Dinh Toàn Quyền Dexoux (Dinh II), được xây dựng vào năm 1937 - là một trong những công trình độc đáo của kiến trúc sư người Pháp tên là He1brand. Cũng có người cho rằng đây là công trình do các kiến trúc sư A. Le1onard, P. Veyssere và A.T.Kruze thiết kế năm 1937. Tòa dinh thự đc kiến trúc theo lối cổ điển kết hợp với hiện đại, năm trên quả đồi cao 1.539m so với mặt biển, có đường hầm bí mật để các: chính khách" có thể thoát thân ra ngoài khi chẳng may xảy ra sự cố. Chính nơi đây là nơi trú ngụ trong mỗi dịp xuân, hè và là nơi ẩn nấp trong những giờ phát nguy nan của không chỉ 3 đời Toàn Quyền Đông Dương: Brérie, Catroux và Jean Decoux, mà còn cho cả vợ chồng "cố vấn" tổng thống Ngô Đình Nhu - Trần Lệ Xuân và thủ tướng Nguyễn Khánh của chế độ Sài Gòn
Năm 1940, nước Pháp bị phát xít Đức tấn công, chiếm đóng và chính phủ bù nhìn Pétain thân Đức ra đời. Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ là Catroux phải bỏ trốn lên Đà Lạt và nương thân tại Dinh này trong một thời gian dài trước khi lánh nạn qua Thái Lan, Miến Điện vì Catroux thuộc phe De Goulle chống Đức nên bị cách chức. Sau đó Catroux trở về Pháp để gia nhập vào phe chống Phát xít.
Cũng vào năm ấy, J. Decoux được Pe1tain cử sang thay cho Cattroux (1940 - 1945) lai gặp lúc Nhật đảo chính Pháp nên cũng không thoát khỏi số phận cay đắng của một viên Toàn quyền bù nhìn. Để lần tránh nỗi tủi hờn trong những ngày chua xót ấy,. Decoux đã đưa vợ và 2 đứa con gái nhỏ lên Đà Lạt cư trú tại tòa lâu đài này, lấy cảnh thiên nhiên thơ mộng để làm bạn tri âm, nhưng cuối cùng rồi cũng bị bắt sau ngày Pháp bị sụp đổ. Có lẽ chính vì vậy, tòa dinh thự được gắn liền với tên tuổi của viên Toàn quyền Đông Dương cuối cùng: Dinh Toàn Quyền Decoux.
Bước vào tòa lâu đài, điều khiến mọi người chú ý đầu tiền là tấm bình phong có từ thời Tự Đức, bên trên có khắc 22 bài thờ bằng chữ Hán. Một số người am hiểu cho rằng: sau khi xây dựng xong Dinh, Bảo Đại đã cho chuyển tấm bình phong từ thành nội vào đây làm quà tặng nhằm làm đẹp lòng Toàn quyền Decoux nhân ngày khánh thành. Nhưng một số khác thì lại bảo: Trong thời gian nắm quyền và lưu trú tại đây Ngô Đình Nhu đã cho lấy tấm bình phong từ triều đình Huế đèm vào làm vật trang trí cho ra vẻ vua chúa! Song, điều đáng quan tâm hơn vẫn là nội dung và nghệ thuật tuyệt vời của những bài thơ Đường Luật được viết trên tấm bình phong ấy. Trong đó có 18 bài thơ của Tự Đức và 4 bài thơ của các tác giả nổi tiếng khác như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương. Bên cạnh đó là bức họa "Tráng sĩ mài gươm" gợi nhớ một sự kiện bi hùng của tráng sỹ Đặng Dung thời nhà Trần làm cho tướng giặc phải kính cẩn nghiêng mình.
Bức phù điêu "Nàng Chinh Phu" khắc họa hình ảnh người thiếu phụ, nổi bật phía trước là con chiến mã xa mờ thể hie65nca1i thần của nữ sĩ Hồng Hà - Đoàn Thị Điểm trong "Chinh Phụ Ngâm" - tiếng kêu ai oán của người phụ nữ , của tình yêu đôi lứa trong thời buổi chiến tranh, ly loạn. Tấm phù điêu cha con Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi: kẻ bất khuất chịu gông cùm nhìn thẳng vào mặt kẻ thù; người ung dung ngồi viết "Bình Ngô Đại Cáo", một lòng, một dạ sắt son, xả thân cứu nước khỏi ách xâm lược.
Thế nhưng, điều nghịch lý là cũng chính tại nơi đây đã chứng kiến bao nhân vật: chính nghĩa và gian tà, anh hùng và phản tặc, quân tử và tiểu nhân phải ngồi đàm đạo quanh chiếc bàn ô cảm! Đó là sự kiện liên quan đến vận mệnh đất nước Việt Nam: Hội nghị tù bị Đà Lạt chuẩn bị cho Hội Nghị Fontainebleau (Paris) diễn ra từ ngày 19 đến ngày 20/4/1964. Lúc ấy, phái đoàn ta do Nguyễn Tường Tam dẫn đầu. Phái đoàn Pháp do Cao Ủy Đông Dương D'Argenlieu lãnh đạo. Chiều ngày 18/4/1964 hai bên đã có cuộc gặp đầu tiên tại Dinh Toàn Quyền Decoux trước khi bước sang vòng đàm phán chính thức.
Hội nghị bất thành, song cũng từ đá đã đưa dân tộc vào cuộc kháng chiến trường kỳ và chiến thắng lẫy lừng làm vang dội địa cầu: Điện Biên Phủ. Phòng làm việc của Toàn Quyền Đông Dương lần đầu tiên được mở ra sau mấy chục nam im ỉm khóa. Con dấu đồng - vật chứng gần 100 năm thống trị của chính quyền thực dân Pháp hãy còn đó, song tên tuổi của những tay sai người Pháp đã chìm sâu vào trong quá khứ.
