CÂU LẠC BỘ HƯỚNG DẪN VIÊN ĐỒNG HÀNH VIỆT
*********************
*****************************
Tài liệu hướng dẫn
CITY TOUR TP.HỒ CHÍ MINH
LỜI NÓI
ĐẦU
Tài liệu
này được Đạt biên soạn để làm tư liệu thuyết minh, chỉ có tính chất tham khảo,
được tổng hợp các kiến thức lấy từ các sách về Sài Gòn, cảm nang du lịch, sổ
tay hướng dẫn và một số tác giả, còn nhiều thiếu sót nên chỉ sử dụng trong Câu
lạc bộ HDV Đồng Hành Việt
Danh mục
sách tham khảo
1.
Gia Định Xưa
2.
Sài Gòn Xưa Và Nay
3.
Sài Gòn Tạp Pín Lù
4.
Sài Gòn – Gia Định
5.
Sài Gòn đất lành chim đậu
6.
Ho Chi Minh city – travel guide
7.
Quận 5 xin chào
8.
Chuyên khảo về tỉnh Gia Định
9.
Sài Gòn Năm Xưa
Xem qua
tài liệu các ACE và các bạn sẽ thấy có rất nhiều đề tài thuyết minh về Sài gòn,
Đạt xin mạn phép liệt kê một số chủ đề như sau:
Lịch sử hình thành Sài Gòn – Gia Định: trước
và thế kỷ XVIII, thời Pháp, trước và sau
năm 1975
Sài Gòn -
những công trình cổ nhất
Sài Gòn -
kiến trúc lịch sử văn hoá: các bảo tàng, Dinh Độc Lập, Nhà Hát Thành Phố, Bưu
Điện Thành Phố
Sài Gòn –
nhà thờ - chùa - miếu
Sài Gòn -
người Hoa
Sài Gòn -
những con đường
Sài Gòn –
phong thuỷ
Các chuyên dề về Sài Gòn
Tuỳ theo
khả năng của mỗi người và tuỳ theo đối
tượng khách các ACE và các bạn sẽ lựa
chọn cho mình một, hai, ba đề tài nói về Sài Gòn. Do Sài Gòn còn rất nhiều điều
thú vị chưa khám phá hết nên rất mong các ACE và các bạn xem, chia sẻ và bổ
sung giúp Đạt thêm một số kiến thức, chuyên đề.
Rất cảm
ơn các ACE và các bạn đã đọc qua tài liệu này (tài
liệu đã được cập nhật năm 2023)
Tài liệu chỉ để tham khảo và lưu hành trong nội bộ CLB HDV Đồng Hành
Việt, rất mong các bạn không chia sẻ tài liệu này cho bất kỳ ai.
Biên soạn
Dzoãn Tiến Đạt/ 0903 97 68 33
CITY TOUR
Năm 1698,
Nguyễn Phước Chu - tức chúa Minh - sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính (thường đọc
là Cảnh) vào Nam kinh lý và lập phủ Gia Định. Nhưng trước đó, có lẽ hàng thế
kỷ, nhiều sử liệu cho thấy người Việt Nam đã tới buôn bán và khẩn hoang lập ấp
rải rác trong đồng bằng sông Mê Kông ở châu thổ miền Nam và sông Mê Nam bên
Xiêm rồi. Biên niên sử Khơ Me chép: Năm 1618, vua Chey Chettha II lên
ngôi. Ngài liền cho xây cung điện nguy nga tại U Đông, rồi cử hành lễ cưới
trọng thể với một công chúa Việt Nam rất xinh đẹp con chúa Nguyễn (người ta
phỏng đoán đó là công nữ Ngọc Vạn con chúa Sãi, Nguyễn Phước Nguyên). Hoàng hậu
Sam Đát Việt Nam cho đem nhiều người đồng hương tới Campuchia, có người được
làm quan lớn trong triều, có người làm các nghề thu công và có người buôn bán
hay vận chuyển hàng hóa.
Năm 1623,
chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu
thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm
hoang vắng nhưng cũng là địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam
đi Campuchia và Xiêm La. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành thị tứ trên
bến dưới thuyền, công nghiệp và thương nghiệp sầm uất.
Giáo sĩ Ý tên Christoforo Boni sống tại thị trấn Nước Mặn gần Qui Nhơn từ năm
1681 đến năm 1622, viết hồi ký "Chúa Nguyễn phải chuyên lo việc tập trận
và gởi quân sang giúp vua Campuchia - cũng là chàng rể lấy con gái hoang của
chúa! Chúa viện trợ cho vua cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống lại vua
Xiêm". Borri cũng tả khá tỉ mỉ về sứ bộ của chúa Nguyễn đi Campuchia hồi
1620: "Sứ thần là người sinh trưởng tại Nước Mặn, một nhân vật quan trọng
đứng sau chức tổng trấn. Trước khi lên đường, ông đã để nhiều ngày giờ bàn bạc
và nhận lệnh của chúa. Sứ bộ gồm khá đông người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa
nữ, chuyên chở trên những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và bài trí lộng
lẫy. Khi sứ bộ tới kinh U Đông, thì dân chúng Khơ Me, thương nhân Bồ Đào Nha,
Nhật Bản và Trung Hoa đã tụ hội đông đảo để đón tiếp và hoan nghênh. Vì sứ thần
đây là người quan thuộc, đã lui tới nhiều lần, từng làm đại diện thường trú từ
lâu, chứ không phải sứ giả mới tới lần đầu. Borri còn cho biết tòa sứ bộ khá
quan trọng và đông đúc, nào là thê thiếp, người hầu kẻ hạ của sứ thần, nào binh
sĩ giữ an ninh và phục dịch sứ bộ.
Một
giáo sĩ khác người Pháp tên là Chevreuil tới thăm Colompé (tức Pnom Penh, Nam
Vang) hồi 1665 đã thấy "hai làng An Nam nằm bên kia sông, cộng số người
được độ 500 mà kẻ theo đạo Công giáo chỉ có 4 hay 5 chục người". Ngoài Nam
Vang, tại các nơi khác cũng có nhiều người Việt Nam sinh sống, ở thôn quê thì
làm ruộng, gần phố thì buôn bán, làm thủ công hay chuyên chở ghe thuyền, kể
hàng mấy ngàn người. Như ở Đất Đỏ, Bà Rịa, Bến Cá, Cù lao Phố, Mỹ Tho, Hà Tiên,
v.v...
Ngoài đồng bằng sông Mê Kông, người Việt Nam còn đến làm ăn và định cư rải rác
trong đồng bằng sông Mê Nam. Lịch sử cho biết: dân tộc Thái mới lập quốc từ thế
kỷ VII sau công nguyên ở giữa bán đảo Đông Dương và chủ yếu trên lưu vực sông
Mê Nam. Nước này gọi là Xiêm hay Xiêm La (Siam), đến năm 1939 mới đổi tên là
Thái Lan. Kinh đô Xiêm xưa ở Ayuthia, xây dựng thừ năm 150 trên một khúc quanh
của sông Mê Nam cách biển gần 100 km. Theo bản đồ Loubère vẽ năm 1687, thì kinh
đô Ayuthia nằm trong một hòn đảo lớn, giữa hai nhánh sông Mê Nam. Đường sá, cầu
cống, phố chợ, lâu đài... được ghi khá rõ ràng. lại có thêm chú chích minh bạch
như: A=Thành phố, B=cung điện, C=bến cảng, D=xưởng thủy hải quân, E=xưởng thủy
ghe thuyền, F=phố thị, G=chủng viện... Chung quanh hòn đảo chính có những khu
vực dành riêng cho dân Xiêm hay người nước ngoài cư trú: người Xiêm ở phía Bắc
và Tây Bắc, người Hoa ở phía Đông, người Việt Nam, Mã Lai, Nhật Bản, Hòa Lan,
Bồ Đào Nha ở phía Nam. Nơi người Việt ở cũng là một cù lao khá rộng, qua sông
là tới phố thị kinh đô, việc đi lại giao dịch rất thuận lợi. Nhìn cách bố trí
thôn trại chung quanh Ayuthia, ta có thể phỏng đoán cộng đồng người Việt ở đây
khá đông và là một trong mấy nhóm ngoại quốc tới lập nghiệp sớm nhất. Trên bản
đồ có ghi rõ chữ Cochinchinois nơi thôn trại Việt. Đương thời, địa danh này chỉ
người Đàng Trong và cũng có thể chỉ chung người VIệt Nam, vì trước đó - trong
thời gian chưa có phân ranh Trịnh Nguyễn, Tây phương dùng địa danh ấy, biến
dạng bởi Giao Chỉ - Cauchi - Cauchinchina - Cochinchine để gọi chung Việt Nam. Đa
số người Việt ở đây là người Đàng Trong, song cũng có người Đàng Ngoài. Họ tới
định cư và lập nghiệp có lẽ từ thế kỷ XVI hay đầu thế kỷ XVII tồi, nghĩa là từ
thời nhà Mạc khi trong nước rất xáo trộn là loại ly. Theo ký sự của Vachet thì
cả nam nữ già trẻ. Ngoài Ayuthia, người Việt còn tới làm ăn định cư tại Chân
Bôn (Chantaburi) và Bangkok là những thương điếm trung chuyển từ Hà Tiên tới
kinh đô Xiêm.
Sử
Việt Nam và sử Khơ Me cùng nhất trí ghi sự kiện: Năm 1674, Nặc Ong Đài đánh
đuổi vua Nặc Ong Nộn. Nộn chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa liền sai thống
suất Nguyễn Dương Lâm đem bính đi tiến thảo, thâu phục luôn 3 lũy Sài Gòn, Gò
Bích và Nam Vang (trong sử ta, địa danh Sài Gòn xuất hiện từ 1674 vậy). Đài
thua chạy rồi tử trận. Chúa Nguyễn phong cho Nặc Ong Thu làm Cao Miên quốc
vương đóng đô ở U Đông, cho Nặc Ong Nộn làm phó vương.
Sử ta còn ghi rõ: năm 1679, chúa Nguyễn Phước Tần tức Hiền Vương cho "nhóm
người Hoa" muốn "phục Minh chống Thanh" là Dương Ngạn Địch tới
Mỹ Tho, Trần Thượng Xuyên tới Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn và làm ăn sinh
sống. Những nơi đó đã có người Việt tới sinh cơ lập nghiệp từ lâu. Như Trịnh
Hoài Đức đã chép: các chúa Nguyễn "chưa rảnh mưu tính việc ở xa nên phải
tạm để đất ấy cho cư dân bản địa ở, nối đời làm phiên thuộc ở miền Nam, cống
hiến luôn luôn". Nhưng năm 1658, "Nặc Ong Chân phạm biên cảnh",
Hiền Vương liền sai "phó tướng Tôn Thất Yên đem ngàn binh đi 2 tuần đến
thành Mô Xoài (Bà Rịa), đánh phá kinh thành và bắt được vua nước ấy". Sau
được tha tội và được phong làm Cao Miên quốc vương "giữ đạo phiên thần, lo
bề cống hiến, không xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương. Khi ấy địa đầu Gia
Định là Mô Xoài và Đồng Nai đã có lưu dân của nước ta đên ở chung lộn với người
Cao Miên khai lhẩn ruộng đất". Như vậy là từ trước năm 1658, Mô Xoài và
Đồng Nai đã thuộc "biên cảnh" của Việt Nam.
Bốn mươi năm sau (tức 1698), chúa Nguyễn mới sai Nguyễn Hữu Kính vào "kinh
lý" miền Nam. Đó là cuộc kinh lý miền biên cảnh - khi ấy "đất đai đã
mở rộng khắp miền đông Nam Bộ nay. Trên cơ sở lưu dân Việt Nam tự phát tới
"khẩn hoang lập ấp", Nguyễn Hữu Kính đã lập phủ Gia Định và 2 huyện
Phước Long, Tân Bình (một phần nay là TPHCM). Đúng là dân làng đi trước, nhà
nước đến sau. Và miền biên cảnh Nam Bộ sáp nhập vào cương vực Việt Nam một cách
thật êm thắm và hòa hợp dân tộc vậy.
Lịch sử phát triển saigon
Hình ảnh đầu tiên tạo nên
địa thế Sài Gòn chính là vùng Bến Nghé – Sài Gòn. Vùng này xưa kia là rừng rậm
đầm lầy, hoang vắng, "mênh mông rừng tràm, bạt ngàn rừng dừa", song
cũng nổi tiếng là vùng đất màu mỡ phì nhiêu có đường giao thông thuận tiện.
Năm
1698, Chúa
Nguyễn sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền biên cảnh phía Nam, lập
phủ Gia Định và thời điểm này được ghi vào lịch sử như cột mốc thời gian để
tính tuổi cho thành phố
Năm 1896, thành phố đổi tên từ
"Gia Định Tỉnh" thành Sài Gòn
và từ đây tên tuổi này ngày càng rực sáng trên trường quốc tế qua những hình
ảnh và trang sử rất gợi nhớ: "Là trung tâm thương mại sầm uất, có thương
cảng thuận tiện cho giao lưu kinh tế với nước ngoài"; "Sài Gòn hòn ngọc của Viễn Đông",
"Sài Gòn có cảng Nhà Rồng, nơi Bác Hồ đã ra đi tìm đường
cứu nước"; Sài Gòn còn là điểm
khởi đầu của Nam Bộ kháng chiến oanh liệt. Trong kháng chiến chống Mỹ, Sài Gòn
luôn đi đầu trên mọi trận tuyến, lịch sử Sài
Gòn gắn liền với những trang sử đấu tranh hào hùng của công nhân, lao động,
trí thức, học sinh, sinh viên và đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã
tô thắm thêm cho bản anh hùng ca dựng nước và giữ nước của người Sài Gòn, của dân tộc Việt Nam kiên
cường. Từ đây lịch sử đã sang trang mới, "Sài Gòn" được Quốc Hội đổi tên thành "Thành phố Hồ Chí
Minh" (tháng 07/1976), và một thời kỳ mới đã bắt đầu - Thời kỳ xây dựng xã
hội mới vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Địa danh: Gia Định – Sài Gòn – Thành
phố Hồ Chí Minh
- 1698 – 1802: Phủ Gia Ðịnh
- 1790 – 1802: Gia Ðịnh Kinh
- 1802 – 1808: Gia Ðịnh Trấn
- 1808 – 1832: Gia Ðịnh Thành
- 1836 – 1867: Tỉnh Gia Ðịnh
- 1889 – 1975: Tỉnh Gia Ðịnh (Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Ðịnh)
- 1976 đến nay: Thành phố Hồ Chí Minh
300 năm địa danh gia định
Địa danh Gia Định đã xuất
hiện từ 300 năm qua, nhưng khi là phủ, là tỉnh, là toàn xứ Nam bộ, lại chỉ định
những địa bàn hành chính to nhỏ rất khác nhau. Thật là phức tạp, chúng ta cần
xem xét cho thấu đáo.
1- Phủ Gia Định từ 1698 đến 1802.
Năm
1698,
Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh
lý miền Nam, thấy nơi đây đất đã mở mang "hàng ngàn dặm và có dân trên 4 vạn hộ". Để chấm dứt tình trạng
lưu dân tự khẩn hoang lập ấp đó, Cảnh bèn lập phủ Gia Định để coi hai huyện: Phước Long (Biên Hòa) và Tân Bình (Sài Gòn, từ sông Sài Gòn đến
sông Vàm Cỏ Đông). Diện tích rộng khoảng 30.000 km2.
Năm 1708, Mạc Cửu xin cho trấn Hà
Tiên thuộc quyền Chúa Nguyễn. Năm 1732, chúa Nguyễn cho lập châu Định Viễn và
dựng dinh Long Hồ (sau là Vĩnh Long). Năm 1756, tổ chức cai trị đạo Trường Đồn
(sau là Định Tường).
Năm
1757, chúa
Nguyễn cho lập các đạo Đông Khẩu, Tân Châu, Châu Đốc. Từ đó toàn miền Nam thuộc
về lãnh thổ và chính quyền Việt Nam.
Từ
1779, phủ
Gia Định bao gồm cả:
Dinh
Phiên trấn (Sài Gòn)
Dinh trấn Biên (Biên Hòa)
Dinh Trường Đồn (Định Tường)
Dinh Long Hồ (Vĩnh Long, An Giang).
Trấn Hà Tiên.
Như vậy,
diện tích phủ Gia Định là diện tích toàn Nam bộ rộng khoảng 64.743 km2.
Gia Định kinh từ 1790 đến 1802
Sau khi thâu hồi đất Gia Định, Nguyễn Ánh cho xây thành Bát Quái rộng lớn theo
cách bố phòng Vauban, theo định hướng phong thổ Aá Đông, theo mỹ thuật dân tộc
Việt Nam và mệnh danh là Gia Định kinh.
2- Gia Định trấn từ 1802 đến 1808.
Năm 1802, Nguyễn Ánh thâu phục kinh thành Phú Xuân rồi lên ngôi và lấy đế hiệu
Gia Long. Gia Long bèn hạ cấp Gia Định kinh xuống làm Gia Định trấn thành. Cải
tên phủ Gia Định làm trấn Gia Định và đặt "trấn quan" để cai quản cả
ngũ trấn là: trấn Phiên An, trấn Biên Hòa, trấn Định Tường, trấn Vĩnh Long,
trấn Hà Tiên.
3- Gia Định thành từ 1808 đến 1832
Gia Định thành thay cho Gia Định trấn. Gia Định thành là đơn vị hành chính lớn
cũng như Bắc thành cai quản cả xứ Bắc gồm nhiều trấn. Có lẽ phải đổi tên Gia
Định trấn ra Gia Định thành để khỏi lẫn với 5 trấn dưới quyền cai quản. Từ đó,
thành cai quản trấn. Để dễ phân biệt. Khi Trịnh Hoài Đức viết Gia Định thành
thông chí là có ý nghiên cứu toàn hạt 5 trấn đã kể trên.
4- Tỉnh Gia Định từ 1836 đến 1867.
Năm 1832, sau khi Tổng trấn Lê Văn
Duyệt mất, Minh Mạng liền cải ngũ trấn thành lục tỉnh là Phiên An, Biên Hòa,
Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Đổi thành Gia Định - nơi trú đóng của
Tổng trấn - làm tỉnh thành Phiên An - nơi trị sở của Tổng đốc coi riêng Phiên
An thôi.
Năm 1835, sau vụ Lê Văn Khôi, Minh
Mạng cho phá thành Bát Quái và xây dựng Phụng thờ nhỏ, gọi là tỉnh thành Phiên
An.
Năm 1936, cải tỉnh Phiên An ra tỉnh
Gia Định. Tỉnh thành Phiên An cũng đổi ra tỉnh thành Gia Định. Tỉnh Gia Định
đương thời rộng khoảng 11.560 km2.
Năm 1859, Pháp tới chiếm Sài Gòn và
phá bình địa thành Gia Định (Pháp gọi là thành Sài Gòn).
Sau Hòa ước 1862 mất đi ba tỉnh miền Đông, Pháp vẫn chia tỉnh Gia Định làm 3
phủ như cũ: Tân Bình, Tân An, Tây Ninh.
5- Hạt Gia Định từ 1885 đến 1889.
Từ năm 1867, Pháp bỏ tên tỉnh Gia Định mà gọi là tỉnh Sài Gòn. Tỉnh Sài Gòn cũng là địa bàn
tỉnh Gia Định trước, song không chia ra phủ huyện, mà chia ra 7 hạt tham biện
(inspection), trong đó có hạt Sài Gòn (không kể thành phố Sài Gòn). Hạt Sài Gòn
gồm 2 huyện Bình Dương và Bình Long. Nhưng từ năm 1872, hạt Sài Gòn gồm thêm
huyện Ngãi An (Thủ Đức) nguyên thuộc tỉnh Biên Hòa.
Năm 1885, đổi tên hạt Sài Gòn thành
hạt Gia Định (có lẽ để phân biệt rõ
với thành phố Sài Gòn).
6- Tỉnh Gia Định từ 1889 đến 1975.
Năm
1889, bỏ
danh xưng hạt (arrondissement), lấy tên tỉnh cho thống nhất với toàn quốc Việt
Nam. Tỉnh Gia Định là 1 trong 20 tỉnh của cả Nam Kỳ lục tỉnh cũ. Tỉnh Gia Định
(thu hẹp) này chia ra 18 tổng với 200 xã thôn, rộng khoảng 1.840 km2.
Năm 1944, thiết lập tỉnh Tân Bình trên một phần đất của tỉnh Gia Định (bắc Sài Gòn như Phú Nhuận, Phú Thọ, Hạnh Thông, Tân Sơn Nhì...,
vùng Thủ Thiêm và một phần Nhà Bè). Tỉnh này chỉ tồn tại đến cuộc
Cách mạng 5-1945 rồi giải thể. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, một
phần không nhỏ của địa phận tỉnh Gia
Định đã là căn cứ Cách mạng kháng chiến.
Năm 1956, vùng Củ Chi được trích ra để lập thêm 2 tỉnh Hậu Nghĩa và Bình Dương,
Hậu Nghĩa lấy phần đất phía tây vẫn
gọi là quận Củ Chi. Bình Dương lấy phần đất phía đông gọi
là quận Phú Hòa.
Sau vụ chia cắt, Củ Chi cho 2 tỉnh Hậu Nghĩa và Bình Dương, tỉnh Gia Định
(1970) còn chia ra 8 quận với 74 xã, rộng 1.499 km2. Tình hình đó tồn tại đến
ngày Giải phóng 1975.
Từ năm 1975 đến nay, địa danh Gia Định không còn dùng để chỉ bất cứ
một đơn vị hành chính nào. Song nhân dân miền Nam vẫn nhớ tên đó với nhiều ấn
tượng sâu sắc và tốt đẹp, Sử sách Thành phố và toàn Nam Bộ luôn nói đến Gia Định từ suốt 300 năm qua để ghi dấu
bao chiến công và thành tích phát triển vượt bậc của phần đất phía Nam của Tổ
quốc.
Niên biểu 300 năm sài gòn
1623: Chúa Nguyễn mở các trạm
thu thuế ở Bến Nghé và Sài Gòn (ở quận 1 và quận 5 ngày nay).
1679: Chúa Nguyễn lập đồn dinh ở Tân
Mỹ gần ngã tư Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi ngày nay.
1698: Chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, cho
lập phủ Gia Định, gồm hai huyện Phước Long và Tân Bình. (Sài Gòn thuộc huyện
Tân Bình)
1731: Chúa Nguyễn cử ông Trương
Phước Vĩnh giữ chức Điều khiển để điều hành tất cả các dinh trấn, cho xây dinh
Điều Khiển tại Sài Gòn. Thống binh Trần Đại Định xây lũy Hoa Phong để bảo vệ
Sài Gòn.
1748: Lập chợ Tân Kiểng.
1772: Điều khiển Nguyễn Cửu Đàm đào
kinh Ruột Ngựa nối Sài Gòn với miền Tây. Ông Nguyễn Cửu Đàm xây lũy Bán Bích
(dài 15 dặm) để bảo vệ Sài Gòn.
1774: Xây chùa Giác Lâm.
1776 - 1801: Nhà Tây Sơn 5 lần vào
Sài Gòn. Đáng kể nhất là tháng 6-1784, Nguyễn Huệ đem binh vào và lập nên chiến
thắng Rạch Gầm - Xoài Mút lưu truyền sử xanh, đánh tan 300 chiến thuyền và
20.000 thủy quân xâm lược Xiêm và quân Nguyễn Ánh.
1778: Lập làng Minh Hương. Mở Chợ
Lớn.
1788: Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn.
1790: Xây thành Bát Quái làm trụ sở
chính quyền. Đổi Gia Định thành thành Gia Định kinh.
1802: Nguyễn Ánh lên ngôi ở
Huế, niên hiệu là Gia Long, chia đất phía Nam làm 5 trấn: Phiên An, Biên Hòa,
Vĩnh Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên.
1808: Đổi Gia Định trấn thành Gia
Định thành.
1832: Lê Văn Duyệt chết; đổi Gia
Định thành và 5 trấn phía Nam thành 6 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường,
Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
1833 - 1835: Lê Văn Khôi khởi binh.
1835: Vua Minh Mạng phá thành Bát
Quái xây thành Phụng.
1859:
15-2: Pháp tấn công thành Gia Định.
17-2: Thành Gia Định thất thủ.
1860:
Thành lập thương cảng Sài Gòn và Sở Thương chính.
2-2: Le Page tuyên bố mở cửa Sài Gòn cho nước ngoài vào buôn bán.
Thống đốc Nguyễn Tri Phương cùng Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở phía
Nam. Xây đại đồn Chí Hòa (Kỳ Hòa) chống Pháp.
1861:
24-2: Pháp đánh đồn Chí Hòa - 2 ngày sau đồn thất thủ.
28-2: Pháp hoàn toàn chiếm Sài Gòn.
11-4: Thống đốc Charner ban hành Nghị định quy định giới hạn Sài Gòn.
1862: 5-6 Hòa ước Nhâm Tuất. Ký giữa Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp với Bonard.
Triều đình Huế nhường cho Pháp 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường.
1864:
Xây xong Dinh Thống đốc Nam Kỳ (nay là Bảo tàng Cách mạng).
Tách Sài Gòn và Chợ Lớn.
1865: Gia Định Báo - tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra đời.
1867:
4-4: Tổ chức thành phố Sài Gòn.
8-7: Sửa nghị định 4-4-1867 và tổ chức thành phố Sài Gòn.
1868: 23-2 Khởi công xây dinh Toàn
quyền.
1869: 27-9 Bổ nhiệm ủy viên Hội đồng
thành phố Sài Gòn (có Pétrus Trương Vĩnh Ký).
1874:
15-3: Tổng thống Cộng hòa Pháp ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn. Hòa ước
Giáp Tuất: nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam Kỳ. Ký tại Sài Gòn giữa Lê Tuấn, Nguyễn
Văn Tường và Thống đốc Nam Kỳ Dupré.
1877: 7-10 Xây Nhà thờ Đức Bà (11-4-1880 khánh thành)
1885:
21-1: Khởi nghĩa Nguyễn Văn Bường.
4-2: Khởi nghĩa 18 Thôn Vườn Trầu do Phan Văn Hớn và Nguyễn Văn Quá lãnh đạo.
Khởi nghĩa thất bại, hai ông bị Pháp hành hình tại chợ Hóc Môn.
1886: 11-4 Xây dựng tòa Bưu chính.
1902: Xây cầu Bình Lợi.
1903: Mở đường tàu điện Sài Gòn - Gò
Vấp, Sài Gòn - Chợ Lớn, Gò Vấp - Hóc Môn.
1909: Khánh thành dinh Xã Tây (Uủy
ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ngày nay)
1911: Nguyễn Tất Thành (sau này là
Chủ tịch Hồ Chí Minh) rời Sài Gòn sang Pháp đi tìm đường cứu nước.
1913: 24-3 Nghĩa quân Phan Xích Long
ném bom và tạc đạn vào Sài Gòn Chợ Lớn.
1916:
16-2: Vụ phá Khám lớn Sài Gòn cứu Phan Xích Long và các đồng chí không thành.
22-2: Ông Phan Xích Long cùng 37 đồng chí của ông bị xử tử tại đồng Tập trận.
1920: Ông Tôn Đức Thắng thành lập Công hội đỏ đầu tiên của Sài Gòn.
1925:
Tháng 6 Cụ Phan Châu Trinh từ Pháp về Sài Gòn.
Tháng 8 Bãi công của hơn 1.000 công nhân Ba Son. Thành lập Đảng Thanh niên -
Hội kín Nguyễn An Ninh.
1926:
24-3: Cụ Phan Châu Trinh đột ngột tạ thế.
4-4: Đám tang cụ Phan Châu Trinh.
1940:
23-11: Khởi nghĩa Nam Kỳ.
Các lãnh tụ của Đảng: Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy
Tập bị giặc Pháp bắt và xử bắn ở Hóc Môn.
1945:
15-8: Thành lập ỦY ban khởi nghĩa.
Đêm 24 rạng 25 Sài Gòn khởi nghĩa thắng lợi.
2-9: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình
Hà Nội. Cùng ngày ở Sài Gòn, đoàn biểu tình hoan nghênh bản Tuyên ngôn Độc lập,
bị lính Pháp bắn lén.
6-9: Quân đội Anh, Ấn đến Sài Gòn để tước vũ khí quân đội Nhật.
23-9: Pháp chiếm Ủy ban nhân dân Nam Bộ, Quốc gia tự vệ cuộc, Đài phát thanh
Sài Gòn... gây hấn ở Nam Bộ. Nhân dân Sài Gòn, nhân dân miền Nam lại bước vào
cuộc kháng chiến.
1948:
29-3: Phá nổ 300 quả mìn ở kho đạn Bảy Hiền.
13-9: Kho xăng Tân Sơn Nhất bị đốt cháy (18.000 lít xăng).
1949:
13-6: Cựu hoàng Bảo Đại về đến Sài Gòn sau 3 năm lưu vong.
24-12: Học sinh nhiều trường bãi khóa chống ngụy quyền Bảo Đại.
1950:
9-1: Hàng nghìn học sinh biểu tình đòi mở cửa trường, đòi tự do cho những người
bị bắt.
12-1: Đám tang anh Trần Văn Ơn.
7-2: Chính phủ Truman công nhận ngụy quyền Bảo Đại.
19-2: Tổng lãnh sự quán Mỹ ở Sài Gòn nâng lên cấp Công sứ quán.
16-3: Tàu chở máy bay Bốc-xa và 2 tuần dương hạm đội thuộc hạm đội 7 Mỹ cập bến
Sài Gòn.
19-3: Nhân dân Sài Gòn biểu tình phản đối chiến hạm Mỹ vào cảng dưới sự lãnh
đạo của luật sư Nguyễn Hữu Thọ - "Ngày toàn quốc chống Mỹ".
24-5: Đại diện công sứ Mỹ - Ghờ ri on thông báo bắt đầu viện trợ kinh tế cho
Việt Nam, Lào, Campuchia. Đặt phái đoàn kinh tế đặc biệt ở Sài Gòn.
29-6: Tám máy bay vận tải, viện trợ quân sự đầu tiên của Mỹ cho quân đội Pháp
đến Sài Gòn.
15-7: Phái đoàn Mỹ - Men phi (Bộ trưởng Ngoại giao) và tướng A kin, Tư lệnh Sư
đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ đến Sài Gòn.
2-8: Mỹ thiết lập phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự ở Sài Gòn (MAAG).
17-9: Tát xi nhi, Cao ủy mới, kiêm Tư lệnh quân viễn chinh Pháp, đến Sài Gòn.
1951: 18-11 Ông Ngô Đình Diệm sang
Mỹ được chính phủ Mỹ nuôi dưỡng trong trường thần học tiểu bang Niu Da Di.
1952: Tháng 7 Công sứ quán Mỹ ở Sài
Gòn nâng lên thành Đại sứ quán.
1953:
24-2: Hội đàm Pháp và chính quyền Sài Gòn ở Đà Lạt, quyết định thành lập Việt
Nam quốc quân.
20-6: Phái đoàn quân sự Mỹ đến Sài Gòn.
1954:
Nhân sĩ, trí thức Sài Gòn công bố Tuyên ngôn Hòa Bình.
31-5: Đội biệt động 205 tiến công kho bom Phú Thọ Hòa. 1 triệu lít xăng và
9.345 tấn bom đạn cháy nổ suốt hai ngày đêm.
11-6: Phái đoàn quân sự Mỹ ở Sài Gòn bắt đầu hoạt động triển khai những âm mưu
chi?n tranh tâm lý chính trị.
25-6: Mỹ đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam.
6-7: Thành lập chính phủ Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn.
1-8: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ thành lập Ủy ban hòa bình khu Sài Gòn - Chợ Lớn,
kêu gọi đấu tranh để thống nhất Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do.
1955:
12-2: Đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ bắt đầu huấn luyện quân đội của chính
quyền Sài Gòn.
8-5: Chính quyền ông Diệm cự tuyệt đề án tổ chức hội nghị hiệp thương bàn về
tổng tuyển cử toàn quốc của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
26-10: Vua Bảo Đại thoái vị, ông Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nước
"Việt Nam Cộng hòa" và lên làm Tổng thống.
1956:
28-4: Tư lệnh quân viễn chinh Pháp rút khỏi Sài Gòn.
4-6: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố "sẵn sàng dự hội nghị
hiệp thương vào ngày mà nhà đương cục miền Nam Việt Nam đã lựa chọn nửa đầu
tháng 6". Mỹ thiết lập "cơ quan huấn luyện tác chiến" (CATO) cho
quân đội của chính quyền Diệm.
6-7: Phó Tổng thống Mỹ Ních xơn đến Sài Gòn.
1957:
5-5: Ông Ngô Đình Diệm sang thăm Mỹ và tuyên bố: "Biên giới của Mỹ kéo
dài tới vĩ tuyến 17".
1-8: Chính quyền Sài Gòn thi hành chế độ bắt lính.
22-10: Ông Diệm đổi "Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn" thành "Đô thành
Sài Gòn".
1958: 7-3 Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa lại đề nghị tổ chức hội nghị hiệp thương để bàn về tổng tuyển cử thống
nhất đất nước.
1959: 29-5 Bằng việc công bố luật
"ngăn chặn hoạt động phá hoại" (luật 10/59), ông Ngô Đình Diệm thẳng
tay đàn áp nhân dân.
1960:
11-11: Đại tá lục quân của quân đội Sài Gòn ông Nguyễn Chánh Thi làm đảo chính
chống Diệm bị thất bại.
20-12: Thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
1961:
9-3: Thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.
19-5: Kế hoạch Xtalây Taylo "lập 17.000 ấp chiến lược" dùng chiến
lược trực thăng vận, thiết xa vận hòng bình định miền Nam Việt Nam trong vòng
18 tháng.
11-8: Mỹ quyết định cho thêm tiền để tăng quân đội của chính quyền Sài Gòn từ
17 vạn lên 20 vạn.
11-8: Mỹ đưa sang Sài Gòn một trung đội máy bay trực thăng.
14-8: Trong bức thư gửi ông Diệm, Tổng thống Kennơđi hứa sẽ tăng thêm viện trợ.
1962:
27-2: Hai phi công ông Nguyễn Văn Cử và ông Phạm Phú Quốc ném bom dinh Độc Lập.
Năm 1962, viện trợ của Mỹ lên tới
600 triệu đôla, gấp hai lần năm 1961, bốn lần năm 1960.
1963:
11-6: Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ở Sài Gòn phản đối chính sách đàn áp
tín đồ Phật giáo của chính quyền ông Diệm.
15-8: Chính quyền ông Diệm tấn công vào chùa, sinh viên biểu tình ở Sài Gòn
chống lệnh giới nghiêm, hơn 2.000 học sinh và 6.000 dân thường bị bắt.
20-8: Ông Diệm tuyên bố thiết quân luật toàn miền Nam.
22-8: Đại sứ Mỹ - Henry Cabot Lodge đến Sài Gòn.
29-8: Bộ Ngoại giao Mỹ trao quyền cho Tư lệnh Ha-kin hứa hẹn với những người
chỉ huy quân đội Sài Gòn là sẽ ủng hộ cuộc đảo chính lật Diệm, với điều kiện
không đưa quân đội Mỹ vào.
14-9: Mỹ thông báo kéo dài thời gian quyết định cấp viện trợ của kế hoạch nhập
hàng hóa cho Nam Việt Nam (18 triệu 50 vạn đôla).
24-9: Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - Mác Namara đến Sài Gòn.
1-10: Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ Tay-lo đến Sài Gòn.
5-10: Đại đức Thích Quảng Hương tự thiêu.
8-10: Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc quyết định cử đoàn điều tra về việc đàn áp
Phật giáo (ngày 24 đến Sài Gòn).
27-10: Đại đức Thích Thiện Mỹ tự thiêu.
1-11: Đảo chính quân sự lật Diệm.
2-11: Anh em Diệm, Nhu bị giết. Thành lập chính phủ lâm thời do cựu Phó Tổng
thống Nguyễn Ngọc Thơ cầm đầu.
1964:
8-2: Thành lập chính phủ mới ở miền Nam Việt Nam do ông Nguyễn Khánh làm Thủ
tướng, tướng Dương Văn Minh làm Quốc trưởng.
2-5: Đặc công đánh chìm chiến hạm Card cùng 24 máy bay các loại.
18-5: Tổng thống Mỹ Giôn-xơn gửi thông điệp đặc biệt cho Quốc hội, yêu cầu cấp
thêm 125 triệu đôla viện trợ cho Nam Việt Nam.
16-8: Hội đồng quân lực của chính quyền Sài Gòn bầu tướng Nguyễn Khánh làm Tổng
thống, soạn thảo hiến pháp mới.
25-8: Đặc công đánh khách sạn Caravelle.
3-9: Đảo chính chống ông Nguyễn Khánh thất bại.
20.000 công nhân đình công ở Sài Gòn.
15-10: Chính quyền ông Nguyễn Khánh xử tử người thanh niên yêu nước anh Nguyễn
Văn Trỗi.
31-10: Ông Trần Văn Hương lên thay Ông Nguyễn Khánh.
19-12: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố đã giải phóng 8
triệu người, kiểm soát 3/4 lãnh thổ.
20-12: Phái quân sự giải tán Hội đồng quốc gia miền Nam Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ
nhẩy lên nắm quyền hành.
1965:
22-1: Tín đồ Phật giáo Sài Gòn biểu tình tấn công cơ quan USIS Mỹ.
28-1: Ông Phan Huy Quát lên làm Thủ tướng.
21-2: Ông Nguyễn Khánh bị cách chức Tổng tư lệnh ba quân chủng. Nguyễn Văn
Thiệu làm Chủ tịch Hội đồng quân lực.
30-3: Tòa Đại sứ Mỹ (39 Hàm Nghi) bị hai chiến sĩ biệt động đánh bom làm hư
hỏng nặng.
10-6: Ông Phan Huy Quát từ chức Thủ tướng. Sài Gòn chuyển sang quân quản.
11-6: Đảo chính của ông Nguyễn Văn Thiệu – ông Nguyễn Cao Kỳ.
29-7: 30 máy bay B52 cất cánh từ Ô-ki-na-oa sang ném bom phía Nam Sài Gòn.
2-8: Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa ra tuyên bố phản đối Liên Hợp Quốc can thiệp vào
vấn đề Việt Nam.
31-10: 650 giáo sư thuộc 21 trường đại học đăng bức thư công khai phản đối
chiến tranh Việt Nam trên tờ: Thời báo New York. Lần đầu tiên bộ đội cơ giới
của quân đội nhân dân theo đường Hồ Chí Minh tiến quân vào Nam.
1966:
17-7: Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lời kêu gọi gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước,
nêu rõ: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn
nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, nhưng
nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày
chiến thắng, nhân dân sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
3-7: Quân Mỹ ở Nam Việt Nam tăng lên 325.000 người.
1967:
9-1967: Khánh thành Tòa Đại sứ mới của Mỹ ở Sài Gòn.
21-9: Thủ tướng Nhật Bản - Sa tô sang thăm Sài Gòn.
31-9: Khánh thành Dinh Độc Lập mới.
1968:
29-1: Tổng thống Mỹ Giôn xơn công bố bản thông điệp về dự toán ngân sách (dự
chi về Việt Nam 25 tỷ 800 triệu USD).
30-1: Mở đầu cuộc tấn công Tết Mậu Thân (đến ngày 15-4).
31-1: Quân Giải phóng đánh chiếm một phần Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn và đồng loạt
tấn công Dinh Độc Lập, Bộ Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân, sân bay Tân Sơn Nhất,
Đài phát thanh Sài Gòn...
5-5: Nhiều nơi ở Sài Gòn thành lập ủy ban Nhân dân Cách mạng.
19-6: Nguyễn Văn Thiệu công bố lệnh tổng động viên.
17-8: Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắt đầu cuộc tổng công kích cùng với
quần chúng nổi dậy.
31-10: Mỹ buộc phải chấp thuận sự có mặt của đại diện Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Hội nghị Paris.
12-11: Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - Cờ líp phớt tuyên bố sẵn sàng tham gia hội đàm
mở rộng Paris, dù chính quần Sài Gòn không tham dự.
27-11: Chính quyền Sài Gòn tuyên bố tham gia vào hội đàm mở rộng Paris.
1969:
6-6: Thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Đại
hội đại biểu nhân dân miền Nam Việt Nam bầu ra.
21-8: Vụ thảm sát tù chính trị ở nhà lao Thủ Đức của chính quyền Sài Gòn.
2-9: Chủ tịch Hồ Chí Minh mất (79 tuổi). Trong di chúc đề ngày 10-5, Người
viết: "Còn non, còn nước, còn người, thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn
mười ngày nay. Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn
thắng lợi. Đế quốc Mỹ phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống
nhất, đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà".
23-9: Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu cụ Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch
nước.
1970: 17-7 Đoàn Sinh viên quốc tế
đến Sài Gòn tham dự "Năm Châu đấu tranh cho hòa bình ở Việt Nam".
1971: 22-6 Thượng nghị viện Mỹ thông
qua nghị án rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam trong vòng 9 tháng.
1972: Sinh viên yêu nước Nguyễn Thái
Bình từ Mỹ về, bị hạ sát trên máy bay ở sân bay Tân Sơn Nhất.
1973:
27-1: Sau 4 năm 9 tháng trên bàn hội nghị, Mỹ đã phải ký kết Hiệp định Paris,
cam kết "tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam...".
2-2: Uủy ban hỗn hợp 4 bên Mỹ, Việt Nam, Chính phủ Cách mạng Lâm thời, chính
quyền Sài Gòn bắt đầu hoạt động.
29-3: Bộ Tư lệnh quân Mỹ viễn chinh ở miền Nam Việt Nam làm lễ cuốn cờ về nước.
1974:
18-6: 301 linh mục của Giáo hội Sài Gòn ra tuyên bố lên án nạn tham nhũng trong
chính quyền Sài Gòn.
22-9: Thành lập Mặt trận nhân dân cứu đói ở Sài Gòn.
1975:
14-1: Cảnh sát Sài Gòn bắn chết Pôn Lê-ăng-đờ-ri, phóng viên Thông tấn xã Pháp
AFP tại trụ sở cảnh sát ở Sài Gòn.
25-1: Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam quyết định phát triển hơn
nữa kế hoạch hai năm, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.
Quyết định thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn.
1-4: Máy bay vận tải khổng lồ C5A - Ghờ-rắc-xi tăng cường chở gấp vũ khí, đạn
dược từ Mỹ sang Sài Gòn. Chính phủ Cách mạng Lâm thời công bố chính sách 10
điểm về vùng mới giải phóng.
7-4: Phi công Nguyễn Thành Trung ném bom "Dinh Độc lập".
14-4: Chiến dịch giải phóng Sài Gòn được mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
21-4: Tại Quốc hội Mỹ, ông Kít-sinh-giơ, Uây-ăng tuyên bố "không còn khả
năng bảo vệ được Sài Gòn", ôngNguyễn Văn Thiệu từ chức, ông Trần Văn Hương
lên thay.
26-4: Ông Trần Văn Hương từ chức Tổng thống, Tướng Dương Văn Minh lên thay. Ông
Nguyễn Văn Thiệu trốn sang Đài Loan. Chính phủ Cách mạng Lâm thời đòi hỏi Mỹ
ngừng can thiệp, giải tán chính quyền Sài Gòn. Cùng ngày, 17 giờ, Chiến dịch Hồ
Chí Minh bắt đầu.
30-4: Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn. Tổng thống ngụy quyền ông Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Đến ngày 1-5, miền Nam Việt Nam hoàn toàn
giải phóng.
15-5: Lễ mừng chiến thắng.
Tháng 9: Đổi tiền.
1976:
Tháng 1: Đại hội Đảng toàn quốc lần IV xác định đường lối tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Đại hội Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần I.
21-1: Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu hoạt động.
28-3: Thành lập lực lượng Thanh niên xung phong thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 4: Bầu Quốc hội thống nhất toàn quốc đầu tiên và Hội đồng nhân dân các
cấp.
2-7: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Sài Gòn chính thức mang
tên thành phố Hồ Chí Minh.
1978: Tháng 3, cải tạo tư sản thương
nghiệp toàn miền Nam.
1979: Tháng 8, Thành ủy thành phố Hồ
Chí Minh ra Nghị quyết 9.
1980:
Nghị quyết 10 của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh.
Nghị quyết 17 và 19 của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh về tăng cường quản lý
thị trường.
1986:
Tháng 10: Đại hội Đảng bộ thành phố lần IV: Xác định mục tiêu chủ yếu trong 5
năm (1986-1990).
Tháng 12 : Đại hội Đảng toàn quốc lần VI xác định đường lối đổi mới, "Nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật".
1991:
Tháng 6: Đại hội Đảng toàn quốc lần VII thông qua Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội đến năm 2000.
Đại hội Đảng bộ thành phố lần V. Cương quyết vận dụng Cương lĩnh và Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII.
1996:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.
Tháng 5 : Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VI, tổng kết 10 năm đổi mới của
thành phố.
1998: Kỷ niệm 300 Sài Gòn - thành
phố Hồ Chí Minh.
2000: Đại hội đại biểu Đảng bộ thành
phố lần thứ VII.
2001: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX.
GIỚI THIỆU VỀ THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
Diện tích: 2.098,7m2
Dân số (2006): 6.105.800 người
Các quận: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,Tân Bình, Tân Phú, Bình Thạnh, Phú
Nhuận, Gò Vấp, Bình Tân và thành phố Thủ
Đức .
Các huyện: Nhà bè, cần Giờ, Hóc Môn, Củ Chi và Huyện Bình Chánh.
Dân tộc :Việt (Kinh), Hoa, Chăm, Khmer…
Thành Phố Hồ Chí Minh có tọa độ địa lý 10o2213 – 11o2217 vĩ độ Bắc và 106o0125
– 107o0110 kinh độ Đông. Trung tâm Thành Phố cách Thủ Đô Hà Nội 1.730km (đường
bộ) về phía Bắc và cách bờ biển Đông 50km đường chim bay. Thành Phố có 15km bờ
biển.
Thổ nhưỡng: đất của Thành Phố chủ yếu là phù sa cũ và phù sa mới tạo lập nên.
Sông ngòi: trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh có hàng trăm sông ngòi, kênh rạch
nhưng sông lớn không nhiều, lớn nhất là sông Sài Gòn mà đoạn chảy qua Thành Phố
dài 106 km. Hệ thống đường sông từ Thành Phố Hồ Chí Minh lên miền Đông và xuống
các tỉnh miền Tây, sang Cam-pu-chia đều thuận lợi.
Thành Phố Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông của cả miền Nam bao gồm đường sắt,
đường bộ, đường thủy và đường không. Từ Thành Phố đi hà Nội có quốc lộ 1, đường
sắt thống nhất và quốc lộ 13 xuyên Đông dương, Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất
cách trung tâm Thành Phố 7km, là sân bay lớn nhất ở Việt Nam với hàng chục
đường bay quốc tế.
Kí hậu hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa bình quân năm
1.979mm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm
27,55oC, không có mùa đông. Hoạt động du lịch thuận lợi suốt 12 tháng.
Khu vực hành chính toàn Thành Phố có 24 quận, huyện. Nội thành có các quận
1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,Tân Bình, Tân Phú, Bình Thạnh,Phú Nhuận,Gò Vấp, Bình
Tân và Thành Phố Thủ Đức .Ngoại thành có các huyện Nhà bè, cần Giờ, Hóc Môn, Củ
Chi và Bình Chánh. Toàn Thành Phố có 259 phường, 58 xã, và 5 trị trấn.
Hướng dẫn du lịch TP Hồ Chí Minh
Sơ lược
Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở giữa vùng Nam Bộ trù phú, tiếp giáp với phía Nam
của miền Ðông Nam Bộ và rìa Bắc của miền Tây Nam Bộ. Là thành phố đông dân và
lớn nhất Việt Nam. Nơi đây là đầu mối giao thông lớn, nối liền với các tỉnh
trong vùng và là cửa ngõ quốc tế của khu vực.
Ngay cái nhìn đầu tiên, Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh đã để lại ấn tượng sâu
sắc của một đô thị lớn nhất, náo nhiệt nhất và năng động nhất trong cả nước.
Những phố xá đèn sáng choang, sinh hoạt và vui chơi giải trí kéo dài đến tận
khuya. Những dòng xe cộ hối hả trên khắp các ngả đường như không bao giờ dứt.
Dãy dãy cửa hiệu với hàng hóa phong phú đủ màu, đủ loại góp phần làm nên danh
tiếng "Sài Gòn - thiên đường mua sắm". Nhan nhãn những quán ăn, cửa
tiệm, nhà hàng với thực đơn rất đa dạng khiến ẩm thực trở thành một cái thú
không thể thiếu đối với du khách đến nơi đây.
Nhưng đàng sau sự sôi nổi ấy là một
cuộc sống phóng khoáng mà hài hòa, với những phong tục tập quán lâu đời của một
nền văn hóa truyền thống đã thích nghi với cuộc sống khai hoang mở đất ở một
vùng đồng bằng sông nước, và sớm giao thoa với các nền văn hóa trong khu vực và
phương Tây.
Hàng trăm chùa chiền, hàng trăm ngôi đình thờ phụng các anh hùng đất nước và
các tiền hiền có công mở cõi vẫn quanh năm nhang khói. Các chứng tích của sự
nghiệp giải phóng thành phố và đất nước được trân trọng bảo tồn. Ngoài các lễ
tết chính thức, người dân thành phố tổ chức rất trọng thể nhiều lễ hội theo
truyền thống "uống nước nhớ nguồn" như Lễ hội Nghinh Ông, Ngày giỗ tổ
nghề, Ngày Thầy thuốc, Ngày Nhà giáo, Ngày Báo hiếu, Ngày Phụ nữ…
Các kiến trúc của Sài Gòn - Hòn
ngọc Viễn Đông xưa được giữ gìn và tôn tạo, trở thành những điểm tham quan lý
thú. Bên cạnh đó là những công trình hiện đại phát huy từ cảm hứng trong kiến
trúc truyền thống Việt Nam. Ở nơi đất hẹp người đông này, du khách sẽ bất ngờ
với những đại lộ rợp bóng cổ thụ trăm năm, những công viên rộng rực rỡ hoa lá,
những khu biệt thự thanh bình. Bên cạnh những tòa cao ốc mới ở trung tâm thành
phố, khách sẽ có dịp ghé thăm Chợ Lớn của người Hoa với những khu phố cổ nhộn
nhịp, hoạt động thương mại và sản xuất luôn nhộn nhịp ngày đêm.
Là trung tâm du lịch và cửa ngõ du
lịch lớn nhất trong cả nước, thành phố Hồ Chí Minh có hệ thống cơ sở vật chất
và dịch vụ du lịch khá phát triển, từ những điểm vui chơi giải trí cho đến
khách sạn, nhà hàng.
Khí hậu thành phố dễ chịu, nắng không quá nóng và mưa không kéo dài nên mùa nào
cũng có thể là mùa du lịch.
Người dân thành phố, thân thiện và phóng khoáng, luôn mong được tiếp đón du
khách từ mọi phương trời.
Đi khi nào?
TPHCM có hai mùa rõ rệt là mùa nắng và mùa mưa, mùa mưa bắt đầu từ tháng 6 và
kết thúc vào tháng 11. Nhưng nhìn chung bạn có thể đến TPHCM bất cứ tháng nào
trong năm và đừng đi du lịch tại TPHCM vào những ngày tết nguyên đán. Khi tết
nguyên đán mọi người thường về quê hương ăn tế với gia đình.
Vào các mùa lễ hội hoạt động mua
sắm và vui chơi tại TPHCM diễn ra vô cùng sôi nỗi trên khắp các ngả đường. Vào
mùa Noel các con đường tràn ngập ánh đèn, xe cộ tấp nập và các hoạt động vui
chơi giải trí diển ra gần tàn đêm, bạn có thể đến TPHCM vào những ngày này để
tận hưởng cái không khí se se lạnh nhưng ấm áp tại TPHCM.
Đừng lo ngại sự ồn ào của TPHCM bạn đến đây bất cứ ngày nào trong năm củng có
các khu du lịch sinh thái, khu nghĩ dưỡng… cho bạn thư giãn.
Đi đâu, chơi gì?
Để chuyến du lịch đến thành phố Hồ Chí Minh trọn vẹn, có những điểm tham quan
tiêu biểu mà bạn không thể bỏ qua.
Với hệ thống 11 bảo tàng, thành phố Hồ Chí Minh là nơi có số bảo tàng nhiều
nhất so với các tỉnh, thành trong cả nước. Nội dung trưng bày của các bảo tàng
khá phong phú, và không chỉ về lịch sử và văn hóa địa phương, mà của cả Nam bộ,
quốc gia và khu vực Đông Nam Á, cung cấp nhiều kiến thức lý thú.
Trên 1.000 ngôi chùa, đình, đền và miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ cũng là
những tài sản quý về văn hóa, kiến trúc và nghệ thuật. Bạn sẽ tìm thấy những
chùa Phật giáo Nam bộ tiêu biểu, những ngôi đình xưa gắn liền với lịch sử khẩn
hoang mở đất. Bên cạnh đó là những chùa "cách tân" lớn nhất và đẹp
nhất trong cả nước, kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách hiện đại với kiến trúc
chùa cổ truyền. Thành phố có đến nửa triệu người Hoa sống tập trung nên số chùa
Hoa cũng nhiều nhất so trong nước, kiến trúc đa dạng và phong phú, nhiều chùa
đã được công nhận di tích lịch sử - văn hóa của thành phố và quốc gia.
Người Pháp đã để lại nhiều công trình đẹp và đa dạng. Có thể nói hiếm có đô thị
nào ở Đông Nam Á lại có nhiều dạng kiến trúc, nhiều trường phái, phong cách
nghệ thuật phương Tây như Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh. Điển hình như trụ sở
Ủy ban Nhân dân Thành phố theo phong cách Đệ Tam Cộng hòa Pháp, Ngân hàng Nhà
nước chịu ảnh hưởng trào lưu Tân Nghệ thuật, Nhà Thiếu nhi với phong cách Tân
Cổ điển, Nhà Rồng phong cách Đông Dương, Bưu điện với trường phái Chiết Trung,
nhà thờ Đức Bà với nghệ thuật Rôman, nhà thờ Huyện Sĩ theo Tân Gôtic…
Mảng kiến trúc đương đại, đang bùng nổ, trăm màu trăm vẻ, tạo cho thành phố một
diện mạo vui mắt, trong đó có một số tòa nhà đẹp, có giá trị thẩm mỹ cao.
Nhưng điểm du lịch độc đáo nhất của thành phố vẫn là Địa đạo Củ Chi, một công
trình độc đáo trong lịch sử quân sự thế giới, biểu tượng của ý chí sắt đá và
thông minh mưu trí của quân dân thành phố trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Lẫy lừng không kém là rừng ngập mặn Cần Giờ với những trận chiến phá tàu
giặc trên cửa sông Sài Gòn, nay là một điểm du lịch sinh thái tuyệt vời với
những cánh rừng đước xanh vô tận.
Bảo tàng
Hệ thống bảo tàng của thành phố Hồ Chí Minh gồm 11 bảo tàng cùng nhiều nhà lưu
niệm, nhà truyền thống, phòng truyền thống ở các quận, huyện.
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam là bảo tàng lớn nhất, và cũng là bảo tàng đầu tiên
của thành phố, ra đời từ những năm đầu thế kỷ 20. Nhờ không ngừng sưu tầm và
bảo quản được hiện vật qua các thời kỳ, nên Bảo tàng Lịch sử đã có một bộ sưu
tập phong phú gần 30.000 hiện vật giá trị.
Bảo tàng Hồ Chí Minh, nơi giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chủ tịch,
thu hút nhiều khách nội địa nhất. Trong khi đó, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh
trưng bày về tội ác dã man của quân xâm lược Mỹ đối với nhân dân Việt Nam, là
địa chỉ không thể thiếu trong chương trình tham quan của du khách nước ngoài.
* Bảo tàng Lịch sử Việt Nam –
TP.HCM
2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1
* Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh
65 Lý Tự Trọng, quận 1
* Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh
28 Võ Văn Tần, quận 3
* Bảo tàng Hồ Chí Minh – TP.HCM
1 Nguyễn Tất Thành, quận 4
* Bảo tàng Tôn Đức Thắng
5 Tôn Đức Thắng, quận 1
* Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí Minh
2 Lê Duẩn, quận 1
* Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ
202 Võ Thị Sáu, quận 3
* Bảo tàng Lực lượng Vũ trang miền
Đông Nam Bộ
247 Hoàng Văn Thụ, quận Tân Bình
* Bảo tàng Mỹ thuật – TP.HCM
97A Phó Đức Chính, quận 1
Chùa chiền
Có những ngôi chùa tiêu biểu của phong cách kiến trúc chùa Phật giáo cổ truyền
ở Nam bộ với khung cảnh thanh nhàn, nội thất u nhã, và hàng chục pho tượng thờ,
cột, bao lam gỗ chạm trổ tinh vi. Lại có những chùa xây dựng theo phong cách
hiện đại nhưng lấy cảm hứng từ kiến trúc truyền thống với nội thất cao rộng và
sáng sủa, bài trí đơn giản, tôn nghiêm, kết cấu bêtông cốt thép nhưng vẫn giữ
dáng dấp cổ truyền.
Bên cạnh đó là hàng trăm ngôi đình thờ Thành Hoàng gắn liền với lịch sử khai
hoang mở đất. Hàng năm các đình tổ chức lễ kỳ yên vào mùa xuân, với các nghi
thức tế lễ và ca múa cúng thần long trọng. Đền thờ các vị anh hùng dân tộc như
đền Hùng Vương, đền Trần Hưng Đạo, Lăng Ông… không chỉ là những công trình kiến
trúc đẹp mà còn là nơi tấp nập bá tánh đi lễ cầu phước lộc an khang.
Trên 30 chùa Hoa, thực chất là miếu, gắn liền với lịch sử định cư của Sài Gòn –
Chợ Lớn xưa kia. Kiến trúc chùa Hoa với màu sắc rực rỡ, nhiều tác phẩm điêu
khắc, hội họa sinh động, thư pháp rồng bay phượng múa, mỗi chùa một sắc thái
riêng theo phong tục tập quán của năm nhóm ngôn ngữ Quảng Đông, Phước Kiến,
Triều Châu, Hải Nam và Hẹ.
Chùa Phật giáo xưa:
* Chùa Giác Lâm
118 Lạc Long Quân, quận Tân Bình
* Chùa Giác Viên
161/85/20 Lạc Long Quân, quận 11
* Chùa Phụng Sơn
1408 Ba Tháng Hai, quận 11
Chùa Phật giáo mới:
* Chùa Vĩnh Nghiêm
339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3
* Chùa Xá Lợi
89 Bà Huyện Thanh Quan, quận 3
* Nam Thiên Nhất Trụ
511 Nguyễn Văn Bi, quận Thủ Đức
Đình
* Đình Phong Phú
Ấp Phong Phú, phường Tăng Nhơn Phú, quận 9
* Đình Phú Nhuận
18 Mai Văn Ngọc, quận Phú Nhuận
Đền:
* Đền Hùng Vương
2B Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1
* Đền Trần Hưng Đạo
36 Võ Thị Sáu, quận 1
* Lăng Ông Lê Văn Duyệt
1bis Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh
Chùa Hoa:
* Chùa Ngọc Hoàng
73 Mai Thị Lựu, quận 1
* Chùa Bà Thiên Hậu
710 Nguyễn Trải, quận 5
* Nhị Phủ Miếu
264 Hải Thượng Lãn Ông, quận 5
Nhà thờ
Các nhà thờ ở Sài Gòn chủ yếu xây dựng vào nửa sau thế kỷ 19. Nhìn chung, kiểu
cách kiến trúc theo lối Pháp của giai đoạn này vừa kết hợp phong cách Rôman,
Gôtic quen thuộc thời Trung cổ châu Âu. Có công trình xây dựng nhằm mục đích
làm chỗ dựa tinh thần cho chính quyền thực dân Pháp, có nơi là công trình tôn
giáo đáp ứng nhu cầu tâm linh của tín đồ bản xứ.
Nhà thờ có quy mô lớn nhất thành phố là nhà thờ Đức Bà xây dựng xong vào năm
1880, còn gọi là nhà thờ Nhà nước vì do chính quyền thuộc địa Pháp bỏ tiền ra
xây dựng, là nơi diễn ra các cuộc lễ lạc chính thức, sau này mới chuyển về cho
giáo phận Sài Gòn quản lý. Vào thời đó, nhà thờ Đức Bà được xem là lớn nhất
trong các thuộc địa Pháp. Ngôi nhà thờ xây bằng gạch ngói Marseille, kính màu
và khung sườn thép mang từ Pháp sang kết hợp với đá xanh Biên Hòa. Các ô cửa
cuốn tròn kiểu Rôman cùng cung vòm gãy kiểu Gôtic gợi nhớ dạng thánh đường lớn
ở Pari, Chartres, Reim.
Nhà thờ Tân Định nhỏ hơn, dành cho họ đạo người Việt, tiêu biểu của sự pha trộn
nhiều phong cách khác nhau của kiến trúc nhà thờ Pháp do được xây dựng và nới
rộng trong nhiều đợt. Nhà thờ Huyện Sĩ theo nguyên mẫu nhà thờ nhỏ ở Pháp. Nhà
thờ Cha Tam ở Chợ Lớn cũng thế, nhưng bên trong lại trang trí hoành phi liễn
đối như đền miếu người Hoa.
Kiểu nhà thờ xây dựng vào thời kỳ sau này đã có nhiều nỗ lực đi tìm phong cách
bản địa hơn. Điển hình là nhà thờ Vườn Xoài dung hòa được tính cách hiện đại và
nét cổ Việt, với cửa tam quan, mái phủ lớn.
* Nhà thờ Đức Bà
Công xã Paris, Đồng Khởi, quận 1
Nhà thờ Tân Định
289 Hai Bà Trưng, quận 3
* Nhà thờ Huyện Sĩ
1 Tôn Thất Tùng, quận 1
* Nhà thờ Cha Tam
25 Học Lạc, quận 5
* Nhà thờ Chợ Quán
120 Trần Bình Trọng, quận 5
* Nhà thờ Vườn Xoài
413 Lê Văn Sỹ, quận 3
* Bảo tàng Lịch sử Việt Nam –
TP.HCM
2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1.
Các kiến trúc khác
Kiến trúc thời Pháp để lại nhiều công thự đẹp, hài hòa với cảnh quan, trở thành
một nét thanh lịch riêng của thành phố.
Các công thự này rất đa dạng, gồm từ trụ sở các cơ quan hành chính của thành
phố cho đến các bảo tàng, nhà hát, trường học,… thuộc khá nhiều trường phái và
phong cách nghệ thuật khác nhau. Không ít những chi tiết của nghệ thuật Việt,
Chăm, Khmer đã được đưa vào trang trí. Đặc biệt có những công trình kết hợp hài
hòa kiến trúc phương Tây với những yếu tố bản địa thành một phong cách riêng
gọi là kiến trúc Đông Dương, điển hình như Nhà Rồng, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
hay trường Lê Hồng Phong.
Kiến trúc Sài Gòn trước năm 1975 cũng để lại một số công trình giá trị, trong
đó nổi bật trào lưu kiến trúc "nhiệt đới" nghĩa là chú ý đến yếu tố
khí hậu nhiệt đới, cùng khuynh hướng nỗ lực thể hiện văn hóa nghệ thuật dân tộc
trong kiến trúc đương đại. Những công trình nổi tiếng có Hội trường Thống Nhất,
Thư viện Khoa học Tổng hợp, Ngân hàng Thương Tín, Viện Trao đổi Văn hóa Pháp
IDECAF, một số chùa Phật giáo,…
Thời mở cửa, kiến trúc Sài Gòn bùng nổ. Công trình mới đa dạng, từ những tòa
nhà cao tầng đến biệt thự, nhà phố theo công nghệ mới và nhiều ý tưởng mới. Cao
ốc hàng chục tầng được xây dựng khá nhiều, trong đó, cao nhất là tòa nhà Trung
tâm Thương mại Sài Gòn, 33 tầng, cao 128m. Một số công trình đẹp, được đánh giá
có tính nghệ thuật cao.
Kiến trúc thời Pháp:
* Trụ sở UBND Thành phố
86 Lê Thánh Tôn, quận 1
* Nhà hát Thành phố
7 Công Trường Lam Sơn, quận 1
* Bưu điện Thành phố
Công xã Paris, Đồng Khởi, quận 1
Kiến trúc trước 1975:
* Hội trường Thống Nhất
106 Nguyễn Du, quận 1
* Thư viện Khoa học Tổng hợp
67 Lý Tự Trọng, quận 1
Kiến trúc mới:
* Cao ốc The Metropolitan
61 Nguyễn Du, quận 1
* Trung tâm Thương mại Sài Gòn
37 Lê Duẩn, quận 1
Điểm du ngoạn
Một chuyến du ngoạn trên sông không chỉ để ngắm cảnh, đón gió mát mà còn để có
cái nhìn bao quát về quá trình phát triển của vùng đất này: Từ những vạt dừa
nước trên vùng đất bồi chuyển sang những cao ốc đẹp của thời kỳ đổi mới; từ
những bến ghe chất đầy nông sản miền Tây đến cảng Sài Gòn lớn nhất Việt Nam đón
tàu biển khắp thế giới; từ bến Nhà Rồng là nơi Bác ra đi tìm đường cứu nước
sang bến Bạch Đằng cho tàu du lịch trên sông…
Trên địa đầu tây bắc của thành phố là Địa đạo Củ Chi, căn cứ cách mạng với hệ
thống đường hầm như mạng nhện trong lòng đất, nổi danh cả trên thế giới. Quần
thể địa đạo và Đền Tưởng niệm Bến Dược bên sông Sài Gòn nay là một di tích lịch
sử - văn hóa với phong cảnh hữu tình, dòng sông thanh bình, vườn cây sum suê và
đồng lúa xanh bát ngát.
Rừng ngập mặn Cần Giờ án ngữ cửa sông Sài Gòn, nguyên là căn cứ của lực lượng
đặc công với những trận diệt tàu giặc lẫy lừng, đã trơ trụi vì bom đạn và chất
độc màu da cam. Nay những cánh rừng đước mênh mông đã được hồi sinh, trở thành Khu
Dự trữ Sinh quyển Thế giới, một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn.
Bạn cũng sẽ ngạc nhiên về một điểm sinh thái khác cách không xa trung tâm thành
phố là vườn cò Thủ Đức, trong một vùng quê sông nước êm ả, thanh bình, nơi
"đất lành chim đậu".
* Địa đạo Củ Chi
Ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi
* Rừng ngập mặn Cần Giờ
Xã Lý Nhơn và Long Hòa, huyện Cần Giờ
·
Du
thuyền trên sông Sài Gòn
Xuất phát từ bến Bạch Đằng
* Vườn cò Thủ Đức
124/31, khu phố Gò Công, phường Long Thạnh Mỹ, quận 9
Đến, đi lại bằng gì?
Sân bay Tân Sơn Nhất tọa lạc tại TPHCM là cảng hàng không quốc tế chính yếu của
Việt Nam củng chính là ga đi trong nước (Từ TPHCM đi các tỉnh và ngược lại ).
Từ sân bay Tân Sơn Nhất vào trung tâm TPHCM mất khoảng 20 phút đi xe taxi.
Từ các tỉnh miền Bắc đổ vào Nam các bạn củng có thể đi bằng đường sắt. Các
chuyến tàu liên tục trong năm phục vụ hành khách Bắc Nam, giá vé bạn có thể
tham khảo và đặt vé tại http://vetau.com.vn
Lựa chọn tiếp theo là đi xe khách từ các tuyến tỉnh đến TPHCM và ngược lại như
dịch vụ vận tải hành khách Mai Linh Express có mặt trên khắp Việt Nam và các
doanh nghiệp vận tải khác. Cuối cùng là đi bằng xe gắn máy.
Để vào TPHCM có rất nhiều lựa chọn đi lại cho bạn như: Xe taxi, xe buýt, xe ôm…
Giá vé xe búyt ở TPHCM rất rẽ, tuyến dài khoảng 5000 VNĐ và tuyến ngắn là 3000
– 4000 VNĐ. Vào các giờ cao điểm thì hơi chật vì khách đông còn giờ rỗi thì
thoải mái, ngồi suốt lộ trình trong …. Máy lạnh.
Xe taxi rong ruổi suốt ngày khắp các con đường mang bên hông là số điện thoại
của hãng taxi mà xe đó hoạt động. Các xe taxi ở TPHCM thường có giá như sau
12.000 VNĐ cho 1km đầu tiên, 10.000 cho những km tiếp theo và 8000 VNĐ cho km
thứ 10 trở lên, các hãng taxi lớn như Mai Linh Group, Taxi Future 8181818, Taxi
Vinasun, Vinataxi…
Xe ôm thì có mặt hầu như tất cả các con hẻm ở TPHCM và giá thì thỏa thuận giữa
hành khách và láy xe, thường thì 1km thì 5.000 VNĐ và 10Km thì khoảng 30.000Đ.
Mua sắm, giá cả
Hàng hóa thật phong phú, đủ màu sắc, đủ chủng loại, từ những vật dụng thông
thường hàng ngày cho đến những đặc sản nổi tiếng của mọi miền đất nước, từ hàng
sản xuất trong nước đến những nhãn hiệu quốc tế có uy tín trên thế giới. Cửa
hàng thường trang trí rất đẹp, nhất là các cửa hàng thủ công mỹ nghệ và thời
trang, mỗi cửa hàng như một tác phẩm nghệ thuật nho nhỏ.
Người Sài Gòn vẫn quan niệm "Buôn có bạn, bán có phường", nên tự phát
thành nhiều khu phố kinh doanh cùng một mặt hàng, rất dễ dàng cho khách xem và
lựa chọn. Cửa hàng kề nhau nên để giữ khách, người bán thường không nói thách
nhiều. Có cửa hàng bán giá nhất định. Tuy nhiên bạn vẫn cứ phải cảnh giác với
vấn đề giá cả và chất lượng, nhất là khi đi mua sắm trong chợ.
Bản thân thành phố là một trung tâm công nghiệp và đầu mối giao thương trong và
ngoài nước. Chợ Lớn đã nổi tiếng từ bao đời nay với tay nghề tiểu thủ công
nghiệp. Vì thế, không lạ khi hàng hóa ở đây rất dồi dào. Nhưng có lẽ bạn cũng
vẫn ngạc nhiên khi phát hiện việc tìm mua một đặc sản địa phương ở Sài Gòn có
khi còn dễ dàng hơn là tại chính nơi xuất xứ; hoặc phát hiện khá nhiều các sản
phẩm địa phương nay được sản xuất tại Sài Gòn với chất lượng cao hơn.
Ngày nay, khó có thể nói cái gì là đặc sản của thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng
chắc chắn hàng hóa phong phú và đa dạng ở đây sẽ làm hài lòng du khách gần xa.
Tại các chợ của TPHCM hầu hết các sản phẩm không được niêm yết giá bán. Đến
TPHCM bạn muốn mua sắm ở TPHCM bạn cần có ai đó rành về mua sắm đi cùng vì các
tiểu thương ở các chợ đội giá sản phẩm lên rất cao. Bạn củng có thể chọn việc
mua hàng tại các khu thương mại, siêu thị các hệ thống plaza trên khắp TPHCM vì
nó có giá chính thức và chắc chắn là khỏi sợ lầm.
Hệ thống chợ Tp.HCM
* Chợ Bến Thành, một biểu tượng của Sài Gòn, được xem là chợ bán lẻ lớn nhất
theo nghĩa bạn có thể tìm thấy tại đây đủ thứ mặt hàng, từ bình dân đến cao
cấp, đặc biệt hàng thực phẩm thuộc loại chọn lọc nhất.
* Chợ An Đông mới xây dựng, có sáu tầng, trang bị khá hiện đại, phong phú nhất
là hàng vải và hàng giả da.
* Bình Tây là chợ bán sỉ lớn nhất, không chỉ của thành phố mà cả phía Nam, là
đầu mối phân phối sản phẩm tiểu thủ công nghiệp của Chợ Lớn, nông sản của đồng
bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên cùng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan…
đi khắp mọi miền đất nước. Chữ bán sỉ và bán lẻ ở đây được hiểu theo nghĩa rất
tương đối bởi vì thực tế các chợ lớn hay nhỏ đều có cả hai hình thức buôn bán
này.
* Một đặc điểm nữa là thành
phố có nhiều chợ chỉ chuyên bán một mặt hàng:
1. Chợ vải Soái Kình Lâm
2. Chợ hóa chất Kim Biên
3. Chợ gạo Trần Chánh Chiếu
4. Chợ thuốc lá Học Lạc, chợ gà Xóm Vôi
5. Chợ hoa Hồ Thị KỷChợ vật liệu xây dựng Trịnh Hoài Đức…
Bên cạnh chợ, Sài Gòn có phố chuyên doanh.
* Muốn mua đồ gỗ thông dụng, mời bạn đến phố Ngô Gia Tự. Nhưng đồ gỗ cao cấp,
thời trang hơn thì lại phải tìm đến các cửa hiệu trên đường Nguyễn Thị Minh
Khai. Trong khi đó, phố đồ gỗ Cộng Hòa ở Tân Bình chủ yếu bán đồ nội thất chạm
trỗ, các loại tượng bằng gỗ quý.
* Trang trí nhà cửa thì có phố vật liệu trang trí đường Lý Thường Kiệt và Tô
Hiến Thành; phố hoa giả đường Ba Tháng Hai; phố màn rèm chăn gối trên đường Lê
Văn Sĩ và Lý Thái Tổ - Điện Biên Phủ; phố trang trí đám cưới ở cuối đường
Nguyễn Đình Chiểu…
* Phố thực phẩm Nguyễn Thông chuyên bán đồ hộp, nhưng rượu ngoại thì phải tìm
đến phố Hải Triều. Phố Tạ Uyên chuyên bán thịt quay đủ loại. Còn trái cây thì
nổi tiếng có Lê Thánh Tôn, Tân Định và Yết Kiêu.
* Phố quần áo kéo dài trên đường Cao Thắng và Nguyễn Đình Chiểu, trong khi phố
giày dép tập trung một đoạn đường Trần Huy Liệu cùng ở quận 3.
* Đồ cổ tập trung trên đường Lê Công Kiều, hàng lưu niệm khu Đồng Khởi, Lê Lợi
và Lê Thánh Tôn, thuốc Bắc khu Triệu Quang Phục, hàng mã đường Lương Nhữ Học,
đồ thờ đường Nguyễn Chí Thanh và Cách Mạng Tháng Tám…
Siêu thị và trung tâm thương mại
Tuy chỉ mới xuất hiện trong vòng vài năm trở lại đây, siêu thị tỏ ra có sức thu
hút lớn bởi mặt hàng thực phẩm và tiêu dùng hàng ngày phong phú, chủng loại đa
dạng, mỗi mặt hàng có thể có đến hàng chục nhãn hiệu khác nhau giúp việc lựa
chọn hàng dễ dàng, chất lượng đảm bảo và giá cả phải chăng, nhất là bán theo
giá nhất định nên thuận lợi cho những người bận rộn, không có thời giờ đi khảo
giá thị trường. Trong lúc thời tiết nóng bức, đi mua hàng trong siêu thị máy
lạnh cũng đỡ phần mệt nhọc. Đa số các siêu thị đều có khu vực vui chơi dành
riêng cho các cháu.
Trung tâm thương mại không phổ biến bằng siêu thị, thường bán các loại hàng
tiêu dùng cao cấp, nhất là hàng ngoại nhập thuộc các nhãn hiệu nổi tiếng trên
thế giới, đồ nữ trang đắt tiền hay quà lưu niệm tinh xảo. Trái với chợ và siêu
thị là những nơi hàng hóa đầy ắp, các trung tâm thương mại thường chọn hàng
tinh hơn là theo số lượng, cách trưng bày sang trọng và hấp dẫn.
Siêu thị:
1. Hệ thống Siêu thị COOP Mart
2. Hệ thống Siêu thị Citimart
3. Hệ thống Siêu thị Maximart
4. Hệ thống Siêu thị Metro
5. Hệ thống Siêu thị Sài Gòn
6. Siêu thị Cora
7. Siêu thị Hà Nội
8. Siêu thị Super Bowl
Trung tâm Thương mại lớn:
1. TTTM Diamond Plaza
2. TTTM Saigontourist
3. TTTM Savico – Kinh Đô
4. TTTM Tax
5. TTTM Hùng Vương Plaza
6. TTTM Citi Plaza
Bảng thông tin giá cả tham khảo
* Nước Suối 5.000đ/ chai
* Internet 4.000đ/ giờ
* Cơm xuất 15000 – 40000vnđ/ đĩa
* Taxi 12.000Đ/KM
* Cafe 7000 – 60000 vnđ
* Xe buýt 3000 - 5000 vnđ/ tuyến
* Mì gói 7000 – 10000 vnđ/ tô
* Trứng gà 3000vnd/ trứng
Giá trên chỉ mang tính tham khảo có thể thay đổi.
Ăn gì, ở đâu?
Là trung
tâm của vùng đất phương Nam trù phú, sản vật dồi dào, nên món ăn Sài Gòn rất đa
dạng. Lại thêm là nơi hội tụ của cư dân từ mọi miền đất nước và cửa ngỏ tiếp
xúc với thế giới bên ngoài, nên thành phố đã tiếp nhận thêm các dòng ẩm thực
của cả nước và thế giới, chọn lọc tinh hoa thành một nền ẩm thực phong phú và
hấp dẫn.
Ngày nay, người ta dễ dàng tìm thấy
ở Sài Gòn vô số đặc sản Bắc, Trung, Nam hay quốc tế, theo đúng nguyên bản cũng
có, nhưng phổ biến hơn vẫn là những món đã được "Sài Gòn hóa" để
hương vị thêm phong phú, đậm đà. Chất Sài Gòn thường thể hiện ở vị ngọt, nhiều
rau xanh và nhiều thủy hải sản tươi sống. Chẳng hạn như món canh chua Sài Gòn
đã kết hợp cả cái chua- mặn của miền Bắc, cái cay nồng ớt tươi của miền Trung
và cái ngọt xởi lởi của miền Nam. Món bún bò Huế được "cải biên" để
bớt cay, thêm ngọt, thêm béo và thêm rau. Món bò bít tết của phương Tây thì
mỏng hơn, chín hơn, nhiều gia vị hơn và kèm rau sống, đồ chua nhiều hơn…
Khuynh hướng gần đây tìm về những món dân dã chốn đồng quê, món ăn của thời
khẩn hoang mở cõi. Kể cả thực đơn của các nhà hàng sang trọng nay có cả món
chuột đồng rô ti, châu chấu chiên giòn, lươn hấp trái bầu, ếch xào lăn, cá rô
kho tộ, cá bống dừa kho tiêu… Món lẫu sành điệu phải đủ hai mươi mấy thứ rau
đồng nội như cù nèo, tai tượng, càng cua, bông so đũa, bông điên điển… Món
nướng thì nào là nướng than hồng, nướng trui, nướng mọi, nướng lu, nướng đất
sét… Và người Sài Gòn vẫn không ngừng sưu tầm để bổ sung vào thực đơn của mình
những món ăn đã một thời bị quên lãng cũng như những món mới từ khắp bốn phương
trời.
Ngoài ra ở Sài Gòn bạn cũng có thể tìm thấy đủ món ăn nhẹ của 3 miền, từ Hủ
Tiếu Nam Vang, Bún Bò Huế, đến Phở Hà Nội.
Thành
phố Hồ Chí Minh hiện có 641 khách sạn với 17.646 phòng
Hệ thống khách sạn bao gồm từ những
khách sạn cao cấp do các tập đoàn quốc tế hàng đầu như Accor, Furama, Mariot
hay Shareton quản lý, các khách sạn đã có quá trình hoạt động cả trăm năm mà
dịch vụ được ngay cả các vị nguyên thủ quốc gia, các doanh nhân tầm cỡ khen
ngợi, được các tổ chức quốc tế về du lịch trao tặng nhiều giải thưởng và danh
hiệu về chất lượng cao cho đến các khách sạn bình dân đáp ứng nhiều nhu cầu
linh động và đa dạng của khách.
Phần lớn các khách sạn đều
chiếm những vị trí đẹp nhất trong trung tâm thành phố, gần các khu thương mại,
cận kề sân bay, nhà ga, bến xe… Và đặc điểm chính là các khách sạn đều có tính
chuyên nghiệp cao, từ cơ sở vật chất và trang thiết bị cho đến các dịch vụ và
phong cách phục vụ. Mỗi khách sạn thường lựa chọn một ấn tượng riêng: Caravelle
là khách sạn thương nhân tuyệt hảo, Rex là "Ngôi nhà Việt Nam",
Majestic với vẻ thanh lịch cổ điển phương Tây, Bông Sen gây ấn tượng bằng ẩm
thực "buffet gánh", Đệ Nhất nổi tiếng với dịch vụ tiệc cưới… Ngay
những khách sạn nhỏ cũng tạo phong cách như sự phục vụ tận tâm, thân tình như
trong gia đình, hay những dịch vụ đáp ứng mọi yêu cầu nho nhỏ của khách.
Ngành khách sạn của thành phố Hồ Chí Minh có thể tự hào khi so sánh với các
nước trong khu vực.
Lưu ý khác
Khi đi du lịch tại TPHCM du khách chú ý các điểm sau:
* Không nên dạo phố quá khuya, vì bạn đi quá khuya có thể bị công an “rinh” về
phường hoặc bị “giang hồ” cướp hoặc “hỏi thăm sức khỏe”
* Không nên mua đồ ở các khu chợ “chồm hổm” và các vật dụng của các “đại ca”
bán hàng rong.
* Khi ra khỏi sân bay bạn nên chọn một chiếc taxi có uy tín như Taxi Airport
chẳng hạn. Tránh chọn các xe taxi không có logo kiểm sóat hoặc không có bộ đếm
cước. Tránh để bị lứa.
* Ở TPHCM nên hạn chế đi xe ôm vào ban đêm nếu bạn không rõ nơi mình đến là đâu
vì có thể bạn sẽ bị lừa hoặc hơn là bạn sẽ bị nguy hiểm.
Các Bảo Tàng Tại TP.HCM. Hồ Chí Minh
Bảo
tàng Phụ nữ Nam Bộ
Địa chỉ: 200 – 202 Đường Võ
Thị Sáu, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh.
Email:
bt.pnnb.svhtt@tphcm.gov.vn
Website:
www.baotangphunu.com và www.womanmuseum.net
Tel/ (84.8) 39.327.130 –
(84.8) 39.320.785
Năm thành lập: 1985
Sáng lập: Tổ nghiên cứu
Lịch sử Phụ nữ Nam Bộ
Mục đích hoạt động: giữ
gìn, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp của phụ nữ miền Nam cho các
thế hệ mai sau.
Nội dung chính: Lịch sử đấu
tranh cách mạng và truyền thống văn hóa của phụ nữ miền Nam
Cơ quan chủ quản: Sở Văn
hóa vàThể thao thành phố Hồ Chí Minh
– Diện tích sàn khối nhà
trưng bày: 3.699m2
– Diện tích sàn kho kiểm kê
bảo quản phụ vụ nghiêm cứu: 2.933,33m2
– Diện tích khối Hành
chánh: 312m2
Bộ sưu tập hiện vật hoàn
chỉnh 23
Trưng bày 27 chuyên đề
trưng bày cố định và nhiều trưng bày chuyên đề và lưu động về lịch sử chống
ngoại xâm và bảo vệ, phát huy di sản văn hóa dân tộc của phụ nữ miền Nam.
Khách tham quan: 100.000
lượt khách tham quan trong và ngoài nước, đặc biệt là ở các tỉnh thành phía
Nam.
Xuất bản: 30 ấn phẩm về phụ
nữ miền Nam.
Quan hệ quốc tế: Nhật Bản,
Bỉ, Hà Lan, Trung Quốc, Ý, Đức, Úc, Venezuela, Ấn độ… Ký chương trình hợp tác
với trung tâm ký ức lịch sử quốc gia Colombia.
Chương trình đặc biệt kỷ
niệm 25 năm thành lập bảo tàng: họp mặt giao lưu phụ nữ tiêu biểu miền Nam, xây
dựng phim và xuất bản sách về 25 năm xây dựng và phát triển bảo tàng, trưng bày
“Phụ nữ Sài Gòn – Gia Định trong Tổng tiến công năm 1975“.
Lịch Sử Hình Thành Và Phát
Triển Của Bảo
Tàng Phụ Nữ Nam Bộ
Ra đời ngày 29/4/1985, đến
nay Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ – số 200-202 đường Võ Thị Sáu, phường Võ
Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành một địa chỉ quen thuộc với
khách tham quan trong nước, nhất là các tầng lớp phụ nữ và khách nước ngoài đến
tham quan Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiền thân của Bảo tàng Phụ
nữ Nam Bộ là Nhà Truyền thống Phụ nữ Nam Bộ được xây dựng theo tâm nguyện và ý
chí của các thế hệ phụ nữ đi trước nhằm giữ gìn, giáo dục lòng yêu nước, truyền
thống tốt đẹp của Phụ nữ Việt Nam cho các thế hệ mai sau.
Được sự chấp thuận của Bộ
Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng, tháng 01 năm 1983 Tổ nghiên cứu Lịch
sử Phụ nữ Nam Bộ (gọi tắt là Tổ Sử Phụ nữ Nam Bộ) được thành lập. Tổ Sử Phụ nữ
gồm 13 nữ cán bộ lão thành, đa số đã nghỉ hưu, tự nguyện tham gia công tác Tổng
kết Lịch sử phong trào phụ nữ Nam Bộ, do bà Nguyễn Thị Thập – nguyên Ủy viên
Trung ương Đảng khóa 2, 3, 4; nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội; nguyên Chủ tịch Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (từ năm 1956 đến năm 1974) phụ trách.
Với tinh thần làm việc khẩn
trương của Tổ Sử Phụ nữ Nam Bộ, ngày 29/4/1985, nhân kỷ niệm 10 năm Ngày miền
Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước Nhà Truyền thống Phụ nữ Nam Bộ
được khánh thành với diện tích 200m2 gồm 6 phòng trưng bày chuyên đề. Hoạt
động chưa đầy một năm, Nhà Truyền thống Phụ nữ Nam Bộ đã đón hơn 100.000 lượt
khách tham quan trong và ngoài nước, đặc biệt là ở các tỉnh thành phía Nam.
Song thực tế cho thấy với
một diện tích trưng bày khiêm tốn như trên, Nhà Truyền thống Phụ nữ Nam Bộ
không thể nào chuyển tải hết nội dung cũng như thể hiện được các mặt tiêu biểu,
đặc thù của phụ nữ miền Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Do đó, ngày 8/3/1986 được Trung ương Đảng và nhà nước cho phép, Tổ Sử Phụ nữ
Nam Bộ khởi công xây dựng bảo tàng mới có diện tích 3.000m2 với sự ủng hộ
tích cực về tiền bạc, vật tư của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, các cá
nhân, kiều bào… của Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành.
Trong 4 năm (1986-1990) vừa
lo vận động kinh phí, vừa thi công xây dựng, vừa tích cực sưu tầm tư liệu, hiện
vật và biên soạn quyển “Truyền thống đấu tranh cách mạng của Phụ nữ Nam Bộ
thành đồng” là một nỗ lực rất lớn của Tổ Sử Phụ nữ Nam Bộ và của lớp cán bộ trẻ
đầy tâm huyết với việc cho ra đời một bảo tàng về Phụ nữ Nam Bộ. Đây là một bảo
tàng được xây dựng theo phương thức xã hội hóa đầu tiên ở Việt Nam.
Ngày 18/5/1990, lễ khánh
thành Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ được tổ chức trọng thể trong không khí tưng bừng
cả nước kỷ niệm lần thứ 100 Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19/5/1890-19/5/1990). Bảo tàng có diện tích sử dụng 5.410,5m2, một hội trường
có sức chứa gần 1.000 người, hệ thống kho bảo quản trên 700m2. Từ đó đến nay,
dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thông
tin (nay là Sở Văn hóa và Thể thao) và sự hỗ trợ của Cục Di sản Văn hóa, tổ
chức Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp, đồng bào ở các địa phương, Bảo tàng Phụ nữ
Nam Bộ đã từng bước trưởng thành và khẳng định được vị trí trong hệ thống bảo
tàng cả nước. Hơn 37 năm hoạt động, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ có nhiều nỗ lực chủ
động sáng tạo trong các mặt công tác chuyên môn nhằm giáo dục truyền thống của
Phụ nữ Việt Nam cho công chúng và trở thành điểm đến – nơi họp mặt truyền
thống, giao lưu, sinh hoạt văn hóa… của các thế hệ Phụ nữ Việt Nam.
Tính đến tháng 6/2022, Bảo
tàng hiện quản lý 44.108 hiện vật và tài liệu khoa học. Trong đó hơn ½ là hiện
vật loại hình chiến tranh cách mạng và ½ là hiện vật văn hóa bao gồm nhiều chất
liệu. Các hiện vật được chia thành 24 bộ sưu tập theo chủ đề hoặc theo chất
liệu, trong đó có 6 bộ sưu tập hiện vật quí hiếm. Hầu hết hiện vật được bảo
quản theo đúng hướng dẫn của Cục Di sản Văn hóa theo từng chất liệu với ánh
sáng, nhiệt độ, độ ẩm thích hợp. Ngoài ra, Thư viện của bảo tàng có trên 12.000
đầu sách chuyên đề về phụ nữ và hàng ngàn sách báo, tạp chí.
Đối với hệ thống trưng bày,
ngoài trưng bày 11 chuyên đề cố định trước đây, gắn với dự án “Cải tạo, mở rộng
Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ” phòng trưng bày mới sau khi mở rộng diện tích trưng bày
sẽ giới thiệu đến khách tham quan 27 chuyên đề đa dạng về nội dung và hình thức
phù hợp với nhu cầu của công chúng và xu hướng phát triển của hệ thống Bảo tàng
trong nước và khu vực. Từ năm 2018 cho đến nay, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ từng
bước thực hiện ứng dụng công nghệ trong trưng bày Bảo tàng tại các phòng trưng
bày của Bảo tàng, là Bảo tàng đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh ứng dụng công
nghệ trưng bày thực tế ảo 3D/3600.
Bên cạnh việc sưu tầm tư
liệu, hiện vật về những đóng góp của phụ nữ miền Nam trong chống ngoại xâm, Bảo
tàng đã chú trọng sưu tầm tư liệu, hiện vật về những đóng góp của Phụ nữ miền
Nam trong bảo tồn phát huy di sản văn hóa của dân tộc. Trong đó, có hiện vật
văn hóa phi vật thể liên quan đến lễ hội, tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa cộng
đồng, làng nghề truyền thống… Đến nay, Bảo tàng đã có nhiều bộ sưu tập: áo dài,
chóe, trang phục, trang sức, dụng cụ nhà bếp, đồ dùng trong sản xuất nông
nghiệp lúa nước… Đó là, chưa kể hàng trăm giờ ghi hình phim tư liệu về văn hóa
phi vật thể: dân ca, làng nghề truyền thống, lễ hội thờ Bà (Mẫu)…
Bảo tàng đã sưu tầm, nghiên
cứu, biên soạn, in ấn và xuất bản 30 đầu sách về phụ nữ miền Nam, trong đó có
quyển “Phụ nữ Nam Bộ thành đồng” tổng kết phong trào đấu tranh của phụ nữ Nam
Bộ trong hai cuộc kháng chiến (đã tái bản lần thứ ba), “Di tích danh thắng Lịch
sử Văn hoá Phụ nữ Việt Nam”, “Truyện tích huyền thoại Phụ nữ Việt Nam” v.v…
phối hợp với Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và xưởng phim Giải Phóng
thực hiện 5 bộ phim tư liệu về Nhà truyền thống Phụ nữ Nam Bộ, “Chân dung người
mẹ miền Nam”, nữ tù chính trị và nữ thanh niên xung phong đạt giải thưởng cao,
phim tư liệu “Chân dung Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Thành phố Hồ Chí Minh” phối hợp
cùng Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu. Công tác nghiên cứu khoa học được Bảo tàng
quan tâm với hàng chục đề tài nghiên cứu liên quan đến vai trò người phụ nữ
trong kháng chiến cũng như trong gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong quá trình đi sưu tầm
tư liệu, hiện vật, tiếp xúc nhân chứng lịch sử và một số hoạt động khác, Bảo
tàng đã góp phần tác động tích cực đến việc giải quyết chính sách cho những
người có công với nước, chính sách xã hội đối với cựu nữ tù chính trị nữ thanh
niên xung phong,… cụ thể, là việc đề nghị tỉnh Tiền Giang lập nhà lưu niệm Bà
Nguyễn Thị Thập, đề xuất phong tặng danh hiệu anh hùng cho liệt sĩ Bé Sáu ở
Tiền Giang, vận động các nhà hảo tâm đóng góp xây dựng 14 nhà tình thương, tình
nghĩa cho các đối tượng phụ nữ nghèo ở một số tỉnh. Năm 2010, được sự hỗ trợ
của công ty Golf Long Thành, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ đã xây dựng 100 căn Nhà
tình nghĩa cho phụ nữ khó khăn tại các tỉnh, thành miền Nam với tổng giá trị là
5 tỷ đồng.
Đặc biệt, năm 2011 Bảo tàng
đã phối hợp cùng Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ thực
hiện dự án “Nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày tư liệu về Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Thành phố Hồ Chí Minh”, Bảo tàng đã cập nhật, viết thông tin 1.902/1.971 Bà mẹ
(thời điểm năm 2011) và sưu tầm 1.413 hiện vật gốc của các Mẹ. Công tác đối
ngoại và hợp tác quốc tế được Bảo tàng chú trọng và đạt được nhiều kết quả. Bảo
tàng đã đưa hiện vật đi trưng bày ở các nước Bỉ, Hà Lan, phối hợp với Bảo tàng
Chihiro (Nhật Bản) trưng bày chủ đề “Mẹ vắng nhà” (sưu tập tranh của cố nữ hoạ
sĩ Chihiro sáng tác từ cảm xúc đọc tác phẩm “Người mẹ cầm súng” của nhà văn
Nguyễn Thi), trưng bày búp bê truyền thống Nhật Bản, trưng bày hàng thủ công mỹ
nghệ của Colombia tại Bảo tàng. Cán bộ Bảo tàng còn tham gia hội nhị, hội thảo
quốc tế về bảo tàng khu vực Đông Nam Á do Hội đồng Bảo tàng Quốc tế (ICOM) tổ
chức tại Lào và Cam pu chia (năm 2006), hội nghị quốc tế lần I về bảo tàng phụ
nữ tại Italy với sự tham gia của đông đảo đại biểu từ 23 bảo tàng phụ nữ trên
thế giới (năm 2008). Thăm và trao đổi kinh nghiệm với Trung tâm Ký ức Lịch sử
Quốc gia Colombia (2018) và Ký kết Biên bản ghi nhớ Hợp tác với Colombia 5 năm
(2021- 2025). Qua sự trao đổi, hợp tác, Bảo tàng đã có dịp giới thiệu về truyền
thống của phụ nữ Việt Nam nói riêng và lịch sử văn hoá dân tộc nói chung với
bạn bè thế giới.
Từ khi thành lập đến nay,
tập thể cán bộ công chức Bảo tàng đã không ngừng học tập, phấn đấu vươn lên mọi
mặt về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ chính trị và quản lý. Với những
thành tích đạt được, năm 1998, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ đã vinh dự đón nhận Huân
chương Lao động hạng Nhất do Nhà nước trao tặng và liên tục nhiều năm liền nhận
bằng khen của Bộ Văn hoá thông tin và bằng khen UBND TP.HCM; Cờ thi đua đơn vị
dẫn đầu của Uỷ ban Nhân dân Thành phố (2011 – 2019); Cờ thi đua của
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2013 – 2021). Ngày nay, đội ngũ cán bộ Bảo
tàng đang cố gắng phấn đấu đáp ứng yêu cầu của xu thế hội nhập và phát triển
ngành bảo tàng nói riêng và sự nghiệp bảo tồn di sản văn hoá nói chung.
Nguồn: https://baotangphunu.com/gioi-thieu/
Bảo
tàng Thành phố Hồ Chí Minh:
Lưu dấu một phần lịch sử Sài Gòn xưa
Nằm trong tòa nhà cổ hơn
100 năm tuổi, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh là công trình kiến trúc tuyệt đẹp
và là điểm đến thú vị cho những ai muốn tìm hiểu về lịch sử của thành phố - thủ
phủ phương Nam.
Du khách tham quan Bảo tàng
Thành phố Hồ Chí Minh.
Công trình hơn trăm năm
tuổi
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí
Minh (65 Lý Tự Trọng, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) có diện tích gần 2ha, được
giới hạn bởi bốn con đường ở bốn phía. Công trình được khởi công xây dựng năm
1885 và hoàn thành năm 1890 theo thiết kế của kiến trúc sư người Pháp Alfred
Foulhoux. Ban đầu, đây là Bảo tàng Thương mại - nơi trưng bày những sản vật
trong nước. Nhưng khi xây xong, tòa nhà trở thành tư dinh của Phó Toàn quyền
Đông Dương Henri Eloi Danel, sau này là dinh của các Phó Toàn quyền Đông Dương
và cuối cùng là Thống đốc Nam Kỳ.
Chỉ riêng năm 1945, tòa nhà
đã nhiều lần thay đổi chủ nhân. Tháng 3-1945, Nhật đảo chính Pháp, Thống đốc
người Nhật Yoshio Minoda chiếm dinh. Tháng 7 năm đó, Khâm sai Nam Bộ Nguyễn Văn
Sâm tới ở nhưng chưa được bao lâu thì ngày 25-8-1945, lực lượng cách mạng đã
vào hạ cờ quẻ ly, kéo cờ đỏ sao vàng. Tòa nhà trở thành trụ sở Ủy ban Hành
chính lâm thời Nam Bộ, rồi Ủy ban Nhân dân Nam Bộ. Ngày 10-9-1945, Trung tá
B.W. Roe (Phái bộ quân sự Anh) chiếm dinh, buộc Ủy ban Nhân dân Nam bộ chuyển
về dinh Đốc lý (nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh).
Sau hiệp định Genève năm
1954, Ngô Đình Diệm dùng tòa nhà này làm dinh Quốc khách. Ngày 27-2-1962, dinh
Độc Lập bị ném bom, Ngô Đình Diệm dời phủ Tổng thống sang đây. Ngày 1-11-1963,
chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Năm 1966, sau khi dinh Độc Lập được xây
lại, tòa nhà này trở thành trụ sở của Tối cao Pháp viện. Năm 1978, tòa nhà này
trở thành Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh, đến năm 1999 đổi tên thành
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh.
Công trình Bảo tàng Thành
phố Hồ Chí Minh gồm tòa nhà chính 2 tầng với diện tích 1.700m2 và tòa nhà ngang
phía sau. Bố cục kiến trúc đăng đối, mang phong cách cổ điển phục hưng với khối
sảnh là điểm nhấn ở giữa, hai cánh trải dài hai bên cùng hàng cột ionic - một
dạng thức kiến trúc kinh điển của châu Âu. Kiến trúc công trình có sự kết hợp
Âu - Á: Mặt tiền mang nét Tây phương với nhiều phù điêu mang biểu tượng thần
thoại Hy Lạp nhưng phần mái lại mang dáng dấp Á Đông. Do mục đích ban đầu của
tòa nhà là Bảo tàng Thương mại nên hai bên cửa chính có 2 cột trụ trang trí
tượng nữ thần Thương nghiệp và Công nghiệp. Năm 1943, Thống đốc Nam Kỳ Ernest
Thimothée Hoeffel cho phá bỏ hai tượng này để xây dựng mái hiên như ngày nay.
Không gian “Văn hóa Sài Gòn
- Thành phố Hồ Chí Minh” trong bảo tàng.
Niềm tự hào của thành phố
mang tên Bác
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí
Minh có 9 không gian trưng bày chuyên đề cố định, mỗi không gian là một câu
chuyện xuyên suốt tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của Sài Gòn
- thành phố Hồ Chí Minh. Ở phòng Thiên nhiên - Khảo cổ, du khách
có thể chiêm ngưỡng những di vật cổ như: Rìu đá, cuốc đá, trang sức, đồ minh
khí... Phòng Địa lý - Hành chính tái hiện sự phát triển của thành phố từ một
vùng đất hoang sơ đến đô thị thành lũy kiểu phương Đông dưới thời Nguyễn rồi
chuyển sang hình thái đô thị phương Tây thời Pháp thuộc, và cuối cùng là diện
mạo hiện đại ngày nay. Ngoài ra, tại đây còn có các bản đồ cổ về lịch sử hơn
300 năm hình thành và phát triển thành phố...
Đặc biệt, không gian “Văn
hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh” cho thấy sự phong phú, đa dạng về văn hóa
- nét đặc thù của mảnh đất phương Nam. Nơi đây trưng bày những nét văn hóa tiêu
biểu của các dân tộc: Việt, Chăm, Hoa, Khmer và sự hợp lưu văn hóa làm nên vùng
đất Sài Gòn...
Trong cuốn sổ lưu niệm của
bảo tàng còn lưu lại những cảm xúc của du khách. Rachel - một du khách người Mỹ
đã viết: “Xin cảm ơn nhân dân Việt Nam về chuyến du lịch văn hóa - lịch sử đầy
ngạc nhiên và ngưỡng mộ. Tôi sẽ không bao giờ quên lòng tốt và sự hiếu khách
của các bạn”. Chị Trần Thị Nhẫn, quê ở Bến Tre, hiện sống và làm việc ở thành
phố Hồ Chí Minh chia sẻ: “Tôi sinh sống, học tập và làm việc ở thành phố Hồ Chí
Minh gần 20 năm nhưng đây là lần đầu tiên tôi tới bảo tàng này. Có rất nhiều
điều thú vị khiến tôi hiểu và yêu thành phố này hơn”.
Với những giá trị được gìn
giữ, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ là một di sản kiến trúc đô thị mà
còn là một phần lịch sử đầy tự hào của đô thị Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh.
Bảo
Tàng Lịch Sử Việt Nam Chi Nhánh TP.Hồ Chí Minh
I/
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN:
Đến khu
vực Thảo Cầm Viên Sài Gòn, có một tòa nhà đồ sộ, uy nghi nằm bên trái, kiến
trúc theo lối Á Đông đó là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đây là một trong những bảo tàng lâu đời nhất ở Việt Nam, đã thu hút nhiều tầng
lớp nhân dân cũng như hàng vạn khách tham quan Quốc tế .
Theo các tài liệu chúng ta được biết vào ngày 24-11-1927, thống đốc Nam Kì B.de
la Brosse đã kí quyết định xây dựng 1 bảo tàng lấy tên là “Bảo tàng Nam Kì” có
tính chất như là Bảo tàng mỹ thuật, lịch sử, khảo cổ và dân tộc đều chịu sự
kiểm soát của thống đốc Nam Kì. Ngày 1-1-1929, bảo tàng được khánh thành mang
tên Museé Blauchard de la Brosse.
Năm 1945, khi cách mạng tháng tám thành công tại Sài Gòn, chính quyền Cách mạng
đổi tên thành Bảo tàng Gia Định. Bảo tàng lại thay đổi và có tên làViện bảo
tàng quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn” từ năm 1956 – 1975. Sau ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng, theo quyết định số 235 – QĐUB của Uy ban nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh kí ngày 23-9-1979, bảo tàng được chính thúc mang tên “Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam – chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh” cho đến ngày nay.
Căn cứ nhiệm vụ, chức năng đã được ghi trong quyết định của UBND thành phố, bảo
tàng Lịch sử Việt Nam–thành phố Hồ Chí Minh đã từng bước vừa cải tạo, xây dựng
và phát triển, vừa tiếp thu, kế thừa có chọn lọc thành quả của các thời kì
trước, để đáp ứng nhu cầu phục vụ trước mắt và đầu tư nghiên cứu lâu dài, xây
dựng nên Bảo tàng Lịch sử Việt Nam–chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh quy mô và
tầm cỡ của một bảo tàng quốc gia.
Hiện nay, Bảo tàng trưng bày giới
thiệu các phần chính như sau: Lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam,
các chuyên đề về lịch sử, văn hoá của khu vực phía Nam đất nước và một số nước
châu Á … trải qua 16 phòng:
+ Phòng 1: Thời đại nguyên thủy
+ Phòng 2: Thời đại Hùng Vương
+ Phòng 3: Thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc (thế kỉ I – thế kỉ X)
+ Phòng 4: Mộ xác ướp xóm cải (TP.HCM)
+ Phòng 5: Thời Lý (thế kỉ XI – thế kỉ XIII)
+ Phòng 6: Thời Trần (thế kỉ XIII – thế kỉ XIV)
+ Phòng 7: Thời Lê (thế kỉ XV – thế kỉ XVII)
+ Phòng 8: Thời Tây Sơn (thế kỉ XVIII)
+ Phòng 9: Thời Nguyễn và phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp (thế kỉ XIX
– đầu thế kỉ XX)
+ Phòng 10: Gốm cổ Việt Nam và các nước châu Á
+ Phòng 11: Văn hóa Oc Eo (thế kỉ I – thế kỉ VI)
+ Phòng 12: Nghệ thuật DBSCL (thế ki VII – thế kỉ XIII)
+ Phòng 13: Bến Nghé – Sài Gòn
+ Phòng 14: Nghệ thuật Chămpa
+ Phòng 15: Thành phần dân tộc Việt Nam
+ Phòng 16: Tượng Phật Việt Nam và các nước châu Á
II/ KIẾNTRÚC BẢO TÀNG:
*** PHÒNG 1: THỜI ĐẠI
NGUYÊN THỦY***
Nước Việt
Nam nằm ở vùng Đông Nam Á, là một trong những nơi loài người xuất hiệt rất sớm.
Những chiếc răng vượn người tìm thấy ở hang Thẩm Khuyên, Hang Hùm (Yên Bái),
Thẩm Hai (Lạng Sơn) cùng vời những công cụ đá ghè đẻo thô sơ ở núi Đọ, núi
Nuông (Thanh Hóa), ở Hàng Gòn, Dầu Giây (Đông Nai), núi Đất … đã chứng thực con
người đã có mặt tại Việt Nam giai đoạn tối cổ cách đây 30 vạn năm. Di cốt người
hiện đại (homo Sapiens) ở hang Kéo Lèng (Lạng Sơn), hang Soi Nhụ (Quảng Bình)
với nền văn hoá hậu kì đá cũ Sơn Vi, cách ngày nay từ 10.000 – 40.000 năm
Bước vào thời đại đá mới cách nay 10.000 năm, chủ nhân văn hóa miền núi, văn
hóa ven biển, bên cạnh việc săn bắt và hái lượm đã biết trồng trọt câu ăn trai,
rau củ …. Bước phát triển kinh tế hái lượm sang kinh tế trồng trọt kéo theo một
loạt những thành quả văn hóa, kỹ thuật khác như công cụ đã được mài thành những
mảnh gốm thô tìm được từ các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn …
Người Việt cổ bắt đầu sống định cư ổn định với xu thế tiến dần xuống miền trung
du và đồng bằng ven biển, khi đến tham quan ở phòng 1 thì ta thấy bản đồ di
tích xưa nhất của người Nguyên Thủy. Cho đến nay các di tích đó được tìm thấy
nhiều trên thế giới nhưng tập trung nhiều nhất ở 3 khu vực: Đông Nam Phi, Đông
Nam Á và Tây Nam Á.
Ở châu Phi tìm thấy hóa thạch của người vượn và công cụ đá có niên đại sớm
nhất, cách nay vài triệu năm. Vùng Đông Nam Á có các di tích răng người và di
cốt dạng người đi thẳng, niên đại khoảng 500.000 – 400.000 năm cách ngày nay.
Khu vực Tây Nam Á có những di tích có niên đại muộn hơn vào khoảng 100.000 năm,
với các hóa thạch dạng người cổ Nêanđectan. Và khắp nơi trên thế giới, cách nay
khoảng 50.000 – 40.000 năm, người hiện đại được hình thành.
+ Mô hình đầu người vượn Bắc Kinh Trung Quốc (Sianthope) cách nay khoảng
400.000 năm, hiện vật được làm lại, được tìm thấy vào năm 1927 tại Chu Khẩu
Điếm. Đây là dạng người đi thẳng, sử dụng tay phải thuần thục hơn tay trái, có
thể tích não gần với người hiện đại. Ngoài ra, ta còn tìm thấy được bếp lửa và
công cụ đá.
+ Mô hình đầu người cồ Nêanđectan cách nay khoảng 100.000 – 40.000 năm, được
phát hiện vào năm 1856 tại Neandectan – Đức. Họ biết làm ra lửa, cư trú ở những
thời tiết khắc nghiệt, sẽ phát triển tiếp thành người hiện đại
+ Tranh người Nguyên Thủy dùng lửa săn thú và chế tạo công cụ: khoảng năm
150.000 – 100.000 năm cách nay, con nguời đã biết làm ra lửa bằng cách cọ xát.
Lửa là 1 thành tựu văn hóa quan trọng của loài người, vì vậy con người được
tách hẳn ra khỏi thế giới động vật
+ Tủ công cụ đá thuộc văn hóa Sơn Vi, được tìm thấy năm 1968, cho đến nay đã
được phân bố rộng rãi ở vùng trung du, thềm phù sa cổ … di tích người vượn ở
Lạng Sơn hay công cụ đá ở núi Đọ (Thanh Hóa), Đồng Nai, Sông Bé phát hiện năm
1960, đó là núi Badan. Trên núi có hàng vạn công cụ đá, kỹ thuật ghè đẻo rất
vụng về thô sơ .
+ Ở Việt Nam, số lượng di tích thuộc thời đồ đá tập trung dày đặc ở các khu vục
miền núi phía Bắc ( Hòa Bình), ven biển Đông Bắc (Quảng Ninh), ven biển miền
Trung (Quỳnh Văn), lưu vực sông Đồng Nai … đã biết trồng lúa nước ở nhiều địa
bàn khác nhau. Cùng với khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là một trong những nơi có
nền văn minh nông nghiệp sớm nhất thế giới
+ Răng của người Nguyên Thủy tìm thấy ở Hang Hùm(Yên Bái) cách nay 140.000 năm
+ Hộp hình núi Đất (Long Khánh – Đồng Nai) như rìu tay công cụ chặt nạo.
