1/ Múa Rối Nước:
Múa rối thì nhiều
dân tộc trên thế giới có, còn múa rối nước chỉ duy nhất ở Việt Nam. Nghệ thuật
múa rối nước xuất hiện từ đời Lý (1010 – 1225). Ngày nay ở làng Đọi, huyện Duy
Tiên tỉnh Hà Nam còn lưu giữ tấm bia đá , khắc ghi tả buổi biểu diển múa rối nước
mừng thọ vua Lý Nhân Tông (1121) nhằm ngày 3 tuần trăng thứ 8 như sau: “Dòng
sông gợn sóng. Một con rùa vàng mang trên mình ba hang đá. Nó bơi thư thả trên
mặt nước rồi phun nước như mưa. Trong tiếng nhạc êm đềm những cánh cửa của các
hang động mở ra. Thế là các nàng tiên xuất hiện, múa điệu “Hồi Phong” họ giơ những
cánh tay mềm mại, nhíu cặp mày dài duyên dáng, nhịp với lời ca. Những con chim
lạ bay đến, đậu từng đàn rồi thử tài nhảy nhót. Những chú hươu non tung tăng...
Rùa vàng nhìn về phía nhà vua cúi đầu kính bái. Những bác tiều phu giương cung
bắn thú...
Tại Hồ Long Trì
(chùa Thầy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây) cũng c1 văn hoa khắc ghi:
“giữa dòng nước lung linh, một con rùa vàng nổi lên đội ba hòn núi...”
Như vậy rõ ràng
sân khấu của múa rối nước phải ở nơi hồ nước. Vùng đồng bằng bắc bộ nhiều ao hồ.
Mỗi làng quê, nơi đình làng thường có hồ nước làm cảnh, mặt hồ là sân khấu,
xung quanh bờ hồ là nơi khán giả gồm già trẻ, mặt nước hồ là sân khấu, xung
quanh bờ hồ là nơi khán giả gồm già, trẻ, trai gái, trẻ em trong làng ngồi quay
quần xem diễn trò vào những ngày hội hè, lễ tết... Những phường rối nước đầu
tiên xuất hiện ở các tỉnh, hai bên bời sông Hồng. Tỉnh Thái Bình xưa kia có 7
phường múa rối nước, sau này nổi tiếng nhất là phường múa rối nước làng Nguyễn
Xá thuộc huyện Đông Hưng, Thái Bình ngày nay), các tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Hà
Nam, Nam Định, Hải Phòng...đều có những phường múa rối nước.
Phường múa rối nước thường là một tổ chức hoạt động nghệ thuật nghiệp dư, vừa
là một tổ chức tương tế. Diễn viên chính là những nông dân trong làng tự nguyện
góp thóc gây quỹ để chỉ dùng vào việc xây dựng tiết mục rối, đi biểu diễn và
giúp đỡ lẫn nhau khi một ai đó trong phường ốm đau hoặc gặp khó khăn. Hàng năm,
các phường rối nước làm lễ tế tổ và nhận thêm người mới. Ai được nhận vào phường
thì mang cơi trầu, chai rưỡu đến lễ tổ, trình phường và đặc biệt phải thề giữ
bí mật nhà nghề, nếu để lộ bí mật thì phải chịu hình phạt nặng. Lệ không nhận
phụ nữ vào phường, phòng khi đi lấy chồng xa mang theo những bí truyền múa rối
nước của làng đem lộ cho người khác đương nhiên đó là chuyện cũ, nay đã xóa bỏ.
Phường rối nước ngày xưa có khoảng 80 người, nhưng chỉ độ 20 người thực sự hoạt
động nghệ thuật do một ông trùm đứng đầu điều hành mọi việc, kể cả việc giữ gìn
con rối và các tài sản chung. Có một số nghệ nhân chuyên điều khiển con rối, số
người khác tạo hình con rối, có người sáng tác lời ca, lời giáo đầ, một số người
làm nhạc công. Âm nhạc cho múa rối nước thì bộ gõ gồm trống, mõ, thanh la...chiếm
phần quan trọng.
Con rối được tạo bằng gỗ, bên ngoài phủ lớp sơn ta, ngâm nước không thấm. Mỗi
con rối là một tác phẩm điêu khắc dân gian. Một nhân vật tiêu biểu nhất của rối
nước là chú Tễu, có thân hình tròn trĩnh, nụ cười hóm hỉnh, lạc quan. Mỗi con rối
một vẻ, thể hiện một tính cách. Nghệ nhân rối nước khi biểu diễn phải ngâm mình
dưới nước trong buồng trò (ngăn cách với khán giả bằng trúc mành tre). Họ điều
khiển con rối bằng “máy sào” và “máy dãy”. Những tiết mục múa rối nước rối
cổ truyền gồm nhiều trò lý thú như “múa Tễu”, “chọi trâu”, “chăn vịt”, “đánh
cáo”, “kéo cờ”, “đánh đu”, “sư tử hí cầu”, “Đường tăng thỉnh kinh”, “Thị Mầu
lên chùa”, “Đinh Bộ Lĩnh”... Ngày nay bên cạnh những tiết mục cổ truyền, lại có
thêm nhiều tiết mục múa rối nước thể hiện nội dung cuộc sống hiện đại. Người đến
xem múa rối nước, trong lúc chờ đợi mở màn đã nhìn thấy một sân khấu vừa trang
nghiêm vừa mới lạ: trên mặt nước lung linh, một nhà thủy đình tám mái cong
vút,được trang trí bằng những bức rèm màu sắc rực rỡ với những hình thêu hoa lá
, phượng rồng khá công phu. Trước lúc mở màn, một tràng pháo giòn giã liên hồi
hòa vào tiếng mõ, tiếng thanh la, tiếng trống như thúc giục lòng người, khiến tất
cả khán giả náo nức hướng vào bức mành tre nơi những con rối sắp rẽ mành
lướt ra mặt nước diễn trò. Diễn viên xuất hiện đầu tiên là chú Tễu ra
giáo trò dẫn chuyện:
- Bà con ơi?
- Ơi (tiếng để
đáp lại của giàn diễn viên và của cả khá giả).
- Tôi có phải
xưng danh không nhỉ?
- Có chứ...không
thì ai biết là ai?
Nhìn chú Tễu
trẻ trai, khỏe mạnh, đóng khố điều, hai tay chỉ trỏ, miệng cười tươi, nói những
lời vui vẻ khiến khán giả cười rộ:
- “Tôi
tên là Tễu...tôi từ nhà trời xuống đây từ cái thưở nước lửa hòa hợp với
nhau....bà con ơi!...có một cô da tráng , má đào , cô trông thấy Tễu tôi xuân
tình tưởng vọng, cô trông thấy Tễu tôi muốn kết hiếu. Cô lại sợ Tễu tôi hệ thị
mộc nhân, nhưng diệt hữu cơ tâm , đến đêm khuya chuyển động tâm thần, Tễu tôi
không nằm trơ như gỗ...ối a...ối a”
Chú Tễu sống gần một nghìn năm tuổi cùng với nền nghệ thuật rối nước mà vẫn
đầy sức sống vào vai người giáo trò, người dẫn chuyện, lại là anh hề với cách
nói bình luận sắc sảo , phê diều dở, khen điều hay kêu gọi sự đoàn kết, giúp đỡ
lẫn nhau, khuyên mọi người nên ca hát, sáng tạo nét đẹp cho cuộc sống. Có thể
nói chú Tễu là linh hồn của múa rối nước, chú nói hộ những suy nghỉ, tâm tư, ước
vọng của người nông dân Việt Nam.
Các tiết mục múa rối nước đã khéo léo kết hợp giữa những con rối người và con rối
động vật như cảnh chọi trâu có nh anh hề đánh trống thúc giục trâu trọi cho
hăng và một người trọng tài vui tính đã diễn tả được cảnh vui chơi hào hứng
trong ngày hội ở đồng quê. Tiết mục “múa tiên” với tám cô tiên được tạo hình rực
rỡ, lộng lẫy xiêm y múa nhịp nhàng trong những khúc dân ca mượt mà đằm thắm.
Ngày nay bên cạnh những phường rối nước ở làng quê, nhiều thành phố trên cả nước
đã có những đoàn nghệ thuật múa rối nước như: Đoàn nghệ thuật rối nước Việt
Nam, đoàn nghệ thuật rối nước Thăng Long, đoàn nghệ thuật rối nước Sông Ngọc...
Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam đã được giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới
và được khán giả các nước mến mộ, được coi là một loại hình độc đáo nhất, là
linh hồn của đồng ruộng Việt Nam.
2/ Múa Chèo
Nói đến nghệ thuật múa truyền thống của dân tộc là phải nói đến múa chèo, người
ta tìm thấy những động tác múa trên sân khấu ngà nay đã được khắc lên vách đá,
hang động, các phù điêu trong đình làng Việt Nam từ thuở rất xa xưa. Một đặc điểm
nữa của múa chèo là nó mang trong mình nhiều dấu ấn những hoạt động văn hóa
làng quê như múa thiêng – lên đồng – múa đèn, múa nến, múa gậy, múa khăn, múa
chạy cờ, múa quạt... Người diễn viên múa chèo phải “múa” từ bước đi, cách đứng
khi giao tiếp với nhân vật cùng diễn. Diễn viên chèo phải vừa múa vừa hát. Khi
múa sử dụng chủ yếu đôi bàn tay, cánh tay và cổ tay. Có thể nói đôi bàn tay là
sự thể hiện ngôn ngữ chèo là: Nhóm chạy đàn: bước đi lúc nhanh, lúc chậm, biểu
hiện sự suy tư thương nhớ và nỗi buồn mênh mông.
Nhóm dâng hoa gồm những động tác khoan thai trang nghiêm, diễn tả tình cảm tôn
kính.
Nhóm dâng rượu bước đi trang trọng, động tác mạch lạc, kính cẩn.
Nhóm cướp bông là những bước nhún ngẫu hứng, tài linh hoạt của người diễn.
Nhóm tấu nhạc thể hiện những tiết tấu âm thanh phù hợp với nội dung thể hiện của
vở diễn.
Vậy chèo xuất hiện từ bao giờ?
Có thuyết nói múa chèo có từ thế kỷ thứ X. Có ý kiến khác lại cho là khoảng giữa
thế kỉ XVI múa chèo mới thành hình. Đi tìm từ nguyên chữ chèo, cho rằng chữ
chèo thuyền (hát trong khi lao động). Cũng lại có luận điểm nói chắc rằng chèo
là từ chữ trào (trào lộng) vì tính hài trong chèo khá đậm nét.
Điều chắc chắn là nơi cội nguồn của nghệ thuật chèo là đồng quê thôn xóm. Xưa
kia có những “phường chèo” do một ông trùm cầm đầu đi diễn ở các thôn xóm làng
vào dịp mùa xuân, mùa thu là lúc nông nhàn. Những vùng chèo nòi, chèo gốc gọi
là tiếng chèo như “Chiếng Đông”, “Chiếng Đoài”, “Chiếng Nam”, “Chiếng Bắc” là
những chiếng chèo nổi tiếng khi xưa. Một “Chiếng chèo” chỉ gồm mười lăm người kể
cả nhạc công và bộ gõ chiếm vị trí quan trọng. Diễn viên gồm có đào, kép, hề.
Đôi khi chỉ cần một đào, một kép và một vai hề xuất sắc là đã nổi đình đám.
