Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!

Dịch trang

Người Đi Tìm Hình Của Nước - Chế Lan Viên

Thông Tin Du Lịch Phổ biến

Tài liệu tuyến điểm TP.Hồ Chí Minh - Cần Thơ

Bài Thuyết minh tuyến điểm tp.HCM-> Cần Thơ


Lời nói đầu

 

Tài liệu này được thực hiện từ năm 2010, được bổ sung và chỉnh sửa lại vào năm 2019 dựa trên nhiều nguồn tài liệu khác nhau:

 

Dấu Xưa Nam Bộ                                                                                           tác giả Hồng Hạnh

Văn Hóa Dân Gian Nam Bộ những phác thảo                                               tác giả Nguyễn Phương Thảo

Nam Bộ vài nét lịch sử văn hóa                                                                      tác giả Trần Thuận

Cần Thơ xưa và nay                                                                                        tác giả Huỳnh Minh

Cần Thơ phố cũ nét xưa                                                                                 tác giả Nhâm Huỳnh

 

TP.HỒ CHÍ MINH

Kính thưa Quý Du Khách!

TP.Hồ Chí Minh với tổng diện tích hơn 2.095 km2, thành phố được phân chia thành 19 quận và 5 huyện với 322 phường-xã, thị trấn . Dân số của TP. Hồ Chí Minh đến thời điểm ngày 23/1/2019 là 8.859.688 người.

Lịch sử

Năm 1698, Chúa Nguyễn cử Thống soái Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Phương Nam, khai sinh ra thành phố Sài Gòn. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi đất nước thống nhất, Sài Gòn được đổi tên thành “thành phố Hồ Chí Minh” vào ngày 2-7-1976. Với hơn 300 năm hình thành và phát triển, thành phố có rất nhiều công trình kiến trúc cổ, nhiều di tích và hệ thống bảo tàng phong phú.  

 Vị trí

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong tọa độ địa lý khoảng 10o 10' – 10o 38’ vĩ độ Bắc và 1060 22'– 106054kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.

Xã hội

Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 7.123.340 người (theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2009), gồm 1.812.086 hộ dân, bình quân 3,93 người/hộ; trong đó nam có 3.425.925 người chiếm 48,1%, nữ có 3.697.415 người chiếm 51,9%.

Khí hậu

Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, thành phố Hồ Chí Minh có hai mùa rõ rệt đó là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 đến tháng 11 với lượng mưa bình quân hàng năm là 1.979 mm và mùa khô diễn ra từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau với nhiệt độ trung bình hàng năm là 27,55 0C. 

Kinh tế

Trong quá trình phát triển và hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh luôn là một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ của cả nước; là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, về quy mô thành phố chỉ chiếm 0,6% diện tích và 8,3% dân số nhưng đã đóng góp 20,2% tổng sản phẩm quốc gia, 26,1% giá trị sản xuất công nghiệp và 44% dự án đầu tư nước ngoài.

Thu ngân sách của thành phố đạt 135.362 tỷ đồng năm 2009. Số dự án đầu tư vào thành phố chiếm khoảng 1/3 tổng số dự án đầu tư nước ngoài trên cả nước, có 3.536 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực đến cuối năm 2009 với tổng vốn 27.390 triệu USD.

Ngành thương mại có 28 trung tâm mua sắm, 92 siêu thị và 230 chợ truyền thống. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa đến nay của thành phố. Những thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như Saigon Trade Centre, Diamond Plaza...

            Năm 2009, thành phố Hồ Chí Minh đón 2,52 triệu du khách, doanh thu ngành du lịch chiếm 2,3% tổng doanh thu dịch vụ. Hiện nay, thành phố có 1.425 khách sạn và cơ sở lưu trú với 29.001 phòng; trong đó có 60 khách sạn từ 3 đến 5 sao với 8599 phòng. Có 15 khách sạn đạt tiêu chuẩn ISO 14001. Hầu hết các khách sạn này đều do những tập đoàn quốc tế quản lý như: Caravelle, Sheraton, Moevenpick (Omni cũ), New World, Equatorial, Legend, Renaissance Riverside, Windsor Plaza, Sofitel Plaza, Park Hyatt, Majestic…

Các địa điểm du lịch của thành phố tương đối đa dạng. Với hệ thống 11 viện bảo tàng, chủ yếu về đề tài lịch sử, thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu Việt Nam về số lượng bảo tàng. Bảo tàng lớn nhất và cổ nhất thành phố là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam với 30 nghìn hiện vật. Trong khi phần lớn khách thăm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh là người nước ngoài thì bảo tàng thu hút nhiều khách nội địa nhất là Bảo tàng Hồ Chí Minh.

            Có nhiều công trình kiến trúc đẹp, như Trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố, Nhà hát lớn, Bưu điện trung tâm, Bến Nhà Rồng, Dinh Độc Lập và Thư viện Khoa học Tổng hợp; các cao ốc, khách sạn, trung tâm thương mại như Diamond Plaza, Saigon Trade Centre... Khu vực ngoài trung tâm, Địa đạo Củ Chi, Rừng ngập mặn Cần Giờ, Vườn cò Thủ Đức cũng là những địa điểm du lịch quan trọng.

Khu địa đạo Củ Chi được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Địa đạo là một hệ thống phòng thủ trong lòng đất ở huyện Củ Chi, cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về hướng tây-bắc. Hệ thống này được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đào trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam bao gồm bệnh xá, nhiều phòng ở, nhà bếp, kho chứa, phòng làm việc, hệ thống đường ngầm dưới lòng đất. Hệ thống địa đạo dài khoảng 200 km và có các hệ thống thông hơi vào các vị trí các bụi cây. Địa đạo Củ Chi được xây dựng trên vùng đất được mệnh danh là "đất thép", nằm ở điểm cuối Đường mòn Hồ Chí Minh. 

            Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ còn gọi là Rừng Sác là một quần thể gồm các loài động, thực vật rừng trên cạn và thuỷ sinh, được hình thành trên vùng châu thổ rộng lớn của các cửa sông Đồng Nai, Sài Gòn và Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây. UNESCO đã công nhận đây là khu dự trữ sinh quyển thế giới với hệ động thực vật đa dạng độc đáo điển hình của vùng ngập mặn. Nơi đây được công nhận là một khu du lịch trọng điểm quốc gia Việt Nam.

Tọa lạc tại số 3 đường Hòa Bình, quận 11 - TPHCM, Công viên Văn hoá Đầm Sen là một trong những khu du lịch lớn đặc sắc nhất nước Việt Nam với kiến trúc được kết hợp nền văn hóa Đông-Tây và một chút vẻ đẹp thời La Mã. Trước năm 1975, mảnh đất này là một khu đầm lầy hoang hoá. Sau chặng đường dài khai thác và phát triển, Đầm Sen ngày nay có diện tích 50 hecta gồm 20% là mặt hồ, 60% là cây xanh và vườn hoa. Ngoài những khu vui chơi, Đầm Sen còn có những nhà hàng, khách sạn và hàng chục các loại hình khác để phục vụ khách du lịch. Đây là nơi vui chơi giải trí rất hấp dẫn cho người trong và ngoài nước.

            Thảo Cầm Viên Sài Gòn, người dân quen gọi là Sở thú, là nơi bảo tồn động thực vật có tuổi thọ đứng hàng thứ 8 trên thế giới, tại Việt Nam. Hiện tọa lạc ở số 2B Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Bến Nghé, quận 1. Sau hơn 130 năm tồn tại, Thảo Cầm Viên đã trở thành một vườn thú lớn với 590 đầu thú thuộc 125 loài, thực vật có 1.800 cây gỗ thuộc 260 loài, 23 loài lan nội địa, 33 loài xương rồng, 34 loại bon sai..và đang được bổ sung. Ngoài những khu vực nuôi trồng cầm thú, cây cảnh và sưu tập phong lan, Thảo Cầm Viên có khu dành cho trẻ em và người lớn vui chơi, giải trí. Trong Thảo Cầm Viên còn có hai công trình kiến trúc đặc sắc khác, đó là Đền thờ vua Hùng dựng năm 1926 và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh mở cửa từ năm 1929.

            Khu Du lịch Văn hóa Suối Tiên là một khu liên hợp vui chơi giải trí tại quận 9. Kiểu cách kiến trúc và các thể loại vui chơi được gắn lồng vào các hình ảnh lịch sử và truyền thuyết Việt Nam như Lạc Long Quân - Âu Cơ, Vua Hùng, sự tích trăm trứng, Sơn Tinh Thủy Tinh, chín tầng địa ngục, tứ linh hội tụ Long - Lân - Quy - Phụng, công viên giải trí dưới nước, đặc biệt là biển Tiên Đồng, biển nhân tạo duy nhất ở Việt Nam. Đây cũng là điểm thu hút khá lớn lượng khách vui chơi giải trí của Thành phố Hồ Chí Minh và các du khách địa phương khác đến.

            Khu du lịch "Một Thoáng Việt Nam" là một quần thể làng nghề thủ công truyền thống. Có diện tích 22,5 ha đất bưng biền, nằm cạnh rạch Bò Cạp, gần sông Sài Gòn. Đến với Một thoáng Việt Nam, điều đặc biệt ấn tượng với du khách chính là hình ảnh một Việt Nam thu nhỏ, sống động mà những người làm nên công trình này dày công sắp đặt. Khu du lịch bao gồm 30 hạng mục với: đền thờ đất nước, sa bàn nước Việt Nam, lầu vọng, ba khu tiêu biểu cho ba miền đất nước. Bên cạnh là khu văn hóa ẩm thực, đảo nuôi chim thú tự nhiên, khu chợ hàng tiểu thủ công nghiệp, chợ trên sông, vườn cây ăn trái...

            Thành phố Hồ Chí Minh còn là một trung tâm mua sắm và giải trí. Bên cạnh các phòng trà ca nhạc, quán bar, vũ trường, sân khấu, thành phố có khá nhiều khu vui chơi như Công viên Đầm Sen, Suối Tiên, Thảo Cầm Viên. Các khu mua sắm, như Chợ Bến Thành, Diamond Plaza... Hệ thống các nhà hàng, quán ăn cũng là một thế mạnh của du lịch thành phố. 

Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam. Thành phố dẫn đầu cả nước về số lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính - tín dụng. Doanh thu của hệ thống ngân hàng thành phố chiếm khoảng 1/3 tổng doanh thu toàn quốc.

Trong tương lai, thành phố sẽ phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, trở thành một thành phố văn minh hiện đại có tầm cỡ ở khu vực Đông Nam Á.

 

NHỮNG KỶ LỤC GUINNESS SÀI GÒN - TP.HỒ CHÍ MINH

HDV xin phép liệt kê những cái nhất của Sài Gòn

Cầu lớn nhất: Cầu Phú Mỹ là cây cầu dây văng đầu tiên và có quy mô lớn nhất ở Sài Gòn với chiều dài hơn 2.000 m. Cầu bắc qua sông Sài Gòn nối liền quận 7 với quận 2, được xem là cửa ngõ mới vào thành phố nhằm giảm tải trọng cho lượng xe lưu thông trên cầu Sài Gòn.

Đường dài nhất: Đó là đường Rừng Sác xẻ dọc đất Cần Giờ. Số liệu cụ thể ghi nó dài 36,5 km, kéo dài từ bến phà Bình Khánh ra tít biển, khánh thành vào năm 1985, tên ban đầu là đường trục Cần Giờ, đến ngày 7/4/2000 thì đổi thành Rừng Sác.

Đường ngắn nhất: Đường Nguyễn Thị Nghĩa, dài đúng 100m

Cảng lớn nhất: Cảng sông Phú Định giai đoạn 1 được đưa vào khai thác với 11 cầu cảng, có thể tiếp nhận tàu 500 tấn, xà lan 1.000 tấn. 

Sân bay lớn nhất: Là sân bay Tân Sơn Nhất, tổng diện tích 15.000 hecta

Sông dài nhất: Là sông Sài gòn, dài 210 km, đoạn chảy qua thành phố dài 106km, cung cấp 1,2 triệu khối nước cho các nhà máy nước.

Chùa rộng nhất: Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất có khuôn viên rộng hơn 11 ha, tọa lạc trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong Công Viên Lịch Sử Văn Hóa Dân Tộc, tại Khu phố Thái Bình 1, Phường Long Bình, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ca phẩu thuật nổi tiếng nhất: Là ca mổ tách 2 bé song sinh Việt Đức tiến hành vào ngày 04/10/1988, được đưa vào sách Guinness 1990 xác định là ca mổ dính khó nhất thế giới.

Trường xưa nhất: Trường Lê Quý Đôn được xây dựng vào năm 1874, hoàn tất vào năm 1877. Ban đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học Bản xứ) rồi đổi tên thành Collège Chasseloup Laubat. 

Trường Đại Học lớn nhất: Là đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh gồm 06 trường + 1 viện

Sân bóng lâu đời nhất: Sân vận động Thống Nhất là sân có lịch sử lâu đời nhất ở Việt Nam và gắn liền với bóng đá từ thời kỳ Pháp thuộc. Sân vận động Thống Nhất nằm ở số 138 Đào Duy Từ, Phường 6, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhà Thờ Cổ Nhất: Nhà Thờ Chợ Quán, nhiều tin đồn lưu truyền cho rằng nhà thờ được xây dựng từ năm 1672 nhưng không có tư liệu cụ thể nào, chỉ có thể xác nhận chính thức từ năm 1720 bởi lúc đó họ đạo Chợ Quán mời cha Quintaon từ Đồng Nai lên giúp và ngôi nhà thờ đầu tiên đã được dựng lên.

Chùa Cổ Nhất: Chùa Huê Nghiêm (còn gọi là chùa một cột) tọa lạc ở đường Đặng Văn Bi (quận Thủ Đức). Ngày nay, chùa thường được gọi là Huê Nghiêm 1 để phân biệt với chùa Huê Nghiêm 2 ở quận 2.

Chùa được Thiền sư Thiệt Thụy - Tánh Tường (168 -1757) khai sơn vào thế kỷ XVIII. Nhiều tư liệu xác định năm thành lập là 1721, Huê Nghiêm là ngôi chùa cổ nhất ở TP HCM hiện nay.

Đình Cổ Nhất Sài Gòn: Đình Thông Tây Hội được xây dựng từ năm 1679, vẫn còn nguyên vẹn kiến trúc của đình làng phương Nam thế kỷ 19.

Nhà Cổ Nhất: Căn nhà nằm trong khuôn viên Tòa Tổng Giám mục là ngôi nhà cổ nhất Sài Gòn hiện nay với tuổi đời hơn hai thế kỷ, từng là nơi ở của giám mục Bá Đa Lộc.

Khách sạn cổ nhất: Là một trong năm di tích lịch sử của Sài Gòn, khách sạn (KS) Continental tọa lạc ở góc ngã tư Công trường Quốc tế – Đồng Khởi.  KS được xây dựng vào năm 1880, do KTS người Pháp thiết kế, và mang tên Continental ngay từ những ngày đầu.

Công viên lâu đời nhất: Thảo Cầm Viên, Đến tháng 3.2005, Thảo Cầm Viên (TCV) được 141 năm tuổi! Khởi công xây dựng vào tháng 3.1864, ban đầu TCV là một công viên rộng 12 ha, do Nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp J.B.Louis Pierre sáng lập và làm Giám đốc đầu tiên.

Nhà máy điện xưa nhất Sài Gòn:Nhà máy đèn Chợ Quán là nhà máy điện đầu tiên được xây dựng ở Sài Gòn vào năm 1896, tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5. 

Nhà Bảo tàng lâu năm nhất:Là Nhà Bảo tàng Lịch sử Việt Nam nằm trong khuôn viên Thảo Cầm Viên ngày nay. Ngày 24.11.1927, người Pháp cho xây dựng Viện Bảo tàng Blanchard De La Brosse trong khuôn viên Sở Thú theo thiết kế của kiến trúc sư Delaval, với kiểu kiến trúc độc đáo hơi giống tháp cung điện mùa hè Bắc Kinh. 

Cây cầu lâu năm nhất TP Sài Gòn: Có người cho rằng chiếc cầu lâu năm nhất tại Sài Gòn là cầu Móng (nối quận 1 với quận 4). Nhưng cây cầu này lại không có hồ sơ lưu trữ, nên khó xác định độ tuổi chính xác. Hiện tại TP có nhiều người nhất trí cho rằng có một cây cầu lâu năm nhất hiện còn tồn tại, đó là Cầu Sơn. Cầu Sơn được xây dựng từ cuối thế kỷ 18 dưới thời nhà Nguyễn. Trước đây vùng này chuyên sống bằng nghề trồng cây sơn lấy nhựa cung cấp cho nhu cầu của nhà nước phong kiến đương thời, nên cầu khi được xây dựng cũng mang luôn tên cầu Sơn. Cầu Sơn dài 19m, rộng 11m và mỗi bên lề rộng 0,5m. Hiện cầu Sơn thuộc ranh giới hai phường 25 và 26 quận Bình Thạnh nằm trên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Bệnh viện cổ nhất: An Bình Bệnh viện miễn phí An Bình tọa lạc trên một khu đất rộng 17.361m2 ở đường An Bình, quận 5. Ban đầu, đây là một ngôi chùa của người Hoa, được xây cất từ năm 1829.  

ĐƯỜNG HẦM THỦ THIÊM

            Đường hầm sông Sài Gòn (hay còn gọi là Hầm Thủ Thiêm) là một đường hầm vượt qua sông Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây là một phần trong dự án Đại lộ Đông Tây nối Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh với Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Đường hầm có sáu làn xe ô tô, được dìm dưới lòng sông Sài Gòn (có ngầm đáy sông). Nguồn vốn đầu tư từ Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ Nhật Bảncó vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Tổng thầu thi công là liên danh các nhà thầu Nhật Bản. Theo quy hoạch, Khu đô thị mới Thủ Thiêm được kết nối với đô thị hiện hữu bằng một số cây cầu như: Cầu Thủ Thiêm nối Quận Bình Thạnh, cầu Ba Son nối với Quận 1, Cầu Phú Mỹnối với Quận 7 và một cây cầu nữa nối với Quận 4. Chiều 20 tháng 11 năm 2011, lễ thông xe hầm Thủ Thiêm được tổ chức. Sáng ngày 21 tháng 11, hầm Thủ Thiêm chính thức được thông xe sau gần 7 năm thi công, kết nối hai bờ sông và giảm tải cho cầu Sài Gòn, đồng thời làm động lực cho sự phát triển của thành phố. Công trình được đánh giá là hầm vượt hiện đại nhất Đông Nam Á. 

            Hầm Thủ Thiêm là hạng mục quan trọng nhất trong dự án đại lộ Đông - Tây. Bên cạnh việc giải toả áp lực cho cầu Sài Gòn, tuyến đường mới qua hầm rút ngắn thời gian từ trung tâm thành phố về các tỉnh miền Tây lẫn miền Đông, tạo nền tảng phát huy giao thương liên tỉnh. Hầm Thủ Thiêm góp phần lớn trong việc tạo thành mạng lưới giao thông khá hoàn chỉnh ở phía đông, giảm áp lực cho giao thông trung tâm và là động lực phát triển Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Số lượng đền bù giải tỏa ở dự án này được đánh giá là có quy mô lớn nhất thành phố. Dự án hầm Thủ Thiêm đã cải thiện cuộc sống của hàng chục ngàn cư dân ven kênh rạch vào năm khu tái định cư và nhiều khu dân cư khác. Theo dự kiến, mỗi ngày hầm sẽ có 40.000 ôtô và 10.000 xe máy tham gia lưu thông. 

ĐẠI LỘ VÕ VĂN KIỆT

            Đại lộ Võ Văn Kiệt hay còn được biết nhiều hơn bởi tên gọi là Đại lộ Đông - Tây, thành phố Hồ Chí Minh là một tuyến đường đi qua trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, được khôi phục, nâng cấp từ tuyến đường hiện hữu và xây dựng thêm tuyến đường mới để tạo thành một trục đường mới ra vào phía Nam theo hướng Đông - Tây, nhằm giảm ách tắc giao thông cho cầu Sài Gòn và các trục chính trong thành phố. Tuyến đường này đáp ứng yêu cầu lưu thông cho các cảng của thành phố đi các nơi theo hướng Đông Bắc - Tây Nam và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, tạo trục giao thông sang Thủ Thiêm, và cải thiên môi trường ven kênh mà nó đi qua, tăng vẻ mỹ quan cho thành phố. 

            Đại lộ chạy dọc theo kênh từ quốc lộ 1A huyện Bình Chánh đến ngã ba đường Yersin - Chương Dương gần cầu Calmette, quận 1; vượt sông Sài Gòn bằng hầm Thủ Thiêm và nối với xa lộ Hà Nội tại Ngã ba Cát Lái, quận 2. Chiều dài toàn tuyến là 21,89 km, đi qua địa bàn các quận 1, 2, 4, 5, 6, 8, Bình Tân và huyện Bình Chánh, tạo thành một tuyến trục giao thông Đông - Tây, và kết nối hai đầu Đông Bắc - Tây Nam thành phố. Đại lộ Đông – Tây tạo điều kiện thuận lợi cho các phương tiện giao thông ra vào cảng Sài Gòn và từ đây đi các tỉnh miền Đông và miền Tây không phải đi vào trung tâm thành phố. Đây sẽ là con đường huyết mạch liên kết chặt chẽ các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. 

            Đại Lộ Đông – Tâyđược coi là con đường chiến lược của Thành phố Hồ Chí Minh và là điểm nhấn quan trọng nhất của cửa ngõ đi vào Thủ Thiêm, góp phần cho việc giãn dân cư đô thị về phía bờ Đông sông Sài Gòn và phía Nam thành phố, đặc biệt đối với trung tâm thương mại Thủ Thiêm thuộc quận 2 và giúp nơi này trở thành trung tâm của thành phố trong tương lai, khi Thành phố Hồ Chí Minh xác định sẽ phát triển về hướng đông và hướng nam. Một giá trị lớn khác của đại lộ Đông Tây, là cải tạo môi trường ven kênh, tạo vẻ mỹ quan thành phố. Khi đại lộ này hoàn thành, những nhà chòi ổ chuột của 10.000 hộ ở hai bên kênh Tàu Hủ - Bến Nghé sẽ được thay bằng những công viên cây xanh, công trình công cộng, những hộ dân phải di dời sẽ có được cuộc sống tốt hơn và môi trường sống văn minh hơn. Ngoài ra khi xây dựng Đại lộ Đông Tây, cầu Chà Và và cầu Chữ Y sẽ phải đập bỏ để xây dựng mới lại nhằm nâng cao độ tĩnh không của cầu để Đại lộ Đông Tây chạy ở dưới cầu, điều này sẽ giúp cho tĩnh không thông thuyền của kênh Tàu Hũ-Bến Nghé được nâng cao qua đó giúp cho việc phát triển giao thông và kinh tế đường thủy trở nên thuận lợi hơn. 

            Trong tương lai, điểm đầu của Đại lộ Đông - Tây (Huyện Bình Chánh) sẽ được kết nối với đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương và khu vực điểm cuối của Đại lộ Đông - Tây (Quận 2) sẽ được kết nối với đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, do đó sẽ giúp giao thông từ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và các tỉnh miền Trung, miền Bắc thông suốt khi đi qua khu vực này, góp phần cho việc phát triển kinh tế của TP.Hồ Chí Minh nói riêng và cả vùng Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên nói chung. Đặc biệt khisân bay quốc tế Long Thành xây dựng xong sẽ giúp giao thông tại Đồng bằng sông Cửu Long, TP.Hồ Chí Minh và cả vùng Đông Nam Bộ được kết nối với Sân bay quốc tế Long Thành theo tuyến đường trên. 

Cầu Bình Điền:

Dài 123,5m có 5 nhịp, rộng 12m, trọng tải 25 tấn bắc ngang qua rạch chợ Đệm. Cầu Bìnhg Điền sập vào 22h30’ ngày 31/3/1998 do một xà lan chở cát va đập vào chân cầu gây nên chấn động lớn. Cầu được khởi công xây dựng lại vào ngày 27/05/1998 và khánh thành ngày 01/01/1999. Đây là cây cầu nối liền huyết mạch giữa miền Tây và miền Đông TP.Hồ Chí Minh vì thế được xây dựng cả ngày lẫn đêm. Rạch Chợ Đệm là rạch quan trọng ăn thông với rạch Bến Lức ra sông Vàm Cỏ. Từ rạch này cũng có thể theo kinh Tàu Hủ vào cảng Chánh Hưng và Bến Bình Đông. Bên hông cầu Bình Điền là cơ sở bán cát xây dựng lấy từ sông Chợ Đệm, nhà máy nước mắm Bình Điền, nhà máy phân bón Bình Điền. Sông Chợ Đệm chạy dài qua cầu Bình Điền, nằm cách cầu Bình Điền 500m, phía phải nằm cạnh rạch Chợ Đệm. Trước đây giao thông bằng đường bộ chưa phát triển, từ các tỉnh Miền Tây lên Sài Gòn chủ yếu bằng đường thủy. Chợ Đệm là cửa ngỏ thành phố, nơi ghe thuyền các nơi đổ về chờ con nước lớn để thuận tiện đi vào Gia Định. Từ thế kỷ XIX chợ Đệm là khu phố khá phát triển. Năm 1883 - 1885 thực dân Pháp cho lập tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho  và đặc biệt thế kỷ thứ XX tuyến đường bộ Miền Tây được xây dựng (chuyến xe lửa Sài Gòn Mỹ Tho ngưng hoạt động vào năm 1958) nên chợ Đệm chỉ giữ vai trò thứ yếu và trở thành một ngôi chợ nhỏ nằm ở ngã ba sông cầu Đúc, đường đi xã Tân Kiên có thể đi đường Lê Minh Xuân.

Bà Hom, chợ Đệm là nơi Xứ Ủy Nam Kỳ tổ chức ba hội nghị liên tiếp vào ngày 17 đến 24/08/1945 để quyết định những vấn đề quan trọng cho Cách Mạng Tháng 8. Năm 1989 sinh hoạt ở chợ Đệm trở nên tấp nập hơn nhờ sự hiện diện của nhà máy Xay Xát Sài Gòn Satake của Công Ty Lương Thực Thành Phố với công xuất 600 tấn lúa/ngày. Đây là nhà máy hiện đại phục vụ cho sự xuất khẩu gạo. Hiện nay nhà máy này ngừng hoạt động do lượng gạo Miền Tây không chuyển lên.

Tại sao có tên chợ Đệm? Tại trước đây chuyên sản xuất các mặt hàng đan lát, đặc biệt là chợ Đệm phục vụ cho nông nghiệp tiêu dùng nhân dân. Hiện nay, mặc dù là chợ nhỏ nhưng người dân ở đây vẫn sản xuất các mặt hàng đan lát, ở gần chợ có cơ sở đan lát rất lớn. 

ĐỆ NHẤT CHÁO LÒNG THỊT LUỘC

Kính thư Quý Du Khách!

Hồi đó cứ đến thứ 7, người dân thành phố lại lũ lượt đi ăn cháo lòng thịt heo và xôi chợ Đệm.

Nồi cháo ở khu chợ Đệm là nước luộc 1 đến 2 con heo to vài chục ký, lòng thì giòn, thịt nạc ăn thì cứ nghe ấm chân răng, nhưng thật ra cháo ngọt ngon nổi tiếng nhất nước là do người dân bán cháo lấy nước ở sông chợ Đệm để luộc thịt heo nên mới ngọt. Nhiều người bảo “không có nước sông chợ Đệm thì luộc thịt heo , nấu cháo thì cháo sẽ không ngon”

Công đoạn luộc thịt heo là bí quyết gia truyền của người dân chợ Đệm, heo thì phải là heo thả rong, mỡ thấp, dáng thon, cẳng cao, uống nước trời mưa động vũng ngoài đồng, cho ăn thêm củ năng. Khi heo lớn  từ 30 kg đến 40kg đem thọc huyết bỏ vào “bung” đổ nước sông chợ Đệm hay nước trời mưa để luộc. khi thịt vừa chín dùng móc, móc thịt ngâm vào chậu nước lã có pha chút phèn có liều lượng riêng và đậy kín. Sau đó, dù có cắt mỏng miếng thịt như lá lúa thì miếng thịt cũng không bị cong queo. Vào thời đó có quán cháo trứ danh là của ông Chín Lương, Hai Quỳnh bán ở mé sông. 

NHỮNG TÊN TRỘM TRỨ DANH HÀI THƯỚC

Kính thưa quý du khách!

Ai đã từng am tường về chợ Đệm, ắt hẳn không thể không biết đến truyền thuyết về những tên trộm xuất quỷ nhập thần Bối Ba Cụm, những tay trộm nghe đâu chỉ chuyên chôm đồ của những người giàu chứ không đá động đến người nghèo. Tài danh của những tên trộm đó đã khét tiếng khắp sài thành.

Cứ tưởng tượng quần của cô gái đang mặc trên người mà tên trộm Bối Ba Cụng  cũng lấy được thì thật là “tâm phục khẩu phục”. Một buổi trời nhá nhem tối hai tên trộm nhìn thấy một con đò, trên con đò thấy một cô gái rất xinh đang nằm ngủ, 1 tên thánh đố Bối Ba Cụng “nếu mày lấy được cái quần của cô gái đang mặc thì tao bao mày một chầu”. Chẳng nói chẳng rằng mà trong tích tắc mà tên trộm Bối Ba Cụng đã lấy được cái quần của cô gái trên đò về lảnh thưởng. Hỏi mãi thì hắn mới tiết lộ là hắn đã bẻ cọng môn đem luồn vào quần của cô gái, vì mãi mê ngủ, lại trời tối, cô tưởng rắn chui vào ống quần liền vội vàng cởi quần quẳng xuống sông. Thế là hắn cứ nhặt xuống đem về lĩnh thưởng.

Cứ nhắc đến chợ Đệm Tân Túc là người ta lại thèm cháo lòng và nhớ đến những tên trộm Bối Ba Cụng.

Kính thưa quý khách!

Trước mặt quý khách là đại lộ Nam Sài Gòn (Bắc Nhà Bè - Nam Bình Chánh). Qua khỏi dốc cầu Bình Điền khoảng 1,5km phía trái là đại lộ Nam Sài Gòn mới được thành lập cuối tháng 1 năm 1998 và cũng bắt đầu thu lệ phí cầu đường. Xa lộ Bình Thuận dài 17,8km bắt đầu từ khu chế xuất Tân Thuận dài đến Quốc Lộ 1, đường rộng 120m với 10 làn xe chạy. Đây là một dự án do liên doanh giữa tập đoàn Công Ty Xây Dựng Đài Loan và Công Ty Liên Doanh Phú Mỹ Hưng cùng với Công Ty Phát Triển Công Nghiệp Tân Thuận, thầu xây dựng Trung Quốc.

Kính thưa quý khách!

Hai bên đường tuyến Miền Tây có rất nhiều đặc điểm nổi bật . Bắt đầu từ ngã ba Bình Thuận đến quốc lộ 1  đi tới là xã Tân Túc, qua khỏi đoạn này chúng ta thấy phía bên phải có nhiều khu vực bán hòn non bộ, khu làm tượng cung cấp cho xây dựng, tượng Phật, tượng trang trí. Tới khoảng 200m bên phải là phở Ao Sen. Phía trái là Công ty TNHH Dây Cáp Điện Sài Gòn, đi thêm 200m nữa là chợ Bình Chánh nằm bên trái. Tới 200m là quán Bảo Ký, phở Hai Hùm. Cạnh quán phở này có một  ngã ba gọi là ngã ba Tân Túc, con đường dẫn tới chợ Đệm.

ĐƯỜNG CAO TỐC TRUNG LƯƠNG

            Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh–Trung Lương là đường cao tốc nối Thành phố Hồ Chí Minh với Tiền Giang nói riêng và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Đây là một phần của tuyến Đường cao tốc Bắc - Nam. Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh- Trung Lương có điểm đầu tuyến là nút giao thông Chợ Đệm, xã Tân Túc, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Điểm cuối là nút giao thông Thân Cửu Nghĩa (km 50) huyện Châu Thành, Tiền Giang. 

            Dự án đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương có chiều dài toàn tuyến là 61,9 km[1][2] , vận tốc thiết kế 120 km/giờ, có tổng kinh phí đầu tư 9.884 tỷ đồng được Ban quản lý dự án Mỹ Thuận đưa vào khai thác tạm thời với 8 làn xe ô tô. 

            Việc đưa vào khai tuyến đường cao tốc này đáp ứng cho khoảng 50.000 lượt ô tô qua lại mỗi ngày và dự kiến đến Tết Canh Dần lưu lượng xe sẽ có khả năng tăng gấp đôi. Với tuyến đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, thời gian từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Tiền Giang được rút ngắn chỉ còn khoảng 30 phút, thay vì 90 phút như trước đó. 

Đi theo đường Quốc Lộ 1 

Tỉnh Long An

Tỉnh Long An có diện tích là: 4.338 km2,

Dân số theo tài liệu khảo sát vào ngày 01/04/1999 là: 1.306.202 người .

Tỉnh lỵ của Long An là: Thị xã Tân An. Long An gồm có các huyện: Bến Lức, cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành, Đức Hoà, Đức Huệ, Mộc Hoá, Tân Thạnh, Tân Trụ, Thanh Hoá, Thủ Thừa, Vĩnh Hưng, Tân Hưng. Ơ đây có hai dân tộc sinh sống chính là: Việt (Kinh) và Khmer.

Cách Thành Phố Hồ Chí Minh 47km, Long An là cửa ngõ của Đồng Bằng Sông Cửu Long, phía Bắc giáp Tây Ninh và nước Campuchia, phía Đông Giáp Thành Phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp Tiền Giang và phía Tây giáp Đồng Tháp. Là một tỉnh nông nghiệp, đất Long An màu mỡ trải ra hai triền sông của hai con sông lớn: sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây. Ở phía Bắc tỉnh có một số gò, đồi thấp, còn lại thì bằng phẳng. Phần đất phía Tây thuộc vùng trũng Đồng Tháp Mười.

Long An có một mạng lưới sông, ngòi, kênh rạch chằng chịt nối liền nhau, chia cắt địa bàn tỉnh thành nhiều vùng. Thực ra Long An chưa phải là Đồng Bằng Sông Cửu Long mà chỉ là đồng bằng sông Vàm Cỏ giữa hệ thống sông Đồng Nai và hệ thống sông Cửu Long.

Khí hậu: nhiệt đới gió mùa, hai mùa mưa và mùa khô rõ rệt, nhiệt độ trung bình năm 27,4oc, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa trung bình 1.620 mm/năm.

Long An đông dân, chủ yếu là người Việt (kinh) và đồng bào gốc Khmer ở phía Tây. Long An có 4 tôn giáo đông người theo là đạo Phật, Kitô giáo, đạo Cao Đài, đạo Tin Lành.

Long An hấp dẫn du khách chủ yếu do giá trị nhân văn của nền văn hoá Óc Eo, một nền văn hoá đã hình thành và phát triển trên châu thổ sông Cửu Long từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau công nguyên do tiếp nhận tinh hoa văn hoá An Độ. Gần 20 di tích tiền sử và gần 100 di tích văn hoá Oc Eo đã được phát hiện với 12.000 hiện vật đã thu thập. Ngoài ra Long An có trên 40 di tích lịch sử cách mạng, công trình kiến trúc và danh lam thắng cảnh quan trọng như: cụm di tích Bình Tả (Đức Hoà), di tích lăng mộ và đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức (thị xã Long An), di tích đồn Rạch Cát, ngôi nhà trăm cột...

Những năm hạn hán nhân dân tại các vùng sản xuất nông nghiệp của Long An thường tổ chức cầu mưa, tế lễ trời đất, mong thần linh ban cho mưa xuống. Lễ cầu mưa có hai phần: phần lễ theo nghi thức lễ truyền thống và phần hội là các cuộc đua ghe trên sông rạch, cũng có nơi làm lễ rước rồng.

Sau khi đua ghe, dân chúng kéo về đình làng làm lễ cúng thần linh và tổ chức ăn uống vui chơi. 

Long An “Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc”

Kể từ thuở

Xuôi phương Nam mở đất lập làng

Tới Long An gây cơ dựng nghiệp

Đồng cam cộng khổ, chẳng quản gian lao

Vững chí bền gan, nề chi khắc nghiệt

Thời Đá Mới rạng ngời thành tựu: An Sơn, Rạch Núi sách cũ còn ghi

Buổi Óc Eo rực rỡ văn minh: Bình Tả, Ô Chùa sử ta đã viết

Nghề nông nhộn nhịp: Gạo Nàng Thơm xuôi ngược nhớ tên

Thương nghiệp mở mang: Vùng Bến Lức xa gần đều biết

Vững vàng Gia Định: Cửa ngõ trấn yên

Lừng lẫy Long An: Người dân tuấn kiệt!

 

Trước nạn xâm lăng

Dân ta cần mẫn: Sớm cuốc khuya cày

Giặc Pháp xâm lăng: Bom gầm đạn thét

Bừng bừng nộ khí, hợp dân cứu nước chuẩn bị súng gươm

Lớp lớp hiên ngang, sát cánh chen vai ra đòn sấm sét

Trương Công Định giương cao đại nghĩa, cờ hồng rực chiếu non sông

Võ Duy Dương quét sạch hung tàn, chí cả sáng bừng nhật nguyệt.

Trên dòng Nhựt Tảo, quân Nguyễn Trung Trực đốt tàu giặc dữ, lửa căm hờn cao ngút ngàn mây

Tại Vàm Cỏ Đông, nhóm Huỳnh Văn Ngưu diệt hạm quân gian, xác xâm lược vùi sâu vạn kiếp

Nguyễn Đình Chiểu mắt mù tâm sáng, văn kia mãi mãi trường tồn

Nguyễn Hữu Huân mệnh hết danh còn, gương ấy đời đời bất diệt.

 

Đánh thực dân Pháp

Đảng mở đường: Bừng khí đấu tranh

Dân tiếp bước: Thắt tình đoàn kết

Nông dân nổi dậy, ta tiến lên sóng cuộn triều dâng

Bộ đội xung phong, địch tháo chạy hồn kinh vía khiếp

Trận Trà Cú, Ông Chuồng long trời lở đất, Cờ Đỏ tung bay

Trận Láng Le, Giồng Cám giết giặc trừ gian, kẻ thù giãy chết

Giồng Dinh, Mộc Hóa: Hiển hách chiến công

Bến Lức, Châu Thành: Vẫy vùng anh kiệt

Đồng Tháp Mười dựng chắc thành đồng

Xứ Long An xây cao lũy thép!

 

Đuổi đế quốc Mỹ

Pháp thực dân đã quá hung tàn

Mỹ đế quốc lại càng ác nghiệt

Chiến sĩ ta đội trời đạp đất, giữa dầu sôi lửa bỏng vẫn kiên trung

Nhân dân ta chỉ núi thề sông, trong máu chảy ruột mềm thêm quả quyết

Trận Gò Gòn, Đức Lập, ta oai hùng xốc tới thắng lợi quang vinh

Trận Đức Huệ, Cầu Tầu, địch khiếp nhược chạy dài thương vong thảm thiết

Mậu Thân sáu tám, trung tâm thù chọc thẳng, mộng xâm lăng tận gốc lung lay

Ất Mão bảy lăm, đầu não địch đầu hàng, khúc khải hoàn bốn phương náo nhiệt

“Toàn dân đánh giặc’’, vẻ vang thay “vành đai diệt Mỹ”, ngàn thu Rạch Kiến rực công huân

“Trung dũng kiên cường”, tự hào thay mảnh đất uy linh, trăm dặm Long An ngời khí tiết

 

Quê ta ngày ấy

Trải năm tháng cùng trường kỳ kháng chiến, đã máu đầm bởi đế quốc thực dân

Vững một lòng vì độc lập tự do, dù xương gãy chốn Tây Nam Đại Việt

Đêm ngày dốc sức, giữ biên cương chặn đám hung tàn

Khuya sớm dồn tâm, giúp nước bạn xóa bầy chủng diệt

Trên ba vạn tấm gương liệt sĩ: Liều thân mình giữa chốn nguy nan

Hơn bốn ngàn Bà mẹ anh hùng: Tiễn khúc ruột vào nơi ác liệt!

Xứng danh “hạt giống đỏ”: Nào Châu Văn Liêm, Nguyễn Thị Bảy, Võ Văn Tần,

Bùi Văn Khánh, Nguyễn Văn Minh

Nức tiếng người Long An: Nào Nguyễn Văn Tiếp, Trương Văn Bang, Nguyễn Hữu Thọ,

Trần Văn Giàu, Lê Văn Kiệt,...

Diệt trừ đế quốc: Bao khí phách hiên ngang

Đánh bại thực dân: Lắm anh hào lẫm liệt

 

Ngày nay

Khắp phố thôn nô nức khẩn trương

Mọi tầng lớp rộn ràng mải miết

Đổi mới mô hình “một giá”: Đánh vào cơ chế quan liêu

Tiến hành quy hoạch phân vùng: Đẩy mạnh quá trình kiến thiết

Thóc ngô vài triệu tấn bởi ruộng đồng thấm đẫm mồ hôi

Công thương nghiệp đi lên nhờ phường phố trải dài tâm huyết

Xưa toàn dân đánh giặc: Chí anh hùng vạn đại ghi sâu

Nay cả tỉnh dựng xây: Thề quyết thắng muôn người quán triệt

Đạp bằng thử thách, vươn tới tương lai

Rạng rỡ ngày mai, tiếp trang sử đẹp!


Gò Đen

Gò Đen thuộc xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Thị tứ đầu tiên của huyện Bến Lức, nơi nổi tiếng rượu đế. Ở hai bên đường của khu vực này có bày bán rất nhiều dựng trong những can nhựa. Có hai giả thuyết nói đến Gò Đen.

