NGHỆ THUẬT SĂN VÀ THUẦN DƯỠNG VOI
Luật lệ của những người săn voi : Người Tây
Nguyên coi voi như con người, tôn thờ voi hết mức, việc giết voi ăn thịt là
điều cấm kị. Nghề săn voi cũng có những luật lệ riêng hẳn hoi : dụng cụ để săn
bắt voi chỉ được làm từ da trâu bò, mỗi thứ dây được dùng cho mỗi công việc
khác nhau và không được dùng lẫn lộn. Vật dụng quan trọng nhất cho bất cứ cuộc
săn voi nào vẫn là chiếc sừng trâu (NG’RÔNG) Chuyên dùng cho việc cúng bái.
Trước khi lên đường phải tổ chức lễ cúng voi,
mỗi đầu voi phải cúng 01 ché rượu, 01 con gà tại nhànài chính. Khi cúng thắp
sáng 18 ngọn nến sáp ong, cúng xong trời sáng là lên đường.
Mỗi con voi có hai người điều khiển, người
chính gọi là “Bạc sai” , người phụ gọi là “Rơmắc”. Người chính bắt được từ 30
con voi trở lên gọi là GRU. Người đầu tiên tham gia cuộc săn chỉ được mặc khố
hay mảnh áo choàng làm áo. Khi bắt được từ 15 con voi trở lên mới được mặc áo
như những người săn voi khác.
Khi bắt voi, theo quy định, chỉ được dùng dây
thòng lọng quàng vào chân phải hoặc chân trái của hai chân sau. Nếu không mau
người đi săn quàng vào hai chân trước sẽ bị phạt hai trâu, hai con heo, hai ché
rượu cần : lễ vật này dùng để cúng xin lỗi voi. Nếu bắt được voi lại cái tức là
voi đực không có ngà hoặc voi có chửa thì cũng bị phạt như trên. Săn được voi
có một ngà bên trái cũng bị phạt, nhưng đối với những người thợ săn nào đã săn
được trên 15 con thì được miễn. Ngược lại, săn được voi có một ngà bên phải thì
được thưởng.
Con voi săn được, được dẫn về nhà chủ; nhà
chủ giết một con gà, buộc một ché rượu cúng mừng voi. Sáng ngày hôm sau cúng
tiếp 2 con gà, 2 ché rượu nữa thì mới buộc chân xâu tai voi.
Dụng cụ săn bắt và thuần dưỡng voi rừng : cho
đến ngày hôm nay, người dân tộc ở tây nguyên đã làm ra bộ dụng cụ săn bắt và
thuần dưỡng voi rất phong phú bằng chính các vật liệu của núi rừng gồm 17 hiện
vật.
Những ngày đầu, người quản tượng chỉ có KREO
(gậy điều khiển ) có mũi sắt nhọn đâm mạnh vào da tạo cảm giác cho voi trước
khi ra lệnh, KÔC (Búa tăng tốc độ) nện mạnh vào mông để voi đi nhanh hơn, BÔI
BUNG (Cuộn dây bằng da trâu có tròng) cùng với NONG TONG GOR ( sào dài 3m) để
đưa tròng vào chân voi giật. Thế nhưng, dụng cụ săn voi chưa đủ và chưa an toàn
cho người thợ săn.
Từ những năm 1930 – 1945 lại được bổ sung một
số dụng cụ nữa như cùm số 8 bằng da trâu bện, BNEY GÔR (giỏ đựng thức ăn),
KERUN (sừng min để câu nước trong khi đang rượt đuổi voi rừng) và SINAR (cùm
kẹp gỗ có gai nhọn). Khi mới bắt được voi rừng, SINAR được dùng để kẹp vào cổ
voi như người đang mang gông, lập tức hàng trăm mũi gai sắc nhọn chích vào da
thịt làm voi đau đớn, sợ hãi ngay từ đầu.
Khi bắt được voi rồi, người ta chuyển sang
thuần dưỡng voi. Vì vậy bộ dụng cụ này lại được bổ sung thêm như : JLETUR (gậy
cắm lông nhím) dùng để xâu tai, tra vòng dắt voi đi. BLAY MAT NHÔN THU (đoạn
dây da bện có con quay) để treo voi len cành mà đánh, đánh cho tứa máu, đau đớn
làm cho mất đi tính hoang dã bẩm sinh của voi rừng. Cứ như thế kéo dài hàng
tuần, vừa đánh vừa cho ăn uống, xoa bóp bằng nước vỏ cây bằng lăng, rồi cho voi
tập nghe làm quen với với xích sắt và âm thanh của tù và, cồng chiêng, trống mõ.
Dần dần voi quen, voi được thả ra và được dẫn đi tắm mát và có thể sử dụng cho
các công việc nặng của buôn làng.
Săn bắt voi rừng : Thường thì khi bắt đầu vào
mùa mưa, các đội săn voi cử các nhóm trinh sát theo dõi dấu vết đi tìm voi
rừng. Khi những trinh sát bám được bầy voi thì sẽ về báo lại tình hình. Đội săn
sẽ chuẩn bị đầy đủ lương thực như : gạo, muối, cá khô, quần áo và chăn ấm.