Tính chất ước lệ trong múi chèo khá cao. Chỉ cần hai chiếc chiếu trải giữ sân
đình, khán giả ngồi vây quanh là đã thành một sân khấu chèo. Tên gọi chèo sân
đình chính là như vậy. Buổi biểu diễn chèo thường mở đầu bằng điệu hát “vỡ nước”và
một hồi trống rung lên... Tiếng trống chèo có ma lực cuốn hút bao khán giả nông
thôn. Trống đã nổi lên ở đình thì không thể ngồi yên ở nhà:
“Ăn no rồi lại nằm
khèo
Thấy rục trống
chèo, bể bụng đi xem”
“Rục” là ngón gõ điêu luyện trên mặt trống có tác dụng kích thích và giục giã
lòng người.
Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong cốt truyện (tích
trò). Văn chèo đậm sắc trữ tình của ca dao, tục ngữ, tiếng cười trong múa chèo
thật thông minh dân giã nhưng không kém phần trí tuệ. Đôi khi tiếng cười ra nước
mắt có giá trị nhân văn rất sâu sắc.
Những vở chèo cổ Trương Viên, Kim Nham, Lưu Bình – Dương Lễ, Quan Âm Thị
Kính....đã được xếp vào vốn quý của sân khấu dân tộc cổ truyền.
Ngày nay, sự phát triển ồ ạt của nhiều loại hình văn hóa, để bảo tồn và phát
huy vốn cổ dân tộc, các nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ trong làng chèo đã có những
bước đi mạnh dạn để cách tân múa chèo, đổi mới môn nghệ thuật này để nâng cao
hơn nữa giá trị thưởng thức cho đại đa số khán giả cả thành thị và nông thôn.
Những nghệ sĩ tên tuổi đã gắn bó sự nghiệp cả đời với nền nghệ thuật chèo không
thể không nhắc đến: Trần Bằng, Trần Huyền Trân, Tào Mạt, Hoàng Kiều, Hoài Giao,
Việt Dung, Trùm Thịnh. Cả Tam, Dịu Hương, vua hề Năm Ngũ, Diễm Lộc...
Trong sự thành công chung của các vở Chèo, ta không thể không đề cập đến vai
trò của âm nhạc. Âm nhạc Chèo là một trong những bộ phận cốt lõi tạo nên nghệ
thuật sân khấu Chèo. Nói đến nhạc Chèo là nói đến cả hai bộ phận: hát và đàn.
Trong đó, phần hát bao gồm hơn một trăm làn điệu được chia thành các hệ thống
khác nhau. Còn phần đàn, phải kể đến vai trò của dàn nhạc trong việc đệm cho
hát, làm nền cho cảnh diễn, tạo tình huống kịch, mở màn cho vở diễn v.v… Sự kết
hợp giữa hai yếu tố này sẽ tạo nên nét đặc trưng cho nghệ thuật sân khấu Chèo
truyền thống.
Nếu đề cập đến loại hình ca Trù không thể thiếu tiếng phách, đàn đáy, trống chầu;
trong đờn ca tài tử là đàn kìm (đàn nguyệt); thì trong Chèo không thể thiếu sự
hỗ trợ của tiếng đàn, tiếng trống. Chèo là hình thức sân khấu kể chuyện thông
qua diễn trò nên gắn bó đặc biệt với âm thanh của tiếng nhị, sáo, tiếng trống
cùng với sức mạnh của cả một dàn nhạc. Nếu nói giọng hát là chủ đạo của Chèo,
thì âm nhạc lại là cái hồn của Chèo. Giọng hát, tiếng đàn đã như hình với bóng,
không thể tách rời, tạo nên một phong cách sân khấu riêng biệt, ăn sâu vào tâm
khảm người Việt từ bao đời nay.
Để hiểu rõ hơn âm nhạc trong hát Chèo, hãy tìm hiểu “cái hồn” của Chèo
nhé!
Dàn nhạc Chèo cấu
tạo theo kiểu dàn nhạc màu sắc, truyền thống mỗi cây đàn có một màu sắc
riêng, có lối diễn tấu và sức truyền cảm riêng. Các nhạc cụ được cấu trúc theo
xu hướng gần gũi với giọng người. Âm thanh mỗi nhạc cụ thể hiện tiếng nói
riêng, vang lên trong không gian huyền bí của sân khấu như lời mời, gọi người
nghe; cái trước, cái sau, khi hoà quyện, lúc tách nhánh, chuyển động nhịp nhàng
theo nội dung vở diễn.
Nếu như trước
đây, dàn nhạc Chèo gồm:
- Bộ dây - chi
kéo: nhị 1, nhị 2, hồ.
-
chi gẩy: nguyệt, tam, thập lục, bầu.
-
chi gõ: tam thập lục.
- Bộ hơi: tiêu,
sáo.
- Bộ gõ: trống
đế, trống ban, trống chầu, trống cơm, thanh la, mõ, não bạt,
sinh tiền, tiu cảnh, chiêng...
Ngày nay, dàn nhạc Chèo thường chỉ có 5, 6 nhạc công và mỗi nhạc công có thể sử
dụng được 1 hoặc 2 nhạc cụ. Với bộ gõ, hiện thường dùng là trống đế,
thanh la, mõ, trống cơm, trong đó, trống đế là nhạc cụ có vai trò quan trọng
trội bật.
Trong các bộ (dây, hơi, gõ) thì các nhạc cụ thuộc bộ gõ đóng vai
trò quan trọng. Các cụ có đâu “Phi trống bất Chèo” cho thấy vai trò của bộ
gõ nói chung và tiếng trống nói riêng trong sân khấu Chèo truyền thống. Theo
thông lệ, vở Chèo thường mở đầu bằng điệu hát Vỡ nước với sự phụ hoạ của hồi trống
rung, buổi diễn kết thúc có hát Vãn trò với trống giã đám.
Bên cạnh đó, thông qua một số ước lệ trong kỹ thuật diễn tấu trống, người diễn
viên như cảm nhận được những qui định về hành động sân khấu của mình như: Rù
trống (vê dùi trên mặt trống) là diễn viên đang di động; Rụp
trống là diễn viên dừng lại; Cắc trống lúc khoan lúc
nhặt là diễn viên đang suy nghĩ, tính toán chuẩn bị hành động... Ngoài ra, cũng
như sân khấu Tuồng, Chèo trước đây còn sử dụng trống chầu để “cầm trịch” buổi
diễn (thậm chí là khen-chê), do một người có vai vế, uy tín hoặc am hiểu sâu về
nghệ thuật sân khấu điều khiển.
Các nhạc cụ gõ trong Chèo có khả năng quán xuyến, điều hành tiết tấu vở diễn, dẫn
dắt sự chuyển màn, chuyển lớp, sự ra vào của diễn viên trên sân khấu… Đúng như
nhà nghiên cứu Bùi Đức Hạnh đã nhận định: “Trống Chèo (bộ bõ) là linh hồn của
dàn nhạc Chèo vì nó là nguồn sáng tạo chủ chốt, kích thích mọi sự sáng tạo khác
của các cây đàn cùng hoà điệu tạo nên một phong cách chỉnh thể của âm nhạc Chèo
trong lối đệm cho hát cũng như hoà tấu nhạc không lời”.
Nói như vậy không có nghĩa, bộ gõ là yếu tố duy nhất làm nên hiệu quả cho cả
dàn nhạc. Mà ở đây, bộ gõ rất quan trọng trong việc tạo không khí bề ngoài cho
diễn xuất, tuy nhiên khó có thể tạo được hiệu quả trữ tình, nội tâm sâu lắng của
nhân vật. Điều này chỉ có thể đạt được nhờ các nhạc cụ thuộc họ dây, họ hơi. Ví
như tiếng đàn nhị - líu - hồ nhấn vuốt, luyến láy bám sát giọng
người, khơi gợi những mạch nguồn sâu thẳm của giọng hát. Tiếng sáo –
tiêu vừa trong sáng bay bổng, vừa mơ hồ, xa xăm, lại giàu chất gợi cảm,
trữ tình. Tiếng đàn bầu - đàn tranh da diết, cảm thương, ngân nga,
vang vọng, giàu chất trữ tình thể hiện những suy tư thầm kín, những uẩn khúc bi
thương... Với cách sử dụng đa dạng, hợp lý các nhạc cụ kể trên, ông cha ta đã tạo
nên một sân khấu Chèo có cách thể hiện hài hoà về âm nhạc giữa cái hài, cái
hùng và cái bi, chứ không quá bi hùng như sân khấu Tuồng hay bi luỵ như sân khấu
Cải lương.
Có thể thấy, âm nhạc trong Chèo có vai trò thể hiện nội tâm nhân vật, khắc hoạ
cho phần diễn của nhân vật rất rõ nét. Ngoài ra, âm nhạc còn có vai trò mở
màn, mở cảnh, báo hiệu diễn biến tiếp theo của nội dung.
3/ Hát Tuồng
Hát tuồng, hay
còn gọi là hát bội, là một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống của Việt
Nam, kết hợp hài hòa giữa âm nhạc, kịch nghệ, và vũ đạo để kể những câu chuyện
lịch sử, thần thoại, và những tích cổ. Với những trang phục lộng lẫy, những câu
hát trầm bổng và những động tác múa uyển chuyển, hát tuồng đã để lại dấu ấn sâu
đậm trong lòng người xem. Tuy nhiên, có nhiều người vẫn chưa hiểu rõ về loại
hình nghệ thuật này
Hát
tuồng là gì? Nguồn gốc và đặc điểm của nghệ thuật tuồng
Nội
dung
Một số khái
niệm liên quan tuồng là gì?
Hát tuồng là
gì?
Hát tuồng là một
thể loại nghệ thuật biểu diễn dân gian truyền thống của Việt Nam, đặc trưng với
những yếu tố như diễn xuất, âm nhạc, và trang phục phong phú. Thể loại này có
nguồn gốc từ những điệu múa, điệu hát trong lễ hội dân gian, và phát triển mạnh
mẽ trong thời kỳ phong kiến.
Hát tuồng là gì?
Hát tuồng tiếng
Anh là gì?
Hát tuồng trong
tiếng Anh thường được dịch là “Tuong” hoặc “Vietnamese classical theater.” Thuật
ngữ “Tuong” được sử dụng để chỉ đặc trưng văn hóa và nghệ thuật của thể loại
này, trong khi “Vietnamese classical theater” có thể mô tả rõ hơn về bối cảnh
văn hóa của nó.
Tại sao lại gọi
tuồng là hát bộ, hát bội?
Tuồng được gọi
là “hát bộ” hoặc “hát bội” do một số lý do liên quan đến đặc trưng nghệ thuật
và phong cách biểu diễn của thể loại này:
·
Hát bộ: Đây là một cách gọi tân thuộc của
người dân. Từ “bộ” trong tiếng Việt có nghĩa là “bộ diễn”, “điệu bộ” ám chỉ đến
cách thức diễn xuất và kể chuyện qua các điệu múa, điệu hát. Hát bộ thể hiện sự
kết hợp giữa diễn xuất và âm nhạc, trong đó diễn viên vừa hát vừa diễn, tạo nên
một câu chuyện liên tục và hấp dẫn.
·
Hát bội: Một số ý kiến cho rằng từ “bội”
xuất phát từ cụm “bội độc,” có nghĩa là ôn bài mà không cần đến sách vở.
Tại miền Bắc, mọi
người chủ yếu gọi là tuồng, trong khi ở miền Trung và miền Nam thì thường sử dụng
các thuật ngữ hát bộ hoặc hát bội.
