Cần Giờ - một khu rừng ngập mặn mênh mông,
còn có tên là Rừng Sác. Nó có tên như vậy là do người Nam Bộ gọi cây mắm là
cây Sác. Đây là loài cây ngập mặn hay sống cùng với các loại cây khác, như
sú, vẹt, đước, ô rô, chà là… tạo thành một tập đoàn cây ngập mặn. Tập đoàn
cây tiên phong lấn biển này thích hợp với những vùng bùn lỏng chưa ổn định ở
các bãi bồi cửa sông ven biển, nơi chưa có cây gì khác mọc được. Cây mắm, cây
đước đi trước, khi đất bùn đã được cố định, nước đã nhạt dần, cây dừa nước là
đại biểu sau cùng trong đoàn quân lấn biển. Các nhà thực vật học còn
dùng tên rừng Sác để chỉ kiểu rừng ngập mặn, nhằm phân biệt với rừng chàm là
kiểu rừng đầm lầy trên lục địa, nước ngọt và hay bị nhiễm phèn. Vào thế kỷ
17, khi những lưu dân Việt đầu tiên vào khai khẩn vùng đất mới Nam Bộ, Cần Giờ có đến 42 ngàn ha rừng nguyên sinh
mọc trên hàng trăm gò đất nửa chìm nửa nổi, hoặc chỉ cao hơn mức nước biển
một vài mét và hơn 1/4 diện tích vùng Rừng Sác là sông rạch. Thế giới động
vật Rừng Sác thời đó thật khó kiểm đếm hết. Cho đến những năm kháng chiến
chống Pháp, ngoài hàng trăm loài chim nước và động vật thuỷ sinh như tôm,
cua, cá, lưỡng cư… người ta còn gặp hổ, khỉ độc, rái nước… Thậm chí có những
ngày rái nước với hàng trăm con tập trung trên gò nhỏ. Nhiều người đã chứng
kiến những cuộc giao tranh quyết liệt giữa heo rừng và trăn nước. Loài cá sấu
có nhiều vô kể, vẫn được người dân địa phương gọi là "chúa nước". Trong những năm
1962-1971, để tiêu diệt căn cứ quân giải phóng, Mỹ tàn phá Rừng Sác bằng cách
rải chất diệt cỏ, trung bình mỗi ha rừng Sác phải hứng chịu 56 lít. Cho đến
ngày giải phóng (năm 1975), gần như toàn bộ Rừng Sác ở Cần Giờ bị tàn phá. Nhưng chỉ 5 năm sau,
Rừng Sác đã tái sinh trở lại và bị khai thác, chặt phá bừa bãi, do chưa có
quy hoạch. 10 năm sau đó là thời gian nhân dân Cần Giờ và bộ đội đổ mồ hôi
trồng lại rừng ngập mặn, hàng chục ha Rừng Sác đã hồi sinh. Có đến 60 loài
thực vật đã xuất hiện trở lại, nhiều nhất là cây đước. Hàng chục loài chim
nước bay về trú chân, trong đó có bồ nông, cò quắm, sếu, diệc, hồng hộc, le
le… Động vật lớn hầu như không gặp, nhưng đã có đàn khỉ gần 400 con sống tự
do trong Lâm viên Cần Giờ. Năm 2001, UNESCO
công nhận rừng ngập mặn Cần Giờ là khu dự trữ
sinh qyuển đầu tiên của Việt Nam. Cùng với các khu dự trữ sinh quyển của gần
90 nước khác trên thế giới, đã mở đầu một kỷ nguyên mới cho Rừng Sác: kỷ
nguyên phát triển loại hình du lịch sinh thái. Có lẽ tương lai Cần Giờ bắt đầu từ năm 1985, khi con đường ô
tô đầu tiên được xây dựng nối liền Bình Khánh với thị trấn Cần Thạnh, xuyên
qua trung tâm Rừng Sác với những vạt đước cao trên 10 m, những vạt dừa rậm
rạp với các tàu lá nhọn sắc nhô lên những thanh trường kiếm khổng lồ, du
khách đi qua một thế giới kỳ lạ với các cảnh quan rừng ngập mặn, Rừng Sác như
một bộ máy lọc nước khổng lồ, lọc sạch các chất ô nhiễm của hàng trăm khu
công nghiệp và đô thị miền Đông Nam Bộ xả xuống các sông Đồng Nai, Sài Gòn và
Nhà Bè. Nhờ vậy Cần Giờ vẫn giữ được thế
mạnh về kinh tế thuỷ sản. Với trên 5 ngàn ha nuôi trồng thuỷ sản, cung cấp
trên 30 ngàn tấn thuỷ sản, chủ yếu là tôm sò, hàu, nghêu… Con đường Rừng Sác đang được mở rộng thành xa lộ 6 làn
xe với lộ giới rộng đến 120 m, khu vực ven biển đã được quy hoạch thành khu
