Cam Ranh nay là thành phố trực thuộc tỉnh Khánh Hoà, cách thành phố Nha Trang 45 km về phía Nam, toạ lạc bên bờ vịnh Cam Ranh - một vịnh biển tự nhiên nổi tiếng, được xem là một trong 3 cảng tốt nhất thế giới có vị trí đặc biệt quan trọng cả về kinh tế và quốc phòng. Với diện tích khoảng 690 km2 nhưng điều kiện tự nhiên lại rất đa dạng bao gồm đồi núi, đồng bằng, biển, vịnh và đảo và bán đảo, trong đó yếu tố biển-vịnh, đảo và bán đảo nổi trội, là cơ sở quan trọng để Cam Ranh trở thành nơi hội tụ những đặc sắc văn hoá biển vào bậc nhất ở nước ta.
Tên gọi Cam Ranh có thể bắt nguồn từ tiếng Chăm, Jarai hoặc Êđê là Kăm
M’ran, trong đó Kăm là dồn một chỗ, một đống, tập trung lại, hay gọi là bến;
M’ran có nghĩa là tàu, thuyền, đò; nghĩa chung là: nơi tàu thuyền tập trung hay
gọi là bến tàu, bến thuyền; sau này phiên âm sang tiếng Việt từ Kăm M’ran đọc
thành Cam Ranh. Đây cũng là vùng đất chứa đựng những dấu tích văn hoá lâu đời,
di chỉ Xóm Cồn (phường Cam Linh), Hoà Diêm (Cam Thịnh Đông), Văn Tứ Đông (Cam
Hoà) là những di chỉ khảo cổ học từ thời đại kim khí và kết quả nghiên cứu cho
thấy các di chỉ này đều gắn liền với biển. Người Việt đến nơi này vào khoảng thế
kỷ XVII. Từ đây, họ đã dệt nên một văn hoá biển cho riêng mình trong sự giao
lưu, tiếp biến văn hoá với các nhóm cư dân Nam Đảo và gần nhất, đậm nét nhất là
người Chăm.
Thành phố Cam Ranh là dải đất liền nằm bên quốc lộ 1A trải dài bên bờ vịnh
Cam Ranh gồm 9 phường, 5 xã, trong đó hầu hết các xã, phường đều có biển. Cư
dân ở đây sinh sống bằng nhiều nghề khác nhau, trong đó nghề biển chiếm số
đông, tập trung vào các lĩnh vực: đóng tàu, khai thác hải sản, nuôi trồng hải sản,
làm muối, làm mắm, chế biến hải sản, du lịch biển đảo... Cảng Cam Ranh (tiền
thân là cảng Ba Ngòi) là một cảng lớn. Đây là cảng thương mại quốc tế nằm trong
vịnh Cam Ranh, nơi hội tụ những điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội hết sức
thuận lợi cho phát triển dịch vụ cảng biển. Vì vậy, từ lâu cảng đã là đầu mối
giao thông đường biển quan trọng cho khu vực Nam Khánh Hoà và các tỉnh lân cận.
Với một bề dày truyền thống biển dày dặn, con người nơi đây đang lưu giữ
những giá trị văn hoá tinh thần riêng biệt. Ngoài những sáng tác văn học - nghệ
thuật dân gian, những tín ngưỡng và cơ sở tín ngưỡng mang màu sắc chung của biển
Nam Trung Bộ, Cam Ranh còn có một ngôi chùa rất đặc biệt – chùa Từ Vân. Chùa Từ
Vân (toạ lạc tại phường Cam Linh) còn được gọi là chùa Ốc. Tên gọi chùa Ốc có từ
năm 1995 trong giai đoạn trùng hưng. Chùa bắt đầu được xây dựng từ năm 1969,
nhưng khác với tất cả các ngôi chùa khác, đúng như tên gọi của nó (chùa Ốc),
ngôi chùa này rất đặc biệt về mặt kiến trúc. Hệ thống tháp, tượng và động được
làm bằng san hô, một loại vật liệu quý giá từ biển. Hoà thượng trụ trì Thích
Thông Anh cho biết: Từ năm 1985 đến nay, chùa đã xây dựng các công trình bằng 2
vạn tấn san hô, rất nhiều vỏ ốc, sò được dùng trang trí và toàn bộ công trình đều
do các nhà sư tự thiết kế, xây dựng, trang trí hoàn toàn bằng phương pháp thủ
công trong suốt khoảng 20 năm. Đây được coi là tháp bảo tích duy nhất, độc đáo nhất
ở Việt Nam được làm bằng những vật liệu từ biển. Những vòm cửa phủ kín hoa văn
vỏ ốc, vỏ sò bất kể mưa hay nắng, buổi sáng sớm hay lúc xế chiều, ánh xà cừ vẫn
lấp lánh, tinh khôi như mặt trăng, mặt trời thấm đẫm màu xanh cô ban của biển...