Tại
sao lại gọi tuồng là hát bộ, hát bội?
Nguồn gốc của
tuồng
Hát tuồng là một
loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống, và do đó, không ai có thể xác định
thời điểm chính xác mà nó xuất hiện. Theo các nhà nghiên cứu và dựa trên lịch sử
dân tộc, có ba giả thuyết chính về nguồn gốc của tuồng như sau:
Nghệ thuật tuồng
ra đời vào thời Trần (thế kỷ XIII): Vào cuối thế kỷ XII, quân dân ta đã giành
chiến thắng trước quân xâm lược Nguyên Mông và bắt giữ một kép hát người Trung
Quốc tên là Lý Nguyên Cát. Người này được giữ lại trong cung đình nhà Trần để
phục vụ giải trí. Lý Nguyên Cát đã dựa trên các truyện cổ để sáng tạo ra tuồng,
vì vậy nghệ thuật này có sự ảnh hưởng từ hí kịch Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều
nhà nghiên cứu khẳng định rằng tuồng đã tồn tại trước đó, mặc dù chưa có hình
thức biểu diễn chuyên nghiệp.
Tuồng ra đời vào
thế kỷ XVII tại Bình Định: Theo giả thuyết này, người đầu tiên phát triển nghệ
thuật hát tuồng ở Việt Nam là Đào Duy Từ, người đã mang tuồng vào Đàng Trong để
truyền dạy cho mọi người. Đào Duy Từ là con trai của một phường chèo chuyên
nghiệp, ông đã phát triển từ chèo để tạo ra nghệ thuật tuồng. Tuy nhiên, không
có tài liệu hay dấu tích lịch sử cụ thể nào để chứng minh cho điều này.
Tuồng phát triển
từ các trò diễn sân khấu vào thế kỷ XVI-XVII: Nghệ thuật tuồng có nguồn gốc từ
các trò diễn sân khấu, nhưng chưa được biểu diễn một cách chuyên nghiệp như các
loại hình nghệ thuật khác. Đến cuối thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, tuồng mới đạt đến
đỉnh cao và phát triển thành một loại hình biểu diễn chuyên nghiệp.
Nguồn gốc
của nghệ thuật tuồng
Quá trình
phát triển của nghệ thuật tuồng
Sau khi tìm hiểu
về khái niệm và nguồn gốc của tuồng, chúng ta sẽ cùng khám phá quá trình phát
triển của nghệ thuật này từ thời phong kiến cho đến nay.
Nghệ thuật tuồng
trong thời kỳ phong kiến
Quá trình phát
triển của hát tuồng trong giai đoạn đầu gặp không ít khó khăn, bởi quan niệm về
nghệ thuật sân khấu thời đó chủ yếu xem đây là những trò giải trí của tiểu
nhân, chỉ được coi trọng ở Đàng Trong (miền Trung và miền Nam). Tuy nhiên, vào
thời Tây Sơn, tuồng trở nên phổ biến hơn, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ giọng hát của
người dân Bình Định, nên được gọi là hát tuồng Bình Định.
Triều Nguyễn được
xem là thời kỳ thịnh vượng nhất của nghệ thuật tuồng, với nhiều công trình và
cơ quan cung đình được xây dựng như Thanh Bình từ đường, Thanh Bình thự và Duyệt
Thị đường. Đặc biệt, vua Minh Mạng cũng tham gia viết kịch bản cho vở tuồng “Quần
tiên hiến thọ.”
Trong thời vua Tự
Đức, nghệ thuật tuồng được hoàn thiện về mọi mặt, với việc xây dựng nhà hát
Minh Khiêm đường trong lăng Tự Đức. Các vở tuồng phát triển đến 20 hồi hoặc
hàng trăm hồi, kéo dài hàng năm trời. Không chỉ có trong cung đình, tuồng còn
được dân chúng thành lập đoàn để biểu diễn trong các hội hè, lễ Tết.
Nghệ
thuật tuồng trong thời kỳ phong kiến
Hát tuồng
trong thời cận đại
Trong thế kỷ XX,
giai đoạn chuyển giao giữa thời phong kiến và hiện đại, nghệ thuật tuồng vẫn được
coi là quốc kịch của Việt Nam. Thể loại nghệ thuật này đã có những thay đổi để
bắt kịp với thời đại. Từ 1930 đến 1945, tuồng chịu ảnh hưởng mạnh từ các tác phẩm
văn học lãng mạn.
Sau năm 1954, tuồng
bị cấm do bị coi là sản phẩm phong kiến, có ảnh hưởng tiêu cực đến các chủ
trương và chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước, cũng như tư tưởng của
nhân dân. Tuy nhiên, nhà hát Tuồng Việt Nam vẫn được thành lập vào năm 1959 với
mục tiêu phát huy văn hóa dân tộc.
Sau cuộc kháng
chiến chống Mỹ, nghệ thuật tuồng được coi trọng và dần phát triển hơn. Năm
1976, đất nước thống nhất, hội diễn tuồng toàn quốc được tổ chức tại Bình Định,
thu hút nhiều đoàn tuồng từ khắp nơi trong cả nước.
Hát tuồng
trong thời cận đại
Nghệ thuật tuồng
trong giai đoạn hiện đại
Ngày nay, hát tuồng
không chỉ đơn thuần là một loại hình nghệ thuật dân gian cần được bảo tồn mà
còn là một nét đẹp văn hóa của người Việt, đáng được giới thiệu với bạn bè quốc
tế. Tuy nhiên, từ sau thời kỳ cận đại, nghệ thuật tuồng đang đứng trước nguy cơ
mai một do bối cảnh xã hội hiện tại, cùng với sự thiếu quan tâm từ cộng đồng và
giới trẻ trong giai đoạn đổi mới.
Nghệ
thuật tuồng trong giai đoạn hiện đại
Phân loại nghệ
thuật tuồng
Hát tuồng được
chia thành ba loại chính: tuồng pho, tuồng thầy và tuồng đồ.
·
Tuồng pho: Loại hình này lấy cốt
truyện từ các tác phẩm của Trung Quốc, với nội dung thường rất dài, có thể lên
tới hàng trăm hồi. Khi biểu diễn, thường chỉ chọn một vài hồi đặc sắc để trình
diễn, và một vở tuồng pho có thể kéo dài hàng tháng, gần giống với các bộ phim
truyền hình dài tập trên tivi. Một số vở tuồng pho tiêu biểu bao gồm: “Đông
Hán,” “Phong Thần,” và “Tam Quốc.”
·
Tuồng thầy: Đây là các tác phẩm mang tính
chất văn chương mẫu mực, trong đó một số nhân vật trở thành hình mẫu để người
khác học tập, như Tiết Cương, Lão Tạ, Tạ Kim Hùng và Phương Cơ.
·
Tuồng đồ: Xuất hiện từ Huế trở vào miền
Nam, tuồng đồ được sáng tạo nhằm phản ánh tư tưởng, tình cảm và đời sống của tầng
lớp nhân dân. Nó được xếp vào dòng hài kịch vì phản ánh những điều thối nát
trong xã hội phong kiến một cách dí dỏm và hài hước.
Hát tuồng được chia thành ba loại chính:
tuồng pho, tuồng thầy và tuồng đồ
Đặc điểm của
nghệ thuật hát tuồng là gì?
Hát tuồng có nhiều
nét tương đồng với chèo và cải lương, bởi đây đều là những hình thức nghệ thuật
dân gian có sự giao thoa và học hỏi lẫn nhau.
Nội dung kịch
bản hát tuồng
Nội dung của hát
tuồng thường xoay quanh đề tài cung đình, không chỉ phản ánh những sự kiện diễn
ra trong cung mà còn đề cập đến các mối quan hệ chính trị và phe phái trong xã
hội phong kiến. Kịch bản thường thấy trong tuồng thường liên quan đến các tình
huống như vua băng hà, thái tử hay hoàng tử còn nhỏ tuổi không đủ khả năng nối
ngôi, cùng với sự xuất hiện của các gian thần muốn chiếm đoạt ngai vàng, hoặc
âm thầm lật đổ hoàng đế khi ông còn sống nhưng đang yếu thế. Các trung thần sẽ
tìm mọi cách để bảo vệ nhà vua, hoàng tử hoặc thái tử khỏi những âm mưu của kẻ
thù. Thực trạng xã hội cũng được phản ánh chi tiết trong các vở tuồng.
Cấu trúc kịch bản
tuồng thường được xây dựng theo dòng tự sự phương Đông, tức là các câu chuyện
được trình bày có đầu, có đuôi và theo trình tự phát triển của thời gian. Một vở
tuồng cơ bản thường có ba hồi:
·
Hồi I: Giới thiệu hoàn cảnh, nhân vật
chính và nguyên nhân dẫn đến các mâu thuẫn trong vở kịch.
·
Hồi II: Xung đột diễn ra quyết liệt, giữa
phe chính diện và phe phản diện, với phe phản diện tạm thời chiếm ưu thế.
·
Hồi III: Xung đột đạt tới cao trào, diễn
ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai phe, và cuối cùng, chiến thắng thuộc về
phe chính nghĩa.
Một
vở tuồng cơ bản thường có ba hồi
Các điệu múa
trong nghệ thuật tuồng
Trong nghệ thuật
hát tuồng, bên cạnh lời ca và tiếng hát, điệu bộ múa đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo nên thành công của vở diễn. Các điệu bộ chính trong nghệ thuật
tuồng bao gồm: mắt, tay, chân, vuốt râu và cưỡi ngựa.
Đôi mắt: Sử
dụng ánh mắt và cách nhìn để truyền đạt cảm xúc và suy nghĩ đến khán giả.
·
Ngó nghiêng xuống: thể hiện sự suy tính và mưu kế.
·
Ngó mơ nhìn: biểu thị tình yêu thương.
·
Đảo lộn không ngừng: diễn tả tâm trạng hoang
mang, loạn trí.
·
Trợn to: biểu lộ sự giận dữ.
·
Liếc qua liếc lại: thể hiện sự oai phong của các
vai kép võ và đào võ.
·
Ngó đằm, liếc chậm: thể hiện sự hiền từ.
Tay:
·
Chỉ hai ngón tay úp thẳng trước ngực: chỉ người
hoặc đồ vật gần.
·
Chỉ một ngón tay úp thẳng: chỉ đồ vật hiện có.
·
Chỉ hai ngón tay nghiêng chéo phía trước: chỉ
người hoặc đồ vật xa.
·
Chỉ một ngón tay thẳng mặt: dạy dỗ người khác.
·
Chỉ một ngón cạnh tai: thể hiện sự lắng nghe.
·
Chỉ một ngón giữa miệng và cằm: diễn tả sự mắc cỡ.
Vuốt râu: Vuốt
râu cần tuân theo quy tắc để thể hiện cảm xúc của nhân vật.
Râu ba hoặc
năm chòm:
·
Vuốt chòm bên mép: đang suy nghĩ.
·
Vuốt thẳng tay: đã suy nghĩ xong.
·
Bợ trọn hàm râu: thể hiện đắc ý, vui vẻ.
·
Một tay bợ hàm râu quăng sang bên: giận dữ,
thách thức.
·
Vuốt chậm: thể hiện sự vui vẻ; vuốt liên tục: biểu
thị giận giữ.
Râu liên tu:
·
Ôm hàm râu vuốt xuống: đang suy nghĩ.
·
Vuốt thẳng xuống: ngụ ý đã xong.