Giả thiết thứ nhất: Vùng này trước kia người ta nuôi vịt nhiều tối lại họ thường đốt đèn trên Gò để coi vịt, thế thì người đi qua lại trên đường thấy có ánh sáng lấp lánh gọi đó là Gò Đêm hay còn gọi là Gò Đen.
Giả thiết thứ hai: Nơi đây vốn nổi tiếng là rượu đế. Trước đây vào thời thuộc Pháp cấm nấu rượu đế, không cho sản xuất ra loại rượu nếp nhưng nhân dân ta trốn lén lên Gò cao, nơi có những lùm cây rậm rạp, tối tăm để mà nấu cho ra loại rượu rất ngon. Từ đó có tên rượu Gò Đen.

Cách nấu rượu đế Gò Đen* :

Rượu ở đây có nồng độ rất cao từ 450 – 550, có mùi thơm, cay và nồng… người dân ở đây nấu rượu bằng nếp lứt có thể bằng gạo hay củ mì…

Trước hết đem khoảng 8kg gạo nấu thành cơm rồi để 2 giờ cho cơm nguội đi, sau đó đem ủ men vào những khạp tương, để khoảng 4 – 5 ngày rồi đem chưng cất lên, qua một hệ thống đường ống cho ra sản phẩm rượu nguyên chất, với số lượng gạo như trên thì có thể cho ra từ 5 – 7 lít rượu ngon. Rượu có thể dùng để ngâm thuốc uống…

Cách Uống Rượu của dân Long An

Ở Long An nói chung hay ở Gò Đen nói riêng có cách uống rượu rất độc đáo: Họ uống rượu bằng những cái chung nhỏ bằng sành nung hay sang trọng hơn  nữa là những bộ chén bằng gỗ quý đã “lên nước” bóng lộn, nhỏ bằng hột mít. Rượu thì được đựng trong 1 cái thố nhỏ. Sau đó dùng cái chung múc rượu từ trong thố chứ không rót ra chung như mọi người. Ngày nay, có lẽ do cuộc sống công nghiệp nên giới trẻ ở đây không còn chuộng lối uống rượu chậm rãi mà trang nhã như vậy nữa. Đó cũng là nét độc đáo ngày xưa của người dân vùng này.

Cầu Bến Lức:

Cầu dài 429m bắt qua sông Vàm Cỏ Đông.

Nhìn về phía bên trái còn cây cầu cũ là cầu của đường xe lửa ngày xưa, hiện nay dùng làm đường địa phương là một trong những chiếc cầu quan trọng của sông Vàm Cỏ Đông. Bến Lức là một huyện đầu tiên của Tỉnh Long An cách Thành Phố Hồ Chí Minh 40Km. Người dân khai thác cát dưới dòng sông để làm vật liệu xây dựng.

Đi dọc bờ sông khoảng 10 Km dẫn đến Vàm Nhật Tảo một phụ lưu ở hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông là nơi Nguyễn Trung Trực chỉ huy đoàn quân nghĩa dũng đốt chiếc tiểu hạm “Hy vọng" của Pháp vào ngày 10/12/1861. Cầu Bến Lức bắt ngang qua Sông Vàm Cỏ Đông.

 

Khu Du Lịch Happy Land

Happyland là vùng đất hạnh phúc gồm nhiều khu liên hợp như: khu vui chơi giải Trí, trường đua xe, căn hộ cao cấp …

Tại buổi lễ hội thảo với nhiều đơn vị tham dự: phòng lữ hành TPHCM, Long an, Cà Mau; hiệp hội du lịch CTC và các đơn vị du lịch khác Bà Phan Thị Phương Thảo chủ tịch tập đoàn Khang Thông cho biết khu du lịch happyland đầu tư 2 tỷ USD sẽ khai trương vào ngày 29/1/2019 trước tết Nguyên Đán 2019 vài ngày. Thời điểm ngay vào dịp tết Nguyên Đán sẽ là rất thuận lợi vì mọi người thường thích du xuân du lịch những nơi mới lạ hấp dẫn.

KDL xây dựng từ năm 2011 và đến nay sẽ đi vào hoạt động giai đoạn 1 là khu giải trí Việt Nam thu nhỏ 250.000 m2, vị trí nằm bên cạnh bờ sông Vàm Cỏ Đông, sau đó tiếp tục hoàn thiện các hạng mục khác sau đó.

Với giá vé công bố ban đầu là: 150.000 đ (người lớn) Và 80.000 đ (trẻ em)

Sự hấp dẫn của điểm vui chơi này như thế nào vẫn còn là ẩn số, vì đang trong quá trình hoàn thiện để khai trương…

Thông tin liên hệ Khu du lich HappyLand:

Địa chỉ: 133/1 QL 1A, Xã Thạnh Đức, Huyện Bến Lức, Tỉnh Long An

Tel: 1900 232 424 (Hotline CSKH)

Văn phòng đại diện HCM

 67 Nguyễn Thị Minh Khai, phường Bến Thành, Quận 1, TP.HCM

 Giờ mở cửa: 8:00 – 17:00

0903 112 618 (Mr.Thanh)

0906 887 569 (Mr.Nguyên)

 Sông Vàm Cỏ Đông

Bắt nguồn từ Campuchia, sông Vàm Cỏ Đông chảy qua nước ta qua tỉnh Tây Ninh, rồi vào Long An làm thành biên giới thiên nhiên của hai huyện Đức Hoà, Đức Huệ, qua các huyện Bến Lức, gặp sông Vàm Cỏ Tây ở huyện Cần Đước, rồi đổ ra cửa Xoài Rạp. Sông dài 270Km, riêng đoạn chảy qua đất Long An dài 140 Km, độ rộng trung bình 170m, nơi hẹp nhất 20m, nơi rộng nhất từ Bến Lức ra biển là 120m. Đoạn cuối lòng sông rộng trên 1km. Cầu Bến Lức bắt ngang qua sông Vàm Cỏ Tây, qua khỏi cầu Bến Lức tới phía trái khoảng 100m là nhà máy Dệt Long An, nằm trong khu vực Cầu Voi cách TP.Hồ Chí Minh 40Km. Là nhà máy dệt khá lớn ở Long An  được trang bị máy móc hiện đại, đặc biệt là vải Katê, nhà máy Dệt Long An còn được mọi người biết đến bởi vì đây có đội tuyển bóng chuyền nữ đẳng cấp A1 toàn quốc.

Phía trước các Anh Chị là cầu Tân An cầu dài khoảng 406m bắt ngang qua sông Vàm Cỏ Tây, sông bắt nguồn từ Campuchia gặp sông Vàm Cỏ Đông ở Cần Đước đổ ra biển Đông gọi là Vàm Nhật Tảo. 

Lời bài hát Vàm Cỏ Đông

Ở tận sông Hồng em có biết Quê hương anh cũng có dòng sông. Anh mãi gọi, với lòng tha thiết. Vàm Cỏ Ðông, ơi Vàm Cỏ Ðông.

Ơi, ơi Vàm Cỏ Đông! Ơi hỡi dòng sông! Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng, Ðuổi Pháp đi rồi nay đuổi Mỹ xâm lăng. Giặc đi đời giặc, sông càng xanh trong. Giặc đi đời giặc, sông càng xanh trong.

Ơi, ơi Vàm Cỏ Đông! Ơi hỡi dòng sông! Có anh du kích dũng cảm kiên cường, Lẫn ánh trăng mờ băng lửa đạn qua sông, Diệt tan tàu giặc, giữ gìn quê hương. Diệt tan tàu giặc, giữ gìn quê hương.
Vàm Cỏ Ðông đây! Vàm Cỏ Đông đây! Ta quyết giữ từng chiếc xuồng tấm lưới cây dầm. Từng con người làm nên lịch sử và dòng sông trong mát quanh năm.

Vàm Cỏ Ðông đây! Vàm Cỏ Ðông đây! Ta quyết giữ từng mái nhà nép dưới rặng dừa. Từng thuở ruộng người đen màu mỡ tình hò hẹn sớm trưa.

Ở tận sông Hồng em có biết, Quê hương anh cũng có dòng sông. Anh mãi gọi với lòng tha thiết. Vàm Cỏ Ðông, ơi Vàm Cỏ Ðông. Vàm Cỏ Ðông, ơi Vàm Cỏ Ðông.

Vàm Nhật Tảo:
Nơi đây ngày 10/12/1861 người anh hùng xuất thân từ nghề chài lưới Nguyễn Trung Trực đã chỉ huy nghĩa quân đốt cháy chiến hạm Lorcha thuộc đoàn tàu Espérauce gây chấn động lớn vì đầu tiên nghĩa quân Việt Nam đánh đắm tàu Pháp với trang thiết bị hiện đại.

Trận Nhật Tảo của quân dân nhà Nguyễn dưới sự chỉ huy của Quyền Quản cơ Nguyễn Trung Trực là một trận đánh nhỏ, nhưng có ý nghĩa to lớn trong việc khích lệ quân sĩ ta anh dũng chống Pháp. 

Tàu hiện đại nhất của Pháp bị đốt cháy

Năm 1861 là thời điểm thực dân Pháp đang mở rộng cuộc xâm chiến Nam Kỳ. Ngày 23/6 năm đó, quân Pháp đánh chiếm Gò Công (Tiền Giang), rồi cho tiểu hạm Espérance (tiếng Pháp nghĩa là Hy Vọng), đến đồn trú ở sông Nhật Tảo.

Espérance là một tàu bọc đồng chạy bằng hơi nước, có thể ra vào những luồng lạch cạn, được trang bị một khẩu đại bác cùng nhiều vũ khí đa năng. Đây là một trong những tàu bậc nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ. Chỉ huy tàu là Parfait, một trung úy hải quân trẻ tuổi, cùng 42 lính thủy.

Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ (25 tháng 2 năm 1861), Nguyễn Trung Trực về Tân An . Quyền quản cơ Nguyễn Trung Trực liền ra lệnh cho Phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng cùng Nguyễn Văn Quang chuẩn bị kế hoạch tấn công chiếc tiểu hạm này. Ông cùng các đồng sự đã chuẩn bị kế hoạch trong một thời gian dài.

Khoảng trưa ngày 10 tháng 12 năm 1861, sau khi bố trí xong lực lượng phục kích trên bờ, tức thì 5 chiếc ghe chở Nguyễn Trung Trực cùng  nghĩa quân giả làm đoàn ghe buôn lúa (hoặc đoàn ghe đám cưới) tiến sát tiểu hạm Espérance. Viên sĩ quan trực tưởng là đoàn ghe ghé xin phép lưu thông, nên nghiêng mình ra cửa sổ tàu thì bất ngờ bị vũ khí của nghĩa quân đâm trúng ngực. Liền khi ấy, nghĩa quân tay cầm gươm giáo và đuốc, từ các ghe nhảy lên, vừa la hét, vừa đánh xáp lá cà với lính thủy Pháp. 

Ở hai bên bờ, các nghĩa quân cũng nhanh chóng đến tiếp chiến. Nguyễn Học, Hồ Quang Chiêu lấy búa sắt phá tàu không vỡ nên đã cho phóng lửa đốt tàu, đánh chìm.

Giám đốc Nội vụ Pháp ở Nam Kỳ là Paulin Vial, đã thuật lại sự kiện như thế này:

Lúc giữa trưa ngày 10 tháng 12, Nguyễn Trung Trực lợi dụng viên sĩ quan chỉ huy chiếc tiểu hạm L’Espérance đang đuổi theo bọn gian phi cách tàu khoảng 2 dặm. Bốn hoặc năm chiếc ghe lớn có mui thả trôi theo hông tàu. Đoàn thủy thủ nghỉ ngơi trên sàn tàu không nghi ngờ gì. Viên sĩ quan giữ chức vụ phụ tá, thò mình ra cửa sổ vì tưởng rằng người buôn bán muốn xin thị nhận giấy phép lưu thông. Tên vô phước này đã bị giết bằng một mũi giáo vào ngực. Rồi đoàn người đột kích bỗng la hét khủng khiếp, và vài phút đồng hồ sau, thì sàn tàu tràn ngập hơn một trăm năm chục người Việt Nam cầm giáo, gươm và đuốc. Một cuộc giáp chiến giữa lực lượng không tương xứng đã diễn ra... Bị lửa táp, những người giao chiến nhảy bổ xuống sông hay chạy thoát vào trong những chiếc ghe. Năm người trong đoàn thủy thủ: 2 người Pháp và 3 người Tagal không khí giới trốn trên một chiếc ghe, chèo thục mạng. Từ xa họ thấy chiếc L’Espérance nổ tung mà những mảnh vỡ văng ra đến tận hai bờ sông, chôn vùi xác chết của 17 người Pháp và Tagal bị giết trong tai biến này.

Theo sử Việt ghi lại thì quân Pháp bị thiệt hại lớn: tiểu hạm Espérance bị đánh chìm, 17 lính và 20 cộng sự người Việt bị giết, chỉ có 8 người trốn thoát, gồm 2 lính Pháp và 6 lính Tagal (tức lính đánh thuê Philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní). Viên sĩ quan chỉ huy tàu là Parfait vì vắng mặt, nên cũng thoát chết.

Nức lòng dân Việt

Chiến thắng này đã làm nức lòng nhân dân Việt. Và khi tin ra đến Huế, vua Tự Đức liền cho ban lệnh thưởng. Sử nhà Nguyễn chép: Vua phong thưởng cho Lịch làm chức Quản cơ..., Nguyễn Văn Quang, Huỳnh Khắc Nhượng cùng hai mươi người nữa làm cai đội và đều được thưởng ngân tiền. Binh lính tham gia được thưởng chung một ngàn quan tiền. Bốn người bị chết đều được cấp cho tiền tuất gấp hai... Ngoài ra, nhà vua cũng chuẩn cấp cho những nhà trong làng bị đốt cháy.

Đối với Pháp, viên thanh tra bản xứ tại Nam Kỳ tên Paulin Vial gọi đây là: một sự kiện đau đớn làm người An Nam phấn chấn và gây xúc động, đau lòng sâu sắc trong lòng người Pháp.

 

Nguyễn Trung Trực
Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch (1838-1868) ở làng Bình Nhật-tỉnh Gia Định (nay là xã Bình Đức -huyện Bến Lức - Long An ). Năm 1861 ông tham gia lực lượng kháng chiến chống Pháp, sau khi đồn Chí Hòa thất thủ ông về Long An dưới sự lãnh đạo của Trương Định cùng nghĩa quân chống Pháp. Khi 3 tỉnh miền Đông mất ông ra Bình Định nhận chức lãnh binh, đến năm 1867 ông về Hà Tiên giữ chức thành thủ úy. Đêm 16/6/1868 ông chỉ huy đánh đồn Rạch Giá và làm chủ trận thế trong 5 ngày sau đó rút ra Phú Quốc. Sau nhiều trận giao tranh ác liệt, nghĩa quân bị thiếu lương thực, ốm đau nên ông đã tự ra nộp mình và bị giải về Sài Gòn, giặc nhiều lần dụ hàng nhưng ông khẳng khái nói “Khi nào nhổ hết cỏ nước Nam, mới hết người Nam đánh Tây”.
Ngày 27/10/1868 Pháp đã hành hình ông tại Rạch Giá. Nho sĩ Huỳnh Mẫn Đạt đã có bài thơ điếu:

“ Hỏa hồng Nhật Tảo kinh thiên địa
Kiếm lạt Kiên Giang khắp quỷ thần ”

Nguyễn Trung Trực được dân chúnt Tây Nam Bộ tôn kính gọi là “Ông Nguyễn” và lập đền thờ ở rất nhiều nơi như: Rạch Giá, Mong Thọ, Tân Điền, Mỹ Lâm, Sóc Xoài, Hòn Đất, Phú Quốc, Gò Quao, Tà Niên (thuộc tỉnh Kiên Giang); Long Giang ở huyện Thoại Sơn (thuộc tỉnh An Giang), Long Phú, An Lạc ở huyện Kế Sách, Phú Lộc ở huyện Thạnh Trị (thuộc tỉnh Sóc Trăng); huyện Long Mỹ (thuộc tỉnh Hậu Giang); An Hòa ở huyện Giá Rai (thuộc tỉnh Bạc Liêu).... Trong đó, đền thờ ở Rạch Giá là nơi  mà người anh hùng đã hy sinh là lớn nhất, lễ hội được tổ chức tại đây cũng long trọng nhất.

            Đền thờ chính (hay còn gọi là “Đình Thần”) Nguyễn Trung Trực tọa lạc tại số 8 đường Nguyễn Công Trứ, TP.Rạch Giá (Kiên Giang). Thuở xưa, đây là ngôi đền nhỏ bằng gỗ lợp lá, chỉ cách biển Đông khoảng chừng trăm mét, do dân chài dựng lên bên dòng sông Kiên để thờ Cá Ông Nam Hải đại tướng quân. Sau khi Nguyễn Trung Trực bị xử chém tại chợ Rạch Giá, dân chúng đã bí mật rước vong linh Ông vào đây để thờ. Sau hai lần sửa chữa vào năm 1881 và 1964 - 1970, ngôi đền đã trở thành đền thờ chính Nguyễn Trung Trực (thần cá voi Nam Hải Đại Tướng Quân được phối thờ) và có diện mạo như ngày nay.

Do được thiết kế theo kiểu kiến trúc đình làng, mà đình làng là kiến trúc bán tôn giáo phổ biến nhất ở Tây Nam Bộ, cho nên đền thờ Nguyễn Trung Trực cũng được dân chúng theo thói quen gọi là “đình”, nhưng thường thêm chữ “thần” thành “đình thần”. Bước qua khỏi cổng tam quan của đền, ta thấy chính giữa sân là lư hương lớn bằng đá cùng bức tượng đồng Nguyễn Trung Trực trong tư thế đứng thẳng, tay nắm đốc kiến. Sau bức tượng là ngôi đền được xây dựng theo kiểu chữ tam, gồm chính điện, đông lang và tây lang. Ngôi chánh điện được thiết kế với mái cong  bốn góc, bên trong lần lượt từ ngoài vào trong có các bàn thờ: Chánh soái Đại càn; 30 vị anh hùng dân tộc; Long đình cùng di ảnh nhỏ của Nguyễn Trung Trực; Chư vị; trăm quan cựu thần và Cửu Huyền Thất Tổ. Gian cuối cùng có ba ngai thờ: Ngai chính giữa thờ Nguyễn Trung Trực, phía trên có bức hoành phi ghi bốn chữ (Anh khí như hồng), ca ngợi khí tiết của ông sáng như cầu vồng bảy sắc. Phía bên trái có ngai thờ chung phó cơ Nguyễn Hiền Điều và phó lãnh binh Lâm Quuang Ky. Phía bên phải là ngai thờ thần Nam Hải Đại tướng quân, dấu vết còn sót lại của đền thờ cá Ông, tiền thân của đền thờ Nguyễn Trung Trực. Khu vực đông lang và tây lang của đền có các bàn thờ: Tây hiến, Đông hiến, Tiền hiền, Hậu hiền, Thủy long, Đồng bào nghĩa quân liệt sĩ.

            Ở hai bên ngôi đền, từ cổng nhìn vào, phía bên trái là mộ Nguyễn Trung Trực; phía bên phải là phòng trưng bày những hiện vật có liên quan  đến cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân cùng phòng khám chữa bệnh bằng thuốc nam với các lương y giỏi bắt mạch, kê toa, châm cứu miễn phí. Vào ngày thường vẫn có rất nhiều lượt khách thập phương đến cúng bái, làm công đức hoặc khám chữa bệnh; còn vào dịp lễ thì đông vui vô cùng. 

Thơm Bến Lức:

Kính thưa Quý Khách!

Thơm Bến Lức rất dễ trồng bằng cách chiết cây con 14 - 16 tuần là có thể thu hoạch , thơm Bến Lức rất nổi tiếng, đặc biệt rất thích hợp với vùng đất phèn. Thơm Bến Lức trái không to lắm, nặng khoảng từ 1,2 đến 1,5kg, có hương vị rất đặc biệt, trái màu vàng, khi ăn có hương vị vừa giòn vừa ngọt được người dân  rất ưa chuộng. khi nhắc đến trái thơm chắc bạn cũng biết về sự tích của nó

Sự Tích Trái Thơm

Ngày xưa có hai mẹ con sống trong một túp lều. Người Mẹ rất thương con chuyện gì cũng làm, không để cho con mình phải cực vì thế cô bé suốt ngày chỉ biết rong chơi. Một hôm, người mẹ ngã bệnh không làm việc được nữa, người mẹ mới bảo cô con gái làm việc nhà giúp mình, thế nhưng cô bé chẳng làm được việc gì. Không biết mọi vật dụng  trong nhà để đâu, cái gì cô bé cũng hỏi mẹ. Khi nấu cơm, cô bé hỏi mẹ gạo để ở đâu và nồi để ở đâu, nhóm bếp như thế nào...Người mẹ bực quá nên quát lên, lúc này cô bé bị mẹ la nên khóc nức nở, cô ước gì mình có được trăm mắt để nhìn thấy tất cả mọi vật dụng trong nhà. Bỗng Ông Bụt hiện lên và giúp cho điều ước của cô bé được thực hiện, ông hóa phép biến cô bé thành trái thơm có trăm mắt. Từ đó sự tích trái thơm ra đời. 

DƯA HẤU LONG TRÌ

Kính thưa Quý Khách!

Long An không chỉ nổi tiếng về Thơm Bến Lức mà còn nổi tiếng về nghề trồng dưa hấu. Dưa hấu Long Trì trái rất đẹp, vỏ mỏng màu xanh sậm da láng, trái thon dài, ruột cát đỏ tươi, rất ngọt và đặc biệt để lâu không hư. Nhân dân Long Trì không sử dụng các loại thuốc  hóa học kích thích dưa lớn trái nặng cân mà áp dụng đúng kỷ thuật để đảm bảo chất lượng dưa. Nhà vườn ngưng tưới nước 10 ngày trước khi thu hoạch để ruột dưa rút bớt nước , cho nhiều cát và để lâu không hư.

Nghề Trồng Dưa Hấu

Tương truyền từ sự tích An Tiêm mà dân ta có tục dâng dưa hấu trên bàn thờ ngày tết. Xưa An Tiêm bị đày ra hoang đảo, tình cờ nhặt được hạt giống lạ do chim mang tới liền đem trồng. Khi trái chín, xẻ ruột ra đỏ tươi, vị ngọt ngào mát lịm bèn gởi về cho vua cha là vua Hùng Vương thứ 17. Vua ăn khen ngon liền “xóa án” cho An Tiêm. Ăn dưa hấu vì vì vậy còn có hàm ý phài biết hiếu thảo như Mai An Tiêm và đừng có “trông mặt mà bắt hình dong” bởi làm người có khi “xanh vỏ” nhưng lại “đỏ lòng”.

Trồng dưa hấu từ lâu đã là một nghề của nông dân Miền Nam. Miền Trung có dưa Long Bình, Miền Đông có dưa Long Khánh, Đồng Nai, Miền Tây có dưa Cầu Ngang, Duyên Hải (Trà Vinh), Thốt Nốt, Phụng Hiệp (Cần Thơ), Rồng Giềng (Kiên Giang), Vũng Thơm (Sóc Trăng)... rất nổi tiếng. Dưa hấu kén đất và đòi hỏi kỷ thuật chăm sóc nghiêm ngặt. Thực hiện không đúng cả rẫy dưa bán Tết sẽ biến thành “dưa canh” (dưa để nấu canh), thậm chí sâu rầy phá hoại.

Muốn có dưa bán đúng vào dịp tết, từ mùng 10 tháng 10 AL phải bắt đầu ươm hạt, 10 ngày sau đem trồng, mật độ 70 - 80 cm/dây. Nếu là đất liền hoặc bờ thì xốc thành luống cao 20cm, đánh hộc, dồn phân, rơm rạ đã ủ hoại xuống, sau đó mới bón phân lân. Khi dưa hấu phát triển, tùy từng thời điểm sinh trưởng sinh trưởng mà người ta bón phân. Từ sáng sớm đến xế chiều người trồng phải túc trực trên rẫy dưa, gánh từng đôi thùng nước tưới, vạch từng chiếc lá bắt sâu, “xem mạch” cho dưa. Bù lại khi thu hoạch, mỗi công (0,1 ha) người trồng lời ít nhất từ 3 triệu đồng. vụ dưa chỉ kéo dài 75 ngày.

Sau 25 ngày chăm sóc dưa ra trái, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp người ta hái bỏ những trái không cần thiết, chỉ để lại một trái có khả năng phát triển nhất. 1.000 dưa trung bình cho 700 đến 800 trái loại một. Từ lúc ra trái đến 25 ngày tuổi dưa bắt đầu chín. Đúng 20 - 25 tết, dưa có mặt tại chợ. Trước đây nông dân lấy trái vụ trước để trồng vụ sau. Sau hàng ngàn năm tự lai giống “cùng chung huyết thống” dưa nội địa thoái hóa, trái nhỏ, hạt nhiều. Hiện nay, người trồng dưa chọn giống của Thái Lan, Mỹ, Đài Loan, giá cả có cao hơn nhưng dưa thuần giống, trái to, chất lượng.

Người Việt Nam luôn uống nước

Gạo Nàng thơm Chợ Đào

Chợ Đào thuộc xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước, tỉnh Long An.

Gạo Nàng thơm chợ Đào hạt thon dài, chà trắng ra, bên trong có hột lựu hồng hồng. Gạo mới gặt, chà xong như có một lớp dầu, đưa tay vào bao gạo, giở tay lên gạo bòn bám trên tay mình. Gạo có mùi rất thơm, vào bao nylon để 4 đến 5 tháng mang ra nấu vẫn thơm lừng. Nhưng để đến 10 tháng thì mùi thơm sẽ nhạt, hạt gạo cứng dần, độ dẻo và độ xốp không cao nữa.

Gạo Nàng thơm chợ Đào một năm cấy được một mùa. Lúa gieo tháng 6, 7 đến ngày đông chí thì đồng loạt trổ bông, đến 20 tháng Chạp thì gặt được. Lúa cho dù có cấy sớm trước 1, 2 tháng thì nó cũng chờ đến ngày tiết đông chí mới trổ. Do vậy, mỗi năm chỉ trồng được một vụ.

 

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công v.v. Nhân dân Nam Bộ căm phẫn và sục sôi tinh thần chống Pháp. Đêm ngày 16 tháng 12 năm 1861, đúng rằmtháng 11 năm Tân Dậu, theo diễn tả trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, mặc dù "chỉ là dân ấp, dân lân", "ngoài cật có một manh áo vải", "trong tay cầm một ngọn tầm vông" nhưng những nghĩa sĩnông dân đã quả cảm tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quan quân của Pháp và tri huyện "tay sai". Khoảng hai mươi nghĩa sĩ hi sinh. Tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định, giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ hi sinh trong trận này.

Vẻ đẹp bi tráng mà giản dị của hình tượng người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc và thái độ cảm phục, xót thương của tác giả đối với họ. Với nội dung chân thật và tình cảm xót xa, bài văn tế có một sức truyền cảm mạnh mẽ, được Bộ Lễ của triều đình Huế cho sao và truyền đi khắp nước để động viên tinh thần chiến đấu của người dân chống thực dân Pháp. Qua do khich le co vu cho cac tang lop dau tranh gianh doc lap sau nay.

Tính chất trữ tình, thủ pháp tương phản,phức tạp hóa và việc sử dụng ngôn ngữ.

Tác phẩm là một bản anh hùng ca vừa thiêng liêng vừa hùng hồn

Hai câu đầu của bài văn tế khái quát khung cảnh bảo táp của thời đại - phản ánh biến cố chính trị lớn lao chi phối toàn bộ thời cuộc. Đó là cuộc đụng độ giữa thế lực xâm lăng tàn bạo của thức dân Pháp và ý chí chiến đấu kiên cường để bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta. Hiện lên trên cái nền tảng ấy là hình ảnh của động quân áo vãi được khắc họa hoàn toàn bằng bút pháp hiện thực, không theo ước lệ của văn học trung đại, không bị chi phối bởi kiểu sáng tác lý tưởng hóa. Điều đáng chú ý là những chi tiết chân thực đều được chọn lọc rất tinh tế, nên đậm đặc chất sống, mang tính chất khái quát đặc trưng cao: "Vốn chẳng phải quân cờ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ. ... Ngòai cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm đao tu, nón gõ. Chính với những hình ảnh trên mà bức tượng đài ánh lên một vẻ đạp mộc mạc, chân chất và hết sức độc đáo.

Cao Văn Lầu

Ông Cao Văn Lầu tức Sáu Lầu sinh ngày 22/12/1892 tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sát nhập với làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An. Năm 1901, ông Cao theo gia đình đến lập nghiệp tại Bạc Liêu rồi ở luôn tại đây cho đến hết đời (ông qua đời ngày 13/8/1976). Thuở nhỏ, ông học chữ nho rồi học chữ quốc ngữ đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours moyen 2e année) tức lớp 4 ngày nay; sau đó quy y tại chùa Vĩnh Phước - Bạc Liêu. Sau khi rời cửa Phật, ông học nhạc lễ và là một trong những môn đệ giỏi về nhạc lễ của nhạc sư Lê Tài Khị (Nhạc Khị). Ông sử dụng rành rẽ đàn tranh, cò, kìm và trống lễ. Nhắc đến ông, người ta nhớ ngay đến bản Dạ cổ hoài lang (1919) được xem là tiền thân của bản vọng cổ ngày nay. Ông viết bản nhạc trên gồm 20 câu, nhịp 2 để trút cạn nỗi niềm tâm sự.

Nỗi niềm ấy đã nhiều lần ông thổ lộ với bạn tri âm: "Tôi đặt bài này bởi tôi rất thương vợ. Năm viết bản Dạ cổ hoài lang, tôi đã ăn ở với vợ tôi được 3 năm mà không có con. Tam niên vô tử bất thành thê. Vợ chồng ăn ở với nhau trong 3 năm, vợ không sinh con, chồng được quyền bỏ để cưới người khác hầu có con nối dõi tông đường. Thời phong kiến có những quan niệm chưa đúng. Người ta cho rằng vợ chồng không sinh con là do lỗi của người đàn bà.

Tiếng ra, tiếng vào của gia đình buộc tôi phải thôi vợ, nhưng tôi không đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm lệnh của gia đình, không đem vợ trả về cho cha mẹ mà đem gởi đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu, xót thương cho vợ chồng tôi gặp phải cảnh đau lòng mà cho ở đậu qua ngày, với hy vọng vợ chồng tôi sẽ có con và chiến thắng cái quan niệm khắc nghiệt, lạc hậu, chịu ảnh hưởng nặng đạo lý thời phong kiến”.

Trong thời gian dài, phu thê phải cam chịu cảnh “Đêm đông gối chiếc cô phòng", tâm tư nặng trĩu u buồn nên nhạc sĩ Sáu Lầu đêm đêm mượn tiếng đàn nắn nót đôi câu bớt cơn phiền muộn. Ông thừa hiểu người bạn đời cũng đau xót như ông. Bản Dạ cổ hoài lang ra đời trong bối cảnh như thế.

Trong thời gian tác phẩm chưa hoàn chỉnh, nhạc sĩ Sáu Lầu cùng anh em tài tử địa phương đàn tới đàn lui bản này, lấy ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp về phương diện sáng tác. Chuông, trống "công phu" ngân vang khiến anh em nhạc sĩ đất Bạc Liêu nhớ lại hồi chín, mười tuổi, ông Sáu Lầu quy y làm "Sa di" tại chùa Vĩnh Phước. Chú tiểu từng đánh trống, dộng chuông công phu hai buổi sớm chiều. Do đó, anh em đề nghị thêm hai chữ "Dạ cổ" (tiếng trống về đêm) cho ý nghĩa thêm sâu đậm. Ông Sáu hoan nghênh nên bản nhạc có tên hoàn chỉnh là "Dạ cổ hoài lang", tức "Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng".

Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp 2. Đó là đứa con của nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Nhưng khi Dạ cổ hòa nhập vào sân khấu cải lương thì hai soạn giả tiền phong góp công đầu để biến bản nhạc này từ nhịp 2 trở thành nhịp 4 là Huỳnh Thủ Trung (tức Tư Chơi) và Mộng Vân (Trần Tấn Trung). Tiếng nhạn kêu sương là bản Vọng cổ hoài lang nhịp 4 đầu tiên do soạn giả Huỳnh Thủ Trung (1907-1964) sáng tác vào năm 1925. Trên những chặng đường phát triển, khi Vọng cổ hoài lang được nâng lên nhịp 8 (từ khoảng năm 1934 đến 1944) thì nó có tên mới là Vọng cổ, không còn đuôi hoài lang. Từ khoảng 1944-1954, vọng cổ tăng lên nhịp 16; thời kỳ kế tiếp: 1955 - 1964: tăng lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm 1965 đến nay.

Hậu thế đã nhận định như sau: Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp 2. Bản Vọng cổ từ nhịp 4 trở đi, trên những chặng đường phát triển, thuộc công trình chung của tài tử tứ phương. Còn ông tổ cải lương dứt khoát không phải là Cao Văn Lầu. Bản Dạ cổ hoài lang chào đời năm 1919, trong khi sân khấu cải lương ra đời khoảng năm 1916. 

Sài Gòn - Mỹ Tho, con đường sắt xưa nhất Đông Dương

Ngay sau khi xâm chiếm xong Việt Nam, người Pháp đã nhanh chóng hoạch định xây dựng tuyến đường sắt đi các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nhằm khai thác vùng đất giàu có này. Ý đồ ban đầu của họ là xây dựng tuyến đường sắt đến Vĩnh Long, sau đó nối tiếp tới Phnom Penh, Campuchia.
Tuy nhiên sau những cuộc tranh luận kéo dài về hiệu quả kinh tế và sự cần thiết xây dựng tuyến đường sắt, người Pháp đã quyết định, trước mắt chỉ xây dựng đường sắt từ Sài Gòn tới Mỹ Tho – con đường sắt đầu tiên của Đông Dương.

Đầu năm 1881, chuyến tàu thuỷ đầu tiên chở nguyên vật liệu từ Pháp sang xây dựng tuyến đường cập cảng Sài Gòn. Vào giữa năm, công trường hình thành với 11.000 lao động được huy động. So với công trường làm đường bộ cùng thời gian này, công trường đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho là công trường được tổ chức quy mô hơn, tiến hành rất khẩn trương, và có mặt nhiều sĩ quan công binh tại chỗ cùng nhiều kỹ sư từ Pháp sang.
Để đưa tàu hoả vượt qua các con sông lớn vì lúc này chưa xây dựng được cầu, biện pháp kỹ thuật được kỹ sư Têvơnê, giám đốc Sở Giao thông công chánh Nam Kỳ lúc đó đề xuất là dùng phà. Chiếc phà khổng lồ máy hơi nước chở được 10 toa xe (tương tự như phà mà Pháp đã làm để đưa tàu vượt sông Gianh sau này), được lắp đặt đường ray và một thiết bị để nối đường ray trên mặt đất với ray phà.

Chiều rộng đường sắt khổ 1 mét, là khổ đang được sử dụng rộng rãi thời bấy giờ trong ngành đường sắt Anh, Pháp.

Người Pháp dự tính tuyến đường sắt này là một phần của tuyến Sài Gòn - Cần Thơ (để sau đó sẽ nối tuyến đi tiếp qua Phnom Penh , Campuchia). Như vậy ngay từ đầu người Pháp đã có ý niệm rõ ràng về xây dựng tuyến đường sắt nối đô thị trung tâm là Sài Gòn với các đô thị khác ở đồng bằng sông Cửu Long để hình thành nên vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, và trên diện rộng là nối kết các vùng kinh tế của các nước thuộc địa với nhau.

Những năm tiếp sau, các tuyến đường sắt được xây dựng là: Sài Gòn - Hà Nội, Sài Gòn - Lái Thiêu - Thủ Dầu Một - Lộc Ninh và Sài Gòn - Gò Vấp - Hóc Môn.

Rộng hơn, Sài Gòn – Mỹ Tho là tuyến đầu tiên của kế hoạch hình thành hệ thống đường sắt nối vào hệ đường sắt quốc tế, dự định như sau: Sài Gòn - Mỹ Tho - Cần Thơ - Bạc Liêu - Cà Mau ; tuyến Cần Thơ - Châu Đốc - Phnom Penh - Bat Đom boong - Bangkok - Miến Điện - Ấn Độ và các nước Trung Đông (tuyến này đã có sẵn đường quốc tế) ; tuyến Bangkok - Mã Lai và tuyến Bangkok-Nakhon (Thái Lan) - Vientiane. Đặc biệt tuyến cuối cùng này sẽ qua Udon của Thái Lan là nơi rất nhiều người Việt sinh sống.
Tuyến này có lợi cho phát triển kinh tế của Việt Nam , đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời giữ quan hệ thân hữu với Lào và Campuchia (họ sẽ có đường thoát ra biển ở Cần Thơ và Sài Gòn). Thế nhưng do chiến tranh nên các tuyến liên vận quốc tế này đã không được xây dựng.

Theo nhà sử học Nguyễn Đình Đầu, công ty Eiffel trực tiếp thi công, sau bốn năm, tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho dài 70 km đã hoàn thành sau khi tiêu tốn 11,6 triệu franc. Ông Đầu cho biết, khó khăn khi làm tuyến đường này không thuộc về đền bù đất đai như bây giờ, vì lúc đó nhà nước có chế độ đất công, đất tư rất rõ ràng. Theo ông Đầu, khó nhất là do những yếu tố thuộc tâm linh. Tuyến đường chạy qua gò bãi, bãi tha ma, dân sợ động long mạch, nhà cầm quyền mất nhiều thời gian để giải thích cho dân thông.
Điểm khởi đầu xuất phát từ ga Sài Gòn (tại vị trí nay là công viên 23-9) tuyến đi theo các đường : Cống Quỳnh - Phạm Viết Chánh – Hùng Vương – Hồng Bàng – Kinh Dương Vương – Ngã ba An Lạc - Quốc lộ 1 (đi bên trái và sát QL1 theo hướng Sài Gòn – Cần Thơ). Đến khu vực Bình Điền (Bình Chánh) tuyến tách xa QL1 và vượt sông Chợ Đệm ở vị trí cách cầu Bình Điền đường bộ về phía hạ lưu khoảng 300 m, sau đó tuyến lại cặp sát bên trái QL1 cho đến khu vực Bến Lức thuộc tỉnh Long An. Sau khi vượt sông Vàm Cỏ Đông, tuyến cắt qua QL1, sang bên phải và tiếp tục đi cặp sát QL1 cho đến thị xã Tân An, vượt sông Vàm Cỏ Tây bằng cầu đường sắt Tân An, cắt qua QL1 về bên trái và tiếp tục đi cặp sát QL1, cắt qua ngã ba Trung Lương, chạy dọc theo tỉnh lộ 62 và kết thúc tại ga Mỹ Tho nằm sâu trong thành phố, sát cạnh chợ.
Tổng cộng có 15 ga đã được xây dựng trên tuyến gồm: Sài Gòn, An Đông, Phú Lâm, An Lạc, Bình Điền, Bình Chánh, Gò Đen, Bến Lức, Bình An, Tân An, Tân Hương, Tân Hiệp, Lương Phú, Trung Lương, Mỹ Tho. Như vậy bình quân 4,7 km có một ga, cự ly ngắn giữa các ga thể hiện tính chất vận tải khách ngoại ô của tuyến đường sắt này. Vị trí ga Mỹ Tho được người Pháp lựa chọn tạo nên đầu mối giao thông sắt - thuỷ - bộ. Chuyến tàu đầu tiên-Ngày 20-7-1885 chuyến tàu đầu tiên xuất phát từ ga Sài Gòn, vượt sông Vàm Cỏ Đông bằng phà tại Bến Lức, đến ga cuối cùng tại trung tâm thành phố Mỹ Tho đánh dấu sự ra đời của ngành đường sắt Việt Nam. Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu cho biết, trong chuyến tàu khai trương, người Pháp dùng đầu máy mang tên Vaico, tức là Vàm Cỏ (nhưng khi phiên ra tiếng Pháp đã bị viết sai). Mỗi ngày có bốn cặp chạy trên tuyến đường này, chuyến đầu tiên xuất phát từ Mỹ Tho lúc 1 giờ 30 sáng, đến Sài Gòn 5 giờ sáng. Ở Sài Gòn, chuyến Sài Gòn – Mỹ Tho cũng sẽ xuất phát trùng giờ. Chuyến thứ 2 lúc 9 giờ sáng, chuyến thứ ba lúc 1 giờ chiều và chuyến 6 giờ tối. Vì phải vượt phà, mỗi chuyến chạy mất ba tiếng rưỡi.

Đến tháng 5-1886 cầu trên tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho đã hoàn thành cho phép tàu chạy một mạch tới Mỹ Tho, thời gian chạy rút xuống còn 2 tiếng rưỡi. Số lãi thu được từ tuyến đường sắt này tính đến năm 1896 là 3,22 triệu franc, đến năm 1912 là hơn 4 triệu franc.

