Đồng Hành Việt - Đặt Trọn Niềm Tin!

Dịch trang

Người Đi Tìm Hình Của Nước - Chế Lan Viên

Thông Tin Du Lịch Phổ biến

CÁC LOẠI HÌNH SÂN KHẤU TIÊU BIỂU

1/ Múa Rối Nước:

Múa rối thì nhiều dân tộc trên thế giới có, còn múa rối nước chỉ duy nhất ở Việt Nam. Nghệ thuật múa rối nước xuất hiện từ đời Lý (1010 – 1225). Ngày nay ở làng Đọi, huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam còn lưu giữ tấm bia đá , khắc ghi tả buổi biểu diển múa rối nước mừng thọ vua Lý Nhân Tông (1121) nhằm ngày 3 tuần trăng thứ 8 như sau: “Dòng sông gợn sóng. Một con rùa vàng mang trên mình ba hang đá. Nó bơi thư thả trên mặt nước rồi phun nước như mưa. Trong tiếng nhạc êm đềm những cánh cửa của các hang động mở ra. Thế là các nàng tiên xuất hiện, múa điệu “Hồi Phong” họ giơ những cánh tay mềm mại, nhíu cặp mày dài duyên dáng, nhịp với lời ca. Những con chim lạ bay đến, đậu từng đàn rồi thử tài nhảy nhót. Những chú hươu non tung tăng... Rùa vàng nhìn về phía nhà vua cúi đầu kính bái. Những bác tiều phu giương cung bắn thú...

Tại Hồ Long Trì (chùa Thầy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây) cũng c1 văn hoa khắc ghi: “giữa dòng nước lung linh, một con rùa vàng nổi lên đội ba hòn núi...”

Như vậy rõ ràng sân khấu của múa rối nước phải ở nơi hồ nước. Vùng đồng bằng bắc bộ nhiều ao hồ. Mỗi làng quê, nơi đình làng thường có hồ nước làm cảnh, mặt hồ là sân khấu, xung quanh bờ hồ là nơi khán giả gồm già trẻ, mặt nước hồ là sân khấu, xung quanh bờ hồ là nơi khán giả gồm già, trẻ, trai gái, trẻ em trong làng ngồi quay quần xem diễn trò vào những ngày hội hè, lễ tết... Những phường rối nước đầu tiên xuất hiện ở các tỉnh, hai bên bời sông Hồng. Tỉnh Thái Bình xưa kia có 7 phường múa rối nước, sau này nổi tiếng nhất là phường múa rối nước làng Nguyễn Xá thuộc huyện Đông Hưng, Thái Bình ngày nay), các tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Hải Phòng...đều có những phường múa rối nước.

          Phường múa rối nước thường là một tổ chức hoạt động nghệ thuật nghiệp dư, vừa là một tổ chức tương tế. Diễn viên chính là những nông dân trong làng tự nguyện góp thóc gây quỹ để chỉ dùng vào việc xây dựng tiết mục rối, đi biểu diễn và giúp đỡ lẫn nhau khi một ai đó trong phường ốm đau hoặc gặp khó khăn. Hàng năm, các phường rối nước làm lễ tế tổ và nhận thêm người mới. Ai được nhận vào phường thì mang cơi trầu, chai rưỡu đến lễ tổ, trình phường và đặc biệt phải thề giữ bí mật nhà nghề, nếu để lộ bí mật thì phải chịu hình phạt nặng. Lệ không nhận phụ nữ vào phường, phòng khi đi lấy chồng xa mang theo những bí truyền múa rối nước của làng đem lộ cho người khác đương nhiên đó là chuyện cũ, nay đã xóa bỏ.

          Phường rối nước ngày xưa có khoảng 80 người, nhưng chỉ độ 20 người thực sự hoạt động nghệ thuật do một ông trùm đứng đầu điều hành mọi việc, kể cả việc giữ gìn con rối và các tài sản chung. Có một số nghệ nhân chuyên điều khiển con rối, số người khác tạo hình con rối, có người sáng tác lời ca, lời giáo đầ, một số người làm nhạc công. Âm nhạc cho múa rối nước thì bộ gõ gồm trống, mõ, thanh la...chiếm phần quan trọng.

          Con rối được tạo bằng gỗ, bên ngoài phủ lớp sơn ta, ngâm nước không thấm. Mỗi con rối là một tác phẩm điêu khắc dân gian. Một nhân vật tiêu biểu nhất của rối nước là chú Tễu, có thân hình tròn trĩnh, nụ cười hóm hỉnh, lạc quan. Mỗi con rối một vẻ, thể hiện một tính cách. Nghệ nhân rối nước khi biểu diễn phải ngâm mình dưới nước trong buồng trò (ngăn cách với khán giả bằng trúc mành tre). Họ điều khiển con rối bằng “máy sào” và “máy dãy”. Những  tiết mục múa rối nước rối cổ truyền gồm nhiều trò lý thú như “múa Tễu”, “chọi trâu”, “chăn vịt”, “đánh cáo”, “kéo cờ”, “đánh đu”, “sư tử hí cầu”, “Đường tăng thỉnh kinh”, “Thị Mầu lên chùa”, “Đinh Bộ Lĩnh”... Ngày nay bên cạnh những tiết mục cổ truyền, lại có thêm nhiều tiết mục múa rối nước thể hiện nội dung cuộc sống hiện đại. Người đến xem múa rối nước, trong lúc chờ đợi mở màn đã nhìn thấy một sân khấu vừa trang nghiêm vừa mới lạ: trên mặt nước lung linh, một nhà thủy đình tám mái cong vút,được trang trí bằng những bức rèm màu sắc rực rỡ với những hình thêu hoa lá , phượng rồng khá công phu. Trước lúc mở màn, một tràng pháo giòn giã liên hồi hòa vào tiếng mõ, tiếng thanh la, tiếng trống như thúc giục lòng người, khiến tất cả khán giả náo nức  hướng vào bức mành tre nơi những con rối sắp rẽ mành lướt ra mặt nước diễn trò. Diễn viên xuất hiện đầu tiên là chú Tễu  ra giáo trò dẫn chuyện:

- Bà con ơi?

- Ơi (tiếng để đáp lại của giàn diễn viên và của cả khá giả).

- Tôi có phải xưng danh không nhỉ?

- Có chứ...không thì ai biết là ai?

Nhìn chú Tễu trẻ trai, khỏe mạnh, đóng khố điều, hai tay chỉ trỏ, miệng cười tươi, nói những lời vui vẻ khiến khán giả cười rộ:

- “Tôi tên là Tễu...tôi từ nhà trời xuống đây từ cái thưở nước lửa hòa hợp với nhau....bà con ơi!...có một cô da tráng , má đào , cô trông thấy Tễu tôi xuân tình tưởng vọng, cô trông thấy Tễu tôi muốn kết hiếu. Cô lại sợ Tễu tôi hệ thị mộc nhân, nhưng diệt hữu cơ tâm , đến đêm khuya chuyển động tâm thần, Tễu tôi không nằm trơ như gỗ...ối a...ối a”

          Chú Tễu sống gần  một nghìn năm tuổi cùng với nền nghệ thuật rối nước mà vẫn đầy sức sống vào vai người giáo trò, người dẫn chuyện, lại là anh hề với cách nói bình luận sắc sảo , phê diều dở, khen điều hay kêu gọi sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, khuyên mọi người nên ca hát, sáng tạo nét đẹp cho cuộc sống. Có thể nói chú Tễu là linh hồn của múa rối nước, chú nói hộ những suy nghỉ, tâm tư, ước vọng của người nông dân Việt Nam.

          Các tiết mục múa rối nước đã khéo léo kết hợp giữa những con rối người và con rối động vật như cảnh chọi trâu có nh anh hề đánh trống thúc giục trâu trọi cho hăng và một người trọng tài vui tính đã diễn tả được cảnh vui chơi hào hứng trong ngày hội ở đồng quê. Tiết mục “múa tiên” với tám cô tiên được tạo hình rực rỡ, lộng lẫy xiêm y múa nhịp nhàng trong những khúc dân ca mượt mà đằm thắm.

          Ngày nay bên cạnh những phường rối nước ở làng quê, nhiều thành phố trên cả nước đã có những đoàn nghệ thuật múa rối nước như: Đoàn nghệ thuật rối nước Việt Nam, đoàn nghệ thuật rối nước Thăng Long, đoàn nghệ thuật rối nước Sông Ngọc...

          Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam đã được giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới và được khán giả các nước mến mộ, được coi là một loại hình độc đáo nhất, là linh hồn của đồng ruộng Việt Nam.

Múa Chèo

          Nói đến nghệ thuật múa truyền thống của dân tộc là phải nói đến múa chèo, người ta tìm thấy những động tác múa trên sân khấu ngà nay đã được khắc lên vách đá, hang động, các phù điêu trong đình làng Việt Nam từ thuở rất xa xưa. Một đặc điểm nữa của múa chèo là nó mang trong mình nhiều dấu ấn những hoạt động văn hóa làng quê như múa thiêng – lên đồng – múa đèn, múa nến, múa gậy, múa khăn, múa chạy cờ, múa quạt... Người diễn viên múa chèo phải “múa” từ bước đi, cách đứng khi giao tiếp với nhân vật cùng diễn. Diễn viên chèo phải vừa múa vừa hát. Khi múa sử dụng chủ yếu đôi bàn tay, cánh tay và cổ tay. Có thể nói đôi bàn tay là sự thể hiện ngôn ngữ chèo là: Nhóm chạy đàn: bước đi lúc nhanh, lúc chậm, biểu hiện sự suy tư thương nhớ và nỗi buồn mênh mông.

          Nhóm dâng hoa gồm những động tác khoan thai trang nghiêm, diễn tả tình cảm tôn kính.

          Nhóm dâng rượu bước đi trang trọng, động tác mạch lạc, kính cẩn.

          Nhóm cướp bông là những bước nhún ngẫu hứng, tài linh hoạt của người diễn.

          Nhóm tấu nhạc thể hiện những tiết tấu âm thanh phù hợp với nội dung thể hiện của vở diễn.

          Vậy chèo xuất hiện từ bao giờ?

          Có thuyết nói múa chèo có từ thế kỷ thứ X. Có ý kiến khác lại cho là khoảng giữa thế kỉ XVI múa chèo mới thành hình. Đi tìm từ nguyên chữ chèo, cho rằng chữ chèo thuyền (hát trong khi lao động). Cũng lại có luận điểm nói chắc rằng chèo là từ chữ trào (trào lộng) vì tính hài trong chèo khá đậm nét.

          Điều chắc chắn là nơi cội nguồn của nghệ thuật chèo là đồng quê thôn xóm. Xưa kia có những “phường chèo” do một ông trùm cầm đầu đi diễn ở các thôn xóm làng vào dịp mùa xuân, mùa thu là lúc nông nhàn. Những vùng chèo nòi, chèo gốc gọi là tiếng chèo như “Chiếng Đông”, “Chiếng Đoài”, “Chiếng Nam”, “Chiếng Bắc” là những chiếng chèo nổi tiếng khi xưa. Một “Chiếng chèo” chỉ gồm mười lăm người kể cả nhạc công và bộ gõ chiếm vị trí quan trọng. Diễn viên gồm có đào, kép, hề. Đôi khi chỉ cần một đào, một kép và một vai hề xuất sắc là đã nổi đình đám. Tính chất ước lệ trong múi chèo khá cao. Chỉ cần hai chiếc chiếu trải giữ sân đình, khán giả ngồi vây quanh là đã thành một sân khấu chèo. Tên gọi chèo sân đình chính là như vậy. Buổi biểu diễn chèo thường mở đầu bằng điệu hát “vỡ nước”và một hồi trống rung lên... Tiếng trống chèo có ma lực cuốn hút bao khán giả nông thôn. Trống đã nổi lên ở đình thì không thể ngồi yên ở nhà:

“Ăn no rồi lại nằm khèo

Thấy rục trống chèo, bể bụng đi xem”

          “Rục” là ngón gõ điêu luyện trên mặt trống có tác dụng kích thích và giục giã lòng người.

          Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong cốt truyện (tích trò). Văn chèo đậm sắc trữ tình của ca dao, tục ngữ, tiếng cười trong múa chèo thật thông minh dân giã nhưng không kém phần trí tuệ. Đôi khi tiếng cười ra nước mắt có giá trị nhân văn rất sâu sắc.

          Những vở chèo cổ Trương Viên, Kim Nham, Lưu Bình – Dương Lễ, Quan Âm Thị Kính....đã được xếp vào vốn quý của sân khấu dân tộc cổ truyền.

          Ngày nay, sự phát triển ồ ạt của nhiều loại hình văn hóa, để bảo tồn và phát huy vốn cổ dân tộc, các nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ trong làng chèo đã có những bước đi mạnh dạn để cách tân múa chèo, đổi mới môn nghệ thuật này để nâng cao hơn nữa giá trị thưởng thức cho đại đa số khán giả cả thành thị và nông thôn. Những nghệ sĩ tên tuổi đã gắn bó sự nghiệp cả đời với nền nghệ thuật chèo không thể không nhắc đến: Trần Bằng, Trần Huyền Trân, Tào Mạt, Hoàng Kiều, Hoài Giao, Việt Dung, Trùm Thịnh. Cả Tam, Dịu Hương, vua hề Năm Ngũ, Diễm Lộc...

          Trong sự thành công chung của các vở Chèo, ta không thể không đề cập đến vai trò của âm nhạc. Âm nhạc Chèo là một trong những bộ phận cốt lõi tạo nên nghệ thuật sân khấu Chèo. Nói đến nhạc Chèo là nói đến cả hai bộ phận: hát và đàn. Trong đó, phần hát bao gồm hơn một trăm làn điệu được chia thành các hệ thống khác nhau. Còn phần đàn, phải kể đến vai trò của dàn nhạc trong việc đệm cho hát, làm nền cho cảnh diễn, tạo tình huống kịch, mở màn cho vở diễn v.v… Sự kết hợp giữa hai yếu tố này sẽ tạo nên nét đặc trưng cho nghệ thuật sân khấu Chèo truyền thống.

2001_cheo

         

          Nếu đề cập đến loại hình ca Trù không thể thiếu tiếng phách, đàn đáy, trống chầu; trong đờn ca tài tử là đàn kìm (đàn nguyệt); thì trong Chèo không thể thiếu sự hỗ trợ của tiếng đàn, tiếng trống. Chèo là hình thức sân khấu kể chuyện thông qua diễn trò nên gắn bó đặc biệt với âm thanh của tiếng nhị, sáo, tiếng trống cùng với sức mạnh của cả một dàn nhạc. Nếu nói giọng hát là chủ đạo của Chèo, thì âm nhạc lại là cái hồn của Chèo. Giọng hát, tiếng đàn đã như hình với bóng, không thể tách rời, tạo nên một phong cách sân khấu riêng biệt, ăn sâu vào tâm khảm người Việt từ bao đời nay. 

          Để hiểu rõ hơn âm nhạc trong hát Chèo, hãy  tìm hiểu “cái hồn” của Chèo nhé!

Dàn nhạc Chèo cấu tạo theo kiểu dàn nhạc màu sắc, truyền thống mỗi cây đàn có một màu sắc riêng, có lối diễn tấu và sức truyền cảm riêng. Các nhạc cụ được cấu trúc theo xu hướng gần gũi với giọng người. Âm thanh mỗi nhạc cụ thể hiện tiếng nói riêng, vang lên trong không gian huyền bí của sân khấu như lời mời, gọi người nghe; cái trước, cái sau, khi hoà quyện, lúc tách nhánh, chuyển động nhịp nhàng theo nội dung vở diễn.

Nếu như trước đây, dàn nhạc Chèo gồm:

- Bộ dây - chi kéo: nhị 1, nhị 2, hồ.

               - chi gẩy: nguyệt, tam, thập lục, bầu.

               - chi gõ: tam thập lục.

- Bộ hơi: tiêu, sáo.                                    

- Bộ gõ: trống đế, trống ban, trống chầu, trống cơm, thanh la, mõ, não bạt, sinh tiền, tiu cảnh, chiêng...

          Ngày nay, dàn nhạc Chèo thường chỉ có 5, 6 nhạc công và mỗi nhạc công có thể sử dụng được 1 hoặc 2 nhạc cụ. Với bộ gõ, hiện thường dùng là trống đế, thanh la, mõ, trống cơm, trong đó, trống đế là nhạc cụ có vai trò quan trọng trội bật.

          Trong các bộ (dây, hơi, gõ) thì các nhạc cụ thuộc bộ gõ đóng vai trò quan trọng. Các cụ có đâu “Phi trống bất Chèo” cho thấy vai trò của bộ gõ nói chung và tiếng trống nói riêng trong sân khấu Chèo truyền thống. Theo thông lệ, vở Chèo thường mở đầu bằng điệu hát Vỡ nước với sự phụ hoạ của hồi trống rung, buổi diễn kết thúc có hát Vãn trò với trống giã đám. Bên cạnh đó, thông qua một số ước lệ trong kỹ thuật diễn tấu trống, người diễn viên như cảm nhận được những qui định về hành động sân khấu của mình như: Rù trống (vê dùi trên mặt trống) là diễn viên đang di động; Rụp trống là diễn viên dừng lại; Cắc trống lúc khoan lúc nhặt là diễn viên đang suy nghĩ, tính toán chuẩn bị hành động... Ngoài ra, cũng như sân khấu Tuồng, Chèo trước đây còn sử dụng trống chầu để “cầm trịch” buổi diễn (thậm chí là khen-chê), do một người có vai vế, uy tín hoặc am hiểu sâu về nghệ thuật sân khấu điều khiển.

          Các nhạc cụ gõ trong Chèo có khả năng quán xuyến, điều hành tiết tấu vở diễn, dẫn dắt sự chuyển màn, chuyển lớp, sự ra vào của diễn viên trên sân khấu… Đúng như nhà nghiên cứu Bùi Đức Hạnh đã nhận định: “Trống Chèo (bộ bõ) là linh hồn của dàn nhạc Chèo vì nó là nguồn sáng tạo chủ chốt, kích thích mọi sự sáng tạo khác của các cây đàn cùng hoà điệu tạo nên một phong cách chỉnh thể của âm nhạc Chèo trong lối đệm cho hát cũng như hoà tấu nhạc không lời”.

          Nói như vậy không có nghĩa, bộ gõ là yếu tố duy nhất làm nên hiệu quả cho cả dàn nhạc. Mà ở đây, bộ gõ rất quan trọng trong việc tạo không khí bề ngoài cho diễn xuất, tuy nhiên khó có thể tạo được hiệu quả trữ tình, nội tâm sâu lắng của nhân vật. Điều này chỉ có thể đạt được nhờ các nhạc cụ thuộc họ dây, họ hơi. Ví như tiếng đàn nhị - líu - hồ nhấn vuốt, luyến láy bám sát giọng người, khơi gợi những mạch nguồn sâu thẳm của giọng hát. Tiếng sáo – tiêu vừa trong sáng bay bổng, vừa mơ hồ, xa xăm, lại giàu chất gợi cảm, trữ tình. Tiếng đàn bầu - đàn tranh da diết, cảm thương, ngân nga, vang vọng, giàu chất trữ tình thể hiện những suy tư thầm kín, những uẩn khúc bi thương... Với cách sử dụng đa dạng, hợp lý các nhạc cụ kể trên, ông cha ta đã tạo nên một sân khấu Chèo có cách thể hiện hài hoà về âm nhạc giữa cái hài, cái hùng và cái bi, chứ không quá bi hùng như sân khấu Tuồng hay bi luỵ như sân khấu Cải lương. 

          Có thể thấy, âm nhạc trong Chèo có vai trò thể hiện nội tâm nhân vật, khắc hoạ cho phần diễn của nhân vật rất rõ nét. Ngoài ra, âm nhạc còn có vai trò mở màn, mở cảnh, báo hiệu diễn biến tiếp theo của nội dung.

          Hát Quan Họ

          Hát quan họ là một thể loại ca nhạc dân gian truyền thống của vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Cái nôi nghệ thuật này ở vùng Bắc Ninh.

          Lời hát quan học là các thể thơ, chủ yếu là thơ lục bát (6/8) giàu âm điệu và hình ảnh, giàu chất ca dao trữ tình vừa mộc mạc mà vừa duyên dáng, dí dỏm. Chủ đề trong lời ca quan họ là chủ đề tình, nghĩa, đó là tình nghĩa giữa những con người lao động cùng sống trong cộng đồng làng, xã. Vì thế từ xa xưa đã hình thành những làng quan họ, hầu hết tập trung vào xung quanh thị xã Bắc Ninh. Hội các làng quan họ đã gắn liền với các ngôi đình làng, chùa làng cổ kính. Thời điểm mở hội là mùa xuân, từ mùng 4 tết trở đi, các làng quan họ mở hội, ban ngày thì tổ chức những cuộc vui như kéo co, cờ người, đánh đu, chọi gà, đấu vật.. Ban đêm thì tại sân đình, sân chùa hay trong các gia đình quan họ hát thâu đêm. Cách hát quan họ là hát đôi (một nam, một nữ). Khi một đôi của làng bạn hát thì bên làng này cũng chuẩn bị một đôi để hát lại. Họ giao lưu tình cảm bằng lời hát, hẹn hò nhau cũng qua lời hát và nguyện kết bạn cũng qua lời hát.

          Về mặt âm nhạc thì đạo bộ phận các bài quan họ có bố cục thành hai phần: phần đầu có tính chất ngâm vịnh, giáo đầu nên tiết tấu tự do, chậm rãi, phần thân là ca khúc chính, có tiết tấu nhanh hơn phần đầu. Cũng có những bài quan họ thêm phần thứ ba là phần “đổ” nghĩa là người hát chuyển giọng mang sắc thái mới bất ngờ để báo hiệu sự kết thúc. Theo thống kê chưa đầy đủ thì dân ca quan họ có tới 200 làn điệu. Mỗi làn điệu là một ca khúc hoàn chỉnh.

          Để giải thích cội nguồn phát sinh nghệ thuật hát quan họ thì có nhiều giả thuyết nhưng tượng trưng tất cả các giả thuyết đều có một lý giải chung là do tục kết bạn, kết nghĩa giữa con người giữa làng này với làng khác, rồi nhân dịp xuân về, hẹn gặp gỡ nhau để tra gởi tình cảm.

          Dân ca quan họ Bắc Ninh được hình thành khá lâu đời, do cộng đồng người Việt (Kinh) ở 49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang sáng tạo nên. Đây là một trong những loại hình dân ca đặc trưng của Việt Nam, bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các làng xóm. Quá trình hình thành lời ca, làn điệu Quan họ gắn liền với quá trình phát triển của đời sống xã hội nhằm nâng cao và tôn vinh các mối quan hệ cộng đồng và giao lưu văn hóa.

Nét đặc trưng của Quan họ chính là ở hình thức hát đối đáp. Những liền anh trong trang phục truyền thống khăn xếp, áo the và những liền chị duyên dáng trong bộ áo mớ ba, mớ bẩy, đầu đội nón thúng quai thao, cùng nhau hát đối những câu ca mộc mạc, đằm thắm, cách hát theo lối truyền thống không cần nhạc đệm mà vẫn đầy chất nhạc, thể hiện nét văn hóa tinh tế của người Quan họ.

Hát quan họ không chỉ đòi hỏi hát tròn vành, rõ chữ, mượt mà, duyên dáng, bằng nhiều kỹ thuật như: rung, ngân, luyến, láy mà còn phải hát nảy hạt. Kỹ thuật nảy hạt của các nghệ nhân quan họ tuy có nét chung với lối hát chèo và ca trù nhưng lại rất riêng, khó lẫn. Tùy theo theo cảm hứng và thị hiếu của người hát, những hạt nảy có thể lớn nhỏ về cường độ.

Theo quan niệm của người Quan họ, nghệ nhân là những ngưòi có kỹ năng hát “vang, rền, nền, nẩy” điêu luyện, thuộc nhiều bài, nhiều "giọng" Quan họ. Họ chính là những bậc thầy dân gian thực hành việc sáng tạo, lưu giữ và trao truyền vốn di sản quý báu đó cho các thế hệ mai sau nên rất xứng đáng được tôn vinh.  

Dân ca quan họ có 213 giọng khác nhau, với hơn 400 bài ca. Lời một bài ca có hai phần: lời chính và lời phụ. Lời chính là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài ca, lời phụ gồm tất cả những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng đưa hơi như i hi,ư hư, a ha…

Khi hát quan họ, người hát sử dụng những thể thơ và ca dao nhất định của người Việt, phần lớn là thể lục bát, lục bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp. Lời các bài ca quan họ đều là những câu thơ, ca dao được trau chuốt, từ ngữ trong sáng, mẫu mực. Những bài ca quan họ được sáng tạo ngẫu hứng trong các kỳ hội làng, hoặc ứng tác ngay trong một canh tác, một cuộc thi trang giải của làng. Nội dung các bài ca thể hiện các trạng thái tình cảm của con người: nhớ nhung, buồn bã khi chia xa, sự vui mừng khi gặp lại của những người yêu nhau, mà không được cưới nhau theo quy định của những tập quán xã hội bằng một ngôn ngữ giàu tính ẩn dụ.

Dân ca quan họ mang nhiều nét độc đáo và được chia thành 2 loại: Quan họ truyền thống và quan họ mới.

Quan họ truyền thống: Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Quan họ, vùng Kinh Bắc có tất cả 49 làng duy trì được lối chơi văn hóa Quan họ (44 làng ở Bắc Ninh, 5 làng ở Bắc Giang) với hàng ngàn bài hát lời cổ mộc mạc, dân dã mang nét đẹp riêng vừa thiêng liêng, vừa cổ xưa mà rất Việt Nam.

Quan họ truyền thống hát không nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ. "Chơi quan họ" truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức (thưởng thức “cái tình” của bạn hát).

Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ" là hình thức biểu diễn (hát) quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng, như: Tết đầu xuân, lễ hội, hoạt động du lịch...Từ sau năm 1954, quan họ được khai thác làn điệu, đặt lời mới thành ra ca cảnh diễn trên sâu khấu. Thực tế, quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm.

Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra nhiều nơi, đến với thính giả trong nước và các quốc gia trên trên thế giới.

Hình thức biểu diễn của quan họ mới rất phong phú, bao gồm hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa... Quan họ mới cải biên các bài bản truyền thống theo hai cách: không có ý thức (hát quan họ có nhạc đệm) và có ý thức (cải biên cả nhạc và lời của bài bản quan họ truyền thống).

Trải qua một quá trình phát triển lâu đời trên một vùng đất có sự giao lưu rộng và phát triển sớm, Hát Quan họ đã trở thành một điểm sáng trong dân ca Việt Nam. Lời hay ý đẹp, ngôn ngữ bình dân nhưng tinh tế, ý nhị, giàu hình tượng và cảm xúc; âm điệu phong phú, trữ tình; lối hát mượt mà với kỹ thuật nảy hạt độc đáo; phong cách lịch thiệp - tất cả làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dân ca Quan họ.

 Lý Nam Bộ

Nói đến nghệ thuật ca hát dân gian Nam Bộ mà chỉ đóng khung trong làn điệu “vọng cổ” hay một số làn điệu, bài bản của âm nhạc tài tử và cải lương thì quả chưa đầy đủ. Vùng đất trù phú này còn sản sinh ra nhiều làn điệu dân ca mang đậm màu sắc Nam Bộ như: Hát ru, hát Sắc bùa, Nói thơ Bạc Liêu, hò, Vè và trong đó không thể không kể đến những điệu lý thật mộc mạc, dễ thương. Những điệu lý Nam Bộ không chỉ đi vào sinh hoạt đời sống nhân dân ta từ hàng trăm năm trước mà di sản văn hóa phi vật thể này còn biểu thị tinh thần lạc quan, sức sống mãnh liệt của cư dân vùng sông nước phương Nam.

Khúc ca cần lao

Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, lý Nam Bộ có xuất phát từ nguồn gốc lao động, không do bàn tay nghệ sĩ tạo nên mà chỉ là một hình thức nghệ thuật tự phát của quần chúng nhân dân. Trong quá trình khai phá và chinh phục vùng đồng bằng Nam Bộ, trước một vùng đất màu mỡ, bao la, từ những vườn cây ăn trái bạt ngàn của vùng Long Khánh, Biên Hòa (Đồng Nai), cho đến những cánh đồng lúa bông vàng trĩu hạt phơi mình dưới ánh nắng chói chang ở miền châu thổ Cửu Long, đã khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho người dân sinh sống tại mảnh đất hiền hòa này sáng tạo ra nhiều làn điệu lý mang nét đặc trưng riêng, đậm chất trữ tình, ngọt ngào, sâu lắng.

Lý Nam Bộ xuất hiện khá nhiều trong sinh hoạt văn hóa dân gian và thường được dùng như một chất liệu để làm phong phú thêm cho một số làn điệu âm nhạc cổ truyền Nam Bộ.

Các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian Nam Bộ đã thống kê có khoảng hơn 200 điệu lý đã được thu thập ở miền Nam. Nhạc điệu của chúng dựa trên thang âm ngũ cung của âm nhạc cổ truyền Nam Bộ, thêm vào đó là những tiếng luyến láy, tiếng đệm làm cho giai điệu thêm phong phú và tiết tấu thường là nhịp đôi (2/4 hay 4/4).

Vợ chồng nhạc sĩ Lư Nhất Vũ nhà thơ Lê Giang - tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm về dân ca và lý Nam Bộ.

Người dân miền Nam đặt tên cho các điệu lý dựa trên tên thú vật như: Lý con Mèo, Lý con Khỉ, Lý con Nhái, Lý con Cua, Lý con Sáo, Lý Chim quyên, Lý con Trâu, Lý con Cúm Núm, Lý Chuồn Chuồn, Lý Ngựa ô, Lý Quạ kêu…; tên cây cỏ gồm có các điệu lý: Lý bông sen, Lý bông lựu, Lý cây khế, Lý bắp non, Lý bụi chuối, Lý lựu lê, Lý cây chanh, Lý mù u, Lý cây ổi…; tên các món ăn thì có: Lý bánh ít, Lý bánh canh, Lý dĩa bánh bò, Lý ăn giỗ, Lý bánh tráng….

Ngoài ra, trong kho tàng các điệu lý Nam Bộ có một số điệu lý còn dựa vào xuất xứ của nghệ thuật “Bóng rỗi” mà đặt tên như điệu “Lý giọng bông” chẳng hạn. Dựa vào đặc tính của nhóm tiếng đệm mô phỏng các bậc âm của “chữ đờn” dân tộc,  hoặc tiếng tụng niệm kinh kệ mà đặt tên thì có các điệu lý như: Lý bản đờn, Lý cống chùa….  Cũng có trường hợp lấy địa danh cụ thể để đặt tên thì có: Lý Ba Tri, Lý Cái Mơn, Lý Năm Căn.... Hay tên phong cảnh thì có: Lý cảnh chùa,  Lý quán rượu...

Tơ lòng nơi dân dã

Từ buổi đầu đi khai phá miền đất mới phương Nam, người nông dân đồng bằng Nam Bộ đã lấy văn học nghệ thuật truyền miệng để nói lên ước vọng của mình trong cuộc sống. Việc sử dụng thể thơ lục bát vào điệu lý, kết hợp những từ, cụm từ, lặp từ, tiếng đệm, âm hơi ngỡ như thừa thãi nhưng đó lại là nghệ thuật thể hiện đầy đủ và rõ ràng nhất các cung bậc tình cảm của con người Nam Bộ, lúc thiết tha, da diết, khi thì phấn khởi, vui tươi một cách rất tự nhiên, bình dị. Lý Nam Bộ không chỉ phong phú về số lượng mà cả về đề tài, nội dung cũng như đặc tính âm nhạc.

Cái hay của các điệu lý Nam Bộ trước hết bởi nó là một loại dân ca sinh động về nội dung, phong phú về điệu thức, đa dạng về ngôn từ. Thứ hai là nó có thể xuất hiện trong hầu hết các loại hình nghệ thuật dân gian của miền Nam, thường được xen vào các bài ca vọng cổ, vở tuồng cải lương. Lời ca thì chân chất, mộc mạc, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ hát nên nó thường được sử dụng rộng rãi trong mọi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong mọi thôn cùng ngõ hẻm ở quê hương Nam Bộ.

Ai cũng có thể hát lý và hát bất cứ nơi đâu như: khi chèo xuồng, lúc ru em, khi làm đồng; hoặc vào các dịp lễ, tết, hội hè, giỗ chạp… Nhờ vậy mà lý đã được người dân Nam Bộ bình chọn là: “Nhất Lý, Nhì Ngâm, Tam Nam, Tứ Oán”. Lý Nam Bộ như là một món ăn tinh thần thiết yếu của cư dân đồng bằng Nam Bộ đến nỗi trong dân gian có câu thơ như sau: “Con Cua quậy ở dưới hang/ Nó nghe giọng lý kềnh càng bò lên”. Quả thật, lý Nam Bộ có sức quyến rũ lòng người và thật không sai khi nói lý Nam Bộ là viên ngọc quý trong kho tàng dân ca Việt Nam.

Trong dân ca miền Nam, lý là một làn điệu dân ca đặc trưng của những người nông dân mộc mạc. Những lời ca trong những điệu lý luôn nói lên tinh thần tích cực và sức sống mạnh mẽ của người nông dân. Lời lẽ thường chân thật và mộc mạc, không văn chương bóng bẩy, nhưng diễn tả được tình cảm, thể hiện được cá tính bộc trực, phóng khoáng của người Nam Bộ. Mặc dù lời ca của những điệu lý miền Nam đa phần giống với những câu hát của ca dao, hò, vè vì chúng có vần điệu dễ hát, nhưng khác với ca dao, hò, vè ở chỗ lý mang tính nhạc (hát), trong khi các thể loại dân gian kia mang thuộc tính của thi ca (thơ).

Lý Nam Bộ có đặc điểm là ngắn gọn, mỗi bài chỉ có một lời, giai điệu có những quãng nhảy xa tạo nên sắc thái sâu lắng trầm mặc hơn so với các điệu lý ở các vùng, miền khác. Mỗi điệu lý Nam Bộ đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản xuất như Lý đất giồng, Lý kéo chài chẳng hạn; hoặc ca ngợi những đức tính tốt của con người trong cuộc sống như Lý Ba Tri, ca ngợi cái đẹp trong thiên nhiên như Lý chim xanh; hoặc oán trách nhau như Lý lu là; hoặc mỉa mai, châm biếm bọn cường hào, ác bá như Lý con khỉ, Lý bình vôi, Lý con sam.

 

Mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Nghiên cứu về dân ca Nam Bộ, ta thấy rằng, hầu như trong các điệu lý miền Nam đều có hình bóng con sông, bến nước, làng quê với những giai điệu thật trữ tình, tha thiết, luôn chứa đựng tình cảm của người dân phương Nam luôn nhớ về quê hương, nhớ về ký ức của lứa đôi nơi quê nhà.

Ví dụ như lời ca trong điệu Lý Cái Mơn: “Đàn cò bay về nơi thương nhớ. Nhớ bến sông xưa in hình bóng của người yêu… Thuyền tình ơi hãy chờ đợi ta bao tháng năm trôi qua. Nhưng người xưa vẫn luôn ngóng đợi tình chung”. Không gian làng quê hiện ra trong điệu Lý Cái Mơn rất thơ mộng, lãng mạn với nỗi hoài niệm man mác. Điệu Lý qua cầu có đoạn: “Trời bình minh chim về đây líu lo trên cành. Như mọi ngày dòng sông với con đò mong manh…”. Lý qua cầu cũng nói về một mối tình trên dòng sông, bến nước có cô lái đò và người lữ khách.

Và chuyện tình ấy có kết cuộc dang dở, buồn tênh. Một điệu lý nữa cũng gắn liền với sông nước đó là Lý bông dừa: “Sông dài còn chảy xuôi theo dòng. Mà sao xa vắng em tôi biết tìm nơi đâu. Dòng sông còn chứa chan ân tình. Nay dang dở tình đầu ta còn gắn đợi ai…”. Với những dẫn chứng vừa kể trên, đã quá đủ để minh chứng điệu lý miền Nam phản ảnh tâm tư, tình cảm, tính cách của người Nam Bộ - cũng là biểu tượng của sự mộc mạc, phóng khoáng của cư dân sinh sống trên vùng đất màu mỡ này.

Thoát thai từ tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động, lý Nam Bộ cũng như nhiều thể loại dân ca cổ nhạc khác đã in sâu vào lòng người đồng bằng, từ thuở tiền nhân khai mở đất phương Nam. Cho đến hôm nay, các điệu lý miền Nam đã thực sự chinh phục được đông đảo quần chúng, đặc biệt là người bình dân, bởi đề tài và nội dung vô cùng phong phú, phản ánh sống động mọi khía cạnh trong sinh hoạt thường ngày ở nông thôn Việt Nam. Lý thể hiện tình cảm trong quan hệ giữa người với người: tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, bè bạn; thể hiện tinh thần lạc quan và yêu thương cuộc đời; ca ngợi cuộc sống và khát vọng hạnh phúc của con người… Nó như một di sản tinh thần nuôi dưỡng, vun đắp tâm hồn của con người phương Nam.

 

Khúc ca cần lao

Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, lý Nam Bộ có xuất phát từ nguồn gốc lao động, không do bàn tay nghệ sĩ tạo nên mà chỉ là một hình thức nghệ thuật tự phát của quần chúng nhân dân. Trong quá trình khai phá và chinh phục vùng đồng bằng Nam Bộ, trước một vùng đất màu mỡ, bao la, từ những vườn cây ăn trái bạt ngàn của vùng Long Khánh, Biên Hòa (Đồng Nai), cho đến những cánh đồng lúa bông vàng trĩu hạt phơi mình dưới ánh nắng chói chang ở miền châu thổ Cửu Long, đã khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho người dân sinh sống tại mảnh đất hiền hòa này sáng tạo ra nhiều làn điệu lý mang nét đặc trưng riêng, đậm chất trữ tình, ngọt ngào, sâu lắng.

Lý Nam Bộ xuất hiện khá nhiều trong sinh hoạt văn hóa dân gian và thường được dùng như một chất liệu để làm phong phú thêm cho một số làn điệu âm nhạc cổ truyền Nam Bộ.

Các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian Nam Bộ đã thống kê có khoảng hơn 200 điệu lý đã được thu thập ở miền Nam. Nhạc điệu của chúng dựa trên thang âm ngũ cung của âm nhạc cổ truyền Nam Bộ, thêm vào đó là những tiếng luyến láy, tiếng đệm làm cho giai điệu thêm phong phú và tiết tấu thường là nhịp đôi (2/4 hay 4/4).

Vợ chồng nhạc sĩ Lư Nhất Vũ nhà thơ Lê Giang - tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm về dân ca và lý Nam Bộ.

Người dân miền Nam đặt tên cho các điệu lý dựa trên tên thú vật như: Lý con Mèo, Lý con Khỉ, Lý con Nhái, Lý con Cua, Lý con Sáo, Lý Chim quyên, Lý con Trâu, Lý con Cúm Núm, Lý Chuồn Chuồn, Lý Ngựa ô, Lý Quạ kêu…; tên cây cỏ gồm có các điệu lý: Lý bông sen, Lý bông lựu, Lý cây khế, Lý bắp non, Lý bụi chuối, Lý lựu lê, Lý cây chanh, Lý mù u, Lý cây ổi…; tên các món ăn thì có: Lý bánh ít, Lý bánh canh, Lý dĩa bánh bò, Lý ăn giỗ, Lý bánh tráng….

Ngoài ra, trong kho tàng các điệu lý Nam Bộ có một số điệu lý còn dựa vào xuất xứ của nghệ thuật “Bóng rỗi” mà đặt tên như điệu “Lý giọng bông” chẳng hạn. Dựa vào đặc tính của nhóm tiếng đệm mô phỏng các bậc âm của “chữ đờn” dân tộc,  hoặc tiếng tụng niệm kinh kệ mà đặt tên thì có các điệu lý như: Lý bản đờn, Lý cống chùa….  Cũng có trường hợp lấy địa danh cụ thể để đặt tên thì có: Lý Ba Tri, Lý Cái Mơn, Lý Năm Căn.... Hay tên phong cảnh thì có: Lý cảnh chùa,  Lý quán rượu...

Tơ lòng nơi dân dã

Từ buổi đầu đi khai phá miền đất mới phương Nam, người nông dân đồng bằng Nam Bộ đã lấy văn học nghệ thuật truyền miệng để nói lên ước vọng của mình trong cuộc sống. Việc sử dụng thể thơ lục bát vào điệu lý, kết hợp những từ, cụm từ, lặp từ, tiếng đệm, âm hơi ngỡ như thừa thãi nhưng đó lại là nghệ thuật thể hiện đầy đủ và rõ ràng nhất các cung bậc tình cảm của con người Nam Bộ, lúc thiết tha, da diết, khi thì phấn khởi, vui tươi một cách rất tự nhiên, bình dị. Lý Nam Bộ không chỉ phong phú về số lượng mà cả về đề tài, nội dung cũng như đặc tính âm nhạc.

Cái hay của các điệu lý Nam Bộ trước hết bởi nó là một loại dân ca sinh động về nội dung, phong phú về điệu thức, đa dạng về ngôn từ. Thứ hai là nó có thể xuất hiện trong hầu hết các loại hình nghệ thuật dân gian của miền Nam, thường được xen vào các bài ca vọng cổ, vở tuồng cải lương. Lời ca thì chân chất, mộc mạc, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ hát nên nó thường được sử dụng rộng rãi trong mọi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong mọi thôn cùng ngõ hẻm ở quê hương Nam Bộ.

Ai cũng có thể hát lý và hát bất cứ nơi đâu như: khi chèo xuồng, lúc ru em, khi làm đồng; hoặc vào các dịp lễ, tết, hội hè, giỗ chạp… Nhờ vậy mà lý đã được người dân Nam Bộ bình chọn là: “Nhất Lý, Nhì Ngâm, Tam Nam, Tứ Oán”. Lý Nam Bộ như là một món ăn tinh thần thiết yếu của cư dân đồng bằng Nam Bộ đến nỗi trong dân gian có câu thơ như sau: “Con Cua quậy ở dưới hang/ Nó nghe giọng lý kềnh càng bò lên”. Quả thật, lý Nam Bộ có sức quyến rũ lòng người và thật không sai khi nói lý Nam Bộ là viên ngọc quý trong kho tàng dân ca Việt Nam.

Trong dân ca miền Nam, lý là một làn điệu dân ca đặc trưng của những người nông dân mộc mạc. Những lời ca trong những điệu lý luôn nói lên tinh thần tích cực và sức sống mạnh mẽ của người nông dân. Lời lẽ thường chân thật và mộc mạc, không văn chương bóng bẩy, nhưng diễn tả được tình cảm, thể hiện được cá tính bộc trực, phóng khoáng của người Nam Bộ. Mặc dù lời ca của những điệu lý miền Nam đa phần giống với những câu hát của ca dao, hò, vè vì chúng có vần điệu dễ hát, nhưng khác với ca dao, hò, vè ở chỗ lý mang tính nhạc (hát), trong khi các thể loại dân gian kia mang thuộc tính của thi ca (thơ).

Lý Nam Bộ có đặc điểm là ngắn gọn, mỗi bài chỉ có một lời, giai điệu có những quãng nhảy xa tạo nên sắc thái sâu lắng trầm mặc hơn so với các điệu lý ở các vùng, miền khác. Mỗi điệu lý Nam Bộ đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản xuất như Lý đất giồng, Lý kéo chài chẳng hạn; hoặc ca ngợi những đức tính tốt của con người trong cuộc sống như Lý Ba Tri, ca ngợi cái đẹp trong thiên nhiên như Lý chim xanh; hoặc oán trách nhau như Lý lu là; hoặc mỉa mai, châm biếm bọn cường hào, ác bá như Lý con khỉ, Lý bình vôi, Lý con sam.

Mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Nghiên cứu về dân ca Nam Bộ, ta thấy rằng, hầu như trong các điệu lý miền Nam đều có hình bóng con sông, bến nước, làng quê với những giai điệu thật trữ tình, tha thiết, luôn chứa đựng tình cảm của người dân phương Nam luôn nhớ về quê hương, nhớ về ký ức của lứa đôi nơi quê nhà.

Ví dụ như lời ca trong điệu Lý Cái Mơn: “Đàn cò bay về nơi thương nhớ. Nhớ bến sông xưa in hình bóng của người yêu… Thuyền tình ơi hãy chờ đợi ta bao tháng năm trôi qua. Nhưng người xưa vẫn luôn ngóng đợi tình chung”. Không gian làng quê hiện ra trong điệu Lý Cái Mơn rất thơ mộng, lãng mạn với nỗi hoài niệm man mác. Điệu Lý qua cầu có đoạn: “Trời bình minh chim về đây líu lo trên cành. Như mọi ngày dòng sông với con đò mong manh…”. Lý qua cầu cũng nói về một mối tình trên dòng sông, bến nước có cô lái đò và người lữ khách.

Và chuyện tình ấy có kết cuộc dang dở, buồn tênh. Một điệu lý nữa cũng gắn liền với sông nước đó là Lý bông dừa: “Sông dài còn chảy xuôi theo dòng. Mà sao xa vắng em tôi biết tìm nơi đâu. Dòng sông còn chứa chan ân tình. Nay dang dở tình đầu ta còn gắn đợi ai…”. Với những dẫn chứng vừa kể trên, đã quá đủ để minh chứng điệu lý miền Nam phản ảnh tâm tư, tình cảm, tính cách của người Nam Bộ - cũng là biểu tượng của sự mộc mạc, phóng khoáng của cư dân sinh sống trên vùng đất màu mỡ này.

Thoát thai từ tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động, lý Nam Bộ cũng như nhiều thể loại dân ca cổ nhạc khác đã in sâu vào lòng người đồng bằng, từ thuở tiền nhân khai mở đất phương Nam. Cho đến hôm nay, các điệu lý miền Nam đã thực sự chinh phục được đông đảo quần chúng, đặc biệt là người bình dân, bởi đề tài và nội dung vô cùng phong phú, phản ánh sống động mọi khía cạnh trong sinh hoạt thường ngày ở nông thôn Việt Nam. Lý thể hiện tình cảm trong quan hệ giữa người với người: tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, bè bạn; thể hiện tinh thần lạc quan và yêu thương cuộc đời; ca ngợi cuộc sống và khát vọng hạnh phúc của con người… Nó như một di sản tinh thần nuôi dưỡng, vun đắp tâm hồn của con người phương Nam.

Thuyết minh xuyên Việt

 TÀI LIỆU THUYẾT MINH XUYÊN VIỆT

Tuyến Tp.HCM-> Phan Thiết (196 Km)-> Phan Rang (338km)-> Nha Trang (466km)

Hành Trình Xuyên Việt

Địa phận Tp.HCM:

Sơ Lược Về Lịch Sử Hình Thành Của Thành Phố Hơn 300 Năm
Vào khoảng đầu thế kỷ XVII, cả vùng đất Nam Bộ ở trong tình trạng hầu hết đất đai đều hoang vu, rừng hoang bạt ngàn, dân cư thưa thớt, hệ thống sông ngòi chằng chịt. Ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đã hình thành một thị trấn nhỏ, hình thức cư trú tập trung ban đầu. Trong số dân cư ở đây, người Khơmer chiếm đa số, cạnh đó còn có những người Việt đầu tiên từ các tỉnh miền Trung vào đây sinh sống. Đây là nơi buôn bán trao đổi của nhân dân trong vùng .
Sự xuất hiện của con người ở vùng này khá sớm, tồn tại nhiều nền văn hoá từ thời kỳ đồ đá đến kim khí với di tích Bến Đò quận 9 .
Qua các dữ liệu trong quá khứ và hiện nay, chúng ta thấy trên vùng đất Nam Bộ từ sông Tiền trở lên vùng Tây Bắc ra phía Bà Rịa ở phía Đông đã có giống người sinh sống và tồn tại. Giống người đó ngày nay thuộc hai phần dân tộc chính là Mạ và Stiêng, người Khơme đến sau chiếm một vùng đất trên rẻo đất phía Tây Tây Ninh .
Căn cứ vào thư tịch cổ và các chứng cứ khảo cổ học cho thấy ở miền Nam có sự tồn tại của nền văn hóa sáng giá và vương quốc Phù Nam có nền văn hoá phát triển được mệnh danh là văn hoá Óc Eo. Vương quốc này hiện diện từ thế kỷ II sau Công Nguyên cho đến nửa đầu thế kỷ VIII. Có giả thiết cho rằng vào thời điểm này có một trận hồng thủy lớn đã chôn vùi hải cảng Óc Eo phồn thịnh dưới lớp phù sa .
Sau đó một thời gian, nước Chân Lạp của người Khơmer đang ở sâu trong nội địa Nam Lào mở rộng ra và chia thành hai miền :
_Lục Chân Lạp ở phía Bắc là miền núi đồi .
_Thuỷ Chân Lạp có biển và đầm lầy .
Thuỷ và Lục Chân Lạp thống nhất vào đầu thế kỷ IX, người Khơmer sống tập trung ở vùng đất cao ráo gần Biển Hồ, xây dựng Ankor huy hoàng. Đồng bằng Nam Bộ nói chung là một vùng gần như hoang dã, chỉ có vài số người Khơme sống rải rác ở vùng cao .

1 .Thời chúa Nguyễn :
Người Việt vào miền Nam lúc nào sử sách không ghi lại. Không ghi vì họ không phải là cánh quân chinh phục, cũng không có sứ mạng rao giảng gì cả, những di dân đầu tiên chỉ là những nông dân nghèo phải tha phương cầu thực. Có thể vào cuối thế kỷ XVI, vào thời Trịnh _Nguyễn phân tranh trong 9 trận đánh lớn kể từ năm 1692 đến 1672 chỉ có một trận đánh lớn là do quân Trịnh chủ động gây chiến, đi từ Thăng Long vào nhưng đều thất bại. Như vậy, qua mấy chục năm chiến tranh, sự thiệt hại nặng nề thuộc về chúa Trịnh. Điều đó cho thấy những lưu dân người Việt buổi đầu vào đất Gia Định có thể là những người này chạy loạn đến đây .
Cũng có người cho rằng những lưu dân đầu tiên của người Việt đặt chân đến vùng Mô Xoài vào thời thuộc Minh. Sử sách đã ghi chép về tính hà khắc của bọn xâm lược Minh đối với dân Việt đến nỗi người ta không sống được. Có lẽ lực lượng kháng chiến chống quân Minh của quân dân nhà Trần đã rút vào Thuận Hoá. Cuộc kháng chiến thất bại, sẵn có thuyền bè, lương thực, chắc chắn số người này sẽ căng buồm vào Nam nơi nghe nói trù phú và hoàn toàn vô chủ (giai đoạn này không thể vượt đường bộ vì vùng đất từ núi Bà Rịa vào Nam đến Hàm Tân còn là lãnh thổ của nước Chiêm Thành cho đến 1693).
Đến năm 1697, hai tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên với 3000 quân và 50 chiến thuyền trốn nhà Thanh chạy sang chúa Nguyễn cho vào Mỹ Tho và Biên Hoà làm ăn. Họ lập ra phố chợ, phát triển sở trường thương mại. Năm 1698 khi lưu dân đã khá đông, chúa Nguyễn cử Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh vào tổ chức bộ máy chính quyền ở Gia Định và lập ra đơn vị hành chính như sau :
+ Lập dinh Phiên Trấn thuộc huyện Tân Bình .
+ Lập dinh Trấn Biên thuộc huyện Phước Long. Hai dinh này thuộc phủ Gia Định .
Đến năm 1788, Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, nâng Gia Định trấn thành Gia Định thành, cho xây dựng thành Bát Quái vào năm 1790 vị trí nằm giữa bốn con đường hiện nay là Đinh Tiên Hoàng, Lê Thánh Tôn, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu .
Từ năm 1802 đến năm 1808 đất Sài Gòn thuộc hai huyện Bình Dương và Tân Long, Sài Gòn vừa là trụ sở của trấn Phiên An tại chợ Thị Nghè, vừa là trụ sở của Gia Định thành .
Tháng 7 năm 1832 tả quân Lê Văn Duyệt chết, vua Minh Mạng bỏ cấp thành Gia Định và chia Nam Bộ ra thành Lục tỉnh.
Đến năm 1836 vua Minh Mạng cho xây thành Phụng sau khi phá bỏ thành Bát Quái với vị trí ngày nay thuộc bốn con đường : Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Mạc Đỉnh Chi .

2. Sài Gòn thời Pháp thuộc:
Đầu thế kỷ XIX, tư bản Pháp phát triển cao đòi hỏi phải có một thị trường cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ hàng hoá sản phẩm sản xuất ở chính quốc. Hai nhân vật quan trọng trong việc cổ vũ Pháp chiếm Việt Nam là giám mục Pellerin_cai quản địa phận Huế và linh mục Huc_cựu thừa sai truyền giáo .
Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 01-9-1858 Pháp huy động 3000 quân, 14 tàu chiến tấn công Đà Nẵng. Ngày 02-2-1859 Pháp rời Đà Nẵng kéo vào đánh thành Gia Định bằng đường biển rồi tiến vào sông Lòng Tàu, nhưng dọc sông Lòng Tàu có nhiều pháo đài do quân triều đình đóng giữ và đánh trả quyết liệt. Chính vì vậy, đoàn quân viễn chinh phải mất một tuần lễ mới vượt qua được. Tuy nhiên, đến chiều ngày 15-2-1859, quân Pháp vẫn đến cửa ngõ thành Gia Định và bắn đại bác vào thành để yểm trợ cho bộ binh tiến lên cổng thành .
Quân ta cầm cự đến 10g thì rút, bỏ lại hầu hết súng đạn, 200 khẩu đại bác, 8 chiến thuyền trong xưởng, 85.000kg thuốc súng và nhiều kho gạo đủ để nuôi 7000-8000 người trong một năm. Đến ngày 08-3-1859 Pháp huỷ thành Phụng và triều đình Huế ký hoà ước vào ngày 05-6-1862 giao ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp là: Biên Hoà –Gia Định –Định Tường. Sau đó là hoà ước 1867 giao ba tỉnh miền Tây : Vĩnh Long-An Giang –Hà Tiên. Như vậy trên nguyên tắc chiến tranh giữa Pháp và triều đình Huế chấm dứt. Cả Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp .
Ngày 08-1-1877 tổng thống Pháp ký sắc lệnh chính thức thành lập thành phố Sài Gòn. Thành phố Sài Gòn được xếp vào loại thành phố cấp I .
Ngày 20-10-1879, thống đốc Nam Kỳ Le Myre deVillers ban hành nghị định thành lập thành phố Chợ Lớn và xếp vào cấp II.
Ngày 17-10-1877, tổng thống Nam Kỳ ban hành sắc lệnh thành lập liên bang Đông Dương trong đó có xứ Nam Kỳ. Ngày 12-11-1887, do sắc lệnh của tổng thống Pháp, Sài Gòn được chọn làm thủ phủ Đông Dương .

3. Sài Gòn vào thời Mỹ-Nguỵ:

Bị sa lầy ở chiến trường Đông Dương, đặc biệt là sau thất bại Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ngồi vào bàn hội nghị Genève, đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà về việc chấm dứt đưa tay sai Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng bù nhìn tại miền Nam Việt Nam và nước ta bị chia cắt làm hai miền .
Với bản chất hiếu chiến độc tài, gia đình trị, Ngô Đình Diệm chẳng những không được lòng dân mà ngay cả giới sĩ quan, binh lính cũng bất mãn. Chính vì vậy, ngày 01-11-1963 cuộc đảo chính lật đổ chế độ độc tài nổ ra kết thúc cuộc đời Diệm –Nhu trên đường từ nhà thờ Cha Tam về Sài Gòn. Mỹ đưa Nguyễn Văn Thiệu, rồi Trần Văn Hương cuối cùng là Dương Văn Minh lên nắm quyền tổng thống .

4. Thời kỳ thống nhất đất nước :
Từ năm 1974, bộ chính trị đã đề ra kế hoạch và nhiệm vụ cho Cách Mạng miền Nam trong năm 1975-1976. Tuy nhiên, nếu có thời cơ thì giải phóng trong miền Nam ngay trong năm 1975. Trên tinh thần đó, sau hàng loạt chiến thắng của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế – Đà Nẵng, giải phóng Phước Long, ta tiếp tục mở chiến dịch giải phóng Sài Gòn –Gia Định .
Ngày 14-4-1975 chiến dịch này chính thức mang tên ”chiến dịch Hồ Chí Minh“. Ngày 26-4-1975 quân giải phóng chia làm 5 mũi tiến chiếm được năm mục tiêu quan trọng nhất Sài Gòn .
5g sáng ngày 30-4-1975, sau đợt bắn pháo chuẩn bị, đội hình thọc sâu của quân đoàn 3 vượt qua ngã tư Bảy Hiền tiến đánh sân bay Tân Sơn Nhất. Trên tất cả các hướng, các sư đoàn tiến nhanh về thành phố mà điểm tập hợp là Dinh Độc Lâp Đến 11g30’ ngày 30-4-1975 lá cờ Cách Mạng đã tung bay trên nóc Dinh Độc Lập .
Sau khi chính quyền cũ Việt Nam Cộng Hoà và đế quốc Mỹ hoàn toàn sụp đổ với sự đầu hàng của tổng thống cuối cùng là Dương Văn Minh nước Việt Nam vẫn còn tồn tại hai chính phủ :
+ Ở miền Bắc đang tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa là chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng .
+ Ở miền Nam là chính phủ Cách Mạng lâm thời miền Nam Việt Nam của nhân dân miền Nam đã đứng lên giải phóng đất nước bao gồm quân giải phóng và các lực lượng tiến bộ khác, quốc kỳ nửa đỏ nửa xanh, sao vàng ở giữa.
Sau khi giành được độc lập hoàn toàn vào ngày 30-4-1975, ngày 26 và 27-12-1975 tại Dinh Độc Lập lúc bấy giờ đã diễn ra hội nghị Hiệp Thương hai miền Nam –Bắc thống nhất đất nước.
Sau khi thống nhất đất nước, nước Việt Nam chỉ còn lại một chính phủ là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng .
Ngày 02-7-1976 Quốc hội khoá VI đã chính thức đổi tên Sài Gòn thành Thành Phố Hố Chí Minh

ĐÔI NÉT VỀ TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh trong địa giới hôm nay rộng hơn 2093,7 km2; Dân số hơn 8 triệu người (năm 2006). Là Thành Phố lớn và đông dân nhất của đất nước, có năng lực lớn về sản xuất kinh doanh và là một trong những thành phố đang phát triển khá sầm uất của khu vực Đông Nam Á. Gồm 20 quận và 4 huyện:
Nội thành có 15 quận: Quận 1, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10, 11, Phú Nhuận, Gò Vấp, Bình Thạnh, Tân Bình, Tân Phú, Bình Tân.
Ngoại thành có 4 quận: quận 2, 9, 12, Thủ Đức .
5 huyện : Nhà Bè, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Cần Giờ.
Sau thời gian dài trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975 đã đánh dấu bước ngoặt mới cho sự hòa bình và ấm no của dân tộc Việt Nam.
Tên thành phố Sài Gòn được đổi thành tên thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1976.
Sau hơn 10 năm cùng với cả nước thực hiện đường lối đổi mới kinh tế trên địa bàn thành phố tăng trưởng khá cao và ổn định đóng góp 37,8% GDP cả nước.
Hiện nay, Tp.HCM là trung tâm du lịch lớn nhất cả nước, thu hút hàng năm 70% lượng khách quốc tế đến Việt Nam .

Giao Thông
Thành phố Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông của cả miền Nam bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thủy và đường hàng không. Từ thành phố đi Hà Nội có quốc lộ 1A, đường sắt Thống Nhất và quốc lộ 13 xuyên Đông Dương.
Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất chỉ cách trung tâm thành phố 7km, là sân bay lớn nhất nước với hàng chục đường bay nội địa và quốc tế. Có các đường bay nội địa từ Tp. Hồ Chí Minh tới Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Nha Trang, Phú Quốc, Pleiku, Quy Nhơn, Rạch Giá, Vinh.
Tp. Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km, cách Tây Ninh 99km, Biên Hòa (Đồng Nai) 30km, Mỹ Tho 71km, Vũng Tàu 129km, Cần Thơ 168km, Đà Lạt 308km.

Ngã Tư Hàng Xanh
Đây là một trong những giao lộ quan trọng và là cửa ngõ ra vào thành phố với lưu lượng hơn 20.000 lượt xe qua lại trong một giờ. Cho nên thường xảy ra tình trạng kẹt xe trong giờ cao điểm. Trước tình hình này UBND TP.Hồ Chí Minh đã xem xét dự án xây dựng giao lộ này với kinh phí xây dựng 15,6 tỉ đồng. Tên gọi Hàng Xanh bởi ngày xưa khu vực này có rất nhiều cây Sanh (một loại cây gỗ cùng họ với cây Si) đọc chạy nên có tên là Hàng Xanh. Người dân ở đây quen gọi là Ngã 4 Hàng Xanh.

Khu Du Lịch Văn Thánh
Cầu Văn Thánh bắt qua rạch Văn Thánh đổ ra rạch Thị Nghè rồi sau đó đổ ra sông Sài Gòn. Phía bên tay phải là khu du lịch Văn Thánh một trong những nơi du lịch, vui chơi giải trí của thành phố, được xây vào năm 1988. đây là một cù lao nhỏ (khoảng 7ha) trước những năm 1975 còn được gọi là cù lao Bảy Mẫu. Theo sáng kiến của các nhà hoạt động văn hóa quận Bình Thạnh, cù lao Bảy Mẫu đã được đầu tư xây dựng thành khu du lịch Văn Thánh. Hàng năm vào ngày 5-1 âm lịch nơi đây thường tổ chức lễ hội mừng chiến thắng của vua Quang Trung (Kỷ Dậu 1789)và cuộc thi tuyển chọn diễn viên điện ảnh, người mẫu. Tên gọi là Văn Thánh vì năm 1824(Minh Mạng đời thứ 5) ở khu vực này có xây dựng ngôi Văn-Miếu thờ đức Khổng Tử nên người dân gọi là khu Văn Tử Dụng Thánh nhưng trong thời Pháp miếu thờ này đã bị phá hủy và hiện nay không còn nữa.

Bến Xe Văn Thánh
Bến xe Văn Thánh là một trong những bến xe lớn có từ lâu đời ở khu vực này. Từ đây có thể đi Biên Hòa-Vũng Tàu và một số tỉnh miền Trung. Khoảng cuối năm 1996 bến xe được dời sang bến xe Miền Đông vì ở đây xây dựng hệ thống đường lớn và cao tốc, nếu để bến xe ở khu vực này dễ gây ách tắt giao thông.

Khu Tân Cảng
Khu Tân Cảng nằm ngay dưới chân cầu Sài Gòn phía hạ lưu quận Bình Thạnh. Cảng này được Mỹ xây dựng vào năm 1965, được xem là Hải Cảng Quân Sự lớn của Mĩ-Ngụy nhằm cung cấp vũ khí và đạn dược cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Sau giải phóng thì đây là khu vực do hải quân Việt Nam kiểm soát. Trong thời kinh tế thị trường (1990) khu Tân Cảng được chia thành 2 khu vực: khu vực kinh tế (cho tàu xuất nhập hàng hóa và kho để các Container). Từ cầu Sài Gòn nhìn xuống chúng ta có thể thấy rất nhiều Container xếp chồng lên nhau trong một khu vực lớn. Hiện cảng là trung tâm sửa chữa và tiếp tế hàng hóa chính của nền quân sự Việt Nam.
Cảng Sài Gòn trực thuộc Cục Hải Quan Việt Nam, là cảng lớn nhất của Việt Nam hiện nay, đã trải qua trên 100 năm phát triển và là thành viên của Hiệp hội cảng quốc tế từ năm 1992. Hiện nay cảng còn tiếp tục thu hút đầu tư để phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế. Điều kiện tự nhiên của cảng Sài Gòn khá thuận lợi cho một cảng biển với độ dốc luồng 85 km từ Vũng Tàu với mức nước bình quân 11 m, thấp nhất là 9,7 m và cao nhất là 12,1 m. Cảng có thể tiếp nhận tàu có trọng tải 30.000 DWT, dài 230m trong khoảng thời gian 6 -> 15 giờ/ngày.

Khu Thanh Đa
Cư xá Thanh Đa gồm 29 lô chiếm diện tích 36ha được xây dựng 1973 làm khu nhà ở cho công nhân viên chức.
Đặc sản của khu vực này là: bánh tráng phơi sương cuốn thịt luộc, cháo vịt… ngoài ra ở đây còn nổi tiếng với Khu Du Lịch Bình Quới: gọi là khu du lịch dưới nước với nhiều hoạt động vui chơi trên đoạn sông Sài Gòn. Đến đây chúng ta có thể tổ chức các hoạt động dã ngoại như: lướt ván trên sông, câu cá giải trí, du thuyền trên sông…hàng năm ở đây thường tổ chức trại hè cho thiếu nhi toàn thành phố.

Cầu Sài Gòn
Cầu Sài Gòn được xây dựng vào năm 1960 và hoàn thành vào năm 1964, cầu dài 987,2 m, rộng 16m, dài 32 nhịp, trọng tải 25 tấn. Đây là chiếc cầu quan trọng của cửa ngõ dẫn vào thành phố. Cầu do hãng C.E.C (Captital Engineering Cooperation) thiết kế và hãng RMR (Mỹ) thi công xây dựng bắt qua sông Sài Gòn, kinh phí do chính quyền Mỹ tài trợ, sông Sài Gòn bắt nguồn từ Sông Bé(Sông Mê Kông) chảy qua Củ Chi, Thanh Đa, Nhà Bè rồi đổ ra cửa biển Cần Giờ qua sông Soài Rạp.
Năm 1998, ta liên minh với Pháp xây dựng, sửa chữa và nâng cấp lại phần chịu lực đồng thời mở rộng từ 16m thành 25m với tải trọng 45 tấn. Trong tương lai sẽ có thêm một cây cầu nữa bắc song hành với cây cầu cũ nhằm giảm bớt áp lực cho cầu Sài Gòn. Cầu Sài Gòn là ranh giới giữa đường Điện Biên Phủ và xa lộ Hà Nội.
Sông Sài Gòn dài 220 km, bắt nguồn từ cao nguyên Hớn Quảng. Một đoạn của con sông này là ranh giới tự nhiên của tỉnh Tây Ninh và Bình Phước. Một phần đổ vào hồ Dầu Tiếng, sau khi chảy qua Bến Cát sông lại nhập chung với sông Đồng Nai và đổ ra cửa biển Gành Rái.

Cảng Sài Gòn
Trực thuộc Cục hàng hải Việt Nam, đây là cảng lớn nhất nước ta hiện nay. Điều kiện tự nhiên của Cảng Sài Gòn được xem là khá thuận lợi cho một cảng biển, đặc biệt tại đây có sức chứa hàng hóa khá lớn và có thể chứa hàng hóa kho bãi hơn 200.000 tấn.

Quận 2
Qua khỏi cầu Sài Gòn là địa phận của Quận 2 TP.HCM với diện tích hơn 5000 ha gồm An Phú-An Khánh-Thủ Thiêm-Thạnh Mỹ Lợi-Bình Trưng. Trước năm 1997 khu vực này thuộc huyện Thủ Đức.
Quận 2 gồm khu công nghiệp Cát Lái và khu đô thị mới Thủ Thiêm hiện nay là trung tâm mới của Thành Phố. Dân số hiện nay là 200.000 người và dự kiến đến năm 2010 sẽ là 800.000 người.
Hiện nay cùng với sự phát triển kinh tế đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO (11/2006), những nhà đầu tư nước ngoài chọn Quận 2 là trung tâm để xây dựng các cao ốc biệt thự, nhà cho thuê, dọc theo tuyến đường chúng ta thấy cơ sở vật chất ở đây khá khang trang. Đó cũng là một bộ mặt mới của TP.Hồ Chí Minh hiện nay.

Xa lộ Hà Nội
Xa lộ Hà Nội dài 31 km, rộng 21m được xây dựng từ năm 1956->1961 do Mỹ viện trợ. Xa lộ Hà Nội nối liền từ cầu Điện Biên Phủ (trước đây là cầu Phan Thanh Giản) đến ngã ba Tam Hiệp ( Hố Nai) theo dự định ban đầu xa lộ có 4 làn xe nhưng do thất bại trong “chiến tranh đặc biệt” Hoa Kỳ đã cắt giảm kinh phí nên năm 1964 xa lộ được khánh thành chỉ với 2 làn xe. Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng con đường này như một đường bằng quân sự dã chiến phòng khi sân bay Tân Sơn Nhất gặp sự cố. Đến năm 1971 chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cho rằng xa lộ sẽ là 1 đường băng tuyệt vời cho quân giải phóng tấn công Sài Gòn nên đã cho xây dựng 1 con lươn chạy dọc theo xa lộ. Tuy vậy xét về mặt giao thông vận tải thì đây là một điều kiện tốt nhằm giúp cho giao thông trên xa lộ được an toàn hơn.
Ngày 10-10-1984 nhân kỷ niệm 30 năm giải phóng Hà Nội, xa lộ Biên Hòa đổi tên là xa lộ Hà Nội. Năm 1998, cùng với dự án khôi phục QL 1A, xa lộ Hà Nội cũng được khôi phục và mở rộng, bàn giao lại cho chính phủ Việt Nam vào ngày 20/1/1998. Đây là con đường quan trọng về kinh tế, quân sự nối liền miền Bắc và Sài Gòn.

Parkland
Đây là khu nhà ở dành cho người nước ngoài thuê, được xây dựng khoảng 1995 …
Là biệt thự đẹp được xây dựng trong vườn rộng, thoáng, nằm cạnh xa lộ quan trọng Sài Gòn- Biên Hoà tạo thêm cảnh quan cho thành phố phía trên là khu nhà ở, văn phòng cho người nước ngoài thuê và tầng trệt là một siêu thị Mini bán hàng phục vụ cho những người ở quanh khu vực.

Ngã ba Cát Lái
Nằm trong xa lộ cao tốc TP.Hồ Chí Minh-Vũng Tàu với chiều dài 96,6 km và chiều rộng 23m, tổng dụ án dự kiến là 645 triệu USD dược thực hiện bởi liên doanh Anh và Việt Nam, xa lộ cao tốc này sẽ được thiết kế với 4 làn xe và bắt qua cầu Đồng Nai mới.

Nhà Máy Ciment Sao Mai
Đây là một nhà máy liên doanh giữa nhà máy Ciment Hà Tiên và tập đoàn Holder Bank của Thụy Sĩ với vốn đầu tư 346 triệu USD (35% vốn Việt Nam). Thời gian sử dụng 50 năm.
Công suất thiết kế của nhà máy 1,8 triệu tấn/năm. Được xây dựng tháng 10-1994 và hoàn thành vào đầu năm 1997. Tháng 1-1997, nhà máy Ciment Sao Mai đã cho ra những mẻ ciment đầu tiên.
Giống như nhà máy ciment Hà Tiên, nhà máy ciment Sao Mai cũng có nhà máy ciment ở Hòn Chông, Hà Tiên để cung cấp nguyên liệu Linke cho sản xuất.

 Cầu Rạch Chiếc - Xa Lộ Đại Hàn

Cầu Rạch Chiếc
Đọan đường từ cầu Sài Gòn đến cầu Rạch Chiếc là địa bàn thuộc quận 2, cầu Rạch Chiếc đến cầu Đồng Nai thuộc Quận 9 và Quận Thủ Đức. Đây là cửa ngõ quan trọng về quân sự của chính quyền Sài Gòn. Sở dĩ cầu có tên Rạch Chiếc là do khi làm cầu này ở sông có loại rau chiếc nên được gọi là cầu Rạch Chiếc.
Đựơc xây dựng cùng thời điểm với cầu Sài Gòn và xa lộ Biên Hòa(1959-1961) dài 150m. Đây tuy là chiếc cầu nhỏ nhưng chứa đựng một sự kiện lịch sử hết sức quan trọng góp phần làm rạng rỡ cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Vào ngày 27/4/1975, tại chân cầu này đã xảy ra liên tục năm trận đánh giữa quân Giải Phóng và quân lính chế độ Sài Gòn bảo vệ cầu. Cuối cùng, quân giải phóng đã chiếm được cầu Rạch Chiếc nhưng 59 chiến sỹ cách mạng đã hy sinh tại đây để giành đường lưu thông an toàn cho quân giải phóng tấn công vào Sài Gòn.
Hiện nay nhà nước đang có kế hoạch đầu tư xây dựng tại đây một đài tưởng niệm các chiến sỹ cách mạng đã hy sinh ngày 27/4/1975.

Quận Thủ Đức- Lâm Viên Thủ Đức
Trước kia Thủ Đức là một huyện ngoại thành có diện tích 20.000ha. Vào ngày 4-4-1997 để mở rộng trung tâm nội thành ra, UBND thành phố quyết định thành lập 5 quận mới. Trong đó Thủ Đức được tách ra thành 3 quận ngoại thành: quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức. Xét về tiềm năng kinh tế tại khu vực Thủ Đức này phát triển rất nhiều cơ sở đầu tư của nước ngoài; món ăn đặc sản ở đây là nem Thủ Đức.
Lâm viên Thủ Đức: vào ngày 22-4-1992 được phép của Uy Ban Hợp Tác Đầu Tư Nhà Nước bởi 4 công ty: Lâm Viên Thủ Đức, Du Lịch Thành Phố, Liksin và công ty Đài Loan Liên Doanh xây dựng tại đây sân Golf 36 lỗ đạt tiêu chuẩn quốc tế và một khách sạn 120 phòng đạt tiêu chuẩn 3 sao và những công trình phụ như: sân quần vợt, hồ bơi, sân chơi trẻ em…với tổng kinh phí 7 triệu USD hoàn thành năm 1996. Khi bắt đầu xây dựng thì đã có nhiều nguồn dư luận nhưng sau đó có kết luận của Thủ Tướng Chính Phủ sân Golf mới đi vào xây dựng yên ổn. Hiện nay sân tập đánh Golf đã hình thành và thẻ hội viên thường trực của Golf là 5.000 USD/người.

Nhà Máy Xi Măng Hà Tiên
Nhà máy xi măng Hà Tiên được người Pháp xây dựng từ năm 1969 đến 1964 nhằm cung cấp xi măng cho các tỉnh thành phố. Vị trí nhà máy rất thuận tiện cho việc chuyển nguyên liệu từ nhà máy xi măng Kiên Lương ở Hà Tiên về đây bằng đường bộ lẫn đường thủy. Do nguồn nguyên liệu chủ yếu được khai thác từ Hà Tiên nên gọi là xi măng Hà Tiên. Đến cuối năm 1994 nhà máy Hà Tiên đổi thành Công Ty xi măng Hà Tiên 1. Sản lượng hiện nay hơn 2 triệu tấn/năm.
Một trong những cánh chim đầu đàn về sản xuất vật liệu xây dựng ở Việt Nam. Nguyên liệu chính được lấy từ nhà máy xi măng Kiên Lương, sau đó chuyên chở bằng xà lan đến thành phố sản xuất ra xi măng cung cấp cho thành phố và một số tỉnh ở vùng Đông Nam Bộ. Trước đây nhà máy này đã gây ra một lượng khí thải lớn ảnh hưởng đến môi trường nhưng sau đó đã được khắc phục với kinh phí là 2 tỷ đồng.

Công Ty Truyền Tải Điện 4 Trạm Thủ Đức
Để có thể nhận điện từ thủy điện Đanhim (1961-1964) và phân phối điện cho thành phố, nên ở đây xây dựng thêm một trạm biến điện (các năm 1964) do các công ty của Nhật xây dựng bằng bêtông cốt thép và mang dáng dấp nhà máy hiện đại .
Năm 1964: gọi là nhà truyền tải và phân phối điện, đến năm 1976 đổi tên thành sở truyền tải điện Thủ Đức. Hiện nay gọi là công ty truyền tải điện 4 Trạm Thủ Đức.
Hiện nay ở đây tập trung 2 nguồn điện: nhiệt điện Thủ Đức và Thủy điện Đanhim (còn thủy điện Trị An hạ thế ở trạm Hóc Môn) hạ thế cung cấp điện cho thành phố và khu vực xung quanh.

Ngã Tư Bình Thái
Rẽ phải đi vào có một số nhà máy lớn: Vietronics, thép Posvina, dệt Phước Long.
Rẽ trái vào chùa Một Cột, trường Đoàn Lý Tự Trọng và chợ Thủ Đức.

Làng Đại Học
Được xây dựng từ năm 1961 hơn 200 ngôi biệt thự dành cho 200 giáo sư ở và làm việc. Đây là một dự án lớn xây làng đại học ở cây số 12, cạnh xa lộ Biên Hòa cũ do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đưa ra phương án qui hoạch tổng thể khu làng Đại Học này .
Công trình xây dựng khu biệt thự này với sự tham gia thiết kế của hầu hết các kiến trúc sư tiếng tăm thời bấy giờ: Huỳnh Kim Mảng, Nguyễn Gia Đức, Tô Công Văn, Lê Công Lắm, Trần Văn Tải, Nguyễn Quang Nhạc, Phạm Văn Thông. Biệt thự được thiết kế đa dạng đầy đủ tiện nghi nằm trên các lô đất thoáng mát .

Ngã Tư Thủ Đức
Đi phía phải: vào chợ nhỏ, bệnh viện, quân đội 7A, trường công an Phước Sơn Học Viện chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh –phân viện TP.HCM, Đại học giao thông.
Đi phía trái: Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức và vào 2km đến chợ Thủ Đức, nếu đi thẳng sẽ qua Water Park và về đường cầu Bình Triệu .

Tìm Hiểu Về Thủ Đức
Vừa qua viện Khoa Học Xã Hội Thành Phố, cùng với nhà truyền thống Huyện tìm hiểu thực tế: tại tổ 3 ấp 10 thị trấn Thủ Đức còn ngôi mộ cổ kiến trúc theo hình voi phục có tấm bia đá Granit khắc chữ Hán nội dung như sau: Mộ ông Tạ Huy, hiệu Thủ Đức tiền hiền thôn Linh Chiểu Đông nước Đại Nam. Ông chết ngày 19-6. Hương chức lập mộ bia vào tháng 2-1890.
Như vậy đã rõ tên hiệu của ông Tạ Huy. Tìm hiểu thêm ông Tạ Huy hay Tạ Dương Minh là thủ lãnh của người Hoa bài Thanh phục Minh sang cư ngụ tại vùng Linh Chiểu, có công trong việc khai khẩn đất hoang, lập ấp nên người ta gọi địa danh này là Thủ Đức.

Nhà Máy Nước Thủ Đức
Được xây dựng năm 1959, với công suất 4500m3 nước/ngày. Hiện nay: công suất: 650.000m3 nước/ngày.
Đây là nhà máy nước quan trọng cung cấp nước cho toàn thành phố. Nước ở đây được bơm từ trạm bơm Hoá An, lấy nước sông Đồng Nai về đây .
Nhu cầu tiêu dùng nước ở thành phố Hồ Chí Minh hiện tại là: 1.000.000m3 nước/ngày. (Nhà máy nước Thủ Đức cung cấp m3 nước/ngày + nhà máy nước Hóc Môn 200.000m3 nước/ngày, thiếu khoảng 150.000m3 nước/ngày).
Ngân hàng Á Châu cho vay khoảng 62,3 tỉ USD để nâng công suất nhà máy nước Thủ Đức đủ cho nhu cầu tiêu dùng, thay hệ thống ống chính lên 2,4m (ống cũ 1,8m).
Bên trái chúng ta có 2 ống cao nhô lên là:
Cột thủy áp lực (giống cầu Điện Biên Phủ) nhằm điều hòa các lực trong các đường ống nước. Ví dụ, vào ban đêm tất cả các van nước của các gia đình đều đóng lại thì áp lực nước trong ống rất lớn, nên 2 trụ này có nhiệm vụ giảm áp suất tránh các đường ống bị phá vỡ.

Công Ty Nước Giải Khát Coca-cola
Nhà máy nước ngọt Coca-cola: trước đây là công ty liên doanh giữa công ty nước giải khát Chương Dương và công ty Indochina chi nhánh PCB ( Paciffic Beverga Company) đặt tại Singapore. Chính thức ký hợp đồng vào tháng 7-1993 với tổng vốn đầu tư là 24 triệu USD. Nhà máy PCB nằm trên một lô đất khoảng 2ha tại Thủ Đức. Nhà máy có 3 dây chuyền sản xuất 3.5000 két/ngày và công suất tối đa là 40 triệu lít/năm. Hiện nay là doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài.
Trước đây thị trường nước ngọt giải khát ở TP.HCM là Tribêcô –tiếp Pepsi –hiện nay Coca-cola chiếm lĩnh thị trường nước ngọt ở TP.HCM và cả nước.
Hiện nay Coca-cola là một trong những đơn vị tài trợ cho nhiều hoạt động thể thao thành phố và cả nước.

Xa Lộ Đại Hàn
Đến ngã ba trạm 2: phía trái là xa lộ Đại Hàn.
Sau tổng tấn công vào tết nổi dậy năm Mậu Thân 1968, Mỹ hoảng sợ và cho xây dựng hệ thống đường vành đai để bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài Gòn, để ngăn cách giữa Sài Gòn và quân cách mạng ở Hóc Môn –Củ Chi.
Xa lộ Đại Hàn được xây dựng 1960-1970, do công ty Mỹ thiết kế và do công binh Đại Hàn xây dựng (nên có tên gọi là xa lộ Đại Hàn).
Xa lộ Đại Hàn dài 40km, rộng 16m bắt đầu từ ngã 3 trạm 2 đến ngã 3 An Lạc. Hiện nay đoạn đường này là quốc lộ 1A (trên đoạn này từ Trạm 2 đến ngã 2 Bình Phước gọi là đường Trường Sơn).
Xa lộ Đại Hàn là một hệ thống đường giao thông hết sức quan trọng là cầu nối 2 khu vực kinh tế: vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và vùng Đồng Bằng Nam Bộ. Đa số những xe đi từ các tỉnh miền Tây lên miền Đông không phải vào TP.HCM mà đi qua xa lộ Đại Hàn.

Suối Tiên Thủ Đức - Ngã 3 Tân Vạn

Đường Xuyên Á
Khoảng năm 1996 chính phủ đã có quyết định xây dựng đường Xuyên Á từ (Bangkok) Thái Lan qua Campuchia (Nôm Pênh) qua cửa khẩu Mộc Bài (Bến Cầu –Tây Ninh) qua thị trấn Gò Dầu đến quốc lộ 22A đến Ngã 4 An Sương quẹo trái qua xa lộ Đại Hàn đến ngã 3 trạm 2 và đi Vũng Tàu.
Đoạn đường từ Bangkok –Nôm Pênh –TP.HCM –Vũng Tàu là công trình đầu tiên Liên Á được “hội nghị kỹ thuật vùng” của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đầu năm 1996 ưu tiên chọn lựa. Theo tính toán các chuyên gia, cảng Bến Đình –Sao Mai –Thị Vải nối thông mạng ôtô Xuyên Á, sẽ làm cho các sức sản xuất khu vực tăng gấp 2 đến 2,5 lần (Có các tỉnh như: Tây Ninh, Bình Dương, TP.HCM, Đồng Nai, Vũng Tàu).
Đường Xuyên Á trên địa phận Việt Nam từ cửa khẩu Mộc Bài đến Vũng Tàu dài 173km.
Kinh phí toàn tuyến Bangkok –Nông Pênh –Vũng Tàu là 306 tr USD. Trên địa phận Việt Nam là 120 tr USD.
Từ trạm 2 vào phía trái khoảng 2km (rẽ phải) vào trường Đại Học Đại Cương –Đại Học Dược, TDTT, … Nếu đi tới khoảng 500m (phía trái) là khu điện tử Nam Triều Tiên VINASAMSUNG, tiếp tục đi tới phía trái là khu chế xuất Linh Trung.

Suối Tiên Thủ Đức
Lâm trại Suối Tiên cách trung tâm TP. Hồ Chí Minh 19km thuộc xã Tân Phú huyện Thủ Đức cách xa lộ Hà Nội 100m, nơi đây có một dòng suối thiên nhiên lâu đời uốn lượn qua những cụm rừng nguyên sinh và đổ dòng qua 6 ngọn đồi, tạo thành 6 ngọn thác nhỏ. Suối chảy qua các tỉnh Đồng Nai, Sông Bé và hạ nguồn chảy qua Lâm Trại dài 1.200m, như một dải lụa trắng. Mùa xuân hoa mai vàng nở rộ dọc theo triền suối. Trước vẻ đẹp thơ mộng và quyến rũ ấy người dân ở đây không ngần ngại đặt tên là Suối Tiên. Tháng 6-1993 đồ án quy hoạch được văn phòng kiến trúc sư trưởng phê duyệt và UBND thành phố cho phép thực hiện theo quy hoạch Lâm Trại Suối Tiên trên diện tích 120ha với vốn đầu tư bước đầu là 50 tỉ đồng cho các công trình vui chơi tham quan trên diện tích 20ha.
Đến với Suối Tiên quý khách sẽ tận hưởng những giây phút thoải mái không khí trong lành cùng với thiên nhiên và đặc biệt được chiêm ngưỡng hình ảnh một con rồng được xây dựng theo truyền thuyết “con rồng cháu tiên” lớn nhất Việt Nam, dài 400m được đúc bằng bêtông. Trong tương lai một phần của sở thú sẽ được chuyển ra đây.
Dự An Thảo Cầm Viên Mới
UBND TP chấp nhận cho địa điểm xây dựng Thảo Cầm Viên mới tại khu vực đồi Lâm Viên gần sân golf quận 9. Thảo Cầm Viên mới có diện tích 200ha với các khu vui chơi, giải trí, mô hình tiến hoá các loại động vật và thực vật. Dự kiến kinh phí xây dựng khoảng 50tr USD.
Khu Lâm Viên Thủ Đức được quyết định thành lập ngày 6-8-1984 cách xa lộ Hà Nội 2km phía phải với diện tích là 1200ha (trong đó phủ 350ha cây điều và 200ha cây xanh) .

Nghĩa trang liệt sĩ Thành phố.
Nghĩa trang Thành Phố là nơi quy tụ mộ anh hùng liệt sĩ, đã hy sinh trong 3 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và Campuchia. Nghĩa trang này rộng 3 ha gồm hơn 12.000 ngôi mộ được sắp xếp xung quanh đài tưởng niệm “ Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng” . Công trình được xây dựng năm 1984 và hoàn thành vào 4-1987.

