xanh” là có căn cứ và được rất
nhiều người dân Saigon gốc lâu năm ở đây khẳng định.
Ngã Ba Hàng Sanh thời
chưa có Xa Lộ Biên Hòa
Trước những năm 1960
thì nút giao này mới có 3 ngã nên được gọi là Ngã Ba Hàng Xanh. Cho đến đầu năm
1960 cầu Tân Cảng (nay là Cầu Sài Gòn) được xây dựng và tuyến đường Xa Lộ Biên
Hòa (nay là Xa Lộ Hà Nội) kết nối với ngã tư thì nút giao này mới có tên là Ngã
Tư Hàng Sanh.
Bảng chỉ dẫn tên đường ở Ngã 4 Hàng Xanh.
Quẹo trái về tỉnh Gia Định, Bà Chiểu .Đi thẳng là qua cầu Tân Cảng để đi Biên
Hòa, quẹo phải về trung tâm Sài Gòn
Thời Đệ Nhứt Cộng
Hòa, ít người biết đây là một trong những nút giao đồng mức thuộc hàng hiện đại
nhất Châu Á ngày ấy với hệ thống đè tín hiệu giao thông, phân luồng cùng giải
phân cách hiện đại. Hệ thống cáp ngầm và dây điện được đi ngầm dưới lòng đất khiến
bao người ngày nay phải trầm trồ thán phúc.
Nhờ Thơ Kiên Giang –
Hả Huy khi đang theo học ở Sài Gòn những năm 1943 ông ở trọ ngay tại Hàng Sanh
và có sáng bài thơ tên là “Nhạc Xe Bò” có đoạn:
Đêm xưa trăng
mới đứng đầu
Đoàn xe bò đã
qua cầu Hàng Sanh
Nhạc xe bò
rộn âm thanh
Khô khan mà
thảm, mong manh mà sầu
Bánh xe lốc
cốc
Lên dốc đầu
cầu
Trích lời bài thơ
Một số hình ảnh khác
ở khu vực Hàng Xanh – Hàng Sanh trước năm 1975
Bốt
cảnh sát giao thông trên Ngã Tư Hàng Sanh
Hệ
thống đèn tín hiệu hiện đại bậc nhất thời đó.
Những
chiếc Taxi vàng quen thuộc
Chùa Phước Viên ngay
khu vực Ngã Tư Hàng Sanh
Ngôi
chùa hiện nay vẫn tồn tại qua nhiều lần đại tu sửa
Một
bảng chỉ dẫn đường ngay Ngã Tư
Các
phương tiện tham gia giao thông dừng đèn đỏ
Những
thiếu nữ áo trắng đi học và chiếc xe Lam quen thuộc
2
anh lính VNCH đang tản bộ trên Ngã Tư Hàng Sanh
Gánh
hàng rong tranh thủ qua đường lúc đèn đỏ
Đầy
đủ các phương tiện giao thông từ xích lô, xe máy xe lam .v.v.
Xe Lam
“Vespa” nhé
Nút
giao được coi là hiện đại bậc nhất Châu Á
Một
góc chụp khác nhìn về Chùa Phước Viên
Rộng
rãi, hiện đại và sạch sẽ là quang cảnh ngày đó
Chùa
Phước Viên một góc chụp toàn cảnh
Một
góc chụp nữa của Chùa Phước Viên
Những anh
lính Mỹ dừng đèn đỏ
Nguồn:
NhacXua.vn
Huyền thoại tỷ phú của Sài Gòn xưa – Đại gia Nguyễn Văn Hào một thời và hoàn cảnh nghèo khó của con cháu ông hiện nay
Sài Gòn xưa phải nói là thành phố tiềm năng kinh tế cho những ai dám nghĩ và dám làm giàu, nếu không phải thế thì làm sao mà trong thời kì Pháp thuộc trước những năm 1975 có nhiều người giàu có trở thành đại phú hộ, tiền bạc trong nhà nhiều không đếm xuể. Trong giới nhà giàu ở Sài Gòn xưa thì cũng phải kể đến ông Nguyễn Văn Hảo, một trong những thương gia giàu có nhất Sài Gòn xưa, ông đã bỏ tiền ra xây một số công trình như nhà hát Nguyễn Văn Hảo và chùa ông Hảo, thậm chí căn biệt thự của ông trên đường Trần Hưng Đạo vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Giàu có là thế, những tưởng gia tài của ông sẽ được truyền lại cho con và họ sẽ có một cuộc sống giàu sang. Thế nhưng vì biến đổi của thời cuộc, cuộc sống của con ông thay vì giàu sang lại trở nên túng thiếu, nghèo nàn. Bài viết này sẽ giúp bạn biết rõ hơn về cuộc đời giàu sang của ông Nguyễn Văn Hảo và cuộc sống nghèo túng của con ông.
Hiện nay trên con đường Trần Hưng Đạo có một căn nhà với lối kiến trúc Pháp với vị trí khá đẹp là 4 mặt tiền đường. Khi nhìn vào căn nhà ta sẽ thấy khắc chữ NG V.HAO, vì không biết căn nhà đó tên chính xác là gì, lại thấy bên ngoài tường nhà khắc chữ đó nên mọi người gọi đây là tòa nhà Nguyễn Văn Hảo. Tại sao chỉ với chữ viết tắt đó mà người ta có thể gọi đích danh tên một người như vậy? Bởi vì căn nhà này từng là nhà của thương gia nổi tiếng khắp Nam Kỳ từ thời Pháp cho đến năm 1975 – Thương gia Nguyễn Văn Hảo. Ngoài ra, trên con đường Trần Hưng Đạo ngày nay có một rạp hát lớn ghi là rạp Công Nhân thì chủ nhân của rạp hát đó một thời cũng chính là ông Nguyễn Văn Hảo. Đó là rạp hát lớn ở những năm 1975, được người ta ưu ái gọi với cái tên “hàng không mẫu hạm”, ý nói sức chứa của rạp rất lớn, có thể lên đến hàng ngàn người. Thời đó, rạp hát này chính là thánh đường của cải lương, người dân Sài Gòn xưa mỗi lần muốn nghe cải lương đều sẽ đổ xô đến rạp này để nghe hát. “Hàng không mẫu hạm” này vẫn còn được tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất cày cấy và cơ hội bén duyên với kinh doanh
Ông Nguyễn Văn Hảo sinh năm 1890 ở ấp Long Thuận, xã Nhị Long, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh. Ông xuất thân trong một gia đình nhiều đời làm nông. Cha của ông Hảo ngày đó có 3 người vợ, ông Hảo là người con thứ 3 của người vợ thứ 3. Những tưởng cậu bé Hảo sẽ chỉ quanh quẩn nơi đồng ruộng, thế nhưng một cơ duyên đến với cậu và điều đó giúp thay đổi cuộc đời của cậu. Chắc có lẽ ngay cả cậu cũng không hề biết điều đó.
Chuyện là cậu có một người anh trai cùng cha khác mẹ mở một cửa tiệm chuyên buôn bán phụ tùng xe hơi ở đường Nguyễn An Ninh, quận 1, tên người anh đó là Nguyễn Văn Kiệu. Công việc làm ăn của tiệm khá phát đạt, anh làm không xuể nên cần tìm người phụ, chợt nhớ ra mình có một người em dưới quê, nom người em trai cũng thông minh, lanh lợi lại thật thà nên anh đã xin cha cho em trai lên phụ trông coi cửa tiệm, phụ mình buôn bán phụ tùng xe hơi.
Việc đầu tiên mà anh trai giao cho cậu em Hảo đó là buôn bán. Người ta có câu “Cần cù bù thông minh”. Đằng này ông Hảo vừa thông minh lại vừa cần cù nên ông rất chăm chỉ học hỏi, dù ở dưới quê không được học hành tới nơi tới chốn, nhưng cứ hễ ai giỏi là ông đều xin đi theo để học. Chẳng mấy chốc mà trong thời gian ngắn, ông từ một cậu thanh niên học nghề trở thành người thợ chính tại tiệm của anh trai.
Để thợ trong tiệm không qua mặt được mình, ông Hảo bắt buộc phải rành rẽ kỹ thuật. Ngoài ra, với quyết tâm sẽ có một ngày mở tiệm kinh doanh riêng nên ông Hảo ngoài việc giúp anh mình trông coi tiệm, ông còn âm thầm học thêm cách kinh doanh, các mối lái cung cấp phụ tùng xe,… Sau này khi công việc ở tiệm anh trai mình ổn định, ông đón vợ lên Sài Gòn. Đến năm 1929, hai vợ chồng có với nhau 1 đứa con trai đặt tên là Nguyễn Tâm Thạnh. Được một thời gian sau, khi đã tích lũy đủ kinh nghiệm và vốn liếng, ông xin phép anh trai cho mình ra ở và lập nghiệp riêng. Sau khi anh trai đồng ý, ông đã thuê căn nhà ở số 21 – 23 đường Galliéni (Sau này đổi tên là đường Trần Hưng Đạo) của chú Hỏa (một trong 4 tứ phú hộ giàu nhất Sài Gòn xưa) để làm cửa tiệm buôn bán. Ngoài việc buôn bán phụ tùng xe hơi, ở trước tiệm ông Hảo còn cho mở một cây xăng bơm tay để bán xăng, dầu kiếm thêm. Chẳng biết có phải do may mắn hay do tầm nhìn của ông Hảo quá giỏi mà sự kết hợp giữa sửa chữa phụ tùng xe hơi và cây xăng bơm tay lại giúp kinh tế ông phát triển đến thế. Chắc có lẽ cũng một phần do số lượng cây xăng ở Sài Gòn thời điểm đó hiếm hoi nên mỗi lần ai đó đến sửa chữa, thay thế phụ tùng xe hơi đều sẽ mang xe ra đổ xăng, thay nhớt trực tiếp ở cửa tiệm của ông cho tiện, khỏi phải đi đâu xa. Người xưa có câu “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, câu nói này chắc là dùng để nói về ông Hảo. Những năm 1930 lúc đường bộ, giao thông vận tải thời đó vô cùng phát triển, nhất là ở các tỉnh miền Nam, miền Tây khi mà phong trào thành lập xe đò để chở khách đi lại giữa các tính trở nên phổ biến, vậy nên ngành nghề buôn bán, sửa chữa phụ tùng xe hơi cũng như đổ xăng dầu thời đó làm không hết việc, càng tạo thêm cơ hội làm ăn cho ông Hảo.
Tiệm của ông nằm trên đường Galliéni gần chợ Bến Thành nên khi nhập hàng và bán ra, ông Hảo bán giá rất phải chăng, điều đó khiến cửa tiệm ông ngày càng đông khách. Mặc dù thời đó cửa hàng bán phụ tùng xe hơi cũng đã có nhưng chỉ có cửa hàng của ông là giá cả cũng như mặt bằng tốt nên tiệm của ông cạnh tranh với cả người Pháp là việc chẳng đặng đừng.
Cửa tiệm của ông Hảo cạnh tranh với người Pháp
Với các cửa tiệm của người Pháp thì đa số quản lý và nhân viên của tiệm thường nói tiếng Pháp. Trong khi tài xế của Việt Nam thì lại nói tiếng Việt, ít người biết tiếng Pháp. Vậy nên họ chọn đến cửa tiệm của ông Hảo cho lành, vừa nhanh vừa tiện, chủ tiệm lại niềm nở với khách nên mọi người lại càng thích lại tiệm ông Hảo mua hàng.
Công việc kinh doanh buôn bán của ông Hảo ngày càng phát đạt cũng một phần nhờ công của vợ ông. Là người phụ nữ chịu khó, lại có duyên buôn bán nên hầu như sau khi công việc kinh doanh của tiệm ổn định, ông Hảo yên tâm giao tiệm cho vợ trông nom, còn mình thì lo phần giao dịch mua bán phụ tùng với người Pháp. Có hôm vào lúc 2, 3 giờ sáng, có người gọi cửa hỏi mua đồ, vợ ông Hảo cũng vui vẻ bán cho họ dù món đồ ấy lời chẳng bao nhiêu. Ngoài ra, lối kinh doanh của bà Hảo cũng thu hút nhiều khách hàng, nhất là các anh tài xế. Bà thường hay áp dụng hình thức “khuyến mãi” khi mà khách tới mua hàng, nếu biết họ là tài xế thì bà sẽ bán giá phải chăng, đồng thời còn cho thêm vài đồng coi như lộ phí đi đường, cà phê cà pháo. Bởi vì cách kinh doanh đặc biệt đó, lại đánh đúng đối tượng nên các tài xế xe thích lắm, truyền tai nhau đến cửa hàng bà để thay phụ tùng xe khi cần. Nhờ cách làm ăn chân chính, bình dị gần gũi ấy mà cửa tiệm của ông bà Hảo ngày càng có nhiều khách hàng, công việc mua bán làm ăn thuận lợi, tiền kiếm được nhiều đếm không hết. Sau đó, thấy công việc này có vẻ ổn, ông Hảo bèn bàn bạc với người bà con dưới Trà Vinh để mở thêm chi nhánh ở dưới quê.
Đến năm 1933, ông Hảo mua được mảnh đất khá đẹp ở đường Galliéni, ông xây nhà ở đây và tiếp tục làm ăn. Còn căn nhà ông thuê ở số 21 – 23 đường Galliéni thì trả lại cho chú Hỏa. Về chỗ ở mới, ông vẫn tiếp tục công việc kinh doanh phụ tùng xe hơi và mở cây xăng dầu. Cho đến năm 1940, khi mà công việc kinh doanh của ông đã phát triển mạnh mẽ, ông chuyển sang nhập xe hơi nguyên chiếc để bán ở Sài Gòn cho người có nhu cầu. Thương hiệu xe hơi ông Hảo nhập về có cả Fiat, Lancia, Nash,… Ông Hảo cho bày xe ra cửa hàng để bán, nom như những showroom sang trọng ngày nay. Ông nhập xe hơi về với số lượng ít, tầm 2 – 3 chiếc Nash, sau này nhập thêm cả Fiat và Lancia. Về giá xe, một xe hơi ông thường bán với giá khoảng 2000 đồng bạc Đông Dương. Chưa dừng lại ở đó, ngoài việc buôn bán xe hơi, ông còn mở thêm garage để sửa xe hơi của tiệm ông bán và cả xe hơi của các tiệm khác, cứ hễ ai muốn sửa xe thì ông đều nhận, không phân biệt xe của tiệm nào. Nhờ thế mà ông cạnh tranh với cả những xe hơi của người Tây thời đó như garage Charner bán xe Peugeot, garage Hall bán xe Citroen hay garage Scama bán xe Ford.
Trong suốt con đường kinh doanh của mình, có lúc ông Hảo cũng gặp những vị khách lạ lùng, trong đó có cả vị khách tiếp theo đây. Vốn là người xuất thân nghèo khó nên ông Hảo không bao giờ phân biệt giàu nghèo, đối xử với khách hàng bình đẳng như nhau. Vào một buổi sáng nọ, tiệm ông vẫn mở cửa như mọi ngày thì thấy có một vị khách ăn mặc quê mùa, bận áo dài khăn đóng theo cách ăn mặc cũ tới hỏi mua xe hỏi. Lúc đầu nhân viên không định tiếp khách, nghĩ rằng ăn bận như thế thì chắc là người nghèo không có tiền mua xe hơi, có khi còn định ăn trộm không biết chừng! Nhưng lúc đó thấy ông Hảo đang ngồi gần đó vừa tính sổ sách vừa quan sát nên nhân viên không dám đuổi khách, đành đứng tiếp vị khách “áo dài khăn đóng” này. Sau một hồi đi vòng quanh để xem xe thì vị khách này muốn nhân viên đề máy cho mình xem, thấy ưng bụng nhưng ông ấy hỏi cộc lốc: “Bao nhiêu tiền?”, “Gần 3000 đồng bạc”, anh nhân viên trả lời dè dặt. Nghe xong, vị khách mở cửa xe rồi ngồi lên ghế nhún mấy cái rồi thủng thẳng nói: “Hình như nhíp hơi kêu. Anh cho thêm miếng dầu vô nhíp đi”. Dừng câu, vị khách đứng dậy, rốp rẻng kêu tính tiền.
Sau khi mua bán xong chiếc xe đó, ông Hảo còn vui vẻ cho nhân viên đem chiếc xe ra cây xăng đổ miễn phí cho vị khách này một thùng xăng đầy. Thế nhưng người khách đó chậm rãi lắc đầu, bảo chỉ cần cho xin 5 lít đủ chạy thôi. Ông Hảo lúc này hỏi lý do tại sao thì vị khác đó đó mới kể lại câu chuyện. Đó là lúc đầu, ông ấy thích chiếc Ford (xe hơi của Mỹ) được bày ở garage Scama người Pháp bán nên ông ấy đã vô đó hỏi mua. Nhưng mà nhân viên lẫn quản lý bên đó trông thấy bộ dạng ăn mặc kì lạ quê mùa này của ông nên đã không tiếp đãi, đã thế còn đuổi ông đi. Ông tức anh ách trong bụng nên đã đi qua garage của ông Hảo để mua xe. Xong xuôi ông sẽ sai người làm đem chiếc xe này qua garage Scama đã đuổi ông, đứng trước mặt quản lý người Pháp, nói gọn lỏn bằng tiếng Pháp: “Vì mày đuổi tao nên tao phải qua garage ông Nguyễn Văn Hảo mua chiếc này. Bây giờ tao chạy xe qua tiệm mày để mua xăng”. Ông chủ garage người Pháp thấy vậy nên hỏi chuyện, vị khách này mới kể câu chuyện này cho ông chủ người Pháp nghe. Khi nghe xong, ông ấy cho đuổi luôn quản lý người Pháp và cả nhân viên người Việt.
Sau vụ bán xe “đặc biệt” này, ông Hảo lời đến 600 đồng Đông Dương. Vị khách ấy lúc thanh toán tiền và làm thủ tục xong đã rút đằng sau lưng ra cái mo cau gập làm đôi, ông Hảo bất ngờ vì trong cái mo cau tưởng chừng như quê mùa ấy lại là xấp tiền 100 đồng bạc Đông Dương nhiều không kể siết. Một thời gian sau ông Hảo mới biết, vị khách “đặc biệt” kia cũng là một trong số người giàu ở miền Tây thời đó, là bạn khá thân của ông Trần Trinh Trạch. Ông Trạch đó là cha của công tự Bạc Liêu.
“Rạp hát Nguyễn Văn Hảo – Hàng không mẫu hạm” sức chứa cả ngàn người
Ông Hảo ngoài đam mê làm ăn thì ông còn một cái thú vui khác đó là… mê nghe cải lương. Vậy nên sau khi có tiền, ông liền mua đất xây luôn một cái nhà hát mang tên ông. Thời đó, đây là nhà hát có sức chứa lớn ở Sài Gòn, số người lên đến 1200 khách. Theo lời kể của ông Nguyễn Tâm Thạnh (hiện nay đã hơn 80 tuổi) – con trai của ông Nguyễn Văn Hảo cho biết, mặc dù cha của ông là dân kinh doanh nhưng vì là người miền Tây nên ông ấy mê cải lương lắm. Hồi đó, ở đằng trước nhà có một gánh hát bội nhỏ, cứ đến độ cuối tuần rảnh rỗi là ông Hảo lại ghé đây nghe hát. Việc ông Hảo cho xây rạp hát một phần vì ông muốn nghe cải lương, một phần vì ông muốn nghệ thuật cải lương này có đất để phát triển. Vậy nên ông ấy mới xây hẳn một rạp hát riêng như vậy.
Những năm 1940, ông Hảo bắt đầu mua đất và cho xây rạp mang tên Nguyễn Văn Hảo, mặt trước của rạp hướng về đường Galliéni (đường Trần Hưng Đạo bây giờ),mặt sau của rạp hướng về đường Bùi Viện. Theo ghi chép lại, rạp hát có 3 tầng khán phòng, tổng số ghế dành cho khách là 1200 ghế, đó là chưa kể những ghế phụ được đặt ở lối đường đi dành cho những hôm vé chính thức đã bán hết. Ở 3 lầu đó được sắp xếp theo cấp bậc. Lầu 3 cho khán giả thường, trang bị 300 ghế. Ghế được đóng bằng ván dài, xếp từ thấp lên cao như ghế trong rạp xiếc. Lầu 2 dành cho khách hạng nhì và hạng nhất, có 400 ghế da đỏ và có lưng dựa để khách hàng ngồi cho thoải mái. Cuối cùng là tầng trệt bao gồm 500 ghế bọc da đỏ, lầu này dành cho hạng thương gia và hạng nhất. Thời đó, rạp hát Nguyễn Văn Hảo là rạp có sức chứa lớn nhất Sài Gòn bấy giờ nên được mọi người gọi với cái tên là “hàng không mẫu hạm” Nguyễn Văn Hảo.