Lý do, theo ông Nguyễn Đình Đầu, là trước đây, tuyến này rất lãi, nhưng thập kỷ 50 của thế kỷ 20, xe hơi phát triển cùng với hệ thống đường bộ Sài Gòn - Mỹ Tho được đầu tư gần như xa lộ nên người ta chuyển sang đi đường bộ. Có những ngày toàn đoàn tàu chỉ có vài chục người, lỗ quá nên nhà nước bỏ tuyến đường này đi. Sau 73 năm tồn tại, năm 1958, tuyến đường sắt này đã bị chính quyền Sài Gòn cũ cho ngưng chạy tàu. Hiện nay toàn bộ tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho đã bị tháo dỡ, ngay cả ga Sài Gòn cũng bị dời ra Hoà Hưng. Trên đại lộ Hùng Vương thỉnh thoảng còn lộ ra vài đoạn đường ray cũ chưa bị tháo dỡ. Nền đường sắt dọc Quốc lộ 1 từ thành phố Hồ Chí Minh đến Mỹ Tho nhường chỗ cho việc mở rộng QL 1 hoặc đã bị những khu dân cư, khu công nghiệp dọc tuyến lấn chiếm. Cầu cống dọc tuyến bị tháo dỡ hoàn toàn, tại vị trí các cầu lớn như cầu Bình Điền, cầu Bến Lức, cầu Tân An chỉ còn các mố hai bên bờ sông, các trụ cầu đã bị phá bỏ để nhường chỗ cho giao thông thuỷ. Sau 125 năm, chỉ còn một nhà ga duy nhất tên Gò Đen (xã Long Hiệp, Bến Lức, Long An) sát Quốc lộ 1A và đang nằm trong kế hoạch giải toả.

• Đặc điểm bên đường đi:

- Qua cầu Tân An khoảng 150m, bên trái là bưu điện tỉnh Long An, trước đây là công viên, kế có đường đi vào thị xã Tân An.

- Phải có thánh thất Cao Đài.

- Tới ngã tư ngay góc đường bến xe Long An, rẽ trái đi vào sân vận động Long An rẽ phải đi vào Mộc Hóa (75km).
- Phía trước bên phải là nhà Thờ, tới nữa là Bào Tàng Long An nơi trưng bày rất nhiều di vật quý, trong đó còn có thẻ bài của nhà Vua ra lệnh rút 500 ngàn quân và những di tích cổ của nền văn hóa Óc Eo được khai thác ở Bình Tả (Đức Hòa) Tân Thạnh, Vĩnh Hưng, Mộc Hóa.

 

LĂNG MỘ VÀ ĐỀN THỜ ÔNG NGUYỄN HUỲNH ĐỨC

Cách Thị xã Tân An 3,5km về phía Tây, lăng Nguyễn Huỳnh Đức là một trong những kiến trúc lăng mộ cổ nhất ở Long An còn tồn tại gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay. Đây là một quần thể kiến trúc bao gồm các công trình chính như cổng, lăng mộ, đền thờ Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức, một công thần khai quốc của Triều Nguyễn.

Khuôn viên lăng Nguyễn Huỳnh Đức có diện tích hơn 3000m2, được giới hạn bởi tường rào, có cổng tam quan mở về hướng Đông, trên cổng đắp nổi dòng chữ ''Tiền quân phủ''. Lăng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng năm 1817 (trước khi ông mất) bằng đá ong và vữa tam hợp theo hướng bắc-nam. Lăng được xây dựng theo lối cổ, đăng đối nghiêm ngặt, có vòng thành hình chữ nhật dài 35m, rộng 19m, cao1,2m, dày 0,4m bao quanh.

Án ngữ lối vào mộ ở phía bắc tường thành là bình phong đá ong cao 3m có đắp nổi hoa văn mai - lộc. Từ bình phong có đường thần đạo dài 17m dẩn đến phần chính của mộ gồm biểu thành, các trụ biểu, hai bình phong và bia mộ. Trên hai bình phong có khắc 2 bài văn tế Nguyễn Huỳnh Đức của Trịnh Hoài Đức và Trấn thủ Định Tường Nguyễn Văn Phong.

Toàn bộ ngôi mộ được trang trí hoa văn rồng, hoa lá, mặt trời, mây, hoa sen và nhiều câu đối chữ Hán. Nổi bật trong ngôi mộ là bia đá cao 1,56m, rộng 0,95m được mang vào từ Huế. Mặt bia có dòng chử hán: ''Việt Cố Khâm Sai Gia Định Thành Tổng Trấn, Chưởng Tiền Quân, Tặng Thôi Trung Dực Vận Công Thần, Phụ Quốc Thượng Tướng Quân, Thượng Trụ Quốc, Thái Phó Nguyễn Huỳnh Quận Công Chi Mộ''. Phía sau bia là nơi chôn cất thi hài Nguyễn Huỳnh Đức với một nấm mộ phẳng dài 3,4m, rộng 2,7m, cao 0,3m. Xung quanh mộ là những cây sứ cổ thụ tỏa hương ngào ngạt tạo nên vẻ thâm nghiêm cho nơi an nghĩ của một đại thần khai quốc. Nói chung lăng mộ Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng theo lối kiến trúc đầu đời Nguyễn: giản dị mà hùng tráng. Cách mộ 20m về phía Nam là đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức. Từ năm 1819 đến 1959, gia tộc thờ ông trong ngôi nhà xưa do Vua Gia Long sai người dựng cách ngôi mộ khoảng 500m. Vào năm 1959, để tiện cho việc thờ cúng, gia tộc đã xây dựng ngôi đền thờ mới này theo kiểu tứ trụ, 2 tầng mái, cửa gỗ trông ra hướng Đông. Ngay sau cửa chính đền thờ có đặt hương án chạm rồng, phụng, hoa lá sơn son thếp vàng, phía trên có bức họa truyền thần Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được vẽ năm 1802. Phía sau hương án có bộ ván độc mộc dài 3,4m - rộng 1,8m- dày 0,14m có niên đại hơn 300 năm vốn là di vật của người đã khuất. Trong cùng là bàn thờ chính với khánh thờ đặt trên hương án và chiếc hộp sơn son đựng 8 bản chiếu, chỉ, chế, sắc của các triều Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức phong tặng cho tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức. Bên trong đền thờ còn bố trí 3 bộ lỗ bộ, tàn lọng và 4 cặp liễn đối ca ngợi sự nghiệp của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức do Vua Gia Long ngự ban. Ngoài ra những hiện vật cổ có niên đại thế kỷ XVIII và XIX còn được lưu giữ trong đền thờ như: đoản kỷ Vua Xiêm tặng năm 1798, Khánh lệnh đồng Vua Gia Long tặng năm 1819, bức hoành ''Vạn Lý Danh'' Vua Tự Đức tặng năm 1854. Phía sau đền thờ là ngôi chánh điện lợp ngói lưu ly xanh được gia tộc xây dựng năm 2000 theo bản vẽ của Kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng (nguyên viện trưởng Viện khảo cổ Sài Gòn). Trước đây vào năm 1972 gia tộc đã cho xây dựng 2 cổng lớn ở hai đầu con đường vòng cung dẫn vào lăng với thiết kế giống nhau theo kiểu cổng tam quan truyền thống. Trên cổng có hàng chữ Hán ''Tiền quân phủ'' và ''Lăng Nguyễn Huỳnh Đức'' bằng đồng. Nhìn từ xa, cổng lăng toát lên vẻ đường bệ, uy nghi như chào đón khách tham quan.

Trong dân gian và sử sách, cuộc đời của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức đã trở thành huyền thoại. Ông có tên thật là Huỳnh Tường Đức, sinh năm 1748 tại làng Tường Khánh- huyện Kiến Hưng (nay là xã Khánh Hậu - Thị xã Tân An) trong một gia đình võ tướng đã 3 đời. Ông theo phò Nguyễn Ánh từ năm 1780 lập nhiều công trạng lớn, được ban họ vua và giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Chưởng Hậu Quân, Chưởng Tiền Quân, Tổng Trấn Gia Định Thành, Tổng Trấn Bắc Thành, tước Quận Công. Tương truyền ông là người trung cang, nghĩa khí, võ nghệ cao cường, mọi người đều gọi là ''Hổ tướng''. Ông mất vào ngày 9/9/1819, được dân gian xem như một vị thần. Hằng năm vào 3 ngày 7-8-9 / 9 âm lịch, nhân dân trong vùng tề tựu cùng gia tộc làm lễ cúng ông hết sức trọng thể. Truyền thống này đã được kế tục từ năm 1819 cho đến nay.

Đến tham quan di tích lăng Nguyễn Huỳnh Đức chúng ta được chiêm ngưỡng nghệ thuật kiến trúc lăng mộ đầu đời Nguyễn và những cổ vật quý giá cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Ta còn được biết đến cuộc đời và sự nghiệp của một ''Hổ tướng'' lừng danh đất Ba Giồng và cũng là người có công khai phá Giồng Cai Én (Khánh Hậu), được nhân dân tôn thờ như một vị Tiền Hiền. Với những ý nghĩa ấy, ngay từ đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa đã liệt hạng lăng Nguyễn Huỳnh Đức là 1 trong 404 cổ tích ở Đông Dương. Bộ Văn hóa Thông tin nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng đã ra quyết định công nhận lăng Nguyễn Huỳnh Đức là di tích Quốc gia ngày 11/5/1993 (số quyết định 534-QĐ/BT).

 Ngôi nhà 120 cột:

Thuộc xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước cách thị xã Tân An 150km.

Ngôi nhà làm bằng gỗ quý như cẩm lai, gỗ đỏ. Được xây dựng trên 100 năm với vẻ cổ kính, kiến trúc độc đáo, chạm khắc tinh vi trong trang trí nội thất. Đây là tác phẩm của 15 người thợ tài hoa miền Bắc .
Đồn Rạch Cốc:

Là một trong những đồn to nhất Việt Nam, được xây dựng năm 1903.

Chiều dài 300m, ngang 100m, có 5 tầng (3 tầng chìm, 2 tầng nổi), tường dày 60-100mm làm cho các gian hầm luôn luôn mát lạnh. Đứng trên nắp hầm, bên những khẩu pháo 105mm ta có thể ngắm nhìn cảnh đẹp của vùng sông nước Gò Công. 

Vườn hoa kiểng Thanh Tâm

Nằm tại trung tâm thị xã Tân An. Là vườn hoa kiểng phong phú về chủng loại như hoa kiểng, bonsai…. Có loại trên 100 tuổi và nhiều cây đã đoạt huy chương vàng hội hoa xuân.

Khu du lịch sinh thái Đồng Tháp Mười

Ngược sông Vàm Cỏ Tây, thuyền du lịch sẽ đưa chúng ta đến trung tâm Đồng Tháp Mười. Đây là vùng du lịch sinh thái đặc trưng của vùng trũng Nam Bộ, cách Tân An 50km (thuộc huyện Mộc Hóa, Vĩnh Hưng, Thạnh Hóa, Tân Thạnh). Nơi đây với những đầm sen rộng lớn, từng đàn ong mật bay lượn quanh những đóa sen, ngoài ra còn có các động vật qúy hiếm đang được bảo vệ như cò, sếu, rùa, rắn…. Quý khách có thể thưởng thức các món ăn như: canh chua bông điên điển, gỏi ngó sen, cá lóc nướng trui…
Vài nét về cây thanh long:

Cây thanh long thuộc họ xương rồng, có nguồn gốc ở Mêhicô, Columbia. Đặc điểm của cây thanh long là thích hợp với khí hậu nóng, chịu hạn tốt, và trồng được ở nhiều loại đất. Cây thanh long có ở nhiều nơi nhưng có nhiều nhất là ở miền Tây và miền Trung.

Đầu năm 1980, cây thanh long bắt đầu được chú ý đến và đến năm 1990 nó được trồng nhiều ở miền Trung và miền Tây.

Cây thanh long ở miền Trung có giá trị xuất khẩu cao. Cây thanh long được trồng theo trụ gỗ, người ta cột nhánh thanh long vào trụ gỗ cho nó bám vào. Người ta chặt khoảng từ 3 đến 4 nhánh cắm chung vào 1 trụ gỗ, khoảng một năm bắt đầu có trái bói (trái đầu tiên). Năm thứ ba trở lên cho năng suất cao. Đến năm thứ 6 thì năng suất giảm dần. Nếu chăm sóc kỹ có thể thu hoạch nó trên 10 năm, mùa có trái từ tháng 4 đến tháng 11.
Thanh long nghịch mùa
Có một người nuôi vịt tình cờ mắc bóng đèn để đề phòng kẻ trộm hái thanh long, không ngờ các trụ thanh long có treo đèn lại cho trái sớm hơn các trụ khác. Và từ năm 1995 những người trồng thanh long đã áp dụng phương thức này để có kết quả tốt. Nhiều gia đình giàu lên nhờ áp dụng phương pháp này và cho ra những trái vụ, bán với giá cao. Tên xuất khẩu của thanh long là Red Dragon.
Nhà máy nước khoáng Lavie
Thuộc xã Khánh Hậu – thị xã Tân An – tỉnh Long An
Đây là nhà máy đầu tiên kinh doanh về loại hình nước khoáng rất thành công, mặc dù có rất nhiều nhãn hiệu nhái nhưng nó vẫn đứng vững trên thị trường. Đây là nhà máy theo công nghệ của Pháp đầu tư tại Tân An.
Cầu Tân Hương
Cầu là ranh giới của tỉnh Long An – Tiền Giang.
Rời khỏi Long An ta đặt chân đến một tỉnh mới đó là tỉnh Tiền Giang.

Thủ Khoa Huân (vị anh hùng dân tộc)

Thủ Khoa Huân tên tộc là Nguyễn Hữu Huân, tại làng Tịnh Hà, phủ Kiến Hưng, tỉnh Định Tường cũ. Nay là xã Mỹ Tịnh An-huyện Chợ Gạo-tỉnh Tiền Giang.

Năm 1852, dưới thời vua Tự Đức, ông Đậu Thủ Khoa (đứng đầu cử nhân). Sau đó, ông được cử làm giáo thụ (một chức quan trọng coi việc học) ở phủ Kiến Hưng.

Năm 1861 ông cùng Thiên Hộ Dương phát động khởi nghĩa, hoạt động trên một địa bàn rộng lớn, từ Tân An đến Mỹ Tho, gây tiếng vang lớn toàn Nam Kỳ. Đầu năm 1862, bị giặc đánh úp, Ông bị bắt giải về Sài Gòn. Ở đây, chúng dùng quyền tước, bổng lộc dụ dỗ, mua chuộc ông, nhưng ông kiên quyết từ chối, ít lâu sau ông trốn thoát trở về kháng chiến.

Đầu năm 1863, Thủ Khoa Huân lại cùng Thiên Hộ Dương chiêu mộ nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa lần thứ 2. Hai ông đã liên kết với Trương Định, hình thành mặt trận chống Pháp trải từ Gò Công, Bình Cách, Thuộc Nhiêu đến Đồng tháp Mười. Sau khi căn cứ ở Thuộc Nhiêu bị bao vây càn quét, Ông chuyển về hoạt động ở An Giang. Giặc Pháp vô cùng lo ngại, gửi tối hậu thư cho quan tỉnh An Giang buộc phải nộp Thủ Khoa Huân cho chúng. Giặc pháp đưa ông về giam tại Sài Gòn. Chúng hứa sẽ cho ông tồn quyền chọn 1 chức quan tại bộ máy của chúng, ông lại từ chối; chúng kết án ông 10 năm tù khổ sai và đày ra đảo Réunion thuộc Đông Nam Châu Phi.

Sau 7 năm tù ông được giặc Pháp ân xá cho ông về nước trước hạn tù 3 năm nhằm lung lạc ý chí kháng chiến của ông; nhưng giặc đã lầm.

Năm 1873, ông bí mật trở về An Giang khởi nghĩa lần thứ 3, trong lần khởi nghĩa này dân chúng theo ông rất đông. Địa bàn hoạt động trải dài từ Cai Lậy (Mỹ Tho) đến Mỹ Qùi (Sa Đéc).

Đầu năm 1875, sau thất bại ở trận Bình Cách-Nguyễn Hữu Huân sa vào tay giặc 15-5-1875 chúng đưa ông về giam ở ngục Mỹ Tho. Chúng lại mua chuộc; Ông thản nhiên bảo: “việc lớn không thành, đó là do trời định. Nay bị bắt, thà chịu tử hình, chứ không tham tước lộc”.

Biết không lay chuyển được ông, ngày 19-5-1875 ông bị chém đầu ở thôn Tịnh Hà.
Đền Thờ Thủ Khoa Huân Cách Xã Tân Lý Tây 3 Km (Ngày 1-6 Là Ngày giỗ Của Ông). 

CÔNG VIÊN – TƯỢNG ĐÀI LONG AN TRUNG DŨNG KIÊN CƯỜNG, TOÀN DÂN ĐÁNH GIẶC

        Tỉnh Long An có vị trí chiến lược quan trọng trong lịch sử bởi đây là vùng đất chuyển tiếp giữa vùng đất cao Đông Nam Bộ và vùng trũng châu thổ sông Cửu Long, nằm áp sát phía Tây và Nam Sài Gòn và giáp với nước bạn Campuchia.

BẢO HỘ LAO ĐỘNG LONG AN

 Tỉnh Long An có vị trí chiến lược quan trọng trong lịch sử, bởi đây là vùng đất chuyển tiếp giữa vùng đất cao Đông Nam Bộ và vùng trũng châu thổ sông Cửu Long, nằm áp sát phía Tây và Nam Sài Gòn và giáp với nước bạn Campuchia. Với vị trí chiến lược quan trọng ấy, Long An là nơi chiến sự diễn ra hết sức ác liệt, lâu dài, mà vai trò chính thuộc các thế hệ nhân dân. Qua 2  cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, lòng yêu nước thiết tha, ý chí quật cường và tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân Long An đã kết tinh  thành biểu tượng, thành truyền thống“Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc”. Truyền thống này có cội nguồn từ lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc, được vun bồi qua phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp nữa cuối thế kỷ XIX và chín năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Chợ Lớn - Tân An và phát triển đến đỉnh cao trong kháng chiến chống Mỹ. Tại Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn miền Nam lần thứ hai vào trung tuần tháng 9/1967, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã tuyên dương danh hiệu “Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc”cho tỉnh Long An. Tám chữ vàng này là niềm tự hào to lớn, trở thành biểu tượng cô đọng trong lòng mỗi người dân Long An cũng như trong toàn dân tộc và đã được điêu khắc gia Phan Gia Hương cụ thể hóa bằng tượng đài Long An “Trung dũng kiên cường toàn dân đánh giặc”.

Tượng đài được xây dựng trên khu đất rộng 6ha, tọa lạc tại khu phố Thanh Xuân, Phường 5, thành phố Tân An, với tổng kinh phí trên 100 tỷ đồng, khởi công vào năm 2004, khánh thành ngày 28/4/2010 nhân dịp kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Công trình có 2 hạng mục chính là tượng đài - công viên và phần trưng bày truyền thống. Phần điêu khắc của tượng đài có nhóm tượng người mẹ và chiến sĩ; quần thể tượng Trung dũng kiên cường toàn dân đánh giặc; cùng với 8 trụ rồng và 2 tranh hoành tráng: sản xuất – chiến đấu, tranh sen Tháp Mười, phối hợp với hồ phun nước nghệ thuật. Phần trưng bày truyền thống có Phòng trưng bày sự kiện lịch sử và Không gian trưng bày tám chuyên đề Long An Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc.

Tượng người mẹ và chiến sĩ tạo cho người xem ấn tượng bi hùng về một thời đã qua, đồng thời nhắn nhủ với các thế hệ hôm nay và mai sau rằng: sống trong hòa bình, đừng quên những tháng năm gian khổ mà oanh liệt của những người đi trước.

Quần thể tượng “Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc” được bố cục theo dáng rồng thiêng của truyền thống dân tộc đang vươn mình bay lên sau chiến thắng. Đây là biểu tượng của tinh thần hướng tới tương lai tươi đẹp trên nền tảng quá khứ oai hùng mà nhiều thế hệ nhân dân và chiến sĩ Long An đã tạo ra. Trên thân rồng và đầu rồng khắc ghi hình ảnh của người chiến sĩ giải phóng và người mẹ Việt Nam cùng bay bổng trong chiến thắng khải hoàn, bờm rồng là những khóm lá dừa vươn cao, che chở, ôm ấp cho con người của vùng đất Long An anh hùng. Bệ rồng là con thuyền cách mạng với những lượn sóng thăng trầm mà Đảng là người cầm lái vượt qua bão táp, phong ba đưa nhân dân và chiến sĩ Long An đến bến bờ chiến thắng. Những hình tượng dân và quân được chạm sâu vào đá, ẩn hiện trong những dãy mây trùng điệp, nâng các nhân vật cùng con thuyền cách mạng bay lên trong không gian, hòa quyện giữa quá khứ và hiện tại.

Phối hợp hài hòa với quần thể tượng là hồ nước tạo thành không gian thư giãn cùng với cây cảnh, đá và cỏ. Trong không gian này có hai bức tranh hoành tráng hình cánh cung bằng gốm màu thể hiện những hình tượng về công cuộc dựng nước và giữ nước của nhân dân và chiến sĩ Long An trong quá khứ và hướng tới tương lai, gợi mở cho công chúng suy ngẫm về quê hương Long An đổi mới với một quá khứ oai hùng nhưng cũng nhiều hy sinh gian khổ. Hai bên lối vào tượng đài là 6 trụ biểu hình rồng, tạo vẻ uy nghi cho công trình và gợi nhớ về dòng giống Rồng Tiên của dân tộc Việt Nam.

Không gian xung quanh khu vực Tượng đài cũng mang nhiều ý nghĩa lịch sử gần gũi với địa phương Long An với hai dòng sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây đã từng đi vào thơ ca và lịch sử, trong đó có chiến công “Hỏa hồng Nhựt Tảo” của vị Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.

          Dưới chân Tượng đài là Phòng trưng bày sự kiện lịch sử và Không gian trưng bày tám chuyên đề Long An “Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc”.

Phòng trưng bày sự kiện lịch sử là nơi trưng bày các sưu tập hiện vật, hình ảnh, tài liệu khoa học phụ… để nêu bật sự sáng tạo, tinh thần kiên cường dũng cảm của quân và dân Long An. Gồm có gian trung tâm và 6 chuyên đề:

+ Tình hình Long An sau hiệp định Gèneve (1954-1959)

+ Quân và dân Long An trong phong trào Đồng Khởi (1960-1961)

+ Quân và dân Long An trong cao trào phá ấp chiến lược (1961-1964)

+ Quân và dân Long An trong phong trào toàn dân đánh Mỹ diệt ngụy (1965-1967)

+ Quân và dân Long An tham gia tổng công kích tổng khởi nghĩa xuân Mậu Thân 1968

+ Quân và dân Long An trong chiến dịch Hồ Chí Minh 1975.

Tuy nhiên, do diện tích có hạn nên phòng trưng bày này vẫn chưa phản ánh hết truyền thống vẻ vang của quân và dân Long An trong kháng chiến chống Mỹ. Vì thế, Ủy ban nhân dân tỉnh đã cho chủ trương bổ sung nội dung trưng bày tại tầng hầm của Tượng đài với tên gọi là Không gian trưng bày tám chuyên đề Long An Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc để làm nổi bật truyền thống anh hùng của tỉnh Long An, góp phần giáo dục truyền thống cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Không gian trưng bày này gồm 8 chuyên đề là: Nhân dân dùng xuồng đưa bộ đội vượt sông đánh giặc; Ba lần đánh đồn Đức Lập (chọn trận Đức Lập 2, ngày 27/10/1965 là trận tiêu biểu); Làng chiến đấu ở Long An; Sản xuất vũ khí tại công binh xưởng; Dân công hỏa tuyến Long An làm “cầu người” vận chuyển thương binh; Trạm quân y tại căn cứ Đám lá tối trời (xã Nhựt Ninh, huyện Tân Trụ); Cán bộ, chiến sĩ và nhân dân sống, chiến đấu trong mùa nước lũ; Trận Hiệp Hòa ngày 23/11/1963 trận đánh điển hình của 3 mũi giáp công: chính trị, binh vận, vũ trang.

Lý do chọn 8 chuyên đề này để trưng bày ở tầng hầm Công viên - Tượng đài Long An “Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc” là:

- Về số lượng các chuyên đề: 8 chuyên đề này tương ứng với 8 chữ vàng “Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc” mà Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phong tặng cho tỉnh Long An ngày 17/9/1967.

- Về nội dung, các chuyên đề này phản ánh tinh thần đoàn kết gắn bó, những đặc trưng và hoạt động nổi bật nhất của quân và dân Long An trong kháng chiến chống Mỹ.

Ngoài ra, ở tầng hầm còn có phòng trưng bày ảnh các đồng chí Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Long An từ 1930 - 2015, các đồng chí người Long An làm việc ở Trung ương.

Với những nội dung, ý nghĩa lịch sử sâu sắc trên thể hiện qua phần kiến trúc và phần trưng bày, có thể nói rằng Công viên - Tượng đài Long An “Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc” đã trở thành một công trình văn hóa tiêu biểu của Long An, là quảng trường để nhân dân, cán bộ, chiến sĩ có dịp họp mặt gặp gỡ, ôn lại lịch sử oanh liệt của tỉnh nhà, khẳng định quyết tâm xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, thực hiện việc giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, là điểm tham quan vui chơi, giải trí, đồng thời góp phần chỉnh trang đô thị của thành phố Tân An văn minh hiện đại trong tương lai. 

Tại sao vùng này có tên là đồng bằng sông Cửu Long?

Theo giả thuyết: sông này có tên là sông Cửu Long vì : Sông này bắt nguồn từ Tây Tạng (cao hơn 5000m so với mực nước biển); trải qua Trung Quốc, Lào, Campuchia và đổ vào Nam Bộ. Sông có tên khác là mêkông (dài 4220km) phiên âm từ tiếng Lào là Mè Khoỏng, nghĩa là “sông Mẹ”. Khi chảy qua lãnh thổ Việt Nam theo 9 cửa (9 đầu rồng): trong đó chảy vào sông Tiền là 6 cửa (cửa Tiểu; Cửa Đại; Cửa Ba Lai; Cửa Hàm Luông, Cửa Cổ Chiên; Cửa Cung Hầu); sông Hậu 3 cửa (Cửa Định An, Tranh Đề Và Bát Xác). Nên gọi là Cửu Long

Đây là vùng đất hình thành do sự bồi đắp của Sông Mê Kông đây cũng là vùng châu thổ lớn nhất nước.
Đồng Bằng sông Cửu Long ngày nay thuộc vương quốc Phù Nam ngày xưa, vương quốc Phù Nam có một phần lãnh địa thuộc đồng bằng sông Cửu Long vào đầu công nguyên.

Phù Nam là vương quốc rất hùng mạnh và thời kỳ cường thịnh nhất của vương quốc này khỏang từ thế kỷ thứ III -> thế kỷ V bắt đầu triều đại Phạm Sự Nan khoảng từ năm 205 đến 255.

Vương quốc Phù Nam phát triển chính trên địa bàn vùng hạ lưu và châu thổ sông Cửu Long.
Phù Nam là tên gọi theo cách phát âm Founan của người Trung Hoa, vị vua đầu tiên của người Phù Nam được biết đến đầu tiên trong lịch sử là Hỗn Điền. Theo truyền thuyết vị vua nay rất tôn sùng các vị thần balamôn. Một hôm ông nằm mơ thấy các vị thần balamôn trao cho mình một cây cung và truyền lệnh xuất dương trên một thương thuyền lớn. Sáng hôm sau ngài vào đền thờ làm lễ và thấy cây cung ở dưới gốc cây, bèn dong bườm ra biển, gió thần đưa thuyền đến vùng đất tại đây có một nữ vương tên Liễu Diệp, trẻ, khỏe, không khác gì con trai nổi danh trong các cuộc chinh phục các quốc gia láng giềng. Vị nữ quân thấy thuyền lạ liền xua quân ra định đánh cướp nhưng bị Hỗn Điền bắn một phát tên thần xuyên thũng mạng thuyền đến tận chỗ Liểu Vương đứng, trúng một tên quân. Liễu Diệp hoảng sợ xin hàng phục. Sau đó họ lấy nhau rồi cai trị xứ sở nay lập nên vương quốc Phù Nam .

Trong thời kỳ hưng thịnh họ khống chế nền thương nghiệp hàng hóa cả miền Đông Nam A và tự xưng là “Phù Nam Đại Vương “. Sử liệu còn ghi lại mối quan hệ ngọai giao và thương mại giữa Phù Nam với Trung Hoa, Ấn Độ. Nhờ tài nguyên phong phú và nhờ vào vị trí trung gian trên con đường hàng hải Ấn –Trung mà Óc Eo được coi là thành phố cảng của Phù Nam đã sớm trở thành một thị trấn quốc tế .
Giai đọan cuối của lịch sử Phù Nam trùng hợp với sự phát triển của Chân lạp. Mâu thuẩn giữa hai thế lực này dẫn đến sự sụp đỗ của vương quốc Phù Nam vào thế kỷ thứ 6 (theo tài liệu cổ Trung Hoa, vương quốc Phù Nam bị Chân lạp xâm chiếm vào khoảng năm 550 nhưng vẫn còn chống giữ đến năm 627). Sau khi bị Chăm Pa xâm chiếm Phù Nam chia làm hai quốc gia Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (một phần thuộc ĐBSCL). Thủy Chân Lạp nằm gần bờ biển, vùng ĐBSCL; Lục Chân Lạp thuộc vùng đất cao chính là Campuchia ngày nay .

Từ thế kỷ 7 đến TK10 vùng đất này bị nhấn chìm trong lũ lụt, chỉ còn vài gò đất nổi lên. Từ khoảng TK 10-17 người Việt, Khmer đến định cư vì thế nơi đây hình thành nên nhóm dân tộc chính là người Kinh, Khmer, Chăm, Hoa với nền văn hóa đa dạng. Đồng thời trong thời gian này các tôn giáo được truyền bá và phát triển như đạo phật, đạo Hồi, đạo Thiên Chúa …

Năm 1808 vùng đồng bằng sông Cửu Long, được người Pháp chia như sau :

-Trấn Định Tường: gồm Phủ Kiến An, 3 huyện Kiến Đăng, Kiến Hưng và Kiến Hòa .

-Trấn Hà Tiên: gồm các địa danh còn lại trong vùng .

-Năm 1832, Pháp phân Nam Kỳ ra làm lục tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Đến thời điểm này vùng ĐBSCL có 4 tỉnh là: Định Tường (Tiền giang) An Giang , Vĩnh Long và Hà Tiên (Cần Thơ , Hà Tiên , Cà Mau) .

-Năm 1862, Pháp chiếm 3 tỉnh Đông Nam Bộ ( Biên Hòa, Gia Định, Vĩnh Tường )

-Năm 1867, Nam Kỳ Lục Tỉnh được chia làm 20 tỉnh. Trong đó ĐBSCL có 14 tỉnh: Bạc Liêu, Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Trà Vinh, Bến Tre, Gò Công, Mỹ Tho, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá, Tân An .

-Từ 1955 –>1975 ĐB sông mêkông chia làm 17 tỉnh: Kiên Giang, Sa Đéc, Ba Xuyên (Bạc Liêu ), Vĩnh Bình, Kiến Tường, Chương Thiện, Phong Dinh, Vĩnh Long, Kiến Hòa, Châu Đốc, Định Tường, Bạc Liêu, Gò Công, An Giang, Long An, Long Xuyên, Kiến Phong .

-Năm 1975 đến 1990 ĐBSCL có 9 tỉnh, Hậu Giang, Tiền Giang, An Giang, Long An, Bến Tre, Kiên Giang, Cửu Long, Đồng Tháp, Minh Hải.

-Năm 1991 tỉnh Cửu Long tách thành Trà vinh và Vĩnh Long.

-Năm 1992 Hậu Giang tách thành Cần Thơ và sóc trăng.

-Nắm 1997 Minh Hải tách thành Cà Mau và Bạc Liêu.

-Hiện nay vùng ĐBSCL có 13 tỉnh thành: Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Tp Cần thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Hậu Giang.
-Diện tích ĐBSCL: 40.000km2 chiếm khoảng 1/8 cả nước

-Dân số 19.5 triệu dân (2003) chiếm khoảng 1/4 dân số cả nước

 

2-Vị trí địa lí-khí hậu-đất đai sông ngòi:

2.1-Vị trí địa lí:

• Đông nam giáp biển Đông.

• Đông bắc giáp đông nam bộ.

• Tây bắc giáp campuchia.

• Phía tây giáp Vịnh Thái Lan.

• Độcao trung bình thấp: từ 0 – 2m.

2.2-Khí hậu đất đai biển:

Khí hậu phù hợp cho sự phát triển của thực vật. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 260C . Có ngày cao khoảng 330C.

Đất phù sa, diện tích khoảng 1.800.000ha, đất phù sa là do sông Hậu và sông Tiền bồi đắp.Ngoài ra còn có đất ven sông pha màu hơi đỏ, đất mặn đất phèn, đất than bùn.

Rừng nước mặn ven biển chiếm diện tích 30.000ha. Đứng thứ 3 trên thế giới với những cây nổi tiếng như : cây mằm đen, cây đước, cây vẹt, cây đà, sú, bàn…

2.3-Sông ngòi:

Đây là vùng có hệ thống sông ngòi khá chằng chịt. Đồng thời nó cũng là yếu tố giúp cho vùng phát triển kinh tế nông nghiệp. Hệ thống sông ngòi chính của ĐBSCL là sông Hậu và sông Tiền là hai nhánh của sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (Trung Quốc). 

Văn Hóa Đồng Bằng Sông Cửu Long

- Tại sao người dân Tây Nam Bộ lại chôn cất ông bà trong vườn, trong ruộng nhà

Người Việt ở Tây Nam Bộ do đều là dân nghèo xa xứ, đi vào Nam theo từng nhóm nhỏ, cư trú riêng rẽ ven sông rạch nên có liên kết dòng họ lỏng lẻo và vai trò giai tộc yếu ớt. Bởi vậy người Việt Tây Nam Bộ không có truyền thống chôn người chết trong một khu nghĩa địa chung của làng hay của dòng họ như ở Bắc Bộ và Trung Bộ, mà thay vào đó thường là chôn người chết ngay trong vườn nhà. Một hai nấm mộ quét vôi trắng phía sau nhà hay bên hông nhà là cảnh thường thấy ở các gia đình Tây Nam Bộ. Khi được hỏi về nơi chôn cất thì có 56,1% trong số 1.405 người được hỏi coi ưu tiên số một là chôn trong vườn nhà; 46,2% ưu tiên chôn trong khu mộ gia đình; 40,3% ưu tiên chôn ở khu mộ của dòng tộc; 20,7% chôn ở ngoài ruộng; 13,8% chôn trong khuôn viên nhà thờ; 13,5% chôn ở nghĩa trang; 10,7% hỏa táng; 7,9% chôn trong khuôn viên chùa; 5,0% chôn ở bãi hoang; 3,8% chôn trong bãi tha ma. 

Tỉnh Tiền Giang

ĐỊA LÝ TIỀN GIANG

Diện tích: 2.484,2 km2.

Dân số (2006):1.717.400 người.

Tỉnh lỵ: thành phố Mỹ Tho.

Thị xã: thị xã Gò Công.

Các huyện: huyện Cái Bè, huyện Cai Lậy, huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo, huyện Gò Công Tây, huyện Gò Công Đông và huyện Tân Phước.

Dân tộc: Việt (Kinh), Hoa, Khmer, Tày...

Tiền Giang là phần đất của hai tỉnh: tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công cũ, phía Bắc giáp tỉnh Long An, phía Tây giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Đông giáp với cửa Soài Rạp và biển Đông, phía Nam giáp tỉnh Bến Tre. Thành phố Mỹ Tho cách thành phố Hồ Chí Minh 70 km.

Khí hậu Tiền Giang chia thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa và mùa khô, nhiệt độ trung bình hàng năm là 27oc, lượng mưa trung bình 2.300 mm/năm. Các sông chính: sông Tiền, sông Gò Công, sông Bảo Định và một mạng lưới kênh đào thuận lợi cho giao thông đường thủy.

Từ Tiền Giang có thể đi thành phố Hồ Chí Minh hoặc sang Phnôm Pênh bằng đường sông. Đường bộ chính của Tiền Giang là Quốc lộ 1A, chạy xuyên qua các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Là tỉnh đồng bằng, địa hình Tiền Giang chia thành ba vùng rõ rệt: vùng cây trái ven sông Tiền, vùng Đồng Tháp Mười và vùng ven biển Gò Công. Tiền Giang có 31 km bờ biển, hàng năm đánh bắt rất nhiều cá và hải sản; đất đai phì nhiêu, là một trong những vựa lúa lớn của đồng bằng sông Cửu Long. Tiền Giang là nơi hội tụ đủ loại sản vật và hoa trái nổi tiếng như mận hồng đào Trung Lương, vú sữa Vinh Kim, xoài cát, cam sành, ổi xá lỵ Cái Bè...

Tiền Giang có hệ thống khách sạn, nhà hàng đầy đủ tiện nghi, nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng của miệt vườn vùng sông nước Cửu Long.

Trước giải phóng vốn là 2 tỉnh: Định Tường và Gò Công, sau giải phóng ta sát nhập 2 tỉnh lại và đặt tên là Tiền Giang; Tân Hiệp là trung tâm của Tiền Giang ngày xưa thời chúa Nguyễn.
Trên mảnh đất này cũng có 2 vị đệ nhất phu nhân đó là vợ Ông Nguyễn Văn Thiệu và vợ Bác Tôn Đức Thắng; ngoài ra còn có bà Từ Dũ. Trên mảnh đất này cũng nổi tiếng về đờn ca tài tử để rồi từ đó chuyển qua cải lương và gánh hát ông Nguyễn Tấn Triệu đã được mời sang Pháp biểu diễn năm 1920. Đến năm 1920 cũnh tại Mỹ Tho - Tiền Giang đã nảy sinh ra loại hình ca kịch cải lương đầu tiên, đó là gánh thầy Năm Tứ. Ngoài ra ở đây cũng có những truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm rất nổi tiếng như: huyện Châu Thành có chiến thắng Rạch Rầm - Xoài Mút; trận đánh của Quang Trung đại phá quân Xiêm…
Huyện Châu Thành:

Châu tức châu thổ, là vùng đất. Thành là thành thị. Những vùng đất ở gần thành thị được gọi là Châu Thành. Nơi này được xem là cái nôi của vùng đất Vĩnh Kim, nơi ở của nhân vật rất giỏi hiện đang công tác giảng dạy tại Việt Nam đó là giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê. Ông là thế hệ thứ tư của người sáng lập ra đoàn hát có tên Đông Ngữ Ban, ca tài tử cải lương của đoàn hát Nam Bộ.

Thị Trấn Tân Hiệp:

Khu vực này có tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho đi ngang qua (tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho bắt đầu hoạt động từ năm 1858, đến năm 1950 tuyến đường sắt này ngưng hoạt động do điều kiện kinh tế đất nước và chiến tranh nên người ta không sử dụng con đường này nữa, vả lại khi đó tuyến giao thông đường bộ khá phát triển).

Ngã Ba Trung Lương:

Sỡ dĩ có tên gọi như vậy bởi vì trước đây nơi này là Trung tâm di chuyển lương thực của đồng bằng sông cửu long lên Tp.Hồ Chí Minh và một số nơi khác.

Tại ngã ba Trung Lương: nếu đi thẳng là vào Thành Phố Mỹ Tho và rẽ phải đi theo quốc lộ 1A về hướng các tỉnh miền Tây.

Nhà hàng Trung Lương

Địa chỉ: ngã ba Trung Lương-Thành Phố Mỹ Tho-Tiền Giang.

ĐT: 073.855441-855754 Fax:856323.

Đây là nhà hàng thuộc công ty du lịch Tiền Giang có diện tích khoảng 1.200ha xây dựng năm 1987 trên khu vườn xoài bên bờ Bảo Định Giang, ngay ngã ba Trung Lương và trong một khuôn viên rộng lớn, ngoài 6-7 gian để phục vụ khách, mỗi gian có khoảng 100 khách (10 người/1bàn), còn có khung cảnh thiên nhiên thoáng mát với những hàng hoa kiểng đẹp mắt.

Bên cạnh, còn có một ao nuôi cá và vài con thú nhỏ rất ấn tượng làm ta cảm thấy gần thiên nhiên hơn nữa. Tại đây khách đến quanh năm như là: Nhật, Đài Loan, Hồng Kông…và khách vãng lai như Pháp, Mỹ, Đông Âu… nhà hàng còn có hệ thống thực đơn đa dạng khoảng 20 món, các món ăn là đặc sản Miền Tây như: cá tai tượng chiên xù, gà xôi chiên phồng, rắn, rùa… hợp khẩu vị với nhiều thực khách, thêm vào đó là cách trình bày đẹp mắt gây ấn tượng tốt với khách. Các món ăn tại nhà hàng

Lịch Sử Hình Thành Nền Văn Minh Miệt Vườn ở Tiền Giang

Tiền Giang có những tiếp cận với nền văn hóa Ấn Độ, Khơ Me, Trung Quốc qua người Hoa, Hồi giáo qua người Chăm. Tất cả đều được liên kết một cách phong phú trong nền văn hóa Việt Nam.

Ngay từ thế kỉ 18, phố chợ Mỹ Tho đã là nơi buôn bán nổi tiếng, ghe thuyền ở các ngả sông, biển đến đậu đông đúc làm thành một đô hội rất phồn hoa huyên náo.

Mỹ Tho là tỉnh lỵ của tỉnh Tiền Giang hình thành vào năm 1679. Ngày nay còn dấu vết một khu thương mại cổ nằm trên đường Nguyễn Huỳnh Đức, thuộc phường 2 và phường 8. Hồi ấy gọi là Mỹ Tho đại phố. Năm 1791, đại phố này được xây dựng lại.

Đây là khu phố do chính người Việt người Hoa Minh Hương, cánh Dương Ngạn Địch lập nên. Mỹ Tho Đại phố là một trong ba trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ vào giữa thế kỷ 17 và Mỹ Tho Đại Phố, Nông Nại Đại Phố (Cù Lao Phố ngày nay ở Biên Hòa) và Hà Tiên.