TỈNH BÌNH DƯƠNG
Diện tích : 2695,5 km2 .
Dân số : 883.200 người ( 2004 ).
Tỉnh lỵ: thị xã Thủ Dầu Một.
Các huyện : Bến Cát, Dầu Tiếng, Tân Uyên, Phú Giáo, Thuận An, Dĩ An.
Dân tộc: Việt ( kinh ), Hoa, Khmer, Tày.
Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ. Phía Bắc giáp Campuchia, phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai ( với sông Đồng Nai làm ranh giới ), phía Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh, phía Tây giáp Củ Chi và tỉnh Tây Ninh. Thị xã Thủ Dầu Một cách Thành phố Hồ Chí Minh 30km về phía Bắc.
Địa thế trong tỉnh toàn bình nguyên và đồi thấp, chỉ có núi Ong cao 281m là đáng kể.
Sông ngòi: có 3 sông lớn là sông Đồng Nai, Sài Gòn và sông Bé, nhiều kênh rạch, sông con, ghe thuyền đi lại thuận tiện.
Khí hậu Bình Dương giống như đa số các tỉnh miền Nam, mùa mưa từ tháng 5 – 11, mùa khô từ tháng 12 – 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 270. lượng mưa trung bình hàng năm là 2300 mm.
Đường bộ: tuyến quốc lộ 13 xuyên suốt từ Bắc đến Nam của tỉnh, nhiều đường liên tỉnh nối liền các đường giao thông thuận tiện và an toàn.
Có những ngành nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như : gốm sứ, sơn mài, điêu khắc gỗ…
Nền kinh tế của tỉnh khá phát triển với các khu công nghiệp như Việt Nam – Singapore, Việt Hương …

Núi Châu Thới
Còn gọi là núi Châu Thái, cao 73m, trên núi có chùa Hội Sơn. Trụ trì Khánh Hưng Thiền Sư. Vào thế kỷ 18 ở đây từng là nơi đóng quân của Nguyễn Anh .
Trước đây ở núi Châu Thới là nơi khai thác đá để cung cấp cho ngành xây dựng và cầu đường.
Phía trái :khu du lịch Bình An.
Nằm cách xa lộ Hà Nội 500m phía trái là khu du lịch hồ Bình An, khu nghỉ ngơi vào cuối tuần cho dân thành phố, với khung cảnh thoáng mát hữu tình có hồ nước, nhiều khu vui chơi .
Đường vào Tân Vạn, (ngã 3 Tân Vạn): vào núi Châu Thới du lịch suối Lồ Ô.

Cây Điều:
Chưa tìm thấy tài liệu nào nói đích xác cây điều được di giống đến nước ta từ bao giờ. Có giả thiết cho rằng các giáo sĩ Au Châu khi tới Việt Nam truyền giáo đã mang theo hạt điều vào nước ta; điều đó có nghĩa là cây điều đã có mặt ở nước ta từ mấy trăm năm nay vào thời kỳ các nước tây Au bành trướng thuộc địa ở Châu A và châu Phi. Nhưng cũng có tài liệu lại cho rằng một số chủ đồn điền người Pháp mang hạt điều từ An Độ sang trồng thử tại nước ta chỉ mới hơn một trăm năm nay. Có thể tin rằng vào thời kỳ đầu đã có cây điều trồng thử nhiều vùng ở nước ta, Miền Bắc cũng như Miền Trung và Miền Nam. Song do năng lực thích nghi về sinh thái khí hậu nên giống điều chỉ tồn tại ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ dưới dạng cây vườn phân tán ở các đồn điền cũ của Pháp và xung quanh nhà dân.
Suốt trong một thời gian dài do không có thị trường tiêu thụ và do sản phẩm không đáng kể nên cây điều chẳng được mấy ai chú ý đến. Đến khi lực lượng quân sự Mỹ ồ ạt xâm chiếm miền Nam vào những năm 60 và đầu thập kỷ 70 vừa qua, một số danh nhân Hoa Kiều ở Chợ Lớn đã tìm thấy nguồn lợi trong việc chế biến nhân hạt điều cho các tiệm ăn phục vụ binh sĩ Mỹ mới bắt đầu tổ chức mua hạt điều của các hộ nông dân và đầu tư chút ít cho việc trồng điều quy mô nhỏ. Tính tới đầu những năm 80 cây điều từ dạng phân tán lẻ tẻ đã được trồng thành vườn nhỏ với tổng diện tích ở Đông Nam Bộ và duyên hải Miền Trung lên sấp sỉ 1000 ha, đạt sản lượng khoảng 200 – 300 tấn/năm.
Vào 1977 – 1978, do tìm hiểu thị trường tiêu thu do Sở Ngoại Thương Tp.HCM đã xuất được lô hàng đầu tiên thô đầu tiên ra nước ngoài bán với giá cao và tìm thấy ở ngành hàng nông sản này một thế mạnh trên thị trường quốc tế nên đã mạnh dạng đầu tư xây dựng một nông trường trồng điều 300 ha ở Huyện bến Các Tỉnh Bình Dương. Từ đó đã dấy lên một phong trào trồng điều mạnh mẽ ở nhiều địa phương. Đến nay tổng diện tích trồng điều ở nước ta, tính từ phía Nam đèo Hải Vân trở vào mà tập trung nhiều nhất là các tỉnh Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ đã lên đến 250.000 ha gồm đủ loại cũ có mới có, già có non có, vườn có năng suất cao cũng như vườn thoái hoá. Sản lượng hạt điều thô thu mau trong hai năm 1996 – 1997, bình quân mỗi năm là 130.000 tấn; dự kiến năm 2000 có thể đạt đến 200.000 tấn.
Vào những năm 80 phần lượng hạt điều của nước ta đều bán ra thị trường nước ngoài. Bước qua thập kỷ 90 cụ thể là 1995 trở lại đấy đã có hơn 50 cơ sở kinh danh, chế biến hạt điều với tổng công suất thiết kế để chế biến đạt 150.000 tấn nguyên liệu hạt thô/năm. Nhờ đó đã thu được hầu như toàn bộ sản lượng hạt điều thô cho chế biến trong nước, tỷ lệ xuất nguyên liệu thô không đáng kể.
Trong một thời gian hết sức ngắn, chưa đầy 20 năm, cây điều ở nước ta chưa được mấy người quan tâm nay đã trở thành một loại cây trồng mạnh mẽ, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động cả trong khâu trồng cũng như trong chế biến sản phẩm và cho giá trị kim ngạch xuất khẩu đáng kể. Đồng thời, cũng cần chú ý rằng mặt hàng điều của nước ta đã chiếm một vị trí cao cả về tổng lượng sản phẩm cũng như phẩm chất mặt hàng trên thương trường quốc tế. Song, cũng trong thời gian ngắn đó đã có biết bao vấn đề khó khăn, trở ngại cả về phương diện khoa học kỹ thuật trong gây trồng giống chế biến cũng như về chính sách kinh tế về mối quan hệ giữa người sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến, giữa các đơn vị xuất khẩu và bạn hàng nước ngoài đã từng lúc, từng nơi kìm hãm sự phát triển của mặt hàng này, thậm chí đã có địa phương người nông dân chặt bỏ vườn điều của mình vì sản phẩm thu hoạch được bị ép giá rẻ không đủ bù chi phí sản xuất.
Để cây điều phát triển ổn định, mặt hàng xuất khẩu tăng, sản phẩm có chất lượng cao thì đã tới lúc nhà nước có sư quan tâm thích đáng về phương diện khoa học-kỹ thuật, chính sách kinh tế, điều chỉnh các mối quan hệ trong nội–ngoại thương, cùng với lúa và cao su xem cây điều như một cây trồng nông-công nghiệp chiến lược của nước ta.

 Cầu Đồng Nai - Khu công nghiệp Biên Hoà 2

 Cầu Đồng Nai

Cầu Đồng Nai được xây dựng vào năm 1959-1961 do hãng C.E.C thiết kế và hãng Joushin Deake thi công, cầu dài 454 m, rộng 16 mét, trọng tải 25 tấn, gồm 27 nhịp được bắt qua con sông Đồng Nai, con sông quan trọng của tỉnh Đa Nhim-Đa Dung có nguồn gốc từ cao nguyên Lâm Viên (Langbian) ở độ cao 1776 m đổ về, chảy qua địa phận tỉnh Đồng Nai sau đó kết hợp với sông Sài Gòn và đổ ra vịnh Gành Rái.
Sông Đồng Nai: Hệ thống sông Đồng Nai-Vàm Cỏ là hệ thống sông kép vì hai con sông này chỉ gặp nhau ở ngoài cửa Soài Rạp và được kết nối với nhau bằng những con kênh nhân tạo. Đây là hệ thống sông lớn thứ ba trong nước sau hệ thống sông Hồng và sông Cửu Long. Chiều dài sông chính là 635 km, diện tích toàn khu vực là 44100 km2 phát triển chủ yếu ở Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, một phần ở Tây Nam Bộ và Campuchia. Hệ thống sông Đồng Nai và Vàm Cỏ có tổng lượng nước vào khoảng 32,8 tỉ m3/năm. Thủy chế tương đối đơn giản vì chỉ có một mùa mưa và một mùa cạn. Sông Đồng Nai có giá trị cả về giao thông, sinh hoạt, nông nghiệp và thủy điện.
Từ trên cầu, ở ngã ba sông về phía thượng lưu là Cù Lao Phố. Ngược dòng lịch sử, năm 1679, khi triều Minh Mạng ở Trung Hoa bị nhà Thanh lật đổ có khoảng 3000 binh sĩ và gia đình trong nhóm bài Thanh phục Minh đã đến nước ta và xin Chúa Nguyễn cho làm dân Việt. Trong đó có một nhóm do Trần Thượng Xuyên làm thủ lĩnh đến cư trú tại đây và lập nên một cảng có hoạt động thương mại sầm uất gọi là Nông Nại Đại Phố. Năm 1698, thừa lệnh của Chúa Nguyễn, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý, ông thấy vùng đất này trù phú và yên bình nên đã dừng chân tại đây. Ông đã chia đặt các đơn vị hành chính và thành lập chính quyền Nam Bộ, hai huyện đầu tiên là Phước Long và Tân Bình. Sông Đồng Nai là ranh giới tự nhiên giữa thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai.

Cù lao phố

Qua Cầu Đồng Nai, nhìn bên trái, xa xa chúng ta thấy cù lao, đó chính là Cù Lao Phố. Có diện tích khoảng 660ha và hơn 9.000 dân sống ở đây thuộc xã Hiệp Hòa, thành Phố Biên Hòa, Đồng Nai.
Thế kỷ 17, Cù lao phố là thương cảng sầm uất, tên gọi là Nông Nại Đại Phố, trao đổi hàng hóa với nhiều nước trong khu vực: Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônexia. Năm 1679, nhóm người Hoa di dân của nhà Minh-nhóm Trần Thượng Xuyên đến Cù Lao Phố.
Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đến vùng đất này, đặt tổng hành dinh tại Cù Lao Phố thuộc dinh Trấn Biên, huyện Phước Long.
Năm 1998, tp.HCM –tp.Biên Hòa kỷ niệm 300 năm, ngày đặt nền hành chính đầu tiên tại Nam Bộ.

TỈNH ĐỒNG NAI
Đồng Nai là tỉnh thuộc Miền Đông Nam Bộ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có diện tích 5.862,73 km2, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2003 là 2.149.030 người, mật độ dân số: 365 người/km2. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của toàn tỉnh năm 2004 là 1,22%. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: Thành phố Biên Hòa - là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của tỉnh; thị xã Long Khánh và 9 huyện: Long Thành; Nhơn Trạch; Trảng Bom; Thống Nhất; Cẩm Mỹ; Vĩnh Cửu; Xuân Lộc; Định Quán; Tân Phú.
Là một tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam Đồng Nai tiếp giáp với các vùng sau:
• Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận.
• Phía Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng.
• Phía Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước
• Phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
• Phía Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh
Là một tỉnh có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến đường huyết mạch quốc gia đi qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 20, quốc lộ 51; tuyến đường sắt Bắc - Nam; gần cảng Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế trong vùng cũng như giao thương với cả nước đồng thời có vai trò gắn kết vùng Đông Nam Bộ với Tây Nguyên.
Phần lớn diện tích của cả tỉnh là vùng đất cao, địa thế mấp mô, nối tiếp cao nguyên Nam Trung Bộ và phần đất tiếp giáp với Cao nguyên Lâm Viên và Di Linh. Tuy nhiên cũng có một số thung lũng, đồng bằng, gò, đồi thấp. Phần lớn đất ở Đồng Nai là đất badan, đất xám và đất phù sa cũ màu mỡ nằm chen lẫn nhau quanh các ngọn núi lửa cổ và vùng phù sa thấp phẳng ven sông Đồng Nai rất tốt cho việc trồng trọt. Bởi vậy, Đồng Nai trồng nhiều loại cây công nghiệp như : cao su, cà phê, chè, cây ăn trái và cây công nghiệp ngắn ngày.
Sông Đồng Nai là con sông quan trọng nhất của tỉnh do hai sông Đa Dung và Đa Nhim phát nguyên từ cao nguyên Lâm Viên hợp thành. Sông có chiều dài 480km, đoạn chảy qua tỉnh Đồng Nai dài 294 km. Dọc hai bên bờ là các làng đảo, vườn bưởi. Đập thủy điện Đa Nhim được xây dựng trên con sông La Ngà, sông Lá Buông chảy qua, có nhà máy thuỷ điện Trị An.
Đồng Nai có lợi thế về vị trí địa lý, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, thuộc vùng ít bão lụt thiên tai, nhiệt độ bình quân hàng năm 25-26 0C, gồm 2 mùa mưa nắng, lượng mưa tương đối cao khoảng 1.500mm - 2.700mm, địa hình chủ yếu là đất đồi cao, kết cấu đất có độ cứng chịu nén tốt (trên 2kg/cm2) không tốn nhiều chi phí trong việc san lấp, xử lý nền móng công trình, thuận lợi cho việc đầu tư phát triển công nghiệp và xây dựng công trình với chi phí thấp.
Do những lợi thế nêu trên, đến năm 2010, chưa kể các cụm tiểu thủ công nghiệp qui mô nhỏ, Đồng Nai đã qui hoạch và phát triển khoảng 10.000 ha đất khu công nghiệp tập trung, trong đó Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 15 khu công nghiệp với diện tích 4.751 ha. Các khu công nghiệp này, cơ sở hạ tầng đã và đang được xây dựng đồng bộ, đã bố trí 55% diện tích đất, và đang sẵn sàng đón nhận các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đồng Nai có nhiều tiềm năng về nông nghiệp. Đất canh tác nông nghiệp phần lớn là đất đỏ bazan thích hợp để phát triển các loại cây công nghiệp và cây ăn quả. Các cây trồng chủ yếu như cao su (41.000ha), cà phê (25.000ha), điều (42.000ha), đậu nành (7.000ha), bắp (67.000ha), cây ăn quả (20.000ha) ... Đồng Nai đang là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về sản xuất thức ăn gia súc, và có nhiều trang trại chăn nuôi qui mô công nghiệp, tổng đàn trâu bò 76.000 con, heo 970.000 con, gia cầm 11 triệu con. Đây là nguồn nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp chế biến.
Kết cấu hạ tầng tại Đồng Nai khá thuận lợi so với nhiều địa phương khác trong cả nước, vì Đồng Nai chỉ cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 25 km, các nhà đầu tư tại Đồng Nai có thể sử dụng các công trình kỹ thuật hạ tầng và hệ thống dịch vụ hiện có của Thành phố Hồ Chí Minh như sân bay, bến cảng, hệ thống viễn thông, khách sạn và các dịch vụ khác.

VÀI DÒNG LỊCH SỬ
Cuối thế kỷ XVI, vùng đất Đồng Nai vẫn còn hoang dã, chưa được khai phá, người dân bản địa gồm các dân tộc Stiêng, Mạ, Kơ ho, M'nông, Chơ Ro và một vài sóc người Khơ me sinh sống. Dân ít, sống thưa thớt, kỹ thuật sản xuất thô sơ, trình độ xã hội còn thấp.
Cuộc chiến tranh của họ Trịnh và họ Nguyễn ở miền Trung và Bắc Việt Nam làm cho dân chúng khổ sở, điêu đứng và tạo ra một làn sóng di cư của người dân miền Thuận Quảng vào Đồng Nai tìm đất sống.
Bản tính cần cù, chịu khó, lưu dân người Việt đã cùng với người bản địa chung sức khai phá đất đai để sản xuất nông nghiệp. Dần dà, rừng rậm hoang vu đã trở thành những cánh đồng lúa và hoa màu tươi tốt.
Năm 1679, nhà Minh ở Trung Quốc sụp đổ, Tổng binh Trần Thượng Xuyên trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm không khuất phục nhà Thanh đã đem 50 chiến thuyền, 3.000 binh lính thân tín và gia quyến đến xin thuần phục chúa Nguyễn ở Thuận Hóa. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã thu nhận họ và cho vào khai khẩn, mở mang vùng đất Đông Phố (Cù lao Phố ngày nay).
Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai (là cả Nam Bộ bây giờ), đặt vùng đất mới thành phủ Gia Định, chia làm 2 huyện: huyện Phước Long (Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn. Ngoài ra, Nguyễn Hữu Cảnh còn cho lập bộ đinh, bộ điền, chiêu mộ những người có vật lực từ các vùng khác vào lập nghiệp và phát triển kinh tế.
Người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư ở Bến Gỗ, nhưng thấy Cù lao Phố có vị trí thuận lợi cho việc kinh doanh buôn bán, họ đã quyết định di chuyển đến đây sinh sống. Từ đây, Cù lao Phố phát triển ngày càng phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định (Nam bộ ngày nay).
Trong cuộc hành trình dài giữ nước, ông cha ta đã khai phá đất đai ngàn dặm dọc suốt miền Trung và đền nơi đây là Biên Hòa-Đồng Nai, mảnh đất đai đầu ở Nam Bộ in dấu chân đoàn quân Nam tiến của dân tộc Việt.
Đồng Nai còn nổi tiếng với một số di tích lịch sử quan trọng đó là chiến khu Đ, căn cứ địa bí mật của Trung Ương cục R thời kháng chiến chống Pháp Và Mỹ. Ngày nay chiến khu Đ trở thành một điểm đến du lịch mà bất cứ du khách nào khi đến Đồng Nai đều không thể bỏ qua.

ẨM THỰC ĐỒNG NAI
Do thời tiết hai mùa mưa nắng, sản vật biển, rừng, sông nước, vườn ruộng phong phú, cách ăn uống của người Đồng Nai vừa thể hiện nét chung của văn hóa Việt Nam, vừa có sắc thái mang dấu ấn Nam Bộ
Các món ăn quen thuộc của người Biên Hòa - Đồng Nai trong thói quen ngày ăn ba bữa thông thường: cháo đậu ăn với cá lóc kho tiêu, cháo đậu nước cốt dừa, canh bầu nấu với cá trê vàng, cá lóc kho thơm, canh chua cá lóc, mắm kho ghém rau sống, mắm đồng chưng trứng, canh khổ qua dồn thịt…
Đất Đồng Nai cũng rất giàu hoa trái, gần như quanh năm đều có trái cây, trong đó bưởi là thứ trái cây nổi tiếng nhất.
Biên Hòa có bưởi Thanh Trà; Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh; Bưởi Đồng Nai nhiều nhất ở làng Tân Triều (huyện Vĩnh Cửu). Bưởi Tân Triều nổi tiếng trong nước và cả một số nước trên thế giới với vị chua ngọt dễ chịu, múi nhỏ mọng nước, có tác dụng tốt cho tim mạch. Ngày nay, du khách có thể theo tour, hoặc tự đến làng Tân Triều ( tỉnh lộ 24, qua khỏi trung tâm Văn hóa Du lịch Bửu Long 10km) để được nằm nghỉ, cắm trại hay picnic ngay trong vườn bưởi, và tự tay chọn hái những quả bưởi trĩu cành, để tận hưởng vị ngọt thanh của đường hòa tan trong múi bưởi – một vị ngọt mát nhẹ nhàng giúp cho tinh thần sảng khoái..
Không thể không nhắc đến chôm chôm, sầu riêng – hai thứ đặc sản của các vườn cây Long Khánh.
Quả chôm chôm vỏ dày, thịt trắng trong, ngọt mát. Sầu riêng là loại đắt tiền nhất trong các loại hoa quả Việt nam. Tên của loại quả này gắn liền với truyền thuyết về mối tình không thành của chàng hoàng tử láng giềng và cô gái Nam Bộ Việt Nam. Sầu riêng vỏ dày, cứng, có gai nhọn lởm chởm. Khi chín, chỉ cần dùng lưỡi dao tách nhẹ vào đường rãnh vỏ là thấy ngay những múi sầu riêng vàng ngà, óng ánh như được phết bơ. Hương sầu riêng rất đậm, quyến rũ đến lạ kỳ, bay rất xa và rất lâu tan trong không khí. Sầu riêng đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.
Đồng Nai là tỉnh có ngành công nghiệp phát triển, toàn tỉnh có 120 công ty nhà máy với 72000 lao động. Riêng khu công nghiệp Biên Hòa là trung tâm công nghiệp lớn nhất tỉnh được bao bọc một bên là sông Đồng Nai, một bên là xa lộ Hà Nội và một bên là tỉnh lộ 51 rất thuận tiện cho việc thông thương cả về đường thủy và đường bộ.

Khu Căn Cứ Long Bình
Khu căn cứ Long Bình nằm phía phải( góc đông bắc ngã 3 xa lộ), được xây dựng 1964 với diện tích ban đầu là 6km2, dùng làm kho chứa đạn và dụng cụ chiến tranh đầu tiên gọi là kho Long Bình .
Tháng 4-1965 sau khi kiểm tra tình hình miền Nam Việt Nam, phái đoàn quân sự do Mac Namara và Taylor cầm đầu đã quyết định xây dựng lại kho Long Bình năm 1986, mở rộng gấp 4 lần so với trước là 24km2 và gọi là tổng kho Long Bình. Tổng kho Long Bình lấy hàng từ cảng Sài Gòn, cảng Vũng Tàu, sân bay Biên Hòa và trở thành trung tâm cung cấp vũ khí cho quân đội Mỹ và chư hầu. Tổng kho Long Bình có 6 hầm ngầm đủ chứa 150.000 tấn bom, đạn. Có 7 lớp rào bao bọc 72 tháp canh.

Đại siêu thị Big C
Được khánh thành ngày 18/8/1998 do tập đoàn Boubon của Pháp đầu tư với số vồn là 54 triệu USD, diện tích 20.000 m vuông. Siêu thị có trên hơn 20.000 mặt hàng và 90% hàng hòa là sản xuất tại Việt Nam. Tập đoàn Boubon là một trong những tập đoàn lớn nhất của Pháp về lương thực thực phẩm. Các dự ánBoubon đã đầu tư vào Việt Nam như nhà máy đường Bourbon Tây Ninh-nhà máy thức ăn gia súc Boron trong quy hoạch phát triển tại Việt Nam, Bourbon đã vạch rõ sẽ thôn tính toàn bộ hệ thống siêu thị Việt Nam với khách hàng chủ yếu là tầng lớp trung lưu. Hiện nay tập đoàn Bourbon có 3 siêu thị lớn ở Việt Nam: siêu thị An Lạc, siêu thị Cora Miền Đông-siêu thị Cora Hà Nội. Trước đây có tên là Co Ra nhưng tập đoàn này đã bán lại cho một tập đoàn của Thái Lan.
Khu Công nghiệp Biên Hòa 1 và 2. Đây là khu công nghiệp được đầu tư xây dựng quy mô khá lớn. Trước năm 1975, Mỹ đã xây dựng những khu công nghiệp này lên nhằm làm cho nền kinh tế ta phát triển, hàng hóa của Mỹ chiếm độc quyền. Tại đây chuyên sản xuất về các mặt hàng như: công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, dày da, công nghiệp thực phẩm, điện tử……và thu hút nhiều nhà đầu tư đến từ các nước như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc….Đặc biệt nhờ có biện pháp xử lý và đầu tư tốt cho nên mặc dù hai khu công nghiệp này nằm bên đường quốc lộ nhưng không gây ô nhiễm môi trường.


Khu công nghiệp Biên Hoà 1
Khu công nghiệp Biên Hòa 1 được thành lập từ 1963 với tên gọi là khu kỹ nghệ Biên Hòa, với tổng diện tích theo quy hoạch ban đầu là 511 ha. Theo các tài liệu để lại, ý đồ của chính quyền Sài Gòn lúc đó là xây dựng một khu công nghiệp tập trung với định hướng ưu tiên bố trí các nhà máy, xí nghiệp sử dụng nông phẩm và nguyên liệu trong vùng, sản xuất hàng tiêu dùng và các cơ sở dịch vụ để giải tỏa dần các nhà máy, xí nghiệp khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn với định hướng ban đầu là thiên về công nghiệp chế biến và công nghiệp nhẹ. Sau khi được tiếp quản, khu kỹ nghệ có 95 xí nghiệp. Cơ cấu 95 xí nghiệp phân thành các nghành như: công nghiệp nặng (điện, luyện kim, cơ khí) có 10 xí nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng có 68 xí nghiệp, công nghiệp vật liệu kiến trúc xây dựng 12 xí nghiệp.

Khu công nghiệp Biên Hoà 2
Ngành nghề thu hút đầu tư : thực phẩm và chế biến nông sản thực phẩm; may mặc và dệt sợi; hàng nữ trang, mỹ nghệ và các loại mỹ phẩm; giày dép, dụng cu thể thao, các loại bao bì cao cấp; sản phẩm công nghiệp từ cao su, gốm sứ, thuỷ tinh; lắp ráp điện tử, phụ kiện máy tính, linh kiện điện tử; sản xuất dây điện các loại , đồ điện gia dụng; dược phẩm, dụng cụ y tế và nông dược, thiết bị công nghiệp…

 Khu công nghiệp Amata

Nằm cách tp.hcm 30km nằm cạnh khu công nghiệp Biên Hòa 2. Tổng diện tích 760 ha được xây dựng qua 5 giai đoạn trong đó giai đoạn 1 xây dựng 100 ha chưa kể diện tích xây dựng đường giao thông nối quốc lộ vào khu công nghiệp. Tại đây chuyên sản xuất về các mặt hàng như: đầu tư cơ khí l uyện kim, may mặc, da dày, hóa chất, mỹ phẩm, điện tử.


Khu Thiên Chúa Giáo Hố Nai
Khu Thiên Chúa giáo Hố Nai cách trung tâm thành phố Biên Hòa 3 km về phía Đông Bắc, nằm trên giải đất dài 12 km với nhiều nhà thờ rải rác hai bên quốc lộ 1. Trước năm 1954, khu đất còn là rừng hoang thuộc địa phận xã Bình Phước, huyện Đức Tu tỉnh Biên Hòa; năm 1954 có hơn 40.000 đồng bào theo đạo thiên chúa giáo thuộc 25 xứ đạo từ nhiều tỉnh trên miền Bắc, đặc biệt là tỉnh Hà Nam Ninh cũ, đã di cư vào đây, lập trại định cư theo sự bố trí của chính quyền Ngô Đình Diệm. Tháng 8-1956 Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh gọi trại định cư này là Hố Nai, xã có diện tích 2090 ha, trụ sở cách trung tâm thành phố Biên Hòa 10 km, cư dân ở đây tuyệt đại đa số là người Việt chỉ có rất ít là người Nùng. Hiện nay xã Hố Nai đã trở thành một khu dân cư đông đúc và hoạt động kinh tế phong phú với dân số lên đến 100.000 người, nhiều cơ sở tôn giáo và y tế giáo dục được xây dựng, xã có gần 30 nhà thờ, 28 trường học, 1 bệnh viện và các cơ sở từ thiện của khu vực. Sau năm 1975 xã Hố Nai được chia thành 4 khu: Hố Nai 1, 2, 3 và 4 thuộc huyện Thống Nhất-Đồng Nai. Ngày nay Hố Nai là một trong những trọng điểm sản xuất dịch vụ đang phát triển mạnh của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chế biến gỗ phát triển mạnh của miền Đông Nam Bộ.

Thủy điện Trị An
Trị An là thác nước cuối cùng trên con sông Đồng Nai trước khi chảy vào đồng bằng. Với sự giúp đỡ của Liên Xô và sự đóng góp công sức của cả nước, công trình thủy điện lớn thứ hai sau thủy điện Hòa Bình trên sông Đà đã khởi công xây dựng năm 1983. Đập chính chắn ngang sông Đồng Nai được xây dựng phía thượng nguồn của thác Trị An, tạo nên hồ rộng 232 km2 chứa 3 tỷ m3 nước. Nước từ hồ chính đưa qua hồ phụ rồi chảy qua nhà máy làm quay, 4 tổ máy có công suất tổng cộng 400 MW. Sản lượng điện hàng năm đạt 1,7 tỷ kv/h.

Ngã Ba Dầu Giây
Ngã Ba Dầu Giây là điểm giao nhau giữa quốc lộ 20 và quốc lộ 1A, cách thành phố Hồ Chí Minh 67 km. Sở dĩ có tên là Dầu Giây là vì vào năm 1954 khi người Bắc di cư vào đây họ mang một số trầu dây leo. Nhưng họ không phát âm được chữ “trầu” mà phát âm là chữ “dầu” do đó mới có tên là Dầu Giây. Có giải thích cho rằng: ngày xưa ở đây có một cây dầu thật to có nhiều dây leo bám chằng chịt. Đặc biệt quanh vùng chỉ có dây dầu này là to nhất nên địa phương mới đặt tên nơi đây thành một địa danh: Dầu Giây và do ở đây là ngã 3 nên mới gọi là Ngã 3 Dầu Giây.
Cách Tp.HCM, khoảng 67 km, quẹo trái đi 232 km đến Đà Lạt, nếu đi thẳng theo quốc lộ 1A đi các tỉnh miền Trung.
Gỉa thuyết về Dầu Giây: người ta cho rằng trước đây vùng này có nhiều cây dầu và cây giây leo. Có giả thuyết khác cho rằng Dầu Giây là đọc lại từ Trầu giây, khu vực này có trồng nhiều cao su.
Nằm trên đầu mối giao thông quan trọng của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng Nai có nhiều điều kiện thuận lợi cả về đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không để thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong nhiều năm qua ngành Giao thông Vận tải đã không ngừng phấn đấu, từng bước xây dựng hoàn thiện hệ thống giao thông, phục vụ kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của khu vực.

Dốc Mẹ Bồng Con
Dốc Mẹ Bồng Con là ngọn dốc đầu tiên trên con đường Bắc Nam, cách Ngã 3 Dầu Giây khoảng 4 km theo quốc lộ 1A, ở khu vực này gồm 1 con dốc lớn và một dốc nhỏ như hình ảnh mẹ đang bồng đứa con nhỏ và đó cũng là cách lý giải cho tên gọi của dốc. Có một câu chuyện khác; Trước đây người ta kể rằng: có một người phụ nữ mang thai, khi qua khu vực này thì chẳng may gặp tai nạn chết và đêm đêm người dân ở đây kể lại rằng thường nghe tiếng người phụ nữ bồng đứa con hay qua lại khu này than khóc oan ức, nên người ta đã đặt tên cho khu vực này là dốc Mẹ Bồng Con.

Đường Thiên Lý Bắc Nam
Đây là con đường giao thông chính của nước ta, xuyên suốt từ Bắc xuống Nam, điểm khởi đầu là Lũng Cú Đồng Văn (Hà Giang) và kết thúc là Năm Căn (Cà Mau).
Đường thiên lý dưới thời Nguyễn dùng để liên lạc ba xứ Bắc Trung Nam. Đường đựoc chia thành nhiều trạm, có phu trạm lo việc truyền công văn, khiêng cáng kệ, đồ đạc của quan. Thời Gia Long mỗi một trạm đặt một cai đội và phó cai đội. Từ Quảng Nam đến Gia Định, mỗi trạm có 50 phu trạm, từ Huế ra Quảng Bình mỗi trạm có 80 người, từ Quảng Bình đến Hà Nội mỗi trạm có 100 phu trạm. Để phục vụ cho việc liên lạc nhanh chóng, Vua Minh Mạng cấp cho mỗi trạm 3 con ngựa. Việc phát đệ được xếp hạng như sau:
Phi đệ
Tối khẩn
Thứ khẩn
Thường hành
Chuyển công văn từ Gia định đến kinh là 13 ngày. Từ Bắc vào kinh là năm ngày. Đúng hạn thì được thưởng từ 3-5 quan, nếu chậm một ngày thì không thưởng, nếu chậm từ 3-4 ngày bị phạt 30 roi.
Công văn chuyển đi được niêm phong rất kỹ. Thời Tự Đức quy định dùng ống tre khô chắc, một cái lớn, một cái nhỏ. Công văn được cuộn lại bỏ vào ống tre nhỏ, dán miệng ống lại, rồi cắt giấy niêm phong ống từ 2-3 lần, đóng dấu vào nơi miệng ống giáp nhau, buộc dây dán lại, đánh dấu rồi cuối cùng bỏ vào ống tre lớn, dán lại đóng thêm một lần nữa, trước khi buộc chặt để chuyển đi không sợ bị hư hay bị ướt.
Những chiếu chỉ sắc dụ của nhà vua đưa đến trạm nào thì trạm ấy phải có người đưa đi ngay, bất kể ngày đêm mưa nắng. Những công văn ghi chữ phi đệ các trạm phải dùng ngựa chuyển đi cho kịp. Nhờ thế mà những công văn phi đệ có thể chuyển từ Huế vào Gia Định có sáu ngày, hay ra Hà Nội chỉ có ba ngày.
Nhờ đường giao thông thông suốt, tổ chứa trạm chặt chẽ, sự lãnh đạo của triều đình Huế đã đến mọi miền đất nước được kịp thời. Đó là một yếu tố quan trọng giúp cho nhà Nguyễn tồn tại gần một thế kỷ rưỡi.

Cây Cao Su
Cây Cao Su có tên khoa học là Hevèa, nguồn gốc ở Nam Mỹ mọc theo dòng sông Amazon (chảy từ Pêru qua Braxin và đổ về Đại Tây Dương). Thổ dân Mainás dùng một thứ nhựa trắng của cây bôi lên quần áo để chống ẩm và mưa, họ còn dùng nó để tạo ra những viên bi, quả bóng vui chơi trong những dịp lễ hội và họ gọi thứ nhựa này là Caoutchouk có nghĩa là nước mắt của cây và người Pháp đã phiên dịch ra thành cao su.
Năm 1877 các nhà khoa học Pháp đã đưa giống cây cao su từ Philippines về trồng tại vườn thực vật Sài Gòn và một số nơi khác. Do không hợp cây cao su chết hết.
Năm 1905 bác sĩ Raoult nhận được một số giống cây từ Jakarta sang đây. Bác sĩ Yerin cũng nhận được một số cây và đem về trồng ở Suối Dầu và chính từ đây cây này là hạt nhân đã tạo ra các nông trường cao su ở nước ta. Tuy nhiên nơi trồng thích hợp nhất vẫn là vùng đất có thổ nhưỡng thích hợp như ở Dầu Giây. Chính phủ bảo hộ Pháp đã tìm những nơi đất thích hợp để lập đồn điền cao su. Tuổi thọ cây từ 20->30 tuổi.

“ Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủng beo ”.
“ Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng ”.

Vài câu ca dao đã nói lên nỗi cực khổ của những phu đồn điền cao su ngày xưa. Họ phải làm việc trong môi trường vô cùng khắc nghiệt, dậy từ tờ mờ sáng và nghỉ vào lúc mặt trời khuất núi. Thêm vào đó mủ cao su khi gặp ánh nắng mặt trời sẽ phát ra một mùi cực kỳ khó chịu và có hại cho sức khoẻ. Trong điều kiện như thế, không biết đã có bao nhiêu người sinh mạng vùi thây làm phân bón cho những gốc cao su xanh tươi của bọn thực dân Pháp. Cao su là nước mắt của cây nhưng cũng là máu và nước mắt của những người dân phu ngày xưa.

Núi Chứa Chan - Nghề cá Phan Thiết

Núi Chứa Chan
Còn gọi là Núi Sót, cao 838 m, đứng thứ hai Đông Nam Bộ sau núi Bà Đen 986m. Nơi đây có nhiều mỏ đá đang được khai thác cung cấp cho ngành xây dựng. Trên đỉnh núi có sân bay trực thăng, chỉ sử dụng trong thời gian chiến tranh..
Lưng chừng núi Chứa Chan có Chùa Gia Lào, chuyện kể rằng: Vào thế kỷ 17, có một vị tướng người Việt tên là Việt Hùng đánh nhau với quân Chăm. Ông bị bắt, vợ ông đang có mang bị Vua Chăm ép làm vợ, còn ông bị quản thúc tại khu vực núi này và ông đã lập ngôi miếu ăn chay tịnh. 18 năm sau khi cô con gái của ông ta lớn lên, tên là Mai Khanh, nghe người mẹ kể về chuyện cũ và cô quyết định đi tìm cha. Sau đó ba người bỏ trốn, bị người Chăm truy đuổi và cả ba nhảy xuống vực tự vẫn. Người dân đã lập miếu thờ, hiện nay trong chùa có ba tượng ông Vàng bà Bạc, cô Chì .Người dân biết chuyện đã đặt tên núi là núi Chứa Chan để nói lên tình cảm sau này.

Ngã ba Ông Đồn
Cách tp.hcm 120 km thuộc huyện Xuân Lộc, thị trấn Gia Rây được thành lập tháng 7- 1991, tách ra từ huyện Xuân Lộc cũ thành Huyện Long Khánh và huyện Xuân Lộc. Từ đây có đường đi thẳng vào Núi Chứa Chan. Ngoài ra ở chân núi còn có viện cây giống Nam Bộ.
Dọc hai bên đường chúng ta thấy có khá nhiều lá buông. Đây là loại lá người ta cắt trong rừng đem về phơi khô, thường sử dụng đan làm phên, vách, lợp nhà và làm một số đồ thủ công để làm túi xách, làm giỏ, xuất khẩu qua nước ngoài.


Trị Trấn Lạc Tánh
Bên tay trái là ngã 3 căn cứ 6 nằm ở km1762. Ở đây cách thành phố Hồ Chí Minh 120km và từ đây đi vào khoảng 40km nữa sẽ đến thị trấn Lạc Tánh của huyện Tánh Linh. Bước trong phạm vi Lạc Tánh về phía đông bắc khoảng 13km chúng ta sẽ bắt gặp một ngọn núi mang tên núi Tà Bao, trên núi có tượng đức mẹ Maria được phu nhân của Ngô Đình Nhu cho đặt vào năm 1960.

TỈNH BÌNH THUẬN

Cách thành phố Hồ Chí Minh 188 km, phía Bắc và Đông Bắc giáp Ninh Thuận, Tây Bắc giáp Lâm Đồng, Tây Nam giáp Đồng Nai, Đông và Đông Nam giáp biển, Tây Nam giáp Bà Rịa-Vũng Tàu.
- Diện tích tự nhiên: 7.854 km mét vuông.
- Dân số: 1.090.000 người. Nhiều dân tộc, đa số là dân tộc Kinh chiếm 80%, số còn lại là dân tộc, Chăm, Hoa, K'Ho...
- Đơn vị hành chính: Thành phố Phan Thiết và 8 huyện: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Đức Linh, Tánh Linh và huyện đảo Phú Quý.
-Địa hình: Thuộc phần cuối dãy núi Trường Sơn cao hơn 1.000m đâm ra biển, độ dốc cao. Có sông La Ngà và 6 con sông nhỏ. Đất canh tác chiếm 1/7 tổng diện tích. Ven biển nhiều đồi cát và ngập mặn.
- Khí hậu: Thuộc khu vực khô hạn nhất cả nước, lượng mưa ít, trung bình 1.000 đến 1.600 mm/năm (bằng 1/2 lượng mưa trung bình ở Nam Bộ). Nhiệt độ trung bình 27 độ C. Độ ẩm trung bình 80%.
- Công trình lớn quốc gia: Cụm thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 476 Mw/h.

Bình Thuận - những cái nhất cả nước
1. Vùng đồi cát Mũi Né đẹp nhất và hoạt động du lịch dã ngoại sôi động nhất.
2. Bãi đá Cổ Thạch ở Tuy Phong nhiều hình hài màu sắc nhất.
3. Ngọn đèn biển Khê Gà 100 m hơn trăm tuổi bằng đá cao nhất.
4. Tượng Phật nằm lớn nhất dài 49 m nằm giữa rừng nguyên sinh trong khuôn viên chùa Linh Sơn Trường Thọ trên núi Tà kú thuộc Hàm Thuận Nam.
5.Tháp nước đẹp nhất cao 32m, 70 tuổi ở trung tâm Phan Thiết (do Hoàng thân Xuvanuvông thiết kế).
6. Đền thờ cá voi Vạn Thủy Tú lớn nhất, lưu giữ hơn 100 bộ xương cá voi ở Phan Thiết.
7. Vùng trồng thanh long nhiều và ngon nhất, sò điệp nhiều và có giá trị nhất.
8. Có nhiều cuộc thi dân gian độc đáo nhất như đua thuyền trên sông Cà Ty, leo núi Tà kú, chạy việt dã qua đồi cát. Quy mô hội thi và rước đèn Trung thu lớn nhất cho trẻ em.
Bình Thuận là địa danh chung chỉ vùng đất Nam Trung Bộ thời các đời chúa Nguyễn cho mở mang khai khẩn. Trải qua 300 năm, những thay đổi địa giới, đơn vị hành chính và dân cư theo các biến cố lịch sử đã hình thành tỉnh Bình Thuận ngày nay.
Vào cuối tháng 10-1995, hàng vạn nhà khoa học, khách du lịch trong nước và thế giới đổ về Mũi Né để chiêm ngưỡng và nghiên cứu hiện tượng nhật thực toàn phần cả trăm năm mới có thì cũng đồng thời nhận ra nơi họ đến đón kỳ quan vũ trụ có nhiều cảnh quan kỳ thú và tiềm năng kinh tế phong phú. Khắp nơi trên đất này, nơi đâu ta cũng gặp các cánh đồng lúa, vườn điều xanh tươi, những gốc thanh long trái mọng đỏ, vị nồng ấm của các sản phẩm miền biển tràn đến từ những cánh đồng muối, những vuông nuôi tôm nối nhau, những bến cá, bãi phơi hay từ những xưởng nước mắm ....
Thiên nhiên Bình Thuận có 192 km bờ biển, có huyện đảo Phú Quý và nhiều đảo nhỏ, vũng, vịnh trước ngư trường rộng lớn có nhiều dòng hải lưu, hội tụ các đàn cá, tôm, mực... Với 4.600 con tàu lớn nhỏ, ngư dân thạo nghề ở đây mỗi năm đánh bắt được 130 ngàn tấn hải sản các loại. Mực là sản phẩm giá trị nổi tiếng của tỉnh với sản lượng hơn 20.000 tấn/năm chế biến dưới dạng đông lạnh hoặc sấy khô được ưa chuộng ở thị trường trong và ngoài nước. Thương hiệu nước mắm Phan Thiết từ lâu có chất lượng và hương vị riêng vẫn cung cấp đều đặn hơn 20 triệu lít/năm cho thị trường nội địa. Phần diện tích hơn 52.000 ha bãi triều ngập mặn trong tỉnh thuận lợi tạo ao đầm nuôi tôm sú, đặt lồng bè nuôi cua, cá, đặc biệt sò điệp chiếm 75% sản lượng khai thác cả nước, chúng được chế biến dưới tên hiệu xuất khẩu Queen Scallop danh tiếng. Các huyện ven biển những năm gần đây đã phát triển mạnh mẽ nghề nuôi thủy hải sản, đặc biệt là tôm sú, thu hút mạnh vốn đầu tư từ nhiều nguồn.
Dải đất nhiều nắng ít mưa này không thuận trồng lúa, nhưng hợp với cây công nghiệp dài ngày như cao su, điều, tiêu, đặc biệt cây trái thanh long xuất khẩu 25.000 tấn/năm, đang phát triển vùng bông vải 10.000 ha. Nhà nước đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng cho từng hạng mục xây dựng hồ trữ nước, mạng thủy lợi cho sản xuất và sinh hoạt.
Chỉ trong vài năm, một trọng điểm du lịch cấp quốc gia thứ 10 - Du lịch Bình Thuận được đánh dấu son trên bản đồ, dành cho loại hình du lịch dã ngoại, sinh thái nghỉ dưỡng đang rất được khách ưa chuộng.
Năm 1996 Phan Thiết chỉ có vài khách sạn, nhà nghỉ nhỏ, cả năm đón vài chục ngàn khách thì đến nay đã có 202 dự án đầu tư du lịch với vốn đăng ký 1.300 tỷ VND và 7 dự án nước ngoài đăng ký vốn 30 triệu USD được cấp phép, trong đó 67 dự án trong nước và 4 của nước ngoài đang hoạt động. Mỗi dự án đều cố gắng hòa với thiên nhiên sẵn có, cống hiến nhiều sáng tạo trong thiết kế, trang bị hiện đại tiện nghi, phục vụ chu đáo, tất cả đều muốn cho du khách có những ngày nghỉ đáng nhớ.
Khu dã ngoại leo núi, tắm suối nước nóng ở Tàkóu; Khu dã ngoại mạo hiểm vùng hồ Biển Lạc, vượt thác Ch'reo, thăm rừng nguyên sinh Tánh Linh. Ngành du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong tỉnh.

Cây Thanh Long
Cây thanh long có tên tiếng Anh là Ritahaya hay còn gọi là Dragon Fruit thuộc họ xương rồng ở Việt Nam từ lâu, nhưng mới được đưa lên thành hàng hóa trong vài năm gần đây, Việt Nam hiện nay là nước duy nhất ở Đông Nam Á có trồng Thanh Long tương đối tập trung trên quy mô thương mại với diện tích ước tính khoảng 2.000 ha trong đó Bình Thuận chiếm 1.000 ha. Cây Thanh Long là cây có nguồn gốc nhiệt đới, chịu hạn giỏi nên được trồng ở những vùng nóng. Đặc biệt cây Thanh Long có hiện tượng rụng nụ, khi số lượng nụ trên cành nhiều sau khi xuất hiện từ 5->7 ngày thì nụ không phát triển vàng rồi rụng. Tỷ lệ rụng từ 10->20%, đặc biệt nhất ở cây này có vòng chín 3 lần. Từ xanh sang đỏ, từ đỏ sang xanh, từ xanh sang đỏ sậm đến lần chín thứ 3 là lần chín cuối cùng và là lần ngon nhất của trái Thanh Long nhưng làm vậy cây sẽ mất sức nên nhà vườn chỉ để chín lần 2 là bán ra thị trường. Hiện nay trái thanh long còn được xuất khẩu sang các thị trường các nước như: Đài Loan, Singapore, HongKong, Nhật Bản…. Và các nước Châu Au.
Quả của nó 3 dạng, tất cả đều có vỏ giống như da và có một chút lá. Chúng có tên gọi khoa học như sau:
Hylocereus undatus thuộc chi Hylocereus, ruột trắng với vỏ hồng hay đỏ.
Hylocereus polyrhizus thuộc chi Hylocereus, ruột đỏ với vỏ hồng hay đỏ.
Selenicereus megalanthus thụôc chi Selenicereus, ruột trắng với vỏ vàng.
Các hạt giống như hạt vừng đen nằm lẫn lộn trong ruột. Lớp cùi thịt trong ruột thường được ăn dưới dạng quả tươi, có mùi vị thơm dịu, ngọt vừa phải và ít cung cấp calo. Quả có thể chế biến thành nước quả hay rượu vang, hoa có thể ăn hay ngâm vào nước giống như chè. Mặc dù các hạt bé tí xíu của chúng được ăn với thịt của ruột quả nhưng chúng không bị tiêu hoá.
Loại này được trồng phổ biến ở các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ nhưng thương hiệu nổi tiếng nhất là ở Bình Thuận. Loại thanh long này sinh trưởng và phát triển tốt ở những nơi có cường độ ánh sáng cao và toàn phần. Được trồng trên nhiều loại đất khác nhau như: đất xám bạc màu, đất phèn…nhưng muốn có năng suất cao đất phải có tầng canh tác tối thiểu từ 30 – 50 cm.
Thanh long cần bám vào cây trụ, do đó phải chuẩn bị cây trụ trước khi đặt hom giống. Có thể dùng trụ bằng gỗ hay xi măng cốt thép. Tuy nhiên nếu dùng trụ ximăng cần chú ý vào mùa nắng trụ hấp thụ nhiệt rất mạnh, dễ làm đứt các rễ khí sinh của thanh long, nên dùng rơm rạ, lá chuối hay bao tải bao một lớp mỏng xung quanh trụ để giảm bớt hấp thụ nhiệt và tưới lên trụ vào sáng sớm hay chiều tối. Trồng trụ trước khi đặt hom một tháng, chiều cao trụ khoảng 1,7 – 2,2 m, phần chôn sâu từ 0,5 – 0,7 m, đường kính trụ 15 – 20 cm ( trụ ximăng mỗi canh khoảng 12 – 15 cm ). Trồng trụ thẳng, trên đầu trụ đóng thêm giá đỡ hình chữ (+) hoặc đóng nẹp hai bên mép trụ giúp thanh long có chỗ bám trên đầu trụ, cành thanh long sẽ rũ xuống.

Thành phố Phan Thiết
Cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 200 km, được thành lập 20/10/1998. Thành phố Phan Thiết nằm ở hai bên sông Cà Ty. Ngày 25/8/1999 Phan Thiết được nâng cấp từ thị xã lên thành phố.
Bên hữu ngạn là khu di tích trường Dục thanh và phân viện bảo tàng Hồ Chí Minh với tượng đài Bác nhìn ra dòng sông. Phan Thiết gắn liền với những địa danh như Lầu Ông Hoàng, Tháp Pô Shanư, những rặng dừa xanh ngút, những đồi cát vàng óng…
Với vùng biển trải dài, Phan Thiết gắn liền với ngành kinh tế biển góp phần làm giàu cho đất nước. Vịnh Phan Thiết tương đối kín gió lại nằm trên dòng hải lưu nóng lạnh tạo nên nguồn hải sản phong phú. Ngày nay đến với Phan Thiết chúng ta sẽ thấy được những khu nghỉ mát rất đẹp, những điểm tham quan ngày càng mới mẻ… đã góp phần cho Phan Thiết trở thành điểm thu hút khách du lịch.

Nghề muối
Hiện nay sản lượng muối của Việt Nam khoảng 680.000 tấn /năm, trong đó có khoảng 350.000 tấn muối ăn và 275.000 tấn muối công nghiệp, đáp ứng được nhu cầu muối ăn, nhưng vẫn phải nhập số lượng lớn muối công nghiệp. Năm 1996 nước ta phải nhập khẩu hơn 5.000 tấn muối công nghiệp và năm 1997 nhập khẩu đến 70.000 tấn: nguyên nhân thiếu hụt muối công nghiệp là do công nghệ sản xuất thấp kém nên chất lượng muối ăn và muối công nghiệp đều thấp so với tiêu chuẩn quốc tế.
Đầu tư vào nghề muối tuy vất vả và cực nhọc, nhưng tiêu thụ muối còn khó khăn hơn. Thiếu vốn, thiếu nơi tích trữ và phương tiện vận chuyển, mạng lưới thu mua muối của quốc doanh kém hiệu quả, khiến tư thương ép giá, dìm giá muối.
Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch phát triển ngành muối đến năm 2010, dự kiến sản xuất 6 triệu tấn muối vào năm 2009.

Nước mắm Phan Thiết
Nước mắm Phan Thiết từ lâu được xem là thứ nước chấm ngon. Đi dọc trên đường chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy những chiếc lu đựng nước mắm, thời gian càng lâu nước mắm càng ngon. Xưa kia nước mắm Phan Thiết được vận chuyển theo ghe bầu vào cung ứng cho thị trường Nam Bộ và đồng bào phía Nam.

Nghề cá Phan Thiết
Vùng biển Phan Thiết trải dài từ 10 độ 45 đến vĩ Bắc, vùng nội thuỷ kéo dài từ bờ biển ra đường cơ sở thẳng trên dưới 100km, chưa kể ranh giới lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của nước Việt Nam nằm trước vịnh Phan Thiết, còn kéo dài thêm gấp 3 lần vùng nộ thuỷ nói trên. Do đó, người ta xác định rằng chẳng những từ trước mà từ nay mãi về sau Phan Thiết luôn gắn liền với ngành kinh tế biển góp phần làm giàu cho đất nước. Vịnh Phan Thiết nông, tương đối kín gió, hằng năm cây lá mục và lượng phù sa do hai con sông Mương Mán và sông Quao đổ ra cửa biển Phan Thiết, Phú Hài cung cấp đều đặn lượng cát lẫn bùn, nhờ đó nước biển thêm chất màu thích hợp cho phù sinh vật sinh sôi phát triển làm mồi cho các loại moi ruốc… các loại tôm, cua, ốc, cá tầng đáy cũng như các loại cá nổi, cá tầng giữa luôn có nguồn thức ăn để ổn định môi trường sinh trưởng.
Vịnh Phan Thiết lại nằm trên dòng hải lưu nóng lạnh mà thiên nhiên đã ưu đãi cho bờ biển Việt Nam. Mùa đông dòng hải lưu đưa luồng nước từ đông bắc xuống tây nam vào mùa hè ngược lại. Chính dòng hải lưu mùa hè đã quyến rũ những đàn cá từ Vịnh Thái Lan đến biển Việt Nam tìm mồi. Trong quá trình di trú lần theo hướng đông bắc đến vịnh Phan Thiết gặp mồi nhiều biển êm, đàn cá tụ họp sinh sản.
Với nguồn hải sản phong phú, đi đôi với thời tiết thuận lợi ngư dân có thể bám biển quanh năm với các loại nghề thích hợp. Nếu Bình Thuận là ngư trường lớn của cả nước, thì Phan Thiết là trung tâm nghề cá của tỉnh. Sản lượng khai thác sản lượng hàng năm gần đây của riêng tàu thuyền Phan Thiết trên 30.000tấn chiếm trên 30% của tỉnh.
Phan thiết còn là trung tâm tôm giống của phía Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Hiện có 61 trại tôm giống. Tôm giống của Phan thiết trong những năm qua đã cung cấp cho 250ha nuôi tôm thương phẩm trong cả tỉnh và còn xuất bán cho khách hàng nhiều tỉnh Nam Bộ như: Tiền Giang, Bến Tre, Kiên giang, Cà Mau…năng suất tôm thương phẩm đạt loại cao so với cả nước, bình quân 1tấn/ha/vụ, mỗi năm 2-3vụ.
Nghề cá Phan Thiết đã và đang là thế mạnh của kinh tế địa phương, nay lại được chủ trương công nghiệp hoá – hiện đại hoá của đảng hỗ trợ, cùng với ý thức bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, sự hiểu biết đầu tư khoa học kỹ thuật ngày một nâng cao, nhất định sẽ nhanh chóng trở thành một trung tâm nghề cá của khu vực với cảng cá cồn chà hiện đại đang xây dựng, có sức đậu cho hàng trăm tàu công suất 1000CV, thu hút các đội tàu cả nước ta và nước ngoài đến đây làm ăn để cùng phát triển.

 Nhà máy nước suối Vĩnh Hảo - Tỏi

Nhà máy nước suối Vĩnh Hảo
Thuộc xã Vĩnh Hảo huyện Tuy Phong, cách QL 1A 1 km. Trước 1975, nước suối Vĩnh Hảo là một trong những sản phẩm nổi tiếng trên thị trường Đông Nam Á. Dòng suối Vĩnh Hảo được xem là linh thiêng đối với người Chăm xưa.
Năm 1301, thái thượng hoàng Trần Nhân Tông cùng đoàn Chiêm Quốc du ngoạn, ông đã từng hứa gả con gái là Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân. Tháng 6/1306, Chế Mân dâng 2 Châu Ô và Lý để làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân. Trong thời gian sống ở Chiêm Quốc, Huyền Trân và Chế Mân thường đi thưởng ngoạn ở dòng suối này. Do thấy phong cảnh hữu tình và dòng suối đẹp nên Huyền Trân đặt tên là Vĩnh Hảo để nói lên sự giao hảo bền chặt giữa hai nước Việt-Chăm.
Năm 1928 được người Pháp khai thác gọi là Vichy giống như loại nước khoáng nổi tiếng bấy giờ của Pháp. Nước suối Vĩnh Hảo được chính thức nghiên cứu năm 1945. Nước suối Vĩnh Hảo thực sự lớn mạnh khi trở thành một công ty cổ phần tài chính Sài Gòn hợp tác với công ty nước giải khát Tribeco với vốn ban đầu là 10 tỉ đồng.

Bãi biển Cà Ná
Bãi biển Cà Ná nằm sát bờ biển. Cà Ná có vị trí thuận lợi cho việc tham quan, chúng ta có thể dừng chân tại Cà Ná thưởng thức cảnh đẹp và nghỉ ngơi để tiếp tục cho cuộc du ngoạn. Cà Ná có không khí trong lành và cả những hoạt động rất phong phú.
Hành trình trên quốc lộ 1A, khi đến đoạn giáp ranh Bình Thuận- Ninh Thuận, biển Cà Nà hiện ra bát ngát, bao la được mệnh danh là “nàng công chúa ngủ quên”. Biển xanh, cát trắng, ghềnh đá, núi non... cộng với các tuyến đường giao thông uốn lượn qua các eo biển, tạo cho Cà Ná một cảnh quan đầy ngoạn mục với khí hậu nắng ấm quanh năm. Cà Ná có đủ loại hình du lịch leo núi, khám phá những danh lam, di tích còn giữ nguyên nét hoang sơ, du lịch biển, hải đảo... Nước biển Cà Ná xanh thẳm, có độ mặn cao hơn các vùng khác từ 3-40, chỉ cần từ bờ lội ra khơi chừng 20 mét, với độ sâu chỉ khoảng 1-1,5 mét, du khách có thể thỏa sức ngắm các rạn san hô rất đẹp ẩn sau tầng nước. Bãi tắm trải dài xa hút, cát trắng tinh anh, sạch sẽ. Những ghềnh đá hoa cương điểm xuyến thêm nét đẹp đặc trưng của Cà Ná. Chính những ghềnh đá này tạo nên nhiều hang động kỳ bí như: hang Ông Phật, ghềnh Ông Nồng, giếng Đục...
Đến đây, du khách sẽ được đắm mình trong dòng nước xanh mát, chiêm ngưỡng những mỏm đá đủ loại hình thù nằm sát mép bờ, chụp ảnh lưu niệm hoặc tổ chức leo núi, thưởng thức các món ăn đặc sản, thăm các danh thắng, các công trình văn hóa đặc sắc, các làng nghề truyền thống của dân tộc Chăm thuộc huyện Ninh Phước, đi thuyền ra đảo Cù Lao Câu, tắm nước khoáng Vĩnh Hảo…
Trong tiếng Chăm có nghĩa là tiên sa. Đây là nơi mà gia đình các vua Chăm Pa thường đến nghỉ ngơi và săn bắt. Hiện nay Cà Ná là một bãi biển đẹp, cát trắng, biển trong xanh. Cà Ná thuộc Bình Thuận và cũng là ranh giới giữa Bình Thuận và Ninh Thuận. Phóng tầm mắt về hướng biển khoảng 6 km chúng ta thấy một hòn đảo nổi lên giữa biển như một chiếc hàng không mẫu hạm: đó chính là Cù Lao Câu một trong những nơi hiện nay có môi trường sinh thái biển tốt nhất Việt Nam hiện nay. Năm 1998 đã được Unessco tài trợ 2 triệu USD để bảo vệ rặng san hô ngầm từ Cù Lao Câu đến Hòn Mun (Khánh Hòa).

TỈNH NINH THUẬN

* Diện tích: 3.427 km2
* Dân số: 483.400 người
* Tỉnh lỵ: Phan Rang
* Tỉnh Ninh Thuận bao gồm thị xã Phan Rang và ba huyện: Ninh Sơn, Ninh Hải và Ninh Phước.
Ninh Thuận là 1 tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, Bắc giáp Khánh Hòa, Tây giáp với Lâm Đồng, Nam giáp với Bình Thuận và Đông giáp biển Đông. Ninh Thuận được bao bọc bởi 3 mặt là núi: phía Bắc và Nam là 2 dãy núi nhô ra biển, phía Đông là vùng núi cao của tỉnh Lâm Đồng. Địa hình có 3 dạng: miền núi, đồng bằng, vùng ven biển. Nơi đây có hai hệ thống sông chính đó là: hệ thống sông Cái bao gồm các sông nhánh như sông Mê Lam, sông Sắt, sông Ông, sông La, sông Quao … và hệ thống các sông suối nhỏ phân bố ở phía Bắc và Nam của tỉnh như sông Trâu, sông Bà Râu.
Ninh Thuận nằm trong vùng khô hạn nhất nước ta, khí hậu nhiệt đới gió mùa với các đặc trưng là khô nóng, gió nhiều và bốc hơi mạnh, không có mùa đông. Nhiệt độ trung bình năm là 270C, lượng mưa trung bình 705 mm và tăng dần theo độ cao lên đến 1100 mm ở vùng miền núi. Một năm có 2 mùa: mùa mưa từ tháng 5 ->11 và mùa khô từ tháng 12 ->5 năm sau.
Vì có khí hậu và vùng đất không được như những vùng khác trong nước nên Ninh Thuận có những vùng chuyên sản xuất chuyên canh như nho, thuốc lá, mía, đường, bông, tỏi, hành và nuôi trồng thủy sản vì nơi đây là vùng ven biển.
Ninh Thuận là 1 bức tranh hài hòa giữa đồng bằng, đồi núi và biển cả. Nằm trong cụm du lịch quốc gia thuộc tam giác Đà Lạt-Nha Trang-Phan Rang. Ninh Thuận có vườn quốc gia Núi Chúa…
Ninh Thuận là một tỉnh phía nam miền Trung Việt Nam. Đây là mảnh đất sinh sống của một số lượng lớn những người Chàm. Trong lịch sử, dân tộc Chàm đã từng là một quốc gia hùng mạnh và tại đây còn nhiều những di tích lịch sử và văn hóa của người Chàm cổ như Tháp Chàm, ... Tất cả tạo nên một sức thu hút lớn cho du khách.
Ninh Thuận nằm dọc theo bờ biển, chính điều này đã đem đến nhiều bãi biển đẹp và nguồn hải sản dồi dào tạo thế mạnh rất lớn cho việc phát triển kinh tế của tỉnh

Thị xã Phan Rang
Dân số khoảng 80.000 người, nằm bên bờ sông Cái. Khu vực Phan Rang có nhiều người Chăm sinh sống. Phan Rang có nho là đặc sản nổi tiếng. Tại trung tâm thị xã có một ngã ba rẽ trái 110 km là đến Đà Lạt. Đồng bằng Phan Rang trù phú nhờ công trình đập thủy điện Đa Nhim.

Dân tộc Chăm
Người Chăm còn có tên gọi là Chàm, Chiêm, Chiêm Thành… Người Chăm có dân số 98.971 người thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo. Vương quốc Chămpa tồn tại từ thế kỷ II đến đầu thế kỷ XVII. Lãnh thổ kéo dài từ Quảng Bình đến Bình Thuận, số còn lại cư trú ở An Giang, Phú Yên, TP.HCM, Bình Định, Tây Ninh. Vào thế kỷ XV sau những lần giao tranh với Đại Việt thất bại, một số người đã chạy sang Campuchia. Đến thế kỷ XVII họ lại trở về. Vào những năm 1940 do chiến tranh họ lại di chuyển lên sống và định cư ở TP.HCM.
Dân tộc Chăm có hai bộ phận Cau và Dừa, giữa hai bộ phận này thường xảy ra tranh chấp cho đến thế kỷ II sau công nguyên, Khu Liên chống lại nhà Hán lập ra Lâm Ấp, sau đó cháu là Phạm Phật đã thống nhất hai bộ phận này và lập ra nước Chămpa. Kinh đô của nước Chămpa lúc đó là Trà Kiệu cách Đà Nẵng 70 km về phía Tây Nam mà sử gọi là Sinhapura (thành phố sư tử) nằm bên bờ sông Thu Bồn nay thuộc xã Duy Sơn.
Từ thế kỷ IX kinh đô được chuyển ra phía Bắc tại làng Đồng Dương nằm bên bờ sông Ly Ly, là một nhánh sông Thu Bồn, cách cố đô Trà Kiệu 25 km về phía Nam có tên là Indrapura, vương triều này còn gọi là vương triều Phật Giáo vì trong giai đoạn này Phật Giáo phát triển thành quốc giáo lấn áp cả Ấn Giáo. Đồng Dương là nơi tập hợp đền chùa, cung điện chứ không tách ra như vương triều trước. Vào cuối thế kỷ X, kinh đô Đồng Dương bị tấn công nhiều lần nên vào những năm 1000 thì dời về Đồ Bàn với trung tâm được đánh dấu là tháp Cánh Tiên.
Làng của người Chăm gọi là Plây, xung quanh không có cây cối hoặc chỉ có vài cây me vì họ cho rằng ma quỷ trú ngụ trên những cây to. Nhà được xây dựng về hướng Nam. Một gia đình sống trong khuôn viên có hàng rào bằng cây khô. Người Chăm sống theo chế độ mẫu hệ. Mỗi gia đình có những ngôi nhà xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: một căn nhà lớn cho cả nhà gọi là Thang Yơ, đến khi con gái lớn lấy chồng thì mọi người nhường căn nhà đó cho cô và cất căn nhà khác bên cạnh gọi là Thang Mưyân. Khi cô con gái thứ hai lấy chồng cô cả phải ra ở cạnh để nhường cho cô em. Cô con gái út được hưởng nhà đó và có nhiệm vụ giữ Chick Atâu-là một cái giỏ tre đựng đồ quý của gia đình để cúng giỗ gia đình.
Người Chăm ăn cơm gạo được nấu trong nồi đất. Thức ăn gồm thịt, cá, rau củ do săn bắt, hái lượm, chăn nuôi. Người Chăm ở Bình Thuận, Ninh Thuận ăn bằng đũa. Người Chăm theo đạo Hồi không ăn thịt bò vì bò là vật linh thiêng. Họ cũng không ăn heo vì heo là con vật dơ bẩn. Họ có món canh Vabai nấu bằng lá rừng trộn thịt, bột gạo rồi khuấy đều. Món cháo chua, bánh nhân chuối. Thức uống có rượu cần, rượu gạo.
Nói đến người Chăm không thể không nói đến tháp Chàm. Kỹ thuật để xây dựng tháp Chàm ngày nay vẫn còn là một dấu chấm hỏi lớn đối với các nhà nghiên cứu. Tháp được làm bằng gạch Chăm, gạch có kích thước khoảng 31cmx 17cmx 5cm. Chúng được xếp chồng khít lên nhau mà chúng ta không thể nào nhìn thấy những mạch hồ. Thế tại sao nó có thể đứng được? Có người cho rằng người Chăm xây tháp bằng gạch mộc gọt lên đó rồi nung khối tháp trong một ngọn lửa khổng lồ. Giả thuyết này không có sức thuyết phục vì gạch mộc thì làm sao chịu được sức nặng của ngôi tháp và khi nung thì làm sao những viên gạch ở những bức tường dày 1-1,5 m ấy lại có độ nung chín đều như những viên gạch trong lẫn ngoài như thế. Lại có người cho rằng người Chăm dùng một thứ nhựa thực vật để làm hồ dán những viên gạch lại với nhau. Có người cho rằng đó là mủ cây xương rồng trộn với mật đường nhưng lại có người cho rằng đó là dầu rái để gắn những viên gạch lại với nhau. Sự tinh tế của các tháp Chàm còn thề hiện ở vô số hình chạm khắc tỉ mỉ, trau chuốt cho nghệ thuật đục đẽo trực tiếp lên tường tháp sau khi tường tháp đã được xây. Tháp thường có ba tầng, càng lên cao càng thu hẹp lại, mỗi tầng mô phỏng lại vòm cuốn của cửa chính và cửa giả. Ở góc mỗi tầng tháp đều có hình tháp thu nhỏ và rất nhiều vật trang trí phụ bằng sa thạch thể hiện hình tiên nữ Apsara, chim thần Garuda, bò thần Nandin… Tất cả những chủ đề trang trí đều được thể hiện bên ngoài tháp, tường trong tháp bao giờ cũng để trơn. Trên chóp tháp là một khối đá nhọn đặt ngay giữa đỉnh.

Cừu Ninh Thuận
Đi trên QL1A đoạn đi ngang qua tỉnh Ninh Thuận người ta hay bắt gặp những đàn cừu thả rong trên những cánh đồng. Có lẽ, nhiều người ngạc nhiên khi thấy loài vật này sống trong vùng khí hậu khô hanh và cằn cỗi nhất nước ta. Chỉ trừ những đồng lúa là có màu xanh mượt, còn lại là những bụi cỏ, những cánh rừng bụi thấp thì đều cháy khô hoặc xơ cành lá. Đàn cừu đang ăn bên khu rừng toàn những cây gai xương rồng và những lùm cây dại trơ cành. Cừu hiện ra trên những ngọn đồi xavan, cừu đi trên đường làng, cừu đứng trên sân, trên sàn chuồng trước nhà. Thịt cừu ngon và bổ, là một trong những loại thịt đắt giá trên thị trường hiện nay. Nhưng để sống được nơi có khí hậu khắc nghiệt: nắng nóng, thảo trường vốn có nhiều cây gai hơn cành lá, sỏi đá nhiều hơn cỏ tươi, lũ cừu phải gặm tất tần tật những gì có ở bãi chăn này: từ cỏ khô, gốc ra, chồi lá dại đến cả cây xương rồng, cây bồn bồn…
Cừu đực 5 tháng tuổi đã có biểu hiện phối giống, nhưng người ta thường sử dụng lúc 10 tháng tuổi. Cừu cái 6 tháng đã động dục và tuổi phối giống đầu tiên thường vào lúc 9 – 10 tháng. Thời gian mang thai khoảng 150 ngày, chu kỳ động dục từ 16 – 17 ngày, mùa động dục không rõ rệt nhưng vào các tháng mùa xuân mát mẻ thường động dục nhiều và tỉ lệ thụ thai cao. Là loài gia súc mắn đẻ, cứ mỗi 2 năm cừu đẻ 3 lứa, mỗi lứa thường là 1 con có khi 2, 3 con.
Theo bà con ở đây thì đàn cừu đã có từ hơn 100 năm do người Chà Là ( An Độ ) mang tới. Cũng có vùng nói là do các giáo sĩ người Pháp mang tới cho giáo dân, do đó kinh qua rất nhiều trôi nổi bà con giáo dân không muốn bỏ con cừu , tượng trưng cho quà tặng của Chúa.
Có điều chắc chắn có thể nó là giống cứu này là cừu thịt xuất xứ từ vùng nhiệt đới. Có nhiều khả năng là từ An Độ nơi có khí hậu nóng. Bởi vì sức sống của đàn cừu Phan Rang chứng tỏ tổ tiên chúng chắc rất thích nghi với vùng nắng nóng. Chúng tôi đang khảo sát kỹ thêm về nguồn gốc của đàn cừu ở đây để xem nó mang đặc trưng của giống cừu nào trên thế giới. Có một điều đáng chú ý là đuôi của giống cừu này không bao giờ vượt quá khuỷu chân. Như vậy nó thuộc loại hình đuôi ngắn mảnh. Theo bản đồ phân bố cừu của C. Dervendra và GB. Meloroy thì giống cừu này không thấy ở An Độ, Pakistan và một số nước Châu Phi. Không phủ nhận được rằng qua bao nhiêu thăng trầm, chịu đựng quen với điều kiện sinh thái nơi này, con cừu Phan rang đã rất thích nghi và mang dấu ấn của môi trường sinh thái nơi đây và ta có thể xem nó như một giống cừu của nước ta.
Lông của cừu Phan Rang chưa đựơc sử dụng có lẽ vì đàn cừu quá ít và thịt cừu ở xứ nóng nên lông không nhiều. Tỉ lệ da thường chiếm 8 % trọng lượng cơ thể, da cừu tốt, đàn hồi tốt là mặt hàng được ưa chuộng.
Cừu thịt: cừu nuôi bán thịt phải nhốt riêng, tránh quậy phá làm hư hỏng chuồng trại. Trước khi xuất chuồng 2 tháng phải nhốt riêng để bổ sung thức ăn (vỗ béo) nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả chăn nuôi.

Cây Nho
Nho gốc ở các miền ôn đới khô Châu Á, cũng có các giống khác ở châu Mỹ nhưng chưa trồng với quy mô sản xuất ở Việt Nam. Nho trồng nhiều ở Phan Rang vì ở đây có những điều kiện thuận lợi nhất. Ở nhiều nơi khác vẫn vó thể trồng nho kinh doanh nhưng phải có điều kiện là mùa khô 4 – 5 tháng nắng và đất không bị úng nước vào mùa mưa do rễ nho là nơi xúc tích dự trữ của cây nên rất mẫn cảm với tình trạng thiếu oxy. Là cây trồng theo kiểu dây leo trên giàn. Đầu tiên người ta làm dàn bằng gỗ cao khoảng 1,6 – 1,8m và những nhánh nho được trồng cho bám leo lên giàn hơn 1 năm, nho sẽ cho ra trái, tuổi thọ nho khoảng 7 – 10 năm, một năm có 3 mùa thu hoạch, trung bình 2,5 tấn/mùa/ha. Trung bình 1 ha nho cho lợi nhuận gấp 10 lần trồng lúa.

Tỏi
Hành tỏi là hai cây truyền thống phù hợp với điều kiện đất đai và tập quán của người dân địa phương. Trước đây mưa thuận gió hoà, mỗi năm nông dân gieo trồng 4 vụ hành đỏ với diện tích 350 - 400 ha, sản lượng đạt trên 5000 tấn. Củ chắc, hương vị thơm nồng đã tạo thành thương hiệu hành đỏ Mỹ Tường nổi tiếng cả nước. Hành khô từ Nhơn Hải được các thương lái thu mua cung ứng cho các giống địa phương trong và ngoài tỉnh.
Củ hành bán cho bà con làm giống, còn lá hành đỏ vừa bổ dưỡng ngang như cỏ voi vừa nâng cao khả năng sinh sản. Dê cừu ăn lá hành rất mắn đẻ và phòng chống được một số bệnh về đường ruột. Là hành khô bảo đảm khả năng “ làm việc ” rất tốt của dê đực trong việc duy trì nòi giống.

 Tháp Hoà Lai

Cụm tháp Hòa Lai, còn có tên Ba Tháp, nằm ven quốc lộ 1A cách Phan Rang 14km về phía bắc; thuộc làng Ba Tháp xã Tân Hải huyện Ninh Hải-Ninh Thuận; được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ 9. Cụm tháp đã từng được các nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá là kiến trúc tháp cổ và đẹp nhất của Chămpa. Đáng tiếc là nay tháp chính đã bị sụp đổ chỉ còn lại tháp Bắc và tháp Nam nhưng cũng trong tình trạng hoang tàn. Di tích là thân tháp hình khối lập phương khỏe khắn nhô lên từ một phần bệ vuông và đỡ cả một hệ thống các tầng nhỏ dần vẫn còn những hoa văn điêu khắc rất tỉ mỹ rất đẹp trên vòm cửa, trên các trụ ốp, trên bộ diềm mái.
Tháp Bắc có 4 trụ bổ tường, mỗi trụ được trang trí rất đẹp và hình tượng chim Garuda giang rộng cánh. Trên mỗi đầu các trụ bổ của các mái chìa có các diềm mũ để trang hoàng. Các cửa giả được trang trí với những vòng cung và những hình người được thể hiện trong tư thế ngồi. Hình thức trang trí ở tháp Nam đơn giản hơn, cũng có 4 trụ bổ tường với những đường nét bên dưới và những diềm mũ với các hoa văn trang trí ở mái chìa, các cửa giả được trang trí vòng cung lớn nhưng không tỉ mỉ như tháp Bắc. Tháp có ba tầng mái, mỗi tầng có một hốc giả tang trí bởi các vòng cung.

Núi Cà Đú
Núi Cà Đú nằm giữa vùng đồng bằng rộng lớn thuộc huyện Ninh Hải có độ cao 300 m, từ trên đỉnh núi du khách có thể thoả tầm mắt ngắm nhìn phong cảnh hữu tình của Đàm Nại, vẻ đẹp nên thơ của bãi biển Ninh Chữ, đồng lúa mênh mông và sự nhộn nhịp của thị xã Phan Rang – Tháp Chàm.

TỈNH KHÁNH HOÀ

Có diện tích là 5257 ha với dân số gần 2 triệu người, phía bắc giáp Phú Yên, phía tây giáp Đăclăk, nam giáp Ninh Thuận, phía đông giáp biển đông. Thủ phủ của Khánh Hòa là thành phố Nha Trang, các huyện: Vạn Ninh, Ninh Hòa, Diên Khánh, Khánh Vinh, Khánh Sơn, Cam Ranh và huyện đảo Trường Sa. Khánh Hòa có 2 con sông lớn đó là sông Cái và sông Đinh. Khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa mưa từ tháng 9 tới tháng 12, lượng mưa trung bình là từ 1030mm/năm, nhiệt độ trung bình năm khoảng 27độ C . Ngoài diện tích đất liền Khánh Hòa có gần 200 đảo lớn nhỏ, trong đó chỉ tính riêng quần đảo Trường Sa đã có trên 100 đảo. Vùng lãnh hải rộng 18.000 ha. Khánh Hòa có địa hình đa dạng, nhiều núi cao đồng rộng sông dài, nhiều đảo lớn đông dân. Thiên nhiên ưu đãi cho Khánh Hòa có một địa thế vô giá. Khánh hòa còn có mỏ đá vàng ở Đá Bàn – Xuân Sơn, Vĩnh Lương từ 2 – 6gam/ tấn. Kim loại có sất, ti tan, thiếc … hiện nay toàn tỉnh Khánh Hòa có nhiều trường đại học, cao đẳng, 12 trường cấp 3 … ngoài ra còn nhiều viện nghiên cứu khoa học như viện nghiên cứu Pasteur thành lập từ năm 1895, viện Yersin, viện Hải Dương Học thành lập năm 1932. Khánh Hòa là tỉnh có thế mạnh khai thác hải sản, khoảng 65.000 tấn/ năm. Có khoảng 1000ha ruộng nuôi tôm. Trên những hòn đảo ven biển như Cà Lò, Hòn Hố, Hòn Động, hòn Sương, hòn Nội, hòn Ngoại … còn có chim yến trú ngụ có thể khai thác tổ yến.. đây là hải sản có giá trị xuất khẩu cao trữ lượng hàng năm lên tới 2000 – 2500 kg, trong đó 1kg tổ yến bán được khoảng 3000 – 3500 USD. Nghề muối cũng phát triển ở Khánh Hòa. Ngoài ra Khánh Hòa còn có nguồn nước khoáng vô tận, các suối nước nóng ở Phước Long, Đảnh Thạnh, Ninh Hòa … , nông, lâm, thủy sản chiếm khoảng 70% diện tích đất tự nhiên. Khánh Hòa có tiềm năng lớn về du lịch. Với bờ biển dài 200km, nhiều bãi tắm đẹp, nơi có thể phát triển nhiều loại hình du lịch như nghỉ dưỡng, săn bắt, bơi lội leo núi, tắm biển … ngoài ra còn thu hút khách du lịch nhờ những đểm tham quan và các di tích lịch sử, di tích văn hóa như : tháp bà Pônaga, chùa Long Sơn, lăng bà Vú, nhà nghỉ vua Bảo Đại, hòn Chồng, hòn Yến, hồ cá Trí Nguyên, bãi Trũ, suối Tiên, Đại Lãnh và vô số các đảo nhỏ ven bờ.

Vịnh Cam Ranh
Là một vịnh nhỏ ở cực Nam của tỉnh Khánh Hòa. Vịnh được xếp là 1 trong 3 hải cảng thiên nhiên tốt nhất thế giới cùng với cảng San FranciscoRio De Janeiro. Vịnh có diện tích khoảng 185 km2, độ sâu phổ biến từ 5 – 10 m, phía ngoài có độ sâu khoảng 20 m, ra khỏi cửa vịnh tiếp cận với đường đẳng sâu 40 m.
Vịnh Cam Ranh là một trong những vịnh đặc biệt quan trọng. Ngày xưa người Pháp cũng đã dự kiến phát triển vịnh Cam Ranh thành cảng để khách du lịch từ bên Pháp khi về qua Việt Nam qua Đông Dương cập bến ở đây và họ sẽ đi lên trên xe lửa đe# đi lên Phan Rang và đến Dalat nghỉ mát, nhưng kế hoạch của họ không được hoa#n hảo cho nên đã không hoàn thành được. Sau đó người Pháp đã rời khỏi Việt Nam và biến vịnh thành cảng quân sự. Sau năm 1975 chúng ta tiếp quản và giao cho Liên Xô và người Liên Xô thuê khu cảng làm cảng quân sự, sau này Liên Xô tan rã thì trở thành khu căn cứ của chúng ta hiện nay. Cam Ranh là một trong những lý do dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung. Ngày nay người ta đã đúc kết được 4 lý do dẫn đến cuộc chiến tranh này là vào thời điểm năm 1979 người Trung Quốc đã đưa quân sang chúng ta với lý do thứ 1 là chúng ta đã trục xuất người Hoa ra khỏi Việt Nam, lý do thứ 2 là chúng ta đã đưa quân sang đánh Campuchia, sau khi chúng ta diệt được Khơme đỏ thay vì chúng ta về lại tiếp tục ở Campuchia điều này đã làm phật ý Trung Quốc vì Trung Quốc là người bạn thân thiết của Campuchia, lý do thứ 3 là vấn đề quần đảo Hoàng Sa, thứ 4 là vịnh Cam Ranh vì sau đó mình đâu để cho Trung Quốc mà nhường lại cho Liên Xô. Trong chiến tranh Việt Nam 1 trong những quốc gia đã giúp cho chúng ta rất nhiều là Liên Xô và Trung Quốc, Liên Xô giúp vũ khí hạng nặng còn Trung Quốc nhẹ như quần áo, vật dụng, súng đạn …cho nên sau năm 1975 chúng ta phải nộp tục là mang tiền, lúa gạo, vàng bạc ra trả cho Trung Quốc trả rất nhiều cho nên phải trả trong thời gian dài mới hết được. Trong thời điểm đó Liên Xô và Trung Quốc có mối quan hệ mâu thuẫn tại biên giới Nga-Trung.
Vịnh Cam Ranh là một vịnh khá kín, dân cư sống chủ yếu bằng nghề nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản, tiểu thủ công nghiệp. Diện tích vùng vịnh kín là 60 km2 và độ sâu trung bình từ 18 – 20 m, xung quanh có núi bao bọc nên vùng biển luôn kín gió. Với diện tích đó vịnh Cam Ranh cho phép nhiều tàu bè cập bến cùng một lúc. Trước năm 1975, Mỹ huấn luyện cá heo để tuần du. Hiện vịnh Cam Ranh chia làm hai khu vực chính trị và kinh tế. Vịnh Cam Ranh còn là nơi để du khách có thể đến ngắm cảnh hay đi bộ trên những đồi cát trắng mịn.
Ở khu vực Khánh Hoà có 1 thung lũng nằm bên tay trái bên dãy Hoàng Sơn gọi là thung lũng Ôkha, ngày xưa đường bay hàng không Việt Nam bay ngang thung lũng này và chỗ đó đã tạo ra gió xoáy gây ra tai nạn máy bay nên sau này người ta mới cho đi vòng ra bờ biển không đi ngang Ôkha nữa.
Những bãi cát ở Khánh Hòa rất đặc biệt khi người ta đào sâu xuống sẽ có nước ngọt cho nên dân đòa phương ở đây người ta đi biển xong người ta vô đào cát lấy nước ngọt ở dưới.
Cam Ranh là 1 trong những nơi có cát rất trắng dùng trong công nghệ kỹ thuật cao như tạo ra những con chíp trong máy vi tính …đặc biệt hiện nay loại dẫn điện tốt nhất làm bằng sợi thủy tinh từ cát mà ra, tên cát hiện nay nổi tiếng ở Việt Nam là Ý Lan.
Từ km 1490 là đến đường rẽ vào bi Di .

Sân bay Cam Ranh
Nằm ở trung tâm bán đảo Cam Ranh, cách thành phố Nha Trang 30 km về phía Nam, sân bay Cam Ranh là một trong số ít sân bay có đường băng lớn và dài nhất nước ta hiện nay, có khả năng tiếp nhận các loại máy bay hiện đại cỡ lớn. Để có được chuyến bay ngày hôm nay – chuyến bay khai trương khai thác thương mại tại cảng Hàng Không Cam Ranh, cụm cảng hàng không miền Trung đã đầu tư hơn 40 tỷ đồng để đưa vào sử dụng khai thác các công trình: hệ thống đường cất hạ cánh, đường lăn, sân đỗ máy bay …

Thành cổ Diên Khánh
Từ thành phố Nha Trang theo quốc lộ 1 về phía Tây chừng 10 km, nhìn bên phải bạn sẽ bắt gặp một dãy tường thành hình lục giác nhưng 6 cạnh không đều nhau, đó là thành cổ Diên Khánh .
Năm 1793, sau khi Nguyễn Huệ mất, nhân lúc nhà Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Anh cùng Võ Tánh, Nguyễn Văn Trương đem quân đánh Diên Khánh. Thấy nơi đây là một địa bàn quan trọng, Nguyễn Anh quyết định xây dựng một vành đai phòng ngự kiên cố và Diên Khánh trở thành một căn cứ vững chắc. Thành Diên Khánh ra đời từ đó.

Thành Phố Nha Trang

 “Đẹp thay non nước Nha Trang

Người đi hồn vẫn mơ màng nơi đâu”.