Trong những năm 1943 đến năm 1954, Sài Gòn có đến 4 rạp hát cải lương gồm có rạp Nguyễn Văn Hảo, rạp Aristo, rạp Thành Xương, rạp Thuận Thành nằm lần lượt ở các đường là Galliéni, Lê Lai, Yersin, Đa Kao. Trong 4 rạp cải lương đó thì rạp Nguyễn Văn Hảo là rạp lớn nhất, ngay cả sân khấu cũng rộng nhất và cả khán giá đến đây xem cũng rất nhiều. Vậy nên các đoàn hát cải lương càng muốn nâng cao kỹ thuật và nghệ thuật để biểu diễn cho người dân xem, qua đó nghệ thuật cải lương cũng sẽ dần phát triển hơn nữa. Lúc bấy giờ, rạp hát là nơi đoàn Việt Kịch Năm Châu về diễn tuồng Tây Thi gái nước Việt với cả đoàn cải lương của ông bầu Thu An – Hương Mùa Thu thực hiện kỹ thuật panorama – Đây là một nghệ thuật sân khấu cải lương còn mới lạ và thú vị với người dân Sài Gòn thời đó. Ngay cả đoàn hát có doanh thu cao nhất trong các đoàn cải lương những năm 1950 thời đó cũng về rạp Nguyễn Văn Hảo để hát, rạp Hoa Sen của ông bầu Bảy Cao khi hát ở rạp này có ý nghĩ nhất định phải diễn tuồng mới, y trang mới, kỹ thuật diễn phải đẹp, tất cả mọi thứ phải tốt nhất và tốt hơn hẳn những đoàn hát trước đó.
Đối diện là rạp Nguyễn Văn Hảo trên đường
Trần Hưng Đạo Xưa
Phía bên phải là rạp hát Nguyễn Văn Hảo
Phía trước rạp Nguyễn Văn Hảo ngày xưa
Tướng Nguyễn Thành Phương phát biểu trước dân
chúng tại rạp Nguyễn Văn Hảo trên đường Trần Hưng Đạo
Đường Trần Hưng Đạo nhìn xuống từ tầng lầu
rạp Nguyễn Văn Hảo
Đường xéo bên trái là Đề Thám, bên phải là
Nguyễn Thái Học và Trần Hưng Đạo
Hình ảnh cho thấy sức chứa cực lớn của “hàng
không mẫu hạm” Nguyễn Văn Hảo\
Cho đến năm 1970, rạp
hát Nguyễn Văn Hảo được ông Hảo cho ông Nguyễn Văn Đối mướn lại để sửa thành
rạp chiếu bóng, tên là ciné Nguyễn Văn Hảo. Các phim được chiếu ở rạp này là
Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Thích ca đắc đạo,… Đến năm 1975, rạp được đổi tên
là rạp Công Nhân.
Cứ tưởng Sài Gòn là
mảnh đất làm ông Hảo trở nên giàu có thì ông sẽ chọn sống ở đây. Thế nhưng
trong khi công việc làm ăn đang phát triển thì ông lại về quê, xây chùa và ở
ẩn. Vào năm 1960, tỷ phú Nguyễn Văn Hảo tròn 70 tuổi, dường như khi vào độ tuổi
xế chiều, con người ta chỉ còn thích những nơi thanh tịnh, yên bình để an dưỡng
tuổi già, cả ông Hảo cũng không ngoại lệ.
“Chùa ông Hảo” hay còn gọi là Hảo Tâm tự là
nơi ông Hảo ăn dưỡng khi vào cuối đời
Sau khi giao lại công
việc làm ăn cho vợ con, ông Hảo về quê Trà Vinh và mua một mảnh đất rộng khoảng
15ha để xây cất chùa, đặt tên là Hảo Tâm tự. Chùa ông Hảo xây theo lối kiến
trúc nửa tây nửa ta, trên mảnh đất rộng 8000m2 và kiến trúc sư Phan Hiếu Kỉnh
chính là người vẽ bản thiết kế cho ngôi chùa ấy. Ngôi chùa này có tháp 9 tầng
và có phù điêu rạp hát Nguyễn Văn Hảo cùng với chiếc du thuyền của ông Hảo. Vì
ông Hảo cho xây ngôi chùa toàn bộ bằng vật liệu của Pháp, mà vật liệu ấy được
vận chuyển từ nơi xa, giao thông không thuận tiện nên việc xây dựng chùa diễn
ra khá lâu, phải mất đến 8 năm trời mới xây xong ngôi chùa Hảo Tâm tự. Xung
quanh ngôi chùa là vườn hoa, cầu cuốn, hồ nước.
Chùa ông Hảo với tháp 9 tầng
Gần ngôi chùa, ông Hảo
còn cho xây thêm một dãy phố lầu và khu chợ để mọi người lui tới làm ăn kiếm
sống. Đến khi chiến sự phức tạp, mọi người phải bỏ cả ruộng đất để lánh nạn,
ông Hảo đã cho mọi người tá túc trong chùa cũng như hỗ trợ cho họ lương thực và
thuốc men. Tiếp đó ông Hảo còn cho bà con mượn đất đai quanh chùa để cày cấy.
Những người lớn tuổi ở huyện Càng Long bây giờ mỗi khi nhắc lại đều thật tâm
cảm ơn ông Hảo vì tấm lòng tốt bụng, thương người của ông.
Sau khi ông mất, ngôi
chùa này được ủy nhiệm lại cho vợ là bà Nguyễn Thị Dài để chăm sóc nhang khói,
đến khi bà Dài mất, ông Thạnh (con trai ông Hảo) sẽ là người kế nhiệm. Tất cả
điều này đều được khắc chúc thư ở đá trắng trong chùa.
Ông Hảo mất năm 1971,
đến năm 1975 chính quyền quản lý ngôi chùa, bà Dài được cho ở trong chùa đến
năm 1979 thì bà cũng đi theo ông Hảo. Chính quyền huyện Càng Long thu lại hết
đất của ngôi chùa này. Hiện nay, quanh ngôi chùa có một mảnh đất là nghĩa trang
gia tộc của ông Hảo và có 6 ngôi mộ được xây giống nhau, đều có quyển sách ở
trên mộ và 4 góc đều có sư tử đá.
Năm 1996, con trai của
ông Thạnh nghe lời cha nên đã về lại vùng đất này và xây một cái chòi ở cạnh kế
bên chùa nhằm chăm lo nhang khói cho tổ tiên. Sau này, chính quyền thâu dụng
khu đất để xây bệnh viện, thư viện và khu vui chơi cho trẻ em.
Đất đai xung quanh chùa ông Hảo hiện tại được
lấy để cất nhà cho người dân
Ông Nguyễn Văn Hảo cả
một đời chỉ có tu chí làm ăn, không hề bê tha hay lơ là công việc hoặc sa đọa
vào những thú vui tiêu khiển. Đến cuối đời ông còn xây chùa và giúp đỡ người
dân. Đây đang là một điều mà tất cả mọi người cần phải noi theo.
Về phần đất đai quanh chùa thì như thế nào?
Theo tài liệu ghi chép
lại, vào những năm 1928, 1932, 1933, ông Nguyễn Văn Hảo có mua 5 thửa đất tại
tỉnh Vĩnh Bình (nay thuộc tỉnh Trà Vinh) với diện tích là 151.602m2, phần đất
đó đều được ông Hảo quản lý. Đến năm 1960, ông Hảo xin cấp giấy phép để xây
chùa Hảo Tâm tự và được chính quyền chấp thuận.
Năm 1966, ông Hảo và bà
Dài làm đơn để hiến chùa và các căn nhà ở gần chợ cho Giáo hội Phật giáo Việt
Nam với điều khoản là khi còn sống, ông bà sẽ được hưởng hoa lợi từ mảnh đất và
ngôi chùa này để lại và sẽ duy trì hoạt động của chùa theo cách mà Giáo hội
Phật giáo vẫn làm. Đến năm 1971, ông Hảo mất, vợ ông là bà Dài vẫn tiếp quản và
lo nhang khói cho ngôi chùa. Nhưng đến năm 1976, vì thiếu người nên Giáo hội
Trà Vinh đã có văn thư trao trả ngôi chùa này lại cho bà ngay sau khi làm xong
thủ tục, vậy là bà Dài vẫn tiếp tục tiếp quản ngôi chùa Hảo Tâm này.
Thế nhưng sau đó Ủy ban
cách mạng huyện Càng Long đã thu nạp tất cả tài sản của ông Hảo, trong đó có
đất đai và cả ngôi chùa Hảo Tâm. Vậy nên ngày 24/9/1976, bà Dài đã viết thư đến
Ủy ban cách mạng huyện Càng Long về việc xin lại ngôi chùa và diện tích lân cận
bởi vì trong khu đất ấy có mồ mả của gia tộc, đồng thời bà cũng xin lại 15 công
rẫy và 48 công ruộng để cày cấy. Nguyện vọng của bà được chấp thuận khi chính
quyền nói sẽ trả lại cho bà 5 phòng và 5 công ruộng cho bà Dài. Mọi chuyện
tưởng như đã ổn thỏa thì đến năm 1979 khi mà bà Dài qua đời, chính quyền một
lần nữa thu lại ngôi chùa và đất đai của gia đình ông Hảo. Lúc này ông Thạnh
lại một lần nữa làm đơn khiếu nại để xin lại đất và ngôi chùa. Cháu nội của ông
Hảo còn cho hay, nhiều hộ dân đã chiếm dụng diện tích đất xung quanh chùa để
xây nhà, thậm chí còn viết giấy tay để bán đất và được cấp sổ đỏ.
Về phần ngôi chùa, mặc
dù bị bỏ hoang nhiều năm nhưng do được xây dựng từ những vật liệu chất lượng
nên từ ngoài nhìn vào vẫn thấy được sự bề thế của nó. Nhưng mà khi đi sâu vô
trong sẽ thấy cỏ mọc um tùm, bức tường của chùa thì nhem nhuốc, gắn đầy bảng quảng
cáo với những nét vẽ nguệch ngoạc. Đến năm 1998, UBND tỉnh Trà Vinh đã lấy một
phần đất của ngôi chùa giao lại cho Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em để xây
dựng khu vui chơi, dãy nhà 16 căn cũng bị phá bỏ. Năm 1999, khu vui chơi cho
trẻ em được xây dựng với kinh phí rất lớn nhưng hoạt động yếu kém, cuối cùng
lại bị bỏ hoang.
Chẳng hiểu tại sao lại
có chuyện này xảy ra khi mà sinh thời, ông Hảo rất được lòng dân, về phần con
của ông – Ông Nguyễn Tâm Thạnh còn được Nhà nước trao tặng huân chương khi hết
lòng ủng hộ kháng chiến. Năm 2004, ông Thạnh còn được Thủ tướng Phan Văn Khải
trao tặng bằng khen. Lúc còn sống, ông Hảo giàu có là thế, vậy mà con của công
lại phải rơi vào hoàn cảnh nghèo túng khi mà không được học hành đến nơi đến
chốn, không có nghề nghiệp, thu nhập cũng không ổn định.
Ông Hảo mặc dù có 2 vợ
nhưng chỉ có duy nhất một người con trai là ông Nguyễn Tâm Thạnh sinh ngày
1/1/1929 tại Càng Long. Đến khoảng 2 – 3 tuổi, ông Thạnh được cha đưa lên Sài
Gòn và cho học ở trường Tây cùng với con của chú Hỏa. Đến khi cậu Thạnh được 6
– 7 tuổi, ông Hảo cho cậu lên Đà Lạt để học tiếp. Tuy nhiên, tính cách của ông
Thạnh không giống với cha, không hợp nghề buôn bán, tính tình ông Thạnh khá
nóng nảy, có hôm còn sửng cồ lên với khách hàng khi mà họ có yêu cầu quá đáng,
ông Thạnh thậm chí còn đuổi luôn cả vị khách đó ra khỏi cửa tiệm.
Bạn bè của ông Thạnh
cũng toàn là người có tiền. Ông Thạnh cũng khá ăn chơi khi mà ông cùng với con
trai chú Hỏa lấy xe hơi chạy lên hướng Đồng Nai với vận tốc 200km/h và bị cảnh
sát tịch thu bằng lái. Đến năm 1960, ông Hảo xây chùa ở Càng Long. Năm 1966, vợ
đầu mất, ông Hảo dừng hẳn việc kinh doanh ở Sài Gòn và về quê sinh sống. Garage
đằng sau nhà với cây xăng trước nhà được ông giao lại cho ông Thạnh quản lý.
Sau nhiều biến cố xảy ra, gia đình con cháu của ông Hảo lâm vào cảnh nghèo khó.
Ông Thạnh cưới vợ và có với nhau 9 người con nên càng rơi vào tình cảnh thiếu
ăn thiếu mặc, ông đành bán tài sản trong nhà để có tiền mua gạo nuôi vợ con.
Con cái ông Thạnh chỉ được học đến lớp 5 – 6 rồi nghỉ giữa chừng. Trưởng thành
thì mỗi người một công việc, đa số đều là lao động chân tay.
Sau năm 1975, ông Thạnh
được sống trong 2 lầu dãy phía trước của căn nhà, ở dưới trệt thì được nhà nước
quản lý và cho thuê. Từ năm 1978 đến năm 1982, chính quyền sẽ trả cho ông Thạnh
mỗi tháng là 62 đồng. Đến năm 2007, ông Thạnh mới nhận được 1 lần 24 triệu
đồng. Mang tiếng là nhà 4 mặt tiền nhưng mà hầu như trong nhà không còn gì giá
trị, bởi lẽ mọi thứ đã bị ông Thạnh đem đi bán mỗi khi túng thiếu.
Căn nhà Nguyễn Văn Hảo 4 mặt tiền cũ kỹ
Vào năm 1933, ông Hảo
mua mảnh đất khá đẹp với 4 mặt tiền đường lần lượt là đường Trần Hưng Đạo – Ký
Con – Yersin – Hồ Văn Ngà ngày nay để xây dựng căn nhà có tổng diện tích 800m2.
Căn biệt thự ấy được xây dựng trong 4 năm từ năm 1933 đến năm 1937 theo lối
kiến trúc của Pháp. Vì thời đó chưa có xi măng nên người ta phải dùng mủ cây
trộn với vôi cát và nước để xây. Hai bên hông của căn biệt thự có khắc chữ
“NG.V.HAO”. Có một hồ bơi nhỏ ở tầng trên cùng của tòa nhà. Cả tòa nhà tuy chỉ
có 2 lầu nhưng được gắn cả thang máy để di chuyển.
Dưới đây là hình ảnh
của căn nhà hiện tại
Hai bên hông nhà được khắc chữ viết tắt của
tên Nguyễn Văn Hảo
Hình ảnh chụp đằng trước và bên hông nhà ông
Nguyễn Văn Hảo
Hình ảnh bên hông nhà của tỷ phú Nguyễn Văn
Hảo
Bên trong căn nhà của ông Nguyễn Văn Hảo với
nội thất cũ kỹ không được tu sửa
Ông Nguyễn Tâm Thạnh – Con trai duy nhất của
ông Hảo
Căn nhà Nguyễn Văn Hảo hiện nay
Bên dưới tòa nhà được dùng để cho thuê mặt
bằng kinh Doanh
Gạch lót nền của căn nhà được mua từ Pháp
Cánh cửa của căn nhà vẫn giữ được nét xưa cũ
Những vật dụng bên trong căn nhà cũng đã cũ
Xưa
Bàn thờ tổ tiên của nhà ông Nguyễn Văn Hảo
Nhìn toàn diện căn nhà từ bên ngoài
Chữ viết tắt của tên chủ nhà được khắc nổi
Hình ảnh sân sinh hoạt chung của tòa nhà
Một góc phía bên trên của tòa nhà hiện nay
Hàng lang đi lên sân thượng
tòa nhà giống như một con tàu, mũi tàu
hướng ra đường Trần Hưng Đạo. Căn nhà nhỏ trong hình là nơi gắn thang máy để
ông Hảo lên sân thượng thưởng trà
Hành lang nối giữa hai tòa nhà
Ông Hảo là người rất mê chim muông và cây
cảnh nên đã thiết kế sân thượng rộng rãi, đặt tên Lầu huê viên N. V. HAO
Ở trên sân thượng của tòa nhà
Hồ bơi trên sân thượng
Bàn đá trên sân thượng là nơi ông Hảo ngồi
thưởng trà
Con trai ông Hảo đang bồi hồi nhớ kể lại câu
chuyện của nhà Ông
Bên dưới căn nhà được cho thuê và ông Thạnh
sống ở trên
Ông Nguyễn Văn Hảo một
đời tu chí làm ăn là thế, giàu có là thế, cho đến khi cuối đời ông vẫn xây chùa
chiền và làm việc thiện giúp đỡ dân lành. Vậy mà cuộc đời của con cháu ông lại
cơ cực và nghèo túng đến vậy. Quả thực cuộc đời của con người không thể nói
trước được điều gì.
Đồng Ông Cộ – Từ vùng đất rộng lớn bây giờ
chỉ còn là những con hẻm nhỏ ngổn ngang
Thuở xưa đất
đai ở Gia Định hẵng còn rậm rạp chưa được khai hoang có xuất hiện một mảnh đất
rộng lớn có tên Đồng Ông Cộ. Mà ở Gia Định xưa, có những nơi rõ ràng chẳng có
tên gọi gì, ấy thế mà qua năm tháng, con người khai hoang rồi gọi một sự vật,
sự việc có liên quan đến địa danh rồi lấy tên đó đặt cho nơi ấy, lâu dần mọi
người nghiễm nhiên xem đó là một tên gọi mà không quan tâm đến nguồn gốc của nó
lắm. Đồng Ông Cộ là một nơi được đặt tên như thế đấy.
Đồng Ông Cộ được đặt tên theo sự vật, sự việc
có liên quan đến địa danh (Ảnh minh họa)
Tương truyền
Gia Định xưa là vùng đất hoang vắng và rộng lớn. Người dân sống rải rác khắp
nơi theo cụm, nhóm và sống trong các căn nhà chòi. Đặc biệt, thời ấy đường sá
chưa được hình thành như bây giờ, mọi thứ còn rất hoang sơ, muốn đi lại từ nơi
này qua nơi khác cũng vô cùng cực khổ. Chẳng hạn như khu đất “Đồng Ông Cộ”, nơi
này nằm gần trung tâm tỉnh Gia Định xưa. Là một khu đất tương đối rộng xuất
phát từ chợ cho tới cầu Hang (Gò Vấp), vòng ra tới tận đường Nguyễn Văn Học (Nơ
Trang Long ngày nay), ăn sâu vô cầu Bình Lợi khoảng đâu đó chục cây số rồi ra
tới tận ngã tư hàng Xanh cho đến ngã năm Bình Hòa. Tuy rộng lớn là thế nhưng
không “đào” đâu ra được một con đường cái để người dân đi lại. Dân quanh vùng
chủ yếu làm đồng áng, bắt đánh cá ở phía sông cầu Bình Lợi, cầu Băng Ky. Những
nơi chưa được khai hoang thì cây cối rậm rạp, um tùm nom như một khu rừng rộng
lớn vậy.
Ngã tư Hàng Xanh năm 1971
Sau này người
Pháp vào Gia Định đánh chiếm rồi thì mở đường quốc lộ Thủ Đức, lúc đó mới có
đường cái để đi. Sau đó người Pháp còn mở rộng khu đất để làm đồn điền cao su.
Như vậy chẳng khác nào từ một khu rừng này lại biến thành một khu rừng khác!?