kinh tế mở của thành phố Hồ Chí Minh. Các khu đô thị mới, các khu công
nghiệp, khu chế xuất sẽ mọc lên bên cạnh các di chỉ từ thời Sa Huỳnh, Óc Eo…
Nhưng dù là khu kinh tế mở ven biển có quy mô đến mức nào thì hàng chục ha
Rừng Sác - lá phổi xanh và cỗ máy lọc nước khổng lồ của thành phố Hồ Chí Minh
- vẫn phải được giữ gìn, bảo vệ vì những giá trị sinh thái và lịch sử không
gì có thể thay thế được |
Rừng Sác (Cần Giờ)- “Bát quái trận đồ" trong đánh giặc ngoại xâm
Cần Giờ là một huyện ven biển nằm ở phía đông-nam Thành phố
Hồ Chí Minh, cách trung tâm khoảng 50 km. Vào năm 1997, huyện có diện tích
714km2, dân số là 55.173 người, gồm các dân tộc Kinh (80%), Khơ Me
và Chăm. Huyện Cần Giờ bao gồm thị trấn
Cần Thạnh và 6 xã Bình Khánh, An Thới Đông, Lý Nhơn, Tam Thôn Hiệp, Long Hòa và
Thạnh An. Diện tích của huyện là 704,2 km2. Dưới thời Mỹ- ngụy, địa
bàn huyện Cần Giờ gồm hai quận Cần Giờ và Quảng Xuyên thuộc tỉnh Phước Tuy. Quận Quảng Xuyên
được thành lập ngày 29-1-1959, gồm các xã Bình Khánh, An Thới Đông, Tam thôn
Hiệp và Lý Nhơn. Ngày 9-9-1960, chính quyền Sài gòn chuyển hai quận này sang
tỉnh Biên Hòa. Về phía chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam và Việt Nam dân chủ cộng hòa thì Cần Giờ thuộc tỉnh Gia Định cũ. Sau khi
đất nước thống nhất, huyện thuộc tỉnh Đồng Nai (1976-1978) với tên gọi là huyện
Duyên Hải. Ngày 28-2-1978 huyện Duyên Hải được sát nhập vào Thành phố Hồ Chí
Minh. Ngày 18-12-1991, huyện đổi tên thành Cần Giờ. Địa hình huyện chia cắt bởi sông, rạch, không có
nước ngọt. Rừng Sác và Rừng Đước đất này chiếm 47,2%.
Trong 30 năm chiến tranh giải phóng
dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Rừng Sác của huyện Cần Giờ là một “Bát
quái trận đồ”, một vùng sình lầy chi chít sông rạch, bãi triều ngập mặn xen
lẫn những giồng, gò đất cao. Bên những bãi chà nằm sát mặt nước là những cây
đước nhô vọt lên cao. Bên những rừng “gươm” của lá dừa nước là những bộ rễ cây
mắn đương đầu với sóng biển. Bên những “mái nhà tự nhiên của tán cây rừng dày
đặc đủ sức che giấu hàng đại đội là những hàng cây thưa thớt tưởng chừng như ở
xứ lạnh lạc loài đến. Trên trời đủ các loài chim ưa mò cua, ốc, cá. Dưới nước,
ngoài tôm, cá có trăn nước, rái cá, cá sấu. Trong rừng, nhiều nhất là heo rừng,
khỉ đen, khỉ đột. Rừng Sác- một vùng đất gắn liền với những địa danh lịch sử:
sông Lòng Tàu, sông Soài Rạp, cửa biển Cần Giờ... Nơi đây xưa kia, Nguyễn Huệ đã từng thắng những
trận thủy chiến với Nguyễn Ánh có tàu nước ngoài giúp sức; rồi đến Trương Định
những ngày đầu chống Pháp đã từng rút quân về đây lập chiến khu Lý Nhơn. Xã này
còn ngôi đền thờ ông Thần Không Đầu, tức là ông Sáu Hạnh, người trước khi bị
giặc Pháp hành quyết đã nói một câu bất hủ: “Ta thà chết chứ không để giặc bắt ông Định”. Lúc khởi nghĩa Nam Kỳ
nổ ra (1940), nơi đây cũng đã có mầm mống lực lượng vũ trang của Đảng. Chiến
khu Rừng Sác hình thành từ tháng 10-1945. Đầu năm 1948, Trung đoàn 300, bao gồm
một Tiểu đoàn quân Nam tiến và các đơn vị địa phương, chính thức được thành lập
với nhiệm vụ phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ, đặc biệt là tổ
chức các đội chuyên môn dùng thủy lôi đánh tàu địch xuôi ngược trên các con
sông vào cảng Sài Gòn, ra biển Đông. Rừng Sác bốn bề là nước, nhưng lại thiếu