+ Tủ hiện vật văn hóa Hòa Bình ở Hang Đồng Đội, Hang Phúc Lương, cách nay
khoảng 10.000 năm, được phát hiện từ những năm 1924–1926. Các loại ốc là thức
ăn chủ yếu của người Hoà Bình vì vỏ ốc đóng thành từng lớp dày trong hang. Họ
hay dùng thổ hoàng để vẽ hay bôi lên thân mình. Nền văn hoá này được tìm thấy
khắp vùng Đông Nam Á.
+ Tủ hiện vật Bắc Sơn, cách nay khoảng 8000 năm được nảy sinh trong lòng văn
hóa Hoà Bình. Trong một số hang nơi đây có những hình vẽ mặt người, đầu thú …
có lẽ phản ánh tín ngưỡng vật tổ của người nguyên thủy
+ Tủ hiện vật cầu sắt, phát hiện năm 1976 tại Xuân Lộc – Đồng Nai, phổ biến với
rìu đá mài tam giác, cách nay 5000 năm
+ Di tích Khe Tong (Quảng Bình) và mộ Cồn Sò Điệp Đa Bút (Thanh Hoá), cách nay
từ 5000 – 4000 năm được khai quật năm 1963 cho thấy những cồn này vừa là nơi cư
trú, vừa là khu mộ táng có mộ huyệt tròn chôn người chết bó ngồi
+ Hình vẽ minh hoạ cách buộc rìu đá, được buộc vào một cán tre hay gỗ, để sử
dụng dễ dàng hơn trong đời sống hàng ngày
+ Hang Con Moong (thời đại đá mới)
+ Mô hình hang phố Bình Gia (Lạng Sơn), là nơi tìm thấy di tích đầu tiên của
người vượn Việt Nam. Vào giai đoạn cuối cùng của thời đại đồ đá, mật độ phân bố
di tích cao hơn, các di tích có diện tích rộng hơn; chứng tỏ xóm làng đông đúc,
dân số phát triển nhanh .
Như vậy, nhìn chung vào thời nguyên thủy, bằng lao động sáng tạo của mình, con
người đã từng bước cải tạo thiên nhiên và cải tạo chính mình, đã tạo nên tiền
đề cho một thời đại rực rỡ trong lịch sử loài người thế giới trong đó có dân
tộc Việt Nam.
*** Phòng 2: THỜI ĐẠI HÙNG
VƯƠNG***
Là thời kì dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Xã hội nguyên
thủy đã chuyển sang sự phân hóa giai cấp. Đây cũng là thời kì xây dựng nền văn
minh nông nghiệp, xây dựng lối sống, tính cách và truyền thống Việt Nam. Thời
đại kim khí cách nay khoảng 4000 – 2000 năm hình thành nền văn hóa sông Hồng ở
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
+ Tủ hiện vật văn hóa Phùng Nguyên
(Vĩnh Phú) gồm bộ sưu tập rìu đá tứ giác từ nhỏ đến lớn, một số vòng đeo tay
bằng đá, bi gốm, bàn mài, và những cục rỉ đồng
+ Tủ hiện vật các thời kim khí các tỉnh phía Bắc: trưng bày sưu tập các mũi
gíao, lao, kiếm, mũi tên, dao găm, tấm che ngực, khuôn đúc dao găm, tượng người
cõng nhau thổi kèn …
+ Mũi tên đồng, lưỡi cày đồng tìm thấy ở Cổ Loa (Hà Nội): mũi tên đồng là loại
mũi tên có đầu 3 cạnh và chuôi dài để cắm vào tên. Lưỡi cày đồng thời kì này có
hình dáng hình cánh bướm, tam giác, trái tim … được sử dụng cùng với sức kéo
của súc vật.
+ Trưng bày những hiện vật đồng đặc trưng cho văn hoá Đông Sơn: rìu lưỡi xéo,
rìu lưỡi xòe cân, dao găm, lưỡi cày đồng, một số khuôn đúc … cho ta thấy được ở
giai đoạn này nghề đúc đồng và luyện kim đã phát triển mạnh mẽ
+ Trống đống Hoàng Hạ – Đông Sơn: là loại trống đẹp nhất, cổ xưa nhất cũng là
nguồn gốc của những loại trống khác đồng thời nó cũng tượng trưng cho thời đại
vua Hùng, được tìm thấy vào năm 1937, là một trong bốn loại trống có niên đại
sớm nhất ( trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa, Sông Đà). Trống có chiếu cao 61,5cm
đường kính mặt trống 79cm, giữa mặt trống có ngô sao nổ 16 cánh, từ trong ra
ngoài có 15 vành hoa văn, có nhiều loại hoa văn nhưng đặc trưng nhất là vành hoa
văn 14 con chim mỏ dài, chân dài bay ngược chiều kim đồng hồ, đó là chim Lạc.
Thân trống chia làm 3 phần: tang trống phình ra, thân thắt lại hình trụ, chân
choải ra hình chóp nón cụt. Miền Bắc Việt Nam được xem là trung tâm xã hội và
truyền bá sớm nhất của trống đồng Đông Sơn
+ Mô hình quan tài hình thuyền Việt Khê (Hải Phòng): được làm bằng thân cây
lớn, khoét rỗng. Khi các nhà khảo cổ học tìm thấy thì bên trong nó chứa 107
hiện vật tùy táng trong đó có 97 hiện vật đồng thau như: vũ khí, đồ dùng sinh
hoạt, trang sức , tượng người, nhạc khí …
+ Thạp đồng Đạo Thịnh Yên Bái, đây chỉ là hiện vật được làm lại, nhưng cũng thể
hiện được sự tự hào về đúc đồng của người Việt Nam Thạp cao 81cm, đường kính
thân lớn nhất 70cm, nắp thạp cao 15,5cm, đường kính 64cm đã được sử dụng làm
quan tài
+ Ta thấy thêm ảnh của tượng thú nhung Đồng Đậu: đã tìm thấy khá nhiều xương
các loại gia súc, gia cầm … nói lên được nghề chăn nuôi phát triển và gắn bó
chặt chẽ với nông nghiệp trồng trọt
+ Hiện vật dốc Chùa (Sông Bé): gồm các loại khuôn đúc, rìu, gíao đồng, rìu và
đục bằng đá, vòng tay đá, dọi se chỉ bằng gốm … đã tìm thấy một số lượng khuôn
đúc đồng nhiều nhất Đông Nam Á
+ Hiện vật rạch Núi (Long An) và cù lao Rùa (Sông Bé): gồm các mảnh gốm của đồ
đựng, rìu, cuốc đá, dao đá … một số công cụ như lưỡi mai bằng yếm rùa, công cụ
mũi nhọn bằng xương thú
+ Chum giồng cá Vồ (Cần Giờ): có diện tích lớn và mật độ phân bố dày đặc. Chiếc
chum trưng bày ở đây có kích thước khá lớn, cao 65cm, đường kính miệng chum là
40cm không có nắp đậy, còn chứa nhiều đồ trang sức bằng đá và thủy tinh
Hiện vật Phú Hòa (Đồng Nai) và văn hóa Sa Huỳnh (Quãng Ngãi): tìm thấy ở những
ngôi mộ ven biển miền Trung và Đông Nam Bộ, bên trong gồm có các công cụ bằng
sắt, đồ trang sức nhưng không thấy dấu vết của cốt người
***Phòng 3: THỜI KỲ ĐẤU
TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC
(THẾ KỈ I – THẾ KỈ X)***
Sau thất bại của An dương Vương trong kháng chiến chống Triệu Đà (179 trước
Công Nguyên) đất nước Việt Nam bị các thế lực phong kiến phương Bắc kế tiếp
nhau cai trị và thực hiện âm mưu đồng hóa dân Việt.
Chúng ra sức vơ vét tất cả các báu vật lạ ở phương Nam (ngà voi, ngọc trai …),
tô thuế nặng nề, chiếm đất lập trang trại, nắm độc quyền sản xuất và mua bán
muối, sắt, đồng thời hàng trăm cuộc khởi nghĩa chống xâm lược của nhân dân ta,
khởi đầu bằng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 40) đến chiến thắng Bạch
Đằng (năm 938)
Đến với phòng trưng bày này ta thấy bản đồ tái hiện các phong trào chống xâm
lược của phương Bắc :
+ Năm 40: Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Đông Hán
+ Năm 248: Triệu Thi Trinh khởi nghĩa chống quân Ngô
+ Năm 542 – 548: Lý Bí đã đánh tan bọn đô hộ nhà Lương, giảnh độc lập được 65
năm, lập nên nước Vạn Xuân, xưng Lý Nam Đế
+ Năm 550 – 602: Triệu Quang Phục kế nghiệp vua Lý Nam Đế chống Lương, xưng là
Triệu Việt Vương, giữ chủ quyền trong 52 năm
+ Năm 687: Khở nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến chống lại sự cai trị của nhà Đường
+ Năm 722: Sự đô hộ của nhà Đường sụp đổ do cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan, đóng
đô ở Vạn An, xưng Mai Hắc Đế
+ Năm 766 – 791: Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng) lãnh đạo nhân dân chống quân nhà
Đường
+ Năm 906 – 930: Khúc Thừa Dụ xưng là Tiết Độ Sứ đã khởi nghĩa chống nhà Đường,
giành độc lập được 24 năm
+ Bức tranh “khởi nghĩa Hai Bà Trưng”: do 2 chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị lãnh
đạo. Tháng 3 năm 40, Hai Bà Trưng đã triệu tập tướng sĩ, phát lệnh khởi nghĩa ở
cửa sông Hát Giang với 4 câu thề :
“ Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này.”
Trước sự tiến công mạnh mẽ của dân chúng, bọn quan lại Đông Hán đã bỏ chạy,
chính quyền đô hộ sụp đổ nhanh chóng. Bà Trưng được tôn làm vua, xưng hiệu
Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh, trị vì được 3 năm.
+ Ảnh đền thờ Hai Bà Trưng (Vĩnh Phú): Năm 43 sau khi thất trận bởi đạo quân
xâm lược của Mã Viện, Hai bà Trưng đã gieo mình xuống Hát Giang tự vẫn. Nhân
dân nhớ ơn bà, lập dền thờ hại bà tại làng Hạ Lôi – Yên Lãng. Đền thờ hai Bà
vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.
+ Một số đền thờ các anh hùng dân tộc:
Hai Bà Trưng (Vĩnh Phú)
Lăng Bà Triệu (Thanh Hóa)
Đền thờ Lý Bôn (Hà Tây)
Lăng Phùng Hưng (Hà Nội)
Đền thờ Mai Hắc Đế (Nghệ An)
+ Hộp hình chiến thắng Bạch Đằng (năm 938): chiến thắng này đã chấm dứt thời kỳ
mất nước hơn 1000 năm và đã mở ra khỉ nguyên mới, thời kì quốc gia phong kiến
trên đất nước Việt Nam, chiến thắng Bạch Đằng Giang do Ngô Quyền lãnh đạo nhân
dân chống lại quân Nam Hán
+ Trống đồng: Mặc dù bị cấm đoán, nhân dân vẫn chế tạo sản xuất trống đồng vì
nó là một vật tiêu biểu cho truyền thống dân tộc. Trống đồng thời kì Bắc thuộc
có kích thước nhỏ hơn trống đồng Đông Sơn, hoa văn cũng đơn giả hơn .
+ Trống chậu bằng Đồng: Chống lại lệnh cấm dùng trống của Thái Thú nhà Hán ban
hành, hàng ngày nhân dân sử dụng nó như dụng cụ sinh hoạt ngày thường nhưng khi
có lễ lớn nó được chuển xuống thành trống.Điều đó đã nói lên sức sống của nền
văn hóa Đông Sơn từ thời vua Hùng dựng nước.
+ Ngôi mộ cổ phía Bắc: nhiều di vật được tìm thấy ở các ngôi mộ cổ ở các tỉnh
phía Bắc. Thanh Hoá Bắc Ninhcòn lưu giữ lại các viết tích của sự giao lưu văn
hóa Việt – Hán, vết tích đa số bằng đồng: dao, kiếm, mũi giáo, đỉa, tô đều bằng
đồng …. Vòng trang sức, bát dựng trên cổ bằng đồng
Điều này chứng tỏ người Việt chúng ta đã tiếp nhận, sử dụng và tìm cách Việt
hóa các vật dụng ngoại nhập
Đến với bảo tàng ta còn thấy được “mộ xác uớp Xóm Cải”
***
Phòng 4: MỘ XÁC ƯỚP XÓM CẢI***
Tháng 11-1994 trong lúc giải tỏa mặt bằng chung cư Xóm Cải phường 8 quận 5, các
nhà khảo cổ đã phát hiện mộ xác ướp. Đây là ngôi mộ song táng có 2 huyệt mộ
(nam tả, nữ hữu), thi hài đặt xong trong quan tài gỗ dày phủ sơn đen, ngoài có
quách gỗ. Thi hài nam còn lại 1 ít xương và một số đồ tùy táng: 7 nhẫn vàng, 1
cây quạt, 1 cây lược, 1 ống ngoáy trầu, 1 bình vôi
Thi hài nữ cao 152cm, đã teo đét, sụn mủi và nhãn cầu mắt bị hủy hoại, tóc và
móng tay chân còn chắt, các khớp chi và cỗ vẫn còn mềm mại, cổ đeo chuỗi hột bồ
đề, hai cổ tay mỗi bên đeo 1 vòng vàng, thi hài được mặc nhiều lớp quần áo lụa
và gấm. Trong túi nhỏ có 4 tờ giấy gồm: lòng phái qui y, bài chú vãng sanh tịnh
độ, bản hồng danh 5 vị phật, bài chú mật tông, trên có phủ triện còn đọc được
chữ “ Hòang Gia … “. Dưới đáy quan tài có lớp nhựa thông và Tâm Thất Tinh – tấm
ván có dục thủng hình sao Bắc Đẩu
Theo nhiều nghiên cứu lịch sử, đó
là xác ướp của bà Nguyễn Thị Hiệu, được coi là hoàng thân quốc thích của vua
Gia Long (Nguyễn Ánh 1762 - 1820). Khi mới phát hiện, ngôi mộ cổ nằm xen trong
khu 15 ngôi mộ bình thường khác. Khuôn viên bề thế rộng hàng trăm mét vuông với
kết cấu vững chắc như một ngôi đình. Khu mộ được xây dựng như một nhà mồ có
cổng ra vào bằng trụ đá và tường rào bao quanh. Kích thước chiều dài vòng thành
mộ tới 10 m, ngang 6 m, cao 1,2 m, dày 0,8 m. Cổng tam quan có hình mặt tròn,
trang trí búp sen trên đầu cột, cao 1,4 m được xây dựng có mái vòm cong lót giả
ngói ống trang trí hình rồng.
Sân thờ trước mộ có diện tích
khoảng 24 m2. Kết cấu gò mộ là khối hợp chất lớn bao gồm 2 phần: phần trước có
bia mộ nằm chìm trong khối hợp chất, các chữ trên bia mộ đã bị mòn, chỉ còn đọc
được 3 chữ "Kỷ Tỵ Niên" và phần sau có trang trí hoa văn, mỗi bên
hông đều có vẽ hình mặt tròn lớn.
Quách gò mộ vững chắc đến mức, muốn
khảo nghiệm được quách, các nhà khảo cổ phải thuê 15 thanh niên lực lưỡng dùng
đục sắt đục ròng rã trong 40 ngày, hàng trăm chiếc đục cùn vẹt mới chạm được
đến phần đáy quách ở độ sâu gần 8 m cho thấy khi xây mộ, người xưa đã dùng kỹ
thuật nung vỏ sò biển thay vôi, dùng mật ong để thay mật đường mía và thêm than
gỗ tốt trong hợp chất vôi, cát, mật xây quách.
Tiếp tục khai quật san gò mộ bằng
bình địa, các nhà khảo cổ học phát hiện phía bên dưới gồm hai huyệt mộ song
táng, một huyệt mộ nam, một huyệt mộ nữ. Từ miệng huyệt xuống đến đáy mộ được
bao phủ nhiều lớp hợp chất. Huyệt mộ nam bên trên quách gỗ có một lớp cát mỏng
phủ. Quách và quan tài còn nguyên lớp sơn màu đen, bên trong quan tài còn lại
một ít xương cốt và những hiện vật, như: 7 chiếc nhẫn vàng có mặt đá, quạt
giấy, lược, ống và cây ngoáy trầu bằng đồng, hộp bạc có dây xích hình cầu dẹt
chạm dây lá, nút áo mạ vàng, bút lông.
Huyệt mộ nữ quách và quan tài còn
nguyên vẹn, tiến hành mở quách rồi mở tấm ván thiên quan tài, giới khảo cổ thấy
phía bên trong được sắp xếp rất ngăn nắp. Phía trên là 2 chiếc chiếu cói trải
rộng che phủ diện tích mặt áo quan, 2 chiếc chiếu này còn giữ được màu sắc tươi
mới. Phía dưới là một lớp giấy bản, từng tờ cuộn dày khoảng 10 cm trải đều.
Tiếp đến là một tấm lá triệu (có thể là lá phướn) bằng lụa, trên mặt lụa có
nhiều chữ Hán nhưng do bị dung dịch làm nhòe mặt chữ, nên giới khảo cổ chỉ còn
đọc được 4 chữ với nghĩa là "Hoàng gia cung liệm".
Nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật kể, bọc
ngoài quan tài là cái quách bằng gỗ rất dày. Toàn bộ quách và quan tài được phủ
bằng lớp sơn ta cổ, rất tốt và kín mít từa tựa như lớp dầu hắc (hắc ín). Chính
nhờ lớp sơn này, mà nước mưa thấm vào lòng đất không thể ngấm vào áo quan và
dung dịch ướp xác cũng không tràn ra bên ngoài.
Việc dung dịch không tràn ra bên
ngoài, giúp cho thi hài của người chết được bảo quản tốt. Đó là lý do vì sao
thi hài của bà Nguyễn Thị Hiệu hầu như còn vẹn nguyên, trong khi thi hài của
ngôi mộ kế bên (khả năng rất cao là chồng của bà Hiệu) dung dịch bị tràn ra
ngoài nên chỉ còn xương cốt.
Khi tiến hành mở nắp quan, các nhà
khảo cổ không khỏi kinh ngạc về trình độ, kỹ thuật ướp xác của người xưa. Cói
khô có tác dụng hút ẩm tốt, người xưa đã che phủ áo quan bằng hai lớp chiếu cói
để chống ẩm. Ngoài ra, ngay dưới chiếu còn tiếp tục được phủ lớp giấy bản hút
ẩm có độ dày lên đến hơn 5 cm.
“Bóc gỡ dần từng lớp, tôi tìm thấy
phướn minh tinh bằng lụa có ghi dòng chữ “Hoàng gia cung liệm” và một số chữ đã
mờ. Trong túi áo thi hài có một tấm phát danh ghi dòng chữ: “Minh Trường, chùa
Lâm Tế, đời thứ 23” triện 2 ấn son hé lộ chủ nhân từng quy y cửa Phật. Mở tiếp
chín lớp áo vải, lụa, gấm quý, mùi dầu thông thơm nồng, bà nằm được bao phủ
trong lớp nước dung dịch màu đỏ. Gỡ lớp mạng che mặt, mọi người ngỡ nàng trước
nét mặt bình thản giấc thiên thu của bà. Xác định bà tên Nguyễn Thị Hiệu, ước
định khoảng 60 tuổi, mái tóc đen chớm vai chỉ có ít sợi bạc. Bà có làn da mịn
màng, hơi có màu đỏ sậm, cũng dễ hiểu vì đã ngâm hằng trăm năm trong dầu
thông”, ông Truật kể lại.
Đặt bên cạnh chân của bà là một đôi
hài vàng được đục 7 lỗ theo chòm sao Đại Hùng tinh Bắc Đẩu rất giống với những
ngôi mộ cổ của bậc cung phi, hoàng thân vua chúa từng được khai quật ở khu vực
phía bắc. Theo quan niệm của đạo Lão, Đại Hùng tinh Bắc Đẩu sẽ bảo vệ vong linh
người đã chết thoát khỏi các tai ương của “đời sống dưới cõi âm”.
Kiểm tra kỹ lưỡng thi hài, các
chuyên gia khảo cổ và giải phẫu trầm trồ trước các khớp xương trải hàng trăm
năm vẫn vận động co duỗi rất linh hoạt, cơ thể bà chỉ bị teo lại chút ít, các
bộ phận vẫn nguyên vẹn chưa có dấu hiệu bị phân hủy. Từ đôi bàn tay, bàn chân
nhỏ nhắn và cơ thể mềm mại của bà, họ nhận định lúc sinh thời bà sống cảnh an
nhàn, chứ không phải lao động vất vả. Lại căn cứ vào những giấy tờ, đồ vật tùy
táng của bà và lần ngược lịch sử triều Nguyễn, nhiều ý kiến đồng tình cho rằng
bà có xuất thân hoàng thân quốc thích với vị vua khai triều Gia Long.
Nhà khảo cổ nhận định, hầu hết xác
ướp ở nước ta, thậm chí cả vua Lê Dụ Tông, thường chỉ về thế giới bên kia với
đồ tùy táng quần áo, vật dụng thông thường. Xác ướp của bà là hiếm hoi trong số
các xác ướp được tùy táng nhiều vàng bạc. Điều này khiến họ càng tin rằng bà có
quan hệ huyết thống hoàng tộc với nhà Nguyễn.
Họ cho rằng, thời đó, vua Gia Long
sau nhiều biến cố lịch sử, đã thống nhất đất nước, nắm trong tay quyền lực tối
cao. Trước sự qua đời của thân tộc đã hậu táng bà trang trọng như nâng cao danh
thế nhà Nguyễn sau những năm tháng bôn ba chinh chiến. Có lẽ đó chính là một
trong những lý do để tiền nhân bảo vệ giấc nghìn thu cho bà bằng một khu một
hợp chất đặc biệt kiên cố.
Sau quá trình khai quật, xác ướp
của bà được đưa về nghiên cứu tại Đại học Y dược TP HCM, dung dịch màu đỏ nâu
ướp xác được phân tích bước đầu có chất nhựa thông trong đó. Sau này, xác ướp
của bà được coi như là một bảo vật giữ gìn cho hậu thế được chiêm ngưỡng nên đã
được đưa về viện bảo tàng lịch sử Việt Nam.
Cứ khoảng 3 tháng một lần, chuyên
gia Đại học Y dược TP HCM lại sang kiểm tra tình trạng và lau thuốc chống nấm
mốc, bảo vệ mô xác ướp. Phòng bà nằm cũng được gắn mát hút ẩm, máy thông gió
hoạt động liên tục để giữ gìn xác ướp. Hiện nay, tại viện bảo tàng, xác của bà
được đặt trong lồng kính uy nghiêm.
Thi thể của bà không còn mềm như
khi được lớp dung dịch bao bọc, thân hình của bà đã khô cứng, trên đầu tuy còn
chỏm tóc dài màu đen, phất phơ nhưng mũi và hốc mắt của bà gần như đã phân hủy
hoàn toàn.
***
Phòng 5: THỜI LÝ (thế kỉ XI – thế kỉ XIII)***
Sau chiến thắng Bạch Đằng 938, Việt Nam chấm dứt hoàn toàn thời kì mất nước kéo
dài hơn 1000 năm
Năm 981, bằng sức mạnh của quốc gia thống nhất, Lê Hoàn lãnh đạo nhân dân Đại
Việt đánh tan cuộc xâm lược thứ nhất của quân Tống
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý. Công cuộc xây dựng đất nước
được xúc tiến mạnh mẽ, quân đội được tổ chức chính quy
Năm 1077, dân tộc Đại Việt đã đánh tan cuộc xâm lược của quân Tống lần thứ hai.
Quyền bất khả xâm phạm, ý thức độc lập và chủ quyền dân tộc thể hiện qua bài
thơ bất hủ của Lý Thừơng Kiệt – bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc
Việt Nam
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phân tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẵng hành khang thủ bại hư “
Sau thắng lợi, nhà Lý khẩn trương xây dựng lại đất nước, khôi phục lại kinh tế,
phát triển văn hoá nghệ thuật. Có thể nói triều Lý là nhà nước phong kiến đầu
tiên ở Việt Nam được thành lập và phát triển về mọt mặt
+ Bảng thống kê loạn 12 sứ quân: sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), triều đình
nảy sinh biến loạn các thế lực phong kiến nổi dậy, tranh chấp lẫn nhau dẫn đến
loạn 12 sứ quân
° Kiều Phong Hãn chiếm giữ Phong Châu (Bạch Hạc – Vĩnh Phú)
° Kiều Thuận chiếm giữ Hồi Hồ (Cấm Khê – Vĩnh Phú)
° Nguyễn Khoan chiếm giữ Tam Đèn (Yên Khê – Vình Phú)
° Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm (Ba Vì – Hà Tây)
° Đô Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Đông (Thanh Oai – Hà Tây)
° Nguyễn Hưu Tiệp chiếm giữ Tiên Du (Tiên Sơn – Hà Bắc)
° Lã Đường Lâm chiếm giữ Tế Giang ( Văn Lâm – Hải Hưng)
° Nguyễn Siêu chiếm giữ Tây Phú Liệt (Thanh Trì - Hà Nội)
° Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu (Kim Đồng – Hải Hưng)
° Trần Lãm chiếm giữ Bố Hà Khẫu Vũ Tiên - Thái Bình)
° Vua Ngô là Ngô Xương Xí cũng rút về chiếm giữ vùng Binh Kiều (Triệu Sơn –
Thanh Hoá)
+ Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt (năm 968): diều này nói lên tinh
thần độc lập dân tộc tự chủ phủ nhận quyền bá chủ phương Bắc đã áp đặt lên dân
tộc Việt Nam từ ngàn năm trước
+ Vua Đinh Tiên Hoàng đã chọn kinh thành Hoa Lư làm kinh đô mới. Vùng Hoa Lư
bốn phía núi non hiểm trở, chỉ cần xây lũy kiên cố nối liền, có thể chống lại
những cuộc tấn công bất ngờ. Do thành Hoa Lư được dựng trên đất lầy, dễ lún,
nên móng phải được gia cố, xử lý tốt bằng cách trải lót cành cây lẫn đất, đắp
thành nhiều lớp, đá tảng đóng sâu xuống giữa móng, chân tường thành được chắc
chắn
+ Chân dung Lê Đại Hành: năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị ám hại, vua nối ngôi còn
nhỏ, nội bộ triều đình xung đột. Lê Hoàn là người có uy tín nhất nên được tôn
lên làm vua, lấy hiệu là Lê Đại Hành, lập nên nhà tiền Lê. Ong đã lãnh đạo nhân
dân chống quân Tống xâm lược lấn thứ nhất
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi, dặt tên nước là Đại Việt, lập ra triều Lý
+ Chế độ quan chế thời Lý:
° Đứng đầu là Vua rồi đến các quan chức cao cấp văn võ. Năm 1042 bộ luât Hình
thư được ban hành cũng là bộ luật đầu tiên của Việt Nam. Năm 1075 mở khoa thi
đầu tiên tuyển lựa nhân tài. Chứng tỏ nhà nước trung ương đã tương đối ổn định.
+ Ảnh lập thương cảng Vân Đồn: thương cảng này được lập ra nhằm đáp ứng nhu cầu
trao đổi hàng hóa với nước ngoài. Thương cảng quan trọng và sầm uất nhất của
Đại Việt
+ Ảnh phong cấp ruộng thác đao tiền và thực ấp: Vua có quyền đem một số hộ nông
dân hoặc ruộng đất của công xã phong cấp cho quý tộc, quan lại cao cấp. Những
người nông dân phải nộp đủ tô, thuế ,lao dịch, đi lính cho người được phong.
Ruộng đất do ban thưởng, phong cấp thường được gọi là “ruộng ném đất”. Tương
truyền rằng người được thưởng đứng trên núi ném đao đi xa đến đâu thì chiếm đất
đến đấy.
+ Tủ đựng những đồng tiền thời Lý:
° Thuận Thiên thông bảo (1042 – 1028)
° Minh Đạo thông bảo (1042 – 1162)
° Đại Minh thông bảo (1140 – 1162)
Đồng tiền hình tròn, có lỗ hình vuông ở giữa, tượng trưng cho trời và đất. Bề
mặt có niên hiệu vua. Bề trái thường để trơn, có khi đề chữ chỉ năm đúc, nơi
đúc, giá trị tiền
+ Bản đồ chiến thắng quân Tống (1070 – 1077): Dưới triều vua Lý Nhân
Tông, nhằm đối phó với tham vọng xâm lược của nhà Tống, Phụ Quốc Thái úy (tể
tướng) Lý Thường Kiệt đã trực tiếp, chủ động tổ chức tiến công thẳng sang đất
Tống để tự vệ. Năm 1076, thành Ung Châu bị chiếm giữ. Lý Thừơng Kiệt cho phá
hủy kho trữ lương thực, dùng đá lấp sông, chặn đường tiếp viện của địch rồi
nhanh chóng rút về nước, chuẩn bị cuộc kháng chiến quy mô lớn “phòng tuyến sông
Cầu”. Nơi đây đã quyết định sự thảm bại của quân Tống
+ Hộp hình phòng tuyến sông Cầu ở Hà Bắc: tất cả đường bộ từ phía Đông
Bắc tiến vào Thăng Long đều phải đi qua ngã sông Cầu. Lợi dụng địa thế lòng
sông như một chiến hào thiên nhiên lợi hại, suốt từ chân núi Tam Đảo đến Lục
Đầu, Lý Thường Kiệt đã cho đắp đất cao mấy thước, đóng tre làm dậu dày mấy tầng
“sông sâu, thành cao, dậu dày” tạo thành chứơng ngại vật kiên cố làm tuyến
phóng ngự lón của quân ta. Cuối năm 1076 đầu năm 1077 địch đưa muời vạn quân
tác chiến và 20 vạn dân binh đánh Đại Việt theo hai đường thủy và bộ. Thủ binh
Tống bị quân ta đánh bật ra khỏi vùng biển Đông Bắc, còn bộ binh chia làm hai
cụm đóng bên bờ bắc sông Cầu, do những tướng giỏi của nhà Tống là Quách Quỳ,
Triệu Tiết chỉ huy chia làm 2 lần đột phá trận tuyến ở bến đò Như Nguyệt nhưng
đều bị Lý Thường Kiệt phản kích kịp thời. Địch phải chuyển từ thế tiến công
sang thế phòng ngự. Lý Thường Kiệt vượt sông bất ngờ đánh úp doanh trại chính
của quân địch ở quảng sông Tháo Túc. Lực lượng địch bị chia cắt và bị tiêu diệt
hơn một số quân. Tháng 3 năm 1077 quân Tống rút chạy về nước trong càng hoản
loạn
+ Bia Linh Xứng: Dựng năm 1126 ghi lại thân thế sự nghiệp công lao to
lớn của Lý Thường Kiệt qua các chiến công: Khâm, Liêm, Ung Châu, phòng tuyến
sông Cầu, đồng thời nói lên sự ra đời và phát triển của Phật giáo thời Lý
+ Chùa Một Cột (còn gọi là chùa Diện Hựu): xây dựng năm 1049 thời vua Lý
Thái Tông, xây dựng với nguy6en nhân vua nằm mơ thấy thấy Quan Am dẫn mình lên
toà sen, chùa được xây để thờ Quan Thế Am Bồ Tát mang ý niệm cao cả: lòng nhân
ái soi tỏ thế gian. Chùa được khôi phục năm 1954, vì chùa gốc đã bị thực dân
Pháp phá huỷ trước khi chúng rút lui. Chùa Một Cột hiện nay nằm trong quần thể
kiến trúc Lăng và bảo tàng Hồ Chí Minh – Hà Nội
+ Tượng A Di Đà (1057 – Hà Bắc): Đây là pho tượng quý có từ thời Lý, làm
bằng đá, cao 1,87m, bệ tượng hình bát giác, có nhiếu bậc cao 0,9m, bố trí hoa
văn. Tượng Phật trưng bày ở Bảo tàng được làm bằng thạch cao từ nguyên bản bằng
đá, đặt ở chùa Phật Tích (Hà Tây)
+ Tủ gốm kiến trúc:
° Gạch thời Lý : được tìm thấy ở chùa Phật Tích với bề mặt được khắc nổi
hai hàng chữ Hán theo chiều dọc:
“Lý Gia đệ tam Đế Chương
Thánh gia Khánh thất niên tạo”
Có ý nghĩa được làm năm thứ 7 (1065), đời vua Lý Thánh Tông
° Hai khối hoa sen: Trong lòng khối hoa sen co “lõi” hình ống, rỗng, lòng nhô
cao hơi loe ra, khối sen nhỏ, đường kín 0,3m, đặt trong lòng khối sen lớn đường
kín 0,5m, bằng đất nung, màu đỏ gạch, chạm nổi thành 3 lớp cánh sen
° Khối vòm tháp: Chạm nổi cầu kì, trau chuốt hoa cúc dây uốn lượn hình sin, trong
mỗi khúc uốn có hình bông cúc tròn, lá rải dều từ đầu đến cuối
° Mãnh kết tầng tháp: mặt ngoài chạm nổi hoa chanh 4 cánh và diềm cánh sen
° Hai mô hình nhà: trên thường cham hoa chanh, mái ngói hình ống, đầu ngói
trang trí những cánh hoa, cửa chính có vòm cong
° Một pho tượng phỗng: tượng bị mất đầu, quỳ gối, hai tay buông so le.
+ Khối bề sen bằng đá Sa Thạch: đường kính 45cm, có lẽ là Phật, mặt bệ phẳng,
chung quanh chạp nổi hai lớp hoa sen, mỗi lớp 16 cánh.
+ Tủ gốm gia dụng: tiêu biểu là loại gốm men ngọc, phủ ngoài cốt gồm 1 lớp men
trong, dày, màu xanh lục hay màu trắng ngà. Cốt gốm cứng, rắn và nặng, được tạo
dánh thanh mãnh
+ Chiếu dời đô: Vào thời Lý, công cuộc xây dựng đất nước được đẩy mạnh về mọi
mặt. Nền văn hóa dân tộc được mở mang và phát triển xây dựng nên một nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc – nền văn hoá Thăng Long hay nền văn hóa Lý-Trần.
***Phòng 6: THỜI TRẦN (Thế kỉ XIII - thế kỉ XIV) ***
Năm 1266, triều Lý suy vong, triều Trần được thành lập, đã đáp ứng nguyện vọng
của nhân dân và quy luật phát triển của lịch sử
+ Bản đồ cuộc xâm lược của đế quốc Mông Cổ từ Á sang Âu (thế kỉ XIII - XV):
lãnh thổ đế quốc Mông Cổ Mông Cổ đã được mở rộng đến sát biên giới Đại Việt.
Chính trên bước đuờng xâm lược, chúng đã vấp phải một bức lũy thép, đó là dức
kháng chiến vô cùng anh dũng của nhân dân Đại Việt
+ Bàn đồ 3 lần chiên thắng quân Nguyên Mông:
° Lần thứ nhất (1258): với 3 vạn kị binh, bị đánh thảm bại, phải rút lui
về Vân Nam
° Lần thứ hai (1285): với lực luợng viễn chinh lớn. Cuộc kháng chiến lần
thứ hai này gay go và ác liệt, quân thù càng thất bại nhục nhã và thắng lợi của
Đại Việt càng thắng lợi vang dội.
° Lần thứ ba (1288): hủy bỏ kế hoạch xâm lược Nhật Bản để dồn lực lượng
vào xâm lược Đại Việt. Lần này ngoài bộ binh, kị binh, còn tăng cường thêm thủy
binh và một đoàn thuyền tải lương. Nhưng cuộc xâm lược lần thứ ba của quân thù
lại bị đập tan.
+ Bản liệt kê: danh nhân danh tướng thời Trần
° Trần Thủ Độ
° Trần Quốc Tuấn
° Trần Quang Khải
° Trần Nhật Duật
° Trần Khánh Dư
+ Ba cọc gỗ Bạch Đằng: theo kế hoạch của Trần Quốc Tuấn, quân dân ta xẻ gỗ lim,
gỗ táo đẽo nhọn, cắm xuống sông tạo bãi chướng ngại vật lớn ngăn cản các chiến
thuyền địch khi thủy triều xuống. Chiến thắng này đã làm thất bại âm mưu biến
nước ta thành bàn đạp của đế quốc Mông Cổ để mở rộng xâm lược xuống các nước
Đông Nam Á
+ Gốm trang trí "thời Trần" rât đa dạnh thường được nung, một số có
phủ men, những hình tượng rồng, phượng với những nét cong tròn mềm mại tinh tế,
những viên ngói Mũi Hài phủ men dày đầy đặn, gạch lát nền lớn ở phủ Thiên
Trường, trên mặt gạch in nổi những hình hoa sen, cúc, chanh cách điệu
+ Thạp gốm hoa màu nâu: tìm thấy ở Thanh Hóa, cao khoảng 70cm đường kính khoảng
63cm, phản ánh tinh thần thượng võ của dân tộc Việt Nam dưới thời Trần
+Mô hình tháp Bình Sơn (Vĩnh Phú), tháp Phổ Minh (Biên Hòa): Ở thời Trần, Phật
giáo giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
° Bình Sơn (còn gọi là tháp Then hay chùa Vĩnh Khánh): Ở Tam Sơn tình Vĩnh
Phúc, có 12 tầng cả bệ, cao 16m, có hoa văn trang trí
° Tháp Phổ Minh: ở xã Tức Mặc có 14 tầng cao trên 22m, tường dưới xây bằng đá,
13 tầng trên đều xây bằng gạch, được trang trí bằng những tượ đá bằng rồng và
sóc
+ Cánh cửa chạm khắc gỗm Phổ Minh: Đây là 1 trong 4 cánh cửa bộ của chùa được
làm bằng gỗ lim, lắp ngay lối đi vào chính giữa chùa. Đề tài trang trí là những
hình rồng uốn khúc quen thuộc, những hoa văn són nước gợi cho chúng ta có cảm
gíc uy nghi trang nghiêmtrước lúc buớc vào chiêm ngưỡng phật tổ
+ Hổ đá lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình):biểu tượng của uy quyền nhà vua, vừa được
tôn thờ như người bảo vệ đền chùa, lăng tẩm.
Sau 30 năm kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thắng lợi (1258 - 1288), nhà
Trần lúc đầu ra sức phục hồi kinh tế và phát triển văn hoá, nhưng về sau lại lo
củng cố địa vị thống trị, thâu tóm những thành quả đấu tranh , xây dựng của
nhân dân. Trong tình trạng rối ren đó Hồ Quý Ly, một quý tộc có thế lực thời
Trần, lập ra vương triều mới, đó là triều Hồ.
***Phòng 7: THỜI LÊ (thế
kỉ XV - thế kỉ XVII) ***
Sau khi Hồ Quý Ly lật đổ triều Trần và thất bại trong kháng chiến chống quân
Minh (1407). Nước Đại Việt rơi vào ách thống trị phong kiến của các nước, do
các cuộc khởi nghĩa mang tính tự phát nên cuối cùng đều thất bại. Cuộc kháng
chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm trải qua bao nhiêu gian khổ, mất mát hy
sinh. Năm 1427 Lê Lợi đánh đuổi quân Minh lập ra triều Lê.
+ Tủ vũ khí thời Lê: còn thô sơ gồm dao, kiếm, mũi lao, ngoài ra còn có khẩu
súng bằng đồng, đạn bằng gang hay đá, súng ở đây có 2 khoang, 1 chứa chất nổ
gắn ngòi, khoang trên chứa đạntròn bằng gang hay đá.
+ Hộp hình Ải Chi Lăng (Lạng Sơn): Địa hình hiểm trở, hướng hành quân của 10
vạn quân Minh, vì vậy nơi đây rất thích hợp làm trận đại mai phục. Tháng
10-1427 giặc đã lọt vào trận địa này. Liễu Thăng bị chém đầu, quân ta đã tiêu
diệt 1 vạn quân. Chiến thắng này góp phần quan trọng vào việc giải phóng đất
nước khỏi ách đô hộ của nhà Minh
+ Chân dung Nguyễn Trãi (bản photo dệt lụa): Ông là vị anh hùng dân tộc niềm tự
hào của nhân dân ta, ông là linh hồn của cuộc kháng chiến chống quân Minh
+ Một số đền thờ: Để tỏ lòng những người có công với đất nước, nhân dân Việt
Nam ở mọi nơi đều dựng đền thờ tưởng niệm họ
+ Đền thờ Lê Lợi (Lam Sơn - Thanh Hóa), (1385-1433): Đau lòng trước cảnh nuớc
mất nhà tan, ông nuôi chí diệt thù cứu nước, đem cả tài sản và tâm huyết của
mình để thực hiện lý tưởng đó. Dẹp xong giặc Minh, Ông lên ngôi lập ra nhà Lê
+ Anh đền thờ Nguyễn Xí ( Nghi Hợp - Nghi Lộc - Nghệ An)
° 1396 - 1465: Ở làng Thượng Xà huện Chân Phúc, gia đình bản thân ông sống bằng
nghề buôn muối, Ông gia nhập quân Lam Sơn, lập được nhiều chiến công oanh Liệt
+ Tiền thời Lê: Nền kinh tế phục hồi và phát triển công thương nghiệp nên nhà
nước mở xưởng đúc tiền và vũ khí. Tiền thời Lê sơ không thấy có những gang,
sắt, thiếc chủ yếu là bằng đồng. Có nhiều loại:
° Thiệu Binh Thông Bảo - đời vua Lê Thánh Tông (1434 - 1449)
° Đại Hoà Thông Bảo - đời vua Lê Nhân Tông (1443 - 1453)
° Thái Hoà Thông Bảo - đời vua Lê Nhân Tông (1443 - 1453)
° Diên Ninh Thông Bảo - đời vua Lê Nhân Tông (1443 - 1453)
° Quang Thuận Thông Bảo - đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497)
° Hồng Đức Thông Bảo - đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497)
+ Tủ con dấu thời Lê: Lam bằng, kim loại được khắc bằng chữ Hán, hình dáng kích
thước được quy định bởi các cấp, tổ chức khác nhau. Ở đây có một con dấu bằng
đồng tìm thấy ở Quãng Ngãi năm 1988, dấu làm vào năm 1471, lưng ghi chữ Hán:
"An của Ty Thừa Tuyên Sứ cai trị xứ Quảng Nam - Ty Thượng Bảo chế tạo. Hồng
Đức thứ hai (1471)".
+ Tổ chức chính quyền thời Lê
+ Sơ đồ tổ chức quân đội
+ Chế độ ruộng đất: Thời Lê chia theo hai chế độ: quân điền, Lộc Điền. Tất cả
dân trong xã đều chia được ruộng, không đều nhau mà theo chức tước, bậc cấp xã
hội, 6 năm được cấp 1 lần. Quan được 11 phần, dân được 2 phần rưỡi
+ Tượng Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay: được làm vào năm 1656, ý nghĩa và gía trị
của bức tượng ở chổ gợi lên hình ảnh tượng trưng cho bàn tay, khối óc, lao động
và trí tuệ, biểu hiện sức sống và sự vươn lên của người
+ Gốm thời Lê: làm từ loại men trắng hoa lam, có nhiều loại tô, chén, dĩa, chân
đèn …
Thời gian này có nhiều trung tâm sản xuất: gốm Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc
Hà), Chu Đậu, Hợp Lê (Hải Hưng), tới thời Mạc gốm thường ghi niên hiệu nơi làm
và người sản xuất
+ Ngoài ra còn có những bản sao hiện vật như: các loại vũ khí, đầu rồng (Lam
Sơn - Thanh Hoá), lân, bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội).
***Phòng 8: THỜI TÂY SƠN
(Thế Kỉ XVIII)***
Vào giai đoạn này phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng
hoảng tòan diện do sự tranh chấp giữa các tập đoàn Phong kiến
+ Xung đột Bắc - Nam(1527 - 1592)
+ Trịnh Nguyễn (1627 - 1672)
+ Bản đồ khởi nghĩa nông dân thế kỉ XVIII
Là thời kì của phong trào nông dân chống phong kiến nổ ra ở khắp nơi cả đàng
trong lẫn đàng ngoài
Đặc biệt vào mùa xuân 1771, khởi nghĩa Tây Sơn của 3 anh em nhà Nguyễn Huệ,
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ đã lật đổ nền thống trị của chúa Trịnh
Đồng thời phong trào Tây Sơn còn chống lại cuộc kháng chiến chống xâm lược của
quân Xiêm (Thái Lan) phía Nam và quân Thanh (Trung Quốc) phía Bắc
+ Tủ đồ gốm thời Tây Sơn: Kế thừa truyền thống và tiếp tục phát triển truyền
thống "gốm Hoa Lam" thời Lê, gốm thời kì này mang tính dân tộc như
bình vôi, âu dựng nước
+ Trống đồng Cảnh Thịnh: Tuy không có những hoa văn đặc sắc nhưng đã thể hiện
tinh thần dân tộc, được đúc vào năm 1801
+ Chuông đồng đúc năm 1779
+ Ngoài ra còn có trên 68 hiện vật của thời kì này được trưng bày gồm: tiền, vũ
khí Trung Quốc, lục lạc, bình bằng đồng, lư hương, bình, nậm rượu, tô, chén
bằng gốm, tượng phật, la hán bằng gỗ
+Bản đồ chiến thắng quân Xiêm xâm lược (1784 - 1785)
+ Hộp hình Trận Gạch Rầm - Xoài Mút (Mỹ Tho - Tiền Giang)
ª Hộp hình đã tái hiện trận đánh oanh liệt này do Nguyễn Huệ lãnh đạo, Ông đã
cho bố trí một trận địa mai phục tại đây. Thuỷ binh dấu sâu trong các nhánh
sông nhỏ giữa cù lao. Bộ binh, pháo binh mai phục trên bờ. Trên cù lao giữa
sông ngày 19-01-1785 địch đã kéo toàn bộ lực lượng tiến đánh Tây Sơn ở Mỹ Tho. Ông
cho pháo binh Bất ngờ nhả đạn làm cho địch rối loạn đội hình. Kết quả toàn bộ
địch bị đánh bại, hơn 4 vạn quân xiêm bị tử trận.
Với chiến thắng lẫy lừng đó quân dân ta đã đ165p tan âm mưu xâm lược và hành
động bán nứơc của Nguyễn Anh
+ Bản đồ: Quang Trung đại phá quân Thanh
Được tin báo cấp ngày 21-12-1788 Nguyễn Huệ lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung,
lâp tức lãnh đạo tiến qu6an ra Bắc đánh quân xâm lược
ª Ngày 25-01-1789:Đạo quân chủ lực vượt sông Đáy mở cuộc tiến công đại phá quân
Thanh
ª Ngày 28-01-1789: bao vây và hạ Đồn Hạ Hồi
Ngày 30-01-1789: Dùng thương binh và cảm tử quân triệt phá đồn Ngọc Hồi trong
vòng 5 ngày đêm - đêm, đầu xuân Kỉ Dậu, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh tan 30 vạn
quân Thanh xâm lược
+ Hộp hình chiến thắng Ngọc Hồi : Mờ sáng ngày 30-01-1789 quân ta bước vào trận
quyến chiến với địch ở đồn Ngọc Hồi. Vua Quang Trung trực tiếp chỉ huy trận
công đồn ác liệt, đội tượng binh gồm 100 con voi chiến của Tây Sơn xông vào tấn
công, với kị binh của quân Thanh đã xông ra nhưng nhanh chóng tan vỡ
Bọn chúng đã bắn đại pháo, cung tên để cản đường quân ta, đội xung kích của Tây
Sơn với nhiều chiến sĩ cảm tử, dùng lá chắn lớn, che mình xông vào chiến luỹ
địch và gía chiến. Đạo quân Tây Sơn ào ạt xung phong trận địa trước sức mạnh
của quân đồn Ngọc Hồi bị san phẳng
+ Tranh gò đồng, Xuân chiến thắng Đống Đa: Mô tả cảnh đoàn quân Tây Sơn chiến
thắng do vua Quang Trung lãnh đạo, trong chiên bào nhuộm đen. Quân Tây Sơn đã
tiến vào Thăng Long giữa mùa xuân rực rỡ hoa đào này mùng 5 tết Kỷ Dậu - Xuân
1789
+ Tủ vũ khí thời Tây Sơn: Kỷ thuật quân sự thời Tây Sơn có nhiều bước phát
triển hơn so với trước
ª Vũ khí mang nét hơn so với trước
ª Pa - Nô, Các lệnh chỉ về chính sách Khuyến Nông: Năm 1789, Vua Quang Trung
ban bố phục hồi quân phiêu tán, khai khẩn đất bị bỏ hoang đồng thời đề ra nhiều
chính sách kinh tế, chú ý phát triển nông nghiệp động viên nông dân sản xuất
ª Quang Trung ra lệnh bãi bỏ một số thuế công thương nặng nề, mở rộng buôn bán
vời nước ngoài, mở mang công cuộc phát triển. Những điều này mở ra hướng phát
triển mới cho xã hội Việt Nam lúc đó
+ Chiếu dịch sách Hán ra chữ Nôm của Quang Trung: việc học được mở rộng và chế
độ thi cử được chấn chỉnh. Đặc biệt Vua Quang Trung rất coi trọng chữ Nôm, muốn
đưa địa vị chữ Nôm lên đại vị chữ viết chính thức của quốc gia. Ong cho lập
viện Sùng Chính, để dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm nhằm dạy cho dân. Từ đó chữ
Hán không còn chiếm địa vị độc tôn nữa. Đó là bước phát triển với nền văn hoá
dân tộc.
***Phòng
9: Thời Nguyễn Và Phong Trào Chống Thực Dân Pháp
(Thế Kỉ XIX - Đầu Thế Kỉ XX)***
+ Bảng chế độ ruộng đấ thời Nguyễn:
ª Quảng điền: Ruộng đất 3 năm chia lại 1 lần, quan Nhất Phẩm 15 phần Cửu Phẩm 8
phần, lính Cấm Binh 9 phần, Tinh binh 8 phần, dân đinh 5 phần rưỡi, mồ côi phụ
nữ góa 3 phần
ª Chính sách khẩn hoang:
- Đồn điền
- Doanh điền
- Khẩn hoang ruộng đất bỏ hoang ở địa phương
+ Hình ảnh dân số xã hội Việt Nam (thế kỉ XIX - thế kỉ XX): Anh được chụp lại
và phóng to, song chúng ta vẫn còn thấy được sự đón tiếp long trọng của triều
Nguyễn tiếp phái đoàn nước ngoài ở kinh đô Huế
+ Hiệp ước bán nước
+ Bảng thống kê một số cuộc khởi nghĩa
ª Khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Thái Bình - Hải Dương (1821 - 1827)
ª Khởi nghĩa Nùng Vằn Vân ở Tuyên Quang - Thái Nguyên.
ª Năm 1859 - 1861, khởi nghĩa Trần Thiệu Chính, Lê Huy, Dương Đình Tân ở Gia
Định giết quan ba Barbe đánh tàu Primoget.
ª Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá (1861 - 1868) đốt tàu Espérance ở vàm
sông Nhật Tảo (Long An)
+ Tủ vũ khí của Pháp: Trong thời kì xâm lược Việt Nam, Pháp đã sử dụng nhiều
phương tiện, vũ khí hiện đại như tàu, xe, đại bác … những khẩu súng trưng bày ở
đây phần nào nói lên sự quy mô ác liệt của cuộc chiến tranh.
+ Tủ vũ khí quân Việt Nam: có nhiều loại dao, kiếm, mã tấu súng trường …..
+ Mô hình trận đánh tàu Espérance: Nguyễn Trung Trực đã chiêu mộ nghĩa quân và
lập 1 chiến công vang dội trên vàm sông Nhật Tảo ngày 10-12-1861. Trận đánh này
đã đốt cháy và đánh chìm pháo hạm Espérance, diệt 37 quân địch.
Ông đã có câu nói nổi tiếng: "Khi nào người Tây nhổ hết cỏ nuớc Nam thì
mới hết nguời Nam đánh Tây"
+ Tranh tấn phong Trưong Định là Bình Tây Đại Nguyên Soái (do hoạ sĩ Phi Hoành
thực hiện năm 1986 bằng bột màu): Trương Định quê ở Bình Sơn - Quãng Ngãi, đã
chiêu mộ nghĩa quân chống Pháp khi chúng đến Gia Định (1859). Sau trận đánh
quyết liệt ở Sài Gòn, các tỉnh xung quanh và sau trận đánh quyết liệt trên sông
Soài Rạp ngày 20-08-1864 ông đã bị thương nặng và tự sát để không bị quân địch
bắt
+ Tủ một số tác phẩm của Nguyễn Ai Quốc và đảng Cộng Sản Đông Dương: tiêu biểu
như "Le Paria", "Đuờng Cách Mệnh", đặc biệt là "Luận
cương chính trị của đảng Cộng Sản Đông Dương", năm 1930 vạch ra đường lối
đúng đắn của cách mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác
+ Tủ tiền thời Nguyễn: các vua thời này chú ý đến việc đúc tiền, mỗi vua có
cách đúc tiền khác nhau
ª Thời vua Tự Đức cho phép địa phương đúc tiền: Hà Nội, Bắc Ninh … nhưng mang
lên từng địa phương
ª Ở Bảo tàng có một số loại tiền thời Nguyễn:
Tự Đức Thông Bảo
Đồng Khánh Thông Bảo
Thành Thái Thông Bảo
Duy Tân Thông Bảo
Khải Định Thông Bảo
Gia Long Thông Bảo
Minh Mạng Thông Bảo
Bảo Đại Thông Bảo
+Tủ áo thời vua Nguyễn: Ở đây trưng bày áo vua, quan văn, quan võ. Áo vua có
thêu rồng 5 móng, nền vàng, mắt rồng, có con ngươi khác biệt áo quan rồng chỉ
được thêu 4 móng
+ Ngoài ra còn trưng bày đồ gỗ, khám thờ, gương gia dụng, sập gỗ cẩn ngà voi,
bình phong. Đáng lưu ý là bức bình phong tại đây cho thấy đ1o là một bức tranh
đệiu khắc hoàn hảo của Việt Nam ở thế kỉ XX
+ Bên cạnh đó đến phòng này chúng ta còn thấy tủ trưng bày đồ thủ công mỹ nghệ
với những chiếc khay, hộp được cẩn xà cừ rất đẹp
+ Song song với trình độ cao về thủ công mỹ nghệ, thì nhạc cụ cổ truyền của
Việt Nam thời Nguyễn đã góp phần đem lại niềm vui tinh thần lạc quan cho con
người thưởng thức nó. Nhạc cụ thời này nhiều loại khác nhau: đàn bầu, đàn
tranh, đàn tỳ bà, sáo tiêu, bộ gõ…
+ Tủ gốm men Lam Huế: trưng bày đa dạng: bình trà, tô, chén, dĩa … đặc trưng
loại gốm này thường ở vùng Giang Tây (Trung Quốc) Nhưng đối vời những sản phẩm
này do người Việt vẽ mẫu.
***Phòng 10: GỐM CỔ MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á***
Tại đây giới thiệu các hiện vật gốm từ đất nung tới sành sứ, thuôc các nước
châu Á như:
+ Gốm Nhật: Trưng bày 2 chiếc bình lớn men xanh trắng mỗi chiếc cao 1,67m, có
niên đại từ đầu thế kỉ XVII - đầu thế kỉ XX, vớ cổ rời, vẽ hoa lá, chim, bướm,
và co phủ nhũ vàngở các cánh hoa, lá ngay giữa thân bình, men ngũ sắc thuộc các
dòng gốm Hizen, Satsuma …
+ Gốm Thái: tưong đối phong phú với các loại gốm Sawamkhalok và Bencharông hiện
có tại bảo tàng từ trước năm 1975 và nhận về từ bảo tàng Kiên Giang - do tìm
thấy trong 1 chiếc tàu đắm ở Hòn Dầm
+ Gốm Campuchia: các loại gốm đặc trưng Campuchia phát triển vào thế kỉ XII -
XII với kĩ thuật nằn gốm bằng tay và nung nhẹ lửa, chủ yếu là đồ dùng trong
sinh hoạt, thờ cúng
+Gốm Việt Nam: chiếm số lượng khá lớn có niên đại từ thế kỉ XVII - XIX đa phần
là các đồ dùng trong sinh hoạt, thờ cúng (lư hương,bát nhang) từ lò Chu Đậu
(Hải Dương), Bát Tràng (Hà Nôi), và một số loại men xanh trắng được các vua
quan nhà Nguyễn đặt Trung Quốc sản xuất
+ Gốm Trung Quốc: Gốm Trung Quốc rất tinh xảo và phát triển, nó không chỉ phục
vụ cho nhu cầu trong nước mà để xuất khẩu ra nước ngoài, có niên đại từ thế kỉ
thứ VII - XIX (thời nhà Đường đến đời nhà Thanh). Các loại gốm từ các tỉnh
Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông (Trung Quốc), một số được vớt lên từ con tàu
đắm ở Hòn Dầm (Kiên Giang).
***PHÒNG 11: VĂN HOÁ ÓC EO (Thế Kỉ I - Thế Kỉ VI)***
Đầu tiên khi bước vào phòng này chúng ta sẽ thấy một gian phòng trưng bày những
công trình nghiên cứu của ông Vương Hồng Sển.
Văn hoá Oc Eo :
- Là nên văn hóa được phát triển từ thế kỉ I - VI (trước công nguyên) ở lãnh
thổ đồng bằng Nam Bộ.
- Hiện nay ở Bảo tàng đã lưu giữ và sưu tập hiện vật Óc Eo phong phú , đa dạng:
ª Tủ đồ đá: có các công cụ rìu tứ giác, rìu có vai, khuôn đúc trang sức, bàn
nghiền và chày nghiền dùng để nghiền các loại hương liệu hoặc nghiền bột màu để
vẽ tượng
ª Tủ đồ đồng: Bao gồm các loại vật dụng như nhạc cụ, tượng Phật. Những dụng cụ
bằng đồng có nguồn gốc bản đại đã góp phần khẳng định trình độ kĩ thuật luyện
đồng đúc đồng của dân cư Óc Eo
ª Trong nghề thủ công thì đồ gốm của dân cư Óc Eo là phát triển mạnh và chia
làm 3 nhóm:
Dụng cụ làm gồm: Chày nhào đất, bàn dập hoa văn, đồ chà láng. Chúng cũng tạo
điều kiện cho việc tìm hiểu và đánh giá kĩ thuật tạo gốm thời bấy giờ
Gốm gia dụng: Chai, tô, dĩa … . Ngoài việc sử dụng chúng trong sinh hoạt hằng
ngày, cư dân Oc Eo còn dùng sản phẩm gốm trong nghề đánh cá và nghề dệt
Gốm kiến trúc: Gạch ngói, động vật hình đỉng tháp, vật trang trí hình người
ª Tủ đồ đá quý: Với kĩ thuật mài cưa dũa chạm … nguời dân Oc Eo đã tạo ra bông
tai, con dấu chuỗi hạt mã não ngọc tím .… Qua đó ta thấy được sự hiểu biết của
họ về các loại đá quý rất cao
ª Tranh di tích Oc Eo
ª Tủ kim loại: Thợ thủ công Óc Eo đã sử dụng kim loại để chế tạo ra đồ trang
sức. Đặc biệt có sự xuất hiện của đồng tiền kim loại vàng có khắc hình hoàng đế
La Mã, phù điêu Ba Tư, đồng tiền mặt trời … có nguồn gốc từ Thái Lan, hình con
ốc trên đồng tiền có nguồn gốc từ Miến Điện, chứng tỏ lúc bấy giờ cư dân Óc Eo
đã giao lưu Quốc tế rất rộng, đó cũng là một thời kì thịnh vượng.
ª Sự hiện diện tượng Phật trong di tích Óc Eo chứng tỏ phật giáo cũng chiếm một
vị trí quan trọng trong cuộc sống của họ
ª Hình thức cư trú của cư dân Óc Eo thời bấy giờ là nhà sàn, di tích còn lại mà
ta thấy ở bảo tàng đó là cột nhà sàn cách 1400 năm.
***Phòng 12: NGHỆ THUẬT ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
(Thế Kỉ VII - Thế Kỉ XIII) ***
Nơi đây trưng bày các tác phẩm bằng đá được điêu khắc bởi chính những cư dân
bản địa của vùng ĐBSCL:
- Tượng Quan Âm: Đây là pho tượng Phật quý hiếm của Bảo tàng, cao 0.9m, được
tìm thấy ở Ngai Hoà Thượng, tỉnh Trà Vinh, niên đại từ thế kỉ VII - VIII
- Tượng Visnu: có niên đại từ thế kỉ VII - VIII, được tìm thấy ở Bến Tre, An
Giang, Long An. Mình tượng trần, không đeo trang sức, tay cầm 4 vật: vỏ ốc đĩa
tròn bông sen và gây
- Tượng Linga và Yoni: Linga là vị thần tương trưng cho tinh thần tuyệt đối
dưới hính ảnh Linga - Yoni đồng thời cũng là hình ảnh sáng tạo.
- Thần Surya: còn gọi là thần mặt trời tượng này được lảm từ TKVII tìm thấy ở
An Giang và Đồng Tháp
- Tượng Nam thần: Ở TkVII - VIII tìm thấy bắng nguyên liệu sa thạch màu xám
- Tượng Nữ thần: tìm thấy ở Hà Tiên có niên đại sớm hơn các tượng khác, tượng
không đeo trang sức, dáng người thô, mang dấu ấn điêu khắc của An Độ
- Tượng thần Ganesa: là thần của tri thức trí tuệ, tượng mình người đầu voi,
tượng là 1 vị phúc thần, người dân buôn bán luôn cầu xin để buôn bán phát đạt
- Tượng nữ thần Uma: là vợ của Siva, có 4 tay, 2 tay giơ ngang lên đầu, tay
phải cầm ốc, tay trái cầm đĩa tròn. Bên tương tạc đầu trâu dưới chân nữ thần.
Tương tìm thấy ở Tây Ninh TkVIII, cao 0.9m
- Tượng đầu thần Visnu
- Tượng bò Nandin
***Phòng 13: BẾN NGHÉ - SÀI
GÒN***
+ Tủ hiện vật bến đò: Di tích tìm thấy gồm rìu đá có vai, rìu đá tứ giác, đục
đá, cuốc đá … . Di tích bến đò xuất hiện cách nay khảong 4000 năm
+ Hiện vật Gò Cát: Di tích Gò Cát thuộc ấp chùa Ong, xã Thạnh Mỹ Lợi, TPHCM,
phát hiện năm 1985, di tích Gò Cát cách nay 3000 năm
Mộ đất Giồng Phiệt theo giám định đó là xương của 1 người nam khoảng 50-60 tuổi
, xương còn gần đầy đủduy chỉ không tìm được xương bàn chân
Các tên gọi trước của Sài Gòn là:
Bến Nghé - Sài Gòn
Huyện Tân Bình
Phủ Tân Bình
Tỉnh Phiên An
Tỉnh Sài Gòn
Sài Gòn - Chợ Lớn
Tỉnh Chợ Lớn - Tỉnh Gia Định
Sài Gòn - Gia Định - Tân Bình
Sài Gòn - Gia Định
Nay gọi là Thành Phố Hồ Chí Minh
+ Mô hình: thành Gia Định xưa
+ Theo bản đồ TPHCM thì Gia Định xưa nằm ở các đường Nguyễn Đình Chiểu, Nam Kì
Khởi Nghĩa, Lý Tự Trọng và Đinh Tiên Hoàng .
Gia Định kinh từ năm 1790 đến năm
1802:
Sau khi thâu hồi đất Gia Định, Nguyễn Ánh cho xây thành Bát Quái* rộng lớn theo
cách bố phòng Vauban**, định hướng phong thổ Á Đông, theo mỹ thuật dân tộc Việt
Nam và mệnh danh là Gia Định kinh.
Gia Định trấn từ năm 1802 đến năm 1808:
Năm 1802 Nguyễn Ánh thâu phục kinh thành Phú Xuân, rồi lên ngôi và lấy đế hiệu
Gia Long bèn hạ cấp Gia Định kinh xuống thành Gia Định trấn thành. Cải tên phủ
Gia Định làm tên trấn Gia Định và đặt "trấn quan" để cai quản cả ngũ
trấn là: trấn Phiên An, trấn Biên Hòa, trấn Định Tường, trấn Vĩnh Long, trấn Hà
Tiên.
..............
Trong sách sử Đại Nam thực lục của triều Nguyễn có ghi:
"Ngày Kỷ sửu (Tháng 3, Canh tuất, năm thứ 11 [1790] [Thanh - Càn Long năm
thứ 55]), đắp thành đất Gia Định. Vua thấy thành cũ ở thôn Tân Khai chật hẹp,
bàn mở ộng thêm. Dụ rằng: "Vương công giữ nước, tất phải đặt nơi hiểm yếu
trước. Nay đất Gia Định mới thu phục, cần phải sửa thành trì cho bền vững để
chỗ ở được vững mạnh". Bấy giờ mới huy động quân dân để khởi đắp, hẹn
trong mười ngày đắp xong. Thành đắp theo kiểu bát quái, mở tám cửa, ở giữa là
cung điện, bên tả dựng nhà Thái miếu***, phía sau miếu là kho tàng, bên hữu đặt
cục Chế tạo, chung quanh là nhà tranh cho quân túc vệ ở. Giữa sân dựng kỳ đài
ba tầng, trên là tòa vọng đẩu bát giác, ban ngày kéo cờ, ban đêm thì kéo đèn
làm hiệu cho các quân. Thành xong, gọi tên là kinh thành Gia Định. Thưởng cho
dân quân hơn 7000 quan tiền".
Gọi tên là thành Bát Quái vì thành có 8 cửa, Đại Nam thực lục chép:
"Tám cửa thành đều xây bằng đá
ong, phía nam là cửa Càn Nguyên và cửa Ly Minh, phía bắc là cửa Khôn Hậu và cửa
Khảm Hiểm (Đại Nam nhất thống chí ghi là cửa Địa Hiểm), phía đông là cửa Chấn
Hanh và cửa Cấn Chỉ, phía tây là cửa Tốn Thuận và cửa Đoài Nguyệt (Đại Nam nhất
thống chí ghi Đoài Duyệt). Ngang dọc có tám đường, đông sang tây dài 131 trượng
2 thước, nam sang bắc cũng thế, cao 13 thước, chân dày 7 trượng 5 thước. Phía
ngoài thành là hào, hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu 14 thước có cầu treo bắc
ngang. Chu vi ngoài thành là 794 trượng. Ở ngoài là đường phố chợ búa, dọc
ngang la liệt đều có thứ tự, hai bên đường quan đều trồng cây thích nghi, gọi
là đường thiên lý".
Những quyển sách sử khác cũng của triều Nguyễn là Đại Nam nhất thống chí, Gia
Định thành thông chí cũng cho ta biết thêm những chi tiết của kinh thành Gia
Định. Trong thành có kho bạc, kho đồn điền, trại súng, kho thuốc súng. Ngoài
thành có xưởng Chu sư (xưởng thủy quân đóng ghe thuyền, chiến hạm) ở phìa đông,
cách một dặm theo bờ sông Tân Bình (khu vực sau này là xưởng Ba Son). Ngoài
thành cũng còn có Xưởng voi nuôi và huấn luyện voi chiến, cách thành một dặm có
Sứ quán, trường Diễn Võ cách thành 10 dặm về phía tây nam. Tuy kinh thành Gia
Định chưa phải là một kinh đô chính thức với ý nghĩa là nơi vua ở vì lúc ấy
Nguyễn Ánh chưa lên ngôi vua, nhưng với vị thế lúc bấy giờ, và với quy mô như
sách sử đã cho biết thì kinh thành Gia Định không khác gì một kinh đô.
Sau nhiều năm bị quân Tây Sơn của anh em Nguyễn Huệ đánh tan tác, có lúc phải
bôn tẩu ra những hải đảo xa xôi hoặc chạy sang tận nước Xiêm, thì thời gian này
lợi dụng tình hình đối đầu giữa anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ (1787), và việc
Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh, rồi đánh tan quân Thanh (cuối 1788
đầu 1789), Nguyễn Ánh đã củng cố binh lực ở miền Nam, lập kinh thành Gia Định
để đối đầu với kinh đô Phú Xuân của Nguyễn Huệ (Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế
vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu thân [22-12-1788], đóng đô ở Phú Xuân). Cho đến
thắng lợi cuối cùng vào năm 1802, thống nhất đất nước về một cõi.
Ghi chú:
* Thành Bát Quái: với quy mô như đã mô tả trong Đại Nam thực lục, thành Bát
Quái còn gọi là thành Qui vì hình dạng trông giống như con rùa, theo như ngày
nay nằm lọt khoảng giữa 4 con đường: đường Đinh Tiên Hoàng phía đông, Nam Kỳ
Khởi Nghĩa phía tây, Nguyễn Đình Chiểu phía bắc, nói thành đắp bằng đất thực ra
còn xây bằng đá ong Biên Hòa và gạch rất chắc chắn, vữa xây bằng mật mía, việc
xây dựng này Nguyễn Ánh đã phải huy động tới 30.000 dân quân. Năm 1833 dưới
triều vua Minh Mạng Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm thành Quy, cuộc nổi dậy kéo dài
trong 3 năm sau khi Lê Văn Khôi bị bệnh mất thì thành thất thủ. Vua Minh Mạng
lện cho phá hủy thành, xây lại thành mới với quy mô nhỏ hơn gọi là thành Phụng.
** Vauban: tên thật Sébastien Le Prestre (1633-1707), Lãnh chúa xứ Vauban, được
phong là Hầu tước xứ Vauban, là Thống chế, một kỹ sư quân sự lừng danh, nổi
tiếng nhờ những công trình phòng thủ công sự, cũng như cách đánh chọc thủng
phòng tuyến công sự.
*** Thái miếu: Thái miếu hay Thái Tổ miếu ở kinh thành Gia Định cũng như ở kinh
đô Huế sau này, là nơi thờ các vị chúa Nguyễn.
***Phòng 14: NGHỆ THUẬT
CHĂMPA***
Vương quốc Chămpa có quá trình hình thành và phát triển cuối TK II sau Công
Nguyên, Nhưng tên gọi Chămpa là do 1 quốc gia thống nhất cuối TK VI, đây là
nước tiếp thu ảnh hương tôn giáo Ấn Độ từ sớm, tuy nhiên Chămpa vẫn tạo những nét
tôn giáo văn hoá riêng của mình. Chămpa là là sự kết hợp giữa vương quyền và
thần quyền đã làm chi phối mạnh ở lãnh vực văn hóa. Khi đến dây ta thấy rõ nghệ
thuật điệu khắc của Chămpa sinh động nói về cuốc sống xã hội mang nét văn minh
phương Đông. Những hiện vật tiêu biểu mà Bảo tàng còn lưu giữ:
+ Đầu tượng quỷ Asura: Tìm thấy ở Khương Mỹ - Quãng Nam Đà Nẵng TK X.
+ Tượng nữ thần Laskmi: Theo thần thoại An Độ được coi là vợ thần Visnu và được
xuất hiện trong cuộc "Quấy biển sữa" của các thần và loại quỷ để tìm
thuốc trường sinh bất tử. Nữ thần còn được gọi với tên là nữ thần sắc đẹp hay
nữ thần thịnh vương
+ Bệ thờ 9 vị thần: Bệ này còn được gọi là "Trụ Ngạch Cửu Tú" thường
phổ biến ở Campuchia nhưng hiếm ở Chămpa. Đây cũng là bệ thờ 9 vị thần duy nhất
còn được thấy ở Chămpa hiện nay .
+ Tương thần Genesa: Tượng này vào TK VIII - X, là con của thần Siva được xem
là thần hộ mệnh hay phúc thần, được nhiều nơi ở châu Á tôn thờ như Chăpa Tây
Tạng CampuchiaNepan Nhật Bản đến thế kỉ thứ X tôn thờ Ganesa như 1 vị thần tối
cao. Không chỉ những người theo An Độ mà cả người theo Phật giáo cũng tôn thờ
vị thần này vì cho rằng thần này có tài gây ra và dập tắt mọi khó khăn trở
ngại, có quyền ban hay không ban mọi sự tốt lành, có quyền đồng ý hay không bất
cứ việc gì.
+ Thần Indra: Tìm thấy ở TK X ở Quãng Nam - Đà Nẵng, được xem là vị thần tối
cao đứng đầu các vị thần, được gọi là thần sấm sét hay thần mưa.
+ Nhóm tượng múa khăn: Với bốn hiện vật được trưng bày. Hai tượng có nguồn gốc
Khương Mỹ, tượng có nguồn gốc từ Trà Kiệu Quãng Nam - Đà Nẵng. Các tượng múa
hát thể hiện những động tác nhịp nhàng uyển chuyển, khoáng đạt, có thể là điệu
múa "Bà bóng" trong sinh hoạt tôn giáo
+ Tu sĩ Bàlamôn: Tư thế ngồi thiền tay cầm chuỗi hạt. Nhưng quan sát kĩ có thể
đây là vị Phật. Ta có thể thấy được tư thế ngồn thiền và đặc biệt là đông tác
bắt ấn hiện pháp luân của Phật
+ Thần Visnu: Được coi là thần bảo vệ đền tháp và tôn giáo, tìm thấy ở Tk IX -
Tk X
+ Tượng sư tử: Hình tượng sư tử tập trung ở điêu khắc Trà Kiệu. Kinh đô đầu
tiên của Chămpa mang tên TP sư tử. Bốn trong năm tượng sư tử trưng bày ở đây
thuộc Trà Kiệu. Hầu hết hình tượng sư tử là sư tử đực. Biểu tượng sức mạnh và
quyền uy của dân tộc Chămpa
+ Tượng Maraka và Kala: tượng Maraka (thủy quái), phổ biến trong điệu khắc Trà
Kiệu thừong thể hiện ở phần đầu bao giờ cũng lộ rõ vòi và hành răng. Maraka là
đối tượng thờ có liên quan với lễ hiến tế của người và vật. Hiện tượng này có
thể thấy qua hai vật: một là Makara đang nuốt chân người, còn hiện vật kia thể
hiện Kala ( được coi là thần Hắc hay hung thần) mỗi bên hàm ngâm 1 con nai, nai
được biểu hiên ở tư thế cố nhảy ra khỏi miệng của Maraka và Kala
+ Tượng chim thần Garuda: Trong số 3 hiện vật trưng bày ở đây về loại hình chim
thần Garuda, hai hiện vật thuốc điêu khắc Trà Kiệu ở Tk X - XI. Và một điêu
khắc tháp Mẫm - niên đại Tk XII - XIV. Chim thần Garuda bắt rắn Naga ở Chămpa
mang ý nghĩa phản ánh hiện thực xã hội hơn là ý nghĩa tôn thờ của thần Visnu.
Tương truyền mẹ của rắn Naga đã hạ nhục mẹ của chim thần Garuda nên giữa chúng
có mối luôn thù. Đó là chim thần Garuda bắt và giết rắn Naga.
+ Vật hình ngon lửa: một có nguồn gốc từ Phong Lệ ( Quãng Nam - Đà Nẵng). Một
có nguồn gốc từ Trà Kiệu Tk X. Ngọn lửa khá phổ biến ở điêu khắc Chămpa liên
quan đến truyền thống thờ thần lửa (Agni). Lửa cần cho cuộc sống hàng ngày cũng
như trong các lễ tế cúng, cũng là dây liên kết giữa thần và người trần tục.
Những người An giáo với tục hoả táng thì coi chết là giải thoát, vì thế thần
lửa coi là đấng tu sĩ cao ban phúc lành cho con người. Theo tương truyền thần
lửa Agni được coi là anh em sinh đôi với Indra. Đôi khi Agni nhập thân với
Surya (thần mặt trời).
+ Bệ thờ vú phụ nữ: Đây là loại hình thờ khá phổ biến ở Chămpa, đặc biệt là
những điêu khắc ở Bình Định và nó trở thành đặc thù ở Chămpa từ sau Tk X. Bệ
thờ hình vú có nguồn gốc từ tháp Mẫm (tháp Mắm). Mô thức này có liên quan đến
tục thờ thần Uroja (vú phụ nữ)hay còn gọi là nữ thần dựng nước, gắn chặt với
tục thờ quốc mẫu và chế độ mẫu hệ ở Chămpa
Tóm lại những hiện vật về nghệ thuật ờ Chămpa được trưng bày ở phòng này tuy
không nhiều nhưng phần nào cho ta thấy được sự đa dạng về hình thức thể hiện
của nền nghệ thuật Chămpa nói chung và lĩnh vực điêu khắc nó riêng đặc biệt là
nội dung phản ánh về những nổi niềm và khát vọng của người dân Chămpa trong mối
quan hệ giữa con người và xã hội, sự ưu tư giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
***Phòng 15: THÀNH PHẦN DÂN
TỘC Ở CÁC TỈNH PHÍA NAM***
Việt Nam chúng ta gồm 54 thành phần dân tộc trải dài từ Bắc tới Nam trong đó
người Kinh chiếm đông nhất, chiếm hơn 90% tổng số dân cả nước Trong quá trình
cộng cư lâu dài ỏ bên nhau, ngoài nhữ nét văn hóa mang tính chung của cả nước,
mỗi dân tộc đều có đặc điểm sinh hoạt văn hóa, tính cách tâm lý thích hợp với
điều kiện sống và cảnh quan địa lý của từng địa phương .
Hiện nay ở phía Nam có hơn 20 dân tộc, trong đó ngoài dân tốc Kinh (Việt) thuộc
ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á) và dân tộc Hoa gồm ngôn ngữ Hán ( ngữ hệ
Hán - Tạng), còn các dân tộc khác chủ yếu 2 hệ ngôn ngữ Môn - Khơme (ngữ hệ Nam
Á) và Malayô - Pôlinêdi (ngữ hệ Nam Đảo). Về chế độ xã hội, nhiều dân tốc vẫn
bảo lưu đậm nét những tàn tích của chế độ mẫu hệ trong mọi mặt của đời sống,
nhiều dân tộc đang trong thời kì quá độ từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ và
một số dân tộc khác đã khá phát triển.
+ Phòng trưng bày chuyên đề: "thành phần dân tộc ở các tỉnh phía Nam"
được xếp theo từng bộ sưu tập
Công cụ sản xuất của các dân tốc rất phonh phú mang tính đặc trưng riêng cho
từng vùng. Đối với những dân tộc sống ở vùng đồng bằng như nguời Việt, người
Chăm, người Khơme thường sử dụng các công cụ như nọc cấy, phảng, vòng hái, cù
nèo, lưỡi hái, là nhưng công cụ thích hợp cho việc canh tác ruộng lúa nước. Đố
với những dân tộc vùng núi và cao nguyên như người Mơnông, người Mạ, người Eđê
thì sử dụng các công cụ chà gạc cuốc gậy chọc lỗ thích hợp cho việc trồng lúa,
hoa màu trên ruộng, nuơng rẫy. Nhưng cũng có những loại công cụ sản xuất có
chức năng giống nhau nhưng tên gọi khác nhau ở mỗi dân tộc
" Nọc cấy ngừơi Khơme được làm nằng tre già có một đầu vót nhọn dùng để
soi đất cấy lúa nước
" Nọc cấy người Việt có hình thức khá đẹp, cán nọc cong vuốt, đều nọc thể
hiện khá cầu kì, sử dụng ở ruộng thấp đất mềm
" Phản người Việt góp phần trong việc khai phá ĐBSCL như là để chặt, chém
hay phát cỏ, phát rạ
" Đối với các dân tộc vùng tây nguyên như người Mơnông, Eđê, Mạ thì gạc
của họ được sử dụng tương đối phổ biến cho việc phát nương trồng rẫy.
" Đối với các dân tộc vùng Tây Nguyên, trong sản xuất Nông nghiệp thì cuốc
có vai trò quan trọng. Do ở Tây Nguyên có nhiều loại đất phức tạp nên người ta
phải chế tạo nhiều loại cuốc khác nhau. Lạoi được dùng phổ biến là chông, nó
được dùng để xới cỏ cuốc sơ đất không cần độ sâu.
Công cụ săn bắt và đánh cá
" Do ở gần các sông suối nên các dụng cụ đánh bắt khá phổ biến và đa dạng
ở các dân tộc. Đối với các dân tốc ở vùng đồng bằng như người Việt, Chăm, Khơme
thì các công cụ tưong đối giống nhau (nọ, lờ, nơm, giỏ đựng cá … nhưng riêng
chiếc "xa neng" của Khơme dùng để xúc tép - hình dáng giống kỵ xúc
đất của người Việt. Đối với các dân tộc Tây Nguyên như Êđê, Xơđăng, Cơho, Stiêng
cũng có nơm rọ bắt cá gàu tát nước,và đặc biệt là chĩa răng - công cụ làm bắng
sắt có cán dài 2m dùng để đâm cá. Tât cả các công cụ của các dân tộc tương đối
giống nhau. Nghề đánh bắt cá ngoài việc phục vụ cho nhu cầu thực phẩm còn để
trao đổi hàng hóa khi dư thừa.
Dụng cụ sinh hoạt: với 54 dân tộc thì dụng cụ sinh hoạt gia đình rất phong phú
về chất liệu và loại hình.
" Đối với đồng có thau, mâm, nồi của người Việt và ngươi Khơme. Chiếc mâm
của người Khơme trang trí rất đẹpdùng trong phục vụ lễ nghi tộn giáo
" Đối với đồ dùng bằng gốm có bình đựng rược cần và bàn xoay đó là dụng cụ
của dân tộc Tây Nguyên
" Đối với đồ gỗ có khay hình vuông trang trí hoa văn hình học, khay hình
tròn được dùng trong các dẹp cưới hỏi của ĐBSCL
Đối với trang phục:
" Đối với dân tộc phía Nam y phục cũng rất đa dạng về màu sắc va kểiu dáng
và phong phú về trang trí hoa văn đã nói lên tính độc đáo của từng dân tộc, y
phục dân tộc Tây Nguyên với màu sắc truyền thống (nữ mạc váy ống, áo chui đầu
bó chặt lấy thân; nam mặc khố chủ yếu là màu chàm sọc). Đối với áo của ngưới
Nam thì Eđê áo tay dài hẹp giữa ngực mở một đoạn và có hàng phuy, khuyết được
bẹn bằng chỉ đỏ hoa văn dệ trên nền vải ở vòng nách, gấu áo, vai và cổ tay còn
áo của nam Giarai cộc tay hở nách, hoa văn ở hai bên sườn áo
" Đối ngươi Khơme ở ĐBSCL thì mặc áo dài "pàmpông" , đối vời nữ
có áo chui đầu có cổ, cành tay bó chặt, bít tà 4 mãnh. Nữ Khơme mặc váy quấn
"xàm pôt xôl", còn nam mắc áo bà ba. Màu chính của trang phục họ là
màu đen đi kèm với nó là khăn rằn "Krama" đó là yếu tố cổ truyền
trong trang phục của họ
Y phục của người chăm, đối với nữ áo dài "Ao may" may bít tà dài quá
gối tay và tà ôm sát người được may bằng tơ lụa có màu sắt không không là màu
đen của người Khơme mà là màu tím hoặc màu xanh lá cây. Váy quần dài tới gót và
nữ phải đội khăn khi đi ra ngoài (khăn đội đầu "Kaw")
Y phục của người hồi bà Ni gồm áo váy, khăn đội đầu, khăn vắt vai dây thắt
lưng.
Đối với trang sức: Đồ trang sức thường làm bắng ngà voi, bạc Thông thường thì
trang sức ở 4 bộ phận tay, cổ tay, tai và cổ chân. Đối với tai là vòng và
khuyên tai. Đồ trang sức ở cổ là là vòng và chuỗi. Đồ trang sức ở tay là vòng
và nhẫn. Đồ trang sức ở chân là vòng. Đồ trang sức ngoài chức năng làm đẹp cho
cơ thể còn mang ý nghĩa là 1 lời giao duyên thầm kín, một biểu hiện của tình
yêu đôi lứa, một tập quán riêng của dân tộc …
Nhạc cụ: khá đa dạng như người Eđê sử dụng khèn bè, người Mông gọi là
"M'boăt" đó là nhạc cụ gồm 6 ống tiêu dài ngắn khác nhau được sắp xếp
thành hai bè, bè hai ống, bè bốn ống được cắm vào bầu khô để khuếch đại âm
thanh Trên lưng mỗi ống trúc đềy được khoét lỗ ở những vi trí khác nhau để tạo
thành âm thanh, loại khèn này thích hợp với thanh niên, họ co thể tấu nhạc
trong những buổi lễ hoặc những nơi đông vui có nhiều trai gái hoặc thổi những
điệu nhac trữ tình trên nương rẫy trong những buổi chiều tà …. Một loại nhạc cụ
khác bằng tre nứa mà đồng bào Tây Nguyên thường sử dụng đó là đàn
"Koh" của người Eđê hay "đinggơ" của người Mơnông. Hình
chiếc đàn này giống như hình dáng của chiếc đàn T'rưng nhưng chỉ có 5 hoặc 6
thanh tạo nhạc và chỉ đánh trên nương rẫy, kiêng gõ trong buôn làng. Ngoài ra
còn có tù và "Kipal", đàn gong của người Giarai, kèn môi của người
Eđê nhạc cụ của người Chăm gồm Nhị mu rùa, kèn Xaranai, trồng baranưng, trống
ghinăng … được sử dụng trong các lễ nghi cúng tế lễ "Chàpong",
"chà rây" (lễ cầu phước) và đời sống sinh hoạt của đống bào Chăm.
Tìn ngưỡng và tôn giáo: Sưu tập hiện vật liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo
của các dân tốc: những tượng gía mồ của các dân tộc Giarai, bộ dồ cúng của dân
tộc Chăm và những tượng phật cảu các dân tộc Khơme.
***Phòng 16: TƯỢNG PHẬT VIỆT NAM VÀ MỘT CÁC NƯỚC CHÂU Á***
Cho thấy tượng Phật Việt Nam và môt số nước Châu Á được giới thiệu bằng những
nhóm tượng sau: Việt Nam Trung Quốc Nhật Bản Thái Lan Khơme. Nhóm tượng của
những nước này với nhiều chất liệu và kích thước khác nhau:
Tượng Việt Nam: tượng phật Adiđà, phật Thích ca sơ sinh, phật Di Lặc, tượng
Quan Am với nhiều loại hình Quan Am Chuẩn Đề và Quan Am tống tử. Các tượng Phật
Việt Nam có niên đại từ Tk XVII - XIX.
Tượng Phật Thích Ca sơ sinh: đứng trên toà sen, có hai lớp cánh sen ngửa lên,
dưới bệ sen là là 1 bệ 3 tần hình lục giác khắc ở giữa. Một tay chỉ đất và một
tay chỉ trời, quanh tượng là vành Cưu Long, thuộc niên đại TkXIX.
Tượng Quan Âm Chuẩn Đề: đây là tượng được tạc theo phong cách Bắc có niên đại
từ Tk XIX, trong tư thế ngồi thiền định.
Tượng Phật Di Lặc: Tượng trong tư thế hơi ngả về phía sau có niên đại Tk XIX,
tạc theo phong cách Bắc. Trên thân có 5 cậu bé ngồi trên đùi, trên tay, trên
vai
Tượng Quan Âm: được làm bằng gỗ, sơn son, thiếp vàng. Tượng được tạc với đường
nét đơn giản, co tính mềm mại, nêin đại vào khoảng Tk XVII - XIX, trong tư thế
ngồi thiền định giống các tượng khác.
Tượng Phật chùa Khải Định: Tượng được tạc khá đẹp, thân thể cân đối, khuôn mặt
tròn, đầy đặn, niên đại vào khoảng Tk XIX. Vào năm Canh Hợi, Thuận Thiên Cao
hoàng Hậu đã từng ở chùa này trốn tránh sự truy bắt của quân Tây Sơn và bà đã
sanh hoàng tử Đảm tại chùa, sau lên ngôi thành vua Minh Mạng. Ông đã cho trùng
tu chùa nhiều lần và đã cho gởi từ Huế vào cúng chùa một pho tượng gỗ mít, sơn
son thếp vàng để nhờ đức Phật và phù hộ cho mẹ ông. Năm 1859 - 1861 nơi đây đã
bị Pháp chiếm làm đồn do đại úy Barbé chỉ huy va còn được gọi là đồn Barbé.
Hiện nay chùa còn tấm hoành phi do vua Minh Mạng sắc phong. Nhưng ngày nay đã
được đưa vào Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Tủ tượng Quan Âm: Nhóm tượng đều được làm bằng đồng trong tư thế giống nhau ,
đầu choàng khăn choàng mỏng. Đó là đặc trưng của 1 số nước châu Á nói chung và
của Việt Nam nói riêng, co niên đại khoảng Tk XVIII - XIX
Tủ tượng Phật Khơme: nhóm tương Khơme được làm bằng chất liệu bậc, đá mang đậm
phong cách tạc tượng của người Khơme.
Tượng Phật Khơme: dược làm bằng gỗ, trong tư thế ngồi thiền bán kiết già, khuôn
mặt mang rõ đặc trưng của người Khơme. Giữa ngực các tượng đều chạm nổi hình
thoi có hoa lá cách điệu đó là nét rất độc đáo của Phật Khơme, niên đại Tk XVII
- XIX
Tượng Phật Tích Lan: có tư thế ngồi giống như Phật Khơme, rất đẹp và rõ nét đặc
biệt là đỉnh Unisaphần ngọn lửa đó là phong cách đúc tượng của người Thái Lan.
Ngoài tương nhỏ là hình phù điêu có hình tượng Phật rất độc đáo làm với nhiều
chất liệu khác nhau như đất nung, thiếc đồng. Các phù điêu có hình phật ngồi
dưới gốc bồ đề nhập Niết Bàn, Phật ngồi đựoc sự che chở của rắn Naga, có hình
phù điêu Phật dưới dốc cây Sala được làm bằng chất liệu riêng của Thái Lan và
Campuchia, đó là hợp chất đồng, thiếc chì kẽm sắt bạc và vàng. Nghệ thuật đúc
Phật giáo của Thái Lan rất đa dạng và phong phú. Tác phẩm nghệ thuật khá độc
đáo đó là tượng Phật Thích Ca.
Tượng Phật Trung Quốc: Tượng Phật ở TQ biểu tượng cho lòng bát ái vời khuôn mặt
tròn đầy và búi tóc cao, phía trước tóc là vành vương miện trang trí cầu kì
Tượng Phật Nhật Bản: Nhềiu tay nhiều mắt, Phật Adiđà ngồi trên toà sen cao
1.27m làm bằng gỗ. Khuôn mặt hình trái xoan, tóc là những loạn nhỏ dạng nụ bèo
hoa mắt nhìn xuống, mũi miệng đươc tạc nhỏ. Áo choàng có nhiều nếp hài hoà,
choàng qua tay trái thả tới bụng, một mảnh vắt qua vai phải thả tới nửa cánh
tay, để hở bộ ngực đầy đặn của Phật
Khi tham quan phòng này ta sẽ biết đựoc khái quát về các vị Phật của Việt Nam
cũng như các nước Châu Á.
BẢO TÀNG CHIẾN TÍCH CHIẾN TRANH
1/Sự
ra đời của Bảo tàng chứng tích chiến tranh
Bảo tàng
chứng tích chiến tranh toạ lạc tại số 28 đường Võ Văn Tần quận 3 TPHCM Bảo
tànng được xây dựng tại vị trí của một ngôi chùa rất nổi tiếng thời trước :
chùa KHẢI TƯỜNG. Theo sử cũ của triều Nguyễn thì đây là nơi chào đời của hoàng
tử Đảm (sau này là vua Minh Mệnh), con củ a vua Gia Long. Tháng 5-1959, quân
Pháp đánh chiếm thành Gia Định và san bằng thành quách.Chúng cho lập một chiến
lũy phòng thủ gồm nhiều đồn nhỏ để có thể hỗ trợ cho nhau từ Sài Gòn đến Cây
Mai (Chợ Lớn).Để khỏi tốn công xây dựng đồn bót, chúng chiếm ngay những đền
chùa để đóng quân ,trong đó có chùa Khải Tường.Chùa bị biến thành trại lính,
tượng Phật và đồ thờ cúng bị ném ra ngoài sân. Chỉ huy của nhóm lính Pháp ở đây
là viên đại úy trẻ Barbe.Tên này bị nghĩa quân Trương Định phục kích giết chết
khi đang đi tuần tra.Cái chết này lính Pháp hư cấu thành giai thoại để dựng nên
1 vở tuồng cải lương “Nàng hai Bến Nghé” rất nổi tiếng.Cuối năm 1860,lực lượng
Pháp ở Sg dược tăng cường, chúng chiếm đóng toàn bộ ba tỉnh miền Đông Nam
Bộ.Lúc này chùa Khải Tường được thực dân Pháp dùng làm trường đào tạo sư phạm
cấp tốc cho học sinh người Việt để đưa đi dạy ở các tỉnh chúng chiếm đóng. Đến
khoảng năm 1870 chùa bị bỏ hoang. Sau đó nền chùa được dùng để xây cất 1 dinh
thự cho quan chức trong bộ máy cai trị củ a thực dân Pháp ở và làm việc. Sau
khi miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước 30/4/1975 thì Đảng bộ
Đảng Cộng Sản Việt Nam và Nhà nước chúng ta có ý tưởng thành lập “nhà trưng bày
tội ác của bọn Mỹ-Ngụy” nhằm lưu lại những chứng tích anh hùng của nhân dân ta
trong cuộc đấu tranh chống quân xâm lược, đồng thời cũng tố cáo tội ác, sự tàn
nhẫn của bọn đế quốc xâm chiếm đất nước,đàn áp nhân dân ta rất dã man trong
chiến tranh. Để chuẩn bị chi việc ra đời của nhà trưng bày, công tác sưu tầm
hiện vật, tư liệu hình ảnh được tiến hành 1 cách gấp sút khẩn trương trong vòng
2tháng (tháng 6 đến tháng 8-1975). Ngày 13/08/1975 “nhà trưng bày tội ác Mỹ –
Ngụy” được chính thức thành lập theo thông tri số 6/TT-75 của Ban thường vụ
thành ủy. Và vào ngày 04/09/1975 Nhà trưng bày chính thức mở cửa cho nhân dân
vào xem.Ngay từ những ngày đầu thành lập nhà trưng bày như một cái gai trong
mắt của các thê lực phản cách mạng, song nhà trưng bày vẫn tồn tại, phát tirển
va luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị đã được cấp trên giao phó. Lúc mới
thành lập thì nhà trưng bày có 6 phòng với nội dung chưa đạt yêu cầu tuyên
truyền. Tuy nhiên, do cả nước chỉ có duy nhất 1 nhà trưng bày về những tội ác
của bọn xâm lược Mỹ-Ngụy cộng với sự hiếu kì của du khách trong lẫn ngoài nước
nên nhà trưng bày đã thu hút được khá đông khách tham quan (khoảng 300.000 dến
400.000 người/năm) nhưng kết quả thu lại về mặt giáo dục chính trị chưa sâu sắc
lắm. Năm 1990 do tình hình chính sự có nhiều thay đổi, để tạo mối quan hệ đối
ngoại, Nhà trưng bày đã được dổ tên thành “nhà trưng bày tội ác chiến tranh xâm
lược” cho phù hợp với tình hình lúc bấy giờ. Đến những năm 1992-1993, dù rằng
quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kì chưa chính thức bình thường hóa nhưng
trên cơ sở những chuyển biến tích cực trong lĩnh vực ngoại giao , các cấp lãnh
đạo của nước ta đã quan tâm nhiều đến những công tác chỉnh lý nội dung trưng
bày. Việc tố cáo tội ác và hậu quả của cuộc chiến tranh xâm lược do bọn thực
dân, đế quốc gây ra trên dất nước Việt Nam hết sức cần thiết và quan trọng
nhưng vấn đề đặt ra là tố cáo như thế nào, sử dụng hình thức và phương thức gì
để dảm bảo tính khách quan khoa học và chính xác mà vẫn phù hợp với tình hình
chính trị, kinh tế, xã hội trong và ngoài nước nhằm thu hút sự đồng tình, ủng
hộ của khách trong nước cũng như khách quốc tế . Do vậy, công tác chỉnh lý nộ
dung trưng bày đã được nghiên cứu một cách tỷ mỹ.Công tác sưu tầm những hiện
vật, hình ảnh, tư liệu vẫn được tiếp tục thực hiện. Để khẳng định rõ chức năng
,nhiệm vụ chính trị lâu dài, ngày 4-7-1995 nhà trưng bày tộ ác chiến tranh xâm
lược đã được Uy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định chuyển thành “Bảo
tàng chứng tích chiến tranh “. Hiện nay nhiệm vụ của bảo tàng lànghiên cứu, sưu
tầm, trưng bày những chứng tích về các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam để
giới thiệu cho khách tham quan những thông tin đầy đủ, chính xác nhất.
2/Bố cục & nội dung trưng bày tại
bảo tàng
a/ Sân lớn :
Từ cổng bước vàobên trong, trên sân lớn là những hiện vật mà quân Mỹ sử dụng
trong chiến tranh Việt Nam, hiện nay được trưng bày tại đây gồm có các xe tăng
M48, M41, tăng phun lửa, chiến đấu cơ U17A, oanh tặc co kiểu A37B, trực thăng
VH14, máy bay chiến đấu phản lực, xe ủi, đại pháo.
Máy bay phản lực là loại máy bay được Mỹ chế tạo đặc biệt để sử dụng trong
chiến trường Việt Nam, mặc dù máy bay được chế tạo nhỏ gọn nhưng có khả năng
vận chuyển, hay phóng xuống mặt đất tất cả các loại bom đạn, và bay lượn với
tốc độ nhanh hơn các loại máy bay thông thường khác , khả năng này giúp nâng
cao mức độ nem bom nhanh va trúng đích hơn các loại máy bay khác.
Máy bay UH-1H: là loại máy bay lên thăng có hai cánh quạt, có nhiều tác dụng
của lục quân Mỹ, thực hiện các nhiệm vụ :
- Vận tải, tải thương
- Vũ trang hộ tống, trực thăng vận tải
- Trinh sát vũ trang
- Chi viện hoả lực cho quân đổ bộ hàng không
Trực thăng được trang bị
- Hai đại liên sáu nòng
- Hai giàn roc –két
- Hệ thống tên lửa SA-7
- Một giàn 3 trái đạn chiếu sáng
Máy bay F-5A: Đây là loại máy bay tiêm kích phản lực của Mỹ do hãng Northop
Norain’s sản xuất. Máy bay có tính cơ động tốt, kết cấu gọn nhẹ, có thiết bị
tiếp dầu trên không. Máy bay có trang bị :
- Hai súng 20MM và 560 viên đạn
- Bốn giá bom dưới cánh
- Một gía bơm dưới chân
- Hai giá phóng tên lửa ở hai đầu
Máy bay A37B: là loại máy bay chiến đấu phản lực hạng nhẹ, có hỏa lực tương đối
mạnh, vận tốc chậm, cơ động khi dùng để oanh tặc ở các mục tiêu trên mặt đất,
mặt biển và dùng để hộ tống các máy bay vận tải, các đoàn xe tiếp tế
Xe tăng phun lửa M132A: là loại xe tăng hạng nhẹ, sử dụng dây kích có thể chạy
trên nhiều địa hình như đồng ruộng, đất gồ ghề, lội nướ, chạy nhanh trên đường
nhựa, được máy bay thả dù xuống mặt đất. Xe tăng được trang bị
- Một súng phun lửa tự động M.10-8
- Gía lắp tiềm vọng kính M.104A2
- Tiềm vọng kính
- Súng đại liên M737-62 ly được gắn trên tháp pháo có thể quay ngang 360
b/ Sân nhỏ: Phía trái sân lớn là khuôn viên sân nhỏ có hàng rào bao bọc, bên
trong có 2 tủi kiếng trưng bày các loại mìn, đạn như
Lựu đạn banh, lựu đạn dơi, lưu đạn ném, trái sáng …
Bênh cạnh tủ là các loại bom lớn nhỏ mà quân đội Mỹ đã sử dụng tại Việt Nam như
bom địa chấn, địa lôi tên lửa, bom Napan,đạn hơi cai, đạn súng cối…. Ngoài ra,
nơi đây còn có trưng bày viên đá hoà bình mà người dân thành phố Hiroshima –
Nhật Bản gửi tặng
c/ Sân bên trong: Nơi đây có trưng bày mốt trái bom dặc biết được Mỹ gọi là bom
CBU-55B chế tao vào năm 1960 –1970
CBU-55B là trái bom được Mỹ sử dụng tại huyện Xuân Lộc – Đồng Nai. Vì có hình
dạng trái bom mẹ ở giữa vây quanh là 3 trái bom con (còn gọi là bom mẹ con).
Đây là trái bom tối tân nhất thời bấy giờ, khi thả xuống ba trái bom con từ bom
mẹ bung dù bay ra và nổ trong không trung, nó dốt cháy tất cả Oxy trong bán
kính 500m.Tất cả con người, cây cỏ không thể sống trong pham vi này
Bom địa chấn (phát quang) :năng 7tấn. Bom địa chấn do Mỹ chế tao và sử dung thí
nghiệm tại miền Nam Việt Nam vào những năm 1967. Ký hiệu là BLU82B, trong lượng
chất nổ 5700 kg, đường kính bom là 1.37m, chiều dài là 3.35m do máy bay vận tải
C.130 chuyên chở. Một quả bom có sức phá hủy một vùng rộng đường kính 199m.
Ngoài ra khi nổ bom con gây chấn động mạnh trong phạm vi đường kính 3.3m
Đại bác 175mm:”Vua chiến trường”nặng 28tấn. Mỹ đưa loại súng này vào miền Nam
Việt Nam năm 1965. Đại bác 175mm còn có tên gọi khác nữa là pháo cực nhanh,
được đặt trên xe kích cơ động … đầu đạn có tầm bắn xa từ 28km đến 30km. Khẩu
đại bác này đã được quân đội Mỹ sử dụng trong chiến trường miền Nam Việt Nam
Đại bác không giật 106MM có ký hiệu DKZ 106MM nặng 406 cân Anh. Súng được đặt
trên một giá súng M79, sùng để gắn vào xe hay sử dụng trên mặt đất. Trên nòng
đại bác có gắn một súng chuẩn định cỡ 50 dùng để bắn xác định tầm và khoảng
cách nhắm bắn tới mục tiêu. Tầm bắn hữu hiệu là 1097m
Đại bác 105MM nặng 1200kg dến 1400kg là loại mới nhất của Mỹ trong thời kỳ
chiến tranh, đã trang bĩ cho một số sư đoàn chủ lực của quân đội Sài Gòn cũ.
Súng có thể đặt bắn trên đầm lầy, triển khai nhanh, được bắn ở gốc độ 360 (xoay
tròn trên bàn đế). Súng có thể vận chuyển trên máy bay lên thẳng như CH47,
CH53, 4N, 1M mỗi máy bay chở được mộ khẩu và 30 dến 40 viên đạn. Tầm bắn xa
nhất là 15km và tầm băn thực tế là 12km. Sau đây chúng ta sẽ đi chi tiết vào
các phòng trưng bày trong bảo tàng:
Phòng 1: SỰ THẬT LỊCH SỬ
Lịch sử 4000 năm dựng nứơc và giữ nước của dân tộc ta là một quá trình
đấu tranh kiên cường bảo vệ độc lập tư do của đất nước. Trong bản tuyên ngôn
độc lập của do chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 02–09–1945 tại quảng trường Ba
Đình khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã khẳng định rằng “ Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.
Tòan thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tư do và dộc lập ấy.”
Nhưng sau đó, thực dân Pháp quay lại, họ xâm chiếm nước ta một lần nữa, nhằm
tiêu diệt nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa còn non trẻ . trước tình hình đó Bác
Hồ đã kêu gọi toàn dân kháng chiến, để hưởng ứng lời kêu gọi của Người các
chiến sĩ từ miền Bắc đến miền Nam đã tham gia cuộc kháng chiến này. Sau 9 năm
trường kì kháng chiến với nhiều cuôc khởi nghĩa lớn, nhỏ thì chúng ta đã thành
công. Cuộc đấu tranh khởi nghĩa Điện Biên Phủ thần kì (07-05-1954) đã đánh dấu
sự sụp đỗ hoàn toàn của thực dân Pháp.
Ngay những ngày độc lập nước ta đã được một số nước trên thế giới công nhận và
đến nay đã co hơn 160 nước trên thế giới đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
nứơc ta.
Trong quá trình Pháp xâm lựơc nước ta, sự viện trợ của Mỹ cho Pháp về mặt tài
chính và quân sự đã giúp Pháp tiến hành cuộc chiến tranh Đông Dương. Mỹ cho
rằng nếu thất bại và một nước chủ nghĩa xã hội chiến thắng như Việ Nam thì các
nước lân cận sẽ nổi dậy đấu tranh, sự thống trị cũng như nền an ninh của Mỹ
cũng sẽ bị đe doạ nghiêm trọng. Vì vậy phái đoàn quân sự của Mỹ dẫn đầu là phó
tổng thống lúc bấy giờ là Nickson đã đến nước ta để kiểm tra tình hình. Một số
loại phương tiện và vũ khí đã được tăng cường cho Pháp như xe tăng, đại liên 4
nòng, máy bay và những chuyên viên cơ khí.
Khi Pháp thất bại, ngày 20-7 các bên đã ngồi vào bàn đàm phán và kí kết hiệp
định Genève với nhiều nội dung quan trong như: các bên tham gia hội nghị thừa
nhận về nguên tắc sự độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, việc hiệp
thương giữa hai miền sẽ bắt đầu vào ngày 20/07/1955 và tổng tuyển cử vào
7/1956. Nhưng sau đó, chính quyền Mỹ đã âm mưu phá hoại hiệp định Genève chia
cắt đất nước ra làm hai miền, tiêu diệt các phong trào kháng chiến ở Việt Nam
và thành lập chính quyền tay sai Ngô Đình Diêm, thực hiện các biện pháp tố cộng
, diệt cộng … và chúng(chính quyền Mỹ-Diệm) lập ra những ấp chiến lược, các
trai tập trung theo quy mô lớn với chiến lược “tát nước bắt cá”,chúng đẩy 10
triệu dân vào 16.000 ấp chiến lược, đây được hiểu là kiểu cách ly Cộng sản ra
khỏi nhân dân…Một thiếu sót nữa nếu không nói tới luật 10/59 đây là một kiểu
đàn áp dã man những chiến sĩ cách mạng, những người yêu nước và dân vô tội vì
những ai mà chúng nghi ngờ là Cộng sản thì bị bắt giữ đánh đập và giết hại
không thương tiếc với nhiều hình thức khác nhau nhưng man rợ nhất là chúng chém
đầu bằng máy chém được lê trên khắp các đường phố ,khắp các tỉnh thành theo
khẩu hiệu “thà giết lầm còn hơn bỏ sót”. Từ đây cách mạng miền Nam bị dìm trong
biển máu với hơn hàng trăm chiến sĩ đã hy sinh, hàng ngàn người dân vô tội đã
chết.
Khi quốc sách ấp chiến lược bị thất bại thì Mỹ và đồng minh của chúng (như Uc,
Philippin, Thái Lan, Nam Triều Tiên, Tân Tây Lan…) quay qua đàn áp vũ trang,
ngày 8/3/1965 đơn vị viễn chinh Mỹ đầu tiên đã đổ bộ lên bờ biển Đà Nẵng, chúng
đóng quân ở nhiều nơi mà vào đỉnh điểm (năm 1969) của cuộc chiến thì có hơn
500.000 lính Mỹ đã có mặt tại các chiến trường miền Nam Việt Nam. Do vậy mà
tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Dickson, bộ trưởng bộ quốc phòng Mc Namara 1 lần
nữa đã trở lại miền Nam Việt Nam để đông viên tinh thần lính của chúng, và kiểm
tra mặt trận.
Ở phòng này ta còn được thấy một số bức ảnh nói lên những trang thiết bị vũ khí
hiện đại thời bấy giờ, các cuộc hành quân lớn nhỏ, các căn cứ , đơn vị của
chúng. Ngoài ra ta còn được biết các bảng tên, phù hiệu và biệt danh các sư
đoàn, lữ đoàn nổi tiếng của lính Mỹ (sư đoàn bộ binh 25 còn được gọi là”tia
chóp nhiệt đới”, sư đoàn 1 bộ binh còn được gọi”anh cả đỏ”, hoặc sư đoàn kị
binh bay số 1 được gọi “máy bay lên thẳng” ….)
Bên cạnh phá vỡ hiệp định Genève chiếm miền Nam Việt Nam (1964 – 1972)chính
quyền Mỹ còn huy động lực lượng không quân hải quân cũng như bom đạn đại bác để
tiến hành các cuộc chiên tranh phá hoại miền Bắc với quy mô lớn, chúng dùng máy
bay B52 thả bom như rải thảm trên bầu trời và dùng các đại bác bắn vào bờ biển
miền Bắc.
Theo số liêu được được công bố trước quốc hội Mỹ(lúc bấy giờ) thì tổng chi phí
cho cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam là 325 tỉ USD. Nhưng trên thực tế con số này
lên đến khoảng 925 tỉ USD. Nhìn bảng thống kê được đặt tại phòng này ta sẽ thấy
một khối lượng bom khổng lồ đã được sử dụng của Mỹ mà Việt Nam phải hứng chịu
trong thời kì chiến tranh (khoảng 7.850.000 tấn chưa kể đạn và khoảng 6,5 triệu
lính Mỹ) thì đã gấp nhiều lần trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, cuộc Thế chiến
thứ 2 .