Người ta không làm một thủ tục gì trước khi đi, nhà nào có người tham gia đội
săn voi, trong các bữa ăn đều xới một chén cơm đặt lên mâm để nhớ người đi săn.
Trong thời gian ấy mọi việc sinh hoạt ở nhà phải cư xử với nhau cho thật tốt đẹp,
từ lời ăn tiếng nói cho đến phân công việc làm hàng ngày. Đây là điều kiêng cữ
bắt buộc đối với nhựng gia đình có người đi săn voi.
Số người đi săn voi cũng vậy, họ đi cả tháng
trời ròng rã cho đến khi gặp được đàn
voi rừng. Khi gặp đàn voi, họ phân công kỹ càng cho các quản tượng và người sử
dụng giây tròng bắt voi. Đàn voi rừng tuy hiền nhưng lại dễ nổi khùng khi bãi
ăn của mình bị kẻ khác xâm phạm. Khi phát hiện thấy voi khác đàn, con đầu đàn
rống lên một tiếng dữ dội và lao ngay vào con mạnh nhất để đánh đuổi. Chúng
dùng vòi quật nhau và lôi nhau ra bãi rộng quần thảo và không quên bảo vệ voi
con đang nháo nhác bám theo. Đội săn lúc này cũng đang khép dần vòng vây hỗ
trợ. Con người dúng giáo dài và khiên mây reo hò nhưng không bao giờ đâm chết
voi rừng. Cuộc chiến diễn ra ngắn ngủi, voi rừng chắc chắn là thua và có dấu
hiệu bỏ chạy. Lập tức các voi nhà lựa thế để chủ mình nhảy lên lưng và bắt đầu
cuộc rượt đuổi đầy hào hứng của kẻ chiến thắng. Lúc ấy theo mệnh lệnh của đội
trưởng, các nài có nhiệm vụ tách đàn, phối hợp lựa thế cho voi nhà ép voi lớn
phải chạy theo đường khác. Chú voi con chưa thông thạo đường rừng vì bấy lâu
nay quen bám theo bố mẹ, giờ đây chỉ biết cúi đầu chạy thục mạng không theo một
vệt đường nào cả. Người có nhiệm vụ tròng dây ngồi sau lưng nài, lựa thế lúc
voi con thấm mệt, lật tức quăng dây tròng giật một trong hai chân sau. Trong
thế bị bao vây bốn phía, voi con hoàn toàn bị bắt gọn và cuộc chiến kết thúc
nhanh chóng trong ngày. Khi bắt được voi rồi, họ thổi kèn sừng báo hiệu chiến
thắng cho lực lượng đang tách voi lớn ngưng chiến với những con không thể bắt
được.
Bắt được voi cũng phải mất một tuần lễ để
khuất phục nó ngay tại chỗ bằng cách trói hai chân vào gốc cây lơn`1 bằng xích
để cho voi nhà vào dụ. Từ chỗ bắt nhịin đói sau đó cho ăn dần nõn chuối, cơm
nắm trộn muối chjo đến khi con voi chịu thua để người đến gần, lúc đó hngười ta
mới buộc tròng cổ cho voi nhà dẫn về.
Cũng từ lúc này người nhà của đội săn voi
được báo tin, chuẩn bị lễ đón đoàn quân chiến thắng trở về, mời già làng đặt
tên cho voi, ghi thêm thớt voi cho làng.
Bắt được voi rừng là một chiến công tập thể
của đoàn săn voi mà phần lớn là việc truy tìm theo dấu vế chân voi. Cũng phải
kể đến những công sức ở nhà, từ việc chuẩn bị lương thực trang bị cho chuyến đi
cho đến các thủ tục nghi lễ chào đón đoàn quân chiến thắng trở về. Cả buôn làng
trong tiếng cồng chiêng của lể đặt tên voi, thịt khô, các nướng trong men say
rượu cần. Đàn voi nhà từ đây đón nhận thêm một thành viên mới, hội kéo dài từ
đêm tới sáng.
MỘ VUA SĂN VOI
Vua săn bắt voi tên thật là N’THU KNUL – Một
vị tù trưởng được coi là ông tổ nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng ở Buôn
Đôn. Ong đã săn bắt được hàng trăm con voi. Năm 1861, ông bắt được một con voi
trắng và tặng cho Hoàng gia Thái Lan. Vua thái lan cảm phục và phong tặng ông
tước hiệu Khunjunnốp ( vua săn bắt voi ). Ong mất năm 1938, một năm sau ngày
mất người cháu gọi ông bằng cậu, R’LEO KNUL đứng ra làm lễ bỏ mả và xây mộ –
ngôi mộ được xây theo lối kiến trúc M’nông – lào.
Bên cạnh phần mộ của vua là phần mộ của
R’LEO. Ong sinh năm 1871, người đã kế tục lãnh đạo buôn làng sau khi vua voi
mas6t1. ông phát huy nghề săn bắt vqà thuần dưỡng voi rừng tại Buôn Đôn, ông đã
thuần dưỡng cho Cựu Hoàng Bảo Đại 01 con voi trắng và có công giúp vua thành
lập đội tương binh mang tên Hoàng Gia Bảo Đại. Ông mất 1941, thọ 70 tuổi, năm
1950 Vua Bảo Đại đứng ra làm lễ bỏ mả cho ông và cho xây lăng mộ.