Nha Trang – thành phố bên bờ biển xanh, “ chiếc boong tàu đầy nắng”, “ lẵng hoa tươi đẹp đặt trên bờ biển đông” … là trung tâm kinh tế văn hóa, du lịch … được xem là tốt nhất nước. Cách thủ đô Hà Nội 1.278km, thành phố Hồ Chí Minh 450km – Nha Trang nằm trong vị trí rất thuận lợi về giao thông – liên lạc. Một đầu mối giao thông lớn và trọng điểm của cả nước, với đầy đủ các yếu tố tự nhiên thuận lợi, đảm bảo cho sự xây dựng một nền kinh tế – văn hóa hoàn chỉnh, tạo điều kiện tốt nhất cho những chuyến viếng thăm của khách trong và ngoài nước.
Thành phố Nha Trang nằm gọn trong một thung lũng trước núi và ven biển. Bắc và nam được giới hạn bởi những dãy núi cao, với những đỉnh cao đạt từ 700 – 900m. Thành phố trải dài dọc theo bờ biển, trước mặt là biển đông mênh mông, với 19 hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác xa gần, trong đó có đảo hòn Tre đứng sừng sững – một yếu tố góp phần tạo dựng một khí hậu tuyệt vời cho Nha Trang. Phía tây thành phố là tuyến QL1 nối Nha Trang với thành Diên Khánh – một vùng đồng bằng trước núi với diện tích không lớn song cực kỳ trù phú của Khánh Hòa. Nơi cung cấp trái cây, rau quả và hoa cho thành phố Nha Trang. Các điều kiện tự nhiên góp phần tạo dựng một cách cũng rất tự nhiên cho Nha Trang một khung cảnh trời mây non nước kỳ thú, với một điều kiện khí hậu tuyệt vời, hiếm thấy ở một nơi nào khác.
Nha Trang có diện tích tự nhiên là 238 ha với dân số là 436.500 người, mật độ là 230 người / km2. Chỉ sau 25 năm giải phóng, diện tích thành phố đã tăng lên gấp 3 lần và dân số tăng lên gấp 4 lần. Nha Trang có chế độ khí hậu cận xích đạo gió mùa, khô ráo và có trên 300 ngày nắng trong năm, đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp của hai dòng hải lưu nóng – lạnh không xa ngoài khơi – một yếu tố ảnh hưởng lớn tới biển Nha Trang. Cùng vĩ độ với Nha Trang nằm ở ngoài khơi Thái Bình Dương là trung tâm xuất phát bão, vậy mà hình như bão không bao giờ ảnh hưởng tới vùng viển Nha Trang. Từ đầu thế kỷ tới nay người ta mới chứng kiến ở Nha Trang có 3 lần có gió lớn ở cấp 7, cấp 8 (1912, 1956, 1988).
Ở Nha Trang không thấy biểu hiện rõ rệt 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông. Thời tiết quanh năm mát mẻ, không lạnh quá cũng không nóng quá như những vùng khác ở Việt Nam. Ngay cả những ngày nóng nhất thời tiết Nha Trang vẫn có những ngày ôn hòa, không oi nồng và thường từ 4h chiều trở đi sẽ đột ngột trở nên dịu hẳn, trời đất trở nên mát mẻ dễ chịu do có gió nồm đông nam thổi vào. Cũng vào những ngày nắng, nóng nhất nhưng nửa đêm về sáng người dân Nha Trang cũng thường dùng một tấm chăn mỏng đắp ngang người để ngủ, trái lại vào những ngày lạnh nhất ở Nha Trang, du khách cũng có thể thấy những nam thanh nữ tú mặc áo ngắn tay dạo phố.
Có lẽ rõ nét hơn cả về chế dọ khí hậu ở Nha Trang là sự phân biệt khí hậu hai mùa mưa và khô. Mùa mưa ở Nha Trang kéo dài từ tháng 9 tới tháng 12, tập trung gần như toàn bộ lượng mưa trong năm với 1.500mm. Mưa ở Nha Trang thường không kéo dài, với những ngày mưa của mùa mưa du khách vẫn có thể gặp những ngày hoàn toàn nắng ráo, trời trong xanh, mây trắng như vào giữa mùa khô. Mùa khô kéo dài suốt 6 tháng đầu năm. Mùa này trời luôn trong xanh, biển lặng, rất ít khi có mưa, độ ẩm thấp – 80% trung bình năm, rất thích hợp cho du khách Tây phương. Thỉnh thoảng du khách có thể gặp những cơn mưa đột ngột và ngắn, sau đó thời tiết đột ngột dịu hẳn đi và cảm thấy dễ chịu và sảng khoái.
Cù Nha Trang là tên gọi con sông Ngọc Hội hay sông Cù, tên Nha Trang la do tiếng thổ âm của người Chàm là Eatang hay Jảtang đọc trại ra mà thành. Ea hay Ja là dòng sông, trang là lau, sậy. Gọi như vậy là do ngày xưa dọc hai bờ sông Nha Trang lau, sậy mọc um tùm, hoa bông lau nở trắng xóa một vùng. Dân Nha Trang thường truyền tụng câu thơ cổ vịnh Nha Trang :

“ Lưỡng ngạn vi lô trường đảo hài
Tú biên hoàng diệp lục vi thu”

Dịch là :

“ Trắng dợp đôi bờ lau tới biển
Vàng lay bốn phía lá gieo thu”

Tên Nha Trang chính thức được sử dụng khi người Việt đặt chủ quyền của mình trên mảnh đất này vào năm 1653. Hơn 3 thế kỷ, trải qua nhiều biến động của lịch sử, ban đầu chỉ là tục danh về sau trở thành địa danh hành chính. Cái tên Nha Trang vẫn tồn tại như một cái tên truyền thống cho đến tận ngày nay.
Còn có một giả thuyết nữa về tên gọi thành phố Nha Trang. Vào đầu thế kỷ này ở Nha Trang còn bao gồm toàn nhà tranh, vách đất. Duy nhất chỉ có nhà bác sĩ Yersin là xây bằng gạch, mái ngói đỏ tươi, tường quét vôi trắng. Một hôm có chiếc tàu buôn nước ngoài ngang qua cửa biển Cù Huân ( cửa lớn Nha Trang ) thì viên chỉ huy hỏi “ Đây là chữ gì?” nhưng người thông ngôn không hiểu ý lại chỉ vào ngôi nhà trắng của bác sĩ Yersin và trả lời “ Đây là nhà trắng” viên chỉ huy liền ghi ngay vào bản đồ, do tiếng nước ngoài không có dấu nên chữ “ Nhà trắng” đã bị đọc thành “Nha Trang” vô tình về sau trở thành cái tên của thành phố, có lẽ đây chỉ là câu chuyện kể cho vui mà thôi.
Nha Trang có nhiều điển tích lạ và hay, người xưa gọi “ Tứ Thủy Triều Quy, Tứ Thú Tụ” đó là 4 mặt có nước bao bọc còn “ Thú Tụ” là hình ảnh tượng trưng cho 4 quả núi hội tụ lại đã giữ gìn anh khí, cảnh sắc, tạo nên một vùng khí hậu tuyệt vời cho thành phố. Bốn quả núi đó là :
Núi Cảnh Long ở Chụt là Con Rồng, vì núi chạy dài từ Cửa Bé ra Cầu Đá dọc theo mé biển và đến Cầu Đá núi lại chạy thẳng ra biển, nên gọi là “Thanh Long hý thủy” (Rồng xanh giỡn nước).
Hòn Sinh Trung ở Hà Ra là Con Voi, vì núi đứng cạnh đầm Xương Huân nên gọi là “Bạch Tượng quyện hồ” (Voi trắng quậy hồ).
Hòn Trại Thủy là Con Dơi, vì trước núi, tại đầu dơi có một bàu nước hình tròn như mặt trăng nên gọi là “Ngọc Bức hàm hoàn” (Dơi ngọc ngậm vòng).
Hòn Hoa Sơn, tục gọi là Núi Một ở phía Tây Nha Trang là Con Rùa, vì trên núi có ngọn cổ tháp nên gọi là “Kim Quy đối tháp” (Rùa vàng đội tháp).
Bốn núi này là bốn thắng cảnh ở Nha Trang mà du khách đến đây không thể không một lần ghé thăm. Từ vị trí của quần thể tháp Pônaga, từ trên lầu chuông của nhà thờ Chánh Tòa ( nhà thờ Đá ), hay từ nơi tọa chủ Thích ca Phật Đài, du khách có thể phóng tầm mắt ngắm toàn cảnh thành phố Nha Trang. Xa xa là biển xanh mênh mông, du dương, lâng lâng, nhịp nhàng theo làn điệu ngàn đời của sóng, gần hơn dưới chân du khách là những dãy phố chia dọc ô bàn cờ, bên cạnh những thảm dừa xanh biếc, hàng hàng, lớp lớp, soi mình nghiêng bóng xuống sông nước Nha Trang. Nếu từ tháp Bà hay từ cầu Xóm Bóng nhìn ra, du khách không thể không “Ồ” lên kinh ngạc và thích thú khi nhìn toàn cảnh xóm Bóng – bến cá Nha Trang đẹp như tranh vẽ với những lớp nhà cao thấp nhô xen nhau san sát trên bến dưới thuyền suốt ngày thuyền bè tấp nập ra vào trời mây, sông biển, núi non ở Nha Trang quy tụ, khăng khít bên nhau, gắn bó thủy chung như tình yêu trai gái trên bãi biển cù lao này.
“Đứng giữa hòn Chồng trông sang hòn Yến
Lên tháp Bà về viếng Sinh Trung
Giang ơn cẩm tú chập trùng
Đôi ta gắn bó thủy chung một lòng”.
Tới Nha Trang nếu du khách chưa thưởng thức gió biển mặn mà, tắm táp vùng vẫy dưới nước biển trong xanh tinh khiết, phơi mình trên bãi cát trắng mịn màng dưới ánh nắng chan hòa của bình minh hay hoàng hôn dịu dàng để làn da, cơ thể, được lớp lớp sóng biển hay những làn gió nhẹ nhẹ vuốt ve, mơn trớn thì thực sự chưa biết tới Nha Trang. Bãi biển ở đây thật tuyệt vời, chạy dài tới 7km giống như một lưỡi liềm bằng bạc, cán ở nơi xóm Cồn, mũi chạy tận vùng núi Chụt ( cảng Cầu Đá ) khoảng giữa phình rộng, được sóng biển mài dũa, bồi đắp sáng choang dưới ánh nắng mặt trời. Đứng trước cảnh trời * biển Nha Trang ai không khỏi vướng tình nước mây như bài hát xưa đã truyền tụng.
“ Bãi biển Nha Trang mịn màng trắng trẻo
Nước trong leo lẻo gió mát trăng thanh
Đêm đêm thơ thẩn một mình
Đố sao không khỏi vướng tình nước mây”.
Đúng vậy biển Nha Trang quyến rũ đến mê hồn, tựa như một thiếu nữ vốn đã “ dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên” nay lại được tô điểm thêm dáng vẻ bên ngoài lại càng lộng lẫy và hấp dẫn hơn. Chạy dài suốt bờ biển là đường Trần Phú, bên cạnh là những hàng dừa hay tập hợp những cây phi lao được cắt xén, tỉa cành tạo nhiều hình dáng lấp lánh và đẹp mắt. Lác đác đó đây còn tồn tại những cây phi lao hàng trăm năm tuổi với các kiểu: lọng, ô, chung, thú. Dưới hàng dừa và những hàng phi lao là những kiôt, quán gió – kiểu như quán gió Hồ Tây – Hà Nội, nơi bày bán đủ các loại nước, trái cây và nhiều đặc sản địa phương. Bên kia đường là những tòa biệt thự với nhiều kiểu kiến trúc tân ky khác nhau. Nằm vào những vị trí thuận lợi nhất cho sinh hoạt, vui chơi giải trí là những khách sạn khang trang của công ty du lịch Khánh Hòa như Thắng Lợi, Thống Nhất, Hải Yến, Viễn Đông, Sài Gòn – Nha Trang, Nha Trang logde luôn luôn đón tiếp du khách một cách nồng hậu và sẽ được thưởng thức những đặc sản ngon tươi nhất vừa mới được lấy lên từ dưới lòng biển.
Du khách tới Nha Trang sẽ không tìm thấy những tòa nhà cao tầng như ở Tp. HCM hoa lệ, mà đa phần là những ngôi nhà 2, 3 hay 4 tầng lầu. Lối kiến trúc này cân xứng với những thành phố biển nhẹ nhàng, yên tĩnh, thanh bình. Những tòa biệt thự thường thấp thoáng ẩn hiện dưới bóng dừa xanh, hay dưới những hàng cảnh tạo dáng công phu và đầy tính nghệ thuật, hay bằng những giàn hoa phong lan đủ loại, đủ màu sắc, tỏa hương dìu dịu. Tất cả những tòa nhà đều toát lên một vẻ hài hòa, thanh thoát bởi những đường nét, hình ảnh nhẹ nhàng mà phóng khoáng. Cuộc sống của người dân Nha Trang cũng vậy không ồn ào, náo nức như những đô thị khác ở miền Nam, mà nó chứa đựng một nét độc đáo riêng, rất thú vị, bình dị, thanh tịnh, phù hợp với khung cảnh thành phố du lịch. Nha Trang từng là nơi cư trú, ẩn dật của nhiều sỹ phu, những nhà nho yêu nước “công không thành, danh không toại” muốn tránh sự đời đầy bon chen và bất công, có lẽ cái triết lý của Lão Tử đã ăn sâu vào tâm khảm của mỗi người dân Nha Trang nhiều đời. Người ta muốn về với thiên nhiên cẩm tú này, tuyệt hết cái nghĩ ngợi ham muốn, vứt bỏ những bon chen, đố kỵ của đời thường để sống cuộc sống thanh sạch, yên bình hơn, hòa mình, gần gũi với thiên nhiên hơn đúng như Bạch Vân cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng vịnh :
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.
Có lẽ chỉ thế “địa lợi, nhân hòa” của non nước Khánh Hòa đã vun đúc tính cách của người dân nơi đây từ đời này qua đời khác. Nha Tang – Khánh Hòa xưa đúng là một địa danh lý tưởng cho những ai thích sống cuộc đời như vậy.
Gió biển Nha Trang tuyệt vời cũng góp phần quyến rũ thêm cho du khách, đó là một thứ gió dịu dịu, êm êm, cũng như nước biển nó có nồng độ Brôm và Iốt gia tăng, cũng góp phần kích thích hô hấp, gia tăng khả năng tuần hoàn trao đổi chất của cơ thể, làm cho du khách cảm thấy ăn ngon miệng hơn, giấc ngủ sâu hơn, tinh thần sảng khoái hơn, chóng lại sức và tăng nhanh sức khỏe.
Người Nha Trang coi tắm biển là một nhu cầu sinh hoạt bình thường của cuộc sống hàng ngày. Suốt từ sáng tinh mơ đến chiều tối bãi tắm Nha Trang luôn nhộn nhịp tấp nập. Thậm chí ngay cả những trưa hè nắng chói chang, những buổi sáng mùa đông lạnh lẽo, hay cả những ngày biển động … du khách vẫn có thể bắt gặp người Nha Trang tắm biển. Người ta tắm cho tâm hồn và thể xác sảng khoái trước giờ làm việc, trước lúc trưa và sau một ngày lao động mệt nhọc, rũ bỏ hết những bụi bặm, mệt mỏi, rồi sau đó sẽ tận hưởng cái khoảng thời gian dành riêng cho mình. Nha Trang quả là một viện điều dưỡng thiên nhiên lớn, nơi bồi bổ và giữ sức khỏe tuyệt vời. Đúng như bác sĩ Yersin từng nói “ai sống ở Nha Trang sẽ tăng thêm tuổi thọ”.
Nước biển Nha Trang quanh năm trong xanh do chế độ biển ở đây gần giống với đại dương. Đáy biển đạt hàng chục mét độ sâu khi ra xa chỉ khoảng vài trăm mét, hàng trăm mét khi ra xa 50 –70 km và cả hàng ngàn mét khi ra xa 100km. Nha Trang có 19 hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác xung quanh và chen nhau xa gần – một yếu tố tự nhiên rất quan trọng tạo nên điều kiện khí hậu, chế độ thời tiết và chế độ biển Nha Trang. Nhờ chúng sóng gió lớn thường đổ về Nha Trang sẽ bị chặn đứng lại giảm đi một phần lớn. Cũng nhờ chúng bức tranh sơn thủy hữu tình của Nha Trang được tôn lên tạo nên một thế giới huyền ảo đầy màu sắc tự nhiên làm cho du khách dù chỉ một lần viếng thăm cũng không thể không ghi một ấn tượng nhớ mãi trong lòng. Gần nhất và lớn nhất là hòn Tre, trông xa như một con cá sấu khổng lồ đang trườn giữa hồ nước mênh mông trong xanh. Đảo có những đỉnh cao nối tiếp nhau, cao nhất là đỉnh hòn Tre với 482 m, hòn Lớn 414 m. Vì vậy nhiều khi người ta còn gọi là đảo hòn Lớn. Trên đảo có bãi tắm thiên nhiên thuộc loại lớn nhất Nha Trang và tốt nhất Nha Trang như bãi Trũ có thôn Bích Đầm – một cơ sở cách mạng nổi tiếng trong hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ – nằm đối diện với thành phố Nha Trang, song lại có một thế giới sinh hoạt riêng của mình.
Những hòn đảo khác nhỏ hơn nằm rải rác trên biển tạo nên những hình thù ngoạn mục. Có hòn như một con Rùa lớn đang bơi, có hòn như chiếc nón bài thơ úp giữa biển, hòn tựa cái nghiên mực, có hòn tựa như cánh buồm lớn trôi lơ lửng nửa chìm, nửa nổi với màu sắc thay đổi tùy tâm trạng biển cả – khi nâu, khi xanh lơ, khi đen sẫm, khiến cho du khách không thể không liên tưởng đến một truyền thuyết xa xưa kể về hòn chồng và hòn vợ với đôi vợ chồng chài lưới chung thủy… nằm kế hòn Tre là hòn Miễu hay còn gọi là đảo Bồng Nguyên, nơi có làng chài và hồ cá Trí Nguyên – một điểm du lịch độc đáo và hấp dẫn một sản phẩm du lịch độc đáo nhất của cả nước. Rồi hòn Yến, hòn Tzừm, hòn Mun, hòn Nội, hòn Ngoại … trong đó có những hòn là quê hương của hàng vạn loài chim yến biển thuộc nhóm Salangane, sinh sống và làm tổ bằng chính nước dãi của mình trong những vách đá, hốc đá cheo leo. Đây là một đặc sản thiên phú trời cho biển Nha Trang được xếp vào hàng “bát trân” trong yến tiệc của vua chúa ngày xưa: nem công, chả phượng, da tê ngưu, bàn chân gấu, gân nai, môi đười ươi, thịt chân voi và yến xào. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Nha Trang – Khánh Hòa được mệnh danh là “ sứ trầm, biển yến”, nơi “ vàng chôn, ngọc chứa” của tổ quốc :

“Đảo xanh lố nhố
Biển bạc mênh mông
Lộc trời ban xuống Nha Trang
Vàng chôn, ngọc chứa
Đầy hang yến sào”.

Hay :

“Chung tình biển rộng non cao
Không bao giờ hết yến sào Nha Trang
Lỡ khi mưa nắng phũ phàng
Vàng chôn, ngọc chứa sẵn sàng là đây”.

Yến sào không những có giá trị kinh tế cực lớn, mà theo cụ Quách Tấn nó còn là hình ảnh tượng trưng cho “cái cao, cái đẹp, cái bất biến, cái vô cùng của tình người – những con người có lương tâm”.
Đến Nha Trang du khách có thể thưởng thức các món yến ở khách sạn, nhà hàng sang trọng. Nhân đây cũng xin nói qua một chút cách chuẩn bị và cách ăn món yến. Tổ yến được ngâm vào nước trong khoảng 2h để chúng tự giã thành sợi, yến càng tốt thì càng bị tan trong nước, sau đó bỏ thêm một ít dầu lạc và khuấy đều để chất dơ và lông chim quyện vào dầu lạc, vớt bỏ. Những lông chim còn sót lại phải dùng nhíp nhặt cho hết. Dùng một chiếc liễn sứ bỏ chim vào đun cách thủy, tùy khẩu vị của từng người mà có thể thêm vào bột sắn dây, miến, nước cốt gà, bò, nước đường phèn hay hạt sen. Món quý phái nhất là món nấu theo kiểu tàu : bồ câu non nấu cách thủy với yến, yến được múc ra ly, chén sứ, thìa muỗng tốt nhất phải là đồ sứ. An yến thường vào buổi chiều. Trước khi ăn yến cần phải tắm rửa sạch sẽ cho cơ thể được thơm tho thanh thoát, dùng một bộ đồ thật rộng và thoải mái rồi lên giường nằm tĩnh dưỡng khoảng 30 phút, người dùng yến có thể nằm hơi nghiêng, đầu hơi cao, kiểu như người ta chuẩn bị hút thuốc phiện. Sau đó người nhà sẽ dùng thìa bón từng thìa thư thả nhẩn nha. An xong cứ tư thế đó mà ngủ một mạch cho tới sáng, giấc ngủ sẽ sâu và không có mộng mị, sáng ra nếu ai có bệnh sẽ cảm thấy sức khỏe được phục hồi tới 70% sinh lực, tâm hồn và thể chất sẽ cảm thấy thoải mái, sảng khoái, nhẹ nhàng khiến cho ngay cả người dùng yến cũng phải ngạc nhiên đến lạ lùng. Những người khỏe mạnh, bình thường sẽ thấy món yến ít tác dụng hơn và không thấy rõ nét.
Yến có thể chữa được các bệnh động kinh, đi tướt của trẻ em, và đặc biệt là tráng dương. Người ta thường truyền tụng rằng vua Minh Mạng vì thường xuyên dùng món yến mà một đêm có thể “ ban ơn mưa móc” cho tới 5 bà đã cho ra đời 78 hoàng tử và 64 công chúa và trong hai mươi năm trị vì ( 1820 – 1840 ) đã làm việc rất nhiều với trí tuệ minh mẫn, mang lại nhiều thành quả tốt đẹp cho đất nước trên nhiều mặt, hành chính, kinh tế, văn hóa – xã hội.
Đáy biển Nha Trang là nơi quần tụ của những rặng san hô muôn hình vạn sắc, tạo điều kiện cho việc sinh sôi nảy nở hàng ngàn sinh linh biển – một tài sản vô tận cho Nha Trang – Khánh Hòa.
Nếu có dịp ngắm biển Nha Trang vào một đêm trăng sáng thì trước mặt du khách sẽ là một tấm nhung trắng kết hoàng bào, dưới vòm nhà bằng bạch cẩm nạm kim cương. Nếu vào đêm tối trời, ánh đèn của thuyền bè sẽ lấp lánh như ngàn vạn sao sa, cả trời biển, non nước sẽ như một tấm nhung đen trải hồng bào, xích bao, hoàng bào, khung cảnh tựa như một bức tranh trang trí cho một đền thờ huyền ảo của người An Độ.
Phong cảnh của Nha Trang hữu tình, con người Nha Trang luôn chân tình đón chào du khách, phơi nắng và tắm biển, thăm viếng những di tích lịch sử – văn hóa và thắng cảnh, thưởng thức những món đặc sản, dùng những loại thuốc bổ, rượu bổ được chế biến tữ những sản phẩm của biển và rừng, mua sắm đồ mỹ nghệ đầy tính dân tộc và mang đậm bản sắc địa phương… chắc chắn du khách sẽ hài lòng vì đã chọn đúng một chuyến du lịch lý thú và ý nghĩa, không thể nào quên thành phố xinh đẹp bên bờ biển xanh này.

 Tuyến Tp.HCM -> Tp.Qui Nhơn (670km) -> Quảng Ngãi (755km)-> Đà Nẵng (977km)

Đèo Rù Rì :
Ở về phía bắc của thành phố Nha Trang chỉ dài hơn 1km nhưng lại có nhiều đoạn quẹo chữ Z rất nguy hiểm. Rù Rì là do tên Rủy của viên kỹ sư Pháp làm đèo này xưa kia hình thành, cũng nằm trên QL1A.

Đèo Rọ Tượng :
Qua cầu Suối Tre là tới đèo Rọ Tượng. Đèo dài hơn 1km trước đây vua Quang Trung chọn nơi này làm nơi huấn luyện tượng binh trên đường tiến quân vào nam chinh phạt quân Nguyễn Anh và bè lũ nên mới có tên là như vậy. Ngay đèo Cổ Mã quẹo phải đi vào 18 cây số chúng ta sẽ vào trong rừng Văn Phong, nơi đây có bãi tắm Xuân Đình vịnh Văn Phong , KDL Đầm Môn rất nổi tiếng.

Bãi biển Đại Lãnh
Nói đến bờ biển Khánh Hòa, không thể không nói đến bờ biển Đại Lãnh. Đại Lãnh nằm giữa hai đèo, đèo Cổ Mã phía Nam và đèo Cả phía Bắc, bãi tắm Đại Lãnh được cấu tạo thuần khiết với một thứ cát trắng mịn, đầm nét chặt chẽ, không hề gợn một cảnh san hô hay đá sỏi vụn, lại có độ thoai thoải lớn. Bãi tắm Đại Lãnh còn có một ưu điểm là ngay giữa khu vực bãi tắm lại có một nguồn nước ngọt chảy ra từ chân núi hoà vào biển cả, nước quanh năm mát lạnh, tinh khiết.
Đại Lãnh từ xưa đã được vào hàng danh lam thắng cảnh của cả nước. Năm 1836, vua Minh Mạng đã cho chạm trổ cảng Đại Lãnh vào một Cửu Đinh đồng trang trí trước sân Thế Miếu của đất đế đô. Năm 1853, dưới thời vua Tự Đức, Đại Lãnh lại được giới thiệu trong “Tự điển quốc gia” do triều đình biên soạn.
Đến Đại Lãnh, du khách có thể dọc theo dãy phố chính hoặc đi sâu vào làng chài, để tìm hiểu lối sống và cung cách sinh hoạt của người dân Đại Lãnh, hoặc mua hải sản khô làm quà. Ngoài ra du khách còn được thưởng thức các món hải sản tươi rói vừa được đánh bắt từ biển với cách chế biến phong phú và đâm đà hương vị địa phương.

Huyện Vạn Ninh :
Huyện Vạn Ninh là một huyện địa đầu cực bắc của tỉnh Khánh Hòa, nằm phía ngang đèo Cả. Với diện tích tự nhiên là 550k2 trong đó ¾ diện tích là rừng, Vạn Ninh có 12 xã và 1 thị trấn với dân số là 125.118 người, mật độ dân số 229 người/ km2. Dân cư sống chủ yếu bằng nông nghiệp và lâm nghiệp. Thị trấn huyện lỵ là Vạn Giã cách Nha Trang 60km, có đường sắt xuyên việt chạy ngang huyện với các ga Đại Lãnh, Tu Bông … Vạn Ninh có nhiều danh lam thắng cảnh kỳ thú, nổi tiếng nhất là bãi biển Đại Lãnh. Tại nơi đây vua Minh Mạng đã chọn là nơi được khắc vào một trong chín đỉnh đồng đặt tại Thế Miếu. Phía nam Đại Lãnh có một vùng non nước kỳ thú được hiệp hội du lịch thế giới ( WTO ) và hiệp hội phát triển Liên hiệp quốc ( UNDP ) đánh giá là khu du lịch nhiệt đới phối hợp với bãi tắm Vân Phong là một trong những thắng cảnh quyến rũ nhất khu vực Châu Á và viễn đông. Vị trí nơi có phần đất vươn ra biển đông xa nhất nước. Có đặc tính của vùng vịnh kín, độ sâu trung bình khoảng 20 – 27 m, gần đường hàng hải quốc tế đã tạo ra một khả năng lớn để khai thác cảng biển, cảng chuyển tải quốc tế, dịch vụ thương mại. Vịnh Vân Phong còn là cảng biển lý tưởng của các cảng biển trên bán đảo Đông Dương và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, ngoài ra ở Vạn Ninh còn có cảng Đầm Môn là cảng sâu nhất miền Trung ( tàu 30.000 tấn ) có thể ra vào.
Khoáng sản có cao lanh Xuân Tự, cát trắng Đầm Môn, sa khoáng imenit Vĩnh Yên, granit Tân Dân, vàng Xuân Sơn … trong đó cát trắng Đầm Môn và granit Tân Dân có trữ lượng khá lớn.

Đèo Cả
Đèo Cả là tên một dãy núi cao thuộc hệ thống núi đông Trường Sơn, có sườn phía đông dốc đứng và tiếp xúc thẳng với biển Đông. Trên đỉnh đèo Cả – nơi có QL1 chạy qua là ranh giới phân chia giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ( cách thành phố Nha Trang 90 km và thị xã Tuy Hòa 30 km). Đây là một địa danh rất nối tiếng được khách phương xa biết đến bởi dưới chân có Vũng Rô sâu thẳm và bãi biển Đại Lãnh được xếp vào loại đẹp nhất nước ta.
Dãy đèo Cả có cấu trúc địa chất khá điển hình, đó là một phức hệ đá xâm nhập bao gồm hầu như một loại đá Granit ( đá hoa cương) kết tinh hạt rất thô, độ bền cực cao, mức độ nứt nẻ thấp và thường có những monolith (khối), kích thước lớn – một nguyên liệu thiên nhiên lý tưởng cho nghệ thuật tạo hình và cho công nghệ đá trắng lát. Phức hệ đá Granit đèo Cả được các nhà địa chất học điển hình hóa và lấy tên gọi chung cho tất cả các thành tạo xâm nhập được hình thành vào cuối thời cainozo, có cùng cấu tạo và thành phần ở suốt một dãy của Nam Trung Bộ – phức hệ đèo Cả.
Đường thiên lý bắc nam uốn lượn khuất khúc, quanh co trên 10km lưng chừng đèo Cả. Đèo Cả thuộc địa phận tỉnh Phú Yên thì rất dốc. Sau những cánh đồng lúa bát ngát của Tuy Hòa là đột ngột núi cao xuất hiện với nhiều hẻm vực. QL1 lúc ẩn, lúc hiện trên lưng chừng đèo, cố gắng nâng dần bình độ đạt đến đỉnh cao, khiến cho du khách nhiều phen hồi hộp đến toát mồ hôi khi nhìn thấy những hẻm sâu thăm thẳm dưới chân đèo. Ở địa phận của tỉnh Khánh Hòa, dộ dốc của đèo tương đối thấp hơn, dưới chân là biển Đông, Vũng Rô xanh ngát một màu. Cuối đèo Cả là cánh cung Đại Lãnh, một làng chài, một bãi biển nức tiếng gần xa.
Trên đèo Cả có đỉnh núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) cao 706m, đứng sừng sững, uy nghi, sáng sớm và chiều chiều mây phủ tứ bề, khi ẩn khi hiện. Trong “Lịch triều hiến chương loạn chí” có ghi: “ Thạch Bi Sơn ở bờ biển là chỗ phân chia địa giới giữa các triều trước với nước Chiêm Thành”. Vua Lê Thánh Tông từng sai đục đá làm bia để giới hạn và lưu lại những tích. Tuy nhiên cho tới nay những nhà khảo cổ học đã dày công tìm kiếm xung quanh và trên tảng Đá Bia khổng lồ này, song vẫn chưa tìm thấy bút tích nói trên.
Núi Đá Bia nhô hẳn mình ra biển Đông kéo dài tạo nên một bán đảo che chắn sóng gió cho Vũng Rô. Bởi vậy cảng Vũng Rô tuy có sâu, nơi sâu nhất có thể đạt mức nước là 16m mà quanh năm vẫn sóng yên biển lặng. Trước năm 1975 nơi đây từng là cảng quân sự của Mỹ – Ngụy, đảm bảo tiếp tế hậu cần cho những căn cứ quân sự kéo dài tới 20 km suốt từ Đà Nông đến Đông Tác. Và cũng thật thú vị khi du khách biết rằng chính nơi đây Vũng Rô cũng là nơi tiếp nhận vũ khí, đạn dược và các phương tiện chiến đấu từ miền Bắc vào chi viện cho chiến trường quân khu V, được chuyên chở bằng những con tàu không số của Hải quân Việt Nam, làm điên đảo những bộ óc chuyên tính toán bằng máy móc của Lầu Năm Góc – Hoa Kỳ. Biết bao tấn vũ khí đạn dược, muối, gạo, thuốc men đã được bốc lên từ Vũng Rô và vận chuyển trên những đọan đường này để tới tay các chiến sỹ giải phóng, các chiến sỹ cách mạng mật trong các căn cứ và đô thị. Ở Vũng Rô hiện nay vẫn còn xác một con tàu không số từ miền bắc vào bị lộ. Các chiến sỹ của ta tranh thủ bốc hết hàng, đặt bộc phá đánh đắm tàu, đặt thuốc nổ đánh sập cửa hang, không cho địch cướp toàn bộ vũ khí trong hang, sau khi đã chuyển được một phần lên căn cứ.
Dừng chân trên đèo Cả, phóng tầm mắt ra xa, du khách sẽ có dịp ngắm toàn cảnh Vũng Rô hùng vĩ, núi Đá Bia uy nghi, những hòn đảo xa, gần quy tụ lại tạo nên một bức tranh sơn thủy tuyệt vời. Du khách còn biết lưu luyến và thương mến nơi đây hơn khi biết rằng Vũng Rô và Thạch Bi Sơn đã bao phen chững kiến những thăng trầm của lịch sử đất nước, tạo nên những điển tích vẫn còn lưu luyến đến ngàn đời sau.

Vũng Rô
Trong chiến tranh Việt Nam đường mòn Hồ Chí Minh đã chi viện cho Việt Nam trên dãy Trường sơn , tuy nhiên để góp công vào sự chiến thắng cu#a quân ta chống Mỹ cứu nước, một con đường khác góp phần không nhỏ và đã tạo nên thắng lợi đó là con đường Hồ Chí Minh trên biển.
Bên tay phải là cảng Vũng Rô, là một cảng biển rộng, nơi sâu nhất có thể lên đến 15-16 m. Vũng Rô được chắn bởi núi Đá Bia hùng vĩ. Trước năm 1975, đây là cảng quân sự chiến lược đảm bảo cho việc tiếp tế hậu cần cho các căn cứ quân sự Mỹ và quân đội Sài Gòn. Đây đã từng là nơi để cho những con tàu thông số đi trên đường mòn Hồ Chí Minh trên biển cập vào đây chi viện hàng hoá, súng ống, đạn dược…phục vụ cho miền Trung cũng như miền Nam để giải phóng đất nước.
Cảng Vũng Rô hiện nay rất kín gió do có hệ thống núi bao quanh , cho nên đó là một cảng rất tốt nên có rất nhiều bãi biển đẹp như: bãi biển cây Bàng …
Tại cảng Vũng Rô, nơi tiếp nhận những con tàu thông số để di chuyển vũ khí, đạn dược từ ngoài Bắc vào. Tại nơi đây dẫn đến sự kiện do Mỹ-Ngụy đã phát hiện ra đường mòn Hồ Chí Minh là do Vũng Rô này. Nếu không có sự kiện Vũng Rô vào ngày 15-2-1965 thì đường mòn Hồ Chí Minh trên biển không bị lộ.
Ở dưới đây còn rất nhiều một số xác của những con tàu thông số nằm dưới đây. Bắt đầu từ đó mà việc vận chuyển vũ khí trở nên khó khăn.
Vừa qua năm 2005 người ta đã làm lễ cho những người tham gia trên con tàu thông số rất lớn.
Mốc lịch sử năm 1954 sau khi Pháp bị chúng ta đánh tan buộc người Pháp phải ngồi vào bàn ký hiệp định Giơnevơ với các nước Đông Dương, trong đó có một điều khoa#n dành riêng cho Việt Nam chúng ta là nước Việt Nam chúng ta dự kiến tạm thời sau 2 năm tổng tuyển cử bầu ra một chế độ độc lập để thống nhất được 2 miền. Trong khoảng thời gian này có 2 tháng ai ờ ngoài Bắc, tất cả lực lượng của Pháp dồn hết dân tập kết vào miền Nam, lực lượng của miền Nam tập trung ra hết một phía. Cho nên một số người dân ngoài Bắc theo Pháp vào Nam đa phần là công giáo, một số người miền Nam những người theo cách mạng đi ra Bắc người ta gọi là tập kết ra Bắc. Miền Bắc sau naêm 1954 thực hiện những kế hoạch 3 năm, 5 năm tiến lên xã hội chủ nghĩa vững mạnh chi viện cho miền Nam. Ở miền Nam người Pháp đã xây dựng một chế độ cộng hoà, còn ở miền Bắc là xã hội chủ nghĩa, hay còn gọi là quá #ộ thời kỳ chủ nghĩa. Người Pháp đã đặt chế độ Ngô Đình Diệm lên và được Mỹ ủng hộ, cũng chính Ngô Đình Diệm lập ra bầu cử. Sau trận đánh Điện Biên Phủ do lực lượng nước ta còn non trẻ cho nên chỉ giải phóng được một nửa đất nước. Trong khoảng thời gian từ năm 1954 trải dài đến 1960 là thời kỳ chúng ta gần như không đánh trả .Vì vậy mà Pháp đã đưa ra nhiều bộ luật giết hại rất nhiều người dân, nhưng chúng ta không đánh trả vì như vậy la# chúng ta đã sai hiệp định, cho đến năm 1960 nhân dân đã không chịu được sự áp bức bóc lột nên dẫn đến bùng nổ phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre. Khoảng năm 1958 bác Hồ cũng như đảng và nhà nước đã thấy được những âm mưu này và không thể nào hòa hoãn được, buộc chúng ta phải đánh bằng vỏ tre, và chúng ta đã thắng .
Hiện tại Vũng Rô còn xác một con tàu không số từ miền Bắc vào bị lộ. Các chiến sĩ đã tranh thủ bốc dỡ hàng hóa và đặt mìn đánh đắm tàu.

Mũi Kê Gà
Dân địa phương còn gọi là Mũi Điện. Nằm trong cụm du lịch Đèo Cả-Vũng Rô, cách thành phố Tuy Hoà khoảng 40 km về phía Nam. Đây là điểm cực Đông trên đất liền Việt Nam, có tọa độ địa lý 12053’40” Vĩ độ Bắc và 109027’12” Kinh độ Đông. Trên mũi Đại Lãnh có tháp Hải Đăng được xây dựng cách đây 112 năm (1890). Đỉnh ngọn Hải Đăng cao 110 m so với mặt nước biển.
Dưới chân núi Mũi Đại Lãnh có Bãi Môn rộng khoảng 16 ha, có con suối nước ngọt chảy từ trong núi ra, không bao giờ cạn, đây là bãi tắm rất lý tưởng, có thể hình thành khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí thể thao, cắm trại và tổ chức các hoạt động đón bình minh sớm nhất đất nước.

Núi Đá Bia
Qua khỏi cua Đá Đen trên đèo Cả phía tỉnh Khánh Hòa, khách lữ hành dễ nhận ra Bên phía tay phải có Núi Đá Bia hay còn được gọi là Thạch Bia Sơn cao 65m rộng 27m; núi cao 706m, bởi trên đỉnh núi có một tảng đá rất lớn. Theo một tư liệu của Pháp (được ông Võ Liệu dịch, đăng trên tạp chí Giáo Dục Phổ Thông số 44, năm 1962), núi Đá Bia còn có một tên gọi khác lý thú do người Pháp đặt: “Ngón tay của Chúa”.
Núi Đá Bia là một trong số nhiều đỉnh cao của quần sơn Đại Lãnh, nằm ở phía bắc Đèo Cả. Cái làm cho ngọn núi này trở thành linh sơn (núi thiêng) chính là một khối đá cao lớn, cách xa cả chục kilomet vẫn nhìn rõ, nhô cao trên đỉnh núi như một chiếc sừng tê giác khổng lồ. Theo sử cũ thì vào năm 1471, vua Lê Thánh Tông trong lần cử binh Nam tiến đánh Chăm Pa đã qua đây. Trước cảnh núi non hùng vĩ trùng điệp nhà vua đã cho dừng binh. Thấy tảng đá kỳ lạ nằm trên đỉnh núi như thế nhà vua đã chú ý. Sau khi chiến thắng Chăm Pa vua quyết định lấy đèo Cả làm giới tuyến tự nhiên giữa Đại Việt và Chăm Pa và để ghi nhận sự kiện này, vua đã cho người tìm đường lên tận đỉnh núi khắc vào một mặt của tảng đá một dòng chữ Hán như sau:

“Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong
An Nam quá thử, tướng chu binh chiết”

Có nghĩa là: Chiêm Thành qua đây, quân thua nước mất. An Nam qua đây, tướng chết binh tan. Đây như một lời thề không xâm phạm lẫn nhau của vua Lê Thánh Tông. Sau đó núi này được đặt tên là Thạch Bi Sơn. Ngày nay do thời gian tàn phá những chữ chạm khi xưa đã không còn nữa nhưng Thạch Bi Sơn vẫn sừng sững như thách đố thời gian và làm một điểm nhấn cho không gian dưới chân đèo Cả. Đến gần, tùy theo góc nhìn mà chiếc sừng tê giác khổng lồ này có những hình dạng rất khác nhau: một tấm bia đá khổng lồ, một con sư tử nằm xuôi theo sườn dốc, một thầy tu đang ngồi thiền hoặc một nhà sư đang xuống núi.
Người Phú Yên còn gọi khối đá là chiếc Linga vĩ đại của tỉnh Phú Yên (Linga: cột đá thiêng hình sinh thực khí của giống đực, biểu tượng của thần Siva theo tín ngưỡng Chămpa). Không ít lần Đá Bia bị sét đánh làm cho màu đá càng trắng ra chứ không đổ.
Đã từ nhiều đời nay, người Phú Yên chỉ cần nhìn Đá Bia là có thể dự báo đúng thời tiết: nếu mây phủ Đá Bia thì chắc chắn trời sẽ mưa. Sườn bắc của khối núi Đèo Cả là sườn hứng mưa, đặc biệt vào mùa chính của gió đông bắc (tập trung từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau). Vào mùa này trung bình cứ 3 ngày thì có đến 2 ngày mưa. Vùng núi Đồng Cọ thuộc xã Hòa Xuân Nam, huyện Tuy Hòa có kiểu mưa địa hình rất đặc biệt: đang nắng có thể mưa to ngay được, có khi mưa rách lá chuối đầu làng, nhưng cuối làng vẫn khô ráo. Người địa phương gọi kiểu mưa đặc biệt này là "Mưa Đồng Cọ".
Khi có mưa Đồng Cọ ắt có gió Tu Bông. Tu Bông - tên chữ là Tụ Phong (họng gió) - là một địa điểm phía nam Đèo Cả thuộc huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa, đối diện với Đồng Cọ qua một khe núi sâu. Sau khi trút mưa ở Đồng Cọ, gió đông bắc bị ép vào khe núi này, thoát ra Tu Bông thành một loại gió tố rất mạnh. Cây cối Tu Bông có thân cong như cánh cung. Khách bộ hành có thể bị gió xô xuống ruộng.
Chế độ thời tiết lắm mưa nhiều mây đã làm cho khu rừng đặc dụng Bắc Đèo Cả có một hệ thực vật rất đặc biệt. Ngày trước, đây là vùng cung cấp trầm hương và kỳ nam nổi tiếng. Hiện nay vẫn còn một tập đoàn cây quý như cẩm, thị, sao, chò, dầu, kiền kiền, đặc biệt là cây đát và tuế lá dừa. Cây đát có hạt rất đặc biệt: khi bóc vỏ, hạt đát cho một cùi trắng trong, dẻo, không thể thiếu trong món chè trái cây nổi tiếng ở Nha Trang.
Tuế lá dừa là một loại cây cảnh đẹp, có thể cao đến 6 mét, mọc dày trên sườn núi, nhất là phía Bắc Đèo Cả. Ngoài ra lau núi cuối năm nở hoa trắng xóa. Trong gió lạnh, những trảng bông lau dập dờn như làn sóng, tạo ra hình ảnh nên thơ của Đèo Cả suốt cả trăm năm qua.
Thực ra tên Đèo Cả mới có từ thời Pháp thuộc, khi quốc lộ 1A được mở. Trước đó, đường thiên lý Bắc Nam là một tuyến đường núi nhỏ hẹp, hiểm trở, khó đi, nằm về phía tây đường Đèo Cả bây giờ, được gọi là đường Gia Long. Khối núi Đại Lãnh hiểm trở đã góp phần làm dừng bước chân nam tiến của Vua Lê Thánh Tông năm 1471. Nhà vua phải lập một tiểu vương quốc ở vùng đất Phú Yên bây giờ gọi tên là nước Hoa Anh, làm vùng đệm giữa Đại Việt và Chiêm Thành để tránh đụng độ quân sự trực tiếp giữa hai nước. Nhưng trên thực tế, quân đội Chiêm Thành do thông thạo những tuyến đường mòn xuyên qua khối núi Đại Lãnh, đã không ít lần đột nhập cướp phá nước Hoa Anh.
Năm 1653, tuân lệnh chúa Nguyễn Phúc Tần, Cai cơ Hùng Lộc tấn quân đến tận Phan Rang, thâu tóm vùng đất Khánh Hòa này vào xứ Đàng Trong, chấm dứt vai trò biên giới của vùng núi Đại Lãnh suốt 182 năm không dứt tiếng gươm khua ngựa hí.
Hơn 100 năm sau, địa thế chiến lược của vùng núi Đại Lãnh đã thu hút nhiều cuộc hành quân và giao chiến đẫm máu giữa hai nhà Nguyễn (Tây Sơn và Nguyễn Ánh) trong hơn 3 thập niên nội chiến (1771-1802).
Tháng 1 năm 1947, chỉ 24 ngày sau lệnh toàn quốc kháng chiến, Đèo Cả trở thành chiến trường xung yếu, nơi trung đoàn 80 bộ đội địa phương kịch chiến với giặc Pháp, mở đầu cho hàng loạt trận đánh ác liệt trong suốt cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này của quân dân Phú Yên và Khánh Hòa. Từ tháng 11-1964 đến tháng 2-1965, 4 chuyến tàu không số chở vũ khí chi viện cho miền Nam đã cập bến Vũng Rô - một vùng biển nước sâu, kín đáo và đẹp như tranh vẽ nằm ngay dưới chân Đèo Cả.
Từng mét vuông ở vùng núi Đèo Cả như nhuộm đỏ máu trong suốt nửa thiên niên kỷ không ngớt giao tranh của lịch sử dựng nước và giữ nước.
Ngày nay, với phong cảnh non xanh nước biếc, Đèo Cả - Vũng Rô - Đá Bia đã trở thành vùng du lịch nổi tiếng trên còn đường thiên lý Bắc Nam. Như thuở nào, Đèo Cả vẫn mù sương như muốn dấu lịch sử bi hùng dưới sắc xanh của tuế là dừa. Tuy nhiên, trong tiếng gào rít của gió Tu Bông, dường như vẫn âm vang lời thơ hào hùng của Hữu Loan những ngày đầu kháng chiến chống Pháp 1946:

"Đèo Cả! Đèo Cả!
Núi cao ngất
Mây trời ai lao sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá Bia mù sương…"

Ga Hảo Sơn
Năm 1858 khi người Pháp nổ tiếng súng đầu tiên tại Đà Nẵng liên quân Pháp, Tây Ban Nha nhưng họ đã không thành công bởi vì gặp sự kháng cự của quân triều đình đặc biệt dưới sự chỉ huy của ông Nguyễn Tri Phương, thế là người Pháp buộc phải thay đổi chiến lược, thay vì đánh chiếm Đà Nẵng trước họ chuyển vào Sài Gòn và sau đó đánh dần vào 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ và 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Năm 1889 cơ bản là họ đã lập xong ách thống trị và đô hộ ở nước Việt chúng ta. Sau đó người Pháp bắt đầu khai thác kinh tế ở nước ta như khai thác dầu mỏ, cao su, sức người, sức của…để phục vụ cho việc khai thác này họ đã đặt ra con đường để vận chuyển những hàng hóa mà họ khai thác bằng con đường đầu tiên đó là con đường xe lửa. Đến cuối thế kỷ 19 người Pháp bắt đầu xây dựng đuờng ray, đường sắt và khi đường sắt hoàn thành thì người Pháp đã xây dựng từ Nam ra Bắc và ngược trở lại. Nơi 2 đường sắt gặp nhau rơi đúng ngay ga Hảo Sơn .

TỈNH PHÚ YÊN - Đèo Cù Mông

TỈNH PHÚ YÊN

Phú Yên cách Nha Trang 120km. Có diện tích 5.278 km2. Dân số khoảng 768.972 người (1/4/1999). Phú Yên có một vị trí rất tốt, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp Khánh Hòa, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Đaklak và Gia Lai. Trong đồng bằng duyên hải miền Trung, Phú Yên được xem là vựa lúa lớn vì có diện tích đất nông nghiệp lớn nhất, 1 năm thu hoạch được rất nhiều. Phú Yên được coi là vựa lúa là vì địa hình bằng phẳng, thứ 2 đặc biệt là khi người Pháp sang chúng ta đô hộ và khai thác lúa, gạo, chính sự kiện này cho nên người Pháp đã thấy là cánh đồng Phú Yên có thể phát triển được và dựa vào con sông Ba người Pháp đã cho xây một cái đập tên là đập Đoáng Đa, chính đập này đã góp phần giữ cho nước ở lại trong đập để điều khuyết lượng nước tạo cho lúa thêm trù phú. Phú Yên có 1 con sông chạy qua đó là sông Ba (còn gọi sông Đà Rằng), cầu Đà Rằng lớn thứ 3 của đất nước sau cầu Thăng Long và Bắc Mỹ Thuận.
Phú Yên trước đây là một phần của tỉnh Phú Khánh (Phú Yên – Khánh Hòa) được tách ra từ năm 1989, nhưng cơ sở hạ tầng thuộc về Khánh Hòa. Vì thế chính phủ đã đầu tư cho Phú Yên 76 triệu USD để phát triển cơ sở hạ tầng và kinh tế. Các công ty nước ngoài đầu tư vào Phú Yên cũng được ưu tiên như: công ty lắp ráp điện tử Hàn Quốc và lắp ráp xe motor Yamaha. Phú Yên có cánh đồng Tuy Hòa với 2000 ha trồng lúa, 5500 ha dừa, 3000 ha điều, 1000 ha cafe, 1000 ha thuốc lá. Phú Yên hiện có những dự án quan trọng như sân bay dã chiến Đông Tác của quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ được nâng cấp thành sân bay dân sự, công trình thủy điện Ong Hinh với công suất 7000 kwh do Nhật Bản viện trợ. Phú Yên đã từng là đất của vương quốc Chămpa, dấu tích còn sót lại là tháp Nhạn. Phú Yên có cầu Đà Rằng dài 1080m – dài nhất miền Trung. Từ trên cầu, bên phải, trên một ngọn đồi cát là tháp Nhạn.
Người Chăm làm thủy lợi giỏi hơn người Việt .
+ Sân bay Tuy Hòa trước đây là sân bay Đông Tác dưới thời Mỹ, là sân bay quân sự. Sau giải phóng những người tham gia đội Sài Gòn cũ đến đây để đi học tập.
+ Tiềm năng và du lịch của Phú Yên không có nhiều. Ở Phú Yên có tháp Nhạn do người Chăm xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 9- 11. Tháp Nhạn nằm trên ngọn đồi đang được người ta bảo tồn những loại cây, loại thực vật quí, và đứng trên ngọn đoài này chúng ta có thể nhìn thấy toàn cảnh của thành phố Tuy Hoà. Thành phố Tuy Hoà có chiều dài bờ biển khá dài 20km.
+ Phú Yên có một ghành đá nổi tiếng đó là ghành Đá Dóa vì có nhiều cục đá xếp lên nhau.
+ Núi Chóp Chài là một trong những cứ điểm lớn khi người Mỹ vào Việt Nam, họ đã dùng những cái chài .
+ Trên đầm Ô Loan có nuôi hải sản đặc biệt là loại sò huyết
+ Nhà thờ Mằng Lăng khá lớn và nổi tiếng.

Tháp Nhạn :
Nằm trên đỉnh Bảo Sơn, phía đông thị xã Tuy Hòa, người ta gọi là núi Nhạn. Trong số những di tích Chămpa còn sót lại tỉnh Phú Yên, tháp Nhạn không chỉ là tháp còn nguyên vẹn nhất mà còn có cả về mặt lịch sử cũng như nghệ thuật. Tuy nhiên tháp Nhạn cũng bị hư hại khá nhiều, đặc biệt là vào thế kỷ thứ XIX, khi Pháp mới chiếm nước ta một tàu chiến Pháp khi đi qua cửa biển Tuy Hòa nhìn thấy thap Nhạn, thủy quân Pháp tưởng là pháo đài của ta nên đã nã pháo vào làm cho đỉnh tháp bị sụp đổ và cổng tháp cũng bị vỡ. Hiện nay cách tháp 30m là đỉnh tháp bằng đá cao 1,6m, mỗi cạnh rộng 0,9m đó là một chỏm đá có chân hình vuông được chạm hình cánh sen phía dưới, đỉnh có bầu nhọn. Tháp Nhạn là một trong những tháp lớn của Chămpa, mỗi cạnh dài 11m, cao gần 20m thuộc loại tháp tầng hình cuông. Trên các mặt tường của chân tháp được trang trí bằng các cửa giả như mô típ vốn có của tháp … cửa chính ra vào quay vào hướng đông vẫn còn một trám cửa bằng đá thể hiện hình SiVa đang múa điệu múa vũ trụ. Giống các tháp thuộc phong cách chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách của Bình Định, trên mặt tường của Tháp Nhạn không hoa văn trang trí, các cột đứng song song, khoảng tường giữa các cột ốp chỉ là khung chữ nhật trơn. Vòm cửa giả hình cung nhọn có đầu hình quái vật Kala trên đỉnh. Các tầng trên là cấu trúc thu nhỏ dần của phần thân tháp. Do hư hại nhiều nên người ta dùng xi măng che kín cả chân tháp nên ta không thể thấy được hình dáng trang trí ở phần này. Theo các nhà nghiên cứu của tháp Nhạn được xây dựng cuối thế kỉ XI đầu thế kỉ XII. Tháp Nhạn cũng liên quan tới truyền thuyết Pônagar, người ta cho rằng tại đây cũng thờ bà. Vì trong truyền thuyết xứ Tuy Hòa là nơi đầu tiên bà ghé khi xuống trần và tại đây bà đã giết chết quỷ dữ, khai thông cửa sông Đà Rằng để dân chúng ra vào dễ dàng.

Sông Đà Rằng :
Có diện tích lưu vực 13.900km2 và chiều dài dòng chính là 388 km, là một dòng sông chảy hoàn toàn trong lãnh thổ nước ta. Bắt nguồn từ sườn núi Công Ca Kinh (1761) và Kông Plông (1376). Sông Đà Rằng thoạt tiên chảy theo hướng bắc – nam cho đến Cheo Reo là cửa phụ lưu Ay jun, từ đây sông chảy theo hướng tây bắc – đông nam cho đến Củng Sơn thì chảy theo hướng tây đông để đổ ra biển ở cửa Đà Diệt (thị xã Tuy Hòa) một cửa sông rất rộng. Sông Đà Rằng có những sông quan trọng như: Ay jun dài 175km với diện tích lưu vực 2950km2, sông Krông Hơnăng dài 130km với diện tích lưu vực là 1840km2, và sông Hinh dài 88km với diện tích lưu vực 1040km2.
Thủy chế của con sông Đà Rằng mang tính chất của con sông miền Trung Trung Bộ, là có lũ tiểu mãn và mùa lũ ngắn, chậm. Mùa lũ tiểu mãn vào các tháng 6 – 7còn mùa lũ chính vào các tháng 9, 10, 11, 12. Lượng nước mùa lũ chiếm khoảng 70% tổng lượng nước năm và tháng có lưu lượng lớn nhất là tháng 11 thì đã chiếm 28,5% bằng lượng nước 8 tháng mùa khô từ tháng 1 – 8. Tháng kiệt nhất là tháng 4 có lượng nước chỉ bằng 1,4% tổng lượng. Thủy chế sông Đà Rằng rất khắc nghiệt, cho nên ngay từ 1928 đã phải cho xây dựng đập Đồng Cam để lấy nước ngọt tưới cho các cánh đồng ở Phú Yên.

Núi Nhạn - sông Đà:
Là cụm thắng cảnh đã để lại nhiều ấn tượng với du khách khi đặt chân đến Phú Yên. Núi Nhạn nằm bên bờ Bắc sông Đà Rằng, thuộc địa phận phường I, thành phố Tuy Hòa. Núi Nhạn còn có tên gọi khác là “Núi Bảo Tháp” hoặc “Tháp Dinh”. Đứng ở độ cao 64 m trên đỉnh Núi Nhạn, ta có thể bao quát một vùng non nước Phú Yên với toàn cảnh thành phố Tuy Hoà, làng hoa Bình Ngọc, núi Đá Bia, Biển Đông và hai chiếc Cầu đường sắt và đường bộ dài 1.100 m bắt song song qua sông Đà Rằng. Trên đỉnh Núi Nhạn có Tháp Chàm cổ kính, còn có tên gọi là Tháp Nhạn được người Chiêm Thành xây dựng vào khoảng thế kỷ 11. Tháp có cấu trúc khối hình chóp vuông vững chắc cao 25m, gồm tất cả 4 tầng thu nhỏ dần khi lên cao.
Núi Nhạn nằm một góc giữa chỏm cắt của QL1A và nhánh sông Chùa thuộc phường Bình Nhạn nay gọi là phường I thành phố Tuy Hoà. Núi cao 60 mét so với mặt nước biển, có đường chu vi quanh núi khoảng trên 1 km. Núi Nhạn có hình thế xoè ra như hình con chim nhạn xoè đôi cánh, với phần đầu là chỗ giao nhau giữa QL1A và sông Chùa, cổ thon nhỏ lại rồi phình to ra như đôi cánh chim ở phần đường Tản Đà, vì vậy nên mới có tên gọi này. Cũng có người cho rằng, ngày xưa núi này như một cù lao nhỏ nằm trong vịnh Tuy Hoà (biển ăn sát đến tận chân dãy Trường Sơn), là nơi để loài chim nhạn làm tổ, trú ẩn. Sau này, vịnh dần dần được bồi lấp tạo nên đồng bằng rộng lớn nối liền cù lao Nhạn với đất liền. Trên núi Nhạn có rất nhiều cây cối rậm rạp, đặc biệt là mai rừng nở vàng vào mùa xuân và mùa hạ, ở phía đông-nam gần sông Chùa có một trảng sim nhỏ, đến mùa hoa sim nở tím cả một vùng. Trên núi có nhiều loài chim như nhạn, cò và đặc biệt là rất nhiều khỉ. Mãi đến năm 1961, khỉ vẫn sống từng đàn trên núi này cho đến khi chiến tranh ác liệt nổ ra, quân đội Sài Gòn cho đóng đồn và đặt súng đại bác trên núi ngày đêm bắn phá các vùng căn cứ, yểm trợ cho các cuộc hành quân nên khỉ đã bỏ về rừng núi đại ngàn, chim chóc cũng di trú nơi khác, cây cối bị đốn chặt phát quang để phục vụ cho tầm quan sát quân sự.
Trên núi Nhạn có một ngôi tháp do người Chăm xây dựng vào thế kỷ thứ XII (cũng có tài liệu nói là xây vào thế kỷ XIV). Tháp có bình đồ hình vuông, mỗi cạnh 10 mét, cao trên 20 mét có đế móng, thân và mái là những gờ gạch xây nhô ra bên ngoài. Trong tập “Gìn giữ những kiến trúc kiệt tác trong nền văn hóa Chăm” của nhóm tác giả Lưu Trần Tiêu, Ngô Văn Doanh, Nguyễn Quốc Hùng do nhà xuất bản Văn hoá dân tộc ấn hành năm 2002 thì tháp có 4 tầng, càng lên cao càng thu nhỏ lại, nhưng mô hình và cách thức trang trí từ dưới lên đều giống nhau. Nóc của tháp gồm nhiều lớp xếp, phần chóp được cấu tạo bằng phiến đá nguyên tảng (đã qua đẽo gọt) có hình búp sen cân đều. Đó là biểu tượng Linga của người Chăm. Trên đỉnh tháp, bốn mặt đều có bốn cửa sổ giả, tách biệt giữa phần trên và tầng dưới. Cửa chính ở hướng Đông, phần trên cửa hình vòm, xây cuốn theo kiểu giật cấp. Những hàng gạch bên trên hơi chồm ra so với hàng gạch dưới. Càng lên cao thì chồm ra ít hơn cho đến khi khép kín vòm.
So với nhiều tháp khác của người Chăm ở Bình Định, Khánh Hoà, Phan Rang hay Mỹ Sơn thì ngọn tháp trên núi Nhạn, bên trong không có tượng thờ cũng như những hoa văn, họa tiết trang trí; duy nhất chỉ thấy những họa tiết hoa văn hình rồng được chạm khắc biến dạng đi hay cách điệu bằng đá hoa cương đặt bên ngoài góc tháp.
Bên trong tháp, tường xây thẳng đứng cao vút từ phần đế tháp cho đến hết phần thân. Phần mái, tường được thu nhỏ dần cho đến đỉnh, tạo thành hình chóp nón. Trong lòng tháp không có bệ thờ, không có tượng. Từ lâu đời, khoảng thời Hậu Lê, nhân dân xây một cái am nhỏ phía trước để thờ bà Thượng Đỉnh Chúa Thiết A Na Diễn Ngọc Phi. Thời chống Pháp am thờ này bị đập phá. Sau này miếu được xây dựng lại trên nền cũ có đề bốn chữ “Thượng Đỉnh Linh Miếu”.
Về nghệ thuật tạo hình, thân tháp có tạc tượng thần và những chiếc cột bằng gạch xếp chồng đều nhau thẳng như kẽ chỉ, tạo thành những đường gờ nhô ra để khi trông vào không có cảm giác nặng nề và đơn điệu của một hình khối đồ sộ.
Vật liệu xây dựng tháp đều bằng gạch nung với nhiều kích cỡ khác nhau tuỳ theo vị trí của từng mảng tường, từng tầng tháp và được xếp liền khít, không thấy mạch hồ song kết dính rất vững chắc. Người ta khó mà biết được kích cỡ của từng viên gạch, nếu không nhờ vào những nơi bị sứt mẻ, bị ngã đổ. Có nhiều viên hình chữ nhật kích thước 40 x 20 x 7 cm. Trụ và xà ngang của cửa chính là khối đá vôi mềm dễ đẽo gọt, đục chạm. Bốn bên mặt ngoài thân tháp có những cột xây áp vào thân tháp mà mục đích có thể là để gia cố cho tháp được vững chắc. Bắt đầu cuốn lên mái, ở bốn góc bên ngoài thân tháp (đoạn tiếp giữa thân tháp và mái) đều được xây nhô ra những trụ hình chóp có kích cỡ rất nhỏ.
Người Pháp gọi núi Nhạn là núi Khỉ (Montagne des Singes) vì không chỉ trên núi có nhiều khỉ mà chúng còn rất khôn, sống thành bầy đoàn, sẵn sàng hợp quần chống đỡ lại sự đe doạ từ nhiều phía tới, cũng biết trả thù nếu có ai đó làm cho một con trong đàn bị thương hay bị bắt. Xưa, phía bên soi Ngọc Lãng thường trồng bắp, con đầu đàn cho một toán nhỏ canh giữ hai phía đầu cầu sông Chùa rồi chính nó đích thân đưa cả bầy luồn vào đám bắp bẻ và mang lên núi. Những khu dân cư sống quanh chân núi Nhạn đều phải cất giữ rất cẩn thận mọi thức ăn đồ uống, hễ sơ hở là chúng lần vào mang đi mất, chúng hè nhau khiêng cả nồi hai cơm trèo lên vách núi, lấy cắp hoa quả cúng trên trang thờ…
Mạn đông-nam chân núi Nhạn có ngôi chùa Hàm Long nằm khuất sau chòm cây cổ thụ, lưng tựa vào vách núi đá lớn dựng đứng, cao ngất như muốn nhoài ra ôm choàng lấy ngôi chùa như một chiếc quạt khổng lồ xoè rộng. Chùa Hàm Long sau đổi tên là Kim Long tự và được vua Bảo Đại năm thứ 5 ban sắc tứ.
Dưới chân vách đá, bên cạnh chùa có một cái hang, đường kính chừng 3 mét xuyên vào lòng núi và ăn thông ra bờ sông. Các cụ ngày xưa cho đó là hàm của con rồng nên mới đặt tên chùa là Hàm Long. Theo truyền thuyết, hơn trăm năm về trước, cái hang này ăn thông ra bờ sông Chùa. Đã có người thử thả trái bưởi từ miệng hang, trái bưởi theo đường hầm trôi ra giữa dòng sông và nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Qua thời gian, do lũ lụt, mưa gió làm đất đá chài lấp dần cửa hang. (Năm 1994, Cty Du Lịch Phú Yên cho mở lại cửa hang để phục vụ khách du lịch, nhưng công việc bị ngăn lại vì sợ ảnh hưởng đến nền móng của tháp Nhạn đứng bên trên).
Tháp được chạm khắc khá hài hoà, đường nét tinh xảo, mềm mại là bậc thầy của nghệ thuật kiến trúc thời bấy giờ và mãi mãi sau này. Ngọn tháp này tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc độc đáo của người Chăm, vừa mang vẻ đẹp hoành tráng vừa toát lên vẻ thanh thoát nhẹ nhàng tô điểm cho thành phố Tuy Hoà vẻ nên thơ.
Chung quanh việc xây dựng ngọn tháp trên núi Nhạn, có nhiều truyền thuyết khá thú vị: thuở ấy có ông Lương Phù Già (tức Lương Văn Chánh) giao tranh với quân Chiêm Thành. Chiến trường diễn ra ở phần đất thành phố Tuy Hoà ngày nay. Quân của ông Phù Già đóng ở núi Nựu (Nựu Sơn), quân Chiêm đóng ở núi Nhạn để cố thủ. Giao tranh lâu ngày nhưng không phân thắng bại. Để tránh đổ máu gây tang tóc cho lương dân, hai bên giao ước với nhau sẽ cùng xây tháp, tháp của bên nào xây to hơn, nhanh hơn là bên đó thắng, bên kia phải rút quân khỏi phần đất Phú Yên. Địa điểm được hai bên lựa chọn là quân Chăm trên núi Nhạn, quân ông Phù Già trên núi Cổ Rùa, một phần nhô ra của núi Nựu.
Quân ông Phù Già cho quân lính chặt tre, chẻ thành sợi mỏng và đan thành những tấm như tấm phên, phất giấy, bôi sơn rồi ghép lại vào các rường cây thành ngôi tháp cao to đến trăm trượng, phải ngửa mặt mới trông thấy đỉnh, từ đầu chân tháp bên này ngó qua bên kia con người chỉ bằng hột bắp (!?). Quân Chăm dốc toàn sức lực ngày đêm xây đắp cho đến khi sắp hoàn thành thì ngọn tháp của ông Phù Gìa đã hoàn thành, sừng sững một góc trời rất hoành tráng. Quân Chăm đành phải chấp nhận thua cuộc. Để tránh những hậu hoạ có thể xảy ra (như dùng ngôi tháp làm nơi cố thủ), ông Phù Già thách thức Chiêm Thành đốt tháp. Tháp bên nào cháy trước thì bên đó thắng cuộc và bên kia phải rút binh ra cách xa phần đất ước hẹn trước đây 300 dặm (!?). Quân Chăm y hẹn, cho quân sĩ mang cây khô, bổi chà chất quanh tháp tầng tầng lớp lớp rồi nổi lửa đốt. Cột lửa bên núi Nhạn cao ngất trời, cháy từ ngày này qua tháng khác nhưng tháp vẫn cứ đứng vững như trụ đồng, trong khi đó tháp của ông Phù Già chỉ cháy một đêm, sáng ra tháp biến mất. Lương Văn Chánh mang đại quân đến chân núi Nhạn buộc quân Chăm phải thực hiện điều đã ấn định, quân Chăm đành phải rút quân qua khỏi bên kia đèo Cả.
Ngày nay, cụm thắng cảnh “Núi Nhạn – Sông Đà“ đã trở thành biểu tượng của Phú Yên và Tháp Nhạn đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là Di tích Kiến trúc - Nghệ thuật cấp Quốc gia.
Hàng năm vào dịp lễ, Tết, trên núi Nhạn có tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí ….. Đặc biệt vào rằm tháng Giêng Âm lịch hàng năm, nơi đây diễn ra đêm thơ Nguyên tiêu thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và du khách gần xa.

Vực phun:
Từ Phường Phú Lâm, thành phố Tuy Hòa đi về phía Tây theo trục đường ĐT 645, rồi rẽ về phía Nam xã Hoà Mỹ Tây thuộc huyện Tây Hòa, đi thẳng vào vùng núi Đá Đen, rồi ngược lên đầu nguồn sông Bánh Lái sẽ thấy một thác nước của dòng suối Cái cao15 m tuôn xuống giữa hai bên vách núi rất kỳ vĩ. Thác nước tung bọt trắng xoá, reo ì ầm giữa rừng xanh hoang vu. Dưới thác là một vực nước sâu xanh ngắt. Nhìn thác từ xa, ta có cảm giác như cột nước phun lên từ lòng vực, có lẽ vì thế mà người ta gọi là “ Vực Phun”.
Đến với Vực Phun, đến với núi rừng xã Hoà Mỹ Tây, du khách không chỉ thưởng ngoạn cảnh non nước trữ tình, quyến rũ, mà còn có thể kết hợp nghiên cứu những di tích văn hoá như chùa Hương Tích là một trong những ngôi chùa cổ ở Phú yên.

Thành Phố Tuy Hòa :

Đầu năm 2005, Chính phủ đã công nhận Tuy Hòa ( Phú Yên) là thành phố. Nơi đây vốn là một thị xã duyên hải miền Trung thơ mộng và tỉnh cũng đang định hướng cho xây dựng thành một đô thị hòa quyện với hình thế sông núi độc đáo.
Có diện tích là 897km2 với dân số khoảng 259.000 người, thành phố gồm 14 đơn vị hành chính (10 phường và 4 xã). Tuy Hòa giáp với các huyện Tuy An, Phú Hòa và Đông Hòa (lần lượt từ bắc tới nam). Tuy Hòa cách Tp.HCM 560km theo QL1A. sân bay của thành phố là sân bay Đông Tác.
Có lẽ duyên hải Việt Nam, chỉ Tuy Hòa có 2 ngọn núi nằm giữa lòng thành phố, đó là núi Nhạn và Chóp Chài. Hai ngọn núi này đã được xây dựng thành công viên núi, với các vườn thực vật sưu tập phong phú chủng loại hoa, cây trên thế giới. Núi Nhạn là ngọn núi thơ nổi tiếng nhất nước. Còn Chóp Chài thì lừng danh “ Chóp Chài đội mũ/ Mây phủ đá bia …” hiện đặt trung tâm phát sóng truyền hình Việt Nam và phát thanh Phú Yên.
Bãi biển Tuy Hòa không náo nhiệt như nhiều bãi nơi khác, sau khi đắm mình vào dòng nước xanh Long Thủy, du khách có thể ngồi vùi chân xuống cát và “nhâm nhi” một ít rượu gạo Quy Hậu nồng nàn với đặc sản tươi ngon như sò huyết Ô Loan, cua bể Yến, ốc nhảy sông Cầu, tôm bạc Vũng Rô, cháo hàu Tuy An … còn nếu muốn đàm đạo nước mây thì hệ thống quán cafe với những công thức chế biến bí truyền pha nước mắm nhĩ sẽ làm say lòng du khách tại các quán Tùng ( Tản Đà), Cổ Gia Trà ( Hùng Vương), Thạch Lâm ( Nguyễn Huệ)… để làm quà sau chuyến phiêu du, khách có thể mua bánh tráng Hòa Đa, nước mắm Gành Đỏ – An Hòa, cá ngựa Vũng Lắm, mực khô Phú Câu, “Quy Hậu Tửu” – hàng gia dụng mỹ nghệ dừa độc đáo tại doanh nghiệp Bình SVC (nơi chế tác chiếc bình gáo dừa kỷ lục Việt Nam) ...
Tp.Tuy Hòa cách thủ đô Hà Nội 1177 km, du khách có thể dễ dàng đi bằng tàu hỏa, ô tô hoặc máy bay. Du khách có thể liên hệ trung tâm điều hành du lịch Phú Yên, ĐT : (057) 823697 – 825310 để biết thêm chi tiết.

Đầm Ô Loan.
Đầm Ô Loan thuộc địa phận huyện Tuy An, có diện tích toàn mặt nước là 1.570ha, cách thành phố Tuy Hoà về phía bắc 20 km. Nước trong đầm thuộc loại nước lợ (nước xà hai) do đầm ăn thông ra biển bằng cửa Lễ Thịnh, đưa nước mặn vào đầm mỗi khi thuỷ triều lên; đầm cũng nhận nước ngọt từ sông Cái và các con suối nhỏ chung quanh đổ vào. Do thế đất đồi là đất sỏi nhớt nên mùa mưa làm xói lở, kéo theo lượng phù sa khá lớn bồi lắng lòng đầm. Do vậy, lòng đầm chỗ sâu nhất khoảng 6 mét, chỗ cạn, thường là ven bờ, khoảng trên 1 mét. Riêng phía trên cửa Lễ Thịnh thuộc địa phận An Hải mực nước sâu tới 10 mét.
Tuy vậy, khi đứng trên đỉnh đèo Quán Cau, du khách phóng tầm nhìn bao quát khắp cả vùng thì đầm Ô Loan như một mặt hồ rộng yên ả được bao bọc bởi những dãy đồi thấp thoai thoải với những ruộng mía xanh ngắt…Nhìn từ phía nam, đầm Ô Loan giống như chim phượng hoàng đang xoải cánh, còn trên bản đồ Ô Loan giống con thiên nga đang thong thả bay trên bầu trời cao xanh thăm thẳm.
Cũng từ đỉnh đèo Quán Cau nhìn xuống, khi tầm mắt chạm vào núi Từ Bi có một doi đất chảy ra đầm Ô Loan, thì lại thấy đầm trông giống như con chim hạc vừa giang đôi cánh rộng vừa vục đầu xuống đầm uống nước. Núi Từ Bi là một nhánh nhỏ của đèo Quán Cau, có con suối cùng tên Từ Bi, bắt nguồn từ hòn Chồng. Suối chảy ngoằn ngoèo qua các khe núi rồi đổ ra đầm, tạo nên cảnh quan thơ mộng.
Từ mạn Tây Bắc chạy ra tới An Ninh Đông là bãi cát vàng óng, có rừng phi lao chạy dài theo men bờ nước, xưa kia là nơi trú ẩn của các loài chim thú như le le, chàng bè, bồ nông, cò, diệc và nhiều nhất là vịt nước. Chúng sinh sống thành từng đàn, bắt cá dưới lòng đầm.
Khi đứng ngắm mặt đầm buổi bình minh, du khách dễ có những tưởng tượng, rằng các dãy đồi phía Đông-Nam như hình dáng con chim khổng lồ đang chuẩn bị cất cánh bay lên trời cao lộng gió và nắng. Nhưng khi hoàng hôn buông xuống, lại thấy cánh chim xoải rộng như đang xoè đậu bên cạnh mặt hồ lăn tăn gợn sóng… Đây không phải là ảo giác mà chỉ vì quanh đầm có những ghềnh đá nhô xa ra ngoài đầm tạo thành những mỏm mới thoạt nhìn có nhiều hình dạng khác nhau tuỳ theo nhãn quan và tâm trạng mỗi người trong từng thời điểm khác nhau: như mỏm Cây Sanh có lúc như cánh chim vươn cao, lúc nhìn như tà áo lụa xanh bay lất phất trong nắng sớm. Có lẽ chính bởi thế núi đồi, vị trí của đầm nên nhiều tao nhân mặc khách đã không tiếc lời ngợi ca qua nhạc họa thơ văn, mà tiêu biểu là nhà thơ Xuân Diệu khi đứng nhìn mặt đầm đã thốt lên: “Mặt đầm, đôi cánh chim Loan mở”. Còn trước đó khá lâu, thi sĩ Tản Đà đã ghé ngang qua đây và thốt lên rằng: “Lấy chi vui với thu tàn; Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu”. Dung dị và mộc mạc hơn, trong dân gian còn lưu truyền câu ca dao đánh dấu một giai đoạn lịch sử hào hùng của nhân dân Phú Yên và riêng của Lê Thành Phương, người anh hùng của quê hương đã ngẩng cao đầu trước lưỡi gươm kẻ thù:

“Ô Loan nước lặng như tờ
Thương người chiến sĩ dựng cờ Cần Vương
Trải bao gối đất nằm sương
Một lòng vì nước nêu gương anh hùng.”

Trong đầm còn có những rạng ngầm dưới mặt nước, là nơi để những con hàu bám vào sinh sống, một loại hải sản ngon, mát bổ. Đầm Ô Loan có nhiều hải sản sinh sống như tôm, cá, ghẹ, cua huỳnh đế, điệp, cá mú… nhưng ngon và nổi tiếng nhất vẫn là con sò huyết Ô Loan cơm dày, thịt ngọt và rất thơm, thơm hơn sò huyết các nơi khác, được du khách trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Trước đây, sò huyết Ô Loan không chỉ có mặt khắp nơi trong nước mà còn xuất khẩu sang Singapore, Thái Lan…
Hiện nay, đầm Ô Loan được Bộ VHTT xếp vào di tích danh thắng cấp quốc gia. Hàng năm, vào ngày mùng 7 tháng Giêng âm lịch, nhân dân sống quanh đầm tổ chức lễ hội đua ghe truyền thống, thu hút nhiều đội ghe đua ở các địa phương khác đến tham gia. Trước đó, ngư dân cũng tổ chức cúng thần, cầu ngư, hò bá trạo…Trong dân gian có nhiều huyền thoại về tên gọi đầm Ô Loan, nhưng gần gũi nhất là câu chuyện về nàng Loan và chim Ô thước đã được truyền tụng từ đời này sang đời khác. Theo lời kể của ông Cao Phi Yến một nhân sĩ và là nhà nghiên cứu văn hoá dân gian kể lại rằng: Ngày xưa, có nàng tiên trên trời rất xinh đẹp tên nàng Loan, nhưng tính tình hay tinh nghịch. Một ngày nọ nàng Loan mượn con chim Ô thước bay xuống trần gian dạo chơi khắp nơi mà không hề để ý chim đã mỏi cánh, đói và khát, nên khi ngang qua Tuy An, chim không còn đủ sức để bay, nên hạ cánh xuống dãy núi Từ Bi, sau này mượn tên chim Ô thước của nàng Loan ghép chung với tên nàng, gọi tắt là Ô Loan để đặt tên cho đầm.
Dị bản: Cũng y với câu chuyện này, nhưng chi tiết được thêm thắt nên câu chuyện có một vài thay đổi: Nàng Loan vốn là tiên nữ trên trời, nàng thích ngao du sơn thuỷ để nhìn ngắm cảnh đẹp sông nước, núi non. Một ngày kia, nàng Loan cỡi con chim quạ bay ngang qua đất Phú Yên, thấy trên mỏm Cây Sanh có một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú đang cuốc đất khẩn hoang trồng cây lương thực. Nàng cho quạ hạ cánh xuống gần đó và núp trong bụi cây quan sát. Càng nhìn, lòng nàng càng vương vấn; càng ngắm nàng càng thấy mình không thể rời xa chàng được nữa. Thế là nàng Loan quyết định ở lại cõi hồng trần, xe duyên kết tóc với chàng thanh niên nọ, ra sức khai phá đất đai, lập nên đất Tuy An và sanh con đẻ cái lập thành làng mạc trù phú.
Những truyền thuyết, huyền thoại về một vùng đất sẽ làm tăng thêm sức hấp dẫn và vẻ đẹp của vùng đất ấy, cho nên quanh đầm Ô Loan, những truyền thuyết không chỉ dừng lại ở đây, mà con đem cả sự tích Cao Biền, một sự tích có vẻ hoang đường nhưng được người đân địa phương nhiều thế hệ kế tiếp nhau mượn cớ tô vẽ nhằm góp phần điểm xuyết cho Ô Loan thêm mỹ miều thơ mộng hơn.

Gành Đá Đĩa
Ven biển miền Trung có rất nhiều gành đá, song có lẽ hấp dẫn vào bậc nhất phải kể đến gành Đá Đĩa thuộc thôn 6, xã An Ninh Đông, huyện Tuy An. Cách đường Quốc lộ 1A khoảng 10 km, theo đường Cây Keo - An Ninh về hướng Đông, đây thật là một thắng cảnh thiên tạo hiếm thấy. Tên gọi gành Đá Đĩa phần nào đã nói lên đặc điểm của gành này. Đá ở đây được dựng đứng theo từng cột, liền khít nhau, có tiết diện hình lục giác hoặc hình tròn giống như những cái đĩa xếp chồng lên nhau. Những đợt sóng biển vỗ vào gành, làn nước tung lên rất đẹp. Gành Đá Đĩa có chiều rộng 50 m và trải dài hơn 200 m, cạnh gành có một bãi cát cong hình lưỡi liềm dài khoảng 3 km, cát ở đây trắng, sạch, mịn, là bãi tắm tốt. Gành Đá Đĩa là một thắng cảnh thiên nhiên kỳ thú và hấp dẫn đã được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận Di tích thắng cảnh cấp Quốc gia. Tất cả những người đến đây khảo sát, tham quan du lịch đều có cùng nhận xét nơi này còn nguyên vẹn vẻ đẹp hoang sơ, môi trường thuần khiết, sự độc đáo của Đá Đĩa khiến bất kỳ ai, dù chỉ một lần đi qua cũng không thể nào quên.

Núi Chóp Chài
Nằm ở phía tây Quốc lộ 1A, cách trung tâm thị xã Tuy Hoà 4 km về phía Bắc (thuộc xã Bình Kiến), Chóp Chài còn có tên là Nựu Sơn. Chóp Chài cao 391 m, nhưng trông thật đường bệ. Người Tuy Hoà xem núi Chóp Chài cùng với núi Đá Bia là một cặp đài khí tượng báo hiệu nắng mưa:

“Chóp Chài đội mũ
Mây phủ đá Bia
Ếch nhái kêu lia
Trời mưa như đổ”.

Chóp Chài có những dấu tích huyền thoại như Trai Thuỷ tục danh là Hang Dơi, hang này rộng khoảng 5m, chiều sâu hun hút. Trong hang có những tảng đá phẳng lì.
Đông, tây, nam, bắc đều có chùa: Hoà Sơn, Minh Sơn, Khánh Sơn, Bảo Lâm được xây dựng trên lưng sườn núi, nhìn xuống có “Liên trì dục nguyệt” (Trăng tắm ao sen) rộng khoảng 1,2 ha.
Nựu Sơn nằm giữa vùng thiên nhiên tuyệt đẹp, gắn với những giá trị nhân văn, đã đi vào lịch sử ký ức của nhân dân trong vùng, nơi đây sẽ là một điểm du lịch văn hoá, tham quan, ngắm cảnh lý tưởng.

Huyện Sông Cầu :
Là một trong hai huyện địa đầu phía bắc của tỉnh Phú Yên, phía bắc giáp huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn của tỉnh Bình Định, đông giáp biển đông, tây nam giáp huyện Đồng Xuân, nam giáp huyện Tuy An. Huyện Sông Cầu có diện tích là 187, 3km2 trong đó đa số là đất nông nghiệp và đất hoang.
Địa hình chủ yếu là đồi núi, vài cánh đồng lúa nằm giữa các ngọn núi không cao. Bán đảo Xuân Hải (gồm xã Xuân Hải và Xuân Hòa), đầm Cù Mông, vịnh Xuân Đài. Gồm 1 thị trấn và 9 xã là thị trấn Sông Cầu, xã Xuân Lộc, Xuân Bình, Xuân Hải, Xuân Hòa, Xuân Cảnh, Xuân Phương, Xuân Thịnh, Xuân Thọ 1, Xuân Thọ 2.
Huyện Sông Cầu được tách ra từ huyện Đồng Xuân, ngay khi Phú Yên được tách ra từ Phú Khánh. Các tuyến đường chạy qua huyện Sông Cầu là QL1A nối với huyện Tuy Phước (Bình Định) và huyện Tuy An. QL1D nối với thành phố Quy Nhơn ( Bình Định).

Đèo Cù Mông :
Dài 9km là ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Bình Định. Theo truyền thuyết thì “Cù” có nghĩa là quái vật, “Cù Mông” có nghĩa là con rồng nhỏ. Chuyện kể rằng thuở xưa trong khu rừng này có một con rắn sống rất lâu năm, nó có tâm tu luyện để được hóa kiếp mà tu mãi nó cũng chỉ là một con rắn. Thất vọng nó đi tìm Phật để hỏi lí do. Trông thấy nó cũng có tâm hướng thiện Phật bảo nó phải nằm yên một chỗ không được cử động để tịnh tâm. Rắn mừng lắm, nó trở về và quyết tâm làm theo những gì mà phật đã dạy nó. Cứ thế năm tháng trôi qua rắn đã nằm yên như thế đã ngàn năm và chắc đã toại nguyện nếu không có một ngày kia có một tay thợ săn vào rững săn thú đã làm hỏng tâm huyết của con rắn đáng thương nọ. Chàng thợ săn đó vào rừng đã vài hôm và cảm thấy mệt nên quyết định tìm một chỗ nào đó để nghỉ mệt. Thấy có cành cổ thụ nằm bên đống lá rừng chàng bèn ngồi xuống nhóm một đống lửa và định nấu một món gì đó ăn, nhưng chàng có ngờ đâu khúc cây khô chàng ngồi chính là chỗ con rắn đang nằm khổ công tu luyện, đống lửa chàng đốt ngày càng cháy lớn, nó táp vào da, thịt con rắn. Rắn quyết tâm chịu dựng vì không nỡ thấy tâm huyết lâu nay của mình phút chốc bị tiêu hủy, nhưng cuối cùng rắn cũng không chịu nổi nó phóng mình xuống khe núi, cảm động cho hoàn cảnh của con rắn, Phật đã hóa nó thành con rồng nhỏ.
Qua đèo Cù Mông, đến ngã ba, rẽ phải vào thành phố Quy Nhơn.

