1/ Múa Rối Nước:
Múa rối thì nhiều dân tộc trên
thế giới có, còn múa rối nước chỉ duy nhất ở Việt Nam. Nghệ thuật múa rối nước
xuất hiện từ đời Lý (1010 – 1225). Ngày nay ở làng Đọi, huyện Duy Tiên tỉnh Hà
Nam còn lưu giữ tấm bia đá , khắc ghi tả buổi biểu diển múa rối nước mừng thọ
vua Lý Nhân Tông (1121) nhằm ngày 3 tuần trăng thứ 8 như sau: “Dòng sông gợn
sóng. Một con rùa vàng mang trên mình ba hang đá. Nó bơi thư thả trên mặt nước
rồi phun nước như mưa. Trong tiếng nhạc êm đềm những cánh cửa của các hang động
mở ra. Thế là các nàng tiên xuất hiện, múa điệu “Hồi Phong” họ giơ những cánh
tay mềm mại, nhíu cặp mày dài duyên dáng, nhịp với lời ca. Những con chim lạ
bay đến, đậu từng đàn rồi thử tài nhảy nhót. Những chú hươu non tung tăng...
Rùa vàng nhìn về phía nhà vua cúi đầu kính bái. Những bác tiều phu giương cung
bắn thú...
Tại Hồ Long Trì (chùa Thầy ở
xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây) cũng c1 văn hoa khắc ghi: “giữa dòng
nước lung linh, một con rùa vàng nổi lên đội ba hòn núi...”
Như vậy rõ ràng sân khấu của
múa rối nước phải ở nơi hồ nước. Vùng đồng bằng bắc bộ nhiều ao hồ. Mỗi làng
quê, nơi đình làng thường có hồ nước làm cảnh, mặt hồ là sân khấu, xung quanh
bờ hồ là nơi khán giả gồm già trẻ, mặt nước hồ là sân khấu, xung quanh bờ hồ là
nơi khán giả gồm già, trẻ, trai gái, trẻ em trong làng ngồi quay quần xem diễn
trò vào những ngày hội hè, lễ tết... Những phường rối nước đầu tiên xuất hiện ở
các tỉnh, hai bên bời sông Hồng. Tỉnh Thái Bình xưa kia có 7 phường múa rối
nước, sau này nổi tiếng nhất là phường múa rối nước làng Nguyễn Xá thuộc huyện
Đông Hưng, Thái Bình ngày nay), các tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định,
Hải Phòng...đều có những phường múa rối nước.
Phường múa rối nước thường là một tổ chức hoạt động nghệ
thuật nghiệp dư, vừa là một tổ chức tương tế. Diễn viên chính là những nông dân
trong làng tự nguyện góp thóc gây quỹ để chỉ dùng vào việc xây dựng tiết mục
rối, đi biểu diễn và giúp đỡ lẫn nhau khi một ai đó trong phường ốm đau hoặc
gặp khó khăn. Hàng năm, các phường rối nước làm lễ tế tổ và nhận thêm người
mới. Ai được nhận vào phường thì mang cơi trầu, chai rưỡu đến lễ tổ, trình
phường và đặc biệt phải thề giữ bí mật nhà nghề, nếu để lộ bí mật thì phải chịu
hình phạt nặng. Lệ không nhận phụ nữ vào phường, phòng khi đi lấy chồng xa mang
theo những bí truyền múa rối nước của làng đem lộ cho người khác đương nhiên đó
là chuyện cũ, nay đã xóa bỏ.
Phường rối nước ngày xưa có khoảng 80 người, nhưng chỉ độ
20 người thực sự hoạt động nghệ thuật do một ông trùm đứng đầu điều hành mọi
việc, kể cả việc giữ gìn con rối và các tài sản chung. Có một số nghệ nhân
chuyên điều khiển con rối, số người khác tạo hình con rối, có người sáng tác
lời ca, lời giáo đầ, một số người làm nhạc công. Âm nhạc cho múa rối nước thì
bộ gõ gồm trống, mõ, thanh la...chiếm phần quan trọng.
Con rối được tạo bằng gỗ, bên ngoài phủ lớp sơn ta, ngâm
nước không thấm. Mỗi con rối là một tác phẩm điêu khắc dân gian. Một nhân vật
tiêu biểu nhất của rối nước là chú Tễu, có thân hình tròn trĩnh, nụ cười hóm
hỉnh, lạc quan. Mỗi con rối một vẻ, thể hiện một tính cách. Nghệ nhân rối nước
khi biểu diễn phải ngâm mình dưới nước trong buồng trò (ngăn cách với khán giả
bằng trúc mành tre). Họ điều khiển con rối bằng “máy sào” và “máy dãy”. Những tiết mục múa rối nước rối cổ truyền gồm nhiều
trò lý thú như “múa Tễu”, “chọi trâu”, “chăn vịt”, “đánh cáo”, “kéo cờ”, “đánh đu”,
“sư tử hí cầu”, “Đường tăng thỉnh kinh”, “Thị Mầu lên chùa”, “Đinh Bộ Lĩnh”...
Ngày nay bên cạnh những tiết mục cổ truyền, lại có thêm nhiều tiết mục múa rối
nước thể hiện nội dung cuộc sống hiện đại. Người đến xem múa rối nước, trong
lúc chờ đợi mở màn đã nhìn thấy một sân khấu vừa trang nghiêm vừa mới lạ: trên
mặt nước lung linh, một nhà thủy đình tám mái cong vút,được trang trí bằng
những bức rèm màu sắc rực rỡ với những hình thêu hoa lá , phượng rồng khá công
phu. Trước lúc mở màn, một tràng pháo giòn giã liên hồi hòa vào tiếng mõ, tiếng
thanh la, tiếng trống như thúc giục lòng người, khiến tất cả khán giả náo
nức hướng vào bức mành tre nơi những con
rối sắp rẽ mành lướt ra mặt nước diễn trò. Diễn viên xuất hiện đầu tiên là chú
Tễu ra giáo trò dẫn chuyện:
- Bà con ơi?
