HOA QUỲNH VÀ HOA MẪU ĐƠN
Theo truyền thuyết, ngày xưa vào
thời nhà Tùy (Dương Quảng 605 – 617) ở Dương Châu, Trung Quốc, có Tùy Dạng Đế
là ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác táng, xa hoa, phung phí, một đêm nằm
mơ thấy một cây trổ hoa đẹp… Cùng thời điểm ấy, tại Lạc Dương thành có ngôi
chùa cổ kính là Dương Ly, vào giữa canh ba, ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng
rực lên như lửa cháy, hương thơm sực nức lạ lùng, như sao trên trời sa xuống,
làm dân chúng bàng hoàng đổ xô đến xem đông như kiến cỏ. Gần giếng nước trong
sân chùa mọc lên cây bông lạ, trên ngọn trổ một đóa ngũ sắc với 18 cánh lớn ở
phía trên, 24 cánh nhỏ ở phía dưới, mùi thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi,
lan xa ngàn dặm. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh.
Điềm báo mộng của vua Tùy Dạng Đế được ứng với tin đồn
đãi, nên Vua yết bảng bố cáo: “Ai vẽ được loại hoa Quỳnh đem dâng lên, Vua
trọng thưởng”. Không đầy tháng saụ.. có một họa sĩ dâng lên Vua bức họa như ý.
Nhìn đóa hoa trong tranh cực kỳ xinh đẹp, tất nhiên hoa thật còn đẹp đến dường
nào! Nghĩ vậy, Vua liền quyết định tuần du Dương Châu để thưởng ngoạn hoa
Quỳnh.
Trong chuyến tuần du cần có đủ mặt bá quan văn võ
triều thần hộ giá, nên để tiện việc di chuyển, Tùy Dạng Đế ban lệnh khai kênh
Vạn Hà từ Trường An đến Dương Châụ Hàng chục triệu ngày công lao động phải bỏ
ra, hàng vạn con người phải vất vả bỏ mình. Kênh rộng cả chục trượng, sâu đủ
cho thuyền rồng di chuyển. Hai bên bờ kênh được trồng toàn lệ liễu đều đặn cách
nhau 10 mét một cây (cụm từ “dặm liễu” xuất phát từ đó, điển hình câu thơ: Dặm
liễu sương sa khách bước dồn của Bà Huyện Thanh Quan). Kênh đào xong, một buổi
lễ khánh thành được cử hành trọng thể, đoàn thuyền giương buồm gấm khởi hành…
cả nghìn cung nữ xiêm y rực rỡ, mặt hoa da phấn… thuyền rồng được buộc bằng các
dải lụa dùng để kéo đị Vua Tùy Dạng Đế ngồi trên mui rồng uống rượu nghe đàn
hát ca sang ngắm cảnh Giang Nam và đàn cung nữ tuyệt thế giai nhân. Vua thấy
nàng nào thích ý cho vời vào hầu ngaỵ Chuyến tuần du của bạo chúa Tùy Dạng Đế
vô cùng xa xỉ, hao tốn công quỹ triều đình. Đây là một trong những nguyên nhân đẩy
đất nước đến đói nghèo, loạn lạc khắp nơi, đưa nhà Tùy đến sụp đổ, dựng nên cơ
nghiệp nhà Đường. Trong những quan quân hộ giá, có cha con Lý Uyên. Qua thời
gian hơn 90 ngày, đoàn du hành đến đất Dương Châụ Thuyền vừa cặp bến, con của
Lý Uyên phương danh là Lý Thế Dân cùng bằng hữu rủ nhau lén lút đi xem hoa ngay
trong đêm, sợ sáng hôm sau triều thần cùng đi đông vầy lớp trẻ khó chen chân
lọt vào vườn hoạ Lý Thế Dân là người có chân mạng đế vương (về sau là Vua Đường
Thái Tông 627 – 649) nên giống hoa nhún mình lên xuống 3 lần để nghinh đón.
Cánh hoa cong trắng nõn, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngọt ngàọ Dưới
ánh trăng vằng vặc hoa đẹp tuyệt vời! Xem xong, một cơn mưa to rụng hết.
Sáng hôm sau, Tùy Dạng Đế xa giá đến xem hoa, chỉ còn
thấy trơ vơ cánh hoa úa rũ, tan tác!… Vua tức giận, tiếc công nghìn dặm không
được xem hoa, ra lệnh nhổ bỏ, vứt đi! Từ đó hoa Quỳnh chỉ nở về đêm cho những
ai có lòng lân ái: “Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”.
Qua cuộc tuần du, nhiều cuộc bạo loạn nổi lên khắp nơị
Tùy Dạng Đế bị cận thần sát hại dẫn đến nhà Tùy mất ngôi, Lý Thế Dân đứng lên
lập nên nhà Đường.
… Đến đời Đường Cao Tông, say đắm Võ Hậu, lúc Vua băng
hà con còn nhỏ, Võ Hậu chuyên quyền nhiếp chánh hãm hại công thần, tự xưng
vương, đổi nhà Đường thành nhà Đại Châu, xưng hiệu Võ Tắc Thiên hoàng đế. Một
hôm, Võ Tắc Thiên ngự du vườn thượng uyển nhìn cỏ cây xác xơ trơ trọi liễu đào
ủ rũ điêu tàn, liền truyền lệnh bằng bài tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn:
Lai triều du thượng uyển – Hỏa tốc báo xuân trị
Bách hoa liên dạ phát – Mạc đãi hiểu phong xuỵ
Dịch: (Bãi triều du thượng uyển – Gấp gấp báo xuân haỵ
Hoa nở hết đêm nay – Đừng chờ môn gió sớm).
Linh ứng thay! Trăm hoa phụng mệnh, chỉ trong một đêm
bừng nở khắp vườn, mùi thơm sực nức nhân gian! Rạng sáng hôm sau, Võ Tắc Thiên
dạo vườn trông muôn hồng ngàn tía ngoan ngoãn đua chen nở rộ, lấy làm tự mãn
cho rằng quyền uy tột đỉnh. Bất giác, bà Chúa bạo dâm Võ Tắc Thiên nhìn đóa Mẫu
Đơn bất tuân thượng mệnh, thân cây khẳng khiu cứng cỏi, không hoa lá. Giận thay
cho loài hoa ngoan cố, Võ Tắc Thiên ra lệnh đày Mẫu Đơn xuống tận Giang Nam. Do
đó, vùng Giang Bắc thiếu vắng loài hoa vương giả, biểu trưng cho quốc sắc thiên
hương nhằm ám chỉ tuyệt sắc giai nhân. Người đương thời thấy vậy dệt bài Phú
Ngọc Lâu Xuân Tứ nhằm thương hại và tán thán vẻ đẹp, sự khẳng khái của hoa Mẫu
Đơn, thà chịu cảnh phong trần lưu lạc tự giải phóng cuộc đời chớ không làm
vương giả chốn kinh đô, chịu giam mình trong vườn hoa tù hãm của bạo chúa, đem
sắc đẹp hương thơm ban rải cho mọi người để được dự phần thanh caọ
Đó là truyền thuyết hoa Quỳnh và hoa Mẫu Đơn được đời
sau dệt thành giai thoại đầy hấp dẫn qua thuyết Đường của Trung Quốc biểu thị
cho người đời suy gẫm Hoa và Người: Ai là người xứng đáng thưởng hoa và hoa
phải thế nào cho con người thưởng ngoạn.
HOA HUỆ DẠ HƯƠNG
Có lẽ trên đời này không có đủ sức
mạnh nào có thể chia rẽ được quan hệ giữa thần Apôlông và chàng Ghiaxít, con
trai của vua Xpáctát. Apôlông yêu quí Ghiaxít chẳng khác nào đứa em ruột của
mình, và mọi người cho rằng họ sẽ không bao giờ xa được nhau. Con trai Thần Dớt
vốn là người rất hâm mộ cái đẹp, sáng nào chàng cũng lên đỉnh núi để chào Mặt
Trời vừa thức dậy sau một chuyến đi dài ngày vòng quanh trái đất. Trong những
chuyến đi ấy của Apôlông, Ghiaxít bao giờ cũng tháp tùng theo.
Sau khi tiễn Mặt Trời đi xa, các chàng trai thường ghé
lại thăm đàn gia súc đang được chăn thả trên các cánh đồng cỏ đẫm sương, khiến
người chủ của bầy rất vui sướng vì được thần Apôlông ban phước lành. Những cánh
đồng lúa chín vàng mà Apôlông lướt mặt qua, họ cũng đều tìm đến và được ban
tặng một mùa lúa bội thu.
Khoảng giữa trưa, Apôlông và Ghiaxít cùng nghỉ lại
trong một khu rừng sồi, nghe tiếng đàn áp của Ela. Khi hoàng hôn buông xuống,
Apôlông lại cho mời các thi sỹ đến đọc thơ ca ngợi cái đẹp, tình bạn và tình
yêu.
- Hỡi thiên thần của tôi, tôi xin đa tạ Người về việc
tôi được làm kẻ hạnh phúc nhất trần gian – ngày nào Ghiaxít cũng nói với
Apôlông như thế, và trong lời nói của chàng không hề gợn chút xu nịnh hay giả
dối.
Một hôm, cả thần lẫn người đều dừng lại rất lâu bên bờ
một con sông. Họ tắm mát, bắt châu chấu trong các bụi cói và thi ném thia lia.
Tình bạn của họ thật tuyệt vời. Có lẽ do họ gây chuyện quá ồn ào nên nữ thần
Nhim Pha phải dội nước chui lên, la hét:
- Ê, mấy chàng nghịch ngợm kia, chẳng lẽ không bớt la
hét một chút được sao? Cha tôi đang nghỉ trưa đó.
Apôlông quay lại bờ sông, vứt luôn cái thia lia định
ném đi. Chàng ngỡ ngàng trước một người đẹp mà chàng chưa từng thấy trong số
các cô gái của họ nhà thần: gương mặt bụ, trắng như sữa, mái tóc xanh hệt màu
cây cỏ, còn bộ ngực thì tròn đầy như hai trái táo đang độ chín. Vì quá sửng
sốt, chàng nhào luôn xuống nước.
- Hỡi người đẹp, nàng là ai vậy? Và cha nàng là ai? –
Apôlông hỏi.
- Cha tôi là Thần Sông, còn tôi là Đápna, con gái của
người, – nữ thuỷ thần đáp.
Chẳng riêng gì Apôlông, các Thần khác nếu gặp Đápna cũng
sẽ phải lòng nàng ngay từ giây phút đầu. Apôlông có cảm giác không khí quanh
chàng nóng như thiêu như đốt, và chỉ có nước sông kia mới làm dịu mát được cơ
thể chàng. Bị nữ thuỷ thần từ chối không cho được lại gần, Apôlông đâm chán
ghét những chuyến leo núi buổi sáng, biếng nhác thơ ca, thậm chí sao nhãng cả
tình bạn với Ghiaxít; chàng chỉ muốn được chia xẻ số phận với Đápna và được ở
lại bên nàng, dầu có phải làm tôi tớ dưới thuỷ cung.
- Đápna ơi, nàng là cô gái tuyệt vời nhất trong số các
cô gái tuyệt vời. Ta là Apôlông, thần ánh sáng đây. Hãy đi với ta và chia xẻ
tình yêu cùng vương quốc với ta! – Apôlông khẩn khoản xin nữ thủy thần.
Đápna lắc lắc cái đầu đang đội vương miện nước óng
ánh.
- Nàng chính là ái nữ kỳ diệu của đời ta, ngay đến
Êlêna kiều diễm cũng không dám sánh cùng nàng! Apôlông chìa cả hai tay về phía
Đápna và thốt lên.
- Chàng lúc nào cũng nóng nảy như mặt trời của chàng
vậy – Nữ thủy thần ngụp luôn xuống nước, chỉ để hở gương mặt trắng trẻo như
bông súng trắng trôi nổi trên dòng chảy.
- Đápna ơi, nếu em không lấy ta, ta sẽ liều mình theo
em – Với một nỗi say mê cuồng nhiệt, Apôlông toan gieo mình xuống dòng sông.
Khoan đã, đừng làm nước nổi sóng lên, cha đang ngủ đó.
Nếu đánh thức người dậy trước giờ hạn định, Người sẽ nổi giận, làm cho sóng
nước cuộn lên và tất cả thuyền bè sẽ bị lật nhào hết, – Đápna ngăn Apôlông và
tìm cách làm nguội lạnh ngọn lửa đang hừng hực nơi chàng.
Nàng nhặt cái thia lia ở dưới đáy sông lên đưa cho
Apôlông và nói:
- Hãy để các thần phán quyết số phận của chúng ta. Em
sẽ yêu một người nào đó trong số các bạn của chàng ném ba lần thia lìa xa nhất.
Ghiaxít thật đáng thương! Chàng hết lòng mong muốn cho
bạn mình giành được chiến thắng, song, vì hồi hộp, Apôlông bị run tay, đã hai
lần ném đều không thành, còn Ghiaxít, mặc dù rất ủng hộ bạn, nhưng cả hai lần
chàng đều ném xa hơn Apôlông. Lần thứ ba, Ghiaxít buộc phải ném trúng đích.
Apôlông lồng lộn, chàng vung cái thia lia lên nhằm trúng đầu bạn mà ném.
Ghiaxít ngã xuống và thiếp đi một giấc ngàn thu. Đápna vô cùng xúc động. Thế là
chàng trai tốt bụng đã phải chết vì tội lỗi của nàng!
Tới nửa đêm, khi mặt trăng tròn vành vạnh treo lơ lửng
trên khoảng rừng tùng bác thì Đápna và các bạn gái của nàng cùng nhô lên khỏi
dòng sông. Họ lấy ánh sáng trăng thắp lên những ngọn nến có ánh lửa trắng, đỏ,
xanh, hồng và vàng, rồi cắm xuống mảnh đất đã thấm máu Ghiaxít.
Đột nhiên, từ cánh rừng thông gần đó
hiện ra một hình người bằng lửa phát ra sức nóng có sức thiêu đốt từ xa.
- Hãy chạy đi, hỡi các nữ thần, Apôlông đến đó – Đápna
hét to và bỏ chạy.
Con gái của Thần Sông đã bị các thần trừng phạt. Họ
biến nàng thành kẻ mất trí và chỉ cho nàng lối đi bấp bênh không phải ra ngoài
sông mà là ra ngoài đồng không mông quạnh, để một ngọn gió nóng thiêu đốt đôi
chân nàng và một luồng hơi thở khủng khiếp phả vào cổ nàng.
Đápna tuyệt vọng van xin nữ thần số mệnh cho nàng được
biến thành cây nguyệt quế. Mong ước của nàng đã thành hiện thực, và trước mắt
Apôlông, một cây hoa Nguyệt Quế đã xoè tán lá.
Các thần cũng như những tên bạo chúa, không bao giờ
chịu thừa nhận tội lỗi của mình, ngay cả khi họ là những kẻ sát nhân. Không
chiếm được trái tim Đápna, Apôlông càng ghen hơn với nàng vì Ghiaxít. Chàng đến
chỗ mà người bạn của chàng đã ngã xuống, phảy tay dập tắt các ngọn nến.
Không hiểu vì sao Apôlông sau đó không thấy bén mảng
đến chỗ ấy nữa, vì vậy những ngọn nến kia đã xoè nở hệt như những bông hoa, toả
ra thứ hương hơi khó ngửi dường như là hơi thở của chính chàng trai trước lúc
chết về hạnh phúc không thành đạt. Đó chính là loài hoa Ghiaxin – hoa Huệ Dạ
Hương.
HOA SÚNG TRẮNG
Cả làng đang bước vào mùa cưới. Và
cũng chẳng nên ngạc nhiên khi lucun, chàng trai sởi lởi và đáng yêu nhất vùng
lại kết hôn với Lilia, người con gái hay lam hay làm, dễ thương nhất ở làng ấy.
Thật quả là trai tài gái sắc.
Nhưng thời ấy có một con quỷ sông lang thang đây đó,
chuyên nghề phá vỡ hạnh phúc của những đôi tân hôn. Một buổi chiều lucun ngồi
trên bờ hồ chờ đợi Lilia đáp thuyền từ bên kia sông vượt sang. lucun đến trước,
ngồi trên một gốc cây mơ màng nghĩ về niềm hạnh phúc lớn lao của mình. Vừa lúc
ấy có một người lạ mặt tiến tới gần, lặng lẽ ngồi xuống một bãi cỏ ngay gần
chàng và bắt chuyện.
Chờ đợi mãi mà chẳng thấy Lilia, lucun nghĩ rằng có lẽ
người yêu đã quên mất cuộc hẹn hò, đôi tay chàng thốt nhiên run rẩy. Người lạ
mặt tỏ ra rất tinh ý liền rút trong tay áo ra một cái chai, đưa cho lucun và
nói rằng, đây là một phương thuốc chữa bệnh sầu não rất hiệu nghiệm.
- Chàng hãy uống thử một ly, chàng sẽ thấy tâm hồn thanh
thản ngay – Người lạ mặt vừa nói vừa rót ra một ly rượu – một thứ thuốc độc và
mời lucun thưởng thức.
Thế là nỗi sầu muộn dường như tan biến. Chàng lại cười
nói minh mẫn như thường lện. Chàng nghĩ: nàng đến chậm có thể vì còn bận nhiều
việc nhà.
Lát sau, người lạ mặt lại rót ra một ly rượu nữa, lần
này là một ly rượu đầy tràn, chuốc cho lucun say mèm. Bây giờ đây chàng còn
muốn nhảy múa ca hát nữa. Và Lilia trong khi ngồi trên thuyền vượt hồ nước đã
nghe tiếng hát của lucun vẳng lại từ xa:
ở đây ta uống, ở đây ta chơi….
- Chàng làm sau vậy? – Lilia lo lắng tự hỏi. Nàng
không thể hiểu được lucun đã kiếm đâu ra rượu độc, bởi lẽ người lạ mặt đã biến
mất không để lại dấu vết.
Một tuần lễ sau, khi trên đường từ nhà người yêu trở
về, lucun lại gặp người lạ mặt. Trông dáng vẻ chàng buồn rầu, không được tự
nhiên. Thì ra là chàng mới bị bà mẹ vợ tương lai quả trách vì tội đã nhảy múa,
hát hò, gây ồn ào một buổi chiều nọ. Người lạ mặt săn đón, hỏi dò vì sao chàng
lại buồn, và chàng đã không giấu diếm gã nỗi lòng mình. ồ, chẳng việc gì phải
buồn, ai mà chẳng biết được mụ phù thuỷ và bà mẹ vợ kia thực ra chỉ là một, chỉ
cần nhắp một chút rượu thuốc này thôi là bao nhiêu nỗi buồn sẽ tiêu tan hết.
lucun lại uống và càng uống nhiều, chàng càng cảm thấy trong người phấn chấn
hơn. Chàng cứ tiếp tục uống nữa, uống mãi. Sáng ra, người nhà tìm thấy chàng
đang nằm gục bên bờ giếng, chỗ đàn ngựa hay uống nước.
Cứ thế, mỗi lần lucun gặp chuyện bất hạnh gì đấy,
người lạ mặt lại xuất hiện với cái chai cầm trên tay. Có bận Lilia tìm thấy
người tình của mình nằm trên bờ hồ, toàn thân lấm lem và đang rên rỉ. Nàng gạn
hỏi chàng rất lâu, cho tới khi lucun phải thú nhận rằng, chàng đã uống quá
nhiều rượu của một người lạ mặt. Lilia hết lời van xin chàng hãy xua đuổi con
quỷ rượu kia đi và tìm cách vượt qua nỗi bất hạnh của mình.
lucun hứa sẽ làm theo đúng lời nàng dặn. Còn người lạ
mặt dường như đã nghe được câu chuyện giữa hai người nên không dám bén mảng đến
nữa. Tuy vậy gã vẫn lén lút dúi chai rượu khi thì vào túi áo, khi thì đặt dưới
gối lucun. Đối với lucun nếu không uống thì anh sẽ mất ngủ và trong đầu luôn
luôn quay cuồng câu hỏi: lấy đâu ra tiền để mua sắm áo cưới và tổ chức yến
tiệc?
Chỉ còn đúng ba ngày nữa là tới đám cưới; hôm ấy, sau
khi đã chờ đợi vô ích lucun trên bờ hồ, Lilia bèn đích thân đi xem xét tại sao
chàng lại không tới. Ngôi nhà và mảnh sân đã bị màn đêm bao phủ, từ phía cửa ra
vào hé mở lọt ra một tia sáng xanh leo lét, Lilia tiến lại gần. Chuyện gì thế
kia? Trên nắp thùng rượu, lucun và – lạy Chúa! – một người nữa đang đánh cờ.
Chẳng lẽ lucun lại không nhận ra kẻ đang ngồi đối diện với chàng kia là một con
quỷ lông xù tai dài, có cặp sừng và đang gõ gõ cái móng ngựa xuống nền nhà bằng
đất sét đó sao? Từ trong đôi mắt ứa máu của quỷ phát ra một tia sáng xanh leo
lét, lucun không nhận ra điều đó sap?
- át chủ bài! – Quỷ hét
Quỷ đã thắng và giơ bàn tay ra:
- Đưa chiếc nhẫn đây!
Còn lucun? Chàng đang tháo chiếc nhẫn, quà tặng của
vợ, đưa cho quỷ.
Lilia toan hét lên, song vì sợ hãi và giận dữ, cổ họng
nàng cứ tắc nghẹn lại.
- Tao cược một chai nữa – tiếng quỷ la – Mày cược gì?
- Tôi chẳng còn gì nữa cả – lucun phàn nàn – Tôi đã
thua trắng tay, cả nhà cửa, của cải, thậm chí đến chiếc nhẫn cưới cũng mất.
- Mày còn cô vợ chưa cưới đó, đưa nàng ra cá cược nốt
đi! Quỷ cười.
lucun thốt lên:
- Không được! Khác nào mày rút trái tim trong lồng
ngực của tao.
- Hãy uống một hớp đã rồi thoả thuận sau – Quỷ đưa cho
chàng cái chai và lucun đã tu thả sức.
- Cược Lilia nhé – Quỷ hỏi
- Không!
- Cược Lilia nhé?
- Hèm… – lucun thở dài.
- Uống đi!
Uống cạn ngụm rượu thứ ba, lucun thốt lên:
- Được! Chả lẽ trên thế gian này ngoài nàng ra không
còn gái đẹp nữa sao?
Một tiếng rên thốt ra từ lồng ngực Lilia:
- lucun, anh làm gì thế?
Nàng chạy lại bên hồ, đôi chân rớm máu. Nhưng nhữn vết
thương này làm sao có thể so sánh được với nỗi đau đang dày vò lương tâm nàng.
Nàng không hề mảy may có ý nghĩ rằng trên đời này ngoài lucun nàng còn có nhiều
chàng trai khác. Không, nếu lucun coi rượu của quỷ quý giá hơn cả nàng thì nàng
chẳng nên sống làm gì. Thà nhảy xuống hồ tự vẫn còn hơn.
Sau khi bơi thuyền đến hồ, Lilia thốt lên:
- Vĩnh biệt tuổi thanh xuân của ta!
Nàng gieo mình xuống nước và ở lại đó vĩnh viễn, còn
con thuyền thì bị gió đánh bạt sang bờ khác.
Đến lúc này, lucun mới hiểu rằng chàng đã đánh mất hạnh
phúc của mình. Ngày nào chàng cũng đến ngồi bên hồ và chờ đợi một điều gì đó,
hy vọng một điều gì đó, cùng với nỗi lòng chàng đầy phiền muộn và tiếc thương.
Nhưng một hôm, đúng lúc vào ngày lễ thánh, chàng nhìn
thấy một bông hoa trắng trôi nổi, bập bềnh trên mặt nước, và không hiểu tại sao
chàng cứ đinh ninh đó là Lilia, người vợ chưa cưới của chàng đã mất tích ba
ngày trước khi cưới. Và chàng nghe có lời ca vang xa trên hồ nước:
Bông hoa trắng trên hồ
Đó là người bạn đời của ta
Nhưng liệu có lời đáp lại không?
Không, chàng lại nghe rành rọt những lời sau:
Thà ở lại vĩnh viễn đáy hồ
Còn hơn trong vòng tay ôm ấp của chàng
Đó chính là Hoa Súng Trắng – Hoa của hồ nước.
HOA BẰNG LĂNG
Ngày xưa Ngọc Hoàng có mười hai nàng
công chúa. Mỗi người một vẻ , không ai thua ai. Ngọc Hoàng rất thương mười hai
nàng công chúa của mình. Một hôm Ngọc Hoàng bảo ta sẽ cho các con làm chúa của
các loại hoa dưới nhân gian. Cô công chúa đầu thì đòi làm chúa của loài Hoa
Hồng, Cô kế làm chúa loài hoa Mẫu Đơn, rồi Hoa Lan, Huệ, v.v…. Chỉ riêng cô
công chúa Út 0 biết mình phải làm chúa hoa gì nữa. Cô lặng lẻ âm thầm đứng yên
mãi đến khi Ngọc Hoàng lên tiếng.
- Hỡi nàng công chúa Út của ta, con muốn làm chúa loài
hoa nào? Ta sẽ cho con toại nguyện.
Công Chúa Út suy nghĩ mãi vẫn chưa ra thì cô ta nhìn
tà áo tím thướt ta của mình. Từ nhỏ cô đã thích màu tím. Vì thế cô xin với Ngọc
Hoàng.
- Dạ tâu phụ hoàng, con rất thích màu tím ngây thơ.
Xin Phụ Hoàng cho con làm chúa loài hoa mang màu tím.
Ngọc Hoàng suy nghĩ mãi mới quyết định cho nàng công
chúa Út làm chúa hoa Bằng Lăng Tím.
Cùng lúc đó ở dương gian có chàng thư sinh nghèo, thấy
loài hoa tím bằng Lăng vừa xinh lại dịu dàng. Chàng liền lấy về nhà trồng rồi
mỗi ngày chàng điều ngắm loài hoa tím. Mỗi năm đến mùa hoa nở chàng thư sinh
chết mê mệt với sắc màu tím và dần dần chàng lại đem lòng yêu thương hoa Bằng
Lăng Tím. Cũng cùng lúc nàng công chúa Út của chúng ta cũng đem lòng suy mê văn
tài của chàng thư sinh. Công chúa xin Ngọc Hoàng được xuống dương gian làm vợ
chàng thư sinh. Ngọc Hoàng cương quyết 0 cho. Cô Công Chúa Út từ đó suy tư và
không biết bao nhiêu chàng công tử trên trời đến cầu hôn nàng điều khướt từ. Và
từ đó loài hoa Bằng Lăng càng ngày càng phai nhạt màu tím đi. Chàng thư sinh
vẫn một lòng si tình hoa Bằng Lăng Tím.
Thế nên từ đó loài người cho Hoa Bằng Lăng là loài hoa
chung thủy, sự ngây thơ của màu tím đã tượng trưng cho tình đầu của thuở học
trọ.
HOA BÁCH HỢP
Những giọt nước mắt nào có giúp được gì! Giắc sẽ phải
lên đường chinh chiến ở một xứ xa lạ, đành bỏ lại Lilia, người vợ chưa cưới của
mình trên đất Pháp. Lúc chia tay, Giắc rút trái tim ra khỏi lồng ngực mình,
trao cho Lilia và nói:
- Ðã là chiến binh thì phải sống không có tim. Trái
tim chỉ gây phiền hà cho ta. Nàng hãy giữ lấy nó chờ ta về.
Lilia giấu trái tim của Giắc vào một cái tráp bạc và
từng ngày, từng ngày chờ đợi người yêu quay trở về. Với một người đang trông
đợi thì thời gian mới chậm chạp làm sao! Một ngày dài bằng cả năm, một năm bằng
cả thế kỷ. Dù Lilia có làm gì và có đi đâu thì cái nhìn của nàng lúc nào cũng
hướng về phía mà Giắc đã ra đi. Nàng đã mất thói quen tính ngày, tính tháng.
Một lần nàng rất phẫn uất khi người cha nói với nàng:
- Con gái của ta, thế là đã mười năm trôi qua kể từ
ngày người yêu cả con xông pha nơi trận mạc, không chắc nó có hồi hương. Ðã đến
lúc con phải lo tấm chồng khác rồi đấy.
- Cha ơi, cha mà lại nói với con như vậy ư? – Nàng đau
đớn nói với cha – Giắc đã trao trái tim của chàng cho con rồi và bây giờ trái
tim ấy đang ở chỗ con, con không thể nào quên Giắc được đâu cha ạ.
Người cha chỉ biết lắc đầu, thở dài não nuột. Chắc
chắn là ông không thể sống cho đến ngày ông được bế trên tay một đứa cháu trai.
Hai mười năm nữa qua đi, cuộc chiến cũng vừa tàn, các
chiến binh lục tục trở về, người thì chống nạng, kẻ thì tay áo lủng lẳng. Lilia
chờ đợi Giắc, nàng hỏi tin chàng khắp nơi, nhưng vẫn chẳng nhận thêm được điều
gì.
- Có lẽ chàng đã phải lòng người con gái khác và ở lại
xứ người rồi, – có lần em gái Lilia tỏ ý nghi ngờ, song Lilia không thể tin
điều đó.
- Chàng có thể yêu người khác sao được một khi trái
tim chàng đang còn ở chỗ ta? Một người không có tim thì không thể yêu được!
hoaloaken.jpgChiến tranh đã qua rồi, nhưng một con
người không có trái tim như Giắc, suốt trong những năm tháng ấy chỉ quen chém
giết, cướp bóc không biết ghê tay, bây giờ chàng sống theo kiểu khác rồi. Chàng
trở thành thủ lĩnh một băng cướp ở xứ người và nhiều khi còn trấn lột vàng bạc
của quý của người qua đường.
Khi tên cướp già Pie bị ốm, Giắc đã thẳng tay đuổi ra
khỏi băng cướp. Sau này, khi quyết định phải trả thù thủ lĩnh, Pie liền tìm
đường về quê hương của Giắc với mong muốn kể cho họ hàng thân thích và người
quen biết Giắc hiểu rõ rằng, Giắc đang làm một công việc tầm thường như thế
nào.
Pie phải đi mất cả chục năm mới về tới nước Pháp vậy
mà vẫn không tìm thấy làng quê của Giắc. Và người đầu tiên mà gã ta gặp là một
bà già tóc đã bạc phơ, có cái nhìn khắc khoải.
- Bà có biết Giắc không? – Pie hỏi
- Ôi lạy chúa, ông hỏi tôi về chuyện gì vậy? – người
đàn bà kêu lên – Giắc là chồng chưa cưới của tôi, là người tôi đang mòn mỏi
trông chờ, tôi không biết sao được? Hãy làm ơn nói mau, hiện chàng đang ở đâu
và chàng đã gặp điều gì chẳng lành?
Pie thấy trong cặp mắt người đàn bà vẫn còn đang cháy
lên niềm hy vọng, và gã hiểu ngay rằng bà vẫn còn yêu Giắc cháy bỏng như thời
còn son trẻ. Gã không nỡ nói hết sự thật kinh hoàng về Giắc.
- Vậy ra bà là vợ chưa cưới của Giắc đấy! – Pie thốt
lên.
- Phải, tôi là Lilia, chúng tôi đã thề nguyện với
nhau.
- Ôi, tôi mang đến cho bà một tin buồn – Pie cụp mắt
xuống – Giắc đã lao vào cuộc chiến như một dũng sĩ. Anh ấy mới yêu bà làm sao!
Trước lúc nhắm mắt, anh ấy cứ nhắc mãi cái tên của bà – Lilia.
Giắc của ta đã chết và đã yên giấc ngàn thu – Lilia
đau buồn nghĩ – Nhưng chàng nằm xuống đất sao được khi chàng không có tim? Ta
phải đi tìm mộ chàng và trả lại cho chàng trái tim nhân hậu đáng yêu.
Ôm cái tráp bạc, Lilia bắt đầu một cuộc hành trình gian
khổ đến những miền đất xa xôi. Bà mất cả thói quen tính ngày, đếm tháng, nhưng
gặp ai bà cũng hỏi thăm đường. Mọi người can ngăn bà không nên đi tiếp khi chỉ
có một mình, vì biết đâu sẽ gặp bọn cướp ác độc, song Lilia không nghe. Quả
nhiên, đến một khúc đường ngoặt, bà bị mấy tên cướp râu xồm trấn mất cái tráp
đựng báu vật. Bà khóc lóc, vật nài, kể lể về mối tình bất hạnh của mình với
Giắc, nhưng tất cả điều đó không hề làm bọn cướp động lòng. Bọn cướp mang cái
tráp về dâng thủ lĩnh. Chúng vừa cười hô hố vừa thuật lại chuyện một bà già mất
trí đi tìm mộ chồng để trao cho chồng trái tim mà ông ta đã trao cho bà làm tin
trước lúc ra trận.
Trong lúc bối rối, thủ lĩnh toán cướp bèn mở tráp ra
và trông thấy trái tim của chính mình mà bao năm tháng qua đã bị mất. Và thật
lạ lùng, trái tim đã nói với người chủ của nó bằng tiếng nói của con người:
- Nếu còn là người, chớ có nói cho Lilia biết người là
cái hạng gì. Hãy cứ để cho Lilia tin rằng người đã chết, như vậy bà ta sẽ giữ
được trọn vẹn những kỷ niệm tốt đẹp về người.
Giắc vội vàng đậy nắp tráp lại và ra lệnh cho bọn đàn
em phải đem trả lại ngay cho bà già, đồng thời phải chỉ cho bà thấy một nấm mộ
cỏ mọc xanh rì, làm như đó là mộ của Giắc. Dọc đường đi, bọn cướp quyết định
giữ cái tráp lại, song chúng vẫn không quên chỉ cho Lilia nấm mộ theo ý của
Giắc.
Người đàn bà bất hạnh giờ đây vẫn còn mang tình yêu
với Giắc như hồi còn trẻ, và bà không nỡ rời bỏ Giắc khi Giắc không có trái tim
bên mình. Thế rồi bà đã lôi trái tim từ lồng ngực của mình ra vùi xuống nấm mộ,
nơi bà nghĩ có hài cốt của Giắc.
Từ nơi trái tim ấy đã mọc lên một bông hoa, mà đời nay
vẫn gọi là bách hợp, Loài hoa tượng trưng cho sự trinh trắng, lòng chung
thuỷ và cao thượng.
HOA NHÀI
Từ thuở xa xưa, tất cả các loài hoa đều có màu trắng.
Nhưng một ngày kia có một hoạ sỹ đã đến khu vườn mang theo một hộp to đựng các
loại mực màu và một nắm bút lông. Chàng nói với các loài hoa và các khóm hoa:
- Tất cả hãy lại gần ta và nói cho ta biết ai thích
màu gì.
Lập tức các đám hoa và cây cối trong
vườn bèn đứng vào chỗ theo hàng lần lượt, bởi vì loài nào cũng muốn chọn cho
mình thứ màu rực rỡ nhất. Chỉ có Nhài là đứng gần hoạ sỹ hơn cả. Nó nói rằng, nó
muốn hoa của nó phải có màu vàng vàng như màu của tóc của thần Mặt Trời mà nó
hằng yêu mến.
- Mi dám cả gan len lên trước nữ hoàng Hoa Hồng ư? –
hoạ sỹ đẩy Nhài sang một bên.
- Tôi không hề len lách, tôi từng đứng ở đây nhiều năm
rồi, – Nhài tức giận đáp lại.
- Nhưng mi cần phải hiểu rằng, ai là người có quyền
được đứng lên hàng đầu – Hoạ sỹ giải thích – Mi phải chịu hình phạt đứng cuối
và muốn gì thì phải xin ta.
- Ngài nhầm rồi, thưa ngài, tôi sẽ không cầu xin ai
hết – Nhài trả lời và vẫn đứng yên tại chỗ cũ.
Họ sỹ trò chuyện rất lâu với các chị Hoa Hồng. Các bà
hoàng kiêu hãnh này không chọn cho mình được một thứ màu nào cả! Họ muốn cả màu
đỏ thắm, màu vàng, màu hồng rồi màu da cam. Họ chỉ chê màu xanh lơ thôi, bởi đó
là thứ màu quá xuềnh xoàng, quê kiểng. Để màu xanh lơ không khỏi uổng phí, hoạ
sỹ bèn đem quét lên hoa Lưu Ly và hoa Xa Cúc, mặc dù hai loài hoa này rất mê
màu đỏ thắm. Nhưng hoạ sỹ cứ khăng khăng rằng, với các anh chị nhà quê này thì
màu xanh lơ là hợp hơn cả.
Hoa Anh Túc mỉm cười thật nhã nhặn với hoạ sỹ và hoạ
sỹ đã phóng tay phết màu thật dày lên người nó. Hoa Cẩm Chướng thì hết lời
phỉnh nịnh hoạ sỹ và nó đã được đền bù một cách xứng đáng. Hoạ sỹ lưu lại ở khu
vườn mấy hôm liền, và chàng đã ban phát cho các loài hoa đủ loại màu sắc khác
nhau.
Hoa Ngưu Bàng lá rộng thì lại tỏ ra rất mực khiêm tốn.
Khi được hỏi thích loại màu gì, nó chỉ đáp cụt lủn: “Màu gì cũng được!”. Hoạ sỹ
bèn bôi màu xám cho nó rồi hỏi nó có hài lòng không, nó chỉ nói: “Tôi biết, tất
cả các màu mực có sắc rực rỡ, chàng đã gần cạn. Nếu ai cũng thích rực rỡ như nữ
hoàng Hoa Hồng thì không còn ai nhận ra được vẻ đẹp riêng của từng loài hoa
nữa!”
Những nàng Păngxê bé xíu vây quanh hoạ sỹ và chào mời
rất lịch thiệp. Đối với hoạ sỹ, chúng chẳng khác những đứa em gái bé bỏng, và
chàng đã dùng sắc màu biến chúng thành những bông hoa nho nhỏ vui nhộn.
Hoa Tử Đinh Hương lại muốn trả ơn hoạ sỹ theo cách
riêng của nó, nếu chàng không tiếc màu cho nó:
- Về mùa Xuân, chàng có thể bẻ cành của tôi và đem
tặng người yêu của mình được đấy. – Tử Đinh Hương nói – Cành của tôi càng được
bẻ nhiều thì tôi càng khoe sắc lộng lẫy.
- Mi nói năng bất nhã lắm, vậy mi phải mang màu trắng,
– hoạ sỹ giận dỗi gạt Tử Đinh Hương sang một bên. Nhưng rất may là nó đã được
các chị gái của mình ban tặng cho những thứ màu tuyệt vời.
Hoa Bồ Công Anh dâng lên hoạ sỹ một cốc Xmêtana (váng
sữa). Hoa Nhài chỉ biết tròn mắt nhìn hoạ sỹ chuyển giao cơ man nào là màu
vàng, loại màu mà Nhài vốn ưu thích, cho Bồ Công Anh. Trong lúc mải mê với màu
vàng, hoạ sỹ bỗng sực nhớ tới Nhài, loại hoa đầu tiên mà chàng đã gặp.
- Thế nào cô bạn? – Hoạ sỹ nhếch mép cười với Nhài –
Thứ màu này còn ít lắm, nhưng nếu mi tỏ ra biết điều, ta sẽ cho tất.
- Ta không cần cầu xin,. – Nhài đáp.
- Vậy là sao? – Thái độ bướng bỉnh của Nhài khiến hoạ
sỹ bực mình – Thôi được, nếu mi không dám nêu yêu cầu của mình thì mi hãy phục
xuống đất, cho dù phải chịu còng lưng.
- Tôi thích õng ẹo chứ không muốn còng lưng! – Nhài
kiêu hãnh đáp lại.
Hoạ sỹ vì quá tức giận đã trút tất cả màu vàng còn lại
vào mặt Nhài và hét:
- Mi là cái thá gì mà không chịu cầu xin và hạ mình!
Vậy vĩnh viễn với mi sẽ chỉ là màu trắng!
Vì thế Hoa Nhài mảnh dẻ vẫn mang những cánh trắng muốt
như xa xưa mà chúng ta vẫn thấy ngày nay.
HOA BẤT TỬ
Hoa bất tử – một loài hoa không xa
lạ gì với chúng ta, nhất là những người đang yêu. Thế nhưng không phải ai cũng
đã có cái may mắn được nghe câu chuyện về loài hoa này, với một câu chuyện tình
đẫm nước mắt của một chàng trai nghèo khổ với một cô gái xinh đẹp…
Chuyện kể rằng có một đôi trai gái yêu nhau thắm
thiết. Một ngày nọ, người con gái ước ao có được chùm hoa quí ở trên một đỉnh
núi cao nhiều người biết đến nhưng không sao hái được, vì nghe đâu, đỉnh núi
rất cao, trong khi hoa thì chỉ nở vào mùa đông tuyết phủ dày đặc nhất. Như vậy,
người nào muốn trở thành chủ nhân của loài hoa quí hiếm ấy sẽ phải vượt qua mọi
con đường băng tuyết, chinh phục đỉnh núi cao nghìn mét mới hái được hoa.
Chiều lòng người yêu, chẳng quản gian khổ nhọc nhằn,
chàng trai đã từ biệt cô gái vào một ngày đầu xuân băng giá đang tan, để lặn
lội đến nơi có chùm hoa quí. Khi tới chân núi, tiết trời đã sang thu, chàng
quyết tâm ngay lập tức trèo lên đỉnh núi để kịp mang hoa quí về cho người yêu
đúng vào mùa xuân để kỉ niệm tròn một năm họ xa nhau.
Chàng leo, leo mãi từ mõm đá sắc nhọn này đến mõm đá
sắc nhọn khác, mặc cho mưa rơi, mặt cho tuyết phủ, mặc cho băng giá quây quanh
chàng vẫn trèo, mặt hướng về phía đỉnh núi cao, bò rạp cả thân hình xuống để
tập trung mọi sức lực trèo lên đỉnh núi. Đói, khát, lạnh cóng… Không làm chàng
lùi bước.
Cho đến một ngày đông có ánh mặt trời le lói, chàng
trai đã hoàn toàn kiệt sức và không thể trèo lên đỉnh núi cao nữa. Chàng quay
xuống vào đúng cái ngày tròn một năm xa cách người yêu trong tư thế quỳ rạp
xuống, nhưng gương mặt vẫn hướng về phía đỉnh núi mà người ta lưu truyền là có
loài hoa quí. Chàng tắt thở vì kiệt sức.
Và kì lạ thay, nơi chàng trai ngã xuống đã mọc lên một
chùm hoa đỏ thắm như máu con tim, có thân mềm yếu nằm rạp xuống đất, nhưng đóa
hao lại tươi thắm sắc đỏ và vươn về phía có đỉnh núi. Về sau, người ta lại tìm
thấy loài hoa lạ nơi nấm mồ chàng trai trẻ và để kỉ niệm mối tình bất diệt của
chàng người đời đã đặt tên cho loài hoa ấy là hoa bất tử.
Hoa bất tử chẳng ai bán mà cũng chẳng ai mua. Người
dân ở vùng núi cao nơi chàng trai hi sinh vì tình yêu đả lên núi ngắt lấy đóa
hoa màu đỏ thắm vì chẳng thể lấy được cành hoa mềm rũ, yếu ớt, nên họ chỉ ngắt
lấy bông hoa đem về phơi khô làm thuốc uống và quà tặng. Cũng thật kì lạ, khi
phơi những đóa hoa ấy dưới nắng mặt trời thì bông hoa se lại và cánh thêm tươi
thắm sắc màu. Người dân lấy những cành cây vót nhọn đầu và cắm hoa bất tử khô
lên đó, làm những chiếc lá giả quanh cành cây tạo nên những cành hoa thật đẹp,
và họ đem tặng nhau vào những dịp lễ hội. Còn những cặp trai gái lấy đó làm
tặng truyền thống quý báu vào ngày Lễ tình nhân 14/2.
Có nơi gọi hoa bất tử là cúc dại, hoa tình yêu. Song,
dẫu với tên gọi nào thì nó vẫn luôn mang trong mình một ý nghĩa cao đẹp: Tình
yêu là bất tử, giống như hoa bất tử – loài hoa không bao giờ chết trong gian
khổ khó khăn.
HOA TRINH NỮ
Thuở ấy, nhà nọ từng có hai kiếp đàn
bà, cả hai kiếp đến lượt mình, đều chôn chân thờ chồng đi lính.
Hai người đàn ông lần lượt ra đi, nhưng người về thì
chỉ một. Người chiến binh dũng cảm ấy về làng trong tiếng tiền hô hậu ủng, xênh
xang trong mũ áo vua ban và làm vẻ vang cho dòng họ. Nhưng khi đón chồng, người
đàn bà thứ hai khóc thầm: “Cân đai, mũ áo, bổng lộc vua ban… tất cả đều đẹp
nhưng mái đầu ta và ông ấy tự lúc nào đã ngả sang màu sương!…”
Vậy nên, kiếp đàn bà thứ ba vừa lọt lòng và nhoe nhoe
khóc, thì cả bà, cả bố và mẹ cô bé chắp tay: “Lạy Phật! Lại thêm một cái tội
nữa. Nhưng lần này, chúng ta sẽ không gả nó cho bất kỳ một người lính nào đâu
nhé. Hai đời, chúng ta đã đợi chờ đến bạc tóc, thế còn chưa đủ sao?”.
Cô bé lớn lên mơn mởn như nụ hồng. Từ nhỏ đến lớn cả
nhà không cho cô được nói chuyện với bất cứ một người lính nào để cô giữ lời
nguyền thuở trước.
