Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!

Dịch trang

Người Đi Tìm Hình Của Nước - Chế Lan Viên

Thông Tin Du Lịch Phổ biến

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

chuyên đề thuyết minh về Voi ở Tây Nguyên

 NGHỆ THUẬT SĂN VÀ THUẦN DƯỠNG VOI

Luật lệ của những người săn voi : Người Tây Nguyên coi voi như con người, tôn thờ voi hết mức, việc giết voi ăn thịt là điều cấm kị. Nghề săn voi cũng có những luật lệ riêng hẳn hoi : dụng cụ để săn bắt voi chỉ được làm từ da trâu bò, mỗi thứ dây được dùng cho mỗi công việc khác nhau và không được dùng lẫn lộn. Vật dụng quan trọng nhất cho bất cứ cuộc săn voi nào vẫn là chiếc sừng trâu (NG’RÔNG) Chuyên dùng cho việc cúng bái.

Trước khi lên đường phải tổ chức lễ cúng voi, mỗi đầu voi phải cúng 01 ché rượu, 01 con gà tại nhànài chính. Khi cúng thắp sáng 18 ngọn nến sáp ong, cúng xong trời sáng là lên đường.

Mỗi con voi có hai người điều khiển, người chính gọi là “Bạc sai” , người phụ gọi là “Rơmắc”. Người chính bắt được từ 30 con voi trở lên gọi là GRU. Người đầu tiên tham gia cuộc săn chỉ được mặc khố hay mảnh áo choàng làm áo. Khi bắt được từ 15 con voi trở lên mới được mặc áo như những người săn voi khác.

Khi bắt voi, theo quy định, chỉ được dùng dây thòng lọng quàng vào chân phải hoặc chân trái của hai chân sau. Nếu không mau người đi săn quàng vào hai chân trước sẽ bị phạt hai trâu, hai con heo, hai ché rượu cần : lễ vật này dùng để cúng xin lỗi voi. Nếu bắt được voi lại cái tức là voi đực không có ngà hoặc voi có chửa thì cũng bị phạt như trên. Săn được voi có một ngà bên trái cũng bị phạt, nhưng đối với những người thợ săn nào đã săn được trên 15 con thì được miễn. Ngược lại, săn được voi có một ngà bên phải thì được thưởng.

Con voi săn được, được dẫn về nhà chủ; nhà chủ giết một con gà, buộc một ché rượu cúng mừng voi. Sáng ngày hôm sau cúng tiếp 2 con gà, 2 ché rượu nữa thì mới buộc chân xâu tai voi.

Dụng cụ săn bắt và thuần dưỡng voi rừng : cho đến ngày hôm nay, người dân tộc ở tây nguyên đã làm ra bộ dụng cụ săn bắt và thuần dưỡng voi rất phong phú bằng chính các vật liệu của núi rừng gồm 17 hiện vật.

Những ngày đầu, người quản tượng chỉ có KREO (gậy điều khiển ) có mũi sắt nhọn đâm mạnh vào da tạo cảm giác cho voi trước khi ra lệnh, KÔC (Búa tăng tốc độ) nện mạnh vào mông để voi đi nhanh hơn, BÔI BUNG (Cuộn dây bằng da trâu có tròng) cùng với NONG TONG GOR ( sào dài 3m) để đưa tròng vào chân voi giật. Thế nhưng, dụng cụ săn voi chưa đủ và chưa an toàn cho người thợ săn.

Từ những năm 1930 – 1945 lại được bổ sung một số dụng cụ nữa như cùm số 8 bằng da trâu bện, BNEY GÔR (giỏ đựng thức ăn), KERUN (sừng min để câu nước trong khi đang rượt đuổi voi rừng) và SINAR (cùm kẹp gỗ có gai nhọn). Khi mới bắt được voi rừng, SINAR được dùng để kẹp vào cổ voi như người đang mang gông, lập tức hàng trăm mũi gai sắc nhọn chích vào da thịt làm voi đau đớn, sợ hãi ngay từ đầu.

Khi bắt được voi rồi, người ta chuyển sang thuần dưỡng voi. Vì vậy bộ dụng cụ này lại được bổ sung thêm như : JLETUR (gậy cắm lông nhím) dùng để xâu tai, tra vòng dắt voi đi. BLAY MAT NHÔN THU (đoạn dây da bện có con quay) để treo voi len cành mà đánh, đánh cho tứa máu, đau đớn làm cho mất đi tính hoang dã bẩm sinh của voi rừng. Cứ như thế kéo dài hàng tuần, vừa đánh vừa cho ăn uống, xoa bóp bằng nước vỏ cây bằng lăng, rồi cho voi tập nghe làm quen với với xích sắt và âm thanh của tù và, cồng chiêng, trống mõ. Dần dần voi quen, voi được thả ra và được dẫn đi tắm mát và có thể sử dụng cho các công việc nặng của buôn làng.