Xã Cam Bình là một vùng đảo gồm 2 đảo: Bình Ba và Bình Hưng, cách nhau
khoảng 3 hải lý, cách cầu tàu Ba Ngòi khoảng 70 hải lý. Người ta nhắc nhiều đến
Bình Ba bởi đó là một hòn đảo khá hoang sơ, tuyệt đẹp, với vị trí độc đáo, án
ngữ ngay cửa biển, vì vậy nó có tên là Bình Ba (bức bình phong che chắn gió).
Người Việt đặt chân đến hòn đảo này từ khoảng nửa đầu thế kỷ XIX. Họ chủ yếu sống
bằng nghề biển, làm mắm, làm muối, chế biển hải sản, những năm gần đây phát triển
mạnh nghề nuôi tôm hùm lồng và dịch vụ du lịch biển đảo. Mặc dù khoảng cách với
đất liền không phải là quá xa, nhưng văn hoá nơi này mang tính chất đảo rõ rệt
với những biểu hiện cụ thể cả trong đời sống vật chất và tinh thần. Bình
Ba dày đặc những cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng liên quan đến biển: Lăng Ông Nam Hải,
tịnh xá Ngọc Tràng, chùa Bình Ba, dinh Cố, miếu Ngũ Hành, điện Quan Âm, khu Địa
Tạng, Cóc Ngọc Hương... Tín ngưỡng dân gian và niềm tin mạnh mẽ về những vị thần
linh bảo trợ cho ngư dân chính là biểu hiện dễ thấy của cư dân có cuộc sống không
phải ở đất liền, gắn liền với biển, môi trường kiếm sống vô cùng giàu có nhưng
cũng không ít hiểm nguy. Việc thờ cúng, tiến hành nghi lễ hàng năm tại đây được
tổ chức rất trang trọng, tuân thủ nghiêm ngặt các thể thức truyền thống, trong
đó, tín ngưỡng thờ Ông Nam Hải và lễ hội Cầu Ngư là tín ngưỡng – lễ hội lớn nhất.
Câu chuyện về đầu cá Ông trôi dạt về đây trong tâm thức mỗi người như một món
quà thiêng liêng, quý giá mà biển cả và thần linh trao tặng cho những ngư dân
bám đảo, bám biển...
Nói đến Cam Ranh không thể không nói đến Vịnh Cam Ranh và bán đảo Cam
Ranh. Chính bán đảo Cam Ranh với những dãy núi đã bao lại phần ăn sâu vào đất
liền của biển, tạo nên một vùng nước rộng bên trong – vịnh Cam Ranh, vịnh biển
tốt nhất, cảng biển tốt nhất, có thể đón tàu biển có trọng tải lớn và là quân cảng
cơ động nhất Việt Nam và khu vực.
Bán đảo Cam Ranh và vịnh Cam Ranh có vị thế địa kinh tế và địa chính trị
to lớn, ngày nay trở thành một trong những căn cứ hải quân quan trọng, chủ yếu
phục vụ quốc phòng và phát triển kinh tế du lịch biển, cảng biển hiện đại. Những
con người đã và đang sống, làm việc tại đây, đặc biệt là lực lượng hải quân, lại
tiếp tục tiếp nối truyền thống văn hoá biển của dân tộc nói chung, sáng tạo nên
mảng văn hoá bảo vệ chủ quyền biển đảo thời kỳ hiện đại. Căn cứ hải quân Cam
Ranh là cảng neo đậu, là nơi cho tàu hải quân xuất phát làm nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển đảo, bảo vệ ngư dân, bảo vệ tài nguyên biển... Biển đảo, con tàu là
tình yêu trực tiếp, lớn lao nhất, chi phối mọi hoạt động văn hoá của người chiến
sĩ hải quân. Họ sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi nhân dân và Tổ quốc cần, sẵn sàng hy
sinh vì bình yên biển, đảo. Các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng phản
ánh rõ nét hoạt động tâm linh của những người lính nói riêng, của nhân dân và bộ
đội ở Cam Ranh nói chung. Ngôi chùa yên tĩnh, uy nghiêm hướng mặt về lòng vịnh,
Phật Bà Quan Âm giang tay phù hộ sự bình yên cho những người lính ra khơi làm
nhiệm vụ. Tượng đài hữu nghị Việt – Nga như một biểu tượng của tình bạn vĩ đại,
nơi tri ân những anh hùng liệt sĩ của lực lượng hải quân Liên Xô và Việt Nam tại
bán đảo Cam Ranh vì sự hoà bình và ổn định của khu vực. Khu tưởng niệm chiến sĩ
Gạc Ma kể về câu chuyện bi tráng của “những người nằm lại phía chân trời”, là
“vòng tròn bất tử” trong trái tim chiến sĩ hải quân và nhân dân cả nước...