Một buổi sáng, xa xa vẳng tới tiếng trống ngũ liên. Cô
gái bước ra vườn, đến bên bờ giậu đẫm sương. Chàng trai nhà bên đang gấp gáp
khăn gói lên đường. Vốn là đôi trẻ vẫn cũng nhau chơi trò “đố lá”, họ cùng nhìn
nhau rồi cùng cúi mặt, lớp lông măng ngăm ngăm trên mép chàng trai khẽ rung.
Tiếng trống thúc dồn. Chàng trai đánh bạo:
- Thế… có chờ… không?
- Sao không hỏi xem bông tầm xuân có nở trước khi mặt
trời lên không? – Cô gái cắn môi, nước mắt lăn tròn trên má.
Và thế là mặt chàng trai đỏ đến tận chân tóc. Lâng
lâng như vừa được chắp cánh, chàng bấm bụng: “Ta có thể ra đi, dù “da ngựa bọc
thây”.
Cô gái trở vào, mắt ngấn nước và thẫn thờ như người
ốm, trong tiếng trống ngũ liên xa xa thúc dồn. Vậy là cả nhà biết. Họ trách lẫn
nhau, rồi hai người đàn bà ôm nhau khóc. Bà cô gái thắp ba nén hương khấn người
chồng quá cố: “Ông ơi! Có lẽ cháu ông đúng, bởi tôi nghiệm rằng, nếu bây giờ
ông sống dậy, lại ra trận, thì tôi vẫn chờ ông. Ôi! Cái kiếp đàn bà!…”. Mẹ cô
gái nức nở: “Chỉ tại mẹ thôi, chính mẹ đã truyền cho con dòng máu “đợi chờ”!
Con làm sao khác được!”. Ông bố cố gạt đi: “Thì cũng phải có một đứa con gái
nào đó chờ thằng bé ấy chứ, cũng như ngày xưa, trong căn nhà này bà chờ tôi
vậy! Bây giờ, chỉ còn biết mong sao thằng bé ấy trở về!”.
Nhưng thằng bé không sớm trở về. Chàng tân binh hăng
hái giết giặc trong vài trận rồi ngôi sao chiếu mệnh mỉm cười với chàng ta,
đấng quân vương vốn giỏi chọn người, vừa nhìn thấy chàng trai đã nhận ra ngay
rằng đây là một tên lính hầu trung thành vô hạn. Thế là, ngài cho rút chàng
trai về, ngày đêm cận kề bên ngài, một bước cũng không được rời xa. Khi còn
giặc giã, vua cần chàng đưa vồng ngực vạm vỡ ra che làn đạn giặc, còn khi hết
giặc, vua càng cần chàng hơn, để giữ gìn quyền uy tối hậu. Chàng là lưỡi kiếm
“trừng phạt” tuyệt hảo, sẵn sàng giáng xuống đầu bất kỳ ai, theo lệnh đấng quân
vương.
Đã mười bảy năm rồi, cô gái chờ người lính ấy. Từ một
thiếu nữ như nụ hoa chớm hé, nàng đã trở thành một cô gái quá lứa nhỡ thì. Bà
nàng, rồi cha mẹ nàng theo nhau lần lượt trở về cõi Phật. Trước khi nhắm mắt,
họ đều gọi con gái đến bên giường dặn dò: “Mai ngày nếu sinh con gái…”. Cô gái
lặng lẽ khóc khi bà và bố mẹ mất, lặng lẽ khóc khi người yêu của chúng bạn trở
về hay tử trận và cuối cùng, lặng lẽ để tang người yêu năm xưa, vì đã mười mấy
năm rồi, chàng biệt vô âm tín.
Thế rồi một buổi chiều có tiếng vó ngựa ghé sát bên
thềm.
Bước xuống từ yên ngựa là một người đàn ông phong trần
và nhìn mọi vật từ trên xuống qua ánh mắt lạnh lẽo như thép. Ngang lưng anh ta
thắt chiếc đai vàng vua ban. Đó là phần thưởng sau khi anh ta lập được công đâm
vào lưng người bạn cũ. Người bạn này đã cả gan ngăn vua khi ngài hạ lệnh chém
một danh tướng. Ông này chỉ vì mắt kém mà trót dâng vua một quả táo bị sâu ăn.
Sau bữa tiệc ngập máu ấy, vua đã cất nhắc anh ta và cho phép anh ta về thăm nhà
sau mười mấy năm xa cách. Mười mấy năm qua, người lính đó vẫn không quên người
yêu xưa. Giữa cuộc đời bụi bậm, giữa triều đình đầy mưu kế sâu độc, cô trinh nữ
nhà lành cắn môi cố nuốt giọt nước mắt chia ly vẫn không mờ nhạt mà thật lạ kỳ,
lại càng như vầng trăng xa thẳm gọi anh về.
Người con gái lỡ thì bước tới vài bước rồi sững lại.
Nàng hoang mang tự hỏi, không biết đó có phải là chàng trai hàng xóm năm xưa
rụt rè mãi mới dám hỏi: “Thế… có chờ… không?”. Nhưng khi người đàn ông ấy gọi
tên nàng bằng giọng nói thân thuộc, nàng khóc, tiếng khóc nghe như ngàn mảnh
thủy tinh rơi, vì nàng phải chờ đợi quá lâu, và người nàng chờ nay đã biến
thành người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép.
Làng xóm đua nhau chúc mừng nàng. Các ông làm nghề “gõ
đầu trẻ” đem mối tình chung thủy của hai người rao giảng trong các lớp học. Thế
là từ đấy có thêm nhiều cậu bé chỉ mơ về chiến trận. Mơ về một mai mình được
hầu cận đấng quân vương. Còn những cô bé thì chỉ ao ước sao mai này lớn, được
chờ người yêu đến khi lỡ thì!
Không chậm trễ gì, người ta làm lễ cưới cho đôi tình
nhân chung thủy. Vua ban áo tím cho nàng trinh nữ lỡ thì và đám cưới trọng thể
hết chỗ nói. Hoàng hôn xuống, cạnh chén rượu bên mâm cỗ, quan khách tròn xoe
mắt nghe chú rể kể chuyện. Mười mấy năm hầu cận vua, anh ta đã quen tính kín
miệng. Và chỉ bốc lên khi rượu đã ngà ngà. Nhưng anh không biết nói chuyện gì
khác, ngoài chuyện chém giết. Anh kể về những bữa tiệc đầy sơn hào hải vị ngập
máu trong thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau
dưới tay kiếm của anh. Cuối cùng, vì sao vua đã ban cho anh ta chiếc đai vàng.
Người trinh nữ nghe chuyện của chồng mới cưới và nàng
đứng không vững nữa. Lảo đảo, nàng lùi dần về buồng. Nép mình trên giường trong
bóng tối, nàng như ngửi thấy mùi tanh lợm của máu, và trên mặt nàng như có làn
môi lạnh toát của những oan hồn lướt qua. Nàng vùng dậy, run lật bật, vội vàng
châm lửa lên tất cả các ngọn đèn dầu lạc mà nàng tìm được trong buồng. Ánh đèn
chập chờn đỏ quạch càng làm nàng thêm sợ hãi.
Vừa lúc đó, có tiếng kẹt cửa. Thân hình to lớn của
người chồng mới cưới chếnh choáng tiến vào. Theo thói quen, anh ta vẫn mang theo thanh kiếm. Nàng nhìn
lên, và thấy anh không vào một mình. Theo liền sau anh là một người đàn bà
trong veo, tóc xoã – chỉ có bộ tóc là còn màu sắc – mặc quần áo đại tang, đang
cầm một tấm áo đẫm máu giơ lên và cất giọng đều đều một cách kỳ lạ, lặp đi lặp
lại như không bao giờ dứt:
-Hãy
trả chồng cho ta! Kẻ giết bạn kia, trước khi mi bước vào giường cưới! Hãy trả
cha cho năm đứa con thơ dại của ta! Hãy trả…
Vậy
mà chồng nàng không nghe thấy gì cả, anh dựng thanh kiếm vào vách, rồi xáp tới
đặt tay lên ngực nàng. Ngay lúc đó, nàng nhìn thấy máu từ tấm áo trong tay
người đàn bà xoã tóc rỏ xuống hai bàn tay người chồng mới cưới. Nàng ôm mặt rú
lên kinh hãi:
-
Ôi kìa, máu! Máu nhiều quá! Máu đỏ cả hai bàn tay!
Chồng
nàng giật mình nhìn lại. Anh vẫn không thấy gì cả, ngoài những vết sẹo ngang
dọc nơi bàn tay mình. Anh dỗ dành:
-
Ồ! Can đảm lên, cô em ủy mị! Chẳng qua là vì em quá hồi hộp đó thôi! Đã bao
ngày ta chờ phút giây này. Nào, hãy vui lên.
Anh
nói vậy, nhưng miệng không cười và mắt vẫn lạnh như thép, cũng như từ ngày về
đến giờ, chưa một ai nhìn thấy anh cười. Người trinh nữ bỏ hai bàn tay che mặt.
Nàng không nhìn thấy người đàn bà tóc xoã nữa, nhưng trên khuôn mặt đang gần
xuống mặt nàng, nàng chỉ thấy khóe miệng mím chặt và cái nhìn lạnh lẽo như cái
nhìn của Thần Chết. Lại sợ hãi cuống quít, nàng van vỉ:
-Hãy
mỉm cười đi anh! Em van đấy! Hãy cười lên để em thấy anh của ngày xưa. Bao năm
chờ đợi, em đâu muốn anh buồn…
Người
chồng cố hết sức để mỉm cười. Đã lâu lắm rồi anh không làm cử chỉ đó nên bây
giờ anh không biết bắt đầu một nụ cười như thế nào. Khó nhọc lắm, anh mới nhớ
ra rằng, khi cười người ta phải để lộ ít nhất là một hàm răng. Anh nhếch môi,
để lộ hẳn hai hàm răng chắc khỏe.
Nhưng
anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau,
thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn
phải cười đã, cho nên cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa
của một con sói. Ngay lập tức, vợ anh co rúm lại và quay mặt vào trong, thổn
thức cố kìm tiếng khóc.
Người
chồng buồn bã soi trong tấm gương cười, ngắm kỹ mình, rồi tuyệt vọng:
-
Thôi, thế là hết, cả một đời chờ đợi! Em chối từ ta, em ghê tởm ta ư?
Anh rũ xuống thành giường, rồi gầm lên như một con thú
bị thương:
- Tại sao em chờ ta cả đời, để rồi chối từ ta? Tại sao
em bắt ta phải cười! Còn đâu nữa chàng trai với lớp lông măng trên mép ngày
xưa! Ta đã trở thành “người đàn ông không cười” của triều đình, từ khi bàn tay
này nhúng vào máu bạn bè, bên những bàn tiệc đầy sơn hào hải vị. Đấng quân
vương sai ta giết hết những kẻ bất tuân thượng mệnh bằng các chiếc đũa. Trong
mọi chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc đều có một lưỡi dao tinh tế giấu ở trong…
Anh nức nở, đôi vai rung lên dữ dội:
- Ôi! Bạn ta! Người bạn đã cùng ta tựa vào lưng nhau
tìm hơi ấm chống đỡ cơn gió lạnh chiến hào. Thôi, thế là hết và đây là đêm tân
hôn vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng
quân vương.
Tiếng nức nở dữ dội của người chồng mới cưới rung
chuyển cả căn phòng. Rồi xách kiếm trên tay, anh bỏ đi biệt xứ. Có người nói
rằng anh đã đến tìm vua, định bắt vua phải đền tội đã biến anh thành người đàn
ông không biết cười. Nhưng vua đã kịp giết chết anh trước, bằng chính một trong
những chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc. Cũng có người bảo rằng anh lại lao vào
những cuộc chém giết mới không ghê tay cho quên ngày tháng.
Chỉ còn lại nơi quê nhà người trinh nữ lỡ thì. Nàng
sống âm thầm như cái bóng, mà không một lần nghĩ đến chuyện tự giải thoát bằng
cái chết. Nhưng cái tật hễ có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm
mặt thì nàng không sao bỏ được.
Một hôm, người xã trưởng được mời đến để làm giấy
chứng tử cho nàng. Nàng chết mà hai tay che mặt, người khâm liệm nắn thế nào
cũng không bỏ ra.
Vài ngày sau, trên mộ nàng rùm roà mọc một loài cây
thấp lòa xòa mang hình tròn tim tím buồn man mác. Mỗi khi có chân bước qua hay
va chạm mạnh, những chiếc lá lăn tăn lại giật mình khép lại, xuôi xuống như bàn
tay ai che mặt.
Những loài hoa cỏ mọc đầy chung quanh lấy làm lạ lùng
lắm về chuyện đó. Một hôm, chúng chặn chàng Gió lại:
- Này, anh Gió! Ở đây, không có ai già như anh và trẻ
như anh. Vậy anh hãy nói cho chúng tôi biết vì sao loài cây mới đến kia, tầm
thường đến vậy, lòa xòa bên vệ cỏ, khách bộ hành dễ dàng giẫm lên, có gì đặc
biệt đâu mà phải gìn giữ, hơi một tí lại lấy tay che mặt, điệu đà làm vậy?
Từng trải như chàng Gió mà cũng không trả lời được.
Thế là một đêm thanh tĩnh, dịu dàng, muôn hoa cỏ đang
mơ màng trong giấc ngủ êm đềm, chàng Gió lướt tới bên loài cây tầm thường ấy,
khẽ hỏi:
- Này cô em bé bỏng! Sao em hay che mặt thế? Ở đây có
ai chọc ghẹo em sao? Em hay e thẹn lắm à? Nếu không, tại sao người ta lại gọi
em là cây trinh nữ?
Đắn đo một chút, rồi loài cây ấy nhẹ nhàng đáp:
- Không phải thế đâu, mặc dù chết đi, em vẫn là trinh
nữ. Em che mặt vì sợ. Ngày nay người ta càng tranh giành nhau dữ hơn, những bàn
tiệc ngập máu vẫn còn nhiều. Vậy nên, mỗi va chạm, mỗi bước chân tạt qua đều
làm em giật thót mình. Em sợ người ta sẽ gửi đến cho em đôi bàn tay đầy máu và
khuôn mặt người yêu xưa chẳng biết cười.
Cây trinh nữ chợt co mình lại vì vừa nghe tiếng chân
qua. Đó là bước chân sóng đôi của một đôi trai gái đang đi trong sương mù.
Trước khi cẩn thận khép những mắt lá lại, cây trinh nữ cầu khẩn: “Ôi! Lạy Phật!
Cầu cho đây không phải là bước chân của những người phải tiễn nhau về nơi ấy…”.
TRUYỀN THUYẾT HOA PHƯỢNG
Ngày xưa, xưa lắm, ở một vùng đất
đồi kia, có một ông thầy dạy võ nổi tiếng về tài đánh kiếm. Vợ ông chết sớm,
ông thương vợ, không lấy ai nữa nên ông không có con. Ông đi xin năm người con
trai mồ côi ở trong vùng về làm con nuôi. Ngoài những giờ luyện võ, ông lại cho
năm người đi học chữ, vì ông muốn năm người cùng giỏi võ, giỏi văn.
Tuổi năm người con xấp xỉ ngang nhau. Năm ấy, họ chỉ
mới mười ba, mười bốn… Người nào học cũng khá và tài múa kiếm thì nổi tiếng
khắp vùng. Ai cũng dễ nhận được họ vì ông sắm cho năm người năm bộ quần áo màu
đỏ, để mặc ra đường. Thương bố nuôi nên năm người con rất biết nhường nhịn nhau
và yêu quý mọi người trong làng… Năm ấy trong nước có loạn. Giặc ngoài kéo vào.
Nhà cháy, người chết. Tiếng kêu khóc và lòng oán giận cứ lan dần, lớn dần. Đâu
cũng đồn tên tướng giặc có sức khỏe kỳ lạ. Chỉ cần đạp nhẹ một cái cũng làm bật
gốc được một thân cây to. Hắn lại sử dụng một cây thương dài và nặng, đâm chết
từng xâu người một cách dễ dàng. Mọi người còn đồn thêm rằng hắn sở dĩ khỏe như
vậy là vì hắn thích ăn thịt sống và đặc biệt hơn nữa là chỉ thích ăn toàn xôi
gấc chứ không thích ăn cơm, mỗi lần hắn ăn hàng chục cân thịt cùng với một nong
xôi gấc lớn. Người thầy dạy võ ở vùng đất đồi nọ định xin vua đi đánh giặc thì ngã
ra ốm. Tay chân ông bị co quắp cả lại. Cụ lang giỏi nhất vùng đến xem bệnh và
chỉ biết là ông uống phải thuốc độc. Ai cũng nghi tên tướng giặc đã ngầm cho
những kẻ chân tay của hắn đi tìm giết trước những người tài giỏi trong nước.
Người thầy dạy võ vừa uống thuốc, vừa ngày đêm ra sức tập luyện để tay chân
mình lại cử động được như xưa. Một buổi sáng, tên tướng giặc bất thình lình
phóng ngựa, dẫn quân lính của hắn kéo ập vào làng.
Hắn thấy ông thầy dạy võ đang lấy chân đạp vào một gốc
cây sung to. Cây sung lúc đầu bị rung khe khẽ, rồi mỗi lúc rung một mạnh hơn.
Sau đó, ông nhấc một cái cối đá to đưa lên, đưa xuống, vẻ còn mệt nhọc. Tên
tướng giặc cười phá lên rồi xuống ngựa giơ chân đạp nhẹ vào thân cây sung. Thế
là cây sung bị gãy ngang và ào ào đổ xuống. Hắn lại nhẹ nhàng đưa một tay tóm
lấy cái cối đá ném vứt đi, như ta ném một hòn gạch con và cho rơi ùm xuống cái
ao lớn gần đấy. Hắn gọi mấy tên quân đến trói chặt ông thầy dạy võ lại rồi bảo:
- Tao nghe mày muốn đi đánh tao phải không? Bây giờ
thì mạng mày nằm trong tay tao rồi! Muốn sống thì hãy giết một con bò tơ, lọc
năm mươi cân thịt ngon nhất, nấu một nong xôi gấc rồi mang đến chỗ ta đóng quân
ở trên ngọn đồi giữa làng. Phải đội trên đầu mà đi chứ không được gánh. Đi luôn
một mạch, không được dừng lại hay đặt xuống nghỉ. Đội thịt đến trước! Đội xôi
đến sau!
Nói xong hắn ra lệnh cởi trói cho ông. người thầy dạy
võ giận tím ruột, tím gan nhưng chẳng nói gì. Lúc ấy năm người con đang đi
vắng, họ phải đi học chữ xa làng và lại sắp đến mùa thi. Không ai dám rời cái
bút cái nghiên. Nhưng vừa nghe tin giặc kéo đến làng, họ lập tức đeo gươm vào
người mà xin thầy cho về. Về đến nhà, nghe bố kể chuyện lại, năm người con nổi
giận muốn chạy đi tìm tên tướng giặc hung ác để giết ngay. Người bố liền
khuyên:
- Không được! Lúc nào quân lính của hắn cũng vây
quanh, khó mà đến gần. Ngọn thương của hắn lại có thể đâm chết người từ rất xa.
Các con cứ bình tĩnh, ta đã có cách khử nó!
Người cha đi vay tiền mua một con bò tơ, mổ thịt rồi
lọc lấy năm mươi cân thịt ngon nhất để vào một cái nia to. Ông lại đi vay ba
gánh nếp trắng, đi xin ba chục quả gấc đỏ, nấu một chục nồi xôi thật dẻo. Ông
đội nia thịt bò tơ đến trước. Chân ông còn đau, năm mươi cân thịt đội trên đầu
không phải là nhẹ. Ông đội nia đi, mồ hôi vã ra đầy trán. Tên tướng giặc thấy
ông đội thịt đến, mồm cứ nuốt nước bọt ừng ực. Hết nuốt nước bọt ừng ực, hắn
lại khoái trá cười to. Còn người đội thịt thì bấm ruột chịu đựng và nghĩ thầm:
“Cho mày cứ cười rồi mày sẽ biết…” Tên tướng giặc cười nhận thịt xong quát to lên
và giục:
- Còn nong xôi nữa, mày về đội đến đây ngay!
Người thày dạy võ lại về đội nong xôi đến. Nong xôi to
và nặng hơn nia thịt nhiều. Nhưng xôi nấu ngon và nhìn đẹp quá. Ông đội nong
xôi đi đến đâu, ở đó cứ thơm lừng. Mới đi được nửa đường, mồ hôi ông đã vã ra
đầy mặt, đầy người. Đôi chân ông mỗi lúc một yếu, cứ run lẩy bẩy. Cái cổ cứ như
muốn gãy gập lại. ông vẫn bặm môi, cắn răng và bắt đầu leo lên đồi. Tuy mệt lử
nhưng đôi mắt ông sáng quắc và lòng ông rất vui. Ông tự nhủ: “Gắng lên! Chỉ cần
một lúc nữa, một lúc nữa…” Tên tướng giặc ngồi trên cao theo dõi, vừa hả dạ,
vừa lo lắng.
Hắn nghĩ: “Thằng này không bị thuốc độc của ta thì khó
mà trị được nó. Mà ngay bây giờ, hắn vẫn là một tay đáng sợ”. Cái nong xôi gấc
to lớn, thơm lừng vẫn lù lù tiến lên đồi. Mặt người đội xôi tái hẳn lại. Chỉ có
đôi mắt. Đôi mắt vẫn sáng quắc. Nong xôi có lúc lảo đảo, ngả nghiêng, nhưng
liền đó lại gượng lại, rồi nhích dần lên. Tên tướng giặc vội giật lấy thanh
gươm của tên lính hầu rồi đứng phắt dậy, phóng gươm đi. Đường gươm sáng rực lên
như một tia chớp, cắm vào bụng người thầy dạy võ làm ông chực gục xuống. Nhưng
ông đã gượng đứng thẳng lên và đưa tay rút lưỡi gươm ra, phóng lại vào ngực kẻ
thù. Tên giặc tránh được.
Bỗng từ trong nong xôi, năm người con nằm quây tròn
được xôi phủ kín, đã vung kiếm nhảy ra và như năm làn chớp đâm phập cả vào ngực
tên giặc ác. Tên tướng giặc không chống đỡ kịp, rú lên một tiếng rung cả ngọn
đồi rồi ngã vật xuống. Thấy tướng đã chết, bọn lính giặc hoảng quá, kéo nhau
chạy bán sống bán chết. Dẹp giặc xong, năm người con trai trở về ôm lấy xác
người bố nuôi khóc vật vã mấy ngày liền. Cả làng cùng năm người con lo chuyện
chôn cất rất chu đáo. Dân làng mỗi người một nắm đất đắp cho ngôi mộ ông thày
cao lên.
Thương bố nuôi, năm người con lại trồng quanh khu mộ
năm gốc cây con, một giống cây có lá đẹp như thêu và có nhiều bóng mát. Hàng
năm, đến ngày giỗ bố, họ lại đem áo đỏ ra mặc. Họ nhớ tiếc người thầy dạy võ đã
có công giết giặc cứu dân. Đến lúc năm người lần lượt chết đi thì năm cái cây
họ trồng quanh khu mộ người bố cũng lần lượt ra hoa màu đỏ thắm, đúng vào ngày
giỗ người thầy dạy võ. Hoa đỏ như muốn nói với mọi người rằng: tuy chết đi,
nhưng năm người con vẫn yêu thương người bố nuôi và hàng năm đến mùa giỗ bố, họ
lại mặc áo đỏ để tưởng nhớ người đã khuất…
HOA LONG ĐỞM
là loài hoa dại của mùa thu có màu
xanh lộng lẫy và cánh hoa có tua viền một cách sắc sảo. Nó mang tên của Geneus,
một vị vua xứ Illyria, người đã phát hiện ra việc loài cây này rất tác dụng
trong việc chữa trị nhiều chứng bịnh. Các thầy thuốc thời xưa đã sử dụng cây
hoa này để trị nhiều bệnh khác nhau như chó cắn, xơ gan, suy nhược, gãy tay
chân, dịch hạch. ở Hungary, cây hoa này được gọi là Sanctus Ladislas Regis
Herba để tưởng nhớ đến một vị vua mà dưới thời của ông đã xảy ra một trận dịch
hạch lớn với nhiều tổn thất. Quá tuyệt vọng, vua Ladislas mang cung và tên đi
ra một cánh đồng. Ông cầu nguyện rằng, khi ông bắn ngẫ nhiên một mũi tên, Chúa
trời hãy hướng mũi tên đó cắm vào loại cây nào có thể dùng để ngăn chặn sự tàn
phá của dịch bệnh khủng khiếp này. Và mũi tên ấy đã cắm vào cây Long Đởm. Thật
phi thường, nó đã trị được bệnh dịch này. Tuy nhiên không ai giải thích được
tại sao bông hoa xanh hiếm thấy này lại có nghĩa là “sự kiêu hãnh trong trắng”.
HOA THƯỢC DƯỢC
Danh y Hoa Đà trồng cây thược dược
trong vườn mà không biết đó là cây thuốc. Hồn hoa hiện thành cô gái đứng khóc
mong được chú ý, nhưng ông cũng chẳng bận tâm. Chỉ đến khi bà vợ được chữa khỏi
bằng cây này, ông mới biết đó là thuốc quý.
Trong các loài hoa, mẫu đơn đứng đầu, thược dược đứng
thứ hai. Mẫu đơn được tôn xưng là “hoa vương”, thược dược được coi là “hoa
tướng”. Danh y Lý Thời Trân của Trung Quốc cũng đánh giá như vậy khi nói về tác
dụng chữa bệnh của hai loài hoa này.
Tuy chỉ là “hoa tướng” nhưng thược dược lại thành danh
sớm hơn mẫu đơn. Tương truyền từ 3.000 năm trước, vào thời Tam Đại, thược dược
đã được trồng để thưởng ngoạn ở rất nhiều nơi trong khi người ta còn chưa biết
đến hoa mẫu đơn. Khi mới phát hiện ra mẫu đơn, người ta tưởng đó chỉ là một
loài thược dược, nên đã gọi nó là “mộc thược dược”. Hai hoa này nhìn thoáng qua
rất giống nhau nên người xưa thường gọi là hai chị em.
Về sau, người ta phát hiện mẫu đơn và thược dược tuy
cùng họ nhưng là hai cây khác nhau. Thược dược là loài thân thảo, còn mẫu đơn
là cây thân gỗ. Thược dược được xếp vào nhóm thuốc bổ huyết, sử dụng chủ yếu để
bồi dưỡng cơ thể; còn mẫu đơn thuộc nhóm thanh nhiệt lương huyết, chủ yếu dùng
khi cơ thể đã mắc bệnh.
Cây hoa thược dược cảnh. Ảnh: Cernyseed.
Bạch thược dược (Paeonia Lactiflora) có hoa rất to,
mọc ở ngọn thân, tựa như hoa mẫu đơn hay thược dược cảnh. Cánh hoa màu hồng
nhạt hay trắng muốt, nhị vàng cam, rễ phình to thành củ. Củ này luộc chín phơi
khô chính là vị thuốc bạch thược. Cây bạch thược này không phải là cây hoa
thược dược (Dahlia variabilis Desf) vẫn được trồng nhiều trong dịp Tết.
Tương truyền, tác dụng chữa bệnh của bạch thược đã
được danh y Hoa Đà phát hiện ra trong một tình huống rất ly kỳ. Để nhận biết và
tránh nhầm lẫn các vị thuốc, ông đã trồng đủ thứ cây thuốc quanh nhà. Một hôm
có người đem biếu ông cây hoa lạ, nói rằng có thể dùng chữa bệnh nhưng không rõ
chữa được bệnh gì. Hoa Đà đem trồng ở góc sân bên cửa sổ.
Xuân tới, cây ra những bông hoa rất to, trắng muốt,
thơm như hoa hồng. Ông thử hái hoa sắc uống nhưng không nhận thấy có gì khác
lạ. Ông lại hái lá rồi hái cành đem thử cũng không phát hiện điều gì đặc biệt.
Nghĩ rằng cây hoa này tuy đẹp nhưng không có tác dụng chữa bệnh nên mấy năm
liền, Hoa Đà không để ý đến nó nữa.
Một đêm thu, Hoa Đà đang ngồi đọc sách, bỗng nghe thấy
ngoài cửa sổ có tiếng con gái khóc thút thít. Nhìn ra, ông thấy dưới ánh trăng
mờ, có một người con gái rất đẹp đang đứng đó khóc. Ông tự hỏi, không biết con
gái nhà ai, chắc có nỗi oan ức nào đây. Ông khoác áo ra ngoài nhưng nhìn trước
nhìn sau không thấy bóng người nào nữa, chỗ cô gái đứng khóc chỉ còn một cây
thược dược.
Hoa Đà đi vào và tự nhủ: “Cho dù nhà ngươi có linh
tính thì bây giờ cũng đang là mùa thu, hoa đã tàn, lá đã rụng, còn sử dụng được
vào việc gì?”.
Nhưng ông vừa ngồi xuống tiếp tục đọc sách thì lại
nghe tiếng khóc thút thít, nhìn ra vẫn là cô gái ban nãy. Hoa Đà bước ra, cô
lại biến mất, vẫn chỉ có cây bạch thược. Sự việc cứ lặp đi lặp lại mấy lần
khiến Hoa Đà vô cùng ngạc nhiên. Ông bèn đánh thức vợ đang ngủ say dậy kể lại
chuyện.
Bà nói: “Tất cả các cây trong vườn đều được ông sử
dụng làm thuốc cứu người, chỉ có cây bạch thược này bị bỏ quên, chắc là nó có
nỗi oan ức”. Hoa Đà bảo: “Tôi từng thử tất cả các bộ phận của nó thấy chả có
tác dụng, vậy còn oan ức nỗi gì?”.
Bà vợ nói: “Ông mới thử những thứ trên mặt đất, còn rễ
của nó thì sao?”. Nhưng danh y gạt đi: “Hoa lá cành còn chẳng có gì đặc biệt,
vậy thì còn thử rễ làm gì?”. Dứt lời, ông nằm xuống ngủ thiếp đi. Bà vợ suốt
đêm không sao chợp mắt, nghĩ rằng chồng mình đã thay đổi, không còn lắng nghe ý
kiến của người khác như trước kia nữa.
Vài hôm sau, bà vợ Hoa Đà bỗng nhiên bị đau bụng, băng
huyết rất nhiều, uống đủ thứ thuốc không đỡ. Bà liền lén ra vườn đào rễ cây
bạch thược đem sắc uống. Chỉ nửa ngày sau, bụng đã hết đau, máu cũng không còn
chảy nữa. Nghe vợ kể lại, Hoa Đà rất cảm kích: “Cảm ơn bà đã thức tỉnh ta, nếu
không thì ta đã để mai một cây thuốc quýquý”.
Sau sự kiện đó, ông thử nghiệm và nhận thấy ngoài tác
dụng giảm đau, cầm máu, rễ bạch thược còn có tác dụng dưỡng huyết và chữa được
nhiều bệnh phụ khoa. Cây hoa lạ này ban đầu có tên bạch thược, sau đó Hoa Đà
thêm chữ “dược” thành bạch thược dược.
Cùng với thời gian, Đông y phát hiện thêm nhiều công
dụng nữa của cây bạch thược. Nó trở thành thuốc bổ huyết thiết yếu, phổ tác
dụng rộng và tần suất sử dụng rất cao. Bạch thược chủ trị kinh nguyệt rối loạn,
vã mồ hôi, mồ hôi trộm, đau đầu, chóng mặt. Trên lâm sàng y học hiện đại, nó
chữa tử cung xuất huyết, viêm thận mạn tính, tăng huyết áp, tiểu đường, viêm
võng mạc, cường tuyến giáp…
HOA CÚC TRẮNG
Có thể nói hoa Cúc trắng là loài hoa nhận được nhiều
nhất sự chiêm ngưỡng của các nhà thơ, chỉ sau hoa hồng. Theo truyền thuyết,
bông hoa nhỏ bé này có nguồn gốc từ Belides, một trong các nữ thần chăm sóc các
khu rừng. Một hôm, khi Belides đang nhảy múa với người yêu của mình là
Ephigeus, cô đã lọt vào sự chú ý của Vertumrus, nam thần cai quản các vườn cây.
Để bảo vệ cô khỏi sự săn đuổi này, chúa của loài hoa là Flora đã biến cô thành
một đóa cúc trắng. Một trong các nhà thơ lớn người Celte (Ai-len) lại đưa ra
một nguồn gốc mang nhiều vẻ thần thoại hơn: Hoa cúc trắng đã được gieo trồng
lần đầu tiên lên ngôi mộ của một hài nhi bởi những đôi tay mềm mại của các
thiên thần nhỏ bé.
HOA MÀO GÀ
Ngày xưa, chú gà nào cũng có một cái
mào đỏ rất đẹp như mào các chú gà trống bây giờ. Một buổi sớm, gà Mơ soi mình
trong vũng nước và sung sướng thấy cái mào rực rỡ nằm trên đỉnh đầu của mình
như một chùm hoa đỏ rực. Gà Mơ khoan khoái đập cánh và hát bài hát quen thuộc
của họ nhà gà : “Cục ta cục tác, mào ta đã mọc, cục ta cục tác, mào ta đã mọc”.
Mọi vật quay qua nhìn gà Mơ và cùng xuýt xoa: “Chiếc
mào mới xinh xắn làm sao, trông Gà Mơ thật đáng yêu”. Gà Mơ đi tung tăng khắp
nơi kiếm mồi. Nó đến bên bể nước và nghe có tiếng khóc ti tỉ. Nó dừng lại
nghiêng đầu, chớp chớp đôi mắt và lắng tai nghe. Thì ra, đó là một cây màu đỏ
tía đang tấm tức khóc một mình. Gà Mơ đang vui sướng, thấy bạn buồn, Mơ bỗng
bối rối. Nó vội vàng chạy đến khẽ hỏi:
- Bạn sao thế?
Cây rơi hạt nước mắt trong suốt như hạt sương xuống
gốc và sụt sịt bảo:
- Các cây quanh đây, cây nào cũng có hoa mà chỉ mỗi
mình tôi là không có hoa.
Chưa nói dứt câu, cây lại bật khóc, nước mắt cứ rơi
xuống thánh thót. Gà Mơ an ủi bao nhiêu cũng không làm cây nín. Gà Mơ nghĩ một
lúc rồi quyết định:
- Tôi cho bạn bông hoa đỏ trên đầu tôi nhé.
Cây sung sướng vẫy là rối rít:
- Thế bạn cho tôi thật nhé ! Cám ơn bạn!
Sáng hôm sau, mọi người ngạc nhiên khi thấy chiếc mào
đẹp đẽ của gà Mơ biến đâu mất. Còn cái cây bên bể nước thì lại nở một chùm hoa
rực rỡ y hệt chiếc mào của Gà Mơ.
Cây hoa sung sướng vươn mình đón ánh mặt trời nhuộm
cho bông hoa thêm đỏ thắm. Cây khe khẽ kể cho mọi người nghe câu chuyện về lòng
tốt của Gà Mơ. Thế là mọi người gọi cây đó là cây hoa mào gà.
Trên đầu Gà Mơ bây giờ cũng nhú lên một chiếc mào mới
nho nhỏ, xinh xinh rồi đấy.
SỰ TÍCH DÂY TƠ HỒNG
Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên” dựa theo tích Vi Cố gặp
ông lão trong một đêm trăng, ngồi kiểm sách hướng về phía mặt trăng, sau lưng
có cái túi đựng đầy dây đỏ. Ông lão bảo cho biết đây là những văn thư kết hôn
của toàn thiên hạ. Còn những dây đỏ để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ
thành chồng. Một hôm, Vi Cố vào chợ gặp một bà già chột mắt ẵm đứa bé đi qua.
Bỗng ông già lại hiện lên cho biết đứa bé kia sẽ là vợ anh. Vi Cố giận, bảo đày
tớ tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ lẻn đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ
trốn. Mười bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi
Cố. Người con gái dung nhan tươi đẹp, giữa lông mày có đính một bông hoa vàng.
Vi Cố gạn hỏi, vợ mới bảo: Thuở còn bé, một bà vú họ Trần bế vào chợ bị một tên
cuồng tặc đâm phải. Vi Cố hỏi: Có phải bà vú đó chột mắt không? người vợ bảo:
Đúng thế! Vi Cố kể lại chuyện trước, hai vợ chồng càng quý trọng nhau cho là
duyên trời định sẵn.
Mẩu chuyện vui: Tình yêu làm cho con người lú lẫn.
… “Tâu Thượng đế, theo hạ thần thì thượng đế không cần
đòi lại trí khôn của con người. làm như thế không khỏi mang tiếng là trời nhỏ
nhen. Điều mà thượng đế nên làm là hạn chế trí khôn của con người.”
-”Bằng cách nào”?
-”Chỉ có tình yêu-Không có gì làm con người lú lẫn đi
như trong tình yêu. Trời chỉ cần phái một vị thần mang vòng dây xuống trần, cứ
đôi trai gái nào ở gần nhau thì quăng cho một vòng. Người nào càng thông minh
thì cần quăng thêm cho nhiều vòng. Con người chỉ luẩn quẩn trong những vòng ấy
mà chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện lên quấy nhiễu nhà trời nữa”.
Trời khen “Thật là diệu kế”!, bèn truyền cho ông tiên
già mang những chiếc vòng của trời xuống trần gian.
Từ ngày bị ông tiên già khoác vào người mình những
vòng dây tình ái, con người chỉ luẩn quẩn với nhau, không còn nghĩ tới chuyện
đánh nhau với trời nữa. Ông tiên già ấy được gọi là ông “Tơ” .
HOA DÃ QUỲ
Ngày xửa ngày xưa, nơi buôn sóc nọ có chàng K’lang của
núi rừng yêu tha thiết nàng H’limh của con suối.Ngày ngày chàng K’lang vào rừng
săn bắt thú rừng còn nàng khéo léo dệt tấm chăn kiệu chồng (vì theo tục lệ của
bộ tộc nàng con gái trước khi lấy chồng phải dệt một tấm chăn thật đẹp để mang
về nhà chồng). Rồi tối tối họ lại quây quần đốt lửa và múa hát cùng dân làng
trong buôn. Cuộc sống vui vẻ hạnh phúc của họ cứ trôi đi.
Đến một ngày kia khi H’limh chờ hoài đến tối mà vẫn
không thấy K’lang đi săn về, nàng lo lắng từ buôn sóc nàng đi tìm K’lang, nàng
cứ đi, đi mãi đi hết mười mấy con suối, mười mấy ngọn núi rồi mà không thấy
người yêu của mình đâu cả. Mệt quá nàng ngủ thiếp đi trong giấc mơ nàng thấy
K’lang gọi nàng và bảo nàng hãy đi thêm một con suối nữa sẽ gặp chàng ở đó.
Nàng giật mình rồi đi tiếp đến cuối nguồn nàng nhìn thấy K’lang đang bị những
tên hung ác của bộ tộc Lasiêng trói chặt. Nàng chạy lại ôm lấy chàng mặc cho
những mũi tên, những ngọn giáo đâm vào da thịt. Mặc cho bao nhiêu đau đớn nàng
vẫn quyết bảo vệ cho người yêu cho tới khi nàng bị trúng mũi tên độc cuối cùng
của chàng La rihn con trai tộc trưởng Lasiêng. Vì quá hờn ghen với tình yêu của
H’limh dành cho k’lang chàng đã buông lơi mũi tên hận tình. Chàng cũng không
ngờ người lãnh trọn mũi tên ngiệt ngã ấy lại là H’limh – người con gái mà chàng
ngày đêm thương thầm trộm nhớ mà không được đáp lại tình cảm.
Từ đó cứ mỗi độ tháng mười nơi nàng H’limh chết lại nở
ra một loài hoa có màu vàng rực. Người ta thường gọi là hoa Dã Quỳ. Cây hoa Dã
quỳ rất dễ mọc và mọc rất nhanh những cánh hoa màu vàng tràn đấy sức sống mãnh
liệt như tình yêu chung thủy.
HOA MỘC LAN
Ở Nhật Bản có một người con gái tên
là Câycô, mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhà nghèo, ngay từ khi còn nhỏ nàng đã phải tự
đi làm để kiếm sống.
Một cô bé như nàng phỏng có thể làm được việc gì? Nàng
phải làm hoa giấy đem ra phố bán. Nhưng hoa bán đã nhiều, mà tiền thu về chẳng
đáng là bao. Khi đã ra dáng một thiếu nữ. Câycô cũng không có đủ tiền sắm nổi
một bọ kimônô mà các cô con nhà quý phái vẫn mặc.
Một đêm nọ, khi Câycô đang mải làm việc trong phòng của
mình, bỗng có một con vẹt bay đến đậu trên bậc cửa sổ bỏ ngỏ. Đôi cánh màu xanh
của nó đã nhợt nhạt, có lẽ nó đã già song vẫn còn đủ minh mẫn và biết nói tiếng
người.
- Đừng đuổi ta, ta sẽ tiết lộ cho nàng một điều bí mật
về cách làm giàu.
- Vẹt yêu quí ơi, cớ sao ta lại đuổi mi – Câycô buồn
bã mỉm cười – ở đời ta chẳng còn biết thổ lộ tâm tình với ai, thế mà mi lại nói
được tiếng người. Cứ ở lại đây, cùng chia nghèo, sẻ khổ với ta, còn sự giàu
sang, phú quý, tốt nhất là chẳng nên màng tới, vì ta rất xa lạ với chuyện ấy.
- Đa tạ Câycô tốt bụng – Vẹt gật gù – Trước khi đi tìm
chủ mới, ta đã chăm chú theo dõi các cô gái bán hoa, và ta đã thấy nàng tặng
bông hoa đẹp nhất của mình cho một cô gái nghèo như thế nào rồi. Cô gái nghèo
ấy không có tiền nhưng lại rất muốn làm cho người bà ốm yếu của mình được thanh
thản nỗi lòng.
Nhưng vì sao ngươi lại phải đi tìm chủ mới? – Câycô
hỏi – Phải chăng chủ cũ không tốt với mi?
- Bà ta đã qua đời – Vẹt đau đơn báo tin, rồi im lặng
giây lát – Bà ta chết vì tham lam.
- Bà ấy nghèo lắm à? – Câycô hỏi tiếp.
- Không, rất giàu là đằng khác. Song với bà, như thế
còn quá ít. Bà đã bán đến giọt máu cuối cùng để lấy vàng – Vẹt nguẩy mỏ vẻ
trách móc.
- Đổi máu lấy vàng là thế nào, ta không hiểu? – Câycô
ngạc nhiên.
- Chuyện là thế này. Bà chủ của ta cũng làm nghề bán
hoa giấy như nàng, song có một mụ phù thuỷ đã tiết lộ cho bà một bí mật về cách
làm cho hoa giả trở thành hoa tươi, nghĩa là phải lấy máu của mình tiếp sức cho
các cành hoa. Chính nàng cũng thừa hiểu hoa tươi quý như thế nào rồi. Chẳng bao
lâu bà chủ trở nên giàu có. Lúc đó mụ phù thuỷ đã báo trước cho bà ta rằng, dù
thế nào cũng chớ có hiến đến giọt máu cuối cùng. Nhưng với bà chủ của ta, dầu
có tích góp được bao nhiêu của cải cũng vẫn cứ là ít. Và thế là khi có một vị khách
ngoại bang hứa cho bà một khoản tiền lớn nếu bà bằng lòng tiếp thêm sinh lực
cho hoa. Bà chủ đã không ngần ngại ngay cả đến giọt máu cuối cùng để có thêm
nhiều tiền và bà đã phải chuốc lấy cái chết. Số của cải bà để lại trở thành
miếng mồi ngon cho đám họ hàng xâu xé nhau.
- Thật là khủng khiếp! – Câycô thốt lên – Vì sao mi
không ngăn cản bà ta?
- Rơi vào hoàn cảnh ấy, người ta khó mà sáng suốt –
Vẹt phàn nàn. – Ta đã thẳng thắn khuyên nhủ bà đừng hành động một cách ngu
ngốc, song bà trả lời như thế nào, nàng biết không? “Ta đã chán ngấy những lời
đường mật của họ nhà Vẹt rồi!” bà chủ nói thế đấy.
- Vẹt già tốt bụng ơi, hãy ở lại đây với ta và làm cố
vấn cho ta – Câycô gợi ý. Vẹt cảm thấy hởi lòng, hởi dạ.
Sau khi bán được ít hoa tươi đầu tiên, Câycô liền m ua
ngay một bộ kimônô lụa và một đôi dép thật đẹp. Nàng chải lại mái tóc đen mượt
và cài lên đó một bông hồng đỏ thắm rồi đi ra phố. Từ bóng cửa sổ xa xa, nàng
nhìn thấy một cô gái xinh đẹp. Câycô gật đầu chào. Cô gái cũng gật đầu chào
lại. Hai người cùng mỉm cười với nhau. Câycô đoán rằng co gái đó có lẽ là hình
bóng của nàng được phản chiếu vào gương.
Câycô nhanh chóng hoà vào dòng người trẻ tuổi, và lần
đầu tiên trong đời nàng, được đặt chân tới một gian phòng rực rỡ ánh đèn, nơi
có từng cặp trai gái đang nhảy múa uyển chuyển như chim bay, bướm lượn. Có một
chàng trai đến mời Câycô. Nàng vừa nhảy vừa mỉm cười một cách sung sướng. Chàng
trai khiến nhàng thích thú nhất ấy có tên là Aratumi.
- Câycô ơi! – Aratumi nói, – Em đẹp khác nào một đoá
hoa Anh Đào nở chúm chím. Hãy nói đi, biệt thự nhà em ở đâu và vì sao một cô
gái sang trọng như em lại đến nơi vũ hội của đám sinh viên nghèo hèn này?