·
Một tay choàng quay vuốt kéo lại: thể hiện sự
kiêu ngạo.
·
Phất hàm râu ra: đang giận dữ.
Chân: Các
bộ chân như Niêm, Thinh, Ký, Cầu được sử dụng tùy theo nhân vật và tình huống.
·
Niêm: chân hơi nghiêng, gót chân lỏng.
·
Thinh: chân cong đưa cao ngang gối.
·
Ký: gót chân xuống đất, ngón chân hơi nâng lên.
·
Cầu: chân cong đưa lên cao.
Cưỡi ngựa: Trong
biểu diễn tuồng, cưỡi ngựa không sử dụng ngựa thật mà thay bằng roi để tượng
trưng, nhưng vẫn có thể truyền tải ý nghĩa cho khán giả.
Điệu múa đóng vai trò quan trọng trong việc
tạo nên thành công của vở diễn
Nhạc cụ trong
nghệ thuật tuồng là gì?
Nhạc cụ trong
nghệ thuật hát tuồng rất phong phú, bao gồm trống chiến, trống cơm, trống chầu,
hầu cuổn, đàn kìm, đàn nhị, đàn sến, đàn đoán, ống tiêu, chập chõa, đổ đường,
sanh, phách, và kèn song hỷ. Trong số này, trống là nhạc cụ được sử dụng phổ biến
nhất, với các nhịp đánh to, nhỏ, dồn dập hoặc chậm, nhằm biểu đạt chính xác những
sự kiện sẽ diễn ra trong vở tuồng.
Các giọng hát
tuồng
|
Giọng hát tuồng |
Đặc điểm |
|
Nói lối |
Có bốn kiểu nói lối, bao gồm lối
xuân, lối ai, lối xẳng và lối thường. |
|
Hát nam |
Các câu hát thường theo thể văn
như lục bát, song thất lục bát, và lục bát gián thất. Có năm điệu chính, gồm
Nam xuân, Nam ai, Nam dựng, Nam chạy và Nam biệt. |
|
|
|
|
Hát khách |
Đây là lối hát kết hợp với đờn
kèn và nhạc điệu nhịp nhàng, tạo nên âm hưởng hùng tráng. |
|
Xướng |
Là phương thức nói to và chậm
rãi để mọi người đều có thể nghe rõ. |
|
Bạch |
Dùng để giới thiệu hoặc trình
bày về các vai anh hùng nữ kiệt. |
|
Ngâm |
Là lối ngâm thơ thường sử dụng
trong các buổi trà dư tửu hứng hoặc để thể hiện tâm tư trong các tình huống bất
ngờ. |
|
Thán |
Đây là lối hát thể hiện nỗi lòng
bối rối, hoạn nạn, ly biệt, hoặc nỗi nhớ quê hương. |
|
Oán |
Là giọng hát thể hiện sự uất hận
về số phận. |
|
Quân ban |
Thường bao gồm bốn câu với mục
đích kêu gọi quân lính chinh phạt. |
|
Hát bài |
Đây là hình thức chúc thọ vua,
thường đi kèm với múa. |
Giọng
hát tuồng với các đặc điểm khác nhau
Hóa trang
trong hát tuồng
Trong nghệ thuật
tuồng, hóa trang đóng vai trò vô cùng quan trọng, nhiều nhân vật còn sử dụng mặt
nạ với hình dáng độc đáo để tạo ấn tượng với khán giả. Dù là hóa trang hay sử dụng
mặt nạ, các đường nét trên khuôn mặt đều được nhấn mạnh và làm nổi bật. Hầu hết
các nghệ sĩ biểu diễn đều có khả năng tự trang điểm cho mình.
·
Mặt màu đỏ, ngân: Thể hiện anh hùng, người nghĩa
khí, trung liệt.
·
Mặt trắng mốc, xám, hồng lợt: Thường được dùng để
miêu tả gian thần, nịnh thần.
·
Mặt vằn đen trắng: Biểu trưng cho người trung thực,
thường có tính nóng nảy, thường là vai tướng võ.
Ngoài ra, các yếu
tố như kiểu tóc, màu lông, và cách để râu của các nhân vật cũng phản ánh tính
cách của họ.
Trang phục và
đạo cụ trong nghệ thuật tuồng
Trang phục trong
nghệ thuật tuồng rất phong phú, bao gồm đủ các loại xiêm áo, giáp, khăn, nón,
thắt lưng và mũ. Mỗi nhân vật sẽ có bộ trang phục riêng biệt; chẳng hạn, vua sẽ
mặc long bào, quan văn sẽ đội mão văn công, và hoàng hậu sẽ đội mão cửu phụng.
Đạo cụ trong hát tuồng cũng rất đa dạng, bao gồm roi mây, gậy, lệnh bài và các
loại binh khí. Mỗi nhân vật và hoàn cảnh sẽ sử dụng đạo cụ phù hợp; ví dụ, khi
ra trận, tướng quân sẽ cầm theo các loại binh khí như đao, kiếm hoặc thanh long
đao.
Sân khấu biểu
diễn hát tuồng
Nghệ thuật tuồng
cổ có sân khấu biểu diễn khá đơn giản, chỉ cần một chiếc chiếu trắng trải chính
giữa và phía sau là màn thêu. Tuy nhiên, đến nay, biểu diễn tuồng đã được
chuyên nghiệp hóa rất nhiều, với hệ thống âm thanh hội trường và sân
khấu được trang bị ánh sáng đầy đủ. Bối cảnh trên sân khấu được sắp đặt như thật,
và việc hạ màn chuyển cảnh diễn ra chỉ trong chớp mắt, không còn phải chờ đợi
lâu như trước kia.
Một số soạn
phẩm hát tuồng nổi tiếng
Dưới đây là một
số tác phẩm tuồng nổi tiếng mà bạn nhất định phải nghe và xem:
·
Triệu Đình Long cứu Chúa
·
Tam nữ đồ vương
·
Diễn Võ Đình
·
Phụng Nghi Đình
·
Hoàng Phi Hổ quá giới bài quan
·
Ngũ Hổ Bình Tây
·
Lý Phụng Đình
·
Hồ Nguyệt Cô hóa cáo
·
Hộ sanh đàn
·
Nghêu sò ốc hến
·
Xuân Đào cắt thịt
·
Trưng nữ vương
·
Mộc Quế Anh dâng cây
Các nghệ sĩ nổi
bật trong nghệ thuật hát tuồng
Các nghệ sĩ
biểu diễn tuồng nổi tiếng:
·
NSND Nguyễn Nho Túy (Đội Tảo)
·
NSND Ngô Thị Liễu
·
NSND Phạm Chương
·
NSND Nguyễn Phẩm
·
NSND Sáu Lai
·
NSND Bạch Trà
·
NSND Quang Tốn
·
NSND Năm Đồ
·
NSND Mẫn Thu (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
·
NSND Đàm Liên (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
·
NSUT Kim Cúc
·
NSND Hoàng Khiềm (Nguyên Giám đốc Nhà hát Tuồng
Việt Nam)
·
NSND Minh Ngọc (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
·
NSND Hòa Bình (Nhà hát Tuồng Đào Tấn)
·
NSND
Mẫn Thu nghệ sĩ nổi bật trong nghệ thuật hát tuồng Việt Nam
Đạo diễn tuồng
tiêu biểu:
·
NSND Ngọc Phương
·
NSND Lê Tiến Thọ
·
NSND Hoàng Khiềm
·
NSUT Tạ Tạo
Soạn giả nổi
tiếng:
·
Đào Tấn
·
Bùi Hữu Nghĩa
·
Hoàng Châu Ký
·
Tống Phước Phổ
·
Nguyễn Hiển Dĩnh
Các ca đoàn
tuồng nổi tiếng hiện nay
Trên cả nước hiện
nay có 7 đơn vị biểu diễn nghệ thuật tuồng trong đó có 4 nhà hát, 1 đoàn nghệ
thuật và 2 đoàn trực thuộc:
·
Nhà hát Tuồng Việt Nam
·
Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế
·
Nhà hát Tuồng Đào Tấn
·
Nhà hát Nghệ thuật Hát Bội Thành phố Hồ Chí Minh
·
Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh
·
Đoàn Tuồng thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống
Khánh Hòa.
·
Đoàn Nghệ thuật Tuồng Thanh Hóa
Nguồn:https://haoquanggroup.com/hat-tuong-la-gi-nguon-goc-va-dac-diem-cua-nghe-thuat-tuong/?srsltid=AfmBOooJkJkt0LuuSBWxB2c-UCMGNt6SSLSVvWeikieKcylGNqI-JcCc
4/ Hát Quan Họ
Hát quan họ là một thể loại ca nhạc dân gian truyền thống của vùng đồng bằng và
trung du Bắc Bộ. Cái nôi nghệ thuật này ở vùng Bắc Ninh.
Lời hát quan học là các thể thơ, chủ yếu là thơ lục bát (6/8) giàu âm điệu và
hình ảnh, giàu chất ca dao trữ tình vừa mộc mạc mà vừa duyên dáng, dí dỏm. Chủ
đề trong lời ca quan họ là chủ đề tình, nghĩa, đó là tình nghĩa giữa những con
người lao động cùng sống trong cộng đồng làng, xã. Vì thế từ xa xưa đã hình
thành những làng quan họ, hầu hết tập trung vào xung quanh thị xã Bắc Ninh. Hội
các làng quan họ đã gắn liền với các ngôi đình làng, chùa làng cổ kính. Thời điểm
mở hội là mùa xuân, từ mùng 4 tết trở đi, các làng quan họ mở hội, ban ngày thì
tổ chức những cuộc vui như kéo co, cờ người, đánh đu, chọi gà, đấu vật.. Ban
đêm thì tại sân đình, sân chùa hay trong các gia đình quan họ hát thâu đêm.
Cách hát quan họ là hát đôi (một nam, một nữ). Khi một đôi của làng bạn hát thì
bên làng này cũng chuẩn bị một đôi để hát lại. Họ giao lưu tình cảm bằng lời
hát, hẹn hò nhau cũng qua lời hát và nguyện kết bạn cũng qua lời hát.
Về mặt âm nhạc thì đạo bộ phận các bài quan họ có bố cục thành hai phần: phần đầu
có tính chất ngâm vịnh, giáo đầu nên tiết tấu tự do, chậm rãi, phần thân là ca
khúc chính, có tiết tấu nhanh hơn phần đầu. Cũng có những bài quan họ thêm phần
thứ ba là phần “đổ” nghĩa là người hát chuyển giọng mang sắc thái mới bất ngờ để
báo hiệu sự kết thúc. Theo thống kê chưa đầy đủ thì dân ca quan họ có tới 200
làn điệu. Mỗi làn điệu là một ca khúc hoàn chỉnh.
Để giải thích cội nguồn phát sinh nghệ thuật hát quan họ thì có nhiều giả thuyết
nhưng tượng trưng tất cả các giả thuyết đều có một lý giải chung là do tục kết
bạn, kết nghĩa giữa con người giữa làng này với làng khác, rồi nhân dịp xuân về,
hẹn gặp gỡ nhau để tra gởi tình cảm.
Dân ca quan họ Bắc Ninh được hình thành khá lâu đời, do cộng đồng người Việt
(Kinh) ở 49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc
Giang sáng tạo nên. Đây là một trong những loại hình dân ca đặc trưng của
Việt Nam, bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các làng xóm. Quá trình hình thành lời
ca, làn điệu Quan họ gắn liền với quá trình phát triển của đời sống xã hội nhằm
nâng cao và tôn vinh các mối quan hệ cộng đồng và giao lưu văn hóa.