Đặc sắc văn hoá biển đảo ở Cam Ranh vừa thể hiện ở sự đa dạng, phong
phú, vừa thể hiện ở mức độ và sắc thái của nó trong sự so sánh với các địa
phương, các vùng có biển, có đảo khác trong phạm vi cả nước. Một vùng tự nhiên
núi non, đất liền, vịnh – biển, bán đảo và đảo liên hoàn, đan xen nhau làm nên
một tổng thể cảnh quan vô cùng đặc sắc và quyến rũ hiếm có với bức tranh văn
hoá biển mà con người nơi đây đã và đang sáng tạo nên là viên ngọc quý cần nâng
niu, gìn giữ, phát huy và mài giũa một cách cẩn trọng. Một “bảo tàng” về văn
hoá biển Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại đang hiện hữu ở nơi này!
Vịnh Cam Ranh: Cảng Nước Sâu Tuyệt Đẹp Tại Khánh Hoà
Vịnh Cam Ranh là một cảng biển sâu nằm tại thành phố Cam Ranh và huyện
Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa. Cách thành phố Nha Trang 60 km về phía Bắc, với diện
tích gần 60 km2 và độ sâu trung bình từ 18-20m. Bên cạnh đó, Vịnh Cam Ranh còn
được bao bọc xung quanh bởi các hòn đảo, tạo thành một không gian khép kín.
Vịnh Cam Ranh, sở hữu đường bờ biển vô cùng dài với nhiều bãi biển ấn
tượng, gây dấu ấn mạnh mẽ với khách du lịch bởi thiên nhiên hoang sơ nhưng vô
cùng quyến rũ. Chính vì thế, Vịnh Cam Ranh đang ngày càng nổi tiếng và được nhiều
người biết đến trong những năm gần đây.
Nhắc đến Vịnh Cam Ranh, bạn chắc chắn không thể không nhắc đến các hòa
đảo gắn liền với cuộc sống của vịnh là đảo tôm hùm Bình Ba, đảo ngọc thô Bình Hưng, đảo thiên đường Bình Lập
và Bãi Dài chạy dọc Cam Ranh ra đến sân bay, mỗi hòn đảo đều mang một vẻ đẹp
riêng tuy nhiên tất cả đều là những hòn ngọc sáng lấp lánh và ngày càng thu hút
nhiều du khách đến khám phá.
Bên cạnh những cảnh đẹp hoang sơ đã quá quen thuộc thì bạn cũng có thể
khám phá rất nhiều nơi khác tại Cam Ranh như Dọc bờ biển có vùng đồng bằng tuyệt
đẹp gồm Ba Ngòi, Đá Bạc, Bao Giếng và vùng bán đảo bên kia vịnh gồm Mỹ Ca, Bình
Ba, Vũng Nồm và đặc biệt là cửa biển Thủy Triều nơi có sò huyết ngon nhất,...
Đặc biệt, ngày nay khi đến với Vịnh Cam Ranh, bạn còn có cơ hội trải
nghiệm vô vàn các khu nghỉ dưỡng được xây dựng từ sân bay ra đến tận thành phố
Nha Trang.
Vịnh được đánh giá là nơi có mặt nước biển sâu nhất Đông Nam Á, là địa
điểm lý tưởng dành cho các thuyền bè trú ẩn khi biển động. Bên cạnh đó, Vịnh
Cam Ranh còn là căn cứ hải quân quan trọng của Hạm đội Thái Bình Dương của Liên
Xô.