Câycô toan thú nhận nàng chỉ làmột cô gái nghèo rớt
đang sống trong một căn nhà dột nát, nhưng nàng chợt nhớ tới nhan sắc tuyệt
trần của mình, nàng hình dung ngay việc nàng sẽ nhanh chóng trở nên giàu có và
sẽ xây được biệt thự ra sao. Chính bản thân Câycô cũng không nhận thấy nàng đã
vẽ ra trước mắt chàng trai mơ ước của mình về một toà biệt thự y như thật. Khi
nàng im lặng, Artumi thở dài nói:
- Đáng tiếc là em giàu có như vậy. Một chàng sinh viên
nghèo đâu dám đặt chân tới toà biệt thự, vậy mà anh lại cứ muốn được trông thấy
em.
Câycô không dám thú nhận rằng nàng không hề có biệt
thự nào cả. Song nàng cũng rất muốn gặp lại Aratumi và ngỏ ý rằng, hôm khác
nàng sẽ tới công viên thành phố dạo chơi.
Khi Câycô và Aratumi gặp nhau ở công viên, họ cầm tay
nhau cùng bước đi trên những con đường nhỏ, và kỳ diệu thay, từ lúc nào cặp môi
của họ đã xoắn xuýt với nhau trong một cái hôn dài.
- Câycô, Câycô của anh! – Aratumi thì thào – nhưng mặt
chàng lập tức sa sầm lại – Đó phải chăng là một cái hôn vĩnh biệt? Vì cha em sẽ
không cho phép em được làm vợ một sinh viên nghèo.
Câycô bắt đầu khóc lóc và nàng đành thú nhận rằng,
biệt thự, đó chỉ là chuyện nàng bịa ra, rằng nàng chỉ là một cô gái bình thường
chuyên nghề làm hoa giấy đem ra phố bán.
Nếu Câycô thấy đựoc nét mặt Artumi thay đổi như thế
nào thì chắc hẳn nàng đã không tiết lộ cho chàng biết điều bí mật của đời mình.
Nhưng vì xấu hổ, nàng đã nhắm nghiền mắt lại. Còn Artumi, sau khi nghe chuyện
nàng, đã vội nắm lấy bàn tay nàng. Chàng thậm chí còn tỏ ra vui vẻ, bởi sắc đẹp
của Câycô sẽ hứa hẹn một sự giàu có vô biên.
Cô gái Câycô mảnh khảnh bắt đầu những ngày lao động
cật lực. Cần phải làm thật nhiều hoa, đặc biệt làm thêm hoa tươi nhiều hơn nữa,
rồi đem bán đi để mua một ngôi nhà nhỏ. Họ sẽ sống ở đó sau khi cưới. Nàng sẽ
mua thêm thảm, tranh, đồ sứ cùng những bộ quần áo mới cho m ình và cho chồng.
Một buổi chiều, Vẹt nói như muốn thức tỉnh cô gái:
- Cây cô ơi, nàng đang tiêu phí máu mình một cách quá
dễ dãi đấy!
- Ôi, anh bạn Vẹt già đáng yêu của ta! – Câycô vuốt
đầu Vẹt – khi Aratumi học hành xong, chàng sẽ kiếm đủ tiền và ta sẽ được nghỉ
ngơi.
Nhưng khi hai người vừa tổ chức xong lễ cưới thì
Aratumi cũgn bỏ luôn trường lớp, vì chàng chẳng thiết theo đuổi đèn sách nữa.
- Anh chỉ thích được xem nhưng ngón tay nhỏ nhắn của
em trổ tài khéo léo và duyên dáng khi em làm hoa thôi.
Nghe những lời nói ngon ngọt của chồng, nàng cảm thấy
thật sung sướng. Nhưng chỉ vài năm sau, ngôi nhà bé nhỏ kia đối với Aratumi
thật quá ư xuềnh xoàng. Nhiều lần chàng nói với vợ:
- Tất thảy chúng bạn của anh đều sống rất sung túc.
Trước họ anh cảm thấy rất ngượng.
Và những ngón tay của Câycô lại làm việc miệt mài hơn.
Để có được một ngôi nhà khang trang ngày tháng sao ngắn ngủi thế. Cứ chiều
chiều, khi Câycô đi bán hoa ngoài phố thì Aratumi ngồi một mình bên ấm trà.
Chàng còn biết làm gì vào lúc này?
- Câycô ơi, Câycô – Vẹt lắc đầu buồn bã mỗi khi chủ
của nó trở về nhà ngồi vào chỗ làm việc với dáng vẻ mệt mỏi.
Còn chàng Aratumi nghèo khổ lúc nào cũng chỉ thích
sống trong một biệt thự. Chàng cho rằng Câycô đã lừa dối chàng. Nàng đã hứa với
chàng sẽ có một chỗ ở khang trang, vậy mà cho đến giờ chàng vẫn cứ phải chui
rúc trong túp lều tồi tàn. Câycô cảm thấy mình có lỗi, bởi nàng càng ngày càng
thêm yêu Aratumi.
- Chúng ta sẽ có biệt thự, nàng cam két với chàng như
vậy, và càng rút ngắn bớt thời gian nghỉ ngơi của mình.
- Câycô ơi, hãy cẩn thận, – Vẹt báo trước – Nàng đã
quá yếu rồi, máu trong tim nàng còn lại rất ít đấy.
- Bạn ơi, chúng ta sắp có biệt thự rồi, lúc đó ta sẽ
bắt đầu đầu sống như một bà hoàng – Câycô nói.
Lời đồn đại về cô gái bán hoa bé bỏng có tên là Câycô
lan truyền khắp gần xa. Magơnon, một nhà kinh doanh hoa người Pháp đã lặn lội
sang tận Nhật Bản để mua hoa của Câycô. Đối với Magơnon, chỉ có hoa không, chưa
đủ. Ông hứa sẽ cho Câycô một khoản tiền lớn nếu nàng làm cho những bông hoa
cùng với gốc của chúng trở thành hoa thật. Hơn nữa, chúng phải có đủ bốn màu:
trắng, vàng, hồng và đỏ.
Câycô đã bán cho Magơnon đủ các loại hoa và vào phút
chót nàng còn làm thêm một bông hoa đỏ chói có cả cành lẫn gốc. Những nàng cũng
không còn đủ sức để trích đầu ngón tay của mình và dùng máu tiếp sức cho rễ hoa
nữa.
- Câycô, Câycô ơi! – Vẹt hét lên một cảnh thảm thiết,
– chớ có cho giọt máu cuối cùng!
- Thôi đủ rồi, anh bạn già ạ, loài vẹt nhà mi chỉ quen
khoác lác thôi – Artumi dúi đầu Vẹt xuống và túm lấy cánh nó ném sang phòng
khác.
- Artumi yêu quý, em chỉ còn giọt máu cuối cùng thôi.
– Câycô lặng lẽ nhìn vào mắt chồng.
- Ta cần một bông hoa đỏ, đỏ thật sự – Magơnon hồi hộp
nói – Ta sẽ không tiếc tiền, miễn là nàng làm cho bông hoa đỏ này thàn bông hoa
thật.
- Câycô, em cần phải hiểu rằng điều đó có ý nghĩa đối
với chúng ta lắm chứ? Aratumi lắc mạnh vai vợ – Em có hiểu không, đời sẽ thế
nào nếu chúng ta sẽ có một toà biệt thự? Toà biệt thự mà em đã hứa với anh đó!
Sau khi lấy hết hơi tàn sức kiệt, Câycô chích đầu ngón
tay mình, vắt ra giọt máu cuối cùng tiếp sức cho rễ bông hoa đỏ.
Aratumi xây xong toà biệt thự và cưới một cô vợ khác.
Magơnon mang những bông hoa tươi rói về Pháp và đặt tên cho nó là Magơnôlia,
nghĩa là “Hoa Mộc Lan”, Còn nàng Câycô thì sao? Nàng đã lùi vào những trang
huyền thoại của loài người.
HOA BỒ CÔNG ANH
Trên một cánh đồng nọ, có một loài cây có những bông
hoa vàng rực, những chiếc lá dài, xanh thẫm với những chiếc răng cưa nhọn hoắt
như những chiếc răng nanh của con sư tử. Người ta gọi nó là cây Răng Sư Tử.
Răng Sư Tử nằm đủng đỉnh bên trên đồng cỏ dại, trong
trái tim chàng ôm ấp những cánh hoa vàng như màu nắng. Người chàng yêu chính là
đoá hoa nở rộ từ chính trong vòng tay ấm áp của chàng. Những chiếc lá gai góc
của Răng Sư Tử ôm vòng lấy những đoá hoa, chở che và đầy khao khát.
Mùa hạ đến, những bông hoa trút bỏ những chiếc trâm
cài đầu vàng óng, chiếc áo ruộm nắng được thay bằng một cái áo choàng bông nhẹ,
trắng muốt và mịn như những chiếc lông ngỗng. Bông hoa từ trong vòng tay chàng
trai vươn cao lên đầy kiêu hãnh. Răng Sư Tử vẫn say mê ngắm nhìn và thầm ngợi
khen vẻ đẹp ấy của nàng. Người con gái của chàng đã biến thành bông Bồ Công Anh
với chiếc áo choàng satin trắng xốp. Tình yêu cứ thế lớn lên…
Bỗng một ngày, từ một miền xa xôi nào đó, thổi đến một
người con trai có cái tên là Gió. Gió ồn ào, mạnh mẽ, cuồng nhiệt và sôi nổi.
Gió lướt đi trong vũ khúc quay cuồng. Gió cầm trên tay cây sáo trúc, thổi những
bài ca đẹp về cánh đồng, và về những miền đất mà chàng đã đi qua. Gió kiêu
hãnh, Gió lạnh lùng, và Gió cũng vô tâm. Gió lướt đi ngang qua trên cánh đồng,
khiến biết bao loài cây phải hướng mắt theo. Bên trên cái thế giới nhỏ bé ấy,
chàng là người được yêu mến và ngưỡng mộ.
Bồ Công Anh không phải là ngoại lệ. Gió ập tới khiến
nàng choáng ngợp, choáng ngợp trước vẻ phong lưu và bất cần. Khi cơn Gió lướt
qua trên cánh đồng, nàng vươn mình theo hướng gió, đón Gió về lại bên nàng.
Nàng muốn được những ngọn gió mát rượi ôm ấp vào lòng, vuốt lên từng sợi bông
của chiếc áo choàng trắng xốp. Nàng yêu Gió, trong sáng và trọn vẹn.
Nhưng Gió sinh ra không phải để dừng chân. Chàng là
đứa con của Ngao Du và Mạo Hiểm. Cánh đồng cỏ bình yên không phải là chỗ trú
ngụ đời đời. Gió lại ào ạt thổi qua. Bồ Công Anh cố níu giữ, cố nắm bắt Gió
bằng thân hình mảnh dẻ của mình, nàng vươn mình ra. Nhưng vô ích. Gió vẫn cứ
thổi lạnh lùng.
Răng Sư Tử nhói lên trong lòng. Trái tim chàng như bị
chính những chiếc răng cưa cào xé. Chàng che chở cho người con gái chàng yêu,
để rồi mất nàng trong giây lát. Răng Sư Tử tuyệt vọng giơ những cánh tay xanh
biếc ra, giữ chặt lại Bồ Công Anh trắng muốt. Nhưng cánh tay chàng chơi vơi
trong Gió. Những cánh hoa Bồ Công Anh xinh đẹp và mềm mại đã tự tách khỏi nhuỵ
hoa, để bay cùng chiều với Gió mất rồi.
Và ngày ngày, những người nông dân đi trên cánh đồng
vẫn nghe tiếng Răng Sư Tử thì thầm cùng với chàng Gió từ miền xa thổi đến, hỏi
những cánh Bồ Công Anh đã được Gió mang tới nơi đâu… “Ở nơi đó, cô ấy sống thế
nào?”. Gió im lặng, Gió không thể mang Bồ Công Anh đi mãi. Cô gái ấy rơi xuống
trên những cuộc hành trình, vùi mình vào trong đất, để rồi lại hồi sinh thành
những đứa con và đặt tên chúng là Răng Sư Tử…
Cây có Hoa, nhưng không giữ được Hoa. Hoa chỉ luôn
vươn mình theo Gió. Gió lại khó nắm bắt, lại chỉ biết yêu những cuộc hành
trình. Và khi cơn Gió qua rồi, Hoa mới biết: cội nguồn của mình là nhựa chảy
trong máu của cây…
HOA PHONG LAN
Ở một miền xa xôi, khí hậu ấm áp và đất đai trù phú có
một bộ lạc tên là Aruaki may mắn hơn các bộ lạc khác vì họ sai khiến được loài
chim Oócchít chuyên đẻ những quả trứng bằng vàng. Khi một con chim đẻ trứng vào
tổ trong hốc cây thì thủ lĩnh Nato dùng tay chuyển quả trứng đó sang một cái
cây khác, và sự kiện đó được coi như một ngày hội lớn.
Các cô gái của thủ lĩnh thay nhau phục trên các cành
cây, bảo vệ tổ chim khỏi bị chim ưng phá hoại. Tuy vậy, trong từng góc buôn
làng, các trai tráng tay cầm những mũi tên tẩm thuốc độc đứng canh giữ không
cho các chiến binh của bộ lạc khác đến đánh chiếm kho báu của bộ lạc mình.
Từ ngày quả trứng vàng kia, những tay thợ lành nghề đã
chế tạo ra các vòng tay, hoa tai và đủ các loại trang sức. Số trứng vàng dự trữ
mỗi ngày một nhiều. Đàn ông của bộ lạc chuyên nghề săn bắn, còn đám đàn bà, con
gái ở nhà dệt những tấm khăn voan, đan giỏ và hái nhặt thảo quả.
Một hôm cánh đàn ông đi săn trở về với một tâm trạng
đầy lo lắng. Họ đã chạm trán cánh thợ săn của một bộ lạc xa lạ. Cánh thợ lạ này
đã kể cho họ nghe về những chiến thuyền khổng lồ đã cập bờ biển, và về những
con người tóc cắt ngắn, mặt mũi trắng trẻo nom rất lạ lùng, đã đặt chân lên đất
liền. Những kẻ da trắng này rất hám vàng, đã dùng một loại súng có tai khạc ra
những mũi tên có lửa khủng khiếp, cướp giật vòng chân, vòng tay của chị em, tra
khảo dân bản xứ nơi có vàng. Nếu những người Aruaki hiểu rằng, con người cũng
có thể biến thành những kẻ tàn ác, thấp hèn, thì chắc chắn không bao giờ họ lại
cho phép kẻ lạ mặt kia vào làng bản của họ. Nhưng họ không hiểu được điều đó.
Họ vẫn cứ khiêng những người thợ săn lạ mặt bị gấu đánh bị thương vào làng. Vị
thủ lĩnh còn ra lệnh cho đám phụ nữ đi tìm những người bị thương, còn cánh đàn
ông lại lên đường đi săn.
Một kẻ lạ mặt có tên là Khơramooi Métvét. Anh ta rất
mê những đồ trang sức của phụ nữ và cứ gặng hỏi họ kiếm ở đâu thứ đá vàng làm
ra được các loại vòng và hoa tai này. Nhưng chị em chỉ trả lời bằng một nụ
cười. Dần dà, Métvét kết thân được với cô gái cả con của thủ lĩnh tên là
Dincadơvin, và hứa hẹn sẽ cưới nàng làm vợ rồi ở lại với bộ lạc. Dincadơvin nói
rằng nàng phải chờ đợi cha trở về để xin ý kiến.
Métvét bắt đầu làm công việc dò hỏi Dincadơvin về việc
tại sao chị em nàng cứ thỉnh thoảng lại biến vào rừng sâu và ở đó làm gì. Còn
Dincadơvin đã tự cho mình là vợ chưa cưới của Métvét rồi, bởi vậy nàng đã phạm
sai lầm còn lớn hơn cả sai lầm của cha nàng cho phép đưa kẻ lạ mặt bị thương
vào buôn làng.
Dincadơvin không hề ngờ rằng, người tình của nàng đã
bán linh hồn cho bọn da trắng để lấy một thùng rượu, và còn hứa với họ sẽ tiết
lộ bí mật của bộ lạc Aruaki? Và thế là sau khi biết chắc chị em nàng thường
thay nhau phục trên cây, bảo vệ bầy chim đẻ trứng vàng, Métvét liền chuốc rượu
cho những người canh gác say mèm, rồi thông báo điều bí mật cho bọn da trắng
biết.
Métvét không hay rằng trên đỉnh một ngọn cây cao nhất
còn có chàng Ôta Te đang phóng tầm mắt quan sát khắp vùng gần xa. Anh đã phát
hiện ra có những người da trắng đang đến gần nơi con chim đẻ trứng vàng mà
người dẫn đầu là Métvét. Sau khi loan báo cho buôn làng hay về mối nguy hiểm
đang đe doạ và về sự phản trắc của Métvét, anh liền đóng chuông báo động.
Dincadơvin đau đớn thốt lên:
- Ôi, cớ sao ta lại tiết lộ cho chàng bí mật của loài
chim? Thảo nào mà chàng cứ căn vặn ta! – Rồi nàng quay lại hỏi ông thày cúng –
Hãy chỉ cho ta biết ta phải làm gì và làm thế nào để cứu loại chim đẻ trứng
vàng?
- Cô cô cô! – Tiếng thày cúng thốt lên, có nghĩa là
“Cứ sẵn sàng đi!”
Hết thảy đàn bà và con gái chạy đến, cùng đáp to:
“Khô!”
Điều đó có nghĩa là: “Chúng tôi đã sẵn sàng!”
- Hỡi các cô gái! Hãy nhanh chóng trèo lên ngồi vào
các cành cây! Khi đó bọn da trắng sẽ không biết được chim làm tổ trên cây nào.
Còn nếu chúng tìm thấy tổ chim thì Taxan útke sẽ chạy đi tìm những người thợ
săn, gọi họ về đuổi bọn da trắng đi.
Taxan útke, tên thường gọi của con Ngựa chiến, phi như
bay về phía những người đàn ông của bộ lạc đang mải săn bắn, còn hàng trăm cô
gái khác thì vội vàng lao lên cây, tay ôm chặt lấy các cành cây.
Métvét dẫn đoàn người da trắng vào rừng, nhưng hắn
lúng túng không biết nên chỉ vào cây nào. Bọn da trắng nổi giận, bắn những mũi
tên có lửa vào các cô gái, nhưng các cô, kể cả các cô đã chết, vẫn ôm chặt các
cành cây.
Khi cánh đàn ông chạy về tới buôn làng, đuổi được bọn
da trắng đi thì đã quá muộn – những người con ưu tú – những cô gái đẹp của họ
đã chết. Ông thày cúng trỏ tay lên trời, gọi tên họ và nói:
- Các con đã xả thân bảo vệ kho báu của bộ lạc ta, các
con xứng đáng được ban thưởng. Tâm hồn các con sẽ biến thành những bông hoa
ngát hương, chúng sẽ không ngừng sinh sôi trên các cành cây kia và sẽ kể lại
cho các thế hệ mai sau về chiến công bảo vệ loài chim mỏ vàng của các con.
Những bông hoa tuyệt vời và đủ loại tựa như các cô gái
của bộ lạc Aruaki đang đua nở trên các cành cây.
Người đời nay gọi đó là hoa Oóckhiđêa – hay là hoa
Phong Lan.
HOA DIÊN VĨ
Tiếng Hy Lạp, “Iris” có nghĩa là Cầu Vồng. Trong thần
thoại Hy Lạp, Iris là tín sứ của thần Zeus và nàng thường xuất hiện dưới hình
một chiếc cầu vồng. Nàng là người đưa tin trên đỉnh Olympus, Iris mang thông
điệp của các vị thần linh từ “con mắt Thiên Đường” xuống cho nhân loại trên
trái đất qua vòng cung cầu vồng rực rỡ. Từ Iris cũng có nghĩa là “con mắt Thiên Đường” (the eye of
Heaven). Iris, như ta đã biết, là tên của một nữ thần Hy Lạp, một loài hoa, và
nó còn có nghĩa là tròng đen trong con mắt chúng ta. Điều này ngụ ý rằng mỗi
chúng ta đều mang trong mình một mảnh của Thiên Đường. Những người đàn ông Hy
Lạp thường trồng hoa Diên Vĩ tím trên mộ những người phụ nữ mà họ yêu thương để
tỏ lòng tôn kính nữ thần Iris, người mang sứ mệnh dẫn dắt những linh hồn phụ nữ
này đến chốn Thiên Đàng (the Elysian fields).
Diên
Vĩ là loài cây lưu niên có thân thảo vươn cao, lá hình lưỡi kiếm và những đóa
hoa to nhiều màu sắc với ba cánh và ba đài hoa rũ xuống. Có hơn 200 loài hoa
Diên Vĩ xinh đẹp khác nhau với các màu xanh da trời nhạt, tím, vàng, trắng,
hồng, cam, nâu đỏ…đa dạng như màu sắc cầu vồng. Hoa Diên Vĩ được xem như sứ giả
mang đến những điềm lành. niềm hy vọng. Ba cánh hoa Diên Vĩ đại diện cho lòng
Trung Thành, sự Khôn Ngoan và lòng Dũng Cảm. Hoa Diên Vĩ vàng là biểu tượng của
ngọn lửa và niềm đam mê
Hoa
Diên Vĩ đã từng được thấy ở sa mạc, đầm lầy hay cả miền Bắc cực Siberia lạnh
giá, nhiều nhất vẫn là ở các vùng khí hậu ôn hòa. Hoa Diên Vĩ thường được vẽ
trong những bức tranh tĩnh vật, như của các danh họa Vincent van Gogh, Monet…Có
nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải và phía Nam Châu Âu, hoa Iris đã từng được
những người Hy Lạp cổ đặt trên trán của Nhân Sư và trên vương trượng của đức
vua xem như là biểu tượng của quyền lực. Vào năm 1479 trước Công Nguyên, ở Ai
Cập, để ghi nhớ chiến công tại Syria, vua Thutmose III đã cho vẽ những bông hoa
Diên Vĩ trên bức tường ngôi đền thờ của mình.
Nhà
thờ La Mã xem hoa Lily là hiện thân của Đức Mẹ Đồng Trinh. Do có ba cánh đặc
biệt, fleur-de-lis cũng được làm hình ảnh tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi linh
thiêng (the Holy Trinity).
Hoa
Diên Vĩ đã là biểu tượng của hoàng gia và sự che chở thần thánh suốt hàng thế
kỷ trên khắp thế giới. Loài hoa đầy sức thu hút này được rất nhiều người ngưỡng
mộ. Các vị vua chúa nước Pháp đã dùng nó làm biểu tượng hoàng gia và gọi nó là
Fleur-de-lis. “Fleur-de-lis”
có nguồn gốc từ tên “Fleur-de-Louis”, sau thời vua Louis VII, năm 1147. Theo
thời gian, tên đó chuyển thành “Fleur-de-luce”, có nghĩa là hoa của ánh sáng
(flower of light), cuối cùng đến ngày nay, nó được gọi là “Fleur-de-Lys”, hay
Flower of the Lily (Lily : Hoa Huệ Tây, Loa Kèn, Bách Hợp). Fleur-de-Lis đã là
biểu tượng của nước Pháp từ thế kỷ 13. Hoàng gia Pháp trang trí hoa Diên Vĩ
trên áo choàng, các đồ vật trong cung điện và trên những bức tường như biểu
hiện của sự toàn bích, ánh sáng và cuộc sống. Có nhiều truyền thuyết khác nhau
giải thích tại sao hoa Diên Vĩ được chế độ quân chủ Pháp chọn làm biểu tượng .
Tương truyền rằng, Clovis, vua nước Pháp triều đại Mêrôvê khi đối mặt với đội
quân thiện chiến của Alamanni (Đức) đến xâm chiếm vương quốc mình, ông đã nói
với hoàng hậu Clotida rằng ông sẽ theo đạo và chịu rửa tội nếu như Chúa phù hộ
ông đánh thắng trận đấu này (trước đó hoàng hậu đã nhiều lần khuyên chồng mình
vào đạo nhưng ông vẫn không nghe). Cuối cùng, ông thắng thật và nhận
fleur-de-lis làm biểu tượng. Tiếp đó, vào thế kỷ 12, vua Louis trở thành hoàng
đế nước Pháp đầu tiên khắc họa hoa Diên Vĩ trên chiếc khiên của mình. Nữ anh
hùng nước Pháp, Joan of Arc (Jeanne d’Arc) đã mang theo lá cờ trắng có biểu
tượng Chúa hộ mệnh của hoàng gia (hoa Diên Vĩ ) khi bà đánh bại quân Anh tại
Orléans (1429).
Ở Nhật, hoa Diên Vĩ tượng trưng cho chí khí anh hùng
và dòng dõi quý phái. Hoa Diên Vĩ là một phần quan trọng trong lễ hội mùa xuân
dành cho các bé trai.
Được xem như một loài hoa thiêng, người ta tin rằng
hoa Diên Vĩ có khả năng chữa bệnh và đã được dùng làm thuốc từ thời xa xưa. Vào
thế kỷ đâu tiên sau Công Nguyên, vị y sĩ Hy Lạp Dioscorides đã đưa ra bài thuốc
dùng rễ cây hoa Diên Vĩ uống với mật ong, giấm hay rượu vang để chữa ho, cảm
lạnh, khó tiêu và chứng đau thần kinh tọa. Rễ cây hoa Diên Vĩ cũng được dùng để
tạo hương thơm.
HOA MIMOSA
Mimosa có tên khoa học là Acacia Podalyriaefolia Cunn
Mimosaceae, nguồn gốc từ Australia nhập về Đà Lạt♥
Chuyện kể rằng: Ngày xưa, ở vùng đất
Australia tươi đẹp nằm giữa biển khơi đầy nắng ấm có một đôi tình nhân yêu nhau
say đắm, chàng là con của một ngư dân, có thân hình vạm vỡ, nước da đen bóng và
một trí thông minh tuyệt vời. Nàng là con gái cưng của một gia đình quý tộc đẹp
rực ỡơ, đài các, yêu màu vàng và được Chúa ban cho một tấm lòng nhân hậu. Họ đã
trao nhau những nụ hôn say đắm và cả cuộc đời trên cảng biển Sydney thơ mộng♥
Nhưng rồi, gia đình nàng lại ép gả cho một Công tước
Hoàng gia. Sau bao phen phản đối kịch liệt không thành, nàng đành chấp nhận lên
xe hoa. Chàng buồn phiền từ giã biển khơi, bỏ nghề chài lưới, lên một vùng núi
cao hiểm trở làm nghề giữ rừng để tìm quên mối tình tuyệt vọng. Khi đặt chân đế
nơi, thì một trận hỏa hoạn dữ dội xảy ra. Một mình chàng bất chấp hiểm nguy để
cứu những cánh rừng xanh và những con Calcuru tội nghiệp. Và rồi, ngọn lửa quái
ác kia đã làm chàng ngất xỉu và thiêu sống chàng♥
Khi hay tin chàng trai bỏ thành phố biển lên ngàn tìm
quên mối tình đầu dang dở, trong đêm tân hôn cô gái đã bỏ trốn để tìm người
yêu. Nhưng, hỡi ơi! khi gặp được thì nàng không còn tin vào mắt mình nữa vì
nhìn thấy thân xác chàng bên đống tro than của cánh rừng bị cháy
Nàng quỳ xuống và gục chết bên người yêu. Từ đó, trên
vùng núi cao của đất nước Australia thơ mộng – nơi cặp tình nhân đã chết cho
tình yêu xuất hiện một loài cây thân mộc, lá màu xanh biếc, lấp lánh hoa vàng
thơm mát. Thổ dân địa phương đặt cho loài cây này một cái tên thật đẹp: Mimosa!
Truyền thuyết về hoa mimosa là vậy. Ngày nay, khi các
cặp tình nhân tặng hoa Mimosa cho nhau để khẳng định sự chung thuỷ, luôn hướng
về người mình đem lòng yêu thương♥
Anh sẽ cài lên tóc em
Một cành hoa mimosa
Thay lời thì thầm anh muốn nói
Tìm đâu đó một nụ cười hé nở
Rạng ngời ánh dương mãi không tàn
HOA TIGÔN
Câu chuyện xảy ra ở thành phố Athens.
Theo truyền thuyết Oedipus Rex cho rằng Cadmus, người
lập thành phố Athens, tức giận thần Apollo nên giết chết vị thần rắn. Thần
Apollo tức giận nên có lời nguyền, dân Athens sẽ bị bệnh dịch cứ mưới năm sẽ có
một trân dịch lớn, giết hại ngàn người. Cho đến ngày kia những đứa con của
Camuds sẽ mắc vào lời nguyền nếu Laius (vua Thebes sau này) và vợ Jocasta khi
nào sanh ra một đứa con mà chân có bớt đỏ màu máu thì chính đứa bé này ngày kia
sẽ giết cha, rồi kết hôn với mẹ.
Vua Athens, Laius, sau khi nghe tin vợ mình, Jocasta,
sanh một bé trai khỏe mạnh, gót chân bé có một màu đỏ máu, trước rất vua mừng,
nhưng chợt nhớ đến lời nguyền truyền kiếp trăm năm trước nên vua lo sợ sai tên
hầu cận, đêm khuya phải đem đứa bé lên núi cao mà giết nó, rồi đem trái tim nó
về trình diện cho ta.
Người hầu cân nghe lời, nửa đêm đợi hoàng hậu ngủ yên,
tên này mới bồng đứa bé, rồi cưỡi ngựa chạy về dãy núi cao. Dãy núi cao đó tên
là Mt. Cithaeron. Đứa bé sơ sanh ngủ ngon lành, tên hầu cận không nỡ giết, nên
giao bé cho một kẻ chăn cừu trên triền núi Cithaeron, rồi đem một trái tim cừu
về trình diện vua Laius. Thấy trái tim con mình, vua Lauis bật khóc, nhưng làm
sao hơn được, vì lời nguyền này mà đứa bé con mình sẽ giết mình chết, rồi lấy
vợ mình. Kinh hồn chưa?
Tên chăn cừu ôm đứa bé, xuống làng chân núi mà xin sữa
cho bé, bé không chịu uống sữa cừu. Gõ ngay cửa nhà, người đàn bà ra mở cửa,
thấy bé dễ thương nên cho tiền tên chăn cừu mà mua đứa bé cho mình. Merope, vợ
vua Polybus (vua xứ Corynth) đặt tên bé là Oedipus Rex (Oedipus nghĩa là gót
chân đỏ hay gót chân sưng danh từ HyLạp cổ xưa). Đứa bé lớn lên khỏe mạnh, làu
thông võ nghệ, chân tay chắc nịt, gươm giáo, tên nỏ chàng làu thông. Ngày kia
lên trên đền thờ Delphi, thì gặp một giáo sĩ tiên tri Pythia lập lại lời nguyền
của Apollo là Oedipus sẽ giết cha và lấy mẹ làm vợ. Oedipus kinh hoàng, nên bỏ
xứ Corynth mà trốn đi xa. Trên con đường rong ruổi, chàng thấy một cỗ xe ngựa
chạy vùn vụt đến, trên xe có 2 người, chưa kịp tránh thì bánh xe ngựa cán ngang
chân chàng trai, tên lái xe lại vụt Oedipus một roi vào mặt rồi cười khoái trá.
Oedipus tức giận, dù chân bị thương nhưng chàng vẫn rượt kịp chiếc xe ngựa, ghì
cương ngựa lại hỏi thì tên hầu cận liền rút gươm đâm Oedipus. Chàng trai né
được, thuận tay anh bẻ gươm đâm trả lại tên tài xế, trên xe có một người trọng
tuổi cũng rút gươm đâm Oedipus. Bất khả tránh, Oedipus liền trở lưỡi gươm này
đâm lại luôn một phát. Giết luôn ông già này. Chuyện nhỏ bánh xe cán ngang
chân, nay trở thành ra chuyện giết người, nếu tên đánh ngựa có lời xin lỗi
chàng thì mọi chuyện xong rồi. Nay cán chân người ta rồi còn đánh người ta nữa
như vậy còn gì đạo lý nữa…
Giải quyết xong, Oedipus hướng về thành Athens (thành
phố vô cùng lộng lẫy nhất thời đó). Lúc này dân trong thành đang cực kỳ hoảng
hốt, vì thành Athens đang bị bệnh dịch. Cứ 10 năm thì đáo trở lại không ai trị
được bệnh dịch này. Đồng thời kèm bệnh dịch thì có thêm một hung thần Sphinx
(đầu người mình sư tử), xuất hiện mai chỗ này mốt chỗ kia. Hung thần này hay ăn
thịt người ta. Trước khi ăn thịt thì thần Sphinx hỏi nạn nhân một câu: “Con vật
gì mà ban mai thì đi bốn chân, trưa thì hai chân, chiều tối thì ba chân?” Nếu
trả lời được, thì lời nguyền sẽ được tan biến theo hình ảnh của hung thần
Sphinx. Dân chúng xứ Thebans không một ai trả lời được. Cùng lúc đó, vua láng
giềng Damasistratus được lính báo rằng vua Laius bị kẻ lạ mặt giết chết trên
con đường về thành Delphi. Như vậy hoàng hậu Jocasta trở thành góa bụa rồi. Vua
ban chiếu khắp xứ Creon, luôn thành Athens, nếu ai mà giết được hung thần
Sphinx thì nhà vua sẽ chia nửa giang sơn cho người đó, và gả em gái mình là
Jocasta cho người đó. Hung thần Sphinx rất dễ giết nếu giải được câu hỏi mà
hung thần hỏi trước khi bị giết thì thần Sphinx sẽ bị biến hình bốc hơi mất lên
cung đình Zeus. Phần thưởng được dán khắp ngã tư đường, từ mọi ngã đường về
thành phố Athens. Dân Thebans càng lúc càng chết nhiều hơn và hung thần Sphinx
xuất hiện thường xuyên hơn nữa. Dân xứ Creon kinh hoàng, thành phố Athens trở
nên hoang vắng như bãi tha ma. Không một ai dám ra khỏi nhà khi màn đêm kéo
đến.
Oedipus không biết chuyện này, chàng trai trẻ đi đến
cổng thành Athens thì thấy bảng treo của vua láng giềng Damasistratus cho ai
giải được câu hỏi của thần Sphinx thì sẽ cưới được em gái vua tên là Jocasta,
rồi được chia nửa giang sơn Creon cho. Định mạng khốc liệt đang chờ chàng tại
nơi đây.
Thình lình hung thần đầu người mình sư tử Sphinx hiện
ra, trước khi xé xác chàng trai lạ mặt, thần đưa câu hỏi kết thệ (riddle) như
lần trước: “Vật gì mà ban mai đi bốn chân, trưa đến thì đi hai chân, chiều về
thì đi ba chân?” Chàng trai Oedipus Rex không do dự trả lời liền: “Đó là con
người. Lúc ấu thơ thì bò bằng bốn chân, khi lớn thì đi bằng hai chân, về già
với cây gậy thì đi bằng ba chân.” Lời thệ nguyện (riddle) được giải lập tức
hung thần Sphinx rùng mình biến hình, rồi bốc hơi tan mất trước hàng ngàn cặp
mắt sợ sệt dân thành Athens. Bệnh dịch lập tức không còn nữa. Giữ lời hứa, vua
Damasistratus làm lễ thành hôn Jocasta, em gái mình cho chàng trai trẻ phương
xa đến. Toàn dân hoan hỉ, hoàng hậu Jocasta xinh đẹp cũng nguôi ngoai tang lòng
ngày xưa. Chàng trai làm vua được hai chục năm, thì biết được tin vua trước
mình là Laius bị kẻ lạ mặt giết chết, hung thủ không tìm ra. Vua Oedipus Rex
bèn treo giải thưởng cho toàn dân tìm cho ra hung thủ giết vua Laius. Oedipus
và Jocasta có 4 người con, tên là Antigone, Ismene, Eteocles và Polyneices.
Riêng người con gái Antigone trẻ nhất, xinh đẹp và rất có hiếu với cha mẹ.
Ngày
kia, tin dữ dưa đến. Người hầu cận ngày xưa của vua Laius, người mà được lệnh
vua đem dứa bé có gót chân đỏ vào núi rừng giết chết. Hầu cận này tình cớ thấy
gót chân vua, khi vua bước qua một tảng đá cuội trên dòng suối cạn. Hầu cận này
đã già, nhưng vẫn nhớ chuyện ngày xưa. Vua Oedipus nghe được chuyện, biếtchính
mình là kẻ đã giết cha ruột. Đứa con sát thân phụ. Chuyện cũ ngày xưa trở về
tâm trí mình. Trong lúc nóng giận vì bánh xe cán ngang chân, tên đánh ngựa là
kẻ hung tàn, lại còn muốn giết mình nữa. Vì tự vệ thôi, nhưng tại sao lão già
cùng chung xe ngựa, cũng lại rút gươm đâm mình nữa? Tại sao lại có chuyện như
vậy. Chuyện nhỏ đâu đáng gì? Nếu tên đánh xe ngựa biết lời xin lỗi thì chân ta
dù đau cách mấy ta cũng nguội lòng. Vua Oedipus nghe được câu chuyện ngày xưa
của mình. Về cung điện, bỏ ăn bỏ ngủ ba ngày đêm liên tiếp. Chuyện kinh hoàng
không thể nói nên lời. Trời ơi! Vợ mình Jocasta đang say ngủ trên giường có
phải là vợ mình hay không? Còn người nào mà ngày xưa đã cho mình bú, mang nặng
đẻ đau mình, nay lại là vợ mình sao? Còn mấy đứa con nữa, Antigone xinh đẹp có
phải là con mình hay là em gái của mình vì Jocasta sanh ra? Không thể được.
Trời ơi, ngàn lần không thể được như vậy đâu. Hỡi Thượng Đế, hỡi Thần Zeus, tại
sao lại là con? Như vậy tình sao đây? Tiếp tục cùng Jocasta yên vui hạnh phúc
trên ngai vàng này chăng? Không! Trăm ngàn lần không. Trời ơi!
Ngày
kia, vua Oedipus không chịu nỗi cắn rứt lương tâm, không muốn thấy Jocasta,
Antigone, Ismene, Eteocles. Vua Oedipus Rex bèn dùng tay móc cặp mắt của mình.
Trọn đời mù lòa. Ông bỏ cung điện mà lang thang trong rừng sâu núi thẳm. Cô gái
xinh đẹp nhất, Antigone thương cha mình tự dưng nổi điên mà tự làm đui mù, nên
Antigone khóc nức nỡ mà chạy theo cha vào rừng sâu núi thẳm. Đi xin ăn nuôi cha mình, lo giấc ngủ
cho cha mình. Một lòng hiếu thảo vô biên, nhưng cô không hiểu tại sao cha mình,
từ khi đui mù thì lại tìm cách xa lánh mình, không muốn nói chuyện gì với mình
hết, ngày đêm than khóc mà thôi. Cha mình cũng không gọi tên mình Antigone một
cách trìu mến như ngày xưa? Tại sao như vậy? Mình đâu có một lần nào lầm lỗi
với cha mình đâu? Tại sao như vậy? Antigone không trả lời được. Antigone chỉ
khóc thầm mà thôi khi đêm về. Còn mẹ, tuy vắng mình, nhưng vẫn còn mấy anh em
an ủi, còn cha chỉ một mình cô đơn nơi rừng sâu núi thẳm. Không, mình phải theo
cha mình trọn nghĩa mới được. Tội nghiệp cha tôi. Tại sao cha phải làm như vậy?
Cho tới ngày kia cha ruột mình chết héo rủ trong một ngôi đền Eumenides ở
Colone. Chôn cất cha xong, Antigone trở về Athens. Nhưng câu chuyện thương tâm
lại đổ thêm vào đầu cô gái vô tội. Người ta đã kết án tử anh mình, vì không
tuân lệnh Creon, đã cử hành nghi lễ chôn cất cho anh mình Polynice, vì người ta
kết tội anh mình là kẻ phản quốc theo địch. Antigone bị bắt, rồi Thượng hội Đồng
kết án tử nàng. Bắt giam sống trong ngôi nhà mồ của dòng họ. Cửa nhà mồ bị bít
kín, ngày đêm dưới mộ sâu, Antigone chiu không nỗi thảm cảnh xảy ra liên tiếp
cho đời mình. Antigone đành quyên sinh. Dân làng sau đó lập một ngôi mộ mới
chôn nàng. Nhưng tại ngôi mộ của cô gái đầy lòng hiếu thảo với cha, lòng thương
anh và mẹ, có một loài hoa lạ mọc trên ngôi mộ của mình. Dân thành Athenes
không dám gọi thẳng là tên Antigone, mà người ta gọi tắt là hoa Tigone.
Nho nhỏ, sắc hoa có năm, màu đỏ thắm, có năm màu tang
trắng. Mau tàn, nhưng đầy sự lung linh sống động. Loài hoa Tigone… “
HOA MƯỜI GIỜ
Truỵện kể rằng ở một đất nước nọ,
quanh năm chỉ có mùa đông băng giá, người đời không hề biết tới sư tồn tại của
một ngôi làng nhỏ bé, nơi tràn ngập ánh nắng và qui tụ tất cả các loại hoa đẹp
trên đời. Đó cũng là nơi yên tĩnh nhất và thơ mộng nhất trên thế gian. Trưởng
làng là một người đàn bà góa chồng, 1 mình nuôi dưỡng đứa con trai độc nhất.
Thời gian cứ thế trôi đi, thằng bé năm nào còn nằm trong nôi nay đã to khoẻ và
tuấn tú lạ thường. Kế thừa bản tính nhân hậu của người mẹ, hắn thường hay giúp
đỡ dân làng trong những việc nặng nhọc nên rất được mọi người quí mến, nhà nào
có con gái đến tuổi lấy chồng cũng ước ao con mình được lấy hắn về làm rể.
Rồi ngày đó cũng tới, trái tim của cậu bé bắt đầu biết
rung động : phải hắn đã yêu. Trai tài gái sắc, người con gái có một vẻ đẹp
thuần khiết khiến ai ai cũng ngưỡng mộ. Ban ngày 2 người nắm tay nhau tản bộ
trên bờ biển hoặc dong duổi trên những ngọn đồi phủ đầy cỏ xanh, đi xuyên qua
những bóng cây cổ thụ râm mát. Buổi trưa họ trải mình trên tấm nệm cỏ. Xế chiều
họ cùng nhau nô đùa trên bãi cát trắng cho tới chiều tối. Cô gái mồ côi cha mẹ
từ bé nên chỉ có người con trai là người thân duy nhất nên dành trọn tất cả
tình cảm vào thằng bé. Ngược lại cậu trai còn người mẹ già nên thường phải về
nhà trước khi mặt trời lặn. Cô gái lại phải chờ tới sáng hôm sau để được gặp
chàng trai.
Ngày này qua ngày khác, cứ đúng 10 giờ hai người hẹn
nhau, tay trong tay vui đùa trước biển xanh. Tình yêu của họ tưởng chừng không
gì có thể chia rẽ được. Nhưng một ngày nọ chàng trai không tới chỗ hẹn, cô gái
đứng đợi, lâu rất lâu nhưng vẫn không thấy bóng dáng của người con trai.
Rồi thời gian trôi qua, cô đã chờ được 1 ngày nhưng
vẫn không thấy hắn đâu, ngay lúc đó, người con gái tưởng chừng như bầu trời
muốn sụp đổ. Cô muốn òa khóc nhưng sợ rằng người con trai tới nơi thấy đôi mắt
đỏ hoe của mình sẽ buồn và lo lắng nên cô nuốt những giọt nước mắt đó vào trong
lòng.
Thời gian lại trôi qua cô gái đã chờ được 1 tuần, cô
muốn chạy đi tìm chàng trai nhưng sợ hắn sẽ tới và không thấy cô đâu rồi sẽ bỏ
đi. Nghĩ vậy nên cô ghìm bước chân lại và tiếp tục chờ. Cho tới khi sức lực cạn
kiệt cô gái quị xuống và trút hơi thở cuối cùng, trước khi chết cô không hề oán
hận người con trai mà chỉ tự trách tình yêu của mình dành cho người con trai
không đủ để tiếp sức cho cô ta tiếp tục chờ đợi và hy vọng.
Sau này xác của cô gái dược sóng mang ra giữa biển và
chìm vào trong lòng của đại dương. Nơi người con gái ngã xuống mọc lên 1 loài
hoa màu tím, cứ khi chuông đổ 10h là hoa lại nở rộ, từng cánh hoa một hứng lấy
những hạt nắng của mặt trời để sưởi ấm cho những giọt nước mắt chất chứa trong
lòng của người con gái. Người ta ví hoa 10 giờ chính là hiện thân của cô gái si
tình đó, hoa nở tượng trưng cho lời hẹn ước năm nào của cô đối với chàng trai;
Dù thời gian có trôi đi nhưng lời hứa của cô không hề phai tàn, cô vẫn tin vào
1 câu hẹn ước và vẫn tiếp tục đợi cho dù người con trai đó sẽ không bao giờ
tới.
TRUYỀN THUYẾT HOA BAN
Tình yêu sơn cước, lòng hiếu thảo, biết ơn, bà chúa
của lễ hội
Hằng năm, cứ vào dịp tháng 2 âm lịch, thời tiết nắng
ấm, ở vùng Tây Bắc hoa ban bắt đầu nở trắng núi, trắng rừng. Lúc này cũng là
thời kỳ lúa chiêm gặp mưa xuân, xanh mơn mởn trên các cách đồng lúa nước.
Về loài hoa đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, truyền
thuyết của người Thái kể rằng: Thuở ấy, có một chàng trai tên là Khum đem lòng
yêu cô gái tên là Ban. Khum vừa giỏi làm nương, lại có tài săn bắn. Ban thì
khéo tay dệt vải lại có giọng hát làm say đắm nhiều chàng trai. Thế nhưng, cha
nàng Ban vì ham giàu nên đã đem gả nàng cho con trai nhà tạo mường, vốn là một
thanh niên lười nhác, lại có tật gù lưng.