Săn bắt voi rừng : Thường thì khi bắt đầu vào mùa mưa, các đội săn voi cử các nhóm trinh sát theo dõi dấu vết đi tìm voi rừng. Khi những trinh sát bám được bầy voi thì sẽ về báo lại tình hình. Đội săn sẽ chuẩn bị đầy đủ lương thực như : gạo, muối, cá khô, quần áo và chăn ấm. Người ta không làm một thủ tục gì trước khi đi, nhà nào có người tham gia đội săn voi, trong các bữa ăn đều xới một chén cơm đặt lên mâm để nhớ người đi săn. Trong thời gian ấy mọi việc sinh hoạt ở nhà phải cư xử với nhau cho thật tốt đẹp, từ lời ăn tiếng nói cho đến phân công việc làm hàng ngày. Đây là điều kiêng cữ bắt buộc đối với nhựng gia đình có người đi săn voi.

Số người đi săn voi cũng vậy, họ đi cả tháng trời ròng  rã cho đến khi gặp được đàn voi rừng. Khi gặp đàn voi, họ phân công kỹ càng cho các quản tượng và người sử dụng giây tròng bắt voi. Đàn voi rừng tuy hiền nhưng lại dễ nổi khùng khi bãi ăn của mình bị kẻ khác xâm phạm. Khi phát hiện thấy voi khác đàn, con đầu đàn rống lên một tiếng dữ dội và lao ngay vào con mạnh nhất để đánh đuổi. Chúng dùng vòi quật nhau và lôi nhau ra bãi rộng quần thảo và không quên bảo vệ voi con đang nháo nhác bám theo. Đội săn lúc này cũng đang khép dần vòng vây hỗ trợ. Con người dúng giáo dài và khiên mây reo hò nhưng không bao giờ đâm chết voi rừng. Cuộc chiến diễn ra ngắn ngủi, voi rừng chắc chắn là thua và có dấu hiệu bỏ chạy. Lập tức các voi nhà lựa thế để chủ mình nhảy lên lưng và bắt đầu cuộc rượt đuổi đầy hào hứng của kẻ chiến thắng. Lúc ấy theo mệnh lệnh của đội trưởng, các nài có nhiệm vụ tách đàn, phối hợp lựa thế cho voi nhà ép voi lớn phải chạy theo đường khác. Chú voi con chưa thông thạo đường rừng vì bấy lâu nay quen bám theo bố mẹ, giờ đây chỉ biết cúi đầu chạy thục mạng không theo một vệt đường nào cả. Người có nhiệm vụ tròng dây ngồi sau lưng nài, lựa thế lúc voi con thấm mệt, lật tức quăng dây tròng giật một trong hai chân sau. Trong thế bị bao vây bốn phía, voi con hoàn toàn bị bắt gọn và cuộc chiến kết thúc nhanh chóng trong ngày. Khi bắt được voi rồi, họ thổi kèn sừng báo hiệu chiến thắng cho lực lượng đang tách voi lớn ngưng chiến với những con không thể bắt được.

Bắt được voi cũng phải mất một tuần lễ để khuất phục nó ngay tại chỗ bằng cách trói hai chân vào gốc cây lơn`1 bằng xích để cho voi nhà vào dụ. Từ chỗ bắt nhịin đói sau đó cho ăn dần nõn chuối, cơm nắm trộn muối chjo đến khi con voi chịu thua để người đến gần, lúc đó hngười ta mới buộc tròng cổ cho voi nhà dẫn về.

Cũng từ lúc này người nhà của đội săn voi được báo tin, chuẩn bị lễ đón đoàn quân chiến thắng trở về, mời già làng đặt tên cho voi, ghi thêm thớt voi cho làng.

Bắt được voi rừng là một chiến công tập thể của đoàn săn voi mà phần lớn là việc truy tìm theo dấu vế chân voi. Cũng phải kể đến những công sức ở nhà, từ việc chuẩn bị lương thực trang bị cho chuyến đi cho đến các thủ tục nghi lễ chào đón đoàn quân chiến thắng trở về. Cả buôn làng trong tiếng cồng chiêng của lể đặt tên voi, thịt khô, các nướng trong men say rượu cần. Đàn voi nhà từ đây đón nhận thêm một thành viên mới, hội kéo dài từ đêm tới sáng.

 

MỘ VUA SĂN VOI

Vua săn bắt voi tên thật là N’THU KNUL – Một vị tù trưởng được coi là ông tổ nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng ở Buôn Đôn. Ong đã săn bắt được hàng trăm con voi. Năm 1861, ông bắt được một con voi trắng và tặng cho Hoàng gia Thái Lan. Vua thái lan cảm phục và phong tặng ông tước hiệu Khunjunnốp ( vua săn bắt voi ). Ong mất năm 1938, một năm sau ngày mất người cháu gọi ông bằng cậu, R’LEO KNUL đứng ra làm lễ bỏ mả và xây mộ – ngôi mộ được xây theo lối kiến trúc M’nông – lào.

Bên cạnh phần mộ của vua là phần mộ của R’LEO. Ong sinh năm 1871, người đã kế tục lãnh đạo buôn làng sau khi vua voi mas6t1. ông phát huy nghề săn bắt vqà thuần dưỡng voi rừng tại Buôn Đôn, ông đã thuần dưỡng cho Cựu Hoàng Bảo Đại 01 con voi trắng và có công giúp vua thành lập đội tương binh mang tên Hoàng Gia Bảo Đại. Ông mất 1941, thọ 70 tuổi, năm 1950 Vua Bảo Đại đứng ra làm lễ bỏ mả cho ông và cho xây lăng mộ.