Với lợi thế vừa rộng, vừa sâu lại vừa kín (do bốn bề đều có núi đá vây
quanh, suốt năm nước lặng như tờ), Cam Ranh có thể đón tàu biển trọng tải lớn
khoảng 10 vạn tấn vào tận cảng và tàu 20 vạn tấn đậu ở ngoài cửa vịnh.
Vẻ đẹp của Vịnh Cam Ranh vốn nổi tiếng từ lâu, núi và biển nơi đây kết
hợp với nhau tạo thành bức tranh thiên nhiên tuyệt tác. Cam Ranh thuở xưa thật ồn
ào, náo nhiệt, nhưng nay thì êm ả, bình lặng. Phố xá nơi đây đông vui là thế,
nhưng về đêm lại yên tĩnh lạ thường. Khách du lịch đến Cam Ranh được thưởng thức
phong cảnh hiếm có: núi và biển kết hợp với nhau thành một bức tranh tuyệt diệu.
Trước đây, Cam Ranh được biết đến như một căn cứ quân sự quan trọng tại
Thái Bình Dương và vùng biển Đông, có vị trí đặc biệt về an ninh quốc phòng.
Ngày nay, Cam Ranh là cảng hàng không và cầu nối quan trọng nối liền với huyện
đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.
Với vẻ đẹp êm đềm và không khí trong lành, Cam Ranh là một trong những
vịnh nước sâu tự nhiên tốt nhất thế giới. Từ năm 2004, Cam Ranh đã trở thành một
trung tâm phát triển vượt bậc với sự ra đời của cảng hàng không.
Địa thế Cam Ranh có 4 ngọn núi án ngữ ở bốn phía mang dáng dấp 04 con
linh vật: Long – Lân – Quy – Phụng. Đó là Hòn Lân (hướng tây), Hòn Rồng (hướng
bắc), Hòn Quy (hướng nam) và Hòn Phụng ở hướng đông thành phố.
Vịnh Cam Ranh được chia cắt thành nhiều bãi tắm riêng biệt, độc lập với
nhiều kiểu dáng và kích thước khác nhau, độ sâu không hẫng hụt, nước biển
trong xanh, sóng êm, bờ cát trắng mịn, nền cát cứng. Đó là bãi Nạn, bãi Tàu Bể,
bãi Ngang, bãi Xích, bãi Ông Đụng, bãi Lếch, bãi Cồn trên bán đảo Mũi Hời, bãi
Bồ Đề, bãi Sau, bãi Nhà Ngang, các bãi tắm Khu du lịch Ngọc Sương…
Ấn tượng đầu tiên khi đặt chân đến Cam Ranh là nắng, đây là cái nắng
nóng hổi mang vị mặn của biển, của đất, của cát ôm trọn lấy người, làm nên sự
khác biệt khó quên mỗi khi đến đây…
Nếu bạn có dịp ghé thăm Cam Ranh có thể đi thuyền từ cảng Ba Ngòi ra đảo
Bình Ba mất khoảng 60 phút. Bình Ba quanh năm lộng gió, sóng lớn và cảnh đẹp
như tranh vẽ, nơi có Bãi Nồm, làng chài sầm uất, quanh năm êm đềm. Món ăn ở đây
phong phú, đặc biệt là món tôm hùm Bình Ba nổi tiếng, được đánh bắt và nướng
ngay tại chỗ.
Sở dĩ Cam Ranh mang tính chiến lược quân sự bởi lẽ đây được cho là cảng
nước sâu nhất khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, nằm giữa các tuyến đường biển
quan trọng hàng đầu thế giới đi qua Biển Đông.
Vịnh Cam Ranh nằm ở vị trí chiến lược quân sự quan trọng và đã được sử
dụng làm căn cứ chiến lược bởi các nước Pháp, Hoa Kỳ và Liên Xô trong quá khứ.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, Vịnh Cam Ranh trở thành nơi đặt căn cứ hải quân quan
trọng ở Đông Dương.
