Di tích nhà tù Phú Lợi Hiện tọa lạc trên đường
Một Tháng Mười Hai, phường Phú Lợi, thị xã Thủ Dầu Một. Tổng diện tích hiện nay
là 77.082m2,đã được nhà nước công nhận và xếp hạng di tích lịch sử
Quốc gia ngày 10/07/1980.
Nhà tù Phú Lợi là một trong những nhà tù lớn của
Mỹ - Diệm ở miền Nam được dựng lên năm 1957 để giam cầm và tra tấn các chiến sĩ
cách mạng và những người yêu nước lúc bấy giờ, và tồn tại suốt tám năm
(1957-1964). Nhưng với tinh thần kiên cường bất khuất, các tù nhân Phú Lợi đã
đoàn kết anh dũng đấu tranh thắng lợi.
Được mệnh danh “Địa ngục
trần gian”
Với mưu đồ xâm lược miền
Nam, bằng thủ đoạn mị dân, khủng bố đến chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” chỉ
trong vòng 2, 3 năm sau Hiệp định Giơ – neo –vơ, Mỹ Diệm gây không biết bao tội
ác trên cả miền Nam. Bằng khẩu hiện “thà bắt nhầm hơn bỏ sót”, chúng đã xây
dựng thêm nhiều nhà tù.
Từ giữa năm 1957, trại
giam Phú Lợi được xây dựng bố trí ngay bên khu căn cứ quân sự với tổng diện
tích khoảng 12 ha. Số tù nhân chúng đưa về Phú Lợi đầu tiên có 4 nữ và khoảng
100 nam, đến cuối 1957 tăng lên 3.000 tù nhân. Chúng chia trại giam thành nhiều
khu vực: khu hành chánh, khu gia đình binh sĩ, khu An Trí Viện – gọi là khu “An
Trí Viện” nhưng thực chất là trại giam. Khu trại giam gồm có 3 trại: Chi Lăng,
Bạch Đằng, Đống Đa. Cả 3 trại có 9 phòng giam đánh dấu A,B,C,D,… mỗi trại ngăn
cách nhau bằng bức tường kẽm gai dày đặc. Bao quanh 3 trại là 2 bức tường cao,
có mấy lớp kẽm gai, hệ thống đèn điện chiếu sáng vào ban đêm, hoàn toàn cách
biệt với bên ngoài. Ở giữa trại giam có nhà vòm cao để quan sát toàn khu trại.
Xung quanh có 4 cổng ra vào và 4 lô cốt canh phòng nghiêm ngặt. Có hai cổng
chính: cổng thứ nhất mang bảng “Trung tâm cải huấn Phú Lợi”, cổng thứ hai mang
bảng “An trí viện”.
Đến cuối năm 1958, số tù
nhân lên đến gần 6.000 người, trong đó có 1.000 tù nhân là nữ. Anh chị em tù
nhân quê quán ở khắp mọi miền đất nước chẳng may rơi vào tay giặc và bị chúng
tập trung về đây.
Đừng hỏi tên ai còn ai mất
Sáu nghìn người chỉ một tên chung
Chỉ một tên: hòa bình thống nhất
Tên những người bất khuất trung kiên
(Hoàng
Trung Thông)
Chế độ khắc nghiệt của
nhà tù Phú Lợi cũng không khác ở nhiều nhà tù khác lúc bấy giờ, ăn gạo mục cá
ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… Sống bẩn thiểu, thiếu nước, nằm xà lim, chuồng
cọp, lao động khổ sai bệnh tật không thuốc chữa trị… và những đòn điều tra đánh
đập dã man… và chúng đặt ra “24 điều cấm” rất khắc nghiệt để lấy cớ đánh đập tù
nhân. Và những tên “chúa ngục” nổi tiếng gian ác như: Nguyễn Văn Bông, Trần
Vĩnh Đắc, Hồ Văn Tần,…
Trước những thủ đoạn vừa
khủng bố vừa mị dân, những cảnh tra tấn dã man đày ải cực hình, anh chị em
trong tù vẫn giữ được lòng kiên định và ý chí kiên cường chiến đấu. Đó là nhờ
có sự lãnh đạo của Đảng và sự tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng của những người yêu nước, những người cộng sản.