Mặc cho cô gái hết lời van xin, người cha vẫn không từ
bỏ ý định, và ông đã bàn bạc cùng với nhà tạo mường sửa soạn làm lễ cưới cho
hai người. Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản của Khum gặp chàng
để cầu cứu. Nhưng chẳng may khi đến nhà Khum, thì được tin chàng đã theo cha đi
mua trâu ở bản xa. Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu của mình, buộc vào nơi cầu
thang nhà người rồi bươn bả đi tìm chàng. Nàng đi hết núi này, rừng khác, gọi tên
người yêu đến khản cả giọng, nhưng chàng ở xa nào có nghe thấy. Cuối cùng kiệt
sức nàng ngã gục sau khi vượt qua một dãy núi cao.
Nơi nàng nằm xuống sau đó mọc lên một cây hoa mang búp
trắng như búp tay người con gái. Và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan ra khắp
núi rừng Tây Bắc, và hằng năm cứ mỗi độ xuân về, hoa nở trắng như bông. Người
ta đặt tên loài hoa đó là hoa ban.
Về phần Khum, sau khi về đến nhà, thấy chiếc khăn piêu
của người yêu vắt nơi cầu thang, biết là có chuyện chẳng lành, bèn vội vã đi
tìm nàng. Dò hỏi bà con bên bản người yêu, Khum biết được là nàng đã bỏ nhà ra
đi, còn đi đâu thì không rõ. Thế là chàng trai lên đường đi tìm người yêu, đi
mãi hết mường này, bản khác mà vẫn không tìm thấy bóng người yêu. Cuối cùng,
chàng kiệt sức, ngã xuống. Sau khi chết, chàng hoá thành con chim sống lẻ loi
trong rừng, và cứ đến mùa hoa ban nở, lại hót vang như tiếng gọi người yêu tha
thiết từ năm nào.
Sơn La, cứ xuân sang, hoa ban nở trắng trên các sườn
núi, thì nam nữ thanh niên trong các bản mường lại rủ nhau đi hội chơi núi, hái
hoa mừng xuân. Đây cũng là dịp nam nữ thanh niên vui chơi, ca hát, đánh đàn
tính, thổi kèn, múa xoè, trao và đón nhận tình yêu.
Từ sáng tinh mơ của ngày hội, tiếng trống, tiếng
chiêng, âm vang truyền lan núi rừng. Các bếp nhà sàn bập bùng lửa đỏ: đồ xôi,
luộc gà, thái măng; có nhà mổ lợn bày cỗ. Rượu cần từng vò lớn, nhỏ được bê ra
để chuẩn bị đãi khách. Đó là những công việc phần lớn thuộc về lớp trung niên
và người già. Còn những chàng trai, cô gái thì áo quần, khăn váy chỉnh tề, gọi
nhau í ới và cùng đổ ra đường dẫn đến những cánh rừng có nhiều hoa ban nở. Họ
chọn những cành hoa đẹp nhất, vừa hé nụ đều nhất để tặng người yêu và biếu bố
mẹ. Theo quan niệm của người Thái, hoa ban không chỉ tượng trưng cho tình yêu,
mà còn là biểu tượng của lòng hiếu thảo, biết ơn.
Cũng trong ngày hội này, trên dòng Nậm Na, thường diễn
ra các cuộc hát giao duyên của nam nữ trên thuyền. Thuyền trôi nhẹ trên dòng
nước; các cô gái duyên dáng che ô ngồi ở mũi thuyền, bên cạnh những bó hoa ban
tươi thắm vừa mới hái, cất lên tiếng hát những bài dân ca mượt mà, giãi bày cảm
xúc và tâm trạng riêng tư, trong khi các chàng trai ngồi ở phía đuôi thuyền,
vừa lái thuyền, vừa đánh đàn tính, thổi sáo.
Người Thái ở huyện Mai Châu (Hoà Bình) lại có thủ tục
mở hội Xên bản, Xên mường. Hội mở vào dịp hoa ban nở, nên còn có tên là hội Hoa
ban. Hội tổ chức định kỳ hằng năm, nhưng quy mô to hay nhỏ còn tuỳ thuộc vào
thời tiết có liên quan đến sự được, mất của mùa màng năm đó. Vào khoảng tháng
giêng, người Thái rất chú trọng đến tiếng sấm đầu năm. Theo quan niệm lâu đời
của đồng bào ở đây, tiếng sấm là dấu hiệu linh thiêng, là “lời phán quyết của
vua trời” có liên quan đến cuộc sống của bản mường, của mùa màng năm đó.
Hội Xên bản, Xên mường mở vào mùa hoa ban nở là hội cầu
mùa, cầu phúc của người Thái. Họ gửi gắm vào đó những ước vọng lớn lao về một
cuộc sống bình yên, no ấm nơi bản mường, đồng thời cũng là dịp thi tài, vui
chơi, trai gái tìm hiểu, tâm tình qua tiếng hát, tiếng đàn…
HOA HƯỚNG DƯƠNG
Khi các cô gái của thần Mặt Trời tắm táp xong, đáp
thuyền du ngoạn ra tận biển khơi thì nàng út mới sực nhớ ra là nàng đã bỏ quên
chiếc vương miện bằng vàng của mình trên cành cây sồi ven bờ. Không có vương
miện, nàng không dám về nhà và nàng tha thiết xin các chị hãy quay thuyền lại.
Nhưng các chị kêu mệt, thoái thác và chỉ muốn được đi
nằm ngủ ngay, còn nếu nàng út lơ đễnh quá đáng như vậy thì hãy tự quay lại bờ
một mình, và cứ đứng chờ ở đó một mình cho đến sáng, cho đến khi các chị lại
trở lại tắm lần nữa.
Nàng út bơi đến bờ…. nhưng thật là khủng khiếp : chiếc
vương miện không còn trên cành sồi nữa! Dưới gốc cây là một chàng trai tuấn tú,
tóc đen, mắt xanh màu nước biển. Chàng giơ cả hai cánh tay vạm vỡ về phía cô
gái và ôm chầm lấy nàng vừa nói những lời ngọt ngào tựa mật ong vàng.
- Nàng hãy ở lại đây mãi mãi với ta, đôi ta sẽ yêu
nhau và đừng bao giờ xa nhau – Chàng thì thào rồi lại hôn nàng thật lâu và thật
thắm thiết.
- Em ở lại trần gian sao được, hỡi chàng? Ðêm tối ở
đây mịt mùng, lạnh lẽo lắm, mà em đã quen ở lầu son, gác tía, nơi dưới từng
trần nhà đều có những chùm ngọc tía sáng chói; ban ngày em ngồi dệt chỉ vàng,
tối đến đi tắm biển thật thoả thích. Trong những buổi vũ hội, chúng em nhảy múa
cùng các chàng trai của Hằng Nga và cưỡi những con ngựa bạc. Chàng có thể hứa
hẹn với em một cuộc sống như thế nào ở nơi trần thế này? – Con gái Thần Mặt
Trời hỏi.
- Ta hứa với nàng sẽ có những buổi sáng đầy sương làm
mát dịu đôi chân nàng, sẽ có tiếng chim ca, tiếng lá cây rì rầm làm vui tai
nàng. Ta hứa với nàng những ngày lao động cật lực và cái mệt mỏi vào những buổi
chiều. Còn đêm đến, nàng sẽ được sưởi ấm trong vòng tay ôm ấp của ta – con trai
Thần Ðất nhẹ nhàng đáp lời.
- Chàng hãy chỉ cho em vẻ đẹp tuyệt vời của trần thế
đi, khi đó em sẽ quyết định có ở lại với chàng hay là quay về quê hương – con
gái Thần Mặt Trời nói.
Và con trai Thần Ðất đã dẫn nàng út tới bên bờ sông,
nơi có những cây Anh Ðào nở hoa và tiếng hoạ mi líu lo. Chàng trai hỏi:
- Nàng đã được nghe bài ca tuyệt diệu ấy bao giờ chưa?
- Chưa, – nàng út thú nhận.
- Thế nàng đã được nghe tiếng sóng nước ồn ào của
những con sông đổ ra biển cả chưa? Nàng cảm thấy hương hoa Anh Ðào thế nào? Và
nàng đã biết tình yêu là gì chưa?
- Chàng chính là tình yêu của em, em sẽ ở lại đây với
chàng – nàng út sung sướng hứa. Và con trai Thần Ðất bèn dẫn nàng tới một căn
hầm để nàng được thấy lại vương miện của mình.
Cứ sáng sáng, Thần Mặt Trời lại ra rả gọi con gái quay
về thiên cung, đồng thời không quên báo cho nàng biết, nếu nàng quyết chí ở lại
hạ giới thì nàng sẽ phải làm việc quần quật ngoài đồng. Nhưng nàng út khăng
khăng không chịu vâng lệnh cha, bởi lẽ nàng cảm thấy cuộc sống nơi trần thế này
thú vị hơn nhiều so với ở thiên cung, nơi mà nàng đã chán ngấy những chuỗi ngày
lê thê ngồi bên khung cửi. Ở trần thế nàng được nghe không biết chán tai tiếng
sông nước chảy rì rào, tiếng hoạ mi lảnh lót và được thưởng ngoạn những mùa hoa
Anh Ðào rực rỡ. Thần Mặt Trời đành phải gửi của hồi môn cho nàng út, và nàng đã
làm lễ thành hôn với chàng trai trần thế.
- Ta không ưa chàng trai Thần Ðất, song ta không thể
cấm đoán tình yêu của con được. Nhưng không nên vì ái tình mà con xem thường
quê hương, tổ quốc. Sẽ xảy ra chuyện gì, nếu con thấy buồn nhớ nhà? – Thần Mặt
Trời hỏi và khép màn mây lại có ý báo rằng, cuộc trò chuyện với con gái đã chấm
dứt.
- Con sẽ không cầu xin trở về đâu! – nàng út kêu lên
một cách kiêu ngạo.
Hôn lễ vừa xong, mẹ Thần Ðất đã bắt con dâu phải lao
động. Nàng phải ra vườn coi sóc đàn ong, còn công việc khác xem chừng đôi tay
trắng ngần của nàng không cáng đáng nổi. Bây giờ hàng ngày nàng út phải đứng
chôn chân giữa vườn trông coi đàn ong để chúng khỏi lạc vào tổ khác. Ngày tháng
cứ trôi qua bình lặng, tẻ ngắt như tiếng ong rù rì. Còn đâu nữa những buổi dong
chơi trên lưng ngựa bạc, những đêm nhảy múa cùng các chàng trai của Hằng Nga,
những chuyến du ngoạn bằng thuyền trên biển lớn cùng các chị?
Những con ngựa bị xua đuổi ra cánh đồng nặng nề lê
từng bước còn chàng trai Thần Ðất bị công việc đồng áng hút hết sức lực nên
chẳng còn thời gian nói với nàng những lời lẽ âu yếm nữa. Một hôm nàng út đòi:
- Chàng hãy mang hoa Anh Ðào về cho em!
- Hoa Anh Ðào chỉ nở có mùa thôi – chàng trai giận dữ
đáp.
- Hãy mang tiếng hót hoạ mi về cho em nghe!
- Hoạ mi đâu phải lúc nào cũng cất tiếng hót.
- Ðã lâu rồi chàng chưa hôn em. Chả lẽ tình yêu của
chàng không còn vĩnh hằng nữa sao?
- Tình yêu không là vĩnh hằng.
- Vậy thì cái gì là vĩnh hằng, thưa chàng?
- Lao động là vĩnh hằng – chàng trai đáp và cầm cái
liềm đi ra đồng.
Con gái của Thần Mặt Trời lại phải ở nhà một mình.
Nàng buồn nhớ nơi chôn rau, cắt rốn đến nỗi mất cả lòng kiêu ngạo bấy lâu nay,
nàng quay về phía Mặt Trời da diết cầu xin :
- Hỡi Thần Mặt Trời kính yêu của con, xin người hãy
chấp thuận lời giãi bày của con đây. Hiện giờ con rất nhớ quê nhà. Con thường
nằm mơ thấy những con đường của tuổi ấu thơ, thường nghe các chị dệt trên khung
cửi rào rào. Người hãy thương con và cho con được trở về thiên cung!
Thần Mặt Trời chỉ im lặng.
Nàng út vẫn không ngừng van xin :
- Hỡi người cha đáng kính, chẳng nhẽ Người không cảm
thấy đứa con gái của Người đang bất hạnh trên đất khách, quê người ? Người hãy
gọi con về, nếu Người không muốn thừa nhận con là con gái nữa thì con xin làm
kẻ hầu hạ Người.
- Con gái ta ở hạ giới quá lâu rồi, đến nỗi đôi chân
con đã bén rễ, khó mà bứt ra được. Giờ đây, Cha không thể giúp con được nữa.
Thần Mặt Trời vừa dứt lời, Người dùng ngay chiếc khăn
mây trắng che kín hai mắt. Những giọt nước mắt của Người như những giọt thủy
tinh trong suốt cứ rơi lã chã xuống đôi tay của con gái.
Nàng út toan nhấc đôi tay lên, song mặt đất này đã giữ
chặt lấy nàng. Và nàng đã phải ở lại trần thế trong tình trạng như vậy, để rồi
sau đó biến thành một bông hoa, luôn luôn hướng về phía mặt trời, về phía quê
cha, đất tổ. Chính vì thế loài hoa này có tên gọi: Hoa Hướng Dương.
Ngày xưa có một em bé nghèo, mẹ mất sớm nên chỉ được
sống với cha. Cha là chỗ để em nương tựa, nhưng cũng là người em phải chăm sóc,
vì từ ngày mẹ không còn, cha em thường bị ốm đau luôn… Lúc mẹ còn sống, em cũng
được đi học. Sau khi mẹ mất, em đành học nghề để kiếm tiền nuôi cha. Em rất
khéo tay nên đến học chạm trổ với một ông bác họ rất giỏi về nghề này. Năm đó
cha em ốm khá nặng. ông bác họ đã hết sức giúp đỡ nhưng sau đó đành chịu vì ông
cũng nghèo.
Ông mách cho em bé biết là ở vùng dưới có một tên nhà
giàu đang cất nhà mới, cần thợ chạm trổ cột kèo. Em liền nhờ ông bác họ chăm
sóc cha hộ rồi xách đồ nghề đi ngay. Em mong sẽ kiếm được một ít tiền về thuốc
thang cho cha. Gặp em, tên nhà giàu cho biết là hắn đã thuê đủ thợ rồi. Nhưng
hắn lại hỏi em:
-Bây giờ tao không cần thợ chạm trổ mà cần một người giúp tao chuyện khác.
-Bây giờ tao không cần thợ chạm trổ mà cần một người giúp tao chuyện khác.
-Thưa ông chuyện gì?
-Mày biết ai có tài, cây chết rồi, vật chết rồi, người
chết rồi, vẫn làm sống lại được thì mách cho tao, tao sẽ thưởng tiền và cho một
ít thóc gạo. Tên nhà giàu này tiền của thì nhiều, nhưng lại không có một tí tẹo
thông minh nào. Đã thế hắn lại thích tỏ ra ta cũng là người có chút ít chữ
nghĩa và tài trí. Vì vậy, hắn thích chơi với những người có tài để học điều này
điều nọ rồi đi khoe với bà con họ hàng hoặc với người này người kia. Nghe hắn
bảo cần có một người có tài, cây chết rồi, vật chết rồi, người chết rồi, vẫn
làm sống lại được, em bé liền nhìn ra sân, nhìn lên bàn thờ nhà hắn ta, ngẫm
nghĩ một giây lâu rồi nói:
-Thưa ông, những việc ấy, ông có thể giao cho con…
-Con ông nào? Con nhà ai?
-Con chứ còn con nhà ai nữa?
-Mày ấy à?
-Dạ!
-Mày có thể cứu cây, cứu vật, cứu người chết rồi sống lại được à?
-Mày có thể cứu cây, cứu vật, cứu người chết rồi sống lại được à?
-Dạ!
-Mày tự làm à?
-Mày tự làm à?
-Dạ!
-Mày làm không được thì sao?
-Mày làm không được thì sao?
-Thì con xin ở làm người giúp việc không công cho ông
trong ba năm.
-Được!
-Nhưng còn nếu con làm được thì sao?
-Nhưng còn nếu con làm được thì sao?
-Tao sẽ thưởng cho mày một chục quan tiền và một chục
ông thóc. Em bé liền chỉ ra một dây bầu sắp leo lên đến giàn ở ngoài sân tên
nhà giàu và nói:
-Xin ông cứ cắt ngọn, nhổ hết rễ cái dây bầu kia, con
làm phép, dây bầu sẽ sống lại cho ông xem. Tên nhà giàu đần độn nghe nói liền
làm theo ngay. Em bé cầm cái ngọn bầu, chùm rễ bầu ra về, nói chắc:
-Sáng mai, mời ông cứ dậy sớm ra mà xem! Sáng hôm sau, tên nhà giàu gắng dậy sớm (vì hắn ta vốn quen thói dậy muộn) ra chỗ cái gốc bầu bị ngắt ngọn, cắt rễ thì đã thấy cây bầu sống lại thật. Khi em bé đến, hắn ta mở mắt ra mà nhìn em rồi khen:
-Sáng mai, mời ông cứ dậy sớm ra mà xem! Sáng hôm sau, tên nhà giàu gắng dậy sớm (vì hắn ta vốn quen thói dậy muộn) ra chỗ cái gốc bầu bị ngắt ngọn, cắt rễ thì đã thấy cây bầu sống lại thật. Khi em bé đến, hắn ta mở mắt ra mà nhìn em rồi khen:
-Hi! Hi! Mày giỏi lắm! Dây bầu sống lại thật rồi! Mày
làm như thế nào, thử nói tao nghe!
-Thưa ông, để con cứu vật, cứu người, nhận thưởng của
ông rồi con hãy nói luôn một thể.
-Hi! Hi! ừ! Như vậy cũng được! Em bé lại chỉ con gà
trống tơ đang đi trên sân rồi nói:
-Thưa ông, ông cứ cho người nhà bắt con gà trống tơ
kia thịt đi, sau đó ông cứ cho con bộ lông của nó con mang về nhà, ngày mai con
sẽ mang nó sống lại nộp cho ông! Tên nhà giàu ngu ngốc liền sai người nhà làm y
lời em bé bảo. Em bé nhận bộ lông gà đủ các màu xanh trắng, tía ra về. Hôm sau
em trở lại, mang theo một con gà trống tơ, đưa cho tên nhà giàu xem và nói:
-Con đã làm phép cho nó sống lại rồi. ông xem có phải
đúng là con gà nhà ông đã bị giết thịt hôm qua không? Tên nhà giàu đần độn ngu
si càng trố mắt ra mà nhìn em bé, hắn nói:
-Hi! Hi! Đúng là nó rồi! Giỏi thật! Mày làm cách nào
mà lại cứu sống được nó. Nói ngay cho tao nghe đi.
-Con đã nói từ đầu là xong cả ba việc, cứu cây, cứu
vật, cứu người, nhận xong tiền thưởng, thóc thưởng con mới nói kia mà! Tên nhà
giàu đành phải nhượng bộ lần nữa. Em bé liền nhìn lên bàn thờ tên nhà giàu nói:
-Bây giờ ông cho con mượn cái bức vẽ ông cụ nhà, để
con đem về một ngày, sáng mai con sẽ mang ông cụ sống lại đến cho ông. Tên nhà
giàu ngu ngốc lại làm đúng theo lời em bé. Hắn ta vừa bàng hoàng, vừa kinh ngạc
hỏi lại:
-Ngày mai, chú sẽ đưa ông cụ tôi sống lại đến đây à?
-Dạ! Tên nhà giàu cứ đứng ngẩn người ra mà nhìn em bé
mang cái bức vẽ ra về… Hôm sau em bé cầm bức vẽ trở lại, tên nhà giàu hỏi ngay:
-Ông cụ nhà tôi sống lại chưa?
-Dạ rồi!
-Sao chưa thấy ông cụ đâu cả! Em bé liền chỉ vào cuộn
giấy nói:
-Dạ,
ở trong này rồi! Nói xong em bé mở cuộn giấy ra. Tên nhà giàu trợn mắt hỏi:
-Thế
này mà gọi là sống à?
-Dạ!
-Mày điên à?
-Mày điên à?
-Dạ
không! Thưa ông vậy ông bảo cụ này chết à?
-Không
chết thì sống đấy? Em bé điềm tĩnh trả lời:
-Dạ, sống thật đấy chứ! Bởi vì người chết thì phải
nhắm mắt. Mắt ông cụ vẫn mở to thế này, sao lại bảo là chết! Và người chết thì
làm sao cười được. ông cụ cười thế này mà lại bảo là chết rồi sao? Như thế là
em bé đã vẽ lại bức tranh, ông cụ trong bức vẽ mới lại hơi mỉm cười. Tên nhà
giàu đần độn, ngu ngốc không biết làm sao đành phải chịu thua cuộc em bé. Lão
ta còn khen:
-Hi! Hi! Mày khôn lắm! ông phải chịu là mày giỏi…
Nhưng còn cái con gà trống tơ và dây bầu thì mày đã làm như thế nào?
- Ông cứ mang tiền và thóc thưởng ra đây, con nhận
xong, con sẽ nói. Tên nhà giàu liền vào lấy tiền và sai người nhà đong thóc
thưởng cho em bé. Nhận thưởng xong, bấy giờ em bé mới nói:
-Thưa ông, cái dây bầu kia sống lại là nhờ thế này.
Con đã chọn một cái dây bầu giống như cái dây bầu nhà ông, đang đêm mang đến
trồng lại, chỉ có thế thôi! Tên nhà giàu nghe nói cứ lặng người đi, vì xấu hổ.
Em bé lại nói tiếp:
-Còn con gà trống tơ, thưa ông, nó cũng na ná như vậy.
Con đã để ý và biết là trong xóm con có một con gà tía, rất giống con gà mà ông
đã cho thịt. Gà rất nhiều con trông giống nhau, ông muốn có con nữa, con sẽ có
ngay cho ông. Con bỏ tiền ra mua đem nộp cho ông rồi sẽ có tiền thưởng to hơn
gấp nhiều lần mang về. Tên nhà giàu bấy giờ mới thấy hết cái đần độn, ngu ngốc
của mình. Lão ta ôm đầu than thở:
-Chỉ có vậy mà mình chẳng đoán ra! Nhưng dù sao thằng
bé này vẫn là đứa giỏi. Hi! Hi! Thưởng cho nó cũng phải lắm. Nghĩ đến chuyện
rồi mình sẽ bắt chước em bé và sẽ có khối người phục mình, hắn vui vẻ nhìn em
bé nhận tiền, nhận thóc ra về. Có lẽ trong việc này, hắn đã tỏ ra bớt phần ngu
ngốc. Thấy con mang mười quan tiền và mười ông thóc về, người cha mừng rỡ lạ
lùng. Nghe con kể lại chuyện, ông đang ốm cũng phải cười khẽ mấy tiếng… Người
cha vừa khỏi bệnh thì tiền kia thóc kia cũng không còn nữa. Mà ngày giỗ mẹ sắp
đến rồi. ông liền nói với con:
-Thôi con ạ, cứ nấu bát cơm, kho đĩa cá cúng mẹ là
được rồi. Nhưng em bé hiếu thảo nào đâu chịu vậy. Em lại nghĩ đến tên nhà giàu
tuy đần độn, ngu ngốc nhưng không đến nỗi keo kiệt kia. Em nghĩ bụng:
-Lần trước ông ta đố mình, bây giờ mình có cái gì đố
lại nhỉ! Em định vậy nhưng chưa nghĩ ra được cách nào. Trước mắt em phải lo giỗ
mẹ cái đã. Một bát cơm, một đĩa cá, nhưng cũng có tí hương hoa cho mẹ vui lòng.
Em sẽ gắng tìm mua một nén hương. Còn hoa? Đang mùa cây khô, lá vàng, cả xóm
chẳng thấy cái hoa nào để xin cả. Không có thì phải làm ra vậy!
Em bé vốn khéo tay lại vô cùng thông minh ấy liền chọn
những lá lúa to đẹp nhất, cắt ra thành những sợi thật nhỏ rồi bó túm lại, bên
dưới thắt thật chặt, còn bên trên thì cho xòe ra. Em lấy kéo tỉa thật đẹp, thật
tròn. Sau đó em lại đi hái mấy cái lá xanh, buộc thêm vào ở dưới nhìn như cái
đài hoa. Em làm một chùm năm cái, cắm vào ống tre, đặt lên bàn thờ cúng mẹ.
Người cha thấy thế liền hỏi con:
-Con có thứ hoa gì mà lạ vậy? Em bé mỉm cười, ngẫm
nghĩ một lát rồi đáp:
-Hoa trăm tuổi đó mà cha! Hoa để cúng mẹ rồi mẹ sẽ phù
hộ cho cha sống thật lâu với con đó!
-Mới nhìn, cha cứ tưởng là hoa thật. Lời nói của người cha bỗng làm cho em bé này sinh ra một ý mới. Vậy là sau khi cúng mẹ, em liền đem một bông hoa kia đến tên nhà giàu và nói:
-Mới nhìn, cha cứ tưởng là hoa thật. Lời nói của người cha bỗng làm cho em bé này sinh ra một ý mới. Vậy là sau khi cúng mẹ, em liền đem một bông hoa kia đến tên nhà giàu và nói:
-Tôi có bông hoa lạ mang đến để biếu ông và cám ơn ông
đã thưởng cho tôi tiền, thóc dạo nào. Tên nhà giàu vui vẻ nhận hoa rồi hỏi lại:
-Hoa này là hoa thật hay hoa giả?
-Muốn thật thì nó thật mà muốn giả thì nó giả.
-Vì sao lại thật? Vì sao lại giả?
-Thật vì nó có thật mà giả vì nó không phải từ cây mà
từ tay người làm ra. Em bé trả lời xong tiếp luôn:
-Lần trước ông ra bài cho con làm. Lần này con xin phép được đố ông một câu vì con nghe nói ông giỏi về chuyện giải các câu đố lắm. Tên nhà giàu nghe nói, gan ruột cứ nở nang cả ra.
-Lần trước ông ra bài cho con làm. Lần này con xin phép được đố ông một câu vì con nghe nói ông giỏi về chuyện giải các câu đố lắm. Tên nhà giàu nghe nói, gan ruột cứ nở nang cả ra.
-Ừ, đố đi!
-Con đố ông hoa này có bao nhiêu cánh. ông mà đoán
trúng, con sẽ đến ở giúp việc không công cho ông ba tháng.
-Còn nếu không đoán đúng?
-Điều đó xin tùy ông! Con chỉ xin nói là hiện nay con
đang cần vải để may cho cha con một bộ quần áo mới. Tết sắp đến rồi.
-Được, tao mà đoán sai, tao sẽ cho mày mấy thước vải
về may áo cho cha mày.
-Dạ, vậy thì ông đoán đi! Tên nhà giàu nhìn vào bông
hoa một lúc rồi nói:
-Tao đếm có được không?
-Đếm thì không phải là đoán nữa rồi. Nhưng xin ông cứ
đếm. Tên nhà giàu thử đếm mà không tài nào đếm được vì cánh hoa nhiều quá, cứ
xúm xít xen lẫn vào. Không làm sao biết rõ cánh hoa nào đã đếm, cánh hoa nào
chưa đếm.
-Tao mở ra đếm có được không?
-Mở ra thì càng không phải là đoán nữa rồi. Nhưng xin
ông cứ mở. Tên nhà giàu liền mở bông hoa ra, bắt đầu đếm. Ông ta đếm khá vất
vả. Vì những cánh hoa bé và nhiều quá. Có lúc vừa đếm xong được một khóm gió
bỗng thổi tung làm lẫn những cánh hoa chưa đếm vào. Có lúc chính ông ta quên
mất là mình đã đếm đến chục thứ mấy, tám mươi
hay chín mươi… Nhưng ông ta vẫn quyết đếm cho kỳ được.
Ông ta hớn hở trả lời luôn:
-Bông hoa này có vừa đúng một nghìn cánh! Em bé liền
hỏi lại:
-Ông bảo là một nghìn cánh?
-Hi! Hi! Chứ sao nữa! Mày đã chịu thua tao chưa nào?
-Vậy
thì ông sai, sai to rồi!
-Sao
lại sai! Mày đếm đi!
-Thưa
ông tôi đã đếm rồi! Phải nói là ông đã đếm đúng nhưng mà vẫn sai.
-Hi!
Hi! Thằng này nói lạ: đúng mà lại sai! Như vậy là thế nào?
-Dạ
vì ông đã quên rằng: Hoa nào thì cũng có cánh và có nhụy, ông đã đếm cả cánh và
nhụy gộp vào với nhau rồi.
-Cái nào là cánh, cái nào là nhụy?
-Thưa
ông, những cái ngắn hơn nhỏ hơn một chút là nhụy. Đây con sẽ chỉ cho ông xem.
Em bé liền nhặt ra những sợi rơm nhỏ hơn và ngắn hơn một tí rồi bảo:
-Ông
xem đấy là nhụy đâu phải là cánh!
-Nhụy
thì nó nằm ở giữa, sao nhụy này lại lẫn lung tung?
-Dạ,
vì bông hoa này gồm nhiều hoa nhỏ ghép lại, mỗi hoa có bốn cánh và một nhụy ở
giữa.
-Vậy
theo mày có bao nhiêu cánh, bao nhiêu nhụy?
-Tám
trăm cái cánh, hai trăm cái nhụy! Một lần nữa, tên nhà giàu lại phải chịu thua
em bé.
-Hi!
Hi! Thằng này nói phải! Hoa thì phải có nhụy chứ! Tao quên, tao quên! Được, tao
sẽ thưởng cho mày! Nhưng mày phải buộc lại cái bông hoa này để nó cho tao! Tao
sẽ đem đi đố người khác xem họ có bị quên như tao không? Tao được cuộc, tao sẽ
còn được to gấp mấy mày!
Em
bé nhận được mấy thước vải về may áo Tết cho cha. Em kể hết đầu đuôi câu chuyện
cho cha nghe. Lần này không còn bị ốm như lần trước, người cha đã bật lên cười
thành tiếng.
Ăn
Tết xong, người bác họ đi làm ở xa về bảo cho hai cha con biết là vua đang dựng
một ngôi đền lớn và cần có nhiều thợ chạm trổ thật khéo tay. Ông rủ hai bố con
em bé cùng đi với mình, hứa sẽ đưa em vào một nhóm người chuyên chạm trổ ở chân
cột đền. Hai bố con cùng về kinh. Sau này, nhờ khéo tay, lại thông minh sáng
tạo, em bé trở thành người thợ chạm trổ giỏi nhất nước.
Một
lần người thợ tài giỏi ấy được gặp cháu thần cây là thần Tiêu Lá. Nghe người
thợ tài giỏi nhất nước kể lại câu chuyện ngày nhỏ, thần Tiêu Lá liền hỏi thật
kỹ, sau đó thần tạo nên một giống hoa để người đời nhớ mãi tấm lòng của chú bé
hiếu thảo rất đỗi thông minh kia. Hoa có hình dáng rất giống cái bông hoa kết
bằng rơm của em bé ngày xưa. Hoa cũng có màu vàng như rơm, đẹp tươi hơn rơm, mà
cũng nở vào dịp Tết. Hoa nở nhiều bông, lâu tàn, có hương thơm đặc biệt như là
hương thơm của lòng hiếu thảo. Lá cũng thơm, đẹp như được một người rất khéo
tay cắt tỉa chạm trổ. Hoa ấy ngày nay ta gọi là hoa Vạn Thọ. Tên có hai chữ
nhưng đó là cả một lời chúc cho ông bà, cha mẹ và tất cả mọi người được sống
lâu trăm tuổi với những người thân của mình.
Ngày
xưa ở xứ Phù Tang chưa có hoa Anh Đào như bây giờ . Tại một ngôi làng xinh đẹp
ven ngọn núi phú sĩ hùng vĩ ,có một chàng trai khôi ngô tuấn tú dũng cảm khác
thường. Năm chàng mới tròn một tuổi, có một đạo sĩ phiêu bạt ghé qua nhà, nhìn
cậu bé, mỉm cười đặt vào tay người cha thanh sắt đen bóng rồi lặng lẽ ra đi.
Lúc đấy đang mùa đông tuyết rơi tầm tã vị đạo sĩ đi khuất trong mưa tuyết rồi
mà người cha vẫn thẫn thờ nhìn trông theo. Đặt thanh kiếm vào tay người vợ trẻ,
ông nói như thì thầm :"hãy cất kỹ và giao thanh sắt này lại cho con trai
chúng ta khi nó tròn 14 tuổi. Số phận đã an bài nó trở thành một kiếm sĩ lừng
danh".
Cha cậu bé qua đời. Người vợ trẻ ở vậy nuôi con. Thanh
sắt đen bóng được giao lại cho chàng trai năm cậu tròn 14 tuổi .Cậu rùng mình
vuốt ve kỹ vật huyền bí nặng nề ấy. Một sức mạnh kỳ lạ , một khát khao khó hiểu
tràn ngập vào cơ thể tươi non dũng mãnh của cậu. Người mẹ chưa kịp nói gì thì
cậu đã run rẫy thốt lên trong cảm xúc nghẹn ngào: "ta phải trở thành một
kiếm sĩ nổi tiếng nhất đất nước này"
Chàng trai đến rạp đầu xin thụ giáo một võ sĩ đạo lừng
danh .Vị samurai ngắm nhìn chàng trai từ đầu đến chân, trầm ngâm suy tư bất
động hàng giờ liền. Cuối cùng ông thở dài lẩm bẩm một mình "oan
nghiệt" và chấp thuận
Thời gian thấm thoát thoi đưa, tuổi 18 thanh
xuân tràn trề sức sống đến với người kiếm sĩ .Tay kiếm của chàng khiến những
samurai kiêu hùng nhất cũng phải e dè. Nhưng còn thanh sắt ? Chàng đã tự mình
rèn nó thành thanh kiếm sáng ngời đầy uy lực. Nhưng chưa được, một thanh kiếm
báu thực sự phải được tắm mình trong máu ngay trong ngày khai trận. Biết nhúng
lưỡi thép uy lực này vào máu ai khi chàng chưa hề có kẻ thù, khi chàng chưa hề đối
mặt với kẻ cướp, khi chàng chưa tìm được bất cứ lý do gì để quyết đấu một phen?
lúc này người mẹ và người thầy của chàng đã khuất núi. Cô gái duy nhất của vị
võ sư lừng danh năm xưa là người thân yêu còn lại duy nhất của chàng. Mỗi ngày
khi nắng đã tàn lụi trên phú sĩ sơn, đêm đã tràn ngập trên xóm núi, cô gái lại
buồn bã nhìn chàng ngồi bất động, trầm tư bên bếp lửa. Chàng không còn cười
nữa, mắt chàng lạnh như tuyết, chàng ôm thanh kiếm mà ước mơ ngày nó được tắm
mình trong máu để trở thành bảo kiếm vô địch thiên hạ
- Anh thân yêu ! Có phải chăng đối với anh thanh kiếm
này là tất cả ? Nếu nó không được tắm mình trong máu để ngập trong khí thiêng
thì anh sẽ mãi mãi buồn đau?
Nhìn vào bếp lửa, chàng trai vuốt ve thanh kiếm trong
lòng và nói chậm rãi rất quả quyết :
- Chỉ buồn đau thôi ? Không đâu! Đối với anh,
thanh kiếm là sự nghiệp , là cuộc sống, là tất cả.....làm sao anh có thể coi
mình là một võ sĩ đạo chân chính khi thanh kiếm của anh chưa từng no say trong
máu? Trời ơi! anh chết mất! sao thời buổi này yên bình đến thế ? sao không có
kẻ cướp nào thúc giục anh xuống kiếm. Không có kẻ cuồng ngông nào thách đấu với
anh?
Cô gái mỉm cười đau đớn. Cô chỉ hỏi để khẳng
định quyết tâm của mình thôi
- Anh thân yêu!cho em được cầm lấy thanh kiếm của
chàng một chút thôi
Cầm thanh kiếm đen bóng, sắc lạnh cô gái nhìn chàng
bằng ánh mắt buồn thăm thẳm rồi đột ngột đâm thẳng vào tim .Máu trào ra ướt đẫm
tấm thân mảnh dẻ của nàng, nhuộm hồng chiếc áo kimono trắng nõn,trinh bạch
.chàng trai hốt hoảng rú lên kinh hoàng, vươn tay rút phăng thanh kiếm khỏi
lồng ngực cô gái. Dưới ánh lửa bập bùng, thanh kiếm ngời sắc xanh rực rỡ, hào
quang loé lên lộng lẫy lạ thường: nó đã được no mình trong máu!
Nhưng từ đó ,chàng trai hoàn toàn cô độc . Không
samurai nào thèm kết bạn với anh. Họ nhìn sang chỗ khác khi đối mặt trên con
đường hẹp. Họ rời khỏi quán trà khi anh bước vào. Họ từ chối khi anh thách đấu
...cho đến một hôm, một buổi chiều mùa đông, khi những bông tuyết đầu mùa vừa
rơi, chàng trai ôm thanh kiếm đến bên mộ cô gái. Chàng thì thầm : "Tha lỗi
cho anh, anh đã hiểu ra rồi..."chàng bình thản cắm sâu mũi kiếm vào bụng
rạch một đường mạnh mẽ và rút kiếm ra phủ gục bên cạnh mộ. Thanh bảo kiếm cắm
sâu vào mộ đất....tuyết không ngừng rơi....đến sáng, tuyết đã ôm trọn chàng
trai và ngôi mộ vào vòng tay của mình. Chỉ còn lại một cây hoa lạ, mơn mởn vươn
lên tươi cười, hồng thắm . Không ai biết hoa hoá thân từ thanh kiếm ấy nên
người ta đặt tên hoa là Anh đào. Hoa anh đào có nhiều loại mọc được ở nhiều
nơi. Nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa được ươm mầm và trổ bông ở vùng Phú Sĩ.
HOA LAY ƠN
Hoàng đế La Mã Bácbagalô ra lệnh treo
cổ tất cả các tù nhân Phơranki chỉ để lại hai chàng trai khoẻ mạnh và đẹp nhất,
đó là Têrét và Xép. Ông dẫn hai chàng về La Mã và đưa vào trường đấu.
Haichàng bị nỗi buồn nhớ quê hương, nỗi cay đắng vì
mất tự do và thân phận nô lệ thấp hèn hành hạ khôn nguôi. Họ chỉ cầu xin Chúa
một điều là được chết ngay tức khắc. Nhưng Chúa không bận tâm đến những lời
thỉnh cầu của họ. Ngày lại ngày qua, hai chàng vẫn sống bình yên và khoẻ mạnh.
- Phải chăng Chúa đã sắp đặt cho chúng ta một số phận
khác rồi - một hôm Têrét nói với Xép - và có thể những người này còn muốn dạy
cho chúng ta bài học phải biết sử dụng thành thạo thanh gươm để rửa mối nhục
cho dân tộc ta chăng?
- Nếu đến cả Chúa cũng không đủ sức che chở cho dân
lành thì chúng ta làm điều đó sao được? - Xép thở dài nặng nề, nói với Têrét.
- Ta phải cầu xin nữ thần để bà nói cho chúng ta biết
điều gì đang đợi chúng ta ở phía trước. - Têrét nói và được Xép đồng tình.
Mộtbuổi sáng, Têrét kể cho Xép nghe về giấc mơ đêm qua
của chàng, Têrét mơ thấy chàng cầm thanh gươm bước lên đấu đài, còn Xép cũng
cầm thanh gươm bước ra thách đấu. Họ lúng túng nhìn nhau, còn đám đông la ó
ầm ĩ đòi các chàng trai phải bắt đầu cuộc giao chiến. Trong khi không người
nào vung gươm trước về phía bạn mình để gây chuyện bất hạnh cho nhau, bỗng
một cô gái La Mã xinh đẹp chạy lại gần Têrét và nói: "Hãy giành chiến
thắng, chàng sẽ được tự do và tình yêu của ta! Têrét vung gươm lên, nhưng
ngay khoảnh khắc ấy, từ lòng đất vang lên một tiếng thét: "Hãy hành động
theo trái tim!"
- Kìa, dường như em đã chứng kiến giấc mơ của ta! -
Xép kinh ngạc thốt lên.
Trước lúc trời tối, khi đám bạn bè từ đấu trường trở
về nhà hết, hai chàng bắt gặp cô gái La Mã dũng cảm, đó là Ốctavia và
Lêôcácđia, các con gái của Bácbagalô. Têrét và Ốctavia, cả hai cùng không hẹn
mà đưa mắt nhìn nhau. Họ không sao rời mắt khỏi nhau được nữa, vì vậy họ
không hề biết giữa Xép và Lêôcácđia cũng đã xảy ra một chuyện tương tự
như thế.
Tình yêu đâu phải lúc nào cũng mù quáng, mà trái lại
rất sáng suốt, và những người yêu nhau bao giờ cũng tìm thấy lối thoát để được
ở bên nhau, ngay cả khi giữa họ xuất hiện một vực thẳm giống như vực thẳm ngăn
cách người chiến thắng và kẻ chiến bại. Đã từ lâu, Bácbagalô không còn nghi
ngờ gì về việc các con gái của ngài vẫn bí mật gặp gỡ hai tù nhân. Và ngài có ý
chờ xem Ốctavia cũng như Lêôcácđia có dám thú nhận tình yêu mù quáng của mình
với Têrét và với Xép không. Bácbagalô rất hiểu tính nết cương trực của các con
mình, ngài không nỡ bỏ tù chúng, không ngăn cấm được chúng gặp gỡ người tình
một cách vội vã. Ngài chỉ báo cho các con biết rằng, sắp tới, hai tù nhân Têrét
và Xép sẽ phải so gươm với nhau, và kẻ nào chiến thắng kẻ ấy sẽ được tự do.
Bácbagalô khát máu hy vọng rằng hai đấu sĩ kia sẽ giáp chiến không phải vì cuộc
sống mà là vì cái chết, và cả hai sẽ phải rời khỏi cõi đời này, chỉ có điều sự
thật ấy thì người đến xem không thể thấy được.
Tấtcả đều diễn ra như dự đoán của Bácbagalô. Ốctavia
khích lệ Têrét phải bằng mọi cách để giành được chiến thắng và chàng sẽ được
tự do; Lêôcácđia cũng khích lệ Xép như vậy. Hai chị em bỗng dưng trở thành kẻ
thù của nhau, vì người nào cũng muốn bảo vệ hạnh phúc của mình - hạnh phúc được
đổi bằng nỗi bất hạnh của kẻ kia.
Ngày diễn ra trận đấu bắt đầu. Đấu trường chật ních
công chúng. Ngay ở hàng ghế thứ nhất, có Bácbagalô và các con gái.
Khi Têrét và Xép, mình trần như các chiến binh
Phơranki bước ra đấu đài, họ giơ cao các thanh gươm lấp loáng và hô:
"Những người đi tìm cái chết gửi lời chào em!" Lập tức đám đông reo
hò vì bị kích động. Ốctavia đưa mắt khích lệ Têrét. Lêôcácđia dùng ngón tay
cái dùi xuống thấp vừa chỉ vào Têrét vừa gật đầu với Xép.
Các đấu sĩ nâng gươm lên chuẩn bị giao chiến. Bầu
không khí căng thẳng trùm lên đám khán giả, các cô gái thì chết giấc.
Nhưng đúng khoảnh khắc mà Têrét xỉa gươm để đâm vào
ngực Xép, bỗng anh nghe thấy tiếng trái tim mình thôi thúc.
- Hỡi chàng trai Phơrăngkít Têrét, chàng sẽ trả lời
thế nào trước người mẹ Tổ Quốc về việc chàng đã sát hại đứa con trai của bà?
Câuhỏi ấy cũng vang vọng trong trái tim của Xép, và
cùng lúc đó hai đấu thủ đã lao vào ôm hôn nhau, khiến đám đông la ó phẫn nộ:
- Hai đứa phải chết!
Ốctavia chồm lên hét:
- Têrét, hãy chiến đấu vì hạnh phúc của đôi ta! Cũng
những lời lẽ ấy, Lêôcácđia khích lệ Xép.
Têrét, sau khi vung gươm lên làm yên lòng khán giả,
bèn ngẩng cao đầu một cách kiêu hãnh và nói:
Các người có sức mạnh hơn, các người đã biến chúng
ta thành nô lệ, nhưng các người đừng hòng buộc chúng ta phải làm những kẻ hèn
hạ! Các người có thể giết chúng ta, song các người không phải là kẻ chiến
thắng!
Dứt lời, chàng bèn cắm thanh gươm của mình xuống đất;
Xép cũng làm như vậy.
Bácbagalô ra hiệu cho các chiến binh nổi loạn. Khi xác
của Têrét và Xép được đưa ra khỏi đấu trường, một chuyện kỳ lạ đã xảy ra:
những thanh gươm được cắm xuống đất cứ kêu leng keng, và ngay trên mảnh đất
có hai thanh gươm ấy đã mọc lên những bông hoa. Những bông hoa người đời vẫn
thường gọi: HOA LAY ƠN.
HOA HUỆ DẠ HƯƠNG
Cólẽ trên đời này không có đủ sức mạnh nào có thể chia
rẽ được quan hệ giữa thần Apôlông và chàng Ghiaxít, con trai của vua Xpáctát.
Apôlông yêu quí Ghiaxít chẳng khác nào đứa em ruột của mình, và mọi người
cho rằng họ sẽ không bao giờ xa được nhau. Con trai Thần Dớt vốn là người rất
hâm mộ cái đẹp, sáng nào chàng cũng lên đỉnh núi để chào Mặt Trời vừa thức dậy
sau một chuyến đi dài ngày vòng quanh trái đất. Trong những chuyến đi ấy của
Apôlông, Ghiaxít bao giờ cũng tháp tùng theo.
