Mỗi khi có dịp đến với vùng đất Tây Nguyên, đâu đó chúng ta tình cờ nhìn thấy những tượng gỗ dân gian, tượng nhà mồ với nhiều sắc thái khác nhau được đặt ở cổng làng, khu vực nương rẫy hoặc ở khu nhà mồ của các dân tộc thiểu số bản địa. Tượng nhà mồ thường được thể hiện rất sinh động, mỗi bức đều có ý nghĩa riêng; trong đó, tượng nhà mồ của các dân tộc Bahnar, Jrai, Ê Đê… được tạc khá phong phú và đặc sắc.
Các dân tộc Ê Đê, Jrai, Bahnar ở
Tây Nguyên xem tượng nhà mồ là “linh vật” gắn liền với lễ bỏ mả, một trong những
lễ hội lớn nhất của bà con xưa kia. Không ai biết việc tạc tượng nhà mồ đã có từ
bao giờ, chỉ biết mỗi khi làm lễ bỏ mả là phải tạc tượng, dựng quanh ngôi mộ
trước khi diễn ra các nghi lễ khác.
Tượng nhà mồ Tây Nguyên cũng được
tạc rất phong phú và đa dạng. Từ những khúc gỗ vô tri, vô giác, các nghệ nhân
đã tạo thành các loại hình dáng từ những con vật như: khỉ, đại bàng, chim công…
đến hình tượng con người như: mẹ cõng con, ông già ngồi chống cằm, chàng trai
múa trống…; thậm chí họ có thể tạc hình liên tưởng đến cuộc sống của người đã
khuất trải qua.
Độc đáo, thú vị, đầy tính nghệ thuật
và nhân văn nhưng người Ê Đê, Jrai, Bahnar và một số dân tộc ít người khác ở
Tây Nguyên không xem tạc tượng là “nghề” mà chỉ thực hiện nó khi có việc cần. Bởi
vậy, chỉ có những người đam mê, yêu thích tạc tượng mới dành thời gian tìm đến,
học hỏi và tạc theo. Nghệ nhân tạc tượng Ksor Krôh (làng Mrông Ngó 1, xã Ia Ka,
huyện Chư Păh) là một ví dụ điển hình. Ông cho hay: “Tôi biết tạc tượng từ khi
còn nhỏ. Hồi đó, tôi lén lút người lớn nghỉ ăn cơm trưa để xem tạc tượng rồi thử
tạc theo. Đến giờ, người Jrai Arap chúng tôi vẫn gìn giữ, duy trì việc tạc tượng
nhà mồ. Trước khi bỏ mả phải có các loại tượng mới được”.
|
Tượng ông già ngồi
chống cằm. Ảnh: A Dơng |
Trong khi các dân tộc Jrai và
Bahnar xem tượng nhà mồ là linh vật hiển nhiên phải có khi làm lễ bỏ mả thì tượng
nhà mồ người Ê Đê lại thể hiện sự phúc thọ, giàu sang, quyền quý của người đã
khuất và gia đình làm lễ bỏ mả với cộng đồng. Bởi vậy, không phải ngôi mộ người
Ê Đê nào khi làm lễ bỏ mả cũng được tạc, dựng tượng xung quanh.
Ông Êa Yôn (buôn Weo A, thị trấn
Krông Năng, huyện Krông Năng, tỉnh Đak Lak) cho biết: “Người Ê Đê xưa kia sau
khi trông nom mồ mả người chết 3-4 năm, có khi tới 5 năm mới làm lễ bỏ mả. Khi
làm lễ bỏ mả, người chết dưới 60 tuổi thì chưa được tạc tượng nhà mồ (làm gơng
kút, gơng klao). Những người già, giàu có, người có uy tín thì mới được tạc tượng
nhà mồ khi làm lễ bỏ mả. Tổ chức lễ bỏ mả phải có trâu, bò, heo, gà… để cúng
Yàng, thực hiện các nghi thức bỏ mả”.