TỈNH BÌNH ĐỊNH

 Giới thiệu sơ nét về tỉnh Bình Định

Tỉnh Bình Định diện tích 6.067 km2, dân số 1.461.046 người, phía Bắc giáp Quảng Ngãi, phía Nam giáp Phú Yên, phía Tây giáp Gia Lai, phía Đông giáp Biển Đông. Tỉnh Bình Định có bờ biển dài 134 km. Địa hình chia làm ba vùng rõ rệt: đồi núi, đồng bằng, cồn cát và đầm hồ ven biển. Nhiệt độ trong năm dao động từ 250C tới 300C. Lượng mưa trung bình từ 1.700 mm/năm.
Kinh tế của tỉnh Bình Định chủ yếu là ngư nghiệp, sản lượng hải sản hàng năm đạt trên 50.000 tấn, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế cao như cá Thu, cá Ngừ, cá Trích, cá Chuồn…35 loài tôm, 20 loài mực, đặc biệt có yến sào, tôm hùm, cua huỳnh đế. Về nuôi trồng thủy sản tổng diện tích nước lợ tự nhiên của Bình Định khoảng 7.600 ha, có địa hình và môi trường thích hợp với nhiều loại thủy sinh vật như tôm sú, tôm bạc, tôm đất. Về nông nghiệp trồng trọt là ngành sản xuất chính, kế đó là chăn nuôi. Cây lúa và cây sắn là hai loại lương thực hàng đầu của tỉnh. Bình Định còn có khả năng trồng các loại cây công nghiệp như dừa, dâu tằm, mía, tiêu, lạc, chuối, điều. Về khoáng sản: cát có hàm lượng titan lớn từ 80g đến 500g/m3 cát, đá Granite có rất nhiều với màu sắc đẹp, không phai, tính trang trí cao. Năm 1992, kim ngạch xuất khẩu của ngành khai thác đá đạt 1,215 triệu USD.
Quy Nhơn có cảng rất lớn, cảng nằm ở vùng điểm các nguồn tàu của Việt Nam đến các nước và gần đường hàng hải quốc tế. Cảng Quy Nhơn nằm kín đáo trong đầm Thị Nại có diện tích 30km2, độ sâu trung bình 5 – 6m. luồng chạy tàu 10 – 11m đảm bảo cho tàu 15000 tấn ra vào thường xuyên. Bờ biển từ cảng Thị Nại đến cảng Đống Đa dài 2,5km. Có thể nói mạng lưới giao thông kết hợp với cảng tại Quy Nhơn là một hệ thống giao thông tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ. Đường 19 nối liền với Quy Nhơn và Tây Nguyên, Lào, Campuchia, còn khá tốt. Ngoài ra còn có tuyến đường sắt đến tận cảng và có hai sân bay là Quy Nhơn, Phù Cát tạo nên mạng lưới liên hoàn mà ít cảng nào trong nước có được. QL19 lên Tây Nguyên là đường lên bảo tàng Quang Trung vùng thượng đạo của Tây Sơn, giữa đèo Mang Jang và đèo An Khê.
Bình Định vốn là đất cũ của Chiêm Thành, trước kia tên gì không rõ, theo sách Đồ Bàn Ký của hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển triều Minh Mạng thì sau khi bị vua Chiêm Thành lấy mất thành Địa Rí (982) vua Chiêm Thành là Xá Lợi Đà Ngô Nhật Hoan chạy vào đây đặt tên là Đồ Bàn. Năm Canh Thìn (1470), vua Chiêm Thành là Trà Toàn đem quân ra đánh phá Hóa Châu. Vua Lê Thánh Tông phải đem quân đi đánh dẹp. Trà Toàn thất bại phải đem quân rút về trấn giữ Đồ Bàn, vua Thánh Tông thừa thắng đuổi đánh, quân Chiêm Thành chống không nổi, Trà Toàn bị bắt, Đồ Bàn bị quân ta chiếm và sau đó sát nhập vào đạo Quảng Nam đổi thành phủ Hoài Nhơn. Đến thời Trịnh – Nguyễn phân tranh năm At Tỵ (1605) chúa tiên Nguyễn Hoàng đổi tên Hoài Nhơn thành Quy Nhơn. Bình Định là quê hương của Tây Sơn mà Tây Sơn lại có mối quan hệ khăng khít với người Ba Na, họ buôn bán qua lại. Bình Định từng là kinh đô Đồ Bàn của ChămPa, cách Quy Nhơn 27km về hướng đông bắc. Tháp Cánh Tiên là kinh đô Chămpa từ năm 1000. Năm 1799 Nguyễn Anh đánh dẹp nhà Tây Sơn và đổi tên là thành Bình Định đến năm 1814 thành bị nhân dân phá hủy.

Thành Phố Quy Nhơn:
Thành phố Quy Nhơn cách Tp. HCM 660 km và thủ đô Hà Nội 1070 km. Thành phố Quy Nhơn có diện tích tự nhiên 221,12 km, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm 26 0C , lượng mưa trung bình năm 1.700mm, dân số hiện nay khoảng 300 ngàn người. Ngày 20/10/1898 vua Thành Thái ra dụ thành lập thị xã Quy Nhơn, ngày 1/7/1998 thủ tướng chính phủ đã quyết định công nhận Quy Nhơn là thành phố cấp 2. Trải qua biết bao thăng trầm ngày nay thành phố Quy Nhơn trở thành trung tâm kinh tế của khu vực Nam Trung Bộ.
Thành phố Quy Nhơn hiện nay có 20 đơn vị hành chánh, gồm 16 phường và 4 xã bán đảo, đảo. Tiềm năng kinh tế đa dạng, có nhiều danh lam thắng cảnh, sơn thủy hữu tình: Vịnh Quy Nhơn với cù lao xanh, bãi biển Quy Hòa, Ghềnh Ráng, bãi tắm Hoàng Hậu, núi Nhạn, đầm Thị Nại. Quy Nhơn gần thành Đồ Bàn, thủ đô của đất nước Chiêm Thành cũ với nhiều ngọn tháp độc đáo, là thủ đô nhà Nguyễn Tây Sơn với các chùa chiền cổ kính và nhiều di tích văn hóa, lịch sử đã được xếp hạng.

Thắng cảnh Gành Ráng
Gành Ráng là một danh lam thắng cảnh của thành phố Quy Nhơn, được nhiều người biết đến. Di tích đã được nhà nước công nhận và xếp hạng ngày 15/11/1991. Gành Ráng cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 2 km về hướng nam, nối liền dãy núi Xuân Vân trùng điệp ở phía tây, đông giáp biển, nam giáp khu điều trị phong Quy Hòa. Thắng cảnh Gành Ráng trải dọc bờ biển, uốn lượn chênh vênh theo sườn núi trước mắt như phô bày những kiệt tác của tạo hóa. Có những đá dạng mặt người, đầu sư tử, vọng phu, hòn chồng … ngoài biển cách bờ biển khoảng 5 km về hướng đông có một hoang đảo: tục gọi là hòn Đất hiện lên như trôi nổi, giữa trùng dương mênh mông cùng vô số cánh buồm đánh cá.
Từ hòn Chồng men theo bờ đá đi ngược trỏ lại ta sẽ gặp những hang động dị dạng, đa hình, cổ quái do thiên nhiên tạo thành. Đặc biệt có bãi đá trứng rộng khoảng 40m toàn bộ là đá xanh tròn và nhẵn. Phía trên bãi đá có một mạch nước từ lòng núi chảy ra, tạo thành nguồn nước ngọt duy nhất phục vụ cho du khách tắm biển.
Từ đỉnh Gành Ráng đi chếch về phía tây chừng 50m ta sẽ gặp ngôi mộ bình dị hình chữ nhật xây trên ba tam cấp rộng và cao, có pho tượng Đức mẹ Maria đang trong tư thế 2 tay dang ra phía trên đầu mộ. Đó là nơi yên nghỉ của nhà thơ Hàn Mặc Tử – một nhà thơ tài hoa bạc mệnh của thi đàn thơ Việt Nam. Tại Gành Ráng còn có di tích của lầu Bảo Đại có 2 giếng tắm. Đứng ở Gành Ráng, du khách sẽ có một bức tranh thành phố Quy Nhơn được ôm ấp trong cảnh non nước mây trời thật nên thơ.

Huyện An Nhơn :
An Nhơn là một huyện thuộc tỉnh Bình Định của Việt Nam. An Nhơn là một huyện đồng bằng. Nó nằm ở tọa độ 130,49 vĩ độ bắc, 109,18 kinh độ đông, nằm dọc theo trục đường QL1A, cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 20km về hướng tây bắc, phía bắc An Nhơn giáp huyện Phù Cát, phía đông giáp huyện Tuy Phước, phía tây giáp huyện Tây Sơn, phía tây nam giáp huyện miền núi Vân Canh.
An Nhơn có diện tích tự nhiên 242,17km. Dân số 188.719 người chiếm 97.200 nữ. Mật độ dân số khoảng 779 người/ km, phân bố không đồng đều, tập trung cao ở 2 thị trấn Bình Định, Đập Đá. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động toàn huyện chiếm 55,50%. An Nhơn gồm 13 xã và 2 thị trấn: thị trấn Bình Định, thị trấn Đập Đá, các xã là: Nhơn Thành, Nhơn Mỹ, Nhơn Hạnh, Nhơn Phong, Nhơn Hậu, Nhơn An, Nhơn Hưng, Nhơn Hưng, Nhơn Phúc, Nhơn Khánh, Nhơn Lọc, Nhơn Hòa, Nhơn Thọ, Nhơn Tân.
Theo cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện An Nhơn”, một thời những năm 938 – 1470, An Nhơn là vùng trung tâm của vương quốc Chămpa cổ đại, với thủ đô là thành Đồ Bàn ( nay là xã Nhơn Hậu). Năm 1470 An Nhơn nằm trong huyện Tuy Viễn, cùng 2 huyện khác là Bồng Sơn và Phù Ly hợp thành phủ Hoài Nhơn. Năm 1602, Nguyễn Hoàng đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn. Năm 1778, nhà Tây Sơn định đô tại An Nhơn, cải tạo thành Đồ Bàn là thành Hoàng Đế. Năm 1799, sau khi chiếm được thành Hoàng Đế của Tây Sơn, Nguyễn Anh đổi là thành Bình Định. Năm 1832 Minh Mạng lập phủ An Nhơn gồm các huyện Tuy Phước và Tuy Viễn.
An Nhơn có hệ thống giao thông thuận lợi: có đường QL1A, QL19 và đường sắt bắc – nam đi xuyên qua, tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa trong và ngoài tỉnh.
Nền kinh tế huyện An Nhơn tăng trưởng và phát triển tương đối nhanh. Cơ cấu kinh tế cũng thay đổi. Gía trị sản xuất tăng bình quân hàng năm đạt 9,81%; tỉ trọng công nghiệp chiếm 33,45% và thương mại – dịch vụ chiếm 13,16%. Thu ngân sách tăng bình quân hàng năm 45,7%; thu nhập bình quân đầu người năm 2005 là 7 triệu đồng một năm. Sản xuất công nghiệp phát triển với nhịp độ khá. Giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm ở công nghiệp là 22,93%; nông, lâm, ngư nghiệp là 3,51%. Công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) nông nghiệp nông thôn có bước phát triển. Cùng với phát triển kinh tế, huyện đã đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển mở rộng khu dân cư theo hướng đô thị hóa.
Năm 2006, Đảng bộ An Nhơn đã đề ra chủ trương: “Nêu cao ý thức tự lực, tự cường; tập trung sức khai thác mọi nguồn lực, tiềm năng, lợi thế hiện có; … đẩy mạnh sự nghiệp CNH – HĐH đạt mức tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững; … nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh; tích cực đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội của huyện.

Ngã ba Bà Di : QL19 đi Tây Nguyên
Rẽ trái đường 19 lên Kontum cũng là đường lên bảo tàng Quang Trung. Con đường này sẽ đưa du khách lên đến vùng đất Tây Nguyên huyền bí với các nhóm dân tộc thiểu số như: Gialai, BaNa, M’nông, Êđê… các thác nước hùng vĩ như Draysap, Đrâynu, Trinh Nữ … các buôn làng nằm sâu giữa rừng đại ngàn. Đặc sản trên QL19 này là măng khô và rượu Bàu Đá. Từ đây theo QL 1A một đoạn nữa phía bên phải, trên một ngọn đồi có 3 tháp nhỏ, đó là tháp Bánh Ít. Sau khi qua cầu Bà Di thì tới thị trấn Bình Định, trị trấn Phú Mỹ, thị trấn Bồng Sơn huyện Hoài Nhơn, thị trấn Tam Quan nổi tiếng về dừa. Tam Quan là thị trấn cuối cùng của tỉnh Bình Định, là ranh giới giữa Bình Định và Quảng Ngãi.

Tháp Bánh Ít
Thuộc thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước nằm cạnh đường từ thành phố Quy Nhơn đi QL1A, cách chỗ đường giao nhau khoảng 500m về phía đông. Tương truyền có bà Thị Thiện làm bánh ít và bán ở chân núi nên Tháp mới có tên như thế. Tháp có niên đại vào khoảng cuối thể kỷ XI đầu thế kỷ XII. Hiện nay chỉ còn lại 4 kiến trúc, nhưng mỗi kiến trúc trong tháp lại là một loại hình kiến trúc riêng biệt, là một sắc thái nghệ thuật khác nhau. Ngôi tháp chính uy nghi, ngôi tháp nam mái cong hình yên ngựa thơ mộng, tháp đông nam với những hình trang trí dưới dạng quả bầu lọ trên các tầng gây cho người xem một cảm giác rộn ràng, cởi mở, tòa tháp cổng đĩnh đạc trầm tư. Đến thăm tháp Bánh Ít, du khách có thể được thưởng ngoạn những vẻ đẹp đa dạng và phong phú, có thể thỏa mãn nhiều cảm xúc khác nhau.
Ngôi tháp chính có vẻ đường bệ và hoành tráng, các cột ốp, các đường gờ nhô ra dọc các mặt tường, vòm của các cửa giả hình mũi lao nhọn đò sộ nhưng cũng không thiếu vẻ thanh tú về đường nét. Những nét vạch lõm nhẹ nhàng chạy dài trên các mặt tường như làm dịu đi tính trang trọng và cứng rắn của các mặt vòm khối kiến trúc, những hình hoa lá trên các diềm mái, những cảnh ca múa trên các mặt vòm, các cửa giả làm cho cả khối kiến trúc gạch như vui lên, như đang thực sự “ tiếp xúc” với người xem.
Sang ngôi tháp mới cong hình yên ngựa, ở phía nam tháp chính người xem như thấy một thâm cung huyền ảo. Những hình người, hình thú, hình chim,… tất cả đều được làm bằng gạch ở dưới chân tháp đang ưỡn người, khụy chân, dùng hai tay nâng bổng cả tòa tháp lên. Mái cong hình yên ngựa như xòe cánh bay. Trên mặt tường của kiến trúc, người nghệ sỹ Chămpa xưa đã tô điểm bằng những băng, những ô hình hoa lá, tất cả đã tạo cho ngôi tháp mái cong này hình diễm lệ, thơ mộng hiếm thấy.
Xuống phía dưới, người xem cũng gặp hai kiến trúc và hai vẻ đẹp khác nhau. Tháp cổng có hình dáng và kiến trúc như hai tháp chính nhưng nhỏ hơn, ít các chi tiết trang trí hơn, cho nên ấn tượng về ngôi tháp chính là lạnh lùng, nghiêm nghị. Trong khi đó cũng với lối kiến trúc tương tự ngôi tháp đông nam lại đem cho người xem vẻ ấm áp hơn so với tháp cổng. Những hình ảnh bầu lọ trên các tầng với các khối cong nhịp nhàng đã che khuất và làm mờ đi những nét cứng cỏi, khô khan và nhờ vậy mà cả tòa kiến trúc thêm dịu hơn.
Mặc dù mỗi ngôi tháp trong quần thể tháp Bánh Ít có một nét riêng nhưng nhìn chung tất cả đều có một nét chung và cũng là nét chung trong cả quần thể đó là sự thắng thế của tính hoành tráng và ngôn ngữ của các khối lớn. Ơ quần thể tháp Bánh Ít, những đường nứt thanh tú, những dãy hoa văn trang trí vốn là những tấm áo khoác kiều diễm cho những tháp Chăm cuối thế kỷ X (phong cách Mỹ Sơn A1) gần như đã mất đi. Thay vào đó là một phong cách mới khỏe khoắn, hoành tráng – phong cách Bình Định ra đời. Tức là ở các kiến trúc giao thời giữa phong cách kiến trúc Mỹ Sơn A1 kiều diễm với các tháp khỏe chắc của phong cách Bình Định. Tháp Bánh Ít vừa có nét trang nhã lại vừa có nét hoành tráng, oai nghiêm.

Tháp Cánh Tiên
Tháp nằm giữa thành Đồ Bàn thuộc xã Nhơn Hậu – huyện An Nhơn, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 27 km về hướng tây bắc, tháp Cánh Tiên có bề mặt vuông, nhiều tầng xây bằng gạch, cao gần 20m, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên đang bay lên trời. Đây là một trong những ngôi tháp điển hình cho phong cách Bình Định. Kết cấu gồm tiền sảnh và điện thờ (tiền sảnh bị sụp). Phía ngoài thân tháp các mặt tường được trang trí những mặt ốp và các khung dọc nhô ra. Khác với các tháp Chàm khác, tháp Cánh Tiên được xây một phần bằng sa thạch ở nửa phía ngoài các cột ốp tường và diềm mái. Tại 4 góc, mỗi tầng của tháp này là chi tiết bằng đá hình đuôi phượng nhô ra. Từ xa nhìn lại tháp Cánh Tiên còn giống như một ngọn núi lửa khổng lồ.

Huyện Phù Cát :
Phù Cát là một huyện miền biển của tỉnh Bình Định. Phía đông giáp biển đông, đông nam giáp Tuy Phước, tây nam giáp An Nhơn, tây giáp huyện Tây Sơn và Hoài Ân, bắc giáp Phù Mỹ. Phù Cát gồm 17 xã và 1 thị trấn đó là thị trấn Ngô Mây. Phù Cát có sân bay Phù Cát, cách thành phố Quy Nhơn 35 km về phía bắc. Dân tộc chủ yếu là Kinh và một số ít người BaNa.
Du lịch của huyện có suối nước nóng Hội Vân, chùa Ông núi (Nghinh Phong), tại xã Cát Tiến, có bãi biển Cát Tiến và Đề Gi nổi tiếng, có hòn Vọng Phu tại núi Bà … Phù Cát có đặc sản nổi tiếng là Chả Cá bởi thế mà dân gian có câu : “ Anh đi ngang cửa Đề Gi/ Nghe mùi chả cá chân đi không đành”. Ngoài ra Phù Cát còn có các làng nghề truyền thông như đan lát, gạch ngói, làng muối (Trung An, Gia Thạnh, Đức Phổ – Cát Minh), nước mắm cá cơm (Đề Gi – Cát Khánh), đá mỹ nghệ (Cát Tường, Cát Nhơn, Cát Hưng) …

Huyện Phù Mỹ :
Là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định. Phú Mỹ giáp các huyện Hoài Nhơn phía bắc, nam và tây nam giáp Phù Cát, tây bắc giáp Hoài Ân và biển đông ở phía đông. Theo thống kê năm 2005 thì huyện Phù Mỹ có diện tích là 548,9km2 với dân số khoảng 188.000 người, trong đó riêng số nữ chiếm tới 96.700 người. Mật độ dân số là 342 người/ km2.
Phù Mỹ cũng như Bình Định trước đây thuộc về nền văn hóa Sa Huỳnh, sau đó thuộc sứ Việt Thường Thị rồi sau này thuộc về vương quốc Chămpa. Năm 1471, sau khi đánh phá Chiêm Thành và mở bờ cõi tới núi Thạch Bi ( Phú Yên), vua Lê Thánh Tông đã đặt phủ Phù Ly để cai quản những cư dân Chiêm Thành còn ở lại và những tù nhân hay dân nghèo miền bắc được đưa vào. Sau này qua mấy lần nhập tách thì Phù Ly được chia đôi thành Phù Cát và Phù Mỹ lấy dòng sông La Tinh làm ranh giới. Trong những năm chịu sự quản lý của chính quyền Sài Gòn nơi đây được gọi là phủ Phù Mỹ. Sau 1975 được đổi thành huyện Phù Mỹ.
Phù Mỹ có 19 đơn vị hành chính cấp xã và 2 thị trấn gồm: thị trấn Phù Mỹ và Bình Dương, các xã là: Mỹ An, Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Chánh Tây, Mỹ Châu, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thành, Mỹ Thọ, Mỹ Thắng và Mỹ Trinh. Huyện có 2 ga tàu hỏa thuộc đường sắt bắc – nam là ga Vạn Phú (xã Mỹ Lộc) và ga Phù Mỹ (thị trấn Phù Mỹ).
Thắng cảnh của Phù Mỹ tuy hoang sơ nhưng tuyệt đẹp như: chùa Hang, giếng Tiên, và di tích lịch sử Đèo Nhông và đặc biệt là một vùng ven biển tuyệt đẹp kéo dài từ Vĩnh Lợi (Mỹ Thành) đến Hà Ra (Mỹ Đức). Trong đó bờ biển Mỹ Thọ cũng tuyệt đẹp với thắng cảnh Mũi Rồng, Bãi Bàng, Hải Đăng, thuộc thôn Tân Phụng thu hút nhiều khách tham quan của các xã lân cận. Vùng ven biển Phù Mỹ là nhiều bãi cát dài trong đó có bãi cát từ Xuân Thạnh (Mỹ An) qua (Mỹ Thắng) đến (Mỹ Đức) là dài nhất. Ngoài ra Phù Mỹ còn một số thắng cảnh nổi tiếng trong xã và trong huyện thôi.

Huyện Hoài Nhơn :
Huyện Hoài Nhơn có diện tích tự nhiên là 41295ha, trong đó đất nông nghiệp là 15.210 ha, đất lâm nghiệp là 19.500 ha… dân số của huyện là 217.069 người với 47.917 hộ (108.719 lao động chính). Có hai thị trấn là Bồng Sơn, Tam Quan và 15 xã gồm: Hoài Hảo, Hoài Sơn, hoài Châu, Hoài Châu Bắc, Hoài Phú, Hoài Thanh, Hoài Thanh Tây, Tam Quan Bắc, Tam Quan Nam, hoài Xuân, Hoài Hương, Hoài Hải, Hoài Đức, Hoài Tân, Hoài Mỹ.

Cụ Đào Duy Từ
Cụ Đào Duy Từ sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống ca hát. Mẹ ông là người phụ nữ hát dân ca quan họ rất hay, là người gieo vào ông những bài dân ca hay như bài ca đầu đời. Ông Đào Duy Từ sống ở miền Bắc vào thời chúa Trịnh và xã hội phong kiến ngày xưa cho rằng: “xướng ca vô loại” – người mà làm nghề này không nên cơm cháo, không có gì trong xã hội. Do vậy mà ông là người rất tài giỏi mà không được trọng dụng.
Truyện kể rằng mẹ ông vì muốn cho con đi thi nên đã đến nhờ một vị quan địa phương và nhờ viên quan đổi tên Đào Duy Từ lấy họ mẹ là họ Vũ để ông được phép đi thi. Do mẹ của Đào Duy Từ hát hay nên ông quan này đã tỏ lòng trắc ẩn thương mến, viên quan đã đồng ý nhưng bà nói “sau khi đi thi con tôi đổ đạt tôi mới làm vợ ông”. Bà biết chắc con mình thi đậu nên khi ông đổ đạt, viên quan ra sức thúc giục nhưng bà không chịu, bà cản để chờ con nên viên quan này mới tiết lộ việc đổi họ của ông. Đào Duy Từ bị lột áo mũ cân đai đuổi ra khỏi trường thi vì đây là chuyện gian lận trong trường thi, mẹ ông hay tin và bà đã thắt cổ tự tử chết. Ông Đào Duy Từ đau đớn khóc suốt và ông bất mãn với chế độ chúa Trịnh. Quan giám khảo trong khoa thi năm đó khi đọc xong bài thơ của ông phải nói rằng: “đây là một nhân tài kiệt xuất”, người mà có thể “kinh ban tế thế”, có thể mở rộng cho đất nước, người có thể mang lại nguồn lợi. Nếu vị vua nào sử dụng người này thì có thể xây dựng cơ đồ vững chắc vì quan bài ông làm biết được khí thế và tài năng của ông. Lúc đó chúa Nguyễn vào Nam, xây dựng kinh đô và thiết lập đơn vị hành chính đầu tiên ngay tại miền Trung. Do lực lượng chưa lớn mạnh nên nhà Nguyễn phải chịu triều cống cho chúa Trịnh, chính vì thế mà ông cần một người tài giúp.
Tình cờ trong chuyến chúa Nguyễn đi từ Đàng Trong (tức vùng Thanh Hóa – Huế) ra Đàng Ngoài, ông đi ngang qua một quán trọ và nghe nói đến cụ Đào Duy Từ. Lúc đó chúa Nguyễn thân hành tìm đến cụ Đào Duy Từ, năm đó cụ mới 20 tuổi mà Nguyễn Hoàng đã 75 tuổi. Chúa Nguyễn đã đưa hai tay lên và nói: “xin vái Đào Tiên sinh, chúng tôi gặp tiên sinh vào Đàng Trong giúp cho cơ đồ dòng họ Nguyễn của chúng tôi”, và chúa Nguyễn Hoàng đã khóc rất nhiều: “hiện giờ tôi đã 75 tuổi nếu không gặp tiên sinh tôi sẽ di chiếu cho con cháu đời đời, hễ tiên sinh vào sẽ trải thảm đón rước để tiên sinh vào cố vấn quân sự”.
Lúc này chúa Nguyễn Hoàng rất áy náy vì không đưa Đào Duy Từ vào cùng mình, nếu làm như vậy thì chúa Trịnh sẽ nghi là có mưu đồ phản loạn. Sau đó chúa Nguyễn Hoàng vào khu vực miền Trung (Bình Định ngày nay), ít ngày sau thì cụ Đào Duy Từ cũng vào theo. Đầu tiên ông đi làm người chăn trâu cho một nhà phú hộ, ông này có những người con rất hay chữ. Sau khi đi chăn trâu ông đứng nghe những người này bình thơ thì ông mới bình lại vài câu nên khiến cho những người ở đây hết sức kinh ngạc, một người chăn trâu mà lại tài giỏi uyên bác thao lược như vậy. Sau đó cậu chủ kể cho cha mình nghe và ông đã gả con gái cho Đào Duy Từ vì kính tài năng của ông. Sau đó ông Đào Duy Từ gặp một người tên là Trần Đức Hòa, dưới triều chúa Nguyễn, ông Trần Đức Hòa này tiến cử ông với chúa Nguyễn vì khi chúa Nguyễn Hoàng mất thì người con trai đầu tiên là Nguyễn Phúc Luân lên ngôi.
Khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên mặc một bộ đồ thường dân ra tiếp ông, thì ông đòi về. Lúc đó chúa Nguyễn mới thấy mình làm như vậy là sai nên vào ăn mặc quốc phục rồi mới mời cụ Đào Duy Từ vào. Lúc ông vào và nói “nếu như là bậc minh chu thì phải biết cách dùng lễ để đối đãi bậc hiền sĩ – nếu cần người tài thao túng thì phải biết dùng lễ đối xử với họ”. Sau khi ông Đào Duy Từ vào thì hai người này như là có duyên từ bao nhiêu kiếp trước bây giờ mới gặp lại nên nói chuyện với nhau rất tâm đầu ý hợp.
Cụ Đào Duy Từ đã sáng tác ra một tác phẩm “Hở trường chu cơ” điều này giống như Gia Cát Lượng có tác phẩm giống như Đào Duy Từ “Họa long vạn” – để nói đến vận của cụ Đào Duy Từ giống như là “Họa long”. Đào Duy Từ cho xây dựng Lũy Trường Dục hay Lũy Thầy: “Đố ai có cánh mà qua Lũy Thầy” do đó chúa Nguyễn rất an tâm. Nhờ tài năng của ông đã giúp cho Đàng Trong trở thành vùng đất cực kỳ trù phú. Người dân kéo đến đây qui thuận rất nhiều.
Lúc này chúa Trịnh mới cảm thấy hối tiếc vì sao có một nhân tài, một báu vật trong tay mà không biết giữ, đến khi mất thì mới thấy hối tiếc. Sau đó chúa Trịnh mới viết thư chiêu dụ Đào Duy Từ về giúp mình nhưng Đào Duy Từ đã từ chối và ông đã làm bài thơ:

“Ba đồng một mớ trầu cau
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra”

Ý nói là ông đã có chúa thờ, nên không thể bỏ đi được. Nhưng chúa Trịnh vẫn gửi thư qua lại liên tục. Lúc này cụ Đào Duy Từ chỉ trả lời bằng hai câu rất ngắn gọn:

“Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen”.

Năm 65 tuổi cụ bệnh rất nặng, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã thân hành tới Dinh thăm và đập đầu vào tường mà khóc rằng: “trời có hai dòng họ Nguyễn, hễ mất đi một vị nhân tài, một vị quân sư lỗi lạc như vậy. Ông trời cho ta giảm thọ 10 năm, cho cụ sống thêm 10 năm ta cũng chấp nhận”. Cụ Đào Duy Từ cầm tay chúa và nói rằng: “thần đã không làm hết trọng trách của một bề tôi, xin chúa thượng hãy bỏ qua”, vì tuổi già sức yếu nên ông thản nhiên ra đi. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã truy niệm công ơn của ông nên phong cho ông là: “Thượng Đẳng Phúc Tầng”. Hiện nay phần mộ và đền thờ của ông đặt tại Bình Định – nơi đây là nơi người dừng chân lập nghiệp – nhưng nguyên quán thì ở miền Bắc.
Bãi biển Sa Huỳnh là ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Bình Định và tỉnh Quảng Ngãi.

 TỈNH QUẢNG NGÃI - Thành cổ Châu Sa

 TỈNH QUẢNG NGÃI

 Giới thiệu sơ nét về tỉnh Quảng Ngãi

Quảng Ngãi có diện tích là 5.177km2 với dân số là 1.190.006 người, trong đó riêng người Việt chiếm trên 90%, phía tây giáp Quảng Nam, nam giáp Bình Định, tây giáp KonTum, đông giáp Biển Đông. Chiều dài tỉnh là 98km. 2/3 diện tích toàn tỉnh toàn là rừng, chia làm 2 miền rõ rệt: miền thượng du với rừng núi cao nối tiếp nhau, Hòn Thạch Bích mà tục gọi là đá Vách hay Tô Sơn cao 1.139m. Miền trung châu với 6 cánh rừng xanh tươi trải dọc theo chân núi phía tây và bờ biển phía đông. Bốn con sông chảy từ tây sang đông chia cách những cánh đồng ra từng khoảng rộng, bồi bổ phù sa. Đi từ bắc xuống nam ta lần lượt qua các con sông: Trà Bồng, Trà Khúc, Vệ và Trà Câu. Trong đó sông Trà Khúc là sông dài nhất.
Ngược dòng lịch sử Quảng Ngãi xưa kia từng là đất của Chiêm Thành, di tích của họ còn sót ở Châu Sa, thuộc huyện Sơn Tịnh và Cổ Lũy thuộc huyện Tư Nghĩa. Từ năm 607 – 1402, đất Quảng mang tên Cổ Lũy Đồn, rồi Cổ Lũy Châu. Năm 1402 Hồ Quý Ly sai quân đi đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm dâng đất Quang Động tức Quảng Nam bây giờ nhưng Hồ Quý Ly bắt dâng thêm Cổ Lũy, rồi chia làm 4 châu, Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đất Cổ Lũy của Chiêm Thành sát nhập vào của nước ta từ đó. Sau đó đất Cổ Lũy đổi tên thành Tư Nghĩa, đến đời cha Nguyễn Phúc Chu (xưng Vương năm 1674), mới đổi tên thành Quảng Nghĩa. Cuối thế kỷ XIX, Quảng Nghĩa mới đổi thành Quảng Ngãi. Quảng Ngãi có cảng Sa Kỳ, và trong tương lai Quảng Ngãi sẽ phát triển nhanh vì chính phủ đã cho xây xong nhà máy lọc dầu Dung Quất và đã đi vào sử dụng, một vịnh lớn sẽ che chắn bởi núi Cô Tô. Một thành phố mới khoảng 50.000 dân sẽ được hình thành. Quảng Ngãi có 12 thắng cảnh nổi tiếng: Long đầu hí thủy, Thiên ấn nam hải, Bút lãnh phê vân, Liên trì duc nguyệt, Vân sơn túc võ, Thạch bích từ dương, Cổ lũy cô thôn, Hà nhai văn độ, La hà thạch trận, An hải sa bàn, sông Trà, núi Ấn. Quảng Ngãi còn nổi tiếng với nền văn hóa Sa Huỳnh cũng như những chiến tích như Sơn Mỹ, Vạn Tường. Đặc sản là đường, cua Huỳnh Đế và các loại hải sản.
Về hành chính: Quảng Ngãi là một thị xã có cùng tên với các tỉnh và huyện: Trà Bồng, Sơn Hải, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Minh Long, Ba Tơ, Bình Sơn, Sơn Tịnh, Mộ Đức và Đức Phổ. Khí hậu mang tính chất nhiệt đới mùa nắng từ tháng 2 tới tháng 8, mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 tới tháng 1 năm sau.
Về kinh tế: Quảng Ngãi có hai vùng kinh tế chủ yếu: vùng đồng bằng rộng 151.000 ha, vùng trồng lúa, mía, cây công nghiệp, rau, quả, sản xuất đường, rượu, chế biến gỗ, sành sứ… lúa là cây trồng chính trong cơ cấu cây nông nghiệp với diện tích trên 91.000 ha, sản lượng đạt 5 – 7 tấn/ha/ năm. Một ngành mũi nhọn của Quảng Ngãi là mía đường khoảng 9000 ha.
Về giao thông: có QL 1A xuyên suốt, QL 24 nối Quảng Ngãi với các tỉnh Tây Nguyên và thông thương với Lào, Campuchia và đông bắc Thái Lan, Quảng Ngãi có cảng Dung Quất nằm ở phía đông bắc tỉnh, cách QL1A và đường sắt xuyên Việt 20 km, cách thị xã Quảng Ngãi 38km, cách Đà Nẵng 95 km, cách sân bay Chu Lai khoảng 7 km và có đường hàng hải quốc tế 190 km. Cửa vịnh dài 4 km, rộng 2km. Vịnh cho phép tàu 50.000 tấn ra vào và tàu dầu 100.000 – 150.000 tấn ra vào an toàn kể cả lúc triều thấp. Bờ phía nam là vùng đất bằng phẳng có nền ổn định thích hợp để xây dựng kho bãi, tổ hợp công nghiệp.
Quảng Ngãi còn có đảo Lý Sơn cách đất liền 25 hải lý, diện tích gần 24km trong đó 500 ha có khả năng sản xuất đất nông nghiệp, còn lại là vùng núi đồi. Toàn huyện có 17.000 dân sinh sống, chủ yếu khai thác thủy sản, trồng tỏi, hành (500 – 600 tấn). Ở đây có chùa Hang xây trong lòng núi. Rõ ràng Quảng Ngãi còn có tiềm năng rất lớn.
Cồn Ràng – khu mộ chum thuộc văn hoá Sa Huỳnh:
Cồn Ràng là một trong những khu mộ lớn nhất của văn hoá Sa Huỳnh từ khoảng 2500 năm trước.
Năm 1987, thầy trò khoa lịch sử trường Đại học Khoa học Huế đã đến Cồn Ràng, thử khai quật một số điểm, phát hiện 3 chum kích thước lớn về các di vật gốm, hạt trang sức bằng mã não và thủy tinh. Tiếp đến là các cuộc khai quật của Viện khảo cổ học kết hợp với Bảo tàng Tổng hợp của tỉnh Thừa Thiên Huế. Vừa qua, các cơ quan này đã tiến hành khai quật xong đợt 3, với tổng diện tích khai quật 2.300m², chia thành 14 hố với kích thước trung bình 150m²/hố. Kết quả cho thấy: Mộ táng phân bổ chủ yếu ở độ sâu 0,5m đến 1,5m. địa tầng di tích khá thuần nhất, các lớp chủ yếu là cát, cát pha sét, cát thơ mịn vì bị laterit do địa hình chịu ảnh hưởng của phù sa sông biển và những đợt xâm thực bào mịn trước núi.
Đến nay, các nhà khảo cổ đã khai quật được 217 ngôi mộ, chủ yếu là mộ chum phân bổ thành từng cụm thẳng hàng, tứ giác, tam giác, ngũ giác. Mộ chum Cồn Ràng có 4 dạng: Dạng hình trụ, hình trứng, hình cầu; giữa trụ và trứng được trang trí nhiều loại hoa văn, có chum trang trí văn đập xung quanh vai, có chum trang trí văn thừng tồn thân, đa số các chum để trơn phần thân và đáy. Nắp mộ chum có 3 loại: loại nón cụt, đáy bằng, hình cầu đáy lòng chảo và loại nón chóp đáy nhọn. Cách thức bày trí: trên nắp, quanh vai và thân mộ chum thường đặt đồ gốm như nồi bình niên, bát đèn; bên trong là đồ trang sức như khuyên tai hình bông hoa rau muống, hình đầu thú …
Nhìn chung, mộ chum Cồn Ràng được chôn không tuân theo một quy luật nào cả. Đa số các mộ chưa tìm thấy xương cốt, cả trong và ngoài mộ chỉ phát hiện thấy than củi... Tiến sĩ Bùi Văn Liêm, Trưởng đoàn khai quật cho biết: đây là cuộc khai quật một di tích khảo cổ lớn thứ hai trong lịch sử khảo cổ học Việt Nam, chỉ sau di chỉ Lung Leng ở tỉnh Kon Tum. Qua nghiên cứu từ tư liệu lòng đất Cồn Ràng với khối lượng lớn hạt mã não làm đồ trang sức, đồ sắt làm công cụ sản xuất, đồ gốm làm đồ gia dụng..., có thể dự đoán Cồn Ràng là một trong những khu mộ lớn nhất của văn hóa Sa Huỳnh từ khoảng 2500 năm trước nghiên cứu cũng cho thấy cư dân Cồn Ràng vào thời kỳ này đã đạt được những thành tựu lớn trong đời sống kinh tế và vật chất, văn hoá tinh thần; thạo nghề nông, chăn nuôi và giỏi trong đánh bắt thuỷ hải sản; biết đến thẩm mỹ làm đẹp cho bản thân và cộng đồng.
Trong thời gian khai quật di tích Cồn Ràng, được sự giúp đỡ của bà con địa phương, đoàn khảo cổ còn phát hiện ra di tích mộ chum ở nhiều địa điểm khác thuộc vùng lân cận Cồn Ràng như: Cồn dài, Bàu Dưng, Cửa Thiền, Phú Ốc… Ngoài ra, Cồn Ràng cách xóm Tháp, thôn An Đô, xã hương Xuân, huyện Hương Trà khoảng 2500m về phía đông bắc có nhà thờ họ Chế có gia phả từ 14 đến 16 đời, và nơi đây còn có nhiều huyền thoại, huyền tích như miếu Bà Yàng, điện thờ bà Lôi,… là những tư liệu quý trong quá trình nghiên cứu giai đoạn tiền sơ sử ở tỉnh Thừa Thiên Huế và Cồn Ràng ở thôn các tỉnh ven biển miền trung nói chung. Tỉnh Thừa Thiên Huế tự hào có di sản văn hoá Thế giới là cố đô Huế, nay thực sự có thêm niềm tự hào nữa là khu mộ chum lớn thuộc văn hoá sa Huỳnh ở Cồn Ràng.

Huyện Sa Huỳnh :
Sa Huỳnh là một địa điểm khảo cổ học, thuộc địa phận hai xã Phổ Châu và Phổ Thạnh của huyện Đức Phổ; cực nam tỉnh Quảng Ngãi; nơi các dấu vết của văn hóa Sa Huỳnh lần đầu được tìm thấy vào năm 1909 bởi nhà khảo cổ học Vinet. Trước đây địa danh này có tên là Sa Hoàng (bãi cát vàng), xong vì chữ Hoàng trùng với tên chúa Nguyễn Hoàng nên đọc lái lại thành Sa Huỳnh.
Bờ biển Sa Huỳnh được nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: “Hỏi mình biển đẹp vô ngần/ Sóng xanh như đến dừng chân Sa Huỳnh”. Đặng Thùy Trâm trong cuốn nhật ký của mình có viết“ … khi nhìn về dãy núi phương nam. Sóng biển Sa Huỳnh vẫn mặn mà nhớ thương. Vẫn dạt dào đêm ngày vẫy gọi. Vẫn chờ anh với chiến công chói lọi. Và hẹn ngày đất nước yên vui…”
Năm 1471, trong cuộc nam chinh của mình, vua Lê Thánh Tông cùng với binh lính đã dừng chân tại đây nghỉ ngơi trước khi tiến quân vào đánh đầm Thị Nại (Quy Nhơn) và thành Đồ Bàn (vương quốc Chămpa). Trải qua những biến thiên của lịch sử, ngày nay bãi biển Sa Huỳnh vẫn giữ được nét hoang sơ mà không chịu tác động của con người. Hiện nay được sự giúp đỡ của tổng cục du lịch Việt Nam, tỉnh Quảng Ngãi đang đầu tư xây dựng khu du lịch trên diện tích 5,2 ha gồm hệ thống khách sạn, siêu thị, các khu vui chơi, nghỉ dưỡng tắm biển …
Đầu năm 2007, Bộ văn hóa thông tin Việt Nam vừa có công văn yêu cầu ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi lập kế hoạch tôn tạo và phát huy các di sản văn hóa Sa Huỳnh, theo đó bộ sẽ hỗ trợ tỉnh xây dựng nhà bảo tàng về văn hóa Sa huỳnh quy mô quốc gia, cùng với một hội trường nhằm phục vụ hội thảo quốc tế 100 năm văn hóa Sa Huỳnh (1909 – 2009), có sự tham dự của các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Bãi biển Sa Huỳnh nằm sát QL1A. Sa Huỳnh nằm ở cây số 985 trên đường xe lửa thống nhất bắc–nam của Việt Nam. Sa Huỳnh cũng có bến cảng Sa Huỳnh. Ngày 22/1/2007, Uy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã cấp giấy phép đầu tư cho công ty cổ phần khu công nghiệp Tân Tạo (Tp. HCM) với dự án khu du lịch và phim trường Vina universal với tổng số vốn đăng kí là 50.000.000 USD (hơn 800 tỷ đồng Việt Nam). Khu du lịch Sa Huỳnh nằm trong tuyến “Theo dòng nhật lí Đặng Thùy Trâm”.

Huyện Đức Phổ :
Đức Phổ là một huyện nằm về phía đông nam tỉnh Quảng Ngãi, có diện tích khoảng 386 ha và dân số là 150.166 người. Huyện có 14 xã và 1 thị trấn. Địa hình của huyện khá phức tạp do dãy Trường Sơn đâm ra sát biển. Phía bắc giáp huyện Mộ Đức, nam giáp huyện Tam Quan (Bình Định), tây giáp huyện Ba Tơ và phía đông giáp biển Đông.
Đức Phổ có nhiều cụm công nghiệp, làng nghề, như làng muối Sa Huỳnh (đặc sản Quảng Ngãi) và khu công nghiệp Phổ Phong đang kêu gọi đầu tư. Trị trấn Đức Phổ đang được xây dựng theo quy hoạch của Bộ xây dựng Việt Nam, để tiến tới trở thành thị xã vào năm 2010, tạo thành chuỗi thị tứ, thị trấn dọc theo QL1A cùng với Vạn Tường – Dung Quất (phía bắc) và thành phố Quảng Ngãi (trung tâm tỉnh).
Về đường bộ huyện có QL1A, cùng với tuyến đường ven biển Dung Quất – Sa Huỳnh đã được quyết định xây dựng bằng nguồn vốn trái phiếu chính phủ Việt Nam. Về đường biển, huyện có cảng Sa Huỳnh. Đường sắt Thống Nhất cũng chạy qua huyện.
Huyện Đức Phổ là nơi chiến đấu của bác sỹ, liệt sỹ Đặng Thùy Trâm. Huyện có thắng cảnh đẹp như bãi biển Sa Huỳnh. Đây cũng là nơi các dấu tích (như mộ chum, đồ tùy táng, gò Ma Vương) của nền văn hóa Sa Huỳnh cách đây khoảng 2000 – 3000 năm được tìm thấy. Phía đông nam Sa huỳnh có đảo Khỉ với đàn Khỉ gần 500 con. Ở Sa Huỳnh cũng có bia đá khắc chữ Phạn (làng Thạch Bi). Nơi đây đang được tỉnh Quảng Ngãi quy hoạch chi tiết và xây dựng thành khu du lịch Sa Hùynh.

Di tích Ba Tơ:
Di tích thuộc xã Ba Đông, huyện Ba Tơ, cách thị xã Quảng Ngãi 60km về hướng tây nam. Là di tích lịch sử cách mạng Việt Nam trong những năm 1942 -1945. nơi đây có 9 điểm di tích để lại dấu ấn của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và chính quyền cách mạng đầu tiên được thành lập tại tỉnh Quảng Ngãi.
Di tích Ba Tơ đựơc tỉnh đầu tư để xây dựng thành các làng dân tộc kiểu mẫu.

Huyện Mộ Đức :
Mộ Đức là một huyện nằm phía đông nam tỉnh Quảng Ngãi. Phía bắc giáp huyện Tư Nghĩa, phía nam giáp huyện Đức Phổ (nơi làm việc và chiến đấu của bác sỹ, liệt sỹ Đặng Thuỳ Trâm), phía tây giáp huyện Nghĩa Hành, phía đông giáp biển Đông, với tổng chiều dài bờ biển là 23km. Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 212 ha. Dân số là 144.230 người tạo nên mật độ tương đối đông. Toàn huyện có 13 đơn vị hành chính nhỏ hơn, gồm 11 xã và 2 thị trấn (Mộ Đức và Đồng Cát). Chúng được chia thành 69 thôn và tổ dân phố. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nhiệt độ của huyện có biên độ dao động thấp, quanh giá trị trung bình hàng năm khoảng 27 độ C. thời tiết luôn biến đổi bất thường, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.
Với đặc điểm là một huyện thuần nông, hơn 80% dân số sinh sống ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, tiến trình phát triển kinh tế xã hội của huyện ở điểm xuất phát thấp; trong khi đó tiềm năng đất đai, lao động của huyện chưa được khai thác có hiệu quả. Huyện có bãi biển Minh Tân, cách khu lưu niệm Phạm Văn Đồng 5km về phía đông.
Qua cầu Trà Khúc, đến ngã ba rẽ phải đi khu chứng tích Sơn Mỹ (12km).

Huyện Tư Nghĩa :
Huyện Tư Nghĩa là một huyện đồng bằng của tỉnh Quảng Ngãi. Với diện tích khoảng 227 ha và dân số của huyện là 178.132 người. Huyện dường như nằm bao quanh thành phố Quảng Ngãi, giáp các huyện Sơn Tịnh, Sơn Hà, Minh Long, Nghĩa Hành, Mộ Đức, và biển đông. Huyện được chia làm 18 xã và 2 thị trấn (La Hà và Sông Vệ). Kinh tế của huyện là thuần nông công với đánh bắt hải sản và tiểu thủ công nghiệp. Huyện đang phát triển cụm công nghiệp làng nghề La Hà.
Huyện có núi Phú Thọ và Cổ Lũy cô thôn với các thành lũy văn hóa Chămpa (thành Bàn Cờ, thành hòn Yàng) và làng quê ven biển bình yên với những rặng dừa giỡn sóng. Thắng cảnh núi Phú Thọ và Cổ Lũy cô thôn đã được Bộ văn hóa thông tin Việt Nam xếp hạng. La Hà Thạch Trận với những phiến đá trên ngọ đồi khi có gió thổi thoát ra những tiếng ngoạn mục như những cuộc giao chiến. Huyện có chùa Ông được người Hoa tại Quảng Ngãi xây dựng vào thế kỷ 18 nằm trên địa bàn thị tứ Tư Xà, xã Nghĩa Hoài (phố cổ Thu Xà đã bị Mỹ tàn phá năm 1974). Chùa vẫn được bảo tồn và hiện nay là di tích quốc gia. Đặc sản của huyện và của tỉnh Quảng Ngãi là don, được các ngư dân ven sông Trà Khúc đánh bắt. Công trình đại thủy lợi Thạch Nham tại đây cũng là điểm du lich tại Quảng Ngãi. Khu du lịch suối nước nóng Nghĩa Thuận đang được đầu tư xây dựng với sự hỗ trợ của tổng cục du lịch Việt Nam.

TP Quảng Ngãi :
Thành phố Quảng Ngãi là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 26/8/2005 thị xã Quảng Ngãi được nâng cấp lên thành phố trực thuộc tỉnh bằng quyết định số 112/2005/ NĐ – CP của chính phủ Việt Nam.
Thành phố Quảng Ngãi được bao quanh huyện Tư Nghĩa và huyện Sơn Tịnh với diện tích tự nhiên là 3712 ha, dân số khoảng 134.000 người. Thành phố có 10 đơn vị hành chính. Có khu công nghiệp Quang Phú ra đời các sản phẩm như bia Dung Quất, nước khoáng Thạch Bích, sữa đậu nành Famivinasoy, bánh kẹo Quảng Ngãi Biscafun.
Giao thông có QL1A chạy qua thành phố Quảng Ngãi, sắp tới sẽ khởi công xây dựng tuyến đường Dung Quất – Sa Huỳnh, cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi. Ga Quảng Ngãi nằm ở cuối đường Nguyễn Chánh, tàu Thống Nhất dừng ở đây, có bến xe liên huyện (phố Nguyễn Nghiêm) và bến xe liên tỉnh (đường Lê Thánh Tông). Cảng Sa Kỳ cách 12km và cảng Dung Quất 15 km về phía nam. Sân bay Chu Lai cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 35km về phía bắc. Thủy lợi Thạch Nham cung cấp nước tưới tiêu cho thành phố, nhà máy nước công suất 20.000m/ ngày đêm.
Bưu điện tỉnh nằm ở đường Phan Đình Phùng, bưu điện thành phố nằm ở đường Quang Trung. Bệnh viện đa khoa tỉnh nằm ngay đại lộ Hùng Vương và có 14 bệnh viện huyện. Hiện nay thành phố có 1 khách sạn 4 sao (central hotel), 2 khách sạn 3 sao (Mỹ Trà hotel và Petro Sông Trà hotel), và hơn 20 khách sạn đạt chuẩn khác. Chợ Quảng Ngãi nằm ở đường Nguyễn Nghiêm, siêu thị nằm ở đại lộ Hùng Vương, siêu thị điện máy Hòa Bình nằm ở đường Quang Trung.
Có vườn hoa Ba Tơ, bảo tàng tổng hợp tỉnh nơi trưng bày các di vật tìm thấy của văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa, văn hóa các dân tộc tỉnh nhà, quảng trường tỉnh (đường Thành cổ núi bút hoặc đường Phạm Văn Đồng), núi Bút, phố Bờ Kê, bến Tam Thương … thành phố là nơi lưu trú khá lý tưởng cho du khách khi về thăm Quảng Ngãi. Lúc sinh thời cố thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi có lần đề nghị thủ tướng Phạm Văn Đồng được cho Ấn Độ xây dựng thành phố thị xã Quảng Ngãi thành thành phố Phạm Văn Đồng nhưng thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khiêm tốn từ chối. Thành phố Quảng Ngãi đang cố gắng trở thành đô thị loại 2 vào năm 2010.

Huyện Bình Sơn :
Bình Sơn là một huyện nằm ở phía đông bắc tỉnh Quảng Ngãi. Với tổng diện tích tự nhiên là 463 ha, dân số là 177,934 người. Địa hình khá phức tạp, nằm ở ven biển, có cả vùng đồng bằng và miền núi. Phía bắc giáp huyện Núi Thành (Quảng Nam), phía nam giáp huyện Sơn Tịnh, phía tây giáp huyện Trà Bồng và phía đông giáp biển Đông. Huyện có 24 xã, trong đó huyện lỵ là thị trấn Châu Ô. Huyện đảo Lý Sơn được tách ra từ huyện này.
Kinh tế của huyện chủ yếu là thuần nông. Tuy nhiên, qua khảo sát các vịnh tại Việt Nam của đoàn công tác Chính Phủ Việt Nam năm 1992 thì vịnh Dung Quất cùng vịnh Chân Mây (Thừa Thiên Huế) có ưu thế hơn trong việc xây dựng cảng nước sâu, khả năng tiếp nhận tàu được 100.000 tấn. Năm 1994, nguyên thủ tướng Chính Phủ Võ Văn Kiệt ký quyết định xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam tại vịnh Việt Thanh nằm tại xã Bính Trị, huyện Bình Sơn. Sau gần 10 năm xây dựng, năm 2003, phía Việt Nam đã bàn với các đối tác Nga để Việt Nam tự đầu tư (do cơ chế liên doanh 50:50 trước đây làm chậm trễ tiến độ xây dựng công trình). Năm 2005, Việt Nam cho đối tác Technip (Pháp) cùng các nhà thầu phụ (Nhật Bản, Hà Lan, Italia, Tây Ban Nha) để xây dựng nhà máy.
Đã có hơn 100 dự án đầu tư vào khu kinh tế Dung Quất với tổng số vốn xấp xỉ 5,1 tỷ USD trong đó có 2 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài có số vốn lớn: nhà máy luyện thép lò cao của Đài Loan (1,5 tỷ USD) và một dự án đầu tư của nhà đầu tư Hàn Quốc (200 triệu USD) từ vị trí là tỉnh thu hút đầu tư nước ngoài xếp thứ 37 của cả nước, Quảng Ngãi đã vươn lên thành tỉnh có vốn đầu tư FDI xếp thứ 11 cả nước và trở thành 1 trong 5 tỉnh thu hút FDI cao nhất cả nước năm 2006. Bình Sơn hiện đang xây dựng khu đô thị mới Vạn Tường với đầy đủ các tiện ích như; bưu điện, trường dạy nghề, bệnh viện quốc tế, khu chuyên gia, khu du lịch sinh thái Thiên Đàn (hay còn gọi là khu du lịch sinh thái 4 mùa). Đối với ngành công nghiệp tại đây, tỉnh xây dựng hệ thống giao thông, điện nước đến từng hàng rào nhà máy với chính sách ưu đãi.
Huyện có nhiều bãi tắm đẹp như: Khe Hai; Lệ Thủy biển bậc thang). Huyện có di tích cấp quốc gia về vụ thảm sát Bình Hòa (do lính Hàn Quốc gây năm 1966, làm 430 người dân bị thiệt mạng). Tại xã Bình Hải huyện Vạn Tường hiện có nhà bảo tàng chiến thắng Vạn Tường (chiến thắng chiến lược chiến tranh cục bộ, cuộc hành quân “Ánh sáng sao”, của quân đội Hoa Kỳ ngày 18/8/1965).

Thành cổ Châu Sa:
Một thành Chăm cổ còn khá nguyên vẹn, được dựng vào thế kỷ X, cao 5m, hình vuông, có hai vòng thành trong và ngoài, mỗi cạnh dài 800m. Thành Châu Sa thuộc Thôn Phú Bình, xã Tịnh Châu, huyện Sơn Tịnh, các Thị xã Quảng Ngãi 6 km về phía đông, trên bờ biển Bắc gần cửa biển sông Trà. Nơi đây đã có một thời nổi tiếng với những nghề: làm lúa, làm gốm, trao đổi, buôn bán với của cư dân Chămpa thế kỷ 9-14. Thành cổ Châu Sa còn có di tích Cổ Lũy nằm ở thắng cảnh núi Phú Thọ-Cổ Lũy Cô Thôn. Thành xây nhô ra biển án ngữ Cửa Đại bảo vệ Thành Châu Sa.

Thị trấn Châu Ô, qua khỏi là đến địa phận tỉnh Quảng Nam.

 TỈNH QUẢNG NAM - Bãi biển Nam Ô

TỈNH QUẢNG NAM

Huyện Núi Thành
Núi Thành là một huyện ven biển thuộc phía nam của tỉnh Quảng Nam (Việt Nam), giáp với Thị xã Tam Kỳ về phía bắc và Quảng Ngãi về phía nam. Nó có diện tích là 528,2 kilômét vuông và dân số là 131.2000 người (1997). Là nơi đã diễn ra trận đụng độ đầu tiên giữa quân đội viễn chinh Mỹ và quân đội Việt Nam, thời chiến tranh.
Huyện này có đồi núi ở phía tây và đồng bằng ở phía đông. Hai sông Trường Giang và Tam Kỳ chảy qua huyện này. Bờ biển ở huyện này dài 37 kilômét, có cảng Kỳ Hà và căn cứ Chu Lai, chạy dài hơn 10km, là khu quân sự của Mỹ hồi xưa, có phi trường. Ngày nay là sân bay phục vụ dân sự và khu công nghiệp lọc dầu Dung Quất. Hồ Phú Ninh nằm thuộc tỉnh này, có diện tích mặt nước 4.500 hecta. Vùng đồi núi ở đây có vàng và chì. Quốc lộ 1A và đường sắt Thống Nhất chạy qua huyện này.
Huyện này được thành lập ngày 3 tháng 12 năm 1983 khi huyện Tam Kỳ được chia thành huyện Núi Thành và Thị xã Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Từ ngày 26 tháng 11 năm 1996 nó thuộc tỉnh Quảng Nam, gồm Thị trấn Núi Thành là huyện lị và 14 xã

Thành phố Tam Kỳ
Ngày 6-11-1996 đảng và nhà nước đã tách Đà Nẵng ra khỏi tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng và Đà Nẵng thành thành phố đô thị loa#i 1 trực thuộc trung ương. Quảng Nam lấy Tam Kỳ và Hội An.
Là trung tâm hành chính-chính trị (tỉnh lị) của tỉnh Quảng Nam. Hiện nay Tam Kỳ là đô thị loại 3 và phấn đấu trở thành đô thị loại 2 vào năm 2010.
Tam Kỳ từ một thị xã trở thành thành phố trực thuộc tỉnh theo Nghị định số 113/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2006.
Thành phố Tam Kỳ có 9.263,56 ha diện tích tự nhiên và 123.662 nhân khẩu (tháng 9 năm 2006). Thành phố chỉ có 1 con đường phố chính, cũng là QL.1, tên gọi Phan Chu Trinh, khi trước chỉ có ngã ba, không có ngã tư (vì vậy nó là 1 trong 3 điểm kỳ lạ mà người ta gọi là tam kỳ). Ngày nay phố phường đã xây dựng khá nhiều và quy mô, nhất là khu hành chánh, quảng trường...
Thành phố Tam Kỳ có 13 đơn vị hành chính, gồm các phường: An Mỹ, An Sơn, Hoà Hương, Phước Hoà, An Xuân, An Phú, Trường Xuân, Tân Thạnh, Hoà Thuận và các xã: Tam Thăng, Tam Thanh, Tam Phú, Tam Ngọc. Địa giới hành chính thành phố Tam Kỳ: phía bắc giáp huyện Thăng Bình phía nam giáp huyện Núi Thành, phía tây giáp huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp biển Đông.

Huyện Thăng Bình
Là một huyện phía Đông tỉnh Quảng Nam, huyện lỵ là thị trấn Hà Lam.

Huyện Duy Xuyên
Là một huyện thuộc tỉnh Quảng Nam. Về hành chính, Duy Xuyên gồm thị trấn Nam Phước, các xã Duy Sơn, Duy Trinh, Duy Phú...
Duy Xuyên nổi tiếng với di sản thế giới - Thánh địa Mỹ Sơn của người Chăm. Ngoài ra, Duy Xuyên còn có kinh thành Trà Kiệu, có thủy điện Duy Sơn, đập Duy Trinh.Về nông nghiệp, Duy Xuyên nổi tiếng với nghề tơ tằm.
Ngã ba Nông Sơn, rẽ trái đi Thánh địa Mỹ Sơn (27km), kinh đô Trà Kiệu, nhà thờ Trà Kiệu.

Kinh thành Trà Kiệu (Sibapura):
Kinh thành Sư Tử ngày nay đã bị tàn phá nặng nề. Theo những ghi chép trong Thủy Kinh Chú (thế kỷ XV) chúng ta biết rằng kinh thành này được bao bọc bởi hệ thống thành quách, hào lũy đồ sộ xây dựng theo kỹ thuật Trung Hoa. Tại đây cũng có một số đền thờ lớn thờ thần linh (một phần lớn tác phẩm điêu khắc quan trọng hiện trưng bày tại bảo tàng điêu khắc Chămpa- Đà Nẵng).
Trong những năm 80 nhân dân trong vùng đã tìm thấy một số lượng lớn những hiện vật bằng vàng. Đó là những đồ trang sức được chế tác rất tinh xảo. Những cứ liệu trên phần nào cho thấy sự phồn vinh của kinh đô này, mà tiếng tăm của nó đã có thời lừng lẫy trong vùng Đông Nam Á .

Nhà thờ Trà Kiệu :
Nhà thờ nằm ở khu vực Thành Cổ Trà Kiệu, cách Đà Nẵng 37km về hướng Nam. Nhà Thờ Trà Kiệu được xây dựng vào năm 1722, đến 1865 nhà thờ được di chuyển đến địa diểm hiện nay. Thánh đường hiện tại do linh mục PhêRô Lê Như Hảo xây vào năm 1971 với kiến trúc nhà thờ phương Tây thời kỳ ánh sáng kết hợp những nét hoa văn mang đậm tính dân tộc.
Trước cổng vào thánh đường là hai con rồng dài 20m uốn lượn theo đường lên hành lang tầng trên vào chính điện nhà thờ .
Bên cạnh nhà thờ còn có tu viện Mến Thánh Giá (xây dựng năm 1867), nhà truyền thống và Nhà Thờ Đức Mẹ (xây năm 1898) trên đồi cao 60m.

Huyện Điện Bàn
Điện Bàn có 1 thị trấn (Vĩnh Điện) và 15 xã gồm các xã Điện Dương, Điện Nam, Điện Ngọc, Điện Hòa, Điện Thắng, Điện An, Điện Phước, Điện Thọ, Điện Hồng, Điện Tiến, Điện Minh, Điện Phương, Điện Trung, Điện Quang và Điện Phong.
Điện Bàn là huyện phát triển nhất hiện nay của tỉnh Quảng Nam, với các khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, với khu thị trấn Vĩnh Điện sầm uất.
Huyện Điện Bàn có nhiều làng nghề nổi tiếng. Xã Điện Phương có nghề đúc đồng Phước Kiều, gồm có các xã Điên Nghề trồng dâu nuôi tằm cùng với việc trồng thuốc lá ở các xã thuộc khu vực Gò Nổi vì đất bồi rất phì nhiêu do lũ lụt đem đến. Huyện Điện Bàn còn có tháp Bằng An, một di tích văn hóa Chăm. Điện Bàn là quê hương của nhiều chiến sĩ yêu nước: Cụ Hoàng Diệu quê ở Điện Quang, anh Nguyễn Văn Trỗi quê ở Điện Thắng, chị Trần Thị Lý và cựu Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình quê ở Điện Quang, Giáo sư Lê Trí Viễn quê ở Điện Hồng.

Bãi biển Cửa Đại
Cửa Đại còn gọi là Đại Chiêm, cách Hội An 4km, đi thẳng theo đường Trần Hưng Đạo, đường Cửa Đại. Đây là một bãi biển đẹp thu hút nhiều khách. Xa xa ngoài khơi là 7 hòn đảo của cù lao Chàm. Trên đảo có 2.500 dân sinh sống bằng nghề biển và khai thác tổ yến.

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Huyện Hòa Vang
Huyện Hòa Vang, là huyện ngoại thành duy nhất của thành phố Đà Nẵng. Các tuyến đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Quốc lộ 14B đều chạy qua địa bàn huyện, tạo điều kiện rất tốt để cho huyện phát triển. Với quỹ đất ngày càng khan hiếm, các xã giáp với các quận của huyện Hòa Vang là nơi thích hợp nhất để hình thành nên các đô thị mới. Nền nông nghiệp đang chuyển dần sang sản xuất hàng hóa với các sản phẩm có chất lượng cao, giá trị thương mại lớn. Với các làng đồng bào dân tộc Cơtu, các khu du lịch nổi tiếng như Bà Nà - Suối Mơ, các hồ Hòa Trung, Đồng Nghệ, các dòng sông đẹp... huyện Hòa Vang còn có tiềm năng rất lớn trong việc phát triển du lịch sinh thái và văn hóa. Đặc biệt, với trên 60% diện tích là rừng núi, ngoài nhiệm vụ là lá phổi của thành phố Đà Nẵng, Hòa Vang còn là bức bình phong bảo vệ thành phố Đà Nẵng khỏi sự tàn phá của thiên nhiên
Hòa Vang là một huyện nằm bao bọc quanh phía tây thành phố Đà Nẵng. Diện tích 737.5 km2. Dân số 106.746 - năm 2005. Huyện có diện tích bằng hơn 80% diện tích của thành phố Đà Nẵng (không kể đảo Hoàng Sa).
Hòa Vang giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế (phía bắc), quận Liên Chiểu (đông bắc), quận Thanh Khê, quận Ngũ Hành Sơn (phía đông), tỉnh Quảng Nam (phía nam và phía tây).
Kinh tế huyện Hòa Vang phát triển đa dạng với đủ loại ngành nghề. Phần lớn người dân sinh sống bằng nghề nông, chăn nuôi gia súc, gia cầm, dệt lụa, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, một bộ phận nhỏ tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ phục vụ du lịch...
Hòa Vang bao gồm các đơn vị hành chính cấp xã sau: Hòa Liên, Hòa Sơn, Hòa Ninh, Hòa Bắc, Hòa Phong, Hòa Phú, Hòa Châu, Hòa Khương, Hòa Phước và Hòa Tiến, Hòa Nhơn...
Hòa Vang có các trường trung học phổ thông Phạm Phú Thứ ở Hòa Sơn, Ông Ích Khiêm ở Hòa Thọ, Phan Thành Tài ở Hòa Châu.
Hòa Vang là địa danh nổi tiếng trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ.
Đây là địa phương có nhiều địa danh đẹp thơ mộng như khu du lịch sinh thái rừng Bà Nà, hồ thủy lợi Hòa Trung, sông Thu Bồn hai bờ bạt ngàn xanh lá dâu tằm, sông Cu Đê tấp nập ghe đò ngược xuôi mang tôm cá vùng biển lên với đồng bào thượng nguồn và sản vật vùng cao như gỗ, nông sản về đồng bằng.
Nam Ô - vạch nối vào quá khứ .
''Đi bộ thì sợ Hải Vân, đi thuyền thì sợ sóng thần Hang Dơi''. Hang Dơi là một ghềnh đá dưới chân Hải Vân, nơi giao nhau của các dòng nước và gió Bắc Nam. Điều đó có nghĩa rằng cho dù đi vào hay đi ra, bằng đường biển hay đường bộ thì Bắc và Nam Hải Vân đều cần một trạm nghỉ. Vì vị trí yết hầu và độc đạo nên suốt hàng nghìn năm qua trạm nghỉ này không thay đổi. Ở Nam Hải Vân đó chính là Nam Ô!
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân, ngày xưa có đến hai con đèo qua Hải Vân. Đường đèo hiện nay gọi là Hải Vân Hạ đạo. Hải Vân Thượng đạo băng qua U Bò, xuống Quán Sảng (khu vực Bầu Bàng, Trường Định hiện nay), đi dọc sông Cu Đê ra Nam Ô rồi về Thanh Khê. Nam Ô nằm ngay cửa sông Cu Đê. Ngay từ thời vùng đất này còn thuộc vương quốc Chămpa hay thuộc Đại Việt sau này thì Nam Ô cũng có đủ yếu tố địa lý để con người phải dừng lại và cư trú đông đúc ở đó.
Trước Đồn Biên phòng Nam Ô là một sân bóng đá, giữa sân bóng đá vẫn còn dấu vết của một ngôi tháp Chàm cổ với những viên gạch vồ to khổ đặc trưng của các công trình kiến trúc Chămpa. Trong hồ sơ của bảo tàng điêu khắc Chăm pa có nhiều bức tượng mà các nhà nghiên cứu Pháp đã đem từ Nam Ô về. Từ Nam Ô lên Trường Định có ít nhất ba nơi được gọi là miếu Bà Giàng và đều còn dấu vết kiến trúc Chăm pa cổ, rất nhiều mả vôi được dân làng gọi là mả Hời. Ngay giữa làng Nam Ô, giữa những lối đi ngoằn ngoèo của một xóm dân làng chài điển hình là hai cái giếng vuông nước quanh năm trong vắt và ngọt nhất làng. Người Chàm giỏi đi biển, với một cửa sông Cu Đê nhiều lâm sản, lại dưới chân một ngọn núi lớn, nơi có một con đường đèo hình thành từ thời cổ đại như Hải Vân, thì việc người Chàm cư trú ở Hải Vân không phải là chuyện lạ. Chỉ tiếc rằng, giới khoa học nghiên cứu ở đây chưa nhiều. Điều lý thú là ở Nam Ô hiện nay vẫn còn lưu giữ một di tích của ngôi Việt ngay năm đầu tiên (1306) vùng đất này thuộc về Đại Việt. Đó là ngôi mộ mà dân làng Nam Ô gọi là Mả Tiền Hiền nằm ngay bên hông Đồn Biên phòng Nam Ô, nhìn thẳng ra hướng núi Sơn Trà. Ngôi mộ thật to và đã được làm mới bằng xi-măng. Cụ Sáu Hào, tên thật là Đinh Như Hào, năm nay 86 tuổi cho biết là mộ của một vị tướng theo Trần Khắc Chung vào Nam cứu Công chúa Huyền Trân năm 1307.
Khắp làng Nam Ô vẫn còn rất nhiều những di tích xưa cũ. Đó là những ngôi miếu hoang đổ nát mà nét kiến trúc còn lại vẫn toát lên vẻ đẹp hài hòa, cổ kính. Chợt nhớ trong Ô Châu Cận lục được viết năm 1553, Dương Văn An chép rằng: ''Đến Tùng Giang, ở cửa biển Tư Khách thuộc huyện Tư Vinh, tại cửa biển Đà Nẵng có đền thờ thần họ Nguyễn tên Phục...''. Đây là lần đầu tiên tên gọi Đà Nẵng được ghi chép vào sử sách. Nếu tìm lại được ngôi đền này, thì Đà Nẵng sẽ có được một vạch nối vào quá khứ thật xa, niềm tự hào mà bất cứ địa phương nào cũng muốn. Đó là ngôi đình Xuân Dương mà tấm hoành không ghi chữ thần hoành hay địa linh như thường gặp mà là hai chữ Tổ quốc được treo ngay gian giữa. Ngôi đình tựa lưng vào vách núi, kiến trúc bằng gỗ nhiều hoa văn chạm khắc thật đẹp, xứng đáng được ngành văn hóa chú ý đến và xếp hạng di tích chứ không phải vô danh như hiện nay.

Bãi biển Nam Ô
Bãi tắm Nam Ô cách trung tâm thành phố 17km về phía Tây Bắc. Bãi tắm Nam Ô thuộc địa phận phường Hòa Hiệp, quận Liên Chiểu. Tên gọi Nam Ô, theo người địa phương, có nghĩa là ở phía Nam của châu Ô xưa.
Bãi tắm Nam Ô có độ dốc vừa phải, ven theo chân núi, phong cảnh sơn thủy rất hữu tình. Tại đây, bạn có thể nô đùa cùng với sóng biển, vừa có thể làm một chuyến du lịch nhỏ lên lưng chừng núi về bán đảo Sơn Trà và thành phố Đà Nẵng từ xa.
Từ bãi tắm Nam Ô, du khách có thể dùng thuyền ngược về hướng Tây theo dòng sông Cu Đê, thực hiện một tour du lịch sinh thái, thăm một làng dân tộc Kà-Tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang.
Bãi tắm Nam Ô có từ những năm đầu thập kỷ 60, chủ yếu thỏa mãn nhu cầu của người dân địa phương. Bãi tắm có một số hàng quán xây dựng theo kiểu nhà sàn phục vụ du khách.
Hiện nay, quận Liên Chiểu đã có dự án tôn tạo cảnh quan và giải quyết vấn đề vệ sinh môi trường tại bãi tắm này, đồng thời lập dự án xây dựng một con đường dài 800 mét từ cầu Nam Ô đi ra bãi tắm.

Thuyết Minh Tuyến Đà Nẵng -> Huế (110km) -> Quảng Trị (?) -> Nghệ An (?)

Ngã ba Huế:
Cách thánh phố Đà Nẵng 5km, quẹo trái là đường về Tp.HCM đi thẳng là tiếp tục quốc lộ 1 tiến ra Bắc. Từ đây đi Huế khoảng 110 km, Sài Gòn là 960 km. Sau khi qua khỏi quảng trường đại học bách khoa Đà Nẵng nhìn về phía bên phải ta thấy 1 dãi cát trắng và dọc theo là những hàng dương. Đó từng là doanh trại đóng quân của sư đoàn 3 bộ binh Mỹ. Ngày nay sử dụng làm khu cảng, kho hàng hóa quá cảnh cho nước bạn Lào. Lào xuất và nhập hàng qua đường biển này và đi bằng đường 9 về Nam Lào.

Tượng mẹ Nhu:
Trên đường Điện Biên Phủ– trục lộ chính dẫn đến trung tâm thành phố Đà Nẵng, người ta dựng tượng mẹ Nhu bằng đồng. Mẹ là bà mẹ anh hùng của vùng đất Quảng. Mẹ có 4 người con, trong chiến tranh Mẹ tham gia công tác dân vận ở phường Thanh Khê. Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đã phát hiện ra Mẹ nuôi dấu cán bộ chiến sĩ cách mạng. Chúng bắt Mẹ, tra tấn Mẹ giã man, buộc Mẹ phải khai tên các đồng chí và cơ sở nhưng Mẹ thà chết chứ nhất định không chịu khai nửa lời. Cuối cùng do không chịu nổi những cực hình tra tấn Mẹ đã anh dũng hi sinh. Các người xung quanh tượng Mẹ là các con của Mẹ ,chất liệu đồng lấy từ vỏ bom đạn, nòng pháo.

Cầu Nam Ô:
Phía Nam từng nổi tiếng với làng làm pháo mà hiện nay sau khi có lệnh cấm đốt pháo thì dân đã chuyển sang làm nghề khác. Còn ở phía Bắc thì nổi tiếng với làng chế biến đặc sản–nước mắm. “Nước mắm Nam Ô, cá rô Xuân Thiều”. Chưa biết cá rô Xuân Thiều ngon đến mức nào nhưng nước mắm Nam Ô nổi tiếng từ trước đến nay. Nơi đây xưa kia chính là nơi đổ bộ của lữ đoàn 9 thủy quân lục chiến Hoa Kỳ vào những ngày 8/3/1965. Bãi biển này giờ đây là khu du lịch Xuân Thiều, ta sắp qua cầu Nam Ô, bãi biển ở bên phải .

Cầu Nam Ô là ranh giới giữa Đà Nẵng và Thừa Thiên–Huế
Huế là nơi có 3 con sông chảy qua, ba con sông lớn là sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lau đổ ra phá Tam Giang. Sau khi đi hết Đà Nẵng ta qua thêm 1 con đèo Kiết Tượng. Người ta nói là đi bộ thì sợ Hải Vân, đi biển thì sợ sóng thần Hang Dơi. Bên tay phải chúng ta là đầm Cầu Hai. Vịnh, đầm, phá đều là phần ăn sâu vào đất liền. Vịnh là phần ăn sâu vào, có độ sâu lớn, chung quanh là vách núi. Còn đầm hay phá cạn hơn. Như chúng ta biết do vị trí của đèo Hải Vân nằm, do đó ở đây con đường đang đi thì đèo cao cắt ngang, phải lên đỉnh rồi xuống. Đèo Hải Vân là nguyên nhân chính làm cho luồng gió Đông Bắc và Tây Nam một phần nó bị ngăn lại. Mùa gió Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 3, 4 thì nó từ Đông Bắc thổi vào nhưng gặp Hải Vân thì bị chắn lại cho nên hơi lạnh đổ xuống chỉ ảnh hưởng từ Hải Vân đổ ra Bắc thôi. Còn trong Nam không bị ảnh hưởng nhiều. Ở trong Nam gió Tây Nam thổi ra hoặc một phần gió thổi qua Lào gặp dãy Trường Sơn chắn lại làm khí hậu khác nhau. Hải Vân cao nhất khoảng trên 1100m, không cao lắm, chính điều này làm 2 bên khác nhau nên người ta hay nói là đường đi ở Huế thế này, trời đang mưa trên đỉnh đèo qua Đà Nẵng là hết mưa ngay. Do đó dân gian vẫn thường nói :

“Đi bộ thì sợ Hải Vân,
Đi biển thì sợ sóng thần Hang Dơi
Hải Vân đèo lớn vừa qua,
Mưa xuân ai bỗng chuyển sang nắng hè
Thương em anh chẳng dám vô
Sợ chuông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang,
Phá Tam Giang ngày đã cạn
Chuông nhà Hồ nội tán cấm em”

“Đi bộ thì sợ Hải Vân, đi biển thì sợ sóng thần Hang Dơi”, thiệt sự người ta sợ Hải Vân kinh hoàng không phải bây giờ mà từ ngày xưa. Ngày xưa chúng ta có con đường thiên lý Bắc Nam nhưng đường bộ thì chỉ đến đèo Hải Vân là hết. Còn từ Hải Vân vào trong nữa thì phải đi thuyền. Trước khi Pháp làm đường đây chỉ là con đường bình thường vào thời phong kiến ngày xưa đặc biệt là chỉ phát triển miền Nam thời chúa Nguyễn. Có 3 con đường qua Hải Vân: một là đường Thượng Đạo, 2 là đường Trung Đạo và 3 là đường Hạ Đạo. Ngày xưa qua đường đèo rất là cực, rừng thiêng nước độc, thú dữ, lục lâm khảo khấu nên một số người không qua được. Một số người giàu có người ta thuê thuyền đi, người giàu có đi thuyền lớn không sao, nếu đi thuyền nhỏ phải đi sát vách núi. Mà ngày xưa ở Việt Nam người giàu không nhiều, thuyền bè cũng không như bây giờ. Địa hình của chúng ta, do ảnh hưởng bởi luồng gió Đông Bắc và hệ thống núi phía Bắc Hải Vân là đá vôi, cho nên nó nạo khoét phía Bắc Hải Vân tạo thành một hang rộng và sâu, dơi sống rất nhiều nên người ta gọi là Hang Dơi. Chính Hang Dơi này khi sóng đánh vào tạo thành dòng xoáy thành sóng thần cho nên thuyền bè người dân đi qua là bị đánh úp. Tới năm 1826 vua Minh Mạng, một trong những vị vua tài giỏi tề gia trị quốc bình thiên hạ đã ý thức được tầm quang trọng của Quảng Nam- Đà Nẵng. Quảng là vùng trải rộng lớn phía nam nên gọi là Quảng Nam. Đà Nẵng thuộc Quảng Nam. Vua Minh Mạng từ khi lên ngôi cho mang thần công đến bán đảo Sơn Trà là vùng cửa ngõ vì sau đó năm 1858 người Pháp thấy rõ tầm quan trọng ở đây nên họ đánh chiếm nhưng do Triều đình và đặc biệt là tướng Nguyễn Tri Phương có sự chuẩn bị trước nên ít nhiều gay khó khăn và thực dân Pháp đã phải chuyển hướng tấn công về phía Sài Gòn. Hiện nay ở Sơn Trà có nghĩa địa người Tây Ban Nha và Pháp ở trên này có ngôi mộ William Cook, ông tổ du lịch tàu biển ngày truớc lập ra con tàu đưa khách du lịch và trong một lần đến Sơn Trà ông bị bệnh (dưới thời vua Thiệu Trị). Tàu của ông xuất phát từ cảng Botton Mỹ. Vua cho ngự y cứu chữa nhưng không được. Hiện tàu của ông vẫn còn lưu giữ. Như vậy đèo Hải Vân quan trọng, Quảng Nam Đà Nẵng cũng quan trọng nên vua Minh Mạng đã xây dựng đường đèo Hải Vân. Nếu lúc đầu có 3 đường Thượng Đạo, Trung Đạo và Hạ Đạo thì vua Minh Mạng cho nâng cấp và xây dựng đường Trung Đạo dưới hình thức làm bậc tam cấp và ở ngay trên đỉnh ông cho xây 1 tường thành chắn ngang lập 1 cổng và có một đồn gọi là Đồn 1 án ngữ ở đó, có một cái cổng và người ta gọi nó là Hải Vân Quan. Tất cả người qua lại phải qua Hải Vân Quan và người ta ghi 6 chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” năm 1826 ở phía Bắc. Sau này khi Pháp vào xâm lược Việt Nam thì đường xe lửa được xây dựng vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và sau đó xây dựng tiếp đường hầm. Và khi Pháp xây dựng đường hầm đèo Hải Vân, người Pháp đã dùng con đường trung đạo mà Minh Mạng xây dựng mở rộng và chỉ có một làn xe qua lại. Ví dụ, buổi sáng hướng Đà Nẵng ra thì buổi chiều hướng Huế vô, đường rất nguy hiểm, mãi về sau, người Mỹ vào và mở rộng gấp đôi nên xe qua lại cùng lúc dễ dàng.
Ngày xưa tại khu vực này người ta cũng hay nhắc đến đến câu:

“ Thăm em anh chẳng dám vô- Sợ Truông nhà Hồ sợ Phá Tam Giang”

Truông nhà Hồ, hồ là Hồ Xá ở Quảng Trị, qua khỏi cầu Hiền Lương. Truông là những đụn cát, cồn cát ở Hồ Xá. Tam Giang tức là nơi đổ ra 3 con sông Trung, Tả, Hữu hay còn gọi là sông Hương, Ô Lau, và Bồ. Ngày xưa phá Tam Giang có sóng thần, chúa Nguyễn Phúc Chu thấy dân chết nhiều nên sai tướng giỏi là Nguyễn Khoa Đăng vào giúp dân. Nguyễn Khoa Đăng sinh 1691 mất 1725 là vị quan tài giỏi, sinh đúng năm chúa Nguyễn Phúc Chu lên ngôi. Do có tài nên ông bị nhiều kẻ gian hãm hại. Chúa Nguyễn Phúc Chu sai ông đến phá Tam Giang nghiên cứu xem tại sao bị vậy. Ông tới nghiên cứu biết được vì có sóng thần do nước hợp nhau của 3 con sông ra biển mang cát và phù sa lắng đọng nhiều nên dễ tạo ra sóng thần khi gặp gió. Ông nghĩ cách làm sao uốn nắn lại dòng chảy, và ông mang súng thần công bắn vào điểm đó. Còn đường thiên lý Bắc Nam ngày xưa phải đi ngang qua Hồ Xá. Nơi đây không có người qua lại mà chỉ có lục lâm thảo khấu chuyên cướp của giết người. Nguyễn Khoa Đăng giả làm dân buôn để bọn lục lâm ra cướp hàng hóa. Sau khi cướp được hàng hoá, chúng đem về hang ổ rồi cùng nhau nhậu nhẹt. Nhân lúc bọn cướp say xỉn ông đã sai quân đánh phá và tiêu diệt. Ông được thăng chức nội táng. Tuy vậy do Nguyễn Khoa Đăng giỏi giang và quá thẳng thắn trung trực mà bị người hãm hại khiến ông bị chết oan. Có vị quan tham trong triều nhân năm 1725 chúa Nguyễn Phúc Chu băng hà nên mới bày ra nói rằng Nguyễn Khoa Đăng đem cất ấn tích của Chúa nhằm mưu đồ tạo phản, nên mọi người trong triều đều tin theo và tên quan này mạo chiếu chỉ cho Nguyễn Khoa Đăng (lúc này chưa biết chúa Nguyễn Phúc Chu băng hà) triệu về. Trên đường về gặp quân mai phục nên ông bị giết chết. Sau khi ông mất đến 5 năm sau mới được minh oan.
Sau khi ta qua trạm thu phí sẽ rẽ vào đường vành đai, vào địa danh mang tên Phú Bài, bên phải ngang qua phà Tuần bắt ngang sông Hương thấy lăng Khải Định. Sân bay Huế chỉ đáp được Airbus, không đáp được Boeing. Lúc đầu người ta định xây dựng sân bay Phú Bài thành sân bay quốc tế nhưng không được vì diện tích nhỏ.

Đèo Hải Vân:
Nằm giữa thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế. Vua Lê Thánh Tông từng đến đây, ngưỡng mộ trước phong cảnh hùng vĩ, hữu tình đã gọi nơi đây là “Đệ Nhất Hùng Quan”. Xưa kia khi vua Chiêm Thành là Quế Mân dâng hai ô Châu và Lý (Rí) cho vua Trần Anh Tông (1306) để làm lễ cưới Công chúa Huyền Trân thì đèo Hải Vân đứng làm ranh giới cho Đại Việt và Chiêm Thành gần một thế kỷ . Đến năm 1402 nhà Hồ đem quân đi đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm là Ba Đích Lai phải cắt đất Chiêm Động và Cổ Luỹ để cầu hòa. Từ ấy Hải Vân mới thuộc về Việt Nam.
Đèo Hải Vân cao 496m, dài 21Km, lưng tựa vào dãy núi Bạch Mã cao 1.172m. Đèo án ngữ con đường thiên lý Bắc Nam. Có đường xe lửa chạy xuyên qua lòng núi. Đỉnh đèo có Hải Vân Quan được xây dựng từ thời nhà Trần và trùng tu năm Minh Mạng thứ 7 (1826). Chân đèo phía Nam có kho xăng dầu của Mỹ, bây giờ là kho xăng dầu Liên Chiểu đang được xây dựng. Lên đèo ta có thể thấy làng cùi. Từ đỉnh đèo còn 80Km là đến thành phố Huế. Từ đây giọng nói của người dân địa phương và khí hậu đã khác hẳn với khu vực phía Nam đèo.
Năm 1996 khảo sát đèo Hải Vân,Ngày 27/8/2000 chính phủ Việt Nam đã khởi công xây dựng đường hầm xuyên đèo Hải Vân và dự kiến trong vòng 48 tháng thì hoàn tất. 2 đường hầm thông nhau vào năm 2003. Khánh thành vào ngày 5-6-2005.Với vốn đầu tư 251,042 triệu USD. Đèo Hải Vân được đào bằng cách phía Bắc đào vào phía Nam đào ra và thông nhau ở giữa. Chúng ta sẽ chỉ mất 10 phút xuyên qua đèo Hải Vân , thay vì 45 phút leo đèo như trước đây. Sau 5 năm thi công, hầm đường bộ xuyên đèo Hải Vân nối thành phố Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế là một trong 30 hần đường bộ dài và hiện đại nhất Đông Nam Á sẽ được chính thức đưa vào sử dụng.
Hệ thống đường hầm Hải Vân gồm: hầm chính (hầm giao thông) và hầm phụ (hầm lánh nạn), hầm chính có chiều dài 6280m, rộng 11,9m, cao 7,5m, tính không thông xe 4,95 m. Trong hầm có hai làn xe, mỗi làn rộng 3,75 m được ngăn cách bởi hàng cọc cao su. Phía Tây của hầm có đường đi bộ dành cho người đi bộ rộng 1 m, cao 1m. Dọc theo đường hầm có 18 điểm mở rộng dành cho mục đích đổ xe khẩn cấp.
Hầm phụ rộng 4,7m, cao 3,8m, nằm về phía Đông chạy song song hầm chính, cách hầm chính 30m, mỗi hầm cách nhau cách nhau 400m. Có 15 hầm ngang nối hầm chính và hầm phụ, mỗi hầm cách nhau 400m. Trong đó 11 hầm ngang dành cho người đi bộ có kích thước cửa vào là 2,25m, cao 2m, và 4 hầm dành cho cứu hộ (và cả người đi bộ) có cửa vào rộng 45m, cao 3m. Trong trường hợp vận hành bình thường các hầm ngang được đóng kín bằng cửa kéo. Trong trường hợp khẩn cấp (có tai nạn) người tham gia giao thông rời ôtô chạy bộ đến hầm ngang, tự kéo cửa để vào hầm thoát hiểm theo biển chỉ dẫn ở ngoài. Sau khi thả tay ra cửa này sẽ tự động đóng lại để ngăn khói từ hầm chính lan sang.