Do đó, kể từ năm 2004, Vịnh Cam Ranh đã được Việt Nam thu hồi và chuyển
dần sang mục đích quân sự thay vì cho người nước ngoài thuê như trước đó. Tháng
9/2014, bộ Quốc phòng phê duyệt dự án đầu tư xây dựng khu dịch vụ hàng hải và
cung ứng tàu biển ở Cam Ranh. Và ngày 8/3/2016, tại căn cứ quân sự Cam Ranh,
Quân chủng Hải quân Việt Nam tổ chức lễ khai trương cảng quốc tế Cam Ranh, là một
trong những cảng biển lớn nhất tại Việt Nam, đánh dấu bước phát triển mới của
khu vực này với quy mô lớn và tiềm năng phát triển kinh tế vô cùng lớn.
Sự ra đời của
căn cứ quân sự Cam Ranh năm 1948
Nằm ở vị trí chiến lược cả về quân sự lẫn dân sự,
tại khu vực vịnh nước sâu nhất Đông Nam Á, nên sau khi chiếm được Đông Dương,
Pháp nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của vịnh Cam Ranh - nơi có đủ yếu tố
thuận lợi để biến thành căn cứ quân sự lớn trong khu vực
Sự ra đời của căn cứ quân sự chiến lược chính Cam
Ranh
Khi chiến tranh Nga - Nhật kết thúc và e ngại trước
âm mưu tranh giành thuộc địa của Nhật Bản ở Viễn Đông và Thái Bình Dương, năm
1911, chính phủ Pháp cử Đại úy hải quân Fillommeus chỉ huy xây dựng quân cảng
Cam Ranh. Giữa năm 1939, Pháp nâng cấp Cam Ranh thành căn cứ hải quân lớn trong
kế hoạch "Phòng thủ chung" ở Đông Dương, xây dựng một số công trình
quân sự khác trên bán đảo Cam Ranh hòng đối phó với Chiến tranh thế giới thứ
hai. Ngày 15/9/1940, Nhật gửi tối hậu thư đòi kiểm soát các căn cứ hải quân, trong
đó có cảng và vịnh Cam Ranh. Năm 1942, Nhật chiếm cảng Cam Ranh, đồng thời xây
dựng thêm sân bay làm bàn đạp chính để đánh chiếm Malaysia và các thuộc
địa của Anh, Mỹ ở Thái Bình Dương. Đại chiến Thế giới thứ 2 kết thúc, bàn cờ địa
chính trị châu Á có nhiều thay đổi buộc Pháp phải xem lại chiến lược quân sự ở
Đông Dương.
Ngày 22/5/1947, Hội đồng Quốc phòng Đông Dương quyết
định xếp căn cứ quân sự: Cap Varella[ii] - Ban Mê Thuột - Đà Lạt - Djiring -
Cap Padaran[iii] là các căn cứ chính[iv] của Đông Dương. Tiêu chí để xếp loại
căn cứ quân sự chính là "vị trí địa lý then chốt bao quát một trong nhiều
tuyến giao thông liên lục địa, giàu tài nguyên và sau khi cải tạo cho phép tập
trung, thu nhận, tiếp tế, phân bổ và bảo vệ các lực lượng hải quân, không quân
và lục quân trong các chiến dịch quân sự liên tiếp hoặc phát sinh với quy mô và
khoảng cách khác nhau trong điều kiện tốt nhất". Đáp ứng đầy đủ những tiêu
chí chiến lược trên, Cam Ranh đã được nghiên cứu để trở thành căn cứ quân sự
chiến lược chính của Pháp không chỉ của Đông Dương mà còn của cả vùng Viễn
Đông.
Vai trò và nhiệm vụ
Trong chỉ thị ngày 17/01/1948, tướng Salan - khi đó
là Tổng tham mưu trưởng tạm quyền lực lượng lục quân Pháp ở Viễn Đông nhấn mạnh,
Cam Ranh - căn cứ quân sự chiến lược chính của Liên hiệp Pháp ở Viễn Đông sẽ
gia nhập cụm căn cứ Á-Phi của Pháp cũng như tập hợp các căn cứ quân sự lớn nước
ngoài ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Từ ngày 31/5-3/6/1948, Ban nghiên cứu xây dựng căn cứ
Cam Ranh[v] tiến hành khảo sát khu vực dự kiến
xây dựng cơ sở hạ tầng không quân, hải quân và lục quân.