Nhưng bất chấp sức người, sức của vô cùng to lớn đó của chính quyền Mỹ, nhân
dân Việt Nam đã kiên cường, anh dũng đấu tranh để giành lại độc lập toàn vẹn
lãnh thổ, đ đánh dấu thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh và kết thúc vào
11h30’ngày 30 –4 –1975 khi xe tăng của quân giải phóng đã tiến thẳng vào dinh
Độc Lập sào nguyệt cuối cùng của chính quyền Sài Gòn khiến cho quân Mỹ – Ngụy
thảm bại tệ hại và cuối cùng là phải rút quân ra khỏi Sài Gòn về nước, mở ra 1
kỉ nguyên mới cho cách mạng nước ta
*Một số hình ảnh ta và bảng thống kê sẽ được tham quan ở phòng 1:
- Hình ảnh người dân cả nước ủng hộ lời kêu gọi của Bác, tại kì họp quốc hội
đầu tiên năm 1946, đáp ứng lời kêu gọi của Bác và chính phủ, người dân cả nước
đã đồng tình ủng hộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến
này kết thúc với thăng lợ vẻ vang Điện Biên Phủ vào ngày 07 – 05 – 1954
- Bảng thống kê cho thấy các nước trên thế giới đã dồng tình ủng hộ ta ngay từ
những ngày đầu tiên mới thành lập với sự thiết lập ngoại gian họn 60 nuớc trên
thế giới
- Hình ảnh My viện trợ cho Pháp: Mỹ viện trợ cho Pháp về quân sự, tài chính để
tiến hành cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Những vật viện trợ của Mỹ gồm có :
+ Xe tăng, xe jeep, xe tăng lội nước
+ Đại liên 4 nòng 12 ly 7
+ Máy bay C47
- Một phần nội dung của hiệp định Genève
+ “Thừa nhậ sự độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Việc hợp thương
hai miền Nam Bắc bắt đầu từ ngày 20/07/1955 và tổng tuyển cử sẽ tiến hành một
năm sau đó. Quyết định lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sư tạm thời “.
+ Trong điều khoản 14c ghi rõ “Mỗi bên cam kết không tìm cách trả thù hay phân
biệt đối xử nào với cá nhân hoặc tổ chức tham chiến và cam kết đảm bảo quyền tự
do dân chủ của họ.” Nhưng sau đó, chính quyền Mỹ đã phá huỷ hiệp dịnh này nên
đưa chính quyền Ngô Đình Diệm làm bù nhìn.
- Hình ảnh lễ tuyên thề sát cộng: chính quền Mỹ – Diệm tiến hành biện pháp tố
cộng để trả thù những người Cộng Sản cũ. Chúng tổ chức buổi lễ huết thề sát
cộng. Tay sai Diệm giết 38 người và dìmxuống đậ Vĩnh Trinh ở Quãng Nam – Đà
Nẵng
- Hình ảnh luật 10/59 nhằm trả thù những người kháng chiến cũ. Đây là hình ảnh
những kháng chiến cũ bị tàn sát rất dã man.
- Hình ảnh anh Võ Đăng Nhân: anh bi đưa lên máy chém theo luật 10/59
- Dồn dân lập ấp: Mỹ-Diệm còn xây dựng hơn 16.000 ấp chiến lược để dốn hơn 10
triệu người dân miền Nam vào đây sinh sống nhằm tách khỏi nhân dân ra khỏi cách
mạng .
- Hình ảnh quân đội Mỹ đổ quân tại Đà Nẵng: sau khi chính sách dồn dân lập ấp
bị thất bại thì chính quyền Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam, trực
tiếp tham chiến trên quy mô lớn. Đây là đơn vị đầu tiên đổ bộ vào miền Nam Việt
Nam ngày 8/3/1965 tại Đà Nẵng .
- Bảng thống kê chi phí: đây là bảng thống kê chi phí mà Mỹ đã dùng ở chiến
tranh Việt Nam theo báo cáo của Quốc hội Mỹ là 352 tỉ USD,theo như con số thực
tế thì lên đến 952 tỉ USD
- Bảng so sánh số lượng bom: đây là bảng so sánh số lượng bom mà Mỹ sử dụng
trong 3 cuộc chiến tranh: chiến tranh thế giới thứ hai, chiến tranh Việt Nam và
chiến tranh Triều Tiên. Vũ khí Mỹ sử dụng ở Việt Nam gấp 12 lần so với chiến
tranh Triều Tiên và gấp 4 lần so với chiến tranh thế giới thứ hai
- Hình ảnh tù binh Mỹ được trao trả: để thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam,
chính quyền Mỹ đã huy động hơn 5,5 triệu lính Mỹ tham chiến, nhưng với sự chiến
đấu kiên cường cùa nhân dân ta, chúng đã thất bại thảm hại và đã rút khỏi nước
ta sau ngày 30/4/1975, tiêu biểu là hình ảnh đoàn phi công Mỹ được trao trả ở
sân bay Gia Lâm
- Hình ảnh rút quân: hình ảnh đơn vị quân đội cuối cùng của Mỹ rút khỏi Sài Gòn
- Xe tăng cách mạng: hình ảnh xe tăng đầu tiên của quân đội giải phóng tiến vào
dinh Độc Lập vàolúc 11h30’ ngày 30/4/1975,mở ra một kỉ nguyên mới cho nước Việt
Nam độc lập
- Trích phát biểu của cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ: trong quyể hồi kí của mình,
ông Mc Namara đã phải thú nhận” chúng tôi sai lầm, sai lầm khủng khiếp, chúng
tôi mắc nợ thế hệ tương lai trong việc giải thích tại sao lại sai lầm như vậy,
và chính sự sai lầm đó đã gây ra hậu quả nặng nế mà mà đất nước, người dân Việt
Nam đã và đang gánh chịu”
*Có thể nói qua những hình ảnh được trưng bày tại phòng 1, khách tham quan có
được một cái nhìn tổng thể về cuộc chiến tại Việt Nam, những số liệu thống kê
đã cung cấp một thông tin khá chính xác về toàn bộ chính sách xâm lược của Mỹ
với âm mưu ”toàn cầu hoá chiên tranh”
Phòng 2: PHÒNG HỒI NIỆM
Đây là phòng trưng bày về bộ sưu tập ảnh về chiến tranh tại Việt Nam, với
các phần trưng bày như “một cuộc chiến xa xôi”,”leo thang”,”những ngay cuối
cùng”và “sa lầy”.Bộ sưu tập này được tổ chức bởi các công ty Indochano
PhotoRequiem Projec.Ltd,công ty Staring Committee, hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt
Nam,Thông tấn xã Việt Nam và Bảo tàng chứng tích chiến tranh
Triển lãm ảnh hối niệm-bộ sưu tập về chiến tranh Việt Nam khởi nguồn từ một dự
án cùa hai phóng viên ảnh Tim Page và Horst Faas- những người đã từng bị thương
trong khi thi hành nghĩa vụ tại Việt Nam. Dự án của hai ông nhằm thu thập các
bức ảnh về chiến tranh Đông Dương với mục đích tưởng niệm các phóng viên ảnh đã
chết trong chiến tranh, bất kể quốc tích và chính kiến của họ. Dự án này được
thực hiện khi Thông Tấn Xã Việt Nam cho hai người tiếp cận hồ sơ ảnh về chiến
tranh Việt Nam thu thập hơn 72 tài liệu phóng viên nhiếp ảnh Việt Nam hy sinh
trong cuộc chiến. Sau 4 năm tìm kiếm và tập hợp được hàng ngàn ảnh của 135 nhà
nhiếp ảnh ở hai chiến tuyến: 72 phóng viên Việt Nam ở hai miền Nam Bắc, 16
phóng viên Mỹ,12 Pháp, 4 Nhật, 11 Nam Việt Nam, Ao, Uc, Anh…Các nhiếp ảnh gia
đã chia sẽ những gì mà họ biết được về cuộc chiến tại Việt Nam, để thế giói có
mộ cái nhìn khách quan về cuộc chiến này. Và chính nhờ bộ sưu tập này mà tính
thuyết phục của bảo tàng càng cao. Những hình ảnh về sự thật cuộc chiến được
trưng bày trước dông đảo quần chúng vừa góp phần làm phong phú thêm cho Bảo
tàng về số lượng hiện vật, hình ảnh vừa thu hút sư quan tâm của khách thamquan
vừa muốn tìm hiểu chiến tranh tại Việt Nam.
Phòng 3: PHÒNGTRƯNG BÀY TỘI ÁC CHIẾN TRANH
Đầu tiên chúng ta cùng trở lại với bản tuyên ngôn của Mỹ, trong đo có 1
đoạn rằng “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẵng, tạo hóa cho họ
những quyền không ai xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc”. Thế nhưng khi tiến hành cuộc xâm lược ở
miền Nam, quân đội Mỹ đã bất chấp toàn bộ những quyền này. Một người lính viết
trong hồi kí của anh ta rằng: “hình như mốt mới nhất lúc bấy giờ là xây dựng kỷ
lục giết người. Trung đội mình giết được 45 Việt cộng thế là các trung đội khác
sinh ghen, thế là họ giết bất cứ ai để vượt qua kỷ lục”. Đó là điều các tướng
lĩnh Mỹ muốn binh lính của họ thi thố ở Việt Nam, điều đó được chứng minh qua
các bức ảnh khi bắn chết những người dân vô tội, lính Mỹ đứng đếm xác chết Việt
cộng. Khi tận mắt chứng kiến một lính Mỹ đang xách mảnh xác cuả 1 chiến sĩ giải
phóng vừa bị trúng đạn súng lưu M79-loại đạn này có tác dụng khi đi vào cơ thể
con người sẽ nổ làm 2 lần và sẽ xé xác nạn nhân thành nhiều mảnh- phóng viên
người nhật lúc đó có mặt tại chiến trường đã thốt lên rằng: “Tôi không biết tên
lính Mỹ này là người hay là quỷ” Các bức ảnh ở đây đều là do các phóng viên
phương Tây chụp lại, họ chụp được quân Mỹ đang dồn những người dân miền núi vào
các trai tập trung ở Plâyku,có hình ảnh của người nông dân, ông ta vô cùng
khiếp sợ khi bị lính Mỹ bắt được. Những cảnh tra tấn này diễn ra hàng ngày ở
miền Nam, lúc bấy giờ lính Mỹ bắt được một người đàn ông, ông ta bị kéo lê vào
1 khu rừng và câu hỏi đầu tiên cho ông là những gót giầy liên tiếp nện vào đầu,
còn báng súng thì luôn ở tư thế sẵn sàng. Ngoài ra còn có cảnh tra tấn nước,
trong khi tên lính này trùm giẻ lên mặt một người bị chúng bắt được và đổ nước
lên thì một tên lính Mỹ khác đè mạnh lên ngực nạn nhân để ông ta không thể thở
được. Theo lời một nhà báo nước ngoài, quân viễn chinh Mỹ đã đi đến chỗ coi
người Việt Nam như một sinh vật hạ đẳng, coi việc giết họ không phải là một tội
ác cũng giống như diệt trừ sâu bọ. Sau khi đặt chân lên Đồng bằng sông Cửu
Long, Mỹ tổ chức bao vây ngay những ngườ dân mà họ tình nghi là Việt cộng, sau
đó tất cả bị dồn lên trực thănh tiếp tục bị tra hỏi nếu như một người nào đó từ
chối trả lời thì ngay lập tức ông ta sẽ bị chúng ném xuống từ trưc thăng và với
độ cao như thế nếu không chết mới là lạ. Ngoài ra lính Mỹ còn cột người sau xe
tăng rồi kéo lê ở trên đường cho đến khi họ chết – một trong những phát minh
giết người hết sức dã man của quân đội Mỹ. Có đôi lúc chúng chặt đầu các chiến
sĩ cách mạng, sau đó chúng cấm chiếc đầu lên chụp hình lưu niệm
Ở đây còn trưng bày những loại vũ khí của quân đội Mỹ đã được sử dụng trong
chiến trường miền Nam
Từ những vụ bắt bớ, bắn giết lẻ tẻ, quân độ Mỹ đã đi đến thảm sát hàng loạt
người dân vô tội Việt Nam. Tham quan phóng này ta có thể biết được một vài vụ
thảm sát của lính Mỹ với nhân dân ta như một vụ thảm sát được công bố vào tháng
4/2001 do cựu thượng nghị sĩ Bob Kerry thú nhận trước dư luận quốc tế. Đó là
vào khoảng 8-9 giờ tối ngày 25/02/1969 thì một toán biệt kích Mỹ gồm 7 người do
trung uý Bob Kerry chỉ huy đã tấn công vào làng Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú,
tỉnh Bến Tre. Và trong đợt tấn công chúng đã giết 21 người bằng nhiều hình thức
dã man như cắt cổ, mổ bụng và dùng súng bắn chết họ. Tiêu biểu cho sự giết
người man rợ và không chút tình người, và nạn nhân là ông Bùi Văn Vác bị chúng
cắt cổ. Tàn nhẫn hơn khi 3 đứa cháu của ông Vác đã trốn trong 1 ống cống nhưng
chúng tìm được không tha mà còn mổ bụng 2 đứa và cắt cổ 1 đứa. Trong vụ thảm
sát trên chỉ còn một nạn nhân may mắn sống sót được đó là chị Bùi Thị Lượm, lúc
đó mới 12 tuổi và chị đã bị thương ở chân. Nếu không kể đến vụ thảm sát rất man
rợ ngày 16/03/1968 ở Sơn Mỹ tại tỉnh Quãng Ngãi thì là một thiếu sót lớn vụ
thảm sát này đã làm chấn động dư luận trong và ngoài nước lúc bấy giờ và được
báo “Đời Sống” đăng tin vào tháng 1/1970. Cuộc hành quân của lính Mỹ vào Sơn Mỹ
được chuẩn bị khá chu đáo, ba đại đội thuộc lữ đoàn 1 bộ binh là đơn vị trực
tiếp tiêu diệt mọi mục tiêu di động của trong khu vực hành quân \. Nhiệm vụ
trực tiếp bắn giết người được giao cho trung úy William Cally. Trước khi đến
Sơn Mỹ đã thực hiện sắc lệnh tiêu diệt mỗi mục tiêu di động trong khu vục hành
quân. Chỉ trong 4 tiếng đồng hồ mà quân Mỹ đã tìm và tiêu diệt 504 người, có
182 phụ nữ trong đó 17 nguời mang thai, có 173 trẻ em trong đó có 56 trẻ sơ
sinh đến 5 tháng tuổi, 60 cụ già trên 60 tuổi. Cuộc thảm sát tàn nhẫn và dã man
này đã làm chấn động dư luận trong và ngoài nước lúc bấy giờ và đã được báo
“Đời Sống” ở Mỹ đăng tin vào tháng 1/1970
Trong phòng này chúng ta sẽ được thấy các bức tranh của dân làng Sơn Mỹ sau vụ
thảm này, hình ảnh mâm cơm đang ăn dang dở của gia đình bà Đốc với 7 người đã
bị bắn chết. Hình ảnh hai cha con bị trúng đạn và chết thảm ngay ở bệ đường. Và
hình ảnh thương xót nhất và cũng là hình ảnh căm hận sự vô nhân tính của bọn
lính Mỹ, hai em bé trai bị trúng đạn nhưng đứa lớn lập tức nằm đè lên đứa nhỏ
như muốn che chở cho
em mình,thật vô lương tâm thay bọn chúng cuối cùng cũng đã giết chết cả hai đứa
bé này. Đây là 1 trong các búc ảnh mà làm xúc động nhất trong dư luận Mỹ lúc
bấy giờ
Trong chiến tranh những người mẹ bao giờ cũng chịu nhiều đau thương mất mát
nhất. Từ ý tưởng đó nên anh Nguyễn Hoàng Huy đã làm nên bức tượng bà mẹ Việt
Nam anh hùng từ những mãnh bom còn sót lại. Bức tượng độc đáo có một không hai
này cao 1,55m nặng 220kg và đã được giải khuyến khích trong cuộc triển lãm tại
Hàn Quốc, sau đó anh đã tặng bức tượng này cho bảo tàng.
Bênh cạnh tội ác gây ra cho nhân dân chúng ta, từ năm 1962 đến năm 1970 quân
đội Mỹ còn rải nhiều loại chất độc hóa học ở nước ta, chỉ tính ở miền Nam thì
đã hơn 72 triệu lít chất khai quang nhằm mục đích phá huỷ rừng, trong đó có
chất độc màu da cam đã được sử dụng nhiều nhất (hơn 44 triệu lít trong đó chứa
khoảng 170kg chất Dioxin là chất rất độc). Để phun rải các chất khai quang này
quân đội Mỹ đã sử dụng nhiều loại phương tiện khác nhau như máy bay C123, máy
phun Buffalo được đặt trên xe bọc thép M113…. Khi phun rải chất khai quang như
thế thì thiên nhiên sẽ bị tàn phá rất nặng nề ví dụ như rừng dừa ở Bình Định đã
bị trụi lá vào năm 1965, rừng đước ở Cần Giờ chỉ còn lại gốc cây trơ trụi và
còn nhiều nơi khác nữa. Chúng phun các chất độc rải chất khai quang ở nhiều vị
trí với từng loại mức độ khác nhau, có những nơi chúng phun từ 1-28lít 1 ha,
những nơi chúng phun 2-3 lần từ 28-84lít 1 ha và có những nơi chúng phun tới
trên 4 lần với số lượng là trên 84lít 1 ha. Hậu quả của những chất khai quang
cụ thể là chất Dioxin đối với cơ thể con người mới thật sự tàn khốc.
Các nhà khoa học trên thế giới đã công bố rằng chất độc màu da cam có ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khoẻ của những người tiếp xúc, tác động đến hệ thống gien gây
ung thư và con cháu của họ sẽ bi tai biến thai sản như sẽ bị sẩy thai, tai
chứng hay di tật bẩm sinh. Trong phòng này chúng ta sẽ thấy được nạn nhân của
chất độc chết người này đó là đứa bé dị dạng ở vùng mặt, một song thai dính ở
ngực và bụng được trưng bày trong 2 tủ kính.
Toàn bộ các công trình ở nước ta như các khu dân cư, trừơng học, bệnh viện, nhà
máy, ga xe lửa, nhà thờ…. đã thành mục tiêu phá hủy hoàn toàn của không quân và
hải quân Mỹ với những trận trải thảm bom B52 bằng máy bay Phố Khâm Thiên ở Hà
Nội là 1 ví dụ điển hình và còn gọi đây là chiến dịch Điên Biên Phủ trên không
– đây là 1 khu phố có mật độ đông dân nhất tại Hà Nội – đã bị máy bay B52 rải
thảm với chiều dài hàng km. Nhưng do sự thao lược, tài năng của lính giải phóng
nên chúng ta đã bắn rơi các máy bay B52 rất hiện đại và tối tân thời bấy giờ (
Việt Nam là nước đầu tiên bắn rơi máy bay B52)vào năm 1972 và buộc chúng kí
hiệp định Paris rút quân về nước, mở ra 1 kỉ nguyên mới cho nước ta kỉ nguyên
độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ vào ngày 30/04/1975
Ở phòng trưng bày này ta còn biết được nhiều loại bom như bom cam có tác dụng
khi nổ sẽ văng ra nhiều mãnh nhỏ và sắc nhọn. Bom bi cũng được sử dụng rộng rãi
trong chiến tranh
Sau khi chiến tranh kết thúc đã có 3 triệu người dân chết trong đó có 1triệu
liệt sĩ, gần 4 triệu ngườu bị thương, 2 triệu người bị nhiễm chất khai quang,
hơn 50.000 trẻ em bị dị dạng, 300.000 người mất tích chưa tìm được hài cốt.
Những con số này không thể nói lên hết nỗi mất mát đau thương mà toàn dân tộc
chúng ta phải gánh chịu.
Phòng: Triễn lãm tranh thiếu nhi Việt Nam
Đây là phòng trưng bày những bức tranh do thiếu nhi Việt Nam vẽ về các chú bộ
đội theo sự tưởng tượng của các em.
Phòng 4: NẠN NHÂN CỦA CHẾ ĐỘ LAO TÙ
THỜI NGÔ ĐÌNH DIỆM ĐẾN NGUYỄN VĂN THIỆU
*Chứng tích chiến tranh : Những nạn nhân trong chế độ lao tù từ thời Ngô
Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu. Dưới thời Sài Gòn cũ họ đã thiết lập ở miền Nam
Việt Nam một mạng lưới nhà tù thuộc cấp quận trở lên, trong đó có năm nhà tù
khét tiếng tàn bạo nhất: nhà tù Tân Hiệp, nhà tù Thủ Đức, nhà tù Chí Hòa ở Sài
Gòn, Nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc. Chỉ tính riêng ở Sài Gòn đã gần 200 nhà
tù và trại giam cùng với 150 trạm kiểm soát bắt bớ khám xét để đưa những người
dân vô tội vào tù. Một hình ảnh điển hình những nhà tù ở miền Nam Việt Nam như
nhà tù Chí Hòa xây theo mô hình bát quái đ85t ngay trung tâm Sài gòn, có bót Lê
Văn Ken tại chợ Sài Gòn –nơi thường xuyên bắt giữ sinh viên học sinh và các cán
bộ hoạt động nội thành. Nhà tù Tân Hiệp ở Biên Hòa trương tấm bảng hiệu “mị
dân” là “Trung tâm cải huấn”. Nhà tù Thủ Đức-nơi giam giữ những người phụ nữ
yêu nước. Khung cửa phòng giam biệt lập ở Thủ Đức, các nữ tù phải thay phiên
nhau ra phía trước để hít thở không khí vì trong phòng giam rất chật chội và
ngột ngạt.
*Chuồng cọp: Phòng này được phục chế lại 2 trong 20 ngăn theo tỉ lệ 1:1 ngoài
Côn Đảo Chuồng cọp là một kiểu xà lim đăc biệt dùng để giam giữ những người
Việt Nam yêu nước-chính quyền Sài Gòn xem những phần tử ngoan cố nhất Kích
thước chuồng cọp rất nhỏ bé ngang 1,5m; dài 2,7m; cao 3m. Với kích thước nhỏ bé
như vậy, vào mùa nóng, người tù sẽ bị nhốt chặt từ 5-14 người, ngược lại vào
mùa lạnh họ bị tách riêng biệt chỉ còn 1-2 người mà thôi. Người tù luôn ở trong
tư thế bị cùm chân, ăn uống, tắm giặt, tiêu biểu cũng như nằm ngủ đều trong
phạm vi nhỏ hẹp này. Phía trên nóc chuồng cọp là những song sắt và lối đi dể
bọn cai ngục kiểm soát mọi hành động của tù nhân. Từ những song sắt này, nếu
người tù có một cử động nào như một tiếng cười, một tiếng ho, thậm chí với một
tiếng thở dài của họ cũng là nguyên cớ cho bọn cai ngục sẽ trút vôi bột xuống
qua các song sắt, và người tù ở dưới này sẽ bị phồng rộp da, lỡ loét và ngộp
thở; đôi khi họ còn ói ra máu. Ngược lại vào mùa lạnh, chúng đổ nước lạnh xuống
làm cho họ rét run lên, Thỉnh thoảng bọn chúng sẽ dùng gây nhọn thọc xuống khi
chuống cọp đông người, và những tù nhân không thể cựa quậy được vì bị cùm xích
sẽ bị thương tích đầy người. Chế độ ăn uống của họ rất khổ sở. Hàng ngày, mỗi
người tù sẽ nhận được một năm cơm đầy cát sạn với vài muỗng nước mắm đầy dòi và
1 con khô mực đắng như thuốc kí ninh, và một nửa lon sữa bò nước uống. Hoàn
toàn những người tù này không được ăn rau thịt hay cá tươi. Với chế độ ăn uống
như vậy sức khỏe của tù nhân sẽ nhanh chóng suy giảm, có thể nói không một ngăn
chuồng cọp nào ở Côn Đảo là không có chiến sĩ hy sinh do ăn uống thiếu thốn và
thường xuyên bị tra tấn đánh đập dã man như vậy. Hình tượng trong ngăn cọp đầu
tiên là hình tuợng một nam tù nhân chính trị, ông là một trong những lá cờ đầu
trong phong trào chống lại chế độ lao tù khắc nghiệt đòi hỏi dân sinh, dân chủ
ở nhà tù côn đảo. Trong ngăn chuồn cọp kế bên là hình tượng nữ cựu chính trị
tên là Nguyễn Thị Chỉ-còn gọi là má sáu mù. Trong ngăn chuồng cọp này còn có
tấm ảnh của má Sáu thời còn trẻ lúc má còn sáng mắt, nhưng do hậu quả của bọn
cai ngục rải các loại vôi bột hóa học đã làm cho má Sáu hỏng cả hai mắt. Hiện
tại má Sáu mù vẫn còn sống.
Trong Thảo cầm Viên vốn là nơi vui chơi giải trí của dân Sài Gón vậy mà chính
quyền Sài Gòn cũ cũng cho xây dựng 1 nhà tù bí mật còn gọi là T42. bề ngoài
trông như một biệt thự nhưng thục chất bên trong là ột phòng tra tấn với những
hình thức tra tấn rất dã man như đặt bóng đèn 500w trên đầu người tù hoặc đổ
xăng vào các lỗ đốt sống xương sống rồi châm lửa đốt
- Nhà tù Phú Quốc: Phú Quốc là hòn đảo lớn nhất Việt Nam với diện tích là
600km2 về hướng Tây Nam cách thị xã Rạch Giá 150km. Chính thức hoạt động từ
ngày 06/07/1967, nơi thường xuyên giam giữ từ 30.000 đến 40.000 tù binh là các
chiến sĩ thuộc các lực lượng vũ trang. Với bộ máy này chúng đã hành hạ người tù
băng những hình thức như giam người tù vào trong các chuồng chó, rọ heo hoặc
trai biệt giam. Và dùng hình thức tra tấn hết sức dã man và tàn ác như là tra
điện, tra nước, đóng đinh vào người, bên cạnh đó bọn chúng còn dùng các hình
thức tra tấn thời trung cổ như nướng người trên lửa đỏ, chúng bỏ họ vào bao bố
sau đó bỏ họ vào nước sôi. Và dưới chế độ lao tù tại nhà tù Phú Quốc đã có
khoảng 4000 chiến sĩ đã nằm xuống, và cho đến nay đã thu lượm được 1000 hài cốt
đem về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ . Khi khai quật xác của các chiến sĩ
Cách mạng lên thì người ta thấy rằng nơi cổ họ có những sợi dây thép gai hoặc
trên sọ họ có những cây đinh dài từ 8cm-10cm. Từ đó có thể kết luận rằng bọn
cai ngục ở Phú Quốc đã dùng nhiều hình thức siết cổ người tù bằng dây kẽm gai
cho đến chết hoặc đóng những cây đinh dài vào những nơi hiểm yếu trên cơ thể
người tù như màng tang, khớp tay, khớp chân …. Từ những năm 1953 đến tháng
7-1954 thự dân Pháp đã cho xây dựng ở đây trại “Cây Dừa” để giam giữ 14.000 tù
binh, sau đó đổi tên trại là trại “huấn chính Cây Dừa”. Năm 1955-1957 đã giam
giữ 1000 tù chính trị và trại giam “huấn chính Cây Dừa” đã chính thức đi vào
hoạt động. Quản lý trại là một bộ máy cố vấn Mỹ: chỉ huy trưởng, phó, các tiểu
đoàn quân trưởng, và ban giám thị.
- Nhà tù Côn Đảo: Côn Đảo là mộ quần thể gồm 14 đảo lớn nhỏ cách Sài Gòn 225km
về hướng Đông Nam. Đầu thế kỉ XVIII thực dân Pháp đã đặt chân lên đảo này. Đến
thế kỉ XIX, sau khi chiếm xong các tỉnh ở Nam Kì , thực dân Pháp đã cho xây
dựng trại giam để giam giữ những người Việt Nam yêu nước. Dưới chế độ chính
quyền Sài Gòn cũ, sau khi đã tận dụng chuồng cọp do thực dân Pháp để lại và đã
bị dư luận trong và ngoài nước lên án mạnh mẽ, họ đã cho phá bỏ và xây dựng lại
nhiều chuồng cọp theo kiểu Mỹ. Ngoài rai giam sẵn có, chính quyền Sài Gòn còn
cho xây dựng thêm 6 trại giam khác trong đó có chuồng nuôi bò, gia súc, gia
cầm, cung cấp thịt sữ cho bọn cai ngục. Đồng thời cho xây dựng hầm phân bò để
chứa phân và nước tiểu bò. Sau khi tra tấn người tù vẫn không chịu khai báo,
bọn cai ngục tiếp tục ngâm những người tù này vào trong hầm phân suốt ngày đêm
làm cho vết thương của người tù bị nhiễm trùng đi đến chỗ chết. Ngay khi hiệp
định Paris được kí kết vào năm 1973 cá nữ tù chính trị ở Côn Đảo đã bị tra tấn,
bị đánh đập rất dã man vì họ từ chối việc lăn tay và chụp hình tráo án thành tù
thường phạm. Có thể nói Côn Đảo là một địa ngục trân gian, là nơi mỗi một viên
đá là một mạng người. Sau đây là các hình thức trấn tấn rất dã man của bọn cai
ngục :
+ Đòn đâm kim vào tay (còn gọi là châm cứu): Bọn cai ngục đã dùng những cây
thước sắt đóng mạnh vào những cây kim gút có gắn thêm những cọng lông gà vào
đầu các ngón tay của người tù, sau đó được đặt dưới quạt máy. Khi quạt quay thì
những cọng lông gà sẽ quay theo làm cho cây đinh càng xoáy sâu vào mười đầu
ngón tay người tù tạo ra luồng đau đớn xoáy thẳng vào tận tim làm cho người tù
đau tim và đau thần kinh. Tiêu biểu là anh Lê Thanh Cảnh, sau khi bị tra tấn
đến ngất xỉu, bọn cai ngục đã khớp miệng anh lại và còng tay của anh
+ Đòn đi tàu bay: Nạn nhân bị treo lơ lửng trên không dưới sức nặng của cơ thể
các khớp xương giản ra rất đau đớn đôi khi cỏn bị đánh đập đến ngất xỉu. Sau đó
bọ cai ngục sẽ thả dây ra cho mặt và ngực tù nhân đập xuống đất đến hộc máu.
Khi thực hiện đòn tra tấn bằng cách này thì bọn cai ngục đùa với nhau gọi là
“tàu đã hạ cánh”.
+ Đòn tra nước (còn gọi là “đi tàu ngầm”): Người tù bị cột chặt trên băng gỗ
đầu thấp hơn chân, miệng thì bị bịt bằng 1 miếng dẻ. Bọn cai ngục nối 1 ống cao
su dẫn nước đưa vào mũi người tù, đôi khi bọn chúng còn pha xà phòng và vôi.
Khi bụng của tù nhân đã căng chướng đầy nước thì bọn cai ngục dùng chân có mang
giày đinh đạp mạnh vào bụng của tù nhân làm cho người tù phải nôn ra cả nước
lẫn máu. Đòn tra tấn này làm cho người tù bị bệnh về đường ruột.
+ Đòn nước nhỏ giọt: Người tù bị cột chặt và đặt dưới vòi nước nhỏ giọt lên 1
chỗ cố định mà bọn chúng đã cạo bớt một mảng tóc trên đầu, ban đầu những người
tù này chưa có cảm giác gì nhưng sau 2 giờ thì họ có cảm giác mỗi giọt nước như
1 thanh sắt giáng xuống đầu họ làm cho họ bị nhức nhối khủng khiếp. Hậu quả của
đòn này làm cho người tù bị rối loạn thần kinh
+ Đòn đi tàu điện ngầm (tra điện): Bọn cai ngục dùng máy phát điện nối dây vào
cơ thể của tù nhân, nhất là ở những chỗ nhạy cảm. Đòn tra tấn này không để lại
dấu vết gì nhưng gây ra một hậu quả nghiêm trọng là sẽ bị đau thần kinh hay đau
tim
+ Đòn tra rắn (đùa với rắn): Bọ cai ngục lợi dụng vào tâm lý sợ rắn của chị em
phụ nữ nên chúng dùng phương pháp này để tra tấn các nữ tù binh chính trị.
Sau khi đã tra tấn người tù bằng nhiều hình thức nhưng vẫn không khuất phục
được thì họ đem ra pháp trường xử bắn, đã có rất nhiều các chiến sĩ Cách mạng
của ta đã bị bắn trong đó có anh Nguyễn Văn Trỗi bị bắn tại trại giam Chí Hoà
và anh Trần Văn Đang bị bắn tại pháp trường được dựng lên ở chợ Sài Gòn.
Ngoài ra còn có một số tù nhân bị đàn áp bằng các loại lưu đạn như chất lân
tinh, chất gây ói mửa và những hình thức tra tấn khác gây ra những hậu quả
không thể xoá nhoà được trên cơ thể cũng như tinh thần của họ. Anh Hồ Minh
Chánh sinh năm 1952 ở Bình Dương-Sông Bé, khi bị bắt chỉ bị thương nhẹ lại không
được chữa trị thường xuyên, bị tra tấn đánh đập dã man nên anh đã ngất xỉu. Anh
được chuyển đến bệnh viện Bình Dương ở Sông Bé. Tại đây các y vụ Philippin đã
dùng các biện pháp cưa chân anh làm 5 lần buộc anh phải khai báo. Lần đầu tiên
bọn chúng cưa cả hai bàn chân của anh, lần thứ 2 và 3 bọn chúng cưa một đoạn
ống quyển chân trái và phải, lần thứ 4 và 5 bọn chúng cưa thêm 1 đoạn đùi trái
và phải của anh. Anh Lê Văn Tiến khi ở Côn Đảo trở về chỉ còn là da bọc xương.
Anh Đào Văn Trung bị tra tấn bằng điện đến mù cả 2 mắt. Anh Lâm Văn Vững bị
giam 19 năm chỉ tính riêng ở Côn Đảo đã có 16 năm ở chuồng cọp, trong 1 lần tra
tấn bọn cai ngục đã bẻ lọi cả 2 tay của anh. Do ăn uống thiếu thốn lại thường
xuyên không được vận động nên các chiến sĩ Việt Nam yêu nước khi thoát khỏi
ngục tù và trở về không thể nào đi lại bằng đôi chân của mình được nữa và cơ
thể của họ chỉ còn da bọc xương. Lợi dụng vị trí xa đất liền của Côn Đảo thực
dân Pháp và chế độ chính quyền Mỹ-Ngụy đã đối xử rất tàn bạo dối với những người
tù ở đây, mỗi năm có hàng ngàn người chết ở Côn Đảo và các công trình xây dựng
ở đây được đặt tên theo số người chết như cầu tàu 914-khi cầu tàu xây dựng xong
thì có 914 người chết; cầu tàu Ma Thiên Lãnh còn gọi cầu tàu 315 – mặc dù mới
hoàn thành 1 tháng đã có 315 người thiệt mạng
Máy chém : Do thực dân Pháp mang sang Việt Nam vào đầu thế kỉ XX để đàn áp
phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam. Lúc bấy giờ máy chém này được đặt ở
Khám Lớn- đường Lý Tự Trọng ngày nay. Đến khi Mỹ xâm lược chính quyền Sài Gòn
cũ đã áp dụng luật 10/59 lê máy chém này đi khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam để
chém đầu những người Việt Nam yêu nước với khẩu hiệu ”thà giết nhầm hơn bỏ
sót”. Năm 1960, người cuối cùng bị xử tử bởi máy chém này là ông Hoàng Lê Kha –
Đảng viên Đảng lao động Việt Nam, nay là Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông nguyên là
Uy viên tỉnh Tây Ninh. Máy chém cao 4.5m tính riêng lưỡ dao đã nặng tới 50kg.
Thông thường tù nhân sẽ bị cột chặt cà đặt nằm sấp trên băng gỗ, đầu dựa vào
nửa vòng tròn bán nguyệt. Bên dưới có 1 cái hộp đựng mạt cưa để khi đầu của tù
nhân rơi xuống thì máu không thấm ra ngoài. Cái hộp dài kế bên dùng để chứa xác
người. Hiện nay máy chém này đã bị vô hiệu hóa.
Phòng 5: VIỆT NAM CHIẾN TRANH VÀ HÒA
BÌNH
Phòng này chủ yếu trưng bày những hình ảnh về nhân dân Việt Nam trong
chiến tranh cũng như hình ảnh về những người lính Mỹ ở Việt Nam và một số hình
ảnh về các cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc của Mỹ. Ngoài ra còn có các
hình ảnh ghi nhận về các vết tích chiến tranh trong đó có cả hình ảnh của những
em bé chịu hậu quả gián của chất độc màu da cam. Thật ra, các em bé này không
chịu ảnh hưởng của chiến tranh nhưng cha mẹ của các em là nạn nhân trực tiếp bị
nhiễm chất độc màu da cam trong chiến tranh nên đã ảnh hưởng một phần tới các
em nhỏ. Những hình ảnh người Việt Nam kiên cường anh dũng trong chiến đấu và
hăng say trong lao động, họ phải đổ mồ hôi, nuớc mắt và hi sinh cả bản thân của
mình nhằm xây dựng lại đất nước trong thời bình cũng được trưng bày tại đây.
Phòng 6: THẾ GIỚI ỦNG HỘ VIỆT NAM
KHÁNG CHIẾN
Từ trước CMT8-1945 chủ tịch Hồ Chí Minh và Cộng sản Đông Dương đã cho rằng
cần phải thiết lập một mối quan hệ tốt đẹp đối với các nước đồng minh, trong đó
có Mỹ, do đó Người đã có cuộc tiếp xúc và vận động một số quân sĩ Mỹ đối với
lực lượng Việt Minh. Ngày 29/03/1945 lãnh tụ Hồ Chí Minh gặp tướng Mỹ Claire
Channel chỉ huy đoàn không quân số 14. Vào ngày 27/04/1945 lãnh tụ Hồ Chí Minh
gặp thiếu tá Mỹ trưởng nhóm OSS ở Việt Nam trong WW11 – cơ quan chiến lược hòa
bình, tiền thân của CIA đã từng huấn luyện cho Việt Minh ở khu rừng phía Bắc
Việt Nam.Ở đây còn có lá thư của lãnh tụ Hồ Chí Minh gởi cho người Mỹ có liên
quan đến Việt Nam.Một số áp phích kêu gọi nhân dân cứu phi công Mỹ do máy bay
bị đánh rơi, một số hình ảnh về mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Mỹ. Hàng
ngàn người xuống đường biểu tình phản đối cuộc chiến tranh xâm lược này. Bốn
sinh viên đại học ở bang Ohio đã bị bắn chết trong khi biểu tình, hình ảnh cô
gái biểu tình cắm bông lên họng súng như một mong muốn hòa bình cho Việt Nam,
thanh niên Mỹ đốt thẻ quân dịch từ chối tham chiến ở Việt Nam, hình ảnh 2 người
dân My đã tự thiêu nhằm phản đối cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam. Một số hình
ảnh củ tổ chức phi Chính phủ và các tổ chức Quốc tế ủng hộ Việt Na; cờ, huy
hiệu của đảng Cộng Sản Nhật Bản trao tặng Việt Nam
* Bảo tàng chứng tích chiến tranh là một điểm du lich văn hoá quan trọng của
TPHCM chúng ta nói riêng và cả nước nói chung, nơi đây thông qua các hình ảnh
hiện vật đã phần nào cho ta thấy chi tiết về tội ác của Đế quốc Mỹ và sự chiến
đấu kiên cường, anh dũng của dân tộc, của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh.
Và nơi đây còn thể hiện mong muốn hoà bình của toàn thể nhân dân, dân tộc Việt
Nam. Nhân dân Việt Nam muốn nói với cả thế giới rằng “Việt Nam của chúng tôi
mong muốn hợp tác, hoà bình, hữu nghị, với các nước trên thế giới” ./.
Xây dựng Bảo tàng Chứng tích Chiến
tranh
Công trình được khởi công xây dựng sáng 27/7, tại số 28 Võ Văn Tần, quận 3, TP
HCM. Bảo tàng gồm 1 tầng hầm, 1 trệt và 2 lầu với diện tích sàn xây dựng khoảng
5.400 m2, tổng kinh phí xây dựng cơ bản là 12 tỷ đồng. Dự kiến công trình hoàn
thành sau một năm.
Khối trưng bày (4.500 m2) được xây dựng gồm các phòng trưng bày chuyên đề,
phòng hội thảo, phòng chiếu phim, phòng tiếp khách, giao lưu, hệ thống thang
máy phục vụ cho người tàn tật đi lại tham quan...
Công trình mới này sẽ giải phóng mặt bằng trưng bày ngoài trời của bảo tàng,
thay vào đó xây dựng các công trình phụ khác như: tượng đài, khu tưởng niệm...
BẾN NHÀ RỒNG (BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH – CHI NHÁNH TP.HCM)
Bến Nhà Rồng khởi đầu là một thương
cảng lớn của Sài Gòn. Thương cảng này nằm trên sông Sài Gòn và được xây dựng từ
1864, trên khu vực gần cầu Khánh Hội, nay thuộc quận 4. Tại nơi đây, vào ngày 5
tháng 6 năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này lây tên là Hồ Chí
Minh) đã xuống con tàu Amiral Latouche Tréville làm phụ bếp để có điều kiện
sang châu Âu. Do đó, từ 1975 toà trụ sở xưa của thương cảng Nhà Rồng đã được
chính quyền Việt Nam xây dựng lại thành khu lưu niệm Hồ Chí Minh.
Kiến trúc của Nhà Rồng
Nhà Rồng được khởi công xây dựng ngày 4 tháng 3 năm 1863, do “Công ty vận
tải đường biển” Pháp Messageries Maritimes xây cất để làm nơi ở cho viên Tổng
quản lý và nơi bán vé tàu. Nóc nhà gắn hình rồng, ở giữa thay vì trái châu thì
là chiếc phù hiệu mang hình “Đầu ngựa và chiếc mỏ neo”. Phù hiệu “Đầu ngựa” hàm
chỉ thời trước bên Pháp, công ty này chuyên lãnh chở đường bộ với ngựa kéo xe,
còn “Mỏ neo” tượng trưng cho tàu thuyền. Trụ sở công ty được giới bình dân gọi
là nhà Rồng, có nhiều thuyết về cái tên này: có thuyết nói rằng vì có gắn đôi
rồng lớn bằng đất nung tráng men xanh trên nóc nhà một thuyết khác cho rằng
khác là Nhà Rồng có nghĩa là Gia Long với Nhà là Gia, Rồng là Long, bến Nhà
Rồng được người Pháp đặt để nhớ tới quan hệ của vua Gia Long với nước Pháp.
Người lớn tuổi gọi tên là Sở Ông Năm, vì hãng tàu biển này do quan năm Pháp
Domergue đứng ra sáng lập.
Vào tháng 10 năm 1865, người Pháp cho dựng cột cờ Thủ Ngữ. Từ "Thủ
ngữ" có nghĩa là sở canh tuần tàu biển. Cột cờ treo cờ hiệu để cho tàu
thuyền ra vào Cảng nên biết vào ngay hay chờ đợi.
Năm 1893, trụ sở công ty Nhà Rồng dùng đèn điện, dùng bóng đèn 16 nến, sáng leo
lét, kém xa mấy ngọn đèn lồng thắp dầu lửa mà tòa đô chính cho thắp thử ở đường
Catina (Đồng Khởi).
Gần cuối năm 1899, công ty được phép xây cất bến cho tàu cặp vào. Bến lót ván
dày, đặt trên trụ sắt dọc theo mé sông 42 mét (phía tàu cặp vào). Bến này cách
bến kia 18 mét. Bề ngang của moai bến vào phía trong bờ là 8 mét. Từ bờ ra bến
có cầu rộng 10 mét. Ban đầu xây hai bến rồi xây thêm bến thứ ba.
Năm 1919, công ty được phép xây bến bằng xi măng cốt sắt, nhưng không thực hiện
được, phải đến tháng 3 năm 1930 mới hoàn thành bến mới, chỉ một bến nhưng dài
430 mét.
Toàn bộ kiến trúc xưa của tòa trụ sở thương cảng Nhà Rồng hầu như còn nguyên
vẹn cho đến ngày nay.
Lý Lịch Bến
Nhà Rồng (tham khảo thêm)
Bến cảng
Nhà Rồng gắn liền với lịch sử đế quốc Pháp xâm lược và khai thác Việt Nam. Pháp
xâm chiếm nước ta bằng hải quân, thương thuyền của họ cũng theo chân yểm trợ và
khai thác. Cuối năm 1859, Pháp bắn phá thành Gia Ðịnh (nằm ở góc sông Sài Gòn
với rạch Thị Nghè, trên nền trường Ðại học Khoa học Xã hội Nhân văn ngày nay),
tuy vẫn bị kháng cự từ phía Chí Hòa ép xuống, nhưng đô đốc Page đã tuyên bố mở
cảng Sài Gòn cho xuất nhập buôn bán ngay từ ngày 22-2-1860. Cuối năm đó, đã có
251 tàu xuất khẩu hơn 81.500 tấn hàng, mà gần 60.000 tấn là thóc gạo. Song đại
đa số thương thuyền ra vô còn mang cờ Hồng Mao, và ngay việc bưu chính lúc đó,
chính quyền thuộc địa Pháp vẫn phải nhờ tàu thư Anh. Muốn cạnh tranh với Anh mà
lại trông cậy, lệ thuộc vào Anh thì không được, nên Pháp đã hết mình ủng hộ cho
một hãng vận chuyển đường biển những chuyến liên lạc thường kỳ. Bến cảng Nhà
Rồng ra đời từ yêu cầu đó.
Hãng chuyên chở đường biển lúc ấy còn mang tên Vận tải Ðế Quốc (Messagerie Impériales)
được chỉ định làm việc này. Hãng dự tính đem 12 tàu chạy bằng hơi nước với sức
tổng cộng 4.000 mã lực và dung khối 27.700 tôn-nô (mỗi tôn-nô là 1,44 m3). Ðây
là một quy mô đáng kể, nên cần có bến đậu, văn phòng quản lý, cơ xưởng sửa
chữa, kho hàng, vựa than... ngay ở Sài Gòn. Một phương án được gửi từ Pháp sang
ngày 14-10-1861 cho biết vài chi tiết:
Phải cần có một xưởng nguội với 16 máy tiện, mà một cỗ máy lớn phải dài 8 m với
pla-tô rộng 2,2 m đường kính, khoảng 20 máy công cụ khác, 50 vồ cặp, và một
động cơ chung mạnh 20 mã lực. Một nhà máy gò. Một xưởng rèn có nhiều lò, với
hai búa máy và một cần cẩu kéo nặng sáu tấn. Một nhà máy đúc, có thể nung cả
đồng, sắt, thép, thau, với một nồi nấu được 5 tấn kim khí. Một xưởng mộc. Một
xưởng trét thuyền. Một xưởng sơn phết. Một xưởng làm buồm, trải thảm, đóng nệm,
may quần áo, việc này để dành cho vợ con thợ hãng. Một kho chứa vật liệu, linh
kiện thay thế, thừng chão, gỗ quý, dầu mỡ, lương thực... Một giàn than phòng
cho 6 tháng tức khoảng 6.000 tấn. Một cần cẩu chuyển nặng 40 tấn có tay dài 8m.
Tất cả đòi hỏi một công trình xây dựng hơn 8.000 m2 có mái lợp với hai nhà lầu,
địa điểm phải ở cạnh bờ sông dài khoảng 300 m, rộng độ 100 m. Phí tổn phỏng
định là 1 triệu F.F (gần 200 nghìn lạng bạc ta) tức là một số tiền rất lớn thời
đó.
Tổng đại lý của hãng tại Sài Gòn là Domergue, một trung tá công binh của quân
đội viễn chinh Pháp, phụ tá là Brossard de Corbigny, cũng nguyên là thiếu tá
hải quân. Cả hai đều không xa lạ với chính quyền, điều đó nói lên sự cấu kết chặt
chẽ giữa tư bản đế quốc với chính quyền thực dân. Ngoài ra, hãng còn gửi sang
ngay hai kỹ sư trẻ là Laborde và Palicot để lo việc điều tra cơ bản và thực
hiện phương án. Vấn đề đầu tiên của nhóm là tìm ra địa điểm thuận lợi, thích
hợp nhất đồng thời chuẩn bị khẩn trương để đón những chuyến tàu khai trương sắp
cập bến. Ngày 31-12-1861, Domergue đệ đơn xin mảnh đất khá rộng (nay là góc Lê
Thánh Tôn với Nguyễn Thị Minh Khai) làm trụ sở, văn phòng và nơi tạm trú cho
công nhân viên. Ngày 5-2-1862 lại xin thêm ba địa điểm quan trọng khác nữa:
a) Một bến cảng cùng với xưởng máy nằm trên bờ sông Sài Gòn về phía bắc, gần
cửa rạch Thị Nghè. Ðịa điểm này rộng gần 13 mẫu tây và bao trùm trên nền móng
cũ của một "ngôi chùa vua". (Pháp gọi Temple hoặc Pagode Royale).
b) Một miếng đất trên bờ rạch Thị Nghè (ngay Sở Thú, lúc đó chưa lập) để xây cơ
sở hành chính
c) Và một khoảnh đất nữa làm văn phòng và nơi giao dịch tại bờ, gần ngã ba sông
Sài Gòn với vàm Bến Nghé, tức khoảng Thủ Ngữ. Những yêu cầu này đều được chấp
thuận trên nguyên tắc, tuy chưa cho hãng được hoàn toàn và vĩnh viễn sở hữu
những đất đai đó như hãng muốn, vì lúc ấy hiệp định "nhượng địa" Pháp
- Nam chưa ký kết (5-6-1862 mới ký).
Trong khi đại diện hãng tại Paris cũng như Sài Gòn đòi điều kiện tối đa với chính phủ Pháp và
soái phủ Sài Gòn, thì kỹ sư hãng vẫn gấp rút chuẩn bị việc xây cất. Hãng xin
lấy đá và mở lò vôi ở Vũng Tàu ngay chân núi đang xây tháp đèn hải đăng.
Palicot phụ trách việc đó, đồng thời thăm dò các vùng lân cận để tìm nguyên vật
liệu cần thiết cho công tác. Còn Laborde thì đo đạc, vẽ họa đồ vùng đất Chùa
Vua, mà người Pháp không biết hay không muốn biết thực sự là chùa hay miếu gì.
Hãng lại gửi thêm sang một thư ký và một họa viên trong số 83 thầy thợ người Âu
dự tính cần thiết cho công cuộc xây dựng lớn lao này... Số thông ngôn, thợ
chuyên môn và phu phen khác sẽ mượn ngay tại chỗ hoặc tuyển từ Hương Cảng tới.
Dụng cụ và vật liệu khác được chở từ Pháp qua bằng tàu Anh nếu nhẹ, bằng thuyền
nếu quá cồng kềnh.
Vì là việc trọng đại, nên hãng phái viên tổng thanh tra Firette sang điều đình
và quyết định tại chỗ. Sau khi nghiên cứu kỹ, viên này viết thư cho đô đốc
Bonard ngày 28-3-1862, xin thay đổi một địa điểm chính yếu: Trả lại khoảnh đất
Chùa Vua để lấy một địa điểm khác ở ngã ba sông Sài Gòn với vàm Bến Nghé (tức
vị trí hiện nay).
Ðịa điểm mới chỉ rộng bằng nửa Chùa Vua tức chưa quá 6 ha rưỡi, nhưng sát trung
tâm thành phố, thuận lợi hơn. Tuy nhiên, vẫn xin được sử dụng gạch đá và các
vật liệu khác của Chùa Vua vì hãng đã bỏ tiền của ra để khai hoang di tích đó
(!). Chùa Vua đây chính là Văn Thánh miếu của đất Gia Ðịnh xưa.
Quá nửa năm 1862, hãng đã bắt đầu xây cất, trước hết là cư xá cho công nhân
viên, các văn phòng và chủ yếu là ngôi Nhà Rồng (Pháp mệnh danh: Biệt thự hãng,
Hotel des M.I.). Cho đến nay, chưa biết ai đã vẽ họa đồ kiến trúc Nhà Rồng và
có sáng kiến đặt hai con rồng tráng men xanh uốn khúc trên nóc cao (lưỡng long chầu
nguyệt, không hiểu sao khi sửa mái nhà, người ta cho quay đầu rồng ra hai ngả,
chẳng thành kiểu cách gì nữa). Do đấy, người mình đặt tên cho hãng và cả bến
cảng là Nhà Rồng dù hãng đã thay chủ đổi ngôi và cải tên từ Vận tải đế quốc
sang Vận tải hải dương (Messageries Impériales, Messageries Maritimes).
Ngày 15-8-1862, khánh thành ngọn hải đăng ở Vũng Tàu, lần đầu tiên ánh đèn đã
từ trên cao chỉ lối cho tàu bể từ xa thấy đường vào cửa biển Cần Giờ. Hoàn
thành một dây điện tín liên lạc từ Vũng Tàu với Sài Gòn để thông báo việc ra vô
của tàu thuyền. Thủ Ngữ được dựng cao, từ ngã ba Nhà Bè đã thấy dấu hiệu. Hai
tàu kéo đã mua từ Xiêm phụ trách việc sắp xếp bến đậu và quay mũi các thuyền
tàu lớn (sông Sài Gòn chỉ rộng từ 200 đến 300 m) ngày 25-8-1862, luật cảng Sài
Gòn ban hành với đầy đủ chi tiết.
Con tàu hơi nước đầu tiên của hãng khai trương đường biển từ Pháp tới bến cảng
Nhà Rồng ngày 23-11-1862, rồi tiếp tục đi Hương Cảng, sau đó lại trở về Sài Gòn
để bắt đầu chuyến đi Pháp ngày 11-12-1862.
Hiện nay không còn văn kiện để biết rõ lịch trình xây dựng Nhà Rồng ra sao,
nhưng báo Courrier de Saigon ngày 5-11-1865 đã tả cảnh nhộn nhịp của bến cảng
với đủ mọi loại tàu bè lớn nhỏ cạnh "ngôi biệt thự huy hoàng của hãng Vận
tải đế quốc", bên bờ sông Sài Gòn. Toàn bộ kiến trúc gồm ngôi Biệt thự Nhà
Rồng, văn phòng, cư xá, tổng khố, nhà máy, kho than, giếng nước, bến đậu...
chiếm một diện tích khá lớn. Riêng các xưởng thợ và kho đã phải lợp trên 18.000
mét vuông mái ngói. Cầu tàu bến đậu dài tới 350 m. Tổn phí mất gần 3 triệu
France, trong khi dự tính có 1 triệu. Công tác tiến hành liên miên suốt từ 1862
tới 1867 mới tạm xong. Nếu căn cứ vào chỉ thị của hãng từ Pháp, phải ưu tiên
xây dựng biệt thự Nhà Rồng để tiêu biểu cho Ðại lý ở Á Ðông, thì có thể phỏng
đoán Nhà Rồng đã thành hình từ 1863 rồi. Ðây là ngôi nhà lớn nhất, xây sớm nhất
của Sài Gòn do Pháp thống trị còn tồn tại vững vàng đến nay. Nó đã gần 140
tuổi. Nó còn ra đời trước xa đối với dinh soái phủ, tòa án, nhà thờ, chợ Bến
Thành, Nhà hát lớn, ga xe lửa, tòa Xã Tây... Ðấy là chưa kể tới tuổi thọ của
gạch, ngói, gỗ, đã lấy từ một di tích lịch sử quý báu của dân tộc Việt Nam mà
hãng đã dùng để xây dựng biệt thự đó.
Ngày 1-1-1937, 20.000 đồng bào đã biểu tình khi lao công đại sứ Pháp Godart
sang điều tra tình hình Ðông Dương trong thời kỳ Mặt trận bình dân.
Trong những ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1945,
quân và dân Việt Nam đã nhiều lần tiến công quân địch ở vùng Khánh Hội, bến Nhà
Rồng. Ðặc biệt, đêm 15-10-1945 quân khởi nghĩa đã đốt cháy chiếc tàu A-Léc của
Pháp vừa cập bến Nhà Rồng.
Danh Sách Các Bảo Tàng tại TP.Hồ
Chí Minh
Bảo tàng Tôn Đức Thắng
Địa chỉ: số 5, đường Tôn Đức Thắng, quận 1.
Bảo tàng Tôn Đức Thắng được thành lập nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ
tịch Tôn Đức Thắng (1888 - 1988) tại toà nhà vốn là tư dinh của Trần Thiệu
Khiêm, Thủ tướng của chính quyền Sài Gòn trước năm 1975.
Bảo tàng là nơi lưu giữ, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu, về cuộc đời và sự
nghiệp của Chủ tịch Tôn Đức Thắng - nhà yêu nước lớn, một chiến sĩ kiên cường
mẫu mực. Chủ tịch Tôn Đức Thắng là người Việt Nam duy nhất đã tham gia phản
chiến trên chiến hạm France tại biển Đen vào năm 1917, ủng hộ cuộc cách mạng vô
sản đầu tiên trên thế giới thắng lợi - cách mạng tháng Mười Nga. Là người kế
tục chức vụ Chủ tịch nước Việt Nam sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, từ năm
1969 đến năm 1980.
Hiện này, Bảo tàng có 7 phòng trưng bày với diện tích trên 700 m2. Bảo tàng đã
thể hiện một cách sinh động, khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch
Tôn Đức Thắng qua hơn 600 hiện vật, tài liệu, hình ảnh.
Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ
Địa chỉ: số 202, đường Võ Thị Sáu, quận 3.
Toà nhà này nguyên là dinh cơ của Nguyễn Ngọc Loan - Giám đốc Tổng nha Cảnh Sát
chế độ nguỵ quyền Sài Gòn cũ. Năm 1984 được Nhà nước giao làm Nhà truyền thống
Phụ nữ Nam Bộ. Sau đó được xây thêm toà nhà 4 tầng và đổi thành Bảo tàng Phụ nữ
Nam Bộ.
Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ có diện tích trưng bày khoảng 2000 m2 gồm 10 phòng trưng
bày về truyền thống dựng nước và giữ nước của phụ nữ Nam Bộ. Có một hội trường
800 chỗ ngồi, một phòng chiếu phim, một thư viện và một kho lưu giữ hàng trục
ngàn hiện vật, tranh ảnh quý hiếm.
Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ mở cửa từ năm 1985, là trung tâm sinh hoạt văn hoá giáo
dục, hội thảo khoa học, họp mặt truyền thống, giao lưu văn hoá của giới nữ nhằm
bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ.
Bảo tàng Mỹ thuật
Địa chỉ: số 97, đường Phó Đức Chính, quận 1.
Bảo tàng được thành lập theo quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh ngày 5 tháng 9 năm 1987. Đây vốn là ngôi nhà của một tư sản người Hoa là
Hui Bon Hoa xây dựng từ cuối thế kỷ XIX theo kiến trúc phương Tây, gồm 4 tầng.
Đây là một trong số ít ngôi nhà tư nhân bề thế nhất của Sài Gòn xưa.
Bảo tàng trưng bày các tác phẩm mỹ thuật, đồ thủ công mỹ nghệ Việt Nam từ cổ,
cận đến hiện đại. Ngoài ra, Bảo tàng cũng giới thiệu những tượng đá, phù điêu
thuộc văn hóa óc Eo, Chămpa.
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ:số 2, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1.
Nguyên trước là Bảo tàng Blanchard de la Brosse - tên của Thống đốc Nam Kỳ,
người sáng lập ra nó - được xây cất năm 1927 và hoàn thành vào ngày 1 tháng 1
năm 1929. Khi người Pháp rút đi (1954), Bảo tàng đổi tên là Viện Bảo tàng quốc
gia. Ngày 23 tháng 8 năm 1979, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra quyết
định thành lập Bảo tàng Lịch sử Viện Nam - thành phố Hồ Chí Minh.
Công trình nằm bên trái cổng vào Thảo Cầm Viên do kiến trúc sư người Pháp
Delaval thiết kế. Tòa nhà ở giữa có hình bát giác với hai tầng mái. Phần sau
tòa nhà được bố trí theo hình chữ U do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng thiết kế gồm
2 dãy nhà bên và sau cùng là dãy nhà 3 tầng. Khoảng giữa là hồ nước, cây cảnh.
Bảo tàng có 15 phòng tập hợp trên 5.000 cổ vật thuộc nền văn hóa Việt Nam và
của nhiều quốc gia Đông Nam Á như Chămpa, Phù Nam, Khơme, Lào, Indonesia và cả
Nhật Bản, Trung Quốc... Đặc biệt có nhiều tượng đá, bia đá, bình lọ gốm, các
loại y phục dân tộc từ Bình Trị Thiên trở vào, phần lớn có niên đại trên 1.000
năm
Bảo tàng Hồ Chí Minh (Bến
Nhà Rồng)
Địa chỉ: số 1, đường Nguyễn Tất Thành, quận 1.
Bến Nhà Rồng hay khu lưu niệm Bác Hồ nằm trên ngã ba sông Sài Gòn, đầu đường
Nguyễn Tất Thành. Nơi đây ngày 5 tháng 6 năm 1911 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuống
tàu “Đô đốc Latouche Tréville” ra đi tìm đường cứu nước. Nhà Rồng nguyên là trụ
sở của đại diện hãng chuyên chở hàng hải Pháp (thuộc Công ty vận tải đường biển
Pháp Messageries Pharitimes) xây cất năm 1862 làm nơi ở cho viên tổng quản lý
và là nơi bán vé tàu. Toà nhà có hình 2 con rồng trên nóc. Con tàu đầu tiên rời
bến Nhà Rồng vào tháng 11 năm 1862.
Ngày 3 tháng 9 năm 1979, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định lấy
Nhà rồng là “Khu lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh” (tức Bảo tàng Hồ Chí Minh - Bến
Nhà Rồng). Bên trong khu nhà lưu niệm có trưng bày nhiều hình ảnh và hiện vật
về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Từ đó đến nay, Bảo tàng Hồ Chí Minh - Bến Nhà
Rồng đã đón tiếp hàng chục triệu lượt khách trong và ngoài nước vào tham quan.
Ngoài ra, tại đây thường tổ chức những cuộc vui lớn, biểu diễn nghệ thuật, nghe
kể chuyện truyền thống, tổ chức lễ kết nạp Đảng, kết nạp Đoàn viên...
Bảo tàng lực lượng vũ trang
miền Đông Nam Bộ
Địa chỉ: số 247, đường Hoàng Văn Thụ, quận Tân Bình.
Bảo tàng còn có tên gọi là Bảo tàng Quân khu 7, nằm trên khu đất rộng 2,5
hecta. Toàn bộ hiện vật, sa bàn, hình ảnh trưng bày tập trung thể hiện quá
trình hình thành và lớn mạnh của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ. Nội dung
trưng bày chia làm 3 phần:
- Từ tổ chức vũ trang đầu tiên (xích vệ đội Phú Riềng năm 1930) đến lực lượng
vũ trang thời kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).
- Lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975).
- Lực lượng vũ trang Quân khu 7 trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong nghĩa
vụ quốc tế (1975 - 1995).
Bảo tàng Địa chất
Địa chỉ: số 2, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1.
Bảo tàng địa chất tại thành phố Hồ Chí Minh được thành lập năm 1954, là một
trong hai bảo tàng địa chất của Việt Nam. Tại đây, hiện lưu giữ và trưng bày
hơn 20.000 mẫu đá, hàng ngàn mét lõi khoan, 50 sưu tập mẫu cổ sinh vật, nhiều
sưu tập mẫu khoáng sản của các mỏ điển hình của Việt Nam, nhiều sưu tập mẫu
khoáng vật chuẩn của các nơi trên thế giới.
Đến Bảo tàng địa chất, du khách sẽ thấy rõ sự tiến hóa địa chất của lãnh thổ
Việt Nam (từ cách đây 4.000 triệu năm tới nay); thấy rõ các quá trình địa chất
(vũ trụ, kiến tạo, magma, trầm tích, biến chất, phong hóa) đã tác động đến sự
hình thành trái đất như thế nào. Bức tranh về sự phong phú tài nguyên khoáng
sản của đất nước đã được thể hiện sinh động bởi nhiều sưu tập mẫu khoáng sản.
Bảo tàng địa chất còn có khả năng cung cấp các sưu tập mẫu đá, quặng phục vụ
cho việc học tập và nghiên cứu của học sinh, sinh viên và các nhà nghiên cứu
khoa học trong và ngoài nước. Bảo tàng cũng hướng dẫn các Tour du lịch địa chất
quanh thành phố Chí Minh và các vùng lân cận.
Bảo tàng Chứng tích Chiến
tranh
Địa chỉ: số 28, đường Võ Văn Tần, quận 3.
Xưa khu vực này là phần đất của chùa Khải Tường, nơi sinh ra vua Minh Mạng năm
1791 và được ông cho sửa sang lại năm 1832.
Khi đánh chiếm Sài Gòn (1859), quân Pháp đã biến chùa thành cứ điểm phòng thủ
chống lại quân triều Nguyễn. Khi đã đánh chiếm toàn bộ Nam Kỳ, Pháp dùng chùa
Khải Tường làm nơi đào tạo giáo viên cho học sinh người Việt, tiếp đến làm dinh
thự cho quan chức Pháp.
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, nơi đây là nơi bảo trì điện tử của Mỹ cho 4 cơ
quan: Đại sứ quán Mỹ, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ, Phủ Tổng thống và Phủ thủ tướng
chính quyền Sài Gòn.
Ngày 18 tháng 10 năm 1978, Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ký quyết định
thành lập Nhà trưng bày Tội ác Mỹ - Ngụy.
Ngày 10 tháng 11 năm 1990, đổi tên thành Nhà trưng bày Tội ác Chiến tranh xâm
lược. Đến ngày 4 tháng 7 năm 1995, lại đổi tên là Bảo tàng Chứng tích Chiến
tranh.
Trong khuôn viên rộng 0,73 hecta, Bảo tàng trưng bày các hiện vật và chứng tích
chiến tranh gồm các vũ khí, phương tiện chiến tranh của Mỹ đã sử dụng ở Việt
Nam như máy bay, xe tăng, đại bác, bom đạn... Có cả cỗ máy chém do Pháp sản
xuất đã được sử dụng trong khi áp dụng luật 10/59 dưới thời Ngô Đình Diệm.
Các hiện vật, chứng tích, các bức ảnh được trưng bày cho thấy sự khốc liệt của
chiến tranh và tinh thần kiên cường bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Bảo
tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ: số 65, đường Lý Tự Trọng, quận 1.
Tòa nhà Bảo tàng Cách mạng thành phố Hồ Chí Minh ngày nay được xây dựng từ năm
1985 đến năm 1890 thì hoàn thành, thực hiện theo đề án của kiến trúc sư người
Pháp Foulhoux.
Khởi đầu, việc xây dựng ngôi nhà này với mục đích làm nơi triển lãm thương mại.
Nhưng khi xây dựng xong thì được làm tư dinh cho viên Thống đốc Nam Kỳ. Sau
ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945), nơi đây được làm dinh Thống
đốc Nhật Minôda và sau đó là dinh Khâm sai đại thần Nguyễn Văn Sâm. Sau Cách
mạng tháng Tám tòa nhà được làm trụ sở ủy ban hành chánh Lâm thời Nam Bộ.
Tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp dùng làm trụ sở của Cao ủy Cộng hòa Pháp, tiếp
theo là dinh thủ hiến Nam Kỳ của Trần Văn Hữu.
Sau Hiệp định Genève 1954, nơi đây là “Dinh thủ hiến Nam phần”, đến “Dinh Gia
Long” của Ngô Đình Diệm rồi “Tối cao pháp viện” trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu.
Từ ngày 12 tháng 8 năm 1978 ngôi nhà này được sử dụng làm Bảo tàng Cách mạng
thành phố Hồ Chí Minh. Bảo tàng thể hiện các nội dung chính như sau:
- Một vài nét về Sài Gòn xưa.
- Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Những cuộc vận động chống thực dân Pháp
trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1859 - 1930).
- Sự truyền bá của chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời, cuộc vận động chống thực dân Pháp của nhân dân Sài Gòn - Gia định dưới
sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản trong phong trào những năm 1930 -1939, khởi nghĩa
Nam Kỳ 1940 và đặc biệt là Cách mạng tháng Tám 1945, thành lập nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa và ở thành phố là Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Lâm thời Nam
Bộ (1930 - 1945).
- Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Sài Gòn - Gia định (từ ngày 23 tháng 9 năm 1945
đến năm 1954).
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Sài Gòn - Gia định kết thúc
bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
(1954 - 1975).
Điểm Cần Thuyết Minh
Ở TP. Hồ Chí Minh
Một số công trình kiến
trúc và địa danh
Dinh Độc Lập (Hội Trường Thống Nhất)
I. Giới Thiệu Chung
Dinh Thống Nhất (tên gọi trước đây dinh Độc Lập hay dinh Norodom) là một địa
danh lịch sử quan trọng của thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam. Năm 1867, Pháp chiếm xong lục tỉnh Nam kỳ (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường,
Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Để củng cố bộ máy cai trị mới được thành lập ở
Nam Kỳ, 23 tháng 2 năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière đã làm lễ đặt viên đá
đầu tiên khởi công xây dựng Dinh Thống đốc Nam Kỳ mới tại Sài Gòn thay cho dinh
cũ được dựng bằng gỗ vào năm 1863. Dinh mới được xây dựng theo đồ án do kiến
trúc sư trẻ tuổi Hermite phác thảo (người phác thảo đồ án Tòa thị sảnh
Hongkong). Viên đá lịch sử này là khối đá lấy ở Biên Hòa, hình vuông rộng mỗi
góc 50 cm, có lỗ bên trong chứa những đồng tiền hiện hành thuở ấy bằng vàng,
bạc, đồng có chạm hình Napoleon đệ tam.
Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12 ha, bao gồm một dinh thự
lớn với mặt tiền rộng 80 m2, bên trong có phòng khách chứa 800 người, và một
khuôn viên rộng với nhiều cây xanh và thảm cỏ. Phần lớn vật tư xây dựng dinh
được chở từ Pháp sang. Do chiến tranh Pháp - Đức 1870 nên công trình này kéo
dài đến 1873 mới xong. Sau khi xây dựng xong, dinh được đặt tên là dinh Norodom
và đại lộ trước dinh cũng được gọi là đại lộ Norodom, lấy theo tên của Quốc
vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834-1904). Từ 1871 đến 1887, dinh được
dành cho Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên gọi là dinh Thống
đốc. Từ 1887 đến 1945, các Toàn quyền Đông Dương (Gouverneur-général de
l'Indochine Française) đã sử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc nên dinh
gọi là dinh Toàn quyền. Nơi ở và làm việc của các Thống đốc chuyển sang một
dinh thự gần đó.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương, Dinh
Norodom trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng
9 năm 1945, Nhật thất bại trong chiến tranh thế giới thứ II, Pháp trở lại chiếm
Nam bộ, Dinh Norodom trở lại thành trụ sở làm việc của bộ máy chiến tranh xâm
lược của Pháp ở Việt Nam.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pháp thất bại nặng nề trong chiến dịch Điện Biên Phủ,
phải ký Hiệp định Genève và rút khỏi Việt Nam. Việt Nam bị chia cắt thành 2
miền, miền Bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, còn miền Nam là Quốc Gia Việt Nam
(sau thành Việt Nam Cộng Hòa). Ngày 7 tháng 9 năm 1954 Dinh Norodom được bàn
giao giữa đại diện chính phủ Pháp, tướng 5 sao Paul Ely, và đại diện Quốc gia
Việt Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm.
Năm 1956, Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại, lên làm Tổng thống (xem thêm cuộc
trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955) và quyết định đổi tên dinh này thành
Dinh Độc Lập. Từ đó Dinh Độc Lập trở thành nơi đại diện cho chính quyền cũng
như nơi ở của tổng thống và là nơi chứng kiến nhiều biến cố chính trị. Thời kỳ
này, Dinh Độc Lập còn được gọi là Dinh Tổng Thống. Theo thuật phong thủy của
Dinh được đặt ở vị trí đầu rồng, nên Dinh cũng còn được gọi là Phủ đầu rồng.
Ngày 27 tháng 2 năm 1962, hai viên phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa,
Ông Nguyễn Văn Cử và Ông Phạm Phú Quốc, lái 2 máy bay AD6 ném bom làm sập toàn
bộ phần chính cánh trái của dinh. (xem thêm: Vụ đánh bom Dinh tổng thống Việt
Nam Cộng Hòa năm 1962. Do không thể khôi phục lại, Ngô Đình Diệm đã cho san
bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến
trúc sư Ngô Viết Thụ, người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.
Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời
gian xây dựng, gia đình Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia
Long (nay là Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh). Công trình đang xây dựng dở dang
thì Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính ám sát ngày 2 tháng 11 năm 1963. Do vậy,
ngày khánh thành dinh, 31 tháng 10 năm 1966, người chủ tọa buổi lễ là Nguyễn
Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia. Từ ngày này, Dinh Độc Lập mới xây
trở thành cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa
Nguyễn Văn Thiệu sống ở dinh này từ tháng 10 năm 1967 đến ngày 21 tháng 4 năm
1975.
Ngày 8 tháng 4 năm 1975, chiếc máy bay F5E do Nguyễn Thành Trung lái, xuất phát
từ Biên Hòa, đã ném bom Dinh, gây hư hại không đáng kể.
Lúc 10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, xe tăng mang số hiệu 843 của Quân
giải phóng miền Nam đã húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập, tiếp đó xe tăng
mang số hiệu 390 đã húc tung cổng chính tiến thẳng vào dinh. Lúc 11 giờ 30 phút
cùng ngày, Trung úy Quân Bắc Việt Bùi Quang Thận, đại đội trưởng, chỉ huy xe
843, đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng Hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên, kết thúc 30 năm cuộc chiến tranh Việt
Nam.
Sau hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc thành một đất
nước Việt thống nhất diễn ra tại dinh Độc Lập vào tháng 11 năm 1975, để kỷ
niệm, chính phủ lâm thời nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã quyết định đổi tên
“Dinh Độc Lập” thành Hội trường Thống Nhất. Nơi này được đặc cách xếp hạng di
tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 77A/VHQĐ ngày 25/6/1976 của Bộ Văn
hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch).
Ngày nay, Dinh Thống Nhất là một di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng được đông
đảo du khách trong nước và nước ngoài đến tham quan và là nơi hội họp, tiếp
khách của các cấp lãnh đạo trung ương cũng như thành phố.
II. Kiến trúc độc đáo
Dinh được xây dựng trên diện tích 4.500 m², diện tích sử dụng 20.000 m², gồm 3
tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng
cho máy bay trực thăng đáp xuống. Hơn 100 căn phòng của Dinh được trang trí
theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng bao gồm các phòng khánh
tiết, phòng họp hội đồng nội các, phòng làm việc của Tổng Thống và của Phó Tổng
Thống, phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến, v.v... chưa kể các phần khác
như hồ sen bán nguyệt hai bên thềm đi vào chánh điện, bao lơn, hành lang...
Dinh cao 26 m, tọa lạc trong khuôn viên rộng 12 ha rợp bóng cây. Bên ngoài hàng
rào phía trước và phía sau Dinh là 2 công viên cây xanh. Giữa những năm 1960,
đây là công trình có quy mô lớn nhất miền Nam và có chi phí xây dựng cao nhất
(150.000 lượng vàng). Các hệ thống phụ trợ bên trong Dinh hiện đại: điều hòa
không khí, phòng chống cháy, thông tin liên lạc, nhà kho. Tầng hầm chịu được
oanh kích của bom lớn và pháo. Mặt tiền của Dinh được trang trí cách điệu các đốt
mành trúc phỏng theo phong cách các bức mành tại các ngôi nhà Việt và họa tiết
các ngôi chùa cổ tại Việt Nam. Các phòng của Dinh được trang trí nhiều tác phẩm
non sông cẩm tú, tranh sơn mài, tranh sơn dầu.
Cơ quan hiện quản lý di tích văn hoá Dinh Thống Nhất có tên là Hội trường Thống
Nhất thuộc Cục Hành chính Quản trị II - Văn phòng Chính Phủ. Đây là di tích
lịch sử văn hoá nổi tiếng được đông đảo du khách trong nước và nước ngoài đến
tham quan.
Dinh Ðộc lập là một công trình kiến trúc độc đáo của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.
Dinh được khởi công xây dựng ngày 1 /7 / 1962 và khánh thành vào ngày
31/10/1966.
Khi thiết kế Dinh Ðộc lập, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa văn
hóa cho công trình, nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến tiền diện
bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền, nghi lễ Phương đông
và cá tính của dân tộc. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài hoà giữa nghệ
thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống Phương Ðông. Toàn thể bình
diện của Dinh làm thành hình chữ CÁT, có nghĩa là tốt lành, may mắn; Tâm của
Dinh là vị trí phòng Trình quốc thư; Lầu thượng là Tứ phương vô sự lầu hình chữ
KHẨU để đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU có cột cờ chính giữa
sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung
kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh dự và
mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM. Theo quan niệm dân chủ hữu
tam Viết nhân, viết minh, viết võ, ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải
có những con người hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này được
nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ VƯƠNG, trên có kỳ đài làm thành nét chấm
tạo thành hình chữ CHỦ tượng trưng cho chủ quyền đất nước. Mặt trước của dinh thự
toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào chính cùng 2 cột
bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ HƯNG ý cầu chúc cho nước nhà được
hưng thịnh mãi.
Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình dáng
những đốt trúc thanh tao bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được biến cách từ bức
cửa bàn khoa của các cung điện Cố đô Huế không chỉ làm tăng vẻ đẹp của Dinh mà
còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời.
Ði vào bên trong Dinh, tất cả các đuờng nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ
thẳng, các hành lang, đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu chính đại quang minh
làm gốc.
Sân trước của Dinh là một thảm cỏ hình oval có đường kính 102m. Màu xanh rì của
thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi bước qua
cổng.
Chạy dài theo suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong
hồ thả hoa sen và hoa súng gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi
đình, ngôi chùa cổ kính của Việt Nam.
Dinh có diện tích 120.000m2 (300m x 400m), được giới hạn bởi 4 trục đường chính
đó là:
- Ðường Nam Kỳ Khởi Nghĩa ở phía Ðông Bắc (mặt chính của Dinh)
- Ðường Huyền Trân Công Chúa ở phía Tây Nam (mặt sau của Dinh)
- Ðường Nguyễn Thị Minh Khai ở phía Tây Bắc (phía bên trái Dinh)
- Ðường Nguyễn Du ở phía Ðông Nam (phía bên phải Dinh)
Dinh có 04 khu
- Khu nhà chính hình chữ T diện tích mặt bằng là 4.500m2, cao 26m, nằm ở vị trí
trung tâm của khu đất. Ðây từng là nơi ở và làm việc Tổng thống ngụy quyền Sài
Gòn. Khu này có 03 tầng lầu, 2 gác lửng, 1 sân thượng, 1 tầng nền và 1 tầng
hầm. Tổng diện tích sử dụng là 20.000m2 chia làm 95 phòng. Mỗi phòng có 1 chức
năng riêng, kiến trúc và các trang trí phù hợp với mục đích sử dụng của mỗi
phòng. Sau 1975, khu nhà chính này tiếp tục được sử dụng một số phòng, còn lại
để phục vụ du khách tham quan.
- Khu nhà 2 tầng diện tích 8m x 20m phía đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ sở
làm việc của Ðảng Dân chủ. Sau năm 1975 là nơi làm việc của Ban giám đốc Hội
trường Thống Nhất.
- Khu 04 nhà 2 tầng phía góc đường Nguyễn Du - Huyền Trân Công Chúa trước 1975
là khu nhà ở của tiểu đoàn bảo vệ Dinh Ðộc lập. Sau 1975 là nơi ở của Ðại đội 1
trung đoàn cảnh vệ 180. Hiện nay khu này đã được cải tạo thành khu nhà khách
của Văn phòng Chính phủ.
- Khu nhà trệt phía góc đường Huyền Trân Công Chúa - Nguyễn Thị Minh Khai,
trước 1975 là khu sinh hoạt của đội cận vệ phi hành đoàn lái máy bay cho Nguyễn
Văn Thiệu, của bộ phận chăm sóc vườn cây. Hiện đã được cải tạo thành khu nhà
nghỉ trưa và bếp ăn tập thể của cán bộ công nhân viên Hội trường Thống Nhất.
Tên gọi dinh Thống Nhất qua
các thời kỳ
Năm 1868, sau khi chiếm xong Lục
tỉnh Nam kỳ, thực dân Pháp đã cho xây dựng tại đây một dinh thự. Lúc đầu Dinh
là nơi ở của Thống đốc Nam kỳ. Từ năm 1887 (17/10/1887), khi Tổng thống Pháp ký
sắc lệnh thành lập Liên bang Ðông dương thì Dinh trở thành Phủ toàn quyền Pháp
tại Ðông Dương với tên gọi là Dinh Norodom.
Năm 1954, sau thất bại ở Ðiện Biên Phủ, theo hiệp định Genève quân viễn chinh
Pháp phải rút khỏi Việt nam. Ngày 7/9/1954 Ðại tướng Paul Ely, Cao ủy Tổng chỉ
huy quân đội Pháp ở Ðông dương thay mặt cho nước Pháp đã trao Dinh Norodom cho
đại diện nhà cầm quyền Sài gòn là Thủ tướng Ngô Ðình Diệm. Buổi lễ chuyển giao
này được coi như một biểu tượng của nền độc lập quốc gia, vì thế ngày 8/9/1954
Ngô Ðình Diệm đã chính thức đổi tên dinh Norodom thành Dinh Ðộc lập.
Ngày 30/4/1975, giờ phút chiếm Dinh Ðộc lập cũng là giờ phút kết thúc thắng lợi
chiến dịch Hồ Chí Minh và chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Dinh Ðộc
lập trở thành điểm hội tụ của chiến thắng. Tháng 11/1975, Hội nghị hiệp thương
chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc đã diễn ra tại đây. Với những ý nghĩa
lịch sử trọng đại đó, năm 1976 Dinh đã được Nhà nước đặc cách công nhận là Di
tích lịch sử văn hóa Dinh Ðộc lập (Quyết định số 77A/VHQÐ ngày 25/6/1976).
Ngoài những tên gọi pháp lý như trên, trong nhân dân dinh thự này còn có những
tên gọi khác tùy theo từng thời kỳ như:
Thời Pháp thuộc còn gọi là Dinh toàn quyền.
Thời Việt nam Cộng hòa còn gọi là Dinh Tổng Thống. Và theo thuật phong thủy
Dinh được đặt ở vị trí đầu rồng nên còn gọi là Phủ đầu rồng.
Sau Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc còn gọi là Hội
trường Thống Nhất hay Dinh Thống Nhất.
Cơ quan hiện được giao quản lý di tích văn hoá Dinh Ðộc lập có tên là Hội
trường Thống Nhất thuộc Cục Hành chính Quản trị II - Văn phòng Chính Phủ.
III. Hoạt động
Hoạt động ngày nay:
Di tích lịch sử văn hoá Dinh Độc Lập nằm tại trung tâm thành phố Hồ Chí
Minh.Dinh vừa là điểm tham quan du lịch lý tưởng, vừa là nơi tổ chức các cuộc
hội nghị, hội thảo, tiếp khách của các cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài
nước; với các phòng họp sang trọng sức chứa từ 100 đến 500 người được trang bị
đầy đủ tiện nghi như:hệ thống điều hoà nhiệt độ, hệ thống âm thanh và ánh sáng
chuẩn, hệ thống phiên dịch điện tử, máy slide, máy overhead, máy projector...
Nằm trong khuôn viên Dinh còn có khu nhà khách 108 Nguyễn Du Q1 với 45 phòng
nghỉ tiện nghi, thoáng mát, phòng họp có sức chứa 150 người; nhà hàng phục vụ
liên hoan, sinh nhật, đám cưới từ 35 bàn trở xuống với các thực đơn đa dạng,
đội ngũ bếp và nhân viên phục vụ lịch sự, chu đáo, tận tình.
Hoạt động phục vụ du khách tham quan:
Giờ bán vé:
- Sáng từ 7h30 đến 11h00
- Chiều từ 13h00 đến 16h00
Mở cửa phục vụ tham quan hàng ngày (kể cả thứ bảy, chủ nhật và Lễ Tết).
Giá vé:
- 40.000đ/người lớn
- 20.000đ/trẻ em
Nếu là khách Việt nam đi theo đoàn trên 20 người lớn được giảm 30%.
Chương trình tham quan:
Du khách sẽ được đội ngũ hướng dẫn viên Hội trường Thống Nhất hướng dẫn tham
quan, thuyết minh về kiến trúc, trang trí và nội dung lịch sử liên quan đến 15
phòng của 3 tầng lầu, lầu tứ phương, tầng hầm và nhà bếp bằng tiếng Việt hoặc
tiếng Anh, Pháp, Hoa, Nhật ( thời gian tham quan khoảng 45 phút ). Sau chương
trình tham quan, du khách được xem bộ phim tư liệu chứng nhân lịch sử tại phòng
chiếu phim máy lạnh thời gian khoảng 35 phút.
DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT - TRỤ
SỞ ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - PHƯỜNG BẾN NGHÉ, QUẬN 1, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
10/11/2020 02:02
Tòa nhà Ủy ban
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là công trình quy mô lớn, tọa lạc ở vị trí
giáp với ba mặt tiền đường: Đồng Khởi, Lê Thánh Tôn, Pasteur, là điểm nhấn kiến
trúc cho khu trung tâm Thành phố.
Trải qua hơn
120 năm hình thành và phát triển, tòa nhà đã thay đổi tên gọi qua từng thời kỳ,
giai đoạn, là chứng nhân cho những chuyển biến lịch sử, chính trị, hành chính,
địa lý của Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh.
Tòa nhà do kiến
trúc sư Paul Gardès thiết kế, khởi công xây dựng năm 1898, trên khu đất cao,
phía cuối đường Charner ([1]) (nay là đường Nguyễn Huệ). Tòa nhà hoàn
tất và khánh thành năm 1909. Tòa nhà là trụ sở làm việc của Hội đồng thành phố
Sài Gòn, mang tên Hôtel de ville (tạm dịch là Tòa Thị chính), người dân thành
phố quen gọi với tên Dinh Đốc lý hay Dinh Xã Tây vì người đứng đầu Hội đồng
thành phố là vị Đốc lý người Pháp.
Năm 1959, chính
quyền Sài Gòn ban hành Sắc lệnh về việc tổ chức quản trị Đô thành Sài Gòn, tòa
nhà Dinh Xã Tây được đổi tên Tòa Đô Chánh, đứng đầu Đô thành Sài Gòn là Đô
trưởng.
Sau ngày 30
tháng 4 năm 1975, tòa nhà được Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn – Gia Định
tiếp quản, sử dụng làm trụ sở làm việc. Ngày 2 tháng
7 năm 1976, Quốc hội Việt Nam quyết định đổi tên thành
phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh, tòa nhà vẫn
được sử dụng làm trụ sở làm việc của chính quyền thành phố Hồ Chí Minh.
Hiện nay, tòa
nhà là trụ sở làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh. Nơi đây là địa điểm thường xuyên diễn ra các cuộc họp quan trọng và
hội nghị đặc biệt của lãnh đạo thành phố, là nơi tiếp đón các đoàn khách quốc
tế đến thăm viếng và làm việc tại Việt Nam.
Trụ sở nằm
trong khuôn viên có diện tích khoảng 7500m2. Lúc mới xây dựng, tòa nhà chỉ gồm
một khối sảnh với tháp đồng hồ nhô cao ở giữa và hai khối nhà một tầng ở hai
bên khối sảnh. Khoảng thập niên 1940, hai khối nhà một tầng này đã được xây
thêm tầng lầu. Trên đỉnh tháp treo lá quốc kỳ, phía dưới có chiếc đồng hồ tròn.
Chính giữa tháp đắp phù điêu hình một nữ thần, và hai thiên thần nhỏ đang chế
ngự các con thú. Trên mặt chính mỗi tầng tháp đắp tượng hai nữ thần tay cầm
thanh gươm, chung quanh là những sản vật địa phương. Thiết kế mặt đứng công
trình có sự pha trộn phong cách kiến trúc Baroque, trang trí kiểu Rococo, cửa
sắt kiểu art – nouveau…Hàng cột tròn theo thức cột Corinth chống đỡ phần trung
tâm của tầng lầu, được xen kẽ với các cửa vòm, tạo sự thông thoáng, mềm mại cho
tòa nhà. Trục trung tâm của tòa nhà nổi bật với cách trang trí dày đặc những
tràng hoa tròn, lá cây lan Tây (acanthus), phù điêu mặt người, mặt sư tử trên
tháp, các cột chống đỡ dưới ban công…
Cổng chính hình
vòm với năm cổng rộng, liên tiếp nhau cũng được trang trí khá cầu kỳ với những
dây hoa, lá…Các cổng đều được làm bằng sắt và được uốn lượn hoa văn đẹp mắt.
Cổng phụ ở mặt tiền là lối cho xe hơi chạy thẳng vào sân trong tòa nhà. Các mô
– tip trang trí trên cổng phụ khá đơn giản với những tràng hoa cách điệu.
Từ cổng chính
dẫn vào sảnh lớn giữa tầng trệt, hướng thẳng đến cầu thang dẫn lên lầu một.
Trên mảng tường chỗ chiếu nghỉ của cầu thang là phù điêu hai hài đồng cầm tấm
huy hiệu của Thành phố Sài Gòn. Trên tường và trần nội thất được bao phủ bởi
những mẩu hình nghệ thuật thay đổi qua từng phòng và những vòng hoa, lá
acanthus, lá laurier theo phong cách Louis XV, những kết cấu hình học, kính
màu… Năm 1966, ba dãy nhà bốn tầng được xây thêm phía sau tòa nhà cổ, hiện là
nơi làm việc của các phòng, ban thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố và trụ sở của
Sở Nội vụ.
Trong xu thế
phát triển và hội nhập, tòa nhà đã nhiều lần được trùng tu, nâng cấp, tôn tạo
cảnh quan, mở rộng cơ sở vật chất. Năm 1990, một khu nhà hai tầng được xây thêm
phía bên trái tòa nhà cổ, là nơi tổ bảo vệ kiểm tra khách ra vào, phòng làm
việc. Năm 1998, xây thêm một khu nhà hai tầng dọc theo ranh đất khuôn viên trụ
sở ở phía đường Pasteur. Những năm 1990, nhiều trụ đèn được lắp đặt để chiếu
sáng bên ngoài tòa nhà. Năm 2005, các chuyên gia ánh sáng của Thành phố Lyon
(Pháp) đã thiết kế và lắp đặt hệ thống chiếu sáng nghệ thuật làm cho tòa nhà
càng thêm rực rỡ.
Trụ sở Ủy ban
nhân dân thành phố không chỉ gìn giữ được những nét cổ kính, thanh lịch vốn có
mà nơi đây lưu giữ và phát huy truyền thống yêu nước, nơi ghi dấu buổi lễ ra
mắt nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định của Ủy ban Hành chánh lâm thời Nam bộ
vào ngày 25 tháng 8 năm 1945, ngày nhân dân tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám,
lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành lấy chính quyền về tay nhân dân. Bia
lưu niệm sự kiện lịch sử trọng đại này đã được dựng tại vườn hoa trước Trụ sở
Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Với những giá
trị hiện hữu, Trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã được Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia tại Quyết
định số 3244/QĐ-BVHTTDL ngày 04 tháng 11 năm 2020./.
Trụ sở Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
Các cửa vòm tầng trệt khối
sảnh
Đại sảnh ở tầng trệt
Khối cầu thang
[1] Đường Charner hình thành sau
khi Pháp hoàn tất việc lấp con kênh Lớn (kinh Chợ Vải), từ sông Sài Gòn chạy
lên khu vực đường Bonard vào năm 1887. Người Pháp gọi là Boulevard Charner,
người việt thường gọi là đường Kênh Lấp.
Nguồn: SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO
Nhà Hát Thành Phố
Nằm ở điểm cuối (kết thúc) đại lộ
Lê Lợi, xem như một công trình văn hóa tiêu biểu và tốn kém nhất ở Sài Gòn thời
Pháp thuộc. Xây cất từ năm 1898, kiến trúc sư Ferret thiết kế, theo phong cách
Barốc thời Đệ tam Cộng hòa Pháp, đặc biệt với nhiều tác phẩm trang trí mặt tiền
đặt làm từ bên Pháp chở sang. Khánh thành vào ngày 1 tháng 1 năm 1900, nhằm
truyền bá văn hóa Pháp.
Bố cục bắt chước theo kiểu nhà hát kịch Opéra ở Paris, vơi phòng khán giả, sân
khấu lớn, không gian phần giải lao rộng rãi. Có thêm tầng hầm, mái gãy dạng
Mansart, trước lợp tấm đồng.
Lúc đầu nhà hát hoạt động sôi nổi với các đoàn hát từ chính quốc sang, sau bị
ngành chiếu bóng, nhà hàng, vũ trường cạnh tranh nên chỉ sinh hoạt cầm chừng
với các buổi ca hát, hòa nhạc và cải lương. Từ năm 1955 đến năm 1975, lấy làm
Hạ nghị viện, nay khôi phục lại làm nhà hát thành phố, nhưng qui mô quá nhỏ so
với yêu cầu một Sài Gòn quá lớn ngày nay.
Năm 1998, nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, Nhà hát được
trùng tu phục chế gần như cũ với kinh phí 25 tỉ
Học viện hàng
không Việt Nam
Ngày 17
tháng 7 năm 2006, thừa lệnh Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm
đã ký Quyết định số 168/2006/QĐ-TTg về việc thành lập học viện Hàng không Việt
Nam trên cơ sở trường Hàng không Việt Nam.
Đây là cơ sở đào tạo đại học trực thuộc Bộ Giao thông - Vận tải, có tư cách
pháp nhân, con dấu, tài khoản riêng. Trụ sở của học viện Hàng không Việt Nam
đặt tại thành phố Hồ Chí Minh. Học viện Hàng không hoạt động theo điều lệ
trường đại học do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Phó Thủ tướng giao Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và Giám đốc học viện Hàng không Việt Nam chịu trách nhiệm thi hành
quyết định này.
Khu vực Văn Thánh
Có nhiều tên gọi như cầu Văn Thánh, bến xe Văn Thánh, chợ Văn Thánh,
khu du lịch Văn Thánh. Tên gọi Văn Thánh xuất phát từ năm 1824, khu vực
này có xây dựng ngôi văn miếu thờ Đức Khổng Tử nên người ta gọi la khu Văn
Thánh. Trong thời Pháp, miếu hổ đã bị phá vỡ hiện nay không còn nữa.
Bến xe Văn Thánh là một bến xe lớn và lâu đời ở khu vực này. Từ đây có
thể đi Vũng Tàu, Biên Hòa và một số tỉnh miền miền Trung. Cuối năm 1996, bến xe
đuợc dời sang bến xe miền Đông vì ở đây xây dựng hệ thống đường lớn và cao tốc,
nếu bến xe còn sẽ gây ra ách tắt giao thông.
Chợ Văn Thánh được xây dựng từ khoảng những năm 1993 - 1994 dự kiến đây
là chợ đầu mối cho các lọai hàng hóa từ miền Trung và khu vực Tân Cảng. Nhưng
chợ Văn Thánh đi vào họat động chưa bao lâu thì bến xe Văn Thánh dời đi, làm
chợ mất khách dẫn đến mất luôn vị trí chiến lược như dự tính. Hiện nay, chợ rất
ế, nhà nước đang có dự kiến bán chợ cho doanh nghiệp Đài Loan sử dụng vào việc
khác.
Khu du lịch Văn Thánh nằm trên cù lao 7 hecta nên còn gọi là cù lao 7
mẫu. Khu du lịch này tuy nhỏ nhưng được khá nhiều người biết tới vì những năm
1993 - 1994 ở đây tổ chức thi tuyển diễn viên điện ảnh. Vào ngày 5 tháng giêng
âm lịch hàng năm nơi này tưng bừng tổ chức lễ hội mừng chiến thắng Đống Đa
(ngày 5 tháng 1 năm 1789).
Sông Sài Gòn
Sông Sài Gòn dài 230 km bắt nguồn từ cao nguyên Hớn Quảng - Bình Phước, đoạn
sông là ranh giới tự nhiên giữa Tây Ninh và Bình Phước, một phần nước sông đổ
vào khu vực khu vực Bến Cát đến Thủ Dầu Một vào thành phố Hồ Chí Minh và hợp
với sông Đồng Nai đổ ra cửa Cần Giờ vịnh Gành Rái, đây là con sông có giá trị
lớn vê mặt giao thông nơi tập trung nhều cảng lơn như: cảng Sài Gòn, cảng Cát
Lái, Tân Cảng.
Cầu Sài Gòn
Cầu Sài Gòn được xây dựng từ năm 1959 đến năm 1961. Do công ty C.E.C
(Capital Engeneering Corporation) và hai công ty khác của Mỹ thi công. Cầu dài
987,431 mét và rộng 19,3 mét với 32 nhịp, trọng tải 25 tấn. Hiện nay là cây cầu
dài nhất Nam Bộ. Cầu đã được đầu tư nâng cấp năm 1998 với tổng kinh phí 54
triệu France và 7 tỉ đồng Việt Nam, từ 19,3 mét nay cầu rộng đến 24 mét.
Cư xá Thanh Đa
Cư xá Thanh Đa (cư xá màu xanh) gồm 29 lô chiếm diện tích 36 hecta,
được xây dựng 1973 làmkhu nhà ở cho cán bộ công nhân viên, đây là khu cư xá lớn
nhất cả nước nhưng giờ nó đang bị xuống cấp trầm trọng, nhà nước đang có kế
hoạch đầu tư nâng cấp. Khu du lịch Bình Quới là khu du lịch dưới nước với nhiều
hoạt động vui chơi, giải trí trên đoạn sông Sài Gòn, tới đây ta có thể lướt ván
trên sông, tổ chức dã ngoại, đi tàu du lịch và câu cá thư giãn, hàng năm thường
tổ chức trại hè cho thiếu nhi toàn thành. Khu biệt thự An Phú còn gọi là khu
nhà cao cấp màu hồng được bố trí khá đẹp mắt ven sông Sài Gòn, giá thuê rất cao
dành cho người nhiều tiền.
Khu vực Tân Cảng
Trước đây là một hải cảng quân sự lớn của Mỹ - Ngụy. Sau ngày giải phóng, đây
là khu vực của Hải Quân Việt Nam. Giữa năm 1999, Tân Cảng được chia làm hai khu
vực: khu vực quân sự và khu vực kinh tế cho tàu xuất nhập hàng hóa và kho để
container. Từ cầu Sài Gòn nhìn xuống ta có thể thấy hệ thống container xếp
chồng lên nhau trong một khu vực rộng lớn.
Quận 2
Diện tích 5.020 hecta gồm: An Phú, An Khánh, Thủ Thiêm, Thành Mỹ Lợi, Bình
Trưng. Kế hoạch phát triển khu kinh tế của quận là trở thành một trung tâm
thương mại và dịch vụ, ngân hàng, tài chính, chứng khoán. Với dân số 86.027
người gồm 11 phường và 2/3 diện tích dành cho các công trình lớn như:khu An
Khánh, khu dân cư Bình Trưng - Thạnh Mỹ Lợi, khu liên hợp thể dục - thể thao
Rạch Chiếc, khu công nghiệp Rách Lái... Ngoài ra con nhiều công trình giao
thông như: cầu Thủ Thiêm, đường song hành Quốc lộ 22, xa lộ Vành Đai nối dài,
đường cao tốc Bà Rịa - Vũng Tàu, xa lộ nối đường Bắc Nhà Bè - Nam Bình Chánh.
Quốc lộ 52 (Xa lộ Biên Hoà)
Xa lộ Biên Hòa được xây dựng từ năm 1959 đến năm 1961, do Mĩ đầu tư và
giao cho công ty CEC thiết kế, thi công. Xa lộ Biên Hòa rộng 21 mét, dài 31 km,
bắt đầu từ cầu Điện Biên Phủ và kết thúc tại ngã tư Tam Hiệp (Biên Hòa), nên có
tên gọi là Xa lộ Biên Hòa. Trước năm 1975, Mĩ và chính quyền Sài Gòn sử dụng
con đường này như một đường băng quân sự dã chiến khi sân bay Tân Sơn Nhất có
sự cố. Đến năm 1971, họ cho rằng con đường này thuận lợi cho quân cách mạng đổ
bộ tấn công Sài Gòn nên đã xây dựng vách ngăn giữa tim đường. Năm 1984, nhân
dịp kỉ niệm 30 năm ngày giải phóng Hà Nội và xa lộ này được đổi tên thành Xa lộ
Hà Nội. Năm 1998, cùng với dự án mở rộng Quốc lộ 1A, xa lộ cũng được khôi phục,
mở rộng và bàn giao cho chính phủ Việt Nam vào ngày 20 tháng 1 năm 1998. Ngày
nay, hai bên xa lộ đã mọc lên các khu dân cư sầm uất, khu vực vui chơi giải trí
thể thao, làng đại học và đặc biệt là các khu công nghiệp cao.
Quận 9
Diện tích 113,75 km2, dân số 123.059 người gồm 13 phường và các xã: Long Bình,
Long Thanh Mỹ, Tăng Nhơn Phú, Long Phú, Long Phước, Long Trường, Phú Hữu, Phước
Bình. Một phần diện tích các xã: Tân Phú, Phước Long, Hiệp Phú, Bình Trưng.
Theo quy hoạch, quận 9 là khu công nghiệp kỹ thuật cao, du lịch vườn, thảm xanh
thực vật ven sông Đồng Nai nhằm bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp cho thành phố.
Ở đây có một số công trình lón như: sân golf 350 hecta, khu lâm viên rộng từ
300 hecta đến 400 hecta, khu công nghiệp kỹ thuật cao 800 hecta, khu công
nghiệp Phước Long - Tăng Nhơn Phú 100 hecta, khu dịch vụ thể dục - thể thao ven
sông Đồng Nai 510 hecta, khu quần thể di tích lịch sử văn hóa dân tộc 325 hecta
và các công trình giao thông trọng điểm khác.
Thành Phố Thủ Đức
Diện tích 47,26 km2, dân số 16.387 người gồm 12 phường: Thủ Đức, Linh
Trung, Linh Xuân, Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Tam Phú và một phần của các
xã: Hiệp Phú, Tam Phú, Phước Long. Quận gồm 8 khu quy hoạch trọng điểm: khu
công nghiệp Bắc Thủ Đức 400 hecta, khu công nghiệp Tam Bình 50 hecta, khu công
nghiệp Bình Chiểu 28 hecta, khu dân cư Hiệp Bình Chánh - Linh Đông từ 50 hecta
đến 70 hecta, khu dân cưmới 46 ha, 1 phần trường đại học quốc gia 200 hecta.
Thành phố Thủ Đức đã chính thức
được thông qua sau gần 2 năm chính quyền TPHCM xúc
tiến xin thành lập Thành phố Thủ Đức (hay Thành phố phía Đông) trực
thuộc thành phố hiện hữu. Hãy cùng theo dõi bài viết tổng hợp các thông
tin liên quan đến mục tiêu chiến lược, các bước triển khai và mô hình ý tưởng
phát triển Thành phố Thủ Đức tại bài viết dưới đây.
Chiều 9/12/2020, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thông qua nghị quyết thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TP HCM với tỷ
lệ đồng ý 100%.
Nghị quyết 1111/NQ-UBTVQH14 của UBTVQH có hiệu lực thi
hành từ 01/01/2021; theo đó thành lập TP Thủ Đức trên cơ sở nhập toàn bộ
diện tích tự nhiên và dân số của Quận 2, Quận 9 và quận Thủ Đức.
Sau khi thành lập, TP Thủ Đức rộng trên 211 km2 diện tích tự nhiên và quy mô
dân số hơn một triệu người; nằm giáp Quận 1, Quận 4, Quận 7, Quận 12, quận Bình
Thạnh; tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Dương.
Kể từ ngày 22/01/2021, tất cả các hoạt động điều hành và sử dụng con dấu sẽ do
chính quyền địa phương của Thành phố Thủ Đức thực hiện.
Quy hoạch phát triển đô thị theo hướng sáng tạo là định
hướng mới của TP.HCM.
Chính quyền thành phố mong muốn hình thành một khu đô thị sáng tạo nằm trên
trục phát triển hướng đông – đông bắc về phía quận 2, quận 9, quận Thủ Đức để
hình thành 1 đơn vị hành chính mới tạm gọi là Thành phố phía Đông hay
Thành phố Thủ Đức.
Nghị quyết thành lập thành phố Thủ
Đức (1111/NQ-UBTVQH14)
Thành lập TP Thủ Đức trên cơ sở
nhập toàn bộ 49,79km2 diện tích tự nhiên, 171.311 người của quận 2; toàn bộ
113,97km2 diện tích tự nhiên, 310.107 người của quận 9 và toàn bộ 47,80km2 diện
tích tự nhiên, 532.377 người của quận Thủ Đức. Sau khi thành lập, TP Thủ Đức có
211,56km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số 1.013.795 người”
Xây dựng
Khu đô thị sáng tạo
Các bước triển khai đề
án Thành phố Thủ Đức
– Ngày 23/11/2019: UBND TP.HCM
trao giải nhất cho đội Sasaki – Encity về ý tưởng quy hoạch khu đô thị sáng tạo
phía đông.
– Tháng 11/2019: Bí thư Thành uỷ TP. HCM Nguyễn Thiện Nhân khẳng định
quyết tâm thực hiện Khu đô thị sáng tạo TP. HCM
– Ngày 24/4/2020: UBND TP.HCM thành lập Ban chỉ đạo về xây dựng khu đô thị
sáng tạo phía đông gồm 22 thành viên, do ông Nguyễn Thành Phong, chủ tịch UBND
TP.HCM, làm trưởng ban.
– Tháng 5/2020: Sở Nội vụ đã có tờ trình UBND TP.HCM về phương án tổng thể
sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, xã và bổ sung việc sáp nhập 3 quận: 2,
9 và Thủ Đức để hình thành đơn vị hành chính là thành phố trực thuộc TP.HCM
(tạm gọi là Thành Phố Phía Đông).
– Ngày 25/5/2020: Sở Quy hoạch – kiến trúc đề xuất điều chỉnh quy hoạch
1/2.000 khu Linh Trung, Tam Đa, Trường Thọ để sớm thực hiện các dự án trong khu
đô thị.
– Ngày 25/7/2020: tại hội nghị Thành ủy, Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn
Thiện Nhân cho biết tên gọi của thành phố mới ở phía Đông sẽ được thống nhất
sau khi đề án được Quốc hội thông qua. Trong thời gian chờ đợi, thành phố trong
tương lai sẽ tạm lấy tên là Thành phố Thủ Đức.
– Vào giữa tháng 8/2020, tại buổi làm việc của Ban Cán sự Đảng Chính phủ
với Ban thường vụ Thành ủy TP.HCM, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ủng hộ đề
án Đề án thành lập thành phố trực thuộc TP HCM – thành lập TP Thủ Đức
(thành phố phía đông của TP.HCM).
– Ngày 20/09/2020: Sở Nội vụ TP.HCM đề xuất lộ trình, phương án sắp xếp
cán bộ, công chức, viên chức nhằm phục vụ đề án sắp xếp các đơn vị hành chính
cấp huyện, xã giai đoạn 2019-2021 và bố trí trụ sở làm việc.
Theo đó, Sở Nội vụ đề xuất chọn trụ sở UBND quận 2 (tại phường Thạnh
Mỹ Lợi) làm nơi đặt trụ sở Thành ủy TP Thủ Đức.
– Ngày 3/10/2020: Cử tri của quận 2, 9 và quận Thủ Đức (TP.HCM) bỏ phiếu
về việc sáp nhập ba quận thành một đơn vị hành chính cấp huyện.
– Ngày 12/10/2020: 100% đại biểu HĐND TP HCM thông qua Nghị quyết về việc
sáp nhập ba quận 2, 9, Thủ Đức và 19 phường vào năm 2021.
– Ngày 10/11/2020: Chính phủ công nhận kết quả rà soát, đánh giá khu vực
thành lập TP Thủ Đức là Đô thị loại 1 trực thuộc TP HCM, theo đề nghị
của Bộ Xây dựng.
– Ngày 12/11/2020: Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội Đề án
thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TP HCM.
⭐ Ngày
9/12/2020: Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua nghị quyết thành lập thành phố
Thủ Đức thuộc TP HCM với tỷ lệ đồng ý 100%, chiều 9/12.
Nghị quyết của UBTVQH nêu thành lập TP Thủ Đức trên cơ sở nhập toàn bộ diện
tích tự nhiên và dân số của Quận 2, Quận 9 và quận Thủ Đức. (Nghị quyết có hiệu
lực thi hành từ 1/1/2021)
Cầu Rạch Chiếc
Cầu được xây dựng cùng thời với cầu Sài Gòn và xa lộ Biên Hòa từ năm 1959 đến
năm 1961, cầu dài 148,9 mét. Đây tuy là chiếc cầu nhỏ nhưng là nhân chứng cho
nhiều sự kiện lịch sử lớn, dưới chân cầu đã xảy ra luên tục hàng trăm trận đánh
giữa quân giải phóng và quân địch bảo vệ cầu (vì đây là điểm trọng yếu của xa
lộ Biên Hòa). Cuối cùng, quân ta cũng chiếm được cầu Rạch Chiếc nhưng đáng tiếc
là 59 chiến sĩ cách mạng đã hi sinh anh dũng ở đây để bảo vệ đường lưu thông
được an toàn, cho quân giải phóng tiến vào Sài Gòn.
Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí
Minh
Được xây dựng với diện tích 3 hecta, là nơi yên nghỉ của hàng ngàn chiến sĩ đã
hi sinh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ và cả cuộc
chiến trên chiến trường Campuchia. Nghĩa trang được xây dựng vào năm 1984 đến
tháng 4 năm 1987 thì hoàn thành với hình ảnh người mẹ Việt Nam cao sừng sững ôm
lấy mười ngàn đứa con thân yêu đã ngã xuống vì Tố quốc (Điêu khắc gia Nguyễn
Hải đã gửi tặng bức tượng này cho nhân dân thành phố Hồ Chí Minh năng động và
anh hùng). Hiện nay, nhà nước đang có kế hoạch xây dựng tại đây một đài tưởng
niệm các chiến sĩ đã ngã xuống nơi đây vào ngày 27 tháng 4 năm 1975.