Kết quả nơi đây không có nhiều đường sá để đi lại, người sống ở khu này thì ít
nên cũng chẳng có mấy cái đường mòn. Thậm chí khi di chuyển từ nơi này đến nơi
kia, người ta phải sử dụng ngựa để đi cho dễ. Nói là dễ chứ dùng ngựa cũng bị
khó khăn trong di chuyển chứ đừng nói là dùng xe bò hay xe trâu để đi lại.
Đường đi từ
nơi này đến các nơi khác phải nói là gập ghềnh khó bước. Đường sá thì lòi lõm,
đất cát, dốc lên dốc xuống. Mỗi khi gia đình nào có công chuyện muốn đi ra tỉnh
(thành Gia Định) hay rước thầy thuốc về nhà xem bệnh thì phải nói là khó trần
ai. Chỉ có thanh niên trai tráng thì mới có đủ sức để vượt qua chặng đường gian
nan ấy.
Khác hẳn với
hiện tại, bây giờ nếu bạn muốn đi từ phía ngoại ô đến trung tâm thành phố thì
cùng lắm chỉ mất khoảng vài giờ là nhiều. Còn vào thời đó, muốn đi từ Đồng Ông
Cộ đến thành Gia Định thì phải mất tầm 2 ngày bao gồm 1 ngày đi và một ngày làm
việc. Tuy nhiên nếu đi như vậy thì người dân lại lo lắng không biết nhà mình
ruộng đất, nhà cửa ai trông nên khi quyết định đi ra thành thì phải sắp xếp mọi
việc xong xuôi thì mới yên tâm được.
Sẽ chẳng có
tên Đồng Ông Cộ nếu như một ngày nọ mọi người không thấy trước cổng nhà ông phú
hộ có treo một tấm bảng lớn với dòng chữ: “Đảm nhận ‘Cộ’ người và hàng hóa đi
khắp nơi”. Tấm bảng được ông treo đằng trước căn nhà ngói 3 gian, 2 chái, 1 dãy
nhà bếp. Đó là nhà ông Ba phú hộ trong vùng.
Ông Ba phú hộ
chuyên “tuyển” những thanh niên trai tráng trong vùng này hoặc các vùng khác.
Miễn là họ có mong muốn làm việc, khi nhận vào làm, họ sẽ được làm nhiều loại
công việc chứ không chỉ là ruộng rẫy không thôi. Để có thể “cộ” người và hàng
hóa khi khắp nơi, ông cho người đan tấm vạc bằng tre, 2 đầu mỗi bên ló ra 2 cái
lóng tre nhìn như cái băng ca của nhà thương mỗi lần muốn khiêng người bệnh.
Sau đó khách sẽ ngồi lên vạc tre, chân để lủng lẳng hai bên. Hàng hóa sẽ được
để trên một tấm ván dày thay vì tấm vạc để không bị chùng xuống. Xong xuôi đâu
đó sẽ có người “cộ” đi.
Khi ai đó có
công việc mà muốn thuê người cộ thì báo với phú hộ và cho ông biết nhà. Sáng
sớm hôm sau ông sẽ cho người đến nhà người đó rồi cộ người hoặc hàng hóa đi. Từ
khi có “dịch vụ” cộ người và hàng hóa đi khắp nơi của ông Ba phú hộ, việc di
chuyển của người dân cũng dễ dàng và đỡ cực nhọc hơn rất nhiều. Dần dà việc này
được người dân gọi rồi quen miệng. Mỗi khi có ai hỏi nơi đến, người ta trả lời:
Ở trong đồng ông Ba “cộ”. Câu này có nghĩa là “Ở trong chỗ đồng có ông Ba phú
hộ “cộ” người và hàng hóa”. Sau này khi khu đất này được khai phá và phát
triển, người ta lấy tên “Đồng Ông Cộ” với ý nhớ ơn ông Ba phú hộ và cảm ơn ông
đã nghĩ ra phương pháp giúp mọi người đi lại dễ dàng hơn và tên gọi đó được sử
dụng làm địa danh cho đến ngày hôm nay.
Đồng Ông Cộ
nay nằm ở đâu?
Tuy Đồng Ông
Cộ xưa kia là khu đất vô cùng rộng lớn. Tuy nhiên thời gian trôi qua, người ta
khai phá đất đai dẫn đến Đồng Ông Cộ bị thu hẹp lại. Ngày nay khi bạn hỏi người
đi đường Đồng Ông Cộ ở đâu, họ sẽ chỉ bạn đi ra ngã ba Đồng Ông Cộ trên đường
Bui Đình Túy. Một vùng đất rộng lớn là thế mà bây giờ chỉ còn nằm ở giữa hai
con đường Chu Văn An và Bùi Đình Túy, chạy ra tới Đinh Bộ Lĩnh là hết.
Sài Gòn đã
thay đổi ít nhiều so với trước kia nhưng ở đâu đó vẫn hằn sâu những kỷ niệm
không thể xóa nhà đối với những ai thích hoài niệm. Đôi khi ngắm nhìn Sài Gòn
ta lại cảm thấy bồi hồi và không thể thoát được cảm giác nhớ nhung trong lòng.
Lịch sử Gò vấp ngày xưa, Vì sao gọi là Gò
vấp ?
Một số hình
ảnh mới nhứt về Gia-Định xưa và một phần Gò-Vắp từ năm 1890 tới năm 1930
– Theo dòng
lịch sử Gia Định năm xưa.
Năm 1698, khi
Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh thừa lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu kinh lý miền Nam,
xác lập chủ quyền cương thổ của Việt-Nam ở vùng đất mới thì đất Gò Vấp đã có
tên trong sổ bộ, thôn, xã thuộc huyện Tân Bình, Phủ Gia Định.
Tên làng Gò
Vắp đặt dựa theo vùng đất mọc nhiều cây vắp, nơi đây đã được khai phá từ những
ngày đầu khi lưu dân Việt đi mở đất từ cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII.
Gò Vấp cách
trung tâm Bến Nghé xưa, tức khu vực quận 1 bây giờ, khoảng 1 km về phía Tây
Bắc, lại nằm trên vùng đất “Gò” cao, hơn 11m so với mặt biển và có nước ngọt
của sông Bến Cát – phụ lưu của sông Sài Gòn – thuận lợi canh tác và sinh hoạt,
vì thế lưu dân chọn lập làng, dựng ấp, tạo dựng quê hương mới.
Theo Gia Định
Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì vào triều Gia Long, năm 1818, vùng đất
mang tên Gò Vấp rộng lớn nằm trong địa phận các tổng Bình Trị và Dương Hòa
thuộc huyện Bình Dương. Năm 1836, khi Nhà Nguyễn đạc điền và lập bạ cho toàn bộ
lục tỉnh Nam Kỳ thì Gò Vấp thuộc tổng Bình Trị Hạ, huyện Bình Dương, tỉnh Gia
Định.
Sau khi chiếm
Nam Kỳ, người Pháp đẩy mạnh quá trình đô thị hóa vùng Bến Nghé – Sài Gòn, năm
1894, mở rộng thành phố lên phía Bắc lấy rạch Thị Nghè và đường Thuận Kiều làm
giới. Huyện Bình Dương của tỉnh Gia Định ở phía Bắc và tỉnh Chợ Lớn ở phía Nam
trở thành các khu ngoại ô của thành phố Sài Gòn.
Tỉnh Gia Định
vào đầu thế kỷ 20 gồm 4 quận “Hóc Môn, Thủ Đức, Gò Vấp và Nhà Bè”, vào năm
1917, Gò Vấp chia làm 3 tổng: Dương Hòa Thượng, Bình Trị Hạ, Bình Trị Thượng,
gồm 37 xã.
Từ năm 1940
đến năm 1953 nhiều xã được sáp nhập, còn lại 24 xã, bao gồm cả vùng đất của
quận Bình Thạnh, quận Phú Nhuận, quận Tân Bình, quận 12 và một phần của huyện
Bình Chánh và huyện Củ Chi ngày nay, vào thời gian này xã Tân Sơn Nhứt không
còn sau khi người Pháp lấy đất để xây dựng sân bay Tân Sơn Nhứt.
Ngày
11-5-1944, chính quyền thành lập tỉnh Tân Bình bằng các tách một phần của tỉnh
Gia Định. Gò Vấp thuộc tỉnh Tân Bình. Sau 1945, tỉnh Tân Bình bị xóa bỏ.
Ngày
29-4-1957, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ban hành nghị định 138-NV ấn định địa
giới tỉnh Gia Định gồm 6 quận (10 tổng, 61 xã) tăng thêm 2 quận là Bình Chánh
và Tân Bình. Tân Bình là phần đất tách từ quận Gò Vấp. Quận Gò Vấp vào năm 1960
có 8 xã.
Những người Pháp và người Việt đang cấy lúa trên một phần đất xã Tân Sơn Nhứt xưa cách đây hơn 100 năm trước, tại khu vực những người đang đứng ngày nay chính là phi trường Tân Sơn Nhứt mà người Pháp lấy đất để xây dựng.
Trường trung học Marc Ferrando, Gia Định.
Quảng trường nhà ga, Gia Định.
Các mặt hàng bán bên trong và ngoài Chợ
Gò-Vấp
Một cửa hàng của người An Nam ở Gia Định
Nhà thương tại Gia Định xưa, ngày nay vẫn còn
nhé.
Về Cây Vấp
Vấp hay Vắp
(danh pháp khoa học: Mesua ferrea) là một loài cây trong họ Cồng
(Calophyllaceae), thường được trồng làm cây cảnh. Đây là loài bản địa những
vùng ẩm ướt của Sri Lanka, Ấn Độ, nam Nepal, Myanmar, Thái Lan, Đông Dương,
Philippines, Malaysia và Sumatra. Chúng hay sống trong rừng thường xanh, nhất
là cạnh các thung lũng sông. Ở đông Himalaya và Ghat Tây của Ấn Độ chúng mọc ở
độ cao đến 1.500 m, còn ở Sri Lanka thì đến 1.000 m. Vấp là quốc thụ của Sri
Lanka còn hoa vấp là hoa biểu tượng của bang Tripura.
Hiện Cây Vấp
vẫn còn tồn tại ở trong Thảo Cầm Viên, mời quý vị cùng xem những hình ảnh về
Cây Vấp:
Gốc
cây vấp 1 trong Thảo Cầm Viên – Ảnh: SƠN TRẦN
Thân
cây vấp 1 trong Thảo Cầm Viên – Ảnh: SƠN TRẦN
Cây vấp 1 cao sừng sững, oai vệ trong Thảo
Cầm Viên – Ảnh: SƠN TRẦN
Cây thứ hai
không cao lắm, gốc cổ thụ, khá già nua, phải cần ba cây sắt phụ chống đỡ “tấm
thân già”, số hiệu 1190, bảng tên là vấp nhiều hoa (Mesua Floribunda).
Gốc cây vấp 1 trong Thảo Cầm Viên mang số
hiệu 1190 – Ảnh: SƠN TRẦN
Cây vấp 2 trong Thảo Cầm Viên đã già yếu lắm
rồi, phải dùng trụ sắt chống – Ảnh: SƠN TRẦN
Cây vấp 2 trong Thảo Cầm Viên đã già yếu lắm
rồi, phải dùng trụ sắt chống – Ảnh: SƠN TRẦN
Gốc cây vấp 2 trong Thảo Cầm Viên xem ra đã
và đang chống chỏi với thời gian – Ảnh: SƠN TRẦN
Lịch sử hình thành địa danh Củ Chi và những
hình ảnh đẹp nhất thập niên 60-70
Thời
nhà Nguyễn, Củ Chi thuộc huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trấn Phiên An. Năm
1836, thuộc huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Năm 1956, Củ Chi trở thành quận
của tỉnh Bình Dương, được thành lập do tách hai tổng Long Tuy Thượng và Long
Tuy Hạ của quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định.
Nguồn
gốc tên gọi
Củ
Chi là tên gọi dân gian của cây mã tiền có nhiều ở vùng này vào thời đó. Cây mã
tiền, một loại cây ở rừng, leo bằng móc, lá mọc đối có ba gân, hoa trắng quả
tròn, hạt dẹt như khuy áo, dùng làm thuốc.
Lịch
sử:
Thời
nhà Nguyễn, Củ Chi thuộc huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trấn Phiên An. Năm
1836, thuộc huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Năm 1956, Củ Chi trở thành quận
của tỉnh Bình Dương, được thành lập do tách hai tổng Long Tuy Thượng và Long
Tuy Hạ của quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định.
Năm
1963, lập tỉnh Hậu Nghĩa, nửa quận Củ Chi vẫn giữ tên cũ, thuộc tỉnh Hậu Nghĩa,
nửa còn lại gọi là quận Phú Hoà, tỉnh Bình Dương. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975
quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa hợp với quận Phú Hòa, tỉnh Bình Dương thành
huyện Củ Chi, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Không ảnh chụp thị trấn Củ Chi vào năm 1966
Thị trấn Củ Chi 1970. Ảnh: Dan McIntyre
Thị trấn Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa 1967
Thị trấn Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa 1965-1967.
Ảnh: William Smith
Thị trấn Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa 1965-1967.
Ảnh: William Smith
Thị trấn Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa 1965-1967.
Ảnh: William Smith
Thị trấn Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa 1966-1972.
Ảnh: Gilcrease
Quốc lộ 1, thị trấn Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa
1965-1967. Ảnh: William Smith
Xóm Cây Bàng, thị trấn Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa
1965-1967. Ảnh: William Smith
Nụ cười tỏa nắng của bà chủ tạp hóa tại thị
trấn Củ Chi 1966.Photo by William R. I. “Easy” Smith Smith
Hình ảnh yên bình ở Thị Trấn Củ Chi –
1966.Photo by William R. I. “Easy” Smith Smith
Trạm Xăng Dầu tại thị trấn Củ Chi 1966-1967
Ảnh chụp ngôi làng Củ Chi 1966
Con đường lớn gần một căn cứ quân sự tại Thị
Trấn Củ Chi. Ảnh chụp năm 1966.
Lịch
sử về tên con đường Bùi Viện – Con đường “không ngủ” giữa Sài Gòn hoa lệ
Con đường Bùi Viện, thường gọi là Phố đi
bộ Bùi Viện là một trong những địa điểm sầm uất nhất Sài Thành. Phố đi bộ Bùi
Viện là cái tên được nhắc đến rất nhiều trên các trang truyền thông. Người ta
vẫn hay gọi đây là con phố không ngủ, đem đến sự nhộn nhịp, tấp nập cho thành
phố.
Con đường
Bùi Viện ngày xưa
Đường Bùi Viện thuộc phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, khởi đầu từ đường Trần Hưng Đạo đến đường Cống Quỳnh, qua ngã tư Đề Thám và ngã ba Đỗ Quang Đẩu. Đậy là vị trí đắc địa bậc nhất Sài Gòn, khi mà giá trị bất động sản tại con phố Bùi Viện liên tục tăng và chưa hề có dấu hiệu giảm. Bên cạnh đó, con phố này cũng được gọi là Phố Tây Bùi Viện, bởi ở đây quy tụ rất nhiều du khách tây. Một con phố đa văn hóa, đa sắc tộc, có một sự đa dạng về văn hóa, ẩm thực,… Xung quanh là một số địa điểm nổi tiếng khác, đặc trưng của Sài Gòn, vì thế mà con phố luôn tấp nập hơn bao giờ hết.
Bùi Viện nổi tiếng như vậy hẳn ai cũng
biết, vậy cái tên “Bùi Viện” xuất phát từ đâu? Lịch sử của con đường này như
thế nào?
Từ trước năm 1949, nơi đây là con đường
mòn làng Tân Hòa. Dưới thời Vua Bảo Đại, 20-1-1950 con đường được đổi tên thành
Bảo hộ Thoại. Đến năm 6/10/1955, Bảo hộ Thoại chính thức được đổi tên thành Bùi
Viện cho đến ngày nay.
Phố đi bộ Bùi Viện
Theo cuốn sách của tác giả Nguyễn Q.Thắng và Nguyễn Đình Tư có tên Đường phố Thành phố Hồ Chí Minh, con đường Bùi Viện được lấy tên theo một vị quan Việt Nam được tiến cử xuất ngoại sang Mỹ để đặt quan hệ ngoại giao. Người đầu tiên viết về Bùi Viện là Phan Trần Chúc trong một tác phẩm có tựa đề: “Bùi Viện với cuộc duy tân của triều Tự Đức” (1946). Trong sách giải thích rõ về người được đặt tên cho con phố này. Bùi Viện (1841-1878) là danh sĩ thời vua Tự Đức, hiệu Mạnh Dực, quê làng Trình Phổ, tổng An Hội, huyện Trực Định, thuộc Kiến Xương, tỉnh Nam Định. Năm 1855, Quốc tử giám tế tửu Võ Duy Thanh biết được ông là người tài giỏi, tiến cử ông với Tham tri bộ Lễ là Lê Tuấn ở Quảng Bình. Bùi Viện là người giúp Lê Tuấn bình định các nhóm Cờ đen, Cờ vàng quấy rối ở miền Bắc thời kỳ đó. Năm 1856, ông đỗ cử nhân.
Khi nghe được tiếng tăm của Bùi Viện,
Doanh điền sứ Doãn Thần đã mời ông cộng sự để mở mang cửa bể Hải Phòng ngày
nay. Sau đó, Bùi Viện đảm nhận việc dẹp loạn quân Quảng Văn Tế phát động ở
Quảng Yên. Ông cùng những người yêu nước là Hoàng Phan Thái, Nguyễn Tư Giản,
Đặng Đức Tuấn, Nguyễn Trường Tộ lập Tân đảng, chú ý khích động triều đình duy
tân, cải cách chính trị, quân sự, văn hoá.
Thuở ấy, Vua Tự Đức rất trọng dụng ông,
phong ông làm Tham tri, sau làm Tham Chánh Thương biện, cùng với Nguyễn Tăng
Doãn trông coi về việc quan thuế ở miền Bắc.
Khu phố Tây Bùi Viện, ngã tư Quốc tế ngày xưa
“Con
đường Quốc tế” – Bùi Viện
Trước năm 1975, đường Bùi Viện với toàn những căn nhà lụp xụp, người dân nơi đây vẫn còn khó khăn rất nhiều, phải chạy ăn từng bữa. Trước đó vào khoảng năm 1950-1951, một đám cháy lớn đã thiêu rụi toàn bộ khu phố tại Bùi Viện. Sau đó, có nhà đầu tư đã xây dựng nên khu nhà trên nền đất cũ. Cũng không biết chính xác từ khi nào mà Bùi Viện trở nên sầm uất như bây giờ. Có người bảo rằng phố Tây hình thành từ một cơ duyên kinh doanh phòng trọ cho thuê của một đôi vợ chồng. Nhưng có người lại bảo, Bùi Viện nổi tiếng như bây giờ là nhờ được xuất hiện trên cuốn sách du lịch Lonely Planet năm 1993.
Phố Tây Bùi Viện về đêm
Người dân nơi đây bảo rẳng, sự chuyển mình rõ rệt nhất của Bùi Viện là sau cuộc đổi mới từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986). Vào những năm 1990, du khách nước ngoài bắt đầu xuất hiện nhiều ở con phố này. Rồi từ đó, các nhà hàng, khách sạn, quán ăn,… mọc lên rất nhiều, nhanh chóng trở nên tấp nập. Cũng không rõ là cơ duyên nào khiến các du khách chọn nơi đây để lưu trú.
Một sự chuyển mình lần thứ hai, thay da
đổi thịt của đường Bùi Viện là vào năm 2017. Thành phố quyết định quy hoạch nơi
đây thành phố đi bộ. Tuy thời gian đầu có nhiều ý kiến trái chiều, nhưng sau
vài tháng đã mang lại nhiều dấu hiệu tích cực. Những nhà hàng món Tây, món Việt
đều đủ cả, tạo nên một môi trường đa văn hóa, ẩm thực phong phú hơn. Từ đó, Bùi
Viện được gợi ý là một trong những địa điểm thú vị nên đặt chân đến một lần
trong đời, xuất hiện nhiều hơn trên các tạp chí nổi tiếng.