nước ngọt trầm trọng, phải dự trữ nước mưa và dùng thuyền tiếp tế nước từ nơi
khác đến. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp đã có hàng trăm chiến sĩ ngã xuống
trên đường vận chuyển nước vì địch phong tỏa gắt gao. Ở đây, “ giọt nước là
giọt máu”, đúng như dòng chữ ghi trên các thùng nước ngọt để nhắn nhủ mọi người
dùng dè sẻn. Sau bị địch ngăn chặn gắt gao, bộ đội ta phải dùng phương pháp
chưng cất nước mặn như nấu rượu để có nước ngọt. Vấn đề gạo càng gay go hơn,
hàng tháng trời bộ đội không biết đến hạt gạo chỉ có củ mì (củ sắn), rau rừng,
cua ốc, tôm cá thay cơm. Các đơn vị phải tổ chức những chợ cá lưu động để đổi
lấy lương thực; phải dựa vào dân ra Sài Gòn mua gạo tiếp tế cho bộ đội. Địa thế
Rừng Sác bí hiểm như “bát quái trận đồ”, lòng dân hướng về kháng chiến và có
truyền thống “cứng đầu”, “ bất trị”, nên giặc Pháp đã phải “ớn” Chiến khu Rừng
Sác, có năm chỉ mở được một cuộc càn quét. Bộ đội Rừng Sác đã đánh những trận
vang dội: Tối 18-3-1950, ba khẩu cối áp sát Thủ Thiêm bắn trúng hai chiến hạm
Mỹ Stich-ken và An-đơ- xơn lần đầu đến Sài Gòn để diễu võ, giương oai... Trận
đánh đã phối hợp ăn ý với cuộc mít tinh chống Mỹ khổng lồ của nhân dân Sài Gòn phản
đối việc tàu Mỹ vào cảng và đuổi chúng cút xéo khỏi xứ này. Tháng 5-1951, thủy
lôi ta đã đánh chìm một tàu trọng tải 7.000 tấn của Pháp trên sông Lòng Tàu.
Khúc sông này, đến nay nhân dân vẫn gọi là “Rạch
chìm tàu”. Cuối năm 1951, lại một trận kỳ tập trên sông Soài Rạp bắt sống
một tàu tiếp tế của giặc, thu rất nhiều chiến lợi phẩm. Trên bộ thì đúng ngày
mồng 3 Tết năm Nhâm Thìn (1952), Tiểu khu Cần Giờ của địch án ngữ đường ra biển bị ta tiêu diệt.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
khi Sài Gòn trở thành cái gọi là “Thủ đô” của Việt Nam Cộng hòa, sông Lòng Tàu
trở thành “yết hầu” của cái “dạ dày chiến tranh khổng lồ” thì Chiến khu Rừng
Sác là một trận địa lợi hại uy hiếp đầu não, sào huyệt của bộ máy chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ. Đoàn 10 Đặc công được Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng miền
Nam phân công làm nhiệm vụ thọc sâu, áp sát, bám trụ bằng mọi giá để tiến công
liên tục vào kho tàng, bến cảng của địch từ Cát Lở, Rạch Dừa đến Nhà Bè, Cát Lái,
thành Tuy Hạ, đánh sâu vào nội đô. Thực hiện nhiệm vụ vinh quang này, đương
nhiên, đơn vị phải chấp nhận đương đầu với sự vây hãm của 5 Tiểu khu quân sự
địch: Gò Công, Long An, Gia Định, Biên Hòa, Phước Tuy và hai Đặc khu Vũng Tàu,
Nhà Bè. Chúng thường xuyên được sự chi viện đắc lực của lực lượng không quân dã
chiến 3 Mỹ, sau nữa là Quân đoàn 2 ngụy, cùng những trận địa pháo lớn, pháo
nòng dài của Hạm đội 7 từ ngoài khơi bắn vào; sự phối thuộc của lực lượng hải
quân, các lữ đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ thiện chiến hành quân đánh phá. Mọi sinh
hoạt và chiến đấu của hàng nghìn chiến sĩ hoàn toàn trên mặt nước sình lầy,
phải tự túc mọi bề, người này ngã xuống, người khác tiếp tục tiến lên với những
trận đánh quả cảm, vang động thời đánh Mỹ: bắn chìm bắn cháy 400 tàu chiến,
trên 100 tàu vận tải và nhiều sinh lực địch... đã khiến kẻ thù phải kinh hoàng
bạt vía, hoảng hốt thốt lên: “Một cuộc
chiến đấu kỳ lạ trong một cuộc chiến tranh kỳ lạ”.
Nguyễn Thế Vỵ