NHÀ MÁY
NƯỚC THỦ ĐỨC
Nhà máy được xây dựng vào năm 1959, nhà máy có 8 bể lọc, lấy nước từ sông Đồng
Nai tại khu vực Hóa An với công suất 670.00 m3/ngày, cung cấp nước sinh hoạt
cho cả thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, chúng ta đang vay vốn từ Ngân hàng Phát
triển Châu Á (ADB) khoảng 5 triệu USD để thay đổi toàn bộ các ống dẫn nước từ
1,8 mét lên 2,4 mét.
Ngã tư Thủ Đức
Được xây dưng từ năm 1961 và hơn 200 ngôi biệt thự dành cho 200 giáo sư ở và
làm việc. Dự án lớn xây làng đại học ở cây số 12, cạnh xa lộ Biên Hòa cũ do
kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đưa ra phương án quy hoạch tổng thể. Công trình xây
dựng khu biệt thự với sự tham gia hầu hết của các kiến trúc sư nổi tiếng vào
lúc bấy giờ. Khu biệt thự được thiết kế đa dạng, đầy đủ tiện nghi nằm trên lô
đất thoáng mát.
Thảo Cầm Viên Sài Gòn (Sở Thú, Vườn Bách Thảo): Là một trong những công trình mang tính lịch sử và lâu đời nhất TP. HCM, Thảo Cầm Viên Sài Gòn không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là biểu tượng văn hóa đặc trưng của thành phố. Được xây dựng cùng lúc với Bưu điện TP. HCM, Nhà thờ Đức Bà và chợ Bến Thành, Thảo Cầm Viên Sài Gòn được xem như một chứng nhân của lịch sử, đã cùng đi qua những thăng trầm của con người và vùng đất này. Sức sống bền bỉ cùng những giá trị văn hóa đặc trưng đã mang đến cho Thảo Cầm Viên Sài Gòn một sắc thái riêng biệt và không thể nhầm lẫn với bất kỳ nơi nào khác. Thảo Cầm Viên Sài Gòn được xây dựng vào ngày 23.03.1864 với tên gọi đầu tiên là Vườn Bách Thảo. Người có công xây dựng nên Thảo Cầm Viên Sài Gòn là Đô đốc Toàn quyền Đông Dương Pierre-Paul De La Grandière, với tham vọng dùng nơi này để nâng cao văn hoá và các hoạt động bảo tồn động thực vật, cũng như phục vụ công trình nghiên cứu cho các nhà khoa học Đông Dương. Theo lệnh của Đô đốc, ông Louis Adolphe Germain – một thú y sĩ của quân đội Pháp, được giao nhiệm vụ mở mang 12ha vùng đất hoang ở phía Đông Bắc rạch Thị Nghè để làm nơi nuôi thú và ươm cây. Năm 1865, công trình hoàn thành với nhiều loại thú và cây quý hiếm được nhập về từ các nước lân cận như Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Campuchia… và được mở rộng đến 20ha. Người dân Sài Gòn khi ấy quen gọi Thảo Cầm Viên Sài Gòn là Sở Thú và tên gọi phổ thông này vẫn gắn liền với Thảo Cầm Viên Sài Gòn cho đến tận hôm nay.
TẦM NHÌN
Trở
thành khu vui chơi, giải trí văn hoá, giáo dục và bảo tồn thiên nhiên hàng đầu
tại Việt Nam.
SỨ MỆNH
–
Nhân giống và bảo tồn các loài động thực vật quý hiếm
– Giáo dục về cách bảo vệ môi trường thiên nhiên
– Nghiên cứu về động thực vật
– Tạo ra sân chơi mang tính giáo dục cao cho tất cả mọi người và là nơi nghiên
cứu cho các nhà khoa học
ĐỊNH HƯỚNG
–
Là vườn thú lâu đời nhất và là biểu tượng của Sài Gòn, là niềm tự hào của người
dân Tp.HCM.
– Hướng đến những bước phát triển mang tầm vóc quốc tế với nhiều hoạt động
nghiên cứu khoa học và bảo tồn thiên nhiên.
– Tạo ra môi trường giáo dục lành mạnh thông qua các hoạt động ngoại khóa bổ
ích hướng về thiên nhiên.
PHƯƠNG CHÂM
“Sự
hài lòng của du khách là nhiệm vụ của công ty.”
GIÁ TRỊ
Không
chỉ là một công viên giải trí lành mạnh với không khí trong lành và hệ động
thực vật phong phú, Thảo Cầm Viên Sài Gòn còn giữ vai trò quan trọng trong việc
giáo dục, bảo tồn và nghiên cứu về tự nhiên. Sự liên kết chặt chẽ về mặt chuyên
môn giữa Thảo Cầm Viên Sài Gòn và các tổ chức quốc tế như: Hiệp hội các Vườn
thú Đông Nam Á (SEAZA), Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), Hiệp hội
Vườn thú và Hồ cá Thế giới (WAZA), Tổ chức Quản lý loài Quốc tế (ISIS), Hiệp
hội Vườn thú Việt Nam (VZA)… là nền tảng vững chắc để Thảo Cầm Viên Sài Gòn
tiếp tục thực hiện các dự án bảo tồn và nghiên cứu thiên nhiên của mình.
CHỨC NĂNG – NHIỆM VỤ
–
Là nơi vui chơi, giải trí lành mạnh của người dân thành phố và các khu vực lân
cận.
– Là lá phổi xanh giúp điều hòa không khí và giữ gìn môi trường tự nhiên trong
lành của thành phố thông qua hệ thực vật phong phú, đa dạng
– Giữ nhiệm vụ quan trọng trong việc giáo dục công dân và phổ biến kiến thức về
việc bảo tồn sinh vật, cũng như gìn giữ môi trường. Việc chăm sóc các loài động
thực vật đặc hữu, có nguy cơ tuyệt chủng cao tại Thảo Cầm Viên Sài Gòn đóng vai
trò rất quan trọng trong việc bảo tồn những loài động, thực vật hiếm của Việt
Nam.
Nguồn:
https://saigonzoo.net/about-us/
Bưu
Điện Sài Gòn (Bưu Điện Thành Phố Hồ Chí Minh
Bưu điện Trung tâm thành phố Hồ Chí Minh - một điểm đến hấp dẫn
Là một công trình kiến trúc có lịch sử hơn 100 năm, Bưu điện Trung
tâm thành phố Hồ Chí Minh là một điểm đến hấp dẫn dành cho du khách cũng như
người dân thành phố.
Gương mặt đô thị ấn tượng
Tòa nhà Bưu điện Trung tâm thành phố Hồ Chí Minh có địa chỉ tại số
2 Công trường Công xã Paris (quận 1), kế bên Nhà thờ Đức Bà và là một trong
những công trình tiêu biểu của Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh. Đây là công
trình có ý nghĩa lịch sử và ghi dấu ấn trong quá trình phát triển Sài Gòn trước
đây theo hình thái đô thị hiện đại châu Âu. Cùng với các công trình khác như:
Nhà thờ Đức Bà, trụ sở UBND thành phố Hồ Chí Minh, bến Nhà Rồng, chợ Bến
Thành..., Bưu điện Trung tâm thành phố Hồ Chí Minh là một gương mặt tiêu biểu
của kiến trúc đô thị và là một điểm tham quan thu hút khách du lịch.
Công trình Bưu điện Trung tâm thành phố Hồ Chí Minh được xây dựng
từ năm 1886 đến năm 1891 theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Villedieu cùng
phụ tá Foulhoux. Đó là một công trình đặc biệt về công năng và hình ảnh đô thị,
gắn liền với sự phát triển của đô thị này.
Công trình mang phong cách kiến trúc cổ điển châu Âu kết hợp với
nét trang trí châu Á. Tòa nhà có bố cục đăng đối với hai khối bên 2 tầng, khối
giữa 3 tầng, mái dốc lợp ngói. Trên mặt đứng có nhiều ô cửa cuốn vòm trang trí
khá cầu kỳ. Lối vào là một vòm cuốn lớn với mái sảnh bằng sắt. Trên mái sảnh có
một chiếc đồng hồ tròn và tấm biển ghi năm xây dựng công trình: 1886 - 1891.
Giữa các cửa sổ tầng trệt có các ô trang trí hình chữ nhật. Màu sắc nguyên thủy
của tòa nhà là màu vàng đất nhạt, kết hợp với những đường gờ và phù điêu màu
trắng cùng các ô cửa lá sách màu xanh lá. Màu sắc và kiến trúc của công trình
hòa hợp với cảnh quan xung quanh, tạo thành một điểm nhấn trong không gian đô
thị.
Nội thất không gian giao dịch tòa Bưu điện Trung tâm gây ấn tượng
với những hàng cột thép trang trí chi tiết tinh xảo cùng hệ vòm mái khung thép.
Hệ vòm mái này tạo nên những ô cửa sổ lấy sáng ở đỉnh tường trên cao và từ mái.
Đặc biệt, ở đây còn lưu giữ hai tấm bản đồ lịch sử là Saigon et ses environs,
1892 (Sài Gòn và vùng phụ cận, 1892) và Lignes télégraphiques du Sud Vietnam et
du Cambodge, 1936 (Bản đồ đường dây điện tín của miền Nam Việt Nam và
Campuchia, 1936).
Điểm hẹn của người yêu thành
phố
Bưu điện Trung tâm thành phố Hồ Chí Minh có một vị trí đẹp trên
Công trường Công xã Paris. Phía trước công trình là một khoảng sân rộng hướng
ra vườn hoa phía Nhà thờ Đức Bà. Xung quanh đó là những công trình văn hóa,
không gian đô thị có sự kết nối với Nhà thờ Đức Bà, Công viên 30-4, Đường sách
Nguyễn Văn Bình. Nếu như Nhà thờ Đức Bà là chốn thâm nghiêm thì Bưu điện Trung
tâm lại là không gian mở, không chỉ du khách mà người dân sở tại cũng thích tới
đây.
Bên trong công trình, ngoài không gian nội thất ấn tượng còn có
một điều đặc biệt khác, đó là người viết thư tay thuê cuối cùng ở Việt Nam - cụ
Dương Văn Ngộ, 90 tuổi, người có hơn 70 năm gắn bó với ngành Bưu điện và tòa
Bưu điện Trung tâm. Năm 1990, cụ nghỉ hưu và xin lãnh đạo Bưu điện cho phép
được ngồi ở một góc sảnh để viết và dịch thư thuê. Khách hàng của cụ là
những người nghèo không biết chữ, người cần viết thư cho người nước ngoài, hay
người không biết ngoại ngữ. Cụ có thể sử dụng thành thạo tiếng Pháp và tiếng
Anh, và luôn mang theo cuốn từ điển cùng chiếc kính lúp. Hàng ngàn lá thư cụ
viết đã tỏa đi khắp thế giới với nhiều câu chuyện cảm động về tình người suốt
30 năm qua. Sự có mặt của cụ ở Bưu điện Trung tâm gợi sự tương đồng với nét cổ
kính của tòa nhà nhưng tương phản với cuộc sống đô thị hiện đại và công nghệ
bưu điện đã có bước tiến rất xa. Với nét chữ của mình, cụ đã kết nối biết bao
nhiêu con người trên thế giới.
Anh Trần Minh Thông, một người dân ở thành phố Hồ Chí Minh đến Bưu
điện để chụp ảnh cưới cho biết: “Chúng tôi chọn Nhà thờ Đức Bà và Bưu điện
Trung tâm để chụp ảnh cưới bởi đây là một không gian rất đẹp. Chúng tôi đã đến
nơi này nhiều lần nhưng vẫn luôn cảm thấy thú vị”. Còn chị Nguyễn Khánh Linh,
du khách từ Hà Nội tới, chia sẻ: “Là người yêu thích sưu tầm tem, tôi đã tới
đây để mua tem làm kỷ niệm. Tôi rất ấn tượng với công trình này và đã ở đây rất
lâu để nhìn ngắm, chụp ảnh. Đây quả là một điểm đến thú vị!”.
CÁC NGÔI CHÙA TẠI SÀI GÒN
Chùa Hoằng Pháp
Chùa Hoằng Pháp không chỉ đẹp về cảnh
quan mà còn đẹp về đạo hạnh của vị Tổ khai sơn. Chùa tọa lạc trên khu đất diện
tích 06 ha, tại Thành Ông Năm, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí
Minh.
Chùa Hoằng Pháp do cố Hòa thượng Ngộ Chân Tử sáng lập năm 1957. Nơi đây
xưa kia là một cánh rừng chồi. Sau hai năm khai phá, năm 1959 Hòa thượng mới
bắt đầu xây dựng bằng gạch đinh, hai tầng mái ngói, mặt chùa xoay về hướng
Tây Bắc. Do đức độ cao dày của Hòa Thượng, Phật tử các nơi quy tụ về quy y ngày
một nhiều. Để có đủ chỗ lễ bái, thuyết giảng , năm 1971, Hòa thượng xây
nối thêm mặt tiền chánh điện dài 28m, tường xây bằng gạch block, mái lợp tole
cement.
Ngoài việc tu hành, tiếp Tăng độ chúng, hoằng truyền Phật pháp, xây dựng
ngôi Tam Bảo, Hòa Thượng luôn quan tâm đến người hoạn nạn. Năm 1965, trước cảnh
màn trời chiếu đất của đồng bào bị chiến tranh tàn phá tại Đồng Xoài, Thuận
Lợi, Hòa Thượng đã đón nhận 60 gia đình gồm 261 nhân khẩu về chùa nuôi dưỡng
trong 8 tháng, sau đó mua đất xây cất 55 căn nhà cho đồng bào định cư.
Năm 1968, do chiến tranh những trẻ thơ mất cha lạc mẹ không nơi nương
tựa hoặc nghèo đói thất học ngày càng nhiều, Hòa thượng lại thành lập viện Dục
Anh, tiếp nhận 365 em từ 06 đến 10 tuổi về nuôi dạy. Năm 1974, với dự định mở
làng cô nhi tiếp nhận thêm hàng ngàn trẻ thơ bất hạnh và thành lập đền thờ Quốc
Tổ Hùng Vương, Hòa Thượng đã mua 45 mẫu đất tại ấp Phú Đức, xã Tân Tạo, huyện
Bình Chánh. Công việc khai hoang đắp đường đang tiến hành thì tháng
4/1975 đất nước thống nhất, Hòa thượng đã hiến số đất đó cho Ban Quản trị
khu Kinh tế mới Lê Minh Xuân.
Sau khi đất nước thống nhất, số trẻ em được thân nhân nhận về, viện Dục
Anh giải tán, Hòa thượng lại tiếp tục hạnh nguyện từ bi cứu khổ nhận nuôi dưỡng
các cụ già neo đơn hoặc vì gia cảnh khó khăn. Năm 1988, Hòa thượng an nhiên thị
tịch lúc 13g30 ngày 16 tháng 10 năm Mậu Thìn tại chùa Hoằng Pháp, trụ thế 88
năm, 65 tuổi đạo.
Kế tục sự nghiệp tại chùa Hoằng Pháp là TT. Thích Chân Tính, đệ tử của
Hòa thượng. Quan tâm đến việc hoằng truyền chánh pháp tại bản tự, Thượng
tọa đã thành lập một Ban Hộ tự tại địa phương và mười chúng ở
các nơi với hơn 1.000 Phật tử. Hằng tháng vào những đêm sám hối 14 và
30, Thượng tọa đều thuyết giảng phật pháp cho Phật tử tại địa phương.
Riêng 10 chúng ở các nơi về chùa sinh hoạt, tu học vào lúc 08 giờ sáng những
ngày 15-1, 15-4, 15-7 âm lịch. Thượng tọa cũng cưu mang nuôi dưỡng hơn 50
cụ già neo đơn, hoặc hoàn cảnh khó khăn. Đặc biệt Thượng tọa rất quan tâm đến
các em GĐPT, hiện có hơn 100 em đoàn sinh tu học hàng tuần tại chùa. Ngoài việc
hướng dẫn Phật pháp cho các em GĐPT, Thượng tọa còn quan tâm đến tương lai
nghề nghiệp của các em. Thượng tọa đã trang bị 05 máy vi tính và đàn
Organ. 01 trống điện để mở lớp dạy vi tính và đàn hoàn toàn miễn phí cho các em
theo học tại chùa.
Do chánh điện bị xuống cấp nặng, được sự cho phép của chính quyền địa
phương, ngày 21-2 năm Ất Hợi (23/3/1995), Thượng tọa đã khởi công xây dựng
lại. Trong lần tái thiết này, Thượng tọa đã nới rộng chánh điện chiều ngang
18m, chiều dài 42m, tổng diện tích xây dựng là 756m2,
kiến trúc theo lối chữ “công”. Tuy hình thức có mới nhưng vẫn mang dáng vẻ cổ
kính của chùa miền Bắc với góc đao cong vút, 02 tầng mái ngói màu đỏ. Toàn bộ
nền móng, đà, cột, trần, mái đều đúc bêtông kiên cố, tường xây gạch, mặt ngoài
dán gạch men, mặt trong sơn nước. Nền lót gạch granite nhập từ Tây Ba Nha. Toàn
bộ cánh cửa, bao lam, án thờ đề làm bằng gỗ quý, chạm trổ rất tinh vi.
Hai bên bậc cấp dẫn lên thềm tiền đình chánh điện là hai con sư tử lớn
bằng cement. Hai bên cửa chánh điện là hai bức phù điêu khắc tượng thần Kim
Cang với vẻ mặt cương nghị, thân hình mang dáng đẹp khỏe mạnh của người lực sĩ.
Nội điện gồm tiền Phật hậu Tổ. Tiền điện thờ đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
ngự trên tòa sen trong tư thế thiền định, chiều cao khoảng 4,50m. Phía trên
chung quanh vách tường là 07 bức phù điêu bằng cement chạm khắc hình ảnh cuộc
đời đức Phật từ lúc xuất gia cho đến khi nhập niết bàn. Phía trên và dưới bức
phù điêu đối diện với tượng Phật là hai hàng chữ “Phật Nhật Tăng Huy - Pháp
Luân Thường Chuyển”. Trước án thờ là bao lam bằng gỗ điêu khắc hình “cửu long
chầu nguyệt”. Phía trên bao lam là ba cuốn thư cũng bằng gỗ khắc chữ Hán; cuốn
ở giữa đề THIÊN NHƠN SƯ, hai cuốn hai bên đề chữ TỪ BI và TRÍ TUỆ.
Hậu Tổ thờ cố Hòa Thượng Ngộ Chân Tử, Tổ khai sơn chùa Hoằng Pháp. Và
trên tường là hai bức phù điêu miêu tả cuộc đời hành đạo của Ngài. Hai bên tả
hữu là bàn thờ chư hương linh.
Đối diện với chánh điện là tượng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tọa
thiền dưới gốc cây Bồ đề. Phía trước cây Bồ đề là cổng tam quan mới đựơc xây
dựng vào tháng 6/1999. Từ ngoài nhìn vào cổng tam quan, cổng chính đề chữ CHÙA
HOẰNG PHÁP, hai cổng phụ bên trái đề chữ TỪ BI, bên phải đề chữ TRÍ TUỆ. Dọc
theo hai cột của cổng chính có hai câu đối:
HOẰNG dương đại đạo chỉ bày nhân loại nhận ra chân thật tính
PHÁP Phật nhiệm màu khai thị chúng sinh ngộ được Bồ đề tâm
Dọc theo hai cổng phụ có hai câu đối:
TỪ BI cứu bốn loài qua bể khổ đau
TRÍ TUỆ độ ba cõi đến bờ hạnh phúc
Từ trong cổng tam quan nhìn ra, dọc theo hai cột chính có hai câu đối:
Tri ân Hòa Thượng Tôn sư gây dựng cảnh thiền từ đất Bắc
Báo đáp Cao Tăng Tổ đức vun trồng vườn giác tại miềnNam
Dọc theo hai cổng phụ có hai câu đối:
Đến cửa chùa rũ bỏ trần duyên tính xấu
Vào điện Phật giữ gìn mối đạo tâm lành
Tất cả các câu đối trên cổng tam quan đều được khắc bằng chữ Việt.
Bên trái chánh điện nhìn từ ngoài vào là tháp “Nhị Nghiêm”, nơi an trí
nhục thân cố Hòa Thượng Ngộ Chân Tử. Cách một khoảng là tháp các vị Ni của chùa
đã quá cố. Tiếp đến là nhà ăn rộng rãi, thoáng mát có hòn non bộ mới tạo. Song
song là dãy nhà dưỡng lão nữ, gồm 10 phòng, mỗi phòng 04 người ở với đầy đủ
tiện nghi. Sau cuối là nhà trù. Bên phải chánh điện nhìn từ ngoài vào là vườn
cây với thảm cỏ xanh tươi. Sát bờ tre là một tòa non bộ cao hơn 10m rộng 20m
nằm trên một hồ nước. Bên trong hồ ngay chính giữa tôn trí tượng đức Quan Thế
Âm Bồ Tát bằng cẩm thạch trắng cao 5m. Đây là công trình non bộ lớn và đẹp nhất
trong các chùa tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Tiếp đến là hòn non bộ nhỏ
trong hồ tròn. Sau đó là tháp Phổ Độ, nơi để cốt của thập phương bá tánh. Phía
sau chánh điện là Tăng đường, cũng dùng làm giảng đường có thể chứa khoảng trên
300 thính giả. Trước tăng đường là hai bãi cỏ xanh tươi với cây me cổ thụ lâu
đời.
Chùa Hoằng Pháp có khuôn viên rộng lớn với nhiều cây cao bóng mát quanh
năm. Là địa điểm rất lý tưởng cho các em GĐPT đến sinh hoạt dã ngoại và cắm
trại. Ban Hướng dẫn GĐPT thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức nhiều trại Hè Lục Hòa
tại đây với số lượng hơn 800 đoàn sinh.
Để tạo điều kiện cho Phật tử tại gia cắt bới trần duyên, hầu thúc liễm
thân tâm, tinh tấn tu tập,Thượng Tọa đã kết hợp với Ban Đại diện Phật giáo
huyện Hóc Môn tổ chức Khóa tu Phật thất vào tháng 3/1999 tại chùa Hoằng pháp.
Số lượng Phật tử tham dự khóa tu là 70 người, thời gian tu tập 07 ngày đêm với
pháp tu chuyên niệm Phật A Di Đà. Đây là khóa tu Phật thất đầu tiên tại thành
phố Hồ Chí Minh. Đến nay, số lượng Phật tử về tham dự mỗi khoá trên dưới 3.000
người. Ngoài ra, mỗi chủ nhật đầu tháng đều có khóa tu niệm Phật một ngày với
số lượng Phật tử tham dự ngày càng đông, có lúc lên đến trên 15.000 người.
Chùa Hoằng Pháp thuộc hệ phái Bắc tông, đã trải qua ba đời Trụ trì:
1/ 1957-1988: cố Hòa Thượng Ngộ Chân Tử, viên
tịch năm 1988.
2/ 1988 đến 2022: Hòa Thượng Thích Chân
Tính.
3/ 2022 đến nay: Đại đức Thích Tâm Trường
Hàng năm vào ngày 16/10 âm lịch, chùa tổ chức ngày húy kỵ cố Hòa Thượng
Ngộ Chân Tử rất trọng thể.
Nguồn: https://www.chuahoangphap.com.vn/gioi-thieu/chua-hoang-phap/
CHÙA BỬU LONG
Địa Chỉ: |
81 Đường Nguyễn Xiển |
Điện Thoại: |
08. 3732 5059 - 0913 735 376 |
Trụ Trì: |
Tỳ khưu VIÊN MINH |
Vài nét về nguồn gốc và sinh hoạt Tổ Ðình Bửu Long
Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất
có khuôn viên rộng hơn 11 ha, tọa lạc trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng
Nai, trong Công Viên Lịch Sử Văn Hóa Dân Tộc, tại Khu phố Thái Bình 1, Phường
Long Bình, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, do cư sĩ Võ Hà Thuật thành
lập năm 1942, sau khi đã quy y và thọ pháp với Thiền sư Hộ
Tông. Mục đích của ông là lập đạo tràng này để thỉnh Ngài về
truyền pháp cho nhóm bạn bè đồng đạo của mình cùng nhau sách tấn tu tập. Năm 1958, nhân Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt
Nam ra đời, ông hoan hỷ dâng cúng tịnh viên này đến Thiền sư Hộ Tông, vị Tổ
sáng lập và cũng là đức Tăng Thống đầu tiên của Phật Giáo Nguyên Thủy Việt
Nam, để thành lập thiền viện và từ đó Thiền viện Bửu Long đã được Tổ chính
thức xây dựng. Và cũng từ đó chư Tăng và Phật tử gần xa đến học thiền với
Ngài rất đông, vì Tổ không những tinh thâm pháp thiền định tuệ mà còn biết rõ
tâm của mỗi hành giả để hướng dẫn pháp hành chính xác và cụ thể cho từng
trường hợp. Năm 1961 Ngài Narada Mahàthera, một vị Tăng Trưởng
Phật giáo Tích Lan tặng thiền viện một cây Bồ-đề có nguồn gốc từ cây Đại
Bồ-đề đức Phật thành đạo tại Bồ-đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Tổ rất quý cây Bồ-đề này
nên đã xây dựng thành một Bồ-đề Phật Cảnh để tưởng niệm nơi đức Phật Thành
Đạo. Năm 1981 Tổ Hộ Tông viên tịch, hưởng thọ 88 tuổi,
Tháp Tổ được Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam phụng lập ngay sau Bồ-đề
Phật Cảnh, để đời đời tưởng niệm ân đức cao dày của vị Tổ sáng lập Phật Giáo
Nguyên Thủy Việt Nam, vị Thiền Sư tinh thâm định tuệ và vị Tổ khai sơn
Thiền viện Bửu Long. Dưới thời Tổ Hộ Tông làm Viện Chủ có 4 vị Trụ Trì
thay phiên trợ lý: Đại Đức Lão
Tâm (1965-1969), Đại Đức Ngự Tâm (1969-1976), Đại Đức Tăng
Huệ (1976-1981). Năm 1982, theo di chúc của Tổ, Hòa thượng Viên Minh
được Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam bổ nhiệm về thừa kế chức vụ Viện
Chủ Thiền Viện Bửu Long. Trong thời gian làm Viện Chủ, Hòa thượng Viên Minh
đã cử Thượng tọa Bửu Đức làm Trụ Trì và đã liên tục trùng tu tôn tạo chùa Tổ
thành một ngôi danh lam tiêu biểu cho văn hóa Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam
trong Công Viên Lịch Sử Văn Hóa Dân Tộc. Đến nay Thiền Viện Bửu Long đã xây dựng được những
hạng mục như sau: - Năm 1992 xây dựng Ni Viện để đào tạo Ni Chúng Nam
Tông. Số Ni chúng được đào tạo hiện nay đã có nhiều vị đi học nước ngoài, có
học vị tiến sĩ, phó tiến sĩ và thạc sĩ. - Năm 1993 trùng tu thiền thất của Tổ để làm Tổ
đường lưu niệm chỗ trú ngụ và sinh hoạt hàng ngày của Tổ trong những năm tu
hành cũng như hoằng dương chánh Pháp tại thiền viện Bửu Long. Trong Tổ Đường
có tượng sáp của Tổ đang ngồi tự nhiên trong tư thế hàng ngày Ngài dạy đạo
cho chư Tăng, Ni, Phật tử mỗi khi đến tham vấn. - Năm 1995 Hòa thượng Viên Minh cùng với Hòa thượng
Hộ Pháp (đệ tử của Tổ du học ở Miến Điện và Thái Lan gần 30 năm trở về) trùng
tu Bồ-đề Phật cảnh để tỏ lòng tri ân cũng như thực hiện tâm nguyện của Tổ
trước khi viên tịch. - Năm 1996 xây dựng Tăng xá và trường học Pàli do
Hòa thượng Hộ Pháp vận động Phật tử Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam cúng
dường để nói lên tinh thần đoàn kết giữa Phật giáo ba nước. - Năm 2000 xây dựng Trai Dường và nhà trù để cung
ứng nhu cầu sinh hoạt truyền thống như để bát, trai Tăng v.v… hàng ngày cũng
như trong những dịp lễ lớn hàng năm. - Năm 2002 xây dựng động Bồ-tát khổ hạnh theo sáng
kiến thiết kế của Hòa thượng Viên Minh để tưởng niệm Bồ-tát Siddhattha tu 6
năm khổ hạnh trong một hang động trên núi Khổ Hạnh Lâm gần Bodh Gaya, Ấn Độ. - Năm 2004 trùng tu Chánh Điện. Chánh điện trước đây
là di tích của Tổ và Đại Đức Lão Tâm để lại, vì vậy chủ yếu là trùng tu tôn
tạo cho khang trang và tiện nghi hơn nhưng vẫn giữ lại hình dáng như cũ, chỉ
thêm phần tiền đường và một vài chi tiết phối hợp giữa kiến trúc Phật giáo
Đông Nam Á với kiến trúc triều đại nhà Nguyễn. - Năm 2005 xây dựng tượng đài Niết-bàn Phật cảnh gồm
một Tượng Phật nằm tạc từ đá granite dài 8m, nặng trên 50 tấn. Chung quanh
trang trí 10 trụ đèn cũng bằng đá granite điêu khắc theo mẫu trụ đá vua Asoka
tại các Phật tích Ấn độ. - Năm 2007 khởi công xây dựng Đại Bảo Tháp Gotama
Cetiya, để tôn thờ Xá-lợi Phật và chư đại Thánh Tăng. Mặt bằng xây dựng tháp
rộng trên 2000m2, cao khoảng 70m so với mặt biển. Một kiến trúc vừa hoành
tráng hiện đại vừa biểu hiện nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi
cổ đại trong vùng Đông Nam Á. Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long có những đặc điểm như
sau: - Sinh hoạt theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy
(Theravàda) lấy Tam Tạng Pāḷi làm gốc, đồng nhất với các nước Phật giáo Nam
Tông trong vùng Đông Nam Á. - Kiến trúc theo văn hóa Phật Giáo cổ đại có nguồn
gốc trực tiếp từ nền văn minh vùng Suvannabhumi ảnh hưởng văn minh Phật giáo
Ấn Độ thời đại vua Asoka, còn đậm nét ở Ankor Wat và các tháp Cham Việt Nam. - Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long đã được công nhận là
môt hạng mục trong Công Viên Lịch Sử Văn Hóa Dân Tộc. Điều này phù hợp với
quyết định của Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam đặt văn phòng Ban Phật Giáo
Nam Tông tại đây làm Trung Tâm nghiên cứu và giới thiệu lịch sử hình thành,
phát triển, tổ chức, sinh hoạt, và sự cống hiến của Phật Giáo Nguyên Thủy cho
nền văn hóa, giáo dục, đạo đức, v.v... của đất nước nói riêng, đồng thời
nghiên cứu giới thiệu các nước theo Phật giáo Nguyên thủy đã đóng góp được gì
cho sự tiến bộ của văn minh nhân loại. - Ngoài sinh hoạt tôn giáo và văn hóa giáo dục Thiền
viện Tổ Đình Bửu Long còn rất tích cực trong công tác y tế và từ thiện xã hội
với các tổ chức: một Ban Từ Thiện, một Chi Hội Chữ Thập Đỏ và một Phòng Khám
Bệnh phát thuốc miễn phí hoạt động vào mỗi ngày thứ bảy hàng tuần. Những ngày lễ lớn của Tổ đình: 1. Đêm thọ đầu đà kỷ niệm ngày Thánh Hội - ngày rằm
tháng Giêng ÂL |
Pháp Viện Minh Đăng Quang
505 Xa lộ Hà Nội, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh (ảnh: Vũ Giang)
I. VÀI NÉT TỔNG QUAN VỀ NGÔI PHÁP VIỆN
- Năm thành lập: 1968
- Người sáng lập: Đại lão Hòa thượng Pháp sư Thích
Giác Nhiên - Tổng Tri sự Trưởng Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam
- Hệ phái gốc: Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam
- Hiện nay: Hệ phái Khất sĩ - Thành viên sáng
lập GHPGVN (Một trong 3 tông phái Phật giáo Việt Nam)
- Đặc điểm: Trú xứ Đại diện Thường trực Giáo
phẩm Hệ phái (Trung tâm Hoằng pháp, Giáo dục, Văn hóa, Xã hội... của HPKS)
- Viện chủ: Hòa thượng Giác Phúc - Thành
viên Hội đồng Chứng Minh GHPGVN
- Chư Tôn đức trụ trì tiền nhiệm:
+ Hòa thượng Giác Phúc (từ 1968 - 1988)
+ Hòa thượng Giác Huyền (từ 1989 - 1994)
+ Hòa thượng Giác Lai (từ 1994 - 2014)
- Trụ trì hiện nay: Hòa thượng Giác Toàn (từ 2014)
- Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN, Giáo phẩm Thường trực Hệ phái Khất
sĩ
- Chư Tăng thường trú và tạm trú dài hạn, theo học các trường Phật học
tại thành phố: khoảng 50 vị.
- Số lượng Phật tử cúng hội, nghe pháp, sám hối thường xuyên hàng tuần,
hàng tháng: từ 200 đến 500 người.
- Số lượng Phật tử vãng lai trong những ngày lễ hội lớn từ 5 đến 10 ngàn
người.
II. NHỮNG NGÀY LỄ HỘI TRONG NĂM
1. Ngày mùng 1 tháng Giêng âm lịch: Tết Nguyên Đán cổ truyền của
dân tộc.
2. Ngày 14 và Rằm tháng Giêng âm lịch: Lễ Thượng nguyên.
3. Ngày 30 tháng Giêng và mùng 01 tháng 02 âm lịch: Đại lễ Tưởng
niệm Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng.
4. Từ ngày mùng 08 đến Rằm tháng 4 âm lịch: Đại lễ Kỷ niệm Đức
Phật đản sanh.
5. Từ ngày 16 tháng 4 đến Rằm tháng 7 âm lịch: Mùa An cư Kiết hạ
hằng năm của chư Tăng Hệ phái trong 3 tháng.
6. Từ ngày 18 đến ngày 24 tháng 4 âm lịch: Tuần lễ Bồi dưỡng chư
Tôn đức Tăng Ni trụ trì các tịnh xá của Hệ phái.
7. Lễ vía Bồ tát Quán Thế Âm vào các ngày: 19 tháng 02 âm lịch,
19 tháng 6 âm lịch, 19 tháng 9 âm lịch. Đặc biệt ngày 19 tháng 6 âm
lịch là ngày Húy kỵ Đại lão Hòa thượng Pháp sư Thích Giác Nhiên.
8. Từ ngày mùng 01 đến ngày mùng 08 tháng 7 âm lịch: Tuần lễ Bồi
dưỡng Đạo hạnh cho Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Tập sự trong Hệ phái.
9. Ngày 14 và Rằm tháng 7 âm lịch: Đại lễ Tự tứ Tăng và Vu lan
bồn theo truyền thống Phật giáo và Hệ phái.
10.a) Ngày Rằm và 30 âm lịch hằng tháng: Lễ cúng hội theo truyền thống
Hệ phái.
b) Hằng tuần vào 4 ngày Chủ Nhật: Tổ
chức các khóa tu dành cho cư sĩ tại gia.
- Khóa tu Một ngày An lạc, Niệm Phật, Thiền Tứ Niệm xứ
(dành cho các đối tượng Phật tử)
- Khóa tu dành cho học sinh, sinh viên Phật tử.
III. MÔ HÌNH KIẾN TRÚC VÀ Ý NGHĨA
1. Tổng thể mô hình kiến trúc
Toàn khuôn viên Pháp viện Minh Đăng Quang có diện tích 37.500m2, được
thiết kế theo mật độ xây dựng 22% trên diện tích khu đất, tức là xây dựng
khoảng 30.000m2. Từ ngoài nhìn vào, phía trước - chính giữa là bảng hiệu Pháp
viện Minh Đăng Quang rộng 9m, cao 6m; hai bên là hai cổng Tam quan rộng 14m
(cửa chính rộng 8m2, cửa phụ rộng 3m); ngay chính giữa phía sau bảng hiệu Pháp
viện là Điện thờ Bồ tát Di Lặc để khách hành hương, vãng lai có thể đảnh lễ
chiêm bái Bồ tát cầu phước lộc; sát bên cổng tay phải (từ ngoài nhìn vào) tôn
trí tượng Bồ tát Quán Thế Âm lộ thiên - hình tượng tâm đức từ bi "Mẹ
hiền" cao 9m, luôn che mát "những đứa con thơ trong đời".
1.1. Hai ngôi bảo tháp phía trước
Tiếp nối là hai ngôi bảo tháp, từ ngoài vào bên phải là "Bảo
tháp Ca Diếp – Danh hiệu Tôn giả đệ nhất hạnh đầu đà"; ngôi bảo tháp
tiêu biểu tượng trưng cho lịch sử Hệ phái, kiến trúc mô hình bát giác (Bát
chánh đạo) gồm chín tầng, cao 37m. Tầng trệt tứ giác rộng 16m2 trang trí
hình ảnh và cuộc đời hành đạo của Tổ sư khai lập Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam,
tiền thân của Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam mà ngày nay là Hệ phái Khất
sĩ, một trong chín tổ chức Giáo hội, thành viên thành lập Giáo hội Phật giáo
Việt Nam. Tòa tháp bên trên có 8 tầng bát giác, tầng 9 đến tầng 2 tôn trí thờ
bảy vị cổ Phật quá khứ và Tổ sư Minh Đăng Quang khai lập Hệ phái Khất sĩ.
- Đức Phật Tỳ Bà Thi
- Đức Phật Thi Khí
- Đức Phật Tỳ Xá
- Đức Phật Câu Lưu Tôn
- Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni
- Đức Phật Ca Diếp
- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
- Tổ sư khai sơn Hệ phái: Minh Đăng Quang
Bên trái cổng Tam quan là ngôi "Bảo tháp Xá Lợi Phất – Danh
hiệu Tôn giả trí tuệ đệ nhất". Ngôi bảo tháp làm thư viện, lưu trữ tam
tạng kinh điển Phật giáo để Tăng Ni, Phật tử các giới vãng lai có thể tìm đọc,
nghiên cứu... khi có nhu cầu. Tháp có chín tầng; tầng trệt tứ giác rộng
16m2 thiết kế 50 bàn đọc sách cá nhân (có đèn riêng từng bàn) để bạn đọc
vãng lai mượn sách ngồi đọc tại thư viện.
Các tầng 2, 3, 4 có kệ chứa gần 10.000 bản kinh sách chữ Việt gồm: kinh
luật luận, văn học, triết học, lịch sử, văn hóa, giáo dục... và các loại sách
kiến thức phổ thông.
Từ tầng 5, 6, 7 và 8 tàng trữ các bộ Đại tạng kinh, Luật và Luận bằng
các ngôn ngữ Anh, Trung Quốc, Pali, Nhật, Thái, Miến v.v...
Từ hai tháp phía trước nối liền hai dãy nhà dẫn đến 2 tháp phía sau.
Giữa hai dãy nhà dẫn có bốn tháp nhỏ tôn trí bốn vị Bồ tát: Đại trí Văn Thù,
Đại hạnh Phổ Hiền, Đại Thế Chí và Địa Tạng.
1.2. Hai ngôi bảo tháp phía sau
* Bên phải là "Tháp Hồng Ân",
gồm mười ba tầng, nền rộng 16m x 16m, cao 49m.
Tầng 13: Tôn trí Xá-lợi Phật Thích Ca Mâu
Ni và các Thánh Đại đệ tử.
Tầng 12: Tôn trí Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
10 vị Trưởng lão Tăng và 10 vị Trưởng lão Ni, các ngôi tịnh xá ở Ấn Độ tiêu
biểu cho ba ngôi báu Phật Pháp Tăng.
Tầng 11: Tôn trí bảo tượng Tổ sư Minh Đăng
Quang, danh hiệu 20 ngôi tịnh xá đầu tiên, các vị Trưởng lão Tăng và các vị
Trưởng lão Ni, Trưởng tử đầu tiên của Tổ sư.
Tầng 10: Tôn trí chân dung Nhị Tổ Giác
Chánh và hành trạng lập đạo, hành đạo của chư Tôn đức Tăng Giáo đoàn I.
Tầng 9: Tôn trí chân dung Trưởng lão Giác
Tánh, Trưởng lão Giác Tịnh và quá trình thành lập Giáo đoàn, hành đạo của chư
Tôn đức Tăng Giáo đoàn II.
Tầng 8: Tôn trí chân dung Trưởng lão Giác
An và quá trình thành lập Giáo đoàn, hành đạo của chư Tôn đức Tăng Giáo đoàn
III.
Tầng 7: Tôn trí chân dung Đại lão Hòa
thượng Pháp sư Giác Nhiên và quá trình hành đạo của Ngài trong nước và hải
ngoại.
Tầng 6: Tôn trí chân dung Hòa thượng Giác
Phúc và chư Tôn đức Giáo đoàn IV.
Tầng 5: Tôn trí chân dung Đức thầy Giác Lý
và quá trình thành lập Giáo đoàn, hành đạo của chư Tôn đức Tăng Giáo đoàn V.
Tầng 4: Tôn trí chân dung Hòa thượng Giác
Huệ, Hòa thượng Giác Đức và quá trình thành lập Giáo đoàn, hành đạo của chư Tôn
đức Tăng Giáo đoàn VI.
Tầng 3: Tôn trí chân dung Ni trưởng Huỳnh Liên
và chư Ni trưởng Giáo đoàn Ni giới Khất sĩ.
Tầng 2: Tôn trí chân dung Ni trưởng Ngân
Liên và Ni trưởng Trí Liên cùng các Phân đoàn, Hội chúng Ni.
Tầng 1: Giới thiệu chung về các hoạt động
Phật sự của Hệ phái.
* Bên trái là “Tháp Tứ Ân”, tương tự như ngôi bảo tháp Hồng ân,
bảo tháp Tứ Ân cũng có 13 tầng. Tầng trên cùng, tôn trí Tam tôn theo ý nghĩa
Phật – Pháp – Tăng.
Tầng 13: Lưu giữ bảo tượng Đức Phật Tổ
Thích Ca và Tổ sư khai sơn “Ánh Minh Quang – Nhật nguyệt hồng…” đã hiện hữu với
ngôi Pháp viện trên bãi rác dòng đời gần tròn 50 năm (1968 - 2017).
Tầng 12: Tôn trí chư Tổ khai sơn Phật giáo
Việt Nam từ thế kỷ thứ I đến thời Lý-Trần, Tam Tổ Trúc Lâm Yên Tử.
Tầng 11, 10 và tầng 9: Tôn trí tổ
tiên nòi giống Rồng Tiên: Lạc Long Quân – Âu Cơ; Mười tám đời vua Hùng Vương và
54 dân tộc anh em.
Tầng 8, 7, 6, 5, 4, 3 và tầng 2: Thờ linh
cốt ông bà cha mẹ (Cửu huyền Thất tổ).
Tầng trệt: Làm nhà tang lễ “Vãng sanh cực
lạc”, dành cho bá tánh thiện duyên quàn tại đây trước khi tiễn biệt trà tỳ:
“Sống thì ăn mặc lo toan
Chết thì một chút tịnh nhàn thiền môn
***
‘Vãng sanh cực lạc’ nguyện hồn
Phật Di Đà độ... thoát hờn thiên thu”.
2 tháp trước bát giác, 9 tầng, cao 37m
2 tháp sau tứ giác, 13 tầng, cao 49m
Trước sau 4 tháp, biểu tượng Tứ thiên vương hầu Phật là ngôi Chánh điện
ở giữa – trung tâm ngôi Pháp viện.
1.3 Ngôi Chánh điện – Đại hùng bảo điện
Trung tâm khuôn viên Pháp viện là ngôi Đại Giác điện 3 tầng lầu và 1
tầng hầm trên diện tích 5.000m2.
1.3.1. Mặt bằng tầng hầm
Tổng thể mặt bằng tầng hầm gần 5.000m2, phân nửa phía trước 44m2, phân
nửa phía sau 52m2., đáy hầm bê tông 0m50, phân nửa mặt bằng tầng hầm sử dụng
các mặt hậu cần và trai đường nội bộ.
1.3.2. Tầng trệt - Giảng đường và
Khách đường
Tầng trệt , phía trước dài 56m làm Giảng đường, mặt sau dài 24m làm
Khách đường “Linh Sơn pháp lữ”. Bên ngoài hành lang rộng 8m dọc theo suốt Giảng
đường và Khách đường.
1.3.3. Tầng 2 - Thiền đường và Niết
bàn đường
Tầng 2 làm Thiền đường, dài 30m và Niết bàn đường dài 22m, trần cao 7m;
nửa phần trên vách khắc phù điêu ảnh minh họa 33 vị thiền sư Ấn – Hoa nối pháp
trong lòng Thiền đường và Niết bàn đường để Phật tử tu tập có thể chiêm bái,
quán niệm.
Giữa Thiền đường tôn trí bảo tượng Đức Phật, cao 4m50, nặng 4 tấn 5, cầm
cành sen uy nghi chiếu diệu; phía sau Niết bàn đường thờ Đức Phật tĩnh tại Niết
bàn dài 4m9.
1.3.4. Tầng 3 - Đại hùng bảo điện
(Chánh điện)
Tầng 3 là ngôi Chánh điện – Đại hùng bảo điện, kiến trúc mô hình bát
giác, cao bảy tầng mái, biểu tượng cho Bát chánh đạo và Thất bồ đề phần lan tỏa
che mát hồng trần.
Giữa Chánh điện là ngôi Tam bảo tam cấp, tôn trí Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni bằng đồng cao 7m2, nặng 7 tấn 2. Ngôi bảo tháp bằng gỗ cao 12m, tầng dưới tứ
giác cao 8m, có khắc chạm tứ trụ hoa sen xung quanh; trên nóc cao 4m, với 13
tầng mái , biểu tượng Lục phàm, Tứ thánh, Tam tôn. Tám vách xung quanh điêu
khắc, minh họa tám bức phù điêu về cuộc đời Đức Phật từ Đản sanh đến Xuất gia,
Thành đạo, Chuyển pháp luân và Nhập Niết bàn rất sinh động và trầm lắng thiêng
liêng.
1.3.5. Gác lững - Phòng trụ xứ và
vãng lai chư Tăng, chư Ni
Dọc theo hai bên hành lang Giảng đường và Thiền đường có 3 tầng gác
lững; mỗi tầng có từ 4 đến 8 phòng; bên trái chính tòa có 24 phòng dành cho chư
Tăng và bên phải có 24 phòng dành cho chư Ni. Thông thường có một ít phòng đặc
biệt dành cho chư Tôn đức Giáo phẩm, phần còn lại có 2 loại: Phòng Giáo phẩm
(vãng lai) từ 4 đến 6 vị; Phòng Đại chúng (vãng lai) từ 8 đến 12 vị.
1.4.Tòa Cửu phẩm "Tây phương Cực lạc" và thờ cúng Cửu huyền
Thất tổ
Mặt hậu phía sau Chánh điện, đối diện với Khách đường "Linh Sơn
pháp lữ", nối liền hai tòa tháp "Hồng Ân" và "Tứ Ân"
là tòa nhà thờ "Cửu huyền thất tổ". Nét mới ở đây là tòa nhà 5 tầng.
Tầng cao nhất có danh hiệu Tây phương Cực lạc,
gian chính giữa tòa thờ Tây phương Tam thánh: Bảo tượng Đức Phật Di Đà, nhị vị
Bồ tát hầu cận là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Từ trong nhìn ra, bên tay phải
thờ Thập đại đệ tử và 7 vị Tổ sư lâu đời của Phật giáo Việt Nam: Khương Tăng
Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường; Trần Nhân Tông (Điều ngự Giác
Hoàng), Pháp Loa và Huyền Quang.
Bên tay trái chính tòa là điện thờ Tổ sư Minh Đăng Quang, Nhị tổ Giác
Chánh và 15 vị Giáo phẩm Hệ phái: Trưởng lão Giác Tánh, Trưởng lão Giác Như,
Trưởng lão Giác Tịnh, Trưởng lão Giác An, Trưởng lão Giác Nhiên, Trưởng lão
Giác Lý, Trưởng lão Giác Trụ, Trưởng lão Giác Nhơn, Trưởng lão Giác Thần,
Trưởng lão Giác Hải, Trưởng lão Giác Hòa, Trưởng lão Giác Thanh, Trưởng lão
Giác Bửu, Trưởng lão Giác Lập, Hòa thượng Giác Đức... Cả ba tượng Tam Thánh và
các ảnh thờ đều được tạc bằng gỗ dâu và giáng hương.
Tầng 4, tôn trí thờ Cửu huyền thất tổ. Chính
tòa thờ Giác linh chư Tôn thiền đức; hai phía tay phải và tay trái thờ chư
hương linh nam và nữ.
Các tầng 3, tầng 2, tầng 1 (tầng trệt) dùng làm
phòng khách Phật tử vãng lai tu tập bát quan trai hàng tuần, hàng tháng.
2. Ý nghĩa một công trình kiến trúc: Đóa sen thiêng trên quê hương hòa
bình
Pháp viện Minh Đăng Quang tọa lạc tại số 505, Xa lộ Hà Nội, phường An
Phú, Quận 2 (ngay chân cầu vượt, ngã ba Cát Lái), ngay cửa ngõ thành
phố xuôi ngược Bắc - Nam.
Bất cứ ai đã từng ra vào Thành phố Sài Gòn - Gia Định trước năm 1975,
hay sau ngày đất nước hòa bình độc lập đều nhớ, đều biết: Từ chân cầu Sài Gòn
nay là Xa lộ Hà Nội ra đến ngã ba Cát Lái là một cánh đồng lúa bạt ngàn, từ khu
đất Pháp viện nằm sát ngã ba Cát Lái ngó về chân cầu Sài Gòn không một chùm
cây, không một mái nhà. Nhưng từ năm 1968, khu đất Pháp viện được dựng lập thì
sau đó từ năm 1970 đến năm 1975, tại nơi đây một bãi rác lớn ngay cửa ngõ thành phố ngày
càng hiện hữu, nối liền từ thời còn chiến tranh qua thời hòa bình (từ năm 1968
đến năm 1978). Năm 1978 là năm cao điểm bá tánh lao động nghèo khoảng trên dưới
10 ngàn người tụ tập lượm rác phế thải bán tái chế.
Rồi từ năm 1980 đến năm 2008, trong gần 30 năm đất nước từ ngày
chuyển mình xây dựng hòa bình, phát triển thì đất Pháp viện Minh Đăng Quang trở
thành một khu vườn bạch đàn xanh tươi, mát dịu. Và từ đầu năm 2009, dân chúng
đi qua lại trên xa lộ xuôi ngược Bắc - Nam từng ngày chứng kiến một công trình
kiến trúc Phật giáo đồ sộ hiện hữu sau gần tròn 8 năm thi công - một ngôi Chánh
điện - Đại Giác điện 3 tầng uy nghi với 4 ngôi tháp ở 4 góc chùa, biểu tượng Tứ
thiên vương hầu Phật, tọa lạc hữu tình nơi cửa ngõ ra vào thành phố.
Việt Nam
QuốcTự
Việt Nam Quốc Tự là một ngôi chùa tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngôi chùa có kiến trúc đậm bản sắc phong cách kiến trúc Việt Nam. Việt Nam Quốc
tự toạ lạc trên vùng đất rộng 45 nghìn mét vuông nằm trên đuờng Trần Quốc Toản,
nay là đuờng 3-2 giáp góc đuờng Lê Hồng Phong, thuộc Quận 10 thành phố Sài Gòn.
Lễ đặt đá xây dựng Việt Nam Quốc tự cử hành vào lúc 8 giờ sáng ngày 26 tháng 4
năm 1964 dưới sự chứng minh của Chư tôn Giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất với sự chứng kiến của Quốc trưởng, đồng thời cũng là Thủ tướng Việt
Nam Cộng hoà bấy giờ là tướng Nguyễn Khánh. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là người
vẽ đồ án xây dựng. Đồ án mới xây xong Tháp Việt Nam Quốc tự bảy tầng và một dãy
Tăng xá nhưng chưa hoàn thành trọn vẹn.
Nguyên thủy, sau cuộc đảo chính 1963 tại Nam Việt Nam, Giáo hội Phật Giáo Việt
Nam Thống nhất được thành lập và được chính phủ lâm thời Việt Nam Cộng hòa bấy
giờ cho giáo hội một miếng đất rộng 4 mẫu với danh nghĩa là mướn thời hạn 99
năm chỉ với một đồng bạc tượng trưng và được tiếp tục khi hết hạn . Chùa là trụ
sở của Viện Hóa Đạo thuộc GHPGVNTN đến năm 1975 với người trụ trì đầu tiên là
hòa thượng Thích Thiện Hoa. Năm 1967, hòa thượng Thích Tâm Châu đã thành lập
Viện Đại học Phương Nam trong khuôn viên chùa . Sau năm 1975, có lúc chùa bị bỏ
hoang phế 10 năm và ngày 28 tháng 02 năm 1993 được cấp lại cho hòa thượng Thích
Từ Nhơn theo đơn xin và đất của chùa bị thu hẹp còn 3.712 mét vuông
Hiện nay, trong sân chùa vào ban đêm thường bị chiếm dụng làm nơi bán sách bói
toán
Gần đây, có tin Việt Nam Quốc Tự sẽ bị phá, sau khi UBND TP.HCM ngày 23 tháng 2
năm 2008, cấp giấy phép đầu tư dự án xây dựng Trung tâm Tài chính Việt Nam
trong khu vực này (với tổng vốn đầu tư 930 triệu USD cho Công ty Berjaya Land
Bhd thuộc Tập đoàn Berjaya, Mã Lai). Tuy nhiên, trong cuộc họp báo ngày 25
tháng 6 cùng năm đã được xác nhận chính thức là chùa không thuộc vùng quy hoạch
Trung tâm tài chính Việt Nam
Thiền viện vạn hạnh
Thiền viện Vạn Hạnh, là một thiền viện và viện nghiên cứu Phật học ở thành
phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Thiền viện nằm ở số 716 đường Nguyễn Kiệm, quận Phú
Nhuận (gần quận Gò Vấp. Trước năm 1975, nơi đây là phân khoa Khoa học ứng dụng
thuộc Viện Đại học Vạn Hạnh do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Viện trưởng. Năm
1976, hòa viện trưởng đã đổi thiền viện này làm nơi tu trì và nghiên cứu Phật
học.
Cấu trúc
Thiền viện xây trên một diện tích khoảng 1 hecta. Bao gồm một ngôi chánh điện,
một nhà tổ, nhiều dãy nhà làm trụ sở trường Cao cấp Phật học Việt Nam, văn
phòng Viện nghiên cứu Phật học, văn phòng Hội đồng phiên dịch Đại Tạng Kinh
Việt Nam ; dãy nhà tăng và trai đường.
Cổng thiền viện được xây năm 1990 theo kiểu kiến trúc cổ ở Huế do Đại đức Tâm
Đoan và Đại đức Tịnh Quang đảm trách. Chánh điện gồm hai tầng. Tại tầng trệt,
gian giữa thờ tượng đức Thích Ca màu trắng ngà ngồi trên tòa sen. Hai bên là
phòng đọc sách của thư viện. Tầng lầu là phòng khách và phòng làm việc của Hòa
thượng Viện chủ.
Ngôi nhà Tổ có hai tầng. Tầng lầu thờ Phật và thờ Tổ. Trên bàn thờ Tổ có chân
dung cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất trước đây. Tầng trệt là giảng đường, nơi hay tổ chức các buổi
giảng kinh, thuyết pháp, nói chuyện chuyên đề, biểu diễn văn nghệ…
Cơ cấu của Viện
Thiền viện Vạn Hạnh giữ một vị trí quan trọng trong việc nghiên cứu và hoằng
dương Phật pháp. Đây là nơi làm việc của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam do
Hòa thượng Thích Minh Châu, Tiến sĩ Triết học và Phật học, làm Viện trưởng. Cơ
cấu của Viện gồm: Ban Phật giáo Việt Nam, Ban Phật giáo quốc tế, Ban Phật giáo
chuyên môn, Ban in ấn và xuất bản. Ngoài ra, ở đây còn đặt văn phòng Hội đồng
phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Chủ tịch.
Trong bốn năm qua, Viện đã xuất bản nhiều bộ kinh trong Tam Tạng kinh điển như
: Kinh Trường Bộ (2 tập), Kinh Trung Bộ (3 tập), Kinh Tương Ưng (5 bộ) … được
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ nguyên bản Pali ra tiếng Việt ; Kinh Trường
A Hàm (2 tập), Trung A Hàm (3 tập), Tạp A Hàm (2 tập) … được các vị Hòa thượng
Thích Trí Tịnh, Thích Trị Siêu … dịch từ bản Hán tạng ra tiếng Việt. Đây là một
sự kiện quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng như trong đời sống văn
hóa dân tộc.
Thiền viện Vạn Hạnh còn là một trung tâm đào tạo tăng tài cho các tỉnh phía
Nam. Nơi đây đặt trường Cao cấp Phật học Việt Nam. Ban Giám hiệu của Trường
hiện nay (khóa III, nhiệm kỳ III, 1993 - 1997) gồm có :
Hiệu trưởng : Hòa thượng Thích Minh Châu Phó Hiệu trưởng : Hòa thượng
Thích Thiện Siêu Phó Hiệu trưởng : Thượng tọa Thích Giác Toàn Phó Hiệu trưởng :
Cư sĩ Tống Hồ Cầm Tổng Thư ký : Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn Chánh văn phòng : Đại đức
Thích Đạt Đạo
Trường đào tạo theo phương thức tập trung thông qua một kỳ thi tuyển, mỗi khóa
học kéo dài 4 năm, với văn bằng tương đương trình độ đại học. Từ năm 1984 đến
nay, Trường đã mở được 3 khóa, đào tạo hơn 400 Tăng Ni sinh. Chương trình giảng
dạy gồm phần nội điển do chư tôn túc giảng sư của Giáo hội phụ trách và phần
ngoại điển do các giáo sư, giảng viên các trường Đại học đảm nhiệm.
Ngoài các trách vụ lãnh đạo Viện nghiên cứu Phật học và trường Cao cấp Phật
học, Hòa thượng Thích Minh Châu còn đảm đương nhiệm vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng
thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam kiêm Trưởng ban Phật giáo
quốc tế, Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ABCP), Chủ tịch Trung
tâm ABCP Việt Nam. Hòa thượng đã nhiều lần tham gia các diễn đàn, hội thảo, hội
nghị về văn hóa Phật giáo ở nước ngoài.
Thiền viện Vạn Hạnh thường xuyên được vinh dự đón tiếp các đoàn đại biểu các
Giáo hội Phật giáo trên thế giới và nhiều đoàn khách quốc tế đến làm việc, thăm
viếng, cùng đông đảo du khách, Phật tử đến lễ bái, sinh hoạt, nhất là vào ngày
lễ Phật đản, Vu lan …
Chùa Xá
Lợi
Địa chỉ: số 89, đường Bà Huyện Thanh Quan, quận 3.
Chùa mang tên là Xá Lợi vì là nơi thờ xá lợi Phật. Chùa bắt đầu xây dựng tháng
8 năm 1956 và đến tháng 5 năm 1958 thì khánh thành, chủ yếu là bằng bêtông cốt
thép. Bên trái, ngoài phía cổng tam quan có tháp chuông cao 7 tầng. Làm xong
vào năm 1961. Chùa chính có 2 tầng. Chánh điện đặt ở tầng trên có bức tượng
Phật Thích Ca Mâu Ni khá lớn bằng bột đá màu và sau đó được thếp vàng. Phía
tầng dưới là hội trường lớn nơi thường có thuyết giảng
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, chùa là trụ sở của Hội Phật học Nam Việt, cũng
là nơi diễn ra cuộc đấu tranh giữa các phật tử với quân đội và cảnh sát Ngô
Đình Diệm năm 1963. Sau ngày giải phóng có một thời gian chùa là trụ sở Giáo
hội Phật giáo Việt Nam (Văn phòng II).
Chùa Giác Viên
Địa
chỉ: số 161/35/20, đường Lạc Long Quân, quận 11.
Lúc nguyên sơ là cái am thờ Quan Âm do ngài Hương Đăng dựng năm 1805. Khi Hương
Đăng qui tịnh, Hòa thượng Hải Tịnh đến trụ trì. Năm 1850 ngài đổi Quan Âm các
thành chùa Giác Viên. Chùa được trùng tu lớn vào các năm 1889 và 1910.
Chùa có 153 pho tượng, chủ yếu là tượng gỗ, có niên đại cuối thế kỷ XIX. Đáng
chú ý là bộ sám bài mang thần thái người Nam Bộ qua nét khắc chạm.
Nhưng giá trị đặc biệt quí giá ở chùa Giác Viên là nghệ thuật chạm lông qua gần
60 bao lam lớn nhỏ. Các đề tài chạm lông (có xen kẽ tượng) liên quan đến Phật
giáo và đời sống dân dã. Tài hoa của các hiệp thợ Sài Gòn - Gia Định khá tinh
vi và chuẩn xác như chạm khắc hai mặt giống hệt nhau. Các thế của vật khắc chạm
dù đó là người, vật, chim muôn đều sinh động, vui tươi, giàu sức sống. Bao lam
bá điểu là một công trình nghệ thuật độc đáo chạm khắc 94 con chim đủ loại
trong các tư thế bay, đậu, ngủ, rỉa lông, mớm mồi, yêu nhau...
Chùa Giác viên còn là một trung tâm đào tạo tăng sĩ và in khắc kinh sách. Nó có
vị trí và ảnh hưởng đến sinh hoạt tín ngưỡng của bà con vùng Nam Bộ.
Ngày 7 tháng 1 năm 1993, Bộ Văn hóa xếp hạng Chùa Giác Viên là một Di tích Kiến
trúc - Nghệ thuật theo quyết định số 43-VH/QĐ.
Chùa được Bộ Văn hóa công
nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa theo quyết định số 1288 - VH/QĐ ký ngày 16
tháng 11 năm 1988.
Bát
Bửu Phật đài (Chùa Phật cô đơn)
Địa chỉ:
xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh.
Còn gọi là chùa Phật cô đơn vì trước năm 1975, nơi đây là vùng chiến sự “oanh
kích tự do”, bom Mỹ phá nát chùa Thanh Tâm cạnh đó, dân chúng bị lùa đi tứ tán,
riêng tượng Phật ngồi lại một mình. Đó là tượng Thích Ca Mâu Ni, cao 4,8 mét,
ngang 4 mét, được đúc từ chùa Xá Lợi và đưa về an vị từ năm 1957. Nguyên đây là
đất hiến của gia đình cư sĩ Ngô Chí Bình và một số phật tử Sài Gòn - Gia Định
cũ.
Trải qua mười mấy năm chiến tranh ác liệt, tượng Phật đầy những vết đạn lỗ chỗ,
trong thế ngồi thiền định trang nghiêm giữa đầm lầy, lau sậy. Tượng Phật được
đặt trên một đài cao 8 cạnh, mang 8 tên: công bình, bác ái, từ bi, đại đồng, an
cư, lạc nghiệp, thái bình và hạnh phúc nên còn được gọi là Bát bửu Phật đài.
Trước đây, chùa có một cây bồ đề do hòa thượng Thích Từ Quang chiết thỉnh từ
thành Bénarès ở Ấn Độ về trồng trước tu viện Chơn Đức, sau đó lại chiết nhánh
con trồng tại chùa từ năm 1957. Cây cao hơn 20 mét, đến năm 1991 thì tàn lụi.
Ngày nay, khu vực rộng 34 hecta này được xây dựng thành “Khu Văn hóa Du lịch
Bát bửu Phật đài” thu hút hàng ngàn du khách vào các ngày lễ, Tết..
Chùa Nam Thiên Nhất Trụ
Chùa tọa lạc ở số 511 đường Nguyễn Du, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
Chùa do Hòa thượng Thích Trí Dũng dựng vào năm 1959. Kiến trúc sư Nguyễn Gia
Đức vẽ thiết kế. Chánh điện được bài trí tôn nghiêm. Các pho tượng Phật, hương
án, bao lam ở điện Phật do nghệ nhân Bá Nhâm thực hiện trong những năm 1970.
Trước ngôi chánh điện là đài Liên Hoa (thường gọi là chùa Một Cột), dạng kiến
trúc như đài Liên Hoa chùa Diên Hựu (Hà Nội), bên trong thờ tượng Bồ Tát Quan
Âm. Khuôn viên chùa rộng khoảng một hecta. Ở đây có nhiều pho tượng lớn lộ
thiên như: tượng đức Phật Di Đà, đức Phật Thích Ca, đức Phật Di Lặc, tượng Bồ
Tát Quan Âm, Bồ Tát Địa Tạng... Sau ngôi chánh điện là nhà lưu niệm và bảo tháp
Nam Thiên.
Chùa Huê Nghiêm
Chùa Huê
Nghiêm tọa lạc ở số 204 đường Đặng Văn Bi, phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, TP.Hồ
Chí Minh. Ngày nay, chùa thường được gọi là chùa Huê Nghiêm 1 để phân biệt với
chùa Huê Nghiêm 2 ở phường Bình Khánh,
quận 2 do HT Thích Trí Quảng sáng lập năm 1975.
Chùa được
Thiền Sư Thiệt Thụy – Tánh Tường (1681 - 1757) khai sơn vào thế kỷ XVIII. Nhiều
tư liệu hiện nay đã xác nhận năm thành lập chùa là 1721, là ngôi chùa cổ nhất
thành phố hiện nay.
Lúc đầu
chùa được xây dựng ở vùng đất thấp, cách ngôi chùa hiện nay khoảng 100m. Về sau
bà Nguyện Thị Hiên (1763 – 1821) pháp danh Liễu Đạo, tự Thành Tâm đã hiến đất
để xây lại ngôi chùa.
Chư vị
trụ trì tiền nhiệm của chùa là: HT Thiệt Thụy – Tánh Tường (đời 35 Lâm Tế Chánh
Tông), HT Tế Lý – Quảng Đức (đời thứ 36 Lâm Tế Chánh Tông), HT Liễu Xuân – Tiên
Minh (đời thứ 27 Lâm Tế Chánh Tông), HT Đạt Lý – Huệ Lưu (đời thứ 38 Lâm Tế
Chánh Tông), HT Từ Thông – Hồng Tín (đời thứ 40 – Lâm Tế Gia Phổ), HT Lệ Phương
– Thiện Bửu (đời thứ 42 – Lâm Tế Gia Phổ), HT Hồng Phươ`x – Trí Đức (đời thứ 40 – Lâm Tế Gia Phổ). Viện chủ là HT
Nhật Nghiêm – Trí Quảng (đời thứ 41 – Lâm Tế Gia Phổ).
Chùa được
trùng tu nhiều lần. Lần trùng tu lớn nhất vào cuối thiế kỷ XIX do thiều sư Đạt
Lý – Huệ Lưu tổ chức. Kiến trúc chùa hiện nay được thay đổi ở những lần trùng tu vào các năm 1960,
1969, 1990 và 2003 do các ngài Thiện Bửu, Trí Đức và Trí Độ tổ chức, có mái
ngói chồng diêm, các đầu đao cong vút. Bờ nóc mái trang trí những hoa sen cách
điệu.
Khuôn
viên chùa khá rộng, có nhiều tháp cổ. Tam quan chùa và đài Quan Âm ở sân trước
chùa được xây vào năm 1990.
Chánh
điện được bài trí tôn nghiêm. Chính giữa tôn trí tượng. Di Đà Tam Tôn (đức Phật
A Di Đà, Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí). Bàn thờ kế tiếp thờ Thích
Ca Tam Tôn (đức Phật Thích Ca, Bồ Tát Văn Thù, bồ tát Phổ Hiền). Trước có tượng
Thích Ca đản sanh và bảy vị Phật Dược Sư. Bàn thờ hai bên thờ Bồ Tát Quan Thế
Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn và Bồ Tát Di Lạc. Sau điện Phật, có bàn thờ linh vị chư
Tổ và bàn thờ bà Nguyễn Thị Hiên cùng chư vị Phật tử quá cố.
Bài Tổ
đình Huê nghiêm và huyền thoại ở ngôi mộ cổ (báo Giác Ngộ ngày 01 – 01 -2001)
cho biết: “Đến cuối đời, trước ngày tạ thế, bà bảo với mọi người rằng mình sẽ
lâm chung vào ngày mùng 1 tháng 6. Rồi bà nhờ người thân viết vào lòng bàn tay
bằng sơn đỏ với dòng chữ: “Nguyễn Thị Hiên, làng Linh Chiểu Đông, Gia Định, An
Nam, Hoa Nghiêm Tự. Cùng năm ấy 1821 hoàng hậu triều Mãn Thanh (Trung Quốc) hạ
sanh công chúa, ở bàn tay cũng có những chữ giống như trên tay của bà Hiên. Vua
Mãn Thanh đã gởi sứ giả qua và được Tổ Tế Lý
(1763 – 1829) xác thực là đúng. Sứ giả nhà Thanh đã xin trùng tu lại
ngôi chùa và xây cất ngôi mộ bà Nguyễn Thị Hiên trong khuôn viên chùa.
Sách Sổ
Tay Hành Hương Đất Phương Nam (NXB TP.Hồ Chí Minh năm 2002) cho biết:”Bà Hiên
là một Phật tử chí thành. Bà không chỉ hiến mảnh đất để xây dựng chùa mà còn là
một thí chủ nổi tiếng về lòng từ thiện. Tục truyền, do công đức lúc sanh tiền
nên khi tạ thế, bà được đầu thai làm công chúa triều nhà Thanh (Trung Quốc).
Truyền thuyết kể rằng: Năm 1821, Hoàng hậu nhà Thanh sanh một công chúa, trên
lòng bàn tay công chúa nổi lên một dòng chữ son đỏ: Nguyễn Thị Hiên, Linh
Chiểu Đông thôn, Gia Định, Đại Nam. Chính
vì vậy, vua nhà Thanh đã sai sứ sang xứ ta để truy tìm tông tích. Tìm đến chùa
Huê Nghiêm, xác định rõ lai lịch của bà Nguyễn Thị Hiên, sứ giả đã kể lại điều
hiển linh kỳ diệu đó và dâng cúng cho chùa một pho tượng Quan Âm bằng đồng”.
Chùa là
nơi xuất phát nhiều vị cao tăng của Phật giáo miền Nam như: thiền sư Tế
Giác-Quảng Châu tức Tiên Giác – Hải Tịnh, thiền sư Đạt Lý-Huệ Lưu, hòa thượng
Thích Từ Văn, hòa thượng Thích Trí Đức, hòa thượng Thích Trí Quảng..
Thiền sư
Tế Giác – Quảng Châu được xem là vị tổ quan trọng nhất ở Miền nam vào thế kỷ
XIX. Ngài Tế Giác xuất gia với Tổ Thiệt
Thụy, sau đấy, trên đường tiến tu, ngài đã đến tham vấn học đạo với Tổ Phật Ý –
Linh Nhạc. Vâng lời chỉ dạy Tổ Phật Ý, ngài cầu pháp với Tổ Tổ Tông – Viên
Quang nên có tên Tiên Giác – Hải Tịnh (theo dòng truyền thừa của hệ Lâm Tế Gia
Phổ). Năm 1825, vua Minh Mạng sắc phong chức Tăng cang cho ngài được cử làm trụ
trì chùa Giác Hoàng. Ngài đã giáo dưỡng, đào tạo nhiều nhân tài cho Phật giáo.
Ngài đã trở thành Tổ sư cả ba tông: Lâm Tế Chánh Tông, Lâm Tế Gia Phổ và Tế
Thượng Chánh Tông.
Hàng hậu
học nối tiếp dòng Lâm Tế Chánh Tông của Tổ Tế Giác có tổ Đạt Lý – Huệ Lưu nổi
tiếng là ông vãi bán khoai. Trên đường hành đại, ngài góp phần giáo hóa dân
chúng bằng lối thơ mộc mạc
Đặt ngôi
chùa trong quan hệ thân thiết với cộng đồng làng xã, chùa còn giữ bài thơ của
Tổ Huệ Lưu gửi làng Linh Chiểu Đông (Gia Định) năm 1897. Bài thơ có đoạn:
Kính thăm
hương chức hai chữ miên trường.
Kể từ tôi
cư ngụ bổn hương
Tính đã
có chín năm đủ vậy
Thấy
trong làng những ai cùng nấy
Trên
thuận hòa, dưới cũng thuận hòa…
Chốn non
đài tôi ngụ hôm nay
Việc am
tự nhờ làng chiếu cố
Tôi cũng
muốn dốc lòng bồi bổ
Có lời
nguyền phải gắng ra đi
Ở trong
chùa cúng kiếng việc chi
Chúng
tăng thỉnh làng vô nhắc nhở…
Hải Đường
trong bài Chùa cổ Huê Nghiêm – một số linh vị và truyền thuyết (Báo Giác Ngộ
ngày 31 – 7 – 1999) cho biết: “có một mỹ nữ con ruột quan Tri huyện, thương yêu
hòa thượng tột cùng, nên đã không ngừng tới chùa dụ dỗ,cưỡng ép Hòa thượng từ
bỏ cửa thiền để là vị hôn phu của cô. Hòa Thượng Huệ Lưu đã Đạt Lý chơn tu hơn
người nên đã phần thân (xà dy – tự thiêu) về cõi Phật, giữ trọn đạo hạnh khiến
tăng chúng kính phục, tôn làm Tổ” Trên tháp và linh vị Tổ Huệ Lưu có ghi: Sùng
kiến Huê Nghiêm đường thượng, tự Lâm Tế Chánh Tông tam thập bát thế, húy Đạt
Lý, thượng Huệ hạ Lưu hòa thượng xà dy giác linh miêu tọa….”
Xuất thân
tu học từ tổ đình Huê Nghiêm, HT Thích Trí Quảng đương nhiệm Phó chủ tịch Hội
Đồng Trị Sự Giá Hội Phật Giáo Việt Nam, trưởng ban Hoằng Pháp Trung ương, trưởng
ban trị sự Phật Giáo TP.Hồ Chí Minh.
Hằng năm,
rất đông Tăng Ni, Phật tử khắp nơi về chùa dự lễ húy kỵ. Tổ khai sơn vào ngày
06 – 10 âm lịch và húy kỵ. tổ Huệ Lưu vào ngày 12 tháng giêng âm lịch.
Chùa là
ngôi cổ tự nổi tiếng ở thành phố xưa nay, đón tiếp thường xuyên Phật tử, du
khách trong nước, nước ngoài đến tham quan chiêm bái.
CHÙA GIÁC LÂM
Chùa tọa lạc ở số 118 đường Lạc
Long Quân, phường 10, Quận Tân Bình, Thành Phố Hồ Chí Minh. Mặt chính chùa
hướng về phía Nam.
Chùa được ông Lý Thụy Long, người xã minh hương quyên tiền xây cất vào mùa xuân
năm giáp tý (1744). Lúc đầu, chùa có tên là Sơn Cang, còn gọi là chùa Cẩm Đệm.
Vào năm 1774, thiền sư Phật Y-Linh Nhạc, trụ trì chùa Tứ An, đã đổi tên chùa
Sơn Cang thành chùa Giác Lâm và cử thiền sư Viên Quang về trụ trì.
Chùa trải qua các đời trụ trì: thiền sư Tổ Tông-Viên Quang (Đời Thứ 36, Trụ
Trì: 1774-1827), Tiên Giác-Hải Tịnh Đời Thứ 37, Trụ Trì ; (1827-1869) Minh
Vi-Mật Hạnh (Đời 38, Trụ Trì :1869-1873), Minh Khiêm-Hoằng An(Đời Thứ 38; Trụ
Trì 1873-1903), Như Lợi (Đời Thứ 39, Trụ Trì 1903-1910) Hồng Hưng-Thạnh Đạo (Đời
40,Trụ Trì 1910-1949); Nhựt Dần-Thiện Thuận (Đời Thứ 41, Trụ Trì 1949-1974), Lệ
Sành-Huệ Sành(Đời Thứ 42, Trụ Trì 1974-1998). Quản trị chùa hiện nay là thượng
tọa Thích Huệ Trung(đời thứ 42). Kể từ thiền sư tổ Tông-Viên Quang, Dòng Thiền
Lâm Tế được truyền theo dòng kệ:
“Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên
Minh Như Hồng Nhựt Lệ Trung Thiên
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ
Chiếu Thế Chon Đăng Vạn Cổ Huyền”.
Chùa đã tổ chức trùng tu nhiều lần, nhưng mang tính quy mô đại trùng tu là vào
các năm 1798-1804 dưới thời Thiền Sư Viên Quang trụ trì. Lần đại trùng tu thứ 2
vào các năm 1908-1909 do công của thiền sư như lợi. Thiền sư Như Phòng-Hoằng
Nghĩa và thiền sư Hồng Hưng-Thạnh Đạo. Kiến trúc chùa hiện nay mang rõ dấu ấn
của đợt trùng tu này. Về sau, chùa còn xây sửa thêm, như những năm 1939-1945,
xây vòng tường rào; Năm 1955, xây tam quan; Sau năm 1975, lợp lại ngói, lót
gạch ở sân trước chánh điện, xây cổng tam quan bên ngoài…
Đặt biệt, Bảo Tháp Xá Lợi Phật được khởi công xây dựng từ năm 1970 nhưng bị
ngưng trệ đến năm 1993 mới xây tiếp, hoàn thành năm 1994 với 7 tầng, hình lục
giác, cao 32,7m, diện tích hơn 600 m2 , mặt hướng phía Bắc. Tầng dưới cùng đặt
bàn thờ tượng Di Đà Tam Tôn, các tầng kế trên đặt thờ nhiều tượng phật, Bồ Tát
như : Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Dược Sư, Bồ Tát Quan Thế Am, Bồ Tát Chuẩn Đề,
Bồ Tát Di Lặc…tầng 7 trang trí chùm neon Cửu Long, giữa là Tháp Xá Lợi Phật
Thích Ca.
Tháp Xá Lợi do ngày Narada (srilanka) tặng cho giáo hội phật giáo cổ truyền,
trụ sở đặt ở chùa, vào ngày 24-6-1953. Một buổi lễ trọng thể được tổ chức tại
chùa với sự chứng kiến của ngài Narada và đông đảo chư tăng ni, phật tử.… Các
vị hoà thượng Phật An, Hồng Từ và Trường Thạnh đã cung thỉnh tháp Xá lợi phật
tôn trí tại chánh điện chùa Giác Lâm.
Chùa có 2 Tam Quan. Tam quan cũ được xây năm 1955. Tam Quan mới được xây dựng
năm 1999, Sát đường Lạc Long Quân, cách tam quan cũ khoảng 80m. Hai cổng đều
xoay mặt về hướng Nam. Hai bên cột trụ tam quan cũ có 2 câu đối bằng chữ hán:
Giác ngộ quảng khai từ thiện đông lai quy hướng tổ
Lâm truyền phổ nhuận ngô mê cộng hưởng tuệ vi đình
Thầy thích lệ chương dịch:
Giác giúp mở rộng lòng bi quay về hướng với tổ
Lâm truyền nhuần khắp hiểu mê hưởng tuệ gọi là đình
Sau tam quan cũ là miếu Linh Sơn Thánh Mẫu được xây dựng bằng xi măng, gạch
ngói, sửa năm 1969.
Có 3 khu tháp mộ ở chùa. Một khu tháp mộ trước chùa chính, gồm 3 tháp mộ. Khu
tháp mộ nằm phải đường vào chùa, gồm 33 tháp tháp mộ, được xây dựng vào đầu thế
kỷ XX. Khu tháp tổ nằm sau Miếu Linh Sơn Thánh Mẫu, gồm 8 tháp mộ các Thiền sư
trụ trì chùa và 3 tháp mộ các hòa thượng ở các chùa khác, được xây dựng vào
khoảng thế kỷ XIX và thế kỷ XX.
Kết cầu kiến trúc của chùa là hai nếp nhà tứ trụ bố trí theo kiểu trùng thềm
điệp ốc.
Khu Tam Bảo bao gồm chánh điện, trai đường và giảng đường, bố cục trên một mặt
bằng hình chữ nhật, chiều rộng 22m, chiều dài 65m, xây trên nền cao khoảng 1m
so với vườn chùa. Trước chánh điện có sân tiền hình chữ nhật, ngang 20m, rộng
10m. Trước sân tiền là sân vườn, có miếu nhỏ đặt tượng Bồ Tát Quan Thế Am bằng
đá màu.
Đặc biệt ở sân vườn có cây bồ đề cao lớn do ngài Narada (Srilanka) tặng. Ngài
Narada đã cùng hòa thượng Hồng Từ và Sư Bửu Chơn đích thân trồng cây bồ đề tại
đây vào ngày 24-6-1953.
Điện thờ phật được bài trí tôn nghiêm, gồm có 3 bàn: Bàn Di Đà, Bàn Hội Đồng,
Bàn Tam Bảo, sắp xếp trong cao ngoài thấp dần. Bàn A Di Đà Tôn Trí Tượng Di Đà
Tam Tôn (tính theo hàng ngang: Đức Phật Adiđà Lớn ở gian giữa, gian 2 bên là Bồ
Tát Quan Thế Am Và Bồ Tát Đại Thế Chí), tượng thờ tam thế phật đặt theo hàng
dọc: Phật Quá Khứ Adiđà, Phật Hiện Tại Thích Ca, Hai Bên Có Tượng Ca Diếp, A
Nan; Phật Tương Lai Di Lặc. Hai bên tòa Cửu Long và tượng Thích Ca Đản Sanh có
hai vị hộ pháp trên bàn thờ hội đồng có tượng Phạm Thiên (Ngọc Hoàng), Nam Tàu
Bắc Đẩu. Bàn thờ tam bảo đặc 5 vị: Đức Phật Thích Ca/Phật Adiđà Và Bốn Vị Bồ
Tát Là Quan Thế Am, Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi Và Phổ Hiền. Đây là sự kết hợp
giữa ha bộ tượng di đà tam tôn (Adi Đà, Quan Thế Am, Đại Thế Chí). Và Thích Ca
Tam Tôn (Thích Ca, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hin). hai bên vách chánh điện đặt thờ
tượng Thập Bát La Hán, Thập Điện Diêm Vương, Địa Tạng, Bồ Đề Đạt Ma, Long
Vương, Quan Thánh.
Phía trước điện phật thờ Hộ Pháp, Tiêu Diện. Ơ đây có treo cặp liễn chữ hán do
thiền sư Bảo Hương, trụ trì chùa Sắc Tứ Cảnh Phước phụng cúng trong lễ lạc
thành chùa Năm Kỷ Dậu (1909):
Triêu triêu tiều, triêu triêu bái, triêu triêu triều bái
Tề tề trai, tề tề giới, tề tề trai giới.
Thầy thích lệ chương dịch là:
Sáng sớm chầu, sáng sớm bái, sáng sớm chầu bái
Nghiêm trang trai, nghiêm trang giới, nghiêm trang trai giới.
Chùa có 119 pho tượng (trong đó có 113 pho tượng cổ) với nhiều chất liệu khác
nhau (gỗ, đồng, xi măng, thạch cao). Các bộ tượng đặc biệt là pho tượng Thích
Ca bằng gỗ, tượng cổ nhất của chùa, Toà Cửu Long và tượng Thích Ca Sơ Sinh bằng
đồng; hai bộ Tượng Phậtbát La Hán, Bộ Tượng Phật Và Bốn Vị Bồ Tát.
Ngoài ra, trong chùa còn lưu giữ nhiều công trình chạm khắc: 23 bao lam chạm
lộng, 23 bức hoành phi, 86 vâu đối, 46 bàn thờ và nhiều pháp khí, đồ thờ cổ…
tất cả đều là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa là ngôi tổ đình danh tiếng bậc nhất. Nhiều vị cao tăng ở chùa đã vân du
truyền bá đạo pháp cả miền Nam.
Chùa Đã Được Bộ Văn Hoá-Thông Tin Công Nhận Là Di Tích Lịch Sử Văn Hoá Quốc Gia
Chùa Vĩnh Nghiêm (Tổ Đình Vĩnh Nghiêm)
Chùa tọa lạc số 339 đường Nam Kỳ
Khởi Nghĩa, quận 3, TP.Hồ Chí Minh. .Chùa chính xây dựng kiểu chữ “Công”, mặt
hướng Đông Bắc, gồm một tầng trệt và một tầng lầu.
Tầng trệt có giảng đường, Tổ đường,
văn phòng, phòng khách, phòng chư tăng, cửa hàng pháp khí đồng, cửa hàng phát
hành kinh sách.
ở lầu chính, sân trường khá rộng.
Bái điện là một tòa vũ nguy nga dài 35m, rộng 22m. Điện Phật được bài trí tôn
nghiêm thờ Thích Ca Tam Tôn, chính giữa thờ đức Phật Thích Ca cao 7m, hai bên
thờ Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Phổ Hiền, mỗi tượng cao 5m. Ở sát vách hai bên có
đặt 4 pho tượng đồng thờ bốn vị đệ tử của đức Phật Thích Ca : Xá Lợi Phất (trí
tuệ đệ nhất); Mục Kiền Liên (thần thông đệ nhất); A Nan (đa văn đệ nhất); La
Hầu La (mật hạnh đệ nhất). Ở đây có những công trình chạm gỗ như bao lam tứ
linh, bao lam cửu long, phù điêu trên các hương án (chạm những ngôi chùa nổi
tiếng trong nước và các nước Châu Á) được các nghệ nhân Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn
Văn Du, Bá Nhâm…thực hiện vào những năm 1960.
Tại chánh điện đặt sáu bức phù điêu
La Hán: khuyến học La Hán, thuyết pháp Văn Pháp La Hán, Đạo Sơn Địa Ngục Tiếp
Hóa La Hán, Cúng, là các bản chạm khắc gỗ dựa vào bản chính của phái Tịnh Độ
Tông Nhật Bản. Ở hàng hiên, trước lối vào chánh điện, mỗi bên có một pho tượng
Kim Cương lớn.
Sau điện Phật là điện Địa Tạng. Ở
đây có đặt tượng thờ Bồ Tát Địa Tạng Vương, Bồ Tác Quan Âm, Hộ Pháp, Tiêu Diện
và các bàn thờ hình ảnh, linh vụ chư Phật tử quá cố.
Quả đại hồng chung do ngài Yoshioka
thuộc tông Tào Động của Phật giáo Nhật Bản hiến cúng chùa vào những năm 1969
được treo ở tháp chuông bên phải lầu chính.
Tháp Quan Âm được xây bên trái
chùa, có 7 tầng mái, cao 35m, bên trong tháp, mội tầng đều có bàn thờ Bồ tát
Quan Thế Âm.
Tháp Xá Lợi cộng đồng xây phía sau,
bên phải, có 4 tầng lầu, cao 25m, xây
dựng năm 1982, hoàn thành năm 1984. Trong tháp đặt linh cốt chư vị Tăng Ni và
Phật tử quá cố.
Ở bên trái chùa, còn có một tòa nhà
lớn: tầng trệt là Thanh trai đường, tầng giữa là Tăng khách đường và tầng trên
cùng là Thiền đường. Hòa thượng Thích Tâm Giác trụ trì đầu tiên.
Năm 1973, hòa thượng Thích Tâm Giác
viên tịch, Hòa thượng Thích Thanh Kiểm kế tục trụ trì đến ngày 30-12-2000, hòa
thượng thế danh Vũ Văn Khang, sanh năm 1920 tại Ý Yên, Nam Định. Ngài xuất gia
năm 1935 tại chùa Liên Đàn, Thanh Trì, Hà Đông. Năm 1942, ngài thọ Cụ túc giới
tại giới đàn chùa Linh Ứng, Phúc Yên do hòa thượng Thích Trừng Thanh làm đàn
đầu truyền giới. Năm 1951, ngài làm Thư Ký giáo hội Tăng Già Bắc Việt. Năm 1954
Giáo hội cử ngài và ngài Tâm Giác du học Nhật Bản. Ngài học tại Đại học đường Rissho,
năm 1959 tốt nghiệp Cử nhân Phật học, năm 1962, ngài về nước. Năm 1964, được cử
làm Vụ trưởng Phiên dịch thuộc tổng hội Hoằng Pháp Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất kiêm Giáo sư Viện Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Ngài đã cùng hòa thượng
Tâm Giác và chư Tăng ni, Phật tử miền Vĩnh Nghiêm xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm để
làm trụ sở cho Miền và môn phái. Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính
thức ra đời, ngài được cử làm Ủy Viên Ban Hoằng Pháp Trung Ương. Từ đây đến lúc
viên tịch, ngài đã giữ nhiều nhiệm vụ quan trọng trong Giáo hội như: Trưởng Ban
Phật Giáo chuyên môn Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam , Phó Trưởng Ban Trị Sự
Thành Hội Phật Giáo TP.Hồ Chí Minh. Trưởng Ban Kinh Tế Tài Chính Trung Ương,
Phó Trưởng Ban Giáo dục Tăng ni Trung Ương, Phó Trưởng Ban Phật Giáo Quốc Tế
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Viện trưởng Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Hà
Nội. Ngài thị tịch, trụ thế 80 năm, 58 hạ lạp.
Tháp mộ Hòa thượng Thích Thanh Kiểm
nằm trong khuôn viên chùa gồm 7 tầng, cao 14m, nặng hơn 160 tấn, được làm từ
80m3 đá lấy từ Thanh Hóa. Tháp được chạm khắc tỉ mỉ theo mô hình tháp Bút – Hà
Nội. Tháp được chùa tổ chức khánh thành trọng thể ngày 27 – 12 – 2003.
Chùa hiện đặt Trường trung cấp Phật
học và cao đẳng chuyên khoa TP.Hồ Chí Minh.
Chùa là ngôi danh lam ở thành phố
hiện nay. Hằng ngày, chùa đã đón tiếp nhiều Phật tử, du khách trong nước, nước
ngoài đến tham quan, chiêm bái
Chùa lấy tên một tổ đình lớn ở miền
Bắc - chùa Vĩnh Nghiêm ở xã Đức La, tổng Trí Yên, phủ Tạng Giang, tỉnh Bắc
Giang (nay là Hà Bắc) - từng là trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền phái
Trúc Lâm một Thiền phái mang đậm nét dân tộc Việt Nam, đã tổng hợp những dòng
thiền trước đó, đã tổ chức Giáo hội đầu tiên trong lịch sử PGVN, là mô hình
Giáo hội đầu tiên cho các tổ chức Giáo hội sau này.
Chùa Vĩnh Nghiêm Đức La được kiến lập từ đời vua Lý Thái Tổ (1010- 1028), kiến
trúc thuần túy Á Ðông, và đã được trùng tu nhiều lần. Cảnh trí tôn nghiêm,
tráng lệ hiện nay là nhờ lần trùng tu cuối cùng, vào năm Thành Thái nguyên niên
(1889), do Hòa Thượng Thích Thanh Hanh đảm trách.
Hằng năm, vào ngày mùng 8-12 Âm Lịch, ngày đức Phật thành đạo, chùa Vĩnh Nghiêm
đều tổ chức trọng thể lễ húy nhật Hòa Thượng Thích Thanh Hanh (1838-1936), cố
Thiền gia pháp chủ Phật giáo Bắc Việt, được tôn xưng là tổ Vĩnh Nghiêm, vị có
công rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo vào những năm đầu thế kỷ 20.
Di dời thành công cổng chùa Vĩnh Nghiêm
Cổng tam quan đồ sộ, sừng sững nặng hơn 100 tấn từ từ dịch chuyển trong
tiếng hò reo thích thú của người hiếu kỳ. Trên mái chùa, cặp bồ câu nhởn nhơ
xây tổ như không biết đến sự chuyển động đang diễn ra phía dưới. Và như vậy,
“thần đèn” Nguyễn Cẩm Lũy đã lập thêm một kỳ tích mới: “di dời thành công cổng
chùa Vĩnh Nghiêm” là công trình thứ 201.
Ngay từ tờ mờ sáng ngày 13/5, nhiều người dân hiếu kỳ đã chuẩn bị sẵn ô dù,
nón, bạt che nắng, kéo đến tề tựu ở sân chùa Vĩnh Nghiêm để “mục sở thị” một
“tiết mục đặc biệt” mà bấy lâu chỉ “nghe nói” nhưng chưa từng chứng thực. Càng
giữa trưa, số người hiếu kỳ kéo đến càng đông, ước tính lên đến 500 người. Lực
lượng công an, bảo vệ đã phải giăng dây xua người dân ra khỏi khu vực dễ xảy ra
nguy hiểm. Đại đa số người dân đều vui vẻ chấp hành.
Đến 10h, những người thợ tham gia vào công trình dịch chuyển cổng chùa Vĩnh
Nghiêm ngưng tiếng búa, phủi đi những đám đất cát bám vương vãi trên hệ thống
đường ray trượt. Ông Nguyễn Cẩm Lũy với vai trò của người chỉ huy phân công
nhiệm vụ cho từng người thợ.
Mặc dù đã chuẩn bị kỹ càng cho việc di dời cổng chùa nhưng “thần đèn” cũng
“đứng ngồi không yên”, liên tục rít thuốc, lấy tay quệt mồ hôi đang chảy thành
dòng trên khuôn mặt đen đúa dưới cái nắng gay gắt của thời khắc chính ngọ. “Tôi
ý thức được đây là công trình có ý nghĩa quan trọng đối với chùa Vĩnh Nghiêm.
Nhưng tôi tin tưởng vào khả năng của mình”- ông Nguyễn Cẩm Lũy nói với PV
VietNamNet trước khi tiến hành di dời.
Đúng 10h15, tất cả các công đoạn chuẩn bị hoàn thành, hai người thợ bắt đầu kéo
dây ròng rọc, cổng tam quan chùa Vĩnh Nghiêm cao 7m, rộng 12m, nặng trên 100
tấn từ từ dịch chuyển êm ái, nhẹ nhàng đến nỗi không làm khuấy động cặp chim
câu đang làm tổ. Mái chùa đụng nhẹ những nhánh lá cây bồ đề trồng bên cạnh, khẽ
rung rinh, dấu hiệu của sự chuyển dịch. Phía dưới chân, hàng chục con quay từ
từ lăn tròn. Mọi người may mắn chứng kiến cảnh tượng hiếm có há hốc miệng, mắt
tròn xoe như không thể tin vào mắt mình. Ai đó buột miệng: “Ông này giỏi
thiệt!”.
Khoảng 10h45, nhóm công nhân phát hiện ra sự cố nhỏ ở phía cổng trái: con lăn ở
phía này hoạt động không đồng bộ, công việc được ngưng lại giây lát. Một công
nhân cưa trụ gỗ phía sau vừa đủ để chêm vào miếng gỗ dài khoảng 5cm. Đến 12h,
công việc dịch chuyển cổng chùa Vĩnh Nghiêm vào sâu phía trong 4m so với vị trí
cũ kết thúc gần như hoàn hảo, không xảy ra bất cứ sự cố đáng tiếc nào. Một tốp
sinh viên trường Đại học Kiến trúc TP.HCM có mặt tại hiện trường xúc động không
thể tin đây là kỳ tích của một người nông dân không bằng cấp, trình độ văn hoá
chỉ mới hết lớp 4 trường làng. Những người thợ trước còn căng thẳng bây giờ nét
mặt dãn ra, bắt tay nhau vui sướng.
Sắp tới, công trình di dời lăng Võ Tánh (TP.HCM) đang chờ đón "thần
đèn" và nhóm công nhân của ông tiếp tục chinh phục
Chùa Ấn Quang
Địa chỉ: số 243, đường Sư Vạn Hạnh,
quận 10.
Chùa được lập năm 1948, tên thường gọi lúc đầu là Ứng Quang, do Hòa thượng
Thích Trí Hữu xây trên diện tích mặt bằng 500 m2. Năm 1950, chùa là trụ sở của
Phật học đường Nam Việt. Ngôi chánh điện được trùng tu năm 1950. Chùa được
trùng tu vào các năm 1955, 1957, 1959, 1966, 1967.
Diện tích mặt bằng hiện nay là 1.000 m2. Chánh điện ở tầng lầu, có Đông lang,
Tây lang, giảng đường, phòng phát hành kinh sách.
Đến năm 1950 hòa thượng
Thích Trí Hữu đã giao quyền quản lý ngôi chùa cho hoà thượng Thích Thiện Hoà để
hoằng dương Phật pháp. Hoà thượng Thích Thiện Hoà đã cho xây dựng ngôi chánh
điện theo kiểu chùa Từ Đàm (huế). Sau đó ngài cho xây tăng xá, giảng đường và
nhà trù.
Năm 1951, hoà thượng Thích
Hiện Hoà đã vận động các trường Phật học Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức và Ứng
Quang hiệp nhất thành Phật học đường Nam Việt. Chùa Ứng Quang được đổi thành Ấn
Quang, được chọn làm trụ sở của Phật học đường. Hoà thượng được bầu làm Tổng
Giám Đốc.
Ngày 14 và 15 tháng 7 năm
1953 (Quý Tỵ), chùa Ấn Quang tổ chức đại lễ khánh thành.
Năm 1955, Hoà thượng cho
xây lại dãy nhà lầu nhà Tổ và trai đường. Liên tục hai năm sau, Hoà thượng lại
cho xây nhà in Sen Vàng, xưởng nhang Bồ Đề, thư viện, nhà xuất bản, nhà phát
hành Hương Đạo. Năm 1959, Ngài cho xây lại dãy lầu giảng đường. Đến năm 1966,
chánh điện được tôn tạo. Năm sau, lầu tăng xá, nhà trai được tái thiết. Kiến
trúc chùa được xây dựng lại theo đề án của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện.
Điện Phật được bài trí tôn
nghiêm. Chính giữa tôn trí tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni (do Phật tử Minh Dung
tạc) và Tháp Xá Lợi Phật. Chùa có tượng Tổ sư Đạt Ma bằng gỗ và bộ tranh sơn
mài Quan Âm, Văn Thù, Phổ Hiền do nghệ nhân Trương Văn Thanh (Đại đức Minh
Tịnh) thực hiện. Trong hơn một phần tư thế kỷ, Hoà thượng Thích Thiện Hoà (1907
– 1978) đã dành trọn tâm trí và công sức để tôn tạo ngôi chùa, mở trường Phật
học đào tạo lớp tăng tài cho giáo hội. Ngài thế danh Hữu Khắc Lợi quy y thọ
giới với Tổ Bửu Sơn ở chùa Long Triều (Chợ Lớn) năm 15 tuổi, xuất gia tại Phật
học đường Lưỡng Xuyên (Trà Vinh) năm 28 tuổi. Năm 1952, Ngài hướng dẫn phái
đoàn Giáo Hội Tăng Già Việt Nam tham dự đại hội thống nhất Tăng già Việt Nam
tại chùa Quán Sứ (Hà Nội), được suy cử làm Trị Sự Chưởng Giáo hội Tăng già toàn
quốc. Năm 1965, Ngài được bầu làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.
CHÙA VÀ MIẾU CỦA NGƯỜI HOA
Chùa Ông
(Nghĩa An Hội Quán)
Địa chỉ: số 676 - 678, đường Nguyễn Trãi, quận 5.
Chùa khởi dựng từ năm 1840. Khởi đầu là ngôi chùa nhỏ. Là nơi thờ Quan Vân
Trường, nhân vật anh hùng trung nghĩa bậc nhất thời Tam Quốc, Trung Hoa, tượng
trưng cho đức tính người quân tử (nhân nghĩa lễ trí tín, dũng chí bền gan đều
có đủ). Đây không phải là chùa Phật mà là miếu thờ Quan Công, do người Hoa gốc
Triều Châu lập ra, vừa làm trụ sở sinh hoạt cộng đồng.
Mặt bằng bố trí theo hình chữ khẩu, với điêu khắc độc đáo, có 6 cột đá lớn,
rồng cuốn công phu và tạc thêm liễn đối. Bình phong chạm nổi cả hai mặt sống
động. Trang trí thiên về ghép mảnh sành sứ, cùng với đá khối lớn và gỗ quý. Kỳ
lạ hơn là trong chính điện còn có phù điêu tả cảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi ra
trận, Lê Lợi chiến thắng ở ải Chi Lăng.
Chùa Phước Hải
Tên thường gọi :Ngọc Hoàng Điện;
còn gọi là Phước Hải Tự. Tên thường gọi chùa Ngọc Hoàng .
Địa điểm:số 73 Mai Thị Lựu (tên cũ Phạm Đăng Hưng) phường Dakao, Q1
Đường đi đến :đi theo đương Điện Biên Phủ Gặp ngã 4 Đinh Tiên Hoàng độ 150m gặp
đường Mai Thị Lựu rẽ trái khoảng 100m thấy ngôi chùa nằm bên trái.
DI TÍCH LỊCH SỬ :
A-Sự Kiện : nguyên trước kia vùng đất Hộ (Dakao) có một ngôi chùa tên là Minh
Sư được dựng lên gần 1 ga xe lửa, nằm ở gàn góc đường Mai Thị Lựu và Nguyễn Văn
Giai bấy giờ. Đường Nguyễn Văn Giai trước kia là đường ray tàu hoả chạy từ Sài
Gòn xuyên ngã tư Nguyễn Huy Tự và Phạm Đăng Hưng đi qua cầu sắt vào Bà Chiểu.
Chùa Minh Sư lập vào cuối thế kỷ XIX hoặc đầu thế kỷ XX cho nên đọc trong
"Nam kỳ Phong Tục diễn ca" của ông Nguyễn Liên Phong xuất bản vào năm
1906 thấy có mấy câu thơ:
Chợ hộ phong cảnh tốt thay
Chùa Minh Sư lập tại rày ga xe
Trong chùa thanh khiết chỉnh tề
Ăn chay để tóc người mê phật đường………..
Hai chư "Minh Sư" dùng để đặt tên cho chùa không phải ngẫu nhiên mà
có, theo lời kể của các vị thâm nho hai chữ Minh Sư được phân tách trong thời
điểm này thì Minh tức là nhà Minh và Sư tức là người có quyền hành như vậy
"Minh Sư" có thể là vua nhà Minh bên Trung Quốc .
Để chứng minh phần nào về hai chữ "Minh Sư" là tên của một ngôi chùa
nhỏ thưở xưa mà lại có liên quan đế Ngọc Hoàng Điện bây giờ. Tạm trích ra một
đoạn viết về chùa chiền của ông Vương Hồng Sển viết trong Sài Gòn năm xưa do
nhà xuất bản Khai Trí xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn :
Kể về chùa Tàu tại Sài Gòn, đường Phạm Đăng Hưng có một ngôi chùa cũng lạ lắm
chùa tạo lập năm 1905 trông có vẻ cổ kính vô cùng, hoa viên và cách xếp đặt
phía trong đáng liệt kê vào hàng mỹ quan tại Sài Gòn này lắm. Ấy là chùa Ngọc
Hoàng, chữ viết "Ngọc Hoàng Điện". Một người tàu tên Lưu Minh ăn chay
ròng giữ đạo "Minh Sư" lập chí quyết lật đổ nhà Mãn Than, xuất tiền
tạo lập chùa vừa để thờ phụng vừa để làm nơi hội kín . Chánh điện thờ đức Ngọc
Đế, tiền điện thờ Đức Thích Ca phiá hưũ điện; trong xa có một miếu nhỏ thờ viên
đá bản xứ thượng trưng cho "ông Tà" của người Cao Miên xưa. Đây có lẽ
là nguồn gốc có miếu này, về sau người tàu có thâm ý mang từ bên xứ họ môt viên
đá khác để gần đó, nhang đèn thờ phụng chữ đề "Thái Sơn" tức lấy từ
hòn đá trên núi Thái Sơn bên tàu về đây thay thế cho "ông Tà" bản xứ
. Gần đó nữa có bụi tre ngà dưới gốc cũng nhang đèn nghi ngút trên những nhánh
tre nào quạt nào tóc rối nào chỉ, quần nùi quạt tượng trưng cho sự mát mẻ cõ lẽ
hoạch của 2 người bạn , vừa hết giận nay làm thân, hoặc của đôi vợ chồng sum
họp sau những ngày hờn dỗ, tóc rối chỉ nùi tượng trưng cho những rối rắm dời
thường nay cởi bớt treo dây cho nhe. Trước miếu có căn phòng bày cảnh Thập Điện
và cảnh thiên đàng trạm trên cây rất đẹp, bên phải điện có treo bức tranh
"Đạt Ma Tổ Sư quá hải" tranh vẽ trên giấy nét vẽ thần tỉnh. Kế bên có
thang đưa lên từng lầu, nơi đây thờ quan đế và bài vị lộ thiên, đứng đây dòm
bao quát thấy đủ nóc bắt bông bắt chỉ bằng đồ gốm tinh xảo vô cùng, lại thấy sự
hạn chế ánh sáng làm cho bức vẽ trở lên âm u huyền bí theo ý nhà kiến trúc sư
tinh trong thuật tâm lý.
Tóm lại chùa Ngọc Hoàng là một ngôi chùa của ngưòi hoa, do ông Lưu Minh đứng ra
quyên tiền xây dựng vào năm Canh Tý (căn cứ vào miếu bia ghi trên 2 cột đá của
cửa chùa truy ra là Canh Tý 1900) năm 1906 chùa làm lễ lạc thành và đặt tên là
Ngọc Hoàng Điện.
Trước kia người pháp gọi là La Pagpde De L'emperour De Jade A Dakao và người
việt thì gọi là chùa Ngọc Hoàng. Năm 1981 chùa gia nhập vào hội phật giáo đổi
tên là Phước Hải Tự tuy nhiên người ta vẫn quen gọi là chùa Ngọc Hoàng .
Chùa có 3 đời trụ trì, vị khai sơ là thiền sư thích ca Huệ An, kế tiếp là thiền
sư thích ca Tự Quảng và hiện nay là hòa thượng Thích Vĩnh Khương tục danh Trà
Văng Siêu 90 tuổi
Ngọc Hoàng Thượng Đế
Ngọc Hoàng Thượng Đế là chúa tể của Thiên đình, có chức vị cao nhất ở trên đời,
nơi đó ông là đấng trí tôn cũng như hoàng đế đối với loài người vậy. Nhưng ảnh
hưởng của tư tưởng hiện đại đã làm cho ông mất đi phần nào uy danh chỉ còn được
gọi đơn g iản là ông Trời. Nhưng không làm mất đi hẳn cái tính chất thần linh
cả thế của ông. Giáo lý đạo Lão thừa nhận ông là đấng tối cao ngự trị trên thế
giới của những ngưới bất tử . Trong tôn giáo Trung Hoa người ta nhận thấy sự
dung độ giữa Ngọc Hoàng Thượng Đế và vị thần Indar của người Ấn Độ, điều này
giải thích bằng sự giống nhau giữa chức năng của họ. Ông là ông trời trong đạo
Nho, quảng đại bình dân xem ông như là vị thần tối thượng của tôn giáo bình dân
hiện đại.
Ông trời thấy hết nghe hết và quyết định tất cả, ông rất công bình, ông bảo hộ
và giúp đỡ những người tốt và trừng phạt những kẻ xấu, thường là cuộc sống ở
ngay thế gian này . Cái ân đức toàn trí của ông không bỏ sót một ai bởi vì ông
cố giữ sao cho "mỗi người đều được hưởng một phân ân hụê từ ông"; ông
là chúa tể của vòm trời thiên giới mà ông cai quản với sự phụ tá của các quan
chức trên trời. Ông ủy quyền cho các hoàng đế dưới trần vâng mệnh của ông để
cai quản cõi dương gian hay là thế giới của những ngưới sống và trao cho Địa
Tạng hay Diêm Vương cai quản cõi âm giới hay địa phủ .
Bất kể những điều giảng giải thông thái về lý thuyết dân chúng xem ông như là
người đạt đến cái địa vị vô cùng đó, sau khi đã trai qua trăm kiếp đầu thai tu
hành khổ hạnh. Mỗi lần đầu thai thoát kiếp thì đức hạnh của Ông càng thêm nhiều
và cuối cùng ông đã đạt lên ngôi trời .
Ông đã đặt ra một trật tự cố định cho sự vận hành của thế giới âm và dương là 2
yếu tố tạo thành sự tiếp nối của các mùa, đem lại sự lạnh và nóng, những gì cần
thiết để nuôi sống con người. Dưới quyền ông là một bộ máy cai trị phức tạp với
vô số những quan chức tuyển chọn trong vô số những oan hồn người chế, đó là
vong hồn của người cố đức độ đang nắm giữ những chức vụ trên trời, trông coi
trực tiếp các công việc ở thế gian tức là cuộc sống trên mặt đất này kể cả loài
người kể cả loài vật. Tổ chức hành chính ở trên trời cũng không khác gì tổ chức
hành chính của con người bởi vì bên cạnh những chức vụ giao cho các vị thần
điều khiển những hiện tượng tự nhiên như thần gió, thần mưa, thần sét v.v.v
cũng có những bàn giấy đăng kí sự khai sinh và khai tử, một phòng phân phát
tiền của, một phòng phụ trách về tội trộm, một phòng coi về những kẻ đầu độc,
một phòng về vịêc đọc các kinh sách v.v….Một cơ quan phụ trách về việc điều
chỉnh số mệnh đã ban cho từng người khi mới sinh cho tương xứng với công tích
và tội trạng trong mỗi cuộc đời của mọi người bằng cách thêm vào hay giảm bớt
niên kỷ của anh ta trong số năm anh ta được sống ở đời ….
Ông trời là đối tượng của một sự thờ cúng ít quan trọng. Quần chúng ưa cầu khẩn
những ông thần gần gũi với con người hơn. Đền thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế tọa lạc
ở Dakao 1 địa điểm lân cận trung tâm Sài Gòn đến nay là tài sản của tất cả
những người nhập cư .