Nét đặc trưng của
Quan họ chính là ở hình thức hát đối đáp. Những liền anh trong trang phục truyền
thống khăn xếp, áo the và những liền chị duyên dáng trong bộ áo mớ ba, mớ bẩy,
đầu đội nón thúng quai thao, cùng nhau hát đối những câu ca mộc mạc, đằm
thắm, cách hát theo lối truyền thống không cần nhạc đệm mà vẫn đầy chất nhạc,
thể hiện nét văn hóa tinh tế của người Quan họ.
Hát quan họ
không chỉ đòi hỏi hát tròn vành, rõ chữ, mượt mà, duyên dáng, bằng nhiều kỹ thuật
như: rung, ngân, luyến, láy mà còn phải hát nảy hạt. Kỹ thuật nảy hạt của các
nghệ nhân quan họ tuy có nét chung với lối hát chèo và ca trù nhưng lại rất
riêng, khó lẫn. Tùy theo theo cảm hứng và thị hiếu của người hát, những hạt nảy
có thể lớn nhỏ về cường độ.
Theo quan niệm của
người Quan họ, nghệ nhân là những ngưòi có kỹ năng hát “vang, rền, nền, nẩy”
điêu luyện, thuộc nhiều bài, nhiều "giọng" Quan họ. Họ chính là những
bậc thầy dân gian thực hành việc sáng tạo, lưu giữ và trao truyền vốn di sản
quý báu đó cho các thế hệ mai sau nên rất xứng đáng được tôn
vinh.
Dân ca quan họ
có 213 giọng khác nhau, với hơn 400 bài ca. Lời một bài ca có hai phần: lời
chính và lời phụ. Lời chính là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài ca, lời
phụ gồm tất cả những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng đưa hơi
như i hi,ư hư, a ha…
Khi hát quan họ,
người hát sử dụng những thể thơ và ca dao nhất định của người Việt, phần lớn là
thể lục bát, lục bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp. Lời các bài ca quan
họ đều là những câu thơ, ca dao được trau chuốt, từ ngữ trong sáng, mẫu mực. Những
bài ca quan họ được sáng tạo ngẫu hứng trong các kỳ hội làng, hoặc ứng tác ngay
trong một canh tác, một cuộc thi trang giải của làng. Nội dung các bài ca thể
hiện các trạng thái tình cảm của con người: nhớ nhung, buồn bã khi chia xa, sự
vui mừng khi gặp lại của những người yêu nhau, mà không được cưới nhau theo quy
định của những tập quán xã hội bằng một ngôn ngữ giàu tính ẩn dụ.
Dân ca quan họ
mang nhiều nét độc đáo và được chia thành 2 loại: Quan họ truyền thống và quan
họ mới.
Quan họ truyền
thống: Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Quan họ, vùng Kinh Bắc có tất cả 49 làng
duy trì được lối chơi văn hóa Quan họ (44 làng ở Bắc Ninh, 5 làng ở Bắc Giang)
với hàng ngàn bài hát lời cổ mộc mạc, dân dã mang nét đẹp riêng vừa thiêng
liêng, vừa cổ xưa mà rất Việt Nam.
Quan họ truyền
thống hát không nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ
hội xuân ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với
đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối
đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ. "Chơi quan
họ" truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người
thưởng thức (thưởng thức “cái tình” của bạn hát).
Quan họ mới còn
được gọi là "hát Quan họ" là hình thức biểu diễn (hát) quan họ chủ yếu
trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng, như: Tết đầu xuân, lễ hội, hoạt
động du lịch...Từ sau năm 1954, quan họ được khai thác làn điệu, đặt lời mới
thành ra ca cảnh diễn trên sâu khấu. Thực tế, quan họ mới được trình diễn vào bất
kỳ ngày nào trong năm.
Quan họ mới luôn
có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là
tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã
mà đã vươn ra nhiều nơi, đến với thính giả trong nước và các quốc gia trên trên
thế giới.
Hình thức biểu
diễn của quan họ mới rất phong phú, bao gồm hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có
múa phụ họa... Quan họ mới cải biên các bài bản truyền thống theo hai cách:
không có ý thức (hát quan họ có nhạc đệm) và có ý thức (cải biên cả nhạc và lời
của bài bản quan họ truyền thống).
Trải qua một quá
trình phát triển lâu đời trên một vùng đất có sự giao lưu rộng và phát triển sớm,
Hát Quan họ đã trở thành một điểm sáng trong dân ca Việt Nam. Lời hay ý đẹp,
ngôn ngữ bình dân nhưng tinh tế, ý nhị, giàu hình tượng và cảm xúc; âm điệu
phong phú, trữ tình; lối hát mượt mà với kỹ thuật nảy hạt độc đáo; phong cách lịch
thiệp - tất cả làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dân ca Quan họ.
5/ Lý
Nam Bộ
Nói đến nghệ
thuật ca hát dân gian Nam Bộ mà chỉ đóng khung trong làn điệu “vọng cổ” hay một
số làn điệu, bài bản của âm nhạc tài tử và cải lương thì quả chưa đầy đủ. Vùng
đất trù phú này còn sản sinh ra nhiều làn điệu dân ca mang đậm màu sắc Nam Bộ
như: Hát ru, hát Sắc bùa, Nói thơ Bạc Liêu, hò, Vè và trong đó không thể không
kể đến những điệu lý thật mộc mạc, dễ thương. Những điệu lý Nam Bộ không chỉ đi
vào sinh hoạt đời sống nhân dân ta từ hàng trăm năm trước mà di sản văn hóa phi
vật thể này còn biểu thị tinh thần lạc quan, sức sống mãnh liệt của cư dân vùng
sông nước phương Nam.
Khúc ca cần
lao
Theo các nhà
nghiên cứu âm nhạc dân gian, lý Nam Bộ có xuất phát từ nguồn gốc lao động,
không do bàn tay nghệ sĩ tạo nên mà chỉ là một hình thức nghệ thuật tự phát của
quần chúng nhân dân. Trong quá trình khai phá và chinh phục vùng đồng bằng Nam
Bộ, trước một vùng đất màu mỡ, bao la, từ những vườn cây ăn trái bạt ngàn của
vùng Long Khánh, Biên Hòa (Đồng Nai), cho đến những cánh đồng lúa bông vàng
trĩu hạt phơi mình dưới ánh nắng chói chang ở miền châu thổ Cửu Long, đã khơi
nguồn cảm hứng dạt dào cho người dân sinh sống tại mảnh đất hiền hòa này sáng tạo
ra nhiều làn điệu lý mang nét đặc trưng riêng, đậm chất trữ tình, ngọt ngào,
sâu lắng.
Lý Nam Bộ xuất
hiện khá nhiều trong sinh hoạt văn hóa dân gian và thường được dùng như một chất
liệu để làm phong phú thêm cho một số làn điệu âm nhạc cổ truyền Nam Bộ.
Các nhà nghiên cứu
âm nhạc dân gian Nam Bộ đã thống kê có khoảng hơn 200 điệu lý đã được thu thập ở
miền Nam. Nhạc điệu của chúng dựa trên thang âm ngũ cung của âm nhạc cổ truyền
Nam Bộ, thêm vào đó là những tiếng luyến láy, tiếng đệm làm cho giai điệu thêm
phong phú và tiết tấu thường là nhịp đôi (2/4 hay 4/4).
Vợ chồng nhạc sĩ Lư Nhất Vũ nhà thơ Lê Giang
- tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm về dân ca và lý Nam Bộ.
Người dân miền
Nam đặt tên cho các điệu lý dựa trên tên thú vật như: Lý con Mèo, Lý con Khỉ,
Lý con Nhái, Lý con Cua, Lý con Sáo, Lý Chim quyên, Lý con Trâu, Lý con Cúm
Núm, Lý Chuồn Chuồn, Lý Ngựa ô, Lý Quạ kêu…; tên cây cỏ gồm có các điệu lý: Lý
bông sen, Lý bông lựu, Lý cây khế, Lý bắp non, Lý bụi chuối, Lý lựu lê, Lý cây
chanh, Lý mù u, Lý cây ổi…; tên các món ăn thì có: Lý bánh ít, Lý bánh canh, Lý
dĩa bánh bò, Lý ăn giỗ, Lý bánh tráng….
Ngoài ra, trong
kho tàng các điệu lý Nam Bộ có một số điệu lý còn dựa vào xuất xứ của nghệ thuật
“Bóng rỗi” mà đặt tên như điệu “Lý giọng bông” chẳng hạn. Dựa vào đặc tính của
nhóm tiếng đệm mô phỏng các bậc âm của “chữ đờn” dân tộc, hoặc tiếng tụng
niệm kinh kệ mà đặt tên thì có các điệu lý như: Lý bản đờn, Lý cống
chùa…. Cũng có trường hợp lấy địa danh cụ thể để đặt tên thì có: Lý Ba
Tri, Lý Cái Mơn, Lý Năm Căn.... Hay tên phong cảnh thì có: Lý cảnh chùa,
Lý quán rượu...
Tơ lòng nơi
dân dã
Từ buổi đầu đi
khai phá miền đất mới phương Nam, người nông dân đồng bằng Nam Bộ đã lấy văn học
nghệ thuật truyền miệng để nói lên ước vọng của mình trong cuộc sống. Việc sử dụng
thể thơ lục bát vào điệu lý, kết hợp những từ, cụm từ, lặp từ, tiếng đệm, âm
hơi ngỡ như thừa thãi nhưng đó lại là nghệ thuật thể hiện đầy đủ và rõ ràng nhất
các cung bậc tình cảm của con người Nam Bộ, lúc thiết tha, da diết, khi thì phấn
khởi, vui tươi một cách rất tự nhiên, bình dị. Lý Nam Bộ không chỉ phong phú về
số lượng mà cả về đề tài, nội dung cũng như đặc tính âm nhạc.
Cái hay của các
điệu lý Nam Bộ trước hết bởi nó là một loại dân ca sinh động về nội dung, phong
phú về điệu thức, đa dạng về ngôn từ. Thứ hai là nó có thể xuất hiện trong hầu
hết các loại hình nghệ thuật dân gian của miền Nam, thường được xen vào các bài
ca vọng cổ, vở tuồng cải lương. Lời ca thì chân chất, mộc mạc, dễ hiểu, dễ thuộc,
dễ hát nên nó thường được sử dụng rộng rãi trong mọi sinh hoạt văn hóa của cộng
đồng, trong mọi thôn cùng ngõ hẻm ở quê hương Nam Bộ.
Ai cũng có thể
hát lý và hát bất cứ nơi đâu như: khi chèo xuồng, lúc ru em, khi làm đồng; hoặc
vào các dịp lễ, tết, hội hè, giỗ chạp… Nhờ vậy mà lý đã được người dân Nam Bộ
bình chọn là: “Nhất Lý, Nhì Ngâm, Tam Nam, Tứ Oán”. Lý Nam Bộ như là một món ăn
tinh thần thiết yếu của cư dân đồng bằng Nam Bộ đến nỗi trong dân gian có câu
thơ như sau: “Con Cua quậy ở dưới hang/ Nó nghe giọng lý kềnh càng bò lên”. Quả
thật, lý Nam Bộ có sức quyến rũ lòng người và thật không sai khi nói lý Nam Bộ
là viên ngọc quý trong kho tàng dân ca Việt Nam.