Bùi
Viện – Một địa điểm vui chơi không thể bỏ lỡ
Bùi Viện ngày nay được ví như “con đường
Quốc tế”, nổi danh là con phố của những đêm vui chơi không ngủ, được yêu thích
bởi nhiều bạn trẻ Sài Thành. Nếu ở Hà Nội có phố Tạ Hiện thì Sài Gòn có phố Tây
Bùi Viện sầm uất và náo nhiệt không kém.
Xem thêm những bức ảnh đẹp hiếm có về
Phố Đi Bộ Bùi VIện xưa cũ:
Saigon 1969 – đường Bùi Viện
Một góc
phố nhỏ tại Bùi Viện
Những bé học sinh đang trên đường đi học về
tại Ngã tư Trần Hưng Đạo – Bùi Viện
Góc Nguyễn Thái Học – Bùi Viện
Sài Gòn 1979 – Nút giao giữa Trần Hưng Đạo và
Bùi Viện
Saigon 1989 – Góc ngã ba Bùi Viện-Trần Hưng
Đạo. Phía xa là tòa nhà KS và rạp ciné ĐẠI NAM, cạnh bên là trường Tiểu học
Nguyễn Thái Học (góc THĐ NTH)
SAIGON 1968 by William Ruzin – Saigon Coca
Cola Delivery – Đường Đề Thám – Ngã tư Đề Thám-Bùi Viện, còn có tên là Ngã tư
Quốc tế
Saigon 1973 – Diễn binh Ngày Quân Lực 19/6
trên ĐL Trần Hưng Đạo nút giao với Bùi ViệnSAIGON 1965 – Giữa hình là Nhà hàng Vũ trường
Tour d’Ivoire (Tháp Ngà) góc Trần Hưng Đạo- Bùi Viện
Những dấu tích về Xóm Lò Gốm phồn thịnh của Sài Gòn xưa cách đây hơn 300 năm.
Kể từ mùa
xuân Mậu Dần 1698 khi Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh được Chúa Nguyễn Phúc Chu cử
vào nam kinh lược, “lấy đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm
huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn…” đến nay đã hơn 300 năm.
Ba trăm năm với bao biến cố thăng trầm, dấu tích của Sài Gòn xưa đã dần nhạt
phai dưới lớp bụi thời gian. “Vật đổi sao dời”, đây đó còn lưu lại một vài ngôi
đình, chùa miếu, lăng mộ… đã qua sửa chữa tu bổ nhiều lần dù có làm mất dần nét
cổ kính nhưng phần nào còn thể hiện sự lưu tâm gìn giữ. Lần theo sử sách và một
vài dấu tích, chúng tôi đi tìm lại một “Sài Gòn Xưa” lâu nay chưa được nhiều
người biết đến. Đó là một làng nghề nổi tiếng đã từng góp phần cho sự phát
triển của vùng đất này: Xóm Lò gốm.
Là trung tâm
của lưu vực Đồng Nai rộng lớn và trù phú, Sài Gòn – Bến Nghé ngay từ khi mới
hình thành đã sớm mang dáng vẻ của một đô thị sôi động bởi hoạt động thương
nghiệp và sản xuất của nhiều ngành nghề thủ công. Khoảng cuối thế kỷ XVIII tại
đây đã có 62 ty thợ do nhà nước quản lý và hàng trăm phường thợ trong dân gian.
Nhiều ngành nghề tập trung trong các khu vực nhất định để rồi xuất hiện những
địa danh như xóm Chiếu, xóm Cốm, xóm Lò Rèn, xóm Dầu, xóm Chỉ, xóm Vôi, xóm
Bột… riêng xóm Lò Gốm vẫn còn để lại một số địa danh như đường Lò Gốm – đường
Lò Siêu – đường Xóm đất – bến Lò gốm – rạch Lò gốm – kênh Lò gốm – khu lò lu…
thuộc khu vực quận 6, 8, 11 ngày nay. Sử liệu sớm nhất nói đến nghề làm gốm ở
Sài Gòn xưa là sách “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức viết khoảng
năm 1820.
Saigon 1956 – Rạch Bến Nghé & Bến Vân Đồn
Đoạn viết về
Mã trường Giang-kênh Ruột Ngựa như sau: “Nguyên xưa từ cửa Rạch Cát ra
phía Bắc đến Lò Gốm có một đường nước đọng móng trâu, ghe thuyền không đi lại
được.Mùa thu năm Nhâm Thìn (1772) cho đào con kênh thẳng như ruột ngựa nên mới
đặt ra tên ấy…” Kênh Ruột Ngựa đã giúp cho ghe thuyền đi lại giữa Sài
Gòn với miền Tây thêm thuận lợi.
Bản đồ Thành
Gia Định do Trần Văn Học vẽ từ cuối năm 1815 đã có ghi địa danh Xóm Lò Gốm ở
khoảng làng Phú Lâm- Phú Định (ngày nay là khu vực quận 6 tiếp giáp quận 8).
Bài “Phú cổ Gia Định phong cảnh vịnh” sáng tác khoảng đầu thế kỷ XIX miêu
tả: “Lạ lùng xóm Lò Gốm, chân vò vò bàn cổ xây trời…” Trong 62
ty thợ tập trung tại Sài Gòn làm việc cho nhà nước vào cuối thế kỷ XVIII đã có
các ty thợ Lò chum, ngói mộc, gạch mộc, lò gạch…
Một vài tài
liệu của Pháp, tuy tản mạn và có phần phiến diện, cũng phản ánh về việc sản
xuất gốm ở Chợ Lớn vào cuối thế kỷ XIX: Tại Chợ Lớn có khoảng 30 lò gốm tập
trung ở Hòa Lục, Phú Định, Cây Mai… vùng Chợ Lớn sản xuất lu và các đồ gốm
thông dụng như chậu vịm, siêu ấm, nồi trách, hũ khạp, cà ràng… vùng Cây Mai có
một lò sản xuất đồ sành. Các lò này lấy nguyên liệu tại chỗ, tuỳ chất đất mà
sản xuất thành các loại sản phẩm. Mỗi lò gốm hàng năm có thể sản xuất hàng trăm
ngàn sản phẩm. Đến đầu thế kỷ XX vẫn còn nhiều lò gốm nổi tiếng như lò Tín Di
Hưng, Quảng Di Thành, Hiệp Hưng, Bửu Nguyên, Đồng Hòa, các lò chuyên sản xuất
lu, khạp và đồ gia dụng… Theo học giả Vương Hồng Sển thì: “Từ khi lấp
rạch Chợ Lớn thì rạch Lò gốm, kinh Vòng Thành không thông thương và lò gốm chỉ
còn sót lại cái tên trơn và không sản xuất đồ gốm nữa…”
Từ những tư
liệu lịch sử trên và qua khảo sát thực tế có thể nhận biết địa bàn xóm Lò Gốm
xưa khá rộng, gồm các làng Hòa Lục (quận 8), Phú Định-Phú Lâm (quận 6), Phú
Giáo-Gò Cây Mai (quận 11) trải dài đôi bờ kênh Ruột Ngựa, kênh-rạch Lò Gốm.
Những con kênh này là tuyến đường giao thông chính của khu vực Sài Gòn cũ – nay
là Chợ Lớn: một vùng thấp trũng chằng chịt kênh rạch lớn nhỏ, mọi sự đi lại đều
dùng ghe xuồng. Kênh Ruột Ngựa và rạch Lò Gốm còn nối liền rạch Chợ Lớn với
rạch Cát (Sa Giang) và rạch Bến Nghé. Từ ngã ba “Nhà Bè nước chảy chia hai”
xuồng ghe theo rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hũ qua kênh Ruột Ngựa ra sông Cát về
miền Tây. Ngày nay rạch Chợ Lớn không còn nữa, nhiều đoạn rạch Lò Gốm biến mất
– nhất là khu vực Gò Cây Mai hầu như không còn dấu tích con đường thuỷ quan
trọng này. Kênh Ruột Ngựa không còn thẳng như tên gọi do bị bồi lấp lấn chiếm
hai bên bờ. Kênh Lò Gốm ngày càng cạn hẹp dù đã nạo vét nhiều lần… Tuy nhiên
ghe xuồng vẫn theo con nước mà xuôi ngược, dù nơi đây đã phát triển hệ thống đường
bộ chằng chịt như mạng nhện, dù các làng nghề – phố nghề ven kênh rạch không
còn nữa… Đủ biết trước đây trước đây tuyến đường thủy này quan trọng như thế
nào.
Dấu tích vật
chất của xóm Lò Gốm ngày xưa nay chỉ còn lại di tích lò gốm Hưng Lợi thuộc làng
Hòa Lục (phường 16 quận 8), nằm ven kênh Ruột Ngựa. Đối diện là làng Phú Định
cách đây vài năm còn một số gia đình làm nghề “nặn ông lò” – bếp gốm. Di tích
là gò lớn chứa đầy mảnh gốm của các loại lu, khạp, siêu, chậu… Cuộc khai quật
năm 1997-1998 đã tìm thấy tại đây phế tích 3 lò gốm kiểu lò ống (lò Tàu) là
loại lò thông từ bầu lửa đến ống khói, dốc và hẹp, nền lò được gia cố nhiều
lần, thành lò đắp dày bằng phế phẩm. Các đoạn vách lò còn lại được xây bằng
loại gạch lớn chảy men dày, lòng lò chứa đầy mảnh sản phẩm mà qua đó có thể
nhận biết một số loại sản phẩm đặc trưng của lò Hưng Lợi. Ba lò gốm này sản
xuất nối tiếp nhau trong một thời gian khá dài nhưng có thể không liên tục vì
lò gốm của giai đoạn sau được xây trên một phần lò cũ hoặc sửa chữa gia cố lại
lò cũ.
Giai đoạn đầu
khu lò này chủ yếu sản xuất lu chứa nước bằng chất liệu sành nâu, dáng thuôn
vào đáy hoặc bầu tròn, kích thước khá lớn: thường được gọi là “lu 3 đôi” hay
“lu 5 đôi” (mỗi đôi nước – 2 thùng – khoảng 40 lít nước). Lu gốm làm bằng
phương pháp nặn tay bằng “dải cuộn kết hợp bàn dập, bàn xoa” nên độ dày và dáng
tròn đều, bên trong vành miệng lu còn dấu ngón tay để lại khi dùng tay vuốt cho
vành miệng tròn và gắn chặt vào thân lu. Trong số hàng ngàn mảnh lu thống kê
được thì mảnh nắp chiếm đến gần 2/3, cho biết nắp được sản xuất nhiều hơn để
đáp ứng nhu cầu vì nắp hay bị vỡ hỏng khi sử dụng. Do mảnh lu, nắp lu nhiều nên
khu lò này còn được gọi là Lò Lu. Lò sản xuất lu đựng nước có niên đại sớm nhất
ở khu lò này, khoảng nửa sau thế kỷ XVIII. Mảnh phế phẩm của lò lu còn phân bố
trên một diện rất rộng xung quanh lò, đào sâu xuống hơn 1m vẫn gặp mảnh lu gốm.
Chiếm tỷ lệ
lớn nhất là mảnh các loại sản phẩm gốm và sành men nâu, men vàng hoặc không
men. Đó là hũ, khạp, hộp, siêu, nồi có tay cầm… dưới đáy có in 3 chữ Hán “Hưng
Lợi diêu” (lò Hưng Lợi). Bên cạnh đó là các kiểu chậu bông hình tròn hay lục
giác, bát giác phủ men xanh lam hay xanh đồng – màu men đặc trưng của “Gốm Sài
Gòn”. Chậu bông phần lớn có kích thước nhỏ, hoa văn in nổi trong các ô không
men là hoa mai, hoa cúc hoặc tứ quý, bát tiên…
Đây là sản
phẩm của giai đoạn thứ hai, giai đoạn có tên lò Hưng Lợi khoảng thế kỷ XIX. Các
sản phẩm này vẫn dùng kỹ thuật nặn tay nhưng có kết hợp khuôn in, chất liệu gốm
sành nhẹ lửa, không sử dụng “bao nung” (hộp nung) nhưng phổ biến các loại “con
kê” trong việc chồng kê sản phẩm trong lò nung. Đặc trưng là “con kê” hình ống
có thể chồng lên nhau tạo nhiều độ cao thấp khác nhau nhằm tận dụng thể tích lò
nung.
Giai đoạn thứ
3 ở đây sản xuất gốm sứ gồm các loại chén, tô, đĩa, ly, cốc, muỗng, ấm trà, lư
hương… men trắng hoa văn men xanh và men nhiều màu, chai men trắng ngà… Sản
phẩm làm bằng bàn xoay, có nhiều loại bao nung cho một hay nhiều sản phẩm. Các
loại đồ gốm gia dụng tuy đơn giản về kiểu dáng nhưng có nhiều kích thước khác
nhau, theo thời gian có sự khác biệt nhỏ ở chi tiết tạo dáng hay hoa văn. Một
số sản phẩm có chữ Hán như Việt lợi, Kim ngọc, Chấn hoa xuất phẩm, Nhất phiến
băng tâm… các chữ này không phổ biến trên sản phẩm, không có chữ Diêu kèm theo
nên chắc hẳn không phải tên lò sản xuất mà rất có thể là tên của vựa gốm lớn
hay cửa hàng bán đồ gốm in lên các sản phẩm mà họ đặt lò sản xuất, tức là giai
đoạn này lò sản xuất theo đặt hàng cả về số lượng và từng loại sản phẩm. Tình
trạng sản xuất theo sự đặt hàng của chủ hàng là người buôn bán cho biết đã có
sự chuyên hóa giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa khi nhu cầu của thị trường
ngày càng đa dạng và thay đổi thường xuyên. Chất liệu làm gốm là loại đất sét
tương đối trắng không có tại chỗ mà chắc phải khai thác từ miền Đông về. Dựa
vào loại hình sản phẩm và tính chất sản xuất nói trên có thể nhận thấy lò gốm
này có niên đại khoảng nửa đầu thế kỷ XX.
Tuy có ba
giai đoạn với những loại sản phẩm đặc trưng cho từng giai đoạn nhưng kỹ thuật
sản xuất ở khu lò cổ này khá thống nhất: Cấu trúc lò gốm (loại lò ống – lò
tàu), kỹ thuật tạo dáng (bàn xoay, in khuôn), hoa văn, phương pháp chồng lò và
nung gốm, sản phẩm của hai giai đoạn đầu (lu, khạp, siêu, nồi có tay cầm…) đều
mang đậm dấu ấn kỹ thuật làm gốm của người Hoa. Theo nhiều nhà nghiên cứu,
nguồn gốc của nghề làm gốm mang tính chất sản xuất hàng hóa ở Gia Định-Đồng Nai
là sự kết hợp nghề gốm của lưu dân người Việt với truyền thống kỹ thuật sản
xuất gốm mà người Hoa mang vào vùng đất này trong bước đường lưu lạc kiếm sống.
Từ khi được các Chúa Nguyễn cho vào định cư tại Cù Lao Phố, vùng Sài Gòn (cũ)
và rải rác một số nơi khác, người Hoa sinh sống chủ yếu bằng thương nghiệp và
thủ công nghiệp. Tại Cù Lao Phố trên sông Đồng Nai (nay thuộc thành phố Biên
Hoà) cũng có Rạch Lò Gốm, bến Miểng Sành mà qua khảo sát, các loại sản phẩm hầu
như không khác biệt với sản phẩm ở khu lò gốm cổ Hưng Lợi. Các phường thợ làm gốm
của người Hoa thường gồm những người “đồng hương” và chuyên sản xuất một vài
loại sản phẩm: người Hẹ chuyên làm lu, khạp, hũ men nâu và men vàng (men da
lươn, da bò); người Tiều (Triều châu) chuyên làm đồ “bỏ bạch” (không men) như
siêu, nồi có tay cầm…; người Quảng (Đông) chuyên làm chén, đĩa có men trắng hay
men nhiều màu… Hiện nay truyền thống kỹ thuật này vẫn phổ biến ở những lò lu,
lò gốm ở khu vực Quận 9-Sài Gòn (như lò Long Trường), ở Tân Vạn-TP Biên Hòa và
Lái Thiệu-Bình Dương… dù các chủ lò có thể không phải là người Hoa. Cần nói
thêm rằng, cho đến nay một số dân tộc ở miền Nam (người Chăm, người Khmer…) vẫn
bảo lưu kỹ thuật làm gốm cổ truyền Đông Nam Á là nặn tay, không dùng bàn xoay
và nung gốm ngoài trời, sản phẩm là gốm đất nung ít có sự thay đổi về kiểu
dáng, số lượng không nhiều, vì vậy sản xuất chỉ mang tính chất tự cung tự cấp.
Đối với nghề
làm gốm muốn tồn tại và phát triển thì phải có vị trí thuận lợi: là nơi có hoặc
gần nguồn nguyên liệu, có hệ thống đường thuỷ tiện cho việc chuyên chở hàng hóa
đi nhiều nơi, gần trung tâm thương nghiệp để nắm bắt nhanh nhu cầu thị trường…
Xóm Lò Gốm của Sài Gòn xưa đã có những điều kiện thuận lợi đó: nguyên liệu ở
đây thích hợp cho việc sản xuất các loại gốm gia dụng và gốm xây dựng. “Nhất
cận thị, nhị cận giang”, làng nghề này lại ở giữa Sài gòn – nơi tập trung nhiều
phố chợ nhất miền Gia Định khi ấy: “phố xá trù mật buôn bán suốt ngày
đêm, là nơi đô hội thương thuyền của các nước cho nên trăm món hàng hóa phải tụ
hội nơi đây”. Nam bộ khi ấy là vùng đất đang trong quá trình khai phá nên
nhu cầu về đồ gốm gia dụng rất lớn, do vậy thị trường của Xóm Lò Gốm không phải
chỉ là Sài Gòn – Bến Nghé mà còn là cả miền Tây rộng lớn.
Từ cuối thế
kỷ XIX quá trình đô thị hóa diễn ra ở Sài Gòn – Bến Nghé và một số thị tứ ở Nam
bộ, sản phẩm của Xóm Lò Gốm có thêm các loại hình mới phục vụ nhu cầu xây dựng,
trang trí kiến trúc của Đình, Chùa, Hội quán, phố chợ, công sở, nhà ở… Khảo sát
các di tích cổ ở nhiều tỉnh Nam bộ đều thấy phổ biến các loại gốm trang trí,
thờ cúng, nhiều di tích nổi tiếng với những quần thể tượng trang trí trên mái
nhà hay tượng thờ, đồ thờ trong nội thất… Khu lò gốm ở Gò Cây Mai, qua khảo sát
của người Pháp cho biết, bên cạnh gốm gia dụng đã sản xuất đồ gốm mang tính mỹ
thuật cao như tượng gốm trang trí, tượng thờ, đồ thờ, đồ gốm lớn như chậu
kiểng, đôn… được gọi chung là Gốm Cây Mai. Khu vực Gò Cây Mai cũng chỉ là một
trong nhiều khu lò của Xóm Lò Gốm ở Sài Gòn xưa. Vì vậy, chắc hẳn không chỉ có
lò Cây Mai sản xuất đồ gốm trang trí mỹ nghệ mà còn có cả những khu lò khác nữa
mới có thể đáp ứng nhu cầu rất lớn trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ
XX. Vì vậy, có thể định danh các loại gốm được sản xuất ở vùng gốm Sài Gòn xưa
– bao gồm nhiều khu lò, nhiều loại sản phẩm nhưng đặc sắc nhất là đồ gốm trang
trí mỹ thuật – là Gốm Sài Gòn- tên gọi chỉ rõ địa bàn sản xuất một làng nghề
thủ công đã từng được ghi vào sử sách và truyền tụng trong dân gian, giống như
tên gọi của làng gốm Chu Đậu, Bát Tràng, Phù Lãng, Hương Canh… ở miền Bắc.
Khoảng giữa
thế kỷ XX, cùng với những biến cố chính trị – xã hội, quá trình đô thị hóa
nhanh chóng và mạnh mẽ theo một quy hoạch nhất định cũng là nguyên nhân quan
trọng làm cho các làng nghề thủ công ở Sài Gòn – Chợ Lớn không còn điều kiện
tồn tại, hoặc phải tìm điạ bàn mới để phát triển ở vùng ven ngoại thành hay xa
hơn, đến các tỉnh lân cận.