Miêu Tả Di Tích
Chùa tạo lạc trên một khu đất rộng 2300m2 quang cảnh nguy nga cổ kính của
chùa hiện ra giữa một khoảng không gian khoáng đạt, đầu tiên là sân chùa hình
chữ nhật rộng 40m dài 80m nối liền từ cổng chính đến chùa là một con đường xi
măng hai bên có trong nhiều cây thuốc nam. Ở giữa dưới bóng cây cổ thụ có miếu
thờ hộ pháp. Qua khỏi miếu đến 1 cái hồ nước hình chữ nhật có nuôi rùa, trước
chùa bên phải có một hồ hình bán nguyệt nuôi cá và rùa, theo người ở chùa thì
rùa tượng trưng cho sự trường thọ. Chùa bố cục theo lối "Nội tam ngoại
quốc"(bề ngoài hình chữ quốc, bề trong hình chữ tam) ở giữa là hệ thống hạ
điện, trung điện và thượng điện, chung quanh là hành lang tạo nên 1 bầu không
khí thanh tịnh, vừa uy nghi, vừa kín đáo ..Chùa có 1 lối kiến trúc đặc biệt,
toàn bộ khung cửa chính đều được lam bằng đá lửng, 2 trụ đứng có khắc 2 câu đối
sơn son thiếp vàng :
"Tích tụ huyền phương trấn phấp than thiên địa
Thiện quả chân tâm chánh đạo chấn càn khôn".
Phía trên của có bức bao lam cham khắc nhiều hình tượng mô tả cảnh thiên đình,
ở giữa có ghi 3 chữ "Tử tiêu điên", trên bức bao lam là một mặt dựng
cao ở đỉnh có gắn rồng chầu mặt trời và các tượng nhỏ gắn sứ tráng men trông
rất ngoạn mục. Sau tấm mặt dựng có 3 tòa nhà gồm 12 mái lợp ngói rất công phu,
trên là ngói có cỡ to, ở đầu mũi có trang trí hình lá đề, lớp dưới là ngói lót
hình vuông.
Nóc chùa được xây từ thấp đến cao, cuối cùng nối lên cao nhất là bình phong
trên nóc nội điện, đánh dấu điểm chót của bố cục kiến trúc. Bước vào bên trong
phải qua 2 cánh cửa bằng gỗ rất dày và được trạm khắc tỉ mỉ , cánh bên phải
trạm cảnh "Sinh Long Bàn Thoại Khí" và cánh bên trái trậm cảnh
"Hoạt Hổ Tráng Uy Thanh". Ở 2 bên cửa phía bên phải có bàn thờ Môn
quan thần và bên trái có thờ thổ địa thần, cả 2 khám đều được trạm trổ rất công
phu. Qua khỏi cửa chính vào cửa phụ ở bên trong cũng được trạm hình nổi, cánh
bên phải chạm cảnh "Diệu Pháp" cánh bên trái chạm "thần
nông". Ơ 2 bên cửa phụ có 2 căn phòng dài và hẹp căn bên phải trước kia có
bày bửu bát, căn bên trái để các lá xăm. Nay 2 căn đều bỏ trống. Đứng ở đây
nhìn vào thấy ngay bàn thờ Phật, trên có tượng Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, hình
Phật Thích Ca, tượng phật A Di Đà với tượng Chuẩn Đề Quan Âm và Thế Chí cũng có
tượng nhỏ đức Địa Tạng. Phía trên có môt bức hoành phi lớn ghi bốn chữ
"Trạch Cập Đông Quân" và ở hai bên bàn thờ có hai câu đối
"Bình trung nhập tọa kién tiên cảnh
Môn ngoại đang đường kết thiện tâm"
Trong ánh sáng mờ ảo của gian thờ nhìn bên phải có bức Thanh Long đại tướng và
bên trái là bức Phục Hổ Đại Tướng, hai pho tượng này cao gần 3 thước được tạc
bằng giấy bồi thiếp vàng trông rất oai phong. Sâu bàn thờ phật có bốn cánh cửa:
mỗi bên hai cánh đều được chạm trổ rất công phu nói chung những cánh cửa trong
chùa đều là những công trình điêu khắc có giá trị nghệ thuật cao. Ở chánh điện
: cung giữa thờ Ngọc Hoàng, cung bên phải thờ Chuẩn Đề Quan Âm, cung bên trái
thờ Bắc Đế Tức Huyền Võ hoặc Trấn Võ dọc hai bên tường . Phía trái thờ ba vị
giữa là quan phu tử (chủ về việc võ) hai bên có thiên tướng và thiên thần , bên
phải có ba vị: giữa là Văn Xương (chủ về việc văn) hai bên cũng có thiên tướng
và thiên thần. Ngoài ra, sau pho tượng ấy có nhiều pho tượng khác ở hai bên bàn
thờ Chuẩn Đề Quan Âm và hai bên bàn thờ Bắc Đế. Trước bàn thờ Ngọc Hoàng có tấm
đá quý che kín , phía tiền điện, trên mặt có khắc bốn chữ Hỏa Khai Phú Quý và
có ghi năm cung phụng: Ất Tỵ 1905. Phía trên bàn thờ có hai cửa võng được chạm
lộng rất tinh vi sắc sảo. Ở chính giữa có bức hoành phi lớn ghi 4 chữ
"Tiên Phật Giáng Lâm". Hai bên bần thờ chuẩn quan âm có hai câu đối
mang rõ triết lý phật giáo .
Khán hoa thế giới tam song thân
Xạ phá hồng trần nhập bát tỷ
Hai bên bàn thờ bắc đế có hai câu đối mang rõ triét lý Lão Giáo :
Thái cực chân vô cực
Huyền thiên cảnh hữu thiên
Từ chánh điện đi sang qua dãy phòng dài phía tay trái, ở gian ngoài cùng có bàn
thờ Kim Hoa Thánh Mẫu. Còn gọi là Mẹ sanh, ở hai bên có bày mỗi bên sáu bức
tượng các bà bằng sành, cỡ nhỏ những người hiếm hoi xưa kia thường đến đây xin
có con.
Gian thứ nhì có treo trên tường sáu bức tranh bằng gỗ chạm nổi :
Bức thứ nhất là hình hoạt vô thường
Bức thứ nhì là hình Đông Nhạc Điện
Bức thứ ba là hình Quan Âm Dường
Bức thứ tư là hình Địa Tạng Vương
Bức thứ năm là hình Ti Minh Quân
Bức thứ sáu là hình Doãn Hồn Tiên
Gian thứ ba là thập diện Diêm Vương :ở bên tường mỗi bên có treo năm bức
hình chạm nổi làm theo điều đã nối ở kinh Địa Tạng bản nguyện phô bày những
hình phạt ở âm ti để trừng giới những kẻ gian ác
Bức thứ nhất :cảnh diện của Tần Quang Vương
Bức thứ hai :cảnh điện của Sở Giang Vương
Bức thứ ba :cảnh điện của Tống Đế Vương
Bức thứ tư :cảnh điện của Ngũ Quan Vương
Bức thứ năm :cảnh điện của Diêm La Vương
Bức thứ sáu :cảnh điện của Biên Thành Vương
Bức thứ bảy :cảnh điện của Thái Sơn Vương
Bức thứ tám :cảnh điện cửa Bình Đẳng Vương
Bức thứ chín :cảnh điện của Đô Thị Vương
Bức thứ mười:cảnh điện của Chuyển Luân Vương
Gian này lúc nào cũng mờ ảo có vẻ âm u lạnh lẽo nên người xem cảm thấy thập
điện có phần ghê rợn .Ở cuối gian phòng có ba khám thờ : khám ở giữa thờ thành
hoàng, khám bên phải thờ thái thế thần và khám bên trái thờ bảo thọ thần. Rời
điện thờ đi dần theo con hẻm nhỏ ra sân sau nơi đây có một bức tường mà khi qua
cửa ngách đã nhìn thấy đó là di tích của miếu đất Hộ xưa, chỗ thờ "ông
đá" ở giữa bức tường có bốn câu hán "Quang chiếu cận viễn" và
câu đối :
Dung thụ thần linh phu lợi tế
Tướng quân oai dũng bảo khang ninh
Đi vào sân trong có bày bàn thờ hai vị thần :thần Thạch Long bên phải và thần
Bạch Hổ ở bên trái giữa hai vị thần ấy có một hòn đá lấy từ núi Thái Sơn bên
Trung Quốc sang. Theo quan niệm mê tín xưa thì hai vị thần và hòn đá kia có
phép màu chữa khỏi bệnh nên lúc trước có nhiều người vào đây cầu nguyện xin cho
hết bệnh . Từ sân sau trở ra qua phía tay phải của chùa vào căn phòng bên đó có
cầu thang rất chắc chấn dẫn lên lầu . Phía trước có sân thượng khá rộng đứng ở
đó có thể nhìn thây toàn bộ mái chùa nhô góc từ thấp đến ca, có rồng kỳ lân hoa
lá phủ theo các đầu mái, vào trong phòng là điện thờ phật, có tấm hoành phi đề
bốn chữ "Đại Hùng Bảo Điện" . Bàn thờ giữa thờ phật bà ,hai bên có
hai câu đối
Nam Hải Phi Tiêu Phiến Diện Niệm Từ Hàng Tùy Tế Độ
Tây Phương Bất Viễn Nhất Thành Cứu Khổ Tức Thông Linh
Có ba cái khám thờ ở trước mỗi khám đều có hinh tượng di đà ,khám ở giưa thờ
bài vị phật ,thánh, tiên ,khám bên phải thờ Quán Đế và khám bên trái thờ Tây
Đông Thổ Lịch Đại Tổ Sư . Chính giữa phòng phía trên có tám hoành phi ghi Tiên
Phật Nho Tông cho thấy có sự hòa hợp giữa Phật Nho Lão . Ở đây cũng có hai câu
đối
Lập phâm tầm hồn trung hiếu
Dộc thư chí tại thánh hiền
Bước xuống cầu thang nhìn lại thấy một bức hoành phi ghi "Tu thân vu
đạt" đó là tấm hoành phi cuối cùng tiễn khách ra về, chấm dứt cuộc tham
viếng chùa Ngọc Hoàng .
Giá Trị Kiến Trúc Nghệ Thuật:
Chùa Ngọc Hoàng đựoc bố cục khéo léo quy mô, mỗi bộ phận kiến trúc từ nhỏ
đến to đều cứng cáp có sức chịu đựng bền lâu mà hình dáng kích thước lại thanh
nhã phối hợp chặt chẽ tương xứng với nhau, thành thử toàn bộ ngôi chùa dưới
nhiều tầng mái nặng nề đồ sộ dựa trên hàng chục chiếc cột vạm vỡ vẵn có vẻ nhẹ
nhàng. Chùa lại được trang trí chạm trổ công phu họa tiết sử dụng ở nay nhiều
nhất là điển tích Trung Quốc , hầu hết các họa tiết đều được cách điệu hóa bằng
những đường nét tinh tế . Nét trang trí uyển chuỷên, nét chạm trổ công phu điêu
luyện làm cho ta tưởng tượng rằng những kỳ công tinh xảo đó là những tấm thêu
trên mặt gỗ, nói lên tính chất đồng nhất giữa kỹ thuật thủ công và nghệ thuật
trang trí. Về mặt tạc tượng chùa Ngọc Hoàng còn giữa được đa số tượng tạc bằng
giấy bồi, pho nào cũng được tạc rát công phu tinh xảo sinh động từ nếp quần áo
đến dáng điệu, nét mặt hay tư thế ngồi đều phản ánh nhiều tình cảm khác nhau,
có thể nói đây là cuộc họp mặt của tập đoàn "thần thánh"đang về chầu
Ngọc Hoàng .Tuy là tượng giấy nhưng tuổi thọ của các pho tượng này cũgn xấp xỉ
100 năm ngang với tuổi chùa . Chùa Ngọc Hoàng đứng về mặt kiến trúc nghệ thuật
với những phần trang trí nội thất thì phải nói tất cả các công trình đều thể hiện
được cái tinh xảo của nghệ thuật điêu khắc trên gỗ .
1: Những hiện vật động sản của chùa
Ngọc Hoàng :
1:Tượng Kim Hoa thánh mẫu bằng sành 1 tượng
2:Tượng Bà mẹ sanh bằng sành 12 tượng
3:Tượng nam bàng sành 7 tượng
4:Bình cắm hoa hình rồng bằng sành 3 cái
5:Cọp bằng sành 1 con
6:Voi bằng sành 1 con
7:Bình hoa lục bát bằng sành 1 cái
8:Hạc-Quy ngậm sen bằng sành 2 con
9:Độc bình bằnh sành 2 cái
10:Bình hoa bằng sành 2 cái
11:Lư hương lớn bằng sành 2 cái
12:Sư tử đá 2 con
13:Tượng hộ pháp bằng sành 1 tượng
14:Cửa võng chạm rồng 22 bức
15:Liễn gỗ 43 tấm
16:Hoành phi gỗ 11 bức
17:TRanh gỗ chạm thập điện (10 bức) 1 bức
18:TRanh gỗ chạm 6 bức
19:Chân đèn đồng 10 cái
20:Lư hương đồng 6 cái
21:Lục bình đồng 1 cái
22:Chuuông đồng 3 cái
23:Mâm đồng 1 cái
24:Tượng quỷ thần (giấy bồi) 57 tượng
25:Ngựa giấy bồi 1 con
Lễ hội chùa Ngọc Hoàng
Chùa Ngọc Hoàng hay Ngọc Hoàng
Điện, nay gọi là chùa Phước Hải, tọa lạc tại số 73, đường Mai Thị Lựu, gần chợ
Đa Kao thuộc phường Đa Kao, quận I, thành phố Hồ Chí Minh.
Chùa Ngọc Hoàng được thành lập từ năm 1892 do một người Hoa tên Lưu Minh chủ
xướng. Năm 1900, công cuộc xây cất chùa hoàn thành, nhưng đến năm 1906 mới làm
lễ khánh thành. Chùa khởi nguyên tên là Ngọc Hoàng Điện, người Pháp gọi là
"chùa Đa Kao", năm 1982 chùa gia nhập Giáo hội Phật Giáo Việt Nam do
hòa thượng Thích Vĩnh Khương chủ trì, mới đổi tên thành Phước
Hải Tự, nhưng dân gian vẫn quen gọi là chùa Ngọc Hoàng.
Trong sân chùa Ngọc Hoàng, ngoài hai hồ nuôi cá và rùa, có một miếu thờ Hộ Pháp
và một nhà bát giác che chiếc đỉnh lớn đúc bằng xi măng giả đồng dành cho khách
hành hương thắp nhang trước khi vào chùa cũng như ra khỏi chùa. Chùa Ngọc Hoàng
có tổng cộng trên 300 tượng thờ, được phân bố trong ba gian thờ. Gian ở giữa
liền với cổng vào, là gian thờ các bậc thiên tướng và Ngọc Hoàng, theo thứ tự
từ ngoài vào trong gồm có:
- Thổ địa (bên trái cửa vào), Môn Quan (bên phải cửa vào).
- Phật Dược Sư, tượng phật duy nhất bằng gỗ trầm đặt trong lồng kính, ở giữa
chánh điện.
- Thanh Long đại tướng (bên phải) và Phục Hổ đại tướng (bên trái), tượng to
bằng người thật.
- Cung thờ Ngọc Hoàng ở giữa, cung thờ Chuẩn Đề Quan Âm bên phải và cung thờ
Bắc Đế, tức Huyền Võ hay Trấn Võ bên trái.
Ở gian thờ Ngọc Hoàng có sáu pho tượng chính: bên phải gồm ba vị, với giữa là
Quan Phu Tử (chủ về việc võ) và hai bên là Thiên Tướng và Thiên Thần. Ngoài ra,
còn có các tượng thờ khác như: Nam Tào, Bắc Đẩu, Hoa Đà tiên sư, Tề Thiên đại
thánh, Quan Thánh đế quân, thần Nhật, thần Nguyệt, Long Mẫu nương nương, Tứ Đại
kim quang, Thái ất chân nhân, Hòa thượng Đạo Minh, Khuyến thiện đại sư, hai
quan văn, hai quan võ, hai đồng tử, Ông bà Thiên Lôi cùng bảy thiên tướng...
Hầu hết các tượng thờ ở đây đều bằng gỗ, một số ít làm bằng giấy bồi. Riêng
tượng của Ngọc Hoàng là pho tượng ngồi lớn nhất trong chùa. Đầu tượng Ngọc
Hoàng đội mão lớn có mái che trước trán. Hai tay Ngọc Hoàng cầm lịnh tiễn. Mặt
Ngọc Hoàng bình thản, không vui cũng không buồn, mắt trong tư thế mở nhưng
không thấy rõ tròng mắt, mũi dời và to. Khuôn mặt tượng Ngọc Hoàng hình chữ
điền, hai má cao và rộng, có bốn chòm râu tỏa dài xuống ngang vai. Ngọc Hoàng
mặc áo choàng rộng, hai tay áo phủ tận đến các ngón tay. Áo được chạm nối dính
vào tượng với kỹ thuật sơn son thếp vàng tinh xảo làm nổi bật đường nét trang
trí trên thân áo với một con rồng uốn lượn.
Gian bên trái từ ngoài vào, theo thứ tự từ trước ra sau có những hương án với
các tượng thờ sau:
- Gian đầu tiên thờ Kim Hoa thánh mẫu, mười hai bà mụ và các nhũ mẫu trong các
tư thế nuôi dạy cho trẻ nhỏ. Đây là gian cầu tự cho những người hiếm muộn.
- Gian tiếp theo là Thập Điện Diêm Vương, với mười bức chạm gỗ cảnh mười cửa
ngục phân bổ đều mỗi bên vách năm bức. Nối liền gian Thập Điện với gian Kim Hoa
thánh mẫu, có các tượng thờ: Quan Âm, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Địa Tạng Vương bồ tát
(biểu tượng cho sự cứu rỗi), Hoạt Vô Thường, Tư Mạng sứ quân và Dẫn Hồn Tiền
(biểu tượng sự dẫn dắt, phân biệt linh bổ lành dữ).
- Thần Tài: Trang phục đồ tạng, biểu tượng mang hết sự rủi ro vào mình và ban
phát tài lộc cho nhân gian. Tượng đứng cuối gian Thập Điện, tay cầm một cái rổ
đựng các gói giấy đỏ bọc mảnh giấy nhỏ ghi hai chữ Hán "Tài Thần" bên
trong để khách hành hương xin lộc.
- Gian nối liền với gian Thập Điện có các tượng thờ: Nhị Vị song án, Mã tướng
quân, Thành Hoàng Lỗ Ban và Thái Tuế.
- Gian cuối cùng (hiện không còn cho khách vào chiêm bái) gồm hai hương án thờ
Thạch Cẩm Đương (tục thờ đá của người Hoa) và thờ Ông Tà (tục thờ đá của người
Khmer).
- Bên phải gian thờ Ngọc Hoàng là phòng khách của chùa, sau phòng này có cầu
thang lên lầu. Nơi đây thờ phụng: Quan Âm bồ tát, Quan Thánh Đế Quân, Hộ pháp
và Tổ Lưu Minh - người lập chùa.
Từ lâu chùa Ngọc Hoàng là một trong những cơ sở tín ngưỡng dân gian thu hút
đông đảo khách hành hương chiêm bái. Vào những ngày rằm, mùng một âm lịch, nhất
là vào các ngày rằm lớn trong năm (15/1 âm lịch, 15/7 âm lịch, 15/10 âm lịch)
khách đến lễ chùa đông đến hàng vạn người. Tuy nhiên, dịp lễ hội thu hút khách
đông nhất là dịp lễ vía Ngọc Hoàng vào ngày mùng 9 tháng giêng âm lịch hàng
năm. Vào dịp này, tối ngày mùng 8, vị hòa thượng trụ trì chùa tổ chức tụng kinh
cầu an. Cả ngày mùng 9 dành cho hàng chục vạn khách đến chiêm bái, có cả người
Hoa lẫn người Việt. Khói hương mù mịt khắp trong ngoài...
Trong các cơ sở tín ngưỡng dân gian của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, chùa
Ngọc Hoàng có thể xem là một trong những điểm có sức thu hút khách trong và
ngoài nước đến tham quan, chiêm bái rất đông đảo.
Miếu Nhị Phủ
Ở Thành Phố Hồ Chí Minh
(TP.HCM) hiện vẫn còn nhiều ngôi miếu cổ của người Hoa như Miếu Nhị Phủ - hội quán Nhị Phủ, miếu
Thiên Hậu – hội quán Tuệ Thành; miếu Thiên Hậu – hội quán Hà Chương; miếu Thiên
Hậu – hội quán Ôn Lăng… Những ngôi miếu này là cơ sở tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ
hội, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội, sinh hoạt văn hóa, tín
ngưỡng của người Hoa tại TP.HCM, đồng thời còn là một trong những điểm du lịch
hấp dẫn, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan. Trong số các
di tích này, miếu Nhị Phủ - hội quán Nhị Phủ là một điểm nhấn quan trọng. Miếu
Nhị Phủ - hội quán Nhị Phủ còn gọi là chùa ông Bổn, là ngôi miếu của người Hoa
Phúc Kiến, nằm trên địa bàn quận 5 (tại số 264 đường Hải Thượng Lãn Ông)
TP.HCM. Theo tín ngưỡng của người Hoa, ông Bổn là vị thần bảo hộ đất đai, con
người. Người Hoa cho rằng ông chính là Châu Đạt Quan, một viên quan của triều
đình Trung Hoa đời nhà Nguyên, thế kỷ XIII. Trong hầu hết các miếu của người
Hoa đều có điện thờ chính là Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đến Quân nhưng
riêng miếu Nhị Phủ - hội quán Nhị Phủ,
thần linh thờ chính là “Phước Đức Chính Thần” hay còn gọi là “Phước Đức Bổn Đầu
Công” (vì vậy mà có tên gọi là chùa Ông Bổn). Đây chính là một trong những điểm
khác biệt của ngôi miếu này so với các ngôi miếu khác của người Hoa ở TP.HCM.
Vào thế kỷ XVII, khi nhiều người
Hoa ở hai phủ Tiền Châu và Chương Châu thuộc tình Phúc Kiến, Trung Quốc vào
vùng đất Đề Ngạn (ngày nay là khu vực Chợ Lớn) để mưu sinh, lập nghiệp, họ đã
xây dựng ngôi miếu này để thờ cúng và làm nơi gặp gỡ giao lưu của những người
đồng hương .
Từ khi được xây dựng đến nay, miếu
Nhị Phủ đã qua 3 lần trùng tu lớn vào những năm 1875, 1901 và 1990. Dù vậy, khu
miếu vẫn giữ được nét cổ kính qua phong cách
kiến trúc và trang trí truyền thống
của người Hoa Phúc Kiến.
Qua những lần trùng tu, kiến trúc
của miếu Nhị Phủ - hội quán Nhị Phủ ở phần tiền điện là kiến trúc được xây dựng
mới hoàn toàn, còn phần trung điện và hậu điện thì được sửa sang trên nền kiến
trúc cũ.
MiếuNhị Phủ - hội quán Nhị Phủ có
diện tích rộng khoảng 2,5ha, nhưng phần sân của ngôi miếu chiếm gần ½ diện
tích, phần còn lại là điện thờ và phòng làm việc của Hội quán. Theo lối kiến
trúc đặc trung của người Hoa, miếu Nhị Phủ (MNP) được xây dựng hình chữ khẩu,
gồm bốn dãy nhà liên tiếp nhau và liên kết giữa các dãy nhà là Giếng Trời (hay
còn gọi là sân “thiên tĩnh”).
Trước của miếu còn có 2 quả thạch
cầu (hay còn gọi là trống đá, bảo cổ thạch) khá to. Phần đế của quả thạch cầu,
hoa văn lá chiếm vị trí chủ đạo. Phần giữa có hoa văn bát bửu như: quạt, kiếm…
bên trái có hình con nai (tức lộc) cùng một số hình trang trí khá, còn quả bên
phải thì có hình con dơi (tức phúc). Phía trên của bảo cổ thạch có hình xoắn ốc
nổi.
Nét nổi bật trong kiến trúc
của miếu Nhị Phủ là mái nhà cong hình thuyền (khá độc đáo so với các đền, miếu,
chùa ở Việt Nam cũng như so với các mái miếu của các nhóm Hoa thuộc các phương
ngữ Quảng Đông, Triều Châu) được trang trí phù điêu rồng, cá chép bằng những mảnh
sành sứ ghép lại rất đặc sắc, công phu. Ở phần mái chính giữa phía trên mỗi đầu
đao lại có hình rồng đuôi dựng đứng, xoè ra, 2 con rồng ở giữa làm thành thế
“lưỡng long tranh châu” dưới mỗi bên có 2 dòng chữ Hán ghép lại thành câu
“phong điều vũ thuận”. Mái lợp ngói ống màu đỏ, phần diềm mái có màu xanh ngọc.
Mặt tiền miếu làm giống
kiểu nhà Trung Hoa, có cửa lớn và 2 ô cửa sổ tròn trông giống như 2 con mắt hổ
đang nhìn ra phía ngoài. Hai bên cửa chính và cửa sổ tròn được trang trí bằng
tranh các sự tích Trung Hoa như “bát tiên” hay “tam quốc chính”. Trên các bức
tường của miếu đều được chạm trổ hình hảnh về phong tục tập quán của người Hoa Phúc
Kiến. Các bức tranh đều được khảm bằng mảnh gốm, màu sắc rất phong phú và tươi
sáng.
Phần bên trong miếu gây ấn tượng
với khách tham quan qua màu đỏ rực rỡ trên những cây cột, xà nhà, cùng số lượng
hoành phi câu đối khá nhiều. Phần sân thiên tĩnh được bố trí ở khoảng giữa phần
tiền điện với chính điện. Đó là một khoảng không gian không có mái che, được bố
trí có chủ ý, dùng để lưu thong không khí và ánh sáng. Ngoài ra “thiên tĩnh”
còn có một chức năng đặc biệt khác vào các dịp lễ hội lớn của miếu, phần sân
“thiên tĩnh” được dùng để thoát khói nhang. Ở khoảng trống đó, người ta gác
những cây sào để treo lên những vòng nhang cuốn. Trên mỗi vòng nhang lại có gắn
giấy đỏ ghi tên người thắp hương.
Những cây cột ở phần tiền điện và
chính điện được bố trí đối xúng để chống đỡ phần mái. Phần cột này trước đây
được làm bằng gỗ, nhưng trong lần trùng tu gần đây nhất, do các cây cột cũ bị
mục hết, người ta đã đổ cột xi măng để thay thế. Riêng ở phần hậu điện thì các
cột gỗ cũ nay vẫn còn.
Trong nghệ thuật trang trí miếu, hệ
đề tài đồ vật xuất hiện ka1 nhiều trên các loại hình chất liệu. Ngoài ra, trang
trí bao lam cũng được đặc biệt chú trọng, với hoa mẫu đơn (là chủ đạo) và hình
phượng hoàng, hình dơi (nằm chính giữa)… Tất cả đều tượng trưng cho những điều
phúc lành và may mắn.
Hệ thống thờ tự tại MNP có nhiều
nét riêng biệt. Phần tiền điện là dãy nhà 3 gian, gian giữa đặt bàn thờ Ngọc
Hoàng, có 3 lư hương, 1 nhỏ 2 lớn. Bàn thờ sơn màu đỏ, trang trí khá đơn giản.
Hai gian bên là nơi đặt thờ Quan Thánh Đế Quân và Chúa Sanh Nương Nương, có tấm
trướng ghi rõ hiệu của các vị đó. Phần tường của gian thờ Quan Thánh vẽ tranh
Quan Công theo Tam Quốc Chí, còn bên gian thờ Chúa Sanh Nương Nương lại vẽ hình
Quán Thế Âm đang cứu giúp chúng sinh (người Hoa quan niệm Quán Thế Âm không chỉ
chuyên cứu khổ cứu nạn, mà còn là vị thần linh ban phát con cái). Mỗi gian đều
cỏ bức hoành phi ghi những câu tương ứng với nhân vật được thờ: chẳng hạn như
bên Quan Thánh thì có trung nghĩa thiên
thu, vạn cổ anh phong, phù thiên chính khí….
Phần chính điện bàn thờ ngọc hoàng
thượng đế, với một lư hương bằng đồng khá lớn. Bên trên bàn thờ Ngọc Hoàng có
hai tấm đại tự “Phúc toàn đức bị” và “Thích cấp lâm phong”. Những hiện vật này
có ghi rõ niên đại được chế tác trong năm Quan Tự thứ 27 (1901).
Đi qua sân thiên tĩnh, nơi đó có
dãy bàn bằng xi măng là chỗ biện bày các lễ vật cúng thần, sẽ bắt gặp một hoành
hi đại tự ghi “Thân lâm phước địa” bên dưới hoành phi là bàn thờ “nhị phủ miếu
Phúc Đức chính thần”.
Nơi đặt bàn thờ Ông Bổn, chiếm vị
trí trung tâm chính điện với trang thờ nguy nga, lộng lẫy, tráng lệ, có những
cây cột chống màu đen, trang trí hình rồng mây, hình dơi màu vàng kim nổi bật.
Phía trên cao có treo các tấm trướng ghi 4 chữ Phúc đức chính thần. Tượng ông
Bổn được tạo bằng gỗ, cao khoảng 1,5m. Đó là hình tượng một ông già khuôn mặt
vừa quắc thước, vừa khoan hoà, với chòm râu bạc trắng buông dài, dáng ngồi thoải mái, một tay gác
lên tay ngai, một tay vuốt chòm râu. Những nếp áo tượng buông chùng xuống. Bên
dưới tượng ông Bổn là hai pho tượng nhỏ khác, như hai đồng tử đang đang đứng
chờ được sai bảo.
Tại chính điện, ngài bàn thờ ông
Bổng còn có bàn thờ Quảng Trạch Tôn Vương (bên trái Ông Bổn) và Thái Tuế Gia
Gia (bên phải ông Bổn). Phần hậu điện là khu vực mới được xây dựng. So với tiền
điện và chính điện (trung điện) hậu điện
nằm trên vị trí cao hơn. Hậu điện thờ Ngọc hoàng đại đế, Phật và Quan Âm Bồ
Tát. Hai bên bờ tường có trang trí bốn bức tranh vẽ 18 vị la hán…
Hàng năm Miếu Nhị Phủ - hội quán
Nhị Phủ có nhiều ngày lễ hội lớn, trong đó có những ngày lễ chính là rằm tháng
Giêng (tết Nguyên Tiêu) và rằm tháng 8 Âm Lịch.
Theo ban Trị sự, đó là ngày sinh và
ngày mất của ông Bổn. Vào những ngày này, tại miếu diễn ra nhiều hoạt động văn
hoá của người Hoa như múa lân, múa rồng, biểu diễn võ thuật… Lễ vật cúng ông
Bổn thường là heo quay, heo sống, gà luộc, hoa trái, nhang đèn v.v. Người Hoa
phần lớn là người Phúc Kiến, đem lễ vật đến miếu cúng rất đông. Họ thường mang
đến vòng hương lớn, thắp treo khắp vòm trần, toả khói thơm nghi ngút.
Vào dịp rằm tháng Giêng, bà con
người Hoa đến lễ và xin vay mượng tiền của các vị thần thánh như Ông Bổn, Quan
Công để làm ăn buôn bán. Sự vay mượn này có tính chất tượng trung, nhưng đến
cuối năm, vào rằm tháng Chạp, bà con lại đến đây trả lễ đầy đủ cả vốn lẫn lời,
bằng số tiền mặt bỏ vào các thùng phước sương.
Ngoài hai ngày lễ chính, miếu Nhị
Phủ cũng có một số bà con người Hoa đến cúng vào các dịp Tết Nguyên Đán, rằm
tháng bảy, rằm tháng Chạp .. Thường vào dịp tết Nguyên đán, các đội múa Rồng
đến tổ chức biểu diễn ngay trên sân miếu, thu hút hang ngàn người xem. Các đội
võ thuật, thể dục thể thao, cũng thường tổ chức các cuộc thi đấu tại đây.
Ngày nay, sinh hoạt lễ hội ở miếu
đã được giảm tải đi rất nhiều, nhưng lễ vía Ông Bổn vẫn được tổ chức trang
nghiêm và long trọng, thể hiện sự thành kính của cộng đồng người Hoa Phúc Kiến
dành cho Ông Bổn. Và, điều đáng lưu ý, không chỉ có người Hoa mà còn có cả
người Việt.
Ngày lễ vía, không chỉ có người Hoa
mà người Việt cũng đã dần quen với việc đi dự lễ tại miếu, tham gia vào các
việc cúng lễ cùng với ban trị sự. Điều đó thể hẹn nét giao lưu văn hoá giữa các
nhóm cu dân Việt – Hoa cùng sinh sống trên địa bàn này.
Bên cạnh các giá trị về mặt tâm
linh, kiến trúc, nghệ thuật thì MNP, di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc Gia,
MNP là một trong những điểm tham quan du lịch nổi tiếng của thành phố - Hầu như
trong các chương trình tham quan thành phố của du khách nước ngoài đều có một
trong hai điểm tham quan kiến trúc Hoa, đó là miếu Thiên Hậu – hội quán Tuệ
Thành và miếu Nhị Phủ - hội quán Nhị Phủ.
Tuy vậy, trong những năm qua việc
khai thác giá trị di tích phục vụ phát triển du lịch tại MNP nhìn chung vẫn
chưa được các cấp chính quyền, các ban ngành quan tâm. Lễ hội tại di tích chủ
yếu được tổ chức do sự sắp xếp của ban Trị sự và phục vụ nhu cầu tín ngưỡng là
chính…
Chính vì vậy, để bảo vệ và phát huy
giá trị di tích NPM, các cơ quan chức năng quan tâm khổi phục lại những hoạt
động văn oá – nghệ thuật truyền thống vốn có ở đây như: hát Quảng, nhạc xã (với
nội dung khơi gợi lạ các tuồng tích cổ xưa, giáo dục con cháu cách sống, đạo lý
làm người), các loại hình tạp kỹ như múa lân, múa rồng, biểu diễn võ thuật (nêu
cao tinh thần thượng võ, trừ gian diệt ác).. tạo sân chơi vă hoá cho cộng đồng,
thể hiện sự trao truyền văn hoá cho lớp trẻ…
Đặng
Hoàng Lan
Miếu
Bà Thiên Hậu:
Ngôi miếu trên 200 tuổi,
lâu đời nhất Sài Gòn
Giữa một Sài Gòn phồn hoa,
đông vui và nhộn nhịp vẫn tồn tại một nơi luôn tĩnh lặng và an yên, có thể làm
cho mọi vướng bận được chôn vùi đi, đó chính là chùa Bà Thiên Hậu.
Giới
thiệu về chùa Bà Thiên Hậu
Tên chính xác bằng chữ Hán
của ngôi miếu này là Thiên Hậu miếu tức miếu thờ bà Thiên Hậu.
Tuy nhiên, trong suy nghĩ của người miền Nam xưa cứ nơi nào linh thiêng đều
được gọi là chùa nên cái tên “chùa Bà Thiên Hậu” được sử dụng cho đến
ngày nay.
Ngôi miếu tọa lạc tại số
710 đường Nguyễn Trãi, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Ngay bên cạnh miếu có một
Hội quán Tuệ Thành - là nơi quy tụ của một nhóm người Hoa ở Quảng Đông Trung
Quốc nên chùa còn được gọi là Tuệ Thành Hội quán. Và chùa còn nằm
trong khu trung tâm của Chợ Lớn nên cũng được một số người gọi là chùa
Bà Chợ Lớn.
Bà Thiên Hậu có tên thật là
Lâm Mặc Nương, người đảo Mi Châu, thuộc Bồ Dương (Phước Kiến). Những sự tích về
Bà được truyền miệng từ đời này sang đời khác nên ít nhiều sẽ có những dị bản,
song chủ yếu vẫn là vẫn là đề cao một phụ nữ người Hoa có lòng hiếu thảo, dám
xả thân để cứu giúp mọi người…
Chính vì vậy, vào thế kỷ
18, nhóm người Hoa gốc Tuệ Thành khi di dân sang Việt Nam sinh sống, tin tưởng
sự hiển linh của bà sẽ giúp họ vượt qua được mọi trở ngại và được an cư lạc
nghiệp, nên đã xây dựng ngôi chùa này để tỏ lòng biết ơn bà đã phù hộ cho
họ đến vùng đất mới một cách bình yên và an toàn.
Không chỉ là một
trong những nơi thờ tự cổ nhất của người Hoa ở Sài Gòn mà ngôi miếu này còn
được ví von là ngôi nhà tâm linh có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa
của những người Hoa đang sinh sống trên địa bàn thành phố.
Sau 256 năm tồn tại cũng
như trải qua rất nhiều lần trùng tu, sửa chữa thì đến ngày nay, ngôi chùa này
vẫn giữ được nét kiến trúc độc đáo, ấn tượng. Vì vậy, vào 7/1/ 1993 nó đã được
công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia.
Kiến
trúc độc đáo của chùa Bà Thiên Hậu
Ngôi chùa được xây theo
hình ấn, có kiểu kiến trúc đặc trưng Trung Hoa với phong cách kiến trúc Á Đông
thuần khiết. Là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết với nhau tạo thành mặt bằng giống
hình chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc".
Tất cả các vật liệu, từ
viên gạch, tấm ngói, đến những đồ gốm gắn trên mái nóc đều do thuyền buồm chở
từ Trung Quốc sang. Đến cả cách thức phong tô cũng giữ y phong cách của họ,
gạch xây liền không trát hồ mà vẫn thẳng đường thẳng lối như vẽ, khéo léo đến
mức tưởng như chẳng ai có thể làm được sắc xảo hơn thế.
Chùa Bà Thiên Hậu được thiết kế theo
lối tam quan cách điệu ở phần cửa chính đi vào và hai bên hông có thêm hai hành
lang. Những dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện (chính
điện).
Tiền điện có đặt bàn thờ
Phúc Đức Chánh thần bên phải và Môn Quan Vương Tả bên trái. Tại đây còn có các
bia đá ghi lại truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và các bức tranh lớn vẽ
cảnh bà đang hiển linh trên sóng nước.
Trung điện thì được
đặt bộ lư “Phát lan” có năm món (ngũ sự) được điêu khắc vô cùng tỉ mỉ, tinh
xảo, đúc vào năm 1886 ở thời vua Quang Tự, hai bên là chiếc thuyền rồng cổ chạm
hình nhân và chiếc kiệu cổ sơn son thếp vàng xa hoa dùng để rước Bà vào ngày
vía Bà.
Chính điện còn được gọi là
Thiên hậu Cung có 3 gian, gian giữa thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, bên phải thờ Kim
Hoa Nương Nương và bên trái thờ Long Mẫu Nương Nương. Hai gian phụ đặt các
tượng thờ Quan Thánh, Địa Tạng và Thần Tài. Trong đó, nổi bật nhất là pho
tượng Bà Thiên Hậu được tạc từ một khối gỗ cổ nguyên khối, cao 1m, nó vốn được
thờ ở Biên Hòa nhưng đến năm 1836 đã được di chuyển về đây. Hai pho tượng còn
lại thì làm bằng cốt giấy sơn màu. Tất cả các pho tượng đều được khoác áo thêu
rất lộng lẫy.
Ngoài ra, các hình
hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối với màu sắc chủ đạo là màu đỏ và vàng
được trang trí ở đây cũng mang đến sự sang trọng, ấm áp và huyền bí cho ngôi
chùa.
Đặc biệt, chùa
Bà Thiên Hậu còn có khoảng 400 đồ cổ, trong đó có các bức tranh đắp
nổi hình các con vật "tứ linh" là long ly quy phụng. Trên nóc chùa và
mái hiên, vách tường có gắn các tượng, phù điêu bằng gốm nung dựa theo các điển
tích của Trung Quốc và rất nhiều đỉnh trầm, lư trầm và lư hương...
Giữa các dãy nhà này có một khoảng
trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian chùa trở nên thoáng đãng,
chiếu đủ ánh sáng cho các điện và có chỗ thoát khói hương.
Những
trải nghiệm khó quên tại chùa Bà Thiên Hậu
Bước qua cánh cổng nhỏ,
chắc chắn bạn sẽ bị thu hút bởi vẻ trầm mặc và huyền bí của ngôi chùa. Mọi thứ
đều như được nhuốm màu thời gian khiến cho không gian càng trở nên cô
tịnh.
Điểm nhấn của ngôi chùa là
những chiếc vòng nhang cuộn tròn xoắn ốc treo lơ lửng trên không gian tạo thành
một hình ảnh rất độc đáo và ấn tượng. Bạn có thể ghi lại những lời chúc hay tâm
nguyện của mình lên giấy, sau đó treo lên cùng những vòng nhang để cầu xin với
bà Thiên Hậu.
Ngôi miếu Bà Thiên
Hậu được người dân đồn thổi là nơi cầu tự rất linh thiêng nên với
người hành hương, nơi tâm linh này chính là địa điểm không thể bỏ qua trong
chuyến du lịch Sài
Gòn của mình đâu nhé.
33eNhất là vào mỗi dịp lễ Tết
như: Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, Tết Đoan ngọ hoặc vào các ngày mùng 1,
ngày rằm hàng tháng thì ngôi chùa lại tấp nập người đến để cầu duyên, cầu lộc,
cầu tài và cầu một đời bình yên, an nhiên cho bản thân và gia đình. Chính
vì thế, lư hương lúc nào cũng nghi ngút khói, mùi nhang thơm thoang thoảng
trong gió, tan vào hư không, mang theo những ước nguyện từ tận đáy lòng đến
những đấng linh thiêng.
Không chỉ để cầu nguyện, tĩnh tâm, mà ngôi chùa Bà
Thiên Hậu còn thu hút rất nhiều các bạn trẻ đến đây du xuân và chiêm
ngưỡng kiến trúc độc đáo của chùa.
Mỗi góc của chùa đều có một
nét đẹp riêng, từ những bảng sớ màu hồng bắt mắt, những hàng rào xanh vững chãi
cho đến những khoảng không gian giữa hai bức tường gạch cổ kính đều cho bạn
những bức ảnh cực chất không ở đâu có luôn.
Và nếu bạn đang cần tìm một nơi
chụp hình cưới mang hơi hướng “cổ đại” như phim Trung Quốc thì đây chính
là một địa điểm cực kỳ lý tưởng luôn đấy.
Thời
điểm thích hợp để ghé thăm chùa Bà Thiên Hậu
Nếu muốn hòa mình vào không khí vui
tươi của lễ hội thì bạn nên đến đây vào ngày 22 đến 24/3 âm lịch. Vì đây là
ngày tổ chức Lễ vía bà Thiên Hậu - lễ hội lớn nhất hằng năm của chùa Bà.
Vào ngày này, từ người Hoa cho đến
người Việt đều đến cúng lễ rất đông. Bạn sẽ được chứng kiến cảnh tượng Bà Thiên
Mẫu được đặt trên một chiếc kiệu và được người dân rước đi xung quanh một vòng
chùa. Cùng với đó là nhiều hoạt động như: múa lân, múa sư tử, múa rồng,
các đội nhạc dân tộc vừa múa hát vừa biểu diễn nghệ thuật… vô cùng sôi động
và náo nhiệt đấy nhé.
Còn nếu muốn tìm một chốn an nhiên,
tĩnh lặng để thành tâm thắp nén hương cầu nguyện thì trong những khoảng thời
gian còn lại, bạn đến lúc nào cũng được.
Đến với Sài Gòn, nhất định phải một
lần ghé thăm chùa Bà Thiên Hậu để tâm hồn được an yên, tĩnh
lặng trước những xô bồ, những áp lực của công việc và cuộc sống đấy nhé.
Chùa
Miếu Nổi: ngôi chùa cầu duyên linh thiêng tại Sài Gòn
Hướng
dẫn di chuyển đến chùa Miếu Nổi
Chùa Miếu Nổi nằm trên sông
Vàm Thuật, thuộc quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Để đến miếu, từ chợ Gò
Vấp, bạn chạy xe theo đường Nguyễn Thái Sơn. Đến cuối đường, rẽ vào đường Trần
Báo Giao, chạy thêm vài trăm mét sẽ đến bãi gửi xe để qua đò đến miếu.
Giá đò: 10.000VNĐ một người
cho hai lần đi
Thời gian: chờ tàu khoảng 10
phút, di chuyển chỉ mất khoảng 5 phút
Địa chỉ: 420/2 Nguyễn Thái Sơn, Phường 5, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh
Tại
sao có tên là chùa Miếu Nổi?
Chùa Miếu Nổi còn có tên gọi khác
là Phù Châu Miếu. Miếu được xây từ thời vua Gia Long cách đây hơn ba thế kỷ.
Một bên miếu là bến đò, phía bên kia là An Phú Đông, quận 12. Sự ra đời của
ngôi miếu gắn với truyền thuyết về một ngư dân vớt được pho tượng được cho là
tượng của bà Thủy Tế khi đánh cá. Sau đó, người dân lập miếu để thờ.
Trước năm 1975, đây là điểm hành
hương nổi tiếng của người dân Sài Gòn nhưng sau đó gần như bị bỏ hoang. Đến năm
1989, một người Hoa tên Lục Câu bỏ tiền sửa sang, khôi phục lại miếu.
Địa
điểm sống ảo Sài Gòn độc đáo
Ngôi miếu cổ được xây dựng cách đây
hơn 300 năm, kiến trúc pha lẫn giữa Trung Hoa và Việt Nam. Nhiều hình rồng được
cẩn bằng sứ tinh xảo
Kiến
trúc độc đáo của chùa Miếu Nổi
Phù Châu Miếu được xây dựng
với lối kiến trúc trộn lẫn giữa văn hóa Trung Hoa và Việt Nam. Có rất nhiều
hình rồng cẩn bằng sứ đặt khắp nơi trong miếu. Ở bên trong chùa được chia thành
2 gian là: thờ năm mẹ và chính điện ở phía sau, ở ngoài sân sẽ thờ bồ
tát. Hàng trăm tượng rồng lớn nhỏ được chạm khắc vô cùng tỉ mỉ. Các pho
tượng rồng cũng được ốp bằng mảnh sành sứ nhiều màu sắc, sống động và tuyệt
đẹp. Miếu cũng có hàng trăm bức phù điêu trên cột, tường, trần nhà.
Đến với chùa Miếu Nổi, du
khách sẽ phải bất ngờ trước các thiết kế vô cùng cầu kỳ, bắt mắt. Lúc này cảm
tưởng như đang được đến thăm một ngôi chùa Trung Hoa nổi tiếng nào đó.
Ở giữa chính điện sẽ thờ Phật Di
Lặc, ở hai bên thờ Địa Mẫu và Phật Tổ Như Lai. Bước vào không gian bên trong,
du khách sẽ thấy ấn tượng trước những vòng nhang được treo dày đặc trên trần
nhà.
Từ miếu nhìn ngược ra cổng, du
khách có cảm giác như hàng trăm con rồng lấy nước từ công sông Vàm Thuật và
đang trên đường về trời.
Đầu năm, người dân đến đây thắp
nhang vòng cầu làm ăn, cầu bình an. Cuối năm, họ đến trả lễ nên những ngày này
miếu rất đông người viếng. Ngoài người dân trong nước, nhiều du khách nước
ngoài cũng đến tìm hiểu về lịch sử của ngôi miếu nổi duy nhất ở Sài Gòn.
Các Khu Du Lịch Ở Sài Gòn
Khu Du Lịch Văn Hóa Suối Tiên
Vào năm 1987, Suối Tiên vẫn còn là
đồng ruộng, đầm lầy, rừng rậm, và đã từng là căn cứ địa cách mạng thời kháng
chiến chốngMỹ... Suối Tiên bắt nguồn nối tiếp Suối Lồ Ô (huyện Thuận An, tỉnh
Bình Dương ngày nay) chảy ngầm trong lòng đất hàng chục kilômét qua xa lộ Hà
Nội và trồi lên mặt đất này , để rồi tiếp tục xuôi dòng đổ ra sông Đồng Nai.
Lúc đó, Suối Tiên còn cả một khu rừng đặc hữu, một khung cảnh thiên nhiên hiếm
hoi còn sót lại. Tại đây còn có một miếu thờ bảy cô gái ở ven suối có cùng tuổi
rồng, tình cờ đến đây tắm và qui tiên ở đoạn suối sâu. Dân trong vùng kể lại:
“Bảy cô gái rất linh thiêng nên bà con thường xuyên nhang khói, thờ phụng”.
Phải chăng bảy cô gái đã qui tiên trở nên linh thiêng thành Tiên, độ cho đời,
nên suối này có tên gọi là “Suối Tiên” và được lưu truyền đến ngày nay.
“Lâm Trại Suối Tiên” được bắt tay xây dựng với mục đích lâu dài ẩn chứa bên
trong: lâm trại là tiền đề cho một khu du lịch tầm cỡ trong tương lai. Quá
trình sản xuất của lâm trại là quá trình tích lũy vốn liếng cũng như điều tra,
nghiên cứu thăm dò để xây dựng khu du lịch.
Diện tích ban đầu của lâm trại chỉ có 2 hecta đất hoang hóa, chỉ là một trại
nuôi trăn nhỏ. Các năm tiếp theo, lâm trại tổ chức chăn nuôi theo lối công
nghiệp xuất khẩu, đồng thời nuôi cả các loài thú quí hiếm và trồng các loại cây
ăn trái. Từ năm 1989 đến năm 1991, sản xuất gỗ xẻ xuất khẩu và sau đó sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ cao cấp. Hàng của lâm trại Suối Tiên được khách hàng
trong và ngoài nước tín nhiệm. Đặc biệt tổ chức CITES thế giới chấp thuận và
bảo vệ cho lâm trại trăn nuôi và xuất khẩu các loại động vật bò sát. Có lúc
chuồng trăn ở đây lên đến 10.000 con, trong đó có những con trăn vàng đặc biệt
quí hiếm, nên có người gọi lâm trại Suối Tiên là “trại Trăn Vàng Suối Tiên”.
Năm 1992, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và
Thành Phố Hồ Chí Minh nói riêng, việc xây dựng một khu du lịch tầm cỡ để phục
vụ đời sống văn hóa, tinh thần của người dân đã trở thành một nhu cầu thiết
yếu, phù hợp với chủ trương của Thành Ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Dự án xây dựng
khu Du Lịch Văn Hóa Suối Tiên được phôi thai và từng bước trở thành hiện thực.
Tháng 2 năm 1993,Ông Đinh Văn Vui sáng lập công ty Trách nhiệm Hữu hạn Lâm sản
Mỹ nghệ Suối Tiên. Ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Tổng Giám
Đốc và khởi công xây dựng khu Du Lịch Văn Hóa Suối Tiên.
Ngày 2 tháng 9 năm 1995, nhân kỷ niệm Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa
Việt Nam, Du Lịch Văn Hóa Suối Tiên chính thức mở cửa đón du khách từ mọi miền
đất nước đến tham quan.
Du Lịch Văn Hóa Suối Tiên với chủ đề chính là trở về cội nguồn văn hóa
dân tộc, đã tạo dựng các công trình qui mô, độc đáo, giàu ý nghĩa lịch sử, khơi
gợi trong mỗi du khách đến tham quan lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, tự hào
là Con Rồng Cháu Tiên.
Du Lịch Văn Hóa Suối Tiên với phương châm “luôn luôn đổi mới, luôn luôn phát
triển”. Hằng năm, cho ra đời từ 2 đến 4 công trình mới để phục vụ du khách.
* Thời điểm đưa vào hoạt động của các
công trình vui chơi, giải trí:
-Năm 1993, khởi côngxây dựng.
-Ngày 2 tháng 9 năm 1995, mở cửa Tây Môn, Du lịch Văn hóaSuối Tiên chính thức
ra đời.
-Năm 1996, khánh thành Thủy Cung, Đu Quay Đứng, Máy Bay Boeing.
-Năm 1997, mở cổng Thiên Tiên Môn, khánh thành công trình Kỳ Lân Cung, Xe Đạp
Trên Không.
-Năm 1998, khánh thành Phụng Hoàng Cung.
-Năm 1999, khánh thành Tàu Lượn Siêu Tốc, Đu Quay Dây.
-Năm 2000, mở cổng Thiên Tiên Môn và quần thể Long Hoa Nhật Nguyệt.
-Năm 2001, khánh thành Thiên Đình Cung, Cung Vàng Điện Ngọc,Thiên Đăng Bảo
Tháp.
-Năm 2002, khánh thành Biển Tiên Đồng và Đền Thờ Vua Hùng.
-Năm 2003, khánh thành Tứ Linh Hội Tụ, Siêu Thị Suối Tiên và Xe Đua Tốc Độ.
-Năm 2004, Linh Cung Thập Nhị Giáp, Vương Quốc Cá Sấu vàGiang Sơn Bách Thú.
-Năm 2005, khánh thành Phúc Cung Tam Phước, Long Hoa Thiên Bảo, Bí Mật Rừng Phù
Thủy.
-Năm 2006, khánh thành Bí Mật Kho Báu Cổ, Cối Xay Của Thần Gió, Ếch Thần Ngự
Kim Sơn và Vòng Xoay Vũ Trụ.
Tính đến nay, Du lịch Văn hóa Suối Tiên đã cho ra đời hơn150 điểm tham quan,
vui chơi và giải trí để phục vụ du khách, trên diện tích rộng hơn 55 hecta, với
tổng trị giá tài sản 1.200 tỷđồng. Hiện nay công ty đang mở rộng giai đoạn 2
với diện tích 50 hecta, vốn đầu tư 1.000 tỷ đồng, nâng tổng diện tích của Du
lịch Văn hóa Suối Tiên lên 105 hecta, với tổng vốn đầu tư trên 2.200 tỷ đồng.
Tháng 9 năm 2005, Du lịch văn hóa Suối Tiên tổ chức lễ kỷ niệm sinh nhật lần
thứ 10, công tyđãtrao kỷ niệm chương và quà tặngcho hơn 50cán bộ, nhân viên
công tác tại công ty trên 10 năm (từ thời kỳ đầu xây dựng Du lịch Văn hóa Suối
Tiên). Việc trao kỷ niệm chương và quà tặng cho cán bộ, nhân viên được tổ chức
hàng năm,đã trở thành một nét văn hóa tiêu biểu của doanh nghiệp.
Du lịch Văn hóa Suối Tiên đang trên đà phát triển, luôn luôn đổi mới về mọi mặt
để vươn lên ngang tầm khu vực Asean và thế giới. Tập thể cán bộ, nhân viên công
tác tại Du lịch Văn hóa Suối Tiên đang nổ lực không ngừngđể xâydựng Suối Tiên
thành mộtđiểmđến “xanh, sạch,đẹp và thân thiện”.
Khu
Du Lịch Đầm Sen
I/ CÔNG VIÊN
VĂN HOÁ ĐẦM SEN
Công viên Đầm Sen với tổng diện
tích 54 ha, hiện đang giữ kỷ lục công viên lớn nhất TP. Ban đầu chỉ là một ao
rao muống, đến năm 1985, hồ được giao về Cty dịch vụ văn hóa tổng hợp Q.11, rồi
sau đó là Cty du lịch Q.11 quản lý và được đầu tư trở thành công viên vui chơi
giải trí. Từ năm 90, công viên Đầm Sen đã nổi tiếng với nhiều công trình như
Hòn non bộ cao 20m, bảo tàng sinh vật biển, vườn chim và nhiều thú quý hiếm.
Năm 96, Đầm Sen đầu tư 10 tỉ đồng xây dựng trò chơi Monoray trên không, công
trình Nhạc nước, trò chơi Vượt thác, những trò chơi hiện đại đầu tiên ở TP.
Ngoài ra, còn có Nhà Xương Rồng (với 30 loại xương rồng, trong đó có loại giá
trị lên đến 30 triệu/cây), Nhà hoa ôn đới (20 loại cây trong nhiệt độ 15-20oC),
Vườn Nam Tú Thượng Uyển (tập họp những loại cây kiểng cổ quý giá). Trong năm
98, Đầm Sen sẽ được đầu tư thêm ba khu vui chơi hiện đại nữa: Khu trò chơi cảm
giác mạnh; Khu Đầm Sen Water Park; Khu du lịch Bồng Lai... Cả ba công trình này
sẽ ra mắt vào Tết Âm lịch con Mèo (1999) sắp tới. Hiện nay, trung bình mỗi ngày
Đầm Sen đón
4.000 - 5.000 khách đến vui chơi,
ngày lễ, chủ nhật từ 15.000 - 20.000 người
1/ Lịch Sử
Hình Thành
Lịch sử hình thành CVVH Đầm Sen bắt
đầu sau ngày đất nước thống nhất. Lúc bấy giờ, Đầm Sen còn là một khu ruộng
hoang đầm lầy. Nơi đó chỉ toàn những đụn rau muống, rau ngổ, cây cỏ rậm rịt.
Đồng thời đây cũng là nơi chứa các tệ nạn xã hội.
Ngày 15/2/1976, Thành ủy – UBND
TP.HCM ra lời kêu gọi “Hãy xây dựng cho thành phố 3 công viên văn hóa lớn, một
tại Bình Tiên, một tại Tân Bình và một tại Đầm Sen”. Hàng triệu công nhân lao
động đã tham gia. Công viên Đầm Sen được khởi công như thế trên diện tích 32ha.
Từ một đầm lầy hôm nào, đã sớm trở thành một hồ nước sạch, với cảnh quan thoáng
mát cho người dân thành phố.
2/Các mốc son
phát triển
1977 – 1983: Đầm Sen trực thuộc
UBND TP.HCM quản lý. Sau đó, ngày 8/9/1983 Thành Phố giao về cho UBND Quận 11
quản lý.
1984: (Ngày 25/5) UBND Quận 11
quyết định giao Đầm Sen về Ban xây dựng nhà đất và công trình quận 11; Xí
nghiệp quốc doanh nuôi trồng thủy sản và Công ty ăn uống và dịch vụ tổng hợp
quận 11 quản lý.
1985: Đầm Sen được giao cho Công ty
Dịch vụ Văn hóa Tổng hợp quận 11 và có đại diện Xí nghiệp nuôi trồng thủy sản
quản lý.
1989 – nay: Công ty du lịch quận 11
(Công ty CP DV Du lịch Phú Thọ ngày nay) tiếp nhận và phát triển Đầm Sen trở
thành khu vui chơi giải trí hàng đầu tại TP.HCM.
3/05 loại
hình dịch vụ trọng tâm
Trò chơi
Lịch sử hình thành CVVH gắn liền
với sự phát triển hơn 50 trò chơi. Từ thư giãn đến cảm giác mạnh, phân bổ đều
khắp khuôn viên Đầm Sen.
Sự kiện
Là nơi tổ chức nhiều kỷ lục Việt
Nam như kỷ lục bánh tét, bánh chưng, bánh Noel… Các sự
kiện văn hóa lớn như lễ hội: bắn
pháo hoa, Cosplay, khinh khí cầu, xe cổ…
Cảnh trí
Với đủ loại cây xanh, từ bon sai
kiểng cổ đến nhiều loài kì hoa dị thảo với các khu vườn xanh mát: Vườn Nam Tú
thượng Uyển, Đảo Lan Rừng, Vườn Xương Rồng, Vườn Hoa Châu Âu…
Chim thú
Hơn 100 chủng loại, bao gồm động
vật nuôi trồng, động vật hoang dã và động vật quý hiếm: đười ươi, voi, trăng,
cá sấu, đà điểu, hưu sao, giang sen…
Ẩm thực
Được biết đến với nhà hàng Thủy Tạ,
và cà phê Vườn Đá…
II/ CÔNG VIÊN
NƯỚC ĐẦM SEN
Đến với Công
Viên Nước Đầm Sen, các bạn sẽ cảm nhận ngay về một ốc đảo xanh mát tọa lạc ngay
giữa lòng
thành phố.Với 36 thiết bị trò chơi dưới nước hiện đại cùng một hồ tạo sóng mát
lạnh rộng 3000m2 hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn nhiều cảm giác thư giãn thú vị.
Công viên nước Đầm Sen với không gian hài hòa được kết hợp với những dòng sông
đầy lãng mạn làm tan đi những lo lắng buồn phiền đồng thời cũng là nguồn cung
cấp năng lượng cho một ngày mới. Hãy hít thật sâu để tận hưởng cái không khí
trong lành của một thiên nhiên thơ mộng rồi đắm mình vào sóng biển nhấp nhô hay
thả mình bồng bềnh giữa trời mây nước để Dòng Sông Lơ Đãng xoa dịu và xua tan
đi những lo lắng muộn phiền trong cuộc sống đầy lo toan.
Hãy thử thách 36 thiết bị trò chơi
để tận hưởng những cảm giác tuyệt vời của từng trò chơi. Không chỉ mang lại
niềm vui cho bạn, các trò chơi còn được xem như là những thử thách. Vượt qua
được tất cả 36 thử thách của trò chơi, bạn sẽ mạnh mẽ hơn khi đối đầu với những
thử thách trong cuộc sống.
Công Viên Nước Đầm Sen không chỉ là
một trong những trung tâm giải trí quen thuộc của người dân thành phố mà còn là
nơi mang lại cảm giác thoải mái cũng như giải trí cho các em thiếu nhi sau
những tháng ngày học tập căng thẳng. Ngày nghỉ của bé sẽ vui hơn khi được cùng
ba mẹ vui đùa bên gia đình Voi, Hà Mã,.. nơi thiên đường tuổi thơ lung linh sắc
màu với đầy đủ các máng trượt dành riêng cho bé.
Đến với Công Viên Nước Đầm Sen bạn
sẽ thật sự an tâm khi tham gia các trò chơi tại công viên vì nguồn nước sạch
thường xuyên được thay mới, không khí trong lành và luôn có một đội cứu hộ
chuyên nghiệp sẵn sàng hỗ trợ, chăm sóc bạn. Ngoài ra, công viên còn có một hệ
thống các quầy thức ăn nhanh và một nhà hàng 400 chỗ cùng các thực đơn phong
phú, được chế biến hấp dẫn luôn sẵn sàng phục vụ bạn.
Chỉ với 1 vé quý khách sẽ được thư
giãn, thử thách với 36 thiết bị trò chơi và một hồ tạo sóng rộng 3000m2.
Công
Viên Văn Hoá Lịch Sử Các Vua Hùng
Công viên Lịch sử - Văn hóa Dân
tộc: Khu phố Vĩnh Thuận, phường Long Bình, Quận 9 Tp.HCM.
Điện thoại : (028) 39 322 386, (028) 37 252 078 - Fax : (028) 39 322 390
Email : bqllsvh@tphcm.gov.vn
I. Giới thiệu
bao quát về quá trình hình thành phát triển: Với truyền thống “ Uống nước nhớ
nguồn” của dân tộc, đặc biệt là của những người con phương Nam đất Việt.
Năm1992, Ban Thường vụ Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một
công trình lịch sử - văn hóa, nhằm tái hiện những cột mốc lịch sử - văn hóa của
dân tộc làm điểm tựa cho công tác giáo dục lý tưởng, phát huy truyền thống dân
tộc trong thế hệ trẻ và tạo điều kiện giới thiệu giao lưu văn hóa Việt Nam với
nước ngoài. Được sự chấp thuận của Chính phủ, ngày 16 tháng 8 năm 1993, Ủy ban
nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 1229/QĐ-UB-NC về thành lập Ban Nghiên
cứu, Xây dựng và Quản lý quần thể công trình Lịch sử - Văn hóa dân tộc.Trải qua
nhiều hội nghị, hội thảo khoa học, nhiều đoàn đi khảo sát thực địa, nhiều cuộc
họp nghiên cứu, thẩm định đồ án quy hoạch thiết kế và thực hiện các thủ tục
pháp lý theo quy định, ngày 8 tháng 5 năm 1997 Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 298/TTg chính thức phê duyệt Dự án tiền khả thi Công viên Lịch sử
- Văn hóa dân tộc và giao Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xác định cơ
quan tổ chức quản lý thích hợp giúp thành phố tổ chức quản lý, chỉ đạo thực
hiện dự án, thực hiện công tác bồi thường thu hồi đất và công tác chuẩn bị đầu
tư xây dựng các dự án khả thi chi tiết trong từng khu chức năng, Ủy ban nhân
dân thành phố phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/2000
Công viên Lịch sử - Văn hoá dân tộc.
Theo Quyết định số 687/QĐ-UBND ngày
21 tháng 02 năm 2009 của Ủy ban nhân dân Thành phố về duyệt đồ án điều chỉnh
quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/2000 Công viên Lịch sử- Văn hóa dân tộc có
tổng diện tích đất xây dựng 403,333ha, gồm 376,391 ha thuộc phường Long Bình,
quận 9, thành phố Hồ Chí Minh và 26,941 ha thuộc xã Bình An,huyện Thuận An (nay
là phường Bình Thắng, thị xã Dĩ An), tỉnh Bình Dương với các mục tiêu xây dựng
là:
+ Làm điểm tựa giáo
dục lịch sử truyền thốngdân tộc cho nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ (ở trong
nước và đồng bào nước ngoài về thăm quê hương), góp phần xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắcdân tộc.
+ Tạo điều kiện giao
lưu văn hóa trong nước và giới thiệu về văn hóa Việt Nam với nước ngoài; tăng
cường tính phong phú đa dạng trong đời sống tinh thần của nhân dân thành phố.
+ Tạo nên một cảnh
quan thiên nhiên thoáng rộng, góp phần cân bằng sinh thái cho môi trường của
thành phố; một mặt giới thiệu có chọn lọc những sự kiện lịch sử và công trình
văn hóa tiêu biểu của dân tộcViệt Nam; mặt khác, xây dựng một khu làng văn hóa
dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Tại đây diễn ra các hoạt động
văn hóa nhằm giới thiệu những lễ hội truyền thống, những phong tục tập quán,
những trò chơi dân tộc thích hợp với mọi lứa tuổi.
Qua việc tái hiện và giới thiệu
lịch sử - văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu giao lưu văn hóa
trong nước và ngoài nước; đồng thời, mang lại những hiệu quả về kinh tế, văn
hóa, xã hội cho thành phố và khu vực. Quy hoạch xây dựng gồm 4 phân khu chức
năng như sau:
+ Khu cổ đại (Khu I) với diện tích
gồm 84,15 ha.
+ Khu Trung đại (khu II) với diện
tích gồm 29,19 ha.
+ Khu Cận hiện đại (Khu III) với
diện tích gồm 35,92 ha.
+ Khu sinh hoạt văn hóa (Khu IV)
với diện tích gồm 245,74 ha, bao gồm Cù Lao Bà Sang (39,74 ha)
Với quy hoạch thành 4 khu vực nhằm
xây dựng các công trình giới thiệu những sự kiện lịch sử và những công trình
văn hóa tiêu biểu của dân tộc từ thời các vua Hùng dựng nước đến thời đại Hồ
Chí Minh. Đồng thời xây dựng các công trình sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải
trí và cảnh quan. Kèm theo việc xây dựng mỗi khu vực là hệ thống cơ sở hạ tầng
kỹ thuật đồng bộ và các công trình có quy mô thích hợp.
Từ năm 1993 đến 1997 là giai đoạn
chuẩn bị như thành lập các bộ phận chuyên trách, nghiên cứu, hội thảo khoa học
tìm ý, tìm nội dung, hình thức thể hiện, giải quyết các thủ tục cần thiết...
kết quả của giai đoạn này là Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 298/TTg
ngày 08/5/1997 chính thức phê duyệt Dự án Tiền khả thi Công viên Lịch sử - Văn
hóa dân tộc tại thành phố Hồ Chí Minh. Giai đoạn từ 1997 đến 2002 là thời gian
Công ty đã nỗ lực phấn đấu vượt qua rất nhiều khó khăn, thử thách. Lúc bấy giờ,
dự án được Thủ tướng phê duyệt còn là những quyết định hành chánh. Quy mô sử
dụng đất đến 408 ha nhưng 90% diện tích còn thuộc quyền sử dụng của dân, lại
trải rộng trên địa bàn của 2 địa phương. Được quan tâm chỉ đạo của Thành ủy,
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố, các sở, ban, ngành thành phố,
quận 9 và huyện Dĩ An nhiệt tình hỗ trợ, Công ty đã khởi đầu bằng việc thực
hiện các thủ tục xin giao đất và tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân đồng
thuận với chủ trương của Nhà nước; mạnh dạn vay vốn để xúc tiến công tác chuẩn
bị đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng như các tuyến đường giao thông bao
quanh ranh quy hoạch Công viên, xây lắp điện phục vụ thi công và trồng cây xanh
tạo cảnh quan trên diện tích đất công được giao. Trong giai đoạn này, cột mốc
đánh dấu sự ra đời chính thức của Công viên Lịch sử - Văn hóa dân tộc tại thành
phố Hồ Chí Minh là Lễ Khởi công xây dựng Công viên được Lãnh đạo thành phố tổ
chức vào ngày 20/12/1998 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, với ý nghĩa là
công trình tiếp nối hoạt động Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 2002 đến năm 2007, là giai
đoạn Công ty triển khai cùng lúc các công tác đầu tư xây dựng Khu Tưởng niệm
các vua Hùng; công tác bồi thường thu hồi đất; đầu tư xây dựng hạ tầng Khu tái
định cư Long Sơn để bố trí tái định cư, ổn định chỗ ở cho dân; hoàn thành các
tuyến đường bao quanh Công viên, hệ thống đèn chiếu sáng dọc các tuyến đường
mới xây dựng; tiếp tục trồng cây xanh, cảnh quan; quản lý và bảo vệ đất đai đã
thu hồi,… Khởi đầu cho giai đoạn này là Lễ khởi công xây dựng giai đoạn I của
Khu Tưởng niệm các vua Hùng nhân Giỗ Tổ Hùng Vương ngày 21 tháng 04 năm 2002
(nhằm ngày mồng 09 tháng 3 năm Nhâm Ngọ). Đây là công trình lịch sử - văn hóa
đầu tiên trong Công viên được Ban Thường vụ Thành ủy chỉ đạo khởi công xây
dựng, biểu thị tấm lòng của những người con phương Nam thời đại Hồ Chí Minh
vọng về Quốc Tổ, tìm về cội nguồn sức mạnh của dân tộc.
Sau thời gian dài đầu tư, thiết kế
và xây dựng; vào ngày 04 tháng 4 năm 2009 (mồng 10 tháng 03 năm Kỷ Sửu) Khu
Tưởng niệm các vua Hùng (giai đoạn I) được khánh thành vào dịp Giỗ Tổ Hùng
Vương trong buổi lễ nghiêm trang, kính trọng và chào đón của nhân dân và đặc
biệt là các đồng chí lãnh đạo thành phố và những người có tâm huyết với công
trình.
II. Mục tiêu
xây dựng Công viên Lịch sử - Văn hóa, Dân tộc (giai đoạn từ nay đến năm 2030)
Công cuộc xây dựng và phát triển
Công viên Lịch sử - Văn hoá dân tộc trong 20 năm qua đã đạt được những thành
quả ban đầu hết sức cơ bản, làm nền tảng vững chắc cho các bước tiếp theo.
Chính vì vậy, để hoàn thành 03 mục tiêu chiến lược của công viên phục vụ cho
đồng bào cả nước, trong thời gian tới cấp ủy và lãnh đạo Ban quản lý Colivan
chỉ đạo tập trung thực hiện những mục tiêu từ nay đến năm 2030 cụ thể như sau:
1. Khu cổ đại (Khu I): Tập
trung dự kiến hoàn thành 05 nội dung sau:
+ Khai thác tối đa địa hình
vùng đồi, điểm cao nhất là Đền Tưởng Niệm các Vua Hùng, trải dọc theo triền đồi
là các khu tái hiện các truyền thuyết thời Cổ Đại với các công trình kiến trúc
có kiểu dáng và màu sắc phù hợp với địa hình tự nhiên. Đồng thời tận dụng và
chỉnh trang tôn tạo cảnh quan các mặt nước tự nhiên trong khu vực quyết tâm xây
dựng những công trình sau:
+ Hoàn thành Vườn hữu nghị.
+ Hoàn thành Truyền
thuyết Thánh Gióng.
+ Hoàn thành Cổng quảng
trường công viên
+ Hoàn thành Hồ Sen đồi Viễn.
+ Hoàn thành hạ tầng nội bộ
khu I.
2. Khu Trung đại (khu II) tập
trung dự kiến hoàn thành 02 nội dung sau:
+ Hoàn thành công trình xây dựng
đền thờ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh và tái hiện các chiến công và những
sự kiện lịch sử thời Trung Đại: Các chiến thắng của dân tộc ta trong thời
kỳ chống quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.
+ Hoàn thành hạ tầng nội bộ
Khu II
3. Khu Cận hiện đại (Khu
III) tập trung dự kiến hoàn thành 03 nội dung sau:
+ Xây dựng Quảng trường Độc lập và
đài Thống nhất.
+ Hoàn thành Khu tái hiện các thời
kỳ lịch sử:
- Thời kỳ nhà Nguyễn và thời kỳ
Pháp thuộc.
- Thời kỳ đấu tranh dành độc lập
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Khu tưởng niệm Bác Hồ.
+ Hoàn thành hạ tầng nội bộ
Khu III.
4. Khu sinh hoạt văn hóa (Khu
IV) tập trung dự kiến hoàn thành 08 nội dung sau:
+ Dự án Bảo tàng Lịch
sử tự nhiên.
+ Dự án Khu Làng Hoa -
Du lịch suối khoáng.
+ Dự án Khu Giải trí
dịch vụ công cộng.
+ Dự án Khu sinh hoạt
thể dục thể thao ngoài trời.
+ Dự án công viên mạo
hiểm và quảng trường Hòa Bình.
+ Dự án Làng văn hóa
dân tộc Việt Nam.
+ Dự án Cù Lao Bà
Sang.
+ Dự án hạ tầng
nội bộ Khu IV.
Nhằm hoàn thành những mục tiêu và
các công trình trên trong thời gian từ nay đến 2030, đòi hỏi đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức và người lao động Ban Quản lý Colivan phải quyết tâm hơn
nữa để nỗ lực phấn đấu xây dựng Công viên phát triển bền vững. Đồng thời Ban
Quản lý Colivan rất mong được sự quan tâm tiếp tục của Ban Thường vụ Thành
ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố và sự giúp đỡ của các sở,
ban, ngành và địa phương, sự quan tâm góp ý của nhân dân, của các nhà khoa học
trong và ngoài nước, sự tiếp sức của các nhà đầu tư nhằm góp phần xây dựng và
phát triển Công viên Lịch sử - Văn hóa dân tộc tại thành phố Hồ Chí Minh trở
thành một trung tâm sinh hoạt văn hóa, lễ hội và du lịch về nguồn của thành phố
và khu vực, xứng tầm là một công trình lịch sử - văn hóa tiêu biểu cho tình
cảm và trí tuệ của những người con phương Nam vọng về cội nguồn dân tộc./.
NHÀ THỜ Ở SÀI GÒN
•
Nhà thờ Đức Bà TP HCM (còn gọi là nhà thờ lớn) đồ sộ, đẹp, luôn thu hút nhiều
người lui tới trong 124 năm qua. Nhìn từ bên ngoài, toàn bộ nhà thờ từ mái đến
tường là một màu đỏ gạch nung. Gạch và ngói giữ nguyên màu đến nay không hề
đóng rêu mốc.
Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André
France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ
Wang - Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Sài Gòn dùng
để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai,
thời gian mà theo linh mục Vương Sĩ Tuấn, có nhiều cửa kính của nhà thờ bị vỡ.
Dài 91 m, rộng 35,5 m và vòm mái chính cao 21 m, hai tháp chuông cao 57 m,
tường nhà thờ Đức Bà được xây bằng gạch và cột bằng đá tảng theo đồ án của kiến
trúc sư J.Bourard, một chuyên gia về các công trình kiến trúc tôn giáo.
Khởi công từ 7/10/1877 đến 11/4/1880 thì hoàn thành, nhà thờ còn là một nơi yên
nghỉ của nhiều giám mục và linh mục của giáo phận, trong đó có giám mục Isidore
Colombert - người đặt viên đá đầu tiên và làm lễ khánh thành nhà thờ, mất năm
1894.
Nhà thờ Đức Bà hoàn toàn không có chỗ cho nến (đèn cầy). Toàn bộ đèn - có mặt
ngay từ khi xây dựng xong - đều dùng điện.
Bên trong nhà thờ khá rộng, có sức chứa 1.200 người, với hai hàng cột chính
hình chữ nhật mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau
hàng cột chính là một hành lang với khá nhiều khoang có những bàn thờ nhỏ (hơn
20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo.
Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện
trong Thánh kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu
ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Rất tiếc trong số cửa kính này hiện chỉ
còn hai cửa là nguyên vẹn như xưa.
Đứng từ bàn thờ chính của nhà thờ nhìn về phần trên cao phía cửa chính, sẽ thấy
một bức tường gỗ lớn. Đó là nơi được gọi là “gác đàn” và bức tường gỗ ấy chính
là cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất nước hiện nay, theo linh
mục Vương Sĩ Tuấn. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết
kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không
ồn.
Ước lượng phần thân đàn cao 3 m, ngang chừng 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những
ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một tấc. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối
với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường hiện
nay dùng tay gõ và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3m, ngang khoảng
1m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm.
Bên trong đàn được thiết kế tương tự đàn piano nhưng phức tạp hơn nhiều. Đàn
còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh,
tương tự kiểu đánh đàn k’lông pút của Tây nguyên. Theo ông Nam Hải, người phụ
trách phần nhạc của nhà thờ, để đánh được cây đàn này người đánh phải học riêng
vì không có trường lớp nào dạy.
Điều đáng tiếc là cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do thiếu bảo quản (bị mối ăn
phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay). Hiện nhà thờ còn có một cây đàn tương tự
nhưng nhỏ hơn rất nhiều, trị giá khoảng 70.000 USD, còn khá mới, do một cựu
lãnh sự Pháp tại TP HCM “gửi”.
Hai bên hông gác đàn là một khoảng trống, đó là gác chuông. Từ khoảng trống này
nhìn thẳng lên mái tháp chuông cao hun hút hơn 26m và chỉ có độc một chiếc cầu
thang hẹp chừng 4 tấc bề ngang.
Khoảng giữa cầu thang nhỏ ấy ở độ cao chừng 15m, có một khung cửa tò vò nhỏ
bằng lưới. Chui vào cánh cửa ấy với khá nhiều bụi bặm và phân dơi, phần chủ yếu
của chiếc đồng hồ nhà thờ Đức Bà hiện ra. Bộ máy đồng hồ to như một chiếc tủ
chứa quần áo loại lớn, cao khoảng 2,5m, dài khoảng 3m và ngang độ hơn 1m.
Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo
trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn
chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Theo anh Phan Vĩnh Du, người chịu trách
nhiệm đánh chuông và bảo trì đồng hồ, mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và
chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe.
Trên gác chuông cao 36,6m kể từ mặt đất, rất tối và sàn được lót sơ sài bằng
những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Gác chuông bên phải
(phía bên Trường Hòa Bình) có hai chuông mang tên nốt nhạc la và do. Gác chuông
bên trái có bốn quả chuông sol, si, mi và re.
Ba quả chuông to nhất là sol nặng 8.745 kg, si nặng 3.150 kg và re nặng 2.194
kg. Tổng cộng sức nặng của các quả chuông, theo linh mục Vương Sĩ Tuấn, là gần
30 tấn, tất cả đều được đúc ở Pháp vào năm 1879. Đặc điểm của chuông nhà thờ là
có âm sắc riêng không thể lẫn vào đâu, vì vậy theo anh Nam Hải, không có nốt
fa.
Khi xây nhà thờ, gác chuông không có mái. Năm 1885, kiến trúc sư Gardes đã thêm
mái chóp vào để che gác chuông với tổng chiều cao tính từ đất là 57 m. Những
chiếc chuông của nhà thờ được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Song riêng ba
chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng)
cho lắc trước khi bật rơ-le điện. Khi đổ cùng lúc sáu chuông, tiếng chuông vang
xa trong phạm vi chừng 10km.
Khám
phá kiến trúc nhà thờ Tân Định
Nhà
thờ Tân Định tọa lạc trên đường Hai Bà Trưng thuộc phường 8, quận 3, TP HCM, là
một trong những công trình đẹp nhất thành phố, được khởi công năm 1870 và hoàn
thành vào ngày 16/12/1876.
Tổng thể công trình mang phong cách Gothic kết hợp Roman, pha chút Baroque ở
những nét trang trí. Đến năm 1929, khu nhà thờ được tôn tạo, mở rộng phần giáo
đường và xây dựng thêm một tòa tháp cao 52,6 m. Vào tháng 12/1976, nhân dịp kỷ
niệm 100 năm, nhà thờ lại được trùng tu, tôn cao hơn nền cung thánh, sơn sửa
lại tháp chuông. Màu sơn hồng và những đường nét hoa văn trang trí màu trắng
làm cho toàn bộ công trình nổi bật trên nền trời xanh, tạo một vẻ lộng lẫy và
tươi mới.
Nhìn từ phía mặt tiền, du khách có thể thấy tòa tháp chính và hai tháp phụ.
Trên đỉnh tháp là chóp hình bát giác với cây thánh giá đồng cao 3 m. Trong tháp
có 5 quả chuông, nặng tổng cộng 5,5 tấn. Hai bên tháp phụ có những tháp đèn, có
nhiều lỗ thông gió và những hoa văn tạo vẻ vững chãi nhưng rất duyên dáng. Hai
dãy hành lang có mái vòm, lợp ngói vảy cá, những ô cửa tròn với hoa lá trang
trí, tượng thiên thần rất tinh xảo.
Thánh đường bên trong khá bề thế với hai hàng cột gothic, dẫn tới bàn thờ
chính. Cùng với mặt tiền, hai hàng cột này được đánh giá là những nét đẹp nhất
trong cả công trình kiến trúc. Hàng cột biên bên trái là tượng các thánh nữ,
bên phải là các tượng thánh nam. Các bàn thờ trong thánh đường được làm từ đá
quý đưa từ Italy sang.
Nhà thờ Tân Định không chỉ là một công trình kiến trúc có giá trị, được đưa vào
danh mục những địa chỉ lịch sử, văn hóa, du lịch của thành phố, nơi thờ phụng
của bà con giáo dân, mà còn là nơi tổ chức hoạt động từ thiện của những tấm
lòng sống “tốt đời đẹp đạo”.
Nhà thờ Ba Chuông
Nhà thờ Thánh Đa Minh là một trong
những công trình kiến trúc tồn tại đã khá lâu đời, người dân nơi đây thường gọi
nhà thờ bằng một tên khác là nhà thờ Ba Chuông bởi trên đỉnh của nhà thờ này
gắn ba quả chuông. Đầu thế kỷ 21, công trình kiến trúc này được xây dựng lại
một cách hoành tráng.
Được kết hợp độc đáo giữa lối kiến trúc với những đường nét ngang thẳng, gãy
gọn của phương Tây và sự thanh thoát của kiến trúc phương Đông, toàn thể nhà
thờ Ba Chuông là những đường cong nhẹ nhàng, uyển chuyển vươn lên giữa bầu trời
xanh ngắt. Cổng tam quan cao vút, điểm trên các góc mái là hình những chú rồng
uốn cong tạo nên một quần thể điêu khắc lồng lộng giữa bầu trời trong xanh, phả
vào hình khối kiến trúc một tinh thần Việt.
Tọa lạc trên đường Lê Văn Sỹ, quận Phú Nhuận, Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông
được xây dựng lại từ nền cũ. Sau 22 tháng xây dựng miệt mài, nhà thờ Ba Chuông
được mang một diện mạo mới với nét kiến trúc độc đáo có một không hai ở thành
phố Hồ Chí Minh. Từ ngoài nhìn vào, toàn bộ quần thể kiến trúc của nhà thờ Ba
Chuông mang một màu xanh hoành tráng được gắn kết bởi những tảng đá xanh láng
bóng. Lòng thánh đường được mở rộng ra bốn phía, trung tâm thánh đường là hai
tầng mái cách điệu với độ cao 30m tạo nên hai tầng không gian mở, vòm mái cao
vút tạo độ thông thoáng. Giữa thánh đường là một gian cung thánh hình tròn rộng
lớn với bàn thờ bằng gỗ quý trên mặt cẩn đá cẩm thạch. Những bức tranh kính màu
với nhiều màu sắc gắn xung quanh thánh đường tạo độ sáng tối huyền ảo. Thánh
đường Đa Minh - Ba Chuông có kiểu kiến trúc hình vuông tượng trưng cho đất;
khung mái hình tròn tượng trưng cho trời; các góc mái có rồng bay diễn tả ý
muốn vươn cao hơn giữa trời đất. Kiến trúc và mỹ thuật Việt Nam, đặc biệt ba
bức tranh gốm hoành tráng đặt giữa lòng thánh đường đã được chọn như một ý
tưởng chủ đạo của thánh đường.
Ngay cửa ngõ Sài Gòn có thể nhìn thấy một quần thể kiến trúc với sắc màu men
lam làm chủ lực và cấu trúc trang trí mỹ thuật dân tộc qua hình khối, kiểu
dáng, đường nét, họa tiết, hoa văn, sắc màu, chất liệu gốm sứ, cây cảnh, non
bộ... Toàn bộ công trình được xây cất bằng ximăng cốt sắt, gắn đá quý. Chuông
và tháp chuông mang một ý nghĩa quan trọng trong kiến trúc tôn giáo, vì thế ba
quả chuông tại nhà thờ Ba Chuông luôn giữ một vị thế trang trọng.
Thánh đường Đa Minh trên nền tảng kiến trúc, mỹ thuật Việt Nam kết hợp với
những đường nét hiện đại thực sự là một công trình nghệ thuật độc đáo giữa lòng
thành phố .
Danh xưng Giáo xứ Đa Minh -
Ba Chuông
“Nhà thờ Ba Chuông”, một tên gọi
gần gũi, bình dị nơi cửa miệng dân gian, nhưng đã gợi lên thắc mắc cho nhiều
người về nguồn gốc và ý nghĩa lịch sử.
Giáo xứ Đaminh - Ba Chuông ngày nay tọa lạc tại số 190 Lê Văn Sỹ, P.10, Q. Phú
Nhuận, do các Linh mục Dòng Đaminh sáng lập. Dòng Đaminh Việt Nam đã đến đây từ
năm 1957. Các tu sĩ xây dựng tu viện thánh Albêtô năm 1959 và mở trường trung
tiểu học Thánh Thomas.
Sau dịp long trọng mừng “bách chu niên” bốn chân phước Tử Đạo Hải Dương
(1861-1961), tu viện đã tiến hành xây dựng một Đền Thánh dâng kính các Ngài,
được khánh thành vào ngày 5-10-1962.
Ngày 24.06.1967, Đức Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã ký quyết định
chính thức thành lập giáo xứ mới với danh xưng Thánh Đaminh, Đấng sáng lập Dòng
của các tu sĩ phục vụ tại đây. Bổn Mạng giáo xứ : Thánh Đaminh, Lễ kính 08.08.
Nhà thờ đầu tiên của giáo xứ chính là “Đền Thánh” trên, có kiến trúc khá độc
đáo, với nhiều nét cong uyển chuyển mềm mại. Nhà thờ hình thánh giá với hành
lang rộng và hàng hiên gợn sóng. Nhà thờ dài 50 mét, rộng 18 mét, hai tay thánh
giá 25 mét, theo thiết kế của kiến trúc sư Võ Văn Tần. Mặt tiền hình quả chuông
úp, với cuốn sách mở trên có chữ Veritas, nghĩa là chân lý, thánh giá và các
nhành thiên tuế tử đạo.
Nhưng ấn tượng nhất với mọi người là tháp chuông ba khía mầu đỏ sẫm, cao 14
mét, được xây tách biệt về phía cổng nhà thờ. Dáng tháp chuông thon thả, phía
trên nở ra như một bông huệ, khoe cho mọi người thấy ba quả chuông. Phía trên
cùng có quả địa cầu cách điệu, gồm những đường kinh tuyến và vĩ tuyến, đôi khi
được thắp điện sáng ngời. Có lẽ chính vì thế mà nhà thờ được dân gian đặt cho
một tên gọi mới là “Nhà thờ Ba Chuông”.
Cho đến hôm nay đã gần nửa thế kỷ, “Nhà thờ Ba Chuông” trở thành một danh xưng
phổ biến và quen thuộc với nhiều người. Có những cuốn Agenda còn giới thiệu với
khách du lịch về nhà thờ “Three Bells” như một địa chỉ để tham quan.
Dần dà “Nhà thờ Ba Chuông” bỗng trở thành một tên riêng, dù nhiều nhà thờ khác
cũng có đủ ba quả chuông. Ghép tên gọi của giáo xứ và danh xưng dân gian trên
ta có Nhà thờ Đaminh - Ba Chuông.
Các
nhân tố văn hóa trong Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông
1. Ngoại thất
Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông được xây dựng theo phong cách Á Đông và mang
đậm nét văn hóa Việt. Nó vừa mang dáng dấp của một ngôi đình của làng xã Việt
Nam : hình vuông, mái cong; vừa xây theo lối kiến trúc hiện đại : bê tông cốt
sắt, tường gạch ốp đá. Nhà Chúa vì thế trở nên nguy nga, tráng lệ, nhưng lại
rất thanh thoát, nhẹ nhàng.
Bình diện vuông, theo tư duy Việt cổ, họ quan niệm trái đất vuông, được bốn
phương neo giữ. Đặc tính này được tác giả khai thác triệt để khi thiết kế Thánh
đường. Do đó, Thánh đường hiện diện trong vị thế hòa điệu tự nhiên với khu biệt
kính các Thánh và các quảng trường... tạo nên một cảnh quan tổng thể có cả
chiều cao lẫn bề rộng vừa thiêng liêng vừa ấm cúng.
a.
Cổng tam quan
ổng Tam quan khiến chúng ta liên tưởng đến ngôi đình làng Việt Nam, một cấu
trúc đặc biệt trong một quần thể kiến trúc Việt Nam nói riêng và Đông phương
nói chung. Cổng Tam quan thường được xây dựng phía trước các đình, làng, làm
cổng đình, cổng làng. Có ba lối đi, một cổng lớn ở chính giữa và hai cổng nhỏ
hai bên.
Nói tới cổng là nói tới một lối dẫn vào, một lối đi. Nhưng cổng Tam quan đã trở
nên ý nghĩa đặc biệt cho người dân Việt, vì nó là lối dẫn về nguồn, là đường đi
vào những nơi sinh hoạt tập thể, dấu chỉ của sự đoàn kết, gắn bó của người dân
Việt.
Tùy theo từng loại kiến trúc mà người ta đã thay đổi, cách tân nó cho phù hợp
với ý nghĩa và tính chất của công trình. Mô hình Cổng Tam quan của Thánh đường
Đa Minh- Ba Chuông được thiết kế nhằm tạo nên sự thân thiện, và gần gũi với tâm
thức của người Việt, nhưng không sao chép theo một mẫu kiến trúc cổ nào. Nó
cũng mang ý nghĩa “phân cách không gian, làm đẹp công trình như là một tiền
đường, một khoảng lặng tạo cảm giác thong dong thư thái và an nhàn, một dấu
nghỉ, một bầu khí lặng thầm trang nghiêm trước khi vào chầu lễ với cộng đoàn”.
b. Tháp chuông
Tháp chuông là thành tố không thể
thiếu được trong kiến trúc một ngôi nhà thờ Công giáo. Tháp chuông có thể gắn
liền với nhà thờ hoặc được xây dựng tách biệt tùy theo ý tưởng và cách thiết kế
của mỗi ngôi nhà thờ. Tháp chuông càng cao thì tiếng chuông càng vang xa, nhằm
kêu gọi mọi người tề tụ về Thánh Đương để dâng Thánh Lễ.Đặc biệt ở Thánh đường
Đa Minh - Ba Chuông, là phải có đủ ba quả chuông đồng : “một dấu ấn mang tính
lịch sử đã trở thành biệt danh của nhà thờ”.Tháp chuông hình trụ vuông gồm ba
tầng mái với kiểu dáng mái cong truyền thống, được cách điệu và hiện đại hóa.
Mỗi góc mái là một đầu đao hình đầu rồng quy hướng về Thánh giá, vừa thể hiện
sự hội nhập văn hóa trong kiến trúc nhà thờ.
c. Mái cong:
Dân Việt mình sống trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, địa hình có nhiều đồng
bằng với hệ thống sông ngòi dày đặc. Hình ảnh sông nước và con thuyền rất gần
gũi với cuộc sống của người dân. Tâm thức đó đã được thể hiện trong quá trình
sống, qua các công trình tác phẩm của dân tộc. Từ đó cho thấy hình ảnh ngôi
nhà, mái đình chính là phản ảnh sự thích nghi của con người trước môi trường tự
nhiên.
Hình ảnh nhà mái cong hình con thuyền trên các trống đồng Đông Sơn cho thấy nhà
mái cong đã có từ lâu đời và đã trở thành nét văn hóa truyền thống trong kiến
trúc người Việt. Nét uốn cong vút tại mỗi góc tạo thành những “tàu đao” của mái
nhà Việt Nam, làm cho các tầng mái kiến trúc dù thấp và nặng nề, được vươn cao,
thanh thoát, nhẹ nhàng, cân đối và hài hòa.
Ngoài tính mỹ thuật trang trí và công dụng che mưa nắng của khí hậu miền nhiệt
đới, mái cong còn chuyển tải một triết lý sống uyển chuyển, linh động “ở bầu
thì tròn, ở ống thì dài” và một tâm hồn mở rộng (tứ hải giai huynh đệ); một
khát vọng hướng thượng, giải thoát, sự giao hòa giữa trời cao và đất thấp, giữa
con người với thần linh
d. Tàu đao - linh vật :
Tàu đao được tạo thành do “hai mái bên gặp nhau tạo thành đường bờ giải gẫy
khúc, lượn cong nhè nhẹ. Đường diềm giọt nước ở phía dưới uốn cong tinh tế từ
điểm giữa rồi lượn vênh lên, từ hai mái ở hai phía kéo ra góc gặp nhau chuyển
hướng hất lên đột ngột, còn cuộn lại, có khi tạo thành cái đầu rồng duyên dáng,
được xem như “đóa hoa đao đình”.
Đầu đao có thể là hình đầu rồng, đầu chim phụng, chim câu hoặc các hoa văn nhằm
tạo tính chất linh liêng cho các công trình kiến trúc. Thánh đường Đa Minh - Ba
Chuông chọn hình đầu Rồng, vốn là một linh vật trong tứ linh. Trong văn hoá
Việt Nam, Rồng vốn là một linh vật mang đầy ý nghĩa : Trời đất có rồng để mưa
thuận gió hoà ; Đình miếu có rồng để cộng đồng làng xã ấm no ; Minh quân có
rồng để quốc thái dân an. Rồng xuất hiện như một điềm lành, đem lại những điều
may mắn và tốt đẹp.
Rồng nơi góc mái trang trí của Thánh Đường nhắc nhớ mọi người nhớ về thuỷ tổ
của dân Việt, nhớ mình là “con rồng cháu tiên”. Hơn thế nữa tàu đao đầu rồng
với dáng dấp rồng bay ngoài ý nghĩa nhắc nhớ cội nguồn, còn khơi gợi con đường
con đường giải thoát, và diễn tả ý muốn vươn lên cao hơn, hướng thượng và những
khát khao nội tâm trong tâm thức của mỗi người tín hữu khi đến cầu kinh, dâng
lễ.
Đặc biệt, nơi Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông có các tàu đao đầu rồng đều hướng
về tâm điểm là Thánh giá. Thay vì “long chầu nguyệt”, những con rồng ở đây chầu
Thánh giá, thể hiện ý hướng tôn thờ biểu tượng của Đạo Công Giáo.
e. Con Nghê
Con nghe là một trong hai linh vật đặc thù của văn hóa Việt Nam, nhưng lại rất
ít được biết đến và người ta cũng không biết rõ xuất xứ ngọn nguồn của nó. Chỉ
biết rằng trong kiến trúc đền đài, lăng tẩm, người Việt mình thường chạm khắc
những cặp nghê đá, đặt hai bên tam cấp, như là để bảo vệ, hộ phù.
Trong ý nghĩa trên, tượng nghe được đặt trước bốn phía tiền đường Thánh đường
Đa Minh - Ba Chuông ngang hàng với rồng chầu. Vừa gợi lên niềm tự hào về bản
sắc văn hóa của dân tộc, vừa làm cho ngôi nhà thờ tăng thêm vẻ uy nghiêm,
thiêng thánh.
“Nắng mưa dầu giãi canh thâu,
Hai con nghê đá nằm chầu thiên thu”
f.
Thiên nhiên và ngoại cảnh:
Thiên
nhiên, ngoại cảnh là yếu tố căn bản trong kiến trúc Việt Nam. Cái triết lý “vạn
vật nhất thể” bàng bạc khắp nơi. Qua thiên nhiên và nhờ thiên nhiên, con người
cảm thấy gần gũi, nhẹ nhàng, một bước rất gần tới Chân, Thiện, My.
Xung quanh ngôi Thánh đường nguy nga tráng lệ là các quảng trường Thánh
Martinô, quảng trường Đức Mẹ La Vang, quảng trường Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
được trang hoàng bằng những nhân tố văn hóa rất Việt: những cây đèn đá, bờ tre,
khóm trúc, cây kiểng, hòn non bộ, hồ cá... tạo nên không gian thờ phượng rất
thiên nhiên và cũng rất gần gũi với đời sống của người dân. Những bài trí đó
vừa mang nét đẹp của văn hóa Việt, vừa góp phần làm cho ngôi Thánh đường đồ sộ
hòa mình với cảnh quan tự nhiên của đất trời, cỏ cây mây nước.
2. Nội thất:
Bước vào trong Thánh đường, ta sẽ thấy rõ chủ ý của tác giả khi thiết kế ngôi
Thánh đường này: đưa bản sắc dân tộc vào trong kiến trúc, nghệ thuật thánh.
Điều này thể hiện qua việc thiết kế gian cung thánh và các bài trí bên trong
lòng của nhà thờ. Một trong những nét văn hóa tiêu biểu đậm nét trong nội thất
ngôi Thánh đường chính là biểu tượng Vuông – Tròn : lòng nhà thờ vuông gian
cung thánh tròn, chóp đỉnh vuông - tròn, bàn thờ mặt tròn - chân vuông, Nhà Tạm
vuông - tròn, .v.v.
Ý nghĩa biểu tượng “Vuông - Tròn”
trong văn hóa Việt
Ai trong chúng ta cũng từng một lần nghe câu thành ngữ “Mẹ tròn con vuông”. Mới
nghe qua chúng ta thấy có vẻ khá vô lý và đối nghịch nhau, nhưng thành ngữ hàm
chứa một ý nghĩa hết sức tốt đẹp, nhằm diễn tả cả hai mẹ con đều khỏe mạnh sau
giờ phút mãn nguyệt khai hoa; tức là nói đến một kết quả tốt đẹp đúng như người
ta trông đợi. Trong văn hóa Việt nam, hai hình thể “vuông - tròn” trong nhiều
trường hợp đi đôi, gắn liền với nhau biểu thị cho một sự kết hợp thuận lẽ trời,
và đem đến một kết quả tốt lành, ý nghĩa ấy ta bắt gặp trong sự tích “bánh dày
bành chưng” đời vua Hùng.
Nói một cách triết lý, Vuông Tròn chính là khái niệm về Trời Đất, về Càn Khôn,
về Âm Dương. Trong kiến trúc Đông phương, hầu hết các đường nét bao giờ cũng là
những đường nét pha trộn giữa Âm và Dương. Bên cạnh những đường thẳng cần thiết
phải có, người ta không quên đưa những đường cong, những vòng tròn vào, để tạo
nên một tổng thể hài hòa giữa Âm và Dương. Cái mái ngói cong cong, cái cửa sổ
tròn tròn.
Từ khái niệm vuông tròn biểu trưng của Trời Đất, đến khái niệm vuông tròn của
Âm Dương: tròn tượng trưng cho Âm tính, vuông tiêu biểu cho Dương tính. Sự kết
hợp hài hòa giữa Âm - Dương bao giờ cũng được xem là một kết hợp thuận tự
nhiên. Một kết hợp như thế luôn luôn mang lại kết quả tốt đẹp.
Nhìn chung, Thánh đường Đa Minh - Ba Chuông với bình đồ hình chữ Quốc. Hình
vuông làm nền như khung hình Tế Đàn Nam Giao : tượng trưng cho Đất; khung mái
bên trên hình tròn tượng trưng cho Trời. Các góc mái nhà thờ cong vút được
trang trí rồng bay tượng trưng con đường giải thoát, hướng thượng.
a.
Phù điêu
Được trưng bày ở tiền sảnh ngôi nhà thờ, các bức phù điêu làm nổi bật sự liên
kết giữa tinh thần Kitô giáo và truyền thống văn hóa dân tộc.
Bên trái là phù điêu Đức Mẹ Mân Côi có khoảng không gian nền với hoa sen tượng
trưng cho sự thanh khiết, nguồn nước tượng trưng cho lòng Mẹ bao la. Tất cả
những biểu tượng này đều mang tâm thức Việt.
Bên phải là bức phù điêu Thánh Giuse và Chúa Giêsu trong bối cảnh nền là không
gian thuần Việt : ngọn núi, ngôi nhà, bàn mộc - biểu lộ tinh thần vững chãi của
người cha lao động; sự công chính và sự cương trực được thể hiện qua hình ảnh
khóm tre (trúc), một biểu tượng “tiết trực tâm hư” theo tinh thần Á đông.
b. Hội họa
Ba bộ tranh gốm bao bọc ba mặt tầng lửng bên trong nội thất nhà thờ, gồm 15 bức
họa sống động, với tổng chiều dài 60 mét, thể hiện sự hòa hợp giữa các gam màu
và họa tiết, kết cấu nên một bộ giáo lý bằng tranh sinh động. Qua đó chúng ta
có dịp khắc ghi những biến cố quan trọng trong toàn bộ tiến trình Lịch sử của
Đạo Công Giáo.Bên cạnh đó, bộ tranh còn diễn đạt sự hình thành và phát triển
của hạt giống Tin Mừng cứu độ trên quê hương Việt Nam từ buổi đầu cho đến nay,
như một âm vang thể hiện sự trải rộng của ơn cứu độ, vươn tới mọi thời đại và
mọi dân tộc.
Các bức tranh gốm cho thấy
một sự đan quyện hài hòa các giá trị nội dung căn bản của Kitô giáo với những
giá trị văn hóa dân tộc ẩn chứa trong các họa tiết tiêu biểu : áo dài khăn
đống, áo tứ thân, nón lá, bụi chuối, căn nhà Việt và cả con người Việt nữa. Ý
nghĩa thiêng liêng của kiến trúc thánh trong Thánh đường thấm sâu vào từng
phong cách, khung cảnh và sắc màu làng quê rất Việt.
Nhà
Thờ Cha Tam
Nhà thờ Cha Tam có tên
chính thức là Nhà thờ Thánh Phanxicô Xaviê vì thuộc Giáo xứ Phanxicô Xaviê,
Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, là một nhà thờ cổ, hiện tọa lạc tại số 25
đường Học Lạc, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đầu thế kỷ XX, xét
thấy ở khu vực Chợ Lớn thuộc giáo xứ Chợ Quán, người Việt gốc Hoa theo đạo Công
giáo không có nơi cầu nguyện, đô đốc Lagrandière lúc đó đang là Thống đốc Nam
Kỳ đã ra lệnh cho Sở Công trình công cộng dùng tiền công để xây dựng một ngôi
nhà thờ.
Được sự hỗ trợ của chính quyền, giám
mục Dépierre đã cử linh mục Pierre d’ Assou có tên Hoa là Đàm Á Tố (Tam An Su),
đọc sang âm Việt là Cha Tam, đứng ra mua một khu đất rộng 3ha ở xóm Lò Rèn,
ngay trung tâm Chợ Lớn để xây dựng. Ngày 3/12/1900, nhân ngày lễ Thánh Phanxicô
Xaviê (Saint Francisco Javier), vị giám mục địa phận Sài Gòn Mossard, đã đến
làm phép đặt viên đá đầu tiên xây ngôi thánh đường và đặt theo tên vị thánh
này. Bản vẽ kiến trúc do thầy Gioan Baotixita Huỳnh Tịnh Hướng thiết kế. Hai
năm sau, vào ngày 10/1/1902, lễ cung hiến thánh đường được tiến hành một cách
trọng thể, tuy nhiên, vì linh mục Pierre d’ Assou, người đứng ra xây dựng nhà
thờ và cũng là vị cha sở đầu tiên, nên dân gian quen gọi là nhà thờ Cha Tam.
Nhìn chung, nhà thờ có lối
kiến trúc Gothique - có cửa sổ nhiều và kích thước cửa sổ lớn, giống như các
nhà thờ ở Châu Âu, nhưng yếu tố văn hóa Hoa vẫn được coi trọng như: cổng nhà
thờ xây kiểu tam quan, tên nhà thờ ghi bằng chữ Hán, mái lợp ngói âm dương, các
đầu đao cong, hai bên cây thánh giá, có hai con cá chép. Trên nóc nhà thờ còn
gắn hoa sen, hai bức liễn ở hai bên cửa ra vào cũng viết bằng chữ Hán, bốn cây
cột nơi chính điện sơn đỏ là màu không phổ biến trong nhà thờ Công giáo. Nơi
treo hình tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh là hai bức liễn sơn son thiếp vàng,
chạm chữ màu đen:
Ảo thế phù vinh bất túc mãn
nhân nguyện,
Thiên hương vĩnh phúc phương năng suy thiện tâm.
Tạm dịch:
Những vinh hoa phù phiếm hư
ảo không thể làm thỏa mãn ham muốn của con người,
Ơn đức lâu dài thơm thảo của Thiên Chúa giúp người suy gẫm về lòng thiện.
Trong khu vực nhà thờ có một trường học, nhà nuôi trẻ, một nhà nội trú và
một số nhà dành để cho thuê. Vào năm 1990, tháp chuông nhà thờ được tu sửa lại
và cung thánh được tân trang. Trong vòng một trăm năm qua, nhà thờ hiện nay đã
được tu sửa nhiều lần. Lần cuối cùng vào ngày 2/1/2000, Đức Tổng Giám Mục Gioan
Baotixita đã đến chủ sự khánh thành nhà sinh hoạt gồm tầng trệt và hai tầng
lầu, trong đó có tám lớp học, một hội trường có thể chứa được 400 người.
Nhà
Thờ Huyện Sỹ
Giáo
Hạt Sài Gòn Chợ Quán, địa chỉ: 1 Tôn Thất Tùng, Phạm Ngũ Lão, Quận
1, Hồ Chí Minh
Năm thành lập Nhà Thờ: 1859
- Linh Mục Chánh Xứ: Ernest Nguyễn Văn Hưởng
Lược
sử Giáo xứ Chợ Đũi
Nhà thờ Chợ Đũi tọa lạc tại
số 1 Tôn Thất Tùng, P. Phạm Ngũ Lão, Q.1, Saigon. Thành lập năm 1859. Nhà thờ
do ông bà Lê Phát Ðạt, tức Huyện Sỹ, hiến đất và xuất 1/7 gia tài để xây dựng,
thời giá lúc bấy giờ là khoảng trên 30 muôn (mười ngàn) đồng bạc Đông Dương.
Khởi công xây dựng năm 1902 theo thiết kế của LM Bouttier, đến 1905 thì được
khánh thành. Nhà thờ tọa lạc trên một khu đất cao và rộng hơn một mẫu, nằm ở
góc đường Frère Louis (nay là đường Nguyễn Trãi) và đường Frère Guilleraut (nay
là đường Tôn Thất Tùng). Ông bà Đạt còn có công xây nhà thờ Chí Hòa và Hạnh
Thông Tây. Ông Đạt qua đời năm 1900 (khi nhà thờ chưa xây xong), vợ ông là bà
Huỳnh Thị Tài qua đời năm 1920.
Ban đầu nhà thờ có tên là
Nhà thờ Chợ Đũi, do thuộc họ đạo Chợ Đũi. Mặt khác, do Thánh Philípphê tông đồ
là bổn mạng của Huyện Sỹ nên còn được gọi là Nhà thờ Thánh Philípphê. Tuy vậy,
dân gian vẫn gọi là Nhà thờ Huyện Sỹ, và sau đó dần trở thành tên chính thức
của nhà thờ này. Tháp chuông chính cao 57 m kể cả chiều cao thánh giá và con gà
trống Gaulois.
LM Boutier được bổ nhiệm
làm cha sở họ đạo Phong Phú – Thủ Đức năm 1880. Ngài cũng là một kiến trúc sư
có tài, và chính ngài thiết kế nhà thờ Thủ Đức.
Nhà thờ Huyện Sỹ được đánh
giá là có khuôn viên rộng rãi khoáng đãng nhất ở Sài Gòn. Phía trước nhà thờ có
tượng đài thánh tử đạo Việt Nam là Mátthêu Lê văn Gẫm (bị xử giảo ngày 11-51847
dưới triều vua Thiệu Trị, tại pháp trường “Cây Da Còm”, gần vị trí nhà thờ
Huyện Sỹ ngày nay). Gần cổng chính còn có đài thiên thần hộ thủ và tượng đài
Thánh Giuse.
Bên trái khuôn viên là núi
Đức Mẹ Lộ Đức, được xây dựng năm 1960. Hằng năm cứ vào ngày 11-2, các linh mục
chính xứ Chợ Đũi có thói quen cử hành thánh lễ tại núi này để cầu nguyện đặc
biệt cho các bệnh nhân. Phía bên phải khuôn viên nhà thờ là đồi Canvê, có tượng
chuộc tội rất lớn được xây dựng năm 1974, thời LM Gioan Baotixita Dương Hoàng
Thanh.
Tại gian bên trái là tượng
bán thân ông Huyện Sỹ bằng thạch cao gắn cột đầu, phía sau là phần mộ bằng đá
cẩm thạch được trang trí hoa văn. Trên mộ là tượng toàn thân ông Huyện Sỹ kê
đầu trên hai chiếc gối bằng đá cẩm thạch được điêu khắc tinh xảo, đầu chít khăn
đóng quay về cung thánh nhà thờ, mình mặc áo dài gấm hoa văn tinh xảo, hai tay
đan vào nhau trước ngực, chân đi giày. Đối diện bên phải là tượng vợ ông là bà
Huỳnh thị Tài (1845 – 1920), tóc búi, cũng dựa trên hai chiếc gối, hai tay nắm
trước ngực, mặc áo dài gấm, chân mang hài. Phía trong cùng còn có tượng bán
thân của con trai và con dâu ông bà là Gioan Baotixita Lê Phát Thanh (bên phải)
và Anna Đỗ thị Thao (bên trái).