Trong dân ca miền
Nam, lý là một làn điệu dân ca đặc trưng của những người nông dân mộc mạc. Những
lời ca trong những điệu lý luôn nói lên tinh thần tích cực và sức sống mạnh mẽ
của người nông dân. Lời lẽ thường chân thật và mộc mạc, không văn chương bóng bẩy,
nhưng diễn tả được tình cảm, thể hiện được cá tính bộc trực, phóng khoáng của
người Nam Bộ. Mặc dù lời ca của những điệu lý miền Nam đa phần giống với những
câu hát của ca dao, hò, vè vì chúng có vần điệu dễ hát, nhưng khác với ca dao,
hò, vè ở chỗ lý mang tính nhạc (hát), trong khi các thể loại dân gian kia mang
thuộc tính của thi ca (thơ).
Lý Nam Bộ có đặc
điểm là ngắn gọn, mỗi bài chỉ có một lời, giai điệu có những quãng nhảy xa tạo
nên sắc thái sâu lắng trầm mặc hơn so với các điệu lý ở các vùng, miền khác. Mỗi
điệu lý Nam Bộ đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản
xuất như Lý đất giồng, Lý kéo chài chẳng hạn; hoặc ca ngợi những đức tính tốt của
con người trong cuộc sống như Lý Ba Tri, ca ngợi cái đẹp trong thiên nhiên như
Lý chim xanh; hoặc oán trách nhau như Lý lu là; hoặc mỉa mai, châm biếm bọn cường
hào, ác bá như Lý con khỉ, Lý bình vôi, Lý con sam.
|
|
|
Mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu
Long. |
Nghiên cứu về
dân ca Nam Bộ, ta thấy rằng, hầu như trong các điệu lý miền Nam đều có hình
bóng con sông, bến nước, làng quê với những giai điệu thật trữ tình, tha thiết,
luôn chứa đựng tình cảm của người dân phương Nam luôn nhớ về quê hương, nhớ về
ký ức của lứa đôi nơi quê nhà.
Ví dụ như lời ca
trong điệu Lý Cái Mơn: “Đàn cò bay về nơi thương nhớ. Nhớ bến sông xưa in hình
bóng của người yêu… Thuyền tình ơi hãy chờ đợi ta bao tháng năm trôi qua. Nhưng
người xưa vẫn luôn ngóng đợi tình chung”. Không gian làng quê hiện ra trong điệu
Lý Cái Mơn rất thơ mộng, lãng mạn với nỗi hoài niệm man mác. Điệu Lý qua cầu có
đoạn: “Trời bình minh chim về đây líu lo trên cành. Như mọi ngày dòng sông với
con đò mong manh…”. Lý qua cầu cũng nói về một mối tình trên dòng sông, bến nước
có cô lái đò và người lữ khách.
Và chuyện tình ấy
có kết cuộc dang dở, buồn tênh. Một điệu lý nữa cũng gắn liền với sông nước đó
là Lý bông dừa: “Sông dài còn chảy xuôi theo dòng. Mà sao xa vắng em tôi biết
tìm nơi đâu. Dòng sông còn chứa chan ân tình. Nay dang dở tình đầu ta còn gắn đợi
ai…”. Với những dẫn chứng vừa kể trên, đã quá đủ để minh chứng điệu lý miền Nam
phản ảnh tâm tư, tình cảm, tính cách của người Nam Bộ - cũng là biểu tượng của
sự mộc mạc, phóng khoáng của cư dân sinh sống trên vùng đất màu mỡ này.
Thoát thai từ tiếng
nói của quần chúng nhân dân lao động, lý Nam Bộ cũng như nhiều thể loại dân ca
cổ nhạc khác đã in sâu vào lòng người đồng bằng, từ thuở tiền nhân khai mở đất
phương Nam. Cho đến hôm nay, các điệu lý miền Nam đã thực sự chinh phục được
đông đảo quần chúng, đặc biệt là người bình dân, bởi đề tài và nội dung vô cùng
phong phú, phản ánh sống động mọi khía cạnh trong sinh hoạt thường ngày ở nông
thôn Việt Nam. Lý thể hiện tình cảm trong quan hệ giữa người với người: tình
yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, bè bạn; thể hiện tinh
thần lạc quan và yêu thương cuộc đời; ca ngợi cuộc sống và khát vọng hạnh phúc
của con người… Nó như một di sản tinh thần nuôi dưỡng, vun đắp tâm hồn của con
người phương Nam.
6/ Nghệ Thuật Cải Lương Ở Nam Bộ
Trải qua biết
bao thăng trầm của lịch sử, hạt giống cải lương đã được sinh ra và phát triển mạnh
mẽ trên mảnh đất Nam Bộ. Ra đời sau Chèo và Hát Bội, phát triển từ nhạc Tài tử
biến thành “ca ra bộ”, nghệ thuật cải lương đã dần dần phát triển và chinh phục
đông đảo tầng lớp nhân dân, nó do người Việt sáng tạo trên nước Việt cho người
Việt, được cha truyền con nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã có nhiều tác
phẩm để đời đến ngày nay.
Có thể xem cải
lương ra đời vào những thập niên của đầu thế kỷ XX ở địa bàn miền Tây Nam Bộ. Cải
lương xuất phát từ thể loại đờn ca tài tử mà ra. Vào cuối thế kỷ 19, đờn ca tài
tử đã phát triển hoàn chỉnh từ đờn, ca, bài bản. Người ca diễn tả tâm trạng của
bài hát bằng những điệu bộ, gọi là lối ca ra bộ, là hiện tượng tự phát theo từng
bài bản riêng một. Giá trị của đờn ca tài tử nó mang lại đó là sự gắn kết của mọi
người, kể cả người thể hiện bài hát lẫn người nghe hát. Sau một ngày làm việc
căng thẳng, được ngồi cùng nhau hát đờn ca, xua đi cái mệt mỏi của cả ngày làm
việc đó mới chính là giá trị của đờn ca tài tử mà không thể loại nhạc nào hay
hình thức nghệ thuật nào khác có được.
Đờn ca tài tử có
tính thính phòng, được biểu diễn trong một không gian vừa đủ, dù ban ngày hay
ban đêm, mọi người cùng nhau thưởng thức tiếng đờn, lời ca giản dị, mộc mạc mà
không cần đến bất kỳ sự trợ giúp của thiết bị âm thanh nào. Đôi khi, muốn cảm
nhận hết, người nghe phải lắng tai, nhắm mắt lại thì mới thấy cái tinh túy, cái
chất riêng đặc biệt trong Đờn ca tài tử. Những người biểu diễn Đờn ca tài tử phải
trọn bộ, trọn bài. Càng biểu diễn lâu, sự sáng tạo càng thăng hoa, giúp người
nghe thỏa mãn mong muốn của mình
Cải lương mang
tính sân khấu. Tức là, nó được trình diễn trong không gian mở, với phông màn, cảnh
trí, hệ thống âm thanh hội trường ánh sáng, diễn viên hóa trang,… bắt mắt, thu
hút ánh nhìn của khán giả. Không chỉ giúp họ thỏa mãn về thính giác mà Cải
lương còn làm thỏa mãn thị giác của những người yêu âm nhạc.
Quá trình hình
thành nghệ thuật cải lương là một quá trình phức tạp. Theo tài liệu của các nhà
nghiên cứu, “Ca ra bộ” do nhạc sư Nguyễn Tống Triều (Tư Triều) tại Cái Thia –
Tiền Giang chế ra từ năm 1916. Ca ra bộ xuất hiện đầu tiên ở Vĩnh Long trong
nhóm đờn ca tài tử của ông Tống Hữu Định. Nhưng khi nó được đưa lên sân khấu ở
Mỹ Tho, để ra mắt quần chúng rộng rãi, thì mới được chú trọng. Lúc đó, ở Thành
phố Mỹ Tho có rạp chiếu bóng Casino của ông Châu Văn Tú, để lôi cuốn khách được
hình thành từ lối ca hát tài tử, ca ra bộ và dần dà phát triển thành những kịch
bản được diễn xuất trên sân khấu nhằm đáp ứng nhu cầu của khán thính giả thời bấy
giờ. Đến năm 1920, gánh Tân Thinh có hai câu đối treo trước sân khấu:
Cải cách hát ca
theo tiến bộ
Lương truyền tuồng
tích sánh văn minh.
Cải lương có
nghĩa là thay đổi tốt hơn khi so sánh với hát bội. Sân khấu cải lương là một loại
hình sân khấu khác hẳn với hát bội cả về nội dung vở soạn lẫn nghệ thuật trình
diễn.
Từ đó loại hình
ca kịch sân khấu này mang tên “cải lương”. “Ban” hay “đoàn cải lương” là tên bảng
hiệu, còn dân gian gọi là “gánh cải lương”, do xưa đi diễn ở vùng sâu vùng xa
không có xe cộ, đào kép nhân viên đều phải gánh đạo cụ, y trang tới dựng rạp,
treo màn nên gọi là “gánh hát”.
Từ sự ra đời của
cải lương ở miền Nam, nó phát triển được khắp các miền đất nước. Nơi nào cũng
tiếp nhận dễ dàng. Khác với một số thể loại như chèo chỉ ở Bắc, cung đình chỉ ở
Huế, ca kịch bài chòi chỉ ở Nam Trung Bộ…
Ca ra bộ được
đông đảo quần chúng hâm mộ, dần dần phát triển và con đường phát triển tất yếu
của nó là đi vào nghệ thuật sân khấu, biến hát bội thành “hát bội pha cải
lương” rồi tiến lên chuyển mình thành một loại hình riêng.
Âm nhạc cải
lương cũng không kém phần phong phú, nào là nhạc dân ca, nhạc truyền thống và
sau này có thêm tân nhạc. Lúc này, làn điệu vọng cổ không những đóng vai trò chủ
chốt mà nó còn là linh hồn của cải lương. Bên cạnh đó, nhạc cụ cải lương cũng
đóng một vai trò đáng kể. Mặc dù chỉ sử dụng nhạc cụ truyền thống (đàn cò, đàn
nhị, đàn nguyệt, đàn tranh, trống cơm…). Dàn nhạc trong cải lương bắt nguồn từ
dàn nhạc lễ trong cung đình, sau đó do tính chất của nhạc lễ dần thay đổi từ
trang nghiêm sang chất đời thường, gắn với tâm tư người lao động. Vì thế tên gọi
ban nhạc tài tử đã được thay thế cho ban nhạc lễ. Các sáng tác mới trên cơ sở
âm điệu dân tộc như Giang Nam, Phụng Hoàng, Tứ Đại, Văn Thiên Tường…
Sau chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, Pháp cho du nhập vào nước ta những phim ảnh, sách báo và
những đĩa hát, về sau có nhiều đoàn kịch hát Trung Quốc sang biểu diễn tại Sài
Gòn. Do đó, nghệ thuật cải lương có cơ hội thu hút thêm tinh hoa sân khấu của
nước ngoài như cách diễn xuất, sử dụng một số bài bản nước ngoài phù hợp với
cách diễn tấu của dàn nhạc cải lương, học tập cách sử dụng bộ gõ bổ sung thêm
kèn mới vào dàn nhạc cải lương.
Từ sau Hiệp định
Geneve (1954), cải lương càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ, trở thành một loại
hình nghệ thuật, một bộ môn sân khấu có khả năng thu hút hàng đêm cả vạn triệu
khán thính giả say mê đến với nó tại các nhà hát hay bên chiếc radio.