Đô thị hóa
làm biến mất cảnh quan tự nhiên, vùng nguyên liệu không còn, kênh rạch bị lấp
dần, phố xá mọc lên…, vị trí ưu đãi của một làng gốm không còn nữa, việc sản
xuất không còn đáp ứng được những nhu cầu mới của thị trường mới, các lò gốm,
lò gạch ngói cuối cùng của Xóm Lò Gốm ngừng sản xuất. Xóm Lò Gốm của Sài Gòn
xưa phải kết thúc vai trò của mình, nhường bước cho sự phát triển của vùng gốm
Biên Hoà – Lái Thiêu.
Nguyễn Thị
Hậu
Phá lấu Sài Gòn – 6 Món phá lấu mê mẩn những thực
khách Sài Gòn
Phá lấu chắc hẳn là
món ăn quen thuộc đối với mỗi người dân Sài Gòn, món ăn làm mê mẩn những thực
khách cho dù là khó tính nhất. Chỉ cần gửi thấy mùi thơm từ xa và nhìn màu sắc
hấp dẫn của món phá lấu thì khó có thể cưỡng lại, thực khách đành phải rút hầu
bao để thưởng thức món ăn hấp dẫn đặc trưng của Sài Gòn.
Phá lấu là món ăn
được chế biến từ иộι тạиɢ của động vật như heo, bò, vịt…. nhưng đa số được bày
bán ở Sài Gòn là heo và bò. Được sơ chế tẩm ướp gia vị ngũ vị hương, đại hồi
..v.v.. rồi nấu lên thành một nồi phá lấu thơm ngon hấp dẫn.
Ngày xưa phá lấu
thường được ăn theo kiểu xiên tăm chấm, hoặc bánh mì phá lấu.
Phá lấu lòng heo !
kẹp bánh mì hoặc ăn không từng miếng ghim bằng tăm, chấm tương ớt,,,ngon kể
chi,,, ăn xong đếm tăm tính tiền
Bánh
mì phá lấu
Có lẻ món bánh mì phá
lấu là món ăn được nhiều người ưa chuộng cũng như được bầy bán nhiều nhất. Phá
lấu có nước dùng hơi sệt màu cánh gián thơm đậm đầy quyến rũ. Vị chua thanh đặc
trung của dưa chua, vị thơm, cay đậm đà khi ăn kèm với bánh mì thì hết sẩy.
Bánh Mì Phá Lấu
Phá lấu nướng, luộc.
Phá lấu nướng hấp dẫn
với hương thơm ngào ngạt và vị cay nồng của nước chấm. Còn phá lấu luộc thanh
đạm, ít dầu mỡ đi đôi với món nước chấm nhẹ nhàng được pha chế theo công thức
riêng có thể mê hoặc được những thực khách khó tính. Phá lấu nướng thơm lừng,
cay cay, mặn mặt, ngọt ngọt thích hợp cho việc lai rai mỗi chiều tối mưa lạnh ở
Sài Gòn.
Phá
lấu xào me
Phá lấu xào me có
cách chế biến không khác gì phá lấu truyền thống. Nguyên liệu vẫn là
иộι тạиɢ heo hay bò hầm mềm cùng các gia vị mạnh như hồi, quế, ngũ vị,
nước cốt dừa… Nhưng điểm khác biệt ở chỗ, quá trình chế biến đầu bếp thêm
một ít me vào nối khiến món ăn có thêm vị chua độc đáo.
Lẩu
phá lấu
Gọi là lẩu nhưng món
lẩu phá lấu không hề có các loại rau hay thịt đi kèm mà chỉ đơn giản là một thố
phá lấu có mì tôm bên dưới. Cộng mì được trụng dai vừa phải ăn kèm với nước phá
lấu đậm đà có vị ngọt béo của nước cốt dừa, tổ ong. Lá xách thì dai dai hòa
cùng nhau, ôi thật hấp dẫn.
Cơm
tấm phá lấu
Cơm tấm phá lấu đơn
giản với một đĩa cơm tấm, bên trên là phá lấu được thái lát vừa ăn, thêm một ít
đồ chua, mỡ hành và chén nước chấm. Đơn giản như vậy nhưng khi thưởng thức, cái
giòn giòn và hơi dai của phá lấu kết hợp với vị chua ngọt của đồ chua, thêm cái
béo của mỡ hành cho bạn một cảm giác ngon và lạ miệng.
Hủ
tíu phá lấu
Hủ tíu phá lấu là sự
kết hợp giữa cái ngon của phần nước sốt đặc sánh hòa quyện vị ngọt của nước hầm
иộι тạиɢ, nước dừa tươi, vị béo của nước cốt dừa, vị cay, thơm của quế,
ngũ vị hương, cái dai mềm của những cọng hủ tíu cùng phần “cái” đầy đủ với gan,
khăn lông, lá xách, phèo non, tổ ong, trái khế, lá mía…
Chuyên đề về Người Hoa:
Người Trung Quốc bắt đầu di cư vào Việt Nam kể từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Trong 2 thiên nhiên kỷ kể từ đó, nhiều làn sóng người Trung Quốc, gồm lính, quan, dân, tội phạm… đã đến định cư tại Việt Nam. Nhiều người kết hôn với người Việt và con cháu họ trở thành người Việt Nam.
Vào thế kỷ 17 tại Trung Quốc, sự sụp đổ của nhà Minh dẫn đến làn sóng người Hoa trung thành với nhà Minh và không thần phục nhà Thanh bỏ quê hương di dân sang vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Năm 1671, Mạc Cửu và gia đình đến vùng đất Mang Khảm (nay là Hà Tiên), khi đó vẫn thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Khmer. Mạc Cửu đã biến vùng đất này thành một khu vực buôn bán giàu có, mở rộng quyền kiểm soát ra các vùng lân cận, và quy thuận chúa Nguyễn.
Năm Kỷ Mùi 1679 Tổng binh thành Long Môn tỉnh Quảng Tây tên là Dương Ngạn Địch, Phó tướng Huỳnh Tấn (Hoàng Tiến) và Tổng binh châu Cao, châu Lôi và châu Liêm tỉnh Quảng Đông là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An Bình cử binh chống đánh nhà Thanh nhằm khôi phục nhà Minh (bị nhà Thanh tiêu diệt hoàn toàn vào năm 1766) không địch nổi, hai Tổng binh đem tướng sỹ xuống thuyền chạy sang hải phận nước Nam, ban đầu cầu cứu Chúa Trịnh, sau đó dẫn tuỳ tùng quân lính theo đường thuỷ đến Đà Nẵng đầu hàng Chúa Nguyễn và xin Chúa Nguyễn nhận làm dân Việt. Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần cho họ vào miền Nam khai khẩn đất hoang Dương Ngạn Địch và Huỳnh Tấn theo dòng sông Cửu Long cắm trại ở Định Tường (Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang), Trần Thượng Xuyên vào cửa Cần Giờ ngược dòng sông Đồng Nai cắm trại ở đất Ban Lân Cù Lao Phố (Biên Hòa), và Đông Phố (Gia Định) chuyên lo việc thương mãi và canh nông. Những cộng đồng người Hoa này được gọi là người Minh Hương. Chữ “hương” ban đầu dùng chữ 香 có nghĩa là “thơm”, đến năm 1827 đổi sang chữ 鄉 nghĩa là “làng”. Như vậy Minh Hương có thể hiểu là “làng của người Minh” và cũng có thể hiểu là “làng sáng sủa”.
Năm 1698, ở vùng Phiên Trấn – Bến Nghé – Sài Gòn đã hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, Chợ Lớn cũ. Từng có câu ca dao nói về phong hóa làng Minh Hương:
Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự bằng làng Minh Hương.
Đến thế kỷ 19, người Pháp tạo điều kiện cho người Hoa vào định cư ở Sài Gòn, Chợ Lớn. Thời kì này người Hoa sang Việt Nam theo các đợt tuyển mộ phu đồn điền của người Pháp. Năm 1949, một số người Hoa chạy sang Việt Nam khi Trung Quốc Quốc dân Đảng thua ở lục địa.
Tuy thu lợi từ những người Hoa định cư tại Việt Nam, nhưng các vị vua chúa Việt Nam chưa bao giờ cảm thấy yên tâm về lòng trung thành của họ. Tại thời điểm xấu nhất của quan hệ giữa hai bên, 10 ngàn người Hoa vùng cù lao Phố đã bị quân Tây Sơn tàn sát vào thế kỷ 18. Những khi khác, người Hoa hưởng tự do và sự giầu có. Nhưng họ luôn bị phân biệt với người Việt.
Thế kỉ 20: Từ trước năm 1949, người Hoa ở Việt Nam vẫn giữ quốc tịch Trung Quốc, chính phủ Trung Hoa Dân quốc tuyên bố rằng tất cả người Hoa ở nước ngoài đều là công dân Trung Quốc, rằng Trung Quốc có quyền ngoài-lãnh thổ: quyền can thiệp vào các quốc gia khác để bảo vệ công dân của mình. Đến thập kỉ 1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức thu hồi lời tuyên bố trên.
Ở miền Bắc, năm 1955, hai chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thống nhất rằng người Hoa ở Việt Nam do chính quyền Việt Nam quản lý và được hưởng đầy đủ quyền lợi của công dân Việt Nam, quá trình bỏ dần quốc tịch Trung Quốc để thành công dân chính thức của Việt Nam sẽ kéo dài nhiều năm. Trong thời gian Chiến tranh Việt Nam, người Hoa ở miền Bắc được hưởng tất cả các quyền của công dân Việt Nam, kể cả quyền bầu cử, nhưng lại không phải chịu nghĩa vụ quân sự. Thập kỉ 1960, do ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc khi một số người Hoa bắt đầu các hoạt động “Hồng Vệ binh” của mình và tố cáo Đảng Cộng sản Việt Nam theo “chủ nghĩa xét lại”, áp lực của chính quyền tăng lên đối với việc chuyển đổi quốc tịch của người Hoa sang quốc tịch Việt Nam. Năm 1970, để giảm khả năng thao túng tiềm tàng của Trung Quốc đối với người Hoa, chính phủ bắt đầu giảm các bài học lịch sử và ngôn ngữ tại các trường học của người Hoa. Từ vài năm trước đó, các biển hiệu bằng tiếng Trung bắt đầu biến mất tại các thành phố Hà Nội và Hải Phòng.
Ở miền Nam, từ năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm đã buộc tất cả người Hoa phải nhập quốc tịch Việt Nam hoặc bị trục xuất. Tháng 5 năm 1957, Bắc Kinh phản đối rằng đây là “sự xâm phạm tàn nhẫn các quyền hợp pháp của người Hoa”. Trong khi ở miền Bắc, Hoa kiều không đóng vai trò đặc biệt trong nền kinh tế nhà nước quản lý tập trung, thì ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện…và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường.
Sau năm 1975: Sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975, vấn đề về người Hoa càng thêm phần trầm trọng khi họ treo quốc kì Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn, làm chính phủ Việt Nam nghi ngờ lòng trung thành của họ. Tháng 1 năm 1976, chính phủ lệnh cho người Hoa ở miền Nam đăng ký quốc tịch. Đa số đăng ký là quốc tịch Trung Quốc mặc dù họ đã chuyển sang quốc tịch Việt Nam từ những năm 1956-1957. Tháng 2 năm đó, người Hoa được lệnh đăng kí lại theo quốc tịch đã nhận thời Việt Nam Cộng hòa. Những người vẫn tiếp tục đăng kí là quốc tịch Trung Quốc sau đó bị mất việc và giảm tiêu chuẩn lương thực. Cuối năm đó, tất cả các tờ báo tiếng Trung bị đóng cửa, tiếp theo là các trường học của người Hoa. Với những hành động này, chính phủ Việt Nam đã lờ đi thỏa thuận rằng sau khi thống nhất sẽ tham khảo ý kiến của Trung Quốc về vấn đề người Hoa ở Việt Nam. Chính sách của Việt Nam năm 1976 đã bị ảnh hưởng bởi thay đổi nhanh chóng của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, với nỗi e ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng Hoa kiều để ép Việt Nam theo các chính sách của mình. Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản.
Năm 1977, lạm phát 80% cùng với vấn đề tiếp diễn của sự thiếu thốn và nạn đầu cơ lương thực, Chính phủ Việt Nam sợ rằng Hoa kiều có thể bị lôi kéo theo các mục tiêu của Trung Quốc. Kèm theo đó là sự ngừng trệ nghiêm trọng của các vùng kinh tế phía Tây Nam do các xung đột tại biên giới với Campuchia. Người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc. Những điều này làm cho chính phủ Việt Nam lo sợ về nguy cơ đất nước bị rối loạn cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài bởi các nguyên nhân xuất phát từ Trung Quốc. Trong các tháng 3, 4 năm 1978, khoảng 30.000 doanh nghiệp lớn nhỏ của Hoa kiều bị quốc hữu hóa. Vị thế kinh tế của đa số tư sản Hoa kiều bị hủy bỏ, nhà nước thắt chặt kiểm soát nền kinh tế. Quan hệ ngày càng xấu đi giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng làm tăng thêm số người Hoa rời Việt Nam. Kết quả là số người di tản từ Việt Nam tăng gấp đôi trong 6 tháng đầu năm 1979, trong những người di tản trong những năm 1978-1979, Hoa kiều chiếm số lượng rất lớn. Cộng thêm vào đó là khoảng 250.000 Hoa kiều sang Trung Quốc qua biên giới phía Bắc từ tháng 4 năm 1978 đến mùa hè năm 1979. Trung Quốc đã gọi đây là vấn đề “nạn kiều“.
Dân số, nơi cư trú và ngôn ngữ
Theo thống kê của cuộc điều tra dân số năm 1999, tổng số người Hoa ở Việt Nam là 862.371 (1,13% dân số ở Việt Nam), được xếp hạng thứ tư, trong đó có khoảng 50% người Hoa sinh sống tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh. Họ tập trung đông nhất ở các khu thương mại trong Quận 5, 11 (khoảng 45% dân số mỗi quận), 6, 8, 10 với 5 nhóm ngôn ngữ chính: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và tiếng Khách Gia (Hakka, đôi khi còn gọi là tiếng Hẹ). Số người Hoa còn lại sinh sống ở các tỉnh toàn quốc, mà hầu hết là ở nhiều tỉnh miền Tây Việt Nam. Năm 2003 ước tính có khoảng 913.250 người Hoa.
Tên gọi
Hội quán Triều Châu, Hội An.
Người Trung Quốc đã qua lại làm ăn, sinh sống và chung đụng với người Việt đã từ lâu đời, tùy theo từng thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh tiếp xúc hoặc nguyên nhân di cư mà người Trung Quốc đã tự xưng về tên dân tộc của mình khác nhau, cũng như người Việt đã gọi họ theo các tên khác nhau. Thường người Trung quốc tự gọi mình là dân các triều đại mà họ cho rằng văn minh, tự hào hoặc cho rằng nó phổ biến và được người bản xứ biết rõ, hoặc đã biết từ lâu như “người Đường” (Thoòng dành), “người Thanh”, “người Bắc” (quốc). Người Hoa còn tự gọi họ theo quê quán: “người Quảng” (Quảng Đông), “người Tiều” (Tiều Châu/Triều Châu), “người Hẹ″, “người Khách”, “người Hải Nam”… Người Việt còn có lệ gọi người Hoa là “người Ngô”. Lệ này bắt nguồn từ lịch sử thời Xuân Thu có “nước Ngô” và “nước Việt”. Điển hình là bản Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi vào thế kỷ 15 sau khi Bình Định Vương Lê Lợi đuổi được giặc nhà Minh.
Từ phổ thông người Việt hay dùng là “người Tàu”; từ “chệt” hàm ý miệt thị; từ “các chú” nay không thông dụng nữa nhưng là đọc trại từ chữ “khách trú” vì người Hoa không được nhìn nhận là cư dân mà chỉ là dân ở trú mà thôi. Bản báo sau đây đưa ra nguồn gốc khác cho “các chú” nhưng không có cơ sở.
Theo Gia Định báo, đăng trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16 tháng 2 năm 1870: phần tạp vụ (một bài thuộc vào loại phiếm luận ngày nay)
Người bên Tàu thường gọi là người Trung-Quốc nghĩa là nước ở giữa vì thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng-đế ở lại vô ở giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc. Người bên Tàu thường kêu mình là Đường-nhơn hay Thanh-nhơn, nghĩa là người nhà Đường nhà Thanh. An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v…
Người Bắc thì kêu là Ngô, nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắt nghĩa rằng vì bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi.
Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy.
Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc …
Nếu xếp theo phân loại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì họ là dân tộc Hán nhưng có lẽ do nhà Hán đô hộ nước Việt lâu đời nên để tránh ác cảm của người Việt bản xứ nên dù rất tự hào nền văn hóa Hán rực rỡ nhưng người Việt gốc Hoa không tự xưng là người Hán.
Một số chuyên đề về đạo Phật
Lịch sử Đức Phật ,Thích Ca Mâu Ni
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát. Và cũng với đại tâm đại nguyện ấy, sau khi chứng được đạo quả Vô thượng Bồ đề, Ngài đã dâng hiến thời gian cho công cuộc hằng hóa độ sanh. Đức Thế Tôn đã chu du khắp đất nước Ấn Độ thời xa xưa ấy, từ cực Bắc dưới chân núi Hymalaya, đến cực Nam bên ven sông Gange (sông Hằng).
Đức Thế Tôn đã dành những tuần lễ đầu tiên để chiêm nghiệm đến giáo pháp thậm thâm vi diệu mà Ngài đã chứng đắc, và thọ hưởng pháp lạc mà quả phúc mang đến. Pháp Cú kinh, kệ số 153-154, đã ghi lại một trong những Phật ngôn đầu tiên Ngài đã thốt lên trong thời gian này:
Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng không gặp
Người xây dựng nhà này
Khổ thay, phải tái sanh Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi
Ngươi không làm nhà nữa
Đòn tay ngươi bị gẫy
Kèo cột ngươi bị tan Tâm ta được tịch diệt
Tham ái thảy tiêu phong(Bản dịch của HT Thích Minh Châu
Câu kinh như một lời ca khải hoàn, mô tả sự chiến thắng vẻ vang rực rỡ sau cuộc chiến đấu nội tâm thầm lặng gian nan. Ông thợ tượng trưng cho ái dục, vô minh, phiền não luôn ẩn sâu kín trong mỗi con người, nay đã bị phát hiện.
Đức Phật cũng đã để lại cho thế gian một bài học luân lý đẹp đẽ, đó là sự tỏ lòng tri ân sâu sa đối với cây bồ đề che nắng che mưa cho Ngài trong suốt thời gian tầm đạo. Đức Thế Tôn đã đứng cách một khoảng xa để chiêm bái đại thọ suốt trong một tuần. Sau này, nơi đây vua Asoka (A Dục) dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiya, nay vẫn còn.
Đức Thế Tôn đã suy nghĩ đến giáo lý giải thoát sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, ly dục, vô ngã mà Ngài đã chứng đắc; còn chúng sanh thì luôn chìm sâu vào ái dục, định kiến, chấp ngã với nhiều thủ trước... Làm thế nào để con người dễ dàng chấp nhận giáo lý ấy? Và rồi, với trí tuệ của bậc giác ngộ, Đức Thế Tôn đã quan sát thế gian và thấy rằng: "Có hạng chúng sinh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời; có hạng độn căn, lợi căn; có hạng thiện tánh, ác tánh; có hạng dễ giáo hóa, khó giáo hóa... Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vươn lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước; có loại sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước thấm ướt..." (Trung Bộ I). Và như vậy, với hình ảnh những cành sen vươn ra khỏi mặt nước, những cành ở lưng chừng, những cành ở sâu trong lòng nước v.v... đã gợi lên trong Thế Tôn về căn cơ bất đồng của mọi người. Có những căn cơ thấp như cánh sen ở đáy hồ, có những căn cơ trung bình như những cánh sen ở lưng chừng nước, cũng có những căn cơ cao có thể tiếp thu trọn vẹn giáo pháp của Ngài như những cành sen đã nhô ra khỏi mặt nước. Dù sống trong nghiệp quả bất đồng, nmỗi chúng sanh đều có hạt giống giác ngộ, như hoa sen dù sống trong bùn tanh hôi, vẫn tỏa hương thơm ngát.