Năm 1957, lâu đài tráng lệ này lại rơi vào tay vợ chồng cố vấn Ngô Đình Nhu - Trần Lệ Xuân. Nơi đây đã diễn ra những cuộc bày mưu định kế để thanh trừng các tướng lĩnh không 'ăn cánh' trong quân đội sài gòn, nhất là hoạch định các kế hoạch chống phá Cách Mạng và những cuộc trăng hoa đẫm máu. Nhiều người hãy còn nhớ: trước khi xảy ra biến cố đảo chính 1/11/1963 họ Ngô đã tiến hành một kế hoạch những tướng lĩnh không chịu phục tùng và phụng sự cho chính sách "Gia đình trị" của họ. Sau đó, Nguyễn Chánh Thi, Dương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Nguyễn Văn Lộc...bất mãn đã kéo quân về vây hãm Dinh Độc Lập lần thứ nhất. Trong những giờ phút "ngàn cân treo sợi tóc" đó, Ngô Đình Diệm đã gọi điện hỏi ý kiến quân sư Ngô Đình Nhu. Từ Dinh II, Nhu đã phác thảo ra một kế hoạch hoãn binh theo kiểu Hồ Tôn Hiến:"tạm thời đầu hàng" để rồi 35 tiếng đồng hồ sau trở tay "tắm máu" khiến cho 3 viên tướng và 10 viên sĩ quan của chế độ Sài Gòn kẻ thì chết đứng giữa trời trơ trơ, người thì bỏ của chạy lấy người, bay sang Campuchia tạm thời lánh nạn!
Căn phòng của phu nhân toàn quyền Đông Dương ngày xưa, sau đó trởi thành phòng riêng của Trần Lệ Xuân. Năm 1962, biết chồng phải lo tập trung đối phó với các tướng tá nhằm bảo vệ quyền bính cho dòng họ, sau khi gọi điện cho người tình là Trung tướng Trần Văn Đôn, Lệ Xuân đã bí mật bay lên Đà Lạt, tướng Đôn cấp tốc phóng xe lên theo. Những ngày ấy, một cuộc trăng hoa ngây ngất đã xảy ra chính tại nơi này. Trong lúc cả hai đang quấn chặt lấy nhau và chìm đằm trong lạc thú ái ân, thì bỗng cửa phòng bị đạp tung. Một người đàn bà đẫy đà bước vào. Tiếng súng nổ, Lệ Xuân gục xuống. Máu loang thấm đỏ cả drap giường. May mà viên đạn chi mới ghim vào bả vai trái. Tướng Đôn vội vùng dậy can ngăn, người đàn bà nọ mới chịu quay ra xe hơi cùng với một trung đội lính rằn ri chạy một mạch về Sài Gòn.
Sau vụ xì căng đan đó, để tránh lời đàm tiếu độc mồm độc miệng trong thiên hạ, Ngô Đình Nhu đã phải cắn răng thu xếp cho Lệ Xuân đáp máy bay sang Manila (Philippines) để mổ vết thương, gắp đạn ra, điều trị và coi như không có chuyện gì. Có lẽ chính vì sự vị tha ấy của Nhu và kỷ niệm của những cuộc mây mưa mặn nồng với Lệ Xuân nên khi xảy ra đảo chính thực sự vào năm 1963, mấy đứa con nhỏ của Lệ Xuân là: Ngô Đình Trác, Ngô Đình Quỳnh, Ngô Thị Lệ Quyên sau mấy ngày chạy trốn ở Đà Lạt bị bắt và áp giải về Sài Gòn, tường Đôn đã đứng ra bảo lãnh cho 3 đứa trẻ và tìm cách đưa sang La Mã cho Ngô Đình Thục. Ba ngày sau, Lệ Xuân cùng với con gái lớn Lệ Thủy bay từ Mỹ sang Ý, cả gia đình họ gặp nhau trong nước mắt nơi đất khách quê người.
Năm 1964, tướng Nguyễn Khánh lên nắm quyền Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa đã độc chiếm Dinh II làm "Tổng hành dinh". Từ ngày về đây, Nguyễn Khánh đã ra sức tu bổ, cho xây thêm các đường hầm bí mật đến tận sườn đồi theo hướng Đông Nam và Tây Bắc để "dĩ đào vi thượng sách" khi chẳng may xảy ra "đảo chính".
Xuống cầu thang, qua khỏi khu nhà bếp nằm dưới lòng đất, băng qua hầm chứa rượu, du khách có thể bước chân vào miệng đường hầm bí mật rộng chừng 1,5m cao 1m, tất cả đều được xây bằng bê tông cốt thép và có nhiều ngóc ngách. Năm 1968 cũng chính tại Dinh II, đã xảy ra sự kiện quân Giải Phóng bất thần tấn công vào "Tổng hành dinh" này, đánh dập dãy nhà liên binh phòng vệ phía trước và làm chủ Dinh 2 ngày 1 đêm rồi mới rút lui. Sau năm 1975, nhiều đường hầm bí mật ở Dinh II bị sập, nhân viên ở đây phải dùng đất đá lấp lại. Ngày nay, nếu chịu khó đi dạo và quan sát triền đồi ở phía Đông Nam, Tây Bắc, du khách có thể nhìn thấy nhiều dấu vết của đường hầm bí mật.
Dinh toàn quyền quả là một công trình kiến trúc uy nghi và trang nhã, ghi dấu ấn một giai đoạn lịch sử khó quên của thành phố xinh đẹp này