Bãi biển Lăng Cô :
“Lăng Cô” ngày xưa vốn có tên gọi “Làng Cò” bởi vì có rất nhiều cò sinh sống tại đây, về sau “Làng Cò” được đọc trại thành “Lăng Cô”. Cũng có truyền thuyết cho rằng vị tiền hiền khai khẩn vùng đất này vốn là một người con gái. Sau khi mất, để nhớ ơn, người dân đã xây lăng để thờ cô gái và gọi là Lăng Cô. Thời Pháp thuộc, vùng đất phía Bắc đèo Hải Vân được gọi là Lan Củ. Tên Lăng Cô cũng có thể là do đọc trại của cụm từ này.

Từ trên đỉnh đèo nhìn xuống, Lăng Cô như một tấm lụa trắng mềm mại bao quanh khung cảnh thiên nhiên xanh mát, thuyền bè đậu san sát trông thật nên thơ. Lăng Cô còn có đặc sản là mắm sò huyết, mắm tôm và các đặc sản biển khác rất rẻ và ngon. Dân cư tại Lăng Cô phần lớn là theo đạo Thiên Chúa Giáo, tại đây có một nhà thờ. Ở Lăng Cô còn có khách sạn, nhà hàng Lăng Cô chủ yếu là khách nước ngoài ở.
Từ Đà Nẵng đến Huế ta phải vượt qua 3 đèo: Hải Vân, Phú Gia và Phước Tượng. Qua khỏi Phước Tượng là đến khu vực Cầu Hai hay Đá Bạc. Bên phải ta thấy một biển nước mênh mông, đó là phá Cầu Hai. Phá Cầu Hai nối liền với phá Tam Giang (nằm đoạn từ Huế đến Quảng Trị). Ta còn đi ngang qua di tích lịch sử-đường mòn Hồ Chí Minh, cầu Phú Bài.
Qua đèo Phước Tượng, có ngã ba rẽ trái đi rừng quốc gia Bạch Mã.

Rừng quốc gia Bạch Mã:
Chúng ta đang ở huyện Phú Lộc, gần chợ Cầu Hai. Sắp qua Vườn Quốc Gia Bạch Mã. Vườn Quốc Gia Bạch Mã là Vườn Quốc Gia đầu tiên được công nhận ở Việt Nam. Là một trong những nơi hiện nay còn bảo tồn động vật quý hiếm. Và hiện nay được đưa vào danh sách tham quan. Từ đây vào chân núi khoảng 3km, rồi từ đó lên núi khoảng 16km nữa bằng xe trung chuyển. Hiện nay loại xe vào được đây là loại dưới 24 chỗ. Vào đây phải liên hệ xe trước. Đây là khu do người Pháp phát hiện ra vào những năm đầu của thế kỷ 20 và họ đã xây dựng trên này những khu đô thị và sau này thời người Mỹ đã xây dựng thị trấn Bạch Mã. Hiện nay du lịch trên nay mặc dù phát triển nhưng mà chúng ta vẫn chưa có công trình gì nhiều. Ở trên này có một ngọn tháp rất đẹp tên Đỗ Quyên là thượng nguồn sông Hương, hợp bởi 2 nhánh chính Hữu Trạch bắt nguồn từ dãy Bạch Mã mà thượng nguồn là thác Đỗ Quyên. Vườn Quốc Gia Bạch Mã có nhiều loại động thực vật được đưa vào sách đỏ như: Sao La, gà lũ lam màu trắng, khỉ má nâu, voọc ngủ sắc, khỉ mặc quần đùi…. Và người Pháp đã xây dựng nhiều biệt thự trên này. Hiện giờ tập đoàn khách sạn Sài Gòn Morin xây dựng chủ yếu cho người đi nghỉ dưỡng hay nghiên cứu. Có một con đường thứ 2 hơi xa.
Rừng quốc gia Bạch Mã nằm ở phía Nam tỉnh cách Huế 55Km. Năm 1925 dưới thời Pháp thuộc một dự án thành lập vườn quốc gia Bạch Mã-Hải Vân rộng 50.000 ha để bảo vệ loài gà lam mào trắng, một kỹ sư người Pháp tên Gérard ngày 28/7/1939 đề xuất dự án khu nghỉ mát Bạch Mã đến năm 1935 thì hoàn tất. Bạch Mã là một vùng rừng núi có diện tích 15Km2 cao1.444m so với mặt nước biển. Bạch Mã có khí hậu ôn hòa mát mẻ nhờ ảnh hưởng của nước biển và độ cao. Về mùa hè nhiệt độ cao nhất chỉ 19-29 độ. Vườn quốc gia Bạch Mã là trung tâm của dãy rừng xanh tự nhiên còn lại duy nhất của Việt Nam kéo dài từ biên giới Lào đến biển Đông. Là phần cuối của dãy Trường Sơn Bắc, vườn như một bức tranh hùng tráng dệt nên bởi nhiều dãy núi cao chia cắt và thấp dần ra biển. Độ dốc bình quân của toàn khu vực là 25 độ, có nơi biến động 45 đến 60 độ. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng giêng năm sau. Lượng mưa trung bình khá lớn 3.500mm. Đặc biệt ở độ cao từ 900m đến 1.450m lượng mưa bình quân hằng năm là 7.977mm. Rừng quốc gia Bạch Mã có 1.286 loài thực vật và 723 loài động vật đặc biệt nhất là bộ gà. Tại rừng Quốc gia Bạch Mã hiện nay có khoảng 139 ngôi biệt thự xinh xắn, được xây cất theo lối kiến trúc đặc biệt như khách sạn Morin, các biệt thự của các viên chức cao cấp họ Thân, họ Hồ Đắc tạo cho Bạch Mã một bộ mặt rất mĩ lệ trên đồi núi phóng khoáng. Những thắng cảnh nổi tiếng của Bạch Mã có thác Đỗ Quyên, suối Hoàng yến, Hải Vọng Đài, đường mỏn Trĩ Sao. Ngày 15/7/1991, được công nhận là vườn quốc gia, Bạch Mã đang thay da đổi thịt chào đón du khách bốn phương. Hiện nay Việt Nam có 10 vườn quốc gia: Ba Bể, Tam Đảo, Ba Vì, Cúc Phương, Bến En, Bạch Mã, Yokdon, Cát Tiên, Côn Đảo.

Qua đầm Đá Bạc, đèo Hương Thủy, đến ngã ba rẽ phải sân bay Phú Bài.

 Sân bay Phú Bài - Chùa Sắc Tứ

Sân bay Phú Bài:
Cách Huế 13 Km, mất khoảng 30 phút ôtô. Sân bay Phú Bài có từ thời Pháp, nó từng là nơi đóng quân của sư đoàn 3 Thuỷ quân lục chiến. Sư đoàn này có nhiệm vụ phụ trách vùng I chiến thuật của chính quyền cũ. Đã có khoảng 3.000 quân Mỹ đóng tại đây trong thời gian đó. Hiện nay là sân bay dân dụng Phú Bài-Huế. Ngày nay sân bay trở thành một trong những sân bay lớn của miền Trung. Nhân dịp lễ hội Festival Huế 2000 Viêtnam Airline đã đầu tư 64 tỉ đồng nâng cấp sân bay Phú Bài, kéo dài đường băng lên 3.400m có thể đón được các loại máy bay lớn như: Boeing, Airbus,.. Mới đây chính phủ đã quyết định đầu tư 150 tỉ đồng nâng cấp sân bay Phú Bài thành cảng hàng không Quốc tế Phú Bài–đây là một cơ hội rất lớn cho thành phố Huế–thành phố Festival phát triển.

Phá Tam Giang
Phá Tam Giang giới hạn phía bắc là cửa sông Ô Lâu, phía nam là cửa sông Hương thông với biển qua cửa biển Thuận An, thuộc địa phận 12 xã của ba huyện Quảng Điền, Phong Điền, Hương Trà.
Đồng bằng ven biển Thừa Thiên – Huế có nhiều đầm phá, vũng như Phá Tam Giang, đầm thanh lam, đầm Thuỷ Tú, đầm Cầu Hai, vùng lập A. Đây là tụ hội của hầu hết các con sông trước khi đổ ra biển.
Phá Tam Giang và Cầu Hai có chiều dài gần 70 km đã án ngữ hầu hết chiều dài của tỉnh Thừa Thiên – Huế và là vùng nước lợ lý tưởng cho nhiều loài thuỷ sản sinh sống.
Phá Tam Giang có độ sâu từ 2 đến 4m, có nơi sâu đến 7m, mặt nước rộng mênh mông là địa bàn hoạt động kinh tế quan trọng mang lại những giá trị tài nguyên to lớn.
Hàng năm, người dân khai thác trên vùng đầm phá hàng nghìn tấn hải sản, cá, tôm các loại. Những năm gần đây, trên vùng đầm phá đã phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản, nhất là nuôi trồng rau câu. Dự án xây dựng cầu Thuận An bắc qua Phá Tam Giang đã hoàn tất, tạo điều kiện phát triển kinh tế và du lịch tại vùng này.

Chợ An Cựu.
Ngã ba rẽ phải là đường Lê Duẩn, vào nội thành thành phố Huế.
Huế là một thành phố ở miền Trung Việt Nam. Thành phố Huế tọa lạc hai bên bờ dòng sông Hương. Huế nằm ở phía bắc đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng 112km. Theo số liệu của Ngân hàng Bản đồ trực tuyến Ba Sao, thành phố Huế có tọa độ địa lý trong khoảng từ 16 025-16 029 vĩ độ Bắc và từ 107 032-107 036 kinh độ Đông. Thành phố Huế có diện tích 67,7 km0, có cả vùng gò đồi, vùng đồng bằng, diện tích mặt nước. Huế cách biển Thuận An 12 km, cách sân bay Phú Bài 18 km, cách Cảng nước sâu Chân Mây 50 km. Mật độ dân số gần 4200 người/km2.
Huế vốn là kinh đô một thời của Việt Nam, Huế nổi tiếng với những đền chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến trúc gắn liền với cảnh quan thiên nhiên.
Năm 1306, Công chúa Huyền Trân về làm vợ vua Chiêm là Chế Mân, đổi lấy hai châu Ô và Rí làm sính lễ.
Năm 1307, vua Trần Anh Tông tiếp thu vùng đất mới và đổi tên là châu Thuận và châu Hóa. Việc gom hai châu này làm một dưới cái tên phủ Thuận Hóa được thực hiện dưới thời nội thuộc Nhà Minh. Đến đời Nhà Hậu Lê, Thuận Hóa là một đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Năm 1604, Nguyễn Hoàng đã cắt huyện Điện Bàn thuộc trấn Thuận Hóa, nâng lên thành phủ, sáp nhập vào trấn Quảng Nam. Thuận Hóa dưới thời các chúa Nguyễn, (thế kỷ 17- 18) là vùng đất trải dài từ phía nam đèo Ngang cho tới đèo Hải Vân.
Năm 1626, để chuẩn bị cho việc chống lại họ Trịnh, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh đến làng Phước Yên (Phúc An) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên và đổi Dinh làm Phủ. Năm 1636, Chúa Thượng Nguyễn Phúc La chọn làng Kim Long, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, làm nơi đặt Phủ. Năm 1687, Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Trăn, dời Phủ chúa về làng Phú Xuân thuộc huyện Hương Trà và năm 1712, chúa Minh Nguyễn Phúc Chu dời phủ về làng Bác Vọng , huyện Quảng Điền, Thừa Thiên làm nơi đặt Phủ mới. Đến khi Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát lên cầm quyền năm 1738 thì phủ chúa mới trở về lại vị trí Phú Xuân và yên vị từ đó cho đến ngày thất thủ về tay quân họ Trịnh. Năm 1802, sau khi thống nhất Việt Nam, vua Gia Long đã đóng đô ở Phú Xuân.
Hiện chưa có nguồn thông tin nào khẳng định địa danh "Huế" chính thức xuất hiện lúc nào, nhưng theo giải thích của Học giả Thái Văn Kiểm thì căn cứ trên những dữ kiện về ngôn ngữ và từ điển thì có thể chữ Huế đã xuất hiện trong thời kỳ Nam Bắc phân tranh, chữ Huế bắt nguồn từ chữ Hóa trong địa danh Thuận Hóa . Hóa biến thành Huế có thể là do kị huý, theo ông, có thể là tên ông Nguyễn Nạp Hóa, cháu 6 đời của ông Nguyễn Bặc - công thần của Nhà Đinh - tổ của Nhà Nguyễn hoặc cũng có thể do kiêng tên bà Hồ Thị Hoa, chánh cung của vua Minh Mạng, thân mẫu của vua Thiệu Trị- vì Hoa và Hóa đọc na ná - nên Hóa phải đổi thành Huế.
Vào cuối thế kỷ 19, xứ Huế và cả miền Trung là nơi chậm phát triển kinh tế công-thương nghiệp so với miền Bắc và miền Nam. Một trong những giải pháp có thể đáp ứng tích cực những yêu cầu ấy là xúc tiến việc thiết lập các khu hành chính đô thị.
Ngày 6 tháng 9 năm Thành Thái thứ 10 (ngày 20 tháng 10 năm 1898), dưới sự chỉ đạo và phê duyệt của Khâm sứ Trung Kỳ Boulloché, Cơ Mật Viện triều đình Huế đã làm tờ trình dâng lên Thành Thái yêu cầu nhà vua cho phép “những nơi nào Khâm sứ Trung Kỳ và Cơ Mật Viện xét thấy cần thiết, sẽ thiết lập ở nơi đó một đô thị”.
Ngày 5 tháng 6 năm Thành Thái thứ 11 (ngày 12 tháng 7 năm 1899), vua Thành Thái xuống Dụ công bố thành lập thị xã Huế với nội dung: "Chiểu theo kết quả tốt đẹp của những biện pháp mà Cơ Mật Viện đã đề xuất vào ngày 6 tháng 9 năm Thành Thái thứ 10 về vấn đề thành lập các đô thị ở An Nam, nay trẫm quyết định bổ khuyết các biện pháp đó bằng một tổ chức hẳn hoi. Tổ chức này được áp dụng ở các thị xã là Thanh Hoá, Vinh, Huế, Hội An, Quy Nhơn và Phan Thiết".
Ngày 13 tháng 7 năm 1899, Khâm sứ Trung Kỳ Boulloché phê duyệt tờ Dụ của vua Thành Thái, và đến ngày 30 tháng 8 năm 1899 Toàn quyền Đông Dương ra quyết định chuẩn y thành lập "thị xã Huế" (cùng 5 thị xã trên).
Sau ngày tuyên bố độc lập (ngày 2 tháng 9 năm 1945), Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tiến hành kiện toàn lại bộ máy quản lý nhà nước, sắp xếp lại lại các đơn vị hành chính trong cả nước. Sắc lệnh số 77 ngày 21 tháng 12 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam quy định Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Sài Gòn đều đặt làm thành phố. Thành phố Hà Nội được đặt trực tiếp dưới quyền của Chính phủ Trung ương, còn các thành phố khác đều thuộc quyền của các Kỳ. Ở mỗi thành phố đặt cơ quan Hội đồng nhân dân thành phố, Uỷ ban hành chính thành phố, Uỷ ban hành chính khu phố... Đầu năm 1946, Chính phủ Việt Nam giải tán các cấp hành chính châu, quận, phủ, tổng; thành lập chính quyền bốn cấp từ bộ đến tỉnh- thành phố, huyện, xã (bãi bỏ cấp kỳ, thay vào đó là cấp bộ).
Ngày 24 tháng 8 năm 2005, Chính phủ Việt Nam ban hành quyết định số 209/2005/QĐ-TTG, theo đó, thành phố Huế được nâng từ đô thị loại 2 lên đô thị loại 1 nhưng không trực thuộc trung ương mà trực thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trong năm 2005, sau khi được công nhận là đô thị loại 1, Ủy ban nhân dân thành phố Huế đã lập đề án trình Thủ tướng chính phủ nước CHXHCN Việt Nam xem xét công nhận là thành phố trực thuộc trung ương.
Huế là xứ sở thần kinh, nơi mà triều đại nhà Nguyễn đã đặt kinh đô, là xứ sở kinh kỳ và chúng ta biết rằng triều đại nhà Nguyễn đã đặt chính quyền tại đây suốt 193 năm tồn tại và cho đến bây giờ người ta nhìn triều đại nhà Nguyễn có phần thoáng hơn. Còn ngày xưa năm 1975 tư tưởng ta còn hạn hẹp bao cấp chỉ nghĩ đến một mặt: vua chúa nhà Nguyễn là những người có tội vì để mất nước, nhưng mấy ai hiểu được bên cạnh đều họ đã làm ngoài tội họ cũng có công. Vua thân với Pháp: Bảo Đại, Đồng Khánh, Khải Định cũng có những ông vua yêu nước Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái. Thời trị vì của vua Minh Mạng được xem là có ý thức dân tộc: ngay sau khi lên ngôi đổi tên nước là Đại Nam là một quốc gia lớn phía Nam. Ta biết trước giờ sử ghi nước ta là một quận thuộc Trung Quốc. Đến Minh Mạng đổi tên thành một quốc gia cường thịnh ở phía Nam. Sau khi Gia Long lên ngôi đổi nước ta thành Việt Nam. Nhà Nguyễn có công trạng rất lớn để đưa đất nước phát triển. Triều đại nhà Nguyễn tồn tại và xây dựng những lăng tẩm góp phần cho kho tàng du lịch chúng ta về di sản văn hóa. Thừa Thiên Huế được quốc tế công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Việt Nam hiện có di sản tự nhiên: Hạ Long, Phong Nha – Kẻ Bàng,… di sản văn hóa Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Di sản phi vật thể có nhã nhạc cung đình, cồng chiêng,…. Sắp tới còn có một số di sản văn hóa phi vật thể như: ca trù, múa rối nước, áo dài,… tự nhiên: VQG Ba Bể, đồi Vọng Cảnh. Bên tay trái là Quốc lộ 49 lên Trường Sơn gọi là ngã 3 Quách Đỏ gặp đường 14.
Trước mặt đây là cầu An Cựu bắt qua sông An Cựu chợ An Cựu. Bên tay trái là An Định Cung do vua Khải Định xây cho con trai duy nhất của mình là Bảo Đại. Hiện giờ người Đức giúp trùng tu và sẽ đưa vào khai thác năm 2008. Nơi đó cũng là nơi bà Từ Cung, vợ vua Khải Định sống ở đây. Sông An Cựu còn có tên là sông Lợi Năng vì vùng này ngày xưa vua Minh Mạng cho đào con sông này để tưới tiêu cho vùng này. Đây là nơi sản xuất ra loại gạo rất ngon tiến vua ăn. Đường Hùng Vương, đây là vòng xoay đầu tiên trong thành phố Huế. Nếu rẽ phải xuống cửa biển Thuận An. Người ta mượn hình ảnh sông An Cựu và núi Ngự Bình: “núi Ngự Bình trước tròn sau méo. Sông An Cựu nắng đục mưa trong”.
Vào làng Kim Long ngày xưa các quan lại ở rất nhiều, làng này các vị vua chúa thường về đây tuyển phi: vua Thành Thái “Kim Long có gái mỹ miều. Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi”. Chuyện kể rằng có lần vua Thành Thái cải trang về Kim Long phải qua đò. Bên đò gọi là bến Kim Long có cô lái đò dễ thương, ăn nói duyên dáng, đẹp người, đẹp nết. Huế có nhiều món ăn, đặc biệt cơm hến nổi tiếng qua cầu An Lổ, đây chính là sông Bồ. Bên tay trái vào suối khoáng Thanh Tân.
Qua khỏi huyện Phong Điền (Thừa Thiên–Huế) là chúng ta vào địa phận tỉnh Quảng Trị .
Vào địa phận huyện Hải Lăng, ngã ba rẽ trái đi thánh địa La Vang.
Qua cầu Trắng, đến một ngã ba rẽ phải đi thành cổ Quảng Trị.
Đến thị xã Quảng Trị, thị xã Đông Hà, ngã ba rẽ trái theo quốc lộ 9 đi Khe Sanh và qua nước Lào (cửa khẩu Lao Bảo).
Quảng Trị là tỉnh ven biển thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên- Huế, phía tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía Đông giáp biển Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thị xã Đông Hà nằm cách 598 km về phía nam thủ đô Hà Nội và 1.112 km về phía bắc thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây có sông Bến Hải - cầu Hiền Lương, giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam trong gần 20 năm (1954 - 1975).
Quảng Trị bao gồm 2 thị xã và 8 huyện bao gồm: thị xã Đông Hà, thị xã Quảng Trị, huyện Cam Lộ, huyện Cồn Cỏ, huyện Đa Krơng, huyện Gio Linh, huyện Hải Lăng, huyện Hướng Hĩa, huyện Triệu Phong, huyện Vĩnh Linh.
Địa hình đa dạng bao gồm núi, đồi, đồng bằng, cồn cát và bãi biển chạy theo hướng tây bắc - đông nam. Quảng Trị có nhiều sông ngòi, sông ở các huyện miền núi có khả năng xây dựng thủy điện vừa và nhỏ. Khí hậu khắc nghiệt, có gió Tây Nam (còn gọi là gió Lào ) rất khô và nóng .
Trong những năm Chiến tranh Việt Nam, Quảng Trị là một trong những nơi bị thả bom nhiều nhất. Ngày nay Quảng Trị là nơi có nhiều địa danh, di tích lịch sử.
Qua cầu treo Đakrơng là đến đường mòn Hồ Chí Minh.

Thành cổ Quảng Trị là một nơi gắn liền với chiến dịch mùa hè 1972.
Tại tỉnh này còn có một số địa danh khác như nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, địa đạo Vịnh Mốc, chiến trường Khe Sanh, căn cứ Cồn Tiên - Dốc Miếu, hàng rào điện tử McNamara...
Quảng Trị còn có bãi tắm Cửa Tùng được các sĩ quan Hải quân Pháp mệnh danh là "hoàng hậu của các bãi tắm" Đông Dương.
Tỉnh có đường sắt Bắc Nam, đường quốc lộ 1A chạy qua. Đặc biệt có đường 9 nối với đường liên Á qua cửa khẩu Lao Bảo sang Lào.
Địa phận ranh giới giữa Quảng Trị và Thừa Thiên Huế: km791+500. tỉnh Quảng Trị phía đông giáp biển, tây giáp Lào, nam giáp Thừa Thiên Huế, được tách ra từ Bình Trị Thiên cũ năm 1989 và tỉnh Quảng Trị có 2 thị xã Đông Hà và Quảng Trị. Trong tương lai giữa Đông Hà và Quảng Trị có thị trấn Ái Tử, Quảng Trị và Đông Hà được sáp nhập thành phố. Hiện nay Quảng Trị thu nhập người dân không thấp như ngày xưa và sự phát triển kinh tế. Đặc biệt Quảng Trị có hệ thống cửa khẩu kinh tế mở, nên người dân ở đây có đời sống tương đối. Tuy nhiên Quảng Trị bây giờ đất đai vẫn khô cằn, nắng và gió.
Trước thuộc châu Ô Lý, vua Chế Mân cưới công chúa Huyền Trân đem dâng vùng đất này nên Quảng Trị trở thành vùng lảnh thổ thuộc nước ta. Năm 1858 chúa Nguyễn Hoàng từ Bắc vào xứ Đàng trong, 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập nên nhà Mạc có một vị quan nhà Lê tên Nguyễn Kim, kéo quân về Thanh Hóa tập hợp lực lượng đưa vua Lê Trung Tông lên ngôi với tư cách phò Lê diệt Mạc. Trong quá trình diễn biến như thế, năm 1545 trong lúc tham gia đánh Mạc ông bị một hàng tướng đầu độc chết, ngày nay một số sách sử ghi rằng có lẽ do con rể Trịnh Kiểm giết chết. Nguyễn Kim có 3 người con là Nguyễn Uông, Nguyễn Bảo và Nguyễn Hoàng. Sau khi Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm thâu tóm toàn bộ binh quyền và giết luôn anh vợ mình là Nguyễn Uông. Tính đường xa, Nguyễn Hoàng đã sai người xuống gặp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để xin ý kiến. Trạng Trình chỉ nói một câu: “Hoàng Sơn nhất đái vạn đại dung thân” rồi bỏ đi. Nghe thế Nguyễn Hoàng bèn đến gặp chị mình nhờ đánh tiếng nói với Trịnh Kiểm xin cho Nguyễn Hoàng vào Nam. Lúc bấy giờ, trong Nam này trước là vùng Ô Châu ác địa, Nguyễn Bỉnh Khiêm nghĩ xứ này vốn là vùng rừng thiêng nước độc, vào trong này thế nào cũng chết nên đồng ý. Thế nhưng vào đàng trong Nguyễn Hoàng không chết mà còn cùng tướng tài khai hoang ruộng đất. Nơi ông đặt doanh trại đầu tiên là vùng Quảng Trị và nơi đầu tiên là Ái Tử.
Bắt đầu từ cầu Mỹ Chánh về Quảng Trị cho đến Ái Tử dài hơn 20km, người ta gọi là Đại lộ kinh hoàng vào thời điểm 1972 (mùa hè đỏ lửa). Từ đây đến Quảng Trị 20km có 6 nghĩa trang, sau hiệp đinh Giơnevơ thì vĩ tuyến 17 được thiết lập, sau 2 năm tiến hành tổng tuyển cử lấy vĩ tuyến 17 đổ về 2 bên, mỗi bên cách vĩ tuyến 17 năm dặm gọi là khu vực phi quân sự hay còn gọi là DMZ: khu vực không diễn ra chiến sự. Nhưng sự kiện này tồn tại từ 1945 đến 1965 là kết thúc vì sau này chiến tranh diễn ra ác liệt dọc theo vĩ tuyến. Bắt đầu từ chiến tranh cục bộ đến chiến tranh đặc biệt. Lúc đó đấu tranh giữa 2 bên loa và cờ. Năm 1965 lính Mỹ được đưa vào chiến tranh cục bộ, khi đổ bộ vào, họ cho rằng đây là vùng chiến thuật đặc biệt không thể để mất được. Họ đưa quân đến đóng và lập căn cứ rất nhiều ở đây. Dù gì người Mỹ cũng không thể đóng quân ở vĩ tuyến 17 được nên họ phải đóng xa ra và lấy con đường mang tên đuờng 9 Nam Lào cắt ngang qua đường mòn Hồ Chí Minh gồm các căn cứ: Lao Bảo, Khe Sanh, Khe Hon, làng Vây,…

Âm vang La Vang:
Quảng trị, vùng đất chịu nhiều đau thương trong chiến tranh, đổi lại nơi này cũng có nhiều di tích thắng cảnh đẹp. Cầu Hiền Lương, Thành cổ Quảng Trị, hay Thánh địa La Vang….
Thánh đường La Vang được biết với tuổi thọ 200 tuổi. Cũng giống như Thánh địa Mecca của những người theo đạo Hồi, La Vang rất được du khách mộ đạo tìm đến cầu nguyện.
Kiến trúc cổ xưa của ngôi thánh đường theo thời gian giờ chỉ còn lưu lại tháp chuông, đài cầu nguyện Đức Mẹ. Nhà Nguyện cũ đã được trùng tu lại bằng vật liệu tạm để đón khách hành hương. Du khách vẫn thích tìm đến La Vang để chiêm ngưỡng một trong những kiến trúc cổ xưa còn sót lại trên vùng đất này.

Chùa Sắc Tứ
Chùa có tên chữ là Tịnh Quang tự, ở xã Ái Tử, huyện Triệu Phong. Chùa do hòa thượng Tu Pháp dựng vào năm 1739 đời vua Lê Ý Tông, đặt tên chùa là Tịnh Nghiệp. Đến đời vua Gia Long được đặt tên là Tịnh Quang. Chùa được trùng tu năm 1941 và đến năm 1975 được xây dựng lại. Hiện nay chùa chỉ còn lại một hiện vật cổ có giá trị nghệ thuật là pho tượng đức Phật A Di Đà.

Đường mòn Hồ Chí Minh - Khe Sanh 

Đường mòn Hồ Chí Minh hay Đường Trường Sơn là tên gọi của mạng lưới giao thông quân sự chiến lược mà chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xây dựng tại miền Trung Việt Nam và Lào để chi viện cho những người cộng sản miền Nam trong 16 năm (1959–1975) của thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Về mặt quân sự Đường mòn Hồ Chí Minh là một chiến trường vận chuyển giữa hai miền.
Đường mòn Trường Sơn trở thành một con đường nối liền Bắc Nam trong những năm đầu của cuộc Chiến tranh Đông Dương khi nó là một trong những tuyến đường đưa cán bộ di chuyển giữa hai miền để tránh sự truy quét của quân Pháp. Tuy nhiên, khi ấy nó chỉ là một con đường có tính cách chiến thuật. Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng hoà ra đời, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, đã phủ nhận Hiệp định Geneve về Việt Nam năm 1954, chia cắt đất nước. Để tiếp tục chi viện cho những người Cộng sản miền Nam, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quyết định xây dựng những con đường chiến lược. Trên cơ sở đã có 2 tuyến đường được xem xét là tuyến đường bộ qua dãy Trường Sơn và tuyến đường biển trên biển Đông. Cả 2 đều có tên gọi là đường Hồ Chí Minh. Riêng tuyến đường bộ, do đoàn cán bộ đầu tiên chỉ huy xây dựng tuyến đường này được thành lập vào tháng 9 năm 1959, nên con đường còn có mật danh là đường 559.
Đường mòn Hồ Chí Minh nối liền miền Bắc với miền Nam, bao gồm các hệ thống đường đất ở phía Đông và Tây dãy Trường Sơn, hệ thống đường ống dẫn xăng dầu. Quân đội miền Bắc triển khai các đơn vị công binh, hậu cần, y tế, bộ binh và phòng không để đảm bảo hoạt động của đường mòn này. Miền Bắc dùng đường mòn này để vận chuyển bộ đội, vũ khí, xăng dầu, đạn... vào phía Nam và vận chuyển thương bệnh binh ra Bắc.
Trong khi đó, lực lượng quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ngăn chặn bằng các hành động quân sự bộ binh, không quân. Lực lượng quân sự Mỹ còn sử dụng các máy móc điện tử phát hiện thâm nhập, thường được gọi là Hàng rào Điện tử McNamara, để xác định các khu vực có hoạt động của quân đội miền Bắc.
Trên thực tế, đường mòn Hồ Chí Minh trải đi gần suốt các tỉnh miền Trung với các hoạt động quân sự tập trung ác liệt nhất ở Quảng Bình và Quảng Trị. Trong Chiến tranh Việt Nam ước lượng đã có 3 triệu tấn bom đổ xuống Lào mà chủ yếu là để cắt đứt giao thông trên đường mòn này. Tính đến ngày Việt Nam thống nhất (30-4-1975), đường Trường Sơn đã tồn tại gần 6000 ngày đêm. Các lực lượng công binh, thanh niên xung phong Trường Sơn đã làm nên mạng đường liên hoàn, vững chắc với 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang, nối Đông với Tây Trường Sơn vươn tới các chiến trường, với tổng chiều dài gần 2 vạn km đường ôtô, 1.400 km đường ống dẫn xǎng dầu, 3.140 km "đường kín" cho xe chạy ban ngày và hàng ngàn cầu, cống, ngầm...
Ngoài ra, hoạt động vận chuyển của quân đội miền Bắc còn được thực hiện trên biển, tạo nên đường mòn Hồ Chí Minh trên biển ít nổi tiếng bằng.
Sau chiến tranh đường mòn Hồ Chí Minh không còn được sử dụng và hầu hết các con đường chỉ có ý nghĩa quân sự đã nhanh chóng trở nên hoang phế.
Những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, để kỷ niệm con đường giải phóng miền Nam, tên gọi Đường Hồ Chí Minh được dùng để gọi con đường mới, là đường thứ hai sau đường quốc lộ 1A, xuyên suốt Việt Nam.
Hàng rào điện tử McNamara là tên gọi cho hệ thống các phương tiện điện tử phát hiện thâm nhập được quân đội Mỹ sử dụng dọc theo khu phi quân sự ở vỹ tuyến 17 và đường mòn Hồ Chí Minh nhằm giám sát cũng như trinh sát mặt đất tự động để phát hiện các hoạt động vận chuyển của quân đội miền Bắc lưu thông qua khu vực này trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Hoạt động này của quân đội Mỹ mang tên Igloo White.
Hàng rào điện tử McNamara được quyết định xây dựng từ tháng 6 năm 1966 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của bộ trưởng quốc phòng Mĩ Robert McNamara, bao gồm hệ thống 17 căn cứ quân sự, kết hợp với hệ thống vật cản (hàng rào dây thép gai, bãi mìn...), các thiết bị trinh sát điện tử mặt đất và trên không (ra đa, máy cảm ứng âm thanh, cảm ứng địa chất...), được bố trí liên hoàn trong khu vực có chiều rộng 10–20 km, dài khoảng 100 km từ cảng Cửa Việt lên đường 9, tới biên giới Việt Nam – Lào, sang Mường Phìn (Lào). Công trình tiêu tốn 2 tỉ USD, trước khi khởi công, McNamara chỉ ước tính tốn kém khoảng 1 tỷ USD.
Các máy phát hiện thâm nhập thường theo nguyên lý phát hiện địa chấn, vì vậy chúng có tên gọi kết thúc bằng 3 chữ SID (Seismic Intrusion Detector). Các máy này dùng để phát hiện thâm nhập bằng đường bộ. Loại máy được biết đến nhiều nhất, thường được gọi là "cây nhiệt đới" (ADSID hay Air Delivered Seismic Intrusion Detector), được thả từ trên máy bay để đầu nhọn có cảm biến địa chấn cắm vào trong đất. Phần thấy được còn lại trên mặt đất là ăng-ten trông rất giống một cây xanh bình thường. Có loại máy phát hiện địa chấn có kiêm thêm bộ phận thu truyền âm thanh để trạm trinh sát kiểm tra đối tượng gây địa chấn là người hay xe vận tải.
Ngoài các máy phát hiện địa chấn thả từ máy bay còn có các máy có tính năng tương tự do binh lính triển khai, thường dùng trong các hoạt động chiến thuật phục vụ canh phòng hay phục kích (GSID hay Ground Seismic Intrusion Detector, PSID hay Patrol Seismic Intrusion Detector và HANDSID).
Ở các vùng biển nước nhiều, không thể dùng máy phát hiện địa chấn, quân đội Mỹ dùng máy phát hiện thâm nhập EMID (Electro-Magnetic Intrusion Detector) hoạt động theo nguyên tắc phát hiện nhiễu loạn cường độ sóng phản xạ. Tuy nhiên trên thực tế hầu như người ta không phát hiện thấy sử dụng loại máy này. Cộng với các máy phát hiện, hệ thống còn có các máy thu (hiển thị kết quả phát hiện) xách tay dùng cho các hoạt động chiến thuật, các trạm chuyển tiếp sóng vô tuyến điện có và không người trông coi, các trạm thu ghi và phân tích kết quả phát hiện để có tin tình báo cấp chiến trường.
Theo tài liệu tham khảo thì trong khoảng thời gian của chương trình Igloo White, từ 1966 đến 1971, Mỹ đã chi 1,7 tỷ đô-la cho mạng lưới 20.000 máy phát hiện rải trên đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào. Khi quân đội Mỹ rút khỏi chiến tranh Việt Nam, thực hiện Hiệp định Paris 1973, hệ thống các phương tiện phát hiện thâm nhập đang có trong lãnh thổ Việt Nam được chuyển giao cho quân đội Sài Gòn.
Năm 1968 sự kiện cuộc tổng tiến công nổi dậy gây thiệt hại cho người Mỹ rất nhiều. Sau khi thực hiện cuộc tổng tấn công 1968 lực lượng ta yếu đi mặc dù không giải phóng được nhưng ta đã buộc người Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán tại Paris nhưng người Mỹ không chịu ký. Nên 2 bên giằng co (hiệp đinh Paris có người Mỹ, Việt Nam Cộng hòa, Miền Bắc và Mặt trận Giải phóng Miền Nam).
Hiệp định Paris là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hoà, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam kí kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Lê Đức Thọ và Henry Kissinger, hai nhân vật chủ chốt trong cuộc đàm phán, đã được trao giải Nobel Hòa bình năm 1973.
Ở đây để biết rõ thêm về tình hình lúc bấy giờ, ta sẽ tìm hiểu về một số lực lượng hoạt động lúc bấy giờ ở miền Nam Việt Nam. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên) trong vùng căn cứ của mình ở tỉnh Tây Ninh, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh hoạt động bí mật ở miền Nam, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận là Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát giữ chức vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí Ủy ban Trung ương. Mặt trận đã ra "Tuyên ngôn" và "Chương trình hành động 10 điểm" với mục tiêu đấu tranh chính trị - vũ trang nhằm lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, tiến tới thống nhất toàn Việt Nam.
Mục đích của mặt trận là đại diện cho quyền lợi của nhân dân miền Nam Việt Nam đấu tranh cho độc lập của họ và sự thống nhất toàn vẹn của Việt Nam. Mặt trận liên tục tổ chức, lãnh đạo các hoạt động chống chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, chống lại sự can thiệp của Mỹ và các đồng minh.
Từ ngày 6 đến 8 tháng 6 năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cùng với Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam do Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch, đã lập ra Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để đối chọi với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ cách mạng lâm thời do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch, và Hội đồng cố vấn Chính phủ do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Chính phủ cách mạng lâm thời đã được các nước theo phe cộng sản và một số nước thuộc Thế giới thứ Ba công nhận. Ngay trong tháng 6 năm 1969, đã có 23 nước công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, trong đó có 21 nước đã có quan hệ ngoại giao.
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris được kí kết. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cùng với Chính phủ Cách mạng Lâm thời được chính thức công nhận là một chính quyền tại Nam Việt Nam và là một trong 4 bên tham gia hiệp định. Tuy nhiên, những người lãnh đạo vẫn tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và đã giành được quyền kiểm soát Nam Việt Nam vào năm 1975.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tự giải tán và chính thức hợp nhất với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để ra đời chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của một quốc gia Việt Nam thống nhất. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cũng tuyên bố hợp nhất với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trong thời gian này, để giành lại lợi thế trên bàn đàm phán thì ta buộc phải đánh. Chính vì thế năm 1972 ta mở một trận đánh lớn. Cũng trong thời gian này, người Mỹ và Chế độ Cộng hòa đưa ra những kế hoạch bình định Việt Nam. Lúc đầu tình báo Mỹ cho rằng ta chuẩn bị đánh nên họ rất căng thẳng, họ lo lắng chuẩn bị vì sợ chúng ta đánh, nhưng ta không đánh. Cho nên sự lo lắng của người Mỹ giảm dần và họ bắt đầu thoải mái nghĩ rằng có thể bình định được Việt Nam, nhưng sau đó đúng ngày 30/3 chúng ta lại nổ súng đánh từ 30/3 đến 1/5 chiếm toàn bộ Quảng Trị. Như vậy tại bàn đàm phán Paris người Mỹ cũng như Chế độ Cộng hòa đã thất bại, bằng mọi giá họ phải có vùng đất Quảng Trị nên họ mở chiến dịch tái chiếm Quảng Trị. Người Mỹ cho rằng trung tâm tỉnh Quảng Trị là nơi đặc biệt quan trọng và có tính quyết định là thành cổ Quảng Trị. Nếu chiếm được thành cổ sẽ tái chiếm được trận địa. Cho nên họ mở ra chiến dịch gọi là Lam Sơn 72 để tái chiếm Quảng Trị diễn ra ngày 28/6 đến 16/9 (81 ngày đêm). Nơi ác liệt nhất là thành cổ Quảng Trị. Bộ đội ta kiên trì bám giữ thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm và tạo thế thắng lợi và chính nhờ trận thắng này nên ta cũng giành thắng lợi tại Paris, vì trong trận đánh này có 2 ngày 18/7 và 27/7 bốn bên hợp mặt với nhau để trình vị trí lãnh thổ mỗi bên. Nếu ở Quảng Trị có lá cờ đỏ sao vàng hay mặt trận dân tộc cờ nửa xanh nửa đỏ thì là vùng đất giải phóng thuộc miền bắc.

Khe Sanh:
Làng Khe Sanh bắt đầu được thành lập từ khi những người Pháp bắt đầu khai phá các đồn điền cao su ở vùng này. Người đầu tiên là Eugène Poilane, xuất thân từ một gia đình nông dân Pháp tại vùng Saint Sauer de Landemount. Ông sinh ngày 16. 03. 1888. Ông là chuyên gia trong ngành đúc súng. 1909 ông đến Đông Dương làm việc tại Cục Vũ Khí Hải Quân Pháp. 1922 ông được chuyển sang làm việc ở cục nghiên cứu rừng ở Đông Dương vào năm đó ông đã đến Khe Sanh lần đầu tiên. Lúc đó chỉ có một ngôi nhà duy nhất của một cơ quan trông coi việc xây dưng thuộc đội số 9 do chính phủ xây dựng để sang Lào. Đến đây ông rất thích khí hậu mát mẻ, lại thêm cây xanh tươi tốt, đất đỏ phì nhiêu. Nên 1926 ông trở lại và khai phá đồn điền cà phê. Con đường từ đường 9 vào Khe Sanh chính là đồn điền của ông.
Khe Sanh là căn cứ chiến đấu được bố phòng chặt chẽ nhất. Căn cứ có một đường băng dài 1.189 m đủ sức cho máy bay tiếp liệu C 130 lên xuống dễ dàng, được xây vào 1968. có một sân bay dành riêng cho trực thăng và các công sự bảo vệ trực thăng, có bãi dùng để thả dù tiếp tế trong trường hợp bao vây trực thăng không hạ cánh được. Di tích cụm cứ điểm Tà Cơn của Mỹ được xây dựng 1967 gồm sân bay và hệ thống phòng thủ kiên cố, có 1 vạn quân đóng giữ và hàng vạn quân cơ động. Ngày 7.01.1968 Tà Cơn, Khe Sanh được giải phóng. Trận đánh Khe Sanh là trận đánh cuối của tướng West Moreland hai tháng trước khi ông nghỉ hưu.
Cửa khẩu Lao Bảo: từ cửa khẩu Lao Bảo đến thủ đô Lào là 650 km, đến Savanthakhe là 150 km. Hiện nay chính phủ đang có dự án nâng cấp quốc lộ chính thành con đường xuyên Á trong tương lai. Tiền Lào 1.000 kiếp tương đương 12.000 đồng Việt Nam. Nếu du khách muốn lấy Passport và Visa để sang Lào thì phải trả 1.500.000.

 Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn - Tỉnh Nghệ An

Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn :
Nghĩa trang tọa lạc trên một ngọn đồi giữa 8 ngọn đồi khác bao quanh như bông hoa 8 cánh tại xã Vĩnh Trường (huyện Gio Linh). Tổng diện tích khu nghĩa trang 106 ha, trong đó diện tích chin đặt 10327 ngôi mộ liệt sĩ là 46 ha chia làm 5 khu: khu trung tâm (có tượng đài chính) và 4 khu đặt mộ liệt sĩ theo địa chỉ từng tỉnh. Giữa khu IV và V có quần thể tượng đài biểu dương tinh thần chiến đấu anh dũng của đoàn 559 và tình đoàn kết Việt – Lào.
Hàng năm nghĩa trang đón khoảng 20.000 lượt người trong nước đến viếng mộ liệt sĩ. Nhiều đoàn khách nước ngoài đã vượt hàng vạn dặm đến nghĩa trang Trường Sơn.
Khu vực phi quân sự DMZ.

Cầu Hiền Lương – sông Bến Hải:
Sông Bến Hải còn có tên là Rào Thành, xuất phát từ dãy Trường Sơn, dài 10km từ ngọn nguồn cho đến Cửa Tùng. Sông Bến Hải vốn chỉ là một dòng sông nhỏ, nơi rộng nhất cũng chỉ khoảng 200m, đoạn sông có cầu Hiền Lương rộng 170m.
Cây cầu Hiền Lương bắc qua sông trở thành cây cầu lịch sử. Cầu do công binh Pháp xây dựng từ năm 1950, trước đó dân qua lại hai bên bờ sông bằng thuyền. Cầu có 7 nhịp, dài 178m, được lát bằng 894 miếng ván, trong đó có 450 miếng ván phía Bắc thuộc chủ quyền của ta và 444 miếng ván bờ Nam thuộc Việt Nam Cộng Hòa. Theo hiệp định Genevè mỗi vùng tập kết Nam- Bắc được chủ quyền 89m cầu. Hai đầu cầu có hai cột cờ phân biệt ranh giới hai bên. Âm mưu phá hoại hiệp định Genevè, phá hoại tổng tuyển cử thống nhất đất nước, Mỹ Ngụy thấy rất rõ lá cờ kia đã trở thành một khát vọng thống nhất của nhân dân hai miền Nam Bắc. Chúng đã dội bom lên lá cờ ấy, không để địch bẻ gãy ý chí thống nhất, cờ gãy lại dựng lên, cờ rách vá lại. Từ ngày 19/5/1956 đến 28/10/1967 có 264 lần lá cờ Tổ quốc đã được nối tiếp nhau treo lên để vùng trời giới tuyến không bao giờ vắng bóng ngọn cờ đỏ sao vàng.
Để bảo vệ ngọn cờ, quân dân Vĩnh Linh đã xây dựng 48 ụ sáng, đào 18km chiến hào, đánh 300 trận lớn nhỏ để giữ cầu, 13 người hy sinh, 16 người bị thương.
Từ năm 1968 – 1972 bến đò Tùng Luật ngay sông Bến Hải đã đưa 1,5 triệu lượt bộ đội qua sông, 400 ngàn lượt quân dân, dân công vượt tuyến, hàng ngàn tấn đạn dược, vũ khí, lương thực chi viện cho bờ Nam. Cao điểm nhất là đêm 20/5/1968 bến đò Tùng Luật huy động tới 145 chuyến đò, chuyển vào miền Nam 21 ngàn người, dốc sức cho chiến dịch Mậu Thân giành thắng lợi trên chiến trường. Hiền Lương mãi mãi còn trong sử sách, còn trong tâm tưởng của người dân Việt. Cây cầu hiện nay được xây dựng lại sau này. Cây cầu nguyên thủy đã bị Mỹ đánh sập vào năm 1967. Cây cầu mới hoàn thành tháng 6 năm 1999.
Cầu Hiền Lương, sông Bến Hải là ranh giới giữa tỉnh Quảng Trị và tỉnh Quảng Bình.

Địa đạo Vĩnh Mốc:
Địa đạo thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Trước năm 1965, Vĩnh Mốc là một làng nhỏ rất đẹp nằm sát bờ biển với bãi cát trắng mịn và những rặng phi lao rợp bóng mát.
Đế quốc Mỹ trong âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta đã tiến hành ở Vĩnh Linh một cuộc chiến tranh hủy diệt man rợ và tàn khốc. Làng quê Vĩnh Mốc nhỏ bé với diện tích chưa đầy 1 km2, số dân là 300 người với chỉ 82 nóc nhà đã phải chịu đựng một khối lượng bom đạn khổng lồ của hơn 1003 trận oanh kích trải thảm. Tính trung bình mỗi người dân ở khu vực này phải hứng chịu 7 tấn bom và 800 quả đại bác. Tháng 6/1965, Vĩnh Mốc đã hoàn toàn bị thiêu trụi bởi bom đạn Mỹ. Trong điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh, nhân dân Vĩnh Mốc quyết tâm bám trụ giữ làng không chịu khuất phục trước kẻ thù, 2/3 số dân được di cư ra các tỉnh phía Bắc, 1/3 còn lại quyết định làm địa đạo bám làng sản xuất và chiến đấu.
Cuối năm 1966, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồn công an Vĩnh Mốc và chi bộ thôn, một tổ xung kích 4 người được thành lập chuẩn bị cho việc đào hệ thống địa đạo dưới lòng đất đảm bảo điều kiện chiến đấu lâu dài với kẻ thù. Với công cụ lao động thô sơ như cuốc xẻng, quang gánh, xe cải tiến… lao động hơn 3 tháng với 18 ngàn ngày công đào đắp một khối lượng 6000 m3 đất đá tạo nên trong lòng một quả đồi đất đỏ bazan một hệ thống đường hầm chằng chịt với nhiều cửa ra vào ở các hướng khác nhau. Xung quanh được bao bọc bởi 8200m giao thông hào.
Địa đạo Vĩnh Mốc là hình ảnh thu nhỏ của một làng quê được xây dựng và kiến tạo trong lòng đất, với chiều sâu từ 20 – 28m. tổng chiều dài của hệ thống đường hầm là 2034m, địa đạo có trục đường chính dài 769m, cao 1,5 – 1,8m, rộng từ 1,1 – 2m. Từ trục chính địa đạo được cấu thành nhiều nhánh, mỗi nhánh thông với một cửa hầm. Địa đạo có tất cả 13 cửa, 7 cửa thông ra biển, 6 cửa thông lên đồi, mỗi cửa hầm coi như một lỗ thông hơi. Tại các cửa hầm địa đạo đều có làm khung gỗ chống sập và thường xuyên được gia cố để chống sụt lở. Hai bên trục chính cách nhau từ 3 – 5m lại khoét lõm sâu vào tạo thành một ô nhỏ, mỗi ô làm nơi sinh hoạt của một gia đình. Địa đạo được chia thành 3 tầng. Tầng một là nơi sinh sống của nhân dân, tầng hai là nơi đóng trụ sở của Đảng ủy, UBND và Bộ chỉ huy quân sự. Tầng ba dùng làm kho chứa hậu cần cung cấp cho đảo Cồn Cỏ và phục vụ chiến đấu của quân dân Vĩnh Mốc.
Từ địa đạo này quân dân Vĩnh Mốc đã sản xuất và chiến đấu gần 2000 ngày đêm trước sự bắn phá của kẻ thù. Sau năm 1972, khi chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của Đế quốc Mỹ bị đánh bại, hiệp định Paris được ký kết, nhân dân Vĩnh Mốc rời lòng đất bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
Ngày 21/12/1975, Bộ Văn hóa được đặt cách xếp hạng di tích lịch sử đối với địa đạo Vĩnh Mốc. Năm 1993, địa đạo Vĩnh Mốc lại được công nhận là một trong những di tích đặc biệt quan trọng của cả nước

Sông Gianh:
Tên chữ Đại Linh Giang một trong 5 con sông lớn của tỉnh Quảng Bình, là con sông duy nhất chảy trong địa phận của một tỉnh tại Việt Nam. Con sông dài khoảng 50 km nhưng lòng sông sâu, cửa sông rộng mênh mông. Thế kỷ 17, sông Gianh là chiến tuyến của cuộc chiến tranh Trịnh–Nguyễn. Chính tại nơi đây từng diễn ra bao trận đánh đẫm máu giữa hai quân lính Đàng Trong và Đàng Ngoài. Nhiều thi sĩ có dịp qua sông Gianh đều không khỏi ngậm ngùi khi nhớ về những trang sử buồn đau của dân tộc thuở nào.
Cầu Sông Gianh: khởi công xây dựng ngày 15/5/1995 hoàn thành 27/11/1998 tại thị trấn Ba đồn, huyện Quảng Trạch Cầu nối thông Nam Bắc dài 732 m rộng 12,34 m gồm 9 nhịp cách cửa biển 3 km. Đây là cây cầu mang tầm vóc lớn trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, xóa dấu ấn Trịnh–Nguyễn phân tranh .
Qua cầu sông Gianh đến ngã ba rẽ trái đi động Phong Nha (30km), tại đây sẽ gặp di tích đường mòn Hồ Chí Minh.

Đèo Ngang:
Dài 2560m với những đoạn quanh co uốn khúc, vượt qua nhiều sườn đồi có dốc thoai thoải. Đèo Ngang ở giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình, đứng trên đỉnh đèo, du khách sẽ thấy một phong cảnh ngoạn mục, phía Tây là dãy Hoành Sơn, phía Đông là những dãy cát trắng. Vượt qua đèo Ngang, du khách có cảm giác như đang bồng bềnh giữa các mỏm núi đá hoa cương óng ánh cao hơn 250m. Đã có một bài thơ rất nổi tiếng nói về cảnh đẹp của đèo Ngang, đó chính là bài “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
Qua đèo Ngang là bước vào địa phận xã Kỳ Long, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Thị xã Hà Tĩnh, tỉnh lỵ tỉnh Hà Tĩnh. Từ thị xã Hà Tĩnh, chúng ta đến thị trấn Cày (thị trấn Thanh Hà), huyện Can Lộc, đến ngã ba-nếu quẹo phải sẽ đến ngã ba Đồng Lộc (12km) theo tỉnh lộ 504–qua ngã ba sẽ ra khỏi địa phận tỉnh Hà Tĩnh.
Ngã Ba Đồng Lộc: nằm ở địa phận huyện Can Lộc (Nghệ Tĩnh), Ngã Ba Đồng Lộc là một trong những cửa ngõ quan trọng để vào đường mòn Hồ Chí Minh ra tiền tuyến. Chính vì vậy máy bay Mỹ đã điên cuồng trút xuống nơi đây hơn 42.000 quả bom tấn, bom tạ, hòng ngăn chặn con đường nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn trong cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ. Trong chiến công thần kỳ nhằm duy trì sự sống của con đường huyết mạch chạy qua Ngã Ba Đồng Lộc ấy, có phần đóng góp vẻ vang của 10 cô gái thanh niên xung phong thuộc tiểu đội 4, đại đội 552. Tuổi đời từ 17 đến 22, các cô đã gan góc đương đầu với bom đạn Mỹ qua 194 ngày đêm. Và trong một trận chiến đấu vì sự sống của con đường ra tiền tuyến, hồi 16giờ 30 phút, ngày 24/7/1958, 10 cô gái anh hùng ấy đã hy sinh.
Giờ đây, cảnh quan đã thay đổi. Dãy An Trác không có những hố bom sâu hoắm, đỏ hoe đến nhứt mắt mà thay vào đó là bạt ngàn cây thông. Thông từ An Trác kéo dài cả dãy che mát cho 10 cô gái và hàng trăm liệt sĩ khác. Thông làm thay đổi cả khí hậu và môi trường của cái vùng khí hậu đã khắc nghiệt mà bom Mỹ lại làm cho càng điêu tàn tưởng như không có sinh vật nào sinh sôi được.
Xã Đậu Liên, huyện Xuân Thành là nơi bắt đầu tỉnh Nghệ An. Đi tiếp sẽ đến thị trấn Hồng Lĩnh, bên phải là núi Hồng Lĩnh, có ngã ba quẹo phải đi đền Thánh Mẫu Nghi Xuân (20km). Đi tiếp sẽ gặp đền Chợ Cũi (thờ quan Hoàng Mười), rồi đến cầu Giằng.
Núi Hồng Lĩnh: là ngọn núi biểu trưng cho tỉnh Hà Tĩnh. Đây là một dãy núi dài trên 27 km có 99 ngọn tất cả. Không những thế trên dãy Hồng Lĩnh có tới khoảng 100 ngôi điền miếu, chùa chiền. Có ngôi rất cổ như chùa Hương Tích hay chùa Chân Tiên nơi vẫn còn lưu chân người và dấu chân ngựa trên tảng đá: Tiên giáng trần. Phong cảnh hùng vĩ nên thơ của Hồng Lĩnh là nơi sinh ra nhà thơ vĩ đại của Việt Nam: Nguyễn Du.
Cầu Bến Thủy (dài 625m) bắt qua sông Lam, bắt đầu bước vào địa phận thành phố Vinh , tỉnh lỵ tỉnh Nghệ An.
Đây là tỉnh lộ 581, vừa qua cầu mang tên là cầu Trắng là quẹo phải vào thành cổ Quảng Trị, đường này tên là đường Hai Bà Trưng.

Đôi nét về tỉnh Nghệ An

1.Địa Lý
Diện tích: 16.371 km2.
Dân số (2004): 2.994.731 người.
Tỉnh lỵ: Thành phố Vinh.
Các huyện: thị xã Cửa Lò và 17 huyện: Diễn Châu, Huỳnh Lưu, Yên Thành, Đô Lương, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Tân Kỳ, Anh Sơn, Con Cuông, Nghĩa Đàn, Quì Hợp, Quì Châu, Quế Phong, Tương Dương, Kỳ Sơn.
Dân tộc: Việt (Kinh), Khơ mú, Ơ đu, Thổ, Sán Dìu, H'Mông...
Nghệ An là một tỉnh lớn ở phía Bắc Trung bộ, phía Bắc giáp Thanh Hóa, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Lào, phía Nam giáp Hà Tĩnh. Địa hình của tỉnh Nghệ An bao gồm núi, đồi và thung lũng, độ dốc thoải dần từ tây bắc xuống đông nam. Hệ thống sông ngòi dày đặc, quốc lộ 1 và tuyến đường sắt Bắc - Nam đoạn chạy qua tỉnh dài hơn 94 km (58.8 miles). Bờ biển dài 82 km (51.3 miles), có Cửa Lò là cảnh biển quan trọng của miền Trung. Tỉnh có sân bay Vinh, có đường biên giới với Lào dài 419 km (262 miles). Giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không đều thuận lợi.
Địa thế Nghệ An nhìn ra biển Đông và lưng tựa Trường Sơn khắp tỉnh là rừng núi, sông ngòi ít đồng bằng. Từ sông cả kéo tới Keo Nứa (thuộc Hà Tĩnh), dọc theo phía Tây, toàn sa điệp thạch phủ lên những lớp đá vôi, thỉnh thoảng trồi lên những khối hoa cương. Ở đây có ngọn Phu saileng cao nhất tỉnh 2.711 m (8,133 ft). Những núi đáng kể khác là Phou Hautt 2452 m (7,356 ft), Bu cat xa 1095m (3,285 ft), Phou co 769 m (2,307 ft), Bù Đen 751 m (2,253 ft), Phou Han 1322 m (3,966 ft), Phouei Tang 1398 m (4,194 ft), Phu loong 1295m (3,885 ft), Phu can 949 m (2,847 ft), và Phu lon 1570 m (4,710 ft); những núi thấp như: núi Mông Gà cao 398 m (1,194 ft), Rú Đại Can 528 m (1,584 ft), Rú Đại Vạc 431 m (1,293 ft), núi Quyết, núi Gươm, Phu Vang 489 m (1,467 ft), núi Rong, núi Cuông (núi Mộ Dạ)...
Sông cả là sông chính của tỉnh, đoạn dưới gọi là sông Lam, vòng qua huyện Cửa Rào rồi xuống tây nam ra cửa Hội, dài hơn 300 km (188 miles). Những sông khác là sông Con, sông Nam Tiếp, sông Khé Thơ, sông Giang, sông Trai, sông Kênh Gai, sông cương, sông Hoàng Mai, sông Cửa Rô, sông Hiếu... Sông ở đây thường nhỏ nhưng hạ lưu rộng. Các cửa biển quan trọng là cửa Hội và cửa Lò. Những đảo nhỏ nằm ngoài biển là hàn Niêu (hòn Ngư), hòn Mát, hòn Tuần...
Nghệ An là tỉnh nằm trong vùng chuyển tiếp khí hậu nên khí hậu vừa mang tính đông lạnh của miền Bắc, vừa mang tính nắng nóng của miền Nam. Nhiệt độ trung bình năm từ 23 – 240 C. Mùa mưa bắt đầu tháng chín đến tháng tư, tháng năm còn nước lụt. Thường hay lụt bất ngờ vì núi dốc, nhưng nước rút cũng nhanh. Bão hay đến vào tháng tám, chín, mười. Mùa xuân ấm áp hai tháng đầu, từ tháng ba có gió Đông Nam ở vùng đồng bằng. Đầu tháng năm cũng hay bị lụt. Các tháng sáu, bảy có gió tây nóng khô.

2. lich sử:
Đất Nghệ An xưa là bộ Hoài Hoan, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Thời bắc thuộc, dưới Đường Cao Tông đổi tên nước ta là An Nam Đô Hộ Phủ, đất này thành Châu Hoan, Châu Diễn, gồm 11 huyện. Đời vua Trần Duệ Tông (1372-1377), đổi Châu Hoan thành Nghệ An. Đời Vua Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly đổi lộ Nghệ An thành trấn Lâm An. Sang đến nhà Lê, đây là đạo Tây Hải, rồi gọi là Nghệ An thừa tuyên. Thời Tây Sơn đặt là Trung Đô, sau thành trấn Nghệ An. Đời nhà Nguyễn đất này là trấn Nghệ An. Năm Minh Mạng thứ 12, vua đổi trấn thành tỉnh Nghệ An. Hà Tĩnh cũng là tỉnh sau trở thành một đạo của Nghệ An.
Năm 722, anh hùng Mai Thúc Loan khởi nghĩa ở Đạn Sơn, dân chúng theo rất đông, đánh bại quân xâm lượt nhà Đường, chiếm một vùng ở Hoan Châu (huyện Nam Đàn), xây thành đắp lũy để đánh trường kỳ. Bên bờ sông Lam là nơi ác chiến cuối cùng, ghi lại sự hy sinh vì nước của người anh hùng này. Từ năm 1409 các anh hùng Trần Quý Khách, Đặng Dung, Nguyễn Biểu, Nguyễn Cảnh Dị nổi lên đánh quân Trương Phụ nhà Minh nhiều trận ở Nghệ An. Thời Minh thuộc, giặc tưởng Nghệ An là bức tường bất khả xâm phạm. Năm Giáp Thìn (1424) Bình Định Vương Lê Lợi đem quân mai phục ở núi Bồ Liệp, phủ Quý Châu giết tướng giặc Trần Trung và hơn hai ngàn lính, rồi chiếm thành Trà Long (huyện Tương Dương) không tốn một mũi tên.
Đầu năm Ất Tý (1425), Vương tiến hành đánh Nghệ An, dân chúng huyện Thang Chương được giải phóng, đem lương thực tiếp tế vận và theo khởi nghĩa rất đông. Ngày 29-11-1788, anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ từ phủ Xuân tiến quân ra bắc, dừng chân ở Nghệ An mộ thêm quân. Thời đó các đám sĩ phu khoa bảng bạc nhược tỏ vẻ ái ngại về việc mộ quân này. Dân Nghệ An của Bắc Hà chỉ phò mái triều Lê nhưng họ lầm, đồng bào Nghệ An chỉ phò một Tổ Quốc Việt Nam và không nhìn vua Quang Trung như "vua của Tây Sơn" mà ngưỡng mộ anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ như một đấng minh quân vì dân vì nước. Dân như được sống lại. Chỉ trong vòng nửa tháng, 10 vạn quân Nghệ An cùng hàng vạn người từ các vùng khác đã theo chân anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ tiến binh như thác lũ ra miền bắc, đánh tan tành hơn 30 vạn quân Thanh.
Khi Pháp xâm lăng nước ta, tháng 3 năm 1874, hai anh hùng Trần Tấn và Đặng Như Mai, quê ở Nghệ An, tụ tập các Văn Thân trong vùng truyền hịch khởi nghĩa, rồi cùng 3000 nghĩa quân đánh huyện Diễn Châu. Năm 1883, dân quân theo Ông Đinh Vân Chất chiếm huyện Nghĩa Hưng. Sau giặc Pháp bắt ông, chặt đầu và đốt hủy xác. Năm 1855, khi kinh thành Huế thất thủ, hai ông Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhạ đã lãnh đạo phong trào kháng Pháp tại Nghệ An.
Ngày 18-12-1855, quân ta vây kín giặc ở xã Đoài chúng phải dùng tới viện binh mới giải thoát được ít tên. Từ năm 1889, anh hùng Phan Đình Phùng tung quân lập căn cứ trong các khu rừng núi quanh các vùng Anh Sơn, Diễn Châu, Quỳ Châu và tiến đánh các đồn bót của giặc khắp vùng Nghệ An. Huyện Nam Đàn là nơi sinh trưởng của anh hùng Phan Bội Châu. Năm 1903, Ông viết "Lưu Cấu Huyết Lệ Tân Thư" chấn động cả nước kêu gọi các quan và sĩ phu đứng chống quân Pháp và cổ vũ cho quan điểm "duy tân tự cường", phát động phong trào Đông Du. Năm 1908, đồng bào Nghệ An cùng với các tỉnh khác đồng loạt biểu tình chống nộp thế, bắt đi phu. Năm 1912 anh hùng Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang Phục Hội hoạt động mạnh mẽ khắp nơi. Phong trào Đông Du mạnh cũng nhờ hai nhà cách mạng quê quán Việt Nam là Đặng Nguyên Cẩn và Đặng Thái Thân (người làng Hải Côn).
Năm 1910, giặc Pháp vây bắt Đặng Thái Thân, ông bắn chết một lính Pháp.
Nghệ An là một mảnh đất đã sản sinh nhiều danh nhân lịch sử, nhà khoa bảng, nhà khoa học, nhà văn nổi tiếng như Mai Hắc Đế, thi sĩ Hồ Xuân Hương... Cũng như các tỉnh khác của Việt Nam, truyền thống văn hóa của tỉnh rất phong phú. Là một tỉnh có nhiều dân tộc cùng sinh sống, mỗi dân tộc đều mang một bản sắc văn hóa, ngôn ngữ riêng giàu truyền thống. Nghệ An là xứ sở của nền văn hóa dân gian đặc sắc với những điệu hò, hát phường vải, hát đò đưa... Du khách đến với bất kỳ lễ hội nào của tỉnh Nghệ An đều có thể thưởng thức loại hình sinh hoạt văn hóa đặc sắc này.
Các dân tộc ít người của tỉnh Nghệ An có những loại hình âm nhạc riêng. Dân tộc Khơ-mú có âm nhạc nữ đuổi chim thú, nhạc khí gắn trên gậy chọc lỗ, tra hạt. Thăm đao là loại nhạc cụ bằng tre nứa; đàn môi được chế tạo bằng những mảnh cật tre vót mỏng. Ngoài ra họ còn có nhiều loại sáo, khèn... Còn người H'Mông lại có nhiều loại khèn và đàn môi để bày tỏ tình cảm, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương đất nước.

 Thuyết Minh Tuyến Thanh Hóa -> Hạ Long -> Hà Nội

Thanh Hoá
Từ thành phố Vinh, ta theo quốc lộ 1A để đến Thanh Hoá. Đầu tiên là ngã ba rẽ phải đi bãi biển Cửa Lò (13km).
Biển Cửa Lò: Cửa Lò không chỉ là vùng biển đẹp của tỉnh Nghệ An mà còn là một thắng cảnh của đất nước. Xưa kia, nơi sông đổ ra cửa biển gọi là Cửa Xa. Cửa Lò, nơi nghỉ mát nổi tiếng, một trung tâm du lịch ven biển nổi tiếng ở Miền Trung, nay được chọn làm nơi xây dựng một cảng lớn và hiện đại.
Cảng Nghệ An trong tương lai tên gọi chính thức cảng mới là Cửa Lò- thì sẽ gồm 13 bến với chiều dài 3km. Tổng diện tích toàn bộ gồm 330 ha nước và 110 ha.
Đất, cảng sẽ có độ sâu 12,5m để tiếp nhận tàu lớn với trọng tải 25,000 tấn, hệ thống bốc dỡ, vận chuyển hàng sẽ được cơ giới hoá với hàng chục cẩu và hàng trăm xe máy hiện đại. Cảng Nghệ An sẽ có tầm quan trọng đặc biệt: nó sẽ là cảng lớn thứ ba của đất nước sau cảng Sài Gòn và cảng Hải Phòng; nó sẽ phục vụ tiếp nhận vật tư , hàng hoá cho các tỉnh Miền Trung, kể cả việc tiếp nhận hàng hoá cho nước bạn Lào anh em.
Đến xã Diên An, sẽ thấy núi Hoàng Mai, tiếp nữa ta sẽ thấy Đền Cuông, thờ Thục Phán An Dương Vương nằm bên phải, ngay cạnh quốc lộ 1A.
Ngã ba rẽ tay trái là Quốc Lộ 7 đi vườn quốc gia Phù Mát và có thể qua Lào .
Qua huyện Huỳnh Lưu là đến đèo Hoàng Mai. Đèo Hoàng Mai là ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An.
Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km. Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào), phía Đông là Vịnh Bắc Bộ.
Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, có hệ thống giao thông thuận lợi như: đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217; cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi thuận tiện cho lưu thông Bắc Nam, với các vùng trong tỉnh và đi quốc tế. Hiện tại, Thanh Hóa có sân bay Sao Vàng và đang dự kiến mở thêm sân bay quốc tế sát biển phục vụ cho khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch.
Năm 2007 là năm kỷ niệm 100 năm du lịch Sầm Sơn; đây là cơ hội để Sầm Sơn quảng bá, thu hút đầu tư, xây dựng thương hiệu cho vùng đất du lịch - thắng cảnh nổi tiếng xứ Thanh. Chính vì vậy, trong những tháng đầu năm 2007 này, cả Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã Sầm Sơn đang nỗ lực triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình Lễ hội lớn kỷ niệm 100 năm Du lịch Sầm Sơn, với nhiều biện pháp thiết thực và phong phú.
Thanh Hóa có bề dày lịch sử hào hùng và truyền thống văn hoá độc đáo. Vào sơ kỳ thời đại đá cũ, bằng sự phát hiện và khai quật khảo cổ các di chỉ Núi Đọ, Núi Quan Yên, Núi Nuông đã khẳng định Thanh Hóa là nơi sinh sống của người nguyên thuỷ, đặc biệt hang Con Mong là nơi chứng kiến các giai đoạn phát triển liên tục của con người từ hậu kỳ đá cũ sang thời đại đá mới. Quá trình chinh phục đồng bằng trên đất Thanh Hóa của cư dân đồ đá mới đã để lại một nền văn hoá Đa Bút, là một nền văn hoá khảo cổ tiến bộ cùng thời trong khu vực cách đây 6.000 năm. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước văn hoá Đông Sơn, Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các văn hoá Phùng Nguyên - Đồng Dậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Đó là quá trình chuẩn bị mọi mặt để đến văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm lịch sử, văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa đã tỏa sáng rực rỡ trong đất nước của các Vua Hùng.
Suốt mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Thanh Hóa đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Khương Công Phụ, Lê Văn Hưu, Lê Thánh Tông, Đào Duy Từ, ... Cùng với những trang lịch sử oai hùng, Thanh Hóa có 1.535 di tích, trong đó có 134 di tích được xếp hạng quốc gia, 412 di tích đã xếp hạng cấp tỉnh với các di tích nổi tiếng như Núi Đọ, Đông Sơn, khu di tích Bà Triệu, Lê Hoàn, thành Nhà Hồ, Lam Kinh, Ba Đình, Hàm Rồng ... càng khẳng định xứ Thanh là một vùng “Địa linh nhân kiệt”.
Thanh Hóa có cầu Hàm Rồng là một di tích lịch sử thời chiến tranh Việt Nam.
Khu di tích lịch sử Lam Kinh: thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hoá 50 km về phía Tây. Hiện còn lưu giữ các điêu khắc đá như bia Vĩnh Lăng (Lê Lợi), bia hoàng hậu Ngô Thị Ngọc dao, các di tích cung điện thành nội, thành ngoại, sân Rồng...
Vườn quốc gia Bến En: Thuộc huyện Như Thanh cách thành phố Thanh Hoá 36 km về phía Tây Nam, rộng 16,634 ha với những cây lim ngàn tuổi, lát hoa, chò chỉ, ngù hương, săng lẻ... và nhiều loài thú như voi, gấu, hổ, khỉ...
Suối cá "thần" Cẩm Lương: thuộc làng Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thuỷ, cách thành phố Thanh Hoá 80 km về phía Tây, là suối cá tự nhiên, có tới hàng ngàn con cá. Mỗi con cá nặng từ 2 đến 8 kg, có cá chúa nặng tới 30 kg.
Thái miếu Hậu Lê: thuộc phường Đông Vệ, có nhiều hiện vật có từ thế kỷ 17, 18. Đặc biệt còn có 27 thần vị và nhiều hiện vật.
Đền thờ Lê Thành: thuộc xã Đông Cương, thờ một vị tướng có công trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Đền Chu Nguyên Lương: thuộc phường Nam Ngan, thờ một vị tướng trong thời kỳ kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thời Trần.
Phường Lam Sơn có đền thờ Trần Hưng Đạo, đền thờ Tống Duy Tân... Thành phố Thanh Hoá cũng là trung tâm của hai tôn giáo lớn - Thiên chúa giáo và Phật giáo.
Phường Nam Ngạn và phường Trường Thi có toà Giám mục và chùa Thanh Hà, chùa Chanh và chùa Mật Đa.

Vườn quốc gia Bến Én
Cách thành phố Thanh Hoá 46km về phía Tây Nam, vườn quốc gia Bến Én thuộc địa phận huyện Như Thanh, có diện tích tự nhiên hơn 16.600ha, là vùng rừng, núi, sông hồ thơ mộng.

Thành Nhà Hồ
Là một thành đá được Hồ Quý Ly cho xây dựng năm 1397 trên khu đất rộng gần 1km2 nằm giáp ranh giữa các xã Vĩnh Yên, Vĩnh Tiến, Vĩnh Long thuộc huyện Vĩnh Lộc. Theo sử sách để lại thì phải mất 3 năm Nhà Hồ mới xây dựng xong Thành. Nhưng theo tương truyền của dân gian, Hồ Quý Ly chỉ mất đúng 3 tháng để hoàn thiện Thành đá kỳ vĩ.
Tương truyền rằng, Cống sinh Trần Công Sỹ được phân công xây dựng Thành nhưng không hiểu sao Thành cứ xây lên cao thì lại bị đổ. Hồ Quý Ly cho rằng Trần Công Sỹ có ý đồ xấu, cố tình phá vỡ công trình này nên đã chôn sống Trần Công Sỹ. Sau đó, nàng Bình Khương (vợ của Cống sinh Trần Công Sỹ) nghe tin chồng mất đã đập đầu vào đá tự tử. Hiện trong đền thờ bà Bình Khương vẫn còn phiến đá này. Đặc biệt bên cạnh ngôi đền còn có một hồ nước nhỏ, dù trời mưa to hoặc nắng hạn thì quanh năm không bao giờ cạn. Tương truyền cho rằng những người thợ tài hoa đã dùng giấy bản giã với mật mía tạo chất kết dính.

Núi Đún - Đền thờ Trần Khát Chân - Đàn Tế Nam Giao:
Trước cổng tiền phía Nam của thành Nhà Hồ có con đường chạy thẳng tới núi Đún. Trên núi có đền thờ danh tướng thời Nhà Trần Trần Khát Chân từng lập công lớn đánh bại quân xâm lược, bị Hồ Quý Ly sát hại cùng các đại thần trung thành với nhà Trần trong vụ thanh trừng mùa hạ năm 1399.
Núi Đún cũng là nơi lập đàn tế nam giao đầu tiên dưới triều Hồ. Hiện tại, Đàn Tế Nam Giao của Nhà Hồ gần như vẫn còn nguyên vẹn và là một trong 3 đàn tế nam giao còn lại ở Việt Nam.

Sầm Sơn:
Sầm Sơn là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi với bãi biển đẹp nổi tiếng bên núi Trường Lệ. Đây còn là vùng đất giàu bản sắc văn hóa độc đáo với nhiều lễ hội truyền thống. Nơi đây có thể khai thác, phát triển nhiều loại hình du lịch với lợi thế cạnh tranh cao như: tắm biển, tham quan, leo núi, nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa... Những năm qua, cùng với sự phát triển của ngành du lịch Thanh Hóa, hoạt động kinh doanh lưu trú, tham quan, nghỉ mát, nghỉ dưỡng ở Sầm Sơn đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đa dạng, phong phú về loại hình, tăng nhanh về quy mô. Nhiều loại hình dịch vụ, sản phẩm du lịch được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Sầm Sơn quan tâm phát triển như: du lịch sinh thái ở Quảng Cư, văn hóa lễ hội trên núi Trường Lệ, xây dựng thêm một số cơ sở vui chơi giải trí... nhờ vậy, khách đến với Sầm Sơn ngày một tăng. Du lịch Sầm Sơn còn là cầu nối để giới thiệu về văn hóa, lịch sử, con người xứ Thanh, vùng đất địa linh nhân kiệt, một trong những cái nôi của văn minh nhân loại, với bạn bè trong nước và quốc tế.

Khu di tích Lam Kinh:
Khu di tích Lam Kinh (Lam Sơn) thuộc huyện Thọ Xuân, nơi gìn giữ miếu tường của Nhà Lê. Địa danh này nằm ở phía Tây, cách Thành phố Thanh Hoá hơn 50km. Nơi có "Hội thề Lũng Nhai" 18 vị khai quốc công thần của triều Lê. Với những anh hùng dân tộc đã làm rạng rỡ non sông, gấm vóc. Đền thờ Lê Lai ở Kiên Thọ, một vị tôi trung đã liều mình cứu chúa (Lê Lợi), trong cảnh giặc vây, ráp (ngàn cân treo sợi tóc) một mất một còn. Rồi Nguyễn Trãi danh nhân văn hoá nghe theo lời cha: Nguyễn Phi Khanh từ ngoài Bắc vào phò tá Lê Lợi giết giặc cứu nước.

Lăng Lê Thái Tổ
Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng Đế ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), xưng là “Thuận Thiện thừa Vân Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương. Đức Thái tổ Cao Hoàng Đế băng hà ngày 22 tháng 8 năm Quý Mùi (1433) hưởng thọ 49 tuổi, trị vì đất nước được 6 năm, mộ táng ở Vĩnh Lăng Lam Sơn.

Cụm di tích Nga Sơn
Chùa Tiên: Thuộc xã Nga An, Nga Sơn được xây dựng trên một mảnh đất rộng 3,5 ha, cảnh quan đẹp, hấp dẫn và yên tĩnh.
Đây là nơi để du khách có thể thăm quan, chiêm ngưỡng và chiêm nghiệm những giáo lý của nhà phật đối với chúng sinh.
Động Từ Thức: hay còn gọi là động Bích Đào thuộc xã Nga Thiện, Nga Sơn - Thanh Hóa.
Động từ Thức là một cảnh đẹp gắn liền với truyền thuyết Từ Thức gặp Tiên. Các nhũ đá trong động dưới ánh sáng của những ngọn đèn huyền ảo bỗng trở nên sống động như câu chuyện về chàng Từ Thức và nàng giáng Hướng trong hội hoa thuở nào. Nào quả đào tiên, nào khóm mẫu đơn, nào kho thóc, nào mâm xôi tất cả lần lượt hiện ra như đưa du khách vào thế giới của thần tiên huyền ảo.
Cảnh đẹp nơi đây từ xưa đã là nơi dừng chân của rất nhiều tao nhân mặc khách. Hiện nay Động Từ Thức đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là thắng cảnh độc đáo cấp quốc gia.

Đền thờ Mai An Tiêm:
Thuộc xã Nga Phú huyện Nga Sơn. Cách huyện lỵ Nga Sơn 5km về phía Đông Bắc.
Ngôi đền nhỏ đơn sơ nép mình bên sườn núi nhưng chứa đựng cả một huyền thoại đẹp được lưu truyền từ bao đời nay. Mai An Tiêm là người có công khai phá xây dựng đất Nga Sơn từ buổi bình minh của đất nước, dưa hấu Mai An Tiêm là sản vật rất nổi tiếng ở Nga Sơn.
Hàng năm lễ hội Mai An Tiêm diễn ra tưng bừng náo nhiệt từ 12 - 15 tháng 3 âm lịch.

Cửa Thần Phù
Trước đây Vua Trần dẹp giặc phương Nam, đến đây sóng to gió lớn không tiến lên được, nhờ có một đạo sĩ La Viện người địa phương dẫn đường nên mới thoát hiểm. Thắng giặc trở về La Viện đã mất, vua cho lập miếu thờ và phong là Áp Lãng Chân Nhân Tôn Thần.

Di tích lịch sử Chiến khu Ba Đình
Chiến khu Ba Đình thuộc xã Ba Đình, cách trung tâm huyện Nga Sơn 3 km về phía Tây - Bắc.
Đây là di tích lịch sử đã được xếp hạng cấp quốc gia. Với lòng yêu nước và tinh thần quả cảm, chỉ với những vũ khí thô sơ mà tại đây nghĩa quân cần Vương và nhân dân ba làng là làng Mậu, làng Thượng, làng Mỹ Khê đã dũng cảm đánh bại nhiều đợt tấn công của giặc Pháp xâm lược.
Địa danh Ba Đình này đã vinh dự được Bác Hồ đặt thành tên gọi của quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử.

Cầu Hàm Rồng
Cầu Hàm Rồng là cầu đường bộ, đường sắt bắc qua sông Mã, cách thành phố Thanh Hoá 4 km về phía bắc.
Cầu Hàm Rồng cũ do Pháp xây dựng năm 1904 là cầu vòm thép không có trụ ở giữa. Cầu này bị phá hủy năm 1946. Năm 1962 cầu Hàm Rồng được khởi công xây dựng. Khánh thành ngày 19 tháng 5 năm 1964, cầu gồm 2 nhịp dầm thép, ở giữa là đường sắt, hai bên là đường ô tô và đường dành cho người đi bộ.
Cầu Hàm Rồng có vị trí giao thông rất quan trọng là cầu đường sắt duy nhất đi qua sông Mã. Đây là cây cầu rất nổi tiếng trong chiến tranh Việt Nam là trọng điểm của cuộc đấu tranh đánh phá và bảo vệ giao thông. Không lực Hoa Kỳ liên tục đánh phá với cường độ rất cao và với các chiến thuật khác nhau. Các đơn vị bảo vệ cầu đã chiến đấu hàng trăm trận, bắn rơi hơn 100 máy bay các loại. Không quân Việt Nam tại đây bắn rơi 4 máy bay Mỹ. Trung đoàn pháo phòng không 228 bảo vệ cầu Hàm Rồng đã bắn rơi 90 máy bay, được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân và được mang tên Đoàn Hàm Rồng. Vị thế của cầu rất đặc biệt làm cho cầu rất khó bị bom đánh trúng: tại hai đầu Bắc và Nam của cầu có hai hòn núi (núi Rồng và núi Ngọc) đã chắn hết các bom định ném xuống cầu và là nơi các lực lượng phòng không bảo vệ cầu bắn đón đầu các máy bay oanh tạc phải bay theo một hướng bắt buộc. Do vậy nên trong cuộc chiến tranh không quân lần thứ nhất của Mỹ chống miền Bắc Việt Nam từ năm 1964-1968 tuy bị đánh phá rất ác liệt nhưng Không quan Mỹ không thể ném bom trúng cầu. Chỉ đến năm 1972 ngay đợt đầu của chiến tranh không quân lần hai (bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 năm 1972) Hoa Kỳ áp dụng bom thông minh (bom điều khiển bằng laser) đã đánh trúng cây cầu này và đã làm tê liệt hoàn toàn cầu Hàm Rồng.
Năm 1973 cầu được khôi phục lại, trụ giữa vẫn dùng lại làm móng cột ống, tháo gỡ dầm thép cũ, thay bằng 2 nhịp 80 m đơn giản.

Suối cá tần Cẩm Lương - Chùa Bích Động

Suối cá thần Cẩm Lương
Khu du lịch Suối cá Cẩm Lương hay còn gọi là "suối cá thần" là một trong những điểm du lịch sinh thái “độc nhất, vô nhị” của tỉnh Thanh Hóa nói riêng và của cả nước nói chung, bởi nơi đây có rất nhiều các loài cá đẹp, nhiều màu sắc. Cảnh vật của khu du lịch còn hoang sơ, với hệ thống hang động và rừng nguyên sinh rộng lớn. Việc công bố quy hoạch chi tiết khu du lịch Suối cá Cẩm Lương sẽ tạo tiền đề thu hút nhiều khách du lịch và các nhà đầu tư đến tham quan, làm ăn tại khu du lịch này.

Đền thờ Bà Triệu
Bà Triệu ẩu huý là Triệu Thị Trinh sinh ngày 2-10 năm bính Ngọ (226), tại huyện Quân Yên quận Cửu Chân (Yên Định ngày nay). 19 tuổi bà đã có câu nói nổi tiếng: "Tôi muốn cưỡi gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người ta".
Bà đã chiêu mộ trai tráng đánh giặc và trở thành chủ soái năm 248. Ngày nay nhiều nơi có đền thờ bà Triệu; có nơi tôn vinh là " Bà Chúa Thượng Ngàn ". Lễ hội được tổ chức từ ngày 19 đến hết ngày 24 tháng hai âm lịch, trong một không gian rộng từ Đền đến Lăng về đình Làng. Lễ mộc dục - Tắm tượng vào ngày 18 hoặc 19 - 2 (âm lịch). Tế Phụng Nghinh với nội dung mời Vua Bà và Lục bộ triều đình về trong ngày huý kỵ của Bà. Rước Bóng- Rước bát hương Vua Bà từ đền chính đến Lăng mộ rồi rước về đình làng. Đặc biệt ở đình làng còn diễn trò " Ngô Triệu giao quân " rất sôi nổi. Sau lễ buổi trưa, cả làng ăn đồ nguội (vì đánh trận phải ăn lương khô). Buổi chiều nấu nướng cỗ bàn để khao quân. Trong dịp lễ hội, dân làng còn tổ chức thi đấu vật, leo dây, thổi cơm, thi đánh cờ tướng...; làm cho lễ hội càng thêm sôi nổi, náo nhiệt cả một vùng.