Nhà thờ Giáo Xứ Chợ Quán
Địa chỉ : 120 Trần Bình Trọng, P.2
Quận 5 ( Bản đồ ) Chánh xứ : Linh mục Gabriel Trịnh Công Chánh (1/8/2018) |
|
E-mail: giusehai1971@gmail.com |
|
Năm thành lập: 1720 |
|
Lễ Bổn Mạng: ThánhTâm Chúa Giêsu (8/6) |
Lược
sử Giáo xứ Chợ Quán
NHÀ
THỜ CHỢ QUÁN, MỘT CÔNG TRÌNH CỔ
Đọc lược sử của các nhà thờ
có tuổi từ 100 năm trở lên, có lẽ lịch sử của Họ đạo Chợ Quán đem lại cho người
đọc nhiều thú vị nhất vì có nhiều điều để nói trong khoảng thời gian 286 năm
thành lập họ đạo (1723-2009)
MỘT
HỌ ĐẠO CỔ
Gọi Giáo xứ Chợ Quán là một
họ đạo cổ vì lịch sử họ đạo gắn liền với quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Nam
của Đất nuớc và có tuổi gần đến ba thế kỷ.
Khi có nhiều di dân muốn
khởi nghiệp trên vùng đất mới phía Nam hoặc trốn cảnh bắt đạo, bắt lính, xâu
thuế, đói kém…nhiếu giáo dân xuất xứ từ khắp nơi tề tựu lại thành Họ đạo Chợ
Quán, không biết có từ thời gian nào. Chỉ biết các bô lão nói rằng: nhiều di
dân có cùng nghề, cùng lòng tin, tạo nên Xóm Bột, có chợ, có nhiều lều quán nên
hình thành cái tên Chợ Quán.
Nhiều vị mục tử nhiệt thành
đã đến đây chăn dắt con chiên, từ các vị thừa sai Dòng Phanxicô đến các giáo sĩ
người Việt. Các cha thừa sai gặp nhiều khó khăn gian khổ khi truyền giáo. Gian
nan nhất là cha José Garcia: vừa đối phó với hành động chống lại đạo Chúa, vừa
bị bão cuốn đi tất cả công trình xây dựng, lại sợ quân Chân Lạp tấn công. Chưa
hết, cha José còn bị quân của Võ Vương bắt giải ra Huế, rồi trục xuất về
Philippines. (Sau này cha chỉ hoạt động ờ Hà Tiên và qua đời tại đây. Điều đó
nói lên sự dũng cảm đáng khâm phục của các cha thừa sai khi truyền giáo trên
đất Việt).
Năm 1766, có Đức Cha Piguel
đến dâng lễ tại nhà thờ Chợ Quán theo nghi thức Giám mục dành cho cả giáo dân
và lương dân. Dịp này có 600 người được rửa tội và 7000 người được thêm sức.
Nhiều người ùn ùn kéo đến, lòng sùng mộ của giáo dân suýt nữa đưa đến một lệnh
cấm đạo khác.
Và cha Joseph Marie là vị
mục tử thừa sai Phanxicô sau cùng coi sóc họ đạo, kêt thúc 115 năm hoạt động
truyền giáo mà Dòng Phanxicô khởi đầu tại Đàng Trong.
Trong giai đoạn này, có sự
chuyển tiếp quyền quản nhiệm mục vụ giữa các thừa sai Phanxicô và linh mục bản
quốc. Sau đó, Tòa Thánh chú trọng đào tạo các giáo sĩ bản xứ, để dần dần tiến
tới thành lập Giáo Hội địa phương do người địa phương trông coi, gia tăng và
củng cố quyền hạn của Đại Diện Tông Tòa, tổ chức lại các đơn vị cơ sở là giáo
điểm và giáo xứ, đào luyện những người chuyên trách việc dạy giáo lý.
Khi nhà Nguyễn lên ngôi
(1802-1820) thì họ đạo Chợ Quán trãi qua thời gian thử thách lớn lao mà Giáo
Hội Việt Nam cũng phải gánh chịu dưới quyền bính của nhà Nguyễn.
KIÊN
TRUNG TRONG THỬ THÁCH VÀ PHỤC HỒI PHÁT TRIỂN
Trong thời gian từ
1834-1859, khi vua nhà Nguyễn tỏ rõ ý chống lại đạo Công giáo thì cuộc bách hại
đạo cũng bắt đấu. Họ đạo Chợ Quán không được sinh hoạt bình thường. Giáo dân
vừa lo cho thân mình,vừa phải bảo vệ các cha nên phải di chuyển đây đó rất cực.
Có lúc Chợ Quán không còn nhà thờ, cha phải lẫn trốn trong nhà dân,hoặc phải
giả dạng người thường trong đám cưới hay đám ma, còn thánh lễ được cử hành vào
ban đêm. Giáo lý do cha mẹ dạy cho con cái…nhưng các quới chức vẫn trợ giúp các
cha và cộng đoàn giáo dân một cách tích cực. Khi quân Pháp xâm lăng Sài Gòn thì
triếu đình nhà Nguyễn gia tăng tìm giết nguời có đạo,nhiều giáo dân Chợ Quán bị
bắt đi phân sáp vào 18 thôn vườn trầu, nhưng chính những người này tạo điều
kiện cho nhiều người biết đến Chúa và làm nòng cốt phát triển thành các họ đạo
về sau như Hóc Môn, Bà Điểm, Tân Hưng và Chợ Cầu.
Khi quyền bính chính trị
lần lượt rơi vào tay người Pháp thì người Công Giáo được truyền đạo và giữ đạo
tự do. Họ đạo Chợ Quán được phục hồi và phát triển về nhiều mặt, có sự trợ giúp
đắc lực của các nữ tu Hội Dòng Mên Thánh Giá Chợ Quán. Niềm tin của giáo dân
được củng cố, các hội đoàn được thành lập, cơ sở vật chất được xây dựng khang
trang, truyền giáo để tăng trưởng số giáo dân, mở rộng để phát triển những họ
đạo mới như Chánh Hưng, Bình Xuyên, Mai Khôi…
Với chiều dài thời gian, họ
đạo đã có nhiều vị mục tử được sai đến chăm sóc và đến nay nhà thờ được xây
dựng là ngôi thánh đường thứ tám, theo thứ tự các năm
1720,1727,1733,1775,1789,1793,1862 và 1896. Như thế ngôi thánh đường còn lại
đến nay là nhà thờ thứ tám, do công của ba linh mục Nicolas Hamm (Tài)
(1883),Jules Errand (Ý) (1887-1891) và Lucien Mossard (Mão) (1891-1898),được
khánh thành vào năm Bính Thân 1896. Cha Nicolas Hamm được an táng trong nhà
thờ, bên bàn thờ Đức Mẹ.
GIÁO
XỨ CHỢ QUÁN – SỨC SỐNG TRÀN ĐẦY
Đến thăm giáo xứ có ngôi
nhà thờ cổ này, ai đó sẽ thấy một sức sống tràn đầy, qua những việc làm cụ thể
như:
- Xây dựng cơ sở vật chất :
trong khuôn viên giáo xứ có một trường Tiểu học do nhà nước quản lý, nhưng
trong khuôn viên 16.922 m2, vẫn rộng rãi để xây một nhà giáo lý 12 phòng và một
hội trường, Nhà hài cốt, tu sửa phòng thánh. Việc trồng cây cỏ chung quanh nhà
thờ là việc làm cũng cần thiết không kém, làm cho cảnh quan nhà thờ được tôn
tạo đẹp, xứng hợp nơi thờ phượng. Một hệ thống âm thanh trong ngoài nhà thờ,
một nhà sách, một bàn thờ đá…
- Tất cả những công trình
đó do cha xứ khởi xướng, giáo dân chung tay xây dựng, nhưng ý nghĩa nhất vẫn là
công trình xây dựng đức tin. Bản tin Họ đạo Chợ Quán được phát hành hàng tháng,
được chuyển đến từng gia đình qua hệ thống 9 giáo khu, tập trung vào những
thông tin của Giáo Hội Hoàn vũ và Giáo Hội Việt Nam. Rồi tĩnh tâm theo mùa, các
lớp Giáo lý thiếu nhi, Giáo lý hôn nhân, Giáo lý Dự tòng như bao nơi khác.
- Một cộng đoàn phụng vụ
duy trì sức sống mạnh mẽ qua các Thánh lễ, giờ chấu, giờ cầu nguyện Taizé, rước
kiệu hàng tháng, kinh Phụng vụ, ca đoàn, lễ sinh…
- Nhưng cái hồn của tất cả
mọi việc làm trong giáo xứ là xây dựng một cộng đoàn bác ái : lớp học tình
thương, phòng khám bệnh và phát thuốc miễn phí, lớp dạy cắt may, Hội Bác Ái
Vinh Sơn, giúp các xứ nghèo xây sửa nhà thờ.
Họ đạo Chợ Quán đã vượt qua
những thử thách để sống còn và lớn lên. Môt Giáo xứ thật đáng tiêu biểu cho
cộng đoàn tín hữu miền Nam trong quá trình làm chứng cho Tin Mừng theo dòng
lịch sử. Hôm nay, Giáo xứ Chợ Quán vẫn đang có những đổi mới mạnh mẽ trong một
Giáo Hội và Đất Nước có nhiều chuyển biến.
( Trích sách “Bài Giảng Chủ
Nhật” tháng 10/2009, trang 120-125)
* Nguồn : Trang Web Tổng Giáo Phận Sài Gòn
Vườn trái Lái Thiêu
Vườn trái Lái Thiêu (Thủ
Ðức, Sàigòn) là một cù lao tạo thành bởi hai nhánh sông nên đất đai phì nhiêu,
cây trái tươi tốt. Lái Thiêu trở thành miệt vườn ngay từ thời khai hoang mở
đất. Ðến đây, du khách sẽ được đi trong những khu vườn rợp bóng cây, ngộp thở
trước hương của hàng chục loại cây trái hòa quyện, và được thưởng thức trái
ngon trong khung cảnh đầy thơ mộng.
Từ Sàigòn đi về phía đông chừng 20 km, du khách sẽ gặp một vùng sinh thái tuyệt
diệu, đó là miệt vườn Lái Thiêu. Nơi rợp mát hoa trái này trở nên nổi tiếng và
thu hút khách du lịch khoảng mười năm trở lại đây. Thành phố ồn ào, nóng nực,
luôn luôn ngột ngạt, con người muốn trở về với thiên nhiên. Về với miệt vườn
Lái Thiêu, ta sẽ được hít căng lồng ngực hơi thở của đồng quê. Chân ta sẽ được
bước trong những miệt vườn mà lối đi chỉ vừa một người. Cái thú vị đặc biệt của
miệt vườn Lái Thiêu là hương thơm hòa quyện của hàng chục loại cây trái. Mùi
thơm của sầu riêng, măng cụt, mít tố nữ, sa-pô-chê, mãng cầu đua nhau tỏa
hương, quyến rũ, níu bước chân du khách.
Miệt vườn Lái Thiêu được hình thành từ xưa cùng với làng quê êm ả của Nam Bộ.
Người đến khai khẩn dừng bước tại đây bởi đất màu mỡ, phong cảnh hữu tình. Miệt
vườn Lái Thiêu được tạo thành bởi một dòng sông chảy từ Sàgòn về tới huyện
Thuận An của tỉnh Bình Dương, tới đây sông rẽ thành hai nhánh, tạo thành một cù
lao. Ðất đai và cây trái quanh năm được bồi đắp và tưới mát bởi hai nhánh sông
không bao giờ vơi này.
Ðến với Lái Thiêu, bạn có thể đi bằng xe du lịch hoặc tắc-xi, bình dân hơn thì
đi xe lôi, chưa đầy một giờ sau bạn có thể đặt chân lên vùng đất hứa này. Ðể
vào miệt vườn du lịch, bạn đi qua một cây cầu khá đẹp, soi bóng mình và để lắng
lại phía sau những bụi bặm phố phường. Từ đây, bạn rảo bộ vào các lối nhỏ dẫn
vào vườn. Nếu bạn muốn du ngoạn trên thuyền để cảm nhận cái chơi vơi sông nước,
thì đã có sẵn những chiếc ghe dưới bến trong miệt vườn. Bạn sẽ gặp những vựa
trái cây thơm lừng và những chàng trai, cô gái Lái Thiêu vẫn còn mang dáng dấp
chân quê, mời bạn mua hàng. Bạn có thể mua một vài loại trái cây gì đó và trò
chuyện vui vẻ. Họ sẽ thành hướng dẫn viên du lịch cho bạn. Ði trong vườn đầy
bóng cây, bạn có cảm giác như đang sống trong môi trường của một chiếc máy điều
hòa nhiệt độ khổng lồ với ánh nắng của ban mai và ngọn gió lành phương xa thổi
qua các cánh đồng phì nhiêu và dòng sông mát lành của đồng bằng Nam Bộ. Bạn có
thể khoan khoái thả hồn trong khung cảnh thơ mộng: tiếng lá thở lao xao và
tiếng tí tách của nước sông xâm xấp mép vườn.
Ði dọc theo các vườn cây, thỉnh thoảng ta bắt gặp các rãnh dẫn nước từ sông
vào. Các nhà dân ở xen lẫn trong vườn. Cây cối xanh tốt vươn vào thềm và phủ
bóng trên mái nhà. Miệt vườn ở khu du lịch có hàng trăm ha. Mỗi gia đình có
khoảng vài ba vườn cây là yên tâm với cuộc sống của mình. Nếu bạn muốn ở lại
thưởng thức hương vị đặc biệt của trái cây vùng này, thì xin cứ việc ngả lưng
trên những chiếc ghế để sẵn dưới gốc cây. Nếu trời bất chợt mưa, thì đã có nhà
rông trong vườn. Bây giờ bạn có thể ngắm nhìn những trái mít tố nữ vàng ươm,
thơm ngọt đến nao lòng, những trái sầu riêng gai góc nặng hàng cân chứa trong
lòng ngọt bùi thơm mát. Ngoài ra dừa Xiêm, măng cụt, chôm chôm và các loại hoa
quả khác của miệt vườn này cũng có hương vị rất lạ. Ai đã từng nếm một lần,
chắc khó mà quên.
Hằng năm, miệt vườn Lái Thiêu có hàng nghìn du khách đến thăm. Những người yêu
thiên nhiên và thích du lịch tìm hiểu miệt vườn Nam Bộ chắc không thể không một
lần ghé về vùng quê đáng yêu này. Lễ hội Chùa Bà vào Rằm tháng Giêng và những
mùa hoa trái hầu như quanh năm, đang chờ đón bạn.
Phố đồ cổ tại
Sài Gòn - Phố Lê Công Kiều
Nằm sau đại lộ Hàm Nghi
thuộc phường Nguyễn Thái Bình, Q.1. Một con phố nhỏ chỉ dài hơn 200m nhưng đã
nổi tiếng nổi tiếng trong và ngoài nước với nhiều du khách và những người yêu
thích sưu tầm đồ cổ - phố Lê Công Kiều.
Phố đồ cổ trưng bày đủ thứ từ những bức tượng đồng, cái điện thoại cổ, cái máy
chụp ảnh cổ, bộ bàn ghế, .... Tuy nhiên ít ai biết trong số các đồ
"cổ" đó chỉ có chừng 10-15% là đồ cổ thật còn lại la các sản phẩm giả
cổ được cung cấp bởi các lò gốm Bát Tràng, Giang Tây (Trung Quốc); các cơ sở đồ
đá ở Bình Định, Đà Nẵng; các xưởng mộc ở đường Cộng Hòa (TP.HCM), Đức Huệ (Long
An)... Cũng chính vì lý do đó mà trừ những đồ cổ chính hiệu thì giá cả tùy
thuộc vào sự quý hiếm, niên đại, sự am hiểu và yêu thích của khách hàng, còn
lại đồ giả cổ đều đã có mức giá nhất định, cho nên người đi mua không phải lo
âu về tình trạng “thách” giá.
Rất nhiều chủ các nhà hàng khách sạn đến phố này để tìm mua đồ trang trí cho
khách sạn, nhà hàng của mình.
Năm 2000 trong chuyến thăm Việt Nam, bà Hillary Clinton- phu nhân Tổng thống Mỹ
đã đến phố đồ cổ này và say sưa ngắm những chiếc độc bình Trung Quốc. Đến khi
chủ tiệm cho biết đây chỉ là ...đồ sứ Giang Tây giả cổ, bà mới “vỡ lẽ” và thích
thú mua nó làm kỷ niệm.
Kể chuyện dời mộ ở Sài Gòn
nhân Lễ Vu Lan
Nhân Rằm tháng bảy, ngày hướng tới vong linh mọi người đã khuất, xin gửi tới
bạn đọc những chuyện kể xung quanh việc di dời các nghĩa trang ở Sài Gòn trong
thế kỷ trước. Trong đó có nhiều chi tiết ít ai biết tới và ngờ tới.
Khu vực nội đô TP.HCM tại thời điểm những năm 80 của thế kỷ trước có hàng trăm
nghìn ngôi mộ tại các nghĩa trang chính sau: Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi nằm ở
đường Điện Biên Phủ cắt với Hai Bà Trưng (địa danh sau giải phóng) tại quận 1,
rộng khoảng 7,5ha. Nghĩa trang quân đội Sài Gòn chạy dọc đường Quang Trung ở
phường 12, quận Gò Vấp, giáp chợ Cầu.
Nghĩa trang Chí Hòa rộng khoảng 25ha, trước là nghĩa trang (Đô Thành), nằm ở
phường 15, quận 10. Nghĩa trang Bình Thới rộng khoảng 30ha nằm ở đường Lãnh
Binh Thăng, quận 11. Nghĩa trang Phú Thọ khoảng 40ha, nằm ở đường Lạc Long
Quân, phường 5, quận 1. Nghĩa trang quân đội Pháp nằm ở đường Hoàng Văn Thụ,
quận Tân Bình.
Các nghĩa trang này được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, dưới chế độ Pháp thuộc,
khi quy mô của Sài Gòn - Gia Định còn rất nhỏ. Những năm sau đó, dân cư thành
phố nhanh chóng trở nên đông đúc. Và chính quyền đã phải di dời nghĩa trang để
"lấy đất xây dựng các công trình phúc lợi, giữ vệ sinh môi trường".
Việc di dời được thông báo trước ba tháng. Trước hết là các gia đình tự lo. Nếu
gia đình quá nghèo, không thể di dời, thì chính quyền đứng ra thực hiện.
Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ
Du lịch sinh thái không chỉ đơn thuần là hoạt động tổ chức du
lịch dựa vào thiên nhiên nhằm vào các mục tiêu kinh tế. Một đặc điểm rất quan
trọng của du lịch sinh thái là nó đóng góp một phần lớn vào việc bảo tồn môi
trường tự nhiên, bảo tồn các giá trị văn hóa của các dân tộc, phát triển kinh
tế xã hội. Vì vậy, du lich sinh thái theo tổ chức du lịch sinh thái quốc tế là:
“Loại hình du lịch sinh thái là loại hình du lịch có trách nhiệm với giới tự
nhiên trong việc giữ gìn môi trường và cải thiện chất lượng cuộc sống của người
dân bản địa”. Theo đánh giá của hiệp hội Du Lịch Châu Á Thái Bình Dương (PATA),
du lịch sinh thái đang có chiều hướng phát triển và trở thành một bộ phận có
tốc độ tăng trưởng mạnh nhất về tỉ trọng trong ngành du lịch. Nơi nào còn giữ
được sự cân bằng sinh thái thì nơi đó sẽ có tiềm năng phát triển tốt về du lich
sinh thái và thu hút được nguồn du khách lớn, lâu dài và ổn định. Việt nam cũng
có tiềm năng lớn để phát triển du lịch sinh thái.
Việt
Nam là quốc gia nằm trong khu vực khí
hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với những điều kiện tự nhiên mang lại sự phong phú và
đa dạng hệ động thực vật, hệ sinh thái, cùng với đó là hệ thống các vườn quốc
gia, khu bảo tồn, khu dự trữ sinh quyển…và rừng ngập mặn Cần Giờ là một hệ sinh
thái đặc biệt khi là hệ sinh thái trung gian giữa hệ sinh thái thủy vực với hệ
sinh thái trên cạn, hệ sinh thái nước ngọt và hệ sinh thái nước mặn. Với diện
tích hơn 37.000 ha, rừng ngập mặn Cần Giờ được xem là lá phổi xanh của TP.HCM
và là nơi lưu giữ nhiều nguồn gen động, thực vật quý hiếm. Năm 2001, rừng ngập
mặn Cần Giờ được UNESCO công nhận là “Khu dự trữ sinh quyển của thế giới”. Tuy
nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển khu du lịch sinh thái rừng ngập
mặn Cần Giờ có nhiều vấn đề đặt ra, như: môi trường, giao thông vận tải, nhân
lực Vì vậy, đề tài “TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI TẠI KHU DỰ TRỮ SINH
QUYỂN RỪNG NGẬP MẶN CẦN GIỜ” trên cơ sở phân tích hiện trạng du lịch sinh thái
tại rừng ngập mặn Cần Giờ đưa ra một số kiến nghị nhằm giải quyết các vấn đề
đặt ra trước yêu cầu phát triển du lịch bền vững như vấn đề bảo vệ môi trường
đặc thù, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và các vấn đề về cộng đồng xã hội tại
nơi xây dựng khu du lịch sinh thái.
GIỚI THIỆU RỪNG NGẬP MẶN
CẦN GIỜ.
Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn
Cần Giờ được hình thành ở hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai – Sài Gòn nằm ở cửa ngõ
Đông Nam Thành Phố Hồ Chí Minh. Tọa độ: 10°22’ – 10°40’ độ vĩ Bắc và 106°46’ –
107°01’ kinh độ Đông.
Cách trung tâm Hồ Chí Minh
khoảng 40 km, khu dự trữ sinh quyển Cần
Giờ tiếp giáp :
Phía Bắc giáp tỉnh Đồng
Nai.
Phía Nam giáp với Bình
Duơng
Phía Tây giáp tỉnh Tiền
Giang và Long An.
Phía Đông giáp tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu
Tổng diện tích khu dự trữ
sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ là 75.740 ha, trong đó: vùng lõi 4.721 ha,
vùng đệm 41.139 ha, và vùng chuyển tiếp 29.880 ha.
Trước đây Rừng Ngập Mặn Cần
Giờ (RNM CG) che phủ một vùng có diện tích 40.000 ha; tán rừng dày đặc với cây
rừng cao trên 25m, đường kính từ 25 - 40 cm. Trong đó Đước, Bần, Mấm, Sú là các
loài cây chiếm ưu thế.
Từ năm 1962 đến năm 1971 đế
quốc Mỹ đã tiến hành các chiến dịch khai hoang bằng chất độc hóa học, thuốc
diệt cỏ. Chúng rải xuống RNM CG với gần 4 triệu lít. Vì vậy đã làm cho Hệ Sinh
Thái RNM CG gần như bị phá vỡ hoàn toàn.
Sau 1975, RNM CG tiếp tục bị hủy diệt bởi bàn
tay con người do điều kiện kinh tế quá khó khăn của người dân địa phương. Hậu
quả là diện tích đất bị thoái hóa ngày càng tăng, nước mặn lấn sâu vào nội địa,
nhiều nguồn giống, loài thủy sản, thú rừng, chim muông mất nơi sinh sống...
Điều đó đã làm cho nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước chứng kiến cảnh tượng
này đã phải thốt lên rằng: "phải hàng trăm năm sau RNM CG mới được khôi
phục".
Đến năm 1978, Cần Giờ
(trước đó là huyện Duyên Hải) được tỉnh Đồng Nai giao lại cho Tp.HCM. Lúc bấy
giờ diện tích RNM CG chỉ còn lại khoảng 4.500 ha Chà Là, số diện tích còn lại
là thảm thực vật sơ xác gồm các loài cây lùm bụi tái sinh với độ cao dưới 2m
với độ che phủ dưới 40%.
Trước nguy cơ mất đất, mất
rừng; từ năm 1978 UBND TP.HCM đã chủ trương phục hồi lại RNM CG nhằm mục tiêu
khôi phục thảm thực vật Rừng Sác nhiệt đới, bảo tồn các di sản thiên nhiên, các
di tích văn hóa lịch sử cách mạng, tạo nên các vành đai xanh với hệ sinh thái
môi trường đa dạng và phong phú cho hàng triệu cư dân thành phố.
Bắt đầu từ năm 1990, trái
đước Giống đã chọn để làm giống phục vụ
cho mục đích trồng lại Rừng (lí do của sự chọn lựa này: Đước có tốc độ tăng
trưởng tự nhiên nhanh nên có khả năng trồng để phục hồi Rừng với tốc độ nhanh,
đồng thời đây còn loại cây có giá trị kinh tế cao nhất của Rừng Ngập Mặn).
Việc khôi phục RNM được
tiến hành liên tục bền bỉ cho đến ngày hôm nay.
Diện tích Cần Giờ chiếm
khoảng 1/3 diện tích toàn thành phố, trong đó đất lâm nghiệp là 32.109 ha, bằng
46,45% diện tích toàn huyện, đất sông rạch là 22.850 ha, bằng 32% diện đất toàn
huyện. Ngoài ra còn có trên 5.000 ha diện tích trồng lúa, cây ăn trái, cây cói
và làm muối. Đất đai phần lớn nhiễm phèn và nhiễm mặn. Trong đó, vùng ngập mặn
chiếm tới 56,7% diện tích toàn huyện, tạo nên hệ sinh thái rừng ngập mặn độc
đáo, trong đó chủ yếu là cây đước, cây bần, cây mắm …
Cần Giờ nằm trong vùng khí
hậu nhiệt đới xích đạo, hướng gió chính là Tây Nam, mùa mưa bắt đầu muộn và kết
thúc sớm hơn so với các địa phương khác trong vùng (từ tháng 5 đến tháng 10),
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình khoảng 250C -
290C. Độ ẩm trung bình từ 73% đến 85%. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.000 –
1.402 mm.
Rừng Cần Giờ có chức năng
chính là phòng hộ, có vị trí quan trọng về quốc phòng, nhưng đồng thời cũng mở
ra triển vọng to lớn về du lịch sinh thái. Do tính năng quan trọng này, năm
2000, rừng ngập mặn Cần Giờ được tổ chức UNESCO công nhận là “Khu dự trữ sinh
quyển thế giới”.
Cần Giờ có bờ biển dài gần
20 km, vùng biển có thể nuôi trồng nhiều loài hải sản như: nghêu, tôm, sò, hàu,
cá...Biển là nguồn lợi to lớn của Cần Giờ, vì vậy trong cơ cấu phát triển kinh
tế của huyện, ngành thủy sản luôn được xem là ngành kinh tế mũi nhọn, là một
trong những động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Dân số:
Huyện Cần Giờ có 68.213 người
(năm 2009), mật độ dân số 96 người/km2. Gồm các dân tộc: Kinh chiếm 84,4%, Hoa
chiếm 11%, còn lại là dân tộc Khơmer và Chăm. Sống tập trung trên 7 xã và thị
trấn: Xã Bình Khánh, Xã Tam Thôn Hiệp, Xã An Thới Đông, Xã Lý Nhơn, Xã Long
Hòa, Thị trấn Cần Thạnh, Xã Thạnh An.
Xã hội:
Sau 30 năm kể từ ngày được sáp nhập
vào thành phố Hồ Chí Minh, mảnh đất Cần Giờ tuy vẫn còn nghèo, nhưng đã có
nhiều đổi thay đáng kể. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn cũ vào năm 1998 là 38,47% kéo
giảm xuống còn 2,22% vào cuối năm 2003. Năm 2004, theo chuẩn mới (4 triệu/
người/năm), tỷ lệ này giảm còn 20%. Năm 2007, tỷ lệ này giảm xuống còn 14,46%
(theo chuẩn 06 triệu đồng/năm).
Năm 2003, huyện đã hoàn
thành phổ cập trung học cơ sở. Mặt bằng học vấn dân cư đã đạt lớp gần lớp 8 vào
năm 2007. Năm học 2007-2008, trên địa bàn huyện có 34 trường, 500 lớp với
15.469 học sinh các cấp học.
Hệ thống y tế tại huyện và
cơ sở được xây dựng, nâng cấp. Các xã đều có bác sĩ và nữ hộ sinh trung cấp,
xây dựng mạng lưới nhân viên y tế ấp và nhân viên sức khỏe cộng đồng, đến năm
2005 đạt 2000 dân có 01 bác sĩ.
Lễ hội văn hóa - phong tục
tập quán, di tích lịch sử văn hóa:
Theo các nhà khảo cổ học
cách đây 2 - 3 ngàn năm đã có cư dân đến đây sinh sống. Vùng đất này là một nền
văn hóa Cần Giờ cổ. Điều này được thể hiện qua việc khai quật phát hiện ra các
di chỉ khảo cổ học ở Giồng chùa, Giồng Cá Vồ, Giồng phệt. (1993: khai quật mộ
chum - Văn hóa Sa Huỳnh, khuyên tai 2 đầu thú, Văn hóa Óc eo,...). Cần Giờ có
khu di tích khảo cổ cấp quốc gia Giồng Cá Vồ, Căn cứ Rừng Sác di tích lịch sử
cấp Quốc Gia (15.12.2004)....
Lễ hội Nghinh Ông Cần Giờ,
phong tục thờ thần không đầu “Dương Văn Hạnh”... Là những phong tục nổi bật nơi
đây.
Kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Đặc Sản Cần Giờ rất đa dạng và
phong phú với các món ăn thủy hải sản đặc trưng như: Tôm, cua, ghẹ, Sò huyết,
Nghêu, Hào,... Đặc biệt nhất Óc mở khi ăn vào có vị dai dai mà giòn giòn béo
béo. Cần giờ là vùng đất thích hợp cho việc trồng các loại cây ăn trái như:
Nhãn, Xoài( mùa Xoài bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 6, xoài Cần Giờ không thua gì
Xoài Cát hòa Lộc ở Huyện Cái Bè - Tiền Giang, táo, mãng cầu (bắt đầu từ tháng 9
đến tháng 10).
Bên cạnh đó còn có điều
kiện về cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên đa dạng phong phú và nhiều di tích
lịch sử văn hóa, tạo điều kiện để hình thành và phát triển một số loại hình
kinh tế mới như: kinh tế du lịch, dịch vụ,... Đây cũng được xác định là thế mạnh
của Huyện Cần Giờ trong những năm tới.
Công nghiệp – Tiểu thủ công
nghiệp: chủ yếu gia công hàn tiện, sản xuất nhỏ đạt 79 tỷ đồng, tăng 17,5% so
vời cùng kỳ và tăng 20,7% kế hoạch; khu vực kinh tế quốc doanh đạt 108 tỷ đồng
đạt 49,8% kế hoạch do sản lượng sản xuất mặt hàng cá philê, nghêu đạt thấp
(51,6%). Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm tăng 5%, công nghiệp cơ khí đạt
86%, công nghiệp xay xát lượng thực, chế biến gỗ đạt 73% so với kế hoạch. Các
sản phẩm sản xuất chủ yếu đạt khá so với cùng kỳ gồm: muối thô 86.860 tấn (tăng
1.381 tấn), nước đá 26.550 tấn (tăng 2.450 tấn), bột cá 762 tấn (tăng 202 tấn).
Thương mại - Dịch vụ: Hoạt
động dịch vụ du lịch trên địa bàn không ngừng phát triển, từng bước hoàn thiện
cơ sở hạ tầng, hình thành nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ. Khu du lịch 30 tháng
4 là một trong những điểm du lịch chủ yếu thu hút khách du lịch của huyện có số
lượng ngày càng tăng, trong năm 2004 đã đón tiếp 390 ngàn lượt khách, doanh thu
đạt trên 10 tỷ đồng. Doanh thu bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ 9 tháng đầu năm
2005 đạt 817,8 tỷ đồng, tăng 11,4% so với cùng kỳ và đạt 63% kế hoạch.
Hệ thống giao thông:
- Đường bộ: Hiện nay Huyện
Cần Giờ chỉ có một trục đường bộ chính là tuyến đường Rừng Sác dài 36km, bắt
đầu từ bến phà Bình Khánh đến vòng 30.04 Huyện Cần Giờ. Ngoài ra còn các nhánh
đường khác rẻ vào các xã Tam Thôn Hiệp, An Thới Đông, Xã Lý Nhơn... Đường Rừng
Sác rộng từ 30m - 120m , có 6 làn xe, tổng vốn đầu tư 1.561 tỉ đồng, bắt đầu
thi công từ năm 2002 và hoàn thành vào ngày 22.1.2011.
- Đường thủy: Huyện Cần Giờ có
một mạng lưới sông rạch chằng chịt, diện tích sông rạch chiếm khoảng 32% tổng
diện tích tự nhiên. Vì vậy đây tuyến đường giao thông quan trọng, huyết mạch để
vận chuyển hàng hóa từ cửa Biển Cần Giờ vào cảng sài gòn.Trong đó Sông Lòng Tàu
là đường giao thông thủy chính, cho phép các tàu biển có trọng tải 20.000 tấn
ra vào cảng Sài Gòn. Ngoài ra Cần Giờ có các sông chính như: Sông Xoài Rạp,
Đồng Tranh, Lòng Tàu, Ngã Bảy, Gò Gia....
Rừng ngập mặn (RNM) có vai
trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, là "lá phổi xanh"
rất quan trọng đối với các thành phố, nhưng vai trò của RNM còn nhiều hơn, nó
còn như những "bức tường xanh" có tác dụng phòng hộ trước gió và sóng
biển.Nhiều cơn bão lớn đổ bộ vào nước ta những năm qua, nơi nào RNM được trồng
và bảo vệ tốt thì các đê biển vùng đó vẫn vững vàng trước sóng gió lớn, dù là
đê biển được đắp từ đất nện, trong khi những tuyến đê biển được xây dựng kiên
cố bằng bê tông hoặc kè đá nhưng RNM bị chặt phá để chuyển sang nuôi tôm thì bị
tan vỡ. RNM có tác dụng làm giảm mạnh độ cao của sóng khi triều cường độ cao
sóng biển giảm mạnh khi đi qua dải RNM, với mức biến đổi từ 75% đến 85%, từ
1,3m xuống 0,2m - 0,3m. theo một số nghiên cứu rừng trồng 6 tuổi với chiều rộng
1,5 km đã giảm độ cao của sóng từ 1 m ở ngoài khơi xuống còn 0,05 m khi vào tới
bờ đầm cua và bờ đầm không bị xói lở.
Còn nơi không có RNM ở gần đó, cùng một khoảng cách như thế thì độ cao của sóng
cách bờ đầm 1,5 km là 1 m, khi vào đến bờ vẫn còn 0,75 m và bờ đầm bị xói lở.
Rừng ngập mặn (RNM) có tác dụng làm
chậm dòng chảy và phát tán rộng nước triều. Nhờ hệ thống rễ dày đặc trên mặt
đất của các loài đước, vẹt, mắm, và bần cản sóng cát tích lũy phù sa cùng mùn
bã thực vật tại chỗ nên chúng có tác dụng làm chậm dòng chảy và thích nghi với
mực nước biển dâng. Nhờ các trụ mầm (cây con) và quả, hạt có khả năng sống dài
ngày trong nước nên cây ngập mặn có thể phát tán rộng vào đất liền khi nước
biển dâng làm ngập các vùng đất đó.
RNM hạn chế xâm nhập mặn và bảo vệ
nước ngầm. Nhờ có nhiều kênh rạch cùng với hệ rễ cây chằng chịt trên mặt đất
làm giảm cường độ của sóng nên hạn chế dòng chảy vào nội địa khi triều cường.
Duy trì nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển
của các loài sinh vật trong rừng ngập mặn: hàng năm Rừng ngập mặn cung cấp một
sản lượng rơi rụng khá lớn để làm giàu cho đất rừng và vùng cửa sông ven biển
kế cận. Lượng rơi rụng của bản thân cây rừng khoảng 08 - 20 tấn/ha, trong đó
79,7% là lá (Hồng và cộng sự - 1998), qua quá trình phân hủy làm nguồn thức ăn
hữu cơ cho các loài sinh vật trong Rừng ngập mặn phát triển.
Bảo đảm ổn định và phát triển nguồn lợi thủy
sản cho địa phương, gìn giữ được nguồn gien các loài động thực vật quý hiếm
như: Cóc đỏ, Rái cá, cá Sấu....
Tạo ra địa điểm nghỉ ngơi, giải trí, du lịch
sinh thái cho cư dân trong và ngoài Thành phố. Trong những năm gần đây, Rừng
ngập mặn Cần Giờ đã trở thành điểm tham quan, du lịch sinh thái cho người dân,
cho du khách trong và ngoài nước nhờ cảnh quan tươi đẹp, môi trường trong lành.
Việc phát triển du lịch tại địa phương đã góp phần nâng cao đời sống người dân,
khai thác được giá trị của Rừng ngập mặn Cần Giờ,
Là địa điểm nghiên cứu khoa học hiện nay, hệ
sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ là nơi được ví như một phòng thí nghiệm tự
nhiên to lớn, là nơi lý tưởng cho các nhà khoa học, sinh viên, học sinh đến
nghiên cứu, học tập. Trong những
năm qua, hàng năm Ban quản lý Rừng phòng hộ đã tiếp đón
hàng trăm sinh viên học sinh, các nhà khoa học trong và ngoài nước đến nghiên
cứu, học tập. Những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước
đã góp phần phục vụ cho công tác quản lý và phát triển Rừng ngập mặn Cần Giờ
ngày càng bền vững.
Rừng ngập mặn Cần Giờ với
diện tích 37.162,53 ha, chiếm hơn ½ diện tích tự nhiên toàn huyện. Sau 30 năm
phục hồi và phát triển, hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ ngày càng đa dạng,
phong phú về thực vật cũng như động vật; tài nguyên thiên nhiên của rừng ngập
mặn không ngừng tăng lên, tạo nên môi trường sinh thái trong sạch “lá phổi
xanh”, “bức tường xanh” của thành phố, có ý nghĩa quan trọng trong việc điều
hòa khí hậu. Rừng có chức năng chính là phòng hộ nhưng đồng thời cũng mở ra
những triển vọng to lớn về du lịch sinh thái, năm 2000 rừng ngập mặn Cần Giờ đã
được UNESCO công nhận là “Khu dự trữ sinh quyển thế giới”.
Việc khôi phục RNM được
tiến hành liên tục bền bỉ cho đến ngày hôm nay. Một số loài cây đã biến mất
trong và sau chiến tranh nay đã xuất hiện trở lại như gõ Biển, Dà Vôi, Bần, Mắm
trắng, Sú, vẹt, ... Theo công bố của các nhà khoa học thì hiện nay:
Cây thực sự RNM CG có 33
loài thuộc 19 chi, 15 họ
Cây nhập cư RNM CG có 128
loài thuộc 80 chi, 47 họ.
Hệ thực vật vùng ngập mặn
Cần Giờchiếm đa số là cây đước có nguồn gốc phát tán từ Inđônêsia và Maylaysia;
gồmnhiều kiểu phụ thổ nhưỡng nước mặn, nước lợ và phụ thứ sinh nuôi trồng
nhântạo. Thành phần các loài cây này tương đối đơn giản và có kích thước các
thể ởdạng trung bình.
Hệ thực vật rừng tự nhiên khoảng 12.000 ha bao gồm: Chà là, Ráng, Giá, Mấm, Dà
Vôi… tất cả đều sống trên vùng đất ít ngập nước. Trong đó, Ráng thường được hỗn
giao với Chà là, Cóc kèn mọc trên đất gò, ít ngập nước. Mấm điển hình là các
loại trắng, đen mọc ven sông đất trũng, bãi bồi cao hơn 0,2m so với mực nước
biển; Dà vôi, Mấm phân bố trên đất sét chặt, ẩm.
Hệ thực vật rừng trồng hơn
20.000 ha, bao gồm: bạch đàn, keo lá tràm trồng trên nền đất, dừa lá trồng ở
vùng đất phèn mặn và nước lợ; đước được trồng thử nghiệm; chà là, phi lao, bạch
đàn, keo lá tràm… được trồng dọc theo đường trục chính Rừng Sác và những giồng
cát ven biển.
Việc phục hồi lại RNM CG đã
tạo điều kiện thuận lợi về môi trường sinh sống cho các loài động vật Rừng: Có
nhiều nguồn thức ăn Do có nhiều thức các loại thủy sinh vật có điều kiện phát
triển, thảm thực vật rộng lớn đa dạng thích hợp cho nhiều nhóm động vật rừng có
tập tính khác nhau sinh sống.
Các cây rừng ngập mặn
thường có các đặc điểm thích nghi với môi trường ngập nước mặn như:
Nhiều loài cây thuộc các
chi Bần (Sonneratia), Vẹt (Bruguiera), Mắm (Avicennia) có rễ hô hấp mọc từ các
rễ bên và đâm thẳng lên trên mặt đất. Rễ hô hấp có mô xốp, tầng bần phát triển
và rất nhiều lỗ vỏ có tác dụng nhận và chứa không khí khi nước thủy triều xuống
Rễ cây ngập mặn rất phát
triển, giúp cây đứng vững trên lớp bùn mềm. Các cây thuộc chi đước (Rhizophora)
hình thành nhiều rễ chống.
Lá cây cứng, lớp hạ bì phát
triển, đôi khi lá dày lên do có mô chứa nước phát triển. Lớp hạ bì và mô nước
có tác dụng dự trữ nước làm giảm nồng độ muối trong lá.
Một số cây thuộc chi mắm,
sú có tuyến tiết muối thừa ra ngoài, góp phần làm giảm nồng độ muối trong mô
lá.
Cây đước
(Rhizophora apiculata)
Cây Đước mọc ở vùng nhiệt
đới và Á nhiệt đới trong vùng bùn lầy của bờ biển, cây thân gỗ nhỏ. Trên thế
giới có 82 giống Đước. Đất lầy bãi biển quá nhão, thường xuyên bị thủy triều
tấn công khiến cây cối khó sinh sống. Cây Đước nhờ có bộ rễ rất phát trên, trên
thân cành lại có rất nhiều rễ trụ đan xen ngang dọc, rủ xuống bãi lầy, ngoài
tác dụng chống đỡ cho cây, Đước còn có tác dụng thoáng khí và hô hấp.
Rễ Đước chịu được mặn và
hút được dinh dưỡng từ trong nước biển. Lá rất cứng, có màng sáp và bóng loáng
phản quang để giữ nước. Trong lá có tuyến thải muối để thải muối thừa ra khỏi
cơ thể. Người ta gọi Đước là cây "máy
lọc nước biển thành nước ngọt màu xanh". Các nhà khoa học đang tìm hiểu
nghiên cứu đặc điểm này của cây Đước để áp dụng vào công nghệ lọc nước biển.
Rừng Đước không những bảo
vệ bờ biển khỏi bị ăn lấn vào trong đất liền, mà còn mở rộng bờ biển. Đước còn
có thể giữ được chất lắng đọng của nước biển, cùng với lá rụng và phân chim,
lâu ngày sẽ thành đảo mới hoặc đất liền. Rừng Đước còn là nơi cư trú của nhiều
loại chim, tôm, cá, cua, làm cân bằng sinh thái bờ biền.
Cây vẹt - vẹt
khang (Bruguiera
cylindrica)
Cây gỗ, cao tới 20m. vỏ thân nhẵn, có lỗ bi màu xám nhạt, cành nhỏ mảnh, màu xanh, mang vết rụng của lá; gốc có rễ chống hình nơm cao tới 1 - 1,2m.
Loài phân bố ở Việt Nam,
Thái Lan, Mianma, Malaixia và Inđônêxia … Ở nước ta cây mọc nhiều ven biển.
Thường gặp trong rừng ngập
mặn, trên những bãi cát bồi ngập hay vẫn bị ngập nước thủy triều. Cây mọc rải
rác nhưng cũng có khi mọc thành đám lớn.
Ra hoa tháng 5 - 6, có quả
tháng 10 - 11.
Gỗ màu đỏ, mịn, dùng đóng
đồ thông thường, làm nhà cửa, trụ mỏ và đốt than hầm. Chồi non có thể ăn sống.
Cây bần ổi
(Sonneratia ovata Backer)
Bần ổi thuộc loài thân gổ đại mộc, có nhiều cành. Chúng là các loài cây sống trong các cánh rừng tràm đước ven biển.. Cây gỗ cao 10-15m, có khi cao tới 20 m. Thân ốm, có đường kính khoảng 20 cm, da bị tróc nhiều lớp mỏng như thân cây ổi.Rể gốc mọc sâu trong đất cạn và ẩm, có ít rể thở (cạc bần/bấc) so với cây bần chua.Ở Nam Bộ cây bần ổi chủ yếu được trồng.
Cây bần chua (Sonneratia caseolaris)
Cây gỗ cao 10 - 15m, có khi cao tới
25m. Cành non màu đỏ, nhánh non có 4 cạnh nhọn, phế căn đứng ( tên
bình dân gọi cặc bần ) 50 – 90 cm cao, đường kính 30 cm, nhiều. vỏ màu xám,
thô, phát sinh từ rể ngang, vượt lên trên mặt bùn khoảng 20 cm. Vì sống trong
môi trường bùn mềm, nhiều acide mùn nên để thích ứng với môi trường
đứng vững bám vào bùn giử phù sa và cần oxigène nên cây phát triển tạo ra hệ
thống rể nạng lan rộng với diện tích khá rộng .
Cây mắm đen (Avicennia officinalis L.)
Cây cao 20m, đường kính đến 0,7m,
thân hình trụ, tương đối suôn, có khi thẳng tốt với thân trụ cao 6 - 10m, cành
non có lông tơ trơn, vỏ mỏng không nứt màu xám đen, rễ phổi hình đũa, thường
chia đôi. Loại cây ưa sáng, sinh trưởng nhanh, thuộc loại chịu đất kiềm,
thích nghi với các loại đất (bùn, cát, sét) và các độ mặn của nước (mặn, lợ,
ngọt), cho chồi gốc. Ðất bùn có nước triều lên xuống hàng ngày là đất sinh
trưởng, phát triển thích hợp của loài cây gỗ này.
Cây cóc đỏ (Lumnitzera littorea)
Cây Cóc đỏ có tên Khoa học là Lumnitzera littorea, thuộc họ Bàng Combretaceae, bộ Sim Myrtales có chiều cao khoảng 10- 20m, đường kính 40 - 50cm. Vỏ cây màu nâu thẫm, có vết nứt, mặt trong vỏ màu nâu đỏ, phần giác màu nâu vàng, lõi màu nâu thẫm. Cành nhánh cây Cóc Đỏ hình khúc khuỷu, vuông, khi non màu đỏ nhạt nhạt xám, có nhiều mắt do những vết sẹo của lá khi rụng để lại.Cóc Đỏ mọc ở nơi rừng ngập mặn của sông, ven biển, nơi chỉ ngập chiều cao hoặc ít ngập nước mặn, đất sét hơi chặt, thường mọc lẫn với các loại Giá (Excoecaria agallocha), Dà (Ceriops sp.), có khi mọc thành quần xã ưu thế hoặc gần như thuần loại với mật độ dày.
Hệ động vật rừng ngập mặn
Cần Giờ có giá trị cao về mặt bảo tồn đa dạng sinh học với trên 200 loài động
vật, trong đó có 11 loài bò sát có tên trong danh sách đỏ của nước ta. Cụ thể
như sau:
Khu hệ động vật không xương sống, thủy sinh:
có 70 loài thuộc 44 họ:Cua biển, tôm Sú, tôm Thẻ Bạc, sò Huyết,…
Khu hệ cá: có 137 loài thuộc 39
họ: cá Ngát, cá Bông Lau, cá Dứa,…
Khu hệ lưỡng thê, bò sát: có 9
loài lưỡng thê, 31 loài bò sát: Kỳ đà nước, Hổ Mang chúa, trăn Gấm, cá Sấu Hoa
cà,…
Khu hệ chim: có 130 loài, 47 họ,
17 bộ: Bồ nông chân xám, Diệc xám, Vạc, Già Đẫy, Giang sen,…
Khu hệ thú: có 19 loài, 13 họ, 7
bộ như Mèo Rừng, Khỉ đuôi dài, Cầy vòi đốm, Nhím,…
Cần Giờ có bờ biển dài
khoảng 20 km, rất đặc trưng, được gọi là biển phù sa vì thành phần chủ yếu là
đất bùn sét. Biển Cần Giờ có vị trí chiến lược quan trọng, là cầu nối khai thác
kinh tế biển, phát triển du lịch sinh thái biển đảo và còn là nơi neo đậu tránh
gió rất thuận lợi cho các tàu thuyền. Ven biển có nhiều cửa sông lớn như sông
Lòng Tàu, Soài Rạp, Hà Thanh... Tiềm năng thủy sản vùng biển Cần Giờ là rất
lớn, ngoài việc khai thác thủy sản mang lại giá trị sản lượng đáng kể, bãi biển
Cần Giờ có khả năng nuôi các loại nhuyễn thể như nghêu, tôm, cua mang lại giá
trị kinh tế cao; đồng thời góp phần tái tạo, bảo tồn thiên nhiên và sinh vật
biển.
Là cá nước lợ, cá thòi lòi xuất hiện tại nhiều khu rừng ngập mặn tại Cần Giờ, đất mũi Cà Mau, U Minh Thượng… Chúng lọt vào danh sách các loài động vật kỳ lạ bởi các đặc điểm có một không hai của mình. Ngay từ hình dáng, cá thòi lòi đã tỏ ra “dị hợm” so với các loài cá thông thường bởi đôi mắt lồi như mắt ếch, nhô hẳn trên đỉnh đầu. Cái tên gọi “thòi lòi” bắt nguồn từ chính đôi mắt này.
Nhưng điều lạ lùng khiến cá
thòi lòi chẳng giống bất cứ loài cá nào là ở chỗ chúng có thể sống, chạy,
nhảy và kiếm mồi ngay trên cạn một cách rất điêu luyện. Điều làm nên sự “phi
thường” này chính là cấu tạo cơ thể khá đặc biệt, giúp chúng có thể trữ nước
trong mang để hô hấp khi lên cạn, trao đổi khí qua da như ếch và đôi vây trước
có hệ cơ phát triển đóng vai trò như một đôi “tay”. Cũng nhờ cấu tạo cơ thể đặc
biệt mà cá thòi lòi còn có một khả năng hi hữu khác là… leo cây. Điều này khiến
chúng mang thêm một tên gọi khác là “cá leo cây”
Vào ngày quốc tế về Trái
đất vừa qua, Tổ chức Sinh vật Thế giới đã đề cập đến một số con vật kỳ lạ mà
hiểu biết của con người về chúng còn khá sơ sài. Đáng lưu ý, trong số 6 con vật
“kỳ lạ nhất hành tinh” được nêu danh có cá thòi lòi, một loài vật khá quen
thuộc ở nhiều vùng tại miền Nam Việt Nam.
Nếu các nhà khoa học trên
thế giới quan tâm đến cá thòi lòi như một hình mẫu đặc biệt về tiến hóa thì
người Việt Nam lại “mê” loài cá này làm… món nhậu khoái khẩu.
Cá thòi lòi thường chọn nơi “hiểm” để đào hang trú ẩn như các lùm cây, kẹt rễ
um tùm. Hang của chúng có thể sâu đến 2m với nhiều ngóc ngách. Chúng cũng rất
tinh ranh và nhanh nhẹn trong việc trốn thoát khỏi sự tấn công của kẻ thù.
Nhưng cá thòi lòi vẫn không có đường thoát trước những bàn tay đầy kinh nghiệm
của người dân miền sông nước.
Là sản vật của vùng nước ngập mặn, thịt cá thòi lòi rất mềm và thơm ngon. Điềm
đặc biệt là thịt cá sau khi chế biến để nguội vẫn không có mùi tanh. Các món
được làm từ cá thòi lòi rất phong phu, khi điểm qua có thể khiến ngoài
sành ẩm thực thèm… nhỏ dãi, như cá thòi lòi nướng chấm mắm, lột da
kho tiêu, hấp cách thuỷ, cuốn bánh tráng rau sống, canh chua cá thòi lòi…
Ngày nay, cá thòi lòi đang trở thành đối tượng bị săn lùng ráo riết để phục vụ
thu cầu của thực khách tại các nhà hàng miền Nam. Theo người dân tại các vùng
có cá thòi lòi sinh sống thì những con cá thòi lòi to cỡ 300-400g càng ngày
càng hiếm gặp do tốc độ đánh bắt quá nhanh. Nếu không có những biện pháp kiểm
soát, trong tương lại không xa loài cá này có thể đối mặt nguy cơ suy giảm số
lượng ở Việt Nam.
Là một nhóm động vật có vú ăn thịt sống dưới nước hay đại dương, thuộc một phần của họ Chồn(Mustelidae), họ bao gồm chồn, chồn nâu, lửng, cũng như một vài loài khác. Với 13 loài trong 7 chi, rái cá phân bố khắp nơi trên thế giới. Trong tiếng Anh, danh từ tập hợp romp trong tiếng Anh được dùng để chỉ một nhóm các rái cá.
Rái các có lớp lông trong dày (1.000
lông/mm²) và mịn được bảo vệ bởi lớp lông ngoài giữ cho
chúng khô ráo dưới nước và giữ lại một lớp không khí để giữ ấm.
Tất cả các loài rái cá có
thân dài, mỏng và thuôn linh động uyển chuyển; chân ngắn và có màng chân. Phần
lớn có vuốt sắc để chụp con mồi, nhưng rái cá vuốt ngắn của
Nam Á chỉ có vuốt dấu tích còn lại và hai loại rái cá châu Phi có mối quan hệ
gần gũi không có vuốt: các loài này sống ở các con sông đầy bùn của châu Phi và
châu Á và xác định vị trí con mồi bằng xúc giác.
Phần lớn rái cá ăn cá làm thức ăn hàng
đầu trong thực đơn của chúng, ngoài ra chúng còn ăn bổ sung ếch nhái, tôm và cua;
một số còn chuyên ăn sò còn
loại khác thì lại ăn động vật có vú nhỏ hoặc chim.
Là 1 loại bò sát lớn trong các loài monitor lizard, nó có thể đạt tới 3,21 mét chiều dài (tức 10,5 feet), chiều dài trung bình của các cá thể trưởng thành là 1,5 mét tức 4f 11i. Về cân nặng thì mỗi con có thể nặng tối đa là 25kg tức 55lb nhưng hầu hết tất cả đều chỉ đạt được phân số kg đó khi đã trưởng thành. Cơ thể của chúng rắn chắc với những bắp thịt với chiếc đuôi dài ngang nén, đầy sức mạnh. Wm là 1 trong các loài monitor lizard được tìm thấy ở khắp Châu Á, từ Sri Lanka, Ấn Độ, Đông Dương, bán đảo Malai, và nhiều quần đảo ở Indonesia và chúng sống nơi có nhiều nguồn nước.
Phân loại Water monitor :
Gồm có năm loại :
1. Asian Water Monitor (Kì
đà nước Châu Á)
2. Andaman Islands Water
Monitor (Kì đà nước Đảo Andaman)
3. Two-Striped Water
Monitor (Kì đà nước 2 Vạch)
4. Black Water Monitor (Kì
đà nước Đen)
5. Southeast Asian Water
Monitor (Kì đà Đông Nam Á)
Tính cách và chế độ dinh
duỡng của chúng :
- Wm có thể được bảo vệ qua
việc dùng đuôi hay móng vuốt và cả chiếc hàm to khỏe của chúng khi chúng đánh
nhau .Chúng cũng là những vận động viên bơi lội rất cừ khôi , chúng bơi rất
giỏi qua việc sự dụng những cái vảy nổi ở đuôi chúng , chúng đảm nhận nhiệm vụ
như bánh lái cảu tàu khi chúng ở dưới nước.
- Wm là loài lizard ăn thịt
với thực đơn thật đa dạng như: cá , ếch , chim , cua , rắn , các loài gặm nhắm
,côn trùng và trong thực đơn cũng có cá sấu con , trứng cá sấu hay rùa và cũng
giống như rồng komondo chúng cũng ăn cả xác chết của các loài khác như người ,
chim , chó , mèo ...
- Chúng có thể có đầy đủ
chất dinh dư ỡng qua khẩu phần ăn của chúng như các loài gặm nhắm và các con
vật sống khác.
- Chúng luôn luôn có thể
nhận được đủ calcium và vitamin D3 qua khẩu phần ăn.
Là một loài rắn độc thuộc Họ Rắn hổ (Elapidae), bộ Có vảy (Squamata).
Rắn hổ mang có cỡ lớn, đầu
liền với cổ(còn gọi là hổ đất) không có vảy má, có khả năng bạnh cổ khi bị kích
thích. Khi đó ở phía trên cổ trông rõ một vòng tròn màu trắng (gọi là gọng
kính). Lưng có màu nâu thẫm, vàng lục hay đen, hoặc đồng màu hoặc có những dải
hoa văn như những vạch ngang đơn hoặc kép sáng màu hơn. Chiều dài cơ thể tới 2m.
Rắn trưởng thành ăn chuột,
cóc, rắn... rắn non ăn ếch nhái là chủ yếu. Rắn giao phối vào tháng 5 và đẻ
trứng vào tháng 6, đẻ 9 - 22 trứng, kích thước 59-62 / 29-29mm và có hiện tượng
con cái canh giữ trứng. Trứng nở vào tháng 8. Con non mới nở dài 200-350mm và
có khả năng bạnh cổ.
Rắn hổ mang chúa được cho
là một món ăn có nhiều giá trị bổ dưỡng nên hay bị săn bắt, Rắn hổ mang là loài
rất quý hiếm rất cần được bảo vệ.Dùng nhiều trong dược liệu, thực phẩm, thương
mại.
Cá sấu
Cá sấu là các loài bò sát
lớn ưa thích môi trường nước, chúng sống trên một diện tích rộng của khu
vực nhiệt đới của châu Phi, châu Á, Bắc Mỹ,Nam Mỹ và châu Đại
Dương. Cá sấu có xu hướng sinh sống ở những vùng sông và hồ có nước
chảy chậm, thức ăn của chúng khá đa dạng, chủ yếu là động vật có vú sống
hay đã chết cũng như cá.
Một số loài, chủ yếu là cá sấu nước lợ ở Úc và các đảo trên
Thái Bình Dương, được biết là có khả năng bơi ra xa ngoài biển.
Những loài cá sấu lớn có
thể rất nguy hiểm đối với con người. Cá sấu nước lợ và cá sấu sông
Nin là những loài nguy hiểm nhất, chúng đã giết chết hàng trăm
người mỗi năm ở các khu vực Đông Nam Á và
châu Phi. Cá sấu mõm ngắn và có
thể cả cá sấu caiman đen (là
loài đang nguy cấp trong sách đỏ của IUCN) cũng là những loài
gây nguy hiểm cho con người.
Cá sấu rất nhanh nhẹn khi
khoảng cách ngắn, thậm chí ngoài môi trường nước. Chúng có quai hàm cực khỏe và
bộ răng sắc nhọn để xé thịt, nhưng chúng không thể há miệng nếu nó bị khép
chặt, vì thế có một số câu chuyện về việc người sống sót khỏi những con cá sấu sông
Nin mõm dài bằng cách khép chặt quai hàm của chúng. Tất cả
những con cá sấu lớn cũng có vuốt sắc và khỏe. Cá sấu là những kẻ đi săn kiểu
mai phục, chúng chờ đợi cho cá hay động vật sống trên đất liền đến gần, sau đó
tấn công chớp nhoáng.
Là động vật ăn thịt có máu
lạnh, chúng có thể sống nhiều ngày không có thức ăn, và hiếm khi thấy chúng cần
thiết tích cực đi săn mồi. Mặc dù có vẻ ngoài chậm chạp, nhưng cá sấu là những
kẻ săn mồi thượng hạng trong môi trường của chúng, và người ta còn thấy một số
loài cá sấu dám tấn công và giết cả sư tử, động vật móng guốc lớn
và thậm chí cả cá mập.
Cá sấu trong thiên nhiên
được bảo vệ ở một số nơi trên thế giới, nhưng chúng cũng được chăn nuôi vì mục
đích thương mại, và da của chúng được thuộc làm da
cá sấu có chất lượng cao để sản xuất túi, ủng, cặp v.v, trong khi thịt cá sấu
được coi là đặc sản đối với những người sành ăn. Các loài có giá trị thương mại
chủ yếu là cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nin, trong khi con lai của cá sấu
nước mặn và cá sấu Xiêm cũng được chăn nuôi trong các
trang trại ở châu Á.
Là một chi dơi thuộc họ cùng tên và phân bộ Dơi lớn. Chúng bao hàm những loài dơi có kích thước lớn nhất trên quả đất. Một số tên thông dụng khác của chúng là dơi ăn quả hay cáo bay. Chúng sống ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt của châu Á (bao hàm cả Ấn Độ), Úc, Indonesia, các đảo ở vùng Đông Phi (nhưng không nằm ở trên lục địa châu Phi) và một số đảo trên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Có ít nhất 60 loài dơi nằm trong chi này.
Tất cả các loài dơi quạ chỉ
sống nhờ mật hoa, phấn hoa và các loại hoa quả, vì vậy chúng chủ yếu phân bố ở
vùng nhiệt đới. Chúng không có khả năng định vị bằng
tiếng vọng như các loài dơi trong phân bộ Dơi nhỏ nhưng
có tầm nhìn và thính giác rất tốt. Chúng có thể kiếm ăn trong khu vực bán kính
lên tới 40 dặm. Khi tìm thấy thức ăn, tỉ như trái cây, chúng lao thẳng vào
"mục tiêu" và dùng chân chụp lấy nó. Ngoài ra, dơi qua cũng có thể ăn
trong khi đang treo mình ngược trên cành cây, sử dụng một trong hai chân sau
hoặc móng tay của chân trước/cánh để kéo các hoa quả vào gần miệng.
Phần lớn các loài dơi quạ
có kích thước nhỏ hơn nhiều và cân nặng không vượt quá 600 g (21 oz).
Những thành viên nhỏ con nhất, loài Dơi quạ mang mặt nạ (P. personatus), Dơi quạ Temminck (P.
temminckii), Dơi quạ Guam (P.
tokudae) và Dơi quạ lùn (P.
woodfordi) đều có cân nặng không quá 170 g (6,0 oz).
Dơi quạ có bộ lông dài, mượt với lớp lông lót dày và không có đuôi. Dung mạo của dơi quạ khá giống loài cáo với đôi tai
nhỏ
và mắt lớn,
vì vậy chúng có cái tên "cáo bay". Con cái có hai vú nằm ở ngực. Hình dạng tai tương đối đơn giản
(dài và nhọn) với phần viền ngoài liền mạch chứ không đứt rời như các thành
viên thuộc phân bộ Dơi nhỏ. Móng chân
có các ngón cong và sắc.
Nhiều loài dơi quạ hiện nay
đang bị đe dọa tuyệt chủng, nhất là vùng Thái Bình Dương nơi
chúng bị săn bắt quá mức để lấy thịt. Ở quần đảo Mariana, thịt dơi được xem là
một đặc sản và
có tầm quan trọng lớn về mặt kinh tế. Vào năm 1989 tất cả các loài thuộc chi
Dơi quạ đều được xếp vào phần Phụ lục II của Hiệp định Mậu
dịch Quốc tế về các loài Động vật và Thực vật bị đe dọa (CITES).
Phân loài P. hypomelanus maris tại đảo Maldives được
đánh giá là đang bị đe dọa do phân bổ bị hạn chế cũng như mức độ chọn lọc cao.
Tuy nhiên việc săn bắn và buôn bán dơi quạ vẫn tiếp tục theo con đường bất hợp
pháp hoặc bằng cách lách qua các khe hở của luật pháp - vốn được đánh giá là
chưa đủ mạnh tay trong việc hạn chế nạn săn bắn. Nông dân và các điền chủ cũng
tấn công dơi quạ vì chúng hay ăn quả trong các vườn cây của họ, và tại một số
địa phương người dân tin rằng thịt dơi có thể chữa được hen suyễn.
Các thiên địch của chúng ngoài con người còn có thể có chim săn mồi, rắn và một
số động vật khác.
Cần Giờ còn có những cánh rừng ngập mặn với những hậu duệ của Tôn Ngộ Không tinh khôn, nghịch ngợm đủ trò… thật thú vị.
Nằm trong Khu Du lịch sinh
thái Lâm Viên, xã Long Hoà huyện Cần Giờ, đảo khỉ là 1 trong 24 tiểu khu của
rừng ngập mặn Cần Giờ. Khu Du lịch sinh thái Lâm Viên không chỉ thu hút du
khách bằng không khí trong lành chan hòa gió biển, những câu chuyện cảm động và
ấn tượng về căn cứ Cách mạng Rừng Sác, Bảo tàng Cần Giờ. Ở đó còn có những cánh
rừng ngập mặn với những “hậu duệ” của Tôn Ngộ Không tinh khôn, láu lỉnh, nghịch
ngợm đủ trò…
Để gây dựng được “Vương
quốc” khỉ như hôm nay là cả câu chyện dài với nhiều công sức, thời gian và đặc
biệt nhờ có lòng yêu thiên nhiên, niềm đam mê công việc, ý thức trách nhiệm về
việc giữ rừng, bảo vệ rừng của những người trong Tổ bảo tồn động vật tại Đảo
khỉ.
Bước qua cổng, du khách
liền được các “cư dân” Vương quốc khỉ chào đón, nào là khỉ đực, khỉ cái, khỉ
con... Nhiều con “đón” khách ngay giữa đường, con khác thì leo cây đánh đu chào
mừng, con thì thoắt ẩn thoắt hiện quanh các gốc đước gây sự chú ý của mọi
người.
Cuộc sống, sinh hoạt của
khỉ cũng có nhiều nét giống người. Chúng làm đủ trò: tranh giành đồ ăn, cũng
chụm đầu vào nhau “buôn dưa lê”, ghẹo nhau, “bắt chí” cho nhau rất thân
thiện ngay trên mặt đường, bắt chước những hành động của con người... Chúng
cũng như những kẻ hiếu chiến, “uýnh nhau” tranh giành đồ ăn và thể hiện sức
mạnh bằng sự xâm chiếm lãnh thổ của bầy khác. Vì thế, có con mình mẩy đầy sẹo,
con thì cà nhắc, con bị hỏng mắt, con cụt đuôi, cụt tay…
Những con khỉ ở Cần Giờ rất
dạn dĩ và tinh quái. Chúng như những hầu đạo tặc nhan nhản trên đảo. Nhanh như
cắt, chúng lao vào cướp thức ăn hoặc những món đồ của du khách nếu thấy họ sơ
hở. Mặc dầu đã được cảnh báo, nhưng nhiều người vẫn bị lũ siêu trộm cướp “mượn”
điện thoại di động, máy ảnh, đồ ăn, nước uống… đang cầm trên tay. Nhất là các
bà, các cô càng được chúng “quan tâm” hơn.
Đi dạo trong rừng đước yên
ả, mát mẻ, hít thở không khí trong lành, ngắm các “trò khỉ” của khỉ, cười vang
cùng bạn bè giúp mọi người tạm quên những lo toan, ưu phiền và bộn bề của cuộc
sống thường nhật quả là điều thật thú vị.
Tiềm năng du lịch của rừng
ngập mặn Cần Giờ là rất lớn. Trước đây các hộ dân sống quanh rừng khá nghèo, họ
chỉ có nguồn thu nhập chính là các sản phẩm nông sản trồng theo hạ lưu sông
Đồng Nai. Tuy nhiên khi chính quyền nhận thấy tiềm năng du lịch đã cho phép mở
các chuyến du lịch tham quan tìm hiểu rừng Sác. Nó thu hút được rất nhiều du
khách trong và ngoài nước, không chỉ vì hệ động thực vật thiên nhiên đa dạng mà
nơi đây còn là nơi lưu trữ những di tích kỷ niệm và câu chuyện về cuộc chiến
tranh lịch sử của người Việt Nam vì vậy sẽ đem lại nguồn lợi du lịch rất lớn
cho chính quyền và người dân địa phương. Các cơ sở hạ tầng được dựng lên, nhiều
chuyến du lịch thú vị được tổ chức như tour du lịch đến khu vực của loài dơi,
đi du lịch ngắm cảnh trên sông Đồng nai…
Rừng ngập mặn Cần Giờ được
Tổ chức Giáo dục - khoa học và văn hóa của Liên Hiệp quốc (UNESCO) công nhận là
Khu dự trữ sinh quyển thế giới đầu tiên của Việt Nam vào năm 2000. Việc phát
triển du lịch sinh thái cũng là hình thức tận dụng lợi thế thiên nhiên để bảo
tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường.
Theo các nhà khoa học, rừng
Cần Giờ chứa đựng rất nhiều giá trị về lịch sử, khảo cổ, văn hóa tín ngưỡng.
Trong rừng Cần Giờ hiện có nhiều khu vực bảo tồn động vật có giá trị như khu
Lâm Viên - Đảo khỉ với hàng ngàn cá thể khỉ đuôi dài; khu Vàm Sát với khu bảo
tồn chim rộng hơn 600 hécta có hơn 7 ngàn cá thể chim các loại và khu bảo tồn
dơi nghệ với hàng ngàn con. Đặc biệt, nằm sâu trong những cánh rừng ngập mặn
nơi đây còn có căn cứ cách mạng Chiến khu rừng Sác.
ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
4.1 Định hướng
tiềm năng phát triển du lịch sinh thái
Cần Giờ là một vùng đất có
nhiều tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái: rừng, biển, thủy hải sản, giao
thông thủy, cảnh quan thiên nhiên, truyền thống lịch sử cách mạng, văn hoá, lễ
hội dân gian,…, và không quá xa trung tâm thành phố; là huyện duy nhất của
thành phố có rừng ngập mặn gắn với mạng lưới sông rạch quanh co uốn khúc, khu
di tích lịch sử cách mạng Rừng Sác, khu du lịch Lăng Cá Ông, bãi biển 30/4, khu
nhà vườn cây trái và nuôi trồng thủy hải sản, và khu Lâm viên Cần Giờ với nhiều khả
năng thu hút khách du lịch. Trong đó rừng và biển là hai yếu tố hết sức
quan trọng để thúc đẩy phát triển du lịch sinh thái nói riêng và phát triển
kinh tế – xã hội của huyện Cần Giờ nói chung. Một lợi thế khác nữa của khu vực
này là tuyến đường Rừng Sác là tuyến đường chính xuyên suốt từ phà Bình Khánh
đến mũi Cần Giờ đã được nâng cấp đạt chất lượng cao.
Nói đến du lịch Cần Giờ,
yếu tố đầu tiên hấp dẫn du khách là cảnh quan tuyệt vời của khu rừng ngập mặn
(RNM) Cần Giờ. Cảnh quan này không chỉ
nổi tiếng từ rất lâu mà ngày nay
nó còn là niềm tự hào, niềm vinh dự lớn
lao của hàng triệu người dân thành phố. Ngày 10/12/2000, Rừng ngập mặn Cần Giờ
đã chính thức được UNESCO công nhận đưa vào danh sách Khu dự trữ sinh quyển thế
giới với diện tích 10.734,95 ha. Đây là khu dự trữ sinh quyển đầu tiên ở Việt
Nam và là một trong 368 khu dự trữ sinh quyển của toàn thế giới.
Từ trước đến nay, vùng đất ngập nước ven biển Cần Giờ luôn là nơi
sinh trưởng, phát triển của nhiều loài thủy sản đa dạng và quý giá. Rừng ngập
mặn đóng vai trò quan trọng, là nơi cung cấp thức ăn, nơi cư trú, nuôi dưỡng và
sinh sản của các loài thủy sinh và nhiều nhóm động vật có xương sống trên cạn.
Với vị trí trung gian giữa trên cạn và dưới nước, giữa nước ngọt và nước mặn,
vùng ven biển trở thành nơi hứng đọng chất dinh dưỡng và sản sinh ra lưới thức
ăn đa dạng, phong phú, đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của sinh vật trên cạn và dưới nước, duy trì nguồn tài nguyên
sinh học giàu có, đặc biệt là tài nguyên thủy sản: cá, tôm, cua, nghêu, sò, …
Về mặt môi trường, hệ sinh
thái RNM vùng cửa sông Sài Gòn, Đồng Nai vừa là “lá phổi xanh”, góp phần đáng
kể vào việc thanh lọc không khí cho khu vực và giảm thiểu ô nhiễm nước thải từ
thượng nguồn, đồng thời là lá chắn phòng chống lũ lụt và nước triều dâng xâm nhập từ biển Đông.
Cần Giờ có bờ biển dài 13 km từ mũi Cần Giờ
đến mũi Đồng Tranh. Mũi Cần Giờ cách mũi Nghinh Phong Vũng Tàu 10km đường biển
băng qua vịnh Ghềnh Rái. Từ bờ biển nhìn ra là một bãi triều rộng hàng cây số
khi triều thấp với khoảng cách từ bờ
trên 4 km ở phía mũi Cần Giờ và trên 1 km ở phía mũi Đồng Tranh. Nhìn chung
toàn bãi Cần Giờ là một bãi bồi rộng đến trên 100km2.
Mô hình dự án Khu du lịch
Biển Cần Giờ
Cũng cần phải nói thêm
rằng, bãi Cần Giờ là đoạn bờ biển phía Đông .cuối cùng của dải bờ biển Việt Nam
(tính từ Bắc vào Nam) có khả năng cải tạo phục vụ du lịch, tắm biển. Đi xa
hơn xuống phía Nam, bờ biển bị sình lầy khống chế và ít có giá trị phục vụ du
lịch – nghỉ ngơi – giải trí.
Với tiềm năng và lợi thế
sẵn có, trong những năm qua, huyện Cần Giờ đã đẩy nhanh tốc độ phát triển một
số lĩnh vực kinh tế then chốt như: nuôi
trồng và đánh bắt thủy hải sản, sản xuất muối, thu hút du lịch, nông nghiệp và
một số dịch vụ, nhằm đưa dân chúng thoát ra khỏi sự nghèo đói và từng bước đuổi
kịp các quận huyện khác của thành phố. Nhịp độ phát triển kinh tế khá cao của
huyện trong những năm qua và quá trình đô thị hóa đang từng bước được hình
thành tại một số vùng trong huyện, đã gây sức ép nặng nề lên tài nguyên rừng –
biển và xuất hiện những dấu hiệu, những nguy cơ đe dọa đối với hệ sinh thái
rừng ngập mặn và cảnh quan thiên nhiên trên địa bàn.
Định hướng phát
triển du lịch sinh thái Cần Giờ
Mặc dù tiềm năng du lịch ở
Cần Giờ là rất lớn, song nếu chúng ta chỉ biết dừng lại ở việc khai khác tiềm
năng sẵn có thì ngành du lịch khó có thể phát triển so với các điểm du lịch
khác trong và ngoài nước. Thách thức lớn cho ngành du lịch Cần Giờ là chúng ta
chưa tạo ra được các dịch vụ du lịch đi kèm, do đó chỉ giữ khách trong một thời
gian ngắn. Ngoài ra, sản phẩm quà tặng du lịch của Cần Giờ không đa dạng, chất
lượng chưa cao. Các sản phẩm quà tặng, quà biếu được mua bán, trao đổi chủ yếu
từ các điểm buôn bán nhỏ, lẻ, tự phát, chưa tạo ra được một hệ thống để quản lý
các mặt hàng quà tặng du lịch đồng bộ về chất lượng cũng như giá cả.
Cơ sở hạ tầng phụ vụ du
lịch không nhiều, các dịch vụ vui chơi, giải trí còn hạn chế vì nhiều lý do như
thiếu vốn đầu tư; hệ thống các dịch vụ phục vụ du lịch còn thô sơ, chưa đảm bảo
tiện nghi và an toàn cho du khách. Chưa cải tạo được bãi tắm Cần Giờ, hiện tại,
bãi tắm này chưa được khai thác một cách triệt để. Tỷ lệ bùn trong nước quá cao
làm cho nước biển khu vực này rất đục. Hơn nữa, do cường độ khai thác và nuôi
trồng thủy hải sản cao mà công tác vệ sinh môi trường ở đây không được đảm bảo
nên thường xuyên bị ô nhiễm. Ngoài ra, công tác kết nối tour du lịch với các
công ty lữ hành để đưa khách xuống Cần Giờ bị hạn chế, khách du lịch chủ yếu đi
tự túc và hầu hết là ít nghỉ lại đêm vì không có các loại hình phục vụ giải trí
về đêm, tạo cho du khách tâm lý buồn chán và ít muốn quay lại Cần Giờ lần thứ
2.
Khai thác đúng mức lợi thế,
các yếu tố tiềm năng của rừng ngập mặn, biển, sông nước, truyền thống lịch sử
cách mạng, văn hóa lễ hội dân gian… để phát triển khu du lịch sinh thái. Phát
triển du lịch sinh thái Cần Giờ phải đảm bảo tính bền vững và gắn chặt với
nhiệm vụ bảo vệ môi trường, gìn giữ và tôn tạo cảnh quan thiên nhiên rừng ngập
mặn; Thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh
tế đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, vật chất kỹthuật phục vụ phát triển bền vững khu du lịch sinh thái
Cần Giờ – Đô thị du lịch sinh thái rừng – biển của Thành phố Hồ Chí Minh .Ý
tưởng biến huyện Cần Giờ trở thành đô thị du lịch sinh thái rừng – biển là ý
tưởng có bước đột phá trước hết là của lãnh đạo cấp cao của Chính phủ và sau đó
được cụ thể hóa bằng Dự án “Hệ thống công trình lấn biển kết hợp với khu đô thị
– du lịch biển Cần Giờ”.
Dự án này đã được nghiên
cứu khả thi chi tiết, đã được thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường và
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đang trong giai đoạn xúc tiến đầu tư.
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 9,Môi trường và Tài nguyên – 2006.
Định
hướng không gian phát triển du lịch sinh thái Cần Giờ
Trong 5 – 10 năm tới, cần đầu tư phát triển hoàn
chỉnh và tổ chức khai thác có hiệu quả không gian du lịch trên địa bàn huyện và
trên cơ sở từng bước khép kín và kết nối với không gian du lịch trong khu vực
bao gồm các tuyến, điểm, khu du lịch sinh thái trên địa bàn huyện.
Các tuyến du lịch dự kiến
phát triển như sau:
Tuyến đường bộ từ trung tâm
Thành phố xuống Cần Giờ.
Tuyến đường sông từ Thành
phố đi Đồng Đình, Cần Thạnh; từ Cần Thạnh Lâm Viên đi Vũng Tàu – Cần Đước – Mỹ
Tho.
Kết hợp đường bộ – đường
sông.
Các điểm du lịch có thể
phát triển bao gồm:
Khu du lịch bãi biển 30/4
xã Long Hòa.
Khu du lịch hoang dã Lâm
viên Cần Giờ (2.200ha) với khu căn cứ kháng chiến rừng Sác (tái hiện).
Khu du lịch đặc công thủy
rừng Sác (250 ha).
Khu núi đá Giồng Chùa, xã
Thạnh An (200 ha).
Khu đô thị – du lịch lấn
Biển Cần Giờ
Khu đô thị mới theo qui
hoạch của huyện.
Các khu di chỉ khảo cổ:
Trung tâm triển lãm, trưng bày, nghiên cứu hệ sinh thái rừng.
ngập mặn tại các tiểu khu
thuộc ban quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ.
Khu du lịch nhà vườn (300ha) tại Long Hòa –
Cần Thạnh.
Trung tâm sinh hoạt dã ngoại thanh thiếu niên
thành phố.
Khu di tích lịch sử các căn cứ kháng chiến
vùng rừng Sác.
Bảo tàng sinh vật biển.
Đình, chùa, lăng Ông Thủy Tướng.
Nhìn chung, hình ảnh chung
của khu đô thị – du lịch lấn biển Cần Giờ sẽ mang ý nghĩa đúng của khái niệm về
du lịch sinh thái rừng - biển: đó là du lịch nhằm đưa du khách hiểu biết về hệ
sinh thái gốc và tăng thu nhập của dân cư địa phương để bảo tồn hệ sinh thái
gốc. Khu du lịch này không chỉ nhằm giảm thiểu sự quá tải trong khu du lịch
trung tâm thành phố và tăng quỹ đất kết hợp du lịch.
Hiện nay, khách du lịch đến
với Cần Giờ chỉ với mục đích là nghỉ dưỡng vào cuối tuần, thưởng thức hải sản
tươi sống… vì chưa có loại hình du lịch nào hấp dẫn. Vì vậy, việc đa dạng hóa
sản phẩm du lịch để thu hút du khách là một việc làm hết sức cần thiết trong 05
năm tới. Các loại hình được ưu tiên phát triển như:
Du lịch Nhà - Vườn:
- Duy trì diện tích vườn
cây ăn trái là 300ha, chủ yếu là cây xoài và mãng cầu. Hàng năm, nông sản thu
được từ 900 - 1.000 tấn, trong đó, xoài chiếm 35% - 40%. Nông dân luôn được hỗ
trợ về kiến thức và kỹ thuật trồng trọt để nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ
du khách.
- Xây dựng phương án và đề
xuất các chính sách khuyến khích, hỗ trợ nông dân phát triển mô hình du lịch
Nhà - Vườn. Từ đó, có thể chọn một số hộ dân làm mô hình thí điểm và tổ chức
chuyến tham quan, học kinh nghiệm quản lý, phát triển, xây dựng mô hình du lịch
nhà - Vườn ở các tỉnh miền Tây. Sau đó có thể áp dụng, cải tạo thành một mô
hình mới phù hợp với địa phương.
- Các cơ quan ban ngành
huyện phối hợp với các Sở ngành chức năng của thành phố nghiên cứu giống xoài
ra quả trái vụ kéo dài từ tháng 01 đến tháng 4 hàng năm nhằm tăng nguồn thu cho
nông dân và kéo dài mùa du lịch Nhà - Vườn. Đồng thời, xây dựng thương hiệu sản
phẩm xoài Cần Giờ, mắm tôm chua, khô cá dứa… trở thành món đặc sản nổi tiếng ở
TP.HCM và cả nước.
Du lịch đường sông:
Tận dụng thế mạnh sông rạch
chiếm 31,49% diện tích cả huyện, len lỏi trong rừng phòng hộ, thông thương giữa
TP.HCM với các tỉnh lân cận là điều kiện thuận lợi để huyện phát triển du lịch
đường sông, là mối quan tâm hàng đầu của các cấp chính quyền và người dân địa
phương, cần phải:
- Đẩy mạnh sự phối hợp liên
ngành trong công tác quy hoạch, xây dựng các dự án khả thi phát triển tour,
tuyến du lịch đường sông. Cần phải chú trọng công tác xử lý tốt việc cấp thoát
nước và chất thải của các cụm dân cư và các cơ sở sản xuất kinh doanh, khu vực
nuôi chim yến… nằm sát bờ sông.
- Căn cứ quy hoạch và các
dự án khả thi phát triển du lịch đường sông ở các vùng trọng điểm du lịch, phối
hợp với các ngành chức năng đẩy mạnh công tác hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng
du lịch đường sông, trước mắt là xây dựng các bến tàu có đủ điều kiện để đón
các tàu thuyền du lịch.
- Tiếp tục xây dựng các
chính sách khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, khai thác
có hiệu quả tiềm năng du lịch sông nước đặc thù, tạo ra những sản phẩm du lịch
có sức cạnh tranh cao để phát triển.
- Tăng cường công tác xúc
tiến, quảng bá sản phẩm du lịch đường sông Cần Giờ, thu hút ngày càng nhiều
khách du lịch, tạo thị trường ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động trong các
lĩnh vực này.
- Phối hợp với Sở Văn hóa -
Thể thao và Du lịch thành phố cùng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành
trên địa bàn thành phố khảo sát tuyến du lịch đường sông nhằm xác định những
tuyến khả thi nhất để các đơn vị đưa vào khai thác trong năm 2011 và năm 2012.
Du lịch tín ngưỡng:
Phát huy đặc điểm một nền
văn hóa lâu đời với kho tài nguyên nhân văn phong phú được chia thành các nhóm:
di tích văn hóa khảo cổ như Giồng Am, Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ và nhiều di tích
văn hóa tín ngưỡng như đình, chùa, miễu, thánh thất… đặc biệt là Khu di tích
lịch sử chiến khu Rừng Sác và Lễ hội Truyền thống Ngư dân Cần Giờ. Với đặc điểm
đó, việc nghiên cứu phát triển du lịch tín ngưỡng là một việc làm cần thiết
nhằm phát huy thêm thế mạnh cho ngành du lịch Cần Giờ, cần phải:
- Tập trung đầu tư, tôn
tạo, nâng cấp các đình, chùa về tín ngưỡng, tôn giáo: Lăng ông Thủy Tướng; đầu
tư nâng cấp Lễ hội Truyền thống Ngư dân Cần Giờ, các đình, chùa được công nhận
di tích văn hóa trên địa bàn huyện.
- Sau khi hoàn thành việc
nâng cấp, trùng tu, sửa chữa các khu di tích, cần đưa các điểm trên để khai
thác phục vụ du lịch bằng cách kết nối với các công ty lữ hành xây dựng các
tour, tuyến điểm tham quan các di tích tín ngưỡng nhằm góp phần tạo nên sự phong
phú, đa dạng sản phẩm du lịch.
Du lịch sinh thái nông
nghiệp: được quy hoạch phát triển tại 04 xã phía bắc, với diện tích khoảng
28.710ha đất nông - lâm - ngư nghiệp, phát triển theo mô hình du lịch sinh thái
nông nghiệp, đến nay đã có 07 doanh nghiệp lập dự án quy hoạch đầu tư với tổng
diện tích 565ha, trong đó có 01 doanh nghiệp đã hoàn thành dự án đưa vào khai
thác (điểm Du lịch sinh thái Cát Xanh), diện tích 2,3ha, thu hút được khoảng
6.000 lượt khách tham quan mỗi năm.
Du lịch Mice (Hội nghị kết
hợp nghỉ dưỡng): được thực hiện ở 02 khu Resort 03 sao (Resort Phương Nam và
Resort Cần Giờ) đã thu hút được 2.500 khách đến hàng năm, trong đó có đoàn
khách đến từ các nước Nhật, Anh, Hàn Quốc, Colombia. Loại hình du lịch này có
chiều hướng phát triển tốt trong các năm tới nếu cơ sở hạ tầng huyện được đầu
tư tốt.
Tặng phẩm, hàng lưu niệm:
ngày càng phát triển phong phú, đa dạng về mẫu mã, được sản xuất từ các sinh
vật biển của các loài nhuyễn thể, ốc, đồi mồi… Các sản phẩm đặc trưng của huyện
như thủy sản các loại, xoài, mãng cầu, khô cá dứa, mực và các loại khô hải sản
khác được bày bán nhiều nơi đáp ứng nhu cầu mua sắm của khách tham quan.
Ban Quản lý Rừng phòng hộ
Cần Giờ đang thí điểm sản xuất một số mặt hàng mỹ nghệ phục vụ nhu cầu mua sắm
của du khách như bàn, ghế được chế tác từ cây rừng ngập mặn với nhiều kích cỡ
và kiểu dáng khác nhau; các hàng hóa thủ công như hàng thủ công lắp ghép kiến
trúc, hình ảnh được chế tác từ các nguyên vật liệu từ rừng như hình người, hình
chim thú… nhằm giới thiệu đến du khách về môi trường, cảnh quan thiên nhiên
Rừng phòng hộ Cần Giờ. Tuy nhiên, quy mô sản xuất còn nhỏ, chủ yếu phục vụ công
tác giới thiệu, quảng bá đối với du khách đến tham quan rừng phòng hộ, chưa
thực sự trở thành sản phẩm du lịch đặc trưng Cần Giờ để phục vụ nhu cầu mua sắm
của du khách trên địa bàn huyện.
Phát triển mô hình làng nghề truyền thống phục
vụ du lịch
Duy trì và phát triển các
làng nghề truyền thống mang tính đặc trưng tại địa phương: làng nghề cá (xã
Thạnh An), nghề muối (xã Lý Nhơn), làng nuôi chim yến (xã Tam Thôn Hiệp)… việc
đưa nét đặc trưng này để khai thác du lịch là một yếu tố quan trọng và cần
thiết để đa dạng hóa sản phẩm du lịch.
Xây dựng các tour, tuyến
đưa du khách tham quan mô hình du lịch sinh thái rừng ngập mặn kết hợp với tìm
hiểu đời sống các hộ dân giữ rừng; du lịch sinh thái nông nghiệp với mô hình
vườn - ao - du lịch kết hợp với tìm hiểu các làng nghề…
Khu du
lịch sinh thái Vàm Sát ở Cần Giờ
Tổ chức Du lịch thế giới đã
công nhận Khu du lịch Vàm Sát là một trong hai khu du lịch sinh thái phát triển
bền vững của thế giới tại Việt Nam.
Khu bảo tồn thiên nhiên này
là nơi cư trú của nhiều loài chim nước, chim di cư và một số loài động vật
lưỡng cư trên cạn. Thảm thực vật Cần Giờ phong phú với hơn 160 loài; là môi
trường sinh sống của hơn 700 loài động vật thủy sinh không xương sống, 137 loài
cá, trên 40 loài động vật có xương sống. Đặc biệt, nơi đây đang hình thành trở
lại các sân chim tự nhiên với số loài chiếm tới 34% tổng số loài chim nước ở
Việt Nam, trong đó có tới 9 loài quý hiếm được ghi trong sách Đỏ của thế giới.
Rừng Sác ở Cần Giờ là một
vùng rừng đước, chà là ngập mặn rộng đến 600 hecta, nơi tập hợp của hàng trăm
sông rạch lớn nhỏ, ngang dọc chằng chịt. Khu du lịch sinh thái Vàm Sát nằm
trong rừng Sác, giữa dòng chảy của hai con sông Vàm Sát và Lòng Tàu.
Nơi đây, rừng Sác nổi tiếng
trong thời chiến tranh chống Mỹ với những chiến sĩ đặc công gan dạ, giỏi võ
nghệ và có khả năng xuất quỷ nhập thần, dũng cảm mưu trí trong nhiều trận đánh
tàu chở hàng quân sự trên sông, phá huỷ các kho xăng, kho bom đạn của địch
.
Tháp Tang Bồng
Trong rừng Sác có tháp Tang
Bồng – cao 26 mét, được xây dựng để tri ân hơn 800 chiến sĩ đặc công đã hy sinh
trong kháng chiến. Từ tháp Tang Bồng, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh
rừng Sác.
Khu du lịch Vàm Sát có một
trại nuôi cá sấu. Ngoài ra, còn có khu nuôi cá sấu tự nhiên, nuôi và nhân giống
nhiều loại cá sấu như cá sấu Xiêm, cá sấu hoa cà… Du khách đến đây để tham quan
môi trường sống, tìm hiểu tập quán và cách săn mồi của cá sấu. Hoặc cũng nhiều
người đến để tham gia… câu cá sấu
.
Du khách câu cá sấu
Có hai nơi không thể bỏ qua
khi thăm Vàm Sát là Đầm Dơi và Tràm Chim. Đầm Dơi là một nơi có nhiều cây đước,
là nơi trú ngụ của lòai dơi quạ, có cánh sải dài tới 1 mét, bay về sống hơn vạn
con. Còn Tràm Chim với diện tích 602 ha hội tụ rất
nhiều lòai chim, cò. Trước kia, trong thời bom đạn, các loại chim bỏ đi hết. Từ
khi rừng ngập mặn nguyên sinh được khôi phục, chim chóc và các loại động vật
khác cũng dần dần kéo về: heo rừng, mèo rừng, trăn, kỳ đà, sóc, cá sấu, khỉ…
Tổ cò (Tràm Chim)
Tại đây, khu bảo tồn động vật hoang dã được xây dựng thành một khu vực an toàn để thu hút các loài động vật đến sinh sống, vừa bảo vệ chúng, vừa khôi phục mội trường tự nhiên.
Tháng 7/2002, tổ chức Du
lịch thế giới đã công nhận Khu du lịch Vàm Sát là một trong hai khu du lịch
sinh thái phát triển bền vững của thế giới tại Việt Nam.
Cuối năm 2003, sân chim và
Đầm Dơi của khu du lịch sinh thái Vàm Sát đã được UBND thành phố phê duyệt
khoanh vùng quy hoạch chim thú rừng tại rừng phòng hộ Cần Giờ nhằm mục đích bảo
tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn, khu dự trữ sinh quyển,
tạo nơi tham quan học tập, nghiên cứu và giáo dục cho nhân dân thành phố, du
khách trong và ngoài nước./.
- Kịp thời thực hiện công
tác quy hoạch ngành để thuận lợi trong công tác quản lý.
- Tăng cường cải cách hành
chính theo cơ chế một cửa để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện các thủ
tục đầu tư phát triển các dịch vụ du lịch.
- Phổ biến, hướng dẫn pháp
luật về du lịch cho các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch…
- Tăng cường công tác kiểm
tra giám sát nhằm phát hiện, xử lý những vi phạm trong hoạt động kinh doanh du
lịch như hoạt động sai chức năng, kinh doanh trái phép… từng bước đưa hoạt động
tổ chức kinh doanh của các tổ chức cá nhân kinh doanh du lịch vào trật tự, tạo
môi trường kinh doanh ổn định.
- Tăng cường công tác bình
ổn giá, đặc biệt trong các dịp Lễ, Tết đối với các khu vực phục vụ du lịch như
Khu du lịch 30/4. Cần phải chú trọng công tác đảm bảo niêm yết giá bán các mặt
hàng đặc sản một cách triệt để, tạo tâm lý an tâm, tin tưởng cho du khách.
- Tăng cường giáo dục và
nâng cao ý thức trong cộng đồng dân cư về gìn giữ bảo vệ môi trường, qua đó
nâng cao trách nhiệm của cá nhân, tổ chức kinh doanh du lịch trong việc
xử lý các loại chất thải phát sinh, khắc phục tác động tiêu cực
đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội nhân văn, phòng chống
các tệ nạn xã hội trong cơ sở kinh doanh du lịch.
- Tăng cường công tác
quản lý môi trường các hoạt động du lịch bao gồm hành vi du khách,
địa điểm lưu trú, phương tiện vận chuyển, khu vui chơi giải trí. Đồng
thời, thực hiện tốt công tác quản lý công viên cây xanh nhằm tạo mỹ quan và
đảm bảo vệ sinh môi trường ở khu vực trung tâm, các khu dân cư.
- Khuyến khích các công
ty du lịch khi thiết kế tour có các chương trình đưa khách tham gia trồng
cây và chăm sóc cây xanh. Nâng cao sự hiểu biết về môi trường tự nhiên
qua đó tạo ý thức tham gia vào các nỗ lực bảo tồn và phát triển cây
xanh.
- Phổ biến, tuyên truyền về
Luật Bảo vệ môi trường, Luật Du lịch… xây dựng chương trình phong cách nếp sống
người dân văn minh, lịch sự.
- Đẩy mạnh cuộc vận động
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, tổ chức ngày chủ
nhật xanh, tuần lễ môi trường tuyên truyền vận động người dân trồng cây xanh.
- Tổ chức các khóa bồi
dưỡng về quản lý tài nguyên và môi trường du lịch cho các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch.
- Tổ chức ngăn chặn các
hành vi quấy nhiễu du khách. Xây dựng, thành lập lực lượng bảo vệ khách du lịch
để đảm bảo môi trường an toàn, tạo sự thân thiện đối với du khách.
Vào ngày 21/01/2000 UNESCO
đã công nhận rừng ngập mặn Cần Giờ là “ Khu dự trữ Sinh quyển của thế giới” và
đây là Khu dự trữ Sinh quyển đầu tiên của Việt Nam, khu rừng trồng và phục hồi
đẹp nhất Đông Nam Á, được ví như lá phổi xanh của thành phố.
Rừng ngập mặn Cần Giờ giữ
vai trò to lớn trong việc bảo vệ môi trường, là bức tường xanh chắn sóng, cản
gió; bảo vệ vùng biển cửa sông, hạn chế xói lở; mở rộng đất liền; điều hòa khí
hậu; là nơi nuôi dưỡng, sinh trưởng, sinh sản của nhiều loài hải sản có giá trị
kinh tế cao và nhiều loài động vật trên cạn như chim, thú, bò sát, trong đó có
những loài quý hiếm như cá sấu hoa cà, kỳ đà nước,… rừng ngập mặn còn là nơi
nghiên cứu, học tập, nghỉ dưỡng cho khách du lịch, sinh viên – học sinh, các
nhà khoa học và nhân dân trong và ngoài thành phố. Hy vọng du lịch sinh thái
Cần Giờ phát triển bền vững với sự chung sức của các nhà quản lý, các nhà đầu
tư và các cư dân địa phương. Và sẽ là điểm đến hấp dẫn cho du khách khắp nơi
trên thế giới!
Vườn cò Thủ Đức:
Không
có những trò chơi giải trí vui nhộn, những hang động kỳ bí đem đến cảm giác
mạnh cho du khách như khu du lịch Suối Tiên hay Sài Gòn Water Park...song Vườn
Cò Thủ đức (nay là quận 9) thành phố Hồ Chí Minh lại mang đến cho du khách
những cảm giác không kém phần thú vị. Đó là cảnh vật tĩnh lặng của đồng quê, là
không khí trong lành của đồng nội, có sông nước mênh mông, có những con đò
nhỏ...
Hấp dẫn nhất vẫn là hình ảnh những đàn cò trắng cứ mỗi buổi hoàng hôn lại kéo
nhau về. Ở nơi đây không phải có vài con mà hàng chục ngàn con, chúng tranh
nhau tìm chỗ ngủ, kêu táo tác, đậu trắng vườn dừa. Bỏ sau lưng xa lộ Hà Nội đầy
nắng, bụi, đường Võ Văn Ngân đông đúc người qua lại, bạn sẽ rẽ vào con đường
đất đỏ rộng thênh thang nằm xuyên qua những ruộng lúa ngút ngàn.
Và chiều đến khi mặt trời khuất dần sau rặm tre bên kia sông là lúc từng đàn cò
trắng đi kiếm ăn bay về tổ. Chúng bay thẳng hàng, con này nối con kia, đôi khi
chúng vô tình xếp hình thành con chữ A, V...trông rất ngộ nghĩnh. đây có thể là
khoảng khắc tuyệt vời đối với du khách. Những cánh cò chấp chới trên nền trời
chiều chợt làm cho bức tranh quê tĩnh lặng sống động hẳn lên. Tiếng kêu khàn
đục phát ra từ cổ họng của những chú cò cũng đủ khiến du khách nao lòng.
Khi những con cò cuối cùng bay về tổ, thì đàn cò mới ngừng hẳn tiếng kêu, chúng
bắt đầu giờ ngủ đêm sau một ngày lặn ngụp ngoài đồng. Lúc này là lúc du khách
kết thúc chuyến tham quan. Và dù cho bạn có rời Vườn Cò về với đô thị ồn ào náo
nhiệt hay ở nơi nào đó, vẫn tin chắc rằng cảnh vật nơi này, cánh cò, con sông,
mùi hương nồng nàn của đồng nội sẽ vương vấn trong tâm hồn bạn, thôi thúc bạn
một ngày nào đó lại đến Vườn Cò.
Lăng Lê Văn Duyệt
Lăng tả quân
Lê Văn Duyệt (1763 - 1832) thường được gọi là Lăng Ông hay Lăng Ông Bà Chiểu.
Lăng được xây trong khuôn viên 18.500 m2. Người xây lăng này cũng là người xây
lăng Tự Đức ở Huế.
Lăng có mộ Lê Văn Duyệt và phu nhân. Ngoài khuôn viên có hai mộ của hai nàng
hầu. Sau khi Lê Văn Khôi (con nuôi Lê Văn Duyệt) khởi binh chống lại triều
đình, vua Minh Mạng ra lệnh xiềng mộ Lê Văn Duyệt, đến đời vua Tự Đức mới được
giải oan.
Lăng được trùng tu nhiều lần. Đáng chú ý là bốn cây cột gỗ chạm rồng khá đẹp ở
chánh điện. Cổng tam quan, cây thốt nốt tạo cho lăng một vẻ trang nghiêm u nhã,
mặc dầu bên ngoài khuôn viên là đường phố và chợ búa.
Trong nhà bia có tấm bia đá cẩm thạch lớn dựng năm Thành Thái thứ 6 (1896).
Ngôi lăng cao và rộng, chiều dài 80 mét, gồm nhà hương, trung điện - nơi đặt
bàn thờ, đồ lỗ bộ, chiêng trống - phía trong là chánh điện. Gian giữa là bàn
thờ Tả quân (có bức họa truyền thần của ông từ thời làm Tổng trấn Gia Định).
Bên phải là bàn thờ Phan Thanh Giản (có ảnh mặc triều phục), bên trái là bàn
thờ Lê Chất (nguyên là Tổng trấn Bắc Thành), mất năm 1826, về sau đã bị Minh
Mạng ra lệnh san bằng mộ, đến thờ Tự Đức mới được truy phục chức cũ.
Hàng năm, tại Lăng Ông có hai lễ hội lớn: ngày giỗ Tả quân 1 tháng 8 âm lịch và
ngày hội đầu Xuân mùng 1 và mùng 2 tết. Số người đến dự hội hàng năm lên đến
hàng chục vạn. Đáng chú ý số khách người Hoa đi lễ rất lớn, chiếm khoảng 50%.
Lý do, người Hoa coi ông như một vị phúc thần mà lúc sinh thời làm Tổng trấn,
đã có nhiều chủ trương, chính sách nâng đỡ họ, tạo điều kiện cho họ an cư lạc
nghiệp.
Ngày 16 tháng 11 năm 1988 lăng được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích
Kiến trúc - Nghệ thuật theo quyết định số 1288-VH/QĐ.
Đền thờ Hùng Vương
Nằm cạnh cổng chính trong khu vực Thảo Cầm Viên. Đền do Pháp xây dựng vào năm
1926, mang tên đền Kỷ niệm (Temple de Souvenir) để tưởng nhớ những binh sĩ Pháp
tử trận. Sau năm 1954, đền đổi tên là đền Quốc tổ Hùng Vương. Năm 1975, đổi
thành đền Hùng Vương và giao cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - thành phố Hồ Chí
Minh quản lý.
Nóc đền có dáng mái cong, chia làm ba bậc. Nóc trên trang trí hình rồng và
phượng, thuộc phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Hai bên bậc đá lên cửa chính
có đôi rồng chầu. Trên các bao lơn xung quanh phía trong đền chạm khắc hình
hạc, lân, qui, phượng sơn màu đỏ. Đền được chống đỡ bằng 12 cây gỗ mật màu đen.
Chánh điện có ngai thờ các vua Hùng, bài vị thờ tổ tiên bách tính và lương
thần, danh tướng. Trước bàn thờ có bộ bát bửu, chiêng trống. Xung quanh chánh
điện có các hộp hình, tranh ảnh chuyên đề giới thiệu sơ lược về thời đại nguyên
thủy và thời đại Hùng Vương trên các mặt nông nghiệp, săn bắn, đánh cá, nghề
sản xuất gốm, nghề đúc đồng, nghề dệt vải, các loại vũ khí, văn hóa nghệ
thuật...
Nơi
Bác đã từng sinh sống tại TP Hồ Chí Minh trước khi ra đi tìm đường cứu nước
Những ngày giữa tháng 5, chúng tôi
lại về thăm căn nhà - nơi Nguyễn Tất Thành đã ở khoảng 9 tháng, trước khi
xuống tàu ở Cảng Nhà Rồng để ra đi tìm đường cứu nước.
Căn nhà số 5 đường Châu Văn Liêm
được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia và là 1 trong 2 địa điểm Bác Hồ
đã từng ở trước khi ra đi tìm đường cứu nước.
Chị Nguyễn Thị Thu Thủy, nhân viên
Trung tâm Văn hóa Quận 5 - người được giao trông nom và là hướng dẫn viên
cho khách tham quan di tích, cho biết: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở tại
căn nhà số 5 đường Châu Văn Liêm (tên thời Pháp là Quai Testard - khu Chợ Lớn)
từ 9/1910 tới 4/6/1911. Đây là cơ sở của phân cuộc Liên Thành thương quán - một
tổ chức kinh doanh do sĩ phu Bình Thuận thành lập năm 1906. Những người trong
tổ chức này cũng đã giúp đỡ Nguyễn Tất Thành trong quá trình từ
Phan Thiết vào Sài Gòn, hỗ trợ tài chính cho Người trước khi lên tàu sang Pháp.
Ngày ấy, phân cuộc Liên Thành
thương quán có ba căn nhà mang số 1-2-3 Quai Testard (bến
Testard) - Chợ Lớn. Đến năm 1915, tên đường Quai
Testard được đổi thành đường Tổng đốc Phương, sau giải phóng thì
đổi thành tên đường Châu Văn Liêm. Các căn nhà của phân cuộc Liên Thành
thương quán cũng được đánh số lại là 1-3-5. Trong ba căn nhà khi đó, chỉ
có một căn được giữ lại để biến thành di tích lưu niệm về Bác Hồ, đó
là căn nhà số 5. Căn nhà này cũng được công nhận là Di tích lịch sử cấp
Quốc gia năm 1988.
Toàn cảnh đường Tống đốc Phương
(nay là đường Châu Văn Liêm) nhìn từ Bưu điện Chợ Lớn, khu vực khoanh tròn là
vị trí căn nhà số 5.
Bàn thờ Bác tại tầng 1 của căn nhà
số 5 Châu Văn Liêm.
Liên Thành thương quán cũng là
chủ sở hữu và sáng lập ra trường Dục Thanh - Phan Thiết, nơi Nguyễn Tất Thành
đã dạy học ở đây. Năm 1910, Nguyễn Tất Thành (lúc này là thầy giáo) từ trường
Dục Thanh – Phan Thiết vào Sài Gòn. Được sự giúp đỡ của ông Trương Gia Mô, ông
Hồ Tá Bang và ông Trần Lệ Chất, Người được bố trí sống tại nhà ông Lê Văn Đạt –
một người con bên mẹ của ông Trương Gia Mô.
Ông Trương Gia Mô là bạn đồng liêu
của ông Nguyễn Sinh Huy (thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh), là Hàn lâm đãi chiếu
tại Bộ công ở Huế cùng thời với ông Nguyễn Sinh Huy. Bằng uy tín và sự khôn
khéo, các ông đã vận động viên Công sứ Pháp đồng ý cấp giấy thông hành cho
Nguyễn Tất Thành với tên mới là Văn Ba. Sau hai ngày, Người được đưa đến ở tại
cơ sở Liên Thành phân cuộc.
Khu vực bên phải tại tầng
1 là không gian trưng bày thông tin về các cơ sở của Liên Thành thương quán,
bản đồ Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1911, hình ảnh Sài Gòn những năm 1910 - 1911, hình
con tàu Đô đốc Latouche Treville…
Khu vực bên trái trưng bày những
hình ảnh gợi nhớ làng quê của Người, các lãnh tụ của các phong trào yêu nước.
Chị Nguyễn Thị Thu Thủy cho
biết, trong thời gian ở tại nhà số 5 Châu Văn Liêm, Người vừa dạy học vừa đi
làm ở Trường Thọ Máy (Escole des Mécaniciens), vừa đi bán báo ở khu vực thương
cảng để kiếm sống và tìm hiểu đời sống công nhân, nhân dân lao động cũng như
các tàu ra vào cảng Sài Gòn.
Đây là thời gian rất quan trọng để
Người có bước chuẩn bị trực tiếp về vật chất, tinh thần, phương tiện và có
quyết định cuối cùng cho việc ra đi tìm đường cứu nước. Đến ngày 4/6/1911,
Người lấy tên Văn Ba, rời phân cuộc Liên Thành thương quán và ngày 5/6/1911,
trên con tàu Amiral Latouche Treville, Người rời bến cảng Nhà Rồng, ra đi tìm
con đường giành độc lập tự do cho dân tộc.
Khu vực tầng 2 của căn nhà số 5 là
không gian trưng bày các tài liệu, hình ảnh, tranh vẽ minh họa về Chủ tịch Hồ
Chí Minh, tấm gương đạo đức của Người...
Có mặt tại căn nhà số 5 Châu Văn
Liêm, anh Huỳnh Hoàng Anh Tuấn, Trưởng phòng Văn hóa - Văn nghệ Trung tâm Văn
hóa Quận 5, cho biết: Di tích lưu niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Quận 5 luôn
mở cửa để đón du khách tham quan hàng ngày. Di tích này là căn nhà phố khoảng
35m2, rộng 4m, dài 8,8m, có một tầng lầu, nền lót gạch bông, mái lợp ngói âm
dương. Tất cả không gian trong nhà đều được sử dụng để trưng bày các hình ảnh,
hoạt động của Bác Hồ.
Những đồ dùng cá nhân của Bác
thường dùng cũng được trưng bày tại ngôi nhà số 5 Châu Văn Liêm.
“Căn nhà số 5 Châu Văn Liêm có
những bước chuyển đổi rất thăng trầm. Sau khi Bác ra đi, căn nhà được chuyển
thành nhà ở của dân, sau đó Quận 5 đã thu nhận và chuyển thành di tích lịch sử.
Trước đây, căn nhà này khá cũ kỹ, đến năm 2019, được sự quan tâm của UBND Quận
5, căn nhà được trùng tu dưới sự cấp phép của Bộ Văn hóa, Sở Văn hóa và thể
thao TP Hồ Chí Minh. Hiện nay, di tích này được tích hợp công nghệ trong việc
hỗ trợ giới thiệu về di tích cũng như lịch sử của Bác", anh Huỳnh Hoàng
Anh Tuấn cho biết.