Với ba lần thỉnh cầu và phát khởi thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm Thiên, Đức Thế Tôn quyết định gióng lên tiếng trống Pháp và bắt đầu thực hiện sứ mạng của mình. Ngài tuyên bố với thế gian, với loài người, với cõi trời và với tất cả, con đường đạo cứu khổ và diệt khổ, con đường dẫn đến cõi bất sanh bất diệt, cõi Niết bàn đã được khai mở: "Cửa bất tử rộng mở, cho những ai chịu nghe..." (Trung Bộ I). Và bánh xe Pháp bắt đầu chuyển vận.
I. Bài pháp đầu tiên - Ngôi Tam Bảo được hình thành - Khởi đầu Giáo hội Phật giáo
Sau khi quyết định truyền bá đạo lý cứu khổ cho muôn loài, Đức Phật dùng tuệ nhãn quan sát thế gian xem ai là người có cơ duyên để hóa độ trước, và Ngài nghĩ ngay đến hai vị thầy cũ của mình là Alara Kàlama và Uddaka Ramaputta, nhưng cả hai đã qua đời cách đó không lâu. Đức Thế Tôn nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh đã rời bỏ Ngài trước kia, đang ở tại vườn Nai (Lộc Uyển) - Benares (Baranàsi) và lên đường đi đến đó.
Bài Pháp đầu tiên
Tại đây, bài Pháp đầu tiên, bài giảng về Tứ diệu đế (Tứ Thánh đế) được Đức Thế Tôn chỉ bày rõ ràng. Nghe xong, tôn giả Kodanna (Kiều Trần Như) chứng quả Tu Đà Hoàn. Đức Thế Tôn thu nhận năm tôn giả làm các đệ tử xuất gia đầu tiên - và thế là ngôi Tam bảo đã được hình thành.
Để đánh dấu sự kiện đáng ghi nhớ này, về sau người ta đã biểu trưng nó với hình ảnh bánh xe với hai con nai hai bên. Hai con nai biểu tượng cho địa điểm thuyết pháp (Lộc Uyển) và bánh xe Dhamma Cakka tức là bánh xe pháp - "pháp luân". Cả đầu đề bài khi được giảng là: Dhamma Cakkappavattana, có nghĩa là Chuyển Pháp Luân (chuyển bánh xe pháp).
Nội dung kinh Chuyển Pháp Luân
Đức Thế Tôn mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên mắc vào hai cực đoan: một là đam mê thú vui dục lạc thế gian, vì nó giả tạm, nhất thời, tầm thường, ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh; cực đoan thứ hai là khổ hạnh ép sát, nó làm mỏi mệt tinh thần, mê mờ trí tuệ. Và Ngài khuyến tấn họ nên theo con đường trung đạo dẫn tới một cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ, sáng suốt, giải thoát tối hậu. Đó là con đuờng đạo 8 chánh - Bát chánh đạo: 1. Chánh tri kiến: thấy biết chân chánh, 2. Chánh tư duy: suy nghĩ chân chánh, 3. Chánh ngữ: nói năng chân chánh, 4. Chánh nghiệp: hành động chân chánh, 5. Chánh mạng: sinh sống chân chánh, 6. Chánh tinh tấn: siêng năng chân chánh, 7. Chánh niệm: nhớ nghĩ chân chánh, 8. Chánh định: tập trung tư tưởng chân chánh.
Và bốn Thánh đế được Đức Phật giảng tiếp theo, dó là chân lý về sự Khổ (Khổ đế), chân lý về nguyên nhân của sự Khổ (Tập đế), chân lý về sự diệt Khổ (Diệt đế) và chân lý về con đường diệt Khổ (Đạo đế).
Sau khi nghe Đức Thế Tôn giảng bài pháp thứ hai có đầu đề Anttalakkhana Sutta (kinh Vô ngã tướng), bàn về thuyết Vô ngã (không có cái ta), rằng năm uẩn là vô thường, nếu ai thoát khỏi tham ái thì ra khỏi tái sanh, được giải thoát, năm tôn giả Kodanna, Vappa, Bhaddhiya, Mahànàma và Assaji lần lượt chứng quả A La Hán. Bấy giờ là tháng Vesàkha (giữa tháng 4 và 5 dương lịch), đầu mùa kiết hạ. Giáo hội của Đức Thế Tôn an cư mùa mưa đầu tiên tại đây.
Giáo hóa ôngYasa (Ya Xá)
Gần Benarès, có con trai của một người triệu phú tên là Yasa. Chán cuộc đời xa hoa phú quí tầm thường vô vị của thế gian, chàng tìm đến đức Phật; sau khi nghe pháp đã xin xuất gia và chẳng bao lâu chứng quả vị A La Hán. Cha của Yasa trên đường đi tìm con cũng đến vườn Nai thính pháp và xin quy y. Ông trở thành đệ tử tại gia đầu tiên của Đức Phật. Tại nhà của Yasa, mẹ và vợ của chàng cũng quy y Tam bảo. Bốn người bạn thân của Yasa là Vimala, Subhàhu, Punnaji và Gavampati cũng như hơn 50 bạn khác từ các gia đình và địa phương gần xa nghe tin Yasa xuất gia, cũng lạy cha mẹ, từ giã gia đình xin theo chân Đức Phật, và sau một thời gian đều đắc Thánh quả.
Đoàn tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đã có 60 người đệ tử đều là A La Hán. Ngài quyết định đưa họ đi khắp nơi để truyền bá chánh pháp. Trước khi họ lên đường, Ngài đã động viên, kêu gọi các đệ tử rằng:
"Này các Tỳ kheo! Như Lai đã được giải thoát hết mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian (các cõi trời). Các ông cũng vậy... Này các Tỳ kheo, hãy đi vì lợi lạc của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. các ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy đi mỗi người một ngã, hãy truyền bá chánh pháp. Này các Tỳ kheo, chánh pháp toàn thiện ở phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối, cả trong ý tứ và lời văn. Hãy tuyên bố về cuộc sống toàn thiện và thanh tịnh... Chính Như Lai cũng đi, Như Lai sẽ đi về hướng Uruve là ở Sanànigàma để hoằng dương giáo pháp. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu, hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác; được vậy, là các ông đã hoàn tất nhiệm vụ" (Mahavagga, 19-20).
Đức Phật không khuyên tất cả mọi người nên rời bỏ đời sống gia đình để xuất gia, trở thành người sống không nhà cửa, không tài sản, sự nghiệp. Một người cư sĩ cũng có thể sống đời cao đẹp thích ứng với giáo pháp và đắc quả Thánh. Cha mẹ và vợ của Yasa là những người tu tại gia đầu tiên bước theo dấu chân của Đức Phật, tất cả đều tiến triển đầy đủ về tinh thần và thành tựu đạo quả Tu Đà Hoàn.
Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật và 60 người học trò chứng quả A La Hán tổ chức thành một tăng đoàn những tu sĩ khất thực không có trú xứ nhất định, không có của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và một bình bát để khất thực nuôi thân. Trong mưa nắng, trong sương gió, làng mạc hay phố thị, rừng núi hay đồng hoang đều có dấu chân của những con người thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và đời sống thanh hạnh và tự mình nêu gương sáng về cuộc sống thanh tịnh và giải thoát. Đó là sự nghiệp, là nội dung chủ yếu của Tăng đoàn đầu tiên do Đức thế Tôn đích thân thành lập và chỉ đạo.
Có thể nói, đây là sự khởi đầu của Giáo hội Phật giáo.
II. Hóa độ rộng lớn và cùng khắp
Sứ mạng hóa độ - con đường giáo hóa của Đức Thế Tôn thật vô cùng nặng nề và khó khăn, nhưng với lòng bi mẫn rộng sâu, tinh thần bình đẳng triệt để và một ý chí dũng mãnh vô song, Đức Thế Tôn đã tùy theo căn cơ của mọi người mà dùng nhiều phương tiện thiện xảo giáo hóa, như một bậc y vương đã tùy bệnh mà cho thuốc, đã hoàn thành sứ mạng thiêng liêng một cách viên mãn và đã đề ra một con đường giáo dục thật mới lạ trong lịch sử nhân loại.
Cảm hóa ba anh em ông Kassapa (Ca Diếp) - Giáo chủ thần lửa.
Sau khi sáu mươi vị Tỳ kheo mỗi người đi về một hướng, Đức Thế Tôn cũng đi về hướng Uruvela. Dọc đường, trong một khu rừng nhỏ, Đức Phật đã hóa độ cho 30 thanh niên đang vui đùa cùng vợ của họ và một kỹ nữ ở trong rừng.
Gần Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa) có ba anh em Kassapa: Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa và Gaya Kassapa. Ba anh em ông là những người có danh vọng lớn ở Magadha, đặc biệt là người anh cả Uruvela Kassapa; ông này thờ thần lửa và tự cho mình đã chứng quả A La Hán trọ qua đêm và bị cố ý thu xếp cho ở căn phòng thờ thần lửa có một con rắn chúa rất độc và dữ tợn, Đức Phật đã hàng phục con rắn thiêng này, ngoài suy nghĩ của ông Uruvela Kassapa. Tin rằng chính Đức Phật là người đã chứng quả Thánh, chứ không phải là mình, ba anh em ông Kassapa và 1.000 đệ tử đều xin xuất gia theo Phật.
Sau đó, Đức Phật đã đến Gàya Sirà, cách Uruvela không xa lắm. Chính nơi đây Đức Thế Tôn đã thuyết giảng kinh Aditthapariyàya Sutta (bài kinh Lửa Cháy, với chủ đề: thế gian là tòa nhà cháy rực bằng ngọn lửa tham, sân, si, sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, khổ não và thất vọng). Các Tỳ kheo có mặt đều đắc quả A La Hán.
Khi vừa thoát ly gia đình đi tầm đạo, Đức Phật có lúc đã ngụ tại Pàndavapabbata. Vua Bimbisàra (Tần Bà Sa La - Bình Sa Vương) lấy làm cảm kích trước tướng mạo oai nghi và tư cách trang nghiêm, sang trọng, khiêm tốn, đã cho người dò hỏi lai lịch. Sau khi biết được chí nguyện của vị Thái tử đầy hùng tâm này, đức vua xin Ngài hãy trở lại viếng thăm vương quốc Magadha (Ma kiệt đà) do vua cai trị, khi chứng đạo quả.
Nhớ lời hứa xưa, Đức Thế Tôn cùng trên 1.000 đệ tử A La Hán từ Gàya đến Ràiagaha (Vương xá), thủ phủ của vương quốc Magadha giàu mạnh. Và tại đây, vua Bimbisàra hiểu được giáo pháp cao diệu liền chứng Sơ quả và xin quy y Tâm bảo cùng dân chúng tinh xá rộng lớn có tên là Veluvanaràma (Trúc Lâm tinh xá) gần thành Ràjagaha. Có thể coi đây là tự viện đầu tiên ra đời, và vua Bimbisàra là vị thí chủ đầu tiên trong hàng vua chúa. tại tinh xá yên tĩnh những ày, Đức Phật và đại chúng đã nhập hạ một lần 3 năm liên tiếp và ba hạ khác, xa cách nhau.
Thâu nhận Sàriputta (Xá Lợi Phất) và Moggallàna (Mục Kiền Liên)
Gần Ràjagaha có một làng tên Upatissa, còn có tên là Nàlaka, Sàriputta - một chàng trai thông minh - là người ở làng này. Vì xuất thân ở một gia đình quyền quý nhất làng, nên chàng còn được gọi là Upatissa.
Cùng với người bạn thân ở làng Kolita tên gọi Moggallàna, có chung một nhận thức rằng tất cả những thú vui vật chất đều tạm bợ, trống rỗng và vô vị. Hai chàng trai quyết định từ bỏ gia đình, lang thang đi tìm chân lý và thọ giáo với đạo sĩ Sànjaya, người có rất nhiều đồ đệ. Nhưng do không thỏa mãn với giáo lý của vị thầy hữu danh này và sau đó là nhiều đạo sĩ khác, cả hai chia tay nhau và thề hẹn rằng: Nếu ai tìm ra con đường đạo giải thoát trước, sẽ cho người kia hay.
Trong một dịp bất ngờ, Ngài Sàriputta đã xúc động mạnh trước phong thái giải thoát, trầm tĩnh, siêu phàm đang đi trì bình một cách thong dong để giáo hóa mọi người ở thành Ràjagaha của Ngài Assaji (Mã Thắng, Thuyết Thị). Cho rằng đây hẳn là bậc A La Hán, hay cũng là người đang trên con đường dẫn đến đạo giác ngộ, Sàriputta đã - đợi cơ hội và liền đảnh lễ, thưa hỏi: "Kính bạch Tôn giả! Các căn của Ngài thật bình thản, an tịnh. màu da của Ngài thật trong sáng. Vì sao Ngài thoát ly thế tục? Ai là đạo sư của Ngài? Giáo lý của Ngài là gì?".
Trước những câu hỏi chân thật, khiêm tốn và sự khẩn khoản yêu cầu của Sàriputta, ngài Assaji đã đọc tóm tắt giáo lý mà Ngài đã học ở Đức Thế Tôn bằng bài kệ:
"Các pháp do nhân duyên sanh.
Duyên ấy Như Lai đã chỉ rõ,
và dạy phương pháp để chấm dứt,
đó là giáo pháp của bậc Đại Sa môn".
Là người thông tuệ và trí óc đã thuần thục để thấu triệt chân lý sâu xa, dù nó chỉ được gợi ra một cách vắn tắt, Sàriputta đã chứng Sơ quả (Sotàpatti, Tu đà hoàn, Dự Lưu) khi vừa nghe hai câu đầu.
Theo lời giao hẹn, Sàriputta liền thông tin cho bạn thân. Moggallàna cũng đã chứng Sơ quả. Do lời tha thiết yêu cầu của cả hai, Đức Phật đã nhận hai ông vào Tăng đoàn tại tinh xá Veluvana với câu nói đơn giản: "Etha, Bhikkhave!" (Hãy đến đây, các Tỳ kheo!). Nửa tháng sau, Sàriputta chứng quả A La Hán, nhân nghe bài kinh Vedanà Pariggha mà Đức Phật giảng cho đạo sĩ Dighnakha. Ngài Moggalàna đã chứng quả ấy trước đó một tuần. Với cơ duyên lớn, Đức Phật đã triệu tập Tăng chúng và tuyên bố hai vị là Thượng thủ trong Tăng đoàn.
Từ đấy, hai Ngài thường thay mặt Thế Tôn để hướng dẫn Tăng chúng. Đây là thời điểm đánh dấu sự phát triển lớn mạnh của Giáo hội Phật giáo, dưới sự lãnh đạo của Đức Thế Tôn.
III. Đức Phật và thân quyến
Hay tin người con yêu dấu trí tuệ đã thành đạo và đang thuyết pháp giáo hóa nổi danh tại Ràjagaha, đức vua Suddhodana nóng lòng gặp mặt, liền tức tốc sai nhiều sứ giả đến thỉnh Đức Phật về Kapilavatthu. Nhưng chín lần ra đi là chín lần sứ giả đều ở xin xuất gia với Đức Phật. Vị sứ giả thứ mười là Kàludàyi, vốn là bạn thân của Đức Phật khi còn là Thái tử, đến nơi nghe pháp cũng xin xuất gia và cũng chứng Thánh quả như những vị sứ giả trước, nhưng ông Kàludàyi đã chuyển đến Đức Phật lời yêu cầu được gặp mặt của vị vua già yếu.
Sau 2 tháng, Đức Thế Tôn và đại chúng đã về đến Kapilavatthu. Trước đạo phong của Đức Phật, vua Suddhodana đã cúi đầu kính lễ lần thứ ba. Và sau khi Đức Thế Tôn thuyết pháp lần thứ nhất, đức vua đã chứng Sơ quả, và đạt quả thứ hai (Sakkadagami, Tư đà hàm, Nhất Lai) khi nghe bài pháp kế tiếp. Lần thứ ba khi nghe bài pháp có tên Dhammapala Jàtaka (Trì Pháp Túc Sanh truyện, số 447), đức vua đắc quả Anagami (A na hàm, Bất Lai). Với bài pháp này, di mẫu Pajapati Gotami đã chứng quả Sotapana (sơ quả).
Sau này trên giường bệnh, vua Suddhodana lại được Đức Phật về thăm và giảng pháp cho nghe. Đức vua sau 7 ngày tận hưởng pháp lạc và đắc quả A La Hán, đã băng hà trong định tĩnh. Năm ấy, Đức Phật ở tuổi 40 và đang an cư lần thứ năm. Cũng trong hạ thứ năm này, Giáo hội Ni được thành lập. Và ở hạ thứ bảy, Đức Phật đã lên cung trời Tusita (Đao Lợi) thuyết pháp độ chư Thiên và hoàng hậu Maya.
Công chúa Yasodhara (Da Giu Đà La)
Sau khi Thái tử rời bỏ cung vàng, công chúa Yasodhara cũng bỏ hết đồ trang sức, mặc y vàng của người tu sĩ, và trong khoảng 6 năm trường đã thủy chung, tận tình nuôi dạy đứa con độc nhất Ràhula đến tuổi lớn khôn.
Nghe vua cha tán dương đức hạnh của nàng dâu, Đức Thế Tôn đã giảng kinh Candakinnara Jàtaka và nói thêm rằng: "Không phải chỉ kiếp cuối cùng này, mà trong những tiền kiếp, công chúa cũng đã từng bảo vệ, kính mộ và thủy chung với Như Lai".
Sau khi vua Suddhodana qua đời, di mẫu Pajàpati xuất gia làm Tỳ kheo ni, công chúa cũng được xuất gia và đắc quả A La Hán sau đó. Trong hàng Ni chúng, công chúa là người có thần thông bậc nhất. bà nhập Niết bàn năm 78 tuổi. Trong kinh Apadana còn ghi lại những câu kệ do bà giảng thuyết.
Cậu bé Ràhula (La Hầu La)
Ràhula sinh ra đúng ngày mà Thái tử quyết định thoát ly thế tục. Cậu bé trưởng thành trong cảnh không cha, được ông nội và bà mẹ nuôi dưỡng. Khi lên bảy tuổi, cũng đúng vào ngày thứ 7 Đức Thế Tôn lưu lại quê nhà, Ràhula luôn quấn quýt bên chân Đức Phật, nũng nịu đòi gia tài như lời mẹ dặn. Đức Phật quyết định giao "Thất thánh tài" [1] cho cậu bé bằng cách nhận cậu vào Tăng đoàn và trao cho ngài Sàriputta dạy dỗ.
Thật khó tưởng tượng một cậu bé lên bảy có thể sống đời sống cao thượng của bậc xuất trần thượng sĩ. Nhưng Sa di Ràhula vừa thông minh đặc biệt, vừa biết vâng lời chuyên cần tu học. Kinh ghi rằng mỗi sáng vị Sa Di trẻ này dạy thật sớm, bóc một nắm cát tung lên và nguyện: "Mong rằng ngày hôm nay ta học được nhiều như bao nhiêu cát đây... ".
Một trong những bài kinh nổi tiếng mà Đức Phật đích thân dạy cho Ràhula là bài Ambalatthika Rahulovada Sutta, nhấn mạnh về tầm quan trọng của sự chân thật, phương pháp phản tĩnh để diệt trừ mọi ý niệm, lời nói, hành động bất thiện.
Năm lên 18 tuổi, một lần cùng Đức Phật đi khất thực, phong độ và oai nghi quí phái của hai vị tu sĩ xem tựa như thớt ngự tượng dõng dạc cùng đi với tượng con ngoan hiền, như thiên nga của vua dắt con lội trên mặt hồ trong ngự uyển, như hổ chúa oai phong cùng hùm con lẫm liệt. Cả hai Ngài đều có thân hình đẹp đẽ, cả hai đều thuộc dòng dõi quí tộc từ khước ngai vàng cất bước ra đi. Trong lúc chiêm ngưỡng Thế Tôn, Ràhula nảy lên ý niệm nghĩ về thân hình đẹp đẽ của mình và Đức Phật. Biết được ý tưởng đó, Đức Thế Tôn đã nói bài kệ bất hủ "N'etam mama (cái này không phải của ta); N'eso'ham'asmi (cái này không phải là ta); Na me so attatà (cái này không phải tự ngã của ta)" ( Xem Anattalakkhana Sutta, bài II.)