Phủ Trịnh – Nghệ Vẹt:
Nằm trong làng Sáo Sơn – Biện Thượng thuộc xã Vĩnh Hùng, Phủ Trịnh - Nghệ Vẹt là nơi Chúa Trịnh xây dựng phủ ở quê để thờ cúng và nghỉ ngơi. Phủ Trịnh trước đây tòa ngang dãy dọc, nay chỉ còn một ngôi nhà có đặt bài vị, câu đối, binh khí và con giống bằng gỗ. Nghệ Vẹt cách đó 500m, là một khu nhà gỗ 12 gian còn nguyên vẹn, nguyên là thờ thành hoàng làng, sau chuyển sang thờ các Chúa Trịnh. Phủ Trịnh là một di tích còn lại của thế lực Chúa Trịnh trong triều đại phong kiến Nhà Lê đàng ngoài.

Cầu Sông Mã–Hoàng Long:
Đây là một trong những cây cầu đẹp trên tuyến quốc lộ 1A, ngày 2/7 năm 2000 cầu được khánh thành và được thủ tướng Phan văn Khải cắt băng khánh thành và đặt tên là Hoàng Long có nghĩa là rồng vàng.
Cầu Sông Mã gồm đường dẫn dài 3,5km cầu Hàm Rồng vượt đường sắt dài 413 rộng 12,5m và cầu vượt sông Mã dài 380,86m rộng 12,5m. Cầu được khởi công từ tháng 7/1997 kinh phí là 124 tỷ đồng. Đây là một công trình có nhịp thông thuyền lớn nhất Việt Nam hiện nay: 130m so với cầu sông Gianh là 120m.
Sông Mã: Có diện tích toàn lưu vực là 28.400km2, dòng chính của chiều dài là 512km nhưng một phần của trung lưu lại nằm trên đất Lào với một đoạn dòng chảy là 102km, chiếm gần 20% với diện tích lưu vực 10,80km2 chiếm 38% tổng diện tích. Sông Mã có hai nguồn, một từ vùng núi Tùng xuống một từ sườn Bắc Pusam sau đổ về, dòng chảy theo hướng tây bắc – đông nam qua Sầm Nưa (Lào) rồi vào Thanh Hoá đổ ra biển ở ba cửa là: cửa Lèn, cửa Lạch Trường, cửa Lạch Trào. Mùa lũ kéo dài 5 tháng từ tháng 6 đến tháng 10.
Vườn quốc gia Cúc Phương thuộc khu vực giao nhau với tỉnh Ninh Bình, tỉnh Hòa Bình cách thành phố Thanh Hoá khoảng 70 km về phía Tây Bắc.
Sáu thế kỷ trôi qua, những biến động của lịch sử cũng như thiên nhiên khắc nghiệt đã hủy hoại phần lớn kiến trúc kinh thành của một triều đại. Nhưng những di tích ít ỏi còn sót lại là những di sản văn hóa quý báu, một biểu hiện khả năng kỳ diệu của ông cha ta. Một chứng tích tuyệt vời của trí thông minh, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo và tài năng lãnh đạo, tổ chức của dân tộc ta cách đây 600 năm. Thanh Hóa là một trong những chiếc nôi của người Việt cổ. Chính vùng đất địa linh, nhân kiệt này đã sáng tạo và lưu giữ những giá trị quý báu kết tinh trong di sản vật thể và phi vật thể. Đến Thanh Hoá, chúng ta không thể không nhắc đến những địa danh – di tích ghi lại dấu ấn của từng giai đoạn phát triển của lịch sử như khu di tích Lam Kinh, thành Nhà Hồ, Phủ Trịnh... và rất nhiều các danh thắng, di tích khác. Về với Thanh Hoá chúng ta không thể bỏ qua vùng đất Vĩnh Lộc- vùng đất còn giữ lại những tinh hoa của quá khứ qua những di tích của thời đại phong kiến, những truyền thuyết, huyền tích về Phật Bà Quan Âm, ông tiên Hồ Công... Vĩnh Lộc là huyện bán sơn địa nằm ở phía Tây Thanh Hóa, có tiềm năng về phát triển kinh tế du lịch với hơn 100 di tích - danh thắng (42 di tích đã được xếp hạng).
Mỗi danh lam thắng cảnh, mỗi di tích đã đi vào tiềm thức mọi người như một món ăn tinh thần mà khi nhắc đến nó người ta không thể không nhớ tới một sự kiện hoặc một nhân vật nào đó trong lịch sử. Chúng ta nhớ đến Vĩnh Lộc bởi một thành Nhà Hồ kiên cố và độc đáo, một Phủ Trịnh linh thiêng, huyền bí, một chùa Hoa Long mang đậm nét văn hóa người Chàm và Đền thờ Trần Khát Chân, Động Hồ Công, Đàn Tế Nam Giao, Đền thờ nàng Bình Khương…, tất cả đều gắn liền với những sự kiện lịch sử, đưa chúng ta trở về với quá khứ hào hùng của dân tộc.
Qua thị xã Bỉm Sơn là đến đèo Tam Điệp. Đèo Tam Điệp là ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Thanh Hoá và tỉnh Ninh Bình.

Đèo Tam Điệp:
Còn gọi là đèo Ba Dội, là một dãy núi với ba ngọn chinh kế tiếp nhau thuộc các huyện Tam Hiệp (Ninh Bình) và Trung Sơn (Thanh Hóa). Dãy núi này bắt nguồn từ vùng núi Hòa Bình chạy dài đến giáp cửa Thần Phù.
Thuở xưa, con đường thiên lý từ Bắc vào Nam có vị trí hơi khác đường số 1 bây giờ và phải vượt qua đèo Ba Dội (nay thuộc xã Hà Lam huyện Trung Sơn, Thanh Hóa). Đây chính là ngọn cao nhất của dãy Tam Điệp, cùng với ngọn núi tiền tiêu phía trước và ngọn phía sau hợp thành thế liên hoàn như ba cứ điểm hiểm yếu, kiểm soát hoàn toàn đường bộ từ Bắc vào Nam.
Có thể so sánh vị trí xung yếu của đèo Tam Điệp ở phía Nam với vị trí xung yếu của Ải Chi Lăng phía Bắc. Phan Huy Chú đã mô tả địa thế Tam Điệp: ”Núi non cao chất ngất, cỏ cây xanh tốt, đứng trên đỉnh núi trông thấy biển cả. Núi ở xung quanh, đường đi ở giữa trông về 2 bên tả hữu núi như chậu úp một loạt chỗ gần hết núi thì hai bên như bức vách đứng thẳng lên”.
Mùa đông năm 1788, Lê Chiêu Thống rước 20 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy kéo vào giày xéo nước ta. Thế giặc hung hăng, Ngô Thì Nhậm, người quân sư mưu lược, khuyên Đại Tư Mã Ngô Văn Sở cho quân Tây Sơn lui về giữ Tam Điệp, thủy thì dông buồm vào đảo Biện Sơn. Tôn Sĩ Nghị chiếm được Thăng Long. Nhưng, như lời Ngô Thì Nhậm : ”Chẳng qua là ta cho chúng ngủ trọ một đêm!”. Số phận kẻ xâm lược đã được định đoạt. Kế hoạch rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng của Ngô Thời Nhậm đã được Nguyễn Huệ đánh giá rất cao: ”Chịu nhịn để tránh sức ban đầu của chúng...rút về giữ chỗ hiểm yếu, trong thì khiến cho lòng quân kích thích, ngoài thì khiến cho lòng giặc kiêu căng, đó là một kế rất hay” (Hoàng Lê Nhất thống chí).
Ngày 15/1/1789, Nguyễn Huệ cùng đạo quân thần tốc của ông có mặt ở Tam Điệp, họp với quân của Ngô Văn Sở. Quang trung truyền hịch đi khắp nơi kể tội ác bọn xâm lược, kêu gọi nhân dân giết giặc cứu nước. Và ngày 15/1/1789, sau khi mở tiệc khao quân, các chiến sĩ Tây Sơn xuất phát từ Tam Điệp chia làm 5 đạo tiến ra Thăng Long. Chỉ sau 5 ngày đội quân ấy đã đánh tan tác 20 vạn quân Thanh, đè bẹp ý đồ xâm lược của bọn phong kiến phuơng Bắc.

Đền thờ nàng Bình Khương:
Đền thờ nàng Bình Khương ở sát chân thành Nhà Hồ về phía Đông có tích từ một câu chuyện lưu truyền: khi xây thành, một đoạn tường ở cổng đông cứ vừa xây xong lại bị đổ, Hồ Quý Ly nghi người đôn đốc công việc là Trần Công Sỹ làm phản nên đem chém. Biết chồng oan, nàng Bình Khương kêu mãi không thấu, bèn đập đầu vào đá mà chết. Trong đền thờ, có phiến đá còn vết lõm, dân gian cho rằng, đó là dấu in vầng trán của nàng Bình Khương.

Động Hồ Công:
Nằm trên sườn phía tây dãy núi Xuân Đà, xã Vĩnh Ninh, động Hồ Công mang tên một tiên ông giáng trần giúp dân theo huyền tích địa phương. Động khá rộng, đá núi hai bên cửa xếp hình voi phục, trong động cảnh tượng mỹ lệ với những hình ảnh hư ảo.

Động Kim Sơn:
Thuộc xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc, động Kim Sơn có 6 hang ở núi Kim Sơn (cũng gọi là núi Bông hoặc núi Biện) nhô lên giữa mặt hồ mênh mông. Cửa động có cột đá óng ánh hình Phật Bà Quan Âm ngự đài sen. Động chạy xuyên núi. Lòng động có khối đá trắng giống con cá voi giỡn nước và dải thạch nhũ từ vòm hang buông xuống trông như chiếc khánh lớn. Ánh nắng lọt qua lỗ hổng trong động chiếu lên mặt nước và vách đá những bức tranh huyền ảo.

NINH BÌNH

Ninh Bình nằm ở cực Nam của vùng đồng bằng Bắc bộ, xen giữa lưu vực sông Hồng và sông Mã, nơi tiếp giáp và ngăn cách miền Bắc với miền Trung bởi dãy núi Tam Điệp hùng vĩ.. Ninh Bình có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua, cùng hệ thống sông ngòi phong phú, với cảng Ninh Bình, có điều kiện phát triển mạnh giao thông cả đường bộ, đường thủy, giao lưu thuận lợi với các địa phương trong nước và quốc tế. Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, trên tuyến đường quốc lộ 1A xuyên Bắc - Nam quan trọng vào bậc nhất của nước ta; và đường sắt xuyên Bắc - Nam đi qua (đoạn chạy qua đất Ninh Bình dài 35 km); với hai nút giao thông chính là thị xã tỉnh lỵ Ninh Bình và thị xã Tam Điệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế - văn hoá với cả hai miền đất nước.
Với diện tích tự nhiên là 1398,7km2, đứng thứ 52 trong 53 tỉnh, thành phố (chỉ lớn hơn diện tích tự nhiên của thành phố Hà Nội). Tuy là một tỉnh không lớn nhưng địa hình rất đa dạng: có núi sông, đồng bằng, vùng biển, mang đầy đủ sắc thái địa hình Việt Nam thu nhỏ. Có 8 đơn vị hành chính gồm 6 huyện và 2 thị xã trực thuộc tỉnh: huyện Nho Quan, thị xã Tam Điệp là vùng đồi núi; các huyện Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô thuộc vùng nửa đồi núi; diện tích đồng bằng và ven biển chủ yếu thuộc huyện Kim Sơn, Yên Khánh và thị xã Ninh Bình chỉ chiếm 1/5 diện tích tự nhiên của tỉnh.
Cộng đồng các dân tộc đang sinh sống trong tỉnh gồm có 23 dân tộc: đa số là dân tộc Kinh chiếm trên 98,2%; đứng thứ hai là dân tộc Mường chiếm gần 1,7%; các dân tộc như Tày, Nùng, Thái, Hoa, H’Mông, Dao mỗi dân tộc có từ trên một chục đến hơn một trăm người. Trong số các dân tộc ít người sinh sống trong tỉnh, dân tộc Mường đã định cư khá lâu đời ở các xã thuộc miền núi cao huyện Nho Quan, thị xã Tam Điệp và là một bộ phận của cư dân người Mường sinh sống dọc theo dải núi đá vôi từ Hoà Bình đi Thanh Hoá; các phong tục tập quán sinh hoạt, truyền thống văn hoá mang nét đặc trưng của cộng đồng dân tộc Mường của Việt Nam. Các dân tộc ít người khác sống phân tán, rải rác ở các địa phương trong tỉnh, không hình thành cộng đồng dân tộc nhất định, đa số đó có quan hệ hôn nhân, gia đình hoặc trong quá trình đi tìm đường sinh cơ lập nghiệp mà đến định cư ở địa phương và chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong tục, tập quán sinh hoạt, sản xuất, truyền thống văn hoá của người Kinh.
Danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng: Cố đô Hoa Lư (tại xã Trường Yên- Hoa Lư)- là kinh đô của Nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, hiện nơi đây có đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành; khu du lịch Tam Cốc- Bích Động (tại xã Ninh Hải- Hoa Lư) đã được tặng chữ: " Nam thiên đệ nhị động" hay "Vịnh Hạ Long cạn"; Vườn Quốc gia Cúc Phương (thuộc huyện Nho Quan) với diện tích rừng nguyên sinh khoảng 22.000 ha, có nhiều động thực vật quý hiếm, có cây Chò ngàn năm tuổi, có động Người xưa; khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, động Vân Trình, nước nóng Kênh Gà, khu hang động Tràng An, Nhà thờ đá Phát Diệm, khu du lịch sinh thái hồ Đồng Chương, khu phòng tuyến Biện Sơn- Tam Điệp...
Vùng đất Ninh Bình thời xa xưa phần lớn là vùng ngập mặn thuộc huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ. Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, Ninh Bình có nhiều tên gọi khác nhau như: thế kỷ thứ X gọi là châu Trường Yên; thế kỷ XIII gọi là phủ Trường Yên; thế kỷ XVIII (thời Hậu Lê) gọi là Thanh Hoa ngoại trấn; dưới triều nhà Nguyễn, thế kỷ XIX năm Gia Long thứ năm (1806), gọi là đạo Thanh Bình; năm Minh Mệnh thứ mười (1829) gọi là trấn Ninh Bình; năm Minh Mệnh thứ mười hai (1831) gọi là tỉnh Ninh Bình.
Năm 1976, tỉnh Ninh Bình hợp nhất với tỉnh Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh;
Năm 1992, tỉnh Ninh Bình được tái lập. Hiện nay, tỉnh Ninh Bình có 6 huyện là Gia Viễn, Nho Quan, Kim Sơn, Hoa Lư, Yên Khánh, Yên Mô; 2 thị xã là Ninh Bình và Tam Điệp với tổng số 144 xã, phường, thị trấn.
Tỉnh Ninh Bình có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Nhân dân Ninh Bình sống chủ yếu bằng nghề sản xuất nông nghiệp, trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra nhiều người còn làm các nghề thủ công truyền thống như: thêu ren ở Hoa Lư, dệt chiếu và làm hàng cói mỹ nghệ ở Kim Sơn, Yên Khánh..., đan lát mây tre ở Gia Viễn, Nho Quan, sản xuất đồ đá mỹ nghệ ở Ninh Vân (Hoa Lư). Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhân dân Ninh Bình phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm và cần cù, sáng tạo, năng động trong lao động sản xuất xây dựng quê hương đất nước.
Vùng đất Ninh Bình đã sinh thành và cống hiến cho đất nước nhiều người con ưu tú trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, tiêu biểu là anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh, các nhà chính trị, quân sự, các danh nhân văn hoá như: Trương Hán Siêu, Ninh Tốn, Vũ Duy Thanh, Vũ Phạm Khải...Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm lập nên nhiều chiến công xuất sắc được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Làng Kim Bồng:
Là nơi sinh trưởng Vũ Duy Thanh đời Tự Đức, tư chất rất thông minh, sách chỉ đọc qua một lần là nhớ, lại có tài ứng đối mẫn tiệp, kiến thức uyên bác vô cùng. Khi làm giám khảo khóa thi, ông đã nhìn ra nhân tài văn võ của Ông Bích Khiêm mà chấm trúng tuyển, trong khi các quan khác đã đánh rớt. Khi làm quan chỉ nghĩ đến ích nước lợi dân, ông đã từng tự ý ra lệnh cho quan địa phương Quảng Bình phát gạo cho dân đang gặp nạn đói, rồi sau mới cho triều đình biết. Ông là người sáng chế tàu thủy chạy bằng hơi nước giống theo kiểu Tây phương để tăng cường phòng thủ bờ biển; cũng như yêu cầu triều đình khai thác tối đa loại "đá dễ đốt" (than đá) ở Quảng Yên (trong khi các quan triều đình cho là đá ma quỷ phải trừ). Tiếc thay, Tự Đức không xem những sáng kiến này là trọng. Sau quân Pháp chiếm cả miền Bắc, khai thác tối đa mỏ than đá ở Hòn Gay. Ninh Bình còn là quê Nguyễn Tử Mẫn, danh sĩ đời vua Thiệu Trị; ông có văn tài cao, khí tiết vững và sở trường về quốc văn.

Làng Phúc Am:
Là quê anh hùng Trương Hán Siêu, tính rất cương nghị, giỏi về chính trị, chuộng thơ văn, giữ chức Hàn Lâm Học Sĩ đời Trần. Ông là một trong những quan tham mưu của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, hết lòng chăm lo cho việc quốc gia và là tác giả bài Bạch Đằng Giang Phú, sách Tế Tháp Kỷ, Hoàng Triều Dại Điển (sách viết chung với Nguyễn Trung Ngạn).Cố Đô Hoa Lư: Kể bắt đầu từ năm 968 Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế ở Hoa Lư thì kinh đô Hoa Lư tồn tại 41 năm (968 - 1009) trong đó 12 năm là triều đình đại Đinh (Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt) và 29 năm kế tiếp là triều đại Lê (mà người đầu tiên là Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế hiệu là Lê Đại Hành). Vua Lê Đại Hành đã mở mang xây dựng cung điện làm cho kinh thành càng nguy nga tráng lệ. Đến năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Ngày nay du khách đến thăm Hoa Lư, trên nền cung điện năm xưa là hai ngôi đền cách nhau chừng 500 m (1,500 ft). Một đền thờ Đinh Tiên Hoàng và một đền thờ Lê Đại Hành đều nằm trên địa phận xã Trường Yên, huyện Hoa Lư. Cũng vì hai ngôi đền thờ hai vị Hoàng Đế rất gần nhau nên nhân dân quen gọi là đền Đinh - Lê.

Sông Vân và núi Dục Thúy:
Núi Dục Thúy nằm ngay trên sông Vân Sàng, như một khối ngọc nổi lên giữa tỉnh lỵ. Núi có chùa Non Nước nên còn gọi là núi Non Nước và có đền thờ anh hùng Trương Hán Siêu đời Trần. Sông Vân bao bọc ba mặt núi Dục Thúy, chỉ còn một mặt nối đất liền. Gần tỉnh lỵ có núi Hồi Hạc và núi Cánh Diều (còn gọi là núi Ngọc Mỹ Nhân), hợp với sông Vân thành một bức tranh sơn thủy thiên nhiên tuyệt đẹp.

Chùa Bích Động:
Chùa Bích Động thuộc địa phận thôn Đam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Đây là ngôi chùa nằm ở lưng chừng núi bán mái ra phía ngoài, một nửa ngôi chùa gắn vào hang động, một nửa lộ thiên.
Chùa còn được gọi là chùa Đông vì quay mặt ra hướng đông. Bích Động là một ngôi chùa cổ, dáng nét trang nghiêm mang đậm tính phương Đông. Núi, động và chùa đan quyện, hài hòa lại ẩn hiện giữa những cây đại thụ xanh biếc làm cho cảnh trí ở đây càng thêm thâm nghiêm, huyền hoặc.

Đền Vua Đinh - Nhà thờ đá Phát Diệm

Đền Vua Đinh:
Đền toạ lạc ở làng Trường Yên Thượng, xã Trường Yên huyện Hoa Lư trên khuôn viên rộng 5 ha. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17.

Đền vua Lê Đại Hành:
Cách đền vua Đinh chừng 50 m là đến đền thờ vua Lê Đại Hành. Điều đặc biệt ở đền thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm gỗ thế kỷ 17 đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Đền được xây dựng để tỏ lòng biết ơn của nhân dân đối với hai ông vua đã có công lớn trong việc xây dựng đất nước vào thế kỷ thứ 10.

Động Thiên Tôn:
Ở làng Đa Giá, có hai lớp, bên trong có đền thờ đức Trấn Vũ từ hơn nghìn năm nay và có giếng ngọc nước trong, sâu ba trượng. Bên trái là động Long Thủy, bên phải là động Tượng Sơn. Động bên ngoài thờ Nam Tào Bắc Đẩu và các vị Kim Cương Hộ Pháp. Trên vách động có nhũ đá muôn màu sặc sỡ. Trước đây, từ mùng 4 đến mùng 10 tháng Ba âm lịch hàng năm, làng mở hội tại vùng này.

Đền Thái Vy:
Thờ Trần Thái Tông, Hoàng hậu Thuận Thiên và Trần Thánh Tông là ông vua đã có công rất lớn đối với làng Văn Lâm.

Thập đạo tướng quân:
Cha mẹ qua đời sớm, Lê Hoàn được một vị quan nhỏ là Lê Đột nhận về nuôi. Lớn lên ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn và đã lập được nhiều chiến công, Đinh Bộ Lĩnh giao cho ông chỉ huy 2.000 binh sĩ. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên nhà Đinh. Lê Hoàn có công lao trong cuộc đánh dẹp và được giao chức vụ Thập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ - tức chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó ông mới 27 tuổi.
Tháng 10 năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính trong một tình thế đầy khó khăn. Các đại thần thân cận của Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc cùng tướng Phạm Hạp nổi dậy chống lại Lê Hoàn nhưng bị Lê Hoàn nhanh chóng đánh dẹp, ba người đều bị giết. Phò mã nhà Đinh là Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam, cùng vua Chăm Pa với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.
Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống bên Trung Quốc có ý định cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt. Vua Tống nhiều lần viết thư sang dụ và đe dọa triều Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng. Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng Phạm Cự Lạng và các triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi lấy niên hiệu là Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Lê Đại Hành cử Phạm Cự Lạng (Lượng), em của Phạm Hạp làm đại tướng quân. Đầu năm 981, vua nhà Tống phát quân sang đánh Đại Cồ Việt, cử các tướng Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Triệu Phụng Huân, Quách Quân Biện, Giả Thực, Vương Soạn cầm quân chia hai đường thủy bộ. Sau hai trận thắng lớn Bạch Đằng, Tây Kết, quân Lê giết được Hầu Nhân Bảo, bắt sống Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân, quân Tống rút lui về nước. Năm sau, Lê Đại Hành lại mang quân vào nam đánh Chiêm Thành vì trước đó vua nước này bắt giữ sứ giả của Đại Cồ Việt, đại phá được quân Chiêm Thành, giết chết vua Chiêm là Bà Mỹ Thuế.
Về các biến cố chính trị liên quan đến cái chết của Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn, có các nhà nghiên cứu, như Hoàng Đạo Thuý, đặt giả thiết không phải Đỗ Thích mà chính Lê Hoàn, cấu kết với Dương Vân Nga, đã ám sát Đinh Tiên Hoàng và con trưởng để chiếm ngôi .
Lê Đại Hành làm vua, ông cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng đất nước.
Về đối ngoại, sử dụng chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhưng cương quyết. Có lần sứ Tống sang đòi vua quỳ nhận sắc phong của vua Tống, Đại Hành lấy cớ bị đau chân nên không quỳ. Sứ Tống không làm gì được. Để tránh việc đón tiếp sứ giả phiền hà tốn kém, Lê Đại Hành còn đề nghị nước Tống từ lần sau hãy cử sứ giả đưa thư đến địa giới và báo tin, triều đình Hoa Lư sẽ sai người lên biên giới để nhận chiếu thư của vua Tống. Vua Tống cũng chấp thuận. Sứ Tống là Lý Giác rất khâm phục Lê Đại Hành, làm thơ tặng ông, trong đó có câu: "Ngoài trời còn có trời soi nữa", ý nói vua Lê không kém gì vua Tống.
Lê Đại Hành mất năm Ất Tỵ 1005, trị vì được 25 năm. Lê Đại Hành cùng Đại Thắng minh hoàng hậu (Dương Vân Nga) được thờ ở đền vua Lê tại huyện Hoa Lư, Ninh Bình.
Về tên "Đại Hành": theo Đại Việt Sử ký Toàn Thư, khi vua mới mất mà chưa được đặt thụy hiệu thì được gọi là "Đại Hành Hoàng đế". Có sách giải thích "đại hành" là đi xa hẳn không trở lại. Có sách giải thích "đại hành" là đức hạnh lớn (hành và hạnh viết cùng một chữ, âm cổ đọc như nhau). Do vua nối ngôi là Lê Ngọa Triều đã không đặt thụy hiệu nên "Đại Hành Hoàng đế" đã trở thành thụy hiệu của Lê Hoàn.

Cố đô Hoa Lư
Từ Hà Nội đi 100 cây số là đến cố đô Hoa Lư, kinh đô của nước Đại Cồ Việt cách đây hơn 10 thế kỷ. Đứng tren núi Mã Yên Sơn nơi có mộ vua Đinh, ta có thể thu cả kinh đô xưa vào tầm mắt. Cố đô xưa rộng 300 ha trải dài trên địa phận các thôn Chi Phong, Yên Thành, Yên Thượng thuộc xã Trường Yên huyện Hoa Lư. Kinh đô Hoa Lư xưa rộng khoảng 300 ha, gồm Thành Ngoại, Thành Nội và Thành Nam, được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ, khoảng trống giữa các sườn núi được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó, đắp cao từ 8 - 10 mét.

Tam Cốc
Nếu đã đến Ninh Bình, du khách đừng quên đi thuyền tham quan Tam Cốc - Bích Động, được xem là vịnh Hạ Long trên cạn hoặc ghé đầm Vân Long hoang sơ là khu bảo tồn thiên nhiên với nhiều động vật quý hiếm. Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động là một quần thể du lịch, một địa danh nổi tiếng từ xa xưa, thuộc địa phận xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; cách thủ đô Hà Nội 100 km về phía Nam. Nơi đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo, với nhiều hang động, di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái Vi, Tam Cốc, chùa Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc… Bích Động là một trong những danh thắng nổi tiếng nhất của Ninh Bình được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhị động" (động đẹp thứ nhì ở trời Nam), nằm trong dãy núi Ngũ Nhạc Sơn thuộc địa phận thôn Đam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Năm 1773, cụ Nguyễn Nghiễm (thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du) đã đến thăm động. Nhìn toàn cảnh núi, động, sông nước, đồng ruộng, bầu trời ở đây đều phủ một màu xanh nên cụ đã đặt cho động một cái tên rất đẹp và mộng mơ..
Tam Cốc có nghĩa là 3 hang: Hang Cả, Hang Hai và Hang Ba. Vào thăm Tam Cốc chỉ có một con đường thủy duy nhất dọc theo dòng sông Ngô Đồng, ra vào mất khoảng 3 tiếng đồng hồ. Từ bến đò Vân Lâm đến Hang Cả đi bằng thuyền khoảng 2km, du khách có thể ngắm nhìn cảnh trời mây non nước rất nồng nàn thi vị. Núi nối tiếp núi, cứ mỗi góc nhìn lại cho một dáng hình mới, thiên hình vạn trạng.

Chùa Bích Động
Chùa Bích Động nguyên có tên "Bạch Ngọc Thanh Sơn Đồng"- Mang ý nghĩa một ngôi chùa bằng đá rất đẹp và trong trắng như ngọc ở nơi sơn cùng thủy tận (Bạch ngọc thạch được ghép thành chữ Bích, còn sơn đồng ghép thành chữ Động- chùa Bích Động) là một công trình văn hóa-kiến trúc cổ kính, đường nét hoa văn chạm trổ rất tinh xảo.

Vườn quốc gia Cúc Phương
Cách thủ đô Hà Nội 120km về phía Nam, với tổng diện tích 22.000 ha, giáp giới 3 tỉnh: Ninh Bình, Thanh Hoá và Hoà Bình, Vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập ngày 7 tháng 7 năm 1962. Cúc Phương đa trở thành Vườn quốc gia đầu tiên và cũng là đơn vị bảo tồn thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam.
Không chỉ là một khu rừng cổ đa dạng về thực vật, Cúc Phương còn là nơi lưu giữ nhiều loài động vật quý hiếm. Một số động vật quý hiếm được ghi vào Sách đỏ mà thế giới không còn, chỉ có ở Cúc Phương như: cá diếc hang, sóc bụng đỏ...
Đến với Cúc Phương, du khách sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi khu bảo tồn này không chỉ là một vườn bách thảo, bách thú đồ sộ mà còn có các hang động kỳ thú với những tên gọi huyền thoại như: động Vui Xuân, động Trăng Khuyết, động Thanh Minh, động Chùa, động Thuỷ Tiên, động Phò Mã... Mỗi hang động là một "cung điện" lộng lẫy nguy nga với những nhũ đá đẹp mê hồn. Đặc biệt, năm 1966 các nhà khảo cổ học Việt Nam và thế giới đã tiến hành khai quật động Người Xưa và động Con Moong, tại các hang động này đã tìm thấy những ngôi mộ cổ với các bộ xương người hóa thạch còn khá nguyên vẹn, các công cụ đồ đá, cùng nhiều di vật khác cách ngày nay từ 7.000 đến 12.500 năm.

Nhà thờ đá Phát Diệm
Nhà thờ đá Phát Diệm cách Hà Nội 129 km về phía Nam, thuộc địa phận thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tọa lạc trên một diện tích khoảng 22 ha, khu thánh đường Phát Diệm này là sự kết hợp hài hoà về nghệ thuật kiến trúc Âu châu và Á Đông, mang phong cách kiến trúc độc đáo vừa lớn lao, vừa trọng điểm trải rộng trong không gian cùng với phong cảnh sơn thủy hữu tình, non nước xanh biếc ngoạn mục.
Đây là một quần thể nhà thờ kiểu Việt Nam, đậm màu sắc dân tộc, từ những chi tiết nhỏ trong điêu khắc đến kiến trúc tổng thể và trong từng nhà thờ. Bất kỳ chỗ nào trong điêu khắc đá và gỗ đều là những hình ảnh thân thuộc, gần gũi với con người Việt Nam và chỉ họ mới làm được điều kỳ diệu đó... Như thách thức với thời gian, hơn 100 năm qua Nhà thờ đá Phát Diệm vẫn còn nguyên vẹn và sẽ tồn tại mãi mãi.

Nam Định - Đền Cố Trạch

Nam Định

Nam Định xưa kia là quê hương gốc của các vua Trần, một triều đại oanh liệt đã 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược vào thế kỷ 13. Làng xuất phát tông tộc Trần hoàng gia này là làng Tức Mặc, cách trung tâm thành phố nam Định ngày nay 3km.
Nam Định cũng là quê hương của một số nhà thơ nổi tiếng như Trần tế Xương (Tú Xương), nhà thơ Nguyễn Bính…
Ngày xưa, nhà Trần cho xây dựng ở đây các cung điện làm nơi nghỉ ngơi cho các vua chúa và các hoàng thân tôn thất khi đã rút khỏi việc nước.

Làng Tức Mặc- Nguyên quán nhà Trần:
Làng quê Tức Mặc ở phía Bắc ngoại thành Nam Định, cách trung tâm thành phố 3km. Đây là quê hương của nhà Trần cũng là nơi đất thiêng sinh ra vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, người đã được thế giới công nhận là danh tướng tài giỏi nhất trên hoàn vũ vào thời Trung Đại.
Di tích này xưa kia rộng hàng chục ha, từ đền Thiên Trường, Cổ Trạch (thờ các vua Trần và đức Hưng Đạo Vương) đến chùa Phổ Minh.
Theo sách sử đã ghi lại vào năm 1239, nhà vua đã cho xây dựng hành cung ở làng quê mình để lúc thư nhàn về thăm. Đến năm 1262, Thượng Hoàng đến chơi hành cung ở Tức Mặc, ban yến tiệc cho dân và thăng làng Tức Mặc lên là Phủ Thiên Trường, dựng cung Trần Quang để cho các vua đã nhường ngôi (lên làm Thái Thượng Hoàng) về ở.
Phía Tây Cung đình là chùa Phổ Minh, lại được dựng một cung riêng cho các vua đương triều mỗi khi về thăm Thái Thượng Hoàng tới nghỉ tại đó.
Bảy thế kỷ trôi qua thì các cung điện này không còn nữa, nay chỉ còn đền Thiên Trường thờ 14 vị vua Nhà Trần, Đền Cổ Trạch thờ đức Trần Hưng Đạo và chùa Phổ Minh với tháp Phổ Minh nổi tiếng từ bao đời nay.

Khu di tích Phủ Giày
Khu di tích này thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, nơi thờ bà chúa Liễu Hạnh, một trong tứ bất tử của Việt Nam (Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Chữ Đồng Tử, và bà Chúa Liễu Hạnh)
Phủ Giày là một quần thể di tích gồm 3 di tích chính: phủ Tiên Hương (phủ Chính), phủ Vân Cát và Lăng bà Chúa Liễu Hạnh.

Sự tích và những chuyện liên quan Liễu Hạnh Thánh Mẫu:
a) Đời thường:
- Sinh năm 1557 tại thôn Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
- Con của ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc.
- Năm 18 tuổi, nàng lấy chồng là Đào Lang ở thôn Tiên Hương, cùng xã.
- Năm 21 tuổi, nàng sinh được một đứa con gái. Ngày 3 tháng 3 năm 1577, nàng mất.
b) Huyền thoại:
- Là tiên nữ, do làm bể chén ngọc, bị Ngọc Hoàng đày xuống trần, làm con Lê Thái Công, tên là Giáng Tiên.
- 21 tuổi, mãn hạn bị đày, trở về trời, nhớ chồng con, nàng được Ngọc Hoàng ban chức Liễu Hạnh Tiên Chúa, rồi cho giáng trần để làm tròn nhiệm vụ người vợ, người mẹ.
- Sau đó, vân du đó đây.
Có một câu chuyện kể liên quan đến sự linh thiêng của bà chúa Liễu Hạnh: bà Phùng Ngọc Đài ở xã Bảo Ngũ, huyện Vụ Bản, lận đận đường tơ duyên, đến cầu xin Liễu Hạnh Thánh Mẫu giúp đổi đời. 1625, nàng được tiến cung và trở thành cung phi sủng ái nhất của Chúa Trịnh Tráng. Nàng trùng tu 2 đền ở Kim Thái to đẹp như cung điện trong phủ Chúa. Do đó, nhân dân gọi 2 đền là Phủ Tiên Hương và Phủ Vân Cát từ đó.
Về sau, có lần vua Lê đến 2 Phủ chiêm bái. Liễu Hạnh nhập đồng tặng vua đôi giày. Từ đó có tên Phủ Giày.
Năm 1938, Nam Phương Hoàng Hậu và vua Bảo Đại trùng tu lăng Liễu Hạnh Thánh Mẫu để đền ơn Bà cho sinh thái tử Bảo Long.

Chùa Phổ Minh
Chùa thường gọi là Chùa Bút Tháp, tọa lạc ở thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, ngoại thành Nam Định, tỉnh Nam Định. Chùa cách trung tâm Tp Nam Định khoảng 5km về phía Tây.
Chùa được vua Trần Thánh Tông cho xây dựng vào năm 1262 ở phía Tây cung Trùng Quang phủ Thiên Trường. Các bản văn khắc trên bia cho biết chùa có từ thời Lý, được mở rộng với quy mô lớn vào thời Trần.
Cụm kiến trúc chính của chùa bao gồm 9 gian. Qua sân hẹp, dãy ngang 11 gian kết hợp với hành lang mỗi bên 11 gian tạo thành quần thể “nội công ngoại quốc”.
Chùa Phổ Minh mở đầu kiến trúc Phật giáo thời Trần. Các công trình kiến trúc và chạm khắc ở đây còn giữ được dấu ấn của thời Trần, thời Mạc như: bộ cánh cửa bằng gỗ Lim (mỗi tấm cao 1,92m, rộng 0,79m) ở nhà bái đường, Tháp Phổ Minh, đôi sấu ở Tam Quan, rồng ở thành bậc tiền đường, tháp và tượng bà Chúa Mạc,.. Chùa vốn có một Vạc lớn bằng Đồng được xếp vào “An Nam tứ Đại khí” (Vạc Phổ Minh, Chuông Quy Điền, Tháp Báo Thiên, Tượng Quỳnh Lâm)), nay không còn nữa.

Chùa Keo
Chùa này còn có tên chữ là “Thần Quang Tự” thuộc làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường.
Chùa do thiền sư Không Lộ dựng năm 1061, đến năm 1167 đời vua Lý Anh Tông đổi tên chữ thành Thần Quang Tự. Chùa còn giữ được nhiều mảng chạm khắc mang đậm phong cách thời hậu Lê và nhiều cổ vật, cổ thư có giá trị như sập thờ, tượng đại pháp Thiền sư Không Lộ bằng đồng; chuông, khánh đồng; bia kí; hoành phi câu đối và các sắc phong của nhiều triều đại.

Đền Cố Trạch
"Mùa Xuân có lễ Khai ấn, mùa Thu có lễ hội Trần". Người quê Nam Định dù đi đâu về đâu vẫn nhớ về những lễ hội truyền thống trên vùng đất tổ của các vua nhà Trần với các di tích văn hóa lịch sử như chùa Phổ Minh, đền Trần và đền Cố Trạch.
Đền Cố Trạch nằm cách quốc lộ 10 khoảng 300m, thuộc địa phận xã Lộc Vượng, ngoại thành Nam Định, thờ Đức thánh Trần: Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Ông cùng với vua Quang Trung, đại tướng Võ Nguyên Giáp được thế giới công nhận là danh tướng. Ngôi đền này nằm sát với đền Trần thờ các vua nhà Trần, cùng chung hàng cây lưu niên, hàng tường bao, cửa vào, sân gạch, hồ sen với 6 con rồng đá trườn xuống nước như sắp vẫy vùng. Được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX, đến năm 1962, nó được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp nhà nước.
Cố Trạch có nghĩa là "nhà cũ". Tục truyền vào giữa thế kỷ XIX, nhân dân đào được trên đất đền hiện nay một phần bia ghi rõ là đất ở nhà cũ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Hè qua thu tới, về với mảnh đất Thiên Trường, dự lễ hội Trần, du khách sẽ có dịp bước vào thế giới lịch sử, được sống lại với hào khí Đông A trong 3 lần chiến thắng giặc Nguyên Mông của dân tộc.

Thành Cổ Nam Định - Đảo Cát Bà

Thành Cổ Nam Định
Đến thời Lê, thành phố Nam Định xưa chỉ còn là quân doanh Vị Hoàng quan trọng. Trụ sở hành chính của Sơn Nam thừa tuyên đã chuyển vào Vân Sàng (Ninh Bình) để ở gần Thanh Hóa bảo vệ quê hương nhà Lê.
Nhà Tây Sơn đổi thừa tuyên Sơn Nam là trấn nhưng vẫn giữ trụ sở hành chính ở Vân Sàng. Đến đời Nguyễn, Gia Long đổi tên như cũ nhưng đổi trụ sở về Vị Hoàng vì theo Gia Long, Vị Hoàng án ngữ con đường Thiên lý từ Nam ra Bắc về thủy cũng như bộ, trấn giữ hai cửa sông Hồng, sông Đáy, bao quát một vùng châu thổ rộng lớn có tầm quan trọng hơn Vân Sàng. Ngay từ thời Trần, quan cai trị là An phủ sứ chỉ thấp hơn Đại an phủ sứ ở kinh đô Thăng Long. Với 280 năm là thủ phủ của lộ, trấn, Vị Hoàng là trung tâm miền nam đồng bằng sông Hồng, dân đông, đất đai màu mỡ, nhân dân giàu có, sản vật dồi dào có truyền thống văn hóa và đấu tranh.
Chỉ đứng sau Hà Nội - mà Hà Nội đã được xây thành - Nam Định có vị trí chính trị, quân sự, kinh tế văn hóa lớn cũng phải xây thành. Hơn nữa, theo chủ trương của Gia Long, từ Gia Định trở ra nơi nào đã là trụ sở hành chính của tỉnh là phải xây thành. “Nam Định địa dư chí” của Ngô Giáp Đậu và “Nam Định địa dư chí” của Khiếu Năng Tĩnh đều ghi: “Thành - tỉnh đặt trên địa hạt làng Vị Xuyên và làng Năng Tĩnh huyện Mĩ Lộc”.


Thái Bình
Có thể nói Thái Bình chính là vựa lúa của miền Bắc. Nơi đây cũng từng là quê hương của nạn đói năm 1945 với 240.000 người chết. Thái Bình cũng tự hào là quê hương của Phạm Tuân- người Việt Nam đầu tiên bay vào vũ trụ, quê hương của vị tướng 2 vợ vũ Ngọc Nhạ, và cũng là quê hương của người phụ nữ anh hùng với biệt danh “ Chị Hai Năm Tấn”.
Với diện tích 1.512,9 km2, tỉnh Thái Bình có nhiều ruộng lúa ở đồng bằng sông Hồng, và là vựa lúa của cả đồng bằng Bắc Bộ. Còn là tỉnh có nền văn hóa rất đặc trưng của người Việt Cổ. Có nhiều loại hình nghệ thuật tiêu biểu truyền thống và là cái nôi của 2 loại hình nghệ thuật dân gian: múa rối nước và Chèo.
Ngoài ra, Thái Bình còn có hát trống cơm và hát chầu văn.
Nghệ thuật Thái bình sử dụng điêu luyện các nhạc cụ: kèn, sáo, nhị,…
Đồng thời tại đây còn có rất nhiều di tích lịch sử, nhiều làng nghề thủ công truyền thống như dệt chiếu, dệt đũi, thêu ren, chạm bạc,… có làng vườn với trái cây quanh năm.

Hải Phòng

Là thành phố cảng biển quan trọng thứ 3 sau Hà Nội, Tp HCM, được xây dựng vào cuối thế kỷ 19, bên bờ sông Cấm. Là thành phố nằm bên bờ Vịnh Bắc Bộ và cách thủ đô Hà Nội 103 km.
TP Hải phòng có diện tích 1.503km2, dân số 1.692.600 người gồm có TP Hải phòng, thị xã Đồ sơn và 8 huyện. Dân tộc gồm có người Kinh, Hoa.
Bên cạnh đó, Hải Phòng còn là thành phố Công nghiệp, có truyền thống về công nghiệp đóng tàu biển và các ngành công nghiệp cơ khí, thủy tinh, xi măng, chế biến hải sản và làm hàng thủ công mỹ nghệ.
Đặc Sản: các loại hải sản đông lạnh, rau quả xuất khẩu, đá cẩm thạch, và kể cả thuốc lào Tiên Lãng.
Hải Phòng có nhiều điểm du lịch nổi tiếng như Đồ Sơn, đảo Cát Bà.
Qua các di chỉ khảo cổ Cát Bà, chứng tỏ vùng đất này đã có người sinh sống cách nay 6000 năm. Trải qua một thời gian dài, vùng đất này ngày càng phát triển, văn hóa phát triển cao, đời sống tinh thần được mở rộng.
Hải Phòng có nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều đền chùa, đền miếu, do đó cũng có nhiều lễ hội đặc trưng trên từng địa phương làng xã. Chẳng hạn như lễ hội Chọi trâu là một đặc trưng của Đồ Sơn nói riêng và của Hải Phòng nói chung. Lễ hội xuống biển, hội du xuân ở Thủy Nguyên, múa rối cạn và múa rối nước… cũng là những sinh hoạt văn hóa dân gian tiêu biểu, hấp dẫn.
Khu du lịch Đồ Sơn trở thành khu nghỉ dưỡng và giải trí có tính cách quốc tế, thu hút được rất nhiều khách du lịch nước ngoài kể cả trong nước.
Hải phòng có cả Tàu Cao Tốc đưa khách từ Đồ Sơn ra thăm viếng đảo và rừng nguyên sinh (Rừng quốc gia) Cát Bà, tới vịnh Bái Tử Long, và Vịnh Hạ Long. Quần đảo đá vôi Cát Bà nằm cận kề bên Vịnh Hạ Long với hàng trăm núi non, đảo lớn nhỏ nhô lên giữa biển cả .

Chùa Dư Hàng.
Ngôi chùa này còn được gọi là Phúc Lâm tự, tọa lạc tại phường Hồ Nam. Quận Lê Chân, cách trung tâm thành phố Cảng Hải Phòng khoảng chừng 2km.
Theo truyền thuyết, chùa Dư Hàng có từ thời Tiền Lê, vào khoảng năm từ 980 đến 1009, nhà vua rất mộ đạo phật, vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Điền Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) đã từng đến chùa này để giảng đạo lý.
Cho đến nay chùa đã được trùng tu nhiều lần kể từ thời nhà Nguyễn đến nay.
Trong chùa có nhiều pho tượng lớn và đẹp, có nhiều câu đối trạm khắc công phu theo phong cách nghệ thuật triều Nguyễn. Ngoài ra, trong chùa cũng có nhiều di vật quý như Đỉnh Đồng, khánh Đồng, đặc biệt là bộ sách kinh Tràng A Hàm là tài liệu cổ về giáo lý đạo phật.
Chùa này hiện nay là một di tích cổ kính, một danh lam của thành phố Hải Phòng, xưa nay đã được xếp hạng là di tích lịch sử.

Đảo Cát Bà
La tên một hòn đảo lớn nhất và đẹp nhất trên tất cả các hòn đảo trên biển Đông, nằm trên vùng biển phía Bắc, Đông bắc nước ta.
Tuy nhiên tên Cát Bà còn được gọi cho cả một quần đảo bao gồm tới 366 đảo lớn nhỏ. Trong đó đảo chính Cát Bà rộng khoảng 100 km2, cách cảng Hải Phòng 70 km, tiếp nối với Vịnh Hạ long đã tạo nên một quần thể đảo và hang động trên biển hấp dẫn bất cứ khách du lịch nào khi đặt chân đến.
Ở độ cao 200m so với mặt nước biển, đảo Cát Bà có cảnh quan vừa kì vĩ vừa ngoạn mục, nên thơ và cũng được coi là đảo giàu đẹp.
Trên đảo là một vùng rừng, vườn pha trộn lẫn nhau với những bãi cát trắng mịn, phẳng lì và trải dài.
Các núi đá vôi cao ở phía đông Nam sừng sững như những tấm bình phong khổng lồ, đây chính là những vách đảo ngăn chặn gió lạnh phương bắc, giúp cho vùng biển luôn yên ả và các thuyền trú ngụ an toàn.
Vùng trung tâm đảo như một bàn cờ với núi non trùng điệp, dãy dọc dãy ngang đan xen nhau. Ở những thung lũng, các làng xã như cách biệt nhau, nhưng rất trù phú.
Trên đảo còn có nhiều hang động. Đặc biệt là động đá Cẩm Thạch, những hang luồng khá đẹp như các hang Tam Cốc, Bích Động của Ninh Bình.

Cầu Bính
Cầu Bính là cây cầu dây văng đẹp và hiện đại khánh thành ngày 13 tháng 5 năm 2005. Cầu có chiều dài 1280 m, rộng 22,5 m, cho bốn làn xe cơ giới và hai làn xe thô sơ, chiều cao thông thuyền 25 m cho phép tàu 3.000 tấn qua lại, kết cấu dầm thép bê-tông liên hợp, liên tục 17 nhịp, hai tháp cầu bằng bê-tông cốt thép có chiều cao tới 101,6 m. Cầu được thiết kế theo đường cong để tạo dáng kiến trúc và thẩm mỹ, đường dẫn hai đầu cầu là đường cấp 1 đô thị.
Dự án cầu Bính là dự án đầu tiên được tài trợ từ khoản vay đặc biệt bằng đồng Yên của Chính phủ Nhật Bản với tổng mức đầu tư 943 tỷ đồng (tương đương theo tỷ giá tại thời điểm phê duyệt); trong đó, hơn tám tỷ Yên thông qua Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) và 141,5 tỷ đồng vốn đối ứng trong nước.

Đình Kim Sơn - di tích cách mạng
Kim Sơn, một làng quê thuộc xã Tân Trào, huyện Kiến Thụy là địa phương sớm có phong trào cách mạng. Năm 1944, phong trào Việt Minh ở nơi đây phát triển mạnh. Những cuộc biểu tình thị uy của nhân dân Kim Sơn khiến ngụy quyền trong vùng đất hoang mang, dao động. Chớp thời cơ đó, lực lượng cách mạng trong khu vực phủ Kiến Thụy và một số nơi khác đã phát động nhân dân địa phương đấu tranh xóa bỏ bộ máy ngụy quyền, thiết lập chính quyền cách mạng trước ngày Tổng khởi nghĩa, tiêu biểu là ở Kim Sơn. Tại đây ngày 12/7/1945, Việt Minh tổ chức mít tinh, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng. Đây là tổ chức chính quyền cách mạng đầu tiên của tỉnh Kiến An và vùng Duyên Hải Bắc Bộ.
Lễ ra mắt Ủy ban dân tộc giải phóng tại đình Kim Sơn ngày 12/7/1945 được đông đảo nhân dân hưởng ứng.
Chiều ngày 12/7/1945, Ủy ban cách mạng Kim Sơn cùng các lực lượng tự vệ đến trường học xã Cổ Trai trấn áp cuộc họp của nhóm Thanh niên Đại Việt. Viên tri phủ và bọn phản ánh cách mạng phải đầu hàng và xin tha lỗi. Lá cờ Quỷ Ly của chính quyền thân Nhật bị hạ xuống. Cuộc họp chủ chúng đã trở thành diễn đàn tuyên truyền cách mạng, vạch mặt bọn bán nước. Chính quyền cách mạng Kim Sơn ra đời làm cho giặc Nhật lo ngại một cuộc bùng nổ dây chuyền không thể ngăn được. Do vậy, giặc Nhật ráo riết chuẩn bị đàn áp phong trào cách mạng ở Kim Sơn. Nhận định giặc Nhật sẽ tìm cách khủng bố Kim Sơn, các đồng chí lãnh đạo tổ chức tự vệ và nhân dân tích cực rào làng, luyện tập chiến đấu, tăng cường canh góc, phòng gian, củng cố căn cứ, đề cao tinh thần cảnh giác.
Tại phía Bắc làng lập một công sự lớn. Lực lượng tự vệ chuẩn bị vũ khí thô sơ như gạch đá, nước điếu thuốc lào đóng chai, lọ, búa đanh, giáo mác, gậy, mã tấu, súng kíp, lao tre vót nhọn, bẫy tro trộn bột ớt... tất cả những gì dùng cho tự vệ chiến đấu đều được sử dụng. Các hướng vào làng đều bố trí sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt địch.

Sáu giờ sáng ngày 4/8/1945, giặc Nhật gồm 50 tên lính bảo an, do 2 tên sĩ quan Nhật chỉ huy đi 2 xe Ca-mi-nhông từ Kiến An đến Kim Sơn. Phát hiện địch đến đình Ngọc, tiếng trống nổi lên cùng với tiếng chuông chùa, chuông nhà thờ ngân vang dõng dạc, tiếng thanh la, mõ, tù và rúc liên hồi, rộn rã khắp làng, thúc giục ý chí chiến đấu của mọi người và đó cũng là hiệu báo cho các lực lượng tự vệ các nơi về ứng cứu. Các lực lượng tự vệ trong vùng như Đoan Xá, Lão Phong, Kính Trực, Sâm Linh, Cốc Liễn và từ Vinh Quang (Tiên Lãng) cũng hăng hái tiến về Kim Sơn góp sức chiến đấu chống phát xít Nhật, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Bằng ý chí kiên cường bất khuất, quân dân Kim Sơn đã chiến đấu quả cảm, suốt 5 giờ liền, buộc giặc phải rút lui. Sau cuộc chống càn vang dội ấy, nhân dân và tự vệ Kim Sơn lại nhanh chóng kéo về giành chính quyền ở phủ lị Kiến Thụy và ở tỉnh lị Kiến An, cùng cả nước làm cuộc cách mạng Tháng Tám vĩ đại.
Đình Kim Sơn được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia năm 1986.
Di tích lịch sử, thắng cảnh núi Voi - núi Xuân Sơn - núi Đo
Núi Voi - Xuân Sơn là một quần thể núi đá, núi đất khá cao, xen kẽ lẫn nhau, nhấp nhô, uốn khúc qua địa phận của 3 xã Trường Thành, An Tiến và An Thắng của huyen An Lão, thành phố Hải Phòng.
Cảnh sắc thiên nhiên và những giá trị lịch sử - văn hóa của Núi Voi - Xuân Sơn là niềm tự hào của người Hải Phòng, đã đi vào ca dao:

"Kiến An có núi ông Voi
Có sông Văn Úc, có đồi Thiên Văn"

Núi Voi - Xuân Sơn, một trong các địa điểm được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử, thắng cảnh sớm nhất của thành phố Hải Phòng (28/4/1962).
Từ những thập kỷ 30 của thế kỷ XX, những nhà khảo cổ Pháp đã khám phá và khẳng định: khu vực núi Voi - Xuân Sơn là một di tích khảo cổ học. Nơi đây là một cái nôi của những người tiền sử và sơ sử. Những công cụ lao động của người cổ hiện nay được trưng bày tại Bảo tàng Núi Voi như: rìu đá, bôn đá, quả cân đá, bàn mài đá... Những vũ khí bằng đồng: giáo đồng, dao găm đồng... đã minh chứng cho một thời kỳ phát triển của văn hóa Đông Sơn ở núi Voi - Xuân Sơn.
Thế kỷ thứ XVI, vương triều Mạc đã từng đóng binh, thiết lập và xây dựng căn cứ tiền tiêu lớn ở đây để bảo vệ vùng cửa ngõ Dương Kinh (Dương Kinh - Ngũ Đoan, quê hương nhà Mạc). Nhà Mạc đã cho xây cung điện, thành quách, đào sông, khơi lạch, tu tạo chùa chiền ở khu vực núi Voi. Tiếc rằng, những công trình này nay không còn nữa, chỉ lưu vết lại qua dấu tích tên một số địa danh như hang Chạn (bếp ăn), đấu đong quân, kênh nhà Mạc, cung công chúa...
Với vị trí hiểm yếu, thuận về tấn công, phòng thủ và lưu binh bảo toàn lực lượng, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, núi Voi trở thành căn cứ khởi nghĩa chống Pháp do Lãnh Tư, Cử Bình chỉ huy. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp do Đảng lãnh đạo, núi Voi là cơ sở hoạt động của cơ quan đầu não Tỉnh ủy Kiến An, Huyện ủy An Lão và lực lượng vũ trang cách mạng, du kích địa phương. Trong thời kỳ kháng chiến chống đến quốc Mỹ, núi Voi là một trận địa phòng không quan trọng bảo vệ cửa ngõ Tây Bắc Hải Phòng. Trung đội nữ du kích núi Voi đã bắn rơi máy bay Mỹ, thành tích đó đã được Bác Hồ gửi thư khen và tặng huy hiệu của Người. Cũng tại đây, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ hai (tháng 4/1968) đã thông qua nghị quyết động viện nhân dân Thành phố Cảng quyết tâm đánh bại mọi âm mưu và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của địch. Khu di tích - danh thắng núi Voi còn ghi dấu nhiều địa chỉ đỏ, mãi mãi là niềm tự hào của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố như hang Thành ủy, hang Huyện ủy, hang ông Vin, trận địa súng phòng không... và truyền thống "du kích Núi Voi".
Khu quần thể di tích, thắng cảnh núi Voi còn nổi tiếng với các công trình kiến trúc văn hóa cổ từ lâu đã trở thành câu ca trong dân gian:

"Chù Long Hoa bốn mùa thanh tịnh
Đình Chi Lai trung chính sườn non"

Tương truyền, chùa Long Hoa xây dựng từ thời nhà Lý (thế kỷ 11). Do chiến tranh phá hủy, ngày nay chùa không còn nữa. Song tên tuổi và vẻ đẹp u tịnh, cổ kính của nó vẫn lắng đọng và được truyền lại từ đời này qua đời khác.
Đình Chi Lai hiện tại là công trình kiến trúc gỗ cổ không rõ năm xây dựng. Đình thờ Cao Sơn Đại Vương, một bộ tướng tâm phúc của Hùng Duệ Vương (Vua Hùng thứ 18). Bên cạnh đình Chi Lai, có ngôi chùa Chi Lai (tên chữ là Linh Sơn tự). Phần thượng điện của chùa có kết cấu kiến trúc khung gỗ làm vào thế kỷ 19. Phần tiền đường chùa mới được phục dựng.
Hàng năm vào trung tuần tháng Giêng, lễ hội truyền thống núi Voi mở trong 3 ngày (15, 16, 17). Khách đến lễ hội rất đông vui. Trong lễ hội, nhiều hoạt động văn hóa, thể thao được tổ chức, thỏa mãn một phần nhu cầu của khách thập phương.

Đền Nghè
Nằm ở trung tâm thành phố Hải Phòng thuộc phường Mê Linh (nay là phường An Biên, quận Lê Chân), đền Nghè là di tích lịch sử văn hóa thờ nữ tướng Lê Chân. Bà quê ở làng An Biên (thuộc Đông Triều, Quảng Ninh) đã đến vùng đất nơi ngã ba sông Tam Bạc đổ vào sông Cấm, lập ấp Vẻn, sau đổi là An Biên Trang, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40 - 43) chống quân Đông Hán xâm lược. Bà là một nữ tướng tài ba, anh dũng, lập nhiều chiến công vang dội trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, được Trưng Vương phong chức "Chương quản binh quyền nội bộ", giao trọng trách trấn giữ miền Hải Tần. Để tưởng nhớ công lao của nữ tướng, người lập ra làng An Biên xưa và đặt nền móng cho thành phố Hải Phòng ngày nay, nhân dân đã lập lên tòa miếu An Biên thờ Bà. Buổi đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ lợp tranh, đến năm 1919, được xây dựng khang trang. Đền Nghè hiện nay là một công trình mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn, đầu thế kỷ XX bao gồm: tam quan, tòa bái đường, thiêu hương, hậu cung, giải vũ, nhà bia, nơi đặt tượng voi đá, ngựa đá. Sau lại làm thêm tòa tứ phủ.

Đình Hàng Kênh (Nhân Thọ Đình)
Đình Hàng Kênh (tên chữ là Nhân Thọ đình), nằm trên đường Nguyễn Công Trứ phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Theo bia ký còn lưu giữa tại di tích, đình Hàng Kênh ngày nay khởi dựng vào năm 1719, đời vua Lê Dụ Tông và được trùng tạo từ năm 1841 đến 1850.
Đình Hàng Kênh không chỉ có giá trị lớn về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc mà còn bảo lưu được kiểu thức ván sàn lòng thuyền hiếm có, đưa đình Hàng Kênh trở thành một di sản văn hóa đặc sắc trong các ngôi đình Việt Nam.
Tại đây còn có thờ Ngô Quyền. Tượng Ngô Quyền ngồi trên ngai rồng trong tư thế thiết triều, phía trước có một chiếc thuyền nhỏ, một khúc gỗ tượng trưng cho hàng cọc cắm trên sông Bạch Đằng.
Đình Hàng Kênh là di tích đặc biệt, tiêu biểu của Thành phố Hải Phòng, được Nhà nước xếp hạng năm 1962.

Sông Bạch Đằng :
Cách trung tâm TP Hải phòng 20km về phía Đông Bắc, Bạch Đằng là con sông nổi tiếng với những chiến công vang dội. Dòng sông Bạch Đằng đời đời còn ghi chiến tích của những anh hùng dân tộc chống giặc ngoại xâm. Đó là: Ngô Quyền với trận địa cọc gỗ đánh tan quân Nam Hán; Lê Hoàn; Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và các danh tướng nhà Trần. Sau này nhân dân tổ chức lễ hội kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng vào ngày 8 - 4 (âm lịch) có năm kéo dài tới 4 đêm.
Hàng năm trên dòng sông lịch sử này thường có hội thi bơi truyền thống vượt sông Bạch Đằng.

Chợ Sắt
Là chợ lớn nhất của TP Hải phòng. Trước đây là chợ An Biên. Năm 1888 khi TP Hải Phòng được thành lập chợ được xây dựng với những gian nhà lớn, vật liệu chủ yếu là sắt thép nên được gọi là chợ Sắt.

Quảng Ninh
Quảng Ninh với vịnh Hạ Long, di sản thiên nhiên thế giới, với hàng trăm di tích lịch sử, văn hóa, thiên nhiên khác là một trung tâm du lịch lớn của Việt Nam. Đến đây du khách có thể thăm các kỳ quan thiên tạo cũng như tìm hiểu các truyền thống văn hóa đặc sắc của địa phương.

Lịch sử hình thành
Thời lập quốc, Quảng Ninh thuộc bộ Ninh Hải, một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang. Dưới nhà Tần, đất Quảng Ninh thuộc Liêm Châu, đời nhà Hán thuộc Giao Chỉ, đời Đường thuộc Lục Châu rồi Ngọc Sơn. Về sau triều đình ta đổi thành châu Chao Lương. Tới năm 1023, đời Lý Thái Tổ đổi thành châu Vĩnh An; năm 1149, đời Lý Thái Tông cải thành trang Vân Đồn; năm 1242 đời Trần Thái Tông đổi là lộ Hải Đông; năm 1343, đời Trần Dụ Tông đổi thành trấn Vân Đồn. Dưới thời Minh thuộc, Quảng Ninh có tên là An Châu, thuộc phủ Tây An. Sau chiến thắng quân Minh, nhà Lê đổi tên An Châu thành An Bang. Năm 1578 đổi thành An Quảng gồm thêm phủ Kinh Môn. Năm 1802 có tên là châu Quảng Yên, Năm 1822 thành phủ Quảng Yên. Năm 1835 triều đình bổ nhậm các quan chức chỉ huy các tộc trưởng người Thái. Tỉnh Quảng Yên được chính thức thành lập vào năm 1893.
Về mặt lịch sử, Quảng Ninh là vùng đất linh thiêng đã chôn vùi biết bao mơ ước xâm lược của nhà Nam Hán, Tống, Nguyên. Năm 938, Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán tại sông Bạch Đằng. Dân chúng Quảng Ninh lấy gỗ cặp sắt nhọn cắm ngầm dưới lòng sông. Thái tử Nam Hán là Hoằng Tháo đem binh tới, với vẻ kiêu ngạo, nhưng lúc thủy triều xuống thuyền chúng mắc vào cạn, chết quá nửa. Đuổi hết giặc, anh hùng Ngô Quyền khai mở một kỷ nguyên tự chủ lâu dài cho Tổ Quốc. Tháng ba năm Tân Tị (981). Đại quân nhà Tống sang đánh nước ta. Anh hùng Lê Hoàn (Vua Lê Đại Hành) đem quân ra chống giữ trên sông Bạch Đằng, phối hợp với bộ binh Lạng Sơn, đánh tan quân Tống. Quân giặc Nguyên cũng bị đại bại trên đất Quảng Yên khi Thoát Hoan sang đánh nước ta lần hai (1284). Sau trận Vân Đồn anh hùng Trần Khánh Dư chận đánh thuyền chở lương của Trương Văn Hổ tại cửa bể Lục Thủy Dương (phía đông nam huyện Hoành Bồ tức cửa Lục bây giờ), tịch thu hết lương thực và khí giới của giặc. Tháng ba năm Mậu Tí (1288), dưới sự lãnh đạo của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, dân chúng Quảng Ninh lại dùng cọc nhọn đóng giữa dòng sông, đánh theo thủy triều làm binh thuyền quân Nguyên đắm rất nhiều, máu loang làm đỏ cả khúc sông. Các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ đều bị bắt.
Khi quân Pháp tiến chiếm các tỉnh miền Bắc, đồng bào Quảng Ninh lập khu kháng chiến ở trại Sơn, đây là vùng miền núi hiểm trở quanh vùng sông Con, sông Kinh Thày và sông Hàn. Năm 1884, dân ta đánh tiêu hao gần một tiểu đoàn quân Pháp, Năm 1888, 1889, nghĩa quân của anh hùng Nguyễn Thiện Thuật mở rộng hoạt động tại Quảng Ninh, Hải Ninh, đánh phá khắp vùng Uông Bí, cù lao Hai Sông... làm quân Pháp bị thiệt hại nặng.
Quảng Ninh là tỉnh có vị trí quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, được xem như một phần quan trọng của tam giác tăng trưởng kinh tế ở phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), hướng phát triển đã được Chính Phủ xác định: “hình thành các trung tâm lớn có ý nghĩa tạo vùng và giao lưu quốc tế để hỗ trợ cho các tỉnh nam vùng đồng bằng sông Hồng, hình thành các trung tâm công nghiệp lớn, phát triển các ngành công nghệ cao thuộc các lĩnh vực điện tử tin học, sản xuất vật liệu mới, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm, phát triển kinh tế cảng biển và đi đầu trong hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài”.
Các ngành công nghiệp than, cơ khí đóng tàu, vật liệu xây dựng đều phát triển mạnh. Trên địa bàn tỉnh nhiều dự án công nghiệp có quy mô hiện đại đã và đang được triển khai như xi măng, điện, vật liệu xây dựng, sản xuất gốm sứ…

Các ngành nghề truyền thống:

Nghề đánh bắt hải sản
Đánh bắt hải sản ở Quảng Ninh là một nghề truyền thống, có lịch sử lâu đời, đến nay vẫn còn tồn tại nhiều cách thức đánh bắt thủ công cổ truyền, không những có ý nghĩa về mặt kinh tế xã hội mà còn có ý nghĩa rất lớn về mặt văn hoá và du lịch. Kết quả khai quật ở nhiều di chỉ khảo cổ học ở vùng ven biển Hạ Long cho thấy nghề đánh bắt hải sản xuất hiện rất sớm, cách đây bốn, năm ngàn năm đến sáu, bảy ngàn năm. Đó là các hòn chì lưới bằng đất nung, các mũi nhọn, kim khâu bằng xương để đan lưới tìm thấy ở các di chỉ Soi Nhụ, Thoi Giếng, Ngọc Vừng, Hoàng Tân... hiện được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Quảng Ninh.
Hiện tại người dân vùng biển Quảng Ninh còn duy trì nghề đánh bắt hải sản bằng thủ công khá phổ biến. Đó là các nghề câu mực, câu cá song, câu cáy, nghề chã, nghề chài, nghề đào sá sùng, nghề cào ngán, cào thiếp, nghề bổ hà, nghề đánh cá đèn ...

Nghề câu cá mực:
Câu cá song có ý nghĩa kinh tế lớn. Mấy năm vừa qua, nghề câu cá song phát triển mạnh ở vùng biển Cô Tô. Có đêm một người thu được vài triệu đồng, trái lại câu cáy ở ven biển, ở những bãi sú vẹt thường là để giả trí, đi câu cho vui và kết hợp kiếm bát canh cho khoẻ người. Câu cáy không cần mồi, chỉ cần 2 -3 lưỡi câu buộc chụm lại, thả xuống cáy chạy ra ngậm càng vào, thế là nhấc vội lên, không cần phải gỡ mà cáy tự nhảy càng ra rơi vào giỏ đựng.

Nghề chài:
Nghề chài bằng thuyền nhỏ, không ra khơi xa, chỉ ở trong vịnh, ven bờ. Có khi cả gia đình sống trên một chiếc thuyền nhỏ. Cảnh thường gặp và gây ấn tượng là cảnh phơi lưới thường thấy ở Lán Bè thành phố Hạ Long mà các hoạ sĩ đã thể hiện trong các bức tranh của mình.

Nghề đào sái sùng:
Người đi đào sái sùng lăm lăm trong tay cái mai, cái dìu, mắt quan sát về phía trước, bước chân đi nhẹ nhàng. Khi phát hiện có sái sùng thì họ hết sức nhanh nhẹn dùng mai lao xuống cát hất vội con sái sùng lên, nhặt đưa ngay vào giỏ. Nếu đẩy mạnh và chậm một chút thì sái sùng luồn sâu vào trong cát rất khó bắt. Nhìn ngắm cảnh đào bắt sái sùng có cảm tưởng như thấy người nghệ sĩ đang biểu diễn trên bãi cát rất điệu nghệ, cũng rất gây ấn tượng.

Nghề đánh bắt cá đèn:
Cách đây vài chục năm trên vùng biển Quảng Ninh còn rất phổ biến nghề đánh cá đèn. Khi đèn thắp sáng trong đêm thì cá đua nhau tìm đến và người ta bủa lưới bắt cá. Du khách có dịp đi cùng thuyền đánh cá đèn tha hồ mà ngắm nhìn tôm cá tung tăng bơi lội dưới ánh đèn. Ngư dân vớt mực đem nướng trên phễu đèn rồi chủ khách cùng ăn. Mực tươi nướng thơm phúc, ngọt lịm, nhấm nháp với một vài chén rượu, du khách như cảm thấy cảnh thần tiên trên mặt biển. Mặt biển trong đêm rực sáng như một thành phố nổi thật là ngoạn mục nên thơ.

Nghề mỹ nghệ gốm sứ
Sản phẩm gốm sứ Quảng Ninh được khách hàng ưa chuộng, đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới: Pháp, Italia, Nga, Hồng Kông, Trung Quốc. Trung Quốc vốn là nước có bề dày và nổi tiếng về gốm sứ, nhưng gốm sứ Quảng Ninh vẫn có chỗ đứng trong thị trường Trung Quốc bởi sự độc đáo của nó. Khi nói đến nền văn hoá Hạ Long ngoài những chiếc rìu, chiếc bôn bằng đá mài vừa có vai vừa có nấc phải nói đến những đồ gốm sứ Hạ Long cách ngày nay trên dưới 4.500 năm rất đẹp và nổi tiếng bởi kiểu dáng, hoa văn trang trí hình bóng nước, hình móc câu, hình quả trám và hoa văn trổ thủng mà nay còn trưng bày tại bảo tàng Quảng Ninh. Đến đầu thế kỷ XX, khi các lò gốm Móng Cái ra đời đã để lại một dấu ấn trong làng gốm sứ Việt Nam bởi màu đen lam nhạt của nó. Các lò gốm sứ ở Quảng Ninh hiện nay tập trung ở thị trấn Đông Triều và Mạo Khê, trong đó có hợp tác xã Đông Thành và các lò gốm tư nhân. Sản phẩm gốm sứ Quảng Ninh hôm nay vô cùng phong phú, đa dạng, với các loại hũ, lọ, bình rượu, đôn chậu, các con giống. Đó là các loại men chảy, men tổng hợp, các họa tiết hoa văn trang trí khéo léo, sinh động... đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu, vừa góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, vừa góp phần bảo tồn và phát huy truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc, vừa đáp ứng yêu cầu tham quan du lịch.

Mỹ nghệ than đá
Mỹ nghệ than đá cùng với việc khai thác than, nghề thủ công mỹ nghệ bằng than đá ở Quảng Ninh cũng hình thành và ngày càng phát triển, đến nay đã trở thành một nghề thủ công truyền thống khá nổi tiếng. Sản phẩm mỹ nghệ bằng than đá ngày càng được đông đảo khách trong nước và quốc tế ưa thích bởi vẻ đẹp và sự độc đáo về chất liệu, tính thẩm mỹ và bàn tay khéo léo của người thợ thủ công tài hoa. Từ những cục than bình thường, qua con mắt và bàn tay người thợ đã trở thành sản phẩm hàng hoá có giá trị thẩm mỹ và giá trị kinh tế rất lớn. Có sản phẩm trị giá một vài chục ngàn đồng, có sản phẩm trị giá vài triệu đồng. Kiểu loại cũng rất phong phú, đa dạng từ những con trâu, con nai, gạt tàn thuốc lá quen thuộc trước đây, đến những tác phẩm điêu khắc đạt trình độ cao. Tỉnh Quảng Ninh đã và đang tiếp tục quan tâm tạo điều kiện để nghề thủ công mỹ nghệ than đá ngày càng phát triển nhằm xây dựng thành những dãy phố, những làng nghề chuyên sản xuất kinh doanh mặt hàng này vừa trở thành những địa chỉ tham quan du lịch hấp dẫn vừa góp phần bảo tồn và phát huy truyền thống bản sắc văn hoá vùng công nghiệp mỏ, đồng thời tạo thêm mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao.
Quảng Ninh là một vùng đất cổ. Các di tích khảo cổ ở Tấn Mài, Cửa Lục và một số đảo cho thấy vùng này có niên đại khoảng 300 ngàn năm, thuộc sơ kỳ đồ đá cũ, lúc này đã có con người sinh sống. Nơi đây có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc có phong tục tập quán riêng nhưng tất cả đều đoàn kết để xây dựng và bảo vệ quê hương. Vùng đất này đã chứng kiến biết bao chiến công hiển hách chống giặc ngoại xâm mà nổi bật là chiến thắng Bạch Đằng lịch sử, phá tan giặc Nguyên Mông thế kỷ 13. Truyền thống lịch sử anh hùng ấy đã thấm sâu vào nền văn hóa dân gian ở đất Quảng Ninh. Hàng năm, các lễ hội được tổ chức ở nhiều nơi trong tỉnh là để tưởng nhớ đến các sự kiện hào hùng đó như Lễ hội Bạch Đằng, hội đền Cửa Ông, hội chùa Long Tiên, lễ hội Yên Tử, hội đình Trà Cổ,…
Quảng Ninh có những cảnh quan nổi tiếng như: vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long; nhiều bãi biển đẹp: Trà Cổ, Cô Tô, bãi Dài (huyện Vân Đồn); đảo Tuần Châu; núi Bài Thơ ... cùng các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật tạo khả năng mở các tuyến du lịch trên đất liền, trên biển đảo.
Vịnh Hạ Long có diện tích 1.553 km2 với 1.969 đảo, trong đó khu di sản thế giới được UNESCO công nhận có diện tích trên 434 km2 với 775 đảo, có giá trị đặc biệt về văn hoá, thẩm mỹ, địa chất, sinh học và kinh tế. Trên vịnh có nhiều đảo đất, hang động, bãi tắm, cảnh quan đẹp thuận lợi cho phát triển nhiều điểm, nhiều hình thức du lịch hấp dẫn.
Đảo Tuần Châu có diện tích 220 ha, nằm trong vịnh Hạ Long, cách trung tâm thành phố Hạ Long 8 km, cách đất liền 2 km. Đây là một vị trí lý tưởng để phát triển một quần thể du lịch cao cấp với hệ thống dịch vụ khép kín bao gồm: khu biểu diễn đa năng, bãi tắm cao cấp, khu phố ẩm thực Việt Nam, khu biểu diễn xiếc, trung tâm hội nghị quốc tế và các biệt thự, khách sạn từ 3-5 sao với trên 400 phòng…
Bãi tắm Bãi Cháy đã được cải tạo, nâng cấp, tạo thành một bãi tắm đẹp với nhiều loại hình dịch vụ phục vụ đa dạng các nhu cầu của du khách.
Bãi tắm đảo Tuần Châu đã được đầu tư, nâng cấp dài 2km trở thành điểm du lịch rất hấp dẫn đối với du khách. Đội ngũ tàu, thuyền du lịch của Quảng Ninh đang được bổ sung và nâng cấp có khả năng phục vụ cùng lúc 5.000 du khách tham quan vịnh Hạ Long.
Tỉnh Quảng Ninh có gần 500 di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật... gắn với nhiều lễ hội truyền thống, trong đó có những di tích nổi tiếng của quốc gia như chùa Yên Tử, đền Cửa Ông, di tích lịch sử Bạch Đằng, chùa Long Tiên, đình Quan Lạn... đây là những điểm thu hút khách thập phương đến với các loại hình du lịch văn hoá, tôn giáo, nhất là vào những dịp lễ hội.
Đến Quảng Ninh, du khách còn có cơ hội để thưởng thức các món ăn được chế biến từ các loài hải sản của biển Quảng Ninh, trong đó có những đặc sản giá trị như hải sâm, bào ngư, tôm, cua, sò, ngán, hầu hà, sá sùng, rau câu…

 Chùa Quỳnh Lâm:

Chùa Quỳnh Lâm nằm trên đồi trong dãy núi vòng cung Đồng Triều (thuộc xã Tràng An, huyện Đông Triều).
Trong các thế kỷ 11 - 14, thời kỳ cuối Lê và thế kỷ 17 - 18 Quỳnh Lâm đều trở thành trung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam.
Theo truyền thuyết, tại Quỳnh Lâm, nhà sư Không Lộ - đời Lý đã đúc pho tượng Di Lặc bằng đồng, cao sáu trượng (khoảng 20m) được coi là một trong "tứ đại khí" của nước ta thời ấy.

Đền Cửa Ông ( Đông Hải Linh Từ):
Đền Cửa Ông tọa lạc trên một ngọn núi trông ra vịnh Bái Tử Long thuộc phường Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả.
Từ lâu đền Cửa Ông đã nổi tiếng linh thiêng không chỉ đối với nhân dân Quảng Ninh, mà nhân dân trong nước cũng lần lượt tìm đến để dâng hương, trẩy hội. Lễ hội đền Cửa Ông diễn ra từ ngày 3/2 âm lịch và kéo dài suốt 3 tháng xuân.

Đình Quan Lạn:
Đình nằm trong cụm di tích đình, chùa, miếu, nghè thuộc xã đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn. Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê (khoảng thế kỷ 17) và được sửa chữa nhiều lần vào thời Nguyễn để thờ Thành Hoàng làng là các vị tiên công đã có công lập ra xã Quan Lạn và thờ Trần Khánh Dư, người có công lớn trong trận đánh đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ ở Vân Đồn cửa Lục góp phần quan trọng vào đại thắng Bạch Đằng năm 1288.

Núi Bài Thơ
Cụm di tích núi Bài Thơ nằm ở trung tâm thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh, được Bộ văn hoá thông tin công nhận là di tích lịch sử và danh thắng (số 1140 QĐ/BT ngày 31-08-1992) bổ sung cho thắng cảnh Vịnh Hạ Long.
Thời xa xưa, nó có tên núi Truyền Đăng, trên đỉnh núi cao 106m là một vọng gác biển Bắc, lính gác thấy động tĩnh gì ở phía Bắc sẽ đốt lửa báo tin về kinh thành Thăng Long. Tháng 2, mùa xuân năm Quang Thuận thứ 9 (1468) vua Lê Thánh Tông (1442-1497) đi duyệt binh trên sông Bạch Đằng, nhân thể ra thăm Vịnh Hạ Long, thấy núi đẹp quá, nhà vua sai mài đá khắc lên bài thơ Vịnh cảnh núi. Đi thuyền trên Vịnh, cách bờ chừng 300m đã có thể nhìn thấy bài thơ trên vách núi nằm trong khung hình vuông, mỗi chiều 1,5m.

"Cuộn nước trăm sông núi dựng đầy
Núi bầy thế trận xanh liền mây
Nao lòng chợt vọng ba hồi trống
Vững chí làm nên những tháng ngày
Sao Bắc đang quẩn quân hồ mạnh
Biển Đông đã tắt khói lan bay
Trời Nam muôn thuở non sông vững
Là lúc dùng văn dựng nước này".

Núi mang tên Bài thơ từ ngày đó. Vào thế kỷ 18, chúa Trịnh An Đô Vương Trịnh Cương (1686-1730) lại cho khắc thêm một bài thơ chữ Hán bên cạnh bài thơ của vua Lê Thánh Tông:

"Nước trị triều dâng ngọn sóng đầy
Núi bầy thế trận nước như mây
Thần kỳ trời tạo bao nhiêu cảnh
Ân đức vua ban dám kể ngày
Nơi trước đánh tan quân giặc Thát
Bây giờ sáng loáng bóng hoa bay
Trên sông quân tướng đều vui cả
Ca ngợi ngàn năm biển núi này"

Đêm 30.4, rạng sáng 1.5.1930, người công nhân mỏ than Cửa Ông tên Đào Văn Tuất đã cắm trên đỉnh núi Bài thơ lá cờ đỏ búa liềm biểu tượng của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Lá cờ đỏ đã được gìn giữ nối tiếp luôn luôn tung bay trên đỉnh núi đến bây giờ, là hình ảnh không thể thiếu đối với núi Bài Thơ hôm nay.
Dưới chân núi Bài Thơ có chùa Long Tiên với đặc điểm ngày nào trong năm cũng là ngày hội. Khách du lịch trong, ngoài nước đến đây ngày nào cũng đông, riêng vào ngày hội chính 24.3 âm lịch, thì chùa tổ chức lễ rước kiệu qua đền Đức Ông (đền thờ con cả của Trần Hưng Đạo), đến đền thờ An Dương Vương ở Vụng Đãng qua Loong Toòng rồi quay lại chùa theo một huyền thoại xưa. Chùa Long Tiên còn mang một ý nghĩa linh thiêng nữa, dân Quảng Ninh gọi chùa Long Tiên là chùa Trình, nhưng ai muốn lên Yên Tử thăm viếng chốn tu hành của Thiền phái Trúc Lâm, cũng như muốn vào dự hội đền Cửa Ông-hội thờ con thứ 3 của Trần Hưng Đạo, thì bắt buộc phải vào chùa Long Tiên, thắp nhang, dâng hương trình với thánh nhân, tiên phật xin được đến các nơi thần linh.

Chùa Long Tiên
Bất kỳ ai đến Quảng Ninh, đến Hạ Long đều không thể bỏ qua núi Bài Thơ. Tên núi và phong cảnh ở đây gây cho mọi người cảm xúc khó diễn tả, ai cũng muốn làm thơ vì đẹp quá và vì núi Bài Thơ như một tấm bia thiên nhiên khắc dấu ấn văn hóa lịch sử Việt Nam mãi mãi bền vững.

Đảo Ngọc Vừng
Đảo Ngọc Vừng có một bãi tắm rất đẹp, cát vàng, nông, thoải và rộng. Đặc biệt, nơi đây không hề có một vò sỏ, vỏ ốc, con hà, con hầu. Nước biển sạch và trong xanh. Ven bờ là rừng phi lao đã vài năm tuổi, xanh ngăn ngắt.
Không chỉ những di tích người cổ xưa còn sót lại mà cả cuộc sống hiện tại trên đảo cũng đều mang nét thú vị. Trong tương lai, Ngọc Vừng sẽ được bảo tàng Sinh thái Hạ Long chọn làm khu du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí ngoài trời.

Yên Tử
Nằm trên độ cao hơn 1.000m ở vùng đông bắc tổ quốc, núi Yên Tử như một bảo tàng quy mô lớn của các di tích và truyền thuyết về phái Thiền Tông đất Việt.

Mỗi khi tiếng chuông chùa Đồng ngân vang trên đỉnh Yên Tử, chim nhạn lại rời vách đá bay trắng trời, huyên náo không gian. Chùa Đồng được các đời vua Trần cho xây toàn bằng đồng. Chùa đã được nhiều lần trùng tu bằng nhiều chất liệu khác nhau, nhưng hiện đã được dựng lại bằng đồng. Lúc trời trong, từ chùa Đồng, ta có thể nhìn thấy Bạch Đằng Giang tuôn chảy ra biển Đông.

Bãi cọc Bạch Đằng
Bãi cọc Bạch Đằng nằm trong khu đầm nước của xã Yên Giang giáp đê sông Chanh thuộc xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, đã được Bộ Văn hoá Thông Tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử (số 191 VH/QĐ ngày 22 tháng 3 năm 1988) nhân kỷ niệm 700 năm chiến thắng Bạch Đằng. Bãi cọc Bạch Đằng tồn tại cùng thời gian là nhân chứng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nơi ghi dấu thiên tài quân sự của anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn ở thế kỷ 13.
Vào thế kỷ 13, sau 2 lần tiến quân xâm lược Việt Nam bị thất bại thảm hại (1258, 1285) năm 1288 quân Nguyên Mông quyết tâm xâm lược nước ta một lần nữa với 30 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy và 70 vạn hộc lương do Trương Văn Hổ chỉ huy tiến vào Thăng Long bằng đường bộ và đường thuỷ. Trước sức mạnh đó vua quan nhà Trần đã thực hiện kế hoạch rút lui chiến lược, xây dựng chiến tranh du kích để tiêu hao sinh lực địch. Sau một thời gian bị tiêu hao sinh lực, mệt mỏi vì khí hậu, hơn nữa đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị quân của Trần Khánh Dư đánh chìm ngay khi vào đến Vân Đồn Cửa Lục, buộc quân địch phải rút lui. Biết trước được âm mưu đó, Trần Quốc Tuấn đã dựa vào chiến thuật cắm cọc gỗ xuống lòng sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 và kết hợp với 2 dải đá ngầm ở ghềnh Cốc và ghềnh sông Chanh tạo thành phòng tuyến chặn đường rút lui của quân giặc.
Ngày 9 tháng 4 năm 1288 khi đạo binh của Ô Mã Nhi vào đến cửa sông Bạch Đằng, Trần Quốc Tuấn đã cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến, khi nước triều rút, các cánh quân mai phục từ các nhánh sông mới lao ra quyết chiến làm cho quân địch không kịp trở tay, kết hợp với chiến thuật hoả công chỉ trong vòng một ngày hơn 3 vạn quân của Ô Mã Nhi và gần 400 chiến thuyền đã bị quân dân nhà Trần tiêu diệt và bắt sống.
Chiến thắng Bạch Đằng 1288 là một chiến công chói lọi đã ghi vào trang sử hào hùng chống giặc ngoại xâm và bãi cọc đầm Yên Giang là nhân chứng hùng hồn của chiến công đó.

Hang Luồn

Hang Luồn nằm trên đảo Bồ Hòn, cách Bãi Cháy 14 km về phía nam. Phía trước hang là hòn Con Rùa, bên phải là Cổng Trời. Nơi đây vách đá dựng đứng, bốn mùa nước trong xanh phẳng lặng như một tấm gương soi. Sát mép nước, một chiếc cổng hình cánh cung mở ra dưới chân đảo, đó là hang Luồn.
Qua chiếc cổng thành xinh xắn, ta gặp một hồ nước tròn phẳng lặng bốn bề cây cối um tùm, vách đá cheo leo, trên đó từng bầy khỉ chạy nhảy tung tăng, những cây si cổ thụ bóng toả lòa xòa, những giò phong lan buông rũ nở hoa thơm ngát và dưới mặt nước trong xanh êm đềm kia là cuộc sống sôi động của các loài sinh vật biển như tôm, cá, cua, mực...