- Ơi (tiếng để đáp lại của
giàn diễn viên và của cả khá giả).
- Tôi có phải xưng danh không
nhỉ?
- Có chứ...không thì ai biết
là ai?
Nhìn
chú Tễu trẻ trai, khỏe mạnh, đóng khố điều, hai tay chỉ trỏ, miệng cười tươi,
nói những lời vui vẻ khiến khán giả cười rộ:
- “Tôi tên là Tễu...tôi từ nhà trời xuống đây từ cái thưở nước lửa hòa
hợp với nhau....bà con ơi!...có một cô da tráng , má đào , cô trông thấy Tễu
tôi xuân tình tưởng vọng, cô trông thấy Tễu tôi muốn kết hiếu. Cô lại sợ Tễu
tôi hệ thị mộc nhân, nhưng diệt hữu cơ tâm , đến đêm khuya chuyển động tâm
thần, Tễu tôi không nằm trơ như gỗ...ối a...ối a”
Chú Tễu sống gần một
nghìn năm tuổi cùng với nền nghệ thuật rối nước mà vẫn đầy sức sống vào vai
người giáo trò, người dẫn chuyện, lại là anh hề với cách nói bình luận sắc sảo
, phê diều dở, khen điều hay kêu gọi sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, khuyên mọi
người nên ca hát, sáng tạo nét đẹp cho cuộc sống. Có thể nói chú Tễu là linh
hồn của múa rối nước, chú nói hộ những suy nghỉ, tâm tư, ước vọng của người
nông dân Việt Nam.
Các tiết mục múa rối nước đã khéo léo kết hợp giữa những
con rối người và con rối động vật như cảnh chọi trâu có nh anh hề đánh trống
thúc giục trâu trọi cho hăng và một người trọng tài vui tính đã diễn tả được
cảnh vui chơi hào hứng trong ngày hội ở đồng quê. Tiết mục “múa tiên” với tám
cô tiên được tạo hình rực rỡ, lộng lẫy xiêm y múa nhịp nhàng trong những khúc
dân ca mượt mà đằm thắm.
Ngày nay bên cạnh những phường rối nước ở làng quê, nhiều
thành phố trên cả nước đã có những đoàn nghệ thuật múa rối nước như: Đoàn nghệ
thuật rối nước Việt Nam, đoàn nghệ thuật rối nước Thăng Long, đoàn nghệ thuật
rối nước Sông Ngọc...
Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam đã được giới thiệu ở nhiều
nước trên thế giới và được khán giả các nước mến mộ, được coi là một loại hình
độc đáo nhất, là linh hồn của đồng ruộng Việt Nam.
Múa
Chèo
Nói đến nghệ thuật múa truyền thống của dân tộc là phải nói
đến múa chèo, người ta tìm thấy những động tác múa trên sân khấu ngà nay đã
được khắc lên vách đá, hang động, các phù điêu trong đình làng Việt Nam từ thuở
rất xa xưa. Một đặc điểm nữa của múa chèo là nó mang trong mình nhiều dấu ấn
những hoạt động văn hóa làng quê như múa thiêng – lên đồng – múa đèn, múa nến,
múa gậy, múa khăn, múa chạy cờ, múa quạt... Người diễn viên múa chèo phải “múa”
từ bước đi, cách đứng khi giao tiếp với nhân vật cùng diễn. Diễn viên chèo phải
vừa múa vừa hát. Khi múa sử dụng chủ yếu đôi bàn tay, cánh tay và cổ tay. Có
thể nói đôi bàn tay là sự thể hiện ngôn ngữ chèo là: Nhóm chạy đàn: bước đi lúc
nhanh, lúc chậm, biểu hiện sự suy tư thương nhớ và nỗi buồn mênh mông.
Nhóm dâng hoa gồm những động tác khoan thai trang nghiêm,
diễn tả tình cảm tôn kính.
Nhóm dâng rượu bước đi trang trọng, động tác mạch lạc, kính
cẩn.
Nhóm cướp bông là những bước nhún ngẫu hứng, tài linh hoạt
của người diễn.
Nhóm tấu nhạc thể hiện những tiết tấu âm thanh phù hợp với
nội dung thể hiện của vở diễn.
Vậy chèo xuất hiện từ bao giờ?
Có thuyết nói múa chèo có từ thế kỷ thứ X. Có ý kiến khác
lại cho là khoảng giữa thế kỉ XVI múa chèo mới thành hình. Đi tìm từ nguyên chữ
chèo, cho rằng chữ chèo thuyền (hát trong khi lao động). Cũng lại có luận điểm
nói chắc rằng chèo là từ chữ trào (trào lộng) vì tính hài trong chèo khá đậm
nét.
Điều chắc chắn là nơi cội nguồn của nghệ thuật chèo là đồng
quê thôn xóm. Xưa kia có những “phường chèo” do một ông trùm cầm đầu đi diễn ở
các thôn xóm làng vào dịp mùa xuân, mùa thu là lúc nông nhàn. Những vùng chèo
nòi, chèo gốc gọi là tiếng chèo như “Chiếng Đông”, “Chiếng Đoài”, “Chiếng Nam”,
“Chiếng Bắc” là những chiếng chèo nổi tiếng khi xưa. Một “Chiếng chèo” chỉ gồm
mười lăm người kể cả nhạc công và bộ gõ chiếm vị trí quan trọng. Diễn viên gồm
có đào, kép, hề. Đôi khi chỉ cần một đào, một kép và một vai hề xuất sắc là đã
nổi đình đám. Tính chất ước lệ trong múi chèo khá cao. Chỉ cần hai chiếc chiếu
trải giữ sân đình, khán giả ngồi vây quanh là đã thành một sân khấu chèo. Tên
gọi chèo sân đình chính là như vậy. Buổi biểu diễn chèo thường mở đầu bằng điệu
hát “vỡ nước”và một hồi trống rung lên... Tiếng trống chèo có ma lực cuốn hút
bao khán giả nông thôn. Trống đã nổi lên ở đình thì không thể ngồi yên ở nhà:
“Ăn no rồi lại nằm khèo
Thấy rục trống chèo, bể bụng
đi xem”
“Rục” là ngón gõ điêu luyện trên mặt trống có tác dụng kích
thích và giục giã lòng người.
Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong
cốt truyện (tích trò). Văn chèo đậm sắc trữ tình của ca dao, tục ngữ, tiếng
cười trong múa chèo thật thông minh dân giã nhưng không kém phần trí tuệ. Đôi
khi tiếng cười ra nước mắt có giá trị nhân văn rất sâu sắc.
Những vở chèo cổ Trương Viên, Kim Nham, Lưu Bình – Dương
Lễ, Quan Âm Thị Kính....đã được xếp vào vốn quý của sân khấu dân tộc cổ truyền.
Ngày nay, sự phát triển ồ ạt của nhiều loại hình văn hóa,
để bảo tồn và phát huy vốn cổ dân tộc, các nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ trong
làng chèo đã có những bước đi mạnh dạn để cách tân múa chèo, đổi mới môn nghệ
thuật này để nâng cao hơn nữa giá trị thưởng thức cho đại đa số khán giả cả
thành thị và nông thôn. Những nghệ sĩ tên tuổi đã gắn bó sự nghiệp cả đời với
nền nghệ thuật chèo không thể không nhắc đến: Trần Bằng, Trần Huyền Trân, Tào
Mạt, Hoàng Kiều, Hoài Giao, Việt Dung, Trùm Thịnh. Cả Tam, Dịu Hương, vua hề
Năm Ngũ, Diễm Lộc...
Trong sự thành công chung của các vở Chèo, ta không thể
không đề cập đến vai trò của âm nhạc. Âm nhạc Chèo là một trong những bộ phận
cốt lõi tạo nên nghệ thuật sân khấu Chèo. Nói đến nhạc Chèo là nói đến cả hai
bộ phận: hát và đàn. Trong đó, phần hát bao gồm hơn một trăm làn điệu được chia
thành các hệ thống khác nhau. Còn phần đàn, phải kể đến vai trò của dàn nhạc
trong việc đệm cho hát, làm nền cho cảnh diễn, tạo tình huống kịch, mở màn cho
vở diễn v.v… Sự kết hợp giữa hai yếu tố này sẽ tạo nên nét đặc trưng cho nghệ
thuật sân khấu Chèo truyền thống.
Nếu đề cập đến loại hình ca Trù không thể thiếu tiếng
phách, đàn đáy, trống chầu; trong đờn ca tài tử là đàn kìm (đàn nguyệt); thì
trong Chèo không thể thiếu sự hỗ trợ của tiếng đàn, tiếng trống. Chèo là hình
thức sân khấu kể chuyện thông qua diễn trò nên gắn bó đặc biệt với âm thanh của
tiếng nhị, sáo, tiếng trống cùng với sức mạnh của cả một dàn nhạc. Nếu nói
giọng hát là chủ đạo của Chèo, thì âm nhạc lại là cái hồn của Chèo. Giọng hát,
tiếng đàn đã như hình với bóng, không thể tách rời, tạo nên một phong cách sân
khấu riêng biệt, ăn sâu vào tâm khảm người Việt từ bao đời nay.
Để hiểu rõ hơn âm nhạc trong hát Chèo, hãy tìm hiểu
“cái hồn” của Chèo nhé!
Dàn nhạc Chèo cấu tạo theo
kiểu dàn nhạc màu sắc, truyền
thống mỗi cây đàn có một màu sắc riêng, có lối diễn tấu và sức
truyền cảm riêng. Các nhạc cụ được cấu trúc theo xu hướng gần gũi với giọng
người. Âm thanh mỗi nhạc cụ thể hiện tiếng nói riêng, vang lên trong không gian
huyền bí của sân khấu như lời mời, gọi người nghe; cái trước, cái sau, khi hoà
quyện, lúc tách nhánh, chuyển động nhịp nhàng theo nội dung vở diễn.
Nếu như trước đây, dàn nhạc
Chèo gồm:
- Bộ dây - chi kéo: nhị 1, nhị
2, hồ.
-
chi gẩy: nguyệt, tam, thập lục, bầu.
-
chi gõ: tam thập lục.
- Bộ hơi: tiêu,
sáo.
- Bộ gõ: trống đế,
trống ban, trống chầu, trống cơm, thanh la, mõ, não bạt, sinh
tiền, tiu cảnh, chiêng...
Ngày nay, dàn nhạc Chèo thường chỉ có 5, 6 nhạc công và mỗi
nhạc công có thể sử dụng được 1 hoặc 2 nhạc cụ. Với bộ gõ, hiện thường dùng
là trống đế, thanh la, mõ, trống cơm, trong đó, trống đế là nhạc cụ
có vai trò quan trọng trội bật.
Trong các bộ (dây, hơi, gõ) thì các nhạc cụ thuộc bộ gõ đóng
vai trò quan trọng. Các cụ có đâu “Phi trống bất Chèo” cho thấy vai trò
của bộ gõ nói chung và tiếng trống nói riêng trong sân khấu Chèo truyền thống.
Theo thông lệ, vở Chèo thường mở đầu bằng điệu hát Vỡ nước với sự phụ hoạ
của hồi trống rung, buổi diễn kết thúc có hát Vãn trò
với trống giã đám. Bên cạnh đó, thông qua một số ước lệ trong kỹ
thuật diễn tấu trống, người diễn viên như cảm nhận được những qui định về hành
động sân khấu của mình như: Rù trống (vê dùi trên mặt trống)
là diễn viên đang di động; Rụp trống là diễn viên dừng
lại; Cắc trống lúc khoan lúc nhặt là diễn viên đang suy nghĩ,
tính toán chuẩn bị hành động... Ngoài ra, cũng như sân khấu Tuồng, Chèo trước
đây còn sử dụng trống chầu để “cầm trịch” buổi diễn (thậm chí là khen-chê), do
một người có vai vế, uy tín hoặc am hiểu sâu về nghệ thuật sân khấu điều khiển.