Ngày 18/9/1948, Bộ Hải ngoại Pháp ban hành Sắc lệnh
số 48/1447[vi] phê chuẩn kế hoạch tái xây dựng,
trang bị và hiện đại hóa Đông Dương đồng nghĩa với kế hoạch của Hội đồng Quốc
phòng Đông Dương về việc xây dựng căn cứ quân sự chiến lược chính Cam Ranh được
chấp nhận, dựa trên báo cáo tổng kết và kết luận của Ban nghiên cứu trước đó.
Báo cáo tổng kết của Ban Nghiên cứu căn cứ được
thành lập ở Sài Gòn, hồ sơ 10H3388, Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Báo cáo nêu rõ vai trò trong phòng thủ của căn
cứ quân sự này là thu nhận, nuôi quân các lực lượng phối hợp thường trực phục vụ
bảo vệ Liên hiệp Đông Dương chống lại kẻ thù bên ngoài cũng như duy trì trật tự.
Về vai trò tấn công, đây sẽ là căn cứ xuất phát, tiếp tế, bảo dưỡng cho lực lượng
phối hợp Pháp và đồng minh tham gia các hoạt động quân sự ở Đông Nam Á. Để đáp ứng
những vai trò trên, hệ thống phòng thủ sẽ được bố trí xây dựng hướng cả vào đất
liền lẫn ra biển, cho phép trú ẩn trong trường hợp bị không kích hoặc tấn công
nguyên tử.
Ngoài ra, báo cáo cũng đề cập chi tiết vai trò của
căn cứ đối với từng lực lượng Pháp. Về hải quân, thứ nhất cho phép trú ẩn, tiếp
tế, bảo dưỡng và bảo vệ lực lượng hải quân thường trực: duy trì tự do đi lại
trong khu vực Đông Dương, cảnh báo và cầm cự trước tấn công của kẻ địch có thể
nhằm vào Đông Dương trong khi chờ chi viện, tiến hành độc lập quân sự trong hải
phận Biển Đông và tham gia hoạt động phối hợp với các nước tham chiến ở Đông
Nam Á. Thứ hai, Cam Ranh sẽ là nơi trung chuyển cho phép thu nhận, tiếp tế, sửa
chữa và chuẩn bị cho lượng lớn quân số hải quân thuộc Sư đoàn Hải quân với các
đơn vị đổ bộ.
Về không quân, thứ nhất cho phép thu nhận, tiếp tế,
bảo dưỡng và bảo vệ lực lượng không quân không thường trực khi tham gia các chiến
dịch trong hải phận Biển Đông và nam Biển Đông, Xiêm La (Thái Lan) và có thể
duy trì lối ra của vịnh Bắc Bộ. Thứ hai, là nơi trung chuyển và có thể cho phép
thu nhận, tiếp tế, sửa chữa và bảo vệ lượng lớn quân số không quân.
Về lục quân, thứ nhất cho phép chuyên chở, tiếp tế
và bảo vệ lực lượng lục quân trong trường hợp có can thiệp ở nam Biển Đông,
Xiêm La (Thái Lan) và Liên hiệp Đông Dương trước đe dọa từ bên trong cũng như
bên ngoài. Thứ hai, kháng trả mọi tấn công đất liền có hoặc không có đổ bộ.
Về pháo binh tầng bình lưu, thiết lập bãi phóng bom
hoặc tên lửa đồng thời với căn cứ thử nghiệm về máy bay phản lực.
Sơ đồ căn cứ Cam Ranh năm 1951, hồ sơ 4C1149, Lưu
trữ Bộ Quốc phòng Pháp
Khả năng duy trì và triển khai
Về lục quân, thứ nhất có một đơn vị đồn trú cố định
đảm bảo phòng thủ mặt đất cũng như đối không của vùng, dự kiến khoảng 7.000
quân bao gồm cả quân đồn trú của Kontum, Pleiku và An Khê. Thứ hai là lực lượng
cơ động gồm các đơn vị động cơ - cơ khí, lính dù, công binh và quân số ước tính
chừng 6.000 quân.
Về hải quân, thứ nhất là lực lượng thuộc Sư đoàn Hải
quân Viễn Đông được đặc biệt thành lập gồm các đơn vị hạng nhẹ bề mặt, tàu ngầm,
thả mìn, vớt mìn, đoàn tàu hộ tống và tiểu hạm đội hải không vận. Thứ hai, là bảo
vệ bờ biển với các lắp đặt xác định vị trí, tàu giám sát và đội pháo bờ biển. Tổng
quân số sẽ là 5 000 quân.