Sau khi tiễn Mặt Trời đi xa, các chàng trai thường
ghé lại thăm đàn gia súc đang được chăn thả trên các cánh đồng cỏ đẫm sương,
khiến người chủ của bầy rất vui sướng vì được thần Apôlông ban phước lành.
Những cánh đồng lúa chín vàng mà Apôlông lướt mặt qua, họ cũng đều tìm đến và
được ban tặng một mùa lúa bội thu.
Khoảng giữa trưa, Apôlông và Ghiaxít cùng nghỉ lại
trong một khu rừng sồi, nghe tiếng đàn áp của Ela. Khi hoàng hôn buông xuống,
Apôlông lại cho mời các thi sỹ đến đọc thơ ca ngợi cái đẹp, tình bạn và tình
yêu.
- Hỡi thiên thần của tôi, tôi xin đa tạ Người về việc
tôi được làm kẻ hạnh phúc nhất trần gian - ngày nào Ghiaxít cũng nói với
Apôlông như thế, và trong lời nói của chàng không hề gợn chút xu nịnh hay giả
dối.
Một hôm, cả thần lẫn người đều dừng lại rất lâu bên
bờ một con sông. Họ tắm mát, bắt châu chấu trong các bụi cói và thi ném thia
lia. Tình bạn của họ thật tuyệt vời. Có lẽ do họ gây chuyện quá ồn ào nên nữ
thần Nhim Pha phải dội nước chui lên, la hét:
- Ê, mấy chàng nghịch ngợm kia, chẳng lẽ không bớt la
hét một chút được sao? Cha tôi đang nghỉ trưa đó.
Pôlôngquay lại bờ sông, vứt luôn cái thia lia định ném
đi. Chàng ngỡ ngàng trước một người đẹp mà chàng chưa từng thấy trong số các
cô gái của họ nhà thần: gương mặt bụ, trắng như sữa, mái tóc xanh hệt màu cây
cỏ, còn bộ ngực thì tròn đầy như hai trái táo đang độ chín. Vì quá sửng sốt,
chàng nhào luôn xuống nước.
- Hỡi người đẹp, nàng là ai vậy? Và cha nàng là ai? -
Apôlông hỏi.
- Cha tôi là Thần Sông, còn tôi là Đápna, con gái của
người, - nữ thuỷ thần đáp.
Chẳng riêng gì Apôlông, các Thần khác nếu gặp Đápna
cũng sẽ phải lòng nàng ngay từ giây phút đầu. Apôlông có cảm giác không khí
quanh chàng nóng như thiêu như đốt, và chỉ có nước sông kia mới làm dịu mát
được cơ thể chàng. Bị nữ thuỷ thần từ chối không cho được lại gần, Apôlông
đâm ra chán ghét những chuyến leo núi buổi sáng, biếng nhác thơ ca, thậm chí
sao nhãng cả tình bạn với Ghiaxít; chàng chỉ muốn được chia xẻ số phận với
Đápna và được ở lại bên nàng, dầu có phải làm tôi tớ dưới thuỷ cung.
- Đápna ơi, nàng là cô gái tuyệt vời nhất trong số các
cô gái tuyệt vời. Ta là Apôlông, thần ánh sáng đây. Hãy đi với ta và chia xẻ
tình yêu cùng vương quốc với ta! - Apôlông khẩn khoản xin nữ thủy thần.
Đápna lắc lắc cái đầu đang đội vương miện nước óng
ánh.
- Nàng chính là ái nữ kỳ diệu của đời ta, ngay đến
Êlêna kiều diễm cũng không dám sánh cùng nàng! Apôlông chìa cả hai tay về phía
Đápna và thốt lên.
- Chàng lúc nào cũng nóng nảy như mặt trời của chàng
vậy - Nữ thủy thần ngụp luôn xuống nước, chỉ để hở gương mặt trắng trẻo như
bông súng trắng trôi nổi trên dòng chảy.
- Đápna ơi, nếu em không lấy ta, ta sẽ liều mình theo
em - Với một nỗi say mê cuồng nhiệt, Apôlông toan gieo mình xuống dòng sông.
Khoanđã, đừng làm nước nổi sóng lên, cha
đang ngủ đó. Nếu đánh thức người dậy trước giờ hạn định, Người sẽ nổi giận,
làm cho sóng nước cuộn lên và tất cả thuyền bè sẽ bị lật nhào hết, - Đápna
ngăn Apôlông và tìm cách làm nguội lạnh ngọn lửa đang hừng hực nơi chàng.
Nàng nhặt cái thia lia ở dưới đáy sông lên đưa cho
Apôlông và nói:
- Hãy để các thần phán quyết số phận của chúng ta. Em
sẽ yêu một người nào đó trong số các bạn của chàng ném ba lần thia lia xa
nhất.
Ghiaxít thật đáng thương! Chàng hết lòng mong muốn
cho bạn mình giành được chiến thắng, song, vì hồi hộp, Apôlông bị run tay, đã
hai lần ném đều không thành, còn Ghiaxít, mặc dù rất ủng hộ bạn, nhưng cả hai
lần chàng đều ném xa hơn Apôlông. Lần thứ ba, Ghiaxít buộc phải ném trúng đích.
Apôlông lồng lộn, chàng vung cái thia lia lên nhằm trúng đầu bạn mà ném.
Ghiaxít ngã xuống và thiếp đi một giấc ngàn thu. Đápna vô cùng xúc động. Thế là
chàng trai tốt bụng đã phải chết vì tội lỗi của nàng!
Tới nửa đêm, khi mặt trăng tròn vành vạnh treo lơ lửng
trên khoảng rừng tùng bách thì Đápna và các bạn gái của nàng cùng nhô lên khỏi
dòng sông. Họ lấy ánh sáng trăng thắp lên những ngọn nến có ánh lửa trắng, đỏ,
xanh, hồng và vàng, rồi cắm xuống mảnh đất đã thấm máu Ghiaxít.
Đột nhiên, từ cánh rừng thông gần đó hiện ra một hình
người bằng lửa phát ra sức nóng có sức thiêu đốt từ xa.
- Hãy chạy đi, hỡi các nữ thần, Apôlông đến đó - Đápna
hét to và bỏ chạy.
Congái của Thần Sông đã bị các thần trừng phạt. Họ
biến nàng thành kẻ mất trí và chỉ cho nàng lối đi bấp bênh không phải ra ngoài
sông mà là ra ngoài đồng không mông quạnh, để một ngọn gió nóng thiêu đốt đôi
chân nàng và một luồng hơi thở khủng khiếp phả vào cổ nàng.
Đápna tuyệt vọng van xin nữ thần số mệnh cho nàng được
biến thành cây nguyệt quế. Mong ước của nàng đã thành hiện thực, và trước mắt
Apôlông, một cây hoa Nguyệt Quế đã xoè tán lá.
Các thần cũng như những tên bạo chúa, không bao giờ
chịu thừa nhận tội lỗi của mình, ngay cả khi họ là những kẻ sát nhân. Không chiếm
được trái tim Đápna, Apôlông càng ghen hơn với nàng vì Ghiaxít. Chàng đến chỗ
mà người bạn của chàng đã ngã xuống, phẩy tay dập tắt các ngọn nến.
Không hiểu vì sao Apôlông sau đó không thấy bén mảng
đến chỗ ấy nữa, vì vậy những ngọn nến kia đã xoè nở hệt như những bông hoa,
toả ra thứ hương hơi khó ngửi dường như là hơi thở của chính chàng trai trước
lúc chết về hạnh phúc không thành đạt. Đó chính là loài hoa Ghiaxin - hoa Huệ
Dạ Hương.
HOA NHÀI
Từthuở xa xa, tất cả các loài hoa đều có màu trắng.
Nhưng một ngày kia có một hoạ sỹ đã đến khu vườn mang theo một hộp to đựng
các loại mực màu và một nắm bút lông. Chàng nói với các loài hoa và các khóm
hoa:
- Tất cả hãy lại gần ta và nói cho ta biết ai thích
màu gì.
Lập tức các đám hoa và cây cối trong vườn bèn đứng
vào chỗ theo hàng lần lượt, bởi vì loài nào cũng muốn chọn cho mình thứ màu
rực rỡ nhất. Chỉ có Nhài là đứng gần hoạ sỹ hơn cả. Nó nói rằng, nó muốn hoa
của nó phải có màu vàng vàng như màu của tóc của thần Mặt Trời mà nó hằng yêu
mến.
- Mi dám cả gan len lên trước nữ hoàng Hoa Hồng ? -
hoạ sỹ đẩy Nhài sang một bên.
- Tôi không hề len lách, tôi từng đứng ở đây nhiều năm
rồi, - Nhài tức giận đáp lại.
- Nhưng mi cần phải hiểu rằng, ai là người có quyền
được đứng lên hàng đầu - Hoạ sỹ giải thích - Mi phải chịu hình phạt đứng cuối
và muốn gì thì phải xin ta.
- Ngài nhầm rồi, thưa ngài, tôi sẽ không cầu xin ai
hết - Nhài trả lời và vẫn đứng yên tại chỗ cũ.
Họa sỹ trò chuyện rất lâu với các chị Hoa Hồng. Các bà
hoàng kiêu hãnh này không chọn cho mình được một thứ màu nào cả! Họ muốn cả
màu đỏ thắm, màu vàng, màu hồng rồi màu da cam. Họ chỉ chê màu xanh lơ thôi,
bởi đó là thứ màu quá xuềnh xoàng, quê kiểng. Để màu xanh lơ không khỏi uổng
phí, hoạ sỹ bèn đem quét lên hoa Lưu Ly và hoa Xa Cúc, mặc dù hai loài hoa này
rất mê màu đỏ thắm. Nhưng hoạ sỹ cứ khăng khăng rằng, với các anh chị nhà quê
này thì màu xanh lơ là hợp hơn cả.
HoaAnh Túc mỉm cười thật nhã nhặn với hoạ sỹ và hoạ
sỹ đã phóng tay phết màu thật dày lên người nó. Hoa Cẩm Chướng thì hết lời
phỉnh nịnh hoạ sỹ và nó đã được đền bù một cách xứng đáng. Họa sỹ lưu lại ở
khu vườn mấy hôm liền, và chàng đã ban phát cho các loài hoa đủ loại màu sắc
khác nhau.
Hoa Ngu Bàng lá rộng thì lại tỏ ra rất mực khiêm tốn.
Khi được hỏi thích loại màu gì, nó chỉ đáp cụt lủn: "Màu gì cũng được!".
Hoạ sỹ bèn bôi màu xám cho nó rồi hỏi nó có hài lòng không, nó chỉ nói:
"Tôi biết, tất cả các màu mực có sắc rực rỡ, chàng đã gần cạn. Nếu ai cũng
thích rực rỡ như nữ hoàng Hoa Hồng thì không còn ai nhận ra được vẻ đẹp riêng
của từng loài hoa nữa!"
Những nàng Păngxê bé xíu vây quanh hoạ sỹ và chào mời
rất lịch thiệp. Đối với hoạ sỹ, chúng chẳng khác những đứa em gái bé bỏng, và
chàng đã dùng sắc màu biến chúng thành những bông hoa nho nhỏ vui nhộn.
Hoa Tử Đinh Hương lại muốn trả ơn hoạ sỹ theo cách
riêng của nó, nếu chàng không tiếc màu cho nó:
- Về mùa Xuân, chàng có thể bẻ cành của tôi và đem
tặng người yêu của mình được đấy. - Tử Đinh Hương nói - Cành của tôi càng được
bẻ nhiều thì tôi càng khoe sắc lộng lẫy.
- Mi nói năng bất nhã lắm, vậy mi phải mang màu trắng,
- hoạ sỹ giận dỗi gạt Tử Đinh Hương sang một bên. Nhưng rất may là nó đã được
các chị gái của mình ban tặng cho những thứ màu tuyệt vời.
Hoa Bồ Công Anh dâng lên hoạ sỹ một cốc Xmêtana (váng
sữa). Hoa Nhài chỉ biết tròn mắt nhìn hoạ sỹ chuyển giao cơ man nào là màu
vàng, loại màu mà Nhài vốn ưa thích, cho Bồ Công Anh. Trong lúc mải mê với màu
vàng, hoạ sỹ bỗng sực nhớ tới Nhài, loại hoa đầu tiên mà chàng đã gặp.
- Thế nào cô bạn? - Hoạ sỹ nhếch mép cười với Nhài -
Thứ màu này còn ít lắm, nhưng nếu mi tỏ ra biết điều, ta sẽ cho tất.
- Ta không cần cầu xin,. - Nhài đáp.
- Vậy là sao? - Thái độ bướng bỉnh của Nhài khiến hoạ
sỹ bực mình - Thôi được, nếu mi không dám nêu yêu cầu của mình thì mi hãy phục
xuống đất, cho dù phải chịu còng lưng.
- Tôi thích õng ẹo chứ không muốn còng lưng! - Nhài
kiêu hãnh đáp lại.
Hoạ sỹ vì quá tức giận đã trút tất cả màu vàng còn lại
vào mặt Nhài và hét:
- Mi là cái thá gì mà không chịu cầu xin và hạ mình!
Vậy vĩnh viễn với mi sẽ chỉ là màu trắng!
Vì thế Hoa Nhài mảnh dẻ vẫn mang những cánh trắng muốt
như xa xưa mà chúng ta vẫn thấy ngày nay.
HOA TỬ ĐINH
HƯƠNG BA TƯ
Chuyệnxảy ra vào thời mà muôn loài đều vô cùng sợ hãi
rồng và phù thủy. Cứ chiều chiều, khi gió bắt đầu thổi ù ù vào các ống máng đầu
hồi, tức là lúc có dấu hiệu rồng sai phái mụ phù thủy gieo tai hoạ xuống đầu
một người nào đó. Rồng vốn đam mê công chúa. Nhưng rồng thì nhiều mà công
chúa lại hiếm. Thế nhưng, loại quỷ này lại không tha cả đám đàn bà, con gái
dân thường.
Một đêm nọ, gió xộc vào nhà bà Pécxia. Chuyện gì sẽ
xảy ra đây? rõ ràng là rồng đã đến quyến rũ bà mẹ có chín người con trai này.
Song chẳng lẽ chín chàng trai cừ khôi kia lại không bảo vệ nổi mẹ?
Các chàng trai quy ước với nhau thế này: chỉ để một
người ở nhà canh gác, còn tất cả phải đi làm việc. Các anh lớn thay nhau cầm gươm
bảo vệ mẹ. Tám ngày liền trôi qua không gặp chuyện gì trắc trở. Rồi đến lượt
chàng út ở nhà.
Chàng đứng ở cổng, canh chừng các ống máng đầu hồi nhà
đã lâu không thấy có điều gì khả nghi, nhưng khi chàng định vào nhà ăn trưa
thì nghe có tiếng cười vui vẻ ở ngoài vườn. Chàng vội ghé mắt nhìn... chuyện
gì thế kia. Chàng thấy một cô gái xinh đẹp, trên ngực cài bông hoa Anh Túc đỏ
thắm. Nàng chào mời chàng: "Hãy lại đây với em! Chỉ có điều xin chàng hãy
cất gươm đi đã, em không thích loại vũ khí này!" Chàng trai liền rời tay
gươm. Lập tức cô gái ré lên, gỡ bông hoa Anh Túc trên ngực đưa cho chàng trai
mời chàng thưởng thức hương thơm. Vốn bản tính trung thực, chàng trai vừa đưa
bông hoa đỏ ối lên mũi thì lập tức thấy buồn ngủ quá rồi ngã lăn quay ra vườn.
Chàng chỉ còn kịp nhận ra tiếng con rồng vừa gầm gào vừa lao đến cướp mẹ chàng
bay lên cao. Còn cô gái xinh đẹp thì đã hoá thành mụ phù thủy nổi gió bay đi
mất.
Chàng út thiếp đi một lát, lúc choàng tỉnh dậy chàng
không biết nên làm gì và nên nói với các anh thế nào? Tốt nhất là nên đi tìm
ngay hang rồng. Chàng dắt thanh gươm vào thắt lưng, bỏ vào túi ít lương khô
rồi lên đường.
Chàngđi mãi, đi mãi, đến cuối ngày thì chàng gặp một
cụ già có vẻ mệt mỏi đang ngồi bên đường, miệng lầm rầm cầu xin:
- Hãy thương người già, hỡi chàng trai, ta muốn xin
chàng mẩu bánh mì!
- May mắn là con được gặp già - Chàng út đáp - Xin
già hãy cho con biết, già có thấy con rồng mang mẹ con đi về hướng nào không?
Ông già cầm mẩu bánh mì đoạn chỉ tay về hướng Nam.
Chàng út rảo chân bước.
Chàng lại mải miết đi cho đến tận cuối ngày, và cũng
thật lạ kỳ! - Chàng lại đến chỗ ông già đang ngồi. Ông già nói:
- Con ơi, con hãy đào hố và trồng cho ta một cây táo.
Ta muốn ăn táo nhưng không còn sức trồng cây nữa.
Chàng út dùng gươm thoăn thoắt đào hố và trồng xuống
đó một cái cây non. Rồi chàng xin chỉ đường cho chàng đi về hang
rồng.
Ông già chỉ về hướng Bắc. Và chàng út lại cắm cúi đi
cho đến cuối ngày. Thật lạ lùng quá, rốt cuộc chàng lại đến đúng chỗ ông già
vẫn ngồi. Ông già khẩn khoản nhờ chàng hãy giết chết con rắn độc đang bò vào
túp lều của ông, mà đêm đêm nó thường quấy rầy không cho ông chủ.
Chàng trai xông vào lều, dùng gươm chặt đứt đầu rắn.
Chàng xin ông già đừng đánh lừa chàng nữa.- Ta đã thử thách con ba lần về tính
hào hiệp, lòng nhân hậu và thái độ dũng cảm. Con trai ạ, hãy đi về hướng Tây,
chính hang rồng ở gần kề đó. Con sẽ phải chiến đấu sống mái với nó. Ta cho con
một câu thần chú, giúp con biến hoá theo ý muốn của con. Có điều này phải nhớ:
con chỉ có thể biến hoá thành dạng khác được hai lần, lần thứ ba con phải trở
lại làm người ngay. Nếu lần thứ ba con biến thành cái gì đó thì con sẽ vĩnh
viễn phải chịu số phận như vậy.
Chàngtrai nhập tâm câu thần chú và đi về hướng Tây.
Chàng cứ đi mãi cho đến khi nhìn thấy một ngọn lửa xanh leo lét trong đêm.
Chàng bóp chặt thanh gươm trong tay và bước về phía
ngọn lửa. Nhưng chàng bị sa xuống một bãi lầy. Chàng thấy một người đàn bà lưng
gù, trên vai vác một khúc gỗ nặng đi lại phía chàng. Ai thế kia? Phải chăng người
đó là mẹ chàng?
Chàng trai lên tiếng gọi, song người đàn bà sợ hãi
hét:
- Con ơi, con đến tìm mẹ ở đây mà làm gì! Không một ai
sa chân vào cái đầm lầy này mà còn sống trở về! Thà chết một thân mẹ còn hơn là
thấy con trở thành nô bộc cho Rồng!
- Không, mẹ ơi - chàng trai đáp - Vì con mà mẹ bị rồng
cầm tù. Nghĩa vụ của con lúc này là cứu mẹ. Mẹ hãy ngồi lên khúc gỗ già, con sẽ
đọc một câu thần chú, con sẽ biến thành dòng sông đưa mẹ thoát khỏi chốn này.
Hai mẹ con làm đúng những điều đã bàn.
Nhưng khi phát hiện ra nữ nô tỳ Pécxia bỏ trốn, Rồng
liền đuổi theo. Dòng sông cứ chảy mãi cho tới khi cập vào một bãi cát mà ở đó
nước đã cạn kiệt.
- Mẹ ơi, con sẽ biến thành con ngựa, mẹ hãy cỡi lên
lưng con và túm lấy bờm. Con sẽ đưa mẹ băng qua sa mạc cát này - chàng trai
nói và biến ngay thành con tuấn mã khôn ngoan.
Ngựa tung bốn vó phi nước đại, Rồng đuổi theo sau,
nhưng dọc đường ngựa lại gặp một cái hố vừa sâu vừa rộng chặn ngang.
- Con trai ơi, con phải trở lại làm người ngay và nấp
dưới đáy hào này - Người mẹ van xin, song chàng út không chịu nghe.
- Mẹ có chín người con trai, nhưng chín người con
chỉ có một mình mẹ - chàng trai đáp - Con sẽ biến thành khóm hoa rậm rạp chắn
che, bảo vệ mẹ.
Chàng trai đọc câu thần chú, lập tức trên mặt hào mọc
lên một bụi cây rậm có những bông hoa tím thơm ngát. Bà Pécxia vừa ẩn mình
trong bụi cây thì đúng lúc con rồng phun lửa phì phì bay qua.
Đó chính là loài hoa Tử Đinh Hương Ba Tư. Hôm nay
đây, loài hoa ấy đang làm đẹp cho biết bao mảnh vườn.
HOA SÚNG
TRẮNG
Cả làng đang bước vào mùa cưới. Và cũng chẳng nên
ngạc nhiên khi Lucun, chàng trai sởi lởi và đáng yêu nhất vùng lại kết hôn với
Lilia, người con gái hay lam hay làm, dễ thương nhất ở làng ấy. Thật quả là
trai tài gái sắc.
Nhưng thời ấy có một con quỷ sống lang thang đây đó,
chuyên nghề phá vỡ hạnh phúc của những đôi tân hôn. Một buổi chiều Lucun ngồi
trên bờ hồ chờ đợi Lilia đáp thuyền từ bên kia sông vượt sang. Lucun đến trước,
ngồi trên một gốc cây mơ màng nghĩ về niềm hạnh phúc lớn lao của mình. Vừa lúc
ấy có một người lạ mặt tiến tới gần, lặng lẽ ngồi xuống một bãi cỏ ngay gần
chàng và bắt chuyện.
Chờ đợi mãi mà chẳng thấy Lilia, Lucun nghĩ rằng có lẽ
người yêu đã quên mất cuộc hẹn hò, đôi tay chàng thốt nhiên run rẩy. Người lạ
mặt tỏ ra rất tinh ý liền rút trong tay áo ra một cái chai, đưa cho Lucun và
nói rằng, đây là một phương thuốc chữa bệnh sầu não rất hiệu nghiệm.
- Chàng hãy uống thử một ly, chàng sẽ thấy tâm hồn
thanh thản ngay - Người lạ mặt vừa nói vừa rót ra một ly rượu - một thứ
thuốc độc và mời Lucun thưởng thức.
Thế là nỗi sầu muộn dường như tan biến. Chàng lại cười
nói minh mẫn như thường lệ. Chàng nghĩ: nàng đến chậm có thể vì còn bận nhiều
việc nhà.
Lát sau, người lạ mặt lại rót ra một ly rượu nữa,
lần này là một ly rượu đầy tràn, chuốc cho Lucun say mèm. Bây giờ đây chàng
còn muốn nhảy múa ca hát nữa. Và Lilia trong khi ngồi trên thuyền vượt hồ nước
đã nghe tiếng hát của Lucun vẳng lại từ xa:
Ở đây ta uống, ở đây ta chơi....
- Chàng làm sao vậy? - Lilia lo lắng tự hỏi. Nàng
không thể hiểu được Lucun đã kiếm đâu ra rượu độc, bởi lẽ người lạ mặt
đã biến mất không để lại dấu vết.
Mộttuần lễ sau, khi trên đường từ nhà người yêu trở
về, Lucun lại gặp người lạ mặt. Trông dáng vẻ chàng buồn rầu, không được tự
nhiên. Thì ra là chàng mới bị bà mẹ vợ tương lai quả trách vì tội đã nhảy múa,
hát hò, gây ồn ào một buổi chiều nọ. Người lạ mặt săn đón, hỏi dò vì sao chàng
lại buồn, và chàng đã không giấu diếm gã nỗi lòng mình. Ồ, chẳng việc gì phải
buồn, ai mà chẳng biết được mụ phù thuỷ và bà mẹ vợ kia thực ra chỉ là
một, chỉ cần nhắp một chút rượu thuốc này thôi là bao nhiêu nỗi buồn sẽ tiêu
tan hết. Lucun lại uống và càng uống nhiều, chàng càng cảm thấy trong người
phấn chấn hơn. Chàng cứ tiếp tục uống nữa, uống mãi. Sáng ra, người nhà tìm
thấy chàng đang nằm gục bên bờ giếng, chỗ đàn ngựa hay uống nước.
Cứ thế, mỗi lần Lucun gặp chuyện bất hạnh gì đấy, người
lạ mặt lại xuất hiện với cái chai cầm trên tay. Có bận Lilia tìm thấy người
tình của mình nằm trên bờ hồ, toàn thân lấm lem và đang rên rỉ. Nàng gạn hỏi
chàng rất lâu, cho tới khi Lucun phải thú nhận rằng, chàng đã uống quá nhiều rượu
của một người lạ mặt. Lilia hết lời van xin chàng hãy xua đuổi con quỷ rượu
kia đi và tìm cách vượt qua nỗi bất hạnh của mình.
Lucun hứa sẽ làm theo đúng lời nàng dặn. Còn người lạ
mặt dường như đã nghe được câu chuyện giữa hai người nên không dám bén mảng
đến nữa. Tuy vậy gã vẫn lén lút dúi chai rượu khi thì vào túi áo, khi thì đặt
dưới gối Lucun. Đối với Lucun nếu không uống thì anh sẽ mất ngủ và trong đầu
luôn luôn quay cuồng câu hỏi: lấy đâu ra tiền để mua sắm áo cưới và tổ chức yến
tiệc?
Chỉ còn đúng ba ngày nữa là tới đám cưới; hôm ấy, sau
khi đã chờ đợi vô ích Lucun trên bờ hồ, Lilia bèn đích thân đi xem xét tại sao
chàng lại không tới. Ngôi nhà và mảnh sân đã bị màn đêm bao phủ, từ phía cửa ra
vào hé mở lọt ra một tia sáng xanh leo lét, Lilia tiến lại gần. Chuyện gì thế
kia? Trên nắp thùng rượu, Lucun và - lạy Chúa! - một người nữa đang đánh cờ.
Chẳng lẽ Lucun lại không nhận ra kẻ đang ngồi đối diện với chàng kia là một con
quỷ lông xù tai dài, có cặp sừng và đang gõ gõ cái móng ngựa xuống nền nhà bằng
đất sét đó sao? Từ trong đôi mắt ứa máu của quỷ phát ra một tia sáng xanh leo
lét, Lucun không nhận ra điều đó sao?
- Át chủ bài! - Quỷ hét
Quỷ đã thắng và giơ bàn tay ra:
- Đưa chiếc nhẫn đây!
Còn Lucun? Chàng đang tháo chiếc nhẫn, quà tặng của
vợ, đưa cho quỷ.
Lilia toan hét lên, song vì sợ hãi và giận dữ, cổ họng
nàng cứ tắc nghẹn lại.
- Tao cược một chai nữa - tiếng quỷ la - Mày cược
gì?
- Tôi chẳng còn gì nữa cả - Lucun phàn nàn - Tôi đã
thua trắng tay, cả nhà cửa, của cải, thậm chí đến chiếc nhẫn cưới cũng mất.
- Mày còn cô vợ chưa cưới đó, đưa nàng ra cá cược
nốt đi! Quỷ cười.
Lucun thốt lên:
- Không được! Khác nào mày rút trái tim trong lồng
ngực của tao.
- Hãy uống một hớp đã rồi thoả thuận sau - Quỷ đưa
cho chàng cái chai và Lucun đã tu thả sức.
- Cược Lilia nhé - Quỷ hỏi
- Không!
- Cược Lilia nhé?
- Hèm... - Lucun thở dài.
- Uống đi!
Uống cạn ngụm rượu thứ ba, Lucun thốt lên:
- Được! Chả lẽ trên thế gian này ngoài nàng ra không
còn gái đẹp nữa sao?
Một tiếng rên thốt ra từ lồng ngực Lilia:
- Lucun, anh làm gì thế?
Nàngchạy lại bên hồ, đôi chân rướm máu. Nhưng những
vết thương này làm sao có thể so sánh được với nỗi đau đang dày vò lương tâm
nàng. Nàng không hề mảy may có ý nghĩ rằng trên đời này ngoài Lucun nàng còn có
nhiều chàng trai khác. Không, nếu Lucun coi rượu của quỷ quý giá hơn cả nàng
thì nàng chẳng nên sống làm gì. Thà nhảy xuống hồ tự vẫn còn hơn.
Sau khi bơi thuyền đến hồ, Lilia thốt lên:
- Vĩnh biệt tuổi thanh xuân của ta!
Nàng gieo mình xuống nước và ở lại đó vĩnh viễn, còn
con thuyền thì bị gió đánh bạt sang bờ khác.
Đến lúc này, Lucun mới hiểu rằng chàng đã đánh mất
hạnh phúc của mình. Ngày nào chàng cũng đến ngồi bên hồ và chờ đợi một điều gì
đó, hy vọng một điều gì đó, cùng với nỗi lòng chàng đầy phiền muộn và tiếc thương.
Nhưng một hôm, đúng lúc vào ngày lễ thánh, chàng nhìn
thấy một bông hoa trắng trôi nổi, bập bềnh trên mặt nước, và không hiểu tại
sao chàng cứ đinh ninh đó là Lilia, người vợ chưa cưới của chàng đã mất tích
ba ngày trước khi cưới. Và chàng nghe có lời ca vang xa trên hồ nước:
Bông hoa trắng trên hồ
Đó là người bạn đời của ta
Nhưng liệu có lời đáp lại không?
Không, chàng lại nghe rành rọt những lời sau:
Thà ở lại vĩnh viễn đáy hồ
Còn hơn trong vòng tay ôm ấp của
chàng
Đó chính là Hoa Súng Trắng - Hoa của hồ nước.
HOA LAN DẠ
ĐIỆP HAI LÁ
Lanhíttrở dậy, mặc quần áo và thận trọng men theo con
đường sống trâu đi về khu rừng tùng đen. Rừng tùng rậm rạp, tối sẫm. Những cây
thông đỏ chót, ngạo nghễ có tuổi hàng thế kỷ đang dạo những bản nhạc buồn bã
của mình.
Chính Lanhít cũng không hiểu sức mạnh nào đã lôi cuốn
anh đi vào rừng. Đi về nơi còn lưu truyền nhiều truyền thuyết kỳ lạ. Trước
đây, Lanhít vốn rất sợ những câu chuyện hoang đường về rừng tùng đen, nhưng từ
khi Danê người vợ chưa cưới của chàng biến mất thì đôi chân của chàng đã cưỡng
lại ý nghĩ của chàng và đưa chàng đến đây.
Nỗi lo lắng trong ngày lễ thánh luôn luôn dày vò
Lanhít. Chàng làm sao hiểu được đó là tiếng rừng ồn áo, tiếng chim hót hay hương
thơm kỳ ảo của các loài hoa, tất cả đang lôi cuốn bước chân chàng vào rừng. Có
thể tất cả đó chính là loài hoa rừng mà ba mươi năm nay chàng đã đem lòng yêu.
Gần tới ngày lễ thánh, khi hoa Lan Dạ Điệp hai lá bắt
đầu toả hương thơm, Lanhít lại bị một mối lo âu khó hiểu hành hạ. Đêm nào
chàng cũng bị mất ngủ. Chàng đi lang thang trong rừng và khi tìm thấy một khu
rừng thưa có một bông hoa Lan Dạ Điệp hai lá chàng liền nằm xuống bên cạnh và
bị thứ hương quyến rũ của nó hút hết tâm sức. Nhưng chàng chẳng nỡ hái hoa,
dù chỉ là một bông Lan Dạ Điệp. Những cánh nhỏ trong suốt của nó trông thật dịu
dàng và mảnh dẻ, những bông hoa trắng thật tuyệt vời, hương của nó ngọt ngào
đến nỗi Lanhít cảm thấy mình sẽ có tội nếu dám chạm bàn tay thô ráp, xấu xí vào
chúng.
Lanhít yêu hoa đến độ cuồng nhiệt có thể vì Danê của
chàng cũng yêu hoa. Chàng lấy làm sung sướng vuốt ve từng bông hoa. Những bông
hoa gợi cho chàng nhớ tới những sớm, những chiều Danê đã đưa vào phòng chàng
những bó hoa thơm ngào ngạt.
Chínhbởi vậy mà đêm nay Lanhít đi sâu mãi vào trong
rừng, nơi có một bông Lan Dạ Điệp hai lá. Chàng phát hiện ra một khoảng rừng thưa
với cơ man những hoa là hoa.
Lanhít nằm xuống đất và suy nghĩ về Danê của mình. Đã
ba mươi năm trôi qua kể từ khi nàng biến mất, nhưng cho đến tận bây giờ,
những ý nghĩ về nàng cứ đeo đẳng chàng suốt cả ngày lẫn đêm.
- Danê, Danê ơi, cuộc sống đang reo vui quanh ta, bây
giờ em đang ở bên ta - Lanhít thì thào và ghé sát cặp môi vào một bông hoa Lan
Dạ Điệp.
Và Lanhít lại nhớ tới cái thời cách đây đã hai mươi
năm. Dạo ấy, bà mẹ Vaiđune và cô con gái Danê đến định cư ở buôn làng chàng.
Ngày mới đến Danê còn e lệ, rụt rè lắm, chỉ thỉnh thoảng mới dám liếc nhìn
Lanhít.
Bà Vaiđupe biết chế biến thuốc chữa được các loại
bệnh khác nhau, nhưng bà đã tuổi cao, sức yếu, Danê phải đi hái lượm các loại
cỏ làm thuốc. Cô gái ra khỏi nhà lúc mặt trời lặn, toàn thân ướt đẫm song hai
bên vạt áo đầy những cỏ và hoa.
Khi Lanhít kết bạn với Danê, chàng cũng đi hái cỏ với
nàng. Đó là những chuyến du ngoạn không sao quên được. Chỉ có điều Danê không
kể chuyện về các loài cỏ và hoa, nàng gọi tên từng loài chim qua giọng hót của
nó. Khi hết chuyện, họ bắt đầu huýt sáo hoặc cất tiếng hát vang. Chiều đến,
nàng đem hoa đặt vào phòng Lanhít, sáng hôm sau nàng lại đòi chàng phải kể lại
giấc mơ đêm qua của mình.
Trước ngày lễ thánh không lâu, Danê bỗng thay đổi một
cách khác thường, nàng trở nên đăm chiêu và đêm đêm thường đi lang thang
trong rừng tùng đen. Lanhít gạn hỏi, nàng cũng không biết trả lời ra sao. Có
lần nàng nói: "Khoảng nửa đêm hoặc giữa trưa khi em đi vào rừng kiếm cây
cỏ làm thuốc em thường nghe có tiếng người gọi. Lúc đó em thấy trong người
sảng khoái một cách khác lạ, bởi lẽ em không biết người vừa gọi mình đó là
ai".
Đúng vào buổi dạ hội, Lanhít và Danê cùng nhóm một bếp
lửa nơi bìa rừng. Ngồi bên bếp lửa họ nói cười vui vẻ và tung hoa vào người
nhau.
BỗngDanê đứng dậy và nói:
- Lanhít ơi, em biết trong khu rừng rậm rạp này có một
loài hoa bí ẩn đã nở. Gió đang đưa mùi hương của nó tới đây, và mùi hương ấy
đang làm em ngây ngất còn hơn là những cái hôn của chàng. Đêm nay em muốn mang
bông hoa đó về tặng chàng.
- Ta sẽ chờ em, -Lanhít đáp và ở lại canh chừng bếp
lửa.
Chàng chờ Danê thật lâu, cuối cùng không chờ được
nữa, chàng đành phải đi tìm nàng.
Chàng lên tiếng gọi, rồi đích thân đến tận chỗ có
tiếng nàng đáp lại thì chỉ thấy ở đây bao trùm một bầu không khí yên lặng, và ở
một phía khác vang lên tiếng cười của một cô gái.
- Danê, đừng làm khổ ta nữa – Lanhít hét lên nhưng vẫn
không thấy Danê xuất hiện.
Sáng ra, Lanhít trở về nhà trong tâm trạng mỏi mệt và
giận dữ. Đêm sau rồi đêm sau nữa Danê vẫn không quay lại.
Lanhít cùng đám gia nhân lên đường đi tìm kiếm. Họ
lục soát khắp rừng, song vẫn không gặp nàng ở đâu, Lanhít đành ở lại rừng một
mình. Chàng lại tiếp tục tìm kiếm Danê, cuối cùng thì chàng lạc vào một khu
rừng rậm. Bỗng dưng có một bông hoa lạ toả ra một mùi hương đầy quyến rũ
khiến chàng phải chú ý.
- Đúng rồi, đây chính là loài hoa đã toả ra thứ hương
thơm có sức quyến rũ mãnh liệt hơn tất cả những cái hôn của ta, và chính nó đã
vẫy gọi nàng vào rừng! - Lanhít thốt kêu lên và tức giận lao vào chực ngắt bông
hoa, song chàng vấp ngay phải một khúc gỗ và ngã sóng soài, chân tay sây sát
tứa đầy máu.
Lanhít đi tìm nơi có nước để rửa sạch vết thương.
"Thật là kỳ cục - chàng nghĩ - sao lại giận dỗi một bông hoa khi nó toả hương?
Mộtnăm, hai năm rồi mười năm trôi qua, vẫn không thấy
Danê trở lại. Lanhít thương nhớ nàng như thương nhớ người vợ hiền, song
chàng không thể bắt đầu lại cuộc sống đã tan nát của mình được. Có những giây
phút chàng muốn chết đi cho lòng thanh thản, nhưng chàng đã thắng được
những ý nghĩ đen tối của mình. "Cuộc sống mà thiếu Danê khác nào địa ngục
- chàng tự nhủ - Song ta nỡ nào tước bỏ cuộc sống khi nó không còn thuộc về
riêng ta nữa. Vì có sống thì ta mới được trông thấy Danê, dù chỉ là trong
mơ..."
Hương hoa Lan Dạ Điệp quả thật kỳ diệu. Lanhít có cảm
giác hương của loài hoa này đang dần cô đặc lại, biến thành làn khói nhẹ thấp
thoáng một bóng hình. Bóng hình ấy mỗi lúc một rõ hơn và bỗng dưng Lanhít nhìn
thấy Danê, vợ chưa cưới của mình. Nàng đang tiến lại gần, quỳ xuống và khẽ
chạm hai làn môi mát lạnh vào đôi mắt chàng.
- Danê ! Danê của ta! - Lanhít kêu lên - cuối
cùng ta cũng đã tìm được nàng. Nàng biến đi đâu mà lâu vậy? Tóc ta đã bạc hết
rồi, và ta dường như đã thành một ông già.
Hương hoa thơm cứ quấn quýt bên chàng.
- Hỡi người tình chung thủy của em! Vì sao chàng
không ngắt được hoa khi chàng ngã xuống, chàng còn nhớ không? Tóc chàng bạc
trắng vì một nỗi buồn khôn dứt, giá như em đày đọa ở đây vĩnh viễn dưới cái
lốt bông hoa Lan Dạ Điệp hai lá.
Lanhít không sao hiểu được những lời nói lạ lùng của
nàng, vì thế Danê bèn cắt nghĩa cho chàng hiểu tất cả:
- Chàng ơi, vào cái đêm xa xôi ấy, con Quỷ rừng đã đến
quyến rũ em. Từ trước đó, nó đã dụ dỗ em rồi, nhưng em đi theo tiếng gọi với
một tâm trạng sợ hãi , vì em không hiểu ai đã gọi em. Lúc đó nó nghĩ ra một quỷ
kế: trồng một bông hoa có hương thơm quyến rũ mãnh liệt hơn cả những cái hôn
của anh. Nó biết rằng em yêu hoa cũng mãnh liệt chẳng kém gì yêu anh. Trước
ngày lễ thánh, làm cho anh một tặng phẩm, đó là đi tìm một bông hoa bí ẩn. Và
thế là Quỷ rừng bèn phả vào hoa Lan Dạ Điệp một thứ hương huyền ảo và em thì
chạy đi tìm bông hoa kỳ lạ ấy. Chính ngay tại chỗ này, Quỷ rừng đã bắt được
em. Nó nói rằng nó đã để ý đến em đã lâu, nó muốn em làm vợ nó và vĩnh viễn ở
trong rừng. Em đáp lại rằng không thể có chuyện đó, rằng em chỉ yêu một mình
chàng thôi. Nó vật vã cầu xin em hết một đêm nhưng em vẫn cưỡng lại, vì em
tin chắc rằng chàng sẽ đi tìm em, và khi ấy tà phép của nó sẽ mất hết sức mạnh.
Tớiđêm thứ hai, khi chàng một mình đi vào rừng sâu,
Quỷ rừng bèn biến em thành hoa Lan Dạ Điệp hai lá để che mắt chàng. Nếu lúc đó
chàng ngắt được hoa, em đã trở lại thành Danê của chàng rồi, nhưng Quỷ rừng
đã hoá thành khúc gỗ khô, ngáng chân chàng, chàng đã ngã và sau đó chàng
đi lại phía bờ suối.
Đã ba mươi năm nay em mong chàng tới ngắt hoa, nhưng
chàng thì lại chỉ rủ lòng thương bông hoa mảnh dẻ. Ba mươi năm nay em không
chịu làm vợ Quỷ rừng. Nó dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, đe doạ em nhưng em chỉ một
lòng chờ đợi, mong ngóng chàng.
Nhưng ba mươi năm ấy trôi qua, con người không đủ
sức chiến thắng tà phép của Quỷ rừng, em đành phải chấp nhận số phận ở lại rừng
sâu vĩnh viễn cùng với những cô gái sắp sửa xuất giá cũng bị bỏ bùa mê như em.
Chàng thấy đấy, ở đây rất đông các cô gái ấy, nhưng tất cả họ đều một lòng
chung thuỷ với người chồng chưa cưới của mình. Quỷ rừng thì đã già lại xấu
xí như một khúc gỗ khô cong queo.
Hỡi người bạn tình chung thuỷ của em, vì sao chàng
không hái hoa ngay sau đêm lễ thánh ấy?...
Hương hoa thơm làm say lòng Lanhít, và hình ảnh người
con gái chợt lóe lên trước mắt chàng rồi biến mất!
- Danê, đừng bỏ anh! - Lanhít gào lên, như muốn cố
níu người vợ bị hóa kiếp của mình lại để được ôm ấp nàng. Nhưng trong tay
Lanhít chỉ còn là một bông hoa trắng muốt, đầy vẻ dịu dàng đang toả ngát hương
thơm kỳ ảo như bao bọc lấy chàng.
HOA LAN ĐỐM
Tínhtình lẳng lơ của Cucuxca, một cô gái nhà quê,
khiến cho đám chị em phải ghen tức, song Cucuxca chỉ phẩy tay cười:
- Các người đã ghen tức ta khi ta có nhiều chàng trai
đến tán tỉnh. Không phải vô cớ mà ta đào hoa hơn các người đâu.
Cô cười khì khì và cất tiếng hát cho đến khi có chàng
trai đầu tiên trong làng dẫn cô vào rừng tìm kiếm loài hoa dương xỉ. Họ có tìm
được hoa hay không, không ai biết, chỉ biết là sau đêm lễ thánh, Cucuxca trở
nên thuần tính hơn, và các chàng cũng xa lánh dần ngôi nhà của cô.
Rồi một hôm Cucuxca biến mất khỏi làng. Đến mùa Xuân
có một đứa trẻ chào đời. Dân làng kháo nhau, Cucuxca sẽ mang về nhà một chú bé
hoặc một con nhóc, song cô lại về tay không.
- Cô giấu đứa trẻ ở đâu? - Các chị em hỏi.
- Ta đã trao nó cho chị Chìa Vôi, nhờ nuôi hộ - cô gái
đáp.
- Vì sao cô không nuôi nó?
- Ta không ngốc nghếch như các người đâu.
Cucuxca cười - Suốt ngày đêm các người bị trói buộc vào chiếc nôi con trẻ,
không buồn tơ tưởng đến lời ca và điệu múa nữa. Ta thì muốn ngợi ca tuổi trẻ
của mình. Ha ha - cô gái nhón chân quay ba vòng.
- Bây giờ cô chỉ lo hát hỏng, mai này về già, cô
sẽ đơn độc như cái gốc cây không có đọt mầm.
- Ha ha ha! Nhưng các người đang phí phạm cả tuổi
thanh xuân của mình bên những chiếc nôi và những đống tã lót.
- Nhưng xung quanh ta còn có con trẻ nô đùa, lúc về
già ta có thêm cháu chắt quây quần.
- Khi về già ta sẽ tìm kiếm các con ta và bắt chúng
phải nuôi ta. Luật pháp là luật pháp - Cucuxca nói bằng một giọng đầy tự mãn.
Côgái đã sống suốt cả cuộc đời như vậy - nghĩa là mỗi
năm cô cho ra đời một đứa trẻ, nhưng ai là người nuôi nấng chúng, bản thân cô
cũng như mọi người đều không hề biết.
Số phận của những kẻ luôn đặt hy vọng vào việc chăm lo
giữ gìn tuổi trẻ của riêng mình thật là trớ trêu. Cucuxca chưa bước vào tuổi
lên lão mà tóc đã bạc trắng, da mặt nhăn nhúm, lưng còng hẳn xuống. Lúc này
đây, nó mới thấy thương nhớ các con của mình và trông mong sự giúp đỡ của
chúng.
Cucuxca đến nhà chim Chìa Vôi than thở với chị ta về
nỗi đau khổ của mình. Vì nhẹ dạ, cô đã cho đi đứa con đứt ruột đẻ ra, và bây
giờ cô khao khát muốn xin lại nó.