Các nhạc cụ gõ trong Chèo có khả năng quán xuyến, điều hành
tiết tấu vở diễn, dẫn dắt sự chuyển màn, chuyển lớp, sự ra vào của diễn viên
trên sân khấu… Đúng như nhà nghiên cứu Bùi Đức Hạnh đã nhận định: “Trống Chèo
(bộ bõ) là linh hồn của dàn nhạc Chèo vì nó là nguồn sáng tạo chủ chốt, kích
thích mọi sự sáng tạo khác của các cây đàn cùng hoà điệu tạo nên một phong cách
chỉnh thể của âm nhạc Chèo trong lối đệm cho hát cũng như hoà tấu nhạc không
lời”.
Nói như vậy không có nghĩa, bộ gõ là yếu tố duy nhất làm nên
hiệu quả cho cả dàn nhạc. Mà ở đây, bộ gõ rất quan trọng trong việc tạo không
khí bề ngoài cho diễn xuất, tuy nhiên khó có thể tạo được hiệu quả trữ tình,
nội tâm sâu lắng của nhân vật. Điều này chỉ có thể đạt được nhờ các nhạc cụ
thuộc họ dây, họ hơi. Ví như tiếng đàn nhị - líu - hồ nhấn
vuốt, luyến láy bám sát giọng người, khơi gợi những mạch nguồn sâu thẳm của
giọng hát. Tiếng sáo – tiêu vừa trong sáng bay bổng, vừa mơ
hồ, xa xăm, lại giàu chất gợi cảm, trữ tình. Tiếng đàn bầu - đàn tranh da diết, cảm thương, ngân nga, vang
vọng, giàu chất trữ tình thể hiện những suy tư thầm kín, những uẩn khúc bi
thương... Với cách sử dụng đa dạng, hợp lý các nhạc cụ kể trên, ông cha ta đã
tạo nên một sân khấu Chèo có cách thể hiện hài hoà về âm nhạc giữa cái hài, cái
hùng và cái bi, chứ không quá bi hùng như sân khấu Tuồng hay bi luỵ như sân
khấu Cải lương.
Có thể thấy, âm nhạc trong Chèo có vai trò thể hiện nội tâm nhân vật, khắc hoạ cho phần diễn của nhân vật rất rõ nét. Ngoài ra, âm nhạc còn có vai trò mở màn, mở cảnh, báo hiệu diễn biến tiếp theo của nội dung.
Hát Quan Họ
Hát quan họ là một thể loại ca nhạc dân gian truyền thống
của vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Cái nôi nghệ thuật này ở vùng Bắc Ninh.
Lời hát quan học là các thể thơ, chủ yếu là thơ lục bát
(6/8) giàu âm điệu và hình ảnh, giàu chất ca dao trữ tình vừa mộc mạc mà vừa
duyên dáng, dí dỏm. Chủ đề trong lời ca quan họ là chủ đề tình, nghĩa, đó là
tình nghĩa giữa những con người lao động cùng sống trong cộng đồng làng, xã. Vì
thế từ xa xưa đã hình thành những làng quan họ, hầu hết tập trung vào xung
quanh thị xã Bắc Ninh. Hội các làng quan họ đã gắn liền với các ngôi đình làng,
chùa làng cổ kính. Thời điểm mở hội là mùa xuân, từ mùng 4 tết trở đi, các làng
quan họ mở hội, ban ngày thì tổ chức những cuộc vui như kéo co, cờ người, đánh
đu, chọi gà, đấu vật.. Ban đêm thì tại sân đình, sân chùa hay trong các gia
đình quan họ hát thâu đêm. Cách hát quan họ là hát đôi (một nam, một nữ). Khi
một đôi của làng bạn hát thì bên làng này cũng chuẩn bị một đôi để hát lại. Họ
giao lưu tình cảm bằng lời hát, hẹn hò nhau cũng qua lời hát và nguyện kết bạn
cũng qua lời hát.
Về mặt âm nhạc thì đạo bộ phận các bài quan họ có bố cục
thành hai phần: phần đầu có tính chất ngâm vịnh, giáo đầu nên tiết tấu tự do,
chậm rãi, phần thân là ca khúc chính, có tiết tấu nhanh hơn phần đầu. Cũng có
những bài quan họ thêm phần thứ ba là phần “đổ” nghĩa là người hát chuyển giọng
mang sắc thái mới bất ngờ để báo hiệu sự kết thúc. Theo thống kê chưa đầy đủ
thì dân ca quan họ có tới 200 làn điệu. Mỗi làn điệu là một ca khúc hoàn chỉnh.
Để giải thích cội nguồn phát sinh nghệ thuật hát quan họ
thì có nhiều giả thuyết nhưng tượng trưng tất cả các giả thuyết đều có một lý
giải chung là do tục kết bạn, kết nghĩa giữa con người giữa làng này với làng
khác, rồi nhân dịp xuân về, hẹn gặp gỡ nhau để tra gởi tình cảm.
Dân ca quan họ Bắc Ninh được hình thành khá lâu đời, do
cộng đồng người Việt (Kinh) ở 49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai
tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang sáng tạo nên. Đây là một trong những loại hình
dân ca đặc trưng của Việt Nam, bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các làng xóm. Quá
trình hình thành lời ca, làn điệu Quan họ gắn liền với quá trình phát triển của
đời sống xã hội nhằm nâng cao và tôn vinh các mối quan hệ cộng đồng và giao lưu
văn hóa.
Nét đặc trưng của Quan họ chính là ở hình thức hát đối đáp. Những liền anh trong trang phục truyền thống khăn xếp, áo the và những liền chị duyên dáng trong bộ áo mớ ba, mớ bẩy, đầu đội nón thúng quai thao, cùng nhau hát đối những câu ca mộc mạc, đằm thắm, cách hát theo lối truyền thống không cần nhạc đệm mà vẫn đầy chất nhạc, thể hiện nét văn hóa tinh tế của người Quan họ.