Nghiên cứu toàn
bộ lịch sử cải lương qua những nét đại thể, chúng ta thấy loại hình nghệ thuật
này mang đặc điểm nổi bật. Đó là nền nghệ thuật mang tính giải phóng của người
nông dân bị áp bức và mất nước, phải vùng lên để chiến đấu cho sự sống còn của
tầng lớp mình, dân tộc mình. Tiếng nói của họ là tiếng ca bất khuất và đã được
thể hiện qua nhiều tác phẩm mà “Đời cô Lựu” là một vở tiêu biểu của tác giả Trần
Hữu Trang, vốn là một nông dân, một nghệ sĩ, trí thức.
Đề tài và cốt
truyện ngay từ đầu đều khai thác các truyện Nôm của ta như Kim Vân Kiều, Lục
Vân Tiên hoặc các câu truyện trong khung cảnh xã hội Việt Nam. Sau đó chiều
theo thị hiếu của khán giả, sân khấu cải lương cũng có một số vở soạn theo các
truyện, tích của Trung Quốc hoặc dựng lên những cốt truyện với nhân vật, địa
danh có vẻ của Trung Quốc nhưng những cảnh ngộ, tình tiết thì của xã hội Việt
Nam. (Mộc Quế Anh, Phụng Nghi Đình…. Sau đó là Tô Ánh Nguyệt, Đời cô Lựu…).
Diễn xuất của diễn
viên thường diễn một cách tự nhiên, nhất là khi diễn về đề tài xã hội thì diễn
viên diễn như kịch nói. Cải lương cũng có múa và diễn võ nhưng nhìn chung là những
động tác trong sinh hoạt để hài hòa với lời ca chứ không phải là hình thức bắt
buộc.
Y phục trong các
vở về đề tài xã hội, diễn viên ăn mặc như nhân vật ngoài đời. Trong các vở diễn
về đề tài lịch sử dân tộc… thì y phục của diễn viên chỉ mới có tính ước lệ chứ
chưa đúng với hiện thực.
Nhạc cải lương
là một loại nhạc sân khấu, được phát triển dựa trên phong trào ca nhạc tài tử.
Loại nhạc này bắt nguồn từ nền ca nhạc dân gian lâu đời của nước ta. Nó nằm
trong kho tàng văn hóa dân tộc, và đồng thời phát triển với những cuộc di dân về
phương Nam của ông cha ta. Cũng những cây đàn ấy khi vào phương Nam thì trở nên
linh động với những màu sắc mới lạ và biến thành một loại hình nghệ thuật độc
đáo. Âm nhạc cải lương hơi nhẹ nhàng vì dùng đàn dây tơ và dây kim, không có
kèn trống như hát bội. Cải lương có những làn điệu bài bản cố định, từ đó nhạc
sĩ thiết kế để phù hợp với tâm trạng từng nhân vật. Yếu tố hàng đầu cho một giọng
ca cải lương hay chính là sức mạnh truyền cảm. Một giọng ca hời hợt, chỉ thấy lời
mà không thấy lòng người thì không phải là giọng ca hay. Một giọng ca hay là giọng
ca lột tả đến cùng tình cảm của câu hát, của tâm trạng nhân vật bằng tất cả
rung động của trái tim người hát và bằng cả quá trình khổ luyện, tìm ra được
cách biểu hiện tốt nhất. Mỗi người sẽ tạo ra một chất giọng riêng, như người ta
dễ dàng nhận ra giọng hát của nghệ sĩ Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Mỹ Châu, Thanh Kim
Huệ.., hay Út Trà Ôn, Minh Vương, Minh Phụng, Minh Cảnh… trên sân khấu miền
Nam.
Tóm lại, cải
lương là một nghệ thuật dân gian xuất phát từ miền Nam và lần lần được cả ba miền
ưa thích. Cải lương có khả năng thực hiện những đề tài mới do tính cách động. Cải
lương dễ chấp nhận những phong cách biểu diễn mới, du nhập cách múa của hát Tiều,
hát Quảng kể cả những làn điệu của phương Tây, Trung Quốc… phù hợp với quan điểm
thẩm mỹ của người Nam bộ. Từ nhạc cổ và nhạc lễ chuyển thành nhạc tài tử, từ nhạc
tài tử tiến lên hình thức ca ra bộ rồi chuyển thành loại hình nghệ thuật sân khấu,
có kịch bản văn học, diễn viên, nhạc công, thiết kế mỹ thuật, quá trình hình
thành sân khấu cải lương là quá trình kế thừa và phát triển truyền thống âm nhạc
dân tộc và tiếp thu văn hóa nước ngoài. Cải lương đã đưa lại một giá trị tinh
thần cho người Việt Nam. Nó khai thác thế giới tâm hồn của con người, bằng cảm
nhận của tinh thần, đạo lý. Thế giới tình cảm được chắt lọc và được thăng hoa
qua ngôn ngữ và phương tiện nghệ thuật biểu diễn đầy sức truyền cảm của diễn
viên, nó tác động mạnh và trực tiếp nhận thức tình cảm của người xem. Vì vậy, cải
lương- một nghệ thuật sân khấu đẹp trong hình thức lẫn nội dung, mang tính truyền
thống đặc trưng của người dân Nam bộ cần được lưu giữ và phát triển để thế hệ
trẻ được học hỏi, hiểu biết thêm về nghệ thuật này.
Nguồn: Nguyễn Thị Thu Hồng ( Bảo tàng phụ nữ nam bộ)
7/ Hát Then
Then là một loại
hình sinh hoạt văn hóa độc đáo, là môi trường tổng hợp của các loại nghi thức,
tín ngưỡng, các loại hình nghệ thuật như trang trí, âm nhạc, múa, hát...
Then được sử dụng
trong các nghi lễ cúng để giải hạn, cầu mùa, cấp sắc, chữa bệnh... Do những người
làm nghề then thực hiện và được chọn lọc, phát triển thành một loại hình dân ca
hát then - đàn tính đặc sắc của nhân dân các dân tộc tày, nùng - tỉnh lạng sơn.
Hát then của dân tộc tày huyện Bắc Sơn
Lạng sơn là địa
bàn chung sống của các dân tộc nùng, tày, kinh, dao, hoa, mông, sán chay...
Trong đó người nùng và tày là hai dân tộc có số dân đông nhất trên địa bàn tỉnh
lạng sơn, phân bố rộng khắp các thôn bản, xã phường thị trấn thuộc 11 huyện,
thành phố trong toàn tỉnh. Người tày, nùng cư trú chủ yếu ở vùng trũng thuộc
lưu vực các con sông lớn, các thung lũng có nhiều đồng ruộng như lòng chảo thất
khê (huyện tràng định), huyện bình gia, huyện bắc sơn, huyện lộc bình, huyện
chi lăng... Do sự tương đồng về địa bàn cư trú, dân tộc tày và dân tộc nùng có
những nét tương đồng về đời sống kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ... Trong đó, then
là một di sản văn hóa phi vật thể độc đáo, đặc sắc, tiêu biểu của đồng bào dân
tộc tày, nùng trên địa bàn tỉnh lạng sơn. Then của người tày, nùng ở lạng sơn
là nét sinh hoạt văn hóa cổ xưa được lưu truyền cho tới ngày nay. Đây là hệ thống
lễ nghi để con cháu báo công với tổ tiên và thần linh, tạ ơn thần thổ địa, thần
thành hoàng, thần nông đã phù hộ cho một mùa làm ăn thuận lợi; đồng thời, đây
cũng là thời điểm linh thiêng để gia đình, dòng họ tổ chức cầu phúc, cầu tài, mừng
thọ... Chính vì vậy, then được tổ chức quanh năm, khi gia đình có việc sẽ mời
ông then, bà then đến nhà để “hắt phựt”, “hắt then” (làm then) với mục đích cầu
cúng, giải hạn, nối số, cầu yên... Mỗi cuộc then thường diễn ra trong khoảng 10
đến 20 tiếng đồng hồ tùy thuộc điều kiện cụ thể của từng gia đình và tùy theo
tính chất của nghi lễ.
“hắt phựt”, “hắt then” (làm then) của dân tộc
tày, nùng Lạng Sơn
Có thể khẳng định
rằng then dân tộc tày, nùng tỉnh lạng sơn mang giá trị cân bằng nhu cầu tâm
linh của con người trong xã hội. Khi phải đối diện với nhiều sự may rủi, những
khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, người tày, nùng đã tìm thấy ở then một điểm
tựa an toàn về tinh thần. Niềm tin đối với tín ngưỡng đó đã góp phần điều tiết
những bất ổn trong xã hội, con người sẽ hướng tới những điều tốt đẹp hơn trong
cuộc sống ở tương lai và tránh xa những suy nghĩ, hành động tiêu cực bởi họ tin
sẽ có sự trừng phạt nếu làm điều không phải đó. Bên cạnh đó, then còn mang tính
cố kết cộng đồng chặt chẽ, thể hiện trong mối quan hệ giữa những người trong phạm
vi làng xã cùng chung tín ngưỡng. Vì vậy, khi một cuộc then được tổ chức chính
là dịp để anh em họ hàng, bạn bè, làng xóm đến với nhau trong sự đồng cảm, đồng
điệu của tâm hồn.
Chính vì vậy
then là kho tàng quý giá về di sản văn hóa cổ truyền của dân tộc, là nguồn tư
liệu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu truyền thống lịch sử, văn hóa, phong tục
tập quán của người tày, nùng ở lạng sơn. Then có ý nghĩa quan trọng trong quá
trình bảo tồn văn hóa dân gian dân tộc tày, nùng. Theo đó, những nghệ nhân then
tày, then nùng được coi là trung tâm bảo tồn nghệ thuật then. Những khúc hát sử
dụng trong then nghi lễ giúp các nhà nghiên cứu có thêm tri thức văn hóa dân
gian về đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tày, nùng ở lạng sơn.
Với những nội
dung, giá trị đặc sắc đó, ngày 13/12 tại phiên họp ủy ban liên chính phủ về bảo
vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 14 của unesco diễn ra tại thủ đô bogotá,
cộng hòa colombia, di sản thực hành then của người tày, nùng, thái ở việt nam
đã chính thức được tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của liên hợp quốc
(unesco) ghi danh vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
8/ Đờn Ca Tài Tử Nam Bộ
Đờn ca tài tử -
một nét văn hóa dân gian đặc trưng của miền Nam Việt Nam. Vậy đờn ca tài tử là
gì? Tại sao lại được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại?
Đờn ca tài tử là
một trong những loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống của miền Nam Việt
Nam. Với những giai điệu và giai điệu đặc trưng, đờn ca tài tử đã được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2013.
Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ về nguồn gốc và đặc điểm của loại hình
nghệ thuật này. Vì thế, trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu và khám
phá về đờn ca tài tử, từ lịch sử hình thành của loại hình nghệ thuật nổi tiếng
này
Đờn ca tài tử là
gì ?
Nghệ thuật đờn
ca tài tử Nam Bộ là gì ?
Đờn ca tài tử là
một loại hình nghệ thuật truyền thống phổ biến tại miền Nam Việt Nam. Bao
gồm sự kết hợp giữa âm nhạc và ca hát, thường được thể hiện bằng các cây đàn
truyền thống như đàn đáy, đàn tranh, đàn nguyệt, đàn kìm và đàn tranh bầu.