Chìa Vôi không phải là ả ngốc nghếch, bèn hỏi xem
Cucuxca đã trao cho ai đứa trẻ nào, trai hay gái? Trong khi Cucuxca sụt sùi
khóc thì chị Chìa Vôi cười bảo:
- Sao không hát hỏng nữa đi.....
- Cucu! - Cucuxca nổi giận, chỉ cho Chìa Vôi xem chiếc
mỏ dài - thì cứ giữ lấy đứa bé ta đã sai lầm cho đi ấy. Không vì thiếu nó mà ta
hoá ra người hiếm hoi đâu. Ta sẽ đến gặp chị chim Cước Bạc Má, có thể chị ta
sẽ không đến nỗi hẹp hòi vậy đâu.
Thật ra chim Cước Bạc Má rất thương Cucuxca, nhưng
nó còn thương đứa con của Cucuxca mà nó đã chăm sóc, cho bú mớm cẩn thận hơn
cả con đẻ. Chim Cước Bạc Má bảo Cucuxca chờ rồi nó đích thân chạy đến khắp các
nhà mà nó biết có những đứa con của Cucuxca vào rừng và để cho Cucuxca hỏi xem
có đứa con nào chịu nhận Cucuxca làm mẹ không.
Cucuxca hỏi đứa thứ nhất, nó đáp:
- Cu-cu!
Hỏi đứa thứ hai, nó trả lời:
- Cu-cu!
Và tất cả đều đáp một giọng:
- Cu-cu! Cu-cu!
Cucuxca tức giận đe doạ lũ con:
- Bọn bay đã thoái thác nghĩa vụ của mình trước người
mẹ, ta sẽ đưa cả lũ ra tòa.
- Con cái phải có những nghĩa vụ gì trước một người
mẹ đã thoái thác trách nhiệm đối với con cái, thưa bà? - Lũ con của Cucuxca
hỏi.
Cucuxca đã không đủ can đảm để nhận ra sự thật. Nó bất
lực, đau đớn, lẳng lặng lết vào rừng rồi ngã vật xuống một đám rêu, nằm chờ
chết.
Bỗngcó tiếng cành cây gãy răng rắc và Cucuxca ngẩng
đầu lên. Một cô gái chân khập khiễng đang tiến lại gần.
Cô gái trao cho Cucuxca và nói:
- Hãy uống đi, hỡi mẹ, nhựa bạch dương đấy.
Cucuxca ngạc nhiên trước câu nói vừa nghe được:
- Con gọi ta là gì, hãy nhắc lại ta nghe nào, Cucuxca
khẩn khoản.
- Mẹ thân yêu. Mẹ chính là mẹ của con mà - cô gái đáp
và nhìn Cucuxca âu yếm.
- Mẹ! - Tiếng nói tuyệt diệu làm sao! Hãy nhắc lại lần
nữa đi, nhắc lại đi.
- Mẹ!
- Nhưng vì sao con biết rằng ta là mẹ của con? - Bỗng
dưng Cucuxca nghi ngại.
- Con lớn lên ở nhà bác Bách Thanh. Mẹ nuôi của con
rất tốt đối với con, song bố dượng thì ghét bỏ, chửi bới. Một hôm ông uống rượu
say về nhà và ném con ra sau cánh cửa. Từ đó con bị tàn tật. Con đã lần mò khắp
các ngõ ngách trên đời này để tìm mẹ, mẹ ơi - cô gái ôm ghì lấy Cucuxca và cho
mẹ uống nhựa bạch dương.
- Ôi ta mới ngu ngốc làm sao, - Cucuxca than thở - Ta
đã không hiểu hạnh phúc là gì khi ta được gọi bằng một từ kỳ diệu nhất -
"Mẹ"
Những giọt nước mắt to tròn trong suốt tràn ra từ
khoé mắt Cucuxca - đó là những giọt nước mắt đầu tiên trong đời nàng và, ngay
chính chỗ những giọt nước mắt vừa rỏ xuống đó đã mọc lên một bông hoa trắng
ngần mà người đời quen gọi là Hoa Lan Đốm, hay "Hoa nước mắt của nàng
Cucuxca".
HOA THUỶ
TIÊN
Dângian có câu: "Cha mẹ sinh con, trời sinh
tính", ngẫm mà đúng. Cặp vợ chồng nhà thần Kêphít và Lavơriôna sinh hạ được
một cậu con trai có gương mặt trắng trẻo, cặp mắt sáng, mái tóc quăn tít, đặt
tên là Narơxít thay cha làm hà bá, trị vì một vùng sông nước.
- Ôi, chàng mới đẹp làm sao! Thật là một đứa con tuyệt
vời! - Các nữ thần đến thăm Lavơriôna đều tấm tắc khen.
Nhưng các thần cũng giống như con người đều có tính
hay ghen ghét, đố kỵ trước những thành đạt của người khác. Loài cá bơi từ
Đông sang Tây đã loan tin về vẻ đẹp tráng kiện và trí tuệ của con trai nữ thần
Lavơriôna. Nữ thần Sứa biết được tin này, ả có một đứa con trai vốn xấu xí lại
ngốc nghếch; khi nghe những lời khen của thiên hạ dành cho Narơxít thì ả nổi
điên lên, đến nỗi những con rắn phủ trên đầu ả thay cho tóc bỗng dựng ngược
lên, phun lưỡi phì phì. Nữ thần Sứa nghiến răng trèo trẹo:
- Vẻ đẹp của mi sẽ giết chết mi, mi sẽ phải lòng chính
cái hình bóng của mi, mi sẽ trở nên tốt bụng chỉ vì lòng hiếu danh, sẽ trở nên
người thông minh chỉ vì thói kiêu căng. Cái khoảnh khắc mà mi nhìn thấy bóng
hình mình trong gương chính là lúc mi bắt đầu phải chấp nhận cái chết. Những
con cá bơi ngược lại từ Tây sang Đông mang tin về lời nguyền của nữ thần Sứa
đến lưu vực sông do Kêphít trị vì. Thần Kêphít đập vỡ tất cả các loại gương
có dưới thuỷ cung, còn các mảnh kính vụn thì cho quẳng lên đất liền. Từ
khi còn nhỏ, Narơxít mới chỉ nghe nói về vẻ đẹp và về trái tim nhân hậu
của mình, bây giờ chàng nghĩ rằng chàng cần phải là một người nhân hậu
và thông minh, mặc dù làm được việc đó không phải là dễ. Khi lũ con của
các nữ thần khác dành một chút trong khẩu phần ăn sáng hoặc bữa trưa của mình
cho cá, thì Narơxít cũng không muốn chịu tiếng là keo kiệt bèn ném cho cá một
ít thức ăn. Dù chỉ là bớt lại một chút nhỏ nhoi lượng phần ăn, nhưng chàng
tin rằng việc thiện mà chàng đã làm còn tốt hơn nhiều so với những người khác,
bởi lẽ chàng đã hy sinh không phải là một món ăn dân dã mà là món ăn của nhà
thần. Nhưng sau đó chàng lại khôn ngoan ngầm giữ lại khẩu phần của mình mà lấy
khẩu phần của mẹ để đem cho, khiến lũ con các thần phải thán phục về sự hào
hiệp và quên mình của chàng.
Thờigian như bóng câu qua cửa sổ. Mới hồi nào Narơxít
còn chơi đùa với lũ cá, nhặt nhạnh những vỏ hến, vỏ sò trang điểm cho nơi ở của
mình, bây giờ chàng đã lớn phổng lên thành một chàng trai chững chạc. Khi xưa,
lũ con của các thần thường cùng với chàng nuôi cá, nay lớn lên mỗi đứa lại có
một sở thích riêng. Đứa nào cũng muốn tỏ ra khôn ngoan linh lợi. Chúng đọc cho
nhau nghe những bài thơ tự sáng tác, hát những bài ca tự nghĩ ra và thi xem ai
nhảy lên lưng cá ĐenPhin khéo léo hơn và bơi đi xa hơn. Narơxít cũng sáng tác
thơ và chẳng bao lâu chàng hiểu rằng có một đứa con trong lũ con nhà thần tỏ ra
trội hơn chàng, chàng liền đem lòng ghen ghét, phỉ báng cả bè bạn.
- Đó là một chàng trai thông minh và tài hoa! Con gái
thần nào mà được chàng lấy làm vợ thì thật là diễm phúc, - Các nữ thần có tuổi
xì xào, tỏ ý ghen tỵ với người vợ tương lai của Narơxít.
Nếu các nữ thần có tuổi bị chàng trai tuấn tú, đôn hậu
và thông minh cảm hoá, thì cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi các nữ thần trẻ
trung đã rắp tâm quyến rũ chàng bằng vẻ đẹp ưng ý, cuối cùng chàng quyết định
kết hôn với Ekhô, cô gái đẹp nhất trong đám các tôn nữ nhà thần.
Trước ngày cưới, Ekhô bảo Narơxít lên bờ sông hái
cho nàng bông hoa Anh Đào dại để nàng gài lên mái tóc xanh của mình. Narơxít đã
hái cả một bó hoa và khi cúi gập người toan nhảy xuống nước, thì bỗng
nhiên thấy một vùng nước tôi tối có bóng hình của mình.
- Đẹp quá! Kể từ khi khai thiên lập địa chưa một ai
được chứng kiến một sự tuyệt diệu như thế này! - chàng thốt lên rồi sững người
anh bị bỏ bùa mê. Trong khi nhìn chằm chằm vào cái bóng của mình, chàng quên
khuấy cả Ekhô, người mà ngày mai chàng sẽ tổ chức lễ cưới đón nàng. Chàng ném
những bông hoa xuống cỏ và khi đứng dậy chàng lại bị mê mẩn với cái bóng của
chàng trong gương nước.
- Đúng rồi, ta không chỉ là một chàng trai thông minh,
đôn hậu nhất mà còn đẹp nhất nữa - Narơxít dương dương tự đắc.
Đợi mãi không thấy người tình trở về, Ekhô đành phải
ngoi lên mặt nước. Tức thì nàng bị người tình mắng nhiếc thậm tệ, chỉ vì nàng
đã làm gương nước xao động.
Ekhô không tin rằng Nanơxít lại quá giận dữ, vừa làm
lành với chàng vừa xoa cho mặt nước trở lại phẳng lặng.
- Ta biết, em ghen với vẻ đẹp của ta, vì vậy em tìm
cách cản trở ta. Đừng vờ vĩnh nữa, hãy trở lại thuỷ cung đi.
- Chàng thân yêu! Em là cô gái đẹp nhất trong đám tôn
nữ nhà thần, cớ sao em lại ghen ghét vẻ đẹp của chàng? - Ekhô nói và vẫn nghĩ
rằng người tình nói đùa.
- Anh cứ nghĩ em là một người đẹp, đó là khi anh chưa
trông thấy mình. Hãy nhìn vào gương mặt này, vào cái hình người này, em sẽ
hiểu chính Aphơrôđita còn chưa xứng đáng trở thành vợ ta, huống hồ nàng -
Narơxít đáp và lại mê mẩn với vẻ đẹp của mình.
Đối với Ekhô cũng như đối với người đàn bà đội rắn
trên đầu thay tóc, thì không có gì đáng giận hơn là việc người tình không thừa
nhận sắc đẹp của nàng, còn nếu như nàng quả là không đẹp thì nàng cũng không
thích bị lừa dối.
Nhữnglời nói của Narơxít khiến Ekhô tức tối đến nỗi
nàng gọi chàng là một kẻ ngu ngốc tự say đắm mình. Nàng liền đem chuyện
này kể lại cho mẹ nàng nghe và nói rằng chàng đã bị mất trí. Kêphít đã hoài
công thuyết phục con trai quay trở lại thuỷ cung, và những giọt nước mắt cầu
xin của người mẹ cũng trở thành vô nghĩa.
Narơxít đã ở lại hẳn trên bờ, và trong khi đưa mắt
nhìn xuống nước, chàng vẫn không ngớt lải nhải về sắc đẹp của mình cho tới khi
người chàng teo tóp lại và hoá thân về với trần thế.
Không hiểu vì sao đối với người chết, người đời lại
tỏ ra bao dung, độ lượng hơn so với người đang sống.
Khi Narơxít chết rồi, Ekhô thường bơi đến chỗ có vùng
nước tối mà người tình của nàng đã từng soi mình vào đó.
"Tình yêu của ta mới tuyệt diệu làm sao..."
- Ekhô thở dài. Để giữ lại mãi mãi những kỷ niệm về Narơxít, nàng bèn trồng
ngay lên chỗ đất chàng nằm một bông hoa có sắc trắng hệt như da mặt của
Narơxít. Đó chính là Hoa Thủy Tiên.
HOA LINH
LAN (HAY HOA TRÁI TIM TAN VỠ)
Thờixa xưa có một chàng Gù
bất hạnh, sống đơn độc, không biết cha mẹ mình là ai, anh em thân thuộc cũng
không có, chẳng ai coi chàng là bạn. Đối với tình yêu, chàng chỉ biết qua sách
vở. Chàng mang máng hiểu rằng tình yêu cũng giống như một hơi thở nhẹ luôn ve
vuốt trái tim, hoặc như ngọn lửa thiêu cháy nó, rằng tình yêu có thể nâng con
người lên chín tầng mây, và cũng có thể quăng họ xuống địa ngục.
Chàng Gù còn tin rằng dù là
hơi thở nhẹ hay sức nóng của lửa cũng không thể làm lay chuyển được con tim
đau đớn đang đập loạn lên của chàng.
Ai có thể đem lòng yêu một con người như vậy, một
khi trên đời này còn có biết bao chàng trai tuấn tú và khôn ngoan khác? Vả lại,
làm sao chàng có thể yêu được một người khác giới khi chàng mang trái tim như
vậy trong lồng ngực? Không, trái tim chàng chỉ biết căm ghét, đố kỵ; đôi môi
chàng chỉ quen mấp máy một số từ thô thiển; cặp mắt ti hí của chàng không nhìn
rõ được, dù là một tia nắng dịu dàng hay một ánh trăng mỏng mảnh; đôi mắt ấy
lúc nào cũng chỉ nhìn xuống và chỉ thấy toàn những thứ thối tha, nhơ nhuốc; cái
mũi nhọn hoắt của chàng không thể phân biệt được những điều kỳ diệu trong hương
thơm của các loài hoa, mà chỉ biết đánh hơi được mùi hôi thối của xác súc vật
và lá cây rữa nát. Chàng bị người đời xem thường và xa lánh.
Thế rồi một hôm, thật tình cờ, chàng nhìn thấy công
chúa Rôda đang dạo chơi trên công viên.
Mọi người dừng lại, ngả mũ chào nàng, chỉ có chàng là
cứ lóng nga lóng ngóng, cặp mắt hấp háy, không sao hiểu được trên đời này lại
có thể có một người đẹp nhường kia. Cặp má hồng, đôi mắt nâu, đôi môi đỏ thắm
cùng với tấm thân tròn lẳn tràn đầy sức sống của nàng, khiến những ai được gặp
nàng cũng đều cảm thấy lòng thanh thản, nhẹ nhõm. Nhiều cụ già đã vượt qua
những chặng đường xa lắc, lắm chông gai để mong được gặp nàng, dù chỉ là một
lần, và lúc ra về thấy đời như trẻ lại.
Rôdađáp lại sự ngưỡng mộ của mọi người bằng một nụ cười
thật cởi mở và chân tình. Chỉ có một người không cất tiếng chào nàng, không
ngả mũ, đó là chàng Gù gầy gò, xấu xí đứng bên vệ đường nheo mắt nhìn công
chúa đang nhẹ nhàng bước. Đối với Rôda, đấy là cả một sự lạ và rất khác thường.
Nàng bèn dừng lại và nhìn sâu và cặp mắt không mấy thiện chí của chàng Gù. Con
người khốn khó này sao cô đơn và đáng thương lắm vậy! Rôda cảm thấy thương
chàng vô hạn, và đã ban tặng cho chàng nụ cười ấm áp nhất của mình.
Chỉ sau khoảnh khắc ấy thôi, cuộc đời chàng Gù bỗng
thay đổi hẳn! Bây giờ, cặp mắt chàng luôn ngước nhìn lên, chàng đã thấy những
bông hoa Tử Đinh Hương tím nhạt và trắng xoá khoe sắc màu sặc sỡ, những bông
hoa Sơn Trà đỏ tươi đang nở hết cỡ, và những đám cây tuyệt diệu có những tán
lá lung linh giọt mặt trời. Những hơi gió nhẹ đem theo những làn hương kỳ diệu
cứ phả mãi vào mặt chàng! Và đây, ngay bên mép đường, những bông hoa tim tím
đã mọc lên. Vì sao những bông hoa nhỏ xíu này lại có đủ sức cảm hoá làm vui
lòng người qua đường như vậy?
Chàng Gù bối rối, không thể hiểu được vì sao cặp mắt
nhìn cũng như đôi tai nghe của chàng lại thay đổi như vậy, và sao bỗng nhiên
giờ đây chàng lại biết yêu vẻ đẹp của thế giới quanh chàng "Biết hỏi ai
bây giờ" - Chàng tự hỏi.
- Hãy hỏi ta đây này! - trái tim đáp.
- Ôi, trái tim của ta, mi chỉ là kẻ bất hạnh, lúc nào
cũng u tối như màn đêm vậy, mi có thể giải đáp được gì cho ta, chàng Gù cằn
nhằn.
- Ta đang cảm thấy đời thật là vui, bởi lẽ lúc
này, ta mới hiểu cái gì đã khiến hoa phải nở, giục giã chim phải hót; ta hiểu
rằng cái gì đã mở cặp mắt và tai nghe của chàng! - Trái tim điềm tĩnh nói.
- Vậy là cái gì? Hãy nói ta nghe, chàng Gù dò hỏi.
- Cái đó là tình yêu. Tình yêu vừa dịu dàng vừa khắc
nghiệt, vừa êm đềm vừa sóng gió, vừa ấm áp vừa dữ dội! Chính vì chàng đang yêu!
Chàng đã yêu công chúa Rôda!
- Yêu công chúa Rôda ? - Chàng Gù sợ hãi - Ta mà dám
cả gan phải lòng công chúa Rôda!
- Ai có thể ngăn cấm chàng yêu công chúa Rôda được? -
Trái tim tranh cãi với chàng - Sáng sáng, chàng hãy đến đây, như mọi người,
chàng hãy chào nàng đi.
ChàngGù nghe lời khuyên của trái tim chàng. Ngày lại
ngày, chàng đến gặp Rôda, khi nàng đến gần, chàng cúi đầu xuống chào vẻ lịch
thiệp. Nàng đi rồi, gương mặt chàng như được ve vuốt bởi một hơi thở nhẹ.
Và thời kỳ tuyệt diệu nhất trong đời chàng đã tới. Vì
sao chàng lại có đủ sức mạnh để tàn đêm, tận ngày ngồi đập từng tảng đá?
Vì sao chàng lại có thể cao giọng hát đua cùng Sơn Ca và Hoạ Mi? Chàng Gù không
hiểu Sơn Ca và Hoạ Mi hót gì, còn chàng, chàng chỉ hát về Rôda, về sắc đẹp của
nàng và về tình yêu của mình thôi.
Chàng Gù bất hạnh đâu hiểu được rằng, cơn bão bất
thần có thể đổ sập xuống đầu chàng bất kỳ lúc nào! Quả nhiên, cơn bão đã bất
thần ập đến thật. ấy là vào một buổi sáng, khi chàng tới công viên để được
ngắm công chúa, để được hưởng không khí trong lành; chàng đã thấy thành phố được
trang hoàng lộng lẫy, phố xá đông nghẹt những người. Người nào cũng mang nhạc
cụ, chỉ có một cô gái nhỏ nhắn là cầm trên tay một cái chuông con : Cô gái ấy
tên là Maia bất hạnh, chuyên nghề chăn súc vật. Nàng không tìm đâu được đàn bà
và sáo, nàng đành lấy cái chuông trên cổ một con dê là nhạc cụ. Nàng muốn
bộc lộ, niềm vui của mình trong ngày hội trang trọng này.
Lúc đó chàng Gù hỏi một người gặp trên đường xem
thành phố được trang hoàng đẹp như vậy để đón mừng ai, và vì sao phố xá lại
đông người đến thế.
Người qua đường đáp:
- Chàng từ đâu đến mà không biết hôm nay là ngày công
chúa của chúng tôi sẽ đi lấy chồng?
- Công chúa ? Công chúa nào? - Chàng Gù lúng túng lắp
bắp.
- Chẳng nhẽ chàng không biết thành phố chúng tôi chỉ
có một công chúa, đó là nàng Rôda sao?
Chàng Gù khuỵu ngay xuống đống đá lạnh lẽo, nhưng rồi
chàng vụt đứng dậy, bởi vì chàng có cảm giác như vừa bị ngã vào một bếp lửa
đang cháy hừng hực. Như kẻ bị bỏng lửa, chàng chạy như bay về phía công viên,
nơi mà ngày nào chàng cũng được gặp Rôda.
- Rôda của ta! Rôda của ta!
Chàng vừa hét to vừa cảm thấy trái tim mình đang bốc
lên một ngọn lửa hừng hực và những giọt nước mắt chảy thành suối trên hai gò
má chàng cũng không thể dập tắt nổi.
Dânchúng hoan hỉ đón chào Công Chúa và Hoàng Tử xứ lạ;
cặp trai tài gái sắc ấy đang ban phát cho đám thần dân của họ những nụ cười ấm
áp. Say sưa với hạnh phúc, họ đâu có ngạc nhiên khi thấy một chàng Gù lách qua
đám đông tới quỳ mọp dưới chân công chúa Rôda, miệng lảm nhảm cầu xin :
- Rôda ơi, em là của ta cơ mà! Hãy tống cổ kẻ lạ mặt
này đi và hãy theo ta!
- Thằng điên! Dân chúng hét to - Mi không biết thế nào
là liêm sỉ khi xuất hiện trước mặt nàng công chúa Rôda trong bộ quần áo rách rưới
thế kia ?
- Ta đã tìm được người ta yêu.
- Tốt nhất là nên cầu hôn cái chổi ấy!
Đám đông giận dữ đứng che lấp hẳn chàng Gù. Dù có răn
đe, dù có nhạo báng cũng không làm chàng tỉnh lại được.
Ngọn lửa tình yêu đã khiến chàng dần trở nên mù
quáng, mất hết lý trí. Chàng rút con dao găm từ trong vạt áo ra và đâm thẳng
vào trái tim công chúa.
Mọi người cúi gằm mặt xuống, vẻ đau buồn. Khi ngước
mắt lên, ai nấy đều ngạc nhiên trước một tiếng kêu sửng sốt. Từ mảnh đất
thấm đầy máu, mọc lên một bông hoa thanh cao có những cái cánh nhỏ màu đỏ
lửa toả hương thơm. Nhưng nếu ai cố tình chạm vào nó thì sẽ bị những cái gai
sắc như mũi dao đâm vào tay đau nhói.
- Đây là Rôda của chúng ta, - Dân chúng bàn tán - ngay
cả sau khi đã chết rồi, nàng vẫn gửi lại cho chúng ta niềm vui sáng láng.
Theo luật pháp xứ này, hung thủ giết người tình của
mình chỉ vì ghen tuông sẽ bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, do vậy chàng Gù phải lưu
đày lên một vùng núi hẻo lánh, kéo theo sau là những cơn mưa đá và những lời
nguyền rủa.
Từ đó không ai thấy chàng Gù nữa. Mãi đến mùa Xuân năm
sau, Maia, cô gái chăn cừu nhỏ nhắn trong lúc đi tìm chú dê con bị lạc bầy, đã
phát hiện dưới chân núi một trái tim bị nứt nẻ.
Cô gái bỗng nhớ tới chàng Gù bất hạnh đã chết vì tình
yêu điên dại, nàng bèn cúi xuống trước trái tim tan vỡ và khóc nức nở, vì nàng
cũng là kẻ đơn độc, không được yêu.
Thật là kỳ lạ, những giọt nước mắt của Maia cứ thấm
sâu vào tảng đá, và ngay trên chỗ đó mọc lên hai bông hoa, một bông có những
cái cánh nho nhỏ màu hồng quấn quanh thân cành giống như những trái tim nhỏ
xíu bị nứt nẻ; còn bông kia thì nở ra những cái chuông nhỏ màu trắng treo lủng
lẳng trên cành hệt như những giọt nước mắt trong suốt.
Sau này, con người đã đem những bông hoa đó vào trồng
trong vườn và gọi bông hoa màu hồng là hoa Trái Tim Tan Vỡ, còn bông hoa màu
trắng là Hoa Linh Lan.
HOA THỦY VU
Trêncác bãi cỏ mọc đầm lầy trong những khoảng rừng sâu
hẳn là các bạn đã có dịp trông thấy một loài hoa kỳ lạ mọc trên nước, duy nhất
chỉ có một cái cánh trắng muốt ôm lấy một cái nhụy vàng.
Ở làng quê người ta gọi đó là Hoa Ráy còn ở thành phố
gọi là Hoa Thủy Vu, thường được trồng trong các chậu cảnh. Thuở nhỏ tôi đã được
nghe ông nội kể về gốc tích của nó.
Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé tên là Lanhít. Cậu
luôn được ánh nắng mặt trời ve vuốt và bàn tay của mẹ chăm chút nên khi lớn
lên cậu cũng là một đứa trẻ vui tính hoạt bát như mọi đứa trẻ khác trong làng.
Nhưng thật không may, một căn bệnh quái ác đã cướp mất của cậu người mẹ thân
yêu. Cuộc sống của cậu bắt đầu trở nên khó khăn. Chẳng bao lâu người cha lại
rước về nhà một mụ mẹ kế ác độc, ích kỷ, chỉ cần một cái liếc mắt của mụ là
Lanhít đã sợ khiếp vía.
Mẹ kế còn mang về nhà chồng cả một bầy lợn lông trắng
lông đen lốm đốm để làm của hồi môn và bắt Lanhít phải chăn dắt suốt từ bình
minh cho đến hoàng hôn, từ mùa xuân xanh cho đến mùa thu vàng vọt. Ở đầu bãi
chăn thả có một cái ao vừa sâu lại vừa bẩn, đàn lợn thường quen xuống đó tắm
mát. Phía bên kia bờ ao là cả một con lợn ranh ma thường vượt sang đó để đào
khoai ăn, khiến Lanhít phải vất vả lội xuống bùn lấm để xua đuổi con vật. Mỗi
buổi chiều về nhà, toàn thân Lanhít bám đầy những bùn đất hôi hám, đã thế mẹ kế
lại không hề cho cậu một giọt nước để tắm rửa. Chân tay chẳng mấy chốc đã khô
nứt hệt những vết rạn.
Trước đây, Lanhít có rất nhiều bạn bè cùng vui đùa,
nay đám trẻ tìm cách xa lánh cậu bé chăn lợn bẩn thỉu. Lanhít đành phải đứng từ
xa trông đám trẻ vui đùa và khe khẽ huýt sáo bài ca "Mặt trời nhỏ".
Một hôm, vì mãi suy nghĩ, cậu không để ý thấy một con lợn dẫn cả đàn con vượt
qua ao sâu, tấn công đám ruộng trồng khoai tây. Mấy đứa con của mẹ kế biết
chuyện, không thèm nói cho Lanhít biết mà chạy về mách mẹ. Sợ hãi, cậu bỏ chạy
thục mạng và trong lúc lúng túng cậu đã bị ngã xuống ao nước bẩn. Cậu cố leo
lên bờ, mẹ kế lại tiếp tục dồn đánh. Điều kỳ lạ là tuy bị lấm bùn từ đầu đến
chân, song một phía sườn của cậu vẫn còn sạch nguyên trông hệt như một cánh
hoa trắng muốt.
- Ê, cánh hoa trắng bé xíu! Hoa ráy tụi bay ơi! - Lũ
trẻ hét lên với một vẻ thích thú.
Khôngngờ tiếng kêu đó đã cột chặt đời Lanhít vào kiếp
bùn đen. Cậu đã phải mang một cái tên khác, kể cả cha cậu, mỗi lần bí mật xoa
đầu cậu vẫn gọi cậu là "Hoa ráy của ta!"
Đó là một mùa hè khốc liệt. Cỏ cây khô héo, những cánh
đồng lúa mì chết rụi. Cái ao sâu hôi hám cũng bị cạn kiệt, nứt nẻ như đá, muôn
loài không còn chỗ mà tắm mát nữa. Đàn lợn hung dữ lại bươn bả khắp các bãi
chăn thả, lùng xục cả vào rừng, hy vọng tìm được một bãi cỏ xanh tươi. Ngay
cả hồ nước giờ đây cũng đã cạn phơi đáy, duy chỉ có ở giữa lòng hồ còn lộ ra
một cái hố nhỏ đen ngòm, không một tia sáng mặt trời lọt vào.
Nạn hạn hán càng hoành hành dữ dội. Riêng cái hố nhỏ
như có một con mắt đen kia lại có sức hấp dẫn muôn loài đi tìm kiếm nguồn nước
mát.
Trong số những muông thú dại dột ấy có một con lợn của
mẹ kế đã liều mình lao xuống cái hố đó để tắm mát và lập tức bị chìm
nghỉm. Lanhít sợ hãi chạy về nhà kêu cứu. Nhưng cặp mắt của mẹ kế chợt vằn lên
trông dữ dằn như cái hố nhỏ đen ngòm giữa lòng hồ khô cạn. Mụ túm lấy một tai
Lanhít và kéo xềnh xệch ra miệng hố.
- Mày phải tự nhảy xuống hố lôi con lợn lên cho ta!
Cậu bé bất hạnh bị quẳng xuống cái hố nhỏ, chỉ còn
thấy nhô lên một cái tai trắng của con lợn. Lanhít bèn túm lấy cái tai con lợn
nhưng cái hố nhỏ quái ác đã dìm sâu cậu xuống. Chỉ còn có cái tai lợn và nắm
tay nhỏ sần sùi của cậu là nổi lên trên mặt nước.
- Mày cứ ở lại dưới đó, Hoa ráy ạ! - Mẹ ghẻ rít lên
từng tiếng một.
Ngày hôm sau, cái hố nhỏ đó cũng bị cạn khô và ngay
chỗ đó người ta thấy mọc lên một bông hoa như một cánh hoa trắng muốt.
- Hoa Thủy Vu! Xem kìa, một bông Hoa Thủy Vu - một cô
gái trẻ chạy qua thốt lên. Từ đấy, loài hoa ấy có tên gọi là Hoa Thủy Vu.
HOA ĐỒNG
THẢO
Hoa thường xuất hiện vào đầu mùa xuân, trông tựa cô
gái nhỏ mảnh mai mang chiếc vĩ cầm màu xanh trên tay. Mỗi khi cô gái biểu diễn
thì chim muông ngừng hót, lắng nghe tiếng vĩ cầm kỳ diệu, ong bướm cứ bay lượn
chung quanh hát hoà theo những giai điệu phát ra từ thứ nhạc cụ khiêm tốn kia.
- Này, Phianca(1) - một cô gái má đỏ,
nguyên là em của hoa Anh Túc, ba hoa nói - Cậu có thể biểu diễn cả dàn nhạc được
đấy, cậu sẽ thu được ối tiền!
- Ôi, mình có qua trường lớp nào đâu. - Phianca đáp -
Tớ rất vui, nếu tiếng đàn của tớ đem lại niềm vui cho mọi người.
- Nếu cậu có tiền, cậu sẽ tha hồ ăn diện - Cô gái má
đỏ khuyên - Chả lẽ ngày thường cũng như trong ngày hội cậu chỉ mặc duy nhất
bộ cánh xanh thôi à.
- Thế này cũng được rồi, còn ăn diện thì tớ không dám
màng - Phianca trả lời.
- Này nhé, nếu có tiền, cậu sẽ mua hẳn một chuỗi vòng
bằng ngọc trai, quàng lên cái cổ mảnh dẻ của mình ấy - Hoa Uất Kim Cương xinh
đẹp chen vào - Biết đâu người ngoài chẳng để mắt tới.
- Cổ tớ khẳng khiu, khó coi lắm. Các vòng ngọc trai như
vậy đâu phải để cho tớ. Cứ giản dị thôi.
- Cậu cứ như trẻ con ấy, nói chẳng nghe gì cả, - cô
gái má đỏ tức giận, vừa cong các môi lên vừa mỉm cười nhìn về phía hoa Rẻ Quạt
đang đứng bên kia đường.
RẻQuạt không mỉm cười đáp lại vì nó đang bị tiếng đàn
của Phianca thu hết hồn. Những giai điệu huyền hoặc từ cây đàn vĩ cầm kia cứ
lan xa, lan xa mãi, tựa như bài hát du dương về tình yêu và tình bạn bất
diệt. Phianca ngừng chơi. Hoa Lưu Ly mắt xanh bèn cúi sát gần nó, thì thào:
- Cậu có thấy Rẻ Quạt nhìn cậu như thế nào chưa? Như
bị thôi miên vậy. Nó phải lòng cậu rồi!
- Rõ thật là! - Phianca khẽ thở dài - Mình thuộc diện
xấu mã. Đứng bên cạnh chị má đỏ và Uất Kim Cương, mình chỉ là con lọ lem thôi.
Rẻ Quạt xinh trai thế kia, nó phải lòng mình vì lẽ gì cơ chứ? Có lẽ nó yêu âm
nhạc và thích nghe tiếng đàn của mình thì đúng hơn, còn cậu thì định lừa mình
để rồi sau đó lại cười vào mũi mình là con ngốc cả tin chứ gì... Phianca đã
trả lời như thế nhưng trái tim nó cứ chộn rộn khôn nguôi. Nó bắt đầu kẹp chặt
chiếc vĩ cầm xanh vào vai và thổ lộ nỗi buồn cùng những ước mơ của mình qua
một giai điệu êm ái. Qua tiếng đàn của nó, người nghe có cảm giác hạnh phúc
trên đời này thật vô tận, chỉ việc chìa tay ra mà đón nhận, và tất cả những
gì mà bạn ao ước như tình yêu, tình bạn và niềm vui, sẽ lần lượt đến với
bạn, tựa như những vì sao trên bầu trời mùa hè đang rớt xuống.
Tiếng đàn của Phianca ngưng bặt. Rẻ Quạt cứ bứt rứt
trong người, nếu như Tử Đinh Hương không nói nhỏ vào tai nó:
- Rẻ Quạt ơi, cậu sẽ là một thằng ngốc nếu để tuột
hạnh phúc khỏi tầm tay. Chả lẽ cậu không thấy Phianca chơi đàn chỉ để cho mình
cậu đó sao!
Nó đã phải lòng cậu rồi, đến thằng thong manh cũng
nhận ra!
- Làm sao cậu biết được? - Rẻ Quạt tỏ vẻ không hài
lòng - nó giống như một nhà nghệ sĩ lúc nào cũng mơ màng trên bầu trời xanh,
xa lạ với những tình cảm trần thế, nó sống với nghệ thuật riêng mình và một
chàng trai tầm thường như mình, đối với nó không hơn một cọng rơm.
Mộtbuổi chiều ấm áp, Phianca chơi bản Xônát ánh trăng.
Thoạt đầu âm nhạc vang lên một nỗi buồn khó hiểu, một lời cầu xin bứt rứt, nỗi
sầu muộn bị chối bỏ nhưng rồi giai điệu được chuyển ngay sang những lời thủ
thỉ say đắm, đầy quyến rũ, giục giã và cứ thế mà mãnh liệt hơn lên, kêu gào đòi
được hạnh phúc.
Cô gái má đỏ đứng bên cạnh Rẻ Quạt trút một hơi thở
đầy say mê. Tiếng thở của nó như một thứ rượu làm say lòng người. Rẻ Quạt đã
bị nhiễm hơi men và đang mê mẩn cả tâm thần.
Phianca đã biến hoá thành âm thanh cây đàn, còn cô má
đỏ thì áp sát toàn thân vào người nó, hôn hít nó, tâm tình với nó những lời âu
yếm, còn Rẻ Quạt thì đã bắt đầu cảm nhận được cô má đỏ kia chính là hạnh phúc
của mình. Sáng hôm sau, khi Rẻ Quạt vẫn còn đang nhớ lại và luyến tiếc giây
phút đầy vui sướng thoảng qua thì cô má đỏ đã thông báo cho các bạn gái về đám
cưới sắp tới của mình. Như thông lệ, mọi người hân hoan chào đón chàng
rể và cô dâu, đồng thanh chúc họ hạnh phúc của cải đầy nhà.
Cô má đỏ hài lòng quay một vòng khiến chiếc váy đỏ xoè
ra, còn Rẻ Quạt thì cứ đứng bất động, vẻ thờ ơ như không hề có ý định cưới cô
má đỏ làm vợ.
Sau tiệc cưới, mọi người phải nhảy múa và thế là
Phianca bắt đầu chơi một bản nhạc vanxơ và pônca. Trong lúc khách khứa còn đang
say sưa với vũ điệu thì ông bố Uất Kim Cương bỗng ra hiệu cho người chơi vĩ
cầm và thế là một không khí im lặng nặng nề trùm lên. Quả là trong lúc nhộn
nhạo, không ai hay rằng Phianca đã biến mất. Mãi tới lúc này cô má đỏ mới nhớ
ra rằng trong lúc bỏ đi, nàng có dặn lại:
- Chúc bạn hạnh phúc! Cảm ơn bạn về việc đã đón tiếp
tôi! Nhưng nỗi đau của tôi đang làm sản sinh ra những bài ca mới và những bài
ca ấy cũng đang đưa tới hạnh phúc cho nhiều người khác.
(1) Tên phiên âm Hoa Đồng
Thảo.
HOA HUỆ TÂY
Những giọt nước mắt nào có giúp được gì! Giắc sẽ
phải lên đường chinh chiến ở một xứ xa lạ, đành bỏ lại Lilia, người vợ chưa
cưới của mình trên đất Pháp. Lúc chia tay, Giắc rút trái tim ra khỏi lồng ngực
mình, trao cho Lilia và nói:
- Đã là chiến binh thì phải sống không có tim. Trái
tim chỉ gây phiền hà cho ta. Nàng hãy giữ lấy nó chờ ta về.
Lilia giấu trái tim của Giắc vào một cái tráp bạc và
từng ngày, từng ngày chờ đợi người yêu quay trở về. Với một người đang trông
đợi thì thời gian mới chậm chạp làm sao! Một ngày dài bằng cả năm, một năm bằng
cả thế kỷ. Dù Lilia có làm gì và có đi đâu thì cái nhìn của nàng lúc nào cũng
hướng về phía mà Giắc đã ra đi. Nàng đã mất thói quen tính ngày, tính tháng.
Một lần nàng rất phẫn uất khi người cha nói với nàng:
- Con gái của ta, thế là đã mười năm trôi qua kể từ
ngày người yêu cả con xông pha nơi trận mạc, không chắc nó có hồi hương. Đã
đến lúc con phải lo tấm chồng khác rồi đấy.
- Cha ơi, cha mà lại nói với con như vậy ? - Nàng
đau đớn nói với cha, Giắc đã trao trái tim của chàng cho con rồi và bây giờ
trái tim ấy đang ở chỗ con, con không thể nào quên Giắc được đâu cha ạ.
Người cha chỉ biết lắc đầu, thở dài não nuột. Chắc
chắn là ông không thể sống cho đến ngày ông được bế trên tay một đứa cháu
trai.
Lại mười năm nữa qua đi, cuộc chiến cũng vừa tàn, các
chiến binh liên tục trở về, người thì chống nạng, kẻ thì tay áo lủng lẳng.
Lilia chờ đợi Giắc, nàng hỏi tin chàng khắp nơi, nhưng vẫn chẳng nhận thêm được
điều gì.
- Có lẽ chàng đã phải lòng người con gái khác và ở
lại xứ người rồi, - có lần em gái Lilia tỏ ý nghi ngờ, song Lilia không thể
tin điều đó.
- Chàng có thể yêu người khác sao được một khi trái
tim chàng đang còn ở chỗ ta? Một người không có tim thì không thể yêu được!
Chiến tranh đã qua rồi, nhưng một con người không có
trái tim như Giắc, suốt trong những năm tháng ấy chỉ quen chém giết, cướp
bóc không biết ghê tay, bây giờ chàng sống theo kiểu khác rồi. Chàng trở thành
thủ lĩnh một băng cướp ở xứ người và nhiều khi còn trấn lột vàng bạc của quý
của người qua đường.
Khi tên cướp già Pie bị ốm, Giắc đã thẳng tay đuổi ra
khỏi băng cướp. Sau này, khi quyết định phải trả thù thủ lĩnh, Pie liền tìm đường
về quê hương của Giắc với mong muốn kể cho họ hàng thân thích và người quen
biết Giắc hiểu rõ rằng, Giắc đang làm một công việc tầm thường như thế nào.
Pie phải đi mất cả chục năm mới về tới nước Pháp vậy
mà vẫn không tìm thấy làng quê của Giắc. Và người đầu tiên mà gã ta gặp là một
bà già tóc đã bạc phơ, có cái nhìn khắc khoải.
- Bà có biết Giắc không? - Pie hỏi
- Ôi lạy chúa, ông hỏi tôi về chuyện gì vậy? - người
đàn bà kêu lên - Giắc là chồng chưa cưới của tôi, là người tôi đang mòn mỏi
trông chờ, tôi không biết sao được? Hãy làm ơn nói mau, hiện chàng đang ở đâu
và chàng đã gặp điều gì chẳng lành?
Piethấy trong cặp mắt người đàn bà vẫn còn đang cháy
lên niềm hy vọng, và gã hiểu ngay rằng bà vẫn còn yêu Giắc cháy bỏng như thời
còn son trẻ. Gã không nỡ nói hết sự thật kinh hoàng về Giắc.
- Vậy ra bà là vợ chưa cưới của Giắc đấy! Pie thốt
lên.
- Phải, tôi là Lilia, chúng tôi đã thề nguyện với
nhau.
- Ôi, tôi mang đến cho bà một tin buồn - Pie cụp mắt
xuống - Giắc đã lao vào cuộc chiến như một dũng sĩ. Anh ấy mới yêu bà làm sao!
Trước lúc nhắm mắt, anh ấy cứ nhắc mãi cái tên của bà - Lilia.
"Giắc của ta đã chết và đã yên giấc ngàn thu -
Lilia đau buồn nghĩ - Nhưng chàng nằm xuống đất sao được khi chàng không có
tim? Ta phải đi tìm mộ chàng và trả lại cho chàng trái tim nhân hậu đáng
yêu".
Ôm cái tráp bạc, Lilia bắt đầu một cuộc hành trình
gian khổ đến những miền đất xa xôi. Bà mất cả thói quen tính ngày, đếm tháng,
nhưng gặp ai bà cũng hỏi thăm đường. Mọi người can ngăn bà không nên đi tiếp
khi chỉ có một mình, vì biết đâu sẽ gặp bọn cướp ác độc, song Lilia không nghe.
Quả nhiên, đến một khúc đường ngoặt, bà bị mấy tên cướp râu xồm trấn mất cái
tráp đựng báu vật. Bà khóc lóc, vật nài, kể lể về mối tình bất hạnh của mình
với Giắc, nhưng tất cả điều đó không hề làm bọn cướp động lòng. Bọn cướp
mang cái tráp về dâng thủ lĩnh. Chúng vừa cười hô hố vừa thuật lại chuyện một
bà già mất trí đi tìm mộ chồng để trao cho chồng trái tim mà ông ta đã trao cho
bà làm tin trước lúc ra trận.
Tronglúc bối rối, thủ lĩnh toán cướp bèn mở tráp ra
và trông thấy trái tim của chính mình mà bao năm tháng qua đã bị mất. Và thật
lạ lùng, trái tim đã nói với người chủ của nó bằng tiếng nói của con người:
- Nếu còn là người, chớ có nói cho Lilia biết người
là cái hạng gì. Hãy cứ để cho Lilia tin rằng người đã chết, như vậy bà ta sẽ
giữ được trọn vẹn những kỷ niệm tốt đẹp về người.
Giắc vội vàng đậy nắp tráp lại và ra lệnh cho bọn đàn
em phải đem trả lại ngay cho bà già, đồng thời phải chỉ cho bà thấy một nấm mộ
cỏ mọc xanh rì, làm như đó là mộ của Giắc. Dọc đường đi, bọn cướp quyết định
giữ cái tráp lại, song chúng vẫn không quên chỉ cho Lilia nấm mộ theo ý của
Giắc.
Người đàn bà bất hạnh giờ đây vẫn còn mang tình yêu
với Giắc như hồi còn trẻ, và bà không nỡ rời bỏ Giắc khi Giắc không có trái
tim bên mình. Thế rồi bà đã lôi trái tim từ lồng ngực của mình ra vùi xuống nấm
mộ, nơi bà nghĩ có hài cốt của Giắc.
Từ nơi trái tim ấy đã mọc lên một bông hoa, mà đời nay
vẫn gọi là HOA HUỆ tây. Loài hoa tượng trưng cho sự trinh trắng, lòng chung
thuỷ và cao thượng.
HOA ĐUÔI CÁO
Giađình nhà chuột cống đang có một niềm vui lớn,
song bên cạnh đó vẫn canh cánh một mối lo âu. Vui vì cô út của họ nhà chuột
đuôi cộc bằng lòng làm vợ đứa con trai cả họ nhà chuột đuôi dài. Còn nỗi lo thì
bắt đầu từ việc vị bô lão chuột đưa ra một điều kiện mà nếu thiếu nó thì chuột
đuôi cộc không sao lấy được chồng.