Theo quan niệm của người Quan
họ, nghệ nhân là những ngưòi có kỹ năng hát “vang, rền, nền, nẩy” điêu luyện,
thuộc nhiều bài, nhiều "giọng" Quan họ. Họ chính là những bậc thầy
dân gian thực hành việc sáng tạo, lưu giữ và trao truyền vốn di sản quý báu đó cho các thế
hệ mai sau nên rất xứng đáng được tôn vinh.
Dân ca quan họ có 213 giọng
khác nhau, với hơn 400 bài ca. Lời một bài ca có hai phần: lời chính và lời
phụ. Lời chính là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài ca, lời phụ gồm tất
cả những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng đưa hơi như i hi,ư
hư, a ha…
Khi hát quan họ, người hát sử
dụng những thể thơ và ca dao nhất định của người Việt, phần lớn là thể lục bát,
lục bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp. Lời các bài ca quan họ đều là
những câu thơ, ca dao được trau chuốt, từ ngữ trong sáng, mẫu mực. Những bài ca
quan họ được sáng tạo ngẫu hứng trong các kỳ hội làng, hoặc ứng tác ngay trong
một canh tác, một cuộc thi trang giải của làng. Nội dung các bài ca thể hiện
các trạng thái tình cảm của con người: nhớ nhung, buồn bã khi chia xa, sự vui
mừng khi gặp lại của những người yêu nhau, mà không được cưới nhau theo quy
định của những tập quán xã hội bằng một ngôn ngữ giàu tính ẩn dụ.
Quan họ truyền thống: Theo các
nhà nghiên cứu văn hóa Quan họ, vùng Kinh Bắc có tất cả 49 làng duy trì được
lối chơi văn hóa Quan họ (44 làng ở Bắc Ninh, 5 làng ở Bắc Giang) với hàng ngàn
bài hát lời cổ mộc mạc, dân dã mang nét đẹp riêng vừa thiêng liêng, vừa cổ xưa
mà rất Việt Nam.
Quan họ truyền thống hát không
nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân ở các
làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị
được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả
nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ. "Chơi quan họ"
truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức
(thưởng thức “cái tình” của bạn hát).
Quan họ mới còn được gọi là
"hát Quan họ" là hình thức biểu diễn (hát) quan họ chủ yếu trên sân
khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng, như: Tết đầu xuân, lễ hội, hoạt động
du lịch...Từ sau năm 1954, quan họ được khai thác làn điệu, đặt lời mới thành
ra ca cảnh diễn trên sâu khấu. Thực tế, quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ
ngày nào trong năm.
Quan họ mới luôn có khán thính
giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa
bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra
nhiều nơi, đến với thính giả trong nước và các quốc gia trên trên thế giới.
Hình thức biểu diễn của quan
họ mới rất phong phú, bao gồm hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa...
Quan họ mới cải biên các bài bản truyền thống theo hai cách: không có ý thức
(hát quan họ có nhạc đệm) và có ý thức (cải biên cả nhạc và lời của bài bản
quan họ truyền thống).
Trải qua một quá trình phát
triển lâu đời trên một vùng đất có sự giao lưu rộng và phát triển sớm, Hát Quan
họ đã trở thành một điểm sáng trong dân ca Việt Nam. Lời hay ý đẹp, ngôn ngữ
bình dân nhưng tinh tế, ý nhị, giàu hình tượng và cảm xúc; âm điệu phong phú,
trữ tình; lối hát mượt mà với kỹ thuật nảy hạt độc đáo; phong cách lịch thiệp -
tất cả làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dân ca Quan họ.
Lý Nam Bộ
Nói
đến nghệ thuật ca hát dân gian Nam Bộ mà chỉ đóng khung trong làn điệu “vọng
cổ” hay một số làn điệu, bài bản của âm nhạc tài tử và cải lương thì quả chưa
đầy đủ. Vùng đất trù phú này còn sản sinh ra nhiều làn điệu dân ca mang đậm màu
sắc Nam Bộ như: Hát ru, hát Sắc bùa, Nói thơ Bạc Liêu, hò, Vè và trong đó không
thể không kể đến những điệu lý thật mộc mạc, dễ thương. Những điệu lý Nam Bộ
không chỉ đi vào sinh hoạt đời sống nhân dân ta từ hàng trăm năm trước mà di
sản văn hóa phi vật thể này còn biểu thị tinh thần lạc quan, sức sống mãnh liệt
của cư dân vùng sông nước phương Nam.
Khúc ca cần lao
Theo
các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, lý Nam Bộ có xuất phát từ nguồn gốc lao
động, không do bàn tay nghệ sĩ tạo nên mà chỉ là một hình thức nghệ thuật tự
phát của quần chúng nhân dân. Trong quá trình khai phá và chinh phục vùng đồng
bằng Nam Bộ, trước một vùng đất màu mỡ, bao la, từ những vườn cây ăn trái bạt
ngàn của vùng Long Khánh, Biên Hòa (Đồng Nai), cho đến những cánh đồng lúa bông
vàng trĩu hạt phơi mình dưới ánh nắng chói chang ở miền châu thổ Cửu Long, đã
khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho người dân sinh sống tại mảnh đất hiền hòa này
sáng tạo ra nhiều làn điệu lý mang nét đặc trưng riêng, đậm chất trữ tình, ngọt
ngào, sâu lắng.
Lý
Nam Bộ xuất hiện khá nhiều trong sinh hoạt văn hóa dân gian và thường được dùng
như một chất liệu để làm phong phú thêm cho một số làn điệu âm nhạc cổ truyền
Nam Bộ.