Và sau khi nghe kinh Cùla Ràhulovàda Sutta, Ràhula chứng quả A La Hán. Ngài nhập diệt trước cả Đức Phật và Ngài Sàriputta. Ngài nổi tiếng là người tôn trọng kỹ luật. Bạn bè thân gọi Ngài "Ràhula may mắn", vì đời Ngài có được hai diễm phúc: là con của Đức Phật và chứng ngộ được chơn lý; như trong kệ Theragàthà (Trưởng Lão kệ), Ngài đã đề cập đến điều ấy.
Ngài Ananda (A Nan)
Con của hoàng thân Amitodana, em trai vua Suddhodana, Ananda là anh em chú bác với Đức Phật. Ông sanh ra mang lại niềm hoan hỉ cho hoàng tộc, nên được đặt tên là Ananda (Khánh Hỷ). Hai năm sau khi Phật thành đạo, ông xuất gia cùng với các thanh niên của dòng họ Sakya là Anurudha, Bhaddiya, Bhagu, Kimbala và Devadatta. Không bao lâu, ông chứng Sơ quả khi nghe bài pháp của Đại đức Puna Mantàniputta.
Năm Đức Thế Tôn 55 tuổi, với 8 điều thỉnh cầu mà ông đưa ra là: 1. Đức Phật không ban cho Ngài những bộ y mà thiện tín dâng cho Đức Phật; 2. Không ban cho Ngài những vật thực mà thiện tín dâng cho Đức Phật; 3. Cho phép không ở chung tinh thất với Đức Phật; 4. Không cho phép Ngài đi theo đến nơi thí chủ chỉ thỉnh Đức Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ đến nơi mà thí chủ chỉ thỉnh Ngài đến; 6. Hoan hỷ cho phép Ngài tiếp dẫn những người từ phương xa đến ra mắt Phật; 7. Hoan hỷ cho Ngài thưa hỏi mỗi khi có điều hoài nghi; 8. Hoan hỷ giảng lại bài pháp mà Đức Phật giảng khi Ngài không có mặt.
Được Đức Phật chấp thuận vói ý nghĩa của nó, và giữa đại chúng, ông được cử làm thị giả Đức Thế Tôn suốt 25 năm trường sau đó. Ông làm công việc của mình thật tận tụy. Kinh ghi rằng, đêm đêm Đại đức Ananda tay cầm gậy, tay cầm đuốc đi chung quanh tịnh thất của Đức Phật 9 lần, để Ngài khỏi bị quấy rầy.
Tôn giả Ananda có một trí nhớ tốt lạ lùng; ông ghi nhớ không bỏ sót tất cả các bài pháp của Đức Phật, cũng như của một số các đệ tử lớn của Ngài, mà ông được nghe qua. Khi có một Bà la môn hỏi Tôn giả nhớ được bao nhiêu bài kinh, Tôn giả trả lời là được 82.000 bài của Đức Phật và 2.000 của các Tôn giả khác thuyết.
Đức Phật đã tán thán 5 đức hạnh của Tôn giả Ananda là học uyên bác, trí nhớ tuyệt hảo, kiên định, săn sóc chu đáo và ứng xử tốt.
Mãi sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, Tôn giả Ananda mới chứng quả A La Hán, trước một ngày Đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất xảy ra, trong khi nghiêng mình nằm xuống. Kinh sách ghi rằng, Ngài là vị A La Hán độc nhất đắc quả ngoài lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Tôn giả mất năm 120 tuổi.
IV. Dì mẫu Maha Pajapati Gotami xuất gia – Giáo hội Ni giới ra đời
Được gọi là Maha Pajàpati bởi vì các nhà tiên tri thời bấy giờ cho rằng về sau bà sẽ cầm đầu một đám đông người. Con trai bà là Nandà, em một cha khác mẹ với Thái tử Siddhattha, cũng được Đức Thế Tôn độ cho xuất gia khi chàng trai này đang tổ chức 3 đại lễ quan trọng: kết hôn, phong tước và khánh thành cung điện mới.
Tuy công bố rằng nữ giới cũng có thể chứng 4 Thánh quả (bà Maha Pajàpati đã chứng Sơ quả, như đã nói ở trước), nhưng con đường tu hành sống không gia đình, khép mình vào khuôn khổ của giáo pháp và giới luật cũng như sứ mạng hoằng hóa độ sanh thật lắm gian nan, khó nhọc, với bản tánh mềm yếu và dễ cảm xúc, phụ nữ khó đảm đương nỗi trách nhiệm thiêng liêng, cao cả lẫn nặng nề của một sứ giả Như Lai. Vì thế mà sau khi vua Suddhodana băng hà, di mẫu dù 3 lần bạch xin xuất gia, Đức Thế Tôn vẫn từ chối không nêu lý do.
Mãi đến khi bà cùng nhiều mệnh phụ phu nhân của dòng Sakya xuống tóc, đắp y vàng, đi bộ từ Kapilavatthu đến Vesàli, đoạn đường gian khổ dài khoảng 200 cây số, đôi chân sưng phồng, thân thế lấm lem cát bụi, đến bên tinh xá Đức Phật khóc than. Và chính nhờ Tôn giả Ananda thay mặt họ vào cầu thỉnh Đức Thế Tôn đến lần thứ tư, Ngài mới chấp thuận cho di mẫu cùng các bà được sống đời sống xuất gia, với điều kiện phải chấp hành 8 điều qui định cho một người nữ trong Tăng đoàn. Khi nghe Ananda thuật lại 8 điều ấy, bà Maha Pajàpati cùng các vị trong đoàn đều hoan hỷ đồng ý, và thế là Giáo hội Ni giới được thành lập.
Khi ưng thuận cho Ni giới được gia nhập vào Giáo hội. Đức Phật cũng đã lưu ý đại chúng nhiều vấn đề. Ngài dạy rằng: "Này Ananda, trong ngôi nhà nào nhiều nữ giới và ít đàn ông thì ăn trộm dễ lọt vào. Cũng dường như thế, nếu hàng phụ nữ sống trong pháp và luật của Như Lai thì giáo pháp thiêng liêng khó duy trì lâu. Cũng như người đắp đê bên một hồ nước rộng lớn cho nước không tràn qua, ta cũng vậy, chế ra Bát kỉnh pháp cho các Tỳ kheo ni để họ tuân thủ trọn đời".
Trong một tổ chức xã hội quy mô nào, ta cũng thấy vì tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của một giới, một đối tượng cá biệt nào đó mà ở trong những nguyên tắc sống, làm việc luôn có những khoản ưu tiên dành riêng cho họ. Đức Phật đã không làm giảm suy giá trị của hàng phụ nữ, mà còn là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn thể, một tổ chức, một giáo hội cho nữ giới với đầy đủ pháp và giới luật. Ấn Độ đương thời với nhiều tôn giáo, nhưng không có một đoàn thể nữ giới nào được sinh hoạt như vậy.
Ít lâu sau, bà Tỳ kheo ni Maha Pajàpati đắc A La Hán. Kinh Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ) còn ghi rất nhiều tên và các bài kệ do các Tỳ kheo ni chứng thánh quả sáng tác.
V. Ông Devadatta (Đề bà đạt ta) và những người chống đối
Mặc dầu gia công kiến tạo hạnh phúc giải thoát cho mọi người với một chủ ý tuyệt đối tinh khiết và hoàn toàn bất vụ lợi, cũng như không có một sự phân biệt nào giữa già ngheo, quyền quý, mạt hạng, trí thức hay u mê, Đức Phật luôn phải đương đầu với nhiều sự đối nghịch mãnh liệt trên con đường chu du hoằng hóa. Ngài bị chỉ trích nghiêm khắc, bị đối xử tàn tệ, chửi mắng và tấn công một cách tàn bạo. Kẻ đối nghịch là những người theo các hệ thống tôn giáo chủ trương những nghi thức dị đoan, tạo ra phong tục vô ích, có hại đến xã hội và ngăn chặn sự tiến bộ của tinh thần, hoặc là những kẻ có tham vọng thấp hèn, vị kỉ. Trong ấy, Devadatta là một điển hình lớn nhất.
Ông là con vua Suppabuddha và hoàng hậu Pamità, một người cô của Đức Phật: công chúa Yasodharà là chị ông. Ông xuất gia cùng một lượt với Đại đức Ananda và các thanh niên hoàng tộc Sakya, tuy không chứng quả Thánh nào, nhưng lại giỏi thần thông và được vua Ajàtasattu (A Xà Thế) ủng hộ tối đa về mọi mặt. Thời gian đầu xuất gia, ông có nếp sống gương mẫu, cao thượng đến độ ngài Sàriputta đã ca ngợi tài đức của ông khắp Pajàgaha. Về sau, danh lợi trần thế đã làm ông thối chuyển, trở nên người sống đồi trụy, tà hạnh, tà kiến; dù vậy, ông có rất đông người ủng hộ. Khi niên thọ Đức Phật đã cao, ông yêu cầu Ngài giao quyền lãnh đạo tăng già, nhưng Đức Phật đã từ chối.
Ông tìm cách xúi giục Thái tử Ajàtasattu (A xà thế) giết vua cha là Bimbisàra để nắm toàn quyền bính và cùng âm mưu hãm hại Đức Phật. Sau đó, các xạ thủ được thuê để giết Đức Phật đều được cảm hóa thành đệ tử. Devadatta tự thân ra tay, bằng cách đẩy một tảng đá lớn từ trên sườn núi Gijihakuta (Linh Thứu) xuống ngay Đức Phật khi Ngài đi ngang qua. May thay, tảng đá ấy va vào một tảng đá khác, vỡ ra nhiều mảnh và chỉ một mảnh vụn làm chân Ngài rỉ máu, và lương y Jìvaka (nhà giải phẫu đại tài của thành Rajàgaha, người chăm sóc sức khỏe cho Đức Phật và đại chúng) đã có mặt liền sau đó. Mưu đồ bất thành, Devadatta lại chuốc rượu mạnh cho voi dữ Nàlàgin và xua nó chạy thẳng đến ngay Đức Phật, nhưng voi cũng bị đức từ bi của Thế Tôn cảm hoá.
Dần dần mất hết uy tín, dư luận lên tiếng mạnh mẽ, vua Ajàtasattu bỏ rơi, Devadatta chuyển qua một mưu toan có vẻ hòa bình hơn. Ông nêu ra 5 yêu cầu đối với sự sinh hoạt của Tăng đoàn, với nội dung rằng: Tỳ kheo phải sống trọn đời trong rừng, phải sống dưới gốc cây, mặc vải vụn lượm ở nghĩa địa, sống bằng khất thực và ăn chay trọn đời. Đức Phật đã đưa ra câu trả lời rất tự do dân chủ, không bắt buộc một cá nhân nào phải tuân theo điều ấy.
Cuối đời không còn một ai ủng hộ, Devadatta rơi vào những ngày đen tối. Lâm bệnh trầm kha, với lòng ăn năn vô hạn, ông mong muốn được gặp Đức Thế Tôn lần cuối cùng, nhưng không còn kịp nữa, chỉ thốt ra câu quy y Phật và trút hơi thở sau cùng.
VI. Những đại hộ pháp
Ngài Anathapindika (Cấp cô độc)
Vị thí chủ quan trọng nhất thời Đức Phật tại tiền phải kể đến là ông Sudatta, người Savatthi. Chuyên làm từ thiện xã hội, nuôi dưỡng chu cấp cho những người quan quả cô đơn, nên ông lại được mọi người tặng cho danh hiệu Trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc - giúp đỡ, trợ cấp cho những người cô đơn, hiu quạnh). Một lần có việc, ông đến thành Ràjagaha, nghe anh rể đang chuẩn bị hôm sau đón Đức Phật quang lâm. Danh từ Phật - Buddha (người tỉnh giác) khiến ông cảm thấy một sự thay đổi lạ lùng trong lòng. "Văn kỳ thinh" đã lâu, nay lại sắp được "kiến kỳ hình", nhưng không thể chờ đợi đến ngày mai; như có một chuyện gì thôi thúc, ngay đêm khuya, ông băng rừng đến nơi Sitavara ra mắt Đức Phật và được cảm độ từ ấy.
Với lời thách thức nữa đùa nữa thiệt của Thái tử Jeta (Kỳ Đà), ông đã đem những đồng tiền vàng lót đầy mặt đất trong khu vườn của Jeta. Lòng tín thành của ông đã gây được lòng ngưỡng mộ của Thái tử Jeta đối với Đức Phật. Sau đó, hiệp với những tàng cây do Jeta cúng, ông xây dựng tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) dâng lên Đức Phật. Chính nơi đây, Đức Thế Tôn trải qua 19 lần an cư kiết hạ. Phần lớn những bài pháp cũng được hình thành ở ngôi tinh xá nằm ở Savatthi này, và nó được nhận biết nhờ qua câu kinh "Xá Vệ, Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc Viên..." (nước Savatthi, cây của Jeta và vườn ông Anathapindika). Các bài pháp liên quan đến hàng cư sĩ đều do công của ông thưa hỏi. Trong một bài pháp nói về hạnh bố thí, Đức Phật đã dạy rằng, cúng dường chỗ ăn, chỗ ở cho chư Tăng là tạo nhiều công đức; nhưng quy y Tam bảo có công đức hơn, và cao hơn là nghiêm trì ngũ giới. Công đức cao hơn giữ giới là thiền quán và từ bi tâm. Nhưng công đức tối thượng phải là phát triển tuệ giác, thể nhập chơn như, thấy được thật tướng của các pháp - Vipassanà (Minh sát tuệ) - (Tăng Chi IV).
Cũng từ gia đình ông trưởng giả này, Đức Phật đã giảng dạy pháp phân chia 7 loại vợ trong cuộc sống kiến tạo hạnh phúc gia đình lứa đôi. Một bài pháp rất tinh tế, thiết thực; một bài học giáo dục đầy tâm lý cho cả xã hội ngày nay và mai sau.
Bà Visàkhà
Vị nữ thí chủ lớn nhất phải đề cập đến đầu tiên là bà Visàkhà, con gái triệu phú Dhananjaya và bà Summanà Devi; ông nội bà cũng là triệu phú tên Mendaka. Bà xây cúng tinh xá Pubbasama, cũng ở Sàvathi (6 mùa an cư đã diễn ra ở đây). Là người phụ nữ được 5 điều diễm phúc: tóc, da, xương, vóc dáng và sức khoẻ tuyệt hảo, bà còn là người công, dung, ngôn, hạnh vẹn toàn, sáng suốt trong công việc thế gian cũng như trong phạm vi tinh thần đạo đức. Bà Visàkhà đóng một phần quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến sinh hoạt Tăng đoàn. Có lần Phật dạy bà đi hòa giải những mối bất đồng giữa các Tỳ kheo ni. Đôi lúc bà thỉnh cầu Đức Phật khai chế một vài giới cấm cho Tăng Ni.
Cha chồng bà là triệu phú Migàra, vốn là tín đồ thuần thành của Nigantha Nataputta, giáo chủ đạo Jain - đạo lõa thể. Bà đã khuyến dụ cả gia đình bên chồng quy y Tam bảo và nhiều người đã chứng quả. Bà qua đời khi đã thọ 120 tuổi.
Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc)
Ngài đại vương Bimbisàra như đã nói đến ở phần trước, và người con kế vị là vua Ajàtasattu, sau khi cải ác tùng thiện đã trở nên một vị đại hộ pháp, một thiện tín lỗi lạc, có công hỗ trợ mọi mặt cho cuộc kết tập Tam tạng lần I. Một đại thí chủ nữa trong hàng vua chúa phải kể đến là vua Pasenadi, trị vì xứ Kosala, có thủ phủ là Savatthi (Xá Vệ). Tu viện Rajakamara là do vua cho xây cúng lên Đức Phật và đại tăng. Hoàng hậu Malika, vợ của vua, là người khéo hướng dẫn phu quân của mình trên con đường đạo đức, quy y Tam bảo. Bà đã khuyên vua nên tham vấn với Đức Phật để hiểu ý nghĩa 16 cơn mộng hơn là giết hại nhiều sinh mạng để tế lễ cầu an theo lời các đạo sĩ Bà La Môn.
Samyutta Nikaya (kinh Tương Ưng) có trọn một chương mang tựa là Kosala Samyutta, là chương Đức Phật giảng cho vua nghe. Trong những bài pháp ấy có những ý được nhấn mạnh như: 1. Đánh giá một người không phải là chuyện đơn giản; 2. Nên coi trọng phụ nữ như coi trọng nam giới: "Itthì hi'pi ekacciyà seyyà" (Trong hàng phụ nữ có người còn tốt hơn nam giới). Với xã hội Ấn Độ thời ấy, phụ nữ không bao giờ được kính nể xứng đáng, lời nói cao quý của Đức Phật thật là một khích lệ lớn lao cho nữ giới; 3. Không nên coi thường giới trẻ (như Thái tử còn trẻ, con rắn còn bé, ngọn lửa nhỏ và Tỳ kheo trẻ); tất cả đều có thể trở thành quan trọng, ý nghĩa sau này; 4. Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù:
Thắng trận sanh thù oán
Bại trận niệm khổ đau
Ai bỏ thắng bỏ bại
Tịch tĩnh hưởng an lạc
(Tương Ưng VII)
VII. Những người cùng đinh mạt hạng
Đạo từ bi giải thoát mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu sang và đẳng cấp xã hội. Một sát nhân như Angulimàla, một dâm nữ như Ambapali, nếu quay về với con đường đạo cũng có thể chứng Than1h quả, như kinh đã ghi lại như sau.
Ông Angulimàla
Có tên là Ahimsaka (người vô tội), con của một quốc sư xứ Kosala, và là một đệ tử lỗi lạc, thân tín của một danh sư ở Trung tâm Giáo dục Taxila nổi tiếng, nhưng do vì lòng ganh tỵ của đồng môn khiến thầy dạy đã hiểu lầm ông và buộc ông phải dâng lên 1.000 ngón tay út để làm lễ cầu pháp.
Ông trở nên là một hiểm họa, một bóng đen thần chết bao trùm lên đất nước Kosala. Sợ quạ ăn những ngón tay kiếm được, ông đành đeo vào cổ nên có hỗn danh là Angulimàla (vòng hoa bằng ngón tay). Đức Phật là người thứ 1.000 ông định sát hại để tròn đủ vòng hoa mà thầy ông yêu cầu. Ông như bừng cơn mơ sát nhân hãi hùng khi nghe người ông đang cố sức rượt đuổi mà không sao đến gần được, thốt lên rằng: "Này Angulimàla, chính ngươi mới phải dừng lại, còn Như Lai đã dừng lại lâu rồi". Ông quăng dao tội lỗi và được xuất gia bởi nhân duyên đó. Bởi tội ác gây ra, ông trở thành một Tỳ kheo luôn bị chửi bới, đánh đập, ném đá ở mọi nơi. Với ông, chuyện đầu cổ tay chân mang nhiều thương tích, máu chảy đầy mình là chuyện cơm bữa. Với tâm ăn năn sám hối cùng với sự nỗ lực tinh tấn thiền định, ông đắc quả A La Hán sau đó.
Bà Ambapàli
Trường hợp kỹ nữ Ambapàli nổi danh tài sắc của thành Vesali là một điển hình khác của sự hóa độ vô phân biệt mà Đức Thế Tôn đang làm.
Trên đường đi Kusinara để nhập Niết Bàn, Đức Phật dừng chân ở vườn xoài của cô gái giang hồ này. Nghe tin, cô liền đến thỉnh Đức Phật và đại chúng về nhà để được cúng dường, dù các nhà quý tộc Licchavi đề nghị đền bù cho cô một số tiền rất lớn để họ có đặc ân làm điều này. Cô phát tâm cúng vườn xoài cho đại tăng, xin xuất gia, và sau sự gia công chuyên cần, cô đạt Thánh quả.