Điều kiện thật khắc nghiệt: trong ngày cưới, chuột
đuôi dài phải trang hoàng trên các bụi cây quanh nơi ở của mình bằng những cái
đuôi mèo! Làm như thế chẳng những đẹp mắt mà còn chứng tỏ được lòng dũng cảm
của chú rể, rằng ngay trong giờ phút bất lợi nhất chú vẫn bảo vệ được gia đình
mình thoát khỏi kẻ thù độc ác nhất của tất cả các loài chuột, đó là Mèo đen
khét tiếng.
Gia đình nhà chuột cống sống ở dưới kênh đào, trong
các bụi cây gai cách xa nơi ở của con người. Không biết đã bao nhiêu buổi chiều,
họ nhà chuột cống cứ tranh cãi nhau mãi về loài mèo kia. Tin đồn về sự ác độc
của chúng truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, nhưng chưa đứa nào được tận
mắt trông thấy một con mèo bằng xương, bằng thịt, thậm chí cả đến con mèo cao
tuổi nhất cũng chưa thực mục sở thị.
Vậy mà trước ngày hôn lễ phải tìm bằng được mấy con
mèo, phải kiếm bằng được mấy cái đuôi mèo! Lũ chuột cống nghèo hèn không
hiểu rằng chúng bị chuột nhà vẫn cho tổ chức đám cưới và nghĩ : chú rể chuột
đuôi dài sẽ bị mèo bắt và sẽ không có đám cưới nào hết.
Nhưng chuột đuôi dài yêu chuột đuôi cục đến nỗi nó đã
chuẩn bị sẵn một thanh gươm và chuẩn bị lên đường đi tìm mèo để chặt lấy cái
đuôi của nó. Chỉ có điều là gươm ấy làm bằng lá cây vải gai. Chuột đuôi
dài chưa bao giờ trông thấy mèo mà vẫn mơ ước dùng kiếm ấy để chặt đuôi mèo!
Thế là chuột hăm hở đi lùng mèo, mặc cho mẹ khóc cạn nước mắt vì lo sợ.
Mẹchuột bò ra khỏi bụi cây, nghếch mõm lên suy nghĩ.
Nó suy nghĩ căng thẳng đến nỗi cái mõm của nó cứ giật giật và mấy cái râu thì
rung rung. Nghĩ mãi rồi thì cũng phải ra một điều gì đó. Nó quyết định đến gặp
chị cáo, một con vật tinh khôn có bộ lông đuôi sặc sỡ, mời nó đến dự đám cưới
và xin nó lấy cái đuôi của mình làm quà tặng cô dâu, chú rể, treo trên bụi cây
gai.
Được tin về đám cưới chuột, cáo ta mừng rơn, cứ liếm
lưỡi liên tục. Cáo không thích chuột đồng vì thịt không ngon; còn thịt chuột
nhà thì khỏi phải nói!
Cáo hỏi thăm chuột đồng nhà cô dâu có đông không và
chúng không thể không đem lũ con đi theo, vì lũ con này cũng phải treo đuôi
trên các bụi cây.
Nói là làm. Cáo mẹ và lũ con đến đám cưới rất đúng
giờ và treo đuôi của mình lên các cành cây, rồi nấp vào các chỗ kín, sau các
tảng đá, mô đất, đồng thời không quên phòng ngừa thợ săn.
Khi hoàng hôn buông xuống, đám cỏ trên bãi ven kênh
đào nghiêng ngả, chính là lúc họ hàng nhà cô dâu kéo đến đông đúc.
Cả nhà chuột cống ùa ra đón khách, hỏi han bà con họ
hàng xem họ có hài lòng về cách trang trí ngày cưới không.
- Tuyệt quá! - Mẹ chuột đuôi cục nói. - Nhưng tôi chưa
hề thấy loài mèo nào có những cái đuôi như thế kia.
- Đây là đuôi của loài mèo rừng, - mẹ chuột đuôi dài
giải thích. - Mèo rừng ấy mà. Chúng ác độc hơn mèo nhà rất nhiều. Sáng kiến này
chỉ có cậu ấm nhà tôi mới làm được thôi.
- Phải tay tôi, tôi cũng sẽ không tha, - người anh
trai của chuột đuôi cục thốt lên. Trước khi đến đám cưới, anh ta đã tráng
miệng chút xíu rồi và bây giờ thì đang đứng ở dưới cái nút thùng rượu.
Anhta vừa dứt lời thì từ trong một tảng đá lớn, rồi từ
dưới bờ kênh cả một đàn cáo nhảy ra, con thì tấn công kẻ vừa ba hoa, con thì
nhảy bổ vào chuột mẹ, rồi lần lượt cha, anh và họ hàng nhà chuột đều bị lâm
nạn. Chuột đuôi dài chỉ kịp lôi chuột đuôi cục vào trong một bụi cây tầm ma.
Chuột đuôi cục sợ hãi đến nỗi không kịp nhận ra ai trong số họ hàng nhà mình đã
bị lũ cáo ám hại.
Khi chuột đuôi dài khám phá ra điều bí mật của vợ mình
thì chuột đuôi cục bèn cột chặt những cái đuôi cáo vào cành tầm ma, nơi mà
chúng để lại đuôi ở đó. Một hôm, có người qua đường trông thấy cây tầm ma rực
rỡ, bèn đào lên, đem về trồng ở vườn nhà mình.
"Hoa đuôi cáo", đó chính là tên gọi của loài
hoa này. Các nhà bác học về nghề làm vườn thì gọi chúng bằng một cái tên khác,
không hề liên quan gì đến một cái đuôi nào cả - "Maranthus" Tiếng La
Tinh có nghĩa là Hoa Dền.
HOA HẢI ĐƯỜNG
Khilinh mục Kamêli được phái tới Nhật Bản để truyền
đạo thì ông không ngờ rằng ông lại bắt gặp ở đây những vị thần có khả năng
quyến rũ cả những cha cố tiếng tăm. Ông thề rằng ông sẽ tránh xa mọi cám dỗ
trần thế và tự hành hạ mình bằng cái đói và cái khát. Bởi vậy các thầy học của
ông và bản thân ông đều tin rằng với sự trong sáng của mình ông rất đáng được
ơn huệ của Chúa và Chúa sẽ giúp ông biến những người Nhật Bản lầm lạc theo
đạo.
Ở Nhật Bản, trong lúc chuẩn bị cho công việc đại sự,
cứ chiều chiều ông lại vào rừng nhặt nhạnh các rễ cây và bắt châu chấu đem phơi
khô dành cho mùa đông. Phải nói rằng số lượng lớn châu chấu mà ông kiếm được
là ở trên các cành của một cái cây lớn. Châu chấu nhiều đến nỗi dù ông cố bắt
hết thì sang chiều hôm sau chúng lại phát triển thành bầy nhung nhúc.
Vào một buổi chiều nóng bức, Kamêli dừng chân trong
một làng xa, kể chuyện cho những người nông dân nghe về buổi truyền đạo trên
núi và mãi tới tận nửa đêm ông mới tới được cái cây lạ lùng kia. Mặt trăng
tròn vành vạnh nhô cao trên đỉnh rừng, cây cối đứng im lìm tựa như đã thấm
mệt, còn lũ châu chấu thì im lặng hoặc có thể vị linh mục đã quá quen với tiếng
kêu ri rỉ của nó đến nỗi chẳng buồn nghe nói nữa.
Khi Kamêli chắp hai tay vẻ thành kính và ngước lên
trời tạ Thượng Đế vì ơn huệ của một ngày qua thì trong đám lá cây bỗng vang
lên tiếng cười ngọt ngào của một thiếu phụ.
- Ha Ha Ha! - một sinh vật như một chú thỏ, thoăn
thoắt nhảy từ cành nọ qua cành kia, phô hàm răng trắng xoá.
"Một kẻ vô đạo đã phái con quỷ này đến cám dỗ ta
đây" - Kamêli quả quyết. Sau cái khoát tay của ông, con quỷ dường như hưng
chí hơn, nó liền nhảy ngay xuống cành cây thấp nhất và bắt đầu huơ huơ đôi chân
trắng ngay trên đầu vị linh mục.
Kamêlilùi lại vài bước, chăm chú nhìn cái sinh vật kỳ
dị kia. Toàn thân nó được bao bọc một lớp xanh hoà lẫn trong màu xanh lá
cây, chỉ có đôi chân trắng muốt và cái đầu nhỏ tóc vàng lấp loá ánh trăng là
thấy rõ và được thu lại tựa một bông hoa sặc sỡ đang kỳ nở rộ.
- Ngươi là ai? - tu sĩ hỏi
- Hi hi! Ha ha!
- Ngươi là nữ nhi ?
Sinh vật lắc đầu quầy quậy
- Vậy ngươi là ai? Tên ngươi là gì?
- Ta là Đơriađa, linh hồn của cái cây này, - đầu tóc
vàng thú nhận - Ta đến để tạ ơn ngươi vì ngươi đã làm cho thân cây của ta sạch
bóng lũ châu chấu tanh hôi.
Nói xong, hồn cây nhảy luôn vào lòng bàn tay của tu
sĩ, đoạn ôm chầm lấy ông và gắn vào bộ râu của ông một nụ hôn. Kamêli lúng túng
đến nỗi đáng lẽ phải đẩy cô gái rừng xanh ấy ra xa thì ông lại kéo diết cô ta
lại phía mình và cứ để nguyên giây phút kỳ diệu như thế trong đời một hồi lâu.
- Ta không thể ở lại với nhà ngươi lâu hơn được nữa,
- Đơriađa thì thào - nếu không cái cây của ta sẽ khô héo mất.
Con quỷ vùng ra khỏi tay ôm của Kamêli và nhảy lên một
cành cây xanh.
Chỉđến lúc này vị tu sĩ mới hiểu rằng ông đã phá bỏ
lời thề về sự trinh trắng và ông trở về nhà trong tâm trạng đầy u uất. Biết làm
sao được? Liệu ta có còn xứng đáng là một vị linh mục nữa hay không?
Cho đến tận đêm khuya lạnh lẽo cái đầu bốc lửa của
Kamêli mới nguôi ngoai được đôi chút. Ông bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về
những sự việc vừa xảy ra. Ông đã phá bỏ lời thề rồi ? Người đã hôn ông không
phải là một thiếu phụ mà là một linh hồn, bởi vậy, cái hôn này chẳng phải đem
lại niềm vui sướng xác thịt. Nàng không phải là phù thuỷ, nếu không nàng đã
biết sợ dấu hiệu của nhà thờ. Phải, trong kinh thánh không hề nói đến chuyện
tiếp xúc với thần linh, như vậy là đã phạm tội. Sau khi tự trấn an như
vậy, vị linh mục thấy tự tin hẳn lên.
Nửa đêm hôm sau, bị tính tò mò thôi thúc, Kamêli lại
đến trước cái cây lạ.
- Đơriađa! - Ông cất tiếng gọi và dừng lại dưới một
chiếc lá to bản.
- Hi hi! Ha ha! - Một tiếng cười hỉ hả cất lên. Và
qua tiếng lá cây sột soạt có thể đón ra cô gái rừng xanh đang tụt xuống đất.
Ngay từ lúc trưa, vị tu sĩ đã nghĩ cách giải thích lý
do ông trở lại chỗ cây này. Khi Đơriađa đã ngồi trên một cành cây thấp,
ông không hề lúng túng thanh minh :
- Tôi đến để xem lũ châu chấu có còn quấy rối các cây
của bà nữa không.
- Một tên vô lại nào đó đã leo lên tận ngọn cây rồi, -
Cô gái rừng xanh than phiền - nếu ngươi bắt được nó, ta sẽ rất biết ơn ngươi.
Kamêli quấn hai vạt áo quanh thắt lưng và thoăn thoắt
leo lên cây. Một con châu chấu đã bị tóm và ông đã được thưởng công xứng
đáng.
Cả lũ châu chấu đã bị diệt gọn, song Kamêli không hề
lúng túng, nghĩ cách đoạt được nụ hôn của Đơriađa. Mùa đông đã đến gần, không
khí bắt đầu nhuốm lạnh. Trong một đêm Đơriađa đã nói với Kamêli :
- Ngày mai ngươi đừng đến đây nữa. Trước mùa xuân,
cái cây phải nghỉ ngơi và ta sẽ cùng nghỉ với nó.
Cáitin lạ lùng khiến Kamêli sửng sốt. Ông sẽ sống ra
sao đây nếu thiếu niềm vui? Hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, rồi nhiều tháng
cứ qua đi thì sao? Còn linh hồn dịu dàng - Đơriađa - hẳn nàng đang bị chết cóng
trong hốc cây. Không, phải nghĩ ra một điều gì đó, phải làm một cái gì đấy để
cứu nàng.
Giá như còn thời gian hẳn Kamêli sẽ nghĩ ra được
điều gì đấy, nhưng bây giờ chẳng còn thời gian để nghĩ nữa, cần phải hành
động. Ông túm lấy cô gái rừng xanh, giấu dưới vạt áo rộng và đem về nhà mình.
Suốt dọc đường Đơriađa đành câm miệng hến, chỉ khi bước vào gian phòng mà vị
linh mục đặt nàng xuống giường, nàng mới kêu lên:
- Ngươi làm cái trò gì thế ? Giờ này chắc cái cây của
ta đang bắt đầu chết héo....
- Mặc cho nó chết héo. Chẳng lẽ trong rừng hiếm cây sao? Kamêli an ủi nàng.
-
Ông hiểu việc đó như thế nào. Nếu cái cây của tôi khô héo thì tôi sẽ chết. -
Đơriađa nói, giọng buồn bã.
-
Đó là chuyện nhảm nhí, ta sẽ giải phóng nàng khỏi nơi này. - Vị tu sĩ thề thốt.
Tới
mùa xuân, khi các lá cây bắt đầu trổ màu xanh, Đơriađa cứ yếu dần và ngày rộc
hẳn đi.
-
Hãy trả ta về với cây của ta! - Nàng khẩn khoản nói với Kamêli và ông đã sẵn
sàng thực hiện yêu cầu của nàng, đồng thời hy vọng không khí mùa xuân sẽ chữa
cho Đơriađa lành bệnh.
-
Thật là đau khổ! - Đơriađa kêu lên khi Kamêli đặt nàng ngồi trên cành cây thấp
- Cái cây của tôi đã chết rồi.
Trước
mắt Kamêli nàng cứ tự tan biến đi và hoà lẫn vào cây xanh : Mãi tới một ngày
kia, hệt như bông hoa lộng lẫy, mớ tóc hung hung của nàng bừng đỏ lên, rồi sau
đó chúng cứ lấp loáng.
-
Xin nàng đừng bỏ đi, hãy nói với ta, dù chỉ là đôi lời!
Kamêli
thất vọng cầu xin và ông đã nghe được giọng nói yếu ớt đáp lại:
-
Trên đỉnh ngọn cây kia vẫn còn hơi thở nóng hổi của cuộc sống. Hãy bẻ lấy một
nhành cây trên đó và đem trồng ngay xuống đất.
Kamêli
bẻ ngay một cành cây tươi và đau đớn trở về nhà. Ít lâu sau, từ cành cây đó
mọc lên một bụi cây và nở ra những bông hoa đỏ sặc sỡ.
Vài
năm sau, vị tu sĩ già từ Nhật Bản trở về Châu Âu. Ông là người duy nhất mang
theo về một chậu hoa mà ai cũng phải trầm trồ. Kamêli đặt tên nó là Hoa Đơriađa
nhưng người đời không thể nhập tâm được một cái từ khó đọc như vậy nên
đã gọi tên hoa bằng tên vị linh mục: Kamêli - Hoa Hải Đường.
HOA TUYẾT
Khi
bà Chúa Tuyết sinh hạ được một cô con gái, bà phải suy nghĩ rất lâu rồi mới
quyết định đặt tên con gái là Xnhedinca(1)
Xnhedinca
trắng trẻo, mái tóc cũng trắng, nằm trên chiếc giường trắng, phía dưới là
những tấm vải đệm bằng mây trắng. Khi Xnhedinca vừa đến tuổi trưởng thành đã
có mấy chàng trai đến cầu hôn. Người đến trước nhất là Mặt Trăng, nhưng
Xnhedinca không ưng vì chẳng có cái trán hói nhẵn thín, đêm đêm không chịu ngủ
mà cứ lang thang trên bầu trời, còn ban ngày thì lại giấu mặt sau những đám
mây. Người thứ hai đến xin cầu hôn là Tia Nắng, nhưng chàng cũng bị Xnhedinca
từ chối.
Chúa
ông giận lắm. Một hôm ông nghiêm khắc nói với con gái:
-
Nếu con không tự kiếm được chồng thì cha mẹ đặt đâu, con phải ngồi đấy.
Chúa
ông nhắn tin cho Gió, kẻ thống lĩnh cả bầu trời xanh có đến bốn người con trai
chưa đứa nào thành gia thất. Gió bèn đáp chiếc xe trang hoàng lộng lẫy do
những con tuấn mã phi cực nhanh tới ra mắt Chúa ông. Xnhedinca được gả bán cho
đứa con trai cả của Gió - đó là chàng Gió Bắc. Chúa bà lấy làm hạnh phúc chuẩn
bị của hồi môn cho con gái, nào là chăn lông chim, gối bông tuyết mềm, những
tấm vải trải giường bằng mây trắng, rồi hàng chuỗi hạt cườm vòng cổ bằng
tuyết lấp lánh.
Khikhách
mời đến đông đủ, Xnhedinca hiện ra như một nàng công chúa. Bà con họ hàng rất
hài lòng được đến dự ngày vui, ai cũng khen hai bạn trẻ thật xứng đôi, phải
lứa. Chỉ riêng Xnhedinca là không hài lòng chút nào. Chả là đương lúc yến
tiệc, chàng Gió Bắc bỗng hét toáng lên: "Nóng quá! Nóng quá!" khi
chàng khẽ chạm vào cặp môi lạnh toát của mình vào cặp môi của nàng.
-
Con không thể yêu chàng được - Xnhedinca thở dài nói. Nàng nói nhỏ đến mức
ngoài mẹ nàng ra chẳng ai có thể nghe được tiếng nàng.
"Không
lẽ con gái yêu của ta lại là đứa bất hạnh". Trái tim người mẹ bỗng run
lên trước một sự tiên đoán đáng sợ.
Đúng
lúc yến tiệc đang rôm rả thì chàng rể lên tiếng bảo em trai Gió Nam chơi một
bản nhạc nhảy. Gió Nam đang ngồi ở mép một đám mây bèn rút trong vạt áo ra một
ống sáo và bắt đầu thổi. Giai điệu nhẹ nhàng lan toả, cnốn hút Xnhedinca vào
cuộc nhảy. Nàng lả lướt, quay người, đập đập gót giày vào nhau phát ra tiếng
kêu lanh canh, trong lúc đó, chàng Gió Đông, người em chồng tinh nghịch cứ vỗ
tay cười. Chỉ có chàng Gió Tây là mỗi lúc một thêm thất vọng, đau khổ rồi gục
đầu vào vai cha thổn thức. Gió Cha kinh ngạc hỏi :
-
Con trai của ta, ngày vui thế này, cớ sao con lại để rơi luỵ?
Chàng
Gió Tây nức nở :
-
Vì sao cha lại dạm hỏi nàng Xnhedinca cho anh lớn mà không phải là cho con? Vì
sao nàng lại không thể là vợ của con?
Lúcnày
chàng Gió Nam mới ngước cặp mắt bồ câu của mình nhìn Xnhedinca và chàng đã bắt
gặp cái ánh nhìn lên của nàng. Tiếng sáo nghe càng du dương hơn khi nó vang
lên chỉ để dành cho một mình Xnhedinca thôi, còn Xnhedinca thì nhảy cũng chỉ để
cho chàng Gió Nam. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chàng Gió Bắc ác độc và đầy ghen
tuông kia bắt được? Bà Chúa Tuyết vô cùng đau khổ.
-
Con gái yêu ơi, hãy biết kiềm chế trái tim mình! - Bà Chúa khẽ van nài khi
Xnhedinca quay tròn gần chỗ bà.
Nhưng
một trái tim đang thổn thức vì tình yêu thì kiềm chế làm sao được? Chả lẽ
Xnhedinca lại có thể làm được cái điều mà ngay cả những kẻ ngu ngốc lẫn những
đấng anh minh đều chịu bó tay sao?
Có
thể vì mải nói chuyện với Chúa ông nên Gió Bắc không hay biết gì, nếu như Gió
Tây không khích bác chàng bằng một tiếng cười ác độc :
-
Xnhedinca của anh sắp nở hoa nhờ những cái nhìn cháy bỏng của thằng út nhà ta
đấy.
Nghe
nói vậy, Gió Bắc đấm mạnh xuống bàn, hét lên vì tức giận, mắng Gió Nam :
-
Hãy cất ngay ống sáo đi, nếu không ta sẽ đập vỡ đấy!
Tiếng
sáo chỉ còn lí nhí như tiếng chim rồi câm bặt. Xnhedinca lúng túng liếc nhìn
cặp mắt bồ câu của Gió Nam như muốn dò hỏi: phải chăng đó chỉ là tình yêu
thoáng chốc của chàng. Nàng nhớ lại cái giây phút Gió Bắc đứng phắt dậy và gầm
lên:
-
Xnhedinca, em đừng quên rằng em là của anh, còn mi, thằng em kia, đừng quên
rằng này không hề là của mi! Và bây giờ, Xnhedinca, em hãy nhảy để anh đệm sáo!
GióBắc
cho các ngón tay vào mồm và huýt the thé khiến mọi người ai nấy có cảm giác bị
kiến bò sau lưng.
-
Nhảy đi! Nhảy đi! - chàng hét Xnhedinca.
Còn
nàng thì đang đắm đuối trước đôi tay giơ ra chào mời của chàng Gió Nam. Nàng
toan quay đi song đôi chân nàng bị băng cứng lại rồi, và chúng đã cưỡng lại ý
nàng.
-
Hãy nhảy đi! Nàng hãy nhảy vì ta! - Gió Bắc hét to đến nỗi làm chuyển cả những
cột nhà bằng tuyết, nhưng Xnhedinca vẫn không hề động lòng.
-
A ha! - Gió Bắc cuồng lên, chàng rút cái roi ở thắt lưng ra đoạn vung lên. -
Này, chú em Gió Nam của ta, giờ thì ta không còn thương tiếc mảnh vườn táo
khu vườn hồng nhà mi nữa nghe. Nội đêm nay ta sẽ tàn phá hết những khu vườn
đó bằng chính hơi thở của ta; sáng mai, mi sẽ được bước lên những cành khô
khốc và chỉ biết rơi những giọt lệ cay đắng mà thôi.
Tình
yêu đã mách bảo Xnhedinca cách cứu lấy mạng sống của người tình. Khi Gió Bắc
chưa kịp gom không khí vào lồng ngực thì Xnhedinca đã thấy gương mặt của Gió
Nam đen xạm đi; nàng lập tức tháo tung những chăn gối lông chim của mình ra, và
thế là chỉ trong nháy mắt, những khu vườn của Gió Nam đã được phủ một lớp
thảm như tuyết trắng. Những bông hồng và những trái táo không còn biết sợ hơi
thở của gió lạnh nữa.
Gió
Bắc thất vọng, tính chuyện trả thù Xnhedinca. Chàng dùng roi quất nàng túi bụi,
song nàng đã khôn khéo tránh được. Gió Bắc bèn ném roi đi và lao về phía
Xnhedinca.
-
Thế là đám cưới đã tàn! - chàng Gió Bắc gầm lên - Ta sẽ đưa nàng về nhà và
giấu nàng vào căn hầm tối tăm nhất. Hãy để cho chuột, bọ gặm nhấm thân xác
nàng, hỡi người vợ bướng bỉnh của ta.
Đến
đây, tình yêu lại mách bảo Gió Nam cách cứu lấy trái tim, mà đối với nàng là
quý giá hơn tất cả mọi thứ trên đời. Cắp nàng vào ngực, Gió Nam biết giấu
Xnhedinca đi đâu bây giờ? Chàng đành phải đặt nàng dưới gốc cây hoa hồng và
dặn nàng hãy chờ đợi chàng quay lại sau khi chàng chiến thắng người anh trong
trận đấu cực kỳ khó khăn này.
-
Trước hết hãy hôn em đã, hỡi người tình duy nhất của đời em, em sẽ chờ đợi
chàng, cho dù suốt cả cuộc đời.
GióNam
ôm hôn Xnhedinca một cách êm ái và hôn thật lâu cho đến khi người nàng tan ra
trong vòng tay ôm của chàng, cho đến khi nàng chỉ còn là những giọt sương rơi
xuống đất và tan biến đi.
-
Nàng ở đâu? Nàng trốn đâu rồi? - Gió Bắc lao vào người em trai - Ta vừa trông
thấy mi ôm hôn nàng như thế nào kia mà.
-
Ôi anh trai của em, hà cớ gì ta cứ thù hằn nhau mãi, - Gió Nam buồn rầu đáp -
Bây giờ nàng nằm ở kia kìa, như thể giọt sương, như giọt nước mắt đã tan
biến vào đất.
-
Ta không tin nàng và cả mi nữa - Gió Bắc nói, nghiến răng trèo trẹo - Để nàng
không bao giờ còn đứng dậy được, ta sẽ dùng băng giá đè nàng xuống.
Gió
Nam lúc nào cũng cứ quẩn quanh bên khu vườn hồng và vườn táo của mình. Cứ vào
quãng cuối Đông hoặc đầu Xuân, Xnhedinca lại thấy có chàng ở bên cạnh, nàng
dùng hơi thở sưởi ấm lớp băng bề mặt rồi ngước lên nhìn sâu vào cặp mắt bồ
câu của người tình.
Và
người đời cứ mỗi khi nhìn thấy một bông hoa trắng nhỏ xíu không hiểu sao lại
mừng rơn và kể cho nhau nghe như kể về một sự kiện gì trọng đại lắm:
-
Thấy không, trong vườn, Hoa Tuyết đã nở!
(1) Hoa Tuyết hay Bông Tuyết
HOA TUY LÍP
Bạn
đã có dịp được nghe hoa trò chuyện chưa? Còn tôi, thú thật là vào một sớm đầu
xuân tôi đã tình cờ được nghe hoa Tuyết trò chuyện với hoa Tuy Líp của người
Udơbếch rồi. Đúng hơn là hoa Tuy Líp nói, còn hoa Tuyết thì chỉ lắng tai nghe,
thi thoảng mới ngắt lời bạn bằng một vài câu hỏi.
Nhưng
tốt nhất là tôi sẽ kể lần lượt cho các bạn nghe mọi chuyện. Tôi đã được một
người bạn gái tặng cho mấy hạt hoa Tuy Líp tìm được trên các sườn đá
Derapsan. Về mùa Thu tôi đem những cái hạt ấy trồng trong mảnh vườn bên cạnh
bức tường nhà, gần một khóm hoa Tuyết.
Mùa
Xuân, tuyết thường tan vào tháng ba, tiết trời ấm áp một cách đặc biệt. Tất cả
các bông hoa Tuyết cũng như hoa Tuy Líp đều lần lượt nhú lên qua một lớp
tuyết mỏng và hớn hở đón chào mùa xuân.
Vào
một đêm tháng tư, tôi ngồi lại khá muộn trước một công trình mà tôi chỉ muốn
làm cho xong ngay. Khi tôi đặt dấu chấm cuối cùng rồi ra mở cửa sổ, ngồi xuống
chiếc ghế bành nghỉ xả hơi, hít thở luồng không khí trong lành thì ở phía chân
trời đã rực lên ánh bình minh. Tôi chợt nghe có tiếng reo thanh thanh, thật tươi
rói và dễ chịu, hệt như những chiếc ly pha lê chạm nhẹ vào nhau ở đâu đó.
-
Xin chào - Bông hoa Tuyết khẽ lên tiếng.
Sau
đấy là giọng đáp lại hơi khô một chút :
-
Chào!
-
Hẳn cậu là người ở xứ khác đến khu vườn nhà chúng tớ? - Vẫn giọng nói thanh
thản hỏi?
-
Lần đầu tiên tôi được nở hoa ở đây.
-
Vậy, chúng ta quen nhau rồi nhé. Tôi là cây hoa Tuyết.
-
Còn tôi là hoa Tuy Líp.
-
Cậu từ đâu tới đây?
-
Từ một miền xa lắm, có tên là Udơbêkixtan.
-
Ồ, cậu ở xa thật đấy - Hoa Tuyết thỏ thẻ, làm như nó đã quá biết Udơbêkixtan ở
đâu và xa xôi như thế nào - Theo phong tục của vườn nhà tớ, cậu cần phải kể
cho tớ nghe về chuyện của đời cậu.
-
Chuyện đời mình thì ngán ngẩm lắm - Hoa Tuy Líp thở dài. Chúng tôi đã truyền
đời truyền kiếp kể cho nhau nghe để không một ai trong chúng tôi quên rằng, cô
bé Tuy Líp đã phải gánh chịu những bông hoa của chúng tôi phải cháy lên ngọn
lửa vĩnh cửu để tưởng nhớ ai... Một ngàn năm trước đây tại một thung lũng
trong núi Derapsan có một người sống bằng nghề chăn cừu tên là Xabiđan. Ông
sống rất cực khổ vì đàn cừu ông chăn dắt không phải là sở hữu của ông mà là của
điền chủ Hamít. Xabiđan chỉ có đôi cánh tay lực lưỡng, một cây sáo tự khoét
lấy và bảy cô con gái mắt đen huyền. Cô út có tên gọi hơi khác thường: Tuy
Líp. Xabiđan rất yêu quí các con gái của mình, xong cũng đã nhiều lần ông than
thở :
- Ôi, giá ta có đứa con trai....
- Vì sao ông ta lại thích con trai hơn? - Cây hoa
Tuyết hỏi.
- Vì đối với một người cha, con trai giống như đôi
cánh. Còn con gái... con gái rồi sẽ đi lấy chồng, sẽ bỏ cha và để lại cho trái
tim ông nỗi đơn độc và buồn rầu.
Mộthôm, cô út và là cô gái đẹp nhất của người chăn
cừu - nàng Tuy Líp mười tuổi, mang bữa ăn trưa đến cho cha. Để cho người cha
đang mệt mỏi được khuây khỏa, nàng bèn cất tiếng hát những bài hát nàng tự
nghĩ ra và nhảy những điệu múa trông thật uyển chuyển và đẹp mắt. Đôi gò má
nàng cứ hồng hào thêm lên, và cặp mắt đen láy thì sáng rực như hai vì sao,
không một công chúa nào có thể sánh được.
Đúng giờ khắc ấy, số phận cay nghiệt đã phái điền chủ
Hamít cưỡi một con ngựa hùng dũng đến trước đàn cừu. Vừa trông thấy nàng Tuy
Líp nhảy múa, gã bèn dừng ngựa lại, nấp sau mấy bụi cây nhỏ theo dõi từng động
tác nhảy tuyệt diệu của cô gái kiều diễm.
Nhảy xong Tuy Líp nói với cha:
- Cha ơi, con muốn được múa hát cả đời để cho mọi người
được vui sướng.
- Ôi, con yêu quí của ta - người cha lắc đầu - Con là
một cô gái nghèo hèn, kiếm đâu ra những xiêm áo lụa là và những bộ y phục múa
trong suốt?
Hamít rình chờ cho đến khi cô gái mang bát đĩa về nhà
thì xông ra túm lấy cô đưa cô về dinh cơ nhà mình. Gã đẩy Tuy Líp vào
một căn phòng kín, ở đó đã có hàng trăm cô gái đẹp đang dệt thảm. Suốt từ lúc
mặt trời mọc cho đến tận hoàng hôn, Tuy Líp dầm mình trong đám bụi nhuế nhóa
với công việc dệt thảm tẻ ngắt và mệt mỏi. Một mùa Hè tối tăm và tuyệt vọng đã
qua. Rồi mùa Thu và mùa Đông cũng chấm hết. Nhưng khi mùa Xuân vừa đến thì nỗi
buồn nhớ núi non, nhớ những con suối chảy rì rào và tiếng chim ca bỗng dày vò
Tuy Líp khôn nguôi, khiến nàng phải đi đến quyết định : Hoặc là chết hoặc là
trở về với tự do.
Một bữa nọ, cô gái lại bên cửa sổ phóng tầm mắt qua lỗ
khe nhỏ nhìn xuống phía dưới. Nàng phát hiện ra ở ngay dưới chân cửa sổ có vô
số những mảnh chai, kính vỡ - đó chính là cái bẫy, nếu tù nhân nữ nào
liều mạng phá cửa sổ bỏ trốn thì sẽ bị cứa đứt chân.
Đúng lúc đó có một con chim bay đến đậu ngay bên bệ
cửa sổ - đấy chính là con bồ câu trắng của người chị cả tên là Phairidôđa.
Làm thế nào để báo tin về nhà đây? Tuy Líp không biết
viết, thậm chí ở nhà cũng chẳng ai biết đọc. Cô vội vã cắt ngay một mớ tóc đen
của mình, dứt một vài sợi quí vẫn thường dùng để dệt thảm rồi chuyển qua khe
hở cho chú bồ cầu tin cẩn. Chim tạm biệt nàng, bay đi.
Khinhận được tin em út, Phairidôđa nghĩ nát óc tìm
cách cứu em gái. Cuối cùng nàng đến gặp bà lão Turơxun. Bà lão sống đơn độc
trong túp lều rách nát, ngày ngày kiếm cây cỏ làm thuốc chữa bệnh. Tương
truyền Turơxun có thuốc phục sinh.
Turơxun nghe hết chuyện Phairidôđa kể, bà liếc nhìn
mặt trăng rồi lầm bầm khấn:
- Tự do không phải thứ quà tặng mà phải đánh đổi nó
bằng máu.
- Bằng máu của Tuy Líp ? - Phairidôđa sợ hãi kêu lên.
- Phải, bằng máu của Tuy Líp, bằng máu của tất cả bảy
chị em nhà ngươi. Mà không chỉ có thế, còn bằng chính cả máu của tất cả những
người bạn quí, của những đứa bé nghèo nàn của các ngươi nữa. Hãy nghe ta nói
đây.
Sau hai đêm nữa, đến đêm thứ ba, khi mặt trăng bắt đầu
mọc lúc nửa đêm, Hamít sẽ tổ chức tại dinh cơ nhà lão một bữa đại tiệc. Như
thường lệ, bọn lính gác bao giờ cũng là những kẻ bị chuốc rượu say trước
nhất, mặc dù sáng hôm sau họ phải trả giá bằng một cái đầu. Ngay đêm ấy, trước
lúc trăng lên, chị em các ngươi và các bạn gái của Tuy Líp phải lọt được vào
dinh cơ, còn chim bồ câu sẽ chỉ cho các ngươi cửa sổ phòng giam các cô gái.
Hãy đi chân đất đến gần cửa sổ mà mở ra. Ta nói là phải đi chân đất. Bàn chân
các ngươi sẽ bị thương vì mảnh kính. Bây giờ ta sẽ nói tại sao. Hamít nhanh
chóng phát hiện ra bầy nô lệ của gã chạy trốn và gã sẽ đuổi theo. Căn cứ vào
một vài vết máu, gã có thể biết một cách rõ ràng bầy nô lệ trốn đi đâu, nhưng
nếu dấu vết đó lại quá nhiều thì gã sẽ lúng túng, trong khi đó có người lại
đang leo lên một sườn dốc đứng mà ngựa của gã không leo được.
Phairidôđa làm tất cả những việc mà Turơxun chỉ vẽ.
Những tên lính canh bị chuốc rượu say mềm không còn nhận ra các cô gái đang lén
lút bỏ trốn. Sau khi bị mảnh kính cứa nát bàn chân, các cô mở cửa sổ ra và khẽ
gọi Tuy Líp. Tuy Líp nhảy ào qua cửa sổ, mặc dù hai bàn chân bị thương đau
nhói nàng vẫn không dám kêu ca. Các bạn gái của nàng cũng chịu những đau đớn như
thế.
Các cô gái chạy toán loạn theo sườn núi. Dù hai bàn
chân bị thương, phải chạy một cách khó khăn, các cô vẫn không dám rên rỉ, vì
nếu để lộ, các cô sẽ mất tự do, một món quà mà các cô phải đổi bằng một giá quá
đắt. Các cô cứ men theo sườn núi đá còn phủ tuyết mà chạy cho đến khi nghe rõ
những tiếng vó ngựa dồn dập.
- Hamít đang đuổi theo chúng ta đấy! - Tuy Líp hét
lên, giục mọi người - hãy chạy nhanh lên!
Cáccô gái chạy trốn dường như có gió giúp sức cho
họ. Tuy vậy Tuy Líp đã bắt đầu đuối sức, nàng bị rớt lại sau. Ngựa của Hamít đã
ập đến sau lưng nàng. Chẳng lẽ nàng lại trở thành tù nhân của gã điền chủ
không đội trời chung này, và lại không được trông thấy mặt trời cùng núi rừng
nữa hay sao? "Không, thà chết trong tự do còn hơn là sống đời nô lệ!"
Và, thế là Tuy Líp gieo mình xuống dưới vó ngựa. Cả bốn vó ngựa xéo lên người
nàng, nhưng chính con vật đã bị khuất và bị gẫy một chân. Hamít bị thương lết
về nhà lúc trời còn chưa sáng, hối hả giục lũ gia nhân đuổi bắt những kẻ trốn
chạy.
Tuy Líp người đẫm máu cố gượng đứng lên, nhưng mới
đi được vài bước, nàng đã khựng lại và ngã sấp xuống tuyết.
Sáng hôm sau, Hamít cùng lũ lâu la mò lên đỉnh núi cao
tuyết phủ. Trước mắt chúng hiện ra một cảnh tượng kì lạ: trên bãi tuyết trắng
lạnh có cơ mang những bông hoa đỏ đã bừng nở.
- Chuyện đời tôi như vậy đấy, do đó tại sao tôi lại
có tên là Tuy Líp. Tuy Líp nói xong liền im lặng. Cây hoa Tuyết cũng lặng
thinh.
Tôi cảm thấy sống lưng ớn lạnh. Tôi đứng dậy lấy khăn
chùm kín cổ, bước ra vườn.
Lạ chưa kìa, những bông tuyết mảnh mai kia đã kịp rơi
xuống và trải khắp khu vườn một lớp trắng mỏng tự khi nào vậy? Còn một chậu
hoa, gần bức tường nhà có một bông Tuy Líp đỏ rực đã nở hết cỡ. Tôi cúi xuống
và phát hiện ra một giọt nước mắt khá to, trong suốt, dính chặt vào chiếc cánh
dưới của bông hoa Tuyết.
HOA MỘC LAN
Ở Nhật Bản có một người con gái tên là Câycô, mồ côi
cả cha lẫn mẹ. Nhà nghèo, ngay từ khi còn nhỏ nàng đã phải tự đi làm để kiếm
sống.
Một cô bé như nàng phỏng có thể làm được việc gì?
Nàng phải làm hoa giấy đem ra phố bán. Nhưng hoa bán đã nhiều, mà tiền thu về
chẳng đáng là bao. Khi đã ra dáng một thiếu nữ. Câycô cũng không có đủ tiền sắm
nổi một bộ Kimônô mà các cô con nhà quý phái vẫn mặc.
Một đêm nọ, khi Câycô đang mải làm việc trong phòng
của mình, bỗng có một con vẹt bay đến đậu trên bậc cửa sổ bỏ ngỏ. Đôi cánh màu
xanh của nó đã nhợt nhạt, có lẽ nó đã già song vẫn còn đủ minh mẫn và biết nói
tiếng người.
- Đừng đuổi ta, ta sẽ tiết lộ cho nàng một điều bí mật
về cách làm giàu.
- Vẹt yêu quí ơi, cớ sao ta lại đuổi mi - Câycô buồn
bã mỉm cười - ở đời ta chẳng còn biết thổ lộ tâm tình với ai, thế mà mi lại
nói được tiếng người. Cứ ở lại đây, cùng chia nghèo, sẻ khổ với ta, còn sự
giàu sang, phú quý, tốt nhất là chẳng nên màng tới, vì ta rất xa lạ với chuyện
ấy.
- Đa tạ Câycô tốt bụng - Vẹt gật gù - Trước khi đi
tìm chủ mới, ta đã chăm chú theo dõi các cô gái bán hoa, và ta đã thấy nàng
tặng bông hoa đẹp nhất của mình cho một cô gái nghèo như thế nào rồi. Cô gái
nghèo ấy không có tiền nhưng lại rất muốn làm cho người bà ốm yếu của mình được
thanh thản nỗi lòng.
Nhưng vì sao ngươi lại phải đi tìm chủ mới? - Câycô
hỏi - Phải chăng chủ cũ không tốt với mi?
- Bà ta đã qua đời - Vẹt đau đớn báo tin, rồi im lặng
giây lát - Bà ta chết vì tham lam.
- Bà ấy nghèo lắm à? - Câycô hỏi tiếp.
- Không, rất giàu là đằng khác. Song với bà, như thế
còn quá ít. Bà đã bán đến giọt máu cuối cùng để lấy vàng - Vẹt nguẩy mỏ vẻ
trách móc.
- Đổi máu lấy vàng là thế nào, ta không hiểu? - Câycô
ngạc nhiên.
- Chuyện là thế này. Bà chủ của ta cũng làm nghề bán
hoa giấy như nàng, song có một mụ phù thuỷ đã tiết lộ cho bà một bí mật về
cách làm cho hoa giả trở thành hoa tươi, nghĩa là phải lấy máu của mình tiếp
sức cho các cành hoa. Chính nàng cũng thừa hiểu hoa tươi quý như thế nào rồi.
Chẳng bao lâu bà chủ trở nên giàu có. Lúc đó mụ phù thủy đã báo trước cho bà
ta rằng, dù thế nào cũng chớ có hiến đến giọt máu cuối cùng. Nhưng với bà chủ
của ta, dầu có tích góp được bao nhiêu của cải cũng vẫn cứ là ít. Và thế là
khi có một vị khách ngoại bang hứa cho bà một khoản tiền lớn nếu bà bằng lòng
tiếp thêm sinh lực cho hoa. Bà chủ đã không ngần ngại ngay cả đến giọt máu cuối
cùng để có thêm nhiều tiền và bà đã phải chuốc lấy cái chết. Số của cải bà để
lại trở thành miếng mồi ngon cho đám họ hàng xâu xé nhau.
- Thật là khủng khiếp! - Câycô thốt lên - Vì sao mi
không ngăn cản bà ta?
- Rơi vào hoàn cảnh ấy, người ta khó mà sáng suốt -
Vẹt phàn nàn. - Ta đã thẳng thắn khuyên nhủ bà đừng hành động một cách
ngu ngốc, song bà trả lời như thế nào, nàng biết không? "Ta đã chán ngấy
những lời đường mật của họ nhà Vẹt rồi!" bà chủ nói thế đấy.
- Vẹt già tốt bụng ơi, hãy ở lại đây với ta và làm cố
vấn cho ta - Câycô gợi ý. Vẹt cảm thấy hởi lòng, hởi dạ.
Saukhi bán được ít hoa tươi đầu tiên, Câycô liền mua
ngay một bộ Kimônô lụa và một đôi dép thật đẹp. Nàng chải lại mái tóc đen mượt
và cài lên đó một bông hồng đỏ thắm rồi đi ra phố. Từ bóng cửa sổ xa xa, nàng
nhìn thấy một cô gái xinh đẹp. Câycô gật đầu chào. Cô gái cũng gật đầu chào
lại. Hai người cùng mỉm cười với nhau. Câycô đoán rằng cô gái đó có lẽ là
hình bóng của nàng được phản chiếu vào gương.
Câycô nhanh chóng hoà vào dòng người trẻ tuổi, và lần
đầu tiên trong đời nàng, được đặt chân tới một gian phòng rực rỡ ánh đèn, nơi
có từng cặp trai gái đang nhảy múa uyển chuyển như chim bay, bướm lượn. Có
một chàng trai đến mời Câycô. Nàng vừa nhảy vừa mỉm cười một cách sung sướng.
Chàng trai khiến nàng thích thú nhất ấy có tên là Aratumi.
- Câycô ơi! - Aratumi nói, - Em đẹp khác nào một đoá
hoa Anh Đào nở chúm chím. Hãy nói đi, biệt thự nhà em ở đâu và vì sao một cô
gái sang trọng như em lại đến nơi vũ hội của đám sinh viên nghèo hèn này?
Câycô toan thú nhận nàng chỉ làmột cô gái nghèo rớt
đang sống trong một căn nhà dột nát, nhưng nàng chợt nhớ tới nhan sắc tuyệt
trần của mình, nàng hình dung ngay việc nàng sẽ nhanh chóng trở nên giàu có và
sẽ xây được biệt thự ra sao. Chính bản thân Câycô cũng không nhận thấy nàng đã
vẽ ra trước mắt chàng trai mơ ước của mình về một toà biệt thự y như thật.
Khi nàng im lặng, Artumi thở dài nói:
- Đáng tiếc là em giàu có như vậy. Một chàng sinh
viên nghèo đâu dám đặt chân tới toà biệt thự, vậy mà anh lại cứ muốn được
trông thấy em.
Cây cô không dám thú nhận rằng nàng không hề có biệt
thự nào cả. Song nàng cũng rất muốn gặp lại Aratumi và ngỏ ý rằng, hôm khác
nàng sẽ tới công viên thành phố dạo chơi.
KhiCâycô và Aratumi gặp nhau ở công viên, họ cầm tay
nhau cùng bước đi trên những con đường nhỏ, và kỳ diệu thay, từ lúc
nào cặp môi của họ đã xoắn xuýt với nhau trong một cái hôn dài.
- Câycô, Câycô của anh! - Aratumi thì thào - nhưng
mặt chàng lập tức sa sầm lại - Đó phải chăng là một cái hôn vĩnh biệt? Vì cha
em sẽ không cho phép em được làm vợ một sinh viên nghèo.