Các
nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian Nam Bộ đã thống kê có khoảng hơn 200 điệu lý đã
được thu thập ở miền Nam. Nhạc điệu của chúng dựa trên thang âm ngũ cung của âm
nhạc cổ truyền Nam Bộ, thêm vào đó là những tiếng luyến láy, tiếng đệm làm cho
giai điệu thêm phong phú và tiết tấu thường là nhịp đôi (2/4 hay 4/4).
|
Vợ chồng nhạc sĩ Lư Nhất Vũ nhà thơ Lê
Giang - tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm về dân ca và lý Nam
Bộ. |
Người
dân miền Nam đặt tên cho các điệu lý dựa trên tên thú vật như: Lý con Mèo, Lý
con Khỉ, Lý con Nhái, Lý con Cua, Lý con Sáo, Lý Chim quyên, Lý con Trâu, Lý
con Cúm Núm, Lý Chuồn Chuồn, Lý Ngựa ô, Lý Quạ kêu…; tên cây cỏ gồm có các điệu
lý: Lý bông sen, Lý bông lựu, Lý cây khế, Lý bắp non, Lý bụi chuối, Lý lựu lê,
Lý cây chanh, Lý mù u, Lý cây ổi…; tên các món ăn thì có: Lý bánh ít, Lý bánh
canh, Lý dĩa bánh bò, Lý ăn giỗ, Lý bánh tráng….
Ngoài
ra, trong kho tàng các điệu lý Nam Bộ có một số điệu lý còn dựa vào xuất xứ của
nghệ thuật “Bóng rỗi” mà đặt tên như điệu “Lý giọng bông” chẳng hạn. Dựa vào
đặc tính của nhóm tiếng đệm mô phỏng các bậc âm của “chữ đờn” dân tộc,
hoặc tiếng tụng niệm kinh kệ mà đặt tên thì có các điệu lý như: Lý bản đờn, Lý
cống chùa…. Cũng có trường hợp lấy địa danh cụ thể để đặt tên thì có: Lý
Ba Tri, Lý Cái Mơn, Lý Năm Căn.... Hay tên phong cảnh thì có: Lý cảnh
chùa, Lý quán rượu...
Tơ
lòng nơi dân dã
Từ
buổi đầu đi khai phá miền đất mới phương Nam, người nông dân đồng bằng Nam Bộ
đã lấy văn học nghệ thuật truyền miệng để nói lên ước vọng của mình trong cuộc
sống. Việc sử dụng thể thơ lục bát vào điệu lý, kết hợp những từ, cụm từ, lặp
từ, tiếng đệm, âm hơi ngỡ như thừa thãi nhưng đó lại là nghệ thuật thể hiện đầy
đủ và rõ ràng nhất các cung bậc tình cảm của con người Nam Bộ, lúc thiết tha,
da diết, khi thì phấn khởi, vui tươi một cách rất tự nhiên, bình dị. Lý Nam Bộ
không chỉ phong phú về số lượng mà cả về đề tài, nội dung cũng như đặc tính âm
nhạc.
Cái
hay của các điệu lý Nam Bộ trước hết bởi nó là một loại dân ca sinh động về nội
dung, phong phú về điệu thức, đa dạng về ngôn từ. Thứ hai là nó có thể xuất
hiện trong hầu hết các loại hình nghệ thuật dân gian của miền Nam, thường được
xen vào các bài ca vọng cổ, vở tuồng cải lương. Lời ca thì chân chất, mộc mạc,
dễ hiểu, dễ thuộc, dễ hát nên nó thường được sử dụng rộng rãi trong mọi sinh
hoạt văn hóa của cộng đồng, trong mọi thôn cùng ngõ hẻm ở quê hương Nam Bộ.
Ai
cũng có thể hát lý và hát bất cứ nơi đâu như: khi chèo xuồng, lúc ru em, khi
làm đồng; hoặc vào các dịp lễ, tết, hội hè, giỗ chạp… Nhờ vậy mà lý đã được
người dân Nam Bộ bình chọn là: “Nhất Lý, Nhì Ngâm, Tam Nam, Tứ Oán”. Lý Nam Bộ
như là một món ăn tinh thần thiết yếu của cư dân đồng bằng Nam Bộ đến nỗi trong
dân gian có câu thơ như sau: “Con Cua quậy ở dưới hang/ Nó nghe giọng lý kềnh
càng bò lên”. Quả thật, lý Nam Bộ có sức quyến rũ lòng người và thật không sai
khi nói lý Nam Bộ là viên ngọc quý trong kho tàng dân ca Việt Nam.
Trong
dân ca miền Nam, lý là một làn điệu dân ca đặc trưng của những người nông dân
mộc mạc. Những lời ca trong những điệu lý luôn nói lên tinh thần tích cực và
sức sống mạnh mẽ của người nông dân. Lời lẽ thường chân thật và mộc mạc, không
văn chương bóng bẩy, nhưng diễn tả được tình cảm, thể hiện được cá tính bộc
trực, phóng khoáng của người Nam Bộ. Mặc dù lời ca của những điệu lý miền Nam
đa phần giống với những câu hát của ca dao, hò, vè vì chúng có vần điệu dễ hát,
nhưng khác với ca dao, hò, vè ở chỗ lý mang tính nhạc (hát), trong khi các thể
loại dân gian kia mang thuộc tính của thi ca (thơ).
Lý
Nam Bộ có đặc điểm là ngắn gọn, mỗi bài chỉ có một lời, giai điệu có những
quãng nhảy xa tạo nên sắc thái sâu lắng trầm mặc hơn so với các điệu lý ở các
vùng, miền khác. Mỗi điệu lý Nam Bộ đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến
những kinh nghiệm sản xuất như Lý đất giồng, Lý kéo chài chẳng hạn; hoặc ca
ngợi những đức tính tốt của con người trong cuộc sống như Lý Ba Tri, ca ngợi
cái đẹp trong thiên nhiên như Lý chim xanh; hoặc oán trách nhau như Lý lu là;
hoặc mỉa mai, châm biếm bọn cường hào, ác bá như Lý con khỉ, Lý bình vôi, Lý
con sam.
|
Mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu Long. |
Nghiên
cứu về dân ca Nam Bộ, ta thấy rằng, hầu như trong các điệu lý miền Nam đều có
hình bóng con sông, bến nước, làng quê với những giai điệu thật trữ tình, tha
thiết, luôn chứa đựng tình cảm của người dân phương Nam luôn nhớ về quê hương,
nhớ về ký ức của lứa đôi nơi quê nhà.