Vào 3 thế kỷ trước, Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh dẫn quân từ Nam Vinh (Phnôm Pênh ngày nay) ghé qua cù lao Cây Sao và sau đó, trên đường về đất Đồng Nai, khi qua Rạch Gầm (sách cũ gọi là Sầm Khê) thuộc huyện Kiến Đăng, đất Mỹ Tho xưa thì bị bạo bệnh, trút hơi thở cuối cùng. Tên Rạch Gầm là do xưa kia cọp rất nhiều cọp thường hay kêu gầm nên một thời được gọi là Rạch Cọp Gầm, về sau người ta bỏ tiếng cọp, còn gọi là Rạch Gầm. Đây là nơi nổi tiếng với những trận đánh ác liệt trong kháng chiến chống Pháp thời nhà Nguyễn và chiến thắng của Tây Sơn đập tan đoàn quân xâm lược Xiêm thời chúa Nguyễn.

Ba sông chính chảy qua Tiền Giang: sông Tiền, Gò Công, Bảo Định đã bồi đắp phù sa, biến đất đai vùng này trở nên phì nhiêu. Giữa sông Tiền lộng gió, nổi lên một hòn đảo nhỏ, có tên Cù Lao Thới Sơn, cây ăn trái xum xuê. Là miệt vườn nổi tiếng của xứ sở cây trái Nam Bộ và sản vật trà mật ong thanh nhiệt thật thơm ngon.

Nằm ở đoạn sông Tiền, giáp ranh giữa ba tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, chợ nổi Cái Bè sầm uất từ lâu là điểm mưu sinh quen thuộc của người dân vùng sông nước Cửu Long. Hàng ngày có khoảng 400 thuyền lớn chở đầy hàng hoá neo hai bên bờ chờ thương lái. Trên sông, hàng trăm thuyền nhỏ xuôi ngược như mắc cửi, buôn bán rộn ràng.

Vùng sông nước này củng là điểm du lịch hấp dẩn Du lịch Tiền Giang tham gia du lịch Du lịch miệt vườn, hay Du lịch vào mùa nước nổi. Tiền Giang còn có nhiều địa điểm lý thú như: Chùa Vĩnh Tràng, Trại rắn Đồng Tâm, và cả Khu du lịch sinh thái Thới Sơn.

Vùng đất của hai nhánh sông và gần biển này có nhiều món ngon mà hiếm nơi nào có được như: Sam biển Gò Công, Cá bống dừa, Bánh giá chợ Giồng, Hủ tiếu Mỹ Tho, Bún gỏi già Mỹ Tho, Chuối quét dừa , ...
Tiền Giang cũng có những lễ hội đặc trưng như: Hội Vàm Láng, Hội tứ kiệt. 

Có một thị xã và 7 huyện

+Một thị xã : GÒ CÔNG

+Bảy huyện : Cái Bè , Cai Lậy , Châu Thành , Chợ Gạo , Gò Công Đông , Gò Công Tây , Tân Phước
Dân tộc : Kinh , Hoa….

_ Là phần đất của hai tỉnh Mỹ Tho và Gò Công cũ

_ Phía bắc giáp Long An

_ Phía tây giáp Đồng Tháp

_ Phía đông giáp với cửa Soài Rạp và biển Đông

_ Phía nam giáp Bến Tre

Khí hậu Tiền Giang có hai mùa rõ rệt , đó là mùa mưa và mùa khô . Nhiệt độ trung bình là 27 độ C , lượng mưa trung bình là 2300 mm/ năm

Các sông chính là sông Tiền , sông Gò Công , sông Bảo Định và một mang lưới kênh đào thuận lợi cho giao thông đường thủy . Từ Tiền Giang có thể đi TP. Hồ Chí Minh hoặc Phnôm Pênh bằng đường sông .Đường bộ chính là quốc lộ 1A chạy xuyên qua cac tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long
Là tỉnh đồng bằng , địa hình Tiền Giang chia thành ba vung rõ rệt là vùng cây trái ven sông Tiền ,vùng Đồng Tháp Mười và vùng ven biển Gò Công . Tiền Giang có 32 km bờ biển , hàng năm đánh bắt rất nhiều cá và hải sản , đất đai phì nhiêu , là một trong những vựa lúa lớn của Đồng Bằng Sông Cửu Long . Là nơi hội tụ đủ loại sản vật và hoa trái nổi tiếng như : mận hồng đào Trung Lương , vú sữa Vĩnh Kim , xoài cát , cam sành , ổi xá lị Cái Bè…Có hệ thống khách sạn , nhà hàng đầy đủ tiện nghi và nhiều món ăn dặc sản của miệt vườn sông nước Cửu Long

Truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc Nam Bộ , là một trong những cái nôi của ca nhạc cải lương nổi tiếng , nơi diễn ra các sự kiện lịch sử Rạch Gầm – Xoài Mút , Ap Bắc… quê hương của các anh hùng Trương Định , Thủ Khoa Huân . Có nhiều tôn giáo như Nho giáo , Phật giáo , Công giáo …
Bên cạnh những di tích tôn giáo như đền chùa , đình miếu , nhà thờ , còn giữ được nhiều di tích lịch sử , đó là các di chỉ Oc Eo , chiến lũy ,pháo đài …Có nhiều danh lam thắng cảnh như Cù lao Thới Sơn , trại rắn Đồng Tâm tạo nên bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên , đời sống vật chất và văn hóa đặc trưng của Nam Bộ. 

Khu di tích Rạch Gầm - Xoài Mút

Tháng 1 năm 1785, Nguyễn Huệ tiến quân vào Gia Định, vị tướng trẻ 32 tuổi này chọn khúc sông Tiền từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), cách cửa Tiểu khoảng 70 km làm trận địa quyết chiến. Rạch Gầm - Xoài Mút nằm giữa căn cứ Trà Tân của địch và căn cứ Mỹ Tho của quân ta. Tại đây, Nguyễn Huệ bố trí phục binh với hỏa lực rất mạnh trên bãi đất và giồng đất xã An Đức và trên cù lao Thới Sơn. Trong khi đó, ở căn cứ Mỹ Tho, Nguyễn Huệ bố trí bản doanh với quân lực mỏng và làm cho địch tin là ta rút chạy về Quy Nhơn.

Vì thế, đêm ngày mồng chín tháng chạp năm Giáp Thìn tức ngày 19 tháng một năm 1785, đại quân địch gồm 2 vạn quân Xiêm và hơn 1 vạn quân của Nguyễn Ánh ào ạt tiến thẳng Mỹ Tho hòng bắt sống Nguyễn Huệ đưa về Vọng Cát. Nguyễn Huệ cho quân cầm cự đánh trả dữ dội và rút lui từ từ nhử địch vào trận địa mai phục khiến chúng vừa ham đánh vừa chủ quan. Khi toàn bộ đại quân địch lọt vào khúc sông đã bố trí sẵn, vị tướng trẻ tài ba mới phát hiệu lệnh nổi phục binh đánh dữ dội. 300 thuyền chiến lớn và hàng ngàn thuyền câu nhỏ của địch như con rắn khổng lồ đã bị đứt ra từng khúc mà tiêu diệt.

Quân thủy của Nguyễn Huệ phục sẵn từ Rạch Gầm và Xoài Mút lao ra khoá đầu và khóa cuối không cho địch rút chạy. Pháo và hoả hổ từ trận địa phục kích trên bãi bần An Đức và bãi dừa Thới Sơn đốt cháy rừng rực cả đoàn thuyền chiến của hải quân Xiêm... Trận chiến trên sông xảy ra vào đêm ngày 19 tháng 1 năm 1785 rạng ngày 20 tháng 1 năm 1785.

Công trình xây dựng khu di tích Rạch Gầm - Xoài Mút có tổng vốn đầu tư hơn 11 tỉ đồng, được khánh thành đúng dịp kỷ niệm 220 năm chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (1785 - 2005).

Công trình gồm tượng đài biểu trưng chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, hai khu nhà trưng bày và khu nhà cổ Nam Bộ. Tượng đài anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đứng tuốt gươm, cùng một hậu vệ trong tư thế ngồi bắn cung và hỏa lực súng thần công và một người nông dân trên chiếc thuyền chiến, đại diện cho nhân dân địa phương tham gia trận đánh. Tượng đài làm bằng đồng đỏ, nặng 20 tấn, cao hơn 8 mét.
Khu nhà trưng bày nằm dưới chân tượng đài, có hệ thống phù điêu bằng đồng bao bọc, phía trong có bức tranh phù điêu hoành tráng giới thiệu về thời kỳ khẩn hoang, lập ấp tại Rạch Gầm - Xoài Mút và về chiến công của quân Tây Sơn trong trận thủy chiến chống quân xâm lược Xiêm. Nhà trưng bày nằm bên bờ Sông Tiền và khu nhà cổ Nam Bộ, giới thiệu khoảng 564 hiện vật liên quan tới chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, gồm phương tiện sử dụng và vũ khí gươm giáo của quân Tây Sơn và quân Xiêm. 

Trại Rắn Đồng Tâm

Sau khi dùng điểm tâm sáng, anh Nguyễn Đình Lam ,hướng dẫn viên địa phương dã dẫn đoàn đến tham quan trại rắn Đồng Tâm . Nơi đây cách Thành phố Mỹ Tho 12 km . Trại rắn thuộc địa phận xã Bình Đức huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang khoảng 3 ha.

Đây là trung tâm nuôi rắn lớn lấy nọc xuất khẩu , kết hợp trồng nhiều loại cây dược liệu và nghiên cứu chữa bệnh rắn cắn cho nhân dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long . Bên cạnh đó , nơi đây còn là một khu vườn thật đẹp – tổ ấm cho đủ các loại chim và động vật quý hiếm tại Nam Bộ ,

Trước kia đây là căn cứ quân sự của Mĩ có tên là Đồng Tâm; ngày xưa người dân thường gọi nay là vành đay trắng. Nơi nay có địa thế hiểm trở thường diễn ra những trận đánh cá liệt giữa lực lượng cách mạng và Mỹ-Ngụy. Khu căn cứ rộng 15 hecta. Sau năm 1975, được bàn giao về quân khu 9, một người có tên là Huỳnh Văn Diệp tức trung tá Huỳnh Văn Diệp đã thành lập ra nơi nuôi rắn lớn nhất mi ền Nam.
Trước đây khi “ ông Tư Được “ còn quản lý thì ông đã sưu tầm được rất nhiều loại rắn và trăn. Sau khi ông mất thì người khác lên thay ông số rắn đã giảm dần. Hiện nay ở đây có khoảng 6 loài rắn như : hổ mang , hổ chúa , mái rầm , lục đầu dồ , rắn nước , rắn bông súng.

Khi ta đi thấy rất nhiều loại rắn được nuôi ở nhiều môi trường khác nhau; chẳng hạn như tại một hốc cây người ta làm một long sắt để thả một con rắn vào doing trong môi trường thiên nhiên này để rắn đẻ và ấp trứng thành con; hoặc có những khu vực được tạo ra những giống sống hoang dã và trồng rất nhiều cây cối để mà thả rắn vào sống trong môi trường thiên nhiên.

Tới nay quý khách sẽ thấy được loài rắn độc nhất là rắn hổ chúa. Trước nay, rắn hổ chúa ở nay không nhiều nhưng bay giờ thì rắn hổ chúa đã được nhân giống ra rất nhiều. Nọc độc của rắn hổ chú khi chạm vào cơ thể chúng ta thì khoảng 2 phút sau cơ thể ta hoàn toàn bị tê liệt, rắn hổ chúa có rất nhiều biệt tài là bò dưới nước hoặc leo lên cây.

Ngoài rắn hổ chúa, còn có rắn hổ mang, hổ ngựa, hổ mèo, hổ đất. Để phân biệt rắn hổ chúa và hổ mang; hổ mang có thân hình nhỏ và ngắn hơn hổ chúa và khi ngóc đầu lean nó có hình trăng tròn; còn hổ mèo thì cũng ngóc đầu và phùng mang nhưng không có hình trăng tròn mà có 2 vòng tròn nên người ta thường gọi rắn mắt kính. Nọc độc rắn hổ mang thì không bằng rắn hổ chúa. Vì vậy khi nộc độc rắn hổ mang chạm vào cơ thể thì 10-15 phút thì nọc độc mới lam truyền làm tê liệt cơ thể. Ngoài ra khi bắt mồi không can tiếo xúc trực tiếp mà có thể phun nọc độc xa 2 m.

Ta thấy rắn đầu có hình tam giác và có khoan trắng và đen là bò cạp nia

Còn loại có khoan vàng và đen gọi là bò cạp nông.

Còn loại có màu xanh lục như lá cây đó là rắn lục. Có 2 Lọai chính là: rắn lục day khuôn và rắn lục vời.
Giá thịt rắn dao động từ 35 - 40 USD/ kg , thi trường tiêu thụ ở Châu Á chủ yếu là Đài Loan , Trung Quốc , Hàn Quốc Trại rắn Đồng Tâm chủ yếu nuôi rắn lấy nọc không phải để tham quan.
Với giá vé 10. 000 đối với khách Việt Nam và 20000 đối với khách nước ngoài , du khách sẽ được vào tham quan trại rắn với các khu như :

Khu nuôi rắn và trăn ở trong nhà gồm nhiều loài trăn và rắn khác nhau . Ở đây du khách co thể quấn trăn lên mình va chụp ảnh lưu niệm

Khu ngoài sân là khu nuôi rắn ở trong khoang bể nuôi bằng bê tông với rất nhiều loài rắn
Khu phía sau la khu nuôi thú gồm nhiều loài như : công , khỉ , cá sấu , đà điểu . Đi vao đây du khách có cảm giác như đi trong sở thú . Và đặc biệt hơn nữa tại đây còn co chu ba ba vang rất quý hiếm nặng khoảng 30 kg chỉ còn hai con ở Việt Nam

Khu nhà bảo tòan rắn là nơi trưng bày hầu như đầy đu các chủng loại rắn và được ngâm trong chất phoocmon nên nhìn chúng sống động như vẫn còn sống

Tại đây du khách nên mua sắm vài sản phẩm từ rắn để làm quà cho người thân bởi hàng tốt và giá cả hợp lý:

Cù Lao Thới Sơn - Cồn Thới Sơn

Nằm ở hạ lưu sông Tiền, Thới Sơn có diện tích khoảng 1.200 ha. Toàn xã Thới Sơn là một vùng chuyên canh cây ăn trái, quanh năm được phù sa bồi đắp. Theo anh Huỳnh Văn Phương, Giám đốc Sở Thương mại - Du lịch Tiền Giang, từ những năm 90 của thế kỷ trước, Tiền Giang đã chủ trương phát triển du lịch theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" để khai thác hiệu quả tiềm năng sẵn có tại địa phư ơng. Công ty Du lịch Tiền Giang đầu tư năm tỷ đồng xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng ở các điểm du lịch chính. Các hộ dân trong khu vực đã đóng góp mặt bằng, nhà cửa và hơn 100 chiếc đò với tổng trị giá hơn 20 tỷ đồng. Cách tổ chức du lịch theo mô hình này đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách, đồng thời huy động được vốn và các tiềm lực khác trong dân. Phát triển du lịch ở cù lao Thới Sơn góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao mức sống. Hiện nay, số hộ giàu, khá ở Thới Sơn chiếm tỷ lệ 78%, chỉ còn 2,7% số hộ nghèo.

Sự hấp dẫn, quyến rũ của Thới Sơn ở chỗ, đến mảnh đất này, người ta sẽ quên sự ồn ào, bí bức của phố phường. Khách đến Thới Sơn, xuống đò chèo xuôi theo những con rạch ngoằn ngoèo giữa hai hàng dừa nước rậm rạp, giữa hàng thủy liễu ven sông luôn nghiêng mình ngả bóng đón chào. Nếu muốn tản bộ, sẽ theo những con đường đá uốn lượn, băng qua những vườn cây trái xum xuê. Khách có thể ngồi trong những nhà vườn nhấm nháp tách trà mật ong thơm ngọt và lắng nghe đàn ca tài tử. Đêm Thới Sơn thật huyền diệu với đầy trăng, gió, sóng nước mênh mang. Khách có thể đi thuyền trên sông, ngắm trăng lên, hoặc cùng bạn ngồi đối ẩm trong tiếng ca mượt mà, sâu lắng của thôn nữ.

Những ngôi nhà của 6.000 người dân Thới Sơn vẫn giữ được nét cổ kính, nguyên sơ. Ðiểm du lịch của nhà ông Tám Cho là một tiêu biểu về kiểu nhà xưa. Ngôi nhà của ông được xây dựng với hàng cột gỗ căm xe; mỗi mái nhà có chín cây đòn tay bố trí theo thuật phong thủy: Kiên - Trừ - Mãn - Bình - Định - Chấp - Phá - Nguy - Thành. Trong nhà, cách bài trí cũng theo phong cách cổ với chiếc tủ thờ cẩn xà cừ lóng lánh, tràng kỷ chạm trổ tinh vi, cùng với đôi liễn chạm câu đối sơn son thếp vàng... Chung quanh nhà là vườn hoa cảnh với nhiều cây bon-sai được trồng tỉa công phu. Đến Thới Sơn, khách được tham quan cách làm kẹo dừa bằng phương pháp thủ công, mua những đồ mỹ nghệ, đồ dùng sinh hoạt gia đình làm từ cây dừa. Bên cạnh chương trình du lịch sinh thái, người dân Thới Sơn còn giới thiệu với khách về văn hóa ẩm thực với các món ăn: cá nướng, lẩu cá kèo, cá lóc hấp bầu, cá tai tượng chiên xù...

Năm 1995, Thới Sơn đón hơn 40.000 lượt khách, năm 1996 đón khoảng 80.000 lượt khách, năm 1997 đón 120.000 lượt và năm 2001 đón khoảng 200.000 lượt khách trong đó 65% là khách nước ngoài. Cô Lê Trang, một người kinh doanh du lịch ở Thới Sơn cho biết, Thới Sơn thu hút được khách là nhờ chương trình, sản phẩm du lịch sinh thái ngày càng đa dạng, hoàn chỉnh và cách phục vụ chu đáo. Thới Sơn đang trở thành điểm thu hút khách đến Tiền Giang.

Theo kế hoạch, từ năm 2002 đến năm 2005, Công ty Du lịch Tiền Giang tiếp tục đầu tư năm tỷ đồng để xây dựng cù lao Thới Sơn thành làng du lịch. Khách sẽ có dịp tham quan những làng nghề truyền thống với các công cụ lao động, thô sơ, được phục chế. Bên cạnh, Thới Sơn mở rộng hơn nữa các điểm du lịch vệ tinh ở các hộ dân; trồng cây ăn trái nhiều chủng loại, đủ cung cấp quanh năm cho du khách. Ðồng thời, vận động nhân dân giữ lại các dụng cụ sinh hoạt bình dị, truyền thống như: bát sành, chén đá, đũa tre, đũa dừa, bình tích đựng nước trong vỏ dừa... Thới Sơn là làng du lịch xanh đặc trưng của vùng sông nước Cửu Long với vườn cây, trời nước và tấm lòng hồn hậu, hiếu khách của người dân Nam Bộ.

Từ bến phà 30-4, chúng tôi lại xuống thuyền đi thăm cồn Lân và ăn trái cây. Thuyền cập vào một bến nhỏ, anh hướng dẫn viên đưa chúng tôi len lỏi qua những khu vườn mướt xanh với đủ loại cây: sapoche, nhãn, chuối, sầu riêng... Quả treo lủng lẳng.

Khác với những ngôi nhà vườn nổi tiếng ở Huế, thường là nhà vườn văn hóa, vườn ở đây là vườn kinh tế. Người dân Nam Bộ gắn bó cả đời mình với sông nước, vườn cây cũng vậy, nước sông theo các con rạch nhỏ chảy vào từng khu vườn, từng gốc cây. Người ta trồng cây theo hàng như những ô trên bàn cờ, dưới các hàng cây là hệ thống mương rạch rộng độ 5m, lan tỏa khắp vườn. Lúc triều lên nước sông chảy vào vườn khiến du khách có cảm giác cá nhảy lên cả vườn cây. Lúc triều xuống, nước lại đổ ra sông, lòng mương chỉ còn xâm xấp nước và một màu phù sa đỏ quánh. Cũng nhờ lớp phù sa này mà cây trái nơi đây quanh năm cho trái ngọt.

Chúng tôi được mời đến một khu vườn do công ty du lịch Tiền Giang bỏ vốn đầu tư nâng cấp. Nhiều khách nước ngoài đang ngồi ăn trái cây ở đó. Mùa nào thức nấy nhưng thông thường chủ vườn sẽ mời khách ăn 6 loại trái cây: thơm, chuối, thanh long, sapôchê, chôm chôm, nhãn. Khách ăn không hết, chủ vườn bỏ vào trong túi, trao lại cho khách với lời cám ơn và câu chào: "see you again" rất ngọt ngào.

Chúng tôi được mời ăn trưa trên một cù lao khác cách cồn Lân khoảng 20 phút đi thuyền, cồn Thới Sơn. Nơi đây có một garden restaurant rất đẹp. Song cái hấp dẫn tôi nhất lại không ở kết cấu của cái nhà hàng "thập nhị giác" này mà ở món cá tai tượng chiên xù và những bộ đồ bà ba trắng, đen của các cô phục vụ. Tiếp viên của nhà hàng mặc đồng phục bà ba trắng, quần lụa đen nhẹ nhàng đi giữa các hàng ghế, lúc thêm chút mắm, khi gắp ngọn rau nhút đặc sản vào bát du khách, lúc lại lúng liếng cười duyên khiến thực khách chưa ăn đã thấy ngon.

CỒN PHỤNG – ĐẠO DỪA

Chúng tôi vào cù lao Phụng để thăm "Nam quốc Phật tự" của ông tổ Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam. So với cù lao Rồng, cồn Phụng nhỏ hơn, nhưng lại được biết đến nhiều hơn bởi nơi này có di tích của Đạo Dừa. Theo lời thuyết minh của anh hướng dẫn viên, đây là một tôn giáo quái chiêu do Nguyễn Thành Nam, một con cờ chính trị mắc chứng hoang tưởng tự cao - một dạng của bệnh tâm thần phân liệt, sáng lập năm 1963. Sinh thời, Nguyễn Thành Nam (sinh năm 1909) học hành không mấy giỏi giang nhưng được gia đình cho qua Pháp học theo lối mà ngôn ngữ hiện đại gọi là du học tự túc. Ông ta đã học tập ở nước Pháp không phải để thành nhân tài mà để thành một "vị thánh". Sau khi về nước, Nguyễn Thành Nam tu luyện 10 năm ở Thất Sơn (An Giang). Đến năm 1963 thì tới miệt Mỹ Tho, leo lên cồn Phụng, xây "Nam quốc Phật tự" và sáng lập ra Đạo Dừa.

Đạo Dừa chủ trương chuyên ăn cùi dừa và uống nước dừa để tồn tại và hành đạo. Đó là một sự kết hợp của Phật giáo, Thiên Chúa giáo, rồi Cao Đài... Lúc đông nhất có đến 3.600 tín đồ. Nguyễn Thành Nam còn dụng chữ Dừa theo biến âm của phương ngữ Nam Bộ nghĩa là Vừa (ví như: Cầu, Dừa, Đủ, Xoài - tức là Cầu vừa đủ xài) để cho rằng tôn giáo do ông ta sáng lập sẽ làm vừa lòng tất cả mọi người. Ông ta cho dựng trên cồn Phụng một ngôi chùa, kết hợp nhiều trường phái kiến trúc khác nhau. Trước chùa cho đúc Cửu đỉnh bằng ximăng gắn sành sứ (thực ra chỉ có một đỉnh mà thôi), rồi gắn ảnh của mình vào, tự nhận là người có công thống nhất đất nước, kế vận hưng nghiệp của vua Minh Mạng (1820 - 1841).
Nguyễn Thành Nam còn cho xây một sân chầu với những hàng cột vẽ rồng sặc sỡ. Cuối sân có một động nhỏ, nơi "Phật tổ" Nguyễn Thành Nam đến giảng kinh. Sau động là một tòa sen nằm trong lồng cầu và hai cột xi măng, ở bai bên tượng trưng cho Sài Gòn và Hà Nội. Hằng ngày, Nguyễn Thành Nam chui vào quả cầu, ngồi lên tòa sen rồi sai đệ tử kéo lên cao. 12 giờ trưa, ông ta "nhập thế", bằng cách ra khỏi lồng đi đến hai bao lơn đặt trên hai cột ximăng tượng trưng cho Sài Gòn và Hà Nội. Đi từ bên này sang bên kia, Nguyễn Thành Nam cho rằng ông ta đã thống nhất được tổ quốc.

Ông ta còn cho làm mô hình phi thuyền APOLLO bằng... Tôn, trèo vào trong đó, biểu đệ tử kéo lên... Vũ trụ để thỉnh thị thánh chỉ của Ngọc Hoàng. Lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ ở vào thời kỳ ác liệt, Nguyễn Thành Nam tổ chức hoạt cảnh hòa bình để mị dân. Ông ta thuê người, chia làm hai phe mặc áo quần của quân giải phóng và quân đội Sài Gòn rỗi bắn nhau tá hỏa... Bằng súng giả. Đang lúc cuộc chiến căng thẳng, thây người "chết" chất đầy một... Sân chầu thì "Phật tổ" Nguyễn Thành Nam giáng thế bằng cách "hạ thổ" từ tòa sen, để đến cứu vớt những sinh linh.

Phía trong sân rồng có công trình cửu đỉnh, nếu nhìn từ trên xuống ta sẽ thấy cửu đỉnh được xây theo lối ngủ hành âm dương. Nếu nhìn kỷ sẽ thấy một con rồng đứng ở giữa có đuôi hình vuông ; hình vuông tượng trưng cho tứ tượng, những con rồng còn lại đứng trên bệ có hình tam giác. Hai cây cột phía sau tượng trưng cho lưỡng nghi đó là âm dương hợp lại. Điểm khác của con rồng trung tâm là đuôi có được thiết kế phía sau, còn những con xung quanh thiết kế phía trước. Đây là biểu tượng của rồng đực ; hiện thân của ông Đạo Dừa và những con rồng cái là những cô gái xung quanh ông đạo Dừa.

Xung quanh Cửu Đỉnh còn có một số hình ảnh như ; Long, Lân, Quy, Phụng, Mai, Lan, Cúa, Trúc và một số cảnh về Tiên Ong, Bát Tiên. Ngoài ra còn có hai cái quai nâng hai con rồnglên tượng trưng cho vua chúa. Cửu Đỉnh được đặt trên thần Kim Quy đang ngậm thanh kiếm thần hướng về Bến Tre. Ngụ ý là ông Đạo Dừa vừ kết nối với lịch sử với thời vua lê để thần Kim Quy mang thanh gương về Bến Tre để ông trị vì thiên hạ.

Vậy là chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình. Con người với những triệu chứng tâm thần đó đã được chế độ cũ bật đèn xanh để mị dân chúng. Lúc ông còn sống ông đạo dừ muốn khi qua đời thì hài cốt của ông sẽ được rãi trong Cửu Đỉnh nhưng khi ông qua đời thì những tín đồ đã mang hài cốt của ông ang táng tại phần mộ của gia đình. Đặc trưng của ngươì theo Đạo Dừa là mặc áo nâu sẫm và để một búi tóc cao quấn quanh đầu.
Đạo Dừa không cò kinh riêng. Mà là tất cả các kinh của đạo phật, thiên chúa giáo và cao đài. Một năm đạo có 3 ngày lễ vào 3 ngày rằm lớn, chứ không có ngày lễ nào đặc trưng của đạo giáo

Hiện nay có một số người tu đạo này nhưng tu lại gia chứ không lập chùa chiền để tu.

Ngoài ra tại đây còn được trưng bày nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm từ trái dừa . Du khách đến đây tham quan khu sản xuất bánh kẹo dừa và thưởng thức kẹo dừa .


Chùa Vĩnh Tràng

Du khách đến Mỹ Tho mà không thăm chùa Vĩnh Tràng là một điều thiếu sót. Đây là ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến trc tiu biểu ở Nam Bộ. Cha tọa lạc trn mảnh vườn cây ăn trái rộng gần 2 hecta, thuộc làng Mỹ Hóa, nay là x Mỹ Phong, bn con rạch Bảo Định hiền hịa nước ngọt quanh năm.
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, chùa vốn là một thảo am do ông Tri Huyện Bùi Công Đạt phát nguyện xây cất để di dưỡng tinh thần sau khi về hưu. Ông thỉnh Hịa thượng Từ Lâm ở cha Bửu Lm về trụ trì. Sau khi ơng Bi Cơng Đạt qua đời, Hịa thượng Huệ Đăng d vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự với tên Vĩnh Tràng, hoàn thành vào mùa hè năm Canh Tuất (1850).

Lúc đầu mang tên là Vĩnh Trường (sư muốn ngôi chùa mãi mãi trường tồn và vĩnh cửu theo thời gian) nhưng do nhiều ngươì miền Nam đọc trại đi thành Vĩnh Tràng. Kế vị trụ trì là hoà thượng Thích Thiện Đề. Khi ngài viên tịch thì ngôi chùa hương khói lạnh tanh. Năm 1890, bổn đạo đến chùa Sắc Tứ Linh Thứu thỉnh hòa thượng Quảng An-Chánh Hậu về trụ trì. Năm 1895, ngài đã tồ chức xây lại ngôi chùa. Chùa hư hỏng nặng vì trận bão năm 1905. Từ năm 1907->1911, này đã khuyến giáo tín đồ đóng góp công của đại trùng tu ngôi chùa và mời điêu khắc gia Tài Công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc các tượng trong chùa. Hòa thượng Chánh Hậu gốc người Minh Hương, sinh năm 1852 tại làng Điều Hòa tỉnh Định Tường cũ. Năm 1897, ngài quy y thọ giới với hòa thượng Thích Minh Phước tại chùa Bửu Lâm. Ngài được cử làm thủ thượng tọa chùa sắc tứ linh thou từ năm 1880, trụ trì chùa vĩnh tràng từ năm 1890 và đã thường xuyên mở các lớp gia giáo để đào tạo tăng tài. Ngài viên tịch năm 1923. Hòa thượng Tâm Liễu –An Lạc(tức Minh Đàng, thế danh Lê Ngọc Xuyên) kế tục, cho xây cổng Tam Quan, mặt tiền chánh điện và nhà tổ.

Chùa trải qua bốn lần trùng tu: lần trùng tu thou 1 vào năm 1907, hòa thượng Chánh Hậu đã trùng tu và tôn tạo lại mặt chùa. Mặt tiền chánh hậu được xây doing theo lối kiến trúc á, âu; lần trùng tu thứ 2 vào năm 1930; lần trùng tu thứ 3 là 1990; lần trùng tu thứ tư là 2004. Hiện nay đang được trùng tu lần nữa.
Trước cửa chùa có cổng tam quan rất tráng lệ do tốp người Huế thực hiện năm 1933 với sự tài trợ về kinh phí của 2 ông Hùynh Trí Phú và Lý Văn Quang. Cổng giữa làm bằng sắt theo kiểu Pháp; 2 cổng bên làm bằng xi măng vươn cao như 2 tòa lâu đài cổ, được ghép tòa những mảnh sành sứ tạo nên những bức tranh với màu sắc hài hòa, minh họa sự tích nhà phật, truyện tích nhân gian và các đề tài Tứ Quý, Tứ Linh, hoa lá…tầng lầu thượng của cổng Tam Quan có vòm cửa rộng, bên phải đặc tượng hòa thượng chánh hậu, bên trái đặt tượng hòa thượng Minh Đàng. Cả 2 tượng này đều đắp bằng xi măng giống như tượng thật, do điêu khắc gia Nguyễn Phi Hoanh thực hiện.

Mặt tiền chùa vĩnh tràng trang trí theo kiểu kết hợp đặc điểm kiến trúc cả Á, lẫn Âu. Ơ nay có những hoa văn theo thời phục hưng, vòm cửa theo kiểu La Mã, bông sắt Ấn Độ, gạch men nhật bản…những câu ngữ Hán viết theo lối thể chữ truyện cổ kính xen với chữ quốc ngữ viết theo lối chữ Gô-Tích. Từ xa trông vào du khách có thể hình dung ngôi chùa như đền Ăngkor có năm tháp. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương thì hòa thượng Minh đàn và ông quỳnh trí phú từng du học sang xứ chùa tháp nên tiếp thu được cái trong kiến thức ngôi chùa tên đó, kết hợp với kiến trúc phương tây.

Tượng có nhiều tay nhiều mắt gọi là chuan đề bồ taut, vị này là hiện thân của quan thế âm bồ tát có nhiều tay, nhiều mắt để cứu độ chúng sinh: nhiều mắt để thấy được nổi khổ của chúng sinh
Trong chùa có chuông đồng một tấn do vua Tự Đức cho kinh phí đúc, chuông được làm sau năm giáp dần.

Ngày Giỗ Đình Vĩnh Tràng:

 18-1 Hòa Thượng Huệ Đăng

 17-3 Hòa Thượng Pháp Tràng

 1-5 Hòa Thượng Tú Long

 21-6 Hòa Thượng Minh Đàn

 30-7 Hòa Thượng Trà Chánh Hậu.

Ngòai ra, các ngày giỗ ra còn các ngày: thượng quân (15-1), trung quân(15-7), hạ quân(15->10). Đặc biệt ngày 15-4 Am Lịch còn có ngày lễ áng sanh của Phật Thích Ca.

Ở chánh điện có các bao lam được chạm trổ công phu, trong đó có bộ phù điêu Bát Tiên cỡi thú do các nghệ nhân tại địa phương thực hiện vào khoảng năm 1907 - 1908. Trên bàn thờ có nhiều pho tượng Phật như A-di-đà, Thích-ca, La-hán và tượng các vị Bồ-tát. Hai bên bàn thờ là tượng chân dung Hịa thượng Chánh Hậu và người kế pháp là Hịa thượng Minh Đàn. Các Hịa thượng Huệ Đăng, Chánh Hậu, Minh Đàn đều thuộc Thiền phái Lâm Tế.

Bộ tượng cổ nhất ở chùa Vĩnh Tràng là bộ Tam Tôn (Di-đà, Quan Âm, Thế Chí) bằng đồng. Tiếc rằng tượng Quan Âm đ bị thất lạc từ lu. Sau ny Hịa thượng Chánh Hậu phải thuê thợ làm tượng khác bằng gỗ thế vào cho đủ bộ. Tượng Ngọc Hoàng cũng bằng đồng, to gần bằng người thật, cùng phong cách với tượng Già Lam, Đạt-ma ở chùa Bửu Lâm. Khác với thông lệ xưa nay, Ngọc Hoàng ở đây không có Nam Tào, Bắc Đẩu cầm sổ sinh tử đứng hầu hai bên. Thay vào chỗ đó là Ông Thiện và Ông Ác.
Hai bên tường chánh điện là bàn thờ Thập điện Minh Vương. Đặc biệt ở đây có bộ Thập bát La-hán là những tác phẩm chạm khắc gỗ độc đáo mà một số nghệ nhân ở Nam Bộ đ tạc vào năm 1907 theo sự chỉ đạo của Hịa thượng Chánh Hậu. Bộ tượng này bằng danh mộc, mỗi tượng cao khoảng 0,80m, bề ngang 0,58m, được đặt hai bên điện Phật gọi là sáu căn : mắt, tai, lưỡi, mũi, thân và ý; ở ba thời: qu khứ, hiện tại v vị lai. Cc tượng La-hán này được tạo hình cn đối, sinh động, cỡi trên các con thú như trâu, bị, ngựa, lạc đà, hà mã , tê giác v.v.

Trong khuôn viên chùa Vĩnh Tràng có nhiều chậu cây cảnh, hòn non bộ được chăm sóc thường xuyên. Dưới bóng cây, tháp Hòa thượng Chánh Hậu và gia đình được xây dựng bề thế có tường rào bao bọc.
Nhìn chung, vẻ đẹp của chùa Vĩnh Tràng tập trung ở nghệ thuật tạo hình. Có ý kiến cho rằng có thể xem chùa Vĩnh Tràng là một bản tổng kết lịch sử mỹ thuật của đất Tiền Giang.

Hiện chùa Vĩnh Tràng l2 nơi đặt văn phòng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật gio và trường Cơ bản Phật học tỉnh Tiền Giang. Chùa được trở thành điểm du lịch và hành hương của tỉnh, thu hút du khách và Phật tử hàng ngày. Tết Tân Dậu (1982) nhà thơ Xuân Thủy đ đến viếng chùa và viết tặng một bài thơ :
Đức Phật giàu tình thương

Nên chùa tên Vĩnh Tràng

Nhà sư vốn yên nước

Lòng như sông Tiền Giang 

ANH HÙNG DÂN TỘC TRƯƠNG ĐỊNH

Trương Định nhân dân còn gọi là Trương Công Định để tỏ lòng tôn kính. Ông sinh năm 1820 tại xã Tư Cung, huyện Tịnh Sơn, tỉnh Quãng Ngãi là con quan Trương Cầm-Lãnh binh tỉnh Gia Định
Trương Định thuở nhỏ tướng mạo khôi ngô, thông hiểu binh thư, võ nghệ. Đặc biệt là bắn rất tài. Thời Triệu Trị 1844, ông theo cha vào Nam lấy vợ là con gái một hào phú huyện Tân Hoà (nay là Gò Công). Khi cha chết ông ở luôn bên quê vợ.

Năm 1854, Trương Định xuất tiền của chiêu mộ dân nghèo, lập đồn điền Gia Thuận. Ông được phong chức Quản Cơ.

Khi giặc Pháp đánh thành Gia Định 2/1859, Trương Định đưa cơ binh gia nhập đội quân của triều đình chống giặc, ông thường đi tiên phong lập được nhiều chiến công. Một trong những chiến công nổi tiếng là phục kích giết chết tên Đại úy Barbe, trừng trị nhiều tên tay sai của giặc Pháp, trong đó có Bá hộ Huy ở Đồng Sơn, tiến công các đồn giặc ở Gia Thạch, Rạch Gầm và nhiều lần đánh đồn Kỳ Hoà. Tháng 3/1862 quân Pháp rút chạy khỏi Gò Công.

Ngày 5/6/1862, triều đình nhà Nguyễn ký hoà ước Nhâm Tuất giao 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, hạ lệnh cho Trương Định bãi binh và đi nhận chức Lãnh Binh ở An Giang. Nhưng theo yêu cầu của nhân dân và các nghĩa sĩ Trương Định đã khước từ lệnh của triều đình và nhận danh hiệu " Bình Tây Đại Nguyên Soái " do dân phong, tiếp tục lãnh đạo các cuộc chiến đấu chống giặc Pháp.

Ngày 20/08/1864 do sự phản bội chủ Huỳnh Văn Tấn căn cứ Trương Định bị bao vây chặt. Trong cuộc chiến đấu không cân sức, Trương Định bị trọng thương. Không để rơi vào tay giặc, ông đã dùng gươm tự sát để bảo toàn thanh danh, khí tiết của người anh hùng - khi ấy ông 44 tuổi.

Trương Định là hình ảnh tiêu biểu của nhân dân Gò Công, của nhân dân Nam Bộ bất khuất kiên quyết chống giặc Pháp xâm lược nửa sau thế kỷ thứ 19.

Khu di tích gồm lăng mộ và tượng đài Anh hùng dân tộc Trương Định toạ lạc trong nội ô thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. 

Ẩm Thực Tiền Giang

Nấu mẳnđây là một trong những món ăn đặc trưng của văn hóa ẩm thực vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nó thể hiện rất rõ nét tính hoang dã và hào phóng của vùng đất mới. Không là kho, không là canh, nó nằm giữa hai món đó. 

Hủ tiếu Mỹ Tho

Hủ tiếu Mỹ Tho là loại hủ tiếu do người Mỹ Tho chế biến, nguyên liệu chính là hủ tiếu khô, nước dùng chính là thịt bằm nhỏ, lòng heo nấu cùng xương tủy heo. Sau đó trụng sơ mì với nước dùng và cho các nguyên liệu phụ vào như giá, hẹ, thịt bằm cùng lòng heo vào. 

            Hủ tiếu Mỹ Tho bao gồm thịt lát, thịt bằm, xương và gan heo, có tiệm còn thêm tôm khô vào để nước dùng ngọt hơn. Vị ngọt đậm đà từ nước hầm xương và các phụ gia khác khiến hủ tiếu Mỹ Tho đậm chất miền Tây Nam Bộ. Hủ tiếu Mỹ Tho thường được ăn kèm với phụ gia là giá sống, hành phi,chanh ớt, tiêu, nước tương. Nước chấm là nước tương, pha chút giấm và đường, có nơi sẽ có thêm tép mỡ và hành phi. Hủ tiếu Mỹ Tho ngoài nổi tiếng nhờ nước lèo thơm ngọt vị miền Tây, còn nổi tiếng nhờ cọng hủ tiếu trong và dai, khi nấu không bị bở, hay mềm đi, chỉ trừ khi nấu lâu quá. Hủ tiếu bò viên hay hủ tiếu Satế cũng dùng loại bánh này. Ngoài ra, hủ tiếu Mỹ Tho còn nấu chung với mì, hủ tiếu mì, hoặc nước lèo ăn bánh canh, bột sò, nui.. Rất đa dạng và phong phú. Ngoài ra, còn có thể ăn hủ tiếu khô, tức là không chan nước lèo vào tô hủ tiếu, mà để riêng ở chén, cho hành và tiêu vào, có thể thêm 1 quả trứng gà, còn hủ tiếu sẽ được người bán trộn với nước tương, giấm đường vừa ăn, khi đó, nước lèo sẽ ngon và ngọt hơn so với nước lèo được chan vào hủ tiếu. Đặc biệt là hủ tiếu Mỹ Tho không ăn với salad, hay cần tây, trứng cút, tuy nhiên sau này vào Sài Gòn, hủ tiếu Mỹ Tho có điểm con tôm thẻ, lột xẻ đôi, hoặc thêm lòng heo, sườn heo và trứng cút nữa, có thể ăn với thịt bò viên và tương ớt, tương đen.  