Qua kinh nghiệm thực tế
trong phong trào hoạt động bí mật, nên chỉ trong một thời gian ngắn các Đảng
viên ở các trại đã tổ chức được đường dây liên lạc với nhau, các nhóm Đảng viên
các chi bộ bí mật lần lượt được thành lập. Đầu năm 1958, Đảng ủy Trung tâm Phú
Lợi được thành lập, gồm có một số đồng chí: Vũ Duy Hanh (nguyên là bí thư tỉnh
ủy TDM), Nguyễn Văn Trung,… và các chi bộ có các đồng chí: Nguyễn Thanh Liêm,
Thiệt. Suốt những năm tháng ở đây, tù nhân có tổ chức bí mật của Đảng ta chỉ
đạo. Ban Đại diện, Tổ Tâm giao, hoặc Đôi bạn đồng hương ở từng trại giam làm
nòng cốt đấu tranh, từng bước đấu tranh với kẻ thù đòi cải thiện đời sống,
chống đàn áp, chống tra tấn tù nhân. Tất cả là nhờ sự kiên trung của các đảng
viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Vụ đầu độc tàn ác của Mỹ
- Diệm
Một sự kiện đã diễn ra
vào những ngày cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1958. Vụ thảm sát Phú Lợi: thường
lệ mỗi năm Mỹ Diệm tổ chức 4 đợt đày tù nhân “loại A” ở các nhà tù trong đất
liền ra Côn Đảo vào những tháng 3,6,9,12 dương lịch. Trại giam Phú Lợi, sau khi
phân loại có 450 tù nhân loại A – là đối tượng bị đày ra Côn Đảo vào cuối tháng
11/1958, với ý đồ bí mật thủ tiêu tù nhân chuyến đi này.
Theo kế hoạch mỗi tù
nhân bị đày sẽ được nhận khẩu phần bánh mì (có trộn thuốc độc) và thức ăn kèm
theo. Mọi việc đã chuẩn bị hoàn tất vào 28/11/1958, nhưng liên tiếp những ngày
này biển động mạnh tàu không ra được vùng biển Vũng Tàu – Côn Đảo. Không từ bỏ
giả tâm, Mỹ Diện thực hiện âm mưu hãm hại tù nhân Phú Lợi trong bối cảnh khác.
Đó là ngày 30/11/1958, là ngày chủ nhật, trại giam vẫn thực hiện “ăn tươi” của
tù nhân gồm bánh mì và các thức ăn khác. Để đủ khẩu phần ăn ngoài số bánh mì cũ
(có thuốc độc) chúng trộn lẫn bánh mì mới vào nhau và cấp phát cho tù nhân. Số
tù nhân bị ngộ độc tăng nhanh đau bụng, nôn mửa, co quắp, … Đến ngày
01.12.1958, số tù nhân bị ngộ độc tăng lên hàng trăm người, nhiều người chết,
số nằm hôn mê bất tỉnh,… số anh chị em tù nhân bịnh nặng bị địch khiêng khỏi
trại, đến ngày 02/12 và 03/12 số bệnh nhân nặng và chết càng đông, số người bị
vùi tại chỗ, số nặng chuyển đi, nhưng số tù nhân ấy không thấy được chuyển lại
Phú Lợi nữa.