Ví
dụ như lời ca trong điệu Lý Cái Mơn: “Đàn cò bay về nơi thương nhớ. Nhớ bến
sông xưa in hình bóng của người yêu… Thuyền tình ơi hãy chờ đợi ta bao tháng
năm trôi qua. Nhưng người xưa vẫn luôn ngóng đợi tình chung”. Không gian làng
quê hiện ra trong điệu Lý Cái Mơn rất thơ mộng, lãng mạn với nỗi hoài niệm man
mác. Điệu Lý qua cầu có đoạn: “Trời bình minh chim về đây líu lo trên cành. Như
mọi ngày dòng sông với con đò mong manh…”. Lý qua cầu cũng nói về một mối tình
trên dòng sông, bến nước có cô lái đò và người lữ khách.
Và
chuyện tình ấy có kết cuộc dang dở, buồn tênh. Một điệu lý nữa cũng gắn liền
với sông nước đó là Lý bông dừa: “Sông dài còn chảy xuôi theo dòng. Mà sao xa
vắng em tôi biết tìm nơi đâu. Dòng sông còn chứa chan ân tình. Nay dang dở tình
đầu ta còn gắn đợi ai…”. Với những dẫn chứng vừa kể trên, đã quá đủ để minh
chứng điệu lý miền Nam phản ảnh tâm tư, tình cảm, tính cách của người Nam Bộ -
cũng là biểu tượng của sự mộc mạc, phóng khoáng của cư dân sinh sống trên vùng
đất màu mỡ này.
Thoát
thai từ tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động, lý Nam Bộ cũng như nhiều
thể loại dân ca cổ nhạc khác đã in sâu vào lòng người đồng bằng, từ thuở tiền
nhân khai mở đất phương Nam. Cho đến hôm nay, các điệu lý miền Nam đã thực sự
chinh phục được đông đảo quần chúng, đặc biệt là người bình dân, bởi đề tài và
nội dung vô cùng phong phú, phản ánh sống động mọi khía cạnh trong sinh hoạt
thường ngày ở nông thôn Việt Nam. Lý thể hiện tình cảm trong quan hệ giữa người
với người: tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, bè
bạn; thể hiện tinh thần lạc quan và yêu thương cuộc đời; ca ngợi cuộc sống và
khát vọng hạnh phúc của con người… Nó như một di sản tinh thần nuôi dưỡng, vun
đắp tâm hồn của con người phương Nam.
Khúc ca cần lao
Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, lý Nam Bộ có xuất phát từ nguồn gốc lao động, không do bàn tay nghệ sĩ tạo nên mà chỉ là một hình thức nghệ thuật tự phát của quần chúng nhân dân. Trong quá trình khai phá và chinh phục vùng đồng bằng Nam Bộ, trước một vùng đất màu mỡ, bao la, từ những vườn cây ăn trái bạt ngàn của vùng Long Khánh, Biên Hòa (Đồng Nai), cho đến những cánh đồng lúa bông vàng trĩu hạt phơi mình dưới ánh nắng chói chang ở miền châu thổ Cửu Long, đã khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho người dân sinh sống tại mảnh đất hiền hòa này sáng tạo ra nhiều làn điệu lý mang nét đặc trưng riêng, đậm chất trữ tình, ngọt ngào, sâu lắng.
Lý Nam Bộ xuất hiện khá nhiều trong sinh hoạt văn hóa dân gian và thường được dùng như một chất liệu để làm phong phú thêm cho một số làn điệu âm nhạc cổ truyền Nam Bộ.
Các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian Nam Bộ đã thống kê có khoảng hơn 200 điệu lý đã được thu thập ở miền Nam. Nhạc điệu của chúng dựa trên thang âm ngũ cung của âm nhạc cổ truyền Nam Bộ, thêm vào đó là những tiếng luyến láy, tiếng đệm làm cho giai điệu thêm phong phú và tiết tấu thường là nhịp đôi (2/4 hay 4/4).
![]() |
Vợ chồng nhạc sĩ Lư Nhất Vũ nhà thơ Lê Giang - tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm về dân ca và lý Nam Bộ. |
Người dân miền Nam đặt tên cho các điệu lý dựa trên tên thú vật như: Lý con Mèo, Lý con Khỉ, Lý con Nhái, Lý con Cua, Lý con Sáo, Lý Chim quyên, Lý con Trâu, Lý con Cúm Núm, Lý Chuồn Chuồn, Lý Ngựa ô, Lý Quạ kêu…; tên cây cỏ gồm có các điệu lý: Lý bông sen, Lý bông lựu, Lý cây khế, Lý bắp non, Lý bụi chuối, Lý lựu lê, Lý cây chanh, Lý mù u, Lý cây ổi…; tên các món ăn thì có: Lý bánh ít, Lý bánh canh, Lý dĩa bánh bò, Lý ăn giỗ, Lý bánh tráng….
Ngoài ra, trong kho tàng các điệu lý Nam Bộ có một số điệu lý còn dựa vào xuất xứ của nghệ thuật “Bóng rỗi” mà đặt tên như điệu “Lý giọng bông” chẳng hạn. Dựa vào đặc tính của nhóm tiếng đệm mô phỏng các bậc âm của “chữ đờn” dân tộc, hoặc tiếng tụng niệm kinh kệ mà đặt tên thì có các điệu lý như: Lý bản đờn, Lý cống chùa…. Cũng có trường hợp lấy địa danh cụ thể để đặt tên thì có: Lý Ba Tri, Lý Cái Mơn, Lý Năm Căn.... Hay tên phong cảnh thì có: Lý cảnh chùa, Lý quán rượu...
Tơ lòng nơi dân dã
Từ buổi đầu đi khai phá miền đất mới phương Nam, người nông dân đồng bằng Nam Bộ đã lấy văn học nghệ thuật truyền miệng để nói lên ước vọng của mình trong cuộc sống. Việc sử dụng thể thơ lục bát vào điệu lý, kết hợp những từ, cụm từ, lặp từ, tiếng đệm, âm hơi ngỡ như thừa thãi nhưng đó lại là nghệ thuật thể hiện đầy đủ và rõ ràng nhất các cung bậc tình cảm của con người Nam Bộ, lúc thiết tha, da diết, khi thì phấn khởi, vui tươi một cách rất tự nhiên, bình dị. Lý Nam Bộ không chỉ phong phú về số lượng mà cả về đề tài, nội dung cũng như đặc tính âm nhạc.