Đây là một nhóm đảo khép kín, thông ra biển chỉ bằng một cửa hang rộng khoảng 4 m, cao 3 m, dài 100 m. Hồ nước lợ trong hang được bao bọc bởi bốn mặt núi, rộng khoảng gần 1 km2. Trên các vách đá còn lưu những vỏ ốc nước ngọt đã hoá thạch, chứng tỏ nơi đây con người đã từng cư trú và ngày ấy hẳn nơi đây là một thung lũng sâu.
Những hang kiểu này ở vịnh Hạ Long có không nhiều, nhưng có lẽ điều đặc sắc hấp dẫn, lôi cuốn du khách ở đây lại là cảnh sắc thiên nhiên. Đó là sự kết hợp đan xen, hài hoà giữa dáng núi, sắc nước mây trời đến từng cây cỏ, dường như không thể tìm thấy ở đây một khiếm khuyết nào của tạo hoá.

Đảo Tuần Châu:

Đảo Tuần Châu, là khu du lịch độc đáo ở miền Bắc Việt Nam nay thuộc phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Khu du lịch quốc tế Tuần Châu bao gồm một tổ hợp du lịch, dịch vụ, vui chơi giải trí: bãi tắm nhân tạo, nhà biểu diễn đa năng 2500 chỗ ngồi, khu phố ẩm thực với phong cách kiến trúc truyền thống Việt Nam, khu biểu diễn động vật, khu chợ quê, hồ sinh vật biển, khu biệt thự chất lượng cao và nhiều loại hình dịch vụ khác. Đến đây du khách sẽ có cơ hội được tham quan, thưởng thức các loại hình dịch vụ du lịch hấp dẫn trên.

Bái Tử Long
Khách lữ hành đều biết Bái Tử Long là một trong những vịnh biển đẹp nhất nước ta. Nhưng còn ngoài rìa của vịnh biển trong vắt này? Một tuyến đi biển xa mới được mở, đưa du khách ra tới các hòn đảo lớn nằm tít tận những vị trí xa nhất của Bái Tử Long, đã mang lại tin mừng cho những người yêu biển.

Vân Đồn

Nếu vịnh Hạ Long và một phần vịnh Bái Tử Long đã trở thành Di sản thắng cảnh và địa chất của thế giới, lưu giữ được vẻ đẹp hoang sơ trên các đảo đá và một ít làng chài chuyên sống dưới nước, thì ở phía Đông Bắc của Di sản này là vịnh Vân Đồn rộng lớn nằm trong ranh giới bảo vệ quốc gia và cũng có một số đảo nằm trong vùng đệm của khu di sản thế giới.

Vân Đồn hơn đâu hết thực sự là nơi có cả rừng vàng và biển bạc. Từ thời đại đồ đá, con người đã đến đây sinh sống và để lại nhiều chứng tích. Năm 1937 các nhà khảo cổ Pháp đã khai quạt hang đá thôn Hà Giắt (nghĩa là thôn Một theo tiếng Việt) trên đảo Cái Bầu, để lại sưu tập 70 hiện vật đồ đá ghè đẽo, có cả bàn mài nhưng không có công cụ mài, năm 1970 điều tra lại có thêm mảnh gốm xốp bở. Năm 1964 chúng ta phát hiện ra hang Soi Nhụ trên một hòn đảo nhỏ xã Hạ Long và 3 năm sau tiến hành khai quật, tìm thấy một số mảnh gốm và 10 di vật đá đã mài sơ ở lưỡi tác dụng, xét nghiệm C.14 cho biết niên đại cách nay chừng 14.000 năm. Như vậy người Soi Nhụ và Hà Giắt đã ở vào thời đại đá nới. Năm 1939 người Pháp phát hiện ra nhiều hiện vật đá mài ở đảo Ngọc Vừng mà họ gọi là “Văn hoá Ngọc Vừng”, đến năm 1966 các nhà hảo cổ học Việt Nam đề nghị đổi tên là “Văn hoá Hạ Long” khái quát cho nhiều di chỉ cùng tính chất trên vùng ven biển đông bắc nước ta. Cho đến 1978 đã biết 17 di chỉ văn hoá Hạ Long thuộc giai đoạn cuối thời đồ đá mài với những công cụ đá đã đạt trình độ kỹ thuật cao gồm cả cưa, mài, khoan thuộc nhiều loại hình phong phú (rìu, bôn, đục, bàn mài, vòng đeo) và những đồ gốm thô có hoa văn đơn giản. Ngoài ra trên đảo Cái Bầu còn phát hiện tình cờ một số chì lưới đất nung, bôn và rìu. Một số hiện vật khai quật ở đảo Ngọc Vừng lại tương đồng với di vật thuộc văn hoá Phùng Nguyên, để từ đó đoán định niên đại cách nay 3000 – 3500 năm. Thậm chí vẫn ở di chỉ Ngọc Vừng còn tìm thấy 1 chiếc thuổng đồng.
Khi lịch sử sang trang bất hạnh thì Vân Đồn cũng sớm bị phong kiến Hán chiếm và thực hiện chính sách đồng hoá nghiệt ngã. Nhưng chính ở đây chúng lại bị cảm hoá bởi sức mạnh văn hoá đông Sơn của người Việt. Trong những ngôi mộ Hán ở Đá Bạc, bên cạnh rất nhiều đồ của quý tộc Hán bằng vàng, bạc, đồng, đá quý, sắt, sứ… còn có chiếc trống chậu: để ngửa nó là chiếc chậu đồng Hán, nhưng vì đáy lồi nên luôn bị cập kênh; còn nếu để úp nó là chiếc trống Đông Sơn với hình mặt trời 7 tia ở giữa, xung quanh là hình 18 người hoá trang chim (từng cặp ở trống Hữu Chung) được thể hiện với sự trừu tượng hoá cao, trên thân trống cũng còn những tổ hợp hình người chim nữa. Rõ ràng văn hoá Đông Sơn đã được quý tộc Hán yêu thích và tiếp nhận, gắn bó với người chết như vật thiêng.
Vùng Vân Đồn với những chuỗi đảo chạy dài ven biển tạo nên những lạch nước sâu, rộng và lặng sóng được gọi là sông mang, sông Cổng Đồng… thuận tiện cho thông thương chẳng những với phương Bắc mà còn rẽ ngang ra biển đông để đến với cả khu vực. Vì thế, ngay sau khi đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập, nhà tiền Lê và nhà Lý đã tạo được ở đây đường thuỷ buôn bán với châu Khâm và châu Liêm của Trung Quốc, rồi từ năm 1149 thì thuyền buôn các nước Trảo Oa, Lộ Lạc và Xiêm trong khu vực Đông Nam Á đã xin dừng ở Vân Đồn để “mua hàng quý và dâng tiến sản vật địa phương” (Đại Việt sử ký toàn thư). Từ đây, suốt nhiều thế kỷ tiếp theo, Vân Đồn đã thực sự là một thương cảng nhộn nhịp mà lòng đất của nó còn giữ được cho đến hôm nay vô vàn mảnh sứ phế thải, có cả nhiều đồ sứ nguyên vẹn rất quý, nhiều tiền cổ Trung Quốc, tiền cổ Việt Nam. Nhiều bến nhộn nhịp thuyền bè xưa lần lượt được phát hiện: Bến Cái Làng, bến Cống Cái, bến Con Quy, bến Cái Cổng, bến Cống Yên, bến Cống Hẹp, bến Gạo Rang… và bến Cống Đông với 7 vùng đậu thuyền ăn sâu vào đảo rất tiện lên bờ. Ở những khu thương cảng này, nhà xưa không còn, nhưng dấu tích chùa, đền, đình thì một số nơi vẫn còn. Đó là những nền móng khá lớn như chùa Lấm trên đảo Thừa Cống có khu Tam Bảo hình chữ nhị, lại thêm nhà tổ phía sau làm cho tổng thể có hình chữ Tam, rồi chùa Trong, chùa Cát, chùa Vụng cây Quéo với những thành bậc cửa chạm lân và gạch chạm rồng đều thuộc phong cách nghệ thuật thời Trần; có cả những dấu tích tháp có nhiều gạch có ghi rõ vị trí từng tầng. Đó cũng là nền móng to lớn của đình Cái Làng và đình Cống Cái. Khi bến Cái Làng không thuận tiện cho thuyền bè ra vào và đất Cái Làng hẹp không có chỗ làm vườn làm ruộng nữa thì dân Cái Làng cũng chuyển dần sang đất xã Quan Lạn ngày nay, và họ cũng chuyển theo cả đình làng sang nơi ở mới. Đình Quan Lạn ngày nay có toà đại đình 3 gian 2 chái bề thế nhìn ra vũng nước rộng có đảo ba ngọn làm tiền án Tam Thai, phía sau lại có năm đỉnh núi làm hậu Ngũ Nhạc. Thượng lương còn ghi ngày dựng cột đặt nóc là ngày mồng 9 tháng 10 năm Canh Tý niên hiệu Thánh Thái 12 tức năm 1900, nhưng phong cách chạm khắc lại cho biết thuộc nghệ thuật nửa đầu thế kỷ XI, hẳn là những thời điểm làm ở Cái Làng và dựng lại ở Quan Lạn. Câu đầu của hai gian hồi còn ghi những dòng chữ cho biết đến ngày mồng 10 tháng 2 năm Kỷ Mão niên hiệu Bảo Đại tức năm 1939 đình được trùng tu lớn. Lần trùng tu này xây tường bao quanh Đại đình, làm thêm toà Hậu cung và nhà cầu để tổng thể tạo thành chữ Công khang trang. Năm 1939 đình Quan Lạn được tu sửa vừa và năm nay đang được tu sửa lớn. Như vậy tỉnh Quảng Ninh cho đến hôm nay còn giữ được ba ngôi đình lớn, thì đều ở nơi hải đảo được xem là những cột mốc văn hoá truyền thống: đình Trà Cổ ở điểm địa đầu Tổ quốc, đình Quan Lạn ở Vân Đồn và đình Phong Cốc ở đảo Hà Nam. Mỗi đình một nét riêng do thời gian dựng khác nhau, song tất cả đều đậm đặc kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam.
Thương cảng Vân Đồn phát triển nhất ở thời Lý - Trần, từ thời Lê sơ với chính sách hạn chế ngoại thương nó kém sầm uất dần, đến thời Lê trung hưng với việc tranh thủ nước ngoài của cả chúa Trịnh và chúa Nguyễn, thương cảng được đưa vào trong nội địa với Phố hiến và Hội An thì vai trò của Vân Đồn bị sa sút hẳn. Tuy nhiên đến thời Nguyễn, một ít thuyền buôn - nhất là của người trung Quốc vẫn qua lại. Dù sao với tính chất ở ngoài hải đảo, người Vân Đồn rất thạo đi biển, nhiều người nay là những thuỷ thủ chở hàng sang nhiều nước - nhất là Trung Quốc.
Vân Đồn do vị trí ở cửa ngõ của đất nước nên cũng nằm trên đường hành quân quan trọng. Nhà Lý năm 1075 đã sử dụng đường này để đánh sang châu Khâm và châu Liêm cảnh cáo nhà Tống định xâm lược nước ta. Giặc Nguyên tấn công nước ta bằng nhiều mũi, trong đó có một mũi do Ô Mã Nhi cùng Phàn Tiếp chỉ huy 500 chiến thuyền, theo sau là đoàn thuyền lương 100 chiếc do Trương Văn Hổ phụ trách tiến qua Vân Đồn để vào nước ta. Phó tướng Trần Khánh Dư lúc đó được nhà Trần giao bảo vệ biên thuỳ miền biển đông bắc, trước thế giặc mạnh, ông chỉ đánh cầm chừng nhằm tiêu hao và làm chậm bước tiến của địch, thậm chí chịu thua cho thuyền chiến giặc chủ quan tiến nhanh về phiá trước, để rồi chia cắt, bao vây địch, tập trung đánh vào đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ làm tiêu tiêu hao sinh lực địch, làm cho địch mất hậu cần lương thực và khí giới. Chiến công xuất sắc ở Vân Đồn đã góp phần vào chiến thắng của dân tộc chống quân Nguyên xâm lược lần thứ 3. Ngày nay nhiều nơi ở Vân Đôn vẫn còn đền miếu thờ Trần Khánh Dư. Một trong những nơi ấy chính là đình Quan Lạn với hội tưởng niệm vào ngày 18 tháng 6 âm lịch hàng năm. Quan Lạn còn có miếu Đức Ông thờ Phạm Công Chính, miếu Sao ơn thờ Phạm Quý Công và miếu Đông Hồ thờ Phạm Thuần Dụng, đó là ba anh em đã chỉ huy những cánh quân của Trần Khánh Dư đánh tiêu hao địch khi chúng qua đây và cả ba đã anh dũng chiến đấu và hi sinh, xác trôi về những nơi mà sau được lập miếu thờ.

Đền và lăng mộ nhà Trần
Đền và lăng mộ nhà Trần thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, nằm rải rác trên một khu đất rộng có bán kính 20km để thờ "Bát Vị Hoàng Đế" thời Trần. Đây là một trong những công trình tưởng niệm có giá trị lớn trong lịch sử nước ta và được Bộ Văn Hoá thông tin ra quyết định công nhận là di tích lịch sử (số 313 VH/QĐ ngày 28-04-1962).
Km 74 rẽ vào qua 2 con dốc, con dốc thứ 1 ngưới ta gọi là dốc mụ chị và dốc mụ em, sau đó sẽ đi vào vòng một con dốc gấp khúc gọi là Hồng Hải, sau khi qua dốc, phía bên tay phải chúng ta sẽ gặp chùa Lân.

Chợ Móng Cái
Thị xã Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh, cách thành phố Hạ Long 178km, cách Hà Nội 350km, ở vị trí đầu phía Đông Bắc Việt Nam, Thị xã Móng Cái nằm bên bờ sông Ka Long xinh đẹp, có cửa khẩu quốc tế Bắc Luân, giáp với tỉnh Quảng Tây Trung Quốc.
Thị xã Móng Cái là nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động trao đổi thương mại kinh tế, giao lưu văn hoá giữa hai tỉnh Quảng Ninh - Quảng Tây và hai nước Việt Nam - Trung Quốc.
Trước đây thị xã Móng Cái đã từng là tỉnh lỵ của Hải Ninh cũ. Sau chiến sự biên giới tháng 02/1979, thị xã Móng Cái bị tàn phá nặng nề, nhiều cơ sở kinh tế, văn hoá bị phá huỷ, đặc biệt là khu phố cổ nằm dọc theo bờ sông Ka Long không còn nữa. Từ năm 1991, sau khi quan hệ hai nước Việt-Trung trở lại bình thường thì sự trao đổi buôn bán qua cửa khẩu Bắc Luân ngày càng tăng lên.
Ở đây có hàng nghìn hộ kinh doanh tư nhân và nhà nước. Chủ hộ kinh doanh là người Việt có, người Hoa có, hầu hết đều nói được cả hai thứ tiếng.
Hàng Hoá bày bán ở trong chợ và trao đổi qua biên giới khá phong phú. Hàng Trung Quốc nhập vào Việt Nam chủ yếu là vải, quần áo may sẵn, chăn màn, giầy dép, các đồ điện tử cao cấp, đồ chơi trẻ em, bánh kẹo, hoa quả: như táo, cam, lê, nho khô... Hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc chủ yếu là cao su sơ chế, hải sản tươi sống, tôm cá đông lạnh, nông sản thực phẩm như chè, cà phê, lạc, vừng, đậu...Ở trong chợ nổi lên các sạp hàng vải, bánh, kẹo Trung Quốc. Đặc biệt là các quầy thuốc bắc, các thầy lang người Trung Quốc vừa bắt mạch vừa kê đơn bốc thuốc tạo nên nét riêng ở chợ cửa khẩu Móng Cái.
Sau khi vào chợ mua sắm hàng hoá, du khách có thể quay ra thưởng thức các món ăn Việt Nam, Trung Quốc tuỳ theo ý thích. Các nhà hàng nổi tiếng với các món ăn, đồ uống Trung Quốc như Trường Thành Thăng Long. Ở đây có đủ loại rượu Trung Quốc, từ rượu Mao Đài nổi tiếng cho đến các loại rượu thông thường như Thần Phụ Tửu, Khổng Phụ Tửu, Ngũ Lương Dịch. Các món ăn đặc sản Trung Quốc như vịt quay Bắc Kinh, đậu phụ cay tê... và đặc biệt không thể thiếu món ăn quen thuộc là khâu nhục.
Chợ cửa khẩu Móng Cái không chỉ là trung tâm thương mại, là nơi mua bán trao đổi hàng hoá mà còn là nơi gặp gỡ, giao lưu văn hoá, gắn bó tình cảm giữa nhân dân hai nước.

HẢI DƯƠNG

Đền Kiếp Bạc
Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh (Hải Dương) là mảnh đất thiêng nơi Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn sống từ sau kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất (đền thờ sống Trần Hưng Đạo) và sau năm 1300 khi ông mất đền Kiếp Bạc được xây dựng khang trang to đẹp hơn để thờ vị anh hùng dân tộc.
Đền Kiếp Bạc sau nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được dáng vẻ ban đầu. Hiện trong đền còn lưu giữ được pho tượng đồng Trần Hưng Đạo, nhiều pho tượng cổ và đồ thờ từ đầu thế kỷ XIV. Lễ hội đền Kiếp Bạc được tổ chức hằng năm từ ngày 15 đến 20/8 Âm lịch.
Đền Kiếp Bạc không những là một di tích văn hoá mà còn là một điểm tham quan du lịch hấp dẫn du khách thập phương

Khu di tích danh thắng Côn Sơn
Khu di tích ở xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh, nằm giữa hai dãy núi Phượng Hoàng - Kỳ Lân, cách Hà Nội khoảng 70 km. Khu di tích, danh thắng này gồm có núi non, chùa, tháp, rừng thông, khe suối và các di tích nổi tiếng gắn liền với cuộc đời của nhiều danh nhân trong lịch sử.
Ngay từ thời Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm (Côn Sơn - Yên Tử - Quỳnh Lâm). Mảnh đất này đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang và đặc biệt là anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi. Côn Sơn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và đọc bia về Nguyễn Trãi.
Ngày nay, Côn Sơn còn lưu giữ được những dấu tích văn hoá thời Trần và các giai đoạn lịch sử kế tiếp. Tiêu biểu là:

Chùa Côn Sơn
Chùa có tên chữ là Tư Phúc tự, hay còn gọi là chùa Hun, tọa lạc ở ngay dưới chân núi Côn Sơn, có từ trước thời Trần. Vào đời Lê, chùa được trùng tu và mở rộng rất nguy nga đồ sộ. Trải qua biến thiên về lịch sử và thời gian, chùa Côn Sơn ngày nay chỉ còn là một ngôi chùa nhỏ ẩn mình dưới tán lá xanh của các cây cổ thụ. Chùa được kiến trúc theo kiểu chữ công (I) gồm Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện. Thượng điện thờ Phật, có những tượng Phật từ thời Lê cao 3 m. Phía sau chùa là nhà Tổ, có tượng Trúc Lâm tam tổ (Trần Nhân Tông - Pháp Loa - Huyền Quang), tượng ông bà Trần Nguyên đán, hai pho tượng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.
Sân chùa có cây đại 600 tuổi, 4 nhà bia, đặc biệt là bia "Thanh Hư động" tạo từ thời Long Khánh (1373 - 1377) với nét chữ của vua Trần Duệ Tông và bia hình lục lăng, "Côn Sơn thiện tư bi phúc tự" đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc khi Người về thăm di tích này (15/2/1965).

Giếng Ngọ
Giếng nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, phía dưới chân Đăng Minh Bảo Tháp. Tương truyền đây là giếng nước do Thiền sư Huyền Quang được thần linh báo mộng ban cho chùa nguồn nước quí. Nước giếng trong vắt, xanh mát quanh năm, uống vào thấy khoan khoái dễ chịu. Từ đó có tên là Giếng Ngọc và nước ở giếng được các sư dùng làm nước cúng lễ của chùa

Bàn Cờ Tiên
Từ chùa Côn Sơn leo khoảng 600 bậc đá là đến đỉnh núi Côn Sơn (cao 200m). Đỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, tại đây co một phiến đá khá rộng, tục gọi là Bàn Cờ Tiên. Hiện nay Bàn Cờ Tiên có dựng nhà bia theo kiểu Vọng Lâu Đình, hai tầng cổ tám mái. Đứng từ đây, du khách có thể nhìn bao quát cả một vùng rộng lớn

Thạch Bàn
Bên suối Côn Sơn có một phiến đá gọi là Thạch Bàn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân nghỉ khi Người tới thăm di tích này. Từ chân núi đi theo lối mòn có kê đá xuống phía chân núi có một tảng đá lớn, mặt phẳng và nhẵn nằm kề ven suối gọi là Thạch Bàn lớn. Tương truyền khi xưa Nguyễn Trãi lấy làm "chiếu thảm" nghỉ ngơi, ngắm cảnh, làm thơ và suy tư việc nước.

Làng nghề vàng bạc Châu Khê - Tỉnh Hải Dương

Làng vàng bạc Châu Khê thuộc xã Thúc Kháng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Châu Khê có 78.5 ha đất, trong đó chỉ có 63 ha đất canh tác. Dân số tăng chậm, do có một số người chuyển đi làm nghề nơi khác (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh...).
Theo số liệu thống kê trong Hương ước và địa bạ, cũng như số liệu của Uỷ ban nhân dân xã, số dân của Châu Khê là 600 khẩu vào năm 1900, trên 800 khẩu với 175 hộ vào năm 1983. Như vậy, bình quân đất canh tác chỉ khoảng hai sào Bắc bộ trên một đầu người. Người Châu Khê đã sớm nhận ra ý nghĩa của "nghề phụ" ngoài nghề nông, cho nên đời sống của họ rất khá giả. Có thể khẳng định rằng, chính nghề vàng bạc đã đưa làng quê này trở nên giàu có giữa vùng châu thổ sông Hồng, nơi tưởng như trù phú, nhưng thực tế luôn bị thiên tai, bão lụt, vỡ đê, mất mùa, đói kém đe dọa người nông dân.
Châu Khê có nghề vàng bạc nổi tiếng, lại có nghề vàng mã cũng được bán rộng rãi ở nhiều nơi trước đây.
Dần dần, từ nghề đúc bạc, thợ Châu Khê đã tiến tới nghề làm đồ trang sức vàng bạc (xưa gọi là kim hoàn).
Đến đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, nghề đúc bạc nén chuyển vào kinh đô Huế (Thuận Hoá). Nhưng phần lớn thợ Châu Khê vẫn ở lại Thăng Long (Hà Nội) làm nghề kim hoàn. Họ tập trung thành phường và xây dựng nên phố Hàng Bạc. Lúc này ở phố Hàng Bạc còn có cả thợ vàng Định Công và thợ bạc Đồng Xâm (Thái Bình) tới làm nghề, nhưng đông nhất vẫn là thợ vàng bạc Châu Khê. Người ta sản xuất, buôn bán bạc, kể cả đổi bạc nén lấy bạc vụn làm nguyên liệu. Cho nên vào những năm đầu thế kỷ XX, phố này còn có tên tiếng Pháp: Rue des Changeus (phố đổi bạc).
Ngày nay, khi qua phố Hàng Bạc ở Thủ đô Hà Nội, bạn cần biết mấy địa điểm: số nhà 58-xưa là Tràng Đúc bạc nén; số nhà 50 (trước là Đình Thượng) và số 42 (là Đình Hạ)-xưa là Ty Quan (cơ quan đại diện của Triều đình) thu nhận bạc nén thành phẩm. Người Châu Khê làm việc ở đây khá đông, tới mức đóng thuế đinh 300 suất (vào cuối thế kỷ XIX). Ngoài hai ngôi đình họ còn mua thêm đền Nội Miếu của phường thợ giầy Tam Lâm (phường Hài Tượng). Đó là những nơi hội họp và thờ thành hoàng của họ (gọi tên chữ là "Châu Khê vọng sở").

An Sơn Miếu
An Sơn miếu là một ngôi miếu cổ trên đảo Côn Sơn. Miếu được xây từ năm 1785, (sau đó được xây dựng lại vào năm 1958) để thờ bà Phi Yến, vợ của chúa Nguyễn Ánh (sau này trở thành vua Gia Long).
Ngôi miếu này rất linh thiêng đối với những người dân trên đảo và nó gắn liền với một câu chuyện bi thương của người phụ nữ tài sắc, giàu lòng yêu nước. Năm 1783, sau khi thua quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh mang theo vợ, con và khoảng 100 gia đình thuộc hạ chạy ra đảo Côn Sơn. Cùng với những người dân chài đang sinh sống ở Côn Sơn, Nguyễn Ánh đã lập nên 3 làng là An Hải, An Hội và Cỏ Ống. Để đánh lại quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh dự định gửi con cả là Hoàng tử Cảnh đi theo cố đạo Pháp (Bá Đa Lộc) sang Pháp cầu viện. Bà Phi Yến (Lê Thị Răm là vợ thứ của Nguyễn Ánh đã can ngăn chồng, đừng làm việc "cõng rắn cắn gà nhà" để người đời chê trách.
Nguyễn Ánh không những không nghe lời khuyên của bà mà còn tức giận, nghi bà thông đồng với quân Tây Sơn, nên định giết bà. Nhờ quân thần can xin, Nguyễn Ánh đã tống giam bà vào một hang đá trên đảo Côn Lôn nhỏ. Khi quân Tây Sơn đánh ra đảo, Nguyễn Ánh bỏ chạy ra biển. Hoàng tử Cải (còn gọi là Hoàng tử Hội An), con bà Phi Yến lúc đó mới 4 tuổi đòi mẹ đi cùng. Trong cơn tức giận Nguyễn Ánh đã ném con xuống biển. Xác hoàng tử Cải đã trôi vào bãi biển Cỏ Ống. Dân làng đã chôn cất hoàng tử. Bà Phi Yến, theo truyền thuyết được một con vượn và một con hổ cứu ra khỏi hang và về sống với dân làng Cỏ Ống để trông nom mộ hoàng tử Cải. Một lần, sau khi bị một kẻ xấu xúc phạm, bà đã tự tử để thủ tiết với chồng.
Nhân dân trên đảo vô cùng thương tiếc bà, đã lập nên ngôi miếu to đẹp để thờ bà. Năm 1861, Pháp sau khi chiếm đảo đã quyết định di toàn bộ dân vào đất liền để xây nhà tù. Ngôi miếu bị đổ nát dần. Năm 1958, nhân dân trên đảo đã xây dựng lại ngôi miếu trên nền cũ.

BẮC NINH
Bắc Ninh là cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, gần sân bay quốc tế Nội Bài, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm: Hà Nội , Hải Phòng, Quảng Ninh. Bắc Ninh có các trục đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh với các trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc, Việt Nam:
• Đường Quốc lộ 1A .
• Quốc lộ 1B mới.
• Quốc lộ 18: quốc lộ 18 sau khi cải tạo sẽ là đường giao thông rất thuận tiện đi sân bay quốc tế Nội Bài và đi cảng biển nước sâu Cái Lân ,Quảng Ninh.
• Quốc lộ 38.
• Tuyến đường sắt xuyên Việt đi Trung Quốc.
Bắc Ninh có đường sông thuận lợi nối với các vùng lân cận, như cảng biển Hải Phòng và các trung tâm kinh tế lớn ở miền Bắc. Bắc Ninh có tiềm năng kinh tế và văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Miền đất Kinh Bắc xưa là vùng đất địa linh nhân kiệt, quê hương của Kinh Dương Vương, Lý Bát Đế nơi hội tụ của kho tàng văn hoá dân gian. Có nhiều công trình văn hoá nghệ thuật đặc sắc với những làn điệu dân ca quan họ trữ tình đằm thắm, dòng nghệ thuật tạo hình, tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng với bạn bè trong và ngoài nước.

BẮC GIANG
Bắc Giang là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, giáp với nhiều tỉnh thành, phía Bắc giáp Lạng Sơn, phía đông giáp Quảng Ninh, phía Tây giáp Thái Nguyên, phía Nam giáp Bắc Ninh và Hải Dương. Tỉnh lỵ: thành phố Bắc Giang, cách Hà Nội 51 km.
Bắc Giang có diện tích tự nhiên 3.823 km², chiếm 1,2% diện tích tự nhiên của Việt Nam. Theo tài liệu năm 2000, trong tổng diện tích tự nhiên của Bắc Giang, đất nông nghiệp chiếm 32,4%; đất lâm nghiệp có rừng chiếm 28,9%; còn lại là đồi núi, sông suối chưa sử dụng và các loại đất khác.
Bắc Giang có địa hình trung du và là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi phía bắc với châu thổ sông Hồng ở phía nam. Tuy phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là núi đồi nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt nhiều. Khu vực phía bắc tỉnh là vùng rừng núi. Phía đông bắc có dãy Yên Tử, cao trung bình 300-900 m so với mặt biển, trong đó đỉnh cao nhất là 1.068 m; phía tây bắc là dãy Yên Thế, cao trung bình 300-500 m, chủ yếu là những đồi đất tròn trĩnh và thoải dần về phía đông nam. Tại vùng núi phía đông bắc tỉnh, giáp với Quảng Ninh có khu rừng nguyên sinh Khe Rỗ rộng 7153 ha với hệ động vật và thực vật phong phú, bao gồm 236 loài cây thân gỗ, 255 loài cây dược liệu, 37 loài thú, 73 loài chim và 18 loài bò sát.
Trên địa bàn Bắc Giang có 374 km sông suối, trong đó ba sông lớn là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu. Sông Lục Nam chảy qua vùng núi đá vôi nên quanh năm nước trong xanh. Sông Thương bắt nguồn từ hai vùng có địa hình và địa chất khác nhau nên nước chảy đôi dòng: bên đục, bên trong.
Ngoài sông suối, Bắc Giang còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và Khuôn Thần. Hồ Cấm Sơn nằm ở khu vực giáp tỉnh Lạng Sơn, dài 30 km, nơi rộng nhất 7 km và chỗ hẹp nhất 200m. Hồ Cấm Sơn có diện tích mặt nước 2.600 ha, vào mùa mưa có thể lên tới 3.000 ha. Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước 240 ha và lòng hồ có 5 đồi đảo được phủ kín bởi rừng thông 20 tuổi. Người ta có thể dạo chơi trên hồ Khuôn Thần bằng thuyền đạp chân hoặc thuyền gắn máy, vừa cùng người Sán Chỉ, Cao Lan, Nùng bản địa hát soong hao, vừa thưởng thức những sản phẩm độc đáo của địa phương như hạt dẻ, mật ong và rượu tắc kè.
Tỉnh Bắc Giang được thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1895, tách từ tỉnh Bắc Ninh, bao gồm phủ Lạng Giang, phủ Đa Phúc và các huyện Kim Anh, Yên Dũng, Phượng Nhỡn, Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế và một số tổng nằm ở phía nam sông Lục Nam. Tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương (nay là thành phố Bắc Giang). Năm 1896, phủ Đa Phúc và huyện Kim Anh được trả lại cho tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Bắc Giang nhập với Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc và đến ngày 01 tháng 1 năm 1997 lại tách ra như cũ

Làng nghề vàng bạc Châu Khê - Tỉnh Hải Dương
Làng vàng bạc Châu Khê thuộc xã Thúc Kháng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Châu Khê có 78.5 ha đất, trong đó chỉ có 63 ha đất canh tác. Dân số tăng chậm, do có một số người chuyển đi làm nghề nơi khác (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh...).
Theo số liệu thống kê trong Hương ước và địa bạ, cũng như số liệu của Uỷ ban nhân dân xã, số dân của Châu Khê là 600 khẩu vào năm 1900, trên 800 khẩu với 175 hộ vào năm 1983. Như vậy, bình quân đất canh tác chỉ khoảng hai sào Bắc bộ trên một đầu người. Người Châu Khê đã sớm nhận ra ý nghĩa của "nghề phụ" ngoài nghề nông, cho nên đời sống của họ rất khá giả. Có thể khẳng định rằng, chính nghề vàng bạc đã đưa làng quê này trở nên giàu có giữa vùng châu thổ sông Hồng, nơi tưởng như trù phú, nhưng thực tế luôn bị thiên tai, bão lụt, vỡ đê, mất mùa, đói kém đe dọa người nông dân.
Châu Khê có nghề vàng bạc nổi tiếng, lại có nghề vàng mã cũng được bán rộng rãi ở nhiều nơi trước đây.
Dần dần, từ nghề đúc bạc, thợ Châu Khê đã tiến tới nghề làm đồ trang sức vàng bạc (xưa gọi là kim hoàn).
Đến đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, nghề đúc bạc nén chuyển vào kinh đô Huế (Thuận Hoá). Nhưng phần lớn thợ Châu Khê vẫn ở lại Thăng Long (Hà Nội) làm nghề kim hoàn. Họ tập trung thành phường và xây dựng nên phố Hàng Bạc. Lúc này ở phố Hàng Bạc còn có cả thợ vàng Định Công và thợ bạc Đồng Xâm (Thái Bình) tới làm nghề, nhưng đông nhất vẫn là thợ vàng bạc Châu Khê. Người ta sản xuất, buôn bán bạc, kể cả đổi bạc nén lấy bạc vụn làm nguyên liệu. Cho nên vào những năm đầu thế kỷ XX, phố này còn có tên tiếng Pháp: Rue des Changeus (phố đổi bạc).
Ngày nay, khi qua phố Hàng Bạc ở Thủ đô Hà Nội, bạn cần biết mấy địa điểm: số nhà 58-xưa là Tràng Đúc bạc nén; số nhà 50 (trước là Đình Thượng) và số 42 (là Đình Hạ)-xưa là Ty Quan (cơ quan đại diện của Triều đình) thu nhận bạc nén thành phẩm. Người Châu Khê làm việc ở đây khá đông, tới mức đóng thuế đinh 300 suất (vào cuối thế kỷ XIX). Ngoài hai ngôi đình họ còn mua thêm đền Nội Miếu của phường thợ giầy Tam Lâm (phường Hài Tượng). Đó là những nơi hội họp và thờ thành hoàng của họ (gọi tên chữ là "Châu Khê vọng sở").

An Sơn Miếu
An Sơn miếu là một ngôi miếu cổ trên đảo Côn Sơn. Miếu được xây từ năm 1785, (sau đó được xây dựng lại vào năm 1958) để thờ bà Phi Yến, vợ của chúa Nguyễn Ánh (sau này trở thành vua Gia Long).
Ngôi miếu này rất linh thiêng đối với những người dân trên đảo và nó gắn liền với một câu chuyện bi thương của người phụ nữ tài sắc, giàu lòng yêu nước. Năm 1783, sau khi thua quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh mang theo vợ, con và khoảng 100 gia đình thuộc hạ chạy ra đảo Côn Sơn. Cùng với những người dân chài đang sinh sống ở Côn Sơn, Nguyễn Ánh đã lập nên 3 làng là An Hải, An Hội và Cỏ Ống. Để đánh lại quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh dự định gửi con cả là Hoàng tử Cảnh đi theo cố đạo Pháp (Bá Đa Lộc) sang Pháp cầu viện. Bà Phi Yến (Lê Thị Răm là vợ thứ của Nguyễn Ánh đã can ngăn chồng, đừng làm việc "cõng rắn cắn gà nhà" để người đời chê trách.
Nguyễn Ánh không những không nghe lời khuyên của bà mà còn tức giận, nghi bà thông đồng với quân Tây Sơn, nên định giết bà. Nhờ quân thần can xin, Nguyễn Ánh đã tống giam bà vào một hang đá trên đảo Côn Lôn nhỏ. Khi quân Tây Sơn đánh ra đảo, Nguyễn Ánh bỏ chạy ra biển. Hoàng tử Cải (còn gọi là Hoàng tử Hội An), con bà Phi Yến lúc đó mới 4 tuổi đòi mẹ đi cùng. Trong cơn tức giận Nguyễn Ánh đã ném con xuống biển. Xác hoàng tử Cải đã trôi vào bãi biển Cỏ Ống. Dân làng đã chôn cất hoàng tử. Bà Phi Yến, theo truyền thuyết được một con vượn và một con hổ cứu ra khỏi hang và về sống với dân làng Cỏ Ống để trông nom mộ hoàng tử Cải. Một lần, sau khi bị một kẻ xấu xúc phạm, bà đã tự tử để thủ tiết với chồng.
Nhân dân trên đảo vô cùng thương tiếc bà, đã lập nên ngôi miếu to đẹp để thờ bà. Năm 1861, Pháp sau khi chiếm đảo đã quyết định di toàn bộ dân vào đất liền để xây nhà tù. Ngôi miếu bị đổ nát dần. Năm 1958, nhân dân trên đảo đã xây dựng lại ngôi miếu trên nền cũ.

BẮC NINH
Bắc Ninh là cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, gần sân bay quốc tế Nội Bài, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm: Hà Nội , Hải Phòng, Quảng Ninh. Bắc Ninh có các trục đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh với các trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc, Việt Nam:
• Đường Quốc lộ 1A .
• Quốc lộ 1B mới.
• Quốc lộ 18: quốc lộ 18 sau khi cải tạo sẽ là đường giao thông rất thuận tiện đi sân bay quốc tế Nội Bài và đi cảng biển nước sâu Cái Lân ,Quảng Ninh.
• Quốc lộ 38.
• Tuyến đường sắt xuyên Việt đi Trung Quốc.
Bắc Ninh có đường sông thuận lợi nối với các vùng lân cận, như cảng biển Hải Phòng và các trung tâm kinh tế lớn ở miền Bắc. Bắc Ninh có tiềm năng kinh tế và văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Miền đất Kinh Bắc xưa là vùng đất địa linh nhân kiệt, quê hương của Kinh Dương Vương, Lý Bát Đế nơi hội tụ của kho tàng văn hoá dân gian. Có nhiều công trình văn hoá nghệ thuật đặc sắc với những làn điệu dân ca quan họ trữ tình đằm thắm, dòng nghệ thuật tạo hình, tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng với bạn bè trong và ngoài nước.

BẮC GIANG
Bắc Giang là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, giáp với nhiều tỉnh thành, phía Bắc giáp Lạng Sơn, phía đông giáp Quảng Ninh, phía Tây giáp Thái Nguyên, phía Nam giáp Bắc Ninh và Hải Dương. Tỉnh lỵ: thành phố Bắc Giang, cách Hà Nội 51 km.
Bắc Giang có diện tích tự nhiên 3.823 km², chiếm 1,2% diện tích tự nhiên của Việt Nam. Theo tài liệu năm 2000, trong tổng diện tích tự nhiên của Bắc Giang, đất nông nghiệp chiếm 32,4%; đất lâm nghiệp có rừng chiếm 28,9%; còn lại là đồi núi, sông suối chưa sử dụng và các loại đất khác.
Bắc Giang có địa hình trung du và là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi phía bắc với châu thổ sông Hồng ở phía nam. Tuy phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là núi đồi nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt nhiều. Khu vực phía bắc tỉnh là vùng rừng núi. Phía đông bắc có dãy Yên Tử, cao trung bình 300-900 m so với mặt biển, trong đó đỉnh cao nhất là 1.068 m; phía tây bắc là dãy Yên Thế, cao trung bình 300-500 m, chủ yếu là những đồi đất tròn trĩnh và thoải dần về phía đông nam. Tại vùng núi phía đông bắc tỉnh, giáp với Quảng Ninh có khu rừng nguyên sinh Khe Rỗ rộng 7153 ha với hệ động vật và thực vật phong phú, bao gồm 236 loài cây thân gỗ, 255 loài cây dược liệu, 37 loài thú, 73 loài chim và 18 loài bò sát.
Trên địa bàn Bắc Giang có 374 km sông suối, trong đó ba sông lớn là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu. Sông Lục Nam chảy qua vùng núi đá vôi nên quanh năm nước trong xanh. Sông Thương bắt nguồn từ hai vùng có địa hình và địa chất khác nhau nên nước chảy đôi dòng: bên đục, bên trong.
Ngoài sông suối, Bắc Giang còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và Khuôn Thần. Hồ Cấm Sơn nằm ở khu vực giáp tỉnh Lạng Sơn, dài 30 km, nơi rộng nhất 7 km và chỗ hẹp nhất 200m. Hồ Cấm Sơn có diện tích mặt nước 2.600 ha, vào mùa mưa có thể lên tới 3.000 ha. Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước 240 ha và lòng hồ có 5 đồi đảo được phủ kín bởi rừng thông 20 tuổi. Người ta có thể dạo chơi trên hồ Khuôn Thần bằng thuyền đạp chân hoặc thuyền gắn máy, vừa cùng người Sán Chỉ, Cao Lan, Nùng bản địa hát soong hao, vừa thưởng thức những sản phẩm độc đáo của địa phương như hạt dẻ, mật ong và rượu tắc kè.
Tỉnh Bắc Giang được thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1895, tách từ tỉnh Bắc Ninh, bao gồm phủ Lạng Giang, phủ Đa Phúc và các huyện Kim Anh, Yên Dũng, Phượng Nhỡn, Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế và một số tổng nằm ở phía nam sông Lục Nam. Tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương (nay là thành phố Bắc Giang). Năm 1896, phủ Đa Phúc và huyện Kim Anh được trả lại cho tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Bắc Giang nhập với Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc và đến ngày 01 tháng 1 năm 1997 lại tách ra như cũ

 Thành phố Bắc Giang

Là trung tâm hành chính của tỉnh Bắc Giang, nằm cách Hà Nội 50 km.
Thị xã Bắc Giang trở thành thành phố Bắc Giang theo Nghị định Chính phủ số 75/2005/NĐ-CP ngày 7 tháng 6 năm 2005. Hiện thành phố được xếp là đô thị loại III và đang phấn đấu để trở thành đô thị loại II vào năm 2010.
Khi thành lập, thành phố Bắc Giang có 32,21 km2 diện tích tự nhiên, 126.810 nhân khẩu, và có 11 đơn vị hành chính trực thuộc là các phường: Trần Phú, Ngô Quyền, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ, Mỹ Độ, Trần Nguyên Hãn, Thọ Xương và các xã: Dĩnh Kế, Xương Giang, Đa Mai, Song Mai.

Thị Trấn Kép
Từ thành phố Bắc Giang theo quốc lộ 1A 20km là đến thị trấn Kép, thuộc đia phận tỉnh Bắc Giang.
Đây cũng là nơi gặp gỡ của tuyến đường sắt Hà Nội- Trung Quốc và tuyến Thái Nguyên- Hạ Long, và cũng là nơi giao lưu gặp gỡ của quốc lộ 1A và quốc lộ 37 từ Sao Đỏ đi Tuyên Quang.
Nơi đây trong thời kì chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược đã tồn tại một sân bay rất quan trọng của ta đó là sân bay Kép.

Sân bay Kép
Là sân bay cấp II, thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang.
Sân bay Kép là một sân bay chiến đấu quan trọng của Việt Nam trong thời kỳ bảo vệ Miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong kháng chiến chống Mỹ và trong cuộc chiến tranh với Trung Quốc năm 1979. Kép được xác định là một khu vực phòng thủ chiến lược. Trong thời kỳ này toàn bộ Bộ Tư lệnh quân đoàn 2 - Quân đoàn chiến lược hùng mạnh nhất của Việt Nam đã đặt trung tâm chỉ huy tại đây. Khu vực này được ví như một lá chắn phòng không cho Hà Nội từ phía Đông và phía Bắc với các trung đoàn pháo cao xạ và các trung đoàn tên lửa phòng không Volga. Hiện nay sân bay Kép đang được nâng cấp để có thể đáp ứng cho các nhu cầu cần thiết trong tương lai.

Thông số kỹ thuật
• Chiều dài đường cất hạ cánh: +chính 2.200 m, phụ 1.700 m;
• Chiều rộng đường cất hạ cánh: +chính 45 m, phụ 18 m;
• Kích thước đường lăn chính: 2.400x14 m;
• Kết cấu đường hạ, cất cánh: bê tông xi măng và bê tông nhựa;
• Sân đỗ máy bay: 3 khu;
• Số máy bay thường trực chiến đấu: 10 chiếc;
• Máy bay chiến đấu chính: MiG 23;
• Sức chứa máy bay: 30 chiếc;
• Hướng phát triển: có thể kéo dài đường cất hạ cánh từ 1.500 đến 2.000 m.

Lạng Sơn
Là nơi địa đầu Tổ quốc, Lạng Sơn là tỉnh có nhiều danh lam thắng cảnh, non nước hữu tình, có nhiều di tích lịch sử với nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, nơi có di tích văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Mai Pha. Các danh lam thắng cảnh cùng nhiều di tích lịch sử, văn hóa là những tiềm năng to lớn cho việc phát triển du lịch của tỉnh Lạng Sơn, làm cho Lạng Sơn có sức cuốn hút lạ kỳ với du khách.
Lạng Sơn có diện tích 8.187,25 km2, gồm 8 dân tộc: Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, Cao Lan, H’Mông.
Lạng Sơn là một thị trấn biên giới sầm uất và lâu đời nhất của VN. Hiện nay Lạng Sơn được du khách trong nước biết đến vì có nhiều các hang động, đền chùa cổ kính và vì có các chợ đông đúc, nhiều mặt hàng giá rẻ. Ở phường Tam Thanh có dấu tích của thành nhà Mạc, có động Tam Thanh và Nhị Thanh, có hòn Vọng Phu mang hình nàng Tô Thị ôm con chờ chồng. Ở phường Chi Lăng có chợ Đông Kinh sầm uất, có động Chùa Tiên, đền Ngũ Nhạc, đền Quan Tam Phủ, chùa Thành. Ở phường Vĩnh Trại có đền Kỳ Cùng, đền Tả Phủ.

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải vui quên hết lời em dặn dò.

Đoạn ca dao từ ngàn xưa để lại đã vẽ lên một Lạng Sơn (Xứ Lạng) thật đẹp. Ngày nay, Lạng Sơn đâu chỉ có thị trấn Đồng Đăng và phố chợ Kỳ Lừa sầm uất, có tượng đá thiên nhiên nàng Tô Thị bồng con tạc vào mênh mông trời đất ngàn đời hình ảnh người phụ nữ Việt Nam son sắt thủy chung. Lạng Sơn còn có một số chợ vùng biên suốt ngày nườm nượp người xe; có núi, sông hùng vĩ với hàng chục hang động kỳ ảo: Nhị Thanh, Hang Gió, Động Tiên...; có khu nghỉ mát Mẫu Sơn nổi tiếng; có những di tích lịch sử gắn liền với những chiến công hiển hách chống giặc ngoại xâm: Mục Nam Quan, Ải Chi Lăng, Thành Nhà Mạc, căn cứ cách mạng Bắc Sơn, quê hương người anh hùng Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri...; có 8 dân tộc anh em thuận hòa chung sống mà mỗi dân tộc là một kho tàng văn hóa truyền thống đặc sắc được giữ gìn và phát triển qua hàng ngàn năm lao động sáng tạo và tiếp thu tinh hoa thời đại.

Sông Thương
Là sông lớn thứ hai của Lạng Sơn, bắt nguồn từ dãy núi Na Pa Phước (huyện Chi Lăng) chảy trong máng trũng Mai Sao - Chi Lăng và trên địa phận tỉnh Bắc Giang.
Độ dài : 157 km.
Diện tích lưu vực : 6640 km2 .

Sông Trung
Độ dài: 65 km, là một nhánh của sông Thương bắt đầu từ Hữu Lũng chảy về Thái Nguyên.
Diện tích lưu vực : 1270 km2

Sông Kỳ Cùng
Là một con sông ở tỉnh Lạng Sơn, chảy sang Trung Quốc và là một chi lưu của sông Tây Giang.
Bắt nguồn từ vùng núi Bắc Xa cao 1166 m thuộc huyện Đình Lập (Lạng Sơn), thuộc lưu vực sông Tây Giang Trung Quốc, sông Kỳ Cùng chảy qua thành phố Lạng Sơn rồi chảy sang Trung Quốc, hợp lưu với sông Bằng Giang tại thị trấn Long Châu, Quảng Tây, Trung Quốc, thành Tả Giang, một nhánh của Tây Giang. Sông Kỳ Cùng dài 243 km, diện tích lưu vực: 6660 km².
Sông Kỳ Cùng có các chi lưu là sông Bắc Giang, sông Bắc Khê, sông Ba Thín...
Đây là con sông duy nhất ở miền Bắc Việt Nam chảy theo hướng Đông Nam - Tây Bắc, do vậy mảnh đất xứ Lạng còn được gọi là "nơi dòng sông chảy ngược".

Động Nhị, Tam Thanh (Lạng Sơn)
Danh thắng Nhị, Tam Thanh nằm trải dài theo dãy núi vòng cung phía Tây Bắc của thành phố Lạng Sơn và được mệnh danh là Đệ nhất bát cảnh Xứ Lạng, gồm 4 điểm là: Động Nhị Thanh, Động Tam Thanh, Thành nhà Mạc và Nàng Tô Thị.
Danh thắng Nhị Thanh được phát hiện và tôn tạo bắt đầu từ cuối thế kỷ 18 do công của Ngô Thì Sỹ - một vị quan triều Lê, được cử lên Lạng Sơn làm quan Đốc Trấn. Bên cạnh việc chăm lo giữ gìn biên ải và an dân, ông đã phát hiện ra động Nhị Thanh, đặt tên cho động đồng thời cho tôn tạo, biến nơi đây thành một nơi sinh hoạt văn hoá tinh thần của nhân dân. Việc sửa sang động Nhị Thanh được tiến hành vào năm 1779, sau đó Ngô Thì Sỹ lập ra chùa Tam Giáo nằm ở thế đất cao bên phải cửa động. Chùa thờ 3 vị Thánh của 3 đạo là Khổng Tử (Đạo Nho), Đức Phật Tổ Thích Ca (Đạo Phật) và Tổ Đạo Lý Lão 13

 Truyền thuyết về nàng Tô Thị:

Ngày xưa, ở thị trấn Kinh Bắc có một người đàn bà góa chồng từ sớm, ngày ngày đi mò cua, bắt ốc để nuôi hai con, một trai, một gái. Trong khi mẹ chúng ra đồng, Tô Văn, đứa con trai độ mười tuổi và Tô Thị, con gái chừng tám tuổi, ở nhà tha hồ đùa nghịch với nhau, không ai kiềm chế nổi.
Một hôm, Tô Văn chơi ném đá, rồi không biết thế nào ném trúng ngay vào giữa đầu em. Tô Thị ngã vật xuống đất chết ngất đi, máu ra lênh láng. Tô Văn thấy thế sợ quá, chạy thẳng một mạch ra đường không còn dám ngoái cổ lại.
May sao, sau khi xảy ra tai nạn, một bà hàng xóm biết chuyện chạy sang cứu Tô Thị cầm được máu. Đến khi người mẹ trở về thì con gái đã ngồi dậy được.
Nhưng còn Tô Văn thì biệt tăm, ngày một ngày hai cũng không thấy trở về, tìm khắp nơi mà không thấy. Người mẹ nhớ con trai, buồn phiền ngày một héo hon, chẳng bao lâu ốm nặng rồi qua đời, bỏ lại Tô Thị một mình. Đứa con gái nhỏ được hai vợ chồng người láng giềng nhận đem về nuôi. Sau đó ít lâu, họ dời lên xứ Lạng để làm ăn nên đem Tô Thị đi theo.
Lớn lên, Tô Thị xinh đẹp lại nết na, siêng năng, nên rất được nhiều người để ý. Dành dụm được ít vốn, nàng xin phép bố mẹ cho nàng được mở một cửa hàng buôn bán, hai vợ chồng người hàng xóm thấy con mình đã trưởng thành nên đều ưng thuận. Học được nghề làm nem từ bố mẹ, Tô Thị liền mở cửa hàng nem ở hàng Cưa tại chợ Kỳ Lừa. Nàng làm nem rất khéo. Cửa hàng của nàng mỗi ngày một đông khách. Người ta đến thưởng thức nem ngon, nhưng cũng có người vừa thích nem lại vừa yêu bóng yêu gió nàng. Chiều khách thì thật là khéo chiều, nhưng nàng rất đứng đắn làm cho mọi người càng thêm vị nể.
Thấm thoát Tô Thị đã hai mươi tuổi. Tuy có nhiều mối manh, nhưng nàng chưa thuận nơi nào.
Một hôm, có một thanh niên tuổi ngoài hai mươi vẻ ngoài tuấn tú, đem thuốc Bắc từ Cao Bằng về Lạng Sơn bán. Nghe nói ở hàng Cưa tại Kỳ Lừa có hàng nem ngon lại có chỗ cho trọ rộng rãi, chàng thanh niên liền tìm đến. Chàng thấy nem quả thật là ngon và cô bán hàng cũng thật tươi giòn. Biết cửa hàng một hai lần rồi cứ mỗi lần mang thuốc về Lạng Sơn bán, chàng lại đến hàng nem. Chàng thanh niên và Tô Thị trở nên thân thiết, trước còn mến, sau yêu nhau. Hai người lấy nhau được hơn một năm thì Tô Thị có mang sinh được một gái. Hai người yêu nhau rất mực. Lại thêm mụn con mối tình càng khăng khít.
Một hôm người chồng về nhà, thấy vợ đang gội đầu ở ngoài hè. Anh bế con ngồi trên bậc cửa xem vợ gội đầu, kể đôi câu chuyện vặt cho vợ nghe. Chợt nhận thấy đầu vợ có cái sẹo to, anh nói:
- Đầu em có cái sẹo to, thế mà bây giờ anh mới biết.
- Bây giờ anh mới biết à? Anh cho là xấu phải không? - Tô Thị hỏi.
- Có xấu gì đâu! Tóc che, có ai mà biết ! Em đau nhọt hay sao mà lại có cái sẹo to thế ?
Thấy chồng hỏi một cách vui vẻ, nhân vui câu chuyện. Tô Thị mới kể tỉ mỉ cho chồng nghe những gì xảy ra hồi còn bé. Trấn Kinh Bắc, nơi quê cũ, người anh đi mất tích, mẹ chết, theo vợ chồng người chủ quán lên xứ Lạng, rồi ở luôn đấy cho đến bây giờ. Câu chuyện càng đi sâu, người chồng càng lộ vẻ buồn.
Biết bao đau thương buồn thảm. Chàng tự nhủ thầm: "sao mình không là một kẻ khác mà lại là Tô Văn. Thôi mình đã lấy nhầm em ruột rồi". Chàng hồi nhớ lại những ngày xa xăm, cái ngày chàng đã lỡ tay ném đá vào đầu em, tưởng em chết nên đã đi lang thang không dám trở về nhà, rồi được một người buôn thuốc bắc đem về nuôi ở Trùng Khánh, thuộc tỉnh Cao Bằng. Lớn lên, Văn theo họ bố nuôi là Lý. Chàng thường đem hàng xuống Lạng Sơn bán và chỉ ở đây một vài ngày là hết hàng. Ngoài con đường Lạng Sơn - Cao Bằng - Lạng Sơn chàng cũng không đi đến đâu cả. Hơn mười năm qua, chàng yên trí gia đình ở miền xuôi chắc không còn một ai nữa, quê cũ đối với chàng bây giờ như trong sương mù, không còn nghĩ về đó làm gì.
Văn nghĩ ngợi, rầu rĩ, nhưng Tô Thị mải chải đầu, quấn tóc, không để ý đến. Nàng vẫn vui vẻ, hồn nhiên, không biết chồng mình đang ở những phút buồn phiền ghê gớm. Thấy Tô Thị ngây thơ, vui vẻ như thế. Tô Văn càng không muốn cho nàng biết sự thực. Ai lại để cho một người em gái mình còn non trẻ như thế kia biết được một vụ loạn luân như thế bao giờ! Một việc loạn hôn không do ý hai người định, nhưng chàng quyết tâm giải quyết cho xong. Thôi hay lại đi biệt chuyến nữa, em gái mình trẻ trung, xinh đẹp dường ấy, làm gì chả lấy được một người chồng khác. Văn nghĩ thế, rồi anh tìm cách để đi.
Giữa lúc tâm trạng Văn như thế thì có việc bắt lính thú. Anh xin đăng lính, không bàn với vợ nửa lời. Mãi đến lúc sắp lên đường, anh mới nói với vợ:
Anh đã đăng lính rồi, em ạ! Sớm mai lên đường. Đi chuyến này ba năm, có khi sáu năm mới về và cũng có khi lâu hơn. Em ở nhà nuôi con, còn về phần em, em cứ định liệu.
Tô Thị nghe chồng nói như sét đánh ngang tai, không hiểu sao đang sống yên vui với nhau mà chồng mình lại bỏ đi một cách quái gở như thế. Nàng khóc ấm ức, khóc hoài, khóc mãi không nói nửa lời. Còn Văn chỉ những bứt rứt âm thầm cho việc mình đi như vậy là giải thoát.
Từ ngày chồng đi rồi. Tô Thị chẳng thiết gì đến việc bán hàng, ngày ngày nàng bế con lên chùa Tam Thanh cầu cho chồng đi được bình yên, chóng đến ngày về lại cùng nhau sum họp. Nhưng ba năm qua, bốn năm qua, nàng cũng chẳng thấy chồng về. Có mấy kẻ cho là chồng nàng chết, muốn hỏi nàng về làm vợ, nhưng nàng nhất định chối từ. Có một tên kỳ hào có tiếng hống hách trong vùng muốn hỏi nàng làm vợ kế. Hắn có thế lực và rất tàn nhẫn. Nàng thương con còn thơ dại không dám chối từ ngay, sợ rước vạ vào thân nên tìm cách khất lần. Nhưng khất lần mãi cũng không được, nên cuối cùng nàng hẹn với lão một kỳ hạn, để sau này tìm mưu kế khác. " Biết đâu đến ngày ấy chồng mình lại chả về!", nàng nghĩ thế. Rồi kỳ hạn cũng hết, nàng trông đợi chồng đến đỏ con mắt mà vẫn không thấy về cho. Nàng ôm con lên Chùa Tam Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời bỗng nổi cơn giông. Nàng nhớ chồng, thương thân, bế con ra ngoài chùa, trèo lên một mỏm đá cao chót vót nhìn về hướng chồng đi. Mây đen kéo đầy trời. Gió rít lên từng hồi qua khe đá. Mưa như trút nước. Chớp lóe khắp núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nhìn về hướng chồng đi. Toàn thân quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một lớn. Tô Thị vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao chót vót.
Sáng hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời tỏa ánh sáng xuống núi rừng. Rất nhiều người dân xung quanh khi nhìn lên đỉnh núi thì thấy nàng Tô Thị bế con đã hóa đá từ bao giờ. Ngày nay hòn đá ấy vẫn còn ở tỉnh Lạng Sơn, gây cho khách tham quan nhiều nỗi vấn vương khi nhớ lại câu chuyện truyền kỳ éo le của một thời. Vẫn còn đó câu ca dao xưa :

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.

Thành Nhà Mạc
Nằm trong khu vực phường Tam Thanh thị xã Lạng Sơn, dấu tích hiện nay còn lại gồm 2 đoạn tường xây bằng đá giữa hẻm núi.
Đây là di tích kiến trúc quân sự phản ánh thời kỳ phong kiến Việt Nam. Hiện nay di tích thành Nhà Mạc đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia và được đầu tư, tôn tạo đưa vào phục vụ khách du lịch tham quan.

Mẫu Sơn
Cách thị xã Lạng Sơn khoảng 30km, Mẫu Sơn với một quần thể 80 ngọn núi lớn nhỏ sẽ là một khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng mới.
Nằm ở độ cao trung bình 800 - 1.000m so với mặt biển, có tổng diện tích hơn 10.470ha, Mẫu Sơn gần như nằm trong sương mù quanh năm, tại đây vẫn còn giữ được 5.380ha rừng, trong đó có hơn 1.540ha rừng nguyên sinh với nhiều loại cây quý hiếm. Lên đến đỉnh Mẫu Sơn, du khách sẽ có được cảm giác như đang lạc vào vùng rừng núi cổ xưa, với tiết trời lành lạnh và mây trắng bao phủ. Đây không chỉ là một khu sinh thái nghỉ dưỡng mà còn thích hợp với những ai thích leo núi và thám hiểm.
Dọc con đường quanh co dài 16km lên đỉnh Mẫu Sơn được xây từ những năm 1925-1926, một bên là vách núi, một bên là thung lũng, vào mùa xuân, khách du lịch có thể ngắm bích đào nở đỏ rực trong lòng thung lũng, mùa hè, Mẫu Sơn nổi tiếng với loại đào tiên, quả to, thịt dày, rất thơm. Du khách đến Mẫu Sơn có thể nghỉ tại khu nhà nghỉ được xây trên nền những biệt thự cũ thời Pháp thuộc, mang những nét cổ kính và hoà mình vào núi rừng đất Lạng. Với quần thể 80 ngọn núi lớn nhỏ kéo dài, Mẫu Sơn đã góp thêm một tên mới trong danh sách các điểm du lịch của Việt Nam.

Huyền thoại về mẫu sơn
Chuyện người xưa kể lại: gia đình họ gồm người cha khoẻ mạnh và dũng cảm, người mẹ khéo léo, chung thuỷ và đảm đang, những người con tuy nhỏ tuổi nhưng ngoan ngoãn. Họ sống hoà thuận và no đủ trong một mái nhà trên vùng núi quanh năm mây phủ, có con sông Kỳ Cùng chảy vòng quanh.
Một ngày nọ, có quân ngoại xâm đến xâm lược. Vâng mệnh nhà Vua, người cha cưỡi ngựa, cầm gươm, vác giáo theo đoàn quân của nhà Vua ra trận chiến đấu bảo vệ bờ cõi biên cương.
Rồi một ngày cuối Đông, người Cha cũng đã trở về, sau khi đã dũng cảm chiến đấu cùng Đại quân của nhà Vua đánh tan giặc xâm lăng, được nhà Vua ban tặng cho nhiều phần thưởng cao quý và được giải ngũ. Về với gia đình trong niềm vui khôn tả của người Mẹ và các con, người Cha tưởng rằng từ đây gia đình lại tiếp tục cuộc sống êm ấm, vui vẻ như những năm xưa. Nào có ai ngờ từ đây bắt đầu một huyền thoại bi tráng.
Chuyện bắt đầu từ một gia nhân trong gia đình, khi người Cha đi vắng đã đem lòng yêu người Mẹ nhưng hễ cứ ngỏ lời thì lại bị Người Mẹ cương quyết từ chối. Trong thời gian đó, có chàng thanh niên tên Chóp Chài quê ở gần đó, hoàn cảnh nhà nghèo khó nhưng chăm chỉ và tốt bụng, vẫn thình thoảng qua lại bản buôn bán và giúp đỡ nhiều người trong bản, nhiều hôm do mải làm việc, khi định về nhà thì trời đã tối, thời ấy nếu đường xá xa xôi, cọp beo rừng hung dữ không thể đi đêm về hôm được nên chàng Chóp Chài vẫn thường xin được ăn cơm và ngủ lại nhà ba mẹ con, chờ hôm sau trời sáng mới về. Nghĩ chàng Chóp Chài là người làm ăn chăm chỉ và tốt bụng nên ba mẹ con cùng yêu quý, hay giúp đỡ chàng.
Không được đáp lại tình yêu còn bị khinh miệt, những ghen ghét, xấu hổ và hằn học chất chứa trong lòng ngày càng lớn, gã gia nhân luôn nung nấu ý định trả thù người mẹ. Vì vậy, ngay sau buổi cả bản đón người cha trở về, gã đê tiện kia đã thưa với người cha rằng trong những năm tháng người cha đi ra trận, người mẹ ở nhà có tình ý với Chóp Chài, không còn giữ lòng trung thuỷ với chồng. Giận quá hoá mất khôn, không nén nổi nỗi bực tức và không bình tĩnh nghe lời can ngăn của bất cứ ai, người cha rút gươm kề ngay vào cổ vợ mà đòi dẫn đi tìm bắt người thanh niên Chóp Chài để giết chết cả hai người cho hả nỗi hận trong lòng. Nhưng ngày hôm đó Chóp Chài ở nhà, không đến bản bán hàng. Người mẹ nước mắt lưng tròng, thanh minh hết lời về nỗi oan khuất của mình nhưng người cha không hề rung động. Cuối cùng, người mẹ chỉ kịp đề nghị người cha để những đứa con của mình chạy ra khỏi nhà, quay mặt đi nơi khác để không nhìn thấy cảnh đầu rơi máu chảy rồi vén tóc cúi đầu để người cha ra tay. Máu của người mẹ đã đổ xuống chảy tràn trên đất, chảy mãi thành suối, thành sông.
Sau cơn cuồng giận, người cha chợt tỉnh ngộ, nhận ra sự nóng giận vô lý đã cướp mất người vợ yêu thương nhất mực thuỷ chung và đảm đang của mình. Người cha vạch áo vợ lên xem bụng, thấy những dấu tích ngày nào vẫn vẹn nguyên, chứng tỏ người vợ bị oan khuất, bèn vác gươm tìm kẻ gia nhân ty tiện kia trừng phạt nhưng hắn đã cao chạy, xa bay. Người cha tột cùng đau khổ đã gọi các con quay trở về, lập miếu thờ người vợ yêu quý của mình và đêm ngày gào thét cầu xin người vợ được sống lại.
Sau khi hồn lìa khỏi xác, người mẹ tìm lên Trời, đòi gặp Ngọc Hoàng Thượng Đế để kể về nỗi oan khuất và mong Người giải oan cho mình. Ngọc Hoàng bèn cử bảy nàng tiên bay xuống trần gian, giả làm người trần để tìm hiểu sự việc. Các nàng tiên đã đáp xuống vùng đất rừng rậm rạp của bản, sau nhiều thời gian xác minh, các nàng tiên trở về tâu lại với Ngọc Hoàng sự thực. Nay người cha rất hối hận và mong Ngọc Hoàng cho gia đình họ khi sống được gần nhau, khi chết cũng được ở bên nhau. Ngọc Hoàng đã chấp nhận lời đề nghị của các nàng tiên. Vì vậy sau khi chết, gia đình họ được chôn cất gần nhau, sau này những ngọn núi mọc cao lên, mang tên Núi Cha, Núi Mẫu, Núi Con, Núi Cháu. Cả khu vực cảnh quan thiên nhiên kỳ vỹ san sát những ngọn núi cao vời vợi đó luôn xanh mát màu xanh cây lá, quanh năm khí hậu tốt lành và ưu đãi cho con người sống ở đây nhiều sản vật quý báu, họ luôn yêu thương, thân thiện và chuyên cần với cuộc sống mà cha ông họ đã để lại.
Những giọt máu đào của người Mẹ đổ xuống đã rải đỏ trên các triền núi mỗi mùa Xuân về, thấm trên những cánh hoa Bích đào đỏ thắm trong sương mù, huyền ảo và quyến rũ. Đảo Mẫu Sơn nổi tiếng trong thiên hạ không chỉ bởi vị thơm ngon mà có lẽ cũng vì vẻ đẹp tuyệt diệu của những cánh hoa và cái cách phát triển đặc biệt độc đáo của trái đào: hình thành quả từ sau khi hoa rụng, trái Đào tiên đỏ rực như trái ớt chín, khi lớn lên chúng mới dần trở nên hồng nhạt.
Vùng núi Mẫu Sơn hiện có hơn chục dòng suối chảy từ khu vực đỉnh núi xuống xung quanh và đều chảy vào sông Kỳ Cùng. Phía Bắc có suối Pắc Đây, Làng Kim, Co Khuông, Khuổi Phiêng, Khuổi Luông. Phía Nam có Khuổi Lầy, Khuổi Tẳng, Khuổi Cấp, Nà Mẫu, Lặp PJạ, Bản Khoai. Đó là máu oan khuất của người Mẹ, nước mắt hối hận của Người Cha. Mỗi dòng suối đều có vẻ đẹp riêng, là nguồn sống của hàng trăm hộ dân sinh sống quanh vùng. Thứ nước nguồn thấm đẫm mối tình oan khuất và đau khổ này làm nên sự nổi tiếng của rượu Mẫu Sơn, làm nên chất lượng tuyệt hảo của chè Mẫu Sơn.

 Ải Chi Lăng

Ải Chi Lăng - vùng đất địa linh nhân kiệt và rực rỡ chiến công ở miền biên ải phía Bắc của tổ quốc. Với địa thế hiểm yếu, Ải Chi Lăng được coi là bức tường thành của kinh thành Thăng Long trong việc chặn đứng các cuộc viễn chinh khét tiếng từ phương Bắc tràn sang. Chi Lăng là ải có quy mô hoành tráng và đồ sộ chạy dài gần 20km, rộng 3km nối liền hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Ải Chi Lăng là thắng cảnh được bao bọc bởi dãy núi đá Kai Kinh ở phía Tây và dãy núi Bảo Đài ở phía Đông. Hai đầu ải có những ngọn núi đá độc lập, cao chót vót tạo thành thế hiểm. Lịch sử oai hùng của Chi Lăng gắn liền với những hoạt động của các nhà quân sự thiên tài như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn và những thủ lĩnh tài năng của xứ Lạng: Phò mã Thân Cảnh Phúc, Thế Lộc, Hoàng Đại Huề...
Vào những năm trước và sau công nguyên, Ải Chi Lăng đã gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, đấu tranh chống các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm lược. Thế kỷ XIV, tể tướng nhà Trần là Phạm Sư Mạnh khi cưỡi ngựa qua biên ải đã hạ một câu thơ bất hủ: "Chi Lăng ải hiểm tựa lên trời".
Năm 1077, phụ quốc Thái uý Lý Thường Kiệt đi thân hành về Chi Lăng gặp phò mã Thân Cảnh Phúc bàn bạc việc binh. Với chiến tuyến Quyết Lý và Giáp Khẩu (Chi Lăng), Thân Cảnh Phúc và quân dân xứ Lạng đã góp sức đánh tan bọn xâm lược Tống lần thứ hai.
Thế kỷ XIII, cả thế giới kinh hoàng trước vó ngựa của đế quốc Nguyên Mông. Tuy nhiên, năm 1284, khi cánh quân Nguyên qua Ải Chi Lăng đã bị quân ta chặn đánh kịch liệt và tướng Nguyên là Nghê Nhuận bị giết chết tại chỗ. Chính Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đã thể hiện thiên tài quân sự của ông ở đây: bằng hố bẫy ngựa, phục binh của ta từ dưới hố dùng mã tấu phạt đứt chân ngựa, tách bọn Nguyên Mông thiện chiến ra khỏi ngựa mà tiêu diệt chúng...
Thế kỷ XV, Ải Chi Lăng lại ghi vào lịch sử Việt Nam một trang chói lọi, đó là chiến thắng 1427, giết chết Nguyên soái An Viễn hầu Liễu Thăng - chủ tướng của giặc cùng 1 vạn quân Minh, góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Minh, giải phóng đất nước. Thế kỷ XVIII, dưới thời Hoàng đế Quang Trung - một nhà quân sự thiên tài, Chi Lăng lại một lần nữa cùng quân dân cả nước đánh tan tành quân xâm lược nhà Thanh... Vào các thế kỷ XIX và XX, Ải Chi Lăng lại chứng kiến những chiến công đánh Pháp, đuổi Nhật của quân dân ta.
Ải Chi Lăng đã được nhiều quan khách quốc tế, các nguyên thủ quốc gia, các tướng lĩnh, nhà sử học, khách du lịch... đến thăm với một sự trân trọng đặc biệt. Slôvắcxốc - nhà dân tộc học nổi tiếng Tiệp Khắc trước đây trong chuyến đi thăm Ải Chi Lăng đã từng đánh giá: "Có lẽ đây là chiến luỹ hình thang độc nhất trên thế giới, nó thể hiện đầu óc thông minh và tài trí quân sự tuyệt vời của một dân tộc luôn phải chống trả với một đội quân xâm lược mạnh hơn mình gấp trăm lần trong quá trình lâu dài dựng nước và giữ nước. Thể hiện một tầm nhìn chiến lược nổi tiếng: "Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh".
Từ Lạng Sơn qua Cao Bằng là quốc lộ 4A, từ Lạng Sơn đi ngược về Móng Cái là quốc lộ 4B. Quốc lộ 279 nghĩa là được xây dựng vào tháng 2 năm 1979.
Đỉnh cao nhất của Lạng Sơn là núi Mẫu Sơn cao hơn 1100m. Hiện nay Mẫu Sơn đang phát triển mạnh về du lịch .Ở Lạng Sơn có 2 động đẹp đó là Tam Thanh( tên của 3 vị thánh trong đạo Lão đó là Thái Thanh, Ngọc Thanh và Thượng Thanh ), Nhị Thanh (tên vị quan trấn ở đây ngày xưa).
Vùng đảo Hoàng Sa dự kiến đến năm 2008 cắm trên sông cột mốc giữa biên giới Việt-Trung .
Theo thống kê năm 2001 có 179 cột mốc biên giới giữa Việt –Trung. Trước đây do cột mốc này dẫn đến cuộc chiến tranh Việt –Trung năm 1979.
Tên Hữu Nghị Quan do bác Hồ đặt năm 1969 trước đó tên Ải Nam Quan. Ải Nam Quan được đặt từ thời nhà Minh. Lúc trước từ Ải Nam Quan ngược về Trung Quốc là của Trung Quốc, ngược về phía Việt Nam là của Việt Nam. Nhưng do tình hình của hai quốc gia nên Ải Nam Quan đã thuộc về bên Trung Quốc .
Đa phần chỉ tồn tại di tích Chi Lăng ở ngay chỗ này, thật sự bây giờ người ta làm một bảo tàng Chi lăng để lưu giữ những hiện vật của cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm trước đây, đa số ít, không có nhiều. Bảo tàng người ta xây dựng mới ở bên ngoài vì xây dựng nằm sâu phía trong sẽ khó cho việc tham quan, chứ còn trận di tích Chi lăng ngày xưa là nằm sâu trong núi, đường vào đó rất độc đáo, 2 bên là hai dãy núi, có đúng một đường đi gọi là hỷ môn Quan “hỷ môn quan, hỷ môn quan, Tháp nhân khứ nhất thiên hoàn” có nghóa là 10 người đi chỉ có một người về, ngoài con đường Đồng Đạo đó, tất cả đều là đen úa và đầm lầy và đây chính là một trong những con đường tiến quân của giặc Phương Bắc vào nước ta và chúng ta đã bố trí trận địa mai phục. Bây giờ con đường phát triển mới cho nên người ta làm Bảo tàng sát bên lề đường để đi lại cho dễ dàng; họ làm như thế không sai, nhưng cũng không chính xác, nếu thật sự đi Chi Lăng, chúng ta phải đi trên đường quoác lộ 1A cũ mới thấy được Ải Chi Lăng, Ở đây có một loại cây được trồng rất nhiều người bắc gọi là cây Na người Nam gọi là cây Mãng Cầu, cây Mãng Cầu được trồng rất là nhiều cho ra trái rất to và ngon, phía trên sườn núi, chỗ nào đất xám đó chính là nơi trồng cây Mãng cầu, người ta cứ trồng, không có tưới, không bón phân và khi có trái chỉ hái mang về. Bảo tàng Chi Lăng nằm về phía tay phải. Tỉnh Lạng Sơn được xem là tỉnh đầu của tổ quốc, Lạng Sơn có một cửa khẩu rất lớn đó là cửa khẩu Diên Quan nơi có Ải Đông Quan, chính vì thế việc thông thương giữa 2 quốc gia dễ dàng hơn, Lạng Sơn có rất nhiều dân tộc Tày, người Nùng. Ở đây nằm gần Trung quốc do đó đồ đa phần là đồ Trung quốc nhập về, có 2 chợ cho chúng ta đi, một là chúng ta mua sắm tại Lạng Sơn hai là mua sắm trên Đồng Đăng, Đồng Đăng có cửa khẩu Tam Thanh, ở đây chúng ta mua nhiều là phải đóng thuế, phức tạp lắm. Ở Lạng Sơn có 2 khu chợ ngày và đêm cho chúng ta mua, 1 là chợ Kỳ Lừa vào ban đêm từ 6h tối, 2 là Lạng Sơn vào ban ngày, khoảng 8h người ta mới buôn bán và họ bán đủ thứ đồ: quần áo, đồ gia dụng, điện thoại, tivi, …..

Lạng Sơn du lịch chợ
Phố chợ Kỳ lừa
Chợ Kỳ Lừa ở Lạng Sơn là nơi mua bán trao đổi hàng hoá giữa các vùng, miền, trong cả nước cùng với các hoạt động văn hoá mang bản sắc dân tộc của Lạng Sơn.
Chợ Kỳ Lừa mỗi tháng họp 6 phiên vào các ngày 2, ngày 7 âm lịch, có hàng hoá sản vật của hầu hết các tỉnh. Người đến chợ có khi không cốt để mua bán mà chỉ để thăm hỏi, bàn chuyện làm ăn, thanh niên nam nữ các dân tộc đến chợ để gặp bạn thân, tìm bạn đời qua các lời ca giao duyên số, lượn, tìm đến những niềm đồng cảm bao quanh. Tại chợ, cùng với những màu sắc đa dạng của những hàng thổ cẩm, trang phục, còn có các món ăn đậm đà hương vị miền núi xứ Lạng.
Mỗi năm Lạng Sơn có Hội chợ Kỳ Lừa, kéo dài từ 22 đến ngày 27 tháng giêng âm lịch, là nét sinh hoạt văn hoá cổ truyền đậm đà bản sắc dân tộc. Chợ Kỳ Lừa ngày nay đã được tôn tạo và mở cửa cả ngày và đêm. Với không khí trong lành của núi rừng miền biên cương, cùng với cảnh và người đi chợ đêm gây được ấn tượng sâu sắc khó phai đối với khách đến Lạng Sơn.

Chợ Đông Kinh
Chợ Đông Kinh mới được xây dựng trong thời gian gần đây nhưng đã chứng tỏ được vị trí quan trọng của một chợ đầu mối. Vào các ngày thứ bảy chủ nhật hàng tuần, chợ thu hút hàng nghìn lượt người tới tham quan và mua sắm.
Những mặt hàng bày bán ở đây chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng vẫn hấp dẫn được người mua nhờ sự đa dạng về màu sắc và chủng loại. Những mặt hàng được ưa chuộng là đồ điện tử, điện thoại di động, điện thoại cố định...

VĨNH PHÚC

Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Nam giáp Hà Tây, phía Tây giáp Phú Thọ và phía Đông giáp thủ đô Hà Nội. Tỉnh có diện tích tự nhiên 1.371,41 km2, dân số trung bình năm 2004 có 1.161,7 nghìn người với 9 đơn vị hành chính, đó là thành phố Vĩnh Yên. Có thị xã Phúc Yên và 7 huyện: Lập Thạch, Tam Dương, Tam Đảo, Bình Xuyên, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Mê Linh. Tỉnh lỵ của Vĩnh Phúc là thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 25km.
Vĩnh Phúc nằm trên quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai, là cầu nối giữa vùng trung du miền núi phía Bắc với Thủ đô Hà Nội; liền kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua đường quốc lộ số 5 thông với cảng Hải Phòng và trục đường 18 thông với cảng nước sâu Cái Lân. Vĩnh Phúc có vị trí quan trọng đối với vùng KTTĐ Bắc Bộ, đặc biệt đối với thủ đô Hà Nội: kinh tế Vĩnh Phúc phát triển sẽ đảm bảo vững chắc khu vực phòng thủ cho Hà Nội; góp phần cùng thủ đô Hà Nội thúc đẩy tiến trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm, giảm sức ép về đất đai, dân số, các nhu cầu về xã hội, du lịch, dịch vụ của thủ đô Hà Nội.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong các năm qua đã cho Vĩnh Phúc những lợi thế mới về vị trí địa lý: tỉnh đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp các tỉnh phía Bắc; chịu ảnh hưởng mạnh mẽ trước sự lan toả của các khu công nghiệp lớn thuộc Hà Nội như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn...; Sự hình thành và phát triển các tuyến hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc đã đưa tỉnh xích gần hơn với các trung tâm kinh tế, công nghiệp và những thành phố lớn của đất nước như: hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng, QL2 Việt Trì - Hà Giang - Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong tương lai là đường vành đai IV thành phố Hà Nội...
Vĩnh Phúc nằm trong vùng chuyển tiếp giữa vùng gò đồi trung du với vùng đồng bằng Châu thổ Sông Hồng. Bởi vậy, địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và chia làm 3 vùng sinh thái: đồng bằng, trung du và vùng núi.
Vùng núi có diện tích tự nhiên 65.300 ha (đất nông nghiệp: 17400ha, đất lâm nghiệp 20300 ha). Vùng này chiếm phần lớn diện tích huyện Lập Thạch (25 xã), huyện Tam Đảo và 4 xã thuộc huyện Bình Xuyên, 1 xã thuộc thị xã Phúc Yên. Trong vùng có dãy núi Tam Đảo là tài nguyên du lịch quý giá của tỉnh và của cả nước. Vùng này có địa hình phức tạp, khó khăn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông.
Vùng trung du kế tiếp vùng núi, chạy dài từ Tây Bắc xuống Đông - Nam. Vùng có diện tích tự nhiên khoảng 24.900 ha (đất nông nghiệp 14.000ha), chiếm phần lớn diện tích huyện Tam Dương và Bình Xuyên (15 xã), thị xã Vĩnh Yên (6 phường xã), một phần huyện Lập Thạch (11 xã), thị xã Phúc Yên. Quỹ đất đồi của vùng có thể xây dựng công nghiệp và đô thị, phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp kết hợp chăn nuôi đại gia súc. Trong vùng còn có nhiều hồ lớn như Đại Lải, Xạ Hương, Vân Trục, Liễn Sơn, Đầm Vạc là nguồn cung cấp nước cho hoạt động sản xuất, cải tạo môi sinh và phát triển du lịch.
Vùng đồng bằng có diện tích 47.000 ha, gồm hai tiểu vùng phù sa cũ và mới, tập trung ở các huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường huyện Mê Linh. Đây là vùng có địa hình bằng phẳng, thuận tiện cho phát triển cơ sở hạ tầng, các điểm dân cư đô thị và thích hợp cho sản xuất nông nghiệp.
Sự phân biệt 3 vùng sinh thái rõ rệt là điều kiện thuận lợi cho tỉnh bố trí các loại hình sản xuất đa dạng.
Vĩnh Phúc có tiềm năng to lớn về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn. Tại đây có một quần thể danh lam thắng cảnh tự nhiên nổi tiếng: rừng quốc gia Tam Đảo, Thác Bản Long, Hồ Bò Lạc, Hồ Đại Lải, Hồ Làng Hà, nhiều lễ hội dân gian đậm đà bản sắc dân tộc và rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa mang nặng dấu ấn lịch sử và giá trị tâm linh như danh thắng Tây Thiên, Tháp Bình Sơn, Đền Hai Bà Trưng, Đền thờ Trần Nguyên Hãn, Di chỉ Đồng Đậu.
Cho đến nay, đầu tư khai thác nguồn tài nguyên du lịch phong phú và đặc sắc phục vụ cho phát triển kinh tế của tỉnh còn rất hạn chế.

Danh sơn Tam Đảo
Núi được gọi là Tam Đảo vì ở khoảng giữa dãy có 3 ngọn núi cao vút: Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị tính từ Tây Bắc xuống Đông Nam, tựa như 3 hòn đảo nổi bồng bềnh giữa biển mây bao phủ.

Truyền thuyết về người con gái núi Tam Đảo.
Chuyện kể rằng trên núi Tam Đảo có một người con gái khoẻ mạnh, tóc nàng dài mượt như dòng suối e ấp, môi nàng hồng đỏ như hồ xanh, da nàng trắng như mây trời Tam Đảo. Nàng che thân bằng vỏ cây, làm lều ở trên cây, đi lại truyền nhảy nhanh như con sóc, nhẹ như vượn, nhặt đá ném thú rừng và chim muông sống.
Giặc Ân sang cướp nước ta, thế giặc rất mạnh. Vua Hùng cho sứ đi các trang động trong nước cầu người ra dẹp giặc. Người con gái xuống núi về chầu vua, xin được đi đánh giặc. Ra trận chỉ lấy đá mà ném, giết được nhiều giặc, đánh với giặc nhiều trận ở ngay cửa ngừ thành Phong Châu, ngã ba Bạch Hạc (nay thuộc là địa phận huyện Vĩnh Tường).
Khi tan giặc, người con gái lại trở về núi.
Vua Hùng thứ 6 đã già, muốn thử tài trong số các con để truyền ngôi. Lang Liêu dâng bánh trưng, bánh dầy tượng trưng của trời đất, cho vua Hùng và được nối ngôi vua. Đến ngày lập hoàng hậu chàng bỗng thấy nhớ da diết người con gái xinh đẹp đó cùng mình đánh giặc Ân thuở nào. Nhà vua trẻ trở lên vùng núi Tam Đảo mong gặp lại bóng hồng. Ngày lại ngày trôi qua nàng vẫn đâu đó xa ngút giữa núi rừng trùng điệp. Nhà vua buồn bã chuẩn bị ra về thì đêm đó, mơ thấy thần hiện về báo mộng: "Ngày mai nhà vua sẽ được gặp người đẹp". Sáng hôm sau, từ sương mờ Tam Đảo, trên con đường nhỏ, nàng tiên Tam Đảo đang đi đến. Nhà vua mừng rỡ chạy ra gặp mặt. Nàng vẫn đẹp như ngày hai người gặp nhau. Tóc nàng vẫn dài mượt như dòng suối e ấp, môi nàng vẫn hồng đỏ như hoa núi, mắt nàng vẫn trong veo như nước hồ xanh và da nàng vẫn trắng như mây trời Tam Đảo. Nhà vua đón nàng về cung làm lễ cưới nàng được tôn là bà chúa Thượng Ngàn của núi rừng Tam Đảo và được lập đền thờ ngay sát chân ngọn Thiên Nhị, trên đường lên tháp truyền hình.

Danh thắng Tây Thiên
Nằm trên sườn ngọn núi Thạch Bàn thuộc địa phận xã Đại Đình, huyện Tam Đảo.
Miền đất Phật Tây Thiên có phong cảnh hữu tình với Thiền Viện Trúc Lâm, những mái đình cổ xưa, suối Vàng, Thác Bạc, khe Trường Sinh, suối Giải Oan, cây đa 9 cội...
Theo Ngọc phả và kết quả nghiên cứu mới nhất, Tây Thiên là nơi thờ nữ chúa Tam Đảo: bà Lăng Thị Tiêu. Sau khi giúp Nhà nước Văn Lang đánh giặc ở thành Phong Châu, bà đó kết duyên cùng Lang Liêu (vua Hùng thứ 6). Bởi vậy sắc phong các triều đại phong kiến tôn bà là “Quốc Mẫu Tây Thiên”. Huyền thoại kể rằng bà vốn là một trong bảy nàng tiên xuống núi để chữa bệnh cho dân, trừ bạo nghịch cho nước và cứu độ chúng sinh. Câu chuyện Quốc Mẫu được ghi chép trong Ngọc phả, trong các văn bia hệ thống đền chùa Tây Thiên, là sự uy linh và vẻ đẹp đức độ của bà khiến cho các bậc anh hùng hào kiệt, các thiện nam, tín nữ, các trai thanh gái lịch bao đời nay đã phải trèo non lội suối chống gậy Tây Thiên chiêm ngưỡng cảnh bồng lai.