Mỗi năm có hàng trăm đoàn đến tham
quan và dâng hương, hoa lên Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Di tích lịch sử này. Ảnh:
Trung tâm Văn hóa Quận 5 cung cấp
Theo đó, ở tầng 1 là khu vực có bàn
thờ Bác ở giữa nhà, hai bên vách tường là khu vực trưng bày những hình ảnh gợi
nhớ làng quê của Người, lãnh tụ của các phong trào yêu nước, các cơ sở của Liên
Thành thương quán, bản đồ Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1911, hình ảnh Sài Gòn những
năm 1910 - 1911, hình con tàu Đô đốc Latouche Treville…
Sau khi tham quan tầng 1, du khách
đi lên tầng 2 qua chiếc cầu thang gỗ. Đây là nơi trưng bày các tài liệu, hình
ảnh, tranh vẽ minh họa về Chủ tịch Hồ Chí Minh; tấm gương đạo đức của Chủ tịch
Hồ Chí Minh; các hoạt động tiếp nối truyền thống, học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh…
Chị Nguyễn Thị Thu Thủy hướng dẫn
cho du khách tham quan nhân dịp Kỷ niệm 130 năm ngày sinh nhật của Bác
(19/5/1890 - 19/5/2020).
“Hiện nay, biết bao thế hệ người Việt Nam đang cố gắng, ra sức học tập, làm theo tấm gương của Bác và di tích ngôi nhà số 5 đường Châu Văn Liêm mãi là niềm tự hào của TP Hồ Chí Minh nói riêng và của cả nước nói chung. Các bạn trẻ khi đến đây cũng luôn cảm thấy ấm cúng, trang trọng, trang nghiêm khi được tận mắt tham quan tìm hiểu về nơi nghỉ ngơi, hoạt động của Bác Hồ kính yêu khi xưa tại TP Hồ Chí Minh”, anh Huỳnh Hoàng Anh Tuấn nói.
Anh Huỳnh Hoàng Anh Tuấn giới thiệu
phần mềm ứng dụng được sử dụng tại di tích số 5 Châu Văn Liêm.
Các em học sinh đến tham quan di
tích để tìm hiểu thêm về Bác Hồ kính yêu. Ảnh: Trung tâm Văn hóa Quận 5 cung
cấp
Ðịa đạo Củ Chi
Vị trí: Ðịa đạo Củ Chi là một di
tích lịch sử cách mạng nổi tiếng, thuộc xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, cách
trung tâm Tp. Hồ Chí Minh 70km về phía tây bắc.
Ðặc điểm: Ðịa đạo quả là kỳ quan độc nhất vô nhị: dài 250km chạy ngoắt ngoéo
trong lòng đất, được làm nên từ dụng cụ thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ki xúc
đất.
Ðường hầm sâu dưới đất từ 3 - 8m, chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom.
Căn hầm đầu tiên ở ngay bìa rừng có giếng ngầm cung cấp nguồn nước uống và sinh
hoạt cho toàn khu vực địa đạo. Giếng sâu 15m, trong vắt. Hệ thống địa đạo gồm 3
tầng, từ đường "xương sống" toả ra vô số nhánh dài, nhánh ngắn ăn
thông nhau, có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn. Tầng một cách mặt đất 3m, chống
được đạn pháo và sức nặng của xe tăng, xe bọc thép. Tầng 2 cách mặt đất 5m, có
thể chống được bom cỡ nhỏ. Còn tầng cuối cùng cách mặt đất 8-10m hết sức an
toàn. Ðường lên xuống giữa các tầng hầm được bố trí bằng các nắp hầm bí mật.
Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ
thông hơi. Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ
khí, lương thực, có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải
phẫu... Còn có cả hầm lớn, mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim,
văn nghệ.
Hãy một lần chui vào địa đạo, ta sẽ thấy rõ chiều sâu thăm thẳm của lòng căm
thù, ý chí bất khuất của "vùng đất thép" và sẽ hiểu vì sao một nước
Việt Nam nhỏ bé lại chiến thắng một nước lớn và giàu có như Hoa Kỳ? Ta cũng sẽ
hiểu vì sao Củ Chi - mảnh đất nghèo khó lại đương đầu ròng rã suốt 20 năm với
một đội quân thiện chiến, vũ khí tối tân mà vẫn giành thắng lợi. Cũng từ địa
đạo này, cuộc hành quân Crimp (cái bẫy) của Mỹ với 3.000 quân bộ, cuộc hành
quân Sedarfall gồm 12.000 lính, có xe tăng, máy bay yểm trợ tối đa, nhằm biến
Củ Chi thành "khu tự do hủy diệt" đã bị đập tan. Củ Chi thật xứng
danh "đất thép thành đồng" qua 20 năm bền bỉ chiến đấu.
Ðiều thú vị nữa khi về thăm mảnh đất anh hùng này là các hướng dẫn viên đều ăn
mặc như hồi chiến tranh: nam mặc đồ giải phóng, mũ tai bèo; nữ mặc bà ba đen,
quàng khăn rằn và đi dép lốp. Sự có mặt của họ bên trong những búi cây, ở mỗi
khúc quanh khiến du khách có cảm giác đang được sống trong sự thật của Củ Chi
thời đánh giặc. Cảm giác thời chiến rõ nét hơn khi đĩa sắn luộc, bát muối vừng
được đưa mời khách du lịch. Những ly rượu bé xíu, trong vắt và nồng nàn được
gọi đùa là nước mắt quê hương bên đĩa rau mốp muối chua, giòn và ngon đến lạ.
Bạn đừng quên nếm thử món rau mốp. Rau mốp là lương thực chính của quân dân Củ
Chi ngày trước, còn giờ đây đang là đặc sản.
Di tích địa đạo Củ Chi ở xã Phú Mỹ
Hưng nằm phía Bắc Củ Chi là một hệ thống gồm hầm, địa đạo, giao thông hào, ụ
chiến đấu, chủ yếu tập trung ở ấp Phú Hiệp thuộc xã Phú Mỹ Hưng với diện tích
gần 100 mẫu: Tây Bắc giáp sông Sài Gòn, Đông Bắc giáp ấp Phú Lợi, Tây Nam giáp
ấp Lộc Thuận, Lộc Hưng (Trảng Bàng) và Đông Nam giáp ấp Phú Hòa. Chọn Phú Hiệp
lập hệ thống địa đạo là bởi vùng đất cao, lòng đất lẫn đá sỏi rắn chắc, có thể
chịu sức ép bom 500kg và xe cơ giới của địch. Đây là khu rừng chồi, tre và cao
su lẫn lộn rất th
ích hợp cho địa hình du kích chiến.
Năm 1961, địa đạo ở xã Phú Mỹ Hưng chỉ là những đường hầm ngầm sâu trong lòng
đất, kéo dài vài chục thước, đôi khi giao nhau, chồng chéo... cốt tránh địch
hơn là đối phó. Năm 1962, khi cuộc chiến chống đế quốc Mỹ bước sang giai đoạn
quyết liệt, đồng chí Võ Văn Kiệt, lúc này là bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định
chỉ thị thành lập Ban chỉ đạo xây căn cứ có tên gọi là căn cứ Phú Hiệp do đồng
chí Mười Phước - chỉ huy trưởng, các đồng chí: Tư Đạt, Năm Long, Ba Lùn, Tư
Hùng - ủy viên và đồng chí Tám Trương - trưởng văn phòng cùng một số chiến sĩ
thuộc tiểu đoàn Vinh Quang.
Công trình lấy ngày kỷ niệm thành lập Đảng (3 tháng 2) khởi công. Theo bản
thiết kế, địa đạo được xây dựng dựa theo kinh nghiệm từ trước, bằng cách cứ
khoảng 16m tạo một giếng, đường kính 0,6m, sâu 3m, khi giáp mí thì lấp miệng.
Từ đáy giếng dùng cuốc chim khoét sâu tạo địa đạo có chiều ngang 50cm, cao
80cm. Địa đạo gồm các ngóc ngách theo thế vừa chiến đấu, vừa tiếp nối từ hầm
này đến hầm khác thành một thế liên hoàn được tính toán hết sức khoa học. Bởi
vậy có những đoạn cắt ngắn, có đoạn song song, đoạn giao nhau, đoạn trên đoạn
dưới, vòng vèo, quanh co, kéo dài đến trên 100 cây số.
Những nơi giao nhau hoặc sắp vào miệng hầm, địa đạo hẹp dần, có khi phải trườn
hoặc chui vào miệng hầm. Những giao điểm đặc biệt của địa đạo có chốt an toàn.
Chốt là một khúc gỗ, đầu nhọn dài hoặc khối mủ cao su đường kính 40cm có dây
dài. Để bịt kín địa đạo chỉ cần kéo mạnh dây, nút thắt cao su, hoặc khúc gỗ sẽ
bịt kín đường hẹp địa đạo. Chốt an toàn nhằm ngừa địch sử dụng hơi cay hoặc bơm
nước độc xuống địa đạo.
Miệng địa đạo là một trong những cấu trúc đặc biệt, rất tinh vi thường lẫn lộn
trong bụi rậm, gò mối, kích thước vừa vặn một người chui vào 30cm x 40cm. Nắp
hầm là mảnh gỗ dày 10cm, mặt khỏa cỏ tươi, chụp vừa miệng hầm. Những lỗ thông
hơi được tạo theo đường xiên 45o, núp trong các bụi rậm khó phát hiện. Tại các
miệng xuống địa đạo, thỉnh thoảng có bẫy chông, là mảnh ván bắc ngang, dưới đặt
bàn chông. Kẻ lạ bước lên, lập tức rơi xuống bẫy.
Địa đạo ở xã Phú Mỹ Hưng chia làm 3 khu: Khu trung tâm dành cho các cán bộ lãnh
đạo cao cấp. Khu bên phải gồm hầm văn phòng và hầm hội họp. Khu bên trái nơi
đóng quân của tiểu đoàn Vinh Quang (đội phòng vệ). Điểm nổi bật của khu địa đạo
ở xã Phú Mỹ Hưng là các hầm âm trong lòng đất. Những căn hầm xây dựng cho văn
phòng, y tế, hậu cần, cơ yếu, văn nghệ... cả bếp Hoàng Cầm (bếp ém khói) tập
trung khu vực mạn Đông con suối Thai Thai gọi là vườn quít. Mỗi hầm cách nhau
50 đến 70m, có kích thước như một hình vuông từ 3m đến 3,5m. Địa đạo nối các
hầm thường vòng vèo và qua một chốt bảo vệ.
Hầm tại khu trung tâm được mô tả như là một trong những kỳ công của khu địa đạo
Phú Mỹ Hưng. Tại đây có hầm làm việc của Chính ủy, Tư lệnh và Phó tư lệnh, các
khu ủy và hầm họp. Mỗi hầm cách nhau khoảng 400 đến 500m, thông nhau qua địa
đạo. Tất cả những hầm này đều xây dựng trong khu vực đất rắn pha đá sỏi, nằm
sát mí vườn nhà của hai ông: Hai Bao và Tám Cắt. Trước tiên hầm hình thành như
một hố sâu, ngang 2m, rộng 3,5m, sâu 3,5m (kể cả nóc hầm cách mặt đất 1,8m).
Nóc hầm được làm bằng các đà bê tông thả ngang, sau đó lấp kín hoàn toàn bên
trên. Trong hầm, hai bên vách có giàn cây chịu lực hình chữ A có thể mắc võng
nằm. Một số hầm có trét xi-măng chống thấm. Miệng hầm nối địa đạo thường qua
một chốt gác. Từ đây, địa đạo có ngã rẽ chia hai. Một địa đạo đặc biệt dẫn dài
đến mé sông Sài Gòn và trổ lên trong bụi ô rô. Khi có mật hiệu, ghe bên kia
sông sẽ sang rước khách đặc biệt vào căn cứ Thanh Tuyền (bên kia sông Sài Gòn
thuộc Bình Dương).
Các hầm trong khu trung tâm đều có dạng cấu trúc tương tự và đều có địa đạo
riêng thông với địa đạo đặc biệt nhằm đối phó khi có tình huống nguy hiểm.
Trong thời gian tạm lánh tại địa đạo Phú Mỹ Hưng, các đồng chí cán bộ lãnh đạo
cấp cao thường lên khỏi địa đạo đến thăm, đàm đạo với người dân trong ấp cũng
như gia đình ông Hai Bao và Tám Cắt. Khu bên trái tức khu bố phòng của tiểu
đoàn Vinh Quang với số lượng hầm ít hơn, cấu trúc thông thường như hầm hành
chánh, kích thước 3m x 3,5m. Một chiến tuyến vững chắc hình thành một vòng cung
bảo vệ khu trung tâm là một hệ thống giao thông hào xen kẽ ụ chiến đấu.
Giao thông hào sâu từ 1,2m đến 1,4m, ngang 0,5m, chạy vòng vèo theo địa hình và
kỹ thuật chiến đấu, cắt quãng hoặc tiếp nối các ụ chiến đấu. Uụ chiến đấu sử
dụng bắn máy bay gồm rãnh tròn đường kính 3m bao quanh mô đất cao quá đầu
người, ở giữa. Xạ thủ dùng mô đất vừa đặt súng, vừa làm vật cản, chạy quanh mô
đất núp bắn máy bay địch. Có ụ chiến đấu là hố sâu chứa từ 3 đến 5 người. Xạ
thủ bố trí nhiều mặt chiến đấu. Trong khu địa đạo Củ Chi có một giao thông hào
song song con lộ 6 bố trí nhiều ụ chiến đấu, trang bị hỏa lực mạnh nhằm lừa
địch, nhử địch, chặn địch và tiêu diệt địch. Ngoài ra bốn mặt khu địa đạo Phú
Mỹ Hưng (căn cứ Phú Hiệp) còn có 4 trạm thông tin, báo động, trang bị máy móc
hiện đại.
Những đồng chí lãnh đạo cấp cao thường đến làm việc và ở tại căn cứ Phú Hiệp
đôi lần trong thời gian vài ngày đến vài tháng như:
• Đ/c Nguyễn Văn Linh (bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định từ 1965 - 1975);
• Đ/c Võ Văn Kiệt (bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định từ 1960 - 1965);
• Đ/c Trần Bạch Đằng - Uủy viên thường vụ Khu ủy (1960 - 1965), bí thư Phân khu
6 (tháng 10 - 1967);
• Đ/c Mai Chí Thọ - phụ trách An ninh (1965 - 1975);
• Đ/c Uút Một - Khu ủy viên phụ trách Tuyên huấn;
• Đ/c Nguyễn Văn Tứ - Khu ủy viên phụ trách Tổ chức công an;
• Đ/c Năm Đang - Khu ủy viên phụ trách Tổ chức phụ nữ;
• Đ/c Hai Mơ - Khu ủy viên phụ trách Quân sự;
• Đ/c Tám Lê Thanh, Trần Hải Phụng...
Tháng 1/1966, Mỹ huy động hàng ngàn tăng, pháo binh, không quân, hải quân và
trên 3.000 quân đổ xuống vùng tam giác sắt (bao trùm cả địa đạo Phú Mỹ Hưng).
Đây là trận càn mang tên Crimp (cái bẫy) với đầy đủ vũ khí, kỹ thuật tối tân,
cốt phá hệ thống địa đạo. Các du kích luồn trong địa đạo, lúc ẩn lúc hiện, đánh
phủ đầu rồi lại biến mất. Cuộc hành quân tốn kém nhưng không thực hiện được ý
đồ, nên một năm sau, ngày 8/1/1967, địch tiếp tục mở cuộc càn lớn mang tên
Cedarfall với trên 12.000 quân lính đủ các binh chủng, được yểm trợ tối đa của
phi cơ, pháo binh, thiết giáp đánh phá ác liệt khu địa đạo Phú Mỹ Hưng và phụ
cận.
Chúng đưa pháo đài bay B52 rải thảm bom, dội pháo từng đợt, sau đó đưa trực
thăng đổ quân ào ạt. Một đại đội chuyên phá hầm và địa đạo, được huấn luyện tại
Đồng Dù, sử dụng chó, súng phun lửa, hóa chất, xe ủi hạng nặng và hàng chục
trực thăng chở nước bơm xuống địa đạo. Chúng dùng xe ủi đất 60 tấn, có móc thọc
sâu xuống địa đạo đoạn đưa mìn vào đánh. Chúng chia mỗi tốp 4 tên, hai tên
xuống địa đạo, trang bị mặt nạ, đặt mìn, chuyền dây phá địa đạo. Dùng bom xăng
đặc, đốt cháy cả khu rừng, biến xóm làng thành bình địa. Nhiều đoạn địa đạo
sụp, xóa mất các chốt, các miệng hầm. Mỹ thú nhận: "tìm thấy miệng địa
đạo, nhưng thiếu kinh nghiệm, không thu được gì!".
Giữa tháng 3/1967, Mỹ lại tiếp tục mở trận càn Manhattan, sử dụng tăng kèm bộ
binh từ Đồng Dù càn lên căn cứ Phú Hiệp (địa đạo Phú Mỹ Hưng). Du kích sử dụng
B40 và B41. Trận chiến diễn ra ác liệt. Địch gọi B52 rải bom. Vài đoạn địa đạo
bị sụp so với hàng chục cây số địa đạo. Lại thất bại trong mưu đồ "xóa
sổ" khu địa đạo Phú Mỹ Hưng, địch sử dụng cỏ Mỹ (loại cỏ gặp mưa phát
triển rất nhanh) cao từ 2 đến 3m, thân to và sắc, lấn át các thứ cỏ khác, gây
khó khăn đi lại và rất dễ phát hiện dấu vết. Mùa khô chúng đốt cỏ nhằm phát
hiện miệng địa đạo, rải máy đếm tiếng động của người để gọi pháo dập, hoặc gài
mìn râu, mìn cóc và tiếp tục mở hàng trăm cuộc càn phá lẻ tẻ nhưng tất cả đều
phá sản. Các chiến sĩ vẫn tiếp tục tập kích, lúc ẩn lúc hiện, chặn đầu, khóa
đuôi, gây tổn thất nặng nề cho sư đoàn "Tia chớp nhiệt đới",
"Anh cả đỏ" và sư đoàn 25 ngụy, làm cho địch bàng hoàng, sửng sốt.
Ngày nay, để tưởng nhớ công lao bao chiến sĩ anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc và đất nước, một khu đền tưởng niệm được xây dựng hết sức trang
trọng và uy nghi tại Bến Dược. Trên văn bia đặt trước đền có đoạn ghi
"...Chiến thắng lớn đến từ hy sinh to lớn. Ai đếm khăn tang, ai đong máu
chiến trường? Con của mẹ ra đi không bao giờ trở lại, mẹ khóc mỗi hoàng hôn... chim
bay về núi tối rồi...". Địa đạo Phú Mỹ Hưng được Bộ Văn hóa cấp bằng công
nhận di tích theo quyết định số 54/VHQĐ ký ngày 29/4/1979.
NGHĨA TRANG CHÍNH SÁCH CỦ CHI
Nghĩa trang chính sách dành cho đối
tượng chính sách TP sẽ được xây dựng tại ấp Cây Trắc, xã Phú Hòa Đông, Củ Chi.
Chủ trương qui hoạch này vừa được UBND TP.HCM thống nhất. Khu đất từ ranh cây
cao su, nằm bên phải đường Cây Bài (từ tỉnh lộ 8 vào), diện tích khoảng 100ha,
theo hướng nghĩa trang - công viên.
Dự kiến cuối năm 2005 nghĩa trang
sẽ đưa vào sử dụng. Dự án có các công trình phụ như trung tâm
hỏa táng, nhà lưu giữ tro cốt và
các phòng nghỉ..
Nghĩa trang chính sách Củ Chi sẽ
được dành riêng cho những người quá cố thuộc diện chính sách như thương binh,
liệt sĩ, những người có công với cách mạng… Dự kiến, nghĩa trang Củ Chi có diện
tích rộng khoảng 100 ha và trên phần đất ở ấp Cây Trắc, xã Phú Hòa Đông, huyện
Củ Chi.
Theo UBND TP HCM, do tính chất đặc
biệt của mục đích sử dụng, Nghĩa trang
chính sách Củ Chi được chú trọng tới 2 yêu cầu là xây dựng theo dạng
nghĩa trang – công viên và phân kỳ đầu tư theo 3 giai đoan. Dự kiến, diện tích
giai đoạn đầu của nghĩa trang là 30 ha, tiếp theo là 30 ha và 40 ha. Khu nghĩa
trang Củ Chi sẽ được cách ly với bên ngoài bằng dãy cây cao su để cải thiện môi
trường và cảnh quan.
Những trường hợp được chôn cất tại Nghĩa trang
Chính sách Củ Chi TP.HCM ( tại huyện Củ Chi): Bà mẹ Việt Nam anh
hùng, cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, anh hùng lực lượng vũ
trang, anh hùng lao động, cán bộ tham gia trong hai cuộc kháng chiến nay đã hưu
trí hoặc còn đang đương chức kể cả cán bộ có thời gian công tác sau ngày
30-4-1975 (đối với nam có hệ số lương 4,65, nữ là 4,32 trở lên).
DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỊA ĐẠO BẾN DƯỢC:
Di tích địa đạo Bến Dược còn gọi là
Khu di tích lịch sử văn hóa địa đạo Củ Chi, thuộc địa bàn ấp Phú Hiệp, xã Phú
Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh. Khu di tích nằm ở tận cùng về
phía Bắc của huyện Củ Chi, Tây Bắc giáp với sông Sài Gòn, Đông Bắc giáp ấp Phú
Lợi, Tây Nam giáp ấp Lộc Thuận, Lộc Hưng (Trảng Bàng) và Đông Nam giáp ấp Phú
Hòa, cách Trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70km về hướng Tây Bắc.
Năm 1961, địa đạo chỉ là những
đường hầm ngầm sâu trong lòng đất, kéo dài vài chục thước… cốt tránh địch hơn
là đối phó. Năm 1962, khi cuộc chiến chống đế quốc Mỹ bước sang giai đoạn quyết
liệt, đồng chí Võ Văn Kiệt, lúc này là bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định chỉ thị
thành lập Ban chỉ đạo xây căn cứ và công trình lấy ngày thành lập Đảng (3 tháng
2) khởi công. Địa đạo được xây dựng theo kinh nghiệm từ trước, cứ khoảng 16m
tạo một giếng đường kính 0,6m, sâu 3m khi giáp mí thì lấp miệng. Từ đáy giếng
dùng cuốc chim khoét sâu tạo địa đạo có chiều ngang 50cm, cao 80cm. Địa đạo gồm
các ngóc ngách theo thế vừa chiến đấu, vừa tiếp nối từ hầm này sang hầm khác
thành một thế liên hoàn được tính toán hết sức khoa học. Do có nhiều ngỏ ngách,
nhiều đoạn giao nhau hoặc song song nên địa đạo kéo dài trên 100 cây số, có
đoạn hẹp, rộng có khi phải trườn vào và có chốt an toàn phòng khi địch sử dụng
hợi cay hoặc bơm nước độc xuống địa đạo…. Miệng địa đạo là một cấu trúc đặc
biệt, rất tinh vi thường lẫn lộn trong bụi rậm, gò mối, nấp hầm vừa vặn một
người chui, lỗ thông hơi tạo đường xiên núp trong các bụi rậm khó phát hiện.
Điểm nổi bật của khu địa đạo là các hầm đều âm trong lòng đất. Những căn hầm
cho văn phòng, y tế, cơ yếu, hậu cần, văn nghệ, bếp hoàng cầm….
Ngày 29/4/1979 địa đạo Phú Hiệp,
Phú Mỹ Hưng được Bộ Văn hóa – Thông tin đặc cách cấp bằng công nhận di tích
lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 54/VH-QĐ.
Địa đạo Củ Chi là một hệ thống
phòng thủ trong lòng đất ở huyện Củ Chi, cách Thành phố Hồ
Chí Minh 70
km về hướng tây-bắc. Hệ thống này được Việt Minh và Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đào
trong thời kỳ Chiến tranh
Đông Dương và Chiến tranh
Việt Nam. Hệ thống địa đạo bao gồm bệnh xá, nhiều phòng ở, nhà bếp,
kho chứa, phòng làm việc, hệ thống đường ngầm dưới lòng đất. Hệ thống địa đạo
dài khoảng 250 km và có các hệ thống thông hơi tại vị trí các bụi cây. Địa đạo
Củ Chi được xây dựng trên vùng đất được mệnh danh là "đất thép", nằm
ở điểm cuối Đường mòn
Hồ Chí Minh. Trong Chiến dịch
Tết Mậu Thân 1968, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã
sử dụng hệ thống địa đạo này để tấn công vào Sài Gòn.
Năm 2015, khu di tích lịch sử địa
đạo Củ Chi đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao
động do có thành
tích đặc biệt xuất sắc trong lao
động, sáng tạo. Trong 20 năm hoạt động, khu di tích đón hơn 20 triệu lượt khách
trong và ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu.
Ngày
12 tháng 2 năm 2016, khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi đón nhận Bằng xếp hạng Di tích quốc
gia đặc biệt
DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỊA ĐẠO BẾN ĐÌNH:
Khu di tích lịch sử địa đạo Bến
Đình thuộc ấp Bến Đình, xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi, nằm về phía Bắc thị trấn Củ
Chi, giáp với sông Sài Gòn và tỉnh lộ 15, cách Trung tâm thành phố 55km. Phía
Bắc giáp với xã An Nhơn Tây, phía Nam giáp xã Phú Hòa Đông, phía Tây giáp xã
Phạm Văn Cội và phía Đông giáp sông Sài Gòn.
Trong cuộc kháng chiến, do địch tập
trung đánh phá càn quét địa bàn Củ Chi rất gay gắt nên căn cứ Huyện ủy không cố
định, phải di chuyển nhiều nơi. Từ năm 1964 - 1967, Nhuận Đức là một trong 6 xã
giải phóng phía bắc có hệ thống địa đạo hoàn chỉnh liên hoàn giữa các ấp, Bến
Đình – xã Nhuận Đức có địa thế rất thuận lợi với khu rừng trích trải dài trên
hàng trăm hecta, lại là vùng đồi cao rắn chắc tiếp giáp sông Sài Gòn, khi có
địch càn quét có thể di chuyển lực lượng về phía sông trú lui an toàn. Từ đó địa
đạo Bến Đình chính thức trở thành khu căn cứ ổn định, vững chắc và an toàn của
huyện ủy.
Khu địa đạo căn cứ huyện ủy bao gồm
các hạng mục công trình : Hầm bảo vệ, Hầm C25, Hầm văn công, Hầm y tế, Hầm
lương thực, Hầm bí thư huyện ủy, hầm bếp Hoàng Cầm…
Ngày 15/2/2004 Bộ trưởng Bộ Văn hóa
Thông tin đã ký Quyết định số 101/2004/QĐ-BVHTT xếp hạng Di tích quốc gia cho
căn cứ địa đạo Bến Đình.
Sau Đồng khởi, đến năm 1967 phong
trào đào địa đạo ở Củ Chi từng bước được cải tiến và phát triển mạnh mẽ trên
phạm vi toàn huyện, đặc biệt là ở 6 xã phía Bắc. Riêng xã Nhuận Đức có hệ thống
địa đạo liên hoàn
4 ấp: Ấp
Bàu Trăn, ấp
Xóm Bưng, ấp
Bà Thiên, ấp
Bến Đình. Do Bến Đình có địa thế rất thuận lợi, có
khu rừng trích trải dài trên 100 ha, dáng đất cao ráo, rắn chắc, khó bị sụp lỡ
lại nằm cặp sông Sài Gòn, trường hợp địch hành quân càn quét, ta có thể cơ động
về phía sông rút lui an toàn. Vì vậy, Huyện ủy Củ Chi chọn Bến Đình làm căn cứ
cơ bản để lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân Củ Chi trong cuộc chiến khốc liệt với
quân Mỹ từ 1968 đến 1975.
Cũng giống như địa đạo Bến Dược,
khi đến tham quan địa đạo Bến Đình du khách sẽ được xem phim tư liệu tại hội
trường và nghe giới thiệu về lịch sử hình thành, phát triển của hệ thống địa
đạo chiến Củ Chi. Ngoài việc tham quan hệ thống đường hầm, nơi ăn ở, sinh hoạt,
hội họp của các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy Củ Chi, hầm chế tạo vũ khí, nhà
trưng bày vũ khí tự tạo…nơi đây còn có hệ thống chiến hào chằng chịt, có đường
địa đạo ra hướng căn cứ Đồng Dù, nơi Sư đoàn 25 của Mỹ có biệt hiệu là “Tia
chớp nhiệt đới” đóng quân. Và càng thú vị hơn, du khách sẽ nhìn thấy xác chiếc
xe tăng M41 của quân đội Mỹ bị vướng mìn gài của du kích năm 1970 nằm giữa khu
rừng. Đây là minh chứng cho sự thất bại của quân đội Mỹ trên chiến trường Củ
Chi khi phải đối mặt với một đội quân vô hình dưới lòng đất.
Trên đường tham quan du khách càng
thêm phấn khích khi nghe tiếng súng vọng lại từ xa và sẽ không bao giờ bỏ qua
cơ hội thử cảm giác mạnh và tài bắn súng của mình tại Trường bắn thể thao quốc
phòng. Kết thúc chuyến tham quan, du khách sẽ ghé thăm khu vực bán hàng lưu
niệm để thỏa thích
lựa chọn cho mình, người thân và
bạn bè những mặt hàng lưu niệm chiến tranh được làm từ vỏ đạn như: Đèn dầu, bật
lửa, bút bi, dây đeo, hay đôi dép râu làm từ lốp xe cũ và những mặt hàng sơn
mài, mỹ nghệ cao cấp, những mặt hàng mây, tre, lá đặc trưng của các làng nghề ở
Củ Chi.
KHU
NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO TP. HỒ CHÍ MINH
Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP.
Hồ Chí Minh được xây dựng theo Quyết định số 3534/QĐ- UB ngày 14 tháng 07 năm
2004 của Ủy Ban Nhân Dân TP. Hồ Chí Minh. Địa điểm tại xã Phạm Văn Cội, huyện
Củ Chi, nằm trên tuyến đường đi địa đạo Củ Chi và cách trung tâm thành phố Hồ
Chí Minh 44 km về phía Tây Bắc, thuận tiện giao thông đi các tỉnh.
Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP.
Hồ Chí Minh có diện tích 88,17 ha với tổng kinh phí đầu tư 152 tỷ đồng từ ngân
sách nhà nước, đang xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, các công trình phục vụ
quản lý hoạt động, bao gồm các công trình như giao thông, thoát nước, cấp điện,
cấp nước, xử lý nước thải, văn phòng làm việc, nhà thí nghiệm, hệ thống nhà
kính, nhà lưới, nhà kho, nhà học tập và chuyển giao cộng nghệ, hệ thống viễn
thông, …. Trải qua 5 năm hình thành và phát triển, Khu Nông nghiệp Công nghệ
cao TP. Hồ Chí Minh đã phát triển thành một Khu kinh tế kỹ thuật, thu hút đầu
tư trong và ngoài nước, huy động các nguồn lực khoa học công nghệ cao trong sản
xuất nông nghiệp.
Đây sẽ là cái nôi tập trung lực
lượng sản xuất hiện đại, kết hợp sản xuất kinh doanh với nghiên cứu, tiếp thu,
chuyển giao, phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao, gây dựng tiềm lực về công
nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp cho vùng Đông Nam bộ và Nam Bộ, cũng như cả
nước, thúc đẩy công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn, là nơi
đào tạo nguồn nhân lực cho sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Khu Nông nghiệp Công nghệ cao Tp.
Hồ Chí Minh là nơi thu hút và quy tụ các nguồn lực, năng lực công nghệ cao
trong nông nghiệp, theo hướng nền nông nghiệp đô thị, khu du lịch tri thức nông
nghiệp, là nơi ươm tạo công nghệ mới, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ, thương
mại hoá công nghệ, hỗ trợ kinh tế hộ, kinh tế trang trại.
Khu Nông nghiệp Công nghệ cao Tp.
Hồ Chí Minh là mô hình mẫu về phát triển các Khu Nông nghiệp Công nghệ cao khác
với các tiêu chí cụ thể bằng định lượng (hàm lượng chất xám, hiệu ích kinh tế
và hiệu ích xã hội – sinh thái).
Khu Nông nghiệp Công nghệ cao Tp.
Hồ Chí Minh là nơi tiếp thu và từng bước làm chủ tri thức, công nghệ mới trong
các ngành chủ lực của sản xuất nông nghiệp, là nơi nghiên cứu, ứng dụng các tri
thức công nghệ đã làm chủ vào thực tế tại Khu Nông nghiệp Công nghệ cao; đồng
thời khuyết tán công nghệ cao tới các nông hộ, trang trại,… ở các tỉnh Nam Bộ.
Khu Nông nghiệp Công nghệ cao Tp.
Hồ Chí Minh là nơi ươm tạo công nghệ, hỗ trợ cho ra đời và đi vào hoạt động của
các doanh nghiệp nông nghiệp có ý tưởng sáng tạo dựa trên công nghệ cao, là nơi
cung cấp các dịch vụ cho các đối tượng tham gia nghiên cứu, sản xuất trong Khu
Nông nghiệp Công nghệ cao và tham gia đào tạo ngắn hạn nguồn nhân lực, tổ chức
hoạt động du lịch tri thức nông nghiệp.
KHU
TRỒNG RAU SẠCH VIN ECO - VINGROUP
Sau bước khởi đầu thành công tại
nông trường Tam Đảo (Vĩnh Phúc) , Công ty TNHH Đầu Tư sản xuất Phát triển nông
nghiệp VinEco tiếp tục triển khai đầu tư xây dựng nông trường thứ hai tại huyện
Củ Chi, TP Hồ Chí Minh. Nông trường Củ Chi đã chính thức được đưa vào hoạt động
từ tháng 7 năm 2015, cung cấp các loại rau, củ, quả với nhiều chủng loại đa
dạng, phong phú như mồng tơi, rau muống, dền, bí ngọn hay các loại quả như khổ
qua, bầu bí, đậu bắp, dưa leo…
Với diện tích tương đối lớn: 136
ha, nằm gần khu nông nghiệp công nghệ cao của TP Hồ Chí Minh, nông trường Củ
Chi có thế mạnh thuận lợi cho việc áp dụng công nghệ tiên tiến hàng đầu thế
giới. Hơn nữa, nông trường được đầu tư ứng dụng các phương pháp sản xuất hiện
đại, thân thiện với môi trường, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu chất
lượng về tất cả các yếu tố đầu vào như đất, giống, nước tưới cũng như quy trình
chăm sóc, thu hoạch, đóng gói, bảo quản, và phân phối…. Vì vậy, sản phẩm của
công ty VinEco sẽ luôn đạt chất lương theo tiêu chuẩn VietGap và Global Gap,
đáp ứng tối đa kì vọng của người tiêu dùng Việt.
Một số quán ăn ngon tại tp.HCM
- Bún bò :
+ Bún bò chợ chiều, đường Ngô Tất Tố (gần nhà Loan Anh và Yến đấy nhé, 12.000/
tô
+ 115 Bùi Thị Xuân Q1 ( ngay góc ngã ba Bùi Thị Xuân - Cống Quỳnh ) 10 nghìn/tô
chất lượng
+ 19bis Trần Cao Vân Q1 ( ngay gần ngã tư Hai Bà Trưng - Trần Cao Vân ) 8
nghìn/tô nhỏ , 9 nghìn/tô lớn chất lượng
+ 110a Nguyễn Du ( chính giữa báo công an và nhạc viện thành phố ) 10 nghìn/tô
+ 1241 Mùng 3 Tháng 2 Q10, 10 nghìn/tô chất lượng như vàng
+ Bùi Viện - Đỗ Quang Đẩu (cách đây 3 năm 11000) chổ này ngon hơn ở chỗ BTX
+ Bún bò đường Nguyễn Thị Minh Khai (gần quán món huế Hồng Hạnh), 13.000 và
15.000/ tô. Rất lạ, tô bằng inox, nhỏ xíu hà
+ Trên đường Bạch Đằng gần chợ Bà
Chiểu có 2 quán cũng rất ngon, lề đường thui
- Xôi gà 111 Bùi Thị Xuân Q1 ( gần bún bò ) giá dao động từ 6 nghìn -
12 nghìn
- Bánh mì 122c Bùi Thị Xuân Q1 . Ngon cực . Giá chỉ 4 nghìn/ổ
- Cơm tấm Ba Ghiền trên đường Đặng Văn Ngữ ( đối diện trường Phú Nhuận ), miếng
sườn to như cái dĩa , ăn phê mún chít
Thêm1 quán ở Lê Văn Sỹ, miếng sườn cũng to lắm, nhưng LA ko thích lắm vì cơm ít
quá. Thích nhất là quán cơm tấm Mai ở Nơ Trang Long (Đinh Tiên Hoàng cũ), món
kim chi ngon tuyệt.
Trên đường XVNT (khúc đường 2 chiều) có khá nhiều quán cơm tấm, nhưng ngon nhất
chỉ có quán gần ngã 4 Hàng Xanh là ngon nhất, cơm hơi ít nên bắt buộc phải kêu
cơm thêm. Món canh củ ngon tuyệt có cả xương, 5000/ chén
- Mì gõbên cạnh trường Đồng Khởi . Giá ( chưa cập nhật )
Ở gần trường GTVT Tp. HCM cũng có 1 chỗ, ăn được lắm, giá 3000 đ. Đủ loại, hủ
tiếu, hoành thánh, mì... Ngay gần quán cafe V.V phía đường Ung Văn Khiêm, gần
ngã tư với đường D2.
Đường Nguyễn Công Trứ ( Ngô Tất Tố quẹo vô, chạy đến ngã 4 nhìn bên trái, ngon
cực kỳ. ĐẶC BIỆT: bỏ ớt rất nhìu, món hoành thánh thật tuyệt, chỉ 3000/ tô
- Mì dzịt tiềm
+Dìn chón mì gia trên đường Phan Đình Phùng ( gần chợ Phú Nhuận ) . 26 nghìn 1
tô chất lượng
+1 tiệm trong hẻm ở đường Nguyễn Tri Phương gần ngay ngoài đường . Giá rất sinh
viên 11 nghìn 1 tô ( hồi đầu chỉ 10 nghìn )
- Bánh bèo
Thanh Nga ( đúng gốc Huế ) nằm trong hẻm 45b Kỳ Đồng ( đối diện hồ bơi Kỳ Đồng
) ngon nhất trong những tiệm bánh bèo đã ăn . 8 nghìn/dĩa.
Thêm 1 địa chỉ nữa, đường Rạch Bùng Binh (nằm giữa đường Nguyễn Thông và Trương
Định đóa)
Trên đường 3/2 cũng có 1 quán, ngay gần đối diện làng nướng (chưa đến Kỳ Hòa).
Ngồi dạng quán cóc. Ngay đầu hẻm có treo biển bánh bèo, ngồi dọc theo con hẻm
đó. Hẻm kế bên 1 tiệm bán giày Bata. 7000 / dĩa- Phá lấu
+ Bờ kè , chạy từ ngã tư Nguyễn Thị Minh Khai - Hai Bà Trưng tới cầu Thị Nghè
thì rẽ trái vào bờ kè đi 1 xíu sẽ thấy ngã 3 . Rẽ trái vào sẽ thấy toàn bán phá
lấu . Ăn ở tiệm trong cùng là ngon nhất . 5 nghìn/chén (hồi trước thì ngon, bi
giờ dở òm)
+ Cô Oanh 200/20 Xóm chiếu, P.14, Q.4, TP. Hồ Chí Minh . Điện thoại 9000384 .
Vào Q.4 hỏi đường xóm chiếu, chợ 200, tới chợ hỏi quán phèo hoặc phá lấu cô
Oanh
- Khu ăn uống tổng hợp nằm trong 1 cái hẻm trên đường Võ Văn Tần ( gần ngã tư
Võ Văn Tần - CMT8 ) có rất nhiều món để lựa chọn
- Hủ tíu Nam Vang (món khoái khẩu) :
Hoàng nằm ở ngay ngã tư Vĩnh Viễn - Nguyễn Tri Phương . Giá 8 nghìn/tô , ăn
ngon lém
Ở đường Điện Biên Phủ (hướng về cầu Sài Gòn thì nó nằm bên trái, qua ngã 4 Hàng
Xanh 1 tí
Tuyệt nhất là ở Chú Há, Võ Văn Tần, nhưng đến 25000/ tô, hix
Ở đường Võ Văn Tần, kế Bảo tàng chứng tích chiến tranh cũng rất ngon đó
Một tiệm nữa trên đường Bạch Đằng - Bình Thạnh. Đi theo hướng từ đường Đinh
Tiên Hoàng đến Vòng xoay, wa chợ Bà Chiểu một chút, bỏ 1 cái ngã ba, ngã ba
tiếp theo, ngay đầu đường có 1 quán. 14.000/tô, ăn cực kỳ, đủ cả tôm, mực. hehe
Phở
-Phở gà hẻm 14 Kỳ Đồng , đi vào trong sẽ gặp 1 tiệm phở rất đông , ăn ngon vãi
. 8 nghìn/tô. Hoặc là Phở 24, Phở Lệ...
- Bún riêu cua ốc-Trong hẻm 14 Kỳ Đồng đi sâu vô hơn nữa là gặp . 8 nghìn 1 tô
ăn phê lắm. Kế đó là quán kế sân vận động Hoa Lư, đường Đinh Tiên Hoàng đó
- Bánh canh cua ngay góc Trần Đình Xu - Cao Bá Nhạ . Cách đây 1 năm mấy 8000/1
tô
1 tiệm chỉ bán buổi sáng ngay khu Ngân hàng, đi đường Hàm Nghi, đến gần ngã tư
có Như Lan thì quẹo về phía quận 4. Ngon cực. 12.000 / 1 tô, quá trời cua luôn.
Tại quán Hồng Hạnh, đường NTMK cũng tuyệt lắm đó. Tại đó cũng có khá nhiều món
ăn Huế, ngon nhất là món bánh cuốn nóng và bánh hỏi- Súp cua : đối diện chợ bà
chiểu buổi chiều , 3000 1 tô, nếu thích mua thêm 2000 cua , ăn một chén thoải
mái
- Súp óc heo : đâu đó gần khu đại học ktế NG TRI PHUƠNG , 3000 chén súp , 7000
bộ óc heo - Gà nướng Dziệt Nam , nằm dọc theo đường Vĩnh Viễn từ Ngô Gia Tự -
Vĩnh Viễn tới Nguyễn Tri Phương - Vĩnh Viễn có 3,4 tiệm bán gà nướng phết mật
ong ăn rất phê . 40 nghìn/con (cái này anh em để nhậu thì hết ý ) . Còn thèm
chân gà nướng thì mời đến đường Trường Sơn, gấn sân bay, 6000/chân, nhưng coi
chừng chạy công an nha
- Cháo mực Thanh Sơn 144 Nguyễn Đình Chiểu f6 q3 . 5 nghìn/tô
- Bít tết
+Hoả Diệm Sơn 41 Võ Văn Tần và 102 Cao Thắng 28 nghìn/phần
+Nam Sơn ( 2 chi nhánh ) 200Bis Nguyễn Thị Minh Khai và 188 Nam Kỳ Khởi Nghĩa
24 nghìn/phần
+1 tiệm đối diện hồ bơi Kỳ Đồng trên đường Kỳ Đồng , ngon mà rẻ lắm . Chỉ 13
ngàn 1 phần ( gần bánh bèo Thanh Nga )
+1 tiệm mà họp lớp A4 được 3-4 lần đều ăn ở đó (thật nhiều kỉ niệm) . Nằm trên
đường An Dương Vương thì phải . 15 ngàn 1 phần
+1 tiệm ở Lý Chính Thắng, gần tới Hai Bà Trưng, quẹo vào hẻm bên trái. Quán nì
có món mì ý là tuyệt nhất
- Bánh khọt Cô Ba Vũng Tàu 59b Cao Thắng
- Bánh xèo Đinh Công Tráng ( ngay ngã ba Hai Bà Trưng-Đinh Công Tráng quẹo vào
) . Giá mắc . Quán "Ăn là ghiền" nghe quảng cáo và khen quá trời mà
LA chưa đc ăn, hix
- Sủi cào , há cảo , cảo chạp nằm trên đường Hà Tôn Quyền, ngay góc ngã 3 Hà
Tôn Quyền - mùng 3 tháng 2. Có 1 tiệm bán mì người Hoa ở đường Camette, Q.1, ăn
thứ món há cảo ở đó 9ko ăn ko ghiền)
- Đồ chay : cuối đường Trần Đình Xu . 5000 1 tô phở chay, mì chay , hủ tiếu
chay . Đừng khinh thường nhá , hơi bị nổi tiếng đó . Có lúc ngày rằm , ca sĩ
Thu Minh đi chiếc xe hơi lại đó ăn luôn đó , ngon lắm (theo bé P nói )
- Đồ tàu cơm gà Đông Nguyên ở góc Nguyễn Trãi với Châu Văn Liêm , bán đủ từ mấy
món bình thường tới mấy món đặc biệt . Trước khi đi có ăn óc heo tiềm thuốc bắc
ở đó, ngon lắm. Giá thì tùy món , từ 8000->60000
Sành điệu 1 tí
- Nhà hàng Cổ Ngư nằm trên đường Pastuer ( gần ngã tư Pastuer - Điện Biên Phủ )
, không gian đẹp cực kì , riêng tư cho 2 người , đốt nến , vô cùng lãng mạn ,
bàn riêng , có người đánh Violon , có bồi bàn riêng , thích hợp cho các bro
thích làm bạn gái choáng miss . Có thể lên đặt bàn trước và chọn món , chọn
rượu trước . Nếu đặt 3 món : ví dụ 1 món hải sản khai vị , 1 món tôm lăn bột và
1 món lẩu cá hồi ALASKA , 2 ly rượu Bordeaux ( 45 ngàn 1 ly ) . Tất cả chỉ
khoảng trên dưới 500 ngàn . Lưu ý : nên lên đặt bàn , chọn món , chọn rượu
trước để kiểm soát được giá và khi đón nàng nhớ tặng nàng 1 bó hồng 5 trắng , 5
đỏ chỉ 30 nghìn để cầm tới cho sang và lãng mạn nhé
- Nhà hàng Dìn Kí 48-50 Lê Thị Hồng Gấm Q1 . Chắc Dìn Kí đã quá nổi tiếng nên
mình kô cần quảng cáo thêm . Nơi đây hội đủ 3 yếu tố : ngon , bổ , rẻ . Có đầy
đủ loại hình phục vụ : ăn riêng gọi món , buffet , ... Ngoài cổng có cái bảng
tổ bố ghi giá cả cho bà con đỡ sợ khi vào . Mình kô nhớ chính xác là bao nhiu
nhưng nhớ là rất rẻ so với những nơi khác . Mọi người đi đảm bảo sẽ kô hối hận
- Làng nướng Nam Bộnằm trên đường CMT8 ( gần ngã ba CMT8-Tô Hiến Thành ) không
gian đẹp , phục vụ rất tốt , các món nướng ăn rất ngon , cũng là 1 chỗ ăn lí
tưởng . Nếu đi 2 người thì khoảng 100 ngàn tất cả .
- Gà nướng Pháp Letoire 354 Võ Văn Tần và Hai Ba Trưng (gần ngã tư Điện Biên
Phủ), nằm giữa Kinh Đô và Đức Phát, thực đơn gồm 30 món đặc biệt là món Gà
Nướng Pháp, Bò, Cừu, Bò nấu rượu vang, Cơm gà và Kem chuối
. Lần đầu tiên ăn 1 chỗ có thuế GTGT 10% . Khoảng 25-35 nghìn/phần
- Quán nướng Chiều nay kiểu Nga 30B Võ Văn Tần Quận 3 , rất nhiều món ngon và
độc đáo như : kangaroo nướng , đà điểu nướng , cà ri dê , xúc xích nướng , heo
nướng kiểu Nga , ... , giá rất hợp lí 30-55 ngàn/món hehe
- Lẩu dê Điện Biên Phủ( gần đường CMT8) ăn ngon cực , 50 nghìn/vú nướng béo
ngậy , 50 nghìn/lẩu ( lẩu dê Trương Định hả , vứt , tớ đã ăn 2 tiệm roài ). Còn
muốn thưởng thức thịch dê "chính gốc", mời đến quán Mái Lá ở Hồ Xuân
Hương, ở đây có món bò luộc Củ Chi rất tuyệt vời
- Quán Tri Kỷ , ngay góc ngã tư Lê Văn Sỷ - Phạm Văn Hai , đầy đủ tất cả các
món ăn 3 miền , từ heo , bò , gà , dê cho tới chuột , dơi ,nhím cho tới cá hồi
, cá mập , cá Nhật , cá đuối cho tới nai , cheo , hoẵn , kangoroo ... Nếu các
bạn thích các món lạ thì nên ghé wán này . Giá phải chăng : 30-60 ngàn/món hoặc
lẩu
- Lẩu bò Minh ngay gốc ngã tư Ngô Thời Nhiệm - Trương Định . Giá cả 40k/lẩu nhỏ
, 60k/lẩu lớn , 3 người ăn cái lẩu lớn thôi là quá ngon và no muốn banh
xác luôn , cái này đi họp mặt, nhậu nhẹt hoặc kiếm bữa ăn gia đình
là ok lắm
-Lẩu dê , bò , cá kèo , ... 1 loạt dọc theo đường Bạch Đằng gần sân bay Tân Sơn
Nhất . Giá cả phải chăng
- Vú dê nướng , lẩu cá : quán 77 ở DHQG Linh Trung Thủ Đức 15000 , ngon ( cái
nì hồi đi học quân sự trốn ra nhậu hoài à
Trái cây tươi , sinh tố , nước ép trái cây , ...
- Nước cam , bưởi 122b Bùi Thị Xuân Q1 . 4 nghìn/ly ( bịch ) wá chời cam còn
hơn vào cafe 8 nghìn - 18 nghìn/ly cam có tí tẹo
-Trái cây tươi , sinh tố :
+Cuối đường Nguyễn Cảnh Chân Q1 , ngay góc ngã 3 Nguyễn Cảnh Chân - Trần
Hưng Đạo , ngay chỗ Công An TP quẹo vào đi đến gần cuối đường . 4
nghìn/dĩa trái cây ăn phê lòi
+Ngay ngã tư Trần Quốc Thảo - Võ Thị Sáu có tiệm bán sinh tố trái cây ngon cực
. Giá dao động 3-5 nghìn/ly
+ Sinh tố ở Võ Văn Tần hay Lê Văn Sỹ, An Dương Vương cũng tuyệt cả
-Kem Pinky ( 3 chi nhánh )
+20bis Trương Định Q3
+55Bis Sương Nguyệt Ánh Q1
+Bà Huyện Thanh Quan ( gần trường Minh Khai , ngay ngã tư Bà Huyện Thanh Quan -
Tú Xuơng )
-Chè
+Yên Đỗ 79 Lý Chính Thắng F8 Q3 . 3-4 nghìn/ly
+75 Trần Huy Liệu .3-8nghìn/ly
+Thái 380 Nguyễn Tri Phương ( từ ngã tư 3/2 - Nguyễn Tri Phương tới ngã tư
Nguyễn Tri Phương - Vĩnh Viễn ) có rất nhiều chè Thái ( sầu riêng ), giá 7k/ly
ăn phê lòi
+Chè nóng : ngay ngã 3 Ng Cư Trinh với Cống Quỳnh 1000 1 chén nhưng ngon
CÁC QUÁN CAFÉ NỔI TIẾNG Ở SÀI GÒN
1.
Quán Cõi riêng :Địa chỉ của quán là :
334A, Nguyễn Trọng Tuyển. Q.Tân Bình, TP.HCM
2.
Quán Lối Về :Địa chỉ quán : 438 Nguyễn
Kiệm, P.9, Q. Phú Nhuận, Tp.HCM
3.
Cà phê Nhỏ và Xinh, 91 Nguyễn Trọng Tuyển,
quận Phú Nhuận, TP HCM
4.
Cà phê Dạ Khúc: 39/2 Phạm Ngọc Thạch,
quận 1.
5.
Tìm về Chốn Xưa 63/14/4 Lê Văn Sỹ, phường
13, quận Phú Nhuận, TP HCM
6.
Cà phê Sỏi Đá: 6B Ngô Thời Nhiệm, quận 3,
TP HCM
7.
Quán Nắng Xanh: 58 Phan Xích Long, phường
1, quận Phú Nhuận, TP HCM
8.
Era: Địa chỉ là 58C Trần Quốc
Thảo, góc Trần Quốc Thảo - Tú Xương
9.
Tưởng Niệm: 55A Trần Bình Trọng, Bình
Thạnh.
10.
Miền Đồng Thảo - 221A
Nguyễn Trọng Tuyển, Phường 8, Quận Phú Nhuận
11.
Country House Café: 18C Phan
Văn Trị, P. 10, Quận Gò Vấp
12.
Cafe Du Miên: 7 Phan Văn Trị, Gò Vấp
13.
Heritage Concept Chill Hub: 190 – 192 Võ Văn
Kiệt, Quận 1.
14.
Nu Bistro: Tầng 2, 25 Hồ Tùng
Mậu, Quận 1
15.
Thinker&Dreamer Coffee:Lầu 4, chung cư 42 Nguyễn
Huệ, Phường Bến Nghé, Quận 1
16.
The Open Space: 232/13 Võ Thị Sáu,
Quận 3.
17.
Chanchamayo Coffee: 6A Ngô Thời Nhiệm, Quận 3
18.
CI5: 243 Lê Văn Sỹ,
quận 3, Tp HCM
19.
The Dome Kaffe: 10/16 Đoàn Thị Điểm,
Quận Phú Nhuận
20.
Nhã Nam Book N’ Coffee: 015, Chung Cư 43 Hồ Văn
Huê, Phường 9, Phú Nhuận
21.
Almacen Café: SA-14 Garden Plaza 1
Tôn Dật Tiên, P.Tân Phong, Quận 7.
22.
Master’s Cup Coffee House: Panorama, 206 Trần
Văn Trà, Tân Phong, Quận 7
23.
Tròn Bistro: 139/23 Đinh Bộ Lĩnh,
Quận Bình Thạnh, TP. HCM
24.
Bosgaurus Coffee: Saigon Pearl, Bình
Thạnh, Hồ Chí Minh
25.
Starbuck: Chung cư Lakai,
98-126 Nguyễn Tri Phương, Phường 7, Quận 5, Hồ Chí Minh
26.
Xúc xắc xoay Coffee: 157/1 Nguyễn Chí
Thanh, Phường 12, Quận 5, Hồ Chí Minh
27.
Cà Phê LUP & Trà Sữa: 97L1 Nguyễn Duy
Dương p9 Q5, Phường 9, Quận 5, Hồ Chí Minh
28.
Sapphire Cafe: Số 1 Kênh Tân Hóa, P. Hòa
Thạnh, Quận Tân Phú, TP. HCM
29.
Ice Coffee: 747 Trường
Chinh .P Tây Thạnh .Q Tân Phú . Tp HCM
30.
Xì Gòn Phố: 796/19 Sư Vạn Hạnh,
phường 12, quận 10, TP Hồ Chí Minh
31.
Boong Café: hẻm số 525/33Bis Tô
Hiến Thành, P. 14, quận 10
32.
Stone Castle Café: 110 Tô Hiệu, Quận
Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh
33.
Zest Cafe: 19 Hòa Bình, Bình
Thọ, Thủ Đức, Hồ Chí Minh
34.
Quán Sweet Berry Cafe: 22 Tô Ngọc
Vân, Quận Thủ Đức, TP. HCM
Các Nông Trại Ở
Sài Gòn
NÔNG TRẠI HOA LÚA
GIỚI
THIỆU
Nông trại Hoa Lúa được xây dựng từ
năm 2016 trên diện tích 3 hecta tại xã
An Phú, huyện Củ Chi, cách trung
tâm Thành phố Hồ Chí Minh 40km
Đến với Hoa Lúa, quý khách sẽ được
trải nghiệm một không gian tươi mát an
lành với chim muông, cây trái.
Những hoạt động tại Hoa Lúa vừa vui
thú,
vừa ý nghĩa chắc chắn sẽ tạo nên
những khoảnh khắc tuyệt dịu trong lòng mỗi du khách
MỤC
TIÊU CỦA NÔNG TRẠI HOA LÚA:
“Tạo
ra môi trường tốt nhất để trẻ em trải nghiệm và học hỏi, để từ đó phát triển
bản thân một cách tự nhiên, hiệu quả nhất”
TÍNH
GIÁO DỤC – ƯU TIÊN HÀNG ĐẦU TẠI HOA LÚA
Hoa Lúa tập trung phát triển những
giá trị và ý nghĩa giáo dục thực tiễn. Nghĩa là không nặng lý thuyết, hàn lâm
mà là:
o
Khơi
dậy sự tò mò, thích thú khám phá. “Thích được học” chứ không phải “bị đi
học”
CHƯƠNG
1 Truyền tải sự hiểu biết
thực sự, mang tính thấu hiểu, cảm thụ và tự biểu đạt lại cho người khác hiểu
-
Có
sự trải nghiệm hoạt động để thông qua đó cảm thụ toàn bộ kiến thức o Có
sự vận
dụng, thực hành & sáng tạo để biến kiến thức thành sản phẩm.
o Có sự hợp
tác, trao đổi để thông qua đó rèn luyện kĩ năng hợp tác, và tạo ra
những thứ lớn hơn
o
Có mục tiêu
xác định, và làm việc theo dự án để thích nghi với môi trường
thực tế.
ĐƯỜNG ĐI NÔNG TRẠI HOA LÚA
ĐC:
16 Đường 775 (Nguyễn Văn Tiệp), Ấp Xóm Chùa, Xã An Phú, Huyện Củ Chi
Đường
đi 1: QL22 – Hương lộ 2 – Cây Bài (Nghĩa
Trang Chính Sách Củ Chi –
Khu NN Công Nghệ Cao – Khu Rau
Sạch VinECO) – Ba Thiên – TL15 – Cây Gõ
Đường
đi 2: QL22 – TL15 (Địa đạo Bến Đình) – Cây Gõ
NỘI
DUNG SINH HOẠT TRƯỚC & SAU KHI THAM GIA TRẠI 1. QUY ĐỊNH & NỘI QUY
o
Tuân
theo chỉ dẫn của hướng dẫn viên & nhân viên trại o
Không tự ý
bỏ nhóm/đoàn
o
Không đến gần
các khu vực nguy hiểm: hồ cá, ao nước, …
o
Không đến
gần/chọc phá các con vật nguy hiểm: cá sấu, chó, heo rừng, … o Không
chạy nhảy khi trời mưa, nền trơn trợt
o
Không tự ý
hái trái cây ở trại
o
Không phá hại
cây cối, đồ đạc, cơ sở vật chất tại trại
o Chỉ được bơi
khi có sự cho phép và có người trông coi
2.
KIẾN THỨC SINH HOẠT TRƯỚC
& SAU KHI TRẢI NGHIỆM.
Mục
tiêu:
▪
Khai mở sự tò mò, thắc mắc.
Tạo sự háo hức khám phá, …
▪
Ôn tập lại những điều đã
trải nghiệm, học hỏi
▪
Sáng tạo, vận dụng vào thực
tiễn
a.
Lúa
– Gạo – Cơm là gì ? Làm sao ta có cơm ăn? Làm sao trồng được cây lúa? …
b.
Thạch
cao là gì? Làm sao tạo ra bức tượng thạch cao? Thạch cao có ích gì trong cuộc
sống quanh ta? …
c.
Nấm
bào ngư là gì? Làm sao trồng được nấm bào ngư?
d.
Điện
là gì? Điện có lợi ích gì? Làm sao điện khiến cho máy móc hoạt
động? …
e.
Hoa
Lúa ở đâu? Hoa Lúa có gì hay?
Và những kiến thức khác có liên
quan đến những hoạt động mà các em trải nghiệm
III. CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH TẠI NÔNG TRẠI HOA LÚA
Hướng
dẫn viên cần bảo đảm thực hiện đúng các tiêu chuẩn hoạt động, và truyền tải đầy
đủ nội dung trong hoạt động
NGUYÊN
TẮC CƠ BẢN TRONG MỌI HOẠT ĐỘNG
BƯỚC 1: CHUẨN BỊ
-
Chuẩn bị khu vực hoạt động,
vệ sinh không gian
-
Chuẩn bị dụng cụ, vật liệu
cần thiết cho hoạt động
-
Chuẩn bị nội dung hoạt
động, thuyết minh, trò chơi, thi đua
BƯỚC 2: DIỄN RA HOẠT ĐỘNG
-
Tuân theo những nguyên tắc
chính của hoạt động
-
Đảm bảo truyền tải đúng-đủ
nội dung thuyết minh, và ít nhất 5 phút/hoạt động
-
Cho học sinh trải nghiệm
nhiều nhất có thể
-
Cho học sinh tương tác, hỏi
đáp, thi đua để hiểu rõ hoạt động. Và tổng kết những gì rút ra được sau hoạt
động.
BƯỚC 3: KẾT THÚC HOẠT ĐỘNG
-
Dọn vệ sinh khu vực hoạt
động
-
Thu gôm, cất lại chỗ cũ
những dụng cụ sử dụng
1.
HOẠT ĐỘNG CẤY LÚA
a.
Kiểm tra : Kiểm tra trạm có sẳn sàng,
ruộng lúa có vấn đề gì không, Đã mở cổng hay chưa
b.
Thuyết minh về Cây Lúa, quá
trình phát triển của cây lúa
Giới thiệu về cây lúa, về gạo. Lợi ích của lúa gạo
trong đời sống. Các loại gạo, nếp, …
-
Cách
làm ra gạo, xây lúa như thế nào, bảo quản, nấu ăn như thế nào
-
Cách
làm cho hạt lúa nẩy mầm
-
Quá
trình phát triển của cây lúa ,…
c. Hướng dẫn cách cấy lúa
Hướng dẫn viên trực tiếp đi xuống ruộng
-
Hướng
dẫn cách bước đi trên ruộng, chân thẳng vuông gốc, dậm thẳng xuống
-
Hướng
dẫn cách nhổ mạ, bảo vệ gốc rễ. Tách các chùm lúa ra, không để nguyên chùm cấy
xuống
-
Hướng
dẫn cách cầm cây mạ cắm xuống, ngón tay cái giữ gốc mạ, cắm sâu xuống cho cây
đứng vững
-
Hướng
dẫn cấy mạ thẳng hàng, cách đều nhau 20cm
d.
Tổ chức trò chơi, thi đua,
tương tác trong hoạt động cấy lúa
-
Phân
chia đội, thi đội nào cấy nhiều hơn, đẹp hơn trong thời gian giới hạn
LƯU
Ý:
•
Hướng
dẫn viên trực tiếp xuống ruộng lúa để hướng dẫn học sinh
•
HDV
sâu sát, hỗ trợ học sinh lên - xuống ruộng, đề phòng trơn trượt
•
Thuyết
minh đầy đủ những nội dung cốt lõi Cách cấy mạ là nội dung bắt buộc phải có
•
Chuẩn
bị mạ cho học sinh cấy Chia mạ thành chùm nhỏ
•
Hướng
dẫn học sinh cấy thành hàng thẳng,
•
Hướng
dẫn học sinh xếp hàng đi theo nhóm lần lượt, 1 hàng xuống, 1 hàng lên
•
Không
đi lũ lượt lộn xộn, gây tắt nghẽn đường đi giữa các xe cùng tham gia
ĐC: 16 Nguyễn Văn Tiệp,
Xã An Phú, H. Củ Chi, Tp HCM |
Email:
info@dulichhoalua.com |
ĐT: 0899.770.880 * Ý kiến
góp ý: gopy.dulichhoalua.com |
*
Website: www.dulichhoalua.com |
2.
HOẠT ĐỘNG BẮT CÁ
LƯU
Ý:
•
Kiểm
tra khu vực bắt cá của xe mình
•
Kiểm
tra mực nước khu vực bắt, phải phù hợp với cấp lớp: Mẫu giáo, cấp 1, 2, 3.
Không quá cao, không quá thấp
•
Kiểm
tra số lượng cá chuẩn bị thả xuống, có đủ bắt hay không
•
Sau
khi xe trước bắt xong, thả cá xuống lại để xe sau tiếp tục bắt
•
Giữ
lại 3 con cá/1 xe để nướng cho học sinh ăn tại chỗ
•
Kiểm
tra người trực khu vực bắt cá. Ai thả cá? Ai nướng cá? Lò nướng có sẳn sàng hay
không? Dĩa, muối?
•
Chuẩn
bị rổ nhựa để cho học sinh sử dụng bắt cá
•
Chuẩn
bị loa, âm nhạc để hoạt náo trong hoạt động
•
Ước
lượng số xe sẽ tham gia tại khu vực để
+
Canh
thời gian vào ra
+
Canh
lượng cá
+
Điều
phối các khu vực bắt cho phù hợp
3. HOẠT
ĐỘNG TẮM MƯA NHÂN TẠO
-
Thực
hiện cuối cùng sau những hoạt động dơ bẩn, lắm bùn
-
LUÔN LUÔN CÓ TẮM MƯA ngay cả khi trong lịch chạy trạm không ghi. Chỉ cần có một trong những
hoạt động lắm bẩn như: Cấy lúa, bắt cá, dân gian thì sẽ có TẮM MƯA
-
Lưu
ý xác định khu vực cầu dao máy bơm để bật/tắt khi cần
-
Lưu
ý xác định các van dẫn nước để mở/khóa khi cần, tránh tắt nghẽn, không có nước
-
Cho
học sinh tắm mưa kĩ/sạch tùy theo thời gian cho phép. NHƯNG LUÔN LUÔN TẮM
LẠI
TRONG NHÀ TẮM THẬT KĨ MỚI CHO LÊN HỒ BƠI
a. Kiểm tra
Kiểm tra trạm sẳn sàng. Kiểm tra
nền đất chơi có sạch sẽ không. Có vật nhọn nguy hiểm hay không?
-
Chuẩn
bị dụng cụ, nguyên liệu sẳn sàng cho các trò chơi
-
Chuẩn
bị âm thanh, âm nhạc để hoạt náo
b.
Tổ chức trò chơi, hoạt náo,
chia đội thi đua
-
Trò chơi bịt mắt bắt vịt
- Trò chơi đi cầu khỉ - ném banh -
Trò chơi bịt mắt đập niêu
- Bịt mắt đá banh vào khung thành -
Trò chơi ném lon …..
c.
Lưu ý:
-
Người
đứng tại trạm này có nhiệm vụ hoạt náo chính và điều phối. Nhưng khi đoàn đông,
nhiều xe cùng vào 1 lúc thì HD dẫn xe cần phải nắm trò chơi và trực tiếp tổ
chức, chứ không đợi chờ người đứng trạm tổ chức. Đồng thời chủ động dẫn xe mình
đi ra khu vực trống để hoạt động
5. LÀM NẤM
a.
Kiểm
tra, chuẩn bị dụng cụ, nguyên liệu cần thiết: bịch, nấp, mạt cưa để thực hành
đóng bịch phôi
b.
Giới
thiệu về nấm bào ngư, đặc tính – công dụng
c.
Quá
trình phát triển của nấm bào ngư
d.
Trải
nghiệm hoạt động đóng bịch phôi nấm
e.
Phát
những bịch phôi đang ra nấm để học sinh quan sát tận mắt thực
f.
HOẠT ĐỘNG ĐÚC
TƯỢNG
a.
Kiểm
tra trước: - Khuôn thạch cao
- Thạch cao – nước – ca rót - Vệ
sinh khu vực đầu buổi
b.
Giới
thiệu về thạch cao, ứng dụng trong cuộc sống
***
Lưu
ý: Nguồn gốc thạch cao tồn tại trong lớp bùn trầm tích sau khi nước biển bay hơi.
Vậy,
thạch cao không phải là Đá Voi, không phải là CaCO3 nên không phải ở trên núi
đá voi
c.
Tính
chất thạch cao và cách đúc tượng thạch cao
d.
Trải
nghiệm hoạt động đúc tượng thạch cao
e.
Vệ
sinh khu vực sau khi kết thúc hoạt động, ngâm khuôn silicon vào nước để nhả
thạch cao. Dọn vệ sinh mặt bàn đúc tượng.
7.
TÔ TƯỢNG THẠCH CAO
a. Khâu chuẩn bị:
-
Vệ
sinh khu vực tô, Bàn ghế
-
Chuẩn
bị Cọ vẽ, Màu vẽ, Chén pha, Chia tượng đủ số lượng
b.
Giới
thiệu về màu sắc, cách pha màu nước
c.
Cách
tô màu đúng. Cách rửa sạch & bảo quản cọ vẽ
d.
Trải
nghiệm hoạt động tô tượng
•
LƯU Ý:
1.
THUYẾT
MINH/HƯỚNG DẪN VỀ MÀU SẮC, KĨ NĂNG TÔ MÀU
2.
PHA
LOÃNG MÀU (NẾU CHƯA) THEO TỶ LỆ 1/3 MÀU : 2/3 NƯỚC SAU ĐÓ MỚI CHO TÔ MÀU
3.
CHUẨN
BỊ ĐẦY ĐỦ CHÉN TÔ MÀU, LY NƯỚC RỬA LẠI CỌ
4.
NGÂM
CỌ SAU KHI SỬ DỤNG
5.
VỆ
SINH SẠCH SẼ CHÉN TÔ MÀU & BÀN GHẾ SAU KHI SỬ DỤNG
6.
CHO
HỌC SINH MANG VỀ SẢN PHẨM ĐÃ TÔ
8.
HOẠT ĐỘNG TRÁNG
BÁNH
-
Chuẩn
bị: khu vực thuyết minh, dụng cụ minh họa, vệ sinh khu vực
-
Nhắc
nhở quy định trong quá trình trải nghiệm tráng bánh: không đưa tay vào lò,
không đứng sát lò, sát ống khói. Không tự ý tráng khi chưa được phép. Xếp hàng
trật tự để trải nghiệm tráng bánh và thưởng thức món bánh ướt.
-
Không
vội vàng ăn khi chưa được phép, khi bánh
ướt còn nóng-sôi, sẽ gây bỏng
•
Nội dung thuyết minh
-
Thuyết
minh giới thiệu về quy trình sản xuất, từ trồng lúa cho đến khi tráng bánh
thành phẩm. Thuyết minh về nghề tráng bánh truyền thống.
-
Giới
thiệu về cối xây gạo và cách thức tạo ra bột gạo
-
Giới
thiệu về lò tráng bánh. Cách hoạt động của lò
9.
HOẠT ĐỘNG BƠI LỘI
-
Luôn
luôn cho học sinh tắm thật sạch, thật kĩ trước khi lên hồ bơi
-
Luôn
luôn cho học sinh dặm chân vào ô nước rửa chân trước khi lên hồ bơi
-
HDV
bắt buộc cho học sinh khởi động kĩ trước khi lên hồ bơi
-
HDV
bắt buộc học sinh nhỏ/chưa biết bơi mặc áo phao trước khi xuống hồ bơi
-
HDV
quan sát hồ bơi có nhân viên cứu hộ hay chưa. Bắt buộc có ít nhất 1 nhân viên
cứu hộ mới cho học sinh xuống hồ bơi
-
Học
sinh nhỏ, chưa biết bơi chỉ được phép bơi trong khu vực cạn (70cm) của hồ bơi.
Tuyệt đối không qua khu vực sâu.
-
Không
cho học sinh đùa giỡn trên bờ xung quanh hồ bơi
-
Không
cho học sinh nhảy thẳng từ trên bờ xuống hồ
-
Không
cho học sinh đi lại nhiều khu vực nước sâu
-
100%
HDV tập trung quan sát học sinh trong thời gian bơi.
o
Không
được phép ngồi phía trong, tán gẫu, nghỉ ngơi o
Không được
sử dụng điện
thoại
o
Không được
phép lơ là, phân tán chú ý o Sẳn sàng cất
điện thoại, ví
tiền để ngay
lập tức nhảy xuống cứu hộ
-
Sau
khi học sinh bơi xong, HDV nhắc nhở học sinh tắm lại nước ngọt trong nhà tắm
trước khi thay đồ
-
KHU
VỰC HỒ BƠI LÀ ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG. MỌI HÀNH ĐỘNG SƠ SÓT SẼ BỊ XỬ LÝ NGHIÊM KHẮC
10.
KHU VỰC THAY ĐỒ
-
Đầu
Tour, HDV chuẩn bị đúng/đủ đồ bà ba cần thiết cho xe mình dẫn o Màu đen: nhỏ nhất,
cho học sinh mẫu giáo
o Màu
nâu & xanh rêu: cỡ nhỏ, học sinh cấp 1
o Màu
xanh dương: cỡ lớn, học sinh cấp 2-3
-
HDV
xác định rõ khu vực thay đồ của xe mình và mang gói đồ bà ba đã soạn về khu vực
của mình.
-
Tuyệt
đối không để nhầm chỗ, và không dẫn xe vào nhầm chỗ của người khác
-
Tuyệt
đối không lấy đồ bà ba của xe khác khi chưa xin phép
-
HDV
nhận từ điều hành túi nilong để học sinh bỏ đồ ướt
-
Ngay
sau khi học sinh thay đồ, nếu còn đồ bà ba dư, HDV trả lại gói đồ dư về khu cất
đồ
-
Sau
khi vui chơi, học sinh vào thay đồ, HDV luôn
luôn nhắc nhở học sinh tắm/thay
xong phải mang đồ bà ba tập trung lại 1 chỗ
để cuối buổi thu gôm. Học sinh không
được để đồ bà ba trong nhà vệ
sinh/phòng thay đồ. Học sinh càng để bừa bãi, HDV càng phải đi thu gôm nhiều
-
Cuối
buổi sau Tour, HDV đi khảo sát, và hỗ trợ thu gôm đồ bà ba lại nơi tập trung.
-
HDV
nhắc nhở học sinh tập trung giày/dép vào 1 chỗ. Tránh thất lạc, mất mát.
CÁC
HOẠT ĐỘNG KHÁC TÙY CHƯƠNG TRÌNH
1.
TRỒNG
HÀNH
2.
LÀM
HOA GIẤY
3.
LÀM
ĐÈN GIẤY
4.
XÂU
CHUỖI HẠT NGỌC
5.
ẨM
THỰC NẤU ĂN, KHOAI MÌ, ĐỔ RAU CAU
6.
LÀM
BÁNH
7.
ROBOT
ĐÁ BANH
8.
THAM
QUAN VƯỜN THÚ, VƯỜN RAU,
VƯỜN CHIM, HỒ CÁ, KHU VƯỜN SINH
THÁI. THUYẾT MINH VỀ HOẠT ĐỘNG NÔNG NGHIỆP, TRỒNG TRỌT.
9.
CHO
CÁ ĂN (lấy thức ăn ở quầy trung tâm)
10.
ĐI
XE ĐIỆN
11.
THAM
QUAN LÀNG NGHỀ. THUYẾT MINH VỀ CÁC NGHỀ TRUYỀN THỐNG:ĐAN LÁT, LÀM HOA GIẤY, NẤU
ĂN, …
12.
CÁC
TRÒ CHƠI DÂN GIAN & VẬN ĐỘNG
TRƯỜNG
QUY
ĐỊNH ĐỐI VỚI HƯỚNG DẪN VIÊN HOA LÚA
1.
Những hành vi bị cấm và sẽ
bị xử phạt nghiêm khắc:
a.
Hút
thuốc
b.
Chửi
thề, nói tục
c.
Cư
xử không đúng mực với khách hàng
d.
Quát
tháo học sinh
e.
Đánh
học sinh
f.
Lơ
là trên khu vực hồ bơi
g.
Thái
độ bất hợp tác, chống đối.
h.
Không
tuân thủ kế hoạch Tour, quy định Tour.
2.
Các
Hướng Dẫn theo xe cần phải nhắn tin số
lượng (Trẻ Em/Người Lớn) cho điều hành (hoặc quản lý) trước khi xe đi đến Trại để
chủ động tổ chức công việc. Nếu
đoàn nhận tại trại, Khi xe đến, Hướng
dẫn kiểm tra và đối chiếu số lượng với HDV theo xe, sau đó báo lại số lượng chính xác cho
điều
hành tại trại.
Nếu
HDV không báo số lượng, hoặc báo chậm trễ sẽ phải chịu trách nhiệm
3.
Chủ
động Kiểm tra với điều hành, người phụ trách về các nguyên liệu, đồ dùng:
Áo bà ba, Chỗ thay đồ, Loa trạm,
Dụng cụ trong hoạt động, Quà cho khách mang về,
4.
Trại
đang có những khu vực thay quần áo bà ba và Toilet,
a.
Khu
vực Trung Tâm 1 tại Căn Tin; Trung Tâm 2 phía đối diện, ngay khu tráng bánh
b.
Lúa:
tại Sảnh Lúa, bên cạnh Toilet
c.
Chồi
1: bên trái đường đi xuống khu bắt cá, dân gian
d.
Chồi
2: bên trái Nhà tắm nữ, đối diện mương bắt cá
e.
Chồi
3,4: bên cạnh khu tắm mưa
f.
Đúc
Tượng: tại Khu Làng Nghề, bên cạnh Đúc Tượng, có phòng thay đồ
g.
Nấm:
bên cạnh khu nấm, có phòng thay đồ
h.
Kho:
Trong khu vực Khách sạn, đối diện khu Nấm
i.
Công
viên: khu phòng nghỉ công viên, karaoke, có Toilet
Hướng dẫn cần chủ động phân tán
các nhóm ra, tránh tập trung ở khu vực trung tâm. Khi đoàn
đông-nhiều xe, HDV chỉ nên cho xe mình thay đồ khi đến hoạt động cần thiết
(cấy lúa, bắt cá), nếu chưa thì dẫn đoàn đi trải nghiệm để tránh tắt nghẽn khu
thay đồ
Chủ động điều khiển các em nhanh
chóng vào khu vực thay đồ phù hợp, không đề tắt nghẽn, không để chờ đợi, rong
chơi. Khu vực thay đồ phía sân sau (nhà tắm nam-nữ) thường rất trống mà học sinh không được hướng dẫn vào thay. Nếu xe
nào thay đồ quá lâu, hướng dẫn sẽ chịu trách nhiệm.
Có nhiều khu thay đồ và vòi nước để
tắm khác nhau, vì vậy các em không nhất thiết phải tắm và thay đồ cùng 1 chỗ,
đặc biệt là các bạn nam, có thể ra vòi nước tắm sạch sẽ sau đó vào phòng khác
để thay đồ
Sau khi thay xong, HDV chỉ đạo các
em xếp balo ngay ngắn vào tất cả ngăn kệ.
Không để bừa bãi tràn lan trên bàn
làm lãng phí không gian. Bàn ăn dùng cho việc khác.
5.
HDV
chỉ dẫn các em cất đồ đúng nơi quy định. Đồ bà ba ướt sau khi thay xong phải bỏ vào
giỏ đã được cung cấp, không được
vứt bừa bãi, không vứt ở trong nhà tắm. Nếu để học sinh vứt bừa bãi, sau Tour HDV sẽ phải đi thu gôm.
6. Chủ động đi trước kiểm tra trạm tiếp theo
– chuẩn bị tại mỗi trạm trước khi dẫn đoàn vào:
o
Trạm
có trống, có sẳn sàng đón đoàn. Nếu kẹt
trạm, hướng dẫn phải chủ động dẫn qua điểm
kéo dài thời gian, hoặc hoạt náo, tổ chức hoạt động phụ kéo dài thời gian
o
Dụng
cụ - Nguyên liệu có đầy đủ chưa
o
Khi
thiếu dụng cụ, người hỗ trợ, hướng dẫn chính-phụ cần chủ động sắp xếp, bổ sung
ngay lập tức. Còn lỗi do phía bên nào sau đó sẽ làm việc lại.
7.
Dẫn
khách đến các trạm đi bằng đường vòng, hạn chế đi qua khu vực trung tâm
8.
Chủ
động canh thời gian diễn ra tại mỗi trạm theo lịch chạy còn dài hay ngắn để
điều tiết hoạt động cho phù hợp
a.
Thời
gian ngắn: Thuyết minh ít, chơi trò chơi dân gian tập thể, bắt cá nhanh, …
b.
Thời
gian dài: cho trải nghiệm lâu, thi đua nhiều, dẫn qua trạm phụ, …
9.
Hoạt
động Dân Gian - Cấy Lúa –- Tát Cá – Tắm Mưa là những hoạt động bị lắm bẩn
nhiều, cần triển khai kết hợp nhau chứ không nên bị ngắt quảng bởi hoạt động
khác.
10.
Thường
xuyên hoạt náo: khi tập trung, tại trạm, khi di chuyển, …. Và bất cứ khi nào có
thể
11.
Thời
gian ăn trưa được thông báo từ trước bởi điều hành. Các đội cần thống nhất và
điều phối sao cho các đội chung 1 đoàn
ăn cùng một thời điểm, như vậy thì việc bố trí khách vào bàn mới chính xác 10 người/bàn, không bị hỏng khách, thiếu bàn, thiếu phần ăn. Nếu bàn của hướng dẫn nào bị hỏng (dư), hướng dẫn đó sẽ chịu trách nhiệm
12.
Hướng
dẫn theo xe, Hướng dẫn phụ, và Hướng dẫn đứng trạm cần chủ động phân chia thời
gian ăn trưa luân phiên, để khi khách ăn cũng có hướng dẫn hỗ trợ, và khách ăn
xong cũng có hướng dẫn điều phối. Tránh trường hợp Hướng dẫn không sắp xếp khi
khách ăn, và khi khách ăn xong, trẻ em đi lung tung mà không được quản lý.
13.
Các
Hướng dẫn có nhiệm vụ bảo quản và chịu trách nhiệm với những dụng cụ được giao
(loa, micro, quần áo, túi đeo y tế, nón, còi, …) và để ý đến những tài sản khác
trong Nông trại. Kết thúc tour bàn giao lại cho điều hành đúng số lượng đã nhận.
14.
Kết
thúc Tour, (nếu không đi theo xe) Hướng dẫn lưu ý hỗ trợ dọn dẹp vận dụng, quần áo bà ba, dụng cụ trò chơi, … hỗ trợ công việc với nhân viên trại.
15.
Khu
vực văn phòng là khu vực tập trung và cất đồ của HDV. HDV cần ý thức để đồ gọn
gàng. Không thay đồ và vứt đồ bừa bãi trong văn phòng
16.
NHỮNG LỖI CỦA HƯỚNG DẪN SẼ
BỊ PHẠT (Trừ
công tác phí, …)
Lơ là không quan sát học
sinh trên hồ bơi; Không chuẩn
bị trước túi đồ bà ba, khu thay đồ lộnxộn – thay đồ chậm; Đi
sai trạm trong lịch trình;Đi trễ giờ;Thuyết minh không đúng hoặc bỏ qua; Không
chủ động mà ỷ lại vào người đứng trạm;
Làm mất dụng cụ - thiết bị được giao;Để lạc – rớt học sinh; Học sinh bị
tai nạn do hướng dẫn lơ là;Học sinh tắm không sạch sẽ, xuống làm dơ hồ bơi; HD đứng trạm không dọn dẹp, vệ
sinh dụng cụ khi kết thúc Tour;
NÔNG TRẠI DARGON FRAM
Địa chỉ: 873 Đường Long Phước, Khu phố Trường Khánh, Phường
Long Phước, Quận 9, Tp HCM
Điện thoại: 028 38220230 – Website: www.dragonfarm.vn – Email: info.dragonfarm@gmail.com
I/Giới
Thiệu:
Đến với Khu Du Lịch Sinh
Thái Giáo Dục Dragon Farm quý khách được trải nghiệm mô hình du lịch dã ngoại
mang âm hưởng Miền Tây Nam Bộ, ngay chính tại Sài Gòn, mang cho mình diện tích
hơn 15.000m2 chúng tôi xây dựng các mô hình trò chơi rất đặc sắc,
cùng với khuôn viên trồng nhiều cây xanh giúp quý khách và gia đình được hòa
mình cùng thiên nhiên sau những ngày làm việc mệt mỏi.
Bạn không những được đắm
mình trong khung cảnh yên bình của vùng quê Nam Bộ mà còn
được cùng bạn bè, gia đình,
trải nghiệm những dịch vụ mới lạ và độc nhất như là đi cầu khỉ, tát
mương bắt cá, gieo mạ, cấy lúa, trồng khoai,v..v…
Là nơi trau dồi kỹ năng
sống thông qua các hoạt động thiết thực giúp cho các em nhỏ vừa vui
chơi vừa rèn luyện bản thân
để học tập tốt.
Là địa điểm lý tưởng để tổ
chức các sự kiện họp mặt, hội trại, sinh nhật…với không gian thoáng mát,
đầy đủ tiện nghi, giá cả hợp lý và phục vụ tận tình.
Ngoài ra đây là nơi rất thích hợp để các em đang trong độ
tuổi hình thành phát triển. Khu Du Lịch Sinh Thái Giáo Dục Dragon Farm không
chỉ là khu vui chơi giải trí mà tại đây cũng như là ngôi trường thứ 2 dành cho
các bé. Các bé được hóa thân vào các bác nông dân, cùng nhau trồng rau, trồng
lúa, bắt cá, làm bánh, làm gốm…, giúp các bé phát triển kỹ năng và hình thành
tính đoàn kết giúp đỡ mọi người xung quanh và phát huy tính sáng tạo tiềm năng
của trẻ.
ĐIỂM NỔI BẬT
NHẤT
Dragon Farm – Nông Trại Rồng trong khung cảnh quê hương miền tây, với các thửa lúa, thửa rau,
ao cá, cầu khỉ, xuồng ba lá,…cùng thưởng thức các món dân dã, bình dị…
KHÔNG GIANKhông khí luôn trong lành từ những hàng
cây xanh rợp bóng. Một không gian tuyệt vời tránh xa khói bụi thành thị.
TỤ HỌPTrải nghiệm các cuộc dã ngoại, party của
gia đình, bàn bè và đồng nghiệp gần gũi với thiên nhiên.
Trải nghiệm lý thú với những trò chơi dân gian đặc trưng của Việt
Nam. Trở về thời ấu thơ, tránh xa những cám dỗ thiết bị điện tử
ẨMNhững món ăn được chế biến ở Dragon Farm lấy từ chính nông trại.
Luôn đảm bảo tươi ngon, không phân thuốc hóa học.
NÔNG TRẠI RỒNG
– NHỮNG ĐIỀU LÝ THÚ
Về miền Tây sao
gần đến thế!
Khu vui chơi nằm ở quận 9, cách
trung tâm thành phố Hồ Chí Minh chưa đến 10km. Nhưng bạn vẫn tận hưởng được
cuộc sống dân dã, không khí trong lành ngay trong chính thành phố của mình.
“Gắn kết cộng
đồng”
Những trò chơi ở Nông trại Rồng
luôn là những trò chơi đòi hỏi tính đoàn kết cao. Điều này sẽ giúp giáo dục trẻ
hòa nhập cùng cộng đồng để vui chơi và phát triển. Ngoài ra, đây cũng là nơi
thích hợp những buổi dã ngoại dành cho gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Nơi dạy “trẻ thành phố” vui
chơi ?
Những đứa trẻ được sinh ra và lớn
lên ở thành thị tấp nập. Các em được tiếp xúc với các trò vui chơ giải trí hiện
đại. Hiếm có cơ hội tham gia được những trò chơi dân gian. Giúp tăng cường vận
động, tăng tính sáng tạo và cơ hội được giao lưu với xã hội.
“Tự cung – Tự
cấp” ?
Còn gì tuyệt vời bằng việc thưởng
thức những loại rau củ quả tươi ngon nhất ngay chính nông trại mình vừa thu
hoạch. Những hoạt động này giúp trẻ hứng thú hơn với môi trường tự nhiên, hòa
nhập cộng đồng.
II/ Các Dịch Vụ Trong Nông Trại
Chèo xuồng ba lá:
Bạn có thể thử sức khi tự tay mình
chèo và đưa con xuồng lướt trên mặt nước dưới sự chỉ dẫn nhiệt tình của những
người cầm lái.
Bên cạnh chèo thuyền, chụp hình,
bạn đừng bỏ qua việc lắng nghe tiếng chim hót, tiếng cá quẫy nước.
Tại đây, bạn có thể khám phá những
vườn cây trái sum suê và hít thở không khí trong lành của miệt vườn sông nước.
Trồng rau cấy lúa:
Đến Khu nông trại sinh thái giáo
dục Dragon Fram các em được trải nghiệm một cách chân thực và gần gũi nhất, một
môi trường học tập toàn diện nhất
Hệ thống nông trại đa chức năng để
các bạn có thể trải nghiệm một không gian đầy thú vị với mô hình thu nhỏ, tiếp
xúc với việc làm nông qua các hoạt động thú vị như tát mương bắt cá, trồng rau
– thu hoạch rau, chăm sóc vật nuôi…
Tập làm nhà nông: Cấy lúa, tát nước,
bắt cá đồng, xới đất rồng rau, trồng nấm.. thu hoạch rau củ quả, thăm bộ sưu
tập các loài cây, chèo thuyền, bắt cá… mang lại những trải nghiệm tuyệt
vời.
Làm gốm:
Dragon Farm thoả sức vui chơi,
hướng dẫn tận tình về cách tạo ra một món đồ hữu dụng mà đầy khác biệt, đậm
tinh thần phóng khoáng và sáng tạo chứ không gò bó chỉn chu như thường thấy.
Dragon Farm hướng dẫn tận tình về
cách tạo ra một món đồ hữu dụng mà đầy khác biệt, đậm tinh thần phóng khoáng và
sáng tạo chứ không gò bó chỉn chu như thường thấy.
Bạn sẽ biết được cách làm ra một đồ
gốm hoàn chỉnh, người thợ gốm phải qua rất nhiều công đoạn, từ chọn đất, xử lý
và pha chế đất cho đến tạo dáng, vẽ hoa văn, sau đó là tạo lớp men phủ và cuối
cùng là kỹ thuật nung sản phẩm.
Làm bánh dân gian:
Bạn có thẻ thoả sức trổ tài làm
bánh của mình, các loại bánh dân gian được chế biến và trình bày hấp dẫn, đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
Đặc biệt, với mong muốn làm sống
lại những món bánh truyền thống đang có nguy cơ biến mất, khơi gợi tình yêu ẩm
thực dân gian cho thế hệ trẻ
Nguyên liệu làm bánh phải là những
thực phẩm, ngũ cốc, rau, củ, quả… đảm bảo có nguồn gốc và an toàn vệ sinh thực
phẩm, với phương châm tiết kiệm và sáng tạo trong sử dụng nguyên liệu
Dargon Fram không chỉ là địa điểm
sinh hoạt thư giãn cuối tuần dành cho các gia đình mà còn là nơi ươm mầm trí
tuệ, giúp trẻ em phát triển , trải nghiệm và hình thành ý thức nhận biết
về thiên nhiên. Hãy thử một lần đến
Dargon Fram để thưởng thức không khí trong lành giữa thiên nhiên tươi đẹp.
MỤC TIÊU CỦA CHÚNG TÔI
Tầm nhìn
Trở thành nhà khu vui chơi dã ngoại
với chất lượng và dịch vụ hàng đầu Việt Nam
Sứ mệnh
Nghiên cứu phát triển các trải
nghiệm và tạo dựng giá trị bền vững cho trẻ em
Giá trị cốt lõi
Nền tảng văn hóa dựa trên các giá
trị cốt lõi ” Sẵn sàng – Sáng tạo, đổi mới – Tận tâm”
CAM KẾT CHẤT LƯỢNG
DRAGON FARM luôn cam kết mang
đến Quý khách hàng sự hài lòng tuyệt đối về những sản phẩm với chất lượng cao
nhất, dịch vụ tốt nhất với giá cả hợp lý nhất.
NÔNG TRẠI VỀ QUYÊ
Giới
thiệu
CÔNG TY TNHH SX TM DV DU LỊCH NHẬT
MINH T.H.V
Quá trình thành lập và phát triển
Trải qua nhiều khó khăn
thách thức trong kinh doanh, NHẬT MINH T.H.V Travel đã có những trải nghiệm để
xây nên một nền tảng vững chắc cho hệ thống dịch vụ trên thị trường Việt
Nam & Quốc Tế, tạo dựng một hình ảnh tốt đẹp trong ký ức của Du Khách. Sau
gần nhiều năm hoạt động, NHẬT MINH T.H.V đã khẳng định được thương
hiệu của mình khi đưa ra các sản phẩm có tiêu chí cao, các Khách hàng thực sự
hài lòng khi sử dụng mọi dịch vụ của NHẬT MINH T.H.V
Mục tiêu chính của NHẬT MINH T.H.V là xây dựng được thương hiệu của người Việt đồng thời quảng
bá được hình ảnh, Văn Hoá Việt Nam đến với toàn thể Du Khách trên Thế Giới.
LĨNH VỰC HOẠT ĐỘNG
Nhật MInh T.H.V hoạt động
chuyên nghiệp trong lĩnh vực Du lịch và cung cấp các Dịch vụ liên quan đến du
lịch:
Tổ chức các Tour du lịch trong
nước và nước ngoài
Dịch vụ tư vấn thủ tục xuất
nhập cảnh (VISA – Hộ chiếu)
Tổ chức các sự kiện : Games
Show, Teambuilding, Camping, Gala Dinner…….
Đặt phòng Khách sạn tại các
thành phố trên toàn cõi Việt Nam & ở Nước ngoài.
Phiên dịch và cho thuê Hướng
dẫn viên du lịch chuyên nghiệp theo các tuyến.
Dịch vụ cho thuê Xe ôtô du lịch
.
Vị
trí thuận lợi - dễ dàng kết nối
Khu sinh thái giáo dục Về Quê,
tọa lạc tại đường Bàu Trâm - Xã Trung An - Huyện Củ Chi - TPHCM. Chỉ cách trung
tâm thành phố 35 km. Là nơi có thiên nhiên trong lành, với vẻ mộc mạc bình dị
mà thân quen. Đây là điểm đến mang tính trải nghiệm về giáo dục, về văn hóa.
Được xây dựng theo 03 tiêu chuẩn: An Toàn - Sạch Sẽ - Khoa Học. Được học
tập trải nghiệm thực tế kết hợp vui chơi, rèn luyện kỹ năng sống, thể chất, sự
sáng tạo cũng như tinh thần tập thể.
Lưu lại kỉ niệm tại Về Quê
Đến với Khu sinh thái giáo dục Về
Quê các em sẽ được hoạt động thực tế các trò chơi bổ ích dành cho các em học
trải nghiệm- khám phá.Một không gian thoáng mát-an toàn- sạch sẽ .Hứa hẹn sẽ là
điểm đến hấp dẫn dành cho các em
Khu sinh thái giáo dục Về Quê
Với diện
tích 30.000 mét vuông ( 3 hecta ) được xây dựng theo 03 tiêu chuẩn: An Toàn -
Sạch Sẽ - Khoa Học. Với các loại hình học tập kết hợp vui chơi như: Hệ thống
sân khấu với sức chứa 3,000 học sinh vui chơi, tham gia các hoạt động kĩ năng
sống.Khu vận động trường - Teambuilding với các trò chơi phong phú mang tính
rèn luyện sức khỏe, tinh thần tập thể, phát triển sáng tạo. Khu trồng rau sạch
theo công nghệ tiên tiến giúp các em học sinh thực hành. Khu trồng rau áp dụng
theo hình thức thủy canh. Khu vườn ươm cây với đa dạng các loại rau mà các em
tiếp xúc hằng ngày. Khu thực hành dành cho học sinh như: ươm cây, trồng
cấy nấm, nấu ăn, làm bánh... với sức chứa ...300 học sinh. Hệ thống đường đi
che mát được trồng các loại cây ăn quả như: bầu, bí, mướp, khổ qua, đậu rồng,
đu đủ, chanh dây, dưa Tây, đậu cove, đậu đũa.... sẽ được trồng quanh năm...
nhằm giúp các em hiểu được chu kỳ phát triển của từng loại cây mà các em thường
ăn hằng ngày giờ mới thấy bằng mắt hái bằng tay...Khu nuôi các con vật đáng yêu
gần gũi với các em như: Thỏ, gà, vịt, dê.... đặc biệt là cá, các em thỏa thích
cho cá ăn rất hấp dẫn…Khu bắt cá: với sức chứa khoảng 300 học sinh, thật thú vị
khi trải nghiệm thực tế bắt cá từ bờ ao....Khu cấy lúa gieo mạ. Khu cắm trại.
Khu HỒ BƠI được thiết kế theo tiêu chuẩn 3 sao ( giống các Resort) với diện
tích lên đến 1000 mét vuông chia làm 3 khu vực phù hợp 3 cấp bậc: Mầm non sâu
50cm, Tiểu học sâu 80cm và THCS &THPT sâu 1,2m, đảm bảo an toàn theo quy
chuẩn quốc tế. Khu nhà hàng ẩm thực với sức chứa hơn 1200 học sinh ...sẽ mang
đến không gian mát mẻ, rộng rãi thoáng mát của miền quê - VỀ QUÊ.
Trẻ vui khám phá- học nhiều điều
hay
Vui chơi mỗi ngày các bé học được
nhiều đều hay
Khu sinh thái giáo dục Về Quê là địa điểm lý tưởng thú vị cho các bạn học sinh
vừa học vừa chơi
Các em sẽ học được các kỹ năng
như làm việc nhóm
Kỹ năng trải nghiệm cấy lúa, bắt
cá....
Kỹ năng khéo léo, sáng tạo , làm
gốm...
Kỹ năng trật tự ,nề nếp, tự xếp
hàng
Thoả sức bơi lội
Ngoài ra các em sẽ biết thêm được nhiều đều mới lạ hệ sinh thái động và thực
vật, các quy trình cấy nấm, trồng rau mầm.....
Địa chỉ: số 37, đường Bầu Trâm, ấp Thạnh An, xã Trung An, huyện Củ Chi
Số điện thoại liên hệ: 0938854599 (Ms Vân)
Email: khusinhthaigiaoducveque@gmail.com
Chào mừng năm học mới
Với mục tiêu rèn luyện kỹ năng cho
các bạn học sinh: kỹ năng học hỏi những đều mới lạ, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng
trải nghiệm thực tế, kỹ năng xếp hàng, kỹ năng đoàn kết cùng đồng đội.....
Khu sinh thái giáo dục Về Quê , xã Trung An, huyện Củ Chi sẽ là địa điểm lý
tưởng cho các bạn
Tại đây, các em sẽ được tìm hiểu:
Chương
trình cắm trại đêm tại Khu sinh thái giáo dục Về Quê
CHƯƠNG TRÌNH CẮM TRẠI ĐÊM
Mỗi lần tham gia cắm trại sẽ mang đến cho các bạn học sinh nhiều đều trải
nghiệm thật thú vị, giúp cho các bạn học sinh yêu cảnh vật thiên nhiên với vẻ
mộc mạc bình dị mà thân quen, một sân chơi bổ ích , hiểu được nhiều đều mới lạ
, hóa thân thành những chú nông dân bắt cá, trồng lúa, hái rau và trải nghiệm
nhiều trò chơi....Đồng thời góp phần giáo dục văn hóa,tính tự quản, tinh thần
đoàn kết của các bạn .....
Địa điểm : Khu sinh thái giáo dục Về Quê
Là điểm đến mang tính trải nghiệm về giáo dục, về văn hóa, xây dựng trên 3 tiêu
chuẩn :
AN TOÀN-SẠCH SẼ-KHOA HỌC
+ Môi trường thoáng mát, sạch sẽ, có nhiều cảnh đẹp chụp hình, vui chơi
+ Lều bánh ú
+ Nguồn điện đầy đủ để phục vụ các hoạt động sinh hoạt
+ Thuận lợi trong đi lại, tránh giao thông đông đúc ( Khu sinh thái giáo dục Về
Quê với diện tích rộng rãi gần 3 hecta, cách trung tâm thành phố 35 km )
+ Hướng dẫn viên sẽ theo sát các bé từ khi đến và khi lên xe trở về
Khu sinh thái giáo dục Về Quê rất mong thời gian sắp tới được sự ủng hộ
của quý nhà Trường, Quý Thầy Cô và các đơn vị đối tác
Địa chỉ : số 37, đường Bầu Trâm,ấp Thạnh An, Xã Trung An, huyện Củ Chi
Chính thức áp dụng chương trình cắm
trại tại Khu sinh thái giáo dục Về Quê 01.08.2019
Lần đầu tiên Khu sinh thái giáo dục
Về Quê hoạt động chương trình Cắm Trại cho các em học sinh học tập - khám
phá-rèn luyện kỹ năng sống cho các bé qua tham gia các chương trình chơi bổ
ích
-Cấy lúa, trồng rau mầm, hái rau tại vườn
-Bắt cá, nướng cá
-Tự tay trang trí và làm quạt
-Tắm hồ bơi
-Đốt lửa trại
Một buổi tiệc thật ấm áp cùng các bạn của mình, Khu sinh thái giáo dục Về Quê
sẽ ngày càng phát triển hơn nữa mang lại niềm vui và tạo một sân chơi thật bổ
ích cho các bạn
chương
trình học tập - nâng cao kỹ năng sống
Buổi sáng
08h00: Quý Thầy Cô và các em
đến Khu Sinh Thái Giáo Dục Về Quê. Đoàn tập trung tại Khu
vực sân khấu sinh hoạt và nghe giới thiệu tổng quát về Khu Sinh
Thái Giáo Dục Về Quê.
Đoàn di chuyển về khu
vực chòi dành riêng cho đoàn và được trang bị đồ bà ba và nón
lá cho mình. Sau đó hướng dẫn viên đưa đoàn đi tham quan và thuyết
minh tại các điểm như: hồ cá, vườn lan, vườn cây ăn trái: ổi, chanh,
cam, xoài…, khu vực nuôi các loài động vật như: cá sấu, nhím, đà điểu, kỳ đà,
ngỗng, gà, vịt,…các loại rau, củ, quả, vườn rau mầm, thủy canh, nấm
…và mô hình ruộng bậc thang mới lạ, độc đáo nhất miền Nam ... Đoàn tham
quan và nghe thuyết minh tại khu trưng bày dụng cụ nông, ngư nghiệp Việt Nam
09h00: Các em di chuyển
tới khu vực Thực hành, cùng nhau tham gia học gói bánh
chưng – Sản phẩm được mang về - một
loại bánh truyền thống của dân tộc Việt Nam nhằm
thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Bánh
chưng do các em gói sẽ được nấu và mang về làm quà tặng cho bố mẹ hoặc người
thân về thành quả do chính các em học được.
Sau đó đoàn di chuyển qua khu
vực làm gốm Bát Tràng – Sản phẩm được mang về - một
trong những phát minh quan trọng của tổ tiên ta từ ngàn đời nay, đồ gốm đã gắn
bó mật thiết với cuộc sống của nhân dân ta, với trí sáng tạo và đôi bàn tay
khéo léo của người thợ gốm, gốm đã trở thành một loại hình nghệ thuật mang tính
dân gian sâu sắc.Tại đây các em sẽ được chiêm ngưỡng cách làm gốm của các
nghệ nhân và sẽ được hướng dẫn về cách trang trí, tô màu cho sản phẩm nhằm phát
huy khả năng sáng tạo của mình.
12h30: Đoàn dùng cơm
trưa theo hình thức buffet 6 món tự chọn tại nhà hàng nhằm
giúp các em hiểu hơn về văn hóa xếp hàng cũng như tự lấy thức ăn vừa đủ.
Buổi chiều
13h30: Các em tự do
tắm tại hồ bơi của Khu Sinh Thái (quý khách vui lòng thay
đồ bơi trước khi xuống hồ) - Với thiết kế Hồ Bơi hiện
đại với hệ thống mái che lần đầu tiên được kết hợp
cùng với mô hình khu sinh thái nông trại tại Tp.Hồ Chí Minh - được thiết kế
theo tiêu chuẩn 3 sao (giống các Resort) với diện tích lên đến 1000 mét vuông
chia làm 3 khu vực phù hợp 3 cấp bậc: Mầm non sâu 50cm, Tiểu học sâu 80cm và
THCS – THPT – Người lớn sâu 1,2m đảm bảo an toàn theo quy chuẩn quốc tế. Đội
cứu hộ túc trực tại hồ bơi 24/24.
15h00: Đoàn tập trung tại
khu vực nhà hàng cùng nhau tham gia thực hành làm đá chanh và thưởng
thức khoai mì miễn phí (đặc sản của vùng “Đất thép thành đồng”).
15h30: Kết thúc chương
trình, hướng dẫn viên gửi lời chào tạm biệt và hẹn gặp lại Quý khách trong các
chương trình tiếp theo. Đoàn khởi hành về điểm đón ban đầu.
Lưu Ý : Quý khách mang theo
đồ bơi và đồ thay sau khi tắm.
Chương trình “tiết học ngoài nhà
trường 2019-2020”
Sở Giáo dục & Đào tạo TP Hồ Chí Minh vừa có văn bản chỉ đạo mới theo
Số: 3464 /GDĐT-TrH "Về hướng dẫn xây dựng kế hoạch giáo dục ngoài giờ lên
lớp và các hoạt động trải nghiệm trong trường trung học năm học 2019 -
2020".
Khu sinh thái giáo dục Về Quê tự hào là điểm học tập ngoại khoá, trải nghiệm
sáng tạo độc đáo được Sở Giáo Dục & Đạo Tạo TPHCM giới thiệu trong năm học
mới 2019-2020.
https://f1.hcm.edu.vn/…/3464-cong_van_hdhdgdngll_2019_71020…
Khu ẩm thực & Mua sắm
Album ảnh
Lưu lại những khoảnh khắc tuyệt vời
của các bạn để làm những món quà lưu niệm nhỏ dành cho đoàn khách, đảm bảo quý
khách sẽ rất hài lòng với dịch vụ ở đây
CÔNG TY TNHH SX TM DV DU LỊCH
NHẬT MINH T.H.V
Trụ sở chính : 143/21 Liên khu 4-5,
P. Bình Hưng Hòa B, Q. Bình Tân, TP.HCM
Địa chỉ Khu Sinh Thái Về Quê: đường
Bầu Trâm , Xã Trung An, Huyện Củ Chi,TP.HCM
Điện thoại: 028 6293 6565
- 0913 871 733 - 0938 854 599
Email: khusinhthaigiaoducveque@gmail.com
Website: khusinhthaigiaoducveque.com
MỘT SỐ
CHUYÊN ĐỀ VỀ SÀI GÒN
1/ Giãi nghĩa câu nói “Ăn Quận 5, nằm Quận 3, la cà Quận 1’
-
Ăn quận 5:
Theo dòng lịch sử, kể
từ khi nhà Tây Sơn tàn sát người Hoa ở Nông Nại Đại Phố (1776), những người Hoa
còn sống sót đã ‘di cư’ về Sài Gòn và lập nên khu vực Chợ Lớn và họ đã biến chợ
Lớn thành một China Twon nổi tiếng
Trong Gia Định thành thông chí soạn khoảng năm
1820, tác giả Trịnh Hoài Đức đã mô tả phố chợ Sài Gòn
như sau:
Phố chợ Sài Gòn: Cách
trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường
phố lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một
đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền
mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố
bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm
thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có.
Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán: Phúc Châu,
Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu; phía tây ở giữa đường lớn
có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn
về phía tây có hội quán Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng, như Tam nguyên,
rằm, mùng một thì treo đèn đặt án, tranh đua kỳ xảo trông như là cây lửa, cầu
sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, thật là một phố
lớn nơi đô hội náo nhiệt. Trong đường phố lớn có cái giếng xưa, nước ngọt tràn
trề, bốn mùa không cạn. Sông nhỏ chảy ngang phố có bắc cầu ván lớn, trên có hai
dãy hành lang mái ngói, treo màn che nắng, đường đi râm mát như đi dưới mái nhà
cao. Giữa phố về phía đông đường lớn có chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi
biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp đèn mua bán.
Thành phố Chợ Lớn thành
lập ngày 6 tháng 6 năm 1865 theo nghị định của Thống đốc Nam Kỳ, trên địa bàn
một số thôn của ba tổng: Tân Phong Thượng (tổng này mặc nhiên giải thế), Tân
Phong Trung và Tân Phong Hạ thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đến ngày 3 tháng 10 năm 1865, địa
giới thành phố được xác định cụ thể với diện tích gần 1 km², chỉ là một
phần quận 5 hiện nay. Đến ngày 20 tháng 10 năm 1879, Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers ra Nghị định công
nhận thành phố Chợ Lớn (Ville de Cholon) là đô thị loại 2 (municipalité de 2e
classe) ngang cấp tỉnh, cùng với các thành phố Tourane và Phnôm Pênh được
thành lập sau này của Liên bang Đông Dương. Đứng đầu thành phố
là Thị trưởng (Maire), do Thống đốc Nam Kỳ đề cử và Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Thành phố
Chợ Lớn là đơn vị hành chính tách biệt hẳn với tỉnh Chợ Lớn. Tuy nhiên, trụ sở các cơ quan
chính quyền của tỉnh Chợ Lớn đều đặt tại thành phố Chợ Lớn.
Ngày 1 tháng 7 năm
1882, tuyến đường xe điện đầu tiên ở Việt Nam dài
5 kilômét,
rộng 1 mét,
nối Sài Gòn và Chợ Lớn bắt đầu hoạt động. Theo sách Bến Nghé
xưa của Sơn Nam thì Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn
phía đất thấp, chưa có dự kiến nên nối liền, còn ruộng lúa với người cày, ao
nuôi vịt, ngọn rạch cạn, đợi đến năm 1916 mới bắt đầu đắp đường, trải đá
ong... (Đó là đường Galliéni, nay là Trần Hưng Đạo).
Đến năm 1930, hai thành
phố Sài Gòn và Chợ Lớn đã giáp nhau ở chỗ nay là đường Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn
Thiện Thuật. Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất
thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là
Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Đứng đầu khu là một Khu trưởng, do Toàn quyền Đông Dương
bổ nhiệm. Khu trưởng là Chủ tịch Hội đồng quản lý khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Chức
Thị trưởng vẫn còn tồn tại đến năm 1934, nhưng một số quyền hạn của chức này
chuyển sang cho Khu trưởng.
Năm 1951, Khu Sài Gòn -
Chợ Lớn đổi thành Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn và đến năm 1956 đổi thành Đô thành
Sài Gòn.