Ngoài ra còn có khoảng 2.000 người làm việc tại các
bộ phận chung như quân nhu, y tế, thiết bị, xăng. Tổng cộng, theo nghiên cứu,
căn cứ chiến lược chính Cam Ranh có thể thu nhận, tiếp tế, duy trì và bảo vệ
trong thời bình số quân đồn trú là 22.000 người và khi có chiến dịch quân sự là
100.000 quân (4 sư đoàn bộ binh và phòng không, lục quân) trong thời gian tối
đa là một tháng.
Để tránh tăng kinh phí xây dựng, căn cứ này sẽ tận dụng
những cơ sở hạ tầng dân sự và quân sự đã có như cảng biển, hàng không và hàng
không - hàng hải, phòng thủ cố định, kho tàng bến bãi, y tế… Về đường bộ, do độ
an toàn của đường sắt không cao nên để đảm bảo hoạt động của căn cứ, công binh
Pháp mở thêm đường từ Krong-Pha đến Ba Ngòi (dự kiến trở thành sân bay quân sự)
và Nha Trang. Đáng chú ý, nghiên cứu xây dựng căn cứ còn đặc biệt nhấn mạnh đến
vị trí lựa chọn đặt xưởng, nhà kho, hầm trú ẩn có thể chống chịu được bom
nguyên tử. Ưu tiên chọn địa điểm ở phía bắc và đông núi Hòn Rồng.
Đại tá Le Puloch - Chỉ huy trưởng lực lượng Pháp ở
nam Trung Kỳ và Tây Nguyên và đại diện của Ủy viên Cộng hòa về nam Trung Kỳ làm
đồng chủ tịch ban địa phương phụ trách thi công căn cứ Cam Ranh. Những xây dựng
lớn ban đầu được triển khai khi Tổng chỉ huy tối cao lực lượng viễn chinh Pháp ở
Viễn Đông ban hành chỉ thị ngày 03/11/1948 cho phép xây dựng các khu quân sự phục
vụ cho 10.000 quân. Đó là các công trình khu số 1 bên quốc lộ 1 trên diện tích
200 hecta (2kmx1km), lập đường băng bằng tấm thép kích thước ban đầu là
600m x 30m sau tăng lên 1000m x 45m bên quốc lộ 1, sửa sang doanh trại Cam
Linh, xây doanh trại cho một tiểu đoàn gần sân bay Nha Trang. Ngoài ra,
Pháp dự kiến xây dựng đập Hà Koum (kéo dài 2 năm) để đảm bảo cung cấp nước cho
căn cứ này.
Năm 1949, căn cứ quân sự chiến lược chính Cam Ranh dần
đi vào hoạt động khi các hạng mục đã thi công cuối năm 1948 được
hoàn thiện, xây dựng khu nhà ở cho quân nhân, hệ thống cấp thoát nước, xây bể
chứa nhiên liệu có thể tích 5.000m3 trên Hòn Một, san phẳng đường
băng cho sân bay dã chiến Thủy Triều…
Tài liệu tham khảo:
[i]. Hồ sơ 10 H 1798, Lưu trữ Quốc phòng Pháp.
[ii] . Mũi Đại Lãnh hay Mũi Kê Gà ở Phú Yên
[iii] . Mũi Dinh ở Ninh Thuận
[iv] . Năm 1948, Pháp đã thiết lập các căn cứ
quân sự trung chuyển như Sài Gòn, Hải Phòng, Khe Tù và 1 căn cứ về quân
nhu quân y, hồ sơ 10 H 3388, Lưu trữ Bộ quốc phòng Pháp.
[v]. Ban nghiên cứu này được thành lập ở Sài Gòn
do chuẩn đô đốc Kraft làm chủ tịch. Theo Tổng thị số 2946/EMP của Tổng tham mưu
trưởng quân đội Pháp ngày 23/10/1948, Ban nghiên cứu địa phương về căn cứ Cam
Ranh được thành lập, do đại tá-đại diện cho Ủy viên Cộng hòa tại nam Trung Kỳ
và Chỉ huy các lực lượng Pháp ở nam Trung Kỳ và Cao nguyên làm đồng chủ tịch.
[vi]. Công báo Cộng hòa Pháp (J.O.R.F) ngày
19/9/1948, trang 9291.