Với dân tộc Xê Đăng ở tỉnh Kon
Tum, MNông ở tỉnh Đak Nông hay Cơ Ho ở tỉnh Lâm Đồng…, bà con không tổ chức lễ
bỏ mả cho nên việc tạc tượng và mục đích sử dụng nó cũng khác hơn. Chẳng hạn, với
người MNông, người Cơ Ho, tượng gỗ thường tạc và đặt ở nương rẫy để xua đuổi
thú rừng, bảo vệ mùa màng. Người Xê Đăng tạc tượng để trang trí hoặc để xua đuổi
tà ma và tượng gỗ của người Xê Đăng được đặt ngay cổng làng. Dù sử dụng vào mục
đích gì nhưng tượng gỗ dân gian của các dân tộc Cơ Ho, M'Nông hay Xê Đăng cũng
rất phong phú, mỗi bức tượng đều có ý nghĩa riêng, thể hiện sinh động cuộc sống
ở buôn làng.
Cụ thể như tượng gỗ để trang trí của
người Xê Đăng, họ thường tạc người phụ nữ vì cho rằng “Phụ nữ chịu nhiều vất vả
hơn đàn ông”. Tượng người phụ nữ đeo tấm địu như nói lên sự vất vả, chịu khó của
họ, từ việc sinh con, đẻ cái đến việc bếp núc, làm nương rẫy, họ là người đảm
đang, lo toan mọi việc của gia đình... Còn tượng cô gái đang yêu thì có khăn
trùm đầu, kẹp tóc, nếu tượng không có khăn trùm, không kẹp tóc thì được cho rằng
tượng đó tạc về người phụ nữ không đoan trang.
Riêng về tượng xua đuổi tà ma của
người Xê Đăng, thì họ tạc cho thật xấu, thật kỳ dị để “ma sợ” không dám vào
làng quấy phá. Ông A Đoan-nghệ nhân tạc tượng có tiếng ở xã Đak Hà, huyện Tu Mơ
Rông, tỉnh Kon Tum-cho biết: “Dân tộc Xê Đăng không có lễ bỏ mả, đánh cồng
chiêng, múa xoang, uống rượu ở nghĩa địa như bà con người Ê Đê, Jrai, Bahnar.
Bà con trong làng tạc tượng chỉ để đặt, trang trí ở cổng làng, tượng gỗ càng dị
dạng thì càng tốt để ma quỷ sợ hãi, không dám vào làng quấy rầy, gieo rắc tai họa
cho người dân. Ví dụ năm đó, làng có nhiều người chết vì bệnh tật thì bà con sẽ
tạc 2 bức tượng đặt ở cổng làng để xua quỷ, trừ ma”.
Với các dân tộc thiểu số Tây
Nguyên, tượng gỗ dân gian, tượng nhà mồ rất gần gũi và mang ý nghĩa tâm linh,
tinh thần rất lớn trong cuộc sống cộng đồng. Những hình ảnh thân quen của bức
tượng là niềm tự hào riêng của các dân tộc, gợi nhớ về cội nguồn, nhớ về cuộc sống
mộc mạc xưa kia của ông bà tổ tiên… Chính điều này đã thu hút nhiều thế hệ tìm
đến nghệ thuật điêu khắc đặc sắc của cha ông để tiếp tục duy trì, lưu giữ.
Anh Đinh Plih (xã Tơ Tung, huyện
Kbang) chia sẻ: “Mỗi dịp xuống buôn làng tình cờ nhìn thấy tượng nhà mồ, mình cảm
thấy rất vui. Những ai đi làm xa, rời xa quê mà thấy tượng nhà mồ thì cảm giác
nơi đó rất gần gũi, nó làm mình nhớ làng quê, nhớ về đời sống ông bà xưa kia,
nhớ đến mọi người trong nhà, những người thân quý mến của mình. Bởi vậy nên
mình cố gắng tạc nhiều tượng để lưu giữ cho mai sau”.
|
Một nghệ nhân đang thi triển tài
năng và niềm đam mê tạc tượng của mình. Ảnh: A Dơng |
Hiện nay, môi trường sống thay đổi, cây rừng không được tự do chặt phá như trước, điều kiện để làm lễ bỏ mả... lại tốn kém cho nên nhiều vùng ở Tây Nguyên đã không còn tổ chức lễ bỏ mả, đồng nghĩa với việc tượng nhà mồ ngày càng ít đi. Tuy nhiên, trong cuộc sống mới ngày nay, tượng gỗ dân gian, tượng nhà mồ Tây Nguyên không còn bó hẹp trong không gian nhà mồ, khu nương rẫy hay cổng làng nữa mà được tạc, đặt ở nhiều nơi khác nhau, như: khu du lịch, những quán ăn truyền thống… Đây là cách hay để nghệ thuật điêu khắc truyền thống của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên luôn được gìn giữ, bảo tồn.