Kể từ đây, địa danh
"Chợ Lớn" chỉ còn được dùng để chỉ toàn bộ khu vực quận 5 và quận 6 của
Đô thành Sài Gòn.
Chợ Lớn (cụ thể là khu
quận 5, Quận 6, Quận 11) là khu ẩm thực nổi tiếng của Sài Gòn, các món ăn của
người Hoa rất nổi tiếng, ngon, bắt mắt tuy dầu mỡ hơi nhiều từ trước năm 1975
hàng loạt quán ăn đã được xây dựng tại đây theo mô hình “nhất dạ đế vương”
(được làm vua trong 1 đêm): Người Hoa vốn thích ăn trên lầu. . Cao lầu ở Chợ Lớn không phải chỉ một lầu mà đến 5-7 lầu như Đồng
Khánh, Ái Huê, Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Triều Châu, Kim Thành, Ngọc Lan
Đình… buổi tối lúc nào cũng "nghìn nghịt" khách ghé qua.
Nơi
đây tập trung rất nhiều hàng quán rong như phá lấu, "ngầu dìn" hay
ngưu viên (người Việt vẫn thường gọi là bò viên), hủ tíu, mì vịt tiềm,... Mì
người Hoa đặc trưng ở chỗ họ hay bán trên các xe gỗ rất to, đẩy đi bán rong
hoặc dừng một góc đường nào đó. Loại xe mì này đang vắng bóng dần, rải rác còn
vài tiệm có tiếng lâu năm như Tam Ký ở Cao Văn Lầu, Thiệu Ký hẻm 66 Lê Đại
Hành…
Không
chỉ riêng nổi tiếng với những gánh hàng rong nằm nép mình trong con hẻm, quận 5
cũng tràn ngập những con phố "thương hiệu" với những quán chuyên bán
món độc như Hà Tôn Quyền (nổi tiếng với sủi cảo, hoành thánh), phố bán những
món ăn san sát nhau đủ hết món và mùi vị từ gà ác tiềm thuốc Bắc cho đến đậu hũ
Tứ Xuyên, lẩu hải sản, cơm gà, lưỡi heo dưa cải, cháo Tiều, hủ tíu sa tế, bánh
bao, xíu mại, há cảo…
Trước
năm 1975, hầu như dân Sài Gòn từ giới trung lưu trở lên, mỗi khi tổ chức đám
cưới hay mở đại tiệc đều vào các nhà hàng nầy trong Chợ Lớn. Thành phố lên đèn.
Phố xá nhộn nhịp. Người qua lại dập dìu. Đêm về cũng là lúc các nhà hàng nầy
nườm nượp khách ra vào. Những cô gái mặc áo sườn xám, miệng tươi cười ân cần
phục vụ món ăn. Các nhà hàng ở đây được trang hoàng rực rỡ với những ánh đèn
nhiều màu sắc. Lễ tiệc long trọng dưới bầu không khí mang đậm phong cách của
người Hoa.
2/Nằm quận 3
Từ thời Pháp, khu vực
Quận 3 là nơi tập trung rất nhiều biệt thự là nơi ở của sĩ quan Pháp cũng như
các công chức làm cho Pháp, những nghệ sĩ nổi tiếng cũng chọn Quận 3 làm nơi ở.
Những căn biệt thự nơi đây thường "nép mình" trong các con hẻm với
nhiều cây xanh cao vút với những tán lá dày toả rộng trên đường như Tú Xương,
Ngô Thời Nhiệm, Hồ Xuân Hương…Thêm vào đó, trên những cung đường quận 3 cũng
rất ít những hàng quán, cửa hàng, chợ búa ồn ào, cũng như xe cộ qua lại thưa
thớt nên đất quận 3 "đắt" bởi sự tĩnh lặng và êm ái của nó.
Điển hình là đường
Duy Tân, nổi tiếng với những con hẻm cụt biệt thự, đâ cũng là nơi trú ngụ của
nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như: Trịnh Công Sơn, Bạch Tuyết, Thẩm Thuý Hằng
Sài Gòn "vun
vút", biệt thự quận 3 cũng thế mà thay đổi. Một số biệt thự được tu sửa,
nhiều biệt sự mất đi cái vẻ "cổ" ban xưa, thậm chí có nơi bị phá bỏ
hoàn toàn thay vào đó là những cao ốc "chọc trời". Tuy nhiên dù như
thế nào đi chăng nữa, đi dọc những con đường quận 3 vẫn còn đâu đó hơi thở của
Sài Gòn xưa, của những căn biệt
thự cổ "yên ả".
3/ La Cà Quận 1:
Sài Gòn xưa người dân giải trí chủ
yếu là phi anh, ca nhạc, sân khấu. Số lượng nhà hát, sân khấu kịch nói, cải
lương, vũ trường, phòng trà, quán bar mọc lên như nấm. Đặc biệt là rạp phim,
rạp hát có thể nói là “quá tải”. Trước năm 1975, toàn Sài Gòm có 68 rạp, chỉ
riêng quận 1 đã có 41 rạp.
Các phòng trà - một hình thức giải
trí dành cho giới trung lưu và thượng lưu rất "nổi" thời xưa. Một số
phòng trà nổi tiếng xưa có thể kể đến như Queen Bee, Tự Do, Ritz, Maxim's, Đêm
Màu Hồng với các ban nhạc, ngôi sao "có tiếng" đều được đặt tại quận
Nhất. Không những vậy, nơi đây còn là nơi "thiên thời địa lợi nhân hoà để
tổ chức lễ hội, sự kiện hay chương trình âm nhạc của các ngôi sao nổi tiếng. Dù
là ban ngày hay ban đêm, nơi đây vẫn luôn nhộn nhịp và rộn ràng, đúng chất
Ngày nay khu vực Quận 1 vẫn là nơi tập trung rất nhiều
vũ trường, quán 3, phố đi bộ Nguyễn Huệ,
khu phố Tây (các con đường Phạm Ngũ Lão, Đông Du, Đề Thám), khu
dành cho người Nhật (hẻm 15, 15B Lê Thánh Tôn, Thái Văn Lung) hằng đêm đều dập dìu người qua lại hay khu vực chợ đêm Bến Thành….
Dù đã hơn 40 năm
nhưng câu nói “ăn quận 5, nằm
quận 3, la cà quận 1” vẫn còn lưu giữ
trong ký ức của người dân Sài Gòn và là nét văn hoá đặc trưng khi nói về Sài
Gòn từng được mệnh danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông”
2/ Tượng Đài Saigon Xưa
Sài Gòn ngày xưa có rất
nhiều tượng đài được dựng lên. Trải qua nhiều biến cố của thời gian, những
tượng đài ở Saigon xưa có tượng còn tồn tại, có tượng đã mất đi. SGNX lập nên
album này để giúp các bạn dễ dàng tra cứu, tìm thông tin.
Saigon - Tượng Léon
Gambetta.
Léon Gambetta sinh ngày
2/4/1838 tại Cahors và mất ngày 31/12/1882 tại Sèvres ("thọ" 44
tuổi). Ông là một danh nhân chính trị gia Cộng hoà Pháp, làm Thủ Tướng (kiêm Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao) từ 1881-1882, vào khoảng thời gian Pháp sắp bắt đầu đặt
nền đô hộ trên đất nuớc VN. Ông cũng thuộc phái các chính trị gia ủng hộ việc
xâm chiếm mở rộng thuộc địa cho Pháp quốc, do công trạng này mà Gambetta đã
được dựng tượng tại Sài Gòn là thủ phủ của Nam kỳ là nơi đã bị Pháp chiếm sớm
nhất.
Tượng Gambetta tại Sài Gòn
ban đầu nằm giữa đường Norodom và Pellerin (ngày nay là giao lộ Lê Duẩn -
Pasteur). Sau đó khi kinh đào Charner bị lấp để trở thành Đại lộ Charner, và
Chợ cũ ở ĐL Charner bị dỡ bỏ, thì khu đất Chợ cũ được cải tạo thành Quảng trường
Gambetta, với tượng đài Gambetta được dời về đây, đặt ở gần phía cuối Quảng
trường như trong bức hình ở trên.
Quảng trường Gambetta (còn
được gọi là Quảng trường Chợ cũ) nằm giữa 4 con đường: mặt trước là Boulevard
CHARNER (Nguyễn Huệ ngày nay), mặt sau là Rue GEORGES GUYNEMER (sau này là Võ
Di Nguy, rồi Hồ Tùng Mậu), phía bên phải là Rue VANNIER (sau này là Ngô Đức Kế)
và bên trái là Rue Phủ Kiệt (sau 1975 là đường Hải Triều), nơi sau này có trụ
sở Ngân Khố và Học viện Ngân hàng TPHCM. Vị trí tượng Gambetta trong hình này
chính là vị trí hiện nay của tòa nhà Financial Tower 68 tầng.
Khi trụ sở Kho Bạc được xây
dựng trên khu đất này thì tượng Gambetta được dời về Công viên Tao đàn (khi đó
mang tên Parc de Maurice Long hay Jardin De Ville, và người Việt hồi đó quen
gọi là "Vườn Ông Thượng" hay "Vườn Bờ-rô"). Các bản đồ
Saigon năm 1928 và 1947 cho biết rõ vị trí của bức tượng này tại ĐL Charner
(Place de Gambetta) và trong công viên Tao Đàn.
Theo ông Vương Hồng Sển
trong cuốn Sài Gòn Năm Xưa thì năm 1945 khi Nhật đến VN, "chánh phủ Pháp
muốn thâu dụng số đồng dùng vào chiến tranh, sai thợ nấu lão Gambetta, thì hỡi
ôi! Thân lão là ersatz, đồ đồng giả, không dùng được..."
Gambetta sinh ngày 2/4/1838
tại Cahors và mất ngày 31/12/1882 tại Sèvres ("thọ" 44 tuổi). Ông là
một danh nhân chính trị gia Cộng hoà Pháp, làm Thủ Tướng (kiêm Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao) từ 1881-1882, vào khoảng thời gian Pháp sắp bắt đầu đặt nền đô hộ
trên đất nuớc VN. Ông cũng thuộc phái các chính trị gia ủng hộ việc xâm chiếm
mở rộng thuộc địa cho Pháp quốc, do công trạng này mà Gambetta đã được dựng
tượng tại Sài Gòn là thủ phủ của Nam kỳ là nơi đã bị Pháp chiếm sớm nhất.
Theo ông Vương Hồng Sển
trong cuốn Sài Gòn Năm Xưa thì năm 1945 khi Nhật đến VN, "chánh phủ Pháp
muốn thâu dụng số đồng dùng vào chiến tranh, sai thợ nấu lão Gambetta, thì hỡi
ôi! Thân lão là ersatz, đồ đồng giả, không dùng được..."
Saigon - Tượng đô đốc thủy
quân De Genouilly nơi Quảng trường Rigault de Genouilly (sau này là QT Mê Linh
cuối đường Hai Bà Trưng, nơi ngày nay là tượng đài Trần Hưng Đạo).
Phó đô đốc Charles Rigault
de Genouilly (1807-1873), là Thống đốc Nam Kỳ từ tháng 2, 1859 đến tháng 10,
1859, ông cũng là Tư lệnh quân viễn chinh Pháp.
Saigon - Tượng đài Francis
Garnier cuối thế kỷ 19. Khu vực xung quanh tượng đài này cũng mang tên Francis
Garnier, và đây chính là công viên trước Nhà hát thành phố ngày nay.
Marie Joseph François
(Francis) Garnier (25/7/1835? - 21/12/1873) là một sĩ quan người Pháp và đồng
thời là một nhà thám hiểm, được biết đến vì cuộc thám hiểm sông Mê Kông tại khu
vực Đông Nam Á cũng như vì chiến dịch quân sự do ông chỉ huy ở Bắc Kỳ năm 1873.
Saigon
- Tượng đài Francis Garnier.
Marie Joseph François
(Francis) Garnier (25/7/1835? - 21/12/1873) là một sĩ quan người Pháp và đồng
thời là một nhà thám hiểm, được biết đến vì cuộc thám hiểm sông Mê Kông tại khu
vực Đông Nam Á cũng như vì chiến dịch quân sự do ông chỉ huy ở Bắc Kỳ năm 1873.
Francis Garnier bị giết tại
Ô Cầu Giấy ngày 21 tháng 12, 1873 bởi quân của tướng Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc.
Saigon
- Tượng đài Chiến sĩ Trận vong Đại chiến Thế giới lần thứ nhất (1914-1918).
Tượng đài ba binh sỹ Pháp
bị giật sập năm 1956. Vị trí của Công trường chiến sỹ trong hình chính là vị
trí Hồ con Rùa ngày nay.
Saigon - Công trường chiến
sĩ trận vong với tượng đài ba binh sỹ Pháp bằng đồng và một hồ nước nhỏ được
xây dựng năm 1927 để tưởng niệm lính Pháp và lính Đông Dương chết trong thế
chiến thứ nhất. Tượng đài ba binh sỹ Pháp bị giật sập năm 1956. Vị trí của Công
trường chiến sỹ trong hình chính là vị trí Hồ con Rùa ngày nay.
.
Saigon 1972 - Hồ con rùa và
hình con rùa thuở còn nguyên vẹn.
Con rùa trong hình là lời
giải đáp cho câu hỏi của nhiều bạn "Tại sao hồ Con Rùa hổng có con rùa nào
hết?!"
Công trình xây dựng tại
vòng xoay hồ con rùa là Đài kỷ niệm Viện trợ Quốc tế cho Việt Nam Cộng Hòa tức
miền Nam VN trước năm 1975. Tháp cao nhất ở giữa nhìn như một bông hoa chính là
hình ảnh cách điệu của những bàn tay đón nhận viện trợ. Bia trên lưng rùa một
mặt thì khắc câu tri ân các quốc gia đã viện trợ, một mặt khắc tên tất cả các
nước đó.
Con rùa được làm bằng lá
đồng mỏng, ốp trên khung sườn bằng thép góc và thép lá. Vì vậy không tốn kém
mấy về vật liệu và dễ thực hiện (giống như tượng Nữ thần Tự do bên Mỹ).
.
Saigon - Tượng linh mục Bá
Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh phía trước Nhà thờ Đức Bà.
Năm 1903, người Pháp cho
dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Bá Đa Lộc hoặc Giám mục
Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia
Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp "bảo hộ", "khai hóa"
cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn
và bên trên là bức tượng tạc hình Giám mục Adran với phẩm phục giám mục, tay
trái dẫn hoàng tử Cảnh, tay phải cầm Hiệp ước Versailles năm 1787.
Saigon - Tượng Đức Mẹ Hòa
Bình.
Năm 1958, Linh mục Phạm Văn
Thiên, người cai quản giáo xứ Saigon lúc bấy giờ, sau 1 chuyến đi sang Ý, đã
đặt 1 đức tượng Đức Mẹ Hoà Bình bằng đá cẩm thạch Carrara của Ý. Nơi tạc bức
tượng là Pietrasanta, cách Rome 500km.
Tượng hoàn tất và được đưa
xuống tàu ngày 8.01.1959, tới Saigon vào ngày 15.02.1959.
Saigon 1969 - Tượng nhà bác
học Trương Vĩnh Ký phía sau Nhà thờ Đức Bà Saigon. Hiện nay, tượng này đã được
di dời về trong khuôn viên của Bảo tàng Mỹ thuật thành phố trên đường Phó Đức
Chính.
Trương Vĩnh Ký (1837 –
1898) vốn có tên khai sanh là Jean Baptiste Trương Chánh Ký, sau mới đổi là
Trương Vĩnh Ký, thường gọi là Pétrus Ký, hiệu là Sĩ Tải. Ông có tri thức uyên
bác, am tường và có cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây,
nên đương thời ông được giới học thuật Châu Âu liệt vào 18 nhà bác học trên thế
giới. Ngoài ra, vì biết và sử dụng thông thạo 27 ngoại ngữ, nên ông trở thành
nhà bác học biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam, và đứng vào hàng những người
biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới. Ông là người khai sanh ra tờ
"Gia Định báo" - tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam.
Hiện Sài Gòn Năm Xưa vẫn
chưa rõ bực tượng Trương Vĩnh Ký được xây dựng vào thời gian nào, mong quý bạn
đóng góp thêm thông tin để bài này được đầy đủ hơn.
Tái bút: Nhằm giúp quý bạn
dễ dàng trong việc theo dõi bài và tra cứu thông tin từ fanpage, SGNX sẽ tiến
hành đăng và tổng hợp lại các thông tin thành những chủ đề nhỏ, và các bài đó
trong cùng chủ đề sẽ được tập hợp trong một album. Album hình sẽ được SGNX tổng
hợp và cho đăng lên vào một trong hai ngày cuối tuần: thứ 7 và chủ nhật. Chủ đề
của tuần này là "Tượng đài ở Saigon xưa". Mong quý bạn của trang nhà
đón theo dõi!
Saigon 1968 - Tượng đài
"Chiến sĩ Vô danh" giữa ngã tư Hồng Bàng-Tổng Đốc Phương.
Saigon 1971 - Tượng đài
Thủy quân lục chiến trên đường Lê Lợi xưa.
Saigon 1969 - Tượng Phù
Đổng Thiên Vương, Thánh tổ Binh chủng Thiết giáp, Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Sở dĩ Pù Đổng Thiên Vương
được suy tôn là thánh tổ Thiết giáp vì truyền thuyết ông mặc áo giáp sắt, cưỡi
ngựa sắt ra trận đánh tan giặc Ân.
Tượng đài An Dương Vương
trong lúc đang thi công.
An Dương Vương được suy tôn
là Thánh tổ của lực lượng Pháo binh, quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sở dĩ người ta suy tôn An
Dương Vương là Thánh tổ Pháo binh là dựa vào truyền thuyết Nỏ thần. Trên thực
tế, kỹ thuật bắn ra nhiều mũi tên cùng lúc là thật chứ không phải là hư cấu.
Thời An Dương Vương, xuất hiện nỏ liên châu do tướng quân Cao Lỗ chế tạo. Khi
Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc, chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra
như mưa, thây chết đầy nội và phải lui binh.
Đương thời, nỏ liên châu
trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.
Saigon 1970 - Khu vực ngã
sáu Nguyễn Tri Phương với tượng đài An Dương Vương phía trên cột đá. Công trình
này được xây dựng dựa trên cảm hứng từ Quảng trường Trafgalar (Trafgalar
Square) ở London. (Hình ảnh Quảng trường Trafgalar sẽ được cung cấp phía dưới
comment.)
Tái bút: Hôm nay cũng là
tròn 2 năm ngày Sài Gòn Năm Xưa được thành lập. Ban Quản trị SGNX xin cảm ơn
tất cả các thành viên đã theo dõi và ủng hộ cho SGNX trong suốt thời gian vừa
qua.
Tượng tướng Trần Nguyên Hãn
tại vòng xoay Quách Thị Trang.
Trần Nguyễn Hãn được coi
như là thánh tổ của Binh chủng Truyền Tin Quân Đội VNCH. Bức tượng này cũng là
do Binh chủng Truyền Tin đắp nên.
Trần Nguyên Hãn là con cháu
nhà Trần, cháu ruột của Trần Nguyên Đán, dòng dõi Thượng tướng Trần Quang Khải,
anh em (con cô, con cậu) với Nguyễn Trãi. Ông quê ở xã Sơn Đông (nay thuộc
huyện Lập Thạnh, Vĩnh Phúc), lập nhiều công nên khi xét công lao ông được đứng
hàng đầu với chức Tả tướng quốc. Trong thời gian kháng chiến, Trần Nguyên Hãn
đã dùng những chú chim bồ câu mà ông nuôi dưỡng, huấn luyện để chuyển thư qua
lại với chủ tướng Lê Lợi và các đầu mối quân sự khác. Có lần khi đang đóng quân
trấn giữ thành Võ Ninh thì bị quân Minh kéo đến vây chặt, tình thế rất nguy
khốn, Trần Nguyên Hãn đã viết thư cầu cứu rồi buộc vào chân chim. Nhờ thư do
chim câu mang đến, Bình Định Vương Lê Lợi biết được tình hình liền lập tức cho
quân tiếp viện đến Võ Ninh phá vỡ vòng vây giải cứu. - Trích vtc.vn
Saigon 1971 - Tượng An
DươngVương trước Hội trường Diên Hồng, Bến Chương Dương.
Tượng này ngày nay được đặt
tại Bảo tàng Mỹ thuật thành phố - nhà chú Hỏa. Chỉ cần đi dọc đường Phó Đức
Chính là bạn có thể thấy bức tượng này.
Tượng ông Quách Diệm trong
khuôn viên Bảo tàng Mỹ thuật thành phố - đường Phó Đức Chính.
Thực ra, ông Quách Đàm -
người có công xây dựng chợ Bình Tây - lại không phải tên là Đàm. Tên thật của
ông chính xác là Diễm (hay cũng gọi là Diệm).
Về sự lầm lẫn này có thể từ
một trong hai nguyên nhân: một là nhìn lầm mặt chữ, có thể là do người Việt đầu
tiên đã sơ ý nhìn chữ Diệm ra chữ Đàm rồi phiên âm sai, vì chữ Diệm dễ lầm với
mấy chữ Đàm như sau: (đàm, viết lối hành thư), (đàm), (đàm), (đàm); hai là nghe
lầm âm, việc này có thể do người Pháp ký âm và viết tên Quách Diệm là Quach Dam
(Quach-dam) bởi nghe người Triều Châu phát âm Diệm là “iam”, gần như âm Đàm.
Trên những văn bản chữ Hán
do các học giả Hoa kiều ở Chợ Lớn như Lý Văn Hùng, Thi Đạt Chí... viết trong
khoảng 1950-1960 đều viết Quách Diệm, trong Hoa kiều chí - Việt Nam (Đài Bắc,
1958) và Quảng Đông tỉnh chí - Hoa kiều chí (1996) đều viết tên là Diệm, tiểu
sử nhân vật này trong các sách kể trên đều không nói Quách Diệm còn có tên khác
là Đàm.
Tượng Quách Diệm xưa được
đặt ngay giữa chợ Bình Tây, sau năm 75 tượng bị cất trong một nhà kho của Phòng
văn hoá thông tin quận 6, tới năm 2003 thì được đem trưng bày tại Bảo tàng Mỹ
thuật cho tới nay.
Saigon 1953-1954 - Thánh lễ
diễn ra tại một nhà thờ ở vùng đất Gia Định những năm 1953-1954.
Bức tượng trong hình là
tượng của Tổng lãnh thiên thần Micae - thánh tổ của Binh chủng nhảy dù xưa.
Sài Gòn 1960s - Bưu điện
Chợ Lớn.
Trong hình là Bưu điện
trung tâm của Chợ Lớn. Ngôi nhà nơi toạ lạc bưu điện trước đây là vị trí của
Chợ Lớn cũ, sau này do chợ cũ quá chật hẹp nên người Pháp cho xây chợ mới - chợ
Bình Tây ngày nay.
Ngoài ra, trong hình ta còn
thấy có 1 tượng đài. Đó là tượng của Phan Đình Phùng - lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
Hương Khê (1885-1896) trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở cuối thế kỷ 19
trong lịch sử Việt Nam.
Phan Đình Phùng còn được
coi là Thánh tổ Quân cụ vì vào năm 1887, Cao Thắng - người tùy tướng tài ba lỗi
lạc của Phan Đình Phùng - sau mấy tháng trời lao động, đã chế tạo được súng đạn
đánh Pháp, đặc biệt là súng trường kiểu “1874”.
Saigon 1963 - Tượng Hai Bà
Trưng ở Công trường Mê Linh bị người dân giật sập sau sự kiện đảo chính.
Saigon 1966 - Cột đá tại
công trường Mê Linh.
Trước khi xảy ra sự kiện
đảo chính vào năm 1963, trên cột đá này có đặt tượng Hai Bà Trưng, được đúc bởi
lệnh của Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân.
Sau khi đảo chính, tượng
Hai Bà Trưng bị giật đổ vì người ta cho rằng đây chính bà Xuân lấy hình mẫu hai
mẹ con mình để đúc nên tượng Hai Bà Trưng.
Năm 1967, Binh chủng Hải
quân Việt Nam Cộng hòa cho dựng tượng Trần Hưng Đạo tại vị trí này.
Saigon - Các đoàn viên của
tổ chức Thanh nữ Cộng hòa diễu hành ngang qua tượng Hai Bà Trưng tại Công
trường Mê Linh.
Tượng Hai Bà Trưng được xây
dựng dưới sự chỉ đạo của bà Trần Lệ Xuân, người ta đồn đại rằng bức tượng này
được tạc dựa trên hình mẫu của hai mẹ con bà Xuân. Sau sự kiện đảo chính 1963,
người ta đã cho giật sập bức tượng này. Sau đó, tại vị trí này, vào năm 1967,
binh chủng Hải quân Việt Nam Cộng hòa cho xây dựng tượng tướng quân Trần Hưng
Đạo như ngày nay.
Saigon - Tượng Đức thánh
Trần Hưng Đạo tại Công trường Mê Linh.
Trần Hưng Đạo (1228 -
1300), còn được gọi là Hưng Đạo Vương, tên thật là Trần Quốc Tuấn; là nhà chính
trị, nhà quân sự kiệt xuất, và là nhà văn Việt Nam thời Trần. Ngài được suy tôn
là Thánh tổ của Hải quân Việt Nam Cộng hòa.
Vấn đề tại sao người xưa
chọn Trần Hưng Đạo là Thánh tổ Hải quân vẫn là một dấu hỏi lớn, tuy nhiên chiến
thắng Bạch Đằng Giang (1288) đã cho thấy tài cầm quân kiệt xuất của ngài Quốc
công Tiết chế Trần Hưng Đạo, đặc biệt là trong thủy chiến.
Năm 1984, Hội đồng khoa học
Hoàng gia Anh đã đưa ông vào danh sách 10 vị tướng xuất sắc nhất của thế giới.
Tượng Trần Hưng Đạo tại
Công trường Mê Linh là hình ảnh vị Đại tướng trong y phục võ tướng, một tay tỳ
lên độc kiếm, một tay chỉ xuống lòng sông và nói : "Phen này nếu ta không
phá xong giặc Nguyên, thề không trở lại khúc sông này nữa".R
Saigon xưa - Tượng voi đồng
trong Sở thú Saigon.
Tượng con voi bằng đồng
trong Sở thú do vua Xiêm-La (Thái Lan) Paramindr Mah Prajahhipok tặng nhân dịp
ngài đến thăm Sài Gòn. Tượng đặt tại đây ngày 14-4-1930. Hiện nay, tượng này
vẫn còn nằm trong khuôn viên Sở thú nhưng vị trí thì hơi khác một chút so với
ban đầu.
Saigon 1967-1968 - Tượng
đài "Tổ quốc - Không gian" phía trước Tòa Đô chánh.
Năm 1967, trong đợt xây
dựng các tượng đài biểu trưng của các binh chủng thuộc Quân lực Việt Nam Cộng
Hòa, binh chủng Không quân đã cho dựng nên một tác phẩm điêu khắc kỷ hà để nói
lên tinh thần bảo vệ vùng trời và Tổ quốc. Tượng đài bị dỡ đi sau 1975 nhưng
không rõ tung tích.
3/ Khám phá tên gọi của những nút giao thông nổi tiếng ở Sài Gòn
Những tên gọi như ngã tư
Hàng Xanh, ngã năm Chuồng Chó... được đặt cho các nút giao thông nổi tiếng ở
Sài Gòn vốn dĩ xuất phát từ những biểu tượng một thời ngày xưa.
Vòng xoay Cây Gõ (cầu vượt
thép chữ Y)
Vòng xoay Cây Gõ là một
trong những nút giao thông quan trọng thuộc quận 6 (TP. HCM) và thường xuyên
xảy ra tình trạng ùn tắc khi chưa xây dựng cầu vượt thép. Đây là điểm giao giữa
các tuyến đường, Hồng Bàng, Phú Thọ, 3/2.
Vòng xoay Cây Gõ trước khi
xây dựng cầu vượt thép chữ Y - Ảnh Internet.
Vòng xoay Cây Gõ hiện tại
được xây dựng cầu vượt thép dài nhất TP. HCM.
Lý giải về tên gọi Cây Gõ
được đặt tại vòng xoay này, cũng không có nhiều tài liệu ghi chép lại, tuy
nhiên nhiều người dân sống lâu năm ở đây cho biết trước đây ở khu vực này khi
chưa được khai hoang, cây cối vẫn mọc um tùm, điển hình nhất là loài cây gõ. Về
sau khu vực này được khai hoang, hàng loạt cây gõ cũng được chặt bỏ để xây dựng
đô thị. Vòng xoay cũng được hình thành và người dân đặt tên vòng xoay Cây Gõ để
tạo sự thân quen.
Năm 2013, cầu vượt chữ Y
được xem là cầu vượt thép dài nhất thành phố chính thức khánh thành, đã giảm
tải được áp lực giao thông tại khu vực này.
Ngã
năm Chuồng Chó (ngã 6 Gò Vấp)
Đây là điểm giao thông cũng
thường xuyên xảy ra ùn tắc thuộc phường 3 (quận Gò Vấp) với các tuyến đường
giao nhau gồm Nguyễn Kiệm, Nguyễn Oanh, Quang Trung, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn
Văn Nghi, Trần Thị Nghĩ.
Nói về sự tích ngã năm
Chuồng Chó, sở dĩ có tên gọi hơi lạ như vậy vì trước năm 1975 khu vực này
từng tồn tại một trường huấn luyện chó. Người dân khi đi qua giao lộ này cũng
quen miệng gọi với cái tên ngã năm Chuồng Chó từ đó, thậm chí cho đến ngày nay
vẫn gọi mặc dù đã đổi tên mới.
Ngã năm Chuồng Chó trước
đây - Ảnh tư liệu.
Ngã năm Chuồng Chó được mở
rộng thành ngã sáu Gò Vấp hiện tại.
Sau năm 1975, trường huấn
luyện chó này được xây dựng lại để làm nhà ở. Ngã năm Chuồng Chó cũng được nâng
cấp mở rộng thành ngã 6 Gò Vấp.
Cũng theo một tài liệu cũ
khác, nút giao thông này vào thời Pháp được gọi là ngã năm Hàng Điệp vì dọc
theo 5 tuyến đường lúc bấy giờ có trồng những cây điệp to cao trông rất đẹp
mắt. Đến khi xây dựng trường huấn luyện chó người dân mới dần chuyển sang gọi
ngã năm Chuồng Chó.
Ngã
tư Hàng Xanh
Điểm nút giao thông nổi
tiếng để các tỉnh miền Đông Nam Bộ và miền Trung đi vào trung tâm TP. HCM.
Giao lộ này thuộc quận Bình Thạnh giữa các tuyến đường Điện Biên Phủ (một phần
của Xa lộ Hà Nội) và đường Xô Viết Nghệ Tĩnh (nối với Quốc lộ 13). Do
lượng xe ngày càng đông, vào đầu năm 2013, một cầu vượt bằng thép được khánh
thành để hạn chế ùn tắc tại đây.
Ngã tư Hàng Sanh là tên gọi
trước đây - Ảnh tư liệu.
Ngã tư Hàng Xanh hiện tại
được xây dựng cầu vượt để giảm ùn tắc giao thông.
Tên gọi Hàng Xanh như hiện
tại, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thực chất là Hàng Sanh mới chuẩn xác. Trước
năm 1945, vùng này trồng rất nhiều cây sanh (một cây thuộc họ Dâu tằm) và
có chung gốc gác với loại cây si, đa và đề. Cây sanh được trồng nhiều nhất ở
đường Bạch Đằng và kéo dài đến ngã tư này, cũng vì thế lúc đó người ta vẫn hay
gọi đường Bạch Đằng là đường Hàng Sanh.
Vào những năm 60 của thế kỉ
trước, đường Bạch Đằng và ngã tư sát đó được đặt tên chính thức là Hàng Sanh.
Về sau theo tiếng địa phương người dân gọi quen thành Hàng Xanh và tồn tại đến
bây giờ.
Ngã
tư Bảy Hiền
Nút giao thông với tên gọi
thân quen thuộc phường 4 (quận Tân Bình, TP. HCM). Đây là điểm giao thông nối
các tuyến đường Cách Mạng Tháng Tám, Trường Chinh, Lý Thường Kiệt và Hoàng Văn
Thụ.
Tên gọi Bảy Hiền được đặt
cho ngã tư này từ một nhân vật sống lâu năm ở đây. Theo sách "Người
Quảng Nam" tại khu vực ngã tư này có ông già chuyên bán cà phê
"cóc" tên là Hiền, là con thứ Bảy trong gia đình, nên người ta hay
gọi xã giao thường ngày là Bảy Hiền. Được biết, người này từng cai quản các đồn
điền cao su của Nam Phương hoàng hậu (hoàng hậu của vua Bảo Đại).
Ngã tư Bảy Hiền trước năm
1975 - Ảnh tư liệu.
Ngã tư Bảy Hiền hiện tại
với hạ tầng giao thông được cải tạo lại, dân cư đông đúc hơn, nhưng vẫn giữ tên
gọi cũ.
Theo tư liệu cũ, vào khoảng
năm 1940 người Sài Gòn xưa vẫn hay gọi "ngã tư ông Bảy Hiền" để
cho dễ nhớ mỗi khi muốn đi qua đây. Về sau, cái tên quá dài nên dần dần từ
"ông" mất chỉ còn "ngã tư Bảy Hiền". Sau này, nguyên khu
vực quanh ngã tư được gọi thành "Bảy Hiền".
Trước năm 1954, khu vực này
vẫn còn là vùng ngoại ô của Sài Gòn, bao gồm một đồn điền cao su và những cánh
đồng lúa chạy kéo dài lên tận Tây Ninh. Sau năm 1954, người dân Quảng Nam vào
đây lập nghiệp ngày càng nhiều hơn với nghề dệt và từ đó phát triển đến bây
giờ.
Vòng
xoay Lăng Cha Cả (ngã 6 Cộng Hòa)
Vòng xoay này nằm gần Ngã
tư Bảy Hiền cũng thuộc phường 4 (quận Tân Bình), một trong những nút giao thông
quan trọng của TP. HCM. Đây là điểm giao cắt của một số trục đường lớn như
Cộng Hòa, Hoàng Văn Thụ, Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Sỹ, Bùi Thị Xuân. Vòng xoay
được xây dựng khá nổi bật với quả địa cầu hai màu xanh, đỏ, đường kính khoảng 2
mét.
Theo tư liệu được ghi chép
lại, nơi đây vốn là khu vực lăng mộ 2.000 m2 của giám mục người Pháp có tên Bá
Đa Lộc.
Vòng xoay Lăng Cha Cả năm
1970 nhìn từ máy bay - Ảnh tư liệu.
Ông Bá Đa Lộc tên thật
là Pierre Pigneaux (sinh năm 1741, quốc tịch Pháp). Năm 1765, sau khi ông
được sắc phong linh mục thì sang Việt Nam truyền giáo và phò tá Nguyễn Ánh
đánh nhà Tây Sơn. Trong trận vây thành Quy Nhơn – Thị Nại năm 1799, Bá Đa
Lộc qua đời, ông được đưa về an táng ở gần nhà cũ thuộc thành Gia Định, nằm khu
Vườn Xoài - Tân Sơn Nhất, phía Tây Bắc Sài Gòn. Được trọng vọng, coi như bậc
công thần có công lớn nên Nguyễn Ánh cho xây khu lăng mộ Bá Đa Lộc bề thế.
Sang thế kỉ 20, nơi này
được sáp nhập vào vùng ngoại ô Sài Gòn, sau đó được phát triển với việc xây
dựng sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất (phía bắc Lăng Cha Cả), bến xe lớn (phía
tây). Với những thay đổi này, ngôi lăng bị thu hẹp lại làm điểm tròn nằm lọt
giữa đường Võ Tánh, tuy vậy khu mộ vẫn được giữ gìn đến năm 1980.
Vòng xoay Lăng Cha Cả hiện
tại chỉ còn vòng tròn với quả địa cầu ở giữa.
Từ năm 1980 - 1983, khu
lăng mộ này được giải tỏa và di hài của Giám mục Bá Đa Lộc được giao lại cho
tổng lãnh sự Pháp đưa về nước. Còn lại là điểm tròn làm vòng xoay (bùng binh)
lưu thông trên đường Hoàng Văn Thụ - Lê Văn Sỹ ngày nay và người dân vẫn quen
gọi với tên vòng xoay Lăng Cha Cả. Về sau nơi này được gọi với tên ngã 6 Cộng
Hòa khi được xây dựng cầu vượt vào năm 2013 để giảm ùn tắc giao thông.
Ngã
ba Chú Ía (Vòng xoay Nguyễn Thái Sơn)
Đến hiện tại, người dân vẫn
hay gọi khu vực này là ngã 6 Chú Ía. Giao lộ này được xem là nỗi kinh hoàng về
tình trạng ùn tắc giao thông vào giờ tan tầm ở TP. HCM hiện tại. Đây là điểm
nối giữa các tuyến đường Nguyễn Kiệm, Nguyễn Thái Sơn, Hoàng Minh Giám, Phạm
Văn Đồng thuộc phường 3 (quận Gò Vấp).
Vòng xoay Nguyễn Thái Sơn ở
hiện tại là ngã ba Chú Ía trước đây.
Một nhà nghiên cứu lịch sử
cho hay, trước 1975, Hía là tên của một người Hoa làm nghề thủ công và có
cửa hàng Bách hoá lớn ở khu vự ngã 3 này nên người Sài Gòn gọi khu vực này
thành ngã ba Chú Hía. Trải qua thời gian, người dân nhập cư vào đây rồi phát âm
này dần biến mất chỉ còn "Chú Ía" cho đến nay.
Hiện tại, ngã ba Chú
Ía mở rộng thành ngã 6 với tên gọi mới là Ngã Sáu Nguyễn Thái Sơn, khi xuất
hiện vòng tròn ở giữa thì gọi vòng xoay Nguyễn Thái Sơn. Tuy nhiên với nhiều
người Sài Gòn, họ vẫn quen với tên gọi ngã ba Chú Ía, một số người thì gọi ngã
6 Chú Ía khi qua khu vực này.
Saigon 1966 - Tượng đài An
Dương Vương.
Tượng này lúc xưa đặt tại
Bến Chương Dương, trước Hội trường Diên Hồng. Ngày nay, người ta đã dời tượng
này về trong khuôn viên của Bảo tàng Mỹ thuật.
4/ Nguồn gốc Một Số Địa Danh Tại Sài Gòn
Tên Gọi Bà Điểm:
Xã xưa có 18 thôn Vườn Trầu, huyện Bình
Long, phường Tân Bình, tỉnh Gia Định xưa, nay là xã Tân Thới Nhất thuộc huyện
Hóc Môn, ở phía Tây-Tây Bắc Thuận Kiều, TP. Hồ Chí Minh. Hội nghị TW lần 6 họp
tại Bà Điểm tháng 11-1939 do các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu và Lê
Duẩn chủ trì. Nơi nuôi giấu các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Lê Hồng
Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Duẩn, Võ Văn Tần. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra
ngày 23/11/1940 tại đây và lan ra cách tỉnh Nam Kỳ, sau khi thất bại, Nguyễn
Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai đã bị giặc Pháp xử bắn
ở Hóc Môn ngày 25/4/1941.
Tên gọi Bà Chiểu:
địa điểm ở làng Hòa Bình, huyện
Bình Dương, phường Tân Bình, tỉnh Gia Định nay thuộc huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí
Minh, có lăng Lê Văn Duyệt ở phía Bắc rạch cầu Bông, nhánh sông Thị Nghè. Chợ
trên đường Bùi Hữu Nghĩa ở quận Bình Thạnh.
Địa Danh Ba Son:
Xưởng đóng tàu thủy của
chúa Nguyễn xưa và xưởng sửa chữa, đóng tàu thủy và sà-lan của quân đội Pháp,
thành lập năm 1864 ở vòm sông Thị Nghè ở Tp. Sài Gòn nay là Tp. Hồ Chí Minh.
Bên cạnh có trường Bách Nghệ đào tạo công nhân cho xưởng này. Năm 1912 cụ Tôn
Đức Thắng tham gia cuộc bãi công của trường Bách Nghệ. Tháng 8/1925, công nhân
Ba Son đã tham gia cuộc bãi công lần thứ 2 của trường Bách Nghệ ngăn cản tàu
Michelet chở quân Pháp sang Thượng Hải can thiệp vào cách mạng Trung Quốc.
18
thôn vườn trầu
Vị trí: Mười tám Thôn vườn trầu thuộc xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, ngoại vi Tp.
Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố chưa đầy 10km.
Ðặc điểm: Bà con sinh sống lâu đời ở đây coi trồng trầu là một nghề ăn nên làm
ra. Do vậy mà, vườn nhà nọ nối với vườn nhà kia bằng một màu xanh bất tận của
cây trầu.
Thời ấy Mười tám Thôn vườn trầu lắm thú dữ, cảnh trí hoang sơn, cỏ cây rậm rạp.
Nhắc tới địa danh này, nhiều cụ cao niên cho biết ngày xưa ở đây nhiều hổ lắm,
"ông ba mươi" đi trên đường làng giữa ban ngày, còn ban đêm thì thả
sức tung hoành quấy phá, bởi vậy mới có câu truyền miệng "dữ như hổ Mười
tám Thôn vườn trầu". Bà con sinh sống lâu đời ở đây coi trồng trầu là một
nghề ăn nên làm ra. Do vậy mà, vườn nhà nọ nối với vườn nhà kia bằng một màu
xanh bất tận của cây trầu. Nghề nuôi ngựa, nuôi gà chọi cũng là một trong những
nghề nổi tiếng ở đây. Buổi đầu Pháp xâm chiếm Nam Bộ, giữa tết năm Ất Dậu
(1885), nhân dân Mười tám Thôn vườn trầu đã nổi dậy, khởi nghĩa giết đốc phủ
Ca, một tên tay sai gian ác, rồi kéo quân vào Sài Gòn....
Năm 1930 khi Ðảng Cộng Sản Ðông Dương ra đời thì Mười tám Thôn vườn trầu được
chọn làm hậu cứ, nơi nuôi dưỡng các cán bộ lãnh đạo của Ðảng, nơi cất dấu tài
liệu bí mật của Ðảng. Trong khoảng thời gian năm 1930 đến 1940, bà con Mười tám
Thôn vườn trầu đã bảo vệ, che dấu, nuôi nấng nhiều chiến sĩ cộng sản, nhiều
người con ưu tú của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam: Nguyễn Văn Cừ,
Phan Ðăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Quốc Việt,
Lê Duẩn...Tin vào dân, dựa vào dân, Trung ương Ðảng đã tổ chức ở đây ba cuộc
họp quan trọng. Tháng 3 năm 1937 Trung ương Ðảng họp hội nghị mở rộng kiểm điểm
tình hình, bàn chủ trương biện pháp cụ thể, nhất là công tác mặt trận và công
tác đấu tranh hợp pháp để đẩy mạnh phong trào cách mạng tại ấp Tiến Lâm. Cũng
tại ấp này, tháng 3 năm 1938, Trung ương Ðảng họp hội nghị toàn thể kiểm điểm
ưu khuyết điểm về các mặt công tác: xây dựng Ðảng, tổ chức quần chúng, xây dựng
mặt trận. Và đề ra những chủ trương cụ thể nhằm phát huy thắng lợi đã giành
được, đưa phong trào đấu tranh dân chủ lên một bước nữa. Từ ngày 6 đến ngày 8
tháng 11 năm 1939, hội nghị Trung ương Ðảng lần thứ 6 khai mạc tại ấp Tây Bắc
Lân - Mười tám Thôn vườn trầu với sự tham gia của các đồng chí Nguyễn Văn Cừ
(Tổng bí thư), Lê Duẩn, Phan Ðăng Lưu, Võ Văn Tần... Hội nghị đã bàn toàn diện
các chủ trương của Ðảng trong tình hình mới. Ðêm 23 tháng 11 năm 1940, khởi
nghĩa Nam kỳ bùng nổ. Cả một vùng rộng lớn nông thôn Nam Bộ rung chuyển trước
sức nổi dậy, tiến công của quần chúng cách mạng. Ngày đó, bà con Mười tám Thôn
vườn trầu tự vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác đánh vào các cơ quan hành chính
của thực dân Pháp. Do điều kiện chưa chín muồi, cuộc khởi nghĩa này đã thất
bại. Thực dân Pháp dựng trường bắn ngay tại thị trấn Hóc Môn - chỗ ngã ba
Giồng. Tại đây, những người con ưu tú của dân tộc, những cán bộ xuất sắc của
Ðảng: Nguyễn văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Ðăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai... đã ngã
xuống.
Ngày nay Hóc Môn vẫn còn những di tích lịch sử ghi dấu những giai đoạn lịch sử
anh hùng của nhân dân Hóc Môn cùng nhân dân Nam Bộ đấu tranh anh dũng kiên
cường với thực dân Pháp, đế quốc Mỹ dành độc lập. Như: "Bia căm thù"
ở Cầu Xáng, khu di tích.
Địa Danh 18 Thôn Vườn Trầu
Nhiều
tài liệu nói, Hóc Môn là xứ trầu cau, người ta thường thu hoạch đem đi bán chợ
Kinh (chợ Bến Thành) và các tỉnh.
Những thực khách sành sỏi ở Sài Gòn, Chợ Lớn và các nơi có dịp đến Hóc Môn ăn
nem, thưởng thức rượu đế, không ai quên được hương vị đặc biệt của món ăn này;
rượu nấu bằng gạo nếp, men ngọt, nước trong nên vị ngọt, mùi thơm, nhiều
bọt.Hóc Môn không phải chỉ có nem và rượu nếp ngon mà thôi. Đặc biệt, trầu và
cau Bà Điểm nổi tiếng trong cả nước.
Trước kia, Hóc Môn có 18 thôn, thôn nào cũng có trồng trầu và cau, vì thế nên
có biệt danh “Thập Bát phù viên” (tức là 18 thôn vườn trầu) cho đến nay.
Đa số phụ nữ Việt Nam thường hay ăn trầu, nhất là trầu và cau Bà Điểm, trầu Bà
Điểm lá nhỏ, mỏng, vàng tươi, cau cơm dầy, trắng, ruột lớn, vỏ mỏng mềm, mùi
thơm ngọt. Đặc biệt, ít khi bị thối ruột, không chát, ăn không bị say.
Phong tục nuớc ta trong những ngày tết Nguyên đán, mọi nhà đều cúng ông bà, cha
mẹ quá cố thì đặt một dĩa trầu cau. Trong việc giao tế nhất là việc hôn nhân,
trầu cau đóng vai trò hết sức quan trọng “Miếng trầu là đầu câu chuyện” hay là
“Trầu cau dùng lễ, nghĩa nhân mới nồng”.
Trầu cau giữ một vai trò rất quan trọng trong việc dâng cúng ông bà trong 3
ngày tết; trong việc hôn nhân, giao tế nên dân gian kết cấu ra sự tích Cao Lang
và Cao Nương để nói lên mối tình đầy thương tâm của hai người anh em giống nhau
đến nỗi chị dâu phải nhầm.
Trầu cau được thể hiện rất nhiều qua các câu phong giao, đồng giao hoặc các câu
hò, câu hát…
Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng.
***
Con chim chìa vôi bay ngang đám thuốc
Con cá bãi trầu lội tuốt mương cau.
***
Cau không trồng cau đực
Trai không vơ,ï cực lắm anh ơi !
*******
Trái cau nho nhỏ – cái vỏ xanh xanh
Anh gặp em giữa chợ Bến Thành
Đến nay bầy con đông đúc, anh phải đành vậy thôi.
5/Một số tên đường ở TP. Hồ Chí Minh
Sương
Nguyệt Anh (1864 - 1921)
Tên thật là Nguyễn Xuân Khuê, con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Bà học giỏi, thường làm thơ bằng chữ Hán hay quốc ngữ, bày tỏ tâm sự trước cảnh
nước mất nhà tan, nhân dân lầm than đau khổ.
Năm 1918 bà làm chủ bút tuần báo Nữ Giới Chung (xuất bản ở Sài Gòn), trở thành
người phụ nữ Việt Nam đầu tiên là chủ bút tờ báo của giới phụ nữ nước ta.
Nguyễn
Thái Bình
Sinh
14-1-1948 tại Cần Giuộc, Long An. Mười giờ sáng ngày 2-7-1972 khi chiếc Boeing
747 mang số hiệu 841 của hãng hàng không Liên Mỹ PAN AM vừa đáp xuống sân bay
Tân Sơn Nhất, Nguyễn Thái Bình đã bị William H. Mills, nhân viên cơ quan tình
báo Mỹ CIA, cùng đi trên máy bay bắn 4 phát đạn vào ngực rồi ném xác anh xuống
đường băng.
Hai tháng trước đó, Nguyễn Thái Bình tốt nghiệp kỹ sư công nghiệp thực phẩm và
ngư nghiệp với hạng danh dự tại Viện đại học Washington. Được cấp học bổng
Leadership đi du học tại Mỹ từ năm 1968, anh luôn nghĩ về đất nước mình, dân
tộc mình. Anh tham gia các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ
tại Việt Nam, viết nhiều bài báo (bằng tiếng Việt và tiếng Anh) tố cáo những
tội ác mà quân viễn chinh Mỹ gây ra cho đồng bào mình, làm thơ, vẽ tranh, sáng
tác nhạc bày tỏ khát vọng độc lập và hòa bình của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt
trong lễ phát bằng tốt nghiệp đại học (5-1972) anh công bố tài liệu Nợ máu
(Blood Debt), lên án Chính phủ Mỹ đã gây ra bao đau thương, chết chóc và tàn
phá trên quê hương anh. Trong thư ngỏ gửi Tổng thống Mỹ Richard M. Nixon đề
ngày 1-7-1972 tức một ngày trước khi hy sinh, Nguyễn Thái Bình viết:
"[Tôi] trở về Việt Nam để đứng trong hàng ngũ nhân dân Việt Nam trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc... Không một vũ khí nào, không một đe dọa nào có
thể khiến tôi chùn bước... Nếu tôi có bị giết thì cả triệu người Việt Nam sẽ
thay thế tôi chiến đấu cho tới ngày nào chúng tôi chấm dứt được cuộc chiến vô
luân, vô nhân đạo này".
Nguyễn
Hữu Cảnh (tức Nguyễn Hữu Kính, 1650 - 1700)
Quê gốc ở Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1692 ông làm Tổng binh, lập trấn Thuận Thành (Ninh Thuận và Bình Thuận ngày
nay), sau làm Trấn thủ dinh Bình Khang (Khánh Hòa ngày nay). Năm 1698, ông được
cử làm Thống suất vào Nam Kinh lược thành lập các đơn vị hành chính, xây dựng
bộ máy chính quyền các phủ, dinh, huyện, chiêu tập dân khai khẩn đất hoang, lập
làng, xóm. Ông được phong tước Lễ Thành Hầu và Vĩnh An Hầu. Sau khi qua đời, ông
được nhiều địa phương ở Nam Bộ thờ làm Thành hoàng.
Nguyễn
Đình Chiểu (1822 - 1888)
Quê làng
Tân Khánh, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Đỗ tú tài trường thi Gia Định lúc
21 tuổi. Ra Huế học thêm để chờ khoa thi Kỷ Dậu 1849. Bỗng được tin mẹ mất, ông
trở về chịu tang, dọc đường bị bệnh rồi mù cả đôi mắt. Ông về Gia Định dạy học.
Pháp chiếm Gia Định ông lui về Ba Tri, tỉnh Bến Tre, tiếp tục dạy học và làm
thuốc. Liên hệ mật thiết với nghĩa binh Trương Định. Tích cực dùng văn chương
khơi dậy lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân.
Nguyễn
Văn Cừ
Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, sinh ngày 9-7-1912. Quê Từ Sơn
tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1930, ông làm Bí thư đầu tiên đặc khu Hòn Gai - Uông Bí, năm 1937 dự Hội
nghị Trung ương tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định và được cử vào Ban Thường vụ
Trung ương Đảng.
Năm 1938, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương.
Mùa thu năm 1939, ông vào Sài Gòn cùng các ông Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu... mở Hội
nghị Trung ương lần thứ 6. Tháng 6-1940, ông bị bắt tại đường Nguyễn Tấn
Nghiệm, Sài Gòn. Ngày 28-8-1941, ông bị thực dân Pháp xử bắn tại Bà Điểm - Hóc
Môn.
Lê
Văn Duyệt (1763 - 1832)
Quê Quảng Ngãi. Từ 1780 theo Nguyễn Ánh chống Tây Sơn. Tổng trấn Gia Định năm
1813, năm 1816 triều đình triệu về kinh, năm 1820 trở lại làm Tổng trấn Gia
Định, năm 1832 mất tại chức. Là người có công lớn trong việc khai hoang lập ấp
ở đất Gia Định. Tại xã Bình Hòa nay là quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
còn phần mộ ông - Lăng đức Tả quân, Lăng Thượng Công hay Lăng Ông Bà Chiểu.
Nguyễn
Cửu Đàm
Giữ chức Điều khiển. Năm 1772, ông cầm quân đánh đuổi đạo quân Xiêm (do chính
Vua Xiêm Trịnh Quốc Anh chỉ huy) ra khỏi lãnh thổ Cao Miên, giải phóng các
thành Nam Vang, La Bích. Về lại Gia Định, ông cho xây lũy Bán Bích dài 15 dặm
để bảo vệ Sài Gòn.
Lê
Quang Định (1759 - 1813)
Hiệu Cấn Trai, quê huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Học với Võ Trường Toản, kết
bạn với Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, được người đương thời xưng tặng là Gia
Định Tam gia, lập Thi xã Bình Dương, được sĩ phu đường thời khen ngợi. Năm
1788, Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, mở khoa thi, ông và Trịnh Hoài Đức trúng
tuyển, được cử làm Hàn Lâm viện chế cáo, rồi thăng đến Thượng thư bộ Binh,
Thượng thư bộ Hộ. Biên soạn Hoàng Việt nhất thống địa dư chí. Ông mất năm Quý
Dậu 1813.
Nguyễn
Huỳnh Đức (? - 1819)
Danh tướng đời Gia Long, tên thật Huỳnh Tường Đức, vì lập công lớn nên được
mang họ vua. Quê Thủ Thừa, Long An, làm Hiệp Tổng trấn Gia Định cùng với Trịnh
Hoài Đức
Thích
Quảng Đức (1897 - 1963)
Tên thật là Lâm Văn Tuất còn có tên là Nguyễn Văn Khiết, quê Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa. Sinh năm 1897. Ngôi chùa cuối cùng ông trụ trì là chùa Quan Thế Âm
(nay ở 90 đường Thích Quảng Đức, thành phố Hồ Chí Minh). 11-6-1963, trong cuộc
tuần hành của trên 1.000 vị tăng sĩ và giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo miền
Nam chống đế chế độc tài Ngô Đình Diệm, tại ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê
Văn Duyệt (nay là góc đường Nguyễn Đình Chiểu - Cách Mạng Tháng Tám), ông tự
thiêu đòi bình đẳng tôn giáo, chống đàn áp Phật giáo và đòi dân sinh dân chủ.
Trịnh
Hoài Đức (1765 - 1825)
Vốn gốc người tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, đến đời ông nội là Trịnh Hội sang
nước ta ngụ ở Phú Xuân (Huế), sau vào Biên Hòa lập nghiệp. Làm quan với chúa
Nguyễn Ánh, làm đến Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hình và Phó tổng tài Quốc sử
quán. Ông nổi tiếng văn chương một thời, cùng Lê Quang Định và Ngô Nhân Tịnh
được người đời xưng tặng là Gia Định Tam gia trong nhóm Bình Dương Thi xã. Ông
là tác giả tác phẩm Gia Định thành thông chí.
Phạm
Thế Hiển (1803 - 1861)
Quê Đông Quan, Nam Định. Năm 1829, đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ. Khi giặc Pháp xâm
lược miền Nam, ông cùng vào Nam với Tổng đốc quân vụ Nguyễn Tri Phương, chống
giữ đại đồn Chí Hòa. Năm 1861, giặc Pháp tấn công ác liệt, đánh chiếm được Gia
Định. Nguyễn Tri Phương lui binh về giữ Biên Hòa. Ông bị thương và mất sau đó.
Hồ
Hảo Hớn (1926 - 1967)
Bí danh Hai Nghị, sinh tại Bến Tre. Năm 1962 là Bí thư Ban cán sự sinh viên học
sinh Sài Gòn, 1965 là Phó Bí thư Khu đoàn Sài Gòn - Gia Định, rồi Bí thư Thành
đoàn Thanh niên Lao động (1967). Tháng 10-1967, bị giặc bắt ở gần bót Bà Hòa và
hy sinh tại đây
Phan
Văn Hớn
Quê ở Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Đêm 8 rạng ngày
9-2-1885, ông cùng Nguyễn Văn Quá lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở vùng 18 Thôn Vườn
Trầu, đánh chiếm quận Hóc Môn, giết tay sai đầu sỏ Đốc phủ Trần Tử Ca, sau đó
kéo xuống đánh Sài Gòn, nhưng giữa đường bị quân Pháp chặn lại. Cuộc khởi nghĩa
tan vỡ. Ông bị bắt và xử tử hình cùng với Nguyễn Văn Quá và một số người khác
vào sáng ngày 30-3-1886.
Nguyễn
Văn Hưởng
Ông Nguyễn
Văn Hưởng (tức Nguyễn Thành Tâm), sinh ngày 24-12-1906, quê xã Mỹ Long Xuyên
(nay là tỉnh An Giang), ông tốt nghiệp tiến sĩ y khoa tại Pháp năm 1932, ông
tham gia hoạt động cách mạng năm 1945, vào Đảng CS ngày 3-7-1953. Năm 1945,
Thành viên Hội đồng Cố vấn ủy ban Nhân dân Nam Bộ; tháng 9-1945, là Trưởng ban
Y tế và bào chế của sở Y tế Nam Bộ. Tháng 3-1946, làm công tác vận động trí
thức, tiếp tế thuốc cho khu 7 để săn sóc cán bộ hoạt động nội thành và ở khu
về. Tháng 6-1947, là ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ; kiêm Giám
đốc Sở Y tế quân dân Nam Bộ. Tháng 3-1955, là Trưởng đoàn đại biểu nhân dân Nam
Bộ đi dự Hội nghị châu Á tại Niu Đê-li (Ấn Độ). Tháng 7-1955, là Giám đốc Bệnh
viện 303. Tháng 1956, là Giám đốc Viện Vi trùng học. Năm 1958, được phân công
kiêm Giám đốc Viện nghiên cứu Đông y. Năm 1959, là Giám đốc Viện nghiên cứu
Đông y. Tháng 4-1969, được bổ nhiệm giữ chức vụ Bộ trưởng Y tế. Tháng 5-1970,
ông được Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ định là Bí thư Đảng Đoàn Bộ Y tế. Năm
1956, ông là ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội. Năm 1960, ông là Phó Chủ tịch
Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Năm 1964- 1971, ông là Phó Chủ tịch ủy ban Thường vụ
Quốc hội, là Đại biểu Quốc hội khóa I, II, III.
Ông là ủy viên Chủ tịch Đoàn UBT.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Do công lao và thành tích đối với cách mạng, ông đã được Đảng, Nhà nước tặng
thưởng Anh hùng Lao động, Huân chương Độc Lập hạng nhất và nhiều Huân chương,
Huy chương cao quý khác. (Theo báo Tuổi Trẻ số 92/98 ngày 8/8/1998)
Nguyễn
Thị Minh Khai (1910 - 1941)
Quê Vĩnh Yên, Nghệ An. Năm 1927, gia nhập Đảng Tân Việt. Năm 1930, sang Trung
Quốc làm việc ở Văn Phòng Đông Dương Bộ Quốc tế Cộng sản.
Năm 1936, tham gia Xứ ủy Nam Kỳ, làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn.
30-7-1940 bà bị địch bắt. Ngày 28-8-1941, bà bị xử bắn cùng các đồng chí Võ Văn
Tần, Nguyễn Văn Cừ tại Hóc Môn.
Trần
Tuấn Khải (1895 - 1983)
Nhà thơ, bút hiệu Đông Minh Đông Á Thị, Á Nam, quê làng Quán Xán, huyện Mi Lộc,
tỉnh Nam Định.
Sau năm 1954, ông sống ở Sài Gòn và làm việc tại Thư viện quốc gia, Viện khảo
cổ, chuyên viên Hán học tại Nhà văn hóa. Ông góp mặt trong các phong trào chống
văn hóa đồi trụy, tranh đấu đòi hòa bình, dân sinh, dân chủ. Năm 1966, ông cùng
một số trí thức tiến bộ ký tên yêu cầu chính quyền Sài Gòn hiệp thương với Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, nên bị buộc nghỉ việc. Sau đó ông làm Chủ
tịch danh dự Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc.
Lê
Văn Khôi (? - 1835)
Dũng tướng đời Minh Mạng, con nuôi Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn thành Phiên
An; làm Phó Vệ úy. Lê Văn Duyệt mất (năm 1832), Nguyễn Văn Quế thay làm Tổng
đốc cùng Bố chánh Bạch Xuân Nguyên vu nhiều tội cho Tả quân, ông cũng bị ngồi
tù. Ông phá ngục dấy binh chiếm thành Gia Định, bắt giết Nguyễn Văn Quế và Bạch
Xuân Nguyên, tự xưng là Bình Nam Đại nguyên soái. Tháng 7-1935, cuộc nổi loạn
bị dẹp tan. Hơn 1.830 người bị giết gom chung vào một huyệt, gọi là mả ngụy
(nay còn dấu vết ở phía Tây thành phố Hồ Chí Minh).
Trương
Minh Ký (1855 - 1900)
Quê làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc quận 5, thành phố
Hồ Chí Minh). Một trong những người Việt Nam đầu tiên được đi du học ở Lycée de
Anger thuộc Pháp. Dạy tại các trường Chasseloup Laubat, trường Thông ngôn tại
Sài Gòn. Là cộng tác viên thường trực của Trương Vĩnh Ký cho tờ Gia Định báo.
Sau đó, ông làm chủ bút tờ này. Trương Minh Ký là một trong những người Việt
Nam sử dụng chữ quốc ngữ sớm nhất trong việc trước tác, nghiên cứu.
Trương
Vĩnh Ký (1837 - 1898)
Tự là Sĩ Tải, tên thánh Petrus Jean-Baptiste, quê ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thành,
tỉnh Vĩnh Long. Thông thạo 15 sinh ngữ. Là Hội viên Hội nhân chủng học và khoa
học miền Tây nước Pháp, Hội chuyên học nói tiếng phương Đông, Hội chuyên khảo
văn hóa Á châu... Chủ bút tờ Gia Định báo (1868). Ông trước tác nhiều thể loại
và có nhiều công trình nghiên cứu đồ sộ về học thuật. Năm 1898, ông mất, để lại
cho đời hơn 100 bộ sách giá trị. Đặc biệt là bộ Từ điển danh nhân An Nam, bộ
Thông loại khóa trình do ông chủ biên xuất bản được 18 tập có giá trị về văn
học cổ Việt Nam.
Nguyễn
Hiến Lê (1912 - 1984)
Quê Quảng Oai, Sơn Tây. Sau Cách mạng Tháng Tám dạy học ở Long Xuyên, năm 1952
lên Sài Gòn mở nhà xuất bản, sống bằng ngòi bút. Trong đời cầm bút của mình,
ông đã xuất bản được đúng 100 bộ sách về nhiều lĩnh vực văn học, ngôn ngữ học,
triết học, giáo dục. Những năm 1960, chính quyền Sài Gòn đã tặng ông "Giải
thưởng văn chương toàn quốc" với một ngân phiếu lớn (tương đương mấy chục
lượng vàng), ông đã công khai từ chối với lý do "dùng tiền ấy để giúp nạn
nhân chiến tranh" và bản thân tác giả không hề tranh giải.
Châu
Văn Liêm
Sinh ngày 29-6-1902, quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Tốt nghiệp Sư phạm Sài Gòn. Tham
gia cải tổ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội để thành lập Đảng Cộng
sản. Ngày 4-5-1930, ông lãnh đạo cuộc biểu tình hàng nghìn quần chúng từ Đức
Hòa lên Chợ Lớn, hô hào đòi giải phóng dân tộc, giảm sưu thuế..., bị Pháp bắn
chết lúc 28 tuổi.
Nguyễn
Văn Linh (1.7.1915 - 27.4.1998)
Ông Nguyễn Văn Linh, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1915
trong một gia đình công chức tại xã Gia Phạm, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên. Ông
tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 14 tuổi trong phong trào học sinh và công
nhân, được kết nạp vào Đảng CS Đông Dương năm 1936.
Ông đã hai lần bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo (lần I: 1930-1936, lần
II: 1941-1945).
Gần 70 năm liên tục hoạt động Cách mạng, ông đã đảm nhận nhiều nhiệm vụ quan
trọng, trong đó có những chức vụ Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định. Bí thư
Trung ương Cục, Bí thư Thành ủy TP. HCM. Từ tháng 12-1986 đến tháng 6-1991, ông
được bầu làm Tổng Bí thư BCH T.Ư Đảng CS Việt Nam. Sau đó được cử làm Cố vấn
BCH T.Ư Đảng.
Ông từ trần vào hồi 8 giờ 12 phút ngày 27 tháng 4 năm 1998 tại TP. Hồ Chí Minh,
thọ 83 tuổi. Tên tuổi và sự nghiệp Cách mạng của ông đã gắn liền với sự nghiệp
Cách mạng Giải phóng Dân tộc, sự nghiệp xây dựng XHCN, sự nghiệp đổi mới của
Đảng và nhân dân ta.
Phan
Xích Long (1898 - 1916)
Tên thật là Phan Phát Sanh, sinh tại Chợ Lớn. Từ 1911, cùng Nguyễn Hữu Trí và
Nguyễn Văn Hiệp, tổ chức một hội kín. Tự tôn là Phan Xích Long Hoàng đế, lập
căn cứ ở núi Thất Sơn. Đêm 23 rạng ngày 24-3-1913, họ ném bom và tạc đạn ở Sài
Gòn và Chợ Lớn, nhưng bom không nổ và kế hoạch đã bị lộ trước đó. Phan Xích
Long trước đó 2 ngày đã bị bắt ở Phan Thiết. Ông bị giam ở Khám lớn Sài Gòn.
Đêm 16-2-1916, khoảng 300 hội viên kín ở Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu
Một tay cầm gươm mác xông vào phá ngục. Pháp thẳng tay khủng bố giết chết tại
trận nhiều chiến sĩ. Sau đó đưa 38 người, trong đó đứng đầu là ông, xử bắn tại
đồng Tập Trận.
Thái
Văn Lung (1916 - 1946)
Sinh tại huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh) trong
một gia đình trí thức theo đạo Thiên Chúa. Tốt nghiệp cử nhân luật khoa tại Đại
học Paris (Pháp), ông về nước làm luật sư tại Tòa thượng thẩm Sài Gòn. Trong
giai đoạn tiền khởi nghĩa, ông tham gia thành lập Thanh niên Tiền phong, phụ
trách trưởng ban huấn luyện quân sự của tổ chức này. Sau Cách mạng Tháng Tám,
ông được nhân dân bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I.
Pháp trở lại xâm lược nước ta, ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến
huyện Thủ Đức, chỉ huy Lực lượng vũ trang của huyện (mà nhân dân quen gọi là bộ
đội Thái Văn Lung). Trong một trận đánh, ông bị giặc bắt. Chúng tìm mọi cách dụ
dỗ mua chuộc nhưng ông vẫn giữ vững khí tiết của nhà trí thức yêu nước. Ông bị
tra tấn đến chết khi mới tròn 30 tuổi
Hồ
Chí Minh (1890 - 1969)
Tức Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ cách mạng Việt Nam, người sáng lập Đảng Cộng
sản Đông Dương, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lúc còn nhỏ có tên là
Nguyễn Sinh Cung. Trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc
và nhiều tên khác (Lý Thụy, Anh Ba, Vương Sơn Nhi, Chàng Vương, Tống Văn Sơ, Hồ
Quang, Thầu Chín). Con cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc) và bà
Hoàng Thị Loan, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An.
Ông xuất thân trong một gia đình Nho học yêu nước, thuở nhỏ thông minh, hiếu
học. Đến tuổi thiếu niên theo thân phụ vào Huế học tại Trường tiểu học Đông Ba,
Trường Trung học Quốc học. Đầu năm 1911 ông bỏ học với ý định ra nước ngoài tìm
đường cứu nước. Trên đường vào Sài Gòn ông ghé Phan Thiết (thủ phủ tỉnh Bình
Thuận, nay thuộc tỉnh Bình Thuận), dạy học một thời gian ngắn tại Trường Dục
Thanh do các nhà yêu nước lập ra. Sau ông vào Sài Gòn lấy tên là anh Ba làm phụ
bếp cho tàu buôn Amiral Latouche Tréville, rồi sang Pháp tìm hiểu tình hình thế
giới. Tại đây ông liên hệ mật thiết với nhà yêu nước Phan Châu Trinh, Phan Văn
Trường... và đến các nước Anh, Đức, Mỹ một thời gian.
Năm 1917, ông tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập Hội những người Việt Nam yêu nước
để tuyên truyền và giác ngộ Việt kiều Pháp. Năm 1918 ông cùng các nhà yêu nước
khác gửi đến Hội nghị Versailles một yêu sách gồm 8 điểm đòi tự do, dân chủ và
quyền bình đẳng của người Việt Nam với tên là Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1921, ông tham gia Đảng Cộng sản Pháp. Tại Đại hội lần thứ 2 của Đảng Cộng
sản Pháp (1923) ông được cử tham gia Chủ tịch đoàn Đại hội. Ở đây ông và các
đồng chí khác xuất bản tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) làm chủ nhiệm kiêm chủ
bút. Cuối năm 1923 ông sang Liên Xô với tư cách là đại biểu của nông dân các
nước thuộc địa. Tại hội nghị Quốc tế nông dân ông được bầu vào Ban chấp hành
Quốc tế nông dân. Trong thời gian này ông làm việc ở Quốc tế Cộng sản và viết
bài cho các báo Sự Thật, Thư tín Quốc tế.
Cuối năm 1924, ông về Quảng Châu (Trung Quốc) với tên là Lý Thụy công tác trong
phái đoàn Brodine (cố vấn Liên Xô bên cạnh chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc).
Tại đây ông sáng lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội tập hợp các nhà
yêu nước ở nước ngoài và tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức
ở Á Đông. Năm 1927 sau vụ khởi nghĩa Quảng Châu ông đi Liên Xô, Bỉ, Đức, Thụy
Sĩ... Giữa năm 1928 về hoạt động ở Thái Lan và xuất bản báo Thân ái. Các năm
1930 - 1931, tuy ở nước ngoài ông vẫn chỉ đạo thực hiện phong trào Xô Viết ở
Nghệ Tĩnh và các tỉnh khác. Tháng 6 - 1932 ông bị mật thám Anh bắt tại Hương
Cảng, đến đầu năm 1933 mới được trả tự do, sau đó ông trở lại Liên Xô học tại
Trường Đại học Lénine. Năm 1938 ông về hoạt động ở Quảng Tây (Trung Quốc) trong
đơn vị Bát lộ quân Trung Quốc, đầu năm 1939 ông liên lạc được với Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương qua xứ ủy Bắc Kỳ.
Cuối năm 1940 ông về nước, lập căn cứ ở Pác Bó (nay thuộc tỉnh Cao Bằng) đào
tạo cán bộ và trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng các hội Cứu quốc ở các địa
phương để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.
Tháng 8 năm 1942 ông lấy tên là Hồ Chí Minh rồi trở sang Trung Quốc liên lạc
với các tổ chức cách mạng của người Việt Nam ở đó. Vừa đến biên giới thì bị
chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam một năm. Trong thời gian
ngồi tù ông viết tập thơ Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù). Tháng 9 năm
1943, sau khi được trả tự do, ông tiếp xúc với các tổ chức chống Pháp - Nhật
của người Việt Nam ở Liễu Châu, bắt liên lạc được với Đảng rồi trở về nước lãnh
đạo cách mạng. Cuối năm 1944 ông thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân và lập Khu giải phóng Việt Bắc chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945.
Ông chủ tọa Hội nghị Quốc dân toàn quốc (Quốc dân đại hội). Tại Đại hội ông
được bầu làm Chủ tịch. Ngày 25-8-1945 ông về Hà Nội chủ tọa phiên họp của Tổng
bộ Việt Minh thành lập chính phủ lâm thời.
Ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ
đọc bản Tuyên ngôn độc lập do ông viết, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa chấm dứt chính quyền phong kiến, thực dân ngự trị lâu dài trên đất
nước Việt Nam. Đến ngày 19-12-1946 do sự khiêu khích của thực dân Pháp, Chủ
tịch ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến kéo dài
đến năm 1954 - với chiến thắng ở Điện Biên Phủ - quân Pháp bị bắt buộc ký hiệp
định Genève rút quân ra khỏi Việt Nam. Đầu năm 1955 Chủ tịch từ chiến khu Việt
Bắc trở về Hà Nội trước sự đón tiếp tưng bừng của nhân dân Thủ đô. Các năm 1957
- 1960 Chủ tịch đi thăm các nước Xã hội Chủ nghĩa nhằm thắt chặt tình hữu nghị
và tổng kết vấn đề chiến lược của cách mạng thế giới.
Sau khi Mỹ can thiệp vào miền Nam và chiến tranh xảy ra ác liệt, ở cả hai miền,
Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt (27-3-1964) nhằm
tăng cường khối đoàn kết toàn dân thực hiện thắng lợi cho cách mạng.
Trong những năm cuối đời, sức khỏe sút giảm, Chủ tịch vẫn sáng suốt lãnh đạo
nhân dân xây dựng và kháng chiến.
Ngày 2-9-1969 (lúc 9 giờ 47 phút) Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần tại Hà Nội hưởng
thọ 79 tuổi để lại sự thương tiếc khôn nguôi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Trước khi về thế giới bên kia Chủ tịch có lời "Di chúc" về việc riêng
"Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là "hỏa táng"(...) Tro
thì chia làm 3 phần, bỏ vào cái hộp sành. Một cho miền Bắc. Một hộp cho miền
Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên
có bia đá, tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn,
mát mẻ, để cho những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi".
Trong lễ Quốc tang Chủ tịch, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng Lao
động Việt Nam đọc bài "Điếu văn" trong đó có đoạn:
"Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch,
người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân
dân ta và non sông đất nước ta".
Một tác giả khuyết danh - trước đây ở Sài Gòn - trân trọng điếu Chủ tịch:
"Thế giới đạo tiền
trình, âu á kim vô hậu bối;
Vĩ nhân tân xã hội, Mã liệt chi hận hữu tiên sinh".
Nghĩa :
Vạch ra con đường lên thế giới mới, xưa nay âu á chưa từng có như người;
Vĩ nhân của xã hội mới, sau Các Mác, Lê Nin chỉ có người mà thôi.Ngoài một
nhà cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một nhà văn, một nhà lý luận sáng
giá. Ông còn để lại đời các tác phẩm nổi tiếng:
·
Đường
Kách mệnh
·
Bản
án chế độ thực dân Pháp
·
Con
rồng tre
·
Nhật
ký trong tù
·
Tuyên
ngôn độc lập
·
Sửa
đổi lề lối làm việc
·
....
Và một số lớn tác phẩm thơ văn
khác...
Chủ tịch Hồ Chí Minh: một lãnh tụ vĩ đại, một anh hùng dân tộc, một danh
nhân văn hóa thế giới - Người mãi mãi là Bác Hồ kính yêu của nhân dân Việt Nam.
(Từ điển nhân vật lịch sử VN - NXB Văn hóa
Hồ
Huấn Nghiệp (1828 - 1864)
Tự Thiệu Tiên, người làng An Định, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc
thành phố Hồ Chí Minh). Ông học giỏi, nhưng vì cha mất, phải nuôi mẹ già, ông
không đi thi, mở trường dạy học. Nhưng khi Pháp chiếm Gia Định, ông tham gia
cuộc kháng chiến do Trương Định lãnh đạo, được cử làm Tri phủ Tân Bình (chính
quyền bí mật trong vùng địch chiếm), thường điều động binh sĩ và lương thực
tiếp tế cho Trương Định.
Nguyễn
Văn Nguyễn (1910 - 1953)
Sinh tại xã Điều Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang),
học Trường Sư phạm Sài Gòn.
Sớm giác ngộ cách mạng, ông được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng
chí Hội và trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng. Ông tham gia
nhiều hoạt động do Đảng lãnh đạo như phong trào Đông Dương đại hội, làm thư ký
báo L'Avant-garde (Tiền Phong) của Đảng, tham gia lãnh đạo cuộc giành chính
quyền ở Sài Gòn ngày 25-8-1945. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông đắc cử làm
đại biểu Quốc hội khóa I.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông là ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam
Bộ, Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, Giám đốc Đài phát thanh Tiếng nói Nam Bộ, chủ
bút tờ báo Cứu quốc Nam Bộ. Trên đường ra miền Bắc nhận công tác, ông qua đời
vì bệnh ngày 25-3-1953.
Nguyễn
An Ninh (1900 - 1943)
Quê quán Hóc Môn, Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh).
Năm 1920, ông đỗ cử nhân luật tại Pháp. Về nước, ông diễn thuyết, viết sách, ra
báo Cloche Fêlée (Chuông Rè). Ông được dân chúng ở Nam Bộ mến mộ, tôn làm thần
tượng một thời. Thực dân Pháp rất sợ, nhiều lần bắt giam ông. Trong những năm
1930, ông sát cánh với các chiến sĩ cộng sản (Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn
Nguyễn, Dương Bạch Mai...) đấu tranh chống chế độ thuộc địa phản động, đòi các
quyền tự do, dân chủ. 4-10-1939, ông bị Pháp bắt, lần này là lần thứ 5, kết án
5 năm tù lưu đày Côn Đảo. Trên đảo ông bị kiệt sức vì bị hành hạ, mất trong tù
ngày 14-8-1943.
Huỳnh
Khương Ninh (1890 - 1950)
Quê ở xã Thắng Tam, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tốt nghiệp bằng Thành Chung nhưng
không hợp tác với thực dân Pháp, mở trường tư. Trường Huỳnh Khương Ninh là một
trường trung học tư thục nổi tiếng ở Sài Gòn, là nơi đào tạo nhiều thanh niên
ưu tú, là một trung tâm của giáo chức yêu nước Sài Gòn trước đây.
Huỳnh
Tấn Phát (1913 - 1989)
Sinh tại xã Tân Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Lên Sài Gòn học trường
Pétrus Ký (nay là trường trung học Lê Hồng Phong). Sau khi tốt nghiệp kiến trúc
sư tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội (1938), ông về Sài Gòn mở văn phòng kiến
trúc sư tại số 68-70 đường Mayer (nay là đường Võ Thị Sáu). Ông được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 5-3-1945.
Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa, ông là chủ nhiệm báo Thanh Niên, hoạt động
trong phong trào Thanh Niên, hoạt động trong phong trào Thanh niên Tiền Phong,
truyền bá quốc ngữ, cứu tế nạn đói ở Nam Bộ. Tháng 8-1945, ông tham gia khởi
nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn. Ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông cộng tác bí mật ở Sài Gòn, bị địch bắt giam
ở Khám lớn Sài Gòn. Năm 1949, ông ra chiến khu, giữ chức ủy viên Ủy ban Kháng
chiến Hành chính Nam Bộ, Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, trực tiếp phụ trách Đài
phát thanh Tiếng nói Sài Gòn - Chợ Lớn tự do. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông
làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu
Sài Gòn - Gia Định. Tháng 6-1969, ông được Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam
bầu làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau
ngày đất nước thống nhất, ông đảm trách các chức vụ: Phó Thủ tướng, Phó Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam.
Lê
Hồng Phong
Tên thật là Lê Duy Doãn, sinh năm 1902, quê thôn Đông Thông, Hưng Nguyên, Nghệ
An, một chiến sĩ xuất sắc trung kiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đến cuối năm
1937 hoạt động ở Sài Gòn - Chợ Lớn, tham gia lãnh đạo phong trào trong toàn
quốc. Giữa năm 1938, ông bị Pháp bắt ở Chợ Lớn, kết án 10 tháng tù. Ngày 29-9,
ông bị bắt lần thứ hai đưa vào giam ở Khám lớn Sài Gòn, rồi kết án 5 năm tù đày
đi Côn Đảo. Ông mất ngày 6-9-1942, ở Côn Đảo vì bị tra tấn dã man, bệnh nặng và
sức yếu.
Trần
Phú
Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương, sinh 1-5-1903, Đức Phổ,
Quảng Ngãi. Năm 1925, tham gia lập Hội Phục Việt, rồi gia nhập Việt Nam Thanh
niên Cách mạng đồng chí hội. Năm 1927 học Đại học Phương Đông Mátxcơva. 1930
vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu làm Tổng Bí thư trong Hội nghị lần
thứ nhất của Đảng. Sau Hội nghị ông từ Hồng Kông về Sài Gòn hoạt động ở tại 66
đường Champagne (nay là đường Lý Chính Thắng). Ông đã soạn thảo Luận cương
chính trị của Đảng. Giữa lúc đang hoạt động tích cực, ông bị địch bắt
18-4-1931. Biết ông là người lãnh đạo Đảng, địch đã tra tấn ông rất dã man cho
tới khi ông kiệt sức, chúng đưa ông vào Bệnh viện Chợ Quán, một trại giam trá
hình. Và ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 6-9-1931. Trước khi chết, ông
còn dặn lại các đồng chí: "Hãy giữ vững ý chí chiến đấu".
Nguyễn
Tri Phương (1800 - 1873)
Quê Phong Điền - Thừa Thiên. Năm 1935, ông nhận lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định
cùng Trương Minh Giảng bình định các vùng mới khai hoang. Năm 1860, được sung
chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ cùng Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển
trông coi việc quân sự ở miền Nam. Là người cho xây dựng đại đồn Chí Hòa chống
giặc Pháp. Năm Nhâm Thân 1872, ông giữ chức Tuyên sát đồng sức đại thần thay
mặt triều đình xem xét việc quân sự ở Bắc Kỳ. Ngày 19-11-1873, Garnier đánh úp
thành Hà Nội, ông bị trọng thương, tuyệt thực đúng 1 tháng sau thì mất vào ngày
20-12-1873.
Nguyễn
Thị Rành (1900 - 1979)
Quê ở xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí
Minh).
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, má đào hầm bí
mật ngay trong vườn nhà mình để nuôi giấu cán bộ, bộ đội, cứu chữa thương binh.
Má còn tham gia dân quân du kích xã, bám đất giữ làng. Tám người con và hai
cháu của má đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Má được
Đảng và Nhà nước tuyên dương Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân, được
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Sau ngày má qua đời, tượng của má
được dựng trước Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (đường Võ Thị Sáu, thành phố Hồ Chí
Minh).
Lê
Thị Riêng (1925 - 1968)
Quê Bạc Liêu, nguyên ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam, Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam. Bị địch bắt vào
tháng 5-1967, giam tại nhà lao Biên Hòa. Dù địch tra tấn vô cùng dã man, chị
vẫn không khuất phục. Trong cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân, chị bị địch giết
chết trên đường Hồng Bàng - Sài Gòn (nay thuộc đường Hùng Vương).
Lê
Văn Sĩ (1910 - 1948)
Tên thật là Võ Sĩ, quê ở thôn Minh Tân, xã Đức Minh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng
Ngãi. Tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội năm 1927. Nguyên
trong Xứ ủy Nam Bộ, Chính ủy Quân khu 8, rồi năm 1947 được chỉ định làm Bí thư
Thành ủy Sài Gòn. Tháng 10-1948, ông hy sinh trong một cuộc càn quét lớn của
địch vào vùng Láng Le, Vườn Thơm - Long An.
Nguyễn
Văn Tạo (1908 - 1970)
Sinh tại làng Phước Lợi, tỉnh Chợ Lớn. Sau khi tốt nghiệp trường trung học
Chasseloup Laubat (Sài Gòn), ông sang Pháp du học. Ông được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Pháp, trở thành ủy viên Ban Chấp hành Trung ương của Đảng. Năm 1930,
ông bị Pháp trục xuất về nước. Tại Sài Gòn, ông viết báo chống thực dân. Trong
những năm 1933 và 1935, ông đắc cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn. Năm 1936,
ông là một trong những người tổ chức phong trào Đông Dương Đại hội. Thực dân
nhiều lần bắt giam ông, đày ra Côn Đảo, quản thúc ở Mỹ Tho và Rạch Giá. Cách
mạng Tháng Tám thành công, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I, ủy viên
Ủy ban Nhân dân lâm thời Nam Bộ, Bộ trưởng Bộ Lao động. Sau Hiệp định Genève,
ông làm Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Hà
Huy Tập
Sinh 1902, quê Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh.
Năm 1927 vào dạy học tại Trường Phan Xích Hồng, Sài Gòn. Và tham gia phát triển
tổ chức đảng Tân Việt. Từ 1934 cùng Lê Hồng Phong lãnh đạo công tác Hải ngoại
của Đảng. Về nước, ông hoạt động tại Sài Gòn. Hà Huy Tập là Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Đông Dương (1935 - 1938). Ông bị địch bắt 5-1938, đưa về quản thúc tại
quê. Sau đó đưa về Sài Gòn với mức án tù 5 năm. Hoảng sợ trước khí thế cách
mạng của Nam Kỳ khởi nghĩa, chúng lại tuyên án tử hình và đưa ông cùng một loạt
các cán bộ ưu tú của Đảng là Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn
Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến xử bắn tại Bà Điểm, Hóc Môn.
Phạm
Ngọc Thạch (1909 - 1968)
Sinh tại Phan Thiết (nay thuộc tỉnh Bình Thuận). Sau khi tốt nghiệp bác sĩ y
khoa (chuyên khoa lao) trường Đại học Paris năm 1935, ông về nước, mở phòng
mạch tư ở số 202 đường Chasseloup Laubat (đường Nguyễn Thị Minh Khai), Sài Gòn.
Tháng 5-1945, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời kỳ tiền
khởi nghĩa, ông tham gia thành lập và lãnh đạo tổ chức Thanh niên Tiền phong.
Cách mạng tháng Tám thành công, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Y tế trong Chính
phủ lâm thời. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến
Hành chính Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Sau Hiệp định Genève, ông làm Bộ trưởng
Bộ Y tế, Viện trưởng Viện chống lao, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt
Nam. Ông còn là Chủ tịch ủy ban điều tra tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
Ông được tuyên dương là Anh hùng Lao động. Ngày 7-11-1968, ông hy sinh trong
lúc đang công tác trên chiến trường miền Nam.
Phạm
Ngọc Thảo (1922 - 1965)
Sinh tại xã Mỹ Phước, tỉnh Long Xuyên (nay là An Giang).
Lên Sài Gòn học trường trung học Taberd, rồi ra Hà Nội học đại học, tốt nghiệp
kỹ sư công chánh.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông được cử làm Trưởng phòng Mật vụ Nam Bộ
(1947), Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 (Quân khu 9).
Sau Hiệp định Genève 1954, ông được phân công hoạt động tình báo trong lòng
địch (được phong đại tá ngụy quân, làm việc trong cơ quan mật vụ và Phủ Tổng
thống ngụy quyền...), được cử sang học tại Mỹ. Nhờ vậy, ông chuyển ra vùng giải
phóng nhiều tin tức và tài liệu quan trọng của địch.
Ông bị địch bắt và tra tấn dã man đến chết. Ông được Nhà nước truy phong quân
hàm đại tá.
Tôn
Đức Thắng (20.8.1888 - 30.3.1980)
Ông sinh ngày 20.8.1888 tại quê Cù Lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Bình Thành,
tỉnh Long Xuyên nay là tỉnh An Giang, trong một gia đình nông dân.
Học xong tiểu học, ông lên Sài Gòn học trường Kỹ thuật Khoa Cơ điện - Tốt
nghiệp, vào làm việc ở xưởng sửa chữa tàu biển Ba Son, rồi bị điều sang làm
việc ở xưởng Toulon bên Pháp - Cuối năm 1917, Cách mạng Tháng 10 Nga thành
công, các cường quốc đế quốc bao vây và tấn công Cách mạng Nga. Ngày 1/4/1919,
ông cùng các sĩ quan và binh lính trên chiến hạm France nổi dậy làm binh biến,
ông là người kéo cờ đỏ Cách mạng trên chiến hạm và cùng những người nổi dậy kéo
lên bờ cùng nhân dân Nga làm mít-tinh chào mừng Cách mạng Nga.
Năm 1920, ông bị trả về Sài Gòn. Năm 1925 ông gia nhập Thanh niên Cách mạng
Đồng Chí hội, năm 1927 được bầu vào Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam
Kỳ.
Ông bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo (1930 - 1945).
Cách mạng Tháng 8 thành công, ông tham gia Xứ ủy và Ủy ban Hành chính Nam Bộ -
Năm 1946, Trung ương điều ra Bắc phụ trách công tác mặt trận, Chủ tịch Hội liên
Việt - Từ 1951 là ủy viên Trung ương Đảng cho tới lúc qua đời.
Năm 1954, ông là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch nước. Sau khi
Hồ Chủ tịch qua đời, Quốc hội cử ông làm Chủ tịch nước. Ông từ trần ngày
30.3.1980, hưởng thọ 92 tuổi.
Trần
Quốc Thảo (1914 - 1957)
Tên thật là Hồ Xuân Lưu. Quê làng Cổ Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Năm 1950, làm Thường vụ Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, kiêm Phó Tổng thư ký Công
đoàn Việt Nam. Đến năm 1957, làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Ông bị địch
bắt tại Phú Nhuận và bị đánh tới chết ngày 16-10-1957.
Trịnh
Đình Thảo (1901 - 1986)
Quê Từ Liêm, Hà Nội. Du học ở Pháp, tốt nghiệp cử nhân văn chương, cao học kinh
tế và thương mại, tiến sĩ luật khoa. Làm luật sư tại Tòa Thượng thẩm Sài Gòn
nhiều năm. Sau Nhật đảo chính Pháp ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong nội
các Trần Trọng Kim, đã ra lệnh thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ. Năm
1968, ông ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân
chủ, hòa bình Việt Nam. Từng giữ các chức vụ: Chủ tịch Liên minh các lực lượng
dân tộc dân chủ hòa bình Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, ông là ủy viên
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngày 31-3-1986, ông
mất tại thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm Thiều (1904 - 1986)
Quê xã Diễn Phúc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Sau Cách mạng Tháng Tám, từng
giữ các chức vụ: Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban hành chánh Sài
Gòn - Chợ Lớn, Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh liên khu miền Đông,
Vụ trưởng Vụ Sư phạm Bộ Giáo dục, Đại sứ tại Tiệp Khắc và Hungary, Giám đốc Thư
viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh.
Ngô
Nhân Tịnh (? - 1816)
Gốc người Quảng Đông sang ngụ ở đất Gia Định. Học trò Võ Trường Toản, cùng
Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định được đương thời xưng tụng là nhà thơ lớn đất
Gia Định xưa (Gia Định tam gia). Năm 1802, từng được làm Giáp phó xứ sang nhà
Thanh rồi Chánh xứ sang Chân Lạp đem ấn sắc phong Nặc Ông Chân làm vua Chân
Lạp. Năm 1812 làm Hiệp tổng trấn Gia Định phụ tá Tổng trấn Lê Văn Duyệt.
Nguyễn
Hữu Thọ (1910 - 1996)
Sinh tại xã Long Phú, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc huyện Bến Lức, tỉnh Long An). 11
tuổi, ông được sang Pháp du học. Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật khoa (tháng
9-1932), ông về nước, mở văn phòng luật sư tại Mỹ Tho, Cần Thơ, làm Chánh Tòa
án dân sự tỉnh Vĩnh Long. Từ 1947, ông lên Sài Gòn tham gia các hoạt động cách
mạng. Ngày 16-10-1949, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1950,
ông được cử làm Trưởng Phái đoàn đại biểu các giới Sài Gòn - Chợ Lớn, tổ chức
các phong trào đấu tranh chống xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân thành
phố. Hiệp định Genève 1954 ký kết, ông cùng một số tri thức Sài Gòn - Chợ Lớn
thành lập Phong trào bảo vệ hòa bình và giữ chức Phó Chủ tịch của tổ chức này.
Ông được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1962 -
1976) và Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam (1969 - 1976). Đất nước thống nhất, ông giữ nhiều trọng trách như
Phó Chủ tịch nước, quyền Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Đoàn Chủ
tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Võ
Trường Toản (? - 1792)
Quê huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Ở ẩn dạy
học, đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước như Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê
Quang Định, Ngô Nhân Tịnh... Nguyễn Phúc Ánh mời ông đến giảng sách, bàn luận
chính trị, muốn trọng dụng ông, nhưng ông một mực từ chối. Ngày 9-9 năm Nhâm Tý
(27-7-1792) ông mất. Nguyễn Ánh ban hiệu cho ông là Gia Định xủ sĩ Sùng Đức Võ
tiên sinh.
Trần
Văn Trà (1919 - 1996)
Quê xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Hai mươi tuổi, ông vào Sài
Gòn hoạt động cách mạng. Mùa Thu năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa giành chính
quyền ở Sài Gòn. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông đảm nhận nhiều nhiệm vụ
quan trọng: Khu trưởng khu 8, Xứ ủy viên Nam Bộ, Phó Tư lệnh Nam Bộ, Tư lệnh
kiêm Chính ủy Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Tư lệnh Phân liên khu miền Đông Nam Bộ.
Tập kết ra Bắc, ông làm Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam,
Giám đốc Học viện quân chính, Chánh án Tòa án quân sự Trung ương. Năm 1963, ông
về Nam, đảm nhiệm các chức vụ: Tư lệnh quân giải phóng miền Nam, ủy viên Trung
ương cục miền Nam, Phó Bí thư Quân ủy miền. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy mùa Xuân năm 1975, ông là Phó tư lệnh Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Miền Nam được giải phóng, ông làm Chủ tịch ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn -
Gia Định, Tư lệnh kiêm Chính ủy quân khu 7, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông được
phong quân hàm Trung tướng năm 1959, Thượng tướng năm 1974 và được tặng thưởng
hai Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương khác.
Nguyễn Văn Trỗi (1940 -
1964)
Quê ở Điện Bàn, Quảng Nam. Theo gia đình vào Sài Gòn, làm nghề thợ điện ở nhà
máy đèn Chợ Quán, tham gia biệt động vũ trang thuộc Đại đội Quyết tử 65, cánh
Tây Nam Sài Gòn. Anh bị bắt lúc 22 giờ đêm ngày 9-5-1964, giữa lúc đang gài mìn
tại cầu Công Lý nhằm tiêu diệt phái đoàn quân sự cấp cao của Mỹ do Bộ trưởng
Quốc phòng Robert Mac Namara dẫn đầu, sang Sài Gòn vạch kế hoạch tăng cường và
mở rộng chiến tranh xâm lược ở cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam. Anh bị xử bắn tại
vườn rau nhà lao Chí Hòa - Sài Gòn lúc 9 giờ 45 phút ngày 15-10-1964. Anh được
tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân.
Lý
Tự Trọng (1915 - 1931)
Tên thật là Lê Hữu Trọng quê xã Thạch Minh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, sinh
tại bản May, tỉnh Na Khôn, Thái Lan. Năm 1926, anh sang Quảng Châu học trung
học, rồi làm việc tại cơ quan Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí
Hội. Ba năm sau, anh được phái về Sài Gòn công tác ở cơ quan Trung ương An Nam
Cộng sản Đảng. Ngày 9-2-1931, trong cuộc mít-tinh tổ chức tại cổng sân banh
Mayer để kỷ niệm khởi nghĩa Yên Bái, anh bắn chết viên thanh tra cảnh sát
Legrand, bảo vệ diễn giả Phan Bôi. Anh bị bắt, bị tra tấn chết đi sống lại,
nhưng luôn luôn giữ khí tiết cách mạng khiến những cai ngục cũng phải kính nể,
gọi anh là "Ông Nhỏ". Trước khi bị thực dân xử bắn, anh còn hát vang
bài Quốc tế ca.
Phan
Văn Trường (1878 - 1993)
Quê làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội, những năm hoạt động của ông chủ yếu
diễn ra ở Paris và Sài Gòn. Đỗ tiến sĩ luật khoa ở Pháp (là một trong những
tiến sĩ luật khoa đầu tiên của nước ta), làm luật sư tại Tòa thượng thẩm Paris.
Hoạt động trong phong trào yêu nước của Việt kiều tại Pháp, cùng với Phan Châu
Trinh và Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội đồng bào thân ái và Nhóm những người Việt
Nam yêu nước. Viết nhiều bài cho tờ Le Paria (do Nguyễn Ái Quốc chủ trương).
Cuối năm 1923, ông về nước, làm chủ bút hai tờ báo La Cloche Fêlée (Chuông Rè)
và L'Annam (Nước Nam), đả kích mạnh mẽ chế độ thuộc địa của Pháp ở Đông Dương
và góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác vào Việt Nam.
Hai lần ông bị thực dân Pháp bắt giam: lần đầu ở Paris (cùng một lúc với Phan
Châu Trinh), lần sau ở Sài Gòn (nhưng bị tạm giam ở Paris).
Mai Thọ Truyền (1905 - 1973) Là một Đốc phủ xứ ngoại hạng, một trong những
người sáng lập chùa Xá Lợi (Sài Gòn) và Hội Phật học Nam Việt, Quốc vụ khanh
đặc trách văn hóa (Sài Gòn). Ông mất ngày 17-4-1973 tại Sài Gòn.
Ngô
Gia Tự
Sinh ngày 3-12-1908, ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Năm 1926, gia nhập Việt Nam Thanh niên
Cách mạng đồng chí hội. Cuối năm 1928 vào Sài Gòn hoạt động cách mạng.
Cuối năm 1930, bị địch bắt tại Sài Gòn. Tháng 5-1933, thì bị đày ra Côn Đảo.
Cuối tháng 1-1935, chi bộ nhà tù tổ chức cho ông và một nhóm anh em vượt ngục,
nhưng ông và các đồng chí đã mất tích giữa biển.
Hoàng
Việt (1928 - 1967)
Sinh tại Chợ Lớn, tên thật là Lê Chí Trực. Từ 16 tuổi, ông đã bắt đầu sáng tác,
được nhiều người biết đến với những bài Chí cả, Biệt đô thành, Tiếng còi trong
sương đêm (Ký tên Lê Trực). Ông tham gia cách mạng, công tác trong Tổ quân nhạc
của Quân khu 8. Ông nổi tiếng với những ca khúc phục vụ kháng chiến như Lá xanh
(1950), Lên ngàn (1952), Nhạc rừng (1953), Mùa lúa chín (1953-1954)...
Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc, tiếp tục sáng tác. Bản Tình ca (1957)
được những người yêu nhạc đánh giá là một trong những tình khúc hay nhất của
nền âm nhạc nước ta. Sau đó, ông xin về Nam phục vụ kháng chiến. Ông tiếp tục
sáng tác nhiều ca khúc, bản giao hưởng Cửu Long, nhạc kịch Bông Sen... Ngày
31-12-1967, ông hy sinh khi chưa tròn 40 tuổi.
Trương
Phước Vĩnh
Ông là người đầu tiên giữ chức Điều khiển, Thống suất toàn bộ quan binh các
dinh, các trấn ở miền Nam. Ông có công dẹp tan giặc Sà Tốt (làng Prea Sot) năm
1731 và cho đắp lũy Hoa Phong (dấu vết còn ở gần chùa Cây Mai) để ngăn giặc.
6/ Những tên
đường Sài Gòn Xưa trước 1975
Từ lâu, người
Sài Gòn đã rất khâm phục cách đặt tên cho đường phố ở Sài Gòn-Gia Định-Chợ Lớn.
Câu chuyện
lịch sử người đặt tên đường
Mọi người vẫn
đinh ninh rằng đó là tập hợp của một công trình có sự đóng góp trí tuệ của
nhiều người, một Hội đồng gồm nhiều: học giả, sử gia, nhà văn uy tín…
Nhưng thật sự
bất ngờ khi được biết kiệt tác lịch sử này đã được hoàn thành bởi một công
chức…!
Người đó là
Trưởng Phòng Họa Đồ thuộc Tòa Đô Chánh-Sài Gòn.
Ông Ngô Văn
Phát, Nhà văn – bút hiệu Thuần Phong, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi,
tỉnh Bạc Liêu….!
Sau hiệp định
Genève tháng 7 năm 1954 Pháp bàn giao chính quyền cho Chính Phủ Bảo Đại, với
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Để đánh dấu
việc giành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sài Gòn được lệnh gấp rút
thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn
nhất. Nhiệm vụ này được giao cho Phòng Hoạ Đồ.
Sau hơn ba
tháng nghiên cứu, ông Ngô Văn Phát đã đệ trình lên Hội Đồng Đô Thành toàn bộ
danh sách tên các con đường và đã được chấp thuận trong sự nể phục…!
Các con đường
được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang, mạch lạc với sự cân nhắc, đánh giá,
bao gồm cả công trạng từng anh hùng, phù hợp với địa thế và các dinh thự đã có
sẵn từ trước… Tác giả đã cố gắng đem cái nhìn vừa tổng quát lại vừa chi tiết,
những khía cạnh vừa có tình vừa có lý, đôi khi chen lẫn tính hài hước, vào việc
đặt tên hiếm có này. Phải là một con người có tâm, có tầm mới nghĩ ra và đặt
tên cho hay, ý nghĩa, phù hợp với lòng người…!
-Đầu tiên là
những con đường mang những lý tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng mơ ước: Tự Do,
Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đã
nằm ở những vị trí thích hợp nhất.
-Đường đi
ngang qua Bộ Y Tế (xưa) thì có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự. Nay là đường
Nguyễn Thị Minh Khai.
-Đường De
Lattre De Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đã được
đổi tên là Công Lý, vì đi ngang qua Pháp Đình. (Toà án xưa). Nay là đường
Nguyễn Văn Trỗi.
-Đại Lộ
Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sài Gòn nối từ Toà Đô Chánh (Ủy ban Nhân dân
Thành phố nay) đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị Anh hùng đã dùng chiến
thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại Lộ này cũng ngắn tương xứng
với cuộc đời ngắn ngủi của Ngài-Nguyễn Huệ (con đường ngày nay vẫn giữ nguyên
là đường Nguyễn Huệ)
-Những danh
nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học
với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái
(sau năm 1975 một phần của đường NTH đổi tên là Nguyễn Thị Nghĩa)
-Đường Phan
Thanh Giản nằm gần đường Phan Liêm, Phan Ngữ là hai người con Ông, đã tiếp tục
sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẩn tiết…! (Nay là đường Điện
Biên Phủ)
-Ông Cao
Thắng một chuyên gia làm súng chống Tây thì “được” ở gần 2 Nhà kháng chiến:
Nguyễn Thiện Thuật và Phan Đình Phùng (sau 1975 đường NTT được giữ nguyên còn
Phan Đình Phùng đổi thành Nguyễn Đình Chiểu)
-Những đại lộ
dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và
Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công trạng dựng nước, giữ
nước của các Ngài.
-Đường mang
tên Lê Lai, người chịu chết thay cho vua Lê Lợi thì nhỏ và ngắn hơn, được nằm
cận kề với đại lộ Lê Lợi. Như Quân và Thần xưa kia…!
-Đường Khổng
Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số người dân là người Hoa cư ngụ nên gắn
liền với họ.
Vào năm 1962
tờ báo Đuốc Nhà Nam ở Sài Gòn đăng tin mừng ngày sinh của cụ Huỳnh Thúc Kháng.
Các tờ báo thân với chính quyền Sài Gòn có chất vấn chủ bút tờ báo Đuốc Nhà Nam
(ông Trần Tấn Quốc) trong một cuộc họp các tờ báo Tin Sáng, Đuốc Nhà Nam,Tiếng
Dội, Thần Chung,Trắng Đen... : vì sao lại ca ngợi một lãnh tụ của VN DCCH?
Người chủ bút trả lời: thế các ngài có biết con đường Huỳnh Thúc Kháng không?
(con đường phía sau bệnh viện Sài Gòn, đi tới trường kỷ thuật Cao Thắng). Nếu
chính quyền còn lấy tên cụ để đặt tên đường thì cớ gì không cho tôi đăng mừng
sinh nhật của cụ trên báo của tôi? Với câu trả lời sắc bén ấy làm cho các tờ
báo phe đối lập phải câm họng, tức giận nhưng chẳng nói được gì.
-Bờ sông Sài
Gòn được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và
Bến Hàm Tử, để ghi nhớ những chiến công, các trận thuỷ chiến lẫy lừng trong
lịch sử chống quân Mông Cổ, chống Nhà Nguyên của Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ
13.
-Thẳng góc
với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm là đường Hồ Xuân Hương. Đó
là Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lý vì cả ba đều là văn thi sĩ nổi
danh… (ba con đường này sau năm 1975 được giữ nguyên tên đường).
Năm 1957, ông
Ngô Văn Phát có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia – Britannica ở Luân Đôn
(Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài Gòn. •Năm 1964 với chuyên
đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in
thành sách ở Sài Gòn).
Cùng năm này
ở Trường Cao học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề “Nguyễn Du et La
Métrique Populaire” (Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges
sur Nguyên Du (Tạp luận về Nguyễn Du).
Những năm
1970, ông được mời thỉnh giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư
phạm Huế và Cần Thơ.
Ngoài ra, hầu
hết những con đường khác ở Sài Gòn-Gia Định-Chợ Lớn đều do Ông và đồng sự đặt
ra…
Ông mất vào
năm 1983 tại Sài Gòn hưởng thọ 73 tuổi…!
Tên cũ và tên
mới những con đường Sài Gòn – TPHCM
Bùi Chu >
Tôn Thất Tùng.
Chi Lăng >
Phan Đăng Lưu.
Công Lý >
Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Nguyễn Văn Trỗi
Cộng Hòa >
Nguyễn Văn Cừ.
Cường Để >
Tôn Đức Thắng.
Duy Tân >
Phạm Ngọc Thạch.
Đoàn Thị Điểm
> Trương Định (cả Đoàn thị Điểm và Trương Công Định đều đổi thành Trương
Định).
Đỗ Thành Nhân
> Đoàn Văn Bơ.
Đồn Đất >
Thái Văn Lung.
Đồng Khánh
> Trần Hưng Đạo B.
Gia Long >
Lý Tự Trọng.
Hiền Vương
> Võ Thị Sáu.
Hồng Thập Tự
> trước là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Nay là Nguyễn Thị Minh Khai. Qua khỏi cầu Thị
Nghè (đoạn hướng về Hàng Xanh) được đặt là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh
Huỳnh Quang
Tiên > Hồ Hảo Hớn.
Lê Văn Duyệt
(Gia Định) > Đinh Tiên Hoàng. Nay đoạn từ cầu Bông cho đến chợ Bà Chiểu)
được trả lại tên đường Lê Văn Duyệt (Bình Thạnh)
Lê Văn Duyệt
(Sài Gòn) > Cách Mạng Tháng 8.
Minh Mạng
> Ngô Gia Tự.
Ngô Tùng Châu
> Nguyễn Văn Đậu.
Ngô Tùng Châu
(Sài Gòn)> Lê thị Riêng.
Nguyễn Đình
Chiểu > Trần Quốc Toản.
Nguyễn Hoàng
> Trần Phú.
Nguyễn Huệ
(Phú Nhuận) > Thích Quảng Đức.
Nguyễn Huỳnh
Đức > Huỳnh Văn Bánh.
Nguyễn Minh
Chiếu > Nguyễn Trọng Tuyển.
Nguyễn Phi
> Lê Anh Xuân.
Nguyễn Văn
Học > Nơ Trang Long.
Nguyễn Văn
Thinh > Mạc Thị Bưởi
Nguyễn Văn
Thoại > Lý Thường Kiệt.
Pétrus Ký
> Lê Hồng Phong.
Phạm Đăng
Hưng > Mai Thị Lựu.
Phan Đình
Phùng > Nguyễn Đình Chiểu.
Phan Thanh
Giản > Điện Biên Phủ.
Phan Văn Hùm
> Nguyễn thị Nghĩa
Phát Diệm
> Trần Đình Xu.
Sương Nguyệt
Ánh > Sương Nguyệt Anh.
Tạ Thu Thâu
> Lưu Văn Lang.
Thái Lập
Thành (Phú Nhuận) > Phan Xích Long.
Thái Lập
Thành (Q1) > Đông Du.
Thành Thái
> An Dương Vương.
Thiệu Trị
> Nguyễn Văn Luông.
Thoại Ngọc
Hầu > Phạm Văn Hai.
Thống Nhất
> Lê Duẩn.
Tổng Đốc
Phương > Châu Văn Liêm.
Trần Hoàng
Quân > Nguyễn Chí Thanh.
Trần Quốc
Toản > 3 Tháng 2.
Trần Quý Cáp
> Võ Văn Tần
Triệu Đà >
Ngô Quyền.
Trịnh Minh
Thế > Nguyễn Tất Thành.
Trương Công
Định > Trương Định (cả Đoàn Thị Điểm và Trương Công Định đều đổi thành
Trương Định).
Trương Tấn
Bửu > Trần Huy Liệu
Trương Minh
Ký > Lê Văn Sĩ.
Trương Minh
Giảng > Trần Quốc Thảo.
Tự Đức >
Nguyễn Văn Thủ.
Tự Do >
Đồng Khởi.
Võ Di Nguy
(Phú Nhuận) > Phân thành 2 đường Phan Đình Phùng và Nguyễn Kiệm.
Võ Di Nguy
(Sài Gòn) > Hồ Tùng Mậu.
Võ Tánh (Phú
Nhuận) > Hoàng Văn Thụ.
Võ Tánh (Sài
Gòn) > 1 phần của Nguyễn Trãi, khúc giao với Cống Quỳnh.
Yên Đổ >
Lý Chính Thắng
7/ Lăng Cha Cả -
Bá Đa Lộc - Thực và hư
Bá Đa Lộc - Thực và hư