Câycô bắt đầu khóc lóc và nàng đành thú nhận rằng,
biệt thự, đó chỉ là chuyện nàng bịa ra, rằng nàng chỉ là một cô gái bình thường
chuyên nghề làm hoa giấy đem ra phố bán.
Nếu Câycô thấy được nét mặt Artumi thay đổi như
thế nào thì chắc hẳn nàng đã không tiết lộ cho chàng biết điều bí mật của
đời mình. Nhưng vì xấu hổ, nàng đã nhắm nghiền mắt lại. Còn Aratumi, sau
khi nghe chuyện nàng, đã vội nắm lấy bàn tay nàng. Chàng thậm chí còn tỏ ra vui
vẻ, bởi sắc đẹp của Câycô sẽ hứa hẹn một sự giàu có vô biên.
Cô gái Câycô mảnh khảnh bắt đầu những ngày lao động
cật lực. Cần phải làm thật nhiều hoa, đặc biệt làm thêm hoa tươi nhiều hơn
nữa, rồi đem bán đi để mua một ngôi nhà nhỏ. Họ sẽ sống ở đó sau khi cưới.
Nàng sẽ mua thêm thảm, tranh, đồ sứ cùng những bộ quần áo mới cho mình và cho
chồng. Một buổi chiều, Vẹt nói như muốn thức tỉnh cô gái:
- Câycô ơi, nàng đang tiêu phí máu mình một cách quá
dễ dãi đấy!
- Ôi, anh bạn Vẹt già đáng yêu của ta! - Câycô vuốt
đầu Vẹt - khi Aratumi học hành xong, chàng sẽ kiếm đủ tiền và ta sẽ được nghỉ
ngơi.
Nhưng khi hai người vừa tổ chức xong lễ cưới thì
Aratumi cũng bỏ luôn trường lớp, vì chàng chẳng thiết theo đuổi đèn sách nữa.
- Anh chỉ thích được xem những ngón tay nhỏ nhắn của
em trổ tài khéo léo và duyên dáng khi em làm hoa thôi.
Nghenhững lời nói ngon ngọt của chồng, nàng cảm thấy
thật sung sướng. Nhưng chỉ vài năm sau, ngôi nhà bé nhỏ kia đối với
Aratumi thật quá xuềnh xoàng. Nhiều lần chàng nói với vợ :
- Tất thảy chúng bạn của anh đều sống rất sung túc. Trước
họ anh cảm thấy rất ngượng.
Và những ngón tay của Câycô lại làm việc miệt mài hơn.
Để có được một ngôi nhà khang trang ngày tháng sao ngắn ngủi thế. Cứ chiều
chiều, khi Câycô đi bán hoa ngoài phố thì Aratumi ngồi một mình bên ấm trà.
Chàng còn biết làm gì vào lúc này?
- Câycô ơi, Câycô - Vẹt lắc đầu buồn bã mỗi khi chủ
của nó trở về nhà ngồi vào chỗ làm việc với dáng vẻ mệt mỏi.
Còn chàng Aratumi nghèo khổ lúc nào cũng chỉ thích
sống trong một biệt thự. Chàng cho rằng Câycô đã lừa dối chàng. Nàng đã hứa với
chàng sẽ có một chỗ ở khang trang, vậy mà cho đến giờ chàng vẫn cứ phải chui
rúc trong túp lều tồi tàn. Câycô cảm thấy mình có lỗi, bởi nàng càng ngày càng
thêm yêu Aratumi.
- Chúng ta sẽ có biệt thự, nàng cam kết với chàng như
vậy, và càng rút ngắn bớt thời gian nghỉ ngơi của mình.
- Câycô ơi, hãy cẩn thận, - Vẹt báo trước - Nàng đã
quá yếu rồi, máu trong tim nàng còn lại rất ít đấy.
- Bạn ơi, chúng ta sắp có biệt thự rồi, lúc đó ta sẽ
bắt đầu đầu sống như một bà hoàng - Câycô nói.
Lời đồn đại về cô gái bán hoa bé bỏng có tên là Câycô
lan truyền khắp gần xa. Magơnon, một nhà kinh doanh hoa người Pháp đã lặn lội
sang tận Nhật Bản để mua hoa của Câycô. Đối với Magơnon, chỉ có hoa không, chưa
đủ. Ông hứa sẽ cho Câycô một khoản tiền lớn nếu nàng làm cho những bông hoa
cùng với gốc của chúng trở thành hoa thật. Hơn nữa, chúng phải có đủ bốn màu:
trắng, vàng, hồng và đỏ.
Câycôđã bán cho Magơnon đủ các loại hoa và vào phút
chót nàng còn làm thêm một bông hoa đỏ chói có cả cành lẫn gốc. Nhưng nàng cũng
không còn đủ sức để trích đầu ngón tay của mình và dùng máu tiếp sức cho rễ hoa
nữa.
- Câycô, Câycô ơi! - Vẹt hét lên một cảnh thảm thiết,
- chớ có cho giọt máu cuối cùng!
- Thôi đủ rồi, anh bạn già ạ, loài Vẹt nhà mi chỉ quen
khoác lác thôi - Aratumi dúi đầu Vẹt xuống và túm lấy cánh nó ném sang phòng
khác.
- Aratumi yêu quý, em chỉ còn giọt máu cuối cùng thôi.
- Câycô lặng lẽ nhìn vào mắt chồng.
- Ta cần một bông hoa đỏ, đỏ thật sự - Magơnon hồi hộp
nói - Ta sẽ không tiếc tiền, miễn là nàng làm cho bông hoa đỏ này thành bông
hoa thật.
- Câycô, em cần phải hiểu rằng điều đó có ý nghĩa đối
với chúng ta lắm chứ? Aratumi lắc mạnh vai vợ - Em có hiểu không, đời sẽ thế
nào nếu chúng ta sẽ có một toà biệt thự? Toà biệt thự mà em đã hứa với anh đó!
Sau khi lấy hết hơi tàn sức kiệt, Câycô chích đầu ngón
tay mình, vắt ra giọt máu cuối cùng tiếp sức cho rễ bông hoa đỏ.
Aratumi xây xong toà biệt thự và cưới một cô vợ khác.
Magơnon mang những bông hoa tươi rói về Pháp và đặt tên cho nó là Magơnôlia,
nghĩa là "Hoa Mộc Lan", Còn nàng Câycô thì sao? Nàng đã lùi vào những
trang huyền thoại của loài người.
HOA PHONG
LAN
Ở một miền xa xôi, khí hậu ấm áp và đất đai trù phú có
một bộ lạc tên là Aruaki may mắn hơn các bộ lạc khác vì họ sai khiến được loài
chim Oócchít chuyên đẻ những quả trứng bằng vàng. Khi một con chim đẻ trứng vào
tổ trong hốc cây thì thủ lĩnh Nato dùng tay chuyển quả trứng đó sang một cái
cây khác, và sự kiện đó được coi như một ngày hội lớn.
Các cô gái của thủ lĩnh thay nhau phục trên các cành
cây, bảo vệ tổ chim khỏi bị chim ưng phá hoại. Tuy vậy, trong từng góc buôn
làng, các trai tráng tay cầm những mũi tên tẩm thuốc độc đứng canh giữ không
cho các chiến binh của bộ lạc khác đến đánh chiếm kho báu của bộ lạc mình.
Từ ngày quả trứng vàng kia, những tay thợ lành nghề đã
chế tạo ra các vòng tay, hoa tai và đủ các loại trang sức. Số trứng vàng dự trữ
mỗi ngày một nhiều đồ dùng khác. Đàn ông của bộ lạc chuyên nghề săn bắn, còn
đám đàn bà, con gái ở nhà dệt những tấm khăn voan, đan giỏ và hái nhặt thảo
quả.
Một hôm cánh đàn ông đi săn trở về với một tâm trạng
đầy lo lắng. Họ đã chạm trán cánh thợ săn của một bộ lạc xa lạ. Cánh thợ lạ này
đã kể cho họ nghe về những chiến thuyền khổng lồ đã cập bờ biển, và về những
con người tóc cắt ngắn, mặt mũi trắng trẻo nom rất lạ lùng, đã đặt chân lên
đất liền. Những kẻ da trắng này rất hám vàng, đã dùng một loại súng có tai khạc
ra những mũi tên có lửa khủng khiếp, cướp giật vòng chân, vòng tay của chị em,
tra khảo dân bản xứ nơi có vàng. Nếu những người Aruaki hiểu rằng, con người
cũng có thể biến thành những kẻ tàn ác, thấp hèn, thì chắc chắn không bao giờ
họ lại cho phép kẻ lạ mặt kia vào làng bản của họ. Nhưng họ không hiểu được
điều đó. Họ vẫn cứ khiêng những người thợ săn lạ mặt bị gấu đánh bị thương
vào làng. Vị thủ lĩnh còn ra lệnh cho đám phụ nữ đi tìm những người bị thương,
còn cánh đàn ông lại lên đường đi săn.
Mộtkẻ lạ mặt có tên là Khơramooi Métvét. Anh ta rất mê
những đồ trang sức của phụ nữ và cứ gặng hỏi họ kiếm ở đâu thứ đá vàng làm ra
được các loại vòng và hoa tai này. Nhưng chị em chỉ trả lời bằng một nụ cười.
Dần dà, Métvét kết thân được với cô gái cả con của thủ lĩnh tên là Dincadơvin,
và hứa hẹn sẽ cưới nàng làm vợ rồi ở lại với bộ lạc. Dincadơvin nói rằng nàng
phải chờ đợi cha trở về để xin ý kiến.
Métvét bắt đầu làm công việc dò hỏi Dincadơvin về việc
tại sao chị em nàng cứ thỉnh thoảng lại biến vào rừng sâu và ở đó làm gì. Còn
Dincadơvin đã tự cho mình là vợ chưa cưới của Métvét rồi, bởi vậy nàng
đã phạm sai lầm còn lớn hơn cả sai lầm của cha nàng cho phép đưa kẻ lạ mặt bị
thương vào buôn làng.
Dincadơvin không hề ngờ rằng, người tình của nàng đã
bán linh hồn cho bọn da trắng để lấy một thùng rượu, và còn hứa với họ sẽ tiết
lộ bí mật của bộ lạc Aruaki? Và thế là sau khi biết chắc chị em nàng thường
thay nhau phục trên cây, bảo vệ bầy chim đẻ trứng vàng, Métvét liền chuốc rượu
cho những người canh gác say mèm, rồi thông báo điều bí mật cho bọn da trắng
biết.
Métvét không hay rằng trên đỉnh một ngọn cây cao nhất
còn có chàng Ôta Te đang phóng tầm mắt quan sát khắp vùng gần xa. Anh đã phát
hiện ra có những người da trắng đang đến gần nơi con chim đẻ trứng vàng mà người
dẫn đầu là Métvét. Sau khi loan báo cho buôn làng hay về mối nguy hiểm đang đe
doạ và về sự phản trắc của Métvét, anh liền đóng chuông báo động.
Dincadơvin đau đớn thốt lên :
- Ôi, cớ sao ta lại tiết lộ cho chàng bí mật của loài
chim? Thảo nào mà chàng cứ căn vặn ta! - Rồi nàng quay lại hỏi ông thầy cúng -
Hãy chỉ cho ta biết ta phải làm gì và làm thế nào để cứu loại chim đẻ trứng
vàng?
- Cô cô cô! - Tiếng thầy cúng thốt lên, có nghĩa là
"Cứ sẵn sàng đi!"
Hết thảy đàn bà và con gái chạy đến, cùng đáp to:
"Khô!"
Điều đó có nghĩa là: "Chúng tôi đã sẵn
sàng!"
- Hỡi các cô gái! Hãy nhanh chóng trèo lên ngồi vào
các cành cây! Khi đó bọn da trắng sẽ không biết được chim làm tổ trên cây nào.
Còn nếu chúng tìm thấy tổ chim thì Taxan-útke sẽ chạy đi tìm những người thợ
săn, gọi họ về đuổi bọn da trắng đi.
Taxan-útke, tên thường gọi của con Ngựa chiến, phi như
bay về phía những người đàn ông của bộ lạc đang mải săn bắn, còn hàng trăm cô
gái khác thì vội vàng lao lên cây, tay ôm chặt lấy các cành cây.
Métvét dẫn đoàn người da trắng vào rừng, nhưng hắn
lúng túng không biết nên chỉ vào cây nào. Bọn da trắng nổi giận, bắn những mũi
tên có lửa vào các cô gái, nhưng các cô, kể cả các cô đã chết, vẫn ôm chặt các
cành cây.
Khi cánh đàn ông chạy về tới buôn làng, đuổi được bọn
da trắng đi thì đã quá muộn - những người con ưu tú - những cô gái đẹp của họ
đã chết. Ông thầy cúng trỏ tay lên trời, gọi tên họ và nói:
- Các con đã xả thân bảo vệ kho báu của bộ lạc ta, các
con xứng đáng được ban thưởng. Tâm hồn các con sẽ biến thành những bông hoa
ngát hương, chúng sẽ không ngừng sinh sôi trên các cành cây kia và sẽ kể lại
cho các thế hệ mai sau về chiến công bảo vệ loài chim mỏ vàng của các con.
Những bông hoa tuyệt vời và đủ loại tựa như các cô
gái của bộ lạc Aruaki đang đua nở trên các cành cây.
Người đời nay gọi đó là hoa Oóckhiđêa - hay là hoa
Phong Lan.
HOA PHỤNG TIÊN
Niềmvui duy nhất trong đời của bà thợ cày Mađara là cô
con gái Rôta. Rôta quả là một cô gái hiếm thấy - nước da rám nắng, hay lam hay
làm, tính tình sởi lởi. Mới sáng ra nàng đã gặt được gần nửa cánh đồng lúa,
chiều đến, trên đường trở về, nàng luôn miệng ca hát.
Việc luôn chân luôn tay, vậy mà cô gái cứ như bông
hoa bừng nở, có dễ kiếm khắp làng cũng không có bông hoa nào sánh được với
nàng. Chính người làm vườn của trang trại cũng rất thích được ngắm nghía
rừng hoa của Rôta đang độ khoe sắc. Mặc dù tên điền chủ đã mang về nhà đủ loại
hạt giống và cây non, nhưng loại hoa như của Rôta thì y lại không có. Vậy
nàng đã kiếm đâu ra? Rôta vừa mỉm cười vừa đáp:
- Bầy chim non đã mang hạt giống từ miền xa lạ về cho
tôi đấy. Tôi không nói dối ngài đâu.
Về mùa Xuân, khi đàn chim én bay đến sớm, hy vọng tìm
nơi ấm áp trú ngụ, Rôta thường bắt chúng nhốt vào lồng, đưa vào trong nhà nuôi
dưỡng, chăm bẵm và khi mùa lạnh qua đi, nàng lại thả chúng về trời. Bầy chim
thơ dại muốn đền đáp ơn huệ của nàng Rôta tốt bụng, song nàng chỉ mỉm cười,
nói:
- Ta cần thật nhiều loại giống hoa của các miền xa lạ.
Chim hãy mang về cho ta!
Bầy
chim đã giữ lời hứa. Rôta lấy làm sung sướng được chia sẻ với chị em vì sự
phong lưu của mình. Người thì nàng cung cấp hạt giống, kẻ thì nàng cho cây non.
Nàng càng tỏ ra hào hiệp với mọi người bao nhiêu, hoa trong vườn nhà nàng
càng đơm hương, khoe sắc rực rỡ bấy nhiêu. Duy chỉ có Kexta, người đàn bà ở
bên cạnh là nàng không bao giờ cho một hạt giống nào, mặc dù bà ta có hỏi xin.
-
Con ngặt nghèo với láng giềng gần như thế để làm gì? - Mẹ phàn nàn với Rôta,
nhưng nàng lại đáp, giọng dứt khoát:
-
Con sẽ không cho mụ rắn độc này dù chỉ là một bông hoa nhỏ.
Kextakhông
phải là rắn độc mà là chủ nuôi rắn. Ai cũng biết mụ ta thường nuôi đến bảy con
rắn độc trong nhà và lần lượt cho chúng bú sữa của mình.
Một
hôm, sau khi đã bú no, con rắn đầu tiên nói nhỏ vào tai mụ :
-
Vì sao hoa của nhà Rôta lúc nào cũng bừng nở, còn hoa nhà bà thì không?
Kexta
nổi cơn tam bành, dẫm nát hết vườn hoa của Rôta, thậm chí cả hàng rào cao cao
bao quanh khu vườn mụ cũng phá đi.
Con
rắn thứ hai ỉ eo :
-
Nếu bà có nhiều hoa đẹp, bà có thể đem ra chợ bán, bà sẽ thu được cơ man nào
là tiền!
"Ôi,
tiền! Tiền! Ta sẽ tích góp được nhiều tiền!" Kexta như một kẻ điên
khùng. Lúc ấy có một người lạ mặt đói rách ghé vào sân nhà mụ xin ăn, con rắn
thứ ba xúi:
-
Chớ có phung phí tiền của nhà mình, dù cho hắn chết ngay tại đây!
Người
lạ mặt liền bỏ sang nhà khác xin ăn. Thế rồi con rắn thứ năm lại phun phì phì
vào tai mụ những lời đường mật:
-
Mẹ bà đã còng lưng vì bà rồi, vậy bà làm việc để làm gì? Tốt nhất là bà nên
nằm khệnh với chiếc chăn bông, gối nhung kia mà nghỉ cho khoẻ.
Kexta
nằm ườn ra giường. Con rắn thứ sáu lại khích bác bà:
-
Láng giềng ở đây rất tốt bụng với nhau. Bà thử xúi họ cãi nhau xem sao.
Thế
là Kexta vùng dậy, chạy ngay sang nhà ở Babenca vốn nhẹ dạ và hay ba
toác, ruột để ngoài da.
-
Này, Babenca, ta đã bắt quả tang chồng mi hay trèo qua cửa sổ sang nhà con Rôta
đó.
Mớinghe
nói thế, cái lưỡi của Babenca đã liến láu tứ bên. Ả xộc ngay sang nhà kẻ tình
địch. Nhưng con rắn thứ bảy mới là đáng gờm nhất. Nó luôn luôn rủ rỉ bên tai
Kexta:
-
Phải bằng mọi cách quấy rối cuộc sống của con người. Làm sao cho cả ngày lẫn
đêm họ không thể sống yên.
Và
mụ Kexta đã nghĩ ra một quỷ kế. Mụ buộc con chó vào đầu một sợi dây ngắn và đặt
cách con vật không xa lắm một đĩa thức ăn thơm phức. Con chó ban ngày thì sủa
ông ổng, tối đến cứ rống lên thảm thiết khiến láng giềng không sao chịu nổi.
Bà
chủ rắn là một con người như thế, Rôta không thể đem hoa cho mụ ta được.
Còn Rôta, lẽ ra nàng đã lấy chồng, đã sinh con, đẻ cái và được hưởng một cuộc
đời hạnh phúc, nếu không có đợt săn lùng phù thuỷ do đám chức sắc trong vùng
dấy lên. Sự cố này như một làn sóng rất xa, bắt đầu từ xứ sở mặt trời lặn và
kết thúc ở nơi mặt trời mọc. Lũ sai nha trong làng Rôta đem chiếu chỉ của quan
trên về lập danh sách những người bị coi là phù thủy. Nhưng phù thủy ở đâu?
Đó là câu hỏi làm lũ sai nha phải đau đầu. Chúng bèn treo giải thưởng lớn cho
người nào có công phát giác phù thủy.
Lập
tức, bảy con rắn độc đồng thanh mách Kexta:
-
Thế là bà có dịp trả thù con Rôta nanh nọc rồi đó. Bà hãy đến gặp các quan và
tâu rằng chính nó là phù thủy. Bà còn được thưởng tiền nữa đấy.
Bà
chủ rắn chỉ chờ có thế. Mụ te tái chạy đến gặp các vị chức sắc và không ngớt
lời vu cáo Rôta:
-
Cớ sao hoa vườn nhà nó lại nở nhiều và tươi tốt như vậy? Nhờ phép tà đấy! Vì
sao lũ chim lại giúp nó? Có phép tà đấy! Vì sao lúc nào nó cũng hát với hỏng?
Cácvị
chức sắc cả mừng vì đã tìm được phù thủy, chúng bất chấp cả lệ làng, chẳng tin
bất kỳ một lời nói trung thực nào, chỉ tin lời mụ chủ rắn. Rôta bị chúng đem
thiêu đốt trên giàn lửa. Sau đó chúng tâu lên triều đình rằng an ninh ở làng
quê đã trở lại bình thường.
Mùa
xuân tới, bầy chim từ khắp các miền xa xôi bay tới đậu trên cửa sổ nhà Rôta
cùng với rất nhiều loại giống hoa. Bầy chim rất đỗi kinh ngạc khi thấy một bà
lão lưng còng ra mở cửa sổ chứ không phải là Rôta.
Mađara,
mẹ của Rôta, đã đem những hạt giống trồng vào một chậu hoa. Chẳng bao lâu người
ta thấy có những bông hoa đỏ như lửa mọc lên.
-
Những bông hoa đáng yêu của ta! Các người khác nào cặp má hồng hào của Rôta!
Các ngươi sẽ là phương thuốc thần hiệu giúp ta trị vết thương nơi trái tim.
Từ
đó, hễ có người nào bị nỗi cay đắng dày vò, bà mẹ Rôta lại đem giống dầu thơm
đó phân phát cho họ. Chẳng bao lâu trên khắp các cửa sổ các gia đình nghèo đều
nở óng ánh những bông hoa đỏ tươi - đấy chính là Hoa Phụng Tiên.
HOA MẪU ĐƠN
KhiMẫu
Đơn chuẩn bị xuất giá thì mẹ nàng đột ngột qua đời, để lại cho nàng sáu đứa em
thơ dại. Biết làm gì đây, đời rồi sẽ ra sao? Mặc dù yêu Ximêôn say đắm, nhưng
lời hứa với mẹ sẽ nuôi dưỡng đàn em côi cút đã giữ chân nàng ở lại ngôi nhà
rách nát của cha. Chẳng lẽ Ximêôn không hiểu điều đó?
-
Hãy gắng chờ ít năm nữa con ạ, chẳng bao lâu em gái con lớn lên và nó sẽ chăm
sóc mấy đứa em thay con - Cha nàng Mẫu Đơn nói và nàng đã vâng mệnh. Thế nhưng
khi em nàng khôn lớn, có người yêu ước hẹn, nó bèn khóc lóc van xin chị đừng
nỡ phá vỡ hạnh phúc của nó. Và thế là nàng Mẫu Đơn đành hoãn việc đi ở riêng
của mình lại.
-
Thời gian tựa chim bay, chàng ôi, mà thời gian nghiệt ngã càng thử thách tình
yêu của đôi ta, - Nàng Mẫu Đơn lựa lời an ủi người tình.
-
Hết chờ rồi lại chờ, - Ximêôn thốt lên.
Chamẹ
chàng đã bất đồng ý kiến nhau và rốt cuộc họ đã đuổi chàng trai chưa vợ ra
khỏi nhà. Sau khi hứa với nàng Mẫu Đơn là sau hai năm nữa sẽ nhờ chim bồ câu đưa
thư trả lời, Ximêôn và một bông hoa trắng cắp ở mỏ bay về tìm nàng Mẫu Đơn.
-
Cảm ơn chàng, chàng yêu quý của em - Nàng Mẫu Đơn viết cho Ximêôn - Em hiểu là
chàng vẫn chưa quên em. Và những tháng năm qua em cũng không một phút quên
chàng. Nhưng đôi ta còn phải chờ đợi thêm hai năm nữa, khi ấy em trai của em
mới kịp lớn khôn.
Trongkhi
đứa em trai phương trưởng nó hình dung ra những chuyến du ngoạn đầy thú vị,
và nó không muốn cho chị gái ra khỏi nhà. Nàng Mẫu Đơn lại báo tin cho Ximêôn
biết và xin chàng cố chờ thêm hai năm nữa. Rồi hai năm ấy lại trôi qua, nàng
Mẫu Đơn vẫn không nỡ bỏ nhà mà đi, vì cô em thứ ba của nàng cũng đã đến tuổi
thành hôn.
-
Anh sẽ sang bên kia đại dương tìm kiếm hạnh phúc - Ximêôn viết - Hãy cho anh
biết nàng muốn quà gì để anh gửi tặng.
-
Xin chàng hãy gửi cho em một bông hoa để em trồng ở vườn nhà, - nàng Mẫu Đơn
đáp lại người tình như vậy, vì nàng không tin rằng chàng sẽ thành đạt và trở
nên giàu có ở một xứ xa lạ, để rồi có thể gửi vàng, bạc, châu báu về cho mình.
Năm
tháng cứ trôi qua vùn vụt... Sau hai năm, Ximêôn lại đánh tiếng hỏi nàng Mẫu
Đơn chừng nào thì hai người có thể làm lễ thành hôn được. Và nàng lại bắt
chàng phải kiên trì chờ hai năm nữa, vì giờ đây đứa em trai đã lớn của nàng
đang muốn chu du thiên hạ. Hiện giờ nàng chỉ còn phải chăm một đứa em nữa thôi.
Nàng
Mẫu Đơn nào ngờ được căn bệnh quái ác đã cướp đi đứa em gái của nàng sớm có
gia thất và bỏ lại ba đứa trẻ côi cút. Ai sẽ chăm sóc, nuôi dạy chúng một khi
cha của chúng suốt ngày bận bịu với công việc cấy cày? Nàng không che chở chúng
sao được khi cha của chúng đã đe rằng sẽ đem chúng vào rừng và bỏ cho sói ăn
thịt?
Nàng
Mẫu Đơn lại báo cho người bạn đời tương lai của mình các tin trên để chàng
đừng vội về khi người em rể của nàng chưa tìm được người vợ mới. Tang lễ
xong xuôi, người em rể đi bước nữa. Nhưng mụ dì ghẻ này rất ghét những đứa
con riêng của chồng, vì vậy nàng Mẫu Đơn lại phải gánh trách nhiệm nuôi dạy
chúng.
Chẳngai
biết được nàng Mẫu Đơn và Ximêôn có còn tiếp tục tính toán chuỗi ngày còn lại
trước lễ cưới không, chỉ biết rằng khi những đứa trẻ mồ côi kia phương trưởng,
nàng Mẫu Đơn lại tiếp tục nuôi dạy thêm những đứa cháu con của cô em út nữa.
Năm tháng tựa bóng cây qua cửa sổ, gánh nặng gia đình đã làm tấm lưng Mẫu Đơn
còng xuống, nỗi buồn và sự sầu muộn khiến tóc nàng bạc trắng và khi nàng trở
nên thừa đối với mọi người, thì tất cả những đứa trẻ mà nàng từng chăm bẵm xưa
kia cũng quên luôn cả con đường dẫn đến túp lều tồi tàn của bà già đơn độc.
Sáng sáng, nàng chống gậy đi ra cổng, và dừng lại đó rất lâu có ý trông chờ
chim bồ câu bay tới để nhờ chim nhắn với người phương xa mấy lời:
-
Em vẫn đang chờ chàng, chàng yêu quý của em!
Khi
chim bồ câu mang tin trở lại, nàng Mẫu Đơn mới bắt đầu chuẩn bị cho ngày cưới.
Nàng mặc chiếc áo khoác ngoài may từ hồi còn trẻ, đội vành hoa cưới lên đầu,
và cứ như thế nàng đứng suốt ngày trước cổng ra vào, khiến khách qua đường
phải ngạc nhiên, mỉm cười. Nhưng cái con người mà nàng chờ đợi kia vẫn không
trở về. Ngay cả những đứa trẻ mà nàng từng nâng niu, cho bú mớm cũng không quay
trở lại. Song le, lưỡi hái của tử thần, điều mà Mẫu Đơn không cầu xin, không ước
muốn đã vẫy gọi nàng. Mẫu Đơn được đưa ra nghĩa địa. Trên nấm mộ của nàng,
người ta đắp lên một đụn cát vàng. Khi đám người làm phúc đi khỏi thì có một
người lạ mặt tìm đến nghĩa địa và đứng lặng trước nấm mộ đất còn mới nguyên
-
Vậy là đôi ta đã gặp nhau ở đây, Mẫu Đơn của ta, - Người lạ mặt nói làm như
người đang nằm dưới đất sâu kia có thể nghe thấy được. - Ta đã hối hả đáp
tàu vượt đại dương, đã cưỡi lạc đà băng qua sa mạc, đã vượt bao đầm lầy với
hy vọng được thấy mặt nàng. Ta mang về cho nàng một bông hoa. Để tỏ lòng thương
nhớ nàng, ta đặt tên cho hoa là Mẫu Đơn và hương của nó toả ra sẽ thật là ngọt
ngào .
HOA HƯỚNG DƯƠNG
Khicác
cô gái của thần Mặt Trời tắm táp xong, đáp thuyền du ngoạn ra tận biển khơi thì
nàng út mới sực nhớ ra là nàng đã bỏ quên chiếc vương miện bằng vàng của mình
trên cành cây sồi ven bờ. Không có vương miện, nàng không dám về nhà và nàng
tha thiết xin các chị hãy quay thuyền lại. Nhưng các chị kêu mệt, thoái thác
và chỉ muốn được đi nằm ngủ ngay, còn nếu nàng út lơ đễnh quá đáng như vậy
thì hãy tự quay lại bờ một mình, và cứ đứng chờ ở đó một mình cho đến sáng, cho
đến khi các chị lại trở lại tắm lần nữa.
Nàng
út bơi đến bờ.... nhưng thật là khủng khiếp : chiếc vương miện không còn trên
cành sồi nữa! Dưới gốc cây là một chàng trai tuấn tú, tóc đen, mắt xanh màu nước
biển. Chàng giơ cả hai cánh tay vạm vỡ về phía cô gái và ôm chầm lấy nàng vừa
nói những lời ngọt ngào tựa mật ong vàng.
-
Nàng hãy ở lại đây mãi mãi với ta, đôi ta sẽ yêu nhau và đừng bao giờ xa nhau -
Chàng thì thào rồi lại hôn nàng thật lâu và thật thắm thiết.
-
Em ở lại trần gian sao được, hỡi chàng? Đêm tối ở đây mịt mùng, lạnh lẽo lắm,
mà em đã quen ở lầu son, gác tía, nơi dưới từng trần nhà đều có những chùm
ngọc tía sáng chói; ban ngày em ngồi dệt chỉ vàng, tối đến đi tắm biển thật
thoả thích. Trong những buổi vũ hội, chúng em nhảy múa cùng các chàng trai của
Hằng Nga và cưỡi những con ngựa bạc. Chàng có thể hứa hẹn với em một cuộc sống
như thế nào ở nơi trần thế này? - Con gái Thần Mặt Trời hỏi.
-
Ta hứa với nàng sẽ có những buổi sáng đầy sương làm mát dịu đôi chân nàng, sẽ
có tiếng chim ca, tiếng lá cây rì rầm làm vui tai nàng. Ta hứa với nàng những
ngày lao động cật lực và cái mệt mỏi vào những buổi chiều. Còn đêm đến, nàng sẽ
được sưởi ấm trong vòng tay ôm ấp của ta - con trai Thần Đất nhẹ nhàng đáp
lời.
-
Chàng hãy chỉ cho em vẻ đẹp tuyệt vời của trần thế đi, khi đó em sẽ quyết định
có ở lại với chàng hay là quay về quê hương - con gái Thần Mặt Trời nói.
Và
con trai Thần Đất đã dẫn nàng út tới bên bờ sông, nơi có những cây Anh Đào nở
hoa và tiếng hoạ mi líu lo. Chàng trai hỏi:
-
Nàng đã được nghe bài ca tuyệt diệu ấy bao giờ chưa?
-
Chưa, - nàng út thú nhận.
-
Thế nàng đã được nghe tiếng sóng nước ồn ào của những con sông đổ ra biển cả
chưa? Nàng cảm thấy hương hoa Anh Đào thế nào? Và nàng đã biết tình yêu là gì
chưa?
-
Chàng chính là tình yêu của em, em sẽ ở lại đây với chàng - nàng út sung sướng
hứa. Và con trai Thần Đất bèn dẫn nàng tới một căn hầm để nàng được thấy lại vương
miện của mình.
Cứsáng
sáng, Thần Mặt Trời lại ra rả gọi con gái quay về thiên cung, đồng thời không
quên báo cho nàng biết, nếu nàng quyết chí ở lại hạ giới thì nàng sẽ phải làm
việc quần quật ngoài đồng. Nhưng nàng út khăng khăng không chịu vâng lệnh cha,
bởi lẽ nàng cảm thấy cuộc sống nơi trần thế này thú vị hơn nhiều so với ở thiên
cung, nơi mà nàng đã chán ngấy những chuỗi ngày lê thê ngồi bên khung cửi. Ở
trần thế nàng được nghe không biết chán tai tiếng sông nước chảy rì rào,
tiếng hoạ mi lảnh lót và được thưởng ngoạn những mùa hoa Anh Đào rực rỡ. Thần
Mặt Trời đành phải gửi của hồi môn cho nàng út, và nàng đã làm lễ thành hôn với
chàng trai trần thế.
-
Ta không ưa chàng trai Thần Đất, song ta không thể cấm đoán tình yêu của con
được. Nhưng không nên vì ái tình mà con xem thường quê hương, tổ quốc. Sẽ
xảy ra chuyện gì, nếu con thấy buồn nhớ nhà? - Thần Mặt Trời hỏi và khép màn
mây lại có ý báo rằng, cuộc trò chuyện với con gái đã chấm dứt.
-
Con sẽ không cầu xin trở về đâu! - nàng út kêu lên một cách kiêu ngạo.
Hôn
lễ vừa xong, mẹ Thần Đất đã bắt con dâu phải lao động. Nàng phải ra vườn coi
sóc đàn ong, còn công việc khác xem chừng đôi tay trắng ngần của nàng không
cáng đáng nổi. Bây giờ hàng ngày nàng út phải đứng chôn chân giữa vườn trông
coi đàn ong để chúng khỏi lạc vào tổ khác. Ngày tháng cứ trôi qua bình lặng, tẻ
ngắt như tiếng ong rù rì. Còn đâu nữa những buổi dong chơi trên lưng ngựa
bạc, những đêm nhảy múa cùng các chàng trai của Hằng Nga, những chuyến du ngoạn
bằng thuyền trên biển lớn cùng các chị?
Những
con ngựa bị xua đuổi ra cánh đồng nặng nề lê từng bước còn chàng trai Thần Đất
bị công việc đồng áng hút hết sức lực nên chẳng còn thời gian nói với nàng
những lời lẽ âu yếm nữa. Một hôm nàng út đòi:
-
Chàng hãy mang hoa Anh Đào về cho em!
-
Hoa Anh Đào chỉ nở có mùa thôi - chàng trai giận dữ đáp.
-
Hãy mang tiếng hót hoạ mi về cho em nghe!
-
Hoạ mi đâu phải lúc nào cũng cất tiếng hót.
-
Đã lâu rồi chàng chưa hôn em. Chả lẽ tình yêu của chàng không còn vĩnh hằng
nữa sao?
-
Tình yêu không là vĩnh hằng.
-
Vậy thì cái gì là vĩnh hằng, thưa chàng?
-
Lao động là vĩnh hằng - chàng trai đáp và cầm cái liềm đi ra đồng.
Congái
của Thần Mặt Trời lại phải ở nhà một mình. Nàng buồn nhớ nơi chôn rau, cắt rốn
đến nỗi mất cả lòng kiêu ngạo bấy lâu nay, nàng quay về phía Mặt Trời da diết
cầu xin :
-
Hỡi Thần Mặt Trời kính yêu của con, xin người hãy chấp thuận lời giãi bày của
con đây. Hiện giờ con rất nhớ quê nhà. Con thường nằm mơ thấy những con đường
của tuổi ấu thơ, thường nghe các chị dệt trên khung cửi rào rào. Người hãy thương
con và cho con được trở về thiên cung!
Thần
Mặt Trời chỉ im lặng.
Nàng
út vẫn không ngừng van xin :
-
Hỡi người cha đáng kính, chẳng nhẽ Người không cảm thấy đứa con gái của Người
đang bất hạnh trên đất khách, quê người ? Người hãy gọi con về, nếu Người
không muốn thừa nhận con là con gái nữa thì con xin làm kẻ hầu hạ Người.
-
Con gái ta ở hạ giới quá lâu rồi, đến nỗi đôi chân con đã bén rễ, khó mà bứt ra
được. Giờ đây, Cha không thể giúp con được nữa.
Thần
Mặt Trời vừa dứt lời, Người dùng ngay chiếc khăn mây trắng che kín hai mắt.
Những giọt nước mắt của Người như những giọt thủy tinh trong suốt cứ rơi lã
chã xuống đôi tay của con gái.Nàng út toan nhấc đôi tay lên, song mặt đất này
đã giữ chặt lấy nàng. Và nàng đã phải ở lại trần thế trong tình trạng như vậy,
để rồi sau đó biến thành một bông hoa, luôn luôn hướng về phía mặt trời, về
phía quê cha, đất tổ. Chính vì thế loài hoa này có tên gọi: Hoa Hướng Dương.
Lan Hài
Phân họ Lan hài (danh pháp khoa học:
Cypripedioideae) là một phân họ trong họ Lan (Orchidaceae), bao gồm các chi
Cypripedium, Mexipedium, Paphiopedilum, Phragmipedium, Selenipedium và có lẽ cả
Phragmipaphium. Các loài lan trong phân họ này có đặc trưng là có các khoang
túi (các cánh môi hay cánh giữa biến đổi) của hoa hình hài (giày nữ thời phong
kiến) – các khoang túi này bẫy côn trùng vì thế chúng buộc phải vượt qua nhị
lép, mà phía sau đó chúng thu thập hay tích tụ khối phấn, bằng cách đó thụ phấn
cho hoa.
Phân họ này từng được một số nhà thực
vật học coi là họ Cypripediaceae, tách ra khỏi họ Orchidaceae.
Phân loại
Phân loại
Phân họ này chứa 5-6 chi với 115-150
loài, chưa có sự thống nhất trong sự ước lượng số lượng loài. Chủ yếu là địa
lan hay thạch lan. Phân họ này có thể phân ra làm các tông, phân tông như sau:
Tông Cypripedieae
Phân tông Cypripediinae
Cypripedium Lindl. (bao gồm cả
Arietinum Beck, Calceolaria Heist. ex Fabr., Calceolus Nieuwl., Ciripedium
Zumagl., Criogenes Salisb., Fissipes Small, Hypodema Rchb., Sacodon Raf.,
Schizopedium Salisb., Stimegas Raf.): Khoảng 47 loài.
Phân tông Paphiopedilinae
Paphiopedilum Pfitzer (bao gồm cả
Cordula Raf., Menephora Raf.): Khoảng 80 loài.
Tông Mexipedieae
Phân tông Mexipediinae
Mexipedium V.A.Albert & M.W.Chase:
1 loài (Mexipedium xerophyticum) tại Oaxaca, Mexico.
Tông Phragmipedieae
Phân tông Phragmipediinae
Phragmipedium Rolfe (bao gồm cả
Phragmopedilum Pfitzer, Uropedium Lindl.): Khoảng 20 loài.
Tông Selenipedieae
Phân tông Selenipediinae
Selenipedium Rchb.f.: Khoảng 6 loài ở
Trung và Nam Mỹ.
Khác
x Phragmipaphium Hort.: Có thể là lai ghép giữa Phragmipedium với Paphiopedilum.
x Phragmipaphium Hort.: Có thể là lai ghép giữa Phragmipedium với Paphiopedilum.
Phân bố
Phân họ Cypripedioideae là đơn ngành
và bao gồm 5 chi. Đặc trưng chung của chúng là 2 bao phấn dạng hai nhị sinh sản
(nghĩa là có 2 nhị hoa hoàn hảo), một nhị lép dạng khiên và môi dưới dạng túi.
Chi Cypripedium được tìm thấy tại Bắc
Mỹ, cũng như tại một số nơi ở châu Âu. Loài hoa lan biểu trưng của bang
Minnesota là lan hài Showy (Cypripedium reginae). Loài lan hài hồng
(Cypripedium acaule) là hoa biểu trưng chính thức của bang New Hampshire. Lan
hài cũng là hoa chính thức của tỉnh đảo Prince Edward của Canada.
Chi Paphiopedilum được tìm thấy trong
các khu rừng nhiệt đới ở Đông Nam Á và miền nam Trung Quốc. Chi Paphiopedilum rất
dễ trồng và vì thế là khá phổ biến trong số những người ưa thích hoa lan. Trên
thực tế, việc thu thập thái quá các loài trong chi này đã gây ra một số vấn đề
tại môi trường sống nguyên thủy của nó.
Chi Phragmipedium được tìm thấy tại miền bắc Nam Mỹ và Trung Mỹ, cũng rất dễ trồng nhưng nó cần nhiệt độ thấp hơn so với các loài trong chi Paphiopedilum, và vì thế cũng loại bỏ nhu cầu sử dụng nhà kính tại nhiều khu vực ôn đới khi người ta muốn trồng chúng tại đây.
Chi Tú cầu (danh
pháp khoa học: Hydrangea)
là một chi thực vật có hoa trong họ Tú cầu (Hydrangeaceae) bản địa Đông
Á (từ Nhật Bản đến Trung Quốc) , Nam Á, Đông Nam Á (Hymalaya, Indonesia) và
châu Mỹ. Chúng là loài cây thân mộc, hoa vô tính. Hầu hết các loài tú cầu có
hoa màu trắng, tuy nhiên vài loài (điển hình là H. macrophylla) có màu hoa thay
đổi phụ thuộc vào độ pH của đất, lúc đầu hoa màu trắng sau biến dần thành màu
lam hay màu hồng, màu hoa phụ thuộc vào độ pH của thổ nhưỡng, ưa bóng râm ẩm thấp.
Tất cả bộ phân của cây chứa độc tố có thể gây ngộ độc ở người khi ăn phải.
Hầu hết các loài tú cầu có hoa màu trắng, tuy nhiên vài
loài (điển hình là H. macrophylla) có àu hoa thay đổi phụ thuộc vào độ pH của
đất, nếu đất có độ pH nhỏ hơn 7 (đất chua) sẽ cho hoa màu lam, nếu đất có độ pH
là 7 thì cây cho hoa màu trắng sữa, nếu đất có độ pH lớn hơn 7 cây cho hoa màu
hồng hoặc màu tím nên có thể diều chỉnh màu hoa thông qua việc điều chỉnh độ pH
của đất trồng.
Muốn hoa có màu lam vào mùa hè thu bón dung dịch clorua
sắt hay có thể chôn vài cây đinh gỉ vào gốc cây hoặc cũng có thể trôn vào đất
một ít clorua nhôm, clorua magie. Muốn hoa có màu hồng có thể bón vào đất một
ít vôi bột.
Hoa Nhật
quỳnh
Nhật quỳnh nở dễ đến 5 hôm rồi mà bữa nay mới
chụp ảnh đuợc. Một phần do thời tiết mây mưa mù mấy hôm liền, phần nữa sáng mở
mắt dậy đi làm, tối mịt mới về thành ra tàn mất 3 bông rồi. Tiếc ghê. Nhật quỳnh
mang về từ Đà Lạt sau chuyến đi đúng đợt bão số 5. Mình chọn mua 2 bịch có lá
khác nhau, cũng hy vọng tràn trề là mang 2 màu hoa khác nhau. 5 tháng chăm sóc
cũng bõ công khi một chậu cho ra 9 nụ hoa tía đỏ. Chậu Nhật quỳnh nở hoa là giống
Nhật quỳnh đỏ lá bẹt, khác với giống Nhật quỳnh 3 lá giống thanh long. Đọc các
tài liệu thì thấy nói giống Nhật quỳnh đỏ 3 lá kia bông lớn hơn một chút, nhưng
ko sai bông bằng Nhật quỳnh đỏ lá bẹt.
Hoa Phượng tím
(danh pháp khoa học: Jacaranda mimosifolia,
đồng nghĩa: Jacaranda
acutifolia), thuộc họ Chùm ớt (Bignoniaceae)
bao gồm các loài chùm ớt, núc nác, đào
tiên...
Là một loài cây gỗ lớn (cao 10–15 m), tán lá tỏa rộng
(7–10 m) nhưng cành lá thưa, lá phức bao gồm hai lần lá kép,
nên khi không có hoa cây trông tương tự phượng vĩ, nhưng vào mùa nở hoa thì trổ nhiều hoa hơn.
Hoa hình ống dài 4–5 cm, từng chùm màu tím,
hình chuông, cánh hoa mềm mại, dễ bị dập nát, không hề giống hoa phượng. Mùa
hoa nở kéo dài khá lâu, có thể đến 4–6 tháng.
Phượng tím có nguồn gốc từ Nam Mỹ,
từ lâu đã được du nhập vào Ấn
Độ, Nê-Pal..., tức thích
hợp với khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây này đã được du nhập vào Đà
Lạt từ những năm đầu thập kỷ 1970,
và có lẽ cũng thích hợp với những vùng mát như Tam
Đảo, Lai Châu ở Việt Nam...
Cây thường được trồng làm
cây cảnh ven đường và trong các công
viên, nhưng tác dụng cho bóng mát kém vì tán lá quá thưa thớt. Riêng trong
công viên, vì không phải quét dọn mỗi ngày như trên đường phố, sau vài ngày hoa
rụng trên mặt đất sẽ có một thảm hoa màu tím khá bắt mắt.
Cây phải trồng bằng hạt, vì
thế sau khi đã du nhập một số cây vào Việt Nam,
việc nhân rộng khá chậm chạp vì không thể giâm cành. Cây trồng từ hạt ra hoa
sau 2–3 năm, khi cây còn khá thấp (người lớn có thể với tay tới hoa).