Nghệ thuật đờn ca tài tử thường được trình diễn trong các dịp lễ hội, tiệc cưới
hoặc các cuộc gặp gỡ thân mật. Âm nhạc của nó mang đậm nét đặc trưng của dân ca
Nam Bộ, kết hợp giữa nhịp điệu nhanh, chậm và pha trộn giữa âm thanh độc đáo từ
các loại đàn khác nhau.
Đờn ca tài tử có ảnh hưởng tới 21 tỉnh thành phía Nam. Nó bắt nguồn từ sự kết hợp
giữa loại nhạc lễ Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian từ cuối thế kỷ 19.
Được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, đờn
ca tài tử vẫn được nhiều người yêu thích và trình diễn thường xuyên cho đến
ngày nay.
Đờn ca tài tử
tiếng anh là gì ?
Đờn ca tài tử được
gọi là "Southern amateur music" trong tiếng Anh và đang phát triển mạnh
tại các cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Tuy nhiên, việc dịch chính xác tiếng
Anh cho đờn ca tài tử là vô cùng khó khăn, do nguồn từ tiếng Anh không đa dạng
và có nhiều từ không thể dịch sang tiếng Việt.
Do đó, chúng ta vẫn có thể sử dụng thuật ngữ "đờn ca tài tử Nam Bộ" để
giải thích cho các người nước ngoài. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về nghệ thuật
này, chúng ta nên tìm hiểu về nguồn gốc và đặc điểm của nó.
Nguồn gốc của
đờn ca tài tử Nam Bộ
Nguồn gốc của đờn
ca tài tử Nam Bộ liên quan đến Nhã nhạc cung đình Huế và xuất phát từ Trung Bộ
vào cuối thế kỷ 19. Sau khi Kinh đô Huế bị sát thủ vào năm 1885, nhiều người đã
lánh nạn về phía Nam và kết hợp nhã nhạc cung đình Huế với các yếu tố dân ca
phía Nam để tạo ra đờn ca tài tử.
Được sáng lập bởi 3 người, nghệ thuật này đã được cải biên và sáng tạo để phù hợp
với hoàn cảnh biểu diễn. Tên gọi "đờn ca tài tử Nam Bộ" xuất phát từ
nhạc tài tử Nam Bộ có 5 nốt chính và các bản ca có sẵn người sáng tác chỉ cần cải
biên từ ngữ cho phù hợp với bản nhạc.
Đặc điểm của đờn
ca tài tử là gì ?
Nhạc cụ đờn
ca tài tử
Đờn ca tài tử
Nam Bộ sử dụng các nhạc cụ truyền thống như đàn kìm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn
tam và thường được trình bày bằng song tấu, tam tấu hoặc hoà tấu. Ống sáo cũng
có thể được sử dụng.
Dàn nhạc thường ngồi cùng một chỗ để thể hiện tài năng và phong cách điệu nghệ
của mình. Ngoài những nhạc cụ truyền thống, đàn ca tài tử Nam Bộ cũng đã du nhập
và phát triển bằng việc sử dụng các nhạc cụ khác như đàn guitar phím lõm,
violin và guitar Hawaii.
Trang phục đờn
ca tài tử Nam Bộ
Nghệ thuật đờn
ca tài tử Nam Bộ mang tính dân dã, vì vậy trong các buổi biểu diễn hàng ngày,
các nghệ sĩ thường mặc chính thường phục. Trong khi đó, khi biểu diễn chuyên
nghiệp hoặc tại đình, miếu, đền, trên sân khấu, họ mới mặc trang phục. Trang phục
đơn giản của họ chỉ gồm áo dài truyền thống.
Biểu diễn nghệ
thuật đờn ca tài tử Nam Bộ
Đờn ca tài tử
thường biểu diễn theo nhóm, với 5 nhạc cụ chính là đàn tranh, tỳ bà, kìm, đàn
cò và đàn tam kết hợp với sáo bảy lỗ. Người hát chính có thể là nam hoặc nữ và
hiện nay, biểu diễn không chỉ diễn ra trong dịp đặc biệt mà còn theo yêu cầu của
khách du lịch, trong các lễ hội hoặc ngẫu hứng.
Được trình diễn trên nhiều nơi, từ sân khấu đến bóng mát của cây, trên thuyền,
hay trong đêm trăng sáng, sân đình, chùa,... Trang phục biểu diễn đơn giản, thường
mặc chính thường phục cho gần gũi, và chỉ mặc trang phục trang trọng trong các
sự kiện chuyên nghiệp hoặc tôn giáo.
Phạm vi hoạt
động của đờn ca tài tử
Đờn ca tài tử
Nam Bộ được phát triển rộng khắp 21 tỉnh thành phía Nam Việt Nam, bao gồm An
Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận,
Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hậu Giang, TP Hồ Chí Minh, Kiên Giang,
Long An, Ninh Thuận, Sóc Trăng, Tây Ninh, Tiền Giang, Trà Vinh và Vĩnh
Long.
Trong số này, Bạc Liêu, Bình Dương, Tiền Giang và TP Hồ Chí Minh là nơi nổi tiếng
với đờn ca tài tử. Nghệ thuật này hiếm khi được trình diễn ở miền Bắc. Để giữ
gìn và phục vụ khách du lịch, nhiều câu lạc bộ đã được thành lập để tập hợp các
ban nhạc đờn ca tài tử.
Hệ thống bài hát
đờn ca tài tử Nam Bộ
Hiện nay, hệ thống
bài đờn ca tài tử rất đa dạng, bao gồm 20 bài quan trọng như 6 Bắc, 3 Nam, 4
oán, và 7 bài nhạc lễ. Để thuộc hết được tổ này và nhiều bài lý, ngâm và ngự
trong đờn ca tài tử, sẽ tốn rất nhiều thời gian và công sức.
Người hát còn phải
tạo ra những cách luyến riêng để tạo điểm nhấn cá nhân khi trình diễn những bài
này, dựa vào đàn để hát tốt.
Ý nghĩa của đờn
ca tài tử là gì ?
Giá trị nội
dung, nghệ thuật của đờn ca tài tử Nam Bộ
Đờn ca tài tử
Nam Bộ thể hiện sự giản dị, gần gũi với người dân và thường ca ngợi vẻ đẹp của
cuộc sống xung quanh bằng những bài ca được lấy cảm hứng từ văn học nghệ thuật
dân tộc. Sự kết hợp hoàn hảo giữa nhạc cụ dân gian và tiếng hát tạo ra ý nghĩa
nghệ thuật to lớn cho đờn ca tài tử.
Ý nghĩa của đờn
ca tài tử trong cuộc sống
Nghệ thuật đờn
ca tài tử Nam Bộ từ lâu đã trở thành một phần tinh thần của cộng đồng, giúp mọi
người gắn kết, tâm sự và cảm nhận cuộc sống thông qua những bản nhạc đầy ý
nghĩa. Điều đặc biệt là đờn ca tài tử còn là nguồn động lực tinh thần trong lao
động và cuộc sống hàng ngày, gắn bó mãi mãi với người dân Nam Bộ qua nhiều thế
hệ.
Ý nghĩa đờn
ca tài tử trong nghệ thuật nước nhà
Nghệ thuật đờn
ca tài tử Nam Bộ là một di sản văn hoá phi vật thể quan trọng và đã gắn bó với
người dân miền Tây trong hơn một thế kỷ qua. Đóng góp của đờn ca không chỉ là
các tác phẩm mà còn là tình cảm mến mộ của người dân Việt và du khách quốc tế đối
với nghệ thuật này.
Một số tác phẩm
nghệ thuật đờn ca tài tử tiêu biểu
Dạ Cổ Hoài Lang
Bài ca Dạ cổ do
cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác, lấy cảm hứng từ tâm sự người vợ nhớ chồng lúc
về đêm, đã trở thành bài vọng cổ đầu tiên và là một tác phẩm tiêu biểu trong đờn
ca tài tử Nam Bộ. Hiện nay, bài ca này vẫn được biểu diễn rất nhiều trên các
sân khấu lớn.
Bình bán vắn
Bình bán vắn là
một trong những bài đờn ca tài tử Nam Bộ đặc trưng với những câu chữ và nhạc nhịp
rút gắn khá phổ biến trong giới tài tử nói chung. Bài ca này có tính chất vui
nhộn, màu sắc tươi tắn và trữ tình, và được sử dụng rộng rãi trước năm 1975.
Kim Tiền Huế
Bài ca Kim Tiền
Huế là một trong những tác phẩm đặc trưng của nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ với
nét đặc sắc của vùng đất Huế. Thường được trình diễn kết hợp với hai bài ca
khác là Lưu Thuỷ Đoản và Bình Bán Vắn để tạo thành bộ ba Lưu - Bình - Kim. Hãy
xem video dưới đây để thưởng thức ca khúc này.
Nghệ sĩ đờn ca
tài tử nổi tiếng
Cao Văn Lầu
Cao Văn Lầu, còn
được biết đến với tên gọi "Sáu Lầu", là một trong những nhạc sĩ và
nghệ sĩ nổi tiếng trong nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ. Ông bắt đầu sự nghiệp
diễn hát từ năm 1912 với bài hát đầu tiên là "Tứ đại oán Bùi Kiệm thi rớt".
Nhiều tác phẩm nổi bật của ông như "Chinh phụ vọng chinh phu",
"Dạ cổ hoài lang",... đã trở thành biểu tượng của nghệ thuật đờn ca
tài tử Nam Bộ.
Trần Văn Khê
Trần Văn Khê là
một nhạc sĩ và nhà văn nổi tiếng, ông đã có đóng góp to lớn trong việc quảng bá
âm nhạc và văn hoá Việt Nam tới cộng đồng quốc tế. Ngoài đờn ca tài tử, ông còn
nghiên cứu và giảng dạy về nhiều loại nhạc khác của dân tộc Việt Nam. Trong suốt
cuộc đời của mình, ông đã diễn thuyết và giảng dạy về âm nhạc tại hơn 67 quốc
gia trên thế giới. Nhiều giải thưởng đã được trao cho nhạc sĩ Trần Văn Khê để
vinh danh đóng góp của ông cho nghệ thuật và văn hoá Việt Nam
Một số điều thú
vị về nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ
Ai là ông tổ của
đờn ca tài tử ?
Ông tổ của đờn
ca tài tử Nam Bộ là ba người: Nguyễn Quang Đại, Trần Quang Quờn và Lê Tài Khị.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng ông Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) là người đưa tác phẩm
Dạ Cổ Hoàng Lang trở thành bất hủ và được coi là ông tổ của đờn ca tài tử.
Nghệ thuật đờn
ca tài tử Nam Bộ được UNESCO công nhận khi nào ?
Nghệ thuật đờn
ca tài tử Nam Bộ được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể của nhân loại vào
ngày 05/12/2013, là di sản văn hoá phi vật thể thứ 8 của Việt Nam được bảo vệ cấp
độ quốc tế, đáp ứng các tiêu chí về truyền thống, liên tục tái tạo và hoà hợp
văn hoá giữa các dân tộc.
Đờn ca tài tử
khác gì so với cải lương?
Đờn ca tài tử Nam Bộ và cải lương có mối quan hệ mật thiết nhưng vẫn có nhiều điểm khác biệt. Đờn ca tài tử mang tính thính phòng, lời ca và nhạc đơn giản, không quan trọng phối cảnh và thường mang tính ngẫu hứng sáng tạo. Trong khi đó, cải lương mang tính sân khấu, biểu diễn trích đoạn nổi bật, rất quan trọng về trang phục và bối cảnh, cùng với diễn xuất của nghệ sĩ biểu diễn.