Hồ Đại Lãi
Đại Lãi là hồ nước rộng tới hơn 500 ha. Vào mùa mưa, các con sông, con suối trong lưu vực phía Nam của dãy núi Tam Đảo với sông Vực Tuyền, sông Tôn, sông Bá Hạ, suối Đồng Câu, Đồng Chão... đều dồn nước vào, khiến mực nước có thể lên cao tới 21m. Một phần, do vẫn giữ được nguyên trạng các thung lũng tự nhiên và các triền đồi bát úp cùng các hẻm núi nhô ra, tạo nên các eo, các bán đảo đa dạng, nên mặt hồ tuy rộng nhưng không hề gây cảm giác mênh mông choáng ngợp mà du khách còn phát hiện ra nhiều cảnh quan kỳ thú khi bơi thuyền qua những hẻm núi vẫn còn nguyên nét hoang sơ đến kỳ lạ.

Đền Hai Bà Trưng
* Truyền thuyết về các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng
Tỉnh Vĩnh Phúc có gần 40 làng thờ các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng, phần lớn là nữ tướng. Nhân dân địa phương thường kể lại nhiều truyền thuyết về các vị.
Truyện kể về Vĩnh Hoa công chúa, xưa là Nội Thị tướng quân của Hai Bà Trưng, hiện được thờ ở thôn Nghinh Tiên, xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc.
Thời nước ta bị Đông Hán đô hộ, ở đạo Hồng Châu (Hải Dương bây giờ) trang Mao Điền có người con gái họ Phùng tên là Vĩnh Hoa, từ nhỏ được học tập võ nghệ lại đọc sách ngâm thơ, người người biết tiếng. Vĩnh Hoa thường nói: "Lưỡi kiếm trong tay phải tắm máu giặc, có ngày quét sạch giặc Hán ra khỏi bờ cõi, chí lớn của ta là như thế !".
Năm Vĩnh Hoa 18 tuổi, bố mẹ đều theo nhau qua đời. Vĩnh Hoa trao cả di sản cho ông cậu rồi một ngựa một kiếm lần bước ra đi.
Đến trang Tiên Nha thấy địa thế rất đẹp, như con rựa lớn nổi lên trên dòng sông Nguyệt Đức, phong cảnh thật hữu tình, có bến có chợ, làng xóm đông vui, Vĩnh Hoa cho rằng nơi đây có thể lập được chí mình, mới nghĩ lại, bỏ tiền ra làm nhà, mua ruộng… Lại nghĩ nơi đây các thuyền buôn qua lại, chợ búa sầm uất, có thể liên kết được các hào kiệt bốn phương, mới mở ngôi hàng nước tự mình bán hàng để tìm kiếm những người cùng chí hướng.
Nhiều trai đinh đến gặp Vĩnh Hoa, xin quy phục làm thần tử, tôn Vĩnh Hoa làm trưởng trang… Vĩnh Hoa vui lòng nhận lời.
Từ đó, Vĩnh Hoa chiêu dân lưu tán các nơi, đón những kẻ bị ức hiếp mà phải rời quê hương bản quán và mở rộng trang ấp, ngầm rèn đúc khí giới, chứa cất lương thực để đợi thời cơ. Thanh thế Vĩnh Hoa ngày càng lừng lẫy. Vĩnh Hoa chọn mười cô gái có võ nghệ, mưu trí làm thủ túc, ngày đêm gần gũi bên mình. Lúc ấy nam binh nữ tốt đã có tới ngàn người, Vĩnh Hoa mới cát cứ các đầu mục, chia thành đội ngũ, cày ruộng lấy lương ăn, tự rèn lấy gươm sắc giáo dài, tự chế lấy nỏ bền tên cứng. Các phụ lão đều nói: "Chúng ta may ra còn thấy được cảnh tượng thái bình, trời đất này quang sạch chăng? Chắc cái ngày ấy cũng gần tới rồi, chúng ta phải cố sống !".
Không thể chần chừ được nữa, Vĩnh Hoa bèn cho giết lợn mổ trâu, cáo tế các thần sông núi, khao thưởng quân sĩ, thổi sáo đánh trống, múa hát làm vui, rồi đào hào đắp luỹ địch với quân Hán.
Một hôm Vĩnh Hoa đang coi quân tập bắn nỏ, chợt có nữ tốt vào báo có người lạ xin đến ra mắt để bàn việc lớn. Vĩnh Hoa truyền lệnh mời vào rồi chỉnh tề y phục thân tiếp khách. Khách là một người đứng tuổi mặt vuông miệng rộng, mắt sáng như chớp, đi đứng khoan thai. Vĩnh Hoa biết khách không phải người thường, cung kính mời trầu nước, Vĩnh Hoa hỏi khách họ tên gì, Khách thong thả nói: "Khoan hỏi họ tên. Tôi nghe nói Vĩnh Hoa nương là một anh hùng ở đời này, muốn đến cho được biết người, nay mới biết tiếng đồn quả không sai". Vĩnh Hoa nhún nhường, lại xin khách bảo cho điều hay lẽ phải. Sau khi phân tích về thế và lực của địch, về sự phân tán lực lượng của ta, người khách khẳng định: chỉ đoàn kết lại mới đắnh thắng giặc được… Lúc này, vị khách mới nói tên mình là Nguyễn Tiến Cơ - người thân cận của Ha Bà Trưng… Vĩnh Hoa bèn giữ Nguyễn Tiến Cơ ở lại vài ngày nhờ giúp việc chỉnh đốn quân ngũ. Nguyễn Tiến Cơ từ chối, nói rằng: "Chỉ nội ngày mai, sớm tối thế nào Quách Gia Nương cũng kéo quân qua đây về Mê Linh họp mặt với hào kiệt các nơi dưới cờ đại nghĩa của Hai Bà. Nàng cũng nên nhanh chóng đem quân đến không nên chậm trễ".
Quả nhiên sáng hôm sau, mặt trời vừa tới ngọn sào nứa, giữa dòng sông có một đoàn thuyền lừng lững trôi, sáu chiếc thuyền lớn dong buồm đi một hàng thẳng tắp, xung quanh có hàng chục chiếc thuyền nhỏ cùng xuôi. Trên thuyền đi đầu có một chiếc trống cực lớn, các lực sĩ đứng quanh, đầu chỉ chấm tang trống. Chiếc thuyền đi giữa có dựng một ngọn cờ đại sắc vàng viền đỏ, giáo dựng ở mạn thuyền sáng quắc, hàng chục mái chèo khua sóng, bọt nước tung toé như hoa. Vĩnh Hoa cùng các đầu mục ngắm mãi không chán. Vĩnh Hoa than rằng: "Hàng ngũ chỉnh tề, quân uy hùng tráng! Ta thật còn thua kém! Những người như thế mà cùng đứng dậy, giặc Hán tất phải ôm đầu cuốn cờ mà chạy khỏi đất nước Nam".
Lệnh khởi nghĩa truyền đi cả nước, khắp các châu, các huyện, các làng, các động gươm giáo dựng lên, cờ bay phấp phới. Các thành trì của giặc Hán lần lượt rơi vào tay nghĩa quân. Thủ phủ Luy Lâu của Tô Định tan vỡ trước sức tấn công mãnh liệt của đại quân Hai Bà. Chưa đầy một năm, Hai Bà đã thu hồi được 65 thành trì cõi Lĩnh Nam, lên ngôi vua, đóng đô ở đất Mê Linh, không chịu thần phục nhà Hán.
Trưng nữ Vương mở tiệc khánh hạ, khao thưởng ba quân, phong cho các tướng có công, Vĩnh Hoa được phong công chúa, cho phép lấy trang Tiên Nha làm thực ấp, cho xây dựng đồn trại bên sông.
Về sau Mã Viện xin vua Hán cử gấp viện binh sang rồi mở trận đánh quyết liệt ở Lóng Bạc. Hai Bà túng thế rút về Mê Linh. Mã Viện là một tên tướng quỷ quyệt có tài thao lược, mưu kế xảo trá, quân ta cự không lại tan vỡ dần.
Hai Bà Trưng thế cùng lực tận, tuẫn tiết ở Cẩm Khê.
Vĩnh Hoa rút về trang Tiên Nha cố sức cầm cự, nhưng biết là không giữ nổi, mới cùng quân thủ túc lên ngựa xông vào trại giặc chém giết một trận rồi tử tiết theo Hai Bà ở sông Nguyệt Đức. Hôm đó là ngày 14 tháng 9.

 Di chỉ Đồng Đậu:

Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu được phát hiện vào khoảng tháng 2/1962. Từ cuối năm 1965 đến cuối năm 1999. đã tiến hành 6 đợt khai quật, với diện tích gần 740 m2. Trên đất nước ta chưa có một di tích khảo cổ nào được các cơ quan khảo cổ quan tâm khai quật nhiều lần như vậy. Điều này cho thấy tầm quan trọng của di chỉ Đồng Đậu đối với việc tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt Nam cũng như quá trình hình thành Nhà nước đầu tiên của dân tộc.
Đồng Đậu cũng là nơi phát hiện được nhiều di vật bằng xương, sừng nhất trong hàng trăm địa điểm đó được khai quật ở nước ta (trước năm 1983), không những nhiều về số lượng, phong phú về loại hình mà trình độ kỹ thuật chế tác cũng đạt đến đỉnh cao.
Điều kiện thiên nhiên ở đây rất thuận lợi cho cuộc sống của con người. Với đất phù sa màu mỡ, lại sẵn ao hồ đầm lầy, gần sông, tiện nước, con người đã định cư lâu dài ở đây và từ những ngày đầu tiên họ đã quen thuộc với nghề làm ruộng. Nghề nông đã có trình độ khá cao và giữ vai trò chủ đạo trong các ngành sản xuất, có thể lúa nước là nguồn cung cấp lương thực chính.
Bên cạnh nghề nông, nghề chăn nuôi cũng đã ra đời và dần phát triển từ thấp lên cao. Người Đồng Đậu cũng chú ý đến săn bắn và đánh cá.
Bên cạnh nghề nông, thủ công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Đó là những nghề làm đá, đan lát… Nghề luyện, đúc đồng ra đời muộn hơn nhưng có ảnh hưởng lớn đến đời sống.
Trên cơ sở đời sống kinh tế ngày một nâng cao, cư dân Đồng Đậu luôn chú ý đến cái đẹp. Nhận thức về cái đẹp thể hiện trên kiểu dáng và hoa văn đồ gốm, trên sự phong phú về số lượng cũng như kiểu dáng khác nhau của đồ trang sức, trong các pho tượng đất đỏ nặn hình bò, gà và đầu người…
Xã hội lúc này vẫn là công xã thị tộc; và với nền kinh tế nông nghiệp lúa nước ra đời, vai trò của người đàn ông đã được đề cao hơn, xã hội có thể thuộc chế độ công xã thị tộc phụ hệ.
Sự phát triển của sức sản xuất ở giai đoạn cuối Đồng Đậu đã đẩy mạnh quá trình phân hóa thành các giai cấp xã hội đưa đến sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, để thành lập Nhà nước trong giai đoạn tiếp theo.
Tầm quan trọng của hiện vật Đồng Đậu không chỉ ở số lượng, mà cái làm nên vóc dáng Đồng Đậu là một quá trình diễn biến văn hoá từ lớp sâu nhất lên trên mặt, phản ánh một quá trình phát triển liên tục để đi đến hình thành Nhà nước phôi thai đầu tiên của dân tộc.
Có thể nói giai đoạn Đồng Đậu là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất ở đây, tầng văn hoá rộng và dày, hiện vật phong phú đa dạng; bên cạnh đó đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, đồ xương cũng phát triển.

Phú Thọ
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng trung du Bắc Bộ, với trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Việt Trì, cách thủ đô Hà Nội 80km và sân bay quoc tế Nội Bài 50km.
Địa hình chủ yếu là đồi núi với 3 con sông lớn chảy qua đó là: sông Hồng (sông Thao), sông Đà.
Diện tích tự nhiên : 3 519 km2
Ngày 5 tháng 5 năm 1903, tỉnh lỵ tỉnh Hưng Hóa chuyển từ làng Hưng Hóa lên làng Phú Thọ gần đường xe lửa hơn. Do đó tỉnh Hưng Hóa cũng đổi tên thành tỉnh Phú Thọ. Khi đó tỉnh Phú Thọ gồm có 2 phủ (Đoan Hùng, Lâm Thao), 8 huyện (Tam Nông, Thanh Thủy, Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hòa, Hạc Trì) và 2 châu (Thanh Sơn, Yên Lập).
Thị xã Phú Thọ và thị xã Việt Trì được thành lập năm 1907, thị xã Phú Thọ được chọn là tỉnh lỵ của Phú Thọ. Đến năm 1962, thành phố Việt Trì được thành lập theo quyết định số 65 của Hội đồng Chính phủ...
Thành phố Việt Trì với diện tích 71.2 km2 được coi là đô thị cửa ngõ của các tỉnh Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ, là trung tâm chuyên ngành về văn hóa - kinh tế vùng Tây Bắc tổ quốc. Nằm cách thủ đô Hà Nội 80 km, là nơi gặp nhau của ba con sông: sông Hồng, sông Lô và sông Đà, thành phố “ngã ba sông” có mạng lưới giao thông quan trọng về đường sắt, đường bộ và đường thủy, là đầu mối giao lưu giữa các huyện lỵ trong tỉnh và các tỉnh trong vùng trên hành lang kinh tế Côn Minh - Hải Phòng.
Tháng 1-1968, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 504 tiến hành hợp nhất hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú, thành phố Việt Trì trở thành tỉnh lỵ của Vĩnh Phú.
Đến kỳ họp thứ 10 Quốc hội IX (tháng 11/1996) đã thông qua Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó có việc tái lập tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ. Tỉnh Phú Thọ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động từ ngày 1-1-1997, ngay năm sau Phú Thọ được công nhận là tỉnh miền núi.
Nơi đây được xem là vùng đất tổ, cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi đã hình thành nhà nước Văn Lang- nhà nước đầu tiên của Việt Nam với thủ đô là Phong Châu. Và cũng chính vì vậy mà Phú Thọ có một nền văn hoá rực rỡ lâu đời, những di chỉ văn hoá Sơn Vi, Đồng Đậu, Làng Cả và nhiều đình, chùa, lăng tẩm còn lại nơi vùng núi Nghĩa Lĩnh. Cho thấy, đất Phong Châu là một trung tâm văn hoá của dân tộc.
Qua các cuộc tìm kiếm, khai quật khảo cổ, các nhà khoa học còn tìm thấy Phú Thọ có rất nhiều hiện vật đồ đá, đồ đồng minh chứng thời kỳ các Vua Hùng dựng nước Văn Lang. Trong đó có các di chỉ nổi tiếng như: Gò Mun, Sơn Vi, Làng Cả, Phùng Nguyên... có niên đại cách đây từ 4 - 6 ngàn năm. Ngoài ra, Phú Thọ còn tồn tại rất nhiều các di tích, sự tích, truyện kể, truyền thuyết về đời sống sinh hoạt văn hoá, công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Các lễ hội diễn ra trên quê hương Phú Thọ cũng rất đa dạng, phong phú, mang nét văn hoá đặc sắc của những bản làng, trên 20 dân tộc sinh sống tại Phú Thọ như: Hội Phết - Hiền Quan, Hội bơi chải - Bạch Hạc, Hội Rước voi - Đào Xá, Hội rước Chúa Gái - Hy Cương, Hội ném còn của đồng bào Dân tộc Mường....
Phú Thọ là nơi có các đình, đền, miếu để thờ các vua Hùng và các tướng lĩnh của vua Hùng nhiều nhất Việt Nam. Cho nên, lễ hội quan trọng và đáng kể nhất nơi đây phải nói đến đó là lễ hội giỗ tổ Hùng Vương- lễ hội đã được nhà nước công nhận là Quốc Lễ.
Toàn tỉnh có 700 điểm thờ, tập trung nhiều nhất ở Lâm Thao, huyện Tam Nông, thành phố Việt Trì, huyện Phù Ninh, huyện Thanh Thủy, huyện Cẩm Khê. Các đền thờ này chủ yếu thờ các bài vị sắc phong của các vua Hùng và tướng lĩnh.

Lễ hội đền Hùng
Nghi lễ ngày hội là có một lá cờ thần được treo trên đỉnh núi Hùng. 41 làng xã xung quanh rước kiệu dâng lễ về lễ Tổ. Trên các cỗ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm, tấu nhạc, có quạt bát biểu, lọng tre cùng chiêng trống. Ngày hội thường tổ chức từ ba đến năm ngày, có nhiều hoạt động văn hoá mang đậm đà sắc thái dân gian truyền thống như đánh đu, đấu vật, chọi gà, kéo co, kéo lửa, nấu cơm thi, cờ tướng, hát xoan, hát ghẹo...
Sau Cách mạng Tháng Tám, kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, năm nào Nhà nước cũng tổ chức lễ hội Đền Hùng và lễ dâng hương tại Đền Thượng. Hầu hết các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đã đến thăm viếng mộ Tổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hai lần đến thăm Đền Hùng. Ngày 19 tháng 9 năm 1954, Bác lần lượt đi thăm khu di tích, viếng mộ Tổ và Đền Giếng, gặp gỡ và nói chuyện với đại đoàn quân Tiên phong trên đường về tiếp quản thủ đô:

"Các vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".

Từ nhiều đời nay, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, đã luôn hướng tới một điểm tựa của tinh thần văn hoá - đó là lễ hội đền Hùng và giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hàng năm, lễ hội giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Vào những năm chẵn (5 năm một lần), giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức.

Lưu ý du khách:
Đến viếng đền Hùng, nếu đi theo đoàn, ca đoàn liên hệ làm lễ viếng đền tại Đền Hạ – ông Từ trông đền sẽ tiến hành xin keo, nếu keo “một sấp một ngửa” thì nghĩa là Tổ tiên đã đồng ý, khi đó, mỗi người sẽ thắp một nén hương và vào thăm đền. Sau đó, đoàn sẽ đi bộ tham quan theo lộ trình từ đền Hạ (nơi xin keo) đến đền Trung và đền Thượng; sau đó rẽ xuống đền Giếng và cuối cùng kết thúc chuyến tham quan tại đền Hùng.

Đặc biệt vào những ngày lễ hội, an ninh ở đây rất phức tạp, không đảm bảo an toàn về tài sản cho du khách. Du khách nên cẩn thận giữ lấy tiền bạc, bóp ví, điện thoại và tuyệt đối đừng mua sắm tại đây, nếu có mua thì nên hỏi giá trước là tốt nhất.

 YÊN BÁI

Là một tỉnh miền núi tây bắc với những nét riêng độc đáo và là cửa ngõ du lịch của miền núi Tây Bắc Yên Bái với diện tích không lớn và dân số không quá đông: khoảng 6883 km2 với 707300 người với các thành phần dân tộc chủ yếu là người Kinh, Tày, Dao, HMông. Với đa dạng và đặc sắc về bản sắc văn hoá riêng của từng dân tộc là cơ sở chính tạo nên sự hấp dẫn của nơi đây.
Yên Bái có các danh thắng như: Hồ thác bà, Đền Đông Cuông, Đền Tuần Quán, Chùa tháp Hắc Ý, Chùa Bách Lẫm. Di Tích Căn và đồn Nghĩ A Lộ, Di Tích mộ Nguyễn Thái Học.

Các lễ hội như: lễ hội Đông Cuông, lễ Tết Nhảy.
Trong đó Hồ Thác Bà hiện đang được đầu tư phục vụ cho du lịch và đây cũng là một điểm dừng chân lý tưởng cho du khách chiêm ngưỡng cảnh đẹp vùng núi Tây Bắc này.
Hồ Thác Bà là một trong ba hồ nước nhân tạo rộng nhất Việt Nam với diện tích khoảng 20000 ha với hơn 1000 hòn đảo cùng các dãy núi đá tạo nên bức tranh thuỷ mặc hữu tình. Hồ được khởi công xây dựng vào năm 1961 và hoàn thành năm 1971 để giữ nước phục vụ cho thuỷ điện. Với rất nhiều hang động đẹp như: Động Thuỷ Tiên, động Xuân Long có muôn hình vạn trạng nhũ đá khiến cho chúng ta có cảm tưởng như đang đi vào thế giới huyền ảo nào đó của đất trời. Núi Cao Biền, núi Chàng Rể, đảo Trinh Nam, đền Thác Bà…gắn với những huyền thoại bí ẩn.

Đến với hồ thác bà chúng ta được hoà mình vào thiên nhiên trong những cánh rừng nhiệt đới xen kẽ trong hàng ngàn đồi đảo những dãy núi đá vôi trong bồng bềnh sóng nước huyền ảo. Ven hồ là địa bàn cư trú của khoảng 12 dân tộc như: Tày Nùng, Mông, Dao, Phù Lá, Cao Lan… nhiều lễ hội đặc sắc diễn ra ở đây như :

Lễ Hội Mừng Cơm Mới
Của người Tày tổ chức vào khoảng tháng 09 và tháng 10 âm lịch khi mùa thu đến, sau mùa thu hoạch nếp, mùi thơm lan toả khắp bản làng.
Trong đêm trăng sáng lễ hội tưng bừng, trai gái hẹn hò nhau cùng giã cốm, rồi từng cặp nhảy múa với trang phục rất đặc sắc. Chúng ta sẽ cảm nhận được chất trữ tình trong những điệu dân ca, những điệu múa đậm chất núi rừng.

Lễ Tết Nhảy
Của dân tộc Dao với các điệu múa miêu tả cuộc sống của cộng đồng, như cây lúa, làm nương… đậm nét giân gian độc đáo đến đây chúng ta còn được thưởng thức các món ăn đặc sản của vùng núi này như: cá Vền, cá Lăn, các Quả, cá Măng Đậm, cá Chiên, cá Bống Trắng…, hay thăm các vườn cây ăn quả như bưởi Đại Minh đã nổi tiếng từ lâu. Hoàng hôn buông xuống chúng ta sẽ bắt gặp được đàn cò hàng ngàn con quy tụ về đây dường như lễ hội của loài cò cũng được tổ chức ở vùng Hồ.
Hiện nay Yên Bái đang triển khai xây dựng khu du lịch với trung tâm là hồ Thác Bà bao gồm nhiều loại hình du lịch độc đáo như du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí….Hồ Thác Bà sẽ là điểm đến của du lịch Yên Bái và thúc đẩy du lịch phát triển đồng thời cũng phát huy các lễ hội truyền thống đặc sắc của tỉnh góp phần gìn giữ đa dạng bản sắc văn hoá dân tộc.
Nhìn chung tiềm năng du lịch của Yên Bái không nhiều lắm nhưng khá độc đáo kết hợp với vị trí thuận lợi là cửa ngõ để kết nối các vùng du lịch đặc sắc với nhau nên Yên Bái có cơ hội để phát triển du lịch và là điểm dừng chân lý tưởng cho các tuyến du lịch lên vùng núi non hiểm trở này. Hiện ngành du lịch của Yên Bái cũng chưa phát triển tương xứng với giá trị của nó. Yên Bái cần tăng cường xây dựng cơ sở vật chất phục vụ du lịch và cần khai thác sâu hơn các giá trị văn hoá dân tộc kết hợp với vẻ đẹp cảnh quan nơi đây sẽ tạo nên sức hút, sức hấp dẫn đối với du khách.

LÀO CAI.

Lào Cai là một vùng đất cổ của nước ta, sớm có nền kinh tế phát triển, bán buôn rất thuận lợi và là một cửa khẩu quốc tế sớm nhất trong lịch sử đất Việt từ trước Công Nguyên, cách đây khoảng 2000 năm. Thời Hùng Vương dựng nước, vùng đất Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, là một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang, cũng được coi là một trung tâm kinh tế, chính trị lớn ở thượng nguồn sông Hồng. Đến đời Đinh, Lý, Trần, Lê có biết bao biến động về địa danh. Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thủy Vỹ, châu Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên – phủ Quy Hóa. Đến thời điểm này thì địa danh Lào Cai chưa được hình thành. Sau này tỉnh Lào Cai được giải phóng vào tháng 11 –1950. Trải qua những thăng trầm của quá trình lịch sử biến động, địa lý và địa danh Lào Cai cũng có nhiều thay đổi:
Thành lập tỉnh dân sự Lào Cai (12-7-1907), phần đất của châu Thủy Vỹ bên hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào châu Chiêu Tấn, nhưng vẫn lấy tên là châu Thủy Vỹ. Từ đó địa danh Chiêu Tấn cũng không còn. Phần đất của châu Thủy Vỹ bên tả ngạn sông Hồng được tách ra lập thành châu Bảo Thắng. Tỉnh Lào Cai lúc bấy giờ gồm hai châu Thủy Vỹ, Bảo Thắng và các đại lý Mường Khương, Phong Thổ, Bát Xát, Bắc Hà (Pa Kha) và thị xã Lào Cai.
Sau khi tỉnh Lào Cai được giải phóng lần thứ nhất, khỏi ách bọn Việt Nam Quốc dân Đảng (11-1946), chính quyền của ta chia Lào Cai thành 8 huyện: Bắc hà, Mường Khương, Bản Lầu, Bảo Thắng, Sapa, Bát Xát, Phong Thổ và thị xã Lào Cai.
Ngày 7-5-1955, khu tự trị Thái – Mèo được thành lập, huyện Phong Thổ của tỉnh Lào Cai chuyển sang khu tự trị Thái – Mèo, sau này thuộc tỉnh Lai Châu.
Ngày 27-3-1975, tại kỳ họp thứ 2 – Quốc hội khóa V đã nghị quyết hợp nhất 3 tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh mới lấy tên là Hoàng Liên Sơn.
Ngày 17-4-1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định hợp nhất thị xã Lào Cai và Cam Đường thành thị xã Lào Cai, trực thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn.
Ngày 12-8-1991, kỳ họp thứ 9 – Quốc hội khóa VIII, ra nghị quyết chia tỉnh Hoàng Liên Sơn ra thành hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Ngày 1-10-1991, tỉnh Lào Cai được tái lập, trên cơ sở vùng đất Lào Cai cũ và bổ sung thêm 3 huyện: Bảo Yên, Văn Bàn (thuộc Yên Bái cũ), Than Uyên (Nghĩa Lộ cũ), bao gồm 8 huyện và 2 thị xã.
Ngày 9-6-1992, Hội đồng Bộ trưởng quyết định tách thị xã Lào Cai thành hai thị xã Lào Cai và Cam Đường.
Ngày 30-12-2000, huyện Bắc Hà được tách thành hai huyện Bắc Hà và Simacai.
Ngày 31-1-2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành nghị định sáp nhập thị xã Lào Cai và thị xã cam Đường thành thị xã tỉnh lỵ Lào Cai.
Ngày 1-1-2004, huyện Than Uyên được tách ra thuộc tỉnh Lai Châu mới.
Ngày 30-1-2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành nghị định về việc thành lập thành phố Lào Cai, thuộc tỉnh Lào Cai. Và đến nay, tỉnh Lào Cai có một tỉnh lỵ là thành phố Lào Cai và 8 huyện: Bảo Thắng, Bảo Yên, Bát Xát, Mường Khương, Bắc Hà, Simacai, Sapa, Văn Bàn.
Thành phố Lào Cai xưa kia vốn là một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa ở ven bờ sông Cái (sông Hồng). Lào Cai thật ra là một từ được phát âm chạy đi từ một tên cổ mang âm Hán: Lão Nhai – tức là phố cổ. Nhiều di tích còn để lại đã chứng minh một điều Lào Cai đã từng rất thịnh vượng trong xa xưa. Thành phố Lào Cai ngày nay đã được các nhà khảo cổ phát hiện được những di vật , dưới những ngôi mộ cổ tại khu nghĩa địa của các thủ lĩnh giàu có xưa kia – mà nay là đường Ngô Quyền. Các di vật chôn theo người chết bao gồm những đồ đồng thời văn hóa Đông Sơn. Và nhiều bộ sưu tập trống, thạp, lưỡi cày, rìu, giáo, mũi tên bằng đồng vv… cũng như các sưu tập di vật có giá trị khác, được trưng bày tại bảo tàng tổng hợp Lào Cai.
Bộ sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” thời Nguyễn cũng đã ghi: Vào đầu thế kỷ 19, Lào Cai là cửa khầu lớn thứ 3 trong toàn quốc có tuần ty trông nom việc thu thuế, hàng năm thu được hàng ngàn lạng bạc. Đầu thập kỷ 80, thế kỷ 19, hàng tháng có từ 30 – 40 lượt tàu thuyền cập bến “Lão Nhai”. Sử xưa còn ghi lại rằng, cách nay hơn 2000 năm, Lão Nhai là một đô thị cổ sầm uất nối liền Giao Chỉ với các quốc gia vùng Điền (tỉnh Vân Nam – Trung Quốc), Thục (Tứ Xuyên – TQ ) và Thân Độc (Ấn Độ)…
Cho đến nay vẫn còn nhiều hiện vật quý giá minh chứng cho sự phồn thịnh của thời kỳ này.
Ngày nay thành phố Lào Cai là nơi du khách dừng chân khi trời tối và sau đó tỏa đi các nơi nằm trong hệ thống các tuyến du ngoạn của tỉnh. Chúng ta có thể làm thủ tục sang thăm ngắn hạn khu kinh tế cửa khẩu nước láng giềng – Trung Quốc. Hai cây cầu Hồ Kiều (còn gọi là Hà Kiều) là chiếc cầu nối giao lưu kinh tế, văn hóa giữa hai bên Việt - Trung, được không ít du khách ngày đêm tấp nập lui tới tham quan và mua sắm. Sông Nậm Thi – ranh giới tự nhiên của hai nước Việt Nam – Trung Quốc như là chứng nhân cho những cảnh thông thương hữu nghị giữa đôi bên. Đặc biệt khu chợ biên giới Cốc Lếu tràn ngập những hàng hóa sản phẩm không chỉ của Việt Nam từ miền xuôi, miền ngược mang đến, mà còn có cả những mặt hàng, sản vật địa phương từ Vân Nam, Tứ Xuyên của nước bạn đem sang với giá cả hợp lý.
Đến Lào Cai, không ai lại muốn sống trong cảnh đô thị mà ngược lại là gần gũi với cảnh trí thiên nhiên, để thưởng ngoạn những cảnh sắc thật hữu tình hay hòa mình vào cuộc sống sinh hoạt đằm thắm của các đồng bào dân tộc thiểu số miền núi Tây Bắc. Đó là các bản làng của người H’mông, Giáy, Dao, Tày … Hơn thế nữa, một thị trấn du lịch nổi tiếng nhất trên vùng núi Tây Bắc này, chỉ cách Lào Cai 38 km, luôn là một lựa chọn tối ưu cho những du khách khi đến với Lào Cai – thị trấn Sapa.
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam, cách Hà Nội 296 km đường sắt và 345 km đường bộ. Với diện tích toàn tỉnh hiện nay là 635.708 ha, chiếm 2,44% diện tích cả nước, là tỉnh có diện tích lớn thứ 19 trên 64 tỉnh thành của cả nước. Phía Đông giáp Hà Giang, phía Nam giáp Yên Bái, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu và phía Bắc là 203 km đường biên giới giáp với tỉnh Vân Nam – Trung Quốc.
Địa hình của tỉnh Lào Cai rất phức tạp, phân tầng độ cao lớn, mức độ chia cắt mạnh. Hai dãy núi chính là dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Con Voi cùng có hướng Tây Bắc – Đông Nam, nằm về phía Đông và phía Tây tạo ra các vùng đất thấp, trung bình giữa hai dãy núi này và một vùng về phía Tây dãy Hoàng Liên Sơn. Ngoài ra còn có rất nhiều núi nhỏ hơn, phân bố đa dạng, chia cắt tạo ra những tiểu vùng khí hậu khác nhau.
Do địa hình chia cắt phân đai cao thấp rất rõ ràng, trong đó độ cao từ 300m – 1000m chiếm phần lớn diện tích toàn tỉnh. Điểm cao nhất là đỉnh Phanxipăng, trên dãy Hoàng Liên Sơn, có độ cao 3.143m so với mặt nước biển; Tả Giàng Phình – 3.090m.
Dải đất dọc theo sông Hồng và sông Chảy gồm thành phố Lào Cai, thị xã Cam Đường, huyện Bảo Thắng, Bảo Yên và phía Đông huyện Văn Bàn thuộc các đai độ cao thấp hơn (điểm thấp nhất là 80m thuộc địa phận huyện Bảo Thắng), địa hình ít hiểm trở hơn, có nhiều vùng đất đồi thoải, thung lũng, ruộng nước, là địa bàn thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng.
Khí hậu của Lào Cai thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong lục địa bị chi phối bởi địa hình phức tạp, nên diễn biến thời tiết có phần thay đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Đột biến về nhiệt độ thường xuất hiện ở dạng nhiệt độ trong ngày lên cao hoặc xuống thấp quá (đặc biệt ở Sapa có ngày nhiệt độ xuống dưới 00, có tuyết rơi).
Sương mù thường xuất hiện phổ biến toàn tỉnh, có nơi ở mức độ rất dày. Trong các đợt rét đậm, ở những vùng núi cao và các thung lũng kín gió còn xuất hiện sương muối, mỗi đợt kéo dài 2 – 3 ngày. Có thể nhận thấy rằng đặc điểm khí hậu Lào Cai rất thích hợp với các loại cây ôn đới. Vì vậy Lào Cai có ưu thế phát triển các loại đặc sản xứ lạnh mà các vùng khác không có được như: hoa, quả, thảo dược và cá nước lạnh.
Lào Cai là một tỉnh vùng núi cao Tây Bắc giàu tiềm năng du lịch nhưng chưa được khai thác hết. Ngoài những diểm du lịch, tham quan thường thu hút sự quan tâm của đa số du khách như Sapa, Bắc Hà, Lào Cai còn có những quần thể hang động đá hoa cương tuyệt đẹp và lung linh lỳ vĩ như Mường Vi, Hang Tiên (Bảo Nhai), cảnh sắc Mường Hum, Phố Ràng … Chính nhờ có địa hình núi hiểm trở và cheo leo như thế, mà Lào Cai còn được nhiều du khách ưa thích mạo hiểm biết đến với những địa chỉ du lịch dã ngoại leo núi, vận động thể lực và khám phá chinh phục đỉnh cao không nơi nào có được ở bán đảo Đông Dương, đó là dãy núi Hoàng Liên , với đỉnh núi cao nhất Đông Dương – Phanxipăng (3143m). Lào Cai là một trong 6 tỉnh miền núi phía Bắc, có đường biên giới giáp với nước bạn Trung Quốc. Cửa khẩu quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu (Trung Quốc) cũng là một điểm du lịch thú vị trong chuyến hành trình của du khách khi đến với Lào Cai. Và đặc biệt , là tỉnh miền núi cao, đang phát triển nên Lào Cai còn giữ được cảnh quan đa dạng, môi trường trong sạch, với các vùng sinh thái nông nghiệp đặc sản như mận Bắc Hà, rau ôn đới, cây dược liệu quý, cá hồi, cá suối …bên cạnh những nét văn hóa đặc trưng của các dân tộc anh em nơi đây.
Nói đến điểm du lịch ở tỉnh Lào Cai, chắc hẳn không ai lại không biết đến Sapa. Dường như cái tên thị trấn Sapa bé nhỏ này lại lấn át cả tên tỉnh Lào Cai rộng lớn ấy. Sapa được biết đến là một trung tâm du lịch, nghỉ mát lý tưởng ở vùng cao Tây Bắc, được tìm ra gần như cùng lúc với Đà Lạt, Tam Đảo, Bà Nà … bởi những quan chức người Pháp. Sapa là một quần thể có nhiều điểm hấp dẫn, ngoạn mục với nhiều loại hình hoạt động tham quan, du lịch. Sapa nổi tiếng vì những cảnh quan đặc thù kỳ vĩ và trữ tình. Ở một vị trí trên đồi cao, với những rừng thông xanh ngát vây quanh, xung quanh lại được bao phủ bởi nhiều ngọn núi cao, vì thế Sapa lúc nào cũng có sương mù trắng xóa bay là đà trong thị trấn, tạo cho du khách một cảm giác bềnh bồng như lạc bước vào chốn thần tiên. Chính vì thế mà Sapa được mệnh danh là “phố núi trong mây”.
Sapa có nguồn gốc từ tiếng quan thoại là “Sapả”, có nghĩa là bãi cát. Địa điểm của bãi cát này là ở bên phải cây cầu, km 32 từ Lào Cai vào Sapa. Ngày xưa khi chưa có thị trấn Sapa, cư dân ỏ vùng đất này đều họp chợ ở bãi cát đó, do vậy dân địa phương ai cũng nói là “đi chợ Sa Pả”. Từ hai chữ “Sa Pả” đó, người Pháp phát âm không có dấu, và khi viết thì không bỏ dấu, dần dà “Sa Pả” thành Sapa như ngày nay. Một ý kiến khác cho rằng: Thị trấn Sapa ngày nay, xưa có một vùng hồ mà người dân tộc tập trung sinh sống ở đấy, nên Sa Pả nghĩa là “làng quanh hồ”. Khi vùng này phát triển, thị trấn được quy hoạch, những người dân địa phương di dời chỗ ở lên vùng núi cao và tản mạn vào những thung lũng phì nhiêu có những dòng suối lượn quanh tuyệt đẹp như Tả Phìn, Cát Cát, Lao Chải, Tả Van … Riêng cái hồ nhân tạo ở trung tâm thị trấn, trước người dân bảo rằng có một mạch nước đùn lên đục đỏ, nên dân địa phương gọi là “hùng hùa” – theo tiếng quan thoại “hùng” là đỏ, “hùa” là hồ.
Sapa có 6 dân tộc chính cùng nhau sinh sống là H’Mông, Dao, Tày, Giáy, Xá Phó và Việt, mỗi một tộc người có những bản sắc văn hóa rất riêng của họ. Ngoài ra cũng có một số dân tộc thiểu số và người Hoa cư trú rải rác xung quanh thị trấn Sapa và tỉnh Lào Cai. Sapa lại có một dãy núi ngay trong thị trấn với dáng vẻ hùng vĩ, song lại rất thơ mộng bởi vườn lan, những cây đào, vườn rau ôn đới và rừng đá trên núi, điểm thêm những nét đẹp thiên nhiên thật hữu tình cho dãy núi đá vốn dĩ trơ trọi và tĩnh lặng, đó chính là núi Hàm Rồng. Đứng tại cổng trời – một vị trí tuyệt vời cho du khách phóng tầm mắt ngắm toàn cảnh thị trấn Sapa, thung lũng Mường Hoa, các bản làng dân tộc xung quanh luôn ẩn hiện trong làng sương mờ ảo. Leo núi Hàm Rồng, du khách sẽ cảm thấy như lạc vào chốn thần tiên bởi cảnh “non xanh” hữu tình với làng mây mờ lãng đãng quanh mình và dưới chân ta là cả một thảm hoa rực rỡ sắc màu.
Ngay trung tâm thị trấn là nhà thờ cổ đã hàng trăm tuổi. Từ thị trấn đi ngược về hướng Đông Bắc, trên đường đến bản Tả Phìn là một tu viện cổ được xây gần như hoàn toàn bằng đá trên một đỉnh đồi thoáng mát. Từ tu viện này, đi hơn khoảng 3 km nữa là đến động Tả Phìn. Bên trong hang động là hàng ngàn khối nhũ đá với muôn hình vạn trạng, hình thù kỳ lạ: cô tiên, cánh đồng lúa nhấp nhô, rừng cây lấp lánh. Và cũng chính tại bản làng Tả Phìn này, những mặt hàng thổ cẩm dân tộc khá nổi tiếng đã được xuất bán cho khách nước ngoài và cả nước. Cách trung tâm thị trấn khoảng 9 km về phía Bắc là điểm tham quan khá thú vị. Nơi đây là một phần của thung lũng Mường Hoa, với trên 100 hòn đá chạm khắc nhiều hình thù kỳ lạ của những người cư dân cổ xưa, cách đây hàng vạn năm, mà nhiều nhà khảo cổ học vẫn chưa giải mã được những thông tin, hình ảnh đó. Khu đá chạm khắc cổ này đã được xếp hạng di tích quốc gia và đang được nhà nước đề đơn được xếp hạng di sản thế giới. Với cảnh trí núi rừng của Sapa, không thể thiếu bóng dáng của những con suối, thác thuần túy. Và trong số đó, thác Bạc là một ngọn thác tiêu biểu của Sapa. Từ độ cao 200m, thác đổ ào ào, lấp lánh ánh nước trắng bạc nhưng vẫn mang dáng vẻ diễm lệ và yêu kiều như một “tiểu thư đài các”, ôm trọn sườn núi và đổ nhè nhẹ len qua các khe đá chảy xuống các thung lũng, tạo thành những dòng suối hiền hòa, uốn lượn quan các triền ruộng bậc thang ở các thung lũng.
Đặc biệt Sapa còn sở hữu một điểm du lịch thể thao, chinh phục và mạo hiểm vô cùng hấp dẫn đối với những ai có thú phiêu lưu và tính ham thích khám phá thiên nhiên, và đây cũng là điểm lý tưởng dành cho những nhà nghiên cứu sinh thái, sinh học – nóc nhà của Đông Dương, đỉnh Phanxipăng (cao 3143m) nằm trên dãy Hoàng Liên Sơn. Chính vì chỉ duy nhất trên dãy núi này, có sự hiện diện của cây Hoàng Liên – một loại dược liệu quý giá, hiếm hoi trên đất Việt. Ngoài ra Hoàng Liên còn được công nhận là vườn quốc gia bởi những giá trị sinh học của nó. Đây là “mỏ” của loại gỗ quý như thông dầu, là nơi hội tụ của bao chim thú như: gà gô, gấu, khỉ, sơn dương, báo và một số loại được liệt vào “sách đỏ Việt Nam” … và còn hàng ngàn loại thảo dược, dược liệu quý giá, có giá trị kinh tế cao. Dĩ nhiên, Sapa ngoài những cảnh đẹp mê người còn có sự lôi cuốn của các món ăn đặc sản cũng như sản vật địa phương như: “lợn cắp nách”, cuốn sủi, cơm lam, các loại hoa quả đặc thù như mận, đào, lê, táo mèo và vô van những chủng loại hoa ôn đới. Bên cạnh những sắc hoa thiên nhiên thì những sắc màu rực rỡ trên trang phục của các dân tộc cũng như muốn chen chân vào thế giới của cỏ cây hoa lá vùng núi cao này. Trang phục và những mặt hàng thổ cẩm dân tộc cũng là một điểm hút rất nhiều du khách thập phương. Văn hóa của các tộc người ở đây góp phần làm tăng thêm tiềm năng du lịch cho tỉnh nhà, mà tiêu biểu là các lễ hội và phiên chợ vùng cao, luôn là đích nhắm trong các chuyến đi du lịch của khách miền xuôi. Một loại hình chợ mà đã từ lâu gắn liền với tộc người sinh sống ở vùng cao này – chợ phiên. Và ở Sapa, chợ phiên được diễn ra hàng tuần vào ngày chủ nhật. Do đó tối thứ bảy, các dân tộc H’Mông, Dao quanh thị trấn đã tranh thủ đến chợ, giao lưu múa hát, hẹn hò và cùng vui với nhau bằng những bài hát dân ca, những điệu múa khèn, những giai điệu ngân nga của sáo H’mông, kèn lá hay đàn môi … Tất cả đã tạo cho phiên chợ Sapa một bản hòa ca thật thú vị và giàu chất nhân văn.

 Chợ phiên tại Sapa và Lào Cai

Tại Sapa, về mặt hành chính được đặt cho một huyện của tỉnh Lào Cai và cũng cho thị trấn của huyện lỵ huyện này. Tại sao Sapa là nơi họp chợ mà không phải là ở những vùng xung quanh khác? Giải thích cho sự việc này là bởi vì Sapa dường như nằm ở điểm nút, trung tâm của các hướng bản làng trong toàn vùng là các thung lũng dưới chân núi Hoàng Liên. Đây là ngã ba của các con đường từ các khu bản làng nằm trong các thung lũng ở phía Bắc như Tả Giàng Phình, Bản Khoang đổ về các bản làng phía Nam như Bản Hồ, Suối Thầu, Tả Van, Lao Chải đi lên. Trong cả một vùng rộng lớn, chỗ nào thuận tiện nhất cho hầu hết mọi vùng tập trung về trao đổi hàng hóa, thì ở đó sẽ xuất hiện chợ.
Cũng có ý kiến cho rằng, trước đây chợ Sapa họp ở trên một bãi cát ven bờ suối nằm ở xã Sapả cách thị trấn khoảng 8km về phía Lào Cai, rồi sau này chợ mới dời về thị trấn này. Vì thế có thị trấn Sapa rồi lại có xã Sapả. Có người lại cho rằng, bãi cát xưa họp chợ chính là một vạt đất rộng có cát đùn từ dưới lên và là chỗ của sân bóng ngay giữa trung tâm, trước mặt nhà thờ cổ Sapa. Dân cư bị di dời sang nơi khác, đó chính là bản Sapả hiện nay. Từ trên đường về Lào Cai, ngay chỗ đoạn có tấm quảng cáo lớn của khách sạn Victoria, nhìn xuống thung lũng bên tay phải chính là các bản người H’Mông của xã Sapả.
Theo tập tục người dân tộc ở Sapa họp chợ năm ngày một phiên giống người miền xuôi. Sau rồi, khi người Pháp đến đây thì theo lịch Tây, chuyển sang ngày cuối tuần cho thuận tiện. Người Dao thường ra chợ Sapa vào tối thứ bảy, buổi tối hôm đó họ ở lại đêm tại chợ và hát giao duyên thâu đêm đến sáng. Và sáng hôm sau chủ nhật thì ra chợ mua sắm và trở về bản. Còn người H’Mông thì vào sáng chủ nhật mới đi chợ, nhưng dần dà họ bắt chước người Dao, đi từ chiều thứ bảy, buổi tối múa hát thổi kèn rồi lại giao duyên đến sáng chủ nhật mới họp chợ. Cho đến hôm nay thói quen ấy vẫn còn và chợ sapa vẫn có bóng dáng của người Dao nhiều hơn. Vào buổi sáng chủ nhật, trên các nẻo đường dẫn đến thị trấn, người ta thấy nhiều người Dao từ chợ đi về bản và người H’Mông thì đi ngược lại từ bản ra chợ.
Theo như nhiều cụ già ở đây kể lại. Ngày xưa chợ Sapa đông vui lắm. Chợ họp ngay ngoài trời trên một bãi đất rộng. Đàn ông cưỡi hoặc dắt ngựa, vai đeo súng kíp và ngang lưng buộc dao bọc trong hộp tre. Họ tìm chỗ buộc ngựa và không quên tháo bịch cỏ mang trên lưng ngựa xuống cho nó nhai, bởi vì phiên chợ còn dài lắm. Người ta thồ trên lưng nấm hương, mộc nhĩ, củi, gạo, ngô, khiêng tre vầu, lá tranh và cả các thân cây gỗ to ra chợ để đổi lấy thịt, muối, kim chỉ, vải vóc… Khi có sự xuất hiện của người Pháp, họ đã dựng một ngôi chợ gỗ rất to, mái bằng gỗ pơmu xẻ mỏng như kiểu mái nhà người H’Mông, trên chính mảnh đất của ngôi chợ bê tông ngày nay. Một góc trái của chợ là nơi buộc ngựa, còn ở chỗ rau bây giờ là các dãy máng cho ngựa ăn gọi là tràn ngựa. Xuống chút nữa là lối dẫn đến bản Cát Cát và dãy phố hoa kiều.
Đến năm 1995 thì chợ cũ bị phá đi và xây chợ mới bằng bêtông hai tầng khang trang như ngày nay. Mặc dù chợ mới xây kiên cố bề thế nhưng người dân lại thích đứng ngồi, đi lại tản mạn ra các hè phố chung quanh, ra sân nhà thờ mà buôn bán và trò chuyện. Vì thế chợ Sapa có nghĩa là cả một khu vực dài rộng, dọc theo các con đường khu vực phố cũ. Và thế là chợ Sapa hình thành, níu chân nhiều du khách với cái ấm áp tình người, để rồi ở Sapa, du khách sẽ thích thú với bao điều mới lạ của thiên nhiên và con người nơi này.
Tuy nhiên những phiên chợ cuối tuần ở Sapa mới là sức hút đối với nhiều du khách. Người dân tộc ở các bản làng xung quanh, xa xôi, khó khăn trong việc đi lại bởi xưa không có những phương tiện giao thông như bây giờ. Chợ phiên là nơi hội tụ của nhiều thành phần dân tộc thiểu số sống xa cách nhau ở vùng cao, có bản sắc văn hóa, phong tục riêng. Các phiên chợ này như thực hiện những ước hẹn truyền thống của tuổi trẻ, của yêu cầu sinh tồn, phát triển dòng giống. Sự xa cách về địa thế núi non và sự xa cách về tình cảm thông giữa các dân tộc vốn từ lâu là nhược điểm, là ngăn trở sự tăng trưởng dân số cũng như kiến thức ở miền cao, vùng sâu, vùng xa. Chính vì thế cần có những phiên chợ ước hẹn để trai gái lặn lội đường xa, tìm đến với nhau giao duyên và trao đổi hàng hóa với nhau. Một công hai ba việc tiện ích. Họ vừa buôn bán, vừa giao du, vừa mua được những thứ cần cho cuộc sống, vừa được thể hiện tình cảm, tình yêu thương đích thực giữa người và người.
Tại các phiên chợ, không chỉ riêng gì Sapa, như chợ phiên Bắc Hà, Cán Cấu, Cốc Ly, Mường Khương, Tam Đường … ở rải rác các huyện của tỉnh Lào Cai, người dân tộc đem sản phẩm của mình ra chợ trao đổi buôn bán, họ khoe những sản phẩm do chính họ bỏ mồ hôi công sức ra làm. Đây có thể coi là cách khoe kỹ năng, nghề nữ công của các cô gái dân tộc, của những người phụ nữ đảm đang. Vì đi bộ đường xa từ các bản làng heo hút trong các thung lũng thăm thẳm, các cô gái phải ở lại qua đêm tại thị trấn chờ sáng hôm sau mới trở về. Tất nhiên có những cơ hội tình cờ trai gái gặp nhau và khi chợ tan, các sạp bán hàng đóng lại, các cô cậu còn ngồi đứng lóng ngóng trò chuyện chờ tới sáng. Dịp này cũng là cơ hội để các cậu trai làng bày tỏ tài nghệ tháo vác của mình. Thật chất từ chuyện mua bán, trao đổi hàng hóa, công việc mưu sinh cuối tuần đến hiện tượng mở rộng tình yêu rồi đi đến hôn nhân, thực tế là đã có nhiều cặp vợ chồng thành hình nhiều gia đình được tổ chức, sinh con đẻ cái đầy đàn, bắt nguồn từ những phiên chợ. Nhiều thôn bản ở xa nên đồng bào thường đến chợ từ chiều hôm trước. Khi mặt trời xế bóng, là lúc những đôi trai làng gái bản hối hả về chợ. Các cô gái trong bộ trang phục mới và đẹp nhất, có mùi thơm chàm, cùng các dải hoa văn rực rỡ, càng tăng thêm vẻ đẹp của núi rừng. Các chàng trai cũng rút sáo, đàn môi ra thổi vài điệu dân ca quen thuộc. Khi màn đêm buông xuống, bên ngọn lửa rực ấm tình người hay dưới những rặng cây gần chợ, những điệu hát giao duyên vang lên. Lúc đầu họ còn hát tập thể, về sau từng đôi ăn ý tách đôi nhau ra thủ thỉ tâm tình, bày tỏ tình cảm yêu thương.

Chợ Phiên Bắc Hà:
Ở Bắc Hà, vẻ nguyên sơ của một vùng sơn cước, thung lũng còn nguyên vẹn với cỏ hoa mượt mà, biểu hiện qua màu hoa trắng thanh bạch. Mỗi sáng chủ nhật, chợ phiên Bắc Hà được họp với sự tham gia của nhiều dân tộc miền núi, tưng bừng và rộn rã. Một lý do nữa là chợ có phần nguyên thủy hơn vì ít bị tây hóa như chợ phiên Sapa, vả lại chợ như một bức tranh đầy sắc màu bởi trang phục của người H’Mông Hoa và vài dân tộc khác như Tày, Xá Phó, Lô Lô … do đó rất nhiều chương trình du lịch dành cho khách nước ngoài đều có ghé thăm chợ phiên Bắc Hà tại thị trấn Bắc Hà. Ngay sáng sớm các chủ quán đã dậy giết mổ dê ngựa để làm món thắng cố truyền thống. Khi mặt trời chưa kịp nhô khỏi núi, từng tốp thanh niên nam nữ nườm nượp về chợ. Các cô gái dân tộc vai đeo cỗ hàng, các chàng trai cưỡi ngựa, mang theo cây sáo, chiếc đàn môi, cây khèn hoặc xách theo một con gà, chai mật ong rừng bán lấy tiền. Ai cũng mong gặp bạn tri kỷ. Thanh niên thì mong tìm được người bạn đời trong tương lai. Họ đi chợ không còn là để trao đổi buôn bán mà là đi chơi chợ. Ở một góc chợ có tiếng khèn là nơi tụ họp của các chàng tai thanh niên cường tráng và lanh lợi. Nơi bán đồ thêu là các cô gái khoe tài nhuộm vải và khéo léo thêu dệt hoa văn thổ cẩm của mình. Khi chiều về, hoàng hôn buông xuống, mặt trời ngả về Tây, nhiều nam thanh nữ tú còn luyến tiếc nhiều điều, tất cả chỉ còn tiếng đàn môi thủ thỉ với nhau. Ven đường từng đôi nam nữ bịn rịn chia tay nhau, hẹn phiên chợ sau gặp lại. Màn đêm buông xuống, chợ tan dần nhưng ai cũng khắc khoải, mong đợi phiên chợ kế tiếp.
Muốn đến Bắc Hà, từ thành phố Lào Cai, theo đường 4D, đến km số 8, rẽ theo đường 70 về Hà Nội. Đi được 27 km là tới Pắc Ngầm, rẽ trái và di chuyển thêm 28 km nữa, sau khi vượt một đoạn dốc cao va dài mang tên Trung Đô, du khách sẽ tới thị trấn Bắc Hà. Tại thị trấn du khách cũng có thể đến thăm một vài điểm văn hóa, di tích như dinh thự cổ Hoàng A Tưởng, bản Phố của người H’Mông hoa, xa hơn nữa rời khỏi thị trấn là chợ phiên Cán Cấu vào sáng thứ 7, bản làng Trung Đô và hang Tiên, chợ Cốc Ly … Nhìn chung toàn tỉnh Lào Cai nói riêng và vùng cao Bắc Bộ có vô số phiên chợ thú vị và mang đậm bản sắc của người dân tộc vùng cao.

Đỉnh Phanxipăng – Vườn quốc gia Hoàng Liên

Sapa không chỉ nổi tiếng với khí hậu, với cảnh sắc và sắc màu dân tộc mà còn là nơi duy nhất trên Việt Nam và cả Đông Dương sở hữu đỉnh núi cao nhất – 3.143m, được liệt vào hàng thứ 10 trên thế giới trong danh sách những ngọn núi cao nhất thế giới. Không chỉ được xem là “nóc nhà của Việt Nam” mà còn là “nóc nhà của Đông Dương”. Ngọn núi này đang là một thách thức đối với những ai ưa thích phiêu lưu, mạo hiểm và chinh phục đỉnh cao. Nếu có ý định leo núi Phanxipăng thì du khách sẽ phải hoạch định một chương trình leo núi băng rừng ít nhất 1 tuần. Và điều dễ dàng và thuận tiện cho du khách trước là nên liên hệ với tổ chức du lịch tại địa phương.
Khoảng 600 triệu năm về trước, khắp vùng Tây bắc Việt Nam còn chìm sâu dưới lòng đại dương, sau 3 kỳ vận động tạo sơn thì mãi đến thời kỳ tân kiến tạo cách ngày nay khoảng trên 100 triệu năm, Hoàng Liên đột ngột nhô lên thành một dãy trùng điệp. Với chiều dài 280 km, từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Hòa Bình, chiều ngang chân núi rộng nhất là 75 km và hẹp nhất là 45 km, dãy núi gồm 3 khối cơ bản :
1. Khối Bạch Mộc Lương Tử
2. Khối Phan Xi Păng
3. Khối Pú Luông
Cả mái nhà đồ sộ này ẩn chứa khá nhiều điều lạ kỳ và bí ẩn. Đỉnh Phanxipăng là ngọn núi tập trung nhiều tiềm ẩn còn chưa được khám phá hết. Đây được coi là bảo tàng thiên nhiên kỳ vĩ, với thảm thực vật có hơn 700 loài đặc hữu rất đáng ngạc nhiên. Dưới chân núi là những cây gạo, cây mít, cây cối dày đặc. Cũng chính từ những địa loại thực vật đó, mà người dân tộc đã lấy đó là tên đặt cho địa danh theo lối “thấy mặt đặt tên”: Cốc Lếu – nghĩa là gốc cây gạo, Cốc San – nghĩa là gốc cây mít …Từ đây lên đến độ cao 700m nữa là vành đai nhiệt đới với những vạt rừng nguyên sinh rậm rạp, chằng chịt những dây leo. Từ khoảng 700m trở lên là tầng cây hạt trần như cây pơmu. Nhiều cây to gốc, đại thụ lớn đến nỗi vòng tay của 4-5 người ôm vẫn không xuể, cao 50 –60m đã sống hàng mấy thế kỷ qua. Cây Pơmu còn gọi là Ngọc Am, được coi là loại gỗ quý hiếm được coi như “cây vàng” của tỉnh Lào Cai. Bên cạnh Pơmu thì còn nhiều loại gỗ quý hiếm khác như thông đỏ, hoàng đàn, các loại sam như lãnh sam, thiết sam, liễu sam và kim sam. Các loại cây lá kim như trúc ken dày với các loại thân gỗ nhỏ trụi, thân luôn sũng nước, do ở độ cao thường có khí ẩm và mưa sương, có khi cả năm Phanxipăng chìm ngập trong những trận mưa dầm kéo dài suốt cả tháng không dứt.
Trong rừng cây lá kim này thì đỗ quyên, phong lan rừng và hoàng anh luôn rực rỡ sắc màu hơn cả. Gần như trong cả 4 mùa, Sapa đều tràn ngập trong sắc màu của hoa glaieul, thược dược, gõ nha, … là những “nàng công chúa hoa” hiếm hoi ở miền xuôi. Riêng hoa đỗ quyên thì có đến 4 chi và hơn 20 loài khác nhau, và có những nơi trong rừng, loài hoa này chi chít, nở rực cả núi rừng. Tại việt Nam có đến 111 chi phong lan và 643 loài, thì tính riêng ở Phanxipăng có tới 330 loài, chiếm hơn phân nửa số phong lan có mặt tại Việt Nam. Sapa – Phanxipăng là xứ sở của các loài hoa và cây ăn quả ôn đới như đào, mận, lê, táo … suốt 4 mùa. Đầu mùa thì có đào to, thơm ngát, vị ngọt nhẹ. Vào cuối tháng 6 thì đào rộ lên, quả ửng hồng. Cuối mùa thì có đào màu vàng, ngọt, hương vị rất đặc biệt và hấp dẫn khách phương xa. Riêng mận ở Sapa có nhiều loại ngọn và đẹp, nhất là mận tím ở Tả Van, quả Glaieul đáy sai trĩu trên cành đến nỗi làm nên một loại đặc sản của Sapa – rượu mận Tả Van.
Lên đến độ cao 2.400m, mây và gió cứ len lỏi ôm ấp lấy cây rừng trên sườn núi. Có lúc tưởng chừng như chúng ta có thể xòe tay ra mà nắm bắt lấy từng áng mây, từng cơn gió trời lồng lộng. Từ độ cao 2.800m trên sườn núi, mây mù chợt tan biến giữa bầu trời khoáng đãng, trong xanh, chỉ có gió thổi làm cho thảm thực vật như dính chặt vào vách núi. Ở đây xuất hiện loại trúc lùn dán kín mặt đất trên long chừng núi, những bụi trúc này chỉ cao từ 25cm đến 30cm, thân trơ trụi, phần ngọn thì có một ít lá phất phơ nên được người dân đặt cho cái tên khá ngộ nghĩnh: ”trúc phất trần”. Trong khu vực này còn có bóng dáng của một số loại cây thuộc họ cói, họ hoa hồng, họ cúc, họ hoàng liên… Với thế đất xương xẩu trơ gốc đá, gió lại không ngớt ào ạt trong khí hậu giá lạnh, nhưng những cây hoàng liên – một loại dược thảo quý vẫn vươn lên sống mãi. Dãy Hoàng Liên ngoài loại đặc hữu này còn có khá nhiều loại dược thảo quý khác nữa như linh chi, sơn tra vv… Và trên điểm cao 2.963m, có một cột mốc đánh dấu năm 1905 người Pháp đã chinh phục đỉnh này. Lên cao nữa là một khối đá khổng lồ nằm chênh vênh, giống như một chiếc bàn đá. Chính từ Phanxipăng được đọc chạy từ “hua xi pan” của tiếng dân tộc địa phương, nghĩa là phiến đá khổng lồ nằm chênh vênh cao ngất ngưỡng giữa mây trời.
Chinh phục đỉnh Phanxipăng còn là một mong mỏi và ước ao của một số người ưa thích phiêu lưu mạo hiểm và vận động thể lực. Năm 1960 một đoàn vận động viên leo núi người Nga và người Đức đã dùng dụng cụ leo núi chuyên nghiệp để lên tới đỉnh. Về sau này, khi du lịch phát triển, việc chinh phục đỉnh Phanxipăng đã trở thành một tiết mục hấp dẫn trong nhiều nội dung chương trình tour tại Sapa. Đã có khá nhiều người chinh phục được đỉnh núi này. Có 3 hướng đi cơ bản để lên tới đỉnh Phanxipăng:
1. Đi dọc theo suối vàng Cát Cát trên những lối mòn của người H’Mông.
2. Đi qua bản Xín Chài. Đường đi này dốc hơn, khó đi.
3. Từ đỉnh đèo Ô Quy Hồ. Cung đường này xa hơn.
Vì thế nếu đã muốn tham gia vào chuyến phiêu lưu mạo hiểm chinh phục đỉnh Phanxipăng rồi, thì không lý do gì mà du khách lại không chọn con đường từ bản Cát Cát để đi thuận lợi hơn. Đường này sẽ dẫn chúng ta qua nhiều nơi có tầm nhìn xa và rộng. Vượt qua bản của người H’Mông, tới một cầu treo dẫn tới một dốc dựng đứng, vượt qua dòng suối có nước buốt lạnh, rồi mới tới một cánh rừng già, tại đây có nhiều gốc cây khá lớn đã bị chặt phá bởi một số người dân chưa ý thức và cả lâm tặc. Khi ra đến bìa rừng, dưới tán cây cao là nương thảo quả thơm ngát của người H’Mông. Chỗ này có độ cao khoảng 1700m. Tiếp đến là “dốc thử thách”. Ai mà vượt qua được dốc này coi là đủ sức để leo đến đỉnh. Đến đoạn vượt xong dốc đứng này, chúng ta phải ngồi lại nghỉ ngơi để lấy sức cho chặng đường tiếp theo. Sau đó phải men theo một triền núi chênh vênh. Từ đây nhìn xuống bên dưới là bóng dáng của thị trấn Sapa bé nhỏ với những chấm li ti là những mái ngói nhà màu đỏ và những con đường như sợi chỉ ngoằn nghoèo, nếu như thời tiết tốt và trời quang mây tạnh. Mất gần trọn một ngày mới lên đến độ cao 2080m, và đây là điểm nghỉ đêm đầu tiên trong chuyến hành trình.
Hôm sau, khoảng 7h sáng là tiếp tục khởi hành, băng qua một cánh rừng già, một nương thảo quả nhỏ, đó là dấu vết cuối cùng của đời sống con người trong khu vườn quốc gia Hoàng Liên này. Đến một dốc dài đối diện với vách núi dựng đứng, bên kia là đáy vực sâu. Đến đây cây cối dường như thấp và có phần cằn cỗi vì đất mùn ở khe núi quá ít. Tại đỉnh dốc là một rừng cây cổ thụ còi cọc, rêu mốc phủ dày từ gốc tới ngọn, rất kỳ lạ. Ở độ cao 2400m là nơi có nhiều cây tùng cổ thụ thấp, vươn mình ở vách đá chênh vênh. Rừng tùng này có mỗi cây một dáng vẻ riêng, càng vào sâu càng trở nên ngoạn mục. Chặng đường còn khá xa, phải vượt qua một dốc đứng nữa, với nhiều cây cối thân nhỏ, và mọc nhiều nhất là đỗ quyên. Sau đó len lỏi trong các lùm cây um tùm, vượt qua rừng trúc thân như chiếc đũa, đầu ngọn xòe ra, cụm lá dày đặc, cao chưa tới vai. Đến độ cao 2900 thì hoàng hôn đã tắt, du khách lại phải nghỉ một đêm trên núi, thời tiết giá buốt hơn trước. Qua đến ngày thứ 3, du khách sẽ lại phải băng qua một rừng trúc bạt ngàn, ba con suối nhỏ, rồi thì đỉnh Phanxipăng dần vụt hiện ra như một đầu người khổng lồ, và vầng trán là đích đến cuối cùng. Trên mặt phẳng dốc nghiêng của tảng đá to lớn như chiếc bàn, có cột mốc bằng inox do các vận động viên leo núi người Đức và Nga đánh dấu độ cao nhất vào năm 1984, và đó là một quá trình đầy gian khổ để đưa ta tới đỉnh cao của vinh quang và niềm tự hào: chinh phục được “nóc nhà của Đông Dương” – một niềm mơ ước mà ít ai thực hiện được.

Dược thảo Hoàng Liên
Được dịp đến Sapa, không ít du khách ngỡ ngàng trước cảnh sắc Sapa trữ tình, thơ mộng bên cạnh những bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo vùng cao. Ngoài ra, du khách còn cảm nhận được rằng khắp Sapa dường như nồng nàn với mùi hương kỳ diệu quyện trong gió mát lạnh vi vu thổi và những áng mây mù, được thổi đến từ khu rừng già Hoàng Liên hoặc trên các lối mòn chinh phục đỉnh Phanxipăng. Có thể nói một điều rằng gắn chặt với đời sống của những hộ gia đình người dân tộc, nhất là người H’Mông trên vùng núi cao này là những nương thảo quả. Đó được xem là chứng tích của một gia đình sung túc, giàu có. Hít thở một hơi dài làn hương thảo quả khiến cho ta cảm thấy sảng khoái tinh thần và dễ chịu hơn hẳn. Nếu như du khách có đi qua nhà người dân tộc nào trong thôn bản mà không tài nào ngăn được mùi hương thảo quả sộc vào mũi, thì báo hiệu rằng gia đình này vừa trúng vụ mùa thảo quả trong năm.

Cây thảo quả
Cao hơn đầu người, gần giống với cây giềng. Có chồi hoa mọc thành chùm màu hồng đậm ở dưới gốc. Hoa thảo quả nở vào tháng 4, khi tiết trời phương Bắc trở nên ấm áp hơn. Khi đó thì người trồng thảo quả lại phải dọn dẹp quanh gốc cho sạch và thoáng. Thảo quả là loài cần ẩm ướt để phát triển. Nếu như năm nào hơi khô hạn thì hoa thảo quả khó nở. Trái thảo quả có hình tròn cỡ trái vải. Khi chín thì cả chùm thảo quả chuyển sang màu đỏ thẫm, hạt cay nồng và chắc. Và lúc này cần phải hái ngay. Việc trồng thảo quả cũng cần phải qua nhiều công đoạn chăm sóc như ngô hay lúa.
Sau khi thu hoạch xong, người ta làm cỏ một lượt vì liền ngay sau đó, thảo quả sẽ tự nảy mầm thêm nhiều nhánh mới. Lúc đầu chỉ cần gieo trồng một cây, sau vài năm nó trở thành một bụi rậm, mỗi bụi như thế cho tới vài chục cân trái tươi. Những nơi trồng thảo quả tốt nhất là những khoảng rừng nguyên sinh nằm ven khe núi, có độ ẩm cao và ít bị gió mạnh làm ảnh hưởng đến cây. Tại những nơi này, những tán lá rừng là tấm lưới tự nhiên che chắn không để cho sương sà xuống làm chết thảo quả vào mùa giá rét. Về sau này thảo quả được trồng dưới những tán lá cây ven rừng, nơi có độ ẩm cao và độ chiếu sáng khoảng 30%. Nhiều nhất là được trồng ở khu ven rừng Hoàng Liên, sâu bên trong bản Cát Cát, trên những lối mòn đưa chúng ta đi chinh phục “nóc nhà Việt Nam”.
Thảo quả sau khi thu hoạch, phơi khô dùng làm hương liệu và dược liệu như một vị thuốc có giá trị trong bồi bổ sức khỏe. Ít ai biết rằng, tên tuổi của phở đã nổi tiếng là món ăn độc đáo của Việt Nam, được thế giới ngợi khen. Một nồi nước dùng cho phở muốn hấp dẫn, ngon miệng và hảo hạng luôn luôn phải có mặt thảo quả. Và dường như đa phần trong các món ăn cao cấp của Trung Hoa đều sử dụng thảo quả, vì thế mà thảo quả ở Sapa được xuất sang Trung Quốc rất nhiều để bán cho họ. Chính nhờ những nương thảo quả này mà người H’Mông đã dần cải thiện được cuộc sống của mình. Từ năm 1960, nhà nước ta bắt đầu có kế hoạch thu mua thảo quả, chỉ có các gia đình người H’Mông và sau này là sự tham gia của người Dao chịu khó lội suối, vượt đồi, lên núi và vào rừng tìm chỗ để trồng thảo quả. Khoảng đầu thiên niên kỷ mới, giá thảo quả bỗng tăng cao, khoảng 50.000 – 60.000/ cân quả khô. Nhờ đó mà nhiều gia đình đồng bào dân tộc đã thay đổi được cuộc sống khó khăn của mình và nhiều hộ đã làm giàu nhờ trồng và bán thảo quả. Nó trở thành nguồn lợi lớn của dân tộc địa phương và được xem như “nguồn lợi vàng” cho Sapa và tỉnh Lào Cai nói chung.
Một loại dược thảo rất đặc biệt nữa, chỉ có mặt tại dãy Hoàng Liên Sơn này thôi, đó chính là cây Hoàng Liên – một loại dược liệu quý có giá trị y học và kinh tế cao. Cây Hoàng Liên có khá nhiều ở dãy núi mang tên loài cây này, có 2 loại khác nhau:
1. Hoàng Liên 3 gai, là loại cây gai thân thảo, chỉ mọc ở những chỗ ít ánh sáng, dưới lá chĩa ra 3 gai. Củ cắt ra có nhựa màu vàng như loại thuốc Tétracycline, thường được dùng để nấu nước uống.
2. Hoàng Liên chân chim có rễ như rễ cây chanh, lá chẻ giống như bàn chân chim và chỉ có một thân cọng.
Từ lâu người dân tộc ở các thôn bản đã biết dùng Hoàng Liên như một loại thuốc kháng sinh tổng hợp. Để tìm được cây Hoàng Liên ở vùng núi cao trùng trùng điệp điệp này hết sức là gian truân. Người ta phải len lỏi vào rừng sâu, leo lên các sườn núi cheo leo và phải chọn thời điểm thích hợp để tìm cây. Cả những người tìm mua Hoàng Liên cũng phải khá vất vả cho chuyến đi buôn. Họ phải khổ cực trèo lên các thôn bản người H’Mông ở lưng chừng núi trong vùng sâu, vùng xa thung lũng. Người đi hái cây Hoàng Liên đòi hỏi cũng phải có nhiều kinh nghiệm, khi nhìn vào giữa ánh nắng chiếu chói chang ban trưa, tìm cho ra và xác định được chỗ khe đá nào mà hầu như không có tia nắng nào rọi đến trong ngày thì may ra nơi đó có Hoàng Liên.
Ngoài công dụng như kháng sinh, người ta còn dùng dược liệu Hoàng Liên để chữa đau mắt bằng nhựa của cây; chữa đau bụng bằng cách sắc hoặc giã thân cây nấu để uống; để tránh nhiễm trùng khi chảy máu thì cạo bột củ Hoàng Liên đắp vào vết thương hoặc đối với gia súc khi bi lở loét hay chảy máu thì cũng dùng bột củ Hoàng Liên để chữa trị.
Trên đại ngàn vườn quốc gia Hoàng Liên còn có vô số loài dược liệu quý khác như: đương quy, đẳng sâm, mộc hương, tam that, gấu tàu, xuyên khung, nghệ đen … Vốn là những chủng loại dược thảo mọc hoang dại trong rừng núi, do công dụng hữu hiệu, đã bị nhiều lâm tặc truy tìm khai thác tận cùng. Vì thế, để tránh tình trạng khai thác bừa bãi, các loại cây thuốc này ngày nay đã được trồng trong vườn hay tại các nương quy mô rộng trong các thung lũng. Một điều dễ nhận ra là chỗ trồng cây thuốc luôn có tấm lưới đen, rộng giăng trên mặt ruộng và nơi đó tỏa hương ngào ngạt.
Dọc theo lối lên núi Hàm Rồng, đâu đâu cũng quảng cáo sản vật “nấm linh chi Sapa”, thế mới biết Sapa là một nơi có sự sinh trưởng nhiều nấm linh chi và đó lại là dược liệu quý hiếm. Nấm linh chi được coi là một thứ thuốc tiên, chữa trị hiệu nghiệm các chứng nguy hại tới huyết áp, thiếu máu, nhồi máu cơ tim, tay chân lạnh buốt, co giật, tâm thần bất an và đáng lưu ý hơn nữa là có thể ngăn chặn các tế bào ung thư. Ở Sapa, linh chi sống hoang dại trong rừng thẳm giá buốt. Nấm có thân cong queo và mũ nấm nhỏ chỉ bằng viên bi, màu nâu sẫm, da nấm sần sùi, giá trị dược tính rất cao. Đối với loại nấm to mũ và dáng dày là nấm nuôi, chăm sóc trong vườn nên không phải loài mọc hoang dại, có tính trị liệu không cao.
Người dân tộc vùng này nhất là người Dao có những bài thuốc rất hay, cũng chỉ toàn sử dụng các loại cây cỏ dược liệu. Người Dao ở Sapa rất giỏi về thuốc. Phần lớn các bài thuốc của người Dao được truyền lại từ lâu đời và được chép trong sách cổ với một thứ chữ mà ngày nay ít ai có thể đọc được. Họ có những bài thuốc tránh thai cổ truyền và rất hiệu nghiệm. Các cô gái Dao thường được mẹ chỉ riêng những bài thuốc ấy. Mặt khác, những cô gái người Dao thường có làn da trắng hồng, mịn màng không phải chỉ vì thời tiết tuyệt vời của Sapa này, mà chính lại nhờ hàng ngày họ được tắm với một loại lá thuốc. Trước khi tắm họ cho lá vào chảo sấy khô, rồi bỏ vào một thùng gỗ tròn, đổ nước ngồi vào ngâm mình. Hơi nước nóng thơm xông lên gần như nồng nặc giúp cho da hấp thụ những tinh chất trong dược liệu và có được làn da trắng mịn và săn chắc. Lá thuốc này là một hỗn hợp gồm nhiều loại lá khác nhau. Tuy giấu kín các bí quyết gia truyền về các loại cây lá có đặc tính trị ngừa thương, bệnh nhưng trong trường hợp tắm ngâm thuốc, với tấm lòng hiếu khách, các gia đình người Dao vẫn sẵn lòng vui vẻ mời khách đến chơi và chuẩn bị sẵn một thùng nước lá thuốc nóng, rồi mời khách ngâm tắm cho sảng khoái và sạch sẽ, sau đó mới đến lượt người trong nhà.
Ngay trong việc sinh nở, những cô gái Dao phải tự lo cho mình và thai nhi. Nhờ có được bài thuốc gia truyền, họ tự đẻ con một cách nhẹ nhàng và nhanh chóng tự mình tắm rửa cho đứa bé sơ sinh. Chỉ khoảng 4 ngày sau là họ có thể địu đứa bé còn đỏ hỏn lên nương rẫy, tiếp tục công việc đồng áng. Thế mới biết trên dãy núi cao ngất ngưỡng này còn ẩn chứa bao điều kỳ diệu mà con người chưa thể khám phá hết.

 Mai Châu

Vùng đất trung tâm của nền văn hóa cổ của người Việt đó là văn hóa Hòa Bình. Là địa bàn cư trú của bảy dân tộc anh em: người Mường, người Kinh, người Thái, người Tày, người Mông, người Dao, người Hoa cư trú trên 10 huyện 1 thành phố, 214 xã phường thị trấn. Hòa Bình có địa hình núi non tạo thành cảnh quan thiên nhiên núi cao sương mờ kết hợp với các bản làng dân tộc với những nét văn hóa độc đáo tạo nên vẻ quyến rũ riêng của Hoà Bình. Từ Hòa Bình đi khoảng 600km nữa chúng ta sẽ đến với Mai Châu thơ mộng.
Thung lũng Mai Châu huyện Mai Châu, Hòa Bình là điểm đến của hàng trăm ngàn du khách trong và ngoài nước. Ở Đây có bản du lịch nổi tiếng của người Thái Trắng là Bản Lác. Người Thái Trắng ở Mai Châu làm du lịch trong chính nhà sàn của mình họ làm du lịch bằng văn hóa bản địa rất độc đáo.
Bản Lác có độ cao so với mặt nước biển là 900m. Nhiệt độ bình quân năm là 20-2100C , cao nhất 3700C.
Người dân trong bản chủ yếu sinh sống bằng nghề nông trồng lúa nước. Nơi đây thu hút du khách bởi những nét văn hóa độc đáo của người Thái như: múa xòe, cơm lam, rượu cần, thổ cẩm…..Bản Lác có 101 hộ dân với tổng số 447 người. Từ năm 1964 theo yêu cầu của Chính Phủ, Bản Lác có nhiệm vụ đón tiếp các đoàn khách nước ngoài đến thăm quan và tìm hiểu về văn hóa dân tộc, từ năm 1991 đến nay dịch vụ du lịch văn hóa sinh thái được hình thành và phát triển. Hàng năm Bản Lác đón tiếp khoảng 3000 lượt khách du lịch nước ngoài và hàng chục nghìn khách du lịch trong nước. Hiện có 23 hộ tham gia làm dịch vụ du lịch.
Bản Lác có 64 nhà sàn đón khách du lịch, cả bản đặt ra mức giá chung là 50.000đồng/khách. Chẳng bà con nào phá giá cả mười năm nay vẫn thế. Khi khách đông còn san sẻ khách hoặc góp người múa xòe cho nhau nữa, dưới chân nhà sàn các cô gái Thái miệt mài bên khung cửi và đây cũng là nơi bán đồ lưu niệm do chính người Thái sản xuất khăn thêu, váy, ví, áo thổ cẩm. Đặc sản vùng này còn có rượu cần tuyệt ngon làm bằng lúa nếp, lá hính ho, ngực mèo, gừng, giá 30.000đ/ chóe.
Các cụ già ngày xưa làm nỏ để đi săn thì ngày nay làm nỏ để bán cho du khách mỗi tháng có làm được 3 bộ tên nỏ, bán trên 300.000 đồng.
Bên dưới nhà sàn những cô gái Thái cặm cụi che tre nấu cơm lam. Món cơm nếp trong ống lam của Mai Châu, do có nước dừa nên thơm ngon vô cùng, được bán với giá 2.000đ/ống mỗi tháng một cô gái có thể bán được 500 ống.
Đêm về trên sàn nhà ấm cúng ăn măng nướng thịt heo nướng, gà gói lá dong, cá suối hấp… và say men rượu cần. Xem múa xoè và nghe giọng hát thiết tha của các cô gái Thái.
Sơng Hồng bắt nguồn từ cao nguyn Langpiang của Trung Quốc v đổ về Việt Nam khoảng 500km, tổng chiều di của sơng Hồng l khoảng 1.183km đổ ra cửa biển Ba Lạc .
Sơng Hồng từ đoạn Lo Cai đến Việt Trì thì khơng gọi l sơng Hồng m gọi l sơng Hao, về đến Việt Trì hợp với sơng Lơ v sơng Lơ hợp với sơng Chảy, sơng Chảy người ta chắn lại lm thủy điện Thp B.

Hà Nội
Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội có diện tích tự nhiên 918,1 km2, khoảng cách dài nhất từ phía bắc xuống phía nam là trên 50km và chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30 km. Điểm cao nhất là núi Chân Chim: 462 m (huyện Sóc Sơn); nơi thấp nhất thuộc xã Gia Thụy (huyện Gia Lâm) 12 m so với mặt nước biển. Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng từ lâu đời, Hà Nội có vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.
Trong những năm qua, nền kinh tế Thủ đô Hà Nội cùng cả nước đạt được nhiều chuyển biến tích cực. Với chính sách mở cửa, tăng cường hội nhập nền kinh tế quốc gia vào đời sống kinh tế khu vực và quốc tế, các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam có nhiều khởi sắc. Đặc biệt, ngành du lịch đã phát triển rất nhanh và trở thành một ngành kinh tế quan trọng của cả nước nói chung cũng như Hà Nội nói riêng.
Ngoài chức năng hành chính, chính trị, kinh tế và văn hoá, Hà Nội còn là một trung tâm du lịch có sức hấp dẫn của cả nước. Du lịch là một trong nhiều thế mạnh của Thủ đô.
Hà Nội, thành phố với bề dầy lịch sử ngàn năm văn hiến chứa đựng tiềm năng du lịch to lớn vị trí Thủ đô của Hà Nội có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát triển du lịch. Nằm ở trung tâm Bắc Bộ, giữa vùng đồng bằng châu thổ màu mỡ với kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, thành phố có nguồn tài nguyên du lịch tiềm tàng, đặc biệt là tài nguyên văn hoá - lịch sử.
Trải qua bao biến động thăng trầm Hà Nội lưu giữ được nhiều di tích văn hoá - lịch sử có giá trị đối với hoạt động du lịch. Các di tích lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc tạo thành bộ sưu tập quý giá trong kho tàng di sản văn hoá của Việt Nam.
Cho đến nay, Hà Nội có trên 300 di tích được công nhận di tích lịch sử văn hoá (trong khoảng 2000 di tích trên địa bàn), đứng đầu cả nước về số di tích được xếp hạng, mật độ trung bình 2 di tích/km2. Nhiều loại di tích có ý nghĩa lịch sử gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước (thành Cổ Loa với sự tích An Dương Vương, khu di tích Sóc Sơn gắn với truyền thuyết chống giặc Ân của Phù Đổng Thiên Vương, khu di tích về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh...), Hà Nội vẫn còn lưu giữ nhiều công trình kiến trúc cổ, gồm hơn 600 ngôi chùa và khu phố cổ. Bên cạnh các công trình kiến trúc cổ còn có nhiều công trình mới được xây dựng như Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, cung Văn hoá Hữu Nghị... cùng hệ thống các viện bảo tàng và nhà hát phong phú, đa dạng (bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng Hà Nội, bảo tàng Lịch sử, bảo tàng Cách Mạng...). Tiềm năng du lịch Hà Nội còn thể hiện ở các hoạt động văn hoá - văn nghệ dân gian, nghệ thuật múa rối nước là loại hình sân khấu dân tộc độc đáo hấp dẫn khách du lịch nước ngoài muốn tìm hiểu nền nghệ thuật truyền thống Việt Nam, các lễ hội truyền thống (hội Lệ Mật, hội Triều Khúc...), các làng nghề truyền thống (đúc đồng Ngũ Xã, gốm sứ Bát Tràng, Cốm Vòng....). ẩm thực Hà Nội được du khách trong nước và thế giới đánh giá cao (Phở bò, Chả cá Lã Vọng, bánh cuốn Thanh Trì, Giò chả...).
Hà Nội đặc biệt với “mùa thu vàng” đã làm rung động biết bao tâm hồn thi sĩ... Hà Nội còn được gọi là thành phố “xanh” với các hàng cây thuốc nhiều loại khác nhau như xà cừ, bàng, sấu, phượng, hoa sữa... trải khắp phố phường xanh cả bốn mùa. Trên 300 vườn hoa, công viên và thảm cỏ cùng hệ thống tượng đài, các bể phun nước càng làm tăng thêm vẻ đẹp của Thủ đô. Nói đến Hà Nội không thể nói đến vẻ đẹp của hệ thống sông hồ. Dòng sông Hồng như dải lụa vắt ngang thành phố, hai bên bờ sông có biết bao di tích mà du khách có thể ghé thăm nếu đi du lịch bằng đường thuỷ. Những hồ đẹp và tiêu biểu của Hà Nội là Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Thuyền Quang, Hồ Trúc Bạch gắn với huyền thoại thiêng liêng giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra, xung quanh Hà Nội trong bán kính 100 cây số có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như rừng Cúc Phương, động Hương Tích, núi Tam Đảo, đền Hùng, Hoa Lư... Những điểm du lịch này kết hợp với Hà Nội thành vùng du lịch hấp dẫn và Hà Nội trở thành một đầu mối cho toàn vùng.
Có thể nói, một quần thể du lịch phụ cận bao quanh thủ đô cấu thành một Hà Nội phong phú, đa dạng về tiềm năng du lịch, xứng đáng là một trung tâm du lịch lớn của cả nước. Hà nội có nhiều danh thắng nổi tiếng, nhiều đặc sản và hàng thủ công mỹ nghệ với bản sắc riêng. Người Tràng An nổi tiếng duyên dáng và thanh lịch. Với tiềm năng ấy, cộng với một nền văn hoá đậm đà chất Á Đông, du lịch Hà Nội chắc chắn hấp dẫn khách trong nước và quốc tế.
Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, là nơi hội tụ của 6 tuyến đường sắt, 8 tuyến đường bộ và đường hàng không. Hệ thống giao thông này là cầu nối Thủ đô với các tỉnh trong nước và thế giới.
Hà Nội là đầu mối giao thông đường sắt quan trọng, lớn nhất cả nước. Hội tụ về đây có 6 tuyến đường chính: Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Uông Bí. Mạng lưới đường sắt góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.