"Như cơn gió lốc thổi dồn tất cả các thứ lá lại một chỗ, Đức Cù Đàm giáo hóa tất cả. Trí thức ngu si, vương giả - bần cùng, nghèo hèn - giàu sang, già cả - niên thiếu, đàn bà - đàn ông, kẻ ác - người thiện, tất cả và hết thảy, Đức Cù Đàm đều mang vào giáo pháp và xem như nhau. Đạo của Đức Cù Đàm là đạo bình đẳng, không phân biệt vậy" (Kinh Đại Báo Ân).
Thật không có lời tán dương nào nói hết được sự vô biên của lòng từ bi, sự bình đẳng trong con đường giáo hóa của Đức Bổn sư.
VIII. Đức Phật tuyên bố nhập Niết Bàn
Đức Phật là một nhân vật phi thường, tuy nhiên còn mang thân ngũ uẩn là còn chịu sự hoại diệt của định luật vô thường. Khi 80 tuổi, thấy niên cao sức yếu, con đường giáo hóa đã viên mãn, Đức Thế Tôn quyết định nhập Niết Bàn tại một làng mạc xa xôi, hẻo lánh là Kusinàrà (cách Patna, thủ phủ tiểu bang Bihar ngày nay 180 dặm - khoảng 300 cây số - về hướng Bắc), mà không phải ở những đô thị lớn như Sàvatthi hay Ràjagaha.
Trong thời gian cuối cùng còn lưu lại Magadha, Đức Phật đã giảng cho đại thần của Ajàtavattu nghe 7 điều kiện thịnh suy của một quóc gia, khi ông này tham vấn Thế Tôn về việc chinh phục nước Cộng hòa Vajjian. Nhân đó, Đức Phật cũng giảng 7 yếu tố thịnh suy của Giáo hội.
Rời Ràjagaha, Đức Phật đi về Ambalatthika, và đến Nàlandà, rồi qua Pàtaligàma; nhân Đức Phật đến viếng nơi này, dân chúng đặt tên cổng thành là Gotama. Từ đó, Đức Phật vượt sông Hằng và hướng về Kotigàma đến làng Nàdika và sau đó đi về Vesàli, nhập Niết bàn cuối cùng tại đây. Mỗi nơi chốn Ngài đi qua đều có dấu ấn của sự tế độ mọi người.
Trong năm này, Đức Phật đã tuyên bố giữa đại tăng: "Này Ananda, Giáo hội các đệ tử còn mong mỏi gì nữa ở Như Lai? Như Lai đã truyền dạy giáo pháp không có sự phân biệt nào giữa giáo lý bí truyền và giáo lý công truyền. Về chơn lý, Như Lai không bao giờ có bàn tay nắm lại của một ông thầy..." Và Ngài đã dạy rằng không nên nghĩ là có một ai phải lãnh đạo Giáo hội và Giáo hội phải tùy thuộc một ai, mà mỗi cá nhân phải là một giáo hội, một hiện thân của giáo pháp chân chánh.
Ngài tiếp lời: ".... Như Lai đã già yếu, gần đến ngày lìa trần. Như Lan đã 80 tuổi, không khác nào cỗ xe quá cũ kỹ phải cần có những sợi dây để cột lại các bộ phận, giữ nó khỏi rời ra...". Và Ngài lại kêu gọi sự nỗ lực tinh tấn, giác tỉnh chánh niệm, khước từ mọi tham ái thế gian, quán niệm Bốn niệm xứ .... của các Tỳ kheo. Ngài nói thêm rằng: "Các ông hãy xem chính mình là hải đảo của mình, chính mình là nơi nương tựa của mình, không nên nương tựa bên ngoài. Hãy xem giáo pháp là hải đảo của các ông, giáo pháp như chỗ nương tựa, không nên nương tựa bên ngoài". Ngài lại đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của nỗ lực cá nhân.
Mặc dầu tuổi cao sức yếu, Đức Phật luôn vận dụng mọi cơ hội để khuyên dạy các Tỳ kheo bằng nhiều phương thức khác nhau.
Ở Càpalà, Đức Thế Tôn tuyên bố 3 tháng sau nhập Niết Bàn.
Trước đây, Đức Thế Tôn đã tạo cơ hội cho Ananda thỉnh cầu sự trụ thế lâu dài hơn nữa của Ngài, nhưng Ananda đã vô tình bỏ qua; giờ nghe Đức Phật tuyên bố như vậy, Ngài liền khẩn cầu nhưng bị từ chối.
Trước khi cùng Ananda đi về Mahàvana, Đức Phật đã giảng cho đại chúng nghe về tính cách vô thường của cuộc sống khi thấy họ quá u sầu não.
Triệu tập Tăng chúng quanh thành Vesàli, Đức Phật nói lời cuối cùng và đưa mắt nhìn thành phố này lần chót và đi về Kusinara. Trên đường đi, Ngài dừng lại nhiều nơi để hóa độ kẻ hữu duyên. Ở Pava, người thợ rèn Cunda (Thuần Đà) cúng dường cho Đức Phật món sùkasamaddhara (nấm rừng). Ngài hoan hỷ nhận lãnh và dặn kỹ nên chôn phần còn lại. Sau bữa cơm này, Đức Phật bị kiết lỵ rất nặng. Với tinh thần bình thản, Ngài nói những lời chúc phúc để trấn an và thanh minh cho Cunda và từ giã đi về Kusinara cách Pava 6 dặm (khoảng 9 cây số), nơi có dòng tiểu vương của bộ tộc Malla ở.
Đến nơi, giữa hai tàng cây sala, Ngài nằm tĩnh lặng, nghiêng mình về hông mặt, chân trái để trên chân phải duỗi thẳng, đầu quay về hướng Bắc. Cây sala trổ bông trái mùa như để cúng dường cho ngài đại tang. Mọi người mọi cách biểu hiện sự kính lễ. Đức Phật lại dạy cách tỏ lòng kính ngưỡng và tôn sùng Đức Thế Tôn là hãy tuân thủ giáo pháp, tinh tấn tu hành, phẩm hạnh trang nghiêm.
Kế đó, Ngài đề cập đến 4 thánh tích (nơi Đản sanh, Thành đạo, Chuyển pháp luân lần đầu tiên và nơi Nhập diệt) liên quan đến đời sống của một Đức Phật, nếu với lòng thành kính chiêm bái sẽ được nhiều lợi lạc.
Sau khi độ cho tu sĩ ngoại đạo Subhadda và đây là người đệ tử sau cùng, Đức Thế Tôn bảo Ananda báo cho dân chúng người Malla biết rằng Ngài sẽ nhập Niết bàn vào canh cuối đêm nay, cũng như căn dặn Ananda không nên bận tâm với việc phải làm vẻ vang long trọng đối với nhục thể của Như Lai, mà hãy tận lực tinh tấn để chu toàn hạnh phúc cho chính mình.
Được tin qua hàng nước mắt ràn rụa của Tôn giả Ananda, dân chúng Malla thành Kusinara tấp nập kéo về quây quần quỳ bên Đức Phật, cùng rừng cây sala chứng kiến giây phút thiêng liêng duy nhất trong đời và nghe những lời dạy sau rốt của Đức Bổn sư: "Này Ananda, đừng nghĩ rằng chỉ còn lại giáo pháp cao cả mà không còn bậc Đạo sư nữa. Pháp và luật mà ta đã dạy bảo, đó là Đạo sư của các ông. Này Ananda, Tăng chúng nếu muốn có thể bỏ các giới luật phụ và nhỏ, sau khi Như Lai nhập diệt. Có một nghi ngờ, thắc mắc, phân vân gì liên quan đến Phật Pháp Tăng, đến đạo, đến phương pháp, hãy hỏi đi, đừng để sau này hối tiếc". Đức Thế Tôn nói như vậy ba lần, nhưng cả đại chúng đều im lặng.
Và Đức Đạo Sư đã khuyến tấn các đệ tử câu cuối cùng:
"Hỡi các đệ tử, Như Lai khuyên các con, các pháp hữu vi đều vô thường, hãy tận lực, liên tục chuyên cần".
Đó là di huấn tối hậu của Đức Thế Tôn.
Thế rồi Đức Bổn sư yên lặng nhập và xuất sơ thiền. Lần lượt nhị thiền v.v... đến nhập và xuất Diệt thọ tưởng định. Ngài lại nhập và xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ định và lần lượt ngược trở lại đến nhập và xuất sơ thiền. Và khi nhập và xuất lần thứ hai ra khỏi tứ thiền, Đức Thế Tôn nhập Vô dư Niết bàn.
Kim thân của Đức Phật được đưa đến Makutabandhana để cho mọi người chiêm bái, và sau 7 ngày được cử hành lễ trà tỳ dưới sự tổ chức của ngài Maha Kassapa. Xá lợi được chia làm 8 phần theo thỏa thuận của cuộc họp do ngài Maha Kassapa, đại vương Ajàtasattu và ông Dona đứng chủ trì và phân phối cho 8 quốc gia lớn nhỏ cùng dân tộc Malla, xây tháp tôn thờ. Ông Dona xin được thờ phụng cái bình đựng xá lợi khi vừa thiêu xong. Những người Maurya ở Pipphalirana vì đến chậm, xin được lấy tro tàn của giàn hỏa để dựng tháp mà lễ bái.
Hình dáng của Như Lai khuất dạng từ đây. Con đường hoằng pháp lợi sanh của Đức Phật kéo dài hơn 45 năm. Từ lúc thành đạo cho đến lúc nhập Niết Bàn, Ngài không ngừng phục vụ chúng sanh bằng hai lối đời sống của chính bản thân và những lời dạy. Suốt cả con đường, đôi lúc đi một mình, lắm khi cùng đại chúng, từ làng mạc, rừng núi đến thung lũng đồi cao, ở xã thôn nghèo khổ đến phố tứ phồn hoa. Ngài đều có mặt và đưa tất cả trở về với giáo pháp chơn như, giáo pháp của từ bi, tự do, dân chủ, bình đẳng, giải thoát.
Với sự hy sinh cao cả, lòng từ bi rộng lớn và một ý chí độ sanh dũng mãnh của Đức Phật, ta có thể tán dương hay quan niệm Ngài là vĩ nhân trên tất cả những vĩ nhân, siêu nhân đứng trên mọi siêu nhân. Nhưng lời tán dương, việc làm tôn vinh, kính ngưỡng Đức Phật đúng đắn nhất, ý nghĩa nhất phải là như lời dặn dò của Bổn Sư trước lúc Ngài ly trần:
"Này Ananda, không nên tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai theo cách như vậy. Bất cứ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nào sống đúng với chánh pháp, tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh, thì chính người đó, tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai một cách tốt đẹp nhất".
Ý Nghĩa Phật Đản
Hoà Thượng Thích Trí Quảng
Cách đây 2600 năm, Đức Phật đã xuất hiện trên cuộc đời với tư cách một người hoàn hảo có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, sức khoẻ phi thường, thông minh tuyệt đỉnh và tâm từ bi bao la. Mặc dù sống trong nhung lụa đầy đủ hạnh phúc của bậc đế vương, Ngài vẫn không màng đến nếp sống xa hoa vật chất . Ngài đã xuất gia, dấn thân đi tìm đời sống vĩnh hằng . Trải qua 5 năm tìm đạo, 6 năm khổ hạnh sau đó thiền định dưới cội cây Bồ đề, Ngài đã đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác .
Trên bước đường độ sanh , Đức Phật đã giáo hoá 5 anh em Kiều Trần Như, trưởng lão Xá Lợi Phất , 3 anh em Ca Diếp v.v…tạo thành một Tăng đoàn thánh thiện cùng tùy tùng với Ngài là 1250 vị Thánh . Ngoài ra còn có các vua chúa kính nể quy y với Đức Phật , các Thầy Ba la môn hay ngoại đạo dù người nghe danh theo Ngài hay chống báng cũng phải kính phục Đức Phật.
Có thể khẳng định cuộc đời của Đức Phật toàn thiện, toàn mỹ và Ngài giáo hoá độ sanh, xây dựng nên một giáo đoàn thánh thiện nhất thời bấy giờ . Và mãi cho đến ngày nay, trải qua hàng ngàn năm, sức sống ấy vẫn còn phát triển mạnh . Thử nghĩ nguyên nhân nào giúp cho Đức Phật thành tựu và làm cho tư tưởng của Ngài vượt thời gian dài hơn 25 thế kỷ, phổ biến đến ngày nay, tỏa ra sức sống thật mãnh liệt.
Theo tinh thần Đại thừa, sanh thân của Đức Phật là kết tinh của 3 thân mà người bình thường không thể có được : Ứng hoá thân, Báo thân và Pháp thân . Ứng hoá thân Phật là sanh thân bề ngoài của Ngài mà mọi người thấy được bằng mắt và cảm kích được .
Tuy nhiên, mọi người cảm phục Đức Phật là cảm phục trí tuệ, tài năng và đức hạnh của Ngài, chính những tinh ba này nằm trọn vẹn trong Báo thân Phật . Và Đức Phật vượt trội hơn mọi người, trở thành bậc toàn giác cũng chính là vì Ngài đã thể hiện trí tuệ, tài năng và đức hạnh một cách hoàn hảo trong cuộc sống đời thường . Thật vậy, chúng sanh cấu tạo thân bằng tội lỗi, nghiệp ác nên họ không muốn mà vẫn phải mang thân xấu xí, bệnh hoạn, ngu dốt, tài hèn sức mọn, không đạo đức không được người kính phục v.v…Trong khi thân Phật kết hợp bằng phước đức và trí tuệ do công phu tu hành Bồ tát đạo trải qua nhiều đời, nên Ngài có thân tướng hảo, được mọi người kính quý, thành công những việc tốt lành nhất, giải quyết những vấn đề khó nhất, kết hợp mọi người cùng sống trong tình thân ái bao la.
Thân phước đức trí tuệ hay Báo thân đã ảnh hưởng qua sanh thân Ngài, khiến cho chúng nhìn thấy sanh thân Phật, họ liền phát tâm Bồ đề và lập hạnh giống Phật, sống theo Phật , tạo thành Pháp thân.
Sanh thân Phật là thân hữu hạn, tất nhiên có hoại diệt nhưng hai thân :Báo thân và Pháp thân của Ngài sẽ tồn tại mãi mãi . Quả thật, Báo thân hay những việc làm thánh thiện của Đức Phật vẫn là bài học ngàn vàng cho chúng ta noi theo, trí tuệ siêu tuyệt của Đức Phật vẫn là kim chỉ nam soi đường dẫn bước cho nhân loại được giải thoát an vui, đức độ của Phật vẫn là nơi nương tựa an lành nhất cho những người đang nối gót theo Ngài.
Pháp thân Phật vẫn hằng hữu qua sự hiện diện của những người đã tin Phật, đã thể nghiệm lời nói hành động, việc làm giống như Phật ; khiến cho người khác trông thấy phải liên tưởng đến Phật . Kinh Pháp Hoa gọi đó là thế gian tướng thường trụ .
Nhận thức sâu sắc tinh thần này, muốn duy trì Phật Pháp dài lâu, Tăng Ni Phật tử phải suy nghĩ nói năng , hành động và làm giống Phật . Có như vậy, Pháp thân Phật chắc chắn tồn tại và tiếp tục hướng dẫn được cho người đi theo chánh pháp . Thực tế cho thấy nơi nào có người thực hiện được điều này trong cuộc sống, thì Phật Pháp hưng thạnh . Nếu chỉ giống về hình thức, nhưng việc làm và lời nói trái với Phật, rõ ràng làm cho Phật Pháp suy đồi .
Trong niềm vui của ngày Khánh đản, Tăng Ni Phật tử cần nỗ lực tu học, thể hiện lời Phật dạy trong cuộc sống, mang lợi ích an vui cho mình và người . Đó là thành qủa mà chúng ta dâng lên cúng dường Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni trong muà Phật đản.
MỤC LỤC
1. Lời nói đầu Trang 2
2. Lịch sử hình thành Sài Gòn Trang 3 – 12
3. Hướng dẫn du lịch TP.HCM Trang 13 – 19
4. Các bảo tàng tại TP.HCM. Trang 19 – 56
- Bảo Tàng Phụ Nữ Nam Bộ Trang 20 – 23
- Bảo Tàng TP.HCM Trang 23 – 24
- Bảo tàng lịch sử Việt Nam chi nhánh TP.HCM Trang 24 – 44
- Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh Trang 44 – 53
- Bến Nhà Rồng (Bảo Tàng Hồ Chí Minh, chi nhánh TP.HCM) Trang 54 - 56
5. Danh sách các bảo tàng ở TP.HCM Trang 56 - 58
6. Điểm Cần Thuyết Minh-Thành Phố Hồ Chí Minh Trang 58 – 72
- Dinh Độc Lập (Hội Trường Thống Nhất) Trang 59 – 62
- Toà nhà Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM Trang 62 – 66
- Học viện hàng không Việt Nam Trang 66
- Bưu Điện TP.HCM Trang 70 – 72
7. Các ngôi chùa ở TP.HCM Trang 72 – 88
- Chùa Hoằng Pháp Trang 72 – 74
- Chùa Bửu Long Trang 74 – 76
- Pháp Viện Minh Đăng Quang Trang 76 – 80
- Việt Nam Quốc Tự Trang 80
- Thiền Viện Vạn Hạnh Trang 80 – 81
- Chùa Xá Lợi Trang 81
- Chùa Giác Lâm (chùa Cẩm Đệm) Trang 81 – 82
- Chùa Bát Bửu Phật Đài (Phật Cô Đơn), Chùa Nam Thiên Nhất Trụ (Một Cột) Trang 82
- Chùa Huê Nghiêm Trang 82 – 84
- Chùa Giác Viên Trang 84 – 85
- Chùa Vĩnh Nghiêm (Tổ Đình Vĩnh Nghiêm) Trang 85 – 87
- Chùa Ấn Quang Trang 88
8. Chùa và Miếu của Người Hoa Trang 88 – 101
- Chùa Ông Trang 88
- Chùa Phước Hải (Miếu Ngọc Hoàng) Trang 88 - 94
- Miếu Nhị Phủ Trang 94
- Miếu Bà Thiên Hậu Trang 94 – 98
- Chùa Miếu Nổi (Phù Châu Miếu) Trang 98 – 101
9. Các Khu Du Lịch Ở Sài Gòn Trang 101 – 106
- Khu du lịch Văn Hoá Suối Tiên (Suối Tiên Fram) Trang 101 – 102
- Khu du lịch Đầm Sen Trang 102 – 104
- Công Viên Văn Hoá Lịch Sử Các Vua Hùng Trang 104 – 106
10. Nhà Thờ Ở Sài Gòn Trang 106 – 114
- Nhà Thờ Đức Bà Trang 106 – 107
- Nhà thờ Tân Định Trang 108 – 108
- Nhà Thờ Ba Chuông Trang 108 – 112
- Nhà thờ Huyện Sỹ Trang 112 – 113
- Nhà thờ Chợ Quán Trang 113 – 114
11. Vườn cây ăn trái Lái Thiêu Trang 114 – 115
12. Phố Cổ Tại Sài Gòn Trang 115 – 116
13. Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ Trang 116 – 134
14. Vườn Cò Thủ Đức Trang 134 – 135
15. Lăng Lê Văn Duyệt Trang 135
16. Đền Thờ Hùng Vương Trang 135 – 136
17. Nơi Bác Hồ đã từng sinh sống trước khi ra đi tìm đường cứu nước tại TP.HCM. Trang 136 – 141
18. Di tích địa đạo Củ Chi Trang 141 – 144
19. Di tích lịch sử địa đạo Bến Dược Trang 144 – 145
20. Di tích lịch sử địa đạo Bến Đình Trang 145
21. Khu nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM Trang 145 – 146
22. Một số quán ăn ngon tại TP.HCM Trang 146 – 149
23. Các quán café nổi tiếng ở TP.HCM. Trang 149
24. Một số nông trại ở TP.HCM Trang 150 – 179
25. Một số chuyên đề về Sài Gòn Trang 172 – 232
26. Chợ ở Sài Gòn Trang 232 – 236
27. Bốn đại thương gia Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Sườn, Tứ Hoả Trang 236 – 238
28. Chuyên đề về người Hoa Trang 238 – 241
29. Chuyên đề về đạo Phật Trang 241 - 251