Đoàn kết anh dũng, đứng
lên đấu tranh thắng lợi
Với tinh thần kiên cường
bất khuất, Đảng ủy trại giam quyết định đấu tranh công khai trực tiếp, các tù
nhân Phú Lợi đã đoàn kết anh dũng đấu tranh như: tung nóc nhà giam, phát loa
phóng thanh kêu cứu trong ngày bi thảm 01.12.1958. Nhanh như chớp, tin địch đầu
độc tù nhân đã được lan truyền khắp nơi. Đầu tiên nhân dân xã Phú Hòa, Bình
Chuẩn, Hiệp Thành, Phú Văn,.. nổi dậy phối hợp với tù nhân ở Phú Lợi đấu tranh
tố cáo tội ác của Mỹ Diệm.
Để chạy tội Mỹ – Diệm
tìm cách phi tang nhân chứng, gây nên làn sóng căm phẩn trong và ngoài nước.
Chỉ sau 1 tháng vụ đầu độc ta nhận được liên tiếp nhiều bức điện của các tổ
chức quốc tế: Liên hiệp công đoàn thế giới, Hội liên hiệp học sinh thế giới,
Hội luật gia thế giới,… Biến đau thương thành hành động, khắp nơi trong cả
nước dấy lên phong trào hướng về Phú Lợi, từ tiếng gọi căm thù, tiếng gọi đau
thương...“Tuần lễ thi đua” vì Phú Lợi và miền Nam ruột thịt! của Ủy
ban đấu tranh Trung ương chống vụ đầu độc ra đời; làm bừng lên một phong
trào thi đua trên công xưởng, nông trường, hợp tác xã, thao trường, thông tin
đại chúng và sáng tác văn nghệ... Sự căm phẫn đó đã được nhà thơ Tố Hữu thể
hiện sâu sắc trong bài thơ “Thù muôn đời muôn kiếp không tan”, năm 1959:
“…Trong một ngày - mồng
một tháng mười hai
Nào ai ngờ không có nửa
ngày mai!
Chúng tôi chết, trong
đêm dài tàn khốc
Đứt ruột đứt gan, nắm
cơm thuốc độc
Tím xương do nanh nọc lũ
đê hèn
Trái tim hồng chết uất
máu bầm đen…”
Trong điều kiện mới của
chiến tranh diễn ra, đến năm 1964, nhà tù Phú Lợi không còn nữa. Từ đó hệ thống
trại giam chuyển thành tiểu khu quân sự Mỹ-Ngụy cho đến ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng 30/04/1975.
Ý nghĩa và giá trị lịch
sử
Tại đây, trong nơi giam
cầm khắc nghiệt của nhà tù, chi bộ Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập lãnh
đạo tù nhân, từng bước đấu tranh với kẻ thù. Nhà tù Phú Lợi trở thành một bằng
chứng về tội ác của Mỹ – Ngụy tại miền Nam Việt Nam; nơi đây là biểu tượng cho
lòng dũng cảm của cán bộ đảng viên, các đồng chí cách mạng và đồng bào yêu nước
đã ngã xuống trong nhà tù vì độc lập, tự do, hoà bình, hạnh phúc cho quê hương
đất nước.
Với giá trị lịch sử to
lớn và ý nghĩa chính trị quan trọng của khu di tích nhà tù Phú Lợi. Năm 1995,
di tích đã được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh chủ trương đầu tư công trình biên soạn
lược sử và trùng tu, tôn tạo khu di tích vào đúng dịp kỷ niệm 37 năm ngày đoàn
kết, bất khuất đấu tranh chống vụ đầu độc tù nhân Phú Lợi. Một bức tượng bằng
đồng cao 3,5m của cố tác giả điêu khắc Diệp Minh Châu, thể hiện sự đau thương
trong ngày xảy ra vụ đầu độc, tái diễn lại lịch sử nêu cao tinh thần đấu tranh
bất khuất của tù nhân Phú Lợi năm xưa.
Hàng năm, di tích đã tiếp đón nhiều lượt du
khách trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu về lịch sử đấu tranh cách
mạng của con người Việt Nam. Khu di tích Phú Lợi trở thành nơi giáo dục truyền
thống cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau. Các tổ chức phong trào đoàn TNCS
Hồ Chí Minh giao lưu, kết nạp đoàn viên mới