Cái hay của các điệu lý Nam Bộ trước hết bởi nó là một loại dân ca sinh động về nội dung, phong phú về điệu thức, đa dạng về ngôn từ. Thứ hai là nó có thể xuất hiện trong hầu hết các loại hình nghệ thuật dân gian của miền Nam, thường được xen vào các bài ca vọng cổ, vở tuồng cải lương. Lời ca thì chân chất, mộc mạc, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ hát nên nó thường được sử dụng rộng rãi trong mọi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong mọi thôn cùng ngõ hẻm ở quê hương Nam Bộ.
Ai cũng có thể hát lý và hát bất cứ nơi đâu như: khi chèo xuồng, lúc ru em, khi làm đồng; hoặc vào các dịp lễ, tết, hội hè, giỗ chạp… Nhờ vậy mà lý đã được người dân Nam Bộ bình chọn là: “Nhất Lý, Nhì Ngâm, Tam Nam, Tứ Oán”. Lý Nam Bộ như là một món ăn tinh thần thiết yếu của cư dân đồng bằng Nam Bộ đến nỗi trong dân gian có câu thơ như sau: “Con Cua quậy ở dưới hang/ Nó nghe giọng lý kềnh càng bò lên”. Quả thật, lý Nam Bộ có sức quyến rũ lòng người và thật không sai khi nói lý Nam Bộ là viên ngọc quý trong kho tàng dân ca Việt Nam.
Trong dân ca miền Nam, lý là một làn điệu dân ca đặc trưng của những người nông dân mộc mạc. Những lời ca trong những điệu lý luôn nói lên tinh thần tích cực và sức sống mạnh mẽ của người nông dân. Lời lẽ thường chân thật và mộc mạc, không văn chương bóng bẩy, nhưng diễn tả được tình cảm, thể hiện được cá tính bộc trực, phóng khoáng của người Nam Bộ. Mặc dù lời ca của những điệu lý miền Nam đa phần giống với những câu hát của ca dao, hò, vè vì chúng có vần điệu dễ hát, nhưng khác với ca dao, hò, vè ở chỗ lý mang tính nhạc (hát), trong khi các thể loại dân gian kia mang thuộc tính của thi ca (thơ).
Lý Nam Bộ có đặc điểm là ngắn gọn, mỗi bài chỉ có một lời, giai điệu có những quãng nhảy xa tạo nên sắc thái sâu lắng trầm mặc hơn so với các điệu lý ở các vùng, miền khác. Mỗi điệu lý Nam Bộ đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản xuất như Lý đất giồng, Lý kéo chài chẳng hạn; hoặc ca ngợi những đức tính tốt của con người trong cuộc sống như Lý Ba Tri, ca ngợi cái đẹp trong thiên nhiên như Lý chim xanh; hoặc oán trách nhau như Lý lu là; hoặc mỉa mai, châm biếm bọn cường hào, ác bá như Lý con khỉ, Lý bình vôi, Lý con sam.
![]() |
Mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu Long. |
Nghiên cứu về dân ca Nam Bộ, ta thấy rằng, hầu như trong các điệu lý miền Nam đều có hình bóng con sông, bến nước, làng quê với những giai điệu thật trữ tình, tha thiết, luôn chứa đựng tình cảm của người dân phương Nam luôn nhớ về quê hương, nhớ về ký ức của lứa đôi nơi quê nhà.
Ví dụ như lời ca trong điệu Lý Cái Mơn: “Đàn cò bay về nơi thương nhớ. Nhớ bến sông xưa in hình bóng của người yêu… Thuyền tình ơi hãy chờ đợi ta bao tháng năm trôi qua. Nhưng người xưa vẫn luôn ngóng đợi tình chung”. Không gian làng quê hiện ra trong điệu Lý Cái Mơn rất thơ mộng, lãng mạn với nỗi hoài niệm man mác. Điệu Lý qua cầu có đoạn: “Trời bình minh chim về đây líu lo trên cành. Như mọi ngày dòng sông với con đò mong manh…”. Lý qua cầu cũng nói về một mối tình trên dòng sông, bến nước có cô lái đò và người lữ khách.
Và chuyện tình ấy có kết cuộc dang dở, buồn tênh. Một điệu lý nữa cũng gắn liền với sông nước đó là Lý bông dừa: “Sông dài còn chảy xuôi theo dòng. Mà sao xa vắng em tôi biết tìm nơi đâu. Dòng sông còn chứa chan ân tình. Nay dang dở tình đầu ta còn gắn đợi ai…”. Với những dẫn chứng vừa kể trên, đã quá đủ để minh chứng điệu lý miền Nam phản ảnh tâm tư, tình cảm, tính cách của người Nam Bộ - cũng là biểu tượng của sự mộc mạc, phóng khoáng của cư dân sinh sống trên vùng đất màu mỡ này.
Thoát thai từ tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động, lý Nam Bộ cũng như nhiều thể loại dân ca cổ nhạc khác đã in sâu vào lòng người đồng bằng, từ thuở tiền nhân khai mở đất phương Nam. Cho đến hôm nay, các điệu lý miền Nam đã thực sự chinh phục được đông đảo quần chúng, đặc biệt là người bình dân, bởi đề tài và nội dung vô cùng phong phú, phản ánh sống động mọi khía cạnh trong sinh hoạt thường ngày ở nông thôn Việt Nam. Lý thể hiện tình cảm trong quan hệ giữa người với người: tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, bè bạn; thể hiện tinh thần lạc quan và yêu thương cuộc đời; ca ngợi cuộc sống và khát vọng hạnh phúc của con người… Nó như một di sản tinh thần nuôi dưỡng, vun đắp tâm hồn của con người phương Nam.