            Sợi hủ tiếu Mỹ Tho to và trong, làm từ gạo thơm, dẻo (nổi tiếng là thứ gạo Gò Cát của làng Mỹ Phong), phải dùng trong ngày, do vậy có mùi thơm của gạo, trụng nước sôi thì mềm nhưng không bị bở, nhai dai dai, nên gọi là hủ tiếu dai, ăn không có mùi chua [2]. Và cọng hủ tiếu sẽ có mùi hơi chua, vì vậy sẽ được trụng riêng ở nước sôi chứ không trụng trực tiếp vào nước lèo. 

            Hủ tiếu Mỹ Tho có thể được bán dạo bình dân, gọi là Hủ tiếu gõ. Và có thể bán theo kiểu hủ tiếu khô, với chén nước lèo kèm theo. 

            Năm 2009, Hủ tiếu Mỹ Tho của Tổ hợp tác sản xuất hủ tiếu Mỹ Tho (ấp Hội Gia, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, Tiền Giang) được Trung tâm Thương hiệu Việt, thuộc Hội liên hiệp Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, cấp giấy chứng nhận “Thương hiệu Việt”.


Bún gỏi già Mỹ Tho - Tiền Giang

Không biết món ăn này xuất xứ từ đâu. Nhưng tôi chưa thấy trên thành phố này có một nơi nào bán món này cả, cả tên gọi cũng rất khác biệt. Bún gỏi già... Tôi không thể giải thích được vì sao nó lại có tên như thế. Mỗi lần về Mỹ Tho là tôi lại chạy ra quán ăn quen thuộc, gọi một món quen thuộc:” Bún gỏi già”. Chắc các bạn sẽ thắc mắc lắm vì không biết tại sao cái món bún có cái tên lạ tai lại làm tôi thích thú... Tôi ăn nhiều rồi, nhưng chưa lần nào thử nấu cả, không phải lười biếng đâu, vì không có bí quyết, tôi sợ mình sẽ làm hư món khoái khẩu của mình.

Cá bống dừa - Tiền Giang

Cũng như tôm tép có nhiều loại, cá bống cũng thế. Nào là: bống mú, bống vượng, bống cát, bống trứng, bống nhật, bống sao, bống bọt, bống xèo, bống nhảy... Trong các loại bống đó, tôi đặc biệt nhớ loài cá bống dừa. Có lẽ vì vùng quê tôi (thuộc huyện Gò Công Tây - Tiền Giang) chúng sinh sản nhiều, sống thích hợp với địa thế dừa nước (lá dùng lợp nhà) mọc đầy ven sông rạch. Bống dừa vảy nhuyễn, miệng rộng, lưng đen, lườn trắng; con to cỡ nửa cổ tay, hiếm khi lớn hơn.

Mắm còng xứ rẫy Gò Công

Ở Gò Công Tiền Giang, rẫy là tên gọi chung của những miền đất thấp, ven các kênh rạch, hằng năm thường bị nhiễm mặn trong một thời gian khá dài. Ðiển hình như các xã cặp theo sông Trà là Ðồng Thạnh, Ðồng Sơn, Bình Phú, Thành Công của huyện Gò Công Tây hay Bình Ðông, Bình Xuân cặp theo sông Soài Rạp, Phú Ðông, Phú Tân kẹp giữa hai vàm Cửa Tiểu và Cửa Ðại của huyện Gò Công Ðông. Miệt này, mỗi năm bà con chỉ có thể canh tác được có 1 vụ lúa mùa.

Sam biển Gò Công - Tiền Giang

Ngoài các loại cá tôm thiên nhiên ưu đãi, ở vùng biển xã Vàm Láng, Tân Thành, huyện Gò Công Ðông (Tiền Giang) có đặc sản khá hiếm: sam biển. Với hình thù lạ mắt: vỏ cứng như mai cua, mình tròn dẹt, đường kính độ gang tay, tám chân càng nhỏ dưới bụng, phần đầu là mũi nhọn ba cạnh rất linh hoạt dài cỡ 20 cm. Khoảng từ tháng 10 cho tới tháng 2 âm lịch, sam bắt cặp phối giống và sau đó sam cái mang bụng đầy trứng nhỏ như hạt tiêu đợi ngày sinh nở. Gió chướng thổi về, người dân ven biển chúng tôi sáng sớm đi dọc bờ thỉnh thoảng vẫn bắt được những cặp sam tấp mé.

Chuối quết dừa - Tiền Giang

Kể từ khi xuất hiện trên AT tháng 5.1992 với món ăn bình dân mà vô cùng hấp dẫn cho cả "mày râu" lẫn "kẹp tóc" là xòai tượng mắm đường đến nay, tôi cứ mãi bận rộn với những lo toan đời thường mà quên khuấy đi cái nghiêp... Ăn uống vốn dĩ là một trong những "tứ khóai" của thiên hạ, thật là sai sót biết chừng nào! Hôm qua, nhân dịp về một làng nhỏ hiền hòa nằm bên bờ sông Tiền lộng gió, chúng tôi có dịp thưởng thức một món ăn hòan tòan "cây nhà lá vườn" và đậm đà hương vị đồng quê đến nỗi khi lên xe trở về, ai nấy cũng chắc lưỡi hít hà khen ngon quá xá. Đó là món ăn mà ngọai tôi gọi đơn giản là chuối quết dừa. 

Những Thông Tin Cần Thiết Cho Quý Khách Khi Đi Du lịdh Tiền Giang

_ TP. HCM đi Mỹ Tho theo quốc lộ 1A , dài 71 km có thể đi về trong ngày bằng xe gắn máy dễ dàng
_ Khi tới ngã ba Trung Lương du khách nên ghé vào nhà hàng Trung Lương vì các quán khác tại khu vực này thường đắt hơn và không ngon bằng
_ Mã điện thoại vùng là 073
_ Đường Trưng Trắc là con đường đầy màu sắc nhất của Thành phố
_ Bến đò du lịch ở đọan đường 30-4 do công ty độc quyền tổ chức các
chuyến tham quan không có thuyền tư nhân . Vé tàu đi lẻ là 40000 đồng
_ Phà Rạch Miễu để qua sông Tiền vào tỉnh Bến Tre . Ngay bến phà tỉnh Bến tre cũng có trạm bán vé đi tham quan Cồn Phụng. 

Đứng trên cầu Rạch Miễu, nghĩ về “Tứ linh”

Rất khó có cây cầu nào như cầu Rạch Miễu. Đứng trên cầu mà hướng về biển Đông sẽ bắt gặp bốn cù lao “chụm đầu” lại, hợp thành “Tứ linh” giữa sông nước mênh mông. Khen ai khéo đặt tên cồn để có được một bộ “Tứ linh”: Long, Lân, Quy, Phụng. Mỗi cù lao đều có nét đặc thù, mang sắc thái riêng tạo nên một quần thể sinh động.

Vừa hết đoạn dây văng, cầu Rạch Miễu đổ xuống cồn Lân, còn gọi là cù lao Thới Sơn. Nhìn lên bản đồ, cù lao Thới Sơn như thể “long chầu” trong cung đình Huế. Thới Sơn đang sở hữu bốn cái “nhất”: tuổi đời cao nhất, diện tích lớn nhất, cũng được coi là đẹp và hài hòa nhất trong “Tứ linh”. Lịch sử mở đất của Thới Sơn thật hào hùng. Có thể nói mỗi mảnh vườn, con rạch Thới Sơn đều ghi dấu chiến công của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm. Sang thế kỷ XX, nơi đây lại ghi đậm chiến công của các “dũng sĩ diệt Mỹ” trên vành đai Bình Đức nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Cồn Lân

Đất Thới Sơn màu mỡ, con người Thới Sơn hiền hòa, cần cù, chân chất cùng với bàn tay khéo léo luôn tạo nên một diện mạo mới. Đến Thới Sơn không chỉ ngắm nhìn cảnh sắc miệt vườn, thưởng thức hương vị ngọt ngào của cây trái xứ cồn, mà còn chiêm ngưỡng những công trình mà người dân nơi đây gìn giữ từ thuở khai hoang, lập ấp. Dẫu trải qua bao tháng năm mưa bom, bão đạn, nhưng ngôi nhà chữ đinh theo phong cách cổ xưa, cùng với vật dụng trong nhà được khảm xà cừ tinh xảo, sắc màu lấp lánh, đôi liễn sơn son, thiếp vàng của Nguyễn Văn Vinh vẫn còn đó, thách thức thời gian.

Đến Thới Sơn còn là để được thưởng thức rượu mật ong, cùng tấm lòng đôn hậu của người phụ nữ với chiếc áo bà ba, khăn rằn quấn cổ, chèo xuồng trên sông rạch, đưa khách đến những làng nghề truyền thống như đan len, thêu thùa, cùng nhịp nhàng tát mương bắt cá với khách… một hoạt động thường nhật của người dân Nam bộ, luôn chân thành, quyến rũ. Đến đây còn có nhiều loại hình giải trí đậm nét chân quê, dân dã như nhảy dây, nhảy kẹng, đu quay,… rõ nét văn minh miệt vườn. Quả là thú vị.

Nằm kế cạnh cồn Lân là cồn Phụng, còn gọi là cù lao Tân Vinh, nơi có di tích đạo Dừa do Nguyễn Thành Nam lập nên từ những năm 60 thế kỷ XX. Tuy đạo Dừa có một triết lý mơ hồ, lạc lỏng và tự cho mình là “vua nhà Nguyễn tái sinh”, nhưng cũng để lại một số công trình như chiếc bình được cẩn những mảnh sành sứ, một cái sân rồng tượng trưng cho chín cửa sông Cửu Long, rồi những chiếc tháp cao, những mô hình núi non, hang động hợp thành một quần thể kiến trúc khá tinh xảo, khó quên. Bàn tay khéo léo của những người thợ năm xưa thật đáng khâm phục.

Trong “Tứ linh”, chỉ có cồn Thới Sơn và cồn Phụng là có đờn ca tài tử. Nếu như ở Thới Sơn du khách có thể tận hưởng những thanh âm mượt mà, sâu lắng từ tiếng đàn, lời ca qua dòng nhạc tài tử của gia đình ông Nguyễn Văn Du có đến 5 thế hệ nối tiếp nhau cứ “ngọt lịm” như hương vị cây trái của xứ cù lao, thì ở cồn Phụng, những câu hò, điệu lý như âm vang, mặn mà thêm từ ngón tay, giọng hát điêu luyện của các tài tử mang về từ nhiều miền quê khác nhau của Bến Tre, có cùng đam mê một loại hình nghệ thuật của cha ông và cách duy trì một nền âm nhạc cổ truyền của dân tộc, được phát ra từ một hang đá nhân tạo mát lạnh bởi làn gió trong lành miền sông nước.

Ở cồn Phụng cũng có nhà hàng, nhà nghỉ. Khu giải trí với phong cảnh hài hòa, độc đáo. Cồn Phụng còn có bánh tráng Mỹ Lồng, đặc sản của Bến Tre. Khách sẽ trực tiếp chứng kiến, thậm chí tham gia từ khâu chọn gạo, nạo dừa, cùng với bàn tay khéo léo, không ít điệu nghệ của người xứ dừa tráng bánh, phơi bánh vừa mỏng vừa tròn, đẹp lại vừa ngon, ngọt.

Nếu như người Bến Tre tự hào về dừa, thì dân cồn Phụng chính là người đi tiên phong làm cho cây dừa tăng thêm giá trị. Xót xa thấy thân dừa ngã xuống vì bom đạn, họ đã “tận dụng” nó để làm đũa ăn, đũa bếp phục vụ con người. Từ khung cảnh thơ mộng trên cồn Phụng đã hình thành một “làng” nghề thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu dừa, nhanh chóng lan rộng khắp Bến Tre và không ngừng lớn mạnh. Cùng với bàn tay của hàng ngàn nghệ nhân xuất thân từ nông dân giàu sáng tạo, những sản phẩm xinh xắn có thể sử dụng trong nhà bếp cho đến trang trí phòng ngủ, phòng khách, từ nhà ở bình dân đến khách sạn sang trọng, từ trong nước ra nước ngoài. Đi đâu cũng thấy cây dừa phục vụ cho đời, với nét tinh xảo kết tinh từ tình người, tình đất Bến Tre, không ngừng tô đẹp thêm cho sắc diện quê hương.

Thiên nhiên lại khéo sắp đặt khi hai đầu cồn Thới Sơn và cồn Phụng hướng về cồn Rồng, phía xa bên kia của sông Tiền, người đời gọi là cù lao Tân Long. Cù lao Tân Long hình thành đã lâu, nhưng chỉ được khai thác chừng trăm năm nay. Để tránh bom đạn trong chiến tranh, người Bến Tre đã đến đây sinh sống, và ngày nay Tân Long trở thành đơn vị hành chánh của thành phố Mỹ Tho thuộc tỉnh Tiền Giang. Ngoài vườn cây trái, Tân Long cũng nuôi cá bè như những cồn khác trong “Tứ linh”. Khác hẳn là ở bờ Bắc, có cảnh quan nhộn nhịp bởi đội tàu đánh cá trên vùng biển phía Nam, thay nhau neo đậu che kín cả một đoạn mặt sông. Tàu của người Tân Long thì ít, đa phần là tàu của bà con khắp nơi. Sở dĩ càng nhiều tàu cặp bến Tân Long là vì nơi đây lòng sông sâu và rộng, ít sóng gió và gần cảng cá Mỹ Tho. Nhưng trên tất cả vẫn là lòng người, cùng bàn tay khéo léo của người thợ Tân Long sửa chữa ghe tàu. Nếu như đàn ông bận rộn cho việc sửa máy, tu bổ thân tàu, thì người phụ nữ lại luôn tay vá lưới, kết phao trên những boong tàu. Lời qua tiếng lại líu lo như chim hót, cùng với tiếng búa cọc cọc, tiếng cưa rào rào,… cả ngày lẫn đêm, không khác gì một bản nhạc mang âm hưởng lâu ngày thành quen, không nghe thì khó mà ngủ được.
Image
Cồn Phụng

Tân Long còn có lợi thế về nghề nuôi thủy sản. Cù lao hiện có trên 500 bè cá, đủ các loại có giá trị như cá chép, điêu hồng, cá tra, rô phi. Chỉ cần 50 - 60 m2 bè, mỗi năm sẽ thu về gần 10 tấn cá. Một nguồn lợi lớn.
Người em út trong “Tứ linh” là cồn Quy, mới được khai phá từ những năm 60 của thế kỷ XX, vẫn còn dấu vết hoang sơ, nhưng không kém phần hấp dẫn đối với du khách. Đâu có mảnh đất nào mà không có nghĩa tình của những bàn tay lao động. Những cảnh sắc quyến rũ của quá trình mở mang khai phá mảnh đất này vẫn còn lưu giữ, cùng với con người cần cù, phóng khoáng và đất đai màu mỡ, đã làm từng mầm cây trở thành những khu vườn quả ngọt, trái say.

Cồn Quy nổi danh vì cây trái có hương thơm đặc biệt. Nhãn hồng, nhãn tiêu cơm dày ngọt lịm. Khi đến mùa nhãn trổ hoa, người cồn Quy thanh thản vui với đàn ong kêu chăm chỉ. Dù chỉ nuôi nghiệp dư, ong cồn Quy vẫn cần mẫn chắt lọc hương vị đậm đà của hoa, những gì tinh túy của nắng, của gió và phù sa tặng lại cho con người, một thùng cũng được vài lít mật mỗi mùa. Người cồn Quy gắn với vườn cây và con rạch. Họ sẵn lòng giới thiệu khách phương xa những món ăn đậm đà hương vị đồng quê. Ngoài uống nước dừa tại gốc, còn có nhãn, có mận, có cam, quít, bưởi quanh năm, là món tôm càng xanh nướng, luộc, làm gỏi tự thích cùng với tấm lòng đôn hậu của người dân nơi đây, sẽ níu khách lại bởi một tình cảm ấm cúng trong gia đình.

Đi sâu vào ba dãy cù lao, Bến Tre còn có những vườn cây trái ở Cái Mơn, Sơn Định, Vĩnh Bình (Chợ Lách) hay Tiên Long, Tiên Thủy, Tân Phú (Châu Thành) cứ như quấn lấy chân người. Vườn chim Vàm Hồ, khu rừng Liệt Địa ở Ba Tri, du khách thỏa thích tận hưởng những gì còn hoang dã. Và chỉ cần qua Cống đập Ba Lai, xuôi về Thừa Đức, tha hồ ngâm mình trong nước biển Đông. Bến Tre còn có các danh nhân như nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu; tiến sĩ đầu tiên Nam kỳ lục tỉnh Phan Thanh Giản; nhà giáo Võ Trường Toản; chí sĩ Phan Văn Trị; nhà bác học Trương Vĩnh Ký; nữ tướng Nguyễn Thị Định, … Còn có khu lưu niệm Đồng Khởi và đầu cầu của chuyến tàu không số chở vũ khí từ Bắc vào Nam. Về những nơi này sẽ biết thêm tình người, tình đất Bến Tre thủy chung, sâu lắng và nồng thắm.
Ngày 19-1-2009, cầu Rạch Miễu sẽ chính thức được đưa vào sử dụng, sẽ xóa đi cảnh ngăn sông cách trở của Bến Tre, là điều kiện để cho tỉnh phát triển thuận lợi hơn. Nhưng khi đường cao tốc từ thành phố Hồ Chí Minh về miền Tây đưa vào vận hành và cùng vài thứ khác nữa, lúc ấy Bến Tre mới thật sự trở thành “lá phổi” lý tưởng cho thành phố và các khu công nghiệp trong những ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ, ngày tết. 

Cháo khuya đồng bằng (Mỹ Tho. Tiền Giang)

Về miền Tây, nghỉ qua đêm trong trung tâm phố thị, nửa khuya bụng cồn cào, tỷ như ở Rạch Giá thì ngay bùng binh sắp tới tượng đài Nguyễn Trung Trực. Ở Long Xuyên thì sau đình Thành Hoàng. Cà Mau thì ngay góc chợ ở cầu Mới xuống quẹo trái...có món giữa khuya.

Hồi xưa, có khi chỉ có gánh cháo, xe cháo trắng ăn với phá lấu, hột vịt muối của mấy chú Tàu. Và để đa dạng hóa, các chú Tàu chế thêm món dưa mắm, người Việt thì làm cá cơm kho quắc, tép rang, khứa cá lóc, cá trê kho khô. Cháo trắng mà nấu với lá dứa thơm hay cháo đậu đen chan nước cốt dừa, nghe có vẻ tầm thường nhưng lại là các món "độc" giữa lúc đang đói lòng.

Ở Mỹ Tho cháo trắng ngon nhưng không bằng cháo "phá lấu". Xe cháo nằm trong căn nhà nhỏ, tủ treo lòng heo, phá lấu, bên trong nồi cháo trắng nghi ngút khói. Bước vào chủ quán biết khách cần gì, tay liên tục nhịp dao trên thớt. Một đĩa lòng, phá lấu đủ thứ cùng với cháo trắng nóng bưng ra. Dân sành ăn bao giờ cũng xem có đĩa dưa cải phá lấu, vùa mằn mặn, vừa chua ngọt rồi bắt đầu mới gắp từng thứ bỏ vào tô cháo nóng hổi, hết tô cháo mồ hôi vã ra, vị chua mặn, miếng phá lấu giòn giòn cứ như đọng lại trong miệng.
Ở đồng bằng thả bộ xuống phố, xem dân địa phương sinh hoạt về đêm và thưởng thức món cháo phá lấu Mỹ Tho, một phần ăn chỉ khoảng năm ngàn đồng bạn sẽ cảm nhận sự thú vị của bữa cháo giữa khuya.
Lê Duy

Địa chỉ: Quán Cháo Phá Lấu, 3 Đinh Bộ Lĩnh,P3, Tp.Mỹ Tho, Tiền Giang

 

Xứ biển Gò Công

Nếu có dịp tới Tiền Giang, mời du khách ghé thăm 2 điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh, đó là: Lăng Hoàng Gia và Di tích khảo cổ Gò Thành.Lăng Hoàng Gia

Lăng Hoàng Gia là một di tích lịch sử thuộc triều Nguyễn, tọa lạc tại Giồng Sơn Quy (Gò Rùa), ngày nay thuộc ấp Hoàng Gia, xã Long Hư*ng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

Ông Võ Thành Sơn, ngư*ời quản lý Khu Di tích lăng Hoàng Gia cho biết: Dòng họ Phạm đã sống lâu đời ở đất Gò Công. Ông Phạm Đăng Khoa là ngư*ời khai hoang lập nghiệp ở xứ này. Phạm Đăng Hưng là hậu duệ đời thứ tư*, ông làm quan dư*ới triều Minh Mạng. Nhân dân thường gọi là ông “Ba Bị" vì lúc làm Điền Tuấn Quan, đi đâu ông cũng mang theo ba bị hạt ngũ cốc để phân phát cho nông dân nghèo những khi thiên tai, hạn hán, bão lụt. Phạm Đăng Hưng sinh năm 1764 tại Giồng Sơn Quy.

Năm 1825, Phạm Đăng H*ưng bị bệnh mất tại Huế, đ*ược Vua Minh Mạng thăng hàm Vinh lộc đai phu, Trụ quốc hiệp biên, Đại học sĩ, Thụy Trung Nhã và đưa về an táng tại Sơn Quy. Lăng mộ Phạm Đăng Hư*ng tọa lạc trên một gò cao có dáng mu rùa, mộ xây theo tam cấp, tứ trụ, diện tích hơn 800m². T*ương truyền thi thể Phạm Đăng H*ưng được chôn ngồi. Trước mộ có tấm bia đá Cự Thạch.
Năm 1849, Phạm Đăng Hưng được Vua Tự Đức gia phong, truy tặng Đặc tiến Kim Tử - Vinh Lộc Đại phu Thái bảo Cần Chánh Điện, Đại học sĩ, t*ước Đức quốc Công. Ông là ông ngoại vua Tự Đức, cha của Hoàng thái Hậu Từ Dũ, tước Đức quốc công, nên nhà thờ ông đ*ược sửa sang theo kiến trúc và nghi thức cung đình, có đặt nhiều biển đại tự để thờ: Gian chính giữa thờ Đức quốc Công Phạm Đăng Hưng. Gian tả thờ ông Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hư*ng. Gian tả ngoài cùng thờ ông Phạm Đăng Tiên (cố). Gian hữu thờ ông Phạm Đăng Dinh (nội). Gian cuối bên hữu thờ ông Phạm Đăng Khoa (sơ).
Nhà thờ và mộ Phạm Đăng H*ưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, mang đậm phong cách truyền thống dân tộc qua các mảng chạm khắc trên mộ và trang trí bên trong nhà thờ bằng những điển tích rút ra từ "tứ linh tứ quý" theo quan niệm phong thuỷ của ng*ười Á Đông. Toàn bộ nhà thờ nằm trọn trong khuôn viên mát mẻ, có khá nhiều cây sứ cổ thụ, hoa lá cảnh vật bao bọc theo kiểu không gian nhà vư*ờn xứ Huế.


Di tích khảo cổ Gò Thành

Cổng Khu Di tích Gò Thành có kiến trúc theo phong cách Hindu khá ấn t*ượng. Năm 1941, L. Malleret, nhà Khảo cổ học ngư*ời Pháp đã phát hiện ra di chỉ Gò Thành và sau đó ông đã thu thập đ*ược một số hiện vật. Do nhiều nguyên nhân, mãi cho đến năm 1988 Khu Di tích này mới đ*ược khai quật.
Trong các năm 1988 đến 1990, Bảo tàng Tiền Giang kết hợp với Trung tâm Khảo cổ học (thuộc Viện KHXH Quốc gia tiến hành liên lục 3 lần khai quật, khảo sát di tích này. Sau các lần khai quật, các nhà khảo cổ đã gặp nhiều mảnh gốm cổ bị vỡ, nhiều vòi bình, nhiều di cốt trâu bò, heo và x*ương cá; nhiều dấu vết tro, than, vỏ trái cây, lá dừa n*ước, cùng với vài cọc gỗ có dấu vết đục đẽo. D*ưới độ sâu từ 1,5 đến 3 mét, ở khu vực gò cao, là dấu tích khá rõ ràng của những đền tháp bằng gạch đ*ược xây dựng cạnh nhau, hiện chỉ còn phần nền. Nền tháp đ*ược xây dựng kiên cố với những lớp gạch nung. Có những hố giếng hình vuông, ở giữa có ốc đảo với nhiều kích thư*ớc. Phía đáy hố, ngư*ời ta đôi lúc gặp các mảnh vàng hình vuông hoặc hình tròn cắt hình cánh sen, có khắc thú vật, thư*ờng là hình đầu mặt voi, một ít tro. Ng*ười ta cho đây có thể là những bệ thờ hoặc mộ táng của ngư*ời Phù Nam. Có 12 hố và mộ với dạng hình giếng nằm rải rác trong khu di tích đã khai quật. Theo các tài liệu khảo cổ học đã công bố, có đến hơn 100 hiện vật bằng vàng còn nguyên dạng, một số khác bị vỡ tìm thấy được ở Khu Di tích, trong đó, có vòng đeo tay, hạt chuỗi, hình bông mai, hình tứ giác, hình đầu mặt voi... Các hiện vật tr*ưng bày hầu nh*ư còn khá nguyên dạng. Các nhà khảo cổ đã phân tích một số mẫu vật qua phư*ơng pháp phóng xạ C14 (Cacbon 14), họ kết luận khu di tích khảo cổ Gò Thành có niên đại từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8 sau Công Nguyên. Qua thư* tịch cổ và các di chỉ cho thấy Phù Nam thời ấy là một vư*ơng quốc thuộc vào loại hùng mạnh ở Đông Nam Á, có những thư*ơng cảng lớn, giao thư*ơng với nhiều quốc gia. Phù Nam có cơ cấu xã hội giống như* các nước Nam Á, lấy Thần quyền và V*ương quyền làm nền tảng. Ngư*ời Phù Nam theo Ấn Độ giáo và thờ rất nhiều thần. Đ*ược biết, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch đã công nhận Di tích Khảo cổ Gò Thành là Di tích Lịch sử Văn hoá Quốc gia vào ngày 12/12/1994.

 

Lũy pháo đài Trương Định

Thành đồn pháo đài là một kiến trúc kiên cổ, chân móng làm bằng đá ong, đá xanh cao 8 mét. Bốn phía có cổng, vọng gác, rào chắn. Phần giữa đồn là kho vũ khí, giếng nước và vọng lầu chỉ huy. Thành được đắp theo hình lục lăng. Đá hàn sông do các ghe, thuyền chở từ Biên Hòa về rồi đục thủng cho chìm xuống để không bị dòng nước cuốn đi và tồn tại đến ngày nay.

Di tích lịch sử lũy pháo đài thuộc xã Phú Đông, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Thành lũy này do chính anh hùng Trương Định chỉ huy nhân dân xây dựng để tổ chức đánh Pháp, góp phần vào chiến thắng trong các trận cửa Khâu - Trại Cá vào những năm 1862 - 1863. Đồn lũy được xây dựng trên một địa hình đặc biệt: mặt Đông là biển cả, có bãi cát bồi lớn nên tàu lớn không tiến sát được, lại có rặng cây che khuất. Mặt Bắc là dòng sông Cửu Tiểu, có đập đá làm phòng ngự, trên bờ gắn liền với thành ngoài, là nơi đặt súng thần công. Mặt Tây có rạch đồn và sình lầy, rừng rậm. Mặt Nam một dãy trại dài nối liền lũy đất cát làm phòng tuyến dày đặc những chà là, sình lầy gai góc.

Riêng thành đồn pháo đài được kiến trúc rất kiên cố, chân móng là đá ong, đá xanh cao khoảng 8 mét, rộng từ 3,5 mét đến 4,5 mét. Mặt thành rộng từ 1,8 mét đến 2,5 mét. Bốn phía có các cổng, vọng gác, rào chắn. Phần giữa đồn có kho vũ khí, giếng nước và vọng lầu chỉ huy. Thành đắp theo hình lục lăng. Đá hàn sông do các ghe, thuyền chở từ Biên Hòa về rồi đục thủng cho chìm xuống, do vậy mới không bị dòng nước cuốn đi và tồn tại đến ngày nay. Lũy Pháo đài thể hiện sinh động khí phách kiên cường giữ nước, bảo vệ quê hương của nhân dân Nam Bộ trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Đặc biệt ở mặt Bắc là sông Cửa Tiểu có đập đá phòng ngự - nơi đặt súng Thần công để trấn giữ một cửa biển quan trọng

Lăng Trương Định

Lăng Trương Định tọa lạc ở phường 1, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Khu di tích gồm lăng, đền thờ và tượng đài anh hùng dân tộc Trương Định. Mộ ông được xây bằng đá ong là dạng kiến trúc mộ táng tiêu biểu của người Việt ở Nam Bộ.

Trương Định sinh năm 1820 tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi. Cha ông là Trương Tầm, giữ chức lãnh binh Gia Định. Từ nhỏ, Trương Định đã có tướng mạo khôi ngô, thông hiểu binh thư, võ nghệ. Thời Thiệu Trị, ông theo cha vào Nam, lấy vợ người Tân An, tỉnh Định Tường (tỉnh Tiền Giang) rồi ở luôn ở quê vợ. Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của Nguyễn Tri Phương, ông đứng ra chiêu mộ dân nghèo khai hoang lập ấp ở huyện Tân Hoà (Gò Công). Vì có công lớn, ông được triều đình Huế phong chức Quân Cơ, hàm lục phẩm.

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Trương Định lãnh đạo nhân dân đứng lên chống giặc, làm cho thực dân Pháp bao phen thất điên bát đảo. Ngày 26 tháng 2 năm 1863, Pháp huy động một lực lượng lớn mở cuộc tấn công vào căn cứ nghĩa quân. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Đến rạng sáng ngày 19 tháng 8 năm 1863 ông rơi vào vòng vây địch. Do có sự phản bội, Trương Định đã tử tiết ngày 20 tháng 8 năm 1864, nêu cao khí phách của một vị tướng anh hùng. Nhân dân đã chôn cất ông tại thị xã Gò Công.

 

Mộ Thủ Khoa Huân

Mộ Thủ Khoa Huân tọa lạc tại ấp Hoà Quới, xã Hoà Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Thủ Khoa Huân tên thật là Nguyễn Hữu Huân, sinh năm 1830 tại xã Mỹ Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, thuở bé rất thông minh và học giỏi. Ông đậu thủ khoa trong cuộc thi Hương năm 1852 dưới triều Tự Đức.
Khi thực dân Pháp lộ rõ âm mưu xâm lược nước ta, ông từ quan, liên kết các sĩ phu yêu nước, chiêu mộ nghĩa binh đứng lên chống giặc. Trong 15 năm hoạt động, ba lần bị giặc bắt, ông đã nêu tấm gương sáng về lòng yêu nước và khí phách anh hùng, chúng đày ông đến đảo Réunion - một hòn đảo Đông Nam châu Phi, nhưng ông vẫn không nhụt chí. Ra tù, ông cùng các sĩ phu yêu nước tổ chức lực lượng, đánh địch nhiều nơi. Khi bị bắt, giặc đem tước lộc ra mua chuộc, nhưng không lay chuyển được ông.

Cuối cùng, chúng xử trảm ông tại quê nhà. Trước lúc chết, ông vẫn ung dung đọc thơ, tỏ khí phách của một bậc hiền tài yêu nước. Mộ và đền thờ Thủ Khoa Huân đặt tại xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Tượng đài ông được dựng tại trung tâm yhành phố Mỹ Tho.

 

Lăng Hoàng Gia

Lăng Hoàng Gia tên gọi bao gồm mộ chí và nhà thờ dòng họ Phạm, là “Thích Lý” (họ ngoại của Tự Đức). Khu di tích này nằm tại Giồng Sơn Quy thuộc thị xã Gò Công. Nhân dân địa phương gọi di tích này là Lăng Hoàng Gia. Ấp có di tích này mang tên ấp Hoàng Gia, xã Sơn Quy, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Từ 1987, Lăng Hoàng Gia nằm trong ấp Hoàng Gia thuộc xã Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
Nằm trọn trong xóm dân cư, Lăng Hoàng Gia ở địa thế thuận lợi cho đường ô tô đến di tích nên dễ quy hoạch thành nơi tham quan du lịch.

Dòng họ Phạm là dòng họ sống lâu đời ở Gò Công. Phạm Đăng Khoa là người khai cơ lập nghiệp của dòng họ ở đây. Mộ chí của ông còn tại Giồng Sơn Quy. Đến đời thứ tư của họ Phạm có Phạm Đăng Hưng, người làm quan dưới hai triều: triều Gia Long và triều Minh Mạng. Ông là người có lòng giúp đỡ dân nghèo trong lúc thất bát vì thiên tai địch họa. Nhân dân thường gọi ông là “Ba Bị” vì lúc làm Điền Tuấn Quan, đi đâu ông cũng mang ba bị hạt ngũ cốc để phân phát cho dân nghèo.

Phạm Đăng Hưng sinh năm 1764 tại Giồng Sơn Quy, ông có tư chất thông minh, tướng mạo tuấn tú lớn lên ông cùng Ngô Tùng Châu theo học chữ Nho thầy Võ Trường Toản.

Năm 1784, Phạm Đăng Hưng đỗ Tam trường, đang chuẩn bị thi tứ trường thì bị bệnh nên ông về quê làm ruộng. Nhưng do văn tài lỗi lạc và nổi tiếng là người hiền đức nên được bổ làm quan Lễ Sinh Nội Phủ của triều Nguyễn.

Qua nhiều lần thăng giáng chức vì bị gièm pha ông suýt mang trọng tội. Nhờ tận tụy, nhã nhặn, Phạm Đăng Hưng đã được bổ vào các chức:

- Chưởng Tưởng Dã Sự (trông coi đê điều).

- Quan Thâm Thiên Giám (trông coi thiên văn).

- Quốc Sử Quán Tổng Tài (đứng đầu cơ quan viết lịch sử).

Năm 1824, Phạn Đăng Hưng bị bệnh mất tại Huế, được vua Minh Mạng thăng hàm “Vinh Lộc Đại Phu, Trụ Quốc Hiệp Biên, Đại Học Sĩ, Thụy Trung Nhã” và đưa về an táng tại Sơn Quy. Năm 1849, Tự Đức gia tặng “Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu hái Bảo Cần Chánh Điện, Đại Học Sĩ, tước Đức Quốc Công”. Ông là cha của Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, ông ngoại vua Tự Đức, nên triều đình còn cấp cho dòng họ Phạm nhiều ruộng đất bổng lộc. Toàn bộ di tích lăng Hoàng Gia nằm trên đất Giồng Sơn Quy (là nơi có gò đất cao như mu rùa nên dân gọi là gò Rùa). Tự Đức là Sơn Quy, lay ý nghĩa trong khoa địa lý “cao nhất xích vi sơn”, mang kỳ vọng cho họ ngoại của vua được lâu bền.

Khu di tích bao gồm nhà thờ họ Phạm với diện tích 199 m2, ngoài mộ Phạm Đăng Hưng và sáu ngôi mộ tổ họ Phạm còn có tám ngôi mộ quan trọng khác chôn tại Sơn quy.

Mộ dòng họ Phạm và Phạm Đăng Hưng chôn theo một trục dài đối xứng nhau, toàn bộ đều làm bằng hồ ô đước không chạm khắc. Được bao bọc xung quanh lớp tường dày 80 cm, cao 90 cm. Nhìn tổng thể khu mộ ta thấy mộ Phạm Đăng Hưng đứng đầu, trên một gò cao có dáng mu rùa, mộ xây theo tam cấp, tứ trụ, gồm hai vòng biểu hiện cho tam tài, diện tích hơn 800 m2. Mộ không xây theo kiểu “Ngưu phanh, mã phục” (trâu nằm, ngựa quỳ) như mộ dành cho quan võ. Mộ xây theo dáng “Đỉnh trụ” (chóp đỉnh) như chiếc nón lá buông lỏng nhờ tám cánh tượng trưng như búp sen. Nhìn chung như cái đỉnh, dạng này ít thấy ở mộ cổ. Tương truyền thi thể Phạm Đăng Hưng được chôn ngồi. Mộ chôn theo nội quan ngoại quách bao bọc. Trước mộ có tấm bia đá “Cưm Thạch” hai bên có gắn các mảnh sứ cổ Trung Quốc (nay đã vỡ nát). Nội dung khắc trong bia nói về chức tước được phong của Phạm Đăng Hưng, (ghi bằng chữ Hán đọc được nhưng chưa dịch).

Nhà thờ Phạm Đăng Hưng được xây năm 1826, trên khu vườn đất rộng 2.987 m2, bao gồm nhà thờ chính, nhà khách, nhà kho, cổng tam quan và các công trình phụ tự khác bao bọc chung quanh.
Năm 1849 Tự Đức gia phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc, đồng thời truy tặng ngữ đại họ mẹ Tự Đức. Do đó, nhà thờ được sửa sang theo quy mô nghi thức cung đình, được đặt nhiều biển đại tự để thờ:
- Gian chính giữa thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.

- Gian tả thờ Phước An Hầu Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng.

- Gian tả ngoài cùng thờ Mư Khả Tự Phạm Đăng Tiên.

- Gian hữu thờ Bình Thạnh Bà Phạm Đăng Danh.

- Gian cuối bên hữu thờ Thiền sư Phạm Đăng Khoa.

Nhờ tiền của bà từ Dũ Thái Hậu trợ cấp để xây thêm nhà khách, nhà trà, tàu ngựa để tổ chức đại lễ đón sắc phong của vua từ Huế vào.

Năm 1889, sau khi Thành Thái lên ngôi, đang chuẩn bị vào thăm nên có tu sửa thêm nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng, lam năm tấm biển của Ngũ Tước, tường hồ và cổng bằng gạch theo phong cách phương Tây.
Nhìn chung nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, có lẫn lộn kiến trúc Pháp, nhưng vẫn mang đậm nét kiến trúc truyền thống dân tộc qua các mảng trạm khắc trên Mộ và trang trí bên trong nhà thờ bằng những điển tích rút ra từ “Tứ linh”, “Tứ quý” trong bát bửu cổ đồ mà chỉ có người Á Đông chúng ta quan niệm. Toàn bộ nhà thờ nằm trọn trong khuôn viên cây trái, hoa lá cảnh bao bọc theo kiểu kiến trúc cổ ở Huế, rõ nét Huế mà ta đang thấy ở nội thành Huế.
Hiện vật di tích Lăng Hoàng gia ngày nay không còn nhiều, đa phần là mất hết các di vật cổ có giá trị về mặt cổ vật và nghệ thuật. Chỉ còn lại những hiện vật mà kẻ gian không thể lấy được:

- Bia đá trong phần mộ Phạm Đăng Hưng có kích thước 160 cm x 120 cm x 15 cm bằng đá hoa cương.
- Bảy biển đại tự sơn son thiếp vàng, trên khung có chạm tứ quý được làm vào thời Thành Thái.
- Một khám thờ Phạm Đăng Hưng sơn son thiếp vàng chung quanh chạm “Tứ linh”, “Tứ quý”.
- Một long án chạm tứ linh trước bàn thờ Phạm Đăng Hưng, dài 1,2 mét rộng 1,2 mét chạm khắc rất tinh xảo nhưng đã bị dột nát hư hỏng phần dưới, còn lại bốn bàn thờ bằng cây mới được tạo lập sau này rất đơn giản.
Lăng Hoàng Gia là một di tích lịch sử văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của Nam Bộ nói chung và Gò Công nói riêng. Vì Phạm Đăng Hưng và dòng họ của ông là những người vào đây lập nghiệp từ đầu thế kỷ XVII, nên hiện nay còn một trong bốn đời của ông tại Sơn Quy.
Nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là công trình kiến trúc nghệ thuật hài hòa giữa Á và Âu, nhưng mang đậm nét truyền thống dân tộc, được thể hiện qua các mảng chạm khắc trong nhà thờ và trên mộ.
Khu Lăng Hoàng Gia đã được tô màu đỏ trên bản đồ địa chính, được ghi là “toàn bộ khu di tích nằm trên thửa đất số 822 và số 821” (trích theo biên bản quy định khu vực bảo ve di tích ngày 18 tháng 9 năm 1992 tại văn phòng ủy ban nhân dân thị xã Gò Công).

 

Khu di tích lịch sử Ấp Bắc

Khu Di tích Lịch sử Quốc gia Ấp Bắc thuộc xã Tân Phú, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang cách trung tâm huyện lỵ 10 km về hướng Đông. Tại đây, bia kỷ niệm có ghi:

“Chiến thắng Ấp Bắc ngày 2 tháng 1 năm 1963 đã đánh bại các chiến thuật: bủa lưới, phóng lao, trực thăng vận và thiết xa vận mà đế quốc Mĩ cho là tân kỳ. Chiến thắng Ấp Bắc nói lên đầy đủ ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam; sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân; là tiếng chuông báo hiệu sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm cùng chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ.”.

Từ trụ sở Ủy ban Nhân dân xã Tân Phú đến khu di tích chừng 500 mét. Chính tại nơi đây hơn 40 năm về trước, đã diễn ra trận đánh ác liệt, dồn dập, đi vào lịch sử như một Bạch Đằng, Đống Đa hay Chi Lăng. Khu di tích là một quần thể kiến trúc nằm trong khuôn viên chừng 2 hecta bao gồm: tượng đồng 3 chiến sĩ gang thép, xe bọc thép, máy bay lên thẳng những chiến lợi phẩm sau trận đánh, pháo 105 ly, mộ 3 chiến sĩ gang thép, nhà quản trang, xen kẻ trong khu vườn hoa lúc nào cũng khoe sắc và toả hương thơm ngát. Cạnh vườn hoa là những ao nhỏ, bên dưới trồng hoa súng đỏ. Từng đàn cá rô phi, điêu hồng vô tư lội tung tăng dưới làn nước trong vắt. Du khách có thể ngồi trên những chiếc băng đá phóng tầm mắt ngắm nhìn cảnh vật nơi đây.

Có lẽ ấn tượng nhất trong khuôn viên này là tượng đồng 3 chiến sĩ gang thép cao sừng sửng, nặng 18 tấn: người cầm súng, người cầm thủ pháo hiên ngang đứng trên xe tăng địch, làm cho ta phảng phất hình ảnh của những chiến sĩ cầm cờ Tổ quốc trên nóc hầm tướng De Castrie ở trận Điện Biên Phủ năm nào. Tác giả là nhà điêu khắc Nguyễn Hải, do cơ sở đúc đồng Phương Nam, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, khánh thành nhân kỷ niệm 35 năm chiến thắng Ấp Bắc. Hình ảnh uy nghi của các anh như đưa chúng tôi trở về cảnh súng nổ, bom rền hơn 40 năm về trước.

Từ khi khu di tích được khánh thành đến nay đã đón hàng ngàn lượt du khách trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu. Đây cũng là nơi giáo dục cho học sinh trong tỉnh về truyền thống đấu tranh bất khuất của tổ tiên trong sự nghiệp giữ nước. Rời khu di tích, nhìn hai bên đường, chúng tôi không khỏi vui mừng trước những cánh đồng lúa trĩu hạt, những rẫy dưa chi chít quả căng tròn. Lác đác trên cánh đồng, nhiều mô hình bằng xi -măng xác máy bay, xe M113 bốc cháy. Tất cả như minh chứng cho một sức sống mới trên mảnh đất anh hùng. 

Đình Long Hưng

Đình Long Hưng, còn có tên là Miễu Chánh, nằm bên bờ kênh Nguyễn Tấn Thành, thuộc ấp Long Thạnh, xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, cách thành phố Mỹ Tho 12 km về phía Tây, cách Quốc lộ 1A 2,5km về phía Nam.

Đình được xây dựng từ hơn 150 năm trước, là nơi thờ chính của làng nên nhân dân gọi là miếu Chánh.
Đình được xây dựng theo kiểu chữ “Công”, quay về hướng Đông. Trước đình là một bình phong cao 1,5 mét, hai bên có hai miếu thờ. Đình gồm đình chính và nhà cầu trên diện tích 9.200 m2.
Đình được làm bằng cột gỗ có đường kính 0,3 mét, đặt trên tảng kê hình cổ bồng cao 0,5 mét, mái lợp ngói âm dương, hai đầu bờ nóc gắn hai con rồng bằng sứ chầu mặt trời, các đầu đao đều được gắn cá hóa rồng. Nền đình cao 0,5 mét, lát gạch hoa, chung quanh không có vách, chỉ ở đình chánh có vách bằng gỗ.
Năm 1961, đình bị sập hoàn toàn. Năm 1987, đình được xây dưng lại trên diện tích 129,6 m2 theo dạng tứ trụ, mái lợp ngói âm dương, chung quanh có tường gạch bao bọc, gồm một nơi thờ cúng và một nhà võ ca. Song song với việc thờ cúng các vị thành hoàng, đình còn thờ tả quân Lê Văn Duyệt, một công thần triều Nguyễn, quê ở Long Hưng.

Đình Long Hưng còn là một di tích cách mạng, nơi chỉ huy sở của tỉnh ủy Vĩnh Long trong khởi nghĩa Nam Kỳ.

Chùa Thanh Trước

Chùa tọa lạc tại ấp Gò Tre, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Chùa được dựng vào năm 1826 có tên là chua Phật Linh. Đến năm 1851, hòa thượng Chơn Hội đứng ra tổ chức xây chùa, đổi tên là chùa Thanh Trước. Chùa trải qua bảy đời trụ trì. Năm 1896, hòa thượng Hải Tràng cho trùng tu lần thứ nhất. Từ năm 1941, hòa thượng Hoằng Thông đã cho trùng tu vào các năm: năm 1946, năm 1958 và năm 1989. 

Chùa Linh Thứu

Chùa thường được gọi là chùa Sắc tứ, tọa lạc gần chợ Xoài Hột, xã Thạnh Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Chùa được dựng vào khoang thế kỷ XVIII. Năm 1811, vua Gia Long đổi tên chùa la Long Tuyền. Đến năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên thành Linh Thứu. Chùa được trung tu nhiều lần dưới thời thiền sư Nguyệt Hiện (giữa thế kỷ XVIII), hòa thượng Chánh Hậu (cuối thế kỷ XIX) và các sư bà: sư bà Như Nghĩa, sư bà Thông Huệ và sư bà Như Chơn (từ năm 1945 đến nay). Chính điện chùa được bài trí trang nghiêm, chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ, đại hồng chung (năm 1745), các bao lam chạm trổ công phu và nhiều câu đối có ý nghĩa Phật pháp. 

Chùa Hội Thọ

Chùa nằm ở ấp Mỹ Hưng, xã Thiện Chí, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Nguyên trước đó là chùa Kim Chương ở tỉnh Nam Định. Khi quân Pháp chiếm thành Gia Định, Hòa thượng Minh Giác cùng đệ tử đã về Cái Bè lập chùa rồi đổi tên là chùa Hội Thọ. Trong chiến tranh chùa bị hư hỏng hoàn toàn. Ngôi chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1982 và tu bổ thêm sau đó.

Trong chùa còn lưu giữ một số tượng thờ, bài vị, tự khí, pháp khí của chùa cổ Kim Chương như: tượng Tiêu Điên bằng gỗ cao 1,34 mét, tượng Thập Điện Minh Vương bằng gỗ cao 0,7 mét, tượng Phật A Di Đà bằng đất nung cao 0,55 mét. Trong khuôn viên chùa có tháp thờ hòa thượng Thiệu Long và hai ngôi tháp của hai vị hòa thượng khác.

 

Thiền Viện Trúc Lâm Chánh Giác, Ngôi Chùa Nổi Tiếng Tiếng Giang

Từ ngã ba Trung Lương trên Quốc lộ 1A, theo hướng Tây 6km, chúng tôi đến Long Định, rẽ phải 10km đến thị trấn Mỹ Phước, huyện Tân Phước; đi thẳng 10km nữa thì tới thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác, xã Thạnh Tân, huyện mới Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

Bài tiếp theo: Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác, ngôi chùa nổi tiếng Tiếng Giang (P2)

Gọi là huyện mới nhưng thật ra Tân Phước đã được thành lập từ năm 1994; trước thời điểm này, tôi có dịp hành hương phật về đến mấy xã và vẫn còn ấn tượng về sự xơ xác của vùng này: đất hoang hóa mênh mang một màu nâu rỉ sắt bám chặt phần thân dưới của cây đưng, lác; nước thì trong nhưng thoang thoảng mùi chua khó chịu; trong lúc nắng thì chang chang trên đồng, trên nông trường – vì đây là vùng trũng, rốn phèn Đồng Tháp Mười, phần nằm trong địa phận tỉnh Tiền Giang với sáu tháng mùa khô không nước ngọt và mùa nước nổi thì ngập mênh mông.

ngôi chùa nổi tiếng, chùa nổi tiếng tiền giang, Trúc Lâm Chánh Giác

Chánh điện Trúc Lâm Chánh Giác

 

Huyện đã được thành lập, đã phát triển mạnh mẽ trên vùng hoang hóa để bây giờ tôi có dịp đến chiêm bái thiền viện trúc lâm Thánh Giác, tu học theo hướng Thiền tông Việt Nam; thiền viện mang tên Trúc Lâm Chánh Giác, nằm sâu trong vùng trũng của xã Thạnh Tân, được xem là một trong những thiền viện lớn nhất nước.

Thoáng chốc mà đã 20 năm, thị trấn Mỹ Phước giờ đã ra dáng đô thị; đường từ đây về Thạnh Tân là đường nhựa rộng, một bên là con kênh tàu ghe chạy xập xình, một bên là những ruộng khóm nối tiếp, cảm nhận được không gian sạch, thoáng đãng (tỉnh Tiền Giang có diện tích trồng khóm lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long – khoảng 15 nghìn ha – chủ yếu ở Tân Phước). Tới Tràm Mù, lối vào xã vốn là con đường nhựa nhỏ nay đang được mở rộng để tương thích với tiến độ xây dựng bởi thiền viện cũng tọa lạc sát cung đường này.

ngôi chùa nổi tiếng, chùa nổi tiếng tiền giang, Trúc Lâm Chánh Giác

Mặt tiền chánh điện

 

Cơ ngơi ngôi chùa nổi tiếng này rất hoành tráng với kiến trúc 4 thánh tích Phật giáo, tổng diện tích là 30ha, theo mô hình truyền thống các thiền viện hệ phái Trúc Lâm Yên Tử; 25 hạng mục đã và sẽ xây dựng: 2 khu vực nội và ngoại viện, 4 Tăng đường, 1 thiền đường, 10 thất chuyên tu, không có khu cho Ni nhưng có nhà khách nữ.

Bốn Thánh tích (Tứ động tâm) có tỉ lệ 6/10 so với nguyên mẫu (gồm vườn Lâm Tì Ni nơi Phật đản sinh, Bồ Đề Đạo Tràng nơi Phật thành đạo, vườn Lộc Uyển nơi Phật chuyển pháp luân, Câu Thi Na nơi Phật nhập diệt); tháp Đại giác cũng theo tỷ lệ trên và có chiều cao 31m; ngay trung tâm thiền viện sẽ đắp một hòn giả sơn cao 25m làm thế tựa lưng cho tổ đường, chánh điện.

Thiền viện gần giống thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt nhưng lớn hơn nhiều; đặc biệt vì ở vùng trũng Đồng Tháp Mười nên phải làm trên hệ thống đê bao cao 3,7m để ngăn lũ dâng.

ngôi chùa nổi tiếng, chùa nổi tiếng tiền giang, Trúc Lâm Chánh Giác

Lầu chuông

Tháng 4-2012 đặt viên đá đầu tiên, đến nay thiền viện đã khánh thành 5 hạng mục, gồm chánh điện – có diện tích 1.000 m2, sức chứa 3.000 người; lầu chuông; gác trống; nhà khách cho người hành hương phật ; khu tịnh thất. Ngày 20-10-2013 an vị tôn tượng gồm Phật Thích Ca ở giữa, Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền hai bên chánh điện; từ lúc này thiện nam tín nữ đã có thể lễ Phật tại đây thay vì tại khu nhà tạm trước đó; tượng Phật Bổn sư này tạc bằng đá ngọc cao 4,5m, nặng 30 tấn, do nghệ nhân Myanmar chế tác.

Thiền viện lớn nhất nước đã thành hình, đi vào hoạt động trong lúc công trình chung tiếp tục tiến độ xây dựng, hoàn thiện để kịp hoàn thành vào năm 2016.

Gần ngôi chùa nổi tiếng này, có một vườn thanh long lớn; hỏi ra thì Tân Phước bây giờ không chỉ có khóm và khoai mỡ như lúc mới lập huyện mà đã trồng được lúa và nhiều cây ăn trái, hoa màu như các huyện khác của tỉnh, huyện cũng có hẳn một khu công nghiệp mang tên Long Giang…

ngôi chùa nổi tiếng, chùa nổi tiếng tiền giang, Trúc Lâm Chánh Giác

Trúc Lâm Chánh Giác tọa lạc giữa vùng trũng, rốn phèn Đồng Tháp Mười

 

Chúng tôi đi thêm chừng 2km nữa theo đường Tràm Mù, qua khỏi Ủy ban xã và chợ Thạnh Tân thì đến Khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười của tỉnh, đường nội khu đẹp và sạch; tại đây thấy đã có nhà dừng chân, bãi đỗ xe khá rộng, khang trang nhưng chưa thấy khách. Trước nhà trụ sở của khu có mấy cây đu đủ đang ra trái; gặp nhân viên trực ở đây, chúng tôi được biết rằng khu bảo tồn đang tiếp tục phát triển xây dựng để sẵn sàng cho những hoạt động du lịch sắp tới.

 

Chợ nổi Cái Bè

Chợ nổi Cái Bè xuất hiện trong sự hình thành một thị trấn nhỏ bên dòng sông Tiền lộng gió. Đến vàm Cái Bè, trên một khúc sông rộng, du khách sẽ được tận mắt nhìn thấy cảnh buôn bán tấp nập. Hàng ngày, có khoảng 400 thuyền đến 500 thuyền đầy ắp các loại trái cây neo dọc hai bên sông chờ thương lái đến cất hàng. Ghe xuồng như mắc cửi, tiếng nói cười rộn rã, huyên náo - cái huyên náo không dễ lẫn mà chỉ riêng miền sông nước Cửu Long mới có, mang một nét quyến rũ đặc biệt.

Nằm về phía hữu ngạn chợ nổi Cái Bè là cù lao Tân Phong, xưa là Cồn Cù, thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ, được hợp thành bởi sáu hòn đảo xinh xắn có tổng diện tích 2.430 hecta. Tân Phong như hòn ngọc xanh giữa dòng sông Tiền trĩu nặng phù sa, nổi tiếng với những vườn chôm chôm quả to và ngọt. Đây còn là hình ảnh thu nhỏ của miền Tây Nam Bộ hấp dẫn du khách đến với văn minh miệt vườn.

 

Cồn Lân (Cồn Thới Sơn)

Cồn Thới Sơn có chiều dài khoảng 11 km và chiều rộng khoảng 1 km. Đây là vùng trồng cây ăn quả nổi tiếng, dân số khoảng 6.000 người nằm giữa sông Tiền thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
Cồn được phù sa sông Tiền bồi đắp, trông từ xa cồn như một pháo đài được khai phá cách đây 300 năm. Đây là điểm du lịch của Công ty Du lịch Tiền Giang nằm đối diện với thành phố Mỹ Tho, một hòn đảo giữa sông luôn cuốn hút du khách thập phương.

Từ bến thuyền sau 30 phút ngắm cảnh sông nước miền Tây mênh mông lộng gió, du khách sẽ cập bến Thới Sơn. Dân cư ở đây sống chủ yếu bằng nghề trồng cây ăn quả và đánh bắt thủy sản. Cồn Thới Sơn chằng chịt kênh rạch và các cây ăn trái đặc sản, đặc biệt là cây nhãn.

Năm 1990 toàn bộ cồn Thới Sơn như “bừng tỉnh” sau một giấc ngủ dài khi có điện thắp sáng. Hiện nay, toàn bộ cây được trông tên cồn chủ yếu là nhãn và Sapôchê. Tại đây du khách sẽ thoải mái vào ngắm các vườn cây, nằm trên võng hay ghế xích đu tận hưởng gió mát và thưởng thức các loại trái cây ngon ngọt. Cồn Lân lúc nào cũng đầy cây trái, mùa nào trái nấy. Hết nhãn tới chôm chôm rồi vú sữa, sầu riêng. Hơn thế, du khách còn có thể thưởng thức các món ăn cá, tôm tươi sống, đắc biệt là món Cá Tai Tượng chiên xù. Du khách sẽ có dịp làm quen với những chủ vườn vui vẻ, chân thật, mến khách.

 

 SÔNG TIỀN – SÔNG HẬU

            Sông Tiền hay Tiền Giang là tên của đoạn chảy trên lãnh thổ Việt Nam của dòng chính của sông Mê Kông (phân lưu chính phía đông của Mê Kông bắt đầu từ Phnom Penh). Đoạn đầu nguồn của sông Tiền Giang trên đất Campuchia kể từ Phnom Penh được gọi là Tonlé Bassac Thượng.

 

Sông Tiền có bốn phân lưu và đổ ra biển Đông qua sáu cửa sông, tính từ phía bắc xuống là: 

·    Cửa Tiểu và cửa Đại là hai cửa sông của sông Mỹ Tho, chảy qua Mỹ Tho và Gò Công. 

·    Cửa Ba Lai của sông Ba Lai chảy qua phía bắc Bến Tre. 

·    Cửa Hàm Luông, phía nam Bến Tre, thuộc về sông Hàm Luông. 

·    Hai cửa Cổ Chiên và Cung Hầu của sông Cổ Chiên, chảy qua thị xã Trà Vinh. 

            Tiền Giang chảy qua các tỉnh Việt Nam là Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, và Trà Vinh.

            Sông nối liền sông này với sông Hậu là sông Vàm Nao (ranh giới giữa hai huyện Chợ Mới và Phú Tân của An Giang).

            Sông Hậu, hay Hậu Giang, là một trong hai phân lưu của sông Mê Kông. Phân lưu còn lại là sông Tiền. Mê Kông tách ra thành sông Tiền và sông Hậu tại lãnh thổ Campuchia. Ở Campuchia, sông Hậu được gọi là sông Bassac (Tonlé Bassac theo tiếng Khmer). Vì thế nó còn có tên gọi nữa là sông Ba Thắc. 

            Sông Hậu đổ ra biển Đông qua cửa Tranh Đề và cửa Định An. Cửa Ba Thắc đã bị đất bồi từ khoảng thập niên 1970 nên không còn nữa.

            Trên lãnh thổ Việt Nam, sông Hậu chạy qua tỉnh An Giang, làm ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh Đồng Tháp và Cần Thơ, Vĩnh Long vàcần Thơ, Hậu Giang và Vĩnh Long, Trà Vinh và Sóc Trăng. Đoạn rộng nhất của con sông nay là giữa huyện Cầu Kè (Trà Vinh) và huyệnlong Phú (Sóc Trăng) khoảng gần 4 km. 

            Quốc lộ 1A còn là con đường huyết mạch xuyên suốt từ Bắc tới Nam và là con đường chính của nước ta dưới triều Nguyễn. Nhà Nguyễn dùng con đường này để liên lạc ba xứ Bắc – Trung – Nam.

Con đường này lúc bấy giờ được chia ra làm nhiều trạm, mỗi trạm có nhiều nhà trạm và phu trạm lo việc công văn, đồ đạc của quan lại. Để phục vụ cho việc liên lạc nhanh chóng, Vua cấp cho mỗi trạm vài con ngựa, công văn chuyển đi được niêm phong rất kỹ. Chính nhờ con đường này mà sự lãnh đạo của triều đình Huế đã đến mọi miền đất nước kịp thời góp phần tạo sự bền vững cho nhà Nguyễn trong suốt 150 năm.

Quốc lộ 1A hệ thống giao thông hết sức quan trọng của cả nước, nối liền từ Bắc vào Nam, là cầu nối hai khu vực kinh tế: Vùng ĐBSCL và vùng Đông Nam Bộ và những địa phương khác trong cả nước. Quốc lộ 1A có chiều dài khoảng 3.000km đi qua các tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Đồng Nai, Tp.Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. 

            Ngã ba Trung Lương - có tên gọi như vậy bởi vì trước đây nơi này là Trung tâm di chuyển lương thực của đồng bằng sông cửu long lên Tp.Hồ Chí Minh và một số nơi khác. Tại ngã ba Trung Lương: nếu đi thẳng là vào Thành Phố Mỹ Tho và rẽ phải đi theo quốc lộ 1A về hướng các tỉnh miền Tây. 

 

CẦU RẠCH MIỄU

CẦU RẠCH MIỄU – NIỀM TỰ HÀO CỦA NGƯỜI DÂN XỨ DỪA

Cầu Rạch Miễu là một cây cầu dây văng nối liền 2 tỉnh Tiền Giang (Mỹ Tho) và Bến Tre với nhau. Khi Du Lịch Miền Tây đều được Du Khách nhắc đến cây cầu văng dây - Từ trên cầu sẽ nhìn ngắm được bốn cù lao “chụm đầu” lại, hợp thành “Tứ linh” giữa sông nước mênh mông.

 

Cầu Rạch Miễu nằm trên quốc lộ 60 bắc qua sông Tiền, cách bến phà hiện hữu khoảng 1 km về phía thượng lưu. Đây là chiếc cầu dây văng lớn thứ ba được xây dựng ở đồng bằng sông Cửu Long. Bờ Bắc của cầu này là thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, bờ Nam là huyện Châu Thành của tỉnh Bến Tre, cách tỉnh lỵ Bến Tre 14 km. Đây là công trình do Việt Nam tự đầu tư.

 Chiều dài: 8331 m kể cả đường nối hai đầu cầu. Riêng phần cầu chính gồm 2 cầu số 1 và số 2 có tổng chiều dài 2.868 m, trong đó có một phần là kết cấu dây văng bố trí nhịp 117m+270m+117m, chiều cao tĩnh không thông thuyền 37,5m. Ở giữa cầu là cù lao Thới Sơn. Cầu số 2 dài 990m gồm các nhịp có chiều dài tới 90m để thông thuyền với chiều cao 7m là dầm bê tông cốt thép dự ứng lực thi công theo phương pháp đúc hẫng cân bằng. Các nhịp cầu dẫn là nhịp dầm bêtông cốt thép dự ứng lực chiều dài mỗi nhịp 40m. Hai đoạn đường nối hai đầu có tổng chiều dài 5.463m và 2 cầu chính có tổng chiều dài 2.868m bắc qua 2 nhánh sông Tiền Giang và cồn Thới Sơn.

★ Ngoài cầu chính, công trình này còn bao gồm đường dẫn hai đầu Cầu Rạch Miễu được xem là cây cầu huyết mạch cho sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Bến Tre. Rất khó có cây cầu nào như cầu Rạch Miễu, đứng trên cầu mà hướng về biển Đông sẽ bắt gặp bốn cù lao “chụm đầu” lại, hợp thành “Tứ linh” giữa sông nước mênh mông: Long, Lân, Quy, Phụng. Cù Lao Tứ Linh: Lân - Long - Qui - Phụng Đồng bằng sông Cửu Long Mỗi cù lao đều có nét đặc thù, mang sắc thái riêng tạo nên một quần thể sinh động.

★ Cầu Rạch Miễu chính thức được đưa vào sử dụng, sẽ xóa đi cảnh ngăn sông cách trở của Bến Tre, là điều kiện để cho tỉnh phát triển thuận lợi hơn. Nhưng khi đường cao tốc từ thành phố Hồ Chí Minh về miền Tây (đoạn đường chính khi Du Lịch Miền Tây) đưa vào vận hành và cùng vài thứ khác nữa, lúc ấy Bến Tre mới thật sự trở thành “lá phổi” lý tưởng cho thành phố và các khu công nghiệp trong những ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ, ngày tết.

 

Đi Tiền Giang cẩn thận...

Tiền Giang là một trong những điểm du lịch ngắn ngày về vùng đồng bằng sông Cửu Long thu hút được rất nhiều sự quan tâm của du khách. Nhưng có một điều rất đáng lưu ý cho du khách khi đi du lịch Tiền Giang là nạn "cò du lịch".

Những "cò du lịch" này thường chào mời khách mua dịch vụ tham quan các khu du lịch như Cồn Phụng, cù lao Thới Sơn, hay các lò kẹo ở Bến Tre... Với giá rẻ hơn giá niêm yết của những công ty du lịch địa phương. Nhưng chất lượng dịch vụ thì thua kém rất nhiều...

Đầu tiên là những con đò đưa khách qua bên Cồn chỉ là những con đò nhỏ với những chiếc ghế nhựa chênh vênh và không có phao cứu sinh, bất kể khi ra giữa dòng sông lúc nào cũng có gió to - sóng lớn, thuyền chòng chành chao nghiêng, rất nguy hiểm.

Qua được sông, đến những điểm tham quan đã được mua trước trong gói dịch vụ thì mới biết "thời gian" lúc này là cả một vấn đề. Đưa khách đến tham quan các điểm du lịch nhưng thời gian cho khách tham quan thì vô cùng eo hẹp. Để khách xuống điểm tham quan một lúc, các "cò" sẽ hối khách quay về, nếu khách không xuống đò qua lại bên kia sông thì khách sẽ phải tự đón đò về sau, có khi đi được vài điểm nhưng chưa hết lộ trình định sẵn nếu thích các "cò" sẽ tự ý ngang nhiên kết thúc chuyến tham quan.
Chuyện ăn uống với khách du lịch không may rơi vào tay "cò" cũng là một chuyện đáng nói. Không cần biết khách du lịch có đồng ý hay không, các "cò" cũng vẫn ung dung tấp đò vào các quán ăn đã được móc nối sẵn. Giá cả ở đây thì, khách du lịch dù chỉ ăn những món thật bình dân thì cũng phải mất từ vài trăm nghìn cho đến bạc triệu.

Thành phố Mỹ Tho là một trong những điểm du lịch của Tiền Giang hiện nay có nhiều "cò du lịch" hoạt động nhất. Từ những điểm du lịch như Ngã ba Trung Lương, chùa Vĩnh Tràng cho đến đoạn đường 30 tháng 4, Vườn Hoa Lạc Hồng, nơi nào cũng tấp nập các cò du lịch, vẫy tay mời gọi.

Đi du lịch là tìm lấy niềm vui và thư giãn sau những ngày làm việc mệt nhọc, nên đi như thế nào để chuyến đi của mình thật sự là một chuyến đi vui vẻ và đầy thú vị là một chuyện rất cần thiết, Khách du lịch khi du lịch qua những điểm tham quan trên cần lưu ý không nên nghe những lời mời gọi lôi kéo ngọt ngào với những dich vụ tham quan giá rẻ, hãy từ chối đúng lúc để chuyến du lịch không phải là một cực hình và cũng không phải vác vào người những bực bội vì bị lừa. 

ẨM THỰC TIỀN GIANG

Hủ Tiếu Mỹ Tho

Hủ tiếu Mỹ Tho khác hủ tiếu Tàu, hủ tiếu Nam Vang, Phở Bắc, bún bò Huế…ở chỗ không ăn với xà lách, rau ghém mà dùng giá sống, chanh ớt, nước tư ơng.

Điều làm nên hương vị riêng khiến cho hủ tiếu Mỹ Tho trở nên nổi tiếng và nhiều người "bén mùi" kể từ thập niên sáu mư ơi nhờ sự hoàn thiện từ khâu hạt gạo làm ra cọng bánh tới nồi nước lèo cùng tuyệt kỹ pha chế của các đầu bếp trừ danh đất Mỹ Tho như : Phánh Ký, Nam Sơn, Tuyền Ký, cùng các lớp thợ nấu sau này.
Nhiều người cho biết, hủ tiếu ngon nhất phải làm bằng loại gạo Gò Cát (đặc sản như Đào). Đây là vùng trồng lúa thơm địa phương của xã Mỹ Phong, ngoại thành Mỹ Tho. Cũng cần nói thêm, gạo Gò Cát làm bún, bánh tráng, bánh nghệ nức tiếng Mỹ Tho hơn 40 năm nay. Như ng hủ tiếu ngon phải là bánh khô, khi nấu trụng sơ nước sôi, lư ợm mỡ hành phi, cọng trong bóng, bắt mắt.

 

Sam biển Gò Công

Ngoài các loại cá tôm thiên nhiên ưu đãi, ở vùng biển xã Vàm Láng, Tân Thành, huyện Gò Công Ðông (Tiền Giang) có đặc sản khá hiếm: sam biển. Với hình thù lạ mắt: vỏ cứng như mai cua, mình tròn dẹt, đường kính độ gang tay, tám chân càng nhỏ dưới bụng, phần đầu là mũi nhọn ba cạnh rất linh hoạt dài cỡ 20 cm.

Khoảng từ tháng 10 cho tới tháng 2 âm lịch, sam bắt cặp phối giống và sau đó sam cái mang bụng đầy trứng nhỏ như hạt tiêu đợi ngày sinh nở. Gió chướng thổi về, người dân ven biển chúng tôi sáng sớm đi dọc bờ thỉnh thoảng vẫn bắt được những cặp sam tấp mé.

Ăn sam trứng phổ biến nhất là món nướng. Ðốt bếp than gáo dừa, đặt ngửa sam rồi trở đều tới khi chín vàng, mùi thơm đặc biệt lan xa. Chuẩn bị sẵn bưởi chua tách múi, củ cải thái nhỏ ngâm giấm, rau thơm gồm húng cây, răm, đậu phộng rang đập giập, hành phi, nước mắm chanh, tỏi, ớt. Lật ngửa con sam nóng hổi, tách yếm bỏ ruột, dùng dao bén rạch bụng sẽ thấy trứng đầy ắp, vàng ươm bắt mắt. Phần thịt sống lưng và sát đuôi dai, ngọt. Người ta bảo thịt sam có tác dụng chữa hen suyễn. Dùng muỗng nhỏ múc trứng vào chén riêng, thêm gia vị tùy thích. Trứng sam béo, thơm, nhiều đạm, ngon miệng và rất bổ dưỡng. Nếu chưa muốn ăn ngay thì phơi sam vài buổi nắng cho khô nước rồi treo giàn bếp để dành, lúc cần nướng lên ăn vẫn thơm ngon. Người ta còn đốt cháy vỏ sam, giã nhuyễn trộn với dầu dừa, dùng thoa ngoài da trị dị ứng (ngứa, nổi mày đay...). Có người luộc chín sam, gỡ trứng phi mỡ hành trộn gỏi, giữ nguyên vỏ sam và sơn dầu bóng dùng trang trí nhà chơi. Sam chặt miếng to nấu canh chua với bạc hà, rau nhút hoặc đậu rồng, rau om lai rai lít rượu nếp là đúng điệu.

Có dịp về Gò Công để thưởng thức món sam trứng, bạn sẽ có một ấn tượng

Khó quên!

CẦU MỸ THUẬN

Cầu Mỹ Thuận là một cây cầu được xây dựng bắc qua sông Tiền, nối liền hai tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long. Cầu nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 125 km về hướng Tây Nam, trên Quốc lộ 1A, là trục giao thông chính của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

 

Cầu Mỹ Thuận nối liền giữa hai tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long. Đầu cầu phía Bắc thuộc xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang; đầu cầu phía Nam thuộc xã Tân Ngãi, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Vượt qua sông Tiền nối với tỉnh Tiền Giang.

 

CẦU CẦN THƠ

            Cầu Cần Thơ là cây cầu bắc qua sông Hậu, nối thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long. Tại thời điểm hoàn thành (2010), đây là cây cầu dây văngcó nhịp chính dài nhất tại khu vực Đông Nam Á.

            Cầu Cần Thơ được khởi công xây dựng ngày 25 tháng 9 năm 2004. Ban đầu, công trình được dự kiến hoàn thành vào ngày 14 tháng 12 năm 2008, tuy nhiên sau sự kiện Sự cố sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ ngày 26 tháng 9 năm 2007, công trình phải dừng thi công để điều tra tai nạn. Vì vậy tiến độ hoàn thành bị chậm trễ hơn 1 năm. Cuối cùng, cầu cũng được khánh thành vào lúc 09h00 sáng ngày 24 tháng 4 năm 2010.

            Cầu Cần Thơ có những đặc trưng phổ biến của loại cầu dây văng, cùng môt số đặc điểm riêng như sau:

          Về móng trụ tháp: là loại cọc khoan nhồi có đường kính 2,50 m nhưng có chiều dài vào loại dài nhất được thi công ở Việt Nam: 94 m và mỗi cọc có 45 tấn thép với cốt thép chủ đường kính 38 mm và gần 500 m³ bê tông mác 30 Mpa. Trụ bờ Bắc có 30 cọc và trụ bờ Nam có 36 cọc. Máy khoan cọc nhồi làm việc theo nguyên tắc tuần hoàn ngược liên tục dùng dung dịch bentonite có pha polymer khoảng 5%. Ở trụ bờ Bắc thi công trên bờ nên dùng ống thép đường kính 2,60 m dày 22 mm và dài 12 m làm ống vách tạm thời (khoan nhồi xong rút lên). Ở trụ bờ Nam thi công dưới nước có độ sâu 20 m nên phải dùng ống vách chiều dài 42 m cố định (khoan nhồi xong để lại không rút lên). Chân cọc sau khi đổ bê tông được bơm vữa xi măng bằng bơm áp lực cao để tăng cường sức chịu tải của cọc.

          Bệ trụ tháp bờ Bắc thi công trên cạn nên làm hố móng và lắp khuôn đúc đổ bê tông thông thường. Riêng bệ trụ tháp bờ Nam thi công dưới nước nên mặt đáy và vòng vây xung quanh được đúc sẵn trên bờ và lắp ghép trên đâu cọc thành ván khuôn liền với bệ trụ. Vòng vây xung quanh có chiều sâu ngập trong nước dưới cao trình mặt đáy bệ để che chắn bảo vệ đầu cọc. Đây là phương pháp rất hay vừa tiết kiệm chi phí khuôn đúc, vừa đẩy nhanh tiến độ thi công. Nhưng phải đảm bảo việc định vị các cọc hết sức chính xác trong quá trình thi công khoan nhồi (đặc biệt là thi công dưới nước dòng chảy mạnh và mực nước lên xuống do ảnh hưởng của thủy triều), nếu không chính xác các tấm đáy không lắp ghép được và khó mà bịt kín đáy để thi công cốt thép trong môi trường khô ráo. Cốt thép thi công bệ trụ có đường kính lớn nhất tới 52 mm và nối dối đầu bằng đầu nối có ren, thí nghiệm kiểm chứng cho thấy khi kéo phá hoại cốt thép đứt ở thân chứ không đứt ở mối nối.

          Về trụ tháp có chiều cao tính từ mặt nước là 164,80 m và tính từ mặt cầu là 134,70 m. Trụ có hình chữ Y ngược và hai chân khép vào để thu hẹp diện tích bệ trụ, hình dạng này rất đẹp và thanh thoát, không như hình chữ H xoạc cẳng, trụ có biểu tượng như hai bàn tay chắp lại vái lên trời với tâm linh của người Á Đông.

          Kết cấu phần trên: Nhịp dây văng có chiều dài 550 m giữa hai trụ tháp, có tĩnh không thông thuyền cao 39 m (với chiều rộng tương ứng 200 m) đảm bảo cho tàu 10.000 DWT qua lại thường xuyên.

          Kết cấu mặt cầu là dầm hộp bê tông cốt thép đúc tại chỗ mác 50 Mpa, mặt cắt ngang là hình thang ngược gồm 4 khoang, đáy ở trên có chiều rộng 26,0 m và chiều cao là 2,70 m. Vì chiều dài nhịp 550 m là khá dài đối với cầu dây văng, nên để giảm bớt tải trọng của nhịp chính, đoạn giữa của cầu 210 m được kết cấu bằng dầm hộp thép chế tạo sẵn và lắp ghép với dầm bê tông cốt thép đã được đúc tại chỗ. Chính ở chỗ mối nối giữa dầm bê tông cốt thép và dầm thép phải thiết kế đặc biệt theo mô hình phần tử hữu hạn (FEM) để chuyển tiếp ứng suất giữa hai loại vật liệu có độ cứngvà đàn hồi khác nhau

          Hệ dây văng khác với phương pháp truyền thống là các sợi thép bện thành tao rồi kéo và neo tùng tao trước khi cố định cả bó cáp dây văng. Ở đây toàn bộ bó cáp dây văng được chế tạo sẵn trong nhà máy rồi căng kéo và neo trên công trường chứ không phải kéo từng tao. Tất nhiên thiết bị và công nghệ căng kéo là mới và được áp dụng lần đầu tiên ở Việt Nam.

 

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Lịch sử hình thành thành phố Cần Thơ Vùng đất Cần Thơ về mặt địa chất được hình thành cách nay khoảng 2000 – 2500 năm cùng với sự hình thành của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Sau giai đoạn phát triển rực rỡ của vương quốc Phù Nam và văn hóa Óc Eo kéo dài 6 thế kỷ đầu Công nguyên, do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt và những biến động địa lý khắc nghiệt thời đó, vùng đồng bằng này trở nên hoang vu, dân cư thưa thớt trong một thời gian dài. Đến thế kỷ XVI, XVII, khi các tập đoàn lưu dân kéo đến khai khẩn, vùng đất phương Nam mới thực sự bước sang một tiến trình lịch sử mới với một mô thức văn hóa khác. Trong tiến trình đó, Cần Thơ xưa là “lõm” đất chẳng những được khai phá có phần muộn màng so với miệt trên Đồng Nai - Sài Gòn mà cả với miệt dưới (Hà Tiên). Cuối thế kỷ XVIII, Mạc Cửu vốn là người Trung Quốc không thần phục nhà Thanh, cùng tùy tùng và dân cư theo đường biển kéo vào miệt Hà Tiên khai khẩn, lập nghiệp dưới sự bảo hộ của chúa Nguyễn, được phong làm Tổng binh trấn Hà Tiên, từ đó cư dân qui tụ ngày càng đông. Năm 1732, toàn bộ đất phương Nam được Chúa Nguyễn chia làm 3 Dinh và 1 Trấn gồm : Trấn Biên Dinh (vùng Biên Hòa ngày nay), Phiên Trấn Dinh (Gia Định), Long Hồ Dinh (Vĩnh Long) và Trấn Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất, Mạc Thiên Tích nối nghiệp cha, đẩy mạnh công cuộc khai khẩn ra vùng hữu ngạn sông Hậu, đến năm 1739 thì hoàn tất với 4 vùng đất mới : Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bạc Liêu) được sáp nhập vào đất Hà Tiên. Đây là điểm mốc đánh dấu sự xuất hiện của Cần Thơ trên dư đồ Việt Nam. Nhận thấy Trấn Giang có một vị trí chiến lược để làm hậu cứ vững chắc cho Hà Tiên chống lại quân Xiêm và Chân Lạp thường xuyên xâm lấn, Mạc Thiên Tích tập trung xây dựng về mọi mặt: quân sự, kinh tế, thương mại và văn hóa. Từ 1753, được sự đồng tình của Chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tích cùng với đại thần Nguyễn Cư Trinh đã đưa Trấn Giang phát triển thành một “thủ sở” mạnh ở miền Hậu Giang. Năm 1771, quân Xiêm tấn công Hà Tiên nhưng không chiếm được Trấn Giang. Năm 1774, nghĩa quân Tây Sơn kéo quân vào Nam đánh chiếm thành Gia Định, sau đó kéo xuống miền Tây và Trấn Giang. Sau trận Rạch Gầm Xoài Mút (1/1785), năm 1787, quân Tây Sơn rút khỏi các dinh trấn miền Tây, Trấn Giang trở lại dưới quyền bảo hộ của nhà Nguyễn. Suốt thập niên 70 của thế kỷ XVIII, Trấn Giang trở thành một cứ điểm quan trọng và phát triển mạnh trong bối cảnh lịch sử đầy xáo động. Sau khi Gia Long lên ngôi, qua hai lần điều chỉnh lại dư đồ hành chính, Trấn Giang thuộc địa giới của trấn Vĩnh Thanh. Năm 1813, vua Gia Long cắt một vùng đất phì nhiêu ở bờ phải sông Hậu (gồm Trấn Giang - Cần thơ xưa) lập huyện

Vĩnh Định, thuộc phủ Đình Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Năm 1832, vua Minh Mạng ban chiếu đổi “Trấn” thành “Tỉnh” và chuyển huyện Vĩnh Định sang phủ Tân Thành, tỉnh An Giang; năm 1839, đổi tên huyện Vĩnh Định thành Phong Phú, trực thuộc phủ Tịnh Biên, tỉnh An Giang và lấy làng Tân An làm huyện lị của huyện Phong Phú. Huyện Phong Phú tiếp tục phát triển và nổi tiếng là một vùng đất thịnh trị và an ninh khác hẳn mọi vùng ở miền Tây lúc bấy giờ. Năm 1858, thực dân Pháp chính thức xâm lược nước ta, buộc triều đình Nguyễn phải ký hòa ước 1862 nhượng 8 tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp, Tháng 6/1867, thực dân Pháp vi phạm hòa ước chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây gồm : Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ngày 1/1/1868, Thống đốc Nam kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú với Bãi Sào (Sóc Trăng) thành một quận. Ngày 30/4/1872, ra nghị định sáp nhập Phong Phú với Bắc Tràng là một vùng thuộc phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long lập thành một hạt. Ngày 23/2/1876, Soái phủ Sài Gòn ra nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập nên hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Năm 1889, Pháp đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh và huyện đổi lại là quận. Từ đó đến khi Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam lần thứ 2 năm 1945 và cho đến ngày Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, ký kết hiệp định Genève năm 1954, thì địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ trong thời Pháp thuộc vẫn không thay đổi. Tỉnh Cần Thơ gồm có thị xã Cần Thơ và các huyện Châu Thành, Ô Môn, Phụng Hiệp, Trà Ôn, Cầu Kè. Tuy nhiên, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào hai năm 1948 - 1949 chính quyền kháng chiến có điều chỉnh một phần địa giới hành chính của các tỉnh. Cần Thơ nhận thêm huyện Thốt Nốt (Long Xuyên), các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá (Rạch Giá) và huyện Kế Sách (tỉnh Sóc Trăng). Tỉnh Cần Thơ giao 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè về tỉnh Vĩnh Trà (Vĩnh Long - Trà Vinh).

Bến Ninh Kiều Khi đế quốc Mỹ nhảy vào thay chân Pháp, phá hoại hiệp định Genève, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, địa giới hành chính cũ ở miền Nam nói chung và tỉnh Cần Thơ nói riêng có nhiều thay đổi. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm quyết định đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Về phía chính quyền cách mạng, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tên tỉnh Cần Thơ vẫn được duy trì. Tháng 11/1954, địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ trở lại như trước khi được điều chỉnh năm 1948 - 1949. Năm 1956, hai huyện Trà Ôn và Cầu Kè được đưa về Vĩnh Long. Năm 1957 huyện Long Mỹ trở về tỉnh Cần Thơ, năm 1958, huyện Kế Sách (thuộc tỉnh Sóc Trăng) và năm 1963, huyện Thốt Nốt (Long Xuyên) cũng nhập vào Cần Thơ. Năm 1966, hình thành thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1969, tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ trực thuộc khu Tây Nam bộ, đến 1971 thì trở lại thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1972, thị xã Cần Thơ trở thành là thành phố Cần Thơ, trực thuộc khu Tây Nam bộ. Chợ Cũ Cần Thơ Sau ngày thống nhất Tổ quốc, Chính phủ ta công bố Nghị định số 03/ND-76 ngày 24/3/1976 sáp nhập tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ lập thành tỉnh mới lấy tên là Hậu Giang, tỉnh lỵ là thành phố Cần Thơ. Đến tháng 12/1991, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 8, kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết tách tỉnh Hậu Giang thành 2 tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng. Ngày 1/1/2004, tỉnh Cần Thơ được chia thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang. Thành phố Cần Thơ hiện nay được chia thành 8 đơn vị hành chính gồm 4 quận (Ninh Kiều, Bình Thủy, Ô Môn, Cái Răng) và 4 huyện (Phong Điền, Cờ Đỏ, Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh), trong đó có 4 thị trấn, 30 phường và 33 xã. Nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long, khí hậu hòa thuận, thành phố Cần Thơ có đầy đủ điều kiện để phát triển mạnh về mọi mặt : thích hợp cho sản xuất nông nghiệp, có hệ thống giao thông trọng điểm đường hàng không, đường thủy, đường bộ của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, các khu công nghiệp lớn hoạt động hiệu quả nhất trong khu vực, trường Đại học Cần Thơ, và đầy đủ hệ thống ngân hàng, bưu chính viễn thông và dịch vụ lớn mạnh nhất so với các tỉnh lân cận. Hiện thành phố Cần Thơ đang trên đà phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng

kinh tế (GDP) vào khoảng 15% (2004), trở thành thành phố trọng điểm của khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Đa sắc ẩm thực Cần Thơ

            Ẩm thực Cần Thơ ngày càng thể hiện sự phong phú, đặc sắc bởi không chỉ giữ nét đặc trưng sông nước miền Tây mà còn giao thoa với ẩm thực của nhiều nước: Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… Điều đó mang đến những trải nghiệm thú vị cho du khách đến với vùng đất "gạo trắng nước trong" này.

* Đặc trưng vùng sông nước

Theo nhận xét của nhiều du khách, ẩm thực Cần Thơ là sự kết tinh từ các món ăn đặc sản của nhiều địa phương trong khu vực ĐBSCL. Mỗi món ăn được chế biến theo một cách riêng, nhưng đều có điểm chung là mang "hơi hướm" của văn hóa ẩm thực miền sông nước. Những món ăn đặc sản Cần Thơ đều mang một sắc thái hương vị khác nhau, và đều hấp dẫn thực khách.

Ở Cần Thơ, nhắc đến đường Lê Lai (quận Ninh Kiều), nhiều người đều biết đây là con đường ăn uống với những món ăn giá "bèo", giới bình dân rất ưa chuộng. Trong đó, món bánh bèo trở thành thương hiệu với tên gọi quen thuộc suốt hơn 20 năm qua- "bánh bèo Lê Lai" của cô chủ quán Nguyễn Kim Sương. Nếm qua bánh bèo Lê Lai, thực khách sẽ cảm nhận được dư vị ẩm thực miền Tây khác biệt so với nhiều vùng miền khác, nhất là so với cùng một loại bánh- bánh bèo miền Trung. Bí quyết để tạo nên những chiếc bánh nho nhỏ, xinh xinh, mềm, dẻo thơm, chính là cách làm bột thủ công cùng các nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên như lá dứa, nước dừa… Việc gia giảm vị mặn, ngọt rất đặc trưng của miền Tây cũng góp phần làm nên danh tiếng của bánh bèo Lê Lai. Một đĩa chỉ có vài miếng bánh bèo, ít bánh mì chiên, thịt heo xắt sợi, bì và nước cốt dừa chan ngập mặt bánh. Tùy theo ý thích, người ăn chan ít hay nhiều nước mắm và bỏ chút ớt để thêm vị cay nồng. Đơn giản vậy thôi mà thực khách cứ mải mê gọi hết đĩa này đến đĩa khác và đã thử một lần rồi thì rất dễ đâm ghiền! Ngoài đặc sản bánh bèo, quán còn có nhiều loại bánh khác như: bánh mặn, bánh chuối, gỏi cuốn, bún bì, bánh bò, bánh tằm…với mức giá bình dân từ 4.000 -15.000 đồng/món.

 Thực khách thưởng thức món Thái ở Pattaya Taste Restaurant. Ảnh: Kiều Mai 

Cũng giữ nét đặc trưng của ẩm thực miền sông nước, quán Hồi Đó, đường Trần Bình Trọng, ngoài các món bánh ăn vặt truyền thống (bánh đúc, bánh lá, bánh bột lọc…) còn có bữa cơm "rặt" Nam Bộ với các món: cá kho, canh chua, canh rau tập tàng, rau luộc, cà nướng, kho quẹt, ba khía trộn tỏi ớt… Chị Nguyễn Thị Hồng Đào, chủ quán Hồi Đó, chia sẻ: "Để các món ăn đúng chất Nam bộ, trước tiên nguyên liệu phải mua từ miền quê, và do phụ nữ lớn tuổi ở quê nấu". Hồi Đó có khoảng 30 món ăn, từ món chính đến ăn vặt đều đậm nét chân quê, bình dị giúp du khách thỏa sức thưởng thức để cảm nhận nét văn hóa ẩm thực đặc sắc của vùng sông nước Cửu Long.

Trong khi đó, thế giới ẩm thực của Quyenn, đường Mậu Thân, đưa thực khách đến các món đặc sản từ bún: bún nước lèo, bún bì xíu mại, bún gỏi dà… Hơn 30 năm làm bếp, cô Lê Thị Thu Hòa- đầu bếp tại Quyenn không ngừng góp nhặt công thức từ các địa phương vùng Tây Nam Bộ để tạo nên hương vị "đặc sệt" bản địa. Chẳng hạn, bún gỏi dà phải có tép và tương xay. Tép là một trong thành phần quan trọng của nước súp, tạo nên chất ngọt đặc biệt. Tương xay trộn với đậu phộng rang, đâm nhuyễn và tỏi phi, hòa với nước súp, tạo nên hương vị độc đáo của món bún gỏi dà.

Du khách đến đất Cần Thơ khó có thể từ chối trước sự hấp dẫn của các món ăn dân dã miền sông nước. Và đặc biệt, trong những năm gần đây, ẩm thực Cần Thơ càng đa dạng, phong phú hơn trước các món ăn đến từ nhiều nước trên thế giới…

* Đa sắc ẩm thực quốc tế

            Cần Thơ là "thủ đô", trung tâm kinh tế, văn hóa khu vực ĐBSCL, vì vậy, Cần Thơ cũng là nơi giao thoa với nhiều nền văn hóa ẩm thực quốc tế. Khoảng 2 năm nay, Cần Thơ rộ lên các món ăn Nhật Bản và Hàn Quốc: mì cay, lẩu băng chuyền, sushi, kimbap, tteokbokki (bánh gạo), bibimbam (cơm trộn)… Để thưởng thức các món này, du khách có thể ghé các quán Kichi kichi, King BBQ ở Trung tâm thương mại Vincom Hùng Vương hoặc các quán trên đường Lý Tự Trọng, Lê Lai, 30 Tháng 4…

Mang phong cách Hàn Quốc, quán Omega 3-6-9, đường Mạc Đĩnh Chi, phục vụ mì cay và lẩu băng chuyền. So với lẩu băng chuyền Kichi kichi, mức giá ở đây rẻ hơn, chỉ 149.000 đồng/người, lẩu và nguyên liệu tự chọn cũng khá phong phú. Chị Trần Thị Diễm Kiều, chủ quán Omega 3-6-9, cho biết nét đặc sắc các món ăn Hàn là phải đảm bảo độ cay, thơm và sử dụng nhiều loại rau, nấm tươi. Món bibimbam hấp dẫn bởi sự hài hòa màu sắc: màu đỏ của cà rốt bào sợi, màu xanh của dưa leo, rau, màu trắng của nấm, màu vàng của trứng hòa với tỏi phi….Khi ăn chỉ cần trộn đều các thứ, thêm chút tương cay, tạo nên hương vị khá lạ, đầy hấp dẫn. Với mì cay, sẽ phân chia từng cấp độ (thông thường là 7 độ cay) để du khách có thể lựa chọn phù hợp với khẩu vị cá nhân. Nếu không thích các món Hàn đậm vị cay, du khách có thể thưởng thức cháo ếch Singapore ở đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, Đinh Tiên Hoàng. Nét đặc sắc của món ăn này chính là cách chế biến, nêm nếm gia vị theo đúng hương vị Singapore- hỗn hợp muối, bột nêm, đường, dầu hào, nước tương, dầu mè, rượu Mai Quế Lộ và Kung Pao- sốt gia vị của người Hoa.

Gần đây, Cần Thơ có thêm nhà hàng Pattaya Taste Restaurant, đường Mậu Thân, chuyên phục vụ các món Thái: gà nướng lá dứa, cơm nướng trái khóm, lẩu Tom Yum, Som Tam (salad làm từ đu đủ)…. Anh Võ Quốc Tuấn- chủ nhà hàng Pattaya Taste Restaurant, cho biết: "Ẩm thực Thái phải có hương vị cay nồng, có chút chua, vị béo, có mùi thơm từ gia vị đặc biệt như: chanh Thái, sả, tỏi, riềng… Các món ăn có sự hòa quyện tinh tế giữa nguyên liệu với gia vị, thảo dược". Chẳng hạn, món lẩu Tom Yum, nhất định phải có chanh Thái- loại cây mọc phổ biến ở các vùng biển của Thái, có vị chua, the và rất thơm; hay Cha Yen- trà Thái đặc trưng với vị thơm nhẹ, thanh mát pha chút béo của sữa. Hiện Pattaya Taste Restaurant có khoảng 30 món Thái và sắp tới nhà hàng còn đưa thêm vài món mới như: Khao niew ma muang (xôi xoài), Cà-ri Panang… tạo thêm sự phong phú. Để nấu các món Thái đúng hương vị, anh Tuấn nhập các nguyên liệu từ Thái Lan và công thức chế biến các món ăn cũng học từ chính người Thái bản địa.

Ẩm thực Cần Thơ không chỉ phong phú, sáng tạo trong việc sử dụng nhiều loại nguyên liệu để chế biến ra những món ăn hấp dẫn mà còn thể hiện ở sự chan hòa, gắn bó thân thiết với các nền văn hóa ẩm thực khác trên thế giới. Điều đó góp phần để du lịch Cần Thơ thêm sức hút đối với du khách. 

Chợ Nổi Cái Răng

Các điểm thăm quan du lịch chính ở Cần Thơ phải kể đến Chợ Nổi Cái Răng, chợ này đông vui và náo nhiệt nhất. Cũng vì đó mà khách du lịch đổ về đây khá nhiều. Ngoài ra bạn cũng có thể đi Chợ nổi Phong Điền, ít khách du lịch về chợ nổi này. Do đó chợ khá tự nhiên, tuy nhiên nếu đi muộn thì không được thăm chợ, chợ tan sớm.

Đi chợ nổi Cái Răng bạn nên đi sớm, xuất phát lúc 6h sáng. Ra đến chợ Cái Răng mất khoảng 20 – 30p tàu chạy từ bến Ninh Kiều ra chợ. Nên ăn sáng tại chợ để cảm nhận cái thú của Sông Nước miền Tây, tại đây có các ghe và thuyền nhỏ bán hủ tíu, mì, cháo, tha hồ cho bạn chọn. Cũng có mấy chỗ nhà bè cũng bán đồ ăn nhưng lên đó ngồi ăn thì chẳng có hứng thú gì, đi chợ nổi ngồi ăn trên tàu lắc lư mới thú vị. Ăn xong có thể mua ít trái cây tráng miệng. Cũng xin nói trước là giá trái cây cũng không rẻ hơn trên bờ là bao nhiêu. Có khi còn bị chém nếu ko biết trả giá.

Đi xong chợ Cái Răng, bạn có thể nói tàu chở qua Lò làm Hủ Tíu gần đó tham quan, nhưng đi sớm quá thì người ta chưa làm đâu, vì làm cái này cần có nắng để phơi. Làm hủ tíu cũng như làm bánh tráng, chỉ khác là tráng dầy hơn rồi đem cắt sợi. Tham quan không tốn tiền vì đây là lò hủ tíu địa phương. Khách nước ngoài rất hay được dắt qua đây xem.

Thường thì xem xong lò hủ tíu thì có thể đi về. Kết thúc chuyến thăm quan chợ nổi Cái Răng. Nếu thích bạn có thể tiếp tục tham quan các vườn trái cây. Tuyến này đi sâu vào các con rạch. Vườn cũng không nhiều trái lắm đâu. Nếu đi đúng mùa trái gì thì có trái đó nhiều thui, Ở đây mình có thể ngồi ăn trái cây, uống nước, dạo quanh vườn nghe người nhà vườn thuyết minh cách chăm sóc cây, thu hoạch trái..v.v.. Có nhìu vườn để tham quan, nhưng mình không nhớ tên, cứ hỏi lái tàu thì họ sẽ chỉ.

Tham quan vườn trái cây xong thì có thể quay về. Nếu đi tàu nhỏ (chở 2 – 4 người) thì yêu cầu đi Rạch Nhỏ về. Còn tàu lớn thì miễn bàn nhé, không đi vào được. Đường này đi về mất gần 1h nhưng được tham quan thêm sông nước miền Tây, cảnh vật 2 bên sông. Nói chung là đẹp và yên bình. Đi đường này phải tùy con nước, nước lớn thì đi phà phà, nước nhỏ thì phải chèo, nước cạn thì nghỉ đi. Nói chung là muốn đi tuyến này về cũng phải hỏi lái tàu về con nước và thương lượng trả thêm tiền xăng cho người ta. 

Thuê Thuyền đi chợ Nổi

Giá thuê thuyền riêng đi chợ nổi cũng rẻ khoảng 300k/thuyền. Có thể tham khảo Số điện thoại thuê: 0913733796, họ sẽ qua khách sạn đón bạn. Tham khảo thêm 1 địa chỉ thuê thuyền khác nữa, chị Nga số 0918368697.

Mua vé ghép thuyền lớn, tức là ghép người lại để thuê thuyền lớn. Muốn đi dạng này, bạn qua cầu Cái Răng, vừa qua cầu rẽ phải liền, chạy cặp bờ sông cho tới khi nào thấy cái bến thuyền thì tấp vô, ở đây họ có loại thuyền to, có ghế ngồi, có áo phao mặc đầy đủ.

             Chợ nổi Cái Răng là chợ nổi chuyên trao đổi, mua bán nông sản, các loại trái cây, hàng hóa, thực phẩm , ăn uống và là điểm tham quan đặc sắc của quận Cái Răng,thành phố Cần Thơ.

            Nét độc đáo và đặc điểm chính của chợ nổi Cái Răng là chuyên buôn bán các loại trái cây, đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thuở xưa, chợ nổi hình thành là đường bộ và phương tiện lưu thông đường bộ chưa phát triển, trong khi đó nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa, người ta tụ tập trên sông và bằng các phương tiện như xuồng, ghe, tắc ráng.... Ngày nay, dù mạng lưới giao thông đường bộ đã phát triển rộng khắp nhưng chợ nổi vẫn tồn tại và phát triển ngày một sầm uất hơn.

            Chợ nổi Cái Răng cũng là chợ đầu mối chuyên mua bán sỉ các loại trái cây, nông sản của vùng. Hàng hóa tập trung ở đây với số lượng lớn. Mỗi mặt hàng đã được phân loại cho đồng đều về chất lượng, kích cỡ. Nếu như dân địa phương và các vùng lân cận thường sử dụng các ghe, xuồng trung bình chở các mặt hàng nông sản đến đây tiêu thụ thì những ghe bầu lớn là của các thương lái thu mua trái cây tỏa đi khắp nơi, sang tận Campuchia và Trung Quốc. Hòa mình vào không khí nhộn nhịp của buổi chợ, du khách có thể quan sát, tìm hiểu sinh hoạt của nhiều gia đình thương hồ với nhiều thế hệ chung sống trên ghe. Có những chiếc ghe như "căn hộ di động" trên sông nước với những chậu hoa kiểng, các loài vật nuôi, các tiện nghi đầy đủ như ti-vi màu, đầu dĩa, dàn âm thanh... Có cả xe gắn máy đậu trên ghe.

            Chợ Cái Răng thường họp khá sớm, thường từ lúc mờ sáng và đến khoảng 8, 9 giờ thì vãn.

         Khách tham quan nên đi vào khoảng 7-8 giờ là tốt vì có thể tham quan đúng vào lúc chợ hoạt động đông đúc nhất.

          Chợ không hoạt động và hoạt động rất ít vào các ngày Tết Âm Lịch (mồng 1 và mồng 2 Tết, Tết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng Năm âm lịch).

          Do nhu cầu của người đi chợ nên không chỉ có các xuồng trái cây, nông sản phẩm mà còn có nhiều loại dịch vụ khác: phở, hủ tiếu, cà phê, quán nhậu nổi... Các xuồng dịch vụ (thường là thuyền nhỏ) len lõi phục vụ khách đi chợ và cả khách tham quan.

Chợ đã nổi từ nửa đêm về sáng

Ta vẫn chìm từ giữa bữa hoàng hôn

Em treo bẹo Cái Răng Ba Láng

Ta thương hồ Vàm Xáng Cần Thơ

 Các điểm tham quan ở Cần Thơ

1/Chùa Ông - Di tích lịch sử văn hóa độc đáo của Cần Thơ

            Quá trình hình thành, phát triển, đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của mỗi vùng đất đều được lưu giữ qua những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Tại Cần Thơ, có một di tích lịch sử văn hóa tuổi đời hơn trăm năm, được nhiều thế hệ giữ gìn trọn vẹn đến nay, là một phần tâm hồn và di sản của người Tây Đô. Đó là miếu thờ Quan Đế, mà dân gian vẫn quen gọi bằng tên thân thuộc Chùa Ông, tọa lạc trên đường Hai Bà Trưng, phường Tân An, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ – đối diện Bến Ninh Kiều.

Theo các tư liệu khắc gỗ hiện có, chùa Ông bắt đầu xây dựng vào năm 1894, đến năm 1896 hoàn thành, trên diện tích 532m2. Hầu hết các vật liệu để xây chùa đều được đưa từ Quảng Đông sang. Vừa vào cổng, là bảng đại tự "Quảng Triệu Hội Quán". Công trình do nhóm người Hoa gốc từ Quảng Châu và Triệu Khánh lập ra, nên có tên "Quảng Triệu Hội Quán", là nơi thờ phượng, giao lưu, gặp gỡ đồng hương, giúp nhau làm ăn để an cư lạc nghiệp ở vùng đất mới. Đây là ngôi chùa hiếm hoi của Cần Thơ nói riêng và cả nước nói chung còn giữ nguyên trạng cổ kính và giá trị nghệ thuật kiến trúc với những ý nghĩa tín ngưỡng đặc trưng từ lúc xây dựng đến nay, dù trải qua nhiều năm chiến tranh, nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.

            Ngôi chùa có bố cục kiến trúc hình chữ Quốc, mái lợp ngói âm dương. Các đầu kèo, xuyên trính được chạm khắc họa tiết, hoa văn mang phong cách cổ điển, sơn son thiếp vàng theo truyền thống nghệ thuật miếu vũ. Các gờ bó mái bằng gốm tráng men lưu ly xanh biếc lẫn với sắc rêu phủ, tạo nên một vẻ cổ kính. Chùa Ông tiêu biểu cho lối kiến trúc đền miếu của người Hoa, với đôi lân chầu hai bên cửa chính gợi ý nghĩa thái bình, thịnh vượng. Bên cạnh các biểu tượng long phụng, còn có tượng Ông Nhật Bà Nguyệt là điềm báo cát tường, tượng trưng cho âm dương trong văn hóa Á Đông.

Trên nóc chùa trang trí lưỡng long tranh châu, hai bên là hình tượng cá hóa long sắp xếp đăng đối. Đây là kiểu thức trang trí khá phổ biến tại các chùa Hoa ở Nam bộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Ngay bên dưới là các quần thể tiểu tượng bằng sành sứ nhiều màu sắc, diễn tả cảnh tiên giới xen lẫn trần thế, thủ pháp tạo hình cũng nửa thực nửa hư. Theo lời kể của các vị cao tuổi, những mảng trang trí này được đưa từ       Quảng Đông sang, thể hiện rõ nghệ thuật gốm thủ công của nghệ nhân người Hoa đời nhà Thanh.

Chùa Hoa thường không có vườn cây bao quanh như chùa của người Việt, Khmer, thay vào đó là sân kiểng được vây quanh bởi tường gạch, hai bên trang trí các mảng phù điêu đắp nổi bằng đất nung đối xứng nhau. Trong sân đặt hai hàng bát bửu, cách điệu hóa bửu bối của Bát Tiên, từ chiếc giỏ lam của Lam Thái Hòa, thanh gươm của Lã Đồng Tân cho đến cái lẵng hoa của Hà Tiên Cô. Từ sân thiên tĩnh vào chính điện, có một dãy ba bàn hương án bằng đá mài, nơi khách hành hương chuẩn bị lễ vật và thắp nhang trước khi vào chiêm bái.

Chùa Ông

            Trên 2 cánh cửa chính của chùa có vẽ hình 2 vị thần trấn môn là Tần Thúc Bảo và Uất Trì Cung oai dũng trong truyện "Thuyết Đường". Bước vào, trên có tấm nghi môn "Hiệp Thiên Cung", đưa khách vào chốn thiêng liêng đối với tín ngưỡng dân gian của người Hoa, nơi thờ các vị thần, các nhân vật hiển thánh được cộng đồng sùng bái. Bên phải là bàn thờ Phúc Đức Chính Thần, mà người Hoa quen gọi là "Ông Bổn", tức là Bổn đầu công Trịnh Hòa – người có công phát triển cộng đồng người Hoa ở hải ngoại, được người Hoa cúng vào ngày 15 tháng 3 âm lịch. Bên trái là bàn thờ Mã tiền tướng quân cùng ngựa Xích Thố của Quan Công.

Gian giữa thờ Quan Vân Trường hay còn gọi là Quan Công, nhân vật lịch sử đời Tam Quốc, được người Hoa kính ngưỡng về lòng trung nghĩa và chí khí anh hùng. Tượng Quan Công tạc bằng gỗ, mặt đỏ, râu năm chòm, mặc áo bào xanh ngồi trong hổ trướng, hai bên có hai tướng hầu cận là Châu Xương và Quan Bình, đã trở thành hình tượng bất hủ trong lòng mến mộ không chỉ của người Hoa. Ngày 24 tháng 6 âm lịch hàng năm là ngày vía Quan Công với lễ vật là các món chay và hoa quả, nhang đèn. Bên phải thờ bà Thiên Hậu, một nhân vật hiển thánh được sắc phong vào đời Tống, được người Hoa tôn sùng là vị thần phò hộ cho những người đi biển, độ trì cho lữ khách tha hương. Chùa Ông cúng Bà bằng lễ vật heo quay sơn đỏ vào ngày 23 tháng 3 âm lịch hằng năm. Bên trái của chánh điện, có thờ nhân vật đặc biệt là Đổng Vĩnh Trạng Nguyên, một thư sinh đời Hậu Hán được ghi tên trong sách "Nhị thập tứ hiếu", người mà đức hiếu thảo đã làm động lòng trời, sau đỗ đạt thành danh. Bên cạnh là bàn thờ Tài Bạch tinh quân, dân gian quen gọi là Thần Tài, vị thần mà những người buôn bán kinh doanh đều mong được Ngài gõ cửa. Lễ vía Tài bạch tinh quân vào ngày 22 tháng 7 âm lịch hằng Các kiểu thức trang trí ở Chùa Ông

            Đức Phật duy nhất được phối tự ở chùa Ông là Quan Thế Âm bồ tát, thể hiện sự tín ngưỡng dân gian về quyền năng cứu khổ, phò nguy và độ trì chúng sinh. Khách thập phương đến để chiêm bái, cầu phúc. Hình thức cầu phúc thường thấy ở đây là lệ cúng nhang khoanh. Người ta viết tên của người cầu phúc lên các tấm thẻ bài, bằng chữ Quốc ngữ hay chữ Hán tùy theo thân chủ rồi gắn vào khoanh nhang.

Để có ánh sáng và thông gió cho nội thất, chùa Ông được bố trí một khoảng trống trên mái, gọi là thiên tĩnh, tức "giếng trời". Đây còn là nơi thoát khói cho hàng trăm khoanh nhang tỏa ra suốt ngày đêm. Mái chùa với hệ thống vì kèo phức tạp được nâng đỡ bởi các cột gỗ tròn sơn màu đỏ, kê tán đá xanh, tô điểm bằng các đôi liễn đối, các tấm hoành phi. Có thể nói, nét nổi bật của chùa Ông là nghệ thuật điêu khắc chạm nổi trên những phù điêu hiện diện khắp nơi, từ các bao lam, hoành phi, liễn đối với nội dung vô cùng phong phú, rút ra từ các huyền thoại, lịch sử, hoặc được chạm chìm với các đề tài như mai, lan, cúc, trúc, cá hóa long,… Ngoài nghệ thuật điêu khắc trên gỗ, các nghệ nhân còn thể hiện tài năng của mình ở nghệ thuật thư pháp: các kiểu chữ "triện", "thảo" được khắc chạm trên hoành phi, liễn đối, lư, chuông đồng,… rất đẹp và tinh xảo.

            Từ Hội quán của đồng hương Quảng – Triệu, chùa Ông dần trở thành nơi thể hiện tình đoàn kết tương trợ giữa đồng bào người Hoa, và giữa người Hoa với các dân tộc anh em cùng chung sống bên bờ Hậu Giang. Từ đời này sang đời khác, Hội quán vẫn được những người do cộng đồng bầu cử từ vị hội trưởng đầu tiên của Quảng Triệu Hội Quán là ông Huỳnh An Thái, cũng chính là người có công hiến đất xây chùa đến vị hội trưởng hiện nay là ông Quan Sư quản lý điều hành công việc thường ngày của Hội.

Người dân Cần Thơ có lệ viếng chùa Ông vào phút giao thừa, thắp nén hương tống tiễn năm cũ, với lòng thành và niềm ước vọng về một năm mới, mang theo nhiều vận hội tốt đẹp cho bản thân và gia đình. Chùa Ông còn là điểm thu hút khá dông khách du lịch trong và ngoài nước. Ngôi chùa là nơi lưu giữ cho đời sau những giá trị mà người đi trước đã tạo nên, và cùng với các danh thắng khác làm nên vẻ đẹp phong phú của mảnh đất Tây Đô. Chùa Ông đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia vào ngày 21-6-1993.

 

2/Làng Cổ Bình Thủy

Bình Thủy là một làng cổ ở Cần Thơ, nổi danh "địa linh nhân kiệt" với nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng cùng nhiều công trình kiến trúc cổ kính. Từ trước đến nay, địa danh Bình Thủy vẫn được giải thích bằng giai thoại về Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt đi tuần thú và đặt tên cho vùng đất này, năm 1852. Tuy nhiên, theo những sử liệu mà chúng tôi cất công sưu tầm, địa danh Bình Thủy đã tồn tại từ trước đó.

Giai thoại về vùng sông nước bình yên

Từ trước đến nay, có nhiều tài liệu giải thích về tên gọi Bình Thủy (Cần Thơ); trong đó, được nhiều người chọn làm căn cứ là tư liệu trong cuốn "Cần Thơ xưa" của nhà nghiên cứu Huỳnh Minh. Tựu trung cách giải thích của các tài liệu đều giống nhau khi cho rằng, làng Bình Thủy xưa có tên gọi là làng Long Tuyền, trước đó nữa có tên là Bình Hưng, sau đổi thành Bình Phó. Tác giả Huỳnh Minh kể rằng, thời có tên là Bình Hưng, Bình Phó, vùng đất này có hoa màu, ruộng đất chưa được khai thác triệt để, dân cư thưa thớt. Nguồn nước chảy trong lành, trong lưu vực từ cồn Linh đến xã Thới Bình, sông sâu mà không có sóng to gió lớn. Mãi đời vua Gia Long thứ 15 (năm 1816), long cuộc trổ ra, làng Long Tuyền ngày càng xinh đẹp, trù phú.

           Làng cổ Bình Thủy – Long Tuyền có từ rất lâu và đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập "Tốp 5 ngôi làng cổ có niên đại hàng trăm năm nổi tiếng của Việt Nam". Trong ảnh: Đình Bình Thủy được sắc phong vào năm 1852.

            Đến thời Tự Đức thứ 5 (năm Nhâm Tý 1852), quan Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt ngồi thuyền đi tuần thú vùng đất Long Tuyền, vừa đến cồn Linh thì gặp phải trận cuồng phong, sóng to gió lớn khiến ai nấy đều kinh hoàng. Một viên quan tùy tùng sau khi xem địa cuộc đã bẩm với quan Tuần phủ họ Huỳnh rằng: "Nơi xa xa kia có chỗ yên lặng cho thuyền đến đó núp gió, ắt an toàn". Quan Tuần phủ thuận lòng, cho cả đoàn tuần thú vào một vàm rạch và quả nhiên, nước êm như hồ, "xem ra có long cuộc". Sau khi hỏi dân làng thì quả nhiên nơi đây là một vùng sông nước bình yên, hoa màu thịnh vượng, dân an cư lạc nghiệp. Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt khen địa thế như "rồng nằm" và tuyên bố với dân làng rằng: "Nay ta nhờ theo dòng nước đến đây mà được bình yên vô sự. Vậy ta đặt tên cho chỗ này là Bình Thủy".

            Tác giả Huỳnh Minh còn thông tin thêm, sau đó cụ Tuần phủ họ Huỳnh đã dâng sớ tâu với triều đình và vua Tự Đức đã ban sắc phong thần cho đình Bình Thủy cũng trong năm 1852.

Địa danh Bình Thủy có từ năm 1852?

Căn cứ vào giai thoại và thời gian trên, nhiều người vẫn mặc định địa danh Bình Thủy ra đời vào năm 1852 và giai thoại về quan Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt là cách giải thích ý nghĩa địa danh.

Văn bản xin xây cất chùa Long Quang vào năm 1835.

            Tuy nhiên, căn cứ vào nhiều sử liệu có được, chúng tôi đưa ra 4 lập luận khẳng định rằng, địa danh Bình Thủy đã có từ trước năm 1852. Đầu tiên, đó là văn bản về việc xin xây cất chùa Long Quang (Di tích Lịch sử- Văn hóa quốc gia, tọa lạc ở phường Long Hòa, quận Bình Thủy) hiện còn được lưu giữ tại ngôi chùa này. Theo đó, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), tăng Võ Văn Quyền có đơn xin Tuần phủ An Giang và tri huyện Vĩnh Định cho xây dựng chùa (lúc bấy giờ tên là Long Trường). Một phần lá đơn tạm dịch như sau: "Tôi là tăng Võ Văn Quyền, trụ trì chùa Long Trường, sinh năm Đinh Tỵ 1797, ba mươi chín tuổi, quán làng Bình Thủy, tổng Định Thái, huyện Vĩnh Định, bẩm rõ cho quan xét soi rằng, do nhân duyên nên vào năm Gia Long thứ 6 (1807), tôi đầu phục thọ trì giáo pháp với Thiên An Hòa thượng ở chùa Linh Quang. Đến năm thứ 13 (1814), tôi phát nguyện thế độ. Qua năm thứ 16 (1817) được nhận vào tăng giới.     Đến năm Minh Mạng thứ 5 (1824) tôi trở về bổn quán là làng Bình Thủy tự thân tạo lập một tòa am nhỏ sùng tu đạo Phật…". Lá đơn được tri huyện Vĩnh Định phê vào mùng 9 tháng 10, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), và có dấu triện của quan Tuần Phủ An Giang. Thiết nghĩ, đây là căn cứ khoa học và đủ tin cậy để khẳng định, ngay từ năm 1835 đã có làng Bình Thủy, thuộc huyện Vĩnh Định.

Căn cứ thứ hai là năm 2005, NXB Tổng hợp Đồng Nai ấn hành cuốn "Gia Định Tam gia", giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp thơ văn và tuyển chọn các tác phẩm tiêu biểu của 3 nhân vật nổi tiếng ở Gia Định thời Nguyễn là Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh và Lê Quang Định, do học giả Hoài Anh biên dịch, chú giải. Trong cuốn sách này, ở trang 181, có giới thiệu bài thơ "Bình Thủy quy phàm" của Trịnh Hoài Đức. Bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú, tạm dịch là "Bình Thủy buồm về". Trong đó, 2 câu kết là:

"Hương gia cận tiếp bồng song hạ

Cổ duệ tà dương chước túc cô"

Tạm dịch là: "Làng quê gần tiếp với cửa bồng. Mái chèo khua bóng trời chiều, chuốc ly rượu trắng sẵn có". Phải chăng, "làng quê gần tiếp với cửa bồng" chính là tác giả đang miêu tả vàm rạch Bình Thủy, hai bên là đình Bình Thủy và Nam Nhã Đường? Điều đáng chú ý là Trịnh Hoài Đức (1765-1825) làm quan dưới thời Nguyễn. Căn cứ vào năm sinh, năm mất của học giả họ Trịnh, có thể khẳng định, làng Bình Thủy đã rất nổi tiếng từ trước năm 1852 khá lâu, ít nhất là trước năm 1825.

Căn cứ thứ 3 cũng từ năm mất của học giả Trịnh Hoài Đức bởi ông là tác giả của cuốn biên khảo nổi tiếng "Gia Định thành thông chí". Trong công trình này, ở quyển II- Sơn Xuyên chí, phần trấn Vĩnh Thanh, sử liệu ghi rõ: "Sông Cần Thơ, ở bờ Tây sông Hậu Giang, rộng 8 tầm, sâu 5 tầm, cách trấn lỵ, về phía Nam 210 dặm rưỡi, ở bờ Tây làm thủ sở đạo Trấn Giang, phố chợ đông đúc, khách buôn tụ họp… Đến ngã ba, ngách Bắc chuyển sang Đông 1 dặm rưỡi, đến sông Bình Thủy ra Hậu Giang. Trước nửa dặm, đi về Bắc, chuyển sang Đông 1 dặm, ra Ô Môn mà đến Hậu Giang… ". Rõ ràng, trong phần này, khi tác giả miêu tả sông Cần Thơ đã có nhắc đến sông Bình Thủy. Nhiều học giả cho rằng, công trình "Gia Định thành thông chí" được Trịnh Hoài Đức viết dưới thời Gia Long (1802-1820). Tuy nhiên, cho dù thời gian nào thì cũng không thể quá năm 1825 khi ông mất. Vì vậy, căn cứ này cũng cho thấy sự ra đời sớm hơn năm 1852 của địa danh Bình Thủy.

            Cuối cùng, chúng tôi căn cứ vào việc cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, người con của làng Bình Thủy- Long Tuyền đỗ Thủ khoa tại khoa thi năm Ất Mùi, đời vua Minh Mạng thứ 16 (năm 1835). Chúng tôi tra cứu trong cuốn "Quốc Triều Hương Khoa Lục" của cụ Cao Xuân Dục, công trình biên niên các kỳ thi Hương ở nước ta dưới thời Nguyễn, trong đó có "lý lịch trích ngang" đơn giản của hơn 5.000 người đậu Cử nhân từ năm 1807-1887. Trong khoa thi năm 1835 tại Trường Gia Định, do Tuần phủ Khánh- Thuận Hoàng Quốc Điều làm Chủ khảo, Án sát Khánh Hòa Hà Đăng Khoa làm Phó Chủ khảo, đậu 9 người, trong đó cụ Bùi Hữu Nghĩa đạt giải Nguyên (Thủ khoa). "Lý lịch" của cụ được vinh danh là: "Bùi Hữu Nghĩa. Người thôn Bình Thủy, huyện Vĩnh Định. Làm quan tới chức tri huyện…". Như vậy, từ năm 1835 (thời Minh Mạng thứ 16), địa danh Bình Thủy đã có, chẳng những vậy còn là địa danh hành chính ở trấn Vĩnh Thanh. Tuy nhiên, căn cứ chỉ mang tính tham khảo vì cụ Cao Xuân Dục viết sách này sau năm 1852; vì vậy có hai khả năng: cụ Cao sao chép y "lý lịch" của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa thời điểm thi 1835 hoặc cụ Cao viết theo đơn vị hành chính lúc đương thời.

Qua những sử liệu trên, có thể thấy rằng, địa danh Bình Thủy đã có từ trước năm 1852. Tuy nhiên, giai thoại về quan Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt được vùng đất này che chở "sóng yên gió lặng" là một câu chuyện đẹp, thể hiện địa thế, long cuộc của vùng đất Bình Thủy xưa (và cả hôm nay). Người viết bài này mong muốn nêu ra một số lập luận để làm sáng tỏ hơn về lịch sử một vùng đất cổ xưa của Cần Thơ và hy vọng được tiếp nhận nhiều ý kiến phản hồi từ độc giả. 

3/Ngôi nhà cổ đẹp Nhất Miền Tây

            Cần Thơ (được mệnh danh là vùng đất Tây Đô) có hơn 70 ngôi nhà cổ mang nhiều giá trị văn hóa lịch sử. Nhà cổ Bình Thuỷ Nằm ngay trên đường Bùi Hữu Nghĩa, phường Bình Thủy, ngôi nhà cổ của gia đình họ Dương (xây từ năm 1870), mỗi năm đón tiếp hàng ngàn lượt khách trong ngoài nước đến tham quan.

nhà cổ bình thuỷ

Nhà cổ Bình Thuỷ một kiến trúc độc đáo

Nhà cổ Bình Thủy

Mang kiến trúc Pháp, là sự kết hợp giao lưu văn hóa Đông – Tây, được thể hiện nhiều họa tiết hoa văn đẹp mắt. Hiện nay, hậu duệ đời thứ sáu họ Dương là ông Dương Minh Hiển cùng gia đình tiếp tục kế thừa và giữ gìn. 

Bước qua rào cổng kiên cố bằng bê tông và sắt theo kiểu dinh thự Pháp, du khách bắt gặp một cổng phụ nằm thẳng hàng với cổng rào, chếch về bên trái từ đường, xây dựng theo kiến trúc Á Đông. Hệ thống rui, mè, xà ngang bằng gỗ, mái lợp ngói ống, gờ bó mái bằng men xanh lục. Trên bờ nóc, đầu hồi trang trí hoa lá, cá vàng, kỳ lân, người cưỡi trâu, bình hoa... Bằng xi măng.

Ngôi nhà rộng năm gian hai chái. Sân trước rộng lót gạch Tàu, lối vào nhà xây bốn cầu thang hình cánh cung tao nhã, nối kết nhà với khoảng sân rộng. Nhà rộng thênh thang với sáu hàng cột gỗ lim đen bóng. Kết nối giữa hệ thống cột, xà là những chi tiết gỗ màu nâu chạm trổ hết sức tinh vi. Nhờ hệ thống cửa và cửa sổ thoáng đãng, dù trời nắng chang chang nhưng trong nhà vẫn rất mát mẻ. Toàn bộ gạch bông hoa hồng đỏ – đen lát nền nhà với hàng rào sắt đúc bảo vệ khuôn viên đều được đặt và chở từ Pháp sang. Ngôi nhà được chủ nhân xử lý chống mối và giữ độ lạnh trong nhà rất độc đáo, bằng cách rải đều dưới nền hơn 10cm muối hột, không dùng xi măng để xây mà dùng keo ô dước, toàn bộ hệ thống kèo và cột được nối kết không phải bằng đinh mà bằng mộng – ngoàm; luật đối xứng có âm có dương, có tả có hữu, có trước có sau được gia chủ đặc biệt chú ý...

nhà cổ bình thuỷ

Nhà cổ Bình Thủy Cần Thơ

             Điều đặc biệt, dù cách bài trí và nhiều đồ dùng trong nhà cổ mang phong cách Tây Âu, nhưng nơi trang trọng nhất là gian thờ vẫn theo phương Đông. Sự giao tiếp văn hóa Đông – Tây khá hài hòa, thể hiện được thẩm mỹ tinh tế của chủ nhân. Đây là mẫu nhà cổ hiếm hoi còn sót lại khá nguyên vẹn giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu đời sống sinh hoạt, văn hóa cũng như tiến trình phát triển dưới nhiều tác động khác nhau lúc giao thời giữa hai thế kỷ của cư dân đồng bằng sông Cửu Long.

            Đến nhà cổ Bình Thủy, du khách còn có thể đàm đạo với gia chủ để hiểu thêm những điều lý thú khác như vị trí trong bữa ăn của một gia đình xưa như thế nào (con trai ngồi bên phải, con gái ngồi bên trái và cha mẹ ngồi giữa mặt hướng ra cửa chính), hòn non bộ vì sao xây trước cửa lớn; làm thế nào để thể hiện được khát vọng của gia chủ về một giang san thái bình, gia đạo an vui, cốt cách hướng thiện…

Vườn Lan Và Kho cổ vật ở nhà cổ Bình Thuỷ

            Nhà cổ của gia đình họ Dương còn có một tên gọi khác là vườn lan Bình Thủy, bởi hậu duệ đời thứ năm của ngôi nhà là ông Dương Văn Ngôn có thú chơi hoa kiểng, xương rồng. Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, ông đã sưu tầm được nhiều giống lan quý rồi bắt đầu tổ chức các hội chơi lan, kết hợp mở tuyến du lịch đến nhà vào những năm 1980 để những người cùng sở thích có dịp trao đổi kinh nghiệm, cùng thưởng thức thú chơi hoa và làm thơ. Trước sân có hòn non bộ, hoa kiểng, bên phải là vườn lan, góc bên có cây xương rồng Mexico Kim lăng trụ cao khoảng 10m, khoảng 40 năm tuổi, năm 2005 cây ra hoa lần đầu tiên trông rất lạ mắt.

Ngoài ra, trong ngôi nhà còn có một “kho cổ vật” được gìn giữ qua nhiều đời như hai bộ bàn ghế có xuất xứ từ Vân Nam (Trung Quốc), mặt bàn bằng đá cẩm thạch vân xanh đường kính 1,5m, dày hơn 6cm; bộ sa–lông kiểu Pháp đời Louis 15, mặt bằng đá cẩm thạch sắc xanh; chùm đèn bạch đăng; tách chén nậm trà, rượu đời Minh – Thanh; bình Thượng ngọc men xanh cao 1,2m... Thú chơi đồ cổ của gia đình họ Dương đất Bình Thủy đã lẫy lừng lục tỉnh từ lâu. Nghe nói gia chủ đã mua cặp ngà voi châu Phi cao tới 2,2m ở Sài Gòn những năm 1940, cặp ngà này hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng TP. Hồ Chí Minh...

Nhiều đạo diễn, hãng phim đã chọn nhà cổ Bình Thủy làm phim trường. Hơn chục năm trước, một đoàn phim Pháp đến đây để quay bộ phim “Người tình” - một bộ phim rất nổi tiếng của đạo diễn Pháp J. Annaud. Các hãng phim trong nước chọn nơi đây để quay các bộ phim: “Chân trời nơi ấy”, “Những nẻo đường phù sa”, “Con nhà nghèo”, “Nợ đời”, “Xương rồng Cần Thơ”... Ngôi nhà cổ – vườn lan Bình Thủy đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. 

 4/Vườn Cò Bằng Lăng

            Từ Cần Thơ, đi theo Quốc Lộ 91, qua khỏi huyện Ô Môn, đến huyện Thốt Nố tkhoảng 60km đến cầu Bằng Lăng, qua khỏi cầu quẹo trái vào, đường này chỉ có xe 2 bánh đi vào được thôi, cũng có thể đi bằng đường đò nhưng hôm nay nước cạn nên không đi được, đoàn chúng tôi gồm 6 người, 3 hướng dẫn (tính luôn cả Đạt), chúng tôi đi bộ khoảng 2km thì tới được vườn cò bằng lăng, đường đi nhỏ phải đi hàng một xuyên qua khu dân cư, vé cổng là 6.000 đ/người. Quả thật ở đây rất nhiều cò, cò trắng, cò đen... Các chú cò rất dễ thương có tới hàng trăn con, đa số là chúng đậu trên những bụi tre sum xuê.

            Chủ nhân của khu vườn độc đáo này là một nông dân Nam Bộ chính hiệu, ông Nguyễn Ngọc Thuyền cho biết, khoảng tháng 1/1983, bỗng dưng một đàn cò ma, loại cò nhỏ, mình đen, cánh mầu xám trắng tiệp với mầu lá cây đông tới hàng trăm con bay về đậu kín một góc vườn. Ít lâu sau chúng đột ngột bỏ đi cả đàn, phải đến gần một năm sau mới thấy chúng quay trở lại và lần này chúng kéo theo đám bạn mới tính ra đến gần chục loại cò với đủ các kích cỡ và số lượng ước tới cả chục nghìn con. Lần này chúng định cư luôn tại đây và sinh sôi nảy nở đông hơn.

Khu vườn nay đã rộng 15 công và tất cả những bụi tre, ô môi trong vườn từ lâu đã là nhà của chúng. Loài cò nhỏ có: cò ngà mỏ vàng, cò quắm, cò cá mỏ đen - loại có biệt tài bắt cá. Nhìn chung những loài này chỉ nặng chừng vài trăm gam. Lớn hơn có cò ma, cò rằn, cò xanh, cò ruồi mỏ vàng - loại cò hay đậu trên lưng trâu bắt ruồi. Phần lớn các loài cò trên tập trung đông đúc về vườn vào mùa sinh đẻ từ tháng 8 đến tháng giêng âm lịch hằng năm, riêng cò ma chúng tập chung về vườn làm tổ và đẻ trứng từ tháng hai đến tháng tư âm lịch. Nhỏ nhất trong họ hàng nhà cò tại đây là các loài: cò ráng hay còn gọi là cò lửa, lông có mầu đỏ như ráng chiều, cò lép, cò đúm - loại cò có mầu đen tuyền và điểm trắng ở ức. Ngoài những loại trên với số lượng cá thể mỗi đàn đông tới hàng nghìn thậm chí hàng chục nghìn con.

            Trong vườn hiện còn có một số loại cò có kích thước lớn hơn: còng cọc đen tuyền chân vịt, bạc má cũng mầu đen nhưng lớn hơn, còng cọc chân cao mỏ dài. Những loài cò lớn những năm gần đây bắt đầu xuất hiện và nhập chung bầy đàn như: vạc lông rằn, diệc móc, diệc lửa... Có con nặng tới ba kg. Đặc biệt, một loài chim thuộc hàng quý hiếm đang bị săn lùng ráo riết để làm thuốc - bìm bịp cũng hiện diện thường xuyên tại vườn với hai loài: bìm bịp bà và bìm bịp cóc. 6-7h sáng từng đàn cò rời khỏi những ngọn cây bay trắng cả một vùng tỏa đi khắp nơi và đến chiều khoảng 17-18h chúng lại bay về tổ làm xáo động cả khu vườn.
            Sau khi tham quan, nhìn ngắm thoả thích đến phần ầm thực cũng hấp dẫn không kém, nào là cò xào lăn, cò nấu cháo, cò rô ti, trứng cò luộc... Thịt cò có thể chế biến được 8 - 9 món, giá trung bình mỗi món thấp nhất 80.000 đ cho 4 người ăn no nê, ngồi trong những dãy  chòi lá đơn sơ được bao quanh những bụi tre già, khung cảnh thật hoang sơ, huyền diệu, trữ tình. Quả là một đểm tham quan đầy thú vị và đậm nét miệt vườn. 

5/ĐÌNH BÌNH THUỶ

post image

ĐÌNH BÌNH THUỶ

         Đình Bình Thủy tọa lạc tại phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Đình nằm sát với khu cư dân được bao quanh bởi hàng rào tứ giác: Mặt Bắc cách bờ sông Hậu khoảng 200 m, mặt Đông là bờ con rạch Bình Thủy, còn mặt Nam sát đường Lê Hồng Phong. Từ trung tâm thành phố Cần Thơ đi theo đường Nguyễn Trãi 5 km là tới đình Bình Thủy.

         Đình được dựng vào năm Giáp Thìn (1844), nguyên thủy thờ Thành hoàng của làng Bình Hưng, tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Ba Xuyên, tỉnh An Giang. Ban đầu, nhân dân trong làng lập ngôi đình bằng tre, gỗ, lợp lá để cầu nguyện thần linh phù hộ cho mưa thuận, gió hoà để giúp bà con luôn được an lành. Năm 1853,  nhân dân địa phương đã cùng nhau cất lại đình. Lần này đình được lợp ngói phía trước để xây thêm một nhà võ ca (thường dùng để làm Nhà hát bộ, trong đó có một sân khấu nhỏ, thấp, bằng gỗ để cho các đoàn hát đến biểu diễn cho bà con thưởng ngoạn). Theo cuốn "Cần Thơ xưa và nay" của tác giả Huỳnh Minh thì đình này còn thờ Trầm Hương công chúa và Huệ Cơ công chúa nhưng cũng không có sự tích. Sau này nhân dân còn đưa thêm những người có công với nước vào thờ như: Đinh Công Tráng, Nguyễn Trung Trực, Bùi Hữu Nghĩa, Võ Huy Tập...Đến năm 1909, đình Bình Thuỷ được xây lại mới hoàn toàn và  năm 1910 thì hoàn thành.

          Đình Bình Thủy thuộc loại di tích kiến trúc tôn giáo và công trình nghệ thuật độc đáo. Nay đình nằm trên khoảnh đất rộng hơn 4000 m². Đình được cất trên một nền cao ráo và có chiều sâu, nhà trước và nhà sau đều là hình vuông nên chiều nào cũng có 6 hàng cột, các chân cột đều choãi ra làm cho đình càng thêm vững chắc.

Về trang trí ngoại thất, nhìn trên nóc đình nhà trước hai mái chồng lên nhau, nhà chánh điện sau 3 mái chồng lên nhau theo kiểu kiến trúc "thượng lầu hạ hiên". Trên nóc đình có gắn tượng hình người, hình kỳ lân, hình cá hóa rồng. Nhìn sang bên trái nóc đình có mảng trang trí bằng xi măng, giữa là quyển thư, bên cạnh đó là giỏ lam đào và bình hoa. Ở bìa mái ngói dưới cùng có ốp lá xoài màu xanh đen và ống ngói cũng được bịt lại bằng sành tráng men xanh. Mặt trước nhà là các cột xi măng trang trí các hình hoa lá đắp nổi thật tinh tế.

          Trong đình, các bàn thờ được bố trí như sau: Tại tòa tiền đường có bàn thờ Nghi Hạ, Nghi Trung đặt ở gian giữa. Nơi nhà vuông nhỏ đặt bàn thờ Nghi Thượng dùng làm lễ chính của các ngày lễ hội.
Ở tòa chính điện, chính giữa nhà là bàn thờ chính, bên trái sát vách phía ngoài là bàn thờ Hương chức Tiên Giác, phía trong là bàn thờ Hậu tiền. Đối diện ở sát vách bên phải là bàn thờ chức sắc Tiên Giác và bàn thờ Tiền Hiền. Sát vách trong cùng ở gian giữa có bàn thờ Hậu thần, hai bên là hai bàn thờ Hữu Bang và Tả Bang. 
Bên ngoài đình có hai miếu lớn thờ thần Nông và thần Hổ, gần cổng có hai miếu thờ thần Rừng và thần Khai kênh dẫn nước.

           Đình Bình thủy là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật. Tuy được xây dựng vào đầu thế kỷ XX, nhưng kiến trúc của đình còn giữ được nhiều yếu tố kiến trúc truyền thống của dân tộc. Đình còn giữ được những mảng chạm, những họa tiết trang trí gần gũi với nghệ thuật dân tộc. Nghệ thuật chạm khắc gỗ ở nơi đây hết sức tinh tế và sinh động. Tiềm ẩn dưới mái đình này không chỉ là lịch sử truyền thống cội nguồn của một làng cổ Nam Bộ mà còn là nơi gìn giữ những giá trị tinh hoa của văn hóa, văn minh sông nước miệt vườn Cần Thơ nói riêng và miền Tây Nam Bộ nói chung.

Cùng với những sinh hoạt văn hóa khác, đình Bình Thủy đã tạo nên một bản sắc riêng của ngôi đình làng ở một vùng đất mới khai phá năm xưa. Nay Đình Bình Thủy vẫn được giữ gìn, trùng tu và bảo vệ tốt.

6/Làng du lịch Mỹ Khánh

            Theo Quốc lộ 1A từ Tp. Cần Thơ hướng Sóc Trăng rồi rẽ phải đi thêm chừng 6km, chúng tôi về tới Làng du lịch Mỹ Khánh (335 lộ Vòng Cung, xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, Tp. Cần Thơ) để được hòa mình vào một không gian văn hóa đặc trưng của miệt sông nước Nam Bộ. 

 

            Làng Du lịch Mỹ Khánh nằm giữa chợ nổi Cái Răng và chợ nổi Phong Điền nên du khách còn có thể đến đây bằng tàu du lịch hay ghe, xuồng ba lá dọc trên sông Hậu để ngắm nhìn cả một vùng quê sông nước Nam Bộ yên bình, mộc mạc. 

 

Cổng vào làng du lịch Mỹ Khánh.

 

Nhà cổ Nam Bộ ở Làng du lịch Mỹ Khánh. 

Những ngôi nhà sàn nhỏ bé, xinh xắn nằm nép mình dưới vòm lá xanh mát rượi của khu vườn luôn sẵn sàng phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng của du khách.

Vẻ đẹp miền quê hữu tình, không khí trong lành, mát mẻ của Làng du lịch Mỹ Khánh.

 

Không gian thoáng đãng với những chiếc xuống ba lá phục vụ du khánh.

 

            Làng du lịch Mỹ Khánh rộng trên 4ha, cây trái xum xuê bốn mùa. Sau chặng đường dài, du khách sẽ cảm thấy dễ chịu giữa không khí trong lành, mát mẻ. Đi dạo dưới những bóng cây mát rượi của một khu vườn rộng rãi có nhiều loại hoa kiểng cùng hơn 20 loại cây ăn quả đặc sản của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tâm hồn người như được mở ra với thiên nhiên, cây cỏ. Đặc biệt, du khách còn được cảm nhận không gian cổ xưa của ngôi nhà cổ Nam Bộ bằng gỗ trên 100 năm tuổi.

            Trong thời gian lưu lại Làng du lịch Mỹ Khánh, du khách cũng có thể sống thử cho biết sinh hoạt hàng ngày của gia đình đại điền chủ với hai cách phục vụ: ngắn thì 3 giờ, dài thì 2 ngày 1 đêm. Trong vai một đại điền chủ, du khách được sống trong căn nhà cổ, mặc trang phục truyền thống; thưởng thức trái cây, uống trà nóng và nghe máy hát đĩa quay tay. Sau đó, “đại điền chủ” tiếp tục đi thăm ruộng của mình, thăm những làng nghề truyền thống; ăn cơm; nghe đờn ca tài tử... Và được các “tá điền” đấm bóp, che dù, đứng hầu quạt... Đêm đến, du khách còn có cơ hội đi chài cá hay du thuyền trên sông. Con tàu bằng gỗ có sức chứa hơn 100 người sẽ đưa du khách chìm đắm trong lời ca, tiếng nhạc của nghệ thuật đờn ca tài tử hay những khúc vọng cổ du dương, dìu dặt giữa mênh mông sông nước mang đậm âm hưởng Nam Bộ truyền thống. 

Một chiếc tàu kiểu cổ dùng đưa du khách đi tham quan làng du lịch.

Du khách nước ngoài tham quan, nghỉ dưỡng tại Làng du lịch Mỹ Khánh.

 

Thưởng thức đặc sản Nam Bộ.

 

Du khách tham quan nhà cổ Nam Bộ.

 

Dạo chơi bằng xe ngựa dưới hàng tre rợp bóng mát.

 

Thư giãn với trò chơi câu cá sấu.

 

Tham quan Làng du lịch bằng xe điện.

 

Bể bơi trong xanh nằm giữa một không gian thanh bình và giản dị của chốn làng quê.

 

      Ông Lê Văn Sang, Giám đốc Công ty TNHH Du lịch sinh thái Mỹ Khánh cho biết, Làng du lịch Mỹ Khánh sẽ luôn tìm cách mở rộng các khu vui chơi giải trí, đầu tư thêm các dịch vụ như bơi xuồng, câu cá... Để du khách có thể thoải mái lựa chọn theo nhu cầu của mình. Nơi đây còn phối hợp với các điểm vườn du lịch làm trạm dừng chân vệ tinh cho tour tham quan sông nước, miệt vườn Nam Bộ. Với các bạn trẻ, từng tốp hay từng nhóm đều có thể tổ chức các chuyến dã ngoại, cắm trại ở đây và được tham gia các trò chơi vận động trên sông nước, các trò chơi dân gian như bắt cá dưới ao, làm nông dân, làm thợ thủ công… Rồi được thưởng thức các món ăn đặc sản mang hương vị đậm đà khó quên của Nam Bộ như: cá nướng ống tre, lẩu đồng quê, chuột quay lu… Ngoài ra, Làng du lịch Mỹ Khánh còn có nhiều loại hình dịch vụ độc đáo như đua heo, đua chó có thưởng, hay dạo chơi bằng xe ngựa, xe xích lô trên các con đượng rợp bóng mát. 

Rời xa phố phường ồn ào, náo nhiệt, Làng du lịch Mỹ Khánh chính là địa điểm ưa thích với những du khách ưa thích sự yên tĩnh, thanh bình của chốn làng quê, để mỗi buổi sáng thức dậy được nghe tiếng hót của chim chóc, tiếng sương đọng đang rơi nhẹ trong từng kẽ lá… Chị Lê Kiều Hoa, một du khách đến từ Hà Nội chia sẻ: “Tôi đã nghe Làng du lịch Mỹ Khánh từ lâu rồi nhưng bây giờ mới có dịp đến tham quan. Ở đây tôi được trải nghiệm, được khám phá những nét văn hoá mới lạ và hấp dẫn về cuộc sống thôn quê Nam Bộ, một vùng đất mà tôi hằng yêu thích". 

7/Thiền Viện Trúc Lâm Phương Nam

Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam được xây dựng trên diện tích gần 4 ha, với kết cấu lợp ngói, khung cột gỗ lim, chánh điện rộng cùng nhà tổ, nhiều tượng Phật được làm bằng gỗ Du Sam… Tổng kinh phí xây dựng là 145 tỷ đồng.

Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam được khánh thành ngày 17/5/2014, tại xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, TP Cần Thơ. 

Đây là ngôi chùa rộng nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam do Đại tướng Phạm Văn Trà - nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - đề xuất xây dựng và chính Đại tướng cũng là trưởng ban vận động đóng góp xây dựng Thiền Viện. 

Theo Đại tướng Phạm Văn Trà, mục đích xây dựng Thiền Viện xuất phát từ tâm nguyện mong muốn khôi phục Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Bên cạnh đó, Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam cũng đáp ứng nguyện vọng của tăng, ni, phật tử và Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo thành phố Cần Thơ mong muốn có một ngôi chùa để kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa, tâm linh Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm.

Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam nằm trong khu Di tích lịch sử Lộ Vòng Cung TP Cần Thơ. Tổng diện tích Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam là hơn 38.000 m2. Ngôi chánh điện, nhà thờ Tổ được xây dựng theo kiến trúc văn hóa Lý - Trần; Lầu chuông, lầu trống được xây dựng theo tháp chuông Chùa Keo ở Thái Bình. Đặc biệt, 4 hạng mục trên được làm bằng gỗ lim, khoảng 1.000 khối được nhập từ Nam Phi.

Riêng tượng Phật Thích Ca Mâu Ni thờ trong chánh điện được làm bằng đồng, nặng 3,5 tấn; đại hồng chung nặng 1,5 tấn. Tượng Bồ Tát và các vị tổ sư được tạc bằng gỗ Du Sam có tuổi thọ 800 năm. Khuôn viên được bài trí cân đối như: Quan Âm điện, Di Lặc điện (Thủy tạ), Chùa Một Cột, Giảng đường, Khách đường, Trai đường, Thư viện, phòng Đông y Nam dược... Công trình ước tính tổng kinh phí 145 tỷ đồng từ nguồn vận động xã hội hóa.

Được sự tín nhiệm của Hội đồng trị sự TƯ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban Quản trị Thiền phái Trúc Lâm, Đại đức Thích Bình Tâm được bổ nhiệm Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam.

Cổng chính vào Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam

Cổng chính vào Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam

Các vị La Hán trước sân Thiền Viện

Các vị La Hán trước sân Thiền Viện

Hồ Thủy tạ

Hồ Thủy tạ

Biểu tượng Chùa Một Cột cũng xuất hiện trong khuôn viên Thiền Viện Trúc Lâm Phương Nam

Biểu tượng Chùa Một Cột cũng xuất hiện trong khuôn viên Thiền Viện Trúc Lâm Phương Nam

Lầu chuông và lầu trống được làm bằng gỗ Lim, nhập từ Nam Phi

Lầu chuông và lầu trống được làm bằng gỗ Lim, nhập từ Nam Phi

Những ngày cuối tuần, rất đông người dân tới tham quan, vãn cảnh chùa

Những ngày cuối tuần, rất đông người dân tới tham quan, vãn cảnh chùa

Những trụ cột ở phần chánh điện được làm bằng gỗ lim Nam Phi

Những trụ cột ở phần chánh điện được làm bằng gỗ lim Nam Phi

Những trụ cột ở phần chánh điện được làm bằng gỗ lim Nam Phi

Những trụ cột ở phần chánh điện được làm bằng gỗ lim Nam Phi

Phần chánh điện của Thiền Viện Trúc Lâm Phương Nam

Phần chánh điện của Thiền Viện Trúc Lâm Phương Nam

Các tượng Phật và các vị Tổ sư được làm bằng gỗ Du Sam 800 năm tuổi.

Các tượng Phật và các vị Tổ sư được làm bằng gỗ Du Sam 800 năm tuổi. 

Thiền viện theo phái Trúc Lâm Yên Tử của Phật hoàng Trần Nhân Tông - vị vua đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống giặc Mông-Nguyên xâm lược. Khi đất nước thái bình, vua nhường ngôi và đến nơi non cao Yên Tử để tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, tạo nên hạt nhân tinh thần cho sự thống nhất tư tưởng, cố kết lòng dân. 

Trên cơ sở này, các Thiền viện được thành lập khắp 3 miền đất nước Bắc - Trung - Nam. Hiện nay có trên 58 cơ sở lớn nhỏ thuộc hệ thống Thiền viện Trúc Lâm. Ý nghĩa nổi bật là Thiền viện Trúc Lâm Hộ Quốc, một danh xưng do đức Pháp chủ GHPGVN đặt tên, được đệ tử của Thiền sư Thích Thanh Từ là Đại Tướng Phạm Văn Trà với tâm Phật Trần Nhân Tông, tinh thần Hộ Quốc An Dân, đã phát tâm xây dựng tại huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang và nay là Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam tại huyện Phong Điền TP Cần Thơ. 

Một số điểm du lịch khác ở Cần Thơ

·         Khu du lịch Phù Sa : ra bến Ninh Kiều sẽ có thuyền đưa sang miễn phí,tuy nhiên vé vào cổng thì 30k, trong đó cũng không có gì, đi cho biết thôi

·         Vườn cò Bằng Lăng (cách Thành phố Cần Thơ khoảng 40km), coi chừng bị cò ị lên đầu, đi xe máy thì khỏi tốn tiền đò 80k, đi xe hơi thì phải gửi xe hơi ở ngoài quán cafe, coi chừng bị mất cắp phụ tùng (ốc xe, kiếng)

·         Làng du lịch Mỹ Khánh (tour thử làm Địa chủ, thích hợp đoàn >5ng, giá dao động 4.500k – 5.000k/ 3 ngày 2 đêm) phục vụ bạn y như địa chủ luôn. Đua heo, cưỡi ngựa quanh làng. Có bungalow cho thuê, giá dao động từ 250k – 500k /đêm. Hồ bơi. Thức ăn không ngon và khá đắt.

·         Câu cá ở Trà Nóc hoặc Ô Môn, có 1 cái gần Viện Lúa cũng được.

·         Bảo tàng Cần Thơ mở cữa sáng 9h, không phục vụ lễ tết, cuối tuần.

·         Tối đi dọc theo bến Ninh Kiều tản bộ hoặc thuê xuồng ra giữa dòng xa xa gần sông Hậu ngắm trăng,sao, đẹp và rất lãng mạn.


Món Ngon Cần Thơ

Ẩm thực Cần Thơ thể hiện rõ chất Nam Bộ, với một số món ăn ngon như: Bánh Cống, Ốc nướng tiêu, lẩu mắm. Dưới đây là một số địa chỉ quán ăn ngon ở Cần Thơ.

Bánh xèo Tân Định
Bánh cống Nguyễn Trãi
Bánh mì Hữu Hiệp
Bún nem nướng Thanh Vân
Quán 6 đời 2 vì nghe nói 6 đời 3 là phục vụ các món ăn thủy hải sản tươi sống
Cháo Quãng 22k, gần cầu Cái Răng
Nem Cái Răng 30k/đòn, dọc bên dưới cầu Cái Răng.
Vườn bia Đất Phương Nam
Hủ tiếu gà Tân Ngọc Lan
Tiệm Viễn Hưng: bánh mì xíu mại
Mì Vịt tiềm: Đường Phan Đình Phùng
Phở Oanh

Cháo Quãng: nằm trên con đường nhỏ dưới gầm cầu Cái Răng, dọc bờ sông Cần Thơ, hướng từ cầu Cái Răng đến chợ nổi, khoảng gần cầu. Tại đây bạn có thể ăn các món cháo hoặc mì. Quán nhìn rất bình dân nhưng đông khách.

Các món ăn Hàng Rong ở Cân Thơ. Các bạn ra góc đường Lý Tự Trọng và đường Trần Hưng Đạo vào buổi chiều sau 4h, có bán trứng cút lộn chiên bột, ốc chiên bột, hột vịt lộn chiên bột, rất ngon. Quán bán vỉa hè nhưng đông vô cùng, đi trễ coi chừng hết.

 

Bánh Xèo Bà Mười Xiềm: địa chỉ đi đến Khu công nghiệp Trà Nóc gặp 1 ngã tư, nếu đi hướng Cần Thơ về Ô Môn thì ở ngã tư ấy rẽ trái, chạy vào cũng khoảng 3-4km (gần chỗ câu cá câu tôm) thì phía bên tay phải có cái nhà lá là quán của bà.

Quán Bích Kiều , ở Quận Thốt Nốt, cách cầu Chà Bà khoảng 200m, bán các món ăn chế biến bằng gà chọi (gà đá).

Món ốc nướng tiêu ngon nhất ở Hoa Sứ, ngoài ra ở đó còn có món tàu hủ sữa ngon không đâu bằng.

Chiều tối ăn cháo sò huyết trên đường Lý Tự Trọng.

Phở 116 góc đường 3-2 và Mậu Thân, muốn sạch sẽ thì qua Cali trung tâm thương mại Cái Khế, ngoài ra còn phở Thủy đường Phan Đình Phùng.

Ở đường Phan Đình Phùng buổi sáng còn có bún măng (chỗ này bán yahourt cũng rất ngon).

Đường Nguyễn Việt Hồng (đoạn gần cafe Đôn) buổi chiều có bánh lọt 3k/tô nhưng ăn bảo đảm ngon, có thịt, da heo đàng hoàng nha.

Lẩu mắm Dạ Lý : hơi đắt tí,theo mình thì ăn cũng bình thường, nhưng cơm ở đây thì ngon. Một cái lẩu 4 người ăn khoảng 600k (giá cũ tham khảo). Địa chỉ nằm trên đường 3/2 nhé. (quán này giờ thấy nhiều người chê, nhưng nếu chưa ăn lần nào thì cứ thử cho biết).

Ngoài Lẩu Mắm Dạ Lý còn một quán nữa các bạn cũng nên tham khảo qua. Quán nằm trên đường Trần Việt Châu, gần 42 Trần Việt Châu, quán không có tên, nằm ngay ngã 3, người ta hay gọi quán cây Sơri. Quán chỉ bán lẩu mắm thôi nhé. Không bán các món khác, cũng chỉ có rượu trắng và chuối hột, khôngs có bia. Lẩu này giá khoảng 120k (tham khảo giá cũ) gồm có thịt ba chỉ cá kèo, lươn, ốc bươu, cá da trơn gì đó. Rau thì chỉ có cải xanh, rau muốn, rau đắng, bông súng, kèo nèo (hơi ít chủng loại).

Bún mắm Cần hơ có 1 quán trên Lý Tự Trọng trong hẻm nhỏ kế spa Khơ Thị ăn khá ngon, đầu cá ruột cá lóc nhiều tha hồ gặm. Ngoài ra còn có Bún mắm ngay gần câu lạc bộ hưu trí bán khoảng 1h đến 5h chiều cũng khá ngon.

Bánh xèo Tân Định,chạy qua cầu Nguyễn Văn Cừ là thấy nguyên khu bán bánh xèo


Hệ thống quán ăn 6 Đời,có nhiều chỗ
Gà Nam Long : trong khu dân cư Nam Long, bên quận Cái Răng. Hỏi người ta quán ăn Ngọc Tuyền ở đâu họ chỉ cho, lẩu gà nấu xã ngon tuyệt.

Chiều tối đi ăn bánh xèo sau đó xuống du thuyền uống cafe ngắm cảnh, đi dọc bến Ninh Kiều ăn mấy ăn món vừa ngon vừa rẻ

Ốc nướng tiêu ngon nhất là ở quán Chị Tôi, La Cà hoặc Quê Hương.

Ăn Lẩu baba, lẩu rắn thì ghé chân cầu Hưng Lợi, có quán Cây Gừa, nước lẩu rất ngon, mà giá đặc sản rẻ lắm. Giá baba gần 300k/kg, rẻ và ngon đến mức mình kinh ngạc.

Gà đá hầm sả ban đầu quán Ngọc Tuyền bên khu dân cư Nam Long ở gần cầu Cần Thơ bán ngon nhất, đông nhất. Sau này bên khu Cồn Khương bắt chước bán theo nhưng. Tìm quán Ngọc Tuyền thì đi đường Nam Sông Hậu (một đoạn chút xíu thôi) sẽ thấy biển khu dân cư Nam Long, đi qua cái biển 500m thấy sân tenis, rẽ phải đi qua hướng cuối mấy sân đó chỗ khu đất cỏ mọc sẽ thấy cái quán mái lá lụp xụp.

 

THÔNG TIN DU LỊCH CẦN THƠ

             Cần Thơ gạo trắng nước trong; Ai đi đến đó lòng không muốn về. Câu ca dao như nói lên tất cả về một miền đất trù phú được thiên nhiên ưu đãi. Đến Cần Thơ bạn sẽ được thăm quan chợ nổi Cái Răng, các miệt vườn hoa trái quanh năm. Mùa hoa quả nhiều nhất là mùa hè, bạn có thể đi vào các khu vườn, nếm đủ các loại trái cây của xứ Nam Bộ. Riêng vào dịp rằm tháng chạp và rằm tháng 4, có 2 lễ hội lớn tại đình Bình Thủy là lễ Thượng Điền và lễ Hạ Điền. Đây là một trong 3 lễ hội lớn nhất miền Tây.

Để có một chuyến đi du lịch Cần Thơ thành công bạn có thể tham khảo qua một số thông tin dưới đây

Đi Cần Thơ như thế nào

Bạn có thể đi máy bay hoặc xe khách tới Cần Thơ. Từ sân bay Cần Thơ về trung tâm hoặc bến Ninh Kiều giá taxi khoảng 200k. Với xe đò từ Sài Gòn bạn có thể chọn các hãng xe Phương Trang, Kumho Samco, Mai Linh v.v.v. Liên hệ các nhà xe để biết điểm đón (tại bến xe miền tây, hoặc mua vé tại Lê Hồng Phong, từ đây sẽ có xe trung chuyển ra bến xe).

Đi lại ở Cần Thơ bạn có thể đi taxi hoặc thuê xe máy ở khu bến Ninh Kiều, khu tập trung dân du lịch. Ở đây cũng tiện mua tour du lịch đi các khu sinh thái, chợ nổi. Hoặc tự đi nếu đi nhóm đông.

Khách sạn ở Cần Thơ

Các bạn nên đặt phòng khách sạn ở gần bến Ninh Kiều. Khu vực này thuận tiện cho du lịch, đi lại tiện lợi, các quán ăn cũng nhiều và dễ đi lại. Ở đây có nhiều khách sạn từ 1 đến 3 sao. Giá cả cũng đa dạng từ 250k – 500k.

Một số khách sạn khác bạn có thể tham khảo

·         Khách sạn Ninh Kiều 1 ở gần bến Ninh Kiều

·         Nếu hay đi công tác thì ở KS Happy đường Phạm Ngọc Thạch, giá phòng khoảng 250k/đêm, ở được, sạch sẽ, cách bên Ninh Kiều khoảng 1km. Chú ý là Đường Phạm Ngọc Thạch có 2 khách sạn: Khách sạn Hạnh Phúc và Khách Sạn Happy, 2 cái này khác nhau. Khách Sạn Hạnh Phúc là 3 sao nhưng giá cũng được lắm khoảng 600k/đêm.

·         Khách Sạn Tây Đô (phố Châu Văn Liêm) 450K/đêm cho 2 người có ăn sáng. Chất lượng bình thường, phòng đã cũ, gần khu trung tâm và bến Ninh Kiều.

·         Nhà nghỉ Phương Trang (không liên hệ gì với xe Phương Trang), số 5 Hoàng Văn Thụ, Q. Ninh Kiều. Điện Thoại: 0710.3829.789, DĐ: 0918.574.568. Giá phòng tham khảo, phòng đơn: 110k phòng quạt máy, 170k phòng máy lạnh / 1 đêm.

·         Thanh Thủy Hotel nằm ngay trung tâm bến Ninh Kiều, số 68 đường Hai Bà Trưng, hình như giá khoảng hơn 300k.

Một số khu vực nhà nghỉ giá rẻ cho dân Phượt

·         Khu vực nằm sau lưng siêu thị Maximark, gần bến xe đường Nguyễn Trãi, bên hông đường nhỏ kế siêu thị này là một dãy nhà trọ giá mềm 150k/ngày, phòng rộng rãi, nước nôi đây đủ, gần khu trung tâm.

·         Khu nhà nghỉ Nam Long (xa trung tâm, nếu có xe máy thì ở khu này cũng được), bên quận Cái Răng, đường Quang Trung, phòng ở đây rất mới, sạch sẽ, vì mới xây. 2 người 1 phòng 170k/ngày là ở vô tư. Để tìm khu này bạn hỏi đường đi cảng Cái Cui, khu dân cư này nằm trên đường Quang Trung, quận Cái Răng. Còn nếu bạn đi từ đường bờ Nam sông Hậu lên thì trước khi vào Thành Phô Cần Thơ là gặp nó rồi.

 

 

Danh Sách Nhà Hàng Cần Thơ


Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/42_130.jpg

CÂY BƯỞI

45 Lê Lợi, P. Cái Khế, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ

Điện thoại:(0292) 3684 999    Fax: (0292) 3827 333

Website: http://nhahangcaybuoi.vn - Email: trantam492@gmail.com

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/1315382111_130.jpg

DU THUYỀN CẦN THƠ

TP Cần Thơ, Việt Nam

Điện thoại:0292.3810.841    Fax: 02923810.841

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/foody-nha-hang-du-thuyen-ninh-kieu-698-636022096871016440_130.jpg

DU THUYỀN NINH KIỀU

Bến Ninh Kiều, Hai Bà Trưng, P. Tân An, Q. Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ

Điện thoại: (0292) 3751 751 - 0911531222   

Website: duthuyenninhkieu.vn - Email: ksninhkieu@gmail.com

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/33367_Nha_hang_Hoa_Su_3_130.jpg

HOA SỨ

Khu du lịch Cái Khế, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ

Điện thoại:0292 3820.717    Fax: 0292.3769349

Website: www.nhahanghoasu.com - Email: hoasusales@gmail.com

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/NH%20HOANG%20TU%20-%20CAN%20THO_130.jpg

HOÀNG TỬ (KDL BIỂN CẦN THƠ)

Khu Bãi Bồi, Cồn Cái Khế, P. Cái Khế, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ

Điện thoại:0292 6546 888    

- Email: tieccuoihoinghihoangtu@gmail.com

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/36140186_130.jpg

IRIS CẦN THƠ

224 Đường 30/4, P. Xuân Khánh, Q. Ninh Kiều, Tp Cần Thơ

Điện thoại:0292 368 6969    Fax: 0292 365 6969

Website: www.irishotelcantho.vn - Email: hongdong@irishotelcantho.vn

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/KDL%20Xeo%20Nhum_130.jpg

KDL XẺO NHUM, Cần Thơ

KDC Hồng Loan, khu vực 5, phường Hưng Thạnh, quận Cái Răng Can Tho

Điện thoại:   

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/image019_130.jpg

LA CÀ QUÁN (CẦN THƠ)

121 (cũ: 118) Trần Văn Khéo, Cái Khế, Ninh Kiều, Cần Thơ

Điện thoại:0292 3762 793   

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/MY%20KHANH_130.JPG

LÀNG DU LỊCH MỸ KHÁNH

335 Lộ Vòng Cung, Mỹ Khánh, Phong Điền, Cần Thơ, Việt Nam

Điện thoại:0292 3846.260    Fax: 0292 3846.432

Website: www.mykhanh.com - Email: mykhanhtourist@gmail.com

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/S001%20luanep-main%20entrance_130.jpg

Lúa Nếp, Cần Thơ

Khu bãi bồi, Phường Cái Khế, Quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ

Điện thoại:0292 3 676 979    

Website: www.luanepresortcantho.com - Email: sales@luanepresortcantho.com

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/IMG_0949_130.JPG

MEKONG CẦN THƠ - (Chưa khảo sát, ít sử dụng)

2/2 Nguyễn Trãi, Quận Ninh Kiều - Tp Cần Thơ

Điện thoại:0292 3699179    Fax: 0292 3629179

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/140814%20-%20NH%20Ngoc%20Suong-Can%20Tho_130.jpg

NGỌC SƯƠNG (Cần Thơ) - (Chưa khảo sát, ít sử dụng)

Số 2, Nguyễn Trãi, P. Cái Khế, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ

Điện thoại:0292 3764.646    Fax: 0292 3761.434

- Email: nsbonmua@ngocsuong.com.vn

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/foody-com-chay-bach-thao-de-tham-114-635695529208753060_130.jpg

Quán Chay Bách Thảo - Cần Thơ

86A Đề Thám, Quận Ninh Kiều, Cần Thơ

Điện thoại:0292 3821 143   

Description: https://datanet.com.vn/Images/Restaurant/C%E1%BB%95ng%20ch%C3%ADnh_130.jpg

QUANG TRUNG CẦN THƠ

03A KDC Hưng Phú 1, P.Hưng Phú, Q.Cái Răng, Tp.Cần Thơ

Điện thoại:029 3756 999 - 0909 111 154    

- Email: nhahangduthuyencantho1717@gmail.com /: ngocbinh.nt@fortunelandhotel.com

 

 

 MỤC LỤC

Lời mở đầu
Trang 2
Giới thiệu về TP. Hồ Chí Minh
Trang 3
Kỷ lục Guinness 
Trang 5
Đường hầm Thủ Thiêm - Đại lộ Võ Văn Kiệt
Trang 6
Cầu Bình Điền - Đệ nhất cháo lòng thịt luộc
Trang 7
Những tên trộm trứ danh hài thước - đường cao tốc Trung Lương
Trang 8
Giới thiệu tỉnh Long An 
Trang 9
Rượu đế Gò Đen - cách nấu rượu đế Gò Đen - cầu Bến Lức - KDL Happy Land
Trang 11
Sông Vàm Cỏ Đông - Lời bài hát Vàm Cỏ Đông - Vàm Nhật Tảo
Trang 12
Tàu hiện đại nhất của Pháp bị đốt cháy - Vị anh hùng Nguyễn Trung Trực
Trang 13
Thơm Bến Lức
Trang 14
Dưa hấu Long Trì - gạo Nàng Thơm Chợ Đào - vă tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Trang 15
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu
Trang 16
Sài Gòn - Mỹ Tho - con đường sắt cổ nhất Đông Dương
Trang 17
Đặc điểm bên đường đi - Lăng mộ và đền thờ ông Nguyễn Huỳnh Đức - Ngôi nhà 120 cột - đền Rạch Cốc - Vường hoa kiển Thanh Tâm - KDL sinh thái Đồng Tháp Mười - Thanh Long nghịch mùa - nhà máy nước khoáng Lavie - cầu Tân Hương - Vị anh hùng dân tộc Thủ Khoa Huân
Trang 20
Công viên tượng đài Long An Trung Dũng Kiên Cường Toàn dân đánh giặc
Trang 21
Tại sao vùng này có tên là Đồng Bằng Sông Cửu Long
Trang 23
Vị trí địa lý đất đai sông ngòi - Văn hóa đồng bằng sông cửu long
Trang 24
Giới thiệu về tỉnh Tiền Giang
Trang 25
Lịch sử hình thành nền Văn Minh Miệt Vườn 
Trang 26
Khu di tích Rạch Gầm Xoài Mút 
Trang 27
Trại rắn Đồng Tâm
Trang 28
Cù lao Thới Sơn - Cồn Thới Sơn
Trang 29
Cồn Phụng - Đạo Dừa
Trang 30
Chùa Vĩnh Tràng
Trang 31
Ngày giỗ đình Vĩnh Tràng 
Trang 32
Anh hùng dân tộc Trương Định - ẩm thực Tiền Giang
Trang 33
Những thông tin cần thiết cho quý khách khi đi du lịch Tiền Giang - đứng trên cầu Rạch Miễu nghĩ về tứ linh
Trang 35
Cồn Phụng
Trang 36
Cháo khuya đồng bằng - xứ biển Gò Công
Trang 37
Di tích khảo cổ Gò Thành - lũy pháo đài Trương Định
Trang 38
Lăng Trương Định - mộ Thủ khoa Huân - lăng Hoàng Gia
Trang 39
Khu di tích lịch sử Ấp Bắc - đình Long Hưng
Trang 41
Chùa Linh Thứu - chùa Hội Thọ - Thiền Viện Trúc Lâm Chánh Giác
Trang 42
Cồn Lân
Trang 44
Sông Tiền,sông Hậu - cầu Rạch Miễu
Trang 45
Đi Tiền Giang nên cẩn thận
Trang 46
Ẩm thực Tiền Giang - cầu Mỹ Thuận - cầu Cần Thơ
Trang 47
Lịch sử hình thành TP.Cần Thơ 
Trang 48
Đa sắc ẩm thực Cần Thơ
Trang 50
Chợ nổi Cái Răng
Trang 51
Các điểm tham quan Cần Thơ
Trang 53
Một số điểm tham quan ở TP.Cần Thơ
Trang 68
Món ngon Cần Thơ
Trang 69
Thông tin du lịch Cần Thơ
Trang 70
Danh sách  nhà hàng